BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VÕ UY PHONG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔNG NAM BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI, 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VÕ UY PHONG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔNG NAM BỘ
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 9 34 04 03
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. Hoàng Văn Chức
2. TS. Nguyễn Hoàng Anh
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá nhân tôi. Các
thông tin, số liệu của luận án được trình bày trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Việc sử
dụng, trích dẫn tư liệu của một số công trình nghiên cứu đã công bố khi đưa vào luận án
được thực hiện đúng theo quy định. Kết quả nghiên cứu khoa học của luận án chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào.
Hà Nội, tháng 9 năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Võ Uy Phong
i
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu, tìm hiểu quản lý nhà nước về Công giáo là một trong những chủ đề
nhận được sự quan tâm, chú ý của Đảng, Nhà nước và đông đảo các nhà khoa học, các
nhà quản lý ở nước ta trong những năm gần đây. Sự thành công của đề tài nghiên cứu
Luận án là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện, nghiên cứu của tác giả và sự chỉ bảo tận tình của quý Thầy, Cô giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia; quý
Thầy, Cô giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia, Ban quản lý Đào tạo Sau Đại học,
Khoa QLNN về Xã hội, đặc biệt là PGS.TS. Hoàng Văn Chức và TS. Nguyễn Hoàng
Anh luôn quan tâm, hướng dẫn tác giả trong cả quá trình xây dựng đề cương, tổ chức nghiên cứu, đến khi hoàn thành Luận án.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn những ý kiến góp ý, phản biện quý báu của các nhà
khoa học trong và ngoài Học viện Hành chính Quốc gia; xin cảm ơn sự quan tâm và tạo
điều kiện của Ban Tôn giáo Chính phủ, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Tạp chí Quản lý Nhà
nước, Ban Tôn giáo và chính quyền các cấp trên địa bàn Đông Nam Bộ; xin cảm ơn đội
ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo, các cán bộ Mặt trận Tổ quốc và đoàn
thể trên địa bàn Đông Nam Bộ; những nghiên cứu viên và bạn đồng nghiệp, đặc biệt là các
chức sắc Công giáo Đông Nam Bộ đã nhiệt tình cung cấp số liệu, tham gia đóng góp ý kiến
về những nội dung của đề tài Luận án.
Mặc dù Luận án đã được triển khai nghiên cứu nghiêm túc, khoa học và bản thân tác
giả đã có nhiều nỗ lực, song chắc chắn vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế, tác giả mong
nhận được những ý kiến góp ý của quý Thầy, Cô, các nhà khoa học, các chức sắc Công giáo
và đồng nghiệp để bổ sung, hoàn thiện Luận án, xin trân trọng cảm ơn./.
Hà Nội, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận án
Nguyễn Võ Uy Phong
ii
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Từ viết tắt Từ đầy đủ
CBCC Cán bộ công chức
ĐCV Đại Chủng viện
ĐNB Đông Nam Bộ
GHCG Giáo hội Công giáo
GHCGVN Giáo hội Công giáo Việt Nam
HĐGMVN Hội đồng Giám mục Việt Nam
HĐND Hội đồng nhân dân
MEP Hội Thừa sai Pari
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
QLNN Quản lý nhà nước
TNTG Tín ngưỡng, tôn giáo
TP Thành phố
UBĐKCG Ủy ban đoàn kết Công giáo
UBMTTQ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
UBND Ủy ban nhân dân
VPQPPL Văn bản quy phạm pháp luật
XHCN Xã hội chủ nghĩa
iii
Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ........................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án ......................................................... 4
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu....................................................... 4
5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu .............................................................................. 6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................................. 7
7. Những đóng góp mới của luận án .............................................................................. 7
8. Kết cấu của luận án .................................................................................................... 8
Chương 1: TỔNG QUAN CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................................. 10
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận về tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo10
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận về tôn giáo .......................................... 10
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu quản lý nhà nước về tôn giáo ................... 14
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu Công giáo và quản lý nhà nước về Công giáo ...... 19
1.2.1. Các Công trình nghiên cứu Công giáo ......................................................... 19
1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu quản lý nhà nước về Công giáo ................ 25
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về Công giáo và quản lý nhà nước về Công
giáo ở Đông Nam Bộ .................................................................................................... 28
1.3.1. Nghiên cứu về Công giáo ở Đông Nam Bộ ................................................... 28
1.3.2. Nghiên cứu quản lý nhà nước về Công giáo ở Đông Nam Bộ ....................... 30
1.4. Nhận xét chung về tổng quan tài liệu và nhiệm vụ của luận án .......................... 31
1.4.1. Nhận xét về kết quả nghiên cứu đi trước ...................................................... 31
1.4.2. Những vấn đề đặt ra cho luận án tiếp tục nghiên cứu .................................. 32
Chương 2: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG GIÁO .......... 36
2.1. Khái quát về Công giáo trên thế giới và ở Việt Nam ........................................... 36
2.1.1. Công giáo trên thế giới ................................................................................ 36
2.1.2. Công giáo ở Việt Nam .................................................................................. 38
2.2. Công giáo và một số khái niệm có liên quan đến luận án .................................... 43
2.2.1. Công giáo và hoạt động Công giáo .............................................................. 43
2.2.2. Tín đồ và chức sắc Công giáo ...................................................................... 44
iv
2.2.3. Giáo lý, giáo luật Công giáo ........................................................................ 45
2.2.4. Lễ nghi và Bí tích Công giáo ........................................................................ 46
2.2.4. Quản lý và quản lý nhà nước ....................................................................... 47
2.3. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về Công giáo ...................................................... 48
2.3.1. Quản lý nhà nước về tôn giáo ...................................................................... 48
2.3.2. Quản lý nhà nước về Công giáo ................................................................... 50
2.3.3. Chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước về Công giáo .................................. 51
2.3.4. Nội dung quản lý nhà nước về Công giáo .................................................... 54
2.3.5. Nguyên tắc quản lý nhà nước về Công giáo ................................................. 58
2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo và giá trị tham chiếu đối với các
tỉnh, thành phố thuộc Đông Nam Bộ ........................................................................... 62
2.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo ở nước ngoài và Việt Nam ........ 62
2.4.2. Giá trị tham chiếu cho các tỉnh, thành phố thuộc Đông Nam Bộ .................. 68
Chương 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG GIÁO TRÊN ĐỊA
BÀN ĐÔNG NAM BỘ .................................................................................................. 71
3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội địa bàn Đông Nam Bộ71
3.1.1. Về vị trí địa lý .............................................................................................. 71
3.1.2. Về kinh tế xã hội .......................................................................................... 71
3.1.3. Về dân số xã hội........................................................................................... 72
3.2. Công giáo và hoạt động Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ .......................... 73
3.2.1. Khái quát về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ .................................... 73
3.2.2. Hoạt động Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ ........................................ 76
3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn Đông
Nam Bộ ......................................................................................................................... 81
3.3.1. Những yếu tố chủ quan ................................................................................ 81
3.3.2. Những yếu tố khách quan ............................................................................. 85
3.4. Thực trạng thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn
Đông Nam Bộ ............................................................................................................... 88
3.4.1. Xây dựng và hướng dẫn tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách về tôn giáo88
3.4.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ ........ 94
3.4.3. Tuyên truyền, vận động tín đồ và tranh thủ chức sắc Công giáo ................. 100
v
3.4.4. Chất lượng cán bộ, công chức quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn
Đông Nam Bộ ........................................................................................... 105
3.4.5. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật quản lý nhà nước về Công giáo trên
địa bàn Đông Nam Bộ ............................................................................... 110
3.4.6. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống hành vi lợi
dụng Công giáo xâm hại đến an ninh, trật tự ở Đông Nam Bộ .................. 121
3.5. Kết quả thực hiện nhiệm vụ và những vấn đề đặt ra đối với các cơ quan chức
năng trong quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ ................. 125
3.5.1. Những kết quả đạt được ............................................................................. 125
3.5.2. Một số vấn đề đặt ra đối với chính quyền các cấp trên địa bàn Đông Nam
Bộ trong quản lý nhà nước về Công giáo trong thời gian kế tiếp ............. 128
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔNG NAM BỘ ....................... 135
4.1. Dự báo xu hướng hoạt động của Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ trong
thời gian tới ................................................................................................................ 135
4.1.1. Củng cố đức tin, gia tăng hoạt động truyền giáo gắn với hội nhập văn hóa
địa bàn Đông Nam Bộ ............................................................................... 135
4.1.2. Tăng cường đối thoại với các cấp chính quyền, tuân thủ pháp luật trong quan
hệ với chính quyền các địa phương ........................................................... 136
4.1.3. Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo138
4.1.4. Mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường đối thoại với các tôn giáo khác ....... 139
4.1.5. Gia tăng các hoạt động vi phạm về đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự trái phép.140
4.2. Quan điểm về công tác tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và phương hướng
quản lý nhà nước về Công giáo ................................................................................. 142
4.2.1. Quan điểm của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo .............................. 142
4.2.2. Phương hướng quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ146
4.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ148
4.3.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý nhà nước về tôn giáo........ 148
4.3.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo .......................... 151
4.3.3. Đổi mới công tác tuyên truyền và vận động tín đồ, chức sắc Công giáo ..... 154
4.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo
trên địa bàn Đông Nam Bộ ....................................................................... 157
vi
4.3.5. Phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng
bào Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ ............................................... 160
4.3.6. Đổi mới hoạt động quản lý đất đai, xây dựng; quản lý hoạt động giáo dục, y
tế và từ thiện nhân đạo của các tổ chức Công giáo trên địa bàn Đông Nam
Bộ ............................................................................................................. 165
4.3.7. Tăng cường thanh tra, kiểm tra giải quyết tốt những khiếu nại, tố cáo liên
quan đến Công giáo và phòng ngừa hành vi lợi dụng Công giáo trên địa bàn
Đông Nam Bộ ........................................................................................... 168
4.4. Khuyến nghị ......................................................................................................... 172
4.4.1. Đối với Chính phủ và các cơ quan Trung ương ............................................. 172
4.4.2. Đối với chính quyền các tỉnh, thành phố trên địa bàn Đông Nam Bộ ............. 173
Tổng kết Chương 4 .................................................................................................... 174
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 176
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ .......................................................... xxv
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. xxvi
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... xl
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên Bảng Trang
Bảng 3.1. Thống kê về quy mô tín đồ, chức sắc và cơ sở vật chất Công giáo ở 73 Đông Nam Bộ.
Bảng 3.2: Kết quả đánh giá về mức độ phù hợp của hệ thống pháp luật về tôn giáo ở 91 Việt nam qua một số hoạt động
Bảng 3.3. Kết quả khảo sát thực trang việc tuyên truyền và phổ biến pháp luật 102 về tôn giáo tại các tỉnh Đông Nam Bộ
Bảng 3.4. Kết quả khảo sát về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và phẩm chất 109 đạo đức của cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo ở ĐNB
Bảng 3.5. Thống kê về thực trạng diện tích đất sử dụng cho các cơ sở Công giáo 114 ở Đông Nam Bộ
Bảng 4.1. Kết quả khảo sát về tính cần thiết của việc phải tiếp tục hoàn thiện hệ 148 thống pháp luật về tôn giáo
Bảng 4.2. Kết quả khảo sát tính cần thiết phải đổi mới về hình thức và phương 154 pháp tuyên truyền và vận động chức sắc, tín đồ Công giáo ở ĐNB
Bảng 4.3. Kết quả khảo sát về tính cần thiết phải đầu tư cơ sở hạ tầng, an sinh xã 161 hội tạo điều kiện cho giáo dân nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
viii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 3.1: Kết quả khảo sát về mức độ phù hợp của mô hình tổ chức bộ 98 máy QLNN về tôn giáo ở Đông Nam Bộ
Biểu đồ 3.2: Thống kê về số lượng CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo
được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ QLNN về tôn 108
giáo ở Đông Nam Bộ
Biểu đồ 4.1. Kết quả khảo sát về tính cần thiết phải xây dựng và tổ chức các 160 chưong trình phát triển kinh tế - xã hội cho nhân dân vùng giáo.
Biểu đồ 4.2. Biểu đồ về tính cần thiết phải đổi mới quản lý hoạt động sử
dụng đất đai; xây dựng, sửa chữa công trình kiến trúc và giáo 164
dục, y tế, từ thiện nhân đạo của các tổ chức Công giáo
x
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới có đông tín đồ, đồng thời
cũng là một trong hai tôn giáo lớn nhất ở Việt Nam (có số lượng tín đồ đứng thứ hai sau
Phật giáo với 7,1 triệu tín đồ). Trên bình diện quốc gia và quốc tế, Công giáo đã và đang
tác động sâu sắc vào tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các yếu tố
chính trị, văn hóa, giáo dục và đào tạo,…kể cả an ninh, trật tự xã hội và đặt ra nhiều vấn
đề cho công tác quản lý nhà nước (QLNN) ở mọi nơi mà tôn giáo này hiện diện.
Đông Nam Bộ (ĐNB) là vùng đất trù phú, rộng lớn nằm ở vị trí trung tâm khu vực
Nam Bộ với 06 tỉnh, thành phố: Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai,
Tây Ninh và TP. Hồ Chí Minh, đây là khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước với tỷ lệ
đô thị hóa hơn 50% dân số. Trên địa bàn này có sự hiện diện của 4 giáo phận: Giáo phận
TP. Hồ Chí Minh, Xuân Lộc, Phú Cường và Bà Rịa.
Công giáo du nhập vào ĐNB năm 1585, đến nay, trải qua hơn 4 thế kỷ phát triển
với nhiều biến cố lịch sử, đến nay, đã đạt được những kết quả to lớn trong sứ mệnh
truyền đạo và ĐNB trở thành khu vực có đông tín đồ Công giáo nhất ở Việt Nam. Theo
số liệu thống kê của Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố thuộc ĐNB cho thấy, ĐNB có
quy mô tín đồ Công giáo khoảng 2,36 triệu người, gần 2.300 linh mục, 03 cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng thần học, sinh hoạt tôn giáo ở 1.939 cơ sở thờ tự. ĐNB là khu vực có
mật độ người theo Công giáo cao nhất cả nước, chiếm khoảng 13,75% tổng dân số trên
toàn vùng.
Những năm qua, với chính sách đổi mới, mở cửa và tự do TNTG của Đảng, nhà
nước, nhất là sau khi có Pháp lệnh TNTG 2004 và các Nghị định hướng dẫn thi hành,
tình hình hoạt động, sinh hoạt tôn giáo của các chức sắc, tín đồ Công giáo trên địa bàn
ĐNB đã dần có những chuyển biến tích cực, ổn định, đi vào nền nếp, tuân thủ chính sách,
pháp luật nhà nước; đồng bào Công giáo ĐNB ngày một hăng say, lao động sản xuất, tích
cực tham gia xây dựng và bảo vệ quê hương.
Thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật đổi mới của Đảng và nhà nước trên
lĩnh vực tôn giáo, trong những năm qua chính quyền các cấp địa bàn ĐNB đã đạt những
kết quả tích cực trong QLNN về tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng như: hệ thống
chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo ngày càng được thể chế hóa đầy đủ, rõ ràng;
công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và vận động chức sắc, tín đồ Công
1
giáo được triển khai nghiêm túc và dần đi vào chiều sâu; bộ máy QLNN về tôn giáo các
cấp được duy trì ổn định, kiện toàn; đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo ngày
càng được quan tâm củng cố cả về số lượng, chất lượng; công tác tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật QLNN đối với hoạt động của các tổ chức Công giáo đã có những chuyển
biến tích cực, đảm bảo đúng chính sách, pháp luật nhà nước và quyền tự do TNTG cho
nhân dân; hoạt động thanh tra, kiểm tra được tăng cường,…chức sắc và tín đồ Công giáo
hoạt động tôn giáo ổn định, trật tự hơn; đồng bào giáo dân ngày càng tin tưởng vào chủ
trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và hoạt động quản lý của
chính quyền các cấp.
Bên cạnh những kết quả trên, QLNN về Công giáo ở ĐNB vẫn bộc lộ những hạn
chế: mặc dù hệ thống pháp luật về TNTG của nhà nước ngày càng được hoàn thiện, tuy
nhiên vẫn còn nhiều hoạt động tôn giáo chưa có hướng dẫn chi tiết, gây lúng túng, khó
khăn cho các cơ quan chức năng trong hoạt động quản lý; công tác tuyên truyền, phổ biến
kiến thức, giáo dục mặc dù được thực hiện nghiêm túc tuy nhiên còn chậm đổi mới, chưa
thích ứng với xu thế của thời đại của địa phương, hiệu quả chưa cao; hệ thống, mô hình
tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo các cấp chưa phù hợp gây khó khăn cho công tác
tham mưu, quản lý và phối hợp trong quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo nói chung
và Công giáo nói riêng; việc tổ chức, thực hiện pháp luật đối với hoạt động của các tổ
chức, chức sắc, tín đồ Công giáo còn gặp nhiều vướng mắc nhất là trong các vấn đề liên
quan đến quản lý đất đai, quản lý hoạt động sửa chữa, xây dựng, cải tạo trùng tu các cơ
sở kiến trúc Công giáo, các hoạt động liên quan đến văn hóa, giáo dục, y tế và từ thiện
của các cơ sở Công giáo.
Mặc dù hoạt động Công giáo địa bàn ĐNB gần đây có nhiều điểm tích cực, song
vẫn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp như: hoạt động truyền đạo và tổ chức các hội nghị, lễ
hội Công giáo trái pháp luật vẫn diễn ra ở một số cơ sở Công giáo; nhiều linh mục, chức
sắc Công giáo chưa cởi mở, hợp tác, chia sẻ với chính quyền các cấp trong việc vận động
giáo dân tham gia vào công tác đoàn thể, xã hội ở địa phương, hoặc tháo gỡ những vấn đề
phức tạp; một số chức sắc, tín đồ có biểu hiện gây rối, làm phức tạp đến an ninh, trật tự
trong những sự kiện chính trị lớn ở địa phương, lợi dụng sinh hoạt tôn giáo để phá hoại
khối “đại đoàn kết” toàn dân tộc. Hiện tượng sửa chữa, cải tạo, xây dựng trái phép trong
các cơ sở Công giáo mặc dù được các cơ quan chức năng chấn chỉnh, tuy nhiên vẫn chưa
chấm dứt; tình hình khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến nhà, đất Công giáo có thuyên
2
giảm nhưng vẫn diễn biến phức tạp. Một số chức sắc, linh mục Công giáo có biểu hiện
chống phá chính quyền, lợi dụng vấn đề môi trường, biển đảo hay sự buông lỏng quản lý
của chính quyền ở cơ sở để lôi kéo, tập hợp giáo dân, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự.
Công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết những khiếu nại, tố cáo liên quan đến Công
giáo còn chưa thực sự phát huy hiệu quả, nhiều vụ việc kéo dài gây mất ổn định chính trị,
xã hội. Công tác đấu tranh, phòng chống các hành vi lợi dụng Công giáo vẫn tiềm ẩn
những vấn đề phức tạp, có hiện tượng lợi dụng Công giáo để phá hoại khối “đại đoàn
kết” toàn dân tộc.
Mở cửa, hội nhập quốc tế cũng đặt ra nhiều vấn đề đối với chính quyền các cấp trong
quản lý sinh hoạt Công giáo của người nước ngoài ở địa phương, quản lý hoạt động quốc tế
của các chức sắc, tu sĩ Công giáo. Những vấn đề liên quan đến việc mời chức sắc Công giáo
người nước ngoài vào giảng đạo, vấn đề giải quyết địa điểm sinh hoạt Công giáo cho người
nước ngoài cũng đang là những điểm cần tháo gỡ hiện nay trên địa bàn ĐNB.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế trên, trong đó có nguyên
nhân xuất phát từ việc thực hiện nhiệm vụ QLNN về Công giáo của các cơ quan chức
năng trên địa bàn Đông Nam Bộ.
Xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng của chính quyền các cấp ở ĐNB và thực
tiễn thực hiện nhiệm vụ trong QLNN về Công giáo; với kỳ vọng góp phần giúp các cơ
quan chức năng ở ĐNB thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ QLNN về Công giáo,
phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong QLNN về Công
giáo ở ĐNB nên tác giả chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn
Đông Nam Bộ” làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Quản lý công; có ý nghĩa cả về lý luận
và thực tiễn hiện nay ở nước ta.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống những cơ sở lý luận về Công giáo và QLNN về Công giáo;
nghiên cứu thực trạng hoạt động Công giáo và thực trạng QLNN về Công giáo trên địa
bàn ĐNB, trên cơ sở đó, tiếp tục hoàn thiện những cơ sở lý luận QLNN về Công giáo và
đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về Công giáo trên địa bàn trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận án có bốn nhiệm vụ nghiên cứu sau:
3
- Thứ nhất, nghiên cứu tổng quan những tài liệu, công trình có liên quan đến đề tài
luận án, từ đó rút ra những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
- Thứ hai, tổng hợp, phân tích làm rõ cơ sở khoa học QLNN về Công giáo, nghiên cứu
thực tiễn QLNN về tôn giáo và Công giáo ở một số quốc gia, vùng miền ở Việt Nam và chỉ
ra những kinh nghiệm trong QLNN về Công giáo.
- Thứ ba, nghiên cứu thực trạng QLNN về Công giáo trên địa bàn ĐNB, trên cơ sở
đó đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế; chỉ ra nguyên nhân của những kết
quả và hạn chế đó.
- Thứ tư, nghiên cứu phương hướng hoạt động của Công giáo ở ĐNB trong giai
đoạn kế tiếp; tìm hiểu những quan điểm của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo trong
thời kỳ đổi mới qua đó, đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện QLNN về
Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ trong giai đoạn tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các biện pháp QLNN của các cơ quan chức năng
đối với hoạt động của các chức sắc, tín đồ, cơ sở Công giáo trên địa bàn ĐNB.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: luận án nghiên cứu các nội dung QLNN về Công giáo. Cụ thể là QLNN
đối với hoạt động của các chức sắc, tín đồ, cơ sở Công giáo trên địa bàn ĐNB gồm: xây dựng
chính sách, pháp luật; quy định tổ chức bộ máy; tuyên truyền, vận động chức sắc, tín đồ; tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; thanh tra, kiểm tra;
quản lý quan hệ quốc tế của các tổ chức Công giáo. (theo Điều 60, Luật TNTG)
- Về không gian: luận án được triển khai nghiên cứu trên địa bàn ĐNB gồm các tỉnh,
thành phố: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh và TP. Hồ Chí
Minh. Đây là địa bàn có đông đồng bào theo Công giáo nhất cả nước, hoạt động Công giáo
những năm gần đây có những vấn đề phức tạp.
- Về thời gian: từ năm 2004 đến nay (sau khi có Pháp lệnh TNTG).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được triển khai nghiên cứu dựa trên những cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, những tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác
tôn giáo; những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của nhà
4
nước về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới và vận dụng những cơ sở lý luận của khoa học quản
lý, quản lý công.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và viết luận án tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp thu thập thông tin, số liệu: phương pháp này được sử dụng để thu
thập thông tin, số liệu của các công trình khoa học và các ấn phẩm sách, báo, tạp chí có
liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: nghiên cứu tổng quan tài liệu, những
công trình khoa học, đề tài, luận án, bài báo và những báo cáo, số liệu có liên quan đến đề
tài luận án. Hệ thống hóa và phân tích các số liệu, dữ liệu có liên quan đến đề tài luận án
để đánh giá những kết quả đạt được của các công trình, dữ liệu, những vấn đề chưa được
nghiên cứu sâu và chỉ ra những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ đối với đề
tài luận án.
- Phương pháp Xã hội học điều tra bằng bảng hỏi: phương pháp này được sử
dụng để tham vấn những chuyên gia về tôn giáo và các nhà quản lý để giải quyết thấu
đáo những vấn đề đặt ra cho đề tài luận án nhằm tăng độ tin cậy cho những đề xuất giải
pháp quản lý nhà nước.
Tác giả sử dụng 3 mẫu phiếu để tiến hành khảo sát với 3 nhóm đối tượng:
+ Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo với 180 phiếu.
+ Cán bộ Mặt trận Tổ Quốc (MTTQ) và cán bộ công tác tại các tổ chức chính trị -
xã hội với 80 phiếu.
+ Các chức sắc Công giáo với 80 phiếu.
Phương pháp chọn mẫu và phân bổ mẫu điều tra vừa mang tính khách quan, vừa
mang tính chủ quan, và sử dụng phần mềm SPPS để xử lý số liệu điều tra. (xem phụ lục 5)
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để phân tích,
đánh giá tổng quan tài liệu; phân tích và đánh giá các kết quả điều tra, những số liệu, dữ
liệu về thực trạng QLNN về Công giáo trên địa bàn ĐNB.
- Phương pháp chuyên gia: sử dụng phương pháp này để tham vấn ý kiến các nhà
khoa học, người hướng dẫn, các cán bộ quản lý có kinh nghiệm trên lĩnh vực nghiên cứu
về những vấn đề liên quan đến luận án.
5
- Ngoài ra luận án còn sử dụng một số các phương pháp khác như: phương pháp
bảng, biểu hóa để tổng hợp, mô tả thực trạng Công giáo và kết quả điều tra thực trạng
QLNN về Công giáo trên địa bàn ĐNB.
5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Những năm gần đây, quản lý nhà nước về Công giáo đã và đang nhận được sự
quan tâm của nhiều học giả, các cán bộ quản lý ở nhiều địa phương, nhằm thực hiện tốt
hơn những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo và đảm bảo
quyền tự do TNTG cho nhân dân, vậy hệ thống lý luận QLNN về Công giáo đã được
hoàn thiện ở mức độ nào? Những cơ sở lý luận đó có tính hiệu quả, hiệu lực khi ứng
dụng vào thực tiễn quản lý nhà nước về Công giáo tại các địa phương hay không?
- Đông Nam Bộ là khu vực có số lượng tín đồ Công giáo đông đảo nhất cả nước,
vậy hoạt động của các chức sắc, tín đồ Công giáo nơi đây đã và đang diễn ra như thế
nào? Có chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước về
TNTG hay không?
- Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật đổi mới về tôn giáo và công tác tôn giáo nhằm đảm bảo quyền
tự do TNTG cho bộ phận nhân dân có đạo và vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo “sống
phúc âm trong lòng dân tộc”, tích cực tham gia các phong trào xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Vậy chính quyền các địa phương ở ĐNB đã làm gì để thực hiện có hiệu quả những
chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đó? Có đảm bảo quyền tự do TNTG của bộ
phận nhân dân theo Công giáo hay không?
- Triển khai thực hiện các nhiệm vụ QLNN về Công giáo ở ĐNB những năm qua đã
đạt những kết quả tích cực, song còn những thách thức và khó khăn, vậy những khó khăn
đó là gì và nguyên nhân của những vấn đề đó?
- Để khắc phục những tồn tại hạn chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về Công
giáo trên địa bàn ĐNB trong giai đoạn tới chính quyền các địa phương nơi đây cần phải
có những giải pháp nào?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Với những chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn
giáo, hoạt động của các tổ chức Công giáo ở ĐNB những năm gần đây, đã có nhiều
chuyển biến tích cực, ổn định, chấp hành tốt chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo;
6
phần lớn chức sắc, tín đồ Công giáo đều tin tưởng vào chủ trương, chính sách đổi mới
của Đảng và nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo và có nhiều đóng góp tích cực cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương; đồng bào, giáo dân thực hiện tốt đường hướng hành
đạo “Sống phúc âm trong lòng dân tộc” để phụng vụ hạnh phúc của đồng bào. Bên cạnh
chuyển biến tích cực, hoạt động Công giáo ở ĐNB thời gian gần đây vẫn tiềm ẩn những
yếu tố gây mất ổn định, phức tạp, khó lường, tập trung vào những vấn đề: truyền đạo; tổ
chức lễ hội, hội nghị Công giáo; các hoạt động từ thiện, nhân đạo; vấn đề đất đai và xây
dựng cơ sở thờ tự, đặc biệt là hoạt động trái pháp luật của một số linh mục, tín đồ đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự. Tìm hiểu thực tiễn cho thấy, có nhiều
nguyên nhân dẫn đến những thách thức trên, trong đó có nguyên nhân xuất phát từ việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ QLNN về Công giáo vẫn còn có những điểm hạn chế.
Nếu triển khai nghiên cứu thực tiễn về tình hình hoạt động và thực trạng QLNN về Công
giáo ở ĐNB có hiệu quả, sẽ là cơ sở cho việc xây dựng và đề xuất các giải pháp QLNN
phù hợp, từng bước khắc phục những tồn tại, hạn chế trong hoạt động Công giáo, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về Công giáo ở ĐNB trong giai đoạn kế tiếp.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
Luận án có ý nghĩa quan trọng trong việc bổ sung và hoàn thiện cơ sở khoa học
QLNN về Công giáo ở Việt Nam có khả năng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng
những cơ sở khoa học QLNN về Công giáo. Có khả năng vận dụng vào thực tiễn QLNN
về Công giáo trên địa bàn ĐNB. Có thể làm tài liệu tham khảo cho CBCC công tác trong
lĩnh vực QLNN về tôn giáo nói chung và địa bàn ĐNB nói riêng.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị thực tiễn trong việc tham khảo và vận
dụng kết quả nghiên cứu trong việc nghiên cứu QLNN về Công giáo ở Việt Nam nói
chung và ĐNB nói riêng.
Có thể vận dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn QLNN về Công giáo ở ĐNB
trong giai đoạn hiện nay.
Luận án là nguồn tài liệu minh chứng cho việc xây dựng và hoàn thiện chính sách,
pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
7. Những đóng góp mới của luận án
7.1. Về mặt lý luận
7
Dựa trên cách tiếp cận khoa học quản lý công, lý thuyết hệ thống, tôn giáo học và
cơ sở phương pháp luận Duy vật biện chứng luận án đã đạt được những kết quả sau về
mặt lý luận:
- Xây dựng một số khái niệm công cụ: Công giáo; hoạt động Công giáo; chức sắc,
tín đồ Công giáo; giáo lý, giáo luật Công giáo; lễ nghi và Bí tích Công giáo. Luận án
cũng xây dựng một số khái niệm có liên quan đến luận án: quản lý, QLNN và QLNN về
tôn giáo.
- Xây dựng hệ thống những cơ sở lý luận QLNN về Công giáo theo hướng tiếp cận
hệ thống pháp luật nhà nước về TNTG, gồm: Khái niệm QLNN về Công giáo; chủ thể,
đối tượng QLNN về Công giáo; những nội dung và nguyên tắc QLNN về Công giáo.
- Nghiên cứu thực tiễn QLNN về Công giáo trong và ngoài nước, luận án đã khái
quát một số kinh nghiệm QLNN về Công giáo ở ĐNB.
7.2. Về mặt thực tiễn
- Luận án góp phần làm sáng tỏ thực tiễn về Công giáo, hoạt động Công giáo trên
địa bàn ĐNB, phân tích và chỉ ra những ảnh hưởng của Công giáo đến đời sống dân cư
trên địa bàn này.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng kết quả thực hiện các nội dung
QLNN về Công giáo ở ĐNB giai đoạn 2004 đến 2019. Qua nghiên cứu thực tiễn luận án
đã chỉ ra những thách thức đối với các cơ quan chức năng trong QLNN về Công giáo ở
ĐNB trong thời gian kế tiếp.
- Kết quả nghiên cứu thực tiễn Công giáo và hoạt động Công giáo ở ĐNB, luận án
đã dự báo được xu thế phát triển của Công giáo ở ĐNB trong giai đoạn kế tiếp. Qua
nghiên cứu những quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước và thực tiễn hoạt
động Công giáo cũng như kết quả QLNN về Công giáo ở ĐNB, luận án đã xây dựng và
đề xuất các giải pháp có tính cần thiết và khả thi nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về Công
giáo trên địa bàn ĐNB trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; nội dung của
Luận án được cấu trúc trong 4 Chương, 16 tiết:
- Chương 1. Tổng quan công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
- Chương 2. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về Công giáo
- Chương 3. Thực trạng quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
8
- Chương 4. Quan điểm và giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước về
Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ.
9
Chương 1.
TỔNG QUAN CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận về tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận về tôn giáo
Tìm hiểu và nghiên cứu lý luận về tôn giáo là một chủ đề được nhiều học giả, các nhà
nghiên cứu ở nước ta hết sức quan tâm, có thể khái quát qua một số các công trình sau:
Sách tham khảo: “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam”của tác giả
Đặng Nghiêm Vạn. Nội dung cuốn sách luận bàn về đối tượng của tôn giáo thông qua
phân tích thuật ngữ tôn giáo; diễn trình tôn giáo qua lịch sử nhân loại, diễn biến của
những định nghĩa về bản chất tôn giáo [148, tr.19-82]. Cuốn sách cũng chỉ ra những yếu
tố cấu thành một hình thức tôn giáo gồm: tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo; nội dung tôn
giáo; hành vi và nghi lễ tôn giáo; tổ chức tôn giáo và vấn đề mê tín, hủ tục [149, tr.83-
164]. Tác giả cũng phân tích về nhu cầu, vai trò và diễn biến tôn giáo trong đời sống xã
hội; khái quát quát về tình hình tôn giáo và đặc trưng, vai trò của các tôn giáo ở Việt
Nam [156, tr.165-373].
Nhìn từ khía cạnh triết học, tác giả Chu Văn Tuấn bài viết về “Giá trị tôn giáo từ
phương diện triết học”, đã cho thấy, tôn giáo có nhiều giá trị khác nhau như: đạo đức,
giáo dục, văn hóa lịch sử,.. Dưới góc độ triết học, tôn giáo có giá trị thế giới quan và
nhân sinh quan, thể hiện: tôn giáo có một hệ thống quan niệm về vũ trụ và vạn vật, trong
đó có con người. Tôn giáo cũng đưa ra cách lý giải về quá trình hình thành và phát triển
của thế giới, nguyên nhân của những mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới,
đó chính là giá trị thế giới quan của tôn giáo. Bên cạnh đó, tôn giáo đưa ra một hệ thống
quan niệm về con người, về cuộc đời của con người, về ý nghĩa của cuộc sống con người,
tương tự triết học, tôn giáo cũng trả lời các câu hỏi: con người được sinh ra từ đâu? sau
khi chết, con người sẽ về đâu? ý nghĩa cuộc sống của con người là gì? đây chính là giá trị
nhân sinh quan của tôn giáo [143, tr.30-41].
Đề cập tới mối quan hệ giữa tôn giáo với chính trị, tác giả Ngô Hữu Thảo trong bài
viết: “Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đã khái
quát và phân tích khá rõ nét về mối quan hệ giữa chính trị với tôn giáo qua các giai đoạn
thời kỳ lịch sử của xã hội loài người. Nghiên cứu mối quan hệ này, theo tác giả: cả chính
trị và tôn giáo đều có có xu thế thâu tóm nhau, nhưng thực tế là chia sẻ cho nhau về mặt
10
quyền lực; về mặt lịch sử có thể xuất hiện tôn giáo thuần túy, tuy nhiên logic là không
thể; nếu vị trí nhà nước cao hơn vị trí tôn giáo thì giáo hội phải phục tùng, ủng hộ nhà
nước; có những nhà nước mặc dù quy định chính sách bình đẳng giữa các tôn giáo nhưng
vẫn thiên vị một tôn giáo nào đó, không phủ nhận các tôn giáo khác để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc [123, tr.3-7].
Nghiên cứu về chính sách tôn giáo quốc tế, tác giả Phạm Hồng Thái, đã khái quát
và phân tích quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Nhật Bản từ sau
Chiến tranh Thế giới II; những ảnh hưởng của lực lượng quân Đồng minh tới chính sách
tự do tôn giáo, chính sách nhà nước và tôn giáo phân ly và chính sách triệt để loại bỏ chủ
nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa dân tộc [121, tr.52-56].
Nghiên cứu về lý luận tôn giáo của tác giả Nguyễn Thị Bạch Tuyết qua bài viết:
Tôn giáo và an ninh xã hội ở khu vực Đông Nam Á, đã khái quát về những cơ hội và
thách thức, tình hình kinh tế xã hội và chính trị - an ninh ở khu vực Đông Nam Á. Qua
các dẫn chứng cụ thể cho thấy, tôn giáo có vai trò quan trọng trong việc ổn định trật tự an
ninh xã hội ở Đông Nam Á [146, tr.50-55]. Tác giả khẳng định: “các tôn giáo ngày càng
thể hiện tốt hơn vai trò của mình trong việc góp phần bảo đảm an ninh xã hội với tinh
thần chia sẻ nhân ái và khoan dung. Phương cách tốt nhất là chia sẻ thông tin và hiểu
biết lẫn nhau thông qua đối thoại để tìm ra các giải pháp thích hợp giải quyết bất đồng,
tránh sự xung đột nhằm xây dựng một Đông Nam Á hòa bình, thịnh vượng và cùng phát
triển”[146, tr.55].
Tìm hiểu về lịch sử tôn giáo Hoa Kỳ, Catherine L.Albanese trong cuốn sách: “Các
tôn giáo và tín ngưỡng ở Mỹ” đã khái quát về tình hình TNTG lục địa Bắc Mỹ. Cuốn
sách cho thấy, mỗi bộ lạc người Indian trên mảnh đất này trước khi người Châu Âu đặt
chân đến đều có tín ngưỡng riêng [157, tr.7-83]. Sau này, người di cư lại mang theo tôn
giáo và tín ngưỡng của mình từ Cựu thế giới đến miền đất mới. Người Châu Âu mang
đến đạo Do Thái, Công giáo La Mã và đạo Tin lành, người Châu Phi và Châu Á mang
đến đạo Hồi, đạo Phật, đạo Hindu cùng nhiều tín ngưỡng khác, góp phần làm cho các
TNTG mới phát triển và tô điểm thêm bức tranh văn hóa phong phú, đa dạng ở lục địa
này [157, tr.84-176].
Nghiên cứu của tác giả Lữ Vân qua cuốn sách: “Tôn giáo ở Trung Quốc, 100 câu
hỏi và trả lời”, cho thấy TNTG là vấn đề cá nhân của các công dân Trung Quốc và với
việc loại bỏ các tàn dư của “Cách mạng Văn hóa 1966-1976”, quan niệm chung hiện nay
11
là lợi ích cơ bản của những người theo hoặc không theo một tôn giáo nào là thống nhất
trên cả hai lĩnh vực chính trị và kinh tế. Sách đã giúp độc giả thấy được một số nét cơ bản
về các tôn giáo ở Trung Quốc, lịch sử và hiện trạng, có những lời giải thích về chính sách
tôn giáo của Trung Quốc, quan điểm hiện nay về tôn giáo trong giới học thuật và nhiều
vấn đề khác liên quan tới Công Giáo ở Trung Quốc [173, tr.63-176].
Nghiên cứu của tác giả Ngô Hữu Thảo trong cuốn sách: “Công tác tôn giáo từ quan
điểm Mác - Lênin đến thực tiễn Việt Nam”, đã làm sáng tỏ một số những cơ sở lý luận
quan điểm của duy vật lịch sử về nguồn gốc tôn giáo, quan điểm của C.Mác về vai trò
của tôn giáo; những quan điểm của Ph.Ăngghen về vấn đề tôn giáo qua một số tác phẩm
kinh điển. Theo nghiên cứu tác giả, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Quyền tự do TNTG ở
Việt Nam chỉ có thể được đảm bảo khi gắn liền, hữu cơ với nền độc lâp tự do dân tộc của
tổ quốc; quyền tự do TNTG chỉ được đảm bảo trong mối quan hệ với quá trình cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới và với khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đảm bảo quyền tự do
TNTG trước hết là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó Đảng và Nhà nước là
nhân tố quan trọng hàng đầu [124, tr.72-73].
Nghiên cứu của tác giả Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ trong cuốn sách: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về Tôn giáo và công tác tôn giáo” đã góp phần làm sáng tỏ những tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo. Qua nội dung các bài
viết, các tác giả đã làm sáng tỏ hơn về những tư tưởng của Bác về các vấn đề: mối quan
hệ giữa tôn giáo với một số lĩnh vực của đời sống xã hội; những vấn đề phương pháp
luận; về đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo; về mối quan hệ giữa tôn giáo với CNXH; về
mối quan hệ giữa dân tộc với tôn giáo [109, tr.23-171]. Cuốn sách đã cung cấp cho đọc
giả góc nhìn toàn diện, đa chiều, đầy đủ những tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và
công tác tôn giáo, là cơ sở cho việc nghiên cứu, xây dựng những quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo. Đây cũng là những tư
liệu quý cho việc vận dụng vào thực tiễn QLNN đối với các hoạt động tôn giáo ở nước ta.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Dương Quan điểm, đường lối của Đảng về
tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, đã làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận chung về TNTG; quá trình nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo
và chính sách tôn giáo qua các Cương lĩnh, Văn kiện, Nghị quyết của Đảng từ thời kỳ đổi
mới đến nay [62, tr.19-70]. Nghiên cứu của tác giả cũng chỉ ra những đặc điểm cơ bản
của các tổ chức tôn giáo ở nước ta hiện nay [62, tr.71-138].
12
Công trình nghiên cứu của Phạm Hữu Xuyên trong đề tài: “Quan điểm Hồ Chí
Minh về tín ngưỡng, tôn giáo” cho thấy: “theo Hồ Chí Minh tự do tín ngưỡng thực sự chỉ
có được khi đất nước được độc lập. Nói cách khác tự do tín ngưỡng phải gắn với lợi ích
của cả dân tộc, tự do tín ngưỡng không phải để duy trì và biện hộ cho quan hệ thống trị
giai cấp”[155, tr.57] và “Quyền tự do tín ngưỡng là quyền dân chủ, được pháp luật thừa
nhận, cũng như các quyền khác; quyền phải gắn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm công
dân”[155, tr.59]. Luận án đã tìm hiểu quan điểm đoàn kết lương giáo; quan điểm ứng xử
khoan dung với tôn giáo và quan điểm đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt giữa
tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản của Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu của tác giả Lưu Ngọc Khải về: “Đảng và Nhà nước đổi mới chính sách
Tôn giáo - Phát huy truyền thống Đại đoàn kết các dân tộc”, đã cho thấy những đổi mới
trong nội dung Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về tôn giáo và công tác
tôn giáo được thể hiện qua các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng về tôn giáo và công tác
tôn giáo từ Đại hội VI của Đảng đến nay. Với những đổi mới về quan điểm của Đảng và
chính sách của Nhà nước về TNTG đã đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
các tôn giáo và tín đồ theo đạo, để đồng bào, tín đồ, chức sắc tôn giáo hòa hợp cộng
đồng, dân tộc làm tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc [93, tr4-7].
Đánh giá về kết quả 10 năm thực hiện Pháp lệnh TNTG, tác giả Phạm Huy Thông
cho rằng: qua 10 năm tổ chức triển khai thực hiện Pháp lệnh TNTG, bên cạnh những
điểm tích cực, còn bộc lộ một số hạn chế như: chưa đề cập đến tư cách pháp nhân của các
tổ chức tôn giáo; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn ghi tên linh mục xứ, quản lý
việc cải tạo, trùng tu cơ sở thờ tự; việc tham gia các công tác xã hội hóa gặp khó khăn do
nhà tu hành không được phép; việc quản lý lễ hội, quyên góp xây dựng cơ sở thờ tự, phân
cấp thẩm quyền công nhận tôn giáo chưa rõ ràng; chưa quy định thẩm quyền giải quyết
việc hòa giải xung đột trong việc tranh chấp đất đai giữa các cơ sở tôn giáo với các đơn
vị, tổ chức, cá nhân bên ngoài…gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội [129, tr.118-122].
Ngoài những công trình kể trên, còn rất nhiều các công trình, bài viết nghiên cứu về
lý luận tôn giáo; đạo đức tôn giáo, quan điểm của Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo; chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo, công tác tôn giáo,.. những công
trình và bài viết trên là nguồn tư liệu qúy, có giá trị tham khảo trong việc nghiên cứu tôn
giáo nói chung và QLNN về Công giáo nói riêng ở nước ta hiện nay.
13
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu quản lý nhà nước về tôn giáo
Những năm gần đây, nghiên cứu QLNN về tôn giáo đã và đang nhận được sự quan
tâm của các nhà quản lý, nhà khoa học, kết quả nghiên cứu của các học giả đã dần làm
sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tôn giáo và QLNN về tôn giáo, có
thể khái quát qua một số công trình sau:
Nghiên cứu QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay, tác giả Nguyễn
Đức Lữ cho rằng: QLNN về tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng của công tác tôn giáo
và QLNN về tôn giáo là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
của các cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi
hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định pháp luật
[105, tr.291-292]. Nghiên cứu cũng khẳng định, mục tiêu của QLNN đối với hoạt động
tôn giáo nhằm đảm bảo quyền tự do TNTG của nhân dân; phát huy những mặt tích cực,
hạn chế những mặt tiêu cực của tôn giáo; xây dựng tinh thần đại đoàn kết dân tộc và
nhằm tăng cường vai trò của nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động tôn giáo [105,
tr.297]. Nghiên cứu cũng đã chỉ ra những yêu cầu khách quan của việc QLNN đối với các
hoạt động tôn giáo; chủ thể và khách thể QLNN đối với hoạt động tôn giáo và các nội
dung QLNN đối với các hoạt động tôn giáo [105, tr.292-328].
Nghiên cứu về công tác tôn giáo, tác giả Ngô Hữu Thảo quan niệm: “công tác tôn
giáo là hoạt động của cả hệ thống chính trị trong việc hoạch định và hiện thực hóa các
quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước đối với tôn giáo, nhằm tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực chủ yếu cho sự thành công của công cuộc
CNH và HĐH ở nước ta”[124, tr.106]. Theo tác giả, để làm tốt công tác tôn giáo ở nước
ta cần quan tâm đến 3 nội dung đó là: (1) xây dựng, hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật về tôn giáo; (2) tổ chức phương tiện, xây dựng thiết chế phù hợp
nhằm đảm bảo hiện thực hóa đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước; (3)
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo các cấp [124, tr.107-112].
Năm 2012, nghiên cứu về thực trạng các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, tác giả
Nguyễn Hồng Dương đã đề xuất một số giải pháp về công tác tôn giáo ở Việt Nam trong
giai đoạn tới gồm: (1) đổi mới nhận thức về công tác tôn giáo; (2) đổi mới QLNN về tôn
giáo; (3) tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo theo quan điểm
của Đảng, phù hợp với công ước quốc tế; (4) tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ đã được nhà nước công nhận; (5) chủ động, phòng ngừa,
14
kiên quyết đấu tranh chống lại những hành vi lợi dụng TNTG để mê hoặc, chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc [62, tr.312-327].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Bùi Hữu Dược Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt
Nam từ năm 1975 đến nay, đã thành công trong việc xây dựng những cơ sở lý luận về tôn
giáo và QLNN về tôn giáo; phân tích và làm sáng tỏ những quan niệm của Mác - Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, bản chất tôn giáo và công tác tôn giáo [56, tr.30-
69]. Theo tác giả, hiện nay có ba mô hình QLNN về tôn giáo: (1) chính giáo hợp nhất; (2)
chính - giáo phân ly và (3) chính giáo hòa hợp [56, tr.55]. Kết quả nghiên cứu đã làm
sáng tỏ thực trạng QLNN về tôn giáo từ năm 1975 đến năm 2010, qua đó phân tích, nhận
xét, đánh giá về những kết quả đạt được và một số những tồn tại, hạn chế trong quản lý
nhà nước về tôn giáo giai đoạn 1975 - 2010, chỉ ra một số những vấn đề trong việc thực
hiện nhiệm vụ QLNN về tôn giáo ở nước ta [56, tr.70-119].
Nghiên cứu về chính sách tôn giáo, qua bài viết: “Chính sách tôn giáo của Việt Nam
trong bối cảnh khu vực - Qua so sánh với Hàn Quốc”, tác giả Nguyễn Quang Hưng cho
thấy có sự tương đồng giữa cấu trúc văn hóa, lịch sử, xã hội giữa Việt Nam và Hàn Quốc ở
giai đoạn trước 1945. Tuy nhiên sau giai đoạn này điều đó đã thay đổi căn bản do hai quốc
gia đi theo 2 chế độ chính trị khác nhau, mặc dù hai nhà nước đều chủ trương xây dựng nhà
nước thế tục tách hẳn Nhà nước với Giáo hội. Hàn Quốc theo mô hình tích cực thế tục
phương Tây, thì Việt Nam thời kỳ trước đổi mới lại theo đuổi mô hình thế tục tuyệt đối
theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Ở Hàn Quốc, các tổ chức tôn giáo tuy không can dự vào
những hoạt động chính trị nhưng vẫn cộng tác với chính quyền trong việc xây dựng sự
thịnh vượng quốc gia; trong khi đó, ở Việt Nam lại lấy mô hình vô thần tuyệt đối để loại bỏ
tôn giáo ra đời sống xã hội. Hệ quả là các tổ chức tôn giáo có nhiều đóng góp cho công
cuộc đưa Hàn Quốc trở thành con “Rồng” của Châu Á, còn ở Việt Nam, các tổ chức tôn
giáo chưa đóng góp được nhiều cho sự phát triển xã hội [91, tr.21-35].
Với mục tiêu trang bị những kiến thức, kỹ năng QLNN về tôn giáo cho sinh viên
Hành chính, năm 2001 tác giả Nguyễn Hữu Khiển biên soạn giáo trình: “Quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện
nay”, Nội dung giáo trình cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về quan điểm
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; khái quát về sự ra đời, vận động và
phát triển của tôn giáo; những yếu tố cấu thành tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam
15
trước năm 2000 [95, tr.7-90]. Giáo trình cũng làm rõ những cơ sở lý luận về QLNN đối
với các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam [95, tr.109-126].
Nhằm nâng cao chất lượng và đổi mới hoạt động đào tạo tại Học viện Hành chính
Quốc gia năm 2004, nhà giáo Hoàng Văn Chức đã biên soạn giáo trình: “Quản lý nhà
nước về tôn giáo và dân tộc”, sử dụng cho sinh viên đại học Hành chính. Nội dung giáo
trình cung cấp cho sinh viên những kiến thức tổng quan về tôn giáo như: khái niệm,
nguồn gốc, bản chất của tôn giáo; xu thế phát triển tôn giáo trên thế giới hiện nay [51, tr.
9-19]. Giáo trình cũng khái quát tình hình tôn giáo, các yếu tố tác động đến quá trình
hình thành, đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam và giới thiệu khái quát một số tôn giáo lớn ở
Việt Nam [51, tr.19-36]. Khái quát về những quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
nhà nước về tôn giáo, giáo trình đã xây dựng một số những cơ sở lý luận QLNN đối với
hoạt động tôn giáo [51, tr.37-65].
Tìm hiểu về: “Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo hiện nay”, tác giả Hà Quang
Trường đã khái quát về thực trạng QLNN các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam từ sau Hiệp
định Giơnevơ (1954) đến nay. Bài viết khẳng định: quan hệ giữa nhà nước ta và các tổ
chức tôn giáo theo hướng pháp quyền XHCN, nhà nước ta là chủ thể quản lý các tôn
giáo, hoạt động tôn giáo; nhà nước chủ động giải quyết các mối quan hệ giữa nhà nước
với các tổ chức tôn giáo, đồng thời thúc đẩy việc tự điều chỉnh của tôn giáo để thích ứng
với sự quản lý của nhà nước XHCN; phát huy những điểm tương đồng của tôn giáo và
CNXH, những yếu tố tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội để phát triển kinh tế - xã
hội; mở rộng đối ngoại trong lĩnh vực tôn giáo, chống lợi dụng tôn giáo; giải quyết các
vấn đề tôn giáo ngay từ cơ sở [142, tr.12-14].
Nhằm cung cấp những kiến thức và thông tin cho đội ngũ CBCC QLNN về tôn
giáo, năm 2017, Ban Tôn giáo Chính phủ đã ấn hành tập tài liệu: “Bài giảng Tôn giáo và
công tác tôn giáo”. Nội dung tài liệu cung cấp một số kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; những chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về tôn giáo [11, tr.1-27]. Tập bài giảng cung cấp cho học viên những
kiến thức cơ bản về tôn giáo, giới thiệu khái quát về các tôn giáo lớn ở Việt Nam; cung
cấp những cơ sở lý luận QLNN về tôn giáo [11, tr.27-32]. Tài liệu cũng khái quát về thực
trạng QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam trên các mặt: thực trạng tình hình tôn
giáo; những hoạt động tôn giáo và những vấn đề đặt ra; vấn đề xây dựng VBQPPL; hệ
16
thống cơ quan chức năng QLNN về tôn giáo; chính sách nhà nước về tôn giáo và một số
thủ tục hành chính trên lĩnh vực TNTG [11, tr.32-45].
Kết quả nghiên cứu đề tài khoa học: “Tin lành ở Việt Nam Thực trạng, một số
vấn đề đặt ra và giải pháp”, của tác giả Nguyễn Xuân Hùng năm 2014 đã làm rõ lịch
sử truyền giáo của đạo Tin lành ở Việt Nam qua 2 giai đoạn: từ thời điểm du nhập
(1922) đến năm 1975 và giai đoạn 1975 đến năm 2013 [86, tr.17-39]. Đề tài cũng đã
nghiên cứu và đánh giá về mối quan hệ giữa nhà nước với giáo hội Tin lành ở Việt Nam
qua các thời kỳ; mối quan hệ giữa đạo Tin lành với các vấn đề xã hội và hoạt động
truyền giáo với những vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự ở Việt Nam [86, tr.71-137].
Kết quả nghiên cứu đề tài luận án: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo
Tin lành ở Việt Nam” của tác giả Vũ Thế Duy, đã thành công trong việc hoàn thiện
những cơ sở lý luận QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành, xây dựng được một số
khái niệm như: QLNN đối với hoạt động tôn giáo, QLNN đối với hoạt động của đạo Tin
lành,..[55, tr.30-65]. Kết quả nghiên cứu của luận án đã làm sáng tỏ thực trạng QLNN đối
với hoạt động của đạo Tin lành ở Việt Nam trên các mặt: (1) xây dựng và tổ chức thực thi
pháp luật; (2) tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo; (3) đội ngũ cán bộ, công chức; (4) công
tác thuyết phục và vận động tín đồ (5) quản lý các hoạt động hành chính đạo; (6) công tác
thanh tra, kiểm tra và phòng ngừa các hành vi lợi dụng đạo Tin lành [55, tr.81-110].
Kết quả nghiên cứu đề tài khoa học: “Quản lý nhà nước về Tôn giáo ở các tỉnh Tây
Nguyên”, của tác giả Ngô Văn Minh đã làm sáng tỏ những yêu cầu khách quan của việc
nâng cao hiệu lực QLNN về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở nước ta; những quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về tôn giáo và QLNN về tôn giáo ở Việt
Nam giai đoạn hiện nay. Kết quả nghiên cứu luận án đã xây dựng được hệ thống cơ sở lý
luận QLNN về tôn giáo bao gồm: những khái niệm; chủ thể và khách thể quản lý; mục
tiêu quản lý và những nội dung QLNN về tôn giáo [107,tr.33-38]. Đề tài đã làm sáng tỏ
những kết quả đạt được và chỉ ra những kinh nghiệm QLNN về tôn giáo ở Tây Nguyên
[107, tr.98-119].
Với mục đích đánh giá thực trạng tổ chức và bộ máy QLNN về tôn giáo ở Việt
Nam, năm 2015 Ban Tôn giáo Chính phủ đã thực hiện: “Đề án khảo sát thực trạng lực
lượng cán bộ làm công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị hiện nay”. Kết quả nghiên
cứu của Đề án đã khái quát khá rõ nét về tình hình tôn giáo, hoạt động tôn giáo và
những tác động của hoạt động tôn giáo đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
17
thực trạng công tác tôn giáo và QLNN về tôn giáo ở Việt Nam đến năm 2014 [12, tr.3-
22]. Tài liệu cũng đã thống kê, phân tích, đánh giá chi tiết về tổ chức bộ máy và đội ngũ
cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo cả ở 4 cấp, kết quả cho thấy: bên cạnh những kết
quả đạt được, vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, đòi hỏi chính quyền các cấp phải có
những giải pháp khắc phục trong thời gian tới [12, tr.23-50].
Triển khai nghiên cứu đề tài: “Vấn đề tôn giáo trong phát triển bền vững Tây
Nguyên”, tác giả Chu Văn Tuấn đã làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về mối quan hệ
giữa vai trò của tôn giáo đối với sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên [145, tr.27-74].
Nghiên cứu cho thấy những vấn đề đặt ra đối với tôn giáo trong phát triển bền vững ở
Tây Nguyên đó là: vấn đề biến đổi văn hóa; vấn đề tôn giáo - tộc người; vấn đề biến đổi
tôn giáo; vấn đề hoạch định chính sách và thực thi chính sách tôn giáo và vấn đề toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế đến tôn giáo ở Tây Nguyên [145, tr.150-167]. Dựa trên các
quan điểm: phát huy nguồn lực tôn giáo phục vụ cho phát triển bền vững; nhìn nhận tôn
giáo như một thực thể tôn giáo tồn tại khách quan; quan tâm giải quyết dứt điểm những
vấn đề nổi cộm của tôn giáo ở Tây Nguyên và gắn việc xây dựng chính sách, pháp luật
về tôn giáo gắn với chính sách dân tộc và an ninh, quốc phòng, đề tài đã đề xuất các
giải pháp nhằm phát huy vai trò của tôn giáo cho sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên
[145, tr.198-231].
Từ góc độ quản lý công, năm 2018 tác giả Hà Ngọc Anh thực hiện đề tài luận án:
“Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay”. Nội dung đạt
được của đề tài đã góp phần hoàn thiện những cơ sở lý luận về QLNN đối với các hoạt
động tôn giáo. Theo tác giả: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là phương
thức hoạt động do cơ quan nhà nước, các tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền tiến
hành, nhằm đảm bảo cho việc quản lý về tôn giáo được thực hiện theo đúng chủ
trương, chính sách, pháp luật, các quy định về hoạt động tôn giáo phục vụ công cuộc
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước gắn với ổn định chính trị - xã hội
và đời sống nhân dân”[1, tr.38]. Triển khai nghiên cứu thực trạng QLNN đối với hoạt
động tôn giáo tác giả cho rằng vẫn còn những hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ
trên: (1) hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu; (2) tổ chức bộ máy QLNN
còn bất cập, đội ngũ CBCC còn chưa đáp ứng yêu cầu; (3) công tác đào tạo, bồi dưỡng,
quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo còn chưa được chú trọng; (4) còn
buông lỏng công tác thanh tra, kiểm tra [1, tr.100-105].
18
Kết quả nghiên cứu đề tài luận án: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
vùng đồng bằng Sông Cửu Long”, của tác giả Trần Văn Tình đã góp phần hoàn thiện một
số những cơ sở lý luận QLNN đối với hoạt động tôn giáo, khẳng định sự cần thiết và chỉ
ra 5 nội dung QLNN đối với hoạt động tôn giáo [136, tr.47-59]. Nghiên cứu thực trạng
QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở đồng bằng Sông Cửu Long tác giả cho rằng cần tiếp
tục xem xét một số vấn đề sau nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với khu vực này: (1)
tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý hoạt động tôn giáo; (2) nâng cao trình độ
CBCC làm công tác tôn giáo; (3) phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Khmer, vùng
đông đồng bào theo tôn giáo; (4) tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững an
ninh, quốc phòng [135, tr.123-125].
Bên cạnh những công trình, bài viết đã kể trên, còn có một số các công trình nghiên
cứu khác được tìm hiểu dưới góc độ triết học, xã hội học, chính trị học, quản lý công, tuy
nhiên những công trình này được triển khai ở phạm vi hẹp, có giá trị tham khảo trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận án của tác giả.
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu Công giáo và quản lý nhà nước về Công giáo
1.2.1. Các Công trình nghiên cứu Công giáo
Nghiên cứu và tìm hiểu về Công giáo rất đa dạng, phong phú, được tìm hiểu từ hàng
nghìn năm đến nay, dưới nhiều khía cạnh và cách tiếp cận khác nhau, có thể khái quát
qua một số nhóm công trình sau:
Những công trình nghiên cứu cơ bản về Công giáo, lịch sử Công giáo:
Nghiên cứu của các tác giả Lewis M. Hopfe và Mark R. Woodwarrd trong cuốn:
“Các tôn giáo trên thế giới”, đã làm sáng tỏ lịch sử hình thành và phát triển Kitô giáo từ
thế kỷ thứ nhất Công nguyên với Giáo đoàn Jerusalem và qua nhiều giai đoạn. Theo các
tác giả, Kitô giáo bắt nguồn từ một chi phái của Do Thái giáo, trong thế kỷ thứ I trước
Công nguyên, trong lòng Đế Quốc La Mã, giai đoạn Hoàng đế Casesar (63, tr.CN đến 14
CN) trị vì, người sáng lập ra Kitô giáo là Đức Giêsu Nazareth [168, tr444-446]. Cuốn
sách cũng đề cập tới việc quản lý Giáo hội thuở ban đầu; lịch sử biên soạn Kinh Tân ước
và những cuộc tranh cãi thần học [168,tr.472-481]. Cuốn sách đề cập đến các cuộc đại ly
giáo, và các phong trào cải cách giáo hội từ thế kỷ thứ nhất, đến nay [168, tr.495-518].
Cuốn sách là nguồn tư liệu có giá trị trong việc tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến Công giáo.
19
Sách chuyên khảo: “Một số tôn giáo ở Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Thanh Xuân.
Đây là cuốn sách được tái bản nhiều lần, nghiên cứu về những tôn giáo ở Việt Nam. Đối
với Công giáo, cuốn sách trình bày về sự ra đời và phát triển của Công giáo qua các thời
kỳ từ thời kỳ trung cổ đến thời kỳ Cộng đồng Vatican II; giới thiệu về Kinh Thánh và
những giáo lý, luật lệ, lễ nghi của Công giáo; những điều răn của Thiên chúa và của Giáo
hội; giới thiệu về cơ cấu tổ chức và hệ thống phẩm trật của Công giáo [153, tr.111-201].
Cuốn sách cũng khái quát về lịch sử Công giáo Việt Nam, từ khi bắt đầu du nhập (1553)
đến nay và khái quát về thực trạng tình hình GHCGVN về quy mô, chức sắc, tín đồ và hệ
thống bộ máy tổ chức Công giáo [153, tr.202-222].
Nội dung bài viết tác giả Lê Gia Hân về: “Cơ cấu giáo hội và hệ thống phẩm trật
của đạo Công giáo” đã khái quát về GHCG và cung cấp một số kiến thức, thông tin cơ
bản về tổ chức bộ máy Giáo triều Vatican. Bài viết cũng giới thiệu về cơ cấu tổ chức bộ
máy và các cơ quan giúp việc của Giáo triều và hệ thống các thứ bậc cơ quan quản lý của
giáo triều và hệ thống các phẩm trật của giáo hội Công giáo Roma [70, tr.73-75].
Tìm hiểu về Đức chúa Giêsu Kitô trong cuốn: “Đức Giêsu Kitô”, tác giả Thiên Hựu
đã khắc họa rõ hơn về Đức Giêsu Kitô, về cuộc đời và sự nghiệp của ngài; về những
truyền thuyết về Chúa giáng sinh, Đức mẹ đồng trinh và những điều được ghi lại trong
Kinh Thánh và nhận định của tác giả [165, tr.140-215]. Cuốn sách cũng tìm hiểu về sự
nghiệp truyền giáo của Đức Giêsu, các môn đồ đầu tiên của ngài và những lập luận,
nghiên cứu, phân tích về Vụ án Chúa Giêsu, Bữa tiệc ly biệt và những phút sau cùng của
ngài sau khi chịu hình phạt đóng đinh trên Thập tự giá [165, tr.558-634]. Cuốn sách là
nguồn tư liệu quan trọng, góp phần làm sáng tỏ thêm những bí ẩn xung quanh cuộc đời
và sự nghiệp truyền đạo của Đức Giêsu Kitô.
Sách chuyên khảo: “Công giáo Việt Nam - Một số vấn đề nghiên cứu”, của tác giả
Nguyễn Hồng Dương. Nội dung cuốn sách giới thiệu những kiến thức cơ bản về
GHCGVN: cơ cấu tổ chức bộ máy, Hội đồng giám mục, các kỳ Đại hội và đường hướng
mục vụ của Công giáo Việt Nam,… Cuốn sách cung cấp một số dữ liệu thống kê về tình
hình hoạt động tôn giáo của tín đồ Công giáo Tây Nguyên; một số hoạt động quốc tế của
GHCGVN; hoạt động của các tổ chức Công giáo miền núi phía bắc và các Dòng tu ở
Đồng Nai hiện nay [59, tr.119-261]. Phần cuối tác phẩm đã lược sử một số vấn đề và sự
kiện về Tòa thánh Vatican trên trường quốc tế.
20
Tìm hiểu về cuộc sống của người Công giáo Việt Nam, tác giả Nguyễn Hồng
Dương đã xuất bản cuốn sách: “Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam”. Nội
dung cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của các tác giả khác nhau về những thông tin đời
sống cộng đồng Công giáo ở một số vùng miền trên đất nước như: sống đạo của người
Công giáo Việt Nam - Khái niệm sự phát triển [60, tr.7-30]; nếp sống Công giáo, sự giao
thoa giữa đức tin và văn hóa dân tộc [60,tr.31-45; giới trẻ Công giáo Việt Nam và việc
học tập, giảng dạy giáo lý hiện nay [60, tr.57-76],…Cuốn sách cũng khái quát về các
truyền thống lịch sử, sự giao thoa giữa Công giáo với các tín ngưỡng, tôn giáo và truyền
thống dân tộc trên các vùng, miền, những ảnh hưởng của phong tục, tập quán văn hóa
đến hoạt động Công giáo và nếp sống của tín đồ đạo Tin lành ở Việt Nam.
Những công trình quốc tế nghiên cứu về Công giáo:
Nghiên cứu của tác giả Lường Hoài Thanh: “Vài nét về cộng đồng Công giáo
Philippines trong lịch sử” thấy rằng: cộng đồng Công giáo ở Philippines là cộng đồng
Công giáo lớn nhất khu vực Châu Á và đứng thứ 2 thế giới sau cộng đồng Công giáo
Brasil. Công giáo được truyền vào Philippinnes đầu thế kỷ XVI, cùng với sự xâm lược
của thực dân Tây Ban Nha. Tại đây, Công giáo gặp những điều kiện thuận lợi cho công
cuộc truyền giáo như: không gặp phải sự kháng cự quyết liệt của dân bản địa; người dân
Philippines chỉ có tín ngưỡng thuần túy; đất nước chưa trải qua giai đoạn phát triển đỉnh
cao; người dân cởi mở đón nhận tôn giáo mới [121, tr.64-65]. Nghiên cứu của tác giả cho
thấy, Công giáo và nhà nước thực dân Tây Ban Nha có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
không thể tách rời, điều này thể hiện ngay trong Hiến pháp 1935 của Philippines. Công
giáo Philippines cùng với thực dân Tây Ban Nha đã tham gia quản lý các hoạt động chính
trị xã hội, nhiều minh chứng cho thấy Công giáo tham gia cả hoạt động quân sự, đồng
thời cũng là thủ lĩnh, dẫn dắt giáo dân lật đổ tổng thống Mascos ở Philippinnes [121,
tr.65-70].
Nghiên cứu của tác giả Lê Thị Thanh Hương qua bài viết: “Sự can thiệp của tôn
giáo vào chính trị ở Philippines” cho thấy: mặc dù Nhà nước Philippines xây dựng theo
mô hình thế tục, tuy nhiên, các tổ chức tôn giáo luôn can thiệp vào các vấn đề xã hội, kể
cả vấn đề chính trị. Tác giả cho rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự can thiệp của
Công giáo vào chính trị ở Philippinnes: (1) mô hình tôn giáo và nhà nước hợp nhất của
Tây Ban Nha; (2) sự đa dạng tổ chức tôn giáo theo đuổi những mục đích khác nhau là
nguồn tiềm tàng cho việc huy động chính trị; (3) sự khủng hoảng của niềm tin, đạo đức
21
xã hội; (4) các đảng phái chính trị phải dựa vào sức mạnh của các tổ chức tôn giáo. Sự
can thiệp của tôn giáo vào chính trị ở Philippines là con dao hai lưỡi, vừa là sự ủng hộ,
vừa là mối nguy đối với nhà nước. Chừng nào các đảng phái chính trị còn dựa vào các tổ
chức tôn giáo thì vai trò của các tổ chức tôn giáo còn in đậm trong chính trường đất nước,
còn tiềm ẩn những vấn đề mâu thuẫn, xung đột [92, tr.41-50].
Những công trình nghiên cứu về Công giáo Việt Nam:
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Dương về: Tổ chức xứ, họ Công giáo ở Việt
Nam - Lịch sử - hiện tại và những vấn đề đặt ra, đã khái quát những cấu trúc cơ bản về
mặt tổ chức ở xứ đạo, họ đạo (cấp cơ sở) của Công giáo và những phương thức hoạt động
của cấp tổ chức này trong lịch sử và ở giai đoạn hiện nay [61, tr.17-58]. Theo tác giả:
những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của họ đạo, xứ đạo là cứ liệu quan trọng để đối
chiếu thực trạng công tác QLNN về tôn giáo của chính quyền các cấp.
Tìm hiểu về tổ chức hàng giáo phẩm của GHCGVN, tác giả Nguyễn Hồng Dương
có bài viết: “Hàng giáo phẩm Công giáo Việt Nam - Vấn đề nhân sự và đào tạo”. Bài
viết cho thấy hàng giáo phẩm CGVN được thiết lập đầy đủ, có quyền bính trực tiếp lãnh
đạo GHCG Việt Nam từ sau khi Giáo Hoàng Gioan XXIII ban hành Tông hiến
Venerabilum Nostrorum ngày 24/11/1960 [57, tr.35]. Tác giả cho rằng: “Hàng giáo
phẩm là xương sống, trụ cột của Giáo hội. Quan tâm cất nhắc vào các vị trí của Giáo hội
không chỉ là mối quan tâm của GHCGVN mà còn là mối quan tâm của Nhà nước Việt
Nam, nhằm tạo điều kiện đảm bảo cho GHCGVN thực hiện đường hướng: Sống phúc âm
trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc đồng bào” [57, tr.35-42].
Nghiên cứu của tác giả Trần Hữu Hợp qua bài viết “Sự hình thành cộng đồng người
Việt Công giáo ở Đồng bằng Sông Cửu Long”. Qua việc nghiên cứu các tư liệu điền dã
và các kết quả khảo sát của tác giả cho thấy: người Việt Công giáo đã có mặt tại Đồng
bằng Sông Cửu Long cùng thời điểm bắt đầu hình thành cộng đồng người Việt nơi đây,
khi những lưu dân đầu tiên đến khai phá vùng đất này. Người Công giáo Việt có mặt nơi
đây do nhiều nguyên nhân khác nhau như: chính sách cấm đạo, thiên tai, dịch bệnh, do bị
triều đình truy sát và do chiến tranh [84, tr.32-36]. Nghiên cứu quá trình phát triển của
Công giáo nơi đây tác giả nhận định: giai đoạn hình thành từ khi người Việt vào khai phá
đến năm 1802 có một số xứ họ đạo hình thành; giai đoạn Nhà Nguyễn (1802 -1884) có
một số họ đạo được thành lập nhưng không nhiều; giai đoạn Pháp thuộc từ 1885 - 1945,
đây là giai đoạn phát triển mạnh nhất, đa số các xứ họ đạo được thành lập vào giai đoạn
22
này; giai đoạn 1945 - 1954 nhịp độ phát triển Công giáo nơi đây chậm lại; giai đoạn 1954
- 1975 gia tăng mạnh vừa theo xu thế tự nhiên vừa theo con đường di cư sau Hiệp định
Giơnevơ [84, tr.32-40].
Những công trình nghiên cứu về hoạt động truyền giáo:
Kết quả nghiên cứu của Đặng Luận trong đề tài, “Truyền giáo và phát triển đạo
Công giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum”, đã làm sáng tỏ lịch sử
truyền giáo, quá trình du nhập và phát triển của Công giáo ở Kon Tum; công trình cũng
chỉ ra những đặc điểm truyền giáo và những ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với các
mặt đời sống xã hội của đồng bào nơi đây [103, tr.53-76]. Kết quả nghiên cứu cho thấy
Công giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa của đồng bào Kon Tum, điều này được
thẩm thấu qua thời gian. Có những tác động mang tính chất có lợi cho đời sống xã hội
như: lối sống, tập quán sinh hoạt, sản xuất; cũng có những ảnh hưởng mang tính xáo trộn
đời sống xã hội như: phong tục, tập quán, lễ nghi, văn hóa cộng đồng, nghi thức vòng
đời. Nghiên cứu cũng cho thấy những hoạt động mang tính áp đặt, cưỡng bức từ các giáo
sĩ, tạo tâm lý hoảng loạn, lo sợ từ phía tín đồ như: kêu gọi phá thần, hủy bỏ vật linh, ngẫu
tượng; đả kích mạnh mẽ tín ngưỡng bản địa,.. đã tạo ra những bất ổn trong đời sống của
đồng bào nơi đây [103, tr. 82-116].
Nghiên cứu của tác giả Lê Văn Thơ trong đề tài: “Quá trình hình thành, phát triển và
đặc điểm của giáo phận Phát Diệm”, cho thấy quá trình truyền giáo vào Giáo phận Phát
Diệm diễn ra từ thế kỷ XVII, tuy nhiên phải cho đến khi Nhà Nguyễn bỏ lệnh cấm đạo,
công cuộc truyền đạo mới thành công [126, tr.43-67]. Trong quá trình phát triển giáo phận
có một số linh mục, tín đồ Công giáo bị thực dân lợi dụng, tham gia vào các hoạt động
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân địa phương, tuy nhiên bên cạnh đó
cũng có hàng nghìn tín đồ Công giáo là những tấm gương tiêu biểu trong công cuộc bảo vệ
tổ quốc như: linh mục Phạm Bá Trực, Vũ Bá Nghiêm,... Bước vào công cuộc đổi mới do
Đảng lãnh đạo, phần lớn đồng bào Công giáo của giáo phận hăng say lao động, sản xuất,
chấp hành tốt chính sách, pháp luật của nhà nước về tôn giáo [126, 86-138].
Bài viết của tác giả Đoàn Triệu Long: “Đạo Công giáo buổi đầu trên mảnh đất
Quảng Nam - Đà Nẵng”, đã làm sáng tỏ về thời điểm Công giáo được truyền vào Quảng
Nam, Đà Nẵng và công cuộc truyền giáo nơi đây. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố, công cuộc
truyền giáo ấy mới chỉ là bước thử nghiệm, kết quả đạt được chưa được khả quan. Qua
phân tích lịch sử truyền giáo ở Quảng Nam, Đà Nẵng và vai trò của giáo phận Quảng
23
Nam, Đà Nẵng, tác giả khẳng định vai trò và tầm ảnh hưởng của Công giáo nơi đây tới sự
phát triển Công giáo ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử [98, tr.36-39].
