BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
------------------
NGUYỄN MINH PHƯỢNG
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE – NÓI CHO TRẺ
KHIẾM THÍNH 3 – 6 TUỔI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Hà Nội, 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
------------------
NGUYỄN MINH PHƯỢNG
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE – NÓI CHO TRẺ
KHIẾM THÍNH 3 – 6 TUỔI
Chuyên ngành: Lí luận và Lịch sử Giáo dục
Mã số: 9.14.01.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. NGUYỄN THỊ HOÀNG YẾN
2. TS. VƯƠNG HỒNG TÂM
Hà Nội, 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào khác.
Hà Nội, ngày ..... tháng ..... năm 2021
Tác giả luận án
Nguyễn Minh Phượng
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thành luận án, tác giả đã nhận
được sự chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của Quý thầy cô giáo, các nhà khoa
học, đồng nghiệp, bạn bè và người thân.
Với sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi tới tập thể giáo
viên hướng dẫn là GS.TS Nguyễn Thị Hoàng Yến và TS. Vương Hồng Tâm lời cảm
ơn chân thành vì những định hướng khoa học, sự hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt
quá trình thực hiện luận án.
Tác giả luận án chân thành cảm ơn: Lãnh đạo Viện Khoa học Giáo dục Việt
Nam, Phòng Quản lý khoa học, Đào tạo và Hợp tác quốc tế, các Quý thầy cô, các nhà
khoa học của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã tận tâm giảng dạy, giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Phòng Tổ chức Cán bộ, Khoa Giáo dục Đặc biệt đã tạo điều kiện cho tôi trong thời
gian học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận án này.
Cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện của Ban giám hiệu, giáo viên,
cha mẹ trẻ khiếm thính ở các trường mầm non hòa nhập mà tôi đã tiến hành khảo
sát thực trạng và thực nghiệm.
Tôi xin tri ân sự khích lệ, ủng hộ nhiệt tình của gia đình, người thân, bạn bè
và đồng nghiệp trong thời gian thực hiện Luận án.
Do một số hạn chế nhất định, chắc chắn Luận án còn những thiếu sót. Tác
giả Luận án rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để tiếp tục hoàn thiện và
nâng cao chất lượng vấn đề được lựa chọn nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả Luận án
Nguyễn Minh Phượng
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................... vi
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ .................................................................................... ix
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 3
4. Giả thuyết khoa học ................................................................................................ 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 4
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 4
7. Cách tiếp cận và Phương pháp nghiên cứu ............................................................. 5
8. Luận điểm bảo vệ .................................................................................................... 7
9. Đóng góp mới của luận án ...................................................................................... 8
10. Cấu trúc của luận án .............................................................................................. 8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE –
NÓI CHO TRẺ KHIẾM THÍNH 3 – 6 TUỔI ............................................................ 9
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 9
1.1.1. Nghiên cứu về kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính ......................................... 9
1.1.2. Nghiên cứu về phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính ................. 11
1.2. Một số vấn đề cơ bản về trẻ khiếm thính ........................................................... 20
1.2.1. Khái niệm trẻ khiếm thính............................................................................... 20
1.2.2. Đặc điểm tâm lý của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi .............................................. 22
1.3. Kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ............................................ 26
1.3.1. Khái niệm kỹ năng nghe – nói ........................................................................ 26
1.3.2. Đặc điểm kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ......................... 28
1.4. Phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu
giáo hòa nhập ............................................................................................................ 31
1.4.1. Khái niệm phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi............... 31
1.4.2. Đặc điểm của lớp mẫu giáo hòa nhập có trẻ khiếm thính ............................... 32
iv
1.4.3. Vận dụng lí thuyết hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong việc phát
triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính ........................................................... 34
1.4.4. Mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập .................................... 38
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi .......................................................................................................... 48
1.5.1. Các yếu tố có liên quan đến khuyết tật của trẻ................................................ 49
1.5.2. Năng lực của giáo viên .................................................................................... 50
1.5.3. Sự hỗ trợ thính học cho trẻ khiếm thính ......................................................... 50
1.5.4. Can thiệp sớm .................................................................................................. 51
1.5.5. Sự tham gia, hỗ trợ của cha mẹ trẻ khiếm thính ............................................. 52
1.5.6. Sự hỗ trợ của các trẻ cùng độ tuổi ................................................................... 52
1.5.7. Việc lựa chọn phương pháp tiếp cận giao tiếp cho trẻ khiếm thính ............... 53
Kết luận chương 1 ..................................................................................................... 54
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE – NÓI CHO
TRẺ KHIẾM THÍNH 3 – 6 TUỔI Ở CÁC LỚP MẪU GIÁO HÒA NHẬP ........... 55
2.1. Khái quát về tổ chức khảo sát thực trạng ........................................................... 55
2.1.1. Mục đích khảo sát ........................................................................................... 55
2.1.2. Nội dung khảo sát ............................................................................................ 55
2.1.3. Địa bàn và khách thể khảo sát ......................................................................... 56
2.1.4. Phương pháp và công cụ khảo sát ................................................................... 58
2.2. Kết quả khảo sát thực trạng ................................................................................ 61
2.2.1. Thực trạng kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ....................... 61
2.2.2. Thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
ở lớp mẫu giáo hòa nhập ........................................................................................... 72
2.2.3. Đánh giá chung về thực trạng ......................................................................... 87
Kết luận chương 2 ..................................................................................................... 92
CHƯƠNG 3. BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE – NÓI CHO TRẺ
KHIẾM THÍNH 3 – 6 TUỔI ....................................................................................... 93
3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi .......................................................................................................... 93
v
3.1.1. Đảm bảo phù hợp với mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục mầm non và
đặc điểm tâm sinh lý của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ......................................................... 93
3.1.2. Đảm bảo tính toàn diện, tính phát triển, tính hệ thống ................................... 93
3.1.3. Đảm bảo tính cá biệt hóa ................................................................................. 94
3.1.4. Đảm bảo phát huy tính tích cực, tự giác của trẻ.............................................. 94
3.2. Biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi .................. 95
3.2.1. Nhóm biện pháp điều kiện trong phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi ............................................................................................... 96
3.2.2. Nhóm biện pháp phát triển KNNN trong các hoạt động trong chế độ
sinh hoạt hằng ngày ở lớp mẫu giáo hòa nhập ........................................................ 109
3.2.3. Nhóm biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính trong
hoạt động hỗ trợ cá nhân ......................................................................................... 117
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp ...................................................................... 122
3.4. Thực nghiệm biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
3 – 6 tuổi .................................................................................................................. 123
3.4.1. Khái quát về tổ chức thực nghiệm ................................................................ 123
3.4.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm ...................................................................... 127
Kết luận chương 3 ................................................................................................... 142
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ......................................................................... 143
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................. 146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 147
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 BP Biện pháp
2 ĐTB Điểm trung bình
3 GDHN Giáo dục hòa nhập
4 GV Giáo viên
5 HS Học sinh
6 MGHN Mẫu giáo hòa nhập
7 KN Kĩ năng
8 KNNN Kĩ năng nghe nói
9 TTN Trước thực nghiệm
10 TKT Trẻ khiếm thính
11 STN Sau thực nghiệm
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kinh nghiệm dạy học của giáo viên ...................................................... 57
Bảng 2.2. Bảng hỏi đánh giá KNNN của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ..................... 58
Bảng 2.3. Thang đánh giá thực trạng KNNN cho TKT 3 – 6 tuổi ........................ 60
Bảng 2.4. Đánh giá chung mức KNNN của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ................. 61
Bảng 2.5. Phân bố mức kỹ năng nhận diện 6 âm Ling .......................................... 63
Bảng 2.6. Phân bố mức kỹ năng nghe hiểu các từ chỉ sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi ..................................................................... 63
Bảng 2.7. Phân bố mức kỹ năng nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm ........................................................................ 64
Bảng 2.8. Phân bố mức kỹ năng nghe hiểu và thực hiện từ 1 – 3 yêu cầu.................. 65
Bảng 2.9. Phân bố mức kỹ năng nghe hiểu nội dung câu chuyện/bài thơ .................. 65
Bảng 2.10. Phân bố mức kỹ năng phát âm các tiếng, từ, câu .................................. 67
Bảng 2.11. Phân bố mức kỹ năng sử dụng lời nói với các từ thông dụng chỉ sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi .......................................... 67
Bảng 2.12. Phân bố mức kỹ năng sử dụng lời nói với các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm phù hợp với ngữ cảnh ........................... 68
Bảng 2.13. Phân bố mức độ về kỹ năng thể hiện nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của bản thân bằng lời nói ............................................................................. 68
Bảng 2.14. Phân bố mức kỹ năng kể lại được những sự việc đơn giản ................... 69
Bảng 2.15. Phân bố mức độ về kỹ năng kể lại được câu chuyện đơn giản ............. 69
Bảng 2.16. Mối tương quan giữa kỹ năng nghe - nói với các yếu tố khác .............. 70
Bảng 2.17. Mức độ thực hiện các nội dung phát triển KNNN cho TKT ................. 75
Bảng 2.18. Các hình thức phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính ............................ 81
Bảng 2.19. Các phương pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính ...................... 77
Bảng 2.20. Đánh giá về hiệu quả của các phương pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính ............................................................................................ 80
Bảng 2.21. Những thuận lợi trong quá trình tổ chức hoạt động phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính ................................................................................ 83
viii
Bảng 2.22. Những khó khăn trong quá trình tổ chức hoạt động phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính ................................................................................ 84
Bảng 2.23. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển KNNN cho TKT ............ 86
Bảng 3.1. Thông tin cơ bản về khách thể thực nghiệm ....................................... 124
Bảng 3.2. Kết quả đánh giá trước thực nghiệm của bé Đ.B.N ............................ 127
Bảng 3.3. Mục tiêu và biện pháp phát triển KNNN cho bé Đ.B.N ..................... 128
Bảng 3.4. So sánh kết quả KNNN trước và sau thực nghiệm của bé Đ.B.N ....... 129
Bảng 3.5. Kết quả đánh giá trước thực nghiệm của bé N.T.M ............................ 132
Bảng 3.6. Mục tiêu và biện pháp phát triển KNNN cho bé N.T.M ..................... 133
Bảng 3.7. So sánh kết quả KNNN trước và sau thực nghiệm của bé N.T.M ...... 134
Bảng 3.8. Kết quả đánh giá trước thực nghiệm của bé P.M.K ............................ 136
Bảng 3.9. Kế hoạch phát triển KNNN cho bé P.M.K .......................................... 137
Bảng 3.10. So sánh kết quả KNNN trước và sau thực nghiệm của bé P.M.K ...... 138
ix
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Trình độ đào tạo của GV ................................................................... 57
Biểu đồ 2.2. Mức kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ................... 62
Biểu đồ 2.3. Mức độ biểu hiện các kỹ năng thành phần trong nhóm kỹ năng nghe
của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ........................................................... 62
Biểu đồ 2.4. Mức độ biểu hiện các kỹ năng thành phần trong nhóm kỹ năng nói
của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ........................................................... 66
Biểu đồ 2.5. Đánh giá của GV về tầm quan trọng của việc phát triển kỹ năng nghe
– nói cho trẻ khiếm thính .................................................................. 72
Biểu đồ 2.6. Nhận thức của GV về ý nghĩa của việc phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính............................................................................ 73
Biểu đồ 2.7. Thực trạng xây dựng kế hoạch phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ
khiếm thính........................................................................................ 74
Biểu đồ 3.1. Mức KNNN của bé Đ.B.N trước và sau thực nghiệm .................... 130
Biểu đồ 3.2. Mức KNNN của bé N.T.M trước và sau thực nghiệm .................... 134
Biểu đồ 3.3. Mức KNNN của bé P.M.K trước và sau thực nghiệm .................... 139
Biểu đồ 3.4. So sánh điểm của 3 trẻ trước và sau thực nghiệm ........................... 140
Sơ đồ 1.1. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ .................................................. 35
Sơ đồ 3.1. Biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ............. 95
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghe - nói - đọc - viết là những hoạt động diễn ra thường xuyên trong cuộc
sống của chúng ta. Trong bốn dạng hoạt động này, xét về tần số xuất hiện, thì cặp
hoạt động nghe - nói diễn ra liên tục, thường xuyên hơn. Cặp hoạt động này có hai
đặc tính nổi bật:
- Thứ nhất, nghe - nói là cặp hoạt động ngôn ngữ nói - dạng giao tiếp trực
tiếp bằng âm thanh trong hoạt động ngôn ngữ. Hoạt động nghe - nói luôn luôn là
một phương tiện đắc lực song hành cùng con người, giúp con người nhận thức và
tìm hiểu thế giới xung quanh một cách có hiệu quả. Vì thuộc lĩnh vực âm thanh như
vậy, nên hoạt động nghe - nói có thể diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, ít bị phụ thuộc vào
điều kiện xung quanh.
- Thứ hai, nghe - nói là cặp hoạt động mang cả đặc tính của việc tiếp nhận lời
nói lẫn việc tạo lập lời nói. Nếu như nghe là tiếp nhận lời người khác thì nói là tạo
lập lời nói của chính mình. Hai hoạt động này thường luân phiên, thay thế nhau
trong giao tiếp của con người.
Kỹ năng nghe - nói là kỹ năng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc học
tập, giao tiếp của trẻ em. Nghe - nói tốt sẽ giúp các em giao tiếp có hiệu quả và
cũng là cơ sở quan trọng tạo ra sự thành công trong học tập. Bên cạnh đó, nghe - nói
còn là một phương tiện để trẻ tư duy và nhận thức về thế giới xung quanh một cách
tích cực. Chính khả năng sử dụng ngôn ngữ của các em, đặc biệt là kỹ năng nghe -
nói đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới cách tương tác xã hội và ảnh hưởng không nhỏ tới
hiệu quả giao tiếp. Năng lực ngôn ngữ tốt là cơ sở giúp trẻ phát triển năng lực học
tập, năng lực tư duy, năng lực hợp tác. Đồng thời giúp trẻ tự mình tìm hiểu và khám
phá thế giới xung quanh một cách dễ dàng. Muốn sử dụng kỹ năng nghe - nói một
cách có hiệu quả cần phải có sự luyện tập thường xuyên, liên tục và có kế hoạch.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra những nội dung cũng như các biện pháp phát
triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ một cách hiệu quả là hết sức cần thiết.
Trẻ khiếm thính do hạn chế về khả năng nghe dẫn đến hạn chế phát triển
ngôn ngữ lời nói, cũng vì vậy mà khả năng tư duy của các em bị hạn chế, trẻ gặp rất
nhiều khó khăn trong việc lĩnh hội tri thức. Tuy nhiên, đa số trẻ khiếm thính vẫn
còn lại một phần sức nghe. Rèn luyện và tận dụng khả năng này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc giáo dục trẻ khiếm thính. Đó là cơ sở cho việc phát triển khả
2
năng tri giác âm thanh, là điều kiện tiên quyết của quá trình hình thành, phát triển
ngôn ngữ nói.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, con người phát minh
ra các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Sự ra đời của máy trợ thính, điện cực ốc tai có ý
nghĩa rất lớn đối với trẻ khiếm thính, giúp trẻ có thể nghe được âm thanh của môi
trường xung quanh và âm thanh tiếng nói. Tuy nhiên, những thiết bị trợ thính chỉ có
tác dụng khuếch đại âm thanh chứ không thể chữa được tật khiếm thính. Việc nghe
qua máy trợ thính hoặc nghe qua điện cực ốc tai có nhiều điểm khác biệt với âm
thanh nghe được qua tai bình thường. Nếu không được tập luyện, phục hồi và phát
triển kỹ năng nghe - nói phù hợp thì trẻ vẫn không thể nghe và nói được. Rèn luyện
và phát triển kỹ năng nghe - nói có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giáo dục trẻ
khiếm thính. Đó là cơ sở cho việc hình thành và phát triển ngôn ngữ nói – phương
tiện giao tiếp, học tập chủ yếu trong môi trường giáo dục hòa nhập.
Giai đoạn từ 0 – 6 tuổi là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất về thể chất cũng
như tâm lí, là giai đoạn rất quan trọng vì những nền tảng đầu tiên cho cuộc sống
được hình thành. Một nền tảng tốt tạo cơ hội cho đứa trẻ có một cuộc sống độc lập,
tự tin, hạnh phúc, nhiều ý nghĩa và để trở thành một thành viên hữu ích cho xã hội.
Đặc biệt, giai đoạn từ 3 đến 6 tuổi là giai đoạn quyết định tới chất lượng ngôn ngữ
của trẻ. Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này là một trong
những nhiệm vụ hết sức quan trọng, giúp trẻ sử dụng ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ) một
cách thành thạo trong hoạt động nhận thức thế giới xung quanh, trong giao tiếp với
mọi người, trong điều chỉnh hành vi về nhận thức, tình cảm, chuẩn bị cho trẻ
chuyển sang hoạt động học tập ở trường phổ thông. Can thiệp sớm cho trẻ khuyết
tật nói chung, trẻ khiếm thính nói riêng cũng được thực hiện chủ yếu và trọng tâm
trong 6 năm đầu tiên của cuộc đời mỗi trẻ, với hai mục tiêu trọng tâm là hỗ trợ,
hướng dẫn phụ huynh (tập trung ở giai đoạn trẻ từ 0 – 3 tuổi) và tổ chức giáo dục hòa
nhập (tập trung ở giai đoạn từ 3 – 6 tuổi) [20][38]. Ở độ tuổi 3 - 6 tuổi, chương trình
can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tập trung vào việc hỗ trợ trẻ hòa nhập vào lớp
học cùng với trẻ nghe và chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Nhiều nghiên cứu đã khẳng
định, trong môi trường hòa nhập, với việc thực hiện các biện pháp tác động một
cách có hệ thống và những chiến lược hỗ trợ phù hợp, trẻ khiếm thính có thể đạt
được các mục tiêu phát triển ngôn ngữ, giao tiếp trong đó có kỹ năng nghe – nói.
Bên cạnh đó, trẻ khiếm thính và trẻ nghe cũng có nhiều cơ hội chơi và hoạt động
3
cùng nhau, giúp thúc đẩy sự phát triển kĩ năng xã hội cho cả hai nhóm trẻ, tạo điều
kiện để trẻ khiếm thính dễ dàng hòa nhập vào đời sống xã hội [19][45][81].
Thực tế hiện nay, trẻ khiếm thính ở Việt Nam đã được tiếp cận với các thiết
bị trợ thính hiện đại. Sau một thời gian được trang bị thiết bị trợ thính, trẻ đã tích
lũy được những kinh nghiệm nghe, nói ban đầu. Tuy nhiên, kỹ năng nghe – nói của
trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi vẫn còn nhiều hạn chế, trẻ cũng gặp nhiều khó khăn khi
học ở lớp mẫu giáo hòa nhập. Cụ thể, vốn từ hiểu và diễn đạt của trẻ còn ít, chủ yếu
là những từ gắn với sự vật, hiện tượng, hành động cụ thể; trẻ cũng thường chỉ nghe
hiểu được các yêu cầu đơn giản, quen thuộc, một mệnh lệnh; độ rõ ràng trong lời
nói của trẻ khó đạt được mức độ như trẻ nghe, trẻ thường mắc các lỗi về phát âm
(sai phụ âm, thanh điệu, nói với ngữ điệu rời rạc, ngắt từng tiếng một, lên xuống tùy
hứng); khó khăn trong việc tiếp thu các qui tắc ngữ pháp, thường mắc lỗi về trật tự
từ trong câu nói gây khó khăn cho người nghe [8][10] [19].
Bên cạnh đó, giáo viên dạy hòa nhập cũng gặp nhiều khó khăn trong quá
trình giáo dục trẻ khiếm thính. Phần lớn giáo viên chưa được đào tạo, bồi dưỡng
chuyên sâu về giáo dục hòa nhập trẻ khiếm thính, do đó chưa có kiến thức, kỹ năng
đầy đủ về hỗ trợ trẻ khiếm thính trong lớp hòa nhập, năng lực của giáo viên trong
việc tổ chức các hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính còn
nhiều hạn chế. Thêm vào đó, việc thiếu các tài liệu hướng dẫn và các nghiên cứu về
kỹ năng nghe nói, biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính ở lớp
mẫu giáo hòa nhập cũng gây khó khăn cho giáo viên trong quá trình xây dựng kế
hoạch và tổ chức các hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi” làm đề tài nghiên cứu của luận án nhằm đề xuất
các biện pháp phù hợp để phát triển kỹ năng nghe nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
ở lớp mẫu giáo hòa nhập.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất một số biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập nhằm giúp trẻ giao tiếp, phát triển
ngôn ngữ theo độ tuổi và hòa nhập cùng các bạn.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi.
4
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Mối quan hệ giữa hoạt động giáo dục phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập và mức phát triển kỹ năng nghe –
nói của trẻ.
4. Giả thuyết khoa học
Kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi còn nhiều hạn chế mặc dù
đã được trang bị thiết bị trợ thính. Nếu xây dựng và thực hiện được các biện pháp
phát triển kỹ năng nghe – nói phù hợp với khả năng và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi, khai thác tốt các yếu tố lợi thế của môi trường giáo dục hòa
nhập, kết hợp hài hòa giữa việc phát triển kỹ năng nghe – nói trong các hoạt động
trong chế độ sinh hoạt hàng ngày và hoạt động hỗ trợ cá nhân thì sẽ giúp trẻ khiếm
thính phát triển kỹ năng nghe – nói, tạo điều kiện thuận lợi để trẻ giao tiếp và hòa
nhập cùng các bạn ở lớp mẫu giáo hòa nhập.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xây dựng cơ sở lí luận của phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập.
5.2. Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng kỹ năng nghe – nói của trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi và thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập.
5.3. Đề xuất biện pháp và thực nghiệm biện pháp phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Về nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập, trong đó nhấn mạnh kỹ năng nghe
– nói trong hoạt động giao tiếp.
6.2. Về đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi học lớp mẫu giáo hòa nhập theo tiếp cận nghe - nói, có sử dụng thiết
bị trợ thính (máy trợ thính, điện cực ốc tai) và có ngưỡng nghe khi sử dụng thiết bị
trợ thính là dưới 50 dB trong khoảng tần số từ 250 – 4000 Hz để đảm bảo trẻ có thể
nghe được âm thanh lời nói [75][99]. Từ đó đề xuất các biện pháp phát triển kỹ
năng nghe – nói cho nhóm trẻ này ở lớp mẫu giáo hòa nhập.
5
6.3. Về địa bàn và khách thể khảo sát
Đề tài tiến hành khảo sát 36 trẻ khiếm thính rải đều trong độ tuổi từ 3 – 6
tuổi đang học tại các lớp mẫu giáo hòa nhập, có sử dụng thiết bị trợ thính, có
ngưỡng nghe khi sử dụng thiết bị trợ thính là dưới 50dB và 127 giáo viên đã và
đang dạy các trẻ khiếm thính này ở các lớp mẫu giáo hòa nhập tại 15 trường mầm
non thuộc 05 địa bàn là Hà Nội, Ninh Bình, Thái Nguyên, Yên Bái, Quảng Ngãi.
Tổ chức thực nghiệm trên 03 trường hợp trẻ khiếm thính rải đều trong độ
tuổi từ 3 – 6 tuổi, có sử dụng thiết bị trợ thính và có ngưỡng nghe khi sử dụng thiết
bị trợ thính là dưới 50dB đang học tại các lớp mẫu giáo hòa nhập ở ba trường mầm
non trên địa bàn TP Hà Nội và TP Thái Nguyên.
7. Cách tiếp cận và Phương pháp nghiên cứu
7.1. Cách tiếp cận
Đề tài được thực hiện dựa trên các quan điểm tiếp cận cơ bản sau:
- Tiếp cận cá nhân hóa: Đây là quan điểm cơ bản, trọng yếu của giáo dục trẻ có
nhu cầu đặc biệt trong đó có trẻ khiếm thính. Mỗi trẻ là một cá nhân khác biệt đang hình
thành và phát triển, có những đặc điểm riêng biệt, có nhiều khả năng và nhu cầu khác
nhau cần được đáp ứng trong quá trình GD. Do vậy, việc đề xuất các biện pháp phát triển
KNNN phải phù hợp với đặc điểm riêng của trẻ khiếm thính, có sự điều chỉnh phù hợp
với từng cá nhân trẻ. Đồng thời, cần hài hòa với môi trường giáo dục ở lớp mẫu giáo hòa
nhập và không ảnh hưởng tới toàn thể trẻ trong lớp học.
- Tiếp cận hoạt động – giao tiếp: Xuất phát từ quan điểm chung của tâm lý
học khẳng định: Tâm lý, ý thức của con người được hình thành và phát triển trong
hoạt động và bằng hoạt động nhất là những hoạt động có ý thức. Nghe - nói là hoạt
động tinh thần, nhận thức, lĩnh hội. Hoạt động này chịu sự điều khiển, sự chi phối
theo đúng quy luật của tư duy trong quá trình tạo lập và tiếp nhận lời nói. Do đó,
phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính cần được nghiên cứu qua hoạt
động giao tiếp của trẻ khiếm thính trong các tình huống khác nhau.
- Tiếp cận giáo dục hòa nhập: GDHN xuất phát từ quan điểm cần tạo ra một
nền giáo dục bình đẳng, có chất lượng cho mọi người bằng cách tìm ra những con
đường để nhà trường có khả năng đáp ứng nhu cầu của mọi trẻ em. Trong giáo dục
hòa nhập, giáo viên vừa phải đáp ứng nhu cầu chung của phần lớn trẻ em trong lớp
học, đồng thời phải đáp ứng nhu cầu riêng của trẻ em có nhu cầu đặc biệt. Do vậy,
các biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp MGHN một
6
mặt cần dựa trên sự phù hợp với đặc điểm khuyết tật của trẻ, mặt khác không thể
tách rời hoạt động của các trẻ khác trong toàn bộ quá trình giáo dục, cần kết hợp
phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính trong các hoạt động chung cho tất cả trẻ em
trong chế độ sinh hoạt hằng ngày và hoạt động hỗ trợ cá nhân.
- Tiếp cận tích hợp: Tiếp cận tích hợp để xem xét việc nghiên cứu phát triển
kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính trong mối quan hệ và liên hệ với nhiều
ngành khoa học khác như tâm lý học, giáo dục học, ngôn ngữ học, xã hội học…
Trên cơ sở đó xây dựng khung lý thuyết và đề xuất các biện pháp phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập. Ngoài ra, tiếp
cận tích hợp trong nghiên cứu phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 –
6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập còn được thể hiện ở khía cạnh tích hợp mục tiêu
giáo dục (giữa mục tiêu giáo dục chung với mục tiêu phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính); giữa các hoạt động giáo dục, hình thức giáo dục để đạt được
mục tiêu đề ra.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hóa
các vấn đề lý luận về trẻ khiếm thính, phát triển kĩ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính trong các tài liệu, các công trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài để
xây dựng các khái niệm công cụ cốt lõi của đề tài.
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
a. Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động nghe – nói của trẻ khiếm
thính trong giao tiếp, vui chơi, sinh hoạt hằng ngày và quá trình tổ chức các biện
pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính nhằm ghi chép, tổng kết
thực trạng và đánh giá hiệu quả của các biện pháp phát triển kỹ năng nghe - nói cho
trẻ trước và sau khi thực nghiệm.
b. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Sử dụng bảng hỏi đối với giáo viên
nhằm đánh giá nhận thức của giáo viên về việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi, thực trạng giáo dục phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi, các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi.
c. Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn một số GV đang dạy trẻ khiếm thính
ở lớp mẫu giáo hòa nhập để làm rõ hơn về thực trạng KNNN của trẻ khiếm thính 3
7
– 6 tuổi và các biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu
giáo hòa nhập.
d. Phương pháp trắc nghiệm: Xây dựng và sử dụng bộ công cụ để đánh giá
mức kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở các lớp mẫu giáo hòa nhập.
e. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục: Nghiên cứu kế
hoạch tổ chức hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói của giáo viên, sản phẩm hoạt
động của trẻ, đặc biệt là các phát ngôn của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi để đánh giá sự
phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ.
g. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Vận dụng lí luận về khoa học giáo dục để
phân tích, khái quát hoá thông tin để rút ra những kết luận trong quá trình nghiên cứu.
h. Phương pháp thực nghiệm sư phạm - nghiên cứu trường hợp (case study): Tổ
chức thực nghiệm các biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi trên
03 trường hợp trẻ khiếm thính điển hình nhằm kiểm chứng tính khả thi và hiệu quả của
các biện pháp phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm thính đã được đề xuất.
7.2.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học và phần mềm SPSS 20.0 để xử lý
và kiểm định các số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu.
8. Luận điểm bảo vệ
8.1. Khuyết tật thính giác hay còn gọi là khiếm thính gây nên những khó
khăn về kỹ năng nghe - nói cho trẻ mắc khiếm khuyết này. Mặc dù đã được trang bị
thiết bị trợ thính phù hợp nhưng kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở
lớp mẫu giáo hòa nhập còn nhiều hạn chế so với các trẻ nghe cùng độ tuổi. Mức
phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố,
trong đó 3 yếu tố ảnh hưởng đáng kể nhất là: (1) Thiết bị trợ thính mà trẻ sử dụng;
(2) tuổi nghe (thời gian trẻ sử dụng thiết bị trợ thính tính từ thời điểm bắt đầu); (3)
việc tham gia chương trình can thiệp sớm.
8.2. Trẻ khiếm thính 3 - 6 tuổi có thể phát triển kỹ năng nghe - nói trong lớp
mẫu giáo hòa nhập ở Việt Nam hiện nay với điều kiện trẻ được tham gia vào các
hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở trường mầm non cùng các bạn đồng
trang lứa và có các hoạt động hỗ trợ cá nhân với những biện pháp phù hợp.
8.3. Áp dụng đồng bộ các biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói phù hợp với
khả năng và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi, khai thác tốt các yếu tố
lợi thế của môi trường giáo dục hòa nhập, kết hợp hài hòa giữa việc phát triển kỹ năng
nghe – nói thông qua các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày với hoạt động hỗ
8
trợ cá nhân sẽ giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng nghe – nói và cải thiện kỹ năng
giao tiếp bằng lời nói một cách đáng kể.
9. Đóng góp mới của luận án
9.1. Về lí luận
- Góp phần xây dựng, mở rộng và làm phong phú lý luận về giáo dục trẻ
khiếm thính, cụ thể là mảng lý luận về phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi ở lớp MGHN.
- Xác định những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi, trong đó phát hiện 3 yếu tố ảnh hưởng đáng kể
đến mức phát triển kỹ năng nghe - nói ở trẻ khiếm thính 3 - 6 tuổi: (1) Thiết bị trợ
thính mà trẻ sử dụng; (2) tuổi nghe (thời gian trẻ sử dụng thiết bị trợ thính); (3) việc
tham gia chương trình can thiệp sớm.
9.2. Về thực tiễn
- Xác định mức kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp
MGHN bằng cách sử dụng thang đánh giá với 11 tiêu chí cụ thể được xây dựng
riêng cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi.
- Làm rõ những ưu điểm, hạn chế và những yếu tố tác động đến quá trình
giáo dục phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp MGHN,
góp phần giải quyết vấn đề triển khai và nâng cao chất lượng GDHN trong thực tiễn
GDMN hiện nay.
- Đề xuất 3 nhóm biện pháp phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm thính
3 - 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập. Các nhóm biện pháp đề xuất được kiểm chứng
trên các trường hợp trẻ khiếm thính khác nhau về độ tuổi (trong khoảng 3 – 6 tuổi),
về loại thiết bị trợ thính, điều kiện can thiệp có giá trị tham khảo cho công tác nghiên
cứu, đào tạo, bồi dưỡng GV mầm non, đồng thời là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho
giáo viên dạy trẻ khiếm thính ở lớp MGHN.
10. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án cấu trúc với 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi
Chương 2. Thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 –
6 tuổi ở các lớp mẫu giáo hòa nhập
Chương 3. Biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
9
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE – NÓI
CHO TRẺ KHIẾM THÍNH 3 – 6 TUỔI
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính
Thế kỷ XV - XVIII, mở đầu cho thời kỳ xã hội quan tâm đến giáo dục trẻ
khiếm thính, đã có những công trình nghiên cứu về trẻ khiếm thính và KNNN của
trẻ khiếm thính của nhiều nhà nghiên cứu và sư phạm nổi tiếng. Các nhà phát minh
ra chữ cái ngón tay người châu Âu (Abblé de l’Epée) và người đầu tiên cố gắng kết nối
lời nói với quá trình trí não cao cấp (Samuel Heinicke) đã có sự tranh cãi không nhân
nhượng về quan điểm khác nhau đối với giáo dục trẻ khiếm thính. Từ đó bắt đầu cuộc
chiến giữa những người đề xuất sử dụng hệ thống ngôn ngữ ký hiệu và những người coi
trọng việc sử dụng lời nói và thính lực còn lại trong giáo dục trẻ khiếm thính [46][81].
Đi sâu vào trường phái giáo dục trẻ khiếm thính theo tiếp cận nghe - nói có thể
nhận thấy, những nghiên cứu về kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính đã được đề cập
trong các công trình nghiên cứu của một số nhà khoa học theo các khía cạnh sau:
Kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính phát triển chậm chạp, thậm chí cả những
trẻ khiếm thính có mức độ khiếm thính nhẹ cũng có những chậm trễ ở một số mặt của sự
phát triển ngôn ngữ, điều này đã được chứng minh trong các nghiên cứu của Yoshinaga-
Itano & Seedy (1998) [101], Ling, D. (1976) [80].
Trẻ khiếm thính tiếp thu các quy tắc ngữ pháp chậm hơn, điều này xảy ra ở cả
trẻ khiếm thính mức độ sâu cũng như trẻ khiếm thính mức độ nhẹ hơn [80], [81], [101].
Trẻ khiếm thính sử dụng các chức năng ngữ nghĩa và ngữ dụng như các trẻ
nghe bình thường nhỏ tuổi hơn. Sự phát triển ngữ dụng của trẻ khiếm thính rất
giống với trẻ nghe bình thường, trong khi sự phát triển ngữ nghĩa bị chậm lại phía
sau khá xa, một số chức năng ngữ nghĩa dạng cao không được sử dụng ở trẻ khiếm
thính. Điều này đã được thể hiện qua các công trình nghiên cứu của Skarakis &
Prutting (1977); Curtiss, Prutting, Lowell (1979) và Kuder S.J (2002) [74].
Nguyên nhân của những khiếm khuyết ngôn ngữ ở trẻ khiếm thính do yếu tố
chủ yếu là bản thân khiếm khuyết về nghe, cơ hội tham gia vào các cuộc hội thoại
bằng lời bị hạn chế nên trẻ khiếm thính không có cùng cơ hội để học các quy tắc
ngôn ngữ [74], [81], [88].
Bên cạnh đó, một số kết quả nghiên cứu về trẻ khiếm thính sử dụng ngôn
ngữ nói đã cho thấy trẻ khiếm thính được giáo dục bằng phương pháp tiếp cận nghe
10
– nói có khả năng giao tiếp dễ dàng, dễ hiểu, trôi chảy bằng ngôn ngữ nói, đồng thời
có khả năng nắm vững ngôn ngữ nói dưới hình thức văn bản. Tại Hoa Kỳ, Geers và
Moog (1989) đã đánh giá 100 người bị tổn thương thính giác ở độ tuổi 16 và 17
mang quốc tịch Mỹ và Canada, những người đã học các chương trình giao tiếp bằng
ngôn ngữ nói và hầu hết (85%) đều học ở trường cả ngày. Tất cả những người này
đều có tổn thương thính giác hơn 85 dB HL; 50 người có một bên tai ít tổn thương ở
mức 85 - 100 dB HL; 50 người còn lại tổn thương lớn hơn 100 dB HL. Tất cả đều
có chỉ số IQ hơn 85, mức trung bình là 111. Geers và Moog (1989) đã chỉ ra rằng,
trẻ khiếm thính có thể đạt được trình độ ngôn ngữ nhất định và có thể tiệm cận với
ngôn ngữ của người nghe bình thường [81].
Những năm gần đây, sự phát triển của khoa học công nghệ đã làm cho kỹ
năng nghe – nói của trẻ khiếm thính được cải thiện đáng kể. Một số công trình
nghiên cứu cho thấy trẻ khiếm thính được cấy điện cực ốc tai sớm và được can thiệp
sớm thì kỹ năng nghe - nói phát triển tốt hơn, sự phát triển kỹ năng nghe - nói có thể
gần hoặc tương đương với trẻ nghe bình thường như: Yoshinaga - Itano và các cộng
sự (1998) cho rằng một số trẻ khiếm thính cấy điện cực ốc tai có thể học ngôn ngữ
nhanh hơn những trẻ nghe bình thường khác, do vậy, trẻ có thể ‘bắt kịp’ sự chậm trễ
về mặt ngôn ngữ đã xảy ra trước khi trẻ được cấy điện cực ốc tai và trẻ có thể đạt
được sự phát triển ngôn ngữ phù hợp khi trẻ 4 đến 7 tuổi [101]. Nghiên cứu của
Nicholas, J.G & Geer, AE (2006) [87] đã khẳng định trẻ khiếm thính được sử dụng
điện cực ốc tai sớm thì nghe được âm thanh rõ ràng hơn do đó ngôn ngữ nói phát
triển tốt hơn. Nghiên cứu của Betty Vohr và các cộng sự (2011) đặc biệt khẳng định
khả năng phát triển kỹ năng nghe – nói của những trẻ khiếm thính được can thiệp
sớm trước 3 tháng tuổi, mức độ phát triển kỹ năng nghe – nói của những trẻ này có
thể tương đương với trẻ nghe bình thường cùng lứa tuổi [50].
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về ngôn ngữ của trẻ khiếm thính rất hạn chế.
Đến nay, những thông tin đáng kể nhất về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ khiếm
thính lứa tuổi mẫu giáo mới chỉ được công bố trong công trình nghiên cứu của tác
giả Phạm Thị Cơi và tác giả Bùi Thị Lâm.
Theo nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Cơi, về phát âm thì độ rõ ràng trong
lời nói của trẻ khiếm thính dù được huấn luyện tốt và lâu dài thì cũng khó đạt được
mức độ như trẻ nghe bình thường, do vậy yêu cầu đặt ra trong dạy phát âm cho trẻ
khiếm thính lứa tuổi mẫu giáo là sao cho người nghe có thể nhận ra và hiểu được
toàn bộ lời nói của trẻ. Về khả năng lĩnh hội và sử dụng từ trong giao tiếp thì đến độ
11
tuổi mẫu giáo, trẻ khiếm thính mới chỉ lĩnh hội được những từ gắn với sự vật, hành
động cụ thể. “Số lượng từ trong giai đoạn này chỉ khoảng 30 – 50 từ (chủ yếu là
danh từ). Các câu nói của trẻ chủ yếu là câu một từ mà trẻ thường dùng để gọi tên
sự vật, hành động hay mách bảo điều gì đó” [8, tr.78]. Đây là những thông tin hữu
ích cho công tác giáo dục trẻ khiếm thính. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu này
được tiến hành từ cuối những năm 1980, với các thiết bị trợ thính còn hạn chế và trẻ
thường được phát hiện, can thiệp muộn. Hiện nay, nhờ sự hỗ trợ tốt hơn của thiết bị
trợ thính và dịch vụ can thiệp sớm, sự phát triển ngôn ngữ trong đó có kỹ năng nghe
– nói của trẻ khiếm thính có thể đạt được những thành tựu cao hơn.
Theo nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Lâm, mức độ phát triển chung về ngôn
ngữ của trẻ mẫu giáo khiếm thính 3 – 4 tuổi là rất thấp dựa trên kết quả khảo sát khả
năng nghe hiểu, vốn từ, độ rõ ràng của lời nói và sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp
và chơi; mức độ nghe hiểu lời nói của trẻ mẫu giáo khiếm thính 3 – 4 tuổi còn kém,
do vậy trẻ cần tiếp tục được rèn luyện kỹ năng nghe ở cả mức độ nghe nhận diện âm
thanh và nghe nhận biết và hiểu lời nói; vốn từ của trẻ còn ít cả về số lượng từ trẻ
chỉ hiểu và số lượng từ trẻ hiểu và nói được, hầu hết các từ, câu mà trẻ nói chỉ có
thể hiểu được kèm với tình huống cụ thể, chỉ có rất ít trẻ phát âm có thể hiểu được
rõ ràng. [19, tr.93].
Như vậy, các nghiên cứu về kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính đã chỉ ra
những đặc điểm về kỹ năng nghe – nói của trẻ, đồng thời khẳng định vai trò của việc sử
dụng các thiết bị trợ thính và điều kiện can thiệp sớm. Nhìn chung, các kết quả nghiên
cứu cho thấy, kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính còn nhiều khó khăn, hạn chế so với
trẻ nghe bình thường cùng độ tuổi. Mức độ phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm
thính chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố trong đó yếu tố về mức độ khiếm thính, điều kiện
trang bị thiết bị trợ thính và can thiệp sớm có vai trò quan trọng. Vì vậy, đề tài xác định
khi đánh giá đặc điểm kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi cần xác định rõ
mức kỹ năng nghe - nói của trẻ và đặt trong mối quan hệ với các yếu tố về mức độ khiếm
thính, điều kiện trang bị thiết bị trợ thính và can thiệp sớm để có những phân tích làm rõ
sự tương quan giữa đặc điểm kỹ năng nghe – nói và các yếu tố này.
1.1.2. Nghiên cứu về phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
a) Nghiên cứu về phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ em nói chung
Hiện nay, trên thế giới có nhiều nghiên cứu về năng lực sử dụng ngôn ngữ và
vấn đề phát triển KNNN cho trẻ em nói chung. Các nghiên cứu đã khẳng định vai trò,
12
vị trí của việc phát triển KNNN đối với trẻ em như: Các tác giả Wilson, Julie Anne
thông qua tài liệu “A Program to Develop the listening and speaking skill of
children in a first grade classroom” (1997) đã khẳng định tầm quan trọng của
KNNN đối với trẻ em: “Những trẻ có thể diễn giải suy nghĩ và ý kiến của mình
bằng lời nói sẽ có thể thành công hơn trong học tập. Quan trọng hơn, những trẻ
không phát triển KNNN có nguy cơ chịu ảnh hưởng cả đời bởi chính sự thiếu hụt
KN này” [105, tr.12].
Các nghiên cứu về vấn đề phát triển KNNN cho trẻ em tập trung vào hai
quan điểm chính như sau:
(1) Phát triển KNNN theo hướng tiếp cận năng lực: Nhiều nước trên thế giới
đã nhấn mạnh mục tiêu của môn học Tiếng mẹ đẻ là giúp trẻ có một công cụ để tư
duy và giao tiếp thông qua việc hình thành và phát triển các KNNN. Chương trình
dạy tiếng mẹ đẻ của Thái Lan cho rằng: “Việc dạy Tiếng phải trau dồi cho HS KN
nghe - nói - đọc - viết và khả năng dùng ngôn ngữ để thông báo và bày tỏ tình cảm
một cách có hiệu quả, có ấn tượng sâu sắc, đúng mực, sáng tạo và thích hợp”. Trong
khi đó, chương trình dạy Tiếng Pháp (1985) khẳng định rằng: KNNN tiếng Pháp là
một trong những yếu tố tạo điều kiện cho mọi thành công trong học tập và tạo cơ sở
cho việc hòa nhập vào xã hội một cách thoải mái [66].
(2) Phát triển KNNN trong giao tiếp và bằng giao tiếp: Theo định hướng
này, dạy ngôn ngữ nói là lấy giao tiếp làm môi trường, phương pháp, nhiệm vụ và
mục đích của việc phát triển KNNN. Đồng thời làm thay đổi nhiều đến nội dung
chương trình nhằm tạo cơ hội cho trẻ tham dự vào hội thoại, tham gia vào cuộc thảo
luận, tranh luận. Chính điều đó giúp ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa lời nói và
KN sử dụng lời nói, giữa KN lời nói và năng lực lời nói [65][66].
Ở Việt Nam, sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em ở độ tuổi mầm non được
quan tâm nghiên cứu và thể hiện chủ yếu trong các công trình nghiên cứu như: Tác giả Lưu Thị Lan trong "Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 1 – 6 tuổi” [18]
đã chỉ rõ những bước phát triển về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của trẻ em Việt Nam
trong giai đoạn từ 1 – 6 tuổi. Nghiên cứu về xây dựng băng minh họa sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ 3 – 6 tuổi dưới sự chủ trì của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Yến [47]
đã làm rõ đặc điểm phát triển ngôn ngữ chung của trẻ em và sự phát triển ngôn ngữ
của nhóm trẻ có khó khăn về ngôn ngữ. Một số công trình nghiên cứu đi sâu vào
biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non như Nguyễn Xuân Khoa với tác
13
phẩm "Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo" [17], Bùi Kim Tuyến với đề tài nghiên cứu "Xây dựng nội dung, biện pháp phát triển hoạt động ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo" [41], Đinh Hồng Thái với giáo trình "Phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non" [37], Nguyễn Quang Ninh, Bùi Kim Tuyến, Lưu Thị Lan, Nguyễn Thanh Hồng với "Tiếng việt và phương pháp phát triển lời nói cho trẻ" [26]… Những công trình
này chủ yếu nghiên cứu phương pháp và biện pháp tổ chức hoạt động ở trường
mầm non nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ như các hoạt động đọc, kể chuyện, trò
chơi, làm quen với môi trường xung quanh.
Nhìn chung vấn đề ngôn ngữ trẻ em lứa tuổi mầm non được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu ở nhiều mặt, nhiều lứa tuổi khác nhau: Có nghiên cứu về sự
phát triển các thành phần ngôn ngữ của trẻ, có nghiên cứu về đặc điểm phát triển
ngôn ngữ của trẻ em 0 – 6 tuổi, có nghiên cứu về các biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ... Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về kỹ năng nghe –
nói và biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ mầm non. Qua việc tìm hiểu
những nghiên cứu chung trên thế giới và Việt Nam về vấn đề phát triển KNNN cho
trẻ em nói chung, đề tài xác định: Phát triển KNNN cho trẻ em đóng vai trò đặc biệt
quan trọng, tạo tiền đề cho trẻ có thể thành công trong học tập và hòa nhập vào xã
hội. Phát triển KNNN nhằm giúp các em tăng cường năng lực ngôn ngữ, biết cách
sử dụng công cụ ngôn ngữ vào quá trình giao tiếp trong môi trường sống của các
em. Việc phát triển KNNN cần được tiến hành đồng thời với việc cung cấp tri thức
ngôn ngữ, được thực hiện trọng tâm trong giai đoạn mầm non và giai đoạn đầu cấp
tiểu học.
b) Nghiên cứu về cơ sở của việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
Đi sâu vào vấn đề phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính có thể thấy, ngay từ
những thời kỳ sơ khai, các nhà giáo dục đã quan tâm đến việc luyện nghe – nói
cho trẻ khiếm thính và bước đầu khẳng định hiệu quả của việc luyện nghe - nói
đối với sự phát triển ngôn ngữ của những trẻ khiếm thính còn một phần sức nghe:
Đầu tiên là việc sử dụng kèn trompet để dạy nghe - nói cho những trẻ khiếm thính
còn khả năng nghe từ thời La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc cổ đại và đã thu được một số
thành công, chứng minh trẻ khiếm thính có khả năng nghe - nói. Sau đó, tiến sĩ Jean
Marc Itard (1775-1835), một bác sĩ chuyên khoa về tai đã tìm ra phương pháp để
phát hiện và đo sức nghe còn lại của trẻ khiếm thính. Ông đã xây dựng các bài tập
luyện nghe nhằm phát triển khả năng nghe còn lại cho trẻ khiếm thính bằng việc sử
14
dụng các dụng cụ đơn giản như trống, chuông, sáo.... Arthur Whipple (1830-1895)
đề ra phương pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo phương
pháp nghe – nhìn (The hear-seen method) trên cơ sở tận dụng khả năng nghe còn lại
của trẻ khiếm thính kết hợp với khả năng đọc hình miệng để phát triển ngôn ngữ
cho trẻ… [81]
Năm 1945, Jaap Groen đã phát minh ra thiết bị khuyếch đại âm thanh lời nói.
Đây là một khám phá mang lại lợi ích lớn cho trẻ khiếm thính. Qua đó, trẻ có thể cảm
nhận âm thanh lời nói bằng chính tai mình [81]. Mốc phát triển quan trọng trong lịch
sử giáo dục trẻ khiếm thính theo tiếp cận nghe – nói là Hội nghị Milan (Italia,
1880). Sau khi xem xét tính ưu việt của lời nói so với ngôn ngữ dấu hiệu nhằm giúp
cho người khiếm thính hoà nhập vào đời sống xã hội và cho họ có thêm điều kiện
giao tiếp bằng ngôn ngữ lời nói, thì hội nghị này tuyên bố rằng nên sử dụng phương
pháp tiếp cận nghe - nói hơn là phương pháp dấu hiệu trong việc giáo dục và hướng
dẫn trẻ khiếm thính [dẫn theo 46].
Các nghiên cứu về phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính dựa trên tiền đề cơ
bản đó là việc có được khả năng về ngôn ngữ nói, bao gồm cả tiếp nhận và diễn đạt,
là một mục tiêu có tính thực tế cho những trẻ khiếm thính. Nghiên cứu của các tác
giả Ling, D. (1984) [79], Stovall, D. (1982) [94], Hall, M và cộng sự (2017) [72] đã
chỉ ra rằng, hầu hết trẻ khiếm thính đều còn lại khả năng nghe nhất định, do đó tận
dụng tối đa sức nghe còn lại để phát triển ngôn ngữ cho trẻ là yếu tố tiên quyết đối
với việc giáo dục trẻ khiếm thính.
Ngày nay, nhờ sự phát triển của công nghệ, kỹ thuật đo lường và hỗ trợ thính
học, chất lượng âm thanh lời nói mà trẻ khiếm thính có thể nghe được thông qua các
phương tiện hỗ trợ đã được cải thiện rất nhiều so với trước đây. Những tiến bộ vượt
bậc về công nghệ này là cơ sở ủng hộ mạnh mẽ cho quan điểm phát triển KNNN ở
trẻ khiếm thính:
Các tác giả Svirsky, M. A., Teoh, S. W., & Neuburger, H. (2004) [97],
Nicholas, J.G., & Geer, AE. (2006) [87], Brennan-Jones, C. và cộng sự (2014) [52]
khẳng định rằng, ngay khi trẻ được chẩn đoán khiếm thính, một điều quan trọng là phải
thực hiện các biện pháp hỗ trợ thính học thích hợp. Nếu không có các phương tiện trợ
thính, trẻ khiếm thính sẽ khó hoặc không thể tiếp nhận được âm thanh. Các phương
tiện trợ thính phải được sử dụng sớm, phù hợp với trẻ, và cần được duy trì theo chỉ
định của nhà thính học. Các nghiên cứu này cũng cho thấy có những tương quan giữa
việc phát triển ngôn ngữ lời nói và hiệu quả sử dụng các phương tiện trợ thính.
15
Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em như
Ling, D. (1976) [80]; Stovall, D. (1982) [94]; McLean, J.K. (1999) [83]; Halliday,
L.F. (2017) [73] đã cho thấy, tất cả trẻ em trên thế giới đều học giao tiếp và sử
dụng ngôn ngữ theo những phương thức gần giống nhau, trẻ khiếm thính cũng có
cơ chế học ngôn ngữ bên trong và tiềm năng phát triển ngôn ngữ tương tự như một
đứa trẻ bình thường. Nếu một đứa trẻ muốn thành thạo một ngôn ngữ, nó phải có
những kinh nghiệm nhất định về ngôn ngữ đó. Nếu môi trường xung quanh trẻ
không có ngôn ngữ thì trẻ cũng sẽ không thể học được một ngôn ngữ nào. Những
người xung quanh sử dụng ngôn ngữ nói sẽ là môi trường giao tiếp tốt cho trẻ
khiếm thính và thức tế cũng cho thấy rằng phần lớn trẻ khiếm thính sinh ra trong
gia đình có bố mẹ là người nghe bình thường. Do đó họ có nhiều kinh nghiệm và
hiểu biết ngôn ngữ nói hơn là ngôn ngữ kí hiệu. Trong môi trường như vậy trẻ sẽ
có nhiều cơ hội để học ngôn ngữ và giao tiếp một cách ngẫu nhiên. Những phát
hiện này là cơ sở quan trọng của việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính. Điều
này cho thấy, giáo viên, người chăm sóc trẻ có thể áp dụng những kiến thức về
việc phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ nghe bình thường vào quá trình phát triển
ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính.
c) Nghiên cứu về phương pháp, cách thức phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
McLean, J.K., & McLean, L.S. (1999) và Mary, P.M. (2000) đã nghiên cứu
về việc rèn luyện chất lượng lời nói phù hợp cho trẻ khiếm thính. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, việc phát triển các kĩ năng sử dụng lời nói (độ dài, có âm thanh, độ
cao của giọng, và phát âm rõ ràng) đòi hỏi các giáo viên có kĩ năng làm việc cá
nhân với trẻ có đeo máy trợ thính phù hợp. Việc dạy này được thực hiện ở hai mức
độ: ngữ âm (phát triển việc phát âm thành thạo, rõ ràng các âm tiết độc lập) và âm
vị học (phát triển việc phát âm thành thạo, rõ ràng với các từ, cụm từ và các câu).
Các kĩ năng được phát triển ở mức độ ngữ âm và được thực hành, luyện tập ngay ở
mức độ âm vị học. Điều này rất quan trọng vì giao tiếp có ý nghĩa là mục tiêu và hỗ
trợ để khuyến khích thúc đẩy sự phát triển [82][83].
Nghiên cứu về việc dạy ngôn ngữ phù hợp theo sự phát triển, Marc
Marschark, Harry G Lang and John A Albertini (2002) [81] khẳng định rằng,
ngôn ngữ được học tốt nhất trong các tình huống tự nhiên, tập trung vào trẻ, đối
lập lại với các hoạt động mang tính dạy học trực tiếp, đó là nơi mà trẻ phát
triển giao tiếp có ý nghĩa hơn là nhớ các bảng từ vựng và các qui tắc ngữ pháp.
16
Hiện nay, có nhiều phương pháp khác nhau để phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính bao gồm:
Phương pháp tiếp cận Thính giác - lời nói (Auditory-verbal-therapy (AVT)) là
phương pháp được sử dụng rộng rãi trong việc phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ khiếm
thính sử dụng thiết bị trợ thính. Với phương pháp AVT, trẻ khiếm thính được tận
dụng tối đa sức nghe còn lại qua thiết bị trợ thính (máy trợ thính hoặc điện cực ốc tai)
để phát hiện âm thanh, học cách lắng nghe âm thanh, hiểu và hình thành ngôn ngữ
nói một cách tự nhiên, phát triển trong môi trường bình thường, có khả năng độc lập
và hòa nhập xã hội. Một trong những điểm quan trọng của phương pháp AVT là lấy
phụ huynh/người chăm sóc chính làm trung tâm, khuyến khích phụ huynh/người
chăm sóc chính sử dụng hội thoại và ngôn ngữ tự nhiên để giao tiếp với trẻ [107].
Việc áp dụng phương pháp AVT đã chứng minh sự phù hợp và hiệu quả trong việc
phát triển ngôn ngữ nói tự nhiên cho trẻ khiếm thính có sử dụng thiết bị trợ thính. Nó
đòi hỏi phải có sự vận dụng đúng cách và linh hoạt, tích cực trong quá trình trị liệu
thính giác – lời nói cho trẻ sau khi sử dụng thiết bị trợ thính.
Phương pháp thính giác – hình miệng (The Auditory/Oral (A/O)): trẻ khiếm
thính sử dụng sức nghe còn lại để học bất cứ điều gì trẻ nghe được, kết hợp với đọc
hình miệng và các tín hiệu ngữ cảnh để hiểu và sử dụng ngôn ngữ nói. Mục đích của
phương pháp này nhằm tạo cho trẻ khiếm thính những kỹ năng ngôn ngữ nói cần
thiết để có thể sử dụng độc lập trong môi trường nghe. Giáo viên là người hỗ trợ
chính trong việc phát triển ngôn ngữ nói. Có thể thấy, phương pháp này có ưu điểm là
vừa tận dụng sức nghe của trẻ vừa phát huy các giác quan đặc biệt khả năng quan sát
để có thể phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ khiếm thính. Tuy nhiên, phương pháp này
chưa phát huy tối đa khả năng nghe của trẻ khiếm thính cũng như sự tham gia của gia
đình để giúp trẻ phát triển kỹ năng nghe – nói [108].
Về biện pháp thực hiện các mục tiêu phát triển ngôn ngữ và lời nói cho trẻ
khiếm thính, các nghiên cứu của các nhà khoa học đã đưa ra hai kết luận quan trọng là:
(1) Hai yếu tố vô cùng quan trọng để phát triển ngôn ngữ lời nói cho trẻ khiếm
thính ở độ tuổi mầm non là lựa chọn và cung cấp đầy đủ các thiết bị trợ thính phù hợp
và thực hiện các hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong các tình huống đơn giản
diễn ra hằng ngày [81], [82], [97].
(2) Không nên sử dụng những biện pháp riêng lẻ hay có chủ định trực tiếp để
dạy ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính, nhất là giai đoạn trẻ từ sơ sinh đến 3 tuổi [82],
[84], [88].
17
d) Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển KNNN cho trẻ
khiếm thính
Nghiên cứu của Calderon, R.,& Greenberg, M. T. (1997) [54], Brennan-Jones,
C., White, J., Rush, R., & Law, J. (2014) [52] và Hall, M.; Eigsti, I.; Bortfeld, H.; Lillo-
Martin, D. (2017) [72] cho thấy, các yếu tố có tính chất quyết định đến sự thành công của
việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính bao gồm:
- Sự tham gia của cha mẹ, giáo viên: Sự tham gia và giáo dục của cha mẹ,
giáo viên là những nền tảng cho sự thành công trong cách tiếp cận bằng lời. Việc
đòi hỏi lời nói và ngôn ngữ có hiệu quả yêu cầu rằng các bậc cha mẹ, giáo viên
đóng vai trò chủ động trong việc giáo dục trẻ. Những cố gắng can thiệp sớm tập
trung vào việc giáo dục cha mẹ trở thành những những người bạn giao tiếp có hiệu
quả. Những cố gắng trong lớp học bao gồm việc hỗ trợ các hoạt động và các mục
tiêu trong lớp học trong khi hỗ trợ trẻ [52][72].
- Sự khuyếch đại âm thanh phù hợp: Cách tiếp cận nghe nói dựa vào việc sử
dụng độ khuyếch đại âm thanh phù hợp. Các nhu cầu của mỗi trẻ phải được đánh giá
theo từng cá nhân và được kiểm tra, giám sát cẩn thận theo thời gian và có những sự
thay đổi cần thiết. Máy trợ thính là sự lựa chọn đầu tiên, tuy nhiên, với những trẻ bị
điếc sâu thì sự hiệu quả của máy trợ thính bị hạn chế, cấy điện cực ốc tai là sự lựa
chọn phù hợp hơn. Việc tìm ra máy trợ thính và cấy điện cực ốc tai thì việc hy vọng
hầu hết các trẻ khiếm thính nghe được lời nói ở các mức độ hội thoại là hoàn toàn có
thể [54][72].
Nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học khác cũng đã khẳng định ảnh
hưởng của yếu tố can thiệp sớm đến khả năng phát triển KNNN của trẻ khiếm
thính như: Greentein, MC. Convill và Stelline (1975) cho rằng những trẻ khiếm
thính được can thiệp sớm trước 16 tháng tuổi có kết quả phát triển ngôn ngữ cao
hơn những trẻ được can thiệp sau 16 tháng tuổi [79]. Clark (1979) đã khẳng định,
trẻ khiếm thính được can thiệp trước 20 tháng tuổi có kỹ năng ngôn ngữ tốt hơn
những trẻ được can thiệp sau đó [59]. Công trình nghiên cứu của White and White
(1987) cũng khẳng định trẻ khiếm thính được phát hiện và can thiệp sớm trước 18
tháng tuổi thì có năng lực phát triển ngôn ngữ tốt hơn so với trẻ được phát hiện,
can thiệp sau 18 tháng tuổi [104]. Mary Pet Moeller (2000) cho rằng: trẻ khiếm
thính tham gia can thiệp trước 11 tháng tuổi có vốn từ vựng và kỹ năng sử dụng từ
ngữ đạt được lúc 5 tuổi trội hơn hẳn so với trẻ được can thiệp muộn hơn [82].
