ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------------------

Đào Minh Quân

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH

NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM

(Nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà Nội)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Hà Nội, 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------------------

Đào Minh Quân

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH

NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM

(Nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà Nội)

Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ

Mã số:

Thí điểm

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

1. GS.TS. Nguyễn Văn Kim

2. PGS.TS. Đào Thanh Trường

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA THEO QUYẾT NGHỊ

CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN

Người hướng dẫn khoa học

Chủ tịch hội đồng đánh giá Luận án Tiến sĩ PGS.TS. Vũ Cao Đàm GS.TS. Nguyễn Văn Kim

Hà Nội, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Đào Minh Quân, nghiên cứu sinh chuyên ngành Quản lý Khoa học và

Công nghệ, khóa QH-2014-X, Khoa Khoa học quản lý, Trƣờng Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, xin cam đoan:

Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của GS.TS.

Nguyễn Văn Kim và PGS.TS. Đào Thanh Trƣờng.

Các thông tin thu đƣợc từ các kết quả nghiên cứu tài liệu, điều tra, phỏng vấn

do tôi trực tiếp thực hiện.

Nghiên cứu trong Luận án không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trƣớc đây

của các tác giả trong và ngoài nƣớc.

Hà Nội, ngày tháng năm 2019

Nghiên cứu sinh

Đào Minh Quân

LỜI CẢM ƠN

Luận án với đề tài “Chính sách phát triển nhóm nghiên cứu mạnh nhằm

nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ trong các trƣờng đại học”

(Nghiên cứu trường hợp ĐHQGHN) là kết quả học tập và nghiên cứu của tác giả trong

giai đoạn 2014 - 2019, chuyên ngành Quản lý Khoa học và Công nghệ, tại Trƣờng

ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN.

Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án, tác giả đƣợc GS.TS. Nguyễn

Văn Kim, PGS.TS. Đào Thanh Trƣờng trực tiếp hƣớng dẫn. Sự tận tình chỉ bảo của

hai thầy hƣớng dẫn cùng với sự định hƣớng chuyên môn, gợi mở những hƣớng nghiên

cứu của các nhà khoa học trong ngành đã giúp cho tác giả có điều kiện hoàn thành

luận án của mình. Tác giả xin đƣợc bày tỏ sự biết ơn chân thành đến GS.TS Nguyễn

Văn Kim và PGS.TS Đào Thanh Trƣờng và đội ngũ các nhà khoa học chuyên ngành

Quản lý Khoa học và Công nghệ.

Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban KHCN, Ban Tổ chức-Cán bộ, Ban Đào tạo,

Trung tâm TT-TV của ĐHQGHN; phòng Quản lý Nghiên cứu khoa học, phòng Đào

tạo, phòng Tổ chức - Cán bộ, phòng Kế hoạch - Tài vụ của các trƣờng thành viên của

ĐHQGHN và đặc biệt là các nhà khoa học, các nhà quản lý của ĐHQGHN đã tạo điều

kiện giúp đỡ để tác giả tiếp cận đƣợc với thực tế nghiên cứu của mình qua nhiều nội

dung từ điều tra số liệu, thu thập dữ liệu, trao đổi ý kiến, phỏng vấn sâu …

Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã hết lòng

giúp đỡ, động viên tạo mọi điều kiện trong quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành

luận án.

Xin trân trọng cảm ơn

NCS. Đào Minh Quân

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC ....................................................................................................................... 1

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. 4

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ................................................................ 5

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 8

1. Lý do nghiên cứu..................................................................................................... 8

2. Ý nghĩa của nghiên cứu ......................................................................................... 10

3. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................................ 11

4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 11

5. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 12

6. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................... 12

7. Giả thuyết nghiên cứu ........................................................................................... 12

8. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................... 13

Chƣơng 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC ....................... 19

1.1. Dẫn nhập ..................................................................................................................... 19

1.2. Các công trình nghiên cứu về sự hình thành, đặc điểm, vai trò của NNCM

trong trƣờng đại học ........................................................................................................... 20

1.3. Các công trình nghiên cứu về chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học .. 33

1.4. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu ...................................................... 39

1.5. Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................... 40

Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH

VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH TRONG

HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC ............. 41

2.1. Dẫn nhập ................................................................................................................. 41

2.2. Cơ sở lý luận về NNCM trong trƣờng đại học ....................................................... 41

2.2.1. Khái niệm NNC ............................................................................................... 41

2.2.2. Khái niệm và tiêu chí NNCM .......................................................................... 42

2.2.3. Khái niệm và vai trò của hoạt động KH&CN trong trường đại học .............. 45

1

2.2.4. Phân loại NNCM trong trường đại học ............................................................. 48

2.2.5. Vai trò và các mối quan hệ của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả

hoạt động KH&CN của trường đại học ............................................................................ 49

2.2.6. Phát triển NNCM và hiệu quả hoạt động của NNCM trong trường đại học .... 54

2.3. Cơ sở lý luận về chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học ..................... 54

2.3.1. Khái niệm và vai trò của chính sách ............................................................... 54

2.3.2. Khái niệm chính sách phát triển NNCM trong trường đại học ...................... 56

2.3.3. Cấu trúc chính sách phát triển NNCM trong trường đại học ......................... 56

2.3.4. Chu trình chính sách phát triển NNCM trong trường đại học ....................... 58

2.3.5. Tiêu chí đánh giá chính sách phát triển NNCM trong trường đại học ........... 60

2.4. Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................... 62

Chƣơng 3. THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÓM NGHIÊN CỨU

MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA ĐẠI HỌC

QUỐC GIA HÀ NỘI ..................................................................................................... 63

3.1. Dẫn nhập ................................................................................................................. 63

3.2. Cơ sở hình thành và phát triển NNCM ở ĐHQGHN ............................................. 64

3.2.1. Tầm nhìn và chiến lược của ĐHQGHN .......................................................... 64

3.2.2. Cơ sở hình thành và cách tiếp cận xây dựng NNCM ở ĐHQGHN ................ 66

3.2.3. Bàn về tiêu chí NNCM của ĐHQGHN ............................................................ 67

3.2.4. Những đặc điểm của NNCM ở ĐHQGHN ...................................................... 71

3.2.5. Những đóng góp của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động

KH&CN ở ĐHQGHN .................................................................................................... 79

3.2.6. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển NNCM ........................................ 85

3.3. Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................... 93

Chƣơng 4. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU

MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ CỦA ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ................................................. 95

4.1. Dẫn nhập ................................................................................................................. 95

4.2. Tổng quan về chính sách của Nhà nƣớc có tác động đến sự hình thành

và phát triển NNCM trong các trƣờng đại học .............................................................. 95

4.3. Những ƣu điểm trong chính sách phát triển NNCM của ĐHQGHN ................... 106

4.3.1. Nhóm chính sách đầu tư, phát triển nguồn nhân lực .................................... 107

4.3.2. Nhóm chính sách cải thiện môi trường và điều kiện nghiên cứu .................. 111

4.3.3. Nhóm chính sách hợp tác và phát triển ........................................................ 116

2

4.4. Những hạn chế của chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN .......................... 120

4.5. Đánh giá tác động của chính sách phát triển NNCM đến hoạt động KH&CN

ở ĐHQGHN ................................................................................................................. 129

4.5.1. Chính sách đầu tư, phát triển nguồn nhân lực ............................................. 129

4.5.2. Chính sách cải thiện môi trường và điều kiện nghiên cứu ........................... 133

4.5.3. Chính sách hợp tác và phát triển .................................................................. 135

4.6. Tiểu kết chƣơng 4 ................................................................................................. 136

Chƣơng 5. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM

NGHIÊN CỨU MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI .................. 138

5.1. Dẫn nhập ............................................................................................................... 138

5.2. Bối cảnh, quan điểm định hƣớng, mục tiêu, nguyên tắc đề xuất giải pháp

hoàn thiện chính sách phát triển NNCM ..................................................................... 138

5.2.1. Bối cảnh bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM ........................ 138

5.2.2. Quan điểm định hướng đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách

phát triển NNCM ......................................................................................................... 142

5.2.3. Mục tiêu đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn hiện chính sách phát triển

NNCM .......................................................................................................................... 145

5.2.4. Nguyên tắc đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển

NNCM .......................................................................................................................... 145

5.3. Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng và phát triển NNCM ................................. 146

5.4. Giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN ......... 156

5.4.1. Biện pháp bổ sung, hoàn thiện về chiến lược ............................................... 158

5.4.2. Các biện pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách............................................. 159

5.4.3. Các biện pháp bổ sung, hoàn thiện quy định về quản lý .............................. 165

5.5. Điều kiện cần và đủ để các giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển

NNCM có tính khả thi ................................................................................................ 167

5.6. Tiểu kết chƣơng 5 ................................................................................................. 169

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.............................................................................. 171

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................................................... 177

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 178

PHỤ LỤC

3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NNC: Nhóm nghiên cứu

NNCM: Nhóm nghiên cứu mạnh

NCKH: Nghiên cứu khoa học

KH&CN: Khoa học và Công nghệ

ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội

ĐHKHXH&NV: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

ĐHNC: Đại học nghiên cứu

KQNC: Kết quả nghiên cứu

NCS: Nghiên cứu sinh

NLNC: Năng lực nghiên cứu

XH&NV: Xã hội và Nhân văn

KT&CN: Kỹ thuật và Công nghệ

ĐTB: Điểm trung bình

PTN: Phòng thí nghiệm

PTNTĐ: Phòng thí nghiệm trọng điểm

NC&TK: Nghiên cứu và triển khai

KH&CN: Khoa học và công nghệ

HVCH: Học viên cao học

CTĐT: Chƣơng trình đào tạo

NSNN: Ngân sách nhà nƣớc

CBKH: Cán bộ khoa học

R&D: Research and Development (Nghiên cứu và triển khai)

4

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH

1. Danh mục biểu đồ, hình, hộp

Biểu đồ 3.1: Sự phát triển của NNCM ở ĐHQGHN .................................................... 65

Biểu đồ 3.2: Cấu trúc nhân lực NNCM theo lĩnh vực nghiên cứu ............................... 72

Biểu đồ 3.3: Cấu trúc NNCM theo lĩnh vực nghiên cứu .............................................. 72

Biểu đồ 3.4: Cấu trúc NNCM theo quy mô thành viên ................................................ 73

Biểu đồ 3.5: Cấu trúc trình độ của các Trƣởng NNCM................................................ 73

Biểu đồ 3.6: Cấu trúc trình độ của các thành viên NNCM ........................................... 74

Biểu đồ 3.7: Cấu trúc độ tuổi của Trƣởng NNCM ....................................................... 75

Biểu đồ 3.8: So sánh năng suất khoa học trung bình trong vòng 5 năm của NNCM

theo các lĩnh vực nghiên cứu ......................................................................................... 81

Biểu đồ 3.9: Những yếu tố thuộc về năng lực ảnh hƣởng đến sự phát triển của

NNCM ........................................................................................................................... 86

Biểu đồ 3.10: Những yếu tố thuộc về mối quan hệ và lợi ích ảnh hƣởng đến

sự phát triển của NNCM ................................................................................................ 87

Biểu đồ 3.11: Những yếu tố thuộc về môi trƣờng, chính sách có ảnh hƣởng đến

sự phát triển của NNCM ................................................................................................ 89

Biểu đồ 3.12: Đánh giá mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung,

cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài ...................................................................................... 90

Biểu đồ 3.13: Đánh giá mức độ nghiêm túc, chính xác trong kiểm tra, đánh giá,

nghiệm thu đề tài nghiên cứu ........................................................................................ 92

Hình 2.1: Khung phân tích chính sách phát triển NNCM ............................................ 61

Hình 3.1: Cấu trúc của NNCM ..................................................................................... 72

Hình 5.1: Sơ đồ khung chính sách cấu trúc nghiên cứu của RMIT ........................... 151

Hình 5.2: Khung định hƣớng chiến lƣợc cho ĐHQGHN ........................................... 157

Hộp 2.1: Tiêu chí đánh giá NNCM............................................................................... 43

Hộp 3.1: Tiêu chí đánh giá NNCM của Trƣờng Đại học KHTN, ĐHQGHN .............. 70

Hộp 3.2: Việc xem xét nhân lực khi xét duyệt đề tài còn mang tính hình thức ........... 91

Hộp 3.3: Tiêu cực phí trong tuyển chọn, nghiệm thu và thanh quyết toán đề tài ......... 92

5

Hộp 4.1: Ý kiến của lãnh đạo Viện Chiến lƣợc và Chính sách KH&CN về chính sách

đào tạo đối với NNCM .................................................................................................. 99

Hộp 4.2: Chính sách ban hành không đi kèm với nguồn lực thực hiện ...................... 120

Hộp 4.3: Ý kiến của lãnh đạo ĐHQGHN về thành lập NNCM ................................. 121

Hộp 4.4: Hiện tƣợng mƣợn tên nhà khoa học khi thành lập NNCM .......................... 122

Hộp 4.5: Ý kiến của lãnh đạo ĐHQGHN về hoạt động đánh giá ............................... 124

Hộp 4.6: Thực tế triển khai chính sách ƣu đãi giờ giảng đối với thành viên NNCM ... 125

Hộp 4.7: Ý kiến của nhà khoa học về chính sách thành lập NNCM .......................... 126

Hộp 4.8: Nghịch lý trong triển khai dự án tăng cƣờng NLNC, ngƣời cần thì không

đƣợc giao, ngƣời đƣợc giao thì không cần .................................................................. 127

Hộp 5.1: Tiêu chí thành viên và thành viên nòng cốt của NNC, TTNC, Viện NC .... 153

2. Danh mục các bảng

Bảng 3.1: Đánh giá mức độ đạt đƣợc các tiêu chí quốc tế của NNCM thuộc

ĐHQGHN ...................................................................................................................... 68

Bảng 3.2: Tƣơng quan giữa độ tuổi với số lƣợng bài báo ISI/Scopus.......................... 76

Bảng 3.3: Tƣơng quan giữa độ tuổi với số lƣợng đề tài chủ trì .................................... 76

Bảng 3.4: So sánh giữa chức danh, học vị với số lƣợng bài báo ISI/Scopus ............... 77

Bảng 3.5: Tƣơng quan giữa nhóm chức danh, học vị với số lƣợngđề tài chủ trì ......... 78

Bảng 3.6: Số lƣợng công trình khoa học đƣợc công bố bởi thành viên NNCM .......... 79

Bảng 3.7: So sánh năng suất nghiên cứu trung bình 5 năm của thành viên NNCM

theo lĩnh vực nghiên cứu ............................................................................................... 80

Bảng 3.8: So sánh kết quả nghiên cứu của thành viên NNCM so với mặt bằng chung

của ĐHQGHN ............................................................................................................... 81

Bảng 3.9: Số lƣợng đề tài do thành viên NNCM chủ trì và tham gia........................... 83

Bảng 3.10: Đánh giá mức độ đóng góp của NNCM đối với việc nâng cao

hiệu quả hoạt động KH&CN ......................................................................................... 84

Bảng 3.11: Những yếu tố thuộc về năng lực ảnh hƣởng đến sự phát triển của

NNCM ........................................................................................................................... 85

Bảng 3.12: Những yếu tố thuộc về mối quan hệ và lợi ích ảnh hƣởng đến sự

phát triển của NNCM .................................................................................................... 87

Bảng 3.13: Những yếu tố thuộc về môi trƣờng, chính sách có ảnh hƣởng đến sự

phát triển của NNCM .................................................................................................... 88

6

Bảng 3.14: Đánh giá mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung,

cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài ...................................................................................... 89

Bảng 3.15: Đánh giá mức độ nghiêm túc, chính xác trong kiểm tra, đánh giá,

nghiệm thu đề tài nghiên cứu ........................................................................................ 91

Bảng 4.1: Số liệu thống kế nhân lực theo chức danh và trình độ đào tạo .................. 110

Bảng 4.2: Hiện trạng các PTN tính đến năm 1/3/2016 ............................................... 112

Bảng 4.3: Đối chiếu hiệu quả sau đầu tƣ khai thác hệ thống trang thiết bị ở một số

đơn vị giai đoạn 2005-2015 ......................................................................................... 115

Bảng 4.4: Những nguyên nhân cản trở việc giải thể NNCM ..................................... 123

Bảng 4.5: Nguyên nhân chính sách đƣợc ban hành chƣa phù hợp với thực tế ........... 128

Bảng 4.6: Tỉ lệ cán bộ khoa học năm 2018 so với chỉ tiêu năm 2015 và 2020 .......... 130

Bảng 4.7: Đánh giá tác động của nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực

đến sự phát triển NNCM ............................................................................................. 130

Bảng 4.8: Đánh giá tác động của nhóm chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện

nghiên cứu đến sự phát triển NNCM........................................................................... 134

Bảng 4.9: Đánh giá tác động của nhóm chính sách hợp tác và phát triển đến sự

phát triển NNCM ......................................................................................................... 135

Bảng 5.1: Tƣơng quan nhân lực và kinh phí đƣợc cấp giữa các viện, trung tâm

NC&TK và các trƣờng đại học .................................................................................... 140

Bảng 5.2: Đánh giá mức độ cần thiết của các chính sách đối với sự phát triển

của NNCM ở ĐHQGHN ............................................................................................. 160

7

MỞ ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu

Sự quan tâm, đầu tƣ xây dựng và phát triển các NNCM ở các trƣờng đại học

của Việt Nam trong thời gian gần đây phản ánh nhận thức chung rằng các NNCM

trong trƣờng đại học ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lƣợng

đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội. Trong bối cảnh khoa học đang phát

triển theo xu hƣớng liên ngành, các chuyên ngành khoa học liên kết, thâm nhập, hòa

quyện vào nhau đòi hỏi các nhà khoa học cần có cái nhìn, góc tiếp cận liên ngành

trong nghiên cứu và do đó nhu cầu về việc xây dựng mô hình tổ chức mang tính hợp

tác, liên thông giữa các nhà khoa học ở ngay chính chuyên ngành và ở nhiều chuyên

ngành khác nhau nhằm hỗ trợ, bổ sung cho nhau là một vấn đề cấp thiết và thực tiễn.

Có một thực tế khá phổ biến diễn ra trong các trƣờng đại học ở Việt Nam hiện

nay, xét ở góc độ tổ chức dƣờng nhƣ là rào cản bởi xu hƣớng chia cắt và có phần hành

chính hóa trong cả hoạt động nghiên cứu và đào tạo ở các bộ môn chuyên môn. Điều

này đƣợc xem là bình thƣờng của khoa học, nếu nhƣ đồng thời với sự chuyên sâu về

chuyên môn là cơ chế gắn kết, liên kết, hợp tác hay tổ hợp trở lại giữa các bộ môn

nhằm tận dụng thế mạnh của nhau. Nhƣng, thực tế các bộ môn chuyên môn hiện nay

đang cho thấy mỗi bộ môn là một “ốc đảo”, dẫn tới sự chia cắt, phân lập thiếu tinh

thần hợp tác. Xuất phát từ thực tế này, giải pháp mà các trƣờng đại học lựa chọn là xây

dựng các NNC khoa học, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng các NNCM nhằm quy

tụ các nhà khoa có trình độ cao, lấy hợp tác là phƣơng thức hoạt động chủ yếu để nâng

cao hiệu quả cả trong đào tạo và NCKH, đồng thời qua đó góp phần nâng cao hiệu quả

gắn kết giữa các bộ môn chuyên môn.

Với việc xác định NNC, đặc biệt là NNCM nhƣ là các tế bào sống của hoạt động

khoa học, và thậm chí của cả hoạt động đào tạo trong các trƣờng đại học, nhà khoa học

muốn phát triển đƣợc ý tƣởng khoa học, xây dựng trƣờng phái học thuật của mình hoặc

giải quyết một vấn đề khoa học liên ngành phải thiết lập đƣợc nhóm cộng sự và học trò,

tức là phải xây dựng đƣợc NNC. Chính NNC là môi trƣờng khoa học thuận lợi nhất để

các nhà khoa học trao đổi học thuật, tập hợp lực lƣợng và cùng nhau tiếp cận, giải quyết

các vấn đề mới của khoa học, và thƣờng thông qua các hoạt động của nhóm nhƣ xemina

khoa học, hƣớng dẫn NCS. NNC có thể thu hút các nhà khoa học có chuyên môn gần để

phát triển môi trƣờng học thuật chuyên sâu, hoặc thu hút các nhà khoa học của nhiều

8

ngành khác nhau để tập trung tâm sức giải quyết một vấn đề có tính liên ngành. Đồng

thời tạo ra các sản phẩm nghiên cứu có thể chuyển giao và ứng dựng vào thực tiễn[13].

Điều đó phần nào lý giải tại sao, NNCM đƣợc xem là một trong những trụ cột trong việc

giúp các trƣờng đại học xây dựng nền tảng khoa học, đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng

cao và đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.

Có nhiều vấn đề quan trọng đƣợc đặt ra khi các trƣờng đại học Việt Nam xây

dựng và phát triển các NNCM cụ thể nhƣ sau: Tại sao các trƣờng đại học cần có các

NNCM? Những lợi ích mà các trƣờng đại học mong muốn đạt đƣợc khi thành lập các

NNCM so với các mô hình nghiên cứu hiện tại là gì? Nguồn lực nào để xây dựng và

phát triển NNCM? Công tác quản trị phù hợp sẽ đƣợc triển khai nhƣ thế nào để thúc

đẩy các NNCM phát triển? Chuẩn mực đối với NNCM là gì? Mức độ tự chủ và các

hình thức chịu trách nhiệm trong quá trình này ra sao? Vai trò của Nhà nƣớc và trƣờng

đại học trong xây dựng và phát triển NNCM là gì? Làm thế nào để quy tụ đƣợc các

nhà khoa học tốt nhất? Những lĩnh vực nào cần đƣợc đầu tƣ để tập trung phát triển?

Nhà nƣớc và các trƣờng đại học cần có chính sách nào để thúc đẩy phát triển NNCM

nhằm tăng cƣờng hiệu quả hoạt động KH&CN? Những câu hỏi này sẽ phần nào đƣợc

phân tích, luận giải qua việc triển khai các nội dung nghiên cứu cụ thể của luận án.

Với mục đích góp phần nhìn nhận, lý giải vấn đề phức tạp nêu trên, tác giả luận

án lựa chọn chủ đề “Chính sách phát triển NNCM nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

KH&CN trong các trường đại học ở Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp ĐHQGHN)”

là nội dung nghiên cứu của mình. Lý do tác giả luận án chọn chủ để nghiên cứu này

bởi đây là một chủ đề mới, khảo sát thực tế, ngƣời viết nhận thấy hiện nay chƣa có

một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về chính sách phát triển các NNCM và đúc

kết thành những đề xuất chính sách một cách cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển các

NNCM trong các trƣờng đại học. Bên cạnh đó, việc lựa chọn ĐHQGHN là khách thể

nghiên cứu bởi, ĐHQGHN có thể xem là trƣờng hợp điểm hình trong việc xây dựng

và phát triển NNCM ở thời điểm hiện tại. Với chiến lƣợc phát triển của mình đến năm

2020, tầm nhìn đến năm 2030[42], ĐHQGHN đã khẳng định đang từng bƣớc xây

dựng, phát triển theo định hƣớng một ĐHNC, nâng cao chất lƣợng đào tạo và phục vụ

các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc. Đối với một ĐHNC thì chức năng

nghiên cứu chiếm ƣu thế trong sứ mạng của Nhà trƣờng, nghĩa là nghiên cứu quyết

định bản chất và nội dung của các hoạt động khác nhƣ giảng dạy, học tập, phục vụ xã

hội. Thực tế cho thấy, những đề tài NCKH có quy mô lớn, có tính liên ngành cao nhƣ

9

đề tài cấp nhà nƣớc, đề tài trọng điểm cấp bộ/cấp đại học quốc gia đều đƣợc thực hiện

bởi các NNC, thay vì cá nhân nghiên cứu độc lập. Chính vì vậy, để ĐHQGHN phát

triển thành ĐHNC thì việc xây dựng và phát triển NNC có tính cấp bách và có ý nghĩa

lý luận và thực tiễn cao trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng chính là một trong những

giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng cả trong đào tạo và nghiên cứu. Ngoài ra,

ĐHQGHN là một trong những trung tâm đào tạo, nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực

lớn nhất của cả nƣớc, với nhiều trƣờng đại học, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu

trực thuộc. KQNC của các nhà khoa học ở ĐHQGHN đã từng bƣớc khẳng định đƣợc

mức độ ảnh hƣởng ở tầm quốc gia và quốc tế. Theo bảng xếp hạng mới nhất của QS

University Ranking Asia 2019 thì ĐHQGHN đứng thứ 124 trong danh sách 150 đại

học hàng đầu châu Á[68] và là 1 trong 2 trƣờng đại học của Việt Nam lọt top 1000

trƣờng đại học xuất sắc nhất thế giới[69]. Vì vậy, ĐHQHGH có thể đƣợc coi là đơn vị

điển hình và có nhiều ý nghĩa cũng nhƣ khả năng suy rộng KQNC đến các cơ sở đào

tạo, nghiên cứu trong cả nƣớc.

Tóm lại, từ những phân tích kể trên, rõ ràng việc nghiên cứu, đánh giá và đề

xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM trong các trƣờng đại

học là cần thiết nhằm kiến tạo môi trƣờng thuận lợi để các nhà khoa học, các NCS, học

viên, sinh viên có thể phát huy khả năng và ý tƣởng sáng tạo trong NCKH nhằm

hƣớng đến mục tiêu: a) Thúc đẩy các sáng kiến mới đặc biệt là trong những lĩnh vực

nghiên cứu đa ngành đang đƣợc quan tâm; b) Huy động và khai thác các nguồn lực

bên trong và bên ngoài để phát triển các chƣơng trình nghiên cứu của nhóm; c) Cung

cấp các chƣơng trình giáo dục và rèn luyện trong hoạt động nghiên cứu và các kỹ năng

liên quan, đặc biệt là đối với sinh viên đại học và sau đại học; d) Phổ biến, truyền bá

tri thức khoa học qua các ấn phẩm, hội thảo, bài giảng,…; đ) Tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động hợp tác đa ngành giữa các học giả và đối tác thông qua mạng Internet và

quá trình trao đổi thông tin; e) Cung cấp, chuyển giao các kết quả nghiên cứu, khóa

đào tạo, huấn luyện, bồi dƣỡng kinh nghiệm và kỹ năng chuyên môn; f) Tăng cƣờng

NLNC; g) Liên kết tri thức, tận dụng đƣợc các ƣu điểm về tính liên ngành.

2. Ý nghĩa của nghiên cứu

Trên phương diện lý thuyết, luận án góp thêm một góc nhìn mới về các khái

niệm NNC, NNCM, hoạt động KH&CN, chính sách phát triển NNCM và tiêu chí

NNCM. Luận án cũng giúp mở rộng sự hiểu biết về vai trò và các mối quan hệ của

NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN trong trƣờng đại học; tiêu chí

10

đánh giá hiệu quả hoạt động KH&CN của NNCM trong trƣờng đại học; cấu trúc chính

sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học; chu trình chính sách phát triển NNCM

trong trƣờng đại học; tiêu chí đánh giá tác động của chính sách phát triển NNCM trong

trƣờng đại học.

Về mặt thực tiễn, luận án chỉ ra thực trạng và vai trò của NNCM ở ĐHQGHN

trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN qua các chiều cạnh cụ thể, bao gồm

quy mô, cơ cấu, tổ chức, hoạt động, đóng góp của NNCM cũng nhƣ những nhân tố tác

động đến sự hình thành và phát triển NNCM. Luận án cũng làm rõ thực trạng chính

sách phát triển NNCM nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN

trên cơ sở phân tích những ƣu điểm, hạn chế và tác động của 3 nhóm chính sách, bao

gồm: Nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực; nhóm chính sách cải thiện

môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu; nhóm chính sách hợp tác và phát triển. Ngoài ra,

luận án còn góp phần quan trọng trong việc chỉ ra những điểm cần bổ sung, hoàn thiện

đối với chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN nhằm không chỉ gia tăng số lƣợng

nhóm mà quan trọng hơn là nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của NNCM. Điểm

cần nói thêm là kết quả nghiên cứu của luận án có thể là tài liệu tham khảo tốt cho các

trƣờng đại học, các viện nghiên cứu trong việc đề ra những chính sách nhằm thúc đẩy

sự hình thành và phát triển NNCM trong thời gian tới.

3. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là: Chính sách phát triển NNCM nhằm nâng

cao hiệu quả hoạt KH&CN trong trƣờng đại học

4. Phạm vi nghiên cứu

4.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu

Phạm vi nội dung của luận án đƣợc giới hạn cụ thể nhƣ sau:

- Nội dung thứ nhất là thực trạng và tác động của các NNCM trong hoạt động

KH&CN của trƣờng đại học

- Nội dung thứ hai là thực trạng và tác động của chính sách phát triển NNCM

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN trong trƣờng đại học

- Nội dung thứ ba là đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển NNCM

trong trƣờng đại học

4.2. Phạm vi không gian và thời gian

Giới hạn phạm vi không gian: Luận án chỉ nghiên cứu NNCM ở ĐHQGHN

Giới hạn phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu các nội dung đƣợc đề cập đến

ở trên trong khoảng thời gian chủ yếu từ 2013 đến nay. Việc giới hạn phạm vi thời

11

gian này là vì từ 2013, ĐHQGHN chính thức ban hành chính sách phát triển NNCM.

Ngoài ra, một số văn bản khác liên quan đƣợc ban hành trƣớc năm 2013 cũng đƣợc

xem xét, phân tích.

5. Mục tiêu nghiên cứu

- Làm rõ thực trạng và những tác động của NNCM đối với hoạt động KH&CN

của các trƣờng đại học cụ thể là trƣờng hợp ĐHQGHN.

- Làm rõ thực trạng và tác động của các chính sách phát triển NNCM đối với

việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN.

- Đề xuất những điểm cần bổ sung, hoàn thiện đối với chính sách phát triển

NNCM ở ĐHQGHN nhằm không chỉ gia tăng số lƣợng nhóm mà quan trọng hơn là

nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của NNCM.

6. Câu hỏi nghiên cứu

Câu hỏi thứ nhất: Thực trạng các NNCM nhƣ thế nào và các NNCM đã có

những tác động ra sao đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của

ĐHQGHN?

Câu hỏi thứ hai: Thực trạng và tác động của chính sách phát triển NNCM đối

với việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN nhƣ thế nào?

Câu hỏi thứ ba: Chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN hiện nay cần đƣợc

bổ sung, hoàn thiện nhƣ thế nào để không chỉ gia tăng về số lƣợng nhóm mà quan

trọng hơn là tạo ra chất lƣợng từ hiệu quả đạt đƣợc của nhóm trong hoạt động

KH&CN?

7. Giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết thứ nhất: NNCM ở ĐHQGHN giúp gia tăng số lƣợng ấn phẩm khoa

học, số lƣợng đề tài, góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo và mở rộng hợp tác trong

nghiên cứu.

Giả thuyết thứ hai: Bên cạnh những tác động tích cực, chính sách phát triển

NNCM nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN vẫn còn những

hạn chế nhất định liên quan đến mục tiêu, nội dung và tổ chức thực hiện chính sách.

Giả thuyết thứ ba: Chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN hiện nay cần

đƣợc bổ sung, hoàn thiện trên một số phƣơng diện, cụ thể là xác lập lĩnh vực nghiên

cứu thế mạnh, tự chủ tài chính, và đánh giá hiệu quả hoạt động.

12

8. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu

8.1. Các cách tiếp cận

- Tiếp cận chính sách trong hệ thống thiết chế quản lý: Theo Vũ Cao Đàm hệ

thống thiết chế quản lý bao gồm chiến lƣợc (sự lựa chọn), chính sách (sự đối xử), luật

hay các quy định (sự điều chỉnh)[5, tr.55-56]. Nhƣ vậy, theo cách tiếp cận này, tác giả

luận án tiến hành xem xét chính sách phát triển NNCM trong chiến lƣợc phát triển, các

chính sách đãi ngộ và các quy định cụ thể đối với NNCM của ĐHQGHN.

- Cách tiếp cận đánh giá hậu nghiệm: Xây dựng NNCM ở ĐHQGHN đƣợc

định hƣớng trong chiến lƣợc phát triển của Nhà trƣờng từ năm 2000, và đƣợc đầu tƣ

kể từ năm 2006 đến nay. Tuy nhiên, các chính sách trong nghiên cứu này chủ yếu

đƣợc ban hành trong giai đoạn 2013 trở lại đây và đã triển khai thực hiện khi nghiên

cứu này tiến hành. Do chính sách đã triển khai trong thực tế, nên cách tiếp cận đánh

giá tiên nghiệm không phù hợp và vì vậy cách tiếp cận đánh giá hậu nghiệm đƣợc áp

dụng. Cách tiếp cận này cho phép sử dụng các phƣơng pháp định tính và định lƣợng

trong đánh giá thông qua lấy ý kiến của đối tƣợng hƣởng lợi và các tác nhân liên quan.

Cách tiếp cận này cho phép đánh giá kết quả đạt đƣợc so với mục tiêu đặt ra của chính

sách, cũng nhƣ xác định đƣợc nguyên nhân của các kết quả đạt đƣợc. Nói cách khác,

đánh giá hậu nghiệm cho phép chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa kết quả và quá trình

triển khai thực hiện chính sách.

- Tiếp cận đánh giá tác động thông qua so sánh trước và sau khi thực hiện

chính sách: Trong nghiên cứu này tác giả luận án kết hợp phƣơng pháp định lƣợng và

định tính để đánh giá tác động của các chính sách phát triển NNCM. Các phƣơng pháp

thống kê mô tả, so sánh và ý kiến chuyên gia đƣợc sử dụng. Việc so sánh trƣớc và sau

khi thực hiện chính sách cho biết sự thay đổi của các chỉ số phản ánh tác động. Trong

trƣờng hợp so sánh này, không thể định lƣợng đƣợc tác động chính xác của chính sách

lên đối tƣợng hƣởng lợi hoặc tác nhân liên quan. Ở đây, tác giả luận án giả định rằng

sự thay đổi kết quả có sự đóng góp (tích cực hoặc tiêu cực) của chính sách. Cách tiếp

cận so sánh này cho phép dựa vào số liệu thực tế có thể kiểm chứng đƣợc. Phƣơng

pháp lấy ý kiến chuyên gia cũng cho phép phản ánh tác động của chính sách. Mặc dù

không định lƣợng đƣợc tác động của chính sách, nhƣng cho phép xác định đƣợc hƣớng

tác động (dương tính, âm tính, ngoại biên) của chính sách và nguyên nhân.

- Tiếp cận theo nội dung chính sách, kênh tác động và tác nhân hưởng lợi trực

tiếp từ chính sách: Nghiên cứu này liên quan đến nhiều nhóm chính sách và các chính

13

sách có sự khác nhau về tác nhân tham gia thực hiện, đối tƣợng hƣởng lợi trực tiếp,

kênh truyền dẫn tác động,... Trong mỗi văn bản chính sách có nhiều nội dung khác

nhau, trong khi nghiên cứu chỉ giới hạn ở một số nội dung nhất định đối với mỗi chính

sách. Mỗi chính sách có kênh tác động và đối tƣợng hƣởng lợi trực tiếp, gián tiếp khác

nhau. Vì vậy, căn cứ theo kênh thực hiện và tác động mà mỗi chính sách sẽ có đối

tƣợng khảo sát, chỉ tiêu đánh giá riêng biệt.

- Tiếp cận theo lĩnh vực nghiên cứu và theo cấp quản lý: Định mức tiêu chí xây

dựng NNCM có sự khác nhau về đơn vị triển khai và lĩnh vực nghiên cứu. Các đơn vị

khác nhau có những điểm mạnh, điểm yếu của lĩnh vực nghiên cứu khác nhau nên việc

áp dụng các chính sách ở các đơn vị và lĩnh vực nghiên cứu sẽ khác nhau, tác động

chính sách khác nhau.

Hơn nữa, ngay trong cùng một đơn vị nghiên cứu, các loại hình nghiên cứu cơ

bản, ứng dụng, định hƣớng ứng dụng, triển khai khác nhau, nên tác động của chính

sách xây dựng NNC cũng khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu đã chọn mỗi đơn vị, mỗi lĩnh

vực một số NNCM đại diện, trong đó, NNCM sẽ đƣợc đặt trong các tổ chức KH&CN

nói chung để xem xét. Việc khảo sát, đánh giá chỉ tập trung vào các trƣờng đại

học/tƣơng đƣơng đã triển khai xây dựng NNCM. Vì ở các đơn vị này đƣợc ƣu tiên đầu

tƣ phát triển nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị và các hoạt động hỗ trợ và

đó là cơ sở để đánh giá tác động. Các cơ quan quản lý từ cấp ĐHQGHN đến cấp đơn

vị trực thuộc có vai trò khác nhau trong triển khai chính sách, vì vậy, các cấp này đƣợc

khảo sát và lấy ý kiến đánh giá.

8.2. Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu

- Phương pháp phân tích tài liệu

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án tiến hành xem xét các văn bản chính

sách của ĐHQGHN và văn bản chính sách của nhà nƣớc có liên quan, đồng thời kế

thừa và sử dụng phân tích các nguồn tài liệu khác nhƣ: các bài báo, tạp chí chuyên

ngành, các bài báo cáo trong kỷ yếu hội thảo, các công trình nghiên cứu trƣớc, các tài

liệu của những ngành khoa học khác, các báo cáo hoạt động KH&CN của ĐHQGHN,

các báo cáo tổng kết hoạt động của các NNCM ở ĐHQGHN... Các văn bản, tài liệu,

các thông tin lý thuyết đƣợc tác giả luận án nghiên cứu, sắp xếp để tạo ra một hệ thống

lý thuyết đầy đủ, sâu sắc về chủ đề nghiên cứu; các tài liệu cũng chia thành từng bộ

phận, từng mặt để có thể hiểu một cách toàn diện. Điều này giúp tác giả luận án phát

hiện ra những xu hƣớng, những lĩnh vực, hƣớng nghiên cứu của từng tác giả đã nghiên

14

cứu trƣớc đó để lựa chọn những thông tin quan trọng phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

Những thông tin thu thập đƣợc kế thừa và sử dụng một cách có chọn lọc trong luận án.

- Phương pháp điều tra với bảng hỏi

Tác giả luận án tiến hành điều tra với bảng hỏi 141 đối tƣợng. Trong đó, có 113

cán bộ khoa học làm việc trong các NNC, NNCM và 28 cán bộ quản lý ở ĐHQGHN

bao gồm cả các đối tƣợng đƣợc hƣởng lợi từ chính sách và các đối tƣợng không đƣợc

hƣởng lợi từ chính sách. Việc khảo sát bằng bảng hỏi đƣợc tiến hành theo hai cách:

thứ nhất gửi phiếu hỏi qua email đến đối tƣợng đƣợc hỏi để xin ý kiến và thứ hai là

liên hệ trƣớc và trực tiếp phát phiếu xin ý kiến ngƣời đƣợc hỏi. Thông tin khảo sát đảm

bảo nguyên tắc khuyết danh của ngƣời trả lời theo đúng quy định. Mẫu khảo sát cụ thể

nhƣ sau:

Các tiêu chí Số lƣợng Tỷ lệ

Nam 100 70.9% Giới tính Nữ 41 29,1%

Dƣới 41 68 48.2% Độ tuổi

(độ tuổi trung bình Từ 41- 55 50 35.5%

là 44) Trên 55 23 16.3%

ThS 27 19.1%

TS/TSKH 58 41.1% Chức danh, học vị PGS.TS 45 31.9%

GS.TS 11 7.8%

Khoa học tự nhiên 52 46% Lĩnh vực nghiên cứu

Khoa học XH&NV 38 33.6% (Không xem xét đến

28 đối tượng là cán Khoa học KT&CN 13 11.5%

bộ quản lý) Khác (Y dƣợc, nông nghiệp...) 10 8.8%

Thành viên của NNCM 74 52.5%

Vai trò Thành viên của NNC khác 39 27.7%

- Phương pháp phỏng vấn sâu:

Cán bộ quản lý 28 19.9%

Tác giả luận án tiến hành phỏng vấn sâu 16 đối tƣợng là các trƣởng NNCM, cán

bộ lãnh đạo quản lý ở các bộ phận có liên quan trực tiếp nhƣ Tổ chức – Cán bộ, Quản

lý Nghiên cứu Khoa học, Quản lý đào tạo từ cấp ĐHQGHN đến cấp trƣờng thành viên

15

nhằm phát hiện các vấn đề của chính sách cũng nhƣ làm rõ những vấn đề chính sách

đã đƣợc phát hiện. Mẫu đối tƣợng đƣợc lựa chọn phỏng vấn đảm bảo tính đại diện về

lĩnh vực, độ tuổi, thâm niên chuyên môn khác nhau. Bên cạnh đó tác giả luận án tiến

hành phỏng vấn sâu thêm 01 chuyên gia nƣớc ngoài và 02 lãnh đạo thuộc Bộ KH&CN

nhằm làm rõ hơn những vấn đề của chính sách phát triển NNCM nói chung. Việc

phỏng vấn sâu đƣợc tiến hành bằng cách gửi trƣớc yêu cầu phỏng vấn bằng văn bản,

tác giả luận án trực tiếp nghe và trao đổi với các chuyên gia. Thông tin phỏng vấn đảm

bảo nguyên tắc khuyết danh của ngƣời trả lời theo đúng quy định.

- Phương pháp thống kê toán học:

Phƣơng pháp thống kê toán học đƣợc sử dụng để xử lý, phân tích, đánh giá các

kết quả thu thập đƣợc bằng phƣơng pháp điều tra với bảng hỏi nêu trên. Cụ thể là:

- Tính tần suất, phần trăm kết quả thu đƣợc

- Sử dụng một số các đại lƣợng thống kê: Giá trị trung bình, Độ lệch chuẩn và

Hệ số tƣơng quan Pearson (r) nhằm chỉ rõ mức độ có liên hệ hay không liên hệ của 2

hay nhóm đại lƣợng nào đó theo kiểu tuyến tính.

Việc tính điểm cho mỗi phƣơng án trả lời đƣợc quy ƣớc nhƣ sau:

Sử dụng thang điểm từ 1 - 5 cho các mức độ lựa chọn. Để phân ra 05 mức độ

tác giả luận án đã lấy điểm cao nhất (5) trừ đi điểm thấp nhất (1) và chia cho 5 mức.

Điểm chênh lệch của mỗi mức độ là 0.8 tính theo công thức n=(n-1)/n trong đó n là số

thứ bậc của thang đo. Mức thang đo trên có giá trị nghiên cứu cho trƣờng hợp

ĐHQGHN:

+Mức độ quan trọng:

Rất quan trọng 5 điểm Mức độ 1 Rất quan trọng 4.2≤ĐTB≤5

Quan trọng 4 điểm Mức độ 2 Quan trọng 3.4≤ĐTB≤4.2

Bình thƣờng 3 điểm Mức độ 3 Bình thƣờng 2.6≤ĐTB≤3.4

Ít quan trọng 2 điểm Mức độ 4 Ít quan trọng 1.8≤ĐTB≤2.6

Không quan trọng 1 điểm Mức độ 5 Không quan trọng 1≤ĐTB≤1.8

+Mức độ cần thiết:

Rất cần thiết Cần thiết 5 điểm 4 điểm Mức độ 1 Rất cần thiết Mức độ 2 Cần thiết 4.2≤ĐTB≤5 3.4≤ĐTB≤4.2

Ít cần thiết

Khá cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết 3 điểm 2 điểm 1 điểm Mức độ 3 Khá cần thiết Mức độ 4 Mức độ 5 Không cần thiết 2.6≤ĐTB≤3.4 1.8≤ĐTB≤2.6 1≤ĐTB≤1.8

16

+Mức độ tác động

Rất tích cực 5 điểm Mức độ 1 Rất tích cực 4.2≤ĐTB≤5

Tích cực 4 điểm Mức độ 2 Tích cực 3.4≤ĐTB≤4.2

Bình thƣờng 3 điểm Mức độ 3 Bình thƣờng 2.6≤ĐTB≤3.4

Hạn chế Rất hạn chế 2 điểm 1 điểm Mức độ 4 Hạn chế Mức độ 5 Rất hạn chế 1.8≤ĐTB≤2.6 1≤ĐTB≤1.8

+Mức độ ảnh hưởng

Ảnh hƣởng rất nhiều Ảnh hƣởng nhiều 5 điểm 4 điểm Mức độ 1 Ảnh hƣởng rất nhiều Mức độ 2 Ảnh hƣởng nhiều 4.2≤ĐTB≤5 3.4≤ĐTB≤4.2

Bình thƣờng 3 điểm Mức độ 3 Bình thƣờng 2.6≤ĐTB≤3.4

Ảnh hƣởng ít 2 điểm Mức độ 4 Ảnh hƣởng ít 1.8≤ĐTB≤2.6

Không ảnh hƣởng 1 điểm Mức độ 5 Không ảnh hƣởng 1≤ĐTB≤1.8

+ Mức độ đồng thuận:

Trường hợp 1:

Hoàn toàn đồng ý 5 điểm Mức độ 1 Hoàn toàn đồng ý 4.2≤ĐTB≤5

Đồng ý 4 điểm Mức độ 2 Đồng ý 3.4≤ĐTB≤4.2

Phân vân 3 điểm Mức độ 3 Phân vân 2.6≤ĐTB≤3.4

Không đồng ý 2 điểm Mức độ 4 Không đồng ý 1.8≤ĐTB≤2.6

1 điểm Mức độ 5 1≤ĐTB≤1.8 Hoàn toàn không đồng ý Hoàn toàn không đồng ý

Trường hợp 2:

Hoàn toàn đúng 5 điểm Mức độ 1 Hoàn toàn đúng 4.2≤ĐTB≤5

Cơ bản là đúng 4 điểm Mức độ 2 Cơ bản là đúng 3.4≤ĐTB≤4.2

Nửa đúng, nửa sai 3 điểm Mức độ 3 Nửa đúng, nửa sai 2.6≤ĐTB≤3.4

Cơ bản là sai 2 điểm Mức độ 4 Cơ bản là sai 1.8≤ĐTB≤2.6

Hoàn toàn sai 1 điểm Mức độ 5 Hoàn toàn sai 1≤ĐTB≤1.8

+ Mức độ đảm bảo yêu cầu

5 điểm 4.2≤ĐTB≤5

4 điểm Mức độ 2 3.4≤ĐTB≤4.2

3 điểm Mức độ 3 2.6≤ĐTB≤3.4

2 điểm Mức độ 4 1.8≤ĐTB≤2.6

1 điểm Mức độ 5 1≤ĐTB≤1.8 Đảm bảo yêu cầu Đa phần đảm bảo yêu cầu Cơ bản đảm bảo yêu cầu Đảm bảo một phần yêu cầu Không đảm bảo yêu cầu Mức độ 1 Đảm bảo yêu cầu Đa phần đảm bảo yêu cầu Cơ bản đảm bảo yêu cầu Đảm bảo một phần yêu cầu Không đảm bảo yêu cầu

17

+ Mức độ đạt được các tiêu chí

Hoàn toàn đạt đƣợc 5 điểm Mức độ 1 Hoàn toàn đạt đƣợc 4.2≤ĐTB≤5

Đạt mức cao 4 điểm Mức độ 2 Đạt mức cao 3.4≤ĐTB≤4.2

Đạt mức trung bình 3 điểm Mức độ 3 Đạt mức trung bình 2.6≤ĐTB≤3.4

Đạt mức thấp 2 điểm Mức độ 4 Đạt mức thấp 1.8≤ĐTB≤2.6

+ Mức độ phù hợp

Không đạt 1 điểm Mức độ 5 Không đạt 1≤ĐTB≤1.8

Hoàn toàn phù hợp 5 điểm Mức độ 1 Hoàn toàn phù hợp 4.2≤ĐTB≤5

Phù hợp 4 điểm Mức độ 2 Phù hợp 3.4≤ĐTB≤4.2

Khá phù hợp 3 điểm Mức độ 3 Khá phù hợp 2.6≤ĐTB≤3.4

Chƣa phù hợp 2 điểm Mức độ 4 Chƣa phù hợp 1.8≤ĐTB≤2.6

+ Mức độ thực hiện

Không phù hợp 1 điểm Mức độ 5 Không phù hợp 1≤ĐTB≤1.8

Thực hiện ngay và Thực hiện ngay và 5 điểm Mức độ 1 cƣơng quyết cƣơng quyết 4.2≤ĐTB≤5

Thực hiện ngay 4 điểm Mức độ 2 Thực hiện ngay 3.4≤ĐTB≤4.2

Làm chiếu lệ 3 điểm Mức độ 3 Làm chiếu lệ 2.6≤ĐTB≤3.4

Hiếm khi thực hiện 2 điểm Mức độ 4 Hiếm khi thực hiện 1.8≤ĐTB≤2.6

- Kỹ thuật xử lý thông tin:

Không thực hiện 1 điểm Mức độ 5 Không thực hiện 1≤ĐTB≤1.8

Các phiếu điều tra đƣợc tiến hành nhập và xử lý, phân tích kết quả trên máy

tính, bằng phần mềm chuyên dụng SPSS (20.0).

18

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC

1.1. Dẫn nhập

Trên thế giới, NNC đƣợc biết đến kể từ năm 1990, khi PTN khoa học pháp y

của Mỹ và quốc tế đã hợp tác trong các NNC khoa học (Scientific Working Group) để

cải thiện thực hành kỷ luật và xây dựng tiêu chuẩn thống nhất. Mỗi NNC bao gồm các

nhà khoa học làm việc trong các lĩnh vực nghiên cứu riêng và hoạt động trên nhiều

lĩnh vực khác nhau, họ vừa làm việc độc lập, vừa liên kết với nhau trên cơ sở là phần

tử của một hệ thống pháp y phát triển của Hoa Kỳ, bất cứ hoạt động phân tích pháp y

liên quan đến các vấn đề quốc tế đều có sự tham gia cộng tác của các NNC. Mỗi NNC

đều có website riêng với các nguồn tài nguyên phong phú, các chƣơng trình/dự án

nghiên cứu đƣợc thực hiện, các KQNC đƣợc ứng dụng đã chứng tỏ NLNC và các

thành tựu mà nhóm đạt đƣợc [73].

Ngày nay, trong các trƣờng đại học trên thế giới, các NNC là hình thức tổ chức

phổ biến để tiến hành các hoạt động nghiên cứu và đào tạo. Có thể kể đến mô hình

NNC của Đại học Lomonoxop, Nga; các trƣờng đại học của Hà Lan; Trƣờng đại học

Ruhr, Bochum, CHLB Đức[55]; hay các NNCM đã khẳng định đƣợc những thành

công trong hoạt động của mình nhƣ Nano Research Group, School of Materials and

Engineering, Georgia Institute of Technology[72]; The Abruña group, Department of

Chemistry and Chemical Biology, Cornell University, United State [76]; The Group

Semiconductor Components, University of Twente[77]; Max Planck Research group

[71]…. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các NNC đã cho thấy, trong môi

trƣờng hợp tác của NNC, các nhà khoa học thƣờng dễ dàng tìm thấy ý tƣởng và sự

đồng thuận trong mục tiêu và quan điểm khoa học, sự gắn kết này không chỉ đơn thuần

là công việc mà còn là sự đam mê cống hiến khoa học. Chính vì vậy, sự gắn kết của

các NNC thƣờng bền vững hơn so với bất cứ sự gắn bó hành chính nào.

Cũng nhƣ trên thế giới, môi trƣờng đại học ở Việt Nam là nơi giao thoa của ba

chức năng đào tạo, NCKH và phục vụ xã hội, cũng là nơi hội tụ của đại đa số các nhà

khoa học (Theo số liệu điều tra NC&TK 2014 và điều tra doanh nghiệp 2014, ở khu

vực đại học, tỷ lệ cán bộ nghiên cứu trong tổng số cán bộ nghiên cứu của cả nước là

cao nhất, chiếm gần một nửa (48%), tiếp đó là khu vực viện nghiên cứu/trung tâm

19

nghiên cứu (23%), khu vực doanh nghiệp cũng có tỷ lệ tương đối cao (16%))[56] rõ

ràng sẽ là môi trƣờng lý tƣởng để các NNC phát triển. Nhằm làm rõ tính mới, tính

khoa học cho đề tài nghiên cứu, trong chƣơng này tác giả luận án sẽ tìm hiểu những

kết quả mà các nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đã thực hiện và nhận định những nội

dung còn chƣa đƣợc đặt vấn đề nghiên cứu, để qua đó, xác định những nhiệm vụ đặt ra

cho đề tài luận án cần tập trung giải quyết. Theo đó, tác giả luận án sẽ tập trung vào 3

nội dung chính gồm (1) Cơ sở hình thành, đặc điểm, vai trò của nhóm nghiên cứu

mạnh trong trường đại học; (2) Chính sách phát triển nhóm nghiên cứu mạnh trong

trường đại học; (3) Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu

1.2. Các công trình nghiên cứu về sự hình thành, đặc điểm, vai trò của NNCM

trong trƣờng đại học

Qua nghiên cứu, tìm hiểu các tài liệu liên quan đến chủ đề nghiên cứu của mình

ở trong và ngoài nƣớc tác giả luận án nhận thấy, các bài viết của các nhà khoa học đã

đề cập đến vấn đề hợp tác trong nghiên cứu, nhận diện NNC và NNCM, sự hình thành,

đặc điểm, cấu trúc, vai trò, quy trình hoạt động và những yếu tố cốt lõi đối với NNC

và NNCM. Sau đây là những nội dung cụ thể:

Khái niệm NNC đã đƣợc Joseph S. Fruton đề cập trong cuốn tài liệu “Constracts

in scientific Style: Research Groups in the Chemical and Biochemocal Researchs”

(1990). Trong đó, tác giả đƣa ra định nghĩa: NNC là một tập thể nghiên cứu định

hướng trong một lĩnh vực chuyên môn nhất định tại một đơn vị đào tạo, đơn vị nghiên

cứu, được dẫn dắt bởi một nhà khoa học có uy tín khoa học, đủ để có thể tiến hành

một chương trình nghiên cứu độc lập. Thông qua tương tác với lãnh đạo chuyên môn

của nhóm (trưởng nhóm) và với các thành viên khác, các thành viên trong nhóm có cơ

hội học hỏi các kỹ thuật thực nghiệm, nắm bắt kiến thức lý thuyết và tham gia tích cực

vào chương trình nghiên cứu của nhóm để tạo ra những thành tựu khoa học mới,

những ý tưởng mới, những sản phẩm KH&CN mới [31].

Đề cập đến khái niệm NNCM trong “Handbook: Work Group Learning” (2008),

Valerie I. Sessa cho rằng, NNCM được hiểu theo nghĩa rộng là tập hợp các nhà khoa

học hay các trung tâm, PTN liên kết với nhau trên một hay một số lĩnh vực nhằm

nghiên cứu và triển khai những hoạt động KH&CN ở trình độ cao trong những lĩnh

vực khoa học khác nhau. Các NNC sẽ đóng vai trò trung gian trong hệ thống tổ chức

trung tâm, viện, trường. Các nhóm sẽ liên kết các cá nhân lại với nhau trong khoảng

thời gian cố định và liên kết với nhau dưới dạng hệ thống hoàn chỉnh. Nói cách khác,

20

các NNC đóng vai trò là tổ chức nhỏ tập hợp các cá nhân hoạt động NCKH và phát

triển công nghệ và các trung tâm, viện, trường là nơi tổ chức tập hợp các NNC lại

theo hướng tương hỗ hoặc song song với nhau [40].

Hay quan điểm của David L. Morgan - Porland State University, đề cập trong

Focus as Qualitative Research - Second Edition - Sage Publications Inc (1997) khi

cho rằng “NNCM là một NNC được hoạt động trên cơ sở kết hợp tự nguyện những cá

thể có NLNC tốt. Thay vì các mối quan hệ trên cơ sở uy tín là những quan hệ tương

tác giữa các thành viên trong nhóm với sự điều hành của người chủ trì đề tài. Dấu

hiệu phân biệt của NNCM là sự trao đổi thảo luận để phát triển công tác nghiên cứu,

điều này có thể ít được sử dụng trong các NNC thông thường”[34].

Trong khi đó, công trình nghiên cứu “Studies in Scientific Collaboration Part III.

Professionalization and The Natural History of Modern Scientific Co-authorship”

(1979) của D. Deb. Beaver và R. Rosen cho thấy, xu hƣớng hợp tác giữa các nhà khoa

học đã gia tăng một cách nhanh chóng kể từ thế kỷ XX. Sự hợp tác đƣợc tăng cƣờng

gắn liền với những đổi mới trong tổ chức khoa học và tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của

khoa học. Các tác giả cũng khẳng định, cả sự hợp tác và những thay đổi trong tổ chức

khoa học đều bắt nguồn từ sự chuyên nghiệp hóa khoa học, chính sự gia tăng các hoạt

động nghiên cứu liên ngành, cũng nhƣ yêu cầu cao về chi phí nghiên cứu đã có tác

động lớn buộc các nhà nghiên cứu phải hợp tác trong nghiên cứu, hình thành nên các

NNC và mạng lƣới nghiên cứu giúp mở rộng khả năng truyền bá tri thức, nâng cao

chất lƣợng nghiên cứu và ứng dụng nghiên cứu trong thực tiễn[32].

Nghiên cứu của Sharon Mickan và Sylvia Rodger về những đặc điểm của nhóm

hiệu quả (Characteristics of effective teams: a literature review (2000)) đã chỉ ra 18

đặc điểm quan trọng của một nhóm làm việc hiệu quả, trong đó 12 đặc điểm thuộc về

cấu trúc tổ chức và 6 đặc điểm thuộc về quy trình, cụ thể:

Về mặt cấu trúc tổ chức, nhóm tác giả cho rằng các nhóm hiệu quả cần có:

1) Mục đích rõ ràng (Clear purpose) - xác định các mục tiêu phù hợp và liên kết các

mục tiêu chuyên môn của cá nhân song song với mục tiêu của nhóm; 2) Văn hóa phù

hợp (Appropriate culture) - Văn hóa nhóm thể hiện cách chuyển đổi các giá trị đƣợc

chia sẻ thành các chuẩn mực hành vi; 3) Xác định rõ nhiệm vụ (Specified task) - các

nhiệm vụ đóng góp hữu hình cho nhóm và phù hợp với mục đích, khả năng và thái độ

của nhóm; 4) Phân định rõ vai trò (Distinct roles) - vai trò cá nhân cần đƣợc làm rõ và

hiểu rõ; 5) Lãnh đạo phù hợp (Suitable leadership) - Nhiệm vụ của nhóm càng phức tạp

21

và năng động, càng cần một ngƣời lãnh đạo giỏi. Lãnh đạo nên phản ánh giai đoạn phát

triển của nhóm. Các nhà lãnh đạo cần duy trì trọng tâm chiến lƣợc để hỗ trợ tầm nhìn

của Nhóm, tạo điều kiện thiết lập mục tiêu, đào tạo và đánh giá thành tích; 6) Thành

viên có liên quan (Relevant members)- Số lƣợng thành viên phù hợp với sự pha trộn và

đa dạng của nhiệm vụ; 7) Nguồn lực đầy đủ (Adequate resources); 8) Đóng góp cá nhân

(Individual Contribution)- cá nhân tham gia vào các nhóm đòi hỏi phải có kiến thức, sự

tin tƣởng, cam kết và linh hoạt; 9) Hiểu bản thân (Self-knowledge) - Hình ảnh bản thân

chuyên nghiệp có ảnh hƣởng lớn nhất đến các thành viên trong việc hiểu và tƣơng tác

với nhau; 10) Lòng tin (Trust) - Các cá nhân đáng tin cậy sẵn sàng chia sẻ kiến thức và

kỹ năng của họ mà không sợ bị thu nhỏ hoặc khai thác. Họ thƣờng có khả năng học tập

lẫn nhau; 11) Cam kết (Commitment) - Hiểu bản thân và tin tƣởng ngƣời khác là những

yếu tố quan trọng để xây dựng cam kết. Cam kết về một tập hợp thống nhất các mục tiêu

và giá trị của nhóm cung cấp phƣơng hƣớng và động lực cho từng thành viên; 12) Linh

hoạt (Flexibility) - Linh hoạt là khả năng duy trì một thái độ cởi mở, thích ứng với các

giá trị cá nhân khác nhau và dễ tiếp thu ý tƣởng của ngƣời khác.

Về quy trình của nhóm, các tác giả cũng chỉ ra rằng các nhóm hiệu quả cần

những yếu tố quan trọng sau đây: 1) Phối hợp (Coordination) - Phối hợp đƣợc mô tả là

các hành động giữa các cá nhân có trật tự cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ phức

tạp. Các nhóm cần khai thác sự đa dạng và giảm thiểu sự khác biệt của các thành viên,

để đảm bảo rằng các kỹ năng và kiến thức chuyên môn đƣợc sử dụng tốt; 2) Sự gắn kết

(Cohesion) - Sự gắn kết nhóm thừa nhận các thành viên hấp dẫn cá nhân đối với nhóm

và nhiệm vụ. Các thành viên hợp tác phụ thuộc lẫn nhau xung quanh nhiệm vụ của

nhóm để đáp ứng các mục tiêu của nhóm; 3) Ra quyết định (Decision making) - Một

loạt các kiến thức và kỹ năng của các thành viên trong nhóm thƣờng đóng góp thông

tin mở rộng và tạo ra các quyết định tốt hơn. Tuy nhiên, quyền tự chủ cá nhân có thể

giảm khi các quyết định đƣợc chia sẻ và trách nhiệm đƣợc lan tỏa đến tất cả các thành

viên trong nhóm; 4) Quản trị xung đột (Conflict management) - Xung đột nhóm có thể

thúc đẩy sáng tạo nhƣng cũng có thể phá hủy nhóm. Để đánh giá cao những đóng góp

sáng tạo và thúc đẩy giải quyết vấn đề hiệu quả của nhóm, sự đa dạng cần đƣợc quản

lý cẩn thận; 5) Các mối quan hệ xã hội (Social relationships) - Mối quan hệ xã hội tốt

sẽ duy trì các nhóm làm việc hiệu quả. Cá nhân các thành viên trong nhóm cần đồng

cảm và hỗ trợ nhau, cung cấp, chia sẻ thông tin và hợp tác giải quyết các vấn đề; 6)

Thông tin phản hồi hiệu quả (Performance Feedback) - Các cá nhân, nhóm và tổ chức

22

đều yêu cầu phản hồi chính xác và kịp thời về hiệu suất làm việc để duy trì hiệu quả

của nhóm[36].

Bài viết có nhan đề “Exploring the relationship between multiple team

membership and team performance: The role of social networks and collaborative

technology (2015)” (Khám phá mối quan hệ giữa nhiều thành viên nhóm và hiệu suất

nhóm: Vai trò của mạng xã hội và công nghệ hợp tác) của nhóm tác giả Fabiola

Bertolotti, Elisa Mattarelli, Matteo Vignoli, Diego Maria Macrì khi nghiên cứu các đơn

vị R&D của một công ty Ý về mối quan hệ giữa nhiều thành viên nhóm và hiệu suất

nhóm trong việc sử dụng các công nghệ hợp tác và mạng xã hội tại nơi làm việc đã cho

thấy, khi thành tích của các tổ chức phụ thuộc ngày càng nhiều vào công việc của các

nhóm nghiên cứu, sự hiểu biết về cách họ hoạt động và cách cải thiện hiệu suất của họ

ngày càng trở nên quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh các nhà nghiên cứu ngày càng bị

phân mảnh giữa các dự án và địa điểm khác nhau, do đó việc thúc đẩy tƣơng tác trực

tiếp giữa các cá nhân hiếm khi đƣợc thực hiện do đó các cá nhân và nhóm sử dụng các

nguồn lực xã hội và công nghệ của họ để tƣơng tác nhằm hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ

của họ. Điều đó lý giải vì sao công nghệ hợp tác hiện đã lan rộng tại nơi làm việc, nó hỗ

trợ và cải thiện sự hợp tác giữa các thành viên và các nhóm nghiên cứu[33].

Cũng nghiên cứu về năng suất và sự hợp tác trong nghiên cứu, bài nghiên cứu có

nhan đề “How are Collaboration and Productivity Correlated at Various Career

Stages of Scientists? (2012)” (Năng suất và sự hợp tác có tương quan như thế nào với

các giai đoạn nghề nghiệp khác nhau của các nhà khoa học?) của các tác giả Zhigang

Hu, Chaomei Chen, và Zeyuan Liu thì chỉ ra rằng, sự hợp tác đƣợc cho là có ảnh

hƣởng đến năng suất của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, tác động của sự hợp tác phụ

thuộc vào các yếu tố tiềm ẩn nhƣ kỷ luật, mô hình cộng tác và các cộng tác viên. Hơn

nữa, ở các giai đoạn nghề nghiệp khác nhau, nhƣ giai đoạn mới làm quen, giai đoạn có

kinh nghiệm, v.v., sự hợp tác là khác nhau về quy mô và chiều rộng, và ảnh hƣởng của

nó đến năng suất khác nhau. Nghiên cứu của nhóm tác giả cũng cho thấy rằng, năng

suất có tƣơng quan với sự hợp tác nói chung, nhƣng mối tƣơng quan có thể là tích cực

hoặc tiêu cực trên cơ sở các khía cạnh của sự hợp tác để đo lƣờng, quy mô hoặc phạm

vi cộng tác. Mối tƣơng quan trở nên mạnh mẽ hơn khi các nhà khoa học tiến bộ qua

các giai đoạn khác nhau của sự nghiệp. Hơn nữa, các ngành thực nghiệm, nhƣ Hóa học

hữu cơ và virus học, đã cho thấy các hệ số tƣơng quan mạnh hơn so với các ngành lý

thuyết nhƣ Toán học và Khoa học máy tính[70].

23

Hay nghiên cứu của Sooho Lee và Barry Bozeman về Tác động của hợp tác

nghiên cứu đến năng suất khoa học (The Impact of Research Collaboration on

Scientific Productivity (2005)) trên cơ sở khảo sát 443 nhà khoa học hàn lâm, nhằm

xem xét tác động của sự hợp tác đối với năng suất của các nhà khoa học, thông qua số

lƣợng ấn phẩm tạp chí (in trên giấy) cũng cho thấy, sự hợp tác của các nhà khoa học

trong hoạt động nghiên cứu đã trở thành chuẩn mực. Các đặc tính ngày càng liên

ngành, phức tạp và tốn kém của khoa học hiện đại đã tạo động lực, khuyến khích các

nhà khoa học tham gia vào các nghiên cứu hợp tác. Các cơ quan tài trợ, đặc biệt là các

cơ quan chính phủ, tạo điều kiện cho sự hợp tác nghiên cứu tích cực nhƣ là một phần

của điều kiện tài trợ của họ. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, khi năng suất xuất bản đƣợc

đo bằng 'số lƣợng bình thƣờng' (Normal count- A scientist’s total number of

publications), sự hợp tác là một yếu tố dự báo mạnh mẽ về năng suất xuất bản. Khi

năng suất xuất bản đƣợc đo bằng 'số phân số' (Fractional Count - dividing credit by

the number of coauthors), cộng tác và năng suất xuất bản không liên quan đáng kể, ít

nhất là không phải trong một mô hình kiểm soát các biến kiểm duyệt. Những phát hiện

này cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu sâu rộng hơn về tác động của sự hợp tác,

dƣới mọi hình thức, đến năng suất nghiên cứu, trong tất cả các ý nghĩa của nó. Hơn

nữa, nghiên cứu cũng cho thấy các giảng viên cao cấp có nhiều khả năng tham gia vào

sự hợp tác theo định hƣớng cố vấn. Các nhà nghiên cứu mới vào nghề có thể đƣợc

hƣởng lợi đáng kể từ những hợp tác với các nhà nghiên cứu cao cấp. Đặc biệt, nghiên

cứu cũng chỉ ra rằng, từ quan điểm chiến lƣợc, các nghiên cứu hợp tác cần chú trọng

nhiều hơn vào năng lực, đặc biệt là sự phát triển của nguồn nhân lực KH&CN. Ngay

cả khi ngƣời ta hiểu đƣợc mối quan hệ giữa sự hợp tác và các nhà nghiên cứu riêng lẻ,

năng suất xuất bản của nó hoàn toàn phong phú và phức tạp, sự phát triển của các lĩnh

vực khoa học sẽ tiếp tục phụ thuộc vào khả năng tái tạo và mở rộng các kỹ năng

nghiên cứu qua các thế hệ. Hợp tác có thể là yếu tố chính trong phát triển nguồn nhân

lực KH&CN và ý nghĩa của sự hợp tác để phát triển nghề nghiệp có thể sẽ khác hoàn

toàn so với các biện pháp riêng biệt về năng suất xuất bản riêng lẻ[35].

Bàn về vai trò và kinh nghiệm xây dựng, phát triển nhóm nghiên cứu trong

trƣờng đại học, thông qua các bài viết “Nhóm nghiên cứu - yếu tố quyết định tới chất

lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học” (2008) và “Kinh

nghiệm xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu khoa học (2008), Trƣơng Quang Học,

một trong những tác giả có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu và phát

24

triển NNC đã đề cập đến vai trò đặc biệt quan trọng của NNC trong việc nâng cao chất

lƣợng đào tạo và NCKH, đồng thời tác giả đã nhấn mạnh đến 6 yếu tố quan trọng của

một NNC đó là a) Có ngƣời đứng đầu, có trình độ khoa học, năng lực tổ chức và nhiệt

huyết trong khoa học. Tác giả cho rằng đây là yếu tố quan trọng nhất; b) Có định

hƣớng khoa học đúng, phù hợp với xu hƣớng quốc tế và phục vụ thiết thực cho sự phát

triển của Việt Nam; c) Có điều kiện nghiên cứu phù hợp gồm trang thiết bị (và điều

kiện để vận hành) và nguồn thông tin, tƣ liệu đầy đủ, cập nhật; d) Tập hợp đƣợc đội

ngũ cán bộ có nhiệt huyết và hoài bão khoa học, nhất là các cán bộ khoa học trẻ, các

thực tập sinh sau tiến sĩ và nhất là NCS, HVCH, sinh viên làm khóa luận; Xây dựng và

phát huy năng lực của tập thể, tạo sự đoàn kết, nhất trí cao trong mọi hoạt động; e)

Kiên trì theo đuổi hƣớng chuyên môn đã lựa chọn, quyết tâm vƣợt qua các khó khăn

về điều kiện làm việc, thậm chí sức ép về mặt xã hội để đạt đƣợc mục tiêu khoa học

của mình. Các kết quả khoa học đƣợc tích lũy, phát triển và đƣợc công bố rộng rãi trên

các tạp chí trong nƣớc và quốc tế; f) Có quan hệ hợp tác tốt (hợp tác trong nội bộ, với

các cơ quan ngoài và đặc biệt là hợp tác quốc tế) [53,54].

Đây cũng là quan điểm của Nguyễn Đình Đức, đƣợc nêu trong bài bài viết có

tiêu đề “Phát triển nhóm nghiên cứu trong trường đại học - Xu thế tất yếu” (2014),

theo đó tác giả cho rằng, chỉ có xây dựng được các NNCM mới triển khai được các

hoạt động nghiên cứu mạnh, đủ sức giải quyết những vấn đề khoa học đỉnh cao của

ngành và những nhiệm vụ KH&CN quan trọng của đất nước.Việc đào tạo và phát

triển đội ngũ cũng chính từ hoạt động của các NNC, nhất là đào tạo tiến sỹ. Khi NNC

đã đủ mạnh về nhân lực, cơ sở vật chất và các nguồn lực khác, có thể xây dựng các

chương trình đào tạo mới. Thông qua sự phát triển của các NNC cũng sẽ tăng cƣờng

các công bố quốc tế, từ đó nâng đƣợc thứ bậc và xếp hạng của trƣờng đại học. Hơn

nữa, một trong những vai trò quan trọng của trƣờng đại học là chuyển giao tri thức,

đƣa những KQNC mới về KH&CN của Nhà trƣờng phục vụ thiết thực sự nghiệp phát

triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. NNC có vai trò cực kỳ quan trọng trong

việc triển khai từ nghiên cứu đến chế thử, thúc đẩy sự ra đời của các sáng chế và sản

phẩm mới trong trƣờng đại học. Vì vậy, một trong những giải pháp để nâng cao chất

lƣợng đào tạo và hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu, cũng nhƣ nâng cao xếp hạng

của trƣờng đại học là phải xây dựng và phát triển đƣợc các NNCM, đào tạo đƣợc đội

ngũ cán bộ khoa học có trình độ và năng lực NCKH tốt, có tâm huyết và kinh nghiệm

trong nghiên cứu và đào tạo. Chính việc xây dựng các NNCM trong các trƣờng đại

25

học là một trong những giải pháp quan trọng góp phần thiết thực triển khai đổi mới

giáo dục đại học một cách căn bản và toàn diện theo hƣớng chất lƣợng, hiệu quả và hội

nhập với các chuẩn mực quốc tế. Việc hình thành, xây dựng và phát triển các NNCM

và hƣớng tới các chuẩn mực quốc tế là nhu cầu tự thân, là xu thế vận động và phát

triển tất yếu của các trƣờng ĐHNC tiên tiến trên thế giới, và cũng không là ngoại lệ

cho các trƣờng ĐHNC tiên tiến ở Việt Nam. Tác giả nhấn mạnh vào 6 yếu tố chính để

hình thành và phát triển NNCM, cụ thể:

Một là, muốn xây dựng được những NNCM trong trường đại học, trước hết

phải bắt đầu từ tâm huyết của những nhà khoa học có năng lực và trình độ, có uy tín,

giữ vai trò trưởng nhóm. Trưởng nhóm phải tập hợp được đội ngũ, xác định được

hướng đi và hướng phát triển cho nhóm. Trưởng nhóm chính là linh hồn, nhân vật

trung tâm kết tụ, dẫn dắt sự phát triển của nhóm. Nhƣ vậy, hoạt động của nhóm thành

công hay không thành công phụ thuộc rất nhiều vào ngƣời trƣởng nhóm. Trƣởng NNC

thƣờng là nhà khoa học tài năng, có năng lực nghiên cứu, có tƣ duy sáng tạo, nhạy bén

trong khoa học và lại càng thuận lợi khi có uy tín cao cả ở trong và ngoài nƣớc. Bên

cạnh đó, trƣởng nhóm phải là ngƣời tâm huyết và có năng lực tổ chức, biết hy sinh, có

khả năng ngoại ngữ và tổ chức làm việc của nhóm một cách phù hợp và khoa học.

Hai là, lãnh đạo trường đại học phải có tầm nhìn và chính sách thỏa đáng đầu

tư cho NNC. Nếu có nhà khoa học đầu ngành mà không có đầu tƣ sẽ không thể có

NNCM. Mặt khác, không phải bỗng chốc có nhà khoa học đầu ngành, mà các nhà

khoa học phải đƣợc quy hoạch, đƣợc đào tạo và bồi dƣỡng, phải có thời gian để trƣởng

thành, phải kịp thời phát hiện những nhân tố mới, những nhà khoa học trẻ và NNC

tiềm năng để quan tâm bồi dƣỡng và đầu tƣ.

Ba là, phải tập hợp được những cán bộ có năng lực nghiên cứu tốt trong NNC,

thu hút được NCS. Ở đây, xin đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của các NCS

trong việc phát triển các NNC. Nếu có sự hỗ trợ kinh phí, nhiều NNC của ĐHQGHN

hoàn toàn có thể tiếp nhận các nhà khoa học, các NCS và thực tập sinh ngƣời nƣớc

ngoài đến làm việc, khi đó hiệu quả hoạt động của NNC còn tốt hơn nữa.

Bốn là, đầu tư cho các NNCM là sự đầu tư trúng, đúng và hiệu quả trong các

trường đại học. Trong bối cảnh cần đẩy nhanh các công bố quốc tế cũng nhƣ tăng

nhanh các sáng chế, sản phẩm KH&CN trong trƣờng đại học, thì việc quan tâm đầu tƣ

bổ sung nhân lực, cơ sở vật chất, các trang thiết bị hiện đại và điều kiện làm việc cho

các NNCM là nhân tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để thúc đẩy sự thành công của

hoạt động KH&CN cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng đào tạo của Nhà trƣờng.

26

Năm là, phải thiết lập và xây dựng được những mối quan hệ hợp tác mạnh (trong

và ngoài nước). Vì chỉ có phát huy tốt các quan hệ hợp tác với các nhà khoa học có uy

tín trong và ngoài nƣớc, các NNC mới có thể phát huy đƣợc thế mạnh của các nghiên

cứu liên ngành, mau chóng hội nhập và tiếp cận trình độ, chuẩn mực quốc tế.

Sáu là, phải xác định và hình thành được hướng nghiên cứu hiện đại, có tầm

ảnh hưởng trong khoa học sẽ là tiềm năng phát triển tốt cho NNC. Kinh nghiệm cho

thấy, chọn hƣớng đi đúng để tập hợp và xây dựng NNC có vai trò quan trọng để phát

triển một NNCM. Bên cạnh đó, NNCM phải có định hƣớng nghiên cứu riêng độc đáo,

xuất phát từ những tƣ tƣởng và hệ tiên đề mới, cách tiếp cận mới, đặc sắc của riêng

mình. Có nhƣ vậy, NNC mới khẳng định đƣợc trong cộng động khoa học và phát triển

bền vững [48].

Đồng quan điểm với Trƣơng Quang Học và Nguyễn Đình Đức, trong bài viết

“Xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học”(2015) [67],

Phạm Hùng Việt cũng có tiếp cận khác khi đề cập đến 4 yếu tố quan trọng để xây

dựng và phát triển NNC.

Thứ nhất, cần định hƣớng và đề ra nguyên tắc xây dựng NNC. Theo tác giả,

việc xây dựng NNCM cần dựa vào năng lực hiện có và nhu cầu phát triển của các

trường đại học trong mối quan hệ với định hướng phát triển của đất nước; kết hợp

phát triển các NNCM nhất trong đơn vị với việc hình thành và phát triển những NNC

mới. Tác giả cho rằng, không thể chỉ mong muốn có NNCM bằng cách kêu gọi các nhà

khoa học trong nước và quốc tế về xây dựng trong khi các nguyên tắc, cơ chế quản lý

vẫn chưa thể đổi mới ngay lập tức.

Thứ hai, việc đầu tƣ xây dựng, phát triển NNCM cần bắt đầu từ các nhóm vốn

đã mạnh. Theo tác giả, NNCM (nói khiêm tốn là nhóm mạnh hơn so với các nhóm

chưa mạnh) là nhóm các nhà khoa học đã đạt và có tiềm năng tiếp tục đạt được các

KQNC tốt nhất trong cộng đồng các NNC hiện có trong mỗi trường, căn cứ trên phải

đáp ứng một số tiêu chí nhất định (đặc biệt là số lượng các công bố ISI). Cũng teo tác

giả, để duy trì hoạt động của NNC, cần phải có sự đầu tư kinh phí hợp lý theo nhiều

nguồn như NSNN, hợp tác quốc tế (qua nguồn ODA, các tổ chức phi chính phủ, các

công ty chế tạo thiết bị khoa học…). Khi rót kinh phí xuống các NNC từ nguồn NSNN,

đơn vị chủ quản cần lưu ý đến tính hiệu quả đầu tư, tránh đầu tư dàn trải và chỉ tập

trung một số hướng chính của nhóm.

Thứ ba, nhân lực là vấn đề sống còn đối với NNCM nên đơn vị chủ quản cần có

chính sách tuyển dụng, đào tạo và đãi ngộ thỏa đáng đối với thành viên của nhóm.

27

Theo tác giả, kinh nghiệm nước ngoài, NCS, đặc biệt postdoc, là lực lượng trẻ, có

nhiệt tình, nhiều ý tưởng và động lực thực hiện những nghiên cứu mới, dù chỉ là nguồn

nhân lực trong một thời gian xác định nhưng cũng cần được sử dụng một cách hiệu

quả. Trong thời gian qua, do có nhiều công trình công bố quốc tế, hƣớng nghiên cứu

về “Chất lượng nước ăn từ nước ngầm và các vấn đề liên quan đến sức khỏe con

người và cộng đồng”, nhóm của tác giả đã nhận đƣợc thƣ xin làm postdoc của bốn tiến

sĩ nƣớc ngoài. Để có thể thu hút nguồn nhân lực này, ngoài kinh phí thuê khoán

chuyên môn trích từ các đề tài, cần có những suất học bổng cho các thực tập sinh sau

tiến sĩ nƣớc ngoài tham gia vào NNCM.

Thứ tƣ, hoạt động của NNCM cần đƣợc đánh giá định kỳ với những kết quả cụ

thể: tạo ra những nghiên cứu có chất lƣợng đƣợc khẳng định bằng số lƣợng công trình

khoa học, đặc biệt là số bài báo quốc tế ISI, các sáng chế, thể hiện khả năng ứng dụng

thực tiễn, chuyển giao công nghệ cho xã hội, mang lại uy tín, thƣơng hiệu cho trƣờng

đại học, thu hút đƣợc các học viên giỏi của các CTĐT sau đại học, các thực tập sinh

sau tiến sỹ đến làm việc.

