BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
TẠ HOÀNG MAI ANH
CA KHÚC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: ÂM NHẠC HỌC
MÃ SỐ: 62 21 02 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ ÂM NHẠC HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS CÙ LỆ DUYÊN
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết
quả nghiên cứu đƣợc trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và
chƣa từng để bảo vệ ở bất kỳ học vị nào, các thông tin trích dẫn trong luận án
Hà Nội, ngày 2 tháng 2 năm 2020
này đều đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận án
Tạ Hoàng Mai Anh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CKNT CKNT
CKNTVN CKNTVN
Nghiên cứu sinh NCS
Nhà xuất bản Nxb
Phó Giáo sƣ PGS
Phụ lục PL
Romance thanh nhạc Romance TN
Thế kỷ TK
Tiến sỹ TS
Trang tr.
Ví dụ VD
0
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ HÌNH THÀNH THỂ LOẠI CA KHÚC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM ..................................................................................... 6 1.1. Thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật Việt Nam ........................................................... 6 1.1.1. Thuật ngữ ca khúc nghệ thuật trong các tài liệu nghiên cứu .................... 6 1.1.2. Thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật Việt Nam sử dụng trong luận án ............ 13 1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................... 16 1.2.1. Hệ thống các công trình nghiên cứu ....................................................... 16 1.2.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu ................................................................ 22 1.3. Sự hình thành thể loại Ca khúc nghệ thuật Việt Nam ....................................... 28 1.3.1. Các yếu tố ảnh hƣởng sự ra đời Ca khúc nghệ thuật Việt Nam .............. 29 1.3.2. Sự biến đổi của thể loại ca khúc.............................................................. 37 Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 46 CHƢƠNG 2: CA TỪ VÀ CẤU TRÚC ................................................................... 47 2.1. Đặc điểm ca từ .................................................................................................. 47 2.1.1. Tính hình tƣợng trong ca từ .................................................................... 47 2.1.2. Mối quan hệ giữa cấu trúc ca từ và hình thức âm nhạc .......................... 52 2.1.3. Sự ảnh hƣởng thanh âm tiếng Việt đến giai điệu .................................... 59 2.2. Phƣơng thức xây dựng cấu trúc tác phẩm ......................................................... 67 2.2.1. Xây dựng cơ cấu trong tác phẩm ............................................................ 68 2.2.2. Xây dựng các dạng cấu trúc .................................................................... 81 Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 92 CHƢƠNG 3: GIAI ĐIỆU VÀ PHẦN ĐỆM ........................................................... 93 3.1. Giai điệu ........................................................................................................... 93 3.1.1. Hình tƣợng trong giai điệu ...................................................................... 93 3.1.2. Âm điệu ................................................................................................... 96 3.1.3. Điệu thức............................................................................................... 104 3.1.4. Nhịp độ, tiết tấu..................................................................................... 110 3.1.5. Các kỹ thuật thanh nhạc ........................................................................ 112 3.2. Phần đệm ........................................................................................................ 117 3.2.1. Chức năng phần đệm ............................................................................ 117 3.2.2. Phần đệm trong việc xây dựng phần phụ .............................................. 128 3.2.3. Facture phần đệm ................................................................................. 134 3.2.4. Hòa âm .................................................................................................. 140 Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................. 154 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 155 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ .............................................. 159 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 160 PHỤ LỤC LUẬN ÁN ........................................................................................... 172
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử âm nhạc nhân loại, thể loại CKNT đƣợc hiểu tƣơng
đƣơng với các dạng ca khúc có phần đệm do chính tác giả sáng tác nhƣ
Romance thanh nhạc (Romance), Lied hay Mélodie. Dòng ca khúc này đƣợc
nhận định ra đời từ châu Âu và đến thời kỳ âm nhạc Lãng mạn, có một bƣớc
chuyển mình vĩ đại khi trở thành một thể loại âm nhạc hàn lâm độc lập, sánh
ngang cùng các thể loại khí nhạc đƣơng thời, khẳng định vị trí của mình trong
nền âm nhạc với ý nghĩa là một thể loại ca khúc có giá trị nghệ thuật cao bắt
buộc có phần đệm khí nhạc kèm theo.
Tại Việt Nam, nhƣ một trong những kết quả của các cuộc tiếp biến văn
hóa, từ giữa TK XX, thuật ngữ CKNT bắt đầu xuất hiện cùng với quá trình
hình thành nền âm nhạc chuyên nghiệp. Trong âm nhạc Việt Nam, thuật ngữ
CKNT đƣợc hiểu theo nhiều cách khác nhau, có thể là những ca khúc chỉ có
phần giai điệu, nhƣng có tính thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật cao, hoặc là
những ca khúc đƣợc sáng tác kèm theo phần đệm. Trong luận án, tôi lựa chọn
nghiên cứu CKNTVN có phần đệm khí nhạc cố định do chính tác giả sáng
tác, với mong muốn tập trung chuyên sâu vào những tác phẩm hoàn chỉnh các
yếu tố từ giai điệu cho tới các thủ pháp trong phần đệm và hòa âm theo ý đồ
sáng tác của ngƣời nhạc sĩ. Đó cũng chính là nội hàm của thuật ngữ Ca khúc
nghệ thuật Việt Nam đƣợc dùng trong khuôn khổ luận án này. Các tác phẩm
CKNTVN là kết quả của nền âm nhạc chuyên nghiệp, đạt đƣợc những giá trị
nghệ thuật hàn lâm nhất định nhƣng vẫn gần gũi, theo sát cuộc sống của con
ngƣời. Chính vì vậy, đây là một thể loại có thể trở thành cầu nối giữa công
chúng nghe nhạc với thể loại âm nhạc hàn lâm - một dòng nhạc vẫn chƣa thực
sự đƣợc phổ biến một cách rộng rãi tại Việt Nam. Đặc biệt ngày nay, khi
những trào lƣu âm nhạc du nhập ồ ạt từ nƣớc ngoài, cùng một thực trạng là
khả năng phân loại, chọn lọc của giới trẻ đối với những tác phẩm âm nhạc
2
thiếu giá trị, thiếu tính thẩm mỹ còn bị lệch lạc, thì nền âm nhạc đại chúng
Việt Nam đang rất cần sự định hƣớng, giáo dục, nghiên cứu, tuyên truyền
đúng đắn và tích cực, để giúp những ngƣời nghe nhạc có thể cảm nhận đƣợc
những giá trị nghệ thuật chân chính, từ đó xây dựng quan điểm, thị hiếu thẩm
mỹ một cách khoa học và tiến bộ.
Bên cạnh đó, mặc dù CKNT là một thể loại âm nhạc thuộc dòng nhạc
hàn lâm, nhƣng có một thực tế tại Việt Nam, đó là, ngay cả với những ngƣời
hoạt động âm nhạc chuyên nghiệp, thể loại này cũng chƣa thực sự đƣợc quan
tâm, nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống. Những CKNT có phần
đệm khí nhạc là một thể loại đƣợc du nhập từ âm nhạc phƣơng Tây, bởi vậy,
thể loại này có thể là sự kết hợp giữa âm nhạc phƣơng Tây với âm nhạc
truyền thống Việt Nam. Sự ảnh hƣởng từ âm nhạc phƣơng Tây có thể biểu
hiện qua các hình thức cấu trúc, cách tiến hành giai điệu, qua việc sử dụng các
điệu thức trƣởng- thứ, các thủ pháp hòa âm… Trong khi đó, sự kế thừa từ âm
nhạc truyền thống Việt Nam có thể đƣợc biểu hiện qua các thang âm điệu
thức, biến âm tạo âm hƣởng dân gian… Thực tế thể loại này đã đƣợc hình
thành ra sao, có những đặc điểm về ca từ, về âm nhạc nhƣ thế nào, có những
đặc trƣng gì? Vấn đề này không chỉ bổ sung dữ liệu cho mảng phê bình, lí
luận mà còn có thể trở thành tài liệu cho những ngƣời hoạt động trong lĩnh
vực sáng tác tham khảo các kết quả nghiên cứu về kỹ thuật, thủ pháp phát
triển âm nhạc và xây dựng tác phẩm.
Có thể thấy việc nghiên cứu CKNTVN có một ý nghĩa tích cực về mặt
lý luận dƣới góc độ âm nhạc học, đồng thời là một tài liệu hữu ích giúp công
chúng nghe nhạc có thể tìm hiểu và tới gần hơn những thể loại âm nhạc hàn
lâm. Với các lý do trên, cùng mong muốn hệ thống hóa những lý luận đã tích
lũy đƣợc, NCS lựa chọn đề tài nghiên cứu là “Ca khúc nghệ thuật Việt Nam”.
3
2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là đặc điểm ca từ, cấu trúc, giai điệu
và phần đệm trong thể loại CKNTVN.
Phạm vi nghiên cứu của luận án giới hạn trong các CKNTVN ở dạng
có phần đệm piano do chính tác giả sáng tác. Việc lựa chọn CKNT có phần
đệm piano bởi đó là các tác phẩm vừa mang tính chất của một tác phẩm thanh
nhạc, vừa chứa đựng yếu tố khí nhạc, không chỉ phản ánh tƣ duy về giai điệu
và ca từ mà còn thể hiện ngôn ngữ hòa âm, các thủ pháp âm hình phần đệm
piano và sự liên kết chặt chẽ của phần đệm với giai điệu trong việc thể hiện
hình tƣợng nghệ thuật, phát triển tác phẩm. Qua đó, ngôn ngữ sáng tác thể
hiện rõ nét việc kế thừa âm nhạc truyền thống Việt Nam, đồng thời ảnh hƣởng
âm nhạc hàn lâm phƣơng Tây. Bên cạnh đó, các tác phẩm còn phải đảm bảo
giá trị thẩm mỹ, phù hợp với văn hóa truyền thống Việt Nam.
NCS đã tập hợp và giới hạn phạm vi nghiên cứu luận án trong 136 tác
phẩm của 16 nhạc sĩ, bao gồm Nguyễn Đình Phúc, Huy Du, Hoàng Dƣơng,
Doãn Nho, Vĩnh Cát, Trần Thế Bảo, Vĩnh Lai, Hoàng Cƣơng, Đào Trọng
Minh, Nguyễn Thiếu Hoa, Đặng Hữu Phúc, Trần Thanh Hà, Xuân Thủy, Lê
Hồng Lĩnh, Trần Đinh Lăng, Trần Mạnh Hùng, Đặng Tuệ Nguyên. Đây đều
là các thành viên thuộc Hội Nhạc sĩ Việt Nam, trong đó nhiều nhạc sĩ đã đạt
đƣợc các giải thƣởng của Hội nhạc sĩ và giải thƣởng Nhà nƣớc. Các văn bản,
bản nhạc đều đƣợc chính thức phát hành hoặc do các tác giả trực tiếp cung
cấp. Danh sách các CKNTVN thuộc phạm vi nghiên cứu đƣợc liệt kê ở PL1
trang 174.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là sử dụng hệ thống lý luận Âm nhạc
học nhằm làm rõ đặc điểm thể loại CKNTVN, bao gồm các yếu tố ca từ, cấu
trúc, giai điệu và phần đệm.
4
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan, các khái niệm liên quan
Phân tích đặc điểm ca từ bao gồm chức năng xây dựng hình tƣợng nghệ
thuật, mối quan hệ giữa cấu trúc ca từ và hình thức âm nhạc, sự ảnh hƣởng
thanh âm tiếng Việt đến giai điệu.
Nghiên cứu cách thức triển khai các cơ cấu, cách xây dựng cấu trúc
đoạn nhạc dạng phát triển và tƣơng phản trong các CKNTVN.
Nghiên cứu và đƣa ra đặc điểm giai điệu và phần đệm trong CKNTVN.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận án này, trên nền lý thuyết, lý luận Âm nhạc học, NCS sử
dụng phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết nhƣ sau:
- Phƣơng pháp phân tích: đƣa ra đặc điểm của từng tác phẩm.
- Phƣơng pháp thống kê: liệt kê, xác định tần suất, mức độ xuất hiện
của các đặc điểm đƣợc phân tích.
- Phƣơng pháp tổng hợp, hệ thống: nhằm nghiên cứu lịch sử hình thành
và phát triển của thể loại CKNT trong âm nhạc Việt Nam.
- Phƣơng pháp so sánh: nhằm làm rõ sự khác biệt trong đặc điểm của
các tác giả, đặc điểm của CKNTVN với các thể loại khác.
Ngoài ra, NCS còn sử dụng phƣơng pháp chuyên gia trong quá trình
xác thực nguồn gốc các phần đệm, tham khảo các quan điểm của giới chuyên
môn.
5. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Bằng việc làm rõ, hệ thống đặc điểm âm nhạc học của các CKNTVN
có phần đệm piano do chính tác giả sáng tác trên các khía cạnh cấu trúc tác
phẩm, ca từ, đặc điểm âm nhạc… luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu
một cách chuyên sâu về đặc điểm thể loại này dƣới góc độ Âm nhạc học.
- Luận án phân tích, hệ thống các đặc điểm về ca từ, cấu trúc, giai điệu
và phần đệm trong tổng thể các CKNTVN.
5
- Cùng với quá trình làm rõ đặc điểm của thể loại, trong một số trƣờng
hợp, NCS đã đƣa ra một số nhận định về tính hàn lâm, học thuật cũng nhƣ sự
kế thừa từ âm nhạc dân gian trong thể loại này.
- Bổ sung vào phần dữ liệu lý luận, phê bình về thể loại CKNTVN
- Đóng góp tƣ liệu tham khảo cho những ngƣời hoạt động biểu diễn,
sáng tác… thông qua việc nghiên cứu những kỹ thuật thanh nhạc, ngôn ngữ
âm nhạc của thể loại CKNT ở Việt Nam
- Tạo cơ sở cho việc mở rộng nghiên cứu trong tƣơng lai theo hƣớng so
sánh thể loại CKNT có phần đệm với những thể loại ca khúc khác, hoặc so
sánh phần đệm trong CKNT với phần đệm piano trong các tác phẩm hòa tấu
khí nhạc.
- Với công chúng, những ngƣời muốn tìm hiểu dòng âm nhạc hàn lâm
nói chung và thể loại CKNT nói riêng, đây có thể là một tài liệu tham khảo
dƣới góc độ âm nhạc học đáng tin cậy.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, luận án có bố cục nhƣ sau
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và quá trình hình thành thể loại ca khúc nghệ thuật
Việt Nam
Chƣơng 2: Ca từ và cấu trúc
Chƣơng 3: Giai điệu và phần đệm
6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ HÌNH THÀNH THỂ LOẠI
CA KHÚC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
1.1. Thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Trong khuôn khổ luận án “Thể loại ca khúc nghệ thuật Việt Nam”,
thuật ngữ CKNT đƣợc sử dụng để chỉ thể loại CKNT có phần đệm khí nhạc
do chính tác giả sáng tác, tƣơng đƣơng với một số thuật ngữ trong âm nhạc
phƣơng Tây nhƣ Romance, Mélodie, Lied… Đây đều là các dạng ca khúc
đƣợc sáng tác cho giọng ca cùng phần đệm khí nhạc, trong đó phần đệm
thƣờng có kỹ thuật cao (Romantic lieder are generally for a solo voice with
piano accompaniment, which often required a virtuoso technique) [149]. Các
thể loại này có nhiều điểm tƣơng đồng và đôi khi khó có thể phân định rõ
ràng (romance and mélodie,..cannot be considered in isolation) [148; tr.2]. Ở
Việt Nam, trong các công trình nghiên cứu chuyên khảo về thể loại CKNT,
Romance là thuật ngữ đƣợc dùng phổ biến để chỉ những CKNT có phần đệm
khí nhạc. Việc phân tích các khái niệm liên quan để đƣa ra nội hàm cho thuật
ngữ CKNTVN sử dụng luận án này không chỉ giúp cho việc giới hạn phạm vi
nghiên cứu đƣợc rõ ràng, mà còn khẳng định vị trí, ý nghĩa của đề tài cũng
nhƣ phạm vi ứng dụng kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực âm nhạc học và
sáng tác âm nhạc.
1.1.1. Thuật ngữ ca khúc nghệ thuật trong các tài liệu nghiên cứu
Trong các nghiên cứu, mặc dù một số tác giả đã đề cập đến thuật ngữ
CKNTVN, song việc đƣa ra khái niệm rõ ràng về thuật ngữ này để đƣợc công
nhận một cách phổ biến vẫn là một vấn đề cần đƣợc xem xét, tổng hợp một
cách khoa học và có hệ thống. Trong khi đó, những khái niệm về thuật ngữ
Romance, Lied, Mélodie lại khá cụ thể và nhất quán, tuy nhiên vẫn cần đƣợc
tổng hợp, chọn lọc một cách khoa học để có thể áp dụng vào bối cảnh nền âm
nhạc Việt Nam và phù hợp với mục đích nghiên cứu của luận án. Vì vậy, việc
tìm hiểu các khái niệm Romance, Lied, Mélodie sẽ giúp NCS đƣa ra giới
7
thuyết cho thuật ngữ CKNT dùng trong luận án một cách cụ thể hơn.
1.1.1.1. Khái niệm Romance thanh nhạc, Lied, Mélodie
Qua việc tổng hợp các công trình nghiên cứu về âm nhạc phƣơng Tây
và Việt Nam liên quan cho thấy, thuật ngữ Romance thƣờng đƣợc dùng để chỉ
“thể loại âm nhạc hòa tấu thính phòng dành cho giọng ca và bè đệm đàn”
[16; tr.694]. Thể loại này ban đầu xuất phát từ những ca khúc thế tục Tây Ban
Nha, sau đó lan rộng khắp châu Âu, thậm chí đƣợc đƣa tới cả châu Mỹ La
tinh, ở mỗi nơi, Romance lại có những biến đổi khác nhau. Đầu TK XVIII,
thuật ngữ Romance đƣợc ngƣời Pháp dùng để chỉ ca khúc phổ thơ thuật lại
những câu chuyện cổ về tình yêu [147; tr.123].
Một số nhà soạn nhạc nổi tiếng với các Romance cho giọng hát và
piano có thể kể tới nhƣ M.I. Glinka, S. Rachmaninov, C. Debussy, M.
Ravel… Dƣới đây là một trích đoạn Romance Thơ Tứ tuyệt “Đây là nơi diễn
ra cuộc chia tay bí mật” (Стансы “Вот место тайного свиданья..») của M.I.
Glinka (1804-1857).
VD 1.01: M.Glinka, Đây là nơi diễn ra cuộc chia tay bí mật, nhịp 1-8
Romance ảnh hƣởng ở nƣớc Đức một cách rõ rệt, hình thành những thể
loại ca khúc có phần đệm khác, trong đó tiêu biểu là Lied. Lied cũng đã trải
8
qua nhiều hình thái tƣơng ứng với các giai đoạn khác nhau: Lied phức điệu
(TK XV-XVI), The Generalbass (1620-1750) là dạng ca khúc phổ thơ cho
một hoặc nhiều giọng hát và có nhạc cụ đệm ở vị trí bè bass [145; tr.830-834].
Đến cuối TK XVIII ở nƣớc Đức phổ biến thuật ngữ Lied để chỉ một thể loại
ca khúc nghệ thuật có phần đệm, đƣợc nhận định có tính chất kịch tính và
nhiều lời thơ hơn so với Romance, nhƣng ở Romance lại chi tiết hơn về các
trọng âm, điểm nhấn ở các nhân tố âm nhạc, đặc biệt là trong giai điệu [147;
tr.125]. Trong lịch sử, một số nhà soạn nhạc nổi tiếng với các Lied trữ tình là
F. Schubert, R. Schumann. Thể loại này đã dự đoán sự hƣng thịnh trở lại của
các bài thơ Đức với các nhạc sỹ và với công chúng [145; tr.838]. Sau đây là
trích đoạn trong Lied Đến với âm nhạc, Op.88 của F.Schubert (1797-1828).
VD 1.02: F. Schubert, An die musik, nhịp 1-7
Vào TK XIX, đầu TK XX, ở Pháp phổ biến thể loại ca khúc có phần
đệm piano gọi là Mélodie, đây là sự kết hợp giữa những Romance TK XVIII
của Pháp với các Lied của Schubert [146, tr.112]. Mélodie có nhiều điểm
tƣơng đồng với Lied và Romance nhƣng âm nhạc có phần kịch tính hơn (“the
more dramatic mélodie” [147; tr.124]). Có thể minh họa qua trích đoạn trong
Mélodie La vague et la cloche do Henri Duparc (1848-1933) sáng tác vào năm 1871.
9
VD 1.03: Henri Duparc, La vague et la cloche, nhịp 23-26
Có thể thấy Romance TN, Lied hay Mélodie đều là những thể loại âm
nhạc dành cho giọng ca và phần đệm (thƣờng là piano), trong đó ca từ thƣờng
phổ thơ và phần đệm giữ vai trò quan trọng việc hỗ trợ giai điệu thể hiện hình
tƣợng âm nhạc. Cùng sự phát triển của thời kỳ âm nhạc Lãng mạn, sau khi
đƣợc F.Schubert nâng lên đỉnh cao, những thể loại ca khúc có phần đệm đã có
thể sánh ngang cùng những thể loại khí nhạc khác.
Trong cuốn The New Grove Dictionary Of Music And Musicians. Vol.
10,12,14, Romance, Lied, Mélodie đều đƣợc định nghĩa là những thể loại âm nhạc
dành cho giọng ca và phần đệm, có sự gắn bó chặt chẽ với thơ ca [145], [146], [147].
Công trình Tổng tập Âm nhạc Việt Nam - Tác giả và tác phẩm do nhiều
tác giả biên soạn đã nhắc đến thuật ngữ CKNT và Romance khi đề cập và
phân tích một số tác phẩm của các nhạc sĩ nhƣ Tạ Phƣớc, Hoàng Việt, Huy
Du, Hoàng Dƣơng, Vĩnh Cát, Đặng Hữu Phúc, Đỗ Hồng Quân, … Đó hầu hết
đều là những tác phẩm thanh nhạc có kèm theo phần đệm khí nhạc do chính
tác giả sáng tác. Với cách tiếp cận này, thuật ngữ CKNT đƣợc hiểu nhƣ một
10
thể loại thanh nhạc có giá trị nghệ thuật cao trong khía cạnh âm nhạc và ca từ,
trong đó, những tác phẩm đƣợc hiểu với khái niệm Romance và phần lớn
CKNT đều có phần đệm khí nhạc kèm theo. Trong công trình Phƣơng pháp
sƣ phạm thanh nhạc, PGS. Nguyễn Trung Kiên đã định nghĩa Romance TN là
“Thể loại tác phẩm thanh nhạc mang tính chuyên nghiệp cao trên cơ sở âm
nhạc đƣợc phát triển biểu hiện nội dung của lời thơ và phần đệm viết cho đàn
piano…”[29; tr.29] Ngoài ra, Romance không chỉ đơn thuần có tính trữ tình
mà bên cạnh đó có thể có tính tự sự, kể chuyện thậm chí là kịch tính. Trong
cuốn Từ điển âm nhạc của Vũ Tự Lân, thuật ngữ Romance đƣợc định nghĩa là
“tác phẩm cho giọng hát và phần đệm (thƣờng là piano)” [39; tr. 316]. Còn
trong cuốn Thuật ngữ âm nhạc của Nguyễn Bách thì định nghĩa Romance là
một “bản tình ca” [7; tr.82]… Qua tổng hợp có thể thấy phổ biến nhất là khái
niệm coi Romance nhƣ một thể loại âm nhạc thính phòng viết cho giọng hát
và phần đệm (thƣờng là piano).
Đặc điểm thể loại Romance cũng đƣợc đề cập ở nhiều công trình
nghiên cứu khác. Về cấu trúc, trong công trình Các thể loại âm nhạc [24] có
viết “Sự giống nhau giữa ca khúc và rô-măng-xơ thể hiện ở cấu trúc phân
đoạn, nghĩa là lặp lại nhiều lần cùng một nét giai điệu” [24; tr.370], nhƣng
đặc điểm giai điệu trong thể loại Romance đƣợc nhận định là “có đƣờng nét
giai điệu phóng khoáng hơn: nhạc sĩ có thể bám sát lời ca và nhấn mạnh
những chi tiết của lời ca bằng âm nhạc” [24; tr.370].
Và một khía cạnh quan trọng dễ nhận thấy qua các công trình nghiên
cứu, đó là sự nhấn mạnh, đề cao vai trò và ý nghĩa của yếu tố lời ca cũng nhƣ
phần đệm trong mối quan hệ với giai điệu trong thể loại Romance. Nhƣ vậy,
trong thể loại này, lời ca có một ý nghĩa, chức năng quan trọng và có sự kết
hợp chặt chẽ với âm nhạc. Trong cuốn từ điển âm nhạc The New Grove (số
14), các tác giả đã nhận định trong thể loại CKNT (art song), “thơ ca và âm
nhạc đã hòa quyện với nhau với một sự truyền cảm mới vô cùng hiệu quả”
[147; tr.143]. Thêm vào đó, lời thơ đã đƣợc khẳng định với một chức năng và
11
ý nghĩa quan trọng trong việc “tạo nên hình tƣợng và cấu trúc của ca khúc”
[147; tr.143]. Còn công trình Từ điển âm nhạc của Vũ Tự Lân lại nhận định
Romance có “… nội dung và những phƣơng tiện biểu hiện âm nhạc thƣờng
phức tạp hơn so với ca khúc” [39; tr.316]. Hầu hết các nhận định về đặc điểm
thể loại Romance đều khẳng định vị trí và giá trị quan trọng của yếu tố lời ca
trong việc kết hợp với âm nhạc.
Bên cạnh đó, việc đƣa chức năng của phần đệm lên một tầm cao mới
cũng đƣợc khẳng định trong các nghiên cứu. Trong công trình A history of
Western Music, ở chƣơng XVI Thời kỳ lãng mạn – Thanh nhạc, đã khẳng định
vai trò phần đệm piano đã đƣợc nâng tầm không chỉ làm nền mà cùng giọng
hát minh họa, hỗ trợ cho lời ca [139; tr.501]. Trong cuốn Những vấn đề sƣ
phạm thanh nhạc của PGS. Nguyễn Trung Kiên, khi đề cập đến thể loại
Romance TN trong sáng tác của nhà soạn nhạc Rachmaninov khẳng định vai
trò quan trọng và ý nghĩa của phần đệm khí nhạc trong thể loại này: “Nhiều
bản romance phần bè hát và phần piano cùng thực hiện một chức năng quan
trọng nhƣ nhau.” [30; tr.398]…Hầu hết các nghiên cứu đều nhận định phần
đệm không chỉ phụ họa cho giọng hát mà còn là một thành tố quan trọng,
cùng với giọng hát thể hiện ngôn ngữ âm nhạc và hình tƣợng của tác phẩm.
1.1.1.2. Các quan điểm về thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Thuật ngữ CKNTVN bắt đầu phổ biến cùng sự ra đời của nền âm nhạc
chuyên nghiệp Việt Nam những năm 1960. Thuật ngữ này đã đƣợc đề cập
trong một số công trình nghiên cứu. Trong cuốn Âm nhạc mới Việt Nam -
Tiến trình và thành tựu [60], các tác giả cho rằng ở Việt Nam, “CKNT” ra
đời trong điều kiện phát triển mới của đời sống âm nhạc trên miền Bắc Xã hội
Chủ nghĩa” [tr.387], đây là hệ quả của quá trình tiếp biến văn hóa âm nhạc
lần thứ hai từ phƣơng Tây. Con đƣờng hình thành thể loại CKNT đƣợc giải
thích là “Một số ca khúc - chủ yếu là loại ca khúc đơn ca trữ tình, đƣợc xây
dựng với bút pháp mới, bộc lộ một số kỹ năng mới, đòi hỏi một trình độ diễn
xuất tinh tế hơn, có tính chuyên nghiệp hơn” [tr.387]. Sự ra đời của thể loại
này thực tế đã có tiền đề từ giai đoạn trƣớc, đó chính là những ca khúc phổ
12
thơ của Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý… những ca khúc này
đƣợc cho là “có những nét chung với những CKNT của những năm 60”
[tr.392], tuy nhiên, phải đến giai đoạn sau, CKNT mới thực sự phát triển.
Theo cách phân tích này, các nhà nghiên cứu đã nhận định “về thực chất,
CKNT chính là một nhánh, một tuyến, một tập hợp mới về mặt thể loại - tiểu
loại trong ca khúc trữ tình” [tr.392]. Sự ra đời CKNT cũng đƣợc đề cập với
sự xuất hiện cũng những tác phẩm đầu tiên nhƣ “Mẹ yêu con của Nguyễn Văn
Tý, Bài ca hy vọng của Văn Ký, Biết ơn Võ Thị Sáu của Nguyễn Đức Toàn…”
[tr.392]. Với cách tiếp cận thuật ngữ CKNT nhƣ trên, các tác giả đã nhìn nhận
đây là một thể loại thanh nhạc thuộc dòng trữ tình, đòi hỏi yêu cầu cao về bút
pháp sáng tác, đặc biệt trong giai điệu, ca từ và kỹ thuật trình diễn nhƣng
không bắt buộc kèm theo phần đệm khí nhạc.
Trong cuốn Lƣợc sử âm nhạc Việt Nam của tác giả Nguyễn Thụy Loan
đã đề cập đến sự xuất hiện của những ca khúc phổ thơ nhƣ một nhánh liên
quan đến việc ra đời CKNT tại Việt Nam. Các bài hát phổ thơ là một trong
những tiền đề cho phong cách sáng tác theo dạng Romance Tây Âu, góp phần
khẳng định mối quan hệ giữa âm nhạc và thơ ca trong thể loại CKNT.
Qua đó có thể thấy khái niệm CKNTVN trong các nghiên cứu trên
đƣợc khẳng định bắt nguồn từ những ca khúc trữ tình và ca khúc phổ thơ, là
một thể loại có giá trị cao trong ca từ và giai điệu. Nhƣ vậy, ngay ở giai đoạn
Tân nhạc, những ca khúc nhƣ Con thuyền không bến, Giọt mƣa thu của Đặng
Thế Phong, Đêm đông của Nguyễn Văn Thƣơng, Biệt ly của Doãn Mẫn,
Thiên thai, Suối mơ của Văn Cao, Thu quyến rũ, Gửi gió cho mây ngàn bay
của Đoàn Chuẩn… đã có đủ đặc điểm và giá trị về mặt giai điệu cũng nhƣ ca
từ của thể loại CKNT. Tuy nhiên ở giai đoạn này, âm nhạc chuyên nghiệp
Việt Nam chƣa đƣợc hình thành một cách đồng bộ và có hệ thống nên việc
viết phần đệm khí nhạc cho các ca khúc chƣa phổ biến. Từ những năm 1960
trở đi, cùng với việc chuyên nghiệp hóa trong công tác đào tạo và biểu diễn,
những tác phẩm ca khúc có phần đệm đƣợc hình thành, và nhiều tác phẩm
trong số đó có thể đƣợc gọi là các Romance TN của Việt Nam. Những ca
13
khúc có phần đệm khí nhạc do chính tác giả sáng tác là một dạng biểu hiện tƣ
duy sáng tác đầy đủ hơn. Bên cạnh ca từ và giai điệu, sự ra đời của phần đệm
đã thể hiện cụ thể và chi tiết hơn ý đồ sáng tác của tác giả. Những khía cạnh
nhƣ các thủ pháp biến đổi, phát triển phần đệm để khai triển các cơ cấu tác
phẩm, sử dụng các facture, cấu trúc hợp âm để tạo nên tính chất, hình tƣợng
và những thủ pháp hòa âm nhƣ ly điệu, chuyển điệu, các vòng hòa âm đặc
trƣng... hoàn toàn không có trong các ca khúc không có phần đệm, cảm nhận
về tƣ duy cũng nhƣ ý đồ sáng tác của tác giả vì thế không thể đầy đủ và cụ thể
bằng những ca khúc có phần đệm. Trong đề tài này, NCS chỉ nghiên cứu các
tác phẩm có phần đệm. Sở dĩ NCS lựa chọn việc kèm theo phần đệm khí nhạc
bởi trong lịch sử âm nhạc phƣơng Tây, những phần đệm khí nhạc đƣợc nhìn
nhận nhƣ một yếu tố không kém phần quan trọng và không thể tách rời với lời
ca, cùng đóng vai trò quyết định trong việc biểu đạt hình tƣợng nghệ thuật và
tính chất âm nhạc cho tác phẩm. Với lựa chọn này, NCS sẽ nghiên cứu một
cách chuyên sâu những tác phẩm hoàn chỉnh, đầy đủ các thành tố, có tính chất
hàn lâm, học thuật, từ đó đóng góp trên khía cạnh nghiên cứu lý luận về thể
loại này trong nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam.
1.1.2. Thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật Việt Nam sử dụng trong luận án
Qua phân tích, tổng hợp các quan điểm trên, kết hợp với mục đích
nghiên cứu của đề tài, NCS đƣa ra nội hàm của thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật
Việt Nam đƣợc sử dụng trong luận án là các tác phẩm viết cho giọng hát và
phần đệm piano do chính tác giả sáng tác, giai điệu thiên về tính chất trữ
tình, ca từ trau chuốt, thường phổ thơ hoặc có tính thơ, yêu cầu kỹ thuật
thanh nhạc cao, phần đệm không chỉ có chức năng phụ họa mà còn tham
gia vào việc khắc họa hình tượng tác phẩm.
Khái niệm các yếu tố trong thể loại Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Giai điệu, ca từ và phần đệm là ba yếu tố không thể tách rời, cùng đóng
vai trò quan trọng trong việc hình thành một tác phẩm CKNT. Trong luận án,
NCS đƣa ra khái niệm về ba thành tố này trong thể loại CKNT nhƣ sau:
Giai điệu trong thể loại CKNT là tổ hợp các cao độ, tiết tấu cùng các
14
phƣơng tiện diễn tả hỗ trợ kèm theo đƣợc trình bày bằng giọng ngƣời.
Phần đệm trong thể loại CKNT là tổ hợp các cao độ, tiết tấu cùng các
phƣơng tiện diễn tả hỗ trợ kèm theo đƣợc trình bày bằng nhạc cụ.
Ca từ trong thể loại CKNT là phần lời ca đƣợc trình bày bằng giọng ngƣời.
Theo cuốn Từ điển triết học do Nxb Tiến bộ, Matxcova phát hành,
Nghệ thuật đƣợc khái niệm là “hình thái đặc thù của ý thức xã hội và của hoạt
động con ngƣời; phản ánh hiện thực dƣới những hình tƣợng nghệ thuật; là
một trong những phƣơng pháp quan trọng nhất để nắm bắt thế giới bằng thẩm
mỹ” [88; tr.380]. Trong luận án, giá trị nghệ thuật trong thể loại CKNT đƣợc
đánh giá bởi giá trị của từng yếu tố ca từ, giai điệu, phần đệm và ở sự kết hợp
hài hòa giữa các giá trị này với nhau. Giá trị nghệ thuật đƣợc biểu hiện ở tính
mỹ học âm nhạc, tính thẩm mỹ, khả năng biểu hiện hình tƣợng và tính học
thuật trong ngôn ngữ, kĩ thuật sáng tác, bên cạnh đó còn thể hiện quan điểm
của tác giả về giá trị truyền thống dân tộc và giá trị thời đại.
Bảng so sánh sau đây giữa CKNTVN với các thể loại ca khúc khác sẽ làm
rõ nội hàm thuật ngữ CKNTVN, giải thích cho phạm vi nghiên cứu của luận án.
Bảng 1.1: So sánh Romance, Lied, Mélodie và CKNTVN
Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Giai điệu Cấu trúc Tốc độ Ca từ Ngôn ngữ Âm điệu
Romance, Lied, Mélodie Thiên về tính trữ tình, nhẹ nhàng Phát triển cấu trúc bằng sự kết hợp giai điệu và phần đệm Chủ yếu là ở nhịp độ vừa hoặc chậm vừa Thƣờng phổ thơ hoặc có tính thơ, có tính văn học và thẩm mỹ Đa âm, đơn thanh Không phụ thuộc thanh âm
Đơn âm, đa thanh Phụ thuộc chặt chẽ vào thanh âm của ca từ.
thuật
Yêu cầu về thanh nhạc Kỹ thanh nhạc Tính dân tộc Thể hiện chất liệu âm nhạc dân
Đòi hỏi kỹ thuật cao về xử lý cao độ, quãng, lấy hơi, sắc thái, nhạc cảm, chất lƣợng âm thanh… Sử dụng kỹ thuật hát Bel Canto Kết hợp kỹ thuật thanh nhạc phƣơng Tây với kỹ thuật hát tròn vành rõ chữ tiếng Việt Kế thừa chất liệu âm nhạc truyền thống Việt Nam
gian các nƣớc trên thế giới Phần đệm có vai trò quan trọng trong việc thể hiện hình tƣợng nghệ thuật
Phần đệm
15
Bảng 1.2: So sánh ca khúc thông thường và CKNTVN
Giai điệu
Ca khúc nghệ thuật Việt Nam Mang tính ca xƣớng, thiên về tính chất trữ tình
Cấu trúc
Ca khúc thông thường Có nhiều tính chất khác nhau nhƣ hát nói, cổ động, hành khúc,… Phát triển cấu trúc bằng giai điệu Phát triển cấu trúc bằng sự kết hợp giai điệu
Tốc độ Ca từ
Kỹ thuật thanh nhạc
Đa dạng Có thể sử dụng ngôn ngữ thông thƣờng Có thể phù hợp với nhiều đối tƣợng, không kén chọn ngƣời hát.
Phần đệm
Hòa âm
Tác giả chỉ sáng tác giai điệu, không kèm theo phần đệm Không cụ thể do chỉ đƣợc tạo nên bởi sự chuyển động chiều ngang của giai điệu
và phần đệm Thƣờng có tốc độ vừa phải Ca từ có tính văn học, tính thẩm mỹ, thƣờng phổ thơ hoặc có tính thơ Đòi hỏi xử lý kỹ thuật thanh nhạc trau chuốt, phức tạp, yêu cầu ngƣời hát có trình độ về thanh nhạc Phần đệm piano cố định do chính tác giả sáng tác Đa dạng, góp phần thể hiện hình tƣợng nghệ thuật, cụ thể do có sự kết hợp giữa giai điệu và phần đệm
Sự khác biệt trên có thể đƣợc minh họa bằng nhiều ca khúc Việt Nam,
nhƣ trong ca khúc 19 tháng 8 của Xuân Oanh.
VD 1.04: Xuân Oanh, 19 tháng 8, nhịp 1-20
Ca khúc này khi ra đời chỉ gồm giai điệu không có phần đệm, tính chất
hành khúc, hiệu triệu, tốc độ nhanh vừa, âm vực giới hạn khoảng một quãng
8, giai điệu tiến hành các quãng thuận, dễ hát, dễ nhớ, không kén ngƣời hát…
đây là những đặc điểm khác biệt so với CKNTVN. Các tác phẩm thỏa mãn
những đặc điểm về CKNTVN sẽ thuộc phạm vi nghiên cứu trong luận án.
16
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
NCS đã tiếp cận những công trình liên quan đến hƣớng nghiên cứu của
đề tài, gồm các khía cạnh lịch sử hình thành thể loại, ca từ, cấu trúc, đặc điểm
âm nhạc trong CKNTVN. Nhƣ đã đề cập, đối tƣợng của luận án - thể loại
CKNTVN - có nhiều điểm tƣơng đồng với thể loại Romance, Lied, Mélodie
trong phƣơng Tây… Vì vậy, những nghiên cứu liên quan đến các thể loại này
cũng rất cần thiết cho việc triển khai đề tài luận án này.
1.2.1. Hệ thống các công trình nghiên cứu
Phần tổng quan nghiên cứu đƣợc chia thành hai mảng chính: các công
trình nghiên cứu liên quan đến thể loại ca khúc có phần đệm trong âm nhạc
phƣơng Tây và các công trình liên quan đến thể loại CKNTVN.
1.2.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thể loại ca khúc có
phần đệm trong âm nhạc phƣơng Tây
Trong các công trình liên quan đến thể loại ca khúc có phần đệm trong
âm nhạc phƣơng Tây, NCS chú ý đến một số công trình đề cập đến thời kỳ
âm nhạc Lãng mạn, các ca khúc trữ tình và đặc biệt là Romance, Lied,
Mélodie, do đây là các yếu tố gần gũi và có ảnh hƣởng tới tới thể loại
CKNTVN.
Trong công trình A history of Western Music của Donald Jay Grout,
chƣơng thứ XVI Thời kỳ Lãng mạn – Thanh nhạc (The Romantic Period:
Vocal Music) nói về sự hình thành và phát triển của Thời kỳ âm nhạc Lãng mạn có đề cập đến thể loại CKNT (Lied) cùng một số nhà soạn nhạc tiêu biểu
[139; tr.500]. Ở đây, tác giả đã phân tích sự chuyển hóa từ các ca khúc dạng
Ballad sang ca khúc Lied trên khía cạnh cấu trúc cũng nhƣ lời thơ…Về mối
quan hệ giữa phần thanh nhạc và khí nhạc, tác giả khẳng định trong thể loại
CKNT piano đƣợc xem là có vai trò quan trọng, hỗ trợ giọng ca trong việc
minh họa lời thơ [139; tr.501].
Trong cuốn từ điển âm nhạc The New Grove, các tác giả đã nhận định
17
về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa âm nhạc và thơ ca trong thể loại
CKNT [147; tr.143]. Và đó không chỉ là sự kết hợp mang tính chất phụ họa,
mà lúc này, ca từ còn có thể chi phối, ảnh hƣởng đến nội dung cũng nhƣ kết
cấu của tác phẩm “…đƣa đến cho thơ ca một vai trò quan trọng mới trong
việc tạo nên hình tƣợng và cấu trúc cho ca khúc”[147 tr.143]. Đến những
Mélodie ở TK XIX, sự ảnh hƣởng từ thơ ca lãng mạn đã giúp các nhạc sĩ rời
bỏ phong cách và kỹ thuật sáng tác trƣớc đó nhƣ những cấu trúc khổ thơ cứng
nhắc, hoặc sự chi phối của giọng ca đối với phần đệm [146; tr.112]. Có thể
thấy, ca từ, phần đệm luôn đƣợc chú ý, đánh giá cao trong vai trò kết hợp và
ảnh hƣởng tới giai điệu trong thể loại CKNT.
Tập 2 giáo trình Lịch sử âm nhạc thế giới [73] đã nhận định về sự khởi
nguồn của thể loại Romance tại châu Âu, gần với những bài hát thành thị ở
Tây Ban Nha [73; tr.126]. Tài liệu đề cập đến sự ra đời của Romance trong
âm nhạc phƣơng Tây [73; tr.153]. Trong thời kỳ âm nhạc Lãng mạn, nhà soạn
nhạc F.Schubert đƣợc khẳng định có vai trò“làm cho thể loại ca khúc sánh
ngang với các thể loại quan trọng khác của nghệ thuật âm nhạc”[73; tr.170].
Về khía cạnh cấu trúc, các nhà nghiên cứu đã nhận định về đặc điểm cấu
trúc trong thể loại CKNT của một số tác giả, nhƣ F. Schubert thƣờng sử dụng
“cấu trúc gồm ba phần hoặc loại có phiên khúc (couplet)” [73; tr.177], trong
khi đó Romance của nhà soạn nhạc M.I. Glinka lại: “sử dụng rộng rãi hình
thức ba phần cân đối hoặc 3/5 phần với phần giữa tƣơng phản” [73; tr.341].
Trong công trình này, các tác giả cũng đã phân tích hình tƣợng, chủ đề
trong thể loại CKNT của một số tác giả tiêu biểu trong thời kì âm nhạc Lãng
mạn. Ca khúc của F. Schubert, chủ yếu liên quan đến tình yêu, ngoài ra còn
có những màu sắc nội tâm phong phú [73; tr170]. Ca khúc của R.Schumann
còn có cảnh sinh hoạt, những bài ngợi ca, chính ca…[73; tr.240]. Trong khi
đó, chủ đề trong các tác phẩm của Mendelsohn lại là “thế giới nội tâm của
con ngƣời, những bức tranh sinh động của thiên nhiên” [73; tr.208]. Còn với
18
M.I. Glinka, chủ đề các ca khúc của ông không chỉ ở những rung động nội
tâm mà còn ở những bức tranh thiên nhiên và phong tục [73; tr.350]. Chủ đề
trong thể loại CKNT đã thể hiện rất rõ nét đặc trƣng và sự khác biệt trong
phong cách sáng tác của các nhạc sĩ thời kì âm nhạc Lãng mạn.
Về mối quan hệ giữa âm nhạc và văn học trong các Romance thời kỳ
âm nhạc Lãng mạn, các tác giả đã khẳng định mối quan hệ sâu sắc này. Các
nhà soạn nhạc thƣờng quan tâm đến thơ ca của những nhà thơ đƣơng thời
hoặc gần gũi về mặt địa lý [73; tr.224].
Ngƣợc lại, thơ ca cũng đƣợc nhận định có sự ảnh hƣởng nhất định đến
đặc điểm âm nhạc. Thơ ca Đức-Áo giúp làm đổi mới và phong phú về chủ đề,
hình tƣợng âm nhạc trong ca khúc của F. Schubert [73; tr.172]. Với nhà soạn
nhạc R.Schumann, các tác giả cũng khẳng định “Tài năng về thơ ca của
Schumann có ảnh hƣởng lớn và giữ một vai trò quyết định cho tính thống
nhất giữa nhạc và thơ trong mỗi ca khúc” [73; tr.240]. Trong những sáng tác
của các nhà soạn nhạc Nga, âm nhạc cũng luôn gần gũi và gắn bó với thơ ca
cùng thời [73; tr.351]. Trong công trình này, các tác giả đã nghiên cứu cách
thức sử dụng ngôn ngữ hòa âm, phối khí trong thời kỳ âm nhạc Lãng mạn,
trong đó có các thủ pháp về điệu tính, chuyển điệu đột ngột, biến âm và sử
dụng các công năng phụ [73; tr.155].
Các tác giả cũng phân tích về khía cạnh đặc điểm cấu trúc giai điệu,
cấu trúc hình thức đơn chủ đề… khẳng định chức năng độc lập của phần đệm
piano trong các CKNT thời kỳ âm nhạc Lãng mạn [73; tr.240], bên cạnh đó
khẳng định vai trò của phần đệm trong việc xây dựng hình tƣợng nghệ thuật
cho tác phẩm [73; tr.174].
Trong Romance phƣơng Tây, tính dân gian đã đƣợc đề cập dựa trên
việc phân tích phong cách của giai điệu trong ca khúc của Schubert [73;
tr.173]. Ngay cả với nhà soạn nhạc đặc trƣng với tính trữ tình nổi loạn R.
Schumann, giai điệu vẫn thể hiện sự ảnh hƣởng từ âm nhạc dân gian rất rõ nét
19
[73; tr.241]. Bên cạnh đó, âm nhạc của Mendelssohn cũng đƣợc nhận định
“liên quan chặt chẽ đến phong cách ca xƣớng của dân tộc…” [73; tr.208].
Công trình Các thể loại âm nhạc do Lan Hƣơng dịch [24], có đề cập đến đặc
điểm lời ca, giai điệu, cấu trúc, tính chất âm nhạc trong thể loại Romance.
Bên cạnh đó, NCS đặc biệt quan tâm tới những công trình nghiên cứu
chuyên biệt về lịch sử hình thành và phát triển của các thể loại thanh nhạc nói
chung và thể loại CKNT nói riêng. Cuốn Lịch sử nghệ thuật thanh nhạc
phƣơng Tây của tác giả Hồ Mộ La [36] đã nhận định về sự hình thành chính
thức của thể loại Romance dƣới góc độ chuyên nghiệp: “Quê hƣơng của
CKNT (romance) là nƣớc Đức…” [36; tr.192] và khẳng định vai trò lớn lao
của nhà soạn nhạc F.Schubert: “là ngƣời mở ra kỉ nguyên chủ nghĩa lãng mạn
trong âm nhạc, đặc biệt là ca khúc lãng mạn (Romance)…” [36; tr.194].
Ở khía cạnh nội dung đề tài, tác giả Hồ Mộ La khi nghiên cứu về
F.Schubert cho rằng ông thƣờng khai thác “đề tài ảnh hƣởng từ cuộc sống
nhƣ tình yêu và bi thƣơng… ” [36; tr.196-198]. Nhƣng với R.Schumann, nhà
nghiên cứu lại nhận định “nổi bật đặc trƣng của cá tính” [36; tr.202]. Trong
khi đó, những ca khúc đậm màu sắc dân tộc của Grieg “chủ yếu là ca ngợi tổ
quốc, thiên nhiên bao la, miêu tả phong tục, đời sống và tình yêu” [36;
tr.217]. CKNT của M.I. Glinka lại đƣợc cho rằng có “đề tài rộng lớn, hình
tƣợng âm nhạc phong phú” [36; tr.255].
Tác giả Hồ Mộ La cũng khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa thơ ca
và âm nhạc trong thể loại CKNT trong thời kỳ âm nhạc Lãng mạn. Tác giả
cho rằng “nhờ có thơ trữ tình lãng mạn … CKNT của chủ nghĩa lãng mạn đã
hình thành và phát triển, với đặc điểm kết hợp hữu cơ giữa thơ trữ tình lãng
mạn với âm nhạc”. Nói về CKNT của F. Schubert, nhà nghiên cứu cho rằng
các tác phẩm đã “nâng thơ ca lên một đỉnh cao về sức biểu hiện và tƣởng
tƣợng” [36; tr.195]. Với nhà soạn nhạc R. Schumann, tác giả Hồ Mộ La lại
cho rằng “có những ca khúc piano thay cho tiếng hát, trực tiếp thổ lộ tiếng
20
nói nội tâm, thể hiện sâu nội hàm của ca từ” [36; tr.203]. Với nhà soạn nhạc
Hugo Wolf, ngƣời đã sáng tác trên 500 ca khúc xuất sắc, tác giả đã viết về vai
trò quan trọng của thơ ca trong sự nghiệp sáng tác thanh nhạc của ông nhƣ sau
“ Ông chú trọng kết hợp ca từ với âm nhạc, thể hiện cá tính, khắc họa chi tiết
nhân vật” [36; tr.219]. Còn với nhà soạn nhạc ngƣời Nga, M.I. Glinka, ca
khúc của ông đƣợc gọi là “Văn học Puskin bằng âm nhạc” [36; tr.255]. Tác
giả nhận định về chức năng của phần đệm piano trong CKNT của nhà soạn
nhạc R.Schumann: “Có những ca khúc piano thay cho tiếng hát, trực tiếp thổ
lộ tiếng nói nội tâm, thể hiện sâu nội hàm của ca từ.” [36; tr.203].
Với bài viết Tìm hiểu về Romance - nguồn gốc lịch sử và quá trình phát
triển [16], tác giả Cù Lệ Duyên giới thiệu quá trình hình thành và phát triển
của thể loại Romance, những dạng biểu hiện của khái niệm Romance trong
thời kì đầu và sự biến đổi trong giai đoạn sau. Tác giả nhận định “chỉ đến đầu
TK XIX, Romance mới đƣợc khẳng định nhƣ thể loại CKNT nhất thiết phải có
phần đệm”. Tác giả đã khẳng định “lịch sử phát triển của Romance liên quan
mật thiết đến lịch sử phát triển thơ ca”, kể cả trong giai đoạn âm nhạc Cận-
Hiện đại ở TK XX [16].
1.2.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Những công trình nghiên cứu về lịch sử âm nhạc Việt Nam từ trƣớc tới
nay đã đạt đƣợc những kết quả nghiên cứu có giá trị, kể cả trong khía cạnh âm
nhạc truyền thống và nhạc mới. Tuy nhiên, riêng với thể loại CKNT, những
công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu, hệ thống và tổng quát thì chƣa
có nhiều. Những công trình nghiên cứu thƣờng chỉ khai thác, phân tích hoặc
đề cập đến một khía cạnh có liên quan hoặc một số tác phẩm của một tác giả
cụ thể trong thể loại CKNTVN.
Trong công trình Lƣợc sử âm nhạc Việt Nam [44], tác giả Nguyễn Thụy
Loan đã nghiên cứu bối cảnh trong hai giai đoạn kháng chiến cùng những
cuộc tiếp biến văn hóa phƣơng Tây làm nảy sinh những thể loại âm nhạc mới,
21
trong đó có thể loại ca khúc. Tác giả có đề cập đến sự xuất hiện của những ca
khúc phổ thơ [44; tr.111]. Những bài hát phổ thơ là một trong những dấu hiệu
bắt đầu của phong cách sáng tác theo dạng Romance Tây Âu.
Trong một công trình khác, cuốn Lịch sử âm nhạc Việt Nam - Tiến
trình và thành tựu [60], các nhà nghiên cứu cho rằng thuật ngữ CKNT ra đời
trong đời sống âm nhạc miền Bắc những năm 1960, là hệ quả của quá trình
tiếp biến văn hóa lần thứ hai từ phƣơng Tây. Thể loại ca khúc Việt Nam đƣợc
nở rộ trong giai đoạn 1954-1975 do đây là giai đoạn hình thành nền âm nhạc
chuyên nghiệp một cách đồng bộ trên các lĩnh vực biểu diễn, đào tạo, lý luận,
nghiên cứu… Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy hình tƣợng, nội dung, chủ
đề trong thể loại CKNT rất đa dạng và phong phú, bao gồm đề tài quê hƣơng-
đất nƣớc, Bác Hồ, những anh hùng cách mạng, hình tƣợng ngƣời phụ nữ, cảm
xúc về những thành phố [60]…
Về đặc điểm mối quan hệ giữa thơ ca và âm nhạc trong CKNTVN,
trong công trình này, các tác giả đã khẳng định “…bƣớc vào giai đoạn 1954-
1975, các nhạc sĩ viết ca khúc trữ tình có xu hƣớng phổ thơ (hoặc phỏng thơ)
ngày càng gia tăng, nhất là đối với CKNT” [60; tr.396]. Để chứng minh cho
sự khác biệt giữa mối liên hệ của thơ ca với thể loại CKNT so với các thể loại
ca khúc khác, các nhà nghiên cứu đã thống kê về tỷ lệ phổ thơ trong các thể
loại ca khúc khác nhau. Nhằm khẳng định đặc điểm về giá trị của ca từ trong
thể loại này, các tác giả đã nhận định “Ca khúc trữ tình viết theo phong cách
nghệ thuật là loại ca khúc rất “kén” ca từ” [60; tr.395]. Lời ca đƣợc đề cao
với vai trò trong việc thể hiện hình tƣợng nghệ thuật”, đồng thời trong việc
tạo nên giá trị và phong cách cho thể loại.
Liên quan đến việc sử dụng chất liệu dân tộc trong ca khúc Việt Nam,
các nhà nghiên cứu đã phân tích yếu tố dân tộc học trong một số tác phẩm cụ
thể thuộc thể loại CKNTVN. Khi đề cập đến vốn chất liệu âm nhạc dân gian
phong phú, các nhà nghiên cứu cho rằng chất liệu từ âm nhạc Tây Nguyên
22
vẫn chƣa đƣợc khai thác xứng tầm [60]. Ngoài ra, nhiều tác phẩm có chất liệu
âm nhạc là sự kết hợp giữa tính dân tộc và kỹ thuật sáng tác theo phong cách
thanh nhạc ảnh hƣởng từ phƣơng Tây.
Trong công trình Tổng tập Âm nhạc Việt Nam - Tác giả và tác phẩm,
các nhà nghiên cứu đã phân tích ngôn ngữ sáng tác trong ca khúc của một số
tác giả nhƣ Nguyễn Văn Nam, Hoàng Dƣơng, Vĩnh Cát [69; tr.795, 834].
Bên những vấn đề về lịch sử, cấu trúc, hình tƣợng nghệ thuật, giai điệu,
hòa âm… trong luận án này, NCS còn quan tâm tới vấn đề kỹ thuật thanh
nhạc sử dụng trong các CKNTVN. Tuy nhiên đây là vấn đề chƣa đƣợc nghiên
cứu sâu, mới chỉ xuất hiện trong một vài luận văn. NCS đã tham khảo một số
tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề kỹ thuật thanh nhạc nhƣ hai
công trình của PGS. Nguyễn Trung Kiên Phƣơng pháp sƣ phạm thanh nhạc
[29], Những vấn đề Sƣ phạm Thanh nhạc [30]; nghiên cứu của Trần Ngọc
Lan Phƣơng pháp hát tốt tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát [38]. Bên cạnh đó
còn có những nghiên cứu về khía cạnh kỹ thuật thanh nhạc trong những công
trình sau: Giáo trình Thanh điệu tiếng Việt và âm nhạc cổ truyền của Hoàng
Kiều [32], tác giả Hồ Mộ La với công trình Phƣơng pháp dạy học thanh nhạc
[37],…Đây là một yếu tố quan trọng, là cơ sở lý thuyết mà NCS đƣợc kế thừa
khi nghiên cứu phần thanh nhạc trong thể loại CKNTVN.
Bên cạnh đó NCS còn tham khảo các công trình, bài viết nghiên cứu
liên quan đến khía cạnh ca từ, đặc điểm giai điệu, tính dân tộc trong thể loại
ca khúc Việt Nam đƣợc đăng trên các tạp chí nhƣ Văn hóa nghệ thuật, tạp chí
Âm nhạc, Văn nghệ, Thông báo khoa học của Viện Âm nhạc…
1.2.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án có một ý nghĩa quan
trọng để việc triển khai nghiên cứu đề tài có một cơ sở khoa học tin cậy. Tuy
nhiên có thể thấy những công trình nghiên cứu trực tiếp và chuyên sâu về thể
loại CKNTVN chƣa có nhiều. Do vậy việc đánh giá và tổng kết các công trình
23
nghiên cứu về Romance phƣơng Tây cũng rất cần thiết để từ đó NCS có thể
liên hệ và so sánh với đối tƣợng nghiên cứu của luận án.
1.2.2.1. Những đóng góp
Qua việc hệ thống các công trình, chủ yếu là các tài liệu nghiên cứu
liên quan đến thể loại Romance và CKNTVN, có thể thấy những nghiên cứu
này đã đóng góp đáng kể trong khía cạnh lịch sử hình thành, phát triển và đặc
điểm sáng tác trong các thể loại này.
Nhóm các tài liệu nghiên cứu về lịch sử âm nhạc đã cung cấp những dữ
liệu, thông tin quan trọng liên quan đến sự hình thành và phát triển của thể
loại CKNT ở phƣơng Tây (Romance) và sự du nhập của thể loại này ở Việt
Nam. Những dữ liệu về các mốc thời gian, sự phân chia các xu hƣớng, trƣờng
phái, tác giả tiêu biểu đƣợc những nhà nghiên cứu tiếp cận từ mối quan hệ
theo hƣớng liên ngành giữa thể loại CKNT với bối cảnh lịch sử và với những
lĩnh vực nghệ thuật khác nhƣ văn học, hội họa, … cho tới mối quan hệ với
những thể loại thanh nhạc khác nhƣ Opera, Oratorio, ca khúc thế tục, thánh
ca… Cách tiếp cận này đã gợi ý cho NCS những liên hệ biện chứng nhằm xác
định những giả thiết khoa học mới cho luận án của mình.
Về đặc điểm sáng tác trong thể loại CKNTVN, các nghiên cứu đã đóng
góp kết quả trong việc đƣa ra đặc điểm một số Romance phƣơng Tây và
CKNTVN của một hoặc vài tác giả trong các khía cạnh nội dung, chủ đề, mối
quan hệ giữa ca từ và âm nhạc, giữa phần thanh nhạc và phần khí nhạc, về cấu
trúc và các thủ pháp sáng tác…
Các nghiên cứu đã chỉ ra nội dung, chủ đề trong những CKNT dù là
của phƣơng Tây hay ở Việt Nam đều có những đặc điểm chung, đó là sự đa
dạng và phong phú. Tuy nhiên, việc tiếp cận chủ đề, nội dung dƣới góc độ âm
nhạc học chƣa đƣợc nghiên cứu một cách sâu sắc. Chủ đề, hình tƣợng âm
nhạc đƣợc biểu hiện rõ nét từ đặc điểm của giai điệu và phần đệm. Vì thế việc
phân tích cấu trúc, tính chất giai điệu, phần đệm trong vai trò thể hiện hình
24
tƣợng âm nhạc là một vấn đề cần đƣợc làm rõ khi nghiên cứu thể loại này.
Bên cạnh đó, vấn đề mối quan hệ giữa ca từ và âm nhạc trong thể loại
CKNT trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng có một ý nghĩa quan
trọng bởi đây là một trong những điểm đặc trƣng mang tính thể loại của
CKNT. Trong các công trình, các kết quả phần lớn khẳng định vai trò, ý nghĩa
của mối quan hệ hỗ trợ giữa hai yếu tố giai điệu và ca từ.