18
Nghiên cứu của Betty Vohr và các cộng sự (2011) đặc biệt khẳng định vai trò của
can thiệp sớm như sau: trẻ khiếm thính có mức độ suy giảm thính lực khác nhau
nếu được can thiệp sớm trước 3 tháng tuổi thì có sự phát triển vốn từ vựng nhanh là
lớn hơn nhiều so với trẻ can thiệp sau 3 tháng [50].
Như vậy, trên thế giới, việc nghiên cứu về vấn đề giáo dục trẻ khiếm thính và
phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm thính đã bắt đầu từ khá sớm. Các nghiên
cứu cho thấy, với sự phát triển của khoa học công nghệ và các phương tiện trợ
thính, trẻ khiếm thính đã có nhiều cơ hội để phục hồi khả năng nghe và phát triển
ngôn ngữ nói nếu được phát hiện sớm, trang bị phương tiện trợ thính phù hợp và
được can thiệp tích cực ngay sau khi phát hiện. Nhiều phương pháp phát triển kỹ
năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính đã được phát triển, mỗi phương pháp đều có
những hiệu quả riêng trong quá trình luyện nghe và phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ
khiếm thính.
Ở Việt Nam, một số nhà khoa học, nhà giáo dục đã quan tâm nghiên cứu vấn
đề phát triển ngôn ngữ, giao tiếp cho trẻ khiếm thính. Song, các nghiên cứu về vấn
đề này còn rất hạn chế, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như sau :
Tác giả Lê Văn Tạc (2000), nghiên cứu về khả năng giao tiếp của trẻ khiếm thính
đã khẳng định: 1) Khả năng giao tiếp của trẻ khiếm thính trong môi trường GDHN phụ
thuộc vào tính tích cực của bản thân trẻ, mức độ nắm bắt và sử dụng phương tiện giao tiếp
tổng hợp của giáo viên và trẻ nghe bình thường, sự đổi mới phương pháp dạy học tạo điều
kiện để trẻ có nhiều cơ hội giao tiếp hơn; 2) Trong giao tiếp của trẻ khiếm thính, có mối
tương quan chặt chẽ giữa ngôn ngữ biểu đạt và ngôn ngữ cảm thụ. Tạo nhiều cơ hội để trẻ
chủ động giao tiếp là một tác động thuận chiều đối với sự gia tăng tiến bộ của cả hai yếu
tố: ngôn ngữ biểu đạt và ngôn ngữ cảm thụ [32].
Tác giả Nguyễn Thị Hoàng Yến (2002) trong luận án Tiến sĩ khoa học giáo
dục “Các biện pháp tổ chức giáo dục hòa nhập nhằm chuẩn bị cho trẻ khuyết tật
thính giác vào lớp 1” đã khẳng định: Giáo dục hòa nhập là xu thế giáo dục của thời
đại và là con đường tối ưu mang lại hiệu quả tốt nhất cho trẻ khiếm thính. Giáo
dục hòa nhập cho trẻ khiếm thính chỉ thực sự phát huy tối đa khả năng của trẻ trên
cơ sở thực hiện đồng bộ các biện pháp can thiệp sớm, tiếp cận cá biệt, xây dựng hệ
thống hỗ trợ, tạo môi trường giáo dục thích hợp. Tác giả cũng đặc biệt nhấn mạnh
rằng môi trường ngôn ngữ bao quanh trẻ khiếm thính phải phù hợp với nhu cầu và
khả năng của trẻ và kết luận: Mấu chốt của sự thành công đối với việc giao tiếp
19
bằng nghe - nói là một môi trường giáo dục có thể đem đến cho trẻ khiếm thính
nhiều kinh nghiệm ngôn ngữ có chất lượng tốt [45].
Tác giả Vương Hồng Tâm (2009) cho rằng, sử dụng phương pháp tiếp cận ngôn
ngữ nghe – nói và những phương tiện giao tiếp thích hợp với nó là một trong những biện
pháp cơ bản nhất để phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ khiếm thính trong môi trường
giáo dục hòa nhập. Điều này đổi hỏi cần có sự tăng cường ngôn ngữ nói và coi ngôn ngữ
nói như là ngôn ngữ thứ nhất [35].
Nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Lâm (2012) thì khẳng định rằng thông qua
các hoạt động chơi sẽ giúp trẻ khiếm thính phát triển được ngôn ngữ trong môi
trường giáo dục hòa nhập. Các trò chơi có thể tác động toàn diện đến các kỹ năng
nghe hiểu ngôn ngữ, mở rộng vốn từ, cải thiện độ rõ ràng trong lời nói của trẻ cũng
như việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, sinh hoạt hàng ngày [19].
Như vậy, cùng với sự phát triển của các thiết bị trợ thính (máy trợ thính, điện
cực ốc tai), giáo dục trẻ khiếm thính ở Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả
nhất định. Đã có một số nghiên cứu về việc phát triển ngôn ngữ, giao tiếp cho trẻ
khiếm thính nhưng số lượng còn rất hạn chế, đặc biệt chưa có những công trình
nghiên cứu sâu, cụ thể về vấn đề phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính.
Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài ở phạm vi trong
nước và nước ngoài một cách có chọn lọc, một số nhận định về những vấn đề
nghiên cứu được rút ra như sau:
- Phát triển kỹ năng nghe – nói có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với trẻ em
nói chung và trẻ khiếm thính nói riêng, giúp các em biết cách sử dụng ngôn ngữ nói
để giao tiếp, học tập, hòa nhập cộng đồng.
- Can thiệp sớm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giáo dục trẻ khiếm thính nói
chung và trong việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính nói riêng.
- Hai yếu tố quan trọng để phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
là sự hỗ trợ thính học và tạo môi trường phát triển kỹ năng nghe – nói.
- Có nhiều biện pháp khác nhau để phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính, tuy nhiên không nên sử dụng những biện pháp riêng lẻ hay có chủ định
trực tiếp để dạy ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính, nên tạo môi trường giao tiếp tự nhiên
và phong phú để phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính.
- Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự thiếu vắng những nghiên cứu sâu về
biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính ở lớp mẫu giáo hòa nhập.
20
Vì vậy, đề tài xác định đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về
phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa
nhập, từ đó đề xuất các biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ
năng nghe – nói trên cơ sở phát huy tối đa công dụng cùa thiết bị trợ thính.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về trẻ khiếm thính
1.2.1. Khái niệm trẻ khiếm thính
Trong tiếng Anh, các thuật ngữ liên quan đến khiếm thính là: hearing loss,
hearing impaired, deaf, hard of hearing. Có thể hiểu đây là những từ để chỉ cùng
một khái niệm nhưng ở các mức độ khác nhau. Việc sử dụng các thuật ngữ trên còn
tùy thuộc vào các hoạt động giao tiếp thông thường, hoạt động chuyên môn và cả
văn hóa của người khiếm thính [109] [110].
Trong những năm 70 và những năm 80 của thế kỷ XX, những nhà chuyên
môn trong giáo dục đặc biệt thường dùng thuật ngữ “khiếm thính” (hearing
impaired) để chỉ những người có khiếm khuyết về cơ quan phân tích thính giác dẫn
đến khả năng nghe bị suy giảm ở bất kỳ mức độ nào hoặc mất hẳn [81].
Bên cạnh đó, các thuật ngữ “Điếc” (deaf), “khó khăn về nghe” (hard of
heaing) cũng được dùng trong giới chuyên môn. “Điếc” (deaf) thường được dùng
để nói đến những trường hợp bị mất thính lực ở mức độ rất nặng trở lên, gần như
không có khả năng nghe. Còn “khó khăn về nghe” (hard of hearing) thường để nói
về những trường hợp còn khả năng nghe khi có thể sử dụng các thiết bị trợ thính để
xử lý âm thanh lời nói có hiệu quả [109].
Trong phân loại khuyết tật của ICF (the International Classification of
Functioning, Disability and Health ) có dùng thuật ngữ “khuyết tật thính giác”
(hearing disability) để chỉ những người bị mất sức nghe một phần hoặc hoàn
toàn [114].
Gần đây nhất, năm 2016, một cuộc điều tra qua internet của AARP
(American Association of Retired Persons – Hiệp hội những người đã nghỉ hưu Mỹ)
đã chỉ ra rất nhiều tranh luận trong việc sử dụng các thuật ngữ trên. Trong đó thuật
ngữ “khiếm thính” (hearing loss) cũng như “ người khiếm thính” (people with
hearing loss.) là thuật ngữ được chấp nhận bởi cả giới chuyên môn và cộng đồng
người Điếc như là một thuật ngữ tốt nhất để nói về vấn đề giảm hoặc mất hẳn chức
năng nghe của cơ quan phân tích thính giác hay những người giảm hoặc mất hẳn chức
năng nghe của cơ quan phân tích thính giác [111].
21
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), một người không thể nghe tốt như một
người có thính giác bình thường - ngưỡng nghe 25 dB hoặc tốt hơn ở cả hai tai - được
cho là bị mất thính lực (hearing loss). Mất thính lực có thể nhẹ, trung bình, nặng hoặc
sâu. Nó có thể ảnh hưởng đến một tai hoặc cả hai tai, và dẫn đến khó khăn trong việc
nghe lời nói hoặc âm thanh lớn. "Khó nghe" (Hard of hearing) chỉ những người bị mất
thính lực từ nhẹ đến nặng. Những người khó nghe thường giao tiếp qua ngôn ngữ nói
và có thể hưởng lợi từ máy trợ thính, ốc tai điện tử và các thiết bị trợ giúp khác cũng
như chú thích. Những người bị mất thính lực đáng kể hơn có thể được hưởng lợi từ cấy
ốc tai điện tử. 'Điếc' (Deaf) chỉ những người bị mất thính lực trầm trọng, ngụ ý rất ít
hoặc không nghe được. Họ thường sử dụng ngôn ngữ ký hiệu để giao tiếp [112].
Trong tài liệu “Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính”, định nghĩa trẻ khiếm
thính nhằm chỉ những trẻ em dưới 16 tuổi bị mất hoặc giảm sút sức nghe ở những
mức độ khác nhau. Khái niệm này cũng được sử dụng tương đương với trẻ khuyết
tật thính giác hay trẻ điếc [46].
Trong “Tài liệu số 13 – Giao tiếp với trẻ em giảm thính lực (khiếm thính)”
hướng dẫn quản lý và thực hiện phục hồi chức năng (PHCN) dựa vào cộng đồng
của Bộ Y tế, định nghĩa “trẻ có khó khăn về nghe (nghĩa là bị nghe kém hoặc điếc)
là trẻ bị giảm ít nhiều hoặc toàn bộ sức nghe, khiến trẻ không nghe được ở khoảng
cách và với cường độ âm thanh bình thường” [6].
Trong phạm vi của đề tài luận án, chúng tôi dùng thuật ngữ khiếm thính vì
đây là thuật ngữ thường được sử dụng nhiều trong giáo dục trẻ khuyết tật và các văn
bản pháp quy. Theo đó, khiếm thính được hiểu là một thuật ngữ chuyên ngành mô
tả các mức độ mất thính lực khác nhau từ mức độ nhẹ đến mức độ sâu. Ngoài thuật
ngữ khiếm thính, trong lĩnh vực giáo dục đặc biệt còn sử dụng các thuật ngữ khác
với ý nghĩa tương đương là điếc, khuyết tật thính giác.
Như vậy, trẻ khiếm thính là những trẻ bị suy giảm sức nghe ở các mức độ
khác nhau dẫn đến sự khó khăn trong tri giác âm thanh, trong đó có âm thanh
lời nói làm hạn chế khả năng giao tiếp bằng lời và ảnh hưởng đến quá trình
nhận thức của trẻ.
Có nhiều cách phân loại mức độ mất thính lực khác nhau xét theo độ suy
giảm thính lực ở các cường độ và tần số khác nhau.
Từ những năm 80 của thế kỷ 20, Hiệp hội Ngôn ngữ - Nghe - Nói của Mỹ
(The American Speech-Language-Hearing Association (ASHA)) [113] đã đưa ra và
sử dụng cho đến nay sáu mức độ mất thính lực như sau:
22
- Mức 1. Rất nhẹ (slight): Ngưỡng nghe từ 16 dB đến 25 dB
- Mức 2. Nhẹ (Mild): Ngưỡng nghe từ 26 dB đến 40 dB
- Mức 3. Trung bình (Moderate): Ngưỡng nghe từ 41 dB đến 55 dB
- Mức 4. Trung bình nặng (Moderately severe): Ngưỡng nghe từ 56 dB đến
70 dB
- Mức 5. Nặng (Severe): Ngưỡng nghe từ 71 dB đến 90 dB
- Mức 6. Sâu (Profound): Ngưỡng nghe từ 91 dB
Luận án sử dụng cách phân loại phổ biến ở Việt Nam, theo đó có 4 mức độ giảm
thính lực [46]:
Mức độ Khả năng nghe
Mức 1: Điếc nhẹ Nghe được những âm thanh có âm lượng to hơn
(ngưỡng nghe từ 21dB đến 40dB) bình thường, không nghe được tiếng nói thầm.
Mức 2: Điếc vừa Nghe được tiếng nói to nhưng không nghe được
(ngưỡng nghe từ 41dB đến 70dB) tiếng nói chuyện bình thường.
Mức 3: Điếc nặng Chỉ nghe được những tiếng nói to sát tai.
(ngưỡng nghe từ 71dB đến 90dB)
Mức 4: Điếc sâu Hầu như không nghe được âm thanh, trừ một
(ngưỡng nghe trên 90dB) số âm thật to như tiếng sấm, tiếng trống to.
1.2.2. Đặc điểm tâm lý của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Sự phát triển tâm lí của trẻ khiếm thính cũng mang những đặc điểm chung,
quy luật chung như mọi trẻ nghe bình thường. Đồng thời, ngoài những đặc điểm
chung đó, trẻ khiếm thính còn có những đặc trưng tâm lí riêng do khuyết tật thính
giác gây nên. Tật thính giác thường đưa đến những hậu quả rất đa dạng và phức tạp
trong tâm lí, nhân cách của trẻ khiếm thính. Bên cạnh đó, quy luật bù trừ nhiều khi
cũng đem lại cho trẻ khiếm thính những khả năng vượt trội hơn so với trẻ nghe bình
thường [31], [81].
1.2.2.1. Đặc điểm cảm giác, tri giác
Đối với trẻ khiếm thính, khả năng cảm giác và tri giác của các em cũng có
những đặc điểm chung, quy luật chung như mọi trẻ nghe bình thường. Trẻ vẫn
nhận thức được hình dáng, kích thước, màu sắc, mùi vị…của sự vật, hiện tượng
xung quanh, thậm chí ở các em một số cảm giác, tri giác có những biểu hiện khá
tinh vi, nhạy bén. Trong khi đó, một số cảm giác, tri giác có hạn chế, thiếu
hụt.[46]
23
a. Cảm giác, tri giác nghe (thính giác) ở trẻ khiếm thính:
Trẻ khiếm thính do khiếm khuyết ở các mức độ nặng, nhẹ khác nhau ở cơ
quan Trung ương hay cơ quan thính giác nên mỗi trẻ còn lại một phần thính lực
khác nhau. Trong thực tế, rất ít trẻ bị khiếm thính hoàn toàn (điếc đặc). Đa số trẻ
khiếm thính còn tồn tại những phần thính lực còn lại. Tật thính giác dù ở mức độ
nào cũng đều gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình hình thành và phát triển
ngôn ngữ nói của trẻ, ảnh hưởng đến các loại cảm giác và tri giác khác cũng như
quá trình nhận thức nói chung [31].
b. Cảm giác và tri giác nhìn (thị giác) ở trẻ khiếm thính:
Tri giác nhìn ở trẻ khiếm thính được phát triển mạnh để bù trừ cho thính giác.
Tri giác nhìn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nhận thức thế giới xung
quanh, trong việc tri giác, tiếp nhận, lĩnh hội ngôn ngữ nói và cử chỉ điệu bộ.
Cảm giác và tri giác thị giác ở trẻ khiếm thính không kém so với trẻ nghe bình
thường, thậm chí còn tích cực và tinh nhạy hơn. Bởi vậy, trẻ khiếm thính thường để
ý những chi tiết nhỏ của thế giới xunh quanh mà trẻ nghe bình thường không để ý
đến. Những bức tranh vẽ của trẻ khiếm thính có nội dung phong phú, tỉ mỉ hơn và
đặc biệt là khi vẽ người, trẻ khiếm thính thường thể hiện đầy đủ hơn những phần
quan trọng của cơ thể người và rất chú ý đến sự cân xứng trong việc mô tả chúng so
với trẻ nghe bình thường nhưng chúng lại thường gặp khó khăn đối với những bức
tranh biểu thị mối quan hệ không gian (Todman & Cowdy, 1993; Todman &
Seedhouse, 1994) [81].
Bên cạnh đó, trẻ khiếm thính cũng có sự linh hoạt hơn trẻ nghe bình thường
trong di chuyển chú ý từ vị trí không gian này đến vị trí không gian khác, tốt hơn
trong phát hiện những chuyển động ngoài tầm nhìn, và khả năng nổi bật trong tiếp
nhận và ghi nhớ những ký hiệu thị giác phức tạp (Corina và cộng sự, 1992; Parasnis
& Samar, 1985) [31].
c. Cảm giác và tri giác vận động:
Cảm giác và tri giác vận động đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
tiếp nhận ngôn ngữ của trẻ khiếm thính. Cảm giác vận động là phương thức giúp trẻ
khiếm thính tự kiểm tra sự phát âm dựa trên cảm giác rung nhận được từ bộ máy
phát âm. Khả năng đọc hình miệng và ngôn ngữ ký hiệu, cử chỉ điệu bộ của trẻ
khiếm thính cũng được hình thành trên cơ sở cảm giác vận động và tri giác nhìn.
Cảm giác rung và cảm giác vận động ở trẻ khiếm thính là cơ sở giúp trẻ cảm nhận
về thế giới xung quanh [81].
24
1.2.2.2. Đặc điểm trí nhớ
Trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi thể hiện ghi nhớ không chủ định về vị trí của các
đối tượng nhớ không thua kém trẻ nghe bình thường. Về khả năng ghi nhớ từ ngữ,
giữa trẻ khiếm thính và trẻ nghe bình thường có sự khác nhau rất ít trong việc ghi
nhớ những từ trong phạm vi lĩnh hội bằng mắt, trẻ khiếm thính ghi nhớ tốt hơn
những từ biểu thị chất lượng của những đồ vật tiếp nhận qua xúc giác. Song, trẻ
khiếm thính kém hơn nhiều so với trẻ nghe bình thường trong việc ghi nhớ những từ
biểu thị hiện tượng âm thanh [31].
Bên cạnh đó, trẻ khiếm thính khó khăn trong việc tập trung chú ý trong một
thời gian dài, trẻ chóng mệt mỏi, nhất là khi phải nghe quá nhiều và quá lâu. Chính
vì vậy, trẻ cũng ghi nhớ kém những kiến thức có tính chất suy luận, khả năng ghi
nhớ có ý nghĩa không bền vững, kém phân biệt so với trẻ nghe bình thường.
[31][81].
1.2.2.3. Đặc điểm tư duy
Ở trẻ khiếm thính, tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tế. Tư duy trực quan hành động của trẻ khiếm thính có
liên hệ trực tiếp với hành động, với tri giác của nó và thể hiện trong quá trình thao
tác thực hành với vật thể khi trẻ chia cắt, lắp đặt các bộ phận của đối tượng được tri
giác [46].
Tư duy trực quan hình tượng là loại tư duy phụ thuộc vào tri giác, dựa vào
những hình ảnh trực quan cảm giác cụ thể, chính những hình ảnh này đã nảy sinh
phản ánh những nét cụ thể, đơn giản và cá biệt của sự vật, hiện tượng, con
người…và các mối quan hệ của chúng dưới dạng hình ảnh mà trẻ tiến hành các thao
tác tư duy thực hiện nhiệm vụ đơn giản. Ở trẻ khiếm thính, trước thời gian tiếp nhận
ngôn ngữ và trong cả quá trình thu nhận ngôn ngữ còn có một thời gian dài dừng lại
ở mức độ tư duy trực quan – hình tượng, nghĩa là chúng suy nghĩ không bằng lời
mà bằng những hình tượng, hình ảnh. Sự diễn đạt bằng hình tượng được trẻ khiếm
thính tri giác với nội dung sự vật theo nghĩa đen của nó. Cách diễn đạt đó đã khơi
dậy ở trẻ những biểu tượng cụ thể, những hình ảnh đơn nhất gây khó khăn cho việc
đi sâu vào ý nghĩa khái niệm của nó và cho việc nhận thức ý nghĩa khái quát của nó.
Trẻ khiếm thính chỉ thấy hình tượng dễ nảy sinh của vật thể, chỉ phản ánh có một
dấu hiệu của nó. Trẻ khiếm thính khó hiểu được ý nghĩa tiềm ẩn của ẩn dụ trong
những câu thành ngữ [31] [81].
25
Tư duy trừu tượng của trẻ khiếm thính cũng gặp một số khó khăn bởi nó liên
quan đến các khái niệm. Sự khiếm khuyết về ngôn ngữ và ngay cả việc tiếp nhận
ngôn ngữ muộn cũng có ảnh hưởng đáng kể đến sự hình thành khái niệm và do đó
đến cả tư duy trừu tượng [81].
1.2.2.4. Đặc điểm tưởng tượng
Đặc điểm tưởng tượng ở trẻ khiếm thính có sự thiếu hụt do sự hình thành
ngôn ngữ chậm và tư duy trừu tượng hạn chế gây nên. Mặc dù hình tượng thị giác
của trẻ khiếm thính đạt mức độ cao và sống động, nhưng sự hình thành tư duy bằng
khái niệm quá chậm, làm chúng rất khó thoát khỏi ý nghĩa cụ thể, nghĩa đen của từ,
điều đó làm khó khăn cho sự hình thành hình tượng mới, ảnh hưởng đến khả năng
tưởng tượng của trẻ khiếm thính trong cả hai quá trình tái tạo và sáng tạo [31].
Tưởng tượng tái tạo chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động nhận thức của
trẻ khiếm thính. Tuy nhiên, do vốn biểu tượng hạn chế, cụ thể là các biểu tượng về
âm thanh ... là nguồn tư liệu cho việc xây dựng những biểu tượng mới, dẫn đến
tưởng tượng tái tạo khó hình thành và nghèo nàn [81].
Do hạn chế về giao tiếp và ngôn ngữ, trẻ khiếm thính khó có được lượng
thông tin cũng như vốn kinh nghiệm sống, gặp khó khăn trong việc sử dụng những
thủ thuật và cách thức tạo ra những biểu tượng mới, do đó trẻ khiếm thính gặp nhiều
khó khăn trong tưởng tượng sáng tạo [81].
1.2.2.5. Đặc điểm sự hình thành và phát triển ngôn ngữ
Ở trẻ khiếm thính, chẳng những cơ quan phân tích thính giác bị phá huỷ mà cả
ngôn ngữ cũng bị phá huỷ hết sức nghiêm trọng. Sự phá huỷ thành phần của ngôn
ngữ có thể biểu hiện ở những hình thức khác nhau. Trường hợp nặng nhất là hoàn
toàn không có khả năng tự chiếm lĩnh được từ (trường hợp khiếm thính mức độ
sâu). Trong những trường hợp khác thì có thể biểu hiện ở sự nghèo nàn và hạn chế
của từ vựng, sử dụng từ không đúng với ý nghĩa cơ bản của nó.
Theo tác giả Trịnh Đức Duy [10], một số vấn đề thường có về ngôn ngữ nói
của trẻ khiếm thính là:
Giọng: Phần lớn trẻ khiếm thính phát âm với giọng không bình thường, khó
nghe. Trẻ hay nói giọng mũi, giọng cao, giọng yếu, giọng khàn... Chất lượng giọng
nói của trẻ khiếm thính phụ thuộc vào mức độ giảm thính lực (nếu trẻ không được
đeo máy trợ thính và can thiệp sớm).
Phát âm: Lỗi về phát âm của trẻ khiếm thính thường mắc trong giai đoạn
26
hình thành ngôn ngữ (2-3 tuổi). Ngoài ra trẻ còn phát âm không đúng, không phân
biệt những âm gần nhau (nghe gần giống nhau) như t/đ, b/m. Phần lớn trẻ phát âm
sai phụ âm.
Thanh điệu: Hầu hết trẻ khiếm thính nói khó đúng các thanh điệu của tiếng
Việt, thường trẻ chỉ sử dụng đựơc 2-3 thanh cơ bản, dễ (thanh không, sắc, huyền).
Ngữ điệu: Trẻ khiếm thính hay nói rời rạc, ngắt từng tiếng một, lên xuống
tuỳ hứng.
Ngữ pháp: Trẻ khiếm thính thường nói không theo ngữ pháp tiếng Việt mà
thường nói theo tư duy của mình, theo ý hiểu của mình, trẻ thường mắc lỗi về trật tự
từ trong câu nói, gây khó khăn cho người nghe.
Từ vựng: vốn từ ngữ ở trẻ khiếm thính rất nghèo nàn, ít hơn nhiều so với trẻ
nghe bình thường cùng lứa tuổi.
Nguyên nhân của những hạn chế về ngôn ngữ nêu trên chủ yếu là do khiếm
khuyết về nghe, cơ hội tham gia vào các cuộc hội thoại bằng lời hạn chế. Sự hỗ trợ
của thiết bị trợ thính (máy trợ thính, điện cực ốc tai) sẽ giúp cho trẻ khiếm thính
khắc phục những khó khăn trong việc nghe. Trẻ càng được sử dụng thiết bị trợ thính
sớm và tham gia chương trình can thiệp, giáo dục sớm càng có lợi cho sự phát triển
ngôn ngữ [46].
1.3. Kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
1.3.1. Khái niệm kỹ năng nghe – nói
Thuật ngữ “kỹ năng” hiện nay được sử dụng rất rộng rãi. Khi muốn diễn đạt
tình trạng cá nhân biết cách thực hiện có kết quả một hành động, hoạt động, thậm
chí một lĩnh vực hoạt động xã hội, người ta dùng thuật ngữ “kỹ năng”. Bản chất kỹ
năng là gì đã được các nhà khoa học nghiên cứu và đề cập ở các góc độ khác nhau:
Theo K.K. Platonov và G.G. Golubev, kỹ năng là năng lực của con người
thực hiện công việc có kết quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện
mới và trong những khoảng thời gian tương ứng. Ngô Công Hoàn, Nguyễn Quang
Uẩn cho rằng kỹ năng là một năng lực của con người biết vận dụng các thao tác của
một hành động theo đúng quy trình [14] [42].
V.A. Krutexki, Trần Trọng Thủy [39] coi kỹ năng như kỹ thuật của hành
động, là phương thức hành động mà con người nắm vững. A.G. Covaliov [9] nhìn
nhận kỹ năng không chỉ đơn giản là kỹ thuật hành động mà còn tính đến tính mục
đích và các điều kiện để thực hiện hành động.
27
Theo N.Đ. Levitop [23], kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào
đó trong một hoạt động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách
thức đúng đắn, có tính đến những điều kiện nhất định. Người có kỹ năng là người
nắm vững và vận dụng đúng đắn các cách thức hành động nhằm đạt được kết quả
mong muốn. Để hình thành kỹ năng, con người không chỉ nắm vững lí thuyết về
hành động mà phải vận dụng vào thực tế.
Theo quan điểm của Đặng Thành Hưng [16], kỹ năng là một dạng hành động
được thực hiện tự giác, có kỹ thuật, dựa trên tri thức về công việc, khả năng vận
động và những điều kiện sinh học - tâm lí khác của cá nhân (chủ thể có kĩ năng đó)
như nhu cầu, tình cảm, ý chí, tính tích cực cá nhân… để đạt được kết quả theo mục
đích hay tiêu chí đã định, hoặc mức độ thành công theo chuẩn hay qui định.
Từ những phân tích trên, trong lĩnh vực nghiên cứu của luận án, kỹ năng được
hiểu là: khả năng thực hiện có kết quả một hoạt động nào đó trên cơ sở vận dụng những
kiến thức, kinh nghiệm, thái độ liên quan vào hoạt động thực tiễn trong điều kiện cụ thể.
Để sử dụng bất cứ ngôn ngữ nào, bên cạnh việc có tri thức ngôn ngữ cần
phải có 4 loại kỹ năng căn bản nghe – nói – đọc – viết. Trong đó, kỹ năng nghe –
nói là kỹ năng cơ bản, được hình thành ngay từ ban đầu, làm cơ sở để trẻ hình thành
và phát triển tốt các kỹ năng còn lại. Trong thực tiễn, nghe - nói là cặp kỹ năng
tương tác lẫn nhau. Hai kỹ năng này có vai trò ngang nhau và có tác dụng bổ sung,
hỗ trợ cho nhau. Khẳng định mối quan hệ giữa kỹ năng nghe và nói, tác giả Đỗ Hữu
Châu cho rằng: kỹ năng nói không bao giờ tách rời khỏi kỹ năng nghe, phải nghe tốt
thì mới nói tốt, bởi trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, hoạt động nói và nghe luôn
song hành với nhau [7].
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, khái niệm kỹ năng nghe – nói được
hiểu như sau:
Kỹ năng nghe - nói là khả năng thực hiện có kết quả các hoạt động lĩnh hội,
tiếp nhận thông tin, xử lí âm thanh tác động đến thính giác của con người và
chuyển nội dung suy nghĩ, nội dung thông báo vốn thuộc lĩnh vực tinh thần sang
dạng vật chất, dạng mã hóa ngôn ngữ dựa trên sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tri
thức về ngôn ngữ (đặc biệt là ngôn ngữ nói), những hiểu biết về văn hoá, xã hội
(liên quan đến hoạt động giao tiếp bằng lời) và những điều kiện sinh học - tâm lí
của một cá nhân (nhu cầu, tình cảm, ý chí, tính tích cực cá nhân…) nhằm đạt được
mục đích giao tiếp đặt ra.
28
Cụ thể, để nghe hiểu lời nói trong những tình huống đối diện trực tiếp, chúng
ta phải tách biệt từ ra khỏi tiếng ồn; phân tích, nhận dạng âm và từ trong chuỗi lời
nói (vì tất cả kết hợp với nhau trong chuỗi lời nói tự nhiên); lưu ý cách phát âm và
tâm trạng của người nói; nhận dạng cấu trúc câu; chú ý ngôn ngữ cơ thể; tìm hiểu lý
do cuộc trò chuyện; hiểu nghĩa của từ và câu; kiểm tra ý nghĩa của những gì đã và
đang được nói và đồng thời dự đoán những gì sẽ được nói tiếp theo và phải có dấu
hiệu phản hồi nếu hiểu được người nói. “Người nghe” phải làm nhiều việc khác
ngoài việc sử dụng đôi tai. Họ sử dụng tất cả các giác quan để tìm hiểu ý nghĩa và
phải sử dụng não bộ để giải mã những gì được nghe nói. Mặc dù quá trình lĩnh hội
lời nói là một công việc phức tạp, thật thú vị là hầu hết trẻ nhỏ có thể hiểu được khá
nhiều lời nói khi được một tuổi (hoặc muộn hơn một chút) [81][105].
Trong khi nói, chúng ta cũng phải trải qua ít nhất năm bước khác nhau: (1)
chọn từ được lưu giữ trong bộ nhớ; (2) sắp xếp từ theo trật tự để người nghe có thể
hiểu được - người nghe phải có cùng ngôn ngữ và những quy tắc ngữ pháp bắt
nguồn từ kinh nghiệm; (3) vận hành bộ máy phát âm; (4) phát ra nhiều âm giọng
khác nhau là cơ sở của từ và câu; (5) lắng nghe lời nói của chính mình để đảm bảo
thể hiện đúng ý tưởng mình muốn nói; dự tính những câu nói tiếp theo trong khi
đang nói, đồng thời đánh giá hiệu quả câu nói qua thái độ của người nghe [81].
Đặc điểm về hệ thống thần kinh của con người thể hiện ở việc tiếp nhận và
diễn đạt lời nói, tuy phức tạp, phần lớn trẻ con lĩnh hội một cách tự nhiên và dần
dần thành thạo khi còn rất nhỏ. Chúng ta nhận thấy được điều này khi dạy trẻ khiếm
thính học nói. Việc phát triển thành công ngôn ngữ nói thường được nâng cao khi ta
thực hiện các bước cần thiết cho việc phát triển các kỹ năng nhận biết ngôn ngữ nói
thông qua việc giúp trẻ trở thành những người nghe tốt nhờ khắc phục khả năng
nghe còn lại hoặc thông qua các hình thức hỗ trợ giác quan khác cũng như khi trẻ
được hình thành đầy đủ những kinh nghiệm giao tiếp bằng ngôn ngữ nói.
1.3.2. Đặc điểm kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Đối với trẻ nghe bình thường, ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời,
trẻ đã được tiếp xúc với vô vàn những âm thanh khác nhau của cuộc sống xung quanh,
từ đó trẻ có được tập hợp các phản xạ khác nhau của âm thanh. Sự phát triển kỹ năng
nghe - nói của trẻ nghe bình thường dựa trên cơ sở thính giác, cơ sở giao tiếp bằng
ngôn ngữ, nhờ thính giác trẻ tiếp thu được lời nói của mọi người xung quanh, bắt
chước lời nói ấy, tự trẻ bắt đầu học nói [81].
29
Sự phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ nghe bình thường trải qua các giai
đoạn sau [105]:
- Giai đoạn 1: chưa có ý thức về kỹ năng, chúng thường hướng về phía phát ra
tiếng nói, lắng nghe ngôn ngữ nói (bắt đầu chú ý đến âm thanh lời nói).
- Giai đoạn 2: trẻ bắt đầu học các kỹ năng nghe - nói theo nhu cầu của trẻ
bằng ba cách là: bắt chước, đóng vai, độc thoại. Trẻ biết quan sát sự liên kết giữa
âm thanh của lời nói với sự vật, màu sắc (bắt đầu hiểu nghĩa của từ).
- Giai đoạn 3: Trẻ hình thành kỹ năng một cách có ý thức. Trẻ lắng nghe và
ghi nhớ tất cả các từ ngữ, câu nói được lặp đi lặp lại nhiều lần hằng ngày (bắt đầu
nhập tâm, thu nạp vốn từ).
- Giai đoạn 4: Là thời kỳ kỹ năng thuần thục trở thành kỹ xảo. Trẻ thực
hành nói bằng mô phỏng âm thanh lời nói nghe thấy (bắt đầu nói thụ động, nói
bắt chước).
- Giai đoạn 5: Là giai đoạn giao tiếp bằng tiếng nói trong cộng đồng ngôn
ngữ (nói chủ động).
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng khả năng ngôn ngữ của trẻ
phát triển mạnh nhất trong 6 năm đầu tiên của cuộc sống, đó là thời gian bộ não của
trẻ phát triển mạnh và đầy đủ nhất. Ngay từ một tuổi rưỡi đến hai tuổi trẻ em đã bắt
đầu tập nói. Kỹ năng nghe - nói của trẻ phát triển dần theo thời gian. Ở lứa tuổi mẫu
giáo (3 – 6 tuổi), do nhu cầu giao tiếp của trẻ ngày càng phát triển mạnh, phạm vi
giao tiếp được mở rộng cho nên trẻ trở nên độc lập hơn và bắt đầu giao lưu rộng rãi
hơn với những người khác, nhất là bạn cùng tuổi. Việc mở rộng phạm vi giao tiếp
và phức tạp của hoạt động đòi hỏi trẻ phải nhanh chóng hoàn thiện kỹ năng nghe –
nói theo từng độ tuổi:
3 – 4 tuổi: Trẻ nghe hiểu và nói được khoảng 800 - 1200 từ trong đó phần
lớn là danh từ, động từ, còn các từ loại khác như tính từ, trạng từ, đại từ chiếm tỷ lệ
thấp; còn mắc nhiều lỗi trong phát âm, nhất là dấu thanh, âm đệm, âm cuối; nắm
được ngữ pháp cơ bản để diễn đạt khá chính xác các nhu cầu cơ bản hàng ngày song
còn chưa hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, có câu đúng, nhưng cũng có câu sai (câu
cụt/thiếu thành phần), các từ dùng trong câu chưa chính xác, chưa mạch lạc.
4 - 5 tuổi: Vốn từ của trẻ tăng từ 1300 - 2000 từ trong đó danh từ, động từ
vẫn chiếm ưu thế, tính từ và các loại từ khác tuy đã xuất hiện trong ngôn ngữ của trẻ
nhưng còn ít và sử dụng chưa chính xác; trẻ nói rõ ràng hơn, dứt khoát hơn, song
30
vẫn hay sai thanh ngã, âm điệu, âm cuối; câu nói của trẻ dài hơn, ít câu cụt hơn, đã
sử dụng các câu phức hợp, các câu có liên từ.
5 - 6 tuổi: Vốn từ của trẻ khá phong phú, khoảng 2000 – 3000 từ trong đó
không chỉ chủ yếu là danh từ, động từ, mà còn cả tính từ và các từ loại khác chiếm
tỷ lệ cao hơn; hầu hết trẻ đã phát âm đúng, chuẩn xác các âm, kể cả các âm khó, biết
sử dụng ngữ điệu phù hợp với nội dung giao tiếp, phù hợp nội dung câu chuyện trẻ
kể; lĩnh hội được những quy tắc chủ yếu trong ngữ pháp tiếng mẹ đẻ, và dùng được
quy tắc ấy trong ngôn ngữ của mình. [18][47][65].
Đối với trẻ khiếm thính, vì trẻ không nghe thấy âm thanh tiếng nói xung
quanh do đó không có khả năng bắt chước tiếng nói, trẻ không thể tự học nói được.
Sự hỗ trợ của thiết bị trợ thính sẽ giúp cho trẻ khắc phục được khó khăn trong việc
nghe với điều kiện thiết bị trợ thính phù hợp với trẻ. Nếu như trẻ nghe bình thường
được nghe thấy âm thanh và bắt đầu học nói từ khi trẻ sinh ra thì trẻ khiếm thính chỉ
được bắt đầu khi có sự hỗ trợ của thiết bị trợ thính, càng được trang bị thiết bị trợ
thính sớm càng có lợi cho sự phát triển ngôn ngữ [52]. Như vậy đã có những
khoảng trống đầu tiên trong tiến trình phát triển kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm
thính khi trẻ chưa có sự hỗ trợ của thiết bị trợ thính.
Sự phát triển kỹ năng nghe – nói ở trẻ khiếm thính cũng tuân theo các giai
đoạn phát triển kỹ năng nghe - nói như trẻ nghe bình thường nhưng sẽ cần thời gian
dài hơn với sự hỗ trợ đặc biệt để có thể phát triển theo trình tự đó [51].
Bên cạnh đó, sự phát triển kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính còn nhờ
vào sự hỗ trợ của các giác quan khác như cảm giác vận động, thị giác, cảm giác
rung... Ngoài ra, sự phát triển kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố như: thời điểm phát hiện điếc, mức độ điếc, thời điểm can
thiệp sớm, chất lượng thực hiện can thiệp sớm, môi trường học ngôn ngữ... [81].
Những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu cho thấy, trẻ khiếm thính
được cấy điện cực ốc tai sớm và được can thiệp sớm thì ngôn ngữ nói phát triển tốt
hơn, sự phát triển ngôn ngữ nói có thể gần hoặc tương đương với trẻ nghe bình
thường [101][87].
Càng can thiệp muộn, sự phát triển kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính
càng bị ảnh hưởng. Nhìn chung, trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp MGHN có sử dụng
thiết bị trợ thính đã đạt được kỹ năng nghe - nói ở một mức độ nhất định, trẻ có thể
nghe hiểu và ghi nhớ các từ ngữ, câu nói được lặp đi lặp lại nhiều lần hằng ngày.
31
Tuy nhiên, mức độ nghe hiểu lời nói của trẻ còn nhiều hạn chế. Vốn từ hiểu của trẻ
còn ít, trẻ chủ yếu lĩnh hội được những từ gắn với sự vật, hành động cụ thể [8][9].
Trẻ cũng thường chỉ nghe hiểu được các yêu cầu đơn giản, quen thuộc, một mệnh
lệnh. Khó khăn trong việc nghe hiểu được các yêu cầu phức tạp từ 2 – 3 mệnh lệnh,
nghe hiểu nội dung câu chuyện, bài thơ [81][87].
Vốn từ trẻ khiếm thính nói được còn rất hạn chế, trẻ thường chỉ sử dụng
được các từ chỉ sự vật, hiện tượng cụ thể. Độ rõ ràng trong lời nói của trẻ khó đạt
được mức độ như trẻ nghe bình thường, hầu hết các từ, câu mà trẻ nói chỉ có thể
hiểu được kèm với tình huống cụ thể, chỉ có rất ít trẻ phát âm có thể hiểu được rõ
ràng [19]. Các câu nói của trẻ chủ yếu là câu một từ mà trẻ thường dùng để gọi tên
sự vật, hành động hay mách bảo điều gì đó [8]. Trẻ cũng khó khăn trong việc tiếp
thu các qui tắc ngữ pháp.[51]
1.4. Phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu
giáo hòa nhập
1.4.1. Khái niệm phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Khái niệm “phát triển” có thể được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau của nhiều
ngành khoa học như: Triết học, Kinh tế học, Tâm lí học, Giáo dục học…
Theo quan điểm của triết học, khái niệm “phát triển” chỉ sự thay đổi (tăng
lên) về quy mô và chất lượng của một sự vật, hiện tượng. Với con người, phát triển
vừa là mục đích, vừa là cách thức để thỏa mãn các nhu cầu tăng lên không ngừng,
giúp con người nâng cao năng lực và góp phần hoàn thiện bản thân.
Trong Khoa học kinh tế, phát triển được quan niệm là sự gia tăng cả về số lượng
và chất lượng, sự biến đổi theo hướng đi lên ở cả bề rộng và chiều sâu.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, “Phát triển là biến đổi hoặc
làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp” [43, tr.769].
Trong tâm lí học, sự phát triển được nhìn nhận như một quá trình trưởng
thành liên tục trong sự tự nhận thức của trẻ, bao gồm các giai đoạn khác nhau từ
thấp đến cao, giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn sau [42].
Trong giáo dục trẻ em, sự phát triển được hiểu là quá trình biến đổi từ ít đến
nhiều, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, là quá trình biến đổi về chất, nảy
sinh cái mới, tiến bộ hơn so với trước. Sự phát triển trẻ em là quá trình trẻ học và
đạt được các kỹ năng trong một giai đoạn nhất định. Sự phát triển này theo trình tự
32
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, những kỹ năng trước là tiền đề phát triển
những kĩ năng mới tiếp theo [27].
Đối với khái niệm phát triển kỹ năng, luận án tiếp cận chủ yếu dưới góc
độ khoa học giáo dục và tâm lí học, gắn với đặc thù của một dạng hành động.
Theo đó, phát triển kỹ năng được hiểu là quá trình tăng lên về chất trong một
dạng hành động của con người được thực hiện dựa trên sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa các mặt tri thức, kỹ thuật hành động và những điều kiện sinh học – tâm lí
của một cá thể (nhu cầu, tình cảm, ý chí, tính tích cực cá nhân…) để đạt được kết
quả theo mục đích đặt ra.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, khái niệm phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính được hiểu như sau: Phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính là quá trình tạo ra sự chuyển biến nhất định (tăng lên về chất) về kỹ
năng nghe - nói của trẻ khiếm thính, giúp trẻ nghe hiểu lời nói và sử dụng lời nói để
diễn đạt ý hiểu của mình cho người khác trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
nói ngày một tốt hơn.
Việc phát triển kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính trải qua quá trình tích
lũy về lượng để có sự biến đổi về chất vì vậy kỹ năng nghe - nói của trẻ ngày càng
được hoàn thiện. Cũng giống như tất cả các lĩnh vực phát triển khác, sự phát triển
kỹ năng nghe - nói được diễn ra trong tất cả các hoạt động và là một phần trong sự
phát triển toàn diện của trẻ.
1.4.2. Đặc điểm của lớp mẫu giáo hòa nhập có trẻ khiếm thính
Lớp mẫu giáo hòa nhập có trẻ khiếm thính là lớp học ở trường mầm non
dành cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo trong đó bao gồm cả trẻ nghe bình thường và
trẻ khiếm thính.
Lớp mẫu giáo hòa nhập có trẻ khiếm thính có một số đặc điểm sau:
- Về đối tượng trẻ: Trong lớp mẫu giáo hòa nhập có cả trẻ nghe bình thường
và trẻ khiếm thính. Khác với trẻ nghe bình thường, trẻ khiếm thính có một số đặc
điểm tâm - sinh lý phát triển chậm trễ hơn. Do vậy, ở lớp mẫu giáo hòa nhập, giáo
viên cần quan tâm đến một số đặc điểm của trẻ khiếm thính như đặc điểm thể chất,
ngôn ngữ, những thông tin thính học, sự cộng tác của phụ huynh… từ đó tìm cách hỗ
trợ đúng hướng. Độ tuổi của trẻ trong lớp có thể không đồng đều, bên cạnh những trẻ
nghe bình thường đúng độ tuổi thì có thể có trẻ khiếm thính lớn tuổi hơn vẫn được
học trong các lớp mẫu giáo.
33
- Trẻ khiếm thính do có những khó khăn về giao tiếp bằng ngôn ngữ nói nên
trẻ có thể sử dụng cả ngôn ngữ ký hiệu, cử chỉ điệu bộ để giao tiếp với mọi người
xung quanh. Giáo viên và trẻ nghe bình thường trong lớp mẫu giáo hòa nhập cũng
cần hiểu và sử dụng hình thức giao tiếp này để giao tiếp với trẻ khiếm thính trong lớp.
Vì vậy, trong lớp mẫu giáo hòa nhập có thể tồn tại cả hai hình thức giao tiếp: giao
tiếp bằng ngôn ngữ nói và giao tiếp bằng cử chỉ điệu bộ, ký hiệu.
- Sự hạn chế về ngôn ngữ cũng là một trong những nguyên nhân khiến trẻ
khiếm thính thường chậm và khó khăn hơn trẻ bình thường trong các hoạt động. Để
hỗ trợ cho trẻ khiếm thính trong lớp mẫu giáo hòa nhập, ngoài hoạt động chung cho
cả lớp còn có hoạt động hỗ trợ cá nhân cho trẻ khiếm thính.
- Về giáo viên: Trong lớp mẫu giáo hòa nhập có sự tham gia của cả giáo viên
lớp mẫu giáo và giáo viên hỗ trợ. Vai trò của giáo viên trong lớp mẫu giáo hòa nhập
là vô cùng quan trọng vì vừa đóng vai trò là người giáo viên mẫu giáo bình thường
vừa là nhà giáo dục đặc biệt. Một mặt họ phải thực hiện chương trình chung quy
định của Bộ GD&ĐT, mặt khác cần điều chỉnh nội dung chương trình, phương
pháp cho phù hợp với trẻ khiếm thính trong lớp học. Việc điều chỉnh này không thể
tách rời hoạt động của các trẻ khác trong toàn bộ quá trình giáo dục và cần đem lại
lợi ích không chỉ cho trẻ khiếm thính mà còn cho các trẻ khác đối với việc tham gia
các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở trường mầm non.
Để hoàn thành vai trò đa dạng đó, đòi hỏi giáo viên cần có những kỹ năng
của cả nhà giáo dục mầm non và một nhà sư phạm đặc biệt. Tuy nhiên, kỹ năng cần
thiết ở cả hai lĩnh vực này lại giống nhau về cơ bản vì đó là những kỹ năng làm việc
với trẻ em, và cũng có những lĩnh vực nhất định ở đó đòi hỏi có chuyên sâu về
chuyên môn.
Giáo viên hỗ trợ là người có chuyên môn sâu về lĩnh vực giáo dục trẻ khiếm
thính, do vậy, giáo viên mầm non cần tạo mối quan hệ hợp tác tốt với giáo viên hỗ trợ
để được hỗ trợ các vấn đề như: cung cấp thông tin về giáo dục trẻ khiếm thính, thảo
luận, hỗ trợ giáo viên mầm non trong việc giảng dạy, giao tiếp và kiểm tra, quản lý
các trang thiết bị hỗ trợ, giúp đỡ giải quyết các vướng mắc trong quá trình chăm sóc,
giáo dục trẻ khiếm thính.
- Ngoài ra, lớp mẫu giáo hòa nhập còn có thể có một số khác biệt về cấu trúc
phòng học, trang thiết bị, đồ dùng trong lớp, các phương tiện trợ thính cho trẻ khiếm
thính, đặc điểm bố trí lớp học nhằm tạo môi trường học tập thuận lợi cho trẻ khiếm thính.
34
1.4.3. Vận dụng lí thuyết hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong việc phát triển
kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
a) Tư tưởng cơ bản của lí thuyết hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Các tác giả tiêu biểu của lý thuyết này đó là Lev Vygostky, X.L.Rubinstein,
B.Ph.Lomov, L.V.Bueva, V.P.Dakharov. Tư tưởng cơ bản của lí thuyết giao tiếp
bằng ngôn ngữ được thể hiện chủ yếu qua một số quan điểm sau [40][44]:
- Việc giao tiếp bằng ngôn ngữ không chỉ nhằm mục đích thông tin mà chủ
yếu là nhằm mục đích tác động. Trong mối quan hệ giữa thông tin và tác động thì
thông tin là phương tiện còn tác động là mục đích. Mục đích thông tin có thể là: Tác
động tới nhận thức; Tác động tới tình cảm; Tác động tới hành động. Vì vậy, theo
quan điểm của lí thuyết giao tiếp thì trong mọi lời nói của trẻ, điều quan trọng
không phải chỉ là việc chúng ta xem xét lời nói đó đưa ra thông tin gì mà chủ yếu
phải xem xét lời nói đó đưa ra thông tin để làm gì, nhằm mục đích gì. Hiệu quả tác
động của lời nói mới là điều quan trọng hơn việc tổ chức ngôn ngữ trong lời nói đó.
- Các yếu tố ngôn ngữ luôn luôn vận động và biến đổi, chúng có thể phát
sinh đặc tính mới, tăng thêm giá trị so với hệ thống và cũng có thể bị rút bớt giá
trị. Sở dĩ chúng có thêm giá trị mới như vậy vì chỉ khi đi vào giao tiếp, đi vào hoạt
động hành chức thì các yếu tố ngôn ngữ không được xem xét một cách biệt lập mà
được xem xét trong mối quan hệ: Giữa các yếu tố ngôn ngữ với nhau; giữa các yếu
tố ngôn ngữ với người sử dụng; giữa các yếu tố ngôn ngữ với hoàn cảnh giao tiếp.
Chính nằm trong những mối quan hệ này mà các yếu tố ngôn ngữ nảy sinh thêm
giá trị mới.
- Trong hoạt động giao tiếp, hiệu quả của việc giao tiếp tỉ lệ thuận với việc
hiểu biết đối tượng giao tiếp. Sự hiểu biết này có thể cụ thể hoá ở một số mặt sau:
Hiểu biết về vị thế xã hội; hiểu biết về vị thế giao tiếp; hiểu biết về sở thích, hứng
thú, thói quen. Điều này cho chúng ta thấy rõ lí thuyết giao tiếp rất coi trọng sự hiểu
biết về đối tượng giao tiếp. Nếu không xác định được mình giao tiếp với ai, có vị
thế xã hội và vị thế giao tiếp ra sao thì người nói rất khó đạt được hiệu quả giao
tiếp, mục đích giao tiếp.
b) Bản chất của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Giao tiếp không chỉ mang đầy đủ những bản chất của hoạt động nói chung
mà với tư cách là một hoạt động đặc biệt giao tiếp còn có những đặc thù riêng:
Trước hết, giao tiếp là một hoạt động xã hội. Qua giao tiếp, mỗi cá nhân bộc lộ
35
những tư tưởng, tình cảm và những điều được nói tới. Vì giao tiếp là hoạt động của
con người nên nó là hoạt động có ý thức, có tính kế hoạch và chủ định. Nó luôn
xuất phát từ một động cơ, một ý đồ nào đó của người tham gia giao tiếp. Hoạt động
giao tiếp không chỉ là một hoạt động có cơ cấu, gồm nhiều cấp độ khác nhau mà
hoạt động giao tiếp còn có đối tượng cụ thể. Trong quá trình tác động lên đối tượng,
nó làm thay đổi đối tượng, cải biến đối tượng (đối tượng của dạy học là ngôn ngữ).
Để thực hiện được chức năng, mỗi cuộc giao tiếp đều gồm hai loại hoạt
động: hoạt động tạo lập (sản sinh) lời nói còn gọi là hoạt động truyền tin, hoạt động
tiếp nhận (lĩnh hội) lời nói còn gọi là hoạt động nhận tin. Chúng ta có thể hình dung
quá trình sản sinh và tiếp nhận lời nói qua sơ đồ 1.1.
S
S’
Nhiễu
Mã hóa Giải mã Lời nói
D
D’
Kênh
Tạo lập Tiếp nhận
N
N’
Sơ đồ 1.1. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Theo sơ đồ trên, khi có nội dung D xuất hiện trong đầu, người phát tin tìm
cách truyền nó đến người nhận. Nhưng nội dung D lại thuộc lĩnh vực tinh thần
nên để truyền được nội dung D đến cho người nhận, người phát phải tìm cách vật
chất hoá nó. Để vật chất hoá nội dung ấy, người phát có thể sử dụng ngôn ngữ.
Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, quá trình chuyển nội dung D thuộc
lĩnh vực tinh thần sang lời nói thuộc lĩnh vực ngôn ngữ được gọi là quá trình mã
hoá ngôn ngữ. Đây chính là quá trình sản sinh, tạo lập lời nói.
Trong sơ đồ, S - S’ được hiểu là vốn sống, vốn kiến thức, những hiểu biết mà
người phát và người nhận có được ở thời điểm giao tiếp. Những hiểu biết đó đã được
36
tích luỹ qua việc học hỏi trong nhà trường và qua đời sống của bản thân người phát
cũng như người nhận. Vốn sống của con người vô cùng phong phú. Vì vậy, trong một
cuộc giao tiếp, người phát tin không cần và cũng không thể đưa hết vốn sống đó vào
trong một lời nói. Nhưng vốn sống, vốn hiểu biết đa dạng, phong phú đó sẽ tạo thành
cái nền cho người phát trình bày những vấn đề trong nội dung nói, giúp cho người
phát thể hiện vấn đề một cách hàm súc hơn, sâu sắc hơn. Và khi cần thiết, vốn sống
đó vẫn có thể được hiện thực hoá và trở thành nội dung trình bày trong văn bản.
Không có vốn sống, người phát khó có thể tạo ra được lời nói có nội dung giao tiếp
và người nhận cũng khó có thể tiếp nhận đầy đủ nội dung giao tiếp mà người phát
truyền đi. Trong quá trình phát triển KNNN, việc trang bị cho trẻ vốn hiểu biết, vốn
sống trước khi tham gia giao tiếp là việc hết sức cần thiết.
Ngoài vốn sống, trong hoạt động giao tiếp, người phát cần có vốn ngôn ngữ
nhất định. Trong sơ đồ trên, vốn ngôn ngữ của người phát được kí hiệu bằng N và
của người nhận được kí hiệu là N’. Vốn ngôn ngữ là những hiểu biết về ngôn ngữ
nói chung cũng như những KN sử dụng vốn hiểu biết đó vào một tình huống giao
tiếp cụ thể. Theo quan điểm của lí thuyết hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ vừa
trình bày ở trên, các phương tiện đó trong hoạt động hành chức luôn là những yếu tố
mở và có sự biến động. Chúng có thể phát sinh đặc tính mới, tăng cường thêm hoặc
rút bớt giá trị so với bản thân chúng khi đứng trong hệ thống. Như vậy, hiệu quả của
lời nói phụ thuộc rất lớn vào chất lượng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp
của các nhân vật giao tiếp... Trong giao tiếp, vốn sống, vốn hiểu biết được thể hiện
thông qua ngôn ngữ. Vốn ngôn ngữ càng phong phú thì khả năng diễn đạt của người
phát càng tinh tế và hiệu quả giao tiếp càng cao. Hiệu quả của việc giao tiếp sẽ tỉ lệ
thuận với vốn ngôn ngữ của cả người phát lẫn người nhận.
Trong giao tiếp, vốn sống và vốn ngôn ngữ của người phát (S và N) và người
nhận (S’ và N’) thường không trùng nhau, cho nên việc lí giải lời nói của người nhận
cũng sẽ khác với người phát. Việc rút ngắn khoảng cách giữa D (nội dung truyền tin)
và D’ (nội dung nhận tin) càng nhiều bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu vì hiệu quả giao tiếp
được đo bằng mức độ gần nhau giữa D và D’.
Lời nói được tạo ra trong quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ còn bị ảnh
hưởng bởi những yếu tố gọi là nhiễu. Nhiễu là những yếu tố làm ảnh hưởng xấu đến
hiệu quả, đến chất lượng của một cuộc giao tiếp. Mỗi dạng hoạt động giao tiếp có
một loại nhiễu khác biệt. Trong hoạt động giao tiếp trực tiếp - giao tiếp bằng lời nói
37
- thì nhiễu là những tiếng ồn, tiếng động, là tần số dao động của âm thanh. Vì vậy,
để tăng hiệu quả giao tiếp, người phát phải tìm cách khử nhiễu. Điều này cho chúng
ta thấy, trong việc phát triển KNNN, GV cần chú ý khử nhiễu trong diễn tiến của
hoạt động giao tiếp.
Khi nội dung D được người phát truyền đi và người tiếp nhận lí giải, khôi
phục lại được nội dung đó thì khi ấy một chu kì giao tiếp đã hoàn thành. Nếu người
nhận lí giải đầy đủ và đổi vai trở thành người phát thì ta lại có một hoạt động trao
đáp mới. Trong hai loại hoạt động tạo lập và lí giải văn bản, phát triển KN nói thuộc
loại hoạt động thứ nhất, hoạt động tạo lập, sản sinh lời nói; trong khi đó hoạt động
nghe là hoạt động thứ hai, hoạt động tiếp nhận để hiểu lời nói.
c) Vận dụng lí thuyết giao tiếp vào phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp MGHN
Việc phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp
MGHN thực chất là tăng cường năng lực sử dụng ngôn ngữ cho trẻ thông qua các
hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày. Để phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi cần bắt đầu từ việc luyện nghe, luyện phát âm, luyện cách sử dụng
từ ngữ thông qua việc làm giàu vốn từ, luyện cách tạo lập và diễn đạt câu, cách liên
kết câu tạo thành chuỗi lời nói.
Thông qua hoạt động giao tiếp, các em hình thành và phát triển kỹ năng sử
dụng ngôn ngữ nói chung và kỹ năng nghe - nói nói riêng, tạo điều kiện cho các em
tự bộc lộ và thể hiện mình trong cuộc sống. Trong quá trình phát triển KNNN cho
trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi, GV cần phải xác định nội dung giao tiếp, tạo môi trường
giao tiếp, hướng dẫn trẻ sử dụng ngôn ngữ và thao tác giao tiếp đúng. Muốn vậy,
GV cần biết chuyển nội dung phát triển KNNN thành những tình huống giao tiếp
gần gũi, giúp trẻ vận dụng những kinh nghiệm để thực hiện hoạt động giao tiếp. Từ
đó, trẻ sẽ có KN giao tiếp và phát triển được lời nói.
Bên cạnh đó, để phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo lý
thuyết giao tiếp, cần lưu ý những vấn đề sau đây: (i) Bảo đảm thiết bị trợ thính phù
hợp với trẻ khiếm thính và hoạt động tốt; (ii) Tham gia giao tiếp bằng lời nói cùng
với trẻ càng thường xuyên càng tốt; (iii) Giới thiệu vốn từ hay khái niệm mới xuất
hiện trong sinh hoạt hàng ngày; (iv) Cung cấp cho trẻ nguồn kinh nghiệm sống
động, khác biệt, có sự tương phản rõ rệt trong sinh hoạt hàng ngày và mở rộng vốn
từ; (v) Tận dụng mọi cơ hội để đáp lời trẻ một cách phù hợp trong các hoạt động.