Tiếp tục nghiên cứu về trung tâm nghiên cứu xuất sắc, trong bài viết có tựa đề

“Xây dựng trung tâm nghiên cứu xuất sắc: Kinh nghiệm quốc tế và thực tế ở Việt Nam”

(2014), Trƣơng Quang Học tiếp tục khẳng định, NNC là một hình thức tổ chức nghiên

cứu phổ biến và đem lại nhiều thành tựu khoa học đỉnh cao cho các Trường Đại học

danh tiếng như Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên M.V. Lomonosov, Đại

học Hà Lan, Đại học tổng hợp Ruhr, Bochum, CHLB Đức, Đại học Texas, Đại học

Tokyo..., cũng trong bài viết này tác giả đã đề cập đến khái niệm NNCM/xuất sắc, đó là

nhóm có các thành viên xuất sắc, điều kiện làm việc đầy đủ và những KQNC có ý nghĩa

khoa học/phục vụ thực tiễn lớn, được quốc tế thừa nhận hay NNC đặc biệt là những

nhóm được thành lập tạm thời, gồm các chuyên gia khác nhau để giải quyết một vấn đề,

một nhiệm vụ đặc biệt/đột xuất cấp thiết trong một thời gian ngắn, đồng thời tác giả

cũng giới thiệu cơ chế phát triển và tổ hợp của các NNC theo cấu trúc “Cây tre trăm

đốt”, một trong những cơ chế mà theo tác giả sẽ đem lại hiệu quả bền vững cho NNC ở

các trƣờng đại học. Cuối cùng, tác giả kết luận “NNC khoa học là tế bào của cơ thể, là

đơn vị cấu trúc và chức năng, quyết định cho sự thành công của các hoạt động KH&CN

cũng như đào tạo của bất kỳ cơ quan tổ chức giáo dục nào. Nó giống như các tế bào tạo

nên mô, mô tạo nên cơ quan, hệ cơ quan, cơ thể, quần thể, quần xã các hệ sinh thái và

cả thế giới sinh vật phong phú, đa dạng và hữu ích”[11].

28

Cùng chia sẻ về kinh nghiệm khi xây dựng nhóm nghiên cứu khoa học, trong

bài viết có tiêu đề “Vài chia sẻ về xây dựng nhóm nghiên cứu khoa học” (2009), Phan

Kim Ngọc[18] đã đề cập đến khái niệm nhóm NCKH, những yếu tố quyết định sự

thành công của nhóm NCKH, phƣơng pháp lập nhóm NCKH và cách thức vận hành

của nhóm NCKH, cụ thể:

Về khái niệm nhóm NCKH, tác giả khái quát nhƣ sau: Nhóm NCKH không giống

với một cơ quan hành chính (nhà nước), cũng không giống với cấu trúc nghiệp đoàn.

Nhóm làm việc trên tinh thần không có lương cơ bản. Các khoản thu, chi của nhóm phụ

thuộc vào KQNC, chuyển giao công nghệ, phụ thuộc vào các đề tài/dự án khoa học. Do

vậy, cấu trúc của nhóm cần gọn nhẹ, linh hoạt tối đa. Nhóm NCKH có vai trò như một

yếu tố có tính chất quyết định tới hình thức, quy mô và chất lượng của một hoạt động

khoa học, công nghệ nào đó. Đồng thời là nền tảng quan trọng bậc nhất trong đào tạo,

nhất là đào tạo sau đại học (đối với các trường đại học). Trong đào tạo, nhóm NCKH

chính là môi trường ươm tạo người tài, mảnh đất sinh sôi nảy nở các thủ lĩnh khoa học

trong tương lai. Bên cạnh đó, nhóm NCKH còn là đơn vị cơ sở cho các hoạt động

chuyển giao công nghệ, đặc biệt thuận lợi đối với công nghệ cao.

Cuối cùng tác giả kết luận: có thể hiểu nhóm NCKH là một tập thể các nhà khoa

học và học thuật có năng lực chuyên môn tốt, có tâm huyết, đạo đức nghề nghiệp, sự

chân thật trong công việc (honesty), có khát vọng định hướng cùng một mục đích, một

lĩnh vực chuyên môn nhất định; thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo tại một đơn vị

hạt nhân (hay xoay quanh đơn vị hạt nhân đó); được dẫn dắt bởi một (hay một vài) nhà

nghiên cứu có uy tín khoa học, đạo đức và đồng thời phải có khả năng tổ chức, giao

tiếp, tập hợp…; có văn hóa nhóm riêng biệt. Nói một cách khái quát, mọi thành quả của

nhóm phải xuất phát từ năng lực nội sinh. Trong quá trình hoạt động, nhóm NCKH phải

tương tác với lãnh đạo chuyên môn, cũng như các thành viên của tổ chức khác, qua đó

mọi thành viên trong nhóm có cơ hội học tập, tiếp thu, nắm bắt các kiến thức, kỹ năng,

kỹ thuật mới cần thiết. Nhờ vậy, nhóm sẽ có đủ yếu tố tối thiểu, đưa vào chương trình

nghiên cứu của mhóm, tạo ra các ý tưởng mới, các thành tựu khoa học mới cũng như

các sản phẩm đào tạo và công nghệ mới. Đặc biệt, với tiêu chí này, nhóm NCKH sẽ

tránh được yếu tố lạc hậu, lặp lại hay “chậm chân” so với khu vực.

Về các yếu tố quyết định sự thành công của nhóm NCKH, tác giả đã nêu ra 3

yếu tố: (1) Tập hợp đúng người, đúng việc; (2) Có phong cách riêng; (3) Người thủ

lĩnh cần có 10 vai trò gồm: (1) Vai trò “nam châm”-Thu hút sự chú ý ngay từ khi thực

29

hiện các công đoạn đầu tiên đi “lƣợm lặt”, tìm kiếm và tập hợp nhân sự, cũng nhƣ tìm

kiếm các điều kiện cần thiết khác, để có thể kiến tạo đƣợc một nhóm NCKH đủ tầm;

(2) Vai trò “điểm tựa” - Tạo cho mỗi thành viên thấy rằng, họ có thể hợp tác trong

nhóm một cách bền vững, lâu dài và đôi bên cùng có lợi; (3) Vai trò “đèn pha”- Khả

năng hƣớng dẫn, dẫn dắt nhƣ một kim chỉ nam về chuyên môn, các mối quan hệ, giao

tiếp nghề nghiệp; (4) Vai trò “nội trợ”- Khi cần, ngƣời thủ lĩnh sẵn sàng chăm lo tới

những chi tiết dù nhỏ nhất trong công việc hàng ngày; (5) Vai trò “cận vệ”-Bảo vệ, che

chở cho các thành viên của nhóm; (6) Vai trò “nổi lửa” - Ngƣời thủ lĩnh luôn hun đúc

cho mỗi thành viên những mong muốn phấn đấu và cống hiến;(7) Vai trò “chất keo”-

Xây dựng, bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất; (8) Vai trò “hoạt náo viên”-Tạo ra không

khí tƣơi vui lành mạnh; (9) Vai trò “ngòi nổ”-Tạo ra chất sống và sức sống, phát triển

sức sống ấy cho nhóm NCKH; (10) Vai trò “bà đỡ”-Đón nhận, triển khai các nhiệm vụ

nghiên cứu, đƣa vào ứng dụng hoặc chuyển giao kết quả, liên kết.

Về phƣơng pháp lập NNC, tác giả đã đƣa ra 3 nhóm tiêu chí gồm (1) Tiêu chí 5

không (Không giới hạn không gian, thời gian, số lượng, trình độ, chuyên môn); (2)

Tiêu chí 5 có (Có chung ý tưởng, khát vọng, quyền lợi, niềm tin, nghĩa vụ); (3) Tiêu

chí 10 hợp tác (Hợp tác và chia sẻ trí tuệ, thông tin, quy trình kỹ thuật, các mối quan

hệ, cơ sở vật chất, nhân sự, thời gian, sản phẩm, sự cảm thông, trách nhiệm)[18].

Bàn về vai trò của NNCM, bài viết có tiêu đề “Nhóm nghiên cứu mạnh vừa là

phương thức vừa là mục tiêu để phát triển đại học nghiên cứu” (2014), Nguyễn Hữu

Đức đã đề cập đến tầm quan trọng của NNC đối với việc nâng cao chất lƣợng các hoạt

động đào tạo và NCKH và là giải pháp đem lại các kết quả khoa hoa học đỉnh cao và

sản phẩm công nghệ đột phá với bằng sở hữu trí tuệ, các giải thƣởng KH&CN cấp

quốc gia, các bài báo quốc tế đăng trên các tạp chí khoa học danh tiếng, các công trình

chuyên khảo có uy tín và các giải pháp đầu tƣ chính sách cho các cơ quan hoạch định

chính sách của Đảng và Nhà nƣớc [49].

Khi xem xét về mô hình NNCM, bài viết có tên “Mô hình các nhóm nghiên cứu

mạnh trên thế giới, định nghĩa và phân tích”(2009) [13], Phạm Thành Huy đã tổng

hợp các mô hình đơn vị nghiên cứu phổ biến trên thế giới và đề xuất mô hình NNCM

cho các trƣờng đại học ở Việt Nam, cụ thể:

Về mô hình đơn vị nghiên cứu trên thế giới, tác giả nêu 5 mô hình phổ biến:

Thứ nhất, mô hình nghiên cứu nhỏ (dƣới 10 ngƣời), thƣờng đƣợc xây dựng theo

tiếp cận từ dƣới lên, tức là xuất phát từ ý tƣởng của các cá nhân hoặc nhu cầu hợp tác

30

của một số cá nhân hoặc NNC nhỏ từ các chuyên ngành khác nhau. Chức năng chính

là nghiên cứu, có thể tham gia đào tạo, cấu trúc nghiên cứu không chặt chẽ, bản thân

các thành viên nghiên cứu trong nhóm cũng có các nhiệm vụ nghiên cứu đơn ngành

riêng biệt.

Thứ hai, mô hình các trung tâm nghiên cứu lớn, có thể hình thành theo cách tiếp

cận khác nhau nhƣ: từ dƣới lên theo nhu cầu của cơ sở; từ trên xuống theo đề xuất

hoặc ý tƣởng của các cơ quan quản lý cấp trên; hoặc theo mô hình các vƣờn ƣơm công

nghệ. Chức năng bao gồm cả nghiên cứu và đào tạo, đƣợc tổ chức và quản lý bởi một

ban lãnh đạo cứng, mà giám đốc là ngƣời trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm báo

cáo tình hình hoạt động trực tiếp lên ban lãnh đạo, quản lý cấp trên. Các đơn vị này

thƣờng đƣợc xây dựng mới, bao gồm cơ sở hạ tầng, thiết bị mới. Nhân sự có thể cùng

đƣợc sử dụng với các đơn vị khác. Cơ sở vật chất, địa điểm có thể cố định hoặc chia sẻ

với các đơn vị khác.

Thứ ba, mô hình công nghiệp, hình thành theo cách tiếp cận top-down, định

hƣớng nghiên cứu theo sản phẩm, tập trung vào nghiên cứu không tham gia đào tạo,

đƣợc tổ chức có cấu trúc một cách chặt chẽ, tính kế hoạch cao, các mốc thời gian

chính xác và có thời điểm kết thúc, có sự chuyển đổi linh động, nhuần nhuyễn của các

cán bộ nghiên cứu giữa các NNC.

Thứ tư, mô hình PTN quốc gia. Đây là mô hình lai của các cách tiếp cận top-

down, nghiên cứu theo nhiệm vụ bottom-up. Đƣợc đầu tƣ cơ sở vật chất đầy đủ, bao

gồm cả chức năng nghiên cứu và đào tạo chất lƣợng cao, cấu trúc tổ chức chặt chẽ.

Tính kế hoạch cao, các mốc thời gian chính xác và có thời điểm kết thúc, có sự chuyển

đổi linh động, nhuần nhuyễn của các cán bộ nghiên cứu giữa các NNC.

Thứ năm, mô hình liên công nghiệp, liên đại học và liên kết đại học - công

nghiệp. Đây là mô hình top-down, nghiên cứu đƣợc định hƣớng theo nhu cầu xã hội

(có thể là nghiên cứu cơ bản và ứng dụng). Bao gồm cả hoạt động nghiên cứu và đào

tạo. Lãnh đạo có thể là ngƣời kiêm nhiệm (part time) và thƣờng có hội đồng tƣ vấn.

Thƣờng đƣợc khởi tạo với một dự án đầu tƣ nghiên cứu lớn.

Từ 5 mô hình đơn vị nghiên cứu phổ biến trên thế giới, tác giả đề xuất mô hình

NNCM cho các trƣờng đại học ở Việt Nam, cụ thể:

Về cách tiếp cận xây dựng NNCM, theo tác giả, NNCM có thể đƣợc xây dựng

thông qua 2 cách tiếp cận khác nhau:

31

Tiếp cận từ dƣới lên, tức là do nỗ lực bản thân của chính các nhà khoa học, tự

xây dựng nhóm, tìm kiếm đề tài nghiên cứu, tuyển NCS… trong trƣờng hợp này cơ

quan quản lý , nhà trƣờng cần theo dõi, hỗ trợ, đầu tƣ thích hợp.

Tiếp cận từ trên xuống: Nhà trƣờng, xác định hƣớng nghiên cứu, tuyển chọn

trƣởng nhóm, đầu tƣ trang thiết bị, kinh phí hoạt động và kinh phí nghiên cứu (bao

gồm cả kinh phí cho NCS, postdoc…)

Về mô hình NNCM, theo tác giả, cơ cấu tổ chức của nhóm gọn nhẹ, đảm bảo

tính linh động mềm dẻo, định hƣớng theo các đề tài, dự án nghiên cứu và khai thác

hiệu quả nguồn nhân lực, thành phần của nhóm bao gồm:

1- Trƣởng NNC (01 ngƣời), là giáo sƣ (hoặc phó giáo sƣ) có khả năng, uy tín

khoa học, hiện đang hoạt động nghiên cứu, có hƣớng dẫn nhiều NCS (VD: >3), là tác

giả chính của các công trình khoa học công bố trên các tạp chí trong 3 năm gần đây

(hàng năm). Hiện đang thực hiện các đề tài, dự án nghiên cứu cấp Nhà nƣớc, cấp Bộ.

2- Nghiên cứu chính (2-3 ngƣời), có thể là PGS và TS có cùng chuyên ngành và

định hƣớng với trƣởng nhóm. Hoạt động gắn chặt với các định hƣớng, đề tài, dự án

nghiên cứu của nhóm. Tham gia đồng hƣớng dẫn NCS với trƣởng nhóm.

3- NCS (3-10 ngƣời), có thể phân bổ đều theo các năm, mỗi năm từ 1-3 NCS.

4- Kỹ thuật viên, mỗi NNC cần có một số kỹ thuật viên nhất định tùy vào cơ sở

máy móc, trang thiết bị nghiên cứu hiện có của nhóm. Số kỹ thuật viên tốt nhất từ 1-2

ngƣời đối với NNC dƣới 10 ngƣời và 2-3 ngƣời đối với NNC có trên 10 ngƣời.

5- Học viên cao học. Để đảm bảo tính tiếp nối của hƣớng nghiên cứu, NNC cần

thu hút đƣợc các HVCH tham gia học tập và làm việc nghiên cứu tại nhóm. Số lƣợng

học viên tốt nhất là bằng số nghiên cứu sinh trong nhóm.

6- Thƣ ký. Mỗi NNC có 01 thƣ ký trợ lý cho trƣởng NNC trong công tác hành

chính và các hoạt động tuyển dụng, hoạt động xã hội của nhóm.

Đồng thời cũng theo tác giả, định hƣớng nghiên cứu của nhóm phải đƣợc tập

trung vào một số lĩnh vực nghiên cứu đã đƣợc lựa chọn nhằm đảm bảo các thế mạnh

của nhóm; NNC, đặc biệt là trƣởng nhóm và các cán bộ nghiên cứu chính của nhóm

phải tích cực tham gia hoạt động đào tạo, nhất là đào tạo sau đại học và thúc đẩy hoạt

động hợp tác quốc tế; NNC cần đƣợc đầu tƣ và xây dựng đƣợc cơ sở vật chất, trang

thiết bị máy móc công nghệ và phân tích riêng biệt để có thể chủ động trong công tác

nghiên cứu.

32

1.3. Các công trình nghiên cứu về chính sách phát triển NNCM trong trường

đại học

Qua khảo sát các công trình nghiên cứu về chính sách phát triển NNCM trong

trƣờng đại học ở Việt Nam và nƣớc ngoài, tác giả luận án nhận thấy chủ đề này còn rất

mới mẻ vì thế các nghiên cứu bàn về chủ đề này quả thực không nhiều. Sau đây là một

số bài viết đã đƣợc tác giả luận án tổng hợp:

Bài viết có nhan đề “Đầu tư cho nhóm nghiên cứu khởi phát: Chìa khóa để

thu hút tài năng và cải thiện hiệu suất nghiên cứu khoa học” (2013) [62], Ngô Đức

Thế đã gợi ý một số giải pháp phát triển các NNC khoa học từ việc đổi mới cơ chế

cấp đề tài xây dựng NNC thông qua tham khảo mô hình các nƣớc có nền khoa học

tiên tiến, cụ thể:

Thứ nhất, tác giả bài viết đã chỉ ra đƣợc một số mô hình chính sách mà các

nƣớc tiên tiến đã thực hiện để tài trợ cho các nhà nghiên cứu khi bắt đầu xây dựng

NNC. Theo tác giả, các nước tiên tiến, luôn có các Quỹ để cấp tiền cho các nhà khoa

học thiết lập những bước ban đầu cho sự nghiệp nghiên cứu của mình. Quỹ này có thể

từ chính các cơ sở nghiên cứu, khi đăng tuyển dụng nhà nghiên cứu sẽ cam kết cấp

kinh phí ban đầu cho các ứng viên trúng tuyển hoặc từ các quỹ chính phủ cấp cho ứng

viên dưới dạng các “học bổng” hay “đề tài” (fellowship, fund). Lúc này, cơ sở nghiên

cứu (trường đại học, viện nghiên cứu) sẽ đóng vai trò các nơi bảo trợ cho fellowship

của ứng viên.

Thứ 2, bài viết cũng chỉ ra một số khó khăn đối với các nhà khoa học ở Việt

Nam khi bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu. Việc xin các đầu tư lớn đối với các nhà khoa

học trẻ mới bắt đầu sự nghiệp để xây dựng một NNC ở Việt Nam là rất khó và

NAFOSTED hiện nay có thể coi như một nơi “cứu trợ” nhằm trang trải một phần nhỏ

kinh phí nghiên cứu với các đề tài khoảng 2-3 năm. Các nhà khoa học buộc phải sử

dụng các trang thiết bị sẵn có (thường không đồng bộ) tại cơ sở làm việc, tức là phải

“nắn bóp” nghiên cứu sao cho phù hợp với trang thiết bị hiện có, thay vì xây dựng cơ

sở vật chất đồng bộ để theo đuổi các hướng nghiên cứu mà họ đang làm chủ trước đó.

Cứ như thế, các nhà khoa học làm nghiên cứu một cách “tạm bợ”, “cho xong ngày

tháng” mà không thể xây dựng một NNCM mà họ có quyền tự chủ. Và cứ thế, cách

làm việc này tạo ra một vòng luẩn quẩn và khiến cả nền khoa học mãi không thể thoát

ra khỏi tư duy cũ kiểu “hợp tác xã”.

33

Thứ ba, giải pháp mà bài viết đề xuất đó là Bộ KH&CN có thể mạnh dạn đổi

mới Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia (NAFOSTED), song song với việc cấp các đề

tài thường niên như đã có tiền lệ, nên xây dựng một quỹ học bổng (Ví dụ như đặt tên

là NAFOSTED Research Fellowship) cấp một lượng kinh phí lớn cho các ứng viên bắt

đầu sự nghiệp nghiên cứu độc lập (early stage career). Fellowship có thể kéo dài 5-6

năm, bao gồm kinh phi mua sắm các trang thiết bị để thiết lập một NNC ban đầu, một

phần lương cơ bản cho ứng viên (fellow), trợ cấp (nếu có), tiền lương chi trả cho nhân

công tham gia đề tài (bao gồm 1-2 NCS hậu tiến sĩ, 1-2 NCS tiến sĩ…), tiền chi phí cho

nghiên cứu (running cost), chi phí xuất bản, công bố khoa học, tham gia hội thảo khoa

học, chi phí mời chuyên gia… Bộ KH&CN nên mạnh dạn cấp kinh phí từ 1-2 triệu

USD cho mỗi fellowship trong vòng 5-6 năm đối với các ứng viên có đủ năng lực. Nếu

nhƣ mỗi năm cấp cho 25 ứng viên thì sẽ tiêu tốn 25-50 triệu USD mỗi năm, và số tiền

này hoàn toàn trong khả năng của ngân sách (có tổng đầu tư lên tới 750 triệu USD đầu

tư mỗi năm).

Bài viết có tựa đề “Năng lực nghiên cứu là yếu tố quan trọng” (2015) [68],

Phạm Hùng Việt đã đúc rút một số kinh nghiệm, xuất phát từ thực tiễn xây dựng và

phát triển NNC của mình, tác giả cho rằng việc tiếp cận các quỹ đầu tƣ của nƣớc ngoài

là một trong những giải pháp quan trọng để phát triển NNC, đồng thời tác giả cũng

khuyến nghị Quỹ KH&CN quốc gia cần có một số chính sách đổi mới, cụ thể:

Về việc tiếp cận nguồn tài trợ từ nƣớc ngoài, ông gợi ý “để tiếp cận các quỹ tài

trợ quốc tế, NNC của ông đã thông qua các mối quan hệ liên kết, hợp tác với các tổ

chức, viện nghiên cứu, NNC quốc tế”. Chính việc thông qua những đối tác nghiên cứu

có uy tín, NNC của tác giả đã nhanh chóng tiếp cận đƣợc với các quỹ tài trợ nƣớc

ngoài, đặc biệt là quỹ thuộc các quốc gia sở tại của các đối tác đó. Nhờ vậy, NNC của

tác giả đã có đƣợc những nguồn kinh phí lớn, có khả năng đảm bảo việc thực hiện các

dự án nghiên cứu mang tính chất thực nghiệm dài hơi.

Đồng thời, theo tác giả, để duy trì được mối quan hệ hợp tác lâu dài với các đối

tác quốc tế cũng như các quỹ tài trợ quốc tế, nhóm của ông phải chứng tỏ được năng

lực nghiên cứu của mình cũng như minh bạch hóa quá trình sử dụng kinh phí đầu tư

cho dự án.

Về đề xuất chính sách, theo tác giả, Quỹ Nafosted cần có một quy chế thưởng

phạt cụ thể dựa trên cơ sở đánh giá các sản phẩm khoa học, ví dụ đối với những nhóm

thực hiện đề tài có công bố trên những tạp chí có hệ số ảnh hưởng IF cao nên được

34

tính thưởng bên cạnh việc đề xuất xét thưởng như Giải thưởng Tạ Quang Bửu hàng

năm; ngoài ra, nên ưu tiên cho họ nhận những đề tài tiếp theo có kinh phí cao hơn để

khuyến khích họ có thêm những KQNC giá trị. Ngược lại, với những NNC từng thực

hiện những đề tài có công bố trên các tạp chí có hệ số ảnh hưởng quá thấp thì Quỹ

nên xem xét tạm dừng cấp kinh phí ở những đề tài kế tiếp trong một thời gian thích

hợp cho đến khi họ chứng minh được năng lực mới cấp kinh phí trở lại.

Trong bài viết “Tài trợ nghiên cứu cơ bản theo mô hình 3 mức” [59], Trần Đình

Phong đã mạnh dạn cho rằng việc “Tài trợ cho nghiên cứu theo cách thức hiện nay của

Quỹ Nafosted có thể đem lại hiệu quả tức thời cho khoa học Việt Nam, nhưng về lâu dài,

việc duy trì tài trợ mang tín dàn trải, ngắn hạn và chạy theo số lượng công bố sẽ không

thể tạo ra sự phát triển đột phá cho nền khoa học”. Vì vậy, tác giả đề xuất “Quỹ

Nafosted cần có chính sách đầu tư mới, quyết liệt hơn để khoa học Việt Nam có được

những cá nhân và NNCM”. Theo tác giả, để có những giải pháp mang tính dài hạn, cần

đổi mới cách thức đầu tƣ cho khoa học trên cơ sở tham khảo cách làm mà các quỹ tài trợ

quốc tế đã áp dụng thành công, một trong số đó có Quỹ của Hội đồng khoa học châu Âu

(European Research Council ERC), vốn thực hiện tài trợ cho các NNC theo những mức

khác nhau: mức thứ nhất dành cho các tiến sĩ trẻ tài năng đã hoàn thành CTĐT NCS từ 7

năm trở lại với khoản đầu tƣ tối đa 1.5 triệu Euro cho 5 năm (ERC starting grant); Mức

thứ 2 - các tiến sĩ đã tích lũy đƣợc nhiều kinh nghiệm làm việc (từ 7 đến 12 năm sau tiến

sĩ), với khoản đầu tƣ lên đến 2 triệu Euro cho 5 năm (ERC consolidator grant); Mức thứ

ba-các nhà nghiên cứu đã khẳng định đƣợc tài năng và dẫn đầu các PTN lớn với kinh

phí khoảng 2.5 triệu Euro cho 5 năm (ERC advanced grant). Nếu quỹ Nafosted mạnh

dạn áp dụng cách tài trợ theo mô hình nhiều mức này thì sau 10 đến 15 năm, khoa học

Việt Nam sẽ có đƣợc những cá nhân xuất sắc, NNCM.

Cũng theo tác giả, cách đầu tƣ hiện nay của Quỹ nên đƣợc coi là mức đầu tiên

nhằm hình thành một cộng đồng khoa học đủ về số lƣợng và đặc biệt giúp đỡ cho các

nhà nghiên cứu trẻ gây dựng NNC của mình. Còn việc đầu tƣ tài trợ từ mức đầu lên

mức 2 và 3 cần đảm bảo tính khoa học, chính xác. Tác giả cho rằng, các nhà khoa học

sau 5, 6 năm nhận đƣợc tài trợ theo mức thứ nhất sẽ đƣợc đánh giá bởi hội đồng khoa

học ngành. Trên cơ sở đánh giá đó, hội đồng khoa học chọn và giới thiệu lên Quỹ một

số nhà nghiên cứu có thành tích vƣợt trội so với các đồng nghiệp về chất lƣợng, số

lƣợng công bố và bắt đầu có hƣớng đi rõ ràng trong nghiên cứu. Theo đó Quỹ có thể

35

mời các nhà nghiên cứu giới thiệu viết đề cƣơng cho một chƣơng trình nghiên cứu mà

nhóm muốn thực hiện trong vòng từ 5 đến 10 năm tới. Các chƣơng trình nghiên cứu

này nên có tính hệ thống, trình bày hƣớng tiếp cận mà nếu thành công có thể đem lại

những đóng góp quan trọng cho cộng đồng và cho xã hội. Để đánh giá khách quan và

toàn diện, hội đồng khoa học ngành nên mời thêm những chuyên gia quốc tế có uy tín

học thuật trong chuyên ngành hẹp mà chƣơng trình nghiên cứu đề xuất. Ý kiến phản

biện nên gồm cả nhận xét về nội dung khoa học của chƣơng trình nghiên cứu và năng

lực khoa học của ngƣời trƣởng nhóm. Với khoảng 3 ý kiến phản biện quốc tế độc lập,

hội đồng ngành hoàn toàn có thể có một cái nhìn xác đáng về khả năng thành công khi

chƣơng trình và NNC đƣợc đầu tƣ. Bƣớc cuối cùng của quá trình tuyển chọn, hội đồng

khoa học cùng quỹ phỏng vấn trực tiếp các nhà khoa học. Thông qua các bƣớc kiểm

định chặt chẽ nhƣ vậy, tác giả tin rằng Quỹ có thể tìm đƣợc đúng địa chỉ đầu tƣ. Bên

cạnh đó tác giả cũng cho rằng Quỹ có thể tham khảo cách lựa chọn chƣơng trình

nghiên cứu và nhà khoa học của Quỹ NCKH Singapore (National Research

Foundation), nơi những năm qua đã thu hút đƣợc nhiều các tài năng khoa học trẻ quốc

tế. Nếu tiếp tục thực hiện theo cách này, tác giả cho rằng sau khoảng 10 năm nữa, Quỹ

có thể tiếp tục chọn ra đƣợc những nhà nghiên cứu, NNCM để đầu tƣ trọng điểm ở

mức thứ 3.Cũng theo tác giả, muốn đạt mục tiêu cao trong khoa học thì số tiền đầu tƣ

cũng phải tƣơng ứng, thay vì đầu tƣ dàn trải, Quỹ nên đầu tƣ vào những mũi nhọn một

cách chọn lọc thì kinh phí sẽ không quá tốn kém.

Bàn về quy trình, phƣơng pháp, tiêu chí lựa chọn và đầu tƣ cho NNCM,

Nguyễn Thị Thu Oanh đề xuất 3 bƣớc đánh giá lựa chọn và 4 giai đoạn đầu tƣ cho

NNCM trong bài viết có nhan đề “Xây dựng quy trình, phương pháp và tiêu chí lựa

chọn nhóm nghiên cứu mạnh” (2009) [19], cụ thể:

Bƣớc 1: Đánh giá đề xuất ý tƣởng, với các tiêu chính đánh giá và phân bổ trọng

số cho từng tiêu chí nhƣ sau: (1) Tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu (25%); (2)

Chất lƣợng khoa học của đề xuất nghiên cứu (30%); (3) Tiềm năng của các KQNC

(15%); (4) Sự xuất sắc của trƣởng NNC (30%). Phƣơng pháp đánh giá ý tƣởng: Mỗi

đề xuất chọn 2 chuyên gia cùng ngành. Sau đó tập hợp tác cả các ý kiến đánh giá và

phân loại các đề xuất ý thƣởng theo lĩnh vực và tổ chức Hội đồng theo lĩnh vực để

đánh giá tổng thể. Những ý tƣởng đƣợc đánh giá từ 70/100 điểm trở lên sẽ tiếp tục

đƣợc lựa chọn để xây đựng Đề cƣơng nghiên cứu chi tiết.

36

Bƣớc 2: Đánh giá đề cƣơng chi tiết với các tiêu chí sau: (1) Sự xuất sắc của

trƣởng NNC; (2) Tính hợp lý và khả thi của kế hoạch thực hiện nghiên cứu; (3) Tác

động mong đợi của nghiên cứu. Phƣơng pháp đánh giá: Đánh giá bằng chuyên gia

cùng ngành (Peer Review) thông qua các hội đồng.

Bƣớc 3: Thẩm định hiện trƣờng tại cơ sở 30% số đề xuất theo thứ tự từ dƣới

lên, với nội dung thẩm định gồm (1) Xem xét sự hỗ trợ của đơn vị chủ quản đối với

NNC; (2) Xem xét đến các nguồn lực của NNC

Sau khi hoàn thành 3 bƣớc đánh giá, Ban quản lý chƣơng trình sẽ thành lập Hội

đồng tổng hợp để xem xét, tổng hợp kết quả đánh giá và xếp hạng các đề xuất nghiên

cứu. Căn cứ vào quy mô kinh phí, Hội đồng sẽ thông qua danh sách các đề xuất đƣợc

lựa chọn theo thứ tự từ trên xuống.

Đồng quan điểm với Nguyễn Thị Thu Oanh, trong bài viết có nhan đề “Đề xuất

quy trình xây dựng NNCM và phương án nuôi dưỡng, phát triển các NNCM phù hợp

trong điều kiện Việt Nam”, Phạm Xuân Thảo[24] cũng cụ thể hóa quy trình tuyển chọn

NNCM theo 3 giai đoạn, đồng thời tác giả quy định cụ thể thời gian đánh giá, tuyển

chọn ở từng giai đoạn và mức kinh phí đầu tƣ dài hạn cho NNC, cụ thể nhƣ sau:

Công bố chƣơng trình

3 giai đoạn đánh giá tuyển chọn

Giai đoạn 3 Đánh giá thẩm định hiện trƣờng/tại chỗ (Thăm, kiểm tra,

kiểm chứng) [Thực hiện trong khoảng 0,5 tháng]

Giai đoạn 1 Đánh giá ý tƣởng KH&CN và đánh giá trƣởng NNC [Thực hiện trong khoảng 1 tháng]

Giai đoạn 2 Đánh giá đề cƣơng nghiên cứu chi tiết (Chủ nhiệm đề tài - trƣởng NNC trình bày) [Thực hiện trong khoảng 1,5 tháng] Lựa chọn đề tài

Hợp đồng nghiên cứu

Kinh phí tài trợ khoảng 1 tỉ đồng/năm

Giai đoạn tài trợ dài nhất có thể lên tới 4 năm Thực hiện nghiên cứu

Đánh giá giữa kỳ (sau 2 năm) (Loại 20% đề tài xếp hạng thấp)

37

Và cuối cùng tác giả đề xuất quy trình đánh giá 4 năm đầu tƣ, cụ thể các

bƣớc nhƣ sau: Chủ nhiệm đề tài đệ trình bản tự đánh giá theo hƣớng dẫn của chƣơng

trình -> Đánh giá bởi hội đồng chuyên gia cùng ngành -> Nhóm chuyên gia cùng

ngành đánh giá tại chỗ ->Kết luận cuối cùng.

Trong khi đó, vấn đề rào cản đối với hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa

học trong trƣờng đại học cũng đƣợc các tác giả đề cập đến, có thể kể đến nhƣ nghiên

cứu của Neshaneh Pakdaman và các cộng sự trong “Barriers to research activities of

faculty members in Islamic Azad University (2016)” (Rào cản đối với hoạt động

nghiên cứu của các giảng viên Đại học Hồi giáo Azad), các tác giả đã chỉ ra rằng a)

việc thiếu không gian vật lý cho công việc, học tập và nghiên cứu, b) không quen với

các phƣơng pháp tìm kiếm trên Internet và c) không quen với các phƣơng pháp nghiên

cứu và thống kê là những trở ngại lớn nhất đối với các nhà khoa học khi triển khai và

thực hiện các dự án nghiên cứu. Các tác giả cũng khẳng định việc hỗ trợ về tài chính

và tinh thần, xem xét các ƣu tiên và nhu cầu nghiên cứu, tôn vinh địa vị xã hội của

giảng viên, tạo môi trƣờng thuận lợi và tích cực cho các nhà khoa học, loại bỏ các quy

tắc và quy định hành chính cứng nhắc sẽ là giải pháp phù hợp thúc đẩy các nhà khoa

học tham gia tích cực vào các dự án nghiên cứu[38].

Cũng điều tra các rào cản và thách thức nghiên cứu trong trƣờng đại học từ góc

nhìn của các thành viên khoa Kermanshah City (Investigation of Research Barriers

and Challenges in University from the Perspective of Faculty Members of

Kermanshah City (2014)), Nasim Nobahar và các cộng sự đã chỉ ra rằng các yếu tố tài

chính, học thuật, nhân lực, cơ sở vật chất, chuyên môn và vấn đề quản lý là những rào

cản lớn có ảnh hƣởng đến sự liên kết và hiệu quả hoạt động của NNC. Nghiên cứu

cũng chỉ ra rằng, để nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học của các NNC thì trƣờng đại

học cần thực hiện các biện pháp sau đây: 1) Tăng cƣờng liên kết học thuật với các

quốc gia khác; 2) Tăng cƣờng hợp tác giữa các nhà nghiên cứu trong trƣờng; 3) Tăng

sự chú ý đến các sinh viên và nhà nghiên cứu tài năng; 4) Tăng kinh phí cho nghiên

cứu và phân phối hợp lý; 5) Tăng cƣờng thiết bị và phƣơng tiện cần thiết phục vụ

nghiên cứu (sách, máy tính, phần cứng, phòng thí nghiệm); 6) Tăng cƣờng giao tiếp

giữa các trƣờng đại học và khối công nghiệp; 7) Giảm quan liêu hành chính và đơn

giản hóa quy trình công bố các ấn phẩm nghiên cứu; 8) Quyết định nghiêm túc trong

việc thực hiện kết quả nghiên cứu; 9) Giám sát các dự án nghiên cứu; 10) Tăng cƣờng

các khoa đào tạo cần thiết cho các Khoa; 11) Sử dụng các nhà quản lý chuyên nghiệp

trong lĩnh vực nghiên cứu[37].

38

1.4. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu

Nhìn lại các nghiên cứu đi trƣớc liên quan đến luận án đã đƣợc trình bày ở trên,

tác giả luận án nhận thấy những khoảng trống mà các nghiên cứu đi trƣớc còn để lại cụ

thể nhƣ sau.

Thứ nhất, các nghiên cứu đi trƣớc đã đề cập đến khái niệm NNC, NNCM và có

những cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau về NNC và NNCM. Tuy nhiên, sự đa dạng

của các quan điểm, định nghĩa đó dẫn đến sự thiếu nhất quán và chƣa cụ thể trong việc

vận dụng khái niệm NNC và NNCM để nghiên cứu NNC và NNCM trong trƣờng đại

học. Vì vậy, một vấn đề quan trọng mà luận án này triển khai là đề xuất khái niệm

NNC và NNCM phù hợp để nghiên cứu NNC và NNCM trong trƣờng đại học ở Việt

Nam, mà cụ thể ở đây là ĐHQGHN.

Thứ hai, các nghiên cứu đi trƣớc cũng chỉ ra mô hình tổ chức, hoạt động của các

NNC, lý giải vai trò và các mối quan hệ bên trong, bên ngoài cũng nhƣ những yếu tố

hợp tác tạo nên sự thành công cho các NNC. Tuy nhiên, mỗi trƣờng đại học, cơ sở

giáo dục đại học lại có những đặc điểm riêng cho nên mô hình tổ chức, hoạt động của

các NNC, NNCM và vai trò của NNC và NNCM trong các cơ sở đó cũng có những

điểm khác nhau. Vì vậy, một trong những nội dung quan trọng của luận án này là góp

phần mở rộng sự hiểu biết đối với thực tiễn mô hình tổ chức, hoạt động của các NNC,

NNCM và vai trò của NNC và NNNC trong các trƣờng đại học ở Việt Nam, mà cụ thể

ở đây là trƣờng hợp ĐHQGHN.

Thứ ba, các nghiên cứu đi trƣớc đã nêu lên những gợi mở về chính sách, đã nhận

diện các rào cản, thách thức đối với sự hợp tác giữa các nhà khoa học nhằm nâng cao

hiệu quả hoạt động nghiên cứu trong trƣờng đại học. Tuy nhiên, nhƣ đã nói ở trên, bên

cạnh những đặc điểm chung thì các trƣờng đại học, cơ sở giáo dục đại học và các

NNC, NNCM trong các trƣờng đại học, cơ sở giáo dục đại học cũng có những đặc

điểm riêng, trong đó ĐHQGHN là một trƣờng hợp cụ thể. Vì vậy, việc đƣa ra những

gợi ý về bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển các NNCM nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động KH&CN trong các trƣờng đại học phải phù hợp với từng trƣờng đại học, cơ

sở giáo dục đại học cụ thể. Bởi vậy, một trong những nội dung quan trọng của luận án

là nghiên cứu thực trạng chính sách và đề xuất chính sách phát triển các NNCM phù

hợp với bối cảnh của ĐHQGHN.

39

1.5. Tiểu kết chƣơng 1

Nhìn lại các phần viết đã đƣợc trình bày ở trên, chúng ta thấy mấy điểm cần

đƣợc nhấn mạnh lại, cụ thể nhƣ sau.

Trước hết, liên quan đến chủ đề nghiên cứu, hai hƣớng nghiên cứu chính đã

đƣợc tác giả luận án làm tổng quan. Hƣớng nghiên cứu thứ nhất là hƣớng nghiên cứu

về sự hình thành, đặc điểm, vai trò của NNCM trong trƣờng đại học. Hƣớng nghiên

cứu này đã bàn sâu về khái niệm NNC, NNCM và đƣa ra các cách hiểu, cách tiếp cận

khác nhau về NNC và NNCM. Hƣớng nghiên cứu này cũng đã phản ánh mô hình tổ

chức, hoạt động của các NNC, lý giải vai trò và các mối quan hệ bên trong, bên ngoài

cũng nhƣ những yếu tố hợp tác tạo nên sự thành công cho các NNC. Hƣớng nghiên

cứu thứ hai là hƣớng nghiên cứu về chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học.

Hƣớng nghiên cứu này nêu lên những gợi mở về chính sách, đã nhận diện các rào cản,

thách thức đối với sự hợp tác giữa các nhà khoa học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động nghiên cứu trong trƣờng đại học. Nhƣ vậy, điểm quan trọng thứ nhất của chƣơng

này là đã điểm lại những kết quả quan trọng của các công trình đi trƣớc liên quan đến

chủ đề nghiên cứu.

Thứ hai, trên cơ sở nhìn lại các công trình nghiên cứu đi trƣớc, chƣơng này

đã nhận diện những khoảng trống mà nghiên cứu đi trƣớc còn để lại. Trên cơ sở đó,

tác giả luận án xây dựng các nội dung nghiên cứu của luận án. Cụ thể là, tác giả luận

án đã tập trung vào ba chiều cạnh cơ bản làm nên nội dung của luận án, bao gồm:

khái niệm, cách tiếp cận về NNC và NNCM; mô hình tổ chức, hoạt động, vai trò, các

mối quan hệ của NNCM; thực trạng chính sách và đề xuất chính sách phát triển các

NNCM phù hợp.

40

CHƢƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH

VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH TRONG

HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC

2.1. Dẫn nhập

Chƣơng này sẽ trình bày một cách có hệ thống cơ sở lý thuyết phục vụ cho việc

thực hiện đề tài luận án. Nội dung của chƣơng sẽ tập trung giải quyết các nhiệm vụ

chính sau đây:

Thứ nhất, xác định cách hiểu thống nhất các khái niệm đƣợc sử dụng trong đề

tài, bao gồm: NNC, NNCM, hoạt động KH&CN, chính sách, chính sách phát triển

NNCM.

Thứ hai, xác định các tiêu chí đối với NNCM để có căn cứ đánh giá về tổ chức

và hoạt động của NNCM.

Thứ ba, làm rõ vai trò và các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của NNCM

qua đó làm rõ tiêu chí, vai trò, hình thức tác động của NNCM đến việc nâng cao hiệu

quả hoạt động KH&CN trong trƣờng đại học.

Thứ tƣ, trình bày một cách căn bản cơ sở lý thuyết về phân tích, đánh giá và

hoạch định chính sách, xác định các tiêu chí đánh giá chính sách để từ đó sử dụng

phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện sách phát triển NNCM

trong trƣờng đại học.

2.2. Cơ sở lý luận về NNCM trong trƣờng đại học

2.2.1. Khái niệm NNC

Nhƣ đã đề cập trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên, tác giả luận

án nhận thấy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về NNC. Giữa các nhà quản lý, các nhà

khoa học vẫn chƣa thể đi đến một quan điểm thống nhất. Các trƣờng đại học, các đơn

vị nghiên cứu thƣờng căn cứ vào hoạt động đào tạo và NCKH của mình mà đƣa ra

những định nghĩa riêng.

Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trƣớc đó và qua thực tiễn tìm hiểu về các

NNC, tác giả luận án diễn đạt lại khái niệm NNC nhƣ sau: NNC là một tập hợp các

thành viên có tổ chức hoặc có tính tổ chức trong các đơn vị có chức năng nghiên cứu.

Các thành viên của nhóm được tập hợp để cùng thực hiện một đề tài hoặc theo đuổi

một lĩnh vực nghiên cứu xác định. Các NNC được tạo dựng bởi một số hay nhiều

41

thành viên cộng tác và có chung niềm đam mê nghiên cứu, có cơ chế chia sẻ quyền lợi,

trách nhiệm khi thực hiện các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu. Thành viên của NNC có thể

gồm các nhà nghiên cứu trẻ, sinh viên, học viên, NCS và các nhà khoa học có uy tín

thuộc các tổ chức nghiên cứu trong nước và nước ngoài cùng tham gia, tạo nên các

kết quả của hoạt động nghiên cứu.

2.2.2. Khái niệm và tiêu chí NNCM

Khác với NNC thông thƣờng NNCM đặt ra các yêu cầu cao hơn về quy mô và

độ phức tạp của các vấn đề nghiên cứu nên các tiêu chí đặt ra đối với NNCM cũng đòi

hỏi cao hơn. Trong khuôn khổ luận án này, khái niệm NNCM đƣợc tác giả luận án

diễn đạt nhƣ sau:

NNCM là một tổ chức trung gian trong hệ thống tổ chức bộ môn, khoa, trung

tâm, viện, trường. Nhóm được dắt dẫn bởi một nhà khoa học có năng lực, uy tín,

có khả năng liên kết các nhà khoa học cùng chuyên ngành hay các chuyên ngành

khác nhau để giải quyết một cách tập trung, hoàn chỉnh một hay một số vấn đề

hoặc chương trình, đề tài/dự án quan trọng, có qui mô lớn trong một thời gian dài

(3-5 năm). Kết quả nghiên cứu của nhóm là quan trọng, đột phá và nhất quán

trong lĩnh vực nghiên cứu mà nhóm theo đuổi. NNCM có đủ các điều kiện cơ bản

bao gồm nơi làm việc, trang thiết bị, thông tin, tư liệu ... để đảm bảo cho các hoạt

động nghiên cứu.

Khái niệm “mạnh” ở đây theo quan điểm của các nhà khoa học là “nhóm các

nhà khoa học đã đạt và có tiềm năng tiếp tục đạt được các kết quả nghiên cứu tốt

nhất trong cộng đồng các NNC hiện có trong mỗi trường”[67]; “nhóm có các

thành viên xuất sắc, điều kiện làm việc đầy đủ và những KQNC có ý nghĩa khoa

học/phục vụ thực tiễn lớn, được quốc tế thừa nhận”[55]; “một tập thể những

người làm công tác nghiên cứu có chuyên môn cao; Giải quyết một cách tập

trung, hoàn chỉnh một hay một số vấn đề hoặc chương trình, đề tài/dự án quan

trọng có qui mô đủ lớn trong một thời gian đủ dài theo định hướng nghiên cứu

xác định; Kết quả nghiên cứu của nhóm là quan trọng, đột phá và nhất quán

trong các lĩnh vực nghiên cứu”; “tập hợp các nhà khoa học hay các trung tâm,

phòng thí nghiệm liên kết với nhau trên một hay một số lĩnh vực nhằm nghiên cứu

và triển khai những hoạt động KH&CN ở trình độ cao; liên kết các cá nhân lại

với nhau trong khoảng thời gian cố định và liên kết với nhau dưới dạng hệ thống

hoàn chỉnh”[40]

42

Trên cơ sở khái niệm NNCM nêu trên đây, và trên cơ sở xem xét các tiêu chí

đƣợc một số cơ quan, trƣờng đại học áp dụng khi thành lập NNCM, tác giả luận án

nhận định rằng những kết quả vƣợt trội của các NNCM về cơ bản có thể quy về ba tiêu

chí (1) Hƣớng nghiên cứu; (2) Sự xuất sắc của các thành viên chủ chốt (3) Cơ sở vật

chất - trang thiết bị phục vụ nghiên cứu (Hộp 2.1).

Hộp 2.1: Tiêu chí đánh giá NNCM

Cơ quan/

đơn vị

ĐHQGHN[29]

Đại học RMIT[75]

Quỹ NAFOSTED[28]

Tiêu chí

1. Hƣớng

Xây dựng đƣợc hƣớng

Mục tiêu và chiến lƣợc

Có định hƣớng nghiên

nghiên cứu

nghiên cứu trung, dài

nghiên cứu rõ ràng,

phù hợp với lĩnh vực

hạn; có mục tiêu, kế

phù hợp với các hƣớng

ƣu tiên đƣợc RMIT đặt

hoạch nghiên cứu cho

nghiên cứu trọng tâm,

trong chiến lƣợc phát

từng giai đoạn cụ thể;

mũi nhọn của quốc gia

triển của Trƣờng, đi

nội dung nghiên cứu

và ĐHQGHN

kèm với đó là kế hoạch,

có tính đột phá

nhiệm vụ và kinh phí

để triển khai hoạt động

nghiên cứu với

thời

gian tối thiểu 3 năm

43

Hộp 2.1: Tiêu chí đánh giá NNCM

Cơ quan/ đơn vị

Quỹ NAFOSTED[28]

ĐHQGHN[29]

Đại học RMIT[75]

Tiêu chí 2. Sự xuất sắc của thành viên chủ chốt

- Có tối thiểu 3 thành viên chủ chốt (01 Chủ nhiệm đề tài, 02 thành viên) - Chủ nhiệm đề tài: có kết quả công bố trên các tạp chí ISI có uy tín phù hợp trong 05 năm gần nhất; có khả năng tập hợp đƣợc nhiều nhà khoa học có cao chuyên môn tham gia thực hiện đề tài, duy trì đƣợc hợp tác NCKH thƣờng xuyên với các NNC quốc tế cùng ngành, liên ngành -Thành viên: Có chuyên môn phù hợp; Có năng lực đáp ứng yêu cầu của đề tài; có học vị tiến sĩ hoặc phó giáo sƣ, giáo sƣ và có kết quả nghiên cứu công bố trên tạp chí quốc tế có uy tín trong thời gian 05 năm gần nhất; + Có đủ thời gian hoàn thành nội dung nghiên cứu của đề tài theo quy định.

Có tối thiểu 3 thành viên chủ chốt đối với NNC, 6 thành viên chủ chốt đối với TTNC - Mỗi thành viên phải có ít nhất 05 công trình nghiên cứu đã công bố thuộc danh mục các công trình nghiên cứu xuất sắc của Úc (bao gồm ấn phẩm hoặc các sản phẩm sáng tạo) trong 3 năm trƣớc đó (tính từ thời điểm nộp hồ sơ); Có thời gian hƣớng dẫn sinh viên nghiên cứu trong ít nhất 1 học kỳ; Các thành viên nòng cốt ít nhất phải có thu 600.000 USD nhập từ nghiên cứu (must have at least $600K in external income) research lĩnh vực đối với KH&CN và sức khỏe hoặc 300.000 USD đối với lĩnh vực kinh tế, khoa học XH&NV, thiết kế sáng tạo và nghệ thuật trong 3 năm trƣớc đó.

Có đủ điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật

3. Cơ sở vật chất - trang thiết bị

Không quy định số lƣợng thành viên chủ chốt. - Trƣởng nhóm: là cán bộ khoa học cơ hữu; Chủ trì đề tài cấp ĐHQGHN trở lên; Là tác giả hoặc chủ biên của ít nhất 01 sách chuyên khảo hoặc tác giả, đồng tác giả của ít nhất 05 công bố ISI hoặc tác giả của ít nhất 01 sáng chế; hoặc có các sản phẩm KH&CN có ứng dụng thực tiễn, có tác động xã hội lớn, có giá trị lý luận, làm cơ sở tƣ vấn cho hoạch định chính sách quốc gia hoặc tích hợp một số thành tích đã nêu; Đã và đang hƣớng dẫn nghiên cứu sinh (NCS); Sử dụng thành thạo ít nhất 1 ngoại ngữ phổ biến (Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc); Có khả năng đề xuất các nghiên cứu tích hợp, kết nối thành những chƣơng trình nghiên cứu lớn, hƣớng đến sản phẩm tầm cỡ quốc gia, quốc tế; Có khả năng huy động các nguồn lực đảm bảo điều kiện cho hoạt động của Nhóm; - Thành viên:- Là các NKH có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ trở lên; đã có các sản phẩm KH&CN tiêu biểu trong hƣớng nghiên cứu; Đã và đang hƣớng dẫn học viên cao học và NCS Đã có cơ sở vật chất và các trang thiết bị cơ bản để triển khai hƣớng nghiên cứu.

Cơ sở vật chất đƣợc RMIT trang bị khi NNC/TTNC đƣợc thành lập

44

Bên cạnh việc đánh giá NNCM ở ĐHQGHN dựa trên tiêu chí của ĐHQGHN,

tác giả luận án còn lựa chọn tiêu chí của trƣờng đại học RMIT, Australia để đánh giá

NNCM ở ĐHQGHN. Điều này giúp làm rõ hơn mức độ hội nhập, mức độ quốc tế hóa,

mức độ đạt chuẩn NNCM quốc tế của NNCM ở ĐHQGHN. Điều cần nói thêm ở đây

là việc lựa chọn nhóm tiêu chí của RMIT vì quy mô, tổ chức của RMIT khá tƣơng

đồng với ĐHQGHN

2.2.3. Khái niệm và vai trò của hoạt động KH&CN trong trường đại học

- Khái niệm hoạt động KH&CN:

Khái niệm hoạt động KH&CN cũng đã đƣợc định nghĩa trong Luật KH&CN

năm 2013. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận án này, tác giả luận án sử dụng khái niệm

hoạt động KH&CN do Vũ Cao Đàm đề xuất [7, tr.230-234] bởi theo ghi nhận của tác

giả luận án, khi đề xuất khái niệm này Vũ Cao Đàm đã tiếp thu và phân tích những

điểm mạnh và điểm hạn chế trong các cách tiếp cận trên thế giới và Việt Nam. Do đó,

khái niệm đƣợc Vũ Cao Đàm đề xuất là rất đầy đủ, sâu sắc và bao quát đƣợc đầy đủ

nội dung của hoạt động KH&CN, sau đây là nội dung cụ thể:

Hoạt động KH&CN là một hoạt động xã hội có mục đích là nghiên cứu, sáng

tạo các thành tựu KH&CN và áp dụng chúng vào sản xuất và đời sống. Hoạt động

KH&CN bao gồm: nghiên cứu và triển khai (Research and Development, viết tắt là

R&D), chuyển giao công nghệ, phát triển công nghệ, đổi mới công nghệ và dịch vụ

KH&CN. Trong đó:

+ Nghiên cứu và triển khai là toàn bộ hoạt động nghiên cứu khoa học, tính từ

giai đoạn nghiên cứu cơ bản đến giai đoạn tạo ra sản phẩm mẫu sơ khởi và công nghệ

chế tạo sản phẩm mới theo mẫu sơ khởi đó.

+ NCKH là loại hoạt động nghiên cứu lý thuyết hoặc thực nghiệm, nhằm khám

phá bản chất các sự vật, hiện tƣợng hoặc sáng tạo các giải pháp để biến vật chất

và/hoặc thông tin. Nghiên cứu khoa học gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng

và triển khai.

+ Chuyển giao công nghệ là sự trao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một công

nghệ, có hoặc không thanh toán từ bên có công nghệ cho bên muốn nhận công nghệ.

Chuyển giao công nghệ là chuyển giao tri thức công nghệ. Đối tƣợng chuyển giao có

thể là quy trình, công thức, bí quyết. Các đối tƣợng này có thể đƣợc chuyển giao có

kèm hoặc không kèm hợp đồng patent hoặc license. Chuyển giao công nghệ về nguyên

tắc chỉ thuần túy là chuyển giao tri thức, nhƣng cũng có thể kèm theo hợp đồng mua

bán thiết bị.

45

+ Phát triển công nghệ là sự mở mang công nghệ vốn tồn tại trong sản xuất.

Khái niệm này không phải là khái niện “Triển khai”. Có hai dạng phát triển công nghệ

trong sản xuất: Mở rộng công nghệ, hay là phát triển công nghệ theo chiều rộng và

nâng cấp công nghệ, hay là phát triển công nghệ theo chiều sâu.

+ Đổi mới công nghệ là quá trình chuyển đổi từ một công nghệ vốn tồn tại sang

một công nghệ tiến bộ hơn về mặt nguyên lý. Hiệu quả đổi mới công nghệ không nhất

thiết có quan hệ tuyến tính với sự tiến bộ về nguyên lý công nghệ. Nó có thể đạt hiệu

quả cao về tiêu chí này, song lại đạt hiệu quả thấp về tiêu chí khác.

+ Dịch vụ KH&CN có hai nghĩa: Thứ nhất, là các hoạt động dịch vụ nhằm đối

tƣợng là các hoạt động KH&CN, nhƣ dịch vụ thông tin, bảo trì thiết bị kỹ thuật, tƣ vấn

pháp lý về KH&CN…; Thứ hai, là các hoạt động dịch vụ mà các tổ chức nghiên cứu

và triển khai tiến hành thông qua các hợp đồng với các đơn vị có nhu cầu , nhằm giúp

họ sửa chữa, duy tu, bảo trì các thiết bị kỹ thuật và công nghệ.

- Vai trò của hoạt động KH&CN trong trường đại học

Hoạt động KH&CN trong các trƣờng đại học luôn đóng vai trò đặc biệt quan

trọng trong việc nâng cao chất lƣợng đào tạo; tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao của xã hội; tạo ra những tri thức mới, công nghệ mới phục vụ cho sự

phát triển của nhân loại. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn khẳng định giáo

dục - đào tạo cùng với KH&CN là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định tǎng

trƣởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tƣ cho giáo dục - đào tạo là đầu tƣ phát triển.

Đồng thời khẳng định, các trƣờng đại học phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học,

công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống[47].

Thế kỷ XXI, thế giới chứng kiến những bƣớc phát triển mạnh mẽ của khoa học

và kỹ thuật. Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đã và đang

đẩy nhanh sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm

chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt

đời sống xã hội loài ngƣời. Sự phát triển mạnh mẽ, các bƣớc tiến thần kỳ đó luôn gắn

liền và không thể tách rời với giáo dục đại học cùng với các hoạt động nghiên cứu của

nó. Theo phân tích của hai học giả ngƣời Mỹ Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson:

“Phát triển kinh tế ở Đông và Đông Nam Á cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa phát

triển và giáo dục đại học. Mặc dù mỗi quốc gia thịnh vƣợng nhất trong khu vực này -

Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và gần đây nhất là Trung Quốc - đã đi theo con đƣờng

của riêng mình, nhƣng có một điểm chung trong sự thành công của họ là họ đã chuyên

tâm theo đuổi một nền giáo dục đại học và NCKH chất lượng cao”[63].

46

Lịch sử nhân loại cũng từng ghi nhận trƣờng hợp Nhật Bản thời Minh Trị

(1868-1912), đó là quốc gia lấy giáo dục đại học và hoạt động NCKH trong các

trƣờng đại học làm bệ đỡ phát triển kinh tế, và thay đổi vận mệnh dân tộc. Từ một

quốc gia phong kiến lạc hậu, đứng trƣớc áp lực bành trƣớng của thực dân phƣơng

Tây giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản đã tiến hành cải cách Minh Trị với mục tiêu tự cƣờng

đất nƣớc, và quốc gia này đã coi cải cách giáo dục mà cụ thể là giáo dục đại học làm

mục tiêu trọng tâm. Ngay từ ban đầu, ngƣời Nhật đã lấy mô hình giáo dục phƣơng

Tây làm khuôn mẫu chuẩn, nhƣng đáng chú ý là họ chỉ Tây phƣơng hóa những lĩnh

vực họ cần (nhƣ kỹ thuật) chứ không phải Tây phƣơng hóa nền văn hóa cổ truyền

của họ. Tuy trong giai đoạn đầu kỹ nghệ hóa, Nhật Bản chƣa có một chiến lƣợc phát

triển có tính hệ thống, nhƣng chính phủ đã định hướng, khuyến khích giới kỹ nghệ

phát triển giáo dục và khoa học. Mặc dù ý thức đƣợc rằng giáo dục đại học luôn gắn

với nghiên cứu và đào tạo các nhà nghiên cứu, nhƣng trong giai đoạn này khi mà

công nghệ của Nhật còn quá lạc hậu so với phƣơng Tây, nên họ chủ yếu đào tạo

chuyên gia lành nghề, hoạt động nghiên cứu thực sự chỉ đƣợc tiến hành ở hai trƣờng

đại học lớn là Tokyo và Kyoto. Chiến lƣợc phát triển đúng đắn của Nhật Bản không

chỉ giúp họ tránh khỏi nanh vuốt xâm lƣợc của các quốc gia phƣơng Tây, mà chỉ sau

3 thập niên cải cách, đến đầu thế XX, quốc gia này đã từng bƣớc trở thành một nƣớc

tƣ bản. Tuy nhiên, phải mất một thời gian khá dài, đến năm 1960, khi Hội đồng

KH&CN Nhật đề xuất một số chính sách để phát triển khoa học - công nghệ trong

vòng 10 năm, thì những đề nghị này trở thành định hƣớng phát triển và hoàn thiện hệ

thống đại học cho đến ngày nay. Những quyết sách đúng đắn của giới lãnh đạo Nhật

- giao sứ mệnh và đặt trọng tâm vào giáo dục đại học và các hoạt động nghiên cứu,

đã giúp quốc gia này từ một nƣớc bại trận với nền kinh tế bị tàn phá sau Thế chiến

thứ II, đã mau chóng khôi phục và thật sự “cất cánh” vào những thập niên 60, 70 của

thế kỷ XX, và phát triển bền vững đến ngày nay. Nhật Bản với nền tảng ban đầu (thế

kỷ XIX) khá tƣơng đồng với Việt Nam, bằng những bƣớc đi đúng đắn, đã trở thành

quốc gia có nền kinh tế vững mạnh hàng đầu thế giới hiện nay. Kinh nghiệm phát

triển của ngƣời Nhật là bài học bổ ích cho Việt Nam nghiên cứu, tham khảo khi lựa

chọn định hƣớng xây dựng cho bản thân[9].

Nhƣ vậy, KH&CN, giáo dục và đào tạo trong các trƣờng đại học là những phạm

trù có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

47

2.2.4. Phân loại NNCM trong trường đại học

Theo Vũ Cao Đàm, phân loại khoa học là sự phân chia các bộ môn khoa học

thành những nhóm bộ môn khoa học theo cùng một tiêu thức nào đó. Phân loại khoa

học là để nhận dạng cấu trúc của hệ thống tri thức. Có nhiều cách phân loại, mỗi cách

phân loại lại dựa trên một tiêu thức có ý nghĩa ứng dụng nhất định. Cụ thể:

1) Phân loại theo phương pháp hình thành khoa học.

Tiêu thức phân loại là phương pháp hình thành cơ sở lý thuyết của bộ môn khoa

học. Cách phân loại này không quan tâm đến việc khoa học nghiên cứu cái gì, mà chỉ

quan tâm đến việc khoa học hình thành nhƣ thế nào. Theo tiêu thức này khoa học đƣợc

phân chia thành: (1) Khoa học tiền nghiệm, (2) khoa học hậu nghiệm, (3) khoa học

phân lập và (4) khoa học tích hợp.

2) Phân loại theo đối tượng nghiên cứu của khoa học

Tiêu thức phân loại trong trƣờng hợp này là đối tượng nghiên cứu của khoa

học. Khoa học đƣợc sắp xếp tƣơng ứng với sự phát triển biện chứng của khách thể.

Ngƣời đầu tiên đƣa ra ý tƣởng phân loại này là F. Engels. Sau này B. Kedrov đã phát

triển ý tƣởng của Engels và trình bày mô hình hệ thống tri thức khoa học thành một

tam giác gồm 3 đỉnh gồm (1) khoa học tự nhiên, (2) khoa học xã hội và (3) Triết học.

Để tiện sử dụng, mô hình này đƣợc tuyến tính hóa theo trình tự sau: (1) Khoa học tự

nhiên và khoa học trừu tƣợng (hoặc khoa học chính xác), (2) Khoa học kỹ thuật và

công nghệ, (3) Khoa học nông nghiệp, (4) khoa học sức khỏe, (5) Khoa học xã hội và

nhân văn và (6) Triết học [4, tr.14-17].

Hiện nay ở Việt Nam, việc phân loại khoa học cũng đƣợc sử dụng theo mô hình

đƣợc tuyến tính hóa nhƣng phân chia thành: (1) Khoa học tự nhiên, (2) Khoa học Kỹ

thuật và Công nghệ, (3) Khoa học y, dƣợc, (4) khoa học nông nghiệp, (5) Khoa học xã

hội và (6) Khoa học nhân văn[27].

Từ nhiều cách phân loại trên đây và từ thực tiễn đối tƣợng nghiên cứu của đề

tài, trong khuôn khổ luận án này, tác giả luận án sử dụng phƣơng pháp phân loại khoa

học theo đối tƣợng nghiên cứu để áp dụng cho việc phân loại NNCM. Theo đó,

NNCM đƣợc phân loại theo 4 nhóm lĩnh vực khoa học sau đây: (1) khoa học tự nhiên,

(2) khoa học kỹ thuật và công nghệ, (3) khoa học xã hội và nhân văn và (4) khoa học

y, dƣợc. Nhƣ vậy, với cách phân loại này, tác giả luận án sẽ xem xét những điểm khác

biệt, hay những đóng góp khác nhau giữa các NNCM thuộc các nhóm lĩnh vực khác

nhau dựa trên kết quả nghiên cứu của nhóm.

48

2.2.5. Vai trò và các mối quan hệ của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt

động KH&CN của trường đại học

Phần này, tác giả luận án sẽ tập trung làm rõ vai trò của NNCM trong việc

nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của trƣờng đại học thông qua các mối quan hệ

của Nhóm:

(1) Quan hệ giữa các thành viên của NNCM. Vai trò của NNCM đƣợc thúc đẩy

mạnh mẽ thông qua mối quan hệ hợp tác giữa các thành viên theo hai xu hƣớng chính

sau đây:

Thứ nhất, quan hệ hợp tác giữa các nhà khoa học: theo Sylvan Kattz có 5 yếu

tố thúc đẩy các nhà khoa học làm việc cùng nhau: (1) Chi phí cho công việc mua sắm

công cụ nghiên cứu, mua tƣ liệu, chi phí tiến hành các bƣớc nghiên cứu thông thƣờng

ngày càng gia tăng. Việc hợp tác giữa các nhà khoa học sẽ làm tăng tần suất sử dụng

những loại hình công cụ, tƣ liệu này, đồng thời tăng mức phổ biến những tri thức khoa

học cho các đối tƣợng, các nhà khoa học khác nhau; (2) Chi phí của các hình thức liên

lạc, đi lại đã giảm mạnh nhờ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công

nghệ; (3) Sự nhận thức của các nhà khoa học về vai trò làm việc theo nhóm, làm việc

trong cộng đồng khoa học. Chỉ thông qua những mô hình làm việc nhƣ vậy thì quá

trình sản sinh ra tri thức khoa học tiến bộ sẽ đƣợc tiến hành có chọn lọc và dễ thành

công hơn; (4) Việc cụ thể hoá các công đoạn trong quá trình nghiên cứu là hết sức cần

thiết và có ý nghĩa cho việc thực hiện các đề tài nghiên cứu (đặc biệt cần thiết cho các

chuyên ngành cần có những công cụ, phƣơng thức làm việc phức tạp…); (5) Xu hƣớng

liên ngành đang gia tăng, việc ứng dụng các phƣơng pháp - tri thức liên ngành trong

việc giải quyết các vấn đề cụ thể của đời sống xã hội, những lĩnh vực chuyên môn là

những yêu cầu cơ bản đòi hỏi cần có sự hợp tác của các nhà khoa học trong cùng một

chuyên ngành cũng nhƣ khác chuyên ngành[15, tr.49-50]. Điều này đặc biệt đúng

trong lĩnh vực giáo dục đại học. Trƣờng đại học sẽ có đƣợc những kết quả nghiên cứu

chất lƣợng cao, đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tiễn, khi các công trình nghiên cứu

đƣợc xây dựng dựa trên sự hợp tác của các nhà khoa học. Chính sự dung hợp đƣợc

nhiều quan điểm, góc nhìn khác nhau giúp cho việc xây dựng các nhiệm vụ nghiên cứu

phù hợp hơn với nhu cầu của thực tiễn. Việc nghiên cứu theo nhóm làm tăng khả năng

nắm giữ phƣơng pháp nghiên cứu mới, tri thức mới, những kỹ năng cần thiết giữa các

thành viên trong nhóm. Đây cũng chính là một quá trình đào tạo, bản thân các thành

viên sẽ học hỏi lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Vai trò của nhóm đặc biệt đƣợc phát huy

49

mạnh trong những nghiên cứu mang tính liên ngành, việc nghiên cứu theo nhóm giúp

đẩy mạnh khả năng của từng cá nhân.

Điều đặc biệt quan trọng khi tham gia vào các NNC là các thành viên trong

nhóm có thể áp dụng phần việc của các thành viên khác đã làm để triển khai kế hoạch

của mình cho khớp. Đồng thời các thành viên đi trƣớc có thể dễ dàng truyền đạt gói

công việc cho ngƣời sau. Trong mọi lĩnh vực hoạt động của con ngƣời luôn chứa đựng

sự cạnh tranh quyết liệt và khắc nghiệt. Tuy nhiên, với tính đặc thù của môi trƣờng đại

học, yếu tố học thuật lại chính là những chuẩn mực giúp cho sự cạnh tranh này không

trở thành sự hủy hoại mà là sự cạnh tranh lành mạnh, giúp cải thiện năng lực của tất cả

mọi ngƣời. “Tinh thần hợp tác được nuôi dưỡng trong môi trường mà thành công của

mỗi người đều góp phần tạo ra thành quả chung và thành quả của người này không

loại trừ thành quả của người khác. Nếu sự xuất sắc được ban thưởng một cách xứng

đáng và những hành vi trái với chuẩn mực của văn hóa học thuật bị xử lý nghiêm

khắc, nếu thành quả chung đem lại lợi ích vật chất cũng như sự thỏa mãn tinh thần

cho từng thành viên trong một tập thể tương xứng với sự đóng góp của họ, thì tinh

thần hợp tác chính trực sẽ nảy nở một cách tự nhiên”[12, tr.28-33]. Do đó, để có

những công trình nghiên cứu chất lƣợng cao, đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ giữa các nhà

khoa học, đồng thời với đó là các điều kiện hỗ trợ tốt kèm theo của trƣờng đại học.

Thứ hai, quan hệ hợp tác giữa thày và trò: đây có thể coi là mối quan hệ hợp

tác gắn kết hữu cơ tạo nên sự hợp tác phát triển bền vững trong NNCM, mối quan hệ

này ít nhiều đƣợc thiết chế hóa dƣới hình thức ngƣời thày hƣớng dẫn các học trò.

Chính trong quá trình nghiên cứu, ngƣời thày đã lựa chọn đƣợc những sinh viên, học

viên cao học và đặc biệt là nghiên cứu sinh xuất sắc tham gia vào nhóm. Điều này giúp

ngƣời thày quy tụ đƣợc đội ngũ nhân lực nhằm thực hiện các kỳ vọng trong lĩnh vực

nghiên cứu họ theo đuổi, bởi chính những học trò là những ngƣời có động lực, cũng

nhƣ áp lực phải hoàn thành chƣơng trình học tập nên họ có động cơ mạnh mẽ để tham

gia vào NNC. Ngƣời học tham gia vào các NNCM về thực chất là gắn liền việc học

với nghiên cứu khoa học, dƣới sự dẫn dắt của thày hƣớng dẫn. Điều này giúp ngƣời

học tự tin, phát huy đƣợc những ý tƣởng sáng tạo và có cơ hội biến những ý tƣởng đó

thành hiện thực.

Tham gia vào các NNCM, ngƣời học đƣợc trang bị phƣơng pháp nghiên cứu

khoa học, nhờ đó các kiến thức và trí tuệ mà họ tích luỹ đƣợc mới thực sự trở thành tài

sản sở hữu lâu dài của họ. Việc vận dụng phƣơng pháp nghiên cứu khoa học vào học

tập sẽ giúp họ nâng cao tính chủ động, kế hoạch hoá, sáng tạo và tự tin trong học tập.

50

Bên cạnh đó, thông qua việc tham khảo sách và tài liệu nƣớc ngoài, tham gia các hội

thảo trong và ngoài nƣớc, trình độ ngoại ngữ của họ sẽ tiến bộ rõ rệt [21]. Quan hệ này

không chỉ diễn ra trong giai đoạn học tập của học trò mà còn tiếp tục đƣợc phát triển

bền vững thành quan hệ đồng nghiệp hay các quan hệ xã hội khác, khi sau quá trình

đào tạo, thày là ngƣời tìm kiếm công việc cho học trò và tạo dựng vị trí khoa học cho

học trò hay hỗ trợ các điều kiện tài chính, cơ sở vật chất khác... Quan hệ hợp tác của

ngƣời thày với học trò tiếp tục đƣợc mở rộng và có tính bắc cầu thông qua mối quan

hệ hợp tác của các học trò với các thành phần khác trong xã hội. Đây là mối quan hệ

nối tiếp, kế tiếp tạo thành mạng lƣới các thành viên hỗ trợ cho hoạt động trong NNC

và tạo nên sự phát triển của NNCM.

(2) Quan hệ giữa NNCM với trường đại học chủ quản. Đây là mối quan hệ gắn

bó hữu cơ hai chiều. Trong đó, ở chiều xuôi, trƣờng đại học là nơi đầu tƣ, hỗ trợ và tạo

điều kiện thuận lợi cho các NNCM phát triển. Ở chiều ngƣợc lại, NNCM đóng vai trò

hạt nhân quan trọng trong việc thực hiện chức năng đào tạo và nghiên cứu chất lƣợng

cao, đặc biệt là các nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng mang tính tạo thế mạnh và chiến

lƣợc cho trƣờng đại học. Nhƣ đã đề cập ở trên, đào tạo và nghiên cứu khoa học là hai

chức năng chính không thể thiếu của bất cứ trƣờng đại học nào, hai chức năng này

luôn hỗ trợ, bổ sung cho nhau để nâng cao chất lƣợng cả trong đào tạo và nghiên cứu.

Việc đẩy mạnh hoạt động giáo dục và đào tạo gắn với hoạt động KH&CN thông qua

các NNC, đặc biệt là các NNCM đóng vai trò quyết định trong việc giúp các trƣờng

đại học phát huy đƣợc các tiềm lực và khẳng định vị thế của mình trong quốc gia, khu

vực và thế giới. Bởi, NNCM là nhân tố đặc biệt quan trọng trong việc quy tụ các nhà

khoa học trình độ cao nhằm phát huy năng lực sáng tạo, thúc đẩy hoạt động KH&CN,

giáo dục và đào tạo. Đối với các trƣờng đại học trên thế giới, đặc biệt là các đại học

nghiên cứu thì mô hình NNC là hình thức phổ biến để tiến hành các hoạt động nghiên

cứu khoa học và đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học. Việc xây dựng các NNCM

trong trƣờng đại học sẽ tạo những điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học, các nghiên

cứu sinh, học viên cao học, sinh viên có thể phát huy khả năng và ý tƣởng táo bạo

trong nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lƣợng đào tạo và phục vụ xã hội thông

qua hoạt động nghiên cứu.

Thực tế đã cho thấy, việc đào tạo để nghiên cứu và qua nghiên cứu là yếu tố cốt

lõi nhằm nâng cao chất lƣợng đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học. Đặc thù của bậc

đào tạo sau đại học là nghiên cứu chuyên sâu, do vậy chƣơng trình đào tạo sau đại học,

đặc biệt là đào tạo nghiên cứu sinh đòi hỏi hàm lƣợng nghiên cứu khoa học cao hơn so

51

với chƣơng trình đào tạo đại học. Việc các sinh viên, học viên cao học, đặc biệt là

nghiên cứu sinh đƣợc làm việc trong các NNCM với đầy đủ các điều kiện về chuyên

môn, phƣơng tiện làm việc, thông tin tƣ liệu và thiết bị là một điều kiện thuận lợi đối

với họ. Trong môi trƣờng nhƣ vậy, ngoài khóa luận, luận văn, luận án đƣợc bảo vệ,

ngƣời học còn đƣợc nâng cao một cách toàn diện về mặt kiến thức chuyên môn, kỹ

năng làm việc nhóm và kinh nghiệm tổ chức, quản lý và triển khai hoạt động nghiên

cứu khoa học.

Nhƣ vậy, trƣờng đại học là trung tâm trí tuệ, nơi tạo ra, lƣu trữ, truyền tải tri

thức và những giá trị tinh thần từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bản thân sự sáng tạo tri

thức mới đã mang bản chất hợp tác và kế thừa. Hơn thế nữa, trong bối cảnh tri thức

ngày càng đan xen phức tạp giữa các chuyên ngành, mọi công trình đều cần dựa trên

sự tham gia hợp tác của nhiều ngƣời ở các lĩnh vực chuyên môn khác nhau và có

những kỹ năng, tri thức, phẩm chất khác nhau nhằm phối hợp và bổ sung cho nhau. Do

vậy, NNCM chính là hạt nhân để tạo nên sự hợp tác trong các trƣờng đại học và cũng

là nhân tố cốt lõi tạo ra hiệu quả kép trong đào tạo và nghiên cứu khoa học.

(3) Quan hệ giữa NNCM với bộ môn/khoa/trung tâm/viện nghiên cứu. Đây là

mối quan hệ dựa trên tinh thần hợp tác, trong đó NNCM đóng vai trò trung tâm quy tụ

các nhà khoa học từ cùng một đơn vị hay ở các đơn vị khác nhau nhằm thực hiện một

chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu nhất định hoặc theo đuổi một lĩnh vực nghiên cứu

trọng tâm nào đó. Thế mạnh của NNCM là tạo ra sự hợp tác không giới hạn, không

biên giới và không bị tác động bởi các rào cản hành chính hay địa lý. Chính NNCM là

môi trƣờng tạo ra sự cộng tác giữa các nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu để giải

quyết những vấn đề có tính phức tạp, trao đổi tri thức, là môi trƣờng nuôi dƣỡng sự

gắn kết chặt chẽ giữa các nhà khoa học, bởi ở đó chất keo kết dính các nhà khoa học là

sự đồng điệu trong khoa học, sự đồng thuận trong chí hƣớng và có cùng chung mục

tiêu mà không phải là các quyết định hành chính. Trong nhiều trƣờng hợp, NNCM còn

góp phần phát triển các ngành, chuyên ngành đào tạo mới cho trƣờng đại học.

(4) Quan hệ giữa NNCM, trường đại học và giới doanh nghiệp. Đây là mối

quan hệ ba bên nhƣng thực chất là mối quan hệ hai chiều, trong đó trƣờng đại học là

cầu nối giữa NNCM và giới doanh nghiệp. NNCM sẽ là hạt nhân thay mặt cho trƣờng

đại học giúp giới công nghiệp giải quyết các vấn đề về chuyển giao công nghệ, đổi

mới công nghệ, phát triển công nghệ, mở rộng công nghệ, nâng cấp công nghệ hay các

dịch vụ KH&CN. Đồng thời, thực hiện các chƣơng trình nghiên cứu liên kết đƣợc

quan tâm chung trên cơ sở các hợp đồng nghiên cứu, các khóa đào tạo huấn luyện hay

52

các chƣơng trình hội thảo cung cấp kiến thức cho giới doanh nghiệp. Ngƣợc lại, các

doanh nghiệp thông qua trƣờng đại học hỗ trợ cho các NNCM về cơ sở vật chất, trang

thiết bị, tài chính, tiếp nhận nhân sự đƣợc đào tạo từ các NNCM…Trên cơ sở các hoạt

động hợp tác và chuyển giao tri thức với các doanh nghiệp, các NNCM có điều kiện

thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu, đồng thời từng bƣớc hình thành nền

tảng tài chính mạnh góp phần quan trọng cho sự phát triển của trƣờng đại học nói

chung và của nhóm nói riêng. Đặc biệt, thông qua mối quan hệ hợp tác với các doanh

nghiệp, các NNCM có thể thƣơng mại hóa thành quả nghiên cứu của mình, cũng nhƣ

huy động các nguồn lực thông qua hợp tác để triển khai các hoạt động KH&CN.

(5) Quan hệ giữa NNCM với các cơ quan tổ chức nước ngoài. Đây là mối quan

hệ đa dạng, đó có thể là quan hệ hợp tác giữa các nhà khoa học nhằm thực hiện các

chƣơng trình/dự án nghiên cứu chung, hay có thể là các tài trợ nhằm thúc đẩy hoạt

động KH&CN, nâng cao năng lực nghiên cứu cho các NNCM thông qua các dự án tài

trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị…Việc tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong KH&CN

thông qua môi trƣờng NNCM là cách tốt nhất để đƣa hoạt động KH&CN của trƣờng

đại học tiệm cận với chuẩn mực quốc tế, kết nối cộng đồng khoa học thế giới. Đặc biệt

là huy động đƣợc nguồn kinh phí dồi dào từ các tổ chức quốc tế để giải quyết các vấn

đề đặt ra của trƣờng đại học nói riêng và quốc gia nói chung. Bên cạnh đó, việc tăng

cƣờng hợp tác thông qua môi trƣờng NNCM giúp quy tụ đƣợc các nhà khoa học nƣớc

ngoài tham gia cùng nghiên cứu. Điều này không chỉ giúp thúc đẩy các NNCM phát

huy nội lực, kết hợp với ngoại lực để tăng cƣờng công bố quốc tế mà còn giúp nâng

cao năng lực KH&CN và hội nhập quốc tế của các NNC nhanh hơn.