Những công trình nghiên cứu các hoạt động Công giáo:
Bài viết của nhà nghiên cứu Phạm Huy Thông về “Công giáo trong bối cảnh toàn
cầu hóa” đã cho thấy: trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học
công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin truyền thông đã tạo ra những thời cơ thuận lợi
cho hoạt động truyền giáo của Công giáo trên phạm vi toàn thế giới. Bên cạnh đó, trong
xu thế toàn cầu hóa, bên cạnh những điểm tốt đẹp được đem lại cũng tạo ra những vấn đề
xã hội rất khó khắc phục như: đói nghèo, chiến tranh, các vấn đề xã hội khác,.. đây là
những cơ hội mới cho công cuộc truyền giáo của GHCG, được các nhà truyền giáo, hàng
giáo phẩm Công giáo đặc biệt chú trọng, khai thác để tăng cường ảnh hưởng của Giáo
hội. Bên cạnh những thuận lợi đó, công cuộc truyền giáo cũng gặp phải những thách thức
bắt nguồn từ sự phát triển của khoa học và công nghệ, sự phai nhạt đạo ở tín đồ, sự cứng
nhắc trong giáo lý, giáo luật và lễ nghi Công giáo,.. đã làm cho không ít các tín đồ Công
giáo trên thế giới xa rời tôn giáo này [127, tr.7-13].
Bàn về vấn đề xung đột và hội nhập văn hóa giữa tôn giáo với văn hóa truyền thống
dân tộc, tác giả Nguyễn Hồng Dương đã có bài viết: “Kitô giáo với vấn đề xung đột và
hội nhập văn hóa: Bước đầu tìm hiểu và so sánh giữa trường hợp Công giáo và Tin lành
ở Việt Nam”. Bài viết cho thấy Công giáo và Tin lành vào nước ta đều xảy ra hiện tượng
xung đột và hội nhập với văn hóa, tín ngưỡng truyền thống tuy nhiên ở những mức độ
khác nhau. Theo tác giả: “Trải qua thời gian, văn hóa Công giáo đã xác lập được giá trị,
vị trí, và có được chỗ đứng trong văn hóa truyền thống và văn hóa đương đại Việt Nam,
tuy nhiên, vai trò của văn hóa Tin lành đối với văn hóa truyền thống và đương đại Việt
Nam hết sức mờ nhạt”[63, tr.18]. Xung đột văn hóa Tin lành với văn hóa Việt Nam
trong đó có phong tục thờ cúng tổ tiên vẫn còn, đây là câu hỏi đối với các tổ chức, hệ
phái Tin lành, trong đó có tổ chức Tin lành CMA phải xem xét trong thời gian tới.
Tìm hiểu về Mối quan hệ giữa nhà nước Việt Nam với giáo hội Công giáo Rôma hiện
nay, tác giả Nguyễn Hồng Dương đã khái quát về những đặc điểm truyền giáo và đặc điểm
Công giáo ở Việt Nam; chỉ ra mối tương quan tác động qua lại giữa GHCGVN và GHCG
Roma; mối quan hệ giữa Nhà nước Việt Nam với Giáo triều Vatican trong những năm gần
đây [58, tr.23-27]. Qua bài viết, chúng ta cũng thấy được những biểu hiện cụ thể trong mối
quan hệ giữa GHCGVN với GHCG Roma [58, tr.27-30].
24
Tác giả Phạm Huy Thông trong bài: “Lối sống của người Công giáo Việt Nam: Quá
trình từ theo đạo, giữ đạo đến sống đạo”, cho thấy: có muôn ngàn lý do theo đạo của
người Việt Nam [128, tr.46-48]. Người Công giáo Việt Nam cũng rất có ý thức giữ đạo,
việc giữ đạo thể hiện qua thói quen, nếp sống sinh hoạt và sự thể hiện lòng kính Chúa của
tín đồ Công giáo, thậm chí ngay cả việc di dời làng đến một vùng đất mới người ta vẫn
lấy tên cũ. Theo tác giả, đúng như lời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói với Giáo
hoàng Benedic II: “Ở Việt Nam, cộng đồng những người Công giáo là cộng đồng năng
động, kính Chúa, yêu nước và có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng và phát
triển đất nước”[128, tr.52].
Bên cạnh những công trình, bài viết trên, còn rất nhiều những tài liệu khác tìm hiểu
về Công giáo như: Sách chuyên khảo: Các nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo, của tác giả
Hans Kung; cuốn sách: Nhân học Kitô, của tác giả Karl Rahner; sách tham khảo: Câu
chuyện Kinh Thánh, những bài học về lòng yêu thương, của tác giả Selina Hastings; sách
chuyên khảo: Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, của linh mục Nguyễn Hồng; sách chuyên
khảo: Sự du nhập
của đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Kiệm; sách tham
khảo: Công giáo Việt Nam đối với sự phát triển bền vững đất nước của tác giả Nguyễn
Hồng Dương và một số bài viết chuyên sâu về Công giáo được đăng tải trên Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, Công tác Tôn giáo. Những công trình, bài viết này được nghiên
cứu, tiếp cận từ nhiều khía cạnh khác nhau, có giá trị tham khảo trong việc tìm hiểu Công
giáo nói chung và QLNN về Công giáo nói riêng.
1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu quản lý nhà nước về Công giáo
Mặc dù có rất nhiều công trình nghiên cứu về Công giáo, tuy nhiên, nghiên cứu trên
phương diện quản lý công lại chưa nhiều. Chủ yếu tìm hiểu QLNN về Công giáo trên
phương diện chính trị, triết học, lịch sử. Có thể khái quát qua một số công trình dưới đây:
Nghiên cứu của tác giả Hoàng Minh Đô trong đề tài: “Dòng tu Công giáo ở nước ta
hiện nay và những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà nước”. Kết quả nghiên cứu đã
xây dựng được một số cơ sở lý luận về dòng tu Công giáo, khái quát về dòng tu Công
25
giáo và các hình thức tu trì của Công giáo ở Việt Nam. Đề tài đã làm sáng tỏ về vai trò, vị
trí của dòng tu trong GHCG và tìm hiểu về quá trình hình thành, phát triển của các dòng
tu Công giáo [67, tr.11-37]. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã làm sáng tỏ thực trạng hoạt
động của các dòng tu Công giáo và những bất cập trong QLNN đối với hoạt động của các
dòng tu Công giáo ở Việt Nam hiện nay [67, tr.38-69].
Bài viết của tác giả Đoàn Triệu Long về: “Công tác quản lý nhà nước đối với đạo
Công giáo ở miền Trung - Thực trạng và một số kiến nghị”, cho thấy công tác QLNN về
Công giáo ở khu vực miền Trung được các cấp chính quyền hết sức chú trọng, đạt được
những kết quả tích cực trong quản lý tổ chức; về nhân sự và hoạt động của các chức sắc,
tín đồ; quản lý đất đai và cơ sở thờ tự; quản lý hoạt động quốc tế và đấu tranh với các
hoạt động lợi dụng Công giáo [100, tr.38-43]. Bên cạnh kết quả đó, vẫn còn những hạn
chế cần khắc phục, đặc biệt là vấn đề khiếu kiện về đất đai có liên quan đến Công giáo
chưa được xem xét và giải quyết dứt điểm; sự phối hợp giữa các cơ quan trong QLNN về
Công giáo còn có những hạn chế; đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo chưa
nhiều, ít kinh nghiệm, thiếu chuyên môn,.. vẫn là những vấn đề cần phải có những giải
pháp trong giai đoạn kế tiếp [100, tr.44-47].
Nghiên cứu của tác giả Hoàng Mạnh Đoàn trong đề tài: “Công tác vận động giáo
dân của tổ chức cơ sở đảng (cấp xã) ở đồng bằng Bắc Bộ nước ta hiện nay”, khẳng định:
tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị là nền tảng của Đảng ở cơ sở và có vị trí, vai trò
đặc biệt quan trọng trong công tác vận động chức sắc, tín đồ Công giáo trong việc thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước; chất lượng và nội
dung phương thức vận động chức sắc, tín đồ Công giáo có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả QLNN đối với Công giáo, giáo dân [66, tr.26-58]. Nghiên cứu cho thấy thực trạng
công tác vận động quần chúng của các tổ chức cơ sở đảng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ còn
có những hạn chế như: vận động chức sắc, tín đồ thực hiện đúng chính sách, pháp luật
nhà nước trên một số lĩnh vực như thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự, quản lý đất đai, xây
dựng, hoạt động truyền đạo và vận động giáo dân đấu tranh phòng chống các hành vi lợi
dụng Công giáo để trục lợi, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc [66, tr.74-86].
Đề tài nghiên cứu về “Quản lý Nhà nước đối với các dòng tu của đạo Công giáo
Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Hữu Có đã đạt một số những kết quả trên phương diện lý
luận và thực tiễn. Về mặt lý luận tác giả đã làm sáng tỏ 3 mảng lý luận chính về tôn giáo;
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
26
Nam về tôn giáo; QLNN về tôn giáo [52, tr.6-39]. Về mặt thực tiễn tác giả đã khái quát
được những nội dung cơ bản về tổ chức đạo Công giáo: phẩm trật giáo hội; bộ máy Giáo
triều Vatican; Công giáo ở Việt Nam; tìm hiểu về các dòng tu, phân loại dòng tu, quá
trình hình thành, phát triển và phương thức hoạt động của các dòng tu Công giáo ở Việt
Nam [52, tr.40-79].
Từ kinh nghiệm thực tiễn quản lý, tác giả Lê Quang Toàn có bài viết: “Quản lý nhà
nước về các hội đoàn và dòng tu Công giáo”. Nội dung bài viết đã khái quát về thực
trạng hội đoàn, dòng tu và hoạt động của các hội đoàn, dòng tu Công giáo ở 13 tỉnh miền
Trung và Tây Nguyên; phân tích, đánh giá về thực trạng QLNN đối với những hội đoàn,
dòng tu Công giáo; dự báo về xu hướng phát triển hội đoàn, dòng tu Công giáo tại miền
Trung và Tây Nguyên trong giai đoạn tới, qua đó, đề xuất một số những chủ trương, giải
pháp với các cơ quan chức năng nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nhiệm vụ QLNN đối
với hội đoàn, dòng tu Công giáo trên địa bàn [136, tr.61-67].
Công trình nghiên cứu của tác giả Đỗ Hoàng Vương: “Quản lý nhà nước đối với
hoạt động của đạo Công giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội”. Kết quả nghiên cứu của
đề tài luận án đã xây dựng được hệ thống những cơ sở lý luận QLNN đối với hoạt động
của đạo Công giáo và chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với hoạt động của
đạo Công giáo ở Việt Nam [152, tr.46-62]. Luận án cũng phân tích và làm sáng tỏ việc
thực hiện các nội dung QLNN đối với hoạt động của đạo Công giáo trên địa bàn TP. Hà
Nội giai đoạn 2004 đến 2017. Qua nghiên cứu cho thấy việc QLNN đối với hoạt động
của đạo Công giáo trên địa bàn TP. Hà Nội vẫn gặp những khó khăn, hạn chế tập trung
vào những vấn đề như: hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện; công tác tuyên truyền, vận
động chức sắc, tín đồ Công giáo chưa thực sự hiệu quả; nhận thức của một bộ phận
CBCC về tôn giáo và công tác tôn giáo còn hạn chế; quản lý đất đai, xây dựng và từ thiện
nhân đạo vẫn chưa thực sự hiệu quả,.. đòi hỏi phải có những giải pháp để khắc phục [152,
tr.124-131].
Nhìn từ khía cạnh quan hệ quốc tế của các tổ chức Công giáo, tác giả Phan Thị Mỹ
Bình đã thực hiện thành công đề tài: Quản lý nhà nước đối với hoạt động quan hệ quốc tế
của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã làm sáng tỏ một số
những cơ sở lý luận QLNN đối với quan hệ quốc tế của GHCGVN, làm rõ chủ thể, khách
thể và đối tượng nghiên cứu của QLNN đối với quan hệ quốc tế của GHCGVN. Theo tác
giả, nội dung QLNN đối với quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo gồm: (1) xây dựng
27
hệ thống chính sách, pháp luật về quan hệ quốc tế; (2) xây dựng đội ngũ CBCC; (3) tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo; (4) thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
chính sách, pháp luật về tôn giáo và (5) quản lý hoạt động quan hệ quốc tế của tổ chức
tôn giáo [19, tr.32-41]. Đánh giá về thực trạng QLNN đối với quan hệ quốc tế của
GHCGVN tác giả khẳng định: Nhà nước ta đã đạt những kết quả quan trọng trong việc
xây dựng và ban hành các chính sách, pháp luật trong QLNN đối với quan hệ quốc tế của
các tổ chức tôn giáo, tạo điều kiện cho GHCGVN duy trì và mở rộng các quan hệ với
Tòa Thánh Vatican và GHCG quốc tế, đào tạo và bồi dưỡng chức sắc Công giáo, nâng
cao niềm tin của tín đồ giáo sĩ vào chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; giúp
GHCGVN đẩy mạnh các hoạt động từ thiện, nhân đạo; làm thế giới hiểu rõ hơn về chính
sách tự do TNTG ở Việt Nam [19, tr.119-124].
Ngoài những công trình khoa học trên còn một số những công trình, bài viết khác
về chủ đề QLNN về công giáo như: Luận án của tác giả Đoàn Triệu Long: Giáo phận Đà
Nẵng - Lịch sử và vấn đề hiện tại; công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Long
về: Vận dụng quan điểm khoa học về tôn giáo trong công tác đối với Thiên Chúa giáo ở
Việt Nam hiện nay và một số công trình, đề tài nghiên cứu khác ở trình độ thạc sĩ, phạm
vi nghiên cứu hẹp có giá trị tham khảo trong quá trình triển khai nghiên cứu luận án.
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về Công giáo và quản lý nhà nước về Công
giáo ở Đông Nam Bộ
1.3.1. Nghiên cứu về Công giáo ở Đông Nam Bộ
Nghiên cứu của Đặng Mạnh Trung trong bài viết: “Vài nét về sự hình thành các xứ,
họ đạo đầu tiên ở Đông Nam Bộ”, cho thấy: Cộng đồng Công giáo đầu tiên ở Đông Nam
Bộ xuất hiện vào khoảng đầu và giữa thế kỷ XVII cùng với sự di cư của các lưu dân
người Việt phía Bắc Tổ Quốc, trong các cộng đồng người khai hoang, lập ấp, chạy trốn
chiến tranh, né tránh chính sách cấm đạo của triều đình Nhà Nguyễn. Thông qua bài viết,
tác giả cũng cung cấp những hình ảnh khái quát về các xứ họ đạo đầu tiên ở 5 khu vực
Đông Nam Bộ: khu vực Bình Thuận, khu vực Đồng Nai, khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu,
khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và khu vực Bình Dương [140, tr.49-54].
Bài viết của Ngô Quốc Đông: “Hội Công giáo kháng chiến Nam Bộ 1948 -1954” cho
thấy nguyên nhân hình thành Hội Công giáo kháng chiến Nam Bộ; mô tả về nhân sự, tổ
chức và tôn chỉ của Hội; những hoạt động đồng hành kháng chiến, hoạt động báo chí và bí
mật, những sinh hoạt tôn giáo của Hội trong kháng chiến [69, tr.26-61]. Nhìn lại cả quá
28
trình Công giáo yêu nước ở Nam Bộ, tác giả kết luận: “Đây là một tiến trình phát triển từ
thấp đến cao, từ sơ lược đến hoàn thiện của các tổ chức Công giáo. Các hoạt động kháng
chiến của Hội là sự song hành giữa hai nhiệm vụ là thờ Chúa và đấu tranh cho giải phóng
dân tộc” [69, tr.53].
Nghiên cứu Võ Lan Phương qua bài viết: “Các chúa Nguyễn và sự truyền bá Công
giáo ở Đàng Trong”. Qua nghiên cứu 6 đời chúa Nguyễn, tác giả đã trình bày khái quát
về sự truyền bá của Công giáo và chính sách ứng xử đối với Công giáo của những người
đứng đầu triều đình Nhà Nguyễn qua giai đoạn lịch sử 1613 đến 1785. Nghiên cứu cho
thấy: có nhiều nguyên nhân dẫn đến chính sách cấm đạo của các chúa Nguyễn như: (1)
sự lo ngại bị xâm hại về mặt tư tưởng; (2) những dự cảm của nhà cầm quyền về nguy cơ
xâm lược cùng với sự truyền bá Công giáo; (3) những xung đột văn hóa Công giáo với
văn hóa truyền thống Việt Nam [110, tr.16-31].
Nghiên cứu về đời sống Công giáo ở ĐNB có bài: “Bước đầu tìm hiểu cuộc sống tu
trì của nữ tu Công giáo ở giáo phận Xuân Lộc hiện nay”, của tác giả Đinh Thị Xuân
Trang đã giới thiệu khái quát về tình hình giáo phận Xuân Lộc và các dòng tu Công giáo
trên địa bàn. Thông qua tìm hiểu thời gian biểu sinh hoạt hàng ngày, đời sống cộng đoàn,
các giờ Kinh nguyện, hình thức sinh hoạt tôn giáo và thời gian nghỉ ngơi, giải trí của các
nữ tu bài viết đã cho thấy bức tranh cuộc sống tu trì của các nữ tu Công giáo ở giáo phận
Xuân Lộc hiện nay [138, tr.32-37].
Bài viết của tác giả Châu Thị Chánh: “Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam tỉnh
Đồng Nai - 30 năm hình thành và phát triển”, đã khái quát về tình hình Công giáo ở
Đồng Nai; sự ra đời và phát triển của Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam tỉnh Đồng
Nai (UBĐKCGVN); những đóng góp của UBĐKCGVN tỉnh Đồng Nai từ khi thành lập
(1985) cho đến năm 2015 trên các mặt: hoạt động bảo trợ xã hội; tham gia xã hội hóa
giáo dục, giáo dục nghề nghiệp; tham gia các phong trào văn hóa - xã hội; tham gia các
phong trào lao động, sản xuất và xây dựng nông thôn mới; tham gia xây dựng chính
quyền, Mặt trận và các tổ chức xã hội giữ vai trò cầu nối giữa đồng bào Công giáo với
chính quyền, MTTQ các cấp. Theo tác giả: “với những thành tựu và đóng góp của mình,
UBĐKCGVN tỉnh Đồng Nai đã khẳng định được vị trí trong cộng đồng và trở thành địa
chỉ tin tưởng trong hoạt động xã hội của giới Công giáo tỉnh Đồng Nai” [30, tr.47].
Tìm hiểu về lễ nghi Công giáo, tác giả Nguyễn Khánh Diệp có bài: “Vấn đề thờ
cúng tổ tiên của tín đồ Công giáo người Việt”. Nghiên cứu tại Giáo xứ Lộc Hòa Trảng
29
Bom, Đồng Nai cho thấy: Mặc dù bị GHCG cấm đoán, ngăn chặn tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên, nhưng người Công giáo Việt Nam vẫn tìm cách để duy trì phong tục truyền thống
này, điều đó cho thấy vị trí và vai trò của phong tục thờ cúng tổ tiên trong đời sống tín
ngưỡng tín đồ Công giáo. Sau Cộng đồng Vatican II, phong tục thờ cúng tổ tiên chính
thức được công nhận với những nghi lễ chính danh Công giáo, điều này đã giúp tín đồ
người Việt trút bỏ được gánh nặng về mặt tâm linh, làm cho Công giáo không còn xa lạ
với truyền thống dân tộc. Các tín hữu Công giáo Việt Nam vừa ra sức xây dựng hình ảnh
làm sáng danh đức tin Công giáo, vừa luôn bảo vệ, gìn giữ những giá trị chân, thiện, mỹ
của nền văn hóa dân tộc [54, tr.73-94].
1.3.2. Nghiên cứu quản lý nhà nước về Công giáo ở Đông Nam Bộ
Triển khai nghiên cứu tổng quan luận án cho thấy, có rất ít bài viết, nghiên cứu
QLNN về Công giáo ở ĐNB, đến nay mới chỉ có các tài liệu sau:
Công trình nghiên cứu của tác giả Đặng Mạnh Trung năm 2011 về: “Công tác vận
động đồng bào Công giáo của Đảng bộ một số tỉnh miền Đông Nam Bộ từ năm 1986 đến
năm 2006”. Kết quả nghiên cứu đã thành công trong việc xây dựng những cơ sở lý luận
về Công giáo và công tác vận động đồng bào Công giáo ở Đông Nam Bộ. Kết quả nghiên
cứu của đề tài đã khắc họa rõ nét về kết quả thực hiện công tác vận động đồng bào Công
giáo ở một số tỉnh miền Đông Nam Bộ gồm: công tác vận động chức sắc, giáo hội chấp
hành pháp luật; chỉ đạo các cơ quan thực hiện các chính sách tôn giáo của Đảng, tạo điều
kiện thuận lợi cho giáo hội và xây dựng mối quan hệ thân thiện, trách nhiệm giữa giáo
hội với chính quyền địa phương; vận động chức sắc, giáo dân tham gia các tổ chức chính
trị, xã hội, đoàn thể. Đề tài cũng chỉ ra một số những hạn chế trong công tác vận động
chức sắc, tín đồ Công giáo nơi đây giai đoạn 1986 - 2006 [141, tr.63-124].
Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Thùy Liên: “Ghi nhận kết quả 10 năm thực hiện
Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX Về công tác tôn
giáo ở tỉnh Đồng Nai” cho thấy trong hơn 10 năm, chính quyền tỉnh đã đạt những kết quả
tích cực trong việc thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW về công tác tôn giáo: tổ chức 57 hội
nghị phổ biến, tuyên truyền cho hơn 8.000 lượt cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, huyện và 74 lớp
cho đối tượng là cán bộ xã; tạo điều kiện cho phép tổ chức 12 cơ sở tôn giáo trực thuộc
trên cơ sở, 221 tổ chức tôn giáo cơ sở, riêng Tòa Giám mục Xuân lộc là 71 cơ sở (giáo
xứ); cấp giấy chứng nhận cho 135 cộng đoàn Công giáo và 01 dòng tu; giải quyết kịp
thời việc thuyên chuyển cho 386 linh mục; chấp thuận cho Tòa Giám mục phong chức
30
linh mục cho 271 tu sĩ, phục hồi cho 11 người, bổ nhiệm 61 chánh xứ, 02 bề trên và công
nhận cho 1.523 người là Ủy viên Thường vụ Ban hành giáo giáo xứ; giải quyết tốt vấn đề
đất đai Công giáo trên địa bàn [96, tr.34-38].
Bên cạnh những bài viết trên, liên quan đến hoạt động QLNN về Công giáo ở ĐNB
còn có những báo cáo, tổng kết của Ban Tôn giáo các tỉnh thành ĐNB về tình hình Công
giáo và công tác QLNN về Công giáo hàng năm; các báo cáo tổng kết thực thi chính
sách, pháp luật về TNTG trên địa bàn, các số liệu thống kê của các địa phương ĐNB và
Ban Tôn giáo Chính phủ về tình hình TNTG tại khu vực ĐNB.
1.4. Nhận xét chung về tổng quan tài liệu và nhiệm vụ của luận án
1.4.1. Nhận xét về kết quả nghiên cứu đi trước
Nghiên cứu tổng quan công trình, dữ liệu, đề tài, bài báo có liên quan đến đề tài
luận án, tác giả nhận thấy các học giả, nhà nghiên cứu đi trước đã đạt được một số kết
quả sau đây:
Thứ nhất, có rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu đã có những bài viết, công trình tìm
hiểu cơ bản, chuyên sâu về tôn giáo, lý luận tôn giáo, những ảnh hưởng và đóng góp của
tôn giáo đối với đời sống xã hội, tìm hiểu về đời sống tôn giáo ở trong và ngoài nước.
Thứ hai, khá nhiều công trình nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề liên quan đến
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn
giáo; những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo và công tác
tôn giáo ở nước ta từ năm 1945 đến nay.
Thứ ba, một số công trình nghiên cứu về chính sách tôn giáo, công tác tôn giáo, công
tác vận động, thuyết phục tín đồ công giáo của đội ngũ CBCC và chính quyền các cấp trong
hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Một số học giả nghiên cứu về đời
sống tôn giáo, chính sách tôn giáo ở một số quốc gia trong khu vực và thế giới.
Thứ tư, tổng quan tài liệu cho thấy nghiên cứu, tìm hiểu về Công giáo rất đa dạng,
phong phú dưới nhiều khía cạnh khác nhau như: nghiên cứu, giới thiệu cơ bản về Công
giáo; nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của GHCG từ thời điểm hình thành
cho đến giai đoạn hiện nay; về cơ cấu, tổ chức GHCG; nghiên cứu về Giáo triều Vatican
và GHCG ở các quốc gia trên thế giới; nghiên cứu về cuộc đời của Chúa Giêsu, và các
Thánh tông đồ; về các nhà tư tưởng Kitô giáo. Một số công trình nghiên cứu lịch sử
truyền giáo ở các quốc gia; những tác động của văn hóa Công giáo đến đời sống xã hội;
mối quan hệ giữa Công giáo với chính quyền các quốc gia và sự can thiệp của Công giáo
31
tới chính trị, xã hội ở một số nước. Một số công trình, bài viết tìm hiểu về chính sách của
nhà nước đối với Công giáo ở một số quốc gia.
Thứ năm, về Công giáo ở Việt Nam, các công trình, bài viết tập trung tìm hiểu về
công cuộc truyền giáo qua các thời kỳ khác nhau. Nghiên cứu và tìm hiểu thực trạng tổ
chức bộ máy của GHCGVN; tìm hiểu về cơ cấu tổ chức, hàng giáo phẩm của GHCGVN.
Một số các công trình khác, tìm hiểu về những khía cạnh đạo đức Công giáo; nếp sống
đạo của người Công giáo Việt Nam, số khác lại nghiên cứu những ảnh hưởng, xung đột
và hòa nhập văn hóa giữa văn hóa Công giáo với đời sống văn hóa dân tộc.
Thứ sáu, một số tác giả nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển Công giáo ở
một số giáo phận, giáo xứ hoặc ở một số vùng miền, địa phương ở nước ta; nghiên cứu về
thực trạng hoạt động của Công giáo ở các địa phương, tỉnh, thành trong giai đoạn gần đây.
Thứ bảy, dưới góc độ chính trị, tôn giáo, xã hội học và xây dựng chính quyền có một số
các công trình, đề tài, bài viết tìm hiểu Công giáo về những khía cạnh như: ảnh hưởng của
Công giáo tới văn hóa, tín ngưỡng người Việt; mối quan hệ giữa GHCG với chính quyền nhà
nước Việt Nam; thói quen, nếp sống của người Công giáo; đóng góp của Công giáo đối với
quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công tác vận động và thuyết phục tín đồ Công giáo...
Thứ tám, nghiên cứu trên phương diện QLNN về tôn giáo, một số các công trình, đề tài,
cuốn sách đã xây dựng tương đối đầy đủ hệ thống những cơ sở lý luận QLNN về tôn giáo nói
chung và những cơ sở lý luận QLNN đối với hoạt động tôn giáo như: Phật giáo, Tin lành,
Công giáo. Các tác giả cũng đã nghiên cứu và chỉ ra được những kinh nghiệm trong việc quản
lý tôn giáo ở trong và ngoài nước, của nhà nước ta qua một số thời kỳ, giai đoạn lịch sử.
Thứ chín, khá nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về chính sách, pháp luật nhà nước
về TNTG ở nước ta hiện nay và chỉ ra được những thành tựu đạt được, những vấn đề cần phải
tiếp tục hoàn thiện trong thời kỳ kế tiếp. Bên cạnh đó, một số học giả cũng đã tìm hiểu, phân
tích về hệ thống chính sách, pháp luật tôn giáo ở nước ngoài và chỉ ra một số kinh nghiệm đối
với Việt Nam.
Thứ mười, gần đây có một số công trình, đề tài nghiên cứu QLNN về Công giáo, dòng
tu Công giáo và đã đạt được một số kết quả ban đầu trong việc xây dựng những cơ sở khoa
học QLNN đối với hoạt động Công giáo ở nước ta hiện nay.
1.4.2. Những vấn đề đặt ra cho luận án tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa những thành quả của các công trình đã nghiên cứu trước, luận
án“QLNN về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ” tiếp tục nghiên cứu và làm rõ về
32
mặt lý luận cũng như thực tiễn QLNN đối với hoạt động của Công giáo địa bàn ĐNB, cụ
thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận QLNN về Công
giáo ở Việt Nam bao gồm các khái niệm cơ bản có liên quan, làm rõ chủ thể, đối tượng
QLNN về Công giáo. Chỉ ra và phân tích các nội dung QLNN về Công giáo.
Thứ hai, nghiên cứu và chỉ ra các nguyên tắc QLNN về Công giáo ở Việt Nam, làm
sáng tỏ những yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về Công giáo ở ĐNB hiện nay.
Thứ ba, tìm hiểu công tác QLNN về tôn giáo và Công giáo ở một số quốc gia có đặc
điểm tương đồng Việt Nam, từ đó tổng kết kinh nghiệm trong QLNN đối với hoạt động
tôn giáo và Công giáo ở những quốc gia và địa phương đó, đồng thời chỉ ra những kinh
nghiệm đối với chính quyền và các cơ quan chức năng trong QLNN về Công giáo ở
ĐNB.
Thứ tư, nghiên cứu và tổng hợp, khái quát hóa về tình hình Công giáo ở ĐNB; thực
trạng hoạt động của Công giáo ở ĐNB trong những năm gần đây bao gồm: quy mô, cơ
cấu tổ chức của Công giáo ở ĐNB; chức sắc, tín đồ Công giáo; cơ sở vật chất, cơ sở thờ
tự; về những hoạt động của chức sắc, tín đồ, tổ chức Công giáo ở ĐNB trong những năm
qua.
Thứ năm, nghiên cứu và làm sáng tỏ về thực trạng xây dựng và hướng dẫn thực hiện
pháp luật về TNTG của chính quyền và các cơ quan QLNN về tôn giáo ở ĐNB. Nghiên
cứu và làm rõ về thực trạng tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo ở ĐNB. Điều tra và
nghiên cứu thực trạng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TNTG cho
CBCC và chức sắc, tín đồ Công giáo. Tìm hiểu và đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ
CBCC QLNN về tôn giáo các cấp ở ĐNB. Tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng thanh tra,
kiểm tra và xử lý những khiếu nại, tố cáo có liên quan đến Công giáo. Tìm hiểu và phân
tích thực trạng quản lý các quan hệ quốc tế của các chức sắc, tín đồ và các cơ sở Công
giáo ở ĐNB.
Nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với các hoạt động
của Công giáo gồm: quản lý hội nghị, lễ hội Công giáo, quản lý hoạt động chia tách, sáp
nhập, hợp nhất tổ chức cơ sở Công giáo, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, thần
học; quản lý đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự; quản lý các hoạt động xã hội và từ thiện nhân
đạo của các tổ chức, cơ sở Công giáo ở ĐNB.
33
Phân tích và đánh giá về những kết quả đạt được của chính quyền các địa phương
ĐNB trong QLNN về Công giáo những năm qua, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế
trong QLNN về Công giáo, chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến những kết quả đạt được và
hạn chế trong QLNN về Công giáo ở ĐNB trong những năm qua.
Thứ sáu, nghiên cứu và làm sáng tỏ những xu thế hoạt động của Công giáo địa bàn ĐNB
trong giai đoạn kế tiếp. Nghiên cứu và khái quát những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với công tác tôn giáo, Công giáo trong giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất
những phương hướng QLNN về Công giáo trên địa bàn ĐNB.
Thứ bảy, nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nhiệm vụ
QLNN về Công giáo trên địa bàn ĐNB trong giai đoạn kế tiếp.
Tổng kết Chương 1
Tổ chức nghiên cứu Chương 1, luận án của tác giả đã đạt được những nội dung sau:
Thứ nhất, luận án đã nghiên cứu và khái quát hóa những công trình, tài liệu, dữ liệu, bài
viết liên quan đến những nhóm vấn đề về lý luận tôn giáo, quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác công giáo; nhóm các công trình nghiên
cứu về chính sách, pháp luật của nhà nước về tôn giáo; QLNN về tôn giáo ở trong và ngoài
nước. Nghiên cứu cho thấy những dữ liệu về vấn đề này rất đa dạng, phong phú, được tìm hiểu
dưới nhiều phương diện khác nhau, là nguồn dữ liệu quan trọng trong việc nghiên cứu đề tài
luận án.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu Chương 1 cũng đã tổng hợp và khái quát hóa nhóm các
công trình nghiên cứu về Công giáo gồm: nhóm những nghiên cứu cơ bản, những nghiên cứu
về Giáo hội Công giáo trong và ngoài nước; nhóm công trình nghiên cứu về lịch sử hình thành
và phát triển Công giáo ở trong và ngoài nước; nhóm công trình nghiên cứu, tìm hiểu về cơ
cấu, tổ chức của các tổ chức Công giáo ở Việt Nam; nhóm các công trình nghiên cứu về hoạt
động truyền đạo ở các địa phương, vùng miền Việt Nam; nhóm các công trình nghiên cứu về
Công giáo ở các địa phương và nhóm các công trình nghiên cứu về các vấn đề xã hội liên quan
đến Công giáo ở Việt Nam như: văn hóa, đối ngoại, từ thiện, nhân đạo, truyền thống dân
tộc,… Qua các công trình, dữ liệu, tài liệu trên tác giả có được những kiến thức và góc nhìn đa
chiều về Công giáo Việt Nam và là nguồn tư liệu có giá trị tham khảo cho việc xây dựng
những cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài luận án.
Thứ ba, Chương 1 luận án cũng đã tìm hiểu và khái quát về các công trình, đề tài, bài viết
chủ đề QLNN về Công giáo; QLNN về hoạt động của các dòng tu Công giáo; QLNN đối với
34
hoạt động của Công giáo và những công tác có liên quan đến QLNN về Công giáo ở một số
vùng, miền, địa phương. Nghiên cứu cho thấy, cho đến nay chưa có nhiều công trình, đề tài,
bài viết chủ đề liên quan đến QLNN về Công giáo, chỉ có một số công trình tiếp cận vấn đề
này dưới góc độ triết học, tôn giáo học và lịch sử. Những cơ sở lý luận QLNN về Công giáo
cũng chưa được xây dựng hoàn thiện.
Thứ tư, nghiên cứu về chủ đề Công giáo và QLNN về Công giáo ở ĐNB cho thấy mặc
dù đây là địa bàn có quy mô, mật độ và tỷ lệ tín đồ Công giáo đông nhất Việt Nam, tuy nhiên
những công trình, bài viết nghiên cứu về Công giáo và QLNN về Công giáo ở nơi đây vẫn còn
khá ít, đặc biệt dưới góc độ quản lý công chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu đầy đủ,
chi tiết QLNN về Công giáo nơi đây.
Thứ năm, qua việc khái quát các công trình, tài liệu, dữ liệu có liên quan đến chủ đề
nghiên cứu, tác giả đã có những nhận xét, đánh giá về kết quả nghiên cứu của những tài liệu
đó, đồng thời cũng chỉ ra những nội dung, vấn đề cần tiếp tục triển khai nghiên cứu trong đề tài
của luận án.
35
Chương 2.
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG GIÁO
2.1. Khái quát về Công giáo trên thế giới và ở Việt Nam
2.1.1. Công giáo trên thế giới
Công giáo còn được gọi là đạo Gia-tô, đạo Hoa Lang, đạo Thiên Chúa, tiếng Hy lạp
là Katholicos (phổ quát), tiếng Pháp là Catholicsme, tiếng Anh là Catholicism, đây là tên
một tôn giáo thờ chúa Giêsu, giáo lý rút ra từ nhiều phái cứu thế ở vùng Đông Địa Trung
Hải [68, tr.166].
Theo nhiều nguồn tài liệu cho thấy, Công giáo là một trong những tôn giáo lớn trên
thế giới, ra đời vào khoảng thế kỷ thứ nhất, Công nguyên, ở phía Đông Đế quốc La Mã
cổ đại, người sáng lập ra Kitô giáo là Giêsu [108, tr.139]. Kitô giáo ra đời trong hoàn
cảnh những mâu thuẫn trong xã hội La Mã cổ đại diễn ra gay gắt, nhiều cuộc chiến tranh
đã nổ ra của tầng lớp nô lệ, các dân tộc bị áp bức nhưng đều bị đàn áp đẫm máu, các dân
tộc nhỏ gần như bị diệt vong [153, tr.111-114]. Là một dân tộc chịu nhiều đau thương, ly
tán bởi chiến tranh, dân tộc Do Thái đã gửi gắm những niềm mong ước của mình vào
một thế lực siêu nhiên, một “Đấng cứu thế” để giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước,
xây dựng lại vương quốc và như vậy Kitô giáo ra đời [153, tr.114].
Từ các tài liệu trên có thể thấy, có sự phân tán về tên gọi của Công giáo. Ở mỗi dân
tộc, mỗi quốc gia, Công giáo có thể được gọi dưới nhiều tên khác nhau: Gia-tô, đạo Hoa
Lang, đạo Thiên Chúa, Katholicos, Kitô giáo.
Sự ra đời của Công giáo, xét về mặt tư tưởng là sự kế thừa và tiếp nối các tư tưởng
của Do Thái giáo, tiếp thu những yếu tố duy tâm của triết học La Mã, Hy lạp cổ đại. Bên
cạnh đó, sự ra đời của Công giáo chủ yếu dựa trên những tín điều của Do Thái giáo,
những tư tưởng triết học cổ đại của người Hy Lạp và La Mã có trong Kitô giáo, được
biểu hiện qua tư tưởng của hai học giả là Sê nếch (4-65 SCN) và Phulông (25 TCN - 50
SCN). Ngoài việc dựa vào nền thần học Do Thái và tư tưởng duy tâm của Hy Lạp và La
Mã cổ đại, để xây dựng một học thuyết hoàn chỉnh Kitô giáo còn sử dụng nhiều yếu tố
mang tính phong tục, tập quán, TNTG của các dân tộc vùng Trung cận Đông [163,
tr.111-119]. Kitô giáo là tên gọi chung của 4 tôn giáo cùng nguồn gốc: Công giáo, Chính
thống, Tin lành và Anh giáo, xuất phát từ việc 4 tôn giáo này thờ Đấng cứu thế (thường
36
gọi là Giêsu Kitô), tên gọi Công giáo xuất hiện ở khoảng thế kỷ thứ II, sau Công nguyên,
xuất phát từ tiếng Hy Lạp (Katholikos) có nghĩa là phổ quát [105, tr.144-145].
Kitô giáo ban đầu được nhìn nhận như là tà giáo, người theo Kitô giáo là kẻ tà đạo,
phản loạn, do vậy, Kitô giáo bị chính quyền La Mã thẳng tay đàn áp [153, tr.119-120].
Để tồn tại, những người theo Kitô giáo đã gắn kết với nhau thành các nhóm nhỏ, gồm
những người nghèo khó trong các dòng người Do Thái lưu lạc, ly tán. Sinh hoạt đạo núp
bóng dưới các hình thức tôn giáo khác như Do Thái giáo, với mục đích né tránh sự kìm
kẹp của chính quyền La Mã cai trị [153, tr.120]. Trong quá trình phát triển, dần hình
thành các cộng đồng Kitô giáo lớn hơn, lấn át dần các tôn giáo khác và vượt ra khỏi vỏ
bọc của Do Thái giáo. Đến thế kỷ thứ II, bắt đầu xuất hiện những người truyền giáo
mang tính chuyên nghiệp và hình thành tổ chức giáo hội sơ khai [153, tr.120]. Thành
phần xã hội của Kitô giáo cũng dần thay đổi, ban đầu những người theo Kitô giáo chủ
yếu là dân nghèo, nô lệ và tầng lớp bần cùng của xã hội La Mã, sau xuất hiện cả tầng lớp
những người là trung lưu và thượng lưu của xã hội La Mã tham gia [153, tr.120-123].
Cùng với sự lớn mạnh của Đế quốc La Mã, Kitô giáo đã mở rộng địa bàn truyền
đạo ra khắp châu lục và dần trở thành một tôn giáo lớn, mang tính quốc tế. Trong quá
trình phát triển, Kitô giáo có ảnh hưởng chi phối tới mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội ở
Châu Âu, trong nhiều thế kỷ (16 thế kỷ, từ thế kỷ thứ II đến tận thế kỷ thứ XVII). Trong
quá trình phát triển Kitô giáo đã có những cuộc đại phân ly để hình thành những tôn giáo
khác có cùng nguồn gốc như: Chính Thống giáo (1054), Tin lành (1517), Anh giáo
(1543), và chính những biến cố này đã mang lại cho Kitô giáo truyền thống một tên gọi
mới là Công giáo. Tên gọi này có ý nghĩa là đạo phổ quát để phân biệt với các tôn giáo
khác có cùng nguồn gốc là Kitô giáo [153,tr.123-155].
Cho đến nay Công giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, có mặt ở hầu
hết các quốc gia trên phạm vi toàn thế giới. Theo thông cáo báo chí của Tòa Thánh
Vatican ngày 06/3/2019 về số dân Công giáo tính đến hết năm 2017 là 1.13 triệu người
chiếm 17,7% dân số toàn cầu (7.048 triệu người). Châu Mỹ là châu lục có đông tín đồ
nhất, với 625 triệu người, chiếm 63,8% trên tổng số 983 triệu dân; châu Á có số tín đồ
Công giáo là 141 triệu người, chiếm 3,3% của 4,3 tỷ dân; châu Phi có 222 triệu người
Công giáo, chiếm 19,2% dân số; châu Âu có 285 triệu tín đồ, chiếm 39,7% dân số và
châu Úc có 10 triệu tín đồ, chiếm tỷ lệ 26,36%. Theo thống kê của Giáo hội Công giáo,
tổng số Giám mục trên thế giới hiện nay là 5.353 vị, trong đó Giám mục Giáo phận là
37
4.063 vị, Giám mục thuộc các Dòng tu là 1,260 vị; số linh mục trên toàn thế giới hiện nay
là 414.969 người.
Toàn GHCG thế giới có 612 Tổng giáo phận; 2.117 giáo phận với cơ sở vật chất
gồm: 73.263 nhà trẻ; 96.822 trường tiểu học; 45.699 trường trung học; 116.185 cơ sở xã
hội; 5.034 bệnh viện; 16.627 trạm y tế; 611 trại phong; 15.518 viện dưỡng lão, cơ sở
chăm sóc người khuyết tật; 9.770 cô nhi viện; 12.082 viện điều dưỡng và 3.896 trung tâm
giáo dục xã hội trên toàn thế giới [81, tr.165-168].
2.1.2. Công giáo ở Việt Nam
2.1.2.1. Công giáo Việt Nam thời kỳ từ năm 1533 - 1884
Theo một số nguồn tài liệu cho thấy, Công giáo được một giáo sĩ phương Tây tên là
In-nê-khu truyền vào Ninh Cường và Quần Anh, huyện Nam Chấn và làng Trà Lũ, huyện
Giao Thuỷ thuộc tỉnh Nam Định ngày nay từ năm 1533 [81, tr.174-175]. Trong giai đoạn
này, đất nước ta đang tình trạng bị chia cắt, nội chiến tranh giành quyền lực kéo dài giữa
Nhà Trịnh với Nhà Mạc, Nhà Trịnh với Nhà Nguyễn, đời sống nhân dân hết sức khó
khăn, quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các quốc gia bên ngoài chủ yếu là các hương
liệu quý và mua sắm vũ khí phục vụ cuộc chiến tranh trong nước [81, tr.174].
Công cuộc truyền giáo vào Việt Nam thực sự đạt kết quả kể từ năm 1615 với các
thừa sai dòng Tên như: Francesco Buzomi đến Cửa Hàn, Quảng Nam; Alexandre de
Rhodes đến Cửa Bạng, Thanh Hoá (1627) [81, tr.174]. Tại những nơi đến, các thừa sai đã
lập Hội Thầy giảng để trợ giúp việc truyền giáo, phiên âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh
để soạn thảo kinh dạy giáo dân. Nhờ những kinh nghiệm thích nghi văn hóa của các thừa
sai truyền giáo tại Trung Quốc, Nhật Bản, khi đến Việt Nam truyền giáo các thừa sai đã
quan tâm đến việc học ngôn ngữ, tìm hiểu phong tục dân tộc Việt.
Những nỗ lực truyền giáo ở Việt Nam được đánh dấu bằng sự kiện: Giáo hoàng
Alexander VII với Tự sắc “Super Cathedram Principis” thiết lập ở Việt Nam hai giáo
phận đầu tiên và giao cho hai thừa sai thuộc Hội truyền giáo Paris làm đại diện Tông toà
ngày 9/9/1659 [81, tr.176]. Giáo phận Đàng Trong từ sông Gianh trở vào Nam gồm cả
phần đất Chân Lạp, giáo phận Đàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc bao gồm cả Lào và 5
tỉnh miền Nam Trung. Đến năm 1679 giáo phận Đàng Ngoài được chia làm 2: Tây Đàng
Ngoài và Đông Đàng Ngoài [81, tr.176].
Với những kết quả đạt được trong truyền đạo, năm 1844 Đức Giáo hoàng
Gregorius XVI đã ban sắc chỉ chia giáo phận Đàng Trong thành 2 giáo phận là: Giáo
38
phận Tây Đàng Trong (gồm 6 tỉnh Nam Kỳ và Cao Miên) và Đông Đàng Trong (Quy
Nhơn) [81, tr.209]; đến năm 1846, giáo phận Tây Đàng Ngoài được Giáo hoàng chia làm
2 giáo phận là: Tây Đàng Ngoài (Hà Nội) và giáo phận Nam Đàng Ngoài (Vinh). Đến
năm 1848, giáo phận Đông Đàng Ngoài được Giáo hoàng chia tách thành 2 giáo phận là:
Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng) và Trung Đàng Ngoài (Bùi Chu). Đến năm 1850, Giáo
hoàng lại chia địa phận Tây thành 2 địa phận là Tây Đàng Trong và địa phận Phnôm
Pênh; địa phận Đông Đàng Trong chia thành địa phận Bắc Đàng Trong và địa phận Đông
Đàng Trong. Tính đến 1850, ở Đông Dương có tất cả 8 địa phận Công giáo [153, tr.210].
2.1.2.2. Công giáo Việt Nam thời kỳ từ 1884 - 1954
Tháng 6/1884, Pháp bắt đầu chiếm thuộc địa toàn bộ Việt Nam, với sự ảnh hưởng
của thực dân Pháp, Công giáo đã có nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động truyền giáo
ở Việt Nam và được thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Truyền giáo Vatican.
Trong giai đoạn này nhiều Toà Giám mục, nhà thờ, chủng viện được xây mới, số
tín đồ Công giáo ở Việt Nam cũng ngày một tăng lên. Ngày 3/12/1924, Toà Thánh
Vatican đã ban hành sắc chỉ đổi tên các giáo phận tại Việt Nam theo địa hạt hành chính
nơi đặt các Toà Giám mục, đến năm 1925 Toà Thánh đã ban hành sắc chỉ thiết lập Toà
Khâm Sứ ở Đông Dương và đặt tại Phú Cam, Thừa Thiên Huế. Ngày 10/1/1933, Giáo
hoàng Piô XI ra sắc chỉ bổ nhiệm linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám
mục Hiệu toà, giữ chức Phó đại diện Tông Tòa với quyền kế vị Hạt Đại diện Tông Tòa
Phát Diệm, đây là Giám mục người Việt Nam đầu tiên của GHCG sau 400 năm Công
giáo được truyền vào Việt Nam. Đến năm 1934, các linh mục ở Việt Nam đã triệu tập
Cộng đồng Đông Dương tại Hà Nội, “Bàn về việc tiến tới thiết lập hàng giáo phẩm và
đào tạo giáo sĩ ở Việt Nam” với sự tham gia của 19 Giám mục, 5 Bề trên dòng tu và 21
linh mục cố vấn. Sau Cộng đồng Đông Dương, GHCGVN phát triển nhanh, đến năm
1939 có 16 giáo phận, 17 Giám mục, 1.544.765 giáo dân [11, tr.49].
Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, lợi dụng sự kiện này,
phản động trong và ngoài nước đã kích động, cưỡng ép giáo dân di cư vào Miền Nam.
Cuộc di cư có 72% linh mục, 40% giáo dân, 2000 nữ tu hơn 1000 chủng sinh miền Bắc
vào Nam. Vì vậy thời điểm này có nhiều tu viện, chủng viện vắng không còn người [11,
tr.49-50].
39
2.1.2.3. Công giáo Việt Nam thời kỳ từ 1954 - 1975
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, Công giáo Việt Nam có nhiều xáo trộn do sự chia cắt
của đất nước. Tại miền Bắc, do sự lôi kéo của chính quyền Ngô Đình Diệm, phần lớn các
linh mục di cư vào Nam, số ở lại chỉ còn khoảng 28%; số tín đồ Công giáo cũng di cư
theo các linh mục vào Nam khá nhiều, số ở lại khoảng 60%, các giáo phận Bắc Ninh,
Phát Diệm, Hải Phòng, Thái Bình và Bùi Chu có số lượng tín đồ Công giáo di cư vào
Nam rất đông. Trong giai đoạn này các hoạt động Công giáo ở miền Bắc hoạt động cầm
chừng do tình hình môi trường chính trị, kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi, mặt khác cũng
do thiếu người quản đạo, hướng dẫn các hoạt động, thực hiện lễ nghi và sinh hoạt Công
giáo.
Trái ngược với tình hình Công giáo tại miền Bắc, Công giáo miền Nam sau di cư
năm 1954 phát triển rất mạnh mẽ, cùng với đó là sự gia tăng về số tín đồ, nhiều nhà thờ
mới được xây dựng. Trước sự biến đổi mạnh mẽ đó năm 1955, Tòa Thánh đã ban hành
sắc chỉ thành Giáo phận Cần Thơ, đến năm 1957 thành lập Giáo phận Nha Trang. Ngày
24/11/1960, Giáo hoàng Gioan XXIII đã ban hành Sắc chỉ thiết lập hàng giáo phẩm
GHCGVN (Venerabilium Nostrorum), đến giai đoạn này, GHCGVN có 3 giáo tỉnh là Hà
Nội, Huế và Sài Gòn với 20 giáo phận; toàn Giáo hội có 23 Giám mục, 1.914 linh mục,
5.789 nam nữ tu sĩ, 1.530 chủng sinh [11, tr.50-51].
Đến năm 1975, sau sự kiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nuớc, GHCGVN
lại có nhiều biến động, nhiều chức sắc, tín đồ Công giáo ở miền Nam di cư ra nước
ngoài, lúc này Công giáo ở miền Nam chỉ còn 25 Giám mục, 2.000 linh mục, gần 7.500
tu sĩ [11, tr.50-51].
2.1.2.4. Công giáo Việt Nam thời kỳ từ 1975 đến 2004
Sau 1975, Giáo hội Công giáo ở 2 miền đã có nhiều hoạt động nhằm thống nhất
GHCGVN để ổn định, tạo các tiền đề cho bước phát triển tiếp theo. Với sự tạo điều kiện
của Chính phủ Việt Nam, ngày 24/4 đến 1/5/1980, cộng đồng Công giáo Việt Nam đã
long trọng tổ chức Đại hội toàn thể Giám mục tại TP. Hà Nội để bàn bạc, thảo luận công
việc của Giáo hội và việc thành lập một cơ quan lãnh đạo công tác của Giáo hội. Đến
ngày 1/5/1980, các Giám mục đã thống nhất ý kiến thành lập cơ quan Hội đồng Giám
mục Việt Nam (HĐGMVN) để lo việc Giáo hội. Tại Đại hội này, HĐGMVN đã xem xét,
thảo luận nhiều vấn đề quan trọng của Giáo hội và ra Thư chung kêu gọi đồng bào Công
giáo Việt Nam sống đạo gắn bó với dân tộc và đất nước, cùng đồng bào cả nước xây
40
dựng và bảo vệ Tổ quốc với đường hướng hoạt động “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc
để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Đây thực sự là một sự kiện đặc biệt quan trọng đối
với Công giáo Việt Nam sau gần 450 năm truyền giáo tại Việt Nam [11, tr.52].
HĐGMVN là một tổ chức tập hợp các giám mục đang thi hành nhiệm vụ tại các
giáo phận Việt Nam để cùng nhau tổ chức đời sống Giáo hội, hỗ trợ sứ vụ rao giảng Tin
Mừng và khai triển việc phục vụ các thiện ích cho cộng đồng Dân chúa trong tinh thần
liên đới, hiệp thông và tập thể. HĐGMVN là một tư cách pháp nhân trong GHCGVN, có
trụ sở 1 đặt tại Toà Giám mục Hà Nội, số 40 phố Nhà Chung, TP. Hà Nội và trụ sở 2 đặt
tại Trung tâm Công giáo, 72/12 Trần Quốc Toản, Quận 3, TP. Hồ Chí MInh. Thành viên
của HĐGMVN bao gồm tất các các giám mục giáo phận tại Việt Nam; các giám mục phó
và giám mục phụ tá của các giáo phận; các giám mục hiệu tòa, các nguyên giám mục tại
các giáo phận tại Việt Nam [81, tr.255-264]. HĐGMVN có cơ cấu tổ chức gồm 17 Uỷ
ban Giám mục đặc trách các vấn đề của Giáo hội gồm: Ủy ban Giáo lý Đức tin, Ủy ban
Kinh Thánh, Ủy ban Phụng tự, Ủy ban Nghệ thuật, Ủy ban Thánh nhạc, Ủy ban Loan báo
Tin Mừng, Ủy ban Giáo sĩ và Chủng sinh, Ủy ban Tu sĩ, Ủy ban Giáo dân, Ủy ban Mục
vụ Gia đình, Ủy ban Mục vụ Giới trẻ, Ủy ban Mục vụ Di dân, Ủy ban Bác ái xã hội, Ủy
ban Văn hóa, Ủy ban Truyền thông Xã hội, nhiệm kỳ XI, HĐGMVN còn có 2 ủy ban
khác là: Ủy ban Giáo dục Công giáo và Ủy ban Công lý và Hòa bình. HĐGMVN có Ban
Thường vụ Hội đồng, thành phần gồm các Giám mục chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng Thư
ký và Phó Tổng thư ký, nhiệm kỳ làm việc của Hội đồng là 3 năm, hàng năm thường tổ
chức 2 hội nghị thường niên [81, tr.160-163].
Sau Thư Chung 1980, hoạt động của cộng đồng Công giáo Việt Nam dần ổn định,
nhiều cơ sở thờ tự được mở cửa hoạt động trở lại. Với chính sách mở cửa, hội nhập quốc
tế và đảm bảo quyền tự do TNTG đổi mới của nhà nước quy mô tín đồ Công giáo ngày
một gia tăng. Tính đến năm 2004, GHCGVN có 5.572.525 tín đồ, trong đó đồng bào
DTTS là hơn 320 nghìn người. Toàn GHCGVN có 15.108 chức sắc và tu sĩ, trong đó có
40 giám mục, 2.339 linh mục triều, 432 linh mục dòng và 12.257 tu sĩ. Giáo hội có 5.456
nhà thờ, nhà nguyện; 6 Đại chủng viện 2797 chủng sinh (kể cả dự bị); hơn 100 linh mục
tu nghiệp ở nước ngoài; quản lý 130 cơ sở khám, chữa bệnh, điều dưỡng và 862 cơ sở
giáo dục, giáo dục nghề nghiệp [11, tr.56].
41
2.1.2.5. Công giáo Việt Nam từ 2004 đến nay
Năm 2004 Pháp lệnh TNTG ra đời, cùng với đó là hàng loạt các chính sách đổi mới
của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo, hoạt động của các tổ chức tôn
giáo nói chung và Công giáo nói riêng có nhiều chuyển biến rõ rệt. Điều này được thể
hiện ở các hoạt động Công giáo và ở các số liệu thống kê về quy mô giáo hội và số lượng
cơ sở thờ tự, cơ sở vật chất tôn giáo trong những năm gần đây.
Hiện nay Công giáo có mặt tại 63/63 tỉnh, thành trên phạm vi cả nước với 26 giáo
phận, trên 3.000 giáo xứ, khoảng 6.000 giáo họ, 150 dòng tu, với khoảng 7.500 linh mục,
02 Hồng y, 46 Giám mục, trên 15.000 tu sĩ nam, nữ và 09 cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức
sắc Công giáo: Học viện Công giáo Việt Nam và 08 Đại chủng viện. Theo kết quả điều
tra của Ban Tôn giáo Chính phủ đến hết năm 2017, Công giáo là tôn giáo có số lượng tín
đồ đứng thứ 2 ở Việt Nam, sau Phật giáo, với 7.063.712 tín đồ [13, tr.178-179].
Sau Pháp lệnh TNTG, và các Nghị định quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Pháp
lệnh TNTG; Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 về nhà, đất liên quan đến tôn giáo và
gần đây là Luật TNTG 2016 và Nghị định 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 về Quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật TNTG đời sống tâm linh, tinh thần
đồng bào Công giáo có nhiều chuyển biến tích cực. Giáo dân ngày càng có nhiều đóng
góp to lớn cho sự nghiệp của dân tộc. Phần lớn tín đồ Công giáo có ý thức công dân, ý
thức dân tộc tốt; những định kiến dần được xóa bỏ và đang cùng với đồng bào cả nước
phấn đấu cho sự nghiệp của dân tộc, đất nước.
Bên cạnh đó, hoạt động Công giáo trong những năm gần đây vẫn tiềm ẩn những yếu
tố phức tạp như: hoạt động tôn giáo trái pháp luật; xây dựng sơ sở thờ tự trái phép;
thuyên chuyển công tác linh mục không thông báo với chính quyền; khiếu kiện, khiếu nại
liên quan đến nhà đất Công giáo cũng ngày càng gia tăng và phức tạp hơn. Tính từ năm
1986 đến hết năm 2015 có 1.268 vụ việc khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến đất đai và
xây dựng cơ sở thờ tự trái phép, phần lớn các vụ kiện kéo dài từ 05 đến 10 năm [13,
tr.78-79]. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước đã và đang lợi dụng
chính sách tự do TNTG của nhà nước, những khiếu kiện liên quan đến đất đai, cơ sở thờ
tự, môi trường để kích động giáo dân ảnh hưởng đến trật tự, trị an của đất nước.
Có thể khẳng định, với trên 450 năm được truyền vào Việt Nam với nhiều thăng
trầm, biến động của lịch sử, Công giáo ban đầu là một tôn giáo hoàn toàn xa lạ, khác biệt,
đối lập với văn hóa, tín ngưỡng và tôn giáo truyền thống của dân tộc Việt, đến nay đã
42
phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những tôn giáo lớn ở Việt Nam. Trong quá trình
truyền bá và phát triển, Công giáo có những ảnh hưởng nhất định tới chính trị, kinh tế và
đời sống văn hóa của đất nước cả những mặt tích cực và những mặt chưa tích cực, điều
này được thể hiện rõ trong lịch sử truyền đạo tại Việt Nam. Đối với văn hóa - xã hội,
Công giáo đã tác động và làm thay đổi nhận thức, văn hóa và lối sống truyền thống của
một bộ phận người dân Việt Nam, ngược lại nền văn hóa truyền thống Việt Nam cũng có
những ảnh hưởng tới văn hóa Công giáo làm cho văn hóa Công giáo biến đổi, gần gũi và
phù hợp hơn với văn hóa truyền thống của người Việt Nam. Đón nhận những giá trị Công
giáo, người Công giáo Việt Nam thực sự yêu nước, kính Chúa, ngày càng đóng góp nhiều
hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, xây dựng văn hóa Công giáo ngày
càng đậm đà bản sắc dân tộc.
2.2. Công giáo và một số khái niệm có liên quan đến luận án
2.2.1. Công giáo và hoạt động Công giáo
2.2.1.1. Khái niệm Công giáo
Về khái niệm Công giáo, cho đến nay chưa thống nhất, theo Từ điển Tiếng Việt,
Công giáo là Thiên chúa giáo, người theo đạo Thiên chúa [150, tr.327], tuy nhiên khái
niệm này chưa nhận được sự đồng thuận của các học giả, nhà nghiên cứu tôn giáo, bởi vì,
nói tới Thiên chúa giáo là một khái niệm chỉ các tôn giáo có nguồn gốc từ Do Thái giáo
như: Công giáo, Tin lành, Anh giáo, Chính thống giáo,..
Từ điển Tôn giáo có giải thích: Công giáo là tên gọi của tôn giáo thờ Chúa Giêsu,
giáo lý rút ra từ nhiều phái Cứu thế ở vùng Đông Địa Trung Hải [68, tr.166-167].
Nhiều tài liệu khác nhau cho thấy, Công giáo là một tôn giáo có nguồn gốc từ vùng
Trung Cận Đông, ra đời trong lòng Đế quốc La Mã cổ đại cách đây trên 2000 năm. Thời
kỳ đầu, Công giáo được gọi là Kitô giáo, tuy nhiên sau nhiều lần chia tách, để phân biệt
tôn giáo này với Chính Thống giáo, Anh Giáo, Tin lành nên được gọi là Công giáo. Tên
gọi Công giáo có ý nghĩa là đạo phổ quát để phân biệt với các tôn giáo khác có cùng
nguồn gốc là Kitô giáo.
Khác với đạo Tin lành, Công giáo có giáo hội chung, thống nhất quản lý hoạt động,
sinh hoạt tôn giáo trên phạm vi toàn thế giới, được gọi là Tòa Thánh Vatican, trụ sở đặt
trong thành phố Roma, nước Ý. Đứng đầu Tòa Thánh là Giáo Hoàng, người “chăn bầy”
có quyền tối cao đối với GHCG trên phạm vi toàn thế giới.
Đối với Công giáo, Kinh Thánh có vị trí đặc biệt quan trọng, được xem là văn bản
43
linh ứng và trung thực; là mẫu mực tối cao của đức tin phải được tôn sùng và Kinh Thánh
được chuẩn mực cho mọi hành động. Công giáo tin vào Thiên chúa và sự mầu nhiệm của
Thiên chúa; Thiên chúa sáng tạo ra thế giới và muôn loài, Thiên chúa có 3 ngôi “Cha -
Con - Thánh Thần”, ba ngôi này đồng đẳng, đồng vinh và đồng quyền. Tín đồ Công giáo
tin Thiên chúa có trước đời đời, có sau đời đời, có trước cả không gian và thời gian.
Với những phân tích trên, tác giả quan niệm: Công giáo là một tôn giáo thế giới, ra
đời vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, ở phía Đông Đế quốc La Mã. Công giáo thờ
đức Chúa Giêsu Kitô, có Giáo hội chung cho toàn đạo là Giáo triều Vatican, đứng đầu
Giáo hội Công giáo là Giáo hoàng. Công giáo sử dụng Kinh Thánh làm văn bản linh ứng
cho mọi hoạt động tôn giáo, quản lý giáo hội bằng giáo luật.
2.2.1.2. Hoạt động Công giáo
Theo Điều 12, Khoản 11, Luật TNTG: Hoạt động tôn giáo được hiểu đó là hoạt
động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo [150]. Như
vậy, hoạt động Công giáo được hiểu là những hoạt động truyền bá Công giáo, sinh hoạt
Công giáo và quản lý tổ chức Công giáo.
Theo quy định của Luật TNTG 2016, hoạt động Công giáo bao gồm các nội dung
sau: Sinh hoạt Công giáo; thành lập, chia tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức Công giáo trực
thuộc; Phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn chức sắc, chức việc
và Thuyên chuyển chức sắc Công giáo; hoạt động mở trường đào tạo, lớp bồi dưỡng thần
học và tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng thần học; tổ chức hội nghị, lễ hội tôn giáo
hàng năm, tổ chức truyền đạo; hoạt động của chức sắc, tín đồ Công giáo có yếu tố nước
ngoài; các hoạt động liên quan đến xuất bản, giáo dục, y tế và các hoạt động nhân đạo từ
thiện; quản lý tài sản, đất đai, xây dựng liên quan đến Công giáo.
2.2.2. Tín đồ và chức sắc Công giáo
2.2.2.1. Tín đồ Công giáo
Theo Từ điển Tiếng Việt: Tín đồ là người theo một tôn giáo [150, tr.976], còn theo
giải thích nghĩa của Từ điển Tôn giáo: Tín đồ là những ai tin ở những gì một tôn giáo dạy
bảo và qua thủ tục nhập đạo [68, tr.633]. Còn tại Khoản 6, Điều 2, Luật TNTG 2016: Tín
đồ là người tin, theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo đó thừa nhận [116].
Với cách giải thích như trên, các tín đồ tôn giáo được hiểu đó là những con người
tin ở những giáo lý, giáo luật, lễ nghi của một tôn giáo và thực hành những quy định đó
một cách tự nguyện. Bên cạnh đó, họ phải trải qua một số các thủ tục gia nhập tổ chức
44
tôn giáo và được tổ chức tôn giáo đó thừa nhận là thành viên.
Như vậy, tín đồ Công giáo là những người tin vào giáo lý, giáo luật và lễ nghi
Công giáo, họ tự nguyện thực hành theo những quy định của giáo lý, giáo luật và lễ nghi
Công giáo; tín đồ Công giáo phải trải qua thủ tục nhập đạo và được các tổ chức Công
giáo thừa nhận. Thực tế người muốn gia nhập Công giáo, phải là người có niềm tin vào
giáo lý Công giáo, sự nhiệm mầu của Chúa Giêsu, họ phải trải qua khóa học giáo lý từ 3
đến 6 tháng (sau khóa học có kiểm tra, đánh giá), sau đó, được rửa tội và đặt tên Thánh,
như vậy họ đã trở thành tín đồ Công giáo.
2.2.2.2. Chức sắc Công giáo
Theo cách hiểu thông thường, chức sắc tôn giáo được hiểu là những người có phẩm
hàm và chức vụ trong tổ chức tôn giáo. Tại Khoản 8, Điều 2 Luật TNTG 2016, Chức sắc
tôn giáo là tín đồ được tổ chức tôn giáo phong phẩm hoặc suy cử để giữ phẩm vị trong tổ
chức [150]. Như vậy, chức sắc Công giáo là những tín đồ Công giáo, họ được phong
phẩm, ban chức Thánh; được bổ nhiệm vào các chức vụ để thực hiện các nhiệm vụ của
GHCG.
Giáo phẩm GHCG bao gồm các chức vụ: Giáo hoàng người chủ chăn tối cao của
toàn thể tín đồ Công giáo; Hồng y là phẩm tước cao quý đứng sau Giáo hoàng, họ nhiệm
vụ bầu Giáo hoàng và giúp Giáo hoàng cai quản GHCG; Tổng giám mục là chức vụ của
người đứng đầu Tổng giáo phận; Giám mục là chức Thánh phong cho người đứng đầu
giáo phận; Linh mục là người đứng đầu giáo xứ, có thể là người giúp việc cho Giám mục,
tòa giám mục hoặc hoạt động trong các dòng tu; Phó tế là người giúp việc cho các linh
mục tại các giáo xứ, dòng tu.
2.2.3. Giáo lý, giáo luật Công giáo
2.2.3.1. Giáo lý Công giáo
GHCG xem Kinh Thánh làm kinh điển cho toàn thể giáo hội, Kinh Thánh được xem
là bộ sách được xem là văn bản linh ứng và trung thực; là những lời mạc khải của Thiên
Chúa đối với loài người, là mẫu mực tối cao của đức tin do vậy Kinh Thánh được GHCG
đề cao và tôn sùng và nhiệm vụ của GHCG là rao giảng Kinh thánh khắp thế gian, mang
ý nghĩa “Thánh truyền” là sứ mệnh thiêng liêng của GHCG.
Kinh Thánh Công giáo gồm 2 bộ kinh sách, Cựu ước và Tân ước: Kinh Cựu ước là
bộ sách dã sử, được kế thừa những giáo lý của Do Thái giáo. Kinh Cựu ước có 46 quyển
và được chia thành 3 loại sách là: Sách Tiên tri, Sách lịch sử và Sách Văn thơ. Kinh Tân
45
ước có 27 quyển và được chia làm 4 loại: Sách Phúc âm (Tin mừng); Sách Công vụ; Sách
Thánh thư và Sách Khải huyền được ghi lại bởi các tác giả Luca, Mác cô, Ma Thê Ô và
Gioan. Nội dung Tân ước kể về cuộc đời, sự nghiệp, những lời rao giảng của Chúa Giêsu
và các Thánh Tông đồ đối với con người.
2.2.3.2. Giáo luật Công giáo
Để gìn giữ kỷ cương, trật tự của tổ chức mình, các tổ chức tôn giáo thường xây
dựng và đưa ra những luật lệ, quy định từ đơn giản đến phức tạp nhằm xử lý những tình
huống khác biệt, đối đầu, xung đột, mất ổn định bên trong và bên ngoài. Công giáo nổi
tiếng với Bộ Giáo luật Canon 1917 gồm 2.000 điều, khoản quy định chi tiết những cách
thức tổ chức và hoạt động, các chuẩn mực của GHCG cũng như vị trí, quyền hạn của các
phẩm trật GHCG,... Tuy nhiên, sau Cộng đồng Vatican II, trước sự phản ứng của các
Giáo hội cơ sở, Giáo triều Vatican đã phải sửa đổi Bộ luật này cho phù hợp với thực tiễn
hơn và đến năm 1983 thì được hoàn thành với 1725 điều. Như vậy, giáo luật Công giáo
được hiểu là tổng thể các quy tắc xử sự, thực hành giáo lý, lễ nghi Công giáo, có tính bắt
buộc chung đối với toàn đạo, do GHCG đặt ra, nhằm đảm bảo tính ổn định, kỷ cương
của Giáo hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của GHCG.
2.2.4. Lễ nghi và Bí tích Công giáo
Lễ nghi Công giáo được hiểu đó là những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu
hoặc kỷ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó đối với GHCG. Trong năm phụng
sự, Công giáo có nhiều ngày lễ, có thể chia thành 3 loại: lễ trọng (lễ buộc), lễ kính và lễ
nhớ (lễ không buộc). Trước đây Công giáo có 21 ngày lễ trọng trong năm, tuy nhiên để
đơn giản hóa, đỡ phức tạp hiện nay GHCG chỉ quy định còn 06 ngày lễ buộc, tất cả các
chức sắc và tín đồ GHCG phải thực hiện: Lễ Giáng sinh (Noel) 25/12; Lễ Phục sinh, kỷ
niệm Chúa Giêsu sống lại (từ 21/3 đến 25/4); Lễ Chúa Giêsu bay lên trời, sau lễ Phục
sinh 40 ngày; Lễ Đức Bà hồn xác lên trời ngày 15/8; Lễ các Thánh ngày 1/11 [68,
tr.364].
Phép Bí tích, theo giáo lý Công giáo những dấu hiệu “khả giác” do Chúa Giêsu
thiết lập để thông ban ân sủng một cách nhiệm mầu cho linh hồn và thánh hóa nội tâm
của con người. Đó là những phép Thánh mà nhân danh Chúa, các giáo sĩ làm cho tín đồ
Công giáo thừa nhận các nghi thức trong đời sống tôn giáo. Công giáo có 07 phép Bí
tích: bí tích Rửa tội; bí tích Thêm sức; bí tích Giải tội; bí tích Thánh thể; bí tích Hôn
phối; bí tích Truyền chức Thánh; bí tích sức dầu Thánh. Ngoài ra trong đời sống sinh
46
hoạt Công giáo còn xuất hiện các “Á Bí tích”: làm phép mồ, làm phép xác, làm phép
động thổ xây nhà, làm phép trợ giúp sinh nở,..[68, tr.86-87].
2.2.4. Quản lý và quản lý nhà nước
Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định rằng quản lý là một hoạt động thiết yếu, là một
trong những loại hình lao động quan trọng nhất chỉ có ở loài người. Quản lý tức là con
người đã nhận thức được những quy luật của thế giới quan và dựa vào những quy luật đó
để tác động tới các đối tượng quản lý để đạt được những mong muốn do con người đặt ra.
Theo Võ Kim Sơn:“quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể
lên các khách thể, nhằm đạt được các mục tiêu định trước”[119, tr.14].
Tìm hiểu về quản lý cho thấy có rất nhiều các khái niệm khác nhau về quản lý, tuy
nhiên nói tới hoạt động quản lý là chúng ta đề cập tới hoạt động của con người, hoặc của
các tập thể con người. Những người này bằng sức mạnh, quyền lực, địa vị hay uy tín của
mình tác động lên những nhóm đối tượng khác, nhằm áp đặt hay gây ảnh hưởng để
những đối tượng đó vận động, hoạt động, thực hiện theo những yêu cầu của họ, nhằm
hiện thực hóa những mục tiêu mong muốn nào đó.
Quản lý nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của các hình thái nhà nước, đó là sự
can thiệp của hệ thống tổ chức bộ máy cai trị của nhà nước đối với các mối quan hệ xã
hội và công dân bằng nhiều cách thức khác nhau như thông qua hệ thống pháp luật, bộ
máy, các quyết định quản lý, các quy tắc ứng xử trong các mối quan hệ xã hội. Quan
niệm QLNN được các tài liệu ở nước ta hiện nay sử dụng khá thống nhất và thường hiểu
theo hai nghĩa sau đây:
Theo nghĩa rộng, QLNN là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định pháp luật để điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội và hoạt động của con người trong xã hội ấy, QLNN là một dạng của
quản lý xã hội, là việc nhà nước bằng quyền lực và sức mạnh của mình để thực hiện các
chức năng của nhà nước đối với xã hội. Như vậy ở quan niệm này cho rằng kể cả các
hoạt động lập pháp (xây dựng pháp luật, ban hành Nghị quyết của Quốc hội, giám sát của
Quốc hội) và hoạt động của các cơ quan tư pháp bao gồm: Tòa án, Viện Kiểm sát cũng là
những hoạt động QLNN.
Hiểu theo nghĩa hẹp, QLNN là hoạt động sử dụng quyền lực nhà nước của các cơ
quan hành pháp, theo quy định pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và hoạt
động của con người trong xã hội ấy, QLNN là một dạng của quản lý xã hội. Như vậy với
47
cách hiểu này, QLNN có nội hàm giống hoạt động quản lý hành chính nhà nước, là hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước bao gồm Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang
bộ; hoạt động của các cơ quan Ủy ban nhân dân (UBND) và các cơ quan tham mưu giúp
việc cho UBND các cấp. Với cách hiểu này, hoạt động lập pháp và tư pháp không phải là
hoạt động QLNN.
Như vậy, dù được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì QLNN vẫn được hiểu đó
là một dạng quản lý xã hội, tức là có đối tượng quản lý là những con người có nhận thức,
có đặc điểm và có nhân cách riêng với các mối quan hệ xã hội vô cùng phức tạp, đan xen,
chồng chéo nhau.