38
1.4.4. Mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập
1.4.4.1. Mục tiêu phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Mục tiêu chung của việc phát triển KN nghe - nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6
tuổi là giúp trẻ thực hiện có kết quả các hoạt động lĩnh hội, tiếp nhận thông tin, xử lí
âm thanh tác động đến thính giác để có thể hiểu được thông tin, lí giải, luận giải
được lời nói, đồng thời giúp trẻ sử dụng được lời nói để giao tiếp với mọi người
xung quanh, tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển nhân cách, phát triển kĩ năng
sống, hòa nhập vào cuộc sống xã hội.
Các mục tiêu cụ thể của việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi được xác định dựa trên mục tiêu phát triển ngôn ngữ cho trẻ em
được quy định trong “Chương trình giáo dục mầm non” ban hành theo Thông tư số
01/VBHN-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo [5] và được điều chỉnh cho phù
hợp với đặc điểm phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi.
Trong nghiên cứu này, mục tiêu phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi được xác định cụ thể như sau:
- Phát triển và sử dụng triệt để phần thính lực còn lại để giúp trẻ khiếm
thính có khả năng nghe hiểu các từ chỉ người, sự vật, hiện tượng, đặc điểm, tính
chất, hoạt động; có khả năng nghe hiểu các yêu cầu đơn giản bằng lời nói; có khả
năng lắng nghe, hiểu lời nói trong giao tiếp hằng ngày; có khả năng nghe hiểu nội
dung các câu chuyện, bài thơ đơn giản.
- Có khả năng sử dụng lời nói để bày tỏ nhu cầu, cảm xúc, suy nghĩ của bản
thân một cách rõ ràng, dễ hiểu; thường xuyên sử dụng lời nói trong giao tiếp; biết hỏi
và trả lời các câu hỏi đơn giản bằng lời nói; đọc thơ, kể lại câu chuyện bằng lời nói.
1.4.4.2. Nội dung phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Căn cứ vào nội dung giáo dục KNNN được quy định trong “Chương trình
giáo dục mầm non” [1] và mục tiêu phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
đã xác định, cùng với những đặc điểm giao tiếp, đặc điểm kỹ năng nghe – nói của
trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi, đề tài xác định nội dung phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi bao gồm phát triển các kỹ năng cơ bản sau:
- Nhóm kỹ năng nghe: Nhận diện được 6 âm Ling – âm thanh có dải tần đại
diện cho tiếng nói: /m/; /a/; /u/; /i/; /s/; /x/; nghe hiểu các từ chỉ người, đồ vật, con
vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi; nghe hiểu các từ chỉ đặc
39
điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm; nghe hiểu và thực hiện được từ 1 – 3
yêu cầu; nghe hiểu nội dung câu chuyện, bài thơ phù hợp với độ tuổi.
- Nhóm kỹ năng nói: Phát âm các tiếng, từ, câu để người nghe có thể hiểu được;
sử dụng lời nói với các từ thông dụng chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động,
hiện tượng quen thuộc, gần gũi; sử dụng lời nói với các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công
dụng và các từ biểu cảm phù hợp với ngữ cảnh; thể hiện nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết
của bản thân bằng lời nói; kể lại những sự việc đơn giản; kể lại câu chuyện đơn giản đã
được nghe nhiều lần.
Tùy vào mức độ phát triển kỹ năng nghe – nói của mỗi trẻ khiếm thính, nội
dung phát triển kỹ năng nghe – nói sẽ được xác định phù hợp. Nội dung của từng kỹ
năng nghe - nói đều được phát triển dần dần theo thời gian, không một kỹ năng nào
phát triển độc lập. Sự tiến bộ của một kỹ năng sẽ kéo theo sự tiến bộ của các kỹ
năng khác.
1.4.4.3. Phương pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
a) Phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo phương pháp tự nhiên
Học tự nhiên được xem như là điều gì đó mà trẻ không hề chủ động chú ý
đến [106]. Phương pháp tự nhiên là phương pháp giúp trẻ học ngôn ngữ thông qua
các tình huống thực. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ không phải là dạy ngôn ngữ
mà là tổ chức các hoạt động và tạo môi trường giao tiếp để thông qua đó trẻ học
ngôn ngữ [20].
Phương pháp tự nhiên dựa trên quan điểm cho rằng ngôn ngữ được hình
thành thông qua giao tiếp tự nhiên, trẻ học ngôn ngữ thông qua sự trải nghiệm các
tình huống thực. Mục đích của phát triển ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính là làm cho
trẻ có khả năng sử dụng ngôn ngữ có hiệu quả trong tất cả các môi trường khác
nhau [106][20].
Theo đó, việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo phương
pháp tự nhiên sẽ được thực hiện thông qua các tình huống thực được tổ chức một
cách cẩn thận để thúc đẩy các kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
[20][94][106].
Trong phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo phương pháp tự
nhiên, những thông tin về sự phát triển ngôn ngữ bình thường là cơ sở cho việc xác
định mục tiêu, nội dung, phương pháp phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm
thính [69]. Chương trình ngôn ngữ phải được kết hợp với tất cả hoạt động nhằm
40
cung cấp những cơ hội tự nhiên để sử dụng ngôn ngữ. Sự phát triển kỹ năng nghe -
nói cần được thực hiện bằng việc sử dụng những kinh nghiệm, nhu cầu của trẻ như
là phương tiện, điều kiện để hiểu và giao tiếp. Để hỗ trợ cho việc phát triển kỹ năng
nghe - nói, giáo viên cần nhận thấy được những từ và cấu trúc cần thiết trẻ cần để
giao tiếp và nhấn mạnh bằng cách lặp đi lặp lại có ý nghĩa các từ và cấu trúc cần
thiết đó. Phương pháp tự nhiên cũng khuyến khích giáo viên sử dụng biện pháp phát
triển ngôn ngữ mà người lớn thường sử dụng khi phát triển ngôn ngữ cho trẻ nghe
bình thường như sự mở rộng lời nói của trẻ để duy trì cuộc nói chuyện, đưa ra
những thông tin mới và chờ đợi sự phản hồi của trẻ [20].
Khi giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng nghe – nói theo phương pháp tự
nhiên, cần lưu ý đến các vấn đề sau: Bảo đảm thiết bị trợ thính phù hợp; những
thông tin về sự phát triển ngôn ngữ bình thường là cơ sở cho việc xác định mục tiêu,
nội dung, phương pháp phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm thính; tham gia
giao tiếp bằng lời nói cùng với trẻ càng thường xuyên càng tốt; sự giao tiếp giữa trẻ
với mọi người cần có một không khí thoải mái, trẻ cảm nhận thấy sự an toàn; giới
thiệu vốn từ hay khái niệm mới xuất hiện trong sinh hoạt hàng ngày; dạy từ phải
gắn với nghĩa cụ thể và không tách rời khỏi ngữ cảnh tự nhiên; cung cấp cho trẻ
nguồn kinh nghiệm sống động, khác biệt, có sự tương phản rõ rệt trong sinh hoạt
hàng ngày và mở rộng vốn từ [106].
Bên cạnh đó, để giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng nghe – nói theo
phương pháp tự nhiên, giáo viên, cha mẹ/người chăm sóc trẻ phải có ý thức tạo ra
môi trường phù hợp cho trẻ và sử dụng các thủ thuật tập trung nhiều vào các kỹ
năng nghe - nói để bù đắp cho những khiếm khuyết về thính giác.
Tập trung quá nhiều vào việc phát âm có thể dẫn đến việc thực hành gây trở ngại
cho mục tiêu giao tiếp lưu loát lâu dài khi sử dụng ngôn ngữ nói. Mục đích của việc giao
tiếp bằng lời nói là chuyển tải thông tin. Mục đích này nên được để tâm đến. Khi trẻ
muốn nói điều gì đó, trẻ nên được phép nói ra mà không lo sợ rằng cố gắng nói điều gì
đó lại trở thành bài học dạy phát âm và không lo sợ phản ứng của người lớn cho thấy họ
không hài lòng. Chỉ khi có sự trở ngại trong giao tiếp - đơn giản ta không thể hiểu trẻ -
thì người lớn nên can thiệp và chỉ để giúp trẻ thể hiện những gì trẻ muốn nói [69].
Tại lớp mẫu giáo hòa nhập, để giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng nghe – nói
theo phương pháp tự nhiên, giáo viên có thể sử dụng phối hợp và linh hoạt các nhóm
phương pháp giáo dục cho trẻ mẫu giáo:
41
- Nhóm phương pháp dùng lời nói: GV sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nói
(đàm thoại, kể chuyện, trò chuyện, giải thích, thảo luận...) nhằm truyền đạt và giúp trẻ
thu nhận thông tin, kích thích trẻ tập trung lắng nghe, tích cực suy nghĩ, chia sẻ ý tưởng,
bộc lộ những cảm xúc, gợi nhớ những hình ảnh và sự kiện bằng lời nói. Khi sử dụng
phương pháp này với trẻ khiếm thính, GV nên nói câu ngắn gọn, đơn giản, nhấn mạnh
vào ý trọng tâm. Minh hoạ trực quan cho những ý chính, nội dung trọng tâm và có thể
kết hợp với cử chỉ điệu bộ trong khi nói. Khi đưa ra lời chỉ dẫn, giáo viên có thể nói
chung với cả lớp và nhắc lại điểm then chốt của lời chỉ dẫn. Nếu phát âm của trẻ không
rõ ràng, cần kiên trì dành thời gian nghe xem trẻ đang muốn nói gì, giúp trẻ sử dụng
đúng từ để nói và luôn khen ngợi cố gắng của trẻ.
- Nhóm phương pháp thực hành, trải nghiệm: Trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi khi được
thực hành trải nghiệm trong hoạt động thực tiễn sẽ tiếp thu được rất nhiều tri thức từ thế
giới xung quanh, mở rộng vốn từ, phát triển kỹ năng nghe - nói. Trong khi cho trẻ thực
hành, trài nghiệm, giáo viên cần cung cấp mẫu chuẩn của KNNN, cho trẻ bắt chước, tập
luyện lặp đi lặp lại các kỹ năng cho đến khi thực hiện đúng. Trong quá trình luyện tập,
cần có kiểm tra, chỉnh sửa giúp trẻ khiếm thính nhận biết tính chuẩn mực trong các mẫu
để trẻ ghi nhớ và làm theo. GV cũng có thể sử dụng các tình huống có sự tương phản,
mâu thuẫn… nhằm kích thích trẻ tìm tòi, suy nghĩ dựa trên vốn kinh nghiệm, sử dụng lời
nói để giải quyết vấn đề đặt ra. Thêm vào đó, vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ em
lứa tuổi mầm non do đó GV nên tăng cường sử dụng PP dạy học bằng trò chơi để
phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính. Thông qua trò chơi, trẻ khiếm
thính sẽ học các kỹ năng nghe – nói một cách tích cực, chủ động. Để phát huy tính
tích cực, độc lập, sáng tạo của trẻ khiếm thính, giáo viên phải là người cộng tác,
người làm mẫu, cổ vũ, khuyến khích trẻ chơi, theo dõi, quan sát trẻ chơi và giúp đỡ
trẻ khi cần thiết, đồng thời giáo viên phải phân nhóm chơi một cách hợp lí, điều
phối các mối quan hệ giữa các trẻ trong lớp để giúp trẻ thiết lập các mối quan hệ,
phát triển kỹ năng nghe - nói, phối hợp cùng nhau trong quá trình chơi.
- Nhóm phương pháp trực quan - minh họa: GV cần cho trẻ khiếm thính quan sát,
tiếp xúc, giao tiếp với các đối tượng, phương tiện (vật thật, đồ chơi, tranh ảnh); hành
động mẫu; hình ảnh tự nhiên, mô hình, sơ đồ và phương tiện nghe nhìn (phim vô tuyến,
đài, máy ghi âm, điện thoại, vi tính) thông qua sử dụng các giác quan kết hợp với làm
mẫu và chỉ dẫn bằng lời nói nhằm tăng cường vốn hiểu biết, phát triển tư duy, ngôn ngữ
và các KNNN cho trẻ.
42
- Nhóm phương pháp giáo dục bằng tình cảm và khích lệ: Phương pháp này nếu
sử dụng linh hoạt, đúng lúc, đúng thời điểm sẽ có ý nghĩa rất lớn trong quá trình GD nói
chung, quá trình phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính nói riêng. GV cần sử dụng cử chỉ
điệu bộ kết hợp với lời nói thích hợp (hoặc vật chất) để khuyến khích và ủng hộ trẻ hoạt
động nhằm khơi gợi niềm vui, tạo niềm tin, cổ vũ sự cố gắng của trẻ trong quá trình hoạt
động phát triển KNNN.
- Nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá: Thông qua quan sát, trao đổi và ghi
chép các hành vi của trẻ trong các tình huống, GV đánh giá được mức độ thực hiện các
KNNN của trẻ khiếm thính. Từ đó, hướng dẫn trẻ đưa ra nhận xét, tự nhận xét trong từng
tình huống hoặc hoàn cảnh GT cụ thể làm kinh nghiệm cho các lần sau. Bên cạnh đó,
GV dùng những tấm gương của cá nhân, tập thể hoặc bằng hành động của chính bản
thân mình để kích thích trẻ noi theo nhằm đạt được mục đích GD đã đề ra. Đây là PPGD
quan trọng nhằm GD ý thức cho trẻ, nó làm cho các KNNN trở nên trực quan hơn, cụ thể
hơn và có sức thuyết phục hơn đối với trẻ.
b) Phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo phương pháp cấu trúc
Nếu trong phương pháp tự nhiên, việc phát triển kỹ năng nghe – nói được
hình thành thông qua giao tiếp tự nhiên thì ngược lại, phương pháp cấu trúc được
xác định là việc thực hành mang tính định hướng (goal-oriented), tính giáo dục và
trị liệu được các nhà chuyên môn thực hiện, ứng dụng một cách có chủ ý
[56][80][89]. Đây là phương pháp liên quan đến học hình thức, ngữ pháp hoặc
phương pháp phát triển ngôn ngữ theo hướng phân tích [20].
Cơ sở của phương pháp này là trẻ khiếm thính lĩnh hội ngôn ngữ qua việc bắt
chước các mẫu có sẵn, trẻ không chỉ học các từ mới mà cần học các cấu trúc ngữ
pháp thông qua sự hướng dẫn. Mặt khác, sự lặp lại những cấu trúc đặc trưng của
ngôn ngữ sẽ làm tăng tốc độ học và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ. Những sự
hướng dẫn từ bên ngoài có thể được dùng như là sự hướng dẫn và sửa lỗi ngôn ngữ
cho trẻ. Các mẫu ngôn ngữ cần được đưa ra hợp lý để trẻ có dịp nghe, nhìn, tiếp
nhận và cuối cùng sử dụng được những mẫu đó. Những mẫu ngôn ngữ đã lĩnh hội
phải được áp dụng trong các hoạt động mới lạ để chắc chắn trẻ sử dụng được trong
mọi tình huống [20].
Việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo phương pháp
cấu trúc đòi hỏi sự thể hiện rõ ràng của một chuỗi hoạt động được tổ chức một cách
hệ thống và tiến triển, nghĩa là dạy theo cách thức từng bước một và thường được
43
thực hiện trong môi trường giáo dục (ở trung tâm dịch vụ hay trường học) do một
hay nhiều nhà chuyên môn giao tiếp với một hay nhiều trẻ [80].
Phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo phương pháp cấu trúc có
thể thành công chỉ khi trẻ đã có đủ hiểu biết và sử dụng ngôn ngữ nói thông qua việc có
nhiều cơ hội học tự nhiên. Phương pháp cấu trúc thường được thực hiện khi sự khiếm
khuyết về kỹ năng nghe - nói nên được nhận dạng và khắc phục trước khi việc lược bỏ
và nói không rõ tiếng được trẻ thực hành ngoài ý thức và trở thành thói quen.
Để phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo phương pháp cấu
trúc, các nhà chuyên môn cần lưu ý các vấn đề sau: Phát triển kỹ năng nghe – nói
theo phương pháp cấu trúc chỉ khi trẻ đã phát triển “dự định giao tiếp bằng lời” -
động cơ giao tiếp bằng ngôn ngữ nói; bắt đầu việc phát triển kỹ năng nghe – nói
theo phương pháp cấu trúc trên cơ sở của phương pháp tự nhiên; chọn mục tiêu tập
luyện dựa trên cơ sở của việc đánh giá; bảo đảm việc luôn sử dụng thích hợp sức
nghe còn lại và/hay những hình thức giác quan khác. chọn hình thức giác quan phù
hợp nhất để tập luyện; bảo đảm từng trẻ có kinh nghiệm thành công khi bắt đầu và
khi kết thúc tất cả các tiết dạy; thực hiện các kỹ năng nói một cách thường xuyên
theo những chu kỳ ngắn. Khái quát hóa ngay những kiểu âm thanh tiếng nói đã có
sang những tình huống rộng lớn hơn; sử dụng kiểu âm thanh tiếng nói mới với các
từ chức năng cũng như với các từ nội dung. Phát triển việc sử dụng tất cả các kiểu
âm thanh tiếng nói mới khi giao tiếp bằng lời nói; ngôn ngữ nói theo sát mối quan
tâm thích thú và nhu cầu của từng trẻ; sử dụng tiến trình tập luyện phản ánh những
tình huống thực tế vì những tình huống này luôn sẵn có để tiếp tục phát triển; nhận
dạng và giải quyết khó khăn của trẻ khiếm thính khi phát triển kỹ năng nghe – nói;
phối hợp việc giao tiếp bằng lời nói vào trong tất cả các hoạt động học tập trên lớp;
làm cho các bài học nói trở nên vui vẻ và có mục đích.
Khi lựa chọn phương pháp tự nhiên và phương pháp cấu trúc trong việc phát
triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính có thể cân nhắc đến các yếu tố sau:
- Tuổi phát hiện: Phần lớn trẻ nhỏ bắt đầu sử dụng thiết bị trợ thính trong
suốt hay sau khi được hai tuổi cũng có thể có những thuận lợi từ việc học tự nhiên
trong các tình huống sinh hoạt hằng ngày, đặc biệt những tình huống diễn ra ở nhà.
Các nghiên cứu cho thấy, rất ít trẻ hơn ba tuổi có những thuận lợi nhiều từ việc phát
triển kỹ năng nghe - nói theo phương pháp cấu trúc hơn là phương pháp tự nhiên.
Ngay cả khi trên ba tuổi, phần lớn trẻ nhỏ tiếp tục đón nhận nguồn âm thanh tiếng
44
nói phong phú từ những sinh hoạt thường lệ ở nhà [106]. Kinh nghiệm có được từ
thực tế cuộc sống trong phạm vi gia đình thường chứa đựng cơ hội phong phú cho
trẻ ở mọi độ tuổi phát triển kỹ năng nghe - nói [85]. Trẻ lớn hơn càng có cơ hội bắt
đầu tiếp nhận ngôn ngữ nói muộn hơn, càng ít có cơ hội cho việc học tự nhiên đủ để
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tự phát. Khi đó, những trẻ này cần có những
chương trình phát triển kỹ năng nghe – nói theo phương pháp cấu trúc để giúp trẻ
phát triển kỹ năng nghe – nói [53].
- Khả năng nghe và các điều kiện hỗ trợ việc nghe: Nếu việc chẩn đoán được
thực hiện đúng lúc khi trẻ còn nhỏ, việc sử dụng thiết bị trợ thính sẽ giúp trẻ tiếp
nhận phần lớn âm thanh tiếng nói [51]. Trẻ có thể phát triển ngôn ngữ nói theo cách
thức phát triển gần như bình thường. Trẻ có thể không cần sự tập luyện đặc biệt để
có được kết quả này. Tuy nhiên, ích lợi của những kinh nghiệm có được từ việc học
tự nhiên khi còn nhỏ không nhất thiết hạn định cho những trẻ có mức độ khiếm
thính vừa và nặng. Trong những năm đầu tiên của cuộc đời, trẻ khiếm thính sâu
cũng là những đối tượng tốt có cơ hội học tự nhiên nếu trẻ được trang bị thiết bị trợ
thính phù hợp, giúp trẻ nghe được phần lớn âm thanh tiếng nói. Ngược lại, nếu thiết
bị trợ thính không giúp trẻ nghe được phần lớn âm thanh tiếng nói thì phương pháp
cấu trúc cần được áp dụng để giúp trẻ phát triển kỹ năng nghe – nói [51].
- Mức độ phát triển kỹ năng ngôn ngữ và nhận thức: Việc xây dựng các
chương trình phát triển kỹ năng nghe - nói theo phương pháp cấu trúc không nên
bắt đầu với trẻ chưa có kỹ năng ngôn ngữ hữu hiệu và chưa có kinh nghiệm trường
lớp mà tốt hơn là với những trẻ đã hình thành việc giao tiếp bằng lời nói và có thể
sẵn sàng hợp tác với giáo viên [85]. Cả hai yêu cầu này chỉ có thể được đáp ứng khi
việc phát triển lời nói và nhận thức của trẻ ở mức độ đủ cao để bất kể việc phát triển
kỹ năng nghe – nói theo phương pháp cấu trúc có thể được “kết nối” với những khái
niệm về thế giới xung quanh. Từ thời điểm này, cả hai phương pháp cấu trúc và tự
nhiên có thể được sử dụng một cách hệ thống để khơi gợi, khái quát hóa và tự động
hóa tất cả các khía cạnh của ngôn ngữ nói ở từng giai đoạn phát triển.
Các nghiên cứu cho thấy, nhu cầu của một số trẻ được đáp ứng tốt nhất qua
các chương trình tự nhiên và một số trẻ khác qua những chương trình có tính chính
quy, bài bản (phương pháp cấu trúc). Không có một phương pháp nào có thể đáp
ứng mọi nhu cầu của tất cả các em trong mọi giai đoạn phát triển. Trẻ nhỏ và những
trẻ có độ mất thính lực nhẹ hoặc vừa, nhìn chung có nhiều thuận lợi hơn với các thủ
thuật mang tính tự nhiên; thông qua việc học tự nhiên phần lớn các em có thể có
45
những tiến triển về ngôn ngữ phù hợp với thời gian. Với những trẻ lớn hơn và độ
mất thính lực nặng hơn thường cần có nhiều chương trình theo phương pháp cấu
trúc. Trẻ có thể cần thời gian lâu dài hơn so với trẻ nghe được bình thường để tiếp
nhận ngôn ngữ. Phần lớn trẻ nhỏ có độ mất thính lực nhiều hơn mức độ vừa cần có
sự kết hợp của cả hai hình thức. Phổ biến là việc trẻ cần có sự hỗ trợ của phương
pháp cấu trúc để tiếp nhận những kỹ năng cần thiết mà trẻ nói khác đi sẽ không học
được hoặc mất nhiều thời gian hơn mức cần thiết để có thể thành thạo.
Có ý kiến đề nghị rằng trẻ nhỏ (chắc chắn là những trẻ từ không đến bốn tuổi
và có lẽ một số trẻ từ không đến sáu tuổi) nên bắt đầu học bằng hình thức tự nhiên;
hình thức giảng dạy lời nói và ngôn ngữ nói theo phương pháp cấu trúc nên phản
ánh một cách rộng rãi quy trình tiếp nhận bình thường (theo thứ bậc của các kỹ
năng được ghi nhận từ trẻ nghe được bình thường) và tất cả các kỹ năng, bất kể phát
triển tự nhiên hay cấu trúc nên được đặt trong những tình huống giao tiếp thực tế
khi những kỹ năng này được trẻ tiếp nhận [92]. Cũng có đề nghị rằng phương pháp
cấu trúc, nếu phù hợp sẽ cho phép chúng ta giảm thiểu thời gian cần có để đạt được
những kết quả nổi bật trong việc phát triển kỹ năng nghe - nói và để nâng cao mức
độ thành thạo cho trẻ khiếm thính [56].
Nhìn chung, cả phương pháp tự nhiên và phương pháp cấu trúc phải được hỗ
trợ bằng việc sử dụng thường xuyên thiết bị trợ thính trong một môi trường mà lời
nói là hình thức giao tiếp chính [56][94][106]. Để giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ
năng nghe - nói, người lớn phải quan tâm đến việc cung cấp tình huống được tổ
chức một cách cẩn thận để thúc đẩy việc tiếp nhận các kỹ năng nghe - nói. Điều này
có nghĩa là họ phải lên kế hoạch hoạt động và trên hết là việc giao tiếp để đạt được
những mục tiêu nhất định đã được lựa chọn. Những hành vi được chú ý đến trong
các hoạt động này phải cung cấp nền tảng cho việc phát triển sau này của trẻ và
củng cố những kỹ năng đã có. Người lớn phải theo sát tiến bộ của trẻ và đặt nền
tảng cho những hoạt động tiếp theo dựa trên những thành công của trẻ. Bất kể trẻ
được giúp đỡ để phát triển kỹ năng nghe - nói chủ yếu bằng phương pháp tự nhiên
hay phương pháp cấu trúc, các kỹ năng hướng dẫn nên được cung cấp cho phụ
huynh và những người chăm sóc trẻ.
1.4.4.4. Hình thức phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Dựa trên đặc điểm trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi và điều kiện tổ chức giáo dục ở
lớp mẫu giáo hòa nhập, việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6
46
tuổi có thể được thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản: Phát triển kỹ năng nghe
– nói cho trẻ khiếm thính trong các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở
lớp mẫu giáo và phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính trong hoạt động
cá nhân.
a) Phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi trong các
hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở lớp mẫu giáo
Việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi có thể được
thực hiện thông qua các hoạt động ở lớp mẫu giáo như: Đọc sách, thơ, truyện; kể
chuyện; trò chơi; giao tiếp hằng ngày, hoạt động trải nghiệm…
Với hoạt động đọc sách, thơ, truyện, kể chuyện, trẻ khiếm thính có cơ hội để lắng
nghe; ghi nhớ những chi tiết của câu chuyện, bài thơ; trả lời câu hỏi, trao đổi và đặt câu
hỏi xoay quanh nội dung câu chuyện, bài thơ và đặc biệt là trẻ được làm quen với những
từ mới và những câu chuyện hấp dẫn [20].
Do khả năng ngôn ngữ của trẻ khiếm thính có những hạn chế nhất định, giáo
viên nên lựa chọn những câu chuyện, bài thơ: (i) có nội dung đơn giản kể về những
điều gần gũi xung quanh trẻ, những thứ quen thuộc; (ii) có tranh ảnh minh họa; (iii)
có nhiều yếu tố bất ngờ, ngộ nghĩnh để giúp trẻ hứng thú hơn; (iv) có những lời kể,
câu nói, đoạn thơ, câu thơ được lặp đi lặp lại để giúp trẻ khiếm thính ghi nhớ một
cách dễ dàng.
Với hoạt động tổ chức trò chơi nhằm phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính: Các trò chơi phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính có thể
được tổ chức với cả lớp, tại nơi mà tất cả trẻ có thể tham gia, cũng có thể tổ chức như
một hoạt động khởi động, khi luyện tập kỹ năng nghe – nói hoặc trong phần củng cố
cuối hoạt động. Cũng có thể tổ chức trò chơi trong hoạt động ở các góc, hoạt động
vui chơi ngoài trời… Các trò chơi nên liên quan trực tiếp đến hành động để trẻ khiếm
thính dễ nhớ và hiểu từ. Giáo viên cần giải thích và minh họa rõ ràng trò chơi, có thể
chơi thử 2 – 3 lần để trẻ khiếm thính hiểu và có thể tham gia chơi [20].
Với hoạt động giao tiếp trong sinh hoạt hằng ngày, các tình huống hằng ngày
rất quan trọng trong phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính vì các hoạt động
này diễn ra nhiều lần trong ngày và trẻ tương tác tự nhiên với cô giáo và các bạn.
Để giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng nghe – nói trong các hoạt động
sinh hoạt hằng ngày, giáo viên cần tạo ra nhiều cơ hội để trẻ lắng nghe, học từ mới,
nói và đặt câu hỏi. Đồng thời cần giúp trẻ khiếm thính tăng sự tự tin khi giao tiếp
47
bằng lời nói. Thêm vào đó, giáo viên cần quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, chú ý
sửa lỗi phát âm và cách diễn đạt câu nói của trẻ một cách tự nhiên, lặp đi lặp lại các
từ quan trọng và trong bối cảnh cụ thể.
Với hoạt động trải nghiệm, thông qua các hoạt động trải nghiệm, trẻ không
những thu được vốn kiến thức về các sự vật, hiện tượng xung quanh mà còn được
mở rộng và tích cực hóa vốn từ, phát triển kỹ năng nghe – nói. Để giúp trẻ khiếm
thính phát triển kỹ năng nghe – nói trong các hoạt động trải nghiệm, giáo viên cần
xác định các nhiệm vụ phát triển kỹ năng nghe – nói được thể hiện qua hoạt động
trải nghiệm; tạo điều kiện thuận lợi để trẻ khiếm thính có thể tham gia hoạt động
nhóm; hướng dẫn trẻ khiếm thính quan sát và tích cực giao tiếp trong hoạt động trải
nghiệm để phát triển kỹ năng nghe – nói; tạo ra các tình huống có vấn đề để trẻ có
cơ hội được giao lưu, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong cùng nhóm chơi, giữa các
nhóm chơi.
b) Phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3- 6 tuổi trong hoạt
động cá nhân
Ngoài các hoạt động chung trong lớp mẫu giáo, trẻ khiếm thính còn có các
hoạt động cá nhân. Đây là dạng hoạt động hỗ trợ đặc biệt nhằm giúp trẻ khiếm thính
phát triển ngôn ngữ và giao tiếp trong đó có kỹ năng nghe – nói.
Hoạt động cá nhân là dạng hoạt động hỗ trợ đặc biệt cho trẻ khiếm thính,
được diễn ra giữa một giáo viên và một trẻ, kéo dài khoảng 20 – 30 phút nhằm hỗ
trợ cho trẻ về các mặt ngôn ngữ, giao tiếp, nhận thức và các kỹ năng hoạt động
trong lớp mẫu giáo [20].
Để phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính, hoạt động cá nhân phải
được thực hiện trong một điều kiện môi trường yên tĩnh, đảm bảo thiết bị trợ thính
hoạt động tốt với mục đích chính là tận dụng sức nghe còn lại giúp trẻ phát triển kỹ
năng nghe – nói.
Trong hoạt động cá nhân, giáo viên có thể tổ chức nhiều hoạt động để giúp trẻ
luyện tập, phát triển kỹ năng nghe – nói như: Tổ chức các trò chơi để luyện tập phát triển
kỹ năng nghe cho trẻ khiếm thính; Tổ chức các hoạt động luyện thở, luyện giộng, luyện
vận động của cơ quan phát âm để giúp trẻ khiếm thính điều chỉnh luồng hơi, giọng để có
thể phát âm chính xác các âm, tiếng, từ, có tốc độ và nhịp điệu lời nói bình thường; Tổ
chức các hoạt động giao tiếp, trò chuyện, các trò chơi để giúp trẻ khiếm thính phát triển
kỹ năng nghe – nói; Tổ chức các hoạt động dạy và sửa tật phát âm cho trẻ khiếm thính…
48
Để tổ chức hoạt động cá nhân nhằm phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính, giáo viên cần phân tích mức độ kỹ năng nghe – nói hiện tại của trẻ từ
đó xác định mục tiêu phát triển kỹ năng nghe – nói phù hợp; lựa chọn nội dung,
hình thức hoạt động trong hoạt động cá nhân; dự kiến các phương tiện cần thiết để
tổ chức hoạt động.
Trong những năm gần đây, chương trình trị liệu nghe – nói của Quỹ toàn cầu
dành cho trẻ khiếm thính là một chương trình được thiết kế một cách bài bản, có hệ
thống và đang được áp dụng ngày một rộng rãi ở Việt Nam. Chương trình này được
coi như chương trình khung một cách hệ thống để thiết lập mục tiêu, đánh giá trẻ
khiếm thính khi tham gia vào chương trình, giúp lập kế hoạch bài học trị liệu cho trẻ
khiếm thính để từ đó phát triển thành các hoạt động, bài tập cụ thể để thực hiện trên
trẻ. Nhờ đó, có thể theo dõi được sự tiến bộ của trẻ.
Chương trình được thiết kế theo cấu trúc bốn năm học lắng nghe với các mức
độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Từ năm học lắng nghe thứ nhất đến
năm thứ tư, trẻ đều được trị liệu trên cả năm lĩnh vực: thính giác, lời nói, ngôn ngữ,
khả năng nhận thức và khả năng đọc – viết. Yếu tố về thính giác được đưa lên hàng
đầu bởi đó là cơ sở để trẻ học ngôn ngữ, học nói và giao tiếp, làm tiền đề cho việc
học đọc, học viết sau này trong trường phổ thông của trẻ. Trong mỗi lĩnh vực lại có
các tiểu mục nhỏ và được cụ thể hóa thành các mục tiêu tương ứng sao cho phù hợp
với tuổi nghe của trẻ cũng như đảm bảo được nội dung chương trình. Đặc biệt, mặc
dù mỗi lĩnh vực được cụ thể hóa thành các mục tiêu nhỏ khác nhau, nhưng trong
cùng năm tuổi nghe, các lĩnh vực vẫn có sự liên kết chặt chẽ với nhau, mục tiêu này
liên quan đến mục tiêu khác để mang đến hiệu quả tốt nhất trong quá trình can thiệp
cho trẻ. Không chỉ thế, chương trình này còn có sự xuyên suốt từ năm thứ nhất đến
năm thứ tư, các mục tiêu của từng lĩnh vực qua từng năm được nâng dần độ khó, độ
phức tạp cả về thính giác, ngôn ngữ lời nói cũng như nhận thức. Với tính hệ thống
và thống nhất như vậy, giáo viên có thể sử dụng chương trình này trong quá trình
thiết kế mục tiêu, xây dựng nội dung, hình thức hoạt động phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính trong hoạt động cá nhân.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em chịu tác động của nhiều yếu tố: về sinh lý
và sự hoàn thiện bộ máy phát âm, khả năng nhận thức của trẻ, các yếu tố xã hội
49
(trình độ văn hoá của bố mẹ, trình độ ngôn ngữ của những người xung quanh, sự
tiếp xúc của trẻ với môi trường, với các phương tiện thông tin đại chúng như ti vi,
tranh ảnh...), hoặc trẻ sử dụng nhiều ngôn ngữ...
Đối với trẻ khiếm thính, ngoài các yếu tố chung ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn
ngữ của trẻ em ở trên, sự phát triển kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính còn chịu ảnh
hưởng của các yếu tố khác có liên quan đến khuyết tật của trẻ. Tựu chung lại, sự phát
triển kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:
1.5.1. Các yếu tố có liên quan đến khuyết tật của trẻ
- Mức độ suy giảm thính lực: Sự phát triển kỹ năng nghe - nói dựa trên tiền
đề là khả năng nghe, do vậy khi trẻ có sự suy giảm về khả năng nghe thì sự phát
triển ngôn ngữ bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, mức độ suy giảm khả năng nghe ở mỗi trẻ
là khác nhau. Thông thường thì các mức độ suy giảm thính lực có ảnh hưởng ít
nhiều đến khả năng nghe và sự phát triển ngôn ngữ nói của trẻ, khiếm thính càng
nặng thì càng ảnh hưởng tới sự phát triển ngôn ngữ. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
rằng hiếm có trẻ em nào bị khiếm thính hoàn toàn ngay từ khi mới sinh, hầu hết trẻ
khiếm thính đều còn lại khả năng nghe nhất định (Barry McComick, 1996) [81]. Do
đó tận dụng tối đa sức nghe còn lại là yếu tố tiên quyết để phát triển kỹ năng nghe -
nói cho trẻ.
- Độ tuổi suy giảm thính lực: Một yếu tố ảnh hưởng đến mức độ phát triển kỹ
năng nghe – nói của trẻ khiếm thính là độ tuổi của trẻ khi suy giảm thính lực. Sự suy
giảm thính lực càng sớm càng để lại hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển sau này,
đặc biệt là sự thiếu hụt trong các khía cạnh của kỹ năng nghe - nói [87]. De Quiros
(1980) đã mô tả ba giai đoạn quan trọng về độ tuổi suy giảm thính lực. Trẻ bị suy
giảm thính lực trong 2 năm đầu đời được coi là khiếm thính trước. Nếu bị khiếm
thính mức độ sâu trước 2 tuổi và can thiệp chậm trễ, có thể dẫn đến mất kỹ năng nghe
- nói. Suy giảm thính lực xảy ra ở độ tuổi từ 2 đến 5 khả năng nói có thể bị rối loạn
nghiêm trọng trừ khi được cung cấp các phương tiện trợ thính thích hợp và can thiệp
phục hồi chức năng. Nếu trẻ bị suy giảm thính lực sau 5 tuổi thì kỹ năng nghe - nói có
thể xấu đi nếu không có sự hỗ trợ thích hợp của thiết bị trợ thính [81].
- Khả năng nhận thức: Khả năng nhận thức cũng là một trong những yếu tố
ảnh hưởng đến sự phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính. Các đặc điểm
về tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng… của mỗi cá nhân trẻ khiếm thính sẽ chi
phối khả năng học tập, rèn luyện để phát triển kỹ năng nghe – nói.
50
- Hứng thú và nhu cầu nghe – nói: Yếu tố có tác dụng kích thích trẻ khiếm
thính rèn luyện để phát triển KNNN là hứng thú và nhu cầu được nói, được giao
tiếp bằng ngôn ngữ nói của trẻ với mọi người xung quanh. Nếu người lớn sử dụng
các cách thức, biện pháp hỗ trợ phù hợp kích thích hứng thú và nhu cầu nghe – nói
của trẻ sẽ giúp trẻ mở rộng vốn từ, luyện cách phát âm, cách sử dụng câu đầy đủ,
đúng ngữ pháp và dễ dàng hình thành các KNNN cho trẻ khiếm thính.
1.5.2. Năng lực của giáo viên
Giáo viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong lớp học: vừa là người thiết kế
vừa là người tổ chức thực hiện vừa là người đánh giá các hoạt động của trẻ trong
lớp mình. Năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm và kỹ năng giao tiếp của giáo
viên là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của quá trình phát
triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
Chỉ khi giáo viên có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc phát triển
KNNN cho trẻ khiếm thính, xác định được điểm mạnh, điểm yếu về khả năng ngôn
ngữ và mức độ phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ thì mới thiết kế và tổ chức
được các hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói phù hợp và đạt được mục tiêu đề
ra. Giáo viên cũng cần phải có tính kiên trì, nghiêm ngặt trong quá trình luyện tập
đồng thời vận dụng những phương pháp và kĩ thuật đặc thù trong phát triển KNNN
để gây hứng thú, khuyến khích trẻ tham gia, phát huy tính tích cực, chủ động của trẻ
để phát triển KNNN cho trẻ. Bên cạnh đó, chính kỹ năng nghe – nói của giáo viên
là mô hình chuẩn để trẻ học theo, trẻ thường bắt chước hành động, âm thanh, cử chỉ,
lời nói của giáo viên vận dụng vào quá trình giao tiếp.
Thêm vào đó, để phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính một cách có hiệu cần
có sự thống nhất quan điểm và phối hợp hành động giữa gia đình và nhà trường. Vì
vậy GV cần nhận thức được vai trò hỗ trợ từ phía gia đình trẻ, phối hợp hiệu quả
với gia đình trẻ để tăng cường luyện tập các KNNN cho trẻ khiếm thính trong môi
trường gia đình và cộng đồng.
1.5.3. Sự hỗ trợ thính học cho trẻ khiếm thính
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hiếm có trẻ em nào bị điếc hoàn toàn ngay
từ khi mới sinh, hầu hết trẻ khiếm thính đều còn lại khả năng nghe nhất định. Do đó
tận dụng tối đa sức nghe còn lại là yếu tố tiên quyết để phát triển ngôn ngữ nói cho
trẻ. Ngay khi trẻ được chẩn đoán là bị điếc, một điều quan trọng là phải thực hiện
các biện pháp hỗ trợ thính học thích hợp (bao gồm: việc sử dụng thiết bị trợ thính;
tạo môi trường nghe thích hợp cho trẻ khiếm thính) [81].
51
Nếu không được trang bị các thiết bị trợ thính (máy trợ thính, điện cực ốc
tai), trẻ khiếm thính sẽ khó hoặc không thể tiếp nhận được âm thanh. Các thiết bị trợ
thính phải được sử dụng sớm, phù hợp với trẻ, và cần được duy trì theo chỉ định của
nhà thính học. Có những tương quan giữa việc phát triển ngôn ngữ lời nói và hiệu
quả sử dụng các thiết bị trợ thính.
Bên cạnh yếu tố thiết bị trợ thính, thời điểm trẻ sử dụng thiết bị trợ thính và
thời gian sử dụng cũng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Trẻ
cần được sử dụng thiết bị trợ thính càng sớm càng tốt để sớm nghe được âm thanh,
tạo điều kiện cho việc phát triển ngôn ngữ ở trẻ. Thiết bị trợ thính nên được sử dụng
suốt ngày (trừ khi tắm và ngủ), điều này sẽ giúp trẻ tiếp xúc với âm thanh càng
nhiều, từ đó đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Ngoài ra, để giúp trẻ khiếm thính nghe qua thiết bị trợ thính được tốt hơn thì
môi trường nghe thích hợp cũng là một điều kiện cần thiết. Chất lượng âm thanh mà trẻ
nghe được phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố môi trường. Môi trường nghe có vai trò quan
trọng trong việc giúp trẻ khiếm thính biết sử dụng sức nghe khi được trang bị thiết bị
trợ thính để phát triển khả năng giao tiếp và học ngôn ngữ nói một cách tự nhiên.
1.5.4. Can thiệp sớm
Sự phát triển của kỹ thuật đo lường thính lực ở trẻ nhỏ hiện nay có thể phát
hiện và đo thính lực cho trẻ ngay từ khi mới sinh như kỹ thuật đo âm ốc tai OAE
(Otoacoustic Emissions), kỹ thuật đo đáp ứng thính giác thân não tự động AABR
(Automated Auditory Brainstem Response), kỹ thuật đo đáp ứng thính giác trạng
thái ổn định ASSR (Auditory Steady State Response).... Nhờ các kỹ thuật này nhiều
trẻ bị điếc nặng sẽ được xác định ngay trong những tuần tuổi đầu tiên và rất có lợi
khi sử dụng các dụng cụ trợ thính trong những năm đầu đời của trẻ.
Các nghiên cứu về ảnh hưởng của can thiệp sớm đến sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ khiếm thính trên nhiều phương diện khác nhau và thống nhất nhận định rằng
can thiệp sớm có những đóng góp tạo nên sự khác biệt về ngôn ngữ sau này của trẻ
khiếm thính. Mặc dù yếu tố về thời điểm can thiệp sớm được xác định khác nhau,
song các kết quả đều cho thấy, có sự khác biệt rõ ràng ở nhóm trẻ được phát hiện
sớm, các mốc phát triển về phát âm, từ vựng và khả năng diễn đạt có sự chênh lệch
đáng kể giữa nhóm trẻ được can thiệp sớm hơn với nhóm được can thiệp muộn hơn
(Clark, 1979; Mary Pet Moeller, 2000; Betty Vohr và các cộng sự, 2011; Bùi Thị
Lâm, 2016) [59][82][50][20].
52
1.5.5. Sự tham gia, hỗ trợ của cha mẹ trẻ khiếm thính
Ngoài thời gian học tại trường, trẻ khiếm thính có nhiều thời gian ở gia đình
và chịu sự tác động của cha mẹ, từ ăn uống, học tập, nghỉ ngơi… Tại gia đình, trẻ
cảm nhận được tình yêu thương và sự an toàn, thúc đẩy sự tự tin của trẻ để bộc lộ
bản thân mình.
Ngôn ngữ nói chung và kỹ năng nghe – nói nói riêng được phát triển tốt nhất
trong môi trường có ý nghĩa với trẻ, các tình huống giao tiếp, vui chơi, sinh hoạt ở
gia đình là những tình huống thực và có ý nghĩa với trẻ. Nếu như ở trường, trẻ
khiếm thính được cung cấp và xây dựng các mẫu ngôn ngữ, các kỹ năng nghe - nói
thì tại gia đình là nơi trẻ áp dụng và thực hành kỹ năng nghe - nói hiệu quả.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, sự thành công trong can thiệp sớm cho trẻ
khiếm thính, đặc biệt là thành công trong phát triển ngôn ngữ, không chỉ cần tới sự
phát hiện và can thiệp sớm mà còn cần đến sự tích cực tham gia của gia đình để tác
động đến trẻ (Buckly, B., 2003). Lý giải cho vấn đề này, các chuyên gia can thiệp
sớm đều cho rằng việc tạo môi trường thuận lợi cho việc học ngôn ngữ là yếu tố vô
cùng cần thiết để phát triển ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính. Điều này, nếu chỉ mình
chuyên gia can thiệp sớm thực hiện là chưa đủ mà cần có sự hợp tác của gia đình trẻ
đặc biệt là người chăm sóc trẻ. Yếu tố này cũng cần tiếp tục được duy trì khi trẻ học
hòa nhập [20].
1.5.6. Sự hỗ trợ của các trẻ cùng độ tuổi
Vai trò của các trẻ cùng lớp là rất quan trọng trong việc hỗ trợ tạo môi
trường thuận lợi cho trẻ khiếm thính học ngôn ngữ, phát triển kỹ năng nghe - nói. Ở
lớp MGHN, đặc điểm của trẻ trong các hoạt động hằng ngày là chơi cạnh nhau, chơi
cùng nhau. Bạn bè có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nhân cách của trẻ
nói chung và KNNN nói riêng. Bạn bè là động cơ, là động lực thúc đẩy trẻ xuất hiện
nhu cầu giao tiếp và cũng chính trong khi giao tiếp, tương tác với các bạn trẻ được
hình thành, phát triển, củng cố, phát triển và hoàn thiện KNNN của mình.
Bên cạnh đó, trẻ cũng có khuynh hướng khẳng định những phẩm chất tốt của
mình và có nhu cầu được bạn thừa nhận và tôn trọng. Vì vậy, trẻ sẽ luôn cố gắng hết
mình để khẳng định bản thân. Tuy nhiên, nếu trẻ thường xuyên bị thua kém bạn và
các bạn trong lớp không tôn trọng trẻ thì trẻ sẽ có cảm giác bị bỏ rơi, nảy sinh tính
không cởi mở, tính thụ động, thu mình. Vì vậy, giáo viên nên chọn lựa những trẻ có
thái độ tốt, thông cảm, mong muốn giúp đỡ trẻ khiếm thính… để hỗ trợ trẻ khiếm
thính phát triển KNNN.
53
1.5.7. Việc lựa chọn phương pháp tiếp cận giao tiếp cho trẻ khiếm thính
Các phương pháp tiếp cận giao tiếp cũng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
KNNN cho trẻ khiếm thính. Các phương pháp tiếp cận giao tiếp suy cho đến cùng
là vấn đề lựa chọn ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính học và sử dụng. Có ba phương
pháp tiếp cận giao tiếp được sử dụng trong giáo dục trẻ khiếm thính đó là phương
pháp tiếp cận bằng lời, phương pháp giao tiếp tổng hợp và phương pháp tiếp cận
song ngữ. Trong đó, phương pháp tiếp cận dùng lời có ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển KNNN của trẻ. Ngoài ra, phương pháp giao tiếp tổng hợp (Total
communication) với việc sử dụng tất cả các phương tiện giao tiếp: dấu hiệu, chữ cái
tay, phát âm, nghe, đọc hình miệng, biểu lộ thông qua nét mặt, cử chỉ điệu bộ trong
giao tiếp cũng hỗ trợ cho việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
Tóm lại, việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính phụ thuộc vào nhiều yếu
tố. Các yếu tô trên đều có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến việc phát triển
KNNN của trẻ khiếm thính. Cần xem xét những yếu tố trên như là những nguyên
nhân dẫn đến khó khăn của trẻ về KNNN, để từ đó có các biện pháp phù hợp giúp
khắc phục những khiếm khuyết ở trẻ.
54
Kết luận chương 1
1. Trẻ khiếm thính là những trẻ có khó khăn về nghe ở các mức độ khác nhau
làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển ngôn ngữ nói và giao tiếp. Phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính là quá trình tạo ra sự chuyển biến nhất định (tăng lên
về chất) về kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính, giúp trẻ nghe hiểu lời nói và sử
dụng lời nói để diễn đạt ý hiểu của mình cho người khác trong hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ nói ngày một tốt hơn. Phát triển kỹ năng nghe – nói có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với trẻ em nói chung và trẻ khiếm thính nói riêng, giúp các em
biết cách sử dụng ngôn ngữ nói để giao tiếp, học tập, hòa nhập cộng đồng.
2. Sự phát triển kỹ năng nghe – nói ở trẻ khiếm thính cũng tuân theo các
giai đoạn phát triển kỹ năng nghe - nói như trẻ bình thường nhưng sẽ cần thời gian
dài hơn với sự hỗ trợ đặc biệt về thiết bị trợ thính và kĩ thuật hỗ trợ để có thể phát
triển theo trình tự đó. Nhìn chung, với sự hỗ trợ của thiết bị trợ thính, trẻ khiếm
thính đã đạt được một mức độ phát triển kỹ năng nghe – nói nhất định ở giai đoạn
nghe hiểu và sử dụng lời nói đơn giản. Tuy nhiên, kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi còn nhiều khó khăn, hạn chế so với trẻ nghe bình thường cùng độ
tuổi. Mức độ phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính chịu ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố trong đó yếu tố về mức độ điếc và điều kiện trang bị thiết bị trợ thính,
tuổi nghe, can thiệp sớm có vai trò quan trọng.
3. Tùy vào mức độ phát triển kỹ năng nghe – nói của mỗi trẻ khiếm
thính, nội dung phát triển kỹ năng nghe – nói sẽ được xác định phù hợp. Nội
dung của từng KNNN đều được phát triển dần dần theo thời gian, không một
kỹ năng nào phát triển độc lập. Sự tiến bộ của một kỹ năng sẽ kéo theo sự tiến
bộ của các kỹ năng khác. Cấu trúc kĩ năng nghe - nói bao gồm nhiều thành
phần. Các thành phần này phát triển không đồng đều ở các trẻ nhưng phát triển
đồng bộ và không tách rời nhau, tương quan tương đối chặt chẽ với nhau.
4. Việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính ở lớp MGHN được thực
hiện theo hai phương pháp chính là phương pháp tự nhiên và phương pháp cấu trúc
thông qua hai hình thức cơ bản: Phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
trong các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở lớp mẫu giáo và phát triển
kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính trong hoạt động cá nhân. Tuy nhiên việc
vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động luôn luôn phải tính
đến đặc điểm cá nhân của mỗi trẻ.
55
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE – NÓI CHO
TRẺ KHIẾM THÍNH 3 – 6 TUỔI Ở CÁC LỚP MẪU GIÁO HÒA NHẬP
2.1. Khái quát về tổ chức khảo sát thực trạng
2.1.1. Mục đích khảo sát
Đánh giá thực trạng kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi và
thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở một số lớp
mẫu giáo hòa nhập làm cơ sở thực tiễn để đề xuất biện pháp phát triển KNNN cho
trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi.
2.1.2. Nội dung khảo sát
2.1.2.1. Đánh giá thực trạng kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 - 6 tuổi ở một
số lớp mẫu giáo hòa nhập
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về kỹ năng nghe – nói, đề tài xác định việc
đánh giá thực trạng kỹ năng nghe – nói tập trung vào 2 nhóm kỹ năng với 11 kỹ
năng thành phần như sau:
- Nhóm kỹ năng nghe gồm 5 kỹ năng: (1) Nhận diện được 6 âm Lings; (2)
Nghe hiểu các từ chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen
thuộc, gần gũi; (3) Nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ
biểu cảm; (4) Nghe hiểu và thực hiện được từ 1 – 3 yêu cầu; (5) Nghe hiểu nội dung
câu chuyện, bài thơ.
- Nhóm kỹ năng nói bao gồm 6 kỹ năng: (1) Phát âm các tiếng, từ, câu để
người nghe có thể hiểu được; (2) Sử dụng lời nói với các từ thông dụng chỉ người,
đồ vật, con vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi; (3) Sử dụng lời
nói với các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm phù hợp với
ngữ cảnh; (4) Thể hiện được nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của bản thân bằng lời nói;
(5) Kể lại được những sự việc đơn giản; (6) Kể lại được câu chuyện đơn giản đã
nghe theo trình tự nhất định.
2.1.2.2. Đánh giá thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6
tuổi ở một số lớp mẫu giáo hòa nhập
Việc đánh giá thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6
tuổi ở một số lớp mẫu giáo hòa nhập sẽ tập trung vào các nội dung sau:
- Nhận thức của giáo viên về trẻ khiếm thính và việc phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi.
56
- Nội dung, phương pháp, hình thức phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi.
- Sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ trong việc phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi.
- Những thuận lợi, khó khăn của giáo viên trong việc phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi.
2.1.3. Địa bàn và khách thể khảo sát
- Địa bàn khảo sát: Khảo sát được thực hiện ở 26 lớp mẫu giáo hòa nhập
thuộc 15 trường mầm non hòa nhập tại 05 địa bàn là Hà Nội (5 trường), Ninh Bình
(2 trường), Thái Nguyên (3 trường), Yên Bái (2 trường), Quảng Ngãi (3 trường).
- Khách thể khảo sát:
+ Về trẻ khiếm thính: Khảo sát 36 trẻ khiếm thính trong độ tuổi từ 3 đến 6
tuổi đang học tại 26 lớp MGHN thuộc các địa bàn khảo sát. Tất cả trẻ này đều có
thiết bị trợ thính (máy trợ thính, điện cực ốc tai) và có ngưỡng nghe khi sử dụng
thiết bị trợ thính là ≤ 50 dB. Các trẻ này đều có bố mẹ là những người nghe bình
thường (thông tin có được thông qua GV). Một số thông tin chính về nhóm trẻ khảo
sát như sau:
Về giới tính: Số trẻ khiếm thính nam là 23/36 trẻ, số trẻ khiếm thính nữ là
13/36 trẻ.
Về mức độ mất thính lực: trẻ khiếm thính được khảo sát đều có mức độ mất
thính lực ở mức nặng và mức sâu, trong đó trẻ khiếm thính ở mức độ nặng là 19/36
trẻ, trẻ khiếm thính ở mức độ sâu là 17/36 trẻ.
Về thiết bị trợ thính: có 26/36 trẻ đeo máy trợ thính, 10/36 trẻ cấy điện cực
ốc tai.
Về can thiệp sớm: có 13/36 trẻ khiếm thính được CTS, 23/36 trẻ khiếm thính
không được can thiệp sớm.
+ Về giáo viên: Khảo sát 127 GV đã và đang dạy tại lớp mẫu giáo hòa nhập.
Một số thông tin chính về nhóm GV khảo sát như sau:
Về trình độ đào tạo: Đa số GV được đào tạo ở trình độ cao đẳng và đại học chiếm
tỉ lệ lần lượt là 43% và 38%, ít nhất là GV được đào tạo ở trình độ sau đại học (chiếm
4%) và có 15% giáo viên được đào tạo ở trình độ trung cấp.
57
Biểu đồ 2.1. Trình độ đào tạo của GV
Về thâm niên công tác:
Bảng 2.1. Kinh nghiệm dạy học của giáo viên
Thời gian dạy Thâm niên công tác trẻ khiếm thính Thời gian
SL % SL %
Dưới 5 năm 42 33,1 73 57,5
Từ 5 đến 10 năm 58 45,7 38 29,9
Trên 10 năm 27 21,3 16 12,6
Kết quả khảo sát cho thấy, hầu như các GV có thời gian dạy trẻ mầm non
nhiều hơn thời gian dạy trẻ khiếm thính. Về thời gian dạy trẻ mầm non, GV có kinh
nghiệm dạy từ 5 đến 10 năm chiếm số lượng nhiều nhất (58/127 GV, chiếm
45,7%%), tiếp đến là số lượng GV có kinh nghiệm dạy học dưới 5 năm (42/127
GV, chiếm 42%), GV có kinh nghiệm trên 10 năm có số lượng ít nhất (27/127 GV,
chiếm 21,3%%). Tuy nhiên, về thời gian dạy trẻ khiếm thính thì đa số GV có kinh
nghiệm dạy dưới 5 năm (73/127 GV, chiếm 57,5%), còn GV có kinh nghiệm dạy trẻ
khiếm thính trên 10 năm chiếm số lượng ít nhất (16/127 GV, chiếm 12,6%). Mặc dù
kinh nghiệm dạy trẻ khiếm thính học hòa nhập của GV còn hạn chế nhưng họ rất
nhiệt tình, được đào tạo chuyên môn vững vàng và dễ bắt nhịp với cái mới.
Về tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng: có 89/127 GV (chiếm 70,1%)
đã được đào tạo, bồi dưỡng về giáo dục trẻ khuyết tật nói chung, còn 38/127 GV
(chiếm 29,9%) chưa được đào tạo, bồi dưỡng về giáo dục trẻ khuyết tật. Tuy
nhiên, đa số các khóa bồi dưỡng tập trung vào những kiến thức chung về GDHN
trẻ khuyết tật, các nội dung chuyên sâu về giáo dục trẻ khiếm thính còn ít được
đề cập đến.
58
2.1.4. Phương pháp và công cụ khảo sát
2.1.4.1. Phương pháp khảo sát
Để khảo sát thực trạng kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi và
thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi, luận án sử
dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp kiểm tra trực tiếp: Xây dựng và tiến hành sử dụng công cụ để
trực tiếp đánh giá mức kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi (Phụ lục 1, 2)
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Sử dụng phiếu khảo sát đối với GV,
cha mẹ trẻ khiếm thính nhằm đánh giá thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói cho
trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi (Phụ lục 3).
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn sâu một số GV, cha mẹ trẻ khiếm
thính nhằm bổ sung, làm rõ một số thông tin về thực trạng mức độ kỹ năng nghe –
nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi và thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói cho
trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi (Phụ lục 4)
- Phương pháp quan sát: Sử dụng phiếu quan sát để dự giờ, ghi chép thông
tin về các hoạt động trên lớp và quan sát những biểu hiện của trẻ theo các tiêu chí
về kỹ năng nghe, nói đã xác định nhằm tìm hiểu sâu thực trạng kỹ năng nghe – nói
của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi và đánh giá hiệu quả của các biện pháp phát triển kỹ
năng nghe - nói cho trẻ trước và sau khi thực nghiệm (Phụ lục 5).
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Nghiên cứu kế hoạch tổ
chức hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính của giáo viên, sản
phẩm hoạt động của trẻ, đặc biệt là các phát ngôn của trẻ khiếm thính để đánh giá
mức độ biểu hiện kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính.
2.1.4.2. Công cụ khảo sát
* Công cụ đánh giá mức độ kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi:
Để đánh giá mức độ kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi, luận
án xây dựng và sử dụng bộ công cụ đánh giá kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính
3 – 6 tuổi gồm 11 kỹ năng thành phần thuộc 2 lĩnh vực kỹ năng là kỹ năng nghe và
kỹ năng nói. Cụ thể như sau:
Bảng 2.2. Bảng hỏi đánh giá KNNN của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Nhóm kỹ năng
Nhóm kỹ năng nghe Nhóm kỹ năng nói Tổng Số lượng item (Tiểu KN tương ứng) 5 6 11
59
Mỗi một kỹ năng (item), chúng tôi gợi ý các yêu cầu/trò chơi và có hướng
dẫn chi tiết về cách thực hiện, tiêu chí đánh giá để giáo viên có thể dễ dàng đánh giá
mức độ KNNN của trẻ khiếm thính (xem phụ lục 1, 2). Trong đó, mỗi một kỹ năng
được đánh giá theo 4 mức độ thực hiện với điểm số tương ứng. Cụ thể:
Mức 1 - Tốt: Thực hiện tốt không cần nhắc nhở/Thực hiện được toàn bộ các
yêu cầu đề ra (4 điểm)
Mức 2 - Khá: Thực hiện được khi có sự hướng dẫn, còn thụ động và phản
ứng chậm/ Thực hiện được trên 70% các yêu cầu đề ra (3 điểm)
Mức 3 - Trung bình: Thực hiện lúc được lúc không khi có sự trợ giúp bằng
lời nói và hành động mẫu/Thực hiện được từ 50 đến 70% yêu cầu đề ra (2 điểm)
Mức 4 - Kém: Không thực hiện được/Thực hiện được dưới 50% yêu cầu đề
ra (1 điểm).