(6) Quan hệ giữa NNCM trong trường đại học với Nhà nước. Đây là mối quan

hệ gắn bó hữu cơ mật thiết, bởi Nhà nƣớc là tác nhân chủ đạo trong việc thúc đẩy sự

gia tăng các NNCM trong trƣờng đại học. Các NNCM trong các trƣờng đại học sẽ

không thể hình thành và phát triển mạnh nếu không có đƣợc môi trƣờng chính sách

thuận lợi với sự hỗ trợ và sáng kiến trực tiếp từ Nhà nƣớc[39]. Bởi Nhà nƣớc là cơ

quan tài trợ chính cho các NNCM trong việc thiết lập các phƣơng tiện và năng lực

nghiên cứu trình độ cao để triển khai các hoạt động KH&CN. Việc tài trợ này không

chỉ dừng lại ở các chƣơng trình/đề tài/dự án của Nhà nƣớc mà còn bao gồm các hoạt

động đầu tƣ gián tiếp thông qua các dự án tăng cƣờng năng lực nghiên cứu cho các

trƣờng đại học, nơi các NNCM hoạt động. Thông qua việc thực hiện các chƣơng

trình/đề tài/dự án, những kết quả nghiên cứu do NNCM tạo ra sẽ góp phần tƣ vấn

53

hoạch định chính sách cho Chính phủ hoặc thúc đẩy sự tiến bộ xã hội hay thúc đẩy sự

phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.

2.2.6. Phát triển NNCM và hiệu quả hoạt động của NNCM trong trường đại học

Phát triển NNCM đƣợc hiểu là sự vận động về lƣợng và chất theo hƣớng tốt

hơn và đảm bảo tính hài hòa trong hoạt động KH&CN của NNCM trong trƣờng đại

học. Nhƣ vậy, để xem xét sự phát triển của NNCM cần xem xét sự gia tăng về số

lƣợng NNCM dựa trên các số liệu cụ thể và xem xét chất lƣợng hoạt động của NNCM

thông qua việc xem hiệu quả hoạt động KH&CN của các NNCM.

Từ việc xem xét vai trò của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động

KH&CN của NNCM trên đây, tác giả luận án xem xét hiệu quả hoạt động KH&CN

của NNCM trong trƣờng đại học dựa trên những đóng góp của NNCM đối với trƣờng

đại học nói riêng và xã hội nói chung thông qua các ấn phẩm khoa học đƣợc công bố

và việc áp dụng các kết quả nghiên cứu của nhóm vào thực tiễn. Theo đó, có thể xem

xét hiệu quả hoạt động KH&CN của NNCM ở các khía cạnh sau đây:

- Thứ nhất là sản phẩm phẩm khoa học. Sản phẩm khoa học đƣợc đo bằng các

tiêu chí sau đây: Số lƣợng sách chuyên khảo, bài báo trong nƣớc, bài báo quốc tế; số

sản phẩm KH&CN đạt giải thƣởng.

- Thứ hai là đề tài, dự án nghiên cứu. Kết quả đƣợc đo bằng số lƣợng các đề tài,

dự án nghiên cứu do NNCM chủ trì và tham gia thực hiện.

- Thứ ba là kết quả đào tạo. Kết quả đào tạo đƣợc đo bằng các tiêu chí sau đây:

Số lƣợng học viên, NCS đƣợc đào tạo; Số ngành đào tạo mới, chƣơng trình đào tạo

mới do NNCM phát triển.

- Thứ tƣ là đóng góp thực tiễn. Đóng góp thực tiễn đƣợc đo bằng các tiêu chí

sau: Số sản phẩm KH&CN hoàn chỉnh có thể chuyển giao và thƣơng mại hóa, số

lƣợng kết quả nghiên cứu đƣợc ứng dụng trong thực tiễn, số hợp đồng chuyển giao

công nghệ đƣợc ký kết.

2.3. Cơ sở lý luận về chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học

2.3.1. Khái niệm và vai trò của chính sách

Thuật ngữ chính sách đƣợc sử dụng phổ biến, đề cập đến nhiều vấn đề của xã

hội. Tuy nhiên, ở mỗi góc độ tiếp cận các nhà khoa học, hay các cơ quan, tổ chức lại

đƣa ra những định nghĩa riêng.

Theo tổng hợp từ Nguyễn Phƣơng Anh (2015), chính sách đƣợc tác giả dẫn

định nghĩa nhƣ sau:

54

- Chính sách là những gì mà chính phủ làm, lý do làm, và sự khác biệt nó tạo ra

(Dye 1972); Chính sách là một chuỗi (tập hợp) những hành động có mục đích nhằm

giải quyết một vấn đề (Anderson 1984); Chính sách là một hành động mang tính

quyền lực nhà nƣớc nhằm sử dụng nguồn lực để thúc đẩy một giá trị ƣu tiên

(Considine 1994); Chính sách là một công việc đƣợc thực hiện liên tục, bởi những

nhóm hoạch định, nhằm sử dụng các thể chế công để kết nối, phối hợp và biểu đạt giá

trị họ theo đuổi (Considine 1994); Chính sách là một phần của khuôn khổ các ý kiến,

mà qua đó, chúng ta đƣợc điều chỉnh bởi một cách thức hợp lý, giữa các khía cạnh đa

chiều của cuộc sống (Colebatch 2002); Chính sách là những gì mà chính phủ làm,

hoặc bỏ qua không làm (Klein & Marmor 2006); Chính sách là quá trình mà một xã

hội tạo ra và quyết định có tính bắt buộc những hành vi nào đƣợc chấp nhận và hành vi

nào không (Wheelan 2011) [60].

Tổng hợp từ nhiều cách tiếp cận (hệ thống, chính trị học, xã hội học, tâm lý

học, kinh tế học, đạo đức học, lý thuyết trò chơi, khoa học pháp lý, nhân học và nhân

học xã hội), Vũ Cao Đàm trong nghiên cứu của mình đã đƣa ra một định nghĩa khá

toàn diện về chính sách và đây là khái niệm đƣợc tác giả luận án lựa chọn để sử dụng

cho đề tài luận án của mình, cụ thể: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể

chế hoá, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu

đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định

hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược

phát triển của một hệ thống xã hội”[5, 6, 23].

Từ định nghĩa trên đây, đã cho thấy, chính sách là một công cụ của quản lý,

nhằm hƣớng động cơ hoạt động của cộng đồng vào mục tiêu phát triển xã hội. Khi

chính sách đúng, thì mục tiêu xã hội đƣợc phát triển tốt đẹp. Khi chính sách không phù

hợp thì mục tiêu phát triển xã hội không đạt đƣợc, hoặc đạt đƣợc nhƣng không bền

vững. Với vai trò là một thiết chế xã hội, chính sách quy định việc đối xử với các

thành viên trong cộng đồng xã hội, để họ hành động theo mục đích mà chủ thể chính

sách đặt ra cho sự nghiệp phát triển xã hội. Chính sách cần thiết cho mọi xã hội, bất kể

xã hội đó phát triển theo triết lý nào. Với ý nghĩa đó, chính sách đóng vai trò quan

trọng trong kiến tạo xã hội mà ở đó vai trò kiến tạo xã hội của chính sách diễn ra rất đa

dạng. Những biến đổi do chính sách tạo ra có thể đơn giản là biến đổi tập quán, lối

sống, mối quan hệ giữa con ngƣời và con ngƣời đến những biến đổi phức tạp hơn nhƣ

biến đổi chuẩn mực, văn hóa, thiết chế xã hội, cấu trúc xã hội hay biến đổi toàn bộ

khung mẫu xã hội [5, 6]

55

2.3.2. Khái niệm chính sách phát triển NNCM trong trường đại học

Từ khái niệm chính sách đƣợc Vũ Cao Đàm đƣa ra, tác giả luận án hiểu Chính

sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học nhƣ sau:

Chính sách phát triển NNCM trong các trƣờng đại học là một tập hợp biện pháp

đƣợc thể chế hoá, mà Nhà nƣớc và trƣờng đại học đƣa ra nhằm thúc đẩy sự hình thành

và phát triển NNCM, trong đó tạo sự ƣu đãi cho các NNCM, kích thích vào động cơ

hoạt động của nhóm, định hƣớng hoạt động của nhóm nhằm thực hiện một mục tiêu

ƣu tiên trong chiến lƣợc phát triển đào tạo, NCKH của trƣờng đại học nói riêng và

phục vụ xã hội nói chung. Nhƣ vậy, hiểu một cách đầy đủ:

- Chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học là tập hợp biện pháp. Đó có

thể là một biện pháp đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực, biện pháp đầu tƣ cơ sở vật chất,

trang thiết bị, cải thiện môi trƣờng nghiên cứu, biện pháp trọng dụng nhà khoa học

trình độ cao, biện pháp hợp tác nghiên cứu hay là các biện pháp nhằm động viên tinh

thần, biện pháp mệnh lệnh hành chính hoặc một biện pháp ƣu đãi đối với từng cá nhân

trong nhóm hoặc cả NNC.

- Chính sách là một tập hợp biện pháp đƣợc thể chế hoá dƣới dạng các văn bản

quy phạm pháp luật; hoặc các văn bản quy định nội bộ của các tổ chức (trường đại

học, viện nghiên cứu.…)

- Chính sách phải tác động đến động cơ hoạt động của các cá nhân và NNC.

Tức thỏa mãn đƣợc không chỉ mục tiêu của cơ quan ban hành chính sách mà còn giải

quyết đƣợc mục tiêu của bản thân cá nhân và NNC.

- Chính sách phải hƣớng động cơ của các cá nhân và NNC nêu trên vào một

mục tiêu chung của cơ quan đề ra chính sách.

2.3.3. Cấu trúc chính sách phát triển NNCM trong trường đại học

Về cơ bản chính sách phát triển NNCM cũng phải tuân theo cấu trúc chính sách

nói chung bao gồm: Mục tiêu, nguyên tắc chỉ đạo thực hiện, đối tƣợng, phạm vi, thời

gian, nguồn lực, đơn vị quản lý và tổ chức thực hiện.

Mục tiêu của chính sách: Mỗi chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại

học đều có mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, trong đó mục tiêu cụ thể của việc xây

dựng và phát triển NNCM (coi đó là phương tiện) nhằm đạt đƣợc các KQNC có chất

lƣợng cao, đào tạo đƣợc nguồn nhân lực có chất lƣợng cao, nhƣng quan trọng hơn mục

tiêu chung mà chính sách hƣớng đến là phát triển trƣờng đại học theo định hƣớng

nghiên cứu.Ví dụ, chính sách thƣởng cho các công trình công bố quốc tế tại các trƣờng

56

đại học hiện nay có mục tiêu cụ thể là thúc đẩy các nhà khoa học, NNC công bố các

KQNC trên các tạp chí quốc tế, đặc biệt là các tạp chí có uy tín, nhằm hƣớng đến mục

tiêu quan trọng hơn (mục tiêu chung, hay mục tiêu cốt lõi) là nâng cao uy tín và

thƣơng hiệu của trƣờng đại học thông qua việc cải thiện thứ hạng của trƣờng đại học

trên trƣờng quốc tế.

Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện chính sách: Đây là một trong những yếu tố tiên

quyết trong quá trình triển khai chính sách trong thực tế. Những quan điểm chỉ đạo của

các cơ quan ban hành, thực thi chính sách trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách

sẽ là tiền đề quan trọng góp phần đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của chính sách. Các

nguyên tắc này đƣợc xây dựng trên cơ sở bám sát mục tiêu của chính sách và các yếu

tố nội quan, ngoại quan chi phối quá trình chính sách.

Phạm vi và đối tượng của chính sách: Với bất kỳ chính sách nào, phạm vi và

đối tƣợng của chính sách là yếu tố cần xác định ngay khi xây dựng chính sách. Các cơ

quan ban hành chính sách sẽ căn cứ vào nguồn lực thực thi chính sách để xác định

phạm vi và đối tƣợng phù hợp. Nếu nguồn lực thực thi chính sách nhỏ, chính sách sẽ

đƣợc thực thi ở phạm vi hẹp, ƣu đãi dành cho các đối tƣợng đƣợc hƣởng chính sách

cũng sẽ nhỏ và ngƣợc lại.

Một trong những nội dung quan trọng khi phân tích chính sách chính là xác

định đối tƣợng tác động của chính sách. Xét cho cùng, mục đích chủ yếu mà chính

sách cần tác động là các cá nhân, chính là tác động vào lợi ích cá nhân, vào tâm tƣ,

tình cảm và động cơ của từng cá nhân. Đƣơng nhiên, hành vi của mỗi cá nhân còn bị

tác động bởi hiệu ứng tâm lý nhóm, và vì vậy trong khi xem xét tác động của chính

sách, cần xem xét hiệu ứng tâm lý nhóm.

Tác động các nhóm, xét trên thực chất cũng là tác động vào từng cá nhân trong

nhóm. Tuy nhiên, có hai điểm quan trọng đáng lƣu ý:

- Khi chính sách tác động vào lợi ích chung của một nhóm, thì vấn đề không

còn là tác động vào từng cá nhân trong nhóm nữa, mà phải chấp nhận sự phản kháng

đƣợc nhân thêm khi xâm phạm lợi ích của cộng đồng.

- Một yếu tố nữa đáng quan tâm, là hiệu ứng tâm lý nhóm. Có thể vẫn là một

chính sách nào đó gây thiệt hại tới một vài cá nhân, các cá nhân đó có thể cho qua.

Nhƣng nếu một số cá nhân tập hợp thành nhóm, thì rất có thể nỗi bất bình của các cá

nhân đƣợc nhân thêm, kích thích vào nhóm và đƣợc nhân lên, trở thành những biện

pháp phản ứng mạnh mẽ bất ngờ trƣớc ngƣời quản lý[5, 6].

57

Nội dung của chính sách: Là những ƣu đãi và những điều chỉnh đối với đối

tƣợng của chính sách nhằm hƣớng đối tƣợng thực hiện những mục tiêu mà chính sách

đề ra.

Thời gian triển khai chính sách: Đƣợc xác định căn cứ vào mục tiêu, nguồn lực,

phạm vi và đối tƣợng đƣợc hƣởng ƣu đãi bởi chính sách. Việc xác định thời gian phù

hợp trong việc triển khai chính sách sẽ là cơ sở đảm bảo đạt đƣợc mục tiêu của chính

sách theo đúng kế hoạch đề ra, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của chính sách. Tuy nhiên,

việc xác định thời gian thực hiện chính sách trong thực tế là không hề đơn giản, điều

này phụ thuộc vào nguồn lực triển khai và các yếu tố nội quan, ngoại quan chi phối

chính sách.

Nguồn lực thực hiện chính sách: Đây là yếu tố cốt lõi đảm bảo cho sự thành

công hay thất bại của bất cứ chính sách nào trong quá trình thực thi chính sách. Do

vậy, việc đảm bảo nguồn lực và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong quá trình triển khai

chính sách là vô cùng quan trọng để đạt đƣợc mục tiêu của chính sách.

Cơ quan quản lý và thực hiện chính sách: Đây là một trong những yếu tố không

thể thiếu trong việc vận hành chính sách trong thực tế. Hiệu lực và hiệu quả của chính

sách cũng phụ thuộc rất nhiều vào cơ quan quản lý và thực hiện chính sách do đó, mỗi

chính sách đều phải xác định rõ vai trò của cơ quan quản lý chính sách, cơ quan thực

hiện chính sách và trách nhiệm giải trình của các bên liên quan.

2.3.4. Chu trình chính sách phát triển NNCM trong trường đại học

Cũng giống nhƣ bất cứ chính sách nào, chính sách phát triển NNCM cũng trải

qua một chu trình chính sách, mà nếu tiếp cận theo giai đoạn từ khi hình thành cho đến

khi kết thúc chính sách, chu trình chính sách bao gồm: Hoạch định chính sách, thể chế

hóa chính sách, tổ chức thực hiện chính sách, đánh giá, điều chỉnh, hay thậm chí là

đình chỉ chính sách[5, 6].

- Hoạch định chính sách: Bao gồm các nội dung sau đây:

+ Phân tích tình hình (trong nƣớc/ngoài nƣớc )và phát hiện các vấn đề của

chính sách; Phân tích và đánh giá các tác động âm tính, tác động ngoại biên âm tính

của chính sách nhằm phát hiện và dự báo vấn đề bức xúc của chính sách.

+ Xác định kịch bản khung của chính sách theo tiếp cận hệ thống

+ Thảo luận triết lý và hệ quan điểm chính sách

+ Đặt giả thuyết và phân tích kịch bản chính sách.

58

+ Phân tích SWOT để làm cơ sở cho việc lựa chọn kịch bản tối ƣu và phân

tích “tiền - hậu quyết định”

+ Soạn thảo và xin ý kiến về văn bản chính sách.

- Thể chế hóa chính sách: Là việc ban hành chính sách dƣới dạng các văn

bản quy phạm pháp luật và công bố chính sách trên các phƣơng tiện truyền thông

đại chúng.

- Tổ chức thực hiện chính sách: Tổ chức bộ máy thực hiện chính sách, chỉ

đạo thực hiện chính sách, chuẩn bị các nguồn lực thực thi chính sách, ban hành các

văn bản hƣớng dẫn thực hiện chính sách…

- Đánh giá chính sách:

Đánh giá chính sách là xem xét chính sách ở nhiều giác độ khác nhau, phát hiện

điểm mạnh, điểm yếu của chính sách để phục vụ cho các mục đích sử dụng khác nhau.

Đánh giá chính sách có thể thực hiện ở những thời điểm khác nhau, có thể là đánh giá

trƣớc khi ban hành chính sách, đánh giá sau khi ban hành chính sách ở một thời điểm

nào đó, đánh giá ngẫu nhiên, đánh giá chính sách sau một năm thực hiện…

Có nhiều cách tiếp cận để đánh giá chính sách, bao gồm: tiếp cận từ các chủ thể

chính sách, tiếp cận từ các công ty kinh doanh, tiếp cận từ các cơ quan giám sát thực

hiện chính sách, tiếp cận từ phía các tổ chức tƣ vấn, tiếp cận từ các cơ quan cấp dƣới,

tiếp cận từ các cơ quan truyền thông…

Về cơ bản, đánh giá chính sách bao gồm: Xác định mục đích/ mục tiêu của

chính sách; Đánh giá tác nhân dẫn đến chính sách; Đánh giá triết lý của chính sách;

Đánh giá hoạt động quy định bởi chính sách; Đánh giá các phƣơng tiện thực hiện

chính sách; Đánh giá các thiết chế; Đánh giá tác động của chính sách; Đánh giá các

ảnh hƣởng của chính sách; Đánh giá các xung đột xã hội do chính sách gây ra; Đánh

giá các phản ứng xã hội do chính sách; Đánh giá biến đổi xã hội do chính sách. Tuy

nhiên, không phải chính sách nào cũng phải đƣợc đánh giá ở tất cả các nội dung nêu

trên đây mà các chủ thể quản lý thƣờng căn cứ vào nhu cầu thực tiễn mà lựa chọn

những nội dung đánh giá phù hợp.

- Điều chỉnh chính sách hay đình chỉ chính sách: Theo dõi, kiểm tra thƣờng

xuyên và định kỳ quá trình thực hiện chính sách; phân tích và đánh giá các tác động

dƣơng tính, âm tính, ngoại biên của chính sách để có những điều chỉnh phù hợp với

nhu cầu thực tiễn. Ngoài ra, nếu chính sách có quá nhiều điểm không phù hợp với thực

tiễn, việc ban hành một chính sách mới thay thế hoặc đình chỉ chính sách hiện hành sẽ

đƣợc cân nhắc thực hiện.

59

2.3.5. Tiêu chí đánh giá chính sách phát triển NNCM trong trường đại học

Trong khuôn khổ luận án của này, tác giả luận án sử dụng phƣơng pháp tiếp cận

theo sản phẩm đầu ra để tiến hành việc đánh giá chính sách phát triển NNCM trong

trƣờng đại học. Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), quản lý theo kết

quả là một phƣơng thức quản lý tập trung vào hiệu lực thực hiện của chính sách và

việc đạt đƣợc kết quả hay tác động của chính sách đó. Do đó, với cách tiếp cận đánh

giá chính sách theo sản phẩm đầu ra, các nhà hoạch định chính sách sẽ ít chú trọng hơn

đến việc đánh giá chi tiết các yếu tố đầu vào hay quy trình[16].

Tuy nhiên, cũng cần lƣu ý rằng, quản lý theo kết quả không có nghĩa là từ bỏ

hoàn toàn việc kiểm soát đầu vào/ hoạt động để chuyển sang kiểm soát đầu ra/kết quả,

mà là giảm bớt sự chú trọng đến đầu vào/hoạt động và tạo một sân chơi cởi mở, linh

hoạt hơn cho các đơn vị thực hiện chính sách để họ tìm ra những phƣơng pháp thực

hiện chính sách tốt nhất. Đồng thời, các cơ quan kiểm tra, giám sát chính sách sẽ quan

tâm hơn đến câu hỏi: chính sách có đạt đƣợc ý định mong muốn của mình hay không?

Điều mà trong phƣơng thức quản lý theo đầu vào thƣờng bỏ ngỏ [10,tr.36]. Vì vậy,

việc phân tích đánh giá các chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học sẽ đƣợc

tác giả luận án tập trung chủ yếu vào việc xem xét tính hiệu lực, hiệu quả của chính

sách trong việc chú trọng đến phƣơng thức quản lý theo kết quả và tác động.

Theo đó, việc phân tích và đánh giá chính sách phát triển NNCM sẽ bám sát

vào khung phân tích dƣới đây (Hình 2.1). Trong đó, tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu

quả của chính sách phát triển NNCM tập trung vào 3 nội dung chính sau đây:

(1) Tác động thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực: Tiêu chí này bao gồm các kết

quả trực tiếp và gián tiếp của chính sách đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng

cao. Các kết quả trực tiếp bao gồm: số lƣợng các NNCM đƣợc thành lập, những ƣu đãi

trực tiếp cho các nhà khoa học là thành viên của NNCM, những đóng góp của NNCM

trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã

hội. Các kết quả gián tiếp bao gồm: việc thu hút, tuyển dụng đặc cách đội ngũ cán bộ

khoa học trình độ cao, đào tạo nhà khoa học đạt chuẩn tiến sỹ, kết quả động viên, khen

thƣởng với những công trình nghiên cứu xuất sắc của các nhà khoa học, kết quả tăng

trƣởng về số lƣợng và chất lƣợng của đội ngũ nhân lực khoa học.

(2) Tác động về môi trường và điều kiện nghiên cứu: Tiêu chí này bao gồm các

kết quả của việc đầu tƣ tăng cƣờng năng lực nghiên cứu cho các NNCM thông qua các

dự án đầu tƣ về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu; cấu trúc, sắp xếp,

60

kiện toàn các PTN, phát triển nguồn lực thông tin và đổi mới công tác quản lý nhiệm

vụ khoa học và công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển các sản phẩm KH&CN.

(3) Tác động thúc đẩy hợp tác và phát triển: Tiêu chí này bao gồm các kết quả

của việc thúc đẩy hoạt động hợp tác và phát triển trong nƣớc và quốc tế nhằm khai

thác hiệu quả nguồn lực thực hiện các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu, đa dạng hóa

nguồn lực tài chính, chuyển giao sản phẩm KH&CN.

Việc xem xét hiệu quả và hiệu lực của chính sách giúp chủ thể ban hành chính

sách kịp thời chỉnh lý, sửa đổi chính sách, đảm bảo chính sách luôn có hiệu lực tác

dụng thúc đẩy xã hội phát triển phù hợp với mục tiêu đã đặt ra.

Hình 2.1: Khung phân tích chính sách phát triển NNCM

NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH Hình thành và phát triển; Số lượng; Chất lượng

Bối cảnh cảnh đặt ra yêu cầu bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM

Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ

Các chính sách chung của Nhà nƣớc về phát triển nhóm nghiên cứu mạnh

Các chính sách của ĐHQGHN về phát triển NNCM

1- Nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực 2- Nhóm chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu 3- Nhóm chính sách hợp tác và phát triển

Nhƣ vậy, chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học đƣợc xem là có

hiệu quả khi nó thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu của chính sách, đƣợc đối tƣợng tác

động bởi chính sách tán thƣởng, mang lại uy tín cho chủ thể quản lý. Ở chiều ngƣợc

lại, chính sách đƣợc xem là kém hiệu quả khi mục tiêu của chính sách không đƣợc

thực hiện, tạo ra tâm lý bất mãn cho đối tƣợng tác động, chủ thể quản lý ngày càng

mất uy tín.

Chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học đƣợc xem là có hiệu lực khi

nó gây ra đƣợc phản ứng trong phạm vi tác động của chính sách, tạo động lực hoạt

động cho nhóm đối tƣợng chịu tác động, hƣớng đối tƣợng tác động vào việc thực hiện

mục tiêu của chính sách. Ngƣợc lại, chính sách sẽ không còn hiệu lực khi các chính

61

sách không đƣợc thực thi trong thực tế hoặc không còn gây ra bất cứ phản ứng nào

trong phạm vi tác động của chính sách.

Bên cạnh đó, tác giả luận án cũng xem xét đến các tiêu chí về tính phù hợp, khả

thi và bền vững của chính sách trong quá trình đánh giá chính sách. Bởi, tính phù hợp

của chính sách cho chúng ta thấy chính sách có đáp ứng đƣợc mong muốn của đối

tƣợng thụ hƣởng hay không; Tính khả thi của chính sách cho chúng ta thấy khả năng

thực hiện trên thực tế của một chính sách; Tính bền vững của chính sách cho chúng ta

thấy khả năng huy động các nguồn lực để thực hiện chính sách và khi kết thúc chính

sách những thành quả mà chính sách đã mang lại tiếp tục đƣợc duy trì.

2.4. Tiểu kết chƣơng 2

Từ những nghiên cứu nêu trên, tác giả luận án ghi nhận một số điểm chính sau đây:

Nội dung của chƣơng đã xác định cơ sở lí thuyết cho nghiên cứu về chính sách

phát triển NNCM nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN trong các trƣờng đại

học bao gồm các vấn đề cơ bản nhƣ: các khái niệm về NNC, NNCM, hoạt động

KH&CN, chính sách, chính sách phát triển NNCM; Tiêu chí NNCM; Vai trò và các

mối quan hệ của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của trƣờng

đại học; Cấu trúc chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học; Chu trình chính

sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học; Tiêu chí đánh giá chính sách phát triển

NNCM trong trƣờng đại học. Khung lí thuyết nêu trên là cơ sở quan trọng cho việc

nghiên cứu thực trạng NNCM và thực trạng chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN

để từ đó đề xuất các biện phát bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM trong

trƣờng đại học.

Đặc biệt, nội dung của chƣơng đã trình một cách hệ thống các tiêu chí đánh giá

chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học bao gồm: tiêu chí về nhân lực, tiêu

chí về môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu, tiêu chí về hợp tác và phát triển. Nhóm tiêu

chí về nhân lực gắn với những kết quả trực tiếp và gián tiếp về phát triển nguồn nhân

lực KH&CN nói chung và nhân lực của NNCM nói riêng trong trƣờng đại học. Nhóm

tiêu chí về môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu gắn với kết quả đầu tƣ trang thiết bị

phục vụ nghiên cứu, tăng cƣờng nguồn lực thông tin và đổi mới công tác quản lý hoạt

động KH&CN. Nhóm tiêu chí về hợp tác và phát triển nhấn mạnh đến sự thu hút và

khai thác nguồn lực trong và ngoài nƣớc để triển khai các hoạt động KH&CN.

62

CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG

CỦA CÁC NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC

VÀ CÔNG NGHỆ CỦA ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

3.1. Dẫn nhập

Phân tích và đánh giá thực trạng về NNCM có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong

việc phân tích, đánh giá chính sách phát triển NNCM của Nhà nƣớc nói chung và

chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN hiện nay nói riêng. Có thể nói, thực trạng về

NNCM là tấm gƣơng phản chiếu của chính sách phát triển NNCM, là hệ quả của các

chính sách hiện hành đối với NNCM. Với ý nghĩa đó, trong chƣơng này sẽ bàn về bốn

nội dung chính sau đây:

Nội dung thứ nhất đề cập đến cơ sở hình thành và phát triển của các NNCM tại

ĐHQGHN. Các điểm chính sẽ đƣợc đi sâu phân tích bao gồm: nhu cầu thực tiễn từ

hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa học và hoạt động quản lý của các nhà quản lý;

tầm nhìn, chiến lƣợc của lãnh đạo ĐHQGHN; tiêu chí thành lập NNCM và cơ sở hình

thành và phát triển NNCM ở ĐHQGHN.

Nội dung thứ hai của chƣơng làm rõ quy mô, cơ cấu và tổ chức của các NNCM

tại ĐHQGHN. Điểm quan trọng ở đây là tác giả luận án sẽ phân tích sâu cơ cấu và tổ

chức của các NNCM trên nhiều phƣơng diện khác nhau. Các phƣơng diện cụ thể sẽ

đƣợc tập trung phản ánh bao gồm: cơ cấu NNCM trên cơ sở độ tuổi, chức danh, học

vị, lĩnh vực nghiên cứu của các thành viên nhóm. Đồng thời tác giả luận án cũng phân

tích sâu tổ chức của các NNCM bằng cách tìm hiểu cơ chế hoạt động, mối tƣơng tác

giữa các thành viên của NNCM và giữa thành viên NNCM với trƣởng nhóm.

Nội dung thứ ba của chƣơng sẽ bàn về kết quả nâng cao hiệu quả hoạt động

KH&CN của NNCM ở ĐHQGHN. Các kết quả này đƣợc đánh giá trên ba phƣơng

diện, bao gồm: đóng góp về mặt sản phẩm KH&CN của NNCM; đóng góp của NNCM

trên phƣơng diện đào tạo, và đóng góp của NNCM trong lĩnh vực phục vụ cộng đồng.

Nội dung cuối cùng của chƣơng tập trung phân tích các yếu tố tác động đến

nhóm các NNCM ở ĐHQGHN. Ở đây, tác giả luận án chú ý đến hai nhóm yếu tố:

nhóm yếu tố nội tại bên trong các nhóm và nhóm yếu tố từ bên ngoài tác động lên các

nhóm. Các nhóm yếu tố này sẽ đƣợc phân tích sâu trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau.

Như vậy, nhìn một cách tổng thể, chƣơng này sẽ cung cấp một cách nhìn tổng

quan nhƣng có chiều sâu về thực trạng và những tác động của các NNCM ở

63

ĐHQGHN trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN qua các chiều cạnh cụ

thể, bao gồm quy mô, cơ cấu, tổ chức, hoạt động, đóng góp của NNCM cũng nhƣ

những nhân tố tác động đến các NNCM. Những phần viết dƣới đây sẽ lần lƣợc triển

khai các nội dung này.

3.2. Cơ sở hình thành và phát triển NNCM ở ĐHQGHN

3.2.1. Tầm nhìn và chiến lược của ĐHQGHN

Với định hƣớng xây dựng đại học nghiên cứu và mục tiêu chiến lƣợc đƣa

ĐHQGHN trở thành 100 trƣờng đại học hàng đầu châu Á vào năm 2020, ĐHQGHN

đã xác định NNCM vừa là mục tiêu, vừa là phƣơng thức để xây dựng đại học nghiên

cứu. Trên cơ sở nhận thức đƣợc tầm quan trọng của NNCM với việc nâng cao chất

lƣợng đào tạo và nghiên cứu, ĐHQGHN đã tập trung xây dựng và phát triển các

NNCM, các trung tâm xuất sắc (Center of Excellence - COE) và các mạng lƣới liên

hoàn, điều này đƣợc cụ thể hóa trong Chiến lƣợc phát triển ĐHQGHN đến năm 2010

và tầm nhìn đến năm 2020 .

Để thúc đẩy sự ra đời và hoạt động của các NNCM, tại Hội nghị tổng kết hoạt

động NCKH giai đoạn 2006-2010 và Phương hướng phát triển KH&CN giai đoạn

2011-2015, ĐHQGHN chủ trƣơng tiếp tục thực hiện các giải pháp ƣu tiên “Phát triển

các NNCM, NNC quốc tế và tập thể khoa học tinh nhuệ để có thể đạt được các kết quả

khoa học đỉnh cao và sản phẩm công nghệ đột phá gắn với bằng sở hữu trí tuệ, các

giải thưởng KH&CN cấp quốc gia, quốc tế, các bài báo quốc tế đăng trên các tạp chí

khoa học danh tiếng, các công trình chuyên khảo có uy tín và các giải pháp tư vấn

chính sách cho các cơ quan hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước”[2].

Thực tế cho thấy, một trong những tầm nhìn và chiến lƣợc căn bản đó là, việc

đầu tƣ, xây dựng NNCM cần bắt đầu từ các nhóm vốn đã mạnh trong ĐHQGHN.

NNCM là nhóm các nhà khoa học đã đạt và tiềm năng đạt đƣợc các KQNC tốt nhất

trong cộng đồng các NNC hiện có của ĐHQGHN. Nhóm này bao gồm các cán bộ và

sinh viên hiện đang hoạt động trong các lĩnh vực chuyên môn của mình ngay cả khi

ĐHQGHN chƣa có chiến lƣợc xây dựng và phát triển NNCM. Họ đã tự ý thức đƣợc tầm

quan trọng của việc tự nâng cao chất lƣợng nghiên cứu và đào tạo để phát triển với sự

đầu tƣ của nhiều tổ chức trong đó có ĐHQGHN. Để đạt đƣợc danh hiệu NNCM, các

thành viên của nhóm phải tạo ra đƣợc nhiều sản phẩm nghiên cứu đƣợc đánh giá khách

quan bởi các nhà khoa học và cộng đồng xã hội. Đó có thể là sản phẩm cụ thể, là công

trình đƣợc công bố quốc gia, quốc tế, số lƣợng ThS, TS đã đào tạo...[17].

64

Chính vì thế, do sớm nhìn nhận và đánh giá đúng mức tầm quan trọng của việc

liên kết nhóm trong một tập thể nghiên cứu mạnh, vừa phát huy tối đa đƣợc nội lực cá

nhân mà vẫn đảm bảo đƣợc mục tiêu nghiên cứu chung là một thách thức lớn, song

cũng là yếu tố căn bản duy trì sự phát triển của từng NNC. Cho nên, trong hơn 10 năm

trở lại đây ĐHQGHN đã ban hành nhiều chính sách nhằm tăng cƣờng năng lực

KH&CN cho các đơn vị thành viên, trong đó ƣu tiên đầu tƣ nguồn lực để phát triển

các NNCM. Điều đó đƣợc cụ thể hóa bằng việc, năm 2013, ĐHQGHN ban hành văn

bản hƣớng dẫn xây dựng và phát triển các Chƣơng trình nghiên cứu trọng điểm và

NNCM ở ĐHQGHN kèm theo đó là hệ thống các chính sách hỗ trợ cho sự phát triển

của các NNCM. Ngay sau khi văn bản đƣợc ban hành, năm 2014, Giám đốc

ĐHQGHN đã quyết định công nhận và trao bằng khen cho16 NNCM cấp ĐHQGHN

có thành tích xuất sắc trong nghiên cứu và đào tạo; Năm 2015, có thêm 05 NNCM

đƣợc ĐHQGHN công nhận, nâng tổng số NNCM là 21; Đến 2016, thêm 02 NNCM

đƣợc công nhận, năm 2017, thêm 4 nhóm và năm 2018 thêm 01 nữa đƣợc công nhận.

Tính đến tháng 10 năm 2018, ĐHQGHN có tổng cộng 28 NNCM (Biểu đồ 3.1, Phụ

lục 1). Biểu đồ 3.1 đã cho thấy rõ sự phát triển của NNCM theo từng năm. Bên cạnh

đó, ĐHQGHN còn có trên 100 NNC khác nhau đƣợc chia theo 4 loại hình nghiên cứu

gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu cơ bản định hƣớng ứng dụng, nghiên cứu ứng

dụng và nghiên cứu liên ngành (Phụ lục 2).

Biểu đồ 3.1: Sự phát triển của NNCM ở ĐHQGHN

Công nhận 16 NNCM

Thêm 1 NNCM đƣợc công nhận, nâng tổng số NNCM lên 28

Thêm 5 NNCM đƣợc công nhận, nâng tổng số NNCM lên 21

Thêm 4 NNCM đƣợc công nhận, nâng tổng số NNCM lên 27

Thêm 2 NNCM đƣợc công nhận, nâng tổng số NNCM lên 23

Năm 2015

Năm 2014

Năm 2016 Năm 2017

Năm 2018

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

65

3.2.2. Cơ sở hình thành và cách tiếp cận xây dựng NNCM ở ĐHQGHN

Theo Báo cáo tổng kết xây dựng và phát triển NNCM ở ĐHQGHN, NNCM

đƣợc phân thành 2 cấp, tùy theo kết quả đã đạt đƣợc, mức độ tập hợp và tầm ảnh

hƣởng của Nhóm: 1) cấp ĐHQGHN là các NNC có khả năng tích hợp, kết nối nhiều

đề tài thành những chƣơng trình nghiên cứu lớn, hƣớng đến sản phẩm tiêu biểu quốc

gia, quốc tế; tạo đƣợc các yếu tố cạnh tranh; có thể đầu tƣ hƣớng tới hình thành các

trung tâm nghiên cứu xuất sắc; 2) cấp đơn vị là các NNC có khả năng gia tăng số

lƣợng và chất lƣợng các sản phẩm KH&CN, gia tăng trọng số nghiên cứu và thúc đẩy

sự phát triển đơn vị theo định hƣớng nghiên cứu[2].

Từ thực tiễn nghiên cứu, tác giả luận án nhận thấy, NNCM của ĐHQGHN về cơ

bản đƣợc hình thành do nhu cầu của các nhà khoa học, xuất phát từ bối cảnh khoa học

có sự phân ngành, liên ngành cao, việc tiến hành nghiên cứu các vấn đề cơ bản, những

vấn đề chuyên sâu của từng chuyên ngành khoa học đòi hỏi các nhà khoa học luôn đi

tìm cái mới, các vấn đề chƣa đƣợc giải quyết. Để giải quyết đƣợc những vấn đề nhƣ vậy,

các nhà khoa học cần có cách nhìn và cách tiếp cận của nhiều ngành nghiên cứu khác

nhau, đồng thời cũng cần có sự bổ trợ tri thức cần thiết từ các nhà khoa học khác trong

chính chuyên ngành nghiên cứu. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu các nhà khoa

học đã cảm nhận đƣợc sự đơn độc về hành động, về tƣ duy, vì thế họ có nhu cầu chia sẻ,

tuyên bố những tƣ tƣởng của bản thân về vấn đề nghiên cứu. Sự cộng tác giữa các nhà

khoa học trong quá trình nghiên cứu giải quyết những vấn đề có tính phức tạp, trao đổi

tri thức là khía cạnh quan trọng trong việc đẩy mạnh các hoạt động gắn kết giữa các nhà

khoa học. Về nguyên tắc, mọi nhà khoa học đều có khả năng học hỏi và nhận biết đƣợc

các kĩ năng, phƣơng pháp giải quyết những vấn đề nghiên cứu cụ thể nhƣng sẽ mất rất

nhiều thời gian nếu mỗi cá nhân nhà nghiên cứu, nhà khoa học làm việc độc lập. Thực tế

đã cho thấy không có cá nhân nhà khoa học nào có thể nắm bắt đƣợc mọi tri thức, mọi

kĩ năng[15]. Đó chính là động cơ để các nhà khoa học tự nguyện gắn kết lại với nhau

hình thành nên các NNC. Sự gắn kết hay tính cố kết giữa các thành viên là khá chặt chẽ

bởi họ kết hợp với nhau bởi niềm đam mê, sự đồng điệu trong khoa học. Hiện nay ở

ĐHQGHN, xu hƣớng chung là tiếp cận xây dựng NNCM theo hƣớng công nhận về mặt

tổ chức dựa trên thành tích đạt đƣợc của các NNC vốn đã mạnh và có chính sách đầu tƣ

cho một số Nhóm để Nhóm phát huy đƣợc thế mạnh trong hoạt động KH&CN, đồng

thời cũng định hƣớng Nhóm thực hiện các mục tiêu chiến lƣợc do ĐHQGHN đề ra.

Đồng thời, tạo lợi thế cho Nhóm để thu hút đầu tƣ thông qua các chƣơng trình hợp tác

nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hầu hết các NNCM đƣợc

66

xây dựng không gắn liền với một chƣơng trình nghiên cứu cụ thể, các NNC tự chủ động

tìm kiếm nguồn kinh phí để triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu. Nếu các NNCM xây

dựng đƣợc nhiệm vụ và đƣợc đầu tƣ theo hƣớng đặt hàng hoặc đấu thầu thành công thì

nhóm sẽ triển khai các hoạt động nghiên cứu. Còn ngƣợc lại nếu không có nhiệm vụ

nghiên cứu thì nhóm vẫn cứ tồn tại nhƣ thế và tiếp tục tìm kiếm cơ hội để đấu thầu các

nhiệm vụ NCKH hoặc tồn tại mà không có các hoạt động khoa học cụ thể nào. Một điều

ngạc nhiên là ĐHQGHN và các trƣờng thành viên không tiến hành đánh giá hiệu quả

hoạt động của các NNCM và giải thể các NNCM hoạt động không hiệu quả, có chăng là

tích hợp nhóm này vào nhóm kia. Theo tác giả luận án, đây là cách tiếp cận chƣa hợp lý

bởi một phần nào đó cho thấy tính hình thức trong việc xây dựng tổ chức nhóm và việc

không tiến hành giải thế nhóm cũng làm thui chột đi động lực phải xây dựng các nhiệm

vụ nghiên cứu mới, bởi không có nhiệm vụ nghiên cứu thì nhóm vẫn tồn tại. Chính điều

này, dẫn đến việc không đảm bảo tính mới trong khoa học và tạo ra sự kém hiệu quả

trong các hoạt động KH&CN của các NNC, đồng thời gây lãng phí trong đầu tƣ cơ sở

vật chất và trang thiết bị của Nhà trƣờng.

3.2.3. Bàn về tiêu chí NNCM của ĐHQGHN

Để có cơ sở thành lập các NNCM, ĐHQGHN đã ban hành bộ tiêu chí đối với

NNCM[29], với những nội dung đƣợc nêu trong chƣơng 2. Phần này, mục tiêu mà tác

giả luận án hƣớng đến là xem xét tính phù hợp trong các tiêu chí đối với NNCM, cũng

nhƣ tính hội nhập quốc tế của các NNCM ở ĐHQGHN khi áp với tiêu chí của trƣờng

đại học trên thế giới. Để xem xét về những tiêu chí đặt ra đối các NNC đƣợc coi là

mạnh, tác giả luận án nhận thấy các trƣờng đại học của Úc đều có những tiêu chí riêng,

trong đó điểm chung về tiêu chí của các nhóm đƣợc dựa trên 4 yếu tố (1) Sự phù hợp về

hƣớng nghiên cứu của nhóm đối với định hƣớng phát triển của trƣờng đại học. Trong

đó, NNC đã xây dựng đƣợc các nhiệm vụ nghiên cứu, kế hoạch và kinh phí để thực hiện

nhiệm vụ trong tối thiểu 3 năm; (2) Đánh giá tiềm năng của các nhà khoa học thông qua

các KQNC đã đƣợc công bố của các thành viên nòng cốt; (3) Kinh phí huy động đƣợc

cho các hoạt động nghiên cứu trƣớc đó; (4) Kinh nghiệm hƣớng dẫn nghiên cứu. Từ rất

nhiều tiêu chí của trƣờng đại của Úc, tác giả luận án lựa chọn tiêu chí của Đại học RMIT

để xem xét mức độ đáp ứng các tiêu chí của NNCM ở ĐHQGHN. Lý do tác giả luận án

chọn tiêu chí của đại học RMIT bởi thứ nhất, giữa Đại học RMIT và ĐHQGHN cơ bản

có tính tƣơng đồng về lĩnh vực nghiên cứu đa ngành, về quy mô và tổ chức, thứ hai, tiêu

chí của RMIT đặt ra là tƣơng đối cụ thể và rõ ràng, các tiêu chí của RMIT cũng đã đƣợc

tác giả luận án trình bày trong phần cơ sở lý luận.

67

Từ các tiêu chí của đại học RMIT, tác giả luận án đã tiến hành lấy ý kiến đánh

giá của 113 nhà khoa học và 28 nhà quản lý có liên quan trực tiếp đến việc thực thi

chính sách phát triển NNCM từ cấp đơn vị thành viên đến cấp ĐHQGHN về mức độ

đạt đƣợc các tiêu của NNCM thuộc ĐHQGHN, kết quả thu đƣợc nhƣ sau (Bảng 3.1):

Bảng 3.1: Đánh giá mức độ đạt được các tiêu chí quốc tế của NNCM ở ĐHQGHN

Trung Tiêu chí lấy ý kiến đánh giá bình

Có định hƣớng nghiên phù hợp với lĩnh vực ƣu tiên trong chiến lƣợc

phát triển của Trƣờng, đi kèm với đó là kế hoạch, nhiệm vụ và kinh phí 3.56

để triển khai hoạt động nghiên cứu với thời gian tối thiểu 3 năm

Có tối thiểu 6 thành viên nòng cốt, mỗi thành viên phải có ít nhất 05

công trình nghiên cứu đã công bố (gồm ấn phẩm hoặc các sẩn phẩm 3.60 sáng tạo) trong 3 năm trƣớc đó (tính từ thời điểm nộp hồ sơ để đƣợc

công nhận là NNCM)

Các thành viên nòng cốt phải có ít nhất 600.000 USD thu nhập từ

nghiên cứu (must have at least $600.000 in external research income)

đối với lĩnh vực KH&CN và sức khỏe hoặc 300.000 USD đối với lĩnh 2.13

vực kinh tế, khoa học XH&NV, thiết kế sáng tạo và nghệ thuật trong 3

năm trƣớc đó

Mỗi thành viên nòng cốt phải có thời gian hƣớng dẫn sinh viên nghiên 3.74 cứu trong ít nhất 1 học kỳ.

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Từ kết quả trên đây (Bảng 3.1) tác giả luận án nhận thấy, tỉ lệ đánh giá các

NNCM của ĐHQGHN hoàn toàn đạt đƣợc các tiêu chí là không nhiều, tỉ lệ đánh giá ở

mức cao có khả quan hơn song tiêu chí “Các thành viên nòng cốt phải có ít nhất

600.000 USD huy động đƣợc để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu (must have at least

$600.000 in external research income) đối với lĩnh vực KH&CN và sức khỏe hoặc

300.000 USD đối với lĩnh vực kinh tế, khoa học XH&NV, thiết kế sáng tạo và nghệ

thuật trong 3 năm trƣớc đó” là rất thấp và đây là vấn đề của các NNCM ở ĐHQGHN.

Từ những tiêu chí của đại học RMIT, chúng ta nhận thấy, các tiêu chí đặt ra khá

ngắn gọn nhƣng vẫn đảm bảo các yêu cầu của một NNCM. Đặc biệt, tính định lƣợng

trong từng tiêu chí đƣợc thể hiện rất rõ, đồng thời RMIT đã xét đến thế mạnh trong các

lĩnh vực để đặt ra tiêu chí khác nhau. Điều này giúp cho việc xem xét thành lập các

NNC đƣợc dễ dàng và thuận lợi hơn.

68

Ở chiều ngƣợc lại các tiêu chí đặt ra đối với NNCM của ĐHQGHN là rất nhiều.

Trong đó, nhiều tiêu chí định tính nhƣ “Trưởng NNCM có tầm nhìn, kế hoạch chiến

lược dài hạn, có khả năng đánh giá tầm ảnh hưởng và xu hướng phát triển của lĩnh

vực nghiên cứu, có quan điểm phát triển bền vững; Có khả năng đề xuất các nghiên

cứu tích hợp, kết nối thành những chương trình nghiên cứu lớn, hướng đến sản phẩm

tầm cỡ quốc gia, quốc tế; Có khả năng huy động các nguồn lực đảm bảo điều kiện cho

hoạt động của nhóm…”. Trong khi, những tiêu chí này hoàn toàn có thể đo bằng

những công trình nghiên cứu đƣợc công bố trong và ngoài nƣớc của trƣởng NNCM và

các thành viên chủ chốt. Bên cạnh đó, có những tiêu chí mâu thuẫn với nhau, chẳng

hạn, ở tiêu chí thành viên của NNC phải đảm bảo 2 tiêu chí, nhƣ “Là các nhà khoa học

trong nước (và quốc tế) có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ trở lên; đã có các sản phẩm

KH&CN tiêu biểu trong hướng nghiên cứu và đã và đang hướng dẫn HVCH và NCS”.

Nhƣ vậy, chúng ta nhận thấy tiêu chí sau mâu thuẫn với tiêu chí trƣớc bởi nếu

nhà khoa học có trình độ từ thạc sĩ thì sẽ không đủ tiêu chuẩn để hƣớng dẫn thạc sĩ và

NCS, điều này, vô hình trung tiêu chí sau đã loại các thành viên của NNC có học vị

thạc sĩ. Bên cạnh đó, tiêu chí thành viên cũng không đƣợc xác định rõ ràng vì thành

viên ở đây có rất nhiều loại nhƣ: Thành viên chính là những thành viên chủ chốt của

nhóm, thành viên phụ là những thành viên tham gia cộng tác, hợp tác, thuê khoán

trong một đề tài/dự án nghiên cứu, hay những thành viên chỉ tham gia với tƣ cách

tham vấn, tƣ vấn, hỗ trợ…Chƣa kể đến việc thành viên làm toàn thời gian, làm bán

thời gian, thành viên thuộc ĐHQGHN, thành viên không thuộc ĐHQGHN…Việc

không xác định rõ tiêu chí thành viên NNCM sẽ gây nhiều khó khăn cho các nhà thực

thi chính sách bởi không biết phải ƣu đãi cho nhóm thành viên nào. Ngoài ra, việc áp

các tiêu chí của trƣờng ĐHNC thuộc nhóm 500 của thế giới (Ít nhất 2 bài báo, báo cáo

trong nước và quốc tế trung bình trên cán bộ khoa học hàng năm; Ít nhất 5 bài báo

(01 bài báo đối với lĩnh vực KHXH) ISI hoặc/và Scopus trên cán bộ khoa học trong 5

năm gần đây; 10 chuyên khảo xuất bản mỗi năm; 10 Sản phẩm KH&CN tiêu biểu

quốc gia, quốc tế của đơn vị mỗi năm; 10 giải thưởng khoa học quốc gia, quốc tế của

cán bộ và người học trong 5 năm gần đây;…) đối với NNCM ở tiêu chí phát triển bền

vững dƣờng nhƣ là một sự kỳ vọng quá lớn đối với NNCM. Đặc biệt, các tiêu chí

NNCM của ĐHQGHN đã không xem xét đến những đặc điểm riêng của từng loại hình

nghiên cứu (cơ bản, ứng dụng), cũng không xem xét đến đặc điểm riêng của từng lĩnh

vực (khoa học tự nhiên, khoa học XH&NV, khoa học KT&CN hay các khoa học khác).

69

Trong quá trình nghiên cứu chính sách thành lập NNCM ở ĐHQGHN, tác giả

luận án nhận thấy có sự chồng chéo và thiếu nhất quán trong xây dựng NNCM. Điều

này thể hiện ở việc, Trƣờng ĐHKHTN, một thành viên của ĐHQGHN đã ban hành

chính sách phát triển NNCM riêng, trong khi tất cả các trƣờng thành viên còn lại thì

không. Xem xét cụ thể những tiêu chí thành lập NNCM của Trƣờng ĐHKHTN cho

thấy, ở một số tiêu chí đặt ra cao hơn và cơ bản đã khắc phục đƣợc những hạn chế

trong bộ tiêu chí về NNCM của ĐHQGHN. Đồng thời, trong tiêu chí NNCM của

Trƣờng ĐHKHTN đã xét đến số thành viên chính tối thiểu, tính đặc thù trong từng loại

hình nghiên cứu của Nhóm (cơ bản, ứng dụng) để có những tiêu chí định lƣợng khác

nhau. Đồng thời, định hƣớng chính sách tác động vào trƣởng nhóm và thành viên

chính của nhóm (Hộp 3.1).

Hộp 3.1: Tiêu chí đánh giá NNCM của Trƣờng Đại học KHTN, ĐHQGHN 1. Tiêu chí nhân lực: Quy định có tối thiểu 3 nhà khoa học đang công tác tại Trƣờng Đại học KHTN. Trong đó: 1.1. Về trưởng NNCM: Có học vị TS hoặc có chức danh PGS trở lên, có ít nhất 5 năm kinh nghiệm hoạt động nghiên cứu với những công trình nghiên cứu nổi bật nhƣ:

- Đã chủ trì thực hiện thành công ít nhất 01 đề tài cấp nhà nƣớc hoặc tƣơng đƣơng;

Hƣớng dẫn ít nhất 01 NCS đã bảo vệ thành công LATS;

- Trong vòng 5 năm gần nhất trƣớc thời điểm đăng ký đạt đƣợc các kết quả khoa học sau: Đối với trưởng NNC cơ bản: là tác giả hoặc đồng tác giả của ít nhất 5 công bố khoa học trên tạp trí thuộc danh mục ISI; hoặc chủ biên 01 sách chuyên khảo đã đƣợc xuất bản bởi nhà xuất bản quốc tế có uy tín. Đối với trưởng NNC ứng dụng: là tác giả hoặc đồng tác giả của ít nhất 3 công trình khoa học công bố trên tạp trí thuộc danh mục ISI; hoặc chủ biên 01 sách chuyên khảo đã đƣợc xuất bản bởi nhà xuất bản quốc tế có uy tín; hoặc là tác giả của ít nhất 01 Bằng độc quyền sáng chế; hoặc có các sản phẩm KH&CN đƣợc giải thƣởng, có giá trị lý luận, làm cơ sở tƣ vấn cho hoạch định chính sách quốc gia hoặc có ứng dụng thực tế thiết thực;

- Sử dụng thành thạo ít nhất một ngoại ngữ phố biến (Anh, Nga, Pháp, Đức), trong đó

giao tiếp đƣợc bằng tiếng Anh; có kinh nghiệm hợp tác quốc tế về KH&CN;

- Có tầm nhìn, có khả năng đánh giá tầm ảnh hƣởng và xu hƣớng phát triển của lĩnh vực

nghiên cứu;

- Có mục tiêu và chiến lƣợc nghiên cứu rõ ràng, phù hợp với các hƣớng nghiên cứu trọng

tâm, mũi nhọn của Quốc gia, ĐHQGHN và Trƣờng ĐHKHTN;

- Có khả năng huy động các nguồn lực đảm bảo điều kiện cho hoạt động của nhóm

1.2. Về thành viên chính của NNCM: Là các nhà khoa học (trong nƣớc hoặc quốc tế) có trình độ tiến sĩ trở lên; Đã có kinh nghiệm và thành tích hoạt động KH&CN (thể hiện ở kết quả công bố hoặc/và ứng dụng thực tiễn) liên quan trực tiếp đến hƣớng nghiên cứu phát triển của Nhóm. 2. Tiêu chí cơ sở vật chất và trang thiết bị: Quy định NNCM đã có cơ sở vật chất và các trang thiết bị cơ bản để triển khai hƣớng nghiên cứu.

(Nguồn: Đại học KHTN - ĐHQGHN)

70

Từ kết quả phân tích cơ bản trên đây, rõ ràng tiêu chí NNCM của ĐHQGHN

rất cần đƣợc xem xét để có sự thống nhất và có những điều chỉnh phù hợp, tăng tính

định lƣợng nhƣng vẫn đảm bảo đo lƣờng đƣợc khả năng cũng nhƣ năng lực nghiên

cứu của các NNCM. Đặc biệt, tiêu chí xây dựng đƣợc nhiệm vụ nghiên cứu dài hạn

trong 3-5 năm phải đƣợc xem là yếu tố quyết định, các tiêu chí đầu ra liên quan đến

kết quả nghiên cứu của thành viên chỉ là những tiêu chí cho thấy các thành viên có

đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu do nhóm đề xuất. Đồng thời, các tiêu

chí cũng cần xem xét đến những đặc điểm về loại hình nghiên cứu, lĩnh vực nghiên

cứu khác nhau.

3.2.4. Những đặc điểm của NNCM ở ĐHQGHN

Trong phần này, tác giả luận án sẽ xem xét những đặc điểm của các NNCM ở

ĐHQGHN, trên cơ sở khảo sát thực tiễn 28 NNCM của ĐHQGHN, trong đó tập trung

vào 2 yếu tố chính sau đây: 1) Cơ cấu nhân lực; 2) Tổ chức hoạt động. Việc xem xét

đặc điểm của NNCM nhằm tìm hiểu bản chất, lý giải nội hàm bên trong, cơ cấu bên

trong, nhận dạng mối liên hệ và mối tác động qua lại giữa các yếu tố để từ đó xác định

những điểm, những yếu tố chính sách cần tác động nhằm thúc đẩy và phát huy năng

lực, hiệu quả hoạt động của NNCM.

a) Cơ cấu nhân lực

Nhƣ đã nêu ở trên, kể từ năm 2014 đến nay cả ĐHQGHN có 28 NNCM, với

441 nhà khoa học làm việc trong các NNCM. Trong đó:

Xét về cấu trúc của NNCM ở ĐHQGHN, tác giả luận án nhận thấy cấu trúc

của nhóm đƣợc xây dựng cơ bản theo triết lý vòng hạt nhân gồm 3 vòng tròn đồng

tâm (Hình 3.1). Vòng thứ nhất là vòng trung tâm gồm Trƣởng nhóm và các thành

viên cốt cán có vai trò định hƣớng, tổ chức, chỉ đạo thực hiện các hoạt động nghiên

cứu của nhóm, trong đó vai trò của ngƣời đứng đầu có ý nghĩa quyết định. Do vậy,

Trƣởng nhóm thƣờng là các Giáo sƣ, Phó Giáo sƣ, chuyên gia đầu ngành của một

lĩnh vực khoa học cụ thể. Vòng thứ hai rộng hơn, ở ngay sau vòng thứ nhất gồm

những thành viên chịu trách nhiệm thực hiện các công việc cụ thể do vòng thứ nhất

phân công. Các thành viên này hoạt động thƣờng xuyên và thƣờng là các học viên,

NCS hay cán bộ trẻ ở các Trƣờng đại học, viện nghiên cứu. Vòng thứ 3 lớn nhất, là

vòng ngoài cùng gồm những thành viên cộng tác chặt chẽ với nhóm trong các hoạt

động đào tạo, nghiên cứu. Trong không ít trƣờng hợp, những ngƣời tham gia còn bao

gồm các nhà khoa học quốc tế.

71

Hình 3.1: Cấu trúc của NNCM

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Xét theo lĩnh vực nghiên cứu, NNCM ở ĐHQGHN tập trung chủ yếu ở 4 lĩnh

vực là Khoa học Tự nhiên, Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật và công

nghệ, khoa học Y - Dƣợc. Trong đó, mật độ phân bổ NNCM ở lĩnh vực khoa học tự

nhiên chiếm 29%, khoa học xã hội và nhân văn chiếm 53%, KHKT&CN chiếm 11%

và KHYD chiếm 7% (Biểu đồ 3.3) và mật độ phân bổ nhân lực của NNCM ở lĩnh vực

khoa học tự nhiên chiếm 31%, khoa học xã hội và nhân văn chiếm 43%, KHKT&CN

chiếm 14% và KHYD chiếm 12% (Biểu đồ 3.2)

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Nhƣ vậy, số lƣợng NNCM và các nhà khoa học làm việc trong các NNCM phân

bổ không đồng đều giữa các lĩnh vực và tập trung chủ yếu vào 2 lĩnh vực là khoa học

tự nhiên và khoa học xã hội và nhân văn, đây là 2 lĩnh vực truyền thống và có thế

mạnh của ĐHQGHN.

72

Xét theo quy mô của nhóm, tác giả luận án nhận thấy, các NNCM của

ĐHQGHN chủ yếu có quy mô trung bình trở lên với tỉ lệ NNCM có số lƣợng từ 10

đến 20 thành viên là 57.2% , NNCM có trên 20 thành viên trở lên là 21.4% và NNCM

có số lƣợng dƣới 10 thành viên 21.4% (Biểu đồ 3.4). Đây đƣợc xem là quy mô nhân

lực phù hợp để xây dựng và triển khai các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu của

ĐHQGHN, trong phần phân tích những đóng góp của NNCM đối với việc nâng cao

hiệu quả hoạt động KH&CN, tác giả luận án sẽ cho thấy rõ hơn về nhận định này.

Biểu đồ 3.4: Cấu trúc NNCM theo quy mô thành viên

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Xét theo trình độ khoa học, tác giả luận án nhận thấy rằng, các nhà khoa học

làm việc trong các NNCM đều là những ngƣời có trình độ cao (GS.TS, GS.TSKH,

PGS.TS, TS), đồng thời với đó là những học viên, NCS đƣợc tạo cơ hội để tham gia

vào Nhóm. Theo số liệu thống kê, tỉ lệ các nhà khoa học có học vị từ tiến sĩ trở lên là

61%; NCS, HVCH, SV là 23%; ThS, CN là 16% (Biểu đồ 3.6). Đặc biệt, các trƣởng

NNCM đều là các nhà khoa học có chức danh, học vị từ PGS.TS, GS.TS, GS.TSKH

(Biểu đồ 3.5) và là những ngƣời dày dặn kinh nghiệm, có thâm niên công tác lâu năm

trong lĩnh vực hoạt động (Biều đồ 3.7).

Biểu đồ 3.5: Cấu trúc trình độ của các Trưởng NNCM

73

Biểu đồ 3.6: Cấu trúc trình độ của các thành viên NNCM

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Với vai trò quyết định trong việc xác định hƣớng nghiên cứu và hình thành

NNCM, Trƣởng nhóm là nhân tố đặc biệt quan trọng dẫn đến thành công của Nhóm.

Các trƣởng NNCM, bằng uy tín khoa học, NLNC, xác định hƣớng nghiên cứu chính,

tập hợp lực lƣợng, xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu, huy động nguồn kinh phí là cở sở

bền vững cho hoạt động nghiên cứu của nhóm. Do vậy, ngƣời đứng đầu có ảnh hƣởng

xuyên suốt đến các thành viên của nhóm. Khảo sát thực tế các NNCM ở ĐHQGHN,

tác giả luận án nhận thấy, một đặc điểm rất quan trọng đó là việc lựa chọn nhân sự cho

nhóm xuất phát từ triết lý của ngƣời đứng đầu. Đây là một đặc điểm rất thú vị, có thể

coi là thế mạnh trong rất nhiều NNCM ở ĐHQGHN. Chính trong quá trình tổ chức

giảng dạy, nghiên cứu, hƣớng dẫn luận văn, luận án... thủ lĩnh nhóm đã lựa chọn chính

những sinh viên, học viên, NCS hay những giảng viên trẻ do mình đào tạo tham gia

vào Nhóm. Đó là những ngƣời cùng chung chí hƣớng, thật sự đam mê nghiên cứu, tâm

huyết với lĩnh vực chuyên môn. Bên cạnh đó, bằng uy tín cá nhân, năng lực khoa học

và mối quan hệ rộng rãi, Trƣởng NNCM thƣờng mời thêm các nhà khoa học có uy tín

trong và ngoài nƣớc có cùng quan tâm đến hƣớng nghiên cứu làm cố vấn khoa học,

đồng thời hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, xuất bản, tăng cƣờng hợp tác

quốc tế và sự phát triển của nhóm. Có nhiều Trƣởng NNCM là thầy của những học trò

xuất sắc và là thầy của những ngƣời thầy xuất sắc. Đặc biệt, để xây dựng NNC ngƣời

đứng đầu thƣờng dựa vào ba nhân tố để tạo nên sự hợp tác, gắn kết chặt chẽ giữa các

74

thành viên của một NNCM đó là tình cảm thày trò, tình cảm đồng nghiệp (thông

thường chính người đứng đầu đã dùng uy tín và sức ảnh hưởng của mình tìm kiếm

công việc ổn định cho các thành viên trong nhóm), tình cảm gia đình (các hoạt động

sinh hoạt ngoài chuyên môn được tổ chức và gắn kết như các thành viên trong gia

đình, cùng chia sẻ, động viên, hỗ trợ nhau trong những lúc khó khăn, hoạn nạn).

Chính ngƣời đứng đầu là những “thủ lĩnh” gắn kết và dẫn dắt các thành viên trẻ, hỗ trợ

công bố các bài báo khoa học, tuyền bá phƣơng pháp, tri thức, giúp họ có đủ năng lực

và tự tin trong việc đứng ra chủ trì những đề tài, dự án lớn. Điều này tạo nên sức ảnh

hƣởng lớn của ngƣời thủ lĩnh đến các thành viên trong nhóm và hình thành phong cách

làm việc của nhóm.

Biểu đồ 3.7: Cấu trúc độ tuổi của Trưởng NNCM

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Tuy nhiên, số liệu thống kê cũng cho thấy, độ tuổi trung bình của trƣởng

NNCM là tƣơng đối cao (59.8 tuổi), trình độ càng cao thì tuổi càng cao. Trong đó, có

đến 59% số trƣởng NNCM đã qua tuổi 60 không còn giữ chức vụ quản lý (Biểu đồ

3.7), 41% trƣởng NNCM dƣới 60 tuổi đều đang giữ các chức vụ từ cấp lãnh đạo khoa,

lãnh đạo trƣờng thành viên đến lãnh đạo các Ban hay lãnh đạo ĐHQGHN. Điều đó

vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn cho các NNCM trong quá trình triển khai hoạt động

KH&CN. Thuận lợi ở chỗ, đối với trƣởng NNCM đã qua tuổi 60 (tức qua tuổi giữ

chức vụ quản lý) họ có nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu, đối với những

trƣởng NNCM dƣới 60 tuổi (đang giữ chức vụ quản lý) họ có mối quan hệ rộng để kết

nối và huy động các đề tài, dự án nghiên cứu. Ngƣợc lại, khó khăn ở chỗ những thủ

75

lĩnh nhóm có độ tuổi cao, sức yếu, khả năng, động lực đóng góp cho khoa học dần

giảm sút, còn những ngƣời trẻ, sung sức lại đang giữ những chức vụ quản lý quan

trọng và do vậy họ không có nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu.

Xét ở góc độ tương quan giữa nhóm độ tuổi và nhóm số lượng bài báo

ISI/Scopus được công bố của các thành viên của Nhóm, (Bảng 3.2) tác giả luận án

nhận thấy, không có mối tƣơng quan chặt giữa nhóm độ tuổi và nhóm số lƣợng bài báo

ISI/Scopus đƣợc công bố. Đồng thời, không có sự chênh lệch quá lớn giữa tỉ lệ bài báo

công bố quốc tế giữa các nhóm độ tuổi.

Bảng 3.2: Tương quan giữa độ tuổi với số lượng bài báo ISI/Scopus

Tổng

17

Nhóm bài báo ISI/Scopus đƣợc công bố 03-05 >10 0 7

01-02 14

06-10 9

4

51

Dƣới 40

33,3%

27,5%

13,7%

17,6%

7,8%

100%

14

4

4

7

41

12

Từ 41-55

34,1%

29,3%

9,8%

9,8%

17,1%

100%

6

5

3

2

21

5

Trên 55

28,6%

23,8%

23,8%

14,3%

9,5%

100%

37

16

16

13

113

31

Tổng

Khả năng công bố quốc tế theo độ tuổi Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi

32,7%

11,5%

14,2%

14,2%

100%

27,4% (Pearson Chi-Square=5.013; p=0.756>0.05; Phi = 0.756; Cramer’V=0.756)

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Xét tương quan giữa nhóm độ tuổi và nhóm số lượng nhóm đề tài chủ trì của

các thành viên NNC(Bảng 3.3), tác giả luận án nhận thấy có mối tƣơng quan chặt chẽ

giữa nhóm độ tuổi của các nhà khoa học với nhóm đề tài do các nhà khoa học chủ trì.

Bảng 3.3: Tương quan giữa độ tuổi với số lượng đề tài chủ trì

Tổng

Khả năng thành công trong việc chủ trì đề tài theo độ tuổi

0

>10

Nhóm đề tài chủ trì 04-06 12

07-10 8

01-03 23

1

51

7

Dƣới 40

2.0%

45.1%

23.5%

15.7%

13.7%

100%

17

10

3

41

6

Từ 41-55

41.5%

24.4%

7.3%

14.6%

100%

5 12.2% 2

8

5

3

21

3

Trên 55

9.5%

38.1%

23.8%

14.3%

14.3%

100%

8

48

27

14

16

113

Total

Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi

7.1%

42.5%

23.9%

12.4%

14.2%

100%

(Pearson Chi-Square=19.172; p=0.014<0.05; Phi = 0.014; Cramer’V=0.014)

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

76

Xét ở góc độ tương quan chặt chẽ giữa nhóm chức danh, học vị và nhóm số

lượng bài báo ISI/Scopus được công bố của các thành viên Nhóm, tác giả luận án

không thấy mối tƣơng quan chặt chẽ giữa nhóm chức danh, học vị và nhóm số lƣợng

bài báo ISI/Scopus đƣợc công bố của các thành viên Nhóm (Bảng 3.4). Đồng thời,

yếu tố chức danh, học vị cũng chƣa hẳn là yếu tố quyết định đối với kết quả công bố

quốc tế.

Bảng 3.4: So sánh giữa chức danh, học vị với số lượng bài báo ISI/Scopus

Khả năng công bố quốc tế

Nhóm bài báo ISI/Scopus

Tổng

theo chức danh, học vị

01-02

03-05

06-10

>10

0

8

4

0

0

1

13

Tần suất

% trong nhóm

61.5%

30.8%

0.0%

0.0%

7.7%

100%

ThS

chức danh, học vị

Tần suất

16

14

9

7

3

49

% trong nhóm

32.7%

28.6%

18.4%

14.3%

6.1%

100%

TS/TSKH

chức danh, học vị

Tần suất

10

13

5

8

6

42

% trong nhóm

23.8%

31.0%

11.9%

19.0%

14.3%

100%

PGS.TS

chức danh, học vị

Tần suất

3

0

2

1

3

9

% trong nhóm

33.3%

0.0%

22.2%

11.1%

33.3%

100%

GS.TS

chức danh, học vị

Tần suất

37

31

16

16

13

113

Tổng:

% trong nhóm

32.7%

27.4%

14.2%

14.2%

11.5%

100%

chức danh, học vị

(Pearson Chi-Square=18.086; p=0.113>0.05; Phi = 0.113; Cramer’V=0.113)

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Xét tương quan giữa nhóm chức danh, học vị và nhóm số lượng đề tài chủ trì

của các thành viên NNC (Bảng 3.5), tác giả luận án nhận thấy, có mối tƣơng quan chặt

giữa hai nhóm so sánh. Các nhà khoa học ở nhóm chức danh học vị cao GS/PGS.TS

có tỉ lệ thành công trong việc chủ trì đề tài cao. Điều này đƣợc xem là phù hợp với

năng lực và kinh nghiệm trong nghiên cứu của các nhà khoa học đầu đàn, đầu ngành.

77

Bảng 3.5: Tương quan giữa nhóm chức danh, học vị với số lượng đề tài chủ trì

Tổng

0

>10

8

Nhóm số lƣợng đề tài chủ trì 04-06 1

01-03 4

07-10 0

0

13

ThS

61.5%

30.8%

7.7%

0.0%

0.0%

100%

7

12

19

9

2

49

TS/TSKH

14.3%

24.5%

38.8%

18.4%

4.1%

100%

3

5

15

12

7

42

PGS.TS

7.1% 11.90% 35.70%

28.6%

16.7%

100%

0

1

2

0

6

9

GS.TS

0.0%

11.0%

22.2%

0.0% 66.70%

100%

18

22

37

21

15

113

Tổng

15.9%

19.5%

32.7%

18.6%

13.3%

100%

Khả năng thành công trong việc chủ trì đề tài theo độ tuổi Tần suất % trong nhóm chức danh, học vị Tần suất % trong nhóm chức danh, học vị Tần suất % trong nhóm chức danh, học vị Tần suất % trong nhóm chức danh, học vị Tần suất % trong nhóm chức danh, học vị

(Pearson Chi-Square=57.908; p=0.0<0.05; Phi = 0.0; Cramer’V=0.0)

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Từ việc so sánh tƣơng quan giữa nhóm độ tuổi và chức danh, học vị với nhóm

đề tài chủ trì và số bài báo công bố quốc tế đã cho thấy có mối tƣơng quan chặt giữa

nhóm độ tuổi, chức danh học vị với nhóm chủ trì đề tài nghiên cứu. Đây đƣợc xem là

phát hiện quan trọng giúp cho việc định hƣớng chính sách ƣu tiên xét duyệt đề tài hay

giao đề tài cho NNCM cũng cần chú trọng đến độ tuổi và chức danh, học vị.

b) Tổ chức hoạt động

Tổ chức hoạt động của các NNCM ở ĐHQGHN, cũng đƣợc xem là một đặc

điểm quan trọng, bởi qua quy trình phân công việc của NNC dƣới đây, chúng ta thấy rõ

điều này. Quy trình đó đƣợc thực hiện căn cứ vào cấu trúc vòng hạt nhân (Hình 3.1).

Vòng thứ nhất còn đƣợc gọi và vòng trung tâm gồm Trƣởng nhóm và những

thành viên cốt cán chịu trách nhiệm định hƣớng nghiên cứu, xây dựng chiến lƣợc, mục

tiêu, lên kế hoạch thực hiện các công việc nghiên cứu theo từng giai đoạn cụ thể và rõ

ràng. Hầu hết các đề tài nghiên cứu, đặc biệt là các đề tài nghiên cứu mang tính trọng

điểm, cấp Nhà nƣớc hay liên ngành sẽ do vòng thứ nhất quyết định và chịu trách

nhiệm tổ chức các hoạt động nghiên cứu.

Vòng thứ hai rộng hơn nằm ngay sau vòng thứ nhất gồm các học viên, NCS hay

những giảng viên trẻ. Họ sẽ là những ngƣời thực hiện những nhiệm vụ cụ thể theo sự

phân công của vòng thứ nhất và chịu trách nhiệm báo cáo thƣờng xuyên các công việc

78

đã thực hiện để vòng thứ nhất đƣa ra những quyết định tiếp theo hoặc điều chỉnh quyết

định phù hợp.

Vòng thứ 3 lớn nhất là vòng ngoài cùng thƣờng là những nhà khoa học ở các tổ

chức trong và ngoài nƣớc cùng quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu của Nhóm. Những

thành viên ở vòng này thƣờng tạo hậu thuẫn, hỗ trợ trong nghiên cứu hoặc đƣa ra

những ý kiến phản biện, tƣ vấn, góp ý về những vấn đề nghiên cứu của Nhóm. Mặc dù

vậy, thực tế không phải NNC nào cũng tổ chức hoạt động đƣợc chặt chẽ nhƣ quy trình

đã nêu bởi những hạn chế trong việc xây dựng chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu, khả

năng huy động nguồn kinh phí và nhân lực để triển khai hoạt động.

Sự kết hợp nhân lực giữa 3 nhóm thành viên là tƣơng tối mềm dẻo, ngoài NNC

chủ chốt thuộc vòng thứ nhất là ổn định thì các thành viên thuộc vòng thứ 2 và thứ 3

rất linh hoạt và thƣờng xuyên có sự thay đổi, họ đƣợc tập hợp căn cứ vào nhu cầu và

sự phù hợp của từng nhiệm vụ nghiên cứu. Chính trong quá trình phát triển của

NNCM một số thành viên thuộc vòng 2 có sự phát triển mạnh và di động về vòng 1.

3.2.5. Những đóng góp của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN

ở ĐHQGHN

Phần viết này sẽ làm rõ đóng góp về về mặt khoa học của NNCM ở ĐHQGHN.

Cụ thể hơn, tác giả luận án sẽ bàn về công trình khoa học đã đƣợc công bố, đề tài đã và

đang đƣợc thực hiện, sản phẩm đào tạo, sản phẩm KH&CN đƣợc ứng dụng hay triển

khai trên thực tế và hoạt động hợp tác trong và ngoài nƣớc của các NNCM.

Trước hết, chúng ta đề cập đến các công trình khoa học đã đƣợc công bố của

NNCM. Nhƣ đã đề cập ở trên, hiện nay, ĐHQGHN đã công nhận chính thức 28

NNCM. Cuộc khảo sát thực hiện đối với 113 thành viên của các NNC trong đó có 73

thành viên thuộc NNCM và 40 thành viên thuộc các NNC chƣa đƣợc công nhận là

NNCM vào thời điểm tháng 6 năm 2018 cho kết quả về số lƣợng các công trình mà

những nhà khoa học này đã công bố trong 5 năm cụ thể nhƣ sau.

Bảng 3.6: Số lượng công trình khoa học được công bố bởi thành viên NNCM

Nội dung

Sách chuyên khảo

TT 1. 2. Bài báo trên tạp chí không thuộc danh mục ISI/Scopus 3. Bài báo trên tạp chí thuộc danh mục ISI/Scopus 4. Bài báo công bố trên các tạp chí trong nƣớc 5. 6.

Sản phẩm đạt giải thƣởng KH&CN Sản phẩm KH&CN hoàn chỉnh có thể chuyển giao và thƣơng mại hóa

Kết quả 182 351 293 1351 16 50

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

79

Dữ liệu trên (Bảng 3.6) cho chúng ta mấy nhận xét đáng lƣu ý sau đây. Thứ nhất,

nếu tính trung bình thì một thành viên của NNCM trong 5 năm đã công bố 2.49 sách

chuyên khảo, 4.8 bài báo trên tạp chí thuộc danh mục ISI/Scopus, 4.0 bài báo trên tạp

chí không thuộc danh mục ISI/Scopus; 18.5 bài báo công bố trên các tạp chí trong

nƣớc. Thứ hai, tính trung bình trong 5 năm, mỗi thành viên thuộc NNCM có 0,68 sản

phẩm KH&CN hoàn chỉnh có thể chuyển giao và thƣơng mại hóa. Thêm nữa, trong 5

năm, trung bình cứ gần 5 thành viên của NNCM thì một ngƣời có sản Sản phẩm đạt

giải thƣởng KH&CN ở các cấp khác nhau. Điều đáng lƣu ý nữa ở đây là số lƣợng bài

báo của các thành viên NNCM đăng trên các tạp chí khoa học trong nƣớc gấp khoảng

hơn 2 lần so với các bài báo công bố trên các tạp chí quốc tế.

Nếu so sánh năng suất khoa học trung bình trong vòng 5 năm của NNCM theo

các lĩnh vực nghiên cứu (Bảng 3.7, Biểu đồ 3.8) có thể thấy, lĩnh vực KHKT&CN và

KHTN có thế mạnh trong việc công bố bố quốc tế ở các nhóm tạp chí có uy tín, trong

khi lĩnh vực KHXH&NV có thế mạnh trong việc xuất bản sách chuyên khảo.

Bảng 3.7: So sánh năng suất nghiên cứu trung bình 5 năm của

thành viên NNCM theo lĩnh vực nghiên cứu

KQNC ở từng lĩnh vực

TT

Nội dung

KHTN KHXH&NV KHKT&CN KH Y DƢỢC

1. Sách chuyên khảo

1.29

4.27

1.25

1.14

2. Bài báo trên tạp chí không

3.93

5.73

5.88

3.14

thuộc danh mục ISI/Scopus

3. Bài báo trên tạp chí thuộc

5.43

0.90

12.00

2.57

danh mục ISI/Scopus

4. Bài báo công bố trên các

18.21

19.10

23.63

11.29

tạp chí trong nƣớc

5. Sản phẩm đạt giải thƣởng

0.11

0.17

1.0

0.0

KH&CN

6. Sản phẩm KH&CN hoàn

chỉnh có thể chuyển giao và

0.71

0.90

0.38

0.0

thƣơng mại hóa

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

80

Biểu đồ 3.8: So sánh năng suất nghiên cứu trung bình 5 năm của

thành viên NNCM theo lĩnh vực nghiên cứu

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Nếu so sánh năng suất khoa học của các thành viên NNCM với đội ngũ các nhà

khoa học của ĐHQGHN nói chung, có thể thấy, năng suất nghiên cứu của các thành

viên NNCM cao hơn gấp nhiều lần so với mặt bằng chung của ĐHQGHN (Bảng 3.8).