Một số công trình đã đề cập đến mối quan hệ giữa thơ ca với âm nhạc
nhƣ cuốn Lịch sử nghệ thuật Thanh nhạc phƣơng Tây của tác giả Hồ Mộ La,
hay cuốn Âm nhạc Việt Nam - Tiến trình và thành tựu của nhiều tác giả. Các
tài liệu này chủ yếu hệ thống về tác giả, xuất xứ các tác phẩm thơ đƣợc sử
dụng trong các CKNT, hoặc dẫn chứng từng tác phẩm cụ thể, riêng lẻ, qua đó
nhận định một cách khái quát phần lớn những áng thơ trong các CKNT
thƣờng là của những nhà thơ cùng thời và cùng phong cách, hoặc khẳng định
lời thơ và âm nhạc thƣờng phù hợp. Tuy nhiên đây mới là những nhận định
khái quát, chƣa đi sâu vào khía cạnh âm nhạc học.
Một khía cạnh đƣợc đề cập nhiều trong các công trình, đó là cấu trúc.
Vấn đề này đã đƣợc những nhà nghiên cứu tiếp cận bằng cách phân tích hình
thức âm nhạc trong các Romance của nƣớc ngoài và một số CKNT của Đặng
Hữu Phúc, từ đó khẳng định các tác phẩm thuộc thể loại CKNT chủ yếu đƣợc
viết ở các hình thức hai đoạn đơn, ba đoạn đơn, bên cạnh đó còn có hình thức
một đoạn đơn, hình thức khổ nhạc, hình thức nhiều đoạn nhạc, hình thức
rondo, hình thức âm nhạc dạng couplet.
Về phƣơng thức phát triển giai điệu, các tài liệu chủ yếu đã đề cập đến
các thủ pháp nhắc lại, mô phỏng, bên cạnh đó phân tích việc tiến hành quãng
trong diễn biến của giai điệu. Có thể thấy phần lớn các tài liệu đã tiếp cận
phƣơng thức phát triển giai điệu qua khía cạnh điệu thức và mối quan hệ về
chất liệu giữa các cơ cấu trong các Romance nƣớc ngoài và một số CKNTVN.
Về hòa âm, một số tài liệu đã đề cập đến đặc điểm màu sắc hòa âm
25
trong thời kì Âm nhạc Lãng mạn, ở một số Romance nƣớc ngoài. Mối quan
hệ giai điệu và phần đệm trong CKNTVN có thể nói là một vấn đề mới. Mặc
dù đã đƣợc đề cập trong một vài luận văn, khóa luận nhƣng đều mới dừng lại
ở việc khẳng định sự tồn tại của mối quan hệ này. Tuy nhiên, để làm rõ về
mặt bản chất của mối quan hệ này, NCS nhận thấy cần phải đƣa mối quan hệ
này vào trong từng vấn đề của âm nhạc học mà trong đó phần thanh nhạc và
khí nhạc thể hiện sự tƣơng tác qua lại rõ ràng hơn, cụ thể là trong khía cạnh
xây dựng cấu trúc, hình tƣợng nghệ thuật, hiệu quả trong việc kết hợp giữa
âm nhạc phƣơng Tây và âm nhạc dân gian Việt Nam. Trong các khía cạnh
này, NCS sẽ làm rõ hình thức biểu hiện quan hệ giữa phần thanh nhạc và khí
nhạc ở dạng đồng đẳng hoặc dạng hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau.
Ngoài những khía cạnh trên, các công trình cũng đã tiếp cận các
CKNTVN ở khía cạnh tính dân tộc. Đây là một phạm trù khá rộng, tuy nhiên
các nghiên cứu mới chỉ tiếp cận các ca khúc không có phần đệm khí nhạc, do
vậy, phần lớn kết quả nghiên cứu liên quan đến khía cạnh nội dung ca từ, việc
áp dụng các làn điệu âm nhạc truyền thống, sử dụng thang âm ngũ cung, tuy
nhiên chƣa phân tích một cách cụ thể, chi tiết.
1.2.2.2. Những vấn đề còn bỏ ngỏ
Từ những đóng góp của các công trình nghiên cứu liên quan đến thể
loại CKNTVN, NCS hệ thống những vấn đề còn bỏ ngỏ và từ đó đề ra nhiệm
vụ nghiên cứu cho luận án nhằm giải quyết các vấn đề đó sao cho phù hợp với
mục đích nghiên cứu của luận án.
Trong khía cạnh lịch sử, thể loại CKNTVN chủ yếu đƣợc tiếp cận dƣới
dạng đơn lẻ theo từng trƣờng hợp tác giả - tác phẩm cụ thể chứ chƣa có sự
nghiên cứu một cách tổng thể, mang tính hệ thống. Vậy, nhiệm vụ đặt ra cho
luận án là chỉ ra tiến trình phát triển của thể loại CKNT với sự tổng thể về hệ
thống tác giả - tác phẩm, ngoài ra nghiên cứu phải thể hiện đƣợc quá trình
hình thành và phát triển của thể loại này trong bối cảnh lịch sử và trong sự
26
ảnh hƣởng từ những thể loại âm nhạc khác.
Trong khía cạnh cấu trúc, các nghiên cứu đã phân tích về hình thức âm
nhạc trong một số Romance và CKNTVN nhƣng chƣa có sự hệ thống, tổng
kết để đƣa ra một nhận định chung mang tính tổng quát về các dạng cấu trúc
trong CKNTVN. Với những vấn đề này, luận án sẽ đi vào phân tích một cách
chi tiết và hệ thống hình thức âm nhạc trong các tác phẩm, từ đó có sự phân
loại, so sánh việc sử dụng hình thức khác nhau; làm rõ những phƣơng thức,
thủ pháp xây dựng các loại cấu trúc từ quy mô nhỏ đến lớn, hoặc cách thức
tạo nên dạng tƣơng phản, dạng phát triển trong cấu trúc, cách xây dựng cấu
trúc phần phụ trong tác phẩm và mối quan hệ giữa giữa phần chính và phần
phụ trong các CKNTVN.
Về mối quan hệ giữa ca từ và âm nhạc, một vấn đề cần đƣợc làm rõ là
vai trò của ca từ trong việc xây dựng hình tƣợng nghệ thuật, mối tƣơng quan
giữa cấu trúc lời thơ với hình thức âm nhạc, giữa thanh điệu của ca từ với
cao độ của giai điệu. Những khía cạnh này chƣa đƣợc nghiên cứu một cách
thực sự cụ thể và chi tiết trong các công trình. Trong luận án, NCS sẽ phân
tích, giải quyết những vấn đề đó từ góc độ âm nhạc học, từ đó chứng minh sự
tƣơng tác qua lại giữa yếu tố ca từ và âm nhạc trong thể loại CKNTVN.
Với khía cạnh phƣơng thức phát triển giai điệu, mặc dù các tài liệu đã có
cách tiếp cận gần với hƣớng triển khai của luận án, tuy nhiên các kết quả nghiên
cứu về CKNTVN còn khá sơ lƣợc, chƣa thực sự làm rõ những nét đặc trƣng.
Trong luận án, NCS sẽ phân tích chi tiết hơn, trên một phạm vi đối tƣợng rộng
hơn và tổng hợp để đi đến những kết quả nghiên cứu cụ thể và thuyết phục.
Về phần thanh nhạc, trong các công trình nghiên cứu liên quan chủ yếu
tiếp cận những nguyên tắc về hơi thở, tƣ thế, phƣơng pháp sƣ phạm, chứ
không đề cập một cách cụ thể việc ứng dụng những kỹ thuật này trong các ca
khúc nói chung và CKNTVN nói riêng. Đây là một vấn đề mới, chƣa đƣợc
nghiên cứu cụ thể trong trƣờng hợp CKNTVN. NCS sẽ phân tích các kỹ thuật
27
thanh nhạc đƣợc vận dụng, làm rõ tính học thuật và giá trị nghệ thuật của các
yếu tố đó trong các CKNTVN.
Với khía cạnh facture phần đệm, mặc dù đã có một số công trình
nghiên cứu về facture phần đệm đƣợc sử dụng trong các Romance nƣớc ngoài
và CKNTVN của một số tác giả, tuy nhiên các kết quả mới dừng lại ở việc
liệt kê các âm hình đệm tiêu biểu. Thực tế, việc nghiên cứu facture piano
trong các CKNT còn cần đƣợc làm rõ về tính chất các facture nhƣ tính chu kỳ
hay sự tƣơng quan với tiết tấu của giai điệu, bên cạnh đó, tiến trình phát triển
của các facture tƣơng ứng với những giai đoạn khác nhau trong tác phẩm
cũng là một yếu tố cần đƣợc phân tích cụ thể để làm rõ vai trò của facture
phần đệm trong việc tạo động lực phát triển cho tác phẩm. NCS sẽ tập trung
làm rõ điều này, để đi đến kết quả nghiên cứu mang tính hệ thống về facture
piano trong thể loại CKNTVN.
Về hòa âm trong CKNTVN, có thể thấy các kết quả nghiên cứu hiện
còn khá sơ lƣợc, mới đề cập đến một số tác phẩm riêng lẻ, chƣa mang tính
tổng quát và đại diện cao. Trong luận án, NCS sẽ làm rõ hệ thống điệu thức,
cách thức sử dụng và sự tƣơng tác giữa các loại điệu thức, bên cạnh đó hệ
thống các loại cấu trúc hợp âm đặc trƣng, phân tích các thủ pháp hòa âm nhƣ
các vòng công năng, vòng kết, biến âm, ly điệu, chuyển điệu... Việc tổng hợp
những khía cạnh này có thể phản ánh đặc điểm hòa âm một cách chi tiết, trên
cơ sở đó làm rõ đặc trƣng tiêu biểu, những biểu hiện của sự kết hợp âm nhạc
phƣơng Tây với âm nhạc dân tộc trong CKNTVN. Hầu hết những tài liệu
tham khảo mới phân tích một vài khía cạnh hòa âm ở tác phẩm của một số ít
tác giả, nhiệm vụ của luận án là cần phân tích những khía cạnh đó trên một
tổng thể tác phẩm của nhiều tác giả khác nhau để làm sáng tỏ đặc điểm hòa
âm của thể loại CKNTVN, thể hiện đƣợc sự kết hợp giữa ngôn ngữ âm nhạc
phƣơng Tây và âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Về tính dân tộc trong thể loại CKNTVN, dƣới góc độ âm nhạc học,
28
NCS sẽ đi sâu vào việc phân tích, làm rõ những ảnh hƣởng từ âm nhạc truyền
thống Việt Nam, các thủ pháp đƣợc sử dụng để tạo nên đặc điểm đó cũng nhƣ
hiệu quả mà nó mang lại trong ngôn ngữ âm nhạc của các tác phẩm
CKNTVN. Cụ thể, việc phân tích tập trung làm rõ những cấu trúc ảnh hƣởng
từ âm nhạc truyền thống Việt Nam, các điệu thức ngũ cung và sự kết hợp với
các điệu thức trƣởng thứ phƣơng Tây, các cấu trúc hợp âm, biến âm tạo âm
hƣởng dân gian, cách thức xây dựng cấu trúc, các giai điệu có âm điệu đặc
trƣng, các âm hình tiết tấu mang màu sắc dân tộc, sự ảnh hƣởng của ngữ âm
tiếng Việt đến cao độ trong giai điệu của CKNTVN.
Có thể thấy các vấn đề còn bỏ ngỏ thuộc các khía cạnh về lịch sử, cấu
trúc, cách thức xây dựng hình tƣợng nghệ thuật, đặc điểm âm nhạc đã đƣợc
phân tích ở trên chủ yếu do các công trình chuyên khảo chƣa tiếp cận ở mức
độ chuyên sâu về CKNTVN, những công trình nghiên cứu chuyên biệt về thể
loại này mới đề cập đến một số tác phẩm của một vài tác giả riêng lẻ, chƣa
mang tính khái quát, hệ thống. Một số công trình có liên quan nhƣng việc
nghiên cứu chƣa tiếp cận một cách chi tiết và đầy đủ các khía cạnh. NCS sẽ
lựa chọn các vấn đề liên quan đến CKNTVN để triển khai trong luận án này,
và từ đó phân tích làm rõ những đặc điểm về cấu trúc, cách thức xây dựng
hình tƣợng, đặc điểm âm nhạc cũng nhƣ sự kết hợp giữa âm nhạc phƣơng Tây
với âm nhạc truyền thống Việt Nam trong thể loại này. Đây là cơ sở để NCS
bám sát mục đích nghiên cứu và đảm bảo tính mới cho luận án.
1.3. Sự hình thành thể loại Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Thể loại CKNTVN đƣợc hình thành cùng nền âm nhạc chuyên nghiệp
Việt Nam, với sự ảnh hƣởng sâu sắc từ văn hóa nghệ thuật phƣơng Tây đồng
thời kế thừa những đặc điểm từ âm nhạc truyền thống Việt Nam. Việc phân
tích làm rõ sự hình thành cũng nhƣ những yếu tố ảnh hƣởng đến sự ra đời của
các CKNTVN sẽ góp phần lý giải những đặc điểm của thể loại này đƣợc phân
tích trong các phần sau của luận án.
29
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng sự ra đời Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Thể loại CKNTVN ra đời là sự kết hợp của nhiều yếu tố, với sự ảnh
hƣởng của một số thể loại âm nhạc nói chung và các thể loại ca khúc nói
riêng, những ảnh hƣởng này đã góp phần hình thành đặc điểm và giá trị của
ca từ và âm nhạc trong CKNTVN. Chính vì vậy, việc phân tích đặc điểm các
thể loại thanh nhạc nói chung, đặc biệt là thể loại ca khúc sẽ làm rõ khuynh
hƣớng chung trong sáng tác, mối tƣơng quan giữa các yếu tố ca từ, giai điệu,
phần đệm, thể hiện những xu hƣớng trong ngôn ngữ âm nhạc của thể loại ca
khúc nói chung và CKNT nói riêng.
1.3.1.1. Ảnh hƣởng từ một số thể loại ca khúc
Đầu TK XX, cùng với sự ra đời của phong trào Âm nhạc cải cách, nền
âm nhạc Việt Nam xuất hiện ba khuynh hƣớng sáng tác chủ đạo: khuynh
hƣớng hùng ca yêu nƣớc, khuynh hƣớng cách mạng và khuynh hƣớng lãng
mạn. Khuynh hƣớng lãng mạn có thể đƣợc nhìn nhận đã đóng góp những
thành tố cơ bản ban đầu cho sự ra đời của thể loại CKNTVN, trong đó đặc
điểm của giai điệu chính là yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất.
Nhƣ đã đề cập ở phần khái niệm, CKNT là một thể loại phải đảm bảo
đƣợc giá trị nghệ thuật trong giai điệu, hay nói cách khác, ở đó ngƣời sáng tác
đặc biệt chú trọng đến vẻ đẹp của giai điệu. Nếu nhƣ ở khuynh hƣớng hùng ca
yêu nƣớc hay khuynh hƣớng cách mạng, các ca khúc có thể biểu hiện hình
tƣợng, tính chất âm nhạc qua tiết tấu, nhịp điệu, âm hƣởng, lời ca… thì với ca
khúc thuộc khuynh hƣớng lãng mạn, việc xây dựng và phát triển giai điệu bao
gồm cách thức tiến hành quãng, mối tƣơng quan giữa các câu nhạc, đoạn
nhạc, âm vực, âm khu của giai điệu, yêu cầu về kỹ thuật thanh nhạc… lại là
những yếu tố làm nên sự đặc sắc và chất lƣợng nghệ thuật cho tác phẩm. Việc
chú trọng và nâng cao giá trị của giai điệu lên một tầm cao mới trong các ca
khúc khuynh hƣớng lãng mạn là một trong những yếu tố dẫn dắt cho sự ra đời
của thể loại CKNTVN.
30
Khuynh hƣớng ca khúc lãng mạn bao gồm ba thành phần: những ca
khúc mộng mơ, trữ tình; ca khúc bi ai, thƣơng cảm và ca khúc thôn dã, mang
âm hƣởng của âm nhạc dân gian. Mỗi thành phần đó đều có những nét riêng
trong đặc điểm của giai điệu, đặc biệt là dòng ca khúc mộng mơ, trữ tình có
thể kể đến nhƣ ca khúc Suối mơ, Thiên thai, Cung đàn xƣa. . của Văn Cao,
Gửi ngƣời em gái, Tà áo xanh… của Đoàn Chuẩn và các ca khúc bi ai,
thƣơng cảm tiêu biểu là các ca khúc Con thuyền không bến, Giọt mƣa thu của
Đặng Thế Phong, Biệt ly của Doãn Mẫn, Đêm đông của Nguyễn Văn
Thƣơng… là những dòng ca khúc đề cao giá trị của giai điệu. Thực tế ca khúc
khuynh hƣớng lãng mạn đã góp phần đƣa đến cho nền âm nhạc Việt Nam một
giai đoạn âm nhạc với nhiều giai điệu đẹp, giàu tính hình tƣợng, chất thơ và
giàu cảm xúc. Những ca khúc này thƣờng có những yêu cầu nhất định trong
việc xử lý kỹ thuật thanh nhạc với các bƣớc tiến hành quãng đặc trƣng và âm
vực, âm khu phức tạp hơn các ca khúc thuộc khuynh hƣớng khác. Và đặc biệt,
giai điệu trong dòng ca khúc lãng mạn luôn in đậm dấu ấn ngôn ngữ âm nhạc
của cá nhân ngƣời sáng tác.
Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong có thể coi là một trong
những ca khúc lãng mạn đầu tiên trong phong trào “âm nhạc cải cách”, giai
điệu trong ca khúc đã thể hiện rất rõ nét những đặc trƣng của hình tƣợng “con
thuyền không bến” bằng sự duy trì liên tục những cao độ và trƣờng độ bằng
nhau, thể hiện tính chất chậm rãi, lắng đọng.
VD 1.05: Đặng Thế Phong, Con thuyền không bến, nhịp 1-4
Còn với ca khúc Đêm đông của Nguyễn Văn Thƣơng, tính nghệ thuật
thể hiện trong giai điệu dịch chuyển liên tục với các quãng theo trục gam di
chuyển lên xuống linh hoạt kết hợp với lơi nhịp, đòi hỏi ngƣời thể hiện cần xử
lý một cách tinh tế về mặt kỹ thuật thanh nhạc.
31
VD 1.06: Nguyễn Văn Thƣơng, Đêm đông, nhịp 1-8
Trong ca khúc này, nét giai điệu tiến hành trong một âm vực khá rộng,
liên tục thay đổi âm khu, giai điệu tiến hành chủ yếu dựa theo trục của hợp
âm, kết hợp linh hoạt giữa các bƣớc tiến hành liền bậc và các quãng nhảy xa.
Hầu hết những ca khúc thuộc khuynh hƣớng lãng mạn thƣờng chú trọng
vào vẻ đẹp và giá trị của giai điệu, về sau, dòng CKNTVN chịu ảnh hƣởng
không nhỏ từ đặc điểm này, chính vì vậy, khuynh hƣớng lãng mạn đóng một
vai trò quan trọng, là tiền thân của sự hình thành thể loại CKNTVN. Trong
khi khuynh hƣớng ca khúc lãng mạn có sự ảnh hƣởng quan trọng trong việc
hình thành thể loại CKNTVN ở khía cạnh giai điệu, thì với khía cạnh ca từ
cần phải nhắc tới sự ảnh hƣởng từ những ca khúc phổ thơ. Trong lịch sử âm
nhạc thế giới, thể loại CKNT có mối liên hệ rất khăng khít với thơ ca từ
những giai đoạn rất sớm và cho tới thời kỳ Cận – Hiện đại, mối quan hệ đó
vẫn liên tục phát triển và đã trở thành một đặc trƣng của thể loại âm nhạc này.
Hồ Mộ La trong công trình Lịch sử nghệ thuật Thanh nhạc phƣơng Tây đã
khẳng định mối tƣơng quan mật thiết giữa thơ ca và âm nhạc trong thể loại
CKNT vào thời kỳ âm nhạc Lãng mạn - thời kỳ nở rộ của thể loại này,
“CKNT của chủ nghĩa lãng mạn đã hình thành và phát triển, với đặc điểm kết
hợp hữu cơ giữa thơ trữ tình lãng mạn với âm nhạc” [36; tr.192]. Các nhà
soạn nhạc nổi tiếng với thể loại này trên thế giới thƣờng lựa chọn những nhà
thơ cùng thời hoặc nổi tiếng và có mối quan hệ gần gũi về văn hóa dân tộc.
Chẳng hạn nhƣ những Romance của nhà soạn nhạc F. Schubert thƣờng phổ
thơ của Goethe, Schiller; nhà soạn nhạc R. Schumann thƣờng phổ thơ của
Heine, Schiller…; ở nƣớc Nga, nhà soạn nhạc M.I. Glinka gắn bó với những
vần thơ của Puskin trong khi các Romance của Tchaikovsky lại ảnh hƣởng
sâu sắc từ những áng thơ bất hủ của Tolstoi.
32
Ở Việt Nam, những CKNT cũng có mối quan hệ đặc biệt với thơ ca.
Ngay từ những giai đoạn đầu của âm nhạc cải cách, sự xuất hiện của những ca
khúc phổ thơ là những một trong những yếu tố góp phần quan trọng cho sự
hình thành của CKNTVN về sau. Những ca khúc phổ thơ đầu tiên ra đời nhƣ
Màu thời gian của Nguyễn Xuân Khoát phổ thơ của Đoàn Phú Tứ, Cô hái mơ
của Văn Cao (thơ Nguyễn Bính), các bài Lời kỹ nữ (thơ Xuân Diệu), Bông
hoa rừng (thơ Thế Lữ), Tiếng thùy dƣơng (theo bài thơ Ngậm Ngùi của Huy
Cận), Lời vũ nữ (thơ Nguyễn Hoàng Tƣ), Tiếng hát thu (thơ Lƣu Trọng Lƣ)
của Lê Thƣơng, Tống biệt hành của Võ Đức Thu (Thơ Tản Đà)…”[44;
tr.111]. Có thể thấy, hầu hết những bài thơ đƣợc lựa chọn trong các ca khúc
phổ thơ ở giai đoạn này đều là của những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào
Thơ mới của Việt Nam. Đây là một phong trào thơ ca theo chủ nghĩa lãng
mạn, chủ yếu hƣớng đến cảm xúc chủ quan của cá nhân, đôi khi xa rời thực
tế, trốn tránh thực tại, nhƣng lại thể hiện nhiều ƣớc mơ và hình tƣợng đẹp
trong cuộc sống. Những ca khúc phổ thơ đã kế thừa tính chất giàu cảm xúc và
giàu hình tƣợng của thể loại thơ này để tạo nên những ca khúc có giá trị nghệ
thuật về ca từ, một đặc điểm quan trọng để hình thành nên thể loại CKNTVN.
Trong những ca khúc phổ thơ ở giai đoạn đầu, bằng việc lựa chọn
những tác phẩm thuộc phong trào Thơ mới, các nhạc sĩ đã đƣa vào tác phẩm
âm nhạc của mình những lời ca có tính chất phóng khoáng, bay bổng, góp
phần cùng âm nhạc diễn đạt những tính chất trữ tình, lãng mạn. Các tác phẩm
Thơ mới đã có những sự cách tân trong ngôn ngữ sáng tác, xuất hiện nhiều
hơn những thể thơ tự do, cách lựa chọn vần, và vị trí đặt vần, hình tƣợng nghệ
thuật và cách thể hiện hình tƣợng đã phong phú hơn rất nhiều so với thơ ca
của những giai đoạn trƣớc đó. Thơ mới ra đời đánh dấu bƣớc ngoặt trong
ngôn ngữ sáng tác thơ ca của văn học Việt Nam. Lần đầu tiên, những cái “tôi”
đƣợc xuất hiện rất điển hình và khác biệt trong diễn đàn văn học nghệ thuật
Việt Nam. Trong cuốn Thi Nhân Việt Nam, tác giả Hoài Thanh đã nhận định
“Chƣa bao giờ ngƣời ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở nhƣ
Thế Lữ, mơ mộng nhƣ Lƣu Trọng Lƣ, hùng tráng nhƣ Huy Thông, trong sáng
nhƣ Nguyễn Nhƣợc Pháp, ảo não nhƣ Huy Cận, quê mùa nhƣ Nguyễn Bính, kì
dị nhƣ Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn nhƣ Xuân Diệu”.
33
Và ảnh hƣởng từ những vần thơ ấy, cái “tôi” trong các CKNTVN cũng
đƣợc thể hiện rất rõ. Điều này đƣợc phản ánh qua sự phong phú về chủ đề, bút
pháp, sự đa dạng về tính chất âm nhạc cũng nhƣ hình tƣợng nghệ thuật trong các
CKNTVN của các tác giả trong những giai đoạn khác nhau.
Kể cả trong thời kỳ đổi mới và cho đến ngày nay, mỗi nhạc sĩ Việt Nam
sáng tác CKNT cũng thƣờng lựa chọn cho mình một hoặc vài nhà thơ để tập
trung phổ nhạc, tạo nên mối liên hệ gắn bó của giai điệu với ca từ cũng nhƣ
thể hiện sự đồng điệu trong cảm xúc của ngƣời nhạc sĩ với nhà thơ… Những
ca khúc phổ thơ đã trở thành một yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành thể loại CKNTVN, thiết lập mối quan hệ gắn bó giữa yếu tố âm
nhạc và thơ ca trong thể loại này.
Có thể thấy, có nhiều thể loại, trào lƣu, khuynh hƣớng ca khúc có ảnh
hƣởng trực tiếp đển sự ra đời của các CKNTVN, trong đó phải kể đến dòng ca
khúc lãng mạn và ca khúc phổ thơ trong giai đoạn âm nhạc cải cách là những
yếu tố quan trọng. Bên cạnh đó, với sự phát triển của nền âm nhạc chuyên
nghiệp, các nhạc sĩ đã cho ra đời những ca khúc có phần đệm piano. Từ
những điều kiện đó, CKNTVN ngày một định hình rõ nét, trở thành một thể
loại có sự gắn kết đặc biệt chặt chẽ giữa ba yếu tố: ca từ, giai điệu và phần đệm.
1.3.1.2. Sự ra đời của phần đệm khí nhạc trong thể loại ca khúc Việt Nam
Ở phƣơng Tây, đầu TK XIX, khi nhà soạn nhạc ngƣời Áo F.Schubert
đƣa thể loại ca khúc lên đến đỉnh cao sánh vai với những thể loại khí nhạc hàn
lâm khác thì nhân loại mới thực sự công nhận giá trị nghệ thuật của thể loại
này. Những tác phẩm CKNT có phần đệm khí nhạc kèm theo ngày một nhiều
hơn về số lƣợng cũng nhƣ phức tạp hơn về ngôn ngữ âm nhạc và khẳng định
34
phong cách sáng tác đặc trƣng trong thể loại này của nhiều nhà soạn nhạc nhƣ
F.Schubert, R.Schumann, J.Bramhs, H.Wolf, H.Berlioz, C.Gounod, G.Bizet,
J.Massenet, M.I.Glinka, P.I.Tchaikovsky, S.V.Rachmaninov… Trong âm
nhạc phƣơng Tây, thể loại CKNT có phần đệm thực sự đã khẳng định đƣợc
giá trị và vai trò của mình trong nên âm nhạc hàn lâm.
Trong khi đó ở Việt Nam, trƣớc khi ảnh hƣởng từ văn hóa phƣơng Tây,
nền âm nhạc Việt Nam vốn đã rất phong phú với các nhạc cụ truyền thống
nhƣ đàn bầu, đàn thập lục, đàn đá, cồng chiêng, các loại khèn, . . và các thể
loại âm nhạc dân gian nhƣ Hò, Lý, hát Xoan, Ghẹo, hát Ví, Giặm, Tuồng,
Chèo, Cải lƣơng, Đờn ca tài tử, Ca trù… Tuy nhiên, nền khí nhạc chuyên
nghiệp của Việt Nam chỉ đƣợc hình thành khi ra đời các cơ sở đào tạo âm
nhạc chuyên nghiệp nhƣ trƣờng Âm nhạc Việt Nam đƣợc thành lập năm
1956, các tổ chức hoạt động âm nhạc nhƣ Hội nhạc sĩ Việt Nam, cũng nhƣ
việc xây dựng các nhà hát. Khi đó, các điều kiện cho việc sáng tác, biểu diễn,
thƣởng thức khí nhạc trở nên thuận lợi hơn. Trên thực tế, một điều kiện không
thể không nhắc tới và có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ sáng
tác khí nhạc chuyên nghiệp, đó là việc một số nhạc sĩ đƣợc Nhà nƣớc gửi đi
học ở nƣớc ngoài, chủ yếu là Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên và một số
nƣớc Đông Âu. Điều này diễn ra vào khoảng giữa TK XX, và từ đó đã cho ra
đời những tác phẩm khí nhạc Việt Nam đầu tiên.
Tác phẩm khí nhạc chuyên nghiệp đầu tiên của các nhạc sĩ Việt Nam
phải kể đến là giao hƣởng Quê Hƣơng của Hoàng Việt đã mở ra một thời kỳ
phát triển mới cho khí nhạc Việt Nam. Đây là những tác phẩm đƣợc sử dụng
ngôn ngữ sáng tác ảnh hƣởng từ âm nhạc phƣơng Tây, điều đó thể hiện ở các
dạng thể loại, cấu trúc, thủ pháp sáng tác và sự vận dụng các kỹ thuật diễn tấu
của các nhạc khí phƣơng Tây. Trong những tác phẩm này, các nhạc sĩ sử
dụng phổ biến chất liệu âm nhạc dân gian, thể hiện trong các chủ đề, màu sắc
hòa âm và trong cả việc đƣa các nhạc khí truyền thống của Việt Nam vào các
tác phẩm khí nhạc bên cạnh các nhạc khí phƣơng Tây.
35
Sự phát triển của lĩnh vực khí nhạc Việt Nam đã đánh dấu một giai
đoạn mới cho việc biểu diễn, sáng tác khí nhạc ở Việt Nam. Các nhạc sĩ đƣợc
học chơi nhạc cụ phƣơng Tây một cách bài bản. Điều này tất yếu ảnh hƣởng
đến thể loại phổ biến nhất trong âm nhạc Việt Nam, đó là Ca khúc. Những
phần đệm khí nhạc không chỉ nâng tầm chuyên nghiệp cho thể loại này bằng
việc đem đến chất thính phòng, những kỹ thuật sáng tác hàn lâm mà đây còn
là cầu nối âm nhạc phổ thông với âm nhạc mang tính học thuật cao.
Phần đệm đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng các tác phẩm
thuộc thể loại ca khúc, vốn là một thể loại nhỏ, lên một tầm cao mới mang
tính chuyên nghiệp, bên cạnh đó còn thể hiện sự trƣởng thành, tiến bộ của đội
ngũ biểu diễn, đó là các ca sĩ, nghệ sĩ thể hiện tác phẩm. Việc sáng tác các
phần đệm với các kỹ thuật phức tạp trong âm nhạc hàn lâm không thể tách rời
khả năng diễn tấu của ngƣời biểu diễn. Trong cuộc tiếp biến với văn hóa
phƣơng Tây trong đó có văn hóa Pháp, giới tiểu tƣ sản Việt Nam dần đƣợc
tiếp cận các nhạc khí phƣơng Tây, có những ngƣời đƣợc theo học tại các lớp
cá nhân do ngƣời Pháp mở ra, có những ngƣời tự học thông qua sách báo,
băng đĩa,… Ban đầu họ chơi các nhạc cụ nhƣ guitar, piano, violin để đệm cho
các ca khúc, hoặc chơi trong nhóm nhạc đệm cho các bài hát trong các vũ
trƣờng. Khi kỹ thuật diễn tấu đƣợc nâng cao, đặc biệt với sự ra đời của cơ sở
đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp là trƣờng Âm nhạc Việt Nam, số lƣợng những
ngƣời biểu diễn nhạc cụ chuyên nghiệp ngày càng nhiều hơn do đƣợc đào tạo
một cách bài bản với nền tảng là các kỹ thuật, các hệ thống tác phẩm mang
tính hàn lâm, học thuật cao. Một số yếu tố tạo tiền đề cho việc hình thành nền
khí nhạc Việt Nam nhƣ việc viết những đoạn nhạc trong phần chuyển cảnh ở
các vở ca kịch hoặc múa của Văn Chung, Lƣu Hữu Phƣớc, chuyển soạn phần
âm nhạc trong phim câm của Phạm Đăng Hinh,… Tiếp đó là sự xuất hiện
những tiểu phẩm khí nhạc độc lập nhƣ Tân âm điệu piano của Võ Đức Thu,
tuyển tập viết cho piano của Thái Thị Lang, việc chuyển soạn từ ca khúc sang
cho dàn kèn đồng trong lễ Quốc Khánh ngày 2/9/1945 của Đinh Ngọc Liên…
36
Trong xã hội bấy giờ ngày càng có nhiều hơn những môi trƣờng cho
ngƣời chơi nhạc hoạt động chuyên môn, thậm chí kiếm sống bằng âm nhạc,
tạo điều kiện cho việc nâng cao trình độ chơi nhạc, xuất hiện ngày càng nhiều
những ngƣời có trình độ chơi nhạc cụ chuyên nghiệp, đây là một điều kiện
quan trọng để ra đời các tác phẩm ca khúc thính phòng có phần đệm khí nhạc.
Điều kiện cuối cùng quyết định sự ra đời và phát triển của một thể loại
âm nhạc nói chung và CKNTVN nói riêng, đó là công chúng thƣởng thức.
Với việc xâm chiếm lãnh thổ ở châu Á của các đế quốc, thực dân đến từ châu
Âu, sự lan tỏa của âm nhạc phƣơng Tây sang phƣơng Đông nói chung và Việt
Nam nói riêng là một tất yếu của lịch sử. Ở Việt Nam, với sự có mặt của thực
dân Pháp, đến đầu thế kỉ XX, văn hóa Pháp trong đó có nghệ thuật âm nhạc
đã thực sự có những ảnh hƣởng sâu rộng đến thị hiếu âm nhạc của công
chúng Việt Nam. Công chúng Việt Nam đƣợc làm quen với các tác phẩm âm
nhạc phƣơng Tây, nhạc khí phƣơng Tây thông qua nhiều con đƣờng khác
nhau. Do đó, việc thƣởng thức những tác phẩm có yếu tố khí nhạc dành cho
các nhạc cụ phƣơng Tây dần trở nên quen thuộc và đƣợc công chúng Việt
Nam tiếp nhận ngày một nhiều hơn. Những tác phẩm ca khúc thính phòng có
phần đệm khí nhạc còn có phần gần gũi với công chúng Việt Nam hơn nữa,
do đây là sự nâng cao tính chuyên nghiệp, tính nghệ thuật xuất phát từ thể loại
ca khúc vốn là thể loại âm nhạc phổ biến nhất ở Việt Nam. Do đó, việc phần
đệm khí nhạc trong các CKNTVN đƣợc công chúng Việt Nam đón nhận là
kết quả của nhiều yếu tố: sự tất yếu của lịch sử thế giới và khu vực, sự truyền
bá của âm nhạc phƣơng Tây vào Việt Nam và sự đáp ứng các yếu tố học thuật
trong việc sáng tác, biểu diễn và thƣởng thức các tác phẩm có yếu tố khí nhạc
phƣơng Tây. Thực tế không phải tác phẩm nào có phần đệm piano cũng đạt
đƣợc đầy đủ tiêu chí của một CKNTVN, vì còn phải đạt đƣợc sự trau chuốt và
tính thẩm mỹ của ca từ, và một phần đệm có sự tƣơng tác chặt chẽ với giai
điệu. NCS đã tập hợp và chọn lọc đƣợc 136 tác phẩm của 16 tác giả, bao gồm
những tác giả từ giai đoạn đầu của nền Tân nhạc nhƣ Nguyễn Đình Phúc, Huy
37
Du, Hoàng Dƣơng… cho tới những nhạc sĩ giai đoạn cuối TK XX, đầu TK
XXI nhƣ Trần Mạnh Hùng, Lê Hồng Lĩnh, Đặng Tuệ Nguyên… Một số tác
giả chỉ sáng tác một CKNT nhƣ Đào Trọng Minh, Lê Hồng Lĩnh, Đặng Tuệ
Nguyên… hoặc sáng tác số lƣợng khá nhiều nhƣ Đặng Hữu Phúc, Hoàng Cƣơng,
Huy Du…Trong quá trình phát triển, CKNTVN chịu ảnh hƣởng từ sự biến đổi
của thể loại ca khúc nói chung trên cả ba khía cạnh ca từ, giai điệu và phần đệm.
1.3.2. Sự biến đổi của thể loại ca khúc
Thể loại CKNTVN ra đời cùng sự hình thành của nền âm nhạc chuyên
nghiệp Việt Nam, đồng thời kế thừa, kết hợp những đặc điểm, đặc trƣng, tính
nghệ thuật từ giai điệu trong ca khúc lãng mạn và ca từ trong ca khúc phổ thơ.
Sự biến đổi trong đặc điểm âm nhạc của các thể loại ca khúc có những ảnh
hƣởng trực tiếp đến ca từ, giai điệu và phần đệm trong thể loại CKNTVN. Do
đó, nghiên cứu sự biến đổi này sẽ góp phần làm rõ bối cảnh văn hóa nghệ
thuật ảnh hƣởng đến quá trình hình thành và phát triển của thể loại CKNTVN.
1.3.2.1. Sự biến đổi của ca từ, giai điệu trong ca khúc Việt Nam
Trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, các thể loại thanh nhạc biến đổi
cùng sự phát triển của nền âm nhạc Việt Nam, đồng thời chịu những ảnh
hƣởng từ các yếu tố lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa… Trong các tác phẩm
thanh nhạc, hai yếu tố quan trọng hàng đầu là giai điệu và ca từ cũng chịu tác
động của các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật khác. Yếu tố này có sự biến đổi với
những dạng thức từ đơn giản đến phức tạp. Sự biến đổi này không chỉ phụ
thuộc vào bối cảnh văn hóa xã hội mà còn phụ thuộc vào tƣ duy thẩm mỹ của
các nhạc sĩ, nhà thơ. Đó là sự biến đổi tất yếu, để có thể diễn đạt một cách
chân thực và hiệu quả cảm xúc và hình tƣợng nghệ thuật của ngƣời sáng tác
trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Có thể nhìn nhận sự biến đổi của ca từ,
giai điệu cũng nhƣ mối tƣơng quan giữa chúng trên các khía cạnh nhƣ cấu trúc,
ngôn ngữ sáng tác, và mức độ tƣơng tác giữa giai điệu và lời ca.
Trƣớc năm 1945, phong trào đặt lời Việt cho các bài hát Tây diễn ra rất
phổ biến. Đó là các ca khúc kế thừa phần âm nhạc từ ca khúc phƣơng Tây sau đó
38
phần ca từ đƣợc viết lại bằng tiếng Việt, chủ yếu đƣợc công chúng Việt Nam
tiếp cận thông qua băng đĩa và phim ảnh. Trong giai đoạn này, các nhạc sĩ Việt
Nam chƣa đƣợc đào tạo một cách bài bản tại các trƣờng học chuyên nghiệp mà
chủ yếu tự học thông qua các tác phẩm âm nhạc phƣơng Tây. Do vậy, những kỹ
thuật sáng tác âm nhạc chỉ mới ở giai đoạn hình thành, bắt đầu tích lũy về chất
liệu, ngôn ngữ âm nhạc. Tuy nhiên, quá trình tìm tòi đặt lời cho các khúc đã giúp
cho yếu tố ca từ đạt đƣợc những giá trị nhất định.
Trong giai đoạn 1945-1954, khi nền Tân nhạc Việt Nam hình thành với
những ca khúc đầu tiên, các nhạc sĩ đã phát triển kỹ thuật sáng tác cả ở khía cạnh
giai điệu cũng nhƣ ca từ. Nhƣ đã đề cập ở phần trƣớc, ở giai đoạn này, sự ra đời
của các dòng ca khúc trữ tình đã đánh dấu một bƣớc phát triển mới của yếu tố
giai điệu. Ca khúc trữ tình là một yếu tố có nhiều ảnh hƣởng trong việc hình
thành CKNTVN, chính vì vậy, những giai điệu đẹp trong ca khúc lãng mạn đóng
vai trò quan trọng góp phần tạo nên đặc trƣng cho thể loại CKNTVN. Tuy nhiên
ở giai đoạn này, tƣ duy về khí nhạc chƣa thực sự hoàn chỉnh, số lƣợng các tác
phẩm khí nhạc với kỹ thuật sáng tác bài bản chƣa nhiều, do đó ở giai đoạn này
các ca khúc chủ yếu chỉ có giai điệu chứ chƣa có phần đệm.
Từ giai đoạn này, ca khúc bắt đầu có những bƣớc biến đổi rõ rệt trên các
khía cạnh nhƣ cấu trúc, ca từ và giai điệu. Về cấu trúc, các tác phẩm của các tác
giả khác nhau, hoặc của cùng một tác giả nhƣng ở những thời kỳ khác nhau
có thể mang những đặc trƣng khác nhau. Ở ca khúc giai đoạn 1945-1954,
ngôn ngữ thƣờng đơn giản, tính chất âm nhạc dễ nghe, dễ cảm nhận, cấu trúc
thƣờng có quy luật chu kì rõ rệt. Điều này thể hiện ở việc đa phần các ca khúc
đều có sự mạch lạc, cân đối, cách kết hợp giữa giai điệu và lời ca đƣợc lặp đi
lặp lại một cách có chu kì, khiến ngƣời nghe dễ nhớ. Có thể minh họa với một
loạt các ca khúc ở giai đoạn này nhƣ Hồn Việt Nam của Bùi Công Kỳ, Làng
tôi của Hồ Bắc, Ngày về của Hoàng Giác, Ngày mùa, Làng tôi của Văn Cao,
Áo mùa đông của Đỗ Nhuận, Quê em miền Trung Du của Nguyễn Đức Toàn,
Uất hận của Nguyễn Xuân Khoát, Hoài cảm của Cung Tiến…
39
Tuy nhiên, ở một số tác phẩm khác, những cấu trúc tự do của giai điệu
cũng nhƣ của ca từ đã bắt đầu xuất hiện và dần trở nên phổ biến hơn. Sự tự do
này đƣợc thể hiện trong những giai điệu, ca từ đƣợc thay đổi liên tục về độ dài
- ngắn của câu nhạc, câu thơ, thay đổi về vị trí tiết luật giữa những câu nhạc
khác nhau và về số lƣợng câu nhạc - câu thơ trong mỗi cơ cấu của tác phẩm.
Điều này đƣợc thể hiện trong cả các tác phẩm phổ thơ và những tác phẩm do
tác giả tự sáng tác ca từ, có thể kể đến một số tác phẩm nhƣ Gửi gió cho mây
ngàn bay của Đoàn Chuẩn, Chiến sĩ sông Lô của Nguyễn Đình Phúc, Du kích
Ba Tơ của Dƣơng Minh Viên, Tình kỹ nữ của Phạm Duy, Đóng nhanh lúa tốt
của Lê Lôi, Hƣơng xƣa của Cung Tiến, Nửa hồn thƣơng đau của Phạm Đình Chƣơng…
Sự biến đổi của mối tƣơng quan giữa giai điệu và ca từ trong sự phát
triển của thể loại ca khúc còn đƣợc thể hiện trong phong cách của giai điệu, ca
từ, màu sắc của giai điệu, nội dung của ca từ... Ở giai đoạn này, đặc biệt với
những ca khúc chính ca hoặc ca ngợi lãnh tụ, ca ngợi Tổ quốc, các tác giả chủ
yếu sử dụng những giai điệu đơn giản, ca từ có tính ƣớc lệ, trau chuốt với nội
dung là những suy nghĩ, cảm xúc mang tính đại diện, phổ biến trong xã hội.
Điều này đƣợc thấy rõ trong những ca khúc Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Lƣu
Hữu Phƣớc, Chào mừng Đảng Cộng Sản Việt Nam của Đỗ Minh,…
Một yếu tố cần đƣợc đề cập đến trong sự biến đổi mối quan hệ giữa giai
điệu và ca từ là sự đồng nhất hoặc khác biệt giữa tính chất của giai điệu so với
ca từ. Ở giai đoạn đầu, trong nhiều tác phẩm CKNT, giai điệu và ca từ thể
hiện sự gắn bó, ảnh hƣởng rất rõ rệt. Nhƣ trong ca khúc Ngày mùa của Văn
Cao, cách ngắt nhịp của giai điệu ảnh hƣởng sâu sắc từ đặc điểm ca từ“Ngày
mùa vui thôn trang, / lúa reo nhƣ hát mừng./ Lúa không lo giặc về,/ khi mùa
vàng thôn quê./”Ở ví dụ này, mỗi nét nhạc tƣơng ứng với một cụm ca từ có
sự hoàn chỉnh nhất định về ngữ nghĩa.
Trong một ví dụ khác ở tác phẩm Dƣ âm của Nguyễn Văn Tý, giai điệu
lại đƣợc phân ngắt theo từng cụm từ tƣơng ứng với sự chia nhỏ trong lời
ca“Hẹn em/ từ muôn kiếp trƣớc./ Nhớ em/ mấy thuở bạc đầu./ Anh đã âu sầu/
40
vì/ đƣờng tơ vƣơng vấn./ Em để cung đàn/ đƣa anh về đâu?”. Cách phân ngắt
này làm cho ca từ tạo đƣợc ấn tƣợng rõ ràng hơn với sự rõ ràng của từng từ
ngữ trong câu thơ, còn với âm nhạc, các motiv tách rời nhau tạo cho mạch
nhạc trở nên dài hơi, tính chất âm nhạc trở nên thong thả hơn. Ở ca khúc này,
cấu trúc, các giai đoạn phát triển của giai điệu đều gắn bó chặt chẽ đến sự vận
động của thể thơ trong lời ca, từ cách ngắt nhịp cho tới sự biến đổi chất liệu
âm nhạc qua từng đoạn.
Dạng liên hệ gắn bó chặt chẽ giữa giai điệu và ca từ vẫn là loại quan hệ
phổ biến nhất trong thể loại ca khúc, thể hiện sự liên hệ chặt chẽ không tách
rời của giai điệu và ca từ, nó phổ biến hơn so với những dạng tƣơng quan
giảm bớt tính chi phối lẫn nhau giữa hai yếu tố này. Đặc biệt trong giai đoạn
này đã xuất hiện một số những ca khúc có kỹ thuật sáng tác và biểu diễn
thành thục, phức tạp, có giá trị nghệ thuật cao hơn so với những ca khúc
thông thƣờng, nhƣ các tác phẩm Ngƣời Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, Bình
Trị Thiên khói lửa của Nguyễn Văn Thƣơng,… Có góc nhìn cho rằng đây
chính là các “CKNT” bởi chứa giá trị trong ca từ và giai điệu, tuy nhiên trong
bối cảnh của nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam thời bấy giờ, chúng ta chƣa có
đủ điều kiện để ra đời những ca khúc kèm theo phần đệm khí nhạc do chính
tác giả sáng tác nhƣ các Romance thanh nhạc trong âm nhạc phƣơng Tây.
Nói đến sự hình thành CKNTVN, không thể không nhắc đến giai đoạn
1954-1975 - giai đoạn đã đóng góp những điều kiện có ý nghĩa quan trọng quyết
định sự ra đời của thể loại này. Đây là thời điểm phát triển các ca khúc theo
khuynh hƣớng cách mạng, yêu nƣớc, hoạt động ca hát của thanh thiếu niên. Đặc
biệt phải kể đến những ca khúc có giá trị nghệ thuật cao nhƣ Mẹ yêu con của
Nguyễn Văn Tý, Bóng cây Kơ nia của Phan Huỳnh Điểu, Bài ca hy vọng của
Nguyễn Văn Ký, Xa Khơi của Nguyễn Tài Tuệ,… các ca khúc này có sự phát
triển cả về số lƣợng và chất lƣợng so với giai đoạn 1945-1954, thể hiện sự
trƣởng thành vƣợt bậc của đội ngũ sáng tác.
Giai đoạn 1954-1975 đánh dấu sự xuất hiện của nền âm nhạc chuyên
41
nghiệp Việt Nam với sự thành lập các trƣờng đạo tạo âm nhạc nhƣ Nhạc Viện
Hà Nội, thành lập Hội nhạc sĩ Việt Nam,…Những yếu tố này giúp cho nền âm
nhạc Việt Nam có đầy đủ điều kiện về nhân lực, về môi trƣờng hoạt động
chuyên môn, các nhạc sĩ đƣợc đào tạo một cách bài bản và chuyên nghiệp, công
chúng đƣợc tiếp cận với âm nhạc hàn lâm nhờ đó thẩm mỹ và thị hiếu nghe nhạc
đƣợc cải thiện rõ rệt. Khi các nhạc sĩ đƣợc đào tạo một cách bài bản, việc sáng
tác các tác phẩm khí nhạc trở nên phổ biến và hiệu quả hơn, lúc này phần đệm
khí nhạc trong các ca khúc mới thực sự trở thành một thành tố quan trọng, sánh
ngang với phần âm nhạc, tạo nên những CKNT hoàn chỉnh với đầy đủ ba thành
phần: ca từ, giai điệu và phần đệm. Đội ngũ sáng tác thể loại này gồm có các
nhạc sĩ Huy Du, Hoàng Dƣơng, Hoàng Cƣơng, Vĩnh Cát, Vĩnh Lai, Trần Thế
Bảo, Trần Thanh Hà … Sự xuất hiện phần đệm trong ca khúc do chính tác giả
sáng tác là biểu hiện bƣớc phát triển mới trong tƣ duy sáng tác ca khúc, nâng cao
tính chuyên nghiệp, đồng thời thể hiện phong cách cá nhân một cách rõ nét hơn.
Bối cảnh nền văn hóa nghệ thuật đã hội đủ ba yếu tố: ngƣời sáng tác, biểu diễn
và công chúng thƣởng thức. Các nhạc sĩ có đủ trình độ để sáng tác các tác phẩm
có tính học thuật. Các tác phẩm đƣợc thể hiện bởi những nghệ sĩ có trình độ
về biểu diễn và công chúng bắt đầu đón nhận các tác phẩm có yếu tố khí
nhạc…từ đó, tạo điều kiện chín muồi cho sự phát triển của thể loại CKNTVN.
Ở những giai đoạn sau 1975, đặc điểm về cấu trúc tác phẩm cũng nhƣ mối
quan hệ giữa giai điệu và ca từ dần trở nên phong phú và phức tạp hơn. Những
yếu tố của cấu trúc tự do càng đƣợc xuất hiện nhiều và biến đổi phức tạp hơn
trong các ca khúc Việt Nam. Có thể nhận thấy, cấu trúc của giai điệu và ca từ
trong quá trình phát triển của thể loại ca khúc đã có sự biến đổi từ tính cân đối
với những chu kỳ, quy luật rõ ràng sang tính tự do và phát triển phức tạp. Đặc
biệt trong những năm đầu TK XXI, một số tác phẩm của các tác giả trẻ càng
đƣợc thể hiện rõ điều này, chẳng hạn nhƣ Con cò của Lƣu Hà An, Bà tôi của
Nguyễn Vĩnh Tiến, Bên bờ ao nhà mình, À í a của Lê Minh Sơn, Chuông gió
của Võ Thiện Thanh, Thềm nhà có hoa của Lê Thanh Tâm,… Điều này là kết
42
quả của quá trình phát triển đặc điểm âm nhạc, biến đổi tƣ duy thơ ca qua
những giai đoạn khác nhau, phù hợp với tƣ duy và cảm xúc của con ngƣời
cũng nhƣ phản ánh đặc trƣng ngôn ngữ thời đại.
Càng về sau, giai điệu và ca từ trong thể loại ca khúc Việt Nam càng
đƣợc thể hiện với ngôn ngữ sáng tác có phong cách hiện đại hơn. Ở những giai
đoạn sau, chúng ta có thể tìm thấy những tác phẩm đƣợc viết bằng những giai
điệu góc cạnh biểu đạt tƣ duy âm nhạc mới, những ngôn từ hiện đại, có khi
mang tính trực diện hơn, nhƣng cũng có khi mang tính ẩn dụ nhiều hơn so với
những giai đoạn trƣớc, xuất hiện những nội dung thể hiện quan điểm cá nhân rõ
ràng, khác biệt. Những ca khúc thể hiện đặc điểm này có thể thấy nhƣ Chênh
vênh của Lê Cát Trọng Lý, Li ti của Lƣu Sa Huỳnh, Chạy theo ánh mặt trời của
Lƣơng Bằng Quang, Đứng yên của Thái Trinh…
Riêng với thể loại CKNTVN, đội ngũ sáng tác cũng đƣợc mở rộng với
sự xuất hiện các nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc, Xuân Thủy, Trần Mạnh Hùng, Đặng
Tuệ Nguyên, Nguyễn Tiến Mạnh,… Thể loại này chịu ảnh hƣởng từ xu
hƣớng phát triển của ca khúc Việt Nam, trong đó, mối tƣơng quan giữa giai
điệu và ca từ luôn có sự biến đổi, việc xuất hiện và dần phổ biến những tác
phẩm có giai điệu - lời ca theo hƣớng hiện đại và tập trung nhiều hơn vào diễn
đạt những suy nghĩ, nội tâm của cá nhân ngƣời nghệ sỹ sáng tác.
Trong quá trình phát triển của thể loại ca khúc, đặc biệt ở những giai
đoạn sau, trong một số trƣờng hợp, giai điệu có thể đƣợc xây dựng và phát
triển không lệ thuộc hoặc hoàn toàn đồng nhất với đặc điểm của ca từ. Giai
điệu có thể đƣợc tiến hành dựa trên một tƣ duy mới, vƣợt ra ngoài ảnh hƣởng
của ca từ trên cả khía cạnh cấu trúc cũng nhƣ bố cục các cơ cấu trong tác
phẩm, hoặc sự phát triển khác nhau của các cơ cấu, cấu trúc âm nhạc không lệ
thuộc vào sự biến đổi về cấu trúc lời ca… Điều này ngày một phổ biến hơn với
những sáng tác của các nhạc sĩ trẻ với lối tƣ duy sáng tác mới lạ, phá cách.
Việc xuất hiện những giai điệu có sự phát triển tự do hơn, vƣợt ra ngoài
khuôn khổ của ca từ mặc dù chƣa thực sự phổ biến nhƣng cũng là một đặc
43
điểm của sự biến đổi mối tƣơng quan giữa giai điệu và ca từ trong quá trình
phát triển của thể loại ca khúc. Hƣớng vận động đó có thể phát triển và tạo
nên tính hiện đại và tự do trong ngôn ngữ sáng tác của thể loại này.
Qua phân tích, sự thay đổi về cấu trúc, phong cách ngôn ngữ, mức độ
đồng nhất giữa các yếu tố là những khía cạnh thể hiện rõ sự biến đổi của các
thể loại ca khúc Việt Nam. Những khía cạnh này đƣợc biến đổi theo khuynh
hƣớng hiện đại và tự do hơn, phản ánh cảm xúc, tƣ duy, quan điểm thẩm mỹ,
và ý tƣởng hình tƣợng nghệ thuật phù hợp với thời đại mới, đáp ứng đƣợc nhu
cầu, thị hiếu của con ngƣời … Đây là xu hƣớng chung và ảnh hƣởng trực tiếp
tới đặc điểm của các CKNTVN.
1.3.2.2. Sự biến đổi phần đệm trong ca khúc Việt Nam
Ở Việt Nam, nền âm nhạc chuyên nghiệp hình thành khá muộn, do đó ở
giai đoạn khởi đầu của thời kỳ Tân nhạc, những ca khúc đầu tiên của các nhạc
sĩ Việt Nam ra đời phần lớn chỉ có phần giai điệu, chƣa có phần đệm khí nhạc
kèm theo. Tuy nhiên khi trình diễn để tạo nên một sản phẩm âm nhạc hoàn
chỉnh thì không thể thiếu phần đệm khí nhạc, vì vậy, những ca khúc chƣa có
phần đệm cần đƣợc phối khí để tạo nên phần đệm phù hợp với giai điệu. Phần
đệm này thƣờng do những ngƣời hiểu biết và có khả năng chơi nhạc cụ tạo
nên. Mỗi lần trình diễn ca khúc có thể đƣợc thể hiện với các bản phối khí
khác nhau. Đặc điểm và mức độ phù hợp của những bản phối này có thể khác
nhau, tuy nhiên, do đây là phần đệm không phải do tác giả sáng tác nên tính
chất, hiệu quả của phần đệm đó đôi khi không thực sự tƣơng thích với ý đồ và
mong muốn của tác giả. Đó là sự khác biệt giữa những phần đệm do chính tác
giả sáng tác với phần đệm do ngƣời khác viết.
Nhƣ đã phân tích trên, chúng ta có thể thấy phần đệm trong ca khúc
Việt Nam ra đời là kết quả của việc truyền bá các nhạc cụ phƣơng Tây vào
nƣớc ta. Mặc dù ở nửa đầu TK XX, phần lớn các ca khúc chỉ có giai điệu,
nhƣng trong giai đoạn này, đã xuất hiện một số ca khúc có phần đệm piano do
chính tác giả sáng tác. Trong giai đoạn sớm của nền Tân nhạc Việt Nam, khi
44
trình độ vẫn còn non trẻ, tƣ duy khí nhạc còn đơn giản, các phần đệm chủ yếu
dùng các âm hình tiết tấu cơ bản, đồng độ trong một ô nhịp, phần đệm có chu
kì rõ ràng, đƣợc lặp lại giống nhau qua các ô nhịp trong một đoạn nhạc, phần
hoà âm chủ yếu dùng các công năng nằm trong hệ thống diatonic, các công
năng chính đƣợc sử dụng nhiều tạo cho âm nhạc sự rõ ràng về điệu tính, về
màu sắc hoà âm. Ở đó giai điệu thƣờng mang tính chất dẫn dắt, phần đệm
mang tính chất phụ hoạ. Có thể minh họa điều này qua tác phẩm Lệ thu của
Nguyễn Đình Phúc ra đời khoảng những năm đầu thập niên 40 TK XX.
VD 1.07: Nguyễn Đình Phúc, Lệ thu, nhịp 3-6
Với những tác phẩm có ngôn ngữ âm nhạc đơn giản, trong phần lớn các
trƣờng hợp, mối quan hệ chủ đạo giữa phần đệm với giai điệu thƣờng là mối
quan hệ phụ hoạ và làm nền. Phần đệm trong những tác phẩm này thƣờng có
facture piano, tiết tấu, hoà âm khá đơn giản, chủ yếu mang tính chất làm nền cho giai điệu.
Trên thế giới, phần lớn các tác phẩm ca khúc có phần đệm piano đều có
tác giả là những pianist có tên tuổi, đƣợc đào tạo bài bản, sự thành thục trong
kỹ thuật cũng nhƣ trải nghiệm thực tế sẽ giúp họ tạo nên những phần đệm có
hiệu quả và giá trị. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nhiều nhạc sĩ sáng tác ca khúc
không có điều kiện đƣợc học tập một cách bài bản, việc tiếp cận nhạc cụ
phƣơng Tây chủ yếu từ con đƣờng tự học hoặc qua các lớp học cá nhân, do
đó, trình độ về diễn tấu nhạc cụ có những hạn chế nhất định. Nhiều nhạc sĩ
với mong muốn đƣợc học hỏi, thử sức, họ cũng bắt đầu viết phần đệm piano
cho các ca khúc của mình. Họ thƣờng viết những phần đệm đơn giản, chủ yếu
có chức năng giữ nhịp làm nền. Một số nhạc sĩ muốn tạo nên những phần đệm
có kỹ thuật phức tạp hơn nhƣng đôi khi việc thiếu trải nghiệm thực tế làm cho
những phần đệm không thực sự khả thi về kỹ thuật ngón tay, chƣa đạt đƣợc
45
hiệu quả tối ƣu trong sự phối hợp với giai điệu.
Sau khi nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam chính thức hình thành
với sự ra đời của Hội nhạc sĩ Việt Nam và các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên
nghiệp, các nhạc sĩ có cơ hội học tập một cách bài bản, từ đó ra đời những tác
phẩm ca khúc có phần đệm khí nhạc kèm theo với một ngôn ngữ âm nhạc
chuyên nghiệp, kỹ thuật sáng tác thành thục và hoàn chỉnh hơn. Với xu hƣớng
sáng tác ngày càng phóng khoáng, phần đệm cho ca khúc cũng có những đặc
điểm mới, thể hiện bƣớc phát triển trong tƣ duy khí nhạc, làm thay đổi phần
nào tính tƣơng tác giữa phần đệm và giai điệu. Ở đó, phần đệm đã thể hiện
các facture phức tạp hơn, chứa đựng những tuyến bè riêng, có tính chất đối
thoại với giai điệu hoặc tạo hình tƣợng độc lập, nhiều tác phẩm có phần đệm
có cấu trúc đa tầng, hoặc thay đổi qua nhiều loại nhịp, hòa âm đƣợc ly điệu,
chuyển điệu liên tiếp… đem lại tính chất mới, tiếp thu ngôn ngữ âm nhạc hiện
đại. Có thể minh họa với một sáng tác của Đức Trịnh, trong đó phần đệm có
tính chất phóng khoáng, tự do nhƣng vẫn bám sát, gắn liền với giai điệu.
