ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------
Đào Minh Quân
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
(Nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà Nội)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Hà Nội, 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------
Đào Minh Quân
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
(Nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà Nội)
Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số:
Thí điểm
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1. GS.TS. Nguyễn Văn Kim
2. PGS.TS. Đào Thanh Trường
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA THEO QUYẾT NGHỊ
CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN
Người hướng dẫn khoa học
Chủ tịch hội đồng đánh giá Luận án Tiến sĩ PGS.TS. Vũ Cao Đàm GS.TS. Nguyễn Văn Kim
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Đào Minh Quân, nghiên cứu sinh chuyên ngành Quản lý Khoa học và
Công nghệ, khóa QH-2014-X, Khoa Khoa học quản lý, Trƣờng Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, xin cam đoan:
Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của GS.TS.
Nguyễn Văn Kim và PGS.TS. Đào Thanh Trƣờng.
Các thông tin thu đƣợc từ các kết quả nghiên cứu tài liệu, điều tra, phỏng vấn
do tôi trực tiếp thực hiện.
Nghiên cứu trong Luận án không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trƣớc đây
của các tác giả trong và ngoài nƣớc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Nghiên cứu sinh
Đào Minh Quân
LỜI CẢM ƠN
Luận án với đề tài “Chính sách phát triển nhóm nghiên cứu mạnh nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ trong các trƣờng đại học”
(Nghiên cứu trường hợp ĐHQGHN) là kết quả học tập và nghiên cứu của tác giả trong
giai đoạn 2014 - 2019, chuyên ngành Quản lý Khoa học và Công nghệ, tại Trƣờng
ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án, tác giả đƣợc GS.TS. Nguyễn
Văn Kim, PGS.TS. Đào Thanh Trƣờng trực tiếp hƣớng dẫn. Sự tận tình chỉ bảo của
hai thầy hƣớng dẫn cùng với sự định hƣớng chuyên môn, gợi mở những hƣớng nghiên
cứu của các nhà khoa học trong ngành đã giúp cho tác giả có điều kiện hoàn thành
luận án của mình. Tác giả xin đƣợc bày tỏ sự biết ơn chân thành đến GS.TS Nguyễn
Văn Kim và PGS.TS Đào Thanh Trƣờng và đội ngũ các nhà khoa học chuyên ngành
Quản lý Khoa học và Công nghệ.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban KHCN, Ban Tổ chức-Cán bộ, Ban Đào tạo,
Trung tâm TT-TV của ĐHQGHN; phòng Quản lý Nghiên cứu khoa học, phòng Đào
tạo, phòng Tổ chức - Cán bộ, phòng Kế hoạch - Tài vụ của các trƣờng thành viên của
ĐHQGHN và đặc biệt là các nhà khoa học, các nhà quản lý của ĐHQGHN đã tạo điều
kiện giúp đỡ để tác giả tiếp cận đƣợc với thực tế nghiên cứu của mình qua nhiều nội
dung từ điều tra số liệu, thu thập dữ liệu, trao đổi ý kiến, phỏng vấn sâu …
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã hết lòng
giúp đỡ, động viên tạo mọi điều kiện trong quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành
luận án.
Xin trân trọng cảm ơn
NCS. Đào Minh Quân
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC ....................................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. 4
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ................................................................ 5
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 8
1. Lý do nghiên cứu..................................................................................................... 8
2. Ý nghĩa của nghiên cứu ......................................................................................... 10
3. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................................ 11
4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 11
5. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 12
6. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................... 12
7. Giả thuyết nghiên cứu ........................................................................................... 12
8. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................... 13
Chƣơng 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC ....................... 19
1.1. Dẫn nhập ..................................................................................................................... 19
1.2. Các công trình nghiên cứu về sự hình thành, đặc điểm, vai trò của NNCM
trong trƣờng đại học ........................................................................................................... 20
1.3. Các công trình nghiên cứu về chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học .. 33
1.4. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu ...................................................... 39
1.5. Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................... 40
Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH
VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH TRONG
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC ............. 41
2.1. Dẫn nhập ................................................................................................................. 41
2.2. Cơ sở lý luận về NNCM trong trƣờng đại học ....................................................... 41
2.2.1. Khái niệm NNC ............................................................................................... 41
2.2.2. Khái niệm và tiêu chí NNCM .......................................................................... 42
2.2.3. Khái niệm và vai trò của hoạt động KH&CN trong trường đại học .............. 45
1
2.2.4. Phân loại NNCM trong trường đại học ............................................................. 48
2.2.5. Vai trò và các mối quan hệ của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả
hoạt động KH&CN của trường đại học ............................................................................ 49
2.2.6. Phát triển NNCM và hiệu quả hoạt động của NNCM trong trường đại học .... 54
2.3. Cơ sở lý luận về chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học ..................... 54
2.3.1. Khái niệm và vai trò của chính sách ............................................................... 54
2.3.2. Khái niệm chính sách phát triển NNCM trong trường đại học ...................... 56
2.3.3. Cấu trúc chính sách phát triển NNCM trong trường đại học ......................... 56
2.3.4. Chu trình chính sách phát triển NNCM trong trường đại học ....................... 58
2.3.5. Tiêu chí đánh giá chính sách phát triển NNCM trong trường đại học ........... 60
2.4. Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................... 62
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÓM NGHIÊN CỨU
MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA ĐẠI HỌC
QUỐC GIA HÀ NỘI ..................................................................................................... 63
3.1. Dẫn nhập ................................................................................................................. 63
3.2. Cơ sở hình thành và phát triển NNCM ở ĐHQGHN ............................................. 64
3.2.1. Tầm nhìn và chiến lược của ĐHQGHN .......................................................... 64
3.2.2. Cơ sở hình thành và cách tiếp cận xây dựng NNCM ở ĐHQGHN ................ 66
3.2.3. Bàn về tiêu chí NNCM của ĐHQGHN ............................................................ 67
3.2.4. Những đặc điểm của NNCM ở ĐHQGHN ...................................................... 71
3.2.5. Những đóng góp của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động
KH&CN ở ĐHQGHN .................................................................................................... 79
3.2.6. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển NNCM ........................................ 85
3.3. Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................... 93
Chƣơng 4. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU
MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ CỦA ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ................................................. 95
4.1. Dẫn nhập ................................................................................................................. 95
4.2. Tổng quan về chính sách của Nhà nƣớc có tác động đến sự hình thành
và phát triển NNCM trong các trƣờng đại học .............................................................. 95
4.3. Những ƣu điểm trong chính sách phát triển NNCM của ĐHQGHN ................... 106
4.3.1. Nhóm chính sách đầu tư, phát triển nguồn nhân lực .................................... 107
4.3.2. Nhóm chính sách cải thiện môi trường và điều kiện nghiên cứu .................. 111
4.3.3. Nhóm chính sách hợp tác và phát triển ........................................................ 116
2
4.4. Những hạn chế của chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN .......................... 120
4.5. Đánh giá tác động của chính sách phát triển NNCM đến hoạt động KH&CN
ở ĐHQGHN ................................................................................................................. 129
4.5.1. Chính sách đầu tư, phát triển nguồn nhân lực ............................................. 129
4.5.2. Chính sách cải thiện môi trường và điều kiện nghiên cứu ........................... 133
4.5.3. Chính sách hợp tác và phát triển .................................................................. 135
4.6. Tiểu kết chƣơng 4 ................................................................................................. 136
Chƣơng 5. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM
NGHIÊN CỨU MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI .................. 138
5.1. Dẫn nhập ............................................................................................................... 138
5.2. Bối cảnh, quan điểm định hƣớng, mục tiêu, nguyên tắc đề xuất giải pháp
hoàn thiện chính sách phát triển NNCM ..................................................................... 138
5.2.1. Bối cảnh bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM ........................ 138
5.2.2. Quan điểm định hướng đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách
phát triển NNCM ......................................................................................................... 142
5.2.3. Mục tiêu đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn hiện chính sách phát triển
NNCM .......................................................................................................................... 145
5.2.4. Nguyên tắc đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển
NNCM .......................................................................................................................... 145
5.3. Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng và phát triển NNCM ................................. 146
5.4. Giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN ......... 156
5.4.1. Biện pháp bổ sung, hoàn thiện về chiến lược ............................................... 158
5.4.2. Các biện pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách............................................. 159
5.4.3. Các biện pháp bổ sung, hoàn thiện quy định về quản lý .............................. 165
5.5. Điều kiện cần và đủ để các giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển
NNCM có tính khả thi ................................................................................................ 167
5.6. Tiểu kết chƣơng 5 ................................................................................................. 169
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.............................................................................. 171
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................................................... 177
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 178
PHỤ LỤC
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NNC: Nhóm nghiên cứu
NNCM: Nhóm nghiên cứu mạnh
NCKH: Nghiên cứu khoa học
KH&CN: Khoa học và Công nghệ
ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội
ĐHKHXH&NV: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
ĐHNC: Đại học nghiên cứu
KQNC: Kết quả nghiên cứu
NCS: Nghiên cứu sinh
NLNC: Năng lực nghiên cứu
XH&NV: Xã hội và Nhân văn
KT&CN: Kỹ thuật và Công nghệ
ĐTB: Điểm trung bình
PTN: Phòng thí nghiệm
PTNTĐ: Phòng thí nghiệm trọng điểm
NC&TK: Nghiên cứu và triển khai
KH&CN: Khoa học và công nghệ
HVCH: Học viên cao học
CTĐT: Chƣơng trình đào tạo
NSNN: Ngân sách nhà nƣớc
CBKH: Cán bộ khoa học
R&D: Research and Development (Nghiên cứu và triển khai)
4
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH
1. Danh mục biểu đồ, hình, hộp
Biểu đồ 3.1: Sự phát triển của NNCM ở ĐHQGHN .................................................... 65
Biểu đồ 3.2: Cấu trúc nhân lực NNCM theo lĩnh vực nghiên cứu ............................... 72
Biểu đồ 3.3: Cấu trúc NNCM theo lĩnh vực nghiên cứu .............................................. 72
Biểu đồ 3.4: Cấu trúc NNCM theo quy mô thành viên ................................................ 73
Biểu đồ 3.5: Cấu trúc trình độ của các Trƣởng NNCM................................................ 73
Biểu đồ 3.6: Cấu trúc trình độ của các thành viên NNCM ........................................... 74
Biểu đồ 3.7: Cấu trúc độ tuổi của Trƣởng NNCM ....................................................... 75
Biểu đồ 3.8: So sánh năng suất khoa học trung bình trong vòng 5 năm của NNCM
theo các lĩnh vực nghiên cứu ......................................................................................... 81
Biểu đồ 3.9: Những yếu tố thuộc về năng lực ảnh hƣởng đến sự phát triển của
NNCM ........................................................................................................................... 86
Biểu đồ 3.10: Những yếu tố thuộc về mối quan hệ và lợi ích ảnh hƣởng đến
sự phát triển của NNCM ................................................................................................ 87
Biểu đồ 3.11: Những yếu tố thuộc về môi trƣờng, chính sách có ảnh hƣởng đến
sự phát triển của NNCM ................................................................................................ 89
Biểu đồ 3.12: Đánh giá mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung,
cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài ...................................................................................... 90
Biểu đồ 3.13: Đánh giá mức độ nghiêm túc, chính xác trong kiểm tra, đánh giá,
nghiệm thu đề tài nghiên cứu ........................................................................................ 92
Hình 2.1: Khung phân tích chính sách phát triển NNCM ............................................ 61
Hình 3.1: Cấu trúc của NNCM ..................................................................................... 72
Hình 5.1: Sơ đồ khung chính sách cấu trúc nghiên cứu của RMIT ........................... 151
Hình 5.2: Khung định hƣớng chiến lƣợc cho ĐHQGHN ........................................... 157
Hộp 2.1: Tiêu chí đánh giá NNCM............................................................................... 43
Hộp 3.1: Tiêu chí đánh giá NNCM của Trƣờng Đại học KHTN, ĐHQGHN .............. 70
Hộp 3.2: Việc xem xét nhân lực khi xét duyệt đề tài còn mang tính hình thức ........... 91
Hộp 3.3: Tiêu cực phí trong tuyển chọn, nghiệm thu và thanh quyết toán đề tài ......... 92
5
Hộp 4.1: Ý kiến của lãnh đạo Viện Chiến lƣợc và Chính sách KH&CN về chính sách
đào tạo đối với NNCM .................................................................................................. 99
Hộp 4.2: Chính sách ban hành không đi kèm với nguồn lực thực hiện ...................... 120
Hộp 4.3: Ý kiến của lãnh đạo ĐHQGHN về thành lập NNCM ................................. 121
Hộp 4.4: Hiện tƣợng mƣợn tên nhà khoa học khi thành lập NNCM .......................... 122
Hộp 4.5: Ý kiến của lãnh đạo ĐHQGHN về hoạt động đánh giá ............................... 124
Hộp 4.6: Thực tế triển khai chính sách ƣu đãi giờ giảng đối với thành viên NNCM ... 125
Hộp 4.7: Ý kiến của nhà khoa học về chính sách thành lập NNCM .......................... 126
Hộp 4.8: Nghịch lý trong triển khai dự án tăng cƣờng NLNC, ngƣời cần thì không
đƣợc giao, ngƣời đƣợc giao thì không cần .................................................................. 127
Hộp 5.1: Tiêu chí thành viên và thành viên nòng cốt của NNC, TTNC, Viện NC .... 153
2. Danh mục các bảng
Bảng 3.1: Đánh giá mức độ đạt đƣợc các tiêu chí quốc tế của NNCM thuộc
ĐHQGHN ...................................................................................................................... 68
Bảng 3.2: Tƣơng quan giữa độ tuổi với số lƣợng bài báo ISI/Scopus.......................... 76
Bảng 3.3: Tƣơng quan giữa độ tuổi với số lƣợng đề tài chủ trì .................................... 76
Bảng 3.4: So sánh giữa chức danh, học vị với số lƣợng bài báo ISI/Scopus ............... 77
Bảng 3.5: Tƣơng quan giữa nhóm chức danh, học vị với số lƣợngđề tài chủ trì ......... 78
Bảng 3.6: Số lƣợng công trình khoa học đƣợc công bố bởi thành viên NNCM .......... 79
Bảng 3.7: So sánh năng suất nghiên cứu trung bình 5 năm của thành viên NNCM
theo lĩnh vực nghiên cứu ............................................................................................... 80
Bảng 3.8: So sánh kết quả nghiên cứu của thành viên NNCM so với mặt bằng chung
của ĐHQGHN ............................................................................................................... 81
Bảng 3.9: Số lƣợng đề tài do thành viên NNCM chủ trì và tham gia........................... 83
Bảng 3.10: Đánh giá mức độ đóng góp của NNCM đối với việc nâng cao
hiệu quả hoạt động KH&CN ......................................................................................... 84
Bảng 3.11: Những yếu tố thuộc về năng lực ảnh hƣởng đến sự phát triển của
NNCM ........................................................................................................................... 85
Bảng 3.12: Những yếu tố thuộc về mối quan hệ và lợi ích ảnh hƣởng đến sự
phát triển của NNCM .................................................................................................... 87
Bảng 3.13: Những yếu tố thuộc về môi trƣờng, chính sách có ảnh hƣởng đến sự
phát triển của NNCM .................................................................................................... 88
6
Bảng 3.14: Đánh giá mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung,
cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài ...................................................................................... 89
Bảng 3.15: Đánh giá mức độ nghiêm túc, chính xác trong kiểm tra, đánh giá,
nghiệm thu đề tài nghiên cứu ........................................................................................ 91
Bảng 4.1: Số liệu thống kế nhân lực theo chức danh và trình độ đào tạo .................. 110
Bảng 4.2: Hiện trạng các PTN tính đến năm 1/3/2016 ............................................... 112
Bảng 4.3: Đối chiếu hiệu quả sau đầu tƣ khai thác hệ thống trang thiết bị ở một số
đơn vị giai đoạn 2005-2015 ......................................................................................... 115
Bảng 4.4: Những nguyên nhân cản trở việc giải thể NNCM ..................................... 123
Bảng 4.5: Nguyên nhân chính sách đƣợc ban hành chƣa phù hợp với thực tế ........... 128
Bảng 4.6: Tỉ lệ cán bộ khoa học năm 2018 so với chỉ tiêu năm 2015 và 2020 .......... 130
Bảng 4.7: Đánh giá tác động của nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực
đến sự phát triển NNCM ............................................................................................. 130
Bảng 4.8: Đánh giá tác động của nhóm chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện
nghiên cứu đến sự phát triển NNCM........................................................................... 134
Bảng 4.9: Đánh giá tác động của nhóm chính sách hợp tác và phát triển đến sự
phát triển NNCM ......................................................................................................... 135
Bảng 5.1: Tƣơng quan nhân lực và kinh phí đƣợc cấp giữa các viện, trung tâm
NC&TK và các trƣờng đại học .................................................................................... 140
Bảng 5.2: Đánh giá mức độ cần thiết của các chính sách đối với sự phát triển
của NNCM ở ĐHQGHN ............................................................................................. 160
7
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Sự quan tâm, đầu tƣ xây dựng và phát triển các NNCM ở các trƣờng đại học
của Việt Nam trong thời gian gần đây phản ánh nhận thức chung rằng các NNCM
trong trƣờng đại học ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lƣợng
đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội. Trong bối cảnh khoa học đang phát
triển theo xu hƣớng liên ngành, các chuyên ngành khoa học liên kết, thâm nhập, hòa
quyện vào nhau đòi hỏi các nhà khoa học cần có cái nhìn, góc tiếp cận liên ngành
trong nghiên cứu và do đó nhu cầu về việc xây dựng mô hình tổ chức mang tính hợp
tác, liên thông giữa các nhà khoa học ở ngay chính chuyên ngành và ở nhiều chuyên
ngành khác nhau nhằm hỗ trợ, bổ sung cho nhau là một vấn đề cấp thiết và thực tiễn.
Có một thực tế khá phổ biến diễn ra trong các trƣờng đại học ở Việt Nam hiện
nay, xét ở góc độ tổ chức dƣờng nhƣ là rào cản bởi xu hƣớng chia cắt và có phần hành
chính hóa trong cả hoạt động nghiên cứu và đào tạo ở các bộ môn chuyên môn. Điều
này đƣợc xem là bình thƣờng của khoa học, nếu nhƣ đồng thời với sự chuyên sâu về
chuyên môn là cơ chế gắn kết, liên kết, hợp tác hay tổ hợp trở lại giữa các bộ môn
nhằm tận dụng thế mạnh của nhau. Nhƣng, thực tế các bộ môn chuyên môn hiện nay
đang cho thấy mỗi bộ môn là một “ốc đảo”, dẫn tới sự chia cắt, phân lập thiếu tinh
thần hợp tác. Xuất phát từ thực tế này, giải pháp mà các trƣờng đại học lựa chọn là xây
dựng các NNC khoa học, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng các NNCM nhằm quy
tụ các nhà khoa có trình độ cao, lấy hợp tác là phƣơng thức hoạt động chủ yếu để nâng
cao hiệu quả cả trong đào tạo và NCKH, đồng thời qua đó góp phần nâng cao hiệu quả
gắn kết giữa các bộ môn chuyên môn.
Với việc xác định NNC, đặc biệt là NNCM nhƣ là các tế bào sống của hoạt động
khoa học, và thậm chí của cả hoạt động đào tạo trong các trƣờng đại học, nhà khoa học
muốn phát triển đƣợc ý tƣởng khoa học, xây dựng trƣờng phái học thuật của mình hoặc
giải quyết một vấn đề khoa học liên ngành phải thiết lập đƣợc nhóm cộng sự và học trò,
tức là phải xây dựng đƣợc NNC. Chính NNC là môi trƣờng khoa học thuận lợi nhất để
các nhà khoa học trao đổi học thuật, tập hợp lực lƣợng và cùng nhau tiếp cận, giải quyết
các vấn đề mới của khoa học, và thƣờng thông qua các hoạt động của nhóm nhƣ xemina
khoa học, hƣớng dẫn NCS. NNC có thể thu hút các nhà khoa học có chuyên môn gần để
phát triển môi trƣờng học thuật chuyên sâu, hoặc thu hút các nhà khoa học của nhiều
8
ngành khác nhau để tập trung tâm sức giải quyết một vấn đề có tính liên ngành. Đồng
thời tạo ra các sản phẩm nghiên cứu có thể chuyển giao và ứng dựng vào thực tiễn[13].
Điều đó phần nào lý giải tại sao, NNCM đƣợc xem là một trong những trụ cột trong việc
giúp các trƣờng đại học xây dựng nền tảng khoa học, đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng
cao và đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
Có nhiều vấn đề quan trọng đƣợc đặt ra khi các trƣờng đại học Việt Nam xây
dựng và phát triển các NNCM cụ thể nhƣ sau: Tại sao các trƣờng đại học cần có các
NNCM? Những lợi ích mà các trƣờng đại học mong muốn đạt đƣợc khi thành lập các
NNCM so với các mô hình nghiên cứu hiện tại là gì? Nguồn lực nào để xây dựng và
phát triển NNCM? Công tác quản trị phù hợp sẽ đƣợc triển khai nhƣ thế nào để thúc
đẩy các NNCM phát triển? Chuẩn mực đối với NNCM là gì? Mức độ tự chủ và các
hình thức chịu trách nhiệm trong quá trình này ra sao? Vai trò của Nhà nƣớc và trƣờng
đại học trong xây dựng và phát triển NNCM là gì? Làm thế nào để quy tụ đƣợc các
nhà khoa học tốt nhất? Những lĩnh vực nào cần đƣợc đầu tƣ để tập trung phát triển?
Nhà nƣớc và các trƣờng đại học cần có chính sách nào để thúc đẩy phát triển NNCM
nhằm tăng cƣờng hiệu quả hoạt động KH&CN? Những câu hỏi này sẽ phần nào đƣợc
phân tích, luận giải qua việc triển khai các nội dung nghiên cứu cụ thể của luận án.
Với mục đích góp phần nhìn nhận, lý giải vấn đề phức tạp nêu trên, tác giả luận
án lựa chọn chủ đề “Chính sách phát triển NNCM nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
KH&CN trong các trường đại học ở Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp ĐHQGHN)”
là nội dung nghiên cứu của mình. Lý do tác giả luận án chọn chủ để nghiên cứu này
bởi đây là một chủ đề mới, khảo sát thực tế, ngƣời viết nhận thấy hiện nay chƣa có
một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về chính sách phát triển các NNCM và đúc
kết thành những đề xuất chính sách một cách cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển các
NNCM trong các trƣờng đại học. Bên cạnh đó, việc lựa chọn ĐHQGHN là khách thể
nghiên cứu bởi, ĐHQGHN có thể xem là trƣờng hợp điểm hình trong việc xây dựng
và phát triển NNCM ở thời điểm hiện tại. Với chiến lƣợc phát triển của mình đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030[42], ĐHQGHN đã khẳng định đang từng bƣớc xây
dựng, phát triển theo định hƣớng một ĐHNC, nâng cao chất lƣợng đào tạo và phục vụ
các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc. Đối với một ĐHNC thì chức năng
nghiên cứu chiếm ƣu thế trong sứ mạng của Nhà trƣờng, nghĩa là nghiên cứu quyết
định bản chất và nội dung của các hoạt động khác nhƣ giảng dạy, học tập, phục vụ xã
hội. Thực tế cho thấy, những đề tài NCKH có quy mô lớn, có tính liên ngành cao nhƣ
9
đề tài cấp nhà nƣớc, đề tài trọng điểm cấp bộ/cấp đại học quốc gia đều đƣợc thực hiện
bởi các NNC, thay vì cá nhân nghiên cứu độc lập. Chính vì vậy, để ĐHQGHN phát
triển thành ĐHNC thì việc xây dựng và phát triển NNC có tính cấp bách và có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn cao trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng chính là một trong những
giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng cả trong đào tạo và nghiên cứu. Ngoài ra,
ĐHQGHN là một trong những trung tâm đào tạo, nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực
lớn nhất của cả nƣớc, với nhiều trƣờng đại học, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu
trực thuộc. KQNC của các nhà khoa học ở ĐHQGHN đã từng bƣớc khẳng định đƣợc
mức độ ảnh hƣởng ở tầm quốc gia và quốc tế. Theo bảng xếp hạng mới nhất của QS
University Ranking Asia 2019 thì ĐHQGHN đứng thứ 124 trong danh sách 150 đại
học hàng đầu châu Á[68] và là 1 trong 2 trƣờng đại học của Việt Nam lọt top 1000
trƣờng đại học xuất sắc nhất thế giới[69]. Vì vậy, ĐHQHGH có thể đƣợc coi là đơn vị
điển hình và có nhiều ý nghĩa cũng nhƣ khả năng suy rộng KQNC đến các cơ sở đào
tạo, nghiên cứu trong cả nƣớc.