Trong thang đo, điểm thấp nhất là 1 và điểm cao nhất là 4, giá trị khoảng
cách = (Maximum – Minimum)/n = (4 - 1)/4 = 0.75, do đó thang đánh giá theo điểm
trung bình của mỗi kỹ năng được tính như sau:
Mức 1 (Tốt): = 3,26 - 4,0
Mức 2 (Khá): = 2,51 – 3,25
Mức 3 (Trung bình): = 1,76 – 2,5
Mức 4 (Kém): = 1 – 1,75
Để kiểm định độ tin cậy của thang đo, chúng tôi đã sử dụng mô hình
Cronbach’s coefficient alpha, một công thức được cài sẵn trong phần mềm SPSS.
Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo cho thấy hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha
cao (r = 0,979). Đồng thời, hệ số tương quan của mỗi tiêu chí đối với toàn bộ tiêu
chí còn lại đều có hệ số tương quan đủ mạnh (r dao động từ 0,882 đến 0,950). Như
vậy, tất cả các tiêu chí đều phù hợp, tức là điểm của các tiêu chí có tương quan đáng
kể với điểm tổng của các tiêu chí còn lại. Điều này có nghĩa là các tiêu chí của phép
đo có tính đồng nhất và đều đóng góp cho độ tin cậy của toàn bộ phép đo (Kết quả
chi tiết được trình bày ở phụ lục).
* Công cụ đánh giá thực trạng phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6
tuổi ở lớp MGHN
Để đánh giá thực trạng phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
chúng tôi đã sử dụng phiếu điều tra bằng bảng hỏi kết hợp với phiếu phỏng vấn và
quan sát (xem phụ lục). Các nội dung đánh giá được thực hiện theo 5 mức độ, cụ
thể như sau:
60
- Đánh giá nhận thức của GV về tầm quan trọng của việc phát triển KNNN
cho trẻ khiếm thính theo 05 mức độ: Rất quan trọng, quan trọng, tương đối quan
trọng, ít quan trọng, không quan trọng.
- Đánh giá mức độ thực hiện hoạt động phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính theo tiêu chí thực hiện với 05 mức độ: rất thường xuyên, thường xuyên, tương
đối thường xuyên, ít thường xuyên, không thường xuyên.
- Đánh giá mức độ thuận lợi, khó khăn của GV trong việc phát triển KNNN
cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi theo tiêu chí thực hiện với 05 mức độ: rất thuận
lợi/rất khó khăn, thuận lợi/khó khăn, tương đối thuận lợi/tương đối khó khăn, ít
thuận lợi/ít khó khăn, không thuận lợi/không khó khăn.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6
tuổi được đánh giá theo tiêu chí ảnh hưởng với 05 mức độ: rất ảnh hưởng, ảnh
hưởng, tương đối ảnh hưởng, ít ảnh hưởng, không ảnh hưởng.
Sau đó tiến hành tổng hợp các số liệu đã thu được để tính tỷ lệ phần trăm và
điểm trung bình. Thang đánh giá theo điểm trung bình: Lượng hóa bằng điểm theo
nguyên tắc 5-4-3-2-1. Trong thang đo, điểm thấp nhất là 1 và điểm cao nhất là 5, giá trị
khoảng cách = (Maximum – Minimum)/n = (5 - 1)/5 = 0.8, tương ứng với các tiêu chí
trong thực trạng phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi như sau:
Bảng 2.3. Thang đánh giá thực trạng KNNN cho TKT 3 – 6 tuổi
Điểm TB Mức điểm Các mức độ đánh giá thực trạng phát triển KNNN cho TKT 3 – 6 tuổi
Rất quan Rất thường Rất thuận Rất khó Rất ảnh 5 4.21 – 5.0 trọng xuyên lợi hưởng khăn
4 3.41- 4.2 Thuận lợi Ảnh hưởng Quan trọng Thường xuyên Khó khăn
Tương Tương đối Tương Tương
3 2.61 - 3.4 Tương đối ảnh hưởng đối quan trọng thường xuyên đối thuận lợi đối khó khăn
2 1.81 – 2.6 Ít ảnh hưởng Ít quan trọng Ít thường xuyên Ít thuận lợi Ít khó khăn
Không Không ảnh 1 1 – 1.8 Không quan Không thường Không khó thuận lợi hưởng trọng xuyên khăn
61
2.2. Kết quả khảo sát thực trạng
2.2.1. Thực trạng kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
2.2.1.1. Đánh giá chung về mức kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Bảng 2.4. Đánh giá chung mức KNNN của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Kỹ năng ĐTB ĐLC TT
1 Nhóm kỹ năng nghe 2.59 0.74
1.1 Nhận diện được 6 âm Ling: /m/; /a/; /u/; /i/; /s/; /x/ 3.33 0.68
Nghe hiểu các từ chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động, 2.89 0.82 1.2 hiện tượng quen thuộc, gần gũi
Nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ 2.28 0.74 1.3 biểu cảm
1.4 Nghe hiểu và thực hiện từ 1 – 3 yêu cầu 2.69 0.86
1.5 Nghe hiểu nội dung câu chuyện, bài thơ 1.75 0.87
2 Nhóm kỹ năng nói 2.13 0.72
2.1 Phát âm các tiếng, từ, câu để người nghe có thể hiểu được 2.89 0.78
Sử dụng lời nói với các từ thông dụng chỉ người, đồ vật, con 2.53 0.77 2.2 vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi
Sử dụng lời nói với các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và 1.81 0.79 2.3 các từ biểu cảm phù hợp với ngữ cảnh
Thể hiện được nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của bản thân bằng 1.89 0.85 2.4 lời nói
2.5 Kể lại được những sự việc đơn giản 2.22 0.93
2.6 Kể lại được câu chuyện đơn giản đã nghe theo trình tự nhất định 1.44 0.61
Điểm TB chung 2.34 0.72
Số liệu ở bảng trên cho thấy, kết quả đánh giá chung về kỹ năng nghe – nói
của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi của mẫu nghiên cứu chỉ đạt ở mức trung bình với
điểm trung bình chung của hai nhóm kỹ năng nghe – nói đạt 2.34 điểm. Trong đó,
giữa hai nhóm kỹ năng thành phần có sự khác nhau chút ít: nhóm kỹ năng nghe đạt
mức khá với 2.59 điểm, và nhóm kỹ năng nói đạt mức trung bình với 2,13 điểm, các
tiểu kỹ trong hai nhóm kỹ năng nghe - nói ở trẻ dao động từ 1,44 điểm đến 3,33
điểm. Độ lệch chuẩn của các kỹ năng dao động từ 0.61 đến 0.93 cho thấy mức kỹ
năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi có sự tập trung nhưng không đồng
đều (xem biểu đồ 2.2.)
62
Biểu đồ 2.2. Mức kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
2.2.1.2. Mức độ biểu hiện của các kỹ năng thành phần trong nhóm kỹ năng nghe –
nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
* Nhóm kỹ năng nghe
Kết quả đánh giá cho thấy, kỹ năng nghe của trẻ khiếm thính ở mức khá với
điểm trung bình chung là 2.59 điểm. Các kỹ năng thành phần trong nhóm kỹ năng
này có sự khác biệt khá lớn, dao động từ mức kém đến mức khá (với điểm trung
bình từ 1.75 điểm đến 3.33 điểm). Trong đó, kỹ năng “nhận diện 6 âm Ling” được
đánh giá ở mức cao nhất với điểm trung bình là 3.33 điểm, kỹ năng “nghe hiểu nội
dung câu chuyện, bài thơ” được đánh giá ở mức thấp nhất với điểm trung bình là
1.75 điểm (xem biểu đồ 2.3).
Biểu đồ 2.3. Mức độ biểu hiện các kỹ năng thành phần trong nhóm kỹ năng nghe
của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
63
Cụ thể, tiêu chí 1 “Nhận diện được 6 âm Ling /m/, /a/, /u/, /i/, /s/, /x/” – được xem
như là điều kiện để trẻ khiếm thính có thể nghe trọn vẹn được âm thanh lời nói từ tần số
trầm đến tần số cao của người giao tiếp, có điểm trung bình cao nhất (3.33 điểm), trong
đó có 16/36 trẻ (chiếm 44.4%) đạt mức tốt (nhận diện được cả 6 âm Ling), 16/36 trẻ
(chiếm 44,4%) đạt mức khá (nhận diện được từ 4 đến 5 âm Ling), 4/36 trẻ (chiếm
11.1%) đạt mức trung bình (nhận diện được 3 âm Ling), không có trẻ nào được đánh giá
ở mức yếu (xem bảng 2.5).
Bảng 2.5. Phân bố mức kỹ năng nhận diện 6 âm Ling
Tần suất Phần trăm Phần trăm giá trị Phần trăm tích lũy
Trung bình 4 11.1 11.1 11.1
Khá 16 44.4 44.4 55.6 Giá trị Tốt 16 44.4 44.4 100.0
Total 36 100.0 100.0
Ở tiêu chí 2, “Nghe hiểu các từ chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động,
hiện tượng quen thuộc, gần gũi”, trẻ khiếm thính đạt mức trung bình chiếm tỉ lệ
nhiều nhất (14/36 trẻ, chiếm 38.9%), 12/36 trẻ (chiếm 33.3%) đạt mức khá, 10/36
trẻ (chiếm 27.8%) đạt mức tốt, không có trẻ nào được đánh giá ở mức yếu (xem
bảng 2.6). Thực tế cho thấy, trẻ khiếm thính có hạn chế về khả năng nghe nhưng với
sự hỗ trợ của thiết bị trợ thính các em vẫn có thể nghe hiểu được các từ quen thuộc,
gần gũi. Trong số 50 từ kiểm tra, trẻ khiếm thính có thể nghe hiểu được từ 25 từ trở
lên mặc dù đôi lúc người kiểm tra vẫn phải phát âm lại các từ từ 1 đến 2 lần. Nhìn
chung, tiêu chí “nghe hiểu các từ chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động, hiện
tượng quen thuộc, gần gũi” có điểm trung bình Mean = 2.89 điểm đạt mức khá,
song vẫn cần rèn luyện thêm để giúp trẻ khiếm thính mở rộng vốn từ hiểu và phát
triển kỹ năng nghe hiểu lời nói.
Bảng 2.6. Phân bố mức kỹ năng nghe hiểu các từ chỉ sự vật, hành động, hiện
tượng quen thuộc, gần gũi
Tần suất Phần trăm giá trị Phần trăm tích lũy Phần trăm
Trung bình 14 38.9 38.9 38.9
Khá 12 33.3 72.2 33.3 Giá trị Tốt 10 27.8 100.0 27.8
Total 36 100.0 100.0
64
Ở tiêu chí 3, “Nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ
biểu cảm”, kết quả kiểm tra cho thấy điểm của trẻ tập trung trong khoảng từ 1 đến 4
điểm, trong đó nhóm trẻ khiếm thính có kỹ năng nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính
chất, công dụng và các từ biểu cảm ở mức tốt chiếm tỉ lệ rất ít (2/36 trẻ, chiếm
5.6%), nhóm trẻ khiếm thính đạt mức trung bình chiếm tỉ lệ nhiều nhất 20/36 trẻ,
chiếm 55.6%), tiếp đến là nhóm trẻ khiếm thính đạt mức khá (có 10/36 trẻ, chiếm
27.8%). Bên cạnh đó, có 4/36 (chiếm 11.1%) trẻ khiếm thính có kỹ năng nghe hiểu
các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm ở mức độ kém (xem
bảng 2.7). Quan sát trẻ thực hiện hoạt động chúng tôi nhận thấy, kỹ năng nghe hiểu
các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm của trẻ khiếm thính
còn khá hạn chế, nhiều từ trẻ mới chỉ nghe thấy âm thanh nhưng chưa hiểu nghĩa
của từ và chọn sai từ.
Bảng 2.7. Phân bố mức kỹ năng nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công
dụng và các từ biểu cảm
Tần suất Phần trăm giá trị Phần trăm tích lũy Phần trăm
Kém 4 11.1 11.1 11.1
Trung bình 20 55.6 66.7 55.6
Giá trị Khá 10 27.8 94.4 27.8
Tốt 2 5.6 100.0 5.6
Total 36 100.0 100.0
Ở tiêu chí 4, “Nghe hiểu và thực hiện từ 1 – 3 yêu cầu”, đa số trẻ khiếm
thính nghe hiểu và thực hiện yêu cầu ở mức trung bình (20/36 trẻ, chiếm 55.6%), số
còn lại đạt ở mức tốt (9/36 trẻ, chiếm 25%) và mức khá (7/36 trẻ, chiếm 19.4%),
không có trẻ nào ở mức kém (xem bảng 2.8).
Nhìn chung, với sự hỗ trợ của thiết bị trợ thính, khả năng “nghe hiểu và thực
hiện được từ 1 – 3 yêu cầu” của trẻ khiếm thính đạt ở mức khá, với điểm trung bình
chung là 2.69 điểm.
Quá trình kiểm tra cũng cho thấy, với những yêu cầu đơn giản, quen thuộc
gồm 1 -2 mệnh lệnh ngắn gọn như “con cất đồ chơi vào hộp”, “con đi rửa tay và
ngồi vào bàn ăn” thì trẻ khiếm thính có thể thực hiện, đôi lúc cần người kiểm tra
nhắc lại hoặc hướng dẫn. Với những yêu cầu ít quen thuộc hoặc yêu cầu dài với 3
mệnh lệnh liên tiếp thì rất ít trẻ khiếm thính có thể hiểu và thực hiện được đầy đủ
các yêu cầu.
65
Bảng 2.8. Phân bố mức kỹ năng nghe hiểu và thực hiện từ 1 – 3 yêu cầu
Tần suất Phần trăm Phần trăm giá trị Phần trăm tích lũy
55.6 Trung bình 20 55.6 55.6
19.4 Khá 7 19.4 75.0 Giá trị 25.0 Tốt 9 25.0 100.0
100.0 Total 36 100.0
Ở tiêu chí 5, “Nghe hiểu nội dung câu chuyện, bài thơ”, điểm của trẻ tập
trung trong khoảng từ 1 đến 3 điểm, không có trẻ nào đạt ở mức tốt (4 điểm), điểm
trung bình Mean = 1,75 điểm. Đây là tiêu chí có điểm trung bình thấp nhất trong
các tiêu chí đánh giá về kỹ năng nghe. Số trẻ khiếm thính có kỹ năng nghe hiểu nội
dung câu chuyện, bài thơ ở mức kém chiếm tỷ lệ cao nhất (19/36 trẻ, chiếm 52.8%),
có 7/36 (chiếm 19.4%) trẻ khiếm thính đạt mức trung bình, 10/36 trẻ (chiếm 27.8%)
đạt mức khá (xem bảng 2.9). Quan sát cho thấy, các trẻ khiếm thính có chú ý lắng
nghe giáo viên kể chuyện/đọc thơ, tuy nhiên khả năng tập trung không cao, khả
năng nghe hiểu toàn bộ câu chuyện/bài thơ của trẻ rất hạn chế, khi GV hỏi trẻ các
câu hỏi xoay quanh nội dung câu chuyện/bài thơ, nhiều trẻ không trả lời được, một
số trẻ chỉ trả lời được các câu hỏi đơn giản (như Ai? Cái gì? Làm gì?), với các câu
hỏi “Tại sao?”, “Như thế nào?” thì hầu như trẻ không trả lời được.
Bảng 2.9. Phân bố mức kỹ năng nghe hiểu nội dung câu chuyện/bài thơ
Tần suất
Phần trăm Phần trăm giá trị Phần trăm tích lũy
19 52.8 52.8 52.8 Kém
7 19.4 19.4 72.2 Trung bình Giá trị 10 27.8 27.8 100.0 Khá
36 100.0 100.0 Total
* Nhóm kỹ năng nói
Kết quả đánh giá cho thấy, kỹ năng nói của trẻ khiếm thính ở mức trung bình
với điểm trung bình chung là 2.13 điểm. Các kỹ năng thành phần trong nhóm kỹ
năng này dao động từ mức yếu đến mức khá (với điểm trung bình từ 1.44 điểm đến
2.89 điểm). Trong đó, hai kỹ năng “Phát âm các tiếng, từ, câu để người nghe có thể
hiểu được” và “Sử dụng được lời nói với các từ thông dụng chỉ người, đồ vật, con
vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi” được đánh giá ở mức khá
với điểm trung bình lần lượt là 2.89 điểm và 2.53 điểm. Một kỹ năng trẻ khiếm
66
thính đạt ở mức kém là kỹ năng “Kể lại được câu chuyện đơn giản đã nghe theo
trình tự nhất định” với điểm trung bình là 1.44 điểm. Các kỹ năng còn lại được đánh
giá ở mức trung bình (xem biểu đồ 2.4).
Biểu đồ 2.4. Mức độ biểu hiện các kỹ năng thành phần trong nhóm kỹ năng nói
của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Kết quả cụ thể như sau:
Với tiêu chí “Phát âm các tiếng, từ, câu để người nghe có thể hiểu được”,
điểm của trẻ tập trung trong khoảng từ 2 đến 4 điểm, có 9/36 trẻ (chiếm 25%) đạt
được ở mức tốt, những trẻ này phát âm đúng, rõ ràng các tiếng, từ, câu để người nghe
có thể hiểu được. Đây đều là những trẻ đã được can thiệp sớm, thiết bị trợ thính phù
hợp giúp trẻ nghe nhận diện được cả 6 âm Ling. Kết quả này cũng phù hợp với các
nghiên cứu về vai trò của can thiệp sớm và hiệu quả của thiết bị trợ thính. Tuy nhiên,
đa số trẻ khiếm thính vẫn có các vấn đề về phát âm, có 14/36 trẻ (chiếm 38.9%) đạt
mức khá, những trẻ này có thể phát âm đúng các tiếng, từ, câu khi được hướng dẫn
giúp người nghe có thể hiểu được. Tuy nhiên, trẻ vẫn gặp một số vấn đề về phát âm
như: phát âm ngắt quãng các từ trong 1 câu, giọng không đều về cường độ và cao độ.
Các trẻ còn lại (13/36 trẻ, chiếm 36.1%) có kỹ năng phát âm đạt mức trung bình (xem
bảng 2.10), những trẻ này phát âm gần đúng các tiếng, từ, câu và người nghe có thể
hiểu được khi có tình huống. Các lỗi phát âm thường gặp của các trẻ này là phát âm
sai một số phụ âm như: “bu bủ” thay cho “đu đủ”, “con hỉ” thay cho “con khỉ”, “bèo
bắt chuộc” thay cho “mèo bắt chuột”…, lỗi phát âm âm đệm như “ha” thay cho
“hoa”, mất phụ âm cuối như “con chi” thay cho “con chim”…
67
Bảng 2.10. Phân bố mức kỹ năng phát âm các tiếng, từ, câu
Phần tram Phần trăm Tần suất Phần trăm giá trị tích lũy
13 36.1 36.1 36.1 Trung bình
14 38.9 38.9 75.0 Khá Giá trị 9 25.0 25.0 100.0 Tốt
36 100.0 100.0 Total
Ở tiêu chí “Sử dụng được lời nói với các từ thông dụng chỉ người, đồ vật, con
vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi”, đa số trẻ khiếm thính đạt
mức trung bình (với 20/36 trẻ, chiếm 55.6%), những trẻ này có thể sử dụng lời nói
với các từ thông dụng khi có sự trợ giúp nhưng còn nghèo nàn về vốn từ, chưa phù
hợp với ngữ cảnh. Có 10/36 trẻ (chiếm 27.8%) đạt mức khá, những trẻ này có thể sử
dụng lời nói với các từ thông dụng phù hợp với ngữ cảnh giúp người nghe có thể hiểu
được nhưng còn đơn giản về nội dung, chưa tự tin và phản ứng chậm. Có 5/36 trẻ
(chiếm 13.9%) đạt mức tốt và 1/36 trẻ (chiếm 2.8%) ở mức kém (xem bảng 2.11)
Bảng 2.11. Phân bố mức kỹ năng sử dụng lời nói với các từ thông dụng chỉ sự
vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi
Phần Phần tram Phần trăm Tần suất trăm giá trị tích lũy
2.8 Kém 1 2.8 2.8
55.6 Trung bình 20 55.6 58.3
27.8 Giá trị Khá 10 27.8 86.1
13.9 Tốt 5 13.9 100.0
Total 36 100.0 100.0
Ở tiêu chí “Sử dụng được lời nói với các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công
dụng và các từ biểu cảm phù hợp với ngữ cảnh”, số lượng trẻ khiếm thính ở mức
kém chiếm tỉ lệ nhiều nhất (15/36 trẻ, chiếm 41.7%), không có trẻ nào đạt mức tốt,
13/36 trẻ (chiếm 36.1%) đạt mức trung bình và 8/36 trẻ (chiếm 22.2%) đạt mức khá
(xem bảng 2.12). Quan sát cho thấy, vốn từ diễn đạt của trẻ khiếm thính còn rất hạn
chế, nhiều trẻ không miêu tả được đặc điểm, tính chất, công dụng của các sự vật hay
các từ biểu cảm. Số ít trẻ có thể miêu tả được một vài đặc điểm, tính chất, công
dụng của các sự vật nhưng còn đơn giản về nội dung, vốn từ còn nghèo nàn, chưa
phù hợp với ngữ cảnh.
68
Bảng 2.12. Phân bố mức kỹ năng sử dụng lời nói với các từ chỉ
đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm phù hợp với ngữ cảnh
Phần trăm Phần trăm Phần Tần suất giá trị tích lũy trăm
Kém 15 41.7 41.7 41.7
Trung bình 13 36.1 77.8 36.1 Giá trị Khá 8 22.2 100.0 22.2
Total 36 100.0 100.0
Ở tiêu chí “Thể hiện được nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của bản thân bằng lời
nói”, điểm của trẻ tập trung trong khoảng từ 1 đến 4 điểm, chỉ có 1 trẻ (chiếm
2.8%) đạt mức tốt (4 điểm), 14/36 trẻ (chiếm 38.9%) ở mức kém, số còn lại ở mức
trung bình và mức khá với tỉ lệ lần lượt là 36.1% và 22.2% (xem bảng 2.13). Quan
sát cho thấy, phần lớn trẻ khiếm thính có thể diễn đạt được các nhu cầu, cảm xúc
của mình cho người khác hiểu bằng những câu đơn giản nhưng còn chưa rõ ràng,
cần sự trợ giúp hoặc người nghe chỉ có thể hiểu được khi có tình huống. Bên cạnh
đó, khi thể hiện nhu cầu, cảm xúc của bản thân trẻ khiếm thính cũng thường sử
dụng cử chỉ điệu bộ đi kèm với lời nói. Một số trẻ, thay vì diễn đạt bằng lời nói, các
em thường dùng các động tác cơ thể như gật đầu, lắc đầu, chỉ tay và những biểu
cảm rất rõ nét để thể hiện các cảm xúc như vui, buồn, hào hứng, lo lắng…
Bảng 2.13. Phân bố mức độ về kỹ năng thể hiện nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của
bản thân bằng lời nói
Phần Phần trăm giá Phần trăm Tần suất trăm trị tích lũy
Kém 14 38.9 38.9 38.9
Trung bình 13 36.1 36.1 75.0
Giá trị Khá 8 22.2 22.2 97.2
Tốt 1 2.8 2.8 100.0
Total 36 100.0 100.0
Ở tiêu chí “Kể lại những sự việc đơn giản”, nhìn chung mức độ đạt được của
trẻ khiếm thính còn thấp, điểm trung bình Mean = 2.22 điểm (mức trung bình).
Trong đó, chỉ có 3/36 trẻ (chiếm 8.3%) đạt được ở mức tốt,11/13 trẻ (chiếm 30.6%)
đạt mức khá - những trẻ này có thể kể lại được nội dung chính của một sự việc giúp
69
người nghe có thể hiểu được nhưng cần có sự trợ giúp, 13/36 trẻ (chiếm 36.1%) đạt
mức trung bình – những trẻ này có thể kể lại nội dung chính của một sự việc nhưng
không rõ ràng và phải gợi ý nhiều lần, người nghe chỉ có thể hiểu được khi có tình
huống. Bên cạnh đó, có 9/36 trẻ (chiếm 25%) chưa biết kể lại những sự việc đơn
giản. Những trẻ này đều có vốn từ và khả năng phát âm rất hạn chế (xem bảng 2.14)
Bảng 2.14. Phân bố mức kỹ năng kể lại được những sự việc đơn giản
Phần trăm Phần trăm Phần Tần suất giá trị tích lũy trăm
25.0 25.0 25.0 Kém 9
36.1 36.1 61.1 Trung bình 13
30.6 30.6 91.7 Khá 11 Giá trị
8.3 8.3 100.0 Tốt 3
100.0 100.0 Total 36
Ở tiêu chí “Kể lại câu chuyện đơn giản đã nghe theo trình tự nhất định”, đa
số trẻ khiếm thính được đánh giá ở mức kém (22/36 trẻ, chiếm 61.1%), không có trẻ
nào đạt ở mức tốt. Có 12/36 trẻ (chiếm 33.3%) đạt mức trung bình – những trẻ này
có thể kể lại câu chuyện nhưng không đầy đủ về nội dung và không đúng trình tự.
Chỉ có 2/36 trẻ (chiếm 5.6%) đạt mức khá – những trẻ này có thể kể lại được các
tình tiết của câu chuyện nhưng còn nhầm lẫn, chưa đúng trình tự (xem bảng 2.15).
Nhìn chung, đây là tiêu chí mà trẻ khiếm thính đạt được ở mức thấp nhất
(điểm trung bình Mean = 1.44 điểm). Điều này cũng dể hiểu vì đây thực sự là một
tiêu chí khó đối với trẻ khiếm thính. Ở tiêu chí này, trẻ khiếm thính vừa phải nghe
hiểu, ghi nhớ toàn bộ nội dung câu chuyện, vừa phải sử dụng lời nói để kể lại câu
chuyện đã nghe.
Bảng 2.15. Phân bố mức độ về kỹ năng kể lại được câu chuyện đơn giản
Phần trăm giá Phần trăm Tần suất Phần tram trị tích lũy
Kém 22 61.1 61.1 61.1
Trung bình 12 33.3 33.3 94.4 Giá trị Khá 2 5.6 5.6 100.0
Total 36 100.0 100.0
70
2.2.1.3. Mối tương quan giữa các nhóm kỹ năng nghe – nói với các yếu tố khác của
trẻ khiếm thính
Bảng 2.16. Mối tương quan giữa kỹ năng nghe - nói với các yếu tố khác
Tháng tuổi Độ điếc Kỹ năng nghe Kỹ năng nói Thiết bị trợ thính Can thiệp sớm Thời gian đeo máy
1 .956** .318 .243 .740** .898** .942** Hệ số tương quan Pearson
Sig. (2-tailed) .000 .059 .153 .000 .000 .000 Kỹ năng nghe 36 36 36 36 36 36 36
.956** 1 .363* .362* .802** .838** .959**
Kỹ năng nói .000 36 .030 36 .030 36 .000 36 .000 36 .000 36 36
.318 .363* 1 .226 .337* .103 .451**
Tháng tuổi
.059 36 .030 36 .185 36 .045 36 .549 36 .006 36 36
.243 .362* .226 1 .656** .216 .396*
Độ điếc
.153 36 .030 36 .185 36 .000 36 .207 36 .017 36 36
.740** .802** .337* .656** 1 .567** .791**
Thiết bị trợ thính .000 36 .000 36 .045 36 .000 36 .000 36 .000 36 36
.898** .838** .103 .216 .567** 1 .859**
Can thiệp sớm .000 36 .000 36 .549 36 .207 36 .000 36 .000 36 36
.942** .959** .451** .396* .791** .859** 1 N Hệ số tương quan Pearson Sig. (2-tailed) N Hệ số tương quan Pearson Sig. (2-tailed) N Hệ số tương quan Pearson Sig. (2-tailed) N Hệ số tương quan Pearson Sig. (2-tailed) N Hệ số tương quan Pearson Sig. (2-tailed) N Hệ số tương quan Pearson
Sig. (2-tailed) .000 .000 .006 .017 .000 .000
Thời gian đeo máy N 36 36 36 36 36 36 36
Ghi chú: Giá trị p (Sig. (2-tailed) < 0.005 thể hiện mối tương quan chặt
71
Kết quả bảng trên cho thấy, kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính có tương
quan chặt chẽ với nhau và tương quan chặt chẽ với các yếu tố: thiết bị trợ thính, thời
gian đeo máy (tuổi nghe) và can thiệp sớm. Các yếu tố về mức độ điếc và độ tuổi
không tìm thấy mối tương quan với mức KNNN của trẻ khiếm thính. Trong đó,
mức kỹ năng nghe và kỹ năng nói của trẻ khiếm thính có tương quan thuận, chặt
chẽ với yếu tố thời gian đeo máy (với r = 0.942; 0.959 và p = 0.000) và yếu tố can
thiệp sớm (với r = 0.898; 0.838 và p = 0.000), nghĩa là trẻ khiếm thính được sử
dụng thiết bị trợ thính sớm, được can thiệp sớm sẽ có kỹ năng nghe, nói tốt hơn trẻ
khiếm thính không được can thiệp sớm, sử dụng thiết bị trợ thính muộn. Bên cạnh
đó, mức kỹ năng nghe và kỹ năng nói của trẻ khiếm thính cũng có tương quan
thuận, chặt chẽ với yếu tố về thiết bị trợ thính (với r = 0.740; 0.802 và p = 0.000),
nghĩa là trẻ khiếm thính cấy điện cực ốc tai sẽ có kỹ năng nghe, nói tốt hơn trẻ
khiếm thính đeo máy trợ thính. Kết quả này cũng tương đồng với các nghiên cứu về
nhóm trẻ khiếm thính được can thiệp sớm và nhóm trẻ khiếm thính được cấy điện
cực ốc tai trên thế giới.
Từ kết quả khảo sát kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi, có thể
rút ra một số nhận định như sau:
- Kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi đạt mức trung bình.
Trong hai nhóm kỹ năng, kỹ năng nghe của trẻ khiếm thính có xu hướng tốt hơn
một chút so với kỹ năng nói.
- Kỹ năng nghe của trẻ khiếm thính ở mức khá. Với điều kiện hỗ trợ của thiết
bị trợ thính, hầu hết trẻ khiếm thính đã nhận diện được các âm Ling, đây chính là cơ
sở để trẻ có thể nghe được trọn vẹn âm thanh lời nói. Tuy nhiên, khả năng nghe hiểu
của trẻ khiếm thính còn nhiều hạn chế, do đó cần tập trung phát triển kỹ năng này
của trẻ ở cả mức độ nghe hiểu từ (mở rộng vốn từ, chú trọng vào các từ chỉ đặc
điểm, tính chất, công dụng, các từ biểu cảm), nghe hiểu các câu yêu cầu và nghe
hiểu nội dung câu chuyện/bài thơ.
- Kỹ năng nói của trẻ khiếm thính ở mức trung bình, trẻ khiếm thính hạn chế
về cả khả năng phát âm và khả năng sử dụng từ, câu trong giao tiếp. Chính vì vậy,
cần có những biện pháp để giúp trẻ luyện phát âm, mở rộng vốn từ và phát triển kỹ
năng sử dụng lời nói trong giao tiếp, học tập để chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
- Hai nhóm kỹ năng nghe và kỹ năng nói có mối tương quan chặt chẽ với
nhau, kỹ năng nghe tốt sẽ kéo theo kỹ năng nói tốt. Kết quả này sẽ giúp các nhà GD
định hướng quá trình tác động phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính.
72
- Hai nhóm kỹ năng nghe và nói đều có tương quan chặt chẽ với yếu tố về thiết bị
trợ thính, thời gian đeo máy và yếu tố can thiệp sớm. Vì vậy, việc phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính cần quan tâm đến các yếu tố này để đưa ra các mục tiêu,
nội dung, phương pháp tác động phù hợp với từng cá nhân trẻ khiếm thính.
2.2.2. Thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở
lớp mẫu giáo hòa nhập
2.2.2.1. Nhận thức của giáo viên về vai trò và ý nghĩa của việc phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Nhận thức về vai trò của việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính, 100% giáo viên được khảo sát đều cho rằng việc phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi là rất quan trọng và quan trọng. Trong đó, có
87/127 GV, (chiếm 68.5%) cho rằng rất quan trọng, 40/127 GV (chiếm 31.5%) cho
rằng quan trọng. Không có giáo viên nào cho rằng việc phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính là tương đối quan trọng, ít quan trọng hoặc không quan
trọng (xem biểu đồ 2.5).
Biểu đồ 2.5. Đánh giá của GV về tầm quan trọng của việc phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính
Phỏng vấn sâu giáo viên về vấn đề này, các giáo viên cho rằng: “Ngôn ngữ
nói vẫn là phương tiện giao tiếp phổ biến trong xã hội, muốn hòa nhập tốt trẻ phải
có kỹ năng nghe – nói” (Cô Nguyễn Thùy C, Hà Nội); “ở lớp mẫu giáo hòa nhập,
phương tiện giao tiếp chủ yếu là giao tiếp bằng lời nói. Nếu trẻ không có kỹ năng
nghe – nói, trẻ sẽ không thể giao tiếp được với cô và các bạn, không thể tiếp thu
73
được thông tin, kiến thức” (Cô Phạm Thị H, Thái Nguyên); “Mặc dù đã có thiết bị
trợ thính nhưng KNNN của trẻ vẫn còn nhiều hạn chế, cần tập trung rèn luyện, phát
triển KNNN cho trẻ để phát huy hiệu quả của thiết bị trợ thính” (Cô Vũ Thanh M,
Quảng Ngãi).
Nhận thức về ý nghĩa của việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi, 100% GV đánh giá việc phát triển kỹ năng nghe - nói giúp trẻ
khiếm thính hòa nhập vào các hoạt động của lớp, tiếp đến là ý nghĩa giúp trẻ
khiếm thính tiếp thu, ghi nhớ các kiến thức dễ dàng hơn (chiếm 90.6%), 77.2%
cho rằng việc phát triển kỹ năng nghe – nói giúp trẻ khiếm thính có nhiều lựa chọn
hơn trong nghề nghiệp, giáo dục và xã hội, 74.8% GV cho rằng việc phát triển kỹ
năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính giúp trẻ cơ hội tốt nhất để độc lập (xem biểu
đồ 2.6).
Biểu đồ 2.6. Nhận thức của GV về ý nghĩa của việc phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính
Kết quả này cho thấy GV đã nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc phát
triển KNNN cho trẻ khiếm thính ở lớp MGHN. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi trong
việc tổ chức các hoạt động giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng nghe - nói.
74
2.2.2.2. Thực trạng nội dung phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm thính
* Về xây dựng kế hoạch phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
Biểu đồ 2.7. Thực trạng xây dựng kế hoạch phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ
khiếm thính
Biểu đồ 2.7 cho thấy, có 37.8% GV trả lời rằng họ có tiến hành xây dựng kế
hoạch phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo học kỳ và theo năm
học. Phỏng vấn sâu giáo viên về vấn đề này, các GV chia sẻ rằng kế hoạch phát
triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính được lồng ghép trong kế hoạch giáo
dục cá nhân của trẻ khiếm thính. Giáo viên cũng chia sẻ những khó khăn trong việc
xây dựng kế hoạch phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính như: không có
văn bản chỉ đạo hay tài liệu nào hướng dẫn cụ thể việc xây dựng kế hoạch phát triển
kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính, không có sự hỗ trợ, phối hợp từ các chuyên
gia can thiệp sớm hay cha mẹ trẻ khiếm thính trong quá trình xây dựng kế hoạch.
Khi hỏi về những cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ
thì GV chia sẻ: Họ căn cứ vào chương trình giáo dục mầm non và theo kinh nghiệm
của bản thân, tự mình nhận thấy kĩ năng nào là kĩ năng quan trọng và trẻ còn yếu thì
giáo viên sẽ đưa vào chương trình, kế hoạch dạy học để giúp trẻ khiếm thính phát
triển kỹ năng đó.
Đi sâu tìm hiểu về các kế hoạch phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính được lồng ghép trong kế hoạch giáo dục cá nhân, chúng tôi nhận thấy, GV chủ
yếu xác định mục tiêu phát triển KNNN cho trẻ một cách chung chung trong các giờ
kể chuyện, giờ làm quen với tác phẩm văn học, giờ chơi, chưa có mục tiêu phát
triển KNNN riêng, cụ thể cho trẻ khiếm thính.
75
Bên cạnh đó, có 62.2% GV không xây dựng kế hoạch phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính. Phỏng vấn sâu giáo viên về vấn đề này, các giáo
viên chia sẻ rằng họ lồng ghép kế hoạch phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính vào kế hoạch giáo dục chung của lớp nhưng chưa thể hiện được vấn đề điều
chỉnh cho trẻ khiếm thính, chưa có mục tiêu riêng cho trẻ khiếm thính ở trong lớp.
Kết quả này cho thấy, việc xây dựng kế hoạch phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính ở lớp mẫu giáo hòa nhập còn nhiều khó khăn, hạn chế. Điều này
ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
ở lớp mẫu giáo hòa nhập.
* Về các nội dung phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
Bảng 2.17. Mức độ thực hiện các nội dung phát triển KNNN cho TKT
ĐTB
TT
Nội dung
Thứ bậc
Thường xuyên
Ít thường xuyên
Rất thường xuyên
Không thường xuyên
Mức độ thực hiện Tương đối thường xuyên
0
0
16
21
90
1.42
11
1
41
77
9
0
0
4.25
1
2
38
74
15
0
4.18
2
0
3
26
58
36
7
3.81
5
0
4
21
46
52
8
3.63
8
0
5
8
0
21
61
37
3.75
6
6
37
76
14
0
0
4.18
2
7
Nhận diện được 6 âm Ling: /m/; /a/; /u/; /i/; /s/; /x/ Nghe hiểu các từ chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi Nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm Nghe hiểu và thực hiện được từ 1 – 3 yêu cầu Nghe hiểu nội dung câu chuyện, bài thơ Phát âm các tiếng, từ, câu để người nghe có thể hiểu được Sử dụng lời nói với các từ thông dụng chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi
76
ĐTB
TT
Nội dung
Thứ bậc
Thường xuyên
Ít thường xuyên
Rất thường xuyên
Không thường xuyên
Mức độ thực hiện Tương đối thường xuyên
34
69
24
0
0
4.08
4
8
24
51
39
13
3.68
7
0
9
18
57
38
14
3.62
0
10
9
0
15
41
59
12
3.46
10
11
Sử dụng lời nói với các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm phù hợp với ngữ cảnh Thể hiện nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của bản thân bằng lời nói Kể lại những sự việc đơn giản Kể lại câu chuyện đơn giản đã nghe theo trình tự nhất định
Điểm trung bình chung
3.64
Kết quả khảo sát cho thấy, các nội dung phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính khá đa dạng và được GV thực hiện thường xuyên (với điểm trung bình
chung là 3.64 điểm). Trong đó, GV thường tập trung đến các nội dung phát triển kỹ
năng nghe – nói đã được quy định trong chương trình giáo dục mầm non. Cụ thể, KN
nghe hiểu các từ chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc,
gần gũi được GD thường xuyên nhất với điểm trung bình là 4.25 điểm, xếp bậc 1; tiếp
đến là các KN: nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm;
sử dụng lời nói với các từ thông dụng chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động,
hiện tượng quen thuộc, gần gũi (với điểm trung bình cùng đạt 4.18 điểm). Chỉ riêng nội
dung GD kỹ năng “nhận diện được 6 âm Ling” là các GV hầu như không thực hiện với
điểm trung bình là 1.42 điểm, xếp bậc 11. Khi phỏng vấn sâu một số GV dạy trẻ khiếm
thính ở lớp hòa nhập, chúng tôi được biết: Các giáo viên cũng chưa hiểu được vai trò
của việc dạy nghe âm Ling đối với trẻ khiếm thính, họ cũng chưa biết cách dạy trẻ
nghe âm Ling, do đó họ không thực hiện nội dung này. Các nội dung còn lại đều được
quy định trong chương trình GD mầm non ở lĩnh vực Giáo dục phát triển ngôn ngữ, do
đó họ thường xuyên thực hiện theo đúng chương trình quy định. Quan sát các hoạt
động phát triển kỹ năng nghe – nói trong lớp học, chúng tôi nhận thấy hầu hết GV cũng
chỉ thực hiện theo chương trình chung cho tất cả trẻ trong lớp, chưa có nội dung GD tác
động riêng cho học sinh khiếm thính.
77
2.2.2.3. Thực trạng các phương pháp pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính
Bảng 2.18. Các phương pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
ĐTB TT Thứ bậc Phương pháp phát triển KNNN Thường xuyên Rất thường xuyên Ít thường xuyên Không thường xuyên Mức độ sử dụng Tương đối thường xuyên
1. Các phương pháp tiếp cận theo phương pháp tự nhiên 3.78
1.1 Nhóm PP dùng lời 0 76 9 0 4.26 1 42 nói
1.2 Nhóm PP trực 0 78 18 0 4.10 2 31 quan, minh họa
1.3 Nhóm PP thực 0 78 19 0 4.09 3 30 hành, trải nghiệm
0 41 62 0 3.70 4 1.4 Nhóm PP giáo dục cảm, tình 24 bằng khích lệ
1.5 Nhóm PP nêu 38 54 3 21 3.26 5 11
9 33 65 20 0 3.24 6
gương, đánh giá 1.6 Sử dụng các kỹ thuật phát triển ngôn ngữ tự nhiên như: Tạo môi trường giàu kích thích ngôn ngữ; Nói mẫu; Nhắc lại; Mở rộng câu nói; Tạo tình huống có vấn đề; Khuyến khích trẻ tương tác…
2. Các phương pháp tiếp cận theo phương pháp cấu trúc 2.47
20 36 55 16 2.47 8 0
18 39 48 19 2.51 7 3
15 42 50 19 2.44 9 1
2.1 Sử dụng các bài tập/trò chơi luyện nghe cho TKT 2.2. Sử dụng các kỹ thuật đặc thù để dạy và sửa lỗi phát âm cho TKT 2.3 Sử dụng các bài tập can thiệp để rèn luyện KN nghe – nói cho TKT
Điểm trung bình chung 3.13
78
Kết quả khảo sát ở bảng 2.19 cho thấy, các giáo viên đã sử dụng các
phương pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính gồm cả phương
pháp tự nhiên và phương pháp cấu trúc, tuy nhiên mức độ thường xuyên sử dụng
vẫn còn thấp với điểm trung bình chung là 3.13 điểm (mức tương đối thường
xuyên). Trong đó, các phương pháp tự nhiên được sử dụng thường xuyên hơn
các phương pháp cấu trúc (điểm trung bình của nhóm phương pháp tự nhiên là
3.78 điểm (mức thường xuyên), nhóm phương pháp cấu trúc là 2.47 điểm (mức ít
thường xuyên).
Cụ thể, nhóm các phương pháp dùng lời nói (đàm thoại, kể chuyện, trò chuyện,
giải thích, thảo luận...) được giáo viên sử dụng thường xuyên nhất (với điểm trung
bình 4.26 điểm, xếp bậc 1), tiếp đến là nhóm phương pháp trực quan, minh họa (4.1
điểm, xếp bậc 2), nhóm PP thực hành, trải nghiệm (4.09 điểm, xếp bậc 3), nhóm PP
giáo dục bằng tình cảm khích lệ (3.70 điểm, xếp bậc 4). Đây là những PP được GV
sử dụng thường xuyên nhất trong việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính. Quan
sát GV tổ chức các hoạt động, chúng tôi nhận thấy, các GV đã có sự quan tâm, tích
cực đàm thoại, trò chuyện với trẻ khiếm thính kết hợp với các đồ dùng, tranh ảnh
trực quan, tổ chức các trò chơi trong giờ phát triển ngôn ngữ, làm quen với tác
phẩm văn học. Phần lớn các trò chơi mà GV sử dụng là các trò chơi từ hướng dẫn
thực hiện chương trình GDMN, trong quá trình tổ chức trò chơi GV cũng có sự điều
chỉnh, hỗ trợ trẻ khiếm thính nhưng chưa nhiều. Bên cạnh đó, chưa có những trò
chơi thiết kế với mục đích riêng để phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính. Ngoài ra, GV cũng thường sử dụng lời nói, cử chỉ điệu bộ để khuyến khích sự
cố gắng của trẻ khiếm thính trong các hoạt động. Tuy nhiên, các hình thức động viên còn
đơn điệu, chưa thực sự hấp dẫn với trẻ khiếm thính.
Nhóm PP nêu gương, đánh giá được giáo viên sử dụng ở mức độ tương
đối thường xuyên với điểm trung bình 3.26 điểm (xếp bậc 5). Quan sát các hoạt
động phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính ở lớp MGHN, chúng tôi nhận thấy,
giáo viên thỉnh thoảng sử dụng những tấm gương diễn đạt tốt của các trẻ cùng
lớp để kích thích trẻ khiếm thính noi theo nhưng chưa chỉ ra cho trẻ những hành
vi cụ thể để trẻ có thể bắt chước và học hỏi, giáo viên cũng ít khi ghi chép các
hành vi của trẻ khiếm thính trong các tình huống để đánh giá mức độ thực hiện
các KNNN của trẻ khiếm thính.
79
Phương pháp sử dụng các kỹ thuật phát triển ngôn ngữ tự nhiên có mức độ
thường xuyên sử dụng ở vị trí thứ sáu với điểm trung bình 3.24 điểm. Phỏng vấn
cho thấy các giáo viên đã nhận thức được vai trò của việc tạo môi trường giàu kích
thích ngôn ngữ để giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng nghe – nói. Tuy nhiên, do
hạn chế về không gian, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng, đồ chơi nên các
giáo viên lại chưa thực hiện kỹ thuật này một cách thường xuyên. Quan sát GV thực
hiện hoạt động, chúng tôi nhận thấy các kỹ thuật mà GV thường sử dụng là nói mẫu
và nhắc lại. Các kỹ thuật như mở rộng câu nói, tạo tình huống có vấn đề và khuyến
khích trẻ tương tác còn ít được sử dụng. Đây cũng là một trong những hạn chế của
giáo viên trong việc hiểu và sử dụng các kỹ thuật phát triển kỹ năng nghe – nói cho
trẻ khiếm thính.
Các phương pháp mà GV hiếm khi sử dụng là những phương pháp đặc thù,
chuyên biệt trong việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính như: Sử
dụng các bài tập/trò chơi luyện nghe cho TKT; Sử dụng các kỹ thuật đặc thù để dạy
và sửa lỗi phát âm cho TKT; Sử dụng các bài tập can thiệp để rèn luyện KN nghe –
nói cho TKT, với điểm trung bình của các biện pháp này dao động từ 2.44 điểm đến
2.51 điểm. Phỏng vấn giáo viên về vấn đề này, họ cho rằng các biện pháp này là rất
cần thiết để giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng nghe – nói song họ chưa được
đào tạo, bồi dưỡng để sử dụng các biện pháp này nên họ hiếm khi sử dụng. Các GV
cũng chia sẻ rằng họ chịu nhiều áp lực từ phía chương trình GDMN, từ sĩ số trẻ
trong lớp (số lượng trẻ quá đông, GV không thể dành thời gian để hỗ trợ cho trẻ
khiếm thính), từ phía bản thân (chưa được trang bị các kiến thức về GD trẻ khiếm
thính, đa số GV chỉ làm bằng kinh nghiệm và tình yêu thương với trẻ). Bởi vậy,
việc hỗ trợ trẻ khiếm thính nói chung và phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính nói riêng chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
80
Bảng 2.19. Đánh giá về hiệu quả của các phương pháp phát triển KNNN cho trẻ
khiếm thính
ĐTB TT Thứ bậc Phương pháp phát triển KNNN Hiệu quả Ít hiệu quả Rất hiệu quả Không hiệu quả Mức độ hiệu quả Tương đối hiệu quả
1. Các phương pháp tiếp cận theo phương pháp tự nhiên 4.06
1.1 Nhóm PP dùng lời 39 79 9 4.24 0 1 0 nói
1.2 Nhóm PP trực quan, 29 77 21 4.06 0 2 0 minh họa
1.3 Nhóm PP thực hành, 37 80 10 4.22 0 3 0 trải nghiệm
21 68 38 3.87 0 4 0
1.4 Nhóm PP giáo dục bằng tình cảm, khích lệ 1.5 Nhóm PP nêu gương, 21 67 39 3.86 0 5 0 đánh giá
33 76 18 0 0 4.12
6 khích
1.6 Sử dụng các kỹ thuật phát triển ngôn ngữ tự nhiên như: Tạo môi trường giàu kích thích ngôn ngữ; Nói mẫu; Nhắc lại; Mở rộng câu nói; Tạo tình huống có vấn đề; trẻ Khuyến tương tác…
2. Các phương pháp tiếp cận theo phương pháp cấu trúc 4.07
2.1 Sử dụng các bài luyện 0 29 81 17 0 4.09 6
0 31 75 21 0 4.08 5
tập/trò chơi nghe cho TKT 2.2. Sử dụng các kỹ thuật đặc thù để dạy và sửa lỗi phát âm cho TKT
28 79 20 0 0 4.06 7
2.3 Sử dụng các bài tập can thiệp để rèn luyện KN nghe – nói cho TKT
Điểm trung bình chung 4.07
81
Khảo sát ý kiến của GV về mức độ hiệu quả của các phương pháp phát triển
KNNN cho trẻ khiếm thính, các giáo viên cho rằng các PP tự nhiên và PP cấu trúc
đều có thể sử dụng hiệu quả trong việc phát triển KNNN cho TKT với điểm trung
bình chung của cả hai nhóm phương pháp đạt 4.07 điểm (mức hiệu quả) và không
có sự chênh lệch về mức độ hiệu quả giữa hai nhóm phương pháp. Phỏng vấn sâu
giáo viên về vấn đề này, các giáo viên cho rằng, để phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi ở lớp MGHN cần kết hợp cả hai phương pháp tự nhiên và cấu trúc.
Tuy nhiên, các PP cấu trúc là những PP đặc thù trong phát triển KNNN cho trẻ
khiếm thính, GV chưa được tập huấn chuyên sâu để sử dụng các PP này nên mặc dù
xác định được tính hiệu quả của PP nhưng họ chưa thể sử dụng một cách thường
xuyên. Từ đó, các GV cũng chia sẻ mong muốn được hướng dẫn để có thể sử dụng
hiệu quả cả hai nhóm PP trong việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
2.2.2.4. Thực trạng hình thức phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
Bảng 2.20. Các hình thức phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
TT ĐTB Hình thức phát triển KNNN Thứ bậc Thường xuyên Rất thường xuyên Ít thường xuyên Không thường xuyên Mức độ Tương đối thường xuyên
48 79 0 0 0 4.38 1 1
0 36 74 17 0 3.15 3 2
15 50 44 18 0 3.49 2 3
Phát triển KNNN trong cho TKT các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở lớp mẫu giáo Phát triển KNNN cho TKT trong hoạt động hỗ trợ cá nhân Phối hợp với gia đình để phát triển kỹ năng nghe – nói cho TKT trong các hoạt động tại gia đình
82
Kết quả khảo sát cho thấy, hình thức phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính mà GV thường xuyên lựa chọn sử dụng là phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính trong các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở lớp
mẫu giáo (điểm trung bình 4.38 điểm, xếp bậc 1), trong đó, hoạt động được GV lựa
chọn thường xuyên nhất là hoạt động đọc sách, thơ, truyện; kể chuyện, tiếp đến là tổ
chức trò chơi và giao tiếp hằng ngày với trẻ. Việc lựa chọn các hoạt động này cũng
tương ứng với số lượng thời gian phân bổ các hoạt động trong chương trình.
Hình thức phối hợp với gia đình để phát triển kỹ năng nghe – nói cho TKT
trong các hoạt động tại gia đình cũng được sử dụng khá thường xuyên (điểm trung
bình 3.49 điểm, xếp bậc 2). Phỏng vấn giáo viên về hình thức này, một số giáo viên
cho rằng trong những giờ đón trẻ, trả trẻ giáo viên thường dành thời gian trao đổi
với cha mẹ, thông báo cho cha mẹ biết về tình hình của con học ở lớp ngày hôm
nay, hướng dẫn cha mẹ cách dạy con ở nhà. Để giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ
năng nghe – nói cần có những biện pháp thúc đẩy sự phối hợp chặt chẽ, thường
xuyên giữa giáo viên và cha mẹ trẻ khiếm thính.
Hình thức mà GV ít sử dụng nhất là phát triển kỹ năng nghe – nói cho TKT
trong hoạt động hỗ trợ cá nhân (điểm trung bình 3.15 điểm, xếp bậc 3). Phỏng vấn
sâu giáo viên về vấn đề này, các giáo viên cho rằng họ đã quan tâm đến việc hỗ trợ
cá nhân cho TKT để giúp trẻ phát triển kỹ năng nghe – nói, nhưng chủ yếu vẫn là
việc hỗ trợ trong các giờ chơi tự do, trong hoạt động góc, ngoài thời gian của các
hoạt động chính vì thực tế lớp học hòa nhập có số lượng trẻ khá đông, họ không có
đủ thời gian để hỗ trợ cá nhân cho trẻ khiếm thính trong các hoạt động chính. Bên
cạnh đó, tại các trường mầm non hòa nhập hiện nay, hầu như chưa có đội ngũ giáo
viên/nhân viên hỗ trợ giáo dục hòa nhập để tổ chức các hoạt động hỗ trợ cá nhân
cho trẻ khiếm thính trong tiết cá nhân. Một số ít trẻ khiếm thính có điều kiện kinh tế
gia đình khá giả thì ngoài thời gian học trên lớp, trẻ được tham gia thêm các tiết học
cá nhân trị liệu nghe – nói tại các trung tâm CTS hoặc gia đình mời GV đến nhà dạy
thêm cho trẻ.
2.2.2.5. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tổ chức hoạt động phát
triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
* Thuận lợi trong quá trình tổ chức hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính
83
Bảng 2.21. Những thuận lợi trong quá trình tổ chức hoạt động phát triển KNNN
cho trẻ khiếm thính
Mức độ thuận lợi
Tương Thứ Rất Ít Không ĐTB TT Các thuận lợi bậc Thuận lợi đối thuận thuận lợi thuận lợi thuận lợi lợi
Điều kiện cơ sở vật chất,
môi trường lớp học (điều
0 17 25 54 31 2.22 4 1
kiện âm thanh, ánh sáng, không gian, đồ dung, đồ
chơi)
Môi trường tâm lý trong 2 18 11 10 3.28 31 57 3 lớp MGHN
3 Bản thân trẻ khiếm thính 27 61 39 1 3.91 0 0
Sự quan tâm, tạo điều
0 0 4 kiện của Ban giám hiệu 16 48 63 3.63 2
nhà trường
Sự quan tâm, phối hợp
5 của cha mẹ trẻ khiếm 2 17 31 35 42 2.22 4
thính
Bản thân GV được đào
tạo, bồi dưỡng chuyên 6 0 15 21 34 57 1.95 6 môn về GDHN trẻ
khiếm thính
Kết quả khảo sát ở bảng trên cho thấy, việc tổ chức hoạt động phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính có một số thuận lợi như sau: Thuận lợi từ phía bản thân trẻ
khiếm thính xếp bậc 1 với điểm trung bình là 3.91 điểm; Sự quan tâm, tạo điều kiện của
Ban giám hiệu nhà trường (3.63 điểm, xếp bậc 2); Môi trường tâm lý trong lớp mẫu giáo
hòa nhập (3.28 điểm, xếp bậc 3). Các yếu tố khác được cho là ít thuận lợi hoặc không
thuận lợi trong quá trình tổ chức hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính. Phỏng vấn sâu giáo viên về vấn đề này, cô Nguyễn Thị L (Hà Nội) chia sẻ: “Trẻ
khiếm thính khi được trang bị thiết bị trợ thính thì vẫn có thể nghe được lời nói, các em
cũng rất nhanh nhẹn, hợp tác tốt với cô và các bạn, do đó khá thuận lợi khi tổ chức các
hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói”. Cô Phan Thanh H (Quảng Ngãi) chia sẻ:
84
“Trong lớp hòa nhập, các trẻ thường rất hòa đồng, trẻ khiếm thính có môi trường tương
tác với các trẻ nghe để phát triển kỹ năng nghe – nói”. Bên cạnh đó, một số giáo viên cũng
chia sẻ rằng, khi dạy lớp hòa nhập có trẻ khiếm thính, họ nhận được sự quan tâm, tạo điều
kiện của Ban giám hiệu nhà trường (như giảm sĩ số trẻ trong lớp, hỗ trợ xây dựng kế hoạch
giáo dục trẻ khiếm thính).
* Khó khăn trong quá trình tổ chức hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính
Bảng 2.22. Những khó khăn trong quá trình tổ chức hoạt động phát triển KNNN
cho trẻ khiếm thính
Mức độ khó khăn
Tương Đ Thứ Rất Ít Không TT Các khó khăn Khó đối TB bậc khó khó khó khăn khó khăn khăn khăn khăn
Điều kiện cơ sở vật chất,
môi trường lớp học (điều 12 37 61 17 0 3.35 4 1 kiện âm thanh, ánh sáng,
không gian)
Thiếu trang thiết bị, đồ
dùng, đồ chơi để phát 8 34 48 31 6 3.06 5 2 trẻ
triển KNNN cho khiếm thính
Năng lực của giáo viên
18 46 63 0 0 3.65 2 (kiến thức, kỹ năng, kinh triển nghiệm về phát 3
KNNN cho trẻ khiếm thính)
42 78 7 0 0 4.28 1 4
Tài liệu hướng dẫn về phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
Thiếu sự phối hợp thống nhất giữa nhà trường, 21 44 47 9 6 3.51 3 5 GV và cha mẹ trẻ khiếm
thính
85
Kết quả khảo sát ở bảng 2.19 cho thấy, khó khăn lớn nhất của GV trong việc tổ
chức hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính là khó khăn do thiếu tài
liệu hướng dẫn phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính (điểm trung bình 4.28 điểm, xếp
bậc 1), tiếp đến là khó khăn đến từ năng lực của chính bản thân giáo viên (điểm trung
bình 3.65 điểm, xếp bậc 2). Chia sẻ về vấn đề này, các giáo viên tự nhận thấy họ thiếu
kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm giáo dục trẻ khiếm thính nói chung và phát triển kỹ
năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính nói riêng. Nhiều giáo viên chưa được tham gia các
lớp bồi dưỡng về giáo dục trẻ khiếm thính, họ cũng bày tỏ mong muốn được tham gia
các lớp bồi dưỡng, tập huấn về nội dung này để có thể thực hiện tốt công tác GDHN trẻ
khiếm thính. Bên cạnh đó, các giáo viên cũng chia sẻ các tài liệu hướng dẫn phát triển
KNNN cho trẻ khiếm thính cho GVMN hiện nay hầu như không có. Hướng dẫn tổ chức
hoạt động cho trẻ khuyết tật trong chương trình GDMN cũng rất sơ sài, không có nội
dung dành riêng cho trẻ khiếm thính. Vì vậy, họ thường phải tự mày mò và học hỏi
kinh nghiệm từ các đồng nghiệp.