Bảng 3.8: So sánh kết quả nghiên cứu của thành viên NNCM

KQNC trung bình trong 5

KQNC trung bình trong 10

Nội dung

năm của thành viên NNCM

năm của các nhà khoa học

(sản phẩm/cán bộ)*

(sản phẩm/cán bộ)**

Sách chuyên khảo

2.49

0.63

Bài báo ISI/Scopus

4.8

0.99

Bài báo quốc tế khác

4.0

0.58

Bài báo trong nƣớc

18.5

2.8

Số sản phẩm hoàn chỉnh có thể

0.68

/

chuyển giao và thƣơng mại hóa

Số lần tham dự hội nghị/hội

thảo quốc tế với tƣ cách là báo

2.6 lần/cán bộ

/

cáo viên đƣợc mời (invited

speaker)

Số đề tài các cấp đã và đang

3.9

0.26

chủ trì

so với mặt bằng chung của ĐHQGHN

(* Nguồn khảo sát của đề tài; ** Nguồn khảo sát của Ban Tổ chức cán bộ - ĐHQGHN)

81

Một điểm đáng quan tâm ở đây là nếu chúng ta đi sâu vào các sản phẩm khoa học

cụ thể của các NNCM, có thể thấy, trong các thành tựu NCKH, đã hình thành các sản

phẩm KH&CN nổi bật trong nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng thực tiễn của

các NNCM ở ĐHQGHN. Một số sản phẩm điển hình thể hiện vai trò quan trọng của

NNCM qua những thành công trong khoa học nhƣ nhóm về Công nghệ môi trƣờng của

GS.TS. Phạm Hùng Việt, là nhà khoa học của ĐHQGHN có bài báo đăng trên tạp chí

Nature về luận giải cơ chế nhiễm Asen trong nƣớc ngầm tại Hà Nội và đƣợc chọn là một

trong 10 sự kiện tiêu biểu của KH&CN Việt Nam năm 2013, là kết quả của sự lao động

quên mình của tập thể các nhà khoa học trong NNC suốt từ năm 1998; Giải thƣởng Nhà

nƣớc về KH&CN năm 2005 dành cho GS. Trần Nghi, là sự ghi nhận về những đóng góp

của ông và tập thể các nhà khoa học, NNC đã nhiều năm say sƣa lặn lội nghiên cứu về

địa chất địa mạo và đa dạng sinh học của Phong Nha - Kẻ Bàng, góp phần quan trọng

trong việc cung cấp cho UNESCO những luận cứ quan trọng để công nhận Phong Nha-

Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới; Báo cáo thƣờng niên kinh tế Việt Nam của NNC

Lý thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập kin tế của Việt Nam, với

5 năm liên tục đã gây đƣợc tiếng vang trong giới kinh tế về những đóng góp mang tính

phản biện xã hội, đã cung cấp một cái nhìn và đánh giá toàn cảnh về kinh tế thế giới,

cũng nhƣ kinh tế Việt Nam trong những năm qua, đƣợc các chuyên gia kinh tế, các nhà

hoạch định chính sách quan tâm và đánh giá cao; Công trình khoa học “Người Việt với

biển” do NNC Lịch sử và Quan hệ thƣơng mại châu Á thực hiện đã góp phần khẳng

định chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, đồng thời tạo sức ảnh hƣởng lớn đến cộng đồng

khoa học, giới chính trị trong và ngoài nƣớc; Quy hoạch Công viên Địa chất toàn cầu

Cao nguyên đá Đồng Văn đƣợc hoàn thành dựa trên nghiên cứu của các nhà khoa học

thuộc ĐHQGHN đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 310/QĐ-

Ttg ngày 27/2/2013 đã đƣợc ứng dụng thực tiễn; NNC Chính sách và Quản lý đã có

nhiều đóng góp khoa học, đào tạo, hợp tác quốc tế. Đặc biệt, một số sản phẩm nghiên

cứu của Nhóm đã đƣợc Quốc hội sử dụng làm tài liệu tham khảo và nghiên cứu. Với

nhiều thành tích đạt đƣợc trong suốt 17 năm, NNC Chính sách và Quản lý đã phát triển

thành TTNC trọng điểm của ĐHQGHN…[2].

Thứ hai, NNCM cũng đóng góp rất tích cực trong việc chủ trì và tham gia các đề

tài/dự án nghiên cứu. Kết quả từ Bảng 3.9 cho chúng ta thấy, nếu tính trung bình thì cứ

một thành viên của NNCM trong 5 năm đã chủ trì 3 đề tài/dự án nghiên cứu và tham

gia 5.2 đề tài/dựa án nghiên cứu.

82

Bảng 3.9: Số lượng đề tài do thành viên NNCM chủ trì và tham gia

TT Nội dung Kết quả

1. Số đề tài các cấp Thầy/Cô chủ trì đã và đang chủ trì 226

2. Số đề tài các cấp Thầy/Cô tham gia đã và đang 385

tham gia

Thứ ba, NNCM có những đóng góp khá quan trọng trong hoạt động tăng cường

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

hội nhập quốc tế. Các NNCM của ĐHQGHN đã thiết lập đƣợc quan hệ hợp tác nghiên

cứu hiệu quả với nhiều cơ sở nghiên cứu quốc tế. Cụ thể, các NNCM đã có nghiên cứu

công bố quốc tế chung với 65 Trƣờng đại học, Viện nghiên cứu quốc tế [2].

Thứ tƣ, các NNCM của ĐHQGHN đã có đóng góp tích cực cho công tác đào

tạo sau đại học của ĐHQGHN, cụ thể: từ năm 2008 đến nay, thông qua hoạt động

nghiên cứu, ĐHQGHN đã đào tạo sau đại học hiệu quả và có chất lƣợng tốt: đã cấp

bằng cho 12.334 thạc sỹ (và đang đào tạo trên 11.000 HVCH), 423 tiến sỹ (và đang

đào tạo 1.180 NCS). Theo thống kê từ năm 2012 đến nay, khoảng 50% số NCS của

các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ của ĐHQGHN khi bảo vệ luận án tiến sỹ

đều có bài đăng trên các tạp chí quốc tế[41]. Cũng cần nhấn mạnh rằng, các NNCM

đều có kết quả và chất lƣợng đào tạo rất tốt. Đáng lƣu ý là 80% các công bố quốc tế

của các thầy, cô hƣớng dẫn là công bố đồng tác giả với các NCS[2]. Một số NNCM đã

góp phần mở ra các ngành/chuyên ngành đào tạo mới nhƣ NNC chính sách và quản lý

phát triển 2 chƣơng trình đào tạo ở bậc thạc sĩ và tiến sĩ về Quản lý KH&CN; NNC

Vật liệu và kết cấu tiên tiến phát triển 2 chƣơng trình đào tạo là Công nghệ Kỹ thuật

Xây dựng ở bậc đại học và Vật liệu và kết cấu tiên tiến ở bậc thạc sĩ…

Để có cái nhìn khách quan hơn về những đóng góp của NNCM trong việc nâng

cao hiệu quả hoạt động KH&CN, tác giả luận án đã lấy ý kiến đánh giá của các nhà

khoa học, các nhà quản lý ở ĐHQGHN, với thang điểm từ 1 đến 5, (1 tương ứng với

mức độ rất hạn chế và 5 tương ứng với mức độ rất tích cực). Theo đó, giá trị trung

bình của mỗi yếu tố càng gần với điểm 5 thì ý kiến đánh giá đánh càng gần với mức

“rất tích cực”, kết quả nhƣ sau:

83

Bảng 3.10: Đánh giá mức độ đóng góp của NNCM đối với việc nâng cao

hiệu quả hoạt động KH&CN

Nội dung lấy ý kiến đánh giá

Điểm trung

bình

4,11

Hỗ trợ sự phát triển và duy trì một môi trƣờng nghiên cứu hợp tác, chất

lƣợng cao

Tập trung phát triển các lĩnh vực sở trƣởng trong nghiên cứu và đào tạo, đặc

4,10

biệt trong lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, xuyên ngành

Tăng cƣờng và hỗ trợ đào tạo nghiên cứu và khuyến khích sự tham gia của

4,18

sinh viên, học viên, NCS

Cung cấp các cơ hội và hỗ trợ cho sinh viên, học viên, NCS để tạo nên các

3,98

KQNC chất lƣợng cao, phát triển thành tích nghiên cứu và xây dựng sự

nghiệp nghiên cứu thành công

Hỗ trợ đổi mới nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, môi trƣờng và

3,73

xã hội trong tƣơng lai, trong lĩnh vực Trƣờng hoạt động

Đảm bảo KQNC có đóng góp thiết thực trong việc phát triển lĩnh vực

3,84

chuyên môn của trƣờng đại học, và đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội

của đất nƣớc

Đảm bảo nghiên cứu chất lƣợng cao để củng cố và tăng cƣờng các CTĐT

4,01

của trƣờng đại học

Tăng cƣờng các cơ hội để đạt đƣợc nguồn tài trợ từ các Quỹ hỗ trợ nghiên

4,02

cứu trong và ngoài nƣớc cho hoạt động nghiên cứu trọng tâm

Cung cấp cho khách hàng những KQNC hữu ích, kịp thời và hiệu quả

3,25

(Nguồn: kết quả khảo sát của đề tài)

Từ kết quả khảo sát (Bảng 3.10) cho thấy, hầu hết nhà khoa học đều đánh giá

cao những đóng góp của NNCM trong việc hỗ trợ sự phát triển và duy trì một môi

trƣờng nghiên cứu hợp tác, chất lƣợng cao; Tập trung phát triển các lĩnh vực sở trƣởng

trong nghiên cứu và đào tạo, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, xuyên

ngành; Tăng cƣờng các cơ hội để đạt đƣợc nguồn tài trợ từ các Quỹ hỗ trợ nghiên cứu

trong và ngoài nƣớc cho hoạt động nghiên cứu trọng tâm; Cung cấp các cơ hội và hỗ

trợ cho sinh viên, học viên, NCS để tạo nên các KQNC chất lƣợng cao, phát triển

thành tích nghiên cứu và xây dựng sự nghiệp nghiên cứu thành công; Đảm bảo nghiên

cứu chất lƣợng cao để củng cố và tăng cƣờng các CTĐT của trƣờng đại học; Đảm bảo

KQNC có đóng góp thiết thực trong việc phát triển lĩnh vực chuyên môn của trƣờng

84

đại học, và đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc; Hỗ trợ đổi mới

nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, môi trƣờng và xã hội trong tƣơng lai,

trong lĩnh vực Trƣờng hoạt động.

Đặc biệt, các nhà khoa học đánh giá rất cao đóng góp của NNCM trong việc

tăng cƣờng và hỗ trợ đào tạo nghiên cứu và khuyến khích sự tham gia của sinh viên,

học viên, NCS. Tuy nhiên, các KQNC chƣa đƣợc cung cấp cho khách hàng một cách

kịp thời và đem lại những hiệu quả rõ rệt, điều này phần nào phản ánh một thực tế là

những KQNC gắn với thực tiễn còn ít và chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của xã hội.

3.2.6. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển NNCM

Nhƣ tác giả luận án đã đề cập ở trên, việc xây dựng, phát triển và duy trì hiệu

quả hoạt động của các NNCM phụ thuộc rất nhiều vào những yếu tố bên trong của

nhóm, đó là những yếu tố nội tại thuộc về năng lực của đội ngũ nhà khoa học, mối

quan hệ của các thành viên và các vấn đề liên quan đến lợi ích.

Về yếu tố con người, trong quá trình nghiên cứu tác giả luận án nhận thấy rằng

chính những hạn chế về năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học có ảnh hƣởng lớn nhất

đến đến sự phát triển của NNC. Kết quả khảo sát (Bảng 3.11, Biểu đồ 3.9) cho thấy,

chính việc không tìm kiếm đƣợc nguồn kinh phí để đảm bảo cho hoạt động nghiên

cứu, thiếu cán bộ khoa học có tầm ảnh hƣởng lớn, năng lực đội ngũ còn kém là yếu

tố ảnh hƣởng mạnh mẽ nhất đến sự phát triển NNCM. Bên cạnh đó, những vấn đề

thuộc về kỹ năng làm việc nhóm, khả năng sử dụng internet để khai thác thông tin

trên mạng cũng phần nào ảnh hƣởng đến sự phát triển của NNCM, nhƣng đó không

phải là yếu tố chính.

Bảng 3.11: Những yếu tố thuộc về năng lực ảnh hưởng

đến sự phát triển của NNCM

Điểm trung

Nội dung lấy ý kiến đánh giá

bình

Không tìm kiến đƣợc nguồn kinh phí để đảm bảo cho hoạt động của nhóm

4.39

Thiếu cán bộ nhà khoa học có uy tín và tầm ảnh hƣởng lớn

4.31

Năng lực đội ngũ còn kém

4.01

Thiếu kỹ năng làm việc nhóm

3.85

Khả năng sử dụng máy tính, tra cứu thông tin trên mạng Internet

3.20

(Nguồn: kết quả khảo sát của đề tài)

85

Biểu đồ 3.9: Những yếu tố thuộc về năng lực ảnh hưởng

đến sự phát triển của NNCM

Về mối quan hệ gắn kết và lợi ích của NNCM, tác giả luận án nhận thấy rằng:

- Xét từ tương tác tâm lí giữa cá nhân và nhóm, việc nhóm có sức thu hút đối

với những thành viên của mình hay không và cá nhân có chịu sức hút đó không đều có

ảnh hƣởng quan trọng đối với sự gắn kết của nhóm. Nếu một nhóm thực sự có sức hấp

dẫn những thành viên của mình, và những thành viên của nhóm đó tự giác ý thức đƣợc

điểm này thì sự gắn kết của nhóm sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.

- Xét từ cấu trúc quan hệ của thành viên trong nhóm, cấu trúc quan hệ này có

tuân theo nguyên tắc thống nhất và nguyên tắc bổ sung hay không cũng có ảnh hƣởng

trực tiếp đến sự gắn kết của nhóm. Nếu phƣơng diện thái độ nhận thức của thành viên

về tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội, bối cảnh văn hoá, đặc biệt là quan điểm khoa

học có sự tƣơng đồng hoặc thống nhất, thì sự gắn kết giữa các thành viên sẽ trở nên

mạnh mẽ, dễ trở thành nhóm đoàn kết chặt chẽ. Mặt khác, trên các phƣơng diện nhƣ

giới tính, tuổi tác, tính cách, khí chất và năng lực các thành viên có thể tƣơng trợ bổ

sung lẫn nhau một cách thoả đáng, mối quan hệ tƣơng hỗ rõ ràng sẽ hình thành và

thƣờng sẽ làm tăng thêm sự gắn kết giữa các thành viên. Đến lúc đó, giữa các thành

viên sẽ nhận ra rằng họ là một phần không thể thiếu trong tập thể họ đang làm việc.

- Xét từ mối quan hệ của thành viên với người trưởng nhóm, việc thành viên

có hiểu và tin tƣởng vào năng lực của ngƣời trƣởng nhóm hay không, và tƣ cách lãnh

đạo, cũng nhƣ bản thân ngƣời trƣởng nhóm có sức hấp dẫn hay không đều có ảnh

hƣởng rất lớn đến sự gắn kết của nhóm. Trƣởng nhóm có năng lực, uy tín và đƣợc

các thành viên công nhận, ủng hộ là một điều kiện vô cùng quan trọng để tạo nên sự

bền vững của nhóm.

86

- Xét từ quan hệ giữa nhóm và hoàn cảnh của nó, nếu trong nội bộ nhóm vẫn

chƣa tồn tại những nhân tố mang tính chia rẽ, thì khi đứng trƣớc sự đe doạ và áp lực to

lớn của hoàn cảnh, sự gắn kết của nhóm đó cũng sẽ tăng lên.

- Xét từ quan hệ lợi ích giữa cá nhân và nhóm, việc duy trì đƣợc sự thống nhất

giữa hai lợi ích này cũng có ảnh hƣởng tới sự gắn kết của nhóm. Quan hệ giữa thành

viên với nhóm, giữa thành viên với thành viên phải tuân theo nguyên tắc hai bên cùng

có lợi, nghĩa là cùng thu đƣợc lợi ích thì mới có thể duy trì đƣợc mối quan hệ lâu dài.

Nếu các thành viên hoạt động trong nhóm đều tuân theo quy tắc của nhóm, từ đó có

thể thoả mãn đầy đủ đƣợc những nhu cầu của họ thì sẽ kích thích đƣợc tính tích cực

của các thành viên, nâng cao hiệu quả gắn kết của nhóm.

Kết quả khảo sát của đề tài (Bảng 3.12, Biểu đồ 3.10) đã cho thấy, việc trƣởng

nhóm không tạo đƣợc sự gắn kết giữa các thành viên có ảnh hƣởng lớn nhất đến sự

phát triển của Nhóm. Đồng thời, việc không đảm bảo quyền lợi và thiếu minh bạch

trong phân chia lợi ích cũng có ảnh hƣởng khá lớn đến sự phát triển của Nhóm. Ngoài

ra, còn là những ảnh hƣởng thuộc về yếu tố cá tính của mỗi thành viên, tuy nhiên đây

không phải là yếu tố có ảnh hƣởng lớn.

Bảng 3.12: Những yếu tố thuộc về mối quan hệ và lợi ích ảnh hưởng

đến sự phát triển của NNCM

Nội dung lấy ý kiến đánh giá

Trƣởng nhóm không tạo đƣợc sự gắn kết giữa các thành viên Sự khác nhau về cá tính của mỗi thành viên Quyền lợi không đƣợc đảm bảo Không minh bạch trong phân chia lợi ích

Điểm trung bình 4,09 3,14 3,79 3,74

(Nguồn: kết quả khảo sát của đề tài)

Biểu đồ 3.10: Những yếu tố thuộc về mối quan hệ và lợi ích ảnh hưởng

đến sự phát triển của NNCM

87

Bên cạnh đó, các yếu tố bên ngoài thuộc về môi trƣờng, chính sách cũng có ảnh

hƣởng lớn đến hiệu quả hoạt động và khả năng phát huy năng lực cũng nhƣ quá trình

xây dựng và phát triển NNCM. Qua thăm dò ý kiến của các nhà khoa học, các nhà

quản lý tác giả luận án thu đƣợc một số kết quả nhƣ sau:

Khi đƣợc hỏi về những nguyên nhân ảnh hƣởng đến hiệu quả hoạt động, khả

năng phát huy năng lực nghiên cứu của các NNCM, có đến 14/17 yếu tố đƣợc các nhà

khoa học, các nhà quản lý đánh giá có ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển của NNCM.

Trong đó, nguyên nhân chính nằm ở chỗ kinh phí cho NCKH quá eo hẹp, thủ tục thanh

toán còn phiều phức, cơ chế quản lý NCKH còn mang nặng tính xin-cho, điều kiện vật

chất thiếu thốn, định mức chi cho NCKH không phù hợp và thu nhập từ làm NCKH

còn quá thấp. Trong khi, những yếu tố liên quan đến giảng dạy, quản lý và bảo hộ

quyền tác giả lại không đƣợc xem là những yếu tố có ảnh hƣởng nhiều đến sự phát của

của các NNC (Bảng 3.13, Biểu đồ 3.11).

Bảng 3.13: Những yếu tố thuộc về môi trường, chính sách có ảnh hưởng

đến sự phát triển của NNCM

Nội dung lấy ý kiến đánh giá

Điểm trung bình

Kinh phí nghiên cứu khoa học quá eo hẹp

4.28

Thủ tục thanh toán còn phiền phức

4.17

Cơ chế quản lý NCKH còn mang nặng tính xin-cho

4.11

Định mức chi cho nghiên cứu không phù hợp

3.99

Thiếu điều kiện vật chất (thiết bị, vật liệu, tƣ liệu…)

3.89

Thu nhập từ làm NCKH quá thấp so với làm các việc khác

3.80

Chƣa gắn kết đƣợc công tác NCKH và CGCN với ngƣời sử dụng kết quả

3.79

Môi trƣờng nghiên cứu còn chƣa thật sự dân chủ

3.68

Nguồn tƣ liệu phục vụ NC còn hạn chế

3.67

Thiếu thông tin về nhu cầu KH&CN

3.61

Trang thiết bị cho công tác NCKH quá lạc hậu

3.54

Nhu cầu đổi mới CN ở các doanh nghiệp còn thấp

3.52

Thiếu thông tin về NCKH hiện đại

3.45

Thị trƣờng công nghệ chƣa phát triển

3.45

Giảng dạy quá nhiều

3.34

Chính sách bảo hộ quyền tác giả còn nhiều hạn chế

3.18

Công tác quản lý quá bận rộn

3.08

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

88

Biểu đồ 3.11: Những yếu tố thuộc về môi trường, chính sách có ảnh hưởng

đến sự phát triển của NNCM

Bên cạnh những yếu tố chung thuộc về môi trƣờng, chính sách. Tác giả luận án

cũng tiến hành phân tích sâu hơn những ảnh hƣởng của việc chọn nội dung nghiên cứu

và cá nhân/đơn vị thực hiện. Theo tác giả luận án, đây là nội dung quan trọng và cần

thiết phải xem xét bởi “đề tài” chính là nguồn năng lƣợng giúp các nhà khoa học cũng

nhƣ các NNC duy trì và phát triển. Nếu công việc này đƣợc thực hiện không tốt sẽ gây

ra những ảnh hƣởng không tốt đến hiệu quả hoạt động khoa học của các nhà khoa học

cũng nhƣ gây ra những lãng phí trong đầu tƣ, thậm chí là những hệ lụy không tốt cho

xã hội. Ý kiến đánh giá của các nhà khoa học, các nhà quản lý nhƣ sau:

Bảng 3.14: Đánh giá mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung,

cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài

Điểm trung bình

Loại đề tài

Chọn nội dung Chọn cá nhân/đơn vị thực hiện

Đề tài cấp nhà nƣớc

3.35

3.41

Đề tài cấp Bộ

3.24

3.31

Đề tài Quỹ Nafosted

4.27

4.21

Đề tài cấp ĐHQGHN

3.68

3.76

Đề tài cấp đơn vị trực thuộc ĐHQGHN

3.58

3.50

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

89

Biểu đồ 3.12: Đánh giá mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung,

cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài

Từ kết quả trên đây (Bảng 3.14, Biểu đồ 3.12) cho thấy, đề tài thuộc Quỹ

Nafosted đƣợc đánh giá cao nhất về mức độ đảm bảo yêu cầu cả trong lựa chọn nội

dung nghiên cứu và cá nhân/đơn vị thực hiện. Đánh giá này phần nào phản ánh mức

độ khách quan và phù hợp trong tuyển chọn nội dung và cá nhân/đơn vị thực hiện đề

tài của Quỹ. Điều này đƣợc xem là phù hợp với thực tiễn bởi những đổi mới mạnh mẽ

trong quản lý hoạt động của Quỹ trong thời gian qua. Những yêu cầu đặt ra cao cả

trong yếu tố đầu vào (nhân lực) và sản phẩm đầu ra (bài báo công bố quốc tế trên

những tạp chí có uy tín của thế giới thuộc danh mục ISI/Scopus) là những điều kiện

quan trọng giúp hạn chế những rủi ro trong đầu tƣ cho nghiên cứu.

Về cơ bản đề tài của ĐHQGHN và đơn thị thành viên đã đảm bảo yêu cầu trong

việc tuyển chọn nội dung và cá nhân/đơn vị thực hiện. Duy chỉ có đề tài cấp nhà nƣớc,

đề tài cấp bộ đƣợc các nhà khoa học đánh giá ở mức chƣa cao (khoảng từ 3,24 đến

3,41) trong cả vấn đề đảm bảo nội dung và cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài. Từ sự đồng

nhất trong ý kiến đánh giá của các nhà khoa học rõ ràng, việc xét duyệt đề tài nghiên

cứu mặc dù đã có nhiều đổi mới, song chƣa giải quyết đƣợc những bất cập căn bản. Cụ

thể, việc tài trợ cho các đề tài nghiên cứu chƣa dựa trên những căn cứ rõ ràng để làm

tiêu chí xét duyệt cấp kinh phí cho các dự án khoa học. Hội đồng xét duyệt thƣờng

nhìn vào tên tuổi, chức danh, học vị của các nhà khoa học chủ trì và tham gia đề tài

cũng nhƣ cơ quan của ngƣời đề xuất để quyết định tài trợ (Hộp 3.2).

90

Hộp 3.2: Việc xem xét nhân lực khi xét duyệt đề tài còn mang tính hình thức

“…Tôi được một trưởng NNCM mời tham gia xây dựng thuyết minh và thực hiện một đề tài

cấp nhà nước và khi đề tài được phê duyệt và triển khai tôi mới biết mình không có tên

thành viên chính thức trong Quyết định phê duyệt đề tài bởi tôi là NCS, chưa có bằng tiến

sĩ. Chủ nhiệm đề tài giải thích rằng, để hồ sơ thuyết minh được “đẹp” và dễ được phê duyệt

hơn thì thành viên của đề tài nên gồm những người có học vị tiến sĩ hoặc có chức danh

GS/PGS. Thực tế, hầu hết những người có chức danh/học vị cao đó ít tham gia thực hiện đề

tài”, ThS (NCS), 40 tuổi.

(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)

Cách xét duyệt theo kiểu “nhìn mặt đặt tên” nhƣ trên có hệ quả là hầu hết các đề

tài đƣợc xét duyệt thuộc về các nhà nghiên cứu có danh, có vị, có các mối “quan hệ”

rộng và thuộc về các cơ quan “có tên tuổi”. Kiểu tài trợ nhƣ vậy thƣờng dẫn đến một

thực hành phổ biến hiện nay là các đề tài thƣờng có một danh sách ngƣời chủ trì và

thành viên dƣờng nhƣ đã đƣợc định sẵn, nhƣng kết quả thì có thể rất hạn chế, vì ngƣời

ta có xu hƣớng mƣợn tên các nhà khoa học đứng ở vị trí chủ trì và cả danh sách thành

viên. Thêm nữa, vì mỗi thành viên đứng tên để “thanh khoản” nên các dự án khoa học

lại thƣờng tạo ra tác dụng ngƣợc, có nguy cơ triệt tiêu sáng tạo khoa học và làm mất cá

tính sáng tạo của cá nhân nhà khoa học. Sẽ chỉ còn một nhóm những ngƣời hợp-tan

xung quanh một đề tài, dự án nghiên cứu mà không sản xuất đƣợc các tri thức khoa

học mới, chủ trì đề tài có vai trò khá mơ hồ và dễ thoái thác trách nhiệm do tính “tập

thể’ của dự án nghiên cứu[61].

Ngoài ra, tác giả luận án cũng lấy ý kiến đánh giá của các nhà khoa học và các

nhà quản lý về những nguyên nhân dẫn đến việc không đảm đảm bảo tính nghiêm túc

và chính xác trong đánh giá nghiệm thu đề tài nghiên cứu, kết quả thu đƣợc nhƣ sau:

Bảng 3.15: Đánh giá mức độ nghiêm túc, chính xác trong kiểm tra,

đánh giá, nghiệm thu đề tài nghiên cứu

Nội dung xin ý kiến đánh giá

Điểm trung bình

Văn bản quy định còn chƣa chặt chẽ, hợp lý

3.36

Quá trình thực hiện có tiêu cực

3.09

Cơ chế đánh giá không theo thông lệ quốc tế

3.91

Hội đồng tuyển chọn không đủ năng lực

3.09

Hội đồng đánh giá có nể nang, dễ dãi

3.75

Tiêu chí đánh giá chƣa rõ ràng

3.56

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

91

Biểu đồ 3.13: Đánh giá mức độ nghiêm túc, chính xác trong kiểm tra,

đánh giá, nghiệm thu đề tài nghiên cứu

Từ Bảng 3.15 và Biểu đồ 3.13 trên đây cho thấy, cơ chế đánh giá không theo

thông lệ quốc tế đƣợc các nhà khoa học đánh giá là nguyên nhân chính có ảnh hƣởng

lớn đến mức độ đảm bảo tính nghiêm túc, chính xác trong kiểm tra, đánh giá, nghiệm

thu đề tài/dự án hiện nay. Bên cạnh đó là những ảnh hƣởng từ việc các tiêu chí đánh

giá còn chƣa rõ ràng, văn bản quy định còn chƣa chặt chẽ, hợp lý, sự nể nang, dễ dãi

của hội đồng trong quá trình kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu. Ngoài ra, những vấn đề

tiêu cực trong quá trình thực hiện kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu cũng đƣợc xem là

nguyên nhân dẫn đến kết quả nghiên cứu còn hạn chế (Hộp 3.3).

Hộp 3.3: Tiêu cực phí trong tuyển chọn, nghiệm thu và thanh quyết toán đề tài

“…cần triệt tiêu, hạn chế các tiêu cực phí trong xét duyệt và thanh toán đề tài”

(Nam, 39 tuổi, TS; Nam, 30 tuổi, ThS)

“Cần hạn chế tình trạng phí bôi trơn trong tuyển chọn đề tài và các thủ tục hành

chính rườm rà trong thanh quyết toán đề tài, dự án” (Nam, 44 tuổi, PGS.TS)

“Hạn chế các khoản “hành chính phí” trong tuyển chọn, nghiệm thu đề tài”

(Nam, 35 tuổi, TS)

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

92

3.3. Tiểu kết chƣơng 3

Với những kết quả đã thực hiện, tác giả luận án ghi nhận một số điểm chính

sau đây:

Thứ nhất, các NNCM của ĐHQGHN hầu hết đƣợc hình thành xuất phát từ

chính nhu cầu của các nhà khoa học. Về cơ bản các NNCM đã nhận đƣợc sự hỗ trợ

thông qua một số chính sách trực tiếp và gián tiếp từ ĐHQGHN. Tuy nhiên, thực tiễn

cho thấy, các NNCM đƣợc thành lập không gắn liền với các chƣơng trình nghiên cứu

cụ thể, ĐHQGHN và các trƣờng thành viên cũng không tiến hành đánh giá hiệu quả

hoạt động của các NNCM và giải thể các NNCM do đó việc thành lập NNCM phần

nào đó còn mang tính hình thức. Việc không tiến hành giải thể NNCM cũng làm thui

chột đi động lực phải xây dựng các nhiệm vụ nghiên cứu mới, cũng nhƣ không đảm

bảo tính mới trong khoa học, vì thế hiệu quả hoạt động KH&CN của các NNCM về

lâu dài sẽ không cao.

Thứ hai, các tiêu chí NNCM của ĐHQGHN đã hƣớng đến việc xem xét 3 nội

dung chính gồm: (1) Hƣớng nghiên cứu, tiêu chí này nhằm làm rõ thế mạnh của Nhóm

trong lĩnh vực nghiên cứu mà nhóm theo đuổi; (2) Sự xuất sắc của các thành viên, tiêu

chí này nhằm đánh giá năng lực của các thành viên trong việc thực hiện các chƣơng

trình/dự án nghiên cứu, các kết quả nghiên cứu đƣợc công bố hoặc ứng dụng trong

thực tiễn; (3) Cơ sở vật chất - trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, tiêu chí này nhằm

đánh giá các điều kiện cơ bản để nhóm có thể triển khai các chƣơng trình, dự án

nghiên cứu. Tuy nhiên, các tiêu chí còn định tính khó đo lƣờng, có những tiêu chí đặt

ra quá cao không phù hợp với thực tế, các tiêu chí cũng không xem xét đến tình đặc

thù của từng lĩnh vực nghiên cứu. Đặc biệt, các tiêu chí còn thiếu thống nhất khi áp

dụng trong ĐHQGHN. Kết quả đánh giá của các nhà khoa học về khả năng đáp ứng

các tiêu chí quốc tế của các NNCM ở ĐHQGHN là không cao do đó các NNCM ở

ĐHQGHN vẫn còn một khoảng cách khá xa so với các NNC quốc tế.

Thứ ba, đặc trƣng chính trong các NNCM ở ĐHQGHN là các nhóm đƣợc tổ

chức theo triết lý vòng hạt nhân gồm 3 vòng tròn đồng tâm, với việc phân định vai trò

và tập hợp lực lƣợng theo 3 nhóm nhân lực trong nhóm. Khảo sát thực tế cho thấy, lĩnh

vực KHTN và KHXH&NV là hai lĩnh vực thế mạnh của các NNCM, các nhà khoa học

làm việc trong các NNCM đều là các nhà khoa học có trình độ cao, quy mô thành viên

hợp lý, năng lực nghiên cứu của các thành viên NNCM cao hơn nhiều so với mặt bằng

chung, điều này đƣợc minh chứng bởi những đóng góp tích cực của Nhóm trong việc

93

nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN, đƣợc các nhà khoa học, các nhà quản lý đánh

giá cao. Tuy nhiên, một điểm đáng lƣu ý là độ tuổi trung bình của trƣởng NNCM là

tƣơng đối cao (59.8 tuổi), trình độ càng cao thì tuổi càng cao. Trong đó, có đến 59% số

trƣởng NNCM đã qua tuổi 60 không còn giữ chức vụ quản lý, 41% trƣởng NNCM

dƣới 60 tuổi đều đang giữ các chức vụ từ cấp lãnh đạo khoa, lãnh đạo trƣờng thành

viên đến lãnh đạo các Ban hay lãnh đạo ĐHQGHN. Điều đó vừa là thuận lợi, vừa là

khó khăn cho các NNCM trong quá trình triển khai hoạt động KH&CN. Thuận lợi ở

chỗ, đối với trƣởng NNCM đã qua tuổi 60 (tức qua tuổi giữ chức vụ quản lý) họ có

nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu, đối với những trƣởng NNCM dƣới 60

tuổi (đang giữ chức vụ quản lý) họ có mối quan hệ rộng để kết nối và huy động các đề

tài, dự án nghiên cứu. Ngƣợc lại, khó khăn ở chỗ những thủ lĩnh nhóm có độ tuổi cao,

sức yếu, khả năng, động lực đóng góp cho khoa học dần giảm sút, còn những ngƣời

trẻ, sung sức lại đang giữ những chức vụ quản lý quan trọng và do vậy họ không có

nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu.

Cuối cùng, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, việc không tìm kiếm đƣợc nguồn

kinh phí để đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu, thiếu cán bộ khoa học có tầm ảnh

hƣởng lớn, năng lực đội ngũ còn kém là yếu tố ảnh hƣởng mạnh mẽ nhất đến sự phát

triển NNCM. Bên cạnh đó, các yếu tố thuộc về môi trƣờng, chính sách nhƣ: Kinh phí

nghiên cứu khoa học quá eo hẹp, thủ tục thanh toán còn phiều phức, cơ chế quản lý

NCKH còn mang nặng tính xin-cho, điều kiện vật chất thiếu thốn, định mức chi cho

NCKH không phù hợp và thu nhập từ làm NCKH còn quá thấp cũng có ảnh hƣởng lớn

đến hiệu quả hoạt động và khả năng phát huy năng lực cũng nhƣ quá trình xây dựng và

phát triển NNCM.

94

CHƢƠNG 4. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

4.1. Dẫn nhập

Từ việc xem xét thực trạng cơ sở hình thành và phát triển NNCM trong các

trƣờng đại học thông qua trƣờng hợp ĐHQGHN, tác giả luận án nhận thấy các NNCM

sẽ không thể hình thành và phát triển nếu không có những chính sách đầu tƣ, định

hƣớng của của Nhà nƣớc nói chung và các trƣờng đại học nói riêng. Do vậy, việc phân

tích, đánh giá những tác động của chính sách hiện hành để có những bổ sung, điều

chỉnh phù hợp là rất quan trọng nhằm thúc đẩy NNCM phát triển. Theo đó, chƣơng

này sẽ tập trung vào hai nội dung chính sau đây:

Nội dung thứ nhất, đề cập một cách tổng quan về những chính sách ở tầm quốc

gia có tác động đến sự hình thành và phát triển NNCM bao gồm 1) Quy định quyền tự

chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN; 2) Chính sách tài trợ cho NNCM

thông qua triển khai các chƣơng trình/dự án nghiên cứu; 3) Chính sách đào tạo, bồi

dƣỡng theo NNC và nhiệm vụ nghiên cứu; 4) Chính sách đầu tƣ phát triển tiềm lực và

khuyến khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở GDĐH; 5) Chính sách đẩy mạnh đổi

mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KH&CN; 6) Chính sách tuyển sinh và đào tạo tiến

sĩ; 7) Quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức

danh GS/PGS; 8) Hƣớng dẫn phát triển các NNCM trong các cơ sở giáo dục đại học

đang đƣợc Bộ GD&ĐT dự thảo.

Nội dung thứ hai, tập trung phân tích và đánh giá tổng thể 3 nhóm chính sách

phát triển NNCM của ĐHQGHN bao gồm: Nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn

nhân lực; Nhóm chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu; Nhóm chính

sách hợp tác và phát triển. Đây là những nhóm chính sách có tác động cả trực tiếp và

gián tiếp đến sự phát triển NNCM ở ĐHQGHN hiện nay. Theo đó, với mỗi nhóm

chính sách, luận án sẽ xem xét nội dung thực hiện, kết quả thực hiện, đánh giá tác

động, hiệu lực, hiệu quả của chính sách, cũng nhƣ những hạn chế của các nhóm chính

sách để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách.

4.2. Tổng quan về chính sách của Nhà nƣớc có tác động đến sự hình thành và

phát triển NNCM trong các trƣờng đại học

Vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức khoa học trong phát triển và xây dựng

đất nƣớc đã đƣợc Đảng ta chỉ ra ngay từ những ngày lập nƣớc, điều này đã đƣợc thể

95

hiện trong Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam đối với trí thức, trong đó, chỉ rõ

“Trí thức là vốn quý của dân tộc. Không có trí thức hợp tác với công - nông thì cách

mạng không thể thành công và sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam mới sẽ không

thể hoàn thành được”[1] .

Đây là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nƣớc ta trong suốt quá trình xây

dựng, đổi mới và phát triển. Với ý nghĩa đó, giáo dục và đào tạo, KH&CN luôn đƣợc

coi là quốc sách hàng đầu và đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm đầu tƣ trong hàng thập

kỷ qua, bởi, để có đƣợc đội ngũ trí khoa học mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng thì

giáo dục và đào tạo, KH&CN có vai trò quyết định.

Với nhận thức chung rằng, NNCM là nơi hội tụ của các nhà khoa học chất lƣợng

cao, những ngƣời có năng lực tổ chức nghiên cứu, có khả năng kết hợp để xây dựng

những hƣớng nghiên cứu mới, giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu phức tạp, quy mô

lớn, huy động đƣợc các nguồn lực để triển khai hoạt động KH&CN nhằm tạo ra các

công trình nghiên cứu có chất lƣợng ở tầm lý luận và thực tiễn, đóng góp tích cực cho sự

phát triển chung của nền khoa học học thế giới và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất

nƣớc, trong hơn 10 năm trở lại đây Đảng và Nhà nƣớc đã có nhiều chủ trƣơng, chính

sách nhằm thúc đẩy phát triển NNCM trong trƣờng đại học. Điều này đƣợc cụ thể hóa

trong luật KH&CN; Luật Giáo dục và Đào tạo; các Nghị định về việc đầu tƣ phát triển

tiềm lực và khuyết khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở giáo dục đại học; các

Quyết định phê duyệt đề án đào tạo, bồi dƣỡng nhân lực KH&CN trong và ngoài nƣớc

bằng ngân sách nhà nƣớc; các thông tƣ quy định quản lý đề tài nghiên cứu v.v.

Để làm rõ hơn những nội dung của chính sách, trong phần này, tác giả luận án

sẽ tập trung xem xét một cách tổng quan về những chính sách của Nhà nƣớc có tác

động đến sự hình thành và phát triển của NNCM trong các trƣờng đại học hiện nay

bao gồm: Nghị định 115/2005/NĐ-CP, ngày 05/9/2005 (nay được thay thể bởi Nghị

định 54/2016/NĐ-CP, ngày 14/6/2016), Nghị định 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006

(nay được thay thể bởi Nghị định 16/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015) của Chính phủ;

Thông tƣ số 37/2014/TT-BKHCN, ngày 12/12/2014, Quy định quản lý đề tài nghiên

cứu cơ bản do Quỹ phát triển KH&CN Quốc gia tài trợ; Đề án đào tạo, bồi dƣỡng

nhân lực KH&CN trong nƣớc và nƣớc ngoài bằng ngân sách nhà nƣớc đƣợc phê duyệt

theo Quyết định số 2395/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tƣớng chính phủ; Nghị

định 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/1014 của Thủ tƣớng Chính phủ quy định việc đầu tƣ

phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở giáo dục đại

96

học; Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KH&CN”; Thông tƣ số

08/2017/TT-BGDĐT, ngày 04/4/2017 của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc

ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ; Quyết định số 37/2018/QĐ-

TTg ngày 31/8/2018 của Thủ tƣớng chính phủ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn,

thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sƣ, phó giáo sƣ; thủ

tục xét hủy bỏ công nhận chức danh và miễn nhiệm chức danh giáo sƣ, phó giáo sƣ;

Dự thảo Thông tƣ Hƣớng dẫn phát triển NNCM trong các cơ sở giáo dục đại học đƣợc

Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì xây dựng và đang lấy ý kiến đóng góp của các cơ sở

đào tạo trong cả nƣớc ngày 01/4/2019. Sau đây là những nội dung cụ thể:

4.2.1. Chính sách quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức

KH&CN công lập, đơn vị sự nghiệp công lập

Đây là chính sách đƣợc quy định tại Nghị định 115/2005/NĐ-CP, ngày

05/9/2005 (nay được thay thể bởi Nghị định 54/2016/NĐ-CP, ngày 14/6/2016), Nghị

định 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006 (nay được thay thể bởi Nghị định 16/2015/NĐ-

CP, ngày 14/02/2015) của Chính phủ. Xét về bản chất đây là những Nghị định mang

triết lý “Tự trị” của KH&CN. Đó là một triết lý tiến bộ, phù hợp với xu thế của một

nền KH&CN đƣơng đại. Nghị định đã xác khẳng định hệ thống KH&CN Việt Nam

phải là một hệ thống KH&CN đƣợc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Điều này, trở thành

động lực để các tổ chức KH&CN đƣợc nêu lên những đòi hỏi chính đáng về quyền tự

chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động KH&CN, cũng nhƣ có nhiều cơ hội để từng

bƣớc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mình.

Tuy nhiên, về cơ bản Nhà nƣớc vẫn nắm quyền làm chủ các nhiệm vụ nghiên

cứu khoa học. Bên cạnh đó, sự không tƣơng thích giữa triết lý tự chủ, tự chịu trách

nhiệm của tổ chức KH&CN với các thiết chế quản lý vĩ mô về nhiều mặt nhƣ nhân

lực, tài chính, tổ chức… cũng đang là những rào cản không dễ tháo gỡ đối với vấn để

tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN. Một trong những minh chứng

cho những bất cập nêu trên phải kể đến vấn đề tuyển chọn, đấu thầu, xét duyệt đề tài

nhà nƣớc các cấp. Cụ thể là trƣớc đây, ngƣời đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu thì không

đƣợc tham gia đấu thầu, kết quả, không ai muốn đề xuất nữa bởi ngƣời đấu thầu không

nhất thiết là những ngƣời thật sự am hiểu ý tƣởng khoa học trong nhiệm vụ nghiên

cứu. Hiện nay, ngƣời đề xuất ý tƣởng cũng đƣợc tham gia đấu thầu thì lại gặp tính

huống khác, khi sản phẩm là một đối tƣợng sở hữu công nghiệp, thì quyền sở hữu

thuộc nhà đầu tƣ, tức Nhà nƣớc, không thuộc tác giả, vì tác giả trên danh nghĩa là

97

ngƣời làm thuê. Đây là hiện tƣợng bất hợp lý và dẫn đến một hệ lụy khác là không ai

muốn đề xuất ý tƣởng nghiên cứu cho Nhà nƣớc nữa. Họ để dành ý tƣởng nghiên cứu

để tìm kiếm dự án xin tài trợ nƣớc ngoài. Bên cạnh đó là việc sáng kiến của các

chuyên gia trong nhiều trƣờng hợp, lại không hoàn toàn gắn với nhu cầu nâng cao

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trƣờng[7, tr.152]. Nhƣ vậy, các trƣờng

đại học công lập với tƣ cách là một tổ KH&CN hay cơ quan sự nghiệp công lập vẫn

đang loay hoay với vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm thì các, NNC, NNCM với tƣ

cách là hạt nhân triển khai các hoạt động KH&CN của các trƣờng đại học cũng chịu

tác động bởi những rào cản của chính sách nêu trên.

4.2.2. Chính sách tài trợ cho NNCM

Đây là một trong những chính sách đƣợc xem là có tính đột phá, tác động trực

tiếp đến sự phát triển các NNCM, với kỳ vọng tạo ra những kết quả nghiên cứu chất

lƣợng cao, đƣợc đo lƣờng bởi các tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế, đƣợc Quỹ Nafosted

thực hiện theo Quy định tại Thông tƣ số 37/2014/TT-BKHCN ngày 12/12/2014 của

Bộ trƣởng Bộ KH&CN. Theo đó, để nhận đƣợc tài trợ từ Quỹ, NNCM ngoài việc xây

dựng đƣợc một chƣơng trình nghiên cứu xứng tầm thì các tiêu chuẩn đối với các thành

viên chủ chốt cũng rất cao, cụ thể: 1) Chủ nhiệm đề tài có kết quả công bố trên các tạp

chí ISI có uy tín phù hợp trong thời gian 05 năm tính đến thời điểm nộp hồ sơ, có khả

năng tập hợp đƣợc nhiều nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao tham gia thực hiện

đề tài, duy trì đƣợc hợp tác nghiên cứu khoa học thƣờng xuyên với các NNC quốc tế

cùng ngành, liên ngành; 2) Có ít nhất 02 thành viên nghiên cứu chủ chốt của đề tài đáp

ứng yêu cầu của chủ nhiệm đề tài; 3) Tổ chức chủ trì đề tài có đủ điều kiện về cơ sở

vật chất - kỹ thuật, năng lực nghiên cứu và cam kết hỗ trợ trong thời gian thực hiện

nghiên cứu. Đồng thời, kết quả đề tài do NNCM thực hiện phải có ít nhất 02 bài báo

công bố trên tạp chí ISI có uy tín và 01 bài báo công bố trên tạp chí quốc gia có uy tín.

Trong đó, chủ nhiệm đề tài là tác giả chính của ít nhất 01 bài báo công bố trên tạp chí

quốc tế có uy tín là kết quả của đề tài. Đặc biệt, thời gian và kinh phí thực hiện chƣơng

trình nghiên cứu do NNCM chủ động đề xuất trên cơ sở nội dung nghiên cứu và khối

lƣợng công việc của chƣơng trình. Những đề xuất của NNCM chƣa đạt đƣợc những

tiêu chuẩn yêu cầu, NNCM vẫn có cơ hội đƣợc tài trợ ở các chƣơng trình nghiên cứu

thông thƣờng của Quỹ.

Nhƣ vậy, chính sách đầu tƣ trực tiếp cho các NNCM là một trong những cơ hội

lớn để các NNCM phát triển. Đặc biệt, việc không khống chế trần kinh phí và thời

98

gian thực hiện nghiên cứu là một điểm rất mới, rất đột phá trong chính sách của Nhà

nƣớc nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học có cơ hội phát triển NNCM

có chất lƣợng, hƣớng đến giải quyết các vấn đề khoa học phức tạp, quy mô lớn, chất

lƣợng cao. Mặc dù vậy, thực tế cho thấy, kể từ năm 2013 đến nay, tức sau 5 năm thực

hiện chính sách, trong cả nƣớc mới có ba NNCM nhận đƣợc tài trợ từ Quỹ, con số đó

cho thấy số lƣợng NNCM đƣợc tài trợ còn rất thấp và do đó chƣa tạo đƣợc sự bứt phá,

có tầm ảnh hƣởng lớn cho nền khoa học nƣớc nhà.

4.2.3. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với NNC

Đây là một trong những nội dung đƣợc triển khai trong Đề án đào tạo, bồi

dƣỡng nhân lực KH&CN trong nƣớc và nƣớc ngoài bằng ngân sách nhà nƣớc đƣợc

phê duyệt theo Quyết định số 2395/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tƣớng chính

phủ. Với mục tiêu từ 2016 - 2025 sẽ đào tạo đƣợc khoảng 130 NNC ở nƣớc ngoài

trong thời gian 6 tháng nhằm hình thành các NNCM, có đủ năng lực giải quyết các

nhiệm vụ KH&CN quan trọng của ngành, lĩnh vực. Nhƣ vậy, đây là một trong những

chính sách có tiếp cận rất mới bởi thay vì tiếp cận đào tạo theo từng cá nhân nhà khoa

học thì chính sách đã tiếp cận đến việc đào tạo theo nhóm các nhà khoa học, để tìm

hiểu rõ hơn về chính sách, tác giả luận án đã có buổi trao đổi trực tiếp với lãnh đạo

Viện Chiến lƣợc và Chính sách KH&CN tại Hội thảo Tăng cƣờng hoạt động NCKH

gắn với phát triển các NNCM của Trƣờng Đại học KHTN, ĐHQGHN, sau đây là một

số ghi nhận về những nội dung chính sẽ đƣợc Đề án triển khai (Hộp 4.1).

Hộp 4.1: Ý kiến của lãnh đạo Viện Chiến lƣợc và Chính sách KH&CN về chính sách

đào tạo đối với NNCM.

1) Đề án hướng đến việc gắn thực tiễn đào tạo với doanh nghiệp, các nhà khoa học

có thể ra nước ngoài học tập, nghiên cứu hoặc cũng có thể tham gia nghiên cứu tại chính

các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, kinh phí được Nhà nước tài trợ toàn bộ. Các

nhà khoa học sẽ làm việc trong các phòng thí nghiệm, hay các phòng Lab tại các cơ quan,

doanh nghiệp. Từ quá trình nghiên cứu tại các cơ quan, doanh nghiệp sẽ mở ra cho các

nhà nghiên cứu việc ký kết hợp tác triển khai các hoạt động nghiên cứu qua đó nâng cao

hiệu quả nghiên cứu và thúc đẩy các nghiên cứu gắn với thực tiễn và góp phần phát triển

kinh tế xã hội. Đây cũng là đề án đầu tiên hướng đến việc hỗ trợ cho các NNC, nếu như các

đề án trước đây hỗ trợ cho riêng các nhà khoa học thì đề án này sẽ hỗ trợ cho các NNC. Đề

án sẽ hỗ trợ các nhóm ở các lĩnh vực khác nhau để cùng thực hiện một hoạt động, một

nhiệm vụ nghiên cứu và kết quả là giải quyết được bài toán nghiên cứu và nội dung nghiên

cứu của Nhóm;

99

2) Đề án hướng đến quản lý nguồn nhân lực, quản lý quá trình tổ chức hoạt động

KH&CN. Nếu như trước đây, quản lý KH&CN vẫn hiểu là quản lý nhiệm vụ nghiên cứu,

quản lý đề tài, quản lý quá trình nghiên cứu thì quản lý hoạt động KH&CN hiện nay sẽ bao

gồm quản lý nguồn nhân lực, quản lý cái quá trình tổ chức hoạt động KH&CN, như vấn đề

giải quyết bài bài toán đánh giá công nghệ, lựa chọn công nghệ để xem công nghệ nào phù

hợp trong điều kiện của nước ta; đánh giá công nghệ thế nào? chuyển giao công nghệ ra

sao? các quyền sở hữu trí tuệ, quản lý tài sản trí tuệ, khai thác và sử dụng các tài sản trí

tuệ như thế nào? và các nội dung này sẽ được đề án tài trợ; 3) Đề án sẽ hỗ trợ và tài trợ

toàn bộ kinh phí đi lại, ăn ở, trong và ngoài nước cho các NNC và đặc biệt là kinh phí sẽ

chi trả cho cơ sở doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị hay công ty mà nhà khoa học đến làm việc,

học tập.

Việc xét duyệt hồ sơ tài trợ là nguồn nhân lực của nhóm và quá trình hoạt động KH&CN

của nhóm như là một nhiệm vụ nghiên cứu, yêu cầu nghiên cứu mà nhóm cần giải quyết và

trên cơ sở yêu cầu đó các thuyết minh đầu ra để đáp ứng yêu cầu. Kinh phí sẽ cấp trực tiếp

cho những nhóm nộp đơn và kinh phí chi trả trực tiếp cho các cơ quan doanh nghiệp mà

các nhà khoa học đi học tập và nghiên cứu. Bộ KH&CN cũng sẽ xây dựng một bộ cơ sở dữ

liệu các đối tác ở nước ngoài để các nhà khoa học khi có nhu cầu có thể tìm kiếm, Bộ

KH&CN có mạng lưới văn phòng KH&CN ở khắp các tỉnh thành và các văn phòng có

nhiệm vụ tìm các đối tác để hỗ trợ lại cho các nhà khoa học Việt Nam khi có các yêu cầu và

bài toán cần phải giải quyết.

Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài

Nhƣ vậy, đây là một trong những chính sách có tác động trực tiếp đến sự phát

triển của các NNCM, tính mới trong tiếp cận của đề án là đào tạo theo nhóm, đào tạo

theo hƣớng nghiên cứu, chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo gắn liền với

thực tiễn tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nƣớc ngoài tại Việt Nam hoặc các cơ

quan, tổ chức doanh nghiệp ở nƣớc ngoài nhằm giải quyết những vấn đề nghiên cứu cụ

thể của các nhà khoa học. Mặc dù trên thực tế, đề án đã đƣợc phê duyệt từ năm 2015,

tuy nhiên theo ghi nhận của tác giả luận án, khi phỏng vấn trực tiếp lãnh đạo Viện

Chiến lƣợc và Chính sách KH&CN, chính sách đang ở giai đoạn khởi động và kêu gọi

các nhà khoa học đề xuất hồ sơ xin tài trợ. Do vậy, chƣa có cơ sở để xem xét hiệu lực

và hiệu quả của chính sách nhƣng rõ ràng chính sách đã cho thấy sự thay đổi trong

nhận thức của các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách về việc đào tạo những

ngƣời làm khoa học thực sự, đào tạo qua nghiên cứu, để nghiên cứu nhằm khắc phục

tình trạng ngƣời đƣợc tào tạo thì không làm khoa học, ngƣời làm khoa học thì không

100

đƣợc đào tạo. Đồng thời, chính sách cũng là cơ hội tốt cho các nhà khoa học nâng cao

năng lực nghiên cứu.

4.2.4. Chính sách đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động KH&CN

trong các cơ sở GDĐH

Đây là chính sách đƣợc ban hành theo Nghị định 99/2014/NĐ-CP ngày

25/10/1014 của Thủ tƣớng Chính phủ, với mục tiêu tạo điều kiện tốt cho những ngƣời

làm khoa học tại các trƣờng tham gia hiệu quả vào việc nâng cao tiềm lực KH&CN

của đất nƣớc. Đây cũng là một trong những chính sách có tác động trực tiếp đến các

nhà khoa học làm việc tại các cơ sở GDĐH, theo đó, giảng viên trong các cơ sở này

đƣợc hƣởng ƣu đãi về thuế thu nhập cá nhân đối với phần thu nhập có từ hợp đồng

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thuộc lĩnh vực ƣu tiên, trọng điểm cũng

nhƣ các hợp đồng thực hiện tại miền núi, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn. Giảng

viên đƣợc thƣởng tiền không quá 30 lần mức lƣơng cơ sở chung nếu công bố đƣợc 1

bài báo trên tạp chí khoa học quốc tế uy tín trong danh mục ISI, SCI, SCIE.

Ngoài ra, các nhà khoa học đƣợc hỗ trợ 50% phí đăng ký bảo hộ quyền tác giả

và đƣợc tính tƣơng đƣơng 20 giờ giảng dạy lý thuyết nếu công bố đƣợc 1 bài báo trên

tạp chí khoa học có thang điểm 1 trong danh mục của Hội đồng chức danh Giáo sƣ

Nhà nƣớc. Lực lƣợng cán bộ giảng dạy - nghiên cứu có trình độ cao nhƣ các giáo sƣ sẽ

đƣợc hỗ trợ thành lập NNC xuất sắc và đƣợc cấp kinh phí hoạt động; đƣợc tham gia

hội thảo, hội nghị khoa học trong nƣớc và quốc tế (tối đa 2 lần/năm) từ nguồn kinh phí

sự nghiệp KH&CN; đƣợc ƣu tiên chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ gắn với

nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ. Còn giảng viên là các nhà khoa học trẻ tài năng thì bên cạnh

việc đƣợc hƣởng các chính sách khuyến khích hỗ trợ theo Nghị định 40/2014/NĐ-CP

ngày 12-5-2014 của Chính phủ, còn đƣợc ƣu tiên tuyển chọn đi học nâng cao trình độ;

đƣợc tạo điều kiện tham gia NCKH, giao chủ trì việc thực hiện các nhiệm vụ tiềm

năng với hình thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng; đƣợc xem xét hỗ trợ kinh phí

tham gia các hội nghị, hội thảo; đƣợc sử dụng các PTN trọng điểm quốc gia, chuyên

ngành, liên ngành...

4.2.5. Chính sách đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KH&CN

Đây là chính sách nhằm phát triển các tổ chức KH&CN công lập, liên kết giữa

các tổ chức Viện - Trƣờng- Doanh nghiệp và thu hút chuyên gia nƣớc ngoài, ngƣời

Việt Nam ở nƣớc ngoài về Việt Nam hợp tác nghiên cứu đƣợc thực hiện bởi Dự án

“Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KH&CN” hay còn gọi là Dự án

101

FIRST, với tổng kinh phí 110.000.000 USD, trong đó vốn vay ƣu đãi của IDA là

100.000.000 USD và vốn đối ứng của Việt Nam là 10.000.000 USD, giai đoạn triển

khai từ 2013-2019. Đây là một trong những chính sách đầu tƣ cho KH&CN rất lớn

đƣợc triển khai hƣớng đến mục tiêu đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu

KH&CN góp phần hỗ trợ nâng cao năng suất, khả năng cạnh tranh và chất lƣợng tăng

trƣởng của nền kinh tế Việt Nam; Việc tăng cƣờng hiệu quả hoạt động nghiên cứu

khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động sáng

tạo, đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp sẽ tạo thêm giá trị gia tăng cho nền kinh tế.

Trong đó, chú trọng hỗ trợ phát triển KH&CN, thúc đẩy đổi mới sáng tạo công nghệ

thông qua 1) Xây dựng và thí điểm triển khai một số chính sách mới góp phần hoàn

thiện khung chính sách quốc gia khuyến khích phát triển KH&CN; 2) Nâng cao năng

lực của các tổ chức KH&CN theo hƣớng chủ động gắn kết chặt chẽ với nhu cầu của

thị trƣờng và các doanh nghiệp; 3) Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong các doanh

nghiệp, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp KH&CN[46].

Kết quả sơ bộ của dự án tính đến năm 2018 cho thấy, có trên 600 chuyên gia

giỏi nƣớc ngoài tham gia hỗ trợ, hợp tác với các đối tác, viện, trƣờng đại học và doanh

nghiệp trong nƣớc để giải quyết các vấn đề cụ thể trong nghiên cứu, đào tạo và sản

xuất, kinh doanh. Các chuyên gia giỏi nƣớc ngoài đã cùng các đối tác trong nƣớc xây

dựng và nộp 212 đề xuất/tiểu dự án cụ thể. Dự án FIRST đã xem xét, lựa chọn và tài

trợ cho gần 90 chuyên gia giỏi nƣớc ngoài, trong đó có 29 chuyên gia ngƣời Việt Nam

ở nƣớc ngoài để thực hiện 38 tiểu dự án[57].

4.2.6. Chính sách tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ

Đây là chính sách đƣợc ban hành theo Thông tƣ số 08/2017/TT-BGDĐT, ngày

01/4/2017 của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nội dung của chính sách đã cho thấy

những bƣớc tiến quan trọng trong việc áp những chuẩn mực quốc tế nhằm hƣớng đến

mục tiêu nâng cao chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu. Sau đây là 5 nội dung chính có tác

động trực tiếp đến NCS và các nhà khoa học tham gia vào quá trình đào tạo NCS, cụ

thể: 1) Tiêu chuẩn đầu vào tiến sĩ được nâng cao hơn về cả học lực, công trình nghiên

cứu và ngoại ngữ đối với ứng viên, theo đó ứng viên phải có bằng thạc sĩ hoặc bằng đại

học loại giỏi, đồng thời phải là tác giả hoặc đồng tác giả của tối thiểu 1 bài báo liên quan

đến lĩnh vực hoặc đề tài nghiên cứu dự kiến đăng trên các tạp chí thuộc danh mục các

tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc 1 báo cáo đăng tại kỷ yếu của các hội nghị, hội thảo

khoa học trong nƣớc hoặc nƣớc ngoài trong thời hạn 3 năm tính đến ngày đăng ký dự

102

tuyển. Bên cạnh đó, các ứng viên phải đảm bảo có chứng chỉ tiếng Anh TOEFL iBT từ

45 trở lên hoặc Chứng chỉ IELTS (Academic Test) từ 5.0 trở lên hoặc Chứng chỉ

TOEIC từ 500 điểm trở lên do một tổ chức khảo thí đƣợc quốc tế và Việt Nam công

nhận cấp trong thời hạn 2 năm (24 tháng) kể từ ngày cấp đến ngày đăng ký dự tuyển; 2)

Thời gian đào tạo tiến sĩ cũng được quy định chặt chẽ theo hướng đào tạo tập trung, rút

ngắn thời gian đào tạo, theo đó tổng thời gian đào tạo tiến sĩ là 5 - 6 năm kể từ khi có

quyết định công nhận NCS; 3) Tiêu chuẩn đối với đầu ra NCS cũng được nâng lên rất

cao, theo đó NCS phải công bố ít nhất 2 bài báo có liên quan trực tiếp đến luận án, trong

đó có ít nhất 1 bài đăng trong tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI/ Scopus

hoặc 2 báo cáo đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc 2 bài báo đăng trên

tạp chí khoa học nƣớc ngoài có phản biện khác.

Đặc biệt, nếu luận án của NCS không đƣợc Hội đồng đánh giá luận án thông

qua thì đơn vị đào tạo ra quyết định thôi học đối với NCS và không bảo lƣu kết quả

đào tạo; 4) Tiêu chuẩn đối với cán bộ hướng dẫn khoa học cũng đặt ra yêu cầu cao

hơn, theo đó ngƣời hƣớng dẫn có chức danh giáo sƣ hoặc phó giáo sƣ hoặc có bằng

tiến sĩ khoa học hoặc tiến sĩ phải có chuyên môn phù hợp với đề tài luận án hoặc lĩnh

vực nghiên cứu của NCS. Đồng thời, cán bộ hƣớng dẫn NCS cũng phải chủ trì các

nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở trở lên. Đặc biệt, cán bộ hƣớng dẫn phải có tối thiểu 1

bài báo đăng trên các tạp chí ISI hoặc Scopus hoặc 1 sách tham khảo của các nhà xuất

bản nƣớc ngoài có mã số chuẩn quốc tế ISBN hoặc có 2 báo cáo đăng trên tạp chí khoa

học nƣớc ngoài có phản biện khác thuộc lĩnh vực nghiên cứu liên quan tới đề tài luận

án của NCS và có năng lực ngoại ngữ để phục vụ nghiên cứu vào trao đổi khoa học

quốc tế. Ngoài ra, với ngƣời hƣớng dẫn NCS độc lập có trình độ tiến sĩ chƣa đƣợc

phong chức danh GS, PGS thì phải có thêm 1 bài báo hoặc công trình đăng trên tạp chí

khoa học thuộc danh mục ISI/ Scopus và phải có ít nhất 3 năm kinh nghiệm trong

nghiên cứu hoặc giảng dạy; 5) Tiêu chuẩn đối với thành viên hội đồng chấm luận án

tiến sĩ cũng đặt ra cao hơn, theo đó thành viên hội đồng phải có công trình nghiên

cứu, có uy tín và kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp liên quan đến lĩnh vực nghiên

cứu của NCS, trong đó ngƣời phản biện phải có tối thiểu 1 bài báo hoặc báo cáo khoa

học đăng trên tạp chí khoa học nƣớc ngoài có phản biện hoặc trong kỷ yếu hội thảo

quốc tế có phản biện.

Xem xét ở góc độ thực tế kể từ khi chính sách ra đời và có hiệu lực đến nay cho

thấy, chính sách đã có tác động rõ rệt đến công tác tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ của các

103

trƣờng đại học. Theo số liệu thống kê của ĐHQGHN, trƣớc khi quy chế đào tào tạo

tiến sĩ mới ra đời, hàng năm, ĐHQGHN tuyển khoảng 350 NCS và tổng quy mô đào

tạo tính đến năm 2018 khoảng 1400 NCS, trong đó, quy mô đào tạo của riêng khối

KHTN và Công nghệ khoảng 500 NCS, 80% NCS trong số đó có bài ISI/Scopus. Theo

đó, trong số khoảng 600 bài ISI/Scopus hàng năm của ĐHQGHN có hơn 400 bài có

đóng góp tích cực của các NCS. Tuy nhiên, tác động từ những quy định mới của Quy

chế đã khiến cho lƣợng NCS sụt giảm mạnh, cụ thể, nếu chỉ tính riêng kỳ tuyển sinh

đợt 1 (4/2017), ĐHQGHN tuyển đƣợc 220 NCS thì đợt 1 năm 2018 (4/2018) số NCS

tuyển đƣợc chỉ còn 54 tức giảm khoảng 75%. Nhƣ vậy, nếu tiếp tục, số lƣợng tuyển

mới chỉ khoảng 100 NCS/năm và quy mô sẽ khoảng 300 NCS. Điều đó kéo theo việc

công bố quốc tế sẽ giảm, với quy mô NCS nhƣ trên dự báo mỗi năm, ĐHQGHN sẽ chỉ

còn 150 bài ISI, thay vì 400 nhƣ trƣớc. Từ những áp lực đặt ra bởi Quy chế, nhiều nhà

khoa học tin rằng để thu hút NCS và nâng cao chất lƣợng đào tạo thì NCS cần đƣợc

làm việc trong một không gian chuyên nghiệp, tham gia vào các NNCM, từ đó phát

triển đƣợc hƣớng nghiên cứu lâu dài[8]. Nhƣ vậy, Quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến

sĩ mới ra đời đã cho thấy nhận thức của các nhà làm chính sách giáo dục đã có những

thay đổi theo hƣớng tiếp cận đến chất lƣợng và không còn chú trọng đến số lƣợng nhƣ

trƣớc đây. Điều này dẫn đến việc, chính sách không chỉ gây áp lực buộc các trƣờng đại

học phải thay đổi cách thức đào tạo và nghiên cứu để thích ứng với tình hình mới mà

còn tạo áp lực với cả ngƣời đào tạo và ngƣời đƣợc đào tạo theo hƣớng hiệu quả và

thực chất hơn. Đồng thời, chính sách cũng có thể xem là động lực để các nhà khoa học

hƣớng đến làm việc cùng nhau thông qua mô hình NNCM nhằm thúc đẩy hiệu quả đào

tạo và nghiên cứu. Bởi NNCM cần NCS để thực hiện các chƣơng trình, dự án nghiên

cứu và NCS cũng cần số liệu từ các chƣơng trình, dự án nghiên cứu, cũng nhƣ tƣ liệu

và kinh phí để thực hiện chƣơng trình luận án của cá nhân.

4.2.7. Chính sách quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ

nhiệm chức danh GS/PGS

Đây là chính sách đƣợc ban hành theo Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg ngày

31/8/2018 của Thủ tƣớng chính phủ. Nội dung của chính sách đã có những bƣớc tiến

quan trọng trong việc hƣớng đến mục tiêu đánh giá đúng năng lực của các nhà khoa

học và dần hội nhập với chuẩn mực quốc tế. Sau đây, tác giả luận án sẽ điểm qua

những quy định rất mới đƣợc xem là ƣu điểm của chính sách cũng nhƣ một số bất cập

có tác động trực tiếp đến các nhà khoa học, cụ thể: 1) Tiêu chuẩn đánh giá năng lực

104

của các nhà khoa học sẽ dựa trên năng suất nghiên cứu thông qua việc công bố các

công trình nghiên cứu trên tạp chí quốc tế uy tín (ISI/Scopus); 2) các tiêu chuẩn không

còn bị bó cứng ở các khung riêng biệt nhƣ trƣớc đây mà các tiêu chuẩn đƣợc áp dụng

linh hoạt, thông qua việc các tiêu chuẩn có thể hoán đổi cho nhau, thiếu điều kiện này

thì đƣợc bù bằng điều kiện khác; 3) Chức danh của các nhà khoa học cũng đƣợc xác

định theo nhiệm kỳ 5 năm. Sau thời gian đó các chức danh đƣợc rà soát, đánh giá lại

một lần; 4) Danh dách hội đồng thẩm định hồ sơ ứng viên và kết quả thẩm định đƣợc

công bố công khai.

Nhƣ vậy, với những tiêu chuẩn đặt ra rất cao hƣớng đến chất lƣợng thông qua

các kết quả nghiên cứu sẽ tạo áp lực lớn đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải có thay đổi cả

trong nhận thức lẫn thực tiễn triển khai hoạt động KH&CN của mình. Đồng thời,

chính sách cũng tạo động lực thúc đẩy các nhà khoa học liên kết, hợp tác nhằm tối ƣu

năng suất và hiệu quả của hoạt động KH&CN, mà mô hình NNCM làm môi trƣờng

thuận lợi để các nhà khoa học làm việc cùng nhau. Bên cạnh, những ƣu điểm của

chính sách đã đƣợc đề cập trên đây thì đâu đó vẫn còn những điểm tồn chƣa đƣợc tháo

gỡ, điều này gây ra những rào cản đối cản đối với các nhà khoa học. Trong đó, phải kể

đến 2 vấn đề chính sau đây: 1) Việc chƣa quy định cụ thể những tiêu chuẩn và công

khai lý lịch khoa học đối với các thành viên hội đồng thẩm định, cũng nhƣ không quy

định các tiêu chuẩn của thành viên hội đồng phải bằng hoặc cao hơn so với tiêu chuẩn

của ứng viên sẽ gây ra nhiều nghi vấn về phẩm chất và năng lực thực sự của các thành

viên hội động thẩm định; 2) Việc duy trì quy trình bỏ phiếu của hội đồng và việc

không quy định thành viên hội đồng phải giải trình về những lý do ứng viên không đạt

tiêu chuẩn cũng sẽ đặt ra những nghi vấn về tính công bằng, minh bạch và trách nhiệm

của thành viên hội đồng thẩm định.

4.2.8. Dự thảo chính sách phát triển các NNCM trong các cơ sở giáo dục đại học

Đây là dự thảo chính sách đƣợc Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì xây dựng và

đang lấy ý kiến đóng góp của các cơ sở đào tạo trong cả nƣớc kể từ 01/4/2019. Đây là

một trong những chính sách mới nhất của Nhà nƣớc đƣợc dự thảo nhằm xây dựng

những thiết chế, chính sách cụ thể với mục tiêu điều tiết, định hƣớng, đầu tƣ và tạo

môi trƣờng thuận lợi cho các NNCM hoạt động và phát triển trong thời gian tới. Khi

xem xét nội dung của chính sách, tác giả luận án nhận thấy, điểm mạnh trong chính

sách này là việc các NNCM sẽ đƣợc thành lập gắn liền với một chƣơng trình nghiên

cứu cụ thể, nó giống với cách mà Quỹ Nafosted đã và đang tài trợ cho NNCM hiện

105

nay, nhƣng tiêu chí đặt ra đối với trƣởng nhóm và các thành viên chủ chốt cao hơn.

Chúng ta chƣa biết chính sách có đem lại hiệu lực, hiệu quả trong thực tế hay không

nhƣng rõ ràng đây là một tín hiệu rất đáng mừng cho các cơ sở giáo dục và đào tạo nói

chung và các NNCM nói riêng. Nó cho thấy, Nhà nƣớc đánh giá rất cao vai trò của

NNCM trong việc nâng cao chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu khoa học trong các cơ

sở giáo dục và đào tạo hiện nay và việc xây dựng và phát triển NNCM trong tƣơng lai

cần đƣợc quan tâm và đầu tƣ đúng mức thông qua hệ thống chính sách của Nhà nƣớc.

4.3. Những ƣu điểm trong chính sách phát triển NNCM của ĐHQGHN

Căn cứ các chính sách chung của Nhà nƣớc, đồng thời với mục tiêu thu hút,

khuyến khích, tôn vinh và đãi ngộ các nhà khoa học có trình độ cao; thu hút các nhà

khoa học, NCS quốc tế đến giảng dạy, nghiên cứu và lãnh đạo NNC. Tạo cơ chế thuê

chuyên gia trong và ngoài nƣớc. Cũng nhƣ tổ chức đào tạo, bồi dƣỡng thƣờng xuyên

đội ngũ công chức, viên chức và ngƣời lao động theo chức danh và quy hoạch; nâng

cao tính chuyên nghiệp, trách nhiệm thi hành công vụ, ĐHQGHN đã ban hành nhiều

chính sách cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu nêu trên, điều đó đƣợc minh chứng bằng:

Hƣớng dẫn số 2164/HD-ĐHQGHN, ngày 21/7/2010 của Giám đốc ĐHQGHN về thực

hiện chế độ, chính sách ƣu đãi cán bộ khoa học trình độ cao ở ĐHQGHN; Hƣớng dẫn

1409/HD-KHCN, ngày 8/5/2013 của Giám đốc ĐHQGHN về xây dựng và phát triển

các chƣơng trình nghiên cứu trọng điểm và NNCM ở ĐHQGHN; Đề án phát triển đội

ngũ cán bộ khoa học và quản lý trình độ cao của ĐHQGHN đến năm 2020 và tầm nhìn

2030, năm 2014; Nghị quyết 91/NQ/ĐU ngày 31/12/2015 của Ban Chấp hành Đảng bộ

ĐHQGHN về thí điểm chính sách trọng dụng cán bộ trình độ cao ở ĐHQGHN; Nghị

quyết 63/NQ-HĐ ngày 14/1/2016 của Hội đồng ĐHQGHN trong đó có nội dung

Quyết nghị về thí điểm chính sách trọng dụng cán bộ trình độ cao ở ĐHQGHN; Công

văn 982/ĐHQGHN-TCCB ngày 11/4/2016 về việc thí điểm xây dựng chính sách trọng

dụng nhà khoa học trình độ cao; Công văn 851/ĐHQGHN-KHCN ngày 01/4/2016

hƣớng dẫn về việc xây dựng các NNC tiềm năng; Quyết định số 868/QĐ-ĐHQGHN

ngày 01/4/2016: Quy định về chế độ làm việc đối với giảng viên, nghiên cứu viên tại

ĐHQGHN; Công văn số 2933/ĐHQGHN-KHCN 14/8/2015 yêu cầu các đơn vị báo

cáo về việc chế độ cho các NNCM ở ĐHQGHN; Quyết định số 3668/QĐ-ĐHQGHN

ngày 15/10/2014: Quy định về việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển, từ

chức, miễn nhiệm và chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp trách nhiệm đối với

công chức viên chức quản lý trong ĐHQGHN; Quyết định số 572/ QĐ-ĐHQGHN

106

ngày 25/2/2014 về việc ban hành Quỹ thi đua, khen thƣởng tại ĐHQGHN; Quyết định

số 3768/ QĐ-ĐHQGHN ngày 22/10/2014: Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản

lý công chức, viên chức, ngƣời lao động trong ĐHQGHN…

Từ các chính sách của ĐHQGHN trên đây, tác giả luận án tập trung phân tích

và đánh giá 3 nhóm chính sách cụ thể sau đây:

4.3.1. Nhóm chính sách đầu tư, phát triển nguồn nhân lực

Trong phần này, tác giả luận án sẽ đánh giá những ƣu điểm trong chính sách

đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực của ĐHQGHN, trong đó tập trung vào 4 nội dung

chính sau đây:

Thứ nhất, để thu hút, tuyển dụng đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao,

ĐHQGHN thực hiện chính sách tuyển dụng đặc cách cán bộ khoa học có trình độ

tiến sĩ, hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực hiện chính sách thu hút các CBKH

mạnh ở trong và ngoài nƣớc, ƣu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành

trên cơ sở các phòng thí nghiệm (PTN), bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu..., trả

thu nhập thỏa đáng theo hiệu quả công tác trên cơ sở thỏa thuận giữa đơn vị và

CBKH. Để hỗ trợ cho việc triển khai chính sách, ĐHQGHN xây dựng cổng thông tin

tuyển dụng của ĐHQGHN. Trong đó, các nhu cầu, các hƣớng nghiên cứu, các NNC,

tiềm lực KH&CN, các điều kiện làm việc, ƣu đãi của ĐHQGHN đƣợc đăng tải công

khai trên mạng internet và kết nối với các mạng và diễn đàn cựu sinh viên Việt Nam

học ở nƣớc ngoài[43].

Thứ hai, nhằm nâng cao hơn nữa năng lực đội ngũ, ĐHQGHN thực hiện chính

sách đào tạo nhà khoa học trình độ thạc sỹ đạt trình độ tiến sỹ chuẩn song song với

chính sách thu hút, tuyển dụng cán bộ. Nếu nhƣ thu hút, tuyển dụng cho phép có

những nhân tố mới và văn hóa mới thì đào tạo cho phép phát hiện và giữ đƣợc những

HVCH ƣu tú. Đào tạo tiến sĩ không phải là mục tiêu cuối cùng của ĐHQGHN mà là

tiến sĩ đạt chuẩn. Do đó, ĐHQGHN chỉ tuyển nhà khoa học là thạc sĩ về đào tạo nguồn

nếu đủ năng lực về ngoại ngữ và có tố chất NCKH. Nếu một thạc sỹ có thể giảng dạy

đƣợc bằng ngoại ngữ, có công bố quốc tế thì khả năng đạt chuẩn tiến sĩ sau 3 năm là

hoàn toàn khả thi. Chính sách đào tạo cán bộ của ĐHQGHN đƣợc thiết kế linh hoạt

tùy thuộc vào từng đối tƣợng cán bộ: (i) đào tạo trong nƣớc (yêu cầu NCS sinh hoạt

chuyên môn tại một NNC), (ii) bồi dƣỡng năng lực ngoại ngữ và công bố quốc tế

(ĐHQGHN hỗ trợ 100% kinh phí) và (iii) bồi dƣỡng ngắn hạn ở nƣớc ngoài

(ĐHQGHN hỗ trợ 50% kinh phí). Đồng thời, ĐHQGHN cũng quy định, các nhà khoa

107

học cơ hữu trình độ thạc sỹ dƣới 45 tuổi (với nam) và 40 tuổi (với nữ) bắt buộc tham

gia CTĐT tiến sỹ chuẩn của ĐHQGHN. Đối với NCS không phải nhà khoa học cơ

hữu của ĐHQGHN: tuyển dụng tham gia NNC của ĐHQGHN, hƣởng lƣơng tƣơng

đƣơng lƣơng khởi điểm của nhà khoa học trình độ thạc sỹ tại ĐHQGHN (Trưởng NNC

có trách nhiệm tạo nguồn trả lương NCS).

Trong quá trình đào tạo, NCS đƣợc bồi dƣỡng đạt chuẩn ngoại ngữ; hỗ trợ để có

công bố quốc tế; đƣợc tham gia khóa đào tạo, nghiên cứu ngắn hạn ở nƣớc ngoài. Sau

khi khi kết thúc CTĐT, NCS đƣợc hỗ trợ tìm học bổng postdoc ở nƣớc ngoài. Việc đào

tạo, bồi dƣỡng nhà khoa học trình độ tiến sỹ đạt chuẩn ngoại ngữ giúp nhà khoa học tiếp

cận nhiều cơ hội hơn. Tham gia đào tạo ngoại ngữ là quyền và nghĩa vụ của nhà khoa

học, nhất là nhà khoa học trẻ. Theo đó, chƣơng trình bồi dƣỡng đạt chuẩn ngoại ngữ

đƣợc ĐHQGHN thiết kế tùy theo trình độ đầu vào của cán bộ; tổ chức ngoài giờ hành

chính; 50% giờ giảng bởi giảng viên nƣớc ngoài; kết hợp bồi dƣỡng ngoại ngữ với kỹ

năng giảng dạy chuyên môn bằng ngoại ngữ, kỹ năng thuyết trình tại hội thảo khoa học

quốc tế; nhóm 10% cán bộ xuất sắc đƣợc đi thực hành ở nƣớc ngoài. Cán bộ khoa học

của ĐHQGHN có thể lựa chọn học ngoại ngữ ở cơ sở bên ngoài ĐHQGHN và đƣợc

ĐHQGHN hỗ trợ 100% kinh phí với điều kiện cam kết có chứng chỉ B2 theo khung

tham chiếu châu Âu (hoặc tƣơng đƣơng) trong thời hạn quy định. Đồng thời với những

chính sách ƣu đãi trong đào tạo đối với cán bộ, ĐHQGHN ban hành cơ chế thƣởng/phạt

khi cán bộ đạt chuẩn/không đạt chuẩn trong thời hạn quy định (không có chứng chỉ

ngoại ngữ hoặc không có công bố quốc tế theo quy định).

Thứ ba, nhằm tạo động lực và khai thác hiệu quả đội ngũ khoa học, ĐHQGHN

thực hiện chính sách ƣu đãi, trọng dụng các nhà khoa học trình độ cao theo từng nhóm

đối tƣợng từ cán bộ cơ hữu, đang công tác tại ĐHQGHN, cán bộ khoa học (CBKH)

đƣợc ĐHQGHN ký hợp đồng giảng dạy, NCKH, CBKH của ĐHQGHN đã nghỉ hƣu,

CBKH biên chế ở các đơn vị ngoài ĐHQGHN) đến CBKH là Việt kiều hoặc ngƣời

nƣớc ngoài.