Tóm lại, từ những phân tích kể trên, rõ ràng việc nghiên cứu, đánh giá và đề
xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM trong các trƣờng đại
học là cần thiết nhằm kiến tạo môi trƣờng thuận lợi để các nhà khoa học, các NCS, học
viên, sinh viên có thể phát huy khả năng và ý tƣởng sáng tạo trong NCKH nhằm
hƣớng đến mục tiêu: a) Thúc đẩy các sáng kiến mới đặc biệt là trong những lĩnh vực
nghiên cứu đa ngành đang đƣợc quan tâm; b) Huy động và khai thác các nguồn lực
bên trong và bên ngoài để phát triển các chƣơng trình nghiên cứu của nhóm; c) Cung
cấp các chƣơng trình giáo dục và rèn luyện trong hoạt động nghiên cứu và các kỹ năng
liên quan, đặc biệt là đối với sinh viên đại học và sau đại học; d) Phổ biến, truyền bá
tri thức khoa học qua các ấn phẩm, hội thảo, bài giảng,…; đ) Tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động hợp tác đa ngành giữa các học giả và đối tác thông qua mạng Internet và
quá trình trao đổi thông tin; e) Cung cấp, chuyển giao các kết quả nghiên cứu, khóa
đào tạo, huấn luyện, bồi dƣỡng kinh nghiệm và kỹ năng chuyên môn; f) Tăng cƣờng
NLNC; g) Liên kết tri thức, tận dụng đƣợc các ƣu điểm về tính liên ngành.
2. Ý nghĩa của nghiên cứu
Trên phương diện lý thuyết, luận án góp thêm một góc nhìn mới về các khái
niệm NNC, NNCM, hoạt động KH&CN, chính sách phát triển NNCM và tiêu chí
NNCM. Luận án cũng giúp mở rộng sự hiểu biết về vai trò và các mối quan hệ của
NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN trong trƣờng đại học; tiêu chí
10
đánh giá hiệu quả hoạt động KH&CN của NNCM trong trƣờng đại học; cấu trúc chính
sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học; chu trình chính sách phát triển NNCM
trong trƣờng đại học; tiêu chí đánh giá tác động của chính sách phát triển NNCM trong
trƣờng đại học.
Về mặt thực tiễn, luận án chỉ ra thực trạng và vai trò của NNCM ở ĐHQGHN
trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN qua các chiều cạnh cụ thể, bao gồm
quy mô, cơ cấu, tổ chức, hoạt động, đóng góp của NNCM cũng nhƣ những nhân tố tác
động đến sự hình thành và phát triển NNCM. Luận án cũng làm rõ thực trạng chính
sách phát triển NNCM nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN
trên cơ sở phân tích những ƣu điểm, hạn chế và tác động của 3 nhóm chính sách, bao
gồm: Nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực; nhóm chính sách cải thiện
môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu; nhóm chính sách hợp tác và phát triển. Ngoài ra,
luận án còn góp phần quan trọng trong việc chỉ ra những điểm cần bổ sung, hoàn thiện
đối với chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN nhằm không chỉ gia tăng số lƣợng
nhóm mà quan trọng hơn là nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của NNCM. Điểm
cần nói thêm là kết quả nghiên cứu của luận án có thể là tài liệu tham khảo tốt cho các
trƣờng đại học, các viện nghiên cứu trong việc đề ra những chính sách nhằm thúc đẩy
sự hình thành và phát triển NNCM trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là: Chính sách phát triển NNCM nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt KH&CN trong trƣờng đại học
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu
Phạm vi nội dung của luận án đƣợc giới hạn cụ thể nhƣ sau:
- Nội dung thứ nhất là thực trạng và tác động của các NNCM trong hoạt động
KH&CN của trƣờng đại học
- Nội dung thứ hai là thực trạng và tác động của chính sách phát triển NNCM
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN trong trƣờng đại học
- Nội dung thứ ba là đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển NNCM
trong trƣờng đại học
4.2. Phạm vi không gian và thời gian
Giới hạn phạm vi không gian: Luận án chỉ nghiên cứu NNCM ở ĐHQGHN
Giới hạn phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu các nội dung đƣợc đề cập đến
ở trên trong khoảng thời gian chủ yếu từ 2013 đến nay. Việc giới hạn phạm vi thời
11
gian này là vì từ 2013, ĐHQGHN chính thức ban hành chính sách phát triển NNCM.
Ngoài ra, một số văn bản khác liên quan đƣợc ban hành trƣớc năm 2013 cũng đƣợc
xem xét, phân tích.
5. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ thực trạng và những tác động của NNCM đối với hoạt động KH&CN
của các trƣờng đại học cụ thể là trƣờng hợp ĐHQGHN.
- Làm rõ thực trạng và tác động của các chính sách phát triển NNCM đối với
việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN.
- Đề xuất những điểm cần bổ sung, hoàn thiện đối với chính sách phát triển
NNCM ở ĐHQGHN nhằm không chỉ gia tăng số lƣợng nhóm mà quan trọng hơn là
nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của NNCM.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi thứ nhất: Thực trạng các NNCM nhƣ thế nào và các NNCM đã có
những tác động ra sao đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của
ĐHQGHN?
Câu hỏi thứ hai: Thực trạng và tác động của chính sách phát triển NNCM đối
với việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN nhƣ thế nào?
Câu hỏi thứ ba: Chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN hiện nay cần đƣợc
bổ sung, hoàn thiện nhƣ thế nào để không chỉ gia tăng về số lƣợng nhóm mà quan
trọng hơn là tạo ra chất lƣợng từ hiệu quả đạt đƣợc của nhóm trong hoạt động
KH&CN?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết thứ nhất: NNCM ở ĐHQGHN giúp gia tăng số lƣợng ấn phẩm khoa
học, số lƣợng đề tài, góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo và mở rộng hợp tác trong
nghiên cứu.
Giả thuyết thứ hai: Bên cạnh những tác động tích cực, chính sách phát triển
NNCM nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN vẫn còn những
hạn chế nhất định liên quan đến mục tiêu, nội dung và tổ chức thực hiện chính sách.
Giả thuyết thứ ba: Chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN hiện nay cần
đƣợc bổ sung, hoàn thiện trên một số phƣơng diện, cụ thể là xác lập lĩnh vực nghiên
cứu thế mạnh, tự chủ tài chính, và đánh giá hiệu quả hoạt động.
12
8. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Các cách tiếp cận
- Tiếp cận chính sách trong hệ thống thiết chế quản lý: Theo Vũ Cao Đàm hệ
thống thiết chế quản lý bao gồm chiến lƣợc (sự lựa chọn), chính sách (sự đối xử), luật
hay các quy định (sự điều chỉnh)[5, tr.55-56]. Nhƣ vậy, theo cách tiếp cận này, tác giả
luận án tiến hành xem xét chính sách phát triển NNCM trong chiến lƣợc phát triển, các
chính sách đãi ngộ và các quy định cụ thể đối với NNCM của ĐHQGHN.
- Cách tiếp cận đánh giá hậu nghiệm: Xây dựng NNCM ở ĐHQGHN đƣợc
định hƣớng trong chiến lƣợc phát triển của Nhà trƣờng từ năm 2000, và đƣợc đầu tƣ
kể từ năm 2006 đến nay. Tuy nhiên, các chính sách trong nghiên cứu này chủ yếu
đƣợc ban hành trong giai đoạn 2013 trở lại đây và đã triển khai thực hiện khi nghiên
cứu này tiến hành. Do chính sách đã triển khai trong thực tế, nên cách tiếp cận đánh
giá tiên nghiệm không phù hợp và vì vậy cách tiếp cận đánh giá hậu nghiệm đƣợc áp
dụng. Cách tiếp cận này cho phép sử dụng các phƣơng pháp định tính và định lƣợng
trong đánh giá thông qua lấy ý kiến của đối tƣợng hƣởng lợi và các tác nhân liên quan.
Cách tiếp cận này cho phép đánh giá kết quả đạt đƣợc so với mục tiêu đặt ra của chính
sách, cũng nhƣ xác định đƣợc nguyên nhân của các kết quả đạt đƣợc. Nói cách khác,
đánh giá hậu nghiệm cho phép chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa kết quả và quá trình
triển khai thực hiện chính sách.
- Tiếp cận đánh giá tác động thông qua so sánh trước và sau khi thực hiện
chính sách: Trong nghiên cứu này tác giả luận án kết hợp phƣơng pháp định lƣợng và
định tính để đánh giá tác động của các chính sách phát triển NNCM. Các phƣơng pháp
thống kê mô tả, so sánh và ý kiến chuyên gia đƣợc sử dụng. Việc so sánh trƣớc và sau
khi thực hiện chính sách cho biết sự thay đổi của các chỉ số phản ánh tác động. Trong
trƣờng hợp so sánh này, không thể định lƣợng đƣợc tác động chính xác của chính sách
lên đối tƣợng hƣởng lợi hoặc tác nhân liên quan. Ở đây, tác giả luận án giả định rằng
sự thay đổi kết quả có sự đóng góp (tích cực hoặc tiêu cực) của chính sách. Cách tiếp
cận so sánh này cho phép dựa vào số liệu thực tế có thể kiểm chứng đƣợc. Phƣơng
pháp lấy ý kiến chuyên gia cũng cho phép phản ánh tác động của chính sách. Mặc dù
không định lƣợng đƣợc tác động của chính sách, nhƣng cho phép xác định đƣợc hƣớng
tác động (dương tính, âm tính, ngoại biên) của chính sách và nguyên nhân.
- Tiếp cận theo nội dung chính sách, kênh tác động và tác nhân hưởng lợi trực
tiếp từ chính sách: Nghiên cứu này liên quan đến nhiều nhóm chính sách và các chính
13
sách có sự khác nhau về tác nhân tham gia thực hiện, đối tƣợng hƣởng lợi trực tiếp,
kênh truyền dẫn tác động,... Trong mỗi văn bản chính sách có nhiều nội dung khác
nhau, trong khi nghiên cứu chỉ giới hạn ở một số nội dung nhất định đối với mỗi chính
sách. Mỗi chính sách có kênh tác động và đối tƣợng hƣởng lợi trực tiếp, gián tiếp khác
nhau. Vì vậy, căn cứ theo kênh thực hiện và tác động mà mỗi chính sách sẽ có đối
tƣợng khảo sát, chỉ tiêu đánh giá riêng biệt.
- Tiếp cận theo lĩnh vực nghiên cứu và theo cấp quản lý: Định mức tiêu chí xây
dựng NNCM có sự khác nhau về đơn vị triển khai và lĩnh vực nghiên cứu. Các đơn vị
khác nhau có những điểm mạnh, điểm yếu của lĩnh vực nghiên cứu khác nhau nên việc
áp dụng các chính sách ở các đơn vị và lĩnh vực nghiên cứu sẽ khác nhau, tác động
chính sách khác nhau.
Hơn nữa, ngay trong cùng một đơn vị nghiên cứu, các loại hình nghiên cứu cơ
bản, ứng dụng, định hƣớng ứng dụng, triển khai khác nhau, nên tác động của chính
sách xây dựng NNC cũng khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu đã chọn mỗi đơn vị, mỗi lĩnh
vực một số NNCM đại diện, trong đó, NNCM sẽ đƣợc đặt trong các tổ chức KH&CN
nói chung để xem xét. Việc khảo sát, đánh giá chỉ tập trung vào các trƣờng đại
học/tƣơng đƣơng đã triển khai xây dựng NNCM. Vì ở các đơn vị này đƣợc ƣu tiên đầu
tƣ phát triển nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị và các hoạt động hỗ trợ và
đó là cơ sở để đánh giá tác động. Các cơ quan quản lý từ cấp ĐHQGHN đến cấp đơn
vị trực thuộc có vai trò khác nhau trong triển khai chính sách, vì vậy, các cấp này đƣợc
khảo sát và lấy ý kiến đánh giá.
8.2. Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án tiến hành xem xét các văn bản chính
sách của ĐHQGHN và văn bản chính sách của nhà nƣớc có liên quan, đồng thời kế
thừa và sử dụng phân tích các nguồn tài liệu khác nhƣ: các bài báo, tạp chí chuyên
ngành, các bài báo cáo trong kỷ yếu hội thảo, các công trình nghiên cứu trƣớc, các tài
liệu của những ngành khoa học khác, các báo cáo hoạt động KH&CN của ĐHQGHN,
các báo cáo tổng kết hoạt động của các NNCM ở ĐHQGHN... Các văn bản, tài liệu,
các thông tin lý thuyết đƣợc tác giả luận án nghiên cứu, sắp xếp để tạo ra một hệ thống
lý thuyết đầy đủ, sâu sắc về chủ đề nghiên cứu; các tài liệu cũng chia thành từng bộ
phận, từng mặt để có thể hiểu một cách toàn diện. Điều này giúp tác giả luận án phát
hiện ra những xu hƣớng, những lĩnh vực, hƣớng nghiên cứu của từng tác giả đã nghiên
14
cứu trƣớc đó để lựa chọn những thông tin quan trọng phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Những thông tin thu thập đƣợc kế thừa và sử dụng một cách có chọn lọc trong luận án.
- Phương pháp điều tra với bảng hỏi
Tác giả luận án tiến hành điều tra với bảng hỏi 141 đối tƣợng. Trong đó, có 113
cán bộ khoa học làm việc trong các NNC, NNCM và 28 cán bộ quản lý ở ĐHQGHN
bao gồm cả các đối tƣợng đƣợc hƣởng lợi từ chính sách và các đối tƣợng không đƣợc
hƣởng lợi từ chính sách. Việc khảo sát bằng bảng hỏi đƣợc tiến hành theo hai cách:
thứ nhất gửi phiếu hỏi qua email đến đối tƣợng đƣợc hỏi để xin ý kiến và thứ hai là
liên hệ trƣớc và trực tiếp phát phiếu xin ý kiến ngƣời đƣợc hỏi. Thông tin khảo sát đảm
bảo nguyên tắc khuyết danh của ngƣời trả lời theo đúng quy định. Mẫu khảo sát cụ thể
nhƣ sau:
Các tiêu chí Số lƣợng Tỷ lệ
Nam 100 70.9% Giới tính Nữ 41 29,1%
Dƣới 41 68 48.2% Độ tuổi
(độ tuổi trung bình Từ 41- 55 50 35.5%
là 44) Trên 55 23 16.3%
ThS 27 19.1%
TS/TSKH 58 41.1% Chức danh, học vị PGS.TS 45 31.9%
GS.TS 11 7.8%
Khoa học tự nhiên 52 46% Lĩnh vực nghiên cứu
Khoa học XH&NV 38 33.6% (Không xem xét đến
28 đối tượng là cán Khoa học KT&CN 13 11.5%
bộ quản lý) Khác (Y dƣợc, nông nghiệp...) 10 8.8%
Thành viên của NNCM 74 52.5%
Vai trò Thành viên của NNC khác 39 27.7%
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Cán bộ quản lý 28 19.9%
Tác giả luận án tiến hành phỏng vấn sâu 16 đối tƣợng là các trƣởng NNCM, cán
bộ lãnh đạo quản lý ở các bộ phận có liên quan trực tiếp nhƣ Tổ chức – Cán bộ, Quản
lý Nghiên cứu Khoa học, Quản lý đào tạo từ cấp ĐHQGHN đến cấp trƣờng thành viên
15
nhằm phát hiện các vấn đề của chính sách cũng nhƣ làm rõ những vấn đề chính sách
đã đƣợc phát hiện. Mẫu đối tƣợng đƣợc lựa chọn phỏng vấn đảm bảo tính đại diện về
lĩnh vực, độ tuổi, thâm niên chuyên môn khác nhau. Bên cạnh đó tác giả luận án tiến
hành phỏng vấn sâu thêm 01 chuyên gia nƣớc ngoài và 02 lãnh đạo thuộc Bộ KH&CN
nhằm làm rõ hơn những vấn đề của chính sách phát triển NNCM nói chung. Việc
phỏng vấn sâu đƣợc tiến hành bằng cách gửi trƣớc yêu cầu phỏng vấn bằng văn bản,
tác giả luận án trực tiếp nghe và trao đổi với các chuyên gia. Thông tin phỏng vấn đảm
bảo nguyên tắc khuyết danh của ngƣời trả lời theo đúng quy định.
- Phương pháp thống kê toán học:
Phƣơng pháp thống kê toán học đƣợc sử dụng để xử lý, phân tích, đánh giá các
kết quả thu thập đƣợc bằng phƣơng pháp điều tra với bảng hỏi nêu trên. Cụ thể là:
- Tính tần suất, phần trăm kết quả thu đƣợc
- Sử dụng một số các đại lƣợng thống kê: Giá trị trung bình, Độ lệch chuẩn và
Hệ số tƣơng quan Pearson (r) nhằm chỉ rõ mức độ có liên hệ hay không liên hệ của 2
hay nhóm đại lƣợng nào đó theo kiểu tuyến tính.
Việc tính điểm cho mỗi phƣơng án trả lời đƣợc quy ƣớc nhƣ sau:
Sử dụng thang điểm từ 1 - 5 cho các mức độ lựa chọn. Để phân ra 05 mức độ
tác giả luận án đã lấy điểm cao nhất (5) trừ đi điểm thấp nhất (1) và chia cho 5 mức.
Điểm chênh lệch của mỗi mức độ là 0.8 tính theo công thức n=(n-1)/n trong đó n là số
thứ bậc của thang đo. Mức thang đo trên có giá trị nghiên cứu cho trƣờng hợp
ĐHQGHN:
+Mức độ quan trọng:
Rất quan trọng 5 điểm Mức độ 1 Rất quan trọng 4.2≤ĐTB≤5
Quan trọng 4 điểm Mức độ 2 Quan trọng 3.4≤ĐTB≤4.2
Bình thƣờng 3 điểm Mức độ 3 Bình thƣờng 2.6≤ĐTB≤3.4
Ít quan trọng 2 điểm Mức độ 4 Ít quan trọng 1.8≤ĐTB≤2.6
Không quan trọng 1 điểm Mức độ 5 Không quan trọng 1≤ĐTB≤1.8
+Mức độ cần thiết:
Rất cần thiết Cần thiết 5 điểm 4 điểm Mức độ 1 Rất cần thiết Mức độ 2 Cần thiết 4.2≤ĐTB≤5 3.4≤ĐTB≤4.2
Ít cần thiết
Khá cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết 3 điểm 2 điểm 1 điểm Mức độ 3 Khá cần thiết Mức độ 4 Mức độ 5 Không cần thiết 2.6≤ĐTB≤3.4 1.8≤ĐTB≤2.6 1≤ĐTB≤1.8
16
+Mức độ tác động
Rất tích cực 5 điểm Mức độ 1 Rất tích cực 4.2≤ĐTB≤5
Tích cực 4 điểm Mức độ 2 Tích cực 3.4≤ĐTB≤4.2
Bình thƣờng 3 điểm Mức độ 3 Bình thƣờng 2.6≤ĐTB≤3.4
Hạn chế Rất hạn chế 2 điểm 1 điểm Mức độ 4 Hạn chế Mức độ 5 Rất hạn chế 1.8≤ĐTB≤2.6 1≤ĐTB≤1.8
+Mức độ ảnh hưởng
Ảnh hƣởng rất nhiều Ảnh hƣởng nhiều 5 điểm 4 điểm Mức độ 1 Ảnh hƣởng rất nhiều Mức độ 2 Ảnh hƣởng nhiều 4.2≤ĐTB≤5 3.4≤ĐTB≤4.2
Bình thƣờng 3 điểm Mức độ 3 Bình thƣờng 2.6≤ĐTB≤3.4
Ảnh hƣởng ít 2 điểm Mức độ 4 Ảnh hƣởng ít 1.8≤ĐTB≤2.6
Không ảnh hƣởng 1 điểm Mức độ 5 Không ảnh hƣởng 1≤ĐTB≤1.8
+ Mức độ đồng thuận:
Trường hợp 1:
Hoàn toàn đồng ý 5 điểm Mức độ 1 Hoàn toàn đồng ý 4.2≤ĐTB≤5
Đồng ý 4 điểm Mức độ 2 Đồng ý 3.4≤ĐTB≤4.2
Phân vân 3 điểm Mức độ 3 Phân vân 2.6≤ĐTB≤3.4
Không đồng ý 2 điểm Mức độ 4 Không đồng ý 1.8≤ĐTB≤2.6
1 điểm Mức độ 5 1≤ĐTB≤1.8 Hoàn toàn không đồng ý Hoàn toàn không đồng ý
Trường hợp 2:
Hoàn toàn đúng 5 điểm Mức độ 1 Hoàn toàn đúng 4.2≤ĐTB≤5
Cơ bản là đúng 4 điểm Mức độ 2 Cơ bản là đúng 3.4≤ĐTB≤4.2
Nửa đúng, nửa sai 3 điểm Mức độ 3 Nửa đúng, nửa sai 2.6≤ĐTB≤3.4
Cơ bản là sai 2 điểm Mức độ 4 Cơ bản là sai 1.8≤ĐTB≤2.6
Hoàn toàn sai 1 điểm Mức độ 5 Hoàn toàn sai 1≤ĐTB≤1.8
+ Mức độ đảm bảo yêu cầu
5 điểm 4.2≤ĐTB≤5
4 điểm Mức độ 2 3.4≤ĐTB≤4.2
3 điểm Mức độ 3 2.6≤ĐTB≤3.4
2 điểm Mức độ 4 1.8≤ĐTB≤2.6
1 điểm Mức độ 5 1≤ĐTB≤1.8 Đảm bảo yêu cầu Đa phần đảm bảo yêu cầu Cơ bản đảm bảo yêu cầu Đảm bảo một phần yêu cầu Không đảm bảo yêu cầu Mức độ 1 Đảm bảo yêu cầu Đa phần đảm bảo yêu cầu Cơ bản đảm bảo yêu cầu Đảm bảo một phần yêu cầu Không đảm bảo yêu cầu
17
+ Mức độ đạt được các tiêu chí
Hoàn toàn đạt đƣợc 5 điểm Mức độ 1 Hoàn toàn đạt đƣợc 4.2≤ĐTB≤5
Đạt mức cao 4 điểm Mức độ 2 Đạt mức cao 3.4≤ĐTB≤4.2
Đạt mức trung bình 3 điểm Mức độ 3 Đạt mức trung bình 2.6≤ĐTB≤3.4
Đạt mức thấp 2 điểm Mức độ 4 Đạt mức thấp 1.8≤ĐTB≤2.6
+ Mức độ phù hợp
Không đạt 1 điểm Mức độ 5 Không đạt 1≤ĐTB≤1.8
Hoàn toàn phù hợp 5 điểm Mức độ 1 Hoàn toàn phù hợp 4.2≤ĐTB≤5
Phù hợp 4 điểm Mức độ 2 Phù hợp 3.4≤ĐTB≤4.2
Khá phù hợp 3 điểm Mức độ 3 Khá phù hợp 2.6≤ĐTB≤3.4
Chƣa phù hợp 2 điểm Mức độ 4 Chƣa phù hợp 1.8≤ĐTB≤2.6
+ Mức độ thực hiện
Không phù hợp 1 điểm Mức độ 5 Không phù hợp 1≤ĐTB≤1.8
Thực hiện ngay và Thực hiện ngay và 5 điểm Mức độ 1 cƣơng quyết cƣơng quyết 4.2≤ĐTB≤5
Thực hiện ngay 4 điểm Mức độ 2 Thực hiện ngay 3.4≤ĐTB≤4.2
Làm chiếu lệ 3 điểm Mức độ 3 Làm chiếu lệ 2.6≤ĐTB≤3.4
Hiếm khi thực hiện 2 điểm Mức độ 4 Hiếm khi thực hiện 1.8≤ĐTB≤2.6
- Kỹ thuật xử lý thông tin:
Không thực hiện 1 điểm Mức độ 5 Không thực hiện 1≤ĐTB≤1.8
Các phiếu điều tra đƣợc tiến hành nhập và xử lý, phân tích kết quả trên máy
tính, bằng phần mềm chuyên dụng SPSS (20.0).