Tiếp đến là khó khăn do thiếu sự phối hợp thống nhất giữa nhà trường, GV
và cha mẹ trẻ khiếm thính (điểm trung bình 3.51 điểm, xếp bậc 3). Chia sẻ về vấn
đề này, các giáo viên cho rằng việc xây dựng kế hoạch giáo dục trẻ khiếm thính hầu
như chỉ do GV tự thực hiện, không có sự tham gia phối hợp của các lực lượng khác
trong nhà trường và của cha mẹ. Họ cũng đã thường xuyên liên hệ và trao đổi với
cha mẹ về các nội dung giáo dục trẻ trong giờ đón, trả trẻ nhưng thời gian cũng
không nhiều để có thể chia sẻ với cha mẹ, nội dung trao đổi chủ yếu là về tình hình
ăn ngủ và các hoạt động của trẻ trong ngày mà chưa hướng dẫn cha mẹ cách dạy
con ở nhà. Bên cạnh đó, nhiều gia đình bản thân cha mẹ lại không phải người đưa
đón trẻ nên rất khó để hợp tác, chia sẻ thông tin.
Thêm vào đó, các giáo viên cũng gặp khó khăn về điều kiện cơ sở vật chất,
môi trường lớp học và trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi để phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính (điểm trung bình lần lượt là 3.35 điểm và 3.06 điểm). Về
điều kiện cơ sở vật chất, môi trường lớp học, quan sát tại các trường mầm non hiện
nay cho thấy phòng học khá khang trang song chưa đảm bảo môi trường nghe yên
tĩnh cho trẻ khiếm thính, tiếng động nền trong lớp học khá lớn, số lượng trẻ trong
lớp lại khá đông làm trẻ khiếm thính khó nghe âm thanh lời nói của GV. Các GV
cũng cho rằng, trang thiết bị, đồ dung, đồ chơi trong lớp học hiện nay còn thiếu gây
khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính.
86
2.2.2.6. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính
Bảng 2.23. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển KNNN cho TKT
ĐTB TT Các yếu tố Thứ bậc Ít ảnh hưởng Ảnh hưởng Mức độ ảnh hưởng Tương đối ảnh hưởng Rất ảnh hưởng Không ảnh hưởng
tố
1 47 65 15 0 0 4.25 2
2 49 61 17 0 0 4.25 2 Các yếu liên quan đến khuyết tật của trẻ (mức độ suy giảm thính lực, độ tuổi suy giảm thính lực, khả năng nhận thức, hứng thú và nhu cầu nghe – nói) Năng lực của giáo viên
3 Sự hỗ trợ thính học 4 Can thiệp sớm 51 36 76 61 0 30 0 0 0 0 4.41 4.05 1 5
5 32 80 15 0 0 4.13 4
6 23 71 33 0 0 3.92 6
7 12 48 57 10 0 3.49 7
Sự tham gia, hỗ trợ của cha mẹ TKT Sự hỗ trợ từ bạn cùng trang lứa Việc chọn lựa phương pháp tiếp cận giao tiếp cho TKT
Kết quả khảo sát ở bảng 2.20 cho thấy, các giáo viên được khảo sát đều thống
nhất rằng cả 7 yếu tố đưa ra trong nghiên cứu này đều có ảnh hưởng đến việc phát triển
kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính, điểm trung bình của các yếu tố dao động từ
3.49 điểm đến 4.41 điểm. Trong đó, yếu tố sự hỗ trợ thính học được đánh giá là có ảnh
hưởng lớn nhất đến việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính (với điểm
trung bình là 4.41 điểm, xếp bậc 1). Các giáo viên nhận định rằng, thiết bị trợ thính là
điều kiện cần đầu tiên để giúp trẻ khiếm thính nghe được âm thanh và có thể học nghe
– nói, nếu không có thiết bị trợ thính thì những trẻ điếc nặng, điếc sâu không thể nghe
được âm thanh và không có điều kiện để phát triển kỹ năng nghe - nói. Điều này cũng
87
tương đồng với kết quả phân tích tương quan giữa mức độ kỹ năng nghe – nói với các
yếu tố thuộc về bản thân trẻ, trong đó mức độ kỹ năng nghe – nói có tương quan
thuận, chặt chẽ với yếu tố thuộc về thiết bị trợ thính.
Yếu tố tiếp theo được đánh giá là ảnh hưởng khá lớn đến việc phát triển kỹ
năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính là yếu tố liên quan đến khuyết tật của trẻ và
năng lực của giáo viên (điểm trung bình đều đạt 4.25 điểm, xếp bậc 2). Phỏng vấn
giáo viên về vấn đề này, các giáo viên chia sẻ, các đặc điểm của bản thân trẻ khiếm
thính tác động và ảnh hưởng đến quá trình phát triển kỹ năng nghe – nói cho chính
các em. Những em nào có mức độ khiếm thính nhẹ và vừa có thuận lợi hơn trong
việc sử dụng thiết bị trợ thính và có khả năng phát triển kỹ năng nghe – nói tốt hơn.
Bên cạnh đó, những em nào nhận thức tốt, nhanh nhẹn thì tiếp thu các kiến thức, kỹ
năng dễ dàng hơn, bao gồm cả kỹ năng nghe – nói. Yếu tố về sự hoàn thiện của bộ
máy phát âm cũng ảnh hưởng lớn đến việc phát triển kỹ năng nói cho trẻ khiếm
thính. Những trẻ có vấn đề về hoạt động của bộ máy phát âm thì nội dung phát triển
kỹ năng nghe – nói cần có thêm các nội dung luyện vận động của bộ máy phát âm.
Thêm vào đó, các giáo viên cũng cho rằng năng lực của giáo viên rất quan trọng,
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính. Vì vậy, giáo viên rất mong muốn được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng,
được cung cấp tài liệu để tự nghiên cứu nhằm tăng cường năng lực của bản thân
trong công tác giáo dục trẻ khiếm thính.
Ngoài ra, các giáo viên cũng nhận định các yếu tố về sự hỗ trợ của cha mẹ trẻ
khiếm thính; Can thiệp sớm; Sự hỗ trợ từ bạn cùng trang lứa; Việc lựa chọn phương
pháp tiếp cận giao tiếp đều có ảnh hưởng đến việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho
trẻ khiếm thính. Nếu có sự hỗ trợ tích cực của cha mẹ, bạn cùng trang lứa thì việc
phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Chính
vì vậy, khi đề xuất các biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
cần quan tâm đến tất cả các yếu tố này để các biện pháp đảm bảo tính khả thi và
hiệu quả.
2.2.3. Đánh giá chung về thực trạng
2.2.3.1. Điểm mạnh
- Trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi có thiết bị trợ thính học lớp mẫu giáo hòa nhập
đã đạt một mức phát triển kỹ năng nghe – nói nhất định. Cụ thể, mức phát triển
chung về kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính đã đạt ở mức trung bình. Trong đó
88
kỹ năng nghe đạt mức khá, kỹ năng nói đạt mức trung bình. Bên cạnh đó, hai nhóm
kỹ năng nghe và kỹ năng nói có mối tương quan với nhau rất chặt, điều này cho
thấy, nếu tác động đến một nhóm KN nào thì sẽ dẫn đến sự tác động đến nhóm KN
khác. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc đề xuất các biện pháp phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính.
- Đội ngũ GV ở các trường MN được đào tạo đạt chuẩn, nhiệt tình, tận tâm
trong công việc, ngoài kiến thức nền vững chắc về sư phạm GDMN, phần lớn GV
đã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chung về giáo dục trẻ khuyết tật. Họ cũng có
nhận thức tương đối đầy đủ về vai trò và ý nghĩa của việc phát triển kỹ năng nghe
– nói cho trẻ khiếm thính. Đây là điểm mạnh trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức, kỹ năng cho GV về giáo dục trẻ khiếm thính nói chung và phát triển kỹ
năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính nói riêng vì các GV có thể học hỏi và thích
ứng nhanh.
- Các GV cũng đã bước đầu lựa chọn và thực hiện một số nội dung phát triển
kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo các nội dung được quy định trong
chương trình GDMN. Mặc dù chưa có nội dung tác động riêng cho trẻ khiếm thính
nhưng GV cũng đã có sự quan tâm, hỗ trợ cá nhân cho trẻ.
- Việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi trong các
hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở lớp mẫu giáo cũng đã được GV thực
hiện khá thường xuyên thông qua các hoạt động như đọc sách, thơ, truyện; kể
chuyện; tổ chức trò chơi và giao tiếp hằng ngày. Bên cạnh đó, hình thức phối hợp
với gia đình để phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính trong các hoạt
động tại gia đình và hình thức hỗ trợ cá nhân cũng đã được GV quan tâm mặc dù
chưa thực hiện thường xuyên.
- Bước đầu GV đã áp dụng một số biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính như đàm thoại, trò chuyện, tổ chức trò chơi, tạo môi trường
giàu kích thích, sử dụng một số kỹ thuật phát triển ngôn ngữ tự nhiên (như nói mẫu,
nhắc lại) mặc dù mức độ thường xuyên sử dụng còn thấp.
- Quá trình phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính có một số thuận
lợi về: bản thân trẻ khiếm thính (rất nhanh nhẹn, hợp tác); Sự quan tâm, tạo điều
kiện của Ban giám hiệu nhà trường; Môi trường tâm lý trong lớp mẫu giáo hòa nhập
giúp trẻ khiếm thính có môi trường thuận lợi để phát triển kỹ năng nghe - nói. Bên
cạnh đó, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ
89
khiếm thính như: Đặc điểm của trẻ; Sự hỗ trợ thính học; Can thiệp sớm; Năng lực
của giáo viên; Sự hỗ trợ của cha mẹ trẻ; Sự hỗ trợ từ bạn cùng trang lứa; Sự hỗ trợ
từ cộng đồng, xã hội. Nếu khai thác và tận dụng tốt các yếu tố này, đặc biệt là các
yếu tố khách quan thì có thể góp phần cải thiện các kỹ năng nghe – nói của trẻ
khiếm thính.
2.2.3.2. Hạn chế
- Mức phát triển kỹ năng nghe - nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi còn thấp.
Trong đó, trẻ khiếm thính hạn chế ở cả kỹ năng nghe hiểu từ, nghe hiểu các câu yêu
cầu, nghe hiểu nội dung câu chuyện/bài thơ và kỹ năng phát âm, sử dụng từ, câu
trong giao tiếp.
- GV dạy lớp mẫu giáo hòa nhập có trẻ khiếm thính hầu hết chưa được đào
tạo chuyên môn sâu về GD trẻ khiếm thính, do đó chưa có kiến thức và kỹ năng đầy
đủ về hỗ trợ trẻ khiếm thính học trong lớp hòa nhập, năng lực của giáo viên trong
việc tổ chức các hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính còn
nhiều hạn chế. Đây sẽ là khó khăn khi triển khai các biện pháp phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính, đòi hỏi phải có thời gian cũng như phụ thuộc vào
khả năng thích ứng của từng GV.
- Phần lớn GV chưa xây dựng kế hoạch phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính. Việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính chủ yếu thực hiện
thông qua các hoạt động ở trường mầm non theo chương trình chung, chưa có nội dung
giáo dục riêng cho trẻ khiếm thính trong lớp học.
- Các hình thức phối hợp với gia đình để phát triển kỹ năng nghe – nói cho
trẻ khiếm thính trong hoạt động tại gia đình và hình thức phát triển kỹ năng nghe -
nói trong hoạt động hỗ trợ cá nhân còn ít được GV thực hiện và chưa hiệu quả.
- Các biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính còn chưa
được thực hiện thường xuyên, hiệu quả, GV mới chủ yếu sử dụng các biện pháp
chung trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non hiếm khi sử dụng những biện
pháp đặc thù, chuyên biệt trong việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính. Bên cạnh đó, giáo viên cũng chưa tận dụng lợi thế của lớp học hòa nhập để
giúp trẻ em tương tác, hỗ trợ lẫn nhau.
- Thiếu tài liệu hướng dẫn phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính. Nội dung
hướng dẫn tổ chức hoạt động cho trẻ khuyết tật trong chương trình GDMN cũng rất
sơ sài, không có nội dung dành riêng cho trẻ khiếm thính.
90
- Thiếu sự phối hợp thống nhất giữa nhà trường, GV và cha mẹ trẻ khiếm
thính trong việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
- Khó khăn về điều kiện cơ sở vật chất, môi trường lớp học và trang thiết bị,
đồ dùng, đồ chơi để phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính.
2.2.3.3. Nguyên nhân
- Thiếu những chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể, sát thực cho giáo viên trong việc
thực hiện mục tiêu, nội dung phát triển kỹ năng nghe nói cho trẻ khiếm thính ở lớp
mẫu giáo hòa nhập; thiếu các tài liệu hướng dẫn phát triển kỹ năng nghe – nói cho
trẻ khiếm thính ở lớp mẫu giáo hòa nhập. Điều này gây khó khăn cho giáo viên
trong việc xây dựng kế hoạch và thực hiện nội dung phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính.
- Công tác bồi dưỡng chuyên môn cho GV dạy hòa nhập trẻ khiếm thính còn
thiếu hụt, hạn chế cả về số lượng và chất lượng: Các khóa bồi dưỡng chuyên môn
cho giáo viên dạy hòa nhập còn ít, hầu như chỉ được thực hiện trong các đợt tập
huấn hè. Nội dung bồi dưỡng thường về các nội dung, phương pháp dạy cho trẻ
khuyết tật nói chung chưa đi sâu cụ thể vào đối tượng trẻ khiếm thính và đặc biệt là
lĩnh vực phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm thính. Trong khi đó, để thực
hiện công tác GDHN trẻ khiếm thính nói chung và các hoạt động phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính nói riêng, người GV không chỉ cần trang bị các kiến
thức chung về trẻ khiếm thính mà còn cần được trang bị kiến thức, kỹ năng dạy trẻ
khiếm thính trong lớp học hòa nhập cũng như cần có kinh nghiệm thực hành khi xử
lý các vấn đề liên quan đến trẻ khiếm thính như: đánh giá đúng khả năng học tập và
khả năng ngôn ngữ, giao tiếp của trẻ khiếm thính, xác định được mục tiêu GD
chung và GD phát triển kỹ năng nghe - nói cho các em, xây dựng kế hoạch giáo dục
cá nhân, điều chỉnh trong quá trình dạy hòa nhập về phương pháp, nội dung, hình
thức tổ chức, cách thức đánh giá… Đây cũng là những nội dung và kỹ năng còn
thiếu và yếu của GV dạy hòa nhập trẻ khiếm thính, đòi hỏi các GV cần được tăng
cường bồi dưỡng chuyên môn và hỗ trợ.
- Hiện nay các trường mầm non thực hiện GDHN còn thiếu các yếu tố hỗ trợ
cho việc thực hiện công tác GDHN trẻ khiếm thính như: điều kiện cơ sở vật chất, trang
thiết bị trong lớp học, xây dựng môi trường thân thiện, tương tác tích cực cho trẻ khiếm
thính, việc kết nối giữa nhà trường với các lực lượng xã hội còn hạn chế như: việc phổ
biến kiến thức cho cha mẹ trẻ khiếm thính để nâng cao chất lượng phối kết hợp, huy
động được sự hỗ trợ của các lực lượng, tổ chức trong và ngoài trường.
91
- Các gia đình đã dành sự quan tâm, có ý thức phối kết hợp với GV, với nhà
trường trong công tác giáo dục trẻ. Tuy nhiên, các yếu tố khác của gia đình như điều
kiện kinh tế, thời gian, nhân lực… cũng tác động không nhỏ đến chất lượng giáo
dục trẻ khiếm thính.
- Bản thân mỗi trẻ khiếm thính là một cá thể riêng, trong nhóm trẻ khiếm
thính được khảo sát, mặc dù cùng được học trong môi trường hòa nhập, nhưng các
em hoàn toàn khác nhau về đặc điểm, khả năng, điều kiện sống, sự chăm sóc của
gia đình, tính cách, khả năng hòa nhập và thích ứng, do vậy mà mức độ lĩnh hội các
kỹ năng nghe - nói, ứng dụng trong các tình huống ở trên lớp cũng như thực hành
khi ở nhà của mỗi trẻ là khác nhau.
Nhìn chung, thực trạng kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
và thực trạng tổ chức các hoạt động nhằm phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính đã cho thấy tính cấp thiết của việc nghiên cứu và đưa ra biện pháp
nhằm phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi trong lớp mẫu
giáo hòa nhập. Kết quả nghiên cứu từ thực trạng này góp phần định hướng cho
đề tài tiếp tục nghiên cứu các biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi.
92
Kết luận chương 2
1. Việc triển khai khảo sát thực trạng tuân theo đúng quy trình khoa học của
các phương pháp định lượng và định tính. Về thang đo mức KNNN của trẻ khiếm
thính, luận án đã xây dựng 11 tiêu chí đánh giá mức kỹ năng nghe - nói thuộc 2 lĩnh
vực kỹ năng là: kỹ năng nghe và kỹ năng nói. Mỗi tiêu chí được đánh giá theo 4 mức độ thực hiện: Mức 1 - Tốt (4 điểm); mức 2 – Khá (3 điểm); mức 3 - Trung bình
(2 điểm); mức 4 – Kém (1 điểm). Các tiêu chí đánh giá này đã được kiểm định bằng
hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha (r = 0,979).
2. Kết quả khảo sát kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi cho
thấy: Mức kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi còn hạn chế, chỉ đạt ở mức trung bình. Trong hai nhóm kỹ năng, mức kỹ năng nghe của trẻ khiếm thính có
xu hướng tốt hơn một chút so với mức kỹ năng nói (điểm trung bình của mức kỹ
năng nghe là 2.59 điểm, kỹ năng nói là 2.13 điểm). Hai nhóm kỹ năng nghe và kỹ
năng nói có mối tương quan với nhau rất chặt và đều có tương quan chặt với yếu tố
về thiết bị trợ thính, thời gian đeo máy và việc tham gia chương trình can thiệp sớm. 3. Phần lớn GV đều nhận thức đúng đắn về vai trò và ý nghĩa của việc phát
triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính trong lớp mẫu giáo hòa nhập. Các GV
bước đầu đã lựa chọn và thực hiện một số nội dung, cách thức phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính phù hợp với các nội dung, phương pháp chung được
quy định trong chương trình GDMN. Tuy nhiên, do chưa được bồi dưỡng chuyên
sâu về GDHN trẻ khiếm thính nên các GV thiếu các phương pháp đặc thù để hỗ trợ
trẻ trong các hoạt động chung cũng như các tiết học các nhân.
4. Công tác bồi dưỡng chuyên môn sâu cho GV dạy hòa nhập trẻ khiếm thính
còn chưa được thực hiện thường xuyên, thiếu các tài liệu hướng dẫn phát triển kỹ
năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính và thiếu các yếu tố hỗ trợ cho việc thực hiện
công tác GDHN trẻ khiếm thính ở các trường mầm non. Đây được coi là những nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế của thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi.
5. Kết quả khảo sát thực trạng cho thấy tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề xuất biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập để nâng cao hiệu quả của việc tổ chức các hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính. Bên cạnh đó, việc đề xuất các biện pháp phát triển kỹ năng nghe - nói cần phải dựa trên đặc điểm kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính, thực trạng phát triển kỹ năng nghe - nói của GV dạy lớp
MGHN. Có như vậy, các biện pháp đề xuất mới có tính khả thi và tác động có hiệu quả nhất với trẻ khiếm thính ở lớp mẫu giáo hòa nhập.
93
CHƯƠNG 3. BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE – NÓI
CHO TRẺ KHIẾM THÍNH 3 – 6 TUỔI
3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi
3.1.1. Đảm bảo phù hợp với mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục mầm non và đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Việc đề xuất các biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
3 – 6 tuổi cần bám sát vào mục tiêu, nội dung chương trình GDMN về lĩnh vực phát
triển ngôn ngữ, đó là: Giúp trẻ khiếm thính có khả năng lắng nghe, hiểu lời nói
trong giao tiếp hằng ngày; có khả năng biểu đạt bằng nhiều cách khác nhau (lời nói,
nét mặt, cử chỉ, điệu bộ…); diễn đạt rõ ràng và giao tiếp có văn hóa trong cuộc sống
hàng ngày; có khả năng nghe và kể lại sự việc, kể lại truyện. Các biện pháp phát
triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính phải đảm bảo thống nhất với mục tiêu,
nội dung giáo dục đã xác định trong chương trình GDMN, phù hợp với môi trường
GDHN ở Việt Nam nhằm giúp trẻ khiếm thính vừa có thể tiếp thu kiến thức, rèn
luyện kỹ năng, vừa có cơ hội hình thành và phát triển nhân cách.
Bên cạnh đó, các biện pháp phát triển kỹ năng nghe - nói được đề xuất phải
đảm bảo phù hợp với đặc điểm phát triển tâm sinh lý và khả năng nghe – nói của trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi. Trong khi tổ chức các hoạt động phải đảm bảo rằng trẻ
khiếm thính được tham gia, được thể hiện vai trò của mình, được sử dụng ngôn ngữ
nói làm phương tiện để giao tiếp nhưng đồng thời cũng vừa phải đáp ứng nhu cầu
của các trẻ nghe bình thường trong môi trường giáo dục hòa nhập.
3.1.2. Đảm bảo tính toàn diện, tính phát triển, tính hệ thống
Phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính cần đảm bảo tính toàn
diện, các biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính cần bao quát
các mục tiêu thuộc lĩnh vực phát triển ngôn ngữ, đồng thời cần đảm bảo rèn cho trẻ
khiếm thính các kỹ năng nghe – nói được ứng dụng vào các tình huống giao tiếp cơ
bản, giúp trẻ khiếm thính có thể tham gia tối đa vào các hoạt động ở lớp mẫu giáo
hòa nhập, cũng như dần tham gia hòa nhập vào xã hội. Bên cạnh đó, các biện pháp
phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính cần tác động đến các chủ thể thực
hiện biện pháp này là GV dạy trẻ khiếm thính ở lớp MGHN và tác động đến các yếu
tố chủ quan, khách quan liên quan đến hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói cho
trẻ khiếm thính để đảm bảo hiệu quả thực hiện hoạt động.
94
Trẻ em nói chung, trẻ khiếm thính nói riêng đều trải qua những giai đoạn phát
triển chung, chỉ khác nhau ở tốc độ nhanh hay chậm. Do vậy, phát triển kỹ năng nghe - nói cần đảm bảo tính phát triển, phù hợp với vùng phát triển gần của trẻ. Khi xây dựng
các biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính cần hướng tới mục đích
phát triển toàn diện cho trẻ, không chỉ coi trọng mức độ trẻ đã đạt được, cần đạt được mà
còn coi trọng mức độ trẻ gần đạt được để từ đó hỗ trợ kịp thời, giúp trẻ tiếp tục phát triển tốt nhất. Cần đưa ra các nội dung nhằm phát huy điểm mạnh, khắc phục, sửa chữa khiếm khuyết trong nghe – nói để giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng nghe – nói.
Các biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính cũng cần đề
xuất theo một hệ thống có cấu trúc, thống nhất giữa các thành phần tham gia, phân
chia rõ các nhóm biện pháp tiền đề, biện pháp thực hiện trong các hoạt động chung
ở lớp hòa nhập và biện pháp thực hiện trong hoạt động hỗ trợ cá nhân để đảm bảo
hiệu quả tốt nhất trên trẻ.
Ngoài ra, các biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính cũng
cần phải kế thừa và phát huy những mặt mạnh trong việc tổ chức các hoạt động phát
triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính ở trường mầm non hòa nhập hiện nay.
3.1.3. Đảm bảo tính cá biệt hóa
Mỗi trẻ khiếm thính là một cá thể riêng biệt có những đặc điểm riêng về mức
độ khiếm thính, điều kiện hỗ trợ thính học, điều kiện can thiệp sớm, điểm mạnh,
điểm yếu, sở thích, hứng thú, cách luyện tập khác nhau. Do đó, khi xây dựng các
biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cần chú ý đến đặc điểm riêng của mỗi trẻ,
sử dụng phương pháp cá biệt hóa một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp với khả năng
và nhu cầu của trẻ, đảm bảo sự thích ứng cao nhất với từng cá nhân trẻ khiếm thính,
giúp mỗi cá nhân trẻ khiếm thính được phát huy tối đa điểm mạnh, khắc phục điểm
yếu nhằm đạt được kết quả giáo dục tối ưu nhất.
3.1.4. Đảm bảo phát huy tính tích cực, tự giác của trẻ
Giáo dục hình thành kĩ năng chỉ đạt hiệu quả khi người học tích cực, tự giác
thực hành trong nhiều tình huống khác nhau, đặc biệt là các tình huống thực tế. Kỹ
năng nghe - nói chỉ có thể hình thành nếu thường xuyên được thực hành, được rèn
luyện hằng ngày, trong các hoàn cảnh quen thuộc hoặc có những yếu tố mới mẻ.
Việc lặp đi lặp lại các hoạt động nghe - nói giúp trẻ củng cố, ghi nhớ, tăng cao mức
độ thuần thục và trôi chảy của KN nghe - nói. Bên cạnh đó, các hoạt động rèn luyện
kỹ năng nghe – nói cũng cần phải phù hợp, hấp dẫn, thu hút trẻ tham gia, thực hiện
hoạt động. Hình thức, môi trường hoạt động được thiết kế cần đảm bảo những điều
kiện để trẻ thực hiện các kĩ năng nghe – nói.
95
3.2. Biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng phát triển kỹ năng nghe
– nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi, các nguyên tắc xây dựng biện pháp phát triển
kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi, luận án đề xuất 3 nhóm biện pháp
với 8 biện pháp cụ thể để phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6
tuổi ở lớp mẫu giáo hòa nhập như sau: (1) Nhóm biện pháp điều kiện; (2) Nhóm
biện pháp phát triển KNNN trong các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở
lớp MGHN; (3) Nhóm biện pháp phát triển KNNN trong hoạt động hỗ trợ cá nhân.
Sơ đồ dưới đây minh họa hệ thống biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi ở lớp MGHN:
NHÓM BIỆN PHÁP ĐIỀU KIỆN
Biện pháp 1: Đánh giá mức phát triển KNNN và xây dựng kế hoạch phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính Biện pháp 2: Xây dựng môi trường phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính Biện pháp 3: Nâng cao năng lực phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính của giáo viên, cha mẹ
NHÓM BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KNNN TRONG HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ CÁ NHÂN
NHÓM BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KNNN TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG CHẾ ĐỘ SINH HOẠT HẰNG NGÀY Ở TRƯỜNG MẦM NON
Biện pháp 7: Sử dụng trò chơi để rèn luyện kỹ năng nghe cho trẻ khiếm thính Biện pháp 8: Rèn luyện khả năng phát âm và khả năng diễn đạt lời nói trôi chảy cho trẻ khiếm thính
Biện pháp 4: Lồng ghép các nội dung phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính trong các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở trường mầm non Biện pháp 5: Tạo tình huống có vấn đề cho trẻ khiếm thính thực hành, rèn luyện KNNN Biện pháp 6: Sử dụng các kỹ thuật phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính trong các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày
Sơ đồ 3.1. Biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
96
3.2.1. Nhóm biện pháp điều kiện trong phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính 3 – 6 tuổi
3.2.1.1. Biện pháp 1: Đánh giá mức phát triển kỹ năng nghe – nói và xây dựng kế
hoạch phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
a) Mục đích, ý nghĩa
Đánh giá mức phát triển KNNN và xây dựng kế hoạch phát triển KNNN cho
trẻ khiếm thính là khâu đầu tiên quan trọng của quá trình phát triển kỹ năng nghe –
nói cho trẻ khiếm thính. Việc đánh giá xác định đúng mức độ kỹ năng nghe – nói là
cơ sở để xác định mục tiêu, nội dung phát triển kỹ năng nghe - nói và lựa chọn các
biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói phù hợp với mỗi cá nhân trẻ.
Một kế hoạch được xây dựng tốt, đề ra các mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu dài
hạn, những nội dung, phương pháp và cách thức tiến hành một cách cụ thể, rõ ràng,
phù hợp với khả năng, nhu cầu, mức kỹ năng nghe – nói của trẻ, xác định rõ người
tham gia thực hiện sẽ giúp cho quá trình tổ chức phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính được thực hiện theo một quy trình thống nhất, giúp cho sự phối hợp giữa
cha mẹ và GV chặt chẽ và tích cực hơn để đạt được các mục tiêu phát triển kỹ năng
nghe – nói đã đề ra.
b) Nội dung
Giáo viên sử dụng các phương pháp quan sát, nghiên cứu hồ sơ, thu thập thông
tin từ gia đình và kiểm tra trực tiếp bằng công cụ đánh giá mức kỹ năng nghe – nói mà
đề tài đã xây dựng để xác định mức kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính theo từng
tiêu chí cụ thể. Từ đó định hướng cho việc xây dựng kế hoạch phát triển KNNN lồng
ghép trong bản kế hoạch giáo dục cá nhân của từng trẻ khiếm thính.
Kế hoạch phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính là một phương tiện trợ giúp
cho quá trình lên kế hoạch giảng dạy của giáo viên. Đó là cơ sở ban đầu của hệ
thống các biện pháp được lựa chọn để giải quyết những mục tiêu phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ trong một khoảng thời gian nhất định.
Kế hoạch phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính cần thể hiện đơn giản, dễ
hiểu, thể hiện các mục tiêu dài hạn, mục tiêu ngắn hạn và cụ thể các hoạt động phát
triển KNNN cho trẻ khiếm thính. Cấu trúc của bản kế hoạch phát triển kỹ năng nghe
– nói cho trẻ khiếm thính bao gồm:
+ Mô tả khái quát về mức phát triển KNNN hiện tại của trẻ
+ Mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn: Đó là các mục tiêu về phát triển
97
KNNN mà trẻ cần đạt được theo năm học, học kỳ, theo tháng và mục tiêu trong
từng ngày.
+ Các hoạt động và hình thức tổ chức hoạt động
+ Các biện pháp thực hiện: các cách thức cụ thể thực hiện hoạt động của cô
và trẻ trong các hoạt động.
+ Các đồ dùng, phương tiện cần chuẩn bị: bao gồm môi trường tổ chức hoạt
động, đồ dùng, đồ chơi và các phương tiện cần thiết cho việc tổ chức hoạt động phát
triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính.
+ Các lực lượng tham gia: lực lượng tham gia được xác định sẽ có nhiệm vụ
cùng nhau thống nhất tất cả các nội dung của kế hoạch và ký tên cam kết phối hợp
thực hiện kế hoạch. Ghi rõ trách nhiệm công việc và quyền hạn của mỗi thành viên
trong quá trình thực hiện kế hoạch.
+ Tiêu chí đánh giá kết quả phát triển KNNN của trẻ khiếm thính.
c) Cách tiến hành
* Đánh giá mức phát triển KNNN của trẻ khiếm thính
- Nghiên cứu hồ sơ của trẻ và phỏng vấn cha mẹ trẻ khiếm thính để tìm hiểu các
thông tin về tiền sử phát triển của trẻ, thời điểm phát hiện khiếm thính, mức độ mất
thính lực, điều kiện sử dụng thiết bị trợ thính, khả năng nghe khi sử dụng thiết bị trợ
thính, khả năng phát âm và sử dụng lời nói trong giao tiếp của trẻ khiếm thính.
Khi phỏng vấn cha mẹ trẻ khiếm thính, tùy vào nội dung muốn tìm hiểu, giáo
viên cần xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với đối tượng và mục đích phỏng vấn.
Cụ thể, giáo viên có thể sử dụng các câu hỏi gợi ý như sau:
✓ Trong gia đình trẻ có ai bị khiếm thính không?
✓ Quá trình mang thai có bình thường không?
✓ Trong khi sinh có gì bất thường không?
✓ Sau khi sinh sự phát triển của trẻ thế nào? (vận động, nhận thức, ngôn ngữ).
✓ Trẻ được phát hiện khiếm thính từ khi nào? Khiếm thính mức độ mấy?
✓ Tai nào của trẻ nghe tốt hơn?
✓ Trẻ có thiết bị trợ thính không? Thiết bị loại nào?
✓ Khi sử dụng thiết bị trợ thính, khả năng nghe của trẻ như thế nào?
✓ Tiếng nói của trẻ nghe dễ hay khó? Có phân biệt được các âm trong tiếng
nói của trẻ không? Khả năng sử dụng lời nói trong giao tiếp của trẻ như thế nào?
✓ Trong gia đình của trẻ ai là người chịu trách nhiệm nuôi dạy trẻ? Gia đình
thấy trẻ có những khó khăn gì, đã làm gì để đối phó với các khó khăn đó?...
98
- Sử dụng bảng đánh giá mức kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính 3 – 6
tuổi được đề xuất trong luận án để xác định rõ ràng và chính xác mức kỹ năng nghe
– nói của trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi.
- Quan sát tự nhiên tại lớp học của trẻ ở trường mầm non và ghi lại khả năng
nghe - nói của trẻ xuất hiện ở những hoàn cảnh khác nhau. Giáo viên có thể sử dụng
bảng quan sát mà luận án đã xây dựng để thu thập thông tin về mức phát triển kỹ
năng nghe – nói của trẻ khiếm thính. Cần quan sát trẻ từ hai đến ba lần, trong quá
trình quan sát cần ghi chép đầy đủ mọi việc xảy ra để có được thông tin đầy đủ,
trung thực về mức độ kỹ năng nghe – nói của trẻ.
- Bên cạnh đó, giáo viên nên tìm hiểu thêm về thể chất, khả năng nhận thức,
khả năng ngôn ngữ và giao tiếp của trẻ để trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp tác
động phù hợp.
- Tổng hợp kết quả đánh giá sẽ cho những thông tin đầy đủ, chính xác về
mức kỹ năng nghe – nói, khả năng và nhu cầu của trẻ khiếm thính, từ đó giáo viên
có thể lựa chọn mục tiêu, nội dung và các biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói
phù hợp giúp trẻ phát triển kỹ năng nghe - nói.
* Xây dựng kế hoạch phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
Hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính theo các bước:
(1) Phân tích/viết báo cáo về mức KNNN hiện tại của trẻ: với tất cả những
thông tin thu thập được từ quá trình đánh giá mức độ KNNN của trẻ khiếm thính,
giáo viên cần tổng hợp lại và phân tích thành một báo cáo ngắn gọn, hoàn chỉnh –
phần đầu của bản kế hoạch.
(2) Xác định mục tiêu: Để xác định mục tiêu phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính, đồng thời xác định được đâu là mục tiêu ưu tiên, đâu là mục
tiêu chưa ưu tiên cho trẻ trong mỗi giai đoạn, giáo viên cần căn cứ vào các yếu tố
như: Sự phát triển kỹ năng nghe – nói thông thường của trẻ nhỏ; chương trình
GDMN; mức độ KNNN hiện tại của trẻ khiếm thính; nhu cầu cần hỗ trợ của trẻ
trong thời gian tiếp theo; những khó khăn đi kèm; môi trường gia đình và trường
học hiện tại…
Mục tiêu được xác định từ mức độ kỹ năng hiện tại và giúp đỡ để trẻ đạt
được mức độ kỹ năng tiếp theo. Nếu các mục tiêu đặt ra cho trẻ khiếm thính nằm
nhiều ở vùng khả năng hiện tại của trẻ thì tức là mục tiêu đó quá dễ, trẻ đã có thể tự
99
làm được hoặc dễ dàng đạt được, đồng nghĩa với việc sẽ chậm mở rộng được vùng
khả năng hiện tại cũng như vùng phát triển gần. Ngược lại, nếu mục tiêu phát triển
KNNN đặt ra cho trẻ nằm nhiều ở vùng ngoài khả năng của trẻ thì tức là mục tiêu
đó quá khó, trẻ sẽ không thể đạt được kể cả khi được người lớn hỗ trợ, giúp đỡ, như
vậy mục tiêu chúng ta đặt ra cho trẻ không hiệu quả, không giúp cho trẻ phát triển.
Cách viết mục tiêu sẽ ảnh hưởng đến tiến trình thực hiện sau đó, kết quả đạt
được cũng như cách đánh giá, nhận xét và đưa ra mục tiêu cho giai đoạn tiếp theo.
Mục tiêu cần phải được xác định một cách cụ thể, rõ ràng (nêu được rõ ràng KNNN
mà trẻ cần hướng tới, dễ dàng chia nhỏ mục tiêu và lựa chọn hoạt động); có thể đo
được (lượng hoá và đánh giá được); có tính khả thi (phù hợp với khả năng của trẻ,
nằm trong vùng phát triển gần và có thể đạt được trong khoảng thời gian đặt ra khi
sử dụng các chiến lược phù hợp); phải thực tế, hữu ích (hướng đến những kỹ năng
mà trẻ có thể được trải nghiệm trực tiếp trong cuộc sống hàng ngày, có thể ứng
dụng để phục vụ cho chính cuộc sống của trẻ, phù hợp với môi trường sống, văn
hóa và nhu cầu của trẻ và gia đình; được đặt trong mối quan hệ tổng thể với những
kiến thức, kỹ năng khác; có thời hạn (thời gian phù hợp để đạt được mục tiêu).
(3) Lựa chọn nội dung, hình thức tổ chức hoạt động phù hợp với mục tiêu
đặt ra
Các hoạt động phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính được lựa
chọn cần phù hợp với mức độ kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính, phù hợp với
mục tiêu đề ra trong bản kế hoạch. Hình thức tổ chức hoạt động cần phù hợp với
khả năng, nhu cầu, hứng thú của trẻ. Giáo viên cần phải chú ý xây dựng những nội
dung - những mẫu kỹ năng nghe - nói tương ứng và dẫn dắt trẻ thực hiện được mẫu
hành vi - kỹ năng đó. Ví dụ giáo viên có thể xây dựng một câu chuyện tương ứng
với chủ đề chơi, trong đó diễn ra những cuộc đối thoại, những hành vi mà các nhân
vật trong câu chuyện thực hiện. Sau đó, giáo viên khéo léo tổ chức để trẻ tái hiện lại
những cuộc đối thoại, những mẫu hành vi - kỹ năng đó trong chủ đề chơi.
(4) Lựa chọn các biện pháp thực hiện:
Tùy thuộc vào đặc điểm của mỗi trẻ, nhu cầu và các mục tiêu đặt ra mà
giáo viên lựa chọn các biện pháp, chiến lược phù hợp và phân tích chúng trong kế
hoạch, ai sẽ là người chịu trách nhiệm cho mỗi công việc. Cần sử dụng phối hợp các
biện pháp tổ chức hoạt động phát triển KNNN khác nhau nhằm đáp ứng các nhu cầu
riêng của mỗi trẻ khiếm thính.
100
(5) Dự tính các đồ dùng, phương tiện cần thiết để tổ chức hoạt động:
Tùy thuộc vào nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức hoạt động đã xác định,
giáo viên cần dự tính về địa điểm tổ chức hoạt động, đảm bảo môi trường nghe yên
tĩnh cho trẻ khiếm thính, dự kiến thời gian tổ chức, đồ dùng, đồ chơi cần chuẩn bị
đảm bảo vệ sinh, thẩm mỹ, đủ về số lượng, phong phú về chủng loại…
(6) Xác định lực lượng tham gia:
Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính cần
có sự tham gia của nhiều lực lượng (giáo viên, cha mẹ trẻ khiếm thính, nhân viên hỗ
trợ, chuyên gia trị liệu…), trong đó sự tham gia của giáo viên và cha mẹ là đặc biệt
quan trọng. Giáo viên và cha mẹ cần phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình xây
dựng và thực hiện kế hoạch phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính, giáo viên sẽ là cầu
nối cho các cuộc họp bàn kế hoạch phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
(7) Xác định kế hoạch đánh giá:
Tùy thuộc vào thời gian thực hiện kế hoạch và thời gian thực hiện các mục
tiêu ngắn mà giáo viên xác định kế hoạch đánh giá không chính thức và đánh giá
chính thức định kỳ. Ví dụ, khi đến thời hạn kết thúc mục tiêu dài hạn sẽ tiến hành
đánh giá chính thức và có những đánh giá không chính thức định kỳ mỗi tháng một
lần. Ai sẽ là người tiến hành đánh giá và đánh giá bằng công cụ gì.
d) Điều kiện thực hiện
- Giáo viên phải nghiên cứu nắm vững lý luận về đặc điểm chung của trẻ khiếm
thính và đặc điểm phát triển kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính, đồng thời cần có
hiểu biết về mức độ phát triển KNNN của trẻ em nói chung để thực sự am hiểu vấn đề và
đưa ra những kết luận khách quan, chính xác.
- Để có kết quả đánh giá tốt và khách quan thì giáo viên nên chuẩn bị địa
điểm, công cụ, thời gian, tâm lý đánh giá phù hợp, đảm bảo môi trường nghe yên
tĩnh và trẻ hợp tác với giáo viên trong quá trình đánh giá. Cần đánh giá một cách
cẩn thận mới đi đến kết luận, không nên đánh giá vội vàng. Khi đưa ra kết luận về
kết quả đánh giá nên tư vấn, đưa ra các hướng giải quyết để giúp cha mẹ định
hướng lựa chọn một cách tốt nhất để can thiệp và chăm sóc, giáo dục trẻ.
- Kế hoạch phát triển KNNN cho trẻ phải được cụ thể ở kế hoạch hoạt động,
kế hoạch ngày, kế hoạch tháng, kế hoạch năm và phải có sự trao đổi giữa GV, cha
mẹ và nhà trường để cùng đi đến một thống nhất chung trong quá trình chăm sóc,
giáo dục trẻ.
101
3.2.1.2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính
a) Mục đích, ý nghĩa
Môi trường giáo dục là tập hợp những không gian, những hoạt động xã hội và
cá nhân, những phương tiện giao lưu, những quá trình phối hợp lại với nhau và tạo điều
kiện thuận lợi để đạt những kết quả giáo dục có hiệu quả nhất. Môi trường giáo dục
trong nhà trường, theo nghĩa tổng thể, bao gồm các yếu tố của môi trường vật chất và
yếu tố của môi trường tâm lý – xã hội. Thiết kế môi trường là một biện pháp hữu hiệu
cho việc hỗ trợ, tăng cường sự tham gia của trẻ, giúp trẻ khiếm thính có thể tự tin, độc
lập, hứng thú trong việc lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng. Việc thiết kế môi trường
phù hợp, đảm bảo sự yên tĩnh và các điều kiện về ánh sáng, không gian, giàu kích thích
ngôn ngữ sẽ giúp sẽ tạo cơ hội cho sự giao lưu, tương tác giữa trẻ khiếm thính với các
trẻ nghe bình thường, tạo cơ hội nảy sinh các tình huống phải sử dụng các KNNN, giúp
trẻ khiếm thính hình thành và phát triển KNNN.
b) Nội dung
Việc thiết kế môi trường phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính trước hết cần
đảm bảo một số yêu cầu chung như: môi trường phải an toàn, thuận tiện, đảm bảo
đủ ánh sáng, âm thanh, không gian lớp học, đảm bảo vệ sinh, hấp dẫn, tạo cơ hội
cho trẻ khám phá, trao đổi, chia sẻ.
Ngoài ra, cần thiết kế môi trường vật chất bảo đảm môi trường nghe yên tĩnh
cho trẻ khiếm thính, đảm bảo trẻ khiếm thính được ngồi ở vị trí gần GV để có thể
nghe tốt âm thanh lời nói của GV và dễ dàng quan sát hình miệng, cử chỉ điệu bộ
của GV, sắp xếp không gian lớp học, tạo không gian ngôn ngữ, lựa chọn và sắp xếp
đồ dùng, đồ chơi, phương tiện kỹ thuật phù hợp để khuyết khích trẻ học và phát
triển KNNN.
Thêm vào đó, về môi trường tâm lý – xã hội, cần quan tâm đến việc tạo bầu
không khí lớp học thoải mái, thân thiện, thường xuyên có sự tương tác qua lại giữa
GV và trẻ, giữa trẻ khiếm thính và các trẻ nghe bình thường, từ đó tạo cơ hội cho trẻ
khiếm thính được rèn luyện, phát triển KNNN.
c) Cách tiến hành
* Xem xét các yếu tố sẵn có của môi trường lớp học
Xem xét, đánh giá lại các yếu tố môi trường lớp học, đánh giá những yếu tố
phù hợp và những yếu tố chưa phù hợp. Thiết kế và điều chỉnh các yếu tố của từng
102
môi trường, ưu tiên các yếu tố dễ tác động hơn và có ảnh hưởng đến quá trình phát
triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
Tận dụng các yếu tố sẵn có, lợi thế của môi trường lớp học, mạnh dạn đề xuất và
kêu gọi sự hỗ trợ, hợp tác từ các phía như lãnh đạo nhà trường, hội cha mẹ... trong việc
đầu tư cơ sở vật chất, đóng góp nhân lực, phối hợp cùng tổ chức các hoạt động với GV
trong quá trình phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
* Tạo môi trường nghe yên tĩnh cho trẻ khiếm thính
Đối với trẻ khiếm thính sử dụng thiết bị trợ thính, chất lượng âm thanh mà trẻ
nghe được phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố môi trường. Việc tạo ra một môi trường nghe
tốt cần đảm bảo một số yếu tố cơ bản sau: (1) Một môi trường yên tĩnh, ít tiếng ồn
xung quanh sẽ tạo điều kiện cho trẻ khiếm thính nghe rõ hơn. Nếu môi trường ồn ào,
việc tập trung vào âm thanh lời nói của trẻ khiếm thính sẽ vô cùng khó khăn; (2)
Khoảng cách tiếp cận để trẻ khiếm thính nghe rõ lời giáo viên là 1 mét.
Để tạo môi trường nghe yên tĩnh cho trẻ khiếm thính trong lớp MGHN, giáo
- Sử dụng phòng học ở khu yên tĩnh nhất của trường. Lớp học hoặc phòng
viên có thể hạn chế tiếng ồn trong lớp bằng các cách:
học có trẻ khiếm thính nên sử dụng cửa kính nhằm giảm tiếng ồn từ phía ngoài tác
- Giáo viên cũng nên chú ý đến các đồ vật phát ra âm thanh như ti vi, radio,
động vào. Nếu có tiếng ồn từ bên ngoài có thể hạn chế bằng cách đóng kín cửa.
quạt, đèn chiếu... Điều chỉnh âm thanh phát ra từ tivi, radio... nếu giáo viên muốn
- Để giảm bớt tiếng vang, nên sử dụng các vật liệu hút âm thanh trong phòng
trẻ khiếm thính lắng nghe lời hướng dẫn của giáo viên hoặc các bạn khác trong lớp.
như trải thảm, chiếu trên sàn nhà, tường treo rèm vải dày, đặt tấm hút âm (ví dụ:
tấm xốp cách trần khoảng 0,5m và đặt vào các bức tường), trải khăn bàn trên bàn
- Sử dụng những miếng đệm bằng cao su cho chân bàn ghế, nhằm làm giảm
khi trẻ chơi.
- Phân chia không gian trong lớp thành các khu vực yên tĩnh và khu vực có
các tiếng ồn khi kéo ghế, kéo bàn trong lớp học.
nhiều tiếng ồn để hạn chế sự ảnh hưởng giữa các góc chơi.
* Đảm bảo các điều kiện về ánh sáng, không gian
Trong lớp học có trẻ khiếm thính luôn phải đảm bảo có đủ ánh sáng để trẻ
quan sát khuôn mặt, hình miệng và cử chỉ điệu bộ của giáo viên. Cần đảm bảo độ
sáng vừa phải để trẻ không bị chói mắt, mỏi mắt, sức nhìn không bị ảnh hưởng. Ánh
103
sáng chiếu đến khuôn mặt giáo viên và các trẻ khác phải thuận chiều, đủ để trẻ nhìn
thấy hình miệng, cử chỉ điệu bộ của giáo viên.
Vị trí ngồi của trẻ khiếm thính trong lớp rất quan trọng. Vị trí thích hợp của
trẻ khiếm thính là ngồi gần giáo viên (trong vòng 1m), ánh sáng chiếu đến trẻ từ hai
bên, có thể nhìn thấy và nghe giáo viên, các bạn trong lớp nói một cách dễ dàng.
Sắp xếp vị trí của trẻ khiếm thính trong lớp hợp lý cũng có thể tạo điều kiện cho
việc hỗ trợ lẫn nhau giữa trẻ khiếm thính và trẻ nghe bình thường trong lớp. Trẻ
khiếm thính nên được ngồi xen kẽ với các trẻ nghe bình thường để dễ quan sát các
bạn, nghe các bạn nói và như vậy các trẻ nghe bình thường trong lớp có thể giúp trẻ
khiếm thính hiểu những gì đang diễn ra ở xung quanh và nhắc lại hướng dẫn của
giáo viên...
* Tạo môi trường giàu kích thích ngôn ngữ
Để tạo môi trường giàu kích thích ngôn ngữ, giáo viên có thể trang trí các
góc chơi theo từng chủ đề thông qua việc thu thập tranh ảnh, vật thật, mô hình…
Việc trang trí có thể thực hiện khi bắt đầu chủ đề mới và tiếp tục phát triển trong
suốt quá trình thực hiện chủ đề bằng cách bổ sung các sản phẩm hoạt động của trẻ.
Điều này sẽ khuyến khích trẻ giao tiếp, chia sẻ với GV và các trẻ nghe bình thường,
tăng cơ hội học rèn luyện và củng cố KNNN của trẻ khiếm thính.
Lựa chọn đa dạng đồ dùng, đồ chơi phù hợp với mức độ, khả năng của trẻ
khiếm thính và sắp xếp một cách hợp lý, khoa học để kích thích trẻ tương tác, phát
triển KNNN. Các đồ dùng, đồ chơi phải lựa chọn phù hợp với từng lứa tuổi, từng
chủ điểm, chủ đề, khuyến khích tất cả các hoạt động như toán, tạo hình, âm nhạc,
thơ, truyện, môi trường xung quanh, các mức độ và nội dung giao tiếp khác nhau và tất
cả các lĩnh vực phát triển. Ở mỗi lớp học cần có sự đa dạng về chủng loại đồ dùng đồ
chơi như: vật thật, tranh, ảnh, mô hình, đồ chơi gỗ, đồ chơi xếp hình, thẻ lô tô.... Bên
cạnh đó cần trang bị thêm những vật liệu như ở góc đóng vai, ở đó có kéo, dây đo, vải để
trẻ thể hiện ý tưởng trong trò chơi may đo hoặc bút, thước, vở để trẻ thể hiện ý tưởng
trong trò chơi cô giáo. Cần trang bị thêm các đồ dùng, đồ chơi để trẻ chơi các trò chơi xã
hội như người đưa thư, lái xe, bác sỹ, y tá, bệnh nhân, nông dân, công nhân... kích thích
và khuyến khích trẻ tham gia trò chơi bắt chước, đóng vai. Đó là cơ hội quan trọng để
hình thành và phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
Đồ dùng, đồ chơi nên để ở trạng thái mở, vừa tầm với trẻ và có sắp xếp theo
từng nhóm để trẻ dễ tìm kiếm và sử dụng.
104
* Xây dựng môi trường giao tiếp thân thiện, tích cực
Giáo viên cần xây dựng môi trường giao tiếp thân thiện, hòa đồng, cởi mở
giữa cô và trẻ, giữa trẻ khiếm thính với trẻ nghe bình thường, tạo cho trẻ khiếm
thính tâm thế thoải mái, vui vẻ, tích cực tham gia các hoạt động rèn luyện KNNN.
Để giúp trẻ khiếm thính thiết lập mối quan hệ với các trẻ nghe bình thường, giáo
viên có thể:
- Giúp trẻ khiếm thính nhận biết cảm xúc của người khác và có phản ứng
thích hợp với các trạng thái cảm xúc đó.
- Hướng dẫn trẻ khiếm thính điều chỉnh lời nói, hành vi để được chấp nhận
trong lớp.
- Giúp trẻ khiếm thính có cảm nhận tích cực về bản thân thông qua việc
giao cho trẻ những nhiệm vụ phù hợp để trẻ có thể thành công.
- Giúp các trẻ nghe bình thường trong lớp biết cách hỗ trợ trẻ khiếm thính
trong những tình huống cụ thể như: nhắc lại yêu cầu cho trẻ khiếm thính, hỗ trợ trẻ
khiếm thính thực hiện hoạt động…
- Thu hút trẻ vào các hoạt động nhóm và tăng cường cơ hội tương tác giữa
các trẻ với nhau trong quá trình hoạt động nhóm.
d) Điều kiện thực hiện
Cần có một cơ chế ràng buộc trách nhiệm giữa nhà trường với gia đình
và xã hội trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng, đồ
chơi cho công tác giáo dục hòa nhập trẻ khiếm thính. Đánh giá đúng tiềm năng
xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường; Xác định được những khó khăn trong
quá trình xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường nói chung, trong việc xây
dựng cơ sở vật chất cho việc tổ chức hoạt động phát triển KNNN nói riêng.
Tạo môi trường thân thiện cho trẻ cần được tổ chức ở mọi lúc, mọi nơi. GV
cần tạo ra mối quan hệ thân mật, gần gũi của mình với trẻ thể hiện qua giọng nói
thiện cảm, sự ủng hộ tinh thần khi thất bại hoặc thành công đối với trẻ. Trong quá
trình tham gia hoạt động, nếu trẻ thực hiện một thao tác, kỹ năng nào đó chưa thuần
thục hoặc thực hiện một nhiệm vụ nào đó chưa thành công, giáo viên nên tỏ thái độ
ân cần, động viên khuyến khích trẻ. Mối quan hệ giữa GV và trẻ là mối quan hệ
tương tác, chia sẻ không mang tính áp đặt.
Trẻ nghe bình thường trong lớp cần được hướng dẫn để chấp nhận và có
những hỗ trợ phù hợp với trẻ khiếm thính.
105
3.2.1.3. Biện pháp 3: Nâng cao năng lực phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính của giáo viên, cha mẹ
a) Mục đích, ý nghĩa
Giáo viên và cha mẹ trẻ khiếm thính có vai trò rất quan trọng trong việc
giáo dục và phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính. Họ vừa là chủ thể thực hiện
hoạt động phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính, vừa là người xây dựng mục
tiêu, lựa chọn nội dung, hình thức, biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính ở lớp MGHN và ở gia đình để tạo nên sự phối kết hợp giữa nhà trường và
gia đình nhằm tạo môi trường thuận lợi nhất giúp trẻ phát triển KNNN.
Trọng tâm của việc nâng cao năng lực phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
của giáo viên, cha mẹ là giúp họ có những kiến thức cơ bản về đặc điểm tâm sinh
lý, đặc điểm phát triển KNNN của trẻ khiếm thính và giáo dục phát triển KNNN
cho trẻ khiếm thính; có kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức các hoạt động nhằm phát
triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
b) Nội dung
Để nâng cao năng lực phát triển KNNN cho khiếm thính trong lớp MGHN thì
trước hết giáo viên phải nhận thức được đúng đắn tầm quan trọng của lời nói và KNNN
đối với sự phát triển nhân cách của trẻ khiếm thính. Tiếp đó là nhận thức được những
yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển KNNN của trẻ khiếm thính. Trên cơ sở hiểu biết đó,
giáo viên cần không ngừng rèn luyện hành vi và kỹ năng của bản thân để tổ chức các
hoạt động phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính thông qua việc tham gia các khóa đào
tạo, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng với những nội dung cụ thể như:
- Những tri thức lý thuyết về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ khiếm thính 3 - 6
tuổi, đặc điểm ngôn ngữ và mức độ KNNN của trẻ khiếm thính.
- Những vấn đề lý luận về KNNN và phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3
– 6 tuổi.
- Các kỹ thuật, cách thức phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính dựa trên đặc
điểm KNNN của các em.
Thêm vào đó, giáo viên cần hướng dẫn cho cha mẹ cách thức giao tiếp, phát triển
KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi tại gia đình với các nội dung chủ yếu sau:
- Hỗ trợ tâm lý: Giáo viên cần tạo dựng niềm tin, nâng cao lòng tự trọng cho
cha mẹ trẻ khiếm thính, giúp họ hiểu rằng họ hoàn toàn có khả năng phát triển
KNNN cho chính con mình.
106
- Cung cấp thông tin cho cha mẹ về:
+ Vai trò của cha mẹ và hoạt động chăm sóc, giáo dục của cha mẹ đối với sự
phát triển của trẻ, đặc biệt là sự phát triển KNNN.
+ Trẻ khiếm thính, đặc điểm về ngôn ngữ và giao tiếp, KNNN của trẻ khiếm
thính và sự phát triển bình thường.
+ Cách thức giao tiếp, phát triển KNNN phù hợp và hiệu quả với trẻ khiếm
thính, bao gồm: đối xử với trẻ một cách tích cực, chơi và trò chuyện phù hợp với sở
thích và mức độ KNNN của trẻ, vận dụng những tình huống hằng ngày, môi trường
xung quanh, lựa chọn các hoạt động và trò chơi phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của trẻ để giao tiếp và phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
- Hướng dẫn kĩ năng cho cha mẹ: Cha mẹ không chỉ cần được cung cấp thông
tin mà còn cần phải được hướng dẫn kĩ năng chăm sóc – giáo dục trẻ, đặc biệt là các kĩ
năng giao tiếp, phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính như: kỹ năng giao tiếp phù hợp
với sở thích, mức độ KNNN của trẻ, kỹ năng tạo sự kích thích, các hoạt động và trò
chơi phù hợp với từng giai đoạn phát triển của trẻ.
c) Cách tiến hành
* Nâng cao năng lực phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính của giáo viên
Để nâng cao năng lực phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính, bản thân giáo
viên cần:
- Lập kế hoạch tự học tập, bồi dưỡng thường xuyên những vấn đề lý luận về
GDHN trẻ khiếm thính, về đánh giá mức độ KNNN của trẻ khiếm thính và phát
triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
- Tìm kiếm tài liệu hướng dẫn GDHN trẻ khiếm thính lứa tuổi mầm non nói
chung và phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính nói riêng để tự bồi dưỡng kiến thức,
kỹ năng của bản thân.
- Tham gia sinh họat chuyên đề các nội dung về trẻ khiếm thính và phát triển
KNNN cho trẻ khiếm thính.
- Tự kiểm tra, đánh giá định kỳ việc thực hiện các kỹ năng, áp dụng các kiến
thức của GVMN trong quá trình thực hiện GDHN trẻ khiếm thính nói chung và phát
triển KNNN cho trẻ khiếm thính nói riêng.
- Chia sẻ kinh nghiệm giáo dục và không ngừng học tập rèn luyện kiến thức,
kỹ năng để làm điểm tựa vững chắc cho việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
107
Một trong những qui luật của việc hình thành kỹ năng là phải được tập luyện một
cách thường xuyên và lặp đi lặp lại nhiều lần. Vì vậy, bản thân giáo viên cần ý thức
được một cách sâu sắc việc không ngừng học tập nâng cao trình độ và chia sẻ kinh
nghiệm giáo dục thì mới ngày càng làm tốt hơn việc phát triển KNNN cho trẻ
khiếm thính và những nhiệm vụ giáo dục khác.
- Phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính là một hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo
cao, không thể ngày một ngày hai dễ dàng phát triển KNNN cho mỗi trẻ mà GV cần
phải có nhiệt huyết, có tính kiên trì và không ngừng sáng tạo, tích luỹ kinh nghiệm,
do đó giáo viên cần thường xuyên tự học tập, bồi dưỡng tổng kết kinh nghiệm và viết
sáng kiến giáo dục nói chung, phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính riêng.
* Hướng dẫn cha mẹ nâng cao năng lực phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
- Trao đổi, trò chuyện với cha mẹ:
Giáo viên có thể thực hiện các cuộc trao đổi, trò chuyện với cha mẹ trẻ
khiếm thính trong thời gian cha mẹ đưa trẻ tới trường, đón trẻ về nhà, đồng thời cả
thời gian đến thăm gia đình trẻ để cung cấp cho cha mẹ những kiến thức và kỹ năng
giao tiếp, phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính. Trong lúc trò chuyện với cha mẹ,
cần nắm được trẻ thường gần gũi, giao tiếp với ai trong gia đình nhất, cách thức
giao tiếp của cha mẹ với trẻ khiếm thính, những biện pháp phát triển KNNN nào
thường được sử dụng với trẻ tại gia đình.