Đặc biệt, ĐHQGHN thực hiện chính sách ƣu đãi riêng đối với cán bộ làm việc

trong các NNCM, nhƣ Trƣởng NNCM đƣợc bố trí nơi làm việc và sinh hoạt khoa học;

Trƣởng NNCM đƣợc nhận hệ số trách nhiệm quản lý 0.6; Giảng viên tham gia NNCM

cấp ĐHQGHN chỉ thực hiện định mức giảng dạy không quá 150 giờ tín chỉ quy

chuẩn/năm (tương đương 55,55% giờ chuẩn theo quy định) để ƣu tiên dành thời gian

cho NCKH. Sau 5 năm giảng dạy đƣợc nghỉ 01 học kỳ để tập trung toàn bộ thời gian

108

cho nhiệm vụ nghiên cứu ở trong hoặc ngoài nƣớc; Đƣợc cung cấp quyền truy cập

thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI, Sciendirect; Đƣợc đầu tƣ kinh phí

nghiên cứu theo phƣơng thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN (top-down) hoặc ƣu

tiên xét duyệt các đề tài do nhóm đề xuất trong khuôn khổ các chƣơng trình nghiên

cứu tƣơng ứng; Đƣợc ƣu tiên nhận hƣớng dẫn NCS (kể cả NCS nước ngoài) và HVCH

làm luận văn, luận án theo hình thức đào tạo tập trung. NCS của NNCM đƣợc hỗ trợ

chỗ ở trong các ký túc xá của ĐHQGHN, tham gia một số nội dung của các đề tài của

nhóm và hƣởng thù lao theo kinh phí khoán chi của đề tài; ƣu tiên tham gia đề án 911

và các chƣơng trình học bổng khác; Đƣợc hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực

hiện chính sách thu hút các nhà khoa học xuất sắc ở trong và ngoài nƣớc đến làm việc

trực tiếp hoặc trực tuyến. Các công trình nghiên cứu do hợp tác chung đƣợc công bố

quốc tế nhƣng chƣa có bất kỳ tài trợ nào ở trong nƣớc sẽ đƣợc ĐHQGHN hỗ trợ. Đƣợc

hỗ trợ tham gia các hội nghị, hội thảo trong nƣớc và quốc tế nếu có ấn phẩm xuất bản

trong hệ thống của ISI hoặc Scopus

Thứ tư, để động viên, khích lệ kịp thời cán bộ KH&CN phát huy khả năng sáng

tạo, ứng dụng các thành tựu KH&CN vào sản xuất và đời sống, ĐHQGHN cũng ban

hành những chính sách khen thƣởng riêng cho các nhà khoa học thông qua việc xét trao

giải thƣởng công trình khoa học - công nghệ tiêu biểu, với cơ cấu giải thƣởng khác nhau

theo từng giai đoạn, cụ thể: năm 2009, ĐHQGHN trao giải thƣởng dành cho công trình

khoa học xuất sắc, tiêu biểu cho hoạt động KH - CN trong một lĩnh vực khoa học hoặc

công nghệ hàng năm; Giải thƣởng Công trình KH - CN xuất sắc, có triển vọng của nhà

khoa học trẻ 2 năm một lần do tác giả ở độ tuổi dƣới 35 chủ trì thực hiện; Giải thƣởng

KH - CN ĐHQGHN đƣợc xét và trao tặng 5 năm một lần dành cho công trình KH - CN

đặc biệt xuất sắc, có tầm vóc khoa học và ý nghĩa thực tiễn cao, tiêu biểu cho hoạt động

KH - CN của ĐHQGHN; năm 2018, ĐHQGHN ban hành chính sách mới theo đó quy

định giải thƣởng đƣợc xét tặng 3 năm một lần dành cho tối đa 5 công trình KH&CN đặc

biệt xuất sắc, có tầm vóc khoa học và có ý nghĩa thực tiễn cao.

Bên cạnh những giải thƣởng dành cho những công trình khoa học xuất sắc,

ĐHQGHN thực hiện chính sách thƣởng cho các công bố quốc tế, chính sách này đƣợc

cụ thể hóa trên cơ sở chính sách thƣởng tiền không quá 30 lần mức lƣơng cơ sở cho

các nhà khoa học công bố đƣợc 01 bài báo trên tạp chí khoa học quốc tế uy tín trong

danh mục ISI, SCI, SCIE; hỗ trợ 50% phí đăng ký bảo hộ quyền tác giả; xem xét hỗ

trợ kinh phí tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học trong nƣớc và quốc tế thuộc lĩnh

109

vực chuyên môn của mình đƣợc quy định tại Nghị định số 99/2014/NĐ-CP của Chính

phủ. Theo đó, từ năm 2013, ĐHQGHN thực hiện chính sách khen thƣởng cho các

công quốc tế theo các mức độ khác nhau từ 5 đến 30 triệu đồng tùy thuộc vào chất

lƣợng bài; năm 2015, ĐHQGHN điều chỉnh chính sách này theo hƣớng tăng mức

thƣởng cho các bài báo quốc tế và bổ sung chính sách khen thƣởng đối với danh mục

sách xuất bản tại các nhà xuất bản uy tín của nƣớc ngoài, mức thƣởng cao nhất lên tới

75 triệu đồng (Phụ lục 5).

Từ việc triển khai đồng bộ nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực,

số lƣợng NNCM đƣợc hình thành và phát triển tăng dần theo từng năm (Biểu đồ 3.1),

số cán bộ của ĐHQGHN đã tăng lên nhanh chóng cả về số lƣợng, trình độ đào tạo và

chức danh khoa học (Bảng 4.1).

Bảng 4.1: Số liệu thống kế nhân lực theo chức danh và trình độ đào tạo

Chia theo trình độ đào tạo Chức danh Năm Tổng số TS/TSKH ThS CN/KS Khác GS PGS

2012 775 1,189 1,031 313 44 243 3.311

2014 826 1.316 957 336 49 305 3.437

2017 1.131 1.493 1.155 218 67 370 3.997

2018 1.178 1.559 943 66 326 4.072

Tính đến 15/01/2018, trong tổng số 4.072 công chức, viên chức và lao động

(Nguồn: http://vnu.edu.vn)

hợp đồng của ĐHQGHN có 2.253 CBKH chiếm 55,3% với 1.950 giảng viên, 302

nghiên cứu viên, với số lƣợng CBKH có trình độ từ ThS trở lên khá mạnh: 1.559 ThS,

1.178 TS và TSKH (trong đó số lƣợng CBKH là 1.141 ngƣời), 66 GS và 326 PGS.

Phần lớn đội ngũ CBKH của ĐHQGHN là các nhà khoa học đầu ngành, đầu đàn có uy

tín lớn ở trong và ngoài nƣớc về các ngành, chuyên ngành thuộc các lĩnh vực khoa học

tự nhiên, khoa học XH&NV, ngoại ngữ, công nghệ, kinh tế, luật, giáo dục...Tỷ lệ

CBKH có trình độ TS, TSKH đạt 50,6%; tỷ lệ CBKH đạt chức danh GS, PGS (chƣa

kể số GS, PGS mới đạt chuẩn chức danh của năm 2017) đạt 17,4%, cao gấp 3 lần so

với tỷ lệ trung bình của cả nƣớc. Tỷ lệ CBKH có bài báo, công trình khoa học đƣợc

đăng hoặc công bố trong các tạp chí khoa học, kỷ yếu và hội thảo quốc tế trong năm

2017 đạt 29,4%. Ở một số đơn vị thành viên và trực thuộc, tỷ lệ CBKH có trình độ TS

trở lên đạt từ 60% trở lên tập trung tại một số đơn vị nhƣ: Khoa Luật (77,9%), Trƣờng

110

Đại học Giáo dục (77,8%), Khoa Quản trị và Kinh doanh (76,2%), Trƣờng Đại học

Kinh tế (73,1%), Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên (62,2%), Viện Công nghệ Thông

tin (61,1%), Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (60,7%), Viện Đảm bảo

chất lƣợng giáo dục (60%) và một số đơn vị đạt 100% CBKH có trình độ TS: Trƣờng

Đại học Việt Nhật và Viện Quốc tế Pháp ngữ, Khoa Các khoa học liên ngành

(100%)[50].

Tính đến nay, ĐHQGHN có 18 nhà khoa học đƣợc nhận giải thƣởng Hồ Chí

Minh, 11 nhà khoa học nhận giải thƣởng Nhà nƣớc, 3 nhà khoa học nhận giải thƣởng

quốc tế, 53 giải thƣởng KH&CN cấp ĐHQGHN (giai đoạn 2007 - 2015) và 15 giải

thƣởng khác dành cho các công trình khoa học có tính ứng dụng cao (Phụ lục 6). Đồng

thời, theo số liệu thống kê chƣa đầy đủ, từ 2013 đến 2016, ĐHQGHN trao thƣởng cho

129 nhà khoa học có công bố quốc tế thuộc danh mục ISI/Scopus. Những chính sách

vinh danh, khen thƣởng trên đây của Nhà nƣớc cũng nhƣ ĐHQGHN là rất quan trọng

nhằm tạo động lực cho các nhà khoa hăng say nghiên cứu và công bố các sản phẩm

khoa học của mình.

Với nguồn nhân lực khoa học mạnh trên đây, ĐHQGHN hoàn toàn có đủ năng

lực để xây dựng và phát triển những tập thể khoa học mạnh nhằm hƣớng đến những

thành tựu khoa học và đào tạo nguồn nhân lực có chất lƣợng tốt cho xã hội.

4.3.2. Nhóm chính sách cải thiện môi trường và điều kiện nghiên cứu

Nhằm tạo điệu kiện và môi trƣờng nghiên cứu thuận lợi cho các nhà khoa học

phát huy tài năng, sáng tạo cho hoạt động KH&CN, trong hơn 10 năm trở lại đây,

ĐHQGHN đã tiến hành tái cơ cấu hoạt động KH&CN, từ mô hình các nhà khoa học

nghiên cứu độc lập ở các bộ môn, sang mô hình tập trung với các PTN và các NNCM.

ĐHQGHN xác định, xây dựng và phát triển các NNCM và các PTN trọng điểm là

phƣơng thức để ĐHQGHN xác định các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm kết hợp với tập

trung ƣu tiên đầu tƣ tăng cƣờng tiềm lực KH&CN để một số NNC có đủ khả năng làm

đầu mối triển khai các nghiên cứu đỉnh cao, hƣớng đến các sản phẩm khoa học hoàn

chỉnh và hình thành các NNCM, Trung tâm nghiên cứu xuất sắc. Đồng thời, các

NNCM cũng là giải pháp phát huy sáng tạo và khát vọng khoa học của các nhà khoa

học, tăng khả năng thu hút nguồn lực, tạo động lực gia tăng các giá trị KH&CN, nâng

cao chất lƣợng đào tạo, thúc đẩy sự phát triển ĐHQGHN và các đơn vị theo định

hƣớng nghiên cứu.

111

Xuất phát từ quan điểm đổi mới phƣơng thức quản lý và hoạt động KH&CN,

hàng loạt các chính sách cụ thể đã đƣợc ĐHQGHN triển khai bao gồm: Chính sách sắp

xếp kiện toàn hệ thống mạng lƣới PTN; Chính sách đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị

phục vụ nghiên cứu và đào tạo; Chính sách đầu tƣ tăng cƣờng năng lực thông tin; Chính

sách đổi mới quản lý nhiệm vụ KH&CN. Dƣới đây là những ƣu điểm của chính sách:

Thứ nhất, với định hƣớng phân tầng chất lƣợng, phân cấp quản lý và khai thác

hiệu quả hệ thống PTN phục vụ cho hoạt động nghiên cứu và đào tạo, thời gian qua,

ĐHQGHN đã triển khai việc sắp xếp, kiện toàn và xây dựng mới hệ thống PTN dựa

trên số lƣợng, quy mô, tính chất và các loại hình khác nhau phù hợp với từng lĩnh vực

hoạt động của ĐHQGHN. Điều này không chỉ nhằm kiến tạo môi trƣờng nghiên cứu

thuận lợi, tạo tiền đề phát triển các NNCM, trung tâm nghiên cứu xuất sắc và còn giúp

cho công tác quản lý và đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm, phát huy hiệu quả đầu tƣ.

Đến nay, hệ thống PTN của ĐHQGHN đã dần đƣợc hoàn thiện với 210 PTN (Bảng

4.2). Theo đó, hệ thống PTN đƣợc phân thành 3 cấp, cấp độ quản lý gồm: 1) PTN

trọng điểm cấp nhà nƣớc; 2) PTN trọng điểm cấp ĐHQGHN; 3) PTN cấp trƣờng, cấp

độ chuyên môn gồm: 1) PTN mục tiêu, trọng điểm; 2) PTN chuyên đề; 3) PTN/thực

hành cơ sở.

Bảng 4.2: Hiện trạng các PTN tính đến ngày 1/3/2016

Đã đƣợc đầu tƣ

Cần đầu tƣ

Chƣa đƣợc

Tổng

TT

Loại PTN

mới và đồng bộ

bổ sung

đầu tƣ

Phân theo cấp độ quản lý

1

1.

PTN trọng điểm cấp nhà nƣớc

2

5

2.

PTN trọng điểm cấp ĐHQGHN

3.

PTN cấp trƣờng

26

128

48

Phân theo cấp độ chuyên môn

4

22

9

9

1.

PTN mục tiêu, trọng điểm

PTN chuyên đề

2.

14

144

103

27

PTN thực hành/cơ sở

3.

8

44

18

18

Tổng

26

210

130

54

(Nguồn Ban KH&CN, ĐHQGHN)

112

Đặc biệt, năm 2016, ĐHQGHN thành lập 7 PTN trọng điểm, với 3 PTN có các

giáo sƣ ngƣời nƣớc ngoài đƣợc mời làm đồng giám đốc. PTNTĐ đƣợc hình thành

nhằm thu hút và trọng dụng nhà khoa học trình độ cao, những ngƣời có khả năng thiết

kế và tổ chức triển khai các bài toán khoa học lớn. Nơi đây, đƣợc kỳ vọng sẽ là một

môi trƣờng làm việc tốt và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học giỏi,

trong đó có cả các nhà khoa học quốc tế chuyên tâm vào nghiên cứu[20]. Với hệ thống

mạng lƣới 210 PTN đƣợc kiện toàn và quy hoạch sẽ là cơ sở thuận lợi để ĐHQGHN

định hƣớng đầu tƣ trang thiết bị, quản lý và khai thác hiệu quả hoạt động của các PTN.

Thứ hai, trên cơ sở hệ thống mạng lƣới các PTN hiện có, ĐHQGHN đã xây

dựng các Dự án đầu tƣ chiều sâu có quy mô, có tính liên ngành cao, thiết bị dùng

chung, tăng hiệu quả dự án với kinh phí lớn hơn nhiều so với các dự án đầu tƣ trƣớc

đó. Với tiêu chí này, ĐHQGHN đã nhận đƣợc sự ủng hộ của các Bộ, Ngành liên quan

nhƣ Bộ KH&CN, Bộ Kế hoạch đầu tƣ và Bộ Tài chính. Nhờ đó một loạt dự án lớn đã

đƣợc triển khai ở ĐHQGHN góp phần tạo dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại

phục vụ đẩy mạnh nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao. Ngoài đầu tƣ

hệ thống trang thiết bị cho hoạt động nghiên cứu của các NNC, ĐHQGHN còn đầu tƣ

tăng cƣờng năng lực cho các NNCM, hệ thống trang thiết bị nhỏ lẻ phục vụ vận hành

các PTN. Theo báo cáo của Ban KH&CN - ĐHQGHN, tính đến ngày 1/3/2016,

ĐHQGHN đã huy động các nguồn lực tài chính với tổng kinh phí lên tới

749.731.000.000 đồng để đầu tƣ cho các PTN thuộc 4 lĩnh vực khoa học bao gồm

khoa học tự nhiên - y dƣợc, khoa học XH&NV, Khoa học KT&CN, khoa học liên

ngành (Phụ lục 4). Ngoài ra, ĐHQGHN tiếp tục phê duyệt và cấp kinh phí triển khai

dự án đầu tƣ hoàn thiện cho 5/7 PTN trọng điểm cấp ĐHQGHN (trong đó có 2/7 PTN

còn lại đã được đầu tư hoàn thiện) với tổng kinh phí 90 tỉ; hệ thống PTN chuyên đề

với tổng kinh phí 90 tỉ (tập trung vào lĩnh vực công nghệ và kỹ thuật, một phần cho

lĩnh vực khoa học tư nhiên); hệ thống các PTN thực hành cơ bản với tổng kinh phí 80

tỉ (tập trung cho lĩnh vực khoa học XH&NV)[3].

Thứ ba, trong bối cảnh hội nhập quốc tế với sự di chuyển tự do của các nguồn

lực, đặc biệt là nguồn lực thông tin và tri thức cùng với yêu cầu ngày càng khắt khe

của xã hội về chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu đã dẫn tới yêu cầu thay đổi chức năng

vốn có của thƣ viện. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động xây dựng hệ

thống thƣ viện số với cơ sở dữ liệu đƣợc kết nối và chia sẻ ở trong và ngoài nƣớc,

cung cấp không gian mở phục vụ nhu cầu học tập và sáng tạo của ngƣời dùng ở mọi

113

nơi, mọi lúc là những nhu cầu bức thiết. Nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn lực

thông tin trong bối cảnh hiện nay, ĐHQGHN đã thực hiện nhiều chính sách đầu tƣ

tăng cƣờng nguồn lực thông tin, xây dựng hệ thống quản lý và khai thác thông tin hiệu

quả dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại cho Trung tâm Thông tin - Thƣ

viện, ĐHQGHN nhằm kiến tạo môi trƣờng học tập và nghiên cứu hiện đại, đáp ứng

đƣợc yêu cầu của đại học tiên tiến.

Theo số liệu của Ban KH&CN, ĐHQGHN, tính đến tháng 6/2016, Trung tâm

TT-TV đã tiếp nhận đầu tƣ từ ĐHQGHN tổng kinh phí 199.940.000.000 đồng (Phụ

lục 4) để xây dựng thƣ viện số với gần 54.000 đối tƣợng tài liệu, với hơn 2,5 triệu

trang; nâng cấp, phát triển các sản phẩm và dịch vụ thông tin - thƣ viện theo hƣớng

tích hợp giải pháp công nghệ hiện đại: Truy cập từ xa, truy cập qua thiết bị di động,

scan tài liệu, hỗ trợ trực tuyến qua hệ thống Chat Online, dịch vụ học tập nghiên cứu

theo chủ đề, dịch vụ mƣợn và trả sách tự động 24/7, dịch vụ mƣợn tài liệu số. Trên cơ

sở lựa chọn và áp dụng các chuẩn nghiệp vụ thƣ viện quốc tế trong xử lý và tổ chức,

sắp xếp kho tài liệu in cũng nhƣ áp dụng các công nghệ hiện đại để xử lý và tổ chức

khai thác nguồn tài liệu số. Đồng thời, ĐHQGHN cũng tạo tƣ cách pháp nhân, cho

phép Trung tâm TT-TV đƣợc tự chủ trong nhiều lĩnh vực hoạt động. Đến nay, Trung

tâm Thông tin - Thƣ viện, ĐHQGHN đƣợc đánh giá là đơn vị hàng đầu trong hệ thống

hơn 230 thƣ viện trƣờng đại học và cao đẳng tại Việt Nam. Đây là mô hình thƣ viện

đại học Việt Nam đầu tiên có tƣ cách pháp nhân để triển các dịch vụ thƣ viện và hỗ trợ

các nhà khoa học, sinh viên, học viên, NCS khai thác hiệu quả nguồn tƣ liệu khoa học

phong phú phục vụ cho hoạt động học tập và nghiên cứu[45].

Thứ tư, bên cạnh việc sắp xếp, kiện toàn các PTN; tăng cƣờng cơ sở vật chất,

trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu, năm 2014, ĐHQGHN tiếp tục thực hiện

đổi mới công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển

các sản phẩm KH&CN theo phƣơng án đầu tƣ mới, bằng việc ban hành Quy định về

quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp ĐHQGHN. Trong đó, nhiều quy định mới đã đƣợc áp

dụng, cụ thể: 1) Điều chỉnh tiêu chí cán bộ tham gia chủ nhiệm đề tài có trình độ thạc

sĩ thay vì tiến sĩ nhƣ trƣớc đây, quy định này giúp mở rộng đối tƣợng tham gia thực

hiện các nhiệm vụ nghiên cứu; 2) Kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN không giới

hạn mức trần mà căn cứ vào từng loại hình nhiệm vụ cụ thể để cấp kinh phí phù hợp.

Đây là một trong những tiếp cận mới cho thấy, ĐHQGHN đã thay đổi quan điểm cấp

kinh phí theo hƣớng “cào bằng” nhƣ trƣớc đây; 3) Phƣơng thức giao đề tài KH&CN

114

cũng có những điều chỉnh theo hƣớng đặt hàng và giao qua tuyển chọn hoặc xét chọn.

Quy trình xác định danh mục đề tài KH&CN, tuyển chọn đƣợc thực hiện thông qua

Hội đồng tuyển chọn, xét chọn, Hội đồng do Giám đốc ĐHQGHN quyết định thành

lập, thành viên Hội đồng phải có tối thiểu 03 uỷ viên Hội đồng ngành, liên ngành. Các

đơn vị thành viên, trực thuộc làm đầu mối chuẩn bị và tổ chức họp Hội đồng tuyển

chọn, xét chọn đề tài KH&CN; 4) Quy trình đánh giá, nghiệm thu các đề tài, nhiệm vụ

KH&CN cũng đƣợc điều chỉnh quy về một cấp thực hiện thay vì 2 cấp nhƣ trƣớc đây.

Việc quản lý hiệu quả đầu tƣ cũng có những điều chỉnh theo tiếp cận đầu ra, nghĩa là

các KQNC sẽ đƣợc công bố trên các tạp chí uy tín trong nƣớc và nƣớc ngoài.

Tổng hợp lại, từ việc thực hiện đồng bộ chính sách đầu tƣ cải thiện môi trƣờng

và điều kiện nghiên cứu, đã cho thấy ĐHQGHN đang nỗ lực tăng cƣờng tiềm lực

KH&CN nhằm tạo môi trƣờng nghiên cứu thuận lợi cho các nhà khoa học triển khai

hoạt động KH&CN. Điều đó đƣợc khẳng định bằng quyết tâm xây dựng các tập thể

nghiên cứu mạnh nhằm đạt đƣợc những thành tựu khoa học đỉnh cao, đào tạo nguồn

nhân lực có chất lƣợng, góp phần phát triển ĐHQGHN ngang tầm với các trƣờng đại

học trong khu vực và thế giới, thúc đẩy sự nghiệp công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nƣớc. Theo thống kê đối chiếu, hiệu quả sau đầu tƣ, khai thác hệ thống trang

thiết bị ở 4 đơn vị thành viên do Ban KH&CN thực hiện trong giai đoạn 2005 - 2015

(Bảng 4.3), đã phần nào cho thấy những kết quả đạt đƣợc của ĐHQGHN là tƣơng đối

tích cực.

Bảng 4.3: Đối chiếu hiệu quả sau đầu tư khai thác hệ thống trang thiết bị

ở một số đơn vị giai đoạn 2005-2015

TT Hiệu

Tiêu chí

Trƣờng

Trƣờng

Khoa Y

Viện

quả

ĐHKHTN

ĐHCN

Dƣợc

VSV&CNSH

1

Tổng mức đầu tư

446 tỉ

63 tỉ

104 tỉ

37.4 tỉ

Số bài báo

2

22

1101

27

13

ISP/Scopus

Số bài báo quốc tế

3

26

417

9

15

khác

ệ h g n g n ô c

à v

ố bài báo trong

4

14

2256

120

163

nƣớc

Số đề tài cấp nhà

c ọ h a o h K

5

4

184

-

7

nƣớc

115

TT Hiệu

Tiêu chí

Trƣờng

Trƣờng

Khoa Y

Viện

quả

ĐHKHTN

ĐHCN

Dƣợc

VSV&CNSH

Số đề tài cấp

6

621

8

5

67

ĐHQGHN, Bộ

7

Số đề tài cấp cơ sở

427

4

24

24

Số đăng ký sở hữu

8

23

4

0

-

trí tuệ

Số đối tác hình

thành trong nƣớc

129

9

23

30

7

và quốc tế

Số hội HN/HT/lớp

10

230

22

29

12

tập huấn

Số cử nhân đƣợc

11

4343

81

-

-

đào tạo

Số thạc sĩ đƣợc đào

12

3176

25

-

134

o ạ t

tạo

o à Đ

13

4

-

16

Số TS đƣợc đào tạo

195

Tổng số giờ phục

14

11

7

83.012

255

vụ thực hành

Số CN thu hút

c ự

15

110

21

57

5

l

đƣợc

Số ThS thu hút

16

101

8

48

5

đƣợc

17

Số TS thu hút đƣợc

43

8

30

3

Nhóm nghiên cứu

18

15

9

2

1

n â h n n ồ u g n n ể i r t t á h P

đƣợc hình thành

(Nguồn: Ban KH&CN - ĐHQGHN)

4.3.3. Nhóm chính sách hợp tác và phát triển

Trong bối cảnh nguồn kinh phí đầu tƣ phát triển KH&CN của Nhà nƣớc cho

ĐHQGHN còn nhiều hạn chế, trong khi đó, với tiềm lực khoa học mạnh, ĐHQGHN

hoàn toàn có khả năng hợp tác cung cấp, chuyển giao cho các đối tác trong và ngoài

nƣớc những sản phẩm khoa học hoàn chỉnh, đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao

hay tƣ vấn hoạch định chính sách kinh tế, xã hội cho các cơ quan từ trung ƣơng đến

địa phƣơng.

116

Việc đa dạng hoá nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt động khoa học và bồi

dƣỡng, phát triển nguồn nhân lực thông qua hoạt động hợp tác là một trong những giải

pháp quan trọng đƣợc ĐHQGHN thúc đẩy mạnh mẽ trong nhiều năm qua và đặc biệt

là trong 5 năm trở lại đây. Thông qua các chƣơng trình hợp tác quốc tế, hợp tác với cơ

quan, doanh nghiệp từ trung ƣơng đến địa phƣơng, các hoạt động ứng dụng, chuyển

giao, kết nối cung cầu giữa ĐHQGHN và các đối tác trong và ngoài nƣớc đƣợc đẩy

mạnh và đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng khích lệ. Điều đó đƣợc thể hiện ở những nội

dung chính sau đây:

Thứ nhất, ĐHQGHN xác định, hợp tác quốc tế trong KH&CN là cách tốt nhất

để đƣa NCKH của ĐHQGHN tiệm cận với chuẩn mức quốc tế, kết nối cộng đồng

khoa học thế giới. Đặc biệt là huy động đƣợc nguồn kinh phí dồi dào từ các tổ chức

quốc tế để giải quyết các vấn đề đặt ra của ĐHQGHN cũng nhƣ của Việt Nam. Đồng

thời với việc tăng cƣờng hợp tác thông qua các tổ chức, ĐHQGHN cũng hỗ trợ và thúc

đẩy hợp tác quốc tế thông qua việc mời các nhà khoa học nƣớc ngoài tham gia cùng

nghiên cứu. Điều này, không chỉ giúp thúc đẩy các NNC của ĐHQGHN phát huy nội

lực, kết hợp với ngoại lực để tăng cƣờng công bố quốc tế mà còn giúp cho năng lực

KH&CN của các NNC nâng cao và hội nhập quốc tế nhanh hơn.

Tính đến nay, ĐHQGHN đã thiết lập quan hệ hợp tác với 135 trƣờng đại học và

tổ chức giáo dục, KH&CN quốc tế, trong đó có các trƣờng đại học hàng đầu trên thế

giới nhƣ Viện đại học Công nghệ Machachusset; Đại học Illinois, Đại học Brown; Đại

học Turf; Đại học Hawaii; Đại học Oregon; Đại học Princeton; Đại học Califorlia; Đại

học East London; Đại học Leeds; Đại học Nottingham; Đại học East Anglia; Đại học

Bách khoa Paris; Đại học Paris Sud; Đại học Toulouse; Đại học Tokyo; Đại học

Osaka; Đại học quốc gia Seoul; Đại học Bắc Kinh; Đại học Thanh Hoa; Đại học Quốc

gia Singapore…[52].

Trên cơ sở phát huy nội lực và kết hợp với ngoại lực thông qua hoạt động hợp

tác quốc tế, nhiều NNCM cũng đã đƣợc hình thành và phát triển. Điển hình cho

phƣơng thức này đƣợc thực hiện đầu tiên ở trƣờng ĐHKHTN, ĐHQGHN là Trung

tâm Khoa học vật liệu và PTN trọng điểm Enzym-Protein. Hai đơn vị khoa học này đã

trở thành 02 NNCM có uy tín trong nƣớc và quốc tế. Mô hình này đƣợc tiếp tục thực

hiện cho PTN công nghệ Micro Nano tại trƣờng Đại học Công nghệ, ĐHQGHN. Đây

là mô hình đầu tƣ phát triển các NNC tƣơng đối hiệu quả. Qua mô hình này, các NNC

đã phát huy khả năng công bố quốc tế đồng thời phát triển các sản phẩm KH&CN

117

hoàn chỉnh, có thể ứng dụng thực tiễn. Đối với phƣơng thức này điểm mấu chốt là các

NNC đã đón đầu xu hƣớng KH&CN mới và thúc đẩy hợp tác quốc tế. Bằng cách này,

một số NNCM có tính hội nhập đã hình thành, tiêu biểu là Trung tâm nghiên cứu tài

nguyên và môi trƣờng (CRES), Trung tâm nghiên cứu môi trƣờng và phát triển bền

vững (CETASD). Đây cũng là phƣơng thức phù hợp để phát triển các NNCM đối với

lĩnh vực khoa học cơ bản và lý thuyết, nhƣ NNC Tô pô đại số (trƣờng đại học KHTN)

và Tâm lý học lâm sàng của trƣờng ĐHGD. Theo số liệu thống kê chƣa đầy đủ từ Ban

Tổ chức - Cán bộ, giai đoạn 2007 - 2017, ĐHQGHN đã triển khai 141 đề tài nghiên

cứu theo hình thức hợp tác quốc tế hoặc do các tổ chức quốc tế tài trợ. Bên cạnh đó,

năm 2018, ĐHQGHN đã ký kết 6 hợp đồng chuyển giao công nghệ cho Lào, bao gồm:

Công nghệ sản xuất Diesel sinh học; Sản phẩm công nghệ vi sinh vật trong xử lý môi

trƣờng và ứng dụng phát triển nông nghiệp xanh (phân vi sinh, thức ăn chăn nuôi gia

súc, thuốc bảo vệ nông nghiệp); Công nghệ thông tin - truyền thông phục vụ quản lý

đô thị thông minh và dịch vụ vận tải thông minh EMMDI[44].

Thứ hai, song song với hoạt động hợp tác quốc tế, ĐHQGHN cũng chú trọng

đến hoạt động hợp tác và phát triển với các cơ quan doanh nghiệp, các tổ chức khoa

học trong nƣớc. Hoạt động này đặc biệt khởi sắc và có nhiều thành tựu trong 5 năm trở

lại đây khi các hoạt động kết nối giữa các nhà khoa học với các sở, ban, ngành, doanh

nghiệp từ trung ƣơng đến địa phƣơng đã đƣợc thúc đẩy mạnh mẽ thông qua các hội

nghị trao đổi và ký kết hợp đồng hợp tác. Kết quả, giai đoạn 2016-2020, ĐHQGHN ký

kết hợp tác với Lào Cai triển khai 18 nhiệm vụ, trong đó 3 hợp đồng đƣợc triển khai

trong năm 2016; ký kết với Nghệ An triển khai 8 nhiệm vụ trong năm 2016; ký kết với

PVN triển khai 1 đề tài nghiên cứu; Ký kết với BIDV triển khai chƣơng trình nghiên

cứu về Gen và Giáo dục; Ký kết với Viettel triển khai nghiên cứu về cảm biến hồng

ngoại; Ký kết với Hà Giang, Sơn La, Lào Cai và một số bộ ngành có liên quan chuyển

giao khung năng lực lãnh đạo quản lý; Ký kết hợp tác đào tạo, bồi dƣỡng lãnh đạo cấp

sở huyện cho các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam, Hà Nội, Cao Bằng, Quảng Ninh, Nghệ An,

Phú Thọ…

Trên cơ sở các hoạt động hợp tác và chuyển giao tri thức với các doanh nghiệp

và địa phƣơng, các NNCM có điều kiện thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu chuyên

sâu, vừa từng bƣớc hình thành nền tảng tài chính mạnh góp phần quan trọng cho sự

phát triển của ĐHQGHN nói chung và của nhóm nói riêng. Theo phƣơng thức tiếp cận

này, nhiều NNC của ĐHQGHN đã đƣợc hình thành và phát triển, trong đó phải kể đến

118

NNC Công nghệ hóa học vật liệu và năng lƣợc sạch, đây là NNC có rất nhiều hợp tác

với các doanh nghiệp và địa phƣơng trong các dự án, nghiên cứu sản xuất biodiesel;

NNC Phục hồi đất ngập nƣớc; NNC về khu vực học và khoa học phát triển (Viện Việt

Nam học và Khoa học phát triển); NNC Tài nguyên biển và lục địa; NNC Giải quyết

các vấn đề về tai biến và thảm họa thiên nhiên của các địa phƣơng và khu vực…

Với việc đổi mới hoạt động hợp tác và phát triển theo hƣớng sản phẩm hợp tác,

đầu tƣ hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm để các nhà khoa học dễ dàng triển khai các

nhiệm vụ khoa học và đào tạo, thời gian qua các hoạt động chuyển giao tri thức,

chuyển giao công nghệ và phát triển nguồn nhân lực của ĐHQGHN đã đƣợc mở rộng

và phát triển cả về quy mô và số lƣợng. Đặc biệt các NNC của ĐHQGHN đã tham gia

sâu rộng vào việc triển khai các hoạt động hợp tác nhƣ: NNC phát triển nguồn nhân

lực; NNC phát triển giáo viên, giảng viên; NNC về quản trị chất lƣợng đại học; NNC

và chuyển giao công nghệ 3D; NNC chính sách và phát triển, NNC về mô hình sinh kế

cộng đồng dân cƣ; NNC về chuỗi giá trị sản xuất nông, lâm, ngƣ nghiệp; NNC và

chuyển giao công nghệ hỗ trợ chuẩn đoán sớm; NNC bạnh lạ, bệnh hiếm gặp; NNC

thuốc; NNC về ứng dụng CNTT trong quản lý hành chính công; nhóm nghiên ứng

dụng phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trƣờng…

Theo kết quả thông kê chƣa đầy đủ, ĐHQGHN đã triển khai các hoạt động hợp

tác nghiên cứu và triển khai với 13 tập đoàn, doanh nghiệp trong nƣớc và nƣớc ngoài và

nhiều cơ quan ban ngành của 18 tỉnh thành trong cả nƣớc(Phụ lục 3). Trong giai đoạn từ

2011-2015, thông qua hợp tác toàn diện đã ký kết với các tập đoàn và doanh nghiệp lớn

(Dầu khí, Viettel, VinGroup, AIC, BRG…), bình quân mỗi năm đã có gần 1.500 lƣợt

cán bộ và trên 1.200 lƣợt sinh viên đƣợc học tập, trao đổi ở nƣớc ngoài, hàng nghìn sinh

viên bậc đại học đƣợc trao học bổng từ các doanh nghiệp với tổng giá trị 5 tỷ đồng/năm;

các nhà khoa học và các đơn vị thuộc ĐHQGHN triển khai hàng chục đề tài/chƣơng

trình/dự án lớn phục vụ cộng đồng và theo đặt hàng của các doanh nghiệp. Với lợi thế

về vị thế và địa vị pháp lý cao, trong giai đoạn 2011- 2015, ĐHQGHN nhận tài trợ nhiều

trang thiết bị, cơ sở vật chất và học bổng. Tuy nhiên, tính bình quân thì doanh thu từ các

đề tài, dự án nghiên cứu khoa học do doanh nghiệp đặt hàng chiếm chƣa đến 30% tổng

nguồn thu từ các hoạt động hợp tác. Hợp tác với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trong

R&D đạt mức cao nhất vào các năm 2012, 2013 với 4 đề tài nghiên cứu, tổng kinh phí

10 tỷ đồng. Nhƣng tất cả các đề tài này đều do các nhà khoa học thuộc các đơn vị trong

ĐHQGHN nhận trực tiếp từ Tập đoàn thông qua hợp đồng[25]

119

Điều đó, phần nào cho thấy, ĐHQGHN đã cơ bản thành công trong việc làm

cầu nối giữa các nhà khoa học và cơ quan, doanh nghiệp để những cán bộ khoa học có

ý tƣởng nghiên cứu có thể thƣơng mại hóa thành quả nghiên cứu của mình, cũng nhƣ

huy động các nguồn lực thông qua hợp tác để triển khai các hoạt động KH&CN.

4.4. Những hạn chế của chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN

Trong quá trình nghiên cứu và khảo sát, tác giả luận án nhận thấy chính sách

phát triển NNCM của ĐHQGHN đƣợc xây dựng với sự can dự hạn chế của các nhà

khoa học (Bảng 4.5). Các nhà khoa học là những ngƣời chịu tác động trực tiếp bởi

chính sách nhƣng chỉ đƣợc phép có ý kiến sau hoặc khi có vấn đề phát sinh. Hơn nữa,

với mô hình đại học 2 cấp, các chính sách của ĐHQGHN khi đƣợc triển khai xuống

các trƣờng/đơn vị thành viên nhiều khi không đƣợc thực hiện bởi ĐHQGHN không

phải lúc nào cũng cấp kinh phí để triển khai mà các đơn vị phải tự cân đối các nguồn

thu để thực hiện chính sách, do đó các đơn vị thành viên của ĐHQGHN thƣờng căn cứ

vào nguồn lực của mình để cân đối cũng nhƣ cân nhắc để thực hiện toàn phần, hay một

phần của chính sách hoặc không thực hiện do không đủ nguồn lực (Hộp 4.2).

Hộp 4.2: Chính sách ban hành không đi kèm với nguồn lực thực hiện

“…ĐHQGHN ra chính sách không đi kèm với chuyện giao tiền, chẳng hạn cơ sở vật

chất, mỗi nhóm nghiên cứu đòi một phòng làm việc thì lấy đâu ra phòng. Tiền ngân

sách như thế, không có đầu tư. ĐHQGHN nói tạo điều kiện cho việc giao đề tài nghiên

cứu nhưng bây giờ chưa có. Như vậy, phòng quản lý nghiên cứu chúng tôi không biết

phải nói thế nào với các NNCM” (Nam, Phó trƣởng phòng, 36 tuổi)

(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)

ĐHQGHN có rất nhiều chiến lƣợc, trong đó có chiến lƣợc chung của

ĐHQGHN và chiến lƣợc riêng của các đơn vị thành viên. Các chiến lƣợc thƣờng đƣợc

xây dựng bởi các nhà quản lý mà chƣa có sự tham gia của các nhà khoa học, nên chất

lƣợng chƣa thực sự tốt. Xem xét cụ thể chính sách phát triển NNCM tác giả luận án

nhận thấy, việc xây dựng chính sách quá phân tán và có sự chồng lấn bởi các văn bản

ban hành khác nhau. Chẳng hạn ĐHQGHN đã ban hành chính sách thành lập NNCM,

trƣờng thành viên cũng ban hành chính sách thành lập NNCM dẫn đến việc triển khai

thiếu thống nhất giữa các đơn vị hay nhƣ nội dung liên quan đến chính sách giảm giờ

cho thành viên của NNCM có sự trùng lặp ở cả 2 văn bản là những ví dụ điển hình sẽ

đƣợc tác giả luận án trình bày cụ thể trong phần này. Bên cạnh đó, ĐHQGHN đã xây

120

dựng nhiều kế hoạch, chiến lƣợc trong bối cảnh nguồn lực tài chính còn hạn chế, phụ

thuộc nhiều vào nguồn ngân sách của nhà nƣớc dẫn đến kế hoạch, chiến lƣợc đƣợc

triển khai trong thực tế vẫn còn ở phạm vi và quy mô vừa phải. Minh chứng cho vấn

đề nêu trên sẽ đƣợc tác giả luận án luận giải thông qua những hạn chế sau đây:

Thứ nhất, hạn chế xuất phát từ quan điểm sai lầm của ĐHQGHN trong xây dựng

chính sách, điều này thể hiện ở việc, ĐHQGHN coi NNCM vừa là mục tiêu vừa là

phƣơng thức để xây dựng đại học nghiên cứu. Với việc coi NNCM là mục tiêu,

ĐHQGHN đặt ra chỉ tiêu số lƣợng NNCM phải thành lập cho các các đơn vị thành viên

hàng năm[22]. Do dó, dẫn đến tác động ngoại biên âm tính mà các nhà làm chính sách

không lƣờng hết đó là các đơn vị thành viên xây dựng hồ sơ để đƣợc công nhận NNCM

theo kiểu gƣợng ép, làm cho xong để đạt chỉ tiêu ĐHQGHN đề ra, bởi áp lực phải hoàn

thành nhiệm vụ theo chỉ tiêu đƣợc giao. Điều này dẫn đến một thực tế, có không ít

NNCM còn mang tính hình thức, hoạt động không hiệu quả hoặc hoạt động riêng lẻ ở

từng cá nhân nhà khoa học chứ không phải trên danh nghĩa NNCM. Nhƣ vậy, chính

sách kích thích các đơn vị cố gắng thuyết minh để thành lập NNCM cho đủ số lƣợng

theo chỉ tiêu. Nhƣ vậy, chính sách trọng số lƣợng hơn trọng chất lƣợng và thực tế nhƣ

phân tích ở trên, có NNCM không có các nhiệm vụ nghiên cứu nên không có hoạt động,

hoặc hoạt động cầm chừng không hiệu quả. Bên cạnh đó, chính sách thành lập NNCM

của ĐHQGHN mới tác động theo nghĩa tạo danh tiếng cho NNCM, giúp cho NNCM có

cơ hội thuận lợi hơn trong việc đấu thấu các đề tài nhiệm vụ nghiên cứu các cấp, tiếp

nhận đầu tƣ, hỗ trợ từ các tổ chức nƣớc ngoài hay ký kết các dự án hợp tác nghiên cứu

với các tổ chức, cơ quan doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc. Ghi nhận ý kiến từ lãnh đạo

cấp cao của ĐHQGHN (Hộp 4.3) phần nào cho thấy điều này.

Hộp 4.3: Ý kiến của lãnh đạo ĐHQGHN về thành lập NNCM

“…ĐHQGHN thực hiện chính sách đẩy, tức ép cho NNCM phát triển bằng việc thành

lập Nhóm, đánh vào danh dự và lòng tự trọng của Nhóm nhằm thúc đẩy nhóm tăng

cường hoạt động KH&CN. Nhưng cách đi đó chưa chắc đã đúng bởi khi chính sách

đẩy được thực hiện thì Nhóm lại đòi cái này, đòi cái kia…” (Nam, GS.TS, 60 tuổi)

(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)

Thứ hai, khâu xét công nhận NNCM chƣa đƣợc thực hiện chặt chẽ, còn hiện

tƣợng mƣợn tên các nhà khoa học có chức danh, học vị, uy tín khoa học nhằm thuyết

minh hồ sơ để đƣợc công nhận là NNCM. Thực tế phần nào cho thấy, khi xem xét để

121

công nhận NNCM, ĐHQGHN thƣờng điểm danh nhà khoa học trong nhóm, các công

trình đƣợc công bố của mỗi cá nhân thành viên mà chƣa xem xét đến tính cố kết của

các thành viên hay sự gắn kết của các nhà học trong nhóm, nói cách khác các KQNC

thƣờng là của riêng cá nhân từng nhà khoa học trong nhóm mà ít có những công trình

nghiên cứu thực sự do sự hợp tác tạo ra. Thậm chí, có không ít các nhà khoa học đầu

ngành với các chức danh, học vị cao, có uy tín khoa học khi đƣợc hỏi về chính sách

phát triển NNCM với tƣ cách là thành viên của NNCM họ đã rất bất ngờ bởi không

biết mình có tên trong NNCM nào (Hộp 4.4).

Hộp 4.4: Hiện tƣợng mƣợn tên nhà khoa học khi thành lập NNCM

- “… tôi không thể trả lời giúp em các câu hỏi này bởi tôi không phải là thành

viên của NNCM”,…dạ thầy ơi, thầy là thành viên của NNCM … “… tôi không biết

bởi tôi không được báo mình là thành viên của NNCM cũng như không tham gia

thực hiện các đề tài/dự án với nhóm và các hoạt động khoa học của nhóm, nếu tôi là

thành viên của NNCM thì tôi phải có quyết định chứ” (Nam, TS, 62 tuổi)

- Ý kiến của một nhà khoa học phản hồi qua email “Tôi không thể trả lời được

các câu hỏi của bạn bởi tôi không phải là thành viên của NNCM”,.… dạ thầy ơi,

thầy có tên trong danh sách thành viên của NNCM… Kết quả là tôi không nhận đƣợc

thông tin phản hồi của nhà khoa học đó (Nam, PGS.TS, 60 tuổi)

- Một ý kiến khác “…, thầy trả lời phiếu hỏi của em rồi, thầy trả lời với tư cách

là trưởng NNC chưa được công nhận là NNCM chứ không phải là thành viên của

NNCM đâu nhé”. (Nam, GS.TS, 64 tuổi, một thành viên của NNCM)

- Bên cạnh đó là 7 ý kiến khác cũng trả lời tương tự vì không biết mình là thành

viên của NNCM khi tác giả tiến hành lấy ý kiến đánh giá.

(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)

Thứ ba, “chính sách quy định một đằng, thực hiện một nẻo”, cụ thể: Chính sách

thành lập NNCM đƣợc ban hành đã quy định NNCM đƣợc thành lập song song với

các chƣơng trình nghiên cứu trọng điểm, tuy nhiên, trong quá trình triển khai chính

sách, quy định này đã không đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc. Nếu thực hiện

nghiêm túc chính sách này, NNCM sẽ chỉ đƣợc thành lập nếu Nhóm có đƣợc một

chƣơng trình nghiên cứu, đi kèm theo đó là các nguồn lực đảm bảo cho nhóm hoạt

động trong thời gian nhất định theo quy định của chƣơng trình, hết thời gian này

ĐHQGHN sẽ tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động của NNCM dựa trên kết quả thực

122

hiện chƣơng trình đƣợc giao, để từ đó ĐHQGHN cân nhắc tiếp tục đầu tƣ hay giải thể

NNCM. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn nhiều NNCM vẫn đƣợc thành lập nhƣng không

gắn với chƣơng trình nghiên cứu nào, không có báo cáo thƣờng niên, ĐHQGHN cũng

không tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động KH&CN của NNCM kể từ khi các nhóm

đƣợc thành lập.

Thứ tư, chính sách xây dựng và phát triển NNCM của ĐHQGHN không quy

định hoạt động báo cáo thƣờng niên, nhƣ vậy phàm những NNCM nào đã đƣợc thành

lập sẽ nghiễm nhiên đƣợc hƣởng những chính sách ƣu đãi với tƣ các là NNCM. Đồng

thời chính sách cũng không quy định việc giải thể, nhƣ vậy phàm là những NNCM nào

đã đƣợc thành lập thì dù có hoạt động hay không hoạt động thì nhóm vẫn tồn tại và

không có ai đánh giá. Từ thực tế trên cho thấy, chính sách kích thích hình thức thay vì

thực chất.

Để làm rõ hơn căn nguyên của vấn đề này, tác giả luận án tiến hành lấy ý kiến

đánh giá của các nhà quản lý, những ngƣời trực tiếp thực thi chính sách nêu trên, kết

quả tác giả luận án thu đƣợc nhƣ sau:

Bảng 4.4: Những nguyên nhân cản trở việc giải thể NNCM

Nội dung lấy ý kiến đánh giá

Điểm trung bình

Chính sách không quy định cụ thể về việc giải thể NNC

3,57

Ngại đụng chạm vì Trƣởng NNC là những ngƣời giữ chức vụ cao

3,50

trong cơ quan

Bệnh hình thức, coi NNC là vật trang điểm cho trƣờng đại học

3,29

Ngại đụng chạm vì Trƣởng NNC là các nhà khoa học đầu ngành,

3,75

đầu đàn

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Nhƣ vậy, từ kết quả trên đây (Bảng 4.4) cho thấy căn nguyên của vấn đề nằm ở

chỗ chính sách đã không quy định cụ thể về việc giải thể NNCM. Điều này dẫn đến

việc những ngƣời thực thi chính sách rất khó có thể giải thể các NNCM vì sợ đụng

chạm đến các nhà khoa học đầu ngành, đầu đàn hay trƣởng NNCM là những ngƣời giữ

chức vụ cao trong cơ quan. Bên cạnh đó, bệnh thành tích cũng là một trong những vấn

đề ăn sâu vào trong tiềm thức của không ít cán bộ lãnh đạo, dẫn đến suy nghĩ dù nhóm

hoạt động không hiệu quả nhƣng thà có còn hơn không.

Phỏng vấn sâu một lãnh đạo cấp cao của ĐHQGHN (Hộp 4.5), tác giả luận án

đƣợc biết:

123

Hộp 4.5: Ý kiến của lãnh đạo ĐHQGHN về hoạt động đánh giá

“…nguyên nhân là chúng ta chưa thực hiện việc đánh giá, chẳng hạn cứ vào đại học

được là ra (tốt nghiệp) được, trung tâm nghiên cứu đã được thành lập thì cứ tồn tại

mãi…, ”, (Nam, GS.TS, 60 tuổi)

(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)

Nhƣ vậy, rõ ràng việc không thực hiện đánh giá sẽ là giải pháp an toàn cho các

nhà quản lý bởi nếu có đánh giá thì cũng không có hành lang pháp lý để giải thể những

NNC hoạt động không hiệu quả, mà đã đánh giá thì sẽ đụng chạm đến nhiều ngƣời.

Thứ năm, chính sách ƣu đãi về giờ giảng đối với thành viên của NNCM không

đƣợc thực hiện nghiêm túc và đồng bộ. Cụ thể, theo quy định, định mức giảng dạy

của các thành viên NNC không quá 150 giờ/năm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở mỗi

đơn vị thành viên của ĐHQGHN lại áp dụng và thực hiện chính sách theo các cách

rất khác nhau, có đơn vị thì chỉ áp dụng giảm định mức 20% cho trƣởng NNCM, có

đơn vị thì đã có quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ nhƣng chƣa áp dụng, cũng có

đơn vị thì không thực hiện chính sách này (Hộp 4.6). Nhƣ vậy, có thể khẳng định

chính sách quy định giờ định mức đối với giảng viên là thành viên của NNCM đã

không đƣợc thực thi một cách nghiêm túc và đồng bộ ở các đơn vị thành viên của

ĐHQGHN. Nhƣng có một thực tế đáng ngạc nhiên hơn nữa là các thành viên của

NNCM cũng không hề có phản ứng gì liên quan đến vấn đề đòi quyền lợi cho mình.

Nguyên nhân của vấn đề này một phần là do các thành viên của NNCM không nắm

đƣợc chính sách để đòi quyền lợi hoặc có thể họ thờ ơ với chính sách, nhƣng nguyên

nhân chính là quyết định công nhận NNCM chỉ có tên trƣởng nhóm mà không có tên

thành viên nên họ không có căn cứ để đòi quyền lợi cho mình. Bên cạnh đó, ngay cả

trƣởng NNCM cũng không đƣợc hƣởng chính sách này ở hầu hết các đơn vị, duy

nhất có một đơn vị áp dụng giảm giờ cho trƣởng NNCM. Đồng thời, kết quả phỏng

vấn cũng cho thấy sự chồng chéo trong nội dung chính sách. Từ thực tế kể trên lại

cho thấy, những bất cập trong chính sách thành lập NNCM của ĐHQGHN không chỉ

ở nội dung của chính sách mà còn ở sự quan liêu của ngƣời thực thi chính sách. Nhƣ

vậy, rõ ràng tính hiệu lực của chính sách đã không đƣợc thực thi và chắc chắn chính

sách giảm giờ đã không đem lại hiệu quả.

124

Hộp 4.6: Thực tế triển khai chính sách ưu đãi giờ giảng đối với thành viên NNCM

Theo quy định, thành viên NNCM có định mức 150 giờ/năm, vậy Trường thầy/cô thực

hiện chính sách này thế nào?

“… tôi chưa nghe thấy quy định này, để tôi kiểm tra lại”…Hôm sau, khi đã kiểm tra lại

văn bản anh cho biết “…Quy định đó là do Ban KH&CN đề xuất, trong khi giờ định

mức phải do Ban Tổ chức - Cán bộ đề xuất mới đúng chức năng…, thực tế hiện nay

giờ định mức đối với thành viên của NNCM của trườngđang là 270 giờ/năm” (Nam,

Phó trƣởng phòng);

“…Định mức giờ giảng của Trường tôi là 270 giờ/năm. Trong đó trưởng NNCM được

giảm 20% số giờ định mức, còn các thành viên của NNCM thì không được giảm” (Nữ,

Phó Trƣởng phòng);

“…Bên tôi quy định mức giảng dạy là 270 giờ/năm, không thực hiện chính sách

150giờ/năm của ĐHQGHN” và anh không giải thích lý do vì sao (Nam, Trƣởng

phòng);

“…Trường tôi áp dụng giờ định mức chung cho cán bộ giảng viên là 185 giờ/năm, đối

với chính sách quy định của ĐHQGHN, trường tôi đã đưa nội dung này vào Quy chế

chi tiêu nội bộ, tuy nhiên đến nay vẫn chưa thực hiện, vẫn đang lấy ý kiến của các đơn

vị, có thể sang năm mới thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay nội dung này có trong 2 văn

bản, đối với hướng dẫn 1409 quy định giờ cụ thể là 150 đối với thành viên của NNCM,

nhưng với quy định 1819 thì lại quy định về việc giảm giờ định mức theo tỷ lệ cho

trưởng NNCM nên Trường tôi sẽ xem xét cái nào có lợi cho giảng viên thì thực hiện”,

(Nữ, chuyên viên phụ trách trực tiếp công tác này).

(Ghi chú: Thời điểm ban hành và có hiệu lực của chính sách so với thời điểm phỏng

vấn cách nhau khoảng gần 5 năm)

(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)

Thứ sáu, thiếu sự phân định rõ ràng giữa NNCM, TTNC, Viện NC, PTNTĐ và

có sự chồng chéo giữa các chính sách. Điều này thể hiện ở việc nhiều NNCM cũng

đồng thời là TTNC hoặc Viện NC, hoặc PTNTĐ, hoặc TTNCTĐ… Minh chứng cụ

thể cho vấn đề này nhƣ sau: Năm 2013, khi xây dựng và phát triển các các chƣơng

trình nghiên cứu trọng điểm và NNCM, ĐHQGHN ban hành hƣớng dẫn số 1409/HD-

ĐHQGHN; năm 2015, khi thành lập phòng thí thí nghiệm trọng điểm, ĐHQGHN ban

hành hƣớng dẫn 1666/HD-ĐHQGHN. Trong đó, có không ít nhà khoa học vừa là

125

Trƣởng NNCM vừa là Giám đốc PTN trọng điểm hay TTNC trọng điểm… và họ

không biết đƣợc hƣởng ƣu đãi theo chính sách nào và phải thực hiện việc báo cáo,

kiểm tra, đánh giá theo cơ chế ra sao (Hộp 4.7).

Hộp 4.7: Ý kiến của nhà khoa học về chính sách thành lập NNCM

“…Tôi không thể cùng lúc làm 2 báo cáo về hoạt động KH&CN, một với tư cách là

NNCM, hai với tư cách là PTN trọng điểm” (Nam, GS.TS, Trƣởng NNCM, đồng thời

là Giám đốc PTN trọng điểm)

“…Nhóm thì nó mong manh lắm, hiện nay, Nhóm của tôi ngoài một quyết định công

nhận ra thì chúng tôi chưa nhận được bất cứ đầu tư gì, thỉnh thoảng ĐHQGHN lại

thúc đẩy Nhóm thông qua một số cuộc họp chỉ đạo, nhưng việc đầu tư bài bản từ 3 đến

5 năm thì không có, nên chúng tôi quyết tâm xây dựng Nhóm thành Trung tâm nghiên

cứu cấp trường bởi nó có tư cách pháp nhân, pháp lý” (Nam, GS.TS, trƣởng NNCM,

Giám đốc TTNC)

(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)

Thứ bảy, việc thực thi chính sách đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các

NNCM thông qua các dự án tăng cƣờng NLNC còn có những hạn chế. Trong quá trình

nghiên cứu, tác giả luận án ghi nhận một số hạn chế sau: Khi xây dựng dự án thuyết

minh với ĐHQGHN đầu tƣ tăng cƣờng NLNC, một trong những đơn vị thành viên của

ĐHQGHN thực hiện việc tập hợp một số chuyên gia để xây dựng dự án thay vì giao

cho đơn vị có nhu cầu tăng cƣờng trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, điều này dẫn đến

việc, nhóm thuyết minh dự án thì không phải là những ngƣời tiếp nhận trang thiết bị

đầu tƣ, còn nhóm tiếp nhận dự án lại không có nhu cầu (Hộp 4.8). Một trong những

tiêu chuẩn để đề án đƣợc phê duyệt là phải có các công bố quốc tế thuộc danh mục

ISI/Scopus hàng năm thông qua việc khai thác các trang thiết bị đầu tƣ của dự án và

đây là mấu chốt bộc lộ những hạn chế. Minh chứng cho hạn chế này đó là sau khi dự

án đƣợc phê duyệt, ĐHQGHN triển khai bàn giao cho đơn vị thì xảy ra vƣớng mắc vì

nhóm chuyên gia xây dựng dự án thì không phải là ngƣời tiếp nhận các trang thiết bị

đƣợc đầu tƣ mà Nhà trƣờng giao cho các Khoa đào tạo của Trƣờng triển khai hoạt

động nghiên cứu thông qua đội ngũ các nhà khoa học thuộc các NNC. Các NNC sau

khi tiếp nhận dự án đầu tƣ thì “tá hỏa” vì bản cam kết khi thuyết minh dự án là phải

công bố 2 bài báo quốc tế thƣờng niên mà việc này thì nhóm không đủ khả năng để

thực hiện, dẫn tới các đơn vị và các NNC đùn đẩy nhau không tiếp nhận các trang thiết

126

bị này. Cuối cùng dự án đó vẫn đƣợc “cƣỡng ép” bàn giao cho một đơn vị làm đầu mối

sử dụng và một số đơn vị khác tham gia với tƣ cách phối hợp sử dụng. Tuy nhiên, khi

có đơn vị tiếp nhận bàn giao thiết bị thì lại phát sinh vấn đề khác bởi các thiết bị đƣợc

đầu tƣ là các thiết bị rất hiện đại, nhiều nhà khoa học trong NNC chƣa bao giờ sử dụng

thiết bị này, trong khi Nhà trƣờng không có cán bộ kỹ thuật riêng để tiếp nhận và vận

hành thiết bị. Mặc dù, các nhà khoa học đã đƣợc đào tạo để sử dụng nhƣng ngay chính

đơn vị đào tạo là đơn vị nhập thiết bị để lắp đặt cho Nhà trƣờng cũng chƣa bao giờ vận

hành hay sử dụng thiết bị dẫn đến cả ngƣời đào tạo và ngƣời đƣợc đào tạo cùng “mò

mẫm” để có thể sử dụng đƣợc thiết bị.

Hộp 4.8: Nghịch lý trong triển khai dự án tăng cƣờng NLNC, ngƣời cần thì

không đƣợc giao, ngƣời đƣợc giao thì không cần.

Xin Cô có thể cho biết Cô tham gia xây dựng dự án tăng cƣờng NLNC với tƣ cách gì?

“Tôi được lãnh đạo Nhà trường mời với tư cách chuyên gia, thay mặt cho Nhà trường

xây dựng dự án tăng cường NLNC và thuyết minh về tính khả thi của dự án với

ĐHQGHN để được đầu tư”

Vậy Cô có đƣợc định hƣớng sẽ quản lý dự án thiết bị đầu tƣ này hay không?

“Nhà trường không định hướng sau này sẽ giao cho tôi tiếp nhận dự án đầu tư này”

Vậy Cô có sẵn sàng tiếp nhận các sản phẩm của dự án đầu tƣ này không?

“Có chứ, bởi tôi cũng rất cần sử dụng những thiết bị này cho hoạt động nghiên cứu

của mình, nhưng tôi nghĩ Nhà trường không bao giờ giao cho tôi với tư cách cá nhân

tiếp nhận dự án đầu tư lớn như thế đâu”

Vậy Cô có nghĩ rằng nếu Cô đƣợc tiếp nhận dự án đó Cô có tin rằng mình đạt đƣợc chỉ

tiêu đề ra là công bố 2 bài báo quốc tế/năm không?

“Tôi cũng không dám chắc, thuyết minh là vậy thôi chứ để có bài công bố thì phải có

nhiệm vụ nghiên cứu” (Nữ, PGS.TS, 44 tuổi)

(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)

Nhƣ vậy, có thể thấy rằng việc xét duyệt và quản lý dự án đầu tƣ thiếu chặt chẽ

sẽ dẫn đến những lãng phí nguồn lực tài chính của Nhà nƣớc. Bên cạnh đó, việc yêu

cầu đề án cam kết phải có bài báo công bố quốc tế hàng năm làm tiêu chí để phê duyệt

đề án cũng đƣợc xem là một bất cập, bởi, không thể lấy sản phẩm đầu ra của một

nhiệm vụ nghiên cứu làm sản phẩm đầu ra cho một phƣơng tiện nghiên cứu.

127

Từ những hạn chế của chính sách đƣợc nêu trên đây, tác giả nhận thấy,

nguyên nhân của vấn đề chủ yếu do chính sách đƣợc ban hành chƣa đƣợc triển khai

chƣa đồng bộ và phù hợp với thực tế, kết quả khảo sát những cán bộ lãnh đạo làm

công tác quản lý ở những phòng, ban có liên quan trực tiếp đến việc thực thi chính

sách từ cấp ĐHQGHN đến cấp đơn vị thành viên (Bảng 4.5) phần nào minh chứng

cho nhận định này.

Bảng 4.5: Nguyên nhân chính sách được ban hành chưa phù hợp với thực tế

Nội dung lấy ý kiến đánh giá Điểm trung bình

Nội dung chƣa tạo đƣợc động lực cho sự phát triển NNCM 3.75

Điều chỉnh, thay đổi nội dung chậm so với thực tiễn 3.71

Quá trình lấy ý kiến đóng góp chƣa thật rộng rãi, dân chủ 3.68

Sự phối hợp giữa ĐHQGHN và các đơn vị có liên quan trong quá 3.29 trình soạn thảo chƣa tốt

Thời gian chuẩn bị văn bản lâu; nội dung văn bản thể hiện không 3.18 rõ ràng

Hƣớng dẫn thiếu chính xác/thiếu chi tiết 3.18

Nhóm chịu tác động bởi chính sách chƣa đƣợc tham gia vào quá 3.36 trình làm chính sách

Từ kết quả trên (Bảng 4.5) cho thấy, nguyên nhân chính là do nội dung của

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

chính sách chƣa tạo động lực cho sự phát triển NNCM. Điều đó dẫn đến một thực tế,

những ngƣời trực tiếp thực thi chính sách chƣa có niềm tin vào những chuyển biến tích

cực sẽ đƣợc tạo ra trong thực tế khi chính sách đƣợc triển khai. Nguyên nhân tiếp theo

là do việc điều chỉnh, thay đổi nội dung của chính sách chậm so với thực tiễn. Điều

này tiếp tục cho thấy, nếu nội dung của chính sách chƣa phù hợp với thực tế thì các

nhà quản lý cũng chƣa có niềm tin vào việc nội dung đó sẽ đƣợc kịp thời điều chỉnh.

Bên cạnh đó, là việc trong quá trình làm chính sách nhóm đối tƣợng chịu tác động bởi

chính sách ít đƣợc tham gia góp ý, cũng nhƣ nội dung của chính sách chƣa đƣợc lấy ý

kiến rộng rãi và dân chủ. Ngoài ra, những vấn đề liên quan khác nhƣ thời gian chuẩn

bị văn bản lâu, nội dung văn bản thể hiện không rõ ràng, hƣớng dẫn thiếu chính

xác/thiếu chi tiết, sự phối hợp giữa ĐHQGHN và các đơn vị có liên quan trong quá

trình soạn thảo chƣa tốt là những vấn đề mà các nhà thực thi chính sách lo ngại.

128

4.5. Đánh giá tác động của chính sách phát triển NNCM đến hoạt động KH&CN

ở ĐHQGHN

Để đánh giá chính sách phát triển NNCM có tác động đến việc nâng cao hiệu quả

hoạt động KH&CN của các NNCM, luận án tiến hành lấy ý kiến đánh giá của 113 nhà

khoa học thuộc các NNC và 28 nhà quản lý liên trực tiếp đến việc thực thi chính sách từ

cấp ĐHQGHN đến cấp đơn vị thành viên của ĐHQGHN. Luận án sử dụng thang đo

Likert với 5 mức độ (các mức tác động từ 1 đến 5, trong đó 5 là mức tác động mạnh

nhất và 1 là mức tác động thấp nhất) để tiến hành lấy ý kiến đánh giá và phỏng vấn đối

tƣợng có liên quan. Dữ liệu đƣợc thu thập và xử lý bằng phần mềm SPSS… Trong đó,

chính sách phát triển NNCM gồm 3 nhóm chính sách là nhóm chính sách đầu tƣ, phát

triển nguồn nhân lực; nhóm chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu;

nhóm chính sách hợp tác và phát triển, kết quả thu đƣợc nhƣ sau:

4.5.1. Chính sách đầu tư, phát triển nguồn nhân lực

Qua thăm dò tác động của Nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực

đã đƣợc triển khai trong giai đoạn vừa qua (Bảng 4.7), đánh giá của các nhà khoa học,

các nhà quản lý cho thấy, có 18/21 nội dung của chính sách đƣợc các nhà khoa học,

các nhà quản lý đánh giá ở mức cao, trong đó tập trung vào những nội dung nhƣ “Hỗ

trợ CB tham gia các hội nghị, hội thảo trong nƣớc và quốc tế nếu có ấn phẩm xuất bản

trong hệ thống của ISI hoặc Scopus”; “Trƣởng NNCM đƣợc bố trí nơi làm việc và sinh

hoạt khoa học”; “Đƣợc truy cập thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI,

Sciendirect”; “Tuyển dụng đặc cách cán bộ khoa học có trình độ tiến sĩ”; “Hỗ trợ kinh

phí để xuất bản các công trình khoa học, sách chuyên khảo, các sáng chế”; “Hỗ trợ đối

với các công bố quốc tế trong hệ thống ấn phẩm của ISI hoặc Scopus”, còn lại chỉ 3/21

nội dung khác của chính sách đƣợc đánh giá ở mức độ trung bình, tập trung vào các

nội dung “CBKH có trình độ tiến sĩ trở lên, giảng dạy chuyên môn bằng ngoại ngữ sẽ

đƣợc ƣu tiên xét duyệt đề tài KH&CN với mức tối thiểu là 50 triệu đồng”; “NCS của

nhóm đƣợc hỗ trợ chỗ ở, tham gia thực hiện đề tài cùng NNC và hƣởng kinh phí theo

đề tài; ƣu tiên tham gia đề án 911 và các chƣơng trình”; “Sau 5 năm giảng dạy đƣợc

nghỉ 01 học kỳ để tập trung cho nghiên cứu”. Điều này phần nào cho thấy chính sách

đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực đã phát huy đƣợc hiệu quả tích cực trong thực tế.

Minh chứng rõ ràng nhất về nhận định này đó là số lƣợng nhà khoa học và chất lƣợng

nhà khoa học (xét theo học vị và chức danh) của ĐHQGHN đã tăng dần theo từng

năm. Tuy nhiên, nếu so với chỉ chỉ tiêu phát triển nguồn nhân lực đƣợc đặt ra trong

129

chiến lƣợc phát triển ĐHQGHN đến năm 2020 tầm nhìn 2030 theo từng giai đoạn thì

ĐHQGHN vẫn chƣa đạt đƣợc các chỉ tiêu này (Bảng 4.6).

Bảng 4.6: Tỉ lệ cán bộ khoa học năm 2018 so với chỉ tiêu năm 2015 và 2020

Tỉ lệ cán bộ khoa học so với chỉ tiêu theo từng giai đoạn

Tiêu chí Chỉ tiêu đạt đƣợc đến Chỉ tiêu năm Chỉ tiêu năm

năm 2018 đến 2015 đến 2020

Tỉ lệ cán bộ khoa học 55.3% 60% 62%

Tỉ lệ GS, PGS 17.4% 25% 25%

Tỉ lệ tiến sĩ, TSKH 50.6% 50% 60%

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn

(Trích nguồn: Chiến lược phát triển ĐHQGHN đến 2020 tầm nhìn 2030)

nhân lực chƣa phát huy đƣợc hiệu quả cao, theo tác giả luận án ngoài những vấn đề do

những hạn chế từ bản thân chính sách, thì còn nhiều vấn đề liên quan đến việc thực thi

và tính phù hợp của chính sách. Vấn đề này sẽ đƣợc tác giả luận án nêu ra ra trong

phần hạn chế của chính sách. Tất nhiên, mọi sự đánh giá đều mang tính tƣơng đối và

khó khăn, nhất là với các nhà khoa học bởi họ là ngƣời chịu tác động bởi chính sách

nhƣng lại không đƣợc trực tiếp tham gia vào quá trình hoạch định chính sách. Nhƣ

vậy, có thể thấy tính phù hợp của chính sách, thực tế quá trình triển khai chính sách

cũng cần đƣợc xem xét một cách thƣờng xuyên và thấu đấu hơn.

Bảng 4.7: Đánh giá tác động của nhóm chính sách đầu tư, phát triển

nguồn nhân lực đến sự phát triển NNCM

Điểm Nội dung khảo sát trung bình

Tuyển dụng đặc cách cán bộ khoa học có trình độ tiến sĩ 3.89

Đƣợc hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực hiện chính sách thu 3.68 hút các CBKH mạnh ở trong và ngoài nƣớc

Đƣợc cấp kinh phí để cử đi đào tạo, bồi dƣỡng ở trong nƣớc và 3.63 nƣớc ngoài

Ƣu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở các 3.62 PTN, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu...

CBKH nƣớc ngoài đƣợc đơn vị bố trí chỗ ở, phƣơng tiện đi lại, chỗ 3.56 làm việc và các trang thiết bị cần thiết cho nghiên cứu

130

Điểm Nội dung khảo sát trung bình

Đƣợc trả thu nhập thỏa đáng theo hiệu quả công tác trên cơ sở thỏa 3.64 thuận giữa đơn vị và CBKH

Trƣởng NNCM đƣợc bố trí nơi làm việc và sinh hoạt khoa học 3.93

Trƣởng NNCM đƣợc nhận hệ số trách nhiệm quản lý 0.6 3.47

Đầu tƣ kinh phí NC theo phƣơng thức đặt hàng, giao nhiệm vụ 3.67 KH&CN hoặc đề xuất của NNC

Định mức giảng dạy không quá 150 giờ tín chỉ quy chuẩn/năm 3.43

Sau 5 năm giảng dạy đƣợc nghỉ 01 học kỳ để tập trung cho nghiên cứu 3.23

Đƣợc ƣu tiên nhận hƣớng dẫn NCS (kể cả NCS nƣớc ngoài) và HVCH 3.49

NCS của nhóm đƣợc hỗ trợ chỗ ở, tham gia thực hiện đề tài cùng NNC

và hƣởng kinh phí theo đề tài; ƣu tiên tham gia đề án 911 và các 3.39

chƣơng trình học bổng khác

CBKH có trình độ tiến sĩ trở lên, giảng dạy chuyên môn bằng ngoại

ngữ sẽ đƣợc ƣu tiên xét duyệt đề tài KH&CN với mức tối thiểu là 50 3.32

triệu đồng

Hỗ trợ kinh phí để xuất bản các công trình khoa học, sách chuyên 3.89 khảo, các sáng chế

Ƣu tiên tiên cao nhất trong việc tham gia hoặc chủ trì biên soạn giáo 3.55 trình, bài giảng, tham gia các hội đồng đánh giá đề tài, dự án KH&CN

GS dƣới 50 tuổi, PGS dƣới 45 tuổi, TS, TSKH dƣới 40 tuổi đƣợc ƣu 3.41 tiên giao những nhiệm vụ đào tạo, NCKH đặc biệt;

Hỗ trợ CB tham gia các hội nghị, hội thảo trong nƣớc và quốc tế nếu 4.00 có ấn phẩm xuất bản trong hệ thống của ISI hoặc Scopus

Hỗ trợ đối với các công bố quốc tế trong hệ thống ấn phẩm của ISI 3.89 hoặc Scopus

Đƣợc truy cập thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI, 3.91 Sciendirect

Khen thƣởng, vinh danh 3.48

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

131

Từ kết quả trên (Bảng 4.6, Bảng 4.7), luận án rút ra kết luận quan trọng đánh

giá về nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực nhƣ sau:

a) Tính hiệu quả:

Chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực của ĐHQGHN đã cơ bản thành

công trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch thu hút, tuyển dụng, đào tạo đạt

chuẩn đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, với quy mô hợp lý và cơ cấu đồng bộ về

chuyên môn, trình độ, có kế thừa và phát triển. Trong đó, ĐHQGHN đã đặc biệt

chú trọng bồi dƣỡng những nhà khoa học đầu ngành, đầu đàn tƣơng lai, tạo môi

trƣờng thuận lợi để họ phát huy năng lực và lòng nhiệt huyết trong khoa học; Tổ

chức đƣợc các NNCM để xây dựng các dự án, đề tài khoa học có tính trọng điểm,

gắn quyền lợi và trách nhiệm của NNCM trong hoạt động KH&CN của ĐHQGHN.

Các NNCM đã tạo ra đƣợc sự gắn kết và dẫn dắt thế hệ trẻ, tuyền bá phƣơng pháp,

tri thức khoa học, điều này đƣợc thể hiện thông qua những đóng góp của NNCM

trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN đã đƣợc tác giả luận án phân tích

ở phần trên. Chú trọng bồi dƣỡng đào tạo cán bộ nghiên cứu trẻ, giao các nhiệm vụ

trọng trách về NCKH và giảng dạy, tạo điều kiện về mặt thời gian kinh phí cho các

cán bộ trẻ đi dự các hội nghị khoa học cấp quốc gia, quốc tế. Tạo cơ hội và những

điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học tham gia các hoạt động chuyên môn ở

trong và ngoài nƣớc, thực hiện chế độ định kỳ 5 năm 1 lần đƣợc nghỉ giảng dạy để

các nhà khoa học có thời gian trau dồi, học tập, NCKH, trao đổi học thuật và nâng

cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ.

Hiệu quả của nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực đƣợc minh

chứng bằng số lƣợng các nhà khoa học đƣợc ĐHQGHN thu hút tăng mạnh kể từ

năm 2012 đến nay, số lƣợng cán bộ đƣợc đào tạo và số công trình khoa học đƣợc

công bố tăng hàng năm, số lƣợng NNCM đƣợc công nhận cũng tăng dần kể từ năm

2014 đến nay.

b) Tính hiệu lực:

Từ thực tế mức độ đánh giá của các nhà khoa học và các nhà quản lý cũng nhƣ

những kết quả đạt đƣợc của chính sách đã đƣợc nêu trên đây cho thấy, chính sách đã

đạt đƣợc cơ bản mục tiêu đề ra, tuy ở những mực độ còn hạn chế, song chính sách đã

có những đóng góp quan trọng đối với việc phát triển đội ngũ nhân lực trong thời gian

qua ở ĐHQGHN. Cùng với nguồn số liệu bằng phƣơng pháp định lƣợng, các nhà khoa

132

học cơ bản đánh giá chính sách có tác động tích cực đến sự phát triển nguồn nhân lực,

tạo nền tảng cho việc xây dựng các NNCM .

Tất cả những điều này cho thấy các chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân

lực của ĐHQGHN chủ yếu đã có hiệu lực. Tuy nhiên tính hiệu lực này chƣa cao vì

thực tế triển khai chính sách còn bộc lộ nhiều bất cập, nhƣ luận án đã đề cập trong

phần những hạn chế của chính sách.

4.5.2. Chính sách cải thiện môi trường và điều kiện nghiên cứu

Kết quả đánh giá tác động của chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện

nghiên cứu (Bảng 4.8) cho thấy, việc các NNCM đƣợc đầu tƣ trang thiết bị đồng

bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi và đƣợc bố trí phòng làm việc đã đƣợc các nhà

khoa học, các nhà quản lý đánh giá là có tác động tích cực đến sự phát triển của các

NNCM. Điều đó khẳng định rằng, việc đầu tƣ cơ sở vật chất trang thiết bị, tạo điều

kiện tốt nhất cho NNCM hoạt động KH&CN là vô cùng quan trọng và là sự đầu tƣ

đúng hƣớng của ĐHQGHN. Bằng chứng là các nhà khoa học và các nhà quản lý

đều đánh giá cao việc các NNCM “Đƣợc bố trí nơi làm việc”, “Đƣợc đầu tƣ trang

thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi”, “Sắp xếp và kiện toàn các tổ chức

NCKH”, “đổi mới cơ chế quản lý KH&CN”, “Phát triển nguồn lực thông tin”,

“Đƣợc ƣu tiên sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng chung”, “Hỗ trợ kinh phí

hoạt động thƣờng xuyên cho NNCM”. Bên cạnh đó, vẫn còn một số nội dung của

chính sách chƣa đƣợc các nhà khoa học đánh giá cao nhƣ việc tạo lập thị trƣờng

công nghệ, phát triển quỹ KH&CN, hỗ trợ khởi nghiệp, xây dựng tạp chí đạt chuẩn

quốc tế. Kết quả đánh giá của các nhà khoa học và các nhà quản lý cho thấy, các

nội dung nêu trên của chính sách chỉ ở mức trung bình (tức mức điểm dao động

trong khoảng từ 3,09/5 điểm đến 3,35/5 điểm). Nhƣ vậy, một số nội dung trong

chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu còn chƣa phát huy đƣợc

hiệu quả cao trong thực tế.

133

Bảng 4.8: Đánh giá tác động của nhóm chính sách cải thiện môi trường và điều kiện

nghiên cứu đến sự phát triển NNCM

Điểm Nội dung khảo sát trung bình

Đƣợc đầu tƣ trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi 3,82

Sắp xếp và kiện toàn các tổ chức NCKH (NNCM, Trung tâm NC, PTN 3,74 trọng điểm, PTN chuyên đề, khu chế thử…)

Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN 3,59

Đƣợc ƣu tiên sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng chung 3,61

Phát triển nguồn lực thông tin 3,74

Hỗ trợ kinh phí hoạt động thƣờng xuyên cho NNCM 3,67

Tạo lập thị trƣờng công nghệ 3,34

NNCM đƣợc bố trí phòng làm việc 3,85

Hỗ trợ khởi nghiệp 3,09

Phát triển quỹ KH&CN 3,35

Xây dựng tạp chí đạt chuẩn quốc tế 3,26

Từ kết quả trên (Bảng 4.8), luận án rút ra kết luận quan trọng đánh giá về nhóm

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu nhƣ sau:

a) Tính hiệu quả:

Chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu của ĐHQGHN đã cơ

bản thành công trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các NNCM bằng các dự án tăng

cƣờng NLNC, cải thiện môi trƣờng nghiên cứu, qua các dự án này các NNCM đã có

đƣợc cơ sở vật chất trang thiết bị hiện đại để triển khai các hoạt động KH&CN. Hiệu

quả của nhóm chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu đƣợc minh

chứng bởi hiệu quả trong các hoạt động KH&CN của NNCM ở ĐHQGHN, quy tụ

đƣợc các nhà khoa học tham gia nghiên cứu trong các NNCM, các PTN trọng điểm,

PTN chuyên đề…

b) Tính hiệu lực:

Từ thực tế mức độ đánh giá cao của các nhà khoa học và các nhà quản lý, cũng

nhƣ những kết quả đạt đƣợc của chính sách tạo điều kiện và môi trƣờng nghiên cứu

thuận lợi cho các nhà khoa học nhƣ nêu trên cho thấy, chính sách đã đạt đƣợc mục tiêu

134

quan trọng nhất, đó là quy tụ đƣợc các nhà khoa học làm việc trong các NNC và các

PTN…tuy ở những mức độ khác nhau, nhƣng điều đó phần nào khẳng định, những

đóng góp quan trọng trong việc tăng cƣờng tiềm lực KH&CN ở ĐHQGHN. Nhƣ vậy,

các chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu của ĐHQGHN đã cơ bản

phát huy hiệu lực. Tuy nhiên, tính hiệu lực còn chƣa cao bởi những hạn chế, bất cập

trong quá trình trển khai chính sẽ đƣợc tác giả luận án trình bày ở phần dƣới đây.