18
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Dẫn nhập
Trên thế giới, NNC đƣợc biết đến kể từ năm 1990, khi PTN khoa học pháp y
của Mỹ và quốc tế đã hợp tác trong các NNC khoa học (Scientific Working Group) để
cải thiện thực hành kỷ luật và xây dựng tiêu chuẩn thống nhất. Mỗi NNC bao gồm các
nhà khoa học làm việc trong các lĩnh vực nghiên cứu riêng và hoạt động trên nhiều
lĩnh vực khác nhau, họ vừa làm việc độc lập, vừa liên kết với nhau trên cơ sở là phần
tử của một hệ thống pháp y phát triển của Hoa Kỳ, bất cứ hoạt động phân tích pháp y
liên quan đến các vấn đề quốc tế đều có sự tham gia cộng tác của các NNC. Mỗi NNC
đều có website riêng với các nguồn tài nguyên phong phú, các chƣơng trình/dự án
nghiên cứu đƣợc thực hiện, các KQNC đƣợc ứng dụng đã chứng tỏ NLNC và các
thành tựu mà nhóm đạt đƣợc [73].
Ngày nay, trong các trƣờng đại học trên thế giới, các NNC là hình thức tổ chức
phổ biến để tiến hành các hoạt động nghiên cứu và đào tạo. Có thể kể đến mô hình
NNC của Đại học Lomonoxop, Nga; các trƣờng đại học của Hà Lan; Trƣờng đại học
Ruhr, Bochum, CHLB Đức[55]; hay các NNCM đã khẳng định đƣợc những thành
công trong hoạt động của mình nhƣ Nano Research Group, School of Materials and
Engineering, Georgia Institute of Technology[72]; The Abruña group, Department of
Chemistry and Chemical Biology, Cornell University, United State [76]; The Group
Semiconductor Components, University of Twente[77]; Max Planck Research group
[71]…. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các NNC đã cho thấy, trong môi
trƣờng hợp tác của NNC, các nhà khoa học thƣờng dễ dàng tìm thấy ý tƣởng và sự
đồng thuận trong mục tiêu và quan điểm khoa học, sự gắn kết này không chỉ đơn thuần
là công việc mà còn là sự đam mê cống hiến khoa học. Chính vì vậy, sự gắn kết của
các NNC thƣờng bền vững hơn so với bất cứ sự gắn bó hành chính nào.
Cũng nhƣ trên thế giới, môi trƣờng đại học ở Việt Nam là nơi giao thoa của ba
chức năng đào tạo, NCKH và phục vụ xã hội, cũng là nơi hội tụ của đại đa số các nhà
khoa học (Theo số liệu điều tra NC&TK 2014 và điều tra doanh nghiệp 2014, ở khu
vực đại học, tỷ lệ cán bộ nghiên cứu trong tổng số cán bộ nghiên cứu của cả nước là
cao nhất, chiếm gần một nửa (48%), tiếp đó là khu vực viện nghiên cứu/trung tâm
19
nghiên cứu (23%), khu vực doanh nghiệp cũng có tỷ lệ tương đối cao (16%))[56] rõ
ràng sẽ là môi trƣờng lý tƣởng để các NNC phát triển. Nhằm làm rõ tính mới, tính
khoa học cho đề tài nghiên cứu, trong chƣơng này tác giả luận án sẽ tìm hiểu những
kết quả mà các nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đã thực hiện và nhận định những nội
dung còn chƣa đƣợc đặt vấn đề nghiên cứu, để qua đó, xác định những nhiệm vụ đặt ra
cho đề tài luận án cần tập trung giải quyết. Theo đó, tác giả luận án sẽ tập trung vào 3
nội dung chính gồm (1) Cơ sở hình thành, đặc điểm, vai trò của nhóm nghiên cứu
mạnh trong trường đại học; (2) Chính sách phát triển nhóm nghiên cứu mạnh trong
trường đại học; (3) Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu
1.2. Các công trình nghiên cứu về sự hình thành, đặc điểm, vai trò của NNCM
trong trƣờng đại học
Qua nghiên cứu, tìm hiểu các tài liệu liên quan đến chủ đề nghiên cứu của mình
ở trong và ngoài nƣớc tác giả luận án nhận thấy, các bài viết của các nhà khoa học đã
đề cập đến vấn đề hợp tác trong nghiên cứu, nhận diện NNC và NNCM, sự hình thành,
đặc điểm, cấu trúc, vai trò, quy trình hoạt động và những yếu tố cốt lõi đối với NNC
và NNCM. Sau đây là những nội dung cụ thể:
Khái niệm NNC đã đƣợc Joseph S. Fruton đề cập trong cuốn tài liệu “Constracts
in scientific Style: Research Groups in the Chemical and Biochemocal Researchs”
(1990). Trong đó, tác giả đƣa ra định nghĩa: NNC là một tập thể nghiên cứu định
hướng trong một lĩnh vực chuyên môn nhất định tại một đơn vị đào tạo, đơn vị nghiên
cứu, được dẫn dắt bởi một nhà khoa học có uy tín khoa học, đủ để có thể tiến hành
một chương trình nghiên cứu độc lập. Thông qua tương tác với lãnh đạo chuyên môn
của nhóm (trưởng nhóm) và với các thành viên khác, các thành viên trong nhóm có cơ
hội học hỏi các kỹ thuật thực nghiệm, nắm bắt kiến thức lý thuyết và tham gia tích cực
vào chương trình nghiên cứu của nhóm để tạo ra những thành tựu khoa học mới,
những ý tưởng mới, những sản phẩm KH&CN mới [31].
Đề cập đến khái niệm NNCM trong “Handbook: Work Group Learning” (2008),
Valerie I. Sessa cho rằng, NNCM được hiểu theo nghĩa rộng là tập hợp các nhà khoa
học hay các trung tâm, PTN liên kết với nhau trên một hay một số lĩnh vực nhằm
nghiên cứu và triển khai những hoạt động KH&CN ở trình độ cao trong những lĩnh
vực khoa học khác nhau. Các NNC sẽ đóng vai trò trung gian trong hệ thống tổ chức
trung tâm, viện, trường. Các nhóm sẽ liên kết các cá nhân lại với nhau trong khoảng
thời gian cố định và liên kết với nhau dưới dạng hệ thống hoàn chỉnh. Nói cách khác,
20
các NNC đóng vai trò là tổ chức nhỏ tập hợp các cá nhân hoạt động NCKH và phát
triển công nghệ và các trung tâm, viện, trường là nơi tổ chức tập hợp các NNC lại
theo hướng tương hỗ hoặc song song với nhau [40].
Hay quan điểm của David L. Morgan - Porland State University, đề cập trong
Focus as Qualitative Research - Second Edition - Sage Publications Inc (1997) khi
cho rằng “NNCM là một NNC được hoạt động trên cơ sở kết hợp tự nguyện những cá
thể có NLNC tốt. Thay vì các mối quan hệ trên cơ sở uy tín là những quan hệ tương
tác giữa các thành viên trong nhóm với sự điều hành của người chủ trì đề tài. Dấu
hiệu phân biệt của NNCM là sự trao đổi thảo luận để phát triển công tác nghiên cứu,
điều này có thể ít được sử dụng trong các NNC thông thường”[34].
Trong khi đó, công trình nghiên cứu “Studies in Scientific Collaboration Part III.
Professionalization and The Natural History of Modern Scientific Co-authorship”
(1979) của D. Deb. Beaver và R. Rosen cho thấy, xu hƣớng hợp tác giữa các nhà khoa
học đã gia tăng một cách nhanh chóng kể từ thế kỷ XX. Sự hợp tác đƣợc tăng cƣờng
gắn liền với những đổi mới trong tổ chức khoa học và tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học. Các tác giả cũng khẳng định, cả sự hợp tác và những thay đổi trong tổ chức
khoa học đều bắt nguồn từ sự chuyên nghiệp hóa khoa học, chính sự gia tăng các hoạt
động nghiên cứu liên ngành, cũng nhƣ yêu cầu cao về chi phí nghiên cứu đã có tác
động lớn buộc các nhà nghiên cứu phải hợp tác trong nghiên cứu, hình thành nên các
NNC và mạng lƣới nghiên cứu giúp mở rộng khả năng truyền bá tri thức, nâng cao
chất lƣợng nghiên cứu và ứng dụng nghiên cứu trong thực tiễn[32].
Nghiên cứu của Sharon Mickan và Sylvia Rodger về những đặc điểm của nhóm
hiệu quả (Characteristics of effective teams: a literature review (2000)) đã chỉ ra 18
đặc điểm quan trọng của một nhóm làm việc hiệu quả, trong đó 12 đặc điểm thuộc về
cấu trúc tổ chức và 6 đặc điểm thuộc về quy trình, cụ thể:
Về mặt cấu trúc tổ chức, nhóm tác giả cho rằng các nhóm hiệu quả cần có:
1) Mục đích rõ ràng (Clear purpose) - xác định các mục tiêu phù hợp và liên kết các
mục tiêu chuyên môn của cá nhân song song với mục tiêu của nhóm; 2) Văn hóa phù
hợp (Appropriate culture) - Văn hóa nhóm thể hiện cách chuyển đổi các giá trị đƣợc
chia sẻ thành các chuẩn mực hành vi; 3) Xác định rõ nhiệm vụ (Specified task) - các
nhiệm vụ đóng góp hữu hình cho nhóm và phù hợp với mục đích, khả năng và thái độ
của nhóm; 4) Phân định rõ vai trò (Distinct roles) - vai trò cá nhân cần đƣợc làm rõ và
hiểu rõ; 5) Lãnh đạo phù hợp (Suitable leadership) - Nhiệm vụ của nhóm càng phức tạp
21
và năng động, càng cần một ngƣời lãnh đạo giỏi. Lãnh đạo nên phản ánh giai đoạn phát
triển của nhóm. Các nhà lãnh đạo cần duy trì trọng tâm chiến lƣợc để hỗ trợ tầm nhìn
của Nhóm, tạo điều kiện thiết lập mục tiêu, đào tạo và đánh giá thành tích; 6) Thành
viên có liên quan (Relevant members)- Số lƣợng thành viên phù hợp với sự pha trộn và
đa dạng của nhiệm vụ; 7) Nguồn lực đầy đủ (Adequate resources); 8) Đóng góp cá nhân
(Individual Contribution)- cá nhân tham gia vào các nhóm đòi hỏi phải có kiến thức, sự
tin tƣởng, cam kết và linh hoạt; 9) Hiểu bản thân (Self-knowledge) - Hình ảnh bản thân
chuyên nghiệp có ảnh hƣởng lớn nhất đến các thành viên trong việc hiểu và tƣơng tác
với nhau; 10) Lòng tin (Trust) - Các cá nhân đáng tin cậy sẵn sàng chia sẻ kiến thức và
kỹ năng của họ mà không sợ bị thu nhỏ hoặc khai thác. Họ thƣờng có khả năng học tập
lẫn nhau; 11) Cam kết (Commitment) - Hiểu bản thân và tin tƣởng ngƣời khác là những
yếu tố quan trọng để xây dựng cam kết. Cam kết về một tập hợp thống nhất các mục tiêu
và giá trị của nhóm cung cấp phƣơng hƣớng và động lực cho từng thành viên; 12) Linh
hoạt (Flexibility) - Linh hoạt là khả năng duy trì một thái độ cởi mở, thích ứng với các
giá trị cá nhân khác nhau và dễ tiếp thu ý tƣởng của ngƣời khác.
Về quy trình của nhóm, các tác giả cũng chỉ ra rằng các nhóm hiệu quả cần
những yếu tố quan trọng sau đây: 1) Phối hợp (Coordination) - Phối hợp đƣợc mô tả là
các hành động giữa các cá nhân có trật tự cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ phức
tạp. Các nhóm cần khai thác sự đa dạng và giảm thiểu sự khác biệt của các thành viên,
để đảm bảo rằng các kỹ năng và kiến thức chuyên môn đƣợc sử dụng tốt; 2) Sự gắn kết
(Cohesion) - Sự gắn kết nhóm thừa nhận các thành viên hấp dẫn cá nhân đối với nhóm
và nhiệm vụ. Các thành viên hợp tác phụ thuộc lẫn nhau xung quanh nhiệm vụ của
nhóm để đáp ứng các mục tiêu của nhóm; 3) Ra quyết định (Decision making) - Một
loạt các kiến thức và kỹ năng của các thành viên trong nhóm thƣờng đóng góp thông
tin mở rộng và tạo ra các quyết định tốt hơn. Tuy nhiên, quyền tự chủ cá nhân có thể
giảm khi các quyết định đƣợc chia sẻ và trách nhiệm đƣợc lan tỏa đến tất cả các thành
viên trong nhóm; 4) Quản trị xung đột (Conflict management) - Xung đột nhóm có thể
thúc đẩy sáng tạo nhƣng cũng có thể phá hủy nhóm. Để đánh giá cao những đóng góp
sáng tạo và thúc đẩy giải quyết vấn đề hiệu quả của nhóm, sự đa dạng cần đƣợc quản
lý cẩn thận; 5) Các mối quan hệ xã hội (Social relationships) - Mối quan hệ xã hội tốt
sẽ duy trì các nhóm làm việc hiệu quả. Cá nhân các thành viên trong nhóm cần đồng
cảm và hỗ trợ nhau, cung cấp, chia sẻ thông tin và hợp tác giải quyết các vấn đề; 6)
Thông tin phản hồi hiệu quả (Performance Feedback) - Các cá nhân, nhóm và tổ chức
22
đều yêu cầu phản hồi chính xác và kịp thời về hiệu suất làm việc để duy trì hiệu quả
của nhóm[36].
Bài viết có nhan đề “Exploring the relationship between multiple team
membership and team performance: The role of social networks and collaborative
technology (2015)” (Khám phá mối quan hệ giữa nhiều thành viên nhóm và hiệu suất
nhóm: Vai trò của mạng xã hội và công nghệ hợp tác) của nhóm tác giả Fabiola
Bertolotti, Elisa Mattarelli, Matteo Vignoli, Diego Maria Macrì khi nghiên cứu các đơn
vị R&D của một công ty Ý về mối quan hệ giữa nhiều thành viên nhóm và hiệu suất
nhóm trong việc sử dụng các công nghệ hợp tác và mạng xã hội tại nơi làm việc đã cho
thấy, khi thành tích của các tổ chức phụ thuộc ngày càng nhiều vào công việc của các
nhóm nghiên cứu, sự hiểu biết về cách họ hoạt động và cách cải thiện hiệu suất của họ
ngày càng trở nên quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh các nhà nghiên cứu ngày càng bị
phân mảnh giữa các dự án và địa điểm khác nhau, do đó việc thúc đẩy tƣơng tác trực
tiếp giữa các cá nhân hiếm khi đƣợc thực hiện do đó các cá nhân và nhóm sử dụng các
nguồn lực xã hội và công nghệ của họ để tƣơng tác nhằm hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ
của họ. Điều đó lý giải vì sao công nghệ hợp tác hiện đã lan rộng tại nơi làm việc, nó hỗ
trợ và cải thiện sự hợp tác giữa các thành viên và các nhóm nghiên cứu[33].
Cũng nghiên cứu về năng suất và sự hợp tác trong nghiên cứu, bài nghiên cứu có
nhan đề “How are Collaboration and Productivity Correlated at Various Career
Stages of Scientists? (2012)” (Năng suất và sự hợp tác có tương quan như thế nào với
các giai đoạn nghề nghiệp khác nhau của các nhà khoa học?) của các tác giả Zhigang
Hu, Chaomei Chen, và Zeyuan Liu thì chỉ ra rằng, sự hợp tác đƣợc cho là có ảnh
hƣởng đến năng suất của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, tác động của sự hợp tác phụ
thuộc vào các yếu tố tiềm ẩn nhƣ kỷ luật, mô hình cộng tác và các cộng tác viên. Hơn
nữa, ở các giai đoạn nghề nghiệp khác nhau, nhƣ giai đoạn mới làm quen, giai đoạn có
kinh nghiệm, v.v., sự hợp tác là khác nhau về quy mô và chiều rộng, và ảnh hƣởng của
nó đến năng suất khác nhau. Nghiên cứu của nhóm tác giả cũng cho thấy rằng, năng
suất có tƣơng quan với sự hợp tác nói chung, nhƣng mối tƣơng quan có thể là tích cực
hoặc tiêu cực trên cơ sở các khía cạnh của sự hợp tác để đo lƣờng, quy mô hoặc phạm
vi cộng tác. Mối tƣơng quan trở nên mạnh mẽ hơn khi các nhà khoa học tiến bộ qua
các giai đoạn khác nhau của sự nghiệp. Hơn nữa, các ngành thực nghiệm, nhƣ Hóa học
hữu cơ và virus học, đã cho thấy các hệ số tƣơng quan mạnh hơn so với các ngành lý
thuyết nhƣ Toán học và Khoa học máy tính[70].
23
Hay nghiên cứu của Sooho Lee và Barry Bozeman về Tác động của hợp tác
nghiên cứu đến năng suất khoa học (The Impact of Research Collaboration on
Scientific Productivity (2005)) trên cơ sở khảo sát 443 nhà khoa học hàn lâm, nhằm
xem xét tác động của sự hợp tác đối với năng suất của các nhà khoa học, thông qua số
lƣợng ấn phẩm tạp chí (in trên giấy) cũng cho thấy, sự hợp tác của các nhà khoa học
trong hoạt động nghiên cứu đã trở thành chuẩn mực. Các đặc tính ngày càng liên
ngành, phức tạp và tốn kém của khoa học hiện đại đã tạo động lực, khuyến khích các
nhà khoa học tham gia vào các nghiên cứu hợp tác. Các cơ quan tài trợ, đặc biệt là các
cơ quan chính phủ, tạo điều kiện cho sự hợp tác nghiên cứu tích cực nhƣ là một phần
của điều kiện tài trợ của họ. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, khi năng suất xuất bản đƣợc
đo bằng 'số lƣợng bình thƣờng' (Normal count- A scientist’s total number of
publications), sự hợp tác là một yếu tố dự báo mạnh mẽ về năng suất xuất bản. Khi
năng suất xuất bản đƣợc đo bằng 'số phân số' (Fractional Count - dividing credit by
the number of coauthors), cộng tác và năng suất xuất bản không liên quan đáng kể, ít
nhất là không phải trong một mô hình kiểm soát các biến kiểm duyệt. Những phát hiện
này cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu sâu rộng hơn về tác động của sự hợp tác,
dƣới mọi hình thức, đến năng suất nghiên cứu, trong tất cả các ý nghĩa của nó. Hơn
nữa, nghiên cứu cũng cho thấy các giảng viên cao cấp có nhiều khả năng tham gia vào
sự hợp tác theo định hƣớng cố vấn. Các nhà nghiên cứu mới vào nghề có thể đƣợc
hƣởng lợi đáng kể từ những hợp tác với các nhà nghiên cứu cao cấp. Đặc biệt, nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng, từ quan điểm chiến lƣợc, các nghiên cứu hợp tác cần chú trọng
nhiều hơn vào năng lực, đặc biệt là sự phát triển của nguồn nhân lực KH&CN. Ngay
cả khi ngƣời ta hiểu đƣợc mối quan hệ giữa sự hợp tác và các nhà nghiên cứu riêng lẻ,
năng suất xuất bản của nó hoàn toàn phong phú và phức tạp, sự phát triển của các lĩnh
vực khoa học sẽ tiếp tục phụ thuộc vào khả năng tái tạo và mở rộng các kỹ năng
nghiên cứu qua các thế hệ. Hợp tác có thể là yếu tố chính trong phát triển nguồn nhân
lực KH&CN và ý nghĩa của sự hợp tác để phát triển nghề nghiệp có thể sẽ khác hoàn
toàn so với các biện pháp riêng biệt về năng suất xuất bản riêng lẻ[35].
Bàn về vai trò và kinh nghiệm xây dựng, phát triển nhóm nghiên cứu trong
trƣờng đại học, thông qua các bài viết “Nhóm nghiên cứu - yếu tố quyết định tới chất
lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học” (2008) và “Kinh
nghiệm xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu khoa học (2008), Trƣơng Quang Học,
một trong những tác giả có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu và phát
24
triển NNC đã đề cập đến vai trò đặc biệt quan trọng của NNC trong việc nâng cao chất
lƣợng đào tạo và NCKH, đồng thời tác giả đã nhấn mạnh đến 6 yếu tố quan trọng của
một NNC đó là a) Có ngƣời đứng đầu, có trình độ khoa học, năng lực tổ chức và nhiệt
huyết trong khoa học. Tác giả cho rằng đây là yếu tố quan trọng nhất; b) Có định
hƣớng khoa học đúng, phù hợp với xu hƣớng quốc tế và phục vụ thiết thực cho sự phát
triển của Việt Nam; c) Có điều kiện nghiên cứu phù hợp gồm trang thiết bị (và điều
kiện để vận hành) và nguồn thông tin, tƣ liệu đầy đủ, cập nhật; d) Tập hợp đƣợc đội
ngũ cán bộ có nhiệt huyết và hoài bão khoa học, nhất là các cán bộ khoa học trẻ, các
thực tập sinh sau tiến sĩ và nhất là NCS, HVCH, sinh viên làm khóa luận; Xây dựng và
phát huy năng lực của tập thể, tạo sự đoàn kết, nhất trí cao trong mọi hoạt động; e)
Kiên trì theo đuổi hƣớng chuyên môn đã lựa chọn, quyết tâm vƣợt qua các khó khăn
về điều kiện làm việc, thậm chí sức ép về mặt xã hội để đạt đƣợc mục tiêu khoa học
của mình. Các kết quả khoa học đƣợc tích lũy, phát triển và đƣợc công bố rộng rãi trên
các tạp chí trong nƣớc và quốc tế; f) Có quan hệ hợp tác tốt (hợp tác trong nội bộ, với
các cơ quan ngoài và đặc biệt là hợp tác quốc tế) [53,54].