Hoạt động QLNN là hoạt động của các cơ quan chức năng (nhà nước) và cá nhân có
thẩm quyền, được nhân dân bầu lên, được nhân dân, nhà nước giao quyền thực thi các
nhiệm vụ quản lý xã hội trên mọi lĩnh vực. Những tổ chức và cá nhân đó phải chịu trách
nhiệm trước các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và trước nhân dân trong việc thực
thi các nhiệm vụ được nhà nước ủy quyền.
Quyền lực của các cá nhân và các cơ quan nhà nước được quy định trong hệ thống
pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước và luật về cán bộ, công chức (CBCC). Đây là
những công cụ hữu hiệu để CBCC sử dụng, tác động vào các đối tượng quản lý, các quan
hệ xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu mong muốn của nhà nước.
Với những phân tích ở trên, theo tác giả: QLNN là hoạt động quản lý xã hội của các
các cơ quan chấp hành và điều hành (hành pháp) trong hệ thống bộ máy nhà nước, nhằm
thực hiện chức năng xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2.3. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về Công giáo
2.3.1. Quản lý nhà nước về tôn giáo
Với cách tiếp cận khái niệm QLNN ở trên, khái niệm QLNN về tôn giáo cũng có
thể được hiểu theo hai nghĩa như sau:
Nghĩa rộng: QLNN về tôn giáo là quá trình dùng quyền lực nhà nước (lập pháp,
hành pháp, tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật, nhằm điều
chỉnh, hướng dẫn các hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp
với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý nhà nước.
Nghĩa hẹp: QLNN về tôn giáo là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) để
48
điều chỉnh các hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của
pháp luật.
Với cách hiểu QLNN theo nghĩa rộng là hiểu quản lý trên toàn diện các nội dung
bao gồm việc thực hiện mọi quyền lực của nhà nước kể cả quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp, còn hiểu theo nghĩa hẹp thì nội hàm QLNN trùng với nội hàm quản lý hành
chính nhà nước, đó là công tác quản lý của bộ máy chấp hành và điều hành bao gồm:
Chính phủ và UBND các cấp.
Theo tác giả Hoàng Văn Chức, Quản lý nhà nước về tôn giáo là quá trình tác động,
điều hành, điều chỉnh để các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra đúng quy định của
pháp luật [51, tr.47].
Theo tác giả Vũ Thế Duy, QLNN đối với hoạt động tôn giáo là tổng thể các biện
pháp quản lý do các cơ quan chức năng và chính quyền thực hiện đối với các pháp nhân,
thể nhân và hoạt động của các tổ chức tôn giáo, nhằm đảm bảo các tổ chức và tín đồ tôn
giáo hoạt động tôn giáo đúng pháp luật, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của
công dân, đồng thời cũng nhằm phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi lợi dụng hoạt động
tôn giáo để làm việc trái pháp luật, xâm hại đến an ninh, trật tự của đất nước [55, tr.41].
Như vậy, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì QLNN về tôn giáo cũng là những công
việc, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền. Các cơ
quan QLNN này sử dụng quyền lực nhà nước để tác động tới các đối tượng quản lý trong
các tổ chức tôn giáo gồm: các chức sắc, tín đồ tôn giáo; đồ dùng đạo, những cơ sở vật
chất của tôn giáo; các hoạt động của các chức sắc, tín đồ tôn giáo,… để điều chỉnh hành
vi của chức sắc, tín đồ tôn giáo đúng chính sách, pháp luật, mong muốn của nhà nước.
Ngoài ra, việc QLNN về tôn giáo còn nhằm đảm bảo, bảo vệ quyền tự do TNTG của
nhân dân; bảo vệ các công trình, kiến trúc, cơ sở vật chất tôn giáo, đồng thời, cũng nhằm
phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi lợi dụng TNTG để làm ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội.
Theo quan niệm của tác giả: QLNN về tôn giáo là các cách thức, biện pháp tác
động của các cơ quan hành chính nhà nước tới các chức sắc, tín đồ và các tổ chức tôn
giáo, nhằm đảm bảo cho hoạt động của các chức sắc, tín đồ và tổ chức tôn giáo đúng
chính sách, pháp luật nhà nước, đảm bảo quyền tự do TNTG cho nhân dân, phòng ngừa
những hành vi lợi dụng tôn giáo để làm việc trái pháp luật, xâm phạm đến an ninh, trật
tự của đất nước.
49
2.3.2. Quản lý nhà nước về Công giáo
Như đã trình bày, phân tích ở trên, QLNN về tôn giáo là quá trình dùng quyền lực
nhà nước của các cơ quan chức năng theo quy định của pháp luật, nhằm điều chỉnh,
hướng dẫn các hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp
luật, đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.
Quản lý nhà nước về Công giáo đó là một bộ phận của công tác QLNN về tôn giáo.
Đó cũng là những cách thức, biện pháp tác động của các cơ quan hành pháp có thẩm
quyền và chính quyền các địa phương tác động tới các chức sắc, tín đồ, tổ chức Công
giáo và các hoạt động Công giáo. Những hoạt động đó được tiến hành dựa trên các quy
định của hệ thống pháp luật, chính sách nhà nước, đúng phạm vi thẩm quyền theo quy
định pháp luật nhà nước.
Mục tiêu QLNN về Công giáo không nhằm ngăn cấm, hạn chế hoạt động của các
tín đồ, chức sắc Công giáo mà nhằm hướng tới những mục tiêu cơ bản sau:
Thứ nhất, đảm bảo các hoạt động của Công giáo diễn ra bình thường, trong phạm vi
khuôn khổ của pháp luật. Những hoạt động của Công giáo được coi là bình thường là
những hoạt động của tín đồ, chức sắc Công giáo được thực hiện đúng theo Hiến chương,
Điều lệ, Quy định của tổ chức Giáo hội Công giáo, của Thư chung 1980 đã được Nhà
nước công nhận và phê duyệt. Những hoạt động tôn giáo của Công giáo và chức sắc, tín
đồ Công giáo phải nằm trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật Nhà nước về tôn giáo
của nhà nước Việt Nam.
Thứ hai, phát huy những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế, tiêu cực trong hoạt
động Công giáo của các chức sắc, tín đồ đối với các mặt của đời sống xã hội, tiến trình
phát triển của xã hội. Lịch sử phát triển Công giáo trên thế giới cũng đã cho thấy, bên
cạnh những ảnh hưởng tích cực đến các mặt của đời sống xã hội, Công giáo cũng như
những tôn giáo khác cũng có những ảnh hưởng chưa tốt đến các mặt của đời sống xã hội,
vì vậy nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước là cần phải có những tác động nhằm phát huy
những mặt tích cực, đồng thời phải có những giải pháp nhằm hạn chế những mặt hạn chế
đến đời sống xã hội của Công giáo.
Thứ ba, QLNN về Công giáo phải thực hiện được mục tiêu đoàn kết các dân tộc,
đoàn kết các tôn giáo; xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói: “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng
50
nhau xây dựng đời sống hòa thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc” [155, tr.128]. Có thể cho
rằng mục tiêu QLNN về tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng nhằm bảo vệ độc lập
dân tộc, xây dựng nền dân chủ, đảm bảo quyền của công dân trong đó có quyền tự do
TNTG, nói cách khác để có được quyền tự do TNTG chúng ta cần phải xây dựng khối
Đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Như vậy có thể hiểu khái niệm QLNN về Công giáo: là các cách thức, biện pháp
tác động của các cơ quan hành pháp nhà nước tới các chức sắc, tín đồ và các tổ chức
Công giáo, nhằm đảm bảo cho hoạt động của các chức sắc, tín đồ và tổ chức Công giáo
đúng chính sách, pháp luật, đảm bảo quyền tự do TNTG cho nhân dân, phòng ngừa
những hành vi lợi dụng Công giáo để làm việc trái pháp luật, xâm phạm đến an ninh, trật
tự của đất nước. 2.3.3. Chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước về Công giáo 2.3.3.1. Chủ thể quản lý nhà nước về Công giáo
Chủ thể quản lý nhà nước về xã hội đó là những tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
ban hành những quyết định quản lý, thể chế, chính sách trên lĩnh vực được giao phụ trách
và có quyền dựa trên những cơ sở pháp luật, chính sách và thẩm quyền, tác động tới hoạt
động của đối tượng và khách thể quản lý, nhằm điều chỉnh hoạt động của các đối tượng
quản lý theo pháp luật, chính sách và quy định của nhà nước. Như vậy, chủ thể QLNN về
Công giáo chính là những cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền, có chức năng,
nhiệm vụ QLNN nhà nước về TNTG. Ở nước ta chủ thể QLNN về tôn giáo nói chung và
Công giáo nói riêng bao gồm nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân khác nhau: Ở Trung
ương có Chính phủ, Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ, Vụ Công giáo (Ban Tôn giáo
Chính phủ); các bộ, cơ quan ngang bộ (chức năng phối hợp). Ở địa phương, các cơ quan
QLNN về TNTG gồm: UBND và các cơ quan chuyên môn của UBND các cấp; Sở Nội
vụ, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ cấp huyện và cán bộ phụ trách công tác tôn
giáo cấp xã.
Trách nhiệm của các chủ thể QLNN về tôn giáo được quy định tại Điều 61, Luật
TNTG 2016, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương và các
Nghị định, Quyết định, Thông tư hướng dẫn tổ chức thực hiện cụ thể:
- Chính phủ thống nhất QLNN về TNTG trong phạm vi cả nước, được quy định cụ
thể tại Luật Tổ chức Chính phủ 2015. Chính phủ có nhiệm vụ: xây dựng và trình Quốc
hội quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước; quản lý và tổ chức thực hiện chính
51
sách tôn giáo, bảo đảm quyền tự do TNTG theo hoặc không theo một tôn giáo nào của
công dân; bảo đảm sự bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật; chống mọi hành vi
xâm phạm tự do TNTG hoặc lợi dụng TNTG để vi phạm pháp luật. [119].
- Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ và hệ thống hành chính nhà
nước. Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị
của Chủ tịch nước. Điều 28, Chương III, Luật Tổ chức Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
có nhiệm vụ: chỉ đạo công tác của Chính phủ trong công tác TNTG; chỉ đạo việc xây
dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật về TNTG; phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí trong công tác tôn giáo. Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ lãnh đạo và
chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa
phương, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, liên tục của nền hành chính quốc gia [114].
- Theo quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ Nội vụ là cơ quan QLNN về
TNTG ở Trung ương. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Nội vụ trong QLNN về
tôn giáo được quy định tại Khoản 14, Điều 2, Nghị định 34/2017/NĐ-CP.
- Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ quan trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng tham mưu
giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ QLNN về lĩnh vực tôn giáo trong phạm vi cả nước và thực
hiện các dịch vụ công thuộc lĩnh vực tôn giáo theo quy định của pháp luật được quy định
tại Quyết định 32/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 03/8/2018 [134]. Vụ
Công giáo là tổ chức thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ, thực hiện chức năng tham mưu giúp
việc cho lãnh đạo Ban Tôn giáo Chính phủ trong việc QLNN về Công giáo trên phạm vi
cả nước. Vụ Công giáo không có tư cách pháp nhân, không có con dấu, không có tài
khoản. Vụ trưởng được ký thừa lệnh Trưởng Ban, các văn bản hướng dẫn, giải quyết,
thông báo các vấn đề liên quan đến Công giáo thuộc chức năng, nhiệm vụ của Vụ.
- Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện
QLNN về TNTG theo quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Chính quyền
địa phương, Luật TNTG và các Nghị định hướng dẫn thi hành.
- UBND có nhiệm vụ quyết định biện pháp thực hiện chính sách tôn giáo trong
phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo đảm quyền bình đẳng giữa các tôn giáo, quyền
tự do TNTG trên địa bàn tỉnh. Quyết định bộ máy, tổ chức và biên chế cơ quan QLNN về
tôn giáo trên địa bàn. Chủ tịch UBND có nhiệm vụ chỉ đạo lãnh đạo, công tác QLNN về
TNTG; phê duyệt các kế hoạch thực hiện nhiệm vụ QLNN về tôn giáo; chỉ đạo việc thực
52
thi chính sách, pháp luật nhà nước về TNTG trên địa bàn theo Luật Tổ chức Chính quyền
địa phương 2015 [115].
- Ngoài các chủ thể trên các cơ quan: Dân vận, Ủy Ban mặt trận Tổ quốc và các
thành viên; cơ quan Công an, Bộ đội Biên phòng, Ngoại giao là các chủ thể có nhiệm vụ
phối hợp với các cơ quan QLNN về tôn giáo trong việc thực thi công tác tôn giáo, đây
không phải là các cơ quan QLNN về tôn giáo [116].
2.3.3.2. Đối tượng quản lý nhà nước về Công giáo
Đối tượng QLNN về Công giáo đó là những hoạt động, sinh hoạt tôn giáo; những
hoạt động hành chính đạo của các chức sắc, tín đồ Công giáo, những hoạt động này chịu
ảnh hưởng bởi những tác động của chủ thể QLNN và những tác động đó định hướng, chi
phối tới hoạt động của các đối tượng QLNN của Công giáo.
Có thể hiểu, đối tượng QLNN đối với những hoạt động Công giáo là các quá trình
của hoạt động, các quan hệ của Công giáo và các hành vi hoạt động của chức sắc, tín đồ
Công giáo, những người hoạt động trong tổ chức Công giáo.
Như vậy, đối tượng QLNN về Công giáo bao gồm:
- Các tổ chức Công giáo: HĐGMVN, các giáo phận, giáo xứ, giáo họ; các dòng tu
Công giáo; các tổ chức đoàn thể Công giáo.
- Tín đồ và chức sắc Công giáo;
- Công trình kiến trúc của Công giáo: các công trình kiến trúc và các cơ sở vật chất
khác được dùng cho việc tổ chức chức các hoạt động Công giáo: Tòa Giám mục, nhà thờ,
nhà nguyện, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng; các trường học, bệnh viện, phòng khám; các
cơ sở từ thiện nhân đạo; các công trình phụ trợ cho hoạt động Công giáo, sinh hoạt, thực
hiện lễ nghi Công giáo.
- Đồ dùng đạo, đó là những vật dụng, được sử dụng trong việc tuyên truyền, giảng
đạo; các vật dụng khác được thực hiện trong việc biểu hiện đức tin và các lễ nghi Công
giáo như: kinh sách, tượng, bài vị, tranh ảnh, kèn, trống, các ấn phẩm khác.
- Quản lý đất đai có liên quan đến Công giáo.
- Các hoạt động, sinh hoạt Công giáo bao gồm: những hoạt động nhằm truyền bá,
thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, đối ngoại, giáo dục đào tạo, hoạt động văn hóa, từ
thiện nhân đạo, xây dựng cơ sở thờ tự,... và quản lý tổ chức của tổ chức Công giáo.
53
2.3.4. Nội dung quản lý nhà nước về Công giáo
Nội dung QLNN về tôn giáo được quy định cụ thể tại Điều 60, Luật TNTG 2016,
bao gồm các nội dung: Xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
TNTG; quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về TNTG; tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật về TNTG; tổ chức nghiên cứu khoa học
trong lĩnh vực TNTG; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; thanh tra, kiểm
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật; quản lý quan hệ quốc tế trong
lĩnh vực TNTG [116].
Nội dung QLNN về Công giáo là những hoạt động của các cơ quan chức năng, các
cá nhân có thẩm quyền tiến hành đối với các tổ chức, pháp nhân, chức sắc, tín đồ Công
giáo. Hoạt động này được tiến hành với mục đích đảm bảo quyền tự do TNTG cho nhân
dân, giữ gìn sự ổn định của xã hội, phát huy những yếu tố tích cực của Công giáo để phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia. Mặt khác, việc quản lý Công giáo cũng nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những
hành vi lợi dụng Công giáo để làm việc trái pháp luật ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của
đất nước.
Nội dung QLNN đối với hoạt động của Công giáo ở nước ta được xác định trên hai
nguyên tắc: (1) Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ thuần túy tổ chức bộ máy
của các tổ chức Công giáo; (2) Tổ chức, cơ sở, chức sắc, tín đồ Công giáo đều phải hoạt
động tôn giáo trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật của nhà nước và chịu sự quản lý
của nhà nước.
Tìm hiểu những tài liệu nghiên cứu QLNN về tôn giáo như: QLNN về Tôn giáo,
Dân tộc (Hoàng Văn Chức); Công tác QLNN về TNTG (Nguyễn Thanh Xuân); QLNN
đối với hoạt động của đạo Tin lành (Vũ Thế Duy); Công tác QLNN về TNTG (Ban Tôn
giáo Chính phủ) cho thấy QLNN về Công giáo bao gồm những nội dung cụ thể sau:
Một là: xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) về
tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng. Nội dung của việc xây dựng, ban hành và
hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của Công giáo gồm các
công việc:
- Nghiên cứu và rà soát các VBQPPL đã có để điều chỉnh, hoàn thiện, sửa đổi, bổ
sung các văn bản pháp luật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành;
54
- Tham mưu, đề xuất nâng cấp, sửa đổi các văn bản do Chính phủ, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội ban hành;
- Phối hợp với các cơ quan có chức năng thuộc các bộ, ngành để rà soát, chỉnh sửa,
xây mới hoặc ban hành các VBQPPL hướng dẫn thi hành pháp luật có liên quan đến tôn
giáo nói chung và Công giáo nói riêng;
- Rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện và thay thế những văn bản dưới luật do
Chính phủ, Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ, UBND các cấp ban hành nhằm điều
chỉnh tổ chức và hoạt động của Công giáo;
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hướng dẫn thực thi pháp luật, bao
gồm các văn bản hướng dẫn, các chương trình tuyên truyền, hướng dẫn; các khóa tập
huấn hướng dẫn thi hành pháp luật cho cán bộ, công chức và các chức sắc, tín đồ Công
giáo.
Hai là: quy định tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo nói chung và Công giáo nói
riêng từ Trung ương đến cơ sở. Thực tế hiện nay ở nước ta không có bộ máy chuyên
trách từ Trung ương tới địa phương làm nhiệm vụ QLNN về Công giáo ngoài Vụ Công
giáo thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ, mà chỉ có các cơ quan có thẩm quyền chung QLNN
về TNTG (trong đó có Công giáo) là Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ
(cấp tỉnh), Phòng Nội vụ (cấp huyện), nội dung này bao gồm các hoạt động sau:
- Xác định mô hình, thứ bậc tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo ở Trung ương và
địa phương, trong đó có bộ phận QLNN về Công giáo, trực thuộc các cơ quan QLNN về
TNTG các cấp;
- Tham mưu Thủ tướng Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Ban
Tôn giáo Chính phủ; quy định chức năng, nhiệm vụ của Vụ Công giáo; tham mưu Bộ Nội
vụ quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo trực thuộc Sở Nội
vụ; bộ phận làm công tác tôn giáo của Phòng Nội vụ;
- Xây dựng cơ chế phối hợp các cơ quan, tổ chức QLNN về tôn giáo các cấp;
- Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức bộ máy QLNN
về tôn giáo các cấp;
- Tham mưu với Bộ Nội vụ các văn bản phân cấp QLNN về tôn giáo.
Ba là, phổ biến, giáo dục pháp luật có liên quan đến Công giáo, nội dung này bao
gồm:
55
- Xây dựng các chương trình, kế hoạch phổ biến tuyên truyền văn bản pháp luật có
liên quan đến Công giáo;
- Hướng dẫn thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật có liên quan
đến Công giáo cho các cơ quan, tổ chức và CBCC trong hệ thống chính trị nhà nước;
- Tổ chức thực hiện phổ biến tuyên truyền, giáo dục pháp luật có liên quan đến
Công giáo cho đối tượng là CBCC làm công tác TNTG;
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp
luật có liên quan đến Công giáo của các địa phương.
Bốn là: tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về Công giáo, nội dung này bao
gồm các công việc cụ thể sau:
- Quản lý thành lập, chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức Công giáo;
- Quản lý việc thành lập, giải thể các trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những
người chuyên hoạt động trong lĩnh vực thần học;
- Quản lý việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi
nhiệm chức sắc trong các tổ chức Công giáo;
- Quản lý việc thuyên chuyển nơi hoạt động của chức sắc Công giáo;
- Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của Công giáo các cấp;
- Quản lý các giảng đạo, truyền đạo của các tổ chức, chức sắc Công giáo ngoài cơ
sở Công giáo;
- Quản lý việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình Công giáo, công trình phụ
trợ thuộc cơ sở Công giáo;
- Quản lý các hoạt động giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ
chức Công giáo;
- Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến
Công giáo mang yếu tố nước ngoài.
Năm là, đào tạo, bồi dưỡng CBCC làm công tác có liên quan đến QLNN về Công
giáo. Xây dựng đội ngũ CBCC thực thi công vụ trong lĩnh vực QLNN về tôn giáo nói
chung và Công giáo nói riêng. Thực tế hiện nay, chúng ta không thể xây dựng đội ngũ
CBCC chuyên trách QLNN về Công giáo mà chỉ xây dựng đội ngũ CBCC QLNN về
TNTG, tuy nhiên trong phân công CBCC theo vị trí việc làm, có những cán bộ được
giao nhiệm vụ chuyên trách QLNN về Công giáo. Việc xây dựng đội ngũ CBCC QLNN
56
về tôn giáo các cấp hiện nay theo tinh thần 01 CBCC có thể làm việc ở nhiều vị trí việc
làm khác nhau. Nội dung của công tác này bao gồm những vấn đề cụ thể sau:
- Xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo nói
chung và Công giáo nói riêng;
- Xác định quy mô đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo các cấp, trong đó có CBCC
QLNN về Công giáo; định biên cho bộ máy QLNN về tôn giáo nói chung và Công giáo
nói riêng các cấp;
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ của
CBCC QLNN về tôn giáo.
- Xây dựng và ban hành các tiêu chí, tiêu chuẩn CBCC QLNN về tôn giáo, những
tiêu chuẩn nội dung vị trí việc làm của CBCC;
- Căn cứ vào Luật Công chức và các văn bản hướng dẫn thực hiện xây dựng các
chương trình tuyển dụng, sử dụng và quản lý CBCC trong hệ thống QLNN về tôn giáo,
trong đó có tính toán về số lượng, tỷ lệ, cơ cấu CBCC QLNN về Công giáo;
- Thực hiện các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng CBCC QLNN về Công giáo;
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đối với CBCC QLNN về
Công giáo.
Sáu là: thanh tra, kiểm tra và giải quyết những khiếu nại, tố cáo, xử lý những vi
phạm pháp luật liên quan đến Công giáo. Đấu tranh phòng, chống các hành vi lợi dụng
Công giáo xâm phạm đến an ninh, trật tự, phá hoại khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Nội
dung cụ thể của hoạt động này bao gồm:
- Thanh tra, kiểm tra việc thực thi các pháp luật, chính sách, quy định trong QLNN
đối với hoạt động của tôn giáo nói chung và của Công giáo nói riêng, của đội ngũ CBCC;
- Tiếp thu những đơn thư và giải quyết những khiếu nại, tố cáo liên quan đến chính
sách pháp luật và việc chấp hành và thực thi các chính sách, pháp luật về tôn giáo và
Công giáo;
- Xử lý những vi phạm chính sách, pháp luật về tôn giáo theo quy định pháp luật;
- Tăng cường các hoạt động đối thoại, tiếp xúc giữa chính quyền với các tổ chức
Công giáo nhằm tiếp thu trực tiếp những kiến nghị, đề xuất của giáo dân và chức sắc
Công giáo.
- Tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân cảnh giác trước các hành vi lợi dụng
hoạt động Công giáo để phá hoại khối Đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm hại đến an ninh
57
quốc gia và trật tự an toàn xã hội; những hành vi lợi dụng, lôi kéo giáo dân vi phạm các
quy định pháp luật của nhà nước;
- Xây dựng các kế hoạch, phương án đấu tranh phòng chống các hành vi lợi dụng
hoạt động Công giáo của một số chức sắc, tín đồ Công giáo cực đoan xâm hại đến an
ninh, trật tự. Có kế hoạch phân loại những đối tượng, chức sắc, tín đồ Công giáo có hành
vi lợi dụng hoạt động Công giáo, phá hoại những thành quả cách mạng mà Đảng và chính
quyền các cấp xây dựng được.
Bảy là, quản lý các quan hệ quốc tế có liên quan đến Công giáo. Đây là một vấn đề
hết sức phức tạp, bao gồm các nội dung cụ thể sau:
- Quản lý quan hệ quốc tế của các tổ chức Công giáo trong nước: đối ngoại, quan hệ
với Tòa Thánh Vatican; quan hệ với các tổ chức tôn giáo quốc tế của các tổ chức Công
giáo trong nước;
- Quản lý những hoạt động của chức sắc, tín đồ Công giáo có liên quan đến yếu tố
nước ngoài: ra nước ngoài học tập, bồi dưỡng thần học; tham dự các sự kiện tôn giáo
quốc tế; các hoạt động nghiên cứu thần học; đi du lịch, thăm người thân; khám chữa bệnh
ở nước ngoài;
- Quản lý hoạt động của những chức sắc, tín đồ Công giáo người nước ngoài tại
Việt Nam: sinh hoạt Công giáo, truyền đạo, tìm hiểu vấn đề tôn giáo Việt Nam,..;
- Quản lý các hoạt động từ thiện, nhân đạo có liên quan đến yếu tố nước ngoài;
- Quản lý các hoạt động phong linh mục, giám mục, hồng y của các tổ chức Công
giáo Việt Nam.
2.3.5. Nguyên tắc quản lý nhà nước về Công giáo
2.3.5.1. Chấp hành mọi chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước, đảm bảo mọi người đều bình đẳng trước Hiến pháp và pháp luật
Nguyên tắc đầu tiên, cơ bản đối với mọi hoạt động quản lý và điều hành của các cơ
quan nhà nước trên mọi lĩnh vực là phải chấp hành mọi chủ trương, đường lối lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, bởi vì theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Nhà
nước, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mọi hoạt động của đất nước bao gồm từ lĩnh
vực kinh tế, văn hóa - xã hội đến quốc phòng và an ninh trong đó có công tác TNTG. Mặt
khác, việc QLNN về Công giáo của các cơ quan hành chính nhà nước là phải chấp hành
đúng chính sách, pháp luật nhà nước, đảm bảo quyền tự do TNTG cho nhân dân, được
quy định tại Hiến pháp 2013: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
58
pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ” [112].
Mục tiêu quản lý xã hội là đảm bảo cho mọi người đều bình đẳng trước Hiến pháp
và pháp luật của nhà nước, đây là một mục tiêu của đại đa số các nước dân chủ trên thế
giới, Việt Nam không phải là trường hợp ngoại lệ. Điều này được cụ thể trong Hiến pháp
Việt Nam trải qua các thời kỳ và hiện nay đều ghi nhận những quyền đó của nhân dân:
“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”[112]. Mục tiêu quản lý xã hội của Nhà nước
nhằm đảm bảo tính công bằng, bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân, tổ chức, tín
đồ, chức sắc tôn giáo. Tính công bằng, bình đẳng trong quản lý nhà nước đối với hoạt
động của Công giáo được quy định tại Luật TNTG 2016: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng
trước pháp luật”[116].
2.3.5.2. Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân
Tín ngưỡng, tôn giáo là một sản phẩm tinh thần và là nhu cầu thiết yếu của xã hội,
sản phẩm tinh thần này xuất hiện và nảy sinh trở thành một bộ phận không thể thiếu ở
mọi cộng đồng dân tộc trên thế giới từ nhiều đời nay. Hiện tượng TNTG này còn tiếp tục
tồn tại và phát triển trong điều kiện còn tồn tại nhưng nguyên nhân nảy sinh và xã hội còn
phân chia giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc”[6].
Niềm tin vào TNTG là một dạng niềm tin đặc biệt rất khó áp đặt và cũng rất khó
tước đoạt, nó hình thành và phát triển một cách tự nhiên và tồn tại như là một hiện tượng
khách quan của hiện thực đời sống xã hội. Mục tiêu QLNN về Công giáo là nhằm đảm
bảo quyền tự do TNTG, đảm bảo quyền của người dân, điều này có nghĩa là đảm bảo
quyền con người được tự do, tự nguyện hướng tới một TNTG nào đó, đồng thời con
người đó cũng có quyền khước từ, từ bỏ một niềm tin TNTG nếu thấy nó không còn phù
hợp với bản thân. Tự do TNTG cũng đồng nghĩa với việc không chấp nhận sự độc tôn
hoặc tham vọng thôn tính, loại bỏ của tôn giáo này đối với các tôn giáo khác, càng không
thể áp đặt hay loại bỏ thông qua quyền lực chính trị hay mệnh lệnh hành chính.
59
Quyền tự do TNTG là một trong những quyền cơ bản của con người, được Hiến
pháp và pháp luật nhà nước thừa nhận và ký Công ước quốc tế 1982. Mọi hoạt động
QLNN đối với hoạt động tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng phải đảm bảo những
quyền cơ bản, bất khả xâm phạm đó.
2.3.5.3. Thống nhất giữa quản lý tôn giáo và quản lý, phát triển văn hóa, gìn giữ, bảo
tồn, phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc
Đối với các tôn giáo mới du nhập, muốn tồn tại và phát triển ở một quốc gia, một
dân tộc khác đều phải thích nghi với truyền thống văn hóa dân tộc, chấp nhận một số các
phong tục, tập quán, truyền thống của dân tộc và dần bị dân tộc hóa, do vậy, tôn giáo trở
thành một bộ phận của văn hóa dân tộc.
Thực tiễn Việt Nam cho thấy, ở một số cộng đồng người, một số địa phương khi
xuất hiện tôn giáo mới xâm nhập thường có các hiện tượng xung đột văn hóa, xã hội:
xung đột giữa một bên là những giá trị tôn giáo văn hóa mới và một bên là những giá trị
văn hóa truyền thống; xung đột giữa một bên là thay đổi, chấp nhận những cái mới với
một bên là bảo tồn, gìn giữ những giá trị cũ. Yêu cầu đặt ra là làm sao phải tiếp thu
những giá trị văn hóa mới có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại, đồng thời
cũng phải bảo tồn gìn giữ và phát huy được những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc
theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như những tôn giáo khác, Công giáo có nhiều giá trị tích cực đối với đời sống xã
hội, song bên cạnh đó cũng ẩn chứa hiện tượng văn hóa chưa tích cực, đó là những hủ tục
lạc hậu, mê tín di đoan, thương mại hóa, hiện tượng “buôn thần, bán thánh”, lợi dụng
Công giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm phạm an ninh, trật tự của đất
nước. Chính vì những lí do trên, trong QLNN về Công giáo vừa phải đảm bảo quyền tự
do TNTG vừa phải thỏa mãn những yêu cầu của công tác quản lý văn hóa - xã hội, đồng
thời cũng nhằm loại bỏ những hiện tượng phản văn hóa trong sinh hoạt Công giáo.
2.3.5.4. Đảm bảo tính hài hòa giữa lợi ích Công giáo với lợi ích cộng đồng, lợi ích dân
tộc và quốc gia
Thực tiễn của đời sống xã hội, một chức sắc, tín đồ Công giáo tham gia vào nhiều
quan hệ xã hội khác nhau, mỗi quan hệ xã hội này có những lợi ích và mục đích khác
nhau. C.Mác cũng khẳng định rằng bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội. Trong một tổ chức xã hội thường xuất hiện nhiều lợi ích khác nhau đan xen, nhiều
khi triệt tiêu lẫn nhau vì lợi ích của tổ chức này đạt được là thất bại của tổ chức kia.
60
Trong hoạt động QLNN về Công giáo có những lợi ích đối với các cá nhân và tổ
chức Công giáo khác nhau vì vậy yêu cầu đặt ra với các cấp, các cơ quan quản lý nhà
nước đối với Công giáo là làm sao phải hài hòa các lợi ích giữa những người theo Công
giáo với lợi ích những người không theo Công giáo; giữa những giáo dân với những tín
đồ của các tôn giáo khác; hài hòa lợi ích giữa tổ chức giáo hội Công giáo Việt Nam với
lợi ích chính quyền, cộng đồng dân tộc, quốc gia; phải đảm bảo thỏa mãn hài hòa lợi ích
quốc gia với cộng đồng tôn giáo quốc tế.
Đối với các chức sắc, tín đồ Công giáo phải tuyên truyền vận động, thuyết phục họ
đặt lợi ích của bản thân trong lợi ích tổ chức Công giáo. Việc thực hiện tốt nguyên tắc
này là nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống sinh
hoạt tôn giáo tại địa bàn dân cư, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối
với hoạt động của Công giáo.
2.3.5.5. Những lợi ích Công giáo chính đáng, đúng pháp luật, hợp pháp của các tổ chức
Công giáo phải được tôn trọng và đảm bảo
Quyền tự do TNTG là một trong những quyền cơ bản của con người và được pháp
luật nhà nước bảo hộ, không ai được xâm hại đến quyền đó. Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Đảng và nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết các dân
tộc, chính sách đoàn kết các tôn giáo. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý
do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt
động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động
chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia”[6].
Hiến pháp Việt Nam quy định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” [112]. Đảng và Nhà nước ta khẳng định đảm bảo
quyền tự do TNTG cho mọi người, nhưng cũng sẽ nghiêm trị những hành vi vi phạm các
quy định về quyền tự do TNTG của nhân dân: “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm
pháp luật về TNTG hoặc lợi dụng TNTG để vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”[116].
Quyền tự do TNTG không phải là vô hạn mà phải được giới hạn trong phạm vi
Hiến pháp và pháp luật của nhà nước, bởi vì quyền của tín đồ, cộng đồng tôn giáo này
khi tự do hóa hoàn toàn và không bị giới hạn, trong phạm vi hoạt động sẽ xâm phạm đến
61
quyền, lợi ích của tín đồ, tổ chức tôn giáo khác. Tự do TNTG ở đây là sự tự do theo và
không theo một tôn giáo, tự do hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam.
Vì những lí do trên đây nên nhà nước phải có trách nhiệm quản lý và điều chỉnh
hoạt động của các chức sắc, tín đồ, tổ chức Công giáo, đảm bảo các hoạt động của Công
giáo trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật nhà nước, không xâm hại đến quyền và lợi
ích của các tổ chức cá nhân khác, không làm ảnh hưởng đến an ninh và trật tự xã hội.
2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo và giá trị tham chiếu đối với các
tỉnh, thành phố thuộc Đông Nam Bộ
2.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo ở nước ngoài và Việt Nam
2.4.1.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo của Trung Quốc
Cũng giống như Việt Nam, Trung Quốc là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, có
nhiều tôn giáo nội sinh như: Khổng giáo, Nho giáo, Lão giáo và các TNTG mang tính
dân gian,.. Bên cạnh đó cũng có những tôn giáo ngoại sinh như: Phật giáo, Công giáo,
Tin lành. Mặc dù có rất nhiều tôn giáo khác nhau, nhưng Chính phủ Trung Quốc chỉ công
nhận 5 tôn giáo: Phật giáo, Đạo giáo, Islam giáo, Công giáo và đạo Tin lành. Theo thống
kê của các cơ quan chức năng, hiện Trung Quốc có khoảng 300 triệu tín đồ tôn giáo; hơn
3000 đoàn thể tôn giáo được nhà nước công nhận; trên 300.000 chức sắc; hơn 85.000 cơ
sở tôn giáo; 74 trường đào tạo chức sắc tôn giáo [62, tr.191; 162, tr.11-21].
Trong những năm đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng và nhà nước Trung Hoa đã
có những chuyển biến tích cực trong nhận thức vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo, điều
này được thể hiện trong “Văn kiện số 19/1982” của Ban Chấp hành Trung ương Trung
Hoa với quan điểm: Tôn giáo còn tồn tại lâu dài trong thời kỳ XHCN, khi có đủ điều kiện
khách quan tôn giáo mới tiêu vong. Chính sách cơ bản về tôn giáo là: Tôn trọng và bảo
vệ tự do TNTG, công dân có quyền tự do TNTG và không TNTG, có quyền cải đạo, hoặc
bỏ đạo. Đây là những cơ sở, nền tảng cho tư tưởng của Giang Trạch Dân và Đảng Cộng
sản Trung Quốc sau này là định hướng cho công tác tôn giáo của nhà nước Trung Quốc
với 3 quan điểm then chốt [62, tr.193-194]: (1) quán triệt một cách toàn diện và đúng đắn
của chính sách tự do TNTG của Đảng; (2) dựa vào pháp luật để tăng cường quản lý đối
với các sự vụ tôn giáo; (3) tích cực dẫn dắt tôn giáo thích ứng với CNXH.
Có thể khẳng định những thành tựu mà Trung Quốc đã đạt được trong giải quyết
những vấn đề tôn giáo trong những năm qua là rất lớn, tuy nhiên những thách thức và
phức tạp trong vấn đề tôn giáo vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh trật
62
tự ở Trung Quốc như: Chủ nghĩa ly khai của Phật giáo Tây Tạng; Islam giáo và chủ
nghĩa tôn giáo cực đoan ở Tân Cương; vấn đề Giáo hội tư gia của Tin lành và vấn đề
“Giáo hội ngầm” của Công giáo Rôma. Trung Quốc cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề
khác mà chưa có phương thức giải quyết dứt điểm như: quan hệ giữa Phật giáo Đại thừa
và Đạo giáo không hòa hợp trong vấn đề xây dựng và quản lý các cơ sở thờ tự; nhiều tôn
giáo khác đang tìm cách để nhà nước Trung Quốc công nhận tư cách pháp nhân; chưa có
quy định quản lý các tín ngưỡng dân gian; hoạt động của các đoàn thể tôn giáo đang có
những vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến trật tự xã hội; các hiện tượng tôn giáo mới và tài
sản, đất đai tôn giáo. Nghiên cứu thực trạng Giải quyết vấn đề tôn giáo - kinh nghiệm
Trung Quốc cho thấy, các kinh nghiệm của Trung Quốc trong giải quyết vấn đề tôn giáo
trong những năm qua đó là:
Thứ nhất, tôn trọng đời sống TNTG của nhân dân, không thể dùng những mệnh
lệnh hành chính để triệt tiêu tôn giáo, để ép buộc người có TNTG từ bỏ TNTG của mình;
có chính sách đảm bảo quyền tự do TNTG cho nhân dân và bài học đối với Phật giáo Tây
Tạng trong những năm từ 1950 đến 1980 và Tân Cương hiện nay là một ví dụ. Cần xác
định tôn giáo là một hiện tượng tất yếu của xã hội và còn tồn tại lâu dài trong thời kỳ xây
dựng XHCN [62, tr.196-214].
Thứ hai, không được phân biệt đối xử đối với người có TNTG, thực hiện chính
sách tôn giáo gắn với chính sách dân tộc. Tạo điều kiện cho chức sắc, tín đồ các tôn giáo
thực hiện các nghi lễ tôn giáo theo truyền thống như: được hành hương đến Thánh địa
Meeca, cầu kinh hàng ngày và được sở hữu Kinh Coran, do bị phân biệt đối xử, nên các
chức sắc, tín đồ tôn giáo có cảm giác bị bỏ rơi, kỳ thị, dễ bị các thế lực thù địch bên ngoài
lợi dụng, kích động, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự đất nước như những sự kiện ở
Tây Tạng tháng 3/2008 và Tân Cương tháng 5/2009 [62, tr.196-217].
Thứ ba, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo mở rộng quan hệ quốc tế, quan hệ
liên tôn giáo. Do thực hiện chính sách: “giáo hội độc lập, tự chủ, tự biện” nên Trung
Quốc tự bầu giám mục tự phong linh mục mà không thông qua Vatican theo phong trào
tự tuyển, tự phong nên bị Tòa Thánh Vatican phản đối, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến
Vatican đã phong Thánh cho một số đối tượng tội phạm nghiêm trọng ở Trung Quốc làm
tổn thương đến quan hệ giữa Tòa Thánh với Chính phủ Trung Quốc [62, tr,219-224].
Thứ tư, coi trọng việc xây dựng lý luận và xây dựng pháp luật nhà nước về tôn
giáo và quản lý tôn giáo; hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, không khuyến
63
khích phát triển tôn giáo cũng không triệt tiêu tôn giáo. Tôn giáo được tồn tại ở Trung
Quốc nhưng phải phục vụ mục đích chính trị, mục đích dân tộc, đất nước.
Thứ năm, thực hiện quan điểm tích cực dẫn dắt tôn giáo thích ứng với CNXH
mang màu sắc Trung Quốc; tăng cường bồi dưỡng trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ
QLNN về tôn giáo; bồi dưỡng lực lượng yêu nước trong các tổ chức tôn giáo.
Thứ sáu, Trung Quốc chưa thực sự coi trọng ngoại giao tôn giáo để giữ sự ổn
định trật tự bên trong đối với những tổ chức tôn giáo chịu sự chi phối của những thế lực
bên ngoài.
2.4.1.2. Vấn đề Công giáo ở Philippines và mối quan hệ giữa Công giáo với nhà nước
Philippines
Giống như Việt Nam, Philippines là một quốc gia ở khu vực Đông Nam Á và là một
quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Công giáo du nhập vào Philippines từ năm 1521, trải qua
gần 5 thế kỷ, đến nay Philippinnes là quốc gia có cộng đồng tín đồ Công giáo đông nhất ở
khu vực châu Á và đứng thứ 2 trên toàn thế giới sau Braisil [121, tr.64]. Theo một số tài
liệu, Philippines có khoảng 85% dân số (khoảng 90 triệu) là người Công giáo, sinh hoạt tôn
giáo tại 60 giáo khu, trong đó có một số giáo khu có trên một triệu tín đồ: Manila, Lingaen,
Dagupan, Cêbu, Bakolog. Philippines có 13 tổng giám mục, 02 hồng y, 47 giám mục,
khoảng 4000 - 5000 tu sĩ. Cả nước có có 1700 xứ đạo, với gần 2000 trường học các cấp,
khoảng 1.800 tu sĩ theo học ở các chủng viện, trường đại học Tổng hợp Công giáo
Philippines có số lượng sinh viên lên tới gần 7 vạn người [121, tr.65].
Nghiên cứu Công giáo Philippines cho thấy, trong lịch sử gần 500 năm du nhập và
phát triển, Công giáo đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ, to lớn đến mọi mặt đời sống xã
hội tại Philippines. Trong thời kỳ là thuộc địa của Tây Ban Nha, Nhà thờ và thực dân có
mối quan hệ khăng khít, phụ thuộc và thống nhất với nhau, đây cũng là thời kỳ giáo lý
Công giáo, đức tin Công giáo ảnh hưởng mạnh mẽ tới lối sống của người Philippines
[121, tr.67]. Sự thống nhất giữa thần quyền và nhà nước được thể hiện ở việc Philippines
hình thành nên 2 hệ thống quyền lực chi phối tới các quan hệ xã hội là: quan chức dân sự
và giáo sĩ Công giáo, công việc của họ đan xen, chồng chéo nhau, thậm chí có trường
hợp vừa có quyền lực chính trị, vừa có quyền lực tôn giáo. Chính do không có sự phân
định rõ ràng nên có sự can thiệp của GHCG Philippines, các chức sắc Công giáo tới các
công việc của nhà nước. Trong lịch sử, thực dân Tây Ban Nha chịu mọi chi phí cho sự
quản lý và phát triển tín đồ Công giáo ở Philippines, ngược lại, GHCG Philippines có
64
trách nhiệm bảo vệ quyền lợi cho thực dân Tây Ban Nha, giúp thực dân quản lý xã hội,
củng cố quyền lực chính trị. Chức sắc Công giáo tại Philippines còn có vai trò cố vấn cho
nhà vua Tây Ban Nha, là trợ lý cho tỉnh trưởng trong việc điều hành xã hội, trong nhiều
trường hợp Giám mục thay mặt nhà vua trị vì Philippines. Tại các địa phương linh mục là
thầy giáo dạy học, soạn thảo hồ sơ, là người thu thuế, giám sát việc sửa chữa cầu đường,
tạo lập các luật lệ và cũng chính các linh mục là người lãnh đạo nhân dân chống lại các
cuộc tấn công của người Môrô từ phía Nam. Có thể khẳng định trong khoảng 400 năm trị
vì của thực dân Tây Ban Nha, Công giáo đã luôn hiện diện bên cạnh nhà nước
Philippines và có quyền lực rất to lớn do nhà nước Philippines được xây dựng theo mô
hình cộng hòa Công giáo, tính thế tục không cao [121, tr.68].
Mặc dù Hiến pháp của Philippines từ 1946 đến nay đều có điều khoản tách biệt giữa
nhà nước và giáo hội, tuy nhiên, trên thực tế Công giáo vẫn can thiệp vào tình hình chính
trị, chi phối hoạt động điều hành của đất nước và giữ vai trò quan trọng trong việc ủng hộ
các cá nhân hay đảng phái chính trị trong bầu cử và điều hành đất nước, cũng như lật đổ
chế độ chính trị.
Năm 1986 các tổ chức Công giáo Philippines đã lãnh đạo nhân dân tiến hành biểu
tình, lật đổ chế độ độc tài của Tổng thống Ferdinand Marcos. Sau giai đoạn này đất nước
Philippines đã chuyển đổi chế độ chính trị từ độc tài sang dân chủ với bốn đời tổng
thống. Trong những biến chuyển đó, các tổ chức tôn giáo, tiêu biểu là GHCG và Giáo hội
Độc lập Iglesia ni Cristo, đóng vai trò quan trọng trong việc ủng hộ là chỗ dựa cho các
đời tổng thống.
Nghiên cứu về những ảnh hưởng của GHCG tới nhà nước Philippines, trước tiên là
phải nói tới vai trò của các chức sắc Công giáo. Tổng Giám mục Sin và các giám mục
khác làm nòng cốt cho phong trào dân sự, đóng vai trò quan trọng trong lịch sử
Philippines qua nhiều đời tổng thống [92, tr.43-45].
- Trong cuộc tổng tuyển cử ngày 07/2/1986, không đồng ý với kết quả bầu cử, Hội
đồng giám mục Philippines và Tổng giám mục Sin đã kêu gọi đông đảo dân chúng, một
số nhân vật chính trị và quân đội biểu tình tuần hành, làm nên cuộc Cách mạng Nhân dân
lần thứ nhất, buộc nhà độc tài Ferdinand Marcos phải từ chức và thừa nhận bà Corazon
C. Aquino là Tổng thống Philippines [92, tr.43].
Năm 2001, Tổng thống Joseph Estrada không những không thực hiện được những
chương trình hứa hẹn cải thiện cuộc sống của người nghèo, lối sống xa xỉ, tham nhũng,
65
đánh mất tình cảm và sự ủng hộ của dân chúng Philippines. GHCG đã vận động tín đồ và
nghiệp đoàn xuống đường biểu tình từ ngày 17/1 đến ngày 20/1/2001, làm nên cuộc Cách
mạng Nhân dân lần thứ hai, buộc Joseph Estrada đã phải từ chức. Tổng Giám mục Sin
tuyên bố: “Vì những vụ bê bối bôi nhọ hình ảnh tổng thống trong hai năm gần đây,
chúng tôi kiên quyết buộc tội ông ta không đủ tư cách đạo đức để điều hành đất
nước”[92,tr.43]. GHCG và các nghiệp đoàn lần thứ hai đã đưa Gloria Macapagal Arroyo
lên nắm quyền và quan hệ của bà với người đứng đầu GHCG được duy trì tốt.
Những nỗ lực cải cách Hiến pháp từ 1987 qua nhiều đời tổng thống đến năm 2005
đã không thành công vì sự chống đối kịch liệt của Hội đồng Giám mục Philippines.
Trước sự yếu kém của chính phủ của Tổng thống Gloria Macapagal Arroyo, GHCG và
các tổ chức tôn giáo khác đều bày tỏ sự bất bình họ yêu cầu bà phải từ chức vì sự vi
phạm các quyền tự do dân sự cũng như sự trấn áp chính trị [92, tr.44].
Sự can thiệp của tôn giáo vào chính trị Philippines vẫn được duy trì cho đến nay,
thể hiện rõ nét trước hết ở sự ủng hộ đắc lực của GHCG đối với Tổng thống Benigno
Simeon Aquino. Ngay sau khi trúng cử, Tổng Giám mục Manila Gaudencio Rosales cùng
các giám mục khác đã cử hành một buổi lễ long trọng mừng sự kiện với sự tham gia của
của hàng chục nghìn người tại Thánh đường Manila. HĐGM Philippines đã trình lên
Tổng thống một Chương trình 13 điểm định hướng cho Tổng thống tiến hành cải cách về
đạo đức và xã hội, chú trọng đến người nghèo trong nhiệm kỳ của mình với các trọng tâm
là: cải cách nông nghiệp toàn diện; bác bỏ dự luật sức khỏe sinh sản, hôn nhân đồng tính,
phá thai, ly hôn và thuốc ngừa thai; vấn đề tái định cư cho các gia đình dân nghèo thành
thị; thực hiện các biện pháp ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em [92, tr.44].
Cho đến hiện nay, trong nhiệm kỳ của Tổng thống Duterte, GHCG và các chức sắc
Công giáo ở Philippines cũng đã nhiều lần can thiệp vào các hoạt động của Chính phủ,
đặc biệt là những vấn đề liên quan đến chiến dịch phòng, chống ma túy, khủng bố của
Tổng thống. Tổng thống Duterte cũng nhiều lần lên tiếng cáo buộc về việc GHCG
Philippines đang tìm cách cản trở hoạt động của chính phủ và có âm mưu lật đổ chế độ.
Sự tách biệt giữa Nhà nước và Giáo hội ở Philippines đã không được tuân thủ trong
những năm qua, nguyên nhân dẫn đến sự can thiệp của tôn giáo vào chính trị Philippines
gồm: thứ nhất, mô hình không tách biệt Giáo hội - Nhà nước Châu Âu thời Trung cổ; thứ
hai, sự đa dạng mục đích khác nhau của các tổ chức tôn giáo; thứ ba, khủng hoảng xã hội
làm mất lòng tin của quần chúng; thứ tư, các chính phủ được tôn giáo hậu thuẫn để chiến
66
thắng tạo cho những người đứng đầu tổ chức tôn giáo tâm lý và quyền can thiệp vào chính
trị; thứ năm, là sự yếu kém của nhà nước và các chính đảng ở Philippines đã tạo những
khoảng trống cho tổ chức Công giáo và quân đội can thiệp vào chính trị. Sự can thiệp của
Công giáo vào chính trị Philippines mang tính hai mặt, vừa là sự ủng hộ, vừa là mối đe dọa
đối với nhà nước. Khi chính phủ còn dựa vào thế lực Công giáo để có được sự hậu thuẫn
thì vai trò của GHCG này còn in đậm trong chính trường Philippines và những xung đột
căng thẳng trong xã hội ở quốc gia này vẫn luôn tiềm ẩn [92, tr.45].
2.4.1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về Công giáo ở Việt Nam giai đoạn 1945 đến nay
Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam từ 1945 đến nay, Đảng và Nhà nước ta
đã luôn coi trọng Công giáo và công tác Công giáo. Có thể khẳng định trong một số giai
đoạn lịch sử dân tộc, vấn đề tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu là vấn đề Công giáo, như thời
kỳ 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, ngay cả khi đất nước thống nhất và những
năm gần đây Công giáo vẫn là những vấn đề đáng chú ý, song dưới sự lãnh đạo của
Đảng, với đường lối chính sách, pháp luật phù hợp, đúng đắn của Nhà nước ngày càng
hoàn thiện và sự nỗ lực, cố gắng của hệ thống các cơ quan làm công tác tôn giáo, cho nên
tình hình hoạt động của các chức sắc, tín đồ Công giáo ở nước ta ngày càng ổn định,
đúng pháp luật của nhà nước; đồng bào Công giáo ngày càng tin tưởng vào Đảng, chính
quyền, đồng lòng góp sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, “đồng hành cùng dân tộc đất
nước”, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tổng kết hơn 70 năm kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết vấn để
Công giáo ở Việt Nam cho thấy, để thực hiện tốt nhiệm vụ QLNN về tôn giáo chúng ta
cần quan tâm đến một số nội dung sau [62, tr.139-190]:
Thứ nhất, phải có những quan điểm, đường lối đúng đắn, phù hợp với mỗi thời kỳ
lịch sử; xử lý mềm dẻo, linh hoạt quan hệ tôn giáo và dân tộc theo chiến lược “Lương -
Giáo đoàn kết” để đi đến mục tiêu đại đoàn kết dân tộc, chống ngoại xâm, giành độc lập
dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, nhà nước quản lý tôn giáo nói chung và công giáo nói riêng bằng pháp
luật; không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để đảm bảo quyền tự do
TNTG, quản lý tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng.
Thứ ba, cần quan tâm tạo điều kiện cho Công giáo hoạt động bình thường, theo
chính sách, pháp luật của nhà nước; không can thiệp vào những vấn đề nội bộ của các tổ
67
chức Công giáo; tạo điều kiện cho chức sắc, tín đồ và các tổ chức Công giáo mở rộng
quan hệ quốc tế đặc biệt là với Tòa Thánh Vatican.
Thứ tư, xây dựng chính sách tôn giáo gắn với chính sách dân tộc; không phân biệt,
đối xử với chức sắc, tín đồ Công giáo; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn
kết tôn giáo; chủ động, phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống những hành vi lợi
dụng TNTG để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ năm, thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền và thuyết phục tín đồ, chức sắc Công
giáo, nội dung tuyên truyền tập trung vào chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
trên mọi lĩnh vực, đặc biệt liên quan đến TNTG.
Thứ sáu, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào tôn giáo nói chung và
Công giáo nói riêng. Giúp đồng bào, giáo dân xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tốt chính
sách an sinh xã hội ở vùng giáo.
2.4.2. Giá trị tham chiếu cho các tỉnh, thành phố thuộc Đông Nam Bộ
Qua tìm hiểu thực tiễn QLNN về tôn giáo ở Trung Quốc, tình hình Công giáo ở
Philippines, tổng kết kinh nghiệm QLNN về Công giáo của Đảng, Nhà nước ta qua 70
năm, để thực hiện tốt nhiệm vụ QLNN về Công giáo trên địa bàn ĐNB cần quan tâm tới
một số kinh nghiệm sau:
- Xác định tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng là một hiện tượng xã hội, còn
tồn tại lâu dài và đồng hành cùng dân tộc, đất nước. Đối với mọi tôn giáo nói chung và
Công giáo nói riêng, nhà nước cần phải xây dựng và thực hiện chính sách đảm bảo quyền
tự do TNTG cho bộ phận người dân có đạo, không sử dụng các biện pháp mệnh lệnh
hành chính để hạn chế hay triệt tiêu tôn giáo.
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về TNTG, tăng cường công tác bồi
dưỡng CBCC QLNN về tôn giáo các cấp. Tăng cường phát huy vai trò của Công giáo
trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Nhất quán xây dựng mô hình nhà nước theo chế độ dân chủ, pháp quyền XHCN,
tách biệt hoạt động nhà nước với các tổ chức tôn giáo nói chung và Công giáo nói
riêng. Có kế hoạch phòng, ngừa sự can thiệp của các tổ chức Công giáo và các tôn giáo
khác vào các hoạt động chính trị, xã hội ở các địa phương. Đặc biệt, cần sàng lọc,
khoanh vùng các đối tượng chức sắc Công giáo có tư tưởng bất mãn, có hành vi phá
hoại chính quyền gây mất ổn định xã hội để có biện pháp cảm hóa, giáo dục phù hợp.
68
- Chính quyền các cấp phải nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng, tín
đồ, không dựa vào sức mạnh của các tổ chức tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng
để gia tăng ảnh hưởng về mặt chính trị, vận động, bầu cử, tranh cử. Thực hiện tốt công
tác phòng chống tham nhũng, lãnh phí và những biểu hiện suy thoái, biến chất ở một bộ
phận cán bộ, đảng viên.
- Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào Công giáo.
- Tạo điều kiện cho các chức sắc, tín đồ Công giáo, các cơ sở Công giáo hoạt động
bình thường theo đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước. Đẩy mạnh phong trào thi
đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc,
Công giáo ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào Công giáo, tự giác và phối hợp đấu
tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề Công giáo để phá
hoại đoàn kết dân tộc, chống phá chế độ.
- Hướng dẫn các cơ sở, tổ chức Công giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; đấu tranh làm thất bại những luận điệu tuyên
truyền, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch bên ngoài đối với tình hình Công
giáo và công tác Công giáo ở nước ta.
- Chủ động đối thoại với các chức sắc, người đại diện của các tổ chức Công giáo
các cấp; giải quyết tốt những vấn đề liên quan đến nhà đất Công giáo. Xây dựng, củng cố
đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo các cấp, chú trọng phát triển lực lượng nòng cốt trong
vùng giáo.
- Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, của địa phương về công
tác Công giáo, QLNN về Công giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn,
góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách trước mắt và lâu dài đối với Công giáo.
69
Tổng kết chương 2
Kết quả nghiên cứu Chương 2, Luận án đã đạt được một số nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, Chương 2 đã trình bày khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của
Công giáo trên thế giới và tình hình Công giáo thế giới hiện nay. Nghiên cứu cho thấy
Công giáo ra đời vào thế kỷ thứ nhất Công nguyên, ở vùng Đông Địa Trung Hải, trong
lòng Đế Quốc La Mã cổ đại; hiện Công giáo có khoảng hơn 1,1 tỷ tín đồ, có mặt ở hầu
hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Công giáo du nhập vào Việt Nam từ năm
1533, trải qua nhiều thời kỳ khác nhau với những biến cố lịch sử, đến nay Công giáo đã
trở thành tôn giáo lớn thứ 2 tại Việt Nam với hơn 7,1 triệu tín đồ, sau Phật giáo.
Thứ hai, nội dung Chương 2, nghiên cứu sinh đã xây dựng được hệ thống các khái
niệm liên quan đến luận án: Công giáo, hoạt động Công giáo; chức sắc, tín đồ Công giáo;
giáo lý giáo luật Công giáo; lễ nghi, Bí tích Công giáo và khái niệm QLNN.
Thứ ba, Chương 2 luận án đã xây dựng được hệ thống những cơ sở lý luận QLNN
về Công giáo: khái niệm QLNN về tôn giáo và QLNN về Công giáo; chỉ ra các chủ thể
và đối tượng QLNN về Công giáo; làm sáng tỏ những nội dung QLNN về Công giáo ở
Việt Nam gồm: (1) xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật về tôn giáo; (2) xây dựng tổ
chức bộ máy QLNN về tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng; (3) tổ chức tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tôn giáo; (4) tổ chức triển khai chính sách, pháp
luật đối với các hoạt động Công giáo; (5) xây dựng đội ngũ CBCC QLNN về Công giáo;
(6) thanh tra, kiểm tra và đấu tranh phòng, chống các hành vi lợi dụng Công giáo; (7)
quản lý hoạt động quốc tế của các tổ chức, chức sắc, tín đồ Công giáo.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu lý luận đã xác định được những nguyên tắc cơ bản trong
QLNN về Công giáo trên địa bàn ĐNB trong giai đoạn hiện nay.
Thứ năm, tìm hiểu thực tiễn QLNN về tôn giáo ở Trung Quốc; vấn đề Công giáo
Philippines; nghiên cứu kết quả đạt được trong công tác đối với Công giáo của Đảng và
Nhà nước ta hơn 70 năm, luận án đúc kết một số kinh nghiệm có giá trị tham chiếu cho
QLNN đối với hoạt động của Công giáo trên địa bàn ĐNB trong giai đoạn tới.
70
Chương 3.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG GIÁO
TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔNG NAM BỘ
3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội địa bàn Đông Nam Bộ
3.1.1. Về vị trí địa lý
Đông Nam Bộ là vùng đất rộng lớn nằm về phía Đông Nam của Việt Nam, bao gồm
các tỉnh, thành: Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Hồ Chí
Minh và Tây Ninh. Đây là khu vực địa chiến lược về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc
phòng của cả vùng Nam Bộ, trải dài từ cao nguyên Trung Bộ đến một phần Đồng bằng
sông Cửu Long. Đông Nam Bộ có vị trí trung tâm chính trị, kinh tế phía Nam của cả
nước, là đầu mối giao thương không chỉ các tỉnh phía Nam mà còn với các nước trong
khu vực và trên thế giới. ĐNB có vị trí địa lý phía Bắc giáp Tây Nguyên, phía Tây Nam
giáp Đồng bằng sông Cửu Long và Campuchia; phía Đông Bắc giáp với Duyên hải Nam
Trung Bộ và phía Đông Nam tiếp giáp biển Đông.
Diện tích tự nhiên của Đông Nam Bộ là 23.564 km2, chiếm 7,3 % diện tích cả nước,
chủ yếu là vùng đồng bằng và đất đỏ bazan, tài nguyên thiên nhiên phong phú, thuận lợi
cho phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là các nguồn tài nguyên du lịch, hải sản, cảng biển,
đất đai, dầu khí và khí đốt thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội [137, tr.33-39].
Đông Nam Bộ có 6 đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
với 72 đơn vị hành chính cấp huyện gồm: 19 quận, 5 thành phố thuộc tỉnh, 8 thị xã và 40
huyện; ĐNB có 872 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 374 phường, 33 thị trấn và
465 xã [137, tr.33-39].
3.1.2. Về kinh tế xã hội
Đông Nam Bộ là khu vực có tốc độ phát triển kinh tế nhất Việt Nam, đóng góp hơn
2/3 tổng thu ngân sách hàng năm của quốc gia, là khu vực có tỷ lệ đô thị hóa trên 50%,
trong đó ba trung tâm đô thị lớn là Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí
Minh có mức đô thị hoá cao và nhanh nhất với 57,1%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh
theo hướng CNH, HĐH; trình độ phát triển kinh tế tương đối cao và vượt trước nhiều mặt
so với các vùng, miền trong cả nước. Các ngành công nghiệp chủ yếu trong vùng là nhiên
liệu (dầu mỏ) chiếm 28,5% giá trị công nghiệp của vùng; công nghiệp thực phẩm 27,5%;
dệt may 10,9%; hoá chất, phân bón, cao su 10,2%. Sản xuất công nghiệp của vùng chiếm
gần 20% giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước. Ngành cơ khí, điện tử tuy có tỷ trọng
71
không cao nhưng đã thu hút 10% lao động công nghiệp của cả vùng. Các sản phẩm công
nghiệp của vùng hướng vào hàng xuất khẩu (thuỷ, hải sản, may mặc), hàng tiêu dùng và
hàng thay thế nhập khẩu (phân bón, hoá chất).
Các khu vực công nghiệp, khu chế xuất được xây dựng tăng trưởng nhanh, chiếm tỉ
trọng lớn nhất trong GDP của vùng; cơ cấu sản xuất cân đối, bao gồm công nghiệp nặng,
công nghiệp nhẹ và chế biến lương thực, thực phẩm. Một số ngành công nghiệp đang
hình thành và phát triển như dầu khí, điện tử, công nghệ cao. ĐNB cũng là vùng trồng
cây nông nghiệp quan trọng của cả nước các cây như: cao su, lạc, đậu, điều,... là thế
mạnh của vùng. Ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng, ngành đánh bắt thủy
sản trên các ngư trường đem lại nguồn lợi lớn về kinh tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của khu vực này dẫn đầu cả nước nổi bật ở các
tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu với nhiều
dự án trọng điểm lên tới hàng tỷ USD.
3.1.3. Về dân số xã hội
Đông Nam Bộ có quy mô dân số khoảng 17 triệu người, mật độ trung bình là 711
người/ km2 là khu vực có mật độ dân cư đông thứ 2 cả nước chỉ sau Đồng bằng Sông
Hồng, chiếm 17% dân số Việt Nam, là vùng có tốc độ tăng dân số cao nhất nước, do thu
hút nhiều dân nhập cư từ các vùng khác đến sinh sống. Về lực lượng lao động, ĐNB là địa
bàn thu hút mạnh lực lượng lao động có chuyên môn cao, từ công nhân lành nghề tới các
kỹ sư, các nhà khoa học, các nhà kinh doanh. Sự phát triển kinh tế năng động càng tạo điều
kiện cho vùng có được nguồn tài nguyên chất xám lớn [137 tr.79-103].
Nằm ở trung tâm ĐNB, TP. Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất cả nước về diện tích và
dân số, đồng thời cũng là trung tâm công nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ lớn nhất
cả nước. Địa bàn ĐNB có sự tích tụ lớn về vốn và kỹ thuật, lại đang tiếp tục thu hút đầu
tư trong nước và quốc tế. Cơ sở hạ tầng ở đây phát triển tốt, đặc biệt là giao thông vận tải
và thông tin liên lạc.
Đông Nam Bộ là trung tâm kinh tế, chính trị của cả vùng phía Nam, có sức hút rất
lớn đối với nguồn nhân lực lao động không chỉ trong nước mà còn các nguồn lao động có
chất lượng cao từ nước ngoài đến cư trú, làm ăn, sinh sống và tham gia phát triển kinh tế
tại địa phương, đặc biệt là các tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương và TP.
Hồ Chí Minh, tứ giác phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam của Tổ Quốc.
72
Đông Nam Bộ cũng là địa bàn đa dạng về TNTG là một vùng đất đa tộc người, đa
tôn giáo; đây cũng là nơi gặp gỡ các TNTG sẵn có từ Bắc Bộ, Trung Bộ, đồng thời là cái
nôi sinh thành những TNTG mới. Nhiều tôn giáo quốc tế cũng du nhập vào khu vực này
từ khá lâu như: Đạo Bà la môn, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo và nhiều các tôn giáo có
tính quốc tế khác.
Tổng quan về điều kiện tự nhiên - xã hội cho thấy địa bàn ĐNB hiện nay cũng đặt
ra không ít khó khăn, phức tạp cho các cấp uỷ, chính quyền trong giải quyết các vấn đề
xã hội và những hoạt động TNTG, nhất là hoạt động lợi dụng tôn giáo chống lại Đảng và
Nhà nước ta của các thế lực thù địch trên địa bàn. Điều này đòi hỏi các cơ quan chức
năng cần có những tìm hiểu, nghiên cứu kỹ những tác động của điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội trước khi đưa ra các chủ trương, biện pháp QLNN về Công giáo trên địa bàn
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Công giáo và hoạt động Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
3.2.1. Khái quát về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
Công giáo trên địa bàn ĐNB là một trong hai tôn giáo lớn, có số lượng tín đồ đứng
thứ 2 sau Phật giáo với 2,36 triệu tín đồ (xem Bảng 3.1). Số lượng tín đồ Công giáo trên
địa bàn đông là do giáo dân di cư từ các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Hải
Dương vào năm 1954 và giáo dân ở các tỉnh miền Tây. Ngoài ra, còn có giáo dân Việt
kiều từ Campuchia trở về sau 1954. Đặc điểm cơ bản của các tín đồ Công giáo địa bàn
ĐNB thường sống tập trung, có mối quan hệ dòng họ, anh em ruột thịt. Cơ cấu Công giáo
trên địa bàn ĐNB rất chặt chẽ, tuân thủ sự chỉ đạo của Vatican và GHCGVN; được tổ
chức thành 4 giáo phận trong tổng số 10 giáo phận thuộc Tổng giáo phận TP. Hồ Chí
Minh, đó là: giáo phận TP. Hồ Chí Minh, Phú Cường, Xuân Lộc và Bà Rịa; dưới giáo
phận là các giáo hạt, giáo xứ, họ đạo, xóm và khu đạo, có thể khái quát qua một số những
nét cơ bản sau:
- Các tỉnh, thành phố thuộc ĐNB đều nằm trong Giáo tỉnh TP. Hồ Chí Minh, do địa
giới hành chính các tỉnh không trùng với địa giới các giáo phận nên có những đơn vị
hành chính cấp tỉnh quản lý giáo dân của vài giáo phận.
- Giáo phận TP. Hồ Chí Minh có địa giới gồm 23 đơn vị hành chính cấp quận,
huyện thuộc Thành phố không bao gồm huyện Củ Chi, khoảng 2.093,7 Km2. Tòa Tổng
Giám mục TP. Hồ Chí Minh, số 180, Nguyễn Đình Chiểu, P6, Q3, TP. Hồ Chí Minh [81,
tr.817-868].
73
- Giáo phận Phú Cường bao gồm địa giới hành chính của 4 tỉnh, thành phố: Tây
Ninh, Bình Dương, Bình Phước (trừ 2 huyện Bình Long và Lộc Ninh), Huyện Củ Chi,
(TP. Hồ Chí Minh), diện tích giáo phận khoảng 9.553,35 Km2. Tòa Giám mục Phú
Cường đặt tại số 104 Lạc Long Quân, P. Phú Cường, TP. Thủ Dầu Một, Bình Dương [81,
tr.1013-1039].
- Giáo phận Xuân Lộc bao gồm địa bàn tỉnh Đồng Nai, và một phần TP. Dĩ An,
Bình Dương với diện tích giáo phận khoảng 5.967,3 Km2. Tòa Giám mục đặt tại số 210
Hùng Vương, P. Xuân Bình, Long Khánh, Đồng Nai [81, tr.1066-1113].
- Giáo phận Bà Rịa nằm trọn vẹn trong địa giới hành chính tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
diện tích 1.975 Km2. Tòa Tổng Giám mục Bà Rịa đặt tại số 227 Cách Mạng Tháng Tám,
P. Phước Hiệp, TP. Bà Rịa, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu [81, tr.869-894].
Đông Nam Bộ cũng là nơi đặt trụ sở 2 của Hội đồng Giám mục Việt Nam, Tòa
Tổng Giám mục TP. Hồ Chí Minh được đặt tại số 180, Nguyễn Đình Chiểu, P6, Q3, TP.
Hồ Chí Minh.
Về tín đồ, chức sắc Công giáo ĐNB
Theo số liệu thu thập của tác giả tại Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố hiện toàn
vùng có số lượng tín đồ Công giáo là 2.356.377 người, với 2.272 linh mục, sinh hoạt tôn
giáo tại 1.939 cơ sở thờ tự. Đây là khu vực có mật độ người theo Công giáo cao nhất cả
nước, chiếm khoảng 13,75% tổng dân số trên toàn vùng. (xem Bảng 3.1)
Bảng 3.1. Thống kê về quy mô tín đồ, chức sắc và cơ sở vật chất Công giáo
địa bàn Đông Nam Bộ.
Tín đồ
Chức sắc
Dân số
Cơ sở
STT Tỉnh/ Thành phố
Trường ĐT
(người)
(người)
Nghìn người
thờ tự
Bà Rịa - Vũng Tàu
253.342
1
229
1101,6
145
0
2
Bình Dương
94.753
463
2071,0
82
0
3
Bình Phước
106.183
64
968,9
98
0
591
4 Đồng Nai
1.156.437
3027,3
962
1
5
TP. HCM
706.384
893
8844,6
626
2
6
Tây Ninh
39.278
32
1126,2
26
0
3
Tổng cộng
2.356.377
2.272
17.139.6
1.939
Nguồn: tác giả điều tra thực tiễn tại Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố thuộc ĐNB
- Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có 253.342 tín đồ Công giáo;
- Tỉnh Bình Dương có 94.753 tín đồ Công giáo;
74
- Tỉnh Bình Phước có 106.183 tín đồ Công giáo;
- Tỉnh Đồng Nai có 1.156.437 tín đồ Công giáo;
- TP. Hồ Chí Minh có 706.384 tín đồ Công giáo;
- Tỉnh Tây Ninh có 39.278 tín đồ Công giáo.
Thống kê cho thấy các địa phương thuộc ĐNB có quy mô tín đồ Công giáo không
đồng đều nhau, tập trung chủ yếu tại tỉnh Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh, ít nhất ở tỉnh
Tây Ninh. So với Tây Ninh, Đồng Nai có tín đồ Công giáo gấp hơn 30 lần về quy mô, số
lượng. Mật độ phân bố tín đồ Công giáo cũng không đồng đều, Đồng Nai có mật độ tín
đồ Công giáo cao nhất, lên tới 38,2% trên tổng dân số, trong khi đó, Tây Ninh có mật độ
tín đồ Công giáo khá thấp, chỉ chiếm 3,43% tổng dân số toàn tỉnh.
Về thành phần tín đồ Công giáo địa bàn ĐNB chủ yếu là người lao động, phần lớn
là công nhân, nông dân và tiểu thương thành thị. Niềm tin tôn giáo của tín đồ vững chắc,
sinh hoạt tôn giáo ổn định, nề nếp, chấp hành pháp luật của nhà nước. Tích cực tham gia
lao động, sản xuất, tham gia các hoạt động phong trào ở địa phương với tinh thần “sống
tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm trong lòng dân tộc”.
Tổng hợp số liệu thống kê của Ban tôn giáo các địa phương ĐNB, số lượng chức
sắc Công giáo hết năm 2018 là 2.272 người, trong đó có 7 giám mục. Chức sắc Công
giáo ĐNB có trình độ thần học khá cao, niềm tin tôn giáo bền vững, hoạt động tôn giáo
đúng chính sách, pháp luật của nhà nước, nhiều chức sắc Công giáo tích cực tham gia các
hoạt động chính trị - xã hội tại địa phương, tham gia vào các hoạt động do MTTQ và các
tổ chức chính trị - xã hội phát động.
Về cơ sở vật chất, nơi thờ tự
Theo số liệu cung cấp của Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố thuộc ĐNB, tính đến
hết năm 2018, toàn vùng có 1.939 cơ sở thờ tự, 2 Đại chủng viện, đây là nơi đào tạo thần
học cho những chức sắc, tín đồ Công giáo, cụ thể:
- Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có 145 cơ sở thờ tự;
- Tỉnh Bình Dương có 82 cơ sở thờ tự;
- Tỉnh Bình Phước có 98 cơ sở thờ tự;
- Tỉnh Đồng Nai có 962 cơ sở thờ tự;
- TP. Hồ Chí Minh có 626 cơ sở thờ tự;
- Tỉnh Tây Ninh có 26 cơ sở thờ tự;
75
Hai Đại chủng viện và Học viện Công giáo (nâng cấp từ trường bồi dưỡng mục vụ
Công giáo) được đặt tại Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh. Số liệu cũng cho thấy Đồng Nai là
địa phương có nhiều cơ sở thờ tự Công giáo nhất trên toàn địa bàn ĐNB [xem Bảng 3.1].