- Hướng dẫn cha mẹ tại gia đình/nhà trường:
Hướng dẫn cha mẹ tại gia đình/nhà trường là hình thức phổ biến để hỗ trợ
cho cha mẹ trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ khiếm thính. Khi hướng dẫn cha mẹ,
giáo viên cần: (i) quan sát quá trình giao tiếp giữa cha mẹ và trẻ, phát hiện ra những
điểm mạnh, điểm yếu của cha mẹ trong qúa trình giao tiếp với trẻ; (ii) phân tích và
trình bày rõ cho cha mẹ các kiến thức, kỹ năng giao tiếp phù hợp và tổ chức các
hoạt động phát triển KNNN với trẻ khiếm thính; (iii) làm mẫu cho cha mẹ về các kỹ
năng, cho cha mẹ thực hành các kỹ năng với sự hướng dẫn: Giáo viên có thể thực
hiện hoạt động với trẻ 2 – 3 lượt, sau đó chuyển hoạt động sang cho cha mẹ. Khi
cha mẹ thực hành, cần cố gắng tìm ra những điểm tích cực, nếu cha mẹ chưa làm
đúng cần hướng dẫn lại hoặc gợi ý cách điều chỉnh cho cha mẹ; (iv) cha mẹ thực
hành độc lập: giúp cho cha mẹ thực hành các kỹ năng cho đến khi họ cảm thấy thoải
mái mà không cần sự hỗ trợ, gợi ý của giáo viên.
108
Hoạt động hướng dẫn cho cha mẹ có thể được thực hiện định kỳ theo tháng
hoặc theo quý. Trong quá trình hướng dẫn, cần sử dụng phối kết hợp nhiều phương
pháp để huy động sự tham gia của cha mẹ, sử dụng hình ảnh/băng hình minh họa
hoặc làm mẫu để giúp cha mẹ hiểu rõ hơn về vấn đề giao tiếp, phát triển KNNN với
trẻ khiếm thính, dành nhiều thời gian cho cha mẹ được trao đổi, thảo luận và trình
bày quan điểm, đưa ra các vấn đề mình thường gặp phải trong quá trình giao tiếp
với trẻ và cùng tìm cách giải quyết. Tạo cơ hội cho cha mẹ được luyện tập, thực
hành các kỹ năng giao tiếp, phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính. Việc quay lại các
đoạn giao tiếp và cùng cha mẹ phân tích cách thức, kỹ năng giao tiếp của cha mẹ và
trẻ khiếm thính là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp của cha
mẹ với trẻ khiếm thính
- Thiết kế tài liệu hướng dẫn cha mẹ: Một trong những hình thức phổ biến để
cung cấp thông tin cho cha mẹ là biên soạn tài liệu hướng dẫn cha mẹ. Khi xây
dựng tài liệu hướng dẫn cha mẹ giao tiếp, phát triển KNNN với trẻ khiếm thính 3 –
6 tuổi cần lưu ý:
+ Về nội dung: Nội dung của tài liệu hướng dẫn bao gồm những kiến thức và
kỹ năng cha mẹ cần có để giao tiếp với trẻ khiếm thính và giúp trẻ phát triển
KNNN. Các nội dung này cần được chọn lọc sao cho phù hợp với đặc điểm của cha
mẹ trẻ khiếm thính.
+ Về hình thức: Tài liệu phải được thiết kế một cách khoa học, thông tin
ngắn gọn, rõ ràng; sử dụng ngôn ngữ thông dụng để giúp cha mẹ dễ dàng tiếp nhận,
ghi nhớ và thực hành theo.
d) Điều kiện thực hiện
Nhà trường cần phải nắm bắt nhu cầu về nội dung và phương thức học tập, tự
bồi dưỡng của giáo viên, tìm kiếm các nguồn lực thực hiện biện pháp (sự hỗ trợ về
vật chất của các tổ chức, đoàn thể, và cá nhân ở địa phương);
Quan tâm, tạo điều kiện tăng cường mối quan hệ, liên hệ giữa giáo viên – cha
mẹ trẻ và các chuyên gia, các nhà giáo dục trẻ khiếm thính và các trường sư phạm.
Cha mẹ phải nhận thức được vai trò hết sức quan trọng của mình đối với quá
trình giáo dục trẻ khiếm thính, phải dành thời gian giao tiếp, tương tác, giáo dục con
thường xuyên hằng ngày, có ý thức phối hợp thực hiện với giáo viên theo kế hoạch
giáo dục đã đề ra, giúp trẻ phát triển KNNN.
109
3.2.2. Nhóm biện pháp phát triển KNNN trong các hoạt động trong chế độ sinh
hoạt hằng ngày ở lớp mẫu giáo hòa nhập
3.2.2.1. Biện pháp 4: Lồng ghép nội dung phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm
thính trong các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở trường mầm non
a) Mục đích, ý nghĩa
Trong lớp mẫu giáo hòa nhập, giáo viên có thể lồng ghép mục tiêu, nội dung
phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính trong nhiều hoạt động khác nhau
như: Giao tiếp trong sinh hoạt hằng ngày; đọc sách, thơ, truyện; kể chuyện; hoạt
động vui chơi; hoạt động trải nghiệm… Những hoạt động này diễn ra thường
xuyên, hằng ngày là cơ hội rất tốt để trẻ rèn luyện, phát triển kỹ năng nghe – nói.
Khi tổ chức các hoạt động này, giáo viên cần cân nhắc đến đặc điểm, khả
năng nhận thức, mức độ KNNN của trẻ khiếm thính để có những điều chỉnh phù
hợp trong quá trình tổ chức hoạt động, giúp trẻ khiếm thính đạt được các mục tiêu
phát triển KNNN theo mục tiêu đã đặt ra.
b) Nội dung
Trong chương trình GDMN, giáo viên cần lựa chọn các hoạt động phù hợp
để lồng ghép mục tiêu, nội dung phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính như: hoạt
động giao tiếp hằng ngày, hoạt động làm quen với tác phẩm văn học, hoạt động vui
chơi, hoạt động trải nghiệm…
Khi tổ chức các hoạt động này, giáo viên cần điều chỉnh cách tổ chức hoạt
động, cách giao tiếp, cách hướng dẫn, gợi ý sao cho phù hợp với khả năng nhận
thức, mức độ KNNN của trẻ khiếm thính, giúp trẻ khiếm thính có thể tham gia vào
hoạt động để phát triển KNNN mà không ảnh hưởng đến các trẻ nghe bình thường ở
trong lớp.
c) Cách tiến hành
* Lựa chọn hoạt động phù hợp để phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
Giáo viên có thể phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính trong các hoạt động như:
- Hoạt động vui chơi:
Hoạt động vui chơi sẽ kích thích và tạo điều kiện cho trẻ khiếm thính được
tương tác với các trẻ nghe bình thường trong lớp, trẻ không cảm thấy đang bị bắt
buộc, không cảm thấy tự ti. Đồng thời làm gia tăng khả năng học tập một cách tự
nhiên hiệu quả nhất, tạo nền tảng cho sự phát triển các kỹ năng trong đó có KNNN.
Giáo viên cần lựa chọn các trò chơi liên quan đến chủ đề, đảm bảo mục tiêu
110
của trò chơi liên quan đến bài học, xác định các KNNN phù hợp với hoạt động chơi.
Giáo viên có thể tổ chức nhiều loại trò chơi khác nhau như: trò chơi đóng vai theo
chủ đề, trò chơi đóng kịch, trò chơi xây dựng, trò chơi học tập… để giúp trẻ khiếm
thính phát triển KNNN.
Khi tổ chức trò chơi, giáo viên cần gợi ý cho trẻ khiếm thính chọn nhóm
chơi, bạn chơi, hướng dẫn trẻ thỏa thuận chơi cùng các bạn. Quan sát trẻ khiếm
thính trong quá trình chơi để thấy rõ việc thực hành KNNN của trẻ và có những hỗ
trợ phù hợp với từng trẻ: Trước tiên, giáo viên có thể gợi ý, hướng dẫn thông qua
các cử chỉ phi ngôn ngữ (như gật đầu, mỉm cười khích lệ trẻ bằng hành động...), sau
đó nâng dần sự hỗ trợ thông qua giao tiếp bằng ngôn ngữ (lời gợi ý, chỉ dẫn...). Nếu
trẻ vẫn chưa biết cách tham gia trò chơi thì GV có thể làm mẫu, đóng một vai trong
trò chơi để qua vai chơi và lời nói của mình, GV hướng dẫn trẻ khiếm thính biết
cách diễn đạt, xử lý tình huống để trò chơi được tiếp tục một cách hấp dẫn hơn.
Đối với các trò chơi học tập để phát triển KNNN, giáo viên cần chú ý đến
mức độ yêu cầu của trò chơi sao cho phù hợp với khả năng của trẻ khiếm thính, giải
thích và minh họa rõ ràng luật chơi, cách chơi với trẻ, nhắc lại vài lần cho trẻ hiểu.
Giáo viên cũng có thể cho các trẻ nghe bình thường chơi thử 2 – 3 lần để trẻ khiếm
thính hiểu và tham gia chơi, yêu cầu một số trẻ nghe bình thường trong lớp thực
hiện trước, cho trẻ khiếm thính quan sát. Khi trẻ khiếm thính hứng thú, hiểu và chơi
được thì cần đổi lại vị trí, cứ thế cho trẻ chơi luân phiên.
- Hoạt động làm quen với tác phẩm văn học
Làm quen với tác phẩm văn học là hoạt động có nhiều ưu thế để phát triển
KNNN cho trẻ khiếm thính. Trong hoạt động này, trẻ khiếm thính có cơ hội để lắng
nghe, mở rộng vốn từ, ghi nhớ những chi tiết của tác phẩm, trả lời các câu hỏi liên
quan đến nội dung tác phẩm. Khi tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học
ở lớp MGHN, giáo viên nên sử dụng truyện tranh, truyện cổ tích, các bài thơ, ca
dao, đồng dao trong tuyển tập trò chơi, bài hát, thơ truyện của từng độ tuổi, đồng
thời có sự điều chỉnh nội dung cho phù hợp với khả năng của trẻ khiếm thính, với
những tác phẩm có nội dung quá dài, phức tạp cần đơn giản hóa nội dung.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần sưu tầm thêm các tác phẩm có nội dung
đơn giản, gần gũi, quen thuộc với trẻ khiếm thính như con vật, thói quen hằng
ngày, có tranh ảnh minh họa, có nhiều câu, từ được lặp đi lặp lại để giúp trẻ dễ
ghi nhớ nội dung.
111
Khi tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học, giáo viên cần đảm
bảo thiết bị trợ thính của trẻ hoạt động tốt, môi trường nghe yên tĩnh để trẻ khiếm
thính có thể nghe được tác phẩm. Trong khi đọc tác phẩm, giáo viên cần điều chỉnh
ngữ điệu và âm lượng phù hợp, biểu diễn, thể hiện cảm xúc thông qua nét mặt, điệu
bộ, bắt chước giọng nói của các nhân vật, tạo điều kiện cho trẻ đọc hình miệng.
Không nên đọc tất cả những nội dung ghi trên trang sách mà chắt lọc những ý chính
mà trẻ có thể hiểu được và diễn đạt bằng ngôn ngữ đơn giản. Sử dụng giáo cụ trực
quan (như tranh ảnh, sa bàn, video, rối tay các nhân vật…) để tác phẩm văn học trở
nên sinh động, hấp dẫn, thu hút sự chú ý của trẻ khiếm thính. Bên cạnh đó, giáo
viên cũng cần nhắc lại và nhấn mạnh những từ có ý nghĩa then chốt trong tác phẩm.
Liên hệ những chi tiết, nội dung của tác phẩm với bản thân trẻ, các sự vật, hiện
tượng xung quanh trẻ.
Khuyến khích trẻ cùng tham gia vào hoạt động bằng cách thường xuyên đặt
ra những câu hỏi, những tình huống xoay quanh nội dung tác phẩm để trẻ trả lời,
thảo luận về các tình tiết. Cho trẻ khiếm thính đọc/kể lại những chi tiết dễ, lặp đi lặp
lại trong tác phẩm thông qua tranh, kể tiếp nối nội dung tác phẩm cùng GV, khuyến
khích trẻ tự đọc, tự kể lại tác phẩm hoặc đóng vai các nhân vật trong tác phẩm để kể
lại nội dung tác phẩm.
- Hoạt động trải nghiệm
Khi tham gia các hoạt động trải nghiệm, trẻ khiếm thính được tận mắt chứng
kiến những sự vật hiện tượng trong thế giới tự nhiên, xã hội; được sờ, được ngửi, được
giao tiếp trực tiếp với mọi người xung quanh, giúp trẻ rèn luyện và phát triển KNNN.
Khi tổ chức cho trẻ khiếm thính tham gia vào các hoạt động làm quen với
môi trường xung quanh, hoạt động ngoài trời, giáo viên cần chuẩn bị tâm thế để trẻ
hứng thú tham gia hoạt động bằng cách cho trẻ xem trước hình ảnh nơi trẻ sẽ đến,
trò chuyện về những điều thú vị trẻ sẽ được trải nghiệm, cho trẻ cơ hội được trải
nghiệm trực tiếp trong môi trường tự nhiên càng nhiều càng tốt, chú ý khơi gợi,
kích thích, tạo cơ hội cho trẻ sử dụng lời nói miêu tả những gì trẻ đã và đang được
nghe, được nhìn, được sờ. Đặc biệt, giáo viên cần kiên trì lắng nghe trẻ, động viên,
khích lệ trẻ rèn luyện KNNN, không nên vội nhắc nhở hoặc nói thay trẻ. Giáo viên
có thể đưa thêm từ mới cho trẻ làm quen, tăng cường tổ chức các trò chơi với từ, nội
dung chơi cần phong phú phù hợp với chủ đề trải nghiệm. chú ý cách dùng từ và
sửa sai cho trẻ.
112
- Hoạt động sinh hoạt hằng ngày ở trường mầm non
Các hoạt động sinh hoạt hằng ngày có rất nhiều tiềm năng để giúp trẻ khiếm
thính phát triển KNNN vì các hoạt động này diễn ra thường xuyên trong ngày, trẻ
tương tác một cách tự nhiên với GV và các bạn, trẻ sử dụng KNNN trong giao tiếp
mà không cần thiết bị, đồ dùng, đồ chơi đặc biệt nào.
Để giúp trẻ khiếm thính phát triển KNNN trong hoạt động sinh hoạt hằng
ngày, giáo viên cần tạo ra nhiều cơ hội, tình huống để trẻ khiếm thính lắng nghe
người khác, sử dụng lời nói làm cơ sở cho việc rèn luyện và phát triển KNNN.
Khuyến khích tất cả các trẻ nghe bình thường trong lớp tương tác với trẻ khiếm
thính, động viên trẻ khiếm thính mạnh dạn, tự tin giao tiếp với các bạn trong các
hoạt động sinh hoạt hằng ngày.
Bên cạnh đó, giáo viên cần quan tâm đến việc sửa lỗi phát âm, cách dùng từ
và diễn đạt câu của trẻ. Tuy nhiên, tập trung quá nhiều vào việc phát âm có thể dẫn
đến việc thực hành gây trở ngại cho mục tiêu giao tiếp lưu loát lâu dài khi sử dụng
ngôn ngữ nói. Do đó, giáo viên cần luôn giữ thái độ tích cực, động viên, khuyến
khích trẻ giao tiếp bằng ngôn ngữ nói…
* Điều chỉnh cách hướng dẫn, tổ chức các hoạt động để giúp trẻ khiếm thính
phát triển KNNN
Với trẻ khiếm thính, những câu ngắn gọn và đơn giản sẽ giúp trẻ dễ hiểu hơn
vì vậy giáo viên nên đơn giản hoá ngôn ngữ nói và nhấn mạnh vào ý trọng tâm của
câu nói, nói rõ ràng, truyền cảm. Tạo điều kiện thuận lợi để trẻ khiếm thính đọc
hình miệng bằng cách ngồi đối diện với trẻ, không đi lại trong lúc đang nói, không
che miệng. Giáo viên nên nói với tốc độ vừa phải, tự nhiên, đúng hình miệng sẽ
giúp cho trẻ khiếm thính hiểu đúng nội dung đang được trình bày, không nên nói
lẩm nhẩm, nói chậm quá hoặc quá cường điệu giọng nói và hình miệng sẽ làm cho
trẻ khiếm thính gặp khó khăn khi nghe và đọc hình miệng. Sử dụng thêm các đồ
dùng trực quan (tranh ảnh, vật thật, mô hình…) để hỗ trợ trẻ khiếm thính hiểu điều
giáo viên đang nói.
Khi đưa ra lời chỉ dẫn, giáo viên có thể nói chung với cả lớp và nhắc lại
điểm then chốt của lời chỉ dẫn cho trẻ khiếm thính. Giáo viên cần sử dùng hệ
thống câu hỏi, lời chỉ dẫn mạch lạc, dễ hiểu, ngắn gọn và hướng vào những đặc
điểm nổi bật của sự vật, hiện tượng mà trẻ cần phải học và đặt câu hỏi phù hợp
để trẻ trở nên tự tin.
113
Khi có đủ thời gian, giáo viên nên nhắc lại câu trả lời của trẻ khiếm thính cho
các trẻ khác và hãy nhắc lại câu trả lời của các trẻ khác trong lớp cho học sinh
khiếm thính, điều này sẽ có lợi cho cả lớp lẫn trẻ khiếm thính.
Thông thường, lời nói của phần lớn học sinh khiếm thính không được rõ ràng
và độ lưu loát không cao, do đó nếu phát âm của học sinh không rõ ràng, thì giáo
viên hãy kiên trì dành thời gian nghe xem học sinh đang muốn nói gì và giúp học
sinh sử dụng đúng từ để nói và luôn giữ thái độ tích cực, động viên khuyến khích
học sinh bởi vì việc học tập trong lớp đối với các em là rất khó khăn.
d) Điều kiện thực hiện
Giáo viên cần có kinh nghiệm, kỹ năng tổ chức các hoạt động phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mầm non, đồng thời cần nắm vững đặc điểm của trẻ khiếm thính
để lồng ghép mục tiêu, nội dung phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
một cách linh hoạt, phù hợp.
Có kỹ năng điều chỉnh cách thức tổ chức hoạt động để phù hợp với đặc điểm
nhận thức và mức độ kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm thính.
3.2.2.2. Biện pháp 5: Tạo tình huống có vấn đề để trẻ khiếm thính thực hành, rèn
luyện kỹ năng nghe – nói
a) Mục đích, ý nghĩa
Kiểu học tập phổ biến của trẻ khiếm thính là học qua nhìn và thực hành. Việc
được cầm tay chỉ việc, thực hành trực tiếp và thường xuyên, trong nhiều tình huống
cụ thể sẽ giúp trẻ khiếm thính dễ hình dung, dễ ghi nhớ và có thể thực hiện được
KNNN trong giao tiếp tự nhiên. Đây cũng là cách thức dạy học phù hợp với đặc
điểm nhận thức cảm tính, trực quan của trẻ em lứa tuổi mầm non.
b) Nội dung
Ngoài việc khai thác các tình huống thực xảy ra trong các hoạt động ở trường
mầm non, giáo viên có thể thiết kế các tình huống có vấn đề, tạo cơ hội tự nhiên để
phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi. Các tình huống có thể sử dụng
trong mọi thời điểm và trong mọi hoạt động ở trường mầm non như: hoạt động
chơi, hoạt động ngoài trời, hoạt động góc, hoạt động sinh hoạt hằng ngày... Mỗi tình
huống, GV có thể kết hợp giao nhiệm vụ cụ thể để yêu cầu trẻ giải quyết.
c) Cách tiến hành
- Trong các hoạt động, GV cần chú ý tạo ra các tình huống có vấn đề, tạo ra các
mâu thuẫn, một số vấn đề mới phát sinh bắt buộc trẻ phải tìm kiếm cách giải quyết bằng
114
cách huy động hoạt động trí tuệ để chiếm lĩnh đối tượng, sử dụng KNNN trong quá trình
giải quyết tình huống. Các tình huống có thể đặt ra ngay trong chính nội dung chơi, trong
bối cảnh của các hoạt động và phù hợp với trẻ, đặc biệt phải phù hợp với mức độ KNNN
hiện tại của trẻ. Các tình huống cũng có thể thay đổi linh hoạt, tùy thuộc vào khả năng
nhận thức của trẻ khiếm thính, vào các vấn đề nảy sinh trong quá trình trẻ tham gia hoạt
động và sinh hoạt với bạn bè, thầy cô trong lớp MGHN. VD: Tình huống chia đồ thiếu;
Tình huống tìm đồ bị thất lạc; Tình huống cô vờ bị đau bụng…
- Giáo viên khéo léo dẫn dắt trẻ vào các tình huống có vấn đề, hướng sự chú
ý của trẻ vào các vấn đề vừa xuất hiện, kích thích trẻ hứng thú tham gia giải quyết
tình huống.
- Tổ chức cho trẻ thực hành theo nhóm, theo cặp, giám sát trẻ xử lí tình
huống và tham gia khi cần thiết (trẻ gặp khó khăn, trẻ xao nhãng…). Gợi nhắc để
trẻ khiếm thính có thể ứng dụng sử dụng các câu giao tiếp, các KNNN trong các
tình huống tương tự.
- Sau mỗi tình huống, GV trò chuyện với trẻ khiếm thính về tình huống vừa
trải qua, phân tích tình huống cho trẻ, nhận xét cách ứng xử của trẻ (điểm hay, điểm
chưa hay) và góp ý cách điều chỉnh.
d) Điều kiện thực hiện
Các tình huống có vấn đề phải phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ
khiếm thính, không gây căng thẳng cho trẻ, không khiến trẻ có nhận định không tốt
về GV/người tham gia.
Những người có tham gia tình huống liên quan đến việc thực hiện KNNN
của trẻ cần được hướng dẫn và thống nhất trước về cách thực hiện để có sự phối
hợp đạt mục đích giáo dục.
3.2.2.3. Biện pháp 6: Sử dụng các kỹ thuật phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ
khiếm thính trong các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày
a) Mục đích, ý nghĩa
Với sự hỗ trợ của thiết bị trợ thính, trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi có nhiều thuận
lợi để phát triển KNNN theo cách học tự nhiên. Mặc dù vậy, giáo viên phải sử dụng
các kỹ thuật tập trung nhiều vào các kỹ năng tiếp nhận và diễn đạt lời nói để bù đắp
cho việc khiếm thính, giúp trẻ phát triển KNNN. Các kỹ thuật phát triển KNNN cho
trẻ khiếm thính cần khuyến khích trẻ sử dụng KNNN trong giao tiếp, đảm bảo tính
tự nhiên, vui vẻ của hoạt động.
115
b) Nội dung
Trong quá trình tổ chức các hoạt động, giáo viên cần sử dụng các kĩ thuật
phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính như: thu hút sự chú ý của trẻ, chờ đợi và lắng
nghe, sử dụng lời nói mẫu; nắm bắt và đóng hai vai trò…
c) Cách tiến hành
* Tăng tối đa âm thanh đầu vào qua thính giác:
Khi giao tiếp với trẻ khiếm thính, giáo viên nên ngồi ngang hàng hoặc hơi lùi
lại phía sau trẻ, gần với thiết bị trợ thính của trẻ. Nếu trẻ nghe tốt hơn ở bên tai nào
thì ngồi gần bên đó. Nói rõ ràng với âm lượng vừa đủ và sát vào micro của thiết bị
trợ thính.
Đồng thời, giáo viên cũng tạo ra và duy trì môi trường nghe yên tĩnh cho trẻ
khiếm thính.
* Thu hút sự chú ý của trẻ
Để phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính trong các hoạt động chung ở lớp
MGHN, trước tiên giáo viên cần thu hút sự chú ý của trẻ, kích thích trẻ tham gia
hoạt động phát triển KNNN.
Để thu hút sự chú ý của trẻ, giáo viên có thể: Gọi tên trẻ/chạm nhẹ vào vai
trẻ; Dùng câu nói “cô nghe thấy” trước khi bắt đầu giao tiếp; Sử dụng cách nói có
ngữ điệu; Trò chuyện về các đồ chơi/đồ vật trước khi cho trẻ xem chúng; Tạo ra các
hành động bất ngờ…
* Chờ đợi và lắng nghe
Thời gian chờ đợi là khoảng thời gian tạm dừng được sử dụng giữa tương tác của
người lớn với trẻ và phản ứng mong đợi của trẻ cho phép trẻ có thời gian xử lý thông tin
thính giác và hình thành phản ứng. Khi chờ đợi, chúng ta sẽ cho trẻ cơ hội để khởi
đầu. Sự khởi đầu này sẽ giúp trẻ hào hứng với chính hoạt động mà trẻ chọn. Chờ
đợi không có nghĩa là luôn khuyến khích trẻ khởi đầu mà là giành cho trẻ một
khoảng thời gian đủ để trẻ có thể đáp ứng lại các câu hỏi và yêu cầu của GV.
Khi tổ chức các hoạt động, GV cần chờ đợi phản hồi từ trẻ trước khi tự mình
thực hiện một lượt khác. Sự tạm dừng này báo hiệu cho đứa trẻ rằng chúng phải nói
hoặc làm gì đó. Khi thông tin được lặp lại mà không có thời gian chờ đợi, trẻ sẽ cho
rằng chúng không phải nghe lần đầu tiên, đồng thời trẻ cũng bị từ chối cơ hội để tin
tưởng vào thính giác của chính mình. Khi sử dụng kỹ thuật này, trước khi một lệnh
hoặc một nhận xét được lập lại, giáo viên có thể: Đếm từ 1 đến 8; nhìn trẻ đầy mong
đợi; nghiêng người về phía trẻ (như thể là để nghe trẻ nói, và mong đợi trẻ phản ứng).
116
Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần chú ý những gì trẻ đang nói để có thể trả lời
chính xác. Khi chúng ta lắng nghe trẻ với một thái độ quan tâm, trẻ sẽ cảm thấy
những gì trẻ nói là quan trọng và điều đó khuyến khích trẻ duy trì cuộc giao tiếp,
thực hành các KNNN.
Trẻ khiếm thính luôn mong muốn được chia sẻ với GV và các trẻ nghe bình
thường ở trong lớp. Nếu GV thường xuyên quan sát, lắng nghe và chờ đợi tạo cơ
hội cho trẻ thì sẽ giúp trẻ phát triển các KNNN.
* Nắm bắt và đóng hai vai trò
Để giúp trẻ khiếm thính phát triển KNNN, giáo viên không những chỉ giúp
trẻ hiểu được tình huống mà còn giúp trẻ có được lời nói rõ ràng, mạch lạc. Vì vậy,
ngoài những thao tác giống như người mẹ, giáo viên phải làm thêm một nhiệm vụ
khác nữa là cho trẻ tập nói ra những lời trẻ muốn nói. Kỹ thuật nắm bắt và đóng hai
vai trò cần phải thực hiện mọi nơi, mọi lúc trong thời gian ở trường.
Nắm bắt: Cử chỉ điệu bộ của trẻ; lời nói chưa rõ ràng của trẻ
Đóng hai vai trò: (1) Vai trò của trẻ: Ngôn ngữ (cung cấp cho trẻ câu, từ thích hợp);
lời nói (cho trẻ bắt chước lời nói của giáo viên); (2) Vai trò của giáo viên: góp phần của
mình vào cuộc hội thoại bằng một câu hỏi, một lời nói khuyến khích trẻ....
* Sử dụng lời nói mẫu
Sử dụng lời nói mẫu là việc mà giáo viên cung cấp các mẫu ngôn ngữ trong
những tình huống giao tiếp khác nhau cho trẻ bắt chước sau đó trẻ có thể thực hiện
lại một cách tự phát. Sử dụng lời nói mẫu được thực hiện thông qua các kỹ thuật cụ
thể như sau:
- Nói mẫu: Là cách giáo viên nói cho trẻ bắt chước nói theo nhằm dạy trẻ
các từ, cụm từ và diễn đạt câu đầy đủ, đúng ngữ pháp. Khi nói mẫu, GV nên nói
một cách tự nhiên, sử dụng các câu ngắn gọn, dễ hiểu, nhấn mạnh ở các từ trọng
tâm. Với các kỹ năng khó, GV nên làm mẫu từng phần, từng nội dung một cho
trẻ. Số lần làm mẫu cho một kỹ năng không nhất thiết phải làm liên tục hai, ba
lần liền nhau mà có thể diễn ra nhiều lần trong các khoảng thời gian và các tình
huống khác nhau.
- Mở rộng câu nói cho trẻ: Khi trẻ nói nhưng chưa hoàn thành được câu nói,
giáo viên cần lắng nghe, cố gắng hiểu ý mà trẻ muốn diễn đạt và nhắc lại ý của trẻ
bằng một mẫu ngôn ngữ hoàn chỉnh, đơn giản giúp trẻ bắt chước theo và học tập
mẫu ngôn ngữ đó.
117
- Nhắc lại: Khi nói chuyện với trẻ khiếm thính, giáo viên cần tự động điều
chỉnh từ ngữ cho đơn giản hơn, lặp đi lặp lại một từ, một câu để khi trẻ nghe một từ,
một câu nói nhiều lần thì biết cách phát âm, ghi nhớ được từ và câu đó. Bên cạnh
đó, giáo viên cần nói chậm lại, nhìn vào mặt trẻ, cho trẻ có nhiều thì giờ và cơ hội
để nghe đi, nghe lại và nắm được lời nói.
- Nói song song: Giáo viên sử dụng lời nói để mô tả điều mà trẻ đang làm
hoặc đang nhìn thấy, giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng nghe hiểu lời nói.
- Khuyến khích trẻ tự nói về những gì trẻ đang làm: Khi KNNN của trẻ đã
được phát triển, trẻ đã biết nói theo mẫu câu, GV sử dụng kĩ thuật này để giúp trẻ tự
nói lên những gì trẻ đang nhìn thấy, đang làm hoặc cảm nhận về một việc mà trẻ
đang quan sát. Kĩ thuật tự nói một mình về việc đang làm cũng tạo ra cho trẻ nhiều
cơ hội để diễn đạt thành thạo hơn cụm từ, câu. Trẻ sẽ mạnh dạn, tự tin hơn trong
quá trình giao tiếp.
* Động viên, khuyến khích trẻ
Động viên, khuyến khích luôn là kỹ thuật hữu hiệu giúp trẻ em có được
nguồn cổ vũ khích lệ để làm tốt vai trò, nhiệm vụ của mình. Trong hầu hết các hoạt
động hằng ngày, mỗi trẻ đều thực hiện nhiệm vụ riêng của mình để hoàn thành mục
tiêu chung. Lời động viên, khích lệ của GV dành cho trẻ khiếm thính sẽ là động lực
giúp trẻ hoàn thành nhiệm vụ. Rất nhiều trẻ khiếm thính thiếu tự tin trong sử dụng
KNNN để giao tiếp, vì vậy nhận được lời động viên trẻ sẽ thấy tự tin hơn khi giao
tiếp với bạn và trao đổi nhiệm vụ với bạn trong nhóm và thực hiện nhiệm vụ.
Việc động viên khuyến khích không nhất thiết diễn ra ở một hoạt động mà
kéo dài trong tiến trình hoạt động của trẻ ở trường từ giờ đón đến giờ trả trẻ. Trong
các tiết học hằng ngày, GV nên tạo cơ hội cho trẻ được tham gia trả lời câu hỏi của
cô, được các bạn nhận xét, góp ý để trẻ tự tin trong quá trình giao tiếp.
d) Điều kiện thực hiện
Hướng dẫn cho giáo viên các kĩ thuật phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
Khi thực hiện cần áp dụng một cách đồng bộ và linh hoạt các kĩ thuật cho phù hợp
với đặc điểm của mỗi cá nhân trẻ khiếm thính
3.2.3. Nhóm biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính trong
hoạt động hỗ trợ cá nhân
3.2.3.1. Biện pháp 7: Sử dụng các trò chơi để luyện nghe cho trẻ khiếm thính
a) Mục đích, ý nghĩa
118
Trong lớp mẫu giáo hòa nhập, ngoài việc tham gia vào các hoạt động
chung trong lớp, trẻ khiếm thính còn có hoạt động hỗ trợ cá nhân. Sử dụng các trò
chơi luyện nghe cho trẻ khiếm thính trong hoạt động hỗ trợ cá nhân giúp trẻ khiếm
thính tận dụng triệt để phần thính lực còn lại, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
KNNN; Rèn luyện thói quen tri giác âm thanh, luyện tập để trẻ có thói quen nghe và
sử dụng ngôn ngữ nói với sự hỗ trợ của thiết bị trợ thính.
b) Nội dung
Sử dụng các trò chơi luyện nghe cho trẻ khiếm thính trong hoạt động hỗ trợ
cá nhân với các nội dung luyện nghe bao gồm:
- Các kỹ năng nghe âm thanh lời nói : Luyện cho trẻ khiếm thính phân biệt được
âm thanh lời nói về cường độ, trường độ, tốc độ và tần số; phân biệt và nhận dạng được
các âm vị khác nhau trong âm tiết: nguyên âm, phụ âm đầu, phụ âm cuối và thanh điệu
tiếng Việt
- Các kỹ năng nghe hiểu: Luyện cho trẻ khiếm thính kỹ năng nghe và thực
hiện theo yêu cầu trong các tình huống đóng và mở.
c) Cách tiến hành
Dựa trên mức độ kỹ năng nghe hiện tại và những đặc điểm nhận thức của trẻ
khiếm thính, giáo viên cần xây dựng, lựa chọn các trò chơi luyện nghe phù hợp.
Giáo viên có thể sử dụng hệ thống các trò chơi chúng tôi đã thiết kế (xem ở phụ lục
8) đồng thời tự mình thiết kế các trò chơi để xây dựng được một ngân hàng trò chơi
luyện nghe cho trẻ khiếm thính phong phú, đa dạng, phù hợp với khả năng nghe và
trình độ của trẻ khiếm thính trong lớp của mình. Khi xây dựng ngân hàng trò chơi,
giáo viên cũng phải xác định rõ mức độ vận dụng của từng trò chơi, tức là xác định rõ
kiểu bài, xác định lượng thời gian, cơ sở vật chất để sử dụng trò chơi. Giáo viên có
thể đối chiếu nội dung của các trò chơi với nội dung của từng bài dạy xem bài nào có
thể ứng dụng dạng trò chơi nào vào thời điểm nào, để khi cần giáo viên có thể dễ
dàng lựa chọn trò chơi phù hợp.
Nếu cần thiết, giáo viên có thể thay đổi một số yếu tố của trò chơi để trò chơi
phù hợp với từng đối tượng trẻ khiếm thính cụ thể của lớp mình. Tuỳ theo khả năng
nghe, nhu cầu, trình độ của trẻ khiếm thính, giáo viên có thể tăng hoặc giảm độ khó của
trò chơi bằng cách thay đổi yêu cầu chơi, thay đổi nhiệm vụ nhận thức của trò chơi.
Khi sử dụng các trò chơi luyện nghe cho trẻ khiếm thính, giáo viên cần tạo
và duy trì hứng thú cho các em bằng cách: Tạo ra tình huống chơi bất ngờ, thú vị để
119
đưa trẻ đến với trò chơi, động viên, khuyến khích học sinh kịp thời bằng ngôn ngữ,
nét mặt, cử chỉ điệu bộ; luân phiên vai chơi một cách thường xuyên và sử dụng
phong phú các loại trò chơi khác nhau với nhiều hình thức chơi khác nhau để tăng
cường sự hứng thú cho các em.
Để phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của trẻ, giáo viên phải là người cộng
tác, người làm mẫu, cổ vũ, khuyến khích trẻ chơi, theo dõi, quan sát trẻ chơi và giúp đỡ
trẻ khi cần thiết.
Trước khi sử dụng các trò chơi luyện nghe cho trẻ khiếm thính, giáo viên luôn
luôn phải nhớ kiểm tra máy trợ thính của trẻ. Bố trí, sắp xếp phòng học và vị trí của trẻ
để có được môi trường nghe tốt nhất cho trẻ. Sau mỗi trò chơi luyện nghe, giáo viên
cần ghi lại kết quả vào bảng theo dõi luyện nghe của mỗi trẻ.
d) Điều kiện thực hiện
Trước tiên, GV cần nhận thức được tác dụng và ý nghĩa của việc luyện nghe và
việc tổ chức trò chơi luyện nghe cho trẻ khiếm thính, nhờ đó họ sẽ tích cực trong việc
xây dựng, tìm tòi cách sử dụng phù hợp để đạt được hiệu quả giáo dục đã đề ra.
Giáo viên phải đầu tư thời gian, công sức để xây dựng, lựa chọn trò chơi
luyện nghe, lập kế hoạch tổ chức trò chơi, chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất
trang thiết bị cần thiết phục vụ cho trò chơi.
Để tổ chức trò chơi luyện nghe cho trẻ khiếm thính cần đảm bảo trẻ khiếm
thính có thiết bị trợ thính và thiết bị hoạt động tốt, chú ý đến địa điểm tổ chức trò
chơi, đảm bảo tạo môi trường nghe tốt cho trẻ khiếm thính.
3.2.3.2. Biện pháp 8: Rèn luyện khả năng phát âm, khả năng diễn đạt lời nói trôi
chảy cho trẻ khiếm thính
a) Mục đích, ý nghĩa
Trẻ khiếm thính thường gặp phải một số vấn đề về giọng, phát âm, thanh
điệu, ngữ điệu làm ảnh hưởng đến độ rõ ràng trong lời nói của trẻ. Rèn luyện khả
năng phát âm sẽ giúp cho trẻ khiếm thính phân biệt được âm vị, chính xác hóa các
âm vị riêng biệt, phát âm đúng tránh sự nhầm lẫn trong phát âm, từ đó phát triển kỹ
năng sử dụng lời nói trong giao tiếp, giúp trẻ giao tiếp tự tin và hiệu quả.
b) Nội dung
Rèn luyện khả năng phát âm và khả năng diễn đạt lời nói trôi chảy cho trẻ
khiếm thính theo các nội dung: Luyện thở, luyện giọng, luyện vận động của cơ quan
phát âm; luyện phát âm các âm vị Tiếng Việt; luyện phát âm từ ngữ; luyện nói đúng
cụm từ và câu.
120
c) Cách tiến hành
* Luyện thở
Để trẻ khiếm thính có thể phát âm rõ ràng, liên tục, việc luyện thở có một vai
trò quan trọng. Luyện thở phải được tiến hành trước và trong suốt quá trình dạy trẻ
phát âm.
Giáo viên lựa chọn các trò chơi, bài tập luyện thở theo các nội dung sau:
Dạy trẻ hít sâu, thở ra mạnh, dài và tiết kiệm hơi; dạy trẻ thổi đều và biết
điều chỉnh luồng hơi trong khi phát âm.
Để dạy trẻ hít sâu, thở ra mạnh, dài và tiết kiệm hơi, giáo viên có thể cho trẻ
thực hiện các trò chơi như: thổi bóng, giấy vụn, thổi tắt nến từ những khoảng cách
khác nhau, thổi di chuyển chú sâu làm bằng giấy…
Để phát triển khả năng thổi đều và biết điều chỉnh luồng hơi trong khi phát
âm, giáo viên có thể sử dụng các bài tập luyện thở như sau: Thổi thuyền giấy trong
chậu nước, thổi chong chóng, thổi tạt ngọn nến nhưng không tắt, thổi băng giấy bay
từ từ…
* Luyện giọng
Trẻ khiếm thính có thể gặp một số vấn đề về giọng nói như: giọng không đều
về cường độ, cao độ; phát âm với giọng mũi, giọng yếu, giọng cao. Do đó, trẻ cần
được luyện tập để điều chỉnh giọng của mình một cách tự nhiên, có tốc độ và nhịp
điệu lời nói bình thường.
Những bài luyện giọng mang tính trò chơi với những biểu hiện ở nét mặt và
những động tác sinh động sẽ khơi gợi tính tự nhiên ở giọng của trẻ.
Giáo viên có thể sử dụng các bài luyện giọng như: bắt chước tiếng kêu của
các con vật; Phát âm lặp lại và liên tục những đơn âm a, ô, u,… thông qua những trò
chơi; Phát âm những âm tiết liên tục: bababa…mamama…tatata…; Phát âm thay
đổi trường độ và cường độ các tổ hợp âm – âm tiết: ba___a. baba___ba.
ba___baba___BA…
* Luyện vận động của cơ quan phát âm
Để phát ra lời nói đòi hỏi sự tham gia tích cực và tinh tế của nhiều cơ quan
cấu âm như: luồng hơi đủ mạnh được phát ra từ phổi làm rung dây thanh tạo ra âm
thanh; âm thanh này được đi qua khoang miệng và mũi với sự tham gia của lưỡi gà,
ngạc mềm, lưỡi, răng, môi và khoang mũi,... tạo ra những âm thanh tiếng nói khác
nhau. Một trong các bộ phận trên nếu có sai lệch về cấu trúc (về mặt giải phẫu), vận
121
động thiếu linh hoạt hoặc sự phối hợp vận động giữa các cơ quan trên không nhịp
nhàng... sẽ làm cho tiếng nói bị sai lệch.
Giáo viên cần kiểm tra cấu tạo và vận động của các bộ phận trong cơ quan phát
âm của trẻ để xác định các nội dung luyện vận động của cơ quan phát âm phù hợp.
Một số bài tập luyện vận động của cơ quan phát âm đó là: Thể dục môi (chu
môi – chành môi – mím môi); thể dục hàm (đưa hàm sang phải – sang trái; há
miệng – ngậm miệng); thể dục lưỡi (đưa lưỡi lên (phía môi) trên – xuống dưới –
sang phải – sang trái – ra trước – co lại sau; nâng cao – hạ thấp đầu, mặt, gốc lưỡi);
các động tác kết hợp (khép môi thổi hơi cho căng má, há miệng kêu a – a – a – a –
..., thổi kèn (thật), bắt chước một số tiếng con vật kêu : gâu – gâu – gâu –..., tiếng
còi tàu hoả : tu – tu – tu –…)…
* Luyện phát âm âm vị Tiếng Việt
Trẻ học nói thông qua việc bắt chước âm thanh lời nói. Nếu việc bắt chước
này không chuẩn, trẻ sẽ bị nói ngọng. Trẻ phát âm sai trong một thời gian dài sẽ tạo
thành thói quen khó sửa. Vì vậy, nếu trẻ phát âm sai cần thiết phải sửa ngay cho trẻ
càng sớm càng tốt.
Để luyện phát âm âm vị Tiếng Việt, trước hết GV cần kiểm tra khả năng
phát âm các âm vị của trẻ khiếm thính bằng cách sử dụng bảng từ thử nhằm kiểm
tra khả năng phát âm từng thành phần của âm tiết. Từ đó, xác định các âm mà trẻ
thường phát âm sai và lên kế hoạch luyện phát âm các âm vị đó cho trẻ khiếm thính.
Hướng dẫn trẻ tri giác âm vị Tiếng Việt bằng cách sử dụng kết hợp các giác
quan thính giác, thị giác, xúc giác:
Thính giác: Trước khi yêu cầu trẻ làm theo mẫu một âm đúng, chúng ta có
thể dạy trẻ cách nghe để phân biệt giữa âm đúng và âm sai, từ đó giúp trẻ bắt chước
lại âm đúng chuẩn xác hơn.
Thị giác: Yêu cầu trẻ quan sát các cử động của cơ quan phát âm để giúp trẻ
tạo tư thế cấu âm đúng. Giáo viên có thể dùng gương để trẻ quan sát các vị trí tham
gia của cơ quan phát âm, sử dụng tranh hoặc vẽ sơ đồ cấu âm để trẻ quan sát được
rõ hơn.
Xúc giác: Cho trẻ sờ vào họng để cảm nhận sự rung hay không rung của dây
thanh khi phát âm, đặt tay trước miệng/mũi để cảm nhận luồng hơi nhiều hay ít,
mạnh hay nhẹ của các âm khác nhau.
Ví dụ: Hướng dẫn trẻ khiếm thính tri giác âm Đ /d/
122
- Tư thế cấu âm: Môi: Không khép, hình
dạng phụ thuộc vào nguyên âm đứng sau, Lưỡi: -
Phần trước của lưng lưỡi tì sát lên ngạc cứng, hai
mép tì lên hao hàm trên. Sau đó hơi bị bật ra, phá vỡ
sự liên kết lưỡi-ngạc, Dây thanh: khép và rung.
- Nghe thấy: Là âm có tần số trung.
- Nhìn thấy: Hình môi, lưỡi, răng.
- Sờ thấy: Rung ở hầu.
* Luyện phát âm từ ngữ, luyện nói đúng cụm từ và câu
Sau khi trẻ khiếm thính đã phát âm đúng âm vị, chúng ta mới ghép vào các
tiếng, từ, cụm từ và câu. Giáo viên có thể chọn từ 10 – 15 bức tranh có âm đó (VD:
nếu GV dạy âm Đ /d/, GV có thể chọn những bức tranh có phụ âm đầu Đ /d/ như:
đu đủ, cây đa, đá, đàn, đánh…) để dạy trẻ phát âm vào các tiếng và từ, cụm từ. Sau
đó hướng dẫn trẻ phát âm các câu có âm đó (VD: Bé đang đánh đàn...).
d) Điều kiện thực hiện
Để có thể tổ chức các hoạt động luyện phát âm cho trẻ khiếm thính, GV cần
có kiến thức về ngữ âm Tiếng Việt, nắm được các hệ thống âm vị của Tiếng Việt,
đặc điểm cấu âm của từng âm.
Hiểu về đặc điểm phát âm, những khó khăn thường gặp khi phát âm của trẻ
khiếm thính để thiết kế các hoạt động luyện phát âm phù hợp.
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp
Các biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi mà đề tài đề xuất
có mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ với nhau, cùng nằm trong một chỉnh thể thống
nhất, bổ sung và hoàn thiện lẫn nhau. Việc thực hiện các biện pháp này vừa là điều
kiện, vừa là tiền đề, kết quả cho việc thực hiện các biện pháp khác. Thực hiện đồng bộ
các biện pháp đã đề xuất hướng tới đảm bảo hiệu quả phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi ở lớp MGHN. Trong đó:
Nhóm biện pháp điều kiện đóng vai trò định hướng và là điều kiện đảm bảo
về nguồn lực và hiệu quả tổ chức quá trình phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
Trước khi tổ chức các hoạt động phát triển KNNN, nhà GD cần nắm rõ đặc điểm,
khả năng, mức độ KNNN của trẻ khiếm thính, từ đó xây dựng kế hoạch định hướng
về mục tiêu, nội dung, biện pháp phát triển KNNN, thiết kế môi trường thuận lợi
cho việc tổ chức các hoạt động phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính, đảm bảo việc
tổ chức, thực hiện các hoạt động phát triển KNNN đạt hiệu quả tốt nhất.
123
Nhóm biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính trong các hoạt động
trong chế độ sinh hoạt hằng ngày có vai trò cốt lõi trong việc phát triển KNNN cho
trẻ khiếm thính ở lớp MGHN, trên cơ sở kế hoạch phát triển KNNN đã xây dựng,
giáo viên tiến hành lồng ghép các nội dung phát triển KNNN trong các hoạt động ở
trường mầm non, tạo cơ hội cho trẻ thực hành, rèn luyện KNNN và sử dụng các kỹ
thuật giúp trẻ phát triển KNNN.
Nhóm biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính trong hoạt động hỗ
trợ cá nhân có vai trò hỗ trợ, thúc đẩy quá trình phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính ở lớp MGHN, giúp trẻ tận dụng và phát huy tối đa khả năng nghe còn lại,
khắc phục những hạn chế, thiếu hụt trong quá trình phát triển KNNN.
Sự phân chia các nhóm biện pháp trong quá trình phát triển KNNN cho trẻ
khiếm thính là để nhấn mạnh đến khía cạnh đặc thù và vai trò tác động khác nhau
của mỗi nhóm biện pháp, thuận lợi và tường minh trong quá trình nghiên cứu. Thực
tế, mỗi nhóm biện pháp không đứng độc lập mà được đan xen, phối hợp với nhau.
Căn cứ vào các kỹ năng cần được cải thiện và sở thích của từng trẻ, GV sử dụng các
biện pháp khác nhau cho phù hợp với trẻ và linh hoạt trong quá trình tác động nhằm
đạt hiệu quả tốt nhất.
3.4. Thực nghiệm biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
3 – 6 tuổi
3.4.1. Khái quát về tổ chức thực nghiệm
3.4.1.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành nhằm xem xét tính khả thi và tính hiệu
quả của các biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi đã được đề
xuất, đồng thời kiểm chứng giả thuyết khoa học đã đề ra.
3.4.1.2. Nội dung thực nghiệm
Thực nghiệm các biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
đã được đề xuất. Tùy theo đặc điểm của từng trường hợp trẻ khiếm thính, chúng tôi
lựa chọn các biện pháp chủ đạo nhất để thực nghiệm (các biện pháp cụ thể được
trình bày trong từng trường hợp nghiên cứu ở mục 3.4.2).
3.4.1.3. Địa bàn và khách thể thực nghiệm
* Địa bàn thực nghiệm
Thực nghiệm được tiến hành tại hai địa bàn là Hà Nội và Thái Nguyên, các
trường mầm non được lựa chọn thỏa mãn các yêu cầu là có điều kiện để lựa chọn
124
được nhóm trẻ khiếm thính nghiên cứu có nhiều điểm tương đồng và các giáo viên
dạy lớp MGHN đã được bồi dưỡng chuyên môn về GDHN trẻ khiếm thính.
* Khách thể thực nghiệm
Thực nghiệm trên 03 trường hợp trẻ khiếm thính có sử dụng thiết bị trợ
thính, độ tuổi từ 3 - 6 tuổi đang học lớp MGHN. Các trường hợp trẻ khiếm thính
chọn để thực nghiệm đảm bảo các điều kiện: không mắc các khuyết tật khác; sử
dụng các loại thiết bị trợ thính khác nhau (máy trợ thính/điện cực ốc tai); có ngưỡng
nghe khi sử dụng thiết bị trợ thính là dưới 50 dB trong khoảng tần số từ 250 – 4000
Hz để đảm bảo trẻ có thể nghe được âm thanh lời nói; có sự khác nhau về độ tuổi
(trong khoảng tuổi từ 3 - 6), về tuổi nghe và điều kiện can thiệp sớm.
Bảng 3.1. Thông tin cơ bản về khách thể thực nghiệm
Tuổi Tuổi Họ và Giới Loại thiết bị Điều kiện TT Độ điếc thực nghe tên tính trợ thính CTS (tháng) (tháng)
1 Đ.B.N Nữ Mức IV Ốc tai điện tử Được CTS 44 30
2 N.T.M Nữ Mức III Máy trợ thính Được CTS 52 26
Không 63 19 3 P.M.K Nam Mức III Máy trợ thính được CTS
(Ghi chú: Tuổi thực là số tháng tính từ ngày sinh đến ngày khảo sát; Tuổi
nghe là số tháng tính từ ngày trẻ được sử dụng thiết bị trợ thính đến ngày khảo sát)
3.4.1.4. Quy trình thực nghiệm
Thực nghiệm được tiến hành theo các giai đoạn với các bước sau đây:
* Giai đoạn 1: Chuẩn bị thực nghiệm
Bước 1: Lựa chọn khách thể và địa bàn thực nghiệm
Lựa chọn 3 trẻ để tiến hành thực nghiệm thỏa mãn các điều kiện: không mắc
các khuyết tật khác; sử dụng các loại thiết bị trợ thính khác nhau (máy trợ
thính/điện cực ốc tai); có ngưỡng nghe khi sử dụng thiết bị trợ thính là dưới 50 dB
trong khoảng tần số từ 250 – 4000 Hz để đảm bảo trẻ có thể nghe được âm thanh lời
nói; có sự khác nhau về độ tuổi (trong khoảng tuổi từ 3 - 6), về tuổi nghe và điều
kiện can thiệp sớm; đang học lớp MGHN; có bố mẹ đều là người nghe bình thường.
Địa bàn nghiên cứu là các trường mầm non có trẻ khiếm thính thỏa mãn các
điều kiện trên và giáo viên dạy lớp MGHN đã được bồi dưỡng chuyên môn về
GDHN trẻ khiếm thính.
125
Bước 2: Thu thập thông tin về trẻ và lập hồ sơ theo dõi sự tiến bộ của trẻ
Thu thập những thông tin về trẻ và gia đình bao gồm: tiền sử phát triển của
trẻ, thời điểm phát hiện trẻ bị khiếm thính, quá trình can thiệp sớm; các thông tin về
thính học như: kết quả đo thính lực, thông tin về thiết bị trợ thính.
Lập hồ sơ theo dõi sự tiến bộ của trẻ với những thông tin cơ bản như: Thông
tin về trẻ; Khả năng và nhu cầu của trẻ; Kế hoạch giáo dục cá nhân; Kế hoạch phát
triển KNNN; Nhận xét chung về sự tiến bộ của trẻ.
Bước 3: Lựa chọn và bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tham gia thực nghiệm
Lựa chọn các giáo viên đang dạy trẻ khiếm thính thuộc đối tượng thực nghiệm
và đảm bảo điều kiện được bồi dưỡng chuyên môn về GDHN trẻ khiếm thính.
Tập huấn cho giáo viên về mục tiêu, nội dung, biện pháp phát triển KNNN
cho trẻ khiếm thính.
Cùng giáo viên trao đổi, thống nhất về mục đích, nội dung, cách tổ chức thực
nghiệm theo hướng nghiên cứu của đề tài luận án.
Bước 4: Lập kế hoạch thực nghiệm
Lập kế hoạch chi tiết về thời gian thực hiện các công việc cụ thể:
- Chọn khách thể, địa bàn tham gia thực nghiệm
- Thu thập thông tin về khách thể thực nghiệm
- Bồi dưỡng chuyên môn cho GV tham gia thực nghiệm
- Đánh giá mức độ KNNN của trẻ trước thực nghiệm
- Xây dựng kế hoạch phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
- Đánh giá kết quả thực nghiệm
* Giai đoạn 2: Tiến hành thực nghiệm
Bước 1: Đánh giá trước thực nghiệm
- Thời gian đánh giá: Tháng 11/2018
- Nội dung đánh giá: Đánh giá mức độ KNNN của trẻ khiếm thính để có cơ
sở cho việc phân tích kết quả tác động của các biện pháp phát triển KNNN mà đề tài
đã đề xuất.
Bước 2: Sử dụng các biện pháp tác động
- Thời gian: Thực nghiệm được tiến hành trong 06 tháng (từ tháng 12 năm
2018 đến hết tháng 05 năm 2019)
- Nội dung: Thực nghiệm tiến hành với cả 03 nhóm biện pháp. Trên cơ sở
các biện pháp đã được xây dựng và đặc điểm của từng trẻ, giáo viên lựa chọn các
126
biện pháp chủ đạo để tổ chức các hoạt động chung trong lớp hòa nhập và trong hoạt
động hỗ trợ cá nhân cho trẻ khiếm thính.
- Trong quá trình theo dõi thực nghiệm, người nghiên cứu quan sát, ghi
chép vào bảng theo dõi thực nghiệm việc tổ chức các hoạt động của lớp và các biện
pháp nhằm điều chỉnh kịp thời các nội dung, hình thức sao cho phù hợp với đặc
điểm trẻ khiếm thính ở lớp MGHN. Đồng thời theo dõi việc phát triển KNNN của
trẻ khiếm thính trong quá trình tham gia các hoạt động hằng ngày.
Bước 3: Đánh giá kết quả thực nghiệm
- Thời gian: Đánh giá theo 2 giai đoạn, định kỳ 3 tháng/1 lần:
+ Giai đoạn 1: Đánh giá sau 3 tháng (Từ 01/12/2018 đến 28/02/2019)
+ Giai đoạn 2: Đánh giá sau 6 tháng (Từ 01/03/2019 đến 31/05/2019)
- Nội dung: Tổng hợp, phân tích số liệu, đánh giá kết quả và rút ra các kết
luận sư phạm cần thiết.
3.4.1.5. Phương pháp đánh giá kết quả thực nghiệm
* Các tiêu chí và công cụ đánh giá
Để đánh giá hiệu quả của các biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính 3 - 6 tuổi ở lớp MGHN, luận án đánh giá dựa trên 11 tiêu chí thuộc 2 lĩnh vực
kỹ năng: kỹ năng nghe và kỹ năng nói đã được trình bày tại Phụ lục 2. Đây là những
tiêu chí đã được sử dụng để đánh giá mức độ phát triển KNNN của trẻ khiếm thính
ở phần khảo sát thực trạng và được kiểm định độ tin cậy bằng mô hình cronbach’s
coefficient alpha.
* Cách tiến hành đo và theo dõi thực nghiệm
Các tiêu chí được đo với từng cá nhân trẻ trong điều kiện trắc nghiệm. Trước khi
tiến hành kiểm tra người nghiên cứu dành một vài phút chơi với trẻ để trẻ quen và hợp
tác với người kiểm tra. Nhà nghiên cứu sử dụng bảng đánh giá KNNN để đánh dấu mức
độ thực hiện của trẻ vào cột tương ứng theo Phụ lục 2.
Bên cạnh đó chúng tôi tập huấn cho GV cách đánh giá và ghi kết quả vào
bảng đánh giá kĩ năng. GV quan sát trẻ trong các hoạt động hằng ngày và đánh dấu
vào bảng. Cuối đợt người nghiên cứu sẽ quan sát trực tiếp và trao đổi với GV về kết
quả đánh giá.
Ghi chép nhật ký: Việc ghi chép nhật ký để theo dõi sự tiến bộ của trẻ đồng
thời xem xét được những biện pháp GV sử dụng để phát triển KNNN cho trẻ đã phù
hợp chưa? Có hiệu quả như thế nào? Cần điều chỉnh, bổ sung những nội dung gì...
127
* Xử lý kết quả thực nghiệm và phân tích kết quả
Kết quả đo 11 tiêu chí về KNNN của trẻ khiếm thính được tính bằng điểm số
theo 4 mức độ: Mức 1 - Tốt (4 điểm); Mức 2 – Khá (3 điểm); Mức 3 - Trung bình
(2 điểm); Mức 4 – Kém (1 điểm).
Sau khi có kết quả thực nghiệm của các vòng đo, nhà nghiên cứu sử dụng
phần mềm SPSS để xử lí số liệu và đánh giá sự thay đổi kết quả thực nghiệm qua
các vòng đo.
3.4.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm
3.4.2.1. Trường hợp nghiên cứu 1 (bé Đ.B.N)
* Thông tin chung về bé Đ.B.N
Đ.B.N sinh ngày 19 tháng 3 năm 2015, là con thứ hai trong gia đình, cháu có
một anh trai 10 tuổi. Mẹ mang thai cháu khi 34 tuổi. Quá trình mang thai và sinh nở
không có gì bất thường. Cháu sinh đủ tháng (lúc 39 tuần), sinh thường, cân nặng
của cháu khi sinh là 3,4kg. Trong gia đình cháu không có ai bị khiếm thính cũng
như các khuyết tật khác.
Theo lời kể của mẹ, các mốc phát triển về vận động, nhận thức của cháu diễn
ra bình thường, theo đúng độ tuổi. Khi cháu được 10 tháng rưỡi, gia đình mới để ý
thấy cháu không đáp lại khi gọi tên, ít phát ra các âm bập bẹ nên đưa cháu đi khám
tại bệnh viện Tai – mũi – họng Trung ương và tại Trung tâm Cát Tường, cháu được
chẩn đoán bị điếc mức IV (điếc sâu) ở cả hai tai. Khi cháu được 14 tháng, gia đình
đã cho cháu đeo máy trợ thính và tham gia can thiệp sớm tại Trung tâm máy trợ
thính Quang Đức. Nhận thấy, máy trợ thính có ít tác dụng trong việc hỗ trợ khả
năng nghe cho cháu, khi cháu được 18 tháng, gia đình đã cho cháu cấy điện cực ốc
tai ở cả hai tai (xem thính lực đồ của bé ở phụ lục 8). Ngoài tham gia các hoạt động
trị liệu sau cấy, cháu còn tham gia chương trình can thiệp sớm tại một Trung tâm tư
thục. Cháu bắt đầu đi học tại trường mầm non hòa nhập lúc 30 tháng.