Đây cũng là quan điểm của Nguyễn Đình Đức, đƣợc nêu trong bài bài viết có
tiêu đề “Phát triển nhóm nghiên cứu trong trường đại học - Xu thế tất yếu” (2014),
theo đó tác giả cho rằng, chỉ có xây dựng được các NNCM mới triển khai được các
hoạt động nghiên cứu mạnh, đủ sức giải quyết những vấn đề khoa học đỉnh cao của
ngành và những nhiệm vụ KH&CN quan trọng của đất nước.Việc đào tạo và phát
triển đội ngũ cũng chính từ hoạt động của các NNC, nhất là đào tạo tiến sỹ. Khi NNC
đã đủ mạnh về nhân lực, cơ sở vật chất và các nguồn lực khác, có thể xây dựng các
chương trình đào tạo mới. Thông qua sự phát triển của các NNC cũng sẽ tăng cƣờng
các công bố quốc tế, từ đó nâng đƣợc thứ bậc và xếp hạng của trƣờng đại học. Hơn
nữa, một trong những vai trò quan trọng của trƣờng đại học là chuyển giao tri thức,
đƣa những KQNC mới về KH&CN của Nhà trƣờng phục vụ thiết thực sự nghiệp phát
triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. NNC có vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc triển khai từ nghiên cứu đến chế thử, thúc đẩy sự ra đời của các sáng chế và sản
phẩm mới trong trƣờng đại học. Vì vậy, một trong những giải pháp để nâng cao chất
lƣợng đào tạo và hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu, cũng nhƣ nâng cao xếp hạng
của trƣờng đại học là phải xây dựng và phát triển đƣợc các NNCM, đào tạo đƣợc đội
ngũ cán bộ khoa học có trình độ và năng lực NCKH tốt, có tâm huyết và kinh nghiệm
trong nghiên cứu và đào tạo. Chính việc xây dựng các NNCM trong các trƣờng đại
25
học là một trong những giải pháp quan trọng góp phần thiết thực triển khai đổi mới
giáo dục đại học một cách căn bản và toàn diện theo hƣớng chất lƣợng, hiệu quả và hội
nhập với các chuẩn mực quốc tế. Việc hình thành, xây dựng và phát triển các NNCM
và hƣớng tới các chuẩn mực quốc tế là nhu cầu tự thân, là xu thế vận động và phát
triển tất yếu của các trƣờng ĐHNC tiên tiến trên thế giới, và cũng không là ngoại lệ
cho các trƣờng ĐHNC tiên tiến ở Việt Nam. Tác giả nhấn mạnh vào 6 yếu tố chính để
hình thành và phát triển NNCM, cụ thể:
Một là, muốn xây dựng được những NNCM trong trường đại học, trước hết
phải bắt đầu từ tâm huyết của những nhà khoa học có năng lực và trình độ, có uy tín,
giữ vai trò trưởng nhóm. Trưởng nhóm phải tập hợp được đội ngũ, xác định được
hướng đi và hướng phát triển cho nhóm. Trưởng nhóm chính là linh hồn, nhân vật
trung tâm kết tụ, dẫn dắt sự phát triển của nhóm. Nhƣ vậy, hoạt động của nhóm thành
công hay không thành công phụ thuộc rất nhiều vào ngƣời trƣởng nhóm. Trƣởng NNC
thƣờng là nhà khoa học tài năng, có năng lực nghiên cứu, có tƣ duy sáng tạo, nhạy bén
trong khoa học và lại càng thuận lợi khi có uy tín cao cả ở trong và ngoài nƣớc. Bên
cạnh đó, trƣởng nhóm phải là ngƣời tâm huyết và có năng lực tổ chức, biết hy sinh, có
khả năng ngoại ngữ và tổ chức làm việc của nhóm một cách phù hợp và khoa học.
Hai là, lãnh đạo trường đại học phải có tầm nhìn và chính sách thỏa đáng đầu
tư cho NNC. Nếu có nhà khoa học đầu ngành mà không có đầu tƣ sẽ không thể có
NNCM. Mặt khác, không phải bỗng chốc có nhà khoa học đầu ngành, mà các nhà
khoa học phải đƣợc quy hoạch, đƣợc đào tạo và bồi dƣỡng, phải có thời gian để trƣởng
thành, phải kịp thời phát hiện những nhân tố mới, những nhà khoa học trẻ và NNC
tiềm năng để quan tâm bồi dƣỡng và đầu tƣ.
Ba là, phải tập hợp được những cán bộ có năng lực nghiên cứu tốt trong NNC,
thu hút được NCS. Ở đây, xin đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của các NCS
trong việc phát triển các NNC. Nếu có sự hỗ trợ kinh phí, nhiều NNC của ĐHQGHN
hoàn toàn có thể tiếp nhận các nhà khoa học, các NCS và thực tập sinh ngƣời nƣớc
ngoài đến làm việc, khi đó hiệu quả hoạt động của NNC còn tốt hơn nữa.
Bốn là, đầu tư cho các NNCM là sự đầu tư trúng, đúng và hiệu quả trong các
trường đại học. Trong bối cảnh cần đẩy nhanh các công bố quốc tế cũng nhƣ tăng
nhanh các sáng chế, sản phẩm KH&CN trong trƣờng đại học, thì việc quan tâm đầu tƣ
bổ sung nhân lực, cơ sở vật chất, các trang thiết bị hiện đại và điều kiện làm việc cho
các NNCM là nhân tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để thúc đẩy sự thành công của
hoạt động KH&CN cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng đào tạo của Nhà trƣờng.
26
Năm là, phải thiết lập và xây dựng được những mối quan hệ hợp tác mạnh (trong
và ngoài nước). Vì chỉ có phát huy tốt các quan hệ hợp tác với các nhà khoa học có uy
tín trong và ngoài nƣớc, các NNC mới có thể phát huy đƣợc thế mạnh của các nghiên
cứu liên ngành, mau chóng hội nhập và tiếp cận trình độ, chuẩn mực quốc tế.
Sáu là, phải xác định và hình thành được hướng nghiên cứu hiện đại, có tầm
ảnh hưởng trong khoa học sẽ là tiềm năng phát triển tốt cho NNC. Kinh nghiệm cho
thấy, chọn hƣớng đi đúng để tập hợp và xây dựng NNC có vai trò quan trọng để phát
triển một NNCM. Bên cạnh đó, NNCM phải có định hƣớng nghiên cứu riêng độc đáo,
xuất phát từ những tƣ tƣởng và hệ tiên đề mới, cách tiếp cận mới, đặc sắc của riêng
mình. Có nhƣ vậy, NNC mới khẳng định đƣợc trong cộng động khoa học và phát triển
bền vững [48].
Đồng quan điểm với Trƣơng Quang Học và Nguyễn Đình Đức, trong bài viết
“Xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học”(2015) [67],
Phạm Hùng Việt cũng có tiếp cận khác khi đề cập đến 4 yếu tố quan trọng để xây
dựng và phát triển NNC.
Thứ nhất, cần định hƣớng và đề ra nguyên tắc xây dựng NNC. Theo tác giả,
việc xây dựng NNCM cần dựa vào năng lực hiện có và nhu cầu phát triển của các
trường đại học trong mối quan hệ với định hướng phát triển của đất nước; kết hợp
phát triển các NNCM nhất trong đơn vị với việc hình thành và phát triển những NNC
mới. Tác giả cho rằng, không thể chỉ mong muốn có NNCM bằng cách kêu gọi các nhà
khoa học trong nước và quốc tế về xây dựng trong khi các nguyên tắc, cơ chế quản lý
vẫn chưa thể đổi mới ngay lập tức.
Thứ hai, việc đầu tƣ xây dựng, phát triển NNCM cần bắt đầu từ các nhóm vốn
đã mạnh. Theo tác giả, NNCM (nói khiêm tốn là nhóm mạnh hơn so với các nhóm
chưa mạnh) là nhóm các nhà khoa học đã đạt và có tiềm năng tiếp tục đạt được các
KQNC tốt nhất trong cộng đồng các NNC hiện có trong mỗi trường, căn cứ trên phải
đáp ứng một số tiêu chí nhất định (đặc biệt là số lượng các công bố ISI). Cũng teo tác
giả, để duy trì hoạt động của NNC, cần phải có sự đầu tư kinh phí hợp lý theo nhiều
nguồn như NSNN, hợp tác quốc tế (qua nguồn ODA, các tổ chức phi chính phủ, các
công ty chế tạo thiết bị khoa học…). Khi rót kinh phí xuống các NNC từ nguồn NSNN,
đơn vị chủ quản cần lưu ý đến tính hiệu quả đầu tư, tránh đầu tư dàn trải và chỉ tập
trung một số hướng chính của nhóm.
Thứ ba, nhân lực là vấn đề sống còn đối với NNCM nên đơn vị chủ quản cần có
chính sách tuyển dụng, đào tạo và đãi ngộ thỏa đáng đối với thành viên của nhóm.
27
Theo tác giả, kinh nghiệm nước ngoài, NCS, đặc biệt postdoc, là lực lượng trẻ, có
nhiệt tình, nhiều ý tưởng và động lực thực hiện những nghiên cứu mới, dù chỉ là nguồn
nhân lực trong một thời gian xác định nhưng cũng cần được sử dụng một cách hiệu
quả. Trong thời gian qua, do có nhiều công trình công bố quốc tế, hƣớng nghiên cứu
về “Chất lượng nước ăn từ nước ngầm và các vấn đề liên quan đến sức khỏe con
người và cộng đồng”, nhóm của tác giả đã nhận đƣợc thƣ xin làm postdoc của bốn tiến
sĩ nƣớc ngoài. Để có thể thu hút nguồn nhân lực này, ngoài kinh phí thuê khoán
chuyên môn trích từ các đề tài, cần có những suất học bổng cho các thực tập sinh sau
tiến sĩ nƣớc ngoài tham gia vào NNCM.
Thứ tƣ, hoạt động của NNCM cần đƣợc đánh giá định kỳ với những kết quả cụ
thể: tạo ra những nghiên cứu có chất lƣợng đƣợc khẳng định bằng số lƣợng công trình
khoa học, đặc biệt là số bài báo quốc tế ISI, các sáng chế, thể hiện khả năng ứng dụng
thực tiễn, chuyển giao công nghệ cho xã hội, mang lại uy tín, thƣơng hiệu cho trƣờng
đại học, thu hút đƣợc các học viên giỏi của các CTĐT sau đại học, các thực tập sinh
sau tiến sỹ đến làm việc.
Tiếp tục nghiên cứu về trung tâm nghiên cứu xuất sắc, trong bài viết có tựa đề
“Xây dựng trung tâm nghiên cứu xuất sắc: Kinh nghiệm quốc tế và thực tế ở Việt Nam”
(2014), Trƣơng Quang Học tiếp tục khẳng định, NNC là một hình thức tổ chức nghiên
cứu phổ biến và đem lại nhiều thành tựu khoa học đỉnh cao cho các Trường Đại học
danh tiếng như Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên M.V. Lomonosov, Đại
học Hà Lan, Đại học tổng hợp Ruhr, Bochum, CHLB Đức, Đại học Texas, Đại học
Tokyo..., cũng trong bài viết này tác giả đã đề cập đến khái niệm NNCM/xuất sắc, đó là
nhóm có các thành viên xuất sắc, điều kiện làm việc đầy đủ và những KQNC có ý nghĩa
khoa học/phục vụ thực tiễn lớn, được quốc tế thừa nhận hay NNC đặc biệt là những
nhóm được thành lập tạm thời, gồm các chuyên gia khác nhau để giải quyết một vấn đề,
một nhiệm vụ đặc biệt/đột xuất cấp thiết trong một thời gian ngắn, đồng thời tác giả
cũng giới thiệu cơ chế phát triển và tổ hợp của các NNC theo cấu trúc “Cây tre trăm
đốt”, một trong những cơ chế mà theo tác giả sẽ đem lại hiệu quả bền vững cho NNC ở
các trƣờng đại học. Cuối cùng, tác giả kết luận “NNC khoa học là tế bào của cơ thể, là
đơn vị cấu trúc và chức năng, quyết định cho sự thành công của các hoạt động KH&CN
cũng như đào tạo của bất kỳ cơ quan tổ chức giáo dục nào. Nó giống như các tế bào tạo
nên mô, mô tạo nên cơ quan, hệ cơ quan, cơ thể, quần thể, quần xã các hệ sinh thái và
cả thế giới sinh vật phong phú, đa dạng và hữu ích”[11].
28
Cùng chia sẻ về kinh nghiệm khi xây dựng nhóm nghiên cứu khoa học, trong
bài viết có tiêu đề “Vài chia sẻ về xây dựng nhóm nghiên cứu khoa học” (2009), Phan
Kim Ngọc[18] đã đề cập đến khái niệm nhóm NCKH, những yếu tố quyết định sự
thành công của nhóm NCKH, phƣơng pháp lập nhóm NCKH và cách thức vận hành
của nhóm NCKH, cụ thể:
Về khái niệm nhóm NCKH, tác giả khái quát nhƣ sau: Nhóm NCKH không giống
với một cơ quan hành chính (nhà nước), cũng không giống với cấu trúc nghiệp đoàn.
Nhóm làm việc trên tinh thần không có lương cơ bản. Các khoản thu, chi của nhóm phụ
thuộc vào KQNC, chuyển giao công nghệ, phụ thuộc vào các đề tài/dự án khoa học. Do
vậy, cấu trúc của nhóm cần gọn nhẹ, linh hoạt tối đa. Nhóm NCKH có vai trò như một
yếu tố có tính chất quyết định tới hình thức, quy mô và chất lượng của một hoạt động
khoa học, công nghệ nào đó. Đồng thời là nền tảng quan trọng bậc nhất trong đào tạo,
nhất là đào tạo sau đại học (đối với các trường đại học). Trong đào tạo, nhóm NCKH
chính là môi trường ươm tạo người tài, mảnh đất sinh sôi nảy nở các thủ lĩnh khoa học
trong tương lai. Bên cạnh đó, nhóm NCKH còn là đơn vị cơ sở cho các hoạt động
chuyển giao công nghệ, đặc biệt thuận lợi đối với công nghệ cao.
Cuối cùng tác giả kết luận: có thể hiểu nhóm NCKH là một tập thể các nhà khoa
học và học thuật có năng lực chuyên môn tốt, có tâm huyết, đạo đức nghề nghiệp, sự
chân thật trong công việc (honesty), có khát vọng định hướng cùng một mục đích, một
lĩnh vực chuyên môn nhất định; thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo tại một đơn vị
hạt nhân (hay xoay quanh đơn vị hạt nhân đó); được dẫn dắt bởi một (hay một vài) nhà
nghiên cứu có uy tín khoa học, đạo đức và đồng thời phải có khả năng tổ chức, giao
tiếp, tập hợp…; có văn hóa nhóm riêng biệt. Nói một cách khái quát, mọi thành quả của
nhóm phải xuất phát từ năng lực nội sinh. Trong quá trình hoạt động, nhóm NCKH phải
tương tác với lãnh đạo chuyên môn, cũng như các thành viên của tổ chức khác, qua đó
mọi thành viên trong nhóm có cơ hội học tập, tiếp thu, nắm bắt các kiến thức, kỹ năng,
kỹ thuật mới cần thiết. Nhờ vậy, nhóm sẽ có đủ yếu tố tối thiểu, đưa vào chương trình
nghiên cứu của mhóm, tạo ra các ý tưởng mới, các thành tựu khoa học mới cũng như
các sản phẩm đào tạo và công nghệ mới. Đặc biệt, với tiêu chí này, nhóm NCKH sẽ
tránh được yếu tố lạc hậu, lặp lại hay “chậm chân” so với khu vực.
Về các yếu tố quyết định sự thành công của nhóm NCKH, tác giả đã nêu ra 3
yếu tố: (1) Tập hợp đúng người, đúng việc; (2) Có phong cách riêng; (3) Người thủ
lĩnh cần có 10 vai trò gồm: (1) Vai trò “nam châm”-Thu hút sự chú ý ngay từ khi thực
29
hiện các công đoạn đầu tiên đi “lƣợm lặt”, tìm kiếm và tập hợp nhân sự, cũng nhƣ tìm
kiếm các điều kiện cần thiết khác, để có thể kiến tạo đƣợc một nhóm NCKH đủ tầm;
(2) Vai trò “điểm tựa” - Tạo cho mỗi thành viên thấy rằng, họ có thể hợp tác trong
nhóm một cách bền vững, lâu dài và đôi bên cùng có lợi; (3) Vai trò “đèn pha”- Khả
năng hƣớng dẫn, dẫn dắt nhƣ một kim chỉ nam về chuyên môn, các mối quan hệ, giao
tiếp nghề nghiệp; (4) Vai trò “nội trợ”- Khi cần, ngƣời thủ lĩnh sẵn sàng chăm lo tới
những chi tiết dù nhỏ nhất trong công việc hàng ngày; (5) Vai trò “cận vệ”-Bảo vệ, che
chở cho các thành viên của nhóm; (6) Vai trò “nổi lửa” - Ngƣời thủ lĩnh luôn hun đúc
cho mỗi thành viên những mong muốn phấn đấu và cống hiến;(7) Vai trò “chất keo”-
Xây dựng, bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất; (8) Vai trò “hoạt náo viên”-Tạo ra không
khí tƣơi vui lành mạnh; (9) Vai trò “ngòi nổ”-Tạo ra chất sống và sức sống, phát triển
sức sống ấy cho nhóm NCKH; (10) Vai trò “bà đỡ”-Đón nhận, triển khai các nhiệm vụ
nghiên cứu, đƣa vào ứng dụng hoặc chuyển giao kết quả, liên kết.
Về phƣơng pháp lập NNC, tác giả đã đƣa ra 3 nhóm tiêu chí gồm (1) Tiêu chí 5
không (Không giới hạn không gian, thời gian, số lượng, trình độ, chuyên môn); (2)
Tiêu chí 5 có (Có chung ý tưởng, khát vọng, quyền lợi, niềm tin, nghĩa vụ); (3) Tiêu
chí 10 hợp tác (Hợp tác và chia sẻ trí tuệ, thông tin, quy trình kỹ thuật, các mối quan
hệ, cơ sở vật chất, nhân sự, thời gian, sản phẩm, sự cảm thông, trách nhiệm)[18].
Bàn về vai trò của NNCM, bài viết có tiêu đề “Nhóm nghiên cứu mạnh vừa là
phương thức vừa là mục tiêu để phát triển đại học nghiên cứu” (2014), Nguyễn Hữu
Đức đã đề cập đến tầm quan trọng của NNC đối với việc nâng cao chất lƣợng các hoạt
động đào tạo và NCKH và là giải pháp đem lại các kết quả khoa hoa học đỉnh cao và
sản phẩm công nghệ đột phá với bằng sở hữu trí tuệ, các giải thƣởng KH&CN cấp
quốc gia, các bài báo quốc tế đăng trên các tạp chí khoa học danh tiếng, các công trình
chuyên khảo có uy tín và các giải pháp đầu tƣ chính sách cho các cơ quan hoạch định
chính sách của Đảng và Nhà nƣớc [49].
Khi xem xét về mô hình NNCM, bài viết có tên “Mô hình các nhóm nghiên cứu
mạnh trên thế giới, định nghĩa và phân tích”(2009) [13], Phạm Thành Huy đã tổng
hợp các mô hình đơn vị nghiên cứu phổ biến trên thế giới và đề xuất mô hình NNCM
cho các trƣờng đại học ở Việt Nam, cụ thể:
Về mô hình đơn vị nghiên cứu trên thế giới, tác giả nêu 5 mô hình phổ biến:
Thứ nhất, mô hình nghiên cứu nhỏ (dƣới 10 ngƣời), thƣờng đƣợc xây dựng theo
tiếp cận từ dƣới lên, tức là xuất phát từ ý tƣởng của các cá nhân hoặc nhu cầu hợp tác
30
của một số cá nhân hoặc NNC nhỏ từ các chuyên ngành khác nhau. Chức năng chính
là nghiên cứu, có thể tham gia đào tạo, cấu trúc nghiên cứu không chặt chẽ, bản thân
các thành viên nghiên cứu trong nhóm cũng có các nhiệm vụ nghiên cứu đơn ngành
riêng biệt.
Thứ hai, mô hình các trung tâm nghiên cứu lớn, có thể hình thành theo cách tiếp
cận khác nhau nhƣ: từ dƣới lên theo nhu cầu của cơ sở; từ trên xuống theo đề xuất
hoặc ý tƣởng của các cơ quan quản lý cấp trên; hoặc theo mô hình các vƣờn ƣơm công
nghệ. Chức năng bao gồm cả nghiên cứu và đào tạo, đƣợc tổ chức và quản lý bởi một
ban lãnh đạo cứng, mà giám đốc là ngƣời trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm báo
cáo tình hình hoạt động trực tiếp lên ban lãnh đạo, quản lý cấp trên. Các đơn vị này
thƣờng đƣợc xây dựng mới, bao gồm cơ sở hạ tầng, thiết bị mới. Nhân sự có thể cùng
đƣợc sử dụng với các đơn vị khác. Cơ sở vật chất, địa điểm có thể cố định hoặc chia sẻ
với các đơn vị khác.
Thứ ba, mô hình công nghiệp, hình thành theo cách tiếp cận top-down, định
hƣớng nghiên cứu theo sản phẩm, tập trung vào nghiên cứu không tham gia đào tạo,
đƣợc tổ chức có cấu trúc một cách chặt chẽ, tính kế hoạch cao, các mốc thời gian
chính xác và có thời điểm kết thúc, có sự chuyển đổi linh động, nhuần nhuyễn của các
cán bộ nghiên cứu giữa các NNC.
Thứ tư, mô hình PTN quốc gia. Đây là mô hình lai của các cách tiếp cận top-
down, nghiên cứu theo nhiệm vụ bottom-up. Đƣợc đầu tƣ cơ sở vật chất đầy đủ, bao
gồm cả chức năng nghiên cứu và đào tạo chất lƣợng cao, cấu trúc tổ chức chặt chẽ.
Tính kế hoạch cao, các mốc thời gian chính xác và có thời điểm kết thúc, có sự chuyển
đổi linh động, nhuần nhuyễn của các cán bộ nghiên cứu giữa các NNC.
Thứ năm, mô hình liên công nghiệp, liên đại học và liên kết đại học - công
nghiệp. Đây là mô hình top-down, nghiên cứu đƣợc định hƣớng theo nhu cầu xã hội
(có thể là nghiên cứu cơ bản và ứng dụng). Bao gồm cả hoạt động nghiên cứu và đào
tạo. Lãnh đạo có thể là ngƣời kiêm nhiệm (part time) và thƣờng có hội đồng tƣ vấn.
Thƣờng đƣợc khởi tạo với một dự án đầu tƣ nghiên cứu lớn.
Từ 5 mô hình đơn vị nghiên cứu phổ biến trên thế giới, tác giả đề xuất mô hình
NNCM cho các trƣờng đại học ở Việt Nam, cụ thể:
Về cách tiếp cận xây dựng NNCM, theo tác giả, NNCM có thể đƣợc xây dựng
thông qua 2 cách tiếp cận khác nhau:
31
Tiếp cận từ dƣới lên, tức là do nỗ lực bản thân của chính các nhà khoa học, tự
xây dựng nhóm, tìm kiếm đề tài nghiên cứu, tuyển NCS… trong trƣờng hợp này cơ
quan quản lý , nhà trƣờng cần theo dõi, hỗ trợ, đầu tƣ thích hợp.
Tiếp cận từ trên xuống: Nhà trƣờng, xác định hƣớng nghiên cứu, tuyển chọn
trƣởng nhóm, đầu tƣ trang thiết bị, kinh phí hoạt động và kinh phí nghiên cứu (bao
gồm cả kinh phí cho NCS, postdoc…)
Về mô hình NNCM, theo tác giả, cơ cấu tổ chức của nhóm gọn nhẹ, đảm bảo
tính linh động mềm dẻo, định hƣớng theo các đề tài, dự án nghiên cứu và khai thác
hiệu quả nguồn nhân lực, thành phần của nhóm bao gồm:
1- Trƣởng NNC (01 ngƣời), là giáo sƣ (hoặc phó giáo sƣ) có khả năng, uy tín
khoa học, hiện đang hoạt động nghiên cứu, có hƣớng dẫn nhiều NCS (VD: >3), là tác
giả chính của các công trình khoa học công bố trên các tạp chí trong 3 năm gần đây
(hàng năm). Hiện đang thực hiện các đề tài, dự án nghiên cứu cấp Nhà nƣớc, cấp Bộ.