3.2.2. Hoạt động Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
Những năm gần đây, với những chủ trương, chính sách, pháp luật đổi mới của Đảng
và nhà nước về TNTG, hoạt động tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng ở ĐNB của
đại đa số chức sắc, tín đồ Công giáo ở ĐNB ngày càng nhận thức rõ hơn chính sách, pháp
luật nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, ý thức rõ hơn về lợi ích của quốc gia dân tộc trong
công cuộc đổi mới đất nước nên đồng bào Công giáo trên địa bàn ĐNB ngày càng có trách
nhiệm và ý thức hơn đối với sự nghiệp của Tổ Quốc. Với khoảng trên 2,35 triệu giáo dân
trên địa bàn, có thể nói đồng bào Công giáo ĐNB luôn đồng lòng trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc xây dựng quê hương, đất nước. Tín đồ Công giáo ĐNB đã và đang gắn bó
cùng với nhân dân cả nước ra sức xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng
- an ninh góp phần thực hiện có hiệu quả công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Thực hiện đường hướng của HĐGMVN theo tinh thần Thư chung 1980 là “Xây
dựng Hội thánh giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” [78], đồng bào
công giáo ĐNB đã không ngừng dấn thân trên mọi lĩnh vực để chứng minh lời huấn từ
của Đức Benedicto XVI “Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý
trọng công ích, anh chị em giáo dân phải chứng tỏ rằng là người Công giáo tốt cũng là
người công dân tốt”. Chức sắc, tín đồ Công giáo đã và đang có nhiều hoạt động gắn bó
đồng hành cùng dân tộc, cụ thể:
Những năm gần đây, mặc dù còn có những điều chưa tương đồng giữa giáo lý, giáo
luật của Công giáo với quy định chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhưng sự đồng thuận
là cơ bản. Kinh Thánh nhắc nhở người Công giáo phải vâng phục chính quyền, còn Hiến
chế Mục vụ, Cộng đồng Vatican 2 cũng buộc người Công giáo phải tôn trọng lợi ích công
cộng và quy định chung của xã hội dân sự. Thực hiện theo giáo luật Công giáo và quy định
của Hiến chế Mục vụ, đồng bào, chức sắc Công giáo ĐNB ngày càng ý thức tốt hơn trong
việc chấp hành những chủ trương đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và những định hướng của cấp ủy, chính quyền địa phương.
Sinh hoạt Công giáo của giáo dân ngày càng ổn định, tuân thủ các quy định pháp
luật của nhà nước. Các hoạt động tôn giáo như: lễ hội, hội nghị, truyền giáo, thực hành
đức tin, xây dựng, cải tạo các công trình, kiến trúc Công giáo về cơ bản ngày càng chấp
76
hành tốt chính sách, pháp luật của nhà nước. Hàng năm, các tổ chức Công giáo đều đăng
ký hoạt động đối với chính quyền cấp xã, các lễ hội tôn giáo có quy mô lớn trên phạm vi
nhiều xã thì đăng ký với chính quyền cấp huyện; những hoạt động, lễ hội hội nghị Công
giáo có số tín đồ trên địa bàn nhiều huyện thì đăng ký với chính quyền cấp tỉnh và những
lễ hội lớn, có phạm vi tín đồ ở nhiều tỉnh thành đăng ký với Ban Tôn giáo Chính phủ.
Trước sự gia tăng cơ học nhanh chóng của các tín đồ Công giáo, những năm gần
đây các giáo phận trên địa bàn ĐNB đã có nhiều đề nghị chính quyền các tỉnh cho phép
chia tách, thành lập mới một số giáo xứ, hoặc nâng cấp từ giáo họ thành giáo xứ để đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của nhân dân. Cùng với đó, một số chức sắc Công giáo ở
các địa phương có đơn thư xin chính quyền cấp đất để xây dựng nhà thờ, phục vụ nhu
cầu hoạt động Công giáo.
Quan hệ của chức sắc Công giáo đối với chính quyền các địa phương ngày càng
được cải thiện, chức sắc Công giáo ngày càng chủ động, tiếp xúc, đối thoại với chính
quyền, tăng cường các hoạt động thăm hỏi các tổ chức tôn giáo khác trên địa bàn. Những
dịp kỷ niệm lớn, lễ hội quan trọng ở địa phương, các tổ chức Công giáo đều cử những
người đại diện đến thăm hỏi, chung vui với chính quyền và các tổ chức tôn giáo khác.
Hoạt động giáo dục và bồi dưỡng thần học của các tổ chức Công giáo ĐNB cũng
ngày càng được quan tâm, củng cố. Với 2 Đại chủng viện và 1 Học viện Công giáo, hàng
năm, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng thần học ở ĐNB đã tiếp nhận hàng trăm học viên từ
mọi miền của tổ quốc tham dự các lớp, khóa học đào tạo, bồi dưỡng thần học. Bên cạnh
đó, với sự tạo điều kiện của chính quyền các địa phương, các cơ sở Công giáo cũng mở
nhiều lớp học mầm non cho con em của giáo dân và những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt,
gần đây, giáo phận Xuân Lộc còn mở trường đào tạo, giáo dục nghề nghiệp cho con em
gia đình Công giáo.
Cùng với hoạt động giáo dục và đào tạo, các hoạt động từ thiện, nhân đạo của các tổ
chức Công giáo cũng ngày càng phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức khác nhau như:
cứu trợ đồng bào lũ lụt, thiên tai ở các địa phương; mở các lớp học tình thương cho trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt; khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo; điều trị miễn phí
cho bệnh nhân nhiễm HIV; tặng xe lăn cho người khuyết tật,.. Có những giáo phận hàng
năm vận động, quyên góp được số tiền hàng trăm tỷ đồng để thực hiện các hoạt động từ
thiện, nhân đạo.
77
Hoạt động sửa chữa, xây dựng các nhà thờ và các công trình kiến trúc Công giáo
những năm gần đây cũng dần đi vào nền nếp, nếu sửa chữa nhỏ các cơ sở Công giáo xin
cấp phép ở chính quyền cấp cơ sở; nếu trùng tu và sửa chữa lớn người đứng đầu các cơ
sở Công giáo xin giấy phép của chính quyền cấp huyện; xây mới các công trình Công
giáo thì xin UBND tỉnh, thành phố cấp phép. Về cơ bản các tổ chức Công giáo đều chấp
hành tốt các quy định pháp luật về cấp phép xây dựng của nhà nước.
Cùng với những hoạt động sinh hoạt tôn giáo thuần túy, các chức sắc, tín đồ Công
giáo ĐNB đã có nhiều hoạt động thiết thực, tham gia các phong trào xã hội ở các địa
phương như: xóa đói giảm nghèo; xây dựng phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc; các
phong trào đền ơn, đáp nghĩa; xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; xây dựng nông
thôn mới; ủng hộ chính quyền địa phương trong công cuộc phát triển kinh tế, văn hóa -
xã hội với những việc làm thiết thực như:
Tự nguyện di chuyển hàng trăm phần mộ của người thân bàn giao mặt bằng cho ban
quản lý dự án làm các công trình công cộng, các khu công nghiệp, khu chế xuất, trường
học, trạm y tế, đường giao thông ở TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai. Nhiều cơ
sở Công giáo, cá nhân hiến đất để mở đường, xây dựng mở mang đường làng, ngõ xóm.
Trong chương trình xây dựng nông thôn mới, người Công giáo ở Trảng Bom, Đồng
Nai đã tích cực ủng hộ chủ trương dồn điền, đổi thửa được lãnh đạo huyện biểu dương.
Nhiều gia đình Công giáo ĐNB tích cực thực hiện việc hiếu, việc hỷ theo những quy định
nếp sống văn minh mới. Nhiều gia đình Công giáo ở TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa
- Vũng Tàu đã mạnh dạn đưa thi hài người quá cố của mình đi hỏa táng, điều mà trước
đây chưa bao giờ có.
Không chỉ tích cực tham gia bầu cử thực hiện nghĩa vụ của người công dân, mà
người Công giáo ĐNB còn tích cực tham gia vào việc quản lý điều hành xã hội, nhiều tín
đồ Công giáo được giao giữ trọng trách trong chính quyền, MTTQVN các cấp hay các
đoàn thể xã hội từ địa phương đến Trung ương, riêng ĐNB có hàng nghìn tín đồ Công
giáo là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Gia đình Công giáo ĐNB thực hiện rất tốt chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình,
không nạo phá thai và vi phạm chính sách hôn nhân, ít có tệ nạn xã hội hay trọng án hình
sự. Tại các địa bàn giáo dân, số người bị rơi vào các tệ nạn xã hội tỉ lệ rất thấp, có nhiều
phường, xã trên địa bàn ĐNB không có người Công giáo là đối tượng hình sự, hoặc nghiện
ma túy. Một số người Công giáo nhiễm HIV/AIDS ở Quận 1, 3, Thành phố Bà Rịa, Biên
78
Hòa đã trở thành các cộng tác viên tích cực trong việc tuyên truyền phòng chống
HIV/AIDS [10, 14, 16].
Phong trào xây dựng gia đình Công giáo Văn hóa do Ủy Ban ĐKCG các tỉnh, thành
phát động từ năm 2008 đã được triển khai ở tất cả tỉnh, thành; hàng năm, số gia đình
Công giáo đạt danh hiệu gia đình văn hóa các cấp không ngừng tăng lên, nhiều địa
phương có tỷ lệ gia đình Công giáo đạt danh hiệu gia đình văn hóa lên tới 90%.
Hiểu đúng tinh thần Phúc âm, người Công giáo ĐNB đã hăng say lao động sản xuất
trước hết là thoát khỏi cảnh nghèo khó, vươn lên làm giàu cho mình và cho xã hội. Nằm
trong vùng kinh tế phát triển năng động nhất cả nước, tín đồ Công giáo ĐNB tiên phong,
đi đầu trong việc phát triển kinh tế, xã hội, nhiều mô hình sản xuất, chế biến mới tạo ra
nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Cùng với đó nhiều hộ gia đình, cá nhân
Công giáo giàu lên nhanh chóng, đóng góp tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo
tại địa phương.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa với những mặt trái của nền kinh tế thị trường đang làm
tha hóa xã hội, con người hiện nay. Giáo hội Công giáo luôn cổ vũ xây dựng lối sống
nhân bản, bác ái, dùng “văn minh tình thương” để chống lại “văn hóa sự chết”. Người
Công giáo các địa phương ĐNB có nhiều việc làm sáng tạo để phát huy sức mạnh của cộng
đồng. Các thanh thiếu niên Công giáo ở Quận 3, Quận 1 lập các nhóm ve chai đi thu gom
phế liệu, bán đi lập quỹ để giúp các trẻ em nghèo Tây Nguyên [16]; Bà con Công giáo ở
Bà Rịa - Vũng Tàu xây dựng quỹ để cứu trợ bà con lũ lụt ở miền Trung [10]. Các cơ sở
Công giáo đều lập hòm từ thiện ủng hộ người nghèo, từ thiện, nhân đạo.
Bên cạnh những kết quả tích cực đó, hoạt động Công giáo địa bàn ĐNB trong
những năm qua còn có những vấn đề phức tạp, cần phải có những biện pháp khắc phục,
cụ thể:
Một số chức sắc, giáo sĩ chịu ảnh hưởng bởi các thế lực bên ngoài có tư tưởng cực
đoan, phản động đã tổ chức tuyên truyền, vận động giáo dân không tham gia vào các hoạt
động chính trị, văn hóa xã hội do địa phương phát động; xúi dục giáo dân tham gia việc
tranh chấp, khiếu kiện đông người về đất đai có nguồn gốc tôn giáo hay tham gia vào các
hoạt động chống đối ngay trong nội bộ tôn giáo nhằm chia rẽ, giảm ảnh hưởng của chủ
chăn đối với chức sắc, giáo sĩ và giáo dân trên nhiều địa bàn dân cư [14, 16].
Tình trạng tuyên truyền đạo, tổ chức các hội nghị Công giáo trái phép vẫn còn diễn
ra. Ở một số địa phương, các chức sắc đứng đầu các giáo xứ, dòng tu còn chưa thực sự
79
cởi mở, đối thoại, cộng tác và chia sẻ với chính quyền để tháo gỡ những vấn đề tồn tại,
phức tạp, nhạy cảm trong sinh hoạt cũng như quản lý hoạt động Công giáo [14, 15, 16].
Một số chức sắc Công giáo còn có biểu hiện phớt lờ quy định của chính quyền như:
hoạt động tôn giáo ngoài chương trình đăng ký; đưa chức sắc Công giáo của giáo phận
khác đến sinh hoạt tôn giáo tại địa phương không xin phép; có những hoạt động gây rối
trong dịp bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp (22/5/2016) ở Hòa Hiệp,
Hòa Hội, huyện Mộc Xuyên, Côn Đảo, Bà Rịa - Vũng Tàu [10].
Một số giáo xứ có vi phạm trong hoạt động xây dựng và quản lý đất đai tôn giáo,
xây dựng, sửa chữa, trùng tu các cônng trình tôn giáo trái phép như: Giáo xứ Bùi chu,
huyện Trảng Bom; Giáo xứ Xuân Triệu, huyện Cẩm Mỹ; Giáo xứ Thọ Hòa, huyện Xuân
Lộc, tỉnh Đồng Nai [14].
Tình hình khiếu kiện nhà đất có nguồn gốc liên quan đến tôn giáo mặc dù có chiều
hướng giảm, tuy nhiên vẫn diễn biến phức tạp, đặc biệt là ở TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa -
Vũng Tàu, Đồng Nai [10, 14, 15]. Một số địa phương còn xảy ra tình trạng chuyển
nhượng đất đai, tạo lập các cơ sở tôn giáo trái với các quy định nhà nước, gây nên tình
trạng bất bình của nhân dân tại địa phương còn xảy ra ở tất cả các tỉnh, thành phố thuộc
ĐNB.
Ủy ban Giáo lý Đức tin, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tổ chức Đại hội lần thứ
V, tại Tòa Giám mục Xuân Lộc nhưng không đăng ký với chính quyền có thẩm quyền
[14, 15]. HĐGMVN đã họp tại Tòa Giám mục Xuân Lộc và đưa ra bản Thư kiến nghị với
Chủ tịch Quốc hội Việt Nam với một số nội dung nhìn nhận về Luật TNTG 2016, nội
dung thư khẳng định Luật TNTG 2016 là một bước lùi so với Pháp lệnh TNTG [79].
Một số linh mục còn có những phát ngôn và hành vi nói xấu Chủ tịch Hồ Chí Minh
trên các trang mạng xã hội, ảnh hưởng đến trật tự xã hội ở địa phương [14].
Quan hệ giữa chính quyền với Giáo hội Công giáo mặc dù có những bước được cải
thiện, tuy nhiên, Tòa Giám mục Xuân Lộc vẫn không chấp thuận cho linh mục tham gia
ứng cử vào đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp với lý do vi phạm giáo luật [14].
Đặc biệt, tháng 5/2016, lợi dụng vụ việc ô nhiễm môi trường ở Hà Tĩnh, một số
chức sắc, tín đồ Công giáo ở TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương đã
lôi kéo, dụ dỗ giáo dân tập trung đông người gây mất trật tự tới tình hình an ninh, trật tự
ở nhiều địa bàn thuộc ĐNB [8, 9, 10, 14, 16].
80
Tại Bình Phước, Linh mục Nguyễn Văn Lý, một đảng viên của tổ chức Tập hợp
Quốc dân Việt đã nhiều lần kêu gọi giáo dân tiến hành Tổng biểu tình toàn quốc vì môi
trường với những lời hướng dẫn: “người đi biểu tình lưu ý: dùng nón (mũ) bảo hiểm, ống
kim loại đút tay hay chân vào để bảo vệ tay chân, hai miếng kim loại làm áo giáp trước
ngực, bụng và sau lưng, nắp nồi kim loại dùng để chống đỡ... ở Việt Nam rất dễ tìm, cứ hỏi
các bác thợ làm ống nước, máng xối, hàn, mộc, hồ, điện...”[9].
Như vậy, so với giai đoạn trước năm 2004, hoạt động của Công giáo tại ĐNB trong
những năm gần đây mặc dù vẫn còn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp, nổi cộm, nhất là
những vấn đề liên quan đến đất đai, cơ sở thờ tự, bảo vệ môi trường, tuy nhiên những vấn
đề này đang dần có những chiều hướng tích cực, ổn định với những dấu hiệu tích cực
hơn. Tín đồ, chức sắc Công giáo ĐNB ngày càng chủ động, tích cực hưởng ứng và tham
gia vào các phong trào xã hội xây dựng quê hương đất nước, nhất là các phong trào từ
thiện, nhân đạo, “uống nước nhớ nguồn”, “xây dựng nông thôn mới”, “xóa đói, giảm
nghèo”,… Niềm tin của các chức sắc, tín đồ Công giáo ĐNB vào đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước cũng ngày càng được củng cố; mối quan hệ giữa các
giáo họ, giáo xứ, giáo phận với chính quyền các cấp ngày càng được cải thiện; đời sống
vật chất và tinh thần của đồng bào Công giáo ở ĐNB cũng ngày một nâng lên nhờ những
kết quả trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương trong
những năm gần đây.
3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn Đông
Nam Bộ
3.3.1. Những yếu tố chủ quan
3.3.1.1. Những chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và
định hướng của địa phương trong quản lý hoạt động tôn giáo.
Ở Việt Nam, chính trị là yếu tố đầu tiên và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, chi phối tới
QLNN về Công giáo địa bàn ĐNB, bởi nước ta là một trong số ít các quốc gia trên thế
giới tổ chức mô hình chính trị có một đảng duy nhất lãnh đạo và thực hiện theo nguyên
tắc: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, do vậy, mọi hoạt động quản
lý tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng đều theo sự lãnh đạo, chỉ đạo và định hướng
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở địa phương là sự lãnh đạo và chỉ đạo của Tỉnh ủy,
Thành ủy các tỉnh và thành phố thuộc ĐNB. Chính quyền cấp quận, huyện thì chịu sự
81
lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của của quận ủy, huyện ủy và cấp cơ sở thì chịu sự lãnh đạo,
chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy xã, phường, thị trấn.
Thể chế pháp luật là những văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng,
nhiệm vụ, cơ cấu, tổ chức, cách thức vận động, thẩm quyền, trách nhiệm của các bộ máy
nhà nước và của đội ngũ CBCC nhà nước trong việc thực thi một nhiệm vụ hoặc đảm
nhận một lĩnh vực quản lý nào đó. Nói cách khác, thể chế QLNN là hệ thống các quy tắc
xử sự của nhà nước đối với các mối quan hệ xã hội trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
từ chính trị đến quốc phòng, an ninh.
Nghiên cứu cho thấy vai trò của hệ thống pháp luật về tôn giáo ở nước ta được xem
là công cụ, phương tiện để điều chỉnh các quan hệ tôn giáo, đảm bảo sự ổn định của các
tôn giáo, mặt khác, hệ thống pháp luật cũng nhằm ghi nhận các quyền tự do TNTG của
công dân và bảo vệ những quyền đó của các chức sắc, tín đồ tôn giáo. Thông qua việc
xây dựng hệ thống pháp luật về tôn giáo cũng nhằm trợ giúp công dân thực hiện và bảo
vệ những quyền tự do TNTG của mình nếu quyền đó bị xâm hại.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo cũng là những cơ sở pháp lý
cho việc tổ chức hệ thống bộ máy QLNN về tôn giáo; xây dựng những cơ sở hoạt động
của các cơ quan, tổ chức, quản lý tôn giáo các cấp; là phương tiện để quản lý hoạt động
tôn giáo và là cam kết về trách nhiệm pháp lý của nhà nước đối với các tổ chức, chức sắc,
tín đồ tôn giáo.
Mục tiêu của công tác quản lý xã hội là đảm bảo cho mọi người đều bình đẳng
trước Hiến pháp và pháp luật của nhà nước, đây là một mục tiêu của đại đa số các nước
dân chủ trên thế giới, Việt Nam không phải là trường hợp ngoại lệ. Điều này được cụ thể
trong Hiến pháp Việt Nam trải qua các thời kỳ, cụ thể tại Luật TNTG 2016: “Nhà nước
tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn
giáo bình đẳng trước pháp luật”[116].
3.3.1.2. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về TNTG
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước, được tổ chức và hoạt động
theo những nguyên tắc chung, tạo thành một cơ chế đồng bộ, thống nhất để thực hiện các
nhiệm vụ và chức năng của nhà nước. Bộ máy QLNN về TNTG là hệ thống các cơ quan,
tổ chức, bộ phận từ Trung ương đến cơ sở, có chức năng, nhiệm vụ QLNN về TNTG nói
chung và Công giáo nói riêng, hệ thống bộ máy này giữ vai trò quan trọng trong việc
82
thực hiện những chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước về
TNTG nói chung và Công giáo nói riêng, điều này thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, bộ máy QLNN về tôn giáo thực hiện việc điều chỉnh, điều tiết can thiệp
vào các hoạt động Công giáo nhằm điều chỉnh các hoạt động tôn giáo theo mong muốn
và mục tiêu của nhà nước. Bộ máy QLNN về tôn giáo là cầu nối giữa nhà nước với các tổ
chức, chức sắc, tín đồ Công giáo, đây là nơi thực hiện những mục tiêu, ý tưởng của nhà
nước, đồng thời cũng là cơ quan tổ chức thực thi các chính sách về TNTG nói chung,
Công giáo nói riêng, đảm bảo quyền tự do TNTG cho công dân.
Thứ hai, bộ máy QLNN về tôn giáo các cấp là cơ quan tham mưu, giúp việc cho cơ
quan có thẩm quyền chung cùng cấp, thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình các cơ
quan QLNN về tôn giáo đã tham mưu cho các cơ quan có thẩm quyền xây dựng và ban
hành các chủ trương, chính sách, pháp luật, kế hoạch về tôn giáo, trong đó có Công giáo,
nhằm đảm bảo tình hình sinh hoạt tôn giáo và đảm bảo quyền theo hoặc không theo một
tôn giáo của công dân.
Thứ ba, bộ máy QLNN về tôn giáo cũng là cơ quan cung cấp các dịch vụ công cho
các chức sắc, tín đồ tôn giáo (bao gồm cả Công giáo); hướng dẫn các chức sắc, tín đồ
Công giáo sinh hoạt tôn giáo đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của chức sắc, tín đồ
Công giáo.
Với những vị trí và chức năng như vậy, việc nghiên cứu và lựa chọn mô hình tổ
chức bộ máy QLNN về tôn giáo các cấp rất quan trọng làm sao vừa phải đơn giản, tinh
gọn, khoa học bên cạnh đó phải đảm bảo tính độc lập tương đối, có vị trí, địa vị phù hợp
mới phát huy được hiệu quả quản lý đề ra.
3.3.1.3. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo
Vai trò của đội ngũ, cán bộ công chức (CBCC) được Đảng và nhà nước ta ghi nhận
tại nhiều văn kiện, văn bản pháp luật khác nhau, xây dựng đội ngũ CBCC có vai trò quan
trọng đối với mọi cấp chính quyền, sinh thời, Hồ Chí Minh đã từng nói: muôn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém,… như vậy có thể thấy rằng, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước có hiện thực hóa hay không, điều này phụ
thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ công tác tôn giáo của
Đảng, nhà nước trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được một đội
ngũ CBCC QLNN về tôn giáo vừa đảm bảo về số lượng, mạnh về chất lượng, có kiến
thức và kinh nghiệm QLNN về tôn giáo, năng động, nhiệt huyết với nhiệm vụ được nhà
83
nước phân công. Từ lý luận đến thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy: Cán bộ là gốc
của mọi công việc, chất lượng và hiệu quả QLNN về TNTG nói chung và CBCC QLNN
về Công giáo nói riêng, phần lớn phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ CBCC QLNN về tôn
giáo các cấp.
Để có được một đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo đông đảo về số lượng và vững
về chất lượng, có kinh nghiệm về lĩnh vực công tác, đặc biệt là trong quản lý hoạt động
Công giáo, các cơ quan chức năng cần phải có các chính sách tuyển dụng, thu hút nguồn
nhân lực; phải đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo thường xuyên
nhằm cập nhật những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm QLNN về TNTG nói chung và
Công giáo nói riêng, đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn nhiệm vụ QLNN về Công
giáo đặt ra.
Với mô hình bộ máy và quy định về tổ chức biên chế CBCC làm công tác tôn giáo
hiện nay của nhà nước thì đây thực sự là những thách thức không nhỏ đối với CBCC làm
công tác tôn giáo tại các địa phương thuộc ĐNB.
3.3.1.4. Phong tục tập quán, truyền thống văn hóa xã hội địa bàn Đông Nam Bộ
Phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa đó là những thiết chế văn hóa xã hội,
đây là một yếu tố cũng có những ảnh hưởng sâu sắc đến QLNN về tôn giáo và Công giáo
địa bàn ĐNB. Những thiết chế văn hóa này được phản ánh thông qua những nhận thức,
nhìn nhận và hành vi của xã hội đối với tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng.
ĐNB là khu vực đa dân tộc, tôn giáo, người dân nơi đây sống phóng khoáng, cởi
mở, chan hòa với tự nhiên và có rất nhiều những phong tục tập quán lâu đời được gìn giữ,
bảo tồn và phát huy. Trong xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, yêu cầu đặt ra là làm sao
phải tiếp thu những giá trị văn hóa mới có chọn lọc, đồng thời cũng phải bảo tồn gìn giữ
và phát huy được những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc theo chủ trương và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng;… Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những
tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” [5].
Công giáo được truyền vào ĐNB, bên cạnh những giá trị văn hóa tích cực cũng xuất
hiện nhiều hiện tượng phản văn hóa đó là những hủ tục lạc hậu, vấn đề mê tín dị đoan,
thương mại hóa, thậm chí có hiện tượng lợi dụng Công giáo để mưu đồ chính trị, xâm hại
đến an ninh văn hóa tư tưởng. Những hiện tượng văn hóa này pha trộn, ẩn sau các hoạt
84
động sinh hoạt tôn giáo, lễ nghi tôn giáo làm nhiễm bẩn bầu không khí sinh hoạt Công
giáo lành mạnh. Yêu cầu đặt ra đối với QLNN về Công giáo vừa phải đảm bảo quyền tự
do TNTG vừa phải thỏa mãn những yêu cầu của công tác quản lý văn hóa - xã hội, đồng
thời cũng nhằm loại bỏ những hiện tượng phản văn hóa trong sinh hoạt Công giáo.
3.3.2. Những yếu tố khách quan
3.3.2.1. Vị trí địa lý, trình độ phát triển kinh tế - xã hội địa bàn Đông Nam Bộ
Địa bàn ĐNB là một trong những trung tâm đầu mối giao thông đi lại quan trọng
của cả nước. TP. Hồ Chí Minh, là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, đây là nơi đặt
trụ sở của nhiều tổ chức tôn giáo lớn ở Việt Nam như các hệ phái Tin lành, Công giáo,
Hồi giáo,.. Với những thuận lợi về vị trí, địa lý, giao thông và nguồn nhân lực lao động
nên địa bàn ĐNB trở thành lực hút trong sự phát triển kinh tế, thu hút nguồn vốn đầu tư
từ bên ngoài.
Việc đẩy mạnh đầu tư, phát triển kinh tế của các tỉnh, thành phố thuộc ĐNB đã thu
hút một lượng lớn nguồn lao động từ các vùng miền và cả khu vực quốc tế đến làm ăn,
lao động và sinh sống. Trong quá trình lao động, buôn bán trao đổi hàng hóa và sinh
sống, nhiều người đã chọn nơi đây trở thành miền đất hứa, định cư lâu dài và trong những
nguồn lao động nhập cư đó nhiều nguời có TNTG.
Mở cửa, hội nhập quốc tế mạnh mẽ của các địa phương ĐNB cũng thu hút rất nhiều
lao động, tri thức từ bên ngoài vào đầu tư, tham gia sản xuất ở các địa phương, và nhiều
người trong số họ có TNTG. Bên cạnh đó, với những lợi thế về vị trí địa lý, du lịch, giao
thông nên các tỉnh, thành phố thuộc ĐNB, đặc biệt là TP. Hồ Chí Minh hàng năm đã thu
hút hàng triệu du khách quốc tế đến tham quan, du lịch, tìm hiểu, khám phá và nhiều
người trong số đó cũng là tín đồ Công giáo. Như vậy, với xu thế hội nhập những năm gần
đây cũng đặt ra cho các địa phương ở ĐNB những vấn đề liên quan quan đến TNTG.
Mức độ phát triển kinh tế cũng là điều kiện, là tiền đề để xây dựng các chính sách
xã hội ở địa phương, đặc biệt là những chính sách nhằm định hướng, kích thích và thu
hút cán bộ, công chức vào bộ máy QLNN về tôn giáo. Thực tế trong những năm gần đây,
do chúng ta chưa có chính sách thu hút những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm quản lý
tôn giáo, nên có hiện tượng CBCC quản lý tôn giáo thiếu thiết tha với nghề nghiệp của
mình, thường tìm đến những ngành nghề có sức hút hơn, đặc biệt là đãi ngộ vật chất.
Kinh tế phát triển cũng tạo điều kiện để cho các chính quyền các tỉnh, thành phố
thuộc ĐNB thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội như: hộ nghèo, người lang thang
85
cơ nhỡ, trẻ mồ côi, khuyết tật, những người gặp hoàn cảnh khó khăn,.. Để phòng ngừa,
ngăn chặn những con người đó đến với thế giới siêu nhiên, thế giới mà thực tế họ không
có được.
3.3.2.2. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu của thời đại, xu thế toàn cầu hóa đã giảm bớt
những xu thế đối đầu chuyển dần sang xu thế đối thoại, giao lưu, hợp tác và phát triển;
hội nhập làm cho các quốc gia gắn kết chặt chẽ với nhau hơn thông qua sợi dây kinh tế và
văn hóa. Tham gia vào xu thế toàn cầu hóa làm cho nền kinh tế các nước có bước phát
triển nhanh chóng hơn và trở thành thị trường toàn cầu, nền kinh tế các nước cạnh tranh
gay gắt, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hóa cũng tạo những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của các tôn giáo nói chung và Công giáo trên địa bàn ĐNB nói riêng.
Những năm qua, với chính sách mở cửa hội nhập kinh tế, văn hóa xã hội đã tạo điều
kiện cho các tổ chức tôn giáo trong nước tham gia các hoạt động tôn giáo quốc tế như:
hợp tác, hội nghị, hội thảo; đào tạo, bồi dưỡng thần học; chia sẻ kinh nghiệm truyền
giáo,... hoặc các tổ chức tôn giáo quốc tế cũng tăng cường các hoạt động thăm hỏi lẫn
nhau, cử nhiều chức sắc tôn giáo đến địa bàn ĐNB, đặc biệt là TP. Hồ Chí Minh, Đồng
Nai để thực hiện các hoạt động tôn giáo.
Nhờ những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo các điều kiện thuận lợi
thu hút các du khách quốc tế, các doanh nhân, doanh nghiệp đến các địa phương thuộc ĐNB
tham quan, thắng cảnh; vui chơi, giải trí và tìm kiếm các cơ hội phát triển kinh tế và nhiều
người trong số đó có TNTG. Nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài trở thành nhu
cầu thực tiễn khách quan, đòi hỏi các cơ quan QLNN phải có những giải pháp tạo điều kiện
thuận lợi cho các sinh hoạt Công giáo của người nước ngoài. Bên cạnh việc sinh hoạt tôn
giáo thuần túy, một số các đối tượng người nước ngoài cũng lợi dụng chính sách mở cửa, tự
do TNTG để chống phá chính quyền, nhà nước, ảnh hưởng đến trật tự xã hội.
Hội nhập quốc tế làm cho những rào cản, những thể chế, cơ chế QLNN trên mọi
lĩnh vực nói chung và trên lĩnh vực Công giáo nói riêng phải đổi mới, cải cách cho phù
hợp với xu thế của thế giới, của thời đại. Trước những tác động của bên ngoài nếu cơ chế
chính sách còn rườm rà, lạc hậu và quan liêu, hoặc chậm đổi mới sẽ dẫn đến những khó
khăn, hạn chế trong quản lý tôn giáo nói chung và Công giáo địa bàn ĐNB nói riêng,
thậm chí ảnh hưởng đến vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
86
3.3.2.3. Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin và truyền
thông
Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền
thông đã dẫn tới những biến đổi to lớn trong xã hội loài người; làm thay đổi cả những
thói quen, hình thức và phương thức sản xuất, kinh doanh, quản lý, giáo dục đào tạo,
thông tin liên lạc và kể cả hoạt động sinh hoạt tôn giáo. Điều này làm xuất hiện những
ngành nghề mới, những vấn đề xã hội mới; làm thay đổi cả vai trò, vị thế của các cơ quan
quản lý và đối tượng QLNN về Công giáo. Những vấn đề trên đã và đang đặt ra đối với
chính quyền các địa phương địa bàn ĐNB phải có những cách thức QLNN về Công giáo
mới, phù hợp với thực tiễn hoạt động tôn giáo hơn.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, hoạt động truyền giáo và sinh
hoạt tôn giáo cũng có những thay đổi mạnh mẽ, từ hình thức tới phương pháp; thay đổi cả
về không gian và thời gian. Thực tế hiện nay, chức sắc, tín đồ Công giáo không còn bị bó
hẹp, hạn chế bởi không gian và thời gian mà có thể thay đổi hình thức sinh hoạt tôn giáo
thông qua các phương tiện truyền tin hiện đại. Nhiều hoạt động truyền giáo hiện nay
không còn nằm ở trong phạm vi cơ sở thờ tự mà vượt ra giới hạn về không gian, vị trí địa
lý bằng các phương tiện truyền tin mới như: đài phát thanh, internet, qua các trang mạng
xã hội,... Khoa học và công nghệ cũng giúp các chức sắc Công giáo đổi mới phương thức
đào tạo, bồi dưỡng chức sắc tôn giáo; các giáo sĩ có thể theo học các chương trình và các
lớp thần học mà không cần phải có mặt ở cơ sở bồi dưỡng thần học, thậm chí các chức
sắc Công giáo có thể tham dự các chương trình bồi dưỡng, đào tạo thần học quốc tế mà
không cần phải ra nước ngoài.
Các hội nghị, lễ hội, đại hội Công giáo cũng được ứng dụng các phương tiện truyền
thông, nghe nhìn để theo dõi, truyền hình trực tiếp cho các tín đồ, người quan tâm không
có điều kiện tham dự trực tiếp, có thể quan sát, tham dự từ xa; mặt khác những hoạt động
này được công bố rộng rãi trên các trang mạng thông tin để củng cố đức tin tín đồ,
khuếch trương thanh thế, lôi kéo những người ngoại đạo tham gia, từ đó mở rộng quy mô
tín đồ Công giáo.
Đối với các cơ quan QLNN, thông tin và truyền thông giúp cho việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của họ được chất lượng và hiệu quả hơn; nắm bắt tình hình sinh hoạt tôn
giáo, hoạt động của các chức sắc, tín đồ Công giáo hiệu quả hơn, nhanh hơn và đầy đủ
hơn. Qua đó, có những quyết sách chủ động, kịp thời, phù hợp đáp ứng được những mục
87
tiêu quản lý tôn giáo đặt ra. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng
giúp cho các nhà quản lý học tập, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn dễ
dàng hơn, chi phí thời gian và vật chất ít hơn; thực hiện tốt công tác lưu trữ, tra cứu thông
tin, tìm hiểu kinh nghiệm quản lý tôn giáo cũng dễ dàng hơn. Có thể nói khoa học và
công nghệ đã tạo ra những thời cơ mới và những thách thức mới trong quản lý xã hội nói
chung và QLNN về Công giáo nói riêng.
3.3.2.4. Hoạt động trái pháp luật của một số chức sắc, tín đồ Công giáo
Nhìn lại lịch sử truyền đạo của mọi tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng ở
Việt Nam cho thấy, bên cạnh những chức sắc, nhà tu hành dấn thân cho lí tưởng tôn giáo,
xây dựng quê hương, đất nước thì cũng xuất hiện những phần tử có tư tưởng cực đoan,
khoác trên mình chiếc áo nhà tu hành, lợi dụng TNTG để lôi kéo tín đồ xâm phạm đến
các lĩnh vực mà pháp luật bảo vệ trong đó có Công giáo: lợi dụng vấn đề đất đai, cơ sở
thờ tự để kích động, xúi giục giáo dân khiếu kiện, khiếu nại đông người xâm hại đến trật
tự, trị an ở địa phương. Một số khác cổ vũ, ủng hộ cho những hành vi tôn giáo trái pháp
luật của các chức sắc, tín đồ Công giáo như: ủng hộ giáo xứ Thái Hà, hoạt động của linh
mục Nguyễn Văn Lý ở Huế; linh mục Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam ở Hà Tĩnh, …
Tại các địa phương thuộc ĐNB vẫn có hiện tượng một số chức sắc, tín đồ Công
giáo tiếp tay cho các thế lực thù địch, với chiêu bài dân chủ, dân quyền, tự do tôn giáo để
phá hoại cách mạng nước ta. Gần đây, có hiện tượng chức sắc Công giáo cực đoan, cấu
kết với những phần tử phản động, lưu vong ở nước ngoài âm mưu thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ” nhằm xóa bỏ chế độ chính trị Việt Nam, kích động
giáo dân xóa bỏ chế độ chính trị, xuyên tạc những chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của nhà nước. Một số chức sắc, tín đồ Công giáo lợi dụng hoạt động, sinh
hoạt tôn giáo để trục lợi, làm giàu bất chính, gây ảnh hưởng đến đời sống dân sinh của
đồng bào giáo dân. Những hành vi đội lốt Công giáo như trên của thiểu số chức sắc, tín
đồ Công giáo trên cần phải được lên án, loại bỏ để không làm ảnh hưởng đến sự ổn định
của tình hình Công giáo ĐNB trong những năm tiếp theo.
3.4. Thực trạng thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn
Đông Nam Bộ
3.4.1. Xây dựng và hướng dẫn tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách về tôn giáo
Cách mạng Tháng 8/1945 thành công, ngay từ những ngày đầu khó khăn đó, trước
hàng trăm những vấn đề thách thức, thù trong, giặc ngoài, nhưng Đảng và Bác đã quan
88
tâm đến đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, trong đó có đời sống TNTG, điều đó
được thể hiện tại Sắc lệnh: 234/SL ngày 14/6/1955 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Kể từ đó đến nay, tôn giáo và công tác tôn giáo luôn được nhà nước Việt Nam
quan tâm và đã ban hành văn bản pháp luật quy định quyền tự do TNTG và hoạt động tôn
giáo, thể hiện trong Hiến pháp, các bộ luật và các văn bản dưới luật, thể chế hóa pháp
luật nhà nước như: Nghị quyết số 279-CP, ngày 11/11/1977, Nghị quyết về chính sách
đối với tôn giáo; Nghị định số 69/HĐBT, ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng quy
định về các hoạt động tôn giáo; Nghị định 26/1999/NĐ-CP, ngày 19/4/1999 về các hoạt
động tôn giáo.
Đất nước bước sang giai đoạn mới, trước những yêu cầu của việc mở rộng quyền
tự do TNTG, hoạt động tôn giáo và QLNN về tôn giáo, ngày 16/8/2004, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh TNTG thay thế cho Nghị định
26/1999/NĐ-CP, Nghị định quy định về hoạt động tôn giáo. Cùng với đó, Chính phủ đã
ban hành Nghị định: 22/2005/NĐ-CP, ngày 01/3/2005, hướng dẫn thi hành một số điều
của Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo và Nghị định: 92/2012/NĐ-CP, ngày 08/11/2012
Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh TNTG. Sự ra đời Pháp lệnh TNTG và
các Nghị định hướng dẫn thi hành đã thực sự tạo các điều kiện thuận lợi cho người dân
thực hiện quyền tự do TNTG, đồng thời cũng tạo những thuận lợi cho các tổ chức tôn
giáo ở Việt Nam kiện toàn pháp nhân, tổ chức, củng cố tín đồ, xây dựng các cơ sở thờ
tự, thực hiện các hoạt động sinh hoạt tôn giáo, đồng thời cũng làm cho tình hình tổ chức
và hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam ổn định, trật tự hơn, củng cố khối đại đoàn
kết các dân tộc, đoàn kết tôn giáo.
Ngày 28/11/2013 Quốc hội Việt Nam khóa XIII, tại kỳ họp thứ 6 thông qua Hiến
pháp Việt Nam 2013, tại Điều 24, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định: “Mọi người có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo
bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để vi phạm pháp luật”[112]. Như vậy, so với Hiến pháp 1992, nội hàm đối tượng
được hưởng quyền tự do TNTG ở Việt Nam được mở rộng hơn.
Cùng với việc ban hành Hiến pháp mới, ngày 18/11/2016, Quốc hội XIV, trong kỳ
họp thứ 4 đã ban hành Luật TNTG 2016, có hiệu lực từ ngày 01/1/2018 thay thế cho
Pháp lệnh TNTG 2004 đã lạc hậu, với những quy định cụ thể, đầy đủ, rõ ràng hơn để đáp
89
ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo trong xu thế hội nhập quốc tế. Đồng thời, Chính phủ cũng
đã kịp thời ban hành Nghị định 162/2017/NĐ-CP, ngày 30/12/2017 Quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật TNTG.
Đối với vấn đề quản lý nhà, đất liên quan đến tôn giáo, ngày 31/12/2008, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 1940/2008/CT-TTG về nhà, đất liên quan đến tôn giáo.
Nội dung Chỉ thị yêu cầu các Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh thành tập trung chấn chỉnh việc
quản lý, sử dụng nhà, đất liên quan đến tôn giáo; rà soát quy hoạch tổng thể về quản lý,
sử dụng đất và chỉ đạo giải quyết kịp thời những vấn đề nhà, đất liên quan đến tôn giáo,
bảo đảm hài hoà giữa lợi ích tôn giáo với lợi ích dân tộc.
Bên cạnh những văn bản pháp luật trên, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ngành
cũng ban hành nhiều bộ luật, nghị định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn chức sắc, tín đồ các
tôn giáo hoạt động tôn giáo đúng pháp luật nhà nước như: Luật Dân sự, Luật Xây dựng,
Luật cư trú, Luật xuất nhập cảnh, Luật đất đai, Luật Giáo dục, Luật khám chữa bệnh, và
những văn bản hướng dẫn thi hành.
Có thể khẳng định, hệ thống pháp luật liên quan đến TNTG của nhà nước ta trong
những năm qua ngày càng đổi mới, đầy đủ hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tự do TNTG của
đồng bào Công giáo; mở rộng phạm vi và cởi mở hơn đối với nhu cầu sinh hoạt tôn giáo
của nhân dân. Tạo điều kiện cho các tổ chức Công giáo tổ chức và hoạt động. Công giáo
ĐNB ngày càng dấn thân vào các hoạt động xã hội, giúp cho quan hệ của các cơ sở Công
giáo với nhà nước, chính quyền các cấp ngày càng gắn bó hơn. Đồng bào Công giáo ngày
càng yêu nước, gắn bó với quê hương, với tổ chức tôn giáo trên tinh thần: “Sống phúc âm
giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” và “Kính chúa, yêu nước”.
Đối với chính quyền các địa phương ở ĐNB, nhằm cụ thể hóa những chủ trương của
Đảng, pháp luật của nhà nước về tôn giáo, chính quyền các cấp đã xây dựng và ban hành
nhiều văn bản có tính chất hướng dẫn thực hiện các hoạt động tôn giáo của các cơ quan cấp
trên, và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ QLNN về tôn giáo của các ban, ngành, đoàn thể, đơn vị
hành chính cấp dưới, cụ thể:
Ban Tôn giáo các địa phương đã tham mưu với Sở Nội vụ, UBND các tỉnh, thành ban
hành các Chỉ thị của UBND trong việc thực hiện các chính sách, pháp luật nhà nước về tôn
giáo trong tình hình mới như: các Chỉ thị của Tỉnh ủy, Thành ủy về công tác tôn giáo, tăng
cường công tác tôn giáo; các Kế hoạch tuyên truyền pháp luật về TNTG cho các chức sắc,
tín đồ tôn giáo trên địa bàn.
90
Chỉ đạo Ban Tôn giáo Sở Nội vụ, UBND cấp huyện phối hợp với MTTQ và các đoàn
thể tổ chức quán triệt, phổ biến sâu rộng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX về công tác tôn giáo trong tình hình mới; phổ biến kiến thức pháp
luật về tôn giáo và các Nghị định hướng dẫn thi hành cho các đối tượng là cán bộ, công chức
để nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ.
Chính quyền các tỉnh, thành đã ban hành các văn bản chỉ đạo các Sở, Ban, ngành liên
quan của địa phương phối hợp với MTTQ, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội vận động
chức sắc, tín đồ Công giáo thực hiện cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống
văn hóa ở khu dân cư”, phát huy vai trò nòng cốt, cốt cán, động viên chức sắc, tín đồ Công
giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội trên các
địa bàn dân cư.
Cùng với các việc làm trên, chính quyền các tỉnh, thành phố thuộc ĐNB cũng đã
ban hành các văn bản nhắc nhở, chấn chỉnh, hướng dẫn hoạt động QLNN về tôn giáo,
định hướng hoạt động tôn giáo tại địa phương như: thủ tục nhà, đất, cấp phép xây dựng
các cơ sở tôn giáo; thực hiện từ thiện, nhân đạo của các tổ chức tôn giáo; quy định về
quản lý các công trình tôn giáo được xếp hạng di tích lịch sử trên địa bàn; quy định về
hoạt động giáo dục, đào tạo và khám chữa bệnh của các tổ chức tôn giáo. Bên cạnh đó,
UBND tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh còn ban hành
các quy định hướng dẫn người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo ở địa phương.
Thực hiện chỉ đạo của chính quyền cấp tỉnh, Ban Tôn giáo và chính quyền các địa
phương ĐNB cũng đã có nhiều hoạt động thiết thực trong việc tham mưu với Ban Tôn giáo
Chính phủ; Chính Phủ, Thủ tướng Chính phủ; Quốc hội Việt Nam một số vấn đề nhằm tháo
gỡ cũng như hoàn thiện chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo như: tham gia đóng góp ý
kiến tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh TNTG, tham gia góp ý sửa đổi Nghị định hướng
dẫn thi hành Pháp lệnh TNTG. Kiến nghị Ban Tôn giáo Chính phủ ban hành các văn bản quy
định về hoạt động từ thiện, nhân đạo; giải quyết vấn đề nhà đất; xây dựng công trình kiến
trúc tôn giáo; quản lý pháp nhân tôn giáo; quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng thần học;
góp ý Dự thảo Luật TNTG 2016, ... Những kiến nghị, góp ý của chính quyền các địa phương
ĐNB đã góp phần không nhỏ cho Ban Tôn giáo Chính Phủ, Bộ Nội vụ, Chính phủ và Quốc
hội Việt Nam hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo.
Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy: những năm gần đây hệ thống pháp luật về tôn giáo
được các cơ quan chức năng quan tâm, hoàn thiện, tạo thuận lợi hơn cho chức sắc, tín đồ Công
91
giáo thực hiện quyền tự do TNTG theo hiến định. Tuy nhiên, với sự biến đổi của xã hội, sự
phù hợp của các quy định pháp luật về TNTG qua hơn 10 năm đã bộc lộ những vấn đề bất cập;
một số quy định pháp luật còn gây khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý cũng như
thực hiện quyền tự do TNTG của giáo dân như: những quy định về quản lý, sử dụng đất đai;
quy định trình tự, thủ tục cấp phép xây dựng, sửa chữa, trùng tu công trình kiến trúc tôn giáo.
Đặc biệt, là những quy định về xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của
các tổ chức tôn giáo còn rất mơ hồ, thiếu cụ thể gây khó khăn cả cho cơ quan QLNN và chức
sắc, tín đồ Công giáo.
Bảng 3.2: Kết quả đánh giá về mức độ phù hợp của hệ thống pháp luật
về tôn giáo ở Việt Nam
Phù hợp
Tổng
Bình thường
Không phù hợp
STT
Các quy định pháp luật về
SL
%
SL %
SL
%
SL
%
252
74.1
63
18.5 25
7.4
340
100
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức
156
45.9
90
26.5 94
27.6
340
100
sắc tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có
81
23.8 127 37.4 132
38.8
340
100
yếu tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc
111
32.6
95
27.9 134
39.4
340
100
tôn giáo
139
40.9
62
18.2 139
40.9
340
100
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
54
15.9
65
19.1 221
65.0
340
100
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
109
32.1
80
23.5 151
44.4
340
100
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của
108
31.8
85
25.0 147
43.2
340
100
các tổ chức tôn giáo
40
11.8
55
16.2 245
72.1
340
100
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Nguồn: tác giả khảo sát thực tiễn
92
Kết quả khảo sát về mức độ phù hợp của pháp luật về TNTG cho thấy, cơ bản cả 3
nhóm khách thể khảo sát có những đánh giá khá đồng thuận, tuy nhiên, mức độ tương đồng
cao chủ yếu ở nhóm khách thể là CBCC QLNN về tôn giáo (nhóm I) với nhóm khách thể là
cán bộ MTTQ và đoàn thể (nhóm II). Nhóm chức sắc Công giáo (nhóm III) có đánh giá khá
khác so với nhóm I và II ở một số nội dung: quản lý hoạt động của các chức sắc tôn giáo;
quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo;
quản lý hoạt động của các chức sắc tôn giáo.
Những quy định pháp luật ở các nội dung: quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sáp
nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo; Quản lý hoạt động của các chức sắc tôn giáo; Quản
lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp được nhận định là khá
phù hợp. Trong khi, các nội dung quy định về: quản lý nhà, đất, xây dựng; quản lý hoạt động
xuất bản, văn hóa, giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo được đánh giá là còn chưa phù hợp với
thực tiễn hoạt động tôn giáo. (xem Bảng 3.2, Phụ lục 4, 5)
Tìm hiểu thực tiễn tại các địa phương cho thấy một số điểm quy định pháp luật TNTG
ở nước ta được cho là chưa thực sự phù hợp, đáp ứng được thực trạng hoạt động của các tổ
chức tôn giáo, cụ thể:
Các quy định về pháp nhân tôn giáo còn chưa bình đẳng với các tổ chức xã hội,
đoàn thể và nghề nghiệp khác. Trong luật Dân sự không liệt kê tổ chức tôn giáo có tư
cách pháp nhân.
Quy định về nhà đất tôn giáo còn chưa phù hợp dễ phát sinh các hoạt động hiến đất,
hiến nhà để làm cơ sở tôn giáo (thực chất là hình thức mua bán theo thỏa thuận ngầm). Bên
cạnh đó, việc tài sản tổ chức tôn giáo không được tham gia các hoạt động giao dịch còn gây
khó khăn cho hoạt động của tổ chức tôn giáo.
Quy định về trình tự, thủ tục đăng ký và hoạt động của các dòng tu còn chung
chung, chưa rõ ràng, từ đó dẫn đến nhiều dòng tu Công giáo còn chưa đăng ký hoạt động.
Những quy định về xây dựng, cải tạo, trùng tu công trình, kiến trúc tôn giáo cũng chưa
được đối xử bình đẳng như các tổ chức xã hội khác. Thẩm quyền cấp phép nhiều khâu,
nhiều cơ quan đã gây ra nhiều khó khăn cho các tổ chức tôn giáo khi có nhu cầu xây mới,
cải tạo, nâng cấp công trình kiến trúc tôn giáo.
Các quy định về hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế và từ thiện nhân đạo quy định thiếu
rõ ràng, do vậy trong nhiều năm qua, các tổ chức tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng
93
rất khó mở trường, lớp dạy học, mở các cơ sở khám chữa bệnh, bệnh viện (chủ yếu mới ở
dạng nhóm trẻ mầm non, trại tế bần, phòng khám).
Có thể khẳng định, mặc dù đã có những kết quả tích cực trong việc xây dựng và ban
hành VBQPPL về TNTG trong những năm qua, tuy nhiên, do hoạt động tôn giáo rất đa
dạng, phong phú, chính sách, pháp luật tuy có nhiều điểm mới, tiến bộ, song vẫn chưa theo
kịp thực tiễn hoạt động TNTG, do vậy trong giai đoạn tới chúng ta vẫn tiếp tục phải hoàn
thiện hệ thống pháp luật quy định hoạt động của các tổ chức tôn giáo nói chung và Công
giáo nói riêng.
3.4.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
Theo quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam, bộ máy QLNN về tôn giáo ở địa
phương hiện nay được chia thành 3 cấp: cấp tỉnh, cấp quận, huyện và cấp cơ sở. Thực
trạng tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo ở các địa phương ĐNB được tổ chức như sau:
3.4.2.1. Bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo cấp tỉnh địa bàn Đông Nam Bộ
Ở cấp tỉnh, thành phố, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ là cơ quan chuyên trách QLNN về
TNTG ở địa phương, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ có vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
và cơ cấu tổ chức như sau:
Về vị trí và chức năng:
Ban Tôn giáo cấp tỉnh là tổ chức trực thuộc Sở Nội vụ, giúp Giám đốc Sở Nội vụ
tham mưu cho UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng QLNN về lĩnh vực tôn giáo. Ban Tôn
giáo chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Nội vụ; đồng thời
chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ
Nội vụ [26]. Ban Tôn giáo (tương đương chi cục) có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài
khoản riêng, có trụ sở, biên chế, kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp theo quy
định của pháp luật.
Ban Tôn giáo chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Nội
vụ, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Tôn giáo
Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ; trong những trường hợp cần thiết, Trưởng ban Ban Tôn
giáo được báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
đồng thời báo cáo với Giám đốc Sở Nội vụ.
Theo quy định của pháp luật, căn cứ vào thực tiễn tình hình TNTG tại địa phương
mà thành lập Ban tôn giáo trực thuộc Sở Nội vụ. Cơ cấu của Ban Tôn giáo cấp tỉnh có
94
không quá 3 phòng chuyên môn. Phòng có 1 trưởng phòng và 1 phó trưởng phòng, riêng
với Hà Nội và Hồ Chí Minh phòng có thể có 02 phó trưởng phòng.
Về nhiệm vụ và quyền hạn của Ban tôn giáo cấp tỉnh:[26]
Trình cấp có thẩm quyền các dự thảo VBQPPL thuộc lĩnh vực tôn giáo.
Xây dựng trình Giám đốc Sở Nội vụ ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có
thẩm quyền ban hành chương trình, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm về
lĩnh vực tôn giáo.
Thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chương
trình, quy hoạch, kế hoạch dài hạn 5 năm và hàng năm về lĩnh vực tôn giáo sau khi được
cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Tổ chức tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo đối
với cán bộ, công chức và tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, nhân sĩ các tôn giáo
trong phạm vi quản lý của tỉnh.
Giải quyết theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền giải quyết những vấn đề
về tôn giáo theo quy định của pháp luật. Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành tham mưu
cho Sở Nội vụ trình UBND giải quyết những vấn đề phát sinh trong tôn giáo; là đầu mối
liên hệ giữa chính quyền địa phương với các tổ chức tôn giáo.
Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực tôn
giáo theo quy định của pháp luật.
Thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác tôn giáo cho công chức
thuộc phạm vi quản lý của Ban. Thực hiện việc áp dụng chính sách đãi ngộ đối với những
tổ chức, cá nhân tôn giáo.
Thực hiện việc nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tôn giáo, tổng kết thực tiễn,
cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương chính sách đối
với tôn giáo.
Tham gia quản lý các khu di tích, danh lam, thắng cảnh liên quan đến tôn giáo.
Hướng dẫn tổ chức làm công tác QLNN về tôn giáo thuộc Phòng Nội vụ cấp huyện
giải quyết những vấn đề cụ thể về tôn giáo theo quy định của pháp luật.
Quản lý về tổ chức, biên chế, tài chính, tài sản, cán bộ, công chức thuộc Ban theo
phân cấp của Giám đốc Sở Nội vụ và theo quy định của pháp luật.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở Nội vụ hoặc cơ quan có thẩm quyền
giao theo quy định của pháp luật.
95
Về cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố thuộc ĐNB
Theo quy định của pháp luật hiện nay, Ban Tôn giáo có Trưởng ban và không quá
03 Phó Trưởng ban. Trưởng Ban Tôn giáo có thể là Phó Giám đốc Sở Nội vụ, chịu trách
nhiệm trước Giám đốc Sở Nội vụ và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Ban; Phó
Trưởng ban là người giúp Trưởng ban, chịu trách nhiệm trước Trưởng ban và trước pháp
luật về các nhiệm vụ được phân công; khi Trưởng ban vắng mặt, một Phó Trưởng ban
được Trưởng ban ủy nhiệm điều hành các hoạt động của Ban [26].
Căn cứ vào khối lượng công việc, tính chất, đặc điểm QLNN về tôn giáo ở địa
phương, Giám đốc Sở Nội vụ trình UBND cấp tỉnh quyết định cụ thể về số lượng, tên gọi
các tổ chức của Ban cho phù hợp và hiệu quả, nhưng không quá 03 phòng, được thành
lập theo lĩnh vực công tác, bao gồm: phòng Tổng hợp - Hành chính và các Phòng chuyên
môn, nghiệp vụ [26].
Phòng có Trưởng Phòng và 01 Phó Trưởng phòng. Trưởng phòng chịu trách nhiệm
trước Trưởng ban và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công. Phó Trưởng
phòng chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng và trước pháp luật về lĩnh vực công tác
được phân công [26].
Biên chế của Ban Tôn giáo là biên chế hành chính nằm trong tổng số biên chế hành
chính của Sở Nội vụ được UBND cấp tỉnh giao. Trưởng Ban Tôn giáo xác định vị trí việc
làm của Ban để trình UBND cấp tỉnh quyết định bảo đảm đủ biên chế để thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ công tác tôn giáo của địa phương [26].
Đối với những tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa đủ điều kiện để thành
lập Ban Tôn giáo theo quy định, mà có Phòng Tôn giáo thì Phòng Tôn giáo là đơn vị
thuộc Sở Nội vụ, không có tư cách pháp nhân độc lập và không có tổ chức bên trong trực
thuộc Phòng Tôn giáo.
Qua tìm hiểu thực tiễn, đến giai đoạn hiện nay (tháng 12/2018) trên địa bàn các
tỉnh, thành phố thuộc ĐNB đã thành lập 6 Ban Tôn giáo trực thuộc Sở Nội vụ cấp tỉnh.
Cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Sở Nội vụ có 3 đến 4 phòng chức năng, thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ QLNN về tôn giáo trên địa bàn, cụ thể:
Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, TP. Hồ Chí Minh và Tây Ninh căn
cứ vào tình tình thực tiễn tôn giáo ở địa phương, UBND tỉnh đã thành lập Ban Tôn giáo
trực thuộc Sở Nội vụ với 3 phòng chức năng gồm: phòng Hành chính - Tổng hợp và 02
phòng chuyên môn [8, 9, 10, 16, 18].
96
Tỉnh Đồng Nai, UBND tỉnh thành lập Ban Tôn giáo trực thuộc Sở Nội vụ với 03
phòng chức năng gồm: phòng Hành chính - Tổng hợp và 03 phòng chuyên môn [14].
Như vậy có thể nhận thấy về cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Sở Nội vụ ở các tỉnh
thành ĐNB có cơ cấu tổ chức không giống nhau về số lượng các phòng chuyên môn
thuộc Ban, điều này xuất phát từ thực tiễn vào sự đa dạng, quy mô tín đồ tôn giáo và tình
hình thực tiễn QLNN về tôn giáo ở từng địa phương.
3.4.2.2. Bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo ở cấp huyện trên địa bàn Đông Nam Bộ
Ở cấp huyện, cơ quan chuyên trách QLNN về TNTG tại địa phương được giao cho
Phòng Nội vụ, trực thuộc UBND cấp huyện. Phòng Nội vụ là cơ quan QLNN ngành, lĩnh
vực, được tổ chức theo mô hình đa ngành, có vị trí, chức năng, nhiệm vụ sau về TNTG:
Theo quy định của Nghị định 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 và theo quy định của
Thông tư 15/2014/TT-BNV ngày 31/10/ 2014 thì phòng Nội vụ là cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp huyện có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện QLNN về tôn
giáo trên địa bàn của huyện [43, 28].
Trong lĩnh vực tôn giáo, Phòng Nội vụ thực hiện các nhiệm vụ sau [28]:
Giúp UBND cấp huyện chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo
trên địa bàn.
Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chuyên môn cùng cấp để thực hiện nhiệm vụ
QLNN về tôn giáo trên địa bàn theo phân cấp của UBND cấp tỉnh và theo quy định của
pháp luật.
Tham mưu, giúp UBND cấp huyện giải quyết những vấn đề cụ thể về tôn giáo theo
quy định của pháp luật và theo hướng dẫn của Sở Nội vụ.
Tính cho đến hết tháng 12/2018, cơ cấu tổ chức bộ phận QLNN về tôn giáo ở cấp
huyện tại các địa phương thuộc Đông Nam Bộ được tổ chức thực tiễn như sau: Bà Rịa -
Vũng Tàu, nhiệm vụ QLNN về tôn giáo cấp huyện giao cho 08 Phòng Nội vụ với 15 cán
bộ chuyên trách, kiêm nhiệm trên 8 địa bàn huyện, thành phố. Bình Dương, nhiệm vụ
QLNN về tôn giáo cấp huyện được giao cho 07 Phòng Nội vụ với 8 cán bộ chuyên trách,
kiêm nhiệm trên 7 huyện, thị, thành phố. Bình Phước, nhiệm vụ QLNN về tôn giáo cấp
huyện được giao cho 10 Phòng Nội vụ với 19 cán bộ chuyên trách và kiêm nhiệm, trên
địa bàn 10 huyện, thị, thành phố. Đồng Nai, thành lập 11 bộ phận QLNN về tôn giáo cấp
huyện thuộc 11 Phòng Nội vụ thực hiện chức năng QLNN về tôn giáo với 21 cán bộ
97
chuyên trách. TP. Hồ Chí Minh, thành lập 24 bộ phận QLNN về tôn giáo cấp quận,
huyện thuộc 24 Phòng Nội vụ thực hiện chức năng QLNN về tôn giáo với 50 cán bộ
chuyên trách. Tây Ninh, nhiệm vụ QLNN về tôn giáo cấp huyện giao cho 09 Phòng Nội
vụ với 16 cán bộ chuyên trách trên 9 huyện, thị, thành phố.
3.4.2.3. Bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo ở cấp xã trên địa bàn Đông Nam Bộ
Theo quy định pháp luật nước ta cấp xã thực hiện các nhiệm vụ sau về tôn giáo:
Hội đồng nhân dân xã có quyền quyết định biện pháp thực hiện chính sách tôn giáo,
bảo đảm quyền tự do TNTG của nhân dân địa phương theo quy định của pháp luật.
Trong việc thực hiện chính sách tôn giáo, UBND xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ
tổ chức, hướng dẫn và bảo đảm thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; quyền tự do
TNTG của nhân dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.
Tính cho đến tháng 12/2018, bộ phận QLNN về tôn giáo ở cấp xã tại các địa
phương thuộc ĐNB được tổ chức thực tiễn như sau (xem Phụ lục 7):
Bà Rịa - Vũng Tàu, cơ cấu 87 cán bộ kiêm nhiệm thực hiện các nhiệm vụ theo dõi,
tham mưu và QLNN về tôn giáo trên địa bàn 83 đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
Bình Dương, cơ cấu 83 cán bộ kiêm nhiệm thực hiện các nhiệm vụ theo dõi và
QLNN về tôn giáo trên địa bàn 91 đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
Bình Phước, cơ cấu 92 CBCC kiêm nhiệm thực hiện các nhiệm vụ theo dõi và
QLNN về tôn giáo trên địa bàn 112 đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
Đồng Nai, cơ cấu 48 CBCC kiêm nhiệm thực hiện các nhiệm vụ theo dõi, tham
mưu và QLNN về tôn giáo trên địa bàn 174 đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
TP. Hồ Chí Minh, cơ cấu 322 CBCC kiêm nhiệm thực hiện các nhiệm vụ theo dõi,
tham mưu và QLNN về tôn giáo trên địa bàn 322 đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
Tây Ninh, cơ cấu 93 CBCC kiêm nhiệm thực hiện các nhiệm vụ theo dõi, tham mưu
và QLNN về tôn giáo trên địa bàn 96 đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
Trước khi Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2007/NĐ-CP, hệ thống cơ quan
QLNN về tôn giáo tồn tại với tư cách là cơ quan giúp việc. Với vị trí này, Ban tôn giáo
cấp tỉnh trực thuộc trực tiếp UBND tỉnh, thành phố hoặc Phòng Tôn giáo thuộc Văn
phòng UBND tỉnh, thành phố; Đối với cấp huyện cơ cấu Phòng Tôn giáo trực thuộc trực
tiếp UBND huyện, quận.
Với vị trí như vậy, cơ quan QLNN về tôn giáo của các địa phương hoạt động theo
chế độ ủy quyền và có tính độc lập tương đối trong hoạt động chuyên môn theo ủy
98
quyền. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2007/NĐ-CP đến nay, Ban Tôn giáo
được sáp nhập vào ngành Nội vụ với vai trò là cơ quan chuyên môn, giúp việc cho lãnh
đạo Sở Nội vụ. Việc điều chuyển này góp phần cũng cố vị trí pháp lý của Ban Tôn giáo
từ cơ quan có vai trò giúp việc sang cơ quan có vai trò tham mưu. Việc điều chuyển này
vừa phù hợp chủ trương chung của Đảng là tinh giảm bộ máy, giảm số đầu mối vừa đưa
hoạt động quản lý đi vào chuyên sâu. Tuy nhiên, với vị trí mới, cơ quan quản lý nhà nước
về tôn giáo thiếu tính chủ động trong hoạt động nghiệp vụ vì chỉ có thể tham mưu gián
tiếp qua cấp trung gian.
Do vậy, nếu giữ nguyên vị trí như hiện tại thì cơ quan QLNN về tôn giáo ở địa
phương gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là thực hiện theo tinh thần của Thông tư
04/2010/TT-BNV về việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Ban tôn giáo cấp tỉnh; Thông tư 15/2014/TT-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ thuộc UBND cấp tỉnh và Phòng Nội vụ thuộc
UBND cấp huyện.
Kết quả khảo sát cho thấy, gần như các nhóm khách thể đều nhận định: mô hình tổ
chức bộ máy QLNN về tôn giáo các cấp hiện nay còn chưa phù hợp, chưa thuận lợi cho
công tác QLNN về tôn giáo, thể hiện: Có 201/260 ý kiến được khảo sát cho là chưa phù
hợp, chiếm tỷ lệ 77,31%; có 59/26 số ý kiến cho là phù hợp, chiếm tỷ lệ 22,69%. Số ý
kiến của hai nhóm khách thể đựoc khảo sát là đồng thuận, tuy nhiên, ở nhóm khách thể I,
số ý kiến cho là chưa phù hợp chiếm tỷ lệ cao hơn 79,44%, trong khi đó ở nhóm II là
72,5%. (Xem biểu đồ 3.1 và Phụ lục 4,5)
Biểu đồ 3.1: Kết quả khảo sát về mức độ phù hợp của mô hình tổ chức bộ máy
QLNN về tôn giáo ở Đông Nam Bộ
Nguồn: kết quả khảo sát thực tiễn của tác giả ở Đông Nam Bộ
Thực tế QLNN đối với hoạt động tôn giáo tại Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và TP.
Hồ Chí Minh trong thời gian qua cho thấy, do có những khó khăn, phức tạp trong hoạt 99
động tôn giáo nên cần phải tái cơ cấu lại Ban Tôn giáo các cấp ở địa phương. Tổ chức bộ
máy tham mưu công tác QLNN về tôn giáo ngày càng bị thu hẹp, không tương xứng với
hoạt động tôn giáo ngày càng phát triển về số lượng tín đồ, cơ sở thờ tự, quy mô tổ chức,
tầm hoạt động rộng lớn tại TP. Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, quản lý tôn giáo là một hoạt
động đặc thù, nên việc sáp nhập Ban Tôn giáo vào Sở Nội vụ thời gian qua đã nảy sinh
nhiều bất cập, nhất là cơ chế phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan.
Tại TP. Hồ Chí Minh có 36/41 tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận chính
thức đặt trụ sở chính với tổng cộng hơn 4 triệu tín đồ, hơn 8.000 chức sắc, gần 5.000 tu
sĩ, gần 1.600 cơ sở thờ tự. Có 94 dòng tu nam, nữ có trụ sở chính và văn phòng đại diện;
132 nhóm, hệ phái Tin lành được cấp đăng ký sinh hoạt theo Chỉ thị của Chính phủ. Song
song với các tổ chức tôn giáo hợp pháp nêu trên là hàng chục tôn giáo hoạt động bất hợp
pháp, trái pháp luật, đã gây ra rất nhiều những khó khăn cho công tác quản lý nhà nước
về tôn giáo trong giai đoạn gần đây.
Tìm một giải pháp về vị trí của Ban Tôn giáo trong giai đoạn cách mạng hiện nay,
đáp ứng được các yếu tố về tinh giản bộ máy và hoạt động hiệu lực, hiệu quả là một đáp
án khó với nhiều yếu tố cần xem xét. Xác lập vị trí hợp lý của cơ quan QLNN đối với
hoạt động tôn giáo, dân tộc góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
quản lý về tôn giáo, dân tộc trong hội nhập và phát triển đất nước hiện nay.
3.4.3. Tuyên truyền, vận động tín đồ và tranh thủ chức sắc Công giáo
3.4.3.1. Thực trạng công tác tuyên truyền và vận động tín đồ Công giáo
Để tạo điều kiện cho chức sắc, tín đồ Công giáo hoạt động tôn giáo đúng pháp luật,
Ban Tôn giáo Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố ĐNB thường xuyên tuyên truyền, phổ biến
kiến thức giáo dục pháp luật, những quy định của nhà nước và của địa phương trong sinh
hoạt tôn giáo. Chính quyền các địa phương luôn chú ý, quan tâm tạo điều kiện thuận lợi
cho tín đồ, chức sắc, các cơ sở, các dòng tu Công giáo hoạt động, sinh hoạt tôn giáo theo
Thư chung 1980, Hiến chương, Điều lệ của GHCGVN đã được nhà nước công nhận,
đúng pháp luật, cụ thể:
Ban Tôn giáo các tỉnh, thành ĐNB đã phối hợp với Tổng giáo phận TP. Hồ Chí
Minh và các giáo phận khác trên địa bàn ĐNB mở các lớp phổ biến tuyên truyền pháp
luật về tôn giáo cho các linh mục, chức sắc Công giáo như: Pháp lệnh, Luật TNTG và các
Nghị định hướng dẫn thi hành: Nghị định 24/2005/NĐ-CP; Nghị định 92/2012/NĐ-CP;
100
Nghị định 162/2017/NĐ-CP các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh,
Luật TNTG; Nghị định 1940/2008/NĐ-CP quy định về nhà đất liên quan đến tôn giáo,..
Hàng năm, Ban Tôn giáo các địa phương ĐNB phối hợp với UBND các quận,
huyện, thị xã, thành phố và các sở, ban, ngành của tỉnh, thành phố cùng với Ban Dân vận,
Công an tỉnh, MTTQ và các đoàn thể mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, pháp luật về tôn
giáo cho những CBCC trên địa bàn nhằm cập nhật những thông tin, kiến thức cho CBCC
làm công tác tôn giáo các cấp.
Khi Nhà nước ban hành những quy định mới liên quan đến tôn giáo, Ban Tôn giáo
tỉnh, thành phố phối hợp với các giáo phận, Tổng giáo phận TP. Hồ Chí Minh mở các lớp
tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các chức sắc Công giáo, những người là chánh xứ,
phó xứ trong các giáo xứ Công giáo trên địa bàn. Nội dung tuyên truyền, phổ biến vào
chính sách nhà đất, quy định pháp luật về hoạt động tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo.
Cùng với những hoạt động trên, chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB cũng luôn
quan tâm, giải quyết kịp thời theo quy định của pháp luật những nhu cầu về hoạt động
Công giáo, dòng tu như: thực hiện các lễ nghi tôn giáo, xây, sửa cơ sở thờ tự, in ấn kinh
sách, đào tạo chức sắc...
Ngoài việc hướng dẫn các tổ chức tôn giáo đăng ký các chương trình hoạt động
hàng năm, báo cáo tổ chức các cuộc lễ diễn ra ngoài cơ sở tôn giáo và đại hội theo nhiệm
kỳ, Ban tôn giáo các tỉnh, thành phố còn hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ
sở Công giáo, các dòng tu trên địa bàn tiến hành các hoạt động tôn giáo theo đúng quy
định pháp luật nhà nước.
Vào những ngày lễ trọng và các lễ hội gắn với những sinh hoạt Công giáo truyền
thống như: lễ kỷ niệm ngày Công giáo được truyền vào Việt Nam; lễ Chúa Giêsu giáng
sinh (25/12); lễ Phục sinh; lễ Chúa Giêsu lên trời; lễ Đức Maria hồn xác lên trời,… chính
quyền các tỉnh, thành phố đều phân công lãnh đạo chính quyền đến thăm hỏi, động viên
giáo dân.
Theo số liệu tổng hợp báo cáo qua 4 năm từ 2015 đến 2018, các địa phương ĐNB
đã tổ chức các cuộc vận động, tuyên truyền cho CBCC và chức sắc, tu sĩ các tôn giáo cụ
thể như sau:
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức 4 lớp tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về
tôn giáo cho 280 CBCC QLNN về tôn giáo các cấp, thực hiện tuyên truyền phổ biến giáo
dục pháp luật cho hơn 7.000 lượt chức sắc, tu sĩ các tôn giáo [10].
101
Tỉnh Bình Dương mở 08 lớp tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về tôn giáo
cho hơn 800 CBCC QLNN về tôn giáo các cấp, thực hiện tuyên truyền, phổ biến pháp
luật cho gần 5.000 lượt chức sắc, tu sĩ [8].
Tỉnh Bình Phước trong ba năm 2015 đến 2017 đã mở 5 lớp tuyên truyền, giáo dục
pháp luật TNTG cho gần 450 lượt CBCC làm công tác tôn giáo các cấp; tổ chức 5 hội
nghị phổ biến, tuyên truyền pháp luật TNTG cho khoảng 700 lượt tín đồ, chức sắc các
tôn giáo [9].
TP. Hồ Chí Minh, hàng năm đều mở ít nhất 2 lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức,
pháp luật về tôn giáo cho đội ngũ CBCC làm công tác tôn giáo các cấp. Ban Tôn giáo
Thành phố mỗi năm mở 5 lớp phổ biến kiến thức, pháp luật cho các đơn vị hành chính
cấp quận, huyện và cấp xã, mỗi lớp khoảng 50 học viên. Chính quyền các huyện hàng
năm đều chỉ đạo Phòng Nội vụ phối hợp với Trung tâm chính trị quận, huyện mở các lớp
cập nhật kiến thức pháp luật về tôn giáo cho chức sắc, tín đồ các tôn giáo [15, 16].