VD 1.08: Đức Trịnh, Miền xa thẳm, nhịp 1-3
Càng những giai đoạn gần đây, càng có nhiều trƣờng hợp phần đệm
cho ca khúc thể hiện sự phá cách, táo bạo rõ nét hơn nữa. Có thể thấy ở mỗi
giai đoạn khác nhau, phần đệm có sự biến đổi phù hợp với khuynh hƣớng
chung cũng nhƣ thể hiện phong cách riêng của mỗi nhạc sĩ, điều này cũng góp
phần ảnh hƣởng đến mối quan hệ với giai điệu, dần dần phần đệm trở nên chủ
động, thể hiện ngôn ngữ âm nhạc độc lập nhất định và hỗ trợ cho giai điệu,
tạo nên hiệu quả tối ƣu cho tác phẩm. Những xu hƣớng biến đổi về ca từ, giai
điệu cũng nhƣ phần đệm của thể loại ca khúc nói chung sẽ ảnh hƣởng đáng kể
đến đặc điểm của thể loại CKNTVN.
46
Tiểu kết chƣơng 1
Với mục đích hệ thống cơ sở lý luận phục vụ cho luận án, NCS đã hệ
thống các kết quả nghiên cứu có liên quan và từ đó đƣa những giới hạn cho
khái niệm đƣợc sử dụng trong luận án. Qua việc thống kê đặc điểm của các
thể loại liên quan, NCS đã lựa chọn những đặc điểm tiêu biểu phù hợp, kết
hợp với mục đích nghiên cứu của đề tài để đƣa ra khái niệm CKNTVN đƣợc
sử dụng trong luận án.
Việc tổng kết các kết quả nghiên cứu âm nhạc học liên quan đƣợc thực
hiện trên hai nhóm. Đó là các công trình nghiên cứu liên quan đến thể loại
Romance, Lied, Mélodie trong âm nhạc phƣơng Tây và các công trình nghiên
cứu liên quan đến CKNTVN. Thông qua đó, NCS đã hệ thống những cơ sở lý
thuyết quan trọng trên các khía cạnh lịch sử hình thành, phát triển thể loại,
đặc điểm về ca từ, cấu trúc và ngôn ngữ âm nhạc trong các thể loại này. Từ
việc hệ thống, phân loại các kết quả nghiên cứu, NCS đã xây dựng đƣợc cơ sở
nghiên cứu phù hợp với mục đích nghiên cứu của luận án.
Cùng với sự tổng kết về lịch sử ra đời và phát triển thể loại CKNTVN,
NCS đã phân tích và làm rõ sự hình thành, biến đổi của các dòng ca khúc và
sự phát triển của phần đệm trong âm nhạc Việt Nam, từ đó lý giải những ảnh
hƣởng đến đặc điểm về cấu trúc, đặc điểm âm nhạc, mối tƣơng quan giữa các
yếu tố của thể loại CKNTVN qua các giai đoạn khác nhau.
47
CHƢƠNG 2: CA TỪ VÀ CẤU TRÚC
2.1. Đặc điểm ca từ
Trong một tác phẩm thanh nhạc, ca từ có mối quan hệ chặt chẽ với giai
điệu trong việc thể hiện hình tƣợng nghệ thuật trong tác phẩm, cấu trúc ca từ
có sự ảnh hƣởng nhất định tới kết cấu của âm nhạc, thanh âm trong ca từ cũng
chi phối cao độ trong giai điệu. Ca từ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
nên đặc điểm và giá trị cho các tác phẩm CKNTVN.
2.1.1. Tính hình tượng trong ca từ
2.1.1.1. Các thủ pháp ngôn từ
Nghệ thuật sử dụng ngôn từ là một đặc trƣng của thể loại CKNT nói
chung và của CKNTVN nói riêng. Ở những thể loại ca khúc khác nhƣ ca khúc
tập thể, ca khúc cách mạng, ca khúc hành khúc, ca từ có thể mang tính khẩu
hiệu, hô hào, dành cho đám đông, hoặc một số ca khúc thị trƣờng hiện nay có
ca từ thiếu thẩm mỹ, chủ ý tạo ấn tƣợng bằng sự khác lạ đôi khi gây hiệu quả
phản cảm. Trong khi đó, các CKNTVN dù là ở dạng phổ thơ hay do nhạc sĩ
tự sáng tác phần lời thì ca từ vẫn đạt đƣợc giá trị nhất định. Điều này có thể
thấy rõ ngay từ những tiêu đề giàu chất thơ và thể hiện tính thẩm mỹ cao nhƣ
Phác thảo mùa thu, Trăng chiều, Biển hát, Em nhƣ bài thơ không chép đƣợc
của Đặng Hữu Phúc, Bản thiên thai trần gian của Doãn Nho; Giấc mơ mùa lá
của Trần Mạnh Hùng; Đôi mắt tiếng lòng của Trần Thanh Hà; Mƣa yêu cúc
trắng, Tháng Giêng mùa xuân còn sót lại, Ƣớc mùa xuân của Hoàng Cƣơng.
Nhiều CKNTVN có ca từ đƣợc trau chuốt, lời văn bóng bẩy với nhiều từ ngữ
giàu hình ảnh nhƣ “Gió ngắt chiếc lá đầu tiên rơi vào khoảng vắng…Làn mƣa
thu đầu tiên dát vàng thành phố…Vàng mọi nẻo thu đã về” trong tác phẩm
Thông điệp mùa thu nhạc của Hoàng Dƣơng phổ thơ Thế Hùng; sử dụng
nhiều từ láy nhấn mạnh ý văn, tăng sức truyền cảm cho ca từ nhƣ “Kìa mái
tóc thơm và đôi mắt em long lanh mộng ƣớc./ Thiết tha tình lòng anh đây say
ngất ngây rồi” trong Romanse của Nguyễn Thiếu Hoa [PL3; tr.194]… Nhiều
48
tác phẩm khác có thể minh họa cho điều này, ví dụ nhƣ Đƣờng sang Vĩ Dạ
thơ Nguyễn Đức Mậu, Tháng Giêng mùa xuân còn sót lại thơ Lê Thị Kim của
Hoàng Cƣơng; Ru lại tình sau của Hoàng Dƣơng phổ thơ Đinh Lăng; Trăng
chiều, Ru con mùa đông của Đặng Hữu Phúc thơ Phan Đan…
Ca từ trong CKNTVN còn sử dụng nhiều thủ pháp tu từ nhƣ phép ẩn
dụ, so sánh, nhân hóa. Với các thủ pháp này, ca từ có nội hàm đa lớp, thể hiện
sự tinh tế, kín đáo và sâu sắc. Có thể minh họa điều này qua tác phẩm Tình em
của Huy Du với lời thơ của Ngọc Sơn sử dụng thủ pháp so sánh “Tình em
nhƣ khe suối…Chảy theo anh khắp rừng”. Còn với tác phẩm Lẻ loi của
Hoàng Cƣơng lời thơ Hữu Thỉnh, thủ pháp ẩn dụ mang đến cho tác phẩm sự
sâu sắc mà kín đáo, ý nhị “Biển vẫn cậy mình dài rộng thế./ Vắng cánh buồm
một chút đã cô đơn./ Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn”. Các thủ
pháp tu từ đƣợc sử dụng phổ biến trong các CKNTVN, một số tác phẩm khác
có thể minh họa cho điều này nhƣ Hoa Mộc miên của Huy Du; Mƣa yêu cúc
trắng của Hoàng Cƣơng, Có một Thăng Long của Doãn Nho, Lời ru cao
nguyên của Đặng Hữu Phúc [PL3; tr.194]… Thông qua những hình ảnh giàu
tính văn học biểu hiện những thông điệp về cảm xúc, lý tƣởng và cách nhìn
cuộc sống… Với những thủ pháp ẩn dụ, so sánh, ca từ sẽ phản ánh nội dung
một cách gián tiếp, tạo nên tính tƣợng trƣng và ƣớc lệ trong thể loại CKNTVN.
Bên cạnh việc sử dụng những ca từ bóng bẩy, giàu tính văn học, trong
các CKNTVN, ca từ vẫn sử dụng lối hành văn mộc mạc, giản dị, nhƣng luôn
đảm bảo đƣợc chuẩn mực về văn hóa và có giá trị thẩm mỹ nhất định. Những
ca từ có tính chất suồng sã, hoặc giống kiểu văn nói có thể xuất hiện trong các
thể loại ca khúc khác, nhƣng không có trong CKNTVN. Có thể minh họa với
một ca khúc quen thuộc, đó là ca khúc Anh Ba Hƣng của Trần Kiết Tƣờng.
Với phần ca từ “Có anh Ba Hƣng/ Vốn thiệt nông dân/ đi lính hơn năm
trƣờng vừa mới đƣợc huân chƣơng./ Thằng Sáu thấy anh nó mừng./ Thiệt
thằng nhỏ xíu mà khôn/ Nó khen nó khen anh hoài”, có thể thấy đây là phong
49
cách ca từ tả thực, đời thƣờng, không có tính văn học, bóng bẩy, trau chuốt
hay ƣớc lệ, tƣợng trƣng, bởi vậy ca khúc này không phải là một CKNTVN
theo khái niệm của luận án.
Việc sử dụng ngôn từ cũng góp phần thể hiện tính dân tộc, tính vùng
miền trong CKNTVN. Những hƣ từ đã tạo nên tính chất, âm hƣởng dân gian
cho các tác phẩm. Có thể minh họa với tác phẩm Chiều quan họ của Hoàng
Cƣơng với cụm từ “í a”, Lời ru của Hoàng Cƣơng, Hát ru của Trần Thanh Hà
với “ƣ hƣ”, Tình ta nhƣ đỉnh núi của Đặng Hữu Phúc với “Ây dớ”, Khúc hát
Trƣơng Chi của Đặng Hữu Phúc với từ “ơ”…Bên cạnh các hƣ từ, một số tác
phẩm thể hiện âm hƣởng của thể loại hát ru với các từ phụ “À ơi” nhƣ Ru con
của Trần Mạnh Hùng, Hát ru của Trần Thanh Hà, Lời ru của Hoàng Cƣơng,
Lời ru trống đồng của Đặng Hữu Phúc…
Ngoài ra, trong các CKNTVN còn phổ biến những từ ngữ đặc trƣng
của các địa phƣơng góp phần tạo nên tính vùng miền trong khía cạnh ca từ.
Trong tác phẩm Ơi Mẹ làng Sen của Trần Mạnh Hùng đã thể hiện ngôn ngữ
miền Trung với cụm từ “về bên ni”, tác phẩm Tình ta nhƣ đỉnh núi của Đặng
Hữu Phúc với cụm từ “La nể”, “Sên nàng” là những từ dùng để gọi ngƣời yêu
của các chàng trai miền núi cao phía Bắc….
Nghệ thuật ngôn từ góp phần không nhỏ vào việc thể hiện tính dân tộc,
tính vùng miền thông qua các hƣ từ trong các thể loại âm nhạc dân gian cũng
nhƣ qua thổ ngữ của các địa phƣơng khác nhau. Ca từ đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo nên những nét đặc trƣng cho thể loại CKNTVN. Những yêu cầu
về giá trị thẩm mỹ trong ca từ là một khác biệt với các thể loại ca khúc khác.
2.1.1.2. Hỗ trợ giai điệu trong việc xây dựng hình tƣợng nghệ thuật
Trong thể loại ca khúc nói chung và CKNTVN nói riêng, bên cạnh yếu tố
giai điệu, nhờ có ca từ mà hình tƣợng nghệ thuật càng trở nên cụ thể và rõ ràng hơn.
Với những hình tƣợng âm nhạc mang tính chất khác nhau nhƣ mạnh
mẽ, trữ tình, khỏe khoắn, mềm mại… sự tƣơng tác giữa giai điệu và ca từ
50
cũng có những đặc điểm khác biệt. Những hình tƣợng mạnh mẽ thuộc các đề
tài mang tính anh hùng ca, yêu nƣớc, chiến đấu thì ca từ thƣờng có sự biểu
cảm mãnh liệt, dứt khoát và hùng tráng. Tuy nhiên, phần lớn các CKNTVN
thể hiện tính chất trữ tình, lãng mạn, do đó ca từ thƣờng sử dụng ngôn ngữ
mang sắc thái sâu lắng, diễn tả nội tâm, suy nghĩ của cá nhân hoặc của con
ngƣời thời đại. Phần ca từ của những giai điệu trữ tình thƣờng sử dụng những
tính từ, động từ nhẹ nhàng. CKNT nói chung và CKNTVN nói riêng phổ biến
lối sáng tác phổ thơ, vì vậy khác với những thể loại ca khúc khác, ca từ trong
CKNTVN thƣờng mang chất văn học rõ nét cùng tính ƣớc lệ, tƣợng trƣng và
ẩn dụ, do đó nhiều khi không diễn đạt hình tƣợng một cách trực tiếp mà
thƣờng chứa đựng nhiều lớp nghĩa, tinh tế và sâu sắc.
Nhƣ với ca khúc Hƣớng về Hà Nội của Hoàng Dƣơng, giai điệu ở âm
khu trầm, tốc độ chậm rãi, kết hợp với ca từ có sắc thái buồn và trầm lắng. Ca
từ “Một ngày mùa chinh chiến ấy, chim đã xa bầy, mịt mờ bên trời bay” chủ
yếu sử dụng thanh huyền, bằng và nặng, tạo nên một âm điệu trầm buồn từ
trong lời thơ, kết hợp với âm nhạc thể hiện hiệu quả tính chất não nề, trầm tƣ.
Trong một tác phẩm khác, Ru con mùa đông của Đặng Hữu Phúc lời
thơ Phan Đan, khắc họa khung cảnh thiên nhiên và những lời ru nhịp nhàng.
VD 2.01: Đặng Hữu Phúc, Ru con mùa đông, nhịp 18-26
Ca từ gồm những từ ngữ dung dị, nhẹ nhàng, trong sáng, kết hợp với
giai điệu thong thả, ngắt thành các chu kỳ ngắn, đã thể hiện một không gian
bình yên, và tình cảm mẹ con ấm áp.
Trong các CKNTVN, thông qua ca từ, những đề tài mang tính dân tộc
đƣợc thể hiện một cách rõ nét. Các đề tài mang tính dân tộc đƣợc phản ánh
51
qua nhiều khía cạnh khác nhau, có thể chia thành các nhóm chính là các tác
phẩm có đề tài ca ngợi quê hƣơng, ca ngợi con ngƣời và thể hiện những nét
đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam. Nhóm tác phẩm ca ngợi quê hƣơng
thƣờng có nội dung miêu tả những cảnh đẹp, địa danh của đất nƣớc, thể hiện
tình yêu quê hƣơng với những nơi chốn quen thuộc,…nhƣ trong các tác phẩm
Khúc hát ban chiều, Một thời thƣơng nhớ, Tình quê hƣơng, Có chúng tôi trên
hải đảo xa xôi của Huy Du; Hà Nội thủ đô ta đó, Sapa thành phố trong sƣơng
của Vĩnh Cát; Hƣớng về Hà Nội của Hoàng Dƣơng; Có một Thăng Long, Hãy
cùng ta biển ơi, Màu tím chiến khu, Bản thiên thai trần gian của Doãn Nho;
Miền thƣơng của Vĩnh Lai; Gió lộng bốn phƣơng của Trần Mạnh Hùng…
Đề tài ca ngợi con ngƣời Việt Nam đƣợc thể hiện qua các tác phẩm viết
về những anh hùng dân tộc, hoặc nét đẹp của con ngƣời Việt Nam … nhƣ tác
phẩm Bế Văn Đàn sống mãi, Tôi sẽ ca mãi đời anh của Huy Du; Nhớ về đồng
đội của Lê Hồng Lĩnh; Ơi Mẹ làng Sen của Trần Mạnh Hùng…Đề tài về tình
yêu lứa đôi xuất hiện trong nhiều CKNTVN, tuy nhiên phần nhiều đƣợc đặt
trong bối cảnh tình quê hƣơng, trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, nhƣ tác
phẩm Ngôi sao nhớ ai của Hoàng Cƣơng; Tình em, Dây đàn thần diệu của
Huy Du; Đôi ta là thợ đƣờng dây, Sapa thành phố trong sƣơng của Vĩnh Cát…
Văn hóa truyền thống, các phong tục tập quán Việt Nam cũng đƣợc thể
hiện qua các tác phẩm nhƣ Ngủ ngoan ngủ ngoan của Trần Đinh Lăng, Bốn
mùa yêu thƣơng của Trần Mạnh Hùng thể hiện tình cảm trong gia đình, Giấc
mơ mùa lá của Trần Mạnh Hùng thể hiện nét đẹp trong văn hóa của ngƣời Hà
Nội, Chiếc khăn quê hƣơng của Vĩnh Lai thể hiện một số đặc trƣng trong văn
hóa vùng Nam Bộ, tác phẩm Lời ru trống đồng của Đặng Hữu Phúc thể hiện
những đặc trƣng trong đời sống vùng châu thổ sông Hồng… Nhƣ vậy, ca từ
có giá trị không nhỏ trong việc thể hiện những hình tƣợng nghệ thuật, nội
dung đề tài mang tính dân tộc ở thể loại CKNTVN.
Có thể thấy hình tƣợng nghệ thuật trong các CKNTVN luôn là sự kết hợp
52
mật thiết giữa ca từ và giai điệu. Với mỗi loại hình tƣợng, mối tƣơng quan giữa
ca từ và giai điệu lại mang những đặc điểm khác nhau, linh hoạt sao cho hợp lý,
hiệu quả. Ca từ trong thể loại này có giá trị thẩm mỹ, thể hiện tính dân tộc và
phản ảnh đặc trƣng ngôn ngữ tiếng Việt trong mối quan hệ với âm nhạc.
2.1.2. Mối quan hệ giữa cấu trúc ca từ và hình thức âm nhạc
Trong thể loại CKNT, thơ ca và âm nhạc thƣờng có mối liên quan chặt
chẽ trên nhiều khía cạnh. Qua phân tích136 CKNTVN đƣợc nghiên cứu cho
thấy có 87 tác phẩm ở dạng phổ thơ, 6 tác phẩm phỏng ý thơ, trong 46 tác
phẩm còn lại, ca từ do chính tác giả viết và phần lớn trong số đó, ca từ vẫn
mang tính thơ rõ rệt. Trong nhiều tác phẩm, cấu trúc âm nhạc có sự gắn bó
chặt chẽ với sự bố trí các khổ thơ. Sự phân ngắt của ca từ trong các câu thơ
cũng thƣờng tƣơng ứng với sự ngân nghỉ của giai điệu. Sự thay đổi của ca từ về
thể thơ, về chu kỳ của lời thơ, về nhịp điệu
của các câu thơ trong nhiều trƣờng hợp cũng
tạo nên sự thay đổi tƣơng ứng ở giai điệu.
Phần nghiên cứu dƣới đây sẽ phân tích mối
tƣơng quan giữa giai điệu và ca từ trong tính
đồng nhất và tính cân đối của cấu trúc.
Biểu đồ: Các dạng sử dụng lời thơ trong thể loại CKNTVN
2.1.2.1. Tính đồng nhất
Mỗi cơ cấu, bộ phận cấu trúc trong ca từ là một sự hoàn chỉnh nhất định
về ý đồ nghệ thuật và thƣờng tƣơng ứng với một cơ cấu trong giai điệu. Đó là
cách phân chia phổ biến trong các CKNTVN, đặc biệt là với những tác phẩm
thuộc về giai đoạn đầu của thể loại này. Chẳng hạn nhƣ trong ca khúc Tình
lặng của Trần Thanh Hà [PL4; tr.537], phần âm nhạc đƣợc chia thành hai
đoạn chính, ca từ và ngôn ngữ âm nhạc đều có sự tách biệt rõ ràng giữa các
phần, đoạn sau mặc dù kế thừa chất liệu của đoạn trƣớc nhƣng vẫn có sự biến
đổi và phát triển tạo nên sự chuyển động của tƣ duy âm nhạc. Qua phân tích
53
136 CKNTVN, kết quả cho thấy có 114 tác phẩm có phần ca từ đƣợc phân
chia thành các khổ thơ và sự phân chia các đoạn nhạc phù hợp với sự phân
chia của các khổ thơ (Xem bảng PL2a Hình thức âm nhạc trong CKNTVN
[PL2; tr.179]), chiếm 83.8%. Có thể thấy trong nhiều CKNTVN, cấu trúc âm
nhạc và cấu trúc thơ ca có sự gắn bó chặt chẽ, ảnh hƣởng lẫn nhau.
Sự phân ngắt về giai điệu có thể tạo nên những làn sóng giai điệu có
tính dài hơi hay nhỏ lẻ. Cùng một ca từ nhƣng khi tƣơng ứng với những nét
giai điệu dài, ngắn với cách thức xử lý kỹ thuật khác nhau sẽ đem lại hiệu quả
rất khác biệt. Trong phần lớn các CKNTVN, các tác giả thƣờng chia giai điệu
tƣơng ứng với sự phân ngắt tự nhiên sẵn có trong ca từ, tính chu kỳ trong lời
thơ đƣợc giữ nguyên trong tính chất của giai điệu. Có thể lấy ví dụ nhƣ trong
tác phẩm Miền thƣơng của Vĩnh Lai.
VD 2.02: Vĩnh Lai, Miền thƣơng, nhịp 6-15
Với phần ca từ “Ai buông mái chèo/ trên dòng Hàm Luông./ Chở ánh
trăng thanh/ qua bên làng xa./ Xôn xao cánh cò/ trên đồng ngát hƣơng./
Ngƣời đi để nhớ/ trên bến lạnh chờ mong…”, phần giai điệu đƣợc phân ngắt
thành các câu và tiết nhạc tƣơng ứng với ca từ, tiết luật của các tiết nhạc, câu
nhạc đƣợc lặp lại một cách có chu kỳ dựa theo chu kỳ của ca từ tạo cho giai
điệu và ca từ có một sự phối hợp đều đặn, nhịp nhàng. Đây là một trong các
tác phẩm biểu hiện rõ nét cho việc giai điệu đƣợc phân chia trong mối quan
hệ tƣơng ứng, không tách rời với ca từ. Điều này đƣợc thấy trong phần lớn
các CKNTVN, tuy nhiên các nhóm ca từ có thể thay đổi về giá trị trƣờng độ,
âm hình tiết tấu, có thể lấy ví dụ nhƣ tác phẩm Thông điệp mùa thu của
54
Hoàng Dƣơng, Vẽ tình yêu trên cát của Hoàng Cƣơng, Em-Mùa xuân của
Xuân Thủy, Mƣa của Tuệ Nguyên, Tình lặng của Trần Thanh Hà, các tác
phẩm của Huy Du, Vĩnh Lai, Doãn Nho, Trần Mạnh Hùng, và nhiều tác phẩm
của Đặng Hữu Phúc…Trong số đó, nhiều tác phẩm mặc dù có giai điệu đƣợc
phân ngắt tƣơng ứng với ca từ, nhƣng sự co giãn trong mỗi nét nhạc đã tạo
nên tính đa dạng và thể hiện ý đồ âm nhạc riêng của tác giả.
Bên cạnh đó, ở một số ca khúc, mặc dù cách thức phân chia của giai
điệu vẫn mang tính đồng nhất với sự phân chia của ca từ, tuy nhiên ở mỗi lần
xuất hiện, giai điệu sẽ có sự khác biệt về tiết luật so với lần trƣớc, hoặc thêm
bớt về số lƣợng từ, hoặc có thể co giãn về tiết nhịp. Trong ca khúc Ru lại tình
sau của Hoàng Dƣơng, sự phân ngắt về giai điệu vẫn tƣơng ứng với ca từ, tuy
nhiên, mỗi tiết nhạc lại thay đổi điểm xuất phát trong mỗi ô nhịp, do đó đã dẫn
tới những chu kỳ khác nhau trong âm nhạc, tạo tính chất tự do trong nhịp điệu.
VD 2.03: Hoàng Dƣơng, Ru lại tình sau, nhịp 35-42
Bên cạnh phần lớn các CKNTVN có sự đồng nhất về cấu trúc giữa ca từ
và giai điệu thì trong một số ít trƣờng hợp khác, cơ cấu của giai điệu có thể
đƣợc bố trí không hoàn toàn đồng nhất với sự phân ngắt của cơ cấu ca từ. Sự
không đồng nhất này biểu hiện tƣ duy, ý tƣởng về sự xê dịch các điểm phân
ngắt trong tác phẩm về mặt âm nhạc so với lời ca. Trong tác phẩm Ngày mai
trời chớm lạnh của Đặng Hữu Phúc ta thấy một quan hệ khác giữa bố cục của
ca từ và giai điệu. Thông thƣờng những ca từ nằm trong một câu thơ hay một
cụm từ sẽ đƣợc bố trí thành những âm hình tiết tấu tập trung, những chỗ ngân
nghỉ dài dành cho các vị trí ngắt câu, đoạn. Nhƣng ở đây, ca từ ở cuối mỗi câu
(thơ) lại đƣợc tách ra và đẩy về nhóm tiết tấu của câu thơ sau.
55
VD 2.04: Đặng Hữu Phúc, Ngày mai trời chớm lạnh, nhịp 2-6
Thay vì việc bố trí những nhóm tiết tấu tƣơng ứng với một cụm lời ca,
với phƣơng thức này, tác giả đã tạo nên một hiệu quả âm nhạc mới, tính nhịp
điệu và tính tƣ duy về mối liên hệ ca từ - giai điệu cũng vì thế mà có sự thay
đổi. Hoặc nhƣ trong tác phẩm Trăng chiều của Đặng Hữu Phúc, phần ca từ
đƣợc phân ngắt “Nắng/ chƣa kịp tàn./ Nắng/ buông diu dàng/ từng tia nắng
mong manh”. Những từ Nắng ngân dài tạo một khoảng không tĩnh lặng, đem
đến nhịp độ chậm rãi, thong thả. Cách phân ngắt ca từ khác nhau sẽ tạo nên
tính nhịp điệu phong phú, góp phần xây dựng hình tƣợng cho tác phẩm.
Tuy nhiên, trong các CKNTVN, quan hệ giữa ca từ và giai điệu trong
cấu trúc phần lớn vẫn đƣợc biểu hiện ở dạng đồng nhất, có thể là sự đồng nhất
hoàn toàn hoặc có thể kèm theo sự dịch chuyển, điều đó vừa thể hiện tính
tƣơng tác qua lại nhƣng cũng vừa thể hiện tính độc lập nhất định trong vai trò
xây dựng cấu trúc của giai điệu và ca từ.
2.1.2.2. Tính cân đối
Tùy thuộc vào sự chi phối của ca từ, cũng nhƣ những ý tƣởng cho việc
xây dựng và phát triển các hình tƣợng nghệ thuật mà ngƣời nhạc sĩ sẽ tạo nên
những cấu trúc có tính chất cân đối hoặc không cân đối cho tác phẩm của mình.
Cấu trúc thể cân đối
Những tác phẩm đƣợc coi là ở thể cân đối khi những cơ cấu ngang hàng
với nhau có quy mô và cách phân chia tƣơng đƣơng. Cấu trúc dạng này tạo
cho tác phẩm một hiệu quả hài hòa và cân bằng. Khi phần ca từ có quy luật cố
định rõ ràng sẽ thƣờng tƣơng ứng với một giai điệu có cấu trúc cân đối Một
56
tác phẩm có sự cân đối về cấu trúc giữa các đoạn nhạc, đó là Em là mùa xuân
của Vĩnh Cát. Với hình thức hai đoạn, mỗi đoạn dài 8 nhịp, có tính chất cân
đối, tạo cho ngƣời nghe cảm giác hài hòa, cân bằng và nhịp nhàng.
VD 2.05: Vĩnh Cát, Em là mùa xuân, nhịp 5-10
Ở ví dụ này, sự cân đối của ca từ cả về độ dài, cách ngắt nhịp trong các
câu đã ảnh hƣởng và tạo nên tính cân đối trong giai điệu. Trong trƣờng hợp
khác, chúng ta có thế thấy sự cân đối về cấu trúc của các câu nhạc, tiết nhạc
trong phạm vi đoạn nhạc. Điều này đƣợc thể hiện ở nhiều tác phẩm nhƣ Khúc
hát ban chiều [PL4; tr.241], Dây đàn thần diệu [PL4; tr.298] của Huy Du,
Tình lặng của Trần Thanh Hà [PL4; tr.537]; Con đƣờng sầu đông [PL4;
tr.612], Còn gì cho quê hƣơng của Hoàng Cƣơng [PL4; tr.580]; Hai phía
dòng sông [PL4; tr.22], Bên cây trúc đào [PL4; tr.32], Hoa lục bình [PL4;
tr.48], Lời ru cao nguyên [PL4; tr.52], Mùa thi năm ấy [PL4; tr.88], Trên
những tháng ngày [PL4; tr.203], Du thuyền trên hồ Tây [PL4; tr.211] của
Đặng Hữu Phúc… Ở những ca khúc này, chúng ta thấy câu nhạc, tiết nhạc
đƣợc bố trí cân đối, cũng nhƣ cân đối về bố cục ca từ. Các tiết nhạc, câu nhạc
57
không chỉ cân đối về quy mô mà cách thức tiến hành, sự phân ngắt, tính chất
tiết tấu, nhịp điệu cũng thể hiện sự vuông vắn và tính chu kỳ rõ nét.
Cấu trúc thể không cân đối
Cấu trúc thể không cân đối là dạng cấu trúc mà ở đó có sự chênh lệch về
quy mô khi phân chia thành những cơ cấu nhỏ hơn, các cơ cấu thiếu sự cân
bằng, đối xứng,. Dạng cấu trúc này đƣợc sử dụng khá nhiều trong thể loại
CKNTVN, nhằm khắc họa những ý đồ nghệ thuật khác biệt, biểu hiện sự tự do
trong tƣ duy về bố cục.
Một trong những tác giả sử dụng lối cấu trúc không cân đối là nhạc sĩ
Hoàng Dƣơng. Trong tác phẩm Thông điệp mùa thu, tác giả đã sử dụng những
câu nhạc dài ngắn khác nhau, tiết tấu không mang tính chu kỳ, điểm bắt đầu mỗi
tiết nhạc trong các nhịp cũng mang tính chất ngẫu hứng.
VD 2.06: Hoàng Dƣơng, Thông điệp mùa thu, nhịp 20-30
Ở đây, ta thấy ca từ đƣợc ngắt thành các cụm không đều nhau: “…Gió
ngắt chiếc là đầu tiên gieo vào khoảng vắng./ Cốm mùa lá sen/ thơm lắm/lạnh
đầu chiều./Làn mƣa thu đầu tiên dát vàng thành phố./Heo may mang ngàn
thông điệp/vàng mọi nẻo/thu đã về…”. Cách ngắt nhịp tự do kèm theo những
cụm tiết tấu không có tính chu kỳ đều đặn tạo nên một tính chất giãi bày, tự
sự và ngẫu hứng. Điều này còn đƣợc thể hiện ở các đoạn nhạc khác trong tác
phẩm này hoặc trong tác phẩm Ru lại tình sau cũng của Hoàng Dƣơng.
Sự không cân đối trong cấu trúc ở quy mô nhỏ hơn đoạn nhạc, xét trong
mối tƣơng quan giữa giai điệu và cấu trúc ca từ thƣờng bắt nguồn từ các câu
thơ có độ dài ngắn khác nhau, hoặc trong các câu thơ có cách ngắt nhịp khác
58
nhau, từ đó tạo nên những giai điệu có tiết tấu, tiết nhịp khác nhau. Nhƣ trong
đoạn điệp khúc của tác phẩm Em – mùa xuân của Xuân Thủy, những ca từ
đồng dạng về độ dài và cách ngắt nhịp sẽ tạo nên những giai điệu có nhịp điệu
giống nhau, những ca từ khác biệt về nhịp điệu thƣờng tạo nên giai điệu có sự
thay đổi về tiết tấu, tiết nhịp.
VD 2.07: Xuân Thủy, Em – mùa xuân, nhịp 23-29
Sự không cân đối trong giai điệu xuất phát từ cấu trúc lời thơ còn đƣợc
thể hiện trong các tác phẩm Tình ca mùa xuân, Thƣơng nhớ tuổi học trò, Sau
khi biết em… của Đặng Hữu Phúc; Hoa mộc miên của Huy Du; Thông điệp
mùa thu, Ru lại tình sau của Hoàng Dƣơng; Ngủ ngoan ngủ ngoan của Trần
Đinh Lăng, Mƣa của Tuệ Nguyên,…
Ở một dạng cấu trúc không cân đối khác, chúng ta có thể thấy những ca
khúc không có sự cân đối giữa các phần, đoạn, hoặc phân chia câu nhạc
không rõ ràng, không cân đối đƣợc biểu hiện trong những tác phẩm Thông
điệp mùa thu [PL4; tr.], Ru lại tình sau [PL4; tr.] của Hoàng Dƣơng, và một
số sáng tác của Huy Du nhƣ Hàng dừa xanh [PL4; tr.271], Hát nữa đi em
[PL4; tr.249], Dây đàn thần diệu [PL4; tr.298], Hoa mộc miên [PL4; tr.280],
Miền Nam của ta muôn đời vẫn cất tiếng ca [PL4; tr.274]… Đa phần những
tác phẩm này đƣợc cấu trúc bởi những cơ cấu có sự khác biệt đáng kể về chất
liệu ca từ, âm nhạc; do đó, sự vận động và phát triển trong mỗi phần dẫn tới
hình thành các quy mô khác nhau. Những cấu trúc không cân đối khá phổ
biến trong thể loại CKNTVN, biểu hiện ở nhiều quy mô khác nhau nhƣ các
đoạn có cấu trúc không cân đối, các câu nhạc dài ngắn khác nhau, tiết luật
khác nhau, số lƣợng các tiết nhạc trong các câu nhạc khác nhau, các motiv
59
không có tính chu kỳ… và trong phần lớn các trƣờng hợp điều này chịu ảnh
hƣởng từ cấu trúc của ca từ.
Nhƣ vậy, trong phần lớn các CKNTVN, hình thức âm nhạc thƣờng
thống nhất với cấu trúc của ca từ, sự không tƣơng thích chiếm số lƣợng nhỏ.
Sự cân đối hoặc không cân đối trong ca từ cũng ảnh hƣởng rõ rệt đến tính cân
đối trong cấu trúc âm nhạc. Điều này khẳng định mối quan hệ chặt chẽ của
giai điệu và ca từ trong việc hình thành bố cục và cấu trúc của mỗi tác phẩm.
2.1.3. Sự ảnh hưởng thanh âm tiếng Việt đến giai điệu
Các thể loại thanh nhạc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt có sự tƣơng tác
qua lại giữa yếu tố thanh âm của ca từ và cao độ của giai điệu. Tiếng Việt là
ngôn ngữ đơn âm đa thanh với 6 thanh âm, xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp
về tần số âm thanh lần lƣợt là thanh sắc, ngã, bằng, huyền, hỏi, nặng. Sự kết
hợp các thanh âm nối tiếp nhau tạo thành thanh điệu. Ví dụ trong phần ca từ
“Thì thôi nhé em, những gì đã qua. Những giọt đắng chiều nay xin gửi lại”,
các thanh âm lần lƣợt là “huyền - bằng - sắc - bằng, ngã - huyền - ngã - bằng.
Ngã - nặng - sắc - huyền - bằng - bằng - hỏi - nặng”, sự nối tiếp này tạo nên
tính chuyển động về thanh âm, tạo nên thanh điệu cho ca từ.
Thanh điệu của ca từ và giai điệu âm nhạc luôn có mối quan hệ tƣơng
tác chặt chẽ. Trong phần lớn các ca khúc nói chung và CKNTVN nói riêng,
mối quan hệ giữa thanh bằng trắc của lời ca và cao độ của giai điệu thƣờng
đƣợc biểu hiện ở dạng tƣơng tác thuận chiều, nghĩa là những ca từ có thanh
sắc, thanh ngã thƣờng tƣơng ứng với những nốt nhạc cao hơn, các từ ở thanh
ngang hay thanh huyền có thể đặt ở khu vực trung, còn thanh hỏi, thanh nặng
thì thƣờng đƣợc đặt ở những cao độ thấp hơn. Tuy nhiên trong một số trƣờng
hợp, với những ý đồ sáng tác đặc biệt, hai yếu tố này có thể đƣợc đặt trong
mối quan hệ nghịch chiều nhằm diễn đạt những màu sắc âm nhạc riêng biệt và mới lạ.
2.1.3.1. Sự đồng nhất giữa thanh âm của ca từ với cao độ của giai điệu
Diễn biến về thanh âm trong ca từ ảnh hƣởng đáng kể tới sự chuyển
60
động của giai điệu. Mối tƣơng quan về thanh điệu giữa các cụm từ trong một
câu hoặc giữa các câu với nhau đƣợc gọi là sự đối thanh. Sự đối thanh có thể
đƣợc nhìn nhận ở hai phạm vi. Thứ nhất là tƣơng quan cao thấp giữa hai
thanh âm liên tiếp, chẳng hạn nhƣ trong cụm từ “lời ru”, mối tƣơng quan về
đối thanh là từ thấp đến cao, từ đó quy định sự chuyển động cao độ trong giai
điệu. Ví dụ trong phần ca từ “Khát khao những lời yêu thƣơng” trích trong tác
phẩm Em - mùa xuân của Xuân Thủy, xét tƣơng quan cao thấp giữa hai từ
liên tiếp, ta thấy các cao độ tƣơng ứng chia thành hai mức độ là Cao-thấp-
cao-thấp-cao-cao.
Thứ hai là khi xét cao độ tuyệt đối của từng thanh âm trong ca từ, mỗi
thanh âm sẽ tƣơng ứng với một cao độ riêng biệt. Chẳng hạn sự chênh lệch
cao độ giữa thanh âm sắc và huyền sẽ ít hơn sự chênh lệch giữa thanh âm sắc
và nặng. Thậm chí với một thanh âm, việc áp dụng những vần khác nhau cũng
tạo ra những cao độ khác nhau, chẳng hạn nhƣ cao độ của chữ “chát” sẽ cao
hơn chữ “chán”, cao độ của chữ “chặt” sẽ thấp hơn chữ “chặn”. Hoặc cũng
với ca từ ở trên “Khát khao những lời yêu thƣơng” sẽ đƣợc chia thành 4 cấp
độ cao thấp của cao độ, tạm gọi từ thấp lên cao là cấp độ 1, 2, 3, 4. Tƣơng
ứng với ca từ trên là các cấp độ: cấp độ 4-cấp độ 2-cấp độ 3-cấp độ 1-cấp độ
2-cấp độ 2. Nhƣ vậy sự đối thanh trong tiếng Việt không chỉ phụ thuộc vào
từng thanh âm mà còn phụ thuộc vào vần đƣợc sử dụng trong mỗi từ.
Tƣơng tự, trong giai điệu, sự tƣơng quan cao độ giữa các nốt nhạc trong
một nét nhạc hoặc giữa các nét nhạc với nhau gọi là sự đối âm. Cũng giống
với đối thanh, có thể nhìn nhận đối âm ở hai phạm vi: thứ nhất là xét tƣơng
quan cao thấp giữa các cao độ liền kề; thứ hai là cụ thể mức độ chênh lệch về
độ lớn quãng hình thành giữa hai cao độ nối tiếp. Mối quan hệ giữa cao độ và
thanh điệu có một ý nghĩa quan trọng trong việc vận dụng tính nhạc trong ca
từ để tạo nên tính thơ trong âm nhạc. Sự phù hợp giữa cao độ với thanh điệu
có thể đƣợc biểu hiện qua ba dạng, việc vận dụng các dạng này trong thể loại
61
CKNTVN sẽ đƣợc phân tích cụ thể dƣới đây.
Dạng thứ nhất, mỗi thanh điệu đƣợc tƣơng ứng với một cao độ nhất
định. Với cách thức này, sự phù hợp giữa thanh điệu và cao độ là tuyệt đối,
tuy nhiên điều này có thể hạn chế tính phong phú của giai điệu, do đó thƣờng
chỉ sử dụng ở phạm vi nhỏ nhƣ tiết nhạc, câu nhạc. Trong trích đoạn sau ở tác
phẩm Tình ca mùa đông của Đặng Hữu Phúc, sự đồng nhất giữa đối thanh và
đối âm trong phạm vi một câu nhạc đƣợc thể hiện khá rõ ràng.
VD 2.08: Đặng Hữu Phúc, Tình ca mùa đông, nhịp 18-20
Trong câu nhạc này chúng ta có thể thấy mỗi thanh điệu tƣơng ứng với
một cao độ phù hợp. Tuy nhiên sự phù hợp này chỉ đƣợc đảm bảo trong một
tiết nhạc, còn giữa các tiết nhạc vẫn có thể có sự dịch chuyển về cao độ tuyệt
đối. Trên thực tế, sự tuân thủ tuyệt đối cao độ theo từng thanh âm ở phạm vi
từ câu nhạc trở lên không xuất hiện nhiều trong các CNNTVN.
Ở dạng thứ hai, sự phù hợp giữa cao độ và thanh điệu đƣợc thể hiện
bằng tƣơng quan tƣơng đối giữa cao độ của hai từ kế tiếp. Khi đảm bảo
đƣợc quan hệ tƣơng đối giữa từng cặp từ, cho dù cao độ tuyệt đối đặt cho
từng thanh âm trong một câu nhạc có thay đổi thì hiệu quả vang lên vẫn
hợp lý. Trong trích đoạn từ tác phẩm Romanse của Nguyễn Thiếu Hoa, mối
quan hệ giữa giai điệu và cao độ theo dạng này đƣợc thể hiện rõ nét.
VD 2.09: Nguyễn Thiếu Hoa, Romanse, nhịp7-11
Trong ví dụ trên, có thể thấy cùng một thanh sắc nhƣng có thời điểm đƣợc
sử dụng ở nốt Son1, có thời điểm lại ở nốt Do1, Si giáng 1, La1, cao độ chênh
lệch không ít; và ngƣợc lại, với cùng một cao độ nốt Fa1, ở vị trí này có thể đƣợc
62
sử dụng cho thanh ngang (giây), nhƣng vị trí khác lại là thanh huyền (nàng). Tuy
nhiên, câu nhạc vẫn có đƣợc hiệu quả hài hòa, bởi giữa hai từ liên tiếp, cao độ
luôn đáp ứng đúng đƣợc quy luật về tính cao thấp của thanh điệu. Cách thức này
phù hợp cho những giai điệu kết hợp với ca từ xen kẽ liên tục thanh âm cao-
thấp, khi đó giai điệu sẽ tiến hành theo lối gấp khúc và có thể phát triển một
cách linh hoạt, tạo nên những giai điệu uyển chuyển, phong phú. Đây là dạng
biểu hiện phổ biến nhất về sự phù hợp giữa thanh âm của ca từ và cao độ của
giai điệu, đƣợc vận dụng trong hầu hết tất cả các CKNTVN.
Dạng thứ ba của sự phù hợp giữa cao độ và thanh điệu là từ một cao độ
ban đầu có thể không tƣơng thích với thanh điệu với cao độ phía trƣớc và phía
sau đó trong mối quan hệ với thanh điệu, nhƣng bằng sự biến đổi qua các nốt
thêu, lƣớt, luyến láy, lại trở nên phù hợp.
VD 2.10: Đào Trọng Minh, Thời gian và kỷ niệm, nhịp 23-27.
Trong tác phẩm Thời gian và kỷ niệm, tác giả Đào Trọng Minh đã sử
dụng kỹ thuật thêu lƣớt, luyến láy trong các từ “xốn xang” và “bâng khuâng”,
giúp cho ca từ ban đầu có thể không phù hợp với cao độ và thanh điệu với ca
từ phía sau thì nhờ có sự dịch chuyển cao độ ngay trong một từ đã làm cho
mối tƣơng quan về cao độ và thanh điệu trong ca từ trở nên mềm mại và hợp
lý hơn, thể hiện sự linh hoạt trong kỹ thuật sáng tác của các nhạc sĩ.
Ca từ trong các CKNT thƣờng mang chất thơ, khi các câu thơ có quan
hệ bằng trắc đối nhau hoặc tƣơng đồng sẽ tƣơng ứng tạo nên những giai điệu
đƣợc tiến hành quãng đối lập nhau hoặc ở dạng mô phỏng, mô tiến. Trong hai
câu thơ nếu có sự đối nghịch, tƣơng phản với nhau về tƣơng quan bằng trắc,
sẽ dẫn tới giai điệu cũng có sự chuyển động đối âm tƣơng ứng. Trong tác
phẩm Ru con, tác giả Trần Mạnh Hùng xây dựng một đoạn nhạc với cấu trúc
ca từ có sự đối thanh giữa các câu trong ca từ: Chiều đông cái rét thì thào,
63
ngoài vƣờn lim dim bạn dế, À ơi tiếng hát ấm tay mẹ, líu lo lũ chim nô đùa
trên cành. Và tƣơng ứng với đó là những nét giai điệu đƣợc tiến hành lên
xuống, có âm điệu phù hợp với tính chất của thanh điệu.
VD 2.11: Trần Mạnh Hùng, Ru con, nhịp 6-14
Trên thực tế, những thể thơ có tính đối nghịch tuyệt đối về bằng trắc
không xuất hiện trong các CKNTVN, vì đó là quy luật thƣờng gặp trong các
thể thơ nghiêm khắc. Còn CKNTVN chủ yếu sử dụng dòng thơ lãng mạn nhƣ
trào lƣu Thơ mới hoặc các tác phẩm của các nhà thơ giai đoạn nửa sau TK
XX trở lại đây. Trong giai đoạn này, các tác phẩm thơ có phần tự do hơn về
quy luật bằng trắc trong một câu, tuy nhiên quan hệ về bằng trắc giữa những
từ cuối câu vẫn có quy luật khá rõ ràng, do đó cao độ của giai điệu thƣờng
tƣơng ứng tạo nên sự đối âm ở các nốt nhạc kết thúc câu/tiết nhạc.
Ở dạng quan hệ khác, khi các câu thơ không có sự đối nghịch về thanh
điệu, mà lại có quan hệ nhƣ một sự đồng dạng hoặc mô phỏng lại câu thơ
trƣớc, đó có thể là việc nhắc lại một phần quy mô hoặc có khi chỉ nhắc lại
quan hệ bằng trắc. Khi ấy, âm nhạc phản ảnh điều đó bằng việc nhắc lại, mô
phỏng hoặc giữ lại quan hệ đối âm cao - thấp tƣơng ứng của nét nhạc trƣớc đó.
Có thể minh họa qua trích đoạn trong tác phẩm Ru con mùa đông của Đặng Hữu Phúc.
VD 2.12: Đặng Hữu Phúc, Ru con mùa đông, nhịp19-26.
Trong ví dụ này, có thể thấy khi cao độ và thanh điệu tƣơng thích thì sự
64
đối thanh trong ca từ sẽ tƣơng ứng tạo nên sự đối âm trong giai điệu. Câu
“Đòng đƣa đòng đƣa lá vƣờn” đồng dạng với câu “Ngày mai ngày mai nắng
vàng”, câu “Tỏa trong giấc mơ xinh” đồng dạng với “Ngủ đi nhé con ngoan”.
So với quan hệ đối nghịch về thanh âm và cao độ thì mối tƣơng quan đồng dạng
Giữa các từ
và thủ pháp mô phỏng đƣợc sử dụng phổ biến hơn trong thể loại CKNTVN.
Dạng tương thích giữa thanh âm trong ca từ và cao độ trong giai điệu
Giữa các câu
Mỗi thanh điệu tƣơng ứng với một cao độ riêng biệt Đảm bảo quan hệ cao thấp giữa hai từ nối tiếp nhau (phổ biến) Sử dụng các cao độ thêu, lƣớt, luyến để tạo nên sự phù hợp về thanh âm Đối nghịch thanh âm trong câu thơ dẫn đến đối nghịch cao độ trong câu nhạc Đồng dạng thanh âm trong câu thơ dẫn đến đồng dạng cao độ trong câu nhạc (phổ biến)
Sơ đồ 1: Các dạng tƣơng thích giữa thanh âm trong ca từ với cao độ trong giai điệu
2.1.3.2. Các mức độ không tƣơng thích giữa thanh điệu và cao độ
Sự không tƣơng thích giữa thanh điệu trong ca từ và cao độ trong giai
điệu ở các tác phẩm CKNTVN đƣợc chia thành hai mức độ tƣơng ứng với hai
dạng biểu hiện sau. Ở dạng thứ nhất, một cao độ có thể đƣợc dùng cho nhiều
thanh điệu, hoặc một thanh điệu tƣơng ứng với nhiều cao độ. Dạng thức này
thƣờng chỉ đƣợc các tác giả sử dụng trong một phạm vi 2, 3 cao độ đứng cạnh
nhau, có sự chênh lệch về ngữ âm nhƣng không nhiều, và thƣờng đƣợc tiến
hành với các trƣờng độ ngắn hoặc nếu là trƣờng độ dài thì sẽ ở những vị trí
lấy hơi, cuối motiv, cuối tiết nhạc hoặc câu nhạc, do đó, sự không tƣơng thích
giữa cao độ và thanh điệu không bị biểu hiện quá rõ rệt. Dạng thức này rất
phổ biến trong thể loại CKNTVN. Trong tác phẩm Ngủ ngoan ngủ ngoan của
Trần Đinh Lăng, ở phần đầu tác phẩm, tác giả đã sử dụng nhiều cao độ khác
nhau cho một thanh điệu.
VD 2.13: Trần Đinh Lăng, Ngủ ngoan ngủ ngoan, nhịp 12-14
65
Trong ví dụ trên, thanh ngang đƣợc sử dụng cho các từ “ngoan đi con
con chim bay” nhƣng mỗi từ lại đƣợc đặt ở một cao độ khác nhau. Nếu chỉ
xét riêng sáu nốt nhạc này có thể tạo cảm giác không tƣơng thích giữa cao độ
và giai điệu. Tuy nhiên, trong toàn bộ nét nhạc, ở phần phía trƣớc và phía sau
tác giả dùng thanh hỏi, thanh huyền cho các cao độ trầm hơn tạo sự phù hợp
nhất định, chính vì vậy toàn bộ cụm sáu nốt nhạc của thanh bằng vẫn nằm ở
âm khu cao hơn, do đó, xét ở quy mô câu nhạc, mối quan hệ cao độ và thanh
điệu vẫn giữ đƣợc sự hài hòa nhất định. Hoặc trong ca khúc Màu tím chiến
khu, Doãn Nho lại sử dụng một cao độ cho những thanh điệu khác nhau.
VD 2.14: Doãn Nho, Màu tím chiến khu, nhịp 6-10.
Ở đây, với cùng một nốt Mi1, tác giả sử dụng cho từ “gái” và từ
“đẹp”. Thanh sắc và thanh nặng vốn không có sự gần gũi về mặt thanh điệu,
và nếu chỉ xét hai nốt nhạc này thì sự không tƣơng thích về cao độ - thanh
điệu là khá rõ. Để hợp lý hóa cho mối quan hệ giữa cao độ và thanh điệu, tác
giả đã đặt hai nốt nhạc này trong một nét giai điệu mà phần còn lại đều đảm
bảo tính phù hợp giữa cao độ và thanh điệu, bởi vậy sự không tƣơng thích bị
phân tán, cả câu nhạc vẫn hài hòa và hiệu quả đối kháng không đáng kể.
Dạng thứ hai, một mức độ cao hơn của sự không phù hợp khi mối
tƣơng quan giữa hai cao độ nối tiếp ngƣợc lại so với quy luật về thanh điệu
của hai từ tƣơng ứng. Điều này biểu hiện mức độ không tƣơng thích rõ nét
trong mối tƣơng quan giữa cao độ và thanh điệu, vì vậy trong mỗi trƣờng hợp
nhất định, tác giả thƣờng có những cách thức cụ thể để tạo nên sự hài hòa cho
cả nét nhạc. Trong ca khúc Nửa đêm của Trần Thế Bảo, tác giả đã đặt cao độ
cho thanh nặng cao hơn so với thanh huyền trƣớc đó, hoặc cao độ cho thanh
ngang lại thấp hơn so với thanh hỏi. Điều đó lẽ ra đã có thể tạo một sự không
đồng nhất giữa giai điệu và ca từ. Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa hai cao độ này
66
là nhỏ (quãng 2, quãng 3), hơn nữa, các nốt nhạc này chỉ diễn ra với trƣờng độ
ngắn, do đó không để lại cảm giác trái ngƣợc rõ rệt giữa cao độ và thanh điệu.
VD 2.15: Trần Thế Bảo, Nửa đêm, nhịp 18-21
Trong trƣờng hợp khác, khi sự chênh lệch về độ ngƣợc chiều trong mối
quan hệ cao độ - thanh điệu lớn hơn thì tác giả thƣờng giảm giá trị trƣờng độ
giữa hai nốt nhạc để sự không tƣơng thích không bị quá rõ ràng, nhƣ trong tác
phẩm Tình em mãi còn xanh của Trần Thanh Hà.
VD 2.16: Trần Thanh Hà, Tình em mãi còn xanh, nhịp 28-31.
Ở đây, mặc dù sự chênh lệch về cao độ của từ bạc và từ tóc khá lớn, tuy
nhiên, việc lƣớt nhanh do trƣờng độ ngắn của từ bạc đã khiến ngƣời nghe tập
trung vào những cụm từ phía sau, vì vậy, sự không tƣơng thích cũng bớt rõ rệt
trong phạm vi cả câu nhạc. Tuy nhiên, những dạng không tƣơng thích giữa
thanh điệu và cao độ ở mức độ này rất hiếm gặp trong thể loại CKNTVN.
Trong khi đó, ở các ca khúc thông thƣờng có những trƣờng hợp xảy ra
mối tƣơng quan khá khiên cƣỡng giữa thanh điệu và cao độ, nhƣ trong ca
khúc Tiểu đoàn 307 của Nguyễn Hữu Trí phỏng thơ Nguyễn Bính.
VD 2.17: Nguyễn Hữu Trí, Tiểu đoàn 307, nhịp 1-17
Chỉ trong một đoạn nhạc ngắn có thể thấy khá nhiều vị trí thanh điệu
67
trong ca từ không tƣơng thích với cao độ trong giai điệu. Các CKNTVN luôn
cần đảm bảo mối tƣơng thích giữa hai yếu tố này, do vậy, các ca khúc không
Một cao độ tƣơng ứng với nhiều thanh âm
Dạng 1 (phổ biến)
Một thanh âm tƣơng ứng với nhiều cao độ
thỏa mãn đặc điểm này không đƣợc coi là CKNT trong khuôn khổ luận án.
Các dạng không tương thích giữa thanh âm trong ca từ và cao độ trong giai điệu
Thanh âm trong ca từ đối nghịch với cao độ trong giai điệu
Dạng 2 (không phổ biến)
Sơ đồ 2: Các dạng không tương thích giữa thanh âm trong ca từ với cao độ trong giai điệu Qua phân tích, trong phần lớn các trƣờng hợp ở thể loại CKNTVN, ca
từ và giai điệu luôn giữ đƣợc mối quan hệ hài hòa, đảm bảo đƣợc tính hợp lý
trong tƣơng quan về thanh âm và thanh điệu nhƣng tính linh hoạt để phát triển
ý thơ cũng nhƣ tƣ duy về giai điệu theo ý đồ sáng tác của nhạc sĩ. Điều này
đòi hỏi ở kỹ thuật sáng tác một mức độ chín nhất định để vừa xây dựng một
mối quan hệ hài hòa trong thanh điệu, vừa tạo ra những ca từ và giai điệu có
giá trị nghệ thuật, thể hiện tính học thuật của thể loại. Trong một số trƣờng hợp
có thể xảy ra sự không tƣơng thích giữa cao độ và thanh điệu, tuy nhiên, với mỗi
trƣờng hợp đều có phƣơng thức điều chỉnh phù hợp để đạt đƣợc tính hài hòa và
hợp lý ở quy mô tổng thể.
2.2. Phƣơng thức xây dựng cấu trúc tác phẩm
Trong các tác phẩm CKNT, sự kết hợp giữa giai điệu và phần đệm tạo
nên sự vận động, mở rộng và phát triển các cơ cấu âm nhạc từ nhỏ đến lớn.
Sau đó, để khai triển các đoạn nhạc ở dạng phát triển hay tƣơng phản lại phụ
thuộc vào sự biến đổi từ những chất liệu sẵn có từ đoạn nhạc trƣớc hay đƣa
vào những chất liệu mới. Phần phân tích sau đây sẽ làm rõ cách thức xây
dựng một đoạn nhạc từ những các cơ cấu nhỏ hơn nhƣ motiv, tiết nhạc, câu
nhạc, sau đó phân tích cách thức tạo nên mối quan hệ dạng phát triển hoặc
tƣơng phản giữa các phần/đoạn nhạc, qua đó thể hiện mối tƣơng quan chặt
68
chẽ giữa giai điệu và phần đệm trong việc xây dựng cấu trúc tác phẩm.
2.2.1. Xây dựng cơ cấu trong tác phẩm
Từ những cơ cấu nhỏ nhƣ motiv, để phát triển thành các đoạn nhạc và
sau đó kết hợp các đoạn nhạc để tạo thành một tác phẩm hoàn chỉnh có nhiều
cách thức khác nhau. Việc phân tích những cách thức phổ biến đƣợc sử dụng
trong các CKNTVN sẽ góp phần làm rõ đặc điểm sáng tác của thể loại này.
2.2.1.1. Tiết nhạc
Cơ cấu âm nhạc nhỏ nhất bắt đầu từ motiv. Từ một motiv có hai
phƣơng thức để phát triển thành một tiết nhạc. Phƣơng thức thứ nhất là sau
khi motiv thứ nhất (M1) đƣợc trình bày sẽ đƣợc tiếp tục sử dụng dƣới dạng
nhắc lại, mô phỏng hoặc mô tiến để trở thành một motiv thứ hai từ đó tạo nên
tiết nhạc. Ở trƣờng hợp này, motiv thứ hai chính là sự biến đổi từ motiv thứ
nhất (M1’). M1 đƣợc nhắc lại có thay đổi do sự điều chỉnh cho phù hợp với
lời ca hoặc hòa âm, trong đa số các trƣờng hợp, phần đệm có sự thay đổi về
hòa âm chứ không nhắc lại công năng nhƣ ở M1. Có thể minh họa với tác
phẩm Hát giữa chiều mƣa của Đặng Hữu Phúc.
VD 2.18: Đặng Hữu Phúc, Hát giữa chiều mƣa, nhịp 9-13
Trong trích đoạn này, khi motiv nhắc lại lần hai, âm hình tiết tấu của
phần đệm đƣợc lặp lại, tuy nhiên hòa âm thay đổi chuyển sang hợp âm thứ
cùng chủ âm với công năng chủ, tạo nên sự mới mẻ cho motiv mới. Trong
hầu hết những trƣờng hợp các motiv đƣợc nhắc lại, thì phần đệm thƣờng chƣa
thay đổi facture piano, chính vì vậy, sự biến đổi hòa âm chính là một thủ pháp
tạo cho âm nhạc sự vận động ngay cả khi chất liệu của giai điệu và facture
phần đệm đƣợc giữ nguyên. Có thể thấy điều này qua một số tác phẩm nhƣ
69
Lời em dịu êm [PL4; tr.173], Du thuyền trên Hồ Tây [PL4; tr.211] của Đặng
Hữu Phúc… Tuy nhiên, điều này không thực sự phổ biến trong các
CKNTVN. Trong trƣờng hợp motiv thứ hai là sự mô tiến, mô phỏng motiv
thứ nhất, sự mô tiến thƣờng không hoàn toàn chính xác do sự chi phối của
thanh điệu trong ca từ cũng nhƣ của hòa âm. Trong phần điệp khúc tác phẩm
Mƣa của Tuệ Nguyên có thể thấy các motiv là sự mô phỏng của motiv đầu tiên.
VD 2.19: Tuệ Nguyên, Mƣa, nhịp 30-32
Các motiv liên tiếp đƣợc nhắc lại, mô phỏng bằng các thủ pháp biến đổi
tiết tấu, thu nhỏ trƣờng độ để tạo nên các tiết nhạc, hòa âm áp dụng cho các
motiv sử dụng cùng chất liệu giai điệu cũng không thay đổi. Có thể thấy điều
này qua các tác phẩm của Đặng Hữu Phúc nhƣ Mƣa [PL4; tr.133], Giấc mơ
quê [PL4; tr.11], Ngọn gió mùa xuân [PL4; tr.70], Hoài niệm mùa thu [PL4;
tr.110], Mƣa, Đi qua dòng sông [PL4; tr.219], Cho tôi một lời [PL4; tr.222];
Đến bao giờ của Hoàng Cƣơng [PL4; tr.690], Romanse của Nguyễn Thiếu
Hoa [PL4; tr.494] … Có thể thấy sự mô tiến, mô phỏng của giai điệu thƣờng
kéo theo sự thay đổi hòa âm của phần đệm. Tuy nhiên, cũng giống nhƣ ở
trƣờng hợp các motiv nhắc lại, facture phần đệm cũng thƣờng ít thay đổi
trong khi hòa âm lại hay đƣợc biến đổi hơn.