2- Nghiên cứu chính (2-3 ngƣời), có thể là PGS và TS có cùng chuyên ngành và
định hƣớng với trƣởng nhóm. Hoạt động gắn chặt với các định hƣớng, đề tài, dự án
nghiên cứu của nhóm. Tham gia đồng hƣớng dẫn NCS với trƣởng nhóm.
3- NCS (3-10 ngƣời), có thể phân bổ đều theo các năm, mỗi năm từ 1-3 NCS.
4- Kỹ thuật viên, mỗi NNC cần có một số kỹ thuật viên nhất định tùy vào cơ sở
máy móc, trang thiết bị nghiên cứu hiện có của nhóm. Số kỹ thuật viên tốt nhất từ 1-2
ngƣời đối với NNC dƣới 10 ngƣời và 2-3 ngƣời đối với NNC có trên 10 ngƣời.
5- Học viên cao học. Để đảm bảo tính tiếp nối của hƣớng nghiên cứu, NNC cần
thu hút đƣợc các HVCH tham gia học tập và làm việc nghiên cứu tại nhóm. Số lƣợng
học viên tốt nhất là bằng số nghiên cứu sinh trong nhóm.
6- Thƣ ký. Mỗi NNC có 01 thƣ ký trợ lý cho trƣởng NNC trong công tác hành
chính và các hoạt động tuyển dụng, hoạt động xã hội của nhóm.
Đồng thời cũng theo tác giả, định hƣớng nghiên cứu của nhóm phải đƣợc tập
trung vào một số lĩnh vực nghiên cứu đã đƣợc lựa chọn nhằm đảm bảo các thế mạnh
của nhóm; NNC, đặc biệt là trƣởng nhóm và các cán bộ nghiên cứu chính của nhóm
phải tích cực tham gia hoạt động đào tạo, nhất là đào tạo sau đại học và thúc đẩy hoạt
động hợp tác quốc tế; NNC cần đƣợc đầu tƣ và xây dựng đƣợc cơ sở vật chất, trang
thiết bị máy móc công nghệ và phân tích riêng biệt để có thể chủ động trong công tác
nghiên cứu.
32
1.3. Các công trình nghiên cứu về chính sách phát triển NNCM trong trường
đại học
Qua khảo sát các công trình nghiên cứu về chính sách phát triển NNCM trong
trƣờng đại học ở Việt Nam và nƣớc ngoài, tác giả luận án nhận thấy chủ đề này còn rất
mới mẻ vì thế các nghiên cứu bàn về chủ đề này quả thực không nhiều. Sau đây là một
số bài viết đã đƣợc tác giả luận án tổng hợp:
Bài viết có nhan đề “Đầu tư cho nhóm nghiên cứu khởi phát: Chìa khóa để
thu hút tài năng và cải thiện hiệu suất nghiên cứu khoa học” (2013) [62], Ngô Đức
Thế đã gợi ý một số giải pháp phát triển các NNC khoa học từ việc đổi mới cơ chế
cấp đề tài xây dựng NNC thông qua tham khảo mô hình các nƣớc có nền khoa học
tiên tiến, cụ thể:
Thứ nhất, tác giả bài viết đã chỉ ra đƣợc một số mô hình chính sách mà các
nƣớc tiên tiến đã thực hiện để tài trợ cho các nhà nghiên cứu khi bắt đầu xây dựng
NNC. Theo tác giả, các nước tiên tiến, luôn có các Quỹ để cấp tiền cho các nhà khoa
học thiết lập những bước ban đầu cho sự nghiệp nghiên cứu của mình. Quỹ này có thể
từ chính các cơ sở nghiên cứu, khi đăng tuyển dụng nhà nghiên cứu sẽ cam kết cấp
kinh phí ban đầu cho các ứng viên trúng tuyển hoặc từ các quỹ chính phủ cấp cho ứng
viên dưới dạng các “học bổng” hay “đề tài” (fellowship, fund). Lúc này, cơ sở nghiên
cứu (trường đại học, viện nghiên cứu) sẽ đóng vai trò các nơi bảo trợ cho fellowship
của ứng viên.
Thứ 2, bài viết cũng chỉ ra một số khó khăn đối với các nhà khoa học ở Việt
Nam khi bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu. Việc xin các đầu tư lớn đối với các nhà khoa
học trẻ mới bắt đầu sự nghiệp để xây dựng một NNC ở Việt Nam là rất khó và
NAFOSTED hiện nay có thể coi như một nơi “cứu trợ” nhằm trang trải một phần nhỏ
kinh phí nghiên cứu với các đề tài khoảng 2-3 năm. Các nhà khoa học buộc phải sử
dụng các trang thiết bị sẵn có (thường không đồng bộ) tại cơ sở làm việc, tức là phải
“nắn bóp” nghiên cứu sao cho phù hợp với trang thiết bị hiện có, thay vì xây dựng cơ
sở vật chất đồng bộ để theo đuổi các hướng nghiên cứu mà họ đang làm chủ trước đó.
Cứ như thế, các nhà khoa học làm nghiên cứu một cách “tạm bợ”, “cho xong ngày
tháng” mà không thể xây dựng một NNCM mà họ có quyền tự chủ. Và cứ thế, cách
làm việc này tạo ra một vòng luẩn quẩn và khiến cả nền khoa học mãi không thể thoát
ra khỏi tư duy cũ kiểu “hợp tác xã”.
33
Thứ ba, giải pháp mà bài viết đề xuất đó là Bộ KH&CN có thể mạnh dạn đổi
mới Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia (NAFOSTED), song song với việc cấp các đề
tài thường niên như đã có tiền lệ, nên xây dựng một quỹ học bổng (Ví dụ như đặt tên
là NAFOSTED Research Fellowship) cấp một lượng kinh phí lớn cho các ứng viên bắt
đầu sự nghiệp nghiên cứu độc lập (early stage career). Fellowship có thể kéo dài 5-6
năm, bao gồm kinh phi mua sắm các trang thiết bị để thiết lập một NNC ban đầu, một
phần lương cơ bản cho ứng viên (fellow), trợ cấp (nếu có), tiền lương chi trả cho nhân
công tham gia đề tài (bao gồm 1-2 NCS hậu tiến sĩ, 1-2 NCS tiến sĩ…), tiền chi phí cho
nghiên cứu (running cost), chi phí xuất bản, công bố khoa học, tham gia hội thảo khoa
học, chi phí mời chuyên gia… Bộ KH&CN nên mạnh dạn cấp kinh phí từ 1-2 triệu
USD cho mỗi fellowship trong vòng 5-6 năm đối với các ứng viên có đủ năng lực. Nếu
nhƣ mỗi năm cấp cho 25 ứng viên thì sẽ tiêu tốn 25-50 triệu USD mỗi năm, và số tiền
này hoàn toàn trong khả năng của ngân sách (có tổng đầu tư lên tới 750 triệu USD đầu
tư mỗi năm).
Bài viết có tựa đề “Năng lực nghiên cứu là yếu tố quan trọng” (2015) [68],
Phạm Hùng Việt đã đúc rút một số kinh nghiệm, xuất phát từ thực tiễn xây dựng và
phát triển NNC của mình, tác giả cho rằng việc tiếp cận các quỹ đầu tƣ của nƣớc ngoài
là một trong những giải pháp quan trọng để phát triển NNC, đồng thời tác giả cũng
khuyến nghị Quỹ KH&CN quốc gia cần có một số chính sách đổi mới, cụ thể:
Về việc tiếp cận nguồn tài trợ từ nƣớc ngoài, ông gợi ý “để tiếp cận các quỹ tài
trợ quốc tế, NNC của ông đã thông qua các mối quan hệ liên kết, hợp tác với các tổ
chức, viện nghiên cứu, NNC quốc tế”. Chính việc thông qua những đối tác nghiên cứu
có uy tín, NNC của tác giả đã nhanh chóng tiếp cận đƣợc với các quỹ tài trợ nƣớc
ngoài, đặc biệt là quỹ thuộc các quốc gia sở tại của các đối tác đó. Nhờ vậy, NNC của
tác giả đã có đƣợc những nguồn kinh phí lớn, có khả năng đảm bảo việc thực hiện các
dự án nghiên cứu mang tính chất thực nghiệm dài hơi.
Đồng thời, theo tác giả, để duy trì được mối quan hệ hợp tác lâu dài với các đối
tác quốc tế cũng như các quỹ tài trợ quốc tế, nhóm của ông phải chứng tỏ được năng
lực nghiên cứu của mình cũng như minh bạch hóa quá trình sử dụng kinh phí đầu tư
cho dự án.
Về đề xuất chính sách, theo tác giả, Quỹ Nafosted cần có một quy chế thưởng
phạt cụ thể dựa trên cơ sở đánh giá các sản phẩm khoa học, ví dụ đối với những nhóm
thực hiện đề tài có công bố trên những tạp chí có hệ số ảnh hưởng IF cao nên được
34
tính thưởng bên cạnh việc đề xuất xét thưởng như Giải thưởng Tạ Quang Bửu hàng
năm; ngoài ra, nên ưu tiên cho họ nhận những đề tài tiếp theo có kinh phí cao hơn để
khuyến khích họ có thêm những KQNC giá trị. Ngược lại, với những NNC từng thực
hiện những đề tài có công bố trên các tạp chí có hệ số ảnh hưởng quá thấp thì Quỹ
nên xem xét tạm dừng cấp kinh phí ở những đề tài kế tiếp trong một thời gian thích
hợp cho đến khi họ chứng minh được năng lực mới cấp kinh phí trở lại.
Trong bài viết “Tài trợ nghiên cứu cơ bản theo mô hình 3 mức” [59], Trần Đình
Phong đã mạnh dạn cho rằng việc “Tài trợ cho nghiên cứu theo cách thức hiện nay của
Quỹ Nafosted có thể đem lại hiệu quả tức thời cho khoa học Việt Nam, nhưng về lâu dài,
việc duy trì tài trợ mang tín dàn trải, ngắn hạn và chạy theo số lượng công bố sẽ không
thể tạo ra sự phát triển đột phá cho nền khoa học”. Vì vậy, tác giả đề xuất “Quỹ
Nafosted cần có chính sách đầu tư mới, quyết liệt hơn để khoa học Việt Nam có được
những cá nhân và NNCM”. Theo tác giả, để có những giải pháp mang tính dài hạn, cần
đổi mới cách thức đầu tƣ cho khoa học trên cơ sở tham khảo cách làm mà các quỹ tài trợ
quốc tế đã áp dụng thành công, một trong số đó có Quỹ của Hội đồng khoa học châu Âu
(European Research Council ERC), vốn thực hiện tài trợ cho các NNC theo những mức
khác nhau: mức thứ nhất dành cho các tiến sĩ trẻ tài năng đã hoàn thành CTĐT NCS từ 7
năm trở lại với khoản đầu tƣ tối đa 1.5 triệu Euro cho 5 năm (ERC starting grant); Mức
thứ 2 - các tiến sĩ đã tích lũy đƣợc nhiều kinh nghiệm làm việc (từ 7 đến 12 năm sau tiến
sĩ), với khoản đầu tƣ lên đến 2 triệu Euro cho 5 năm (ERC consolidator grant); Mức thứ
ba-các nhà nghiên cứu đã khẳng định đƣợc tài năng và dẫn đầu các PTN lớn với kinh
phí khoảng 2.5 triệu Euro cho 5 năm (ERC advanced grant). Nếu quỹ Nafosted mạnh
dạn áp dụng cách tài trợ theo mô hình nhiều mức này thì sau 10 đến 15 năm, khoa học
Việt Nam sẽ có đƣợc những cá nhân xuất sắc, NNCM.
Cũng theo tác giả, cách đầu tƣ hiện nay của Quỹ nên đƣợc coi là mức đầu tiên
nhằm hình thành một cộng đồng khoa học đủ về số lƣợng và đặc biệt giúp đỡ cho các
nhà nghiên cứu trẻ gây dựng NNC của mình. Còn việc đầu tƣ tài trợ từ mức đầu lên
mức 2 và 3 cần đảm bảo tính khoa học, chính xác. Tác giả cho rằng, các nhà khoa học
sau 5, 6 năm nhận đƣợc tài trợ theo mức thứ nhất sẽ đƣợc đánh giá bởi hội đồng khoa
học ngành. Trên cơ sở đánh giá đó, hội đồng khoa học chọn và giới thiệu lên Quỹ một
số nhà nghiên cứu có thành tích vƣợt trội so với các đồng nghiệp về chất lƣợng, số
lƣợng công bố và bắt đầu có hƣớng đi rõ ràng trong nghiên cứu. Theo đó Quỹ có thể
35
mời các nhà nghiên cứu giới thiệu viết đề cƣơng cho một chƣơng trình nghiên cứu mà
nhóm muốn thực hiện trong vòng từ 5 đến 10 năm tới. Các chƣơng trình nghiên cứu
này nên có tính hệ thống, trình bày hƣớng tiếp cận mà nếu thành công có thể đem lại
những đóng góp quan trọng cho cộng đồng và cho xã hội. Để đánh giá khách quan và
toàn diện, hội đồng khoa học ngành nên mời thêm những chuyên gia quốc tế có uy tín
học thuật trong chuyên ngành hẹp mà chƣơng trình nghiên cứu đề xuất. Ý kiến phản
biện nên gồm cả nhận xét về nội dung khoa học của chƣơng trình nghiên cứu và năng
lực khoa học của ngƣời trƣởng nhóm. Với khoảng 3 ý kiến phản biện quốc tế độc lập,
hội đồng ngành hoàn toàn có thể có một cái nhìn xác đáng về khả năng thành công khi
chƣơng trình và NNC đƣợc đầu tƣ. Bƣớc cuối cùng của quá trình tuyển chọn, hội đồng
khoa học cùng quỹ phỏng vấn trực tiếp các nhà khoa học. Thông qua các bƣớc kiểm
định chặt chẽ nhƣ vậy, tác giả tin rằng Quỹ có thể tìm đƣợc đúng địa chỉ đầu tƣ. Bên
cạnh đó tác giả cũng cho rằng Quỹ có thể tham khảo cách lựa chọn chƣơng trình
nghiên cứu và nhà khoa học của Quỹ NCKH Singapore (National Research
Foundation), nơi những năm qua đã thu hút đƣợc nhiều các tài năng khoa học trẻ quốc
tế. Nếu tiếp tục thực hiện theo cách này, tác giả cho rằng sau khoảng 10 năm nữa, Quỹ
có thể tiếp tục chọn ra đƣợc những nhà nghiên cứu, NNCM để đầu tƣ trọng điểm ở
mức thứ 3.Cũng theo tác giả, muốn đạt mục tiêu cao trong khoa học thì số tiền đầu tƣ
cũng phải tƣơng ứng, thay vì đầu tƣ dàn trải, Quỹ nên đầu tƣ vào những mũi nhọn một
cách chọn lọc thì kinh phí sẽ không quá tốn kém.
Bàn về quy trình, phƣơng pháp, tiêu chí lựa chọn và đầu tƣ cho NNCM,
Nguyễn Thị Thu Oanh đề xuất 3 bƣớc đánh giá lựa chọn và 4 giai đoạn đầu tƣ cho
NNCM trong bài viết có nhan đề “Xây dựng quy trình, phương pháp và tiêu chí lựa
chọn nhóm nghiên cứu mạnh” (2009) [19], cụ thể:
Bƣớc 1: Đánh giá đề xuất ý tƣởng, với các tiêu chính đánh giá và phân bổ trọng
số cho từng tiêu chí nhƣ sau: (1) Tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu (25%); (2)
Chất lƣợng khoa học của đề xuất nghiên cứu (30%); (3) Tiềm năng của các KQNC
(15%); (4) Sự xuất sắc của trƣởng NNC (30%). Phƣơng pháp đánh giá ý tƣởng: Mỗi
đề xuất chọn 2 chuyên gia cùng ngành. Sau đó tập hợp tác cả các ý kiến đánh giá và
phân loại các đề xuất ý thƣởng theo lĩnh vực và tổ chức Hội đồng theo lĩnh vực để
đánh giá tổng thể. Những ý tƣởng đƣợc đánh giá từ 70/100 điểm trở lên sẽ tiếp tục
đƣợc lựa chọn để xây đựng Đề cƣơng nghiên cứu chi tiết.
36
Bƣớc 2: Đánh giá đề cƣơng chi tiết với các tiêu chí sau: (1) Sự xuất sắc của
trƣởng NNC; (2) Tính hợp lý và khả thi của kế hoạch thực hiện nghiên cứu; (3) Tác
động mong đợi của nghiên cứu. Phƣơng pháp đánh giá: Đánh giá bằng chuyên gia
cùng ngành (Peer Review) thông qua các hội đồng.
Bƣớc 3: Thẩm định hiện trƣờng tại cơ sở 30% số đề xuất theo thứ tự từ dƣới
lên, với nội dung thẩm định gồm (1) Xem xét sự hỗ trợ của đơn vị chủ quản đối với
NNC; (2) Xem xét đến các nguồn lực của NNC
Sau khi hoàn thành 3 bƣớc đánh giá, Ban quản lý chƣơng trình sẽ thành lập Hội
đồng tổng hợp để xem xét, tổng hợp kết quả đánh giá và xếp hạng các đề xuất nghiên
cứu. Căn cứ vào quy mô kinh phí, Hội đồng sẽ thông qua danh sách các đề xuất đƣợc
lựa chọn theo thứ tự từ trên xuống.
Đồng quan điểm với Nguyễn Thị Thu Oanh, trong bài viết có nhan đề “Đề xuất
quy trình xây dựng NNCM và phương án nuôi dưỡng, phát triển các NNCM phù hợp
trong điều kiện Việt Nam”, Phạm Xuân Thảo[24] cũng cụ thể hóa quy trình tuyển chọn
NNCM theo 3 giai đoạn, đồng thời tác giả quy định cụ thể thời gian đánh giá, tuyển
chọn ở từng giai đoạn và mức kinh phí đầu tƣ dài hạn cho NNC, cụ thể nhƣ sau:
Công bố chƣơng trình
3 giai đoạn đánh giá tuyển chọn
Giai đoạn 3 Đánh giá thẩm định hiện trƣờng/tại chỗ (Thăm, kiểm tra,
kiểm chứng) [Thực hiện trong khoảng 0,5 tháng]
Giai đoạn 1 Đánh giá ý tƣởng KH&CN và đánh giá trƣởng NNC [Thực hiện trong khoảng 1 tháng]
Giai đoạn 2 Đánh giá đề cƣơng nghiên cứu chi tiết (Chủ nhiệm đề tài - trƣởng NNC trình bày) [Thực hiện trong khoảng 1,5 tháng] Lựa chọn đề tài
Hợp đồng nghiên cứu
Kinh phí tài trợ khoảng 1 tỉ đồng/năm
Giai đoạn tài trợ dài nhất có thể lên tới 4 năm Thực hiện nghiên cứu
Đánh giá giữa kỳ (sau 2 năm) (Loại 20% đề tài xếp hạng thấp)
37
Và cuối cùng tác giả đề xuất quy trình đánh giá 4 năm đầu tƣ, cụ thể các
bƣớc nhƣ sau: Chủ nhiệm đề tài đệ trình bản tự đánh giá theo hƣớng dẫn của chƣơng
trình -> Đánh giá bởi hội đồng chuyên gia cùng ngành -> Nhóm chuyên gia cùng
ngành đánh giá tại chỗ ->Kết luận cuối cùng.
Trong khi đó, vấn đề rào cản đối với hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa
học trong trƣờng đại học cũng đƣợc các tác giả đề cập đến, có thể kể đến nhƣ nghiên
cứu của Neshaneh Pakdaman và các cộng sự trong “Barriers to research activities of
faculty members in Islamic Azad University (2016)” (Rào cản đối với hoạt động
nghiên cứu của các giảng viên Đại học Hồi giáo Azad), các tác giả đã chỉ ra rằng a)
việc thiếu không gian vật lý cho công việc, học tập và nghiên cứu, b) không quen với
các phƣơng pháp tìm kiếm trên Internet và c) không quen với các phƣơng pháp nghiên
cứu và thống kê là những trở ngại lớn nhất đối với các nhà khoa học khi triển khai và
thực hiện các dự án nghiên cứu. Các tác giả cũng khẳng định việc hỗ trợ về tài chính
và tinh thần, xem xét các ƣu tiên và nhu cầu nghiên cứu, tôn vinh địa vị xã hội của
giảng viên, tạo môi trƣờng thuận lợi và tích cực cho các nhà khoa học, loại bỏ các quy
tắc và quy định hành chính cứng nhắc sẽ là giải pháp phù hợp thúc đẩy các nhà khoa
học tham gia tích cực vào các dự án nghiên cứu[38].
Cũng điều tra các rào cản và thách thức nghiên cứu trong trƣờng đại học từ góc
nhìn của các thành viên khoa Kermanshah City (Investigation of Research Barriers
and Challenges in University from the Perspective of Faculty Members of
Kermanshah City (2014)), Nasim Nobahar và các cộng sự đã chỉ ra rằng các yếu tố tài
chính, học thuật, nhân lực, cơ sở vật chất, chuyên môn và vấn đề quản lý là những rào
cản lớn có ảnh hƣởng đến sự liên kết và hiệu quả hoạt động của NNC. Nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng, để nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học của các NNC thì trƣờng đại
học cần thực hiện các biện pháp sau đây: 1) Tăng cƣờng liên kết học thuật với các
quốc gia khác; 2) Tăng cƣờng hợp tác giữa các nhà nghiên cứu trong trƣờng; 3) Tăng
sự chú ý đến các sinh viên và nhà nghiên cứu tài năng; 4) Tăng kinh phí cho nghiên
cứu và phân phối hợp lý; 5) Tăng cƣờng thiết bị và phƣơng tiện cần thiết phục vụ
nghiên cứu (sách, máy tính, phần cứng, phòng thí nghiệm); 6) Tăng cƣờng giao tiếp
giữa các trƣờng đại học và khối công nghiệp; 7) Giảm quan liêu hành chính và đơn
giản hóa quy trình công bố các ấn phẩm nghiên cứu; 8) Quyết định nghiêm túc trong
việc thực hiện kết quả nghiên cứu; 9) Giám sát các dự án nghiên cứu; 10) Tăng cƣờng
các khoa đào tạo cần thiết cho các Khoa; 11) Sử dụng các nhà quản lý chuyên nghiệp
trong lĩnh vực nghiên cứu[37].
38
1.4. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Nhìn lại các nghiên cứu đi trƣớc liên quan đến luận án đã đƣợc trình bày ở trên,
tác giả luận án nhận thấy những khoảng trống mà các nghiên cứu đi trƣớc còn để lại cụ
thể nhƣ sau.
Thứ nhất, các nghiên cứu đi trƣớc đã đề cập đến khái niệm NNC, NNCM và có
những cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau về NNC và NNCM. Tuy nhiên, sự đa dạng
của các quan điểm, định nghĩa đó dẫn đến sự thiếu nhất quán và chƣa cụ thể trong việc
vận dụng khái niệm NNC và NNCM để nghiên cứu NNC và NNCM trong trƣờng đại
học. Vì vậy, một vấn đề quan trọng mà luận án này triển khai là đề xuất khái niệm
NNC và NNCM phù hợp để nghiên cứu NNC và NNCM trong trƣờng đại học ở Việt
Nam, mà cụ thể ở đây là ĐHQGHN.