* Kết quả đánh giá trước thực nghiệm
Bảng 3.2. Kết quả đánh giá trước thực nghiệm của bé Đ.B.N
TT KNNN Tổng số ĐTB Mức độ Tổng
mục điểm
1 KN nghe 5 16 3.20 Khá
2 KN nói 6 16 2.67 Khá
3 Chung 11 32 2.93 Khá
128
Trước thực nghiệm, KNNN của bé Đ.B.N ở mức khá (2.93 điểm), do được
cấy điện cực ốc tai và được can thiệp sớm nên khả năng nghe của cháu khá tốt, cháu
cũng đã có một số vốn từ hiểu và diễn đạt sử dụng trong giao tiếp, tuy nhiên KNNN
của cháu vẫn còn một số điểm hạn chế, đặc biệt là về kỹ năng nói.
Cụ thể, về kỹ năng nghe: Bé Đ.B.N có kỹ năng nghe đạt mức khá (3.20
điểm), cháu có thể nghe nhận diện được cả 6 âm Ling; nghe hiểu phần lớn các từ
chỉ sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc và các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công
dụng; cháu cũng có thể nghe hiểu và thực hiện được từ 1-3 yêu cầu khi được GV
nhắc lại hoặc gợi ý; nghe hiểu nội dung chính của câu chuyện, bài thơ. Tuy nhiên,
vốn từ hiểu của cháu vẫn còn hạn chế so với các trẻ cùng độ tuổi, đặc biệt là với loại
từ là tính từ chỉ đặc điểm, tính chất của sự vật, khó hiểu và thực hiện được các yêu
cầu gồm 3 hành động, chưa nghe hiểu được trọn vẹn nội dung câu chuyện.
Về kỹ năng nói: đạt mức khá (2.67 điểm), cháu có thể phát âm đúng các
tiếng, từ, câu khi được hướng dẫn, giúp người nghe có thể hiểu được, tuy nhiên
thỉnh thoảng cháu vẫn phát âm bị ngọng một số phụ âm như /v/, /ch/, /ng/; cháu có
thể sử dụng lời nói với các từ thông dụng chỉ sự vật, hành động, đặc điểm, tính chất
nhưng còn đơn giản về nội dung; cháu có thể thể hiện được nhu cầu, cảm xúc của
bản thân và kể lại những sự việc đơn giản nhưng chưa rõ ràng; khả năng kể lại câu
chuyện đơn giản đã nghe của cháu còn khá hạn chế, cháu mới chỉ kể lại được một
vài tình tiết trong câu chuyện.
* Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển KNNN cho bé Đ.B.N
Trên cơ sở đặc điểm, khả năng, nhu cầu của Đ.B.N, các điểm mạnh và hạn
chế về KNNN đã xác định, đồng thời căn cứ vào thực tiễn hoạt động GD ở trường
mầm non, chúng tôi tiến hành xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển KNNN
cho cháu với các mục tiêu, biện pháp chính như sau:
Bảng 3.3. Mục tiêu và biện pháp phát triển KNNN cho bé Đ.B.N
Mục tiêu STT Mục tiêu cụ thể Biện pháp thực hiện chung
Nghe hiểu các từ chỉ sự vật, - Lồng ghép phát triển KN
hành động, hiện tượng và các nghe hiểu trong các hoạt Phát triển
từ chỉ đặc điểm, tính chất, động vui chơi, hoạt động 1 kỹ năng nghe
công dụng, các từ biểu cảm làm quen với tác phẩm văn hiểu lời nói
học, hoạt động góc, hoạt Thực hiện được các yêu cầu
129
đơn giản gồm 2 - 3 hành động động ngoài trời…
- Sử dụng các trò chơi để Hiểu được trọn vẹn nội dung
rèn luyện KN nghe cho trẻ câu chuyện, bài thơ và trả lời
khiếm thính được các câu hỏi có liên quan
đến nội dung câu chuyện, bài
thơ
Phát âm rõ ràng các tiếng, từ, - Lồng ghép phát triển KN
câu trong giao tiếp sử dụng lời nói trong các
hoạt động vui chơi, làm Nói được câu 5 – 6 tiếng có
quen với tác phẩm văn các từ thông dụng chỉ sự vật,
học, hoạt động góc, hoạt hành động, đặc điểm, tính
động ngoài trời… chất, công dụng quen thuộc Phát triển - Sử dụng các kỹ thuật Bày tỏ được các nhu cầu, cảm kỹ năng phát triển KNNN cho trẻ 2 xúc của bản thân bằng lời nói sử dụng như: chờ đợi, sử dụng lời một cách rõ ràng lời nói nói mẫu… Kể lại được những sự việc
- Rèn luyện khả năng phát đơn giản đã xảy ra một cách
âm và khả năng diễn đạt rõ ràng
lời nói trôi chảy cho trẻ Kể lại được nội dung câu
chuyện đơn giản đã được
nghe theo đúng trình tự
* Kết quả thực nghiệm
Bảng 3.4. So sánh kết quả KNNN trước và sau thực nghiệm của bé Đ.B.N
TTN Sau 3 tháng Sau 6 tháng
TT KNNN Tổng Mức Tổng Mức Tổng Mức ĐTB ĐTB ĐTB điểm độ điểm độ điểm độ
KN 1 nghe 16 3.20 Khá 17 3.40 Tốt 18 3.60 Tốt
2 KN nói 16 2.67 Khá 17 2.83 Khá 21 3.50 Tốt
3 Chung 32 2.93 Khá 34 3.09 Khá 39 3.55 Tốt
130
Biểu đồ 3.1. Mức KNNN của bé Đ.B.N trước và sau thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm cho thấy, mức phát triển KNNN của bé Đ.B.N đã có sự
thay đổi trước và sau thực nghiệm. Cụ thể, KNNN trước thực nghiệm chỉ đạt 2.93
điểm (mức khá) thì sau 3 tháng đã có chút tăng nhẹ lên 3.09 điểm (mức khá) và sau
6 tháng tăng lên 3.55 điểm (mức tốt), trong đó cả KN nghe và KN nói đều đã có sự
thay đổi về một mức độ so với trước thực nghiệm.
Cụ thể, về kỹ năng nghe, trước thực nghiệm bé Đ.B.N có kỹ năng nghe đạt
3,20 điểm (mức khá), sau 3 tháng thực nghiệm đã tăng lên 3,40 điểm (mức tốt) và
sau 6 tháng thực nghiệm đã tăng lên 3,60 điểm (mức tốt). Kết quả sau thực nghiệm
của bé Đ.B.N cho thấy, bé đã có vốn từ hiểu phong phú tương đương với các trẻ
nghe bình thường cùng lứa tuổi; cháu cũng có thể nghe hiểu và thực hiện được từ 1-
3 yêu cầu, song với các yêu cầu từ 3 – 4 hành động cháu vẫn cần GV phải nhắc lại;
nghe hiểu được những nội dung chính của câu chuyện, bài thơ và trả lời được
khoảng 2/3 số câu hỏi khi có sự gợi ý của GV.
Về kỹ năng nói: nếu như sau 3 tháng tác động, mức kỹ năng nói của Đ.B.N
tăng rất ít, chỉ từ 2.67 điểm (mức khá) lên 2.83 điểm (mức khá) thì sau 6 tháng tác
động cháu đã có sự thay đổi rõ rệt, đạt 3.50 điểm (mức tốt), cháu đã phát âm chính
xác, rõ ràng, trôi chảy các tiếng trong giao tiếp; cháu có thể sử dụng lời nói với các
từ thông dụng một cách rõ ràng, phù hợp với tình huống giao tiếp, độ dài câu nói
của cháu cũng đã có sự tiến bộ rõ rệt, cháu đã có thể nói được câu 4-6 tiếng; tuy
131
nhiên cháu vẫn ít sử dụng các tính từ so với danh từ và động từ; cháu có thể thể hiện
được nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của bản thân song vẫn cần sự gợi ý, hỗ trợ của
người lớn; có thể tự kể lại các sự việc đơn giản đã diễn ra một cách khá rõ ràng; khả
năng kể lại câu chuyện đã nghe của cháu cũng có sự tiến bộ, cháu có thể kể lại đầy
đủ các tình tiết của câu chuyện song chưa đúng trình tự.
Như vậy, trường hợp bé Đ.B.N cũng đã có sự tiến bộ rõ nét sau quá trình thực
nghiệm sử dụng kết hợp 02 nhóm biện pháp với các biện pháp cụ thể được lựa chọn vận
dụng vào điều kiện thực tế của bé, mức KNNN của bé đã tang lên 1 mức so với kết quả
đánh giá trước thực nghiệm, đặc biệt mức độ thay đổi về kỹ năng nói đã có khoảng cách
khá lớn giữa kết quả trước và sau 6 tháng thực nghiệm tác động.
Trường hợp bé Đ.B.N là một trường hợp được cấy điện cực ốc tai và được
can thiệp sớm, sau quá trình can thiệp ban đầu bé đã đạt được một mức độ nhất định
về KNNN. Trường hợp này cũng cho thấy hiệu quả tích cực của sự phối hợp giữa
hoạt động trị liệu và giáo dục, giữa việc phát triển KNNN theo phương pháp tự
nhiên và phương pháp cấu trúc trong việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
3.4.2.2. Trường hợp nghiên cứu 2 (bé N.T.M)
* Thông tin chung về bé N.T.M
N.T.M sinh ngày 16 tháng 8 năm 2014, là con một trong gia đình. Mẹ mang
thai cháu khi 24 tuổi. Quá trình mang thai và sinh nở không có gì bất thường. Cháu
sinh đủ tháng (lúc 40 tuần), sinh mổ, cân nặng của cháu khi sinh là 3,2 kg. Trong
gia đình cháu không có ai bị khiếm thính cũng như các khuyết tật khác.
Cháu được phát hiện bị khiếm thính lúc 24 tháng do mẹ thấy cháu chậm phát
triển ngôn ngữ so với các trẻ cùng độ tuổi. Ngay khi phát hiện trẻ có vấn đề về
nghe, gia đình đã cho cháu đi khám tại bệnh viện Tai – mũi – họng Trung ương,
cháu được chẩn đoán bị điếc mức III (điếc nặng) ở cả hai tai và được chỉ định đeo
máy trợ thính. Cháu bắt đầu đeo máy trợ thính từ lúc 26 tháng (xem thính lực đồ bé
P.B.N ở phụ lục 8). Sau khi đeo máy, cháu đã tham gia vào chương trình can thiệp
sớm tại một Trung tâm tư thục. Cháu bắt đầu đi học tại trường mầm non hòa nhập
lúc 34 tháng.
Cha mẹ cháu là cán bộ viên chức, họ thường dành thời gian chăm sóc, chơi
với cháu và có ý thức phối hợp với giáo viên trong việc phát triển KNNN cho cháu
tại gia đình.
* Kết quả đánh giá trước thực nghiệm
132
Bảng 3.5. Kết quả đánh giá trước thực nghiệm của bé N.T.M
Tổng số Tổng TT KNNN ĐTB Mức độ mục điểm
1 KN nghe 5 13 2.60 Khá
2 KN nói 6 13 2.17 TB
3 Chung 11 26 2.36 TB
Trước thực nghiệm, KNNN của bé N.T.M ở mức trung bình (2.36 điểm),
cháu có một số hạn chế nhất định về KNNN.
Về kỹ năng nghe: Bé N.T.M có kỹ năng nghe đạt mức khá (2.60 điểm), cháu
có thể nghe nhận diện được cả 6 âm Ling; có thể nghe hiểu phần lớn các từ chỉ
người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi (23/30 từ
- mức khá), tuy nhiên khả năng nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng
và các từ biểu cảm còn thấp (7/20 từ - mức trung bình); nghe hiểu và thực hiện được
từ 1-2 yêu cầu khi được GV nhắc lại hoặc gợi ý bằng hành động; việc nghe hiểu nội
dung câu chuyện, bài thơ còn hạn chế, cháu chỉ trả lời được khoảng một nửa số câu
hỏi theo nội dung câu chuyện khi có sự gợi ý bằng lời nói hoặc hành động của GV.
Về kỹ năng nói: đạt mức trung bình (2.17 điểm), cháu có thể phát âm đúng
các tiếng, từ, câu khi được hướng dẫn, giúp người nghe có thể hiểu được, tuy nhiên
nếu không được hướng dẫn, nói mẫu, cháu vẫn phát âm bị ngọng một số phụ âm
như /t/, /th/, /kh/; có thể sử dụng lời nói với các từ thông dụng nhưng còn đơn giản
về nội dung, chưa tự tin và phản ứng chậm; bước đầu sử dụng một số từ chỉ đặc
điểm, tính chất, công dụng (như bút viết, ô che mưa, bé khóc) nhưng còn khá nghèo
nàn về vốn từ; có thể thể hiện được nhu cầu, cảm xúc của bản thân và kể lại những
sự việc đơn giản nhưng không rõ ràng, phải gợi ý nhiều lần, người nghe chỉ có thể
hiểu được khi có tình huống; chưa kể lại được câu chuyện đơn giản đã nghe theo
trình tự nhất định.
* Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển KNNN cho bé N.T.M
Trên cơ sở đặc điểm, khả năng, nhu cầu của N.T.M, các điểm mạnh và hạn
chế về KNNN đã xác định, đồng thời căn cứ vào thực tiễn hoạt động GD ở trường
mầm non, chúng tôi tiến hành xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển KNNN
cho cháu với các mục tiêu, biện pháp chính như sau:
133
Bảng 3.6. Mục tiêu và biện pháp phát triển KNNN cho bé N.T.M
Mục tiêu Biện pháp thực hiện STT Mục tiêu cụ thể chung
Nghe hiểu các từ chỉ sự vật, - Lồng ghép các nội dung
hành động, hiện tượng quen phát triển KNNN cho trẻ
thuộc, gần gũi trong các hoạt động như:
hoạt động vui chơi, hoạt Nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm,
động làm quen với tác phẩm tính chất, công dụng, các từ Phát triển văn học, hoạt động góc, biểu cảm kỹ năng hoạt động ngoài trời… 1 Thực hiện được các yêu cầu nghe hiểu - Giao nhiệm vụ cho trẻ đơn giản gồm 2 – 3 hành động lời nói trong các hoạt động hằng Hiểu được nội dung chính của
ngày câu chuyện/bài thơ và trả lời
- Sử dụng các trò chơi để được các câu hỏi đơn giản về
rèn luyện KN nghe cho trẻ nội dung của tác phẩm (Ai? Cái
khiếm thính gì? Làm gì?)
Phát âm đúng, rõ các tiếng, từ, - Lồng ghép các nội dung
câu trong giao tiếp để người phát triển KN sử dụng lời
nghe có thể hiểu được nói trong các hoạt động vui
chơi, làm quen với tác phẩm Nói được câu 4 – 5 tiếng có các
văn học, hoạt động góc, từ thông dụng chỉ sự vật, hành
hoạt động ngoài trời… động, hiện tượng, đặc điểm,
- Tạo tình huống có vấn đề công dụng quen thuộc, gần gũi Phát triển
cho trẻ thực hành, rèn luyện kỹ năng Sử dụng lời nói để bày tỏ nhu 2 KNNN sử dụng lời cầu, cảm xúc cơ bản của bản
- Sử dụng các kỹ thuật phát nói thân
triển KNNN cho trẻ như: Kể lại được những nội dung
chờ đợi, sử dụng lời nói chính của sự việc đơn giản đã
mẫu… xảy ra
- Rèn luyện khả năng phát Kể lại được một số tình tiết
âm và khả năng diễn đạt lời chính của câu chuyện đơn giản
nói trôi chảy cho trẻ đã được nghe
134
* Kết quả thực nghiệm
Bảng 3.7. So sánh kết quả KNNN trước và sau thực nghiệm của bé N.T.M
TT KNNN Sau 3 tháng Sau 6 tháng TTN
Tổng Mức Tổng Mức Tổng Mức ĐTB ĐTB ĐTB điểm độ điểm độ điểm độ
1 KN
nghe 13 2.60 Khá 15 3.0 Khá 18 3.60 Tốt
2 KN nói
13 2.17 TB 14 2.33 TB 17 2.83 Khá
26 2.36 TB 29 2.64 Khá 35 3.18 Khá 3 Chung
Biểu đồ 3.2. Mức KNNN của bé N.T.M trước và sau thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm cho thấy, mức độ phát triển KNNN của bé N.T.M
đã có sự thay đổi trước và sau thực nghiệm. Cụ thể, KNNN trước thực nghiệm
chỉ đạt 2.36 điểm (mức TB) thì sau 3 tháng đã có chút tăng nhẹ lên 2.64 điểm
(mức khá) và sau 6 tháng tăng lên 3.18 điểm (mức khá), trong đó cả KN nghe
và KN nói đều đã có sự thay đổi về một mức độ so với trước thực nghiệm.
Cụ thể, về kỹ năng nghe, đã tăng từ 2.60 điểm (mức khá) lúc trước thực
nghiệm lên 3.0 điểm (mức khá) sau 3 tháng tác động và sau 6 tháng đã đạt được
mức độ tốt (với điểm trung bình là 3.60 điểm). Kết quả sau 6 tháng thực
135
nghiệm của bé N.T.M cho thấy, cháu đã nghe hiểu tốt các từ chỉ sự vật, hành
động, hiện tượng quen thuộc và nghe hiểu được khoảng 70% các từ chỉ đặc
điểm, tính chất, công dụng quen thuộc; cháu cũng có thể nghe hiểu và thực hiện
được từ 2-3 yêu cầu khi được GV gợi ý hay nhắc lại; nghe hiểu được những nội
dung chính của câu chuyện, bài thơ và trả lời được khoảng 2/3 số câu hỏi khi
có sự gợi ý của GV.
Về kỹ năng nói: đã tăng từ 2.17 điểm (mức trung bình) lúc trước thực
nghiệm lên 2.33 điểm (mức trung bình) sau 3 tháng tác động và sau 6 tháng đạt mức
khá (2.83 điểm). Sau 6 tháng tác động, cháu đã sửa được lỗi phát âm về một số phụ
âm mà trước đây cháu thường nói ngọng như /t/, /th/, /kh/; cháu có thể sử dụng lời
nói với các từ thông dụng và các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng một cách rõ
ràng, phù hợp với tình huống giao tiếp nhưng còn chưa tự tin và đơn giản về nội
dung; cháu có thể thể hiện được nhu cầu, cảm xúc của bản thân nhưng vẫn cần sự
gợi ý; khả năng kể lại những sự việc và câu chuyện đơn giản đã nghe của cháu vẫn
còn khá hạn chế, cháu có thể kể lại nội dung chính của sự việc và một vài tình tiết
trong câu chuyện nhưng không đầy đủ về nội dung và không đúng trình tự.
Như vậy, trường hợp bé N.T.M đã có sự tiến bộ khá rõ nét sau 6 tháng thực
nghiệm, mức độ KNNN của bé đã có sự thay đổi từ mức TB (trước thực nghiệm)
lên mức khá (sau 6 tháng tác động), các kỹ năng thành phần trong KNNN đều có sự
tăng lên.
Trong trường hợp này, đã có sự vận dụng tốt các biện pháp ở cả hai nhóm:
nhóm biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính trong các hoạt động trong chế
độ sinh hoạt hằng ngày ở lớp MGHN do GV dạy HN trực tiếp thực hiện và nhóm biện
pháp phát triển KNNN trong hoạt động hỗ trợ cá nhân do giáo viên hỗ trợ đảm trách
chính. Bên cạnh đó, bản thân cha mẹ bé cũng đã rất tích cực phối hợp với GV trong
việc phát triển KNNN cho bé tại gia đình. Điều này cũng khẳng định, việc lựa chọn và
vận dụng đồng bộ các biện pháp phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế của bé
N.T.M đã mang lại kết quả tích cực trong việc phát triển KNNN cho bé.
3.4.2.3. Trường hợp nghiên cứu 3 (bé P.M.K)
* Thông tin chung về bé P.M.K
P.M.K sinh ngày 08 tháng 08 năm 2013, là con thứ nhất trong gia đình có hai anh
em. Mẹ mang thai cháu khi 27 tuổi. Quá trình mang thai và sinh nở không có gì bất
136
thường. Cháu sinh đủ tháng (lúc 39 tuần), sinh thường, cân nặng của cháu khi sinh là
2,8kg. Trong gia đình cháu không có ai bị khiếm thính cũng như các khuyết tật khác.
Theo lời kể của mẹ, các mốc phát triển về vận động, nhận thức của cháu vẫn
diễn ra bình thường, theo đúng độ tuổi. Khi cháu được 30 tháng, gia đình vẫn chưa
thấy cháu nói được nên đưa cháu đi khám tại bệnh viện nhi Trung Ương và phát
hiện cháu bị khiếm thính. Kết quả đo thính lực tại bệnh viện Tai mũi họng Trung
Ương cho thấy cháu bị khiếm thính mức III (khiếm thính nặng) ở cả hai tai và được
chỉ định đeo máy trợ thính. Tuy nhiên, gia đình không có điều kiện để mua máy cho
cháu nên cháu chưa được đeo máy. Đầu năm 2017, cháu may mắn được một Quỹ từ
thiện tặng máy trợ thính và bắt đầu đeo máy trợ thính hai tai từ lúc 44 tháng (xem
thính lực đồ ở phụ lục 8). Khi cháu được 48 tháng, gia đình cho cháu đi học ở lớp
mẫu giáo hòa nhập tại trường mầm non gần nhà.
Ở lớp, cô giáo rất thương và tích cực hỗ trợ, tương tác để giúp P.M.K hòa
nhập, phát triển ngôn ngữ, giao tiếp. Do đã từng được tham gia lớp bồi dưỡng về
GDHN trẻ khuyết tật và tích cực tìm kiếm các tài liệu về trẻ khiếm thính nên cô đã
có một số kiến thức cơ bản về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ khiếm thính và GDHN
trẻ khiếm thính. Bố mẹ cháu làm nông nên khá bận rộn, song đã luôn cố gắng thực
hiện những chỉ dẫn của giáo viên để giao tiếp với bé tại gia đình.
* Kết quả đánh giá trước thực nghiệm
Bảng 3.8. Kết quả đánh giá trước thực nghiệm của bé P.M.K
TT KNNN Tổng số mục Tổng điểm ĐTB Mức độ
1 KN nghe 5 11 2.2 TB
2 KN nói 6 10 1.67 Kém
Trước thực nghiệm, KNNN của bé P.M.K ở mức thấp (1.90 điểm) do bé
3 Chung 11 21 1.90 TB
được phát hiện khiếm thính và đeo máy trợ thính khá muộn, bé cũng không được
tham gia chương trình can thiệp sớm.
Cụ thể, về kỹ năng nghe: Bé P.M.K có kỹ năng nghe đạt mức trung bình (2.2
điểm), cháu có thể nghe nhận diện được 4 âm Ling, còn hai âm /s/ và /x/ cháu chưa
nhận diện được; nghe hiểu được 17/30 từ chỉ sự vật, hành động quen thuộc, gần gũi;
khả năng nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm
của cháu còn khá hạn chế (đạt 50% số lượng từ kiểm tra); cháu mới chỉ nghe hiểu
137
và thực hiện được 1 – 2 yêu cầu đơn giản khi có sự hướng dẫn, khả năng nghe hiểu câu
của cháu rất hạn chế, cháu chưa nghe hiểu được nội dung câu chuyện, bài thơ.
Về kỹ năng nói: ở mức kém (1.67 điểm), cháu phát âm còn ngọng nhiều, nói nhát
gừng, giọng không đều về cường độ và cao độ khiến người nghe chỉ có thể hiểu được khi
có tình huống; bước đầu sử dụng lời nói với các từ chỉ sự vật, hành động quen thuộc và
các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng khi có sự trợ giúp nhưng còn nghèo nàn về vốn
từ, chưa phù hợp với ngữ cảnh; bước đầu biết sử dụng lời nói để thể hiện nhu cầu cơ bản
của bản thân khi có sự trợ giúp nhưng chưa rõ ràng, chưa biết kể lại những sự việc đơn
giản và kể lại câu chuyện đơn giản đã nghe.
* Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển KNNN cho bé P.M.K
Bé P.M.K tham gia hoàn toàn vào lớp MGHN và không có các hoạt động hỗ trợ
cá nhân nào khác, bố mẹ bé cũng không có nhiều thời gian tương tác, giáo dục con. Trên
cơ sở đặc điểm, khả năng, nhu cầu của P.M.K và thực tiễn hoạt động GD ở lớp MGHN
của bé, chúng tôi tiến hành xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển KNNN cho bé với
các mục tiêu, biện pháp chính như sau:
Bảng 3.9. Kế hoạch phát triển KNNN cho bé P.M.K
Mục tiêu STT Mục tiêu cụ thể Biện pháp thực hiện chung
Nhận diện được 2 âm Ling: /s/, - Sử dụng các trò chơi để
/x/ rèn luyện KN nghe cho
trẻ khiếm thính Nghe hiểu các từ chỉ sự vật,
- Lồng ghép phát triển hành động, hiện tượng quen
KN nghe hiểu trong các thuộc, gần gũi
Phát triển hoạt động vui chơi, hoạt Nghe hiểu được các từ chỉ đặc
kỹ năng động làm quen với tác điểm, tính chất, công dụng và 1 nghe hiểu phẩm văn học, hoạt động các từ biểu cảm cơ bản
lời nói góc, hoạt động ngoài Thực hiện được các yêu cầu
trời… đơn giản gồm 1-3 nhiệm vụ mà
- Giao nhiệm vụ trong không cần trợ giúp
các hoạt động trong chế Trả lời được các câu hỏi đơn độ sinh hoạt hằng ngày. giản như Ai? Cái gì? Làm gì
138
theo nội dung câu chuyện/bài
thơ đã nghe
Phát âm đúng các tiếng, từ - Rèn luyện khả năng
trong câu để người nghe có thể phát âm cho trẻ thông
hiểu được qua các hoạt động luyện
hơi, luyện giọng, luyện Nói được câu với 3 – 4 từ thông
vận động cơ quan cấu dụng chỉ sự vật, hành động, đặc
âm, luyện phát âm các điểm, công dụng quen thuộc,
âm vị, các tiếng, từ, câu. gần gũi Phát triển - Lồng ghép phát triển Sử dụng được lời nói để bày tỏ kỹ năng 2 KN sử dụng lời nói trong nhu cầu cơ bản của bản thân sử dụng các hoạt động vui chơi, Kể lại được những sự việc đơn lời nói làm quen với tác phẩm giản đã xảy ra
văn học, hoạt động góc,
hoạt động ngoài trời… Nhắc lại một số tình tiết chính - Sử dụng các kỹ thuật trong câu chuyện với sự hướng phát triển KNNN cho trẻ dẫn của GV như: chờ đợi, sử dụng lời
nói mẫu…
* Kết quả thực nghiệm
Bảng 3.10. So sánh kết quả KNNN trước và sau thực nghiệm của bé P.M.K
TT KNNN TTN Sau 3 tháng Sau 6 tháng
Tổng Mức Tổng Mức Tổng Mức ĐTB ĐTB ĐTB điểm độ điểm độ điểm độ
1 KN
nghe 11 2.20 TB 12 2.40 TB 14 2.80 Khá
2 KN nói
10 1.67 Kém 11 1.83 TB 13 2.17 TB
21 1.90 TB 23 2.1 TB 27 2.45 TB 3 Chung
139
Biểu đồ 3.3. Mức KNNN của bé P.M.K trước và sau thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm cho thấy, mức phát triển KNNN của bé P.M.K đã có sự
thay đổi trước và sau thực nghiệm. Cụ thể, điểm trung bình KNNN trước thực
nghiệm của bé chỉ đạt 1.90 điểm (mức TB) thì sau 3 tháng thực nghiệm có sự tăng
nhẹ lên 2.1 điểm (mức TB) và sau 6 tháng thực nghiệm đã tăng lên 2.45 điểm (mức
TB), mặc dù không có sự thay đổi rõ rệt về mức phát triển KNNN (vẫn nằm ở mức
TB) nhưng các tiêu chí trong từng nhóm kỹ năng thành phần hầu hết cũng đã có sự
thay đổi so với trước thực nghiệm.
Cụ thể như sau: về kỹ năng nghe, trước thực nghiệm bé chỉ đạt 2.2 điểm (mức
TB), sau 3 tháng thực nghiệm có sự tăng nhẹ lên 2.4 điểm (mức TB) và sau 6 tháng
thực nghiệm đã đạt được mức khá (với điểm trung bình là 2.8 điểm). Kết quả sau 6
tháng thực nghiệm của bé P.M.K cho thấy, cháu đã nghe nhận diện được cả 6 âm Ling,
nghe hiểu được các từ chỉ sự vật, hành động quen thuộc, nghe hiểu được một số từ chỉ
đặc điểm, tính chất (12/20 từ kiểm tra). Tuy nhiên, khả năng nghe hiểu để thực hiện các
yêu cầu và nghe hiểu nội dung câu chuyện, bài thơ chưa có sự cải thiện.
Về kỹ năng nói: trước thực nghiệm cháu chỉ đạt 1.67 điểm (mức kém), sau 3
tháng tác động cháu tăng lên 1.83 điểm (mức TB) và sau 6 tháng tác động đã tăng
lên 2.17 điểm (mức TB). Cụ thể, cháu đã có thể phát âm khá rõ các tiếng, từ, câu để
người nghe có thể hiểu được mặc dù vẫn còn ngọng một số âm, phát âm còn nhát gừng,
chưa lưu loát; cháu có thể sử dụng lời nói với các từ thông dụng nhưng còn đơn giản về
nội dung, chưa rõ ràng, lưu loát; bắt đầu sử dụng được một vài từ chỉ đặc điểm, tính chất
nhưng còn khá hạn chế; cháu vẫn chưa có khả năng kể lại được những sự việc đơn giản
hay kể lại câu chuyện.
140
Như vậy, trường hợp bé P.M.K là một trường hợp trẻ được phát hiện khiếm
thính khá muộn và không được can thiệp sớm, mặc dù tuổi thực khá lớn (63 tháng)
nhưng tuổi nghe còn thấp (19 tháng), bé cũng chỉ tham gia vào các hoạt động giáo
dục ở lớp MGHN và không có các hoạt động hỗ trợ khác ở bên ngoài. Mặc dù
không có những sự thay đổi rõ nét về mức KNNN như hai trường hợp trên nhưng
mức KNNN của cháu cũng đã có những thay đổi đáng kể sau quá trình thực
nghiệm. Điều này cho thấy, các biện pháp phát triển KNNN mà đề tài đề xuất vẫn
có tác động tích cực đến sự phát triển KNNN của trẻ ngay cả khi trẻ có ít các điều
kiện về trị liệu và mức độ KNNN ban đầu của trẻ ở mức độ khá thấp.
3.4.2.4. Nhận xét chung về các trường hợp nghiên cứu
Qua thời gian 6 tháng theo dõi và tác động trên cơ sở lựa chọn các biện pháp
phù hợp với khả năng và điều kiện của mỗi trẻ, cả 3 trường hợp nghiên cứu (với
những khác biệt về độ tuổi, mức độ khiếm thính, loại thiết bị trợ thính, điều kiện
can thiệp sớm, tuổi nghe) đều có những thay đổi khá rõ rệt ở cả 2 nhóm kỹ năng: kỹ
năng nghe và kỹ năng nói, điểm trung bình của tất cả các tiêu chí đều cao hơn đáng
kể so với kết quả đánh giá mức độ KNNN ở phần thực trạng. Biểu đồ 3.4 cho thấy
mức độ KNNN của 3 trường hợp nghiên cứu sau 6 tháng tác động cao hơn hẳn so
với thời gian đo trước thực nghiệm. Kết quả đo sau thực nghiệm cũng cho thấy, trẻ
đã đạt được các mục tiêu về phát triển KNNN được đặt ra trong kế hoạch phát triển
KNNN. Điều này giúp khẳng định các biện pháp thực nghiệm đã làm thay đổi mức
độ phát triển KNNN của các nhóm trẻ thực nghiệm.
Biểu đồ 3.4. So sánh điểm của 3 trẻ trước và sau thực nghiệm
141
Chia sẻ của các GV sau khi tham gia thực nghiệm cũng góp phần khẳng định
tính khả thi, hiệu quả của các biện pháp đã đề xuất: “Tôi thấy việc lồng ghép phát
triển KNNN cho trẻ khiếm thính trong các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng
ngày là rất phù hợp trong môi trường mẫu giáo hòa nhập vì không ảnh hưởng
nhiều đến hoạt động chung của các trẻ nghe bình thường mà vẫn tận dụng được
nhiều cơ hội để giúp trẻ khiếm thính phát triển KNNN. Trẻ khiếm thính được tham
gia tích cực hơn trong các hoạt động, vui vẻ, hòa đồng với các bạn mà không hề
biết đang được phát triển KNNN” (Ý kiến của cô giáo N.T.C – Hà Nội). “Trước
đây, tôi cảm thấy rất khó khăn khi dạy lớp học có trẻ khiếm thính học hòa nhập.
Giờ thì tôi đã biết cách tổ chức các hoạt động để vừa đảm bảo mục tiêu giáo dục
chung, vừa giúp trẻ khiếm thính phát triển KNNN bằng cách điều chỉnh hoạt động
và có những hỗ trợ cá nhân phù hợp với trẻ khiếm thính” (Ý kiến của cô giáo
V.T.T.P – Thái Nguyên). “Tôi cảm thấy việc giáo dục trẻ khiếm thính trong lớp
MGHN không quá khó khăn như những gì tôi đã nghĩ, tôi cũng đã bước đầu sử
dụng được các kỹ thuật để giúp trẻ khiếm thính phát triển KNNN” (Ý kiến của cô
giáo T.M.L - Hà Nội).
Mặc dù cả 3 trường hợp nghiên cứu đều chịu sự tác động của các biện pháp
thuộc 2 nhóm biện pháp (phát triển KNNN trong các hoạt động trong chế độ sinh
hoạt hằng ngày ở trường mầm non và phát triển KNNN trong hoạt động hỗ trợ cá
nhân) với quy trình như nhau nhưng cách tác động khác nhau tùy thuộc vào đặc
điểm của từng trẻ, cuối cùng cho ra kết quả khác nhau. Trong đó, trường hợp bé
Đ.B.N đạt điểm cao nhất là 39 điểm ở lần đo sau thực nghiệm, bé V.Đ.T đạt điểm
thấp nhất so với 2 bạn trong nhóm thực nghiệm là 27 điểm ở lần đo sau thực
nghiệm. Khác biệt này vừa cho thấy mỗi đứa trẻ là một cá nhân riêng biệt, sự phát
triển KNNN ở mỗi trẻ là hết sức đa dạng, vừa cho thấy tác động của các yếu tố ảnh
hưởng đến mức độ phát triển KNNN của mỗi trẻ khiếm thính như: thời điểm trẻ
được phát hiện tật khiếm thính, điều kiện can thiệp sớm, loại thiết bị trợ thính mà
trẻ sử dụng, tuổi nghe và các dịch vụ hỗ trợ về thính học, trị liệu, năng lực của giáo
viên, gia đình trong việc phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
Vì vậy, trong quá trình GDHN trẻ khiếm thính nói chung và phát triển KNNN
cho trẻ khiếm thính nói riêng cần chú trọng đến tính cá biệt, các biện pháp phát triển
KNNN phải được cụ thể hóa phù hợp với mức độ phát triển KNNN và đặc điểm của
từng trẻ, phù hợp với điều kiện của nhà trường và gia đình trẻ khiếm thính.
142
Kết luận chương 3
1. Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính và các nguyên tắc đề xuất biện pháp, chúng tôi đã nghiên cứu và xây dựng 08
biện pháp thuộc 03 nhóm biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
ở lớp MGHN, bao gồm: Nhóm biện pháp điều kiện để phát triển KNNN; nhóm biện
pháp phát triển KNNN trong các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở
trường mầm non; nhóm biện pháp phát triển KNNN trong hoạt động hỗ trợ cá nhân.
2. Các biện pháp này có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, bổ sung
và hoàn thiện lẫn nhau. Do vậy, trong quá trình phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính cần phối kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp để đạt được hiệu quả
phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính. Các biện pháp đề xuất chủ yếu được thực
hiện tại trường mẫu giáo hòa nhập. Tuy nhiên cha mẹ và người chăm sóc trẻ cần
được nâng cao năng lực và phối hợp với trường mẫu giáo để cùng giúp trẻ trong
môi trường ở gia đình.
3. Thực nghiệm đã được tiến hành trên 03 trường hợp nghiên cứu điển hình
để kiểm nghiệm tính khả thi, hiệu quả của các biện pháp đề xuất. Các trường hợp
chọn để thực nghiệm khác nhau về độ tuổi (từ 3 đến 6 tuổi), khác nhau về thiết bị
trợ thính, điều kiện can thiệp sớm, tuổi nghe và các kĩ thuật can thiệp để phù hợp
với đặc điểm của từng trẻ. Các kết quả thực nghiệm được phân tích cả về mặt định
tính và định lượng đã cho thấy mức độ KNNN của cả 3 trường hợp nghiên cứu đã
được cải thiện rõ rệt, tuy có sự khác nhau về mức độ. Những tiến bộ của 03 trường
hợp nghiên cứu về mức độ phát triển KNNN đã chứng minh tính khả thi, hiệu quả
của các biện pháp tác động đến đối tượng thực nghiệm đồng thời cho thấy các GV
khi tổ chức hoạt động phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính cần chú ý đến tính cá
biệt, cụ thể hóa các biện pháp phù hợp với đặc điểm của từng trẻ.
143
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Từ những luận điểm đã trình bày trong các chương của luận án, có thể rút ra
một số kết luận sau đây:
1.1. Trẻ khiếm thính là những trẻ có khó khăn về nghe ở các mức độ khác
nhau làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển ngôn ngữ nói và giao tiếp. Sự phát
triển KNNN ở trẻ khiếm thính cũng tuân theo các giai đoạn phát triển như trẻ nghe
bình thường nhưng sẽ cần thời gian dài hơn với sự hỗ trợ đặc biệt về thiết bị trợ
thính và kĩ thuật hỗ trợ để có thể phát triển theo trình tự đó. Mức độ phát triển
KNNN của trẻ khiếm thính chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố trong đó yếu tố về mức
độ điếc và thời gian bắt đầu nghe, điều kiện trang bị thiết bị trợ thính và chất lượng
các chương trình can thiệp có vai trò quan trọng. Tùy vào mức độ phát triển KNNN
và đặc điểm cá nhân của mỗi trẻ khiếm thính, nội dung, phương pháp, hình thức
phát triển KNNN sẽ được xác định phù hợp.
1.2. Luận án đã xây dựng 11 tiêu chí đánh giá mức KNNN của trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi thuộc 2 lĩnh vực kỹ năng là: kỹ năng nghe và kỹ năng nói. Mỗi tiêu
chí được đánh giá theo 4 mức: Tốt (4 điểm); Khá (3 điểm); Trung bình (2 điểm);
Kém (1 điểm). Kết quả đánh giá cho thấy, mức độ kỹ năng nghe – nói của trẻ khiếm
thính 3 – 6 tuổi còn thấp, chỉ đạt ở mức trung bình, trong đó, hai kỹ năng thành
phần của KNNN là kỹ năng nghe và kỹ năng nói có mối tương quan chặt chẽ với
nhau và đều có tương quan chặt với yếu tố về thiết bị trợ thính, yếu tố can thiệp sớm
và tuổi nghe.
1.3. Khảo sát thực trạng phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính cho thấy, phần
lớn GV đều nhận thức đúng đắn về vai trò và ý nghĩa của việc phát triển KNNN cho
trẻ khiếm thính trong lớp MGHN. Họ bước đầu đã lựa chọn và thực hiện một số nội
dung, cách thức phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính phù hợp với các
nội dung, phương pháp chung được quy định trong chương trình GDMN. Tuy
nhiên, do chưa được bồi dưỡng chuyên sâu về tật khiếm thính nên các GV thiếu các
phương pháp đặc thù để hỗ trợ trẻ trong các hoạt động chung cũng như các hoạt
động cá nhân.
1.4. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về phát triển KNNN cho trẻ
khiếm thính, 03 nhóm biện pháp với 8 biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
3 – 6 tuổi ở lớp MGHN đã được đề xuất, bao gồm: Nhóm biện pháp điều kiện để phát
144
triển KNNN; nhóm biện pháp phát triển KNNN trong các hoạt động trong chế độ sinh
hoạt hằng ngày ở trường mầm non; nhóm biện pháp phát triển KNNN trong hoạt động
hỗ trợ cá nhân. Các biện pháp này có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, bổ
sung và hoàn thiện lẫn nhau.
1.5. Bằng kết quả thực nghiệm sư phạm tác động trên 03 trường hợp nghiên
cứu có sự khác nhau về độ tuổi (từ 3 đến 6 tuổi), về thiết bị trợ thính, điều kiện can
thiệp sớm, tuổi nghe và các kĩ thuật can thiệp để phù hợp với đặc điểm của từng trẻ
đã chứng minh tính khả thi, hiệu quả của các biện pháp tác động đến đối tượng thực
nghiệm đồng thời cho thấy các GV khi tổ chức hoạt động phát triển KNNN cho trẻ
khiếm thính cần chú ý đến tính cá biệt, cụ thể hóa các biện pháp phù hợp với đặc
điểm của từng trẻ.
2. KHUYẾN NGHỊ
2.1. Với giáo viên dạy lớp mẫu giáo hòa nhập
- Chủ động rèn luyện, nâng cao kiến thức, kỹ năng về trẻ khiếm thính,
GDHN trẻ khiếm thính, phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính thông qua việc tham
gia các khóa học, tập huấn, tự bồi dưỡng lẫn nhau trong các giờ sinh hoạt chuyên
môn và tự học, từ đó có ứng xử phù hợp và những hỗ trợ phát triển KNNN cho trẻ
khiếm thính.
- Mạnh dạn áp dụng các biện pháp phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính mà
luận án đã đề xuất, cụ thể hóa các biện pháp cho phù hợp với đặc điểm cá nhân của
mỗi trẻ và điều kiện thực tế tại địa phương nhằm nâng cao kết quả giáo dục phát
triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
- Chủ động liên lạc, thiết lập mối quan hệ, phối kết hợp với cha mẹ trẻ khiếm
thính trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển KNNN cho trẻ khiếm
thính.
2.2. Với cha mẹ trẻ khiếm thính
- Nhận thức rõ về vai trò, ý nghĩa của gia đình trong mối quan hệ với nhà
trường, với giáo viên trong quá trình giáo dục trẻ khiếm thính.
- Phối hợp chặt chẽ với nhà trường, giáo viên trong việc giáo dục trẻ, đồng
thời chia sẻ về những khó khăn, vướng mắc gặp phải trong quá trình giáo dục trẻ tại
gia đình để được tư vấn, hỗ trợ.
- Tự học hoặc tham gia các khóa bồi dưỡng kiến thức về đặc điểm tâm lý,
ngôn ngữ, giao tiếp của trẻ khiếm thính; tham gia các diễn đàn trao đổi, chia sẻ
145
thông tin giữa các cha mẹ có con khiếm thính để cùng chia sẻ kiến thức, kỹ năng
chăm sóc, giáo dục trẻ khiếm thính tại gia đình.
2.3. Với nhà trường mầm non hòa nhập
- Tạo môi trường hòa nhập thực sự, có sự điều chỉnh phù hợp các yếu tố của
môi trường vật chất và môi trường tâm lý để đảm bảo trẻ khiếm thính được tham gia
tích cực vào các hoạt động giáo dục, có môi trường thuận lợi để rèn luyện phát triển
KNNN.
- Tạo điều kiện tốt nhất cho GV đầu tư thời gian, công sức trong việc dạy trẻ
khiếm thính ở lớp MGHN như: giảm sĩ số trẻ trong lớp; trang bị thêm các đồ dùng,
đồ chơi phục vụ cho hoạt động GDHN trẻ khiếm thính; thực hiện chế độ phụ cấp
cho giáo viên hòa nhập theo chính sách quy định…
- Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn cho GV trong trường để
họ hiểu và thực hiện tốt công tác GDHN trẻ khiếm thính nói chung và phát triển
KNNN cho trẻ khiếm thính nói riêng.
- Tích cực tuyên truyền nâng cao nhận thức của cha mẹ, cộng đồng về
GDHN trẻ khiếm thính hướng tới xây dựng một môi trường hòa nhập thân thiện,
tích cực, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhà trường và gia đình trong việc
chăm sóc, giáo dục trẻ khiếm thính cũng như việc phát triển KNNN cho trẻ.
2.4. Với các cơ quan quản lý và đào tạo giáo dục mầm non
- Lồng ghép nội dung hướng dẫn về GD trẻ khiếm thính và phát triển KNNN
cho trẻ khiếm thính vào chương trình đào tạo GVMN trong các học phần như Giáo
dục hòa nhập trẻ khuyết tật lứa tuổi mầm non, Phương pháp phát triển ngôn ngữ...
- Phát huy vai trò của Trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN trong việc hỗ trợ
chuyên môn cho GV thực hiện công tác GDHN trẻ khiếm thính và hỗ trợ cá nhân
trực tiếp cho trẻ.
- Xây dựng đội ngũ nhân viên hỗ trợ cho các cơ sở GDHN và có cơ chế sử
dụng thích hợp nguồn nhân lực này.
- Nghiên cứu xây dựng các tài liệu hướng dẫn, tài liệu tham khảo cho giáo
viên và cha mẹ về GD phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính.
146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Minh Phượng (2016), Biện pháp phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính trong trường mầm non hòa nhập, Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt,
trang 165-167.
2. Nguyễn Minh Phượng, Nguyễn Hà My (2017), Lựa chọn phương tiện giao tiếp cho trẻ điếc học và sử dụng: ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ ký hiệu, Tạp chí Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Số đặc biệt, trang 111-114.
3. Nguyễn Minh Phượng (2018), Phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm thính độ tuổi mầm non thông qua giao tiếp, Tạp chí khoa học, Trường ĐHSP Hà Nội,
Volume 63, Issue 5B, trang 55 - 60
4. Nguyễn Minh Phượng (2018), Sử dụng thiết bị trợ thính trong việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Giáo
dục đại học STEM cho phát triển Đồng bằng Sông Cửu Long, trang 144 - 152. 5. Nguyễn Minh Phượng (2018), Nghiên cứu trường hợp về quy trình hỗ trợ trẻ khiếm thính tại trường mầm non hòa nhập, Tạp chí khoa học, Trường ĐHSP Hà
Nội, Volume 63, Issue 9AB, trang 332 - 339.
6. Nguyễn Minh Phượng (2018), Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển kỹ năng nghe - nói cho trẻ khiếm thính, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
cán bộ trẻ các trường ĐHSP toàn quốc lần thứ VII, NXB ĐHSP, trang 561 –
566.
7. Nguyễn Minh Phượng (2019), Phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính theo cách học tự nhiên và dạy chính quy bài bản, Tạp chí khoa học,
Trường ĐHSP Hà Nội, Volume 64, Issue 9AB, trang 353 – 359.
8. Nguyễn Minh Phượng, Nguyễn Hà My, Trần Thị Bích Ngọc và Phạm Thị Hải Yến (2019), Các điều kiện đảm bảo sự thành công trong công tác giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Volume 64, Issue 9AB, trang 115 – 122.
9. Nguyen Minh Phuong and Hoang Thi Nho (2020), Current status of difficulties and needs of disabled children through research in Quang Ngai province, Tạp
chí khoa học, Trường ĐHSP Hà Nội, ISSN 2354 - 1067, Volume 65, Issue 4D, trang 105 - 114.
10. Tran Thi Bich Ngoc, Nguyen Ha My and Nguyen Minh Phuong (2020), Universal design for learning: An approach to support students with special
needs in inclusive setting, Tạp chí khoa học, Trường ĐHSP Hà Nội, ISSN 2354
- 1075, Volume 65 Issue 4B, trang 137 – 144.
147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Lê A, Vương Toàn (1989), Phương pháp dạy Tiếng mẹ đẻ, Tập 1, NXB Giáo
dục.
2. Lê A, Vương Toàn, Nguyễn Quang Ninh (1989), Phương pháp dạy Tiếng mẹ
đẻ, Tập 2, NXB Giáo dục.
3. Hoàng Thị Anh (1992), Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên, Luận án
PTS trường Đại học Sư phạm Hà Nội
4. Đỗ Văn Ba (1998), Hình thành và thống nhất kí hiệu cử chỉ điệu bộ điệu bộ cơ
bản cho người điếc Việt Nam, Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu cấp Bộ.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Thông tư ban hành chương trình giáo dục
mầm non, Số: 01/VBHN-BGDĐT.
6. Bộ y tế (2008), Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, tài liệu số 13 - Giao
tiếp với trẻ em giảm thính lực (khiếm thính), NXB Y học, Hà Nội.
7. Đỗ Hữu Châu (1996), Cơ sở ngôn ngữ học đại cương, NXB Giáo dục.
8. Phạm Thị Cơi (1988), Quá trình hình thành ngôn ngữ nói ở trẻ điếc Việt Nam,
Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ Văn, Hà Nội.
9. Côvaliov A.G. (1994), Tâm lí học cá nhân, NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Trịnh Đức Duy (2009), Một số kỹ năng dạy học hòa nhập trẻ khiếm thính,
NXB Hà Nội.
11. Phạm Minh Hạc, Lê Khang, Trần Trọng Thủy (1988), Tâm lý học tập 1, Nhà
xuất bản Giáo dục.
12. Đỗ Thị Hiên (2014), Tác động của ngôn ngữ kí hiệu trên truyền hình với
cộng đồng người khiếm thính, đề tài cấp Bộ.
13. Ngô Công Hoàn (1992), Một số vấn đề giao tiếp sư phạm, Nhà xuất bản đại
học sư phạm Hà Nội.
14. Ngô Công Hoàn (1992), Một số vấn đề tâm lý học và giao tiếp sư phạm, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
15. Bùi Thế Hợp, Phạm Thị Bền, Lê Thị Tố Uyên (2012), Dạy học hòa nhập cho
học sinh có khó khăn về ngôn ngữ và giao tiếp ở trung học, Tài liệu bồi dưỡng
cán bộ quản lí và giáo viên thuộc dự án Phát triển giáo dục trung học, Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
16. Đặng Thành Hưng (2010), Nhận diện và đánh giá kĩ năng, TC Khoa học giáo
148
dục số 2, tr. 25-28.
17. Nguyễn Xuân Khoa (2004), Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
18. Lưu Thị Lan (1996), Những bước phát triển ngôn ngữ trẻ em từ 1 đến 6 tuổi,
Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Hà Nội
19. Bùi Thị Lâm (2012), Tổ chức trò chơi nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo khiếm thính 3 – 4 tuổi ở trường mầm non, Luận án tiến sĩ Giáo dục học.
20. Bùi Thị Lâm (2016), Giáo trình can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính, NXB
Đại học Sư phạm.
21. Bùi Thị Lâm (2010), Phát triển ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính trong tổ chức
trò chơi ở lớp mẫu giáo hòa nhập, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 179,
tr13-16.
22. Bùi Thị Lâm (2016), Biện pháp tổ chức trò chơi nhằm phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo khiếm thính 3- 4 tuổi trong môi trường giáo dục hòa nhập,
Tạp chí khoa học - Trường ĐHSP Hà Nội, số 1, tr 166-173.
23. Levitov A.D. (1963), Tâm lí học lao động, Matxcova.
24. Lã Thị Bắc Lý và cộng sự (2017), Xây dựng mô hình phát triển ngôn ngữ
trong giáo dục đặc biệt ở Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công
nghệ cấp Bộ, Mã số B2014-17-57.
25. Nguyễn Đức Minh, Phạm Minh Mục, Lê Văn Tạc (2006), Giáo dục trẻ khuyết
tật Việt Nam – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
26. Nguyễn Quang Ninh, Bùi Kim Tuyến, Lưu Thị Lan, Nguyễn Thanh Hồng
(1998), Tiếng Việt và phương pháp phát triển lời nói cho trẻ em, NXB Giáo
dục.
27. Vũ Thị Nho (1999), Tâm lý học phát triển, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội.
28. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
29. Đặng Thị Mỹ Phương (2009), Thực trạng công tác Can thiệp sớm cho trẻ
khiếm thính tại một số trường chuyên biệt TP HCM, Đề tài CS 2009.19.41,
Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
30. Sandy Niemann, Devorah Greenstein, Darlena David (2005), Giúp đỡ trẻ điếc,
Tài liệu dịch, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội.
31. Sinhiak V.A và Nudenman N.M (1998), Những đặc điểm của sự phát triển
149
tâm lý trẻ điếc, Tài liệu dịch, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Lê Văn Tạc (2000), Phương pháp nâng cao khả năng giao tiếp cho trẻ điếc
tuổi mẫu giáo và tiểu học trong môi trường GDHN, Báo cáo đề tài mã số: B
98 - 49 - 62.
33. Lê Văn Tạc (2005), Dạy học hòa nhập có trẻ khiếm thính bậc tiểu học theo
phương thức hợp tác nhóm, LATS Giáo dục học, Viện chiến lược và chương
trình giáo dục.
34. Vương Hồng Tâm (2009), Nghiên cứu cách biểu đạt NNKH của người Điếc
Việt Nam, Đề tài cấp Viện (V2007 - 19)
35. Vương Hồng Tâm (2009), Sử dụng kết hợp các phương tiện giao tiếp để phát
triển nhận thức của trẻ điếc tiểu học trong lớp học hòa nhập, Luận án Tiến sỹ
Giáo dục học.
36. Vương Hồng Tâm (2005), Phương pháp dạy từ ngữ cho trẻ khiếm thính, Tạp
chí Khoa học Giáo dục (số 3), tr 32-33.
37. Đinh Hồng Thái (2011), Phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non, NXB Đại học Sư
phạm Hà Nội.
38. Trần Thị Thiệp (chủ biên) (2014), Giáo trình Can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật,
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
39. Trần Trọng Thủy (1987), Tâm lý học lao động, NXB Giáo dục, Hà Nội
40. Nguyễn Trí (2009), Một số vấn đề dạy học Tiếng Việt theo quan điểm giao
tiếp ở tiểu học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
41. Bùi Kim Tuyến (2001), Xây dựng nội dung, biện pháp phát triển hoạt động
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo, Báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ mã số B98-
49-59, Hà Nội.
42. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (2003), Tâm lí học đại cương, NXB ĐHQG Hà
Nội.
43. Viện Ngôn ngữ học (2018), Từ điển Tiếng Việt, NXB Hồng Đức.
44. Vư-gôt-xki (1997), Tuyển tập tâm lí học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
45. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2002), Các biện pháp tổ chức GDHN giúp trẻ khuyết
tật thính giác vào học lớp 1, Luận án Tiến sỹ Giáo dục học, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội.
46. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2005), Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính, NXB
ĐHSPHN.
150
47. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2008), Xây dựng băng minh họa về một số đặc điểm
phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 3 – 6 tuổi, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, Mã số B2007–17–46.
Tài liệu Tiếng Anh
48. Bailey, D.B., & Wolery, M. (1992), Teaching infants and preschoolers with
disabilities, NewYork: Macmillan Publishing Company.
49. Ballman, R.E (1995). The how and why of home schooling. Wheaton, IL:
Crossway Books.
50. Betty Vohr et al (2011), Expressive vocabulary of children with hearing loss
in the first 2 years of life, Journal of Perinatology.
51. Blamey, P. J., Sarant, J. Z., Paatsch, L. E., Barry, J. G., Bow, C. P., Wales, R.
J., ... Tooher, R. (2001). Relationships among Speech Perception, Production,
Language, Hearing Loss, and Age in Children with Impaired Hearing. Journal
of Speech, Language, and Hearing Research, 44(2), 264-285.
52. Brennan-Jones, C., White, J., Rush, R., & Law, J. (2014), Auditory - verbal
therapy for promoting spoken language development in children with
permanent hearing impairments, Cochrane Database of Systematic Reviews
2014, Issue 3. Art. No.: CD010100.
53. Bunch, G. O. (1987). The Curriculum and the Hearing-Impaired Student. San
Diego: College-Hill Press.
54. Calderon, R.,& Greenberg, M. T. (1997). The effectiveness of early
intervention for deaf children and children with hearing loss. In M. J.
Guarlnik (Ed.), The effectiveness of early intervention (pp. 455-482).
Baltimore, MD: paul H. Brookes.
55. Calderon, R., Bargones, J., & Sidman, S. (1998). Characteristics of hearing
families and their young deaf and hard of hearing children: early intervention
follow-up, American Annals of the Deaf, 143, 347-362.
56. Calvert D.R. and Silverman S.R. (1983). Speech and Deafness (Revised
Edition). Washington, D.C.: A.G. Bell Association for the Deaf.
57. Christine Yoshinaga-Itano, Allison L. Sedey, Diane K. Coulter and Albert L.
Mehl (1998), Language of Early – and Later – identified Children With
Hearing Loss, American Academy of Pediatrics.
151
58. Cejas I, Barker D.H., Quittner,A.L., Niparko J.K (2014), Development of joint
attention in young deaf and hearing children: Effects of chronological age and
language skills. J. Speech Lang. Hear. Res. 57, 1831–1841.
59. Clark, T.C. (1979), Language development through home intervention for
infant hearing-impaired children, Unpublished doctoral dissertation,
University of North Carolina, Chapel Hill. (University Microfilms
International No. 80-13, 924).
60. Cook, R.E., Tessier, A., & Klein, M.D. (2004). Adapting Early Childhood Curricula for Children in Inclusive Settings. (4th Ed.). Ohio: Pearson Prentice
Hall.
61. Cornelius, G., & Hornett, D. (1990). The play behavior of hearing-impaired
kindergarten children. American Annals of the Deaf, 135, 316-321.
62. Dalgarno, G. (1680). Didascalocophus. Oxford.
63. Deland, F. (1931). The story of lipreading. Washington, DC: the Volta
Bureau.
64. DfEE/QCA (2000), Curriculum Guidance for the Foundation Stage
65. DfEE/QCA (2003), Speaking, listening, learning.
66. DfEE/QCA (1999), The National Curriculum.
67. Farrar, A. (1926). The deaf in medieval times. Volta Review, 28, 389-393.
68. J.A. Foley (2006), New Dimentions In The Teaching of Oral Communication,
Anthology series 47 Published by Seameo Regional language Centre.
69. Grant, J. (1987). The hearing-impaired: Birth to six. San Diego, CA: College-
Hill Press.
70. Greenberg, M. T., Calderon, R., & Kisché, C. (1987). Cognitive, personal, and
social development of deaf children and adolescents. In M.C. Wang, M. C.
71. Johnson C., Goswani, U. (2010). Phonological awareness, vocabulary, and
reading in deaf children with cochlear implants. J. Speech Lang. Hear. Res.
53, 237–261.
72. Hall, M.; Eigsti, I.; Bortfeld, H.; Lillo-Martin, D. (2017), Auditory deprivation
does not impair executive function, but language deprivation might: Evidence
from a parent-report measure in Deaf native-signing children. J. Deaf Stud.
Deaf Educ. 1, 9–21.
73. Halliday, L.F.; Tuomainen, O.; Rosen, S. (2017), Language development and
152
impairment in children with mild to moderate hearing loss. J. Speech Lang.
Hear. Res. 6, 1551–1567.
74. Kuder, S.J (2003). Teaching students with language and communication
disabilities. Boston: Allyn and Bacon.
75. Kyle, F.E. (2019). Reading development in deaf children: The fundamental
role of language skills. In Evidence-Based Practices in Deaf Education;
Knoors, H., Marschark, M., Eds.; Oxford University Press: New York, NY,
USA; pp. 217–235, ISBN-13: 978-0190880545.
76. Lederberg, A.R.; Schick, B.; Spencer, P.E. (2013), Language and literacy
development of deaf and hard-of-hearing children: Successes and challenges.
Dev. Psychol. 1, 15–30.
77. Lederberg, A. R., Rosenblat, V., Vandell, D. L., & Chapin, S. L., (1987).
Temporary and long-term friendships in hearing and deaf preschoolers.
Merrill-Palmer Quarterly, 33, 515-533.