Tỉnh Đồng Nai hàng năm đều xây dựng và triển khai kế hoạch tuyên truyền phổ
biến kiến thức pháp luật cho chức sắc, nhà tu hành, chức việc, các tín đồ tôn giáo trên địa
bàn. Thống kê cho thấy năm 2015, Ban Tôn giáo Đồng Nai phối hợp với các tổ chức tôn
giáo bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho khoảng 1.100 chức sắc, tín đồ tôn giáo; năm
2016, 2017 mỗi năm bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho khoảng 1.300 chức sắc, tín đồ
tôn giáo. Ngoài ra, Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai còn phối hợp với Hội đồng Giáo dục
Quốc phòng, An ninh tỉnh Đồng Nai tổ chức được 25 lớp bồi dưỡng kiến thức Quốc
phòng, An ninh (từ 2010 đến hết 2017) cho khoảng 4.300 chức sắc, tu sĩ tôn giáo trên địa
bàn tỉnh. Mỗi năm tỉnh Đồng Nai cũng tổ chức 02 hội nghị phổ biến kiến thức pháp luật
về tôn giáo và báo cáo tình hình hoạt động tôn giáo trên địa bàn cho khoảng 400 đến 500
CBCC trong hệ thống hành chính của tỉnh [14].
Mỗi năm tỉnh Tây Ninh thực hiện hội nghị phổ biến pháp luật tôn giáo cho khoảng
70 đến 80 chức sắc các tôn giáo. Hàng năm Ban Tôn giáo phối hợp với UBND các
huyện, thị, thành phố mở 9 lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho các chức sắc, chức
việc, tín đồ các tôn giáo, ước mỗi năm khoảng trên dưới 1.000 người [18].
Cùng với việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho CBCC, và các chức sắc, tín đồ
các tôn giáo, Ban Tôn giáo các tỉnh cũng tham mưu cho chính quyền các tỉnh, hướng dẫn
chính quyền cấp huyện xem xét, giải quyết những vấn đề về Công giáo có lý, có tình
được chính quyền các cấp đánh giá cao, đông đảo chức sắc, tín đồ Công giáo đồng thuận.
102
Ngoài hình thức mở các lớp tập huấn, các hội nghị chuyên đề phổ biến kiến thức
pháp luật về tôn giáo, Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố ĐNB cũng hướng dẫn Phòng Nội
vụ cấp huyện, chỉ đạo chính quyền cấp cơ sở tổ chức các đợt phổ biến kiến thức pháp luật
tại địa phương, thông qua nhiều hình thức khác nhau như: tuyên truyền thông qua hệ
thống phát thanh tại các điểm dân cư; tổ chức các hội nghị cho các chức sắc, tín đồ tôn
giáo cam kết thực hiện nghiêm chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về tôn giáo.
Đối với các chức sắc, tín đồ, cơ sở Công giáo vi phạm pháp luật về tôn giáo, Ban Tôn
giáo tỉnh, chính quyền các địa phương đều trực tiếp gặp gỡ đối tượng, chức sắc sai phạm,
phân tích rõ hành vi, việc làm vi phạm pháp luật nhà nước, qua đó, cảm hóa đối tượng,
thông qua đối tượng để giáo dục những cá nhân, tổ chức khác.
Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tôn
giáo cho CBCC làm công tác tôn giáo các cấp và cho chức sắc, tín đồ Công giáo, CBCC
và cán bộ MTTQ, đoàn thể cho rằng mới chỉ thực hiện ở mức độ trung bình, chưa thực sự
tốt và có hiệu quả vì: các hội nghị, các lớp tập huấn vẫn không có đổi mới về hình thức
và phương pháp phổ biến, tuyên truyền. Chủ yếu mới chỉ mang tính chất truyền đạt các
quy định pháp luật mới hoặc có điều chỉnh, sửa đổi, nội dung chưa thực sự thiết thực, hấp
dẫn dễ gây nhàm chán cho người nghe. Năng lực truyền đạt kiến thức pháp luật của báo
cáo viên và giảng viên còn có những hạn chế, chủ yếu mang nặng tính lý thuyết, ít trao
đổi về thực tiễn vấn đề tại địa phương.
Bảng 3.3. Kết quả khảo sát thực trang việc tuyên truyền và phổ biến pháp luật
Tốt
Bình thường Chưa tốt
Chung
về tôn giáo tại các tỉnh, thành phố thuộc Đông Nam Bộ
STT
Nhóm đối tượng khảo sát
SL %
SL
%
SL %
SL %
1
69 38.33 47
26.11
64 35.56 180 100
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
2
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
26 32.50 21
26.25
33 41.25 80 100
Tổng hai nhóm
95 36.54 68
26.15
97 37.31 260 100
Nguồn: tác giả khảo sát thực tiễn
Về các hình thức tiếp thu kiến thức pháp luật về TNTG có nhiều hình thức khác
nhau, kết quả khảo sát cho thấy, cơ bản chức sắc Công giáo nắm được kiến thức, pháp
luật về TNTG thông qua phương tiện thông tin đại chúng với 74/80 ý kiến, chiếm tỷ lệ
92,5%; qua các chương trình phổ biến pháp luật của chính quyền, với số phiếu đánh giá
103
là 47/80 ý kiến, chiếm tỷ lệ 58,75%; qua các cuộc vận động chức sắc, tín đồ là 56/80 ý
kiến, chiếm tỷ lệ 70% và thông qua con đường tự học tập, tìm hiểu là 36/80 ý kiến, chiếm
tỷ lệ 45% (xem Bảng 3.3 và Phụ lục 4, 5).
3.4.3.2. Công tác vận động, tranh thủ chức sắc tín đồ Công giáo
Xác định rõ vị trí, vai trò của chức sắc, tín đồ Công giáo, chức sắc Công giáo là
người có vai trò điều hành sinh hoạt của các giáo phận, giáo hạt, giáo xứ, các dòng tu
Công giáo, họ là người rất có uy tín và ảnh hưởng lớn giáo dân vì vậy, làm tốt công tác
vận động, tranh thủ chức sắc Công giáo là một trong những nội dung rất quan trọng
trong công tác QLNN về Công giáo. Thông qua chức sắc Công giáo để vận động giáo
dân, quản lý và định hướng hoạt động của chức sắc, tín đồ Công giáo theo pháp luật,
định hướng nhà nước.
Để làm tốt công tác vận động chức sắc Công giáo những năm qua, chính quyền
các địa phương ĐNB đã có những việc làm cụ thể sau:
Chăm lo xây dựng mạng lưới thông tin, truyền thông trong vùng giáo, tăng cường
vận động chức sắc, tín đồ Công giáo tham gia công tác chính trị và công tác xã hội ở
địa phương. Thực tiễn số lượng đảng viên là người Công giáo hiện nay tại tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu có 842 đảng viên là chức sắc, tín đồ Công giáo; tỉnh Bình Dương có 219
đảng viên; tỉnh Bình Phước có 131 đảng viên; Đồng Nai có 3.343 đảng viên; TP. Hồ
Chí Minh có 1.889 đảng viên và Tây Ninh có 164 đảng viên là chức sắc, tín đồ Công
giáo [8, 9, 10, 14, 16, 18].
Chính quyền các cấp cũng quan tâm xây dựng quan hệ cởi mở, gần gũi và ứng xử
chân tình với chức sắc Công giáo; thường xuyên thăm hỏi, động viên, gặp gỡ, đối thoại,
xây dựng thái độ quan hệ hợp tác tốt.
Nắm bắt nhu cầu, nguyện vọng và giúp chức sắc, tín đồ Công giáo trong việc đạo,
việc đời; tạo điều kiện cho các cơ sở, tổ chức Công giáo hoạt động tôn giáo thuận lợi
theo các quy định của hiến chương, điều lệ của Giáo triều Vatican và của GHCGVN đã
được Nhà nước chấp thuận và đúng pháp luật.
Thường xuyên cung cấp thông tin, truyền đạt, phổ biến chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, kế hoạch của chính quyền địa
phương, cơ sở để chức sắc, tín đồ Công giáo hiểu rõ và đồng tình, ủng hộ. Hướng dẫn,
tạo điều kiện cho các giáo phận, giáo xứ, các dòng tu Công giáo hoạt động xã hội, từ
thiện, nhân đạo, xoá đói, giảm nghèo…
104
Vận động, giới thiệu chức sắc, tín đồ tiêu biểu tham gia các cơ quan dân cử:
HĐND, MTTQ, Ban Chấp hành đoàn thể, tạo thuận lợi cho việc triển khai các chủ
trương công tác ở địa phương; động viên chức sắc, tín đồ làm tốt nghĩa vụ công dân.
Hiện toàn vùng có 42 chức sắc, tín đồ Công giáo tham gia đại biểu HĐND các cấp; 74
chức sắc, tín đồ Công giáo tham gia MTTQ tại địa phương, 116 người tham gia các tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội [8, 9, 10, 14, 16, 18].
Nhờ làm tốt công tác vận động, tranh thủ chức sắc Công giáo nên những năm qua,
chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB đã thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ QLNN về
Công giáo trên địa bàn, động viên chức sắc, giáo dân “sống tốt đời, đẹp đạo”, thực hiện
tốt những chủ trương của Đảng, nhà nước và của địa phương. Tích cực lên án và đấu
tranh với những âm mưu của một số chức sắc, tín đồ Công giáo có hành vi lợi dụng các
sự kiện về: biển đảo, TNTG, môi trường,.. để tuyên truyền xuyên tạc các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, kích động gây chia rẽ mất đoàn kết, vi phạm pháp
luật. Ngoài ra, việc tranh thủ lực lượng cốt cán đạo tại các địa phương trong những năm
qua cũng giúp cho chính quyền, các cơ quan Công an chủ động, giải quyết tốt những
vấn đề nhạy cảm có liên quan đến tranh chấp đất đai, vấn đề nhà đất liên quan đến
Công giáo, hoạt động của một số chức sắc Công giáo có tư tưởng hẹp hòi, phá hoạt khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm phạm an ninh, trật tự của đất nước.
3.4.4. Chất lượng cán bộ, công chức quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn
Đông Nam Bộ
3.4.4.1. Về quy mô đội ngũ
Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy, toàn vùng ĐNB có 995 CBCC làm nhiệm vụ
QLNN về TNTG các cấp, trong đó: CBCC cấp tỉnh có 102 người, chiếm tỷ lệ 15,31%;
CBCC cấp huyện có 129 người, chiếm tỷ lệ 18,30% và CBCC cấp xã có 764 người,
chiếm tỷ lệ 66,38%. (xem Phụ lục 7)
Phân loại CBCC làm nhiệm vụ QLNN về tôn giáo theo từng địa phương, chúng ta
có số lượng và tỷ lệ như sau:
Bà Rịa - Vũng Tàu có tổng số 114 CBCC làm nhiệm vụ QLNN về tôn giáo, trong
đó cấp tỉnh có 12 người, chiếm tỷ lệ 10,53%; cấp huyện có 15 người, chiếm tỷ lệ 13,16%
và cấp xã có 87 người, chiếm tỷ lệ 76,32%.
105
Bình Dương có tổng số 101 CBCC làm nhiệm vụ QLNN về tôn giáo, trong đó cấp
tỉnh có 10 người, chiếm tỷ lệ 9,90%; cấp huyện có 08 người, chiếm tỷ lệ 7,92% và cấp xã
có 82 người, chiếm tỷ lệ 82,18%.
Bình Phước có tổng số 35 CBCC làm nhiệm vụ QLNN về tôn giáo, trong đó cấp
tỉnh có 14 người, chiếm tỷ lệ 40,0%; cấp huyện có 19 người, chiếm tỷ lệ 54,29% và cấp
xã có 02 người, chiếm tỷ lệ 5,71%.
Đồng Nai có tổng số 220 CBCC làm nhiệm vụ QLNN về tôn giáo, trong đó cấp tỉnh
có 25 người, chiếm tỷ lệ 11,36%; cấp huyện có 21 người, chiếm tỷ lệ 9,55% và cấp xã có
174 người, chiếm tỷ lệ 79,09%.
TP. Hồ Chí Minh có tổng số 394 CBCC làm nhiệm vụ QLNN về tôn giáo, trong đó
cấp thành phố có 22 người, chiếm tỷ lệ 5,58%; cấp quận, huyện có 50 người, chiếm tỷ lệ
12,69% và cấp xã có 322 người, chiếm tỷ lệ 81,73%.
Tây Ninh có tổng số 131 CBCC làm nhiệm vụ QLNN về tôn giáo, trong đó cấp tỉnh
có 19 người, chiếm tỷ lệ 14,50%; cấp huyện có 16 người, chiếm tỷ lệ 12,21% và cấp xã
có 96 người, chiếm tỷ lệ 73,28%.
Nghiên cứu cho thấy, CBCC QLNN về tôn giáo ở các địa phương có cơ cấu, tổ
chức và quy mô khá giống nhau. Các tỉnh, thành đều tổ chức Ban Tôn giáo cấp tỉnh với
quy mô bộ máy có từ 10 đến 25 CBCC; đối với cấp huyện bố trí từ 01 đến 02 CBCC
QLNN về tôn giáo; ở cấp xã cử 01 cán bộ hoặc công chức theo dõi hoạt động TNTG trên
địa bàn xã. Riêng tỉnh Bình Phước tăng cường CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo ở
cấp tỉnh, cấp huyện, không bố trí nhiệm vụ QLNN về tôn giáo cho UBND cấp xã, chỉ
điều động 02 cán bộ chuyên trách, làm nhiệm vụ QLNN về tôn giáo ở 02 xã có tình hình
nóng về tôn giáo. (xem Phụ lục 7)
3.4.4.2. Về cơ cấu giới, thành phần dân tộc và độ tuổi
Toàn vùng có 231 CBCC QLNN về tôn giáo, trong đó CBCC là nam giới có
176/231 người, chiếm tỷ lệ 76,19%; nữ giới có 55/231 người, chiếm tỷ lệ 23,81%. So
sánh giữa các địa phương về tỷ lệ CBCC nữ cho thấy không có độ đồng đều giữa số
lượng với tỷ lệ CBCC nữ trong tổng số CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo cấp tỉnh
và cấp huyện. Đồng Nai có số lượng CBCC QLNN về tôn giáo là nữ giới cao nhất 19/46
người, chiếm tỷ lệ 41,30%, trong khi TP. Hồ Chí Minh có số CBCC QLNN về tôn giáo là
nữ giới thấp nhất, với số lượng là 06/72 CBCC, chiếm tỷ lệ chỉ 8,33%.
106
Về cơ bản CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo tại các tỉnh, thành phố thuộc
ĐNB có tuổi đời còn khá trẻ, thể hiện: có 122 người có độ tuổi dưới 40, chiếm tỷ lệ
52,81%; số CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo có độ tuổi từ 41 đến 50 là 57 người,
chiếm tỷ lệ 24,68%; số CBCC có độ tuổi từ 51 đến 60 là 52 người, chiếm tỷ lệ 22,51%.
So sánh giữa các địa phương về cơ cấu lứa tuổi CBCC cho thấy, TP. Hồ Chí Minh có cơ
cấu CBCC đồng đều nhất giữa 3 lứa tuổi; Bình Phước và Đồng Nai là hai địa phương có
sự mất cân đối nhất về cơ cấu lứa tuổi của CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo. (xem
Phụ lục 6)
3.4.4.3. Về trình độ chuyên môn của đội ngũ CBCC
Tìm hiểu về chất lượng CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo các tỉnh, thành phố
thuộc ĐNB cho thấy: nhìn chung trình độ chuyên môn của CBCC khá đồng đều, phần
lớn CBCC có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên, một số CBCC có trình độ chuyên
môn sau đại học. Số CBCC có trình độ đại học trở lên ở các địa phương đều 73% trở lên,
số lượng CBCC có trình độ chuyên môn là cao đẳng và trung cấp về cơ bản không còn
nhiều, trung bình từ 11% đến 22%, cụ thể như sau:
Toàn vùng có 6/231 CBCC có trình độ chuyên môn sau đại học, chiếm tỷ lệ 2,6%;
179/231 CBCC có trình độ chuyên môn là đại học, chiếm tỷ lệ 77,49%; số lượng CBCC
có trình độ là trung cấp và cao đẳng với 46/231 người, chiếm tỷ lệ 19,91%. Một số địa
phương có số lượng CBCC có trình độ chuyên môn chưa đạt chuẩn đại học là TP. Hồ Chí
Minh với 19/72 người, chiếm tỷ lệ 26,39%; Tây Ninh 08/35 người, chiếm tỷ lệ 22,86%;
Đồng Nai 10/46 người, chiếm tỷ lệ 21,74%.
3.4.4.4. Về trình độ quản lý nhà nước
Qua điều tra cho thấy, về cơ bản CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo địa bàn
ĐNB chưa được bồi dưỡng đầy đủ về nghiệp vụ QLNN, điều này được thể hiện qua
những số liệu dưới đây: (xem Phụ lục 7)
Toàn vùng có 123/231 CBCC được bồi dưỡng kiến thức QLNN từ chuyên viên trở
lên, chiếm tỷ lệ 53,25% tổng số CBCC.
Số CBCC có trình độ QLNN đạt chuẩn CVCC là 01/231 người, chiếm tỷ lệ 0,43%;
số CBCC có trình độ QLNN đạt chuẩn CVC là 25/231 người, chiếm tỷ lệ 10,82%; số
CBCC có trình độ QLNN đạt chuẩn chuyên viên là 97/231 người, chiếm tỷ lệ 41,99% và
số CBCC chưa được bồi dưỡng kiến thức QLNN đạt chuẩn từ CV trở lên là 108/231
người, chiếm tỷ lệ 46,75%.
107
Số liệu trên cho thấy, số lượng CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo tại các địa
phương ĐNB chưa được bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ QLNN còn chiếm tỷ lệ khá cao,
điều này đòi hỏi Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố địa phương ĐNB cần phải có kế hoạch
chuẩn hóa nghiệp vụ QLNN cho đội ngũ CBCC để nâng cao hiệu quả việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ QLNN về tôn giáo tại địa phương trong giai đoạn tới.
3.4.4.5. Về trình độ lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ
Kết quả nghiên cứu cho thấy: cả vùng ĐNB có 21/231 CBCC chuyên trách QLNN
về tôn giáo được đào tạo trình độ cử nhân, chiếm tỷ lệ 9,09%; 60/231 CBCC được đào
tạo trình độ cao cấp, chiếm tỷ lệ 25,97%; 77/231 CBCC được đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị trình độ trung cấp và sơ cấp, chiếm tỷ lệ 33,33%. Trong đó, Bà Rịa - Vũng Tàu
có 19/27 CBCC được bồi dưỡng kiến thức về lý luận chính trị; Bình Dương có 13/18;
Bình Phước có 22/33; Đồng Nai có 27/46; TP. Hồ Chí Minh có 59/72 và Tây Ninh có
18/35. Số CBCC chuyên trách làm nhiệm vụ QLNN về tôn giáo của toàn vùng chưa được
bồi dưỡng, đào đạo kiến thức lý luận chính trị là 74 người, chiếm tỷ lệ 31,60%.
Toàn địa bàn ĐNB có 196/231 CBCC có chứng chỉ tin học với trình độ đạt chuẩn
kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-
BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định Chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ
thông tin, với tỷ lệ 84,85% tổng số CBCC. Số người chưa đạt chuẩn là 35/231 CBCC,
chiếm tỷ lệ 15,15%.
Số CBCC đạt chuẩn về trình độ ngoại ngữ theo quy định tại Thông tư
số 01/2014/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành khung năng lực ngoại
ngữ là 186/231 người, chiếm tỷ lệ 80,52%. Bình Phước là địa phương đạt chuẩn về trình
độ ngoại ngữ cao nhất với 30/33 CBCC người, chiếm tỷ lệ 90,91%; Bà Rịa - Vũng Tàu là
địa phương có số lượng CBCC chưa đạt chuẩn về trình độ ngoại ngữ cao nhất với số
lượng là 08/27 người, chiếm tỷ lệ 29,61%.
3.4.5.6. Về bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ công tác
Toàn vùng có 153 CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo được bồi dưỡng kiến
thức và nghiệp vụ QLNN về tôn giáo, chiếm tỷ lệ 66,23%, cụ thể: Bà Rịa - Vũng Tàu có
16/27 CBCC được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng và nghiệp vụ QLNN về tôn giáo; Bình
Dương có 15/18 CBCC được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng và nghiệp vụ QLNN về tôn
giáo; Bình Phước có 20/33 CBCC được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng và nghiệp vụ
QLNN về tôn giáo; Đồng Nai có 36/46 CBCC được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng và
108
nghiệp vụ QLNN về tôn giáo; TP. Hồ Chí Minh có 41/72 CBCC được bồi dưỡng kiến
thức, kỹ năng và nghiệp vụ QLNN về tôn giáo; Tây Ninh có 25/35 CBCC được bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng và nghiệp vụ QLNN về tôn giáo. (xem Biểu đồ 3.2)
Như vậy, nhìn chung số lượng CBCC chưa được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
nghiệp vụ QLNN về tôn giáo tại các tỉnh, thành phố thuộc Đông Nam Bộ còn khá cao với
số lượng 78 CBCC, chiếm tỷ lệ 33,77%. Điều này đòi hỏi các địa phương phải có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ QLNN về tôn giáo cho CBCC
trong giai đoạn tới.
Nghiên cứu cũng cho thấy, phần lớn CBCC còn thiếu về kinh nghiệm công tác, thể
hiện: toàn vùng có 119/231 CBCC có kinh nghiệm công tác tại lĩnh vực QLNN về tôn
giáo trên 5 năm, chiếm tỷ lệ 51,52%. Số CBCC có kinh nghiệm công tác dưới 5 năm là
112 người, chiếm tỷ lệ là 48,48%. Cá biệt có 02 tỉnh là Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình
Dương, số lượng CBCC thiếu kinh nghiệm QLNN về tôn giáo còn rất cao, chỉ có 8/27 và
4/18 CBCC có kinh nghiệm QLNN về tôn giáo trên 5 năm, còn lại đều có kinh nghiệm
dưới 5 năm.
Biểu đồ 3.2: Thống kê về số lượng CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo
được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ QLNN về tôn giáo ở Đông Nam Bộ
(Đơn vị tính: người)
Nguồn: tác giả điều tra thực tiễn tại Đông Nam Bộ
Kết quả khảo sát cho thấy, các nhóm khách thể đều nhận định CBCC QLNN về tôn
giáo có phẩm chất đạo đức tốt, thể hiện 230/340 khách thể đánh giá trình độ tốt, chiếm tỷ
lệ 67,65%%; trình độ chuyên môn khá của CBCC được đánh giá ở mức độ trung bình,
thể hiện 139/340 số ý kiến đánh giá tốt, chiếm tỷ lệ 40,88%; về kinh nghiệm công tác của
109
CBCC được đánh giá là chưa tốt, thể hiện có 212/340 ý kiến nhận định là chưa có kinh
nghiệm, chiếm tỷ lệ 62,35%.
Bảng 3.4. Kết quả khảo sát về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và phẩm chất đạo
đức của cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo ở Đông Nam Bộ
Phương án đánh giá
Tổng
STT
Tốt
Bình thường
Chưa tốt
Phương diện đánh giá
SL
%
SL
%
SL
%
SL %
1
Trình độ chuyên môn
139
40.88
22.94
123
36.18
340 100
78
2
Kinh nghiệm công tác
65
19.12
18.53
212
62.35
340 100
63
3
Phẩm chất đạo đức
230
67.65
19.71
43
12.65
340 100
67
Nguồn: kết quả khảo sát thực tiễn của tác giả
Tìm hiểu thực tiễn cũng cho thấy, đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo các cấp nơi
đây đang ngày được củng cố, kiện toàn; chất lượng CBCC ngày càng nâng lên thể hiện
qua các mặt được xem xét, đánh giá. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC QLNN
về tôn giáo cũng được chính quyền các cấp ngày càng quan tâm, hàng năm các tỉnh đều
lập kế hoạch bồi dưỡng kiến thức về tôn giáo cho CBCC làm công tác tôn giáo các cấp.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo ở
ĐNB vẫn gặp những vấn đề khó khăn như: lực lượng ít, chủ yếu tập trung CBCC chuyên
trách ở cấp tỉnh, cấp huyện chủ yếu làm nhiệm vụ kiêm nhiệm, cấp xã hầu như không có
CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo. Kinh nghiệm của đội ngũ CBCC trong QLNN về
Công giáo địa bàn ĐNB vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là sự thiếu hụt những CBCC
QLNN về tôn giáo có kinh nghiệm lâu năm ở Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương. Trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ công tác của CBCC còn chưa cao, nhiều người được tuyển dụng
vào bộ máy nhưng chưa được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về tôn giáo nói chung và Công
giáo nói riêng, tỷ lệ CBCC chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ QLNN và kiến thức tôn giáo,
Công giáo còn cao. Bên cạnh đó, QLNN về Công giáo là một lĩnh vực nhạy cảm, có tính
chính trị, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ cũng còn có những hạn chế nên lĩnh vực này
cũng chưa thu hút, chưa giữ chân được những CBCC có kinh nghiệm quản lý, có trình độ
chuyên môn sâu.
3.4.5. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật quản lý nhà nước về Công giáo trên
địa bàn Đông Nam Bộ
3.4.5.1. Quản lý hoạt động cấp phép đăng ký hoạt động; chia tách, sáp nhập tổ chức
Công giáo
110
Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt đạo của chức sắc, tín đồ Công giáo, trong những
năm qua, chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB đã đồng ý, tạo điều kiện cho các cơ sở
Công giáo được chia tách, thành lập mới các giáo xứ, giáo họ, các dòng tu Công giáo,
về cơ bản, sau khi chia tách, các giáo xứ, giáo họ đều ổn định hoạt động, chấp hành tốt
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Từ năm 2003 đến 2018, Bà Rịa - Vũng Tàu đồng ý cho chia tách 11 giáo xứ, nâng
cấp 05 giáo họ lên thành giáo xứ, đồng ý cho thành lập 12 giáo họ. Riêng năm 2016,
chính quyền tỉnh cho phép thành lập giáo xứ Tân Lâm, huyện Xuyên Mộc; giáo xứ Côn
Sơn, huyện Côn Đảo [10].
Tỉnh Bình Dương từ năm 2003 đến hết năm 2018 cho phép thành lập thêm 23 giáo
xứ, trong đó 14 giáo xứ được chia tách và 09 giáo xứ được thành lập mới từ giáo họ
nâng tổng số giáo xứ tại Bình Dương lên 54. Năm 2016 chính quyền tỉnh Bình Dương
đồng ý cho phép thành lập giáo xứ Thánh Giuse, nhà thờ tọa lạc tại Phường Hòa Phú và
Hội Dòng Nữ Đa Minh Đức Mẹ Mân Côi Phú Cường, TP.Thủ Dầu Một; năm 2017,
đồng ý cho thành lập giáo xứ Minh Tân, huyện Dầu Tiếng và năm 2018 thành lập giáo
xứ Thánh Phaolo, huyện Bàu Bàng [8].
Tỉnh Bình Phước, tính từ năm 2003 đến 2018 đã đồng ý cho giáo phận Phú Cường
chia tách, thành lập mới và đăng ký hoạt động cho 52 giáo xứ, giáo họ, dòng tu. Năm
2015, đồng ý cho Giáo phận chia tách 03 giáo xứ và nâng cấp 01 giáo họ; năm 2017
chính quyền chấp thuận đăng ký sinh hoạt cho 04 dòng tu và đồng ý cho thành lập 02
giáo xứ, năm 2018 là 01 giáo xứ, nâng tổng số sơ sở Công giáo trên địa bàn tỉnh là 99 cơ
sở [9].
Tỉnh Đồng Nai trong 14 năm từ 2003 đến 2018, chính quyền tỉnh đã đồng ý cho
Giáo phận Xuân Lộc thành lập mới 26 giáo xứ, đăng ký sinh hoạt cho 18 dòng tu, riêng
năm 2016, UBND tỉnh Đồng Nai đồng ý cho thành lập 12 giáo xứ, đổi tên một cơ sở
Công giáo, cấp đăng ký sinh hoạt cho 01 dòng tu và 08 hội đoàn Công giáo cấp hạt; cấp
giấy chứng nhận hoạt động cho 21 tổ chức Công giáo trực thuộc các giáo xứ. Năm
2017, UBND tỉnh Đồng Nai chấp thuận đăng ký sinh hoạt cho 06 hội đoàn Công giáo
cấp hạt; Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận công nhận tổ chức tôn giáo
trực thuộc Giáo phận Xuân Lộc cho 06 giáo xứ; UBND các huyện cấp giấy chứng nhận
họat động cho 04 Cộng đoàn dòng tu Công giáo [14, 15].
111
TP. Hồ Chí Minh trong 14 năm từ 2003 đến 2018, UBND thành phố đã đồng ý
cho Tổng giáo phận Thành phố thành lập 37 giáo xứ, giáo họ trực thuộc giáo phận, giáo
xứ; đồng ý và cấp phép hoạt động cho 26 dòng tu Công giáo trên địa bàn. Chính quyền
cấp huyện đồng ý và cấp giấy chứng nhận hoạt động cho 73 cơ sở Công giáo trực thuộc
các giáo phận [16, 17].
Tỉnh Tây Ninh từ năm 2003 đến hết năm 2018 đã cấp giấy chứng nhận hoạt động
cho 06 dòng tu Công giáo, đồng ý cho phép thành lập mới 02 giáo xứ (được nâng cấp từ
giáo họ) [18].
Có thể khẳng định, chính quyền các địa phương ĐNB đã rất quan tâm đến việc tạo
điều kiện cho các tổ chức công giáo trên địa bàn hoàn thiện cơ cấu tổ chức và ổn định
hoạt động. Những đề xuất, kiến nghị của các chức sắc Công giáo phù hợp, đúng pháp
luật của nhà nước đều được Ban Tôn giáo các tỉnh xem xét, đề xuất với UBND cấp tỉnh,
thành phố giải quyết một cách thỏa đáng, đúng với quy định pháp luật và phù hợp với
thực tiễn tại địa phương.
3.4.5.2. Quản lý các hoạt động sinh hoạt, truyền đạo, tổ chức hội nghị, lễ hội Công giáo
Về sinh hoạt Công giáo, nhìn chung trong những năm từ 2004 đến nay đều được
diễn ra khá ổn định, chấp hành tốt pháp luật của nhà nước. Hàng năm, chính quyền các
cấp đều gửi văn bản, nhắc nhở các chức sắc Công giáo đăng ký nội dung hoạt động và
các hội nghị, lễ hội được tổ chức trong năm, trong đó dự kiến trước thời gian, địa điểm
diễn ra và quy mô số người tham dự.
Vào các dịp lễ hội các cơ sở Công giáo đều có thông báo cụ thể kế hoạch chương
trình tổ chức lễ hội cho chính quyền các cấp, nhờ đó, chính quyền các địa phương đã
lên phương án đảm bảo tình hình an ninh, trật tự cho lễ hội được diễn ra đúng kế hoạch
và an toàn.
Hoạt động tôn giáo hàng tuần ở các cơ sở Công giáo diễn ra trong khuôn viên thờ
tự: nội dung sinh hoạt tôn giáo thuần túy theo từng chủ đề sinh hoạt đã đăng ký hoạt
động và chủ đề của Thư chung do HĐGMVN phát động.
Hoạt động của các chức sắc Công giáo trong những năm gần đây dần ổn định,
tuân thủ pháp luật nhà nước về hoạt động tôn giáo. Về cơ bản, các chức sắc Công giáo
sinh hoạt tôn giáo ở tại nhà thờ, trong khuôn viên giáo xứ, giáo họ Công giáo. Trường
hợp sinh hoạt tôn giáo ngoài cơ sở thờ tự đều có văn bản đề nghị với các cơ quan chức
năng theo quy định pháp luật.
112
Đối với các hoạt động lễ hội ngoài cơ sở Công giáo, địa điểm hợp pháp đã đăng
ký, tổ chức Công giáo, tổ chức Công giáo trực thuộc, các hội đoàn Công giáo đều gửi
văn bản đề nghị đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền được quy định tại Khoản 3 Điều
46, Luật TNTG 2016 để được cấp phép hoạt động.
3.4.5.3. Quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và phong chức Thánh trong Công giáo
Nhằm tạo điều kiện cho các giáo phận đào tạo, bồi dưỡng thần học cho đội ngũ
chức sắc Công giáo, những năm qua Ban Tôn giáo Chính phủ và chính quyền TP. Hồ
Chí Minh, Đồng Nai đã cho phép thành lập 02 Đại chủng viện, 01 học viện để đào tạo
chủng sinh phục vụ cho sứ mệnh của GHCGVN đó là: Đại chủng viện Thánh Giuse
TP.Hồ Chí Minh, Đại chủng viện Xuân Lộc, Đồng Nai và Học viện Mục vụ, P. Bến
Nghé, Q 1, TP. Hồ Chí Minh [14, 16].
Bà Rịa - Vũng Tàu hàng năm đều chấp thuận cho các cơ sở Công giáo trên địa bàn
cử người đi đào tạo thần học tại các chủng viện trên địa bàn. Từ năm 2015 đến 2018,
chính quyền đồng ý cho 38 chủng sinh đi học thần học tại Đại chủng viện Thánh Giuse
Xuân Lộc; Ban Tôn giáo tỉnh đồng ý cho giáo phận mở 03 lớp bồi dưỡng thần học tại
Trung tâm Mục vụ giáo phận Bà Rịa [10].
Tỉnh Bình Dương, từ năm 2014 đến 2018 đã đồng ý cho hơn 50 chủng sinh, linh
mục đi bồi dưỡng, đào tạo thần học ở cả trong và ngoài nước. Năm 2017, chính quyền
tỉnh đồng ý cho 02 linh mục đi đào tạo thần học ở Italy (2017 - 2020); đồng ý cho 07
chủng sinh tham gia khóa đào tạo thần học tại Đại chủng viện Thánh Giuse TP. Hồ Chí
Minh [8].
Bình Phước, trong khoảng thời gian 3 năm từ 2015 đến 2018 đã cử 48 linh mục,
chủng sinh đi đào tạo, bồi dưỡng thần học tại Đại chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc,
trong đó ở Italy 01 linh mục [9].
Tại Đồng Nai, từ năm 2005 đến 2018, Ban Tôn giáo Chính phủ đồng ý cho 16 linh
mục tham gia kháo đào tạo tại Italy, Pháp, Hoa Kỳ; mỗi năm tỉnh chấp thuận cho từ 30
đến 40 tu sĩ tham gia khóa học bồi dưỡng thần học tại Đại chủng viện Thánh Giuse
TP.Hồ Chí Minh và Xuân Lộc. Năm 2016 và năm 2017 Ban Tôn giáo Chính phủ chấp
thuận đơn đi du học của 05 linh mục tại Italy, Pháp; UBND tỉnh Đồng Nai đồng ý cho
65 tu sĩ tham gia khóa đào tạo thần học tại Đại chủng viện Xuân lộc [14].
TP. Hồ Chí Minh, trong khoảng thời gian 4 năm từ 2014 đến 2018, Ban Tôn giáo
Chính phủ đồng ý cho 12 trường hợp linh mục đi bồi dưỡng thần học ở Hoa Kỳ, Pháp,
113
Italy; mỗi năm UBND thành phố đồng ý cho trên dưới 30 tu sĩ tham gia khóa đào tạo
thần học tại Học viện Thánh Giêsu TP.Hồ Chí Minh. Năm 2017, Học viện Mục vụ
được nâng cấp thành Học viện Công giáo Việt Nam và bắt đầu tuyển sinh từ năm 2017
với hai chương trình đào tạo là: cử nhân thần học và cao học thần học. Hàng năm,
UBND TP. Hồ Chí Minh cũng đồng ý cho Tổng giáo phận Thành phố và các dòng tu
trên địa bàn mở các khóa bồi dưỡng thần học cho các tu sĩ và linh mục [16].
Chính quyền tỉnh Tây Ninh cũng luôn tạo điều kiện cho các cơ sở Công giáo trên
địa bàn cử tu sĩ, linh mục tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng thần học. Tính từ năm
2014 đến 2018, UBND tỉnh đồng ý cho 16 chức sắc Công giáo tham gia các khóa học
bồi dưỡng, đào tạo thần học tại Đại chủng viện Thánh Giuse TP.Hồ Chí Minh [18].
Có thể khẳng định, với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về tôn giáo,
những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng thần học cho chức sắc, tu sĩ Công giáo
được chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB luôn quan tâm, tạo điều kiện theo đúng quy
định của chính sách, pháp luật nhà nước, đây cũng là một minh chứng khẳng định chính
sách tự do TNTG của Đảng và Nhà nước ta.
3.4.5.4. Quản lý hoạt động sử dụng đất đai, xây dựng công trình kiến trúc Công giáo
Xác định chính sách đất đai là một trong những vấn đề hết sức nhạy cảm trong
công tác tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng, nên những năm qua, chính quyền
các tỉnh, thành phố ĐNB luôn quan tâm, chỉ đạo Sở Tài nguyên Môi trường, chính
quyền các quận, huyện, thị xã, thành phố giải quyết dứt điểm, công khai, minh bạch vấn
đề này.
Tổng hợp số liệu điều tra của tác giả tại Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố ĐNB,
tính từ năm 2003 đến 2018, chính quyền các tỉnh đã cấp cho các cơ sở Công giáo tại các
địa phương là 7.939.529 m2, trong đó: tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp thêm cho các cơ sở
Công giáo là 332.209 m2 [10]; Bình Dương cấp mới cho các cơ sở Công giáo trên địa
bàn tỉnh là 325.854 m2 [8]; Bình Phước cấp cho các các cơ sở Công giáo trong 14 năm
là 337.542 m2 [9]; Đồng Nai là địa phương giao nhiều đất cho cơ sở Công giáo nhất,
trong 14 năm chính quyền tỉnh đã giao cho các tổ chức Công giáo là 6.506.984 m2 [14];
TP. Hồ Chí Minh trong 14 năm giao thêm cho các cơ sở Công giáo với diện tích đất là
361.975 m2 [16] và Tây Ninh, từ 2003 đến 2017 đã giao thêm cho các cơ sở Công giáo
là 74.965 m2 [18].
114
Bảng 3.5. Thống kê về thực trạng diện tích đất sử dụng cho các cơ sở Công giáo
ở Đông Nam Bộ
STT
Tỉnh/ Thành
1 2 3 4 5 6
Bà Rịa - Vũng Tàu Bình Dương Bình Phước Đồng Nai TP. HCM Tây Ninh
Tổng diện tích đất Công giáo
Năm 2003 (m2) 1.513.164 471.327 730.884 7.685.462 1.110.617 183.517 11.694.971
2018 (m2) 1.845.373 797.181 1.068.426 14.192.446 1.472.592 258.482 19.634.500
Diện tích tăng thêm (m2) 332.209 325.854 337.542 6.506.984 361.975 74.965 7.939.529
Nguồn: tác giả thống kê tại Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố thuộc Đông Nam Bộ
Cùng với việc giao đất cho các cơ sở Công giáo, Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố
đã tham mưu cho chính quyền chỉ đạo các ban ngành, chính quyền cấp dưới rà soát,
xem xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở Công giáo. Theo số
liệu tổng hợp từ các địa phương, tính đến hết tháng 12/2018, chính quyền tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 139/145 cơ sở Công giáo;
tỉnh Bình Dương đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 72/84 cơ sở Công
giáo; Bình Phước đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 64/98 cơ sở Công
giáo; tỉnh Đồng Nai đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 438/962 cơ sở Công
giáo; TP. Hồ Chí Minh đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 626/626 cơ sở
Công giáo (100%); và Tây Ninh cũng đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
26/26 cơ sở Công giáo trên địa bàn tỉnh [8, 9, 10, 14, 16, 18].
Cùng với việc, giải quyết những vấn đề đất đai, liên quan đến Công giáo, UBND
các tỉnh, thành phố ĐNB đã chỉ đạo các ngành, các cấp giải quyết nhu cầu xây dựng, cải
tạo, sửa chữa, nâng cấp các công trình, kiến trúc Công giáo. Hàng năm các tỉnh, thành
phố đều quan tâm cấp phép xây dựng, sửa chữa, nâng cấp cho các cơ sở Công giáo theo
đúng quy định nhà nước: Đồng Nai cấp phép xây dựng cho Đại chủng viện Thánh Giuse
Xuân Lộc năm 2015 [14]; TP. Hồ Chí Minh cấp phép nâng cấp Đại chủng viện Thánh
Giuse TP.Hồ Chí Minh năm 2013, đồng ý cho nâng cấp cơ sở vật chất Học viện Mục vụ
năm 2014 [16]; Bình Dương đồng ý cho xây dựng Cộng Đoàn Mến Thánh giá Thủ
Thiêm, Thủ Dầu Một và nhà thờ giáo xứ Phước Vĩnh năm 2016 [8]; Đồng Nai trong 4
năm từ 2015 đến 2018 đã cấp phép xây dựng và sửa chữa cho 17 cơ sở Công giáo [14];
Tây Ninh năm 2016 cấp phép xây dựng cho 02 cơ sở Công giáo, năm 2017, cấp phép sửa
115
chữa cho 01 cơ sở Công giáo [18]; Bà Rịa - Vũng Tàu đã cấp phép xây dựng trụ sở Tòa
Giám mục mới tại TP. Bà Rịa năm 2017, từ 2015 đến 2018 mỗi năm chính quyền tỉnh
cấp trung bình 05 giấy phép sửa chữa, xây dựng cho các cơ sở Công giáo [10].
Mặc dù, chính quyền các địa phương ĐNB đã đạt được những kết quả trong công
tác giải quyết vấn đề đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự Công giáo, tuy nhiên, công tác này
vẫn gặp nhiều khó khăn như: tình hình khiếu kiện nhà đất liên quan đến Công giáo đang
có xu thế gia tăng, và ngày càng phức tạp; hoạt động chuyển đổi mục đích sử dụng đất
đai Công giáo diễn ra lén lút; chuyển nhượng đất đai cho các tổ chức Công giáo theo
kiểu “hiến, tặng” có dấu hiệu tăng lên và những tranh chấp đất đai có liên quan đến
Công giáo vẫn chưa được giải quyết dứt điểm; hoạt động xây dựng, cải tạo công trình,
kiến trúc Công giáo diễn ra ở tất cả các địa phương ĐNB đó là những vấn đề hạn chế
đối với chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB trong thời gian tới.
3.4.5.5. Quản lý hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế và từ thiện, nhân đạo của các cơ sở
Công giáo
Cùng với những chính sách mở rộng quyền tự do TNTG của Đảng và Nhà nước
trong những năm qua, hoạt động từ thiện, nhân đạo, văn hóa, giáo dục, y tế của các
Giáo phận, tổ chức Công giáo địa bàn ĐNB cũng ngày càng phát triển với nhiều hình
thức đa dạng, phong phú như:
Chính quyền các địa phương ĐNB cho phép các cơ sở Công giáo thành lập các cơ
sở giáo dục mầm non, giáo dục nghề nghiệp cho con em giáo dân. Trường Cao đẳng
Hòa Bình Xuân Lộc, Trảng Bom, Đồng Nai mỗi năm tuyển sinh 120 học viên, sau khi
đào tạo xong được đảm bảo đầu ra tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, trung bình
khoảng 1/3 số học viên được đi du học và làm việc tại Nhật Bản [14].
Đồng ý cho Ủy ban Bác ái, Giáo phận Xuân Lộc thực hiện chương trình trao tặng
xe lăn, xe lắc do hiệp hội American Wheelchair Mission (AWM) tài trợ cho những
người gặp hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn; phối hợp với Bệnh viện Nhân dân, Bệnh
viện Nhi đồng TP. Hồ Chí Minh tổ chức khám sàng lọc, chữa bệnh cho hàng nghìn
bệnh nhân. Mỗi dịp xuân về, Ủy ban Bác ái Xã hội đều tổ chức các đợt tặng quà cho gia
đình nghèo [14, 15]. Hưởng ứng cuộc vận động của Ủy ban đoàn kết Công giáo, Giáo
phận Xuân Lộc đã ủng hộ tính từ năm 2014 đến năm 2018 cho đồng bào lũ lụt miền
Trung, miền Bắc với số tiền trên 600 tỷ đồng. Mỗi năm Giáo phận trao hơn 500 xuất
học bổng cho các trẻ em nghèo, mỗi xuất trị giá 5 triệu đồng [14]. Giáo xứ Bắc Hải
116
huyện Hố Nai tổ chức Nhóm Bảo vệ sự sống chuyên thu lượm các xác thai nhi bị bỏ rơi
và tiếp nhận xác thai nhi từ các bệnh viện và phòng khám thai để làm thánh lễ cầu
nguyện, đặt tên thánh và chôn cất tại nghĩa trang Thai nhi của Giáo phận Xuân lộc tại
Giáo xứ Tây Hải [14].
Chính quyền TP. Hồ Chí Minh tạo điều kiện, hướng dẫn Ủy ban bác ái Xã hội,
Tổng Giáo phận TP. Hồ Chí Minh xây dựng và tổ chức các chương trình thiết thực để
giúp đỡ người nghèo trong Tổng giáo phận: tổ chức khám, chữa bệnh cho học sinh
trường tình thương Thiên Ân; tổ chức các chương trình trị liệu cho trẻ em khuyết tật; tổ
chức bữa ăn trưa và hỗ trợ cho phụ nữ nghèo nhân ngày vì người nghèo thế giới; xây
dựng và tổ chức thực hiện chương trình hỗ trợ cho người nghèo khuyết tật mỗi năm 4
lần nhân các dịp lễ hội của Công giáo với các xuất quà trị giá 230.000 đồng/xuất. Ủy
Ban Bác ái cũng khuyến khích các giáo xứ xây dựng và tổ chức các chương trình khám
chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em bị hở hàm ếch; thành lập các trung tâm nuôi dưỡng
trẻ em mồ côi, những trẻ em gặp hoàn cảnh khó khăn [16].
Chính quyền TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu khuyến khích, tạo
điều kiện và hướng dẫn Tổng giáo phận TP.Hồ Chí Minh, giáo phận Xuân Lộc, Bà Rịa
thành lập các trung tâm chăm sóc những người nhiễm HIV, những người bị bệnh hiểm
nghèo không nơi nương tựa. Cho phép các cơ sở Công giáo mở các phòng khám chữa
bệnh cho con em Công giáo và những gia đình nghèo. Thành lập các trung tâm, các
điểm chăm sóc trẻ tự kỷ. Hàng năm các cơ sở Công giáo đều hưởng ứng các cuộc phát
động của MTTQ VN và UBĐKCG tham gia hỗ trợ, ủng hộ đồng bào lũ tụt, thiên tai với
số tiền lên tới hàng trăm tỷ đồng.
Cùng với các hoạt động bác ái của các chức sắc, tín đồ Công giáo trên địa bàn, các
hoạt động bác ái xã hội có yếu tố nước ngoài cũng được chính quyền các cấp ĐNB cho
phép diễn ra khá đa dạng với việc hàng trăm đoàn khách nước ngoài đến thăm và hoạt
động từ thiện tại các cơ sở từ thiện từ các quốc gia như: Ý, Pháp, Hoa Kỳ, Canada, Nhật
Bản. Những hoạt động bác ái, từ thiện nhân đạo của các tổ chức, cá nhân Công giáo
thực sự đã góp phần làm vơi đi những mất mát, đau thương đối với những con người
không may mắn, giúp họ thắp lên niềm tin vào cuộc sống, tương lai.
Thực trạng QLNN đối với một số nội dung hoạt động của các chức sắc, tín đồ
Công giáo ở ĐNB khẳng định, về cơ bản các nhóm khách thể khảo sát đánh giá việc
quản lý tổ chức tôn giáo, chia tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức Công giáo được đánh
117
giá thực hiện tốt nhất với 168/340 số ý kiến cho là thực hiện tốt, chiếm tỷ lệ 49,4%;
quản lý hoạt động của các chức sắc Công giáo được xếp thứ 2, với 126/340 ý kiến nhận
định tốt, chiếm tỷ lệ 37,1%. Những nội dung được cho là chưa thực hiện tốt đó là: quản
lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ
chức tôn giáo, với số phiếu đánh giá chưa tốt là 277/340, chiếm tỷ lệ 81,5%; quản lý
nhà đất, việc xây dựng, nâng cấp, cải tạo, trùng tu công trình kiến trúc Công giáo với số
ý kiến đánh giá chưa tốt là 242/340, chiếm tỷ lệ 71,2%; quản lý quan hệ quốc tế của các
tổ chức Công giáo cũng được xem là chưa thực hiện tốt, với số phiếu đánh giá là
227/340, chiếm tỷ lệ 66,8% và quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi
miễn có liên quan đến tôn giáo cũng được xem là còn nhiều bất cập, chưa phù hợp, với
số phiếu đánh giá chưa tốt là 190/340, chiếm tỷ lệ 55,9%. (xem Phụ lục 4, 5)
So sánh mức độ tương quan giữa 3 nhóm khách thể cho thấy: các nội dung nhóm
khách thể đánh giá tương đối đồng thuận, riêng nội dung quản lý tổ chức, quản lý việc
chia tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức Công giáo; quản lý việc phong phẩm của các chức
sắc, tu sĩ Công giáo có sự chênh lệch giữa nhóm khách thể CBCC và nhóm cán bộ
MTTQ đoàn thể với nhóm chức sắc. Lý giải vấn đề này, một đồng chí lãnh đạo Ban
Tôn giáo Chính phủ khẳng định, sự khác biệt trong nhận định, đánh giá giữa các nhóm
khảo sát là khách quan, phù hợp với thực tiễn, vì trong đánh giá bao giờ cũng có những
nhận định chủ quan, xuất phát từ vị trí, vai trò của người được khảo sát đối với vấn đề
nội dung khảo sát.
3.4.5.6. Quản lý hoạt động quốc tế của các tổ chức Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
Cùng với sự mở cửa, hội nhập quốc tế, việc quản lý hoạt động của các chức sắc,
tín đồ Công giáo có yếu tố quốc tế trong những năm qua cũng dần được đổi mới, đáp
ứng được phần nào nhu cầu đi lại, học tập, nghiên cứu, khám chữa bệnh của các chức
sắc, tín đồ Công giáo. Quan điểm chung của chính quyền các địa phương ở ĐNB là tạo
mọi điều kiện cho chức sắc, tín đồ Công giáo thực hiện quyền tự do TNTG của mình.
Hàng năm, chính quyền các địa phương ở ĐNB đã trình Ban Tôn giáo Chính phủ
chấp thuận cho hàng chục chức sắc Công giáo tham gia tu nghiệp ở các nước: Pháp,
Italy, Hoa Kỳ, Nhật Bản; đồng ý cho Tổng Giáo phận TP. Hồ Chí Minh, các giáo phận
trên địa bàn cử giám mục, linh mục tham dự các lớp bồi dưỡng, hội nghị thần học trong
khu vực và thế giới. Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố ĐNB chấp thuận cho hàng trăm
118
linh mục, chức sắc Công giáo đi thăm hỏi, du lịch, khám chữa bệnh ở các nước trong
khu vực Châu Á, Mỹ, Âu [13].
Chính quyền địa phương cũng đồng ý cho Ủy ban Bác ái xã hội của các giáo phận,
Tổng Giáo phận TP.Hồ Chí Minh, các giáo xứ được tiếp nhận các khoản hỗ trợ, hảo
tâm đóng góp, hỗ trợ, từ thiện nhân đạo của các tổ chức quốc tế để làm nhiệm vụ từ
thiện tại ĐNB như: Ủy ban Bác ái xã hội thuộc Tổng Giáo phận TP.Hồ Chí Minh, Giáo
phận Xuân lộc, Bà Rịa tiếp nhận các xe lăn từ các tổ chức từ thiện quốc tế để giúp đỡ
các trường hợp tật nguyền; tiếp nhận các khoản hỗ trợ hảo tâm từ nước ngoài để thực
hiện các chương trình phẫu thuật từ thiện hoặc điều trị cho các nạn nhân bị hở hàm ếch,
bị dị tật, nạn nhân chất độc Đioxin, những người bị nhiễm HIV/AIDS [16, 14].
Chính quyền các địa phương cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi để các chức sắc, tín
đồ Công giáo mời các bác sĩ người nước ngoài đến khám chữa bệnh từ thiện, nhân đạo
cả cho người theo Công giáo và không theo Công giáo ở địa phương [10, 14, 16].
Vào các dịp lễ hội lớn như: lễ kỷ niệm thành lập giáo phận, mở Đại chủng viện;
thành lập giáo xứ; lễ hội hành hương, lễ tấn phong Hồng y, Giám mục,... chính quyền
các cấp cũng tạo mọi điều kiện cho các quan chức của Tòa Thánh Vatican, của các tổ
chức Công giáo quốc tế đến địa bàn tham dự những lễ hội, hội nghị Công giáo như:
UBND TP. Hồ Chí Minh và Ban Tôn giáo Chính phủ tạo điều kiện cho Hồng Y
Phạm Minh Mẫn sang Vatican để nhận mũ và nhẫn Hồng y Linh Mục Thánh Ðường
Thánh Justino tại Rô-ma của Giáo hoàng; chấp thuận cho sang Roma tham dự Cơ Mật
viện để bầu Giáo hoàng tháng 4/2005 và tháng 3/2013; chấp thuận cho Tòa Thánh
Vatican bổ nhiệm và sắc phong Tổng giáo mục chính tòa Tổng giáo phận TP. Hồ Chí
Minh cho Giám mục Nguyễn Văn Đọc, Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Nguyễn
Mạnh Hùng, Giám mục Nguyễn Anh Tuấn [16, 17].
Năm 2016 UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chấp thuận cho Tòa Thánh Vatican bổ
nhiệm linh mục Nguyễn Hồng Sơn làm Giám mục phó Giáo phận Bà Rịa [10].
Năm 2017, UBND tỉnh Đồng Nai tạo điều kiện cho Tòa Giám mục Xuân Lộc tổ
chức lễ tấn phong Giám mục phụ tá Giáo phận đối với linh mục Đỗ Văn Ngân [14].
Năm 2017, UBND TP. Hồ Chí Minh chấp thuận cho Giám mục Nguyễn Văn Đọc
tổ chức lễ truyền chức Giám mục phụ tá cho linh mục Nguyễn Anh Tuấn tại Trung tâm
Mục vụ Tổng Giáo phận TP.Hồ Chí Minh với hơn 5000 người tham gia trong đó có
nhiều người nước ngoài, đại diện cho Tòa Thánh Vatican; chấp thuận cho Nhà thờ
119
Fatima Bình Triệu tổ chức lễ kính “Đức mẹ Fatima” với hơn 20.000 tín đồ tham
dự,...[16, 17].
Những năm gần đây, rất nhiều chuyên gia, nhà khoa học, người lao động nước
ngoài đến các khu công nghiệp ở ĐNB, trong đó, nhiều người là tín đồ Công giáo, vì
vậy nhu cầu sinh hoạt đạo cũng dần trở nên cấp thiết nhất là ở Đồng Nai, TP. Hồ Chí
Minh, Bình Dương. Trước những thực trạng đó, Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố đã
tham mưu cho UBND các địa phương tạo mọi điều kiện cho người nước ngoài có nhu
cầu sinh hoạt Công giáo trên địa bàn, hiện các nhóm Công giáo người nước ngoài đang
sinh hoạt tôn giáo ổn định tại các giáo xứ, giáo họ và các dòng tu Công giáo xung
quanh các khu công nghiệp và địa bàn nơi họ tạm trú [14, 8, 16].
Hàng năm chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB đón tiếp rất nhiều đoàn khách
nước ngoài đến thăm, làm việc và tìm hiểu chính sách, tình hình Công giáo tại các địa
phương, nhất là TP. Hồ Chí Minh. Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố đã tham mưu cho
lãnh đạo chính quyền các địa phương các kế hoạch tiếp đón cho phù hợp với thông lệ
quốc tế và thực tiễn hoạt động công tác của các lãnh đạo. Chính quyền các tỉnh, thành
phố cũng đã có những chỉ đạo cụ thể nhằm đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc về dân
chủ, nhân quyền tại Việt Nam, đồng thời cũng có những thông tin đầy đủ, kịp thời về
tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về TNTG ở địa phương để các tổ chức nhân
quyền quốc tế có góc nhìn đầy đủ, toàn diện về bức tranh dân chủ và tự do TNTG ở
Việt Nam.
Có thể nhận thấy, so với giai đoạn trước năm 2004 công tác quan hệ quốc tế của
các tổ chức tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng ít được các cấp chính quyền các
địa phương ở ĐNB quan tâm tạo điều kiện, xem xét, tuy nhiên, với chính sách đổi mới
của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo những năm gần đây, nhất là sau
khi có Pháp lệnh TNTG và các Nghị định hướng dẫn thi hành hoạt động này ngày càng
được các cấp chính quyền quan tâm chú trọng. Các mối quan hệ quốc tế của các tổ
chức, tín đồ, chức sắc Công giáo ngày càng thuận lợi hơn, quyền tự do TNTG ngày
càng được mở rộng, qua đó cũng dần chứng tỏ cho các tổ chức quốc tế hiểu rõ hơn
chính sách tự do TNTG của Đảng và Nhà nước, xóa đi những luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thù địch lợi dụng TNTG để vu khống, bịa đặt, xuyên tạc và bóp méo chính
sách của Đảng và nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực TNTG, nhân quyền.
120
3.4.6. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống hành vi lợi
dụng Công giáo xâm hại đến an ninh, trật tự ở Đông Nam Bộ
3.4. 6.1. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết những khiếu nại, tố cáo liên quan đến Công giáo
ở Đông Nam Bộ
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ QLNN về Công giáo, hàng năm, Ban Tôn
giáo các tỉnh, thành phố ĐNB đều xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch thanh
tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo tại địa phương.
Nội dung kiểm tra tập trung vào những vấn đề thực thi chính sách, pháp luật của
nhà nước về tôn giáo của các cơ quan nội vụ cấp huyện và ở chính quyền cấp xã, thanh
tra, kiểm tra các hoạt động của các cơ sở Công giáo.
Năm 2016, Ban Tôn giáo Đồng Nai tổ chức 03 đoàn thanh tra liên ngành để kiểm
tra việc thực hiện chính sách, pháp luật tôn giáo ở huyện Định Quán, TP. Biên Hòa,
Trảng Bom; năm 2017 Ban Tôn giáo tỉnh tổ chức 02 đoàn thanh tra ở UBND huyện
Xuân Lộc và Long Thành; năm 2018 tổ chức 4 đoàn thanh tra kiểm tra việc triển khai
thực hiện Luật TNTG [14].
Tỉnh Bình Dương từ năm 2014 đến 2018 đã tổ chức 11 đoàn thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước về tôn giáo ở các địa phương trong
tỉnh, đặc biệt là những địa bàn nóng về tôn giáo [8].
Ban Tôn giáo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, trong 3 năm từ 2015 đến 2018 đã tổ chức
13 đoàn thanh tra chuyên ngành và liên ngành để kiểm tra tình hình thực thi pháp luật
tôn giáo ở TP. Bà Rịa và địa bàn các huyện, tổ chức 15 đoàn kiểm tra liên ngành để
kiểm tra tình hình vi phạm về đất đai, xây dựng có liên quan đến Công giáo [10].
Ban Tôn giáo TP. Hồ Chí Minh mỗi năm đều tổ chức 4 đến 6 đoàn thanh tra
chuyên ngành và 8 đến 11 đoàn thanh tra liên ngành để tìm hiểu, xem xét những vấn đề
trong việc thực thi chính sách nhà nước về tôn giáo, chính sách nhà đất, xây dựng cơ sở
Công giáo, những khiếu kiện liên quan đến cơ sở thờ tự Công giáo [16].
Thông qua việc thực hiện các kế hoạch thanh tra, kiểm tra, Ban Tôn giáo các tỉnh,
thành phố đã có những khuyến khích, động viên các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt
chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo. Đồng thời, đôn đốc, nhắc nhở, chấn chỉnh
các tổ chức, cá nhân, các chức sắc, tín đồ và các cơ sở Công giáo có những sai phạm
trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng.
121
Tình hình khiếu nại, tố cáo có liên quan đến các tôn giáo nói chung và Công giáo
nói riêng có chiều hướng ngày càng gia tăng và phức tạp hơn. Hàng năm, Ban Tôn giáo
các tỉnh, thành phố ĐNB cũng tiếp nhận hàng trăm đơn thư, khiếu nại, tố cáo của các cá
nhân, chức sắc Công giáo. Những khiếu nại tố cáo của các tổ chức, chức sắc, tín đồ
Công giáo tập trung vào việc giải quyết những vấn đề liên quan đến nhà đất, xây dựng
cơ sở thờ tự hoặc liên quan đến quyền hoạt động tôn giáo của chức sắc Công giáo. Với
quan điểm là tạo mọi điều kiện để các chức sắc, tín đồ Công giáo được hưởng quyền tự
do TNTG, Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố ĐNB đã luôn chủ động tiếp nhận, phối hợp
với các ngành liên quan giải quyết theo thẩm quyền hoặc tham mưu cho UBND cấp tỉnh
giải quyết triệt để những khiếu nại, tố cáo của chức sắc, tín đồ Công giáo, không để
khiếu kiện kéo dài, gây phức tạp, cụ thể:
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong 4 năm từ 2015 đến 2018 đã tiếp nhận 16 đơn, thư
khiếu nại liên quan đến Công giáo, giải quyết dứt điểm 17 đơn thư, đang tiếp tục xem
xét 03 đơn thư: 01 trường hợp đang đòi lại cơ sở nhà đất và 01 trường hợp xây dựng
không phép tại Tu Viện Thánh Phaolo Vũng Tàu, một đơn xin được cấp đất để thành
lập giáo xứ ở huyện Bàu Bàng của Toà Giám mục Phú Cường [10].
Tại Đồng Nai năm 2018 có 138 trường hợp nhà đất liên quan đến tôn giáo hiện
đang do các cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng. Hiện 102 trường hợp đã có đơn, thư
xin sử dụng lại những cơ sở nhà đất đó, 43 trường hợp chưa có đơn thư. Ban Tôn giáo
tỉnh đã phối hợp với chính quyền các huyện, thành phố trên địa bàn tổ chức rà soát các
cơ sở vật chất liên quan đến nguồn gốc tôn giáo, tham mưu cho UBND tỉnh giải quyết
dứt điểm 62 trường hợp, còn lại 33 trường hợp vẫn đang trong quá trình xem xét, giải
quyết [14].
TP. Hồ Chí Minh trong 4 năm từ 2015 đến 2018 đã tiếp nhận 56 đơn thư liên quan
đến hoạt động Công giáo, Ban Tôn giáo Thành phố đã phối hợp với các cơ quan chức
năng liên quan và UBND các quận, huyện giải quyết dứt điểm 42 đơn thư khiếu nại,
hiện còn 14 đơn khiếu nại, Ban Tôn giáo Thành phố đang xin ý kiến của UBND Thành
phố và Ban Tôn giáo Chính phủ để có phương hướng giải quyết [16].
Trong những năm từ 2015 đến nay, Ban Tôn giáo Tây Ninh tiếp nhận 02 đơn thư
khiếu nại về chính sách xây dựng cơ sở vật chất liên quan đến Công giáo, hiện Ban Tôn
giáo tỉnh đã tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo Sở Xây dựng giải quyết nguyện vọng
cho các chức sắc, tín đồ Công giáo [18].
122
3.4.6.2. Hoạt động đấu tranh, phòng chống lợi dụng Công giáo ở Đông Nam Bộ
Để làm tốt công tác phòng ngừa những hành vi lợi dụng Công giáo xâm hại đến
tình hình chính trị, kinh tế và trật tự an toàn xã hội trên các địa bàn dân cư, chính quyền
các tỉnh, thành phố ĐNB đã có những việc làm thiết thực, hiệu quả:
Chỉ đạo Ban Tôn giáo Sở Nội vụ phối hợp với các đơn vị hành chính cấp quận,
huyện tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách của Đảng,
Nhà nước cho chức sắc, tín đồ Công giáo.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phối hợp với UBĐKCG phát động các
phong trào thi đua yêu nước, “sống tốt đời, đẹp đạo” trong các vùng giáo. Tăng cường
vận động gia đình Công giáo xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Thành ủy, UBND các tỉnh, thành phố tăng cường các hoạt động đối thoại, gặp gỡ,
thăm hỏi lẫn nhau giữa cơ quan cấp ủy, chính quyền các địa phương với các chức sắc
Công giáo. Trên cơ sở đó cùng nhau tháo gỡ những vấn đề tồn tại, khoảng cách giữa
các bên, cùng nhau quản lý, lãnh đạo công dân, giáo dân xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc.
Lãnh đạo các tỉnh, thành phố ĐNB cũng chỉ đạo cấp ủy ở cơ sở, quan tâm đến
việc xây dựng và phát triển đảng trong vùng giáo, quan tâm, cảm hóa các chức sắc, tín
đồ Công giáo để xây dựng họ thành mạng lưới, mắt xích chính trị ở cơ sở. Động viên
chức sắc, tín đồ công giáo tham gia các hoạt động phong trào, các hoạt động chính trị -
xã hội ở địa phương, cố gắng xây dựng mạng lưới cốt cán đạo có hệ thống ở cơ sở.
Chính quyền các cấp ở ĐNB cũng thường xuyên tổ chức các cuộc họp giao ban về
tình hình tôn giáo thường xuyên một lần, tháng để trao đổi nắm tình hình tôn giáo trên
địa bàn nói chung và Công giáo nói riêng, nhất là các vấn đề nóng liên quan đến tôn giáo.
Chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB cũng thường xuyên chỉ đạo Công an tỉnh, Bộ
Chỉ huy Quân sự tỉnh, thành phố xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch phòng,
ngừa những tình huống khẩn cấp về an ninh, trật tự. Chỉ đạo lực lượng An ninh văn hóa
xây dựng các mạng lưới cộng tác viên, tình báo để thu thập những thông tin về hoạt động
của những chức sắc, tín đồ Công giáo có tư tưởng bất mãn, có hành vi thù địch, đi ngược
lại với lợi ích của cộng đồng, dân tộc, giáo dân, làm trái với lời kêu gọi ở Thư Chung
1980 của HĐGMVN.
Nhờ có những kế hoạch chủ động và có những việc làm thiết thực, hiệu quả nên
những năm qua, tình hình hoạt động của các chức sắc, tín đồ Công giáo trên địa bàn
123
ĐNB khá ổn định, nề nếp, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở các
vùng giáo được giữ vững. Chính quyền các tỉnh, thành phố cũng xử lý kịp thời nhiều vụ
việc có liên quan đến Công giáo như:
Linh mục Nguyễn Duy Tân, Chánh xứ Thọ Hòa, Thọ Xuân tham gia ủng hộ đảng
Việt Tân, ứng cử vào đại biểu Quốc hội khóa XIV, sử dụng mạng xã hội để tuyên
truyền chống phá Đảng, Nhà nước [9, 14];
Tín đồ Công giáo tham dự hoạt động của “Hướng đạo Việt Nam” dự kiến tổ chức
tại Tu viện Thánh Martin, Biên Hòa; xử lý tin đồn “Chúa Hài Đồng Giêsu khóc” tại
giáo xứ Đức Long, huyện Thống Nhất [14].
Xử lý 59 trường hợp tạo lập cơ sở đất đai Công giáo trái pháp luật ở Đồng Nai.
Giải quyết dứt điểm 62 trường hợp khiếu kiện liên quan đến đất đai có liên quan đến
Công giáo [14].
TP. Hồ Chí Minh phong tỏa một số tuyến đường gần nhà thờ Đức Bà để ngăn
chặn một số phần tử Công giáo quá khích lợi dụng sự kiện Giàn khoan HD 981, lợi
dụng sự kiện ô nhiễm môi trường ở miền Trung để kích động giáo dân gây rối, mất ổn
định trật tự xã hội [16].
Tỉnh Bình Dương, Bình Phước đã ngăn chặn được kế hoạch lợi dụng sự kiện góp
ý để xây dựng Hiến pháp, vấn đề môi trường, vấn đề thông qua luật Đặc khu kinh tế,...
một số chức sắc, tín đồ Công giáo đã kích động giáo dân, công nhân gây rối, phá hoạt
tài sản, gây mất ổn định chính trị - xã hội [8, 9].
Trước những lời kêu gọi biểu tình, phá hoại khối đại đoàn kết của Linh mục
Nguyễn Văn Lý, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai có nhiều
biện pháp thiết thực không để những hoạt động phá hoại, gây rối đó không diễn ra theo
kế hoạch [10, 8, 9, 14].
Cùng với các hoạt động trên, chính quyền các cấp và các cơ quan Công an ở địa
phương đã đảm bảo an ninh, trật tự cho hàng trăm lễ hội, hội nghị, các cuộc hành hương
có liên quan đến Công giáo. Những kết quả đó được chức sắc và tín đồ Công giáo hết
sức ghi nhận.
Công tác đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc chính sách, pháp luật của
nhà nước về TNTG cũng được các địa phương hết sức xem trọng. Thông qua các hội
nghị Công giáo tầm khu vực, quốc tế và qua tiếp xúc, trao đổi với các tổ chức nhân
quyền quốc tế, chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB đã minh chứng cho bạn bè quốc
124
tế, các chức sắc tôn giáo thấy rõ tình hình tôn giáo và việc thực hiện chính sách, pháp
luật nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, qua đó góp phần đấu
tranh, chống lại các âm mưu lợi dụng tôn giáo, dân tộc để thực hiện âm mưu “diễn biến
hòa bình” ở Việt Nam.
3.5. Kết quả thực hiện nhiệm vụ và những vấn đề đặt ra đối với các cơ quan chức
năng trong quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
3.5.1. Những kết quả đạt được
Tìm hiểu việc thực hiện những nội dung QLNN đối với hoạt động của Công giáo
địa bàn ĐNB những năm qua cho thấy chính quyền các tỉnh, thành phố nơi đây đã đạt
được những kết quả tích cực, cụ thể:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về tôn giáo ngày càng được đổi mới, củng cố, kiện
toàn, tạo những điều kiện thuận lợi hơn cho giáo dân và chức sắc Công giáo thực hiện
quyền tự do TNTG, là cơ sở cho các tổ chức Công giáo ổn định tổ chức và hoạt động.
Đối với các cơ quan nhà nước, việc hoàn thiện hệ thống những VBQPPL về tôn giáo đã
tạo lập các cơ sở pháp lý giúp cho hoạt động QLNN về Công giáo có được những thuận
lợi và có hiệu quả hơn như: quản lý về kiện toàn tổ chức, hoạt động của chức sắc, tín
đồ; mở trường, lớp đào tạo, bồi dưỡng thần học; quản lý đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự;
quản lý hoạt động Công giáo có yếu tố quốc tế,...
Với sự cố gắng của Ban Tôn giáo Chính phủ trong những năm qua, nhiều
VBQPPL được tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ nhằm
hướng dẫn chi tiết các biện pháp thi hành Pháp lệnh, Luật TNTG, những vấn đề liên
quan đến đất đai tôn giáo.
Với những chính sách, pháp luật đổi mới của nhà nước trên lĩnh vực TNTG và sự
quan tâm, tạo điều kiện của Chính quyền các địa phương ở ĐNB, cơ cấu tổ chức của
các tổ chức Công giáo ngày càng ổn định, hoàn thiện, tình hình hoạt động tôn giáo của
các chức sắc, tín đồ Công giáo tuân thủ pháp luật nhà nước. Đồng bào Công giáo ngày
càng tin tưởng vào chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước về
tôn giáo.
Thứ hai, thực hiện nghị quyết của hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo
được kiện toàn thành 3 cấp, thống nhất về cơ cấu tổ chức và tên gọi, đặt trong Sở Nội
vụ, Phòng Nội vụ và UBND cấp xã, như vậy số lượng đầu mối các cơ quan tham mưu
giúp việc cho UBND các cấp được thu gọn hơn, đảm bảo theo chủ trương của Đảng về
125
đổi mới thể chế tổ chức bộ máy chính quyền các cấp. Trong hệ thống cơ quan QLNN về
tôn giáo ở địa phương thì cấp tỉnh và cấp huyện có CBCC QLNN về tôn giáo chuyên
trách, cấp xã không có CBCC QLNN về tôn giáo chuyên trách. Cùng với đó, chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ cấu tổ chức của từng bộ máy QLNN về tôn giáo
được quy định, phân cấp rõ ràng hơn theo xu thế tăng cường phân quyền cho cấp dưới.
Mối quan hệ giữa cơ quan QLNN về tôn giáo với cơ quan Nội vụ và các cơ quan liên
quan được quy định cụ thể hơn.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho CBCC và chức sắc tín đồ
Công giáo được thực hiện khá đầy đủ, chủ yếu thông qua mở lớp phổ biến, trao đổi kiến
thức pháp luật liên quan đến tôn giáo như: Pháp lệnh, Luật TNTG và các Nghị định
hướng dẫn thi hành,.. Qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nhận
thức của CBCC và chức sắc, tín đồ Công giáo về hệ thống pháp luật có liên quan đến
tôn giáo ngày một nâng lên, là cơ sở cho việc chấp hành tốt chính sách, pháp luật về tôn
giáo. Hàng năm Ban Tôn giáo các Sở Nội vụ ở ĐNB đã mở hàng trăm lớp phổ biến
truyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhiều đối tượng CBCC làm công tác tôn giáo và
lực lượng cốt cán đạo, chức sắc Công giáo. Bên cạnh việc tuyên truyền, phổ biến kiến
thức pháp luật có liên quan đến TNTG, các địa phương còn mở các lớp bồi dưỡng kiến
thức an ninh, quốc phòng cho chức sắc, tín đồ Công giáo.
Với sự nỗ lực tuyên truyền, vận động của Ban Tôn giáo các Sở Nội vụ, chính
quyền các cấp và các đoàn thể, các Ủy ban Đoàn kết Công giáo ở ĐNB, các chức sắc, tín
đồ Công giáo ngày càng tham gia tích cực hơn vào các phong trào phát triển kinh tế, xây
dựng văn hóa, bảo vệ an ninh tổ quốc ở địa phương; tham gia vào các cuộc vận động
“sống tốt đời, đẹp đạo”, “xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa”, các phong
trào xây dựng nông thôn mới, từ thiện, nhân đạo, những phong trào ủng hộ người nghèo.
Thứ tư, công tác tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về Công giáo ở ĐNB
trong những năm qua đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ, thể hiện:
Công tác quản lý các hoạt động liên quan đến tổ chức và hành chính của Công
giáo ngày càng được cải cách, hoàn thiện theo hướng giảm bớt các thủ tục hành chính
có liên quan đến các quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức, chức sắc, tín đồ
Công giáo.
Các hội nghị, lễ hội Công giáo về cơ bản diễn ra ổn định, trật tự, trang nghiêm có
xin phép chính quyền các cấp tùy theo quy mô của từng lễ hội. Hoạt động của chức sắc
126
tôn giáo đúng quy định pháp luật nhà nước. Hoạt động Công giáo liên quan đến yếu tố
nước ngoài cũng dần được chính quyền các cấp quan tâm, tạo điều kiện.
Việc chia tách, thành lập mới các cơ sở Công giáo cũng được các cấp chính quyền
tạo các điều kiện thuận lợi hơn. Trong khoảng 15 năm, hơn 40 giáo xứ được chính
quyền cho phép thành lập.