Bên cạnh đó, một phƣơng thức khác để xây dựng tiết nhạc, đó là sau
motiv thứ nhất sẽ xuất hiện một motiv mới (M2). Khi motiv mới xuất hiện, nó
sẽ là sự bổ sung một khía cạnh khác cho tính chất âm nhạc và hình tƣợng
nghệ thuật của tác phẩm. Chất liệu mới trong motiv thứ hai cần có mối quan
hệ chặt chẽ và thống nhất với motiv đầu tiên. Có thể minh họa bằng trích đoạn
từ tác phẩm Nửa đêm của Trần Thế Bảo.
70
VD 2.20: Trần Thế Bảo, Nửa đêm, nhịp 8-11
Trong câu nhạc đầu tiên của tác phẩm, có thể thấy các motiv có sự khác
biệt về hƣớng đi của các cao độ, sự thay đổi tiết tấu sau khi đƣợc phát triển từ
chất liệu của motiv ban đầu, việc linh động thay đổi các quãng tiến hành trong
giai điệu đã biến các motiv sau trở thành những nét giai điệu có màu sắc mới,
làm cả câu giống nhƣ một nét nhạc uyển chuyển dài hơi chứ không phải là sự
lặp lại nhiều lần của một cơ cấu nhỏ. Việc sử dụng hai motiv khác nhau trong
xây dựng tiết nhạc rất phổ biến trong các CKNTVN, nhƣ ở tác phẩm Ao thu
[PL4; tr.643], Lẻ loi [PL4; tr.659], Đến bao giờ của Hoàng Cƣơng [PL4;
tr.689]; Tình ca mùa xuân [PL4; tr.59], Khúc hát Trƣơng Chi [PL4; tr.18],
Hai phía dòng sông [PL4; tr.22], Thƣơng nhớ tuổi học trò [PL4; tr.91], Bình
minh trên biển [PL4; tr.148], Biển hát [PL4; tr.156], Ánh trăng của Đặng Hữu
Phúc [PL4; tr.167], Miền thƣơng của Vĩnh Lai [PL4; tr.519]; Đôi mắt tiếng
lòng [PL4; tr.552], Hát ru [PL4; tr.549] của Trần Thanh Hà… Trong hầu hết
các trƣờng hợp, giữa hai motiv thƣờng là mối quan hệ phát triển chứ ít khi là
mối quan hệ dạng tƣơng phản, phần đệm bên cạnh việc thay đổi hòa âm cũng
Giai điệu: Nhắc lại Phần đệm: Giữ nguyên facture, Hòa âm có thể thay đổi
Giai điệu: Mô phỏng, mô tiến
có thể thay đổi facture piano cho phù hợp với chất liệu trong motiv mới.
M1–M1 Không phổ biến M1–M1’ Phổ biến
Phần đệm: Thƣờng giữ nguyên facture, Hòa âm có thể thay đổi
Giai điệu: Chất liệu khác nhau, thƣờng có quan hệ phát triển
Sơ đồ kết hợp motiv
M1-M2 Phổ biến
Phần đệm: Có thể thay đổi facture, hòa âm
Sơ đồ 3: Các dạng kết hợp motiv trong CKNTVN
71
Nhƣ vậy để xây dựng một tiết nhạc, có thể sử dụng thủ pháp nhắc lại, mô
tiến, mô phỏng motiv ban đầu hoặc có thể kết hợp những motiv khác nhau,
các motiv luôn phải có sự tƣơng hỗ, bổ trợ, thống nhất với nhau trong việc thể
hiện hình tƣợng nghệ thuật và tính chất âm nhạc của tác phẩm.
2.2.1.2. Câu nhạc
Việc hình thành các câu nhạc cũng có hai dạng chính. Dạng thứ nhất là
các câu nhạc đƣợc hình thành từ việc nhắc lại, mô phỏng hoặc mô tiến tiết
nhạc đầu tiên (T1) để tạo ra tiết nhạc sau (T1’). Có thể lấy ví dụ trong tác
phẩm Romanse của Nguyễn Thiếu Hoa [PL4; tr.494], hoặc Tình em mãi còn
xanh của Trần Thanh Hà [PL4; tr.542], ở đây sự nhắc lại có thay đổi, mô
phỏng các tiết nhạc đƣợc sử dụng để hình thành các câu nhạc. Đây là dạng
thức phổ biến nhất trong việc tạo nên câu nhạc trong các CKNTVN, có thể
minh họa cho điều này qua các tác phẩm nhƣ Hƣớng về Hà Nội [PL4; tr.393],
Tình ca [PL4; tr.398] của Hoàng Dƣơng; Tình lặng [PL4; tr.538], Đôi mắt
tiếng lòng [PL4; tr.552] của Trần Thanh Hà; Đến bao giờ [PL4; tr.689],Còn
gì cho quê hƣơng [PL4; tr.581], Đến bao giờ [PL4; tr.689] của Hoàng Cƣơng,
Tình ca mùa xuân [PL4; tr.60], Ru con trong mƣa xuân [PL4; tr.63],Ru con
mùa đông [PL4; tr.142], Biển chiều [PL4; tr.159], Hai phía dòng sông [PL4;
tr.22], Chiều bên kia sông [PL4; tr.184], Tôi vẫn hát [PL4; tr.228], Biến hát
[PL4; tr.156], Bao giờ em trở lại [PL4; tr.225] của Đặng Hữu Phúc, Tình em
mãi còn xanh của Trần Thanh Hà [PL4; tr.542]… Những tiết nhạc từng cặp
đôi đƣợc nhắc lại hoặc mô phỏng đã tạo nên tính cân bằng cho câu nhạc. Đây
là phƣơng thức phát triển các tiết nhạc phổ biến nhất trong thể loại CKNTVN,
có thể minh họa với sơ đồ trách đoạn tác phẩm Biển hát của Đặng Hữu Phúc.
Sơ đồ 4: Một dạng cấu trúc câu nhạc
72
Qua các tác phẩm minh họa có thể thấy, cách thức này thƣờng ít đƣợc
áp dụng với loại tiết nhạc bao gồm các motiv đƣợc nhắc lại, mô tiến hoặc mô
phỏng vì nhƣ vậy sẽ làm cho chất liệu âm nhạc bị lặp lại quá nhiều. Với
phƣơng thức này, các nét giai điệu trong hai tiết nhạc có thể có quan hệ với
nhau ở dạng đồng vị nhƣ mô tiến, nhắc lại có thay đổi... Những yếu tố đƣợc giữ
nguyên không thay đổi thƣờng là tiết tấu, facture phần đệm, quy mô của các
tiết nhạc. Trong khi đó, những yếu tố có thể thay đổi ở tiết nhạc thứ hai là mối
tƣơng quan về quãng khi tiến hành giai điệu, công năng hòa âm. Phần đệm có
thể bổ sung tăng cƣờng bè quãng 8 tạo nên sự mở rộng âm vực, tuy nhiên sự bổ
sung những bè này thƣờng chỉ diễn ra ở mức độ thƣa thớt ở các phách mạnh,
hoặc để tạo điểm nhấn mỗi khi thay đổi hợp âm ở phần đệm...
Bên cạnh đó, tiết nhạc thứ hai (T2) có thể đƣợc xây dựng với một chất
liệu mới so với tiết nhạc ban đầu (T1), nhằm xây dựng một khía cạnh khác
của chủ đề âm nhạc, tạo sự vận động, phát triển cho âm nhạc. Có thể minh
họa điều này với tác phẩm Nhớ về đồng đội của Lê Hồng Lĩnh.
VD 2.21: Lê Hồng Lĩnh, Nhớ về đồng đội, nhịp 10-19
73
Trong ví dụ này, ta thấy câu nhạc đƣợc tạo nên bởi hai tiết nhạc. Trong
đó, tiết nhạc thứ nhất (“Có bao giờ quên đƣợc đồng đội ơi”) gồm hai motiv
tách biệt, còn tiết nhạc thứ hai lại là một nét nhạc liền mạch (“Mộ phần các
anh ở nhiều vùng đất nƣớc”), bên cạnh đó tiết tấu và hƣớng tiến hành quãng
của hai tiết nhạc cũng có sự khác biệt rõ ràng. Có thể minh họa điều này qua
một số CKNTVN khác nhƣ Nửa đêm của Trần Thế Bảo [PL4; tr.531], Ơi Mẹ
làng Sen [PL4; tr.479], Giấc mơ mùa lá [PL4; tr.459] của Trần Mạnh Hùng,
Sau khi biết em của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.170], Màu tím chiến khu của Doãn Nho
[PL4; tr.430], Tình quê hƣơng [PL4; tr.263], Hàng dừa xanh [PL4; tr.270], Dây đàn
thần diệu [PL4; tr.298], Bế Văn Đàn sống mãi [PL4; tr.308] của Huy Du…
Điều này thƣờng đƣợc áp dụng với những tiết nhạc đƣợc tạo nên bởi
các motiv ở dạng nhắc lại, mô tiến hoặc mô phỏng. Việc sử dụng những tiết
nhạc khác nhau trong một câu nhạc sẽ tạo nên sự biến đổi về các tuyến bè
Giai điệu: Nhắc lại, mô phỏng, mô tiến
cũng nhƣ về tính chất bố cục trong một đoạn nhạc.
T1–T1’ Rất phổ biến
Phần đệm: Giữ nguyên tiết tấu, facture, quy mô tiết nhạc Có thể thay đổi hòa âm, tiến hành giai điệu, âm khu âm vực phần đệm
Giai điệu: Chât liệu khác nhau
Phần đệm: Có thể thay đổi facture, hòa âm
Sơ đồ kết hợp tiết nhạc
T1-T2 Ít phổ biến
Sơ đồ 5: Các dạng kết hợp tiết nhạc trong CKNTVN
2.2.1.3. Đoạn nhạc
Tƣơng tự nhƣ ở quy mô của motiv hay tiết nhạc, từ câu nhạc đầu tiên
(C1), câu nhạc thứ hai (C2) có thể đƣợc hình thành và phát triển bằng các thủ
pháp nhƣ nhắc lại, mô tiến, mô phỏng hoặc bằng sự xây dựng chất liệu âm
nhạc mới, tuy nhiên, qua phân tích các CKNTVN, có thể thấy phổ biến nhất
là thủ pháp nhắc lại có thay đổi và thủ pháp mô phỏng.
Trong quá trình tạo thành đoạn nhạc, khi các câu nhạc đƣợc nhắc lại,
74
mô phỏng hoặc mô tiến, bên cạnh những sự biến đổi về âm điệu, hòa âm, có
thể còn đƣợc biến đổi cƣờng độ, âm khu, âm vực và đặc biệt là sự thay đổi ở
phần đệm. Trong trƣờng hợp này, câu nhạc thứ hai mô phỏng lại câu thứ nhất,
có thể thay đổi cách tiến hành quãng, tạo âm điệu mới, nhƣng về kết cấu thì
gần nhƣ không đổi, tạo nên tính đồng dạng cho hai câu nhạc, tạo cân bằng cho
đoạn nhạc. Điều này phổ biến trong phần lớn các CKNTVN, có thể minh họa
với một số tác phẩm nhƣ Hai phía dòng sông [PL4; tr.22], Tiếng mùa xuân
[PL4; tr.67], Ngọn gió mùa xuân [PL4; tr.70], Mùa hè chia tay [PL4; tr.84],
Thƣơng nhớ tuổi học trò [PL4; tr.91], Trăng chiều [PL4; tr.116], Mƣa [PL4;
tr.133], Gió bấc [PL4; tr.137] của Đặng Hữu Phúc; Khúc hát ban chiều [PL4;
tr.241], Anh vẫn thấy [PL4; tr.322], Có những đêm không ngủ của Huy Du
[PL4; tr.258]; Em là mùa xuân [PL4; tr.353], Đôi ta là thợ đƣờng dây [PL4;
tr.367], Vƣờn nhãn quê hƣơng của Vĩnh Cát [PL4; tr.359]; Bản thiên thai trần
gian [PL4; tr.419], Màu tím chiến khu [PL4; tr.431], Có một Thăng Long
[PL4; tr.422] của Doãn Nho; Giấc mơ mùa lá [PL4; tr.459], và trong hầu hết
tác phẩm của Hoàng Cƣơng…Ở phần đầu tác phẩm Ơi Mẹ làng Sen của Trần
Mạnh Hùng, thủ pháp này đƣợc thể hiện rõ.
VD 2.22: Trần Mạnh Hùng, Ơi Mẹ làng Sen, nhịp 4-9
Sơ đồ cấu trúc tƣơng ứng nhƣ sau
Sơ đồ 6: Cấu trúc đoạn nhạc (dạng 1)
Từ các motiv khác nhau hình thành nên tiết nhạc, tiết nhạc sau là sự
biến đổi phát triển từ tiết nhạc trƣớc, từ đó hình thành câu nhạc. Các câu nhạc
75
đƣợc nhắc lại, mô phỏng hoặc mô tiến, khi đó phần đệm thƣờng giữ nguyên
nhịp điệu và những âm hình tiết tấu chủ đạo, chủ yếu sự thay đổi nếu có sẽ là
tăng cƣờng bè tạo sự dày dặn cho phần đệm, điệp thêm quãng 8 cho các nốt
chủ chốt trong hợp âm, âm vực có thể đƣợc mở rộng nhƣng vẫn trên cơ sở tiết
tấu và nhịp điệu từ câu nhạc trƣớc đó. Điều này còn có thể minh họa qua tác
phẩm Giấc mơ mùa lá [PL4; tr.361] của Trần Mạnh Hùng…
Bên cạnh đó, một dạng sơ đồ cấu trúc đoạn nhạc khác cũng đƣợc sử
dụng trong nhiều tác phẩm.
Sơ đồ 7: Cấu trúc đoạn nhạc (dạng 2)
Dạng cấu trúc motiv, tiết nhạc, câu nhạc, đoạn nhạc nhƣ sơ đồ trên rất
phổ biến trong các CKNTVN, nhƣ Có những đêm không ngủ của Huy Du
[PL4; tr.258], Ru con trong mƣa mùa xuân [PL4; tr.63], Hai phía dòng sông
[PL4; tr.22], Mùa hè chia tay [PL4; tr.84], Chiều bên kia sông của Đặng Hữu
Phúc [PL4; tr.184], Bản thiên thai trần gian của Doãn Nho [PL4; tr.419], Em
là mùa xuân của Vĩnh Cát [PL4; tr.353]…
Bên cạnh đó, trên thực tế có không ít trƣờng hợp câu nhạc sau đƣợc xây
dựng từ một chất liệu âm nhạc mới, thƣờng thì chất liệu này không hoàn toàn
đối nghịch với câu nhạc trƣớc mà sẽ mang tính chất bổ sung, kế thừa và phát
triển. Ví dụ sau trong tác phẩm Em-mùa xuân của Xuân Thủy.
VD 2.23: Xuân Thủy, Em-mùa xuân, nhịp 7-14
76
Tác giả đã đƣa vào những chất liệu khác nhau cho mỗi câu nhạc nhƣng
đó không phải là những chất liệu có tính đối kháng, tƣơng phản nhau mà có
sự gần gũi về ngôn ngữ âm nhạc, tạo cảm giác liền mạch, đồng nhất cho cả
đoạn nhạc. Điều này còn đƣợc thể hiện trong các tác phẩm của Huy Du nhƣ
Hàng dừa xanh [PL4; tr.271], Hát nữa đi em [PL4; tr.249], Miền Nam của ta
muôn đời vẫn cất tiếng ca [PL4; tr.274], Hoa Mộc Miên [PL4; tr.283], Dây
đàn thần diệu [PL4; tr.299], Bế Văn Đàn sống mãi [PL4; tr.308], Tình quê
hƣơng [PL4; tr.264]; một số tác phẩm của Hoàng Dƣơng nhƣ Thông điệp mùa
thu [PL4; tr.414], Ru lại tình sau [PL4; tr.401], và một số tác phẩm khác nhƣ
Bóng trăng [PL4; tr.35], Chiều bên kia sông [PL4; tr.85], Thƣơng nhớ tuổi
học trò [PL4; tr.92] của Đặng Hữu Phúc; Romanse của Nguyễn Thiếu Hoa
[PL4; tr.494], Hà Nội thủ đô ta đó [PL4; tr.377], Khéo đảm là gái nuôi ong
[PL4; tr.385], Sapa thành phố trong sƣơng [PL4; tr.392] của Vĩnh Cát; Nửa
đêm của Trần Thế Bảo [PL4; tr.531]… Trong số đó, nhiều tác phẩm phân chia
tiết nhạc câu nhac không cấu đối, không rõ ràng. Với hai cách thức xây dựng
Giai điệu: Nhắc lại, mô phỏng, mô tiến
đoạn nhạc nhƣ trên, chúng ta có sự so sánh nhƣ sau
C1–C1’ Rất phổ biến
Phần đệm: Thƣờng giữ nguyên facture, có thể điệp bè, thay đổi âm khu, âm vực. Hòa âm thƣờng thay đổi vòng kết
Giai điệu: Chât liệu khác nhau
Sơ đồ kết hợp câu nhạc
C1-C2 Ít phổ biến
Phần đệm: Thƣờng thay đổi facture, hòa âm
Sơ đồ 8: Các dạng kết hợp câu nhạc
Có thể thấy từ cơ cấu câu nhạc để phát triển thành đoạn nhạc, dù với
thủ pháp nhắc lại, mô phỏng hay đƣa vào chất liệu mới thì vẫn phải đảm bảo
77
sự thống nhất về tính chất âm nhạc, chính vì vậy chất liệu của câu nhạc tiếp
sau thƣờng là sự kế thừa và phát triển chất liệu câu nhạc trƣớc. Các motiv, tiết
nhạc, câu nhạc có sự ảnh hƣởng lẫn nhau, luôn phải đảm bảo mối tƣơng quan
về chất liệu âm nhạc và thể hiện hiệu quả hình tƣợng nghệ thuật. Ở mỗi quy
mô lại phổ biến các cách thức phát triển cấu trúc khác nhau.
2.2.1.4. Hình thức âm nhạc
Trong các tác phẩm CKNTVN, các đoạn nhạc đƣợc kết hợp một cách
linh hoạt và đa dạng tạo nên nhiều dạng hình thức âm nhạc khác nhau, số liệu
thống kê đƣợc thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2: Hình thức âm nhạc trong CKNTVN
STT
Hình thức
1 1 đoạn đơn 2 2 đoạn phát triển 3 2 đoạn tương phản 4 3 đoạn nhạc không tái hiện 5 3 đoạn phát triển 6 3 đoạn tương phản 7 3 đoạn phức 8 Liên đoạn 9 Rondo
Số lượng tác phẩm 15 34 23 11 20 14 1 17 1
Tỷ lệ 11.03% 25.00% 16.91% 8.09% 14.71% 10.29% 0.74% 12.50% 0.74%
Hình thức âm nhạc đƣợc sử dụng phổ biến nhất trong thể loại
CKNTVN là hình thức 2 đoạn đơn với 57 tác phẩm chiếm 41.9%, do đây là
loại hình thức phù hợp nhất với các thể loại ca khúc nói chung và CKNT nói
riêng. Bên cạnh đó các hình thức 3 đoạn đơn cũng đƣợc sử dụng phổ biến với
45 tác phẩm chiếm 33.1%, hình thức 1 đoạn đơn đƣợc sử dụng trong 15 tác
phẩm chiếm 11.3%. Bên cạnh đó, trong thể loại này còn phổ biến hình thức
liên đoạn, bao gồm 17 tác phẩm chiếm 12.5%.
Cách kết hợp các đoạn nhạc khá phong phú với nhiều dạng sơ đồ khác
nhau. Dƣới đây là một số sơ đồ cấu trúc tác phẩm minh họa cho một số hình
thức âm nhạc đƣợc sử dụng phổ biến trong các CKNTVN. Với mỗi hình thức
âm nhạc, các tác giả đã sử dụng linh hoạt nhiều cách thức khác nhau tạo nên
các dạng cấu trúc phong phú cho thể loại này
78
Hình thức một đoạn nhạc
Dạng hình thức một đoạn nhạc trong các CKNTVN có thể đƣợc sử
dụng dƣới dạng đoạn nhạc nhắc lại nguyên dạng, hoặc nhắc lại có thay đổi về
quy mô hoặc thay đổi số lƣợng câu nhạc trong đoạn, đoạn nhạc nhắc lại có
thay đổi giai điệu, tiết tấu để phù hợp với lời ca.
Tác phẩm Ánh trăng của Đặng Hữu Phúc đƣợc viết ở hình thức đoạn
nhạc nhắc lại nguyên dạng. Ở đây, tác giả đã dùng một phần nối lớn để làm
phong phú chất liệu cho tác phẩm.
Tác phẩm Nụ của Doãn Nho (nhịp ¼) ở hình thức đoạn nhạc nhắc lại
có thay đổi quy mô cấu trúc, đoạn nhạc đƣợc mở rộng ở lần nhắc lại. Sau đó,
toàn bộ chất liệu đƣợc dịch giọng lên D-dur, đẩy âm nhạc lên một giai đoạn
mới mặc dù chất liệu ban đầu vẫn giữ nguyên.
Tác phẩm Hoài niệm mùa thu của Đặng Hữu Phúc ở hình thức một
đoạn nhạc nhắc lại. Đoạn nhạc sau có thay đổi cao độ giai điệu cho phù hợp
lời ca, tiết tấu, tiết luật cũng đƣợc biến đổi mang dáng dấp của dạng biến tấu.
Ngoài ra còn có một số tác phẩm khác ở hình thức một đoạn nhƣ Bài ca tình yêu của Doãn Nho (a -Kết bổ sung)2, Bao giờ em trở lại của Đặng Hữu
Phúc (a-a'-a''), Ƣớc mùa xuân của Hoàng Cƣơng (a- a’)…
Với các hình thức lớn hơn, bên cạnh những thủ pháp đa dạng hóa chất
liệu âm nhạc áp dụng nhƣ khi nhắc lại một đoạn nhạc, nhiều cách thức khác
cũng đƣợc sử dụng để tạo nên các dạng quan hệ khác nhau giữa các đoạn
nhạc. Điều này sẽ đƣợc nghiên cứu sâu hơn trong mục 2.2.2. của luận án.
79
Hình thức hai đoạn đơn
Hình thức hai đoạn đơn đƣợc sử dụng trong các CKNTVN dƣới dạng
hai đoạn không nhắc lại, hai đoạn đƣợc nhắc lại nguyên dạng hoặc nhắc lại có
thay đổi. Một số tác phẩm ở hình thức hai đoạn không nhắc lại hoặc nhắc lại
nguyên dạng là: Ao thu (a-b); Vẽ tình yêu trên cát (a-b), Tiếng thu (a-b) của Hoàng Cƣơng, Lời ru mùa thu của Đặng Hữu Phúc (a-b)2, Hàng dừa xanh (a- b)2, Khúc hát ban chiều (a-b)3 của Huy Du; Khúc hát Trƣơng Chi của Đặng Hữu Phúc (a-b-b), Vƣờn nhãn quê hƣơng của Vĩnh Cát (a-a-b)2…
Hình thức hai đoạn nhạc nhắc lại có thay đổi trong tác phẩm Nửa đêm
của Trần Thế Bảo với đoạn b’ thay đổi quy mô do rút gọn câu thứ hai.
Một số dạng nhắc lại đoạn nhạc trong hình thức hai đoạn đơn nhắc lại
có thay đổi là Một thời thƣơng nhớ (a-b-b’-a-b), Tình quê hƣơng (a-a'-b-b'-b-
b'') của Huy Du; Bóng trăng của Đặng Hữu Phúc (a-a’-Nối-a-a’-b), Kỷ niệm
Matxcova của Hoàng Dƣơng (a-a’-b-b’), Khúc giao mùa của Trần Mạnh
Hùng (a-a'-b-Nối-a'-b')…
Có thể thấy, trong khi hình thức hai đoạn nhắc lại nguyên dạng thƣờng
nhắc lại cả hai đoạn nhạc, thì với dạng hai đoạn nhạc nhắc lại có thay đổi,
việc nhắc lại từng đoạn nhạc riêng biệt lại phổ biến hơn
Hình thức ba đoạn đơn
Hình thức này có thể đƣợc sử dụng ở dạng tái hiện nguyên dạng hoặc
tái hiện có thay đổi, hoặc kết hợp khi các đoạn nhạc nhắc lại nhiều lần. Thủ
pháp tạo nên các dạng hình thức ba đoạn khá đa dạng. Trong tác phẩm Đêm
nghe gió về của Đặng Hữu Phúc, tác giả sử dụng hình thức ba đoạn đơn tái
hiện. Trong đó loại nhịp đƣợc thay đổi qua từng ô nhịp trong đoạn a với chu
kỳ 2 nhịp mỗi câu. Sau đó đoạn b đƣợc ngắt thành chu kỳ từng ô nhịp không
chia câu, ổn định ở nhịp 2/4. Tiếp theo đoạn a đƣợc tái hiện nguyên dạng.
80
Tác phẩm Hƣớng về Hà Nội của Hoàng Dƣơng với hình thức ba đoạn
tái hiện có thay đổi, các đoạn nhạc đƣợc nhắc lại nhiều lần.
Một số tác phẩm minh họa cho các dạng nhắc lại trong hình thức ba đoạn đơn nhƣ Hoa lục bình [a-(b-a)2-a-Kết]2, Tình ca mùa xuân (a-b-a'-Nối-b-
a'), Ru con (a-a'-b-a'-Nối-a'-b-a') của Đặng Hữu Phúc; Có những đêm không ngủ (a-b)2-a', Tình em (a-b-a-b-a') của Huy Du, Lẻ loi của Hoàng Cƣơng (a-a'-b-a-a')…
Hình thức ba đoạn nhạc không tái hiện
Đây là hình thức tác phẩm trình bày với ba đoạn nhạc khác nhau. Có
thể minh họa với tác phẩm Ngôi sao nhớ ai của Hoàng Cƣơng , trong đó đoạn
nhạc thứ 3 đƣợc nhắc lại ở dạng mô phỏng với câu 1 mô tiến diatonic và câu 2
nhắc lại mở rộng quy mô.
Bên cạnh đó, một số tác phẩm minh họa cho hình thức ba đoạn nhạc không tái hiện nhƣ Còn gì cho quê hƣơng của Hoàng Cƣơng (a-b-c-Nối)2, Lời
ru cao nguyên của Đặng Hữu Phúc (a-Nối-b-Nối-c-c), Đôi ta là thợ đƣờng dây của Vĩnh Cát (a-b-c)2, Màu tím chiến khu của Doãn Nho (a-b-c-Nối-a-b-
c), Thông điệp mùa thu của Hoàng Dƣơng (a-b-c-b-c)…
Hình thức liên đoạn
Một số CKNTVN đƣợc trình bày ở cấu trúc nhiều đoạn nhạc ghép lại,
các đoạn là những khía cạnh khác nhau, hỗ trợ, bổ sung nhau. Có thể minh
họa với tác phẩm Nhớ về đồng đội của Lê Hồng Lĩnh.
81
Một số tác phẩm khác sử dụng hình thức liên đoạn nhƣ Mƣa của Tuệ
Nguyên (a-b-c-d), Thời gian và kỷ niệm của Đào Trọng Minh (a-b-c-d-e),
Ngƣời lính mùa xuân về của Doãn Nho (a-b-c-Nối-d-e); Nhớ mẹ ta xƣa (a-b-
c)-(d-e)-(g-f), Chiều quan họ (a-b-c-d-a') của Hoàng Cƣơng …
Sơ đồ cụ thể cho từng tác phẩm đƣợc liệt kê ở Bảng PL2a Hình thức
âm nhạc trong CKNTVN [PL; tr.179]. Trong mỗi loại hình thức, việc sắp xếp
đoạn nhạc, xen kẽ các phần phụ khá linh hoạt với nhiều thủ pháp, nhiều dạng
sơ đồ khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp, tạo nên sự đa dạng trong ngôn ngữ
cấu trúc của thể loại. Bên cạnh cách thức triển khai cơ cấu, việc phân tích các
thủ pháp tạo nên mối tƣơng quan giữa các đoạn nhạc ở dạng phát triển hay
tƣơng phản sẽ góp phần làm rõ đặc điểm cấu trúc của thể loại CKNTVN.
2.2.2. Xây dựng các dạng cấu trúc
Trong các CKNTVN, dạng cấu trúc phát triển và tƣơng phản đều đƣợc
sử dụng phổ biến. Phần lớn CKNTVN có tính chất trữ tình, do đó, các đoạn
nhạc dạng phát triển ƣu thế hơn về số lƣợng. Bên cạnh đó, các hình thức 2-3
đoạn đơn tƣơng phản cũng đƣợc sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, tƣơng quan
giữa các đoạn nhạc không quá đối lập, thƣờng để tạo sự phát triển về cảm xúc
chứ không tạo nên tính xung đột, kịch tính trong hình tƣợng.
Trong 136 CKNTVN, có 34 tác phẩm viết ở hình thức 2 đoạn đơn phát
triển, 23 tác phẩm viết ở hình thức 2 đoạn đơn tƣơng phản, 20 tác phẩm viết ở
hình thức 3 đoạn đơn phát triển, 14 tác phẩm viết ở hình thức 3 đoạn đơn
tƣơng phản. Trong 11 tác phẩm viết ở hình thức 3 đoạn nhạc không tái hiện, 3
đoạn phức và 17 tác phẩm viết ở hình thức liên đoạn có 5 tác phẩm đƣợc viết
ở dạng các đoạn nhạc tƣơng phản, 3 tác phẩm có các đoạn nhạc quan hệ ở cả
dạng tƣơng phản và phát triển, còn lại các tác phẩm đều có dạng các đoạn
nhạc ở dạng phát triển. Nhƣ vậy, xét các tác phẩm ở hình thức từ 2 đoạn đơn
trở lên có 75 tác phẩm có dạng các đoạn nhạc phát triển chiếm 55.15%, 44 tác
82
phẩm có dạng các đoạn nhạc tƣơng phản chiếm 32.35%, 3 tác phẩm có dạng
các đoạn nhạc phát triển và tƣơng phản chiếm 2.21%. Có những tác giả ƣa
dùng lối quan hệ phát triển giữa các đoạn nhạc nhƣ Trần Thanh Hà, Vĩnh Lai,
Hoàng Dƣơng… trong khi đó quan hệ tƣơng phản giữa các đoạn nhạc lại
chiếm ƣu thế trong các sáng tác của Trần Mạnh Hùng, Vĩnh Cát… Xem bảng
PL2a Hình thức âm nhạc trong CKNTVN [PL2; tr173]. Tính chất phát triển
hay tƣơng phản đƣợc quyết định bởi sự biến đổi của các phƣơng tiện diễn tả,
số lƣợng cũng nhƣ tính chất biến đổi của các yếu tố sẽ quyết định mức độ
tƣơng phản, phát triển giữa các cơ cấu.
2.2.2.1. Dạng cấu trúc phát triển
Trong việc xây dựng cấu trúc nhiều phần/đoạn, cách thức phổ biến là
khai thác chất liệu từ những đoạn nhạc trƣớc, qua đó biến đổi, phát triển để
tạo nên đoạn nhạc sau. Để biến đổi chất liệu có thể sử dụng nhiều thủ pháp,
trong đó phổ biến là thủ pháp khai thác các âm hình tiết tấu, khai thác âm điệu
của giai điệu và màu sắc điệu tính. Thủ pháp khai thác chất liệu tiết tấu là sử
dụng những âm hình, motiv tiết tấu điển hình từ đoạn nhạc trƣớc để tạo nên
những âm hình tiết tấu mới, nhƣ trong tác phẩm Ru con của Trần Mạnh Hùng.
VD 2.24: Trần Mạnh Hùng, Ru con, nhịp 5-8 Đoạn a: nhịp 5-8
Đoạn b: nhịp 23-25
83
Tác giả đã sử dụng chất liệu tiết tấu của đoạn nhạc đầu tiên để áp dụng
vào đoạn nhạc sau, tạo nên mối quan hệ phát triển giữa hai đoạn nhạc. Ở đoạn
b, phần tiết tấu có thể đƣợc co giãn, thêm bớt nốt nhạc cho phù hợp ý đồ sáng
tác, tuy nhiên những âm hình tiết tấu đặc trƣng thƣờng đƣợc giữ lại, do đây là
nhân tố chính khẳng định mối quan hệ “phát triển” giữa các đoạn nhạc, những
yếu tố có thể đƣợc biến đổi là âm điệu của giai điệu, âm khu, âm vực và cả
facture của phần đệm… Điều này còn đƣợc thể hiện trong các tác phẩm
Romanse của Nguyễn Thiếu Hoa (phát triển facture piano) [PL4; tr.495];
Đƣờng sang Vĩ Dạ (tiết tấu của giai điệu và phần đệm) [PL4; tr.652], Ao thu
(tăng nhịp điệu phần đệm) [PL4; tr.644], Chiều quan họ (âm khu giai điệu)
[PL4; tr.669], Tiếng thu (kế thừa nhịp điệu, tiết tấu của giai điệu và phần đệm)
[PL4; tr.674] của Hoàng Cƣơng; Lời thu sang (tiết tấu của giai điệu, nhịp điệu
phần đệm) [PL4; tr.95], Mẹ (tiết tấu của giai điệu, facture của phần đệm)
[PL4; tr.200] của Đặng Hữu Phúc…
Trong các CKNTVN, việc phát triển chất liệu từ phần đệm thƣờng
đƣợc thể hiện qua cách phát triển âm hình đệm, hòa âm, các thủ pháp phức
điệu, khai thác đặc tính về âm khu, âm vực. Trong đó phổ biến nhất là việc sử
dụng lại những facture piano đặc trƣng của đoạn nhạc trƣớc trong đoạn nhạc
sau, có thể biến đổi tiết tấu, hoặc thêm bớt bè, nhƣng tính chất, hiệu quả đặc
trƣng của âm hình đệm vẫn đƣợc giữ lại, kế thừa đoạn nhạc trƣớc. Điều này
đƣợc thể hiện trong tác phẩm Bốn mùa yêu thƣơng của Trần Mạnh Hùng.
VD 2.25: Trần Mạnh Hùng, Bốn mùa yêu thƣơng, nhịp 6-8, nhịp 14-16
Đoạn a
84
Đoạn b
Ngay trong những nốt nhạc đầu tiên của hai đoạn nhạc (nhịp 6, 7 và nhịp
14, 15) chúng ta đã có thể thấy rõ mối liên quan rõ rệt về chất liệu âm nhạc giữa
hai đoạn cũng nhƣ tính kế thừa đặc điểm trong âm hình đệm từ đoạn trƣớc đƣợc
phát triển trong đoạn nhạc sau. Tuy nhiên đây không phải là sự kế thừa nguyên
dạng, mà tác giả đã tạo nên tính phát triển cho giai đoạn mới, đó là thêm các bè
theo chiều dọc, điệp quãng 8 ở bè Bass nhằm mở rộng âm vực và tạo độ dày cho
phần đệm. Một vài âm hình móc đơn đƣợc thay thế bằng móc kép tạo sự dứt
khoát, mạnh mẽ hơn so với tính chất âm nhạc của đoạn đầu.
Quan hệ phát triển giữa các đoạn nhạc có thể đƣợc tạo nên bởi việc
thay đổi số lƣợng bè, thay đổi số lƣợng nốt nhạc kết hợp theo chiều dọc để
tạo nên sự biến đổi về tính chất âm nhạc, thay đổi độ dày hoặc tạo nên tính
phức điệu cho tác phẩm. Ở tác phẩm Thời gian và kỉ niệm của Đào Trọng
Minh [PL4; tr.525], các đoạn nhạc sau là sự tiếp nối phát triển chất liệu của
đoạn nhạc trƣớc. Việc kế thừa chất liệu không chỉ đƣợc biểu hiện trong tiết
tấu, nhịp điệu của giai điệu mà còn trong việc khai triển facture piano. Ở
mỗi đoạn, có thể thấy những chất liệu này đƣợc biến đổi nhƣng ở mức độ
vừa phải, không tạo nên sự khác biệt rõ rệt. Vì vậy, tính chất và hiệu quả
âm nhạc trong tác phẩm vẫn có sự tƣơng đồng và thống nhất rõ nét.
Ở một tác phẩm khác, cũng vẫn với sự kế thừa chất liệu giữa các
đoạn nhạc, nhƣng mức độ phát triển và biến đổi các chất liệu đƣợc đẩy
mạnh hơn tạo nên sự khác biệt rõ ràng giữa các giai đoạn âm nhạc. Trong
tác phẩm Hãy cùng ta biển ơi của Doãn Nho [PL4; tr.427], qua mỗi đoạn,
chúng ta thấy rõ sự phát triển từng bƣớc của phần đệm nhằm đƣa tới hiệu
85
quả mạnh mẽ hơn. Ban đầu là sự mở rộng về âm vực ở cả giai điệu và phần
đệm, sau đó là sự tăng cƣờng các âm hình tiết tấu, bổ sung bè tạo tính phức
điệu ở bè trầm, đƣa nhịp điệu của âm nhạc trở nên dồn dập, cao trào hơn.
Bên cạnh đó, một thủ pháp khác cũng đƣợc sử dụng trong các tác phẩm
CKNTVN là thủ pháp khai thác các vòng hòa âm trong đoạn nhạc trƣớc. Với
thủ pháp này, những vòng hòa âm khi đƣợc kế thừa từ đoạn nhạc trƣớc và tiếp
tục phát triển ở đoạn nhạc sau sẽ tạo nên màu sắc đặc trƣng cho tác phẩm. Khi
đó, vòng hòa âm này sẽ có tính xuyên suốt trong cả tác phẩm, có thể trong cả
các phần phụ nhƣ các đoạn dạo và phần nối. Trong tác phẩm Bên vƣờn khuya
của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.191], phần hòa âm chỉ sử dụng ba công năng t,
DD7 và D7 đƣợc lặp đi lặp lại trong các đoạn nhạc. Những vòng công năng t -
DD7 - D7, hay t - D7 đƣợc sử dụng trong suốt tác phẩm cho cả những nét giai
điệu khác nhau. Mặc dù các vòng công năng đƣợc lặp lại nhƣng sự biến đổi
của âm hình đệm cùng với sự xuất hiện hệ thống biến âm phong phú đã tạo ra
những giai đoạn phát triển rõ ràng và vẫn mang lại cho tác phẩm các chất liệu
âm nhạc đa dạng. Tuy nhiên thủ pháp này không thực sự phổ biến trong các
CKNTVN, do giai điệu trong thể loại này phụ thuộc chặt chẽ vào lời thơ, tính
chất thanh điệu trong ca từ chi phối việc tiến hành giai điệu, do đó không phải
lúc nào giai điệu cũng đáp ứng yêu cầu về một vòng hòa âm cho trƣớc.
Một thủ pháp khác đƣợc sử dụng để phát triển chất liệu âm nhạc trong
các tác phẩm CKNTVN là thủ pháp xé lẻ chất liệu. Chất liệu của đoạn nhạc
trƣớc có thể không đƣợc sử dụng lại toàn bộ mà chỉ khai thác một phần để
phát triển trong đoạn sau. Tuy nhiên, thủ pháp này không xuất hiện phổ biến
nhƣ thủ pháp mô phỏng. Có thể minh họa cho thủ pháp xé lẻ chất liệu trong
tác phẩm Giấc mơ quê của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.11] với facture piano của
đoạn nhạc trƣớc đƣợc khai thác với thủ pháp phóng to, thu nhỏ trong đoạn
nhạc sau cùng việc sử dụng lại một motiv trong giai điệu; trong tác phẩm Hỏi
em [PL4; tr.26] khi motiv tiết tấu trong giai điệu ở đoạn thứ nhất (nhịp 5, 9)
đƣợc khai thác sử dụng nhiều trong giai điệu của đoạn thứ hai…
Ngoài ra còn có một dạng thức nữa là thủ pháp khai thác âm điệu trong
86
giai điệu, ở đó, những tính chất trong âm điệu nhƣ các quãng đặc trƣng, màu sắc
của điệu thức đƣợc tiếp tục xuất hiện và phát triển tạo nên sự thống nhất về chất
Khai thác chất liệu tiết tấu (Phổ biến) Sử dụng lại những facture piano đặc trƣng của đoạn nhạc trƣớc (Phổ biến)
liệu cho hai đoạn nhạc. Tuy nhiên, thủ pháp này ít phổ biến trong thể loại CKNTVN.
Các thủ pháp xây dựng các đoạn nhạc dạng phát triển
Khai thác các vòng hòa âm trong đoạn nhạc trƣớc (Ít phổ biến)
Xé lẻ chất liệu (Ít phổ biến)
Khai thác âm điệu trong giai điệu (Ít phổ biến)
Sơ đồ 9: Các thủ pháp xây dựng đoạn nhạc dạng phát triển
Qua phân tích có thể thấy cách thức hình thành ngôn ngữ âm nhạc cho
một đoạn nhạc dựa trên sự khai thác, phát triển từ chất liệu của đoạn nhạc trƣớc
thƣờng là sự chọn lọc những chất liệu tiêu biểu, đặc trƣng, sau đó phát triển,
mở rộng, đồng thời kết hợp với những chất liệu âm nhạc mới để tạo nên các
đoạn nhạc có mối tƣơng quan phát triển trong tác phẩm.
2.2.2.2. Dạng cấu trúc tƣơng phản
Những đoạn nhạc tƣơng phản thƣờng đem đến tính chất âm nhạc đối
lập và đa dạng về cảm xúc cho tác phẩm, chính vì vậy mặc dù đƣợc coi là một
thể loại âm nhạc trữ tình nhƣng số lƣợng các CKNTVN ở dạng cấu trúc các
đoạn nhạc tƣơng phản cũng không ít. Tuy nhiên với thể loại này, tính tƣơng
phản giữa các đoạn nhạc thƣờng là sự thể hiện các cung bậc khác nhau của
cảm xúc, chứ không phải là sự đối kháng, xung đột về ngôn ngữ âm nhạc.
Chính vì vậy, tính trữ tình vẫn là tính chất chủ đạo trong thể loại CKNTVN.
Các thủ pháp tạo nên tính tƣơng phản giữa các đoạn nhạc đƣợc chia
thành hai nhóm chính, nhóm thủ pháp sử dụng cho giai điệu và nhóm thủ
pháp sử dụng cho phần đệm. Với giai điệu, thủ pháp phổ biến nhất là tƣơng
phản về âm điệu, những khía cạnh quan trọng có thể kể đến là cách tiến hành
quãng và âm khu của giai điệu. Trong tác phẩm Trăng chiều của Đặng Hữu
87
Phúc [PL4; tr.116], sự tƣơng phản trong âm điệu đƣợc tạo nên bằng việc thay
đổi hƣớng và độ lớn quãng, kết hợp với sự biến đổi âm hình đệm ngày càng
phức tạp hơn tạo sự khác biệt lớn trong hiệu quả âm nhạc giữa hai đoạn. Cách tiến
hành quãng liền bậc đi xuống chuyển sang nhảy quãng đi lên nhƣ ở ví dụ này còn
đem đến sự thay đổi âm vực, âm khu của giai điệu, tạo nên bƣớc phát triển mới.
Một thủ pháp quan trọng và phổ biến khác là tƣơng phản về tiết tấu. Đó
là sự biến đổi những âm hình với trƣờng độ ngắn thành dài hoặc ngƣợc lại,
thay đổi nhịp điệu, tiết luật của giai điệu, tạo nên hiệu quả tƣơng phản về tính
chất âm nhạc. Nhƣ ở tác phẩm Lẻ loi của Hoàng Cƣơng [PL4; tr.657], sự
tƣơng phản giữa các đoạn nhạc đƣợc biểu hiện đồng thời qua sự phát triển của
giai điệu kết hợp với sự đối lập của tiết tấu và tính chất của các facture phần
đệm. Còn với tác phẩm Gió lộng bốn phƣơng của Trần Mạnh Hùng, các đoạn
nhạc có hiệu quả tƣơng phản rõ nét bởi sự kết hợp của các yếu tố âm điệu, tiết
tấu, facture phần đệm, âm khu và âm vực.
VD 2.26: Trần Mạnh Hùng, Gió lộng bốn phƣơng, nhịp 3-6
Đoạn a:
Đoạn b tƣơng phản
88
Hai đoạn nhạc đƣợc xây dựng trên hai ngôn ngữ âm nhạc có nhiều yếu
tố tƣơng phản, từ giai điệu cho tới phần đệm, vì vậy khi đƣợc đặt nối tiếp sẽ
tạo hiệu quả khác biệt rõ rệt về hình tƣợng nghệ thuật. Sự tƣơng phản về giai
điệu đƣợc thể hiện qua âm điệu và tiết tấu, qua đó sự đối lập về tính chất âm
nhạc của hai đoạn có thể diễn ra với nhiều mức độ, cách thức khác nhau. Sự
tƣơng phản ở giai điệu đƣợc thể hiện ở việc tiến hành bè chiều ngang, trong khi
đó phần đệm thể hiện cả ở những quãng theo chiều dọc. Thực tế, các đoạn nhạc
tƣơng phản thƣờng đƣợc tạo nên bởi sự kết hợp cả giai điệu và phần đệm.
Trong phần đệm, facture piano là một trong những yếu tố phổ biến
nhất để tạo nên sự khác biệt và tƣơng phản giữa các đoạn nhạc, nhƣ trong ví
dụ sau trích từ tác phẩm Du thuyền trên Hồ Tây của Đặng Hữu Phúc.
VD 2.27: Đặng Hữu Phúc, Du thuyền trên Hồ Tây, nhịp 6-8, 25-27
Đoạn a
Đoạn b
Trong ví dụ này, có thể thấy sự tƣơng phản âm điệu trong phần đệm của
hai đoạn nhạc đƣợc tạo nên bởi bƣớc dịch chuyển của các cao độ. Nếu ở đoạn
một là những giai điệu chuyển động có tính chất mỏng, mềm mại thì đến đoạn
89
sau là những hợp âm thêu kết hợp với sắc thái staccato, cùng việc đẩy nhanh
tốc độ làm cho tính chất phần đệm trở nên sinh động và linh hoạt hơn.
Trong tác phẩm Đôi mắt tiếng lòng của Trần Thanh Hà [PL4; tr552],
mỗi đoạn nhạc tƣơng ứng với một âm hình đệm khác nhau, những âm hình
đệm có tính chất tƣơng phản về tiết tấu, tính nhịp điệu và cả về cách thức tiến
hành quãng, từ đó tạo nên những hiệu quả khác nhau phù hợp với nội dung
của từng đoạn. Trong tác phẩm này, ta thấy có những đoạn nhạc mà phần đệm
là những hợp âm cột dọc với tiết tấu thong thả làm rõ tính chất tự sự, tĩnh
lặng, trong khi ở đoạn nhạc tiếp theo lại là các âm hình tiết tấu móc kép âm
hình hóa hòa âm tạo tính chất dàn trải, mềm mại, uyển chuyển, đẩy cao trào
cảm xúc âm nhạc của tác phẩm lên một mức độ cao hơn.
Trong quá trình tạo tính tƣơng phản giữa các phần đệm, sự biến đổi âm
hình đệm thƣờng kết hợp với sự mở rộng về âm vực hoặc thay đổi về âm khu
để tạo sự biến đổi sắc thái cho âm nhạc. Sự tƣơng phản về tiết tấu và các dạng
âm hình hóa hợp âm sẽ ngay lập tức tạo một tính chất mới, và trong đa số các
trƣờng hợp sẽ là sự thể hiện hình tƣợng nghệ thuật ở một khía cạnh mới. Có
thể tham khảo việc tạo nên tính chất tƣơng phản giữa các đoạn nhạc bằng đặc
điểm của phần đệm qua ở tác phẩm Ngôi sao nhớ ai [PL4; tr.580], Lẻ loi
[PL4; tr.657], Dòng sông lời ru [PL4; tr.574], Còn gì cho quê hƣơng [PL4;
tr.580] của Hoàng Cƣơng; Cơn giông [PL4; tr.81], Tiếng chuông giao thừa
[PL4; tr.73], Mùa hè chia tay [PL4; tr.84] của Đặng Hữu Phúc…
Một thủ pháp phổ biến để tạo nên tính tƣơng phản giữa các đoạn nhạc
đó là sử dụng sự tƣơng phản giữa các vòng hòa âm. Sự tƣơng phản có thể
đƣợc tạo ra bởi sự thay đổi về điệu tính, giữa các vòng hòa âm có chứa các
công năng chính trong điệu thức với các vòng hòa âm gồm nhiều công năng
phụ, giữa các cấu trúc hợp âm thuận với hợp âm nghịch, giữa những chuỗi
hợp âm thuộc hệ thống diatonic so với hệ thống chromatic, giữa việc nối tiếp
hợp âm thuộc hệ thống diatonic với việc chuyển điệu, ly điệu liên tục, giữa
90
những hợp âm chỉ gồm các âm thuộc hợp âm với những hợp âm chứa biến âm
hoặc nốt ngoài hợp âm. Một ví dụ minh họa cho điều này có thể thấy trong tác
phẩm Mùa thi năm ấy của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.88], nếu nhƣ ở đoạn a,
hòa âm chủ yếu sử dụng các công năng ba chính của điệu tính, tạo sự ổn định,
rõ ràng cho hòa âm, thì ở đoạn b [PL4; tr.89], hòa âm lại trở thành một động
lực phát triển cho âm nhạc khi liên tiếp nối tiếp các vòng hòa âm quãng 4 với
nhiều hợp âm 7 ly điệu liên tiếp. Sự liên tục dịch chuyển hòa âm qua những
điệu tính tạm thời đem đến cho âm nhạc nhiều màu sắc phong phú, đƣa tác
phẩm sang một giai đoạn phát triển mới, giàu màu sắc hơn.
Trong nhiều trƣờng hợp khác, sự tƣơng phản hòa âm giữa các đoạn lại
đƣợc tạo nên bởi sự tƣơng phản về điệu tính khi mỗi phần/đoạn nhạc tƣơng
ứng với một điệu tính có tính chất tƣơng phản với nhau. Những tác phẩm có
các đoạn nhạc tƣơng phản về hòa âm có thể minh họa cho đặc điểm này là
Hƣớng về Hà Nội của Hoàng Dƣơng (đoạn nhạc sau ly điệu nhiều hơn), Mùa
nắng quê hƣơng của Vĩnh Lai (đoạn nhạc sau đƣợc mở đầu bằng hợp âm
không thuộc hệ thống diatonic), Mùa thu ƣớc mong của Đặng Hữu Phúc
(đoạn thứ nhất ở điệu tính f-moll, đoạn sau ở F – dur), Ngôi sao nhớ ai của
Hoàng Cƣơng (đoạn thứ nhất ở điệu tính F-dur, đoạn sau hòa âm không ổn
định)… Nhƣ vậy, có nhiều cách thức tạo nên sự tƣơng phản về ngôn ngữ hòa
âm, làm cho sắc thái và tính biểu cảm của âm nhạc đƣợc biến đổi theo nhiều
mức độ khác nhau.
Một thủ pháp cũng đƣợc sử dụng phổ biến trong thể loại CKNTVN là
thủ pháp sử dụng các sắc thái khác nhau để tạo sự tƣơng phản giữa các đoạn
nhạc. Âm lƣợng to - nhỏ, cƣờng độ mạnh - nhẹ sẽ ngay lập tức tạo nên sự
khác biệt rõ rệt giữa các đoạn. Chính vì vậy, cách thức này đƣợc sử dụng nhƣ
một trong những phƣơng thức phổ biến và thƣờng đƣợc kết hợp với những
thủ pháp đã đƣợc đề cập ở trên để tạo nên một hiệu quả tƣơng phản rõ rệt hơn.
tƣơng phản về âm điệu
tƣơng phản về tiết tấu
Thủ pháp cho giai điệu
tƣơng phản về facture phần đệm
91
Các thủ pháp phổ biến để xây dựng các đoạn nhạc dạng tương phản
tƣơng phản về các vòng hòa âm
Thủ pháp cho phần đệm
sử dụng các sắc thái khác nhau
Sơ đồ 10: Các thủ pháp xây dựng đoạn nhạc tƣơng phản
Tính tƣơng phản giữa các đoạn nhạc thƣờng đƣợc tạo nên bởi sự kết
hợp một nhóm các thủ pháp. Mức độ tƣơng phản trong mỗi thủ pháp cùng số
lƣợng các thủ pháp đƣợc vận dụng sẽ quyết định tính tƣơng phản giữa hai
đoạn nhạc. Ngƣời sáng tác cần lựa chọn các thủ pháp cũng nhƣ mức độ sử
dụng hợp lý để tạo nên sự tƣơng phản phù hợp với ý đồ nghệ thuật của mình.
92
Tiểu kết chƣơng 2
Qua phân tích 136 tác phẩm CKNTVN, NCS đã làm rõ đặc điểm của ca
từ và cấu trúc trong thể loại này. Việc nghiên cứu ca từ dƣới góc độ âm nhạc
học bao gồm ba nội dung. Thứ nhất, chức năng xây dựng hình tƣợng của ca từ
đƣợc cụ thể hóa qua việc phân tích nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Những ngôn
từ có tính chất trau chuốt hay giản dị đều đạt đƣợc giá trị thẩm mỹ, phù hợp
truyền thống văn hóa, hỗ trợ hiệu quả cùng giai điệu trong việc xây dựng hình
tƣợng. Thứ hai, NCS đã đƣa ra nhận định về sự phù hợp trong mối tƣơng
quan giữa hình thức ca từ và cấu trúc âm nhạc. Sự không cân đối của các cơ
cấu âm nhạc bị ca từ chi phối đáng kể, do ở thể loại CKNTVN, lời ca ảnh
hƣởng không nhỏ từ văn thơ hiện đại, cấu trúc tự do đƣợc sử dụng khá phổ
biến. Tuy nhiên, cấu trúc âm nhạc vẫn có tính độc lập nhất định trƣớc lời ca
để thực hiện ý đồ của tác giả. Thứ ba, kết quả nghiên cứu khẳng định mối
tƣơng quan chặt chẽ giữa thanh điệu trong ca từ và cao độ trong giai điệu, làm
rõ các cấp độ tƣơng thích và cách thức đƣợc các nhạc sĩ sử dụng để khắc phục
sự không tƣơng thích giữa hai yếu tố này, từ đó chỉ ra đặc điểm riêng của thể
loại này trong mối quan hệ với ngôn ngữ tiếng Việt.
Về phƣơng thức xây dựng cấu trúc trong các CKNTVN, NCS đã phân
tích những cách thức phổ biến để phát triển cơ cấu từ nhỏ đến lớn trong các
tác phẩm; hệ thống về hình thức âm nhạc, bên cạnh những hình thức một, hai,
ba đoạn đơn còn phổ biến hình thức liên đoạn, ba đoạn nhạc không tái hiện.
NCS đồng thời chỉ ra những điểm đáng chú ý khi vận dụng các loại hình thức
này nhƣ việc linh hoạt nhắc lại các đoạn nhạc, sử dụng các phần phụ. Bên
cạnh đó, những thủ pháp tạo nên mối quan hệ phát triển hay tƣơng phản giữa
các đoạn nhạc cũng đƣợc làm rõ trong sự kết hợp của nhiều yếu tố nhƣ âm
điệu giai điệu, âm khu âm vực, facture phần đệm, hòa âm…
Những đặc điểm trong việc sử dụng ca từ và phƣơng thức xây dựng cấu
trúc tác phẩm đã góp phần làm rõ ngôn ngữ sáng tác, thể hiện tính học thuật
và sự phong phú trong việc sử dụng các thủ pháp ở thể loại CKNTVN.
93
CHƢƠNG 3: GIAI ĐIỆU VÀ PHẦN ĐỆM
Giai điệu và phần đệm là hai yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thể
hiện đặc điểm âm nhạc của thể loại CKNTVN. Kết quả nghiên cứu đƣợc dựa
trên việc phân tích các tác phẩm, tổng kết những đặc trƣng nổi bật, từ đó đƣa
ra các đặc điểm có tính khái quát.
3.1. Giai điệu
Giai điệu có chức năng quan trọng trong việc thể hiện hình tƣợng của
tác phẩm. Trong cuốn Phân tích tác phẩm của PGS. TS. Nguyễn Thị Nhung,
tác giả đề cập đến yếu tố giai điệu trong âm nhạc gồm có âm điệu với các
thành phần là quãng và hƣớng chuyển động quãng, lối tiến hành giai điệu, làn
sóng giai điệu, cao trào. Để làm rõ đặc điểm giai điệu ở thể loại CKNTVN,
NCS đi sâu vào các khía cạnh âm điệu, điệu thức, tiết tấu và các kỹ thuật
thanh nhạc, do đây là những yếu tố thể hiện đặc trƣng của thể loại này một
cách rõ nét.
3.1.1. Hình tượng trong giai điệu
CKNT là một thể loại thanh nhạc, chính vì vậy, những gì đặc trƣng và
cô đọng nhất của hình tƣợng nghệ thuật thƣờng đƣợc đặt vào yếu tố giai điệu.
Giai điệu quyết định sự hình thành, đặc điểm, tính chất của hình tƣợng nghệ
thuật. Mặc dù ở thể loại CKNT, giai điệu và phần đệm có vai trò độc lập nhất
định trong việc thể hiện hình tƣợng nghệ thuật, tuy nhiên, chức năng chủ chốt
và tầm quan trọng quyết định của giai điệu là rõ ràng và chủ đạo. Giai điệu
khắc hoạ hình tƣợng nghệ thuật bằng sự chuyển động của các tuyến cao độ,
sự nối tiếp của các quãng đặc trƣng và các âm hình tiết tấu điển hình.
Với sự đa dạng trong ngôn ngữ của giai điệu, hình tƣợng trong các
CKNTVN rất phong phú về đặc điểm và cách thức biểu hiện, trong đó phổ
biến nhất là những hình tƣợng về tình yêu, bao gồm tình yêu quê hƣơng đất
nƣớc, tình yêu gia đình, và tình yêu lứa đôi. Những hình tƣợng này thƣờng
đƣợc thể hiện với giai điệu mềm mại, uyển chuyển, kết hợp với tiết tấu đồng
94
độ, vừa phải, tính chất trữ tình, có thể thấy điều này qua tác phẩm Ru con mùa
đông của Đặng Hữu Phúc.
VD 3.01: Đặng Hữu Phúc, Ru con mùa đông, nhịp 6-13
Ở ví dụ trên, những nét giai điệu liền bậc kết hợp với tiết tấu đơn giản,
chậm rãi tạo cảm giác nhẹ nhàng, dàn trải, thể hiện một tình cảm êm đềm…
Hình tƣợng lời ru của ngƣời mẹ thể hiện tình yêu thƣơng gia đình, đây là hình
tƣợng quen thuộc, mang giá trị truyền thống dân tộc. Đây là một trong nét đặc
trƣng, tạo nên tính trữ tình cho thể loại này. Những hình tƣợng thể hiện tình
thƣơng yêu giữa con ngƣời với nhau hoặc với thiên nhiên, quê hƣơng đất
nƣớc với tính chất nhẹ nhàng, êm đềm rất phổ biến trong các CKNTVN nhƣ
Tình em của Huy Du, Em là mùa xuân của Vĩnh Cát; Tiếng hát anh tìm em,
Hƣớng về Hà Nội của Hoàng Dƣơng; Bài ca tình yêu của Doãn Nho;
Romanse của Nguyễn Thiếu Hoa, Ru con của Trần Mạnh Hùng; Ru con, Tình
em mãi còn xanh của Trần Thanh Hà; Tháng giêng mùa xuân còn sót lại của
Hoàng Cƣơng ...
Cũng thuộc tính chất trữ tình, nhƣng có những hình tƣợng lại mang cảm
xúc mạnh mẽ và cao trào hơn. Đó là những hình tƣợng đƣợc thể hiện với tính
chất da diết, tha thiết ấn tƣợng. Có thể minh họa cho điều này qua trích đoạn
trong tác phẩm Giấc mơ mùa lá của Trần Mạnh Hùng.
VD 3.02: Trần Mạnh Hùng, Giấc mơ mùa lá, nhịp 24-27
95
Để tạo nên hình tƣợng âm nhạc trữ tình với tính chất dạt dào, giai điệu
thƣờng phát triển thành những giai đoạn khác nhau, tạo nên nhiều cung bậc
sắc thái, sự tƣơng phản hoặc kịch tính để thể hiện cảm xúc dâng trào. Giai
điệu có thể sử dụng các bƣớc nhảy quãng xa, đẩy âm khu lên cao, mở rộng âm
vực, tạo những nét nhạc dài làm tính trữ tình của âm nhạc đƣợc đẩy lên một
mức độ thể hiện cao trào hơn. Điều này còn có thể đƣợc minh họa qua các
CKNTVN khác nhƣ Hoa Mộc miên của Huy Du; Trăng chiều của Đặng Hữu
Phúc; Em – mùa xuân của Xuân Thủy, Ơi Mẹ làng Sen của Trần Mạnh Hùng;
Đôi mắt tiếng lòng của Trần Thanh Hà, Lẻ loi của Hoàng Cƣơng,…
Có thể nói hai cách thức đƣợc phân tích ở trên đã xây dựng những hình
tƣợng âm nhạc phổ biến nhất trong các CKNTVN, tạo nên các sắc độ khác
nhau trong tính trữ tình của thể loại.