4.5.3. Chính sách hợp tác và phát triển

Qua việc thăm dò tác động của nhóm chính sách hợp tác và phát triển trong giai

đoạn vừa qua, đánh giá của các nhà khoa học, các nhà quản lý (Bảng 4.9) cho thấy,

ĐHQGHN có những thành công nhất định trong việc thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với

các cơ quan/tổ chức nghiên cứu nƣớc ngoài, điều này không chỉ đƣợc minh chứng bởi

những kết quả hợp tác quốc tế đƣợc tác giả luận án phân tích ở phần trên mà còn đƣợc

các nhà khoa học, các nhà quản lý đánh giá cao với tỉ lệ ủng hộ ở mức 4.09/5 điểm.

Bên cạnh đó, các hoạt động hợp tác với các cơ quan, doanh nghiệp trong nƣớc cũng đã

có những tín hiệu rất khả quan điều đó phần nào đƣợc minh chứng bởi những văn bản

ký kết hợp tác nghiên cứu, các hợp đồng chuyển giao công nghệ, các đề tài/dự án cùng

hợp tác triển khai nhƣ tác giả luận án trình bày rõ ràng ở trên, đồng thời đánh giá của

các nhà khoa học và các nhà quản lý cũng phần nào phù hợp với nhận định này (tỉ lệ

ủng hộ dao động trong khoảng 3.53/5 điểm đến 3.78/5 điểm)

Bảng 4.9: Đánh giá tác động của nhóm chính sách hợp tác và phát triển

đến sự phát triển NNCM

Điểm

Nội dung xin ý kiến đánh giá

trung bình

3,66

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với doanh nghiệp

3,78

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu trong nƣớc

3,53

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các địa phƣơng

4,09

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu nƣớc ngoài

Nhƣ vậy, chính sách hợp tác và phát triển của ĐHQGHN đã phát huy tác dụng

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

quan trọng trong việc tận dụng ngoại lực, phát huy nội lực để triển khai các nhiệm vụ

nghiên cứu trong thời gian qua. Điều này khẳng định chính sách đã phát huy hiệu lực

trong thực tế và cơ bản đem lại hiệu quả thiết thực cho ĐHQGHN, cũng nhƣ các bên

có liên quan.

135

4.6. Tiểu kết chƣơng 4

Những phần viết ở trên đã bàn về thực trạng chính sách phát triển nhóm nghiên

cứu mạnh trong hoạt động KH&CN ở ĐHQGHN. Đến đây, tác giả luận án sẽ nhìn lại

một số điểm chính.

Thứ nhất, về những ƣu điểm và hạn chế trong chính sách của Nhà nƣớc. Chính

sách của nhà nƣớc đã thành công trong việc khẳng định việc tự chủ của tổ chức

KH&CN. Tuy nhiên, bất cập cơ bản của chính sách là Nhà nƣớc vẫn nắm quyền làm

chủ các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nên sự tự chủ của các tổ chức KH&CN vẫn

còn giới hạn. Cụ thể là việc lựa chọn, đấu thầu, giao nhiệm vụ nghiên cứu vẫn cơ bản

thực hiện theo cơ chế hành chính, bao cấp dẫn đến hoạt động KH&CN khó phát triển

lành mạnh. Điểm cần nhấn mạnh thêm là chính sách của Nhà nƣớc đã hƣớng đến việc

đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm cho các NNCM thông qua các dự án nghiên cứu dài

hạn, quy mô lớn với thời gian và kinh phí không giới hạn. Ngoài ra, chính sách của

Nhà nƣớc cũng chú trọng việc đào tạo theo nhóm chuyên gia, đào tạo theo hƣớng

nghiên cứu, dự án nghiên cứu và đào tạo gắn liền với thực tiễn tại các cơ quan, tổ

chức, doanh nghiệp nƣớc ngoài tại Việt Nam hoặc các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp

ở nƣớc ngoài nhằm giải quyết những vấn đề nghiên cứu cụ thể của các nhà khoa học.

Một điểm đáng lưu ý nữa là chính sách nhà nƣớc cũng chú trọng đầu tƣ phát triển tiềm

lực và khuyến khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở GDĐH, đồng thời, thúc đẩy

phát triển các tổ chức KH&CN công lập, liên kết giữa các tổ chức Viện - Trƣờng-

Doanh nghiệp và thu hút chuyên gia nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài về

Việt Nam hợp tác nghiên cứu thông qua các dự án đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong

nghiên cứu KH&CN, các dự án tăng cƣờng năng lực nghiên cứu. Chính sách Nhà

nƣớc cũng chú trọng đến chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao trong

tƣơng lai bằng việc nâng chuẩn đối với ứng viên đào tạo tiến sĩ và các nhà khoa học

tham gia vào quá trình đào tạo tiến sĩ.

Thứ hai, về những ƣu điểm và hạn chế trong chính sách phát triển NNCM của

ĐHQGHN. Liên quan đến ƣu điểm, chính sách của ĐHQGHN đã cơ bản thành công

trong việc đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực KH&CN nói chung và NNCM nói riêng

thông qua việc thu hút, tuyển dụng đặc cách các nhà khoa học có trình tiến sĩ và đào

tạo cán bộ khoa học đạt chuẩn, với quy mô hợp lý và cơ cấu đồng bộ về chuyên môn,

trình độ, có kế thừa và phát triển từ đó hình thành 28 NNCM. Thêm nữa, chính sách

của ĐHQGHN cũng đã góp phần cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu cho các

136

nhà khoa học thông qua việc tái cơ cấu hoạt động KH&CN. Điểm cần nói thêm là

chính sách của ĐHQGHN cũng bƣớc đầu thành công trong việc đa dạng hoá nguồn

kinh phí phục vụ cho hoạt động KH&CN.

Về hạn chế, chính sách ĐHQGHN chƣa xác lập đƣợc lĩnh vực ƣu tiên để đầu

tƣ có trọng tâm, trọng điểm nhằm tối đa hóa lợi thế cạnh tranh của Trƣờng. Việc các

NNCM đƣợc thành lập không gắn liền với một chƣơng trình nghiên cứu cụ thể, các

chính sách đƣợc thể chế hóa nhằm ƣu đãi đối với các nhà khoa học chƣa đƣợc thực

thi là minh chứng cụ thể cho nhận định trên. Một điều cần phải khẳng định rằng, sự

xuất sắc của các NNCM ở ĐHQGHN không thể đạt đƣợc bằng việc tự công nhận mà

phải do cộng đồng khoa học và xã hội quyết định. Xét ở góc độ quản lý cho thấy,

ĐHQGHN thiếu các thiết chế để quản lý và điều chỉnh, cơ cấu tổ chức còn có sự

chồng chéo, cơ chế quản trị còn cồng kềnh, quan liêu, tƣ duy kiểu hành chính bao

cấp chƣa có sự thay đổi rõ ràng là những rào cản lớn đối với sự phát triển các tổ chức

KH&CN nói chung và các NNCM nói riêng. Bên cạnh đó, các quy định công chức

nhà nƣớc và khuôn khổ tài chính cứng nhắc là những rào cản lớn đối với vấn đề thu

hút các các giáo sƣ và nhà khoa học có năng lực trong và ngoài nƣớc đến ĐHQGHN

làm việc.

137

CHƢƠNG 5. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

5.1. Dẫn nhập

Nhƣ đã phân tích trong các chƣơng trƣớc, NNCM sẽ không thể hình thành và

phát triển nếu không có đƣợc môi trƣờng chính sách thuận lợi và sự hỗ trợ ban đầu,

trực tiếp từ khu vực Nhà nƣớc và trƣờng đại học. Từ việc nhận diện những ƣu điểm,

cũng nhƣ những điểm còn hạn chế của chính sách KH&CN của Nhà nƣớc nói chung

và chính sách phát triển NNCM của ĐHQGHN nói riêng, trong chƣơng này, tác giả

luận án trình bày kết quả nghiên cứu về những giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính

sách phát triển NNCM cho ĐHQGHN, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các NNCM

phát huy tối đa NLNC, sáng tạo của họ. Theo đó, chƣơng này sẽ tập trung vào những

nội dung chính sau đây:

Thứ nhất, xác định rõ những thách thức đặt ra, những quan điểm, định hƣớng đề

xuất giải pháp hoàn thiện chính sách, mục tiêu đề xuất giải pháp chính sách và các

nguyên tắc đề xuất giải pháp chính sách.

Thứ hai, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và phát triển NNC từ một số trƣờng

đại học nƣớc ngoài để từ đó rút ra những nội dung quan trọng góp phần hoàn thiện

chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN.

Thứ ba, trình bày một cách có hệ thống các giải pháp hoàn thiện chính sách

phát triển NNCM cho ĐHQGHN.

5.2. Bối cảnh, quan điểm định hƣớng, mục tiêu, nguyên tắc đề xuất giải pháp

hoàn thiện chính sách phát triển NNCM

5.2.1. Bối cảnh bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, xu hƣớng

bao trùm của nền kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế dựa vào tri thức. Trong đó, tri

thức khoa học có vai trò quan trọng trong việc tạo ra những thành tựu công nghệ mới,

ứng dụng trong hoạt động sản suất, góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho giới công

nghiệp. Việt Nam đang chuẩn bị kết thúc quá trình thực hiện “Chiến lƣợc phát triển

kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020” và đang hoàn tất “Chiến lƣợc phát triển kinh tế -

xã hội giai đoạn 2021-2030”. Chiến lƣợc mới này xác định rõ khoa học, công nghệ và

138

đổi mới sáng tạo là một đột phá chiến lƣợc, trong đó nêu rõ khoa học, công nghệ và

đổi mới sáng tạo là lực lƣợng sản xuất trực tiếp, là động lực chính của mô hình tăng

trƣởng kinh tế giai đoạn 2021- 2025 và 2026-2030. Chính vì vậy, phát triển NNCM sẽ

góp phần vào việc thực hiện Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 -

2030. Điểm cần nhấn mạnh thêm ở đây là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt

Nam, cùng với việc tham các FTA thế hệ mới, đòi hỏi Nhà nƣớc phải có chính sách

phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của NNCM, để có đƣợc các sản phẩm khoa học

có giá trị, góp phần giúp Việt Nam hội nhập có hiệu quả vào khu vực và toàn cầu hóa.

Bên cạnh đó, sự bùng nổ của cuộc cách mạng về KH&CN, cùng những thay đổi

từ thị trƣờng và sự thay đổi trong chính sách ở tầm vĩ mô sẽ tạo ra không ít thách thức

nhƣng cũng là cơ hội cho ĐHQGHN và các trƣờng đại học trong việc đổi mới hoạt

động đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Trong bối cảnh đó, rõ ràng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ là thách

thức, có tác động rất lớn đến giáo dục đại học trong hiện tại và tƣơng lai. Các trƣờng

đại học, trong đó có ĐHQGHN sẽ đứng trƣớc nhiều thách thức rất lớn nhƣ không thể

dự đoán các kỹ năng mà thị trƣờng lao động sẽ cần do tốc độ thay đổi công nghệ diễn

ra quá nhanh; các hoạt động đào tạo và nghiên cứu đối mặt với các yêu cầu cải cách và

cạnh tranh mới. Giới công nghiệp sẽ có nhiều trải nghiệm quý giá mà giới hàn lâm đại

học chƣa kịp cập nhật. Theo nhận định của các chuyên gia, điều này làm giảm đáng kể

ranh giới và khoảng cách về tri thức, khả năng sáng tạo giữa khu vực đại học và công

nghiệp. Cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ đòi hỏi giáo dục và đào tạo, KH&CN phải

đào tạo đƣợc nguồn nhân lực chất lƣợng cao với những kỹ năng, kiến thức cơ bản lẫn

tƣ duy sáng tạo, khả năng thích nghi với các thách thức và yêu cầu công việc thay đổi

liên tục để tránh nguy cơ bị đào thải. Cũng nhƣ, không ngừng sáng tạo tri thức, làm

chủ tri thức, làm chủ công nghệ và vận dụng sáng tạo trong bối cảnh mới. Bên cạnh

đó, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đã và đang làm thay đổi căn bản cách thức

quản lý và thu hút nguồn lực để phát triển. Sự lớn mạnh của các tập đoàn công nghệ

nhƣ Uber, Grab khi họ ứng dụng CNTT kết nối và thỏa thuận với cánh lái xe nhằm

cung cấp một lƣợng rất lớn các phƣơng tiện đi lại cho khách hàng trong khi họ không

sở hữu một chiếc xe máy hay ô tô chính thức nào là một minh chứng rõ ràng cho vấn

đề này. Điều này đặt ra cho các trƣờng đại học trong vấn đề Uber, Grab nhân lực

KH&CN nhằm tối ƣu hóa sức mạnh và sức cạnh tranh trên thị trƣờng. Thực tế đã cho

thấy, NNCM trong các trƣờng đại học hiện nay họ mạnh lên bởi họ đang vận hành

139

theo cách thức mà Uber và Grab đang thực hiện. Tức thành viên của NNCM đƣợc tập

hợp dựa trên sự hợp tác, chia sẻ lợi ích và vận hành dựa trên sự thỏa thuận và niềm tin

của các thành viên NNC với ông trƣởng nhóm. Do đó, xu hƣớng tất yếu trong cả hiện

tại và tƣơng lai mà các trƣờng đại học phải hƣớng đến là phát triển các NNCM nhằm

tận dụng nguồn lực, nâng cao lợi thế và sự cạnh tranh.

Bên cạch tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ thì ĐHQGHN và

các trƣờng đại học công lập sẽ phải đối mặt với vấn đề tài chính. Nguồn kinh phí của

Nhà nƣớc dành cho hoạt động KH&CN thấp hơn nhiều so với các nƣớc trong khu vực

và thế giới (ở Việt Nam NSNN đầu tư cho KH&CN năm 2015 là 0,41% GDP, còn

châu Âu năm 2013 là 2,01%, Mỹ năm 2012 là 2,81%, Nga năm 2013 là 1,13%, Trung

Quốc năm 2013 2,01%, Nhật Bản năm 2013 là 3,47%, Hàn Quốc năm 2013 là 4,15%,

Singapore năm 2013 là 2,1%, Maylaysia năm 2011 là 1,07%) [51], trong khi đó, việc

cấp kinh phí nghiên cứu cho các trƣờng đại học còn thấp hơn nhiều so với các Viện,

trung tâm NC&TK (Bảng 5.1). Trên cơ sở so sánh tƣơng quan giữa nguồn lực khoa

học trong các trƣờng đại học và các viện, trung tâm NC&TK về kinh phí đƣợc đầu tƣ,

tác giả luận án nhận thấy rằng, có một sự chênh lệch rất lớn trong việc đầu tƣ tài chính

cho hoạt động NC&TK giữa khu vực đại học và khu vực các viện, trung tâm nghiên

cứu. Điều này, có vẻ nhƣ là một nghịch lý bởi trong khi nhân lực khoa học của các

trƣờng đại học cao gấp hơn 2 lần so với các viện, trung tâm NC&TK nhƣng kinh phí

cấp cho các trƣờng đại học chỉ bằng gần 1/7 so với các viện, trung tâm NC&TK. Điều

này dẫn đến ĐHQGHN, cũng nhƣ các trƣờng đại học khác gặp rất nhiều khó khăn

trong việc xây dựng các NNCM để triển khai các hoạt động KH&CN chất lƣợng cao.

Bởi để đầu tƣ phát triển NNCM cần nguồn tài chính lớn, đầu tƣ dài hạn và có những

chính sách đãi ngộ thích đáng đối với các nhà khoa học tài năng.

Bảng 5.1: Tương quan nhân lực và kinh phí được cấp giữa các viện,

trung tâm NC&TK và các trường đại học

Nhân lực (ngƣời)

Kinh phí nhà

Khu vực hoạt động

Chia theo trình độ chuyên môn

nƣớc cấp

Tổng

(tỉ đồng)

số

Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng

Các viện, trung tâm

25.347

2862

7493

14140

852

4.056,8

NC&TK

Trƣờng đại học

53.920

6765

26845

19396

914

593,4

(Nguồn: Tổng hợp từ Điều tra NC&TK 2014 và Điều tra doanh nghiệp 2014)

140

Trong những năm gần đây, nhà nƣớc đã đầu tƣ cho phát triển NNCM bằng việc

tài trợ cho các NNC thông qua Quỹ KH&CN quốc gia (Nafosted). Tuy nhiên, không

dễ để các NNC nhận đƣợc nguồn tài trợ từ Quỹ nếu không thực sự mạnh, tính đến nay

cũng chỉ có 3 NNCM đƣợc lựa chọn để đầu tƣ[58]. Trong đó, không có NNCM nào

của ĐHQGHN thuộc nhóm đƣợc đầu tƣ của Quỹ. Do vậy, cuộc cạnh quyết liệt giữa

NNC trong việc thể hiện sự xuất sắc nhằm nhận đƣợc sự đầu tƣ từ Quỹ sẽ vô cùng lớn.

Điều đó đặt ra cho ĐHQGHN phải có những điều chỉnh trong chính sách của mình để

nâng cao sức cạnh tranh cho các nhà khoa học.

Hơn nữa, thực tế cho thấy có sự khủng hoảng niềm tin của giới doanh nghiệp

vào khả năng nghiên cứu và triển khai của nhân lực hàn lâm. Sự mất niềm tin này có

sơ sở khi mà hoạt động R&D từ các trƣờng đại học còn rất yếu; có rất ít bằng chứng

cho thấy khả năng nghiên cứu và triển khai các sản phẩm có tính sáng tạo khoa học

cao, hoặc tính ứng dụng xã hội phổ biến. Mặt khác, sự mất niềm tin này cũng do nhiều

doanh nghiệp thiếu một tầm nhìn về mặt đầu tƣ nghiên cứu, theo đuổi các mục tiêu tài

chính ngắn hạn[14]. Thách thức này dẫn đến một thực tế là việc đầu tƣ cho hoạt động

KH&CN từ doanh nghiệp cho các trƣờng đại học công nhƣ ĐHQGHN sẽ là rất hạn

chế. Thời gian qua, ĐHQGHN đã có nhiều công trình nghiên cứu có tính ứng dụng

cao, nhƣng triển khai trong thực tiễn còn ở phạm vi nhỏ nên rất khó để thu hút nguồn

lực từ khu vực này để đầu tƣ phát triển nguồn lực và nâng cao hiệu quả hoạt động

KH&CN nếu không có những thay đổi mang tính chiến lƣợc. Bên cạnh đó, những tín

hiệu gần đây cho thấy, một số tập đoàn doanh nghiệp đang đầu tƣ lớn vào các trƣờng

đại học dân lập và thu hút các nhà khoa học giỏi với mức trả lƣơng rất cao so với các

đại học công lập, một trong những minh chứng rõ ràng nhất cho điều này là sự đầu tƣ

của tập đoàn Phenikaa,vào trƣờng Đại học Thành tây, Tập đoàn Vingroups đầu tƣ xây

dựng Đại học VinUni, Tập đoàn FLC đầu tƣ xây dựng Đại học FLC, Tập đoàn

Nguyễn Hoàng đầu tƣ vào đại học Hoa Sen, Đại học Quốc tế Hồng Bàng, Đại học Gia

Định và Đại học Bà Rịa-Vũng Tàu....Đặc biệt, với nguồn đầu tƣ lớn Đại học Phenikaa

đã thu hút nhiều chuyên gia xuất sắc từ các trƣờng đại học danh tiếng đến làm việc

nhƣ: GS.TS Nguyễn Văn Hiếu, GS.TS Phạm Thành Huy, PGS.TS Lê Anh Tuấn của

Đại học Bách Khoa Hà Nội, TS. Vƣơng Quân Hoàng, ĐH Tổng hợp Bruxelles, TS

Raja Das…[65] Đồng thời, xây dựng Quỹ nghiên cứu KH&CN, với quy mô 500 tỉ

đồng[64]. Nhƣ vậy, doanh nghiệp đang dần thay đổi nhận thức và họ cho thấy họ cần

các nhà khoa học giỏi thực sự để nghiên cứu cải tiến công nghệ, tạo ra vật liệu mới,

141

hoặc các sản phẩm ứng dụng …Với nguồn kinh phí lớn, cộng với việc thu hút đƣợc

các chuyên gia xuất sắc, một số trƣờng đại học ngoài công lập đang xây dựng những

NNC rất mạnh nhằm tăng tính cạnh tranh trong bối cảnh hiện tại và tƣơng lai. Đây tiếp

tục là một trong những thách thức không nhỏ đối với ĐHQGHN trong việc cạnh tranh

với các trƣờng đại học ngoài công lập và thu hút nguồn lực từ giới doanh nghiệp. Theo

đó, việc thu hút nguồn nhân lực tài năng đến ĐHQGHN làm việc đã khó thì việc giữ

đƣợc các nhà khoa học càng khó hơn. Việc nhiều nhà khoa học xuất sắc của Đại học

Bách khoa Hà Nội đã chuyển sang Đại học Phenikaa làm việc là một minh chứng rõ

ràng cho vấn đề này.

Ngoài ra, ĐHQGHN cũng chịu tác động lớn bởi sự điều chỉnh của chính sách vĩ

mô. Thực tế cho thấy, sau khi Quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ mới ra đời năm

2017 và Quy định về tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm

chức danh giáo sư, phó giáo sư đƣợc ban hành năm 2018 đã dẫn đến sự sụt giảm rất

lớn về số lƣợng NCS ở ĐHQGHN, đồng thời với đó là vấn đề NCS đã trúng tuyển

nhƣng thầy hƣớng dẫn không đạt chuẩn để hƣớng dẫn đã xảy ra ở lĩnh vực văn học của

ĐHQGHN. Điều này tiếp tục tạo ra những áp lực không nhỏ đối với ĐHQGHN trong

việc thu hút nguồn nhân lực và nâng cao chất lƣợng nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân

lực thông qua mô hình NNCM, khi nhân lực trẻ, sáng tạo, có động lực để nghiên cứu

và là nguồn sức mạnh của các NNC đó là các NCS, postdoc ngày các ít, trong khi kinh

phí đầu tƣ nhằm tuyển chọn đƣợc những ngƣời giỏi rất hạn chế.

5.2.2. Quan điểm định hướng đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách

phát triển NNCM

Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 về phát triển KH&CN phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã

hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định rõ: Phát triển và ứng dụng KH&CN là

quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế

- xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần đƣợc ƣu tiên tập trung đầu tƣ trƣớc

một bƣớc trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực

quản lý của Nhà nƣớc và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ KH&CN đóng vai trò

quyết định thành công của sự nghiệp phát triển KH&CN; Đầu tƣ cho nhân lực

KH&CN là đầu tƣ cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của

dân tộc. Đảng và Nhà nƣớc có chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ

cán bộ KH&CN[26]. Đồng thời, trong Chiến lƣợc phát triển KH&CN giai đoạn 2011-

142

2020 cũng khẳng định: Tập trung đầu tƣ phát triển các tổ chức KH&CN trọng điểm;

liên kết các tổ chức KH&CN cùng tính chất, lĩnh vực hoặc liên ngành; hình thành các

NNCM đủ năng lực giải quyết những nhiệm vụ quốc gia. Nâng cao năng lực nghiên

cứu cơ bản của trƣờng đại học trọng điểm quốc gia. Phát triển các NNC trẻ có tiềm

năng trong các trƣờng đại học, viện nghiên cứu [30].

ĐHQGHN trong chiến phát triển đến năm 2020 tầm nhìn 2030 cũng xác định: Xây

dựng đại học định hƣớng nghiên cứu tiên tiến vừa là mục tiêu vừa là động lực để tăng

cƣờng các nguồn lực, phát triển đội ngũ cán bộ, đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng

cao, bồi dƣỡng nhân tài, nghiên cứu KH&CN đỉnh cao phục vụ nâng cao chất lƣợng

đào tạo và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Phát huy sức mạnh tổng

hợp từ mọi nguồn lực, phát huy tinh thần cộng đồng và uy tín của ĐHQGHN; nâng

cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm xã hội và sáng tạo của các đơn vị; đẩy mạnh liên

thông, liên kết, hợp tác toàn diện giữa các đơn vị trong ĐHQGHN với các cơ quan,

doanh nghiệp, địa phƣơng và các đối tác nƣớc ngoài để tạo các giá trị gia tăng và các

sản phẩm độc đáo; Phát triển toàn diện và bền vững, áp dụng các giải pháp mang tính

đột phá; ƣu tiên đầu tƣ phát triển các hƣớng nghiên cứu khoa học trọng điểm, mũi

nhọn; phát triển nhanh một số ngành, chuyên ngành, lĩnh vực, bộ môn, khoa và đơn vị

đạt trình độ quốc tế. Trong đó, một trong những giải pháp nhằm thực hiện chiến lƣợc

phát triển ĐHQGHN đó là phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, trong đó có một số

nhóm nghiên cứu đạt trình độ quốc tế[42]

Từ quan điểm, định hƣớng của Đảng, Nhà nƣớc và ĐHQGHN có thể thấy rằng,

NNCM trong trƣờng đại học là nơi hội tụ của các nhà khoa học chất lƣợng cao, những

ngƣời có năng lực tổ chức nghiên cứu, có khả năng kết hợp để xây dựng những hƣớng

nghiên cứu mới, giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu phức tạp, quy mô lớn, huy

động đƣợc các nguồn lực để triển khai hoạt động KH&CN nhằm tạo ra các công trình

nghiên cứu đỉnh cao ở tầm lý luận và thực tiễn, đóng góp tích cực cho sự phát triển

chung của nền khoa học thế giới và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Do đó,

đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực là đầu tƣ quan trọng nhất trong chiến lƣợc phát triển

của bất kỳ trƣờng đại học nào. Trong đó, đặc biệt là nguồn nhân lực khoa học chất

lƣợng cao có vai trò quan trọng nhất để khẳng định lợi thế và sức mạnh của các trƣờng

đại học. Cuộc cạnh tranh để dành lợi thế trong lĩnh vực khoa học và giáo dục trên cơ

sở những lợi thế so sánh càng trở lên khốc liệt hơn trong bối cảnh các tiêu chí xếp

hạng trƣờng đại học dựa trên các giá trị đƣợc tạo ra bởi hoạt động khoa học và đào tạo.

143

Trƣờng đại học nào thu hút đƣợc nguồn lực khoa học mạnh, trƣờng đại học đó sẽ có

sức cạnh tranh cao trong lĩnh vực khoa học và giáo dục ở tầm quốc gia và trên toàn

cầu. Tuy nhiên, để có đƣợc điều đó, vấn đề cơ bản là phải có đƣợc nguồn nhân lực

khoa học mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng. Trong đó các NNCM là nơi quy tụ của

các nhà khoa học tinh hoa có khả năng giải quyết những đề tài khoa học lớn cần phải

đƣợc đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm với những chính sách phù hợp.

Hạt nhân của việc điều chỉnh, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM trong các

trƣờng đại học thực chất là vấn đề giải quyết hài hòa, hợp lý các quan hệ lợi ích. Đó là

cơ chế đòn bẩy, tạo động lực phát triển, giải phóng tối đa mọi tiềm năng sáng tạo, cả

trong lĩnh vực vật chất và tinh thần của từng cá nhân, cũng nhƣ tập thể. Đối với

NNCM thì ngoài lợi ích vật chất, vấn đề quan trọng hơn là môi trƣờng học thuật (tự

do, minh bạch, bình đẳng và công bằng) thuận lợi cho sự sáng tạo. Nếu các giá trị và

chuẩn mực này không đƣợc đảm bảo hoặc bị vi phạm sẽ gây ra những tác động tiêu

cực, kìm hãm sự sáng tạo không chỉ của cá nhân mà còn kìm hãm sự phát triển của các

tổ chức khoa học.

Việc giải quyết hài hòa lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần sẽ tạo điều kiện

thuận lợi cho sự phát triển cá tính sáng tạo của từng cá nhân với sự phát triển của tổ

chức. Việc đảm bảo công bằng về cơ hội phát triển, đánh giá khách quan những cống

hiến sáng tạo của từng nhà khoa học, từng tập thể khoa học, vinh danh tài năng và

những giá trị khoa học, trả thu nhập thỏa đáng cho các nhà khoa học tài năng, tạo

thuận lợi các nhà khoa học trẻ phát triển là những điều kiện quan trọng cho sự phát

triển một môi trƣờng học thuật, sáng tạo.

Việc xây dựng mạng lƣới hỗ trợ các nhà khoa học trong việc chuyển giao kết

quả nghiên cứu vào thực tiễn, kết nối nhà khoa học với cơ quan/doanh nghiệp sẽ góp

phần mở rộng mối quan hệ hợp tác của các NNCM với các thực thể khác trong xã hội.

Bên cạnh đó, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông cũng

cho thấy các nhà khoa học, các NNCM sẽ mở rộng không gian hoạt động với sự kết

hợp giữa không gian thực và không gian ảo để triển khai các hoạt động KH&CN và

mở rộng tầm ảnh hƣởng thông qua việc công bố, giới thiệu các sản phẩm KH&CN đến

cộng đồng xã hội. Vì vậy, việc đầu tƣ mạnh mẽ cho việc phát triển hệ thống công nghệ

thông tin và truyền thông sẽ góp phần quan trọng làm gia tăng các kết nối trong cộng

đồng khoa học và nâng tầm ảnh hƣởng của các nhà khoa học, các NNCM thông qua

hoạt động truyền thông một cách công khai và minh bạch.

144

5.2.3. Mục tiêu đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn hiện chính sách phát triển NNCM

Trên cơ sở sứ mạng, tầm nhìn, mục tiêu phát triển của ĐHQGHN[42], tác giả

luận án xác định mục tiêu đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn hiện chính sách phát triển

NNCM, cụ thể nhƣ sau:

Xây dựng và quy tụ đƣợc nguồn nhân lực khoa học chất lƣợng cao, có năng

lực, trình độ, bản lĩnh để phát triển thành các NNCM, có khả năng tạo ra tri thức khoa

học, công nghệ; tiếp thu, làm chủ tri thức khoa học, công nghệ tiên tiến, đổi mới sáng

tạo, phát triển thành tựu KH&CN, vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện của đất

nƣớc và áp dụng một cách hiệu quả nhất vào thực tiễn của Việt Nam, thúc đẩy nhanh

tiến trình hội nhập quốc tế.

Động viên khích lệ tinh thần, đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm đối với đội ngũ

các nhà khoa học, nhất là các nhà khoa học trình độ cao, cũng nhƣ tạo điều kiện thuận

lợi về môi trƣờng nghiên cứu, nguồn tƣ liệu, sơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại,

đồng bộ để các nhà khoa học phát huy năng lực, khả năng sáng tạo trong hoạt động

KH&CN.

5.2.4. Nguyên tắc đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển

NNCM

Trên cơ sở sứ mạng, tầm nhìn, mục tiêu phát triển của ĐHQGHN[42], tác giả

luận án xác định nguyên tắc đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát

triển NNCM cụ thể nhƣ sau:

Thứ nhất, đảm bảo chính sách phát triển NNCM phải tạo ra động lực để quy tụ

đƣợc các nhà khoa học có chất lƣợng cao, phát huy năng lực sáng tạo cống hiến tiềm

năng trí tuệ nhằm phát triển và duy trì một môi trƣờng nghiên cứu hợp tác; Phát triển

các lĩnh vực sở trƣờng trong nghiên cứu và đào tạo; Tạo nền tảng cho sự phát triển

kinh tế và xã hội trong tƣơng lai, đóng góp thiết thực trong việc phát triển triển kinh tế

xã hội của đất nƣớc; Củng cố và tăng cƣờng các trƣơng trình đào tạo; Đạt đƣợc nguồn

tài trợ từ các quỹ hỗ trợ nghiên cứu trong và ngoài nƣớc cũng nhƣ cung cấp cho xã hội

những KQNC hữu ích, kịp thời và hiệu quả.

Thứ hai, đảm bảo sự đãi ngộ xứng đáng cho những thành quả nghiên cứu có

chất lƣợng cao do NNCM đã tạo ra. Trong đó, đảm bảo việc đánh giá đúng, công bằng

năng lực và cống hiến của các nhà khoa học tài năng thông qua hệ thống đánh giá,

công nhận về trình độ và năng lực chuyên môn, về khả năng và thành tích hoạt động

khoa học; Biểu dƣơng, tôn vinh cống hiến bằng những danh hiệu vinh dự, cao quý và

145

nhiều hình thức động viên, khích lệ khác; đảm bảo thu nhập thỏa đáng theo vị trí, năng

lực và hiệu xuất công việc, các nhu cầu sinh hoạt phù hợp với tài năng và đóng góp

của các nhà khoa học; đảm bảo các phần thƣởng vật chất tƣơng xứng đối với những

đóng góp có giá trị cao cho phát triển ĐHQGHN và đóng góp cho sự phát triển kinh tế

- xã hội của đất nƣớc.

Thứ ba, đảm bảo các điều kiện cần thiết về nguồn lực cũng nhƣ cơ chế quản lý

phù hợp để cho các nhà khoa học tài năng có thể phấn đấu vƣơn lên sáng tạo, đổi mới,

đề xuất các giải pháp đột phá phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, xã hội. Cung cấp

các điều kiện vật chất cần thiết phù hợp với yêu cầu của công việc.

Thứ tư, đảm bảo sự cân bằng trong đãi ngộ, tôn vinh đối với các công trình/sản

phẩm nghiên cứu đƣợc tạo ra bởi các nhà nghiên cứu. Đây là một nguyên tắc quan trọng

để khắc phục trình trạng đãi ngộ, tôn vinh với những sản phẩm công bố khác nhau đƣợc

tạo ra bởi các nhà khoa học. Thực tế đã cho thấy, các nhà làm chính sách hiện nay đang

ƣu đãi và tôn vinh cho những bài báo công bố quốc tế (ISI/Scopus), nhƣng lại không có

chính sách ƣu đãi, tôn vinh tƣơng xứng cho những giải pháp hữu ích hay những sản

phẩm phục vụ dân sinh, có tính ứng dụng cao, đem lại hiệu quả phát triển kinh tế xã hội.

Trong khi để tạo ra những sản phẩm có tính ứng dụng các nhà khoa học phải lăn lộn với

thực tế, phải có đủ nhiệt huyết để theo đuổi sản phẩm tới cùng và nhiều khi phải chịu

nhiều rủi ro hơn so với việc công bố các bài báo quốc tế. Điều này, ở góc độ nào đó

chính sách đang định hƣớng các nhà khoa học nghiên cứu để công bố quốc tế thay vì

nghiên cứu ứng dụng để phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc.

5.3. Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng và phát triển NNCM

5.3.1. Kinh nghiệm xây dựng NNCM của Đức

Vào đầu năm 2018, tôi có dịp phỏng vấn Giáo sƣ Joachim Spangenberg, một

chuyên gia nghiên cứu thuộc một Viện nghiên cứu lớn của Đức (Sustainable Europe

Research Institute SERI Germany) khi ông sang hợp tác nghiên cứu với Viện Chính

sách và Quản lý thuộc Trƣờng ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN. Tôi đã trao đổi với Giáo

sƣ về luận án của mình và xin phỏng vấn Giáo sƣ về kinh nghiệm xây dựng NNCM ở

Đức (Phụ lục 7), sau đây là những tổng hợp và rút ra một số đặc điểm về chính sách

đối với các NNC, NNCM ở Đức hiện nay:

1) Nhóm nghiên cứu được xây dựng và thành lập linh hoạt

Với hệ thống học thuật của Đức (ở cả 3 lĩnh vực là nghiên cứu cơ bản, nghiên

cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản - ứng dụng), thì phần lớn các NNC đều là một

146

phần không thể thiếu của các trƣờng đại học và các viện nghiên cứu. Thông thƣờng,

mỗi khoa ở Viện hay trƣờng đại học thƣờng có khoảng 50 thành viên và mỗi khoa có

vài NNC, mỗi NNC có từ 2 - 3 giáo sƣ. Những NNC này thƣờng đƣợc thành lập bởi

những nhà nghiên cứu có chung mối quan tâm. Viện hay trƣờng sẽ công nhận một

Nhóm là chính thức hoặc không chính thức. Lúc đầu nhóm có thể là không chính thức,

nhƣng sau đó sẽ đƣợc công nhận chính thức. Để một NNC đƣợc công nhận là chính

thức thƣờng phải mất khoảng thời gian là 3 tuần nhƣng cũng có thể lên đến 6 tháng.

Về quy trình lập NNC, nếu một vị giáo sƣ đại học có 3 NCS và vị GS này có

một đề tài rất hay, muốn lập một NNC. Những ngƣời có trách nhiệm ở các đơn vị học

thuật sẽ hỏi vị GS này các câu hỏi, rồi chuyển phần ghi chép cho lãnh đạo của mình và

vị GS trên sẽ nhận đƣợc sự đồng ý. Việc này rất dễ vì không liên quan đến tiền, NNC

không nhận đƣợc tiền, đây là một đặc trƣng rất đặc thù của Đức. Các NNC có thể đƣợc

nhận thêm phòng để họp nhóm nhƣng không đƣợc thêm tiền. Nhƣng khi một cá nhân

nào đó có một dự án hay và lập một NNC gồm các đồng nghiệp, lúc đó tiền là cho dự

án. NNC sẽ đƣợc ghi nhận về mặt học thuật chứ không phải nhận tiền.

Chính vì thế, đặc trƣng nổi bật ở Đức đó là các NNC tồn tại và có “tuổi thọ”

gắn liền với thời hạn của các dự án nghiên cứu. Viện nghiên cứu ở Đức có nhiều quy

mô. Một viện nhỏ có thể không có trung tâm hay NNC. Cả viện có thể chỉ có một

NNC với 2 giáo sƣ, 2 trợ lý. Tất cả phụ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu. Cấp trung tâm

vẫn là cấp hợp pháp nhƣng NNC vẫn linh hoạt hơn do dễ thành lập, dễ quyết định thời

gian hoạt động, không phải 3 hay 5 năm mà thời gian của nhóm kéo dài cùng dự án.

Thông thƣờng, ở Đức, không có dự án dƣới 3 năm và thời gian tối ƣu nhất là 3 - 5 năm

vì một lý do đơn giản: các đơn vị học thuật muốn các NCS phải hoàn thành luận án

trong thời gian làm dự án, thực tế thời gian hợp pháp để một NCS hoàn thành luận án

là 3 năm.

2) Chính sách của Đức dành cho các NNC và NNCM

Đối với hoạt động của các NNC thì chính sách của nhà nƣớc giữ vai trò quan

trọng, đặc biệt là trong phân bổ kinh phí thực thi. Khi mỗi NNC tiến hành làm dự án,

họ cần rất nhiều loại chi phí nhƣ chi phí tài liệu, chi phí nhân sự, chi phí hành chính.

Chi phí hành chính là để hỗ trợ dự án, chiếm 25-40% tiền dự án. Một phần số tiền đó

thuộc về Trƣờng để lo việc hành chính, 1 phần thuộc về khoa và có thể sử dụng tiền đó

để làm việc với NNC, có thể thuê sinh viên vì sinh viên cũng đƣợc coi là nhân sự và

sinh viên cũng đƣợc coi nhƣ một thứ cần mua cho dự án nhƣ máy tính, giấy…

147

Đối với nguồn tài chính đƣợc cung cấp, thông thƣờng, nguồn tài chính phụ

thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu. Nếu nghiên cứu thuộc ngành cơ khí hay máy móc, tiền

có thể đến từ các doanh nghiệp, các lĩnh vực khác có thể nhận tiền từ chính quyền từ

cấp địa phƣơng, quốc gia hay liên minh châu Âu.

Về sự hỗ trợ dành cho giảng viên, các nhà nghiên cứu khi tham gia dự án, thông

thƣờng, trƣờng đại học có các loại chƣơng trình nghiên cứu. Khoa/Viện sẽ gửi đề tài

hàng năm. Nếu là đề tài ƣu tiên thì ngoài tiền cơ bản để trả lƣơng giáo sƣ, các đề tài

này sẽ có thêm các khoản tiền khác nhƣ để thuê NCS. Các dự án ƣu tiên này thƣờng

kéo dài 3-4 năm.

Về vấn đề thu nhập/lƣơng khi tham gia các dự án, ở Đức có một đặc điểm là,

nếu một nhà nghiên cứu là ngƣời của trƣờng và làm dự án, anh ta vẫn đƣợc lƣơng từ

trƣờng và không nhận lƣơng dự án. Anh ta chỉ có thể nhận từ dự án các chi phí nhƣ chi

phí đi lại để tham dự hội thảo quốc tế. Ở Đức, lƣơng giáo sƣ cố định và đƣợc trả 1 năm

2 lần, vào mùa hè và cuối năm. Lƣơng là cố định, vì thế anh ta có thể thỏa thuận với

trƣờng về số giờ giảng. Nếu làm dự án, anh có thể giảm giờ dạy.

Bên cạnh các NNC đƣợc tổ chức và hoạt động linh hoạt, thì ở Đức, tuy chỉ có số

lƣợng nhỏ, song cũng có mô hình các NNCM thông qua các chƣơng trình nghiên cứu

xuất sắc. Ở Đức có khoảng 50 NNCM phân bố ở các lĩnh vực khác nhau, phân bổ đều ở

khoa học xã hội, khoa học tự nhiên,... và phân bổ đều giữa các trƣờng và các viện.

Tiêu chí lựa chọn NNCM đó là, họ nộp đề cƣơng trong vòng 5 năm. Đề cƣơng

phải đạt 3 tiêu chí: có tham vọng, phù hợp và thực tiễn. Tham vọng là tiêu chí khoa

học, thực tiễn là tiêu chí liên quan đến tài chính và phù hợp là tiêu chí kinh tế - xã hội.

Nhóm sẽ đƣợc đánh giá dựa trên các công bố khoa học. Nếu họ chƣa có công bố,

không ai tin họ có thể hoàn thành dự án trong 5 năm tới. Vậy tiêu chí là kết hợp công

bố khoa học và đề cƣơng.

Điểm khác biệt giữa NNC và NNCM chỉ là tiền dành cho dự án. Các khoa/viện

đƣợc chính phủ chọn sẽ nhận thêm tiền, nhƣng tiền này không dành cho các NNC mà

cho các cấp cao hơn. Thành viên NNC sẽ nhận đƣợc chứng nhận.

3) Đánh giá hoạt động của NNC và NNCM

Một trong những đặc trƣng tiêu biểu ở Đức đó là, nhà nƣớc không đánh giá riêng

từng NNC, mà chỉ cần xem xét công việc dự án tốt hay không. Việc đánh giá đƣợc thực

hiện hàng năm để, nếu kết quả không tốt, NNC không nên làm việc cùng nhau.

148

Với các dự án lớn, ở Đức, thƣờng có bên đánh giá ngoài độc lập. Bên đánh giá

này thƣờng thực hiện đánh giá kết quả nghiên cứu hàng năm thông qua việc tham gia

các buổi họp, phỏng vấn,… bên đánh giá độc lập này đƣợc trả tiền bởi nhà tài trợ. Bên

cạnh đó, khi thực hiện một dự án, các NNC cần nộp bản báo cáo một năm một lần để

bên tài trợ kiểm tra, và bên tài trợ cũng đánh giá kết quả dự án hàng năm. Bên tài trợ

sẽ có nhóm nhà khoa học để kiểm tra chất lƣợng dự án. Thông thƣờng, không có phần

đánh giá của xã hội chỉ trừ các nghiên cứu có tính ứng dụng. Các đánh giá xã hội này

thƣờng ở cấp liên bang và bởi ngƣời đứng đầu trƣờng đại học, nhà hoạch định chính

sách, chính trị gia, thƣơng gia,….

Về đánh giá của xã hội ở các cấp, chỉ đƣợc thực hiện khi liên quan đến quyết

định câu hỏi nghiên cứu và hƣớng đi, và không đối với các nội dung chi tiết, phƣơng

pháp nghiên cứu,… Nhƣng khi nghiên cứu là một dạng nghiên cứu giải quyết vấn đề

thì các trƣờng đại học/viện nghiên cứu cần thảo luận nhiều với các chính trị gia,

thƣơng gia, bên hành chính, họ chính là ngƣời biết rõ nhất về vấn đề đang diễn ra, vấn

đề cần giải quyết.

Về báo cáo định kỳ 1-2 năm, còn tùy thuộc nhà tài trợ là ai, có nhà tài trợ yêu cầu

báo cáo 6 tháng/lần. Nhƣng nhƣ thế sẽ không tốt vì anh phải dành nhiều thời gian viết

báo cáo thay vì làm nghiên cứu, thông thƣờng ở Đức hoặc liên minh châu Âu thì một

năm một lần. Các báo cáo định kỳ thƣờng đƣợc gửi cho nhà tài trợ. Nếu nhà tài trợ là

chính phủ thì họ sẽ gửi 01 bản copy cho Trƣờng. Đôi khi báo cáo chỉ có 2 trang ở dạng

bảng câu hỏi có/không, nhƣng vào năm thứ 2 và 3 của dự án, các NNC sẽ phải công bố

kết quả nghiên cứu trên tạp chí quốc tế có phản biện. Trong trƣờng hợp không có công

bố, họ sẽ yêu cầu bạn báo cáo chi tiết hơn nữa. Nếu dự án đƣợc đánh giá bởi nhà tài trợ

thì các NNC không phải lo về phần trƣờng đại học, nhƣng công bố quốc tế thì luôn phải

phản biện do đó là phần rất quan trọng để đánh giá thành công của một dự án.

Ngoài ra, hiệu quả của các chƣơng trình nghiên cứu/dự án còn đƣợc đánh giá

thông qua các công bố quốc tế, đặc biệt là các tạp chí nằm trong danh mục ISI. Đây là

tiêu chí đánh giá căn bản của chính phủ đối với các NNC vào năm 2 và 3. Tiền tăng

hay giảm sẽ phụ thuộc việc có công bố hay không. Khi xin một dự án, các NNC phải

kèm danh sách các công bố trên tạp chí ISI. Tất cả các công bố này đều không đƣợc

tiền từ trƣờng đại học và viện nghiên cứu. Ngƣời châu Âu cho rằng nghiên cứu khoa

học cũng nhƣ bóng đá, anh nhận lƣơng để đá, cũng nhƣ giáo sƣ để viết bài.

149

Về đánh giá NNCM, tất cả các nhóm này đều đƣợc đánh giá khi đƣợc 1/2 dự án

(trong quá trình thực hiện). Dự án kết thúc sau 5 năm. Nếu NNCM làm tốt, họ có thể

xin thêm các đề tài/dự án khác, nếu chƣa tốt, họ sẽ bị loại.

Về thời hạn tồn tại của NNCM, NNCM không phải là mãi mãi. Ở Đức đã mạnh

không nhất thiết là đang mạnh. Tiền nghiên cứu chỉ dành cho Nhóm hiện tại đang mạnh.

4) Những gợi mở đối với Việt Nam từ chính sách và hiện trạng các NNCM ở Đức

Qua thảo luận, GS. Joachim Spangenberg đã gợi mở về chính sách phát triển

NNCM cho các trƣờng đại học, các đơn vị học thuật của Việt Nam. Từ kinh nghiệm

của GS. Joachim Spangenberg, việc xây dựng và vận hành các NNC/NNCM nên linh

hoạt và chú trọng vào các dự án hay chƣơng trình nghiên cứu mà các nhóm theo đuổi.

Theo đó, các dự án/chƣơng trình nghiên cứu nên đƣợc đánh giá bởi một bên độc lập

nhƣ nhà tài trợ sẽ tốt và hiệu quả. Theo ông, một NNC hiệu quả là phải giải quyết

đƣợc vấn đề nghiên cứu. Và cứ khi nhóm trả lời đƣợc một câu hỏi thì sẽ có câu hỏi,

một nghiên cứu mới xuất hiện. Tiêu chí để chọn (thêm) thành viên của nhóm không

nằm ở chỗ họ có kinh nghiệm tìm kiếm nguồn tài trợ hay số lƣợng bài giảng mà phụ

thuộc việc anh có gì để góp phần giải quyết vấn đề nghiên cứu. Một khi vấn đề/câu hỏi

nghiên cứu đƣợc giải quyết họ sẽ có công bố tốt.

Ngoài ra, mỗi trƣờng cần có 01 trung tâm xuất bản với vài chuyên gia là ngƣời

từ các nƣớc nói tiếng Anh, các tác giả đều gửi bài qua đây. Kinh phí cho trung tâm này

nên khoảng 2% ngân sách của Trƣờng. Các tác giả cũng có thể học hỏi đƣợc nhiều từ

những nhà nghiên cứu nói tiếng Anh này để tránh mắc lỗi trong những lần sau.

5.3.2. Kinh nghiệm xây dựng đơn vị nghiên cứu của Đại học RMIT, Australia

Đại học RMIT hay còn gọi là Viện Công nghệ Hoàng gia Melbourne là viện đại

học lâu đời thứ ba tại bang Victoria và là cơ sở giáo dục đại học công lập lâu đời thứ 8

tại Úc. Hiện nay, RMIT là nhà cung cấp giáo dục lớn nhất tại Úc với số lƣợng nhập

học của trƣờng vào khoảng 75,000 học sinh, bao gồm cả ba cấp độ dạy nghề, đại học

và sau đại học.

Đại học RMIT đƣợc xếp hạng trong 13 trƣờng đại học hàng đầu tại Úc và thứ

21 trên thế giới trong các trƣờng đại học dƣới 50 tuổi (2018 QS Top 50 Under - 50 chỉ

số); Thứ 85 trên thế giới về các hồ sơ quốc tế của đội ngũ giảng viên; Trong top 21

trƣờng đại học trên thế giới (2018 QS World University Rankings - theo chủ đề); 250

trƣờng đại học hàng đầu thế giới. RMIT là trƣờng đại học đƣợc đánh giá 5 sao theo

QS. Đánh giá này đƣa đại học RMIT sánh ngang với các trƣờng đại học hàng đầu thế

giới về sự xuất sắc trong giáo dục đại học [74].

150

Việc tham khảo kinh nghiệm của RMIT thông qua xem xét chính sách thành lập

cấu trúc nghiên cứu của RMIT là cơ sở quan trọng cho việc đề xuất hoàn thiện chính

sách phát triển NNCM của ĐHQGHN, sau đây là một số ghi nhận của tác giả luận án

về chính sách thành lập cấu trúc nghiên cứu của RMIT[75].

Hoạt động nghiên cứu của RMIT đƣợc dắt dẫn bởi 7 NNC, 23 trung tâm nghiên

cứu thuộc khoa, 4 trung tâm nghiên cứu thuộc đơn vị thành viên và 4 viện nghiên cứu

lớn ở cấp độ đại học.

Để phác thảo khuôn khổ nghiên cứu, trong đó bao gồm cá nhân nhà nghiên cứu,

NNC, trung tâm nghiên cứu và các viện nghiên cứu, Đại học RMIT ban hành những

chính sách rõ ràng đối với hoạt động của các cá nhân và đơn vị nghiên cứu này với

mục tiêu tối ƣu hóa và hỗ trợ các mục tiêu nghiên cứu chính của RMIT thông qua việc

xác định và thiết lập cấu trúc 'nhóm', 'Trung tâm', và 'Viện' nghiên cứu (Hình 5.1). Đại

học RMIT công nhận bốn cấp độ của hoạt động nghiên cứu nội bộ, theo thứ tự tăng

dần dựa trên quy mô và độ phức tạp của vấn đề nghiên cứu, bao gồm:

Hình 5.1: Sơ đồ khung chính sách cấu trúc nghiên cứu của RMIT

(Nguồn: RMIT University)

151

- Cá nhân các học giả: Cá nhân mỗi học giả tại RMIT không nhất thiết phải

thuộc về một NNC, Trung tâm nghiên cứu, hoặc viện nghiên cứu, mà với trách nhiệm

giảng dạy và lãnh đạo, tất cả các học giả sẽ thực hiện các hoạt động nghiên cứu, mà về

bản chất những hoạt động nghiên cứu này đƣợc thảo luận và thống nhất nhƣ một phần

của quá trình kế hoạch công tác.

Nhóm nghiên cứu: NNC đƣợc đặt tại các Khoa và thƣờng thực hiện nghiên cứu

tập trung trong một lĩnh vực chuyên ngành. Mặc dù một NNC thƣờng liên quan đến

đội ngũ giảng viên từ bên trong một Khoa cụ thể, song một NNC có thể bao gồm các

thành viên từ các Khoa khác.

- Trung tâm Nghiên cứu: Trung tâm nghiên cứu đƣợc đặt tại các Khoa và/hoặc

Trƣờng thành viên, đƣợc công nhận bởi khả năng của họ để thực hiện những nghiên

cứu có ảnh hƣởng lớn, đƣợc công nhận ở tầm quốc gia. Một Trung tâm Nghiên cứu có

thể bao gồm các thành viên từ nhiều Khoa, những ngƣời làm việc trong cùng lĩnh vực

chuyên môn.

- Các viện nghiên cứu: Viện nghiên cứu là các đơn vị ở cấp độ đại học, mà ở đó

quy tụ các nhóm đa ngành với nhiều học giả để thực hiện nghiên cứu có tính tập trung

vào những lĩnh vực nghiên cứu có ảnh hƣởng lớn, nhằm giải quyết các câu hỏi nghiên

cứu phức tạp có ý nghĩa quốc gia và toàn cầu.

Theo đó, chính sách thành lập đơn vị nghiên cứu của RMIT tập trung vào 5 nội

dung chính sau đây:

1) Cơ sở thành lập đơn vị nghiên cứu

Để đƣợc công nhận là các đơn vị nghiên cứu chính thức, các đơn vị nghiên

cứu này (NNC, trung tâm nghiên cứu, viện nghiên cứu) phải đáp ứng các tiêu chí cơ

bản nhƣ số cán bộ chủ chốt (NNC: ít nhất 3, TTNC: ít nhất 6, Viện NNC ít nhất bằng

hoặc hơn TTNC), năng lực nghiêu cứu, hiệu quả nghiên cứu thông qua các KQNC

đƣợc đánh giá và các khoản kinh phí huy động đƣợc trong hoạt động nghiên cứu

(Hộp 5.1).

152

Hộp 5.1: Tiêu chí thành viên và thành viên nòng cốt của NNC, TTNC, Viện NC

Thành viên nòng cốt: để trở thành thành viên nòng cốt, một giảng viên phải có

tổng cộng ít nhất 5 KQNC trong 3 năm gần nhất, thuộc danh mục các nghiên cứu

xuất sắc của Úc do ERA (Excellence Research in Australia) xếp hạng. Sách và các

công trình tiêu biểu khác sẽ được cân đối một cách thích hợp và có thể được chấp

nhận thay cho 5 KQNC riêng biệt. RMIT công nhận các KQNC khác gồm các ấn

phẩm có thể thích hợp trong các ngành như sáng tạo nghệ thuật, kiến trúc, các

nghiên cứu đa phương tiện …

Thành viên: Để trở thành một thành viên của NNC, trung tâm nghiên cứu hay viện

nghiên cứu, một học giả phải đáp ứng các kỳ vọng do các tổ chức nghiên cứu này đặt

ra. Trưởng nhóm, Giám đốc Trung tâm, Giám đốc Viện nghiên cứu là người chịu

trách nhiệm tuyển chọn thành viên và quyết định công nhận thành viên của đơn vị.

(Nguồn: RMIT University)

Các đơn vị nghiên cứu trong cấu trúc nghiên cứu chung của RMIT đƣợc thành

lập dựa trên các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể và đi kèm với đó là các

nguồn lực để đảm cho các hoạt động nghiên cứu.

Việc thành lập các đơn vị nghiên cứu đòi hỏi hƣớng nghiên cứu của đơn vị đó

phải phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu ƣu tiên đƣợc RMIT xác định trong kế hoạch

nghiên cứu của Trƣờng (giai đoạn 5 năm).

Tiêu chí để thành lập một đơn vị nghiên cứu tùy thuộc vào quy mô và độ phức

tạp của vấn đề nghiên cứu. Trong đó, bao gồm tiêu chí về nhân lực chủ chốt (được

đánh giá trên cơ sở KQNC đã công bố), tài chính (kinh phí huy động được để thực

hiện nhiệm vụ nghiên cứu), kinh nghiệm hƣớng dẫn nghiên cứu (xác định bằng thời

gian hướng dẫn nghiên cứu toàn thời gian trong ít nhất 1 học kỳ). Các tiêu chí đƣợc

xác định ở mức độ khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu.

2) Thời gian hoạt động của đơn vị nghiên cứu

Thời gian tồn tại của một đơn vị nghiên cứu đƣợc xác định theo chƣơng trình

hoặc nhiệm vụ nghiên cứu, 3 năm đối với NNC, trung tâm nghiên cứu và 5 năm đối

với Viện nghiên cứu. Sau 3 năm hoặc 5 năm các đơn vị này có thể gia hạn thêm 3 năm

hoặc 5 năm tiếp theo, điều này tùy thuộc vào việc đơn vị nghiên cứu đó có các chƣơng

trình hoặc nhiệm vụ nghiên cứu mới hay không.

153

3) Hồ sơ đối với đơn vị nghiên cứu

Hồ sơ để đƣợc công nhận là một đơn vị trong cấu trúc nghiên cứu của RMIT

luôn bao gồm một bản thuyết minh đầy đủ với các nhiệm vụ và nguồn lực đi kèm,

cộng với một bản kế hoạch nghiên cứu chi tiết trong giai đoạn 3 năm hoặc năm 5. Hồ

sơ nghiên cứu nghiên cứu phải trả lời đƣợc 4 câu hỏi: (1) NNC kỳ vọng đạt đƣợc điều

gì? (2) Các hoạt động đƣợc đề xuất để đáp ứng các mục tiêu đề ra là gì?; Các hoạt

động của Nhóm phù hợp thế nào với kế hoạch nghiên cứu và đổi mới của Trƣờng? (3)

Kết quả mà NNC hy vọng sẽ cung cấp là gì? (4) Thời gian cụ thể để nhóm hoàn thành

từng mục tiêu là khi nào? Trong đó hồ sơ của đơn vị nghiên cứu cũng phải đảm bảo

các điều kiện sau đây: Có đƣợc tài trợ từ bên ngoài để tập trung nghiên cứu; Tăng

cƣờng và hỗ trợ đào tạo nghiên cứu; Hỗ trợ và phát triển môi trƣờng nghiên cứu chất

lƣợng cao; Phát triển đối tác để tăng cƣờng hiệu quả hoạt động; Tiếp thị và quảng bá

về đơn vị nghiên cứu; Hỗ trợ các nhà nghiên cứu mới bƣớc vào nghề.

4) Báo cáo và đánh giá

Đơn vị nghiên cứu sẽ nộp báo cáo thƣờng niên và cập nhật kế hoạch nghiên cứu

trong giai đoạn ba năm cho Trƣởng khoa và đƣợc phê duyệt bởi ngƣời đƣợc Phó Hiệu

trƣởng phụ trách về công tác nghiên cứu và đổi mới ủy quyền.

Hoạt động của các đơn vị nghiên cứu đƣợc đánh giá thƣờng niên và đánh giá

kết thúc giai đoạn nghiên cứu (3 năm hoặc 5 năm). Đơn vị nghiên cứu sẽ bị giải thể

nếu lĩnh vực nghiên cứu mà đơn vị nghiên cứu đang theo đuổi không còn là hƣớng ƣu

tiên của RMIT, thời gian hoạt động của đơn vị nghiên cứu đã hết, Hội đồng đánh giá

thƣờng niên khuyến nghị rằng đơn vị nghiên cứu không hoàn thành mục tiêu đã đề ra

hoặc Thủ trƣởng đơn vị nghiên cứu xin từ chức.

5) Kinh phí, nguồn lực và hỗ trợ

Đơn vị nghiên cứu sẽ nhận đƣợc hỗ trợ hành chính, yêu cầu về vốn, bảo trì và

nâng cấp thiết bị, các chuyến đi nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của

nhóm và các tài nguyên khác bởi Khoa hoặc Trƣờng, điều này tùy thuộc vào việc đơn

vị nghiên cứu đó thuộc cấp nào, đồng thời là các nguồn tài trợ từ quỹ hỗ trợ nghiên

cứu ngoài Nhà trƣờng.

Các đơn vị nghiên cứu sẽ có một trang website riêng đƣợc đặt trong website

chung của RMIT để cập nhật các hoạt động nghiên cứu, công bố KQNC và tuyển

thành viên là các NCS, học viên hoặc sinh viên. Đồng thời, xây dựng chiến lƣợc

marketing của đơn vị.

154

5.3.3. Những ghi nhận quan trọng

Qua trao đổi chuyên gia về chính sách phát triển NNCM của Đức và nghiên cứu

chính sách phát triển đơn vị nghiên cứu của trƣờng đại học RMIT Australia, có thể

thấy rằng với các quy định rõ ràng, quy trình quản lý chặt chẽ và chính sách hỗ trợ phù

hợp là cơ sở quan trọng để NNCM hình thành và phát triển. Từ kết quả này, tác giả

luận án rút ra một số ghi nhận quan trọng sau đây:

Thứ nhất, chính sách phát triển NNCM ở tầm quốc gia nói chung và chính sách

phát triển NNCM của trƣờng đại học nói riêng luôn đóng vai trò định hƣớng, đầu tƣ,

điều tiết và thúc đẩy hoạt động KH&CN của các NNC, NNCM hay các đơn vị nghiên

cứu. Nếu nhƣ ở Đức, Nhà nƣớc định hƣớng, đầu tƣ, điều tiết và thúc đẩy hoạt động

KH&CN của các NNCM thông qua các chƣơng trình xuất sắc đƣợc phủ đều ở tất cả

các lĩnh vực thì chính sách riêng của Trƣờng đại học RMIT tập trung vào các lĩnh vực

ƣu tiên đƣợc quy định trong chiến lƣợc phát triển của Trƣờng.

Thứ hai, chính sách đặt ra các tiêu chí cao đối với các NNCM khi thành lập để

tài trợ hoặc hỗ trợ. Tiêu chí lựa chọn tài trợ/hoặc thành lập NNCM là sự kết hợp giữa

đề cƣơng nghiên cứu và năng lực của các thành viên. Nếu nhƣ ở Đức, đề cƣơng nghiên

cứu phải đạt 3 tiêu chí: có tham vọng, phù hợp và thực tiễn (Tham vọng là tiêu chí

khoa học, thực tiễn là tiêu chí liên quan đến tài chính và phù hợp là tiêu chí kinh tế -

xã hội) thì ở đại học RMIT, đề cƣơng nghiên cứu phải trả lời đƣợc 4 câu hỏi: (1) NNC

kỳ vọng đạt đƣợc điều gì? (2) Các hoạt động đƣợc đề xuất để đáp ứng các mục tiêu đề

ra là gì?; Các hoạt động của Nhóm phù hợp thế nào với kế hoạch nghiên cứu và đổi

mới của Trƣờng? (3) Kết quả mà NNC hy vọng sẽ cung cấp là gì? (4) Thời gian cụ thể

để nhóm hoàn thành từng mục tiêu là khi nào?. Tiêu chí năng lực nghiên cứu đƣợc

đánh giá dựa trên các kết quả nghiên cứu đƣợc công bố trên các tạp chí quốc tế có uy

tín. Đây là tiêu chí chung và quan trọng không kém đối với tiêu chí đề cƣơng nghiên

cứu, nếu nhóm chƣa có công bố quốc tế, không ai tin nhóm có thể hoàn thành dự án

nghiên cứu trong 3 hoặc 5 năm tới.

Thứ ba, chính sách quy định rất chặt chẽ đối với khâu báo cáo và đánh giá hiệu

quả hoạt động của NNCM thông qua việc thực hiện các mục tiêu đƣợc thuyết minh

trong chƣơng trình nghiên cứu. Ở Đức, các NNCM phải nộp báo cáo thƣờng niên và

việc đánh giá kết quả nghiên cứu đƣợc thực hiện bởi nhóm chuyên gia độc lập do Bên

tài trợ mời, nếu kết quả đánh giá không tốt, nhóm không nên làm việc cùng nhau. Còn ở

đại học RMIT, các NNCM sẽ phải nộp báo cáo thƣờng niên và cập nhật kế hoạch

nghiên cứu trong giai đoạn hoạt động của nhóm (3 - 5 năm) để Hội đồng thẩm định xem

155

xét báo cáo Hội đồng khoa học nhà trƣờng phê duyệt. NNC có thể bị giải thể bất cứ khi

nào nếu mục đích mà nhóm đƣợc thành lập đã hoàn thành hoặc Hội đồng thẩm định

khuyến nghị rằng nhóm không còn đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn kể từ khi đƣợc thành

lập hoặc lĩnh vực trọng tâm của NNC không còn là chiến lƣợc ƣu tiên của Trƣờng.

Thứ tƣ, các NNCM hay đơn vị nghiên cứu sẽ nhận đƣợc nguồn tài trợ từ nhà

nƣớc/doanh nghiệp để triển khai các hoạt động nghiên cứu hoặc hỗ trợ hành chính, yêu

cầu về vốn, bảo trì thiết bị và nâng cấp, các chuyến đi nghiên cứu liên quan và các tài

nguyên khác của trƣờng đại học.

5.4. Giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN

Từ thách thức đƣợc đặt ra trên đây và những hạn chế đƣợc chỉ ra trong hoạch

định và tổ chức thực hiện chính sách đã đƣợc nêu ở chƣơng trƣớc, cũng nhƣ những bài

học rút ra từ kinh nghiệm quốc tế, tác giả luận án cho rằng, việc bổ sung, hoàn thiện

chính sách phát triển NNCM của ĐHQGHN cần phải đƣợc đặt trong hệ thống thiết chế

quản lý để xem xét một cách tổng thể và đồng bộ với 3 yếu tố căn cốt sau đây:

- Chiến lƣợc: Sự lựa chọn hƣớng nghiên cứu hay lĩnh vực nghiên cứu mà

ĐHQGHN có thế mạnh để ƣu tiên đầu tƣ và tạo thế cạnh tranh với các trƣờng đại học

trong và ngoài nƣớc. Trong đó, NNCM là một trong những nhân tố quan trọng để thực

hiện chiến lƣợc.

- Chính sách: Sự đối xử, hay sự đầu tƣ nguồn lực của ĐHQGHN cho NNCM

để đảm bảo các điều kiện và tạo động lực thúc đẩy NNCM thực hiện hƣớng nghiên

cứu ƣu tiên do ĐHQGHN lựa chọn.

- Luật hay quy định: Sự điều chỉnh, tức các biện pháp nhằm quản lý các hoạt

động của NNCM, đảm bảo những chính sách đối với NNCM đem lại hiệu quả trong

việc thực hiện hƣớng nghiên cứu ƣu tiên do ĐHQGHN đề ra.

Trong quá trình phân tích chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN, tác giả

luận án nhận thấy ở cả 3 nội dung trên đây đều cho thấy những điểm bất cập nổi cộm.

Cụ thể:

(1) Nhìn từ góc độ chiến lược, ĐHQGHN chƣa xác lập đƣợc lĩnh vực ƣu tiên để

đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm nhằm tối đa hóa lợi thế cạnh tranh của mình.

(2) Nhìn ở góc độ chính sách, việc đầu tƣ của ĐHQGHN còn phân tán và dàn

trải, trong bối cảnh nguồn lực tài chính còn hạn chế, phụ thuộc chủ yếu vào sự phân bổ

của Nhà nƣớc. Nhiều chính sách đã đƣợc thể chế hóa nhƣng không đƣợc thực hiện

trong thực tiễn do nguồn lực tài chính hạn chế.

156

(3) Nhìn ở góc độ quản lý, các quy định còn chồng lấn, rời rạc và thiếu chế tài

để điều chỉnh và xử lý.

Xuất phát từ những thách thức và hạn chế trên đây, hơn bao giờ hết, tình hình

đó đòi hỏi ĐHQGHN phải xem xét thế mạnh của mình trong mối tƣơng quan của nền

giáo dục quốc gia, khu vực và thế giới để có những điều chỉnh chiến lƣợc và xây dựng

hệ thống chính sách đồng bộ, tạo dựng lòng tin và thúc đẩy sự tham gia tích cực của

các nhà khoa học nhằm tạo thế cạnh tranh và duy trì sự phát triển. Nhƣ vậy, việc xây

dựng mạng lƣới NNC phải đi kèm với hệ thống chính sách đồng bộ nhằm thúc đẩy

hợp tác, tăng cƣờng đầu tƣ, kiến tạo môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu thuận lợi cho

NNC phát triển để từ đó hình thành lên các NNCM, các trung tâm, viện nghiên cứu

xuất sắc hƣớng đến mục tiêu xây dựng đại học nghiên cứu (Hình 5.2). Trong mối

tƣơng quan đó, việc tạo dựng môi trƣờng nghiên cứu thuận lợi, minh bạch và đầu tƣ,

phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao phải đƣợc coi là vấn đề sống còn và việc xây

dựng các NNCM nhằm quy tụ đƣợc các nhà khoa học tài năng để thúc đẩy những lĩnh

vực KH&CN có thế mạnh phải đƣợc xem là yếu tố căn cốt.

Tóm lại, những nội dung đƣợc trình bày trên đây sẽ là cơ sở quan trọng để luận

ĐHNC

Nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN (KQNC, SPCN và đào tạo nhân lực có chất lượng cao)

Quy mô phát triển của nhóm nghiên cứu mạnh

Hình thành và phát triển NNCM/TTNCXS/ Mạng lƣới liên hoàn

Thúc đẩy hợp tác, tăng cƣờng đầu tƣ, kiến tạo môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu thuận lợi cho NNC phát triển

Mạng lƣới NNC

Hệ thống chính sách

Hệ thống chính sách

Hình 5.2: Khung định hướng chiến lược cho ĐHQGHN (Nguồn: Đề xuất của đề tài)

án đề xuất biện pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM cho ĐHQGHN.

157

5.4.1. Biện pháp bổ sung, hoàn thiện về chiến lược

Từ những phân tích và lập luận trên đây, rõ ràng ở góc độ chiến lƣợc,

ĐHQGHN cần xác định thế mạnh, cũng nhƣ thế yếu của mình trong tƣơng quan với

các trƣờng đại học ở Việt Nam, khu vực và thế giới để từ đó quyết định phƣơng án lựa

chọn tối ƣu, đảm bảo sự lựa chọn đó tạo ra sự bứt phá quan trọng trong hoạt động

KH&CN mà ĐHQGHN có thế mạnh.

Đây là vấn đề mấu chốt nhất, buộc ĐHQGHN phải khẳng định một tƣ tƣởng

chiến lƣợc: một mặt vẫn duy trì việc đầu tƣ cho KH&CN để phát triển các lĩnh vực

nghiên cứu nói chung nhƣng quan trọng hơn là ĐHQGHN phải đầu tƣ có trọng tâm,

trọng điểm vào những lĩnh vực ƣu tiên nhằm tạo ra thế mạnh riêng của mình. Sự lựa

chọn đó là cơ sở cho việc hoạch định chiến lƣợc phát triển giáo dục và đào tạo,

KH&CN của ĐHQGHN. Đó sẽ là chiến lƣợc với những mục tiêu chọn lọc, những

chính sách đầu tƣ đầy đủ về nguồn lực để đảm bảo cho sự phát triển tiềm lực KH&CN

của những lĩnh vực ƣu tiên mà ĐHQGHN đã lựa chọn.

Một thực tế hiện nay đang cho thấy, các nhiệm vụ KH&CN của ĐHQGHN vẫn

chủ yếu dựa vào các đề xuất từ các nhà khoa học ở dƣới lên, trên cơ sở đề xuất đó

ĐHQGHN xem xét phê duyệt và đầu tƣ, do vậy, các hƣớng nghiên cứu thƣờng phân

tán và không rõ nên đầu tƣ theo hƣớng nào. Bên cạnh đó việc xây dựng các hội đồng

chuyên ngành để đánh giá và phê duyệt các đề tài/dự án cũng chƣa thật hợp lý dẫn đến

việc đánh giá các đề xuất chƣa đảm bảo tính khách quan, nghiêm túc. ĐHQGHN thành

lập nhiều NNCM, nhiều trung tâm nghiên cứu trọng điểm, nhiều phòng thí nghiệp

trọng điểm… trong cơ cấu nghiên cứu của mình, nhƣng chính sách cần tác động vào

đâu để tạo sự bứt phá thì chƣa có do thiếu sự lựa chọn mang tính chiến lƣợc.

Với việc xác định NNCM có vai trò quan trọng đối với chiến lƣợc phát triển

của ĐHQGHN thì vấn đề đầu tƣ phát triển NNCM phải đƣợc xem là một trong những

nội dung quan trọng để đảm bảo cho việc thực hiện chiến lƣợc đó. Trong bối cảnh

nguồn kính phí đầu tƣ cho nghiên cứu còn hạn hẹp việc lựa chọn hƣớng ƣu tiên để đầu

tƣ có ý nghĩa quyết định. Hiện nay, hoạt động nghiên cứu và đào tạo của ĐHQGHN có

thể đƣợc gói lại theo 4 nhóm lĩnh vực: 1) Khoa học tự nhiên (bao gồm cả Toán); 2)

Khoa học XH&NV; 3) Khoa học KT&CN; 4) Khoa học Y dƣợc. Nhƣng, phải khẳng

định một tất yếu khách quan rằng không phải tất các hƣớng nghiên cứu trong các lĩnh

vực này đều mạnh. Nhƣ vậy, trong 4 nhóm lĩnh vực này, mỗi lĩnh vực ĐHQGHN cần

lựa chọn những điểm trồi để ƣu tiên, tập trung đầu tƣ. Bên cạnh đó, việc xác định

158

hƣớng ƣu tiên cần đƣợc đặt trong mối tƣơng quan với các lĩnh vực, các hƣớng nghiên

cứu theo xu hƣớng phát triển KH&CN của khu vực và thế giới. Đó là tất cả những gì

ĐHQGHN cần xem xét để điều chỉnh chiến lƣợc của mình. Kinh nghiệm của Đại học

RMIT, Australia trên đây có thể là tham khảo tốt cho ĐHQGHN.

5.4.2. Các biện pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách

Nhƣ đã đề cập ở trên, chính sách ở đây đƣợc hiểu là sự đối xử của ĐHQGHN

đối với NNCM để tạo điều kiện và tạo động lực thúc đẩy NNCM thực hiện hƣớng

nghiên cứu ƣu tiên do ĐHQGHN lựa chọn. Trong quá trình nghiên cứu chính sách

phát triển NNCM của ĐHQGHN, tác giả luận án nhận thấy, điều mà ĐHQGHN đang

thiếu là một hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán để phát triển các đơn vị nghiên

cứu nói chung và NNCM nói riêng. Điều này đƣợc minh chứng bởi việc mỗi đơn vị

nghiên cứu (NNCM, TTNC, Viện NC, PTNTĐ, …) khi thành lập, đƣợc thực hiện ở các

văn bản chính sách khác nhau, các văn bản thiếu tính thống nhất và có phần chồng

chéo, gây ra nhiều khó khăn trong quá trình thực thi chính sách. Cho nên, việc bổ

sung, hoàn thiện chính sách sách phát triển NNCM không thể nằm ngoài chính sách

phát triển các đơn vị nghiên cứu nói chung của ĐHQGHN. Bên cạnh đó, kết quả khảo

sát thực tiễn (Bảng 5.2) cũng cho thấy, điều mà các nhà khoa học cần nhất ở

ĐHQGHN đó là việc “Tạo dựng môi trƣờng nghiên cứu thuận lợi, minh bạch”, “Trọng

dụng nhà khoa học trình độ cao”, “Đổi mới chính sách tài chính theo hƣớng công khai,

minh bạch, khoán đến sản phẩm đầu ra”. Bên cạnh đó là việc “Ƣu tiên đầu tƣ kinh phí

NC theo phƣơng thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN cho các NNCM”, “Xây dựng

chế độ đãi ngộ thích hợp đối với những sáng chế, cải tiến công nghệ nhằm tạo động

lực cho nhà khoa học”, “Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các cơ quan, tổ chức, doanh

nghiệp trong và ngoài nƣớc căn cứ vào thế mạnh của từng lĩnh vực”, “Tăng cƣờng đào

tạo, bồi dƣỡng, phát triển đội ngũ khoa học trình độ cao”, “Có chế độ đãi ngộ phù hợp

để thu hút các nhà khoa học có trình độ cao ở ngoài nƣớc về làm việc”, “Xây dựng và

mở rộng Quỹ KH&CN”, “Đầu tƣ trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận

lợi”, “Hỗ trợ chế độ bảo hộ sản phẩm KH&CN, tạo điều kiện cho tri thức yên tâm

nghiên cứu và chuyển giao công nghệ”. Ngoài ra, việc “Ƣu tiên bổ sung nhân lực đối

với các NNC hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm

nghiên cứu....” đƣợc các nhà khoa học đánh giá là cần thiết nhƣng chƣa phải là yếu tố

quyết định.

159

Bảng 5.2: Đánh giá mức độ cần thiết của các chính sách đối với

sự phát triển của NNCM ở ĐHQGHN

Điểm trung

Nội dung đánh giá bình

Tạo dựng môi trƣờng nghiên cứu thuận lợi, minh bạch 4.70

Trọng dụng nhà khoa học trình độ cao 4.69

Đối mới chính sách tài chính theo hƣớng công khai, minh bạch, 4.64 khoán đến sản phẩm đầu ra.

Ƣu tiên đầu tƣ kinh phí NC theo phƣơng thức đặt hàng, giao 4.50 nhiệm vụ KH&CN cho các NNC mạnh

Xây dựng chế độ đãi ngộ thích hợp đối với những sáng chế, cải 4.46 tiến công nghệ nhằm tạo động lực cho nhà khoa học

Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các cơ quan, tổ chức,

doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc căn cứ vào thế mạnh của từng 4.45

lĩnh vực

Tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng, phát triển đội ngũ khoa học 4.42 trình độ cao

Có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút các nhà khoa học có trình 4.40 độ cao ở ngoài nƣớc về làm việc

Xây dựng và mở rộng Quỹ KH&CN 4.40

Đầu tƣ trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi 4.38

Hỗ trợ chế độ bảo hộ sản phẩm KH&CN, tạo điều kiện cho tri 4.24 thức yên tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ

Ƣu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở 3.96 các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu...

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)

Do đó, biện pháp trƣớc tiên đối với ĐHQGHN là xây dựng văn bản chính sách

đồng bộ và nhất quán đối với việc thành lập các đơn vị nghiên cứu, trên cơ sở những

văn bản chính sách rời rạc hiện nay. Trong đó, chính sách tổng thể đó phải giải quyết

đƣợc 4 vấn đề chính sau đây:

160

Thứ nhất, cần phân định rõ các thành phần nghiên cứu trong cơ cấu tổ chức

nghiên cứu của ĐHQGHN, bao gồm: NNC, NNC tiềm năng; NNCM; Trung tâm

nghiên cứu; Trung tâm nghiên cứu xuất sắc; Viện nghiên cứu; PTN trọng điểm; PTN

chuyên đề. Trong đó, mỗi thành phần này, cần đƣợc định nghĩa rõ ràng, phân định rõ

các tiêu chí thành lập, quy trình thành lập, quy định rõ cơ cấu tổ chức hoạt động, quy

trình báo cáo, kiểm tra - đánh giá, quy trình giải thể và các vấn đề liên quan đến việc

minh bạch thông tin hoạt động KH&CN của từng đơn vị nghiên cứu.

Thứ hai, hệ thống biểu mẫu, hƣớng dẫn đối với mỗi thành phần trong cơ cấu tổ

chức nghiên cứu của ĐHQGHN phải đƣợc phân định rõ ràng.

Thứ ba, cần quy định rõ các chính sách đầu tƣ thỏa đáng đối với từng thành

phần trong cơ cấu tổ chức nghiên cứu của ĐHQGHN, tạo ra các thứ bậc trong thang

phát triển của từng đơn vị nghiên cứu dựa trên quy mô, khả năng giải quyết những vấn

đề phức tạp từ lý luận đến thực tiễn.

Thứ tƣ, cần quy định rõ các đơn vị chỉ đạo, quản lý, phối hợp, tƣ vấn, cơ chế

báo cáo, trách nhiệm giải trình của các bên liên quan trong quá trình hoạt động

KH&CN của các thành phần trong cơ cấu tổ chức nghiên cứu của ĐHQGHN.

Kinh nghiệm của Đại học RMIT trong việc xây dựng khung chính sách cấu trúc

nghiên cứu có thể là tham khảo tốt cho ĐHQGHN.

Biện pháp thứ hai là ĐHQGHN cần hoàn thiện bộ tiêu chí về NNCM. Nhƣ

trong phần đánh giá thực trạng chính sách thành lập NNCM, hạn chế của bộ tiêu chí

thành lập NNCM của ĐHQGHN đã đƣợc tác giả luận án chỉ ra do đó việc hoàn thiện

tiêu chí NNCM phải tập trung vào 4 nội dung chính sau đây:

(1) Hƣớng nghiên cứu của NNCM phải nằm trong hƣớng nghiên cứu ƣu tiên

đƣợc ĐHQGHN xác định trong chiến lƣợc phát triển của Trƣờng.