Trong những năm qua, việc giải quyết nhu cầu đất đai Công giáo cũng được chính
quyền các tỉnh, thành phố ĐNB đặc biệt quan tâm. Qua 15 năm, chính quyền các cấp ở
ĐNB đã giao cho các tổ chức Công giáo trên địa bàn khoảng 8 triệu m2 đất để xây dựng
cơ sở thờ tự Công giáo. Những vấn đề nhà đất có liên quan đến Công giáo cũng được
các cơ quan chức năng nghiêm túc xem xét và giải quyết có lý, có tình, dứt điểm, công
khai nhận được sự đồng tình, ủng hộ của chức sắc, tín đồ Công giáo.
Hoạt động xây dựng, sửa chữa, nâng cấp các công trình kiến trúc Công giáo cũng
dần được ổn định, về cơ bản tuân thủ pháp luật nhà nước, thực hiện đúng theo sự hướng
dẫn của các địa phương. Với sự quan tâm của chính quyền các địa phương, cơ sở vật
chất của các tổ chức Công giáo ngày càng được củng cố, hiện đại, đáp ứng tốt hơn nhu
cầu sinh hoạt tôn giáo của giáo dân.
Với chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, các hoạt động từ thiện, nhân đạo,
những hoạt động liên quan đến văn hóa, giáo dục và y tế của các tổ chức, cá nhân Công
giáo ngày càng được đẩy mạnh, góp phần thực hiện các chính sách xã hội của nhà nước.
Với chủ trương tăng cường thăm hỏi, động viên chức sắc, tín đồ Công giáo nhân
các ngày lễ trọng, mối quan hệ giữa chính quyền địa phương với các tổ chức Công giáo
ngày càng được cải thiện, củng cố. Nhiều vấn đề vướng mắc có liên quan đến Công
giáo được chính quyền và các tổ chức Công giáo thẳng thắn trao đổi cùng tháo gỡ.
Thứ năm, sau khi Luật CBCC có hiệu lực và có các văn bản hướng dẫn thi hành,
đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo các cấp ngày càng được củng cố, kiện toàn dần đạt
chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; chất lượng CBCC ngày một nâng lên, nhiều
CBCC có trình độ sau đại học. Kinh nghiệm quản lý của đội ngũ CBCC ngày càng
được cải thiện do được bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị, kỹ năng, nghiệp vụ
QLNN về tôn giáo, nhất là đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo ở cấp tỉnh, cấp huyện.
Qua các khóa bồi dưỡng kiến thức về tôn giáo và QLNN về tôn giáo cũng như các
khóa học bồi dưỡng về lý luận chính trị - hành chính đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo
đã thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ QLNN về Công giáo ở địa phương; kỹ năng xử lý
127
các tình huống, kỹ năng tiếp dân, đối thoại với chức sắc, tín đồ Công giáo ngày một
chuẩn hóa, chuyên nghiệp đúng phong cách hành chính hơn.
Thứ sáu, công tác thanh tra, kiểm tra có liên quan đến việc thực thi chính sách,
pháp luật Công giáo được Ban Tôn giáo Sở Nội vụ và chính quyền các cấp ở ĐNB thực
hiện thường xuyên và có hiệu quả. Hàng năm, Ban Tôn giáo các địa phương đều xây
dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; phối hợp với
chính quyền các địa phương, các sở, ngành tổ chức thanh tra theo chuyên đề việc thực
hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến Công giáo. Thông qua thanh tra, kiểm tra,
Ban Tôn giáo Sở Nội vụ và các cơ quan chức năng đã phát hiện nhiều vụ việc sai phạm
và chấn chỉnh, xử lý kịp thời những tổ chức, cá nhân vi phạm chính sách, pháp luật nhà
nước có liên quan đến Công giáo.
Công tác tiếp nhận đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện nghiêm
túc, xử lý tương đối dứt điểm, không dây dưa, nợ đọng, kéo dài.
Việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch phòng, chống hành vi lợi dụng
Công giáo được thực hiện có hiệu quả. Các cơ quan Công an, Bộ đội, Biên phòng các
tỉnh, thành phố đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, tham mưu kịp thời cho các cấp lãnh
đạo, chính quyền địa phương trong việc đấu tranh, phòng ngừa những hoạt động lợi
dụng Công giáo để chống phá Đảng, Nhà nước, góp phần ổn định chính trị và trật tự an
toàn xã hội ở các địa phương.
Thứ bảy, thực hiện những chính sách đổi mới về TNTG của Đảng và Nhà nước
trong giải quyết những vấn đề Công giáo có liên quan đến yếu tố nước ngoài, những
năm qua chính quyền các địa phương ở ĐNB đều tạo mọi điều kiện cho các tổ chức,
chức sắc, tín đồ Công giáo ở địa phương tham gia các hoạt động Công giáo có tính
quốc tế như: nhận sắc phong giám mục, linh mục; tạo điều kiện cho các linh mục đi bồi
dưỡng thần học, tham gia các hoạt động liên tôn ở nước ngoài,.. Cùng với đó, chính
quyền các cấp cũng tạo điều kiện cho các tổ chức Công giáo, các tổ chức nhân quyền,
nhân đạo quốc tế đến tìm hiểu và tham gia các hoạt động Công giáo ở địa phương.
3.5.2. Một số vấn đề đặt ra đối với chính quyền các cấp trên địa bàn Đông Nam Bộ
trong quản lý nhà nước về Công giáo trong thời gian kế tiếp
Mặc dù hệ thống pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tôn
giáo mặc dù đã có những điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung tuy nhiên vẫn chưa hoàn thiện.
Một số nội dung không có hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn cho các hoạt động tôn giáo
128
như: không quy định điều kiện, trình tự, thủ tục xin nhà nước giao đất sử dụng cho mục
đích tôn giáo nên việc xin đất xây dựng cơ sở thờ tự rất khó khăn, đây là nguyên nhân
dẫn đến việc mua bán, chuyển nhượng đất đai tôn giáo trái pháp luật; việc quy định tên
chủ sở hữu ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn gây tranh cãi; thủ tục cấp
phép xây dựng đối với cơ sở thờ tự chưa được phân cấp cho chính quyền cấp huyện,
phải qua nhiều khâu trung gian; chưa có những hướng dẫn cụ thể việc phối hợp quản lý
nhà thờ là di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh; chưa có các hướng dẫn việc thực hiện
các hoạt động về giáo dục, đào tạo, từ thiện, nhân đạo liên quan đến tôn giáo; chưa có
Nghị định quy định xử phạt vi phạm trong lĩnh vực TNTG.
Gầy đây, quan hệ giữa chính quyền các cấp với GHCG ở địa phương đã có những
chuyển biến tích cực, tuy nhiên, nhiều người đứng đầu các tổ chức, cơ sở Công giáo
vẫn giữ thái độ thiếu thiện chí, hợp tác với chính quyền trong việc vận động giáo dân
tham gia các phong trào xã hội, công tác quản lý nhà nước ở địa phương.
Công tác tham mưu, quản lý nhà nước đối với hoạt động Công giáo còn gặp nhiều
trở ngại do tổ chức bộ máy QLNN về TNTG còn chưa phù hợp: mô hình bộ máy cứng
nhắc, chưa phù hợp với quy mô, số lượng tín đồ tôn giáo và đặc thù của từng địa
phương; do chỉ là đơn vị tương đương cấp chi cục, nằm trong Sở Nội vụ và Phòng Nội
vụ nên khó khăn trong việc phối hợp với các cơ quan, ban ngành cấp sở thuộc UBND
tỉnh và cấp phòng thuộc UBND huyện; thiếu đi sự chủ động, độc lập trong việc tham
mưu cho UBND cùng cấp về những vấn đề liên quan đến TNTG. Nhiều vấn đề TNTG
phát sinh không có được sự tham mưu kịp thời, chậm đưa ra quyết định do tổ chức bộ
máy chưa phù hợp, mặt khác lĩnh vực chức năng, nhiệm vụ của công tác Nội vụ là xây
dựng chính quyền, khác biệt với QLNN về TNTG.
Công tác tuyên truyền, phổ biến và vận động chức sắc, tín đồ Công giáo chậm đổi
mới, chưa thực sự hiệu quả, chủ yếu tập trung vào hình thức mở lớp phổ biến kiến thức,
giáo dục pháp luật, qua phương tiện thông tin đại chúng “loa đài, truyền thanh, truyền
hình” và gặp gỡ chức sắc, tín đồ Công giáo để tìm hiểu, vận động, thuyết phục trong
các trường hợp “có vấn đề”. Hình thức tuyên truyền, vận động và thuyết phục còn thiếu
sức hút, nặng các biện pháp tuyên truyền bằng lời, thiếu những việc làm cụ thể để lôi
cuốn giáo dân, nhất là thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên người Công giáo.
Việc xem xét, chấp thuận cho các cơ sở công giáo trực thuộc được chia tách, thành
lập mới, nâng cấp từ giáo họ lên giáo xứ mặc dù được xem xét, giải quyết, tuy nhiên
129
vẫn còn nhiều vướng mắc, do không có quy định cụ thể về điều kiện chia tách, thành
lập mới giáo xứ, giáo họ. Thời gian xem xét để UBND tỉnh xem xét, chấp thuận cho
phép chia tách giáo xứ, nâng cấp giáo họ còn kéo dài do phải xem xét qua nhiều khâu
trung gian.
Công tác quản lý các hội nghị, lễ hội, đại hội của các cơ sở Công giáo vẫn chưa
thực sự tốt, nhiều hoạt động, hội nghị, lễ hội của các tổ chức Công giáo diễn ra mà
không báo cáo với chính quyền các cấp. Hoạt động một số chức sắc, tín đồ Công giáo
vẫn có những biểu hiện vi phạm pháp luật: truyền đạo trái phép; thuyên chuyển công
tác linh mục không thông báo với chính quyền; một số cơ sở tôn giáo mời linh mục bên
ngoài vào sinh hoạt tôn giáo không đăng ký theo quy định; một số linh mục mở các lớp
giáo lý, thần học không đúng theo quy định.
Những năm qua, mặc dù chính quyền các địa phương ĐNB đã có nhiều cố gắng
trong quản lý đất đai Công giáo, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất cho các cơ sở Công
giáo, tuy nhiên vấn đề liên quan đến đất đai Công giáo vẫn hết sức phức tạp như: mua
bán, trao đổi quyền sử dụng đất trái phép; sử dụng đất sai mục đích; lấn, chiếm đất đai
có liên quan đến Công giáo,.. vẫn tiếp tục diễn ra. Những khiếu kiện, khiếu nại liên
quan đến tranh chấp đất đai Công giáo mặc dù đã được các cấp, các ngành quan tâm
giải quyết và tạm lắng xuống, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn các vấn đề phức tạp, bên cạnh đó,
một số chức sắc Công giáo lợi dụng những vấn đề này để kích động, tụ tập giáo dân gây
mất ổn định tình hình trật tự tại các địa phương, nhất là những cơ sở nhà đất do nhà
nước quản lý có liên quan đến Công giáo.
Công tác quản lý trật tự trong xây dựng, cải tạo, sửa chữa các công trình, kiến trúc
Công giáo vẫn còn hạn chế như: thời gian và thủ tục xem xét cho phép xây mới các nhà
thờ giáo họ, giáo xứ vẫn diễn ra chậm, có tình trạng buông lỏng quản lý để xây dựng,
cơi nới, sửa chữa các tự viện diễn ra trái phép; nhiều cơ sở Công giáo tự ý đặt tượng,
thánh giá trong khuôn viên nhà thờ mà không xin phép chính quyền.
Công tác quản lý hoạt động liên quan đến văn hóa, giáo dục, y tế có những điểm
tích cực, song vẫn bộc lộ những khó khăn trong việc đồng ý cho các cơ sở Công giáo
tham gia giáo dục phổ thông, mở các cơ sở điều trị, khám chữa bệnh. Quản lý các cơ sở
Công giáo là di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh được nhà nước xếp hạng cũng đang
gặp nhiều khó khăn, do không phân định rõ thẩm quyền của cơ quan QLNN về TNTG
130
với thẩm quyền của cơ quan quản lý văn hóa. Công tác quản lý hoạt động từ thiện nhân
đạo cũng gặp những thách thức do gặp các rào cản về mặt pháp lý.
Công tác QLNN về quan hệ quốc tế của các cơ sở Công giáo ĐNB những năm gần
đây đã có những kết quả tích cực, nhất là sau khi Luật TNTG có hiệu lực, tuy nhiên vẫn
gặp phải rất nhiều thách thức do đây là những vấn đề mới, nhạy cảm nên chính quyền
nhiều nơi còn e dè, lo ngại, mặt khác thẩm quyền xem xét các vấn đề liên quan đến
quan hệ quốc tế của Công giáo là Ban Tôn giáo Chính phủ là chủ yếu nên còn nhiều
chồng chéo, vướng mắc. Do nằm trong vùng Tứ giác kinh tế trọng điểm kinh tế phía
nam, vùng phát triển kinh tế sôi động nhất của cả nước nên việc quản lý nhân khẩu,
quản lý xuất nhập cảnh, đi lại, cư trú, hoạt động Công giáo của các chức sắc, tín đồ có
liên quan đến yếu tố nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn.
Đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo chưa nhiều, thiếu CBCC chuyên trách ở cấp
tỉnh và cấp huyện, chưa được tổ chức theo chuyên môn sâu và đặc thù tôn giáo của từng
địa phương; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vẫn hạn chế; kinh nghiệm và kỹ năng công
tác còn chưa tốt; nhiều CBCC chưa được bồi dưỡng kiến thức QLNN và kiến thức về
tôn giáo. Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo ở cấp huyện và cấp xã nghiệp vụ
chuyên môn vẫn yếu, do phải kiêm nhiệm nhiều mảng công tác, mặt khác ở cấp xã
CBCC làm việc theo nhiệm kỳ nên chuyên môn, nghiệp vụ không sâu.
Nhận thức của một bộ phận CBCC QLNN về tôn giáo ở các cấp nhất là cấp cơ sở
chưa đúng, chưa đầy đủ về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về tôn giáo. Một số CBCC ở cơ sở còn có những ứng xử thiếu công bằng,
khách quan trong xử lý những tình huống vi phạm của các tổ chức tôn giáo như: cùng
vi phạm như nhau nhưng xử lý nghiêm với cơ sở Công giáo, nhưng nương tay với cơ sở
Phật giáo.
Việc thanh tra, kiểm tra và giải quyết những khiếu nại, tố cáo liên quan đến Công
giáo mặc dù được tiến hành thường xuyên nhưng vẫn bộc lộ những sơ hở, để xảy ra tình
trạng sai phạm nhất là liên quan đến quản lý đất đai, xây dựng cơ sở Công giáo; các
hoạt động liên quan đến truyền đạo, sinh hoạt Công giáo; quản lý các hoạt động liên
quan đến văn hóa, giáo dục, y tế và từ thiện nhân đạo của Công giáo.
Công tác giải quyết những khiếu nại, tố cáo có liên quan đến Công giáo vẫn còn
tồn đọng, kéo dài, nhất là những vấn đề liên quan đến nhà đất Công giáo trước đây
chuyển giao cho chính quyền địa phương nhưng không có giấy tờ lưu trữ.
131
Công tác đấu tranh phòng ngừa những hành vi lợi dụng Công giáo phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại an ninh, trật tự ở địa phương vẫn gặp rất nhiều khó
khăn do các biểu hiện phá hoại mang tính chất phi truyền thống và quá trình hội nhập
quốc tế nên các cơ quan chức năng còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm, mặt khác các thế
lực bên ngoài lợi dụng chính sách tự do TNTG và hội nhập quốc tế để gia tăng các hoạt
động chống phá nhà nước nên tình hình cũng phức tạp hơn.
Công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong quản lý các hoạt động Công
giáo và việc đấu tranh, phòng ngừa các hành vi lợi dụng Công giáo chưa thực sự hiệu
quả; kinh nghiệm của CBCC trong đấu tranh, phòng ngừa các hành vi lợi dụng Công
giáo trong xu thế mới còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đổi mới.
Quản lý các quan hệ quốc tế có liên quan đến Công giáo vẫn còn có hạn chế tập
trung vào việc quản lý hoạt động của chức sắc, tín đồ Công giáo người Việt ra nước
ngoài; quản lý sinh hoạt tôn giáo của tín đồ Công giáo tại địa phương; quản lý các hoạt
động đối ngoại của các cơ sở Công giáo ở ĐNB; quản lý các hoạt động liên tôn quốc tế
của các cơ sở Công giáo.
132
Tổng kết Chương 3
Triển khai điều tra và nghiên cứu thực tiễn, Chương 3, Luận án đã đạt được những
kết quả sau đây:
Thứ nhất, Chương 3, Luận án đã nghiên cứu và khái quát về tình hình chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội ở ĐNB. Nghiên cứu cho thấy, đây là một lãnh thổ rộng lớn, với
6 tỉnh, thành phố gồm: Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Hồ
Chí Minh và Tây Ninh, quy mô dân số khoảng 17 triệu người, mật độ dân cư sinh sống ở
đô thị cao nhất cả nước, trên 50%. ĐNB cũng là trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng
của cả nước, đóng góp trên 50% vào tổng GDP của cả nước, TP. Hồ Chí Minh là đô thị
đặc biệt, có quy mô dân số lớn nhất cả nước. ĐNB cũng là địa bàn đa dạng về TNTG là
một vùng đất đa tộc người, đa tôn giáo; đây cũng là nơi gặp gỡ các TNTG sẵn có từ Bắc
Bộ, Trung Bộ, đồng thời là cái nôi sinh thành những TNTG mới. Nhiều tôn giáo quốc tế
cũng du nhập vào khu vực này từ khá lâu như: Đạo Bà la môn, Công giáo, Tin lành, Hồi
giáo và nhiều các tôn giáo có tính quốc tế khác.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu tại Chương 3 đã chỉ ra thực trạng Công giáo ở ĐNB
trên các khía cạnh: quy mô tín đồ, đội ngũ chức sắc, cơ sở vật chất của các cơ sở Công
giáo trên địa bàn. Nghiên cứu và khái quát về hoạt động Công giáo trên địa bàn ĐNB
trong những năm gần đây, kết quả cho thấy: những năm gần đây tình hình hoạt động của
các chức sắc, tín đồ, cơ sở Công giáo ở ĐNB dần đi vào ổn định, chấp hành tốt chính
sách, pháp luật của nhà nước, phần lớn đồng bào Công giáo yên tâm lao động, sản xuất
phát triển kinh tế xã hội theo đường hướng hành đạo của Thư chung 1980 “Xây dựng Hội
thánh giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Bên cạnh những kết quả
tích cực đó, hoạt động Công giáo nơi đây vẫn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp, ảnh hưởng
tới khối đại đoàn kết toàn dân và an ninh, trật tự xã hội ở các địa phương.
Thứ ba, triển khai nghiên cứu thực tiễn, luận án đã chỉ ra và phân tích rõ những yếu
tố ảnh hưởng đến công tác QLNN về Công giáo ở ĐNB với 2 nhóm yếu tố: nhóm yếu tố
chủ quan và nhóm yếu tố khách quan. Những nhóm yếu tố này ảnh hưởng mạnh mẽ và
chi phối hiệu quả, hiệu lực QLNN về Công giáo ở ĐNB.
Thứ tư, Chương 3 Luận án đã tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện
các nội dung QLNN về Công giáo ở ĐNB. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những năm gần
đây QLNN về Công giáo ở ĐNB đã đạt được những chuyển biến tích cực: chính sách,
pháp luật được rà soát, sửa đổi, bổ sung; tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo ổn định, thu
133
gọn đầu mối; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện thường
xuyên; công tác tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về TNTG được đảm bảo; quyền tự
do TNTG của giáo dân được đảm bảo và tôn trọng hơn; chức sắc, tín đồ Công giáo sinh
hoạt tôn giáo dần ổn định, chấp hành pháp luật; chức sắc Công giáo ngày càng cởi mở,
chủ động đối thoại với chính quyền, chủ động dấn thân vào các hoạt động xã hội, việc
đời, xây dựng đời sống ngày càng ấm no, hạnh phúc; đội ngũ CBCC ngày càng được
củng cố về chất và số lượng.
Kết quả nghiên cứu tại Chương 3 luận án cho thấy những vấn đề thách thức đặt ra
cho các cơ quan chức năng trong QLNN về Công giáo ở ĐNB hiện nay: hệ thống pháp
luật QLNN về TNTG chưa hoàn thiện, thiếu những hướng dẫn cụ thể nhất là trong các
hoạt động xã hội, từ thiện nhân đạo, quản lý dòng tu; tổ chức bộ máy QLNN bộc lộ
những vấn đề bất cập, chưa thuận lợi cho công tác tham mưu và QLNN về TNTG; đội
ngũ CBCC còn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu chuyên môn; công tác tuyên truyền
vận động chức sắc, tín đồ Công giáo còn chưa thực sự hiệu quả, chưa thu hút được sự
quan tâm của giáo dân; hoạt động của các chức sắc, tín đồ Công giáo vẫn tiềm ẩn các vấn
đề phức tạp; công tác quản lý đất đai, xây dựng, hoạt động xã hội của các tổ chức Công
giáo vẫn còn nhiều bất cập; một số chức sắc, tín đồ Công giáo có hành vi ảnh hưởng đến
an ninh, trật tự,.. điều này đòi hỏi chính quyền các cấp địa phương ĐNB cần phải có
những giải pháp tác động nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế đó, đồng thời cũng
nhằm tận dụng có hiệu quả nguồn lực Công giáo để phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội,
giữ vững an ninh, trật tự, xây dựng địa phương ngày càng giàu đẹp, ổn định và bền vững.
134
Chương 4:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔNG NAM BỘ
4.1. Dự báo xu hướng hoạt động của Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ trong
thời gian tới
4.1.1. Củng cố đức tin, gia tăng hoạt động truyền giáo gắn với hội nhập văn hóa địa
bàn Đông Nam Bộ
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ 4 và toàn cầu hóa
hiện nay, Công giáo ĐNB chịu nhiều tác động của các yếu tố trong và ngoài nước; những
thách thức trong hoạt động trước những biến đổi của xã hội, cũng như của các tôn giáo
khác. Hiện tượng phai nhạt đạo của các tín đồ Công giáo trong những năm gần đây cũng
đặt ra rất nhiều khó khăn đối với các chức sắc Công giáo. Sự phát triển quy mô tín đồ của
Công giáo và sự gia tăng tín đồ Công giáo người nước ngoài những năm gần đây ở ĐNB
đang đặt ra đối với những cơ sở Công giáo nơi đây những yêu cầu mới. Để đảm bảo quá
trình hoạt động đạo ổn định, phát triển, Công giáo ĐNB sẽ tiếp tục có những hoạt động
theo xu hướng thích nghi trong truyền giáo, cụ thể:
Trong thời gian tới, các tổ chức Công giáo ở ĐNB đều hết sức chú trọng công tác
truyền giáo, đẩy mạnh phát triển tín đồ, củng cố đức tin, củng cố tổ chức giáo hội cơ sở,
tăng cường đào tạo chức sắc. Các tổ chức Công giáo tập trung củng cố Ban hành giáo ở
các xứ đạo, thuyên chuyển linh mục về các giáo xứ có đông người dân lao động ngoại
tỉnh, địa bàn tập trung nhiều công nhân, tranh thủ mọi điều kiện để tăng cường thực lực
giáo hội ở cơ sở; đẩy mạnh hoạt động của các hội đoàn Công giáo, các hoạt động theo
giới, các lớp học giáo lý.
Trước thực trạng biến đổi của xã hội, đặc biệt là thanh thiếu niên không sống đạo và
giữ đạo như những thời gian trước đây, thậm chí nhiều người bỏ đạo đang diễn ra ở nhiều
nơi ĐNB đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến đức tin Công giáo. Để khắc phục những
thách thức đó, các chức sắc đang nỗ lực, cố gắng thay đổi cách thức truyền đạo, sinh hoạt
đạo; tập trung củng cố đức tin ngay trong gia đình, xứ đạo; nâng cao vai trò của tín đồ
Công giáo trong các sinh hoạt đạo.
Cùng với đó, các cơ sở Công giáo cũng nỗ lực, cố gắng đa dạng hóa các các hoạt
động sinh hoạt đạo, tăng cường tổ chức các lễ hội Công giáo với cách thức tổ chức mới,
135
hiện đại, hấp dẫn để thu hút, lôi kéo củng cố tín đồ; kêu gọi tín đồ tham gia vào các hội
đoàn, dòng tu Công giáo; tăng cường các hoạt động trao đổi, thảo luận về sinh hoạt xã
hội từ sinh sống, học tập, hướng nghiệp, hôn nhân gia đình, lập thân, lập nghiệp để củng
cố và gìn giữ, củng cố đức tin, mở rộng quy mô tín đồ Công giáo ở những vùng mới, giáo
xứ, giáo họ mới.
Công giáo là một tôn giáo nhất thần, có nguồn gốc quốc tế, với giáo lý, giáo luật và
lễ nghi chặt chẽ khi mới du nhập vào Việt Nam do không dung hòa và hội nhập với nền
văn hóa truyền thống nên kết quả truyền đạo không đạt được như những kỳ vọng của
Giáo triều Vatican, bên cạnh đó, sự xung đột văn hóa giữa văn hóa Công giáo với văn
hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam cũng và để lại nhiều bài học đau xót. Có những
giai đoạn Triều đình Nhà Nguyễn ban hành các sắc lệnh cấm đạo do lo sợ văn hóa Công
giáo ảnh hưởng đến văn hóa, phong tục tập quán của Việt Nam và hàng thế kỷ đã qua,
người Công giáo đã xa cách dân tộc không chỉ phương diện chính trị - xã hội mà còn cả ở
phương diện văn hóa truyền thống.
Để cùng đồng hành với dân tộc, đất nước, “sống Phúc âm trong lòng dân tộc”
trước những thay đổi của tình hình xã hội, đất nước thì điều chắc chắn đó là Công giáo
ĐNB tiếp tục có những hoạt động truyền giáo gắn với hội nhập văn hóa của đồng bào các
dân tộc ĐNB theo tinh thần Thư chung 1980 là: “xây dựng trong Hội Thánh một lối sống
và một lối diễn tả đức tin phù hợp hơn với truyền thống dân tộc” [78]. Tinh thần này
được thể hiện trong giáo lý, lễ nghi, sinh hoạt tôn giáo, nghệ thuật, công trình kiến trúc
của Công giáo ĐNB sẽ mang những màu sắc của văn hóa nơi đây. Nhiều hoạt động và lễ
nghi Công giáo dần thay đổi cho gần với văn hóa, phong tục và tập quán tín ngưỡng của
người dân ĐNB điều này được thể hiện ngay trong kiến trúc, các cuộc lễ, nét sinh hoạt, tổ
chức các hoạt động hiếu, hỷ và thờ cúng tổ tiên của người dân Công giáo ĐNB.
4.1.2. Tăng cường đối thoại với các cấp chính quyền, tuân thủ pháp luật trong quan hệ
với chính quyền các địa phương
Mối quan hệ giữa đạo với đời, giữa chính quyền nhà nước với các cơ sở, tổ chức
Công giáo, giữa thần quyền với thế quyền luôn là những vấn đề hết sức tế nhị, nhạy cảm.
Mặc dù còn có những khoảng cách và rào cản mối quan hệ giữa GHCG với chính quyền
các cấp, nhiều chức sắc Công giáo có đường hướng bảo thủ, cứng rắn, không đối thoại
với chính quyền các cấp, tuy nhiên, những biểu hiện đó dần cũng sẽ ít đi mà thay vào đó
là những quan điểm, nhận thức và hành động mới theo tinh thần là: xây dựng Hội thánh
136
của Chúa Giêsu Kitô gắn bó với Chúa; gắn bó với dân tộc, đất nước, xây dựng Hội
Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam; cùng đồng bào cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với
truyền thống dân tộc [78].
Đối với các cấp chính quyền ĐNB, ý thức được vai trò to lớn của các nguồn lực
Công giáo, các đồng chí lãnh đạo đã tăng cường thăm hỏi, động viên chức sắc, tín đồ
Công giáo trong các dịp lễ trọng, biểu dương các tấm gương chức sắc, tín đồ Công giáo
có nhiều đóng góp tích cực trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội ở địa
phương. Đối với chức sắc, tín đồ Công giáo ĐNB cũng ngày càng ý thức hơn về vai trò
và trách nhiệm của bản thân đối với tổ chức Công giáo cũng như địa phương, đất nước,
ngày càng có nhiều tấm gương sáng trong các phong trào an sinh xã hội, phát triển kinh
tế, xây dựng quê hương đất nước. Số lượng tín đồ Công giáo tham gia vào các cơ quan,
đoàn thể ở địa phương cũng ngày một tăng lên, theo số liệu tổng hợp của các địa phương
ĐNB, tính đến tháng 12/2019 có gần 7.000 tín đồ Công giáo là Đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Để làm tốt việc đạo thì trước tiên người tín đồ Công giáo cũng phải làm tốt việc đời,
việc đời với việc đạo tuy là hai công việc khác nhau nhưng cùng chung một mục tiêu
thống nhất đó là hướng vào con người cụ thể, những tín đồ Công giáo. Mặt khác, ngay
trong bản thân người tín đồ Công giáo, họ vừa là tín đồ của GHCGVN, là thần dân của
nước Chúa trời, nhưng họ cũng là công dân của nước Việt Nam, họ cũng được hưởng
những quyền và nghĩa vụ như những công dân khác. Chính vì vậy để làm tốt việc đời,
việc đạo GHCGVN cũng phải thay đổi quan điểm của mình, tăng cường các hoạt động
thăm hỏi, đối thoại với chính quyền các cấp, thông qua đối thoại, chia sẻ trách nhiệm, các
chức sắc Công giáo cũng thực hiện tốt bổn phận của mình được GHCGVN giao cho.
Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang nỗ lực, cố gắng xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN mọi người, mọi tổ chức mọi tầng lớp xã hội đều bình đẳng trước pháp luật,
sống, lao động hoạt động xã hội theo Hiến pháp và pháp luật nhà nước. Là một sản phẩm
của ý thức xã hội, cũng như những sự vật, hiện tượng khác, hoạt động của các chức sắc,
tín đồ Công giáo cũng phải bình đẳng trước pháp luật của nhà nước Việt Nam. Những
hoạt động của chức sắc, tín đồ Công giáo được nhà nước cho phép thực hiện trong khuôn
khổ pháp luật, được luật pháp thừa nhận và được pháp luật nhà nước bảo vệ.
Tăng cường hoạt động đối thoại với chính quyền và sinh hoạt tôn giáo; tuân thủ
137
pháp luật là xu hướng cơ bản của mọi tôn giáo, trong đó có GHCGVN, chức sắc, tín đồ
Công giáo ĐNB. Qua đối thoại, chức sắc, tín đồ Công giáo ĐNB đang thực hiện đường
hướng hành đạo: “Các người Kitô giáo từ mọi dân tộc tụ họp trong Hội Thánh, không
phân cách với những người khác về chế độ, cũng như về tổ chức xã hội trần gian, nên họ
phải sống cho Thiên Chúa và cho Chúa Kitô trong nếp sống lành mạnh của dân tộc
mình; là công dân tốt, họ phải thật sự và tích cực vun trồng lòng yêu nước” [78].
Có thể nói, đối thoại là xu hướng cơ bản của Công giáo ĐNB, nhưng để đường
hướng đó đi vào thực tiễn, đi vào các hoạt động của chức sắc Công giáo cũng còn nhiều
rào cản, thách thức. Cùng với xu hướng đối thoại trong quan hệ với chính quyền các cấp
thì tuân thủ pháp luật nhà nước về tôn giáo là thước đo để khẳng định chất lượng đối
thoại, tuy nhiên nhiều biểu hiện cho thấy, xu hướng tăng cường đối thoại ở Công giáo
ĐNB không hoàn toàn là “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, nhưng chắc
chắn, việc tuân thủ pháp luật là một đường hướng đúng đắn, vì sự ổn định và phát triển
của GHCGVN.
4.1.3. Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo
Xuất phát từ bản chất của Công giáo cũng là nhằm khuyến khích những giá trị đạo
đức, nhân văn, bác ái điều này được thể hiện qua nhiều câu chuyện trong Kinh Thánh.
Cũng như những tôn giáo khác, nhằm đưa đạo vào đời, gắn sinh hoạt tôn giáo với các
hoạt động của xã hội trong giai đoạn tới việc đẩy mạnh các hoạt động xã hội, từ thiện
nhân đạo cũng là một xu thế phát triển của Công giáo ĐNB. Thông qua những hoạt động
từ thiện, nhân đạo, các chức sắc, cơ sở Công giáo nơi đây khẳng định vị thế và vai trò của
tổ chức Công giáo đối với xã hội, với các tôn giáo khác, qua đó nâng cao uy tín, tầm ảnh
hưởng của tổ chức Công giáo đối với xã hội, chính quyền các địa phương.
Tăng cường các hoạt động từ thiện, nhân đạo như: trợ giúp những nhóm yếu thế
trong xã hội; nuôi dưỡng trẻ em gặp hoàn cảnh khó khăn; chăm sóc những bệnh nhân
HIV; tăng cường các hoạt động khám chữa bệnh cho người nghèo; tham gia các hoạt
động cứu trợ lũ lụt, thiên tai,…sẽ là xu thế tất yếu của mọi tôn giáo ĐNB nói chung và
Công giáo nói riêng. Những hoạt động từ thiện, nhân đạo của Công giáo một mặt là nhằm
khẳng định tính bác ái, nhân đạo và ưu việt của đạo, mặt khác cũng nhằm xây dựng vị
thế, uy tín của các cơ sở Công giáo, thu hút sự quan tâm, chú ý của cộng đồng xã hội, lôi
kéo các tầng lớp nhân dân đến với đạo.
Cùng với hoạt động từ thiện, nhân đạo, hoạt động giáo dục thanh thiếu niên cũng
138
được các chức sắc Công giáo hết sức quan tâm. Nếu có điều kiện về thể chế, chính sách
và pháp lý thì các cơ sở Công giáo ĐNB sẽ tập trung thực hiện những hoạt động này trên
quy mô lớn với chất lượng, hiệu quả cao hơn như: mở trường học phổ thông các cấp, mở
bệnh viện điều trị nội trú; tăng cường các hoạt động từ thiện như xây dựng nhà tình
nghĩa, nhà cho hộ nghèo, xóa đói, giảm nghèo,…chức sắc Công giáo xem đây là trách
nhiệm của GHCGVN đối với xã hội.
Việc tăng cường các hoạt động xã hội và từ thiện nhân đạo của GHCG là một chủ
trương rất phù hợp với mong muốn của Đảng, nhà nước trong việc xã hội hóa giáo dục, y
tế, xã hội hóa an sinh xã hội. Tuy nhiên, nếu không có những quy định, chính sách và
quản lý chặt chẽ sẽ dễ bị lợi dụng, biến tướng và trở thành động cơ, để gia tăng ảnh
hưởng của GHCG đối với chính quyền các cấp.
4.1.4. Mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường đối thoại với các tôn giáo khác
Công giáo là một tôn giáo quốc tế, có số lượng giáo dân lớn nhất trong các tôn giáo
trên thế giới, tín đồ Công giáo có mặt ở hầu hết các quốc gia, châu lục trên thế giới nên
mối quan hệ của Công giáo ĐNB rất đa dạng, phong phú. Công giáo ĐNB là một bộ
phận của GHCGVN, trực thuộc Giáo triều Vatican, có mối quan hệ trực tiếp với Giáo
triều Vatican, điều này được thể hiện từ những tổ chức và hoạt động Công giáo đều nhận
sự chỉ đạo trực tiếp từ Giáo triều nên quan hệ của các tổ chức Công giáo ĐNB với Tòa
Thánh là rất chặt chẽ, bền vững, thể hiện từ: phong phẩm, bầu cử, suy cử, đường hướng
hoạt động, mục vụ, giáo lý, giáo luật và lễ nghi,… đều theo những quy định, chỉ đạo của
Giáo triều Vatican. Sự phụ thuộc và ảnh hưởng của Giáo triều Vatican tới các tổ chức
Công Giáo ĐNB sẽ tiếp tục diễn ra. Tầm ảnh hưởng và vị thế của Giáo triều Vatican đối
với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới luôn tạo điều kiện cho các giáo hội Công
giáo ở các quốc gia trên thế giới tiến hành các hoạt động đối ngoại quốc tế tôn giáo.
Với chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập tôn giáo cũng
đang tạo điều kiện cho GHCGVN, trong đó có Công giáo ĐNB đẩy mạnh các hoạt động
quốc tế như: tham gia các diễn đàn, các tổ chức Công giáo quốc tế; tăng cường các hoạt
động hợp tác trong truyền đạo, nghiên cứu giáo lý; đẩy mạnh việc tổ chức các hoạt động
từ thiện nhân đạo; tăng cường các hoạt động thăm viếng lẫn nhau giữa các tổ chức Công
giáo quốc tế; tham gia vào các mối quan tâm chung của GHCG và của nhân loại như: đói
nghèo, di dân, hòa bình quốc tế, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, vấn đề dân chủ,
dân quyền quốc tế,…
139
Với tinh thần: “Hội Thánh của Đức chúa Giêsu Kitô” các cơ sở Công giáo ở ĐNB
thực hiện đường hướng hành đạo là: “Gắn bó với Chúa Kitô và hợp nhất với Hội Thánh
toàn cầu; gắn bó với Đức Giáo hoàng, vị đại diện Chúa Kitô, người được Chúa giao
trách nhiệm, chăn dắt đoàn chiên của người và gắn bó với nhau trong tình huynh đệ theo
kiểu mẫu Hội Thánh thời sơ khai” [78]. Do vậy, trong giai đoạn kế tiếp các cơ sở Công
giáo ở ĐNB sẽ không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường các quan hệ liên tôn.
Những năm qua, các tổ chức Công giáo ĐNB đã cử hàng trăm chức sắc, linh mục và tu sĩ
ra nước ngoài học tập, bồi dưỡng thần học, tham gia các hoạt động liên tôn quốc tế.
Ngược lại, các tổ chức Công giáo nơi đây cũng tiếp đón hàng nghìn lượt chức sắc, tín đồ
Công giáo bên ngoài đến ĐNB nghiên cứu, học tập thần học và tìm hiểu vấn đề tôn giáo,
nhân quyền.
Cùng với đó, những hoạt động mời các chức sắc Công giáo ở nước ngoài vào
tham gia các sinh hoạt, lễ hội, đại hội Công giáo ở ĐNB có chiều hướng gia tăng, ngày
càng thường xuyên hơn. Sự gia tăng của các tín đồ Công giáo người nước ngoài ở ĐNB
cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các cơ quan QLNN về tôn giáo ở các địa
phương ĐNB.
Cùng với xu hướng mở rộng quan hệ quốc tế, Công giáo ĐNB cũng tăng cường các
hoạt động đối thoại với chính quyền và các tôn giáo khác ở các cấp độ khác nhau, điều này
được thể hiện qua các hoạt động như: cử chức sắc tham gia các hoạt động, phong trào do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát động; tham gia các đại hội, lễ hội của các tôn
giáo khác trên cùng địa bàn; tăng cường gặp gỡ chia sẻ động viên lẫn nhau nhân các ngày lễ
trọng của các tôn giáo trên cùng địa bàn. Các tổ chức Công giáo địa bàn ĐNB cũng cử chức
sắc, linh mục tham gia các buổi lễ, phong phẩm, bầu cử của các tôn giáo khác. Đối với
những vấn đề xã hội, các tổ chức tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng cũng tích cực
tham gia, đóng góp ý kiến và chia sẻ trách nhiệm đối với xã hội.
4.1.5. Gia tăng các hoạt động vi phạm về đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự trái phép.
Thực tế cho thấy trong những năm gần đây, tình hình vi phạm về đất đai tôn giáo
nói chung và Công giáo nói riêng có chiều hướng gia tăng cả về số lượng vụ việc và mức
độ phức tạp.
Do sự gia tăng cơ học của tín đồ Công giáo trong những năm gần đây đã đặt ra
những áp lực không nhỏ đối với việc phải có các cơ sở sinh hoạt tôn giáo. Tuy nhiên, với
các quy định hiện hành để có được đất đai xây dựng cơ sở thờ tự là không hề đơn giản, vì
140
vậy, hiện tượng vi phạm về đất đai sẽ tiếp tục gia tăng trong những năm kế tiếp.
Số liệu thống kê của các địa phương ĐNB cho thấy, số lượng vụ việc vi phạm về
đất đai Công giáo hàng năm lên tới hàng trăm trường hợp, dưới nhiều các hình thức khác
nhau như: chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái phép; biến đất nông lâm nghiệp thành đất
Công giáo. Nhiều chức sắc Công giáo gia tăng các hoạt động thu gom đất đai của nhân
dân thông qua hình thức cho, tặng, hiến đất cho các cơ sở Công giáo.
Cùng với sự gia tăng vi phạm về đất đai, thì những vụ việc vi phạm về trật tự xây
dựng; xây dựng, sửa chữa, nâng cấp, cải tạo các cơ sở thờ tự Công giáo vẫn diễn biến
phức tạp. Bên cạnh đó, những khiếu kiện, khiếu nại tranh chấp về đất đai, cơ sở thờ tự
của các chức sắc, tín đồ Công giáo cũng ngày càng gay gắt hơn. Nhiều vụ việc khiếu
kiện, khiếu nại chưa được giải quyết dứt điểm có nguy cơ trở thành những điểm nóng về
Công giáo.
Thực tế cho thấy một số cơ sở nhà đất Công giáo được trao cho chính quyền tiếp
quản trước đây hiện đang được sử dụng không đúng mục đích, buông lỏng quản lý, sử
dụng không hiệu quả, để nhân dân lấn chiếm trái phép. Khó khăn nhất hiện nay là các cơ
quan QLNN đã để mất nhiều hồ sơ, tài liệu có liên quan đến thủ tục bàn giao cơ sở thờ tự
nên không xác định được nguồn gốc, trong khi đó các tổ chức Công giáo lại đang ráo riết
đòi lại, xin lại đất đai và cơ sở thờ tự cũ. Tuy nhiên theo chỉ đạo: “riêng đối với những
trường hợp nhà, đất do tôn giáo đã hiến tặng có văn bản xác nhận thì không đặt vấn đề
trả lại”[6]. Và nhiều vụ việc đã trở nên phức tạp hơn do chính quyền các địa phương
không tìm được giải pháp tháo gỡ.
Mặc dù tình hình sinh hoạt Công giáo ở ĐNB đã ổn định hơn giai đoạn trước, tuy
nhiên, một số chức sắc Công giáo cực đoan vẫn tiếp tục lợi dụng những bất cập, hạn chế
và thách thức trong QLNN của một số chính quyền các cấp, để tìm cách bôi nhọ và vô
hiệu hóa chính quyền cơ sở, với ảo tưởng thay thế chính quyền cách mạng khi thời cơ
chín muồi. Trước mắt là xúi giục, kích động đồng bào Công giáo gây rối, tạo nên những
cuộc bạo loạn gây mất ổn định chính trị ở các địa phương ĐNB, sau là đấu tranh để thay
đổi cơ chế chính trị của đất nước.
Một số chức sắc Công giáo có quan hệ móc nối với những tổ chức, cá nhân bên
ngoài như: Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ, Ủy Ban tự do tôn giáo quốc tế, Đài phát thanh RFA,
Báo BBC,…để cung cấp những thông tin xuyên tạc về chính sách tự do TNTG của Đảng,
Nhà nước và việc thực thi các chính sách này ở địa phương.
141
Một bộ phận tín đồ Công giáo trên địa bàn ĐNB bị ảnh hưởng, chi phối của các thế
lực thù địch bên ngoài, vẫn tiếp tục lợi dụng vấn đề về đất đai, cơ sở thờ tự để tiến hành
những hoạt động phá hoại chính quyền như: xúi giục, kích động giáo dân xâm hại đến an
ninh, trật tự; vu khống, bịa đặt, xuyên tạc những chủ trương, chính sách của nhà nước; tổ
chức các hội nghị, lễ hội Công giáo trái pháp luật, tiến hành các hoạt động xây dựng, cải
tạo cơ sở thờ tự trái phép; cấu kết với các thế lực thù địch bên ngoài tiếp tục thực hiện âm
mưu lợi dụng vấn đề Công giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá Đảng, chính quyền
địa phương; lôi kéo giáo dân xung đột với chính quyền, hình thành sự kiện bất ổn tình
hình chính trị ở địa phương để tạo lập các điều kiện cho các thế lực thù địch bên ngoài và
các tổ chức quốc tế can thiệp vào vấn đề nội bộ của đất nước.
Đất nước đã bước sang giai đoạn mới, nhưng các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ
âm mưu “diễn biến hoà bình”, lợi dụng Công giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng
của Đảng và Nhà nước. Một số linh mục, giáo dân còn bất hợp tác với chính quyền, có
những biểu hiện lấn lướt, vượt ra khỏi khuôn khổ pháp luật. Việc nắm tình hình, tổ chức
tập hợp và xây dựng phong trào quần chúng tín đồ chưa được coi trọng đúng mức, đội ngũ
nòng cốt, cốt cán, đảng viên, đoàn viên là tín đồ các tôn giáo có rất ít tại các địa bàn trọng
điểm vùng có đồng bào tôn giáo.
4.2. Quan điểm về công tác tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và phương hướng
quản lý nhà nước về Công giáo
4.2.1. Quan điểm của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quan điểm, chính sách đúng
đắn, tập hợp chức sắc, tín đồ các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc, tạo sức mạnh
nhằm hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo dân tộc Việt Nam thực hiện cuộc cách mạng giải
phóng đất nước, đưa dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo trước hết kế thừa truyền thống
và những bài học kinh nghiệm ứng xử với tôn giáo của cha ông để lại, đồng thời là sự vận
dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh
về “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trải qua các cuộc chiến tranh kéo dài, ngày 30/4/1975, Sài Gòn được giải phóng,
đất nước độc lập, thống nhất, Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới, cả nước xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trước thời cơ và vận hội mới, Đảng, Nhà
142
nước Việt Nam sau hơn 40 năm thống nhất đất nước đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn
diện trong đó có đổi mới quan điểm đối với tôn giáo, công tác tôn giáo.
Quan điểm, chính sách đổi mới công tác tôn giáo được thể hiện trước tiên bằng
Nghị quyết số 24- NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình
hình mới ngày 16/10/1990 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ký. Nội dung Nghị quyết
24/NQ-TW về công tác tôn giáo, xác định “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có
nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”, “các giáo hội và tổ chức tôn
giáo nào có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích, điều lệ phù
hợp với luật pháp Nhà nước, có tổ chức phù hợp và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt về cả
hai mặt đạo, đời thì sẽ được Nhà nước xem xét trong từng trường hợp cụ thể để cho phép
hoạt động”[4].
Thực hiện thắng lợi Nghị quyết 24-NQ/TW về công tác tôn giáo, công tác QLNN
đối với hoạt động tôn giáo có nhiều kết quả tích cực, đã vận động đồng bào có đạo, các
tín đồ, chức sắc… hưởng ứng tham gia phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các tổ chức tôn giáo đã xây dựng đường hướng hành
đạo, hoạt động theo pháp luật. Những tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận đã
hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân,
xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Các cấp,
ngành đã chủ động, tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững an ninh chính trị ở các vùng đồng bào
tôn giáo, đồng thời đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại những hoạt động lợi dụng TNTG để
hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước.
Mặc dù đã đạt nhiều kết quả tích cực trong công tác tôn giáo, song hoạt động tôn
giáo ở nước ta vẫn còn những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nguy cơ có thể gây mất
ổn định, khó lường: một số chức sắc tôn giáo còn chưa tuân thủ pháp luật, tổ chức truyền
đạo trái pháp luật; lợi dụng TNTG để hành nghề mê tín dị đoan. Khiếu kiện và tranh chấp
liên quan đến đất đai và cơ sở vật chất của tôn giáo có xu hướng tăng lên, có nơi gay gắt,
phức tạp. Ở khu vực miền núi, một số người đã lợi dụng TNTG để tiến hành những hoạt
động chống đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất
ổn định chính trị. Trước tình hình trên ngày 12/3/2003 Ban chấp hành Trung ương đã ban
143
hành Nghị quyết 25-NQ/TW Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương
khóa IX về công tác tôn giáo, nội dung Nghị quyết khẳng định: “Hoạt động tôn giáo và
công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [6].
Để thực hiện mục tiêu phương hướng, Nghị quyết 25-NQ/TW đã đề ra một số quan
điểm định hướng công tác tôn giáo của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, cụ thể [6]:
Quan điểm 1: TNTG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, TNTG đang
và sẽ tiếp tục tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Đồng bào
các tôn giáo là bộ phận không thể tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng và
nhà nước ta cam kết thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước
pháp luật. Những cam kết đó của Đảng, Nhà nước được hiện thực hóa trong hệ thống
chính sách, pháp luật của Nhà nước về TNTG như: Hiến pháp, Pháp lệnh, Luật TNTG và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
Quan điểm 2: Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào
không theo tôn giáo. Đồng thời cũng khuyến khích nhân dân, chức sắc, tín đồ các tôn
giáo giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực truyền thống văn hóa của dân tộc, tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tôn vinh những người có công với Tổ quốc. Nghiêm cấm sự
phân biệt đối xử với công dân vì lý do TNTG. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng
nghiêm cấm lợi dụng TNTG để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm
phạm an ninh quốc gia. Mọi hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực TNTG sẽ bị
nghiêm trị theo pháp luật của Nhà nước.
Quan điểm 3: Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng, song bên cạnh đó cũng có những hình thức và biện pháp khác. Mục tiêu chung
của Đảng và Nhà nước ta có điểm tương đồng với mục tiêu của các tổ chức tôn giáo là
xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đây là
mối quan hệ gắn kết đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà
144
nước. Đảng và Nhà nước không phân biệt, đối xử khác biệt giữa những người có TNTG
với người không có TNTG, mọi công dân không phân biệt TNTG đều có quyền và nghĩa
vụ như nhau trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm 4: Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội, các cấp, các ngành, các địa bàn vì vậy, đây không chỉ là nhiệm vụ chính trị của Đảng
hoặc Nhà nước mà là nhiệm vụ, trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện tốt nhiệm
vụ này, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách
nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Chúng ta chỉ thực hiện tốt nhiệm vụ,
công tác tôn giáo nếu chúng ta thực hiện tốt công tác vận động và thuyết phục tín đồ,
chức sắc các tôn giáo.
Quan điểm 5: Đối với những vấn đề theo đạo và truyền đạo, thực hiện theo phương
hướng sau:
Thứ nhất, mọi tín đồ tôn giáo đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ
tự hợp pháp được nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, đối với các tổ chức tôn giáo được Nhà nước Công nhận tư cách pháp nhân
được hoạt động theo pháp luật quy định hoạt động TNTG và được pháp luật bảo hộ, được
mở trường, lớp đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa,
xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, đối với công dân, việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn
giáo khác đều phải trong khuôn khổ pháp luật Nhà nước. Nghiêm cấm các hành vi lợi
dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, ép buộc người dân theo đạo.
Nghiêm cấm các tổ chức tôn giáo, chức sắc tôn giáo truyền đạo trái phép, vi phạm các
quy định của pháp luật Việt Nam.
Để thực hiện có hiệu quả các quan điểm trên, Nghị quyết 25-NQ/TW cũng đã chỉ ra
một số nhiệm vụ đối với chính quyền các cấp và CBCC QLNN về tôn giáo, cụ thể:
Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế -
xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và pháp
luật của Nhà nước.
145
Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời đẹp đạo”
trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm
thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại
đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ.
Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước; đấu tranh làm thất bại những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc,
vu khống của các thế lực thù địch bên ngoài đối với tình hình tôn giáo và công tác tôn
giáo ở nước ta.
Tổng kết việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo.
Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học
cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với
tôn giáo.
Tổng kết 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW cho thấy, từ khi Đảng
ban hành Nghị quyết đến nay, công tác tôn giáo nói cung và công tác QLNN về Công
giáo nói riêng đã đạt được nhiều kết quả to lớn trong việc đảm bảo quyền tự do TNTG
cho nhân dân, đảm bảo sự ổn định trong sinh hoạt tôn giáo, đồng thời, cũng giúp cho
QLNN về Công giáo hiệu quả hơn, chủ động phòng ngừa những hành vi lợi dụng Công
giáo để vi phạm pháp luật nhà nước.
4.2.2. Phương hướng quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
Dựa trên các quan điểm định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác tôn
giáo trong thời kỳ mới, tác giả đề xuất một số phương hướng đối với công tác QLNN về
Công giáo trên địa bàn ĐNB như sau:
Thứ nhất, tiếp tục rà soát, tiếp thu ý kiến trong quá trình triển khai Luật TNTG và
Nghị đinh 162/2017/NĐ-CP về hướng dẫn một số điều Luật TNTG 2016; tiếp tục nghiên
cứu, xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết một số điều của Luật
TNTG như: xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề đất đai tôn
giáo; xây dựng các công trình kiến trúc tôn giáo; quản lý các dòng tu tôn giáo; những quy
định liên quan đến hoạt động xã hội của các tổ chức tôn giáo; quản lý cơ sở kiến trúc tôn
146
giáo là danh lam thắng cảnh đã được nhà nước xếp hạng; Nghị định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực tôn giáo.
Thứ hai, tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ
thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề Công giáo gồm:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách
về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong CBCC, đảng viên, nhân dân, nhất là trong chức
sắc và tín đồ Công giáo địa bàn ĐNB.
- Tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất
của Tổ quốc cho chức sắc, tín đồ Công giáo, làm cho chức sắc, tín đồ Công giáo thực sự
gắn bó, đồng hành với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Khuyến khích tín đồ Công giáo giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa
của dân tộc; duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và truyền thống uống nước nhớ nguồn,
tôn vinh những người có công với Tổ quốc; tôn trọng tín ngưỡng truyền thống của nhân
dân ĐNB và đồng bào có đạo.
- Xây dựng khối đại đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở để đấu tranh
chống những tà đạo, những hoạt động mê tín dị đoan, lợi dụng Công giáo giáo làm hại
đến lợi ích của Tổ quốc, dân tộc và nhân dân.
Thứ ba, tăng cường công tác vận động tín đồ chức sắc Công giáo, xây dựng lực
lượng chính trị ở cơ sở, xây dựng cốt cán đạo Công giáo địa bàn ĐNB:
- Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, khuyến khích sự tham gia của chức sắc, tín
đồ Công giáo vào các vấn đề ở địa phương. Đổi mới nội dung, phương thức công tác vận
động tín đồ, chức sắc Công giáo, phù hợp với đặc điểm của đồng bào có nhu cầu luôn
gắn bó với sinh hoạt Công giáo và GHCGVN.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của MTTQVN và các tổ chức chính trị xã hội địa
bàn ĐNB trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về tôn giáo
đối với chức sắc, chức việc và tín đồ Công giáo.
- Xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan QLNN về tôn giáo với các cơ quan
Dân vận, MTTQVN, Công an, Quân đội và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác
đối với Công giáo.
Thứ tư, thực hiện tốt các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong địa bàn
Công giáo ở ĐNB:
147
- Tăng cường đầu tư và thực hiện có hiệu quả các dự án, chương trình mục tiêu
quốc gia, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật
chất, văn hóa cho nhân dân các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm các vùng đông tín đồ
Công giáo và vùng còn nhiều khó khăn.
- Tăng cường cảnh giác cách mạng, xây dựng phương án cụ thể, chủ động đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề Công giáo để kích
động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối xâm phạm an ninh quốc gia.
- Thống nhất chủ trương xử lý vấn đề nhà, đất sử dụng vào mục đích Công giáo
hoặc có liên quan đến Công giáo theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Đối với hội đoàn Công giáo, thực hiện theo nguyên tắc mọi tổ chức tôn giáo phải
được Nhà nước công nhận và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy, CBCC QLNN về tôn giáo:
- Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức QLNN về tôn giáo các cấp, xác định rõ vị trí,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mô hình tổ chức QLNN về tôn giáo ở các cấp; xây
dựng quy chế phối hợp phát huy sức mạnh và hiệu quả công tác.
- Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo bồi dưỡng, sử dụng và bảo
đảm chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.
- Tăng cường bồi dưỡng kiến thức QLNN về tôn giáo nói chung và những kiến thức
về Công giáo nói riêng cho đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo ở ĐNB.
4.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
4.3.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý nhà nước về tôn giáo
Kết quả nghiên cứu hệ thống pháp luật QLNN về tôn giáo thấy rằng, mặc dù đã có
nhiều tiến bộ so với giai đoạn trước 2004, tuy nhiên, do tôn giáo là một lĩnh vực xã hội có
rất nhiều hoạt động đa dạng và phong phú, nên thực tế cho thấy, hệ thống pháp luật
QLNN đối với hoạt động tôn giáo vẫn còn bất cập, tập trung vào những quy định trong
các hoạt động như: quy định về pháp nhân, nhà đất tôn giáo; trình tự, thủ tục đăng ký và
hoạt động của các dòng tu; những quy định về xây dựng, cải tạo, trùng tu công trình, kiến
trúc; các quy định về hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế và từ thiện nhân đạo còn chưa rõ
ràng, không có hướng dẫn cụ thể,…(xem Bảng 4.1 và Phụ lục 4, 5). Do vậy để tạo các cơ sở
pháp lý cho việc QLNN của các cơ quan chức năng, đồng thời cũng nhằm đảm bảo quyền tự
do TNTG, phòng ngừa các hành vi lợi dụng tôn giáo xâm phạm đến an ninh, trật tự của nhà
148
nước, trong giai đoạn tới chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật QLNN về tôn
giáo là hết sức cần thiết.
Bảng 4.1. Kết quả khảo sát về tính cần thiết của việc phải tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật về tôn giáo
Mức độ thực hiện
Cần thiết
Tổng
STT
Bình thường
Không cần thiết
Quy định pháp luật cần điều chỉnh, sửa đổi
SL
%
SL %
SL %
SL %
1 Quản lý các dòng tu Công giáo
278
81.8
37
10.9
25
7.4
340 100
2
198
58.2
104 30.6
38
11.2 340 100
Quản lý người vào tu, quản lý việc đào tạo chức sắc tôn giáo
3
318
93.5
15
4.4
7
2.1
340 100
Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
4
188
55.3
75
22.1
77
22.6 340 100
Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
5
307
90.3
21
6.2
12
3.5
340 100
Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Nguồn: tác giả khảo sát thực tiễn
Ngày 18/11/2016, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật TNTG thay thế cho Pháp lệnh
TNTG 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/1/2018, đồng thời Chính phủ đã ban hành Nghị
định 162/2017/NĐ-CP, ngày 31/12/2017 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết một số điều thực
thi Luật TNTG 2016. So với Pháp lệnh TNTG, Luật TNTG có nhiều điểm tiến bộ hơn, các
quy định trong luật đã mở rộng hơn đối với Pháp lệnh TNTG 2004, tuy nhiên, về cơ bản các
chuyên gia, nhà quản lý và các chức sắc, tín đồ Công giáo cho rằng, Luật TNTG vẫn chưa
hoàn thiện, Nghị định 162/2017/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật TNTG, vẫn chưa đạt được
kỳ vọng, mới chỉ tập trung hướng dẫn một số nội dung hoạt động như: đăng ký pháp nhân
phi thương mại; đăng ký giải thể cơ sở tôn giáo, cơ sở đào tạo tôn giáo; thay đổi người đứng
đầu tổ chức tôn giáo, đổi tên cơ sở tôn giáo; chấp thuận phong phẩm cho người nước ngoài ở
Việt Nam và phong phẩm có yếu tố nước ngoài, đăng ký hoạt động quyên góp. Nhiều khoản
trong Nghị định lại hướng dẫn thực hiện theo luật như: Điều 11 Nghị định hướng dẫn theo
theo Điều 31 của Luật TNTG; Điều 13 hướng dẫn theo Điều 41 của Luật; Điều 16 hướng
149
dẫn theo Điều 58 của Luật TNTG,.. Nhiều nội dung chưa đạt được kỳ vọng của các nhà quản
lý, cũng như các chức sắc, tín đồ các tôn giáo.
Nghiên cứu cho thấy, trong thời gian tới, các cơ quan chức năng cần tiếp tục rà soát,
nghiên cứu và bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành Luật TNTG 2016, tập trung vào các
nội dung như: quản lý các dòng tu Công giáo; quy định quản lý người vào tu, quản lý việc
đào tạo chức sắc tôn giáo; quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình
kiến trúc tôn giáo; quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên
quan đến tôn giáo; quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện
nhân đạo của các tổ chức tôn giáo. Để làm tốt được nhiệm vụ này, trong giai đoạn tới cần
tiếp tục thực hiện các nội dung dưới đây:
- Chính quyền, Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố ĐNB tiếp tục triển khai và tổ chức
thực hiện Luật TNTG 2016 và Nghị định 162/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ
về việc Hướng dẫn thi hành Luật TNTG 2016. Trong quá trình triển khai thực hiện Luật và
Nghị định, Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố ĐNB nghiêm túc tiếp thu ý kiến của CBCC,
MTTQVN các địa phương và ý kiến của các tổ chức chính trị - xã hội các cấp. Lắng nghe và
tiếp thu ý kiến của chức sắc, tín đồ các tôn giáo về Luật TNTG 2016 và Nghị định hướng
dẫn thi hành, đề xuất với Ban Tôn giáo Chính Phủ, Chính phủ để tiếp tục hoàn thiện pháp
luật về TNTG.
- Kiến nghị Ban Tôn giáo Chính phủ nghiên cứu, xây dựng và ban hành quy định cụ
thể về trình tự, thủ tục cấp đăng ký hoạt động của các dòng tu; quy định quản lý hoạt động
Công giáo của các dòng tu.
- Đề xuất Ban tôn giáo Chính phủ xem xét quy định quản lý người vào tu, đào tạo chức
sắc tôn giáo, nhất là đối với người nước ngoài, người Việt ra nước ngoài học tập thần học vì
những điều này đã được quy định trong Luật Giáo dục, Luật Cư trú, Luật Xuất nhập cảnh.
Việc quy định những nội dung này nên đơn giản hóa như công dân tham gia các hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng.
- Các quy định liên quan đến quyền sử dụng đất còn gây ra nhiều khó khăn đối với các
tổ chức tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng vì: luật pháp không quy định điều kiện để
các cơ sở tôn giáo được nhà nước giao quyền sử dụng đất; hoặc các cơ sở tôn giáo không
được quyền nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất (Luật Đất đai 2013).
Trong khi nhu cầu có đất đai để xây dựng cơ sở thờ tự là hết sức cấp thiết đối với các tổ chức
tôn giáo. Để giải quyết vấn đề này, Chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB cần chỉ đạo Ban
150
Tôn giáo Sở Nội vụ phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, xem xét và đề
xuất phương hướng giải quyết vấn đề này cho phù hợp với thực tiễn hơn.
- Đối với việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn chức sắc Công giáo,
theo ý kiến của một số chuyên gia nên đăng ký những người giữ chức sắc trong các cơ sở tôn
giáo (có chức vụ) giống như những người có chức vụ, đại diện pháp luật trong các tổ chức
dân sự, xã hội nghề nghiệp (đại diện cho pháp nhân); những vị trí phẩm, hàm mà không là
chức sắc thì chỉ cần thông báo, vì đây là nội bộ tôn giáo.
- Tiềm lực của các tổ chức tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng rất lớn, nếu có
chính sách huy động phù hợp sẽ góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, an sinh xã hội, xã hội
hóa trên lĩnh vực giáo dục và y tế. Để huy động và khai thác tốt những nguồn lực này, chính
quyền các địa phương ĐNB cần chỉ đạo Ban tôn giáo Sở Nội vụ phối hợp với các ngành giáo
dục, văn hóa, y tế, lao động thương binh và xã hội nghiên cứu, xem xét và đề xuất các
phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật. Kiến nghị với Ban Tôn giáo Chính phủ để
ban hành các quy định cụ thể các nội dung này. Đây cũng là những nội dung vướng mắc nhất
trong quản lý hoạt động tôn giáo, giải quyết vấn đề này cũng là giúp các tổ chức Công giáo
tham gia sâu, rộng hơn vào công việc của nhà nước và xã hội như: mở các trường học phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp; thành lập các bệnh viện; xây dựng các trung tâm văn hóa, thể
thao (pháp nhân phi thương mại).
Bên cạnh những nội dung trên, chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB tiếp tục chỉ đạo
chính quyền cấp dưới, các cơ quan làm công tác tôn giáo các cấp, CBCC QLNN về tôn giáo
tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách, pháp luật nhà nước về TNTG.
Ban tôn giáo các địa phương chủ động, tham mưu cho UBND các tỉnh, thành phố các
kế hoạch, chương trình triển khai chính sách, pháp luật về tôn giáo. Chủ động trong việc xây
dựng các dự thảo, chương trình hướng dẫn chính sách, pháp luật nhà nước có liên quan đến
tôn giáo.
4.3.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo
Thực hiện chủ trương sáp nhập và thu gọn đầu mối tổ chức bộ máy QLNN các cấp, từ
năm 2008 đến nay, Ban Tôn giáo Chính phủ trở thành một cơ quan cấp tổng cục, trực thuộc
Bộ Nội vụ; Ban Tôn giáo cấp tỉnh, thành phố trở thành một đơn vị cấp chi cục hoặc cấp
phòng trực thuộc Sở Nội vụ; đối với cấp huyện, không tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo
riêng, độc lập mà giao cho Phòng Nội vụ cấp huyện; đối với cấp xã giao cho UBND xã thực
hiện nhiệm vụ QLNN về tôn giáo. Trong giai đoạn sáp nhập về ngành Nội vụ, công tác
151
QLNN về tôn giáo đã đạt được một số kết quả nhất định, đầu mối bộ máy cấp Trung ương,
cấp tỉnh và cấp huyện được thu gọn, tuy nhiên vẫn bộc lộ những bất cập thiếu hợp lý.
Qua 10 năm thực hiện chủ trương sáp nhập, mô hình tổ chức bộ máy QLNN về tôn
giáo các cấp đã bộc lộ những bất cập, hạn chế, hiện Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và TP. Hồ
Chi Minh đã có những kiến nghị với Ban Tôn giáo Chính phủ và Chính phủ xem xét cơ cấu
tổ chức lại hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo các cấp.
Kết quả khảo sát của tác giả về phương hướng hoàn thiện tổ chức bộ máy QLNN về
tôn giáo cũng cho thấy, có khá nhiều chuyên gia và các nhà quản lý đều nhận định là: vị trí tổ
chức bộ máy QLNN về tôn giáo hiện nay là chưa phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, khó
khăn cho công tác phối hợp quản lý và tham mưu trong QLNN về tôn giáo. Do vậy cần phải
tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo các cấp. Nhận định này hoàn toàn thuận
với Kết luận số 57-KL/TW ngày 03/11/2009 của Bộ Chính trị là: “Tổ chức bộ máy QLNN và
đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo chưa phù hợp, hiệu quả thấp, chưa làm tốt công tác
tham mưu và thực hiện nhiệm vụ QLNN về tôn giáo” [22]. Báo cáo đề án Khảo sát thực
trạng về lực lượng cán bộ làm công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị hiện nay của Ban
Tôn giáo Chính phủ cũng kết luận: “Mô hình QLNN về tôn giáo hiện nay cần được cải tiến
cho phù hợp với thực trạng công tác tôn giáo trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam”
[12, tr.28]. Nghiên cứu thấy rằng, về cơ bản các ý kiến tham gia khảo sát đều cho rằng,
không nên giữ nguyên tổ chức bộ máy QLNN thuộc ngành Nội vụ như hiện nay mà nên tách
khỏi ngành Nội vụ, sáp nhập với cơ quan QLNN về dân tộc các cấp thì phù hợp hơn. (xem
Phụ lục 4, 5)
Ở Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới, vấn đề tôn giáo luôn gắn bó chặt chẽ
với vấn đề dân tộc, các cộng đồng dân tộc riêng luôn có bản sắc văn hóa riêng biệt, trong đó
có chứa TNTG truyền thống, ở một số cộng đồng dân tộc, văn hóa dân tộc cũng đồng thời là
văn hóa tôn giáo, cơ sở thờ tự đóng vai trò là trung tâm sinh hoạt văn hóa dân tộc. Xuất phát
từ thực tiễn QLNN về tôn giáo ở nước ta cho thấy trong giai đoạn hiện nay cần quan tâm đến
một số biện pháp sau:
Thứ nhất, tái cơ cấu tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo các cấp
Đối với tổ chức bộ máy, chính quyền các tỉnh, thành phố, Ban Tôn giáo các địa phương
ĐNB đề xuất với Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Nội vụ, Chính phủ, Quốc hội Việt Nam xem
xét xây dựng lại hệ thống cơ quan QLNN về tôn giáo các cấp theo phương hướng sau: (xem
Phụ lục 5)
152
- Tách cơ quan QLNN về tôn giáo ra khỏi ngành Nội vụ bởi vì lĩnh vực xây dựng chính
quyền với quản lý TNTG ít có mối quan hệ gắn kết với nhau theo nhóm ngành, lĩnh vực;
thành lập Ban Dân tộc, Tôn giáo Trung ương thuộc Chính phủ; ở địa phương, thành lập Ban
Dân tộc, Tôn giáo trực thuộc UBND cấp tỉnh.
- Đối với cấp huyện, tùy thuộc vào đặc thù số lượng, thành phần dân tộc, quy mô, số
lượng tín đồ các tôn giáo mà thành lập Phòng công tác Dân tộc, Tôn giáo, hoặc Phòng Công
tác Tôn giáo trực thuộc UBND cấp huyện tương tự như quy định với điều kiện thành lập
Phòng Công tác Dân tộc trực thuộc UBND cấp huyện hiện nay. Phương án này hoàn toàn có
tính khả thi vì vấn đề tôn giáo luôn gắn liền với vấn đề dân tộc và kết quả khảo nghiệm cũng
cho thấy có 192/260 ý kiến cho rằng phương án này khả thi, chiếm tỷ lệ 73,8%. (Phụ lục 5)
Về tổ chức bộ máy chuyên trách QLNN về tôn giáo các cấp nên được chia thành 3 cấp:
cấp Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện, riêng đối với cấp xã không tổ chức cơ quan QLNN
về tôn giáo chuyên trách mà giao nhiệm vụ này cho cán bộ văn hóa xã đảm nhận.
- Cơ cấu tổ chức của cơ quan QLNN về tôn giáo cấp tỉnh không quy định cứng nhắc
mà nên linh động cho phép thành lập từ 3 đến 5 phòng chuyên môn, dựa trên số lượng, mật
độ tín đồ tôn giáo, quy mô dân số và số lượng tổ chức tôn giáo. Đối với cấp huyện cần cơ
cấu cán bộ QLNN về tôn giáo dựa trên quy mô và cơ cấu tín đồ tôn giáo.
- Đối với cấp xã, tùy vào đặc điểm tình hình thực tiễn địa phương để thống nhất tổ chức
bộ máy QLNN về tôn giáo. Nên giao nhiệm vụ QLNN về tôn giáo cho công chức văn hóa
chịu trách nhiệm chính.
Thứ hai, về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách QLNN về tôn giáo
Xác định lại vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Tôn giáo, phòng tôn
giáo từ cấp Trung ương đến cấp huyện theo hướng có vị trí là cơ quan chuyên môn có chức
năng, nhiệm vụ tham mưu, giúp việc trực tiếp cho Chính phủ và UBND cùng cấp vì xét cho
cùng, tôn giáo là vấn đề nhạy cảm, có liên quan trực tiếp đến chính trị, trật tự an toàn xã hội,
vì vậy, việc tham mưu và quản lý hoạt động tôn giáo phải linh động, sáng tạo, kịp thời, phù
hợp với thực tiễn của thời đại mới khơi dậy và phát huy được hết những vai trò và lợi thế của
tôn giáo đối với sự phát triển xã hội trong thời kỳ mới.
Thứ ba, về thời gian thực hiện
Theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6, khóa XII về một số
vấn đề đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
153
hiệu quả, thời gian sắp xếp hệ thống các cơ quan QLNN về Tôn giáo ở ĐNB nên thực hiện
trong giai đoạn sau đây:
- Đối với cơ quan QLNN về tôn giáo ở Trung ương, sẽ trình Quốc hội thông qua vào
kỳ họp cuối cùng của Quốc hội XIII;
- Đối với các cơ quan chuyên trách QLNN về tôn giáo ở địa phương sẽ tiến hành chia
tách và sáp nhập sau khi có ý kiến của Bộ Chính trị, Nghị định của Chính phủ, hướng dẫn
của Bộ Nội vụ về vấn đề sắp xếp lại bộ máy tham mưu giúp việc cho UBND các cấp ở chính
quyền địa phương.
- Trình tự, thủ tục sáp nhập theo lộ trình cơ quan cấp Trung ương làm trước, địa
phương thực hiện sau, cấp tỉnh làm trước, cấp huyện thực hiện sau. Trong quá trình sáp nhập
giữ nguyên hiện trạng.
- Bộ Nội vụ, Ban Dân tộc và Tôn giáo nghiên cứu xây dựng và trình Thủ tướng Chính
phủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Dân tộc, Tôn giáo ở Trung
ương phê chuẩn và ban hành nghị định.
- Chính quyền các cấp địa bàn ĐNB chỉ đạo việc kiện toàn tổ chức bộ máy QLNN về
tôn giáo các cấp.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả QLNN về tôn giáo các cấp, khắc phục những hạn chế,
tồn tại hiện nay, thì việc kiện toàn tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo các cấp là một chủ
trương hoàn toàn đúng đắn, phù hợp cả cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động tôn giáo
nói chung và Công giáo nói riêng.
4.3.3. Đổi mới công tác tuyên truyền và vận động tín đồ, chức sắc Công giáo
Những năm gần đây, công tác tuyên truyền và vận động tín đồ Công giáo đã đạt những
kết quả tích cực, về cơ bản, chức sắc tín đồ Công giáo đã nhận thức đúng, đầy đủ về chủ
trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo và chấp hành tốt
chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo. Đồng bào, chức sắc, tín đồ Công giáo đều là
người yêu quê hương, đất nước, hăng say lao động, sản xuất để tham gia phát triển quê
hương, gìn giữ, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Mặc dù đã đạt nhiều kết quả tích cực, song trước
những diễn biến của tình hình hoạt động Công giáo trong nước, sự hội nhập quốc tế của nền
văn hóa Việt Nam, sự phát triển của khoa học công nghệ và sự chống phá của các thế lực thù
địch trong và ngoài nước thì công tác tuyên truyền và vận động chức sắc, tín đồ Công giáo ở
ĐNB vẫn còn có nhiều tồn tại, hạn chế (xem Bảng 4.2 và Phụ lục 4,5).