Bên cạnh những hình tƣợng mang tính chất trữ tình, trong các
CKNTVN còn phổ biến những hình tƣợng âm nhạc mang tính triết lý hoặc
giãi bày, tự sự. Những hình tƣợng ấy có thể đƣợc tạo nên bởi những giai điệu
có tính chất hát nói, hoặc không có chu kỳ rõ ràng, lên xuống theo cảm
xúc…phù hợp mô phỏng suy nghĩ của con ngƣời. Điều này có thể thấy trong
các tác phẩm Sau khi biết em, Em nhƣ bài thơ không chép đƣợc, Kỷ niệm
không em kỷ niệm không hồn, Trên những tháng ngày của Đặng Hữu Phúc;
Ru lại tình đầu, Thông điệp mùa thu của Hoàng Dƣơng, Ao thu của Hoàng
Cƣơng… Ngoài ra, còn có những hình tƣợng mang tính anh hùng, ở đó những
giai điệu đƣợc biểu hiện với tính chất mạnh mẽ, hào hùng, quyết tâm và tự
hào. Đây thƣờng là những tác phẩm chứa đựng hình tƣợng về tình yêu đất
nƣớc lồng ghép với tình yêu lứa đôi, xây dựng hình ảnh con ngƣời Việt Nam
với những giá trị truyền thống, mang tính lịch sử của một giai đoạn hào hùng.
Điều này đƣợc minh họa qua các tác phẩm Tình quê hƣơng của Huy Du, Ngôi
sao nhớ ai của Hoàng Cƣơng; Hà Nội thủ đô ta đó, Sapa thành phố trong
sƣơng của Vĩnh Cát, Gió lộng bốn phƣơng của Trần Mạnh Hùng…
Một đặc trƣng nữa trong CKNTVN, đó là các hình tƣợng mang tính dân
tộc. Điều này đƣợc tạo nên bởi những giai điệu mang âm hƣởng dân gian,
96
biểu hiện tính vùng miền. Âm hƣởng dân gian có thể đƣợc tạo nên bởi các
thang âm, các tiết tấu và các ngữ điệu đặc trƣng cho từng khu vực. Với chất
liệu từ các điệu thức ngũ cung, âm hình tiết tấu, facture piano tạo nên âm
hƣởng dân gian với nhiều cách thức linh hoạt. Những cách thức này sẽ đƣợc
phân tích cụ thể trong các mục Âm điệu (tr.96), Tiết tấu (tr.110) và facture
phần đệm (tr.134). Hình tƣợng mang tính dân tộc thƣờng tƣợng trƣng cho
hình ảnh về con ngƣời, thiên nhiên, cảnh sinh hoạt, những đồ vật đặc
trƣng…mang màu sắc địa phƣơng. Một số tác phẩm minh họa cho điều này là
Nhớ mẹ ta xƣa, Chiều quan họ của Hoàng Cƣơng; Hát nữa đi em, Hàng dừa
xanh, Miền Nam của ta muôn đời vẫn cất tiếng ca, Bế Văn Đàn sống mãi, Có
chúng tôi trên hải đảo xa xôi của Huy Du; Miền thƣơng, Mùa nắng quê
hƣơng, Chiếc khăn quê hƣơng của Vĩnh Lai; Hát ru của Trần Thanh Hà;
Khúc hát Trƣơng Chi, Hoa lục bình, Giấc mơ quê, Tình ta nhƣ đỉnh núi, Bóng
trăng, Lời ru cao nguyên của Đặng Hữu Phúc …
So với các yếu tố khác, giai điệu luôn giữ vị trí chủ đạo trong việc tạo
nên tính đặc trƣng cho hình tƣợng của tác phẩm. Giai điệu đƣợc thể hiện bằng
giọng ngƣời, vốn có âm sắc tạo sự gần gũi và biểu cảm đặc biệt. Thêm vào
đó, giai điệu là một thể gắn kết không rời với ca từ - yếu tố có thể truyền tải
nội dung một cách cụ thể và trực tiếp tới ngƣời nghe, từ đó giúp cho giai điệu
biểu hiện đƣợc những nét tiêu biểu, đại diện, khái quát của hình tƣợng nghệ
thuật trong tác phẩm. Và để thực hiện đƣợc điều này, giai điệu cần có những
đặc điểm phù hợp sẽ đƣợc phân tích trong những phần tiếp sau đây.
3.1.2. Âm điệu
3.1.2.1. Cách tiến hành quãng
Yếu tố quãng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định âm điệu
của một tác phẩm. Việc tiến hành quãng bao gồm độ lớn và hƣớng chuyển
động quãng tạo nên những làn sóng giai điệu, góp phần ảnh hƣởng đến tính
chất, hiệu quả của tác phẩm. Cách thức tiến hành quãng trong các CKNTVN
rất phong phú, bao gồm đầy đủ các dạng tiến hành giai điệu nhƣ đi liền bậc
97
bình ổn, nhảy quãng xa, giai điệu đi theo hƣớng lên xuống theo hình lƣợn
sóng hoặc gấp khúc liên tục… Các tác giả thƣờng kết hợp các phƣơng thức
trên, vận dụng linh hoạt tính khí nhạc và tính ca xƣớng để mang lại những
hiệu quả phong phú, thể hiện tính nghệ thuật của thể loại.
Mỗi tác giả có một đặc trƣng trong cách thức triển khai giai điệu. Ở
những CKNT của Hoàng Cƣơng, ta thấy những giai điệu nhảy quãng lên
xuống liên tục giữa các từ trong lời ca, trong khi những nét thêu lƣớt mềm
mại lại thƣờng áp dụng cho việc luyến láy qua nhiều cao độ trong một từ. Giai
điệu trong âm nhạc Vĩnh Cát, Lê Hồng Lĩnh cũng có sự chuyển động lên
xuống rõ ràng với những bƣớc nhảy đƣợc sử dụng thƣờng xuyên. Các CKNT
của Doãn Nho cũng sử dụng phổ biến các bƣớc nhảy quãng ở dạng gấp khúc.
Trần Thanh Hà và Trần Đinh Lăng thƣờng sử dụng những làn sóng giai điệu
lên xuống mềm mại. Trần Đinh Lăng và Trần Thế Bảo ƣa dùng những làn
sóng giai điệu dài. Giai điệu trong CKNT của Đào Trọng Minh có tính chất
chuyển động bình ổn. Còn với Hoàng Dƣơng, âm điệu tƣơng ứng theo thanh
âm ca từ tạo nên hiệu quả của hát nói. Bên cạnh đó, Trần Mạnh Hùng lại ƣa
sử dụng những làn sóng giai điệu lên xuống mềm mại hơn nhƣ dạng hình
lƣợn sóng ở phần đầu các tác phẩm, có thể kèm theo những bƣớc đi lên liên
tiếp theo trục hợp âm, nhƣng lại hay sử dụng những cao độ nhảy quãng xa
theo chuyển động gấp khúc mở rộng âm vực, tạo sự tƣơng phản, kịch tính
trong giai đoạn cao trào. Trong nhiều CKNTVN, ta thấy phổ biến việc tiến
hành quãng phức tạp, thể hiện tính hàn lâm và học thuật trong tƣ duy sáng tác.
Có thể minh họa điều này qua tác phẩm Khúc giao mùa của Trần Mạnh Hùng.
VD 3.03: Trần Mạnh Hùng, Khúc giao mùa, nhịp 30-34
98
Trong trích đoạn này có thể thấy những quãng chuyển động liên tục có
kèm theo biến âm thể hiện tính chất hối hả, xáo động của tính chất hình tƣợng
âm nhạc thời điểm Giao mùa, đồng thời chứa đựng sự phức tạp trong tƣ duy
tiến hành giai điệu, kỹ thuật thành thục không chỉ trong khâu sáng tác mà còn
trong những yêu cầu đặt ra cho ngƣời biểu diễn. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy,
giai điệu bè thanh nhạc thể hiện tính khí nhạc rõ rệt, góp phần tạo nên tính
nghệ thuật cho tác phẩm. Một số CKNTVN khác minh họa cho điều này nhƣ
Ru con của Trần Mạnh Hùng [PL4; tr.485], Cây bàng cuối thu của Hoàng
Cƣơng [PL4; tr.597], Ngày mai trời chớm lạnh của Đặng Hữu Phúc [PL4;
tr.113], Mƣa của Đặng Tuệ Nguyên [PL4; tr.498]…
Những giai điệu đẹp đậm tính ca xƣớng hay những phần đệm có kỹ
thuật phức tạp, thể hiện thế mạnh của khí nhạc là điều tất nhiên, tuy nhiên
trong các CKNTVN, bên cạnh những giai điệu có tính khí nhạc thì những
phần đệm đậm chất ca xƣớng cũng rất phổ biến.
VD 3.04: Huy Du, Hoa mộc miên, nhịp 5-6
Trong trích đoạn trên, có thể thấy rõ tính ca xƣớng trong các tuyến bè
của phần đệm. Những phần đệm có tính thanh nhạc có thể trở thành một yếu
tố hỗ trợ hiệu quả cho giai điệu trong việc thể hiện hình tƣợng, nội dung tác
99
phẩm, giúp cho âm nhạc mềm mại hơn, đôi khi có thể mang tính phức điệu,
nhiều tầng. Những phần đệm mang tính ca xƣớng xuất hiện trong nhiều tác
phẩm CKNTVN, ví dụ nhƣ Ru con mùa đông [PL4; tr.141], Trên những
tháng ngày [PL4; tr.203], Tôi vẫn hát [PL4; tr.228] của Đặng Hữu Phúc; Bốn
mùa yêu thƣơng của Trần Mạnh Hùng [PL4; tr.454], Em và mùa xuân của
Vĩnh Cát [PL4; tr.353], Dây đàn thần diệu của Huy Du [PL4; tr.298]…
Những âm điệu mang tính khí nhạc trong giai điệu và tính ca xƣớng
trong phần đệm là một đặc điểm quan trọng, thể hiện tính linh hoạt, học thuật
trong ngôn ngữ sáng tác ở thể loại CKNTVN.
Bên cạnh đó, nhiều tác phẩm còn sử dụng âm hƣởng dân gian tạo nên
những âm điệu giàu tính dân tộc. Điều này đƣợc thấy rõ và phổ biến trong các
tác phẩm của Đặng Hữu Phúc, Hoàng Cƣơng, Vĩnh Lai. Đặng Hữu Phúc có
một chùm ca khúc mang âm hƣởng dân gian Việt Nam rõ nét, chủ yếu là âm
hƣởng các thể loại dân gian miền Bắc nhƣ Quan họ và Chèo, âm hƣởng dân
gian biểu hiện bằng màu sắc của các loại điệu thức ngũ cung cùng với cách
tiến hành giai điệu có nhiều luyến láy, mang âm hƣởng các làn điệu đặc trƣng
trong các loại hình âm nhạc dân gian. Có thể minh họa với tác phẩm Hát ru
của Trần Thanh Hà với ngũ cung F G B C D [PL4; tr.549], Ngủ ngoan ngủ
ngoan của Trần Đinh Lăng sử dụng âm hƣởng điệu thức ngũ cung E G A H D
để tạo nên màu sắc của âm nhạc dân gian [PL4; tr.557]. Trong khi đó, tác
phẩm Tình ta nhƣ đỉnh núi của Đặng Hữu Phúc lại thể hiện sự ảnh hƣởng từ
âm nhạc dân gian của miền núi phía Bắc với ngũ cung G B C D F.
VD 3.05: Đặng Hữu Phúc, Tình ta nhƣ đỉnh núi, nhịp 1-4
100
Có thể thấy việc sử dụng các nốt hoa mỹ và cách thức tiến hành quãng
theo các bƣớc nhảy liên tục ở dạng gấp khúc kết hợp với điệu thức tạo nên
màu sắc âm nhạc của vùng miền núi cao phía Bắc Việt Nam. Bên cạnh đó, âm
hƣởng dân ca Tây Nguyên còn đƣợc thể hiện rõ nét thông qua âm hƣởng điệu
thức ngũ cung đặc trƣng trong tác phẩm Lời ru cao nguyên của Đặng Hữu
Phúc. Một giai điệu dựa trên điệu thức ngũ cung sẽ tạo nên âm hƣởng dân
gian cho tác phẩm mang đặc trƣng của từng vùng miền, thể hiện sự kết hợp
tính dân tộc với các thủ pháp sáng tác tiếp thu từ âm nhạc phƣơng Tây. Vấn đề
sử dụng các điệu thức ngũ cung sẽ đƣợc phân tích chi tiết trong mục Điệu thức.
Trong khía cạnh âm điệu, chúng ta không thể không nhắc tới các quãng
đặc biệt do sự xuất hiện của biến âm. Các biến âm làm thay đổi độ lớn của
quãng, làm dịch chuyển sức hút của các bậc, của điệu tính, có thể tăng cƣờng
hoặc giảm bớt tính ổn định của chủ âm và hợp âm chủ trong điệu tính. Biến
âm cũng đóng vai trò góp phần tạo nên âm hƣởng dân gian trong các
CKNTVN. Với một số nhạc sĩ nhƣ Vĩnh Lai, Đặng Hữu Phúc, âm điệu của âm nhạc dân gian miền Nam đƣợc thể hiện bằng bậc VI tăng (#VI) trong các
giọng thứ. Đây là một cách thức phổ biến đƣợc các nhạc sĩ sử dụng khi muốn
tạo nên âm hƣởng của điệu thức Oán trong âm nhạc dân gian Nam Bộ. Có thể
thấy điều này trong tác phẩm Chiếc khăn quê hƣơng của Vĩnh Lai.
VD 3.06: Vĩnh Lai, Chiếc khăn quê hƣơng, nhịp 15-19
Tác phẩm này đƣợc viết ở giọng h-moll, nhƣng trong đó ta thấy âm Gis
đƣợc xuất hiện liên tục trong đoạn mở đầu và cả tiết nhạc đầu tiên trong, tạo
nên âm hƣởng của điệu Si-Oán (H D E Fis Gis) [PL4, tr.511], sau đó trong
101
phần nối hòa âm đƣợc luân chuyển sang giọng d-moll có âm H tạo nên âm hƣởng điệu Rê-Oán (D F G A H) [PL4; tr.512]. Việc xuất hiện bậc #VI trong
giọng thứ đƣợc Vĩnh Lai sử dụng trong nhiều CKNT khác của ông nhƣ Mùa
nắng quê hƣơng với nốt E trong giọng g-moll [PL4; tr.515], đoạn b của tác
phẩm Miền thƣơng, giai điệu đƣợc viết ở điệu La-Oán với thang âm A C D E
Fis [PL4; tr.520]. Trong tác phẩm Hoa lục bình của Đặng Hữu Phúc, biến âm
E bình trong giọng g-moll đã tạo nên âm hƣởng của điệu Son-Oán (G B C D
E), mang đến cho tác phẩm màu sắc của dân ca Nam Bộ rõ nét [PL4; tr.48].
Bên cạnh đó với tác phẩm Khúc hát Trƣơng Chi, mặc dù mang âm hƣởng của dân ca Bắc Bộ nhƣng Đặng Hữu Phúc lại sử dụng bậc #VI trong giọng e-moll
tạo nên màu sắc âm nhạc trung tính, làm giảm sức hút điệu thức trƣởng thứ
[PL4; tr.18]. Việc luân chuyển giữa các điệu thức mang âm hƣởng ngũ cung
với các điệu thức trƣởng thứ đã tạo nên màu sắc dân tộc trong âm nhạc Việt
Nam trong sự kế thừa bút pháp sáng tác từ âm nhạc phƣơng Tây.
Trong các tác phẩm CKNTVN còn phổ biến các biến âm bất thƣờng, xuất
hiện với tính chất tạo màu sắc hoặc làm thay đổi tính hút dẫn trong điệu thức,
cũng có khi sự xuất hiện của một vài biến âm cũng có thể tạo ra tính luân chuyển
điệu thức, nhƣ trong tác phẩm Mƣa của Đặng Tuệ Nguyên.
VD 3.07: Đặng Tuệ Nguyên, Mƣa, ô 56-61
102
Những biến âm bất thƣờng tạo nên các mảng màu sắc hòa âm thay đổi,
dịch chuyển, xóa nhòa sức hút của điệu tính gốc, làm cho âm nhạc có tính chất
không ổn định về điệu tính trong suốt cả tác phẩm [PL4; tr.498]. Tuy nhiên trong
các CKNTVN, dạng biến âm tạo tính chất vô điệu tính và đa điệu tính không
xuất hiện nhiều, chủ yếu là các biến âm tạo màu sắc hoặc sức hút tới các bậc
không ổn định nhƣng sau đó lại nhanh chóng quay về điệu thức chính.
Có thể thấy các biến âm đƣợc sử dụng một cách linh hoạt dƣới dạng các
nốt thêu, nốt hút dẫn, các âm chromatic… Những biến âm này đã tạo cho âm
nhạc những màu sắc mới cả trong tƣ duy giai điệu, cách thức tiến hành quãng ở
các bè cũng nhƣ góp phần tạo nên âm hƣởng dân gian cho các tác phẩm.
3.1.2.2. Âm khu, âm vực
CKNTVN có phần đệm piano là thể loại âm nhạc có tính chất thính
phòng và chất lƣợng nghệ thuật cao. Điều này đƣợc thể hiện rõ trong phần
thanh nhạc của các tác phẩm CKNTVN với những đặc điểm và yêu cầu đặc
biệt so với các ca khúc phổ thông. Có thể phân tích điều này qua hai khía
cạnh: âm khu - âm vực và kỹ thuật thanh nhạc trong các tác phẩm.
Âm vực có vai trò góp phần vào việc thể hiện tính chất, hiệu quả âm
nhạc trong tác phẩm. Âm vực hẹp hay rộng sẽ tạo nên tính tƣơng phản về hiệu
quả âm nhạc, sự khác biệt về cao độ sẽ có thể góp phần tạo nên những tính
chất âm nhạc khác nhau nhƣ bình ổn, linh hoạt, tĩnh tại, chuyển động, cao trào
trong các giai đoạn khác nhau. Những âm vực rộng yêu cầu ở ngƣời biểu diễn
một trình độ thanh nhạc nhất định, yêu cầu sự linh hoạt trong việc xử lý từng
cao độ và trong việc kết nối các cao độ khác nhau. Việc sử dụng âm vực rộng
giúp quá trình đẩy âm nhạc lên cao trào trở nên hiệu quả rõ rệt, tính chất âm
nhạc trong những đoạn này trở nên căng đầy và ở đó, ngƣời nghệ sĩ biểu diễn
có thể bộc lộ đƣợc kỹ thuật thanh nhạc, cảm xúc và cá tính âm nhạc của mình.
Qua thống kê âm vực của 136 CKNTVN, có thể thấy các CKNTVN có
âm vực của phần thanh nhạc ở quãng 12 trở lên chiếm số lƣợng lớn hơn nhiều
103
so với các tác phẩm ở âm vực hẹp. Sử dụng âm vực rộng cũng là một trong
những đặc điểm cần lƣu ý của thể loại CKNTVN
Bảng 3.1: Âm vực trong các ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Số lượng tác phẩm
Tỷ lệ
STT Độ lớn âm vực 1 Quãng 9 thứ 2 Quãng 9 trưởng 3 Quãng 10 thứ 4 Quãng 10 trưởng 5 Quãng 11 đúng 6 Quãng 12 giảm 7 Qquãng 12 đúng 8 Quãng 13 thứ 9 Quãng 13 trưởng
10 Quãng 14 thứ 11 Quãng 14 trưởng 12 Quãng 15 đúng
1 3 4 10 32 4 29 29 11 7 3 3
0.74% 2.21% 2.94% 7.35% 23.53% 2.94% 21.32% 21.32% 8.09% 5.15% 2.21% 2.21%
Trong các CKNTVN, bên cạnh việc sử dụng những âm vực rộng cho
các tác phẩm, các nhạc sĩ còn viết nhiều tác phẩm có nốt nhạc cao nhất ở
những vị trí mà phải có trình độ xử lý kỹ thuật thanh nhạc nhất định mới có
thể đạt đƣợc hiệu quả tốt. Qua thống kê nốt nhạc cao nhất trong các tác phẩm
CKNTVN đã cho thấy việc sử dụng âm khu dành cho các giọng nữ, đặc biệt
là nữ trung và nữ cao khá phổ biến trong thể loại này.
Bảng 3.2: Vị trí của nốt nhạc cao nhất trong CKNTVN
STT Vị trí nốt cao nhất
Số lượng tác phẩm
3 2 5 1
1 B 2 A 3 As 4 Gis 5 G 6 Fis 7 F
Tỷ lệ 2.21% 1.47% 3.68% 0.74% 26 19.12% 11 8.09% 25 18.38%
Trong 136 tác phẩm, có 3 tác phẩm có nốt nhạc cao nhất lên đến nốt b2, có 2 tác phẩm có nốt nhạc cao nhất là a2, 5 tác phẩm với nốt nhạc cao nhất là as2, 1 tác phẩm cao nhất là gis2, 26 tác phẩm với nốt cao nhất là g2. Nhƣ vậy có tổng cộng 37 tác phẩm có nốt nhạc cao nhất lên đến nốt g2 trở lên, chiếm
27.2%. Khi tác phẩm có nốt cao nhất ở cao độ này đòi hỏi ngƣời thể hiện phải
104
có một trình độ thanh nhạc nhất định, xử lý tốt những cao độ khó, đặc biệt với
thể loại mang tính chất trữ tình, lãng mạn nhƣ CKNT, thì những âm thanh cần
đảm bảo độ mềm mại, mƣợt mà và đạt đƣợc vẻ đẹp tinh tế. Với những cao độ nhƣ nốt a2 hay b2 để có thể thực hiện tốt thƣờng phải là giọng nữ cao, còn với nốt g2 có
thể sử dụng giọng nữ trung, và để thể hiện một cách hiệu quả tính chất âm nhạc
thính phòng thì không thể thiếu quá trình đào tạo, rèn luyện một cách bài bản.
Phần lớn các CKNTVN thƣờng sử dụng âm khu trung hoặc trầm cho
những đoạn nhạc đầu tiên, sau đó đến những đoạn phát triển, cao trào thì âm
khu đƣợc dịch chuyển lên trên, đẩy tính chất âm nhạc đến cao điểm, sau đó
âm khu thƣờng sẽ đƣợc dịch xuống thấp trong giai đoạn thoái trào tạo sự cân
bằng cho âm nhạc trong tác phẩm. Bên cạnh đó, sự kết hợp giữa sử dụng các
âm vực rộng với các nốt nhạc ở âm khu cao đặt ra một yêu cầu cao về trình độ
thanh nhạc cho các tác phẩm CKNTVN, từ đó có thể hiểu những nhạc sĩ sáng
tác thể loại này cũng cần kiểm soát tốt các vấn đề thanh nhạc, thể hiện tính
hàn lâm, học thuật của thể loại này, phân biệt với những dòng ca khúc phổ
thông, nơi có nhiều ca khúc không đòi hỏi cao về kỹ thuật sáng tác, biểu diễn.
3.1.3. Điệu thức
Là một thể loại ảnh hƣởng từ phong cách, kỹ thuật sáng tác của âm
nhạc phƣơng Tây, trong các tác phẩm CKNTVN, những điệu thức đƣợc sử
dụng phổ biến nhất vẫn là các điệu thức trƣởng thứ. Tuy nhiên mỗi tác giả lại
có cách thức vận dụng riêng vào tác phẩm của mình. Các tác phẩm của Đặng
Hữu Phúc, Huy Du phần nhiều đƣợc viết ở giọng thứ, đặc biệt với Hoàng
Dƣơng, tất cả CKNT của ông đều đƣợc viết ở giọng thứ. Tuy nhiên với những
tác giả khác nhƣ Doãn Nho và Trần Mạnh Hùng, các CKNT của họ lại hầu
hết đƣợc viết ở giọng trƣởng. Mặc dù tính chất trữ tình vẫn là tính chất bao
trùm trong các tác phẩm CKNTVN, nhƣng việc sử dụng chủ yếu các điệu
thức trƣởng hoặc điệu thức thứ sẽ làm cho tính chất CKNT của mỗi tác giả có
một màu sắc riêng. Những tác phẩm của Doãn Nho thƣờng trong sáng, còn
những tác phẩm của Hoàng Dƣơng thì thƣờng trầm buồn. Hoặc trong một số
105
tác phẩm, mỗi giai đoạn lại tƣơng ứng với một điệu thức, có thể thấy điều này
qua các tác phẩm Lời em dịu êm (C dur – As dur – C dur) [PL4; tr.173], Bên
vƣờn khuya (D dur – fis moll – D dur) [PL4; tr.191], Lời ru trống đồng (C dur
– c moll – C dur) [PL4; tr.233] của Đặng Hữu Phúc; Tình quê hƣơng của Huy
Du (g moll – G dur) [PL4; tr.263]; Màu tím chiến khu (C dur – Es dur) [PL4;
tr.430], Nụ của Doãn Nho (C dur – D dur) [PL4; tr.446]; Hát ru của Trần
Thanh Hà (B dur âm hƣởng ngũ cung – b moll) [PL4; tr.549]… Sự luân
chuyển những điệu thức trƣởng thứ tạo nên sự thay đổi màu sắc âm nhạc. Mỗi
điệu thức tƣơng ứng với một giai đoạn trong tác phẩm, nhƣ vậy, điệu thức đã
thể hiện vai trò tạo động lực để phát triển tác phẩm. Đây là một biểu hiện tiếp
thu kỹ thuật sáng tác từ âm nhạc phƣơng Tây của các nhạc sĩ Việt Nam, thể
hiện kỹ thuật sáng tác thành thục.
Điệu thức là một trong những yếu tố hiệu quả nhất để tạo nên tính dân
tộc. Ở thể loại CKNTVN, nói đến việc kế thừa chất liệu âm nhạc truyền thống
không thể không nhắc tới việc sử dụng các điệu thức ngũ cung. Hệ thống các
điệu thức ngũ cung trong âm nhạc truyền thống Việt Nam đa dạng phù hợp
với các thể loại âm nhạc ở từng vùng miền. Trong CKNTVN, ngoài điệu thức
trƣởng thứ, chúng ta còn thấy các điệu thức ngũ cung đƣợc xuất hiện khá phổ
biến, đặc biệt ở các tác phẩm mang âm hƣởng dân gian.
Các điệu thức ngũ cung xuất hiện trong CKNTVN với nhiều cách thức
khác nhau, có thể độc lập hoặc kết hợp các điệu thức khác để tạo nên sự đa
dạng trong màu sắc âm nhạc. Nhƣ trong tác phẩm Tình ta nhƣ đỉnh núi [PL4;
tr.15] của Đặng Hữu Phúc có thể thấy điệu Son vũ đƣợc sử dụng một cách
độc lập, xuyên suốt cả tác phẩm tạo nên sự thống nhất về màu sắc giữa bè giai
điệu và phần đệm. Thành phần gồm các âm G B C D F kết hợp với các âm hình
tiết tấu đặc trƣng đã tạo nên âm hƣởng rõ rệt của dân ca vùng núi phía Bắc.
Tuy nhiên trong 136 CKNTVN, có ít tác phẩm sử dụng một điệu thức ngũ
cung riêng biệt mà thƣờng kết hợp với các điệu thức khác, có thể ở dạng kết hợp
cùng một lúc hoặc dạng luân chuyển lần lƣợt, tạo nên âm hƣởng ngũ cung. Khi
106
điệu thức ngũ cung kết hợp với các bậc ngoài điệu thức sẽ mang đến âm
hƣởng dân gian bên cạnh màu sắc của âm nhạc phƣơng Tây. Nhiều tác phẩm
CKNTVN có thể minh họa cho điều này, nhƣ trong tác phẩm Giã biệt của
Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.43], có thể thấy giai điệu đƣợc biểu hiện bằng điệu
thức Trung Cổ Si-dorian với thang âm H Cis D E Fis Gis A, tuy nhiên trong
đó, cách thức tiến hành bè lại gợi âm hƣởng của sự luân chuyển giữa thang
ngũ cung Fis Gis H Cis E trong đoạn a và D E Fis A H trong đoạn b. Sự kết
hợp giữa điệu thức Trung Cổ với âm hƣởng ngũ cung vừa mang tới màu sắc
ấn tƣợng, vừa gợi lên âm hƣởng dân gian. Với một tác phẩm của Hoàng
Cƣơng, mặc dù có tiêu đề Chiều quan họ nhƣng âm nhạc lại đƣợc luân
chuyển giữa hai điệu La-Oán gồm các bậc A C D E Fis và Mi-Oán gồm các
bậc E G A H Cis [PL4; tr.666]. Sự kết hợp nhƣ trên đã mang lại âm hƣởng
của dân ca Nam Bộ trong một tác phẩm có đề tài liên quan đến vùng Bắc Bộ...
Việc kết hợp, luân chuyển các điệu thức ngũ cung còn đƣợc thể hiện trong các
CKNTVN mang âm hƣởng dân gian khi điệu thức ngũ cung đƣợc sử dụng
cùng các bậc ngoài điệu thức nhƣ một số tác phẩm của Đặng Hữu Phúc: Bóng
trăng với âm hƣởng ngũ cung F G A C D [PL4; tr.35], Bên cây trúc đào có
âm hƣởng ngũ cung D F G A C [PL4; tr.32]...
Sự kết hợp điệu thức ngũ cung với điệu thức trƣởng thứ là một biểu
hiện rõ ràng cho sự kết hợp âm nhạc truyền thống Việt Nam với âm nhạc
phƣơng Tây. Trong tác phẩm Hát ru của Trần Thanh Hà [PL4; tr.549], tác giả
sử dụng thang âm F G B C D nhƣng sang đoạn b lại luân chuyển sang giọng
b-moll, phần luân chuyển chỉ diễn ra trong 9 nhịp, sau đó lại quay về màu sắc
ngũ cung của âm nhạc truyền thống Việt Nam vì vậy âm hƣởng của giai điệu
không chỉ gợi lên tính chất âm nhạc truyền thống Việt Nam mà còn có màu
sắc của điệu thức thứ phƣơng Tây. Còn trong tác phẩm Bế Văn Đàn sống mãi
của Huy Du [PL4; tr.308], tác giả sử dụng điệu thức ngũ cung Son vũ G B C
D F cho giai điệu, nhƣng phần đệm lại dựa trên giọng g-moll hòa thanh, kết
hợp âm hƣởng dân gian với màu sắc âm nhạc phƣơng Tây… Sự vận dụng linh
107
hoạt các điệu thức trƣởng thứ với các điệu thức ngũ cung đã tạo nên phong
cách riêng với màu sắc phong phú. Trong các CKNT của Huy Du, tác giả sử
dụng phổ biến điệu thức ngũ cung cho giai điệu trong khi phần đệm vẫn áp
dụng điệu thức trƣởng thứ, tạo nên những tác phẩm mang âm hƣởng dân gian
nhƣ Khúc hát ban chiều (Đô chủy và F-dur) [PL4; tr.241], Hát nữa đi em (La
cung, La thƣơng và A-dur) [PL4; tr.249], Hàng dừa xanh (Đô chủy và d-
moll) [PL4; tr.271], Miền Nam của ta muôn đời vẫn cất tiếng ca (Son vũ và g-
moll hòa thanh) [PL4; tr.274], Bế Văn Đàn sống mãi (âm hƣởng Rê giốc và g-
moll) [PL4; tr.308], Có chúng tôi trên hải đảo xa xôi (Rê cung và D-dur)
[PL4; tr.344]… Điều này còn đƣợc thể hiện trong một số tác phẩm của Hoàng
Cƣơng nhƣ Nhớ mẹ ta xƣa với điệu thức g-moll mang âm hƣởng ngũ cung G
B C D F [PL4; tr.633], Chiều quan họ với ngũ cung La oán và Mi oán kết hợp
với các bậc trong giọng D-dur [PL4; tr.666]; Mùa nắng quê hƣơng của Vĩnh
Lai với giọng g-moll mang âm hƣởng ngũ cung G B C D E [PL4; tr.515]…
Với 136 CKNTVN, việc thống kê số lƣợng tác phẩm tƣơng ứng với các
loại điệu thức khác nhau đƣợc thể hiện trong bảng sau.
STT
Điệu thức
1 Trưởng 2 Thứ 3 Ngũ cung 4 Luân chuyển trưởng thứ 5 Kết hợp điệu thức trưởng thứ và ngũ cung 6 Kết hợp điệu thức trưởng thứ và Trung Cổ 7 Trung tính 8 Vô điệu tính
Bảng 3.3: Điệu thức trong các ca khúc nghệ thuật Việt Nam Tỷ lệ 29.41% 44.12% 4.41% 5.15% 13.97% 0.74% 1.47% 0.74%
Số lượng tác phẩm 40 60 6 7 19 1 2 1
Có thể thấy điệu thức thứ, trƣởng vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong hệ
thống điệu thức của thể loại CKNTVN, bên cạnh đó việc xuất hiện các điệu
thức ngũ cung, sự luân chuyển giữa các điệu thức trƣởng thứ với nhau và với
các điệu thức ngũ cung, hoặc việc xuất hiện các điệu thức ở dạng trung tính
không rõ ràng, hoặc vô điệu tính đã mang đến những màu sắc khác nhau, thể
hiện sự giao thoa giữa âm nhạc phƣơng Tây và âm nhạc truyền thống Việt
108
Nam với sự đa dạng trong ngôn ngữ và hiệu quả âm nhạc. Bên cạnh đó, các
điệu thức ngũ cung còn góp phần tạo nên mối tƣơng quan mật thiết giữa tính
chất của giai điệu với phần đệm. Việc tiến hành quãng trong khuôn khổ các
bậc ngũ cung đã giúp cho tính chất âm nhạc của giai điệu và phần đệm trở nên
gần gũi và hòa hợp với những màu sắc đặc trƣng, cho dù các âm có thể đƣợc
kết hợp với cấu trúc bất kỳ theo chiều dọc.
Bên cạnh những bậc thuộc điệu thức, một thành phần đƣợc sử dụng phổ
biến trong việc tạo nên màu sắc đa dạng cho âm nhạc, đó là hệ thống các biến
âm. Biến âm có thể làm thay đổi sức hút của chủ âm, của các công năng trong
điệu tính, cũng có khi tạo âm hƣởng đan xen, luân chuyển với một điệu tính
khác. Có những biến âm xuất hiện để tăng cƣờng sức hút vào một bậc nào đó,
nếu đó là bậc ổn định của điệu tính thì sự ổn định của điệu tính sẽ càng đƣợc
khẳng định. Tuy nhiên, có những biến âm khi xuất hiện sẽ tạo sức hút vào
những bậc không ổn định, làm giảm sức hút, tạo cảm giác không rõ ràng về
điệu tính, ngoài ra có thể trang trí, tăng màu sắc cho âm nhạc.
Trong các tác phẩm CKNTVN, có thể chia ra hai cách sử dụng biến âm.
Thứ nhất là các biến âm cố định trong tác phẩm, đây là các biến âm không
thuộc hệ thống diatonic của điệu tính chính nhƣng lại đƣợc sử dụng một cách
cố định ở cả phần đệm và giai điệu. Có thể minh họa cho điều này qua tác
phẩm Ngôi sao nhớ ai của Hoàng Cƣơng.
VD 3.08: Hoàng Cƣơng, Ngôi sao nhớ ai, nhịp 3-5
Trong đoạn nhạc đầu của tác phẩm, nốt Des và H đã xuất hiện một
cách cố định trên nền điệu tính F-dur tạo sức hút về âm C trì tục ở phần đệm
109
piano, ở câu nhạc thứ hai của đoạn nhạc đầu tiên, các biến âm khác đƣợc xuất
hiện ngày càng nhiều nhƣ Es, Ces, As... đem đến cho tác phẩm sự thay đổi về
tính ổn định của điệu tính, tạo màu sắc mới lạ. Ngoài ra, biến âm cố định còn
đƣợc sử dụng ở một số tác phẩm khác nhƣ Kỉ niệm không em kỉ niệm không
hồn với biến âm Fis trong giọng a-moll [PL4; tr.180], Em nhƣ bài thơ không
chép đƣợc với biến âm Fis trong giọng C-dur [PL4; tr.177] của Đặng Hữu Phúc; các CKNT của Vĩnh Lai với bậc #VI trong giọng thứ... Những biến âm
ở dạng cố định sẽ tạo nên sự thay đổi màu sắc, làm giảm sự ổn định và sức
hút của chủ âm và thƣờng xuất hiện ở cả giai điệu và phần đệm.
Bên cạnh đó còn có dạng biến âm bất thƣờng xuất hiện trong một nét
giai điệu cụ thể. Trong tác phẩm Bên vƣờn khuya của Đặng Hữu Phúc [PL4;
tr.191], ở giọng a-moll, các biến âm ở phần đệm đƣợc xuất hiện phổ biến ở
các đoạn nhạc khác nhau. Ngay từ đoạn nhạc đầu tiên đã có những biến âm
Ais rồi đến Eis, Gis… trong phần đệm, nhƣng phải đến đoạn nhạc sau, các
biến âm mới xuất hiện một cách dày đặc.
VD 3.09: Đặng Hữu Phúc, Bên vƣờn khuya, nhịp 72-76
Ở ví dụ trên, các biến âm tạo cho phần đệm những bƣớc chuyển động
chromatic dƣới dạng thêu, lƣớt, các cao độ đƣợc kết nối và liên kết chặt chẽ với
nhau tạo nên tính chất mềm mại.
Biến âm chromatic còn đƣợc sử dụng trong một số tác phẩm của Hoàng
Cƣơng nhƣ Ao thu [PL4; tr.646], Cây bàng cuối thu [PL4; tr.597], Ngôi sao
nhớ ai [PL4; tr.678], Còn gì cho quê hƣơng [PL4; tr.580]; Gió bấc [PL4;
tr.137], Mẹ [PL4; tr.199] của Đặng Hữu Phúc... Dạng biến âm này đƣợc sử
110
dụng một cách linh hoạt dƣới dạng các nốt thêu, nốt hút dẫn, các bậc
chromatic… Các biến âm chromatic đã tạo cho âm nhạc những màu sắc mới
trong cách thức tiến hành quãng ở các bè. Biến âm có thể chỉ xuất hiện ở giai
điệu hoặc phần đệm, hoặc đồng thời ở tất cả các bè. Việc linh hoạt trong sử
dụng, kết hợp các điệu thức khác nhau cùng hệ thống biến âm phong phú đã
đem lại cho thể loại CKNTVN những hiệu quả âm nhạc đa dạng và sinh động.
3.1.4. Nhịp độ, tiết tấu
Là một thể loại âm nhạc đặc trƣng bởi tính chất trữ tình, phần lớn các
CKNTVN thƣờng có nhịp độ, tốc độ vừa phải (Moderato, Andante) (xem
bảng PL2c: Nhịp độ, tốc độ [PL2; tr.184]). Phần lớn tiết tấu thƣờng có hiệu
quả nhịp nhàng, đồng nhất, một số ở dạng tiết tấu nhiều đảo phách và có tính
chất góc cạnh. Tuy nhiên mỗi tác giả lại có cách thức sử dụng tiết tấu khác
nhau, tạo nên cho tác phẩm những hiệu quả riêng biệt. Âm hình tiết tấu dạng
đồng độ có thể thấy đƣợc sử dụng khá phổ biến trong những CKNT của Đào
Trọng Minh, Trần Đinh Lăng, Vĩnh Cát, Vĩnh Lai và trong một số ca khúc
của Huy Du, tuy nhiên mỗi ngƣời đều có một cách sử dụng khác nhau. Tiết
tấu trong tác phẩm của Vĩnh Cát có tính chất thong thả và có sự cân đối,
vuông vắn giữa các nét nhạc trong khi các CKNT của Vĩnh Lai lại sử dụng
những âm hình tiết tấu không giống nhau về chu kỳ tiết luật, tạo những làn
sóng giai điệu dài ngắn khác nhau xen kẽ. Trần Đinh Lăng sử dụng những âm
hình gồm nhiều trƣờng độ bằng nhau nối tiếp liên tục thành một làn sóng giai
điệu dài. Tiết tấu trong sáng tác của Hoàng Cƣơng và Hoàng Dƣơng lại hay
đƣợc chia nhỏ thành các âm hình ngắn. Trong các CKNT của Doãn Nho, tiết
tấu thƣờng có tính chu kỳ, thong thả, phù hợp với loại nhịp 6/8 đƣợc dùng
phổ biến. Trần Thế Bảo sử dụng nhiều các âm hình phong phú trong tác phẩm
nhƣng ít dùng đảo phách, trong khi đó với Trần Thanh Hà trừ tác phẩm Hát
ru lại hay sử dụng các âm hình tiết tấu đảo phách, hoặc không đồng nhất với
phần đệm. Trong các CKNT của Đặng Hữu Phúc cũng sử dụng rất nhiều âm
111
hình tiết tấu khác nhau, nhiều âm hình đảo phách phức tạp, sử dụng nhiều tiết
tấu dạng chùm tự do nhƣ chùm 5, 7, 9, 11, 13, 14… Sự kết hợp linh hoạt các âm
hình tiết tấu đã mang lại nhiều tính chất, hiệu quả phong phú cho các CKNTVN.
VD 3.10: Đặng Hữu Phúc, Tình ca nhƣ đỉnh núi, nhịp 10-13
Bên cạnh đó tiết tấu trong các CKNTVN cũng góp phần thể hiện âm
hƣởng dân gian. Đặng Hữu Phúc là một nhạc sĩ rất chú trọng đến tính dân tộc
trong các CKNT của mình. Ông thƣờng kết hợp khai thác chất liệu âm nhạc
dân gian Bắc Bộ, điều này không chỉ đƣợc thể hiện trong điệu thức, cách thức
tiến hành giai điệu mà còn thể hiện trong cả khía cạnh tiết tấu. Ở những
CKNT mang âm hƣởng các làn điệu dân gian, trong đó phổ biến là Chèo và
Quan Họ, nhạc sĩ đã sử dụng nhiều tiết tấu đảo phách, nghịch phách điển hình
cho âm nhạc trong các thể loại này, kết hợp với việc sử dụng các điệu thức
ngũ cung và cách thức tiến hành giai điệu đã làm âm hƣởng dân gian đƣợc
biểu hiện rất rõ. Trong tác phẩm Lời ru cao nguyên của Đặng Hữu Phúc có
phần tiết tấu chắc chắn, dứt khoát kết hợp với kỹ thuật staccato cùng giai điệu
đƣợc viết ở thang ngũ cung đặc trƣng của âm nhạc Tây Nguyên đã tạo nên
một âm hƣởng dân gian của miền núi cao nguyên khỏe khoắn và mạnh mẽ.
Có thể minh họa các tiết tấu tạo hiệu quả âm nhạc dân gian qua phần giai điệu
trong các tác phẩm Hai phía dòng sông, Hỏi em, Giã biệt và một số CKNT
khác trong chùm 12 ca khúc mang âm hƣởng dân gian của Đặng Hữu Phúc.
Có thể thấy CKNTVN sử dụng nhiều âm hình tiết tấu phong phú, từ đơn
giản đến phức tạp, mỗi nhạc sĩ có những đặc trƣng trong việc sử dụng tiết tấu,
tạo tính chất riêng biệt. Bên cạnh đó, việc biểu hiện âm hƣởng dân gian trong
112
tiết tấu cũng góp phần làm nên giá trị truyền thống dân tộc cho thể loại này.
3.1.5. Các kỹ thuật thanh nhạc
Kỹ thuật thanh nhạc trong CKNTVN có thể chia thành hai nhóm: kỹ
thuật xử lý sắc thái âm nhạc và kỹ thuật thể hiện giai điệu. Việc xử lý sắc thái
trong thể loại này rất phong phú, từ những kỹ thuật phổ biến nhƣ kỹ thuật hát
liền tiếng (cantilena), hát phóng to thu nhỏ cƣờng độ (crescendo,
decrescendo), hát nhấn, hát láy (Trill), … cho đến những kỹ thuật ít gặp hơn
trong các thể loại ca khúc phổ thông nhƣ hát nảy (staccato), kỹ thuật luyến
ngắt (portamento). Với kỹ thuật cantilena, không chỉ đơn giản là việc nối liền
các nốt nhạc với nhau (legato) mà còn cần đảm bảo sự đồng nhất và liền mạch
trong hiệu quả, màu sắc âm thanh. Để đáp ứng yêu cầu này, ngƣời biểu diễn
cần nắm rõ vị trí lấy hơi, và kiểm soát hơi thở sao cho đảm bảo đƣợc một nét
nhạc hát liền tiếng theo đúng tính chất âm nhạc của tác phẩm. Trong trích
đoạn sau từ tác phẩm Hoa Mộc Miên của Huy Du, chúng ta có thể thấy với kỹ
thuật liền tiếng, tác giả đã tạo nên những nét nhạc dài, đòi hỏi ngƣời biểu diễn
phải có sự chuẩn bị tốt, nén chắc, và tiết chế hơi thở hợp lý để tạo nên âm
thanh đẹp và hiệu quả.
VD 3.11: Huy Du, Hoa Mộc Miên, nhịp 1-2
Ở ví dụ này, tác giả sử dụng những nét giai điệu dài, không chỉ yêu cầu
kỹ thuật hát liền tiếng mà còn phải thể hiện sự mƣợt mà, mềm mại, âm thanh
vang, sáng đều qua các nốt thêu, lƣớt. Những nét nhạc dài nhƣ vậy đòi hỏi
ngƣời sáng tác và ngƣời biểu diễn cần nắm rõ đƣợc cách thức lấy hơi và giữ
hơi để đảm bảo hiệu quả tối ƣu cho tác phẩm. Kỹ thuật cantilena là một trong
những kỹ thuật thanh nhạc phổ biến nhất trong các CKNTVN, đòi hỏi sự trau
chuốt trong việc xử lý. Bên cạnh đó, trong các CKNTVN, chúng ta còn thấy
có kỹ thuật hát luyến láy, hát nhấn, non-legato hay staccato. Dƣới đây là minh
113
họa về kỹ thuật staccato đƣợc sử dụng cho âm khu trung giọng nữ trong tác
phẩm Hà Nội mƣa mùa đông của Đặng Hữu Phúc.
VD 3.12: Đặng Hữu Phúc, Hà Nội mƣa mùa đông, nhịp 53-57
Trong thanh nhạc cổ điển, kỹ thuật staccato trong các tác phẩm dành
cho giọng nữ thƣờng đƣợc sử dụng với các cao độ ở quãng tám thứ 2, 3, để
thể hiện sự linh hoạt, sắc nhọn của giọng hát. Tuy nhiên, trong tác phẩm này,
Đặng Hữu Phúc đã sử dụng kỹ thuật này ở quãng tám thứ nhất để tạo nên hiệu
quả âm nhạc tƣơng phản với sự dàn trải và liền mạch ở các giai đoạn khác
trong tác phẩm. Những nét nhạc staccato ngắn nối tiếp nhau thể hiện một tâm
trạng cô đơn, một nội tâm trầm lắng nhƣng vẫn có sự mạnh mẽ nhất định. Để
thể hiện kỹ thuật này đòi hỏi ngƣời biểu diễn cần có sự tập trung, nén hơi
chắc liên tục, thả lỏng cơ miệng mở hàm rộng và hơi thở linh hoạt.
Những kỹ thuật này đều đƣợc xác định cụ thể trong các CKNTVN
nhằm biểu đạt ý đồ của tác giả cũng nhƣ chi tiết hóa những yêu cầu, đặc điểm
của phần thanh nhạc, giúp ngƣời biểu diễn thể hiện tác phẩm đƣợc chính xác,
chi tiết. Ví dụ nhƣ trong phần trích đoạn sau từ tác phẩm Em nhƣ bài thơ
không chép đƣợc của Đặng Hữu Phúc, có thể thấy những ký hiệu về việc sử
dụng kỹ thuật thanh nhạc đƣợc tác giả mô tả chi tiết và cụ thể.
VD 3.13: Đặng Hữu Phúc, Em nhƣ bài thơ không chép đc, nhịp 23-25
Trong phần minh họa trên, các kỹ thuật về điều chỉnh âm lƣợng (mf, f,
cresc.), hát nhấn đƣợc kí hiệu cụ thể và chi tiết. Trong hầu hết CKNTVN, đặc
biệt của những tác phẩm ở giai đoạn sau, việc mô tả các kỹ thuật thanh nhạc
càng đƣợc chú trọng và cụ thể. Điều đó giúp cho ngƣời biểu diễn nắm bắt
đƣợc ý đồ của tác giả và thể hiện sát nhất với tinh thần tính chất của tác phẩm.
114
Bên cạnh đó, kỹ thuật thể hiện sự tiến hành giai điệu cũng đóng vai trò
quan trọng trong việc làm rõ tính học thuật của thể loại CKNTVN. Đó là khi
giai điệu treo trên các cao độ ở âm khu cao, nhảy quãng xa, quãng nghịch,
nhảy quãng gấp khúc liên tiếp, những nét nhạc dài đòi hỏi tiết chế hơi thở
tốt... những đặc điểm đó yêu cầu một chất lƣợng âm thanh và nhạc cảm tốt.
Do đó trong thể loại này, phần thanh nhạc đòi hỏi ngƣời nghệ sĩ biểu diễn có
một kỹ thuật thành thục để thể hiện tác phẩm một cách chính xác và hiệu quả.
Nhƣ đã đề cập trong phần âm khu, âm vực (trang 102), số lƣợng các tác
phẩm CKNTVN có nốt cao nhất từ nốt g2 trở chiếm một tỷ lệ không nhỏ.
Trong đó, nhiều trƣờng hợp còn kèm theo những giai điệu có kỹ thuật thanh
nhạc phức tạp nhƣ nhảy quãng xa, nhảy quãng liên tục. Có thể minh hoạ với
trích đoạn trong tác phẩm Ơi Mẹ làng Sen của Trần Mạnh Hùng
VD 3.14: Trần Mạnh Hùng, Ơi Mẹ làng Sen, nhịp 15-19
Trong phần thanh nhạc trên có thể thấy giai điệu là sự kết hợp giữa
những cao độ thuộc âm khu cao với việc nhảy quãng xa liên tục, đòi hỏi khả
năng xử lý kỹ thuật thành thục để thực hiện chính xác các cao độ khi dịch
chuyển giữa các âm khu cao thấp chỉ trong một câu nhạc. Còn với ví dụ dƣới
đây, phần giai điệu có nhiều nét nhạc thêu, lƣớt kèm trong một nét nhạc dài,
cùng với đó là các bƣớc nhảy quãng xa lên xuống liên tục.
VD 3.15: Huy Du, Tình em, nhịp 15-21
115
Với những nét giai điệu nhƣ trên đòi hỏi ngƣời thể hiện phải tiết chế
hơi thở tốt, giữ chắc bụng và đều hơi sao cho các phần thêu lƣớt đƣợc chuẩn
cao độ và không bị mờ. Các vị trí nhảy quãng đòi hỏi việc thể hiện cao độ
chính xác, giữ độ vang đều giữa các âm khu. Những đặc điểm phức tạp trong
phần thanh nhạc đƣợc duy trì trong suốt tác phẩm Tình em, đòi hỏi ngƣời biểu
diễn giữ đƣợc hơi thở và kỹ thuật ổn định trong cả tác phẩm. Nếu thiếu kỹ
thuật thanh nhạc thuần thục, bài bản thì khó có thể thực hiện một cách hiệu
quả những yêu cầu về phần thanh nhạc trong tác phẩm này.
Bên cạnh đó trong nhiều tác phẩm xuất hiện việc nhảy quãng xa hoặc
các biến âm tạo nên hiệu quả âm nhạc khác lạ. Đặc biệt một số tác phẩm với
những biến âm hoặc quãng nghịch, nằm ngoài hệ thống diatonic, đòi hỏi
ngƣời biểu diễn phải xử lý tốt các cao độ khó. Có thể minh họa qua tác phẩm
Mƣa của Tuệ Nguyên [PL4; tr.502] với những biến âm kết hợp với ly điệu,
chuyển điệu, cùng sự tự do trong tiết tấu; hay tác phẩm Mẹ của Đặng Hữu
Phúc [PL4; tr.200] với những biến âm xuất hiện liên tục trên nền các vòng
hòa âm không ổn định… những điều đó yêu cầu ngƣời thể hiện phần thanh
nhạc phải chắc chắn cả về cao độ, tiết tấu, sắc thái, đồng thời làm chủ cảm
xúc khi kết hợp nhiều kĩ năng cùng một lúc.
Ngoài ra, một vấn đề không thể không nhắc tới trong việc thể hiện phần
thanh nhạc trong các CKNTVN, đó là chất lƣợng âm thanh và nhạc cảm. Với
đặc thù phần thanh nhạc có nhiều kỹ thuật phức tạp nên quá trình xử lý các
vấn đề thanh nhạc là sự tổng hợp của nhiều kiến thức và kĩ năng, ngƣời biểu
diễn phải thực hiện các yêu cầu đó với một chất lƣợng âm thanh mƣợt mà,
vang đều. Thể loại CKNTVN thiên về tính chất trữ tình với nội dung phần lớn
mang tính lãng mạn, triết lý thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của con ngƣời, vì vậy
ngƣời biểu diễn cũng cần có một vốn sống và trải nghiệm nhất định mới có
thể hiểu và thể hiện tác phẩm một cách sâu sắc và tinh tế. Ngoài ra việc lựa
chọn giọng hát có âm sắc phù hợp, phong cách hát sao cho phù hợp với tính
chất âm nhạc cũng quyết định đến sự hiệu quả của việc trình diễn.
116
Trong các CKNTVN, việc lựa chọn lối hát Bel canto, lối hát truyền
thống hay kết hợp cả hai, ngoài việc phụ thuộc vào tính chất âm nhạc của tác
phẩm thì còn phụ thuộc vào phong cách riêng của từng nghệ sĩ biểu diễn.
Hầu hết các CKNTVN đều vận dụng lối hát Bel canto, đây là một lối
hát mƣợt mà, trau chuốt, yêu cầu những kĩ năng xử lý thành thục trong vấn đề
hơi thở, tƣ thế để tạo nên âm thanh đẹp và bóng bẩy. Lối hát Bel canto đòi hỏi
sự tinh tế trong việc xử lý kỹ thuật để đảm bảo sự tiết chế âm lƣợng hợp lý,
sắc thái linh hoạt nhƣng vẫn không làm mất đi cảm xúc của tác phẩm. Chính
lối hát này đã góp phần đƣa CKNTVN trở thành thể loại có tính chất thính
phòng hàn lâm, thể hiện sự chuyên nghiệp trong cả khía cạnh sáng tác cũng
nhƣ biểu diễn. Tuy nhiên ở những tác phẩm mang âm hƣởng của các loại hình
âm nhạc truyền thống nhƣ Quan họ, Chèo, Hò, âm nhạc miền núi phía Bắc
hay âm nhạc Tây Nguyên… các nghệ sỹ biểu diễn có thể sử dụng lối hát
truyền thống, bạch thanh với những kỹ thuật nhấn, rung, luyến láy, chú ý sự
phù hợp của cao độ với ngữ điệu ngôn ngữ vùng miền. Tuy nhiên, việc sử
dụng lối hát truyền thống đơn thuần không phổ biến trong các CKNTVN.
Thực tế trong trƣờng hợp tác phẩm mang âm hƣởng dân gian, bên cạnh việc
sử dụng lối hát Bel canto, các nghệ sĩ thƣờng kết hợp với lối hát thể hiện đƣợc
bản sắc dân tộc trong âm nhạc truyền thống Việt Nam. Trong phần lớn
CKNTVN, phổ biến nhất là việc kết hợp giữa lối hát Bel canto với kỹ thuật
hát tròn vành, rõ chữ thể hiện rõ ngôn ngữ tiếng Việt. Nếu nhƣ lối hát Bel
canto phần nhiều áp dụng khẩu hình mở dọc, mở rộng hàm từ bên trong với
cách hát cộng minh, thì để thể hiện rõ tiếng Việt, nghệ sĩ cần điều chỉnh khẩu
hình sao cho phát âm rõ từ ngữ. Việc kết hợp hai cách hát này với những giai
điệu tiến hành quãng phức tạp, âm khu cao hoặc trầm, âm vực rộng, tạo nên
sự giao thoa Đông Tây trong việc xử lý tác phẩm, vừa đem đến giá trị học
thuật, vừa thể hiện giá trị truyền thống cho thể loại này.
Chính bởi giá trị và đặc điểm nhƣ phân tích ở trên, các CKNTVN có
thể đƣợc sử dụng một cách linh hoạt trong lĩnh vực biểu diễn thanh nhạc.
117
Nhiều tác phẩm xuất hiện phổ biến trong chƣơng trình đào tạo biểu diễn thanh
nhạc hoặc các sân khấu nghệ thuật chuyên nghiệp nhƣ Trăng chiều, Ru con
mùa đông, Biển chiều, Tình ca mùa xuân, Lá thu, Em nhƣ bài thơ không chép
đƣợc của Đặng Hữu Phúc; Tình em, Hoa mộc miên của Huy Du; Sapa thành
phố trong sƣơng của Vĩnh Cát; Hƣớng về Hà Nội, Tình ca của Hoàng Dƣơng;
Ơi Mẹ làng Sen, Giấc mơ mùa lá, Ru con, Khúc giao mùa, Gió lộng bốn
phƣơng của Trần Mạnh Hùng; Tháng Giêng mùa xuân còn sót lại của Hoàng Cƣơng…
Trong thể loại CKNTVN, phần thanh nhạc có những đặc điểm về cách
thức tiến hành quãng, âm vực, âm khu, tiết tấu, các kỹ thuật thanh nhạc thể
hiện tính học thuật, hàn lâm, cụ thể và chi tiết trong mỗi tác phẩm. Để làm
đƣợc điều này đòi hỏi ngƣời nhạc sĩ bên cạnh ý đồ, tƣ duy sáng tác còn phải
nắm đƣợc đặc điểm, tính chất và loại giọng hát phù hợp với tác phẩm của
mình, từ đó đặt ra cho ngƣời biểu diễn thanh nhạc yêu cầu phải thực hiện
những kỹ thuật đó một cách hợp lý trong bối cảnh chung của tác phẩm và xử
lý sao cho hài hòa với chất giọng, phong cách của cá nhân. Điều đó cho thấy
để giải quyết kỹ thuật thanh nhạc trong các tác phẩm này đòi hỏi sự nghiên
cứu, rèn luyện, qua đó thể hiện trình độ của nhạc sĩ sáng tác, nghệ sỹ biểu
diễn, đồng thời thể hiện tính học thuật và tính chuyên nghiệp của thể loại.
3.2. Phần đệm
3.2.1. Chức năng phần đệm
Phần này sẽ nghiên cứu các chức năng của phần đệm đƣợc biểu hiện
trong CKNTVN cùng những minh họa, phân tích cụ thể, từ đó làm rõ cách
thức sử dụng phần đệm để thể hiện hình tƣợng nghệ thuật trong thể loại này.
3.2.1.1. Chức năng làm nền cho giai điệu
Trong các CKNTVN, đây là chức năng cơ bản nhất của phần đệm, đƣợc
đảm bảo với các nhiệm vụ nhƣ giữ nhịp, tạo phần nền phụ họa cho giai điệu của
tác phẩm. Ở chức năng giữ nhịp, âm hình đệm thƣờng gắn với các nhóm tiết
tấu đặc trƣng tƣơng ứng với từng loại nhịp. Trong nhiều trƣờng hợp, âm hình
đệm lấp đầy các ô nhịp bằng các tiết tấu phù hợp, đảm bảo mục đích giữ nhịp
118
một cách đơn thuần. Đây là kiểu giữ nhịp phổ biến nhất trong thể loại
CKNTVN, có thể minh họa với tác phẩm Thời gian và kỷ niệm của Đào
Trọng Minh [PL4; tr.525]. Tác phẩm đƣợc viết ở nhịp 3/4, với mục đích giữ
nhịp đều đặn với tiết tấu không thay đổi, tác giả đã lựa chọn âm hình tiết tấu
chủ đạo là nốt đen làm nền cho giai điệu thanh nhạc, sự lặp lại về tiết tấu giúp
cho nhịp điệu ổn định. Việc sử dụng phần đệm với chức năng giữ nhịp một
cách đơn giản đƣợc biểu hiện khá phổ biến trong các CKNTVN nhƣ ở các tác
phẩm Bản thiên thai trần gian của Doãn Nho [PL4; tr.420], Khúc hát ban
chiều của Huy Du [PL4; tr.242]; Con đƣờng sầu đông [PL4; tr.612], Mƣa yêu
cúc trắng [PL4; tr.604] của Hoàng Cƣơng… Ở tác phẩm Hà Nội mƣa mùa
đông của Đặng Hữu Phúc, âm hình đệm với các chồng âm lên xuống đều đặn
với sắc thái staccato, tạo hình tƣợng của những giọt mƣa trong đoạn mở đầu.