Thứ hai, các nghiên cứu đi trƣớc cũng chỉ ra mô hình tổ chức, hoạt động của các
NNC, lý giải vai trò và các mối quan hệ bên trong, bên ngoài cũng nhƣ những yếu tố
hợp tác tạo nên sự thành công cho các NNC. Tuy nhiên, mỗi trƣờng đại học, cơ sở
giáo dục đại học lại có những đặc điểm riêng cho nên mô hình tổ chức, hoạt động của
các NNC, NNCM và vai trò của NNC và NNCM trong các cơ sở đó cũng có những
điểm khác nhau. Vì vậy, một trong những nội dung quan trọng của luận án này là góp
phần mở rộng sự hiểu biết đối với thực tiễn mô hình tổ chức, hoạt động của các NNC,
NNCM và vai trò của NNC và NNNC trong các trƣờng đại học ở Việt Nam, mà cụ thể
ở đây là trƣờng hợp ĐHQGHN.
Thứ ba, các nghiên cứu đi trƣớc đã nêu lên những gợi mở về chính sách, đã nhận
diện các rào cản, thách thức đối với sự hợp tác giữa các nhà khoa học nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động nghiên cứu trong trƣờng đại học. Tuy nhiên, nhƣ đã nói ở trên, bên
cạnh những đặc điểm chung thì các trƣờng đại học, cơ sở giáo dục đại học và các
NNC, NNCM trong các trƣờng đại học, cơ sở giáo dục đại học cũng có những đặc
điểm riêng, trong đó ĐHQGHN là một trƣờng hợp cụ thể. Vì vậy, việc đƣa ra những
gợi ý về bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển các NNCM nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động KH&CN trong các trƣờng đại học phải phù hợp với từng trƣờng đại học, cơ
sở giáo dục đại học cụ thể. Bởi vậy, một trong những nội dung quan trọng của luận án
là nghiên cứu thực trạng chính sách và đề xuất chính sách phát triển các NNCM phù
hợp với bối cảnh của ĐHQGHN.
39
1.5. Tiểu kết chƣơng 1
Nhìn lại các phần viết đã đƣợc trình bày ở trên, chúng ta thấy mấy điểm cần
đƣợc nhấn mạnh lại, cụ thể nhƣ sau.
Trước hết, liên quan đến chủ đề nghiên cứu, hai hƣớng nghiên cứu chính đã
đƣợc tác giả luận án làm tổng quan. Hƣớng nghiên cứu thứ nhất là hƣớng nghiên cứu
về sự hình thành, đặc điểm, vai trò của NNCM trong trƣờng đại học. Hƣớng nghiên
cứu này đã bàn sâu về khái niệm NNC, NNCM và đƣa ra các cách hiểu, cách tiếp cận
khác nhau về NNC và NNCM. Hƣớng nghiên cứu này cũng đã phản ánh mô hình tổ
chức, hoạt động của các NNC, lý giải vai trò và các mối quan hệ bên trong, bên ngoài
cũng nhƣ những yếu tố hợp tác tạo nên sự thành công cho các NNC. Hƣớng nghiên
cứu thứ hai là hƣớng nghiên cứu về chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học.
Hƣớng nghiên cứu này nêu lên những gợi mở về chính sách, đã nhận diện các rào cản,
thách thức đối với sự hợp tác giữa các nhà khoa học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động nghiên cứu trong trƣờng đại học. Nhƣ vậy, điểm quan trọng thứ nhất của chƣơng
này là đã điểm lại những kết quả quan trọng của các công trình đi trƣớc liên quan đến
chủ đề nghiên cứu.
Thứ hai, trên cơ sở nhìn lại các công trình nghiên cứu đi trƣớc, chƣơng này
đã nhận diện những khoảng trống mà nghiên cứu đi trƣớc còn để lại. Trên cơ sở đó,
tác giả luận án xây dựng các nội dung nghiên cứu của luận án. Cụ thể là, tác giả luận
án đã tập trung vào ba chiều cạnh cơ bản làm nên nội dung của luận án, bao gồm:
khái niệm, cách tiếp cận về NNC và NNCM; mô hình tổ chức, hoạt động, vai trò, các
mối quan hệ của NNCM; thực trạng chính sách và đề xuất chính sách phát triển các
NNCM phù hợp.
40
CHƢƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH
VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH TRONG
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC
2.1. Dẫn nhập
Chƣơng này sẽ trình bày một cách có hệ thống cơ sở lý thuyết phục vụ cho việc
thực hiện đề tài luận án. Nội dung của chƣơng sẽ tập trung giải quyết các nhiệm vụ
chính sau đây:
Thứ nhất, xác định cách hiểu thống nhất các khái niệm đƣợc sử dụng trong đề
tài, bao gồm: NNC, NNCM, hoạt động KH&CN, chính sách, chính sách phát triển
NNCM.
Thứ hai, xác định các tiêu chí đối với NNCM để có căn cứ đánh giá về tổ chức
và hoạt động của NNCM.
Thứ ba, làm rõ vai trò và các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của NNCM
qua đó làm rõ tiêu chí, vai trò, hình thức tác động của NNCM đến việc nâng cao hiệu
quả hoạt động KH&CN trong trƣờng đại học.
Thứ tƣ, trình bày một cách căn bản cơ sở lý thuyết về phân tích, đánh giá và
hoạch định chính sách, xác định các tiêu chí đánh giá chính sách để từ đó sử dụng
phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện sách phát triển NNCM
trong trƣờng đại học.
2.2. Cơ sở lý luận về NNCM trong trƣờng đại học
2.2.1. Khái niệm NNC
Nhƣ đã đề cập trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên, tác giả luận
án nhận thấy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về NNC. Giữa các nhà quản lý, các nhà
khoa học vẫn chƣa thể đi đến một quan điểm thống nhất. Các trƣờng đại học, các đơn
vị nghiên cứu thƣờng căn cứ vào hoạt động đào tạo và NCKH của mình mà đƣa ra
những định nghĩa riêng.
Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trƣớc đó và qua thực tiễn tìm hiểu về các
NNC, tác giả luận án diễn đạt lại khái niệm NNC nhƣ sau: NNC là một tập hợp các
thành viên có tổ chức hoặc có tính tổ chức trong các đơn vị có chức năng nghiên cứu.
Các thành viên của nhóm được tập hợp để cùng thực hiện một đề tài hoặc theo đuổi
một lĩnh vực nghiên cứu xác định. Các NNC được tạo dựng bởi một số hay nhiều
41
thành viên cộng tác và có chung niềm đam mê nghiên cứu, có cơ chế chia sẻ quyền lợi,
trách nhiệm khi thực hiện các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu. Thành viên của NNC có thể
gồm các nhà nghiên cứu trẻ, sinh viên, học viên, NCS và các nhà khoa học có uy tín
thuộc các tổ chức nghiên cứu trong nước và nước ngoài cùng tham gia, tạo nên các
kết quả của hoạt động nghiên cứu.
2.2.2. Khái niệm và tiêu chí NNCM
Khác với NNC thông thƣờng NNCM đặt ra các yêu cầu cao hơn về quy mô và
độ phức tạp của các vấn đề nghiên cứu nên các tiêu chí đặt ra đối với NNCM cũng đòi
hỏi cao hơn. Trong khuôn khổ luận án này, khái niệm NNCM đƣợc tác giả luận án
diễn đạt nhƣ sau:
NNCM là một tổ chức trung gian trong hệ thống tổ chức bộ môn, khoa, trung
tâm, viện, trường. Nhóm được dắt dẫn bởi một nhà khoa học có năng lực, uy tín,
có khả năng liên kết các nhà khoa học cùng chuyên ngành hay các chuyên ngành
khác nhau để giải quyết một cách tập trung, hoàn chỉnh một hay một số vấn đề
hoặc chương trình, đề tài/dự án quan trọng, có qui mô lớn trong một thời gian dài
(3-5 năm). Kết quả nghiên cứu của nhóm là quan trọng, đột phá và nhất quán
trong lĩnh vực nghiên cứu mà nhóm theo đuổi. NNCM có đủ các điều kiện cơ bản
bao gồm nơi làm việc, trang thiết bị, thông tin, tư liệu ... để đảm bảo cho các hoạt
động nghiên cứu.
Khái niệm “mạnh” ở đây theo quan điểm của các nhà khoa học là “nhóm các
nhà khoa học đã đạt và có tiềm năng tiếp tục đạt được các kết quả nghiên cứu tốt
nhất trong cộng đồng các NNC hiện có trong mỗi trường”[67]; “nhóm có các
thành viên xuất sắc, điều kiện làm việc đầy đủ và những KQNC có ý nghĩa khoa
học/phục vụ thực tiễn lớn, được quốc tế thừa nhận”[55]; “một tập thể những
người làm công tác nghiên cứu có chuyên môn cao; Giải quyết một cách tập
trung, hoàn chỉnh một hay một số vấn đề hoặc chương trình, đề tài/dự án quan
trọng có qui mô đủ lớn trong một thời gian đủ dài theo định hướng nghiên cứu
xác định; Kết quả nghiên cứu của nhóm là quan trọng, đột phá và nhất quán
trong các lĩnh vực nghiên cứu”; “tập hợp các nhà khoa học hay các trung tâm,
phòng thí nghiệm liên kết với nhau trên một hay một số lĩnh vực nhằm nghiên cứu
và triển khai những hoạt động KH&CN ở trình độ cao; liên kết các cá nhân lại
với nhau trong khoảng thời gian cố định và liên kết với nhau dưới dạng hệ thống
hoàn chỉnh”[40]
42
Trên cơ sở khái niệm NNCM nêu trên đây, và trên cơ sở xem xét các tiêu chí
đƣợc một số cơ quan, trƣờng đại học áp dụng khi thành lập NNCM, tác giả luận án
nhận định rằng những kết quả vƣợt trội của các NNCM về cơ bản có thể quy về ba tiêu
chí (1) Hƣớng nghiên cứu; (2) Sự xuất sắc của các thành viên chủ chốt (3) Cơ sở vật
chất - trang thiết bị phục vụ nghiên cứu (Hộp 2.1).
Hộp 2.1: Tiêu chí đánh giá NNCM
Cơ quan/
đơn vị
ĐHQGHN[29]
Đại học RMIT[75]
Quỹ NAFOSTED[28]
Tiêu chí
1. Hƣớng
Xây dựng đƣợc hƣớng
Mục tiêu và chiến lƣợc
Có định hƣớng nghiên
nghiên cứu
nghiên cứu trung, dài
nghiên cứu rõ ràng,
phù hợp với lĩnh vực
hạn; có mục tiêu, kế
phù hợp với các hƣớng
ƣu tiên đƣợc RMIT đặt
hoạch nghiên cứu cho
nghiên cứu trọng tâm,
trong chiến lƣợc phát
từng giai đoạn cụ thể;
mũi nhọn của quốc gia
triển của Trƣờng, đi
nội dung nghiên cứu
và ĐHQGHN
kèm với đó là kế hoạch,
có tính đột phá
nhiệm vụ và kinh phí
để triển khai hoạt động
nghiên cứu với
thời
gian tối thiểu 3 năm
43
Hộp 2.1: Tiêu chí đánh giá NNCM
Cơ quan/ đơn vị
Quỹ NAFOSTED[28]
ĐHQGHN[29]
Đại học RMIT[75]
Tiêu chí 2. Sự xuất sắc của thành viên chủ chốt
- Có tối thiểu 3 thành viên chủ chốt (01 Chủ nhiệm đề tài, 02 thành viên) - Chủ nhiệm đề tài: có kết quả công bố trên các tạp chí ISI có uy tín phù hợp trong 05 năm gần nhất; có khả năng tập hợp đƣợc nhiều nhà khoa học có cao chuyên môn tham gia thực hiện đề tài, duy trì đƣợc hợp tác NCKH thƣờng xuyên với các NNC quốc tế cùng ngành, liên ngành -Thành viên: Có chuyên môn phù hợp; Có năng lực đáp ứng yêu cầu của đề tài; có học vị tiến sĩ hoặc phó giáo sƣ, giáo sƣ và có kết quả nghiên cứu công bố trên tạp chí quốc tế có uy tín trong thời gian 05 năm gần nhất; + Có đủ thời gian hoàn thành nội dung nghiên cứu của đề tài theo quy định.
Có tối thiểu 3 thành viên chủ chốt đối với NNC, 6 thành viên chủ chốt đối với TTNC - Mỗi thành viên phải có ít nhất 05 công trình nghiên cứu đã công bố thuộc danh mục các công trình nghiên cứu xuất sắc của Úc (bao gồm ấn phẩm hoặc các sản phẩm sáng tạo) trong 3 năm trƣớc đó (tính từ thời điểm nộp hồ sơ); Có thời gian hƣớng dẫn sinh viên nghiên cứu trong ít nhất 1 học kỳ; Các thành viên nòng cốt ít nhất phải có thu 600.000 USD nhập từ nghiên cứu (must have at least $600K in external income) research lĩnh vực đối với KH&CN và sức khỏe hoặc 300.000 USD đối với lĩnh vực kinh tế, khoa học XH&NV, thiết kế sáng tạo và nghệ thuật trong 3 năm trƣớc đó.
Có đủ điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật
3. Cơ sở vật chất - trang thiết bị
Không quy định số lƣợng thành viên chủ chốt. - Trƣởng nhóm: là cán bộ khoa học cơ hữu; Chủ trì đề tài cấp ĐHQGHN trở lên; Là tác giả hoặc chủ biên của ít nhất 01 sách chuyên khảo hoặc tác giả, đồng tác giả của ít nhất 05 công bố ISI hoặc tác giả của ít nhất 01 sáng chế; hoặc có các sản phẩm KH&CN có ứng dụng thực tiễn, có tác động xã hội lớn, có giá trị lý luận, làm cơ sở tƣ vấn cho hoạch định chính sách quốc gia hoặc tích hợp một số thành tích đã nêu; Đã và đang hƣớng dẫn nghiên cứu sinh (NCS); Sử dụng thành thạo ít nhất 1 ngoại ngữ phổ biến (Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc); Có khả năng đề xuất các nghiên cứu tích hợp, kết nối thành những chƣơng trình nghiên cứu lớn, hƣớng đến sản phẩm tầm cỡ quốc gia, quốc tế; Có khả năng huy động các nguồn lực đảm bảo điều kiện cho hoạt động của Nhóm; - Thành viên:- Là các NKH có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ trở lên; đã có các sản phẩm KH&CN tiêu biểu trong hƣớng nghiên cứu; Đã và đang hƣớng dẫn học viên cao học và NCS Đã có cơ sở vật chất và các trang thiết bị cơ bản để triển khai hƣớng nghiên cứu.
Cơ sở vật chất đƣợc RMIT trang bị khi NNC/TTNC đƣợc thành lập
44
Bên cạnh việc đánh giá NNCM ở ĐHQGHN dựa trên tiêu chí của ĐHQGHN,
tác giả luận án còn lựa chọn tiêu chí của trƣờng đại học RMIT, Australia để đánh giá
NNCM ở ĐHQGHN. Điều này giúp làm rõ hơn mức độ hội nhập, mức độ quốc tế hóa,
mức độ đạt chuẩn NNCM quốc tế của NNCM ở ĐHQGHN. Điều cần nói thêm ở đây
là việc lựa chọn nhóm tiêu chí của RMIT vì quy mô, tổ chức của RMIT khá tƣơng
đồng với ĐHQGHN
2.2.3. Khái niệm và vai trò của hoạt động KH&CN trong trường đại học
- Khái niệm hoạt động KH&CN:
Khái niệm hoạt động KH&CN cũng đã đƣợc định nghĩa trong Luật KH&CN
năm 2013. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận án này, tác giả luận án sử dụng khái niệm
hoạt động KH&CN do Vũ Cao Đàm đề xuất [7, tr.230-234] bởi theo ghi nhận của tác
giả luận án, khi đề xuất khái niệm này Vũ Cao Đàm đã tiếp thu và phân tích những
điểm mạnh và điểm hạn chế trong các cách tiếp cận trên thế giới và Việt Nam. Do đó,
khái niệm đƣợc Vũ Cao Đàm đề xuất là rất đầy đủ, sâu sắc và bao quát đƣợc đầy đủ
nội dung của hoạt động KH&CN, sau đây là nội dung cụ thể:
Hoạt động KH&CN là một hoạt động xã hội có mục đích là nghiên cứu, sáng
tạo các thành tựu KH&CN và áp dụng chúng vào sản xuất và đời sống. Hoạt động
KH&CN bao gồm: nghiên cứu và triển khai (Research and Development, viết tắt là
R&D), chuyển giao công nghệ, phát triển công nghệ, đổi mới công nghệ và dịch vụ
KH&CN. Trong đó:
+ Nghiên cứu và triển khai là toàn bộ hoạt động nghiên cứu khoa học, tính từ
giai đoạn nghiên cứu cơ bản đến giai đoạn tạo ra sản phẩm mẫu sơ khởi và công nghệ
chế tạo sản phẩm mới theo mẫu sơ khởi đó.
+ NCKH là loại hoạt động nghiên cứu lý thuyết hoặc thực nghiệm, nhằm khám
phá bản chất các sự vật, hiện tƣợng hoặc sáng tạo các giải pháp để biến vật chất
và/hoặc thông tin. Nghiên cứu khoa học gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng
và triển khai.
+ Chuyển giao công nghệ là sự trao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một công
nghệ, có hoặc không thanh toán từ bên có công nghệ cho bên muốn nhận công nghệ.
Chuyển giao công nghệ là chuyển giao tri thức công nghệ. Đối tƣợng chuyển giao có
thể là quy trình, công thức, bí quyết. Các đối tƣợng này có thể đƣợc chuyển giao có
kèm hoặc không kèm hợp đồng patent hoặc license. Chuyển giao công nghệ về nguyên
tắc chỉ thuần túy là chuyển giao tri thức, nhƣng cũng có thể kèm theo hợp đồng mua
bán thiết bị.
45
+ Phát triển công nghệ là sự mở mang công nghệ vốn tồn tại trong sản xuất.
Khái niệm này không phải là khái niện “Triển khai”. Có hai dạng phát triển công nghệ
trong sản xuất: Mở rộng công nghệ, hay là phát triển công nghệ theo chiều rộng và
nâng cấp công nghệ, hay là phát triển công nghệ theo chiều sâu.
+ Đổi mới công nghệ là quá trình chuyển đổi từ một công nghệ vốn tồn tại sang
một công nghệ tiến bộ hơn về mặt nguyên lý. Hiệu quả đổi mới công nghệ không nhất
thiết có quan hệ tuyến tính với sự tiến bộ về nguyên lý công nghệ. Nó có thể đạt hiệu
quả cao về tiêu chí này, song lại đạt hiệu quả thấp về tiêu chí khác.
+ Dịch vụ KH&CN có hai nghĩa: Thứ nhất, là các hoạt động dịch vụ nhằm đối
tƣợng là các hoạt động KH&CN, nhƣ dịch vụ thông tin, bảo trì thiết bị kỹ thuật, tƣ vấn
pháp lý về KH&CN…; Thứ hai, là các hoạt động dịch vụ mà các tổ chức nghiên cứu
và triển khai tiến hành thông qua các hợp đồng với các đơn vị có nhu cầu , nhằm giúp
họ sửa chữa, duy tu, bảo trì các thiết bị kỹ thuật và công nghệ.
- Vai trò của hoạt động KH&CN trong trường đại học
Hoạt động KH&CN trong các trƣờng đại học luôn đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc nâng cao chất lƣợng đào tạo; tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của xã hội; tạo ra những tri thức mới, công nghệ mới phục vụ cho sự
phát triển của nhân loại. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn khẳng định giáo
dục - đào tạo cùng với KH&CN là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định tǎng
trƣởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tƣ cho giáo dục - đào tạo là đầu tƣ phát triển.
Đồng thời khẳng định, các trƣờng đại học phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học,
công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống[47].
Thế kỷ XXI, thế giới chứng kiến những bƣớc phát triển mạnh mẽ của khoa học
và kỹ thuật. Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đã và đang
đẩy nhanh sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm
chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt
đời sống xã hội loài ngƣời. Sự phát triển mạnh mẽ, các bƣớc tiến thần kỳ đó luôn gắn
liền và không thể tách rời với giáo dục đại học cùng với các hoạt động nghiên cứu của
nó. Theo phân tích của hai học giả ngƣời Mỹ Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson:
“Phát triển kinh tế ở Đông và Đông Nam Á cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa phát
triển và giáo dục đại học. Mặc dù mỗi quốc gia thịnh vƣợng nhất trong khu vực này -
Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và gần đây nhất là Trung Quốc - đã đi theo con đƣờng
của riêng mình, nhƣng có một điểm chung trong sự thành công của họ là họ đã chuyên
tâm theo đuổi một nền giáo dục đại học và NCKH chất lượng cao”[63].
46
Lịch sử nhân loại cũng từng ghi nhận trƣờng hợp Nhật Bản thời Minh Trị
(1868-1912), đó là quốc gia lấy giáo dục đại học và hoạt động NCKH trong các
trƣờng đại học làm bệ đỡ phát triển kinh tế, và thay đổi vận mệnh dân tộc. Từ một
quốc gia phong kiến lạc hậu, đứng trƣớc áp lực bành trƣớng của thực dân phƣơng
Tây giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản đã tiến hành cải cách Minh Trị với mục tiêu tự cƣờng
đất nƣớc, và quốc gia này đã coi cải cách giáo dục mà cụ thể là giáo dục đại học làm
mục tiêu trọng tâm. Ngay từ ban đầu, ngƣời Nhật đã lấy mô hình giáo dục phƣơng
Tây làm khuôn mẫu chuẩn, nhƣng đáng chú ý là họ chỉ Tây phƣơng hóa những lĩnh
vực họ cần (nhƣ kỹ thuật) chứ không phải Tây phƣơng hóa nền văn hóa cổ truyền
của họ. Tuy trong giai đoạn đầu kỹ nghệ hóa, Nhật Bản chƣa có một chiến lƣợc phát
triển có tính hệ thống, nhƣng chính phủ đã định hướng, khuyến khích giới kỹ nghệ
phát triển giáo dục và khoa học. Mặc dù ý thức đƣợc rằng giáo dục đại học luôn gắn
với nghiên cứu và đào tạo các nhà nghiên cứu, nhƣng trong giai đoạn này khi mà
công nghệ của Nhật còn quá lạc hậu so với phƣơng Tây, nên họ chủ yếu đào tạo
chuyên gia lành nghề, hoạt động nghiên cứu thực sự chỉ đƣợc tiến hành ở hai trƣờng
đại học lớn là Tokyo và Kyoto. Chiến lƣợc phát triển đúng đắn của Nhật Bản không
chỉ giúp họ tránh khỏi nanh vuốt xâm lƣợc của các quốc gia phƣơng Tây, mà chỉ sau
3 thập niên cải cách, đến đầu thế XX, quốc gia này đã từng bƣớc trở thành một nƣớc
tƣ bản. Tuy nhiên, phải mất một thời gian khá dài, đến năm 1960, khi Hội đồng
KH&CN Nhật đề xuất một số chính sách để phát triển khoa học - công nghệ trong
vòng 10 năm, thì những đề nghị này trở thành định hƣớng phát triển và hoàn thiện hệ
thống đại học cho đến ngày nay. Những quyết sách đúng đắn của giới lãnh đạo Nhật
- giao sứ mệnh và đặt trọng tâm vào giáo dục đại học và các hoạt động nghiên cứu,
đã giúp quốc gia này từ một nƣớc bại trận với nền kinh tế bị tàn phá sau Thế chiến
thứ II, đã mau chóng khôi phục và thật sự “cất cánh” vào những thập niên 60, 70 của
thế kỷ XX, và phát triển bền vững đến ngày nay. Nhật Bản với nền tảng ban đầu (thế
kỷ XIX) khá tƣơng đồng với Việt Nam, bằng những bƣớc đi đúng đắn, đã trở thành
quốc gia có nền kinh tế vững mạnh hàng đầu thế giới hiện nay. Kinh nghiệm phát
triển của ngƣời Nhật là bài học bổ ích cho Việt Nam nghiên cứu, tham khảo khi lựa
chọn định hƣớng xây dựng cho bản thân[9].