78. Lederberg, A. R. (1991). Social interaction among deaf preschoolers: The
effects of language ability and age. American Annals of the Deaf, 136, 35-59.
79. Ling, D. (1984). (Ed.) Early intervention for hearing-impaired children: Oral
options. San Diego, CA: College-Hill Press.
80. Ling, D. (1976). Speech and the Hearing-Impaired Child: Theory and
Practice. Washington, D.C.: A.G. BellAssociation for the Deaf.
81. Marc Marschark, Harry G Lang and John A Albertini (2002), Educating deaf
students: from research to practice, Oxford University Press, New York,
2002. 277pp, ISBN 0 19 512139 2
82. Mary, P.M. (2000). Early intervention and language development in children
who are deaf and hard of hearing. Pediatrics, 106, 43-52.
83. McLean, J.K., & McLean, L.S. (1999), How children learn language, London:
Singular Publishing.
84. Meisels, S.J., & Shonkokk, J.P. (1996), Handbook of Early Childhood
Intervention, Cambridge University.
85. Moeller, M. P., Tomblin, J. B., Yoshinaga-Itano, C., Connor, C. M., & Jerger,
S. (2007). Current state of knowledge: Language and literacy of children with
hearing impairment. Ear and hearing, 28(6), 740-753.
86. Nelson, N.W.; Crumpton, T. (2015), Reading, writing, and spoken language
153
assessment profiles for students who are deaf and hard of hearing compared
with students with language learning disabilities. Top. Lang. Disord. 2, 157–
179.
87. Nicholas, J.G., & Geer, AE. (2006). Effects of early auditory experience on
the spoken language of deaf children at 3 years of age. Ear Hear, 27, 286-298.
88. Particia I Roberts (1996), How children learn language? Intergrating language
art and social studies.
89. Quigley, S. P. & Paul, P. V. (1984). Language and Deafness. San Diego:
College-Hill Press.
90. Richard M. Gargiulo, Jennifer L. Kilgo, Young Children with Special Needs: An
Introduction to Early Childhood Special Education (Part I)
91. Rupp, R. (1998). The complete home learning sourcebook. The essential
resource guide for homeschoolers, parents, and educators covering every
subject from arithmetic to zoology. New York: Three Rivers Press.
92. Schildroth, A. N. & Karchmer, M. A. (1986). (Eds.) Deaf Children in
America. San Diego, CA: College-Hill Press.
93. Spencer, P. E., & Deyo, D. A. (1993). Cognitive and social aspect of deaf
children’s play. In M. Marschark & D. Clark (Eds.), Psychological
perspectives on deafness (pp. 65-92). Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum
Associates.
94. Stovall, D. (1982). Teaching speech to hearing-impaired children. Springfield,
IL: Chrles C Thomas.
95. Stremel, K. & Waryas, C. (1974). A behavioral psycholinguistic approach to
language training. In L. McReynolds (Ed.) Developing Systematic Procedures
for Training Childrens’ Language. ASHA Monograph No. 18. Washington,
D.C.: ASHA
96. Strong, C. J., Clark, T. C., Johnson, D., Watkins, S., Barringer, D. G., &
Walden, B. E. (1994). SKI*HI home-based programming for children or who
are deaf of hard of hearing: Recent research findings. Infant-Toddler
Intervention: The Transdisciplinary Journal, 4, 25-36.
97. Svirsky, M. A., Teoh, S. W., & Neuburger, H. (2004), Development of
language and speech perception in congenitally, profoundly deaf children as a
function of age at cochlear implantation, Audiology & Neuro-Otology, 9,
154
224-233.
98. Tate, G. M. (1972). Oral English. Sydney, Australia: South Pacific
Commission.
99. Thorton, W. (1973/1903). ADMUS, or a treatise on the elements of written
language, Association Review, 5, 406-414.
100. Yanbay, E.; Hickson, L.; Scarinci, N.; Constantinescu, G.; Dettman, S.J.
(2014), Language outcomes for children with cochlear implants enrolled in
different communication programs. Cochlear Implant. Int. 15, 121–135.
101. Yoshinaga-Itano C, Sedey A, Coulter D, Mehl A (1998), Language of early-
and later-identified children with hearing loss. Pediatrics; 102:1161–1171.
102. Walli, J. (1851). Extract from Dr. Wallis. American Annals of the Deaf, 3,
227-233.
103. Watkin, P. et al. (2007), Language ability in children with permanent hearing
impairment: The influence of early management and family participation,
Pediatrics, 120, 694-701.
104. White SJ, White REC. Levitt H, McGarr NS, Geffner D, editors (1987). The
effects of hearing status of the family and age of intervention on receptive and
expressive oral language skills in hearing-impaired infants. Development of
language and communication skills in hearing-impaired children. ASHA
Monograph, 26:9–24.
105. Wilson, Julie, Anne (1997), A Program to Develop the listening and speaking
skill of children in a first grade classroom.
106. Wood, D., Wood H., Griffiths, A., & Howarth, I. (1986). Teaching and
Talking with Deaf Children. New York, NY: John Wiley and Sons.
Trang Web
107. https://blog.asha.org/2012/03/29/auditory-verbal-therapy supporting-listening-
and-spoken-language-in-young-children-with-hearing-loss-their-families/
108. https://www.handsandvoices.org/comcon/articles/aud_oral_edu.htm
109. https://www.washington.edu/doit/how-are-terms-deaf-deafened-hard-hearing-
and-hearing-impaired-typically-used
110. https://www.nad.org/resources/american-sign-language/community-and-
culture-frequently-asked-questions/
111. https://www.aarp.org/health/conditions-treatments/hearing-resource-center/
155
112. https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/deafness-and-hearing-loss
113. https://hearinghealthfoundation.org/degrees-of-hearing-loss
114. https://www.asha.org/public/hearing/Degree-of-Hearing-Loss/
115. https://www.who.int/classifications/icf/en/
PL1
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
PHIẾU ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KỸ NĂNG NGHE – NÓI
CỦA TRẺ KHIẾM THÍNH 3 – 6 TUỔI
I. Thông tin về trẻ
1. Tên trẻ:
- Trường: ................................................ Lớp: .....................................................
2. Ngày tháng năm sinh:
3. Giới tính: Nam Nữ
4. Mức độ suy giảm thính lực:
1 (Nhẹ) 3 (Nặng)
2 (Vừa) 4 (Sâu)
5. Loại thiết bị trợ thính trẻ đang sử dụng:
Đeo MTT
Cấy điện cực ốc tai
6. Thời gian sử dụng thiết bị trợ thính:
………………………………………………..
6. Điều kiện can thiệp sớm:
Được CTS
Không được CTS
II. Nội dung đánh giá
Đánh giá mức độ KNNN của trẻ theo 4 mức độ:
Mức 1 - Tốt: Thực hiện tốt không cần nhắc nhở (4 điểm)
Mức 2 - Khá: Thực hiện được khi có sự hướng dẫn, còn thụ động và phản ứng chậm
(3 điểm)
Mức 3 - Trung bình: Thực hiện lúc được lúc không khi có sự trợ giúp bằng lời nói
và hành động mẫu (2 điểm)
Mức 4 - Kém: Không thực hiện được (1 điểm)
PL2
Mức độ đạt được STT Kỹ năng 1 2 3 4
Kỹ năng nghe
Nhận diện được 6 âm Lings: /m/; /a/; /u/; /i/; /s/; /x/ 1
Nghe hiểu các từ chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, 2
hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi
Nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng 3
và các từ biểu cảm
Nghe hiểu và thực hiện được từ 1 – 3 yêu cầu 4
Nghe hiểu nội dung câu chuyện, bài thơ 5
Kỹ năng nói
Phát âm các tiếng, từ, câu để người nghe có thể hiểu 6
được
Sử dụng lời nói với các từ thông dụng chỉ người, đồ 7
vật, con vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen
thuộc, gần gũi
Sử dụng lời nói với các từ chỉ đặc điểm, tính chất, 8
công dụng và các từ biểu cảm phù hợp với ngữ cảnh
Thể hiện nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của bản thân 9
bằng lời nói
Kể lại những sự việc đơn giản 10
11 Kể lại câu chuyện đơn giản đã nghe theo trình tự nhất
định
PL3
Phụ lục 2
CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ MỨC KNNN CỦA
TRẺ KHIẾM THÍNH 3 – 6 TUỔI
Các tiêu chí Chuẩn TT theo từng Cách thực hiện Mức độ đạt được bị lĩnh vực
1. Lĩnh vực kỹ năng nghe
1.1 Nhận diện Thẻ tranh - GV giải thích yêu Tốt: Trẻ chăm chú lắng
được 6 âm minh họa cầu với trẻ: Nếu nghe và nhận diện được cả
Ling: cho từng con nghe thấy âm 6 âm
/m/; /a/; /u/; âm nào thì nhắc lại Khá: Trẻ chăm chú lắng
/i/; /s/; /x/ hoặc giơ thẻ nghe và nhận diện được từ
tương ứng với âm 4 đến 5 âm
đó Trung bình: Trẻ lắng nghe
- GV đứng sau trẻ và nhận diện được 3 âm
ở khoảng cách (GV có thể phát âm lại 1 –
1m, lần lượt phát 2 lần)
ra các âm /m/; /a/; Kém: Trẻ không nhận
/u/; /i/; /s/; /x/ và diện được cả 6 âm hoặc
ghi lại phản ứng chỉ nhận diện đươc 1 đến
của trẻ. 2 âm ngay cả khi được
- Lưu ý: Phát âm nghe lại 1 – 2 lần
với âm lượng
giọng nói bình
thường, khoảng
cách giữa các lần
phát âm không
đều nhau
PL4
1.2 Nghe hiểu các 30 loto - Đặt loto theo từng Tốt: Trẻ chăm chú lắng
từ chỉ sự vật, về các sự nhóm trước mặt nghe và chỉ đúng tranh
hành động, vật, hành trẻ hoặc làm đúng hành động
hiện tượng động, - Gọi tên từng hình từ 24 - 30 từ được nói đến.
quen thuộc, hiện trên loto và yêu Khá: Trẻ chăm chú lắng
gần gũi cầu trẻ chọn đúng tượng nghe và chỉ đúng tranh
quen loto được gọi tên hoặc làm đúng hành động
thuộc từ 16 -23 từ được nói đến
Trung bình: Trẻ lắng nghe
và chỉ đúng tranh hoặc
làm đúng hành động từ 8
đến 15 từ được nói đến
(GV có thể phát âm lại 1 –
2 lần)
Kém: Trẻ không thực hiện
được hoặc chỉ chỉ đúng
tranh hoặc làm đúng hành
động dưới 8 từ kể cả khi
đã được GV nhắc lại
nhiều lần.
1.3 Nghe hiểu các 20 loto - Đặt loto theo từng Tốt: Trẻ chăm chú lắng
từ chỉ đặc về các đồ nhóm trước mặt nghe và chỉ đúng 16 - 20
điểm, tính vật và trẻ tranh được miêu tả
chất, công các trạng - GV miêu tả đặc Khá: Trẻ chăm chú lắng
dụng và các thái cảm điểm/tính nghe và chỉ đúng 11 - 15
từ biểu cảm xúc chất/công dụng tranh được miêu tả
của 1 đồ vật bất Trung bình: Trẻ lắng nghe
kỳ hoặc gọi tên 1 và chỉ đúng 6 – 10 tranh
trạng thái cảm được miêu tả (GV có thể
PL5
xúc, yêu cầu trẻ phát âm lại 1 – 2 lần)
chỉ tranh tương
ứng.
- VD: Chỉ cho cô Kém: Trẻ không thực hiện đồ dùng để được hoặc chỉ chỉ đúng viết/đồ dùng để dưới 5 tranh kể cả khi đã ngồi… được GV nhắc lại nhiều
lần.
1.4 Nghe hiểu và 3-5 đồ - Yêu cầu trẻ thực Tốt: Trẻ chăm chú lắng
thực hiện dùng, đồ hiện 01 đến 03 nghe và thực hiện tốt các
được từ 1 – 3 chơi để nhiệm vụ liên yêu cầu mà không cần
yêu cầu trên bàn tiếp. VD: hướng dẫn hay nhắc lại
cách chỗ - “Con đi lấy cho Khá: Trẻ chăm chú lắng
cô và trẻ cô cái cốc” nghe và thực hiện được
ngồi - “Con hãy cất quả các yêu cầu khi được nhắc
khoảng 2 bóng này vào rổ lại hoặc được gợi ý bằng
- 3m và đồ chơi”. lời
một vài - “Con hãy cất Trung bình: Trẻ chỉ thực
đồ chơi truyện lên giá hiện được 1 – 2 yêu cầu
khác đặt sách rồi lấy búp khi có sự hướng dẫn bằng
trước mặt bê mang lại đây lời nói hoặc hành động
cô và trẻ. cho cô”. Kém: Trẻ không thực hiện
được các yêu cầu
1.5 Nghe hiểu nội - Tranh - Đọc thơ/Kể Tốt: Trẻ chăm chú lắng
dung câu ảnh chuyện cho trẻ nghe, trả lời được câu hỏi
chuyện, bài minh nghe 3 lần chậm theo nội dung câu chuyện,
thơ họa rãi, rồi hỏi trẻ các bài thơ
PL6
bài câu hỏi có liên Khá: Trẻ chăm chú lắng
thơ/câ quan đến nội nghe, trả lời được 2/3 câu
u dung câu hỏi theo nội dung câu
chuyệ chuyện/bài thơ. chuyện, bài thơ khi có sự
n - VD: Tên chuyện gợi ý.
trong kể là gì? Trong Trung bình: Trẻ chỉ trả lời
chươn chuyện có những được1/2 câu hỏi theo nội
g bạn nào? Bạn dung câu chuyện, bài thơ
trình Mèo bị làm sao? khi có sự gợi ý bằng lời
… nói hoặc hành động
Kém: Trẻ không trả lời
được câu hỏi theo nội
dung câu chuyện, bài thơ
2. Lĩnh vực kỹ năng nói
2.1 Phát âm các - GV phát âm các Tốt: Trẻ phát âm đúng, rõ
tiếng, từ, câu tiếng/từ/câu và ràng các tiếng, từ, câu
để người nghe yêu cầu trẻ nhắc giúp người nghe hiểu
có thể hiểu lại được dễ dàng
được Khá: Trẻ phát âm đúng
các tiếng, từ, câu khi được
hướng dẫn giúp người
nghe có thể hiểu được
Trung bình: Trẻ phát âm
gần đúng các tiếng, từ, câu
và người nghe có thể hiểu
được khi có tình huống
Kém: Trẻ phát âm không
rõ/không đúng và người
nghe không thể hiểu được
PL7
2.2 Sử dụng lời Các bức Yêu cầu trẻ nhìn và Tốt: Trẻ sử dụng lời nói
nói với các từ tranh nói: Trong bức tranh với các từ thông dụng chỉ
thông dụng (VD: có những ai/cái gì? người, đồ vật, con vật, sự
chỉ người, đồ Tranh mẹ Đang làm gì? Ở đâu? vật, hành động, hiện tượng
vật, con vật, và bé quen thuộc, gần gũi một
sự vật, hành đang vẽ cách rõ ràng, dễ hiểu, phù
động, hiện tranh, hợp với ngữ cảnh.
tượng quen con mèo Khá: Trẻ sử dụng lời nói
thuộc, gần gũi nằm dưới với các từ thông dụng chỉ
sàn; người, đồ vật, con vật, sự
Tranh bé vật, hành động, hiện tượng
đi công quen thuộc, gần gũi một
viên cách rõ ràng, phù hợp với
chơi…) ngữ cảnh giúp người nghe
có thể hiểu được nhưng
còn đơn giản về nội dung,
chưa tự tin và phản ứng
chậm.
Trung bình: Trẻ sử dụng
lời nói với các từ thông
dụng khi có sự trợ giúp
nhưng còn nghèo nàn về
vốn từ, chưa phù hợp với
ngữ cảnh.
Kém: Trẻ không sử dụng
được các từ thông dụng
ngay cả khi có sự trợ giúp
PL8
2.3 Sử dụng lời Các góc - GV cùng trẻ chơi Tốt: Trẻ sử dụng lời nói
nói với các từ chơi đóng vai. Trẻ với các từ chỉ đặc điểm,
chỉ đặc điểm, đóng vai đóng vai người tính chất, công dụng và
tính chất, (VD: bán hang, GV các từ biểu cảm một cách
công dụng và chơi đồ đóng vai người rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp
các từ biểu hang, bán mua hang với ngữ cảnh.
cảm phù hợp hang, xây - GV hỏi trẻ các Khá: Trẻ sử dụng lời nói
với ngữ cảnh dựng, bác câu hỏi về đặc với các từ chỉ đặc điểm,
sĩ…) điểm, tính chất, tính chất, công dụng và
công dụng của các từ biểu cảm một cách
các đồ vật hoặc rõ ràng, phù hợp với ngữ
các trạng thái cảnh giúp người nghe có
cảm xúc để trẻ trả thể hiểu được nhưng còn
lời. đơn giản về nội dung,
chưa tự tin và phản ứng
chậm.
Trung bình: Trẻ sử dụng
lời nói với các từ chỉ đặc
điểm, tính chất, công dụng
và các từ biểu cảm nhưng
còn nghèo nàn về vốn từ,
chưa phù hợp với ngữ
cảnh
Kém: Trẻ không sử dụng
được các từ chỉ đặc điểm,
tính chất, công dụng và
các từ biểu cảm ngay cả
khi có sự trợ giúp
PL9
2.4 Thể hiện Tốt: Trẻ sử dụng được lời
được nhu cầu, nói để thể hiện được nhu
Quan sát trẻ trong các hoạt động và trong quá trình làm việc với trẻ. cảm xúc, hiểu cầu, cảm xúc, hiểu biết
biết của bản của bản thân một cách rõ
thân bằng lời ràng, dễ hiểu mà không
nói cần trợ giúp.
Khá: Trẻ sử dụng lời nói
để thể hiện nhu cầu, cảm
xúc, hiểu biết của bản thân
một cách rõ ràng giúp
người nghe có thể hiểu
được nhưng còn chưa tự
tin và phản ứng chậm
hoặc cần có sự trợ giúp.
Trung bình: Trẻ sử dụng
lời nói để thể hiện nhu
cầu, cảm xúc, hiểu biết
của bản thân khi có sự trợ
giúp nhưng còn chưa rõ
ràng, người nghe chỉ có
thể hiểu được khi có tình
huống
Kém: Trẻ không thể hiện
được nhu cầu, cảm xúc,
hiểu biết của bản thân
bằng lời nói.
2.5 Kể lại được Nói với trẻ: Tốt: Trẻ kể lại rõ ràng, dễ
những sự việc Con hãy kể lại hôm hiểu, đầy đủ nội dung một
đơn giản qua con làm gì? Con sự việc, hiện tượng
đã ăn những món gì?
PL10
Con chơi trò chơi gì, Khá: Trẻ kể lại được nội
với ai?... dung chính của một sự
việc, hiện tượng giúp
người nghe có thể hiểu
được nhưng còn chưa tự
tin hoặc cần có sự trợ
giúp.
Trung bình: Trẻ kể lại nội
dung chính của một sự
việc, hiện tượng nhưng
không rõ ràng và phải gợi
ý nhiều lần, người nghe
chỉ có thể hiểu được khi
có tình huống
Kém: Trẻ không kể lại
được những sự việc đơn
giản
2.6 Kể lại được - Tranh - Yêu cầu trẻ: Con Tốt: Trẻ kể lại rõ ràng, dễ
câu chuyện minh hãy kể lại câu hiểu, đầy đủ câu chuyện
chuyện … nào! theo đúng trình tự đơn giản đã họa
nghe theo nội Khá: Trẻ kể lại được nội
trình tự nhất dung dung câu chuyện một cách
định câu rõ ràng nhưng không đúng
chuyệ trình tự
n mà Trung bình: Trẻ kể lại câu
trẻ đã chuyện nhưng không đầy
được đủ nội dung và không
nghe đúng trình tự
Kém: Trẻ không kể lại
được câu chuyện
PL11
Phụ Lục 3
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Dành cho giáo viên)
Để tìm hiểu thực trạng phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính 3 –
6 tuổi, qua đó tìm ra các biện pháp phù hợp nhằm phát triển kỹ năng nghe – nói cho
trẻ khiếm thính. Xin thầy (cô) cho biết ý kiến của mình về các vấn đề sau bằng cách
đánh dấu (x) vào những ý phù hợp hoặc ghi ý kiến vào phần để trống.
Thông tin do quý thầy/cô cung cấp chỉ được dùng vào mục đích nghiên cứu
chuyên môn. Chân thành cảm ơn quý thầy/cô!
Câu 1. Xin thầy/cô cho biết một số thông tin về bản thân:
1.1. Giới tính: Nam Nữ
1.2. Năm sinh: .......................
1.3. Trình độ đào tạo (đánh dấu vào 1 lựa chọn phù hợp)
Sau đại học Đại học
Cao đẳng Trung cấp
1.4. Thời gian dạy học (đánh dấu vào 1 lựa chọn phù hợp)
Dưới 5 năm
Từ 5 đến 10 năm
Trên 10 năm
1.5. Thời gian dạy học trẻ khiếm thính (đánh dấu vào 1 lựa chọn phù hợp)
Dưới 5 năm
Từ 5 đến 10 năm
Trên 10 năm
1.6. Đã được đào tạo, bồi dưỡng về giáo dục trẻ khuyết tật hay chưa?
Có Chưa
(Nếu đã được đào tạo, bồi dưỡng, thầy/cô hãy trả lời câu hỏi 1.9; nếu chưa thì
không phải trả lời câu 1.7)
1.7. Hãy liệt kê những khóa học mà thầy/cô được đào tạo, bồi dưỡng về giáo dục trẻ
khuyết tật: ………………..……………………………………………
…………………………………………………………………………………
PL12
Câu 2. Thầy/cô hiểu như thế nào về trẻ khiếm thính?
Trẻ khiếm thính là những trẻ bị suy giảm sức nghe ở các mức độ khác nhau dẫn
đến gặp khó khăn trong giao tiếp bằng lời nói và ảnh hưởng đến quá trình nhận
thức.
Trẻ khiếm thính là trẻ không thể nghe và nói được
Trẻ khiếm thính là trẻ không có khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ nói, thường
phải giao tiếp bằng ngôn ngữ kí hiệu
Câu 3. Thầy/cô đánh giá như thế nào về vai trò của việc phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính?
Rất quan trọng Quan trọng Tương đối quan trọng
Ít quan trọng Không quan trọng
Câu 4. Ý nghĩa cụ thể của việc phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm
thính?
Giúp trẻ khiếm thính hòa nhập vào các hoạt động của lớp
Giúp trẻ khiếm thính cơ hội tốt nhất để độc lập
Giúp trẻ có nhiều lựa chọn hơn trong nghề nghiệp, giáo dục, xã hội
Giúp trẻ tiếp thu, ghi nhớ các kiến thức dễ dàng hơn
Ý kiến khác (xin ghi rõ): ……………………………………………………
Câu 5. Thầy/cô có thường xuyên lập kế hoạch để phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính trong lớp của mình không?
Rất thường xuyên Thường xuyên Tương đối thường xuyên
Ít thường xuyên Không thường xuyên
PL13
Câu 6. Mức độ thực hiện các nội dung phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính trong lớp của thầy/cô như thế nào?
TT Nội dung
Thường xuyên Rất thường xuyên Ít thường xuyên Không thường xuyên
Mức độ thực hiện Tương đối thường xuyên
1 Nhận diện được 6 âm Ling: /m/; /a/; /u/; /i/; /s/; /x/
2 Nghe hiểu các từ chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi 3 Nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm
4 Nghe hiểu và thực hiện được từ
1 – 3 yêu cầu
5 Nghe hiểu nội dung câu
6
7
8
9
chuyện, bài thơ Phát âm các tiếng, từ, câu để người nghe có thể hiểu được Sử dụng lời nói với các từ thông dụng chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi Sử dụng lời nói với các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm phù hợp với ngữ cảnh Thể hiện nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của bản thân bằng lời nói
10 Kể lại những sự việc đơn giản 11 Kể lại câu chuyện đơn giản đã nghe theo trình tự nhất định
PL14
Câu 7. Thầy/cô thường phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính
thông qua những hình thức nào?
Mức độ thực hiện
Tương Rất Ít Không TT Hình thức phát triển KNNN Thường đối thường thường thường xuyên thường xuyên xuyên xuyên xuyên
1 Phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính 3 – 6 tuổi
trong các hoạt động ở lớp mẫu
giáo
2 Phát triển kỹ năng nghe – nói
cho trẻ khiếm thính 3- 6 tuổi
trong hoạt động hỗ trợ cá nhân
3 Phối hợp với gia đình để phát
triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ
khiếm thính trong các hoạt
động tại gia đình
4 Khác (xin ghi rõ):
………………........................
PL15
Câu 8. Thầy/cô thường sử dụng những phương pháp nào để phát triển kỹ năng
nghe – nói cho trẻ khiếm thính?
Mức độ sử dụng
Tương Phương pháp phát triển Rất Ít Không TT KNNN Thường xuyên đối thường thường xuyên thường xuyên thường xuyên xuyên
1 Các PP tiếp cận theo PP tự nhiên
1.1 Nhóm PP dùng lời nói
1.2 Nhóm PP trực quan, minh họa
1.3 Nhóm PP thực hành, trải
nghiệm
1.4 Nhóm PP giáo dục bằng tình
cảm, khích lệ
1.5 Nhóm PP nêu gương, đánh giá
1.6 Sử dụng các kỹ thuật phát triển
ngôn ngữ tự nhiên như: Tạo
môi trường giàu kích thích
ngôn ngữ; Nói mẫu; Nhắc lại;
Mở rộng câu nói; Tạo tình
huống có vấn đề; Khuyến
khích trẻ tương tác…
2. Các phương pháp tiếp cận theo phương pháp cấu trúc
2.1 Sử dụng các bài tập/trò chơi
luyện nghe cho TKT
2.2. Sử dụng các kỹ thuật đặc thù
để dạy và sửa lỗi phát âm cho
TKT
2.3 Sử dụng các bài tập can thiệp để rèn luyện KN nghe – nói cho TKT
3
Khác (xin ghi rõ): ……………………………
PL16
Câu 9. Thầy/cô đánh giá như thế nào về hiệu quả của các phương pháp phát
triển KNNN cho trẻ khiếm thính?
Mức độ hiệu quả
Tương Rất Ít Không TT Phương pháp phát triển KNNN Hiệu đối hiệu hiệu hiệu quả hiệu quả quả quả quả
1 Các PP tiếp cận theo PP tự nhiên
1.1 Nhóm PP dùng lời nói
1.2 Nhóm PP trực quan, minh họa
1.3 Nhóm PP thực hành, trải nghiệm
1.4 Nhóm PP giáo dục bằng tình cảm,
khích lệ
1.5 Nhóm PP nêu gương, đánh giá
1.6 Sử dụng các kỹ thuật phát triển
ngôn ngữ tự nhiên như: Tạo môi
trường giàu kích thích ngôn ngữ;
Nói mẫu; Nhắc lại; Mở rộng câu
nói; Tạo tình huống có vấn đề;
Khuyến khích trẻ tương tác…
2. Các phương pháp tiếp cận theo phương pháp cấu trúc
2.1 Sử dụng các bài tập/trò chơi luyện
nghe cho TKT
2.2. Sử dụng các kỹ thuật đặc thù để
dạy và sửa lỗi phát âm cho TKT
2.3 Sử dụng các bài tập can thiệp để
rèn luyện KN nghe – nói cho TKT
Khác (xin ghi rõ): ………………. 3
PL17
Câu 10. Những thuận lợi khi tổ chức các hoạt động phát triển KNNN cho trẻ
khiếm thính là gì?
TT Các thuận lợi
Thuận lợi Ít thuận lợi Không thuận lợi Rất thuận lợi Mức độ thuận lợi Tương đối thuận lợi
1 Điều kiện cơ sở vật chất, môi trường lớp học (điều kiện âm thanh, ánh sáng, không gian, đồ dung, đồ chơi) 2 Môi trường tâm lý trong lớp MGHN 3 4
5
6
Bản thân trẻ khiếm thính Sự quan tâm, tạo điều kiện của Ban giám hiệu nhà trường Sự quan tâm, phối hợp của cha mẹ trẻ khiếm thính Bản thân GV được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn về GDHN trẻ khiếm thính
Câu 11. Thầy/cô gặp khó khăn nào khi tổ chức các hoạt động phát triển kỹ
năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính?
TT Các khó khăn
Khó khăn Ít khó khăn Không khó khăn Rất khó khăn Mức độ khó khăn Tương đối khó khăn
2
1 Điều kiện, cơ sở vật chất, môi trường lớp học (điều kiện âm thanh, ánh sáng, không gian) Thiếu trang thiết bị, đồ dung, đồ chơi để phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính
4
5
3 Năng lực của giáo viên (kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm về phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính) Tài liệu hướng dẫn về phát triển KNNN cho trẻ khiếm thính Thiếu sự phối hợp thống nhất giữa nhà trường, GV và cha mẹ trẻ khiếm thính
6 Khác (xin ghi rõ): ………………... ……………………………………
PL18
Câu 12. Theo thầy/cô những yếu tố sau đây ảnh hưởng như thế nào đến việc
phát triển kỹ năng nghe – nói cho trẻ khiếm thính?
TT Các yếu tố
Ảnh hưởng Ít ảnh hưởng Mức độ ảnh hưởng Tương đối ảnh hưởng
Rất ảnh hưởng Không ảnh hưởng 1
Các yếu tố liên quan đến khuyết tật của trẻ (mức độ suy giảm thính lực, độ tuổi suy giảm thính lực, khả năng nhận thức, hứng thú và nhu cầu nghe – nói)
2 Năng lực của giáo viên Sự hỗ trợ thính học 3 Can thiệp sớm 4 Sự tham gia, hỗ trợ của cha mẹ 5 TKT 6 Sự hỗ trợ từ bạn cùng trang lứa 7 Việc lựa chọn phương pháp tiếp cận giao tiếp cho TKT
8 Khác (xin ghi rõ): ……………………….
Câu 13. Theo thầy/cô, để nâng cao hiệu quả phát triển kỹ năng nghe - nói cho
trẻ khiếm thính, cần những điều gì?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………
Xin chân thành cảm ơn ý kiến đóng góp của thầy/cô!
PL19
Phụ lục 4:
PHIẾU PHỎNG VẤN GIÁO VIÊN
(Dành cho giáo viên dạy trẻ khiếm thính ở lớp MGHN)
Câu 1: Theo thầy (cô) trẻ khiếm thính có gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp không?
Nguyên nhân của những khó khăn đó?
Câu 2: Thầy (cô) đánh giá về tầm quan trọng và ý nghĩa của việc phát triển KNNN
cho trẻ khiếm thính ở lớp MGHN như thế nào?
Câu 3: Thầy (cô) làm thế nào để đánh giá được mức độ KNNN cho trẻ khiếm thính
để từ đó đưa ra các biện pháp hỗ trợ các em trong lớp hòa nhập?
Câu 4: Thầy (cô) đã/đang có hỗ trợ gì cho trẻ khiếm thính phát triển KNNN không?
Nếu có, xin thầy (cô) hãy chia sẻ các biện pháp, hình thức mà thầy (cô) đang áp
dụng?
Câu 5: Thầy (cô) chia sẻ những thuận lợi và khó khăn khi phát triển KNNN cho trẻ
khiếm thính ở lớp MGHN mà thầy (cô) đang công tác?
Câu 6: Thầy (cô) có đề xuất gì để nâng cao hiệu quả phát triển KNNN cho trẻ
khiếm thính ở lớp MGHN?
PL20
Phụ lục 5
PHIẾU QUAN SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG Ở LỚP MGHN
Địa điểm: ………………………………………………………………………
Thời gian: …………………………………………………...............................
Họ tên trẻ: …………………….……………………………………..................
Lớp:…………………. Trường: ...……………………………………….
1. Quan sát
Tên HĐ Nội dung HĐ Biểu hiện KNNN của trẻ
khiếm thính
2. Đánh giá
STT Kỹ năng Mức độ đạt được
1 2 3 4
Kỹ năng nghe
1 Nhận diện được 6 âm Lings: /m/; /a/; /u/; /i/; /s/; /x/
2 Nghe hiểu các từ chỉ người, đồ vật, con vật, sự vật,
hành động, hiện tượng quen thuộc, gần gũi
3 Nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng
và các từ biểu cảm
4 Nghe hiểu và thực hiện được từ 1 – 3 yêu cầu
5 Nghe hiểu nội dung câu chuyện, bài thơ
Kỹ năng nói
6 Phát âm các tiếng, từ, câu để người nghe có thể hiểu
được
PL21
7 Sử dụng lời nói với các từ thông dụng chỉ người, đồ
vật, con vật, sự vật, hành động, hiện tượng quen
thuộc, gần gũi
Sử dụng lời nói với các từ chỉ đặc điểm, tính chất, 8
công dụng và các từ biểu cảm phù hợp với ngữ cảnh
Thể hiện nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của bản thân 9
bằng lời nói
Kể lại những sự việc đơn giản 10
Kể lại câu chuyện đơn giản đã nghe theo trình tự nhất 11
định
PL22
Phụ lục 6:
DANH SÁCH TỪ VỰNG TRẺ EM
Phạm Thùy Giang, 2008
(Adapted from MacArthur-Bates Communicative Development Inventories)
Tên trẻ: ……………………………………………………………….
Ngày sinh: ……………………………………………………………
Âm thanh và Chỉ Hiểu và Chỉ Hiểu và Các loại xe tiếng con vật hiểu nói hiểu nói
bò (tiếng bò) máy bay
cạp cạp xe buýt
tu tu (tiếng xe lửa) xe cứu hỏa
gâu gâu xe đạp
meo meo (tiếng xe lửa/tàu hỏa
mèo)
ò ó o (tiếng gà gáy) xe máy
ua chà xe ô tô
ù ù (tiếng xe) xe tải
Con vật (thật Đồ chơi
hoặc đồ chơi)
con cú đồ chơi
chim cánh cụt bong bóng
chó con cái bút
con bò con búp bê
con bọ/ con sâu cuốn sách/quyển
sách
con bướm khối
con cá quả bóng
con chim Đồ ăn uống
con chó bánh bao
con chuột bánh mì
con cọp bánh ngọt
con cừu cá
PL23
cà phê con ếch
củ cà rốt con gà
đậu con gấu
đồ ăn con gấu bông
kem con lợn/heo
kẹo con khỉ
mì/bún con lừa
nước ép/nước hoa con mèo
quả
nước uống con nai
quả táo con ngỗng
sữa con ngựa
thịt bò con ong
thịt gà con rùa
thịt lợn con sư tử
quả cam con vịt
quả chuối con voi
trứng động vật
Số lượng/tính từ Câu hỏi
giống nhau Ai
khác nhau Đâu
một ít Gì
nữa/thêm khi nào
số không tại sao
tất cả thế nào
Đồ dùng gia đình Quần áo
đĩa Áo
bàn chải Váy
bàn chải đánh răng áo khoác
bình sữa áo ấm
búa áo len
cốc/ly bộ ngủ
cái chổi cái yếm dãi
PL24
cái kéo dây chuyền
cái lược Giày
cây khóa kéo
bát/chén Mũ
chìa khóa Cúc
đèn quần dài
dĩa quần đùi
điện thoại tất
đồng hồ Bộ phận cơ thể
giấy bàn chân
gối bàn tay
hộp bụng
khăn tắm cái đầu
kính cái rốn
mặt kính cánh tay
chăn/mền Chân
muỗng/thìa con mắt
radio/đài đầu gối
tấm hình/ảnh lỗ tai
thùng rác lưỡi
thuốc Má
tiền mặt
xà phòng miệng
Người Mũi
anh, em trai ngón chân
bà ngón tay
bố/ba Răng
chị, em gái Tóc
chú, cậu, dượng Đại từ
cô gái cái đó/đấy
cô, dì của
con gái của tôi/của con
con trai Này
PL25
đàn ông tôi/con
đứa bé Thời gian
giáo viên/cô giáo bây giờ
mẹ buổi sáng
người Đêm
người giữ trẻ hôm nay
tên cô giáo Ngày
ông ngày mai
Tính từ Nội thất/phòng
nhà
to bàn ăn
tốt Bô
trống bồn nước
ướt bồn tắm
vui cái bếp
xanh da trời cái giường
xấu cầu thang
đẹp cửa
Trò chơi cửa sổ
trò chơi ú òa ghế
Hành động/tính từ ghế cao
cứng ghế sa lông
cười ghế xích đu
đá Lò
đánh ngăn kéo
đau nhà bếp
dễ thương ga ra
đem/bưng Nôi
đi phòng khách
đi bộ phòng ngủ
bẩn phòng tắm
đọc ti vi
đói tủ lạnh
PL26
dọn dẹp Hành động
đóng kín Ăn
đưa bế
đụng ốm
được Bơi
gãy buồn ngủ
già Hát
giúp đỡ Nhìn
hết cắn
hiền lành cẩn thận
hôn/thơm chạy
hư Cho
kéo Chơi
khát làm vui lòng
khô yên lặng
khóc cảm ơn
khoe vâng, phải
lái không, đừng
làm xong chờ đợi
lạnh muốn
lau Không
lấy ngủ ngon
mềm tắm
mệt ăn sáng
mở Chào
mỏng bữa cơm
ném bữa ăn trưa
ngủ ngủ trưa
Đồ ngoài trời và địa điểm ngừng lại
bờ biển nhanh chóng
nhảy bông hoa
nhìn cầu trượt
nhỏ cái xẻng
PL27
cái xích đu nói
Cây nóng
Chùa ôm
công viên rơi
hồ bơi sạch
mặt trăng sợ
mặt trời tắm rửa
Mưa thấy
ngôi sao thổi
Nhà thọc cù léc
nhà thờ uống
nhà trường viết
nước yêu thương
Sân
tiệc
tiệm/cửa hàng
trời
vườn
vườn thú
PL28
Phụ lục 7:
Bảng từ kiểm tra khả năng phát âm các âm vị
Không có hoặc sai
Từ Có (Nếu phát âm sai thì ghi rõ phát
thành âm gì.)
Các phụ âm đầu
bố, bà, bàn B
pin, pê-đan P
phở, phim, phố phường Ph
ve, vở, viết V
me, miệng, mặt M
con thỏ, bài thơ, thác nước Th
tủ, tỉ, tiền T
con đê, cây đa, đất đai Đ
cái nơ, quả na, nu na nu nống N
xe, xa xa, khúc xương X
da, dao, con dế D
quả lê, quả lựu, xe lu L
cây tre, cá trê, trăng trắng Tr
su su, chim sẻ, súng S
rễ, rổ rá, rì rào R
con chó, cái chổi, chim chích Ch
bông
Nh nhà, chùm nho, nhường nhịn
C/K củ cải, thước kẻ, cán cân
Ng/Ngh Ngân hàng, nghé, củ nghệ
Kh khế, khăn, khoai lang
G/Gh gỗ, gốc, gồ ghề
H ho, hát, húng hắng
Các âm đệm
U, O hoa huệ, quà quê, môn toán
Các âm chính
cái ví, hoa lí, lích kích I
PL29
quả lê, hạt kê, cà phê Ê
con ve, quả me, mét E
củ từ, lừ khừ, tức giận Ư
cái nơ, quả mơ, lớp học Ơ
cái ca, quả na, bàn là A
xe lu, đồng xu, nu na nu nống U
cái ô, xích lô, cơn lốc Ô
lò xo, con cóc, con sóc O
cây mía, tiền, tiếp tuyến IÊ
cơn mưa, tươi cười, điểm mười ƯƠ
mua bán, cuốn sách, tuốt lúa UÔ
con rắn, nhắn nhủ, chắc chắn Ă
cây, cân, vân vân Â
E ngắn xanh, quả chanh, hãm phanh
O ngắn con sóc, búi tóc, học tập
Âm cuối
núi, củi, túi I
rìu, diều, gió hiu hiu U
tôm, cam, cơm M
con lươn N
Ng kẻng, xóm làng, công nông
ấm áp, gác xép, mắt híp P
con vẹt, bó lạt, lũ lụt, tất bật T
cái cốc, con cóc, sợi tóc C
Các thanh điệu
Không ba, la, ca
Huyền bà, là, cà
Ngã mũ, lũ, cũ
Hỏi mỏ, cỏ, đỏ
Sắc má, cá, lá
Nặng mạ, lạ, tạ
PL30
Phụ lục 8
THÍNH LỰC ĐỒ CỦA CÁC TRƯỜNG HỢP THỰC NGHIỆM
1. Thính lực đồ của bé Đ.B.N
2. Thính lực đồ của bé N.T.M
PL31
3. Thính lực đồ của bé P.M.K
PL32
Phụ lục 9
MINH HỌA TRÒ CHƠI LUYỆN NGHE CHO TRẺ KHIẾM THÍNH
Trò chơi 1: Ai đoán giỏi
• Mục đích: Giúp trẻ phân biệt được các cụm từ, câu có độ dài ngắn khác
nhau.
• Chuẩn bị: Các câu hát/câu nói có độ dài ngắn khác nhau, giống nhau. (VD:
Một con vịt – Một con vịt xòe ra hai cái cánh; Bé đang tắm – Mẹ đang nấu cơm; Mẹ
đi làm – Từ sáng sớm...); 2 Bảng ghép hình giống nhau (có khoảng 4-6 miếng
ghép).
• Cách tiến hành:
- GV kiểm tra máy trợ thính của trẻ, chia lớp thành 2 đội chơi.
- GV hướng dẫn cách chơi: Hai đội cùng chơi, GV sẽ lần lượt nói/hát các câu
có độ dài ngắn giống nhau hoặc khác nhau. Các đội sẽ lắng nghe và trả lời. Đội nào trả
lời đúng được tặng 1 miếng ghép để ghép vào bảng ghép hình. Kết thúc trò chơi, đội
nào hoàn thành miếng ghép trước là đội chiến thắng.
- GV làm mẫu cách chơi cho trẻ.
- GV cho các đội chơi.
- Kết thúc trò chơi, đội nào hoàn thành bảng ghép hình trước là đội chiến
thắng.
Trò chơi 2: Hãy lắng nghe
• Mục đích: Giúp trẻ xác định âm thanh tiếng nói và âm thanh không phải tiếng
nói (VD: Tiếng kêu các con vật, Âm thanh của các dụng cụ âm nhạc...)
• Chuẩn bị: Máy ghi âm những âm thanh không phải tiếng nói; Mỗi trẻ 1 bộ
tranh lô tô (Mỗi bộ có 1 Tranh lô tô hình người và tranh lô tô các con vật, đồ vật tạo
ra âm thanh khác).
• Cách tiến hành:
- GV kiểm tra máy trợ thính của trẻ, cho trẻ ngồi theo hình vòng cung.
- GV hướng dẫn cách chơi: GV sẽ lần lượt tạo ra các âm thanh. Trẻ sẽ phải
lắng nghe và lựa chọn tranh lô tô tương ứng. Mỗi trẻ trả lời đúng sẽ được thưởng 1
ngôi sao (vẽ bên cạnh tên trẻ ghi trên bảng). Kết thúc trò chơi, bạn nào nhận được
nhiều sao nhất sẽ được phần thưởng.
PL33
- GV làm mẫu cách chơi cho trẻ.
- GV cho các đội chơi.
- Kết thúc trò chơi, GV khen thưởng bạn chơi tốt nhất, động viên, khuyến
khích các trẻ khác.
Trò chơi 3: Tôi và bạn
• Mục đích: Giúp trẻ nghe và nhận biết tên các bạn trong lớp
• Chuẩn bị: Các băng giấy ghi tên các thành viên trong lớp
• Cách tiến hành:
- GV kiểm tra máy trợ thính của trẻ, cho trẻ ngồi theo hình vòng cung.
- GV hướng dẫn cách chơi: GV sẽ nói tên 1 bạn trong lớp, các trẻ sẽ lắng nghe
và chỉ vào bạn mà cô nói tên. Bạn đó sẽ lên lấy băng giấy ghi tên mình.
- GV làm mẫu cách chơi cho trẻ: GV chỉ vào 1 bạn và nói tên bạn đó cho các
trẻ cùng nghe. VD: Bạn Lan. GV lấy băng giấy có ghi tên bạn Lan giơ lên cho các
trẻ nhìn.
- GV cho các trẻ chơi: GV gọi tên lần lượt từng bạn trong lớp, trẻ lắng nghe
và chỉ vào bạn được gọi tên. Sau đó, GV giơ băng giấy có ghi tên bạn đó cho các trẻ
nhìn và đưa lại băng giấy cho trẻ đó.
- Kết thúc trò chơi, GV khen thưởng các bạn chơi tốt, động viên, khuyến
khích các trẻ khác.
Trò chơi 4: Em đi chợ
• Mục đích: Giúp trẻ nghe và nhận biết tên các loại quả quen thuộc: táo, vải,
can, bưởi, mít, dưa hấu...
• Chuẩn bị: Các loại quả bằng nhựa; Rổ đựng đồ
• Cách tiến hành:
- GV kê 2 bàn bày các loại quả ở góc phòng.
- GV kiểm tra máy trợ thính của trẻ, chia trẻ thành 2 đội chơi.
- GV hướng dẫn cách chơi: GV nói tên một loại quả, lần lượt các trẻ trong
mỗi đội chơi sẽ phải đi chợ và chọn đúng loại quả mà cô nói tên. Nếu trẻ lấy đúng,
được bỏ vào rổ của đội mình, lấy sai phải trả lại. Kết thúc trò chơi, đội nào lấy được
nhiều quả hơn là đội chiến thắng.
- GV làm mẫu cách chơi cho trẻ.
PL34
- GV cho 2 đội cùng chơi.
- Kết thúc trò chơi, đội nào lấy được nhiều quả trong rổ hơn là đội chiến
thắng.
Trò chơi 5: Mua hoa tặng mẹ
• Mục đích: Giúp trẻ nghe và nhận biết tên mình và tên các loại hoa: hoa
hồng, hoa lay ăn, hoa đồng tiền, hoa cúc, hoa lay ơn...
• Chuẩn bị: Các loại hoa tươi hoặc hoa nhựa
• Cách tiến hành:
- GV kiểm tra máy trợ thính của trẻ, GV cho trẻ ngồi theo hình vòng cung.
- GV hướng dẫn cách chơi: GV nói tên trẻ và nói tên loại hoa mà mẹ của
mỗi trẻ thích (VD: Mẹ Lan thích hoa hồng) (Chú ý khi nói GV nhấn giọng vào tên
trẻ và tên loại hoa). Trẻ được gọi tên sẽ phải lên và chọn đúng loại hoa để mang về
tặng mẹ.
- GV làm mẫu và cho các trẻ cùng chơi.
- Kết thúc trò chơi, GV khen ngợi những trẻ làm tốt và động viên, khuyến
khích những trẻ thực hiện chưa tốt.
PL35
Phụ lục 10
MINH HỌA TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN PHÁT ÂM
CHO TRẺ KHIẾM THÍNH
PHỤ ÂM B /b/ 1. Mô tả: ❖ Phụ âm tắc - hữu thanh B /b/
- /b/ là phụ âm tắc – hữu thanh. Âm /b/ có đặc
điểm cấu âm như sau:
+ Môi: Hai môi chạm vào nhau, sau đó mở ra,
hơi thóat nhẹ ra ngoài.
+ Lưỡi: Phụ thuộc vào nguyên âm đứng sau.
+ Dây thanh: Khép và rung.
2. Hướng dẫn trẻ phát âm /b/
- Nghe: Là âm có tần số trầm.
- Nhìn: Hai môi chạm vào nhau.
- Sờ: Rung ở hầu, Hơi ấm, nhẹ thoát ra từ miệng.
3. Các từ chứa âm “B”
3.1. Những âm thanh ban đầu chứa âm /b/:
- Tiếng kêu của con bò: “bò…bò…”
- Tiếng kêu của con dê: “be…be…”
- Tiếng xe máy: “brừm… brừm…”;
“bíp … bíp…”
PL36
3.2. Những từ phát triển trước
Ba ba Bò
Bà Bé
Bi Bí
PL37
3.3. Những tư phát triển sau
Bánh Bóng
Bóng bay
Bún Bim bim
Bèo
Bãi biển Bươm bướm Búp bê
4. Bài thơ, bài hát chứa âm “b”:
Bài hát: Cháu yêu bà
Bà ơi bà, cháu yêu bà lắm
Tóc bà trắng màu trắng như mây
Cháu yêu bà, cháu nắm bàn tay
Khi cháu vâng lời cháu biết bà vui...
PL38
Bài hát: Bé bé bằng bông
Bé bé bồng bông Hai má hồng hồng
Bé đi sơ tán
Bế em đi cùng. Mẹ mua xe gỗ
Cho bé ngồi trong
Bao giờ chiến thắng
Cho bé về phố đông.
Bài hát: Búp bê bằng bông
Búp bê bằng bông biết bay bay bay
Búp bê biết bò biết bắt biết bơi Búp bê bằng bông bên bạn bươm bướm
Bươm bướm bềnh bồng bỏ bạn bay bay. Bươm bướm nay, bươm bướm bay
Bỏ bạn bỏ bè bỏ búp bê
Bươm bướm bay, bươm bướm bay
Búp bê buồn buồn biền biệt bay bay. Bươm bướm nay, bươm bướm bay
Bỏ bạn bỏ bè bỏ búp bê
Bươm bướm bay, bươm bướm bay
Búp bê buồn buồn biền biệt bay bay.
5. Gợi ý một số hoạt động có thể lồng ghép để luyện phát âm âm /b/
- Chơi trò chơi để luyện tập phát âm âm /b/: bập môi gọi gà; phát âm tiếng kêu
con bò, con dê, tiếng xe máy.
- Chơi các trò chơi với bóng như đá bóng hoặc thổi bong bóng, gắn với phát
âm có âm “b”: bóng
- Chơi búp bê với trẻ, cho búp bê ăn các đồ ăn có âm /b/ như: bim bim, bánh,
bún…
- Cho trẻ chơi với các con vật bằng nhựa và trò chuyện về các con vật đó: bò,
baba, bươm bướm…
- Hát cho trẻ nghe và khuyến khích trẻ hát nối các từ có âm /b/ (có thể sử dụng
các bài hát ở bên trên).
PL39
Phụ lục 11
CHƯƠNG TRÌNH THỰC NGHIỆM
Họ tên trẻ: Đ.B.N
Ngày sinh: 19/03/2015
Giáo viên thực hiện: N.T.C
Thời gian: Thực nghiệm trong 06 tháng (từ 01/12/2018 đến 31/05/2019), được đánh
giá theo 02 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Đánh giá sau 3 tháng (Từ 01/12/2018 đến 28/02/2019)
+ Giai đoạn 2: Đánh giá sau 6 tháng (Từ 01/03/2019 đến 31/05/2019)
1. Đánh giá mức độ hiện tại (Nội dung mục 3.4.2.1 của luận án)
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu chung
Giúp Đ.B.N nghe hiểu được thông tin, nội dung giao tiếp và sử dụng được
lời nói trong giao tiếp để bày tỏ nhu cầu, cảm xúc, suy nghĩ của bản thân một cách
rõ ràng, dễ hiểu, kể lại được những sự việc đơn giản.
2.2. Mục tiêu cụ thể
STT Mục tiêu cụ thể Cách tiến hành Mục tiêu chung Đánh giá kết quả (theo 4 mức độ) 4 1 3 2
- Lồng ghép phát triển
KN nghe hiểu trong
các hoạt động vui chơi, Phát hoạt động làm quen
với tác phẩm văn học, triển Nghe hiểu các từ chỉ sự vật, hành động, hiện tượng và các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng, các từ biểu cảm
kỹ năng
1 Thực hiện được các yêu cầu đơn giản gồm 2 - 3 hành động hoạt động góc, hoạt động ngoài trời… - Sử dụng các trò chơi nghe
hiểu lời để rèn luyện KN nghe cho trẻ khiếm thính
nói
Hiểu được trọn vẹn câu dung nội chuyện, bài thơ và trả lời được các câu hỏi có liên quan đến câu dung nội chuyện, bài thơ
PL40
- Lồng ghép phát triển KN sử dụng lời nói
Phát âm rõ ràng các tiếng, từ, câu trong giao tiếp trong các hoạt động
vui chơi, làm quen với
tác phẩm văn học, hoạt động làm quen với môi
trường xung quanh,
hoạt động góc, hoạt Phát Nói được câu 5 – 6 tiếng có các từ thông dụng chỉ sự vật, đặc động, hành chất, tính điểm, công quen dụng thuộc động ngoài trời… triển
kỹ năng 2 - Tạo ra các tình huống có vấn đề để khuyến sử dụng Bày tỏ được các nhu cầu, cảm xúc của bản thân bằng lời nói một cách rõ ràng khích trẻ sử dụng lời lời nói nói.
- Sử dụng các kỹ thuật
phát triển KNNN cho Kể lại được những sự việc đơn giản đã xảy ra một cách rõ ràng
trẻ như: chờ đợi, sử dụng lời nói mẫu…
Kể lại được nội dung câu chuyện đơn giản đã được nghe theo đúng trình tự - Rèn luyện khả năng phát âm và khả năng diễn đạt lời nói trôi chảy cho trẻ
3. Nhận xét, đánh giá
3.1. Sau 3 tháng:
......................................................................................................................
......................................................................................................................
3.2. Sau 6 tháng:
......................................................................................................................
......................................................................................................................
Người thực hiện chương trình
Ban giám hiệu Phụ huynh Giáo viên
PL41
CHƯƠNG TRÌNH THỰC NGHIỆM
Họ tên trẻ: N.T.M
Ngày sinh: 16/08/2014
Giáo viên thực hiện: V.T.T.P
Thời gian: Thực nghiệm trong 06 tháng (từ 01/12/2018 đến 31/05/2019), được đánh
giá theo 02 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Đánh giá sau 3 tháng (Từ 01/12/2018 đến 28/02/2019)
+ Giai đoạn 2: Đánh giá sau 6 tháng (Từ 01/03/2019 đến 31/05/2019)
1. Đánh giá mức độ hiện tại (Nội dung mục 3.4.2.2 của luận án)
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu chung
Giúp N.T.M nghe hiểu được thông tin, nội dung giao tiếp đơn giản, gần gũi
và sử dụng được lời nói trong giao tiếp để bày tỏ nhu cầu, cảm xúc cơ bản của bản
thân bằng cách phát âm đúng, rõ các tiếng, từ, câu trong giao tiếp để người nghe có
thể hiểu được.
2.2. Mục tiêu cụ thể
STT Mục tiêu cụ thể Cách tiến hành Mục tiêu chung Đánh giá kết quả (theo 4 mức độ) 4 1 3 2
- Lồng ghép các nội
dung phát triển KNNN
cho trẻ trong các hoạt Phát động như: hoạt động vui
triển chơi, hoạt động làm
kỹ năng
1 quen với tác phẩm văn làm học, hoạt động quen với môi trường nghe
hiểu lời
nói
xung quanh, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời… - Giao nhiệm vụ cho trẻ
trong các hoạt động
hằng ngày Nghe hiểu các từ chỉ sự vật, hành tượng động, hiện quen thuộc, gần gũi Nghe hiểu các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng, các từ biểu cảm Thực hiện được các yêu cầu đơn giản gồm 2 – 3 hành động nội được Hiểu dung chính của câu chuyện/bài thơ và trả lời được các câu hỏi đơn giản về nội dung của tác phẩm
PL42
(Ai? Cái gì? Làm gì?) - Sử dụng các trò chơi để rèn luyện KN nghe
cho trẻ khiếm thính
Phát
triển
kỹ năng 2
sử dụng
lời nói
- Lồng ghép các nội dung phát triển KN sử dụng lời nói trong các hoạt động vui chơi, làm quen với tác phẩm văn làm học, hoạt động quen với môi trường xung quanh, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời… - Tạo tình huống có vấn đề cho trẻ thực hành, rèn luyện KNNN - Sử dụng các kỹ thuật phát triển KNNN cho trẻ như: chờ đợi, sử dụng lời nói mẫu… - Rèn luyện khả năng phát âm và khả năng diễn đạt lời nói trôi chảy cho trẻ Phát âm đúng, rõ các tiếng, từ, câu trong giao tiếp để người nghe có thể hiểu được Nói được câu 4 – 5 từ tiếng có các thông dụng chỉ sự vật, hành động, tượng, đặc hiện điểm, công dụng quen thuộc, gần gũi Sử dụng lời nói để tỏ nhu cầu, bày cảm xúc cơ bản của bản thân Kể lại được những nội dung chính của sự việc đơn giản đã xảy ra Kể lại được một số tình tiết chính của câu chuyện đơn giản đã được nghe
3. Nhận xét, đánh giá
3.1. Sau 3 tháng: ............................................................................................
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………...
3.2. Sau 6 tháng: ...........................................................................................
…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………….
Người thực hiện chương trình
Ban giám hiệu Phụ huynh Giáo viên
PL43
CHƯƠNG TRÌNH THỰC NGHIỆM
Họ tên trẻ: P.M.K
Ngày sinh: 08/08/2013
Giáo viên thực hiện: T.M.L
Thời gian: Thực nghiệm trong 06 tháng (từ 01/12/2018 đến 31/05/2019), được đánh
giá theo 02 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Đánh giá sau 3 tháng (Từ 01/12/2018 đến 28/02/2019)
+ Giai đoạn 2: Đánh giá sau 6 tháng (Từ 01/03/2019 đến 31/05/2019)
1. Đánh giá mức độ hiện tại (Nội dung mục 3.4.2.3 của luận án)
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu chung
Giúp P.M.K nghe được cả 6 âm Ling, nghe hiểu được thông tin, nội dung
giao tiếp cơ bản, quen thuộc, gần gũi và sử dụng được lời nói để bày tỏ nhu cầu cơ
bản của bản thân, phát âm đúng các tiếng, từ trong câu để người nghe có thể hiểu
được, nói được câu 3 – 4 từ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
STT Mục tiêu cụ thể Cách tiến hành Mục tiêu chung Đánh giá kết quả (theo 4 mức độ) 4 1 3 2
Nhận diện được 2 âm Ling: /s/, /x/
Phát
triển
kỹ năng
1 nghe
hiểu lời
nói
- Sử dụng các trò chơi để rèn luyện KN nghe cho trẻ khiếm thính - Lồng ghép phát triển KN nghe hiểu trong các hoạt động vui chơi, hoạt động làm quen với tác phẩm văn học, hoạt động làm quen với môi xung trường quanh, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời… - Giao nhiệm vụ trong các hoạt động trong chế độ sinh Nghe hiểu các từ chỉ sự vật, hành động, hiện quen tượng thuộc, gần gũi Nghe hiểu được các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm cơ bản Thực hiện được các yêu cầu đơn giản gồm 1-3 nhiệm vụ mà không cần trợ giúp Trả lời được các câu hỏi đơn giản như Ai? Cái gì? Làm gì theo
PL44
dung câu thơ đã hoạt hằng ngày.
Phát
triển
kỹ năng 2
sử dụng
lời nói nội chuyện/bài nghe Phát âm đúng các tiếng, từ trong câu để người nghe có thể hiểu được Nói được câu với 3 – 4 từ thông dụng chỉ sự vật, hành động, đặc điểm, công dụng quen thuộc, gần gũi Sử dụng được lời nói để bày tỏ nhu cầu cơ bản của bản thân Kể lại được những sự việc đơn giản đã xảy ra
Nhắc lại một số tình tiết chính trong câu chuyện với sự hướng dẫn của GV
- Rèn luyện khả năng phát âm cho trẻ thông qua các hoạt động luyện hơi, luyện giọng, vận luyện động cơ quan cấu âm, luyện phát âm các âm vị, các tiếng, từ, câu. - Lồng ghép phát triển KN sử dụng lời nói trong các hoạt động vui chơi, làm quen với tác phẩm văn học, hoạt động làm quen với môi trường xung quanh, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời… - Sử dụng các kỹ thuật triển phát KNNN cho trẻ như: chờ đợi, sử dụng lời nói mẫu…
3. Nhận xét, đánh giá
3.1. Sau 3 tháng:
.....................................................................................................................
.....................................................................................................................
3.2. Sau 6 tháng:
.....................................................................................................................
.....................................................................................................................
Người thực hiện
Ban giám hiệu Phụ huynh Giáo viên