VD 3.16: Đặng Hữu Phúc, Hà Nội mƣa mùa đông, ô 1-3
Trong một số trƣờng hợp khác, tiết tấu của phần đệm đƣợc sinh ra từ
tiết tấu của giai điệu. Lúc này, phần đệm có chức năng nhƣ một sự hỗ trợ,
cộng hƣởng, nhằm nhấn mạnh nhịp điệu trong giai điệu. Có thể minh họa với
trích đoạn từ tác phẩm Ru con của Trần Mạnh Hùng với phần đệm tạo nên
tính chất trì tục, xây dựng hình tƣợng lời ru nhịp nhàng, yên bình.
VD 3.17: Trần Mạnh Hùng, Ru con, nhịp 13-16
119
Ở đây, chất liệu chính trong tiết tấu của giai điệu đã đƣợc khai thác và
tạo tính chu kỳ để trở thành tiết tấu của phần đệm. Phần đệm có thể đƣợc bổ
sung thêm những tuyến bè khác để tạo độ dày và làm rõ màu sắc hòa âm. Có
thể minh họa điều này qua tác phẩm Khúc hát ban chiều của Huy Du [PL4;
tr.244], Đôi mắt-tiếng lòng của Trần Thanh Hà [PL4; tr.553], Vẽ tình yêu trên
cát của Hoàng Cƣơng [PL4; tr.648]…
Ngƣợc lại với dạng thức mô phỏng vừa đề cập ở trên, một số phần đệm
khác lại có tiết tấu khác biệt so với giai điệu, nhƣng vẫn có tính chất hỗ trợ
giai điệu trong việc thể hiện tƣ tƣởng, nội dung và hình tƣợng của tác phẩm.
Nhƣ ở tác phẩm Cơn mƣa sang đò của Đặng Hữu Phúc, sự khác biệt về tiết
tấu của phần đệm so với giai điệu đã tạo nên những khía cạnh khác của hình
tƣợng, làm cho ngôn ngữ âm nhạc trở nên phong phú, linh hoạt hơn. Trong
khi giai điệu đƣợc thể hiện ở những trƣờng độ cơ bản nhƣ móc đơn, móc kép
nhƣng có sự đảo phách liên tục, thì phần đệm lại đƣợc cấu thành từ những âm
hình rải theo trục hợp âm từ âm khu cao xuống thấp rồi ngƣợc lại nhằm mở
rộng âm vực, những hợp âm rải này đƣợc chạy liền mạch không nghỉ với tiết
tấu chùm 6, tạo một dòng chảy liên tục cho hình tƣợng của phần đệm.
VD 3.18: Đặng Hữu Phúc, Cơn mƣa sang đò, nhịp 40-43
Mặc dù giai điệu và phần đệm không đồng nhất về âm hình tiết tấu
nhƣng khi kết hợp, phần đệm lại trở thành một phần nền trải đều, và trên đó,
giai điệu thực hiện những điểm nhấn của mình tạo nên một tính chất hình
tƣợng âm nhạc có phần ngẫu hứng và ấn tƣợng.
Để làm tốt chức năng phụ họa và làm tôn lên giá trị của giai điệu, một
120
lớp nền dày hay mỏng, đơn giản hay phức tạp đƣợc lựa chọn cũng cần phù
hợp với tính chất của giai điệu và của hình tƣợng âm nhạc. Có những tác
phẩm, việc giảm thiểu số lƣợng bè cũng nhƣ số lƣợng nốt nhạc kết hợp theo
chiều dọc, tạo nên một phần đệm mỏng. Và có những phần đệm có tiết tấu
đơn giản, chu kỳ rõ ràng, mang đến cho âm nhạc tính chất mộc mạc, bình dị,
nhƣ trong tác phẩm Con đƣờng sầu đông của Hoàng Cƣơng.
VD 3.19: Hoàng Cƣơng, Con đƣờng sầu đông, nhịp 6-10
Ở đây, âm hình tiết tấu phần đệm chủ đạo với những nốt móc đơn kết
hợp với chồng âm ngân dài tạo cho âm nhạc tính chất nhẹ nhàng, mỏng mảnh.
Nhiều CKNTVN khác cũng sử dụng phần đệm đơn giản nhƣ Ru lại tình sau
của Hoàng Dƣơng [PL4; tr.401], Khúc hát ban chiều của Huy Du [PL4;
tr.242], Bài ca tình yêu [PL4; tr.415], Nụ của Doãn Nho [PL4; tr.446], Bóng
trăng [PL4; tr.35], Tan hội em về [PL4; tr.41], Tình ca mùa hè [PL4; tr.77],
Bình mình trên biển [PL4; tr.149], Trên những tháng ngày [PL4; tr.203], Du
thuyền trên Hồ Tây [PL4; tr.211] của Đặng Hữu Phúc, Hát ru của Trần Thanh
Hà [PL4; tr.549], Thời gian và kỉ niệm của Đào Trọng Minh [PL4; tr.525]…
Tuy nhiên, bên cạnh đó có nhiều CKNTVN khác lại sử dụng những
phần đệm dày hoặc phức tạp hơn. Sự phức tạp của phần đệm đƣợc quy định
bằng sự kết hợp các âm hình tiết tấu phức tạp theo chiều ngang hoặc chiều
dọc, hoặc có thể là sự kết hợp của nhiều âm hình tiết tấu khác nhau cùng một
lúc theo chiều dọc ở các tầng bè khác nhau. Độ dày của phần đệm đƣợc quy
định bởi số lƣợng bè, số lƣợng nốt nhạc kết hợp theo chiều dọc cũng nhƣ âm
vực của mỗi bè. Có thể minh họa qua đoạn trích từ ca khúc Ru con mùa đông
121
của Đặng Hữu Phúc.
VD 3.20: Đặng Hữu Phúc, Ru con mùa đông, nhịp 39-42
Trong ví dụ này, phần đệm đƣợc kết cấu bởi ba tầng bè, trong đó bè
giữa đƣợc cấu trúc dạng hợp âm, bè trên cùng có dạng hợp âm rải đẩy các cao
độ lên âm khu cao, cùng với việc điệp quãng 8 ở bè trầm làm cho âm vực của
phần đệm đƣợc mở rộng, sự xen kẽ về tiết tấu cũng làm cho nhịp điệu của
phần đệm trở nên linh hoạt, đa dạng hơn. Sự bố trí nhiều tầng bè nhƣ những
bè giai điệu đan xen, quấn quýt góp phần thể hiện hình tƣợng mẹ con ấm áp,
đủ đầy. Những phần đệm dày hoặc có kết cấu phức tạp khá phổ biến trong thể
loại CKNTVN, có thể thấy trong các tác phẩm Có những đêm không ngủ của
Huy Du [PL4; tr.260], Sau khi biết em [PL4; tr.171], Giấc mơ quê [PL4;
tr.12], Bên cây trúc đào [PL4; tr.33], Ru con trong mƣa mùa xuân [PL4;
tr.63], Tiếng mùa xuân [PL4; tr.67], Thƣơng nhớ tuổi học trò [PL4; tr.93], Ru
con mùa đông [PL4; tr.142], Biển mƣa [PL4; tr.153], Lời ru trống đồng [PL4;
tr.235], Bên dòng sông năm tháng [PL4; tr.238], Tiếng chuông giao thừa
[PL4; tr.74], Cơn giông [PL4; tr.82] của Đặng Hữu Phúc; Đôi mắt tiếng lòng của
Trần Thanh Hà [PL4; tr.553], Nhớ về đồng đội của Lê Hồng Lĩnh [PL4; tr.566]…
Tuy nhiên, một phần đệm mỏng không có nghĩa là sẽ đơn giản, cũng
nhƣ một phần đệm phức tạp thì phải dày, hay phức tạp thì sẽ hiệu quả hơn
đơn giản, mà quan trọng là luôn phải căn cứ vào tính chất của hình tƣợng để
xây dựng một lớp nền phù hợp và hỗ trợ hiệu quả cho giai điệu. Các dạng
phần đệm phổ biến trong thể loại CKNTVN đƣợc thống kê nhƣ sau.
122
Bảng 3.4: Các dạng phần đệm trong ca khúc nghệ thuật Việt Nam
STT Chức năng
1
Tác phẩm minh họa Khúc hát ban chiều của Huy Du; Mƣa yêu cúc trắng, Con đƣờng sầu đông của Hoàng Cƣơng; Bản thiên thai trần gian của Doãn Nho
Chức năng giữ nhịp cho giai điệu
2
3
Các dạng phần đệm Phần đệm chia đều tiết tấu trong ô nhịp Phần đệm cộng hƣởng tiết tấu với giai điệu Phần đệm mô phỏng tiết tấu giai điệu
4
Phần đệm có tiết tấu khác với giai điệu
5
Tạo phần nền phụ họa cho giai điệu
Phần nền phụ họa mỏng, đơn giản
6
Phần nền phụ họa dày, phức tạp
Khúc hát ban chiều của Huy Du, Đôi mắt-tiếng lòng của Trần Thanh Hà, Vẽ tình yêu trên cát của Hoàng Cƣơng Ru con của Trần Mạnh Hùng; Mùa thu ƣớc mong, Bài ca ban chiều, Mẹ của Đặng Hữu Phúc; Tình ca của Hoàng Dƣơng Bế Văn Đàn sống mãi, Có chúng tôi trên hải đảo xa xôi của Huy Du; Ngƣời lính mùa xuân về của Doãn Nho; Giấc mơ quê, Lá thu, Hoài niệm mùa thu, Gió bấc, Lời gió hát, Sau khi biết em, Cơn mƣa sang đò của Đặng Hữu Phúc; Miền thƣơng của Vĩnh Lai Ru lại tình sau của Hoàng Dƣơng; Khúc hát ban chiều của Huy Du; Bài ca tình yêu, Nụ của Doãn Nho; Bóng trăng, Tan hội em về, Tình ca mùa hè, Bình mình trên biển, Trên những tháng ngày, Du thuyền trên Hồ Tây của Đặng Hữu Phúc, Hát ru của Trần Thanh Hà; Thời gian và kỉ niệm của Trần Anh Có những đêm không ngủ của Huy Du; Ru con mùa đông của Đặng Hữu Phúc; Đôi mắt tiếng lòng của Trần Thanh Hà; Nhớ về đồng đội của Lê Hồng Lĩnh; Sau khi biết em, Giấc mơ quê, Bên cây trúc đào, Thƣơng nhớ tuổi học trò, Ru con mùa đông, Biển mƣa, Lời ru trống đồng, Bên dòng sông năm tháng của Đặng Hữu Phúc
3.2.1.2. Chức năng đối thoại với giai điệu
Ở chức năng này, phần đệm và giai điệu có tính chất bổ trợ, xen kẽ,
nâng đỡ nhau và cùng thể hiện hình tƣợng của tác phẩm. Sự đối thoại có lúc
là sự nhắc lại nguyên dạng, có lúc là sự mô phỏng, có lúc là những sự biểu đạt
những khía cạnh khác nhau của một chủ đề hoặc hình tƣợng âm nhạc.
Trong đoạn nhạc thứ hai trong tác phẩm Em- mùa xuân của Xuân Thủy,
chủ đề âm nhạc đƣợc diễn tả bằng sự đối thoại giữa giai điệu và phần đệm.
123
VD 3.21: Xuân Thủy, Em- mùa xuân, nhịp 23-25
Ở đây, tác giả sử dụng chất liệu tiết tấu sẵn có trong phần đệm để tạo
nên một nét nhạc xen kẽ vào vị trí ngân nghỉ giữa các tiết nhạc của giai điệu,
làm cho tính đối thoại đƣợc biểu hiện rất rõ. Trong ví dụ này, nét nhạc đối
thoại của phần đệm có chức năng biểu hiện một khía cạnh khác của âm nhạc,
đồng thời dẫn dắt vào các tiết nhạc tiếp theo của giai điệu. Trong một trƣờng
hợp khác, ở tác phẩm Romanse của Nguyễn Thiếu Hoa, tính đối thoại giữa
giai điệu với phần đệm lại đƣợc biểu hiện ở quy mô cấu trúc nhỏ hơn.
VD 3.22: Nguyễn Thiếu Hoa, Romanse, nhịp 13-16
Có thể thấy các motiv trong phần đệm lần lƣợt, xen kẽ và đối thoại với
các motiv trong giai điệu tạo nên tính chất âm nhạc uyển chuyển. Đối thoại với
giai điệu không chỉ là một chức năng của phần đệm, mà còn là một lối tƣ duy âm
nhạc trong đó nâng tầm phần đệm lên một vị trí ngang hàng hơn trong mối quan
hệ với giai điệu và có giá trị hơn so với các thể loại ca khúc thông thƣờng.
3.2.1.3. Chức năng xây dựng hình tƣợng âm nhạc
Trong các CKNTVN, phần đệm có vai trò quan trọng trong việc khắc
họa hình tƣợng âm nhạc. Giai điệu có thể phác hoạ những tính chất tiêu biểu,
cô đọng nhất của hình tƣợng, tuy nhiên đó không thể là một sự diễn đạt đầy
124
đủ và cụ thể. Dễ dàng nhận thấy là với cùng một giai điệu, nhƣng nếu thay đổi
phần đệm sẽ đƣa đến sự biến đổi hiệu quả và cảm nhận về hình tƣợng. Nhƣ
vậy có thể thấy chính phần đệm là yếu tố hoàn thiện hình tƣợng nghệ thuật
với vai trò làm rõ, củng cố, bổ sung và song hành cùng với giai điệu. Ví dụ
nhƣ trong trích đoạn từ tác phẩm Thông điệp mùa thu của Hoàng Dƣơng.
VD 3.23: Hoàng Dƣơng, Thông điệp mùa thu, nhịp 36-40
Ở đây, phần đệm và giai điệu khai thác cùng một âm hình tiết tấu và âm
điệu chạy song song với nhau. Phần đệm một mặt thể hiện hình tƣợng cùng
giai điệu, mặt khác bổ sung những khía cạnh khác bằng những chồng âm
đƣợc di chuyển với âm hình tiết tấu chùm ba móc đơn. Nhƣ vậy phần đệm
vừa có nhiệm vụ củng cố những chất liệu có trong giai điệu, vừa bổ sung các
khía cạnh khác để hoàn thiện hình tƣợng nghệ thuật của tác phẩm.
Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp, ta có thể thấy rõ phần đệm cũng có
một giá trị độc lập trong việc khắc hoạ hình tƣợng nghệ thuật song hành với
giai điệu. Lúc này, hình tƣợng trong phần đệm và giai điệu cùng đƣợc giới
thiệu hoặc cùng phát triển, hai yếu tố này có vai trò ngang nhau trong việc tạo
dựng đặc tính của hình tƣợng âm nhạc. Có nhiều cách để phần đệm thể hiện
vai trò độc lập của mình trong việc diễn đạt hình tƣợng nghệ thuật. Trong đó
một cách thức phổ biến là phần đệm sẽ là một tuyến bè diễn đạt hình tƣợng
chủ đề chạy song song với bè giai điệu, hai bè sẽ cùng nhau khắc hoạ hình
tƣợng nghệ thuật với cùng một tính chất và đồng nhất về chất liệu. Minh họa
dƣới đây nằm trong đoạn hai tác phẩm Vƣờn nhãn quê hƣơng của Vĩnh Cát.
125
VD 3.24: Vĩnh Cát, Vƣờn nhãn quê hƣơng, nhịp 13-15
Trong đoạn nhạc này, phần đệm luôn đi song song với giai điệu, cùng
thể hiện những nét nhạc chính, âm điệu chính với giai điệu. Ở phần đệm,
những nét nhạc này đƣợc kết hợp, bổ sung chất liệu bằng việc chồng thêm
quãng hoặc biến đổi tiết tấu chỉ giữ lại những nốt nhạc chủ chốt để khắc họa
nét chính trong hình tƣợng âm nhạc.
Bên cạnh đó, phần đệm có thể bổ sung cho hình tƣợng những chất liệu,
khía cạnh khác so với giai điệu. Lúc này, giai điệu và phần đệm kết hợp, bổ
trợ cho nhau, cùng biểu hiện hình tƣợng nghệ thuật nhƣng cũng chứa đựng
những chất liệu, đặc điểm và tính chất riêng biệt nhất định. Có thể minh họa
qua trích đoạn trong tác phẩm Ngủ ngoan ngủ ngoan của Trần Đinh Lăng.
VD 3.25: Trần Đinh Lăng, Ngủ ngoan ngủ ngoan, nhịp 38-39
Trong đoạn nhạc này, phần đệm vừa có sự kế thừa, nhắc lại âm hình tiết
tấu của giai điệu có tăng cƣờng bè theo chiều dọc, vừa xen kẽ bổ sung những
nét chạy rải tạo sự uyển chuyển, đồng thời bổ sung sắc thái, tính chất cho hình
tƣợng nghệ thuật của giai điệu.
Trong các CKNTVN, mặc dù giai điệu đóng vai trò chính yếu trong
việc tạo nên đặc trƣng cho hình tƣợng âm nhạc, nhƣng để đạt đƣợc tính chi
126
tiết và cụ thể của hình tƣợng thì lại cần một phần đệm hợp lý, tinh tế và thống
nhất với giai điệu. Phần đệm nhờ kết cấu bao gồm nhiều tầng cao độ, nhiều
tuyến bè có thể tạo thành các quãng thuận, nghịch, mối tƣơng quan về tiết tấu,
âm khu cao hay thấp, âm vực rộng hay hẹp… từ đó làm rõ tính chất, đặc điểm
về nhịp điệu, sắc thái của hình tƣợng nghệ thuật. Một nét giai điệu có thể đơn
giản về cách tiến hành quãng cũng nhƣ âm hình tiết tấu, nhƣng nếu đƣợc kết
hợp với một phần đệm phức tạp hơn có thể đem lại một tính chất khác biệt
đáng kể, biến đổi hiệu quả âm nhạc của tác phẩm. Có thể minh họa cho điều
này với tác phẩm Ngày mai trời chớm lạnh của Đặng Hữu Phúc.
VD 3.26: Đặng Hữu Phúc, Ngày mai trời chớm lạnh, nhịp 11-12
Trong ví dụ này, phần giai điệu với sự tiến hành âm điệu lên xuống
bình ổn, tiết tấu đơn giản, trong khi đó phần đệm thì trái ngƣợc lại, tiết tấu
phức tạp, sự phân chia trƣờng độ tạo nên âm hình tiết tấu khác biệt. Trọng âm
của các cao độ trong các nét nhạc thay đổi, các độ cao xuất hiện ở đủ các âm
khu trầm trung cao tạo nên một âm vực rộng đem đến cho phần đệm một tính
chất xáo động khác biệt với sự ổn định trong giai điệu.
Cùng một giai điệu đƣợc nhắc lại, nhƣng nếu phần đệm tƣơng ứng đƣợc
với sự biến đổi về mặt âm khu, âm vực cũng có thể tạo những tính chất thay
đổi đáng kể cho hình tƣợng nghệ thuật. Đó là những sự thay đổi về tính chất,
sắc thái biểu cảm của hình tƣợng qua các giai đoạn nhắc lại khác nhau của
cùng một nét giai điệu chính. Tác phẩm Gió lộng bốn phƣơng của Trần Mạnh
Hùng [PL4; tr.465] là một ví dụ. Đoạn nhạc đầu tiên ở lần nhắc lại, chúng ta
127
có thể thấy trong khi giai điệu đƣợc giữ nguyên âm điệu và độ cao, thì phần
đệm đã có sự mở rộng âm vực, đẩy âm khu xuống thấp cũng nhƣ lên cao, tạo
cho âm nhạc độ dày và tính phát triển, biến đổi ngay cả trong những giai điệu
đƣợc nhắc lại nguyên dạng. Nhiều ca khúc khác cũng sử dụng cách thức này
để tạo nên sự biến đổi của hình tƣợng, đó là sự thay đổi của phần đệm trong
khi giai điệu đƣợc giữ nguyên, nhƣ trong tác phẩm Con đƣờng sầu đông của
Hoàng Cƣơng, Tình ca và Hƣớng về Hà Nội của Hoàng Dƣơng…
Có thể thấy mặc dù giai điệu là sự biểu hiện một cách tiêu biểu, đặc
trƣng hình tƣợng nghệ thuật cho tác phẩm, nhƣng sự tham gia của phần đệm
trong nhiều trƣờng hợp có thể mang lại cho hình tƣợng nghệ thuật một tính
chất mới, hoặc khắc họa hình tƣợng một cách chi tiết và cụ thể hơn.
Bên cạnh đó, mặc dù giai điệu đóng một vai trò quan trọng trong việc
thể hiện hình tƣợng nghệ thuật, nhƣng rõ ràng yếu tố này chỉ thể hiện đƣợc
những khía cạnh của hình tƣợng nghệ thuật thuộc về chiều ngang của tác
phẩm. Phần đệm mặc dù vẫn bao gồm các tuyến bè phát triển theo chiều
ngang, nhƣng bên cạnh đó còn có sự kết hợp cùng một lúc các cao độ, các
trƣờng độ, và các bè theo chiều dọc tạo nên tính đa tầng, độ dày cho âm nhạc,
mở rộng không gian cho tác phẩm. Sự kết hợp theo chiều dọc có thể là việc
xuất hiện cùng một lúc của các cao độ, hoặc cũng có thể của các giai điệu
diễn tấu cùng một lúc. Vì thế, trong nhiều trƣờng hợp, phần đệm lại là yếu tố
quyết định tính chất đa tầng, đa lớp, tính dày dặn và phức tạp của hình tƣợng
nghệ thuật. Nhƣ vậy, phần đệm là yếu tố tạo nên tính đa chiều trong việc xây
dựng hình tƣợng âm nhạc cho tác phẩm.
Trong các CKNTVN, có nhiều cách để phần đệm thể hiện hình tƣợng
nghệ thuật. Dù phần đệm thực hiện chức năng đó với những chất liệu có đặc
điểm, tính chất đồng nhất hoặc không đồng nhất với giai điệu thì mối quan hệ
hữu cơ trong sự kết hợp giữa hai yếu tố để tạo nên một hình tƣợng thống nhất
vẫn luôn phải đƣợc đảm bảo.
128
Giữ nhịp theo tiết tấu phù hợp với loại nhịp
Tiết tấu phần đệm sinh ra từ tiết tấu giai điệu
Tiết tấu phần đệm khác biệt so với giai điệu
Làm nền cho giai điệu
Phần đệm mỏng, tiết tấu đơn giản
Phần đệm phức tạp, dày dặn
Nhắc lại nguyên dạng, mô phỏng
Chức năng của phần đệm
Đối thoại với giai điệu
Biểu đạt khía cạnh khác của hình tƣợng
Bổ sung, hỗ trợ giai điệu
Xây dựng hình tƣợng
Thể hiện hình tƣợng một cách chi tiết, cụ thể
Có thể khái quát chức năng của phần đệm trong thể loại CKNTVN qua sơ đồ sau
Sơ đồ 11: Chức năng phần đệm trong ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Nhƣ vậy trong thể loại CKNTVN, phần đệm không chỉ có chức năng làm
nền, phụ họa cho giai điệu mà còn góp phần vào việc đồng hành, hỗ trợ cho giai
điệu trong việc xây dựng hình tƣợng nghệ thuật
3.2.2. Phần đệm trong việc xây dựng phần phụ
Khác với các thể loại ca khúc thông thƣờng, trong CKNTVN, bên cạnh
những phần chính thƣờng đƣợc thể hiện bởi giọng ca kết hợp với phần đệm
thì trong các phần phụ, yếu tố phần đệm lại giữ vai trò chính yếu. Trong một
số ít tác phẩm, đôi khi có yếu tố thanh nhạc xen kẽ trong các phần phụ, tuy
nhiên trong phần lớn trƣờng hợp, dù ở các tính chất, quy mô khác nhau thì
phần đệm vẫn giữ vai trò quyết định trong việc thể hiện các phần phụ. Những
phần phụ trong các CKNTVN nhƣ mở đầu, nối, kết, các phần nối giữ một vai
trò quan trọng trong việc dẫn dắt và tạo cân bằng cho cấu trúc tác phẩm.
3.2.2.1. Quy mô các phần mở đầu, nối và kết
Trong khi các phần chính thƣờng có quy mô tƣơng ứng với một đoạn
hoặc một tổ hợp các đoạn nhạc, quy mô của các phần phụ lại rất đa dạng, từ
những quy mô phần nhạc, đoạn nhạc, cho tới những quy mô nhỏ hơn là các câu
nhạc, tiết nhạc, motiv, thậm chí có khi những phần phụ này còn bị giảm thiểu,
129
vắng mặt trong tác phẩm. Những phần phụ ở quy mô lớn đƣợc sử dụng nhƣ
một sự bổ sung về chất liệu và ngôn ngữ âm nhạc. Trong phần mở đầu của tác
phẩm Phác thảo mùa thu của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.100], khác với việc thể
hiện bằng piano thông thƣờng, ở đây còn bao gồm một cơ cấu nhỏ có sự tham
gia của bè thanh nhạc tạo nên một phần mở đầu khá lớn (20 nhịp), và cùng
những đoạn nối và kết đã tạo nên tổng thể một tác phẩm mặc dù chỉ ở hình
thức một đoạn nhạc nhƣng vẫn phong phú về chất liệu và diễn tả đƣợc nhiều
khía cạnh khác nhau của hình tƣợng nghệ thuật.
Trong mỗi tác phẩm CKNTVN quy mô lớn thƣờng sẽ không đƣợc sử
dụng ở tất cả các phần mở đầu, nối và kết. Một trong các phần phụ sẽ bị giảm
quy mô thành các câu nhạc, tiết nhạc hoặc thậm chí không xuất hiện trong tác
phẩm, điều này phổ biến với các phần nối và kết, nhƣng lại ít áp dụng với
phần mở đầu, do phần mở đầu có tính chất dẫn dắt và giới thiệu nên thƣờng
cần sự hoàn chỉnh nhất định về ý nhạc; còn các đoạn nối và kết có thể bị giảm
thiểu trong trƣờng hợp các phần chính đã tạo đủ sự hoàn chỉnh âm nhạc cho
tác phẩm. Có thể thấy điều này trong một số tác phẩm của Huy Du nhƣ Hát
nữa đi em không có mở đầu và kết [PL4; tr.249], Khúc hát ban chiều không có
phần nối [PL4; tr.241]; Tình ca mùa xuân của Đặng Hữu Phúc không có kết
[PL4; tr.59], Kỷ niệm Matxcova của Hoàng Dƣơng không có phần nối [PL4;
tr.407]…Có những tác phẩm không có các phần phụ ở quy mô đoạn nhạc mà
chỉ còn các motiv hoặc các nét nhạc dẫn nối các phần chính hoặc các câu
nhạc, tiết nhạc với nhau nhƣ trong tác phẩm Màu tím chiến khu của Doãn Nho.
VD 3.27: Doãn Nho, Màu tím chiến khu, nhịp, 6-15
130
Xen kẽ với phần thanh nhạc là những motiv có tính chất dẫn nối, lấp chỗ
trống của phần đệm. Những motiv này thực chất đƣợc lấy từ chất liệu của chủ
đề chính cho thanh nhạc, tạo nên sự liền mạch và thống nhất về chất liệu âm
nhạc của cả đoạn nhạc. Các motiv dẫn nối cũng là một cách thức khá phổ biến
trong nhiều tác phẩm CKNTVN nhƣ Miền Nam của ta muôn đời vẫn cất tiếng
ca [PL4; tr.274], Hàng dừa xanh [PL4; tr.271] của Huy Du; Cây bàng cuối thu
[PL4; tr.598], Nhớ Mẹ ta xƣa [PL4; tr.634], Đƣờng sang Vĩ Dạ [PL4; tr.652]
của Hoàng Cƣơng; Hát ru [PL4; tr.550], Đôi mắt tiếng lòng [PL4; tr.553] của
Trần Thanh Hà; Ngủ ngoan ngủ ngoan của Trần Đinh Lăng [PL4; tr.557]; Cơn
mƣa sang đò [PL4; tr.29], Bên cây trúc đào [PL4; tr.32], Hoa lục bình [PL4;
tr.49], Hoài niệm mùa thu [PL4; tr.110], Ngày mai trời chớm lạnh [PL4;
tr.114], Hà Nội mƣa mùa đông [PL4; tr.126], Tình ca ban đêm [PL4; tr.196],
Trên những tháng ngày [PL4; tr.203] của Đặng Hữu Phúc… Đặc điểm chung
của các cơ cấu nhỏ này là không có đặc điểm âm nhạc nổi trội, không tạo nên
hình tƣợng, ấn tƣợng độc lập mà chỉ có tính chất dẫn nối. Tuy nhiên đây là
những cơ cấu không thể thiếu và thực tế đƣợc sử dụng phổ biến rộng rãi trong
nhiều tác phẩm CKNT nói chung và CKNTVN nói riêng.
Những phần phụ nhƣ mở đầu, nối, kết không chỉ đa dạng về quy mô
trong mỗi phần mà còn phong phú ngay trong mối tƣơng quan về quy mô
giữa các phần phụ với nhau. Thực tế, qua phân tích 136 CKNTVN ta thấy,
sự cân đối về quy mô các phần phụ là không nhiều. Trong hầu hết các tác
phẩm, phần mở đầu thƣờng có quy mô lớn hơn nối và kết. Tỷ lệ các phần
131
mở đầu có quy mô từ một đoạn nhạc hoàn chỉnh trở lên cao hơn nhiều so với
phần nối và kết. Phần mở đầu có cấu trúc nhƣ một đoạn nhạc hoàn chỉnh có
thể thấy trong các CKNTVN nhƣ Lẻ loi (nhịp 1-18), Chiều quan họ (nhịp 1-
23), Còn gì cho quê hƣơng (nhịp 1-16), Ƣớc mùa xuân (nhịp 1-10) của
Hoàng Cƣơng (nhịp 1-17); Thời gian và kỉ niệm của Đào Trọng Minh (nhịp
1-14); Tình lặng, Tình em còn mãi xanh của Trần Thanh Hà; Ru con trong
mƣa xuân (nhịp 1-13), Giấc mơ quê (nhịp 1-10), Tôi vẫn hát (nhịp 1-8) Giã
Biệt (nhịp 1-13), Lời ru cao nguyên (nhịp 1-18), Bình minh trên biển (nhịp
1-12), Biển mƣa (nhịp 1-13), Biển hát (nhịp 1-18) của Đặng Hữu Phúc…
Những tác phẩm có kết hoàn chỉnh nhƣ một đoạn nhạc là Còn gì cho quê
hƣơng (15 nhịp cuối) của Hoàng Cƣơng, Tình em còn mãi xanh của Trần
Thanh Hà (17 nhịp cuối), …
Phần nối thƣờng có hai dạng, dạng thứ nhất là nhắc lại, mô phỏng
nguyên vẹn hoặc một phần mở đầu, và trong nhiều trƣờng hợp phần nối chỉ
nhắc lại một nửa mở đầu. Dạng thứ hai là phần nối có chất liệu âm nhạc mới,
trừ một số ít các trƣờng hợp phần nối có quy mô hoàn chỉnh nhƣ những cơ
cấu trong phần chính của tác phẩm, thì trong hầu hết trƣờng hợp khác, phần
nối chỉ là những nét nhạc dẫn dắt hoặc tạo những mảng màu sắc, những âm
hình đệm tạo không gian cho phần thanh nhạc tiếp theo hoặc bổ sung những
khía cạnh khác của hình tƣợng nghệ thuật. Còn phần kết trong nhiều tác
phẩm chỉ là một nét nhạc ngắn hoặc những âm hình đệm hoặc những vòng
hòa âm tạo màu sắc để kết thúc tác phẩm. Trong các CKNT của Trần Mạnh
Hùng, các đoạn dạo thƣờng là sự lặp lại cả về chất liệu cũng nhƣ quy mô,
bên cạnh đó có thể kể đến một số tác phẩm khác có sự chênh lệch về quy mô
giữa các đoạn mở đầu, nối và kết nhƣ Tôi sẽ ca mãi đời anh của Huy Du
(giảm thiểu phần nối và kết), Bóng trăng (mở đầu 9 nhịp, nối 2 nhịp, kết 5
nhịp) và Biển mƣa (mở đầu 13 nhịp, giảm thiểu nối và kết) của Đặng Hữu
Phúc…(xem Bảng PL2d Quy mô các phần phụ [PL2; tr.189]). Qua phân tích
132
có thể thấy bằng sự thể hiện của phần đệm, các phần phụ trong thể loại
CKNTVN có quy mô đa dạng và linh hoạt hơn so với các phần chính, từ đó
đảm nhiệm đƣợc nhiều nhiệm vụ khác nhau.
3.2.2.2. Mối tƣơng quan về chất liệu của phần phụ với phần chính
Các phần phụ chính là điểm khác biệt giữa CKNT với ca khúc thông
thƣờng, có chức năng làm rõ hơn ý tƣởng sáng tác cũng nhƣ dẫn nối các phần
chính. Phần lớn trong 136 CKNTVN đều có những phần mở đầu, nối, kết
thống nhất chặt chẽ về tính chất với nhau, có thể đồng nhất chất liệu với phần
chính và có thể xây dựng chất liệu mới.
Cách thứ nhất là chất liệu các phần phụ đồng nhất với nhau và đồng
nhất với chất liệu trong phần chính nhƣ ở các tác phẩm Bài ca tình yêu của
Doãn Nho (mở đầu lấy chất liệu từ giai điệu trong phần chính), Ơi Mẹ làng
Sen của Trần Mạnh Hùng (thể hiện nguyên dạng giai điệu đoạn b), Tiếng hát
anh tìm em của Hoàng Dƣơng (mở đầu khai thác facture piano trong phần
chính), Có chúng tôi trên hải đảo xa xôi của Huy Du (mở đầu khai thác âm
điệu giai điệu và phần đệm trong phần chính), Biển hát (mở đầu khai thác tiết
tấu của giai điệu trong phần chính), Du thuyền trên hồ Tây của Đặng Hữu
Phúc (mở đầu khai thác facture piano trong phần chính)… Trong 136
CKNTVN, đây là kiểu tƣơng quan chất liệu phổ biến giữa phần phụ và phần
chính. Ở các đoạn dạo, những chất liệu đặc trƣng có thể xuất hiện ở giai điệu
hoặc ở phần đệm, thƣờng thể hiện âm điệu của giai điệu hoặc facture phần
đệm ở các phần chính. Cách cấu trúc về chất liệu theo cách này sẽ tạo nên
tính xuyên suốt và thống nhất cho chủ đề và hình tƣợng trong tác phẩm.
Ở thể loại CKNTVN, hầu hết các phần phụ đƣợc thể hiện bằng nhạc cụ,
nhƣng bên cạnh đó có thể thấy một số phần nối là sự kết hợp giữa thanh nhạc
và khí nhạc trong nhiều CKNTVN nhƣ Con đƣờng sầu đông, Ru thầm, Hà
Nội vào thu nhớ mẹ, Trên núi Oatari của Hoàng Cƣơng; Tình ca của Hoàng
Dƣơng; Mƣa, Lời ru trống đồng, Phác thảo mùa thu của Đặng Hữu Phúc,
133
Giấc mơ mùa lá của Trần Mạnh Hùng, Anh vẫn thấy của Huy Du…Hoặc cũng
có khi phần đệm đƣợc xen kẽ liên tục với phần thanh nhạc nhƣ một sự đồng
đẳng đối đáp trong tác phẩm Mƣa yêu cúc trắng của Hoàng Cƣơng….
Bên cạnh đó, không ít CKNTVN có chất liệu phần phụ là chất liệu mới
so với các phần chính, lúc này phần phụ chủ yếu có chức năng dẫn dắt, gợi
mở để tiến vào đoạn chính hoặc tạo những hiệu quả âm nhạc mới, lấp đầy
những khoảng trống giữa các phần chính, tuy nhiên tính chất, hiệu quả âm
nhạc chung giữa các phần vẫn luôn đƣợc đảm bảo. Đặc biệt trong những tác
phẩm có sự nhắc lại nhiều lần của các đoạn trong phần chính thì lại càng cần
những phần phụ có chất liệu khác để tạo nên sự đa dạng về chất liệu. Có thể
minh họa điều này với tác phẩm Bình minh trên biển của Đặng Hữu Phúc
[PL4; tr.147], phần mở đầu có chất liệu khác biệt so với những đoạn nhạc có
giai điệu thanh nhạc sau đó. Ở đây, đoạn dạo nhƣ một cơ cấu tạo nên hiệu quả
ban đầu với hình tƣợng các lớp sóng biển liên tục từ nhỏ đến lớn, một không
gian âm nhạc dẫn dắt vào phần thanh nhạc sau đó. Cách cấu trúc chất liệu nhƣ
vậy sẽ tạo nên những mảng chất liệu chính phụ xen kẽ, tạo sự đa dạng cho âm
nhạc và hình tƣợng nghệ thuật, tuy khác biệt nhƣng vẫn có sự thống nhất, liên
kết, tƣơng tác, hỗ trợ lẫn nhau.
Đặc biệt, trong một số CKNTVN, có những phần dạo dầu mang âm
hƣởng dân gian Việt Nam. Điều này đƣợc thể hiện đặc biệt rõ nét trong các
tác phẩm mang âm hƣởng dân gian của Đặng Hữu Phúc. Các đoạn mở đầu
của những tác phẩm này phần lớn có chất liệu mô phỏng hiệu quả âm thanh
của các loại nhạc cụ truyền thống hoặc mang âm hƣởng các thể loại âm nhạc
truyền thống Việt Nam nhƣ các tác phẩm Khúc hát Trƣơng Chi, Giấc mơ quê,
Bóng trăng, Hoa lục bình, Tình ta nhƣ đỉnh núi,... Trong các tác phẩm này,
việc sử dụng các thang ngũ cung kết hợp với các âm hình facture gần gũi với
âm nhạc dân gian đã tạo nên một sự dẫn dắt hiệu quả cho các tác phẩm. Trong
một số tác phẩm khác của Đặng Hữu Phúc nhƣ Biển hát, tác giả đã mô phỏng
134
tính chất của một điệu Hò khi đƣa vào hợp xƣớng nam với phần lời “Hò, dô”
trong đoạn nhạc thứ hai, tạo nên âm hƣởng của âm nhạc truyền thống Việt
Nam một cách rõ nét. Hoặc nhƣ trong tác phẩm Lời ru của Hoàng Cƣơng, tác
giả đã mô phỏng lối hát ru “À ơi” bằng cách xen kẽ phần hát có tính tự do,
ảnh hƣởng từ âm nhạc dân gian với phần hát có ca từ đầy đủ. Mặc dù dạng
cấu trúc chất liệu này không đại diện và không thể hiện tính chất đặc trƣng
cho thể loại CKNTVN nhƣng cũng góp phần tạo nên sự đa dạng trong cấu
trúc chất liệu cho các tác phẩm.
Trên đây là các dạng cấu trúc chất liệu phổ biến nhất trong thể loại
CKNTVN, bên cạnh đó còn có những dạng thức khác nhƣ, các đoạn mở đầu,
nối và kết có chất liệu và tính chất khác nhau, hoặc một trong số đó có chất
liệu ảnh hƣởng từ chủ đề của các phần chính, còn những phần phụ khác lại
chỉ mang tính chất dẫn nối… Qua phân tích còn thấy bên cạnh những phần
phụ đƣợc thể hiện bởi phần đệm, trong một số tác phẩm của Hoàng Cƣơng,
Đặng Hữu Phúc và Hoàng Dƣơng, phần phụ còn có sự tham gia của phần
thanh nhạc mang chức năng của một bè tạo màu sắc, tạo sự phong phú cho
tính chất và chất liệu của các phần phụ trong các CKNTVN.
3.2.3. Facture phần đệm
Facture phần đệm trong thể loại CKNTVN đƣợc làm rõ qua việc phân
tích, hệ thống các âm hình rải hoặc chồng hợp âm, các âm hình có tính chu kỳ
hoặc không có chu kỳ, các âm hình mô phỏng giai điệu hoặc có tiết tấu độc lập.
3.2.3.1. Các dạng facture phần đệm phổ biến
Những âm hình rải thƣờng phổ biến cho những ca khúc có tính chất trữ
tình, nhẹ nhàng, sâu lắng. Và ngƣợc lại, những tác phẩm sử dụng chủ đạo các
âm hình chồng âm thƣờng sẽ có tính chất mạnh mẽ, khỏe khoắn. Tuy nhiên,
rất ít tác phẩm sử dụng một trong hai dạng đó một cách riêng lẻ, mà đa phần
là kết hợp để tạo ra một âm hình hiệu quả và phù hợp nhất cho tác phẩm, nhƣ
trong ví dụ minh họa sau ở ca khúc Tôi sẽ ca mãi đời anh của Huy Du.
135
VD 3.28: Huy Du, Tôi sẽ ca mãi đời anh, nhịp 8-10
Việc kết hợp một cách linh hoạt các âm hình rải hợp âm cùng các
chồng âm, hợp âm đã tạo nên một phần đệm vừa dày nhƣng cũng vẫn mềm
mại và uyển chuyển. Phƣơng thức này đƣợc sử dụng phổ biến rộng rãi trong
hầu hết các CKNTVN. Sự kết hợp giữa âm hình rải và chồng hợp âm là một
phƣơng thức quan trọng và hiệu quả tạo nên sự phong phú của các âm hình
đệm, giúp cho phần đệm trở nên linh hoạt và đáp ứng đƣợc nhiều yêu cầu
khác nhau về tính chất âm nhạc của tác phẩm.
Bên cạnh đó một số tác phẩm có sử dụng những facture piano mô
phỏng chất liệu âm nhạc dân tộc, nhƣ trong chùm 12 Romance mang chất liệu
âm nhạc dân gian của Đặng Hữu Phúc. Tác phẩm Khúc hát Trƣơng Chi [PL4;
tr.18] có facture piano mô phỏng âm thanh của sáo trúc, trong khi đó phần mở
đầu tác phẩm Hoa lục bình [PL4; tr.48] lại mô phỏng tiếng đàn thập lục, các
âm hình phần đệm xuyên suốt tác phẩm Giấc mơ quê [PL4; tr.11] mô phỏng
đàn thập lục, tác phẩm Tình ta nhƣ đỉnh núi [PL4; tr.15] với âm hình tiết tấu
đặc trƣng và các nốt hoa mỹ đã đem lại đặc trƣng của tiếng đàn Tính của dân
tộc Thái cùng với âm hình đệm nhảy quãng xa gấp khúc nhịp nhàng kèm theo
các nốt láy tạo màu sắc của âm nhạc miền núi cao, tác phẩm Bóng trăng [PL4;
136
tr.35] biểu hiện tính chất dân ca qua việc mô phỏng âm thanh của sáo tre
(Bamboo flauto), tác phẩm Lời ru cao nguyên [PL4; tr.52] mô phỏng âm thanh
của đàn T’rƣng… Những facture tạo màu sắc âm nhạc dân tộc là một công cụ
hữu hiệu trong việc đƣa vào âm nhạc những âm hƣởng của âm nhạc dân gian,
thể hiện tƣ duy sáng tác kết hợp giữa âm nhạc phƣơng Tây với âm nhạc
truyền thống Việt Nam.
Bên cạnh đó, phần đệm còn góp phần thể hiện tính hàn lâm cho thể loại
CKNTVN. Nhiều phần đệm có facture phức tạp, tiết tấu ở dạng trƣờng độ
không cơ bản, biết đổi phức tạp hoặc không đồng nhất giữa các bè, những nét
chạy lƣớt ở tốc độ nhanh hoặc có quãng di chuyển phức tạp, tiết luật biến đổi
linh hoạt. Có thể thấy điều này đặc biệt rõ nét ở phần đệm trong các tác phẩm
của Đặng Hữu Phúc, Đặng Tuệ Nguyên, Trần Mạnh Hùng. Với Đặng Hữu
Phúc, ông thƣờng hay sử dụng các tiết tấu thay đổi liên tục, đảo phách và các
nét chạy lƣớt dồn dập ở tốc độ cao. Có thể lấy ví dụ nhƣ trong tác phẩm Khúc
hát Trƣơng Chi [PL4; tr.19], tiết tấu đƣợc biến đổi linh hoạt phức tạp với
nhiều đảo phách, tác phẩm Bình minh trên biển [PL4; tr.147] với tốc độ
nhanh, linh hoạt, tác phẩm Sau khi biết em [PL4; tr.171] có phần đệm không
đồng nhất về tiết tấu với giai điệu, tác phẩm Lời em dịu êm [PL4; tr.174] sử
dụng phổ biến các chùm 6, 7, 9... Ngoài ra nhiều tác phẩm sử dụng các nét
chạy lƣớt với hình thức xen kẽ liên lục hai tay đàn ở tốc độ nhanh để tạo nên
sự dồn dập trong sắc thái, tính chất âm nhạc. Với Trần Mạnh Hùng, nhiều
CKNT có phần đệm dày dặn, nhiều bè, nhiều tầng, những hợp âm chồng theo
hình thức cột dọc đƣợc nối tiếp liên tục đòi hỏi kỹ thuật biểu diễn nhạc cụ
thành thục. Bên cạnh đó, Đặng Tuệ Nguyên lại tập trung khai thác nhiều âm
hình đệm phong phú, biến đổi liên tục, nhiều âm hình chùm tiết tấu tự do ở
tốc độ nhanh [PL4; tr.498]. Ngoài ra, trong các tác phẩm của Đặng Hữu Phúc,
Trần Mạnh Hùng, …thƣờng xuất hiện những tiết tấu đảo phách, những kỹ
thuật chạy ngón khó, hoặc không đồng nhất trong tiết luật giữa các bè, thể
137
hiện kỹ thuật sáng tác thành thục. Một phần đệm cũng có thể phức tạp trong
việc thể hiện sắc thái, đòi hỏi ngƣời biểu diễn có kỹ thuật tốt cũng nhƣ có khả
năng phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả với ngƣời hát. Tuy vậy, bên cạnh đó,
nhiều tác giả vẫn ƣa dùng những phần đệm có kỹ thuật đơn giản, tính chu kỳ
rõ ràng nhƣ Hoàng Dƣơng, Hoàng Cƣơng, Doãn Nho, Trần Thế Bảo, lúc này
các phần đệm lại thƣờng có sự bám sát tinh tế, phụ họa và làm nền một cách
hiệu quả cho giai điệu.
3.2.2.2. Tính chu kỳ của facture phần đệm
Tính chu kỳ của âm hình đệm đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
nên nhịp điệu cho tác phẩm. Ở hầu hết CKNTVN, phần đệm thƣờng có tính
chu kỳ, có thể ở chu kỳ ngắn theo từng ô nhịp hoặc dài hơn tƣơng ứng với các
tiết nhạc hoặc câu nhạc trong phần thanh nhạc. Có thể minh họa bằng trích
đoạn trong tác phẩm Tiếng hát anh tìm em của Hoàng Dƣơng với chu kỳ nhịp
điệu của phần đệm chịu ảnh hƣởng từ chu kỳ của các tiết nhạc trong giai điệu.
VD 3.29: Hoàng Dƣơng, Tiếng hát anh tìm em, nhịp 20-26
Mặc dù âm hình tiết tấu của giai điệu và phần đệm là khác nhau nhƣng
đều có chu kỳ là 2 nhịp, và các chu kỳ này đƣợc lặp đi lặp lại liên tục trong cả
tác phẩm tạo nên chu kỳ của facture đệm xuyên suốt cả tác phẩm. Sự đồng
nhất về chu kỳ giữa phần thanh nhạc và phần đệm còn đƣợc thể hiện trong các
tác phẩm khác nhƣ Hà Nội vào thu nhớ mẹ của Hoàng Cƣơng [PL4; tr.593],
138
Tình lặng của Trần Thanh Hà [PL4; tr.537]; Mùa thi năm ấy [PL4; tr.88], Trên
những tháng ngày [PL4; tr.203], Giã biệt [PL4; tr.43], Lời ru cao nguyên [PL4;
tr.52] của Đặng Hữu Phúc…
Tuy nhiên một số CKNTVN có phần đệm có chu kỳ không rõ ràng
hoặc không có chu kỳ. Khi đó, phần đệm sẽ tạo ra tính chất ngẫu hứng, phóng
khoáng và mạch cảm xúc có tính tự do. Những phần đệm không có tính chu
kỳ cũng thƣờng bắt nguồn và tƣơng ứng với những giai điệu không có sự lặp
lại về tiết tấu và nhịp điệu giữa các tiết nhạc, câu nhạc hoặc những giai điệu
không có quy luật rõ ràng. Việc có hay không tính chu kỳ của phần đệm chủ
yếu bị chi phối do tính chu kỳ của giai điệu, điều này quyết định rất nhiều đến
nhịp điệu, tính chất của âm nhạc của tác phẩm và đem lại những hiệu quả,
cảm nhận khác nhau đối với ngƣời nghe. Điều này đƣợc biểu hiện trong một số tác
phẩm CKNTVN nhƣ Ngủ ngoan ngủ ngoan của Trần Đinh Lăng [PL4; tr.557];
Hƣớng về Hà Nội của Hoàng Dƣơng [PL4; tr.393]; Khúc hát Trƣơng Chi [PL4;
tr.18], Tình ca mùa xuân [PL4; tr.59], Hỏi em [PL4; tr.27] của Đặng Hữu Phúc…
Qua phân tích cho thấy facture phần đệm trong các CKNTVN đa dạng
cả về các loại âm hình đệm cũng nhƣ trong mối quan hệ với tiết tấu của giai
điệu, tính chất đơn giản hay phức tạp, tính chu kỳ hay không chu kỳ… điều
đó tạo nên một hệ thống facture phong phú thể hiện một cách linh hoạt những
hiệu quả âm nhạc khác nhau.
3.2.3.3. Sự phát triển hệ thống facture phần đệm trong tác phẩm
Sự vận động, mối tƣơng quan giữa các tuyến bè trong mỗi loại facture
đƣợc biểu hiện bằng sự sắp xếp các cao độ, trƣờng độ và sự tƣơng tác giữa
các yếu tố này trong mỗi loại facture đƣợc sử dụng. Những chu kỳ chuyển
động của các quãng thuận hay nghịch, rộng hay hẹp, những âm hình tiết tấu
mau hay thƣa sẽ tạo nên những hiệu quả âm nhạc khác biệt. Việc kết hợp theo
chiều dọc những bè khác nhau trong quá trình hình thành facture cũng tạo nên
những hiệu quả riêng, thực hiện những ý đồ nghệ thuật cụ thể. Có thể lấy ví
139
dụ nhƣ trong tác phẩm Hoa Mộc Miên của Huy Du.
VD 3.30: Huy Du, Hoa Mộc Miên, nhịp 7-9
Ở tác phẩm này, trong mỗi đoạn nhạc, phần đệm lại có những đặc trƣng
về tiết tấu để tạo nên nhịp điệu cho tác phẩm, mỗi tuyến bè có một tính chất
nhịp điệu riêng, có bè là sự trì tục trên một cao độ với tiết tấu đảo phách, có
bè là sự di chuyển liền bậc với tiết tấu đồng độ gồm các nốt móc đơn. Bên
cạnh đó, khi phần đệm chứa đựng nhiều âm hình đệm khác nhau ở nhiều tầng
bè đƣợc kết hợp cùng một lúc cũng tạo nên những hiệu quả âm nhạc đặc biệt.
Bên cạnh mối liên hệ theo chiều dọc, sự vận động, phát triển theo chiều
ngang của hệ thống các facture cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc
tạo động lực phát triển âm nhạc cho tác phẩm. Các cơ cấu khác nhau trong tác
phẩm sẽ tƣơng ứng với những facture phần đệm khác nhau, phù hợp với hình
tƣợng và tính chất âm nhạc. Các phần đoạn trong tác phẩm ban đầu thƣờng sẽ
đƣợc trình bày một cách cô đọng với những facture đơn giản. Sau đó, cùng
với sự biến đổi của giai điệu và tính chất âm nhạc, các facture cũng đƣợc thay
đổi, phát triển, tăng cƣờng để đẩy ngôn ngữ âm nhạc tiến triển theo ý đồ của
tác giả. Tác phẩm Gió lộng bốn phƣơng của Trần Mạnh Hùng thể hiện rõ điều
này. Trong khi đoạn a [PL4; tr.465] với âm hình rải hợp âm với tính chất dàn
trải, nhẹ nhàng, thì trong đoạn b [PL4; tr.466], phần đệm đƣợc cấu trúc ở
dạng đa tầng với sự phát triển của các hợp âm đƣợc vang lên theo dạng cột
dọc, các tuyền bè trầm đƣợc điệp thêm quãng 8, cho tới đoạn chen với chất
liệu mới [PL4; tr.470] thì phần đệm lại sử dụng các hợp âm đƣợc biểu hiện ở
dạng staccato liên tục kèm theo các tầng bè ở âm khu trầm và cao tạo sự mạnh
140
mẽ, dứt khoát và có âm hƣởng anh hùng ca trƣớc khi âm nhạc đƣợc thoát lên,
dẫn vào đoạn điệp khúc cao trào ngay sau đó.
Việc biến đổi các facture phần đệm chính là động lực tạo nên sự phát
triển cho tác phẩm, giúp cho những hình tƣợng của giai điệu trở nên rõ ràng
và có tính giai đoạn một cách cụ thể hơn. Những tác phẩm biểu hiện rõ ràng
cho chức năng tạo động lực phát triển âm nhạc của facture phần đệm có thể
kể đến là Hoa mộc miên [PL4; tr.280], Bế Văn Đàn sống mãi [PL4; tr.308]
của Huy Du, Nhớ về đồng đội của Lê Hồng Lĩnh [PL4; tr.563], Tình ca của
Hoàng Dƣơng [PL4; tr.398]; Lẻ loi [PL4; tr.657], Dòng sông lời ru [PL4;
tr.574], Còn gì cho quê hƣơng [PL4; tr.580], Con đƣờng sầu đông [PL4;
tr.612]; Bên vƣờn khuya [PL4; tr.191], Cơn giông [PL4; tr.81], Gió bấc [PL4;
tr.136], Ru con trong mƣa xuân [PL4; tr.63], Tiếng chuông giao thừa [PL4;
tr.73], Mùa hè chia tay [PL4; tr.84], Du thuyền trên Hồ Tây [PL4; tr.211] của
Đặng Hữu Phúc…
Bản thân tính chất của facture cũng góp phần định hình cấu trúc của tác
phẩm. Khi giai điệu không rõ tính chu kỳ, nhƣng phần đệm có facture đặc
trƣng về tính nhịp điệu, đƣợc phát triển mạch lạc qua các giai đoạn sẽ góp
phần phân chia tác phẩm thành các cơ cấu một cách rõ ràng, và ngƣợc lại.
Nhƣ vậy sự phát triển của hệ thống facture phần đệm có thể tác động đến sự
phân chia cấu trúc tác phẩm theo nhiều cách thức phong phú.
Đặc biệt những tác phẩm có cấu trúc nhiều phần/đoạn và liên tục thay
đổi về tính chất, đặc điểm âm nhạc sẽ cần đến sự phát triển linh hoạt của các
facture phần đệm, thể hiện nghệ thuật sử dụng âm hình đệm của các tác giả.
3.2.4. Hòa âm
Trong thể loại CKNTVN, ngôn ngữ hòa âm đƣợc làm rõ thông qua đặc
điểm về cấu trúc hợp âm, tiến trình hòa âm… Hòa âm góp phần tạo nên giá trị
nghệ thuật và tính chuyên nghiệp cho CKNTVN, trong đó biểu hiện rõ nét sự
kế thừa âm nhạc phƣơng Tây với âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam.
141
3.2.4.1. Cấu trúc hợp âm, chồng âm
Cấu trúc hợp âm đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên màu sắc,
phong cách âm nhạc cho tác phẩm. Trong các CKNTVN, phổ biến nhất vẫn là
những hợp âm ba trƣởng, ba thứ, thƣờng đƣợc trình bày với các lối xếp rộng,
hẹp thông thƣờng, đem lại cảm giác thuận, rõ ràng về màu sắc trƣởng thứ.
Tuy nhiên bên cạnh đó, trong thể loại này còn phổ biến một số cấu trúc hợp
âm khác đƣợc sử dụng để tạo nên sự đa dạng cho ngôn ngữ hòa âm. Trong số
đó tiêu biểu là các chồng âm quãng 4, 5; hợp âm 7, 9 và hợp âm không rõ âm
chủ hoặc không rõ tính trƣởng thứ.
Các chồng âm quãng 4, 5 đƣợc biểu hiện ở hai dạng phổ biến. Dạng
thứ nhất có hình thức giống nhƣ một hợp âm 3 trƣởng hoặc hợp âm 3 thứ có
âm 3 đƣợc thay thế bằng âm 4.
Đây là sự kết hợp chồng một quãng 4 Đúng và một quãng 5 Đúng từ
cùng một cao độ ban đầu, hoặc chồng liên tiếp 2 quãng 4 Đúng hoặc 2 quãng
5 Đúng từ một cao độ. Chính bởi kết cấu đó, các chồng âm này thƣờng mang
tính chất trung tính, không phân biệt rõ ràng màu sắc trƣởng thứ. Đây là dạng
chồng âm đƣợc sử dụng nhiều trong các tác phẩm mang âm hƣởng dân gian,
nhƣ trong tác phẩm Hát ru của Trần Thanh Hà.
VD 3.31: Trần Thanh Hà, Hát ru, nhịp 17-21
Ở ví dụ trên, bên cạnh một số hợp âm ba trƣởng, ba thứ đƣợc kết hợp ở
dạng đa tầng, việc trì tục bởi những chồng âm kết hợp quãng 4, 5 xuất hiện
liên tục đã tạo nên âm hƣởng dân gian, làm mờ tính chất trƣởng thứ trong
điệu thức. Ngoài ra, có thể thấy rõ điều này trong nhiều ca khúc mang âm
hƣởng dân gian của Đặng Hữu Phúc, tiêu biểu nhƣ Bên cây trúc đào [PL4;
142
tr.32], Bóng trăng [PL4; tr.36], Chiều bên kia sông [PL4; tr.184], Hai phía
dòng sông [PL4; tr.22], Giã biệt [PL4; tr.43], và Gió bấc [PL4; tr.136], Kỉ
niệm không em kỉ niệm không hồn [PL4; tr.180], Du thuyền trên Hồ Tây [PL4;
tr.212], hoặc tác phẩm Nụ của Doãn Nho [PL4; tr.446], Nhớ mẹ ta xƣa của
Hoàng Cƣơng [PL4; tr.633], Nhớ về đồng đội của Lê Hồng Lĩnh [PL4;
tr.563], Nửa đêm của Trần Thế Bảo [PL4; tr.531], Ơi Mẹ làng Sen của Trần
Mạnh Hùng [PL4; tr.479], Hát ru của Trần Thanh Hà [PL4; tr.549]...
Dạng thứ 2 của chồng âm quãng 4, 5 là cách kết hợp chồng nối tiếp một
quãng 4 Đúng với một quãng 5 Đúng hoặc ngƣợc lại.
Với cách này sẽ tạo nên một chồng âm có hình thức giống với một hợp
âm bị thiếu âm 3, chỉ còn lại âm 1 và âm 5. Chính vì vậy chồng âm này mang
đến một hiệu quả âm nhạc trung tính do không thể hiện tính chất trƣởng thứ
nhƣ ở các hợp âm chồng quãng 3, tạo cảm giác nhấn mạnh về trục hợp âm
chứ không chú trọng về màu sắc của hợp âm. Có thể thấy điều này qua tác
phẩm Hãy cùng ta biển ơi của Doãn Nho.
VD 3.32: Doãn Nho, Hãy cùng ta biển ơi, nhịp 31-35
Trong trích đoạn này, những chồng âm kết hợp nối tiếp quãng 4, 5 liên
tục xuất hiện, và khi các chồng âm di chuyển song song, việc thiếu đi màu sắc
của âm 3 lại càng trở nên rõ nét, lúc này trục hợp âm chỉ còn lại âm 1 và âm
5, tạo nên những quãng 5, quãng 8 song song đem đến cho ngôn ngữ âm nhạc
143
một tính chất rỗng, trung tính, và cứng cáp, giảm thiểu sự mềm mại có đƣợc
do tính chất trƣởng thứ mang lại, tạo cảm giác không rõ ràng về màu sắc điệu
tính, những tác phẩm biểu hiện điều này là Bản thiên thai trần gian [PL4;
tr.418], Nụ [PL4; tr.446], Hãy cùng ta biển ơi [PL4; tr.428] của Doãn Nho,
Tình ca mùa hè [PL4; tr.76], Cơn mƣa sang đò [PL4; tr.29], Lời ru cao
nguyên [PL4; tr.54] của Đặng Hữu Phúc, Dây đàn thần diệu của Huy Du
[PL4; tr.298], Lời ru của Hoàng Cƣơng [PL4; tr.569]... Các tác phẩm trên
minh họa cho những chồng âm kết hợp nối tiếp quãng 4, 5, ở đó, những
chồng âm trở thành công cụ biểu hiện sự trung tính của ngôn ngữ hòa âm.