Nhƣ vậy, KH&CN, giáo dục và đào tạo trong các trƣờng đại học là những phạm
trù có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
47
2.2.4. Phân loại NNCM trong trường đại học
Theo Vũ Cao Đàm, phân loại khoa học là sự phân chia các bộ môn khoa học
thành những nhóm bộ môn khoa học theo cùng một tiêu thức nào đó. Phân loại khoa
học là để nhận dạng cấu trúc của hệ thống tri thức. Có nhiều cách phân loại, mỗi cách
phân loại lại dựa trên một tiêu thức có ý nghĩa ứng dụng nhất định. Cụ thể:
1) Phân loại theo phương pháp hình thành khoa học.
Tiêu thức phân loại là phương pháp hình thành cơ sở lý thuyết của bộ môn khoa
học. Cách phân loại này không quan tâm đến việc khoa học nghiên cứu cái gì, mà chỉ
quan tâm đến việc khoa học hình thành nhƣ thế nào. Theo tiêu thức này khoa học đƣợc
phân chia thành: (1) Khoa học tiền nghiệm, (2) khoa học hậu nghiệm, (3) khoa học
phân lập và (4) khoa học tích hợp.
2) Phân loại theo đối tượng nghiên cứu của khoa học
Tiêu thức phân loại trong trƣờng hợp này là đối tượng nghiên cứu của khoa
học. Khoa học đƣợc sắp xếp tƣơng ứng với sự phát triển biện chứng của khách thể.
Ngƣời đầu tiên đƣa ra ý tƣởng phân loại này là F. Engels. Sau này B. Kedrov đã phát
triển ý tƣởng của Engels và trình bày mô hình hệ thống tri thức khoa học thành một
tam giác gồm 3 đỉnh gồm (1) khoa học tự nhiên, (2) khoa học xã hội và (3) Triết học.
Để tiện sử dụng, mô hình này đƣợc tuyến tính hóa theo trình tự sau: (1) Khoa học tự
nhiên và khoa học trừu tƣợng (hoặc khoa học chính xác), (2) Khoa học kỹ thuật và
công nghệ, (3) Khoa học nông nghiệp, (4) khoa học sức khỏe, (5) Khoa học xã hội và
nhân văn và (6) Triết học [4, tr.14-17].
Hiện nay ở Việt Nam, việc phân loại khoa học cũng đƣợc sử dụng theo mô hình
đƣợc tuyến tính hóa nhƣng phân chia thành: (1) Khoa học tự nhiên, (2) Khoa học Kỹ
thuật và Công nghệ, (3) Khoa học y, dƣợc, (4) khoa học nông nghiệp, (5) Khoa học xã
hội và (6) Khoa học nhân văn[27].
Từ nhiều cách phân loại trên đây và từ thực tiễn đối tƣợng nghiên cứu của đề
tài, trong khuôn khổ luận án này, tác giả luận án sử dụng phƣơng pháp phân loại khoa
học theo đối tƣợng nghiên cứu để áp dụng cho việc phân loại NNCM. Theo đó,
NNCM đƣợc phân loại theo 4 nhóm lĩnh vực khoa học sau đây: (1) khoa học tự nhiên,
(2) khoa học kỹ thuật và công nghệ, (3) khoa học xã hội và nhân văn và (4) khoa học
y, dƣợc. Nhƣ vậy, với cách phân loại này, tác giả luận án sẽ xem xét những điểm khác
biệt, hay những đóng góp khác nhau giữa các NNCM thuộc các nhóm lĩnh vực khác
nhau dựa trên kết quả nghiên cứu của nhóm.
48
2.2.5. Vai trò và các mối quan hệ của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt
động KH&CN của trường đại học
Phần này, tác giả luận án sẽ tập trung làm rõ vai trò của NNCM trong việc
nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của trƣờng đại học thông qua các mối quan hệ
của Nhóm:
(1) Quan hệ giữa các thành viên của NNCM. Vai trò của NNCM đƣợc thúc đẩy
mạnh mẽ thông qua mối quan hệ hợp tác giữa các thành viên theo hai xu hƣớng chính
sau đây:
Thứ nhất, quan hệ hợp tác giữa các nhà khoa học: theo Sylvan Kattz có 5 yếu
tố thúc đẩy các nhà khoa học làm việc cùng nhau: (1) Chi phí cho công việc mua sắm
công cụ nghiên cứu, mua tƣ liệu, chi phí tiến hành các bƣớc nghiên cứu thông thƣờng
ngày càng gia tăng. Việc hợp tác giữa các nhà khoa học sẽ làm tăng tần suất sử dụng
những loại hình công cụ, tƣ liệu này, đồng thời tăng mức phổ biến những tri thức khoa
học cho các đối tƣợng, các nhà khoa học khác nhau; (2) Chi phí của các hình thức liên
lạc, đi lại đã giảm mạnh nhờ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công
nghệ; (3) Sự nhận thức của các nhà khoa học về vai trò làm việc theo nhóm, làm việc
trong cộng đồng khoa học. Chỉ thông qua những mô hình làm việc nhƣ vậy thì quá
trình sản sinh ra tri thức khoa học tiến bộ sẽ đƣợc tiến hành có chọn lọc và dễ thành
công hơn; (4) Việc cụ thể hoá các công đoạn trong quá trình nghiên cứu là hết sức cần
thiết và có ý nghĩa cho việc thực hiện các đề tài nghiên cứu (đặc biệt cần thiết cho các
chuyên ngành cần có những công cụ, phƣơng thức làm việc phức tạp…); (5) Xu hƣớng
liên ngành đang gia tăng, việc ứng dụng các phƣơng pháp - tri thức liên ngành trong
việc giải quyết các vấn đề cụ thể của đời sống xã hội, những lĩnh vực chuyên môn là
những yêu cầu cơ bản đòi hỏi cần có sự hợp tác của các nhà khoa học trong cùng một
chuyên ngành cũng nhƣ khác chuyên ngành[15, tr.49-50]. Điều này đặc biệt đúng
trong lĩnh vực giáo dục đại học. Trƣờng đại học sẽ có đƣợc những kết quả nghiên cứu
chất lƣợng cao, đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tiễn, khi các công trình nghiên cứu
đƣợc xây dựng dựa trên sự hợp tác của các nhà khoa học. Chính sự dung hợp đƣợc
nhiều quan điểm, góc nhìn khác nhau giúp cho việc xây dựng các nhiệm vụ nghiên cứu
phù hợp hơn với nhu cầu của thực tiễn. Việc nghiên cứu theo nhóm làm tăng khả năng
nắm giữ phƣơng pháp nghiên cứu mới, tri thức mới, những kỹ năng cần thiết giữa các
thành viên trong nhóm. Đây cũng chính là một quá trình đào tạo, bản thân các thành
viên sẽ học hỏi lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Vai trò của nhóm đặc biệt đƣợc phát huy
49
mạnh trong những nghiên cứu mang tính liên ngành, việc nghiên cứu theo nhóm giúp
đẩy mạnh khả năng của từng cá nhân.
Điều đặc biệt quan trọng khi tham gia vào các NNC là các thành viên trong
nhóm có thể áp dụng phần việc của các thành viên khác đã làm để triển khai kế hoạch
của mình cho khớp. Đồng thời các thành viên đi trƣớc có thể dễ dàng truyền đạt gói
công việc cho ngƣời sau. Trong mọi lĩnh vực hoạt động của con ngƣời luôn chứa đựng
sự cạnh tranh quyết liệt và khắc nghiệt. Tuy nhiên, với tính đặc thù của môi trƣờng đại
học, yếu tố học thuật lại chính là những chuẩn mực giúp cho sự cạnh tranh này không
trở thành sự hủy hoại mà là sự cạnh tranh lành mạnh, giúp cải thiện năng lực của tất cả
mọi ngƣời. “Tinh thần hợp tác được nuôi dưỡng trong môi trường mà thành công của
mỗi người đều góp phần tạo ra thành quả chung và thành quả của người này không
loại trừ thành quả của người khác. Nếu sự xuất sắc được ban thưởng một cách xứng
đáng và những hành vi trái với chuẩn mực của văn hóa học thuật bị xử lý nghiêm
khắc, nếu thành quả chung đem lại lợi ích vật chất cũng như sự thỏa mãn tinh thần
cho từng thành viên trong một tập thể tương xứng với sự đóng góp của họ, thì tinh
thần hợp tác chính trực sẽ nảy nở một cách tự nhiên”[12, tr.28-33]. Do đó, để có
những công trình nghiên cứu chất lƣợng cao, đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ giữa các nhà
khoa học, đồng thời với đó là các điều kiện hỗ trợ tốt kèm theo của trƣờng đại học.
Thứ hai, quan hệ hợp tác giữa thày và trò: đây có thể coi là mối quan hệ hợp
tác gắn kết hữu cơ tạo nên sự hợp tác phát triển bền vững trong NNCM, mối quan hệ
này ít nhiều đƣợc thiết chế hóa dƣới hình thức ngƣời thày hƣớng dẫn các học trò.
Chính trong quá trình nghiên cứu, ngƣời thày đã lựa chọn đƣợc những sinh viên, học
viên cao học và đặc biệt là nghiên cứu sinh xuất sắc tham gia vào nhóm. Điều này giúp
ngƣời thày quy tụ đƣợc đội ngũ nhân lực nhằm thực hiện các kỳ vọng trong lĩnh vực
nghiên cứu họ theo đuổi, bởi chính những học trò là những ngƣời có động lực, cũng
nhƣ áp lực phải hoàn thành chƣơng trình học tập nên họ có động cơ mạnh mẽ để tham
gia vào NNC. Ngƣời học tham gia vào các NNCM về thực chất là gắn liền việc học
với nghiên cứu khoa học, dƣới sự dẫn dắt của thày hƣớng dẫn. Điều này giúp ngƣời
học tự tin, phát huy đƣợc những ý tƣởng sáng tạo và có cơ hội biến những ý tƣởng đó
thành hiện thực.
Tham gia vào các NNCM, ngƣời học đƣợc trang bị phƣơng pháp nghiên cứu
khoa học, nhờ đó các kiến thức và trí tuệ mà họ tích luỹ đƣợc mới thực sự trở thành tài
sản sở hữu lâu dài của họ. Việc vận dụng phƣơng pháp nghiên cứu khoa học vào học
tập sẽ giúp họ nâng cao tính chủ động, kế hoạch hoá, sáng tạo và tự tin trong học tập.
50
Bên cạnh đó, thông qua việc tham khảo sách và tài liệu nƣớc ngoài, tham gia các hội
thảo trong và ngoài nƣớc, trình độ ngoại ngữ của họ sẽ tiến bộ rõ rệt [21]. Quan hệ này
không chỉ diễn ra trong giai đoạn học tập của học trò mà còn tiếp tục đƣợc phát triển
bền vững thành quan hệ đồng nghiệp hay các quan hệ xã hội khác, khi sau quá trình
đào tạo, thày là ngƣời tìm kiếm công việc cho học trò và tạo dựng vị trí khoa học cho
học trò hay hỗ trợ các điều kiện tài chính, cơ sở vật chất khác... Quan hệ hợp tác của
ngƣời thày với học trò tiếp tục đƣợc mở rộng và có tính bắc cầu thông qua mối quan
hệ hợp tác của các học trò với các thành phần khác trong xã hội. Đây là mối quan hệ
nối tiếp, kế tiếp tạo thành mạng lƣới các thành viên hỗ trợ cho hoạt động trong NNC
và tạo nên sự phát triển của NNCM.
(2) Quan hệ giữa NNCM với trường đại học chủ quản. Đây là mối quan hệ gắn
bó hữu cơ hai chiều. Trong đó, ở chiều xuôi, trƣờng đại học là nơi đầu tƣ, hỗ trợ và tạo
điều kiện thuận lợi cho các NNCM phát triển. Ở chiều ngƣợc lại, NNCM đóng vai trò
hạt nhân quan trọng trong việc thực hiện chức năng đào tạo và nghiên cứu chất lƣợng
cao, đặc biệt là các nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng mang tính tạo thế mạnh và chiến
lƣợc cho trƣờng đại học. Nhƣ đã đề cập ở trên, đào tạo và nghiên cứu khoa học là hai
chức năng chính không thể thiếu của bất cứ trƣờng đại học nào, hai chức năng này
luôn hỗ trợ, bổ sung cho nhau để nâng cao chất lƣợng cả trong đào tạo và nghiên cứu.
Việc đẩy mạnh hoạt động giáo dục và đào tạo gắn với hoạt động KH&CN thông qua
các NNC, đặc biệt là các NNCM đóng vai trò quyết định trong việc giúp các trƣờng
đại học phát huy đƣợc các tiềm lực và khẳng định vị thế của mình trong quốc gia, khu
vực và thế giới. Bởi, NNCM là nhân tố đặc biệt quan trọng trong việc quy tụ các nhà
khoa học trình độ cao nhằm phát huy năng lực sáng tạo, thúc đẩy hoạt động KH&CN,
giáo dục và đào tạo. Đối với các trƣờng đại học trên thế giới, đặc biệt là các đại học
nghiên cứu thì mô hình NNC là hình thức phổ biến để tiến hành các hoạt động nghiên
cứu khoa học và đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học. Việc xây dựng các NNCM
trong trƣờng đại học sẽ tạo những điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học, các nghiên
cứu sinh, học viên cao học, sinh viên có thể phát huy khả năng và ý tƣởng táo bạo
trong nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lƣợng đào tạo và phục vụ xã hội thông
qua hoạt động nghiên cứu.
Thực tế đã cho thấy, việc đào tạo để nghiên cứu và qua nghiên cứu là yếu tố cốt
lõi nhằm nâng cao chất lƣợng đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học. Đặc thù của bậc
đào tạo sau đại học là nghiên cứu chuyên sâu, do vậy chƣơng trình đào tạo sau đại học,
đặc biệt là đào tạo nghiên cứu sinh đòi hỏi hàm lƣợng nghiên cứu khoa học cao hơn so
51
với chƣơng trình đào tạo đại học. Việc các sinh viên, học viên cao học, đặc biệt là
nghiên cứu sinh đƣợc làm việc trong các NNCM với đầy đủ các điều kiện về chuyên
môn, phƣơng tiện làm việc, thông tin tƣ liệu và thiết bị là một điều kiện thuận lợi đối
với họ. Trong môi trƣờng nhƣ vậy, ngoài khóa luận, luận văn, luận án đƣợc bảo vệ,
ngƣời học còn đƣợc nâng cao một cách toàn diện về mặt kiến thức chuyên môn, kỹ
năng làm việc nhóm và kinh nghiệm tổ chức, quản lý và triển khai hoạt động nghiên
cứu khoa học.
Nhƣ vậy, trƣờng đại học là trung tâm trí tuệ, nơi tạo ra, lƣu trữ, truyền tải tri
thức và những giá trị tinh thần từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bản thân sự sáng tạo tri
thức mới đã mang bản chất hợp tác và kế thừa. Hơn thế nữa, trong bối cảnh tri thức
ngày càng đan xen phức tạp giữa các chuyên ngành, mọi công trình đều cần dựa trên
sự tham gia hợp tác của nhiều ngƣời ở các lĩnh vực chuyên môn khác nhau và có
những kỹ năng, tri thức, phẩm chất khác nhau nhằm phối hợp và bổ sung cho nhau. Do
vậy, NNCM chính là hạt nhân để tạo nên sự hợp tác trong các trƣờng đại học và cũng
là nhân tố cốt lõi tạo ra hiệu quả kép trong đào tạo và nghiên cứu khoa học.
(3) Quan hệ giữa NNCM với bộ môn/khoa/trung tâm/viện nghiên cứu. Đây là
mối quan hệ dựa trên tinh thần hợp tác, trong đó NNCM đóng vai trò trung tâm quy tụ
các nhà khoa học từ cùng một đơn vị hay ở các đơn vị khác nhau nhằm thực hiện một
chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu nhất định hoặc theo đuổi một lĩnh vực nghiên cứu
trọng tâm nào đó. Thế mạnh của NNCM là tạo ra sự hợp tác không giới hạn, không
biên giới và không bị tác động bởi các rào cản hành chính hay địa lý. Chính NNCM là
môi trƣờng tạo ra sự cộng tác giữa các nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu để giải
quyết những vấn đề có tính phức tạp, trao đổi tri thức, là môi trƣờng nuôi dƣỡng sự
gắn kết chặt chẽ giữa các nhà khoa học, bởi ở đó chất keo kết dính các nhà khoa học là
sự đồng điệu trong khoa học, sự đồng thuận trong chí hƣớng và có cùng chung mục
tiêu mà không phải là các quyết định hành chính. Trong nhiều trƣờng hợp, NNCM còn
góp phần phát triển các ngành, chuyên ngành đào tạo mới cho trƣờng đại học.
(4) Quan hệ giữa NNCM, trường đại học và giới doanh nghiệp. Đây là mối
quan hệ ba bên nhƣng thực chất là mối quan hệ hai chiều, trong đó trƣờng đại học là
cầu nối giữa NNCM và giới doanh nghiệp. NNCM sẽ là hạt nhân thay mặt cho trƣờng
đại học giúp giới công nghiệp giải quyết các vấn đề về chuyển giao công nghệ, đổi
mới công nghệ, phát triển công nghệ, mở rộng công nghệ, nâng cấp công nghệ hay các
dịch vụ KH&CN. Đồng thời, thực hiện các chƣơng trình nghiên cứu liên kết đƣợc
quan tâm chung trên cơ sở các hợp đồng nghiên cứu, các khóa đào tạo huấn luyện hay
52
các chƣơng trình hội thảo cung cấp kiến thức cho giới doanh nghiệp. Ngƣợc lại, các
doanh nghiệp thông qua trƣờng đại học hỗ trợ cho các NNCM về cơ sở vật chất, trang
thiết bị, tài chính, tiếp nhận nhân sự đƣợc đào tạo từ các NNCM…Trên cơ sở các hoạt
động hợp tác và chuyển giao tri thức với các doanh nghiệp, các NNCM có điều kiện
thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu, đồng thời từng bƣớc hình thành nền
tảng tài chính mạnh góp phần quan trọng cho sự phát triển của trƣờng đại học nói
chung và của nhóm nói riêng. Đặc biệt, thông qua mối quan hệ hợp tác với các doanh
nghiệp, các NNCM có thể thƣơng mại hóa thành quả nghiên cứu của mình, cũng nhƣ
huy động các nguồn lực thông qua hợp tác để triển khai các hoạt động KH&CN.
(5) Quan hệ giữa NNCM với các cơ quan tổ chức nước ngoài. Đây là mối quan
hệ đa dạng, đó có thể là quan hệ hợp tác giữa các nhà khoa học nhằm thực hiện các
chƣơng trình/dự án nghiên cứu chung, hay có thể là các tài trợ nhằm thúc đẩy hoạt
động KH&CN, nâng cao năng lực nghiên cứu cho các NNCM thông qua các dự án tài
trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị…Việc tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong KH&CN
thông qua môi trƣờng NNCM là cách tốt nhất để đƣa hoạt động KH&CN của trƣờng
đại học tiệm cận với chuẩn mực quốc tế, kết nối cộng đồng khoa học thế giới. Đặc biệt
là huy động đƣợc nguồn kinh phí dồi dào từ các tổ chức quốc tế để giải quyết các vấn
đề đặt ra của trƣờng đại học nói riêng và quốc gia nói chung. Bên cạnh đó, việc tăng
cƣờng hợp tác thông qua môi trƣờng NNCM giúp quy tụ đƣợc các nhà khoa học nƣớc
ngoài tham gia cùng nghiên cứu. Điều này không chỉ giúp thúc đẩy các NNCM phát
huy nội lực, kết hợp với ngoại lực để tăng cƣờng công bố quốc tế mà còn giúp nâng
cao năng lực KH&CN và hội nhập quốc tế của các NNC nhanh hơn.
(6) Quan hệ giữa NNCM trong trường đại học với Nhà nước. Đây là mối quan
hệ gắn bó hữu cơ mật thiết, bởi Nhà nƣớc là tác nhân chủ đạo trong việc thúc đẩy sự
gia tăng các NNCM trong trƣờng đại học. Các NNCM trong các trƣờng đại học sẽ
không thể hình thành và phát triển mạnh nếu không có đƣợc môi trƣờng chính sách
thuận lợi với sự hỗ trợ và sáng kiến trực tiếp từ Nhà nƣớc[39]. Bởi Nhà nƣớc là cơ
quan tài trợ chính cho các NNCM trong việc thiết lập các phƣơng tiện và năng lực
nghiên cứu trình độ cao để triển khai các hoạt động KH&CN. Việc tài trợ này không
chỉ dừng lại ở các chƣơng trình/đề tài/dự án của Nhà nƣớc mà còn bao gồm các hoạt
động đầu tƣ gián tiếp thông qua các dự án tăng cƣờng năng lực nghiên cứu cho các
trƣờng đại học, nơi các NNCM hoạt động. Thông qua việc thực hiện các chƣơng
trình/đề tài/dự án, những kết quả nghiên cứu do NNCM tạo ra sẽ góp phần tƣ vấn
53
hoạch định chính sách cho Chính phủ hoặc thúc đẩy sự tiến bộ xã hội hay thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
2.2.6. Phát triển NNCM và hiệu quả hoạt động của NNCM trong trường đại học
Phát triển NNCM đƣợc hiểu là sự vận động về lƣợng và chất theo hƣớng tốt
hơn và đảm bảo tính hài hòa trong hoạt động KH&CN của NNCM trong trƣờng đại
học. Nhƣ vậy, để xem xét sự phát triển của NNCM cần xem xét sự gia tăng về số
lƣợng NNCM dựa trên các số liệu cụ thể và xem xét chất lƣợng hoạt động của NNCM
thông qua việc xem hiệu quả hoạt động KH&CN của các NNCM.
Từ việc xem xét vai trò của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động
KH&CN của NNCM trên đây, tác giả luận án xem xét hiệu quả hoạt động KH&CN
của NNCM trong trƣờng đại học dựa trên những đóng góp của NNCM đối với trƣờng
đại học nói riêng và xã hội nói chung thông qua các ấn phẩm khoa học đƣợc công bố
và việc áp dụng các kết quả nghiên cứu của nhóm vào thực tiễn. Theo đó, có thể xem
xét hiệu quả hoạt động KH&CN của NNCM ở các khía cạnh sau đây:
- Thứ nhất là sản phẩm phẩm khoa học. Sản phẩm khoa học đƣợc đo bằng các
tiêu chí sau đây: Số lƣợng sách chuyên khảo, bài báo trong nƣớc, bài báo quốc tế; số
sản phẩm KH&CN đạt giải thƣởng.
- Thứ hai là đề tài, dự án nghiên cứu. Kết quả đƣợc đo bằng số lƣợng các đề tài,
dự án nghiên cứu do NNCM chủ trì và tham gia thực hiện.
- Thứ ba là kết quả đào tạo. Kết quả đào tạo đƣợc đo bằng các tiêu chí sau đây:
Số lƣợng học viên, NCS đƣợc đào tạo; Số ngành đào tạo mới, chƣơng trình đào tạo
mới do NNCM phát triển.