(2) NNCM phải có đƣợc các nhà khoa học chủ chốt, có trình độ cao, có uy tín

và có năng lực tổ chức, dắt dẫn NNCM phát triển (trong bối cảnh ĐHQGHN hiện này

mỗi nhóm nên có tối thiểu 3 nhà khoa học chủ chốt có đủ tầm như vậy). Trong đó:

Tiêu chí đánh giá năng lực và khả năng của các thành viên chủ chốt phải dựa trên

các công trình nghiên cứu đƣợc công bố, các sản phẩm KH&CN đã và đang đƣợc triển

khai (Bài báo công bố quốc tế thuộc danh mục ISI/Scopus, sách chuyên khảo được xuất

bản ở nhà xuất bản quốc tế có uy tín, bằng sáng chế, các sản phẩm KH&CN khác được

xem xét công nhận tương đương…) trong thời gian 5 năm tính đến thời điểm nộp hồ sơ

để đƣợc công nhận là NNCM. Việc lƣợng hóa các tiêu chí này cần đƣợc xem xét dựa

161

trên các đặc điểm của từng loại hình nghiên cứu, từng lĩnh vực nghiên cứu khác nhau.

Các tiêu chí thỏa đáng sẽ tập trung vào những thành viên chủ chốt.

Các thành viên khác sẽ đƣợc các thành viên chủ chốt của nhóm lựa chọn, bổ sung

vào nhóm tùy thuộc vào từng chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể theo từng giai

đoạn, thời gian làm việc của họ (toàn thời gian hay bán thời gian). Lƣơng bổng của các

thành viên này do NNCM tự chi trả theo các nhiệm vụ/chƣơng trình nghiên cứu.

(3) Trƣởng nhóm và các thành viên viên chủ chốt của Nhóm phải xây dựng

đƣợc các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu quy mô, tầm cỡ và kế hoạch nghiên cứu

bài bản để thuyết phục đƣợc ĐHQGHN, hay các Quỹ nghiên cứu do các cơ quan nhà

nƣớc, các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nƣớc tài trợ.

Tiêu chí này phải đƣợc xem là quan trọng nhất. Nếu tiêu chí thứ nhất cho thấy

nhóm đi theo định hƣớng chiến lƣợc của ĐHQGHN đề ra, thì tiêu chí thứ hai cho thấy

nhóm có khả năng để triển khai các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu, còn tiêu chí

thứ 3 cho thấy Nhóm đƣợc thành lập để thực hiện một chƣơng trình/một nhiệm vụ

nghiên cứu cụ thể, gắn với một giai đoạn nghiên cứu nhất định.

(4) Nhóm có cơ sở vật chất, trang thiết bị đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu.

Tiêu chí này là cần thiết, tuy nhiên cần xem xét ở từng loại hình nghiên cứu, từng lĩnh

vực nghiên cứu bởi với mỗi loại hình nghiên cứu khác nhau, mỗi lĩnh vực nghiên cứu

khác nhau lại cần có những điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị khác nhau. Có

những loại hình nghiên cứu, lĩnh vực nghiên cứu cần các cơ sở vật chất, trang thiết bị

hiện đại và nếu không có các trang thiết bị này Nhóm sẽ không đảm bảo đƣợc các điều

kiện thực hiện chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu thì tiêu chí này cần đƣợc coi trọng,

thậm chí là bắt buộc. Nhƣng cũng có những loại hình nghiên cứu, lĩnh vực nghiên cứu

chỉ cần cơ sở vật chất, trang thiết bị thông thƣờng thì tiêu chí này chỉ nên xem là tiêu

chí phụ và nếu nhóm đã đảm bảo đƣợc 3 tiêu chí trên, ĐHQGHN hoàn toàn có thể đầu

tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị khi Nhóm đƣợc thành lập.

Biện pháp thứ ba là ĐHQGHN cần phát triển NNCM gắn liền với chính sách

đầu tƣ cho các NNCM theo các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu và gắn với việc đào

tạo NCS. Hiện nay, các NNCM đã đƣợc ĐHQGHN thành lập nhƣng không gắn với

các chƣơng trình nghiên cứu cụ thể, đo đó ĐHQGHN rất khó để định hƣớng và điều

tiết hoạt động KH&CN của các NNC. Bên cạnh đó, ĐHQGHN cần định hƣớng xây

dựng NNCM dựa vào năng lực hiện có và nhu cầu phát triển của ĐHQGHN trong mối

quan hệ với định hƣớng phát triển của đất nƣớc và xu hƣớng phát triển của thế giới;

162

kết hợp phát triển các NNC mạnh trong đơn vị thành viên để hình thành và phát triển

những NNC mới. Việc đầu tƣ có thể từ dƣới lên theo đề xuất của các NNCM hoặc

giao nhiệm vụ từ trên xuống tùy thuộc vào tình hình thực tiễn. Chƣơng trình nghiên

cứu của Nhóm nên có thời gian tối thiểu là 3 năm và gắn việc đầu tƣ các chƣơng

trình/nhiệm vụ nghiên cứu với việc đào tạo NCS. NCS sẽ là nhân lực chính để triển

khai các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu của Nhóm, bởi NCS là những ngƣời có

động lực nghiên cứu, có động lực để công bố quốc tế do chịu áp lực bởi Quy chế đào

tạo tiến sĩ hiện nay. Thời gian đầu tƣ nhƣ vậy là không quá ngắn cũng không quá dài

và đây là thời gian đủ để các NCS hoàn thành chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu và

đồng thời hoàn thành luận án. Thời gian này cũng phù hợp để NNC phát triển tổ chức

và đào tạo nguồn nhân lực, bao gồm cả nhân lực kế cận. Hết thời gian đầu tƣ, các

NNCM tiếp tục đề xuất các nhiệm vụ nghiên cứu mới để ĐHQGHN xem xét đầu tƣ

tiếp hoặc giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu. Kinh nghiệm của Đức cho

thấy NNC đã mạnh không nhất thiết là đang mạnh, tiền nghiên cứu chỉ dành cho

Nhóm hiện tại đang mạnh. .

Giải pháp thứ tư là phát triển Quỹ KH&CN. Hiện nay, Quỹ KH&CN của

ĐHQGHN còn ít ỏi và chủ yếu trông chờ vào nguồn kính phí đƣợc cấp từ ngân sách

nhà nƣớc, vì thế, các hoạt động đầu tƣ từ Quỹ hiện nay chủ yếu mới đƣợc sử dụng để

khen thƣởng cho các công bố quốc tế và triển khai các hội nghị/tọa đàm khoa học gắn

với hoạt động của Câu lạc bộ nhà khoa học trong thời gian qua. Trong đó việc kêu gọi

đầu tƣ từ các cơ quan, doanh nghiệp còn mang tính hình thức và chƣa đem lại hiệu

quả. Do vậy, để phát triển nguồn quỹ, trong điều kiện hiện nay của ĐHQGHN, ngoài

nguồn kinh phí do Nhà nƣớc cấp, ĐHQGHN cần phát triển Quỹ KH&CN thông qua

việc quy định cụ thể tỉ lệ % học phí trích nộp vào Quỹ, tỉ lệ này nên là 5% tính theo

đầu sinh viên, học viên và NCS. Nhƣ vậy, với quy mô 30.213 sinh viên, 5.697 học

viên và 1.494 nghiên cứu sinh (Số liệu thống kê tính đến tháng 11/2018 của

ĐHQGHN), mỗi năm ĐHQGHN sẽ có trung bình khoảng 20 tỉ bổ sung vào Quỹ

KH&CN. Bên cạnh đó, ĐHQGHN cần đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tƣ thông qua

việc hợp tác với các cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác chuyển giao công nghệ. Đồng thời

huy động nguồn kinh phí tài trợ từ các cựu sinh viên tài năng đã khẳng định đƣợc vị trí

và vị thế trong xã hội để mở rộng nguồn Quỹ. Tuy nhiên, để huy động đƣợc nguồn tài

chính từ khối doanh nghiệp, ĐHQGHN cần phải làm cho các doanh nghiệp hiểu và có

niềm tin vào các kết quả nghiên cứu do các nhà khoa học của ĐHQGHN có khả năng

163

nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trƣờng, đem lại

lợi ích cho sản xuất kinh doanh hoặc nâng cao năng lực quản trị của doanh nghiệp.

Nhƣ vậy, với nguồn Quỹ KH&CN đƣợc bổ sung hàng năm theo tỉ lệ % học phí và các

nguồn tài chính khác thu hút đƣợc, ĐHQGHN hoàn toàn có thể tự chủ trong việc đầu

tƣ có chiều sâu, quy mô và dài hạn cho các NNCM nhằm thực hiện mục tiêu chiến

lƣợc đề ra. Việc tài trợ cho các chƣơng trình nghiên cứu xuất sắc thông qua quỹ cần

đƣợc công bố công khai để các NNC đăng ký và cạnh tranh bình đẳng. Việc tuyển

chọn, giao nhiệm vụ nghiên cứu cho các NNC cần căn cứ vào hệ thống tiêu chí rõ ràng

để đánh giá đúng tiềm lực và khả năng của từng NNC.

Biện pháp thứ năm là ĐHQGHN cần đầu tƣ xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về

kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và phần mềm quản lý hoạt động KH&CN

thống nhất. Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu khoa học và phần mềm quản lý hoạt

động KH&CN thống nhất trong toàn ĐHQGHN nên đƣợc coi là một nội dung quan

trọng và thiết yếu trong việc quản lý và đánh giá hiệu quả các hoạt động KH&CN của

ĐHQGHN. Thông qua việc quản lý và kiểm soát hiệu quả các KQNC sẽ là cơ sở để

đƣa ra những chỉ báo quan trọng nhằm đánh giá hiệu lực, hiện quả của các chính sách

đầu tƣ, đồng thời có nhƣng điều chỉnh chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động

KH&CN của ĐHQGHN, cũng nhƣ đánh giá hiệu quả hoạt động KH&CN của đội ngũ

nhân lực khoa học.

Biện pháp thứ sáu là ĐHQGHN cần có chính sách đầu tƣ cho công tác đào tạo

kỹ năng hoạch định, quản lý và tổ chức thực hiện chính sách. Xét ở góc độ đội ngũ

thực thi chính sách, hiệu quả hoạt động khoa học của các NNCM cũng có thể đƣợc

tăng cƣờng nhờ vào việc xây dựng đội ngũ quản lý tốt, tạo đƣợc lòng tin của các nhà

khoa học, xây dựng đƣợc mạng lƣới hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng các nhà khoa

học. Do đó, ĐHQGHN cần triển khai các CTĐT bồi dƣỡng kỹ năng hoạch định, quản

lý và tổ chức thực hiện chính sách cho đội ngũ cán bộ quản lý ở ĐHQGHN. Bên cạnh

đó, ĐHQGHN cần thúc đẩy các hoạt động đào tạo, bội dƣỡng nguồn nhân lực theo các

NNCM thông qua việc cử các NNCM thực tập nghiên cứu tại các cơ quan, doanh

nghiệp của nƣớc ngoài, gắn việc đào tạo NNC với các chƣơng trình nghiên cứu thực

tiễn tại các cơ quan doanh nghiệp. Thông qua hoạt động đào tạo cũng dần tạo ra sự kết

nối giữa trƣờng đại học và doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy hợp tác với các doanh

nghiệp trong việc xây dựng các chƣơng trình nhiệm vụ nghiên cứu, đánh giá các kết

quả nghiên cứu, điều đó cũng giúp cho các kết của nghiên cứu phù hợp với thực tiễn,

164

thông qua đó thu hút đầu tƣ từ các doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ cho doanh

nghiệp. Để làm đƣợc điều đó ĐHQGHN cần khai thác hiệu quả đề án 2395 của Nhà

nƣớc. Bên cạnh đó, ĐHQGHN cũng cần có chính sách tài chính mạnh để thu hút các

nhà khoa học nƣớc ngoài và các nhà khoa học Việt Nam ở nƣớc ngoài về làm việc.

Thời gian qua, ĐHQGHN đã có bƣớc tiến quan trọng trong việc triển khai thu hút các

chuyên gia đầu ngành ở nƣớc ngoài kiêm nhiệm các vị trí đồng giám đốc các phòng thí

nghiệm trọng điểm nhằm thúc đẩy hoạt động KH&CN, tuy nhiên, phải xác định rằng

việc có chuyên gia nƣớc ngoài không đồng nghĩa với việc chất lƣợng và hiệu quả hoạt

động nghiên cứu đƣợc nâng lên nếu không có những đầu tƣ cụ thể thông qua các

chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu để khai thác chất xám của họ.

5.4.3. Các biện pháp bổ sung, hoàn thiện quy định về quản lý

Nhƣ đã đề cập ở trên, bên cạnh hạn chế liên quan đến chính sách đầu tƣ cho

những lĩnh vực cần ƣu tiên, thì hạn chế trong hoạt động đánh giá cũng là vấn đề lớn

của ĐHQGHN. Hạn chế này xuất phát từ việc thiếu chế tài để điều chỉnh, xử lý cũng

nhƣ sự quan liêu của đội ngũ thực thi chính sách. Điều này sẽ dẫn đến những tác hại

lâu dài nếu kỷ luật khoa học không đƣợc thực thi một cách nghiêm túc và đạo đức

khoa học thiếu sự tôn trọng. Do đó, để xây dựng và phát triển NNCM thì bên cạnh

những chính sách đầu tƣ phù hợp thì việc đặt ra những chế tài nhằm đánh giá, điều

chỉnh hoạt động KH&CN của các NNCM là vô cùng quan trọng. Theo đó, ĐHQGHN

cần thực hiện một số biện pháp sau đây:

Biện pháp thứ nhất là ĐHQGHN cần cấu trúc lại hệ thống các đơn vị nghiên

cứu (NNCM, TTNC, Viện NC) hiện nay theo chính sách mở, cấu trúc mềm, tức hoạt

động gắn liền với các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể theo từng giai đoạn

(3-5 năm) tùy vào quy mô và lĩnh vực nghiên cứu của từng đơn vị, nguồn nhân lực

khoa học chất lƣợng cao cần đƣợc tập hợp theo cách mà Uber và Grab đang làm để

triển khai các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy

không có tổ chức khoa học nào tồn tại và mạnh mãi, các tổ chức đều hoạt động dựa

trên các chƣơng trình và nhiệm vụ cụ thể, có đánh giá thƣờng niên và đánh giá cuối

kỳ, sự tồn tại hay suy vong của các NNCM phụ thuộc vào các chƣơng trình, nhiệm vụ

nghiên cứu và hiệu quả hoạt động của nó. Do đó, ĐHQGHN cần chấm dứt các đơn vị

nghiên cứu tồn tại theo hình thức suốt đời, cứ thành lập là tồn tại mãi, cứ “đẻ ra là phải

nuôi”, hoạt động đánh giá không đƣợc coi trọng. Để làm đƣợc điều đó vấn đề quan

trọng là ĐHQGHN cần xây dựng đƣợc hệ thống tiêu chí phù hợp với chuẩn mực quốc

165

gia và hƣớng đến chuẩn quốc tế. Đây là cơ sở quan trọng để phát triển tổ chức nghiên

cứu, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức nghiên cứu. Đồng thời, xây dựng các

quy định về trách nhiệm giải trình của các bên liên quan trong việc đề xuất, thẩm định,

thực hiện và đánh giá kết quả nghiên cứu. Các chƣơng trình hoạt động và kết quả

nghiên cứu cần đƣợc công khai, minh bạch để cộng đồng khoa học và xã hội giám sát

đánh giá.

Biện pháp thứ hai là ĐHQGHN cần bổ sung, hoàn thiện quy định và quy trình

đánh giá NNCM. Việc đánh giá NNCM cần có quy trình, quy định đánh giá minh

bạch, rõ ràng thông qua hệ thống tiêu chí phù hợp. Khi các thành quả do NNCM tạo ra

đƣợc đánh giá đúng mức và có chính sách đãi ngộ xứng đáng về vật chất và tinh thần

mới tạo động lực thúc đẩy NNCM phát triển.

Theo đó, việc đánh giá đề cƣơng hay chƣơng trình, kế hoạch nghiên cứu của

Nhóm để đầu tƣ và ƣu đãi phải đƣợc xem là nội dung quan trọng nhất, với những tiêu

chí đánh giá rõ ràng và minh bạch. Việc đánh giá nên đƣợc thực bởi Hội đồng đánh giá

độc lập, có chuyên môn phù hợp. Tuy nhiên, việc thành lập Hội đồng chuyên ngành

cần phải tính đến yếu tố phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu của NNCM. Đồng thời,

ĐHQGHN cần tăng cƣờng công tác quản lý hoạt động KH&CN của các NNCM.

Trong đó, cần quy định cụ thể hoạt động báo cáo thƣờng niên, các NNCM phải thực

hiện nghiêm quy định đệ trình một bản báo cáo hoạt động KH&CN cho ĐHQGHN,

với nội dung thể hiện chi tiết hoạt động của Nhóm, gồm cả các thành quả nghiên cứu,

các hoạt động KH&CN đang đƣợc triển khai. Đồng thời trong báo cáo đó cũng phải

đƣa ra những kế hoạch cho các năm tiếp theo và báo cáo cuối kỳ để ĐHQGHN xem

xét - đánh giá. Đây là cơ sở quan trọng để ĐHQGHN tiến hành việc đánh giá hoạt

động KH&CN đối với các NNCM, định kỳ hàng năm tiến hành kiểm tra hoạt động của

các NNCM nhằm đảm bảo tất cả các hoạt động nghiên cứu KH&CN của Nhóm phù

hợp với chiến lƣợc phát triển của ĐHQGHN. Nếu, Hội đồng đánh giá xét thấy khả

năng của Nhóm không đạt đƣợc mục tiêu đã đề ra, hoặc nhóm không xây dựng đƣợc

các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu cho các năm/giai đoạn tiếp theo, Hội đồng hoàn

toàn có sơ sở để đề xuất giải thể NNCM.

Việc thực hiện đánh giá nghiêm túc hoạt động KH&CN của các NNCM trên cơ

sở kiểm tra các kết quả thực hiện của Nhóm sẽ là bằng chứng đánh giá hiệu quả hoạt

động của NNCM với các tiêu chí xác thực. Bên cạnh bản báo cáo tự đánh giá của

NNCM, Hội đồng đánh giá của ĐHQGHN cũng sẽ chuẩn bị một bản đánh giá chi tiết

166

về Nhóm và hoạt động của Nhóm, đồng thời đƣa ra đề nghị nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động của Nhóm hay thậm chí là đề xuất với lãnh đạo ĐHQGHN giải thể NNCM

hoạt động không hiệu quả. Việc đánh giá nghiêm túc hiệu quả hoạt động KH&CN của

các NNCM cũng buộc các NNCM phải luôn đổi mới, thúc đẩy sự ra đời của các

chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu mới. Chỉ khi việc đánh giá đƣợc công khai, minh

bạch thông qua hiệu quả hoạt động của các NNC mới các tác động thúc đẩy các

NNCM phát huy khả năng sáng tạo trong hoạt động KH&CN.

Ngoài ra, ĐHQGHN cần quy định mỗi NNCM cần có một trang web riêng để

thƣờng xuyên cập nhật các hoạt động KH&CN, một mặt quảng bá thƣơng hiệu của

NNCM nhằm thu hút NCS, các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc đến hợp tác, cộng

tác triển khai các hoạt động nghiên cứu hay thu hút các cơ quan doanh nghiệp đầu tƣ

cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Mặt khác, cũng cần công khai với xã hội về

hiệu quả hoạt động của các NNCM để xã hội đánh giá, giám sát, điều này cũng phần

nào khẳng định mức độ công khai, minh bạch trong hoạt động của các tổ chức

KH&CN của ĐHQGHN.

Bên cạnh chính sách đầu tƣ tăng cƣờng năng lực nghiên cứu cho các NNCM

thông qua việc chăm lo môi trƣờng làm việc, đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện

đại, ĐHQGHN cần tăng cƣờng giám sát và quản lý hiệu quả các dự án đầu tƣ này.

Thực tế đã cho thấy có không ít dự án đầu tƣ cơ sở vật chất lớn nhƣng không hiệu quả,

gây lãng phí.

5.5. Điều kiện cần và đủ để các giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát

triển NNCM có tính khả thi

Để các giải pháp chính phát triển NNCM nêu trên có thể đi vào thực tiễn, điều

kiện và và đủ đối với ĐHQGHN là:

5.5.1 Điều kiện cần

Thứ nhất, ĐHQGHN cần bắt đầu bằng sự thay đổi quan điểm khi xây dựng và

phát triển NNCM. Theo đó, NNCM phải đƣợc coi là phƣơng tiện để thực hiện chiến

lƣợc nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN. Việc coi

NNCM là mục tiêu sẽ khiến cho NNCM phần nhiều mang tính hình thức, giống nhƣ

vật trang trí của trƣờng đại học hơn là thực chất. Những sai lầm khi lấy phƣơng tiện

làm mục tiêu đã dẫn đến sự ra đời của nhiều chính sách chỉ mang tính hình thức,

không phù hợp với thực tiễn đã đƣợc tác giả luận án nêu trong chƣơng trƣớc là những

minh chứng rõ ràng.

167

Thứ hai, ĐHQGHN cần bắt đầu với những điều chỉnh và đổi mới quy trình

hoạch định chính sách phát triển KH&CN. Trong đó, việc hoạch định chính sách cần

có sự tham gia của tất cả các bên liên quan, từ cấp ĐHQGHN đến các đơn vị thành

viên, thậm chí có thể cả giới doanh nghiệp. Bên cạnh sự tham gia của các nhà lãnh

đạo, quản lý thì các nhà khoa học là những ngƣời trực tiếp chịu tác động bởi chính

sách phải đƣợc tham gia. Đôi khi, các nhà khoa học hoặc các đơn vị thành viên hay

thậm chí là các NNCM/trung tâm nghiên cứu/viện nghiên cứu có thể vạch ra một chiến

lƣợc trình ĐHQGHN.

Trong xây dựng chính sách phát triển NNCM, ĐHQGHN cần lắng nghe cộng

đồng khoa học thƣờng xuyên, nắm rõ điều các nhà khoa học cần. Hiện nay, nhiều khi

ĐHQGHN không biết các nhà khoa học thực sự muốn gì. Và đôi khi còn thiếu niềm

tin vào các nhà khoa học hoặc ngƣợc lại. Do đó, bƣớc đi đầu tiên là xây dựng một

kênh cho phép các nhà khoa học thuộc các NNCM/trung tâm nghiên cứu/viện nghiên

cứu và ĐHQGHN đối thoại thƣờng xuyên.

Khâu quan trọng trong hoạch định chính sách là tiến hành rà soát lại kế hoạch

theo từng giai đoạn (3-5 năm) để có sự điều chỉnh thích hợp khi hoàn cảnh thay đổi. Ở

cấp ĐHQGHN, cần xây dựng diễn đàn khoa học đối thoại với Giám đốc, trong đó, các

nhà khoa học đặc biệt các trƣởng NNCM có thể trao đổi trực tiếp với Giám đốc về

những nhiệm vụ nghiên cứu có quy mô lớn.

Đối với cấp đơn vị thành viên, cần có tổ công tác về tham vấn chính sách, nơi các

nhà khoa học đối thoại cụ thể các vấn đề để hoạch định chính sách. Cần có rất nhiều

nhóm nhƣ vậy và các nhóm này thảo luận nhằm xây dựng quy định hoặc chiến lƣợc của

đơn vị, cũng nhƣ tƣ vấn cho ĐHQGHN. Sau các diễn đàn thảo luận đó, các đơn vị thành

viên và ĐHQGHN hiểu các nhà khoa học muốn gì và các nhà khoa học biết ĐHQGHN

định làm gì. Và nhƣ vậy, chính sách đƣợc triển khai sẽ phù hợp với thực tiễn.

Thứ ba, ĐHQGHN cần xây dựng kế hoạch cho việc rà soát, đánh giá những

chính sách đã đƣợc triển khai trong thời gian qua một cách tổng thể, với quy mô lớn

hơn để có những điều chỉnh phù hợp. Đặc biệt, cần đánh giá và cân đối các nguồn lực

hiện có và khả năng huy động các nguồn lực khác để triển khai chính sách trong thực

tế. Tránh trƣờng hợp chính sách đƣa ra rất hay, rất hoành tráng nhƣng khi triển khai

trong thực tế thì thiếu nguồn lực hay năng lực triển khai chính sách yếu dẫn đến chỉ

triển khai đƣợc một phần hoặc không triển khai gây ảnh hƣởng tiêu cực đến động lực

làm việc của các nhà khoa học, các NNC cũng nhƣ làm giảm uy tín của các cấp lãnh

168

đạo của ĐHQGHN. Để làm đƣợc điều đó, ĐHQGHN cần thực hiện những đánh giá

sâu hơn về hiệu quả hoạt động của các NNCM hiện nay, sau 5 năm đƣợc thành lập

nhằm phát hiện những vấn đề đặt ra và dự báo xu hƣớng phát triển. Thấy rõ những ƣu

điểm, những điểm còn hạn chế của các NNCM để làm cơ sở thực tiễn cho việc bổ sung

và hòan thiện chính sách. Trong phát triển NNCM, việc tăng về số lƣợng nhằm xây

dựng mạng lƣới KH&CN là cần thiết, nhƣng quan trọng hơn là chất lƣợng và hiệu quả

của các NNCM.

5.5.2 Điều kiện đủ

Thứ nhất, ĐHQGHN cần tăng cƣờng xây dựng lòng tin của các nhà khoa học

vào chủ trƣơng, chính sách, quy định và hành động của ĐHQGHN. Lòng tin của các

nhà khoa học vào hệ thống chính sách của ĐHQGHN sẽ góp phần tăng cƣờng sự phát

triển của các tổ chức KH&CN. Đồng thời, nó sẽ góp phần mở rộng mạng lƣới nghiên

cứu thông qua việc thu hút các nguồn lực bên trong và bên ngoài, cũng nhƣ thúc đẩy

sự tham gia của các nhà khoa học vào các thảo luận chính sách, các phản biệt xã hội.

Lòng tin cần đƣợc củng cố cả ở cấp đơn vị thành viên và cấp ĐHQGHN.

Thứ hai, ĐHQGHN cần hạn chế các tiêu cực phí liên quan đến xét duyệt,

nghiệm thu, thanh toán đề tài/dự án. Đồng thời, nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động

KH&CN thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý.

Thứ ba, ĐHQGHN cần tạo ra chuyển biến về nhận thức từ cấp lãnh đạo

ĐHQGHN đến đội ngũ lãnh đạo cấp đơn vị thành viên và cả các nhà khoa học, tránh

rơi vào chủ nghĩa hình thức, quan liêu, xa rời thực tiễn, nói không đi đôi với làm, nói

rất hay nhƣng thực hiện trong thực tế thì rất hạn chế, trọng hình thức thay vì thực chất.

Các nhà quản lý cũng phải hiểu rằng, việc quản lý NNCM theo kiểu hành chính là

không phù hợp. Việc coi chức vụ trƣởng NNC giống nhƣ tƣớc quan và cấp kinh phí

quản lý nhƣ những chức vụ hành chính sẽ không đem lại hiệu quả. Thực tế đã cho

thấy, NNCM chỉ có thể tồn tại và phát triển thông qua các chƣơng trình nhiệm vụ

nghiên cứu do vậy việc đầu tƣ cho NNCM là đầu tƣ thông qua các chƣơng trình

nghiên cứu và việc quản lý NNCM quản lý thông qua các chƣơng trình, nhiệm vụ

nghiên cứu và kết quả nghiên cứu do nhóm thực hiện và tạo ra.

5.6. Tiểu kết chƣơng 5

Từ những kết quả nghiên cứu nêu trên, tác giả luận án đi đến kết luận sau đây:

Việc bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM của ĐHQGHN cần phải đƣợc đặt

trong hệ thống thiết chế quản lý để xem xét một cách tổng thể và đồng bộ, trong đó:

169

Về mặt chiến lƣợc, ĐHQGHN cần có điều chỉnh theo hƣớng xác định thế

mạnh, của mình trong tƣơng quan với các trƣờng đại học ở Việt Nam, khu vực và thế

giới để từ đó quyết định phƣơng án lựa chọn tối ƣu, đảm bảo sự lựa chọn đó tạo ra sự

bứt phá quan trọng trong hoạt động KH&CN mà ĐHQGHN có thế mạnh. Đó sẽ là

chiến lƣợc với những mục tiêu chọn lọc, những chính sách đầu tƣ đầy đủ về nguồn lực

để đảm bảo cho sự phát triển tiềm lực KH&CN của những lĩnh vực ƣu tiên mà

ĐHQGHN đã lựa chọn.

Về mặt chính sách, ĐHQGHN cần xây dựng văn bản chính sách đồng bộ và

nhất quán đối với việc thành lập các đơn vị nghiên cứu nói chung, và NNCM nói

riêng; Hoàn thiện khung tiêu chí cho việc thành lập và đánh giá NNCM; Đầu tƣ cho

NNCM là đầu tƣ thông qua các chƣơng trình nhiệm vụ nghiên cứu, gắn với đào tạo

nghiên cứu sinh; Phát triển quỹ KH&CN bằng việc hàng năm trích ít nhất 5% học phí

bổ sung vào nguồn quỹ song song với việc đẩy mạnh thu hút tài trợ và đầu tƣ từ bên

ngoài; Đầu tƣ xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về kết quả nghiên cứu của các nhà khoa

học và phần mềm quản lý hoạt động KH&CN thống nhất; Đầu tƣ cho công tác đào tạo

kỹ năng hoạch định, quản lý và tổ chức thực hiện chính sách song song với việc đào

tạo theo NNC.

Về mặt thiết chế quản lý, ĐHQGHN cần cấu trúc lại hệ thống các đơn vị nghiên

cứu (NNCM, TTNC, Viện NC…) hiện nay theo chính sách mở, cấu trúc mềm, tức

hoạt động gắn liền với các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể theo từng giai

đoạn (3-5 năm) tùy vào quy mô và lĩnh vực nghiên cứu của từng đơn vị, nguồn nhân

lực khoa học chất lƣợng cao cần đƣợc tập hợp theo cách mà Uber và Grab đang làm để

triển khai các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu; Việc đánh giá NNCM cần có quy

trình, quy định đánh giá minh bạch, rõ ràng thông qua hệ thống tiêu chí phù hợp với

thông lệ quốc tế. Việc đánh giá nghiêm túc hiệu quả hoạt động KH&CN của các

NNCM cũng buộc các NNCM phải luôn đổi mới, thúc đẩy sự ra đời của các chƣơng

trình, nhiệm vụ nghiên cứu mới. Chỉ khi việc đánh giá đƣợc công khai, minh bạch

thông qua hiệu quả hoạt động của các NNCM mới các tác động thúc đẩy các NNCM

phát huy khả năng sáng tạo trong hoạt động KH&CN. Mặt khác, cũng cần công khai

với xã hội về hiệu quả hoạt động của các NNCM để xã hội đánh giá, giám sát, điều

này cũng phần nào khẳng định mức độ công khai, minh bạch trong hoạt động của các

tổ chức KH&CN của ĐHQGHN.

170

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Các chƣơng nội dung của luận án đƣợc trình bày ở trên đã bàn về “Chính sách

phát triển nhóm nghiên cứu mạnh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và

công nghệ trong các trường đại học (Nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà

Nội)” đến đây tác giả luận án sẽ nhìn lại một số điểm chính, cụ thể nhƣ sau:

- Về Thực trạng các NNCM và tác động của NNCM đến việc nâng cao hiệu quả

hoạt động KH&CN của ĐHQGHN.

Thứ nhất, các NNCM của ĐHQGHN hầu hết đƣợc hình thành xuất phát từ

chính nhu cầu của các nhà khoa học. Về cơ bản, các NNCM đã nhận đƣợc sự hỗ trợ

thông qua một số chính sách trực tiếp và gián tiếp từ ĐHQGHN và nhà nƣớc. Tuy

nhiên, các NNCM đƣợc thành lập không gắn liền với các chƣơng trình nghiên cứu cụ

thể. Thêm nữa, ĐHQGHN và các trƣờng thành viên cũng không tiến hành đánh giá

hiệu quả hoạt động của các NNCM và giải thể các NNCM. Do đó, việc thành lập

NNCM phần nào đó còn mang tính hình thức. Việc không tiến hành giải thể NNCM

cũng làm thui chột đi động lực phải xây dựng các nhiệm vụ nghiên cứu mới, cũng nhƣ

không đảm bảo tính mới trong khoa học, vì thế hiệu quả hoạt động KH&CN của các

NNCM về lâu dài sẽ không cao.

Thứ hai, các tiêu chí NNCM của ĐHQGHN đã hƣớng đến việc xem xét 3 nội

dung chính gồm: (1) Hƣớng nghiên cứu, tiêu chí này nhằm làm rõ thế mạnh của nhóm

trong lĩnh vực nghiên cứu mà nhóm theo đuổi; (2) Sự xuất sắc của các thành viên, tiêu

chí này nhằm đánh giá năng lực của các thành viên trong việc thực hiện các chƣơng

trình/dự án nghiên cứu, các kết quả nghiên cứu đƣợc công bố hoặc ứng dụng trong

thực tiễn; (3) Cơ sở vật chất - trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, tiêu chí này nhằm

đánh giá các điều kiện cơ bản để nhóm có thể triển khai các chƣơng trình, dự án

nghiên cứu. Tuy nhiên, các tiêu chí này còn định tính, khó đo lƣờng; có những tiêu chí

đặt ra quá cao không phù hợp với thực tế; các tiêu chí cũng không xem xét đến tình

đặc thù của từng lĩnh vực nghiên cứu. Đặc biệt, các tiêu chí còn thiếu thống nhất khi

áp dụng trong ĐHQGHN. Kết quả đánh giá của các nhà khoa học về khả năng đáp ứng

các tiêu chí quốc tế của các NNCM ở ĐHQGHN là không cao do đó các NNCM ở

ĐHQGHN vẫn còn một khoảng cách khá xa so với các NNC quốc tế.

171

Thứ ba, đặc trƣng chính trong các NNCM ở ĐHQGHN là các nhóm đƣợc tổ

chức theo triết lý vòng hạt nhân gồm 3 vòng tròn đồng tâm, với việc phân định vai trò

và tập hợp lực lƣợng theo 3 nhóm nhân lực trong nhóm. Khảo sát thực tế cho thấy, lĩnh

vực KHTN và KHXH&NV là hai lĩnh vực thế mạnh của các NNCM. Các nhà khoa

học làm việc trong các NNCM đều là các nhà khoa học có trình độ cao, năng lực

nghiên cứu của các thành viên NNCM cao hơn nhiều so với mặt bằng chung. Quy mô

NNCM hợp lý. Tuy nhiên, một điểm đáng lƣu ý là độ tuổi trung bình của trƣởng

NNCM là tƣơng đối cao, trình độ càng cao thì tuổi càng cao. Điều đó vừa là thuận lợi,

vừa là khó khăn cho các NNCM trong quá trình triển khai hoạt động KH&CN. Thuận

lợi ở chỗ, đối với trƣởng NNCM đã qua tuổi 60 (tức qua tuổi giữ chức vụ quản lý) họ

có nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu, đối với những trƣởng NNCM dƣới

60 tuổi (đều đang giữ chức vụ quản lý) họ có mối quan hệ rộng để kết nối và huy động

các đề tài, dự án nghiên cứu. Nhƣng khó khăn ở chỗ, những thủ lĩnh nhóm có độ tuổi

cao, sức yếu, khả năng, động lực đóng góp cho khoa học dần giảm sút, còn những

ngƣời trẻ, sung sức lại đang giữ những chức vụ quản lý quan trọng và do vậy họ không

có nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu.

Cuối cùng, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, việc không tìm kiếm đƣợc nguồn

kinh phí để đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu, thiếu cán bộ khoa học có tầm ảnh

hƣởng lớn, năng lực đội ngũ còn kém là những yếu tố ảnh hƣởng mạnh mẽ nhất đến sự

phát triển NNCM. Bên cạnh đó, các yếu tố thuộc về môi trƣờng, chính sách nhƣ: Kinh

phí nghiên cứu khoa học quá eo hẹp, thủ tục thanh toán còn phiều phức, cơ chế quản lý

NCKH còn mang nặng tính xin cho, điều kiện vật chất thiếu thốn, định mức chi cho

NCKH không phù hợp và thu nhập từ làm NCKH còn quá thấp cũng có ảnh hƣởng lớn

đến hiệu quả hoạt động và khả năng phát huy năng lực cũng nhƣ quá trình xây dựng và

phát triển NNCM.

- Về thực trạng và tác động của chính sách phát triển NNCM đối với việc nâng

cao hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN.

Thứ nhất, các chính sách của nhà nƣớc đã thành công trong việc khẳng định

việc tự chủ của tổ chức KH&CN. Tuy nhiên, bất cập cơ bản của chính sách là Nhà

nƣớc vẫn nắm quyền làm chủ các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nên sự tự chủ của

các tổ chức KH&CN vẫn còn giới hạn. Cụ thể là việc lựa chọn, đấu thầu, giao nhiệm

vụ nghiên cứu vẫn cơ bản thực hiện theo cơ chế hành chính, bao cấp dẫn đến hoạt

động KH&CN khó phát triển lành mạnh. Điểm cần nhấn mạnh thêm là chính sách của

Nhà nƣớc đã hƣớng đến việc đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm cho các NNCM thông

172

qua các dự án nghiên cứu dài hạn, quy mô lớn với thời gian và kinh phí không giới

hạn. Ngoài ra, chính sách của Nhà nƣớc cũng chú trọng việc đào tạo theo nhóm

chuyên gia, đào tạo theo hƣớng nghiên cứu, dự án nghiên cứu và đào tạo gắn liền với

thực tiễn tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nƣớc ngoài tại Việt Nam hoặc các cơ

quan, tổ chức doanh nghiệp ở nƣớc ngoài nhằm giải quyết những vấn đề nghiên cứu cụ

thể của các nhà khoa học. Một điểm đáng lƣu ý nữa là chính sách nhà nƣớc cũng chú

trọng đầu tƣ phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở

GDĐH, đồng thời, thúc đẩy phát triển các tổ chức KH&CN công lập, liên kết giữa các

tổ chức Viện - Trƣờng- Doanh nghiệp và thu hút chuyên gia nƣớc ngoài, ngƣời Việt

Nam ở nƣớc ngoài về Việt Nam hợp tác nghiên cứu thông qua các dự án đẩy mạnh đổi

mới sáng tạo trong nghiên cứu KH&CN, các dự án tăng cƣờng năng lực nghiên cứu.

Chính sách Nhà nƣớc cũng chú trọng đến chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực chất

lƣợng cao trong tƣơng lai bằng việc nâng chuẩn đối với ứng viên đào tạo tiến sĩ và các

nhà khoa học tham gia vào quá trình đào tạo tiến sĩ.

Thứ hai, các chính sách của ĐHQGHN đã cơ bản thành công trong việc đầu tƣ,

phát triển nguồn nhân lực KH&CN nói chung và NNCM nói riêng thông qua việc thu

hút, tuyển dụng đặc cách các nhà khoa học có trình tiến sĩ và đào tạo cán bộ khoa học

đạt chuẩn, với quy mô hợp lý và cơ cấu đồng bộ về chuyên môn, trình độ, có kế thừa và

phát triển. Thêm nữa, chính sách của ĐHQGHN cũng đã góp phần cải thiện môi trƣờng

và điều kiện nghiên cứu cho các nhà khoa học thông qua việc tái cơ cấu hoạt động

KH&CN. Điểm cần nói thêm là chính sách của ĐHQGHN cũng bƣớc đầu thành công

trong việc đa dạng hoá nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt động KH&CN. Tuy nhiên,

chính sách ĐHQGHN chƣa xác lập đƣợc lĩnh vực ƣu tiên để đầu tƣ có trọng tâm, trọng

điểm nhằm tối đa hóa lợi thế cạnh tranh của Trƣờng. Việc các NNCM đƣợc thành lập

không gắn liền với một chƣơng trình nghiên cứu cụ thể, các chính sách đƣợc thể chế hóa

nhằm ƣu đãi đối với các nhà khoa học chƣa đƣợc thực thi là những hạn chế lớn của

chính sách. Một điều cần phải khẳng định là sự xuất sắc của các NNCM ở ĐHQGHN

không thể đạt đƣợc bằng việc tự công nhận mà phải do cộng đồng khoa học và xã hội

quyết định. Đặc biệt, chính sách của ĐHQGHN thiếu các thiết chế để quản lý và điều

chỉnh, cơ cấu tổ chức còn có sự chồng chéo, cơ chế quản trị còn cồng kềnh, quan liêu, tƣ

duy kiểu hành chính bao cấp chƣa có sự thay đổi rõ ràng là những rào cản lớn đối với sự

phát triển các tổ chức KH&CN nói chung và các NNCM nói riêng. Bên cạnh đó, các

quy định công chức nhà nƣớc và khuôn khổ tài chính cứng nhắc là những rào cản lớn

173

đối với vấn đề thu hút các các giáo sƣ và nhà khoa học có năng lực trong và ngoài nƣớc

đến ĐHQGHN làm việc.

- Về giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển nhóm nghiên cứu

mạnh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN.

Thứ nhất, về mặt chiến lƣợc, ĐHQGHN cần có điều chỉnh theo hƣớng xác định

thế mạnh của mình trong tƣơng quan với các trƣờng đại học ở Việt Nam, khu vực và thế

giới để từ đó quyết định phƣơng án lựa chọn tối ƣu nhằm tạo ra sự bứt phá quan trọng

trong hoạt động KH&CN mà ĐHQGHN có thế mạnh. Đó sẽ là chiến lƣợc với những

mục tiêu chọn lọc, những chính sách đầu tƣ đầy đủ về nguồn lực để đảm bảo cho sự

phát triển tiềm lực KH&CN của những lĩnh vực ƣu tiên mà ĐHQGHN đã lựa chọn.

Thứ hai, về mặt chính sách, ĐHQGHN nên lƣu ý một số điểm cụ thể sau đây:

Xây dựng văn bản chính sách đồng bộ và nhất quán đối với việc thành lập các đơn vị

nghiên cứu nói chung, và NNCM nói riêng; hoàn thiện khung tiêu chí cho việc thành

lập và đánh giá NNCM; đầu tƣ cho NNCM là đầu tƣ thông qua các chƣơng trình

nhiệm vụ nghiên cứu, gắn với đào tạo nghiên cứu sinh; phát triển quỹ KH&CN bằng

việc hàng năm trích ít nhất 5% học phí bổ sung vào nguồn quỹ song song với việc đẩy

mạnh thu hút tài trợ và đầu tƣ từ bên ngoài; đầu tƣ xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về

kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và phần mềm quản lý hoạt động KH&CN

thống nhất; đầu tƣ cho công tác đào tạo kỹ năng hoạch định, quản lý và tổ chức thực

hiện chính sách song song với việc đào tạo theo NNC.

Thứ ba, về mặt thiết chế quản lý, ĐHQGHN cần cấu trúc lại hệ thống các đơn

vị nghiên cứu (NNCM, TTNC, Viện NC…) hiện nay theo chính sách mở, cấu trúc

mềm, tức hoạt động gắn liền với các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể theo

từng giai đoạn (3-5 năm) tùy vào quy mô và lĩnh vực nghiên cứu của từng đơn vị,

nguồn nhân lực khoa học chất lƣợng cao cần đƣợc tập hợp theo cách mà Uber và Grab

đang làm để triển khai các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu. Việc đánh giá NNCM

cần có quy trình, quy định đánh giá minh bạch, rõ ràng thông qua hệ thống tiêu chí phù

hợp với thông lệ quốc tế. Việc đánh giá nghiêm túc hiệu quả hoạt động KH&CN của

các NNCM cũng buộc các NNCM phải luôn đổi mới, thúc đẩy sự ra đời của các

chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu mới. Chỉ khi việc đánh giá đƣợc công khai, minh

bạch thông qua hiệu quả hoạt động của các NNCM mới có tác động thúc đẩy các

NNCM phát huy khả năng sáng tạo trong hoạt động KH&CN. Mặt khác, ĐHQGHN

cũng cần công khai với xã hội về hiệu quả hoạt động của các NNCM để xã hội đánh

174

giá, giám sát, điều này cũng phần nào khẳng định mức độ công khai, minh bạch trong

hoạt động của các tổ chức KH&CN của ĐHQGHN.

2. Khuyến nghị

Thứ nhất, kết quả nghiên cứu ở trên chỉ ra rằng: việc coi NNCM là mục tiêu sẽ

khiến cho NNCM phần nhiều mang tính hình thức, giống nhƣ vật trang trí của trƣờng

đại học hơn là thực chất. Có thể nói, đây là việc lấy phƣơng tiện làm mục tiêu. Điều

này dẫn đến sự ra đời của nhiều quy định chỉ mang tính hình thức, không phù hợp với

thực tiễn. Từ những căn cứ này, khuyến nghị của tác giả luận án là: ĐHQGHN cần bắt

đầu bằng sự thay đổi quan điểm khi xây dựng và phát triển NNCM. Theo đó, NNCM

phải đƣợc coi là phƣơng tiện để thực hiện chiến lƣợc nâng cao chất lƣợng và hiệu quả

hoạt động KH&CN của ĐHQGHN.

Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận án đã chỉ ra rằng: Chính sách phát triển

NNCM của ĐHQGHN đƣợc xây dựng với sự can dự hạn chế của các nhà khoa học.

Các nhà khoa học là những ngƣời chịu tác động trực tiếp bởi chính sách nhƣng chỉ

đƣợc phép có ý kiến sau hoặc khi có vấn đề phát sinh. Do đó, khuyến nghị của tác giả

là ĐHQGHN cần điều chỉnh và đổi mới quy trình hoạch định chính sách phát triển

KH&CN. Trong đó, việc hoạch định chính sách cần có sự tham gia của tất cả các bên

liên quan, từ cấp ĐHQGHN đến các đơn vị thành viên, thậm chí có thể cả giới doanh

nghiệp. Bên cạnh sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý thì các nhà khoa học là

những ngƣời trực tiếp chịu tác động bởi chính sách phải đƣợc tham gia. Đôi khi, các

nhà khoa học hoặc các đơn vị thành viên hay thậm chí là các NNCM/trung tâm nghiên

cứu/viện nghiên cứu có thể vạch ra một chiến lƣợc trình ĐHQGHN. ĐHQGHN cũng

cần xây dựng diễn đàn khoa học đối thoại với Giám đốc, trong đó, các nhà khoa học

đặc biệt các trƣởng NNCM có thể trao đổi trực tiếp với Giám đốc về những nhiệm vụ

nghiên cứu có quy mô lớn

Thứ ba, kết quả nghiên cứu của luận án cũng chỉ ra rằng: Các chính sách của

ĐHQGHN khi đƣợc triển khai xuống các trƣờng/đơn vị thành viên nhiều khi không

đƣợc thực hiện bởi ĐHQGHN không phải lúc nào cũng cấp kinh phí để triển khai mà

các đơn vị phải tự cân đối các nguồn thu để thực hiện chính sách. Do đó, các đơn vị

thành viên của ĐHQGHN thƣờng căn cứ vào nguồn lực của mình để cân đối cũng nhƣ

cân nhắc để thực hiện toàn phần, hay một phần của của chính sách hoặc không thực hiện

do không đủ nguồn lực. Hơn nữa, nội dung của chính sách vẫn còn nhiều điểm hạn chế

nhƣ chính sách không quy định NNCM phải báo cáo thƣờng niên, chính sách cũng thiếu

175

sự phân định rõ ràng giữa NNCM, TTNC, Viện NC, PTNTĐ, cũng nhƣ đối tƣợng đƣợc

thụ hƣởng chính sách và còn sự chồng chéo giữa các chính sách. Đặc biệt, việc thực thi

chính sách cũng còn nhiều điểm bất cập nhƣ việc xét duyệt và quản lý dự án đầu tƣ thiếu

chặt chẽ dẫn đến những lãng phí nguồn lực tài chính của Nhà nƣớc. Thực tế còn có hiện

tƣợng mƣợn tên các nhà khoa học có chức danh, học vị, uy tín khoa học nhằm thuyết

minh hồ sơ để đƣợc công nhận là NNCM hay còn có tiêu cực phí trong xét duyệt,

nghiệm thu đề tài… Ngoài ra, cũng phải nói thêm là, việc quản lý NNCM theo kiểu

hành chính là không phù hợp, việc coi chức vụ trƣởng NNC giống nhƣ tƣớc quan và cấp

kinh phí quản lý nhƣ những chức vụ hành chính sẽ không đem lại hiệu quả. Do đó, tác

giả luận án khuyến nghị ĐHQGHN cần xây dựng kế hoạch rà soát, đánh giá những

chính sách đã đƣợc triển khai trong thời gian qua một cách tổng thể, với quy mô lớn hơn

để có những điều chỉnh phù hợp. Đặc biệt, ĐHQGHN cần đánh giá và cân đối các

nguồn lực hiện có và khả năng huy động các nguồn lực khác để triển khai chính sách

trong thực tế; tránh trƣờng hợp chính sách đƣa ra rất hay, rất hoành tráng nhƣng khi

triển khai trong thực tế thì thiếu nguồn lực hay năng lực triển khai chính sách yếu dẫn

đến chỉ triển khai đƣợc một phần hoặc không triển khai gây ảnh hƣởng tiêu cực đến

động lực làm việc của các nhà khoa học, các NNC cũng nhƣ làm giảm uy tín của các

cấp lãnh đạo của ĐHQGHN. Thêm nữa, ĐHQGHN cần thực hiện đánh giá sâu hơn về

hiệu quả hoạt động của các NNCM hiện nay (sau 5 năm được thành lập) nhằm phát

hiện những vấn đề đặt ra và dự báo xu hƣớng phát triển.

Cuối cùng, dƣới một góc nhìn nhất định, những kết quả nghiên cứu trên đây có

thể là khung tham chiếu hữu ích cho các cơ quan hoạch định chính sách, trƣờng đại

học, đặc biệt là ĐHQGHN tham khảo, vận dụng trong việc bổ sung, hoàn thiện chính

sách phát triển NNCM nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN. Tuy nhiên, việc

vận dụng các kết quả nghiên cứu trên đây vào thực tiễn còn phụ thuộc vào bối cảnh cụ

thể của từng cơ sở đào tạo, từng trƣờng đại học.

176

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Đào Minh Quân (2014), “Ứng dụng mô hình 7S của Mackinsey trong xây dựng

nhóm nghiên cứu mạnh ở các trƣờng đại học”. Tạp chí KH&CN Việt Nam (14),

tr.25-28.

2. Đào Minh Quân (2016), “Những rào cản trong chuyển giao công nghệ giữa doanh

nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam”. Sách chuyên khảo “Tổ chức và hoạt động

chuyển giao công nghệ: Kinh nghiệm của Australia và đề xuất cho Việt Nam”, NXB

Thế giới, tr.432-443.

3. Đào Minh Quân (2016), “Thực trạng và một số biện pháp xây dựng, phát triển nhóm

nghiên cứu mạnh ở Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia

Hà Nội”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san Nghiên cứu chính

sách và Quản lý, 32(4), tr.25-40.

4. Đào Minh Quân (2018), “Đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển nhóm nghiên

cứu mạnh ở ĐHQGHN”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san

Nghiên cứu chính sách và Quản lý, 34(3), tr.26-40.

5. Đào Minh Quân (2019), “Chính sách phát triển nhóm nghiên cứu mạnh ở Đại học

Quốc gia Hà Nội: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia

Hà Nội, Chuyên san Nghiên cứu chính sách và Quản lý, 35(1), tr.79-98.

6. Đào Minh Quân, Nguyễn Đình Đức (2019), “Nhận diện vai trò của nhóm nghiên

cứu mạnh trong các trƣờng đại học dựa trên tiếp cận các mối quan hệ của nhóm

nghiên cứu”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 61(10), tr.19-23.

177

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam đối với trí thức, Báo Nhân dân, số

1269, ngày 28/9/1957

2. ĐHQGHN (2014), Báo cáo tổng kết: Xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu

mạnh ở ĐHQGHN, Ban KH&CN.

3. ĐHQGHN (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm học 2016-2016, triển khai kế

hoạch nhiệm vụ năm 2017-2018.

4. Vũ Cao Đàm (1999), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản

Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.

5. Vũ Cao Đàm (2009), Giáo trình Khoa học chính sách, Nhà xuất bản ĐHQGHN.

6. Vũ Cao Đàm (2016), Kỹ năng đánh giá chính sách, Nhà xuất bản thế giới.

7. Vũ Cao Đàm (2017), Đánh giá kết quả và đề xuất giải pháp tăng cƣờng triển khai

thực hiện Nghị định 115/2015/NQ-CP về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của

các tổ chức KH&CN công lập và Nghị định 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp

KH&CN.

8. Nguyễn Đình Đức (2018), Cần đầu tư thỏa đáng cho nghiên cứu sinh, Bản tin

ĐHQGHN (328), tr54-57.

9. Nguyễn Tiến Dũng (2011), Nghiên cứu, phân tích những yếu tố tiềm lực (nhân

lực, cơ sở vật chất), điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của hoạt động

nghiên cứu trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.

10. Hoàng Thị Hảo (2017), Hoàn thiện chính sách giảm nghèo ở tỉnh Quảng Ninh,

Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý Kinh tế.

11. Trƣơng Quang Học (2014), Xây dựng Trung tâm nghiên cứu xuất sắc: kinh

nghiệm quốc tế và thực tế ở Việt Nam, Nhà xuất bản ĐHQGHN (280), tr.33-37.

12. ĐHQGHN (2014), Hợp tác và trao quyền trong giáo dục đại học, Bản tin

ĐHQGHN (283).

13. Phạm Thành Huy (2009),“Mô hình các Nhóm nghiên cứu mạnh trên thế giới,

định nghĩa và phân tích”, Báo cáo hội thảo Nghiên cứu xây dựng và phát triển

các nhóm nghiên cứu mạnh tại ĐHQG TP.HCM, tr. 57-74.

14. Ngô Quang Hƣng (2015), Nghiên cứu và phát triển trong đại học, Bản tin

ĐHQGHN (296).

178

15. TrầnVăn Kham (2004), Hợp tác nghiên cứu trong cộng đồng khoa học hiện nay,

Luận văn khoa học ngành Xã hội học.

16. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (2004), Khuyến nghị tiêu chuẩn

thực tiễn cho điều tra nghiên cứu và phát triển, Tài liệu hƣớng dẫn Frascati 2002,

Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.

17. ĐHQGHN (2014), “Mô hình xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh trên

cơ sở hợp tác quốc tế”, Kỷ yếu Hội nghị tổng kết Xây dựng và phát triển NNCM

ở ĐHQGHN.

18. Phan Kim Ngọc (2010), “Vài chia sẻ về xây dựng NNC khoa học”, Tạp chí hoạt

động khoa học (606).

19. Nguyễn Thị Thu Oanh (2009), “Xây dựng quy trình, phƣơng pháp và tiêu chí lựa

chọn nhóm nghiên cứu mạnh”, Báo cáo hội thảo Nghiên cứu xây dựng và phát

triển các nhóm nghiên cứu mạnh tại ĐHQG TP.HCM, tr. 107-112.

20. ĐHQGHN (2016), PTN trọng điểm: giải pháp để thu hút và trọng dụng nhà khoa

học trình độ cao, Bản tin ĐHQGHN (303).

21. Đào Minh Quân (2009), Xây dựng nhóm nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả

gắn kết giữa nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học (Nghiên cứu trường

hợp trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN), Luận văn thạc sĩ ngành Quản lý

KH&CN.

22. ĐHQGHN (2015), Quyết định ban hành chỉ tiêu thực hiện kế hoạch nhiệm vụ

năm 2015 đối với các đơn vị đào tạo và nghiên cứu của ĐHQGHN

23. Rosa Luxemburg Stiftung Vietnam, Trƣờng ĐHKHXH&NV (2011), Kỹ năng

phân tích và hoạch định chính sách, Nhà xuất bản Thế giới.

24. Phạm Xuân Thảo (2009), “Đề xuất quy trình xây dựng NNCM và phƣơng án

nuôi dƣỡng, phát triển các NNCM phù hợp trong điều kiện Việt Nam”, Báo cáo

hội thảo Nghiên cứu xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh tại

ĐHQG TP.HCM, tr. 113-125.

25. Đinh Văn Toàn (2016), Hợp tác đại học - doanh nghiệp trên thế giới và một số

gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, chuyên san Kinh tế và Kinh

doanh, 32(4), tr.69-80.

26. Ban Chấp hành Trung ƣơng (2012), Nghị quyết Số 20-NQ/TW, ngày 01/11/2012,

Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoa XI về phát triển

khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong

điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

179

27. Bộ Khoa học và Công nghệ (2008), Quyết định Số 12/2008/QĐ-BKHCN, ngày

4/9/2008, Ban hành một số bảng phân loại thống kê khoa học và công nghệ.

28. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư số 37/2014/TT-BKHCN, ngày

12/12/2014, Quy định quản lý đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ phát triển Khoa

học và Công nghệ Quốc gia tài trợ.

29. ĐHQGHN (2013), Văn bản số 1409/HD-KHCN, ngày 8/5/2013, Hướng dẫn xây

dựng và phát triển các chương trình nghiên cứu trọng điểm và nhóm nghiên cứu

mạnh ở ĐHQGHN.

30. Thủ tƣớng chính phủ (2012), Quyết định Số 418/QĐ-TTg, ngày 11/4/2012, Phê

duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020.

Tiếng Anh

31. Joseph S. Fruton (1990), “Constracts in scientific Style: Research Groups”,The

Chemical and BiochemocalResearchs, Diana Publishes.

32. D. deB. Beaver, R. Rosen (1979), Studies in Scientific Collaboration Part III.

Professionalization and The Natural History of Modern Scientific Co-authorship.

Scientometrics, 1(3), pp.231-245.

33. Fabiola Bertolotti, Elisa Mattarelli, Matteo Vignoli, Diego Maria Macrì (2015),

Exploring the relationship between multiple team membership and team

performance: The role of social networks and collaborative technology.

Research Policy, 44, pp.911-924.

34. David L. Morgan - Porland State University (1997), Focus Groups as Qualitative

Research, Second Edition,Sage Publications Inc.

35. Sooho Lee và Barry Bozeman (2005), The Impact of Research Collaboration on

Scientific Productivity. Social Studies of Science, 35(5), pp.673-702.

36. Sharon Mickan, Sylvia Rodger (2000), Characteristics of effective teams: a

literature review. Australian Health Review, 23(3), pp.201-208.

37. Nasim Nobahar, Masoomeh Nobahar, Mohsen Hamidi (2014), Investigation of

Research Barriers and Challenges in University from the Perspective of Faculty

Members of Kermanshah City. International Journal of Social Sciences (IJSS),

4(4), pp.15-21.

38. Neshaneh Pakdaman, Mohammad Ali Ahmadi, Rakhshaneh Pakdaman, Narges

Malih (2016), Barriers to research activities of faculty members in Islamic Azad

University. Social Determinants of Health, 2(2), pp.76-83.

180

39. Ha Nguyen Thi Thu, Duc Bui Minh, Duc Nguyen Dinh (2019), Major factors

impacting the operational efficiency of scientific working groups. VNU Journal

of Science: Education Research, 35(1), pp.54-63

40. Valerie I. Sessa, Manuel London, Taylor & Francis Group (2008), Handbook:

Work Group Learning.

Website

41. Các chƣơng trình đào tạo thí điểm - “đặc sản” trong đào tạo của ĐHQGHN, Truy

cập ngày từ 15/6/2018 https://vnu.edu.vn/ttsk/?C2492/N16145/Cac-chuong-trinh-

dao-tao-thi-diem-%E2%80%93-%E2%80%9Cdac-san%E2%80%9D-trong-dao-

tao-cua-DHQGHN.htm

42. Chiến lƣợc phát triển ĐHQGHN đến năm 2020 tầm nhìn 2030, Truy cập ngày

15/02/2014, từ địa chỉ http://www.vnu.edu.vn/home/?C1918.

43. Cổng thông tin tuyển dụng của ĐHQGHN, truy cập ngày 28/7/2018, từ địa chỉ

http://tuyendung.vnu.edu.vn/

44. ĐHQGHN ký 6 hợp đồng chuyển giao công nghệ sang Lào, truy cập ngày

11/9/2018, từ địa chỉ http://vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/N22754/[Video]%C4%90

HQGHN-ky-6-hop-%C4%91 ong-chuyen-giao-cong-nghe-sang-Lao.html

45. Đầu tƣ xây dựng hệ thống thƣ viện đại học làm nền tảng cho một xã hội thông

minh, truy cập ngày 26/11/2018, từ địa chỉ http://vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/

N22886/dau-tu-xay-dung-he-thong-thu-vien-dai-hoc-lam-nen-tang-cho-mot-xa-

hoi-thong-minh.htm

46. Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ, truy

cập ngày 25/7/2018, từ địa chỉ http://first-most.vn/vi-VN/gioi-thieu/gioi-thieu-

chung/day-manh-doi-moi-sang-tao-thong-qua-nghien-cuu-khoa-hoc-va-cong-

nghe_t114c17n40

47. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khoá VIII) về

định hƣớng chiến lƣợc phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp

hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000,

http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-

trung-uong/khoa-viii/nghi-quyet-hoi-nghi-lan-thu-hai-ban-chap-hanh-trung-

uong-dang-khoa-viii-ve-dinh-huong-chien-luoc-phat-trien-giao-duc-666

181

48. Nguyễn Đình Đức (2014), Phát triển nhóm nghiên cứu trong trường đại học - Xu

thế tất yếu, truy cập ngày 22/6/2015, từ địa chỉ http://vov.vn/xa-hoi/phat-trien-

nhom-nghien-cuu-trong-truong-dh-xu-the-tat-yeu-325151.vov.

49. Nguyễn Hữu Đức (2014), NNCM vừa là phương thức vừa là mục tiêu để phát

triển đại học nghiên cứu, truy cập ngày 15/02/2014, từ địa chỉ

http://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C151/N16301/Nhom-nghien-cuu-manh-vua-la-

phuong-thuc-vua-la-muc-tieu-de-phat-trien-dH-nghien-cuu.

50. Giới thiệu chung về công tác cán bộ của ĐHQGHN, truy cập ngày 12/01/2019,

từ địa chỉ http://www.vnu.edu.vn/home/?C2207

51. Nguyễn Hồ Phi Hà (2018), Thực trạng đầu tư cho phát triển KH&CN từ NSNN,

truy cập ngày 18/03/2018, từ địa chỉ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-

doi/trao-doi-binh-luan/thuc-trang-dau-tu-cho-phat-trien-khoa-hoc-va-cong-nghe-

tu-ngan-sach-nha-nuoc-131338.html

52. Hợp tác và phát triển, truy cập ngày 11/12/2018, từ địa chỉ

http://www.vnu.edu.vn/home/?C2031

53. Trƣơng Quang Học (2008), Nhóm nghiên cứu - yếu tố quyết định tới chất lượng

của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học. Truy cập ngày

14/08/2013, từ địa chỉ http://dt.ussh.edu.vn/noi-dung-khac/nhom-nghien-cuu-

khoa-hoc-yeu-to-quyet-dinh-toi-chat-luong-cua-hoat-dong-khoa-hoc-cong-nghe-

va-dao-tao-sau-dai-hoc

54. Trƣơng Quang Học (2008), Kinh nghiệm xây dựng và phát triển NNC. Truy cập

ngày 12/4/2014, từ địa chỉ http://www.vnu.edu.vn/210/210p19-21.pdf.

55. Trƣơng Quang Học (2014), Xây dựng NNC: Kinh nghiệm quốc tế, Truy cập ngày

30/5/2014, từ địa chỉ http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/xay-dung-nhom-

nghien-cuu-kinh-nghiem-quoc-te-7532.

56. Kết quả điều tra NC&TK năm 2014 và điều tra doanh nghiệp năm 2014, truy cập

ngày 25/10/2017, từ địa chỉ http://www.vista.gov.vn/Default.aspx?

tabid=83&IntroId=218&temidclicked =218& language=vi-VN.

57. Lễ ký thoả thuận tài trợ chuyên gia giỏi nƣớc ngoài về khoa học, công nghệ và

đổi mới sáng tạo của dự án first - Vòng III, truy cập ngày 13/11/2018, từ địa chỉ

http://first-most.vn/vi-VN/tin-tuc/tin-hoat-dong-du-an/le-ky-thoa-thuan-tai-tro-

chuyen-gia-gioi-nuoc-ngoai-ve-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-vong-

iii_t114c23n462

182

58. NAFOSTED đầu tƣ cho NNCM, truy cập ngày 24/08/2017, từ địa chỉ

http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/NAFOSTED-dau-tu-cho-nhom-nghien-

cuu-manh--10876.

59. Trần Đình Phong (2016), Tài trợ nghiên cứu cơ bản theo mô hình 3 mức, truy

cập ngày 15/01/2017, từ địa chỉ http:/tiasang.com.vn/-dien-dan/Tai-tro-nghien -

cuu-co-ban-theo-mo-hinh-ba-muc-10333/

60. Nguyễn Anh Phƣơng (2015), Chính sách, chính sách công và khoa học chính

sách, truy cập ngày 29/02/2016, từ địa chỉ http://chinhsach.vn/chinh-sach-chinh-

sach-cong-va-khoa-hoc-chinh-sach/

61. Tài trợ cho các đề tài nghiên cứu Khoa học Xã hội, truy cập ngày 16/11/2016, từ

địa chỉ http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/Tai-tro-cho-cac-de-tai-nghien-

cuu-Khoa-hoc-Xa-hoi-10032

62. Ngô Đức Thế (2013), Đầu tư cho nhóm nghiên cứu khởi phát: Chìa khóa để thu

hút tài năng và cải thiện hiệu suất nghiên cứu khoa học, truy cập ngày

25/01/2014, từ địa chỉ http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/dau-tu-cho-

nhom-nghien-cuu-khoi-phat-6434/.

63. Thomas J. Vallely - Ben Wilkinson, Giáo dục bậc đại học ở Việt Nam: Khủng

hoảng và phản ứng, bài viết đăng tại website: http://www.hks.harvard.edu/

innovations/asia/Documents/HigherEducationOverview112008.pdf

64. Trƣờng Đại học Phenikaa đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, truy cập

ngày 12/3/2019 từ địa chỉ http://phenikaa.com/vi/tin-t%E1%BB%A9c/tr%

C6%B0%E1%BB%9Dng-%C4%91%E1%BA%A1i-h%E1%BB%8Dc-

phenikaa-%C4%91%E1%BA%A9y-m%E1%BA%A1nh-ho%E1%BA%A1t-

%C4%91%E1%BB%99ng-nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u-khoa-

h%E1%BB%8Dc

65. Trƣờng Đại học PHENIKAA ra mắt các nhóm nghiên cứu mạnh, truy cập ngày

18/5/2019, từ địa chỉ http://phena.phenikaa-uni.edu.vn/chitiet/tin-tuc_2019_2_22

_7_56_40/truong-dai-hoc-phenikaa-ra-mat-cac-nhom-nghien-cuu-manh-2019-5-

16-11-45-449

66. Phạm Hùng Việt (2015), Năng lực nghiên cứu là yếu tố quan trọng, truy cập

ngày 20/3/2016, từ địa chỉ http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/nang-luc-

nghien-cuu-la-yeu-to-quan-trong-8761, .

183

67. Phạm Hùng Việt (2015), Xây dựng và phát triển NNCM trong trường đại học,

truy cập ngày 20/3/2016, từ địa chỉ http://tiasang.com.vn/Default.aspx ?tabid

=110&CategoryID=36& News=8833, .

68. Xếp hạng đại học châu Á 2019: ĐHQGHN duy trì vị trí 124, truy cập ngày

14/12/2018, từ địa chỉ https://vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/N23042/dai-hoc-Quoc-gia-

Ha-Noi-vuon-len-vi-tri-thu-124-trong-bang-xep-hang-QS-Chau-a-nam-2019.htm

69. Xếp hạng ĐHQGHN trong TOP 1000 trƣờng đại học thế giới, truy cập ngày

18/6/2018, từ địa chỉ http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Viet-Nam-co-2-truong-

trong-top-1000-dai-hoc-the-gioi-post186916.gd.

70. Zhigang Hu, Chaomei Chen, và Zeyuan Liu (2012), How are Collaboration and

Productivity Correlated at Various Career Stages of Scientists?, from

https://journals.plos.org/plosone/article?id=10.1371/ journal.pone.0049176.

71. Max Planck Research group, truy cập từ https://www.mpl.mpg.de/en/leuchs/

publications.html

72. Nano Research Group, School of Materials and Engineering, Georgia Institute of

Technology, http://www.nanoscience.gatech.edu/group/Current%20 Members/

Group%20Leader/Zhong%20Lin%20Wang.php

73. Scientific Working Group, Truy cập ngày 21/3/2014 từ địa chỉ

https://en.wikipedia.org/wiki/ Scientific_Working_Group

74. RMIT University, QS Top Universities , truy cập ngày 05/9/2018 từ địa chỉ

http://www.topuniversities.com /universities/rmit-university

75. RMIT policy: Research Structures Policy; Establishment of Research Groups

Procedure; Establishment of Research Centres Procedure; Establishment of

Research Institutes Procedure, truy cập 05/03/2018 từ địa chỉ

https://www.rmit.edu.au

76. The Abruña group, Department of Chemistry and Chemical Biology, Cornell

University, United State, truy cập từ http://abruna.chem.cornell.edu/

77. The Group Semiconductor Components, University of Twente, truy cập từ

https://www.utwente.nl/ewi/

184

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1 BẢNG TỔNG HỢP NHÂN LỰC CỦA CÁC NNCM Ở ĐHQGHN

TT

Tên nhóm

Trưởng nhóm

ThS CN NCS HVCH SV Tổng

Năm được công nhận

GS.TS/ GS.TSKH

PGS. TS

TS/ TSKH

1. Topo đại số

2014

GS.TSKH Nguyễn Hữu Việt Hưng

1

1

2

1

2

7

2014

PGS.TS PGS.TS Phạm Chí Vĩnh

6

2.

2

3

4

14

Sóng trong các môi trường đàn hồi

2014

GS.TSKH Lưu Văn Bôi

3.

3

6

2

2

1

20

6

Công nghệ hóa học vật liệu và năng lượng sạch

2014

GS.TS Nguyễn Quang Báu

4.

2

3

16

1

25

3

Phương pháp lý thuyết trường lượng tử

5.

1

5

30

1

2014

GS.TS Phạm Hùng Việt

7

5

4

7

Khoa học phân tích trong môi trường Y sinh, thực phẩm và ứng dụng

6.

2014

GS.TS Phan Tuấn Nghĩa

6

11

4

2

24

1

Công nghệ Enzym và Protein

7.

2014

GS.TS Bạch Thành Công

7

8

3

3

1

23

1

Nhóm Khoa Học Vật liệu Tính toán

8. Tâm lý học lâm sàng

2014

PGS.TS Đặng Hoàng Minh

2

5

3

1

11

9.

2014

PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí

4

8

2

17

3

Nghiên cứu về Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư pháp

TT

Tên nhóm

Trưởng nhóm

ThS CN NCS HVCH SV Tổng

Năm được công nhận

GS.TS/ GS.TSKH

PGS. TS

TS/ TSKH

2014

GS.TS Nguyễn Văn Kim

10.

1

1

3

3

4

12

Nghiên cứu Lịch sử và Quan hệ Thương mại Châu Á

2014

PGS.TS Nguyễn Thị Kim Hoa

11.

6

6

Công tác xã hội và an sinh xã hội

2014

GS.TS Nguyễn Năng Định

12.

1

3

5

2

2

13

Vật lý và công nghệ tổ hợp nano hữu cơ

2014

GS.TS Nguyễn Hữu Đức

13.

1

2

1

2

4

10

Vật liệu và linh kiện Micro-nano

14.

2

2014

PGS.TS Nguyễn Đức Thành

23

4

3

2

3

37

Lý thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập kinh tế của Việt Nam

15.

2014

GS.TS Nguyễn Đăng Dung

4

3

6

2

15

Nghiên cứu về Luật Hiến pháp - Hành chính

16.

2014

GS.TS Nguyễn Quang Ngọc

1

1

1

4

7

Nghiên cứu khu vực học

17.

2015

1

5

5

4

3

2

20

Nghiên cứu chính sách và quản lý

PGS.TS Vũ Cao Đàm, PGS.TS Đào Thanh Trường

18.

2015

GS.TS Đinh Văn Đức

3

2

1

6

Ngôn ngữ học ứng dụng và ngôn ngữ học đối chiếu

TT

Tên nhóm

Trưởng nhóm

ThS CN NCS HVCH SV Tổng

Năm được công nhận

GS.TS/ GS.TSKH

PGS. TS

TS/ TSKH

2015

GS.TS Nguyễn Văn Nội

19.

1

7

3

1

12

Vật liệu tiên tiến trong bảo vệ môi trường và phát triển xanh

2015

PGS. TS Nguyễn Hồng Sơn

20.

3

4

3

10

Hội nhập kinh tế quốc tế

2015

PGS.TS. Phan Chí Anh

1

2

21.

4

1

4

12

Nghiên cứu về năng suất chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam

22.

2016

GS.TS Phan Văn Tân

3

2

9

1

4

19

Mô hình hóa khí hậu khu vực và biến đổi khí hậu

23. Tôn giáo và pháp quyền

2016

GS.TS Đỗ Quang Hưng

2

4

6

4

16

24.

2017

GS.TS Nguyễn Bá Diến

2

1

4

1

8

Pháp luật quốc tế phục vụ chiến lược và bảo vệ chủ quyền và Hội nhập quốc tế của Việt Nam

25.

1

2017

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

11

2

10

3

12

39

Vật liệu và kết cấu tiên tiến

26.

2017

PGS.TS Nguyễn Hùng Huy

1

1

3

5

Hóa học phức chất và hóa sinh vô cơ

27.

2017

PGS.TS Trần Thị Thanh Tú

1

2

5

3

11

Nghiên cứu về quản trị công ty trong ngân hàng

28.

2018

GS.TS Hoàng Bá Thịnh

1

2

6

2

11

Nghiên cứu về giới, dân số và môi trường

PHỤ LỤC 2

DANH SÁCH NNC PHÂN THEO LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU

TẠI CÁC ĐƠN VỊ Ở ĐHQGHN - NĂM 2014

TT

Đơn vị

Tổng số NNC

Số nhóm NCCB

Số nhóm NCƢD

Số nhóm NC liên ngành

Số nhóm NCCB định hƣớng ƢD 42

1.

Trường ĐH Khoa học Tự nhiên

52

6

3

17

2.

10

3

2

5

Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn

3.

Trường ĐH Ngoại ngữ

13

0

7

5

4.

Trường ĐH Công nghệ

4

0

0

4

5.

Trường ĐH Kinh tế

3

2

0

0

6.

Trường ĐH Giáo dục

3

0

2

1

7.

Khoa Luật

6

0 0

0 0

6 0

8.

Khoa Sau Đại học

0

0

0

0

9.

Khoa Quốc tế

0

0

0

0

Khoa Quản trị Kinh doanh

10.

0

11.

Khoa Y Dược

2

0

2

0

12.

Viện Công nghệ Thông tin

1

0

0

1

13.

0

0

0

0

0 1 4 2 2 0 0 0 0 1 0 0

Viện Đảm bảo Chất lượng giáo dục

14.

0

0

1

1

0

Viện Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học

15.

0

0

3

3

3

Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển

16.

Viện Tin học Pháp ngữ

3

2

0

0

17.

0

1

1

3

3 3

Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường

18.

0

0

2

2

0

Trung tâm Dự báo phát triển nguồn nhân lực

19.

Trung tâm Nghiên cứu Đô thị

0

0

0

0

20.

0

0

1

1

0 0

Trung tâm Giáo dục Quốc phòng- An ninh

Cộng

107

13

72

17

36

(Nguồn: Ban KH&CN - ĐHQGHN)

PHỤ LỤC 3

TỔNG HỢP MỘT SỐ KẾT QUẢ HỢP TÁC TRONG NƢỚC

VÀ NƢỚC NGOÀI CỦA ĐHQGHN

Ký kết hợp tác

Tập đoàn Shimadzu

ĐHQGHN (Trung tâm Công nghệ môi trường và phát triển bền vững)

Ngân hàng thế giới

-

ĐHQGHN (Khoa Hóa học Trường ĐHKHXTN)

ĐHQGHN

Khu Công nghệ cao Hòa Lạc

Công ty CP Tư vấn CN, Thiết bị và Kiểm định xây dựng (CONINCO)

ĐHQGHN (Trường Đại học Công nghệ; Trường Đại học Việt Nhật)

ĐHQGHN

Tỉnh Ninh Bình

thông

ĐHQGHN (Đại học Công nghệ)

Tập đoàn Viễn Quân đội Viettel

Kết quả - Xây dựng PTN phục vụ đào tạo và triển khai các dự án nghiên cứu về môi trường, đồng thời quảng bá các thiết bị phân tích của công ty - Hỗ trợ xây dựng dự án khoa học sự sống với kinh phí 100 triệu Yên (2003) Mua sắm một số trang thiết bị hiện đại (LCMS-2010, LC-10Avp system, Prep- LC 8A, UV 2450, ASS 6800, GC 2010) phục vụ cho hoạt động đào tạo và nghiên cứu Chia sẻ và sử dụng cơ sở vật chất, kỹ thuật, dịch vụ; Đào tạo, bồi dưỡng, cung cấp nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao; Hỗ trợ khởi nghiệp và xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp; Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Chuyển giao công nghệ; Ứng dụng và sản xuất sản phẩm công nghệ cao. - Đào tạo thạc sĩ ngành Kỹ thuật hạ tầng - Thiết lập các chương trình nghiên cứu chung, xây dựng các phòng/trung tâm nghiên cứu - Tạo cơ hội thực tập và việc làm cho sinh viên - Hợp tác trên các phương diện về du lịch, nông nghiệp, văn hóa, giáo dục dựa trên nhu cầu của tình và thế mạnh về đào tạo, nghiên cứu, chuyên giao công nghệ của ĐHQGHN - Triển khai đề án nghiên cứu về Triều Đinh và không gian văn hóa Trường Yên - Thành lập Viện công nghệ Hàng không vũ trụ; Xây dựng CTĐT ngành Công nghệ hàng không vũ trụ - Phối hợp NC về công nghệ xử lý ảnh phục vụ trinh sát UAV, trinh sát vệ tinh, công nghệ truyền tin UAV, … (từ 2010 đến nay)

Ký kết hợp tác

ĐHQGHN

Tỉnh Hà Giang

Samsung

ĐHQGHN (Đại học Công nghệ)

Công ty Electronics

ĐHQGHN

Tỉnh Nghệ An

ĐHQGHN

Tập đoàn Vingroup

ĐHQGHN

thống Phát

Kết quả Triển khai đề tài cấp nhà nước thuộc chương trình Tây Bắc, Dự án Phát triển xanh, nghiên cứu ứng dụng mô hình quản trị hướng dịch vụ; Tư vấn, hoàn thiện văn bản chính sách và tư vấy xây dựng chiến lược phát triển cho tỉnh (2014) Hợp tá tổ chức chương trình tài năng Samsung, trong đó Samsung hỗ trợ xây dựng 4 phòng học và thực hành hiện đại, cấp 60 xuất học bổng cho sinh viên (trung bình 45 triệu cho mỗi xuất) cho SV của ĐHQGHN; Tài trợ cho các dự án phát triển công nghệ di động với trị giá khoảng 20.000USD/dự án (2014) Xây dựng và chuyển giao công nghệ; phát triển nguồn nhân lực; phát triển du lịch, y tế, xã hội và xúc tiến đầu tư. - Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao - Hỗ trợ cấp học bổng thuộc chương trình Talent Pool cho sinh viên ĐHQGHN (2016) Xây dựng các chương trình truyền hình giáo dục

ĐHQGHN

Hệ thanh- truyền hình Giáo dục của Hàn Quốc Tỉnh Sơn La và Hà giang Nghiên cứu phát triển nhân lực lãnh

ĐHQGHN

Tỉnh Quảng Ninh, Hưng Yên

ĐHQGHN

Tỉnh Quảng trị

ĐHQGHN

đạo, quản lý cho tỉnh (2014) - Triển khai 3 đề tài nghiên cứu quy hoạch và bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Ninh đến 2020) Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng và đề xuất giải pháp khắc phục hậu quả của chất động hóa học Dioxin Nghiên cứu và đánh giá đặc điểm tài nguyên thiên nhiên và tai biến thiên nhiên

ĐHQGHN

Nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn thám và GIS trong đánh giá tài nguyên và theo dĩ diễn biến tài nguyên.