Tuy nhiên, những chồng âm này nếu đƣợc sử dụng liên tục sẽ gây nên cảm
giác bị rỗng, đặc biệt là khi nối tiếp nhiều chồng âm kề nhau. Chính vì vậy,
chúng ít khi đƣợc sử dụng một cách rộng rãi và liên tục, mà thƣờng đƣợc xen
kẽ với những hợp âm trƣởng thứ để tạo nên nhiều màu sắc khác nhau, phù
hợp với ý đồ sáng tác trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Một cấu trúc khác cũng phổ biến trong thể loại CKNTVN, đó là các hợp
âm không rõ ràng về chủ âm hoặc về màu sắc trƣởng thứ. Có nhiều cách để tạo
nên những hợp âm không rõ ràng màu sắc trƣởng thứ thuần nhất. Đó có thể là
những hợp âm 7 hoặc nhiều âm hơn nhƣ các hợp âm 9, 11, có thể đƣợc kết hợp
với các biến âm. Loại cấu trúc hợp âm này thƣờng đƣợc sử dụng trong những tác
phẩm có ngôn ngữ hiện đại, mang đến một hiệu quả khác biệt so với những hợp
âm 3. Nếu nhƣ các hợp âm 3 đem lại một màu sắc trƣởng thứ rõ ràng, tính chất
trong sáng và đơn giản, thì việc sử dụng các hợp âm 7, 9 sẽ đem lại một tính chất
âm nhạc phức tạp hơn. Khi các hợp âm này xuất hiện liên tiếp mà không đƣợc
giải quyết, không hƣớng sức hút về bậc chủ của điệu tính chính thì tính ổn định
và chắc chắn của bậc chủ sẽ bị giảm bớt. Ở ví dụ sau trong tác phẩm Đôi mắt –
Tiếng lòng của Trần Thanh Hà, ngay ở phần mở đầu, tác giả đã sử dụng những
hợp âm nằm ngoài hệ thống diatonic của điệu tính chính với nhiều biến âm bất
thƣờng xuất hiện ở các bè khác nhau.
144
VD 3.33: Trần Thanh Hà, Đôi mắt – Tiếng lòng, nhịp 1-4
Ở đây chúng ta có thể thấy những hợp âm thứ 7, hợp âm 7 giảm, hợp
âm trƣởng 7, hợp âm 9… đã đem lại cho âm nhạc tính đa màu sắc so với màu
của hợp âm 3 trƣởng và 3 thứ truyền thống. Việc sử dụng liên tiếp những hợp
âm ở cấu trúc phức tạp nhƣ hợp âm 7, 9, các hợp âm tăng, giảm, có biến âm
cũng góp phần làm giảm bớt sức hút của âm chủ cũng nhƣ của điệu tính, làm
nhòe mờ tính chất trƣởng thứ trong hòa âm của tác phẩm.
Trong thể loại CKNTVN, những hợp âm nằm ngoài hệ thống diatonic
là một thành phần quan trọng trong việc mang lại màu sắc đa dạng cho âm
nhạc. Đó là các hợp âm chứa biến âm, có thể chia thành hai nhóm chính.
Nhóm thứ nhất là những hợp âm đƣợc xây dựng trên các bậc diatonic nhƣng
khác về cấu trúc so với các hợp âm thuộc hệ thống diatonic. Trong nhóm này,
ta thấy phổ biến các hợp âm đƣợc xây dựng trên các bậc chủ, át và hạ át
nhƣng cấu trúc dƣới dạng các hợp âm trƣởng, thứ khác với hợp âm gốc trong
hệ thống diatonic, điều này tạo nên sự thay đổi màu sắc trƣởng thứ cho hợp
âm ba chính có cùng chủ âm. Những hợp âm này có thể luân chuyển lẫn nhau
và dễ dàng quay về điệu tính chính của tác phẩm. Những công năng đƣợc sử
dụng trong việc thay đổi tính chất trƣởng thứ của hợp âm là công năng chủ
(T-t) và hạ át (S-s), các hợp âm này phần lớn đƣợc sử dụng trong các tác
phẩm viết ở điệu thức thứ nhƣ Mƣa [PL4; tr.135] của Đặng Hữu Phúc (S
trong giọng thứ), Bình minh trên biển của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.150] (S-s
trong giọng thứ), Mẹ của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.199] (T S trong giọng thứ),
145
Sau khi biết em của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.171] (T7 trong giọng thứ), Có
chúng tôi trên hải đảo xa xôi của Huy Du [PL4; tr.347] (S trong giọng thứ),
Nhớ về đồng đội của Lê Hồng Lĩnh [PL4; tr.567,568] (s-S, t-T trong giọng
thứ), Hoa mộc miên của Huy Du [PL4; tr.283] (T, T7 trong giọng thứ), Nửa
đêm của Trần Thế Bảo [PL4; tr.531] (S trong giọng thứ), … Bên cạnh đó còn
có một số hợp âm dạng này đƣợc xuất hiện trong các tác phẩm đƣợc viết ở
điệu thức trƣởng nhƣ Hát giữa chiều mƣa của Đặng Hữu Phúc [PL4;
tr.128,130] (T-t, S-s trong điệu trƣởng), Mƣa yêu cúc trắng của Hoàng Cƣơng
[PL4; tr.603] (t trong giọng trƣởng), Dây đàn thần diệu của Huy Du [PL4;
tr.299] (d trong giọng trƣởng), Có một Thăng Long của Doãn Nho [PL4;
tr.425] (s trong giọng trƣởng)… Có thể thấy những hợp âm đƣợc sử dụng
trong trƣờng hợp này chủ yếu ở công năng chủ và hạ át, các công năng T – t
thƣờng đƣợc dùng để thay đổi màu sắc hòa âm chứ không phải với mục đích
chuyển điệu, các công năng S - s có thể đứng độc lập hoặc liền kề với nhau và
thƣờng nối tiếp về công năng chủ ngay sau đó.
Bên cạnh đó trong nhóm này còn xuất hiện những hợp âm đƣợc xây
dựng trên các bậc diatonic khác của điệu thức nhƣng với một cấu trúc bất kỳ.
Qua phân tích các CKNTVN, có thể thấy phổ biến hơn cả là các hợp âm xây
dựng trên bậc II và VII của điệu thức. Những hợp âm này tạo nên những điểm
nhấn nhất định trong hiệu quả hoà âm, tạo sự thay đổi rõ ràng cho tính chất
âm nhạc của tác phẩm. Có thể mình hoạ với các hợp âm ví dụ hợp âm 7
trƣởng, hợp âm 9 xây dựng trên bậc II điệu thức thứ trong tác phẩm Sau khi
biết em của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.171]; hợp âm ba trƣởng xây dựng trên
bậc II của giọng thứ trong tác phẩm Mẹ của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.201];
hợp âm 7 xây dựng trên bậc II trong điệu thức trƣởng ở tác phẩm Khúc giao
mùa của Trần Mạnh Hùng [PL4; tr.475]; hợp âm 3 trƣởng xây dựng trên bậc
II điệu thức trƣởng trong tác phẩm Giấc mơ mùa lá của Trần Mạnh Hùng
[PL4; tr.460]; hợp âm bảy thứ xây dựng trên bậc VII điệu thức thứ tự nhiên
146
trong tác phẩm Hoa mộc miên của Huy Du [PL4; tr.283]; hợp âm ba thứ, hợp
âm thứ bảy xây dựng trên bậc VII điệu thức trƣởng trong tác phẩm Hà Nội
Thủ đô ta đó của Vĩnh Cát [PL4; tr.375]; hợp âm ba thứ xây dựng trên bậc II
điệu thức thứ trong tác phẩm Thông điệp mùa thu của Hoàng Dƣơng [PL4;
tr.414]; hợp âm thứ 7 xây dựng trên bậc II và bậc VII điệu thức thứ trong tác
phẩm Ngủ ngoan ngủ ngoan của Trần Đinh Lăng [PL4; tr.557]; hợp âm thứ 7
xây dựng trên bậc VII tự nhiên điệu thức thứ trong tác phẩm Hoa mộc miên
của Huy Du [PL4; tr.283]...
Nhóm thứ hai chiếm số lƣợng nhiều nhất trong các hợp âm chứa biến
âm ở thể loại CKNTVN, đó là các hợp âm đƣợc xây dựng trên các bậc
chromatic của điệu thức. Những hợp âm này đa dạng về cấu trúc và phong
phú về hiệu quả màu sắc âm nhạc. Việc xuất hiện ở các bậc không thuộc hệ
thống diatonic với một cấu trúc bất kỳ tạo cho âm nhạc màu sắc mới lạ,
những điểm phá cách rõ ràng trong màu sắc hoà âm.
Những hợp âm xây dựng trên biến âm trong các CKNTVN vẫn đƣợc sử
dụng phổ biến trong các tác phẩm viết ở điệu thứ hơn so với điệu trƣởng.
Trong các tác phẩm ở điệu thứ, những hợp âm xây dựng trên biến âm phổ biến là bậc #VI, bII, #IV nhƣ trong tác phẩm Mai em đi rồi của Hoàng Dƣơng [PL4; tr.406] có sử dụng hợp âm ba giảm xây dựng trên bậc #IV, tác phẩm
Nửa đêm của Trần Thế Bảo [PL4; tr.531] có hợp âm bảy thứ xây dựng trên bậc #IV, Sau khi biết em của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.171] với hợp âm ba thứ xây dựng trên bậc #VI, Hƣớng về Hà Nội của Hoàng Dƣơng [PL4; tr.393] có sử dụng hợp âm 3 thứ xây dựng trên bậc #VI, Kỷ niệm không em kỷ niệm
không hồn của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.181] với chồng âm quãng 4, 5 trên bậc #IV, Nửa đêm của Trần Thế Bảo với hợp âm ba thứ trên bậc bII, Hoa Mộc Miên của Huy Du với hợp âm ba trƣởng trên bậc bII [PL4; tr.283], Mùa thu
ƣớc mong của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.107] với hợp âm ba trƣởng trên bậc bVII, hợp âm 7 xây dựng trên bậc bVII trong điệu thức trƣởng trong Khúc giao
147
mùa của Trần Mạnh Hùng…Ngoài ra, trong một số tác phẩm của Đặng Hữu
Phúc, các chủ âm có thể đƣợc đặt trên các bậc khác nhƣ Tình ca ban đêm [PL4; tr.196] sử dụng hợp âm 3 trƣởng, hợp âm 7 xây dựng trên bậc bI và hợp âm 7 xây dựng trên bậc bV, trong tác phẩm Mẹ [PL4; tr.199] có hợp âm ba trƣởng xây dựng trên bậc bV điệu thức thứ, tác phẩm Sau khi biết em [PL4; tr.172] sử dụng hợp âm 9 xây dựng trên bậc #III và ở một số tác phẩm của tác
giả khác nhƣ Ngủ ngoan ngủ ngoan của Trần Đinh Lăng [PL4; tr.558] với hợp âm bảy trƣởng xây dựng trên bậc bV và hợp âm bảy thứ xây dựng trên bậc #VI trong điệu thức thứ,…
Với các tác phẩm viết ở giọng trƣởng, các hợp âm xây dựng trên biến
âm cũng khá đa dạng cả về cấu trúc hợp âm và vị trí của chủ âm. Với điệu thức trƣởng, các hợp âm xây dựng trên biến âm phổ biến ở các bậc bVI, bVII, #IV, nhƣ trong tác phẩm Cây bàng cuối thu của Hoàng Cƣơng [PL4; tr.601] có sử dụng hợp âm bảy trƣởng xây dựng trên bậc bVI, Bài ca tình yêu của Doãn Nho [PL4; tr.417] có sử dụng hợp âm bảy trƣởng xây dựng trên bậc bVI
trong kết bổ sung, Nụ của Doãn Nho [PL4; tr.446] và Gió lộng bốn phƣơng của Trần Mạnh Hùng [PL4; tr.470] sử dụng hợp âm ba trƣởng trên bậc bVI…
VD 3.34: Doãn Nho, Nụ, nhịp 5-10
Bên cạnh đó, có thể minh họa với các hợp âm 3 trƣởng xây dựng trên bậc #VI, chồng âm quãng 4, 5 xây dựng trên bậc #I trong giọng trƣởng với tác
phẩm Giấc mơ mùa lá của Trần Mạnh Hùng [PL4; tr.460], hợp âm xây dựng trên bậc bVII trong giọng trƣởng Có một Thăng Long của Doãn Nho [PL4; tr.425]… Một số tác phẩm có hợp âm xây dựng trên bậc #IV nhƣ Em nhƣ bài
148
thơ không chép đƣợc của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.178] có hợp âm bảy thứ trên bậc #I và #IV, Mƣa yêu cúc trắng của Hoàng Cƣơng [PL4; tr.603] sử dụng hợp âm bảy thứ xây dựng trên bậc #IV và hợp âm bảy xây dựng trên bậc bIII. Bên cạnh đó, còn có hợp âm đƣợc xây dựng trên bậc #II trong điệu thức
trƣởng nhƣ trong tác phẩm Bài ca ban chiều của Đặng Hữu Phúc [PL4;
tr.187] sử dụng nhiều hợp âm ba trƣởng xây dựng trên nhiều bậc khác nhau,
trong đó có những bậc không thuộc hệ thống diatonic, trong tác phẩm Ru con
của Trần Mạnh Hùng [PL4; tr.484] lại sử dụng hợp âm bảy giảm xây dựng trên bậc #II trong điệu thức trƣởng. Với tác phẩm Trên đỉnh núi Oatari của
Hoàng Cƣơng [PL4; tr.627], việc tiến hành các bè dịch chuyển các bƣớc
chromatic tạo nên những hợp âm nằm ngoài hệ thống diatonic, ví dụ nhƣ hình thành hợp âm ba tăng trên bậc bIV ở điệu tính thứ...Các hợp âm chứa biến âm
đa phần cũng có chức năng giảm bớt tính ổn định và rõ ràng của điệu tính,
đem lại những màu sắc mới lạ và ấn tƣợng cho tác phẩm.
Qua thống kê ở bảng trên có thể thấy bên cạnh các hợp âm trƣởng
thứ, trong thể loại CKNTVN các tác giả còn hay sử dụng những cấu trúc
chồng âm - hợp âm nhƣ chồng âm quãng 4, 5; các hợp âm 7, 9; hợp âm
không rõ âm gốc hoặc kết cấu; hợp âm chứa biến âm… Một đặc điểm
chung của những hợp âm này là làm nhòe mờ màu sắc trƣởng thứ, đôi khi
làm giảm tính ổn định của bậc chủ, điều này phù hợp với tƣ duy sáng tác
của những tác phẩm mang âm hƣởng của âm nhạc dân gian - truyền thống
hoặc những tác phẩm mang phong cách âm nhạc hiện đại, phóng khoáng và
cách tân, những khuynh hƣớng âm nhạc cận hiện đại nhƣ hòa âm đa điệu
tính, vô điệu tính, hợp âm đa công năng, hợp âm có cấu trúc đặc biệt… Tuy
vậy, dạng hợp âm này chƣa thực sự ảnh hƣởng và phổ biến trong các
CKNTVN. Nhƣ vậy, bên cạnh các hợp âm 3 phổ biến thì việc làm nhòe mờ
tính chất trƣởng thứ chính là xu hƣớng chung của các cấu trúc hợp âm đặc
biệt đƣợc sử dụng phổ biến trong thể loại CKNTVN.
149
Bảng 3.5: Các dạng cấu trúc hợp âm trong CKNTVN
STT Các dạng hợp âm
1
Hợp âm 7, 9
2
3
Hợp âm có q2, q4, q6 Hợp âm thiếu âm 3
4
Chồng âm q4,5
Tác phẩm minh họa Chiều bên kia sông, Bao giờ em trở lại, Bóng trăng của Đặng Hữu Phúc, Đôi mắt - tiếng lòng, Ngủ ngoan ngủ ngoan của Trần Định Lăng, Nhớ về đồng đội của Lê Hồng Lĩnh Gió bấc, Ru con mùa đông, Hai phía dòng sông, Bóng trăng, Lời ru cao nguyên của Đặng Hữu Phúc; Đƣờng sang Vĩ Dạ, Tiếng thu của Hoàng Cƣơng; Thời gian và kỉ niệm của Đào Trọng Minh Bản thiên thai trần gian, Nụ, Hãy cùng ta biển ơi của Doãn Nho; Tình ca mùa hè, Cơn mƣa sang đò, Lời ru cao nguyên của Đặng Hữu Phúc; Dây đàn thần diệu của Huy Du, Lời ru của Hoàng Cƣơng Bên cây trúc đào, Gió bấc, Kỉ niệm không em kỉ niệm không hồn, Chiều bên kia sông, Hai phía dòng sông, Giã biệt của Đặng Hữu Phúc; Nụ của Doãn Nho; Hát ru của Trần Thanh Hà; Tháng Giêng mùa xuân còn sót lại, Nhớ mẹ ta xƣa của Hoàng Cƣơng; Nhớ về đồng đội của Lê Hồng Lĩnh
5
Hợp âm xây dựng trên bậc diatonic nhƣng thay đổi cấu trúc
6
Hợp âm xây dựng trên biến âm
Ru con trong mƣa mùa đông, Ngọn gió mùa xuân, Mùa thu ƣớc mong, Hoài niệm mùa thu, Hát giữa chiều mƣa, Mƣa, Bình minh trên biển, Ánh trăng, Sau khi biết em, Em nhƣ bài thơ không chép đƣợc, Kỷ niệm không em kỷ niệm không hồn, Bài ca ban chiều, Tình ca ban đêm, Mẹ…của Đặng Hữu Phúc Gió lộng bốn phƣơng, Giấc mơ mùa lá, Khúc giao mùa, Ru con của Trần Mạnh Hùng; Hoa mộc miên, Dây đàn thần diệu, Thề quyết bảo vệ tổ quốc, Có chúng tôi trên hải đảo xa xôi của Huy Du; Bài ca tình yêu, Có một Thăng Long, Nụ của Doãn Nho; Hà Nội Thủ đô ta đó của Vĩnh Cát; Thông điệp mùa thu, Mai em đi rồi, Hƣớng về Hà Nội của Hoàng Dƣơng; Nhớ về đồng đội của Lê Hồng Lĩnh; Ngủ ngoan ngủ ngoan của Trần Đinh Lăng; Nửa đêm của Trần Thế Bảo; Cây bàng cuối thu, Mƣa yêu cúc trắng, Trên đỉnh núi Oatari của Hoàng Cƣơng
3.2.4.2. Tiến trình hòa âm
Tiến trình hòa âm thể hiện bƣớc phát triển của thể loại CKNTVN so với
các thể loại ca khúc trƣớc đó, thể hiện tính học thuật và chuyên nghiệp. Các
vòng hòa âm là một công cụ hiệu quả giúp cho phần đệm trở thành một yếu tố
tƣơng quan chặt chẽ với giai điệu. Và đôi khi chính những vòng hòa âm lại
tạo nên những màu sắc mới lạ, làm tôn lên vẻ đẹp của giai điệu và tạo hiệu
150
quả ấn tƣợng. Trong một số tác phẩm, tác giả sử dụng những hợp âm và vòng
hòa âm đóng vai trò chủ chốt, lặp đi lặp lại, tạo nên tính chất chủ đạo cho âm
nhạc. Những chất liệu này sẽ tạo cho phần đệm một màu sắc âm nhạc xuyên
suốt. Có thế lấy ví dụ minh họa nhƣ trong tác phẩm Đêm nghe gió về của
Đặng Hữu Phúc [PL4; tr131]. Cả tác phẩm là sự lặp lại nhiều lần của vòng hòa âm VI7 - V6 - I. Việc duy trì một vòng hòa âm cố định đã tạo nên chất liệu cũng nhƣ màu sắc đặc trƣng cho tác phẩm. Đây là một thủ pháp phổ biến
trong thể loại ca khúc ở phƣơng Tây, tuy nhiên việc sử dụng những vòng hòa
âm đặc trƣng, cố định lặp đi lặp lại không thực sự phổ biến trong các tác
phẩm CKNTVN. Điều này có thể đƣợc lý giải do sự chi phối của ca từ tiếng
Việt. Các thanh âm phần nào quyết định cao độ, dẫn tới việc chi phối các
vòng công năng.
Bên cạnh việc sử dụng các vòng hòa âm đặc trƣng, các thủ pháp khác
nhƣ ly điệu, chuyển điệu, sử dụng hệ thống biến âm cũng tạo những màu sắc
lạ cho âm nhạc. Việc này có thể diễn ra đồng thời ở cả phần đệm và giai điệu,
nhƣng cũng có lúc hoàn toàn độc lập ở phần đệm. Trong ví dụ sau ở tác phẩm
Ru con của Trần Mạnh Hùng, việc ly điệu đƣợc diễn ra liên tục một cách độc
lập ở phần đệm trong khi giai điệu tiến hành hoàn toàn trong các bậc diatonic.
VD 3.35: Trần Mạnh Hùng, Ru con, nhịp 27-29
Trong ví dụ trên, trong khi giai điệu gồm các cao độ xây dựng trên các
bậc diatonic thì việc thực hiện ly điệu với các biến âm chromatic hoàn toàn
đƣợc tạo ra bởi phần đệm. Điều này còn xuất hiện trong các tác phẩm của Lời
ru cao nguyên của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.52], Lời gió hát của Đặng Hữu
151
Phúc [PL4; tr.206],Tình ca ban đêm của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.196]…Với
một giai điệu tiến hành trong các bậc diatonic, có thể có nhiều phƣơng án
khác nhau về hòa âm của phần đệm. Đó có thể là một phần đệm bao gồm các
công năng thuộc hệ thống diatonic. Nhƣng ở đây, tác giả đã tạo nên một phần
đệm liên tục ly điệu, tạo ra những màu sắc ấn tƣợng và mang đến tính vận
động, phát triển rõ rệt cho âm nhạc. Nhiều CKNTVN minh họa cho những
vòng hòa âm có nhiều ly điệu, chuyển điệu nhƣ Tiếng mùa xuân [PL4; tr.67],
Mùa thi năm ấy [PL4; tr.88], Tình ca mùa đông [PL4; tr.119], Hà Nội mƣa
mùa đông [PL4; tr.123], Biển hát [PL4; tr.156], Bài ca ban chiều [PL4;
tr.187], Mẹ [PL4; tr.199], Du thuyền Hồ Tây [PL4; tr.211] của Đặng Hữu
Phúc, Gió lộng bốn phƣơng [PL4; tr.465], Ru con [PL4; tr.485] của Trần
Mạnh Hùng, Nửa đêm của Trần Thế Bảo [PL4; tr.533]... Có thể thấy chất liệu
của phần đệm trong nhiều trƣờng hợp đƣợc sinh ra một cách độc lập với
những thủ pháp riêng biệt so với giai điệu.
Qua phân tích và thống kê, có thể thấy phần lớn các CKNTVN ly điệu
hƣớng tới công năng hạ át s và các công năng phụ nhƣ sII, DTIII, các giọng
song song… nhƣ các tác phẩm Ơi Mẹ làng Sen của Trần Mạnh Hùng [PL4;
tr.479] (s, DTIII), Tình quê hƣơng của Huy Du [PL4; tr.266] (sII), Ngƣời lính
mùa xuân về của Doãn Nho [PL4; tr.444] (s), Tình ca (dtIII) của Hoàng Dƣơng
[PL4; tr.398], Thời gian và kỷ niệm của Đào Trọng Minh [PL4; tr.526]
(DTIII), Đôi mắt tiếng lòng của Trần Thanh Hà [PL4; tr.552] (DVII, s), Nửa
đêm của Trần Thế Bảo [PL4; tr.533] (s), Biển mƣa của Đặng Hữu Phúc [PL4;
tr.152] (sII, tsVI), Tôi sẽ ca mãi đời anh của Huy Du [PL4; tr.317] (DTIII)...
Ngoài ra ở một số tác phẩm, hòa âm có thể ly điệu vào những hợp âm không
thuộc hệ thống diatonic nhƣ trong tác phẩm Nhớ về đồng đội của Lê Hồng
Lĩnh [PL4; tr.564], từ giọng gốc a-moll, tác giả tiến hành ly điệu sang giọng
d-moll. Bên cạnh đó, các tác giả còn sử dụng một cách phổ biến việc ly điệu
“tránh”, tức là thay vì giải quyết hợp âm át phụ vào hợp âm chủ phụ, lại giải
152
quyết vào hợp âm xây dựng ở bậc VI trong điệu tính phụ, nhƣ trong tác phẩm
Tôi sẽ ca mãi đời anh của Huy Du [PL4; tr.316], từ điệu tính chính là giọng
gis – moll, việc xuất hiện hợp âm bảy át xây dựng trên bậc IV sẽ tạo cảm giác
ly điệu vào giọng Fis-dur hoặc fis - moll, nhƣng hợp âm át phụ này lại đƣợc
giải quyết vào hợp âm ba thứ tsVI của điệu tính phụ. Thủ pháp “ly điệu tránh”
này còn đƣợc sử dụng trong một số tác phẩm khác nhƣ Tình ca của Hoàng
Dƣơng [PL4; tr.400], Gió lộng bốn phƣơng của Trần Mạnh Hùng [PL4;
tr.465]... Cũng có khi những hợp át phụ này đƣợc xuất hiện chỉ để tạo cảm
giác về một điệu tính phụ mới, tuy nhiên lại không đƣợc giải quyết vào hợp
âm chủ phụ mà dừng ở đó nhƣ một kiểu ly điệu “lửng” nhƣ trong tác phẩm
Biển mƣa [PL4; tr.151] của Đặng Hữu Phúc. Hoặc cũng có khi việc ly điệu bV) nhƣ trong tác phẩm
đƣợc tiến vào các hợp âm xây dựng trên biến âm (D7 Mẹ của Đặng Hữu Phúc [PL4; tr.199]…
Một khía cạnh quan trọng khác đó là các vòng kết. Trong các
4-D7-T, S-D-T, SII-D7-
CKNTVN, bên cạnh những vòng kết phổ biến nhƣ K6
T…chúng ta có thể thấy các tác giả linh hoạt đã sử dụng nhiều vòng kết khác
nhau, trong đó phổ biến cả những vòng kết biến cách, kết chính cách và đặc
biệt là những vòng kết sử dụng các chồng âm kết hợp quãng 4, 5 với hình
thức giống nhƣ một hợp âm đƣợc thay âm 3 bằng âm 4, đƣợc dùng thay thế
cho hoặc các hợp âm bảy át hoặc hợp âm chủ thông thƣờng. Các chồng âm
kết hợp quãng 4, 5 đƣợc sử dụng rất phổ biến trong vòng kết ở thể loại
CKNTVN, không chỉ trong những tác phẩm mang âm hƣởng âm nhạc dân
gian mà còn trong nhiều tác phẩm khác nhƣ Tình ca mùa hè [PL4; tr.80], Mùa
hè chia tay [PL4; tr.87], Ru con mùa đông [PL4; tr.141], Bình minh trên biển
[PL4; tr.147], Chiều bên kia sông [PL4; tr.184], Bên dòng sông năm tháng
[PL4; tr.238] của Đặng Hữu Phúc, Dây đàn thần diệu của Huy Du [PL4;
tr.307], Nửa đêm của Trần Thế Bảo [PL4; tr.531]…
Có thể thấy, trong khía cạnh hòa âm ở các CKNTVN, bên cạnh những
153
đặc điểm phổ biến nhƣ sử dụng các điệu thức trƣởng, thứ, hợp âm ba trƣởng
thứ với những facture piano và những vòng công năng ảnh hƣởng từ âm nhạc
phƣơng Tây, còn có những đặc điểm riêng biệt. Đó là những điệu thức ngũ
cung với nhiều phƣơng thức sử dụng khác nhau nhƣ sử dụng độc lập, kết hợp
luân phiên hoặc cùng lúc với các điệu thức trƣởng, thứ, hoặc kết hợp các biến
âm tạo màu sắc âm nhạc ấn tƣợng. Đó là những chồng âm quãng 4, 5, hợp âm
thiếu âm 3, những hợp âm 7, 9, các hợp âm chứa biến âm làm thay đổi sức hút
của điệu tính, tạo màu sắc dân tộc hoặc màu sắc hiện đại cho âm nhạc. Đó là
những vòng kết có sử dụng chồng âm quãng 4, 5, các vòng ly điệu chỉ xảy ra
ở phần đệm, ly điệu tránh, ly điệu lửng, ly điệu vào các bậc biến âm hoặc vào
các giọng có quan hệ xa so với điệu tính gốc.
154
Tiểu kết chƣơng 3
Kết quả nghiên cứu của chƣơng 3 đã làm rõ đặc điểm của giai điệu và
phần đệm trong các CKNTVN. Trong khía cạnh giai điệu, NCS đã phân tích
và làm rõ tính hình tƣợng, âm điệu mang tính khí nhạc, tính ca xƣớng trong
phần thanh nhạc và phần đệm, cách thức sử dụng điệu thức và các dạng biến
âm, tính học thuật trong đặc điểm âm khu âm vực của các tác phẩm, tính chi
tiết trong kỹ thuật thanh nhạc, phân tích lối hát kết hợp Bel canto với kỹ thuật
hát tròn vành rõ chữ. NCS thông qua đó đã làm rõ những yêu cầu mang tính
học thuật, sự phong phú, linh hoạt trong chất liệu và cách thức xử lý giai điệu.
Bên cạnh đó, mối tƣơng quan giữa cao độ trong giai điệu và thanh điệu trong
ca từ cũng đƣợc phân tích ở các cấp độ khác nhau, khẳng định sự gắn bó chặt
chẽ giữa giai điệu trong thể loại CKNTVN với ngôn ngữ tiếng Việt.
NCS đã làm rõ vai trò của phần đệm trong việc hỗ trợ và đồng hành
cùng giai điệu trong việc thể hiện các hình tƣợng và tính chất âm nhạc khác
nhau. Điều này đƣợc làm rõ thông qua chức năng phần đệm với các chức
năng làm nền, đối thoại với giai điệu, xây dựng hình tƣợng; tƣơng quan về
quy mô và chất liệu giữa phần phụ với các phần chính; các dạng facture phổ
biến, tính chu kỳ trong facture và cách thức phát triển các dạng facture theo
từng giai đoạn phát triển của tác phẩm. Đặc điểm hòa âm đƣợc nghiên cứu
thông qua cấu trúc hợp âm và tiến trình hòa âm. NCS đã phân tích các dạng
cấu trúc nhƣ hợp âm 7, 9; hợp âm thiếu âm 3; chồng âm quãng 4, 5; phân tích
các vòng kết, vòng hòa âm đặc trƣng, làm rõ thủ pháp ly điệu bao gồm ly điệu
ngắt, ly điệu bằng phần đệm, ly điệu vào các hợp âm nằm ngoài hệ thống
diatonic. Thông qua đó giải thích những âm hƣởng dân gian hoặc màu sắc
mới lạ đƣợc tạo nên bởi hiệu quả hòa âm trong CKNTVN, đồng thời khẳng
định sự kết hợp kỹ thuật sáng tác của âm nhạc phƣơng Tây với âm nhạc dân
gian Việt Nam, thể hiện tính truyền thống cũng nhƣ tính học thuật trong thể
loại này.
155
KẾT LUẬN
Trong luận án “Ca khúc nghệ thuật Việt Nam”, bằng việc nghiên cứu
hệ thống cơ sở lý luận, ca từ, cấu trúc, giai điệu và phần đệm, các kết quả
nghiên cứu đã làm rõ ngôn ngữ sáng tác của thể loại này. Với phạm vi nghiên
cứu là các CKNT có phần đệm piano do chính tác giả sáng tác, NCS muốn
tập trung làm rõ các đặc điểm, đặc trƣng của một nhánh quan trọng trong thể
loại ca khúc ở Việt Nam. Những điều kiện về bối cảnh ra đời đã tạo nên một
thể loại có sự gắn bó chặt chẽ của các yếu tố ca từ, giai điệu và phần đệm.
Tính thẩm mỹ và hàn lâm trong các yếu tố này đã quyết định giá trị nghệ
thuật của các tác phầm CKNTVN.
Đặc điểm ca từ đƣợc phân tích dƣới góc độ âm nhạc học với các khía
cạnh chức năng xây dựng hình tƣợng nghệ thuật, mối quan hệ giữa cấu trúc ca
từ với hình thức âm nhạc, sự ảnh hƣởng thanh âm tiếng Việt đến giai điệu.
Các đặc điểm đƣợc chứng minh, hệ thống qua các tác phẩm, từ đó làm rõ vai
trò của ca từ trong việc tạo nên tính hàn lâm, học thuật, và tính dân tộc trong
thể loại này.
Vấn đề cấu trúc trong thể loại này đƣợc nghiên cứu bằng việc thống kê
cụ thể số lƣợng các hình thức âm nhạc đƣợc sử dụng, tỉ lệ, khuynh hƣớng
sáng tác của các tác giả. Cách thức khai triển cấu trúc ở các quy mô khác
nhau, các dạng cấu trúc phát triển hay tƣơng phản cũng đƣợc làm rõ với
những dẫn chứng cụ thể trong các CKNTVN.
Giai điệu đƣợc làm rõ với tính hình tƣợng, đặc điểm của âm điệu, điệu
thức, tiết tấu và các kỹ thuật thanh nhạc. Với phần đệm, các yếu tố đƣợc phân
tích là chức năng phần đệm, phần đệm trong việc xây dựng phần phụ, đặc
điểm facture phần đệm và hòa âm.
Qua các kết quả nghiên cứu, chúng ta có thể thấy đƣợc những quy luật
phổ biến, những đặc điểm tiêu biểu, đại diện của các CKNTVN, bên cạnh đó
phần nào thấy đƣợc phong cách, ngôn ngữ riêng của các tác giả. Việc hệ
156
thống, phân loại các kết quả nghiên cứu đã thể hiện một số đặc trƣng của thể
loại CKNTVN, đó là sự kế thừa từ ngôn ngữ âm nhạc phƣơng Tây, tính hàn
lâm, âm hƣởng dân gian và sự tƣơng tác với ngôn ngữ tiếng Việt.
Sự kế thừa từ ngôn ngữ âm nhạc phƣơng Tây đƣợc biểu hiện qua việc
sử dụng các hình thức âm nhạc cơ bản, các kỹ thuật thanh nhạc cổ điển, các
facture piano, việc sử dụng hòa âm công năng. Trong thể loại CKNTVN, các
hình thức hai, ba đoạn đơn đƣợc sử dụng phổ biến, đặc biệt là ở dạng phát
triển, đa phần có tính chất cân phƣơng hoặc cân đối, các câu nhạc, tiết nhạc
đƣợc phân chia rõ ràng tạo sự mạch lạc cho cấu trúc. Facture phần đệm đƣợc
các nhạc sĩ Việt Nam lĩnh hội từ các tác phẩm viết cho piano trong quá trình
tiếp cận với loại nhạc cụ này, cũng nhƣ trong quá trình tiếp xúc với các tác
phẩm âm nhạc hàn lâm của phƣơng Tây. Vì vậy, trong các tác phẩm
CKNTVN có thể bắt gặp nhiều dạng facture phổ biến ảnh hƣởng từ âm nhạc
phƣơng Tây.
Trong khía cạnh hòa âm, việc kế thừa từ âm nhạc phƣơng Tây đƣợc
4 – D7 – T, S –
biểu hiện qua lối cấu trúc hợp âm chồng quãng 3 đƣợc sử dụng rộng rãi, qua các vòng hòa âm công năng, những vòng kết phổ biến nhƣ K6
D – T, sII – D7 – T, … và trong nhiều trƣờng hợp, cách thức tiến hành bè vẫn
tuân thủ theo nguyên tắc của hòa âm cổ điển.
Việc ảnh hƣởng ngôn ngữ âm nhạc phƣơng Tây là kết quả của quá trình
tiếp cận và học hỏi trong bối cảnh giao lƣu văn hóa Đông - Tây của các nhạc
sĩ Việt Nam. Khi quá trình này đạt đến một độ chín nhất định, kỹ thuật sáng
tác và biểu diễn đƣợc hoàn thiện hơn, các tác phẩm sẽ đạt đƣợc tính hàn lâm.
Đây là một đặc điểm quan trọng của CKNTVN, giúp cho thể loại này có sự
khác biệt rõ ràng và ở một bậc cao hơn so với những thể loại ca khúc phổ
thông khác. Qua phân tích, kết quả nghiên cứu đã thể hiện tính học thuật
trong các CKNTVN, đƣợc biểu hiện qua các khía cạnh về âm khu âm vực, kỹ
thuật thanh nhạc, phần đệm piano và thủ pháp hòa âm.
157
Nhiều tác phẩm CKNTVN sử dụng những âm khu cao, âm vực rộng
đòi hỏi ngƣời biểu diễn cần có một giọng hát tốt và kỹ thuật xử lý thanh nhạc
thành thục, đồng thời yêu cầu ở ngƣời sáng tác sự am hiểu về lĩnh vực thanh
nhạc để có thể điều tiết và kiểm soát các vấn đề về cao độ trong tác phẩm của
mình. Về khía cạnh các kỹ thuật thanh nhạc, phần nhiều các tác phẩm
CKNTVN vẫn sử dụng lối hát cổ điển Bel canto, là một lối hát đòi hỏi kỹ
thuật thanh nhạc bài bản, chuyên nghiệp. Ngoài ra, tính hàn lâm còn đƣợc thể
hiện qua một số facture phần đệm có kỹ thuật phức tạp, qua việc sử dụng các
thủ pháp sáng tác một cách nhuần nhuyễn, đó là việc kết hợp các loại điệu
thức, sử dụng biến âm và ly điệu, chuyển điệu… Kỹ năng sáng tác thành thục
đã tạo nên những màu sắc hợp lý và hiệu quả cho các các tác phẩm. Việc khắc
họa rõ nét và hiệu quả các hình tƣợng nghệ thuật cũng biểu hiện tính chuyên
nghiệp và giá trị nghệ thuật của các CNNTVN.
Âm hƣởng dân gian đƣợc biểu hiện trong thể loại CKNTVN qua các
khía cạnh cấu trúc, giai điệu và phần đệm. Đây là một trong những tính chất
tiêu biểu, là đặc trƣng phân biệt CKNT của Việt Nam với các CKNT nƣớc
ngoài, thể hiện tính kế thừa từ âm nhạc truyền thống ở một thể loại du nhập từ
âm nhạc phƣơng Tây.
Về cấu trúc, tính dân tộc đƣợc biểu hiện ở một số tác phẩm, chủ yếu ở
các phần mở đầu, nối, khi mô phỏng âm thanh của các nhạc khí dân tộc, đƣa
hình thức hát xƣớng, xô của thể loại Hò, phần hát đƣa hơi trong thể loại Hát
ru vào phần chính của các tác phẩm. Ở khía cạnh giai điệu, các nét nhạc mang
âm hƣởng của âm nhạc dân gian đặt ra yêu cầu cho ngƣời biểu diễn thanh
nhạc phải sử dụng lối hát phù hợp. Bên cạnh đó, việc sử dụng các điệu thức
ngũ cung một cách độc lập hoặc kết hợp với điệu thức trƣởng thứ dƣới dạng
đồng thời hoặc luân chuyển, các biến âm tạo nên màu sắc điệu thức ngũ cung,
các cấu trúc hợp âm và facture piano… đã mang đến cho CKNTVN âm
hƣởng của âm nhạc truyền thống rõ rệt.
158
Một đặc điểm không thể không nói tới trong thể loại CKNTVN, đó là
sự tƣơng tác giữa âm nhạc với ngôn ngữ tiếng Việt. Tất cả các thể loại ca
khúc trong âm nhạc Việt Nam đều có sự tƣơng tác này, tuy nhiên, trong thể
loại CKNTVN, các tác giả đã xử lý điều này một cách hiệu quả và hợp lý
trong hầu hết các trƣờng hợp, đảm bảo giá trị của ca từ cũng nhƣ âm nhạc,
đồng thời kết hợp hai yếu tố này một cách khoa học. Ngoài ra, ngôn ngữ tiếng
Việt còn ảnh hƣởng vào thể loại này ở khía cạnh thanh nhạc, khi đặt ra yêu
cầu ngƣời biểu diễn phải tròn vành rõ chữ, vừa đảm bảo đƣợc chất lƣợng hàn
lâm nhƣng vẫn phải phát âm rõ ca từ trong tác phẩm.
Qua luận án, các kết quả nghiên cứu đã thể hiện một cách cụ thể những
đặc điểm âm nhạc quan trọng trong thể loại CKNTVN. Những vấn đề về sự
hình thành - phát triển thể loại, cấu trúc, cách xây dựng hình tƣợng, đặc điểm
giai điệu, phần đệm, hòa âm đã làm rõ ngôn ngữ sáng tác của thể loại này, qua
đó làm rõ sự kế thừa từ âm nhạc phƣơng Tây, tính hàn lâm, âm hƣởng dân
gian và sự tƣơng tác với ngôn ngữ tiếng Việt của các tác phẩm CKNTVN.
Thể loại CKNTVN đã thể hiện những giá trị nghệ thuật nhất định, vừa có tính
hàn lâm, vừa mang tính truyền thống, gần gũi với đất nƣớc và con ngƣời Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể đƣợc áp dụng trong những
nghiên cứu so sánh CKNTVN với những thể loại ca khúc khác hoặc với các
thể loại khí nhạc có phần đệm piano.
159
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Tạ Hoàng Mai Anh (2015), Mối quan hệ giữa thơ ca và âm nhạc
trong thể loại Romance thanh nhạc, Tạp chí Giáo dục Âm nhạc, tháng
06/2015.
2. Tạ Hoàng Mai Anh (2018), Mối tƣơng quan giữa giai điệu và ca từ
trong sự hình thành và phát triển thể loại ca khúc nghệ thuật Việt Nam, Tạp
chí Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật, số tháng 3/2018.
3. Tạ Hoàng Mai Anh, (2018), Quá trình tiếp biến văn hóa Pháp trong
thể loại ca khúc Việt Nam giai đoạn trƣớc 1975, Hội thảo khoa học quốc tế
“Giao lƣu văn hóa Việt - Pháp: Thành tựu và triển vọng", Tiểu ban Nghệ
thuật, tháng 4/2018, tại Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
4. Tạ Hoàng Mai Anh, (2018), Sự tƣơng tác giữa giai điệu và ca từ
trong việc thể hiện hình tƣợng nghệ thuật ở thể loại Romance thanh nhạc Việt
Nam, Tạp chí nghiên cứu Âm nhạc số 54 – Viện Âm nhạc, tháng 5-8.
5. Tạ Hoàng Mai Anh (2018), Mối tƣơng quan giữa giai điệu và phần
đệm trong cách thức xây dựng hình tƣợng nghệ thuật ở thể loại ca khúc nghệ
thuật Việt Nam- Tạp chí Giáo dục Âm nhạc tháng 6/2018.
6. Tạ Hoàng Mai Anh (2018), Tƣơng quan giữa thanh điệu trong ca từ
và cao độ trong giai điệu ở ca khúc nghệ thuật Việt Nam, tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật tháng 8/2018.
7. Tạ Hoàng Mai Anh (2018), Mối tƣơng quan giữa giai điệu và phần
đệm trong việc xây dựng cấu trúc tƣơng phản ở thể loại ca khúc nghệ thuật
Việt Nam, tạp chí Giáo dục âm nhạc tháng 9/2018.
8. Tạ Hoàng Mai Anh, (2018), Chức năng của phần đệm piano trong
thể loại ca khúc nghệ thuật Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu Âm nhạc số 55 –
Viện Âm nhạc, tháng 9-12/2018.
9. Tạ Hoàng Mai Anh (2019), Tiến trình hòa âm trong thể loại ca khúc
nghệ thuật có phần đệm piano, Tạp chí Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật,
số 10/2019.
160
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các sách, bài báo, tài liệu chuyên ngành
Tài liệu tiếng Việt
1. Dƣơng Viết Á (1978), Chủ thể cảm xúc trong ca từ, Tạp chí Nghiên cứu
Văn hóa Nghệ thuật số 2.
2. Dƣơng Viết Á (1978), Về tính dân tộc – hiện đạo trong ca từ, Tạp chí
Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật số 4.
3. Dƣơng Viết Á (1979), Các phƣơng pháp xây dựng hình tƣợng ca từ,
Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật số 6.
4. Dƣơng Viết Á (1983), Đặc trƣng phản ánh hiện thức trong lời ca, Tạp
chí Âm nhạc số 1.
5. Dƣơng Viết Á (2005), Âm nhạc Việt Nam từ góc nhìn văn hóa, Nxb
Hà Nội.
6. Dƣơng Viết Á (2009), Mấy vấn đề văn hóa âm nhạc Việt Nam, Nxb
Văn hóa dân tộc.
7. Nguyễn Bách (2019), Thuật ngữ âm nhạc, Nxb Văn hóa văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh.
8. Thế Bảo (2013), Cảm nhận mỹ học âm nhạc, Nxb Thanh niên.
9. Nông Quốc Bình (1986), Phẩm chất của ca khúc, Tạp chí Văn nghệ số
41.
10. M.Cagan (2004), Hình thái học của nghệ thuật, Phan Ngọc dịch, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
11. Vĩnh Cát (1982), Sapa, thành phố trong sƣơng – Tập ca khúc của Vĩnh
Cát, Hà Nội: Nxb Văn Hóa.
12. Nguyễn Thị Minh Châu (2009), Yếu tố hậu hiện đại trong nhạc Việt,
thực hay hƣ , Thông báo khoa học số 25, Viện Âm nhạc.
13. Huy Du (2004), Huy Du – Đời và nhạc, Hà Nội: Viện Âm nhạc.
161
14. Denis Huisman (2004), Mỹ học, Xuân Lộc dịch, Nxb Văn hoá thông tin,
Hà Nội.
15. Trần Duy (2008), Suy nghĩ về nghệ thuật, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
16. Cù Lệ Duyên (2000), Tìm hiểu về Romance TN - nguồn gốc lịch sử và
quá trình phát triển, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.
17. Tô Đông Hải (1985), Về lời trong ca khúc, Tạp chí Văn nghệ số 42.
18. Vũ Cao Đàm (1995), Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
19. Đubôpxki, Epxeep, Xpasôbin, Xôcôlôp (1996), Sách giáo khoa hòa âm,
Lý Trọng Hƣng dịch, NXB Văn Hóa – Nghệ thuật.
20. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội.
21. Heghen (2005), Mỹ học, Phan Ngọc dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
22. Phạm Phƣơng Hoa ( 2013), Một số thủ pháp sáng tác tiêu biểu trong âm
nhạc TK XX, Nxb Âm nhạc.
23. Howard Caygill (2013), Từ điển triết học Kant, Nxb Tri thức, Hà Nội.
24. Lan Hƣơng (2002), Các thể loại âm nhạc, Nxb Văn hóa thông tin.
25. Đào Việt Hƣng (1999), Tìm hiểu điệu thức dân ca ngƣời Việt, Bắc
Trung bộ. Nxb Âm nhạc – Viện Âm nhạc.
26. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2001), Văn hoá thẩm mỹ và sự phát
triển con ngƣời Việt Nam trong TK mới, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà
Nội.
27. Nguyễn Thụy Kha (2000), Những gƣơng mặt âm nhạc thế kỷ, Viện Âm
nhạc, Hà Nội.
28. Phạm Minh Khang (2005), Giáo trình hòa âm bậc Đại học, Hà Nội:
Trung tâm thông tin - Thƣ viện âm nhạc.
29. Nguyễn Trung Kiên (2001), Phƣơng pháp sƣ phạm thanh nhạc, Nxb.
162
Viện Âm nhạc.
30. Nguyễn Trung Kiên (2014), Những vấn đề sƣ phạm thanh nhạc, Nxb
Âm nhạc.
31. Hoàng Kiều (1956), Dân tộc tính trong âm nhạc, Tạp chí Âm nhạc số 7.
32. Hoàng Kiều (2001), Thanh điệu tiếng Việt và âm nhạc cổ truyền,
Viện Âm nhạc.
33. Văn Ký – Hoàng Hiệp (1973), Trao đổi kinh nghiệm viết bài hát, Nxb
Văn hóa.
34. Văn Ký (1976), Vài suy nghĩ về tình ca, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số
8.
35. Quý Long, Kim Thƣ (2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Lao động, Hà Nội.
36. Hồ Mộ La (2005), Lịch sử nghệ thuật thanh nhạc phƣơng Tây, Nxb Từ
điển Bách Khoa.
37. Hồ Mộ La (2008), Phƣơng pháp dạy TN, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà
Nội.
38. Trần Ngọc Lan (2011), Phƣơng pháp hát tốt tiếng Việt trong nghệ thuật
ca hát, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
39. Vũ Tự Lân (2015), Từ điển âm nhạc, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
40. Vũ Tự Lân (1996), Những ảnh hƣởng của âm nhạc châu Âu trong ca
khúc Việt Nam giai đoạn những năm 1930-1950, Luận án PTS Nghệ
thuật học, Hà Nội.
41. Nguyễn Thụy Loan (1980), Suy nghĩ về sức sống Việt Nam qua những
chặng đƣờng sử nhạc, Tạp chí Văn hóa- Nghệ thuật số 1, 3, 4.
42. Nguyễn Thụy Loan (1992), Việt Nam, một tụ điểm của thế giới ngũ
cung phong phú, Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật số 1.
43. Nguyễn Thụy Loan (2014), Đờn ca tài tử - Đặc trƣng và đóng góp, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
163
44. Thụy Loan (1993), Lƣợc sử âm nhạc Việt Nam, Nxb. Âm nhạc.
45. Vĩnh Long (1974), Vấn đề hát rõ lời, Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật số
21.
46. Lê Lôi (1987), Nhạc nhẹ và ca khúc, Tạp chí Văn nghệ số 24-26.
47. Doãn Mẫn (1984, Góp phần tìm hiểu sự hình thành nền âm nhạc cải
cách Việt Nam, Viện âm nhạc, Hà Nội.
48. C.Mac, Ph.Ăngghen, V.L Lênin (1997), Về Văn học và Nghệ thuật, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
49. Phạm Phúc Minh (1994), Tìm hiểu dân ca Việt Nam, Nxb Âm nhạc
Hà Nội.
50. Bùi Huyền Nga (2012), Cấu trúc dân ca ngƣời Việt, Nxb Lao động.
51. Nguyễn Văn Nam (2000), Tính dân tộc trong tác phẩm âm nhạc mới –
Vai trò âm nhạc dân gian và ngƣời nhạc sĩ sáng tác, Thông báo khoa
học số 2, Viện Âm nhạc.
52. Nhiều tác giả (1977), Tiếng hát Việt Nam (Tập II-1964-1975), Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
53. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn
hóa – Thông tin.
54. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông
tin.
55. Tú Ngọc (1975), Những bƣớc đi, thành tựu của âm nhạc trong 30 năm
qua (1945-1975), Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
56. Tú Ngọc (1967), Xung quanh vấn đề hình tƣợng âm nhạc, Tạp chí
Những vấn đề âm nhạc và múa tập 3.
57. Tú Ngọc (1978), Kế thừa truyền thống dân tộc, hấp thu tinh hoa thế
giới, sáng tạo cái mới trong âm nhạc, Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật số
4, 5.
164
58. Tú Ngọc (1991), Trích giảng âm nhạc châu Âu TK XX- Nhạc viện Hà
Nội.
59. Tú Ngọc (1994), Dân ca ngƣời Việt, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
60. Tú Ngọc (2000), chủ biên, Âm nhạc Việt Nam - Tiến trình và thành tựu,
Viện Âm nhạc, Hà Nội.
61. Lƣu Nguyễn (1958), Tiếng ta với sự phổ nhạc và cách hát ngày nay,
Tạp chí Bách khoa số 47.
62. Nhiều tác giả (1993), Thang âm điệu thức trong âm nhạc truyền thống
một số dân tộc Miền Nam Việt Nam, Nxb VHNT, Tp HCM.
63. Nhiều tác giả (2000), 100 ca khúc chào thế kỷ, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
64. Nhiều tác giả (2003), Hợp tuyển nghiên cứu Lý luận Phê bình Âm nhạc
Việt Nam TK XX, Viện Âm nhạc, Hà Nội.
65. Nhiều tác giả (2005), Âm vang thời gian, Nxb Âm nhạc.
66. Nhiều tác giả (2005), Bài ca đất nƣớc, Nxb Âm nhạc.
67. Nhiều tác giả (2005), Việt Nam đẹp nhất tên Ngƣời, Nxb Đà Nẵng.
68. Nhiều tác giả (2006), Dân ca Việt Nam - Những làn điệu dân ca phổ
biến, Nxb Âm nhạc Hà Nội.
69. Nhiều tác giả (2010), Tổng tập Âm nhạc Việt Nam - Tác giả và tác
phẩm (Tập 1), Hà Nội: Nxb Văn hóa Dân tộc.
70. Nhiều tác giả (2013), Từ điển Thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
71. Doãn Nho (1994), Tuyển chọn ca khúc, Hội nhạc sĩ Việt Nam, Hà Nội.
72. Nguyễn Thị Nhung (1983), Về tính kế thừa truyền thống của ca khúc
mới Việt Nam (1945-1975), Tạp chí Âm nhạc số 2.
73. Nguyễn Thị Nhung và Nguyễn Thế Vinh (1985), Lịch sử âm nhạc thế
giới tập 2, Hà Nội: Nhạc viện Hà Nội.
74. Nguyễn Thị Nhung (1991), Hình thức âm nhạc, Hà Nội: Nxb Âm nhạc.
165
75. Nguyễn Thị Nhung (1996), Thể loại âm nhạc, Hà Nội: Nxb Âm nhạc.
76. Nguyễn Thị Nhung (1998), Vài nét về ca khúc Việt Nam, Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật.
77. Nguyễn Thị Nhung (2005), Phân tích tác phẩm âm nhạc, Hà Nội: Nhạc
viện Hà Nội.
78. Nguyễn Thị Nhung (2006), Phân tích tác phẩm âm nhạc, Nxb Quân đội.
79. Nguyễn Thị Nhung (2008), Lịch sử âm nhạc thế giới, Nxb Quân đội.
80. Nguyễn Thị Nhung - Phạm Phƣơng Hoa (2009), Lịch sử âm nhạc thế
giới TK XX, Hà Nội: Nxb Quân đội nhân dân.
81. Xuân Oanh (1994), Tuyển chọn ca khúc, Hội nhạc sĩ Việt Nam, Hà Nội.
82. Nguyễn Ngọc Oánh (1988), Vài nét về một số bài hát lãng mạn trƣớc
cách mạng, Tạp chí Âm nhạc số 4.
83. Đặng Hữu Phúc (2012), Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc
cho Giọng hát với Piano, Hà Nội: Nxb Thanh niên.
84. Nguyễn Đình Phúc (1994), Tuyển chọn ca khúc, Hội Nhạc sĩ Việt Nam,
Hà Nội.
85. M,F. Ốpxianhicốp (2001), Mỹ học cơ bản và nâng cao, Phạm Văn Bích
dịch, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
86. Đỗ Hồng Quân (2015), Âm nhạc Việt Nam trên đƣờng đổi mới và hội
nhập quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu âm nhạc số 45, Viện Âm nhạc.
87. A.A.Radugin (2001), Từ điển bách khoa Văn hoá học, Vũ Đình Phòng
dịch. Viện nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội.
88. M.M Rozentalya (1975), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ, Mát-xco-va.
89. Nguyễn Đình San (1980), Về việc đặt lời cho ca khúc, Tạp chí Âm nhạc
số 4.
90. Nguyễn Đình San (1982), Chất lƣợng ca khúc hiện nay, Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật số 2.
166
91. Phạm Đình Sáu (1994), Tuyển chọn ca khúc, Hội nhạc sĩ Việt Nam, Hà
Nội.
92. Minh Tâm, Thanh Nghi, Xuân Lâm (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb
Thanh Hóa.
93. Nguyễn Thanh (1997), Nhìn lại ca khúc Việt Nam ở giai đoạn hiện nay,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.
94. Bùi Đình Thảo (1984), Chuyện của nhạc với thơ, Tạp chí Văn nghệ Hà
Nam Ninh, số 26.
95. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử âm nhạc Việt Nam, Nxb thành phố Hồ
Chí Minh, tp. Hồ Chí Minh.
96. La Thăng (1994), Tuyển chọn ca khúc, Hội nhạc sĩ Việt Nam, Hà Nội.
97. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp
HCM.
98. Ngô Đức Thịnh (1987), Quá trình chuyển đổi cấu trúc văn hóa truyền
thống hình thành văn hóa mới Việt Nam, Tạp chí Văn hóa dân gian.
99. Quang Thọ. Vietnam Songs 1, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam,
khoa Thanh nhạc.
100. Quang Thọ. Vietnam Songs 2, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam,
khoa Thanh nhạc.
101. Trịnh Hoài Thu (2014), Ảnh hƣởng của âm nhạc dân gian trong tác
phẩm khí nhạc mới Việt Nam TK XX, Nxb Âm nhạc.
102. Lê Thƣơng (1958), Giọng nói tiếng ta với âm nhạc mới, Tạp chí Bách
Khoa số 45.
103. Nguyễn Đức Toàn (1960), Vài ý kiến về ca khúc hiện nay: một số bất
cập trong các sáng tác ca khúc mới, Tạp chí Văn nghệ số 43.
104. Nguyễn Đức Toàn (1985), Suy nghĩ về 40 năm ca khúc, Tạp chí Âm
nhạc số 3.
167
105. Lê Ngọc Trà (2001), Văn hóa Việt Nam đặc trƣng và cách tiếp cận, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
106. Tsécnƣsépxki (1962), Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện
thực Quang Việt dịch, Nxb Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội.
107. Đỗ Xuân Tùng (2002), Giải thích thuật ngữ âm nhạc quốc tế, Nhạc viện
Hà Nội.
108. Đào Trọng Từ, Đỗ Mạnh Thƣờng (1984), Thuật ngữ và ký hiệu âm
nhạc, Nxb Văn hóa.
109. Lê Ngọc Trà. (2002, chủ biên), Văn hóa Việt nam: Đặc trƣng và cách
tiếp cận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
110. Lƣơng Ngọc Trác (1994), Tuyển chọn ca khúc, Hội nhạc sĩ Việt Nam,
Hà Nội.
111. Nguyễn Văn Tuyên (2004), Những ngày đầu về tân nhạc, Tạp chí âm
nhạc.
112. Hoàng Vân (1987), Ca khúc Việt Nam trên đƣờng tìm tòi, Tạp chí Thể
thao Văn hóa số 34.
113. Cát Vận (1986), Cảm nghĩ về sáng tác ca khúc gần đây, Tạp chí Âm
nhạc số 4.
114. Nguyễn Viêm (1986), Chặng đƣờng ca khúc Việt Nam 40 năm, Tạp chí
Nghiên cứu văn hóa Nghệ thuật, số 2.
115. Nguyễn Viêm (1988), Về một số bài hát trữ tình lãng mạn trƣớc đây,
Tạp chí Âm nhạc số 4.
116. Hồ Sĩ Vịnh (chủ biên) (1993), Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa, Tạp
chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
117. Tô Vũ (1970), Một vài đặc điểm về tính dân tộc trong âm nhạc, Tạp chí
Văn Nghệ số 351.
118. Lƣ Nhất Vũ (1983), Đặc trƣng nghệ thuật của dân ca Nam Bộ, Tạp chí
168
Văn hóa Nghệ thuật.
119. Tô Vũ (2002), Âm nhạc Việt Nam truyền thống và hiện đại, Viện Âm
nhạc, Hà Nội.
120. Nguyễn Xinh (1978), Về điệu thức dân ca Việt Nam, Tạp chí Âm nhạc.
121. Nguyễn Xinh (1983), Lịch sử âm nhạc thế giới tập 1, Hà Nội: Nhạc viện
Hà Nội.
122. Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (1963), Nguyên lý mỹ học Mác - Lênin,
Hoàng Xuân Nhị dịch, phần III, Nxb Sự thật, Hà Nội.
123. Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (1996), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
124. Lê Yên (1968), Tính thời đại trong nét nhạc, Tạp chí Văn nghệ số 279.
Luận án, luận văn, khoá luận đã công bố
125. Hoàng Ngọc Anh (2007), Tìm hiểu liên ca khúc “Con đƣờng mùa
đông” của nhạc sĩ F. Schubert. Khóa luận tốt nghiệp Đại học chính quy
- Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
126. Hoàng Ngọc Anh (2012), Phần đệm piano qua hai liên ca khúc lãng
mạn tiêu biểu, Luận văn thạc sĩ nghệ thuật âm nhạc - Học viện Âm nhạc
Quốc gia Việt Nam.
127. Vũ Tú Cầu (2006), Hình tƣợng và đặc điểm âm nhạc trong tác phẩm
của nhạc sĩ Huy Du, Luận văn thạc sĩ nghệ thuật học, Học viện Âm
nhạc Quốc gia Việt Nam.
128. Nguyễn Hải Châu (2008), Tìm hiểu bút pháp sáng tác của nhạc sĩ Đặng
Hữu Phúc trong 12 bài hát có phần đệm piano cảm hứng từ dân ca Việt
Nam, Khóa luận tốt nghiệp Đại học chính quy, Học viện Âm nhạc Quốc
gia Việt Nam.