154
Bảng 4.2. Kết quả khảo sát tính cần thiết phải đổi mới về hình thức và phương pháp
tuyên truyền và vận động chức sắc, tín đồ Công giáo ở Đông Nam Bộ
Phương án đánh giá
Nhóm đối tượng khảo sát
Cần thiết Không cần thiết
Chung
STT
SL
%
SL
%
SL
%
1
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
132 73.33
48
26.67
180
100
2
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
58
72.50
22
27.50
80
100
26.92
Tổng hai nhóm
190 73.08
70
260
100
Nguồn: tác giả khảo sát thực tiễn
Kết quả khảo sát của tác giả ở ĐNB cho thấy cả hai nhóm khách thể đều khẳng định
cần thiết phải thay đổi về hình thức, phương pháp vận động chức sắc, tín đồ Công giáo, thể
hiện: cả hai nhóm có 190/260 ý kiến khẳng định tính cần thiết, chiếm tỷ lệ 73,08%, trong đó
nhóm đối tượng CBCC có 132/180 ý kiến chiếm tỷ lệ 73,33%, nhóm cán bộ MTTQ và đoàn
thể có 58/80 ý kiến, chiếm tỷ lệ 72,5%. Số ý kiến cho là không cần thiết chiếm tỷ lệ không
cao với 26,92%, với 70/260 ý kiến.
Để thực hiện tốt hơn công tác tuyên truyền và vận động tín đồ Công giáo địa bàn ĐNB
trong giai đoạn tới, các cơ quan chức năng cần tập trung vào một số nội dung sau:
- Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống
chính trị và toàn xã hội về Công giáo và công tác tôn giáo.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách
về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong CBCC, đảng viên, nhân dân, nhất là trong chức
sắc và tín đồ Công giáo địa bàn ĐNB.
- Tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất
của Tổ quốc cho chức sắc, tín đồ Công giáo, làm cho chức sắc, tín đồ Công giáo thực sự
gắn bó, đồng hành với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Khuyến khích tín đồ Công giáo giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa
của dân tộc; duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và truyền thống uống nước nhớ nguồn,
tôn vinh những người có công với Tổ quốc; tôn trọng tín ngưỡng truyền thống của nhân
dân ĐNB và đồng bào có đạo.
- Xây dựng khối đại đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở để đấu tranh
chống những tà đạo, những hoạt động mê tín dị đoan, lợi dụng Công giáo làm hại đến lợi
ích của Tổ quốc, dân tộc và nhân dân.
155
- Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố tăng cường tham mưu cho lãnh đạo tỉnh, thành phố
các hoạt động tiếp xúc, thăm hỏi, động viên và biểu dương các chức sắc, tín đồ, cơ sở Công
giáo có thành tích trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, nhà
nước và của địa phương trên các lĩnh vực đời sống xã hội.
- Xây dựng các kế hoạch tổ chức các cuộc vận động chức sắc, tín đồ Công giáo tham
gia vào các chủ trương lớn của Đảng, nhà nước và chính quyền địa phương như: xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư; bảo vệ an ninh tổ quốc; xây dựng nông thôn mới; phát triển
kinh tế hộ gia đình; xóa đói, giảm nghèo; khởi nghiệp, doanh nhân thành đạt,..
- Vận động chức sắc, tín đồ Công giáo ở các khu vực dân cư tham gia vào các tổ chức
chính trị ở địa phương như: Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,… để lôi kéo họ tham gia sâu hơn vào các phong trào ở
địa phương.
- Đổi mới và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước như: thông qua các hội nghị, lớp bồi dưỡng; thông qua
các kênh thông tin, đại chúng; thông qua các cuộc vận động; thông qua mạng xã hội, trang
thông tin điện tử; thông qua điện thoại di động.
- Mở rộng đối tượng tuyên truyền, vận động không chỉ có chức sắc Công giáo mà còn
cả các chức việc, tu sĩ, tín đồ Công giáo. Xây dựng các buổi nói chuyện chuyên đề ở khu dân
cư về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, nhà nước cho giáo dân.
- Thay đổi phương pháp vận động, thuyết phục tín đồ từ lời nói, giảng giải chính sách,
pháp luật, chủ trương, kế hoạch của nhà nước, chính quyền địa phương sang phương pháp
trực quan, vấn đáp, giải đáp các thắc mắc; nói chuyện tình huống để chất lượng tuyên truyền
cao hơn, thuyết phục hơn.
- Vận động, thuyết phục chức sắc, tín đồ Công giáo bằng các việc làm cụ thể như: sản
xuất nông nghiệp; thay đổi cơ cấu giống cây trồng vật nuôi, đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất.
- Chú trọng xây dựng đội ngũ cốt cán đạo, chú ý việc xây dựng hệ thống chính trị trong
các cơ sở Công giáo, xây dựng mạng lưới cộng tác viên người Công giáo.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vât chất, hạ tầng kỹ thuật cho vùng giáo, chú trọng công tác
an ninh xã hội, giáo dục nghề nghiệp và tạo việc làm cho thanh niên Công giáo.
- Xây dựng chương trình truyền hình tôn giáo để tăng cường các hoạt động thông
tin, tuyên truyền tình hình hoạt động tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng cho đồng
bào có đạo. Tập trung xây dựng các phóng sự, bài viết về các gương người tốt, việc tốt ở
156
các vùng giáo; cảnh báo nhân dân các hành vi đội lốt Công giáo để làm việc trái pháp
luật, gây ảnh hưởng đến kinh tế, tài chính, văn hóa, phong tục truyền thống và an ninh,
trật tự của đất nước.
4.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
Kết quả nghiên cứu thực trạng đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo ở ĐNB, Chương 3
cho thấy còn có những hạn chế về mặt trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, hạn chế về kiến thức
tôn giáo và kinh nghiệm quản lý; lực lượng chưa nhiều, thiếu những chuyên gia trong tổ
chức bộ máy QLNN về tôn giáo các cấp. Để khắc phục những tồn tại và thách thức trên,
trong thời gian tới các cấp chính quyền và Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố ĐNB cần tập
trung vào một số biện pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch đội
ngũ CBCC QLNN về tôn giáo các cấp.
Đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và tổ
chức thực thi các chủ trương, quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về tôn
giáo, họ là lực lượng tuyên truyền chủ trương chính sách, pháp luật của nhà nước đến đồng
bào các tôn giáo, là cầu nối giữa các chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo với chính quyền
các cấp. Do vậy, xây dựng đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo đảm bảo về số lượng, vững về
chất lượng, có phẩm chất đạo đức tốt là một việc làm tất yếu.
Trên cơ sở nghiên cứu dự báo, Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố và chính quyền các
cấp cần làm tốt công tác dự báo nhu cầu cán bộ, trên cơ sở đó xây dựng các quy hoạch đội
ngũ CBCC QLNN về tôn giáo có chất lượng, trong đó có tiêu chí đánh giá, lựa chọn rõ ràng
để kiện toàn đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo các cấp.
Chỉ đạo Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố xây dựng các chương trình tuyển dụng CBCC
vào bộ máy QLNN về tôn giáo các cấp với các tiêu chí rõ ràng về trình độ đào tạo, về năng
lực phẩm chất, về các kỹ năng làm việc để lựa chọn đúng người vào từng vị trí việc làm
trong hệ thống bộ máy QLNN về tôn giáo các cấp.
Xây dựng kế hoạch và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng CBCC QLNN về tôn giáo theo vị trí
việc làm cụ thể để nâng cao chất lượng, nhất là các vị trí lãnh đạo, quản lý.
Thứ hai, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nhiệp vụ cho CBCC
QLNN về tôn giáo, nhất là những kiến thức về Công giáo và công tác Công giáo
157
Kết quả khảo sát thực trạng ở trên cho thấy, trình độ, năng lực đội ngũ CBCC QLNN
về tôn giáo ở các tỉnh, thành phố ĐNB còn có những hạn chế, nhiều người không có chuyên
môn về tôn giáo và QLNN về tôn giáo; chưa được bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu về Công
giáo nói cung và QLNN về Công giáo nói riêng do vậy trình độ và bản lĩnh CBCC còn yếu,
ngại tiếp xúc với chức sắc Công giáo, ngại đấu tranh với những sai phạm liên quan đến vấn
đề Công giáo. Thực tế hiện nay ở ĐNB Công giáo có 3 Học viện đào tạo, bồi dưỡng thần
học từ trung cấp đến sau đại học trong khi cả nước chưa có một cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức QLNN về tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng. (Trường Bồi dưỡng nghiệp
vụ tôn giáo thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ giải thể 2018). Chính vì vậy, trình độ, năng lực
CBCC còn có những hạn chế nhất định, để khắc phục vấn đề này, chính quyền các địa
phương ĐNB cần thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tổ chức rà soát và đánh giá về trình độ chuyên môn, chuyên ngành đào tạo của
CBCC QLNN về tôn giáo các cấp, xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
CBCC.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC QLNN về
tôn giáo, nhất là các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Công giáo và
QLNN về Công giáo.
- Phối hợp với Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh, Học viện
Khoa Học xã hội mở các lớp đào tạo về chuyên ngành Công giáo cho CBCC theo vị trí việc
làm. Phối hợp với Học viện Hành chính Quốc gia phân viện TP. Hồ Chí Minh xây dựng và
tổ chức thực hiện các chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng QLNN về Công giáo cho
CBCC cả ba cấp (tỉnh, huyện, xã).
- Ban Tôn giáo Sở Nội vụ các địa phương ĐNB phối hợp với Vụ Công Giáo, Vụ Công
tác Tôn giáo phía Nam, Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức các lớp bồi dưỡng kinh nghiệm và
kiến thức thực tiễn về quản lý các hoạt động Công giáo cho đội ngũ CBCC QLNN ở ĐNB.
- Chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện các lớp nghiệp vụ, kỹ năng cho CBCC
QLNN về tôn giáo theo từng đối tượng cụ thể, từng vị trí việc làm.
- Phối hợp với các trường chính trị địa phương để bồi dưỡng CBCC theo ngạch chuyên
viên, chuyên viên chính. Cử lãnh đạo Ban Tôn giáo tham dự các lớp Chuyên viên cao cấp và
các lớp bồi dưỡng theo chức danh và các lớp đào tạo, bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị.
158
- Tạo điều kiện cho CBCC QLNN về tôn giáo các cấp tham dự các khóa học để nâng
cao nhận thức, kỹ năng giải quyết công việc như: tin học, ngoại ngữ, kỹ năng tiếp dân, giải
quyết các khiếu nại, tố cáo,…
- Tăng cường tổ chức các hội nghị phổ biến về chủ trương, đường lối của Đảng, kiến
thức pháp luật nhà nước cho CBCC các cấp.
Thứ ba, xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ
CBCC QLNN về tôn giáo chuyên trách ở cấp tỉnh, huyện.
Có một thực tế hiện nay đó là nhiệm vụ QLNN về tôn giáo rất nặng nề, nhạy cảm, liên
quan trực tiếp đến tình hình chính trị, an ninh trật tự của đất nước. Để làm tốt nhiệm vụ
QLNN về tôn giáo đòi hỏi người CBCC không những giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, mà
còn am hiểu nhiều lĩnh vực chuyên môn khác, có kiến thức hiểu biết về các tôn giáo. Tuy
nhiên chính sách đãi ngộ đội ngũ CBCC chưa tương xứng với yêu cầu vị trí việc làm và
nhiệm vụ đề ra, nên đội ngũ CBCC thiếu động lực làm việc. Do vậy, đội ngũ CBCC chưa
thực sự tận tâm, tận lực vì còn phải lo toan các vấn đề khác để mưu sinh, mưu cầu hạnh
phúc, đảm bảo cuộc sống gia đình, học tập và nuôi dưỡng con cái.
Để tạo động lực làm việc cho đội ngũ CBCC, để CBCC QLNN về tôn giáo yên tâm
công tác, tận tâm, tận lực với công việc, chính quyền các địa phương cần nghiên cứu và xây
dựng chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ CBCC.
- Chính quyền các tỉnh, thành phố nghiên cứu, cân đối các nguồn thu ngân sách của địa
phương để bố trí chính sách hỗ trợ, đãi ngộ CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo vì số
lượng không nhiều, khoảng 1000 người: cấp tỉnh có khoảng trên 100 CBCC, cấp huyện có
khoảng gần 900 người, trung bình mỗi địa phương có khoảng từ 160 người.
- Ban Tôn giáo các tỉnh nghiên cứu về chính sách đãi ngộ CBCC chuyên trách QLNN
về tôn giáo để CBCC yên tâm công tác; đề xuất với chính quyền các tỉnh, thành phố, tham
mưu với Chính phủ xem xét, xây dựng chính sách đãi ngộ, đãi ngộ đặc thù đối với đội ngũ
CBCC QLNN về tôn giáo các cấp.
Thứ tư, thực hiện tốt chính sách thi đua khen thưởng
Khen thưởng có vai trò quan trọng trong công tác QLNN nói chung và QLNN về tôn
giáo nói riêng, khen thưởng cũng chính là nghệ thuật của công tác quản lý, lãnh đạo; thực
hiện tốt chính sách thi đua, khen thưởng có vai trò kích thích, tạo động lực cho đội ngũ
CBCC hăng say, thi đua làm việc, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, ngược lại thực
hiện chính sách thi đua khen thưởng không tốt dẫn đến mất động lực làm việc, bộ máy trì trệ
159
khó hoàn thành nhiệm vụ, thậm chí còn gây mất đoàn kết nội bộ tổ chức. Để thực hiện tốt
nội dung này, Ban Thi đua khen thưởng và Ban Tôn giáo Sở Nội vụ ở ĐNB cần thực hiện
một số biện pháp cụ thể sau:
- Ban Tôn giáo, Ban Thi đua các tỉnh, thành phố nghiên cứu đổi mới quy trình đánh giá
CBCC các cấp theo hướng đánh giá hiệu quả làm việc và mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Bỏ
cách thức đánh giá theo hình thức bỏ phiếu, bình bầu thi đua.
- Ban Tôn giáo Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố ở ĐNB xây dựng và ban hành quy chế
thi đua khen thưởng của Ban, của CBCC QLNN về tôn giáo các cấp.
- Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
của CBCC QLNN về tôn giáo các cấp.
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý cần quan tâm nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của đội ngũ
CBCC cấp dưới để hiểu rõ hơn về CBCC QLNN về tôn giáo, trên cơ sở đó có những tổ chức
sắp xếp công việc, giao việc hợp lý, khoa học đối với đội ngũ CBCC. Đồng thời cũng có
những khuyến khích, tác động, điều chỉnh hoặc chấn chỉnh kịp thời khi nhân viên thực hiện
tốt hoặc có những vi phạm trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
4.3.5. Phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào
Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
Tổng kết kinh nghiệm hơn 30 năm đổi mới của Đảng, Nhà nước trong công tác tôn
giáo cho thấy, để giải quyết vấn đề tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng, đảm bảo sự
ổn định của các hoạt động tôn giáo, ngoài những vấn đề liên quan đến pháp luật, chính sách,
tạo điều kiện cho chức sắc tín đồ tôn giáo thực hiện quyền tự do TNTG thì giải quyết vấn đề
vật chất cho tín đồ tôn giáo cũng rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy địa phương nào giải
quyết tốt vấn đề đời sống vật chất cho giáo dân thì nơi đó đồng bào Công giáo hoạt động,
sinh hoạt tôn giáo ổn định, chấp hành tốt chính sách pháp luật của nhà nước: “phần xác no
ấm, phần hồn thong dong”.
Kết quả khảo sát của tác giả về mức độ cần thiết phải xây dựng các chính sách phát
triển kinh tế cho đồng bào giáo dân ĐNB cho thấy các nhóm khách thể tham gia khảo sát
đều khẳng định, chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB cần phải tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất, hạ tầng kỹ thuật cho nhân dân vùng giáo, cụ thể: 91,47% số ý kiến của cả 3 nhóm khảo
sát cho rằng cần thiết, trong đó nhóm CBCC là 90%; nhóm MTTQ và Đoàn thể là 86,25%;
nhóm chức sắc Công giáo là 100%. (xem Biểu 4.1, Phụ lục 4, 5)
160
Kết quả khảo sát của tác giả cũng cho thấy về những lĩnh vực mà các khách thể cho
rằng chính quyền cần tập trung, quan tâm đầu tư và tạo điều kiện giúp nhân dân vùng giáo
gồm: cơ sở hạ tầng xã hội; chăm sóc y tế, an sinh xã hội; hỗ trợ giáo dân thay đổi mô hình
phát triển kinh tế; giáo dục nghề nghiệp và tạo công ăn việc làm cho thanh niên Công giáo;
quy hoạch đất đai sản xuất, chăn nuôi; hỗ trợ kinh phí, vốn để giáo dân tăng gia, sản xuất,
khởi nghiệp. (xem Bảng 4.3 và Phụ lục 4, 5)
Biểu 4.1. Kết quả khảo sát về tính cần thiết phải xây dựng và tổ chức các chưong trình
phát triển kinh tế - xã hội cho nhân dân vùng giáo.
120
100
91.47
90
100
86.25
80
Cần thiết
Bình thường
60
Không cần thiết
40
20
0
CBCC
MTTQ,ĐT
Chức sắc
Cả ba nhóm
Nguồn: tác giả khảo sát thực tiễn
Nghiên cứu cho thấy, để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào Công
giáo địa bàn ĐNB, chính quyền các địa phương cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tăng cường các nguồn lực để hiện đại hóa cơ sở hạ tầng cho đồng
bào vùng giáo gồm:
- Tập trung đầu tư hoàn thiện mạng lưới giao thông đường liên thôn, liên xã, liên vùng
để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, lưu thông hàng hóa, kích thích phát triển kinh tế -
xã hội.
- Chỉ đạo chính quyền các cấp tập trung đầu tư nâng cấp mạng lưới điện tuyến thôn,
xóm để đảm bảo chất lượng và an toàn điện nông thôn.
- Đẩy mạnh quá trình xây dựng nông thôn mới, tạo điều kiện cho nhân dân thay đổi
thói quen sinh hoạt, sản xuất, canh tác, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân.
- Đầu tư xây dựng các hệ thống nước sạch nông thôn, phấn đấu đến năm 2020 đảm bảo
95% số hộ dân có nước sạch sinh hoạt.
- Xóa bỏ và thay thế dần những cây cầu tạm, xuống cấp không đảm bảo an toàn để tạo
điều kiện thông thương, đi lại.
161
Bảng 4.3. Kết quả khảo sát về tính cần thiết phải đầu tư cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội
tạo điều kiện cho giáo dân nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
Phương án đánh giá
Tổng
STT
Cần thiết
Lĩnh vực cần đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội
SL %
Bình thường SL %
Không cần thiết SL %
SL %
1
265 77.9
52
15.3
44
12.9 340 100
Cơ sở hạ tầng xã hội: giao thông, thủy lợi, trường học, điện sinh hoạt, trạm y tế, nước sạch
2 Chăm sóc y tế, an sinh xã hội
229 67.4
57
16.8
54
15.9 340 100
3
213 62.6
78
22.9
49
14.4 340 100
4
247 72.6
52
15.3
41
12.1 340 100
5
188 55.3
82
24.1
70
20.6 340 100
6
279 82.1
34
10.0
27
7.9
340 100
Phát triển nhà ở xã hội cho công nhân Giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên Công giáo, tạo công ăn việc làm cho thanh niên Công giáo Quy hoạch đất đai sản xuất, chăn nuôi Hỗ trợ kinh phí, vốn để giáo dân tăng gia, sản xuất, khởi nghiệp
Nguồn: tác giả khảo sát thực tiễn
- Kiên cố hóa mạng lưới các trường phổ thông trên địa bàn, tập trung xây dựng mạng
lưới các trường mầm non, phục vụ nhu cầu gửi trẻ của đồng bào Công giáo và con em công
nhân trên địa bàn.
- Phát triển nhà ở xã hội, nhà dành cho người có thu nhập thấp đáp ứng nhu cầu về nơi
ăn, chốn ở cho những lao động di cư từ các vùng khác đến lao động, sản xuất trong các khu
công nghiệp trên địa bàn ĐNB. Để thực hiện chủ trương này, chính quyền các cấp cần rà
soát quỹ đất của địa phương để bố trí xây dựng nhà ở xã hội cho công nhân lao động.
Khuyến khích các doanh nghiệp xây nhà ở cho công nhân với các chính sách ưu đãi về thuế
quan phù hợp.
- Xây dựng và thực hiện các chính sách tạo nguồn để đảm bảo cho ngân sách cho các
hoạt động đầu tư hạ tầng xã hội vùng giáo như: BT, BOT, đổi đất lấy hạ tầng, xã hội hóa
giáo dục, y tế, văn hóa xã hội. Kêu gọi các “mạnh thường quân” các nhà hảo tâm và các
doanh nghiệp trên địa bàn, những người xa quê hương thành đạt chung tay, góp sức xây
dựng và bảo vệ quê hương.
- Thực hiện có hiệu quả các chủ trương lớn của Đảng và nhà nước về xây dựng cơ sở
hạ tầng giao thông, nhất là sân bay Long Thành và mạng lưới giao thông liên vùng để tạo
162
động lực phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của cả khu vực, giảm bớt áp lực cho sân bay Tân
Sơn Nhất.
Thực hiện tốt chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất xây dựng cơ sở
hạ tầng giao thông. Triển khai có hiệu quả chính sách tái định cư cho người dân bị thu hồi
đất theo tinh thần nơi ở mới phải tốt hơn nơi ở cũ, đồng thời cần có chính sách tạo công ăn,
việc làm cho người dân bị thu hồi đất.
Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động y tế, an sinh xã hội cho đồng bào giáo dân
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân,
đảm bảo công bằng và an sinh xã hội, trong giai đoạn tới, chính quyền các địa phương cần
tập trung vào một số biện pháp cụ thể sau:
- Tăng cường củng cố tuyến y tế cơ sở, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của
các trạm y tế tuyến xã. Đảm bảo mọi trạm y tế ở cơ sở phải có ít nhất 01 bác sĩ và phải có
khả năng khám, chữa một số bệnh lý đơn giản; cấp cứu, sơ cứu được những trường hợp bệnh
lý và tai nạn ở mức độ ban đầu, ít nguy kịch.
- Xây dựng và tổ chức các chương trình khám chữa bệnh từ thiện cho bà con nhân dân
trong vùng giáo, nhất là các đối tượng chính sách.
- Tuyên truyền và thực hiện tốt các quy định liên quan đến bảo hiểm y tế cho nhân dân,
đề xuất với ngành bảo hiểm y tế tiếp tục cải cách thủ tục hành chính liên quan đến sử dụng
thẻ bảo hiểm y tế để khám chữa bệnh.
- Đầu tư, nâng cấp các bệnh viện đa khoa tuyến quận, huyện; nâng cao chất lượng
khám chữa bệnh, và điều trị cho nhân dân.
- Đề xuất với Ban Tôn giáo Chính Phủ, với Bộ Y tế nghiên cứu xây dựng và ban hành
quy định cho phép các giáo phận, tổng giáo phận được xây dựng và thành lập các bệnh viện
để giảm tải các bệnh viện công trên địa bàn.
- Chỉ đạo ngành Lao động, Thương binh và Xã hội, chính quyền cấp huyện, và cấp cơ
sở triển khai và thực hiện có hiệu quả các chương trình an sinh xã hội, trợ giúp những đối
tượng, nhóm yếu thế trong xã hội. Tiết kiệm chi tiêu công để đầu tư các cơ sở bảo trợ xã hội
công, nguồn hoạt động được thu từ các chủ trương xã hội hóa.
- Có chính sách hỗ trợ người lao động nói chung và công nhân Công giáo nói riêng
trong các dịp lễ, tết để họ thêm tin tưởng vào Đảng và chính quyền địa phương như: tặng quà
nhân dịp Noel, vé xe đi lại dịp tết Nguyên Đán, tặng quà thiếu nhi dịp ngày 01/6,…
163
Thứ ba, thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống vật chất cho giáo dân.
Để giúp giáo dân nâng cao đời sống vật chất trong giai đoạn hiện nay chính quyền các
tỉnh cần tập trung vào một số nội dung sau:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng
ĐNB theo hướng phát triển bền vững gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của từng tỉnh, thành. Chủ động và phát huy tối đa sức mạnh nội lực và đặc thù lợi thế của
các địa phương.
- Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là cảng biển, logistic, hàng không để tạo động
lực phát triển kinh tế - xã hội.
- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh để thu hút nhiều hơn nữa các nguồn
vốn trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất, chế biến. Ưu tiên lựa chọn những nhóm,
ngành lĩnh vực đầu tư có công nghệ cao, sạch, thân thiện với môi trường. Tiếp tục mở rộng
các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung, xử lý tốt những nguồn chất thải tại các khu
công nghiệp.
- Định hướng các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho
người lao động; nghiên cứu và ban hành chính sách gắn hoạt động đào tạo nghề với hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ưu tiên đầu tư có trọng điểm cho một số
trường đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp để trở thành những cơ sở giáo dục có chất lượng
cao, đáp ứng nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế của các địa phương và của cả nước.
- Tăng cường công tác đảm bảo an ninh, trật tự tại các khu công nghiệp, khu chế xuất,
đặc biệt là những vấn đề liên quan đến an toàn lao động, an toàn cháy nổ, vệ sinh thực phẩm,
kinh doanh dịch vụ lưu trú. Tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành các quy định an
ninh, trật tự của các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh, đồng thời xử lý nghiêm những trường
hợp vi phạm.
- Xây dựng các cơ sở Công đoàn vững mạnh trong các nhà máy, các khu công nghiệp;
nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác Công đoàn ở cơ sở, chú trọng lựa chọn những công
nhân nhanh nhẹn, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ và bản lĩnh chính trị vững vàng để
bồi dưỡng thành cán bộ Công đoàn tại các nhà máy, các khu công nghiệp để họ làm tốt công
tác dẫn dắt phong trào công nhân, phong trào cách mạng.
- Hoàn thiện công tác quy hoạch sử dụng đất ở các địa phương, xây dựng các vùng
chuyên canh cây nông nghiệp để nâng cao giá trị và sản lượng nông nghiệp cho nhân dân.
164
- Định hướng canh tác và chăn nuôi, chuyển dịch cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi cho
nông dân vùng giáo, giúp nhân dân xây dựng chỉ dẫn địa lý, thương hiệu cho các sản phẩm
nông nghiệp để đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu.
- Xây dựng và ban hành các chính sách thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp và chăn nuôi. Xây dựng các kịch bản nhằm giúp dân ứng phó với biến đổi khí
hậu có hiệu quả ở ĐNB.
- Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược giáo dục nghề nghiệp cho lao động nông thôn
đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ. Vận động con em giáo dân theo học các trường
giáo dục nghề nghiệp ở địa phương, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp với các trường để
giải quyết đầu ra cho học viên.
- Chỉ đạo các ngân hàng Chính sách, ngân hàng Nông nghiệp trên địa bàn thực hiện có
hiệu quả các chương trình tín dụng dành cho các hoạt động khởi nghiệp, đào tạo nghề,
chuyển dịch cơ cấu sản xuất, chăn nuôi.
4.3.6. Đổi mới hoạt động quản lý đất đai, xây dựng; quản lý hoạt động giáo dục, y tế và
từ thiện nhân đạo của các tổ chức Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
Nghiên cứu thực trạng quản lý đất đai, xây dựng và quản lý hoạt động xã hội, từ
thiện, nhân đạo của các tổ chức và chức sắc, tín đồ Công giáo cho thấy thực trạng thực hiện
các nhiệm vụ này trong những năm qua ở ĐNB vẫn còn những thách thức, khó khăn.
Kết quả khảo sát của tác giả cho thấy, việc đổi mới hoạt động quản lý đất đai, xây
dựng các công trình Công giáo; quản lý hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo là một
yêu cầu cấp thiết vừa nhằm tận dụng các tiềm lực của Công giáo mặt khác cũng nhằm
đảm bảo ổn định tình hình hoạt động của các tổ chức Công giáo ở ĐNB hiện nay (xem
Biểu 4.2 và Phụ lục 4,5). Qua khảo sát ở 02 nhóm khách thể cho thấy về cơ bản cả 02
nhóm khách thể đều có ý kiến đánh giá tương đồng nhau về những nội dung cần thiết
phải đổi mới cách thức quản lý, cụ thể:
Biểu 4.2. Biểu đồ về tính cần thiết phải đổi mới quản lý hoạt động sử dụng đất đai; xây dựng,
sửa chữa công trình kiến trúc và giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo của các tổ chức Công giáo
100
83.8
79.2
73.1
71.5
80
Cần thiết
60
Bình thường
40
Không cần thiết
20
0
Đất đai
Xây dựng
Giáo dục, y tế
Từ thiện, nhân đạo
165
Nguồn: tác giả khảo sát thực tiễn
- Có 190/260 số ý kiến khảo sát cho rằng cần thiết phải đổi mới quản lý sử dụng đất
đai của các tổ chức Công giáo, chiếm tỷ lệ 73,1%, trong đó nhóm CBCC QLNN về tôn
giáo có 136/180 ý kiến chiếm tỷ lệ 75,6%; nhóm cán bộ MTTQ và đoàn thể là 54/80 ý
kiến chiếm tỷ lệ 67,5%.
- Có 186/260 ý kiến CBCC và MTTQ với các đoàn thể cho là phải đổi mới việc
quản lý xây dựng, sửa chữa, cơi nới, nâng cấp các công trình kiến trúc Công giáo, chiếm
tỷ lệ 71,5%, trong đó nhóm CBCC QLNN về tôn giáo có 128/180 ý kiến chiếm tỷ lệ
71,1%; nhóm cán bộ MTTQ và đoàn thể là 58/80 ý kiến chiếm tỷ lệ 72,5%.
- Cả hai nhóm khách thể khẳng định phải đổi mới việc quản lý hoạt động giáo dục,
y tế Công giáo với 218/260 ý kiến, chiếm tỷ lệ 83,8%, trong đó có 157/180 số CBCC
QLNN về tôn giáo và 61/80 cán bộ MTTQ và đoàn thể.
- Đối với việc phải đổi mới công tác quản lý hoạt động từ thiện, nhân đạo cả hai
nhóm có 206/260 số ý kiến khẳng định tính cần thiết, chiếm tỷ lệ 79,2%. Số ý kiến cho là
không cần thiết là 24/260, chiếm tỷ lệ chưa tới 10%. (xem Biểu 4.2)
Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ nói trên, chính quyền các địa phương ĐNB cần
tập trung vào những biện pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới việc quản lý nhà nước về đất đai có liên quan đến Công giáo
- Tập trung tổng kết đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ quản lý đất đai tôn giáo
nói chung và Công giáo nói riêng để chỉ ra những kết quả đạt được, những bất cập, hạn
chế, thách thức và nguyên nhân của những vấn đề trên để xây dựng các bài học kinh
nghiệm.
- Chỉ đạo Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố chỉ đạo Sở Tài Nguyên và Môi trường,
chính quyền các địa phương tổng hợp, rà soát các trường hợp vướng mắc trong việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tìm phương hướng tháo gỡ, giải quyết dứt điểm.
- Nghiên cứu và kiến nghị với Chính phủ, Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Ban Tôn
giáo Chính phủ xây dựng và ban hành hướng dẫn về trường hợp, trình tự, thủ tục được
giao đất đối với các cơ sở tôn giáo để tháo gỡ những khó khăn trong việc giải quyết đất
đai xây dựng cơ sở thờ tự cho các sinh hoạt tôn giáo.
- Chỉ đạo Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố phối hợp với Sở Tài Nguyên và Môi
trường, chính quyền cấp huyện tiếp tục cải cách các thủ tục hành chính liên quan đến đất
166
đai tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ sở Công giáo thực hiện quyền sở hữu
đất đai.
- Chỉ đạo ngành xây dựng các địa phương, phối hợp với ngành tài nguyên rà soát
những cơ sở vật chất, đất đai Công giáo trước đây đã bàn giao cho chính quyền, trường
hợp nào thất lạc hoặc không có giấy tờ, sổ sách bàn giao thì cần đối thoại với các tổ chức
Công giáo để tìm phương hướng tháo gỡ, trường hợp có sổ sách, giấy tờ hiến tặng thì
kiên quyết không đặt vấn đề hoàn trả.
Ngoài ra các địa phương cần đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị: 1940/ CT-TTg năm
2008 của Thủ tuớng Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo, đáp ứng nhu cầu tôn
giáo của đồng bào có đạo.
Thứ hai, đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động cấp phép xây dựng,
sửa chữa, nâng cấp các công trình, kiến trúc Công giáo
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB cần tập trung
vào các nội dung sau:
- Chính quyền các tỉnh, thành phố chỉ đạo Ban Tôn giáo địa phương phối hợp với
Sở Xây dựng mở các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật về xây dựng cho chức sắc, tín đồ
các tôn giáo. Tập huấn nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra các hoạt động xây dựng cho CBCC
các cấp có liên quan.
- Ban Tôn giáo cấp tỉnh phối hợp với Sở Xây dựng địa phương tổ chức hướng dẫn
về trình tự thủ tục cấp phép xây dựng, cấp phép cải tạo, cấp phép sửa chữa cho chính
quyền cấp huyện và CBCC cấp xã.
- Công khai hóa các biểu mẫu, thủ tục hành chính về xây dựng trên các địa chỉ
Website của Sở Xây dựng, Ban Tôn giáo địa phương để tạo thuận tiện cho các chức sắc,
tín đồ các tôn giáo.
- Tăng cường các hoạt động giám sát, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp
luật nhà nước liên quan đến xây dựng của các cơ sở Công giáo. Trường hợp vi phạm cần
lập biên bản vi phạm đình chỉ thi công, yêu cầu tự nguyện tháo dỡ những công trình vi
phạm. Nếu tiếp tục vi phạm cần kiên quyết tháo dỡ phần sai phạm, trước khi thực hiện
cần tuyên truyền cho giáo dân, nhân dân hiểu đúng, hiểu rõ chính sách nhà nước về xây
dựng; về những sai phạm của cơ sở Công giáo để nhận được sự đồng thuận của giáo dân.
167
- Chỉ đạo Ban Tôn giáo Sở Nội vụ tập hợp các ý kiến, kiến nghị của CBCC, chức
sắc, tín đồ tôn giáo những quy định pháp luật về xây dựng liên quan đến tôn giáo để kiến
nghị với Chính phủ tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
Thứ ba, đổi mới công tác quản lý hoạt động giáo dục, y tế và từ thiện, nhân đạo
của các tổ chức Công giáo, cụ thể:
- Chính quyền các tỉnh, thành phố chỉ đạo các cơ quan quản lý giáo dục, y tế, văn
hóa và lao động xã hội xây dựng và tham mưu các quy định về tổ chức hoạt động giáo
dục, khám chữa bệnh, văn hóa và từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo trình UBND
tỉnh, thành phố xem xét, phê chuẩn.
- Tổ chức hướng dẫn, tập huấn cho các chức sắc tín đồ Công giáo thực hiện việc tổ
chức các hoạt động mở trường học, các phòng khám, chữa bệnh các trung tâm bảo trợ xã
hội và các hoạt động từ thiện nhân đạo đúng quy định pháp luật.
- Tăng cường sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan y tế, giáo dục, thương binh và xã
hội với các trung tâm bảo trợ xã hội của các cơ sở Công giáo trên các địa bàn.
- Đề xuất với Chính phủ, Ban Tôn giáo Chính phủ và các cơ quan ban ngành ở Trung
ương, nghiên cứu, xem xét tháo gỡ các quy định hoạt động xã hội của tôn giáo, tạo điều kiện
cho các tổ chức Công giáo tham gia sâu, rộng hơn vào các hoạt động xã hội trên lĩnh vực
giáo dục và từ thiện nhân đạo.
4.3.7. Tăng cường thanh tra, kiểm tra; giải quyết tốt những khiếu nại, tố cáo liên quan
đến Công giáo và phòng ngừa hành vi lợi dụng Công giáo trên địa bàn Đông Nam Bộ
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật
nhà nước về tôn giáo.
Kết quả nghiên cứu về thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách
pháp luật nhà nước về tôn giáo của CBCC QLNN về tôn giáo, của các cấp chính quyền địa
phương và chức sắc, tín đồ các tổ chức Công giáo ở ĐNB bên cạnh những ưu điểm vẫn bộc
lộ những hạn chế (xem Phụ lục 5). Để thực hiện tốt hơn nội dung này, trong giai đoạn tới
chính quyền các tỉnh, thành phố, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ và các cơ quan chức năng ở ĐNB
tập trung vào một số biện pháp cụ thể sau:
- Đổi mới hình thức và phương pháp thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp
luật của nhà nước về tôn giáo của chính quyền cấp huyện, xã; CBCC QLNN về tôn giáo và
của chức sắc, tín đồ Công giáo.
168
- Ban Tôn giáo Sở Nội vụ chủ động tăng cường sự phối hợp với các cơ quan quản lý
Tài nguyên và Môi trường, xây dựng, giáo dục, y tế, lao động xã hội để thực hiện có hiệu
quả công tác thanh tra, kiểm tra.
- UBND cấp tỉnh tăng cường thành lập các đoàn thanh tra liên ngành để kiểm tra tình
hình việc thực hiện chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo của các cơ sở Công giáo.
- Chủ động kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về quản
lý hoạt động Công giáo của chính quyền cấp dưới, những sai phạm của các chức sắc, tín đồ
Công giáo để có những tác động, chấn chỉnh kịp thời, tránh để lâu khó xử lý.
Về nội dung tập trung thanh tra, kiểm tra cho thấy, Ban Tôn giáo các Sở Nội vụ và
chính quyền các tỉnh, thành phố cần tập trung vào những nội dung sau: (xem Phụ lục 4)
- Thanh tra, kiểm tra việc thực thi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật về tôn giáo của chính quyền các cấp, bao gồm chính quyền cấp huyện và cấp xã.
- Thanh tra, kiểm tra về chất lượng đội ngũ QLNN về tôn giáo các cấp, trên cơ sở thanh
tra, kiểm tra, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ có các kế hoạch, đào tạo và bồi dưỡng CBCC QLNN
về tôn giáo các cấp có chất lượng và hiệu quả hơn.
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo của các cơ sở
Công giáo tập trung vào các hoạt động: hội nghị, lễ hội Công giáo; đào tạo, bồi dưỡng chức
sắc; hoạt động truyền đạo; hoạt động giáo dục, y tế; hoạt động từ thiện, nhân đạo; sử dụng
đất; xây dựng, sửa chữa các cơ sở thờ tự và các công trình phụ trợ, quan hệ quốc tế của các
tổ chức Công giáo.
- Thanh tra, kiểm tra việc đầu tư cơ sở vật chất, phát triển kinh tế của chính quyền các
cấp ở vùng giáo phòng ngừa những hành vi tham nhũng, lợi dụng chủ trương xã hội hóa để
huy động nguồn lực của nhân dân. Đồng thời, thông qua công tác thanh tra kiểm tra cũng
nhằm đảm bảo chất lượng hiệu quả, tuổi thọ và mức độ an toàn của các cơ sở vật chất được
đầu tư, đảm bảo việc đầu tư có phù hợp, hiệu quả giúp giáo dân xóa đói, giảm nghèo, phát
triển kinh tế, xã hội.
- Kiến nghị đối với các cơ quan Trung ương, nhất là Ban Tôn giáo Chính phủ tham
mưu xây dựng và ban hành nghị định quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực TNTG
để các cơ quan chức năng, nhất là chính quyền cấp cơ sở không lúng túng, e ngại trong việc
xử lý những cơ sở tôn giáo vi phạm pháp luật.
Tăng cường công tác giải quyết những khiếu nại, tố cáo của giáo dân.
169
Mặc dù chính quyền các địa phương cùng với Ban Tôn giáo Sở Nội vụ, các sở, ban,
ngành ở ĐNB đã có nhiều cố gắng trong việc tiếp thu và giải quyết những khiếu nại, tố cáo
của giáo dân, chức sắc Công giáo, tuy nhiên, nhiều vụ việc chưa được xử lý dứt điểm, kéo
dài; một số vụ việc chưa được giải quyết thỏa đáng làm cho tình hình khiếu kiện, khiếu nại
có nơi trở nên nóng và phức tạp hơn gây bất ổn đến an ninh, trật tự.
Để giải quyết triệt để những vấn đề này, chính quyền các địa phương cần ban hành,
công khai hóa các quy chế tiếp dân và giải quyết những khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến
tôn giáo để tránh việc đùn đẩy trách nhiệm của CBCC cũng như chính quyền các cấp. Phân
định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết
những khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến tôn giáo.
- Trong giải quyết những khiếu kiện, khiếu nại cần chủ động đối thoại với chức sắc, tín
đồ Công giáo để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của họ, qua đó có những quyết định hành
chính hợp lý, hợp tình, không trái với các quy định của nhà nước.
- Tổng hợp các khiếu kiện, khiếu nại về nhà đất Công giáo phức tạp, tồn đọng, không
có hướng dẫn thực hiện, đã và đang được chính quyền, các cơ quan, tổ chức nhà nước sử
dụng để trình Ban Tôn giáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến, phương hướng giải
quyết.
- Tăng cường các hoạt động vận động, tuyên truyền về chính sách, pháp luật nhà nước
cho chức sắc, tín đồ Công giáo; thuyết phục những cốt cán đạo, những đảng viên là người
Công giáo, những cán bộ, công chức người Công giáo tham gia giải thích, vận động và
thuyết phục giáo dân thực hiện đúng chính sách, pháp luật nhà nước về tôn giáo.
Đẩy mạnh việc phòng ngừa những hành vi lợi dụng hoạt động Công giáo xâm
phạm đến an ninh, trật tự ở địa phương.
Kết quả khảo sát thực tiễn của tác giả cho thấy để làm tốt nhiệm vụ phòng ngừa những
hành vi lợi dụng Công giáo, xâm phạm đến an ninh, trật tự của đất nước trong giai đoạn tới,
chính quyền các tỉnh, thành phố ĐNB và các cơ quan chức năng cần quan tâm đến một số
biện pháp cụ thể sau:
- Ban Tôn giáo Sở Nội vụ kết hợp với cơ quan Công an, Quân sự tại địa phương cùng
với chính quyền cấp huyện, cấp cơ sở tăng cường lực lượng xuống địa bàn cơ sở nhất là
những vùng nóng về tôn giáo để nắm vững tình hình hoạt động Công giáo.
170
- Xây dựng quy chế phối hợp giữa cơ quan Dân vận, Tuyên giáo, Công an, Quân sự,
Biên phòng, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội với Ban Tôn giáo Sở Nội vụ trong việc
chia sẻ thông tin, đấu tranh, phòng ngừa những hành vi lợi dụng Công giáo.
- Chỉ đạo Công an các địa phương chủ động xây dựng các kế hoạch đảm bảo an ninh,
trật tự trong những ngày lễ lớn của địa phương, đất nước các hội nghị, đại hội, lễ hội Công
giáo. Có kế hoạch phòng chống bạo động, bạo loạn để ứng phó với các nguy cơ có thể xảy
ra, nhất là vào những thời điểm nhạy cảm như: diễn biến biển đông, chủ quyền, biển đảo của
đất nước; những hoạt động liên quan đến môi trường; những sự kiện chính trị quan trọng
của đất nước,..
- Chính quyền các địa phương cần chủ động đối thoại với chức sắc, tín đồ Công giáo.
Tăng cường các hoạt động thăm hỏi chức sắc, tín đồ Công giáo nhân các ngày lễ trọng, các
đại hội các sự kiện lớn của các tổ chức Công giáo.
- Chú trọng xây dựng đội ngũ cốt cán đạo, quan tâm đến việc phát triển đảng viên trong
vùng Công giáo, vận động chức sắc, tín đồ Công giáo tham gia vào công tác chính trị, công
tác xã hội, tham gia vào HĐND, MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương.
- Khuyến khích chức sắc, tín đồ Công giáo đóng góp ý kiến cho Quốc hội, Chính
phủ, chính quyền địa phương trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật nhà nước trên
mọi lĩnh vực.
- Kiến nghị các Công an tỉnh cần ưu tiên đưa lực lượng Công an chính quy về những
xã, thị trấn có sự phức tạp về tình hình TNTG để phối hợp tốt với chính quyền cơ sở làm tốt
nhiệm vụ an ninh tôn giáo.
- Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị làm
công tác tôn giáo. Xây dựng quy chế hội họp, giao ban để quản lý có hiệu quả hơn các hoạt
động Công giáo.
- Đẩy mạnh việc thông tin, tuyên truyền về thủ đoạn và hành vi của các đối tượng lợi
dụng Công giáo để xâm phạm đến an ninh, trật tự. Công khai hành vi của các đối tượng cho
giáo dân, chức sắc tín đồ Công giáo nắm rõ. Xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng Công giáo
làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của quốc gia.
- Xây dựng lực lượng đảm bảo an ninh, an toàn thông tin mạng, chính quy và hiện đại,
có đủ trình độ, năng lực để đấu tranh phòng ngừa những hành vi sử dụng công nghệ thông
tin để kích động, lôi kéo chức sắc, tín đồ Công giáo.
171
- Phối hợp với đại diện của các trang mạng thông tin xã hội ở Việt Nam để bóc gỡ,
ngăn chặn những trang, bài viết xúc phạm lãnh đạo Đảng và Nhà nước, xuyên tạc chủ trương
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; những địa chỉ, trang mạng có nội
dung kích động chức sắc, tín đồ Công giáo gây rối, xâm phạm đến an ninh quốc gia và trật tự
an toàn xã hội.
4.4. Khuyến nghị
4.4.1. Đối với Chính phủ và các cơ quan Trung ương
- Tiếp tục chỉ đạo Ban Tôn giáo Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố địa bàn
ĐNB tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Luật TNTG 2016 và Nghị định
162/2017/NĐ-CP về Hướng dẫn một số điều trong Luật TNTG 2016.
- Xem xét trình Quốc hội tách cơ quan QLNN về tôn giáo ra khỏi ngành Nội vụ và
sáp nhập với cơ quan làm công tác dân tộc, vì vấn đề tôn giáo và vấn đề dân tộc có mối
quan hệ mật thiết với nhau, chính sách tôn giáo không thể tách rời chính sách dân tộc.
- Chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Lao động -Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế rà soát, nghiên cứu để tháo gỡ chính sách đất
đai; xây dựng cơ sở thờ tự; chính sách giáo dục và đào tạo; chính sách khám chữa bệnh;
chính sách bảo trợ xã hội,… để khơi dậy nguồn lực Công giáo, khuyến khích tổ chức
Công giáo tham gia phát triển xã hội.
- Chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố địa bàn ĐNB xây dựng quy hoạch đất sử dụng
cho mục đích TNTG; xây dựng và ban hành các quy định về hoạt động xã hội của các tổ
chức tôn giáo; xử phạt hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
- Bộ Nội vụ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với các địa phương xây
dựng và tổ chức thực hiện chính sách đào tạo và tuyển dụng cán bộ là đồng bào DTTS;
chức sắc, cốt cán đạo vào bộ máy nhà nước ở địa phương; nghiên cứu, xem xét xây dựng
cơ chế, chính sách đặc thù đối với cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo.
- Bộ Nội vụ và Ban Tôn giáo Chính phủ tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn các địa
phương thực hiện có hiệu quả Luật TNTG 2016 và Nghị định 162/2017/NĐ-CP về việc
hướng dẫn một số điều trong Luật TNTG 2016. Tiếp tục rà soát xem xét để bổ sung một
số điều hướng dẫn thi hành Luật TNTG như: hoạt động của các dòng tu Công giáo (tu
kín); điều kiện tổ chức tôn giáo được giao quyền sử dụng đất, nếu đất đai có nguồn gốc
do trao tặng thì có được quyền định đoạt hay không?; điều kiện và thủ tục để tổ chức tôn
giáo mở trường học như các trường ngoài công lập, tư thục; trình tự, thủ tục để các tổ
172
chức tôn giáo mở bệnh viện; quy định việc quản lý cơ sở tôn giáo được xếp hạng di tích
lịch sử; các quy định xử phạt vi phạm trong lĩnh vực tôn giáo.
- Tiếp tục tham mưu giúp Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường,
Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hoàn thiện chính sách đất
đai, xây dựng, đào tạo, khám chữa bệnh, bảo tồn có liên quan đến tôn giáo.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính trên lĩnh vực TNTG, tham mưu với Bộ Nội vụ
trong việc đơn giản hóa một số thủ tục hành chính liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng chức
sắc tôn giáo có yếu tố nước ngoài; chủ động mở các lớp, khóa học bồi dưỡng kiến thức
QLNN về tôn giáo cho các địa phương.
- Chủ động tiếp thu những ý kiến kiến nghị và đề xuất của các địa phương, các tổ
chức tôn giáo trong việc thực thi Luật TNTG 2016 để tổng hợp ý kiến, trình Bộ Nội vụ
tham mưu cho Chính phủ những phương hướng tháo gỡ.
- Ban Tôn giáo Chính phủ tiếp tục tham mưu với Bộ Nội vụ về việc bổ sung biên
chế tôn giáo cho chính quyền cấp cơ sở nơi có những điểm nóng về TNTG.
- Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra và giải quyết dứt điểm những khiếu nại, tố
cáo liên quan đến Công giáo.
4.4.2. Đối với chính quyền các tỉnh, thành phố trên địa bàn Đông Nam Bộ
- Tổ chức thực hiện nghiêm Luật TNTG 2016 và các Nghị định hướng dẫn thi hành,
các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ có liên quan đến nhà đất tôn giáo.
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật
về TNTG cho chức sắc, tín đồ Công giáo, tăng cường công tác vận động chức sắc, tín đồ
Công giáo tham gia công tác chính trị, công tác xã hội ở địa phương.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy hoạch, kế hoạch, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng tạo động lực phát triển kinh tế,
giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động.
- Tăng cường các hoạt động thăm hỏi, đối thoại với các tổ chức, chức sắc Công
giáo; chủ động xây dựng các cơ sở chính trị trong vùng giáo, quan tâm đến công tác phát
triển Đảng viên trong vùng giáo.
- Xây dựng và ban hành quy hoạch đất đai sử dụng cho các hoạt động tôn giáo; nghiên
cứu, xem xét và giao đất cho những tổ chức, cơ sở Công giáo nếu xét thấy có nhu cầu cấp
thiết và hoạt động tôn giáo ổn định, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà
nước. Chỉ đạo các cơ quan tham mưu cấp tỉnh, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ và chính quyền cấp
173
huyện tiếp tục rà soát các trường hợp nhà đất Công giáo mà địa phương đang quản lý để có
phương án tháo gỡ.
- Phối hợp với các trường, học viện, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Ban Tôn giáo
Chính phủ thường xuyên mở các lớp, khóa học bồi dưỡng cho cán bộ, công chức làm
công tác tôn giáo; xây dựng quy hoạch đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách đãi ngộ, chính sách thu hút đối với
đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo các cấp; xây dựng và ban hành các quy định, hướng
dẫn chức sắc, tín đồ Công giáo tham gia vào công tác xã hội ở cơ sở.
Tổng kết Chương 4
Nội dung Chương 4, Luận án đã đạt được những kết quả nghiên cứu sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu và dự báo những xu hướng hoạt động của Công giáo ĐNB
trong thời gian tới, kết quả nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn tới Công giáo ĐNB vận
động và hoạt động theo 5 xu hướng chính, đó là: (1) củng cố đức tin, gia tăng hoạt động
truyền đạo gắn với hội nhập văn hóa miền ĐNB; (2) tăng cường công tác đối thoại với các
cấp chính quyền, tuân thủ pháp luật trong hoạt động, quan hệ với chính quyền các cấp; (3)
mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường hoạt động đối thoại với các tôn giáo khác; (4) tăng
cường hoạt động giáo dục, y tế và từ thiện nhân đạo; (5) gia tăng những vi phạm về đất đai,
xây dựng cơ sở thờ tự và các thế lực thù địch vẫn tiếp tục lợi dụng Công giáo để chống phá
Nhà nước và chính quyền địa phương địa bàn ĐNB.
Thứ hai, nghiên cứu cho thấy, giai đoạn hiện nay Đảng ta định hướng công tác tôn giáo
theo tinh thần Nghị quyết số 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 Về công tác tôn giáo. Qua nghiên
cứu quan điểm của Đảng, Luận án đã đề xuất 5 phương hướng QLNN về Công giáo địa bàn
ĐNB trong giai đoạn tới gồm: (1) tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và ban hành các văn bản
hướng dẫn cụ thể, chi tiết một số điều của Luật TNTG; (2) tập trung nâng cao nhận thức,
thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề Công
giáo; (3) tăng cường công tác vận động quần chúng, vận động tín đồ chức sắc Công giáo,
xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở, xây dựng cốt cán đạo Công giáo địa bàn ĐNB; (4)
thực hiện tốt các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong địa bàn Công giáo ở
ĐNB; (5) kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy, CBCC QLNN về tôn giáo ở ĐNB.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu Chương 4 Luận án đã xây dựng và đề xuất 07 giải pháp
nhằm từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả QLNN về Công giáo trên địa bàn ĐNB trong
174
giai đoạn tới gồm: (1) tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật QLNN về tôn
giáo; (2) hoàn thiện tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo; (3) đổi mới công tác vận động
tuyên truyền, vận động tín đồ chức sắc Công giáo, xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở,
xây dựng cốt cán đạo Công giáo địa bàn ĐNB; (4) nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC
QLNN về tôn giáo; (5) phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho giáo dân; (6) đổi mới quản lý đất đai, xây dựng; quản lý các hoạt động văn hóa, giáo
dục và từ thiện nhân đạo của các tổ chức Công giáo; (7) tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra và giải quyết những khiếu nại, tố cáo có liên quan đến Công giáo.
Thứ tư, phần cuối Chương 4 Luận án đã đưa ra một số khuyến nghị đối với Chính phủ
và các cơ quan chức năng nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nhiệm vụ QLNN về Công giáo
trên địa bàn ĐNB trong giai đoạn kế tiếp.
175
KẾT LUẬN
Triển khai nghiên cứu đề tài, Luận án đã đạt được một số những kết quả trên
phương diện lý luận và thực tiễn sau:
Thứ nhất, luận án đã nghiên cứu tổng quan các công trình, tài liệu, dữ liệu có liên
quan đến đề tài luận án theo 3 nhóm công trình: (1) nhóm công trình nghiên cứu cơ bản
về tôn giáo, lý luận tôn giáo, chính sách, quan đểm về tôn giáo và QLNN về tôn giáo; (2)
nhóm công trình nghiên cứu về Công giáo và QLNN về Công giáo; (3) nhóm những công
trình nghiên cứu về Công giáo và QLNN về Công giáo ở ĐNB. Kết quả nghiên cứu cho
thấy có rất nhiều các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về chủ đề Công giáo: lý
luận Công giáo, quan hệ của các tổ chức Công giáo, lịch sử Công giáo, những đóng góp
về văn hóa, giáo dục và đạo đức của Công giáo đối với xã hội. Nhiều công trình nghiên
cứu về cơ cấu tổ chức, bộ máy giáo phẩm, quá trình truyền đạo của các tổ chức Công
giáo một số công trình, bài viết tìm hiểu về hoạt động Công giáo, những lễ nghi Công
giáo ở Việt Nam. Gần đây, có một số các công trình, đề tài nghiên cứu về công tác Công
giáo ở một số vùng, miền, địa phương, tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu Công giáo dưới góc độ quản lý công ở ĐNB cho đến nay.
Thứ hai, nghiên cứu cho thấy, Công giáo là một tôn giáo có nguồn gốc từ Do Thái
giáo, xuất hiện ở Đế quốc La Mã cổ đại vào khoảng thế kỷ thứ I Công nguyên, người
khai sáng ra Công giáo được gọi là Đức Giêsu Kitô. Thời kỳ mới ra đời, Công giáo
không được giới thượng lưu của xã hội La Mã cổ đại đón nhận và bị đàn áp đẫm máu.
Trải qua nhiều biến cố khác nhau, Công giáo dần trở thành một tôn giáo quốc tế, có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến văn hóa, chính trị của nhiều quốc gia và được đông đảo các tầng lớp
xã hội đón nhận. Đến nay, Công giáo đã trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất thế
giới, có mặt ở phần lớn các quốc gia, với quy mô tín đồ lên tới 1,13 tỷ người chiếm
khoảng 17,7% dân số toàn cầu.
Công giáo truyền vào Việt Nam từ năm 1533, tuy nhiên không đạt được những kết
quả như Tòa Thánh kỳ vọng, phải đến năm 1615 công cuộc truyền giáo mới bắt đầu đạt
được những kết quả nhất định với các nhà truyền giáo dòng tên. Qua gần 500 năm du
nhập vào Việt Nam, cùng với những thăng trầm của lịch sử đất nước, đến nay, Công giáo
có mặt tại 63 tỉnh, thành trên phạm vi cả nước với hơn 7 triệu tín đồ, 7.500 linh mục, 26
giáo phận, trên 3.000 giáo xứ, khoảng 6.000 giáo họ, 150 dòng tu và là tôn giáo lớn thứ 2,
sau Phật giáo.
176
Thứ ba, luận án thành công trong việc xây dựng hệ thống các khái niệm có liên
quan đến luận án: Khái niệm Công giáo; hoạt động Công giáo; chức sắc, tín đồ Công
giáo; giáo lý, giáo luật và lễ nghi Công giáo.
Kết quả nghiên cứu luận án đã xây dựng được cơ sở lý luận QLNN về Công giáo;
nghiên cứu lý luận cho thấy, đối tượng QLNN về Công giáo rất phong phú, đa dạng gồm:
chức sắc, tín đồ Công giáo; cơ sở vật chất; sinh hoạt Công giáo, truyền đạo; những hoạt
động liên quan đến đất đai, cơ sở thờ tự; hoạt động giáo dục đào tạo, khám chữa bệnh;
hoạt động từ thiện, nhân đạo; hoạt động in ấn, xuất bản; quan hệ quốc tế của Công giáo.
Tìm hiểu những lý luận QLNN về tôn giáo và pháp luật Việt Nam cho thấy, QLNN
về Công giáo có 07 nội dung gồm: (1) xây dựng, ban hành các chính sách, pháp luật về
TNTG; (2) xây dựng tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo; (3) tuyên truyền, vận động, phổ
biến kiến thức, giáo dục pháp luật về TNTG cho chức sắc, tín đồ Công giáo; (4) tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật QLNN đối với hoạt động của Công giảo; (5) xây dựng
đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo; (6) thanh tra, kiểm tra và đấu tranh phòng, chống các
hành vi lợi dụng Công giáo; (7) quản lý các quan hệ quốc tế của các tổ chức, cơ sở, chức
sắc, tín đồ Công giáo.
Thứ tư, nghiên cứu thực tiễn cho thấy: ĐNB là một vùng lãnh thổ rộng lớn có vị trí
địa lý, tiềm lực chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng đặc biệt quan trọng của đất
nước; là trung tâm chính trị quan trọng bậc nhất của cả nước, hàng năm đóng góp cho
nền kinh tế quốc gia trên 60% tổng GDP. ĐNB cũng là khu vực có nguồn nhân lực dồi
dào với quy mô dân số khoảng 17 triệu người, đây là địa bàn lãnh thổ rất đa dạng về văn
hóa, phong phú về TNTG, đặc biệt là Công giáo với khoảng 2,36 tín đồ, chiếm gần 33%
tổng số tín đồ Công giáo trên phạm vi cả nước và bằng gần 14% dân số của toàn ĐNB, là
vùng có mật độ tín đồ Công giáo cao nhất cả nước.
Thứ năm, từ sau Pháp lệnh TNTG trở lại đây, hoạt động của các tổ chức Công giáo
ở ĐNB có nhiều chuyển biến tích cực, chấp hành đúng chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Chức sắc, tín đồ Công giáo ĐNB sống gương mẫu, tích cực
tham gia vào các phong trào và hoạt động xã hội, hăng say lao động, sản xuất và bảo vệ
quê hương, theo đường hướng hành đạo của Thư chung 1980: “Sống phúc âm trong lòng
dân tộc”. Bên cạnh những kết quả đó, hoạt động Công giáo ở ĐNB vẫn tiềm ẩn những
vấn đề phức tạp trong sinh hoạt Công giáo, vấn đề liên quan đến đất đai, xây dựng, sửa
chữa cơ sở thờ tự,..., nhiều hoạt động, hội nghị Công giáo diễn ra không thông báo với
177
chính quyền; một số chức sắc, tín đồ Công giáo có hành vi lợi dụng Công giáo để chống
phá nhà nước; kích động, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ sáu, QLNN về Công giáo là một lĩnh vực được chính quyền và các cơ quan
chức năng trên địa bàn ĐNB hết sức quan tâm, chú trọng và đã đạt nhiều kết quả tích cực
trong việc đảm bảo quyền tự do TNTG của một bộ phận đồng bào nơi đây theo đúng chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước về TNTG nói chung và Công
giáo nói riêng. Công tác QLNN về Công giáo cũng từng bước được đổi mới, phát huy
được tiềm lực của các tổ chức Công giáo trong việc xây dựng giáo hội, xây dựng quê
hương. Công tác phòng ngừa lợi dụng Công giáo để xâm phạm đến an ninh, trật tự cũng
được đảm bảo, góp phần ổn định tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội ở ĐNB.
Bên cạnh những kết quả tích cực đó, QLNN về Công giáo nơi đây vẫn gặp nhiều
khó khăn, thách thức tập trung vào những vấn đề: quy định pháp luật còn chưa được thể
chế hóa, thiếu hướng dẫn; công tác vận động, tuyên truyền chậm đổi mới, thiếu chiều
sâu; mô hình tổ chức bộ máy QLNN vẫn chưa phù hợp; đội ngũ CBCC mặc dù chất
lượng có tăng lên, song vẫn chưa đảm bảo số lượng, thiếu kinh nghiệm công tác; QLNN
về tổ chức và hoạt động của chức sắc tín đồ Công giáo vẫn gặp nhiều khó khăn, nhất là
trong vấn đề giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo và đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự; công tác
phòng ngừa các hành vi lợi dụng Công giáo vẫn còn những chủ quan, sơ hở,.. đó là
những vấn đề cần phải tập trung khắc phục.
Thứ bảy, kết quả nghiên cứu Chương 4 cho thấy, để nâng cao hiệu quả QLNN về
Công giáo trên địa bàn ĐNB trong giai đoạn tới chính quyền và các cơ quan chức năng ở
ĐNB cần quan tâm đến một số giải pháp sau: (1) hoàn thiện thể chế pháp luật, chính sách
QLNN về tôn giáo; (2) đổi mới công tác tuyên truyền và vận động chức sắc, tín đồ Công
giáo; (3) hoàn thiện tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo; (4) nâng cao chất lượng đội ngũ
CBCC QLNN về tôn giáo; (5) nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào
Công giáo; (6) đổi mới quản lý đất đai, xây dựng; quản lý hoạt động giáo dục, y tế và từ
thiện nhân đạo; (7) tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết những khiếu nại,
tố cáo; phòng ngừa hành vi lợi dụng Công giáo địa bàn ĐNB. Những giải pháp trên được
tác giả khảo nghiệm tính cần thiết và khả năng thực hiện, kết quả cho thấy, những đề xuất
đó có tính cần thiết và khả thi cao, nếu được vận dụng vào thực tiễn trên địa bàn ĐNB sẽ
góp phần từng bước nâng cao hiệu quả QLNN về Công giáo nơi đây, phát huy mạnh mẽ
tiềm lực Công giáo trong xây dựng và bảo vệ quê hương trong giai đoạn kế tiếp./.
178
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Võ Uy Phong (2017), Quản lý Nhà nước về hoạt động của đạo
Công giáo trên địa bàn khu vực Đông Nam Bộ, Tạp chí Quản lý Nhà nước,
(8/2017).
2. Nguyễn Võ Uy Phong (2018), Công tác Quản lý Nhà nước đối với tôn
giáo ở Đồng Nai, Tạp chí Quản lý Nhà nước, (5/2018).
3. Nguyễn Võ Uy Phong (2018), Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết tốt nhu
cầu chính đáng của các tổ chức tôn giáo, Tạp chí Công tác tôn giáo, (7/2018).
4. Nguyễn Võ Uy Phong (2018), Công tác Quản lý Nhà nước về tôn giáo
trên địa bàn tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Tạp chí Quản lý Nhà nước, (9/2018).
xxv
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu trong nước
1. Hà Ngọc Anh (2018), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt
Nam, Luận án Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia,
Hà Nội.
2. Trần Phương Anh (2013), Vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Philippines,
Tạp chí Lý luận Chính trị, Số 3/2014.
3. Đàm Tuấn Anh (2018), Quản lý nhà nước về tôn giáo một số quốc gia Đông
Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 170/2018, Hà Nội.
4. Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 16/10/1990 của Ban
chấp hành khóa VI về Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.
5. Ban chấp hành Trung ương, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội 2011.
6. Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 25/NQ-TW Nghị quyết của Ban
chấp hành Trung ương ngày 12/3/2003 Về công tác tôn giáo.
7. Ban chấp hành Trung ương, Văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ, IX, X, XI.
8. Ban Tôn giáo Bình Dương, Báo cáo tình hình tôn giáo và công tác QLNN về
tôn giáo năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 và phương hướng năm 2015,
2016, 2017, 2018, 2019.
9. Ban Tôn giáo Bình Phước, Báo cáo tình hình tôn giáo và công tác QLNN về
tôn giáo năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 và phương hướng năm 2015,
2016, 2017, 2018, 2019.
10. Ban Tôn giáo Bà Rịa - Vũng Tàu, Báo cáo tình hình tôn giáo và công tác
QLNN về tôn giáo năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 và phương hướng,
nhiệm vụ năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019.
11. Ban Tôn giáo Chính phủ (2017), Bài giảng Tôn giáo và công tác Tôn giáo, Tài
liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
xxvi
12. Ban Tôn giáo Chính phủ (2015), Báo cáo tổng quan Đề án Khảo sát thực
trạng lực lượng cán bộ làm công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị
hiện nay, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
13. Ban Tôn giáo Chính phủ (2018), Báo cáo kết quả thực hiện Đề án chính sách,
pháp luật về các tôn giáo ở Việt Nam, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
14. Ban Tôn giáo Đồng Nai, Báo cáo tình hình tín ngưỡng, tôn giáo và công tác
QLNN về tín ngưỡng, tôn giáo năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019.
15. Ban Tôn giáo Đồng Nai, Báo cáo mười năm thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW
Về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
16. Ban Tôn giáo TP. Hồ Chí Minh, Báo cáo công tác QLNN về tôn giáo năm
2014, 2015, 2016, 2017, 2018 và phương hướng, kế hoạch công tác năm
2015, 2016, 2017, 2018, 2019.
17. Ban Tôn giáo TP. Hồ Chí Minh (2015), Báo cáo 10 năm thực hiện Pháp lệnh
TNTG 2004.
18. Ban Tôn giáo Tây Ninh, Báo cáo tình hình tôn giáo và kết quả QLNN về tôn
giáo năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 và phương hướng công tác năm
2015, 2016, 2017, 2018, 2019.
19. Phan Thị Mỹ Bình (2019), Quản lý nhà nước đối với hoạt động quan hệ quốc
tế của Giáo hội Công giáo Việt Nam, Luận án Quản lý Công, Học viện
Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
20. Bộ Chính trị, Chỉ thị 37-CT/TW ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị về Công tác
tôn giáo trong tình hình mới.
21. Bộ Chính trị, Số 54/QĐ-TW ngày 12/5/1999 Quy định về chế độ học tập lý
luận chính trị trong Đảng.
22. Bộ Chính trị, Kết luận số 57-KL/TW ngày 03/11/2009 về tiếp tục phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo giai
đoạn 2011 - 2015.
xxvii
23. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24/01/2014
của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc
dùng cho Việt Nam.
24. Bộ Nội vụ, Thông tư 25/2004/TT-BNV Thông tư ngày 19/4/2004 về Việc
hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ
quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác tôn giáo tại
địa phương.
25. Bộ Nội vụ, Thông tư 04/2008/TT-BNV Thông tư ngày 04/6/2008 Hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ, Phòng
Nội vụ thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện.
26. Bộ Nội vụ, Thông tư 04/2010/TT-BNV, Thông tư ngày 20/5/2010 của Bộ Nội
vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức biên chế của Ban
tôn giáo trực thuộc Sở Nội vụ thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
27. Bộ Nội vụ, Thông tư 01/2013/TT-BNV ngày 25/3/2013 của Bộ Nội vụ Ban
hành và hướng dẫn biểu mẫu thủ tục hành chính trong lĩnh vực Tín
ngưỡng, Tôn giáo.
28. Bộ Nội vụ, Thông tư 15/2014/TT-BNV ngày 31/10/2014 của Bộ Nội vụ Hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Nội vụ thuộc UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; Phòng Nội vụ thuộc UBND thành phố,
thị xã, huyện thuộc tỉnh.
29. Bộ Thông tin và Truyền thông, Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày
11/3/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông Quy định Chuẩn kỹ năng sử
dụng công nghệ thông tin.
30. Châu Thị Chánh (2015), Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai -
30 năm hình thành và phát triển, Tạp chí Công tác Tôn giáo, Số 12/2015,
Hà Nội.
31. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 566/NĐ-CP ngày 02/8/1955 của Chính phủ
về việc thành lập Ban Tôn giáo Chính phủ.
xxviii
32. Chính phủ Việt Nam, Nghị định số 37/1993/NĐ-CP quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy Ban Tôn giáo của Chính phủ.
33. Chính phủ Việt Nam, Nghị định số 91/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 quy định
về cơ cấu, chức năng, quyền hạn của Ban tôn giáo Chính phủ.
34. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 22/2004/NĐ-CP, ngày 12/1/2004 của Chính phủ
về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo thuộc UBND các cấp.
35. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 204/2004/NĐ-CP quy định về chế độ tiền
lương của CBCC, viên chức và lực lượng vũ trang.
36. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 Hướng dẫn
thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo.
37. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 08/2007/NĐ-CP Chuyển giao Ban Thi đua -
Khen thưởng Trung ương, Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Cơ yếu Chính
phủ vào Bộ Nội vụ.
38. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 13/2008/NĐ-CP, ngày 04/2/2008 Quy định tổ
chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
39. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 14/2008/NĐ-CP, ngày 04/2/2008 Quy định tổ
chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh.
40. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 61/2012/NĐ-CP, ngày 10/8/2012 Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Nội vụ.
41. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 92/2012/NĐ-CP, ngày 08/11/2012 của Chính
phủ Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo.
42. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 24/2014/NĐ-CP, ngày 04/4/2014 Quy định tổ
chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
43. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 37/2014/NĐ-CP, ngày 05//5/2014 Quy định
tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
xxix
44. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 34/2017/NĐ-CP, ngày 03/4/2017 của Chính
phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ.
45. Chính phủ Việt Nam, Nghị định 162/2017/NĐ-CP, nghị định hướng dẫn thi
hành một số điều Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016.
46. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Sắc lệnh 234/SL ngày 14/6/1955 của
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
47. Trương Hải Cường (2001), Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về lao động bị
tha hoá và sự tha hoá của tôn giáo. Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
48. Hoàng Văn Chức (2002), Đặc điểm của đối tượng quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tôn giáo, Tạp chí Quản lý nhà nước, Hà Nội.
49. Hoàng Văn Chức (2003), Nâng cao hiệu lực QLNN đối với hoạt động tôn giáo hiện
nay, Tạp chí quản lý nhà nước, Tạp chí Quản lý nhà nước, Hà Nội.
50. Hoàng Văn Chức (2015), Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo ở Bình Định, Tạp chí Quản lý nhà nước, Hà Nội.
51. Hoàng Văn Chức (2009) Quản lý nhà nước về tôn giáo và dân tộc, Nxb. Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội.
52. Nguyễn Hữu Có (2003), Quản lý Nhà nước đối với các dòng tu của đạo Công
giáo Việt Nam, luận văn thạc sĩ Quản lý Hành chính công, Học viện Hành
chính Quốc gia.
53. Lê Đình Cúc (2013), Công giáo ở Mỹ, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Số
1/2013, Hà Nội.
54. Nguyễn Khánh Diệp (2016), Vấn đề thờ cúng tổ tiên của tín đồ Công giáo
người Việt, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 154, 2016, Hà Nội.
55. Vũ Thế Duy (2018), Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành ở
Việt Nam, Luận án tiến sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia,
Hà Nội.
56. Bùi Hữu Dược (2014), Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975
đến nay, Luận án tiến sĩ Tôn giáo, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam,
Hà Nội.
xxx
57. Nguyễn Hồng Dương (2005), Hàng giáo phẩm Công giáo Việt Nam, Vấn đề
nhân sự và đào tạo, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
58. Nguyễn Hồng Dương (2007), Mối quan hệ giữa nhà nước Việt Nam với giáo
hội Công giáo Rôma hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
59. Nguyễn Hồng Dương (2008), Công giáo Việt Nam - Một số vấn đề nghiên
cứu, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
60. Nguyễn Hồng Dương (2010), Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam,
Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
61. Nguyễn Hồng Dương (2011), Tổ chức xứ, họ Công giáo ở Việt Nam - Lịch sử
- hiện tại và những vấn đề đặt ra, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
62. Nguyễn Hồng Dương (2012), Quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo và
những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Nguyễn Hồng Dương (2013), Kitô giáo với vấn đề xung đột và hội nhập văn
hóa: Bước đầu tìm hiểu và so sánh giữa trường hợp Công giáo và Tin
lành ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
64. Nguyễn Hồng Dương (2013), Quá trình hình thành nội hàm khái niệm Công
giáo đồng hành cùng dân tộc, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
65. Nguyễn Hồng Dương (2015), Quan điểm, chính sách đối với tôn giáo của
Đảng, Nhà nước Việt Nam, quá trình 40 năm ‘1975 -2015’, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
66. Hoàng Mạnh Đoàn (2002), Công tác vận động giáo dân của tổ chức cơ sở
đảng (cấp xã) ở đồng bằng Bắc Bộ nước ta hiện nay, luận án tiến sĩ lịch
sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 2002.
67. Hoàng Minh Đô (2006), Dòng tu Công giáo ở nước ta hiện nay và những vấn
đề đặt ra cho công tác quản lý nhà nước, đề tài khoa học cấp bộ, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 2006, Hà Nội.
68. Mai Thanh Hải (2002), Từ điển Tôn giáo, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
69. Ngô Quốc Đông (2017), Hội Công giáo kháng chiến Nam Bộ 1948 -1954, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo 161, 2017, Hà Nội.
xxxi
70. Lê Gia Hân (2009), Cơ cấu giáo hội và hệ thống phẩm trật của đạo Công
giáo, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Hà Nội.
71. Vũ Văn Hậu (2009), Củng cố mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đề tài nghiên cứu
khoa học, Học viện Chính trị khu vực IV.
72. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1978), C.Mác - Ăngghen, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
73. Học viện Hành chính Quốc gia (2009), Giáo trình quản lý Hành chính nhà
nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
74. Học viện Hành chính (2014), Tổ chức bộ máy Hành chính nhà nước, Tài liệu
lưu hành nội bộ, Hà Nội.
75. Học viện Hành chính (2014), Tổ chức nhân sự Hành chính nhà nước, Tài liệu
lưu hành nội bộ, Hà Nội.
76. Hội đồng Bộ trưởng, Nghị định 59-HĐBT, ngày 21/3/1991 về Hoạt động tôn giáo.
77. Hội đồng Chính phủ, Nghị quyết số 279-CP, ngày 11/11/1977, Nghị quyết về
một chính sách đối với tôn giáo.
78. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư chung 1980.
79. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Văn thư Số: 06/2016/VT/VP HĐGM VN ngày
26 tháng 8 năm 2016 về việc góp ý cho Dự thảo Luật TNTG 2016.
80. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư gửi Cộng đồng dân Chúa ngày 01/6/2017
về việc nhận định luật TNTG 2016.
81. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2017), Giáo hội Công giáo Việt Nam, niên
giám 2016, Nxb Tôn giáo, TP. Hồ Chí Minh.
82. Đỗ Thị Hoà Hới, Phan Thị Thu Hằng, Chính sách của Minh Mệnh đối với tôn
giáo và ý nghĩa của nó trong lịch sử Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, số 12/2009, Hà Nội.
83. Đỗ Minh Hợp (2009), Tôn giáo học nhập môn, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
84. Trần Hữu Hợp (2004), Sự hình thành Cộng đồng người Việt Công giáo vùng đồng
bằng Sông Cửu Long, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Số 6/2004, Hà Nội.
xxxii
85. Nguyễn Hồng (2009), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Nxb Từ điển Bách
khoa, TP. Hồ Chí Minh (quyển I, II).
86. Nguyễn Xuân Hùng (2014), Tin lành ở Việt Nam, thực trạng - vấn đề đặt ra
và một số giải pháp, Đề tài khoa học cấp bộ Viện Nghiên cứu Tôn giáo,
Hà Nội.
87. Đỗ Quang Hưng (2003), Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa Nhà nước và
giáo hội, Nxb.Tôn giáo, Hà Nội.
88. Đỗ Quang Hưng (2011), Tái cấu hình đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay,
những thách thức về mặt quản lý, Tạp chí Công tác tôn giáo, Hà Nội.
89. Đỗ Quang Hưng (2001), Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam bộ, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
90. Nguyễn Quang Hưng (2007), Công giáo Việt Nam thời kỳ Triều Nguyễn
(1802-1883), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
91. Nguyễn Quang Hưng (2014), Chính sách tôn giáo của Việt Nam trong bối
cảnh khu vực - Qua so sánh với Hàn Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
Hà Nội.
92. Lê Thị Thanh Hương (2014), Sự can thiệp của tôn giáo vào chính trị ở
Philippines, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
93. Lưu Ngọc Khải (2013) Đảng và Nhà nước đổi mới chính sách Tôn giáo - Phát
huy truyền thống Đại đoàn kết các dân tộc, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
Hà Nội.
94. Nguyễn Văn Kiệm (2001), Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt
Nam từ thế kỷ thứ XVII đến thế kỷ thứ XIX, Hà Nội.
95. Nguyễn Hữu Khiển (2001) Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong
điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
96. Nguyễn Thị Thùy Liên (2015), Ghi nhận kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết
25-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn
giáo ở tỉnh Đồng Nai, Tạp chí Công tác Tôn giáo, Số 9/2015, Hà Nội.
xxxiii
97. Vũ Tuyết Loan (2004), Tôn giáo trong chính sách đa văn hoá ở Australia, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
98. Đoàn Triệu Long (2008), Đạo Công giáo buổi đầu trên mảnh đất Quảng Nam
- Đà Nẵng, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
99. Đoàn Triệu Long (2010), Giáo phận Đà Nẵng - Lịch sử và vấn đề hiện tại,
Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện Khoa học Xã hội.
100. Đoàn Triệu Long (2014), Công tác quản lý nhà nước đối với đạo Công giáo
ở miền Trung - Thực trạng và một số kiến nghị, Kỷ yếu Hội thảo Khoa
học, Học viện Hành chính Quốc gia khu vực miền Trung 2014, Thừa
Thiên Huế.
101. Nguyễn Văn Long (1999), Vận dung quan điểm khoa học về tôn giáo trong
công tác đối với Thiên Chúa giáo ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ
triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
102. Nguyễn Đức Lộc (2010), Cơ cấu tổ chức cộng đồng theo giáo xứ của người
Việt Công giáo di cư năm 1954 tại Nam Bộ, Tạp chí Khoa học và Công
nghệ, Hà Nội.
103. Đặng Luận (2012), Truyền giáo và phát triển đạo Công giáo trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum, Luận án Tiến sĩ triết học, Học
viện Khoa học Xã hội.
104. Nguyễn Đức Lữ (2005), Những đặc điểm cơ bản của một số tôn giáo lớn ở
Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
105. Nguyễn Đức Lữ (2007), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
106. Nguyễn Thế Lữ (2012), Tôn giáo - Quan điểm, chính sách đối với tôn giáo
của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính.
107. Ngô Văn Minh (2014), Quản lý Nhà nước về Tôn giáo ở các tỉnh Tây
Nguyên, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
108. Lê Đại Nghĩa (2002), V.I.Lênin bảo vệ và phát triển tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăngghen về tôn giáo. Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
xxxiv
109. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Tôn giáo
và Công tác Tôn giáo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
110. Võ Lan Phương (2008), Các chúa Nguyễn và sự truyền bá Công giáo ở
Đàng Trong, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 10/2008, Hà Nội.
111. Trần Nghĩa Phương (2002), Đảng Cộng sản Trung Quốc với vấn đề tôn giáo
trong giai đoạn đổi mới đất nước, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
112. Quốc hội Việt Nam, Hiến pháp 2013.
113. Quốc hội Việt Nam, Luật Cán bộ, Công chức 2008
114. Quốc hội Việt Nam, Luật Tổ chức Chính phủ 2015
115. Quốc hội Việt Nam, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015.
116. Quốc hội Việt Nam, Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016.
117. Võ Kim Quyên (2004), Tôn giáo và đời sống tôn giáo hiện đại, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
118. Nguyễn Ngọc Quỳnh (2012), Chính sách tôn giáo thời Tự Đức (1848-1883),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
119. Võ Kim Sơn (2006), Giáo trình Quản lý học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
120. Cao Văn Thanh, Đậu Tuấn Nam (2011), Một số vấn đề tôn giáo và công tác tôn
giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
121. Lường Hoài Thanh (2010), Vài nét về cộng đồng Công giáo Philippines
trong lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
122. Phạm Hồng Thái (2002), Tìm hiểu chính sách tôn giáo của nhà nước Nhật
Bản, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
123. Ngô Hữu Thảo (2009), Mối quan hệ giữa Chính trị và Tôn giáo - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
124. Ngô Hữu Thảo (2013), Công tác tôn giáo từ quan điểm Mác - Lênin đến thực
tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
125. Thiều Quang Thắng (2013), Công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong
10 năm thực hiện Nghị quyết TW 7 – Khóa IX, Báo cáo tham luận tại Hội
thảo Khoa học “Mười năm thực hiện Nghị quyết TW 7 (Khóa IX) về công
tác dân dộc, tôn giáo – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Học viện Chính
xxxv
trị - Hành chính Quốc gia.
126. Lê Văn Thơ (2013), Quá trình hình thành, phát triển và đặc điểm của giáo
phận Phát Diệm, Luận án triết học, Học viện Khoa học Xã hội.
127. Phạm Huy Thông (2008), Công giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
128. Phạm Huy Thông (2011), Lối sống của người Công giáo Việt Nam: Quá trình
từ theo đạo, giữ đạo đến sống đạo, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
129. Phạm Huy Thông (2014), Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo 10 năm nhìn lại,
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
130. Phạm Huy Thông (2012) Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công giáo và văn hóa
Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
131. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 1940/2008/CT-TTg, Chỉ thị ngày 31/12/2008
Về nhà, đất liên quan đến tôn giáo.
132. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 235/1998/QĐ-TTg về sửa đổi, bổ sung
một số tổ chức thuộc Ban Tôn giáo của Chính phủ để tiếp tục củng cố và
kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo.
133. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 06/2015/QĐ-TTg, ngày 12/02/2015 của
Thủ tướng Chính phủ, về Chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của
Ban Tôn giáo Chính phủ.
134. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 32/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 03/8/2018 về Chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của
Ban Tôn giáo Chính phủ.
135. Trần Văn Tình (2018), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo vùng
đồng bằng Sông Cửu Long, Luận án Tiến sĩ Quản lý công, Học viện Hành
chính Quốc gia, Hà Nội.
136. Lê Quan Toàn (2014), Quản lý nhà nước về các hội đoàn và dòng tu Công
giáo, Kỷ yếu Hội thảo Một số vấn đề trong công tác QLNN về tôn giáo tại
một số tỉnh miền Trung hiện nay, Học viện Hành chính Quốc gia khu vực
miền Trung, Thừa Thiên Huế.
xxxvi
137. Tổng cục Thống kê (2017), Niên giám Thống kê 2016, Nxb Thống kê, Hà Nội.
138. Đinh Thị Xuân Trang (2011), Bước đầu tìm hiểu cuộc sống tu trì của nữ tu
Công giáo ở giáo phận Xuân Lộc hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, Hà Nội.
139. Nguyễn Phú Trọng (2008), Đồng bào Công giáo chung sức, chung lòng vì sự
nghiệp phát triển đất nước, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
140. Đặng Mạnh Trung (2009), Vài nét về sự hình thành các xứ, họ đạo đầu tiên ở
vùng Đông Nam Bộ, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
141. Đặng Mạnh Trung (2011) Công tác vận động đồng bào Công giáo của Đảng
bộ một số tỉnh miền Đông Nam Bộ từ năm 1986 đến năm 2006, Luận án
Tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
142. Hà Quang Trường (2015), Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo hiện nay,
Tạp chí Lý luận Chính trị, Hà Nội.
143. Chu Văn Tuấn (2014) Giá trị tôn giáo từ phương diện triết học, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
144. Chu Văn Tuấn (2016), Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo
trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, Hà Nội.
145. Chu Văn Tuấn (2014), Vấn đề tôn giáo trong phát triển bền vững Tây
Nguyên, Chương trình Tây Nguyên 3 (KHCN-TN3/11-15) Đề tài khoa học
cấp Nhà nước.
146. Nguyễn Thị Bạch Tuyết (2008), Tôn giáo và an ninh xã hội ở khu vực Đông
Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
147. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo 2004.
148. Đặng Nghiêm Vạn (2012), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
149. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2011), Đời sống tôn giáo ở Việt Nam và
Trung Quốc, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
150. Viện Ngôn ngữ học (2016), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
xxxvii
151. Đỗ Hoàng Vương (2013), Nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động của Công
giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội, Tạp chí Quản lý Nhà nước, Hà Nội.
152. Đỗ Hoàng Vương (2018), Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Công
giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Quản lý công, Học
viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
153. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
154. Nguyễn Thanh Xuân (2014), Tôn giáo trong đồng bào Dân tộc thiểu số, Hội
thảo Chính sách Dân tộc và Tôn giáo, Thực trạng và giải pháp, Học viện
Hành chính Quốc gia.
155. Phạm Hữu Xuyên (2007), Quan điểm Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo, Luận
án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
B. Tài liệu dịch, tài liệu nước ngoài
156. Andrew P. Lynch (2014), Beijing and the Vatican: Catholics in China and the
Politics of Religious Freedom, SAGE Open October-December 2014: 1–
10 © The Author(s) 2014 DOI: 10.1177/2158244014554196
157. Catherine L.Albanese, Các tôn giáo và tín ngưỡng ở Mỹ, Việt Thư dịch, Nxb
Thời đại, Hà Nội.
158. Trần Chí Cương (2007), Tôn giáo học là gì, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh,
TP. Hồ Chí Minh.
159. Franklin Rausch (2018), Catholic Christianity in Korean History, Oxford
Research Encyclopedia, Oxford.
160. Jame Hitchcock, Lịch sử của Giáo hội Công giáo: Từ thời đại Tông đồ đến
Thiên niên kỷ thứ ba (History of the Catholic Church: From the Apostolic
Age to the Third Millennium), By Inatius Press, Sanfransico, USA.
161. James W. Tong (2010), The New Religious Policy in China: Catching up with
System Reforms, Asian Survey, September 2010, 50:5, pp 859-888.
162. Yến Khả Giai (2007), Giáo hội Công giáo Trung quốc, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
163. Goerge Bull (1983), Bên trong Vatican (Inside The Vatican), Published St
Martin Pre., NewYork.
164. Hans Kung (2010), Các nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo, Nxb Trí thức, Hà Nội.
xxxviii
165. Thiên Hựu (2011), Đức Giêsu Kitô, Nxb Thời đại, Hà Nội.
166. Jon L.Allen, Jr (2008), Đức Giáo hoàng Benedict XVI, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
167. Karl Rahner (1998), Nhân học Kitô, NXB Crossroad, New York.
168. Lewis M. Hopfe, Mark R. Woodward (2011), Các tôn giáo trên thế giới, Nxb
Thời Đại, Hà Nội.
169. Michael Kerrigan (2014), History of the dark of the Education for Education:
Schisms, Wars, Inquisitions, Witch Hunts, Scandals, Corruption,
Published by Amber book Ltd, Lon don, UK.
170. Selina Hastings (2007), Câu chuyện Kinh Thánh, những bài học về lòng yêu
thương, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
171. Sueki Fumihiko, Lịch sử tôn giáo Nhật Bản, Phạm Thu Giang dịch (2011),
Nxb Thế giới, Hà Nội.
172. Steven WeidenKopf (2017), The Real Story of Catholic History: Answering
Twenty Centuries of Anti-Catholic Myths, Published by Catholic Answers,
Inc, USA.
173. Lữ Vân (2003), Tôn giáo ở Trung Quốc, 100 câu hỏi và trả lời, Nguyễn Thị
Bạch Tuyết dịch, Nxb Tôn giáo, Hà Nội
174. Hoàng Tâm Xuyên (1999), Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
xxxix
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Bản đồ Hành chính vùng Đông Nam Bộ
Nguồn: Cục Bản đồ
xl
Phụ lục 2. Phiếu điều tra, khảo sát CBCC QLNN về tôn giáo và cán bộ MTTQ,
đoàn thể về thực trạng QLNN về Công giáo và khảo nghiệm tính cần thiết, khả
thi của các giải pháp đề xuất ở Đông Nam Bộ
Để nhìn nhận khách quan về thực trạng QLNN đối với hoạt động của Công
giáo địa bàn Đông Nam Bộ hiện nay, qua đó tìm ra những tồn tại, hạn chế đề ra
những phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động của
Công giáo, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo cho nhân dân, Ông/Bà vui
lòng cho biết ý kiến của mình qua một số câu hỏi dưới đây bằng cách khoanh tròn
hoặc đánh dấu (X) vào đáp án lựa chọn.
(Ý kiến trả lời của Ông/Bà chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học)
PHẦN I. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CÔNG GIÁO ĐỊA BÀN ĐÔNG NAM BỘ
Câu 1. Theo Ông/Bà, Công giáo ảnh hưởng như thế nào tới đời sống xã hội ở nước ta?
Chiều hướng ảnh hưởng
STT Lĩnh vực ảnh hưởng
Tích cực Tiêu cực
1 Phong tục tập quán, truyền thống dân tộc Cả tích cực và tiêu cực
2 Chính trị - xã hội
3 Kinh tế - xã hội
4 Giáo dục, đào tạo
5 Khối đại đoàn kết toàn dân
6 Đạo đức xã hội
Câu 2. Xin Ông/ Bà cho ý kiến của mình về mức độ phù hợp của hệ thống pháp luật
về tôn giáo ở Việt Nam trong một số quy định hoạt động tôn giáo?
STT Các quy định pháp luật về Rất phù hợp Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sát Bình thường Chưa phù hợp 1 nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức sắc tôn giáo
xli
Quản lý hoạt động tôn giáo có yếu tố nước 3 ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc tôn giáo
Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, 5 đại hội của tôn giáo các cấp
Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây 6 dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, 7 cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo
Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y
9 tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các
tổ chức tôn giáo.
Câu 3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp ở địa phương
Ông/ Bà hiện nay đã phù hợp chưa?
A. Phù hợp B. Chưa phù hợp
Câu 4. Xin Ông/ Bà cho biết về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và phẩm chất
đạo đức của cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo hiện nay ở địa
phương?
STT Lĩnh vực đánh giá Tốt Chưa tốt 1 Trình độ chuyên môn Bình thường
2 Kinh nghiệm công tác
3 Phẩm chất đạo đức
Câu 5. Theo Ông/ Bà việc tuyên truyền và phổ biến pháp luật về tôn giáo
những năm qua ở tại địa phương đã được chính quyền thực hiện tốt hay chưa?
A. Thực hiện tốt B. Bình thường C. Chưa thực hiện tốt
xlii
Câu 6. Ông/ Bà đánh giá mức độ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với hoạt
động dưới đây của chính quyền địa phương như thế nào?
STT Lĩnh vực thực hiện nhiệm vụ quản lý Tốt Chưa tốt Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sáp nhập, Bình thường 1 hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức sắc tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc tôn giáo
Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội 5 của tôn giáo các cấp
Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng 6 mới công trình kiến trúc tôn giáo
Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách 7 chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo
Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo 9 trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Câu 7. Ý kiến của Ông/ bà về mức độ phối hợp giữa các cơ quan Dân vận, MTTQ,
và các cơ quan Chính trị - Xã hội trong việc vận động chức sắc, tín đồ Công giáo tại
địa phương?
A. Phối hợp tốt B. Bình thường C. Chưa tốt
Câu 8. Xin Ông/ Bà cho biết, việc thanh tra, kiểm tra việc thực thi chính sách pháp
luật về tôn giáo đã tốt hay chưa?
A. Tốt B. Bình thường C. Chưa tốt
Câu 9. Ý kiến của Ông/ bà về mức độ giải quyết những kiến nghị, khiếu nại của các tổ
chức, cá nhân tôn giáo của các cơ quan chức năng tại địa phương như thế nào?
A. Tốt B. Bình thường C. Chưa tốt
xliii
PHẦN II. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP
Câu 10. Theo Ông/ Bà để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quản lý nhà nước về Công
giáo, nhà nước nên tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật nào
dưới đây?
Mức độ cần thiết
STT Pháp luật hoàn thiện, xây mới hoặc bổ sung
Cần thiết Bình thường Không cần thiết 1 Quản lý các dòng tu Công giáo
Quản lý người vào tu, quản lý việc đào tạo chức 2 sắc tôn giáo
Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng 3 mới công trình kiến trúc tôn giáo
Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách 4 chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo 5 trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Câu 11. Theo Ông/ Bà, các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo có cần thiết phải
đổi mới hình thức và phương pháp vận động, thuyết phục chức sắc, tín đồ Công
giáo không?
A. Cần thiết B. Không cần thiết
Câu 12. Ông/ Bà chọn phương hướng hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
về tôn giáo các cấp theo phương án nào dưới đây?
Mức độ cần thiết
STT Phương án hoàn thiện tổ chức bộ máy
Phù hợp Bình thường Không phù hợp 1 Giữ nguyên như hiện trạng
Tách ra khỏi cơ quan Nội vụ trở thành cơ quan tham 2 mưu cho Chính phủ và UBND các cấp độc lập
xliv
Tách ra khỏi cơ quan Nội vụ, sáp nhập với Ủy ban
3 Dân tộc ở Trung ương và Ban Dân tộc ở cấp tỉnh,
Phòng Dân tộc ở cấp huyện
Câu 13. Theo Ông/ Bà để nâng cao năng lực cho đội ngũ CBCC quản lý nhà nước
về tôn giáo các cấp, chính quyền các tỉnh, thành phố Đông Nam Bộ phải thực hiện
theo phương hướng nào dưới đây?
Mức độ cần thiết Phương hướng nâng cao năng lực cho đội ngũ STT CBCC quản lý nhà nước về tôn giáo Cần thiết Bình thường Không cần thiết Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt công tác quy 1 hoạch CBCC
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, 2 nghiệp vụ, kỹ năng cho CBCC
Đổi mới về chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ 3 CBCC
Thực hiện tốt chính sách thi đua, khen thưởng đối 4 với đội ngũ CBCC
Câu 14. Theo Ông/ Bà, chính quyền các cấp có cần thiết phải tạo các điều kiện cho
đồng bào giáo dân phát triển kinh tế, văn hóa xã hội không?
A. Cần thiết B. Bình thường C. Không cần thiết
Câu 15. Để giúp giáo dân phát triển kinh tế xã hội, chính quyền cần đầu tư vào lĩnh
vực nào dưới đây?
Mức độ cần thiết
STT Lĩnh vực đầu tư
Cần thiết Bình thường Không cần thiết 1 Cơ sở hạ tầng xã hội
2 Chăm sóc y tế, an sinh xã hội
xlv
3 Phát triển nhà ở xã hội cho công nhân
4 Giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên Công giáo, tạo công ăn việc làm cho thanh niên Công giáo 5 Quy hoạch đất đai sản xuất, chăn nuôi
Hỗ trợ kinh phí, vốn để giáo dân tăng gia, sản xuất, 6 khởi nghiệp
Câu 16. Theo Ông/ Bà, có cần thiết phải đổi mới quản lý hoạt động sử dụng đất đai;
xây dựng, sửa chữa công trình kiến trúc và giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo của các
tổ chức Công giáo không?
Mức độ cần thiết
STT Lĩnh vực cần phải đổi mới
Cần thiết Bình thường Không cần thiết 1 Sử dụng đất của các tổ chức Công giáo
Xây dựng, sửa chữa, cơi nới, nâng cấp các công 2 trình kiến trúc Công giáo
3 Hoạt động giáo dục, y tế Công giáo
4 Hoạt động từ thiện, nhân đạo
Câu 17. Để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi chính sách pháp
luật nhà nước về tôn giáo chúng ta cần tập trung vào những nội dung nào dưới đây?
Mức độ cần thiết
STT Nội dung thanh tra, kiểm tra cần tăng cường
Cần thiết Bình thường Không cần thiết
1
2
3
4 Thanh tra, kiểm tra việc thực thi chính sách, pháp luật về tôn giáo của chính quyền các cấp Thanh tra, kiểm tra về chất lượng đội ngũ quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo của các cơ sở Công giáo Thanh tra, kiểm tra việc đầu tư cơ sở vật chất, phát triển kinh tế của chính quyền các cấp ở vùng giáo
xlvi
Câu 19. Theo Ông/ Bà, để thực hiện tốt nhiệm vụ phòng ngừa hành vi lợi dụng Công
giáo, các cơ quan chức năng cần tập trung vào những biện pháp nào dưới đây?
Mức độ cần thiết Biện pháp phòng ngừa hành vi lợi dụng Công STT giáo vi phạm pháp luật Cần thiết Bình thường Không cần thiết Tăng cường nắm vững tình hình diễn biến bất 1 thường ở vùng giáo
Xây dựng mạng lưới cốt cán đạo đông đảo về số 2 lượng, mạnh về chất lượng
Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức 3 trong công tác tôn giáo
4 Chủ động đối thoại với chức sắc, tín đồ Công giáo
Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng Công giáo 5 để gây rối, ảnh hưởng tới an ninh, trât tự
Câu 21. Xin Ông/ Bà cho biết một số thông tin về bản thân
Họ và tên:……………………………… Tuổi: ……………………………………..
Cơ quan công tác:……………………………………………………………………
Chức vụ: …………………………………………………………………………….
Thâm niên công tác:…………………………………………………………………
Xin trân trọng cảm ở sự hợp tác của các Ông/ Bà
xlvii
Phụ lục 3. Phiếu điều tra, khảo sát chức sắc Công giáo về thực trạng
QLNN về Công giáo và khảo nghiệm tính cần thiết, khả thi của các giải pháp
đề xuất ở Đông Nam Bộ
Để thực hiện tốt hơn các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về tôn giáo nói chung và Công giáo ở Đông Nam Bộ nói riêng
xin Ông/Bà vui lòng trả lời một số các câu hỏi dưới đây?
(Khoanh tròn vào đáp án trả lời, hoặc lựa chọn)
PHẦN I. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CÔNG GIÁO Ở ĐÔNG NAM BỘ Câu 1. Ông/Bà biết đến các quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo và hoạt động tôn giáo qua hình thức nào dưới đây?
A. Thông qua phương tiện thông tin đại chúng
B. Thông chương trình phổ biến pháp luật của chính quyền
C. Thông qua các cuộc vận động của cán bộ, công chức
D. Thông qua tự học tập, tìm hiểu
Câu 2. Xin Ông/ Bà cho ý kiến của mình về mức độ phù hợp của hệ thống pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam trong một số quy định hoạt động tôn giáo
TT Các quy định pháp luật về Phù hợp Bình thường Chưa phù hợp
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức sắc tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc tôn giáo
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
xlviii
Câu 3. Theo Ông/Bà Công giáo ảnh hưởng đến các mặt của đời sống xã hội ở nước
ta theo chiều hướng như thế nào?
Chiều hướng ảnh hưởng STT Lĩnh vực ảnh hưởng Tích cực Tiêu cực
A Thói quen, nếp sống và phong tục tập quán Cả tích cực và tiêu cực
B Chính trị - xã hội
C Kinh tế - xã hội
D Giáo dục, đào tạo
E Khối đại đoàn kết toàn dân
F Đạo đức xã hội
Câu 4. Ông/ Bà đánh giá thế nào về mức độ thực hiện các nhiệm vụ dưới đây của
cán bộ, công chức ở địa phương?
STT Nội dung hoạt đông quản lý Tốt Chưa tốt Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sáp nhập, hợp Bình thường 1 nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức sắc tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài
Quản lý người vào tu, quản lý việc đào tạo chức sắc 4 tôn giáo
Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội 5 của tôn giáo các cấp
Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới 6 công trình kiến trúc tôn giáo
Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, 7 bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo
Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo 9 trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
xlix
Câu 5. Ông/ Bà nhận xét như thế nào về phẩm chất, năng lực chuyên môn nghiệp
vụ và kinh nghiệm công tác của cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo ở giáo
phận (giáo xứ) nơi Ông/ Bà sinh hoạt tôn giáo?
Tốt STT Lĩnh vực đánh giá Chưa tốt Bình thường 1 Trình độ chuyên môn
2 Kinh nghiệm công tác
3 Phẩm chất đạo đức
Câu 6. Thông thường, những kiến nghị đề xuất của Ông/ Bà với chính quyền về
việc thực thi chính sách, phát luật nhà nước về tôn giáo đối với giáo phận (giáo xứ)
nơi Ông/ Bà sinh hoạt tôn giáo có được chính quyền lắng nghe và giải quyết kịp
thời không?
A. Có B. Không C. Khi có, khi không
PHẦN II. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
Câu 7. Theo Ông/ Bà để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quản lý nhà nước về Công
giáo, nhà nước nên tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật nào
dưới đây?
Mức độ cần thiết
STT Pháp luật hoàn thiện, xây mới hoặc bổ sung Cần thiết Bình thường Không cần thiết 1 Quản lý các dòng tu Công giáo
2
3
4
5
Quản lý người vào tu, quản lý việc đào tạo chức sắc tôn giáo Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo Quản lý hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
l
Câu 8. Theo Ông/ Bà, chính quyền các cấp có cần thiết phải tạo các điều kiện cho
đồng bào giáo dân phát triển kinh tế, văn hóa xã hội không?
A. Cần thiết B. Bình thường C. Không cần thiết
Câu 9. Để giúp giáo dân phát triển kinh tế xã hội, chính quyền cần đầu tư vào lĩnh vực nào dưới đây?
Mức độ cần thiết
STT Lĩnh vực đầu tư
Cần thiết Bình thường Không cần thiết
1 Cơ sở hạ tầng xã hội: giao thông, thủy lợi, trường học, điện sinh hoạt, trạm y tế, nước sạch
Phát triển nhà ở xã hội cho công nhân
2 Chăm sóc y tế, an sinh xã hội
3
Giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên Công giáo, tạo công ăn việc làm cho thanh niên Công giáo
4
5 Quy hoạch đất đai sản xuất, chăn nuôi
6 Hỗ trợ kinh phí, vốn để giáo dân tăng gia, sản xuất, khởi nghiệp
Câu 10. Xin Ông/Bà cho biết một số thông tin cá nhân
- Họ và tên: …………………………………………………………; Tuổi: ……..…
- Chức vụ (phẩm hàm):……………………………….………………………………
- Nơi ông tác: ……………………………………………………………….………..
- Trình độ thần học:……………………………………………………….………….
Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà
li
Phụ lục 4. Kết quả điều tra, khảo sát chức sắc Công giáo về thực trạng
QLNN về Công giáo và khảo nghiệm tính cần thiết, khả thi của các giải pháp
đề xuất ở Đông Nam Bộ
PHẦN I. KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG QLNN
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG GIÁO VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
Câu 1. Ông/Bà biết đến các quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo và hoạt động tôn giáo qua hình thức nào dưới đây?
Tổng
STT
Hình thức tiếp thu chính sách, pháp luật về tôn giáo
SL
%
A
Thông qua phương tiện thông tin đại chúng
74
92.50
B
Thông chương trình phổ biến pháp luật của chính quyền
47
58.75
C
Thông qua các cuộc vận động của cán bộ, công chức
56
70.00
D
Thông qua tự học tập, tìm hiểu
36
45.00
Câu 2. Xin Ông/ Bà cho ý kiến của mình về mức độ phù hợp của hệ thống
pháp luật về tôn giáo ở Việt nam trong một số quy định hoạt động tôn giáo?
Mức độ phù hợp
STT
Tổng
Quy định pháp luật liên quan đến
Rất phù hợp SL %
Bình thường SL %
Chưa phù hợp SL %
SL %
47
58.8
25 31.3
8
10.0 80 100
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức
17
21.3
18 22.5 45 56.3 80 100
sắc tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có
11
13.8
27 33.8 42 52.5 80 100
yếu tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc
21
26.3
13 16.3 46 57.5 80 100
tôn giáo
19
23.8
7
8.8
54 67.5 80 100
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
0
0.0
8
10.0 72 90.0 80 100
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
lii
4
5.0
9
11.3 67 83.8 80 100
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của
8
10.0
12 15.0 60 75.0 80 100
các tổ chức tôn giáo
0
0.0
4
5.0
76 95.0 80 100
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Câu 3. Theo Ông/Bà, Công giáo ảnh hưởng như thế nào tới đời sống xã hội ở nước ta?
Chiều hướng ảnh hưởng
STT
Lĩnh vực ảnh hưởng
Tích cực
Tổng
Không tích cực
Cả tích cực và tiêu cực SL %
SL %
SL %
SL %
36
45.0
8.8
37 46.3 80 100
1
7
Thói quen, nếp sống và phong tục tập quán
2 Chính trị - xã hội
46
57.5
0
0.0
34 42.5 80 100
3 Kinh tế - xã hội
56
70.0
0
0.0
24 30.0 80 100
4 Giáo dục, đào tạo
80
100.0
0
0.0
0
0.0
80 100
5 Khối đại đoàn kết toàn dân
62
77.5
0
0.0
18 22.5 80 100
6 Đạo đức xã hội
80
100.0
0
0.0
0
0.0
80 100
Câu 4. Ông/ Bà đánh giá mức độ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối
với hoạt động dưới đây của chính quyền địa phương như thế nào?
Mức độ thực hiện
Tốt
Chưa tốt
Tổng
STT
Lĩnh vực ảnh hưởng
Bình thường
SL %
SL %
SL %
SL %
23 31.0 25 31.3 32 40.0 80 100
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức sắc tôn
7
8.8 12 15.0 61 76.3 80 100
giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có yếu tố
9 11.3 16 20.0 55 68.8 80 100
nước ngoài
liii
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc tôn
11 13.8 10 12.5 59 73.8 80 100
giáo
8 10.0 11 13.8 61 76.3 80 100
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
2
2.5
7
8.8 71 88.8 80 100
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
3
3.8
8 10.0 69 86.3 80 100
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của các tổ
10 12.5 8 10.0 62 77.5 80 100
chức tôn giáo
1
6.0
4
5.0 75 93.8 80 100
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Câu 5. Xin Ông/ Bà cho biết về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và phẩm
chất đạo đức của cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo hiện nay ở địa
phương?
Phương án đánh giá
Tốt
Chưa tốt
Tổng
STT
Phương diện đánh giá
Bình thường SL %
SL %
SL %
SL %
1
Trình độ chuyên môn
42
52.50 19 23.75 19
23.75 80
100
2
Kinh nghiệm công tác
12
15.00 12 15.00 56
70.00 80
100
3
Phẩm chất đạo đức
67
83.75 6
7.50
7
8.75
80
100
Câu 6. Ý kiến của Ông/ bà về mức độ giải quyết những kiến nghị, khiếu nại của
các tổ chức, cá nhân tôn giáo của các cơ quan chức năng tại địa phương như thế nào?
Tốt
Bình thường
Chưa tốt
Chung
Nhóm đối tượng
STT
SL %
SL
%
SL
%
SL %
khảo sát
1
Chức sắc tôn giáo
7
8.75
5
6.25
68
85.00
80
100
liv
PHẦN II. KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ
TÍNH CẦN THIẾT, KHẢ THI CỦA CÁC GIẢI PHÁP
Câu 7. Theo Ông/ Bà để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quản lý nhà nước về
Công giáo, nhà nước nên tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật
nào dưới đây?
Mức độ cần thiết
STT
Cần thiết
Tổng
Quy định pháp luật cần điều chỉnh, sửa đổi
1 Quản lý các dòng tu Công giáo
SL % 31.0 68
Bình thường SL % 6.3 5
Không cần thiết SL % 8.8 7
SL % 80 100
2
62
77.5
11 13.8
7
8.8
80 100
Quản lý người vào tu, quản lý việc đào tạo chức sắc tôn giáo
3
80
100.0
0
0.0
0
0.0
80 100
Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
4
80
100.0
0
0.0
0
0.0
80 100
Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
5
80
100.0
0
0.0
0
0.0
80 100
Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Câu 8. Theo Ông/ Bà, chính quyền các cấp có cần thiết phải tạo các điều
kiện cho đồng bào giáo dân phát triển kinh tế, văn hóa xã hội không?
Chung
Cần thiết
Bình thường
Không cần thiết
STT
Nhóm đối tượng khảo sát
1
Chức sắc tôn giáo
SL 80
% 100.00
SL 0
% 0.00
SL 0
% 0.00
SL % 100 80
lv
Câu 9. Để giúp giáo dân phát triển kinh tế xã hội, chính quyền cần đầu tư
Tổng
Cần thiết
STT
vào lĩnh vực nào dưới đây?
Phương án đánh giá Không cần thiết
Bình thường
Lĩnh vực cần đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội
SL %
SL %
SL %
SL %
1 Cơ sở hạ tầng xã hội
80 100.0 0
0.0
0
0.0
80 100
2 Chăm sóc y tế, an sinh xã hội
39
48.8 13 16.3 28 35.0 80 100
3
47
58.8 18 22.5 15 18.8 80 100
4
69
86.3
7
8.8
4
5.0
80 100
5
59
73.8 13 16.3
8
10.0 80 100
Phát triển nhà ở xã hội cho công nhân Giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên Công giáo, tạo công ăn việc làm cho thanh niên Công giáo Quy hoạch đất đai sản xuất, chăn nuôi
6
80 100.0 0
0.0
0
0.0
80 100
Hỗ trợ kinh phí, vốn để giáo dân tăng gia, sản xuất, khởi nghiệp
lvi
Phụ lục 5. Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát về thực trạng QLNN về
Công giáo ở Đông Nam Bộ và khảo nghiệm tính cần thiết, khả thi của các giải
pháp đề xuất ở Đông Nam Bộ
PHẦN I. KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG
QLNN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CÔNG GIÁO Ở ĐÔNG NAM BỘ
STT
Tích cực
Tổng
Câu 1. Theo Ông/Bà, Công giáo ảnh hưởng như thế nào tới đời sống xã hội ở nước ta?
Lĩnh vực ảnh hưởng
Chiều hướng ảnh hưởng Cả tích cực và tiêu cực SL %
Không tích cực SL %
SL %
SL % Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
1
86
47.8
37 20.6 57
31.7 180 100
Thói quen, nếp sống và phong tục tập quán
16
2 Chính trị - xã hội
8.9
127 70.6 37
20.6 180 100
96
3 Kinh tế - xã hội
53.3
23 12.8 61
33.9 180 100
4 Giáo dục, đào tạo
114 63.3
31 17.2 35
19.4 180 100
5 Khối đại đoàn kết toàn dân
26
14.4 103 57.2 51
28.3 180 100
6 Đạo đức xã hội
132 73.3
19 10.6 29
16.1 180 100
Cán bộ MTTQ và đoàn thể
1
38
47.5
11 13.8 31
38.8
80 100
Thói quen, nếp sống và phong tục tập quán
9
2 Chính trị - xã hội
11.3
57 71.3 14
17.5
80 100
48
3 Kinh tế - xã hội
60.0
11 13.8 21
26.3
80 100
54
4 Giáo dục, đào tạo
67.5
9
11.3 17
21.3
80 100
11
5 Khối đại đoàn kết toàn dân
13.8
52 65.0 17
21.3
80 100
51
6 Đạo đức xã hội
63.8
8
10.0 21
26.3
80 100
Chức sắc Công giáo
1
36
45.0
8.8
37
46.3
80 100
7
Thói quen, nếp sống và phong tục tập quán
2 Chính trị - xã hội
46
57.5
34
42.5
80 100
0
0.0
3 Kinh tế - xã hội
56
70.0
24
30.0
80 100
0
0.0
4 Giáo dục, đào tạo
80 100.0
0
0.0
80 100
0
0.0
5 Khối đại đoàn kết toàn dân
62
77.5
18
22.5
80 100
0
0.0
6 Đạo đức xã hội
80 100.0
0
0.0
80 100
0
0.0
lvii
Chung cả ba nhóm
1
160 47.1
55 16.2 125 36.8 340 100
Thói quen, nếp sống và phong tục tập quán
2 Chính trị - xã hội
71
20.9 184 54.1 85
25.0 340 100
3 Kinh tế - xã hội
200 58.8
34 10.0 106 31.2 340 100
4 Giáo dục, đào tạo
248 72.9
40 11.8 52
15.3 340 100
5 Khối đại đoàn kết toàn dân
99
29.1 155 45.6 86
25.3 340 100
6 Đạo đức xã hội
263 77.4
27
7.9
50
14.7 340 100
Câu 2. Xin Ông/ Bà cho ý kiến của mình về mức độ phù hợp của hệ thống
STT
Tổng
pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam trong một số quy định hoạt động tôn giáo?
Lĩnh vực ảnh hưởng
Chưa phù hợp SL %
SL %
Mức độ phù hợp Bình Rất thường phù hợp SL % SL % Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
142
78.9
27 15.0
11
6.1
180 100
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức
93
51.7
52 28.9
35
19.4 180 100
sắc tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có
47
26.1
62 34.4
71
39.4 180 100
yếu tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc
53
29.4
47 26.1
80
44.4 180 100
tôn giáo
81
45.0
37 20.6
62
34.4 180 100
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
33
18.3
46 25.6 101 56.1 180 100
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
68
37.8
52 28.9
60
33.3 180 100
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của
78
43.3
56 31.1
46
25.6 180 100
các tổ chức tôn giáo
26
14.4
34 18.9 120 66.7 180 100
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
lviii
Cán bộ MTTQ và đoàn thể
63
78.8
11 13.8
6
7.5
80 100
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức
46
57.5
20 25.0
14
17.5
80 100
sắc tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có
23
28.8
38 47.5
19
23.8
80 100
yếu tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc
37
46.3
35 43.8
8
10.0
80 100
tôn giáo
39
48.8
18 22.5
23
28.8
80 100
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
21
26.3
11 13.8
48
60.0
80 100
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
37
46.3
19 23.8
24
30.0
80 100
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của
22
27.5
17 21.3
41
51.3
80 100
các tổ chức tôn giáo
14
17.5
17 21.3
49
61.3
80 100
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Chức sắc Công giáo
47
58.8
25 31.3
8
10.0
80 100
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức
17
21.3
18 22.5
45
56.3
80 100
sắc tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có
11
13.8
27 33.8
42
52.5
80 100
yếu tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc
21
26.3
13 16.3
46
57.5
80 100
tôn giáo
19
23.8
7
8.8
54
67.5
80 100
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
0
0.0
8
10.0
72
90.0
80 100
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
lix
4
5.0
9
11.3
67
83.8
80 100
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của
8
10.0
12 15.0
60
75.0
80 100
các tổ chức tôn giáo
0
0.0
4
5.0
76
95.0
80 100
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Chung cả ban nhóm
252
74.1
63 18.5
25
7.4
340 100
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức
156
45.9
90 26.5
94
27.6 340 100
sắc tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có
81
23.8
127 37.4 132 38.8 340 100
yếu tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc
111
32.6
95 27.9 134 39.4 340 100
tôn giáo
139
40.9
62 18.2 139 40.9 340 100
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
54
15.9
65 19.1 221 65.0 340 100
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
109
32.1
80 23.5 151 44.4 340 100
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của
108
31.8
85 25.0 147 43.2 340 100
các tổ chức tôn giáo
40
11.8
55 16.2 245 72.1 340 100
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
lx
Câu 3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp ở địa phương
Rất phù hợp Chưa phù hợp
Tổng
STT
Ông/ Bà hiện nay đã phù hợp chưa?
Nhóm đối tượng khảo sát
SL
%
SL
%
SL %
1
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
20.56
143
79.44
180 100
37
2
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
27.50
58
72.50
80 100
22
22.69
201
77.31
260 100
59
Tổng hai nhóm
Câu 4. Xin Ông/ Bà cho biết về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và phẩm
Tốt
Chưa tốt
Tổng
STT
chất đạo đức của cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo hiện nay ở địa phương?
Phương diện đánh giá
Phương án đánh giá Bình thường
SL %
SL %
SL %
SL %
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
1
Trình độ chuyên môn
68 37.78 38 21.11 74 41.11 180 100
2 Kinh nghiệm công tác
35 19.44 37 20.56 108 60.00 180 100
3
Phẩm chất đạo đức
117 65.00 38 21.11 25 13.89 180 100
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
1
Trình độ chuyên môn
29 36.25 21 26.25 30 37.50 80 100
2 Kinh nghiệm công tác
18 22.50 14 17.50 48 60.00 80 100
3
Phẩm chất đạo đức
46 57.50 23 28.75 11 13.75 80 100
Chức sắc Công giáo
1
Trình độ chuyên môn
42 52.50 19 23.75 19 23.75 80 100
2 Kinh nghiệm công tác
12 15.00 12 15.00 56 70.00 80 100
3
Phẩm chất đạo đức
67 83.75
6
7.50
7
8.75
80 100
Chung ba nhóm khách thể
1
Trình độ chuyên môn
139 40.88 78 22.94 123 36.18 340 100
2 Kinh nghiệm công tác
65 19.12 63 18.53 212 62.35 340 100
3
Phẩm chất đạo đức
230 67.65 67 19.71 43 12.65 340 100
lxi
Câu 5. Theo Ông/ Bà việc tuyên truyền và phổ biến pháp luật về tôn giáo những
năm qua ở tại địa phương đã được chính quyền thực hiện tốt hay chưa?
Chung
Tốt
Chưa tốt
Bình thường
STT
Nhóm đối tượng khảo sát
SL %
SL %
SL %
SL %
1 Cán bộ, công chức QLNN về tôn
69 38.33 47 26.11 64 35.56 180 100
giáo
2 Cán bộ MTTQ, đoàn thể
26 32.50 21 26.25 33 41.25 80 100
95 36.54 68 26.15 97 37.31 260 100
Tổng hai nhóm
Câu 6. Ông/ Bà đánh giá mức độ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối
với hoạt động dưới đây của chính quyền địa phương như thế nào?
Mức độ thực hiện
STT
Tốt
Chưa tốt
Tổng
Lĩnh vực ảnh hưởng
Bình thường
SL %
SL %
SL %
SL %
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
97 53.9 32 17.8 51 28.3 180 100
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức sắc
73 40.6 58 32.2 49 27.2 180 100
tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có yếu
32 17.8 41 22.8 107 59.4 180 100
tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc tôn giáo 68 37.8 46 25.6 66 36.7 180 100
83 46.1 46 25.6 51 28.3 180 100
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
29 16.1 37 20.6 114 63.3 180 100
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
47 26.1 48 26.7 85 47.2 180 100
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của các
25 13.9 48 26.7 107 59.4 180 100
tổ chức tôn giáo
16
8.9
22 12.2 142 78.9 180 100
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân
lxii
đạo của các tổ chức tôn giáo.
Cán bộ MTTQ và đoàn thể
48 60.0 18 22.5 14 17.5 80 100
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức sắc
46 57.5 28 35.0
6
7.5
80 100
tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có yếu
11 13.8 23 28.8 46 57.5 80 100
tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc tôn
31 38.8 16 20.0 33 41.3 80 100
giáo
32 40.0 22 27.5 26 32.5 80 100
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
9
11.3 14 17.5 57 71.3 80 100
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
24 30.0 20 25.0 36 45.0 80 100
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của các
10 12.5 12 15.0 58 72.5 80 100
tổ chức tôn giáo
7
8.8
13 16.3 60 75.0 80 100
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Chức sắc Công giáo
23 31.0 25 31.3 32 40.0 80 100
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức sắc
7
8.8
12 15.0 61 76.3 80 100
tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có yếu
9
11.3 16 20.0 55 68.8 80 100
tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc tôn
11 13.8 10 12.5 59 73.8 80 100
giáo
8
10.0 11 13.8 61 76.3 80 100
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
lxiii
2
2.5
7
8.8
71 88.8 80 100
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
3
3.8
8
10.0 69 86.3 80 100
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của các
10 12.5
8
10.0 62 77.5 80 100
tổ chức tôn giáo
1
6.0
4
5.0
75 93.8 80 100
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Chung cả ba nhóm
168 49.4 75 22.1 97 28.5 340 100
1 Quản lý tổ chức tôn giáo, việc chia tách, sát nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo
2 Quản lý hoạt động của các chức sắc
126 37.1 98 28.8 116 34.1 340 100
tôn giáo
3 Quản lý hoạt động tôn giáo có yếu
52 15.3 80 23.5 208 61.2 340 100
tố nước ngoài
4 Quản lý việc đào tạo chức sắc tôn
110 32.4 72 21.2 158 46.5 340 100
giáo
123 36.2 79 23.2 138 40.6 340 100
5 Quản lý việc tổ chức những lễ hội, hội nghị, đại hội của tôn giáo các cấp
40 11.8 58 17.1 242 71.2 340 100
6 Quản lý nhà đất, việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình kiến trúc tôn giáo
74 21.8 76 22.4 190 55.9 340 100
7 Quản lý việc phong phẩm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi miễn có liên quan đến tôn giáo
8 Quản lý quan hệ quốc tế của các
45 13.2 68 20.0 227 66.8 340 100
tổ chức tôn giáo
24
7.1
39 11.5 277 81.5 340 100
9 Quản lý các hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
lxiv
Câu 7. Ý kiến của Ông/ bà về mức độ phối hợp giữa các cơ quan Dân vận,
MTTQ,và các cơ quan Chính trị - Xã hội trong việc vận động chức sắc, tín đồ Công
giáo ở tại địa phương?
Tốt
Bình thường
Chưa tốt
Chung
STT
Nhóm đối tượng khảo sát
SL %
SL
%
SL
%
SL %
1
74 41.11
46
25.56
60
33.33
180
100
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
2
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
35 43.75
22
27.50
23
28.75
80
100
109 41.92
68
26.15
83
31.92
260
100
Tổng hai nhóm
Câu 8. Xin Ông/ Bà cho biết, việc thanh tra, kiểm tra việc thực thi chính
Chung
Tốt
Chưa tốt
Bình thường
STT
Nhóm đối tượng khảo sát
SL %
SL %
SL %
SL %
1 Cán bộ, công chức QLNN về
38 21.11 42 23.33 100 55.56 180 100
tôn giáo
2 Cán bộ MTTQ, đoàn thể
18 22.50 21 26.25 41 51.25 80 100
56 21.54 63 24.23 141 54.23 260 100
sách pháp luật về tôn giáo đã tốt hay chưa?
Tổng hai nhóm
Câu 9. Ý kiến của Ông/ bà về mức độ giải quyết những kiến nghị, khiếu nại của
Chung
Tốt
Chưa tốt
Bình thường
STT
Nhóm đối tượng khảo sát
SL %
SL %
SL %
SL %
1 Cán bộ, công chức QLNN về
41 22.78 32 17.78 107 59.44 180 100
tôn giáo
2 Cán bộ MTTQ, đoàn thể
16 20.00 14 17.50 50 62.50 80 100
3 Chức sắc tôn giáo
7
8.75
5
6.25
68 85.00 80 100
64 18.82 51 15.00 225 66.18 340 100
các tổ chức, cá nhân tôn giáo của các cơ quan chức năng tại địa phương như thế nào?
Tổng ba nhóm
lxv
PHẦN II. KẾT QUẢ KHẢO SÁT
VỀ TÍNH CẦN THIẾT, KHẢ THI CỦA CÁC GIẢI PHÁP
Câu 10. Theo Ông/ Bà để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quản lý nhà nước về
Công giáo, nhà nước nên tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật
nào dưới đây?
Mức độ cần thiết
Bình
Không
Quy định pháp luật cần điều
STT
Cần thiết
Tổng
thường
cần thiết
chỉnh, sửa đổi
SL %
SL %
SL %
SL %
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
1 Quản lý các dòng tu Công giáo
147 81.7
21 11.7 12
6.7
180 100
Quản lý người vào tu, quản lý
92
51.1
65 36.1 23 12.8 180 100
2
việc đào tạo chức sắc tôn giáo
Quản lý nhà đất, việc cải tạo,
3
nâng cấp, xây dựng mới công
167 92.8
11
6.1
2
1.1
180 100
trình kiến trúc tôn giáo
Quản lý việc phong phẩm, bầu
4
cử, suy cử, cách chức, bãi miễn
71
39.4
58 32.2 51 28.3 180 100
có liên quan đến tôn giáo
Quản lý hoạt động xuất bản, giáo
dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện
5
158 87.8
14
7.8
8
4.4
180 100
nhân đạo của các tổ chức tôn
giáo
Cán bộ MTTQ và đoàn thể
1 Quản lý các dòng tu Công giáo
63
78.8
11 13.8
6
7.5
80 100
Quản lý người vào tu, quản lý
2
44
55.0
28 35.0
8
10.0
80 100
việc đào tạo chức sắc tôn giáo
Quản lý nhà đất, việc cải tạo,
3
nâng cấp, xây dựng mới công
71
88.8
4
5.0
5
6.3
80 100
trình kiến trúc tôn giáo
lxvi
Quản lý việc phong phẩm, bầu
4
cử, suy cử, cách chức, bãi miễn
37
46.3
17 21.3 26 32.5
80 100
có liên quan đến tôn giáo
Quản lý hoạt động xuất bản, giáo
5
dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện
69
86.3
7
8.8
4
5.0
80 100
nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
1 Quản lý các dòng tu Công giáo
5
6.3
7
8.8
80 100
Chức sắc Công giáo 68
31.0
Quản lý người vào tu, quản lý
2
62
77.5
11 13.8
7
8.8
80 100
việc đào tạo chức sắc tôn giáo
Quản lý nhà đất, việc cải tạo,
3
nâng cấp, xây dựng mới công
80 100.0
0
0.0
0
0.0
80 100
trình kiến trúc tôn giáo
Quản lý việc phong phẩm, bầu
4
cử, suy cử, cách chức, bãi miễn
80 100.0
0
0.0
0
0.0
80 100
có liên quan đến tôn giáo
Quản lý hoạt động xuất bản, giáo
5
dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện
80 100.0
0
0.0
0
0.0
80 100
nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
Chung cả ba nhóm
1 Quản lý các dòng tu Công giáo
278 81.8
37 10.9 25
7.4
340 100
Quản lý người vào tu, quản lý
2
198 58.2 104 30.6 38 11.2 340 100
việc đào tạo chức sắc tôn giáo
Quản lý nhà đất, việc cải tạo,
3
nâng cấp, xây dựng mới công
318 93.5
15
4.4
7
2.1
340 100
trình kiến trúc tôn giáo
Quản lý việc phong phẩm, bầu
4
cử, suy cử, cách chức, bãi miễn
188 55.3
75 22.1 77 22.6 340 100
có liên quan đến tôn giáo
Quản lý hoạt động xuất bản, giáo
5
dục, y tế; bảo trợ xã hội, từ thiện
307 90.3
21
6.2
12
3.5
340 100
nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
lxvii
Câu 11. Theo Ông/ Bà, các cơ quan QLNN về tôn giáo có cần thiết phải đổi mới
Chung
Cần thiết
Không cần thiết
STT
hình thức và phương pháp vận động, thuyết phục chức sắc, tín đồ Công giáo không?
Nhóm đối tượng khảo sát
SL %
%
SL %
SL
48
1 Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo 132 73.33
26.67
180
100
22
2 Cán bộ MTTQ, đoàn thể
58
72.50
27.50
80
100
70
190 73.08
26.92
260
100
Tổng hai nhóm
Câu 12. Ông/ Bà chọn phương hướng hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà
STT
Phù hợp
Tổng
nước về tôn giáo các cấp theo phương án nào dưới đây?
Phương hướng hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo
Phương án đánh giá Bình thường SL %
Không phù hợp SL %
SL %
SL %
1 Giữ nguyên như hiện trạng
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo 11
6.1 22 12.2 147 81.7 180 100
Tách ra khỏi cơ quan Nội vụ trở
2
thành cơ quan tham mưu cho Chính
37 20.6 29 16.1 114 63.3 180 100
phủ và UBND các cấp độc lập
Tách ra khỏi cơ quan Nội vụ, sát
nhập với Ủy ban Dân tộc ở Trung
132 73.3 26 14.4 22 12.2 180 100
3
ương và Ban Dân tộc ở cấp tỉnh,
Phòng Dân tộc ở cấp huyện
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
1 Giữ nguyên như hiện trạng
6
7.5 18 22.5 56 70.0 80 100
Tách ra khỏi cơ quan Nội vụ trở
thành cơ quant tham mưu cho
2
14 17.5 17 21.3 49 61.3 80 100
Chính phủ và UBND các cấp độc
lập
Tách ra khỏi cơ quan Nội vụ, sát
nhập với Ủy ban Dân tộc ở Trung
3
60 75.0 10 12.5 10 12.5 80 100
ương và Ban Dân tộc ở cấp tỉnh,
Phòng Dân tộc ở cấp huyện
lxviii
Chung hai nhóm
1 Giữ nguyên như hiện trạng
17
6.5 40 15.4 203 78.1 260 100
Tách ra khỏi cơ quan Nội vụ trở
thành cơ quan tham mưu cho
2
51 19.6 46 17.7 163 62.7 260 100
Chính phủ và UBND các cấp độc
lập
Tách ra khỏi cơ quan Nội vụ, sát
nhập với Ủy ban Dân tộc ở Trung
3
192 73.8 36 13.8 32 12.3 260 100
ương và Ban Dân tộc ở cấp tỉnh,
Phòng Dân tộc ở cấp huyện
Câu 13. Theo Ông/ Bà để nâng cao năng lực cho đội ngũ CBCC quản lý nhà
nước về tôn giáo các cấp, chính quyền các tỉnh, thành phố Đông Nam Bộ phải thực
hiện theo phương hướng nào dưới đây?
Phương án đánh giá
Tổng
STT
Phù hợp
Bình thường
Không phù hợp
Phương hướng hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo
SL %
SL %
SL %
SL %
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
1
123 68.3 37 20.6 20
11.1 180 100
Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt công tác quy hoạch CBCC
2
156 86.7 13
7.2
11
6.1
180 100
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng cho CBCC
3
147 81.7 24 13.3
9
5.0
180 100
Đổi mới về chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ CBCC
4
93 51.7 47 26.1 40
22.2 180 100
Thực hiện tốt chính sách thi đua, khen thưởng đối với đội ngũ CBCC
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
1
52 65.0 18 22.5 10
12.5
80 100
Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt công tác quy hoạch CBCC
2
63 78.8 12 15.0
5
6.3
80 100
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng cho CBCC
lxix
3
64 80.0
8
10.0
8
10.0
80 100
Đổi mới về chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ CBCC
4
46 57.5 19 23.8 15
18.8
80 100
Thực hiện tốt chính sách thi đua, khen thưởng đối với đội ngũ CBCC
Chung hai nhóm
1
175 67.3 55 21.2 30
11.5 260 100
Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt công tác quy hoạch CBCC
2
219 84.2 25
9.6
16
6.2
260 100
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng cho CBCC
3
211 81.2 32 12.3 17
6.5
260 100
Đổi mới về chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ CBCC
4
139 53.5 66 25.4 55
21.2 260 100
Thực hiện tốt chính sách thi đua, khen thưởng đối với đội ngũ CBCC
Câu 14. Theo Ông/ Bà, chính quyền các cấp có cần thiết phải tạo các điều
Chung
Cần thiết
Bình thường
Không cần thiết
kiện cho đồng bào giáo dân phát triển kinh tế, văn hóa xã hội không?
STT Nhóm đối tượng khảo sát
SL
%
SL %
SL
%
SL %
1
162 90.00
11 6.11
3.89
180 100
7
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
2
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
69
86.25
7
8.75
5.00
80 100
4
3
Chức sắc tôn giáo
80 100.00
0
0.00
0.00
80 100
0
311 91.47
18 5.29
11
3.24
340 100
Tổng ba nhóm
Câu 15. Để giúp giáo dân phát triển kinh tế xã hội, chính quyền cần đầu tư
Tổng
STT
Cần thiết
vào lĩnh vực nào dưới đây?
Phương án đánh giá Bình thường
Lĩnh vực cần đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội
Không cần thiết SL %
SL %
SL %
SL % Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
8.3
1 Cơ sở hạ tầng xã hội 2 Chăm sóc y tế, an sinh xã hội
129 132
71.7 73.3
36 20.0 15 180 100 30 16.7 18 10.0 180 100
lxx
3 114 63.3 42 23.3 24 13.3 180 100
4 126 70.0 28 15.6 26 14.4 180 100
6
138
76.7
23 12.8 19 10.6 180 100
5 97 53.9 47 26.1 36 20.0 180 100
Phát triển nhà ở xã hội cho công nhân Giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên Công giáo, tạo công ăn việc làm cho thanh niên Công giáo Quy hoạch đất đai sản xuất, chăn nuôi Hỗ trợ kinh phí, vốn để giáo dân tăng gia, sản xuất, khởi nghiệp
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
15 18.8
11.3
80
56 58
70.0 100 9 72.5 14 17.5 8 10.0 80 100
3 52 65.0 18 22.5 10 12.5 80 100
4 52 65.0 17 21.3 11 13.8 80 100
5 32 40.0 22 27.5 26 32.5 80 100
1 Cơ sở hạ tầng xã hội 2 Chăm sóc y tế, an sinh xã hội Phát triển nhà ở xã hội cho công nhân Giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên Công giáo, tạo công ăn việc làm cho thanh niên Công giáo Quy hoạch đất đai sản xuất, chăn nuôi Hỗ trợ kinh phí, vốn để giáo dân tăng gia, sản xuất, khởi nghiệp
6 61 76.3 11 13.8 8 10.0 80 100
Chức sắc Công giáo 0.0 0.0 80 100.0 0 39 80 100 0 48.8 13 16.3 28 35.0 80 100
3 47 58.8 18 22.5 15 18.8 80 100
4 69 86.3 7 8.8 4 5.0 80 100
5 59 73.8 13 16.3 8 10.0 80 100
6 80 100.0 0 0.0 0 0.0 80 100 1 Cơ sở hạ tầng xã hội 2 Chăm sóc y tế, an sinh xã hội Phát triển nhà ở xã hội cho công nhân Giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên Công giáo, tạo công ăn việc làm cho thanh niên Công giáo Quy hoạch đất đai sản xuất, chăn nuôi Hỗ trợ kinh phí, vốn để giáo dân tăng gia, sản xuất, khởi nghiệp Chung ba nhóm
265 77.9 52 15.3 44 12.9 340 100 229 67.4 57 16.8 54 15.9 340 100
3 213 62.6 78 22.9 49 14.4 340 100 1 Cơ sở hạ tầng xã hội 2 Chăm sóc y tế, an sinh xã hội Phát triển nhà ở xã hội cho công nhân 4 Giáo dục nghề nghiệp cho 247 72.6 52 15.3 41 12.1 340 100
lxxi
5 188 55.3 82 24.1 70 20.6 340 100
6 279 82.1 34 10.0 27 7.9 340 100
thanh niên Công giáo, tạo công ăn việc làm cho thanh niên Công giáo Quy hoạch đất đai sản xuất, chăn nuôi Hỗ trợ kinh phí, vốn để giáo dân tăng gia, sản xuất, khởi nghiệp
Câu 16. Theo Ông/ Bà, có cần thiết phải đổi mới quản lý hoạt động sử dụng
đất đai; xây dựng, sửa chữa công trình kiến trúc và giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo
của các tổ chức Công giáo không?
Phương án đánh giá
Tổng
STT
Phù hợp
Lĩnh vực cần phải đổi mới
Bình thường
Không phù hợp
SL %
SL %
SL %
SL %
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
1
136 75.6 24 13.3 20
11.1 180 100
Sử dụng đất của các tổ chức Công giáo
2
128 71.1 28 15.6 24
13.3 180 100
Xây dựng, sửa chữa, cơi nới, nâng cấp các công trình kiến trúc Công giáo
3
157 87.2 13
7.2
10
5.6
180 100
Hoạt động giáo dục, y tế Công giáo
4 Hoạt động từ thiện, nhân đạo
151 83.9 16
8.9
13
7.2
180 100
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
1
54 67.5 16 20.0 10
12.5
80 100
Sử dụng đất của các tổ chức Công giáo
2
58 72.5 12 15.0 10
12.5
80 100
Xây dựng, sửa chữa, cơi nới, nâng cấp các công trình kiến trúc Công giáo
3
61 76.3
9
11.3 10
12.5
80 100
Hoạt động giáo dục, y tế Công giáo
4 Hoạt động từ thiện, nhân đạo
55 68.8 14 17.5 11
13.8
80 100
Chung hai nhóm
1
190 73.1 40 15.4 30
11.5 260 100
Sử dụng đất của các tổ chức Công giáo
lxxii
2
186 71.5 40 15.4 34
13.1 260 100
Xây dựng, sửa chữa, cơi nới, nâng cấp các công trình kiến trúc Công giáo
3
218 83.8 22
8.5
20
7.7
260 100
Hoạt động giáo dục, y tế Công giáo
4 Hoạt động từ thiện, nhân đạo
206 79.2 30 11.5 24
9.2
260 100
Câu 17. Để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi
chính sách pháp luật nhà nước về tôn giáo chúng ta cần tập trung vào những nội
dung nào dưới đây?
Phương án đánh giá
Tổng
STT
Phù hợp
Bình thường
Không phù hợp
Lĩnh vực cần tập trung thanh tra
SL %
SL %
SL %
SL %
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
1
143 79.4 25 13.9 12
6.7
180 100
Thanh tra, kiểm tra việc thực thi chính sách, pháp luật về tôn giáo của chính quyền các cấp
2
156 86.7 17
9.4
7
3.9
180 100
Thanh tra, kiểm tra về chất lượng đội ngũ quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp
3
164 91.1
8
4.4
8
4.4
180 100
Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo của các cơ sở Công giáo
4
168 93.3
5
2.8
7
3.9
180 100
Thanh tra, kiểm tra việc đầu tư cơ sở vật chất, phát triển kinh tế của chính quyền các cấp ở vùng giáo
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
1
58 72.5 14 17.5
8
10.0
80 100
Thanh tra, kiểm tra việc thực thi chính sách, pháp luật về tôn giáo của chính quyền các cấp
2
62 77.5 11 13.8
7
8.8
80 100
Thanh tra, kiểm tra về chất lượng đội ngũ quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp
3
71 88.8
7
8.8
2
2.5
80 100
Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo của các cơ sở Công giáo
4
Thanh tra, kiểm tra việc đầu tư cơ 73 91.3
5
6.3
2
2.5
80 100
lxxiii
sở vật chất, phát triển kinh tế của chính quyền các cấp ở vùng giáo
Chung hai nhóm
1
201 77.3 39 15.0 20
7.7
260 100
Thanh tra, kiểm tra việc thực thi chính sách, pháp luật về tôn giáo của chính quyền các cấp
2
218 83.8 28 10.8 14
5.4
260 100
Thanh tra, kiểm tra về chất lượng đội ngũ quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp
3
235 90.4 15
5.8
10
3.8
260 100
Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo của các cơ sở Công giáo
4
241 92.7 10
3.8
9
3.5
260 100
Thanh tra, kiểm tra việc đầu tư cơ sở vật chất, phát triển kinh tế của chính quyền các cấp ở vùng giáo
Câu 19. Theo Ông/ Bà, để thực hiện tốt nhiệm vụ phòng ngừa hành vi lợi
dụng Công giáo, các cơ quan chức năng cần tập trung vào những biện pháp nào
dưới đây?
Phương án đánh giá
Tổng
STT
Phù hợp
Bình thường
Không phù hợp
Lĩnh vực cần tập trung thanh tra
SL %
SL %
SL %
SL %
Cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo
1
158 87.8 14
7.8
8
4.4
180 100
Tăng cường nắm vững tình hình diễn biến bất thường ở vùng giáo
2
152 84.4 16
8.9
12
6.7
180 100
Xây dựng mạng lưới cốt cán đạo đông đảo về số lượng, mạnh về chất lượng
3
124 68.9 34 18.9 22
12.2 180 100
Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong công tác tôn giáo
4
157 87.2
8
4.4
15
8.3
180 100
Chủ động đối thoại với chức sắc, tín đồ Công giáo
5
180 100
0
0
0
0
180 100
Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng Công giáo để gây rối, ảnh hưởng tới an ninh, trât tự
Cán bộ MTTQ, đoàn thể
lxxiv
1
63 78.8
8
10.0
9
11.3
80 100
Tăng cường nắm vững tình hình diễn biến bất thường ở vùng giáo
2
64 80.0 12 15.0
4
5.0
80 100
Xây dựng mạng lưới cốt cán đạo đông đảo về số lượng, mạnh về chất lượng
3
68 85.0
7
8.8
5
6.3
80 100
Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong công tác tôn giáo
4
72 90.0
3
3.8
5
6.3
80 100
Chủ động đối thoại với chức sắc, tín đồ Công giáo
5
76
95
3
3.75
1
1.25
80 100
Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng Công giáo để gây rối, ảnh hưởng tới an ninh, trât tự
Chung hai nhóm
1
221 85.0 22
8.5
17
6.5
260 100
Tăng cường nắm vững tình hình diễn biến bất thường ở vùng giáo
2
216 83.1 28 10.8 16
6.2
260 100
Xây dựng mạng lưới cốt cán đạo đông đảo về số lượng, mạnh về chất lượng
3
192 73.8 41 15.8 27
10.4 260 100
Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong công tác tôn giáo
4
229 88.1 11
4.2
20
7.7
260 100
Chủ động đối thoại với chức sắc, tín đồ Công giáo
5
256 98.5
3
1.2
1
0.4
260 100
Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng Công giáo để gây rối, ảnh hưởng tới an ninh, trât tự
lxxv
Phụ lục 6. Phân bổ mẫu khảo sát
1. Quy mô khảo sát
- Tiến hành khảo sát với quy mô 340 phiếu điều tra.
- Thời gian tổ chức điều tra: Từ ngày 02/4/2018 đến 19/5/2018.
- Địa điểm tổ chức điều tra: 6 tỉnh/ thành Đông Nam Bộ.
2. Đối tượng khảo sát
Gồm 3 loại đối tượng:
- Đối tượng 1: Cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo ở 3 cấp hành
chính: Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã
- Đối tượng 2: Cán bộ Mặt trận tổ quốc và cán bộ các đoàn thể (Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh; Hội liên hiệp phụ nữ; Cựu chiến binh) ở 3 cấp hành chính: Tỉnh/
huyện/ xã.
- Đối tượng 3: Chức sắc Công giáo, là các linh mục tại các giáo xứ, giáo họ.
3. Về phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu theo phương pháp vừa tính xác xuất, vừa mang tính phi xác xuất
và sử dụng phương pháp chuyên gia để định hướng khảo sát, điều tra.
4. Về phân bổ và cơ cấu mẫu
CB,CC QLNN CB MTTQ
về tôn giáo và đaòn thể STT Tỉnh/ Thành phố Chức sắc Tổng Tỉnh/ Tỉnh/ Xã Xã huyện huyện
15 3 7 5 10 40 Bà Rịa - Vũng Tàu 1
11 3 7 4 10 35 2 Bình Dương
11 3 7 4 10 35 3 Bình Phước
40 5 15 20 20 100 4 Đồng Nai
40 5 15 20 20 100 5 TP. HCM
7 3 7 3 10 30 6 Tây Ninh
124 22 58 56 80 340 Tổng cộng
lxxvi
Phụ lục 7. Thống kê về chất lượng cán bộ, công chức QLNN về tôn giáo các cấp
ở Đông Nam Bộ
Bảng số 1: Thống kê về số lượng, đội ngũ CBCC QLNN về tôn giáo
các tỉnh/ thành vùng Đông Nam Bộ
Cấp tỉnh Cấp huyện Cấp xã Tổng số S Tỉnh/Thành STT SL % SL % SL % SL %
1 Bà Rịa - Vũng Tàu 10.53 15 13.16 87 76.32 114 100.00 12
2 10 9.90 8 7.92 83 82.18 101 100.00 Bình Dương
3 14 40.00 19 54.29 2 5.71 35 100.00 Bình Phước
4 25 11.36 21 9.55 174 79.09 220 100.00 Đồng Nai
5 22 5.58 50 12.69 322 81.73 394 100.00 TP. HCM
6 19 14.50 16 12.21 96 73.28 131 100.00 Tây Ninh
Tổng/ Tỷ lệ trung bình % 102 15.31 129 18.30 764 66.38 995 100.00
Nguồn: Điều tra thực tiễn của tác giả
Bảng số 2: Thống kê về cơ cấu giới, thành phần dân tộc và độ tuổi
của CBCC QLNN về tôn giáo các tỉnh/thành vùng Đông Nam Bộ
Giới Dân tộc Độ tuổi STT Tỉnh/Thành Nam Nữ Kinh DTTS <40 41-50 51-60
1 Bà Rịa – Vũng Tàu 20 7 27 0 13 7 7
2 Bình Dương 13 5 18 0 11 5 2
3 Bình Phước 26 7 30 3 25 4 4
4 Đồng Nai 27 19 44 2 24 14 8
5 TP. HCM 66 6 71 1 25 21 26
6 Tây Ninh 24 11 35 0 24 6 5
55 6 57 52 Tổng số 176 225 122
Nguồn: Tác giả khảo sát thực tiễn
lxxvii
Bảng số 03: Thống kê về trình độ chuyên môn
của CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo các tỉnh/thành vùng Đông Nam Bộ
Cao đẳng Sau đại học Đại học Tổng số trung cấp STT Tỉnh/Thành
SL % SL % SL % SL %
1 Bà Rịa – Vũng Tàu 23 85.19 14.81 27 100.00 0 4 0
2 Bình Dương 0 2 16 88.89 11.11 18 100.00 0
3 Bình Phước 3 3.03 29 87.88 9.09 33 100.00 1
4 Đồng Nai 6.52 33 71.74 10 21.74 46 100.00 3
5 TP. HCM 1.39 52 72.22 19 26.39 72 100.00 1
6 Tây Ninh 2.86 26 74.29 8 22.86 35 100.00 1
6 Tổng số 2.6 179 77.49 46 19.91 231 100.00
Nguồn: Tác giả khảo sát thực tiễn
Bảng số 4: Thống kê về trình độ QLNN
của CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo các tỉnh/thành vùng Đông Nam Bộ
CVCC CVC CV Tổng số STT Tỉnh/Thành Tổng số CBCC SL % SL % SL % SL %
– 27 1 3.70 5 18.52 11 40.74 17 62.96 1 Bà Rịa Vũng Tàu
2 Bình Dương 18 0 0.00 2 11.11 11 61.11 13 72.22
3 Bình Phước 33 0 0.00 3 9.09 10 30.30 13 39.39
4 Đồng Nai 46 0 0.00 5 10.87 31 67.39 36 78.26
5 TP. HCM 72 0 0.00 5 6.94 21 29.17 26 36.11
6 Tây Ninh 35 0 0.00 5 14.29 13 37.14 18 51.43
Tổng số 231 1 0.43 25 10.82 97 41.99 123 53.25
Nguồn: Tác giả điều tra thực tiễn
lxxviii
Bảng số 5: Thống kê về trình độ lí luận chính trị
của CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo tại các tỉnh/thành vùng Đông Nam Bộ
Sơ - Trung Cử nhân Cao cấp Tổng số Tổng số cấp STT Tỉnh/Thành CBCC SL % SL % SL % SL %
Bà Rịa – 1 27 2 7.41 4 14.81 13 48.15 19 70.37 Vũng Tàu
2 Bình Dương 18 1 5.56 3 16.67 9 50.00 13 72.22
3 Bình Phước 33 2 6.06 4 12.12 16 48.48 22 66.67
4 Đồng Nai 46 5 10.9 16 34.78 6 13.04 27 58.70
5 TP. HCM 72 11 15.3 19 26.39 29 40.28 59 81.94
6 Tây Ninh 35 0 0 14 40.00 4 11.43 18 51.43
Tổng số 231 21 9.09 60 25.97 77 33.33 158 68.40
Nguồn: Kết quả khảo sát thực tiễn của tác giả
Bảng số 06: Thống kê về trình độ tin học, ngoại ngữ
của CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo ở các tỉnh/thành vùng Đông Nam Bộ
Tin học Ngoại ngữ STT Tỉnh/Thành Tổng số CBCC SL % SL %
20 74.07 19 70.37 Bà Rịa – Vũng Tàu 1 27
15 83.33 15 83.33 2 Bình Dương 18
30 90.91 30 90.91 3 Bình Phước 33
34 73.91 30 65.22 4 Đồng Nai 46
68 94.44 63 87.50 5 TP. HCM 72
29 82.86 29 82.86 6 Tây Ninh 35
Tổng số 231 196 84.85 186 80.52
Nguồn: Khảo sát thực tiễn của tác giả
lxxix
Biểu đồ: Kinh nghiệm công tác của
CBCC chuyên trách QLNN về tôn giáo vùng Đông Nam Bộ
(Đơn vị tính: người)
Nguồn: Tác giả khảo sát thực tiễn
lxxx