ĐHQGHN

Các cơ quan nghiên cứu và các tỉnh Sóc Trăng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Phú Quốc, Thừa Thiên Huế, Hà Giang Các cơ quan nghiên cứu và các tỉnh Hải Phòng, Tây Nguyên, Hòa Bình, Quảng Ngãi, Đà Nẵng TP. Hà Nội, Thừa Thiên Huế

Nghiên cứu ứng dụng địa chính và công nghệ địa chính

Ký kết hợp tác

ĐHQGHN

ty Kinh doanh

ĐHQGHN

Công nước sạch Hà Nội Tỉnh Bạc Liêu

ĐHQGHN

TP Hà Nội

ĐHQGHN

ĐHQGHN

Nhà máy mía đường Lam Sơn, Thanh Hóa Cục quản lý tài nguyên nước, Bộ NN&PTNT

ĐHQGHN

Kết quả Nghiên cứu loại bỏ asen khỏi nước cấp (2008) Chuyển giao cộng nghệ sản xuất vật liệu xác tác xử lý nước nhiễm phèn kiểu Ferrose (2008-2009) Nghiên cứu cải thiện chất lượng nước hồ Kim Liên và hồ Hữu Tiệp bằng tổ hợp phương pháp cơ sinh hóa học (trong khuôn khổ Dự án kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, 2009-2010) Xây dựng phương án cải tạo hệ thống xử lý hèm cồn (2009) Đào tạo, kiểm tra chéo chất lượng phân tích asen trong nước cho các tình trên toàn quốc (2007-2008) Giám sát thực hiện các chương trình quan trắc môi trường (2007-2008)

Trung tâm Quan trắc môi trường, Sở tài nguyên và môi trường Hà Nội Công ty vận chuyển khách Bài Thơ, Hạ Long

Chuyển giao 28 tấn dầu trên tổng số 36 tấn dầu diesel sinh học (2013)

(Trường

ĐHQGHN (Khoa Hóa Trường học, ĐHKHTN) ĐHQGHN ĐHKHTN)

Chuyển giao gạch xốp cách nhiệt chịu lửa

(Trường

ĐHQGHN ĐHCN)

Công ty cổ phần vật liệu lửa và xây lắp điện Việt Trung Công ty cổ phần điện tử chuyên dụng Hanel

ty TNHH dược

Công phẩm Mê Linh

Hợp tác chế tạo hệ thống thiết bị và điều khiển trung tâm cho hệ thống chiếu sáng công cộng với công nghệ năng lượng mặt trời, ứng dụng công nghệ mạng GSM/GPRS kết hợp với mạng RF (1 tỉ đồng, 2014) Chuyển giao 11 chế phẩm vi sinh (tương đương 400Kg), trị giá 1 tỉ đồng.

ĐHQGHN (Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học) ĐHQGHN (Khoa Y dược)

Công ty cổ phần dược phẩm Quảng Bình

(Trường

ty

cổ

ĐHQGHN ĐHKHTN)

ĐHQGHN (Đại học Công nghệ)

Công phần ANABIO RESEARCH & DEVELOPMENT Công ty CP Công nghệ Bưu chính viễn thông (VNPT Technoloy)

Chuyển giao công nghệ báo chế thuốc viên nén bao phim Enereffect-Plus có độ ổn định cao Chuyển giao công nghệ sản xuất 3 loại bộ kít tinh sạch DNA/RNA bằng hạt nano từ bọc silica Nghiên cứu các công nghệ nền tảng, phát triển và sản xuất các sản phẩm viễn thông, công nghệ thông tin

(Nguồn: Kết quả tổng hợp của đề tài)

PHỤ LỤC 4

KINH PHÍ ĐẦU TƢ CHO CÁC PTN THEO LĨNH VỰC KHCN

TT

Tên PTN

1 2 3 4 5 6 7 8

Thời gian đầu tƣ 2008-2014 2012 2006-2009

Kinh phí (Triệu đồng) 230.918 55.800 0 0 0 1.000 3.000 20.000

9 10 11 12 13

2009-2014 2005 2000

30.000 25.000 10.000

Lĩnh vực khoa học tự nhiên và y dược PTN trọng điểm công nghệ Enzym và Protein PTN Vật lý Năng lượng và Vũ trụ học PTN Tính toán trong Khoa học vật liệu PTN Phân tích môi trường Trung tâm tính toán hiệu năng cao Trung tâm Động lực học Thủy khí Môi trường Trung tâm Nghiên cứu Biển và Đảo Trung tâm nghiên cứu Quan trắc và Mô hình hóa Môi trường (CEMM) Trung tâm Khoa học Vật liệu Trung tâm Hóa dầu Trung tâm Ứng dụng tin học trong hóa học Trung tâm nghiên cứu Khoa học sự sống Trung tâm Nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học phân tích PTN Hóa dược PTN Hóa Môi trường PTN nghiên cứu quản lý biển PTN nghiên cứu Dự báo thời tiết và Khí hậu Trung tâm Nghiên cứu Địa chất ứng dụng PTN trung tâm y học và tiềm lâm sàng PTN trung tâm dược học Lĩnh vực khoa học XH&NV

2007-2011 2012-2015 2012-2014 2012-2014 2014

39.318 800 28.500 17.500 83.200 3.900

14 15 16 17 18 19 20 1. Phòng Multimedia 2. Phòng thực nghiệm ngôn ngữ 3. Trung tâm thiết kế và sản xuất hệ thống học liệu Multimedia phục vụ nghiên cứu và giảng dạy ngoại ngữ với sự hỗ trợ của CNTT

4. Bảo tàng nhân học 5. Trung tâm kinh tế vĩ mô 6. Phòng sản xuất học liệu 7. Trung tâm nghiệp vụ báo chí truyền thông và bảo

2009-2013 2013-2014 2013-2014 2009-2015

4.600 10.000 1.300 63.400

tồn văn hóa Lĩnh vực KHCN và kỹ thuật

1. PTN trọng điểm Micronano

2. PTN Vật liệu và Từ tính Nano 3. Phòng Công nghệ Vật liệu và Linh kiện Nano 4. PTN hệ thống viễn thông 5. PTN mô hình hóa và mô phỏng

2006-2009 2009-2013 2006-2009 2009-2011 2011-2012

194.700 24.150 35.000 24.150 2.000 700

TT

Tên PTN

Thời gian đầu tƣ 2010 2011 2006-2008 2011-2014 Trig B 2010 2010 - 2014

Kinh phí (Triệu đồng) 1.400 2.400 21.900 70.000 1.000 3.000

6. PTN Công nghệ Cơ điện tử và Thủy tin học 7. PTN MEMS 8. PTN các hệ thống tích hợp thông minh SIS 9. PTN hệ thống và mạng truyền dẫn thông minh 10. PTN công nghệ tri thức 11. PTN Tín hiệu và hệ thống 12. PTN Hệ thống nhúng 13. PTN Robotic 14. PTN Giám sát hiện trường 15. PTN tương tác Người - Máy 16. PTN An toàn thông tin 17. PTN Hợp tác Toshiba-UET về Công nghệ phần

mềm

Lĩnh vực khoa học liên ngành

Thích ứng biến đổi khí hậu

2014-2016 2014-2015 2006-2013 2009-2013 2012-2014 2009-2013

7.000 2.000 240.913 57.000 40.000 23.500 15.000

18. PTN Samsung 19. PTN Tin sinh 20. PTN các kỹ thuật xử lý nội dung số 21. PTN các hệ thống nhúng 1. PTN Địa chất, Địa kỹ thuật, Địa môi trường và 2. 3. 4. Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Phát triển

bền vững (CETASD)

64.000 4.000

5. Trung tâm Nano và năng lượng 6. Trung tâm nghiên cứu ứng dụng Viễn thám và hệ

thông tin địa lý (CARGIS)

2009-2013 2005; 2012-2013 2008-2013

37.413

7. Công nghệ sinh học 8. Phòng Enzyme và Protein 9. PTN giống gốc nấm 10. Phòng sinh học Tảo 11. Phòng sinh thái Vi sinh vật 12. Phòng Công nghệ lên men và phát triển sinh

phẩm

(Nguồn Ban KH&CN-ĐHQGHN)

PHỤ LỤC 5

1. Mức hỗ trợ cơ bản các công trình khoa học chuyên ngành năm 2013

TỔNG HỢP CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CÔNG BỐ QUỐC TẾ CỦA ĐHQGHN

Mức hỗ trợ/01 công trình*

Công trình

TT

Chính

Phụ

1

15.000.000 đ

10.000.000 đ

Bài báo công bố trên tạp chí thuộc danh sách của ISI (SCI, SCIE, SSCI và A&HCI)

2

15.000.000 đ

10.000.000 đ

Bài báo công bố trên tạp chí thuộc danh sách của SCOPUS

3

15.000.000 đ

10.000.000 đ

Bài báo công bố trên tạp chí khoa học có chỉ số f từ 2 trở lên

4

10.000.000 đ

5.000.000 đ

Bài báo công bố trên tạp chí khoa học có chỉ số f từ 0.1 đến 2

5

10.000.000 đ

5.000.000 đ

Bài viết đăng toàn văn trên kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện (Peer Review) của nhà xuất bản nước ngoài có mã số chuẩn quốc tế ISBN

6

15.000.000 đ

10.000.000 đ

Sách chuyên khảo, sách tham khảo được xuất bản bằng tiếng nước ngoài tại nhà xuất bản nước ngoài có mã số chuẩn quốc tế ISBN

7

30.000.000 đ

15.000.000 đ

Sản phẩm khoa học công nghệ được cấp bằng phát minh, sáng chế quốc tế

2. Mức hỗ trợ cơ bản các CTKH chuyên ngành đợt 1 năm 2016

Công trình

TT

Mức hỗ trợ/01 công trình công bố quốc tế (1)

(2)

Cột j

Hàng i

1

25.000.000 đ

15.000.000 đ

Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q1

2

20.000.000 đ

10.000.000 đ

Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q2

3

15.000.000 đ 7.000.000 đ

- Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q3-Q4 - Bài báo công bố trên chuyên san Vật liệu và linh kiện tiên tiến (Advanced Materials and Devices - AMD) của tạp chí Khoa học ĐHQGHN đạt chuẩn SCOPUS hợp tác với Nhà xuất bản Elsevier

3. Mức hỗ trợ cơ bản các CTKH chuyên ngành đợt 2 năm 2016

Mức hỗ trợ/01 công trình công bố quốc tế

TT

Công trình

Tác giả phụ

Tác giả chính/ tác giả liên hệ

1

30.000.000 đ

16.000.000 đ

Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q1

2

20.000.000 đ

12.000.000 đ

3

16.000.000 đ

8.000.000 đ

Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q2 Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q3

4

16.000.000 đ

8.000.000 đ

Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q4

4. Định mức hỗ trợ cho các CTKH được ưu tiên tài trợ đợt 2 năm 2016

Mức hỗ trợ/01 ấn phẩm

TT

Công trình

Tác giả chính/ tác giả liên hệ

Tác giả phụ/ đồng chủ biên

I

1

12.000.000 đ

6.000.000 đ

2

8.000.000 đ

4.000.000 đ

3

4.000.000 đ

2.000.000 đ

Áp dụng với nhóm lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn Công trình công bố trên tạp chí quốc tế ngoài hệ thống ISI hoặc SCOPUS nhưng thuộc nhà xuất bản co uy tín trên thế giới hoặc nhà xuất bản của 100 trường đại học hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng của THE Công trình được đăng trong kỷ yếu hội nghị/hội thảo khoa học quốc tế được SCImago xếp hạng (Conference and Proceeding) Công trình được đăng trên các tạp chí thương mại được SCImago xếp hạng (Trade Journals)

II

4

75.000.000 đ

40.000.000 đ

Áp dụng với xuất bản sách Chủ biên (đồng chủ biên) sách được xuất bản tại Nhà xuất bản nước ngoài có mã số chuẩn ISBN

5

30.000.000 đ

18.000.000 đ

Biên dịch sách tham khảo chuyên ngành của Nhà xuất bản uy tín nước ngoài sang tiếng Việt để phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, có mã số chuẩn ISBN; được hội đồng thẩm định thông qua và đưa vào sử dụng

Mức hỗ trợ/01 ấn phẩm

TT

Công trình

Tác giả chính/ tác giả liên hệ

Tác giả phụ/ đồng chủ biên

20.000.000 đ

12.000.000 đ

6

Công trình được đăng trong sách khoa học chuyên khảo xuất bản tại nước ngoài được SCImago xếp hạng (Book series)

8.000.000 đ

4.000.000 đ

7

Công trình được đăng trong sách được xuất bản tại Nhà xuất bản nước ngoài, có mã số chuẩn ISBN

III Mức thưởng tăng thêm - Extra Bonus (EB)

45.000.000 đ

24.000.000 đ

15.000.000 đ

8.000.000 đ

SCImago xếp hạng Q1

10.000.000 đ

6.000.000 đ

Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc TOP 20 tạp chí hàng đầu được phân loại theo nhóm lĩnh vực, ngành/chuyên ngành của SCImago và tương ứng với lĩnh vực chuyên môn của tác giả (Excellence with Leadership -EwL) Công trình công bố mang tính liên ngành và theo xu hướng “nội lực” (nhóm tác giả của công trình đều là cán bộ của ĐHQGHN)

8.000.000 đ

4.000.000 đ

7.500.000 đ

4.000.000 đ

SCImago xếp hạng Q2 SCImago xếp hạng Q3-Q4 SCImago xếp hạng Q1

5.000.000 đ

3.000.000 đ

Nhà khoa học lần đầu tiên công bố công trình khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI/SCOPUS và được SCImago xếp hạng

4.000.000 đ

2.000.000 đ

SCImago xếp hạng Q2 SCImago xếp hạng Q3-Q4

Ghi chú: Không áp dụng song song mức thưởng tăng thêm cho cùng một công trình hỗ trợ

(Nguồn: Câu lạc bộ Nhà khoa học - ĐHQGHN)

PHỤ LỤC 6

TỔNG HỢP CÁC GIẢI THƢỞNG KHOA HỌC CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC Ở ĐHQGHN

1. 2. 3. 4. 5. 6. 7.

8.

9. 10. 11.

12.

13.

14.

15.

16.

17. 18.

Cụm công trình lịch sử và văn hóa Việt Nam- Giáo sư Đào Duy Anh Cụm công trình Ngữ pháp và lịch sử Tiếng Việt- Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn Cụm công trình Dao động phi tuyến của các hệ động lực- GS.TSKH Nguyễn Văn Đạo Công trình về Lịch sử Việt Nam gồm 5 bộ, 18 tập (1956-1978)-GS Trần Văn Giàu Nghiên cứu các hạt sơ cấp- Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu Tư tưởng phương Đông (1950 - 1960 - 1979) - GS Cao Xuân Huy Cụm công trình gồm 4 tác phẩm nghiên cứu về văn học dân gian và văn hóa dân gian Việt Nam (1972, 1989, 1993, 1995)- GS. Đinh Gia Khánh Cụm công trình gồm 8 tác phẩm: Nghiên cứu văn học Việt Nam và văn học thế giới (1945-1984)- GS Đặng Thai Mai Theo dấu các văn hoá cổ- Giáo sư Hà Văn Tấn Tìm về cội nguồn ngôn ngữ và ý thức- Giáo sư Trần Đức Thảo Cụm công trình về nghiên cứu cơ bản của toán học lý thuyết và những bài toán về ứng dụng (1960-1970)- Giáo sư Lê Văn Thiêm Tập hợp các công trình điều tra cơ bản động vật học ở Việt Nam (1957 - 1980)-Giáo sư Đào Văn Tiến Các công trình thuộc lĩnh vực tối ưu toàn hóa, nổi bật là 2 công trình: "Giải tích tối ưu toàn cục" và "Quy hoạch D.C và ứng dụng" (những năm 60)- Giáo sư Hoàng Tụy Cụm công trình Văn hoá Việt Nam - Truyền thống và hiện đại- Giáo sư Trần Quốc Vượng Cụm công trình Sự nghiệp văn học, báo chí Hồ Chí Minh và một số vấn đề lý luận, thực tiễn văn hoá, văn nghệ Việt Nam- GS. Hà Minh Đức Cụm công trình Nghiên cứu tương tác của các hạt cơ bản và hạt nhân ở năng lượng cao và Phát hiện phản hạt Hyperon Sigma âm- GS. Nguyễn Đình Tứ Công trình Atlas quốc gia Việt Nam- GS. Nguyễn Văn Chiển Công trình Lịch sử và Văn hóa Việt Nam - Tiếp cận bộ phận - GS. Phan Huy Lê

2. Giải thưởng Nhà nước

1.

2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11.

Một số thành tựu tiêu biểu trong nghiên cứu vật liệu liệu từ tính - GS.TSKH. Nguyễn Châu, PGS.TS. Bạch Thành Công, PGS.TS. Đặng Lê Minh Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam - GS.TS. Phan Hữu Dật Làng xã Việt Nam - Một vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội - GS. Phan Đại Doãn Phương ngữ học tiếng Việt - GS. Hoàng Thị Châu Khảo và luận một số thể loại, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam - PGS. Bùi Duy Tân Cụm công trình về Văn học Việt Nam hiện đại - Giáo sư Hà Minh Đức Tìm về cội nguồn Cụm công trình về Lịch sử Việt Nam trung đại -GS. Phan Huy Lê Công trình “Ngữ âm tiếng Việt” - GS. Đoàn Thiện Thuật Công trình “Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII-XVIII-XIX” - PGS.TS Nguyễn Thừa Hỷ Cụm công trình “Từ và từ vựng học tiếng Việt” - GS.TS Nguyễn Thiện Giáp Cụm công trình “Nghiên cứu cơ bản và định hướng ứng dụng các vật liệu từ liên kim loại đất hiếm - kim loại chuyển tiếp” - Hai đồng tác giả thuộc ĐHQGHN: GS.TS Nguyễn Hữu Đức và GS.TSKH Nguyễn Hoàng Lương

1. Giải thưởng Hồ Chí Minh

3. Công trình/cụm công trình đạt Giải thưởng KH&CN ĐHQGHN tiêu biểu hằng năm (trao năm 2015)

Tên công trình/cụm công trình

TT 1 Nghiên cứu sàng lọc các chủng vi khuẩn

Bacillus từ gà và tôm để sản xuất probiotic có tính ưu việt cho lĩnh vực chăn nuôi và thủy sản

2 Mô hình hệ tư vấn mờ trực cảm trong hỗ

trợ chẩn đoán bệnh

3 Deltex-3-like (DTX3L) stimulates

metastasis of melanoma through FAK/PI3K/AKT but not MEK/ERK pathway

Tác giả/tập thể tác giả/đơn vị PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh, TS. Nguyễn Hòa Anh, ThS. Nguyễn Văn Đức, CN. Ngô Thị Hương, CN. Nguyễn Thị Như Trang, CN. Trần Thị Mỹ, Nguyễn Minh Quang, Trần Vân Anh TS. Lê Hoàng Sơn, CN. Nguyễn Thọ Thông TS. Nguyễn Đình Thắng, PGS.TS. Ichiro Yajima, TS. Mayuko Y.Kumasaka, TS. Machiko Iida, GS.TS. Tamio Suzuki, GS.TS. Masashi Kato. TS. Phạm Xuân Thạch

4 Sự khởi sinh của tính hiện đại - trần thuật Việt Nam trong ba thập kỷ đầu thế kỷ XX

4. Các giải thưởng khác

TT

Danh hiệu

1 Màng lọc dịch tiêm truyền

composite - Cúp Vàng Techmart 2007

2 Mô hình dự báo khí tƣợng, sóng và nƣớc biển dâng - Cúp Vàng Techmart 2006

3

4

Chủ nhiệm đề tài, dự án, hợp đồng, thời gian thực hiện Dự án mã số SXT.06.03: “Hoàn thiện công nghệ sản xuất màng lọc dịch tiêm truyền composite”. Chủ trì: PGS.TS. Lê Viết Kim Ba, PGS. TS. Bùi Duy Cam - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN. Thời gian: 4/2006-4/2008. Đề tài “Dự báo trƣờng khí tƣợng thủy văn biển đông” của GS.TS. Trần Tân Tiến, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN, thời gian: 2003-200. Chủ trì:KS. Nguyễn Đức Tâm - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Tự nghiên cứu phát triển, thời gian 2003-2005. PGS.TS. Nguyễn Thị Chính, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN. Đề tài theo nghị định thư Việt Nam - Hàn Quốc, phát triển công nghệ sản xuất nấm dược liệu phục vụ tăng cường sức khỏe, thời gian: 2003-2005.0

5

ThS. Đào Kiến Quốc, Trung tâm Công nghệ Phần mềm, Đại học Công nghệ - ĐHQGHN. Năm 2006, phần mềm do TT tự nghiên cứu và phát triển

Công nghệ sản xuất vật liệu xốp Aluminum Silicate - Cúp Vàng Techmart 2007 Công nghệ sản xuất và chế biến nấm dƣợc liệu; Cúp Vàng Techmart 2007; 2 sản phẩm được giải Giải Tinh hoa Việt Nam (Triển lãm Diễn đàn APEC hội nhập) Phần mềm tổ chức quản lý và chấm thi trắc nghiệm (MRTEST) - Giải Nhất Nhân tài Đất Việt 2006 - Cúp Bạc Techmart 2007 6 Hệ thống dẫn đƣờng quán tính - Giải Ba Nhân tài đất Việt 2008

Đề tài trọng điểm ĐHQGHN: “Nghiên cứu tích hợp hệ thống dẫn đường quán tính trên cơ sở cảm biến vi cơ điện tử phục vụ điều khiển dẫn đường phương tiện chuyển động” mã số QGTĐ.05.09. Chủ trì GS.TSKH. Nguyễn Phú Thùy, Trường Đại học Công nghệ - ĐHQGHN. 2005-2007.

TT

Danh hiệu

Chủ nhiệm đề tài, dự án, hợp đồng, thời gian thực hiện

7

Đồng chủ biên: GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc, PGS.TS. Vũ Văn Quân, Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển - ĐHQGHN, 2006-2007.

8

PGS.TS. Phạm Văn Nho Trường Đại học KHTN

9

GS.TS. Bùi Công Hiển Trường Đại học KHTN

Sách: “Địa chí cổ loa”; Giải Bạc sách hay toàn quốc 2008 của Hội Xuất bản Việt Nam; Giải đồng sách đẹp toàn quốc của Hội Xuất bản Việt Nam NXB Hà Nội - 2007 “Khẩu trang y tế” Bằng độc quyền Giải pháp hữu ích số 782 theo Quyết định số15372/QĐ- SHTT ngày 20/7/2009 “Công nghệ nhân nuôi côn trùng phục vụ bảo tồn sinh học” Cúp vàng Techmart Việt Nam ASEAN+3 năm 2009 10 “Vi mạch mã hóa tín hiệu

PGS.TS Trần Xuân Tú và nhóm nghiên cứu Trường Đại học Công nghệ

video VENGME H.264/AVC”;Giải Nhì Giải thưởng Nhân tài đất Việt 2015

11 Cụm công trình “Các đồng cấu

GS. TSKH. Nguyễn Hữu Việt Hưng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên

GS.TSKH Đinh Dũng Viện Công nghệ thông tin

giữa các đại số Dickson - Mùi xem nhƣ các Moodun trên đại số Steenrod”-Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2014 12 Công trình “Xấp xỉ và khôi phục tín hiệu có số chiều rất lớn trên lƣới thƣa”; Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2015

13 Công trình “Nghiên cứu sự

PGS. TS. Nguyễn Ngọc Minh Trường Đại học Khoa học Tự nhiên

giải phóng Kali đi kèm với quá trình hòa tan Phytolith trong rơm rạ” Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2016

Nhóm tác giả của PGS.TS Phạm Bảo Sơn Trường Đại học Công nghệ

14 “DoIT - Hệ thống hỗ trợ nâng cao chất lƣợng văn bản”-GiảI Nhì Giải thưởng Nhân tài đất Việt 2017

15 Huy chƣơng Pushkin năm

PGS.TSKH. Nguyễn Thị Tuyết Mai Khoa Quốc tế

2017

PHỤ LỤC 7

BÀI PHỎNG VẤN GIÁO SƢ JOACHIM SPANGENBERG VỀ CHÍNH SÁCH

PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU CỦA ĐỨC

Đào Minh Quân (ĐMQ): Xin Giáo sư chia sẻ về mô hình NNC ở các trường

Vào đầu năm 2018, tôi có cơ hội gặp Giáo sư Joachim Spangenberg, một chuyên gia nghiên cứu thuộc một Viện nghiên cứu lớn của Đức khi ông sang hợp tác nghiên cứu với Viện Chính sách và Quản lý thuộc Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN. Tôi đã trao đổi với Giáo sư về luận án của mình và xin phỏng vấn Giáo sư về kinh nghiệm xây dựng NNC ở Đức, sau đây là một số nội dung trao đổi: đại học của Đức. Joachim Spangenberg (JS): Trước hết, tôi phải nói về hệ thống học thuật của Đức. Tôi không làm việc ở trường đại học mà ở một viện nghiên cứu, với những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản-ứng dụng. Tiền Nhà nước cấp cho hoạt động nghiên cứu thì một nửa cho Viện, một nửa cho Trường đại học. Trường đại học thì đào tạo và nghiên cứu, còn Viện thì chỉ nghiên cứu. Kinh nghiệm của tôi là làm nghiên cứu ở Viện nhiều hơn ở Trường đại học.

Hầu hết các NNC đều là một phần của Viện. Tôi đang làm cho một Viện rất lớn, có 2000 nhân viên, 40 khoa, mỗi khoa có khoảng 50 thành viên và mỗi khoa có vài NNC, thông thường mỗi NNC có từ 2 - 3 giáo sư. Những NNC này thường được thành lập bởi những nhà nghiên cứu có chung mối quan tâm. Viện sẽ công nhận một Nhóm là chính thức hoặc không chính thức. Lúc đầu nhóm có thể là không chính thức, nhưng sau đó sẽ được công nhận chính thức.

ĐMQ: Mất khoảng bao lâu để thành một NNC chính thức? JS: Còn tùy, thường là 3 tuần nhưng cũng có thể đến 6 tháng. ĐMQ: Vậy quy trình lập nhóm thế nào? JS: Ví dụ, bạn là một giáo sư đại học, bạn có 3 NCS và bạn có một đề tài rất hay, bạn muốn lập một NNC. Chúng tôi sẽ hỏi bạn các câu hỏi, chuyển phần ghi chép cho Giám đốc viện và ông ấy sẽ đồng ý. Việc này rất dễ vì không liên quan đến tiền, NNC không nhận được tiền. Bạn có thể được nhận thêm phòng để họp nhóm nhưng không được thêm tiền. Nhưng khi bạn có một dự án hay và lập một NNC gồm các đồng nghiệp, lúc đó tiền là cho dự án. Bạn sẽ được ghi nhận về mặt học thuật chứ không phải nhận tiền.

ĐMQ: Ví dụ: ông có một dự án và một NNC làm việc cho ông, ông trả tiền

cho họ bằng tiền dự án, điều này có đúng ở Đức?

JS: Không, tiền là dành cho dự án, không dành cho NNC. ĐMQ: Ông làm việc cho trường đại học, vậy tiền dự án chuyển thẳng cho

Trường đúng không?

JS: Đúng. Khi bạn làm dự án, bạn cần chi phí tài liệu, chi phí nhân sự chi phí hành chính. Chi phí hành chính là để hỗ trợ dự án, chiếm 25-40% tiền dự án. Một phần số tiền đó thuộc về Trường để lo việc hành chính, 1 phần thuộc về khoa và bạn có thể sử dụng tiền đó để làm việc với NNC, có thể thuê sinh viên vì sinh viên cũng được coi là nhân sự và sinh viên cũng được coi như một thứ cần mua cho dự án như máy tính, giấy…

ĐMQ: Ở Úc, thông thường có 3 cấp độ nghiên cứu: NNC, Trung tâm nghiên cứu và Viện nghiên cứu, điều này tùy thuộc vào phạm vi nghiên cứu, tiền, nhân sự, KQNC và thời gian nghiên cứu. Trung bình 1 dự án ở Úc kéo dài 3 năm, tối đa là 5 năm. ở Đức có khác không?

JS: Viện nghiên cứu ở Đức có nhiều quy mô. Một viện nhỏ có thể không có trung tâm hay NNC. Cả viện có thể chỉ có một NNC với 2 giáo sư, 2 trợ lý. Tất cả phụ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu. Ở Viện của tôi, thường là có các trung tâm, và mỗi trung tâm lại có các NNC và mỗi nhóm có 2-3 giáo sư. Cấp trung tâm vẫn là cấp hợp pháp nhưng NNC vẫn linh hoạt hơn do dễ thành lập, dễ quyết định thời gian hoạt động, không phải 3 hay 5 năm mà thời gian của nhóm kéo dài cùng dự án. Chúng tôi cố không có dự án dưới 3 năm. Tốt nhất là 3 - 5 năm vì một lý do đơn giản: chúng tôi muốn NCS hoàn thành luận án trong thời gian làm dự án, thực tế thời gian hợp pháp để một NCS hoàn thành luận án là 3 năm.

ĐMQ: Ở Đức việc đánh giá NNC thế nào? JS: Kết quả làm việc của NNC phụ thuộc vào việc dự án được đánh giá tốt hay không. Chúng tôi không cần đánh giá riêng NNC mà chỉ cần xem kết quả công việc dự án tốt hay không. Việc đánh giá được thực hiện hàng năm để, nếu kết quả không tốt, NNC không nên làm việc cùng nhau.

ĐMQ: Vậy một dự án được đánh giá như thế nào? JS: Còn tùy. Với các dự án rất lớn chúng tôi thường có bên đánh giá ngoài độc lập. Bên đánh giá này thường thực hiện đánh giá KQNC hàng năm thông qua việc tham gia các buổi họp, phỏng vấn,… bên đánh giá độc lập này được trả tiền bởi nhà tài trợ. Bên cạnh đó, khi thực hiện một dự án, anh cần nộp bản báo cáo một năm một lần để bên tài trợ kiểm tra, và bên tài trợ cũng đánh giá kết quả dự án hàng năm. Bên tài trợ sẽ có nhóm nhà khoa học để kiểm tra chất lượng dự án. Thông thường, không có phần đánh giá của xã hội chỉ trừ các nghiên cứu có tính ứng dụng. Các đánh giá xã hội này thường ở cấp liên bang và bởi người đứng đầu trường đại học, nhà hoạch định chính sách, chính trị gia, thương gia,….

ĐMQ: Câu hỏi đặt ra là có cần tham gia đánh giá của xã hội ở các cấp

khác không?

JS: Câu trả lời là có chỉ khi liên quan đến quyết định câu hỏi nghiên cứu và hướng đi, và không đối với các chi tiết, phương pháp nghiên cứu,…. Nhưng khi nghiên cứu là một dạng nghiên cứu giải quyết vấn đề thì chúng tôi cần thảo luận nhiều với các chính trị gia, thương gia, bên hành chính, họ chính là người biết rõ nhất về vấn đề đang diễn ra, vấn đề cần giải quyết.

ĐMQ: Khi có dự án lớn, các ông có cần báo cáo định kỳ 1-2 năm lên chính

phủ hay trường đại học không?

JS: Còn tùy thuộc nhà tài trợ là ai. Có nhà tài trợ yêu cầu báo cáo 6 tháng/lần. Nhưng như thế sẽ không tốt vì anh phải dành nhiều thời gian viết báo cáo thay vì làm nghiên cứu, thông thường ở Đức hoặc liên minh châu Âu thì một năm một lần.

ĐMQ: Các báo cáo đó gửi cho nhà tài trợ, trường đại học hay chính phủ? JS: Chúng tôi gửi cho nhà tài trợ. Nếu nhà tài trợ là chính phủ thì họ sẽ gửi 01 bản copy cho Trường. Đôi khi báo cáo chỉ có 2 trang ở dạng bảng câu hỏi có/không, nhưng vào năm thứ 2 và 3 của dự án, bạn sẽ phải công bố KQNC trên tạp chí quốc tế có phản biện. Trong trường hợp không có công bố họ sẽ yêu cầu bạn báo cáo chi tiết hơn nữa. Nếu dự án được đánh giá bởi nhà tài trợ thì bạn không phải lo về phần trường đại học, nhưng công bố quốc tế thì luôn phải phản biện do đó là phần rất quan trọng để đánh giá thành công của một dự án.

ĐMQ: Ở VN chúng tôi có NNCM, ở Đức có ko? Các ông có ưu tiên hay định

hướng gì cho các NNC không?

JS: Chúng tôi có chương trình nghiên cứu xuất sắc trong 5 năm. Điểm khác biệt là tiền dành cho dự án. Các khoa/viện được chính phủ chọn sẽ nhận thêm tiền, nhưng tiền này không dành cho các NNC mà cho các cấp cao hơn. Thành viên NNC sẽ nhận được chứng nhận.

ĐMQ: Hiện tại ở Đức có bao nhiêu NNCM? JS: Khoảng 50, nhưng ở các lĩnh vực khác nhau, phân bổ đều ở khoa học xã

hội, khoa học tự nhiên,...và phân bổ đều giữa các trường và các viện.

ĐMQ: Xin giáo sư cho biết các nguồn tài trợ cho các dự án nghiên cứu ở Đức? JS: Nguồn tài chính phụ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu. Nếu nghiên cứu thuộc ngành cơ khí hay máy móc, tiền có thể đến từ các doanh nghiệp, các lĩnh vực khác có thể nhận tiền từ chính quyền từ cấp địa phương, quốc gia hay liên minh châu Âu.

ĐMQ: Ví dụ tôi có một dự án, tôi đang làm cho một đại học ở Đức, vậy

trường có hỗ trợ tôi không?

JS: Trường đại học có các loại chương trình nghiên cứu. Khoa/Viện sẽ gửi đề tài hàng năm. Nếu là đề tài ưu tiên thì ngoài tiền cơ bản để trả lương giáo sư, các đề tài này sẽ có thêm các khoản tiền khác như để thuê NCS. Các dự án ưu tiên này thường kéo dài 3-4 năm.

ĐMQ: Ở VN, khi làm dự án, tôi vẫn được lương hàng tháng cộng tiền từ dự

án, ở Đức thế nào?

JS: Ở Đức thì khác. Nếu anh là người của trường và làm dự án, anh vẫn được lương từ trường và không nhận lương dự án. Anh chỉ có thể nhận từ dự án các chi phí như chi phí đi lại để tham dự hội thảo quốc tế. Ở Đức lương giáo sư cố định và được trả 1 năm 2 lần, vào mùa hè và cuối năm. Lương là cố định, vì thế anh có thể thỏa thuận với trường về số giờ giảng. Nếu làm dự án, anh có thể giảm giờ dạy. Tôi thấy ở VN lương của anh phụ thuộc số giờ giảng và số sinh viên theo học. Tôi cũng

thấy ở Mỹ, giáo sư được trả tiền theo số giờ giảng, nhưng họ không được lương trong 3 tháng khi các trường nghỉ học và họ phải làm việc 9 tháng cho cả 3 tháng còn lại, vì thế họ phải tìm các dự án. Như vậy, việc giáo sư có nhận tiền từ dự án hay không, phụ thuộc vào chính sách trả lương ở mỗi nước.

ĐMQ: Ở Việt Nam công bố 01 bài báo ISI, Trường sẽ thưởng tiền, ở Đức

có không?

JS: Không gì cả, việc công bố trên tạp chí ISI là một phần công việc của anh. Đây là tiêu chí đánh giá căn bản của chính phủ đối với chúng tôi vào năm 2 và 3. Tiền tăng hay giảm sẽ phụ thuộc việc có công bố hay không. Khi xin một dự án anh phải kèm danh sách các công bố trên tạp chí ISI. Tất cả các công bố này đều không được tiền. Mỗi năm tôi công bố 5-6 bài, hiện tại có khoảng 80 bài. Với các công bố này, việc bạn được trích dẫn thể hiện bạn được công nhận trong giới khoa học. Người châu Âu cho rằng NCKH cũng như bóng đá, anh nhận lương để đá, cũng như giáo sư để viết bài. Tóm lại việc công bố bài báo là một phần công việc anh nhận lương. Trường chỉ thưởng khi anh được nhận huy chương danh dự.

ĐMQ: Để xin dự án thì cần các yếu tố nào? JS: Để thành công, anh phải biết lĩnh vực của mình đang phát triển đến đâu, nghiên cứu của anh có phù hợp trong lĩnh vực đó không, anh phải liên hệ với các đồng nghiệp giỏi vì họ sẽ là một phần trong NNC mang tính cạnh tranh của anh, thảo luận với họ cách trả lời câu hỏi nghiên cứu. Thông thường anh phải có một điểm làm cho nghiên cứu của mình nổi bật mà không nghiên cứu nào có. Sau đó anh nộp xin dự án, kết quả thì khó đoán.

ĐMQ: Ở Đức có hiện tượng „lobby‟ không? JS: Có, nhưng rất ít. Việc “lobby” hầu như không hiệu quả và rất đắt đỏ. Ở Đức, luật pháp rất có hiệu lực, nếu vi phạm luật (tham nhũng) thì anh bị phạt rất nhiều tiền hoặc có thể bị đi tù.

ĐMQ: Theo Giáo sư tiêu chí để chọn NNCM là gì? JS: Họ nộp đề cương trong vòng 5 năm. Đề cương phải đạt 3 tiêu chí: có tham vọng, phù hợp và thực tiễn. Tham vọng là tiêu chí khoa học, thực tiễn là tiêu chí liên quan đến tài chính và phù hợp là tiêu chí kinh tế - xã hội. Nhóm sẽ được đánh giá dựa trên các công bố khoa học. Nếu họ chưa có công bố, không ai tin họ có thể hoàn thành dự án trong 5 năm tới. Vậy tiêu chí là kết hợp công bố khoa học và đề cương.

ĐMQ: Sau 5 năm, NNCM có được đánh giá hay không? JS: Tất cả các nhóm này đều được đánh giá khi được 1/2 dự án (trong quá trình thực hiện). Dự án kết thúc sau 5 năm. Nếu anh làm tốt, anh có thể xin thêm các đề tài/dự án khác, nếu chưa tốt, anh sẽ bị loại.

ĐMQ: NNCM có tồn tại vĩnh viễn? JS: Chúng tôi đánh giá trực tiếp các giai đoạn để giúp Nhóm đi đúng định hướng. Nhưng chương trình này chỉ kéo dài 5 năm, sau 5 năm anh có thể xin vào một nhóm/chương trình nghiên cứu xuất sắc khác.

ĐMQ: Nếu tôi không xin được dự án tiếp theo thì sao? JS: Với kinh nghiệm và thành tựu từ NNC trước, anh có thể hy vọng. Nếu không xin được, anh trở thành „cựu‟, việc đó là thực tế. Tôi biết vài người có lúc đã ở trong NNCM, nhưng NNCM không phải là mãi mãi. Ở Đức đã mạnh không nhất thiết là đang mạnh. Tiền nghiên cứu chỉ dành cho Nhóm hiện tại đang mạnh.

ĐMQ: Ở Đức việc công bố theo các loại hình nghiên cứu thế nào? JS: Chúng tôi có ba lĩnh vực: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản - ứng dụng. Với nghiên cứu ứng dụng, có người không công bố bài báo mà là bằng sáng chế, và bằng sáng chế cũng được tính như bài báo, chỉ là được xuất bản theo cách khác. Một số tạp chí về một số lĩnh vực như khoa học thông tin, để phản biện một bài báo cần đến 6 tuần, như vậy nội dung bài báo sẽ bị lạc hậu. Tác giả có thể công bố online, cách này giúp bắt kịp những phát triển chóng mặt trong lĩnh vực này. Như vậy, việc công bố rõ ràng phụ thuộc lĩnh vực nghiên cứu.

ĐMQ: Giáo sư có gợi ý nào về chính sách để phát triển NNCM cho các

trường đại học ở Việt Nam hay chính phủ Việt Nam?

JS: Chỉ là từ kinh nghiệm của tôi. Việc dự án được đánh giá bởi một bên độc lập như nhà tài trợ sẽ tốt. Theo tôi, một NNC hiệu quả là phải giải quyết được vấn đề. Và cứ khi nhóm trả lời được một câu hỏi thì sẽ có câu hỏi, một nghiên cứu mới xuất hiện. Tiêu chí để chọn (thêm) thành viên của nhóm không nằm ở chỗ họ có kinh nghiệm tìm kiếm nguồn tài trợ hay số lượng bài giảng mà phụ thuộc việc anh có gì để góp phần giải quyết vấn đề nghiên cứu. Một khi vấn đề/câu hỏi nghiên cứu được giải quyết họ sẽ có công bố tốt.

Theo tôi, mỗi trường cần có 01 trung tâm xuất bản với vài chuyên gia là người từ các nước nói tiếng Anh, các tác giả đều gửi bài qua đây. Kinh phí cho trung tâm này nên khoảng 2% ngân sách của Trường. Các tác giả cũng có thể học hỏi được nhiều từ những nhà nghiên cứu nói tiếng Anh này để tránh mắc lỗi trong những lần sau. ĐMQ: Xin cảm ơn Giáo sư.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN __________________

PHIẾU XIN Ý KIẾN (Dùng cho cán bộ làm công tác quản lý ở ĐHQGHN và Trường thành viên)

Thưa Quý Thầy/Cô Trong phạm vi nghiên cứu của luận án chúng tôi đang thực hiện, chúng tôi đang tiến hành lấy ý của Thầy/Cô về chính sách phát triển nhóm nghiên cứu (NNC) mạnh ở ĐHQGHN. Để có cơ sở cho việc đề xuất giải pháp xây dựng và hoàn thiện chính sách, xin thầy cô vui lòng trả lời một số câu hỏi dưới đây. Sự cộng tác tích cực của Thầy/Cô thông qua việc trả lời một cách chân thực, đầy đủ vào phiếu hỏi này là việc làm có ý nghĩa nhất để giúp chúng tôi hoàn thành tốt mục tiêu nghiên cứu của mình.

Xin cam đoan những ý kiến của Thầy/Cô chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu và

được giữ bí mật.

Xin trân thành cảm ơn sự cộng tác của Thầy/Cô.

Câu 1. Xin Thầy/Cô cho biết một số thông tin về cá nhân

Vui lòng tích dấu vào ô phù hợp hoặc điền thông tin vào khoảng trống 2. Nữ 

1. Nam 

Thâm niên công tác: ………………năm

1. Cử nhân/Kỹ sư  4. PGS-TS 

2.Thạc sĩ  3. Tiến sĩ/TSKH  5. GS-TS 

Trưởng phòng 

Phó trưởng phòng 

3- Đào tạo

1.1. Giới tính 1.2. Tuổi:………………… 1.3. Chức danh-học vị: 1.4. Chức vụ hiện nay: Giám đốc  Phó Giam đốc  Hiệu trưởng  Phó Hiệu trưởng  Khác:…………………… 1.5 Chuyên môn phụ trách: 1- Tổ chức 2- Khoa học 4- Khác……………

Câu 2. Xin thầy/cô đánh giá mức độ đóng góp của nhóm nghiên cứu mạnh đối với việc đào tạo, nghiên cứu và phục vụ xã hội? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng:

1-Rất hạn chế; 2- Hạn chế; 3-Bình thường; 4-Tích cực; 5-Rất tích cực)

Điểm

Điểm

Nội dung đánh giá Hỗ trợ sự phát triển và duy trì một môi trường nghiên cứu hợp tác, chất lượng cao

Tập trung phát triển các lĩnh vực sở trưởng trong nghiên cứu và đào tạo, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, xuyên ngành

Nội dung đánh giá Hỗ trợ đổi mới nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, môi trường và xã hội trong tương lai, trong lĩnh vực Trường hoạt động Đảm bảo kết quả nghiên cứu có đóng góp thiết thực trong việc phát triển lĩnh vực chuyên môn của trường đại học, và đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước Đảm bảo nghiên cứu chất lượng cao để củng cố và tăng cường các chương trình đào tạo của trường đại học

Tăng cường và hỗ trợ đào tạo nghiên cứu và khuyến khích sự tham gia của sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh

Nội dung đánh giá

Điểm

Nội dung đánh giá

Điểm

Cung cấp các cơ hội và hỗ trợ cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh để tạo nên các kết quả nghiên cứu chất lượng cao, phát triển thành tích nghiên cứu và xây dựng sự nghiệp nghiên cứu thành công

Tăng cường các cơ hội để đạt được nguồn tài trợ từ các Quỹ hỗ trợ nghiên cứu trong và ngoài nước cho hoạt động nghiên cứu trọng tâm Cung cấp cho khách hàng những kết quả nghiên cứu hữu ích, kịp thời và hiệu quả

Câu 3. Theo Thầy/Cô, những nguyên nhân liệt kê dưới đây đã ảnh hưởng thế nào đến hiệu quả hoạt động của các nhóm nghiên cứu? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không ảnh hưởng; 2-Ảnh hưởng ít; 3-Bình thường; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều)

Nội dung đánh giá

Điểm

Thiếu thông tin về NCKH hiện đại Thị trường công nghệ chưa phát triển

Điểm

Nội dung đánh giá Các thành viên giảng dạy quá nhiều Công tác quản lý quá bận rộn Kinh phí nghiên cứu khoa học quá eo hẹp

Thiếu thông tin về nhu cầu KH&CN Năng lực NCKH của bản thân còn hạn chế Trang thiết bị cho công tác NCKH quá lạc hậu Chính sách bảo hộ quyền tác giả còn nhiều hạn chế Thu nhập từ làm NCKH quá thấp so với làm các việc khác

Định mức chi không phù hợp Cơ chế quản lý NCKH còn mang nặng tính xin-cho Thiếu điều kiện vật chất (thiết bị, vật liệu, tư liệu…) Chưa gắn kết được công tác NCKH và CGCN với người sử dụng kết quả Câu 4. Theo Thầy/Cô, những yếu tố dưới đây có ảnh hưởng thế nào đến khả năng phát huy năng lực nghiên cứu của nhóm nghiên cứu? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Không ảnh hưởng; 2-Ảnh hưởng ít; 3-Ảnh hưởng vừa phải; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều)

Nội dung đánh giá

Điểm

Điểm

Năng lực đội ngũ còn kém

Nội dung đánh giá Kinh phí nghiên cứu còn hạn hẹp Thu nhập từ NC còn thấp dẫn tới chưa tạo động lực Nhu cầu sử dụng kết quả NC trong xã hội còn thấp

Thiếu gắn kết NC và sử dụng nên SP không phù hợp với nhu cầu thực tiễn Thiếu gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu nên chất lượng sản phẩm nghiên cứu còn thấp Thiết chế quản lý các đơn vị nghiên cứu triển khai chưa thích hợp, còn bao cấp Thị trường công nghệ chưa phát triển Chế độ hỗ trợ còn chưa rõ ràng đối với NCCB, NC có độ rủi ro cao Chế đội đãi ngộ chưa cao đối với các SP mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nguồn tư liệu phục vụ NC còn hạn chế

Khả năng sử dụng máy tính, tra cứu thông tin trên mạng Internet

Phương tiện nghiên cứu còn thiếu và lạc hậu Trở ngại ngôn ngữ Môi trường nghiên cứu còn chưa thật sự dân chủ Nhu cầu đổi mới CN ở các doanh nghiệp còn thấp Thủ tục thanh toán còn phiền phức Hiệu lực của chế độ bản quyền chưa rõ ràng

Câu 5. Theo Thầy/Cô, mức độ ảnh hưởng của những yếu tố sau đây đến việc xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu: (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không ảnh hưởng; 2- Ảnh hưởng ít; 3-Ảnh hưởng vừa phải; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều)

Điểm

Điểm

Nội dung đánh giá Chính sách không tạo động lực làm việc nhóm Thiếu đầu tư kinh phí cho nhóm nghiên cứu Không tìm kiến được nguồn kinh phí để đảm bảo cho hoạt động của nhóm Quyền lợi không được đảm bảo Không minh bạch trong phân chia lợi ích

Nội dung đánh giá Thiếu cán bộ nhà khoa học có uy tín và tầm ảnh hướng lớn Thiếu môi trường và phương tiện làm việc Trưởng nhóm không tạo được sự gắn kết giữa các thành viên Thiếu kỹ năng làm việc nhóm Sự khác nhau về cá tính của mỗi thành viên Câu 6. Xin Thầy/cô cho biết mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung và cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài các cấp hiện nay? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không đảm bảo yêu cầu; 2-Đảm bảo một phần yêu cầu; 3-Cơ bản đảm bảo yêu cầu; 4-Đa phần đảm bảo yêu cầu; 5-Đảm bảo yêu cầu)

Nội dung đánh giá

Chọn đúng nội dung cần làm

Điểm Chọn đúng người/đơn vị có năng lực nhất để thực hiện

Đề tài cấp nhà nước Đề tài cấp Bộ Đề tài Quỹ Nafosted Đề tài cấp ĐHQGHN Đề tài cấp đơn vị trực thuộc ĐHQGHN

Câu 7. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về mức độ không đảm bảo yêu cầu trong việc tuyển chọn các cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài nghiên cứu? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng)

Điểm

Điểm

Nội dung đánh giá Chưa công khai và thông báo rộng rãi đến các đơn vị/cá nhân có khả năng NC Hội đồng tuyển chọn còn nể nang dễ dãi Có tiêu cực trong tuyển chọn hoặc tuyển chọn dựa vào mối quan hệ

Nội dung đánh giá Chưa lấy ý kiến rộng rãi về nội dung nghiên cứu của đề tài trên cơ sở định hướng đã xác định Văn bản quy định việc tuyển chọn còn chưa hợp lý Hội đồng tuyển chọn không đủ năng lực Câu 8. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về mức độ không đảm bảo tính nghiêm túc và chính xác trong kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu đề tài/dự án hiện nay? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng)

Điểm

Nội dung đánh giá

Điểm

Hội đồng đánh giá có hạn chế về năng lực Hội đồng đánh giá có nể nang, dễ dãi Tiêu chí đánh giá chưa rõ ràng

Nội dung đánh giá Văn bản quy định còn chưa chặt chẽ, hợp lý Quá trình thực hiện có tiêu cực Cơ chế đánh giá không theo thông lệ quốc tế

Câu 9. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về nguyên nhân nghiên cứu sau khi hoàn thành chưa đưa vào thực tiễn ? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng)

Điểm

Nội dung đánh giá

Điểm

Nội dung đánh giá Công tác NCKH còn xa rời thực tế Nhu cầu đổi mới CN của doanh nghiệp/xã hội còn thấp Chưa có điều kiện để nhà khoa học giới thiệu sản phẩm

Việc tuyển chọn đề tài chưa hợp lý Doanh nghiệp chưa có niềm tin vào các thành quả NCKH trong nước Vấn đề sở hữu trí tuệ chưa đảm bảo dẫn đến nhà khoa học ngại công bố rộng rãi kết quả NC của mình

Câu 10. Theo Thầy/Cô, chế độ đãi ngộ hiện nay đối với những kết quả nghiên cứu được đánh giá có hiệu quả lớn, có giá trị khoa học cao đã phù hợp chưa? (Vui lòng cho điểm từ 1- 5 vào ô tương ứng: 1-Không phù hợp; 2-Chưa phù hợp; 3-Khá phù hợp; 4-Phù hợp 5-Hoàn toàn phù hợp)

Nội dung đánh giá

Điểm

Giá trị vật chất Tuyên dương, phong tặng Bảo hộ bản quyền Câu 11. Theo kinh nghiệm quốc tế, để được thành lập, NNC mạnh cần đạt được những tiêu chí dưới đây. Xin Thầy/Cô đánh giá mức độ đạt được từng tiêu chí của các nhóm nghiên mạnh hiện nay? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không đạt; 2-Đạt mức thấp; 3-Đạt mức trung bình; 4-Đạt mức cao; 5-Hoàn toàn đạt được)

Nội dung

Điểm

Có định hướng nghiên cứu lâu dài, đi kèm với đó là kế hoạch, nhiệm vụ và kinh phí để triển khai hoạt động nghiên cứu với thời gian tối thiểu 3 năm. Có tối thiểu 6 thành viên nòng cốt, mỗi thành viên phải có ít nhất 05 công trình nghiên cứu đã công bố (gồm ấn phẩm hoặc các sẩn phẩm sáng tạo) trong 3 năm trước đó (tính từ thời điểm nộp hồ sơ để được công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh) Các thành viên nòng cốt phải có ít nhất 600.000 USD thu nhập từ nghiên cứu (must have at least $600.000 in external research income) đối với lĩnh vực khoa học công nghệ và sức khỏe hoặc 300.000 USD đối với lĩnh vực kinh tế, khoa học xã hội và nhân văn, thiết kế sáng tạo và nghệ thuật trong 3 năm trước đó Mỗi thành viên nòng cốt phải có thời gian hướng dẫn sinh viên nghiên cứu trong ít nhất 1 học kỳ.

Câu 12. Thầy/Cô đánh giá thế nào về tác động của những chính sách dưới đây đối với sự phát triển nhóm nghiên cứu mạnh (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Rất hạn chế; 2- Hạn chế; 3-Bình thường; 4- Tích cực; 5- Rất tích cực)

Nội dung đánh giá

Điểm

Nội dung đánh giá

Điểm

Chính sách đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực

Tuyển dụng đặc cách cán bộ khoa học có trình độ tiến sĩ Được hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực hiện chính sách thu hút các CBKH mạnh trong và ngoài nước

Trưởng NNC mạnh được nhận hệ số trách nhiệm quản lý 0.6 Được đầu tư kinh phí NC theo phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN hoặc đề xuất của NNC

Điểm

Điểm

Nội dung đánh giá Định mức giảng dạy không quá 150 giờ quy chuẩn/năm Trưởng NNC mạnh được bố trí nơi làm việc và sinh hoạt khoa học

Được truy cập thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI, Sciendirect

GS dưới 50 tuổi, PGS dưới 45 tuổi, TS, TSKH dưới 40 tuổi được ưu tiên giao những nhiệm vụ đào tạo, NCKH đặc biệt; Được trả thu nhập thỏa đáng theo hiệu quả công tác trên cơ sở thỏa thuận giữa đơn vị và CBKH

Nội dung đánh giá Sau 5 năm giảng dạy được nghỉ 01 học kỳ để tập trung cho nghiên cứu Được ưu tiên nhận hướng dẫn NCS (kể cả NCS nước ngoài) và học viên cao học Hỗ trợ CB tham gia các hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế nếu có ấn phẩm xuất bản trong hệ thống của ISI hoặc Scopus Được cấp kinh phí để cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước và nước ngoài Khen thưởng, vinh danh CBKH nước ngoài được đơn vị bố trí chỗ ở, phương tiện đi lại, chỗ làm việc và các trang thiết bị cần thiết cho nghiên cứu Hỗ trợ kinh phí để xuất bản các công trình khoa học, sách chuyên khảo, các phát minh, sáng chế

Ưu tiên tiên cao nhất trong việc tham gia hoặc chủ trì biên soạn giáo trình, bài giảng, tham gia các hội đồng đánh giá đề tài, dự án KHCN Hỗ trợ đối với các công bố quốc tế trong hệ thống ấn phẩm của ISI hoặc Scopus

Ưu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu... NCS của nhóm được hỗ trợ chỗ ở, tham gia thực hiện đề tài cùng NNC và hưởng kinh phí theo đề tài; ưu tiên tham gia đề án 911 và các chương trình học bổng khác CBKH có trình độ tiến sĩ trở lên, giảng dạy chuyên môn bằng ngoại ngữ sẽ được ưu tiên xét duyệt đề tài KHCN với mức tối thiểu là 50 triệu đồng

Chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu

Được ưu tiên sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng chung Phát triển nguồn lực thông tin Hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên cho NNC mạnh

Được đầu tư trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi Sắp xếp và kiện toàn các tổ chức NCKH (NNC mạnh, Trung tâm NC, PTN trọng điểm, PTN chuyên đề, khu chế thử…) Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN Phát triển quỹ khoa học và công nghệ Xây dựng tạp chí đạt chuẩn quốc tế

Tạo lập thị trường công nghệ Hỗ trợ khởi nghiệp NNC mạnh được bố trí phòng làm việc

Chính sách hợp tác và phát triển

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các doanh nghiệp Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu trong nước

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các địa phương Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu nước ngoài

Điểm

Điểm

Nội dung đánh giá Nội dung chưa tạo được động lực cho sự phát triển NNC mạnh

Điều chỉnh, thay đổi nội dung chậm so với thực tiễn Quá trình lấy ý kiến đóng góp chưa thật rộng rãi, dân chủ

Câu 13. Xin Thầy/Cô đánh giá những nguyên nhân dẫn đến việc những chính sách được ban chưa phù hợp với thực tế? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2- Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng) Nội dung đánh giá Sự phối hợp giữa ĐHQGHN và các đơn vị có liên quan trong quá trình soạn thảo chưa tốt Thời gian chuẩn bị văn bản lâu; nội dung văn bản thể hiện không rõ ràng Hướng dẫn thiếu chính xác/thiếu chi tiết Nhóm chịu tác động bởi chính sách chưa được tham gia vào quá trình làm chính sách

Câu 14. Xin Thầy/Cô cho biết mức độ theo dõi, đánh giá tác động của chính sách phát triển phát triển NNC mạnh đang được triển khai? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Không bao giờ; 2-Hiếm khi; 3-Thỉnh thoảng; 4-Thường xuyên; 5-Rất thường xuyên)

Điểm

Nội dung đánh giá

Điểm

Nội dung đánh giá Tổ chức khảo sát, lấy ý kiến của các thành viên trong NNC theo mẫu Tổ chức sơ kết/đánh giá chính sách theo chuyên đề

Lập bảng thống kê số lượng và chất lượng của các NNC Cử cán bộ tham dự hoạt động của NNC Lấy ý kiến từ các trưởng NNC Câu 15. Xin Thầy/Cô cho biết mức độ thực hiện các nội dung dưới đây sau các đợt kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện chính sách? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Không thực hiện; 2- Hiếm khi thực hiện; 3- Làm chiếu lệ; 4-Thực hiện ngay; Thực hiện ngay và quyết liệt)

Điểm

Điểm

Nội dung đánh giá

Nội dung đánh giá Xem xét nội dung cần thiết để điều chỉnh chính sách Xem xét lại các điều kiện thực thi chính sách

Nội dung đánh giá

Điểm

Điểm

Do hành chính quan liêu

Xem xét hiệu quả của chính sách Phân tích các vấn đề của chính sách Câu 16. Theo Thầy/Cô, những nguyên nhân nào sau đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về việc kết quả kiểm tra, đánh giá không được sử dụng hoặc chậm được sử dụng trong điều chỉnh chính sách? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng) Nội dung đánh giá Do không có kinh phí để thực hiện việc này Do không rõ trách nhiệm ai/bộ phận nào phải tiếp thu, điều chỉnh chính sách

Do cán bộ không có động cơ thúc đẩy thực hiện việc này Câu 17. Xin Thầy/Cô cho biết mức độ khó khăn trong quá trình thực thi chính sách? (Trong đó: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5- Hoàn toàn đúng)

Điểm

Điểm

Nội dung đánh giá Cán bộ ít không bao quát hết

Kinh phí dành cho công tác kiểm tra, tổng kết chính sách quá ít Do chính sách còn thiếu nên lúng túng

Nội dung đánh giá Kính phí đầu tư thực hiện chính sách còn hạn chế Do trình độ cán bộ thực hiện chính sách còn nhiều hạn chế Văn bản chính sách không rõ nên khó vận dụng

Câu 18. Thực trạng hiện nay cho thấy, việc giải thể các nhóm nghiên cứu hoạt động không hiệu quả không thực hiện được, quan điểm của Thầy/Cô thế nào về những rào cản sau đây: (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn không đồng ý; 2-Không đồng ý; 3- Phân vân; 4- Đồng ý; 5-Hoàn toàn đồng ý)

Điểm

Điểm

Nội dung đánh giá Chính sách không quy định cụ thể về việc giải thể nhóm nghiên cứu

Nội dung đánh giá Bệnh hình thức, coi nhóm nghiên cứu là vật trang điểm cho trường đại học Ngại đụng chạm vì Trưởng nhóm là các nhà khoa học đầu đàn, đầu ngành

Ngại đụng chạm vì Trưởng nhóm nghiên cứu là những người giữ chức vụ cao trong cơ quan Câu 19. Để thực hiện tốt hơn chính sách phát triển nhóm nghiên cứu mạnh, theo Thầy/Cô đội ngũ cán bộ hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách của ĐHQGHN/đơn vị thành viên cần chú ý nâng cao hơn những mặt nào sau đây? (Trong đó: 1-Không cần thiết; 2-Ít cần thiết; 3-Khá cần thiết; 4-Cần thiết; 5-Rất cần thiết)

Điểm

Nội dung đánh giá

Điểm

Nội dung đánh giá Khắc phục thói quan liêu Khắc phục tính ỷ lại, chờ cấp trên trong khi có thể tự giải quyết

Năng lực vận dụng chính sách Tăng cường nắm bắt tình hình thực tế ở cơ sở Khả năng phối kết hợp các đơn vị liên quan Câu 20. Theo thầy/cô trường đại học cần tập trung vào những chính sách nào sau đây để xây dựng và phát huy hơn nữa vai trò của các NNC mạnh trong thời gian tới: (Trong đó: 1- Không cần thiết; 2-Ít cần thiết; 3-Khá cần thiết; 4-Cần thiết; 5-Rất cần thiết)?

Nội dung đánh giá

Điểm

Điểm

Trọng dụng nhà khoa học trình độ cao Có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút các nhà khoa học có trình độ cao ở ngoài nước về làm việc Xây dựng chế độ đãi ngộ thích hợp đối với những phát minh, sáng chế, cải tiến công nghệ nhằm tạo động lực cho nhà khoa học Hỗ trợ chế độ bảo hộ sản phẩm KH&CN, tạo điều kiện cho tri thức yên tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ Xây dựng và mở rộng Quỹ KH&CN

Tạo dựng môi trường nghiên cứu thuận lợi, minh bạch

Nội dung đánh giá Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ khoa học trình độ cao Ưu tiên đầu tư kinh phí NC theo phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN cho các NNC mạnh Ưu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu... Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước căn cứ vào thế mạnh của từng lĩnh vực Đầu tư trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi Đối mới chính sách tài chính theo hướng công khai, minh bạch, khoán đến sản phẩm đầu ra.

Câu 21. Theo Thầy/Cô để phát triển những nhóm nghiên cứu mạnh, hình thành các trường phái nghiên cứu trong trường đại học, cần những chính sách gì?

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

Một lần nữa xin chân thành cảm ơn Thầy/cô đã tham gia trả lời !

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN __________________

PHIẾU XIN Ý KIẾN (Dùng cho các thành viên của Nhóm nghiên cứu)

Xin cam đoan những ý kiến của Thầy/Cô chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu và

Thưa Quý Thầy/Cô Trong phạm vi nghiên cứu của luận án chúng tôi đang thực hiện, chúng tôi đang tiến hành lấy ý của Thầy/Cô về chính sách phát triển nhóm nghiên cứu (NNC) mạnh ở ĐHQGHN. Để có cơ sở cho việc đề xuất giải pháp xây dựng và hoàn thiện chính sách, xin thầy cô vui lòng trả lời một số câu hỏi dưới đây. Sự cộng tác tích cực của Thầy/Cô thông qua việc trả lời một cách chân thực, đầy đủ vào phiếu hỏi này là việc làm có ý nghĩa nhất để giúp chúng tôi hoàn thành tốt mục tiêu nghiên cứu của mình. được giữ bí mật.

Xin trân thành cảm ơn sự cộng tác của Thầy/Cô.

Câu 1. Xin Thầy/Cô cho biết một số thông tin về cá nhân

1. Nam 

Vui lòng tích dấu vào ô phù hợp hoặc điền thông tin vào khoảng trống 2. Nữ 

1.1. Giới tính 1.2. Tuổi:………………… Thâm niên công tác giảng dạy/NCKH: ………………năm 1.3. Chức danh-học vị:

2. Thạc sĩ  3. Tiến sĩ/TSKH  5. GS-TS 

1. Cử nhân/Kỹ sư  4. PGS-TS  Nhận bằng tốt nghiệp với học vị cao nhất ở? 1. Trong nước 

2.Nước ngoài 

2. Khoa học kỹ thuật và công nghệ 

1. Khoa học tự nhiên  3. Khoa học xã hội và nhân văn  4. Khoa học y sinh  5. Khoa học nông nghiệp  6. Khác (xin ghi rõ)……………………………………………………………………

1.4 . Lĩnh vực thầy/cô tham gia giảng dạy/NCKH: 1.5 Xin thầy/cô cho biết vai trò của thầy/cô trong nhóm nghiên cứu?

☐ Trưởng nhóm NC mạnh ☐ Thành viên của nhóm NC mạnh ☐ Cộng tác viên của nhóm NC mạnh ☐ Trưởng nhóm NC khác ☐ Thành viên của nhóm NC khác ☐ Cộng tác viên của nhóm NC khác

(Nhóm NC khác được hiểu là nhóm nghiên cứu chưa được công nhận là NNCM)

1.6. Xin Thầy/Cô cho biết, thời gian giảng dạy trung bình (số tiết quy đổi/năm học) của Thầy/Cô là …..….. tiết/năm.

1.7. Việc sử dụng quỹ thời gian làm việc của thầy/cô dành cho các hoạt động sau:

Các hoạt động

Nghiên cứu khoa học

Tỉ lệ thời gian (%) …………………………….

Giảng dạy

…………………………….

Học tập/bồi dưỡng nâng cao trình độ Quản lý Các hoạt động xã hội khác

……………………………. ……………………………. …………………………….

Cộng:

100%

………………

……………… ……………… ……………… ………………

………………

Câu 2. Xin Thầy/Cô cho biết những kết quả/thành tích đã đạt được trong 5 năm trở lại đây: - Số lượng sách chuyên khảo mà Thầy/Cô là tác giả hoặc đồng tác giả ……………… - Số công trình/bài báo được công bố ở nước ngoài (không thuộc hệ thống ISP/Scopus) - Số công trình/bài báo được công bố ở nước ngoài (thuộc hệ thống ISI/Scopus) - Số công trình/bài báo công bố trên các tạp chí khoa học trong nước - Số sản phẩm đạt giải thưởng KH&CN. - Số sản phẩm KH&CN hoàn chỉnh, có thể chuyển giao và thương mại hóa - Số lần tham dự hội nghị/hội thảo quốc tế với tư cách là báo cáo viên được mời (invited speaker) - Số đề tài các cấp Thầy/Cô chủ trì đã và đang chủ trì ……………… - Số đề tài các cấp Thầy/Cô tham gia đã và đang tham gia ……………… Câu 3. Xin Thầy/Cô đánh giá mức độ đóng góp của nhóm nghiên cứu mạnh đối với việc đào tạo, nghiên cứu và phục vụ xã hội? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Rất hạn chế; 2- Hạn chế; 3-Bình thường; 4-Tích cực; 5-Rất tích cực)

Điểm

Điểm

Nội dung đánh giá Hỗ trợ sự phát triển và duy trì một môi trường nghiên cứu hợp tác, chất lượng cao

Tập trung phát triển các lĩnh vực sở trưởng trong nghiên cứu và đào tạo, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, xuyên ngành

Nội dung đánh giá Hỗ trợ đổi mới nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, môi trường và xã hội trong tương lai, trong lĩnh vực Trường hoạt động Đảm bảo kết quả nghiên cứu có đóng góp thiết thực trong việc phát triển lĩnh vực chuyên môn của trường đại học, và đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước Đảm bảo nghiên cứu chất lượng cao để củng cố và tăng cường các chương trình đào tạo của trường đại học

Tăng cường và hỗ trợ đào tạo nghiên cứu và khuyến khích sự tham gia của sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh Cung cấp các cơ hội và hỗ trợ cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh để tạo nên các kết quả nghiên cứu chất lượng cao, phát triển thành tích nghiên cứu và xây dựng sự nghiệp nghiên cứu thành công

Tăng cường các cơ hội để đạt được nguồn tài trợ từ các Quỹ hỗ trợ nghiên cứu trong và ngoài nước cho hoạt động nghiên cứu trọng tâm Cung cấp cho khách hàng những kết quả nghiên cứu hữu ích, kịp thời và hiệu quả

Nội dung đánh giá

Nội dung đánh giá

Câu 4. Theo Thầy/Cô, những nguyên nhân liệt kê dưới đây đã ảnh hưởng thế nào đến hiệu quả hoạt động của Thầy/Cô? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không ảnh hưởng; 2-Ảnh hưởng ít; 3-Bình thường; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều) Điểm

Giảng dạy quá nhiều Công tác quản lý quá bận rộn Kinh phí nghiên cứu khoa học eo hẹp

Điểm

Định mức chi không phù hợp

Thiếu thông tin về NCKH hiện đại Thị trường công nghệ chưa phát triển Thiếu thông tin về nhu cầu KH&CN Năng lực NC của bản thân còn hạn chế Trang thiết bị cho công tác NCKH quá lạc hậu Chính sách bảo hộ quyền tác giả còn nhiều hạn chế Thu nhập từ làm NCKH quá thấp so với làm các việc khác

Cơ chế quản lý NCKH còn mang nặng tính xin-cho Thiếu điều kiện vật chất (thiết bị, vật liệu, tư liệu…) Chưa gắn kết được công tác NCKH và CGCN với người sử dụng kết quả

Câu 5. Theo Thầy/Cô, những yếu tố dưới đây có ảnh hưởng thế nào đến khả năng phát huy năng lực nghiên cứu của nhóm nghiên cứu? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Không ảnh hưởng; 2-Ảnh hưởng ít; 3-Ảnh hưởng vừa phải; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều)

Nội dung đánh giá

Điểm

Điểm

Năng lực đội ngũ còn kém

Thiếu gắn kết NC và sử dụng nên SP không phù hợp với nhu cầu thực tiễn Thiếu gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu nên chất lượng sản phẩm nghiên cứu còn thấp Thiết chế quản lý các đơn vị nghiên cứu triển khai chưa thích hợp, còn bao cấp Thị trường công nghệ chưa phát triển Chế độ hỗ trợ còn chưa rõ ràng đối với NCCB, NC có độ rủi ro cao Chế đội đãi ngộ chưa cao đối với các SP mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nguồn tư liệu phục vụ NC còn hạn chế

Khả năng sử dụng máy tính, tra cứu thông tin trên mạng Internet

Nội dung đánh giá Kinh phí nghiên cứu còn hạn hẹp Thu nhập từ NC còn thấp dẫn tới chưa tạo động lực Nhu cầu sử dụng kết quả NC trong xã hội còn thấp Phương tiện nghiên cứu còn thiếu và lạc hậu Trở ngại ngôn ngữ Môi trường nghiên cứu còn chưa thật sự dân chủ Nhu cầu đổi mới CN ở các doanh nghiệp còn thấp Thủ tục thanh toán còn phiền phức Hiệu lực của chế độ bản quyền chưa rõ ràng

Câu 6. Theo Thầy/Cô, mức độ ảnh hưởng của những yếu tố sau đây đến việc xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu: (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không ảnh hưởng; 2- Ảnh hưởng ít; 3-Ảnh hưởng vừa phải; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều)

Điểm

Điểm

Nội dung đánh giá Thiếu cán bộ nhà khoa học có uy tín và tầm ảnh hướng lớn Thiếu môi trường và phương tiện làm việc Trưởng nhóm không tạo được sự gắn kết giữa các thành viên

Nội dung đánh giá Chính sách không tạo động lực làm việc nhóm Thiếu đầu tư kinh phí cho nhóm nghiên cứu Không tìm kiến được nguồn kinh phí để đảm bảo cho hoạt động của nhóm Quyền lợi không được đảm bảo Không minh bạch trong phân chia lợi ích

Thiếu kỹ năng làm việc nhóm Sự khác nhau về cá tính của mỗi thành viên Câu 7. Xin Thầy/cô cho biết mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung và cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài các cấp hiện nay? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không đảm bảo yêu cầu; 2-Đảm bảo một phần yêu cầu; 3-Cơ bản đảm bảo yêu cầu; 4-Đa phần đảm bảo yêu cầu; 5-Đảm bảo yêu cầu)

Nội dung đánh giá

Chọn đúng nội dung cần làm

Điểm Chọn đúng người/đơn vị có năng lực nhất để thực hiện

Đề tài cấp nhà nước Đề tài cấp Bộ Đề tài Quỹ Nafosted Đề tài cấp ĐHQGHN Đề tài cấp đơn vị trực thuộc ĐHQGHN

Câu 8. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về mức độ không đảm bảo yêu cầu trong việc tuyển chọn các cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài nghiên cứu? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng)

Nội dung đánh giá

Điểm

Nội dung đánh giá

Điểm

Chưa lấy ý kiến rộng rãi về nội dung nghiên cứu của đề tài trên cơ sở định hướng đã xác định

Chưa công khai và thông báo rộng rãi đến các đơn vị/cá nhân có khả năng NC

Văn bản quy định việc tuyển chọn còn chưa hợp lý

Hội đồng tuyển chọn còn nể nang dễ dãi

Hội đồng tuyển chọn không đủ năng lực

Có tiêu cực trong tuyển chọn hoặc tuyển chọn dựa vào mối quan hệ

Câu 9. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về mức độ không đảm bảo tính nghiêm túc và chính xác trong kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu đề tài/dự án hiện nay? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng)

Nội dung đánh giá

Điểm

Nội dung đánh giá

Điểm

Văn bản quy định còn chưa chặt chẽ, hợp lý

Hội đồng đánh giá có hạn chế về năng lực

Quá trình thực hiện có tiêu cực

Hội đồng đánh giá có nể nang, dễ dãi

Tiêu chí đánh giá chưa rõ ràng

Cơ chế đánh giá không theo thông lệ quốc tế Câu 10. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về nguyên nhân nghiên cứu sau khi hoàn thành chưa đưa vào thực tiễn ? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4- Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng) Nội dung đánh giá

Nội dung đánh giá

Điểm

Điểm

Công tác NCKH còn xa rời thực tế

Việc tuyển chọn đề tài chưa hợp lý

Nhu cầu đổi mới CN của doanh nghiệp/xã hội còn thấp

Doanh nghiệp chưa có niềm tin vào các thành quả NCKH trong nước

Chưa có điều kiện để nhà khoa học giới thiệu sản phẩm

Vấn đề sở hữu trí tuệ chưa đảm bảo dẫn đến nhà khoa học ngại công bố rộng rãi kết quả NC của mình

Câu 11.Theo Thầy/Cô, chế độ đãi ngộ hiện nay đối với những kết quả nghiên cứu được đánh giá có hiệu quả lớn, có giá trị khoa học cao đã phù hợp chưa? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không phù hợp; 2-Chưa phù hợp; 3-Khá phù hợp; 4-Phù hợp 5-Hoàn toàn phù hợp)

Nội dung đánh giá

Điểm

Giá trị vật chất

Tuyên dương, phong tặng

Bảo hộ bản quyền

Câu 12. Theo kinh nghiệm quốc tế, để được thành lập, NNC mạnh cần đạt được những tiêu chí dưới đây. Xin Thầy/Cô cho biết mức độ đạt được của từng tiêu chí? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không đạt; 2-Đạt mức thấp; 3-Đạt mức trung bình; 4-Đạt mức cao; 5-Hoàn toàn đạt được)

Điểm

Nội dung

Có định hướng nghiên cứu lâu dài, đi kèm với đó là kế hoạch, nhiệm vụ và kinh phí để triển khai hoạt động nghiên cứu với thời gian tối thiểu 3 năm. Có tối thiểu 6 thành viên nòng cốt, mỗi thành viên phải có ít nhất 05 công trình nghiên cứu đã công bố (gồm ấn phẩm hoặc các sẩn phẩm sáng tạo) trong 3 năm trước đó (tính từ thời điểm nộp hồ sơ để được công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh) Các thành viên nòng cốt phải có ít nhất 600.000 USD thu nhập từ nghiên cứu (must have at least $600.000 in external research income) đối với lĩnh vực khoa học công nghệ và sức khỏe hoặc 300.000 USD đối với lĩnh vực kinh tế, khoa học xã hội và nhân văn, thiết kế sáng tạo và nghệ thuật trong 3 năm trước đó Mỗi thành viên nòng cốt phải có thời gian hướng dẫn sinh viên nghiên cứu trong ít nhất 1 học kỳ.

Câu 13. Thầy/Cô đánh giá thế nào về tác động của những chính sách dưới đây đối với sự phát triển nhóm nghiên cứu mạnh (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Rất hạn chế; 2- Hạn chế; 3-Bình thường; 4- Tích cực; 5- Rất tích cực)

Nội dung đánh giá

Điểm

Nội dung đánh giá

Điểm

Chính sách đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực

Trưởng NNC mạnh được nhận hệ số trách nhiệm quản lý 0.6 Được đầu tư kinh phí NC theo phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN hoặc đề xuất của NNC

Tuyển dụng đặc cách cán bộ khoa học có trình độ tiến sĩ Được hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực hiện chính sách thu hút các CBKH mạnh ở trong và ngoài nước Định mức giảng dạy không quá 150 giờ quy chuẩn/năm Trưởng NNC mạnh được bố trí nơi làm việc và sinh hoạt khoa học

Được truy cập thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI, Sciendirect

Sau 5 năm giảng dạy được nghỉ 01 học kỳ để tập trung cho nghiên cứu Được ưu tiên nhận hướng dẫn NCS (kể cả NCS nước ngoài) và học viên cao học Hỗ trợ CB tham gia các hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế nếu có ấn phẩm xuất bản trong hệ thống của ISI hoặc Scopus Được cấp kinh phí để cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước và nước ngoài

GS dưới 50 tuổi, PGS dưới 45 tuổi, TS, TSKH dưới 40 tuổi được ưu tiên giao những nhiệm vụ đào tạo, NCKH đặc biệt;

Khen thưởng, vinh danh

Được trả thu nhập thỏa đáng theo hiệu quả công tác trên cơ sở thỏa thuận giữa đơn vị và CBKH

CBKH nước ngoài được đơn vị bố trí chỗ ở, phương tiện đi lại, chỗ làm việc và các trang thiết bị cần thiết cho nghiên cứu

Nội dung đánh giá

Điểm

Nội dung đánh giá

Điểm

Hỗ trợ kinh phí để xuất bản các công trình khoa học, sách chuyên khảo, các phát minh, sáng chế

Ưu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu...

Ưu tiên tiên cao nhất trong việc tham gia hoặc chủ trì biên soạn giáo trình, bài giảng, tham gia các hội đồng đánh giá đề tài, dự án KHCN

NCS của nhóm được hỗ trợ chỗ ở, tham gia thực hiện đề tài cùng NNC và hưởng kinh phí theo đề tài; ưu tiên tham gia đề án 911 và các chương trình học bổng khác

Hỗ trợ đối với các công bố quốc tế trong hệ thống ấn phẩm của ISI hoặc Scopus

CBKH có trình độ tiến sĩ trở lên, giảng dạy chuyên môn bằng ngoại ngữ sẽ được ưu tiên xét duyệt đề tài KHCN với mức tối thiểu là 50 triệu đồng

Chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu

Được đầu tư trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi

Được ưu tiên sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng chung

Phát triển nguồn lực thông tin

Hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên cho NNC mạnh

Sắp xếp và kiện toàn các tổ chức NCKH (NNC mạnh, Trung tâm NC, PTN trọng điểm, PTN chuyên đề, khu chế thử…)

Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN

Tạo lập thị trường công nghệ

Hỗ trợ khởi nghiệp

Phát triển quỹ khoa học và công nghệ

Xây dựng tạp chí đạt chuẩn quốc tế

NNC mạnh được bố trí phòng làm việc

Chính sách hợp tác và phát triển

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các doanh nghiệp

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các địa phương

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu trong nước

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu nước ngoài

Câu 14. Theo thầy/cô trường đại học cần tập trung vào những chính sách nào sau đây để xây dựng và phát huy hơn nữa vai trò của các NNC mạnh trong thời gian tới: (Trong đó: 1- Không cần thiết; 2-Ít cần thiết; 3-Khá cần thiết; 4-Cần thiết; 5-Rất cần thiết)?

Nội dung đánh giá

Điểm

Điểm

Trọng dụng nhà khoa học trình độ cao Có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút các nhà khoa học có trình độ cao ở ngoài nước về làm việc Xây dựng chế độ đãi ngộ thích hợp đối với những phát minh, sáng chế, cải tiến công nghệ nhằm tạo động lực cho nhà khoa học

Nội dung đánh giá Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ khoa học trình độ cao Ưu tiên đầu tư kinh phí NC theo phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN cho các NNC mạnh Ưu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu...

Nội dung đánh giá

Điểm

Điểm

Hỗ trợ chế độ bảo hộ sản phẩm KH&CN, tạo điều kiện cho tri thức yên tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ Xây dựng và mở rộng Quỹ KH&CN

Tạo dựng môi trường nghiên cứu thuận lợi, minh bạch

Nội dung đánh giá Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước căn cứ vào thế mạnh của từng lĩnh vực Đầu tư trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi Đối mới chính sách tài chính theo hướng công khai, minh bạch, khoán đến sản phẩm đầu ra.

Câu 15. Theo Thầy/Cô để phát triển những nhóm nghiên cứu mạnh, hình thành các trường phái nghiên cứu trong trường đại học, cần bổ sung những chính sách gì?

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………

Một lần nữa xin chân thành cảm ơn Thầy/cô đã tham gia trả lời !