129. Hoàng Hoa (2005), Một số biểu hiện bản sắc dân tộc trong sáng tác cho
piano của các nhạc sĩ Việt Nam, Luận văn thạc sĩ nghệ thuật học, Học
169
viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
130. Phạm Thị Lê Hằng (1998), Một số đặc điểm sáng tác của F, Schubert
qua tuyển tập liên ca khúc “Cô thợ xay xinh đẹp”, Khóa luận tốt nghiệp
Đại học chính quy, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
131. Võ Văn Lý (2011), Phát âm tiếng Việt trong Thanh nhạc, Luận án tiến
sĩ Nghệ thuật học, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
132. Đào Trọng Minh (1990), Những vấn đề về cấu trúc của ngôn ngữ hòa
âm, Luận án phó tiến sĩ.
133. Nguyễn Đăng Nghị (2009), Những đặc trƣng của ca khúc cách mạng
Việt Nam giai đoạn 1930-1975, Luận án tiến sĩ văn hóa học, Viện văn
hóa nghệ thuật Việt Nam.
134. Nguyễn Thị Quỳnh (2007), Tìm hiểu một số bản Romance TN viết cho
giọng hát và piano của nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc, Khóa luận tốt nghiệp
Đại học chính quy, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
135. Trƣơng Ngọc Thắng (2008), Quá trình hình thành và phát triển của ca
hát chuyên nghiệp Việt Nam, Luận án tiến sĩ Nghệ thuật học, Học viện
Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
136. Nguyễn Thị Quỳnh Trang (2012), Thể loại Romance TN trong âm nhạc
của Debussy và Ravel, Luận văn thạc sĩ nghệ thuật học - Học viện Âm
nhạc Quốc gia Việt Nam
137. Lê Anh Tuấn (2012), Điệu thức năm âm trong dân ca ngƣời Việt, Luận
án tiến sĩ Nghệ thuật âm nhạc, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
Tài liệu nước ngoài
138. David Tunley and Frits Noske (2011), Mélodie, In Grove Music Online,
Oxford Music Online, under “Mélodie,”
http://www.oxfordmusiconline.com/subscriber/article/grove/music/42953
170
139. Donald Jay Grout (1962), A history of Western Music, J. M. Dent & Sons
Ltd.
140. Edward Lockspeiser (2011), The French Song in the 19th Century, The
Musical Quarterly, 26, no. 2 (April 1940): pp. 192-199.
http://www.jstor.org/stable/738847.
141. Eva Badura, Peter Branscombe (2008), Schubert studies – Problems of
style and chronology, Cambridge University press,
142. Frits Noske (1970, French Song from Berlioz to Duparc: The Origin and
Development of the Mélodie, 2nd ed, trans. by Rita Benton. New York:
Dover Publications.
143. Gougelot H (1938-43), La romance francaise sous la Révolution et
l’Emprire, pt.1-2. Melun.
144. Jack Sage, et al (2011), "Romance." In Grove Music Online, Oxford
Music Online,
http://www.oxfordmusiconline.com/subscriber/article/grove/music/23725.
145. Sadie S., (Ed) (1980), The New Grove Dictionary Of Music And Musicians, Vol. 10, 5th edition, Macmillan Publishers Limited, London,
England.
146. Sadie S., (Ed) (1980), The New Grove Dictionary Of Music And Musicians, Vol. 12, 5th edition, Macmillan Publishers Limited, London,
England.
147. Sadie S., (Ed) (1980), The New Grove Dictionary Of Music And
Musicians. Vol. 14, 5th edition, Macmillan Publishers Limited, London,
England.
148. Victoria Grave (2012), Transitioning from romance to mélodie: An
Analysis of Hector Berlioz’s La captive, A Thesis Submitted to the
Faculty of Baylor University, Waco, Texas
171
149. https://www.britannica.com/art/lied
150. https://www.britannica.com/art/melodie
151. https://www.britannica.com/art/vocal-music/Art-songs-in-other-Western-
countries
152. https://www.britannica.com/art/vocal-music/The-17th-20th-centuries
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
172
HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
TẠ HOÀNG MAI ANH
CA KHÚC NGHỆ THUẬT
VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: ÂM NHẠC HỌC
MÃ SỐ: 62 21 02 01
PHỤ LỤC LUẬN ÁN
HÀ NỘI - 2020
173
MỤC LỤC PHỤ LỤC
Trang
174 1. PHỤ LỤC 1: Danh sách các tác phẩm nghiên cứu
trong luận án
179 2. PHỤ LỤC 2: Kết quả phân tích
Bảng PL2a: Hình thức âm nhạc trong CKNTVN 179
Bảng PL2b: Điệu tính, âm khu âm vực trong 184
CKNTVN
Bảng PL2c: Nhịp độ, tốc độ trong CKNTVN 189
Bảng PL2d: Quy mô các phần phụ trong CKNTVN 189
194 3. PHỤ LỤC 3: Các ví dụ về ca từ trong CKNTVN
4. PHỤ LỤC 4: Bản nhạc các CKNTVN đƣợc sử
dụng trong luận án (nằm ngoài luận án)
174
1. PHỤ LỤC 1: Danh sách các tác phẩm nghiên cứu trong luận án
STT
Tác phẩm
Tác giả lời thơ
Nguồn tƣ liệu
Lời thơ của tác giả Gia đình tác giả cung cấp
Tác giả Nguyễn Đình Phúc
1 Lệ Thu
2 Giấc mơ quê
3 Tình ta nhƣ đỉnh núi Đặng Hữu Phúc
Khúc hát Trƣơng Chi
4
Đặng Hữu Phúc Lời thơ của tác giả Phan Đan và Đặng Hữu Phúc Phan Đan và Đặng Hữu Phúc
Đặng Hữu Phúc
5 Hai phía dòng sông Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
6 Hỏi em
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
7 Cơn mƣa sang đò
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
8 Bên cây trúc đào
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
9 Bóng trăng
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
10 Tan hội em về
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
11 Giã biệt
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
12 Hoa lục bình
Đặng Hữu Phúc Lời thơ của tác giả
13 Lời ru cao nguyên
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
14 Tình ca mùa xuân Ru con trong mƣa mùa xuân
15
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
16 Tiếng mùa xuân
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
17 Ngọn gió mùa xuân Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
Tiếng chuông giao thừa
18
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
19 Tình ca mùa hè
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
20 Cơn giông
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
21 Mùa hè chia tay
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
22 Mùa thi năm ấy Thƣơng nhớ tuổi học trò
23
Đặng Hữu Phúc Lời thơ của tác giả
Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano
24 Lời thu sang
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
25 Lá thu
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
26 Phác thảo mùa thu
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
27 Lời ru mùa thu
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
28 Mùa thu ƣớc mong
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan Phan Đan và Chu Hoạch
29 Hoài niệm mùa thu Đặng Hữu Phúc
Ngày mai trời chớm lạnh
30
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
31 Trăng chiều
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
32 Tình ca mùa đông Hà Nội mƣa mùa đông
33
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
34 Hát giữa chiều mƣa Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
35 Đêm nghe gió về
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
36 Mƣa
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
37 Gió bấc
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
38 Ru con mùa đông
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
39 Bình minh trên biển Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
40 Biển mƣa
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
41 Biển hát
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
42 Biển chiều
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
43 Ánh trăng
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
44 Sau khi biết em
Đặng Hữu Phúc Chu Hoạch
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
46
Đặng Hữu Phúc Chu Hoạch
45 Lời em dịu êm Em nhƣ bài thơ không chép đƣợc Kỷ niệm không em, kỷ niệm không hồn Đặng Hữu Phúc
47
Phan Đan
48 Chiều bên kia sông Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
49 Bài ca ban chiều
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
50 Bên vƣờn khuya
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano
175
51 Tình ca ban đêm
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
Đặng Hữu Phúc Nguyễn Lê
52 Mẹ
Trên những tháng ngày
53
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan Phan Đan và Chu Hoạch
54 Lời gió hát
Đặng Hữu Phúc
Du thuyền trên Hồ Tây
55
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
56 Đi qua dòng sông
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
57 Cho tôi một lời
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
58 Bao giờ em trở lại
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
59 Tôi vẫn hát
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
60 Lời ru trống đồng
Đặng Hữu Phúc
Phan Đan
Bên dòng sông năm tháng
Đặng Hữu Phúc
Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano Tuyển chọn 60 bài Romance TN và Ca khúc cho Giọng hát với Piano
61 62 Khúc hát ban chiều Huy Du 63 Hát nữa đi em Huy Du 64 Một thời thƣơng nhớ Huy Du
Phan Đan Lời thơ của tác giả Huy Du – Đời và nhạc Lời thơ của tác giả Huy Du – Đời và nhạc Lời thơ của tác giả Huy Du – Đời và nhạc
Hằng Phƣơng Ca từ của tác giả Ngọc Sơn
Huy Du – Đời và nhạc Huy Du – Đời và nhạc Huy Du – Đời và nhạc
Huy Du Huy Du Huy Du
Có những đêm không ngủ 65 66 Tình quê hƣơng 67 Hàng dừa xanh
Huy Du – Đời và nhạc Sơn Chi Trinh Đƣờng Huy Du – Đời và nhạc Lời thơ của tác giả Huy Du – Đời và nhạc Lời thơ của tác giả Huy Du – Đời và nhạc
Huy Du Huy Du Huy Du Huy Du
Huy Du
Lời thơ của tác giả Huy Du – Đời và nhạc
72
Miền Nam của ta muôn đời vẫn cất 68 tiếng ca 69 Hoa Mộc miên 70 Tình em 71 Dây đàn thần diệu Bế Văn Đàn sống mãi Tôi sẽ ca mãi đời anh
Huy Du Huy Du
Lời thơ của tác giả Huy Du – Đời và nhạc Lời thơ của tác giả Huy Du – Đời và nhạc
73 74 Anh vẫn thấy
Huy Du
Đỗ Văn Hãn
Có chúng tôi trên hải đảo xa xôi
75
Vĩnh Cát
Đinh Lăng
Vĩnh Cát
Thế Hùng
77
Vĩnh Cát
Lời thơ của tác giả
78
Vĩnh Cát
Thế Hùng
Huy Du – Đời và nhạc Sapa, thành phố trong sƣơng – Tập ca khúc của Vĩnh Cát Sapa, thành phố trong sƣơng – Tập ca khúc của Vĩnh Cát Sapa, thành phố trong sƣơng – Tập ca khúc của Vĩnh Cát Sapa, thành phố trong sƣơng – Tập ca khúc của Vĩnh Cát
76 Em là mùa xuân Vƣờn nhãn quê hƣơng Đôi ta là thợ đƣờng dây Hà Nội, thủ đô ta đó!
79
176
80
Vĩnh Cát
Lời thơ của tác giả
Sapa, thành phố trong sƣơng – Tập ca khúc của Vĩnh Cát Sapa, thành phố trong sƣơng – Tập ca khúc của Vĩnh Cát
Khéo đảm là gái nuôi ong Sapa, thành phố Vĩnh Cát trong sƣơng 81 Hoàng Dƣơng 82 Hƣớng về Hà Nội Hoàng Dƣơng 83 Tình ca Hoàng Dƣơng 84 Ru lại tình sau 85 Mai em đi rồi Hoàng Dƣơng 86 Kỷ niệm Matxcova Hoàng Dƣơng
Xuân Quỳnh Lời thơ của tác giả Vietnam Songs 2 Lê Anh Xuân Vietnam Songs 1 Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp
Tiếng hát anh tìm em
Hoàng Dƣơng 87 88 Thông điệp mùa thu Hoàng Dƣơng 89 Bài ca tình yêu
Doãn Nho
Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp Ca từ của tác giả
Bản thiên thai trần gian
Tác giả cung cấp Hiên Mặc Chất Đỗ Trung Lai Tác giả cung cấp Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp
90 Doãn Nho 91 Có một Thăng Long Doãn Nho 92 Hãy cùng ta biển ơi Doãn Nho 93 Màu tím chiến khu Doãn Nho Ngƣời lính mùa xuân về
94 95 Nụ
Nguyễn Thụy Kha Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp Tạ Hữu Yên
Bốn mùa yêu thƣơng
96
Ca từ của tác giả
Tác giả cung cấp
Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp
97 Giấc mơ mùa lá Gió lộng bốn phƣơng
98
Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp
99 Khúc giao mùa
Ca từ của tác giả
Tác giả cung cấp
100 Ơi Mẹ làng Sen
Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp
101 Ru con 102 Em- mùa xuân
Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp
103 Romanse
Ca từ của tác giả
Tác giả cung cấp
104 Mƣa
Hoàng Thiên Nga Tác giả cung cấp
Doãn Nho Doãn Nho Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Xuân Thủy Nguyễn Thiếu Hoa Đặng Tuệ Nguyên
105
Vĩnh Lai
Lê Thị Kim
Tác giả cung cấp
Chiếc khăn quê hƣơng Mùa nắng quê 106 hƣơng 107 Miền thƣơng
Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp
Tài
Thời gian và kỷ 108 niệm 109 Nửa đêm 110 Tình lặng
Vĩnh Lai Vĩnh Lai Đào Trọng Minh Trần Thế Bảo Trần Thanh Hà
Ca từ của tác giả Nguyễn Bính Nguyễn Nguyên Ca từ của tác giả Đỗ Tƣờng Chinh
Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp
Tình em mãi còn xanh
111
Trần Thanh Hà
Hitomarô
Tác giả cung cấp
177
112 Hát ru 113 Đôi mắt tiếng lòng
Trần Thanh Hà Trần Thanh Hà
Nguyễn Duy Nguyễn Khuyến
Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp
Ngủ ngoan ngủ ngoan
Trần Đinh Lăng Bùi Thị Trinh Lê Hồng Lĩnh Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng
Tác giả cung cấp Nguyễn Đức Mậu Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp Hữu Thỉnh Tác giả cung cấp Thái Thăng Long
114 115 Nhớ về đồng đội 116 Lời ru 117 Dòng sông lời ru
Còn gì cho quê 118 hƣơng 119 Ƣớc mùa xuân
Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng
Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp
120
Hoàng Cƣơng
Lƣu Trọng Lƣ Nguyễn Đình Thi Hoàng Thị Minh Khang
Tác giả cung cấp
Tháng Giêng mùa xuân còn sót lại Hà Nội vào thu nhớ mẹ
121 122 Cây bàng cuối thu
Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng
Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp
123 Mƣa yêu cúc trắng Hoàng Cƣơng 124 Con đƣờng sầu đông Hoàng Cƣơng 125 Khúc chiều Hoàng Cƣơng 126 Trên đỉnh núi Oatari Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng 127 Nhớ mẹ ta xƣa 128 Ao thu Hoàng Cƣơng 129 Vẽ tình yêu trên cát Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng 130 Đƣờng sang Vĩ Dạ Hoàng Cƣơng 131 Lẻ loi Hoàng Cƣơng 132 Chiều quan họ Hoàng Cƣơng 133 Tiếng thu Hoàng Cƣơng 134 Ngôi sao nhớ ai Hoàng Cƣơng 135 Đến bao giờ Hoàng Cƣơng 136 Ru thầm
Ca từ của tác giả Đào Lý Lệ Huê Lƣơng Thị Minh Tác giả cung cấp Thảo Tác giả cung cấp Viễn Phƣơng Thảo Phƣơng Tác giả cung cấp Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp Ca từ của tác giả Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp Xuân Quỳnh Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Lời thơ của tác giả Tác giả cung cấp Tác giả cung cấp Ca từ của tác giả Tác giả cung cấp Ca từ của tác giả Tác giả cung cấp A Châu
178
179
2. PHỤ LỤC 2: Kết quả phân tích
Bảng PL2a: Hình thức âm nhạc trong CKNTVN
STT Tác phẩm
Quan hệ với cấu trúc ca từ
Sơ đồ cấu trúc
Lệ thu
1
2
Chia khổ thơ
3
MĐ - a-b-Nối2n-a-b' MĐ - a-b-b-Nối8n-a-b-b - Kết MĐ - a-Nối3n-b-Nối5n-a- Nối3n-b - Kết bs
4
Giấc mơ quê Tình ta nhƣ đỉnh núi Khúc hát Trƣơng Chi Hai phía dòng sông
5
MĐ - a-b-b - Coda MĐ - a-Nối4n-b-b-Nối3n- a - Kết
6
7
Hỏi em Cơn mƣa sang đò Bên cây trúc đào
8
Bóng trăng
9
Hình thức 2 đoạn tƣơng phản 2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển 3 đoạn tƣơng phản 2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển 2 đoạn tƣơng phản 2 đoạn phát triển
10
Tan hội em về
11
Giã biệt
12
1 đoạn 3 đoạn phát triển 3 đoạn phát triển
13
14
15
MĐ - (a-b-Kbs)2 - Kết MĐ - a-b-Nối4n-a'-b-b'- Kết MĐ - a-b-Nối2n-b'-N2n- a-b-Nối2n-b' - Kết bs MĐ - a-a'-Nối5n-a-a'-b - Kết MĐ - a-Nối3n-a'-Nối10n- a-Nối3n-a' - Kết bs MĐ - (a-Nối3n-b-Kbs- Nối8n-a'-Kết7n)2 - Kết MĐ - [a-(b-a)2-a-Kết4n]2 - Kết MĐ - a-Nối4n-b-N2n-c-c- Coda MĐ - a-b-a'-Nối8n-b-a' - Kết bs MĐ - a-b-Nối11n-a-b - Coda
16
MĐ - a-b-Nối4n-a-b - Kết
17
18
MĐ - a-b-b-Nối7n-a - Kết MĐ - a-Nối3n-b-b-Nối8n- a - Kết
Hoa lục bình Lời ru cao nguyên Tình ca mùa xuân Ru con trong mƣa mùa xuân Tiếng mùa xuân ngọn gió mùa xuân Tiếng chuông giao thừa Tình ca mùa hè
19
20
3 đoạn abc 3 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển 2 đoạn tƣơng phản 3 đoạn tƣơng phản 3 đoạn phát triển 3 đoạn phát triển 2 đoạn tƣơng phản
21
Cơn giông Mùa hè chia tay Mùa thi năm ấy Thƣơng nhớ
Tác giả Nguyễn Đình Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu
22 23
Liên đoạn 2 đoạn tƣơng phản 2 đoạn tƣơng
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
MĐ - a-a-(b-a-a-Kbs)2 MĐ - a-b-Nối6n-a-b - Kết bs MĐ - a-Nối4n-b-b-c-a - Kết bs MĐ - a-b-b'-Nối4n-a-b-b'- b' MĐ - a-b-b'-Nối5n-a-b-b'-
tuổi học trò
24
Lời thu sang
25
phản 2 đoạn phát triển 3 đoạn phát triển
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
b' - Kết MĐ - a-b-b-Nối9n-a-b - Kết MĐ -a-Nối2n-b-Nối2n-a' - Kết
26
MĐ- a-Nối10n-a' - Kết
27
28
29
1 đoạn 2 đoạn phát triển 3 đoạn tƣơng phản 1 đoạn biến tấu
MĐ - (a-b)2 MĐ -a-a'-b-b-Nối2n-a'' - Kết (Mở đầu 3n-a-Nối5n-a'- N6n-a')2 - Kết
30
Lá thu Phác thảo mùa thu Lời ru mùa thu Mùa thu ƣớc mong Hoài niệm mùa thu Ngày mai trời chớm lạnh
1 đoạn
31
MĐ -a-a' - Kết MĐ - (a-b-c-Kết11n)2 - Kết
32
3 đoạn abc 2 đoạn tƣơng phản
33
MĐ -a-b-b - Kết MĐ - a-b-b'-c-b-b'-a-b-b' - Kết bs
34
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
MĐ - (a-b-b-Nối8n)2-a'
35
Trăng chiều Tình ca mùa đông Hà Nội mƣa mùa đông Hát giữa chiều mƣa Đêm nghe gió về
Liên đoạn 3 đoạn tƣơng phản 3 đoạn phát triển
MĐ - a-b-a-b-a
36 Mƣa
37
38
Gió bấc Ru con mùa đông
Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
1 đoạn 3 đoạn phát triển 2 đoạn tƣơng phản
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
39
Bình minh trên biển
40
Biển mƣa
41
Biển hát
42
Biển chiều
3 đoạn abc 2 đoạn tƣơng phản 3 đoạn phát triển 3 đoạn tƣơng phản
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
MĐ - a-a - Kết MĐ - a-a'-Nối2n-b- Nối10n-a-a' - Kết MĐ - a-b-b-Nối10n-a-b-b - Kết MĐ - a-b-c-Nối2n-b-c- Nối8n-a-b-c-Nối2n-b-c - Kết (MĐ-a-a-b-b-Kbs)2 - Kết bs MĐ - a-b-b-Nối8n-a - Kết bs MĐ - a-a'-b-Nối2n-a' - Kết
43
44
Ánh trăng Sau khi biết em
45
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
1 đoạn 2 đoạn phát triển 2 đoạn tƣơng phản
Chia theo khổ thơ
MĐ - a-Nối14n-a - Kết MĐ - a-Nối2n-b-Nối15n- b - Kết MĐ - a-b-b'-Nối7n-a-b-b' - Kết
46
47
Lời em dịu êm Em nhƣ bài thơ không chép đƣợc Kỷ niệm không em, kỷ
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
3 đoạn tƣơng phản 2 đoạn phát triển
Chia theo khổ thơ
MĐ - a-b-a-b-a' - Kết MĐ - a-b-a'-Nối7n-b-a' - Coda
180
48
MĐ - a-b-a-b - Kết bs
49
MĐ - a-b-b'
50
2 đoạn tƣơng phản 2 đoạn tƣơng phản 3 đoạn tƣơng phản
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
MĐ - a-a'-b-b-a-a'
51
niệm không hồn Chiều bên kia sông Bài ca ban chiều Bên vƣờn khuya Tình ca ban đêm
1 đoạn
MĐ - a-a'-Nối3n-a''
52 Mẹ
53
Trên những tháng ngày
54
55
56
57
MĐ - a-b-c-b' MĐ - a-Nối3n-a-Nối3n-b- Nối3n-a MĐ - a-b-a-Nối4n-Đoạn chen-Nối8n-b-a-Kbs MĐ - a-Nối3n-b-b-a'- Coda MĐ - a-Nối7n-b-Nối2n-a - Kết bs MĐ - a-b-b'-Nối4n- Nối7n-a
4 đoạn abcb' 3 đoạn phát triển 3 đoạn tƣơng phản 3 đoạn phát triển 3 đoạn phát triển 3 đoạn tƣơng phản
58
Lời gió hát Du thuyền trên Hồ Tây Đi qua dòng sông Cho tôi một lời Bao giờ em trở lại
59
60
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
MĐ - a-a'-a'' - Kết MĐ - a-a'-b-Nối4n-a'-b- Nối8n-a' - Kết MĐ - (a-Nối2n-b-b')2 - Coda
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
1 đoạn 3 đoạn phát triển 2 đoạn tƣơng phản
61
Đặng Hữu Phúc
MĐ - a-b-Kbs-Nốin-a-b- Kbs - Kết
62
Tôi vẫn hát Lời ru trống đồng Bên dòng sông năm tháng Khúc hát ban chiều
Huy Du
(a-b)3
63
MĐ - a-a-b - Coda
64
Huy Du
MĐ - (a-b)2
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển
65
Huy Du
Chia theo khổ thơ
66
Hát nữa đi em Huy Du Hàng dừa xanh Miền Nam của ta muôn đời vẫn cất tiếng ca Hoa Mộc miên
Huy Du
MĐ - a-b-c-d-a MĐ - a-Nối2-a-Nối2-b - Kết
67
Huy Du
MĐ - a-b-a-b-a'
68
Huy Du
MĐ - a-b-Nối4n-c-d-e-f-a'
3 phần a bcd a 2 đoạn phát triển 3 đoạn tƣơng phản 3 phần ab cde a'
69
Huy Du
MĐ - (a-b-c)2
70
Tình em Dây đàn thần diệu Bế Văn Đàn sống mãi Tôi sẽ ca mãi đời anh
Huy Du
MĐ - a-b-c1-c2-a'
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
3 đoạn abc 3 phần a bc(c1 c2) a'
181
Có chúng tôi trên hải đảo xa xôi
Huy Du
MĐ - a-b-c-Nối2n-b' - Coda
71
a-(Nối12n-b)2 - Coda
72
Huy Du
MĐ - a-b-b'-a-b - Kết
73
Huy Du
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
MĐ - (a-b)2-a' - Coda
74
Huy Du
75
Vĩnh Cát
MĐ - a-a'-b-b'-b-b'' MĐ - a-a-b-Nối2n-a-a-b - Kết
76
Vĩnh Cát
4 đoạn abcb' 2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển 3 đoạn phát triển 2 đoạn tƣơng phản 2 đoạn tƣơng phản 2 đoạn phát triển
MĐ - (a-a-b)2
77
Vĩnh Cát
MĐ - (a-b-c)2 - Coda
78
Vĩnh Cát
79
Vĩnh Cát
3 đoạn abc 2 đoạn tƣơng phản 2 đoạn tƣơng phản
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
MĐ - a-b-Nối7n-a-b - Kết MĐ - a-a'-b-b'-N2n-a-a'- b-b' - Kết
80
Vĩnh Cát
81
Anh vẫn thấy Huy Du Một thời thƣơng nhớ Có những đêm không ngủ Tình quê hƣơng Em là mùa xuân Vƣờn nhãn quê hƣơng Đôi ta là thợ đƣờng dây Hà Nội, thủ đô ta đó! Khéo đảm là gái nuôi ong Sapa, thành phố trong sƣơng Hƣớng về Hà Nội
Hoàng Dƣơng
82
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
83
Tình ca
Hoàng Dƣơng
84
Ru lại tình sau Hoàng Dƣơng
MĐ - a-b-b'-c-Kbs- Nối2n-a-b - Kết MĐ - a-a'-b-a'-Nối6n-a-a'- b-a' - Kết MĐ - I58(a-a'-b-b'-Nối5n- a')2 - Kết bs MĐ - a-b-b'-Nối12n-a-b- b' - Kết MĐ - a-b-b'-Nối5n-a-b-b' - Kết
85 Mai em đi rồi Hoàng Dƣơng
Hoàng Dƣơng
86
3 đoạn phức 3 đoạn phát triển 3 đoạn phát triển 2 đoạn tƣơng phản 2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển 3 đoạn phát triển
MĐ - a-a'-b-b' - Coda MĐ - a-Nối10n-a'-Nối8n- b-Nối2n-a' - Kết bs
Hoàng Dƣơng
87
88
Hoàng Dƣơng
3 đoạn abc
MĐ - a-b-c-b-c - Coda
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
MĐ - (a-Kbs)2 - Kết
Doãn Nho
89
(MĐ-a-b-Coda)2
Doãn Nho
90
Chia theo khổ thơ
MĐ - (a-b)2 - Kết
Doãn Nho
1 đoạn 2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển
91
Doãn Nho
3 đoạn abc
92
Doãn Nho
3 đoạn abc
93
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
Kỷ niệm Matxcova Tiếng hát anh tìm em Thông điệp mùa thu Bài ca tình yêu Bản thiên thai trần gian Có một Thăng Long Hãy cùng ta biển ơi Màu tím chiến khu Ngƣời lính mùa xuân về
Doãn Nho
5 đoạn abcde
94
MĐ - (a-b-c)2 MĐ - a-b-c-Nối-a-b-c - Kết MĐ - a-b-c-Kbs-Nối9n-d- e - Coda MĐ - a-a'-Nối12n-a-a' - Kết
95
Nụ
Doãn Nho
1 đoạn
182
96
97
98
99
MĐ - a-b-Nối6n-a-b-b - Kết bs MĐ - a-a'-b-a'-Nối4n-a'-b- a'-Đoạn chen-b-a' - Coda MĐ - a-Nối4n-b-Nối8n-a- Nối4n-b-b - Kết bs MĐ - a-b-Nối4n-a-b - Coda
Bốn mùa yêu thƣơng Gió lộng bốn phƣơng Giấc mơ mùa lá Ơi Mẹ làng Sen Khúc giao mùa
100
101 Ru con
Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng
102 Em-mùa xuân Xuân Thủy
2 đoạn phát triển 3 đoạn tƣơng phản 2 đoạn tƣơng phản 2 đoạn tƣơng phản 2 đoạn tƣơng phản 3 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển
MĐ - a-a'-b-Nối6n-a'-b' MĐ - a-a'-b-a'-Nối6n-a'-b- a' - Kết bs MĐ - a-b-Nối 9n-a-b-b - Kết bs
103 Romanse
3 đoạn abc
MĐ - a-b-c
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
Nguyễn Thiếu Hoa Đặng Tuệ Nguyên
104 Mƣa
105
Vĩnh Lai
Chiếc khăn quê hƣơng Mùa nắng quê hƣơng
106
Vĩnh Lai
MĐ - a-b-c-d - Kết bs MĐ - a-Nối6n-b-Nối9n-a- Nối6n-b - Kết MĐ - a-b-Nối11n-a-b - Kết
107 Miền thƣơng
Vĩnh Lai
MĐ - a-b-b - Kết
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
Thời gian và kỷ niệm
Đào Trọng Minh
108
MĐ - a-b-c-d-e - Coda
109 Nửa đêm
110 Tình lặng
4 đoạn abcd 2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển 5 đoạn abcde hình thức ko rõ? 2 đoạn tƣơng phản 2 đoạn phát triển
MĐ - a-a'-b-b' - Kết MĐ - a-b-Nố14n-a-b- Nối3n-b' - Kết
Tình em mãi còn xanh
111
Trần Thế Bảo Trần Thanh Hà Trần Thanh Hà
Liên đoạn
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
MĐ - a-b-c-a' - Kết MĐ - a-b-Nối3n-b'- Nối14n-a-b-N3n-b' - Coda
112 Hát ru
2 đoạn phát triển 3 đoạn tƣơng phản
MĐ - a-b-a'-Nối2n - Kết
113
3 phần abca'
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
Trần Thanh Hà Trần Thanh Hà Trần Đinh Lăng
114
MĐ - a-b-c-a' - Kết MĐ - a-Nối3n-b-Nối-c-d - Kết
Đôi mắt tiếng lòng Ngủ ngoan ngủ ngoan Nhớ về đồng đội
115
Lê Hồng Lĩnh
4 đoạn abcd
MĐ - a1-a2-a3-a4 - Kết
116 Lời ru
Hoàng Cƣơng
117
Hoàng Cƣơng
1 đoạn 2 đoạn tƣơng phản
MĐ - a-a'-b - Kết MĐ - (a-b-c-Nối15n)2 - Kết
Dòng sông lời ru Còn gì cho quê hƣơng
118
Hoàng Cƣơng
3 đoạn abc
119 Ƣớc mùa xuân Hoàng Cƣơng
MĐ - a-a' - Kết
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
Tháng Giêng mùa xuân còn Hoàng Cƣơng
120
1 đoạn 4 đoạn phát triển abca
MĐ - a-b-c-a'
183
121
Hoàng Cƣơng
2 đoạn phát triển
MĐ - a -b-Nối6n-a-b-a' - Kết
122
Hoàng Cƣơng
1 đoạn
MĐ - a-a' - Coda
123
Hoàng Cƣơng
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
sót lại Hà Nội vào thu nhớ mẹ Cây bàng cuối thu Mƣa yêu cúc trắng Con đƣờng sầu đông
124
Hoàng Cƣơng
MĐ - a-a'-a''-a''' - Kết MĐ - a-b-a'-Nối4n-a''-b- a''' - Coda
Chia theo khổ thơ
125 Khúc chiều
Hoàng Cƣơng
MĐ - a-a'-b-c-a'' - Kết
Trên đỉnh núi Oatari
126
Hoàng Cƣơng
a-b-a-c-a-d-a
127 Nhớ mẹ ta xƣa Hoàng Cƣơng
MĐ - (a-b-c)-(d-e)-(g-f) - Kết
128 Ao thu
Hoàng Cƣơng
MĐ - a-b - Kết
129
Hoàng Cƣơng
MĐ - a-b - Kết
Vẽ tình yêu trên cát Đƣờng sang Vĩ Dạ
130
Hoàng Cƣơng
MĐ - a-b-b'-a - Kết
1 đoạn 3 đoạn phát triển 3 phần = 3 đoạn phát triển aa'bca'' Rondo AaAbAcA (A đoạn chen) 3 phần tái hiện tính chất: abc de gf 2 đoạn phát triển 2 đoạn phát triển 3 đoạn phát triển 3 đoạn tƣơng phản
131 Lẻ loi
Hoàng Cƣơng
MĐ - a-a'-b-a-a' - Kết
132 Chiều quan họ Hoàng Cƣơng
MĐ - a-b-c-d-a' - Kết
3 phần abcda' 2 đoạn phát triển
133 Tiếng thu
Hoàng Cƣơng
MĐ - a-b
Ngôi sao nhớ ai?
134
Hoàng Cƣơng
MĐ - a-b-c-c' - Kết
135 Đến bao giờ
Hoàng Cƣơng
MĐ - a-b-a' - Kết
3 đoạn abc 3 đoạn tƣơng phản 1 đoạn xen kẽ Dạo
Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ Chia theo khổ thơ
136 Ru thầm
Hoàng Cƣơng
MĐ - a-Nối8n-a' - Kết
184
Bảng PL2b: Điệu tính, âm khu âm vực trong CKNTVN
Chủ âm
STT
Tác phẩm
Âm vực
Điệu thức
1
Lệ thu
q12Đ
h - fis2
e
Tác giả Nguyễn Đình Phúc
D F
2 3
q13t q11Đ
fis-d2 d1 - g2
e
4
Đặng Hữu Phúc Giấc mơ quê Tình ta nhƣ đỉnh núi Đặng Hữu Phúc Khúc hát Trƣơng Chi
Đặng Hữu Phúc
q12Đ
a - e2
c
moll kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung ngũ cung kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung
5
Hai phía dòng sông Đặng Hữu Phúc
q13t
g - es2
6 7
Hỏi em Cơn mƣa sang đò
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
q11Đ q10t
a - d2 a - c2
a
8
Bên cây trúc đào
Đặng Hữu Phúc
q12Đ
a - e2
d
9
Bóng trăng
Đặng Hữu Phúc
q13t
a - f2
F
10
Tan hội em về
Đặng Hữu Phúc
q11Đ
gis-cis2 E
11
Giã biệt
Đặng Hữu Phúc
q13t
fis - d2 H
12
Hoa lục bình
Đặng Hữu Phúc
q13T
f - d2
g
kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung ngũ cung kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung kết hợp Trung Cổ và ngũ cung kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung dur
13 14
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
q12Đ q13t
f - es2 a - f2
F F
15 16
Lời ru cao nguyên Tình ca mùa xuân Ru con trong mƣa mùa xuân Tiếng mùa xuân
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
q11Đ q14T
e f
moll moll
17
Đặng Hữu Phúc
q11Đ
d1 - g2 c1 - b2 as - des2
F
dur
ngọn gió mùa xuân Tiếng chuông giao thừa 18 Tình ca mùa hè 19 20 Cơn giông 21 Mùa hè chia tay 22 Mùa thi năm ấy
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
q13t q10T q13T q12Đ q13t
G h - g2 a c1 - e2 Es b - g2 f as - es2 fis - d2 D
dur moll dur moll dur
Thƣơng nhớ tuổi học trò Lời thu sang Lá thu Phác thảo mùa thu Lời ru mùa thu
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
q10T as - c2 q11Đ a - d2 q13t h - g2 q11Đ a - d2 d1 - g2 q11Đ q12dim a - es2 a - d2 q11Đ
Es cis b F - d e f a
dur moll moll trung tính moll moll moll
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
30 31 32
c1 - g2 g - d2 fis - d2
f g b
q12D q12Đ q13t
moll moll moll
As
23 24 25 26 27 28 Mùa thu ƣớc mong Hoài niệm mùa thu 29 Ngày mai trời chớm lạnh Trăng chiều Tình ca mùa đông Hà Nội mƣa mùa đông Đặng Hữu Phúc Hát giữa chiều mƣa Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đêm nghe gió về Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Gió bấc Đặng Hữu Phúc Ru con mùa đông Bình minh trên biển Đặng Hữu Phúc
33 34 35 36 Mƣa 37 38 39
c1 - f2 des - f2 F a h - e2 g g - c2 a c1 - e2 b a - cis2 g g - es2
q11Đ q10T q11Đ q11Đ q10T q10T q13t
dur dur moll moll moll moll moll
185
Biển mƣa Biển hát Biển chiều Ánh trăng Sau khi biết em
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
q12Đ q13t q12Đ q11Đ q14t
fis - cis2 a - f2 as - es2 h - e2 g - f2
dur moll moll moll moll
40 41 42 43 44
A e f b c C - As - C
Đặng Hữu Phúc
q12dim a - es2
luân chuyển
45
Đặng Hữu Phúc
q13t
a - f2
C
trung tính
46
Lời em dịu êm Em nhƣ bài thơ không chép đƣợc Kỷ niệm không em, kỷ niệm không hồn Chiều bên kia sông Bài ca ban chiều
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
q11Đ q11Đ q10T
h - e2 a - d2 c1 - e2
moll luân chuyển dur
47 48 49
Bên vƣờn khuya Tình ca ban đêm
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
q11Đ q11Đ
a-e a-C Es D-fis- D d
luân chuyển moll
50 51
52 Mẹ
Đặng Hữu Phúc
q13t
Fis
moll
a - d2 a - d2 cis1 - a2
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
q11Đ q11Đ
a - d2 c1 - f2
a d
moll moll
53 54
Trên những tháng ngày Lời gió hát Du thuyền trên Hồ Tây Đi qua dòng sông Cho tôi một lời Bao giờ em trở lại Tôi vẫn hát
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
q12dim e1 - b2 b - es2 q11Đ h - fis2 q12Đ b - f2 q12Đ g - e2 q13T
moll moll dur moll dur
55 56 57 58 59
Đặng Hữu Phúc
q11Đ
c1 - f2
luân chuyển
g c E c C C - c - C
60
Lời ru trống đồng Bên dòng sông năm tháng
Đặng Hữu Phúc
q11Đ
c1 - f2
d
61
62
Khúc hát ban chiều
Huy Du
q13t
F
63
Hát nữa đi em
Huy Du
q13t
a - f2 cis1 - a2
A
Huy Du
q12Đ
c1 - g2
d
moll kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung
64
c1 - f2
Huy Du Huy Du Huy Du Huy Du
q11Đ g q12dim d1 - as2 g h - e2 q11Đ fis a - fis2 A q13T
65 66 67 68
Huy Du
kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung moll moll dur kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung
q11Đ
g
69
Hàng dừa xanh Miền Nam của ta muôn đời vẫn cất tiếng ca Hoa Mộc miên Tình em Dây đàn thần diệu Bế Văn Đàn sống mãi Tôi sẽ ca mãi đời anh
Huy Du
q12Đ
d1 - g2 cis1 - gis2
gis
moll
70
186
kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung moll
Có chúng tôi trên hải đảo xa xôi Anh vẫn thấy
Huy Du Huy Du
71 72
q9T q11Đ
d1 - e2 D d1 - g2 a cis1 - d2
fis
moll
73 Một thời thƣơng nhớ Huy Du
q9t
G g-G
h - d2 h - g2 d1 - f2 D
dur luân chuyển dur
74 75 76
Huy Du Huy Du Vĩnh Cát
q10t q13t q10t
q11Đ
c1 - f2
c
moll
77
Vĩnh Cát
q10T q12Đ
c1 - e2 b - f2
C Es
dur dur
78 79
q10T
d1 - fis2 D
dur
80
Vĩnh Cát
moll moll moll moll moll moll
d c f e c d
c1 - g2 g - f2 b - f2 h - g2 g - es2 a - f2
Có những đêm không ngủ Tình quê hƣơng Em là mùa xuân Vƣờn nhãn quê hƣơng Đôi ta là thợ đƣờng dây Vĩnh Cát Hà Nội, thủ đô ta đó! Vĩnh Cát Khéo đảm là gái nuôi ong Sapa, thành phố trong sƣơng 81 Hƣớng về Hà Nội 82 Tình ca 83 Ru lại tình sau 84 85 Mai em đi rồi 86
Vĩnh Cát Hoàng Dƣơng Hoàng Dƣơng Hoàng Dƣơng Hoàng Dƣơng Hoàng Dƣơng
q12Đ q14t q12Đ q13t q13t q13t
moll moll dur
f c C
c1 - as2 g - es2 g - d2
87 88 89
Doãn Nho
q13t q13t q12Đ
moll dur dur dur
d1 - e2 a - f2 a - e2 g - f2
d D C C - Es
Kỷ niệm Matxcova Tiếng hát anh tìm Hoàng Dƣơng em Thông điệp mùa thu Hoàng Dƣơng Bài ca tình yêu Bản thiên thai trần gian Doãn Nho Có một Thăng Long Doãn Nho Hãy cùng ta biển ơi Doãn Nho Doãn Nho
90 91 92 93 Màu tím chiến khu
q9T q13t q12Đ q14t
a - c2 c1 - e2
C C - D
dur dur
Ngƣời lính mùa xuân về Nụ
94 95
q10t q10T
q12Đ
h - fis2
e
moll
96
q13T
a - fis2
h- D
luân chuyển
Bốn mùa yêu thƣơng Gió lộng bốn phƣơng
97
98
Giấc mơ mùa lá
q15Đ
as - as2 Des
dur
99
Ơi Mẹ làng Sen
q12Đ
c1 - g2
g
moll
100 Khúc giao mùa
q15Đ
b - b2
Des
dur
Doãn Nho Doãn Nho Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Trần Mạnh Hùng Xuân Thủy
101 Ru con 102 Em-mùa xuân
q13T q14t
h - gis2 E D a - g2
dur dur
187
103 Romanse
q12Đ
c1 - g2
F
dur
Nguyễn Thiếu Hoa Đặng Tuệ Nguyên
q13T
c1 - a2
104 Mƣa
Vĩnh Lai
q12Đ
H - fis1
h
Vô điệu tính kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung
105
q11Đ q11Đ
d1 - g2 h - e2
Chiếc khăn quê hƣơng Mùa nắng quê hƣơng 106 107 Miền thƣơng
ngũ cung ngũ cung
Thời gian và kỷ niệm
Vĩnh Lai Vĩnh Lai Đào Trọng Minh Trần Thế Bảo Trần Thanh Hà
q13t q12Đ q11Đ
h -g2 b - f2 c1 - f2
108 109 Nửa đêm 110 Tình lặng
e g f
moll moll moll
Trần Thanh Hà
q12Đ
c1 - g2
Tình em mãi còn xanh
111
f
b e
112 Hát ru 113 Đôi mắt tiếng lòng
Trần Thanh Hà Trần Thanh Hà
q13T q12Đ
b - g2 a - e2
Ngủ ngoan ngủ ngoan
114 115 Nhớ về đồng đội 116 Lời ru 117 Dòng sông lời ru
moll kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung moll kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung moll ngũ cung dur
Trần Đinh Lăng Lê Hồng Lĩnh Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng
q13t q13T q10t q13t
h - g2 h a - fis2 a a - c2 f - des2 B
Còn gì cho quê hƣơng 118 119 Ƣớc mùa xuân
Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng
q12Đ q9T
a a - e2 h - cis2 A
moll dur
120
Hoàng Cƣơng
q12Đ
h - fis2
E
dur
Tháng Giêng mùa xuân còn sót lại Hà Nội vào thu nhớ mẹ
Hoàng Cƣơng 121 Hoàng Cƣơng 122 Cây bàng cuối thu Hoàng Cƣơng 123 Mƣa yêu cúc trắng 124 Con đƣờng sầu đông Hoàng Cƣơng 125 Khúc chiều Hoàng Cƣơng 126 Trên đỉnh núi Oatari Hoàng Cƣơng
e - d2 g - g2 a - e2 d1 - g2 h - e2 as - g2
C E G-g g D g
q14t q15Đ q12Đ q11Đ q11Đ q14T
B-F-B d h Es cis
Hoàng Cƣơng 127 Nhớ mẹ ta xƣa 128 Ao thu Hoàng Cƣơng 129 Vẽ tình yêu trên cát Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng 130 Đƣờng sang Vĩ Dạ Hoàng Cƣơng 131 Lẻ loi Hoàng Cƣơng 132 Chiều quan họ Hoàng Cƣơng 133 Tiếng thu Hoàng Cƣơng 134 Ngôi sao nhớ ai? Hoàng Cƣơng 135 Đến bao giờ Hoàng Cƣơng 136 Ru thầm
f - e2 a - f2 a - fis2 b - f2 fis - e2 a - fis2 A-E G h - g2 F a - g2 Es g - es2 c1 - as2 As
dur dur luân chuyển moll dur moll kết hợp điệu thức trƣởng thứ và ngũ cung moll moll dur moll ngũ cung dur dur dur dur
q14T q13t q13T q12Đ q14t q13T q13t q14t q13t q13t
188
189
Bảng PL2c: Nhịp độ, tốc độ trong CKNTVN
STT
Tác phẩm
Tác giả
1 Lệ thu 2 Giấc mơ quê 3 Tình ta nhƣ đỉnh núi 4 Khúc hát Trƣơng Chi 5 Hai phía dòng sông 6 Hỏi em 7 Cơn mƣa sang đò 8 Bên cây trúc đào 9 Bóng trăng 10 Tan hội em về 11 Giã biệt 12 Hoa lục bình 13 Lời ru cao nguyên 14 Tình ca mùa xuân 15 Ru con trong mƣa mùa xuân 16 Tiếng mùa xuân 17 ngọn gió mùa xuân 18 Tiếng chuông giao thừa 19 Tình ca mùa hè 20 Cơn giông 21 Mùa hè chia tay 22 Mùa thi năm ấy 23 Thƣơng nhớ tuổi học trò 24 Lời thu sang 25 Lá thu 26 Phác thảo mùa thu 27 Lời ru mùa thu 28 Mùa thu ƣớc mong 29 Hoài niệm mùa thu 30 Ngày mai trời chớm lạnh 31 Trăng chiều 32 Tình ca mùa đông 33 Hà Nội mƣa mùa đông 34 Hát giữa chiều mƣa 35 Đêm nghe gió về 36 Mƣa 37 Gió bấc 38 Ru con mùa đông 39 Bình minh trên biển
Nguyễn Đình Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc
Nhịp độ/tempo Andante Andante Moderato Andante 55 60 55 53 75 50 60 54 150 65 60 Moderato Andante Moderato Allegro Allegro Moderato Allegro Andante Andante Andante 50 Andante Moderato Andante Larghetto (58) Moderato Moderato Allegretto Moderato Andante 60 Allegretto Moderato 130
Đặng Hữu Phúc 40 Biển mƣa Đặng Hữu Phúc 41 Biển hát Đặng Hữu Phúc 42 Biển chiều Đặng Hữu Phúc 43 Ánh trăng Đặng Hữu Phúc 44 Sau khi biết em Đặng Hữu Phúc 45 Lời em dịu êm 46 Em nhƣ bài thơ không chép đƣợc Đặng Hữu Phúc
Moderato Moderato Adagio Adagio Andante Andante Larghetto
Kỷ niệm không em, kỷ niệm không hồn
47 48 Chiều bên kia sông 49 Bài ca ban chiều 50 Bên vƣờn khuya 51 Tình ca ban đêm 52 Mẹ 53 Trên những tháng ngày 54 Lời gió hát 55 Du thuyền trên Hồ Tây 56 Đi qua dòng sông 57 Cho tôi một lời 58 Bao giờ em trở lại 59 Tôi vẫn hát 60 Lời ru trống đồng 61 Bên dòng sông năm tháng 62 Khúc hát ban chiều 63 Hát nữa đi em 64 Hàng dừa xanh
Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Đặng Hữu Phúc Huy Du Huy Du Huy Du
Andante 55 Moderato Andante Lento Allegretto Moderato Allegro Andante Andante Andante Andante Moderato Andante Andante 80 Andante Andante
Miền Nam của ta muôn đời vẫn 65 cất tiếng ca 66 Hoa Mộc miên 67 Tình em 68 Dây đàn thần diệu 69 Bế Văn Đàn sống mãi 70 Tôi sẽ ca mãi đời anh 71 Có chúng tôi trên hải đảo xa xôi 72 Anh vẫn thấy 73 Một thời thƣơng nhớ 74 Có những đêm không ngủ 75 Tình quê hƣơng 76 Em là mùa xuân 77 Vƣờn nhãn quê hƣơng 78 Đôi ta là thợ đƣờng dây 79 Hà Nội, thủ đô ta đó! 80 Khéo đảm là gái nuôi ong
Huy Du Huy Du Huy Du Huy Du Huy Du Huy Du Huy Du Huy Du Huy Du Huy Du Huy Du Vĩnh Cát Vĩnh Cát Vĩnh Cát Vĩnh Cát Vĩnh Cát
Moderato Moderato Andante 60 chậm chậm Adagio chậm vừa chậm vừa Chậm Chậm Moderato Andante Dolce Moderato Moderato
190
Moderato Lento Andante Andante chậm chậm vừa chậm vừa Andante Chậm Allegretto 60 66 56 66 80 chậm chậm Adagio Adagio Adagio Andante
Allegretto Moderato Moderato Moderato Dolce leggiero Moderato Andante
Vĩnh Cát 81 Sapa, thành phố trong sƣơng Hoàng Dƣơng 82 Hƣớng về Hà Nội Hoàng Dƣơng 83 Tình ca Hoàng Dƣơng 84 Ru lại tình sau Hoàng Dƣơng 85 Mai em đi rồi Hoàng Dƣơng 86 Kỷ niệm Matxcova Hoàng Dƣơng 87 Tiếng hát anh tìm em Hoàng Dƣơng 88 Thông điệp mùa thu Doãn Nho 89 Bài ca tình yêu Doãn Nho 90 Bản thiên thai trần gian Doãn Nho 91 Có một Thăng Long Doãn Nho 92 Hãy cùng ta biển ơi Doãn Nho 93 Màu tím chiến khu Doãn Nho 94 Ngƣời lính mùa xuân về Doãn Nho 95 Nụ Trần Mạnh Hùng 96 Bốn mùa yêu thƣơng Trần Mạnh Hùng 97 Gió lộng bốn phƣơng Trần Mạnh Hùng 98 Giấc mơ mùa lá Trần Mạnh Hùng 99 Ơi Mẹ làng Sen Trần Mạnh Hùng 100 Khúc giao mùa Trần Mạnh Hùng 101 Ru con Xuân Thủy 102 Em-mùa xuân Nguyễn Thiếu Hoa 103 Romanse Đặng Tuệ Nguyên 104 Mƣa Vĩnh Lai 105 Chiếc khăn quê hƣơng Vĩnh Lai 106 Mùa nắng quê hƣơng Vĩnh Lai 107 Miền thƣơng Đào Trọng Minh 108 Thời gian và kỷ niệm Trần Thế Bảo 109 Nửa đêm Trần Thanh Hà 110 Tình lặng Trần Thanh Hà 111 Tình em mãi còn xanh Trần Thanh Hà 112 Hát ru Trần Thanh Hà 113 Đôi mắt tiếng lòng Trần Đinh Lăng 114 Ngủ ngoan ngủ ngoan Lê Hồng Lĩnh 115 Nhớ về đồng đội Hoàng Cƣơng 116 Lời ru Hoàng Cƣơng 117 Dòng sông lời ru Hoàng Cƣơng 118 Còn gì cho quê hƣơng 119 Ƣớc mùa xuân Hoàng Cƣơng 120 Tháng Giêng mùa xuân còn sót lại Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng 121 Hà Nội vào thu nhớ mẹ
Andante Moderato Andante chậm vừa Andante Nhanh Moderato Thong thả
191
Andante chậm vừa chậm vừa chậm vừa Andante Andante Andante chậm vừa
Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng Hoàng Cƣơng
dạt dào khoan thai Moderato chậm vừa Moderato Andante
122 Cây bàng cuối thu 123 Mƣa yêu cúc trắng 124 Con đƣờng sầu đông 125 Khúc chiều 126 Trên đỉnh núi Oatari 127 Nhớ mẹ ta xƣa 128 Ao thu 129 Vẽ tình yêu trên cát 130 Đƣờng sang Vĩ Dạ 131 Lẻ loi 132 Chiều quan họ 133 Tiếng thu 134 Ngôi sao nhớ ai? 135 Đến bao giờ 136 Ru thầm
192
Bảng PL2d: Quy mô các phần phụ trong CKNTVN
Đặc điểm
STT 1
Nối bằng mô típ
Nội dung Quy mô các phần nối
2
Nối các đoạn bằng nét nhạc
3
Quy mô các phần dạo
Không có phần dạo
4
Không có dạo mà chỉ có các nét nhạc nối các cơ cấu
Tác phẩm minh họa Hát nữa đi em, Rủ nhau đi học, Trên những tháng ngày của Huy Du Tình em của Huy Du, Ru lại tình sau của Hoàng Dƣơng; Khúc hát Trƣơng chi, Thƣơng nhớ tuổi học trò, Ru con mùa đông, Me, Đi qua dòng sông, Cho tôi một lời, Bao giờ em trở lại của Đặng Hữu Phúc Khúc hát ban chiều của Huy Du; Khúc chiều, Tháng Giêng mùa xuân còn sót lại của Hoàng Cƣơng Cây bàng cuối thu, Nhớ Mẹ ta xƣa, Vẽ tình yêu trên cát, Đƣờng sang Vĩ Dạ, Lời ru, Dòng sông lời ru của Hoàng Cƣơng; Hát ru, Đôi mắt tiếng lòng của Trần Thanh Hà; Ngủ ngoan ngủ ngoan của Trần Đinh Lăng; Cơn mƣa sang đò, Bên cây trúc đào, Hoa lục bình, Hoài niệm mùa thu, Ngày mai trời chớm lạnh, Hà Nội mƣa mùa đông, Đêm nghe gió về, Tình ca ban đêm, Trên những tháng ngày của Đặng Hữu Phúc
Phần nối lớn
5
6
Các phần dạo có cấu trúc là một đoạn nhạc hoàn chỉnh
điểm
7
Đặc phần phụ
Kết nhắc lại, mô phỏng mở đầu
8
Phần dạo có sự tham gia của bè thanh nhạc
9
Tính dân tộc trong mở đầu
Ánh trăng, Gió bấc, Ru con mùa đông, Trăng chiều của Đặng Hữu Phúc; Con đƣờng sầu đông của Hoàng Cƣơng Mở đầu: Lẻ loi, Chiều quan họ, Còn gì cho quê hƣơng của Hoàng Cƣơng, Thời gian và kỉ niệm của Đào Trọng Minh, Ru con trong mƣa xuân, Giấc mơ quê, Hoa lục bình, Bao giờ em trở lại, Giã Biệt, Lời ru cao nguyên, Bình minh trên biển, Biển mƣa, Biển hát, Ƣớc mùa xuân… của Đặng Hữu Phúc; Tình lặng, Tình em còn mãi xanh của Trần Thanh Hà Nối: ít tác phẩm Kết: Còn gì cho quê hƣơng của Hoàng Cƣơng, Tình em còn mãi xanh của Trần Thanh Hà Một thời thƣơng nhớ của Huy Du; Giấc mơ quê, Tình ta nhƣ đỉnh núi, Bên cây trúc đào, Lời em dịu êm của Đặng Hữu Phúc; Tình em mãi còn xanh của Trần Thanh Hà, các tác phẩm của Trần Mạnh Hùng Hà Nội vào thu nhớ mẹ, Mƣa yêu cúc trắng, Con đƣờng sầu đông, Trên núi Oatari, Ru thầm của Hoàng Cƣơng; Tình ca của Hoàng Dƣơng; Ru con trong mƣa mùa xuân, Mƣa, Lời ru trống đồng của Đặng Hữu Phúc Khúc hát Trƣơng Chi, Bóng trăng, Hoa lục bình, Tình ta nhƣ đỉnh núi, Bóng trăng, Lời ru cao nguyên của Đặng Hữu Phúc
193
194
3. Phụ lục 3: Các ví dụ minh họa về ca từ trong CKNTVN
PL 3.1: Hoàng Dƣơng, Thông điệp mùa thu (các từ tƣợng hình, thủ
pháp nhân hóa, ẩn dụ)
Gió ngắt chiếc lá đầu tiên rơi vào khoảng vắng
Cốm mùa lá sen thơm lắm lạnh đầu chiều
Làn mƣa thu đầu tiên dát vàng thành phố
Heo may mang ngàn yêu thông điệp,
Vàng mọi nẻo thu đã về
Sẽ những ngày sƣơng lạnh
Sẽ những ngày nắng lên
Bao âu yếm cô gái yêu chồng thế
Mùa thu mang thƣơng nhớ về
…
PL 3.2: Hoàng Cƣơng, Đƣờng sang Vĩ Dạ (nhân hóa, ẩn dụ)
Bỗng dƣng thơm mát một trời
Mùi hƣơng mách nẻo hoa cƣời ngây thơ
Cho anh dừng lại sững sờ
Đƣờng sang Vĩ Dạ đâu ngờ mùa sen
Bỗng dƣng cây trúc làm duyên
Để rơi chiếc nón treo nghiêng trên cành
Cho anh nghe tiếng ngọt lành
Tóc dài lẫn với lá xanh thẹn thò
….
PL 3.3: Hoàng Cƣơng, Tháng Giêng mùa xuân còn sót lại (ca từ giàu
hình ảnh, có tính ƣớc lệ)
Tháng Giêng mùa xuân còn sót lại
195
Những nụ hoa trên búp tay gầy
Tháng Giêng mùa xuân còn sót lại
Những nụ hôn trên tóc em bay
Tháng Giêng tình đong đầy nỗi nhớ
Ngƣời còn đây mà ngỡ đâu xa
Tháng Giêng vai kề vai đôi má
Tƣởng còn xa quá vòng tay
Anh tặng em mùa vui
Chồi lộc reo trên ngàn cánh biếc
Búp non tách mầm xuân
Khi ta hiểu thấu lòng nhau
…
PL 3.4: Hoàng Cƣơng, Mƣa yêu cúc trắng (ca từ lãng mạn, giàu cảm xúc)
Anh thích làm mƣa phơn phớt bay
Yêu em cúc trắng dáng thơ ngây
Làm mƣa anh muốn rơi thật khẽ
Nhẹ nhàng hôn cúc trắng chẳng hay
…
PL 3.5: Hoàng Cƣơng, Lẻ loi (ca từ lãng mạn, giàu cảm xúc)
Anh yêu em trăng cũng lẻ mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
PL 3.6: Huy Du, Tình em (so sánh, ẩn dụ)
196
Khi chiếc lá xa cành
Lá không còn màu xanh
Mà sao em xa anh
Đời vẫn xanh rời rợi
Có gì đâu em ơi!
Tình yêu là sự sống
Nên nắng hửng trong lòng
Mạch đời căng máu nóng
Anh đi xa bao núi
Tình em nhƣ khe suối
Lƣu luyến và nhớ thƣơng
Chảy theo anh khắp rừng
….
PL 3.7: Huy Du, Hoa mộc miên (ca từ sử dụng thủ pháp ẩn dụ)
Mộc miên hoa ơi!
Mỗi khi qua cầu biên giới thấy hoa mộc miên nở lòng những
bồi hồi
Mộc miên hoa ơi!
Dù cho đất rộng sông sâu, tuyết rơi gió thổi bao lần
Dù cho dẫu thời gian trôi đất bằng nổi sóng
Có cánh hoa mộc miên vẫn khắc sâu nỗi nhớ niềm tin
…
PL 3.8: Doãn Nho, Có một Thăng Long (ca từ mang bản sắc văn hóa
Việt Nam)
Có một Thăng Long rất cổ
Từ trong truyền thuyết xa xôi
Có một Thăng Long rất trẻ
197
Quanh ta đang nói đang cƣời
Có một Thăng Long huyền thoại
Rồng lên từ phía sông Hồng
Có một Thăng Long áo mỏng
Gió đùa quanh tấm lƣng ong
Có một Thăng Long Nguyễn Trãi
Chong đèn viết sách Bình Ngô
Có một Thăng Long mềm mại
Tựa bên ta bƣớc bên hồ
Có một Thăng Long mũ lƣới
Bộ đội về nằm cửa ô
Có một Thăng Long răng trắng
Cắn vào quả sấu đầu thu
Có một Thăng Long chí lớn
Không ngừng vƣợt những tầm cao
Có một Thăng Long yêu dấu
Thắm mãi trong tâm hồn ta
PL 3.9: Nguyễn Thiếu Hoa, Romance (ca từ trau chuốt, giàu cảm xúc)
Nàng hỡi, từng phút giây lòng xốn xang nàng có thấu
Biết nói sao đây để nàng thấu cho tim anh
Giờ đây vắng bóng hình yêu thƣơng
Kìa mái tóc thơm và đôi mắt em long lanh mộng ƣớc
Thiết tha tình lòng anh đây say ngất ngây rồi
Trong mộng thấy đôi ta gần nhau mỗi phút giây
Nàng ơi mái tóc thơm cuộn thắt trái tim anh
….