- Thứ tƣ là đóng góp thực tiễn. Đóng góp thực tiễn đƣợc đo bằng các tiêu chí
sau: Số sản phẩm KH&CN hoàn chỉnh có thể chuyển giao và thƣơng mại hóa, số
lƣợng kết quả nghiên cứu đƣợc ứng dụng trong thực tiễn, số hợp đồng chuyển giao
công nghệ đƣợc ký kết.
2.3. Cơ sở lý luận về chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học
2.3.1. Khái niệm và vai trò của chính sách
Thuật ngữ chính sách đƣợc sử dụng phổ biến, đề cập đến nhiều vấn đề của xã
hội. Tuy nhiên, ở mỗi góc độ tiếp cận các nhà khoa học, hay các cơ quan, tổ chức lại
đƣa ra những định nghĩa riêng.
Theo tổng hợp từ Nguyễn Phƣơng Anh (2015), chính sách đƣợc tác giả dẫn
định nghĩa nhƣ sau:
54
- Chính sách là những gì mà chính phủ làm, lý do làm, và sự khác biệt nó tạo ra
(Dye 1972); Chính sách là một chuỗi (tập hợp) những hành động có mục đích nhằm
giải quyết một vấn đề (Anderson 1984); Chính sách là một hành động mang tính
quyền lực nhà nƣớc nhằm sử dụng nguồn lực để thúc đẩy một giá trị ƣu tiên
(Considine 1994); Chính sách là một công việc đƣợc thực hiện liên tục, bởi những
nhóm hoạch định, nhằm sử dụng các thể chế công để kết nối, phối hợp và biểu đạt giá
trị họ theo đuổi (Considine 1994); Chính sách là một phần của khuôn khổ các ý kiến,
mà qua đó, chúng ta đƣợc điều chỉnh bởi một cách thức hợp lý, giữa các khía cạnh đa
chiều của cuộc sống (Colebatch 2002); Chính sách là những gì mà chính phủ làm,
hoặc bỏ qua không làm (Klein & Marmor 2006); Chính sách là quá trình mà một xã
hội tạo ra và quyết định có tính bắt buộc những hành vi nào đƣợc chấp nhận và hành vi
nào không (Wheelan 2011) [60].
Tổng hợp từ nhiều cách tiếp cận (hệ thống, chính trị học, xã hội học, tâm lý
học, kinh tế học, đạo đức học, lý thuyết trò chơi, khoa học pháp lý, nhân học và nhân
học xã hội), Vũ Cao Đàm trong nghiên cứu của mình đã đƣa ra một định nghĩa khá
toàn diện về chính sách và đây là khái niệm đƣợc tác giả luận án lựa chọn để sử dụng
cho đề tài luận án của mình, cụ thể: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể
chế hoá, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu
đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định
hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược
phát triển của một hệ thống xã hội”[5, 6, 23].
Từ định nghĩa trên đây, đã cho thấy, chính sách là một công cụ của quản lý,
nhằm hƣớng động cơ hoạt động của cộng đồng vào mục tiêu phát triển xã hội. Khi
chính sách đúng, thì mục tiêu xã hội đƣợc phát triển tốt đẹp. Khi chính sách không phù
hợp thì mục tiêu phát triển xã hội không đạt đƣợc, hoặc đạt đƣợc nhƣng không bền
vững. Với vai trò là một thiết chế xã hội, chính sách quy định việc đối xử với các
thành viên trong cộng đồng xã hội, để họ hành động theo mục đích mà chủ thể chính
sách đặt ra cho sự nghiệp phát triển xã hội. Chính sách cần thiết cho mọi xã hội, bất kể
xã hội đó phát triển theo triết lý nào. Với ý nghĩa đó, chính sách đóng vai trò quan
trọng trong kiến tạo xã hội mà ở đó vai trò kiến tạo xã hội của chính sách diễn ra rất đa
dạng. Những biến đổi do chính sách tạo ra có thể đơn giản là biến đổi tập quán, lối
sống, mối quan hệ giữa con ngƣời và con ngƣời đến những biến đổi phức tạp hơn nhƣ
biến đổi chuẩn mực, văn hóa, thiết chế xã hội, cấu trúc xã hội hay biến đổi toàn bộ
khung mẫu xã hội [5, 6]
55
2.3.2. Khái niệm chính sách phát triển NNCM trong trường đại học
Từ khái niệm chính sách đƣợc Vũ Cao Đàm đƣa ra, tác giả luận án hiểu Chính
sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học nhƣ sau:
Chính sách phát triển NNCM trong các trƣờng đại học là một tập hợp biện pháp
đƣợc thể chế hoá, mà Nhà nƣớc và trƣờng đại học đƣa ra nhằm thúc đẩy sự hình thành
và phát triển NNCM, trong đó tạo sự ƣu đãi cho các NNCM, kích thích vào động cơ
hoạt động của nhóm, định hƣớng hoạt động của nhóm nhằm thực hiện một mục tiêu
ƣu tiên trong chiến lƣợc phát triển đào tạo, NCKH của trƣờng đại học nói riêng và
phục vụ xã hội nói chung. Nhƣ vậy, hiểu một cách đầy đủ:
- Chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học là tập hợp biện pháp. Đó có
thể là một biện pháp đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực, biện pháp đầu tƣ cơ sở vật chất,
trang thiết bị, cải thiện môi trƣờng nghiên cứu, biện pháp trọng dụng nhà khoa học
trình độ cao, biện pháp hợp tác nghiên cứu hay là các biện pháp nhằm động viên tinh
thần, biện pháp mệnh lệnh hành chính hoặc một biện pháp ƣu đãi đối với từng cá nhân
trong nhóm hoặc cả NNC.
- Chính sách là một tập hợp biện pháp đƣợc thể chế hoá dƣới dạng các văn bản
quy phạm pháp luật; hoặc các văn bản quy định nội bộ của các tổ chức (trường đại
học, viện nghiên cứu.…)
- Chính sách phải tác động đến động cơ hoạt động của các cá nhân và NNC.
Tức thỏa mãn đƣợc không chỉ mục tiêu của cơ quan ban hành chính sách mà còn giải
quyết đƣợc mục tiêu của bản thân cá nhân và NNC.
- Chính sách phải hƣớng động cơ của các cá nhân và NNC nêu trên vào một
mục tiêu chung của cơ quan đề ra chính sách.
2.3.3. Cấu trúc chính sách phát triển NNCM trong trường đại học
Về cơ bản chính sách phát triển NNCM cũng phải tuân theo cấu trúc chính sách
nói chung bao gồm: Mục tiêu, nguyên tắc chỉ đạo thực hiện, đối tƣợng, phạm vi, thời
gian, nguồn lực, đơn vị quản lý và tổ chức thực hiện.
Mục tiêu của chính sách: Mỗi chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại
học đều có mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, trong đó mục tiêu cụ thể của việc xây
dựng và phát triển NNCM (coi đó là phương tiện) nhằm đạt đƣợc các KQNC có chất
lƣợng cao, đào tạo đƣợc nguồn nhân lực có chất lƣợng cao, nhƣng quan trọng hơn mục
tiêu chung mà chính sách hƣớng đến là phát triển trƣờng đại học theo định hƣớng
nghiên cứu.Ví dụ, chính sách thƣởng cho các công trình công bố quốc tế tại các trƣờng
56
đại học hiện nay có mục tiêu cụ thể là thúc đẩy các nhà khoa học, NNC công bố các
KQNC trên các tạp chí quốc tế, đặc biệt là các tạp chí có uy tín, nhằm hƣớng đến mục
tiêu quan trọng hơn (mục tiêu chung, hay mục tiêu cốt lõi) là nâng cao uy tín và
thƣơng hiệu của trƣờng đại học thông qua việc cải thiện thứ hạng của trƣờng đại học
trên trƣờng quốc tế.
Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện chính sách: Đây là một trong những yếu tố tiên
quyết trong quá trình triển khai chính sách trong thực tế. Những quan điểm chỉ đạo của
các cơ quan ban hành, thực thi chính sách trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách
sẽ là tiền đề quan trọng góp phần đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của chính sách. Các
nguyên tắc này đƣợc xây dựng trên cơ sở bám sát mục tiêu của chính sách và các yếu
tố nội quan, ngoại quan chi phối quá trình chính sách.
Phạm vi và đối tượng của chính sách: Với bất kỳ chính sách nào, phạm vi và
đối tƣợng của chính sách là yếu tố cần xác định ngay khi xây dựng chính sách. Các cơ
quan ban hành chính sách sẽ căn cứ vào nguồn lực thực thi chính sách để xác định
phạm vi và đối tƣợng phù hợp. Nếu nguồn lực thực thi chính sách nhỏ, chính sách sẽ
đƣợc thực thi ở phạm vi hẹp, ƣu đãi dành cho các đối tƣợng đƣợc hƣởng chính sách
cũng sẽ nhỏ và ngƣợc lại.
Một trong những nội dung quan trọng khi phân tích chính sách chính là xác
định đối tƣợng tác động của chính sách. Xét cho cùng, mục đích chủ yếu mà chính
sách cần tác động là các cá nhân, chính là tác động vào lợi ích cá nhân, vào tâm tƣ,
tình cảm và động cơ của từng cá nhân. Đƣơng nhiên, hành vi của mỗi cá nhân còn bị
tác động bởi hiệu ứng tâm lý nhóm, và vì vậy trong khi xem xét tác động của chính
sách, cần xem xét hiệu ứng tâm lý nhóm.
Tác động các nhóm, xét trên thực chất cũng là tác động vào từng cá nhân trong
nhóm. Tuy nhiên, có hai điểm quan trọng đáng lƣu ý:
- Khi chính sách tác động vào lợi ích chung của một nhóm, thì vấn đề không
còn là tác động vào từng cá nhân trong nhóm nữa, mà phải chấp nhận sự phản kháng
đƣợc nhân thêm khi xâm phạm lợi ích của cộng đồng.
- Một yếu tố nữa đáng quan tâm, là hiệu ứng tâm lý nhóm. Có thể vẫn là một
chính sách nào đó gây thiệt hại tới một vài cá nhân, các cá nhân đó có thể cho qua.
Nhƣng nếu một số cá nhân tập hợp thành nhóm, thì rất có thể nỗi bất bình của các cá
nhân đƣợc nhân thêm, kích thích vào nhóm và đƣợc nhân lên, trở thành những biện
pháp phản ứng mạnh mẽ bất ngờ trƣớc ngƣời quản lý[5, 6].
57
Nội dung của chính sách: Là những ƣu đãi và những điều chỉnh đối với đối
tƣợng của chính sách nhằm hƣớng đối tƣợng thực hiện những mục tiêu mà chính sách
đề ra.
Thời gian triển khai chính sách: Đƣợc xác định căn cứ vào mục tiêu, nguồn lực,
phạm vi và đối tƣợng đƣợc hƣởng ƣu đãi bởi chính sách. Việc xác định thời gian phù
hợp trong việc triển khai chính sách sẽ là cơ sở đảm bảo đạt đƣợc mục tiêu của chính
sách theo đúng kế hoạch đề ra, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của chính sách. Tuy nhiên,
việc xác định thời gian thực hiện chính sách trong thực tế là không hề đơn giản, điều
này phụ thuộc vào nguồn lực triển khai và các yếu tố nội quan, ngoại quan chi phối
chính sách.
Nguồn lực thực hiện chính sách: Đây là yếu tố cốt lõi đảm bảo cho sự thành
công hay thất bại của bất cứ chính sách nào trong quá trình thực thi chính sách. Do
vậy, việc đảm bảo nguồn lực và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong quá trình triển khai
chính sách là vô cùng quan trọng để đạt đƣợc mục tiêu của chính sách.
Cơ quan quản lý và thực hiện chính sách: Đây là một trong những yếu tố không
thể thiếu trong việc vận hành chính sách trong thực tế. Hiệu lực và hiệu quả của chính
sách cũng phụ thuộc rất nhiều vào cơ quan quản lý và thực hiện chính sách do đó, mỗi
chính sách đều phải xác định rõ vai trò của cơ quan quản lý chính sách, cơ quan thực
hiện chính sách và trách nhiệm giải trình của các bên liên quan.
2.3.4. Chu trình chính sách phát triển NNCM trong trường đại học
Cũng giống nhƣ bất cứ chính sách nào, chính sách phát triển NNCM cũng trải
qua một chu trình chính sách, mà nếu tiếp cận theo giai đoạn từ khi hình thành cho đến
khi kết thúc chính sách, chu trình chính sách bao gồm: Hoạch định chính sách, thể chế
hóa chính sách, tổ chức thực hiện chính sách, đánh giá, điều chỉnh, hay thậm chí là
đình chỉ chính sách[5, 6].
- Hoạch định chính sách: Bao gồm các nội dung sau đây:
+ Phân tích tình hình (trong nƣớc/ngoài nƣớc )và phát hiện các vấn đề của
chính sách; Phân tích và đánh giá các tác động âm tính, tác động ngoại biên âm tính
của chính sách nhằm phát hiện và dự báo vấn đề bức xúc của chính sách.
+ Xác định kịch bản khung của chính sách theo tiếp cận hệ thống
+ Thảo luận triết lý và hệ quan điểm chính sách
+ Đặt giả thuyết và phân tích kịch bản chính sách.
58
+ Phân tích SWOT để làm cơ sở cho việc lựa chọn kịch bản tối ƣu và phân
tích “tiền - hậu quyết định”
+ Soạn thảo và xin ý kiến về văn bản chính sách.
- Thể chế hóa chính sách: Là việc ban hành chính sách dƣới dạng các văn
bản quy phạm pháp luật và công bố chính sách trên các phƣơng tiện truyền thông
đại chúng.
- Tổ chức thực hiện chính sách: Tổ chức bộ máy thực hiện chính sách, chỉ
đạo thực hiện chính sách, chuẩn bị các nguồn lực thực thi chính sách, ban hành các
văn bản hƣớng dẫn thực hiện chính sách…
- Đánh giá chính sách:
Đánh giá chính sách là xem xét chính sách ở nhiều giác độ khác nhau, phát hiện
điểm mạnh, điểm yếu của chính sách để phục vụ cho các mục đích sử dụng khác nhau.
Đánh giá chính sách có thể thực hiện ở những thời điểm khác nhau, có thể là đánh giá
trƣớc khi ban hành chính sách, đánh giá sau khi ban hành chính sách ở một thời điểm
nào đó, đánh giá ngẫu nhiên, đánh giá chính sách sau một năm thực hiện…
Có nhiều cách tiếp cận để đánh giá chính sách, bao gồm: tiếp cận từ các chủ thể
chính sách, tiếp cận từ các công ty kinh doanh, tiếp cận từ các cơ quan giám sát thực
hiện chính sách, tiếp cận từ phía các tổ chức tƣ vấn, tiếp cận từ các cơ quan cấp dƣới,
tiếp cận từ các cơ quan truyền thông…
Về cơ bản, đánh giá chính sách bao gồm: Xác định mục đích/ mục tiêu của
chính sách; Đánh giá tác nhân dẫn đến chính sách; Đánh giá triết lý của chính sách;
Đánh giá hoạt động quy định bởi chính sách; Đánh giá các phƣơng tiện thực hiện
chính sách; Đánh giá các thiết chế; Đánh giá tác động của chính sách; Đánh giá các
ảnh hƣởng của chính sách; Đánh giá các xung đột xã hội do chính sách gây ra; Đánh
giá các phản ứng xã hội do chính sách; Đánh giá biến đổi xã hội do chính sách. Tuy
nhiên, không phải chính sách nào cũng phải đƣợc đánh giá ở tất cả các nội dung nêu
trên đây mà các chủ thể quản lý thƣờng căn cứ vào nhu cầu thực tiễn mà lựa chọn
những nội dung đánh giá phù hợp.
- Điều chỉnh chính sách hay đình chỉ chính sách: Theo dõi, kiểm tra thƣờng
xuyên và định kỳ quá trình thực hiện chính sách; phân tích và đánh giá các tác động
dƣơng tính, âm tính, ngoại biên của chính sách để có những điều chỉnh phù hợp với
nhu cầu thực tiễn. Ngoài ra, nếu chính sách có quá nhiều điểm không phù hợp với thực
tiễn, việc ban hành một chính sách mới thay thế hoặc đình chỉ chính sách hiện hành sẽ
đƣợc cân nhắc thực hiện.
59
2.3.5. Tiêu chí đánh giá chính sách phát triển NNCM trong trường đại học
Trong khuôn khổ luận án của này, tác giả luận án sử dụng phƣơng pháp tiếp cận
theo sản phẩm đầu ra để tiến hành việc đánh giá chính sách phát triển NNCM trong
trƣờng đại học. Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), quản lý theo kết
quả là một phƣơng thức quản lý tập trung vào hiệu lực thực hiện của chính sách và
việc đạt đƣợc kết quả hay tác động của chính sách đó. Do đó, với cách tiếp cận đánh
giá chính sách theo sản phẩm đầu ra, các nhà hoạch định chính sách sẽ ít chú trọng hơn
đến việc đánh giá chi tiết các yếu tố đầu vào hay quy trình[16].
Tuy nhiên, cũng cần lƣu ý rằng, quản lý theo kết quả không có nghĩa là từ bỏ
hoàn toàn việc kiểm soát đầu vào/ hoạt động để chuyển sang kiểm soát đầu ra/kết quả,
mà là giảm bớt sự chú trọng đến đầu vào/hoạt động và tạo một sân chơi cởi mở, linh
hoạt hơn cho các đơn vị thực hiện chính sách để họ tìm ra những phƣơng pháp thực
hiện chính sách tốt nhất. Đồng thời, các cơ quan kiểm tra, giám sát chính sách sẽ quan
tâm hơn đến câu hỏi: chính sách có đạt đƣợc ý định mong muốn của mình hay không?
Điều mà trong phƣơng thức quản lý theo đầu vào thƣờng bỏ ngỏ [10,tr.36]. Vì vậy,
việc phân tích đánh giá các chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học sẽ đƣợc
tác giả luận án tập trung chủ yếu vào việc xem xét tính hiệu lực, hiệu quả của chính
sách trong việc chú trọng đến phƣơng thức quản lý theo kết quả và tác động.
Theo đó, việc phân tích và đánh giá chính sách phát triển NNCM sẽ bám sát
vào khung phân tích dƣới đây (Hình 2.1). Trong đó, tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu
quả của chính sách phát triển NNCM tập trung vào 3 nội dung chính sau đây:
(1) Tác động thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực: Tiêu chí này bao gồm các kết
quả trực tiếp và gián tiếp của chính sách đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng
cao. Các kết quả trực tiếp bao gồm: số lƣợng các NNCM đƣợc thành lập, những ƣu đãi
trực tiếp cho các nhà khoa học là thành viên của NNCM, những đóng góp của NNCM
trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã
hội. Các kết quả gián tiếp bao gồm: việc thu hút, tuyển dụng đặc cách đội ngũ cán bộ
khoa học trình độ cao, đào tạo nhà khoa học đạt chuẩn tiến sỹ, kết quả động viên, khen
thƣởng với những công trình nghiên cứu xuất sắc của các nhà khoa học, kết quả tăng
trƣởng về số lƣợng và chất lƣợng của đội ngũ nhân lực khoa học.
(2) Tác động về môi trường và điều kiện nghiên cứu: Tiêu chí này bao gồm các
kết quả của việc đầu tƣ tăng cƣờng năng lực nghiên cứu cho các NNCM thông qua các
dự án đầu tƣ về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu; cấu trúc, sắp xếp,
60
kiện toàn các PTN, phát triển nguồn lực thông tin và đổi mới công tác quản lý nhiệm
vụ khoa học và công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển các sản phẩm KH&CN.
(3) Tác động thúc đẩy hợp tác và phát triển: Tiêu chí này bao gồm các kết quả
của việc thúc đẩy hoạt động hợp tác và phát triển trong nƣớc và quốc tế nhằm khai
thác hiệu quả nguồn lực thực hiện các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu, đa dạng hóa
nguồn lực tài chính, chuyển giao sản phẩm KH&CN.
Việc xem xét hiệu quả và hiệu lực của chính sách giúp chủ thể ban hành chính
sách kịp thời chỉnh lý, sửa đổi chính sách, đảm bảo chính sách luôn có hiệu lực tác
dụng thúc đẩy xã hội phát triển phù hợp với mục tiêu đã đặt ra.
Hình 2.1: Khung phân tích chính sách phát triển NNCM
NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH Hình thành và phát triển; Số lượng; Chất lượng
Bối cảnh cảnh đặt ra yêu cầu bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM
Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ
Các chính sách chung của Nhà nƣớc về phát triển nhóm nghiên cứu mạnh
Các chính sách của ĐHQGHN về phát triển NNCM
1- Nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực 2- Nhóm chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu 3- Nhóm chính sách hợp tác và phát triển
Nhƣ vậy, chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học đƣợc xem là có
hiệu quả khi nó thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu của chính sách, đƣợc đối tƣợng tác
động bởi chính sách tán thƣởng, mang lại uy tín cho chủ thể quản lý. Ở chiều ngƣợc
lại, chính sách đƣợc xem là kém hiệu quả khi mục tiêu của chính sách không đƣợc
thực hiện, tạo ra tâm lý bất mãn cho đối tƣợng tác động, chủ thể quản lý ngày càng
mất uy tín.
Chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học đƣợc xem là có hiệu lực khi
nó gây ra đƣợc phản ứng trong phạm vi tác động của chính sách, tạo động lực hoạt
động cho nhóm đối tƣợng chịu tác động, hƣớng đối tƣợng tác động vào việc thực hiện
mục tiêu của chính sách. Ngƣợc lại, chính sách sẽ không còn hiệu lực khi các chính
61
sách không đƣợc thực thi trong thực tế hoặc không còn gây ra bất cứ phản ứng nào
trong phạm vi tác động của chính sách.
Bên cạnh đó, tác giả luận án cũng xem xét đến các tiêu chí về tính phù hợp, khả
thi và bền vững của chính sách trong quá trình đánh giá chính sách. Bởi, tính phù hợp
của chính sách cho chúng ta thấy chính sách có đáp ứng đƣợc mong muốn của đối
tƣợng thụ hƣởng hay không; Tính khả thi của chính sách cho chúng ta thấy khả năng
thực hiện trên thực tế của một chính sách; Tính bền vững của chính sách cho chúng ta
thấy khả năng huy động các nguồn lực để thực hiện chính sách và khi kết thúc chính
sách những thành quả mà chính sách đã mang lại tiếp tục đƣợc duy trì.
2.4. Tiểu kết chƣơng 2
Từ những nghiên cứu nêu trên, tác giả luận án ghi nhận một số điểm chính sau đây:
Nội dung của chƣơng đã xác định cơ sở lí thuyết cho nghiên cứu về chính sách
phát triển NNCM nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN trong các trƣờng đại
học bao gồm các vấn đề cơ bản nhƣ: các khái niệm về NNC, NNCM, hoạt động
KH&CN, chính sách, chính sách phát triển NNCM; Tiêu chí NNCM; Vai trò và các
mối quan hệ của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của trƣờng
đại học; Cấu trúc chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học; Chu trình chính
sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học; Tiêu chí đánh giá chính sách phát triển
NNCM trong trƣờng đại học. Khung lí thuyết nêu trên là cơ sở quan trọng cho việc
nghiên cứu thực trạng NNCM và thực trạng chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN
để từ đó đề xuất các biện phát bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM trong
trƣờng đại học.
Đặc biệt, nội dung của chƣơng đã trình một cách hệ thống các tiêu chí đánh giá
chính sách phát triển NNCM trong trƣờng đại học bao gồm: tiêu chí về nhân lực, tiêu
chí về môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu, tiêu chí về hợp tác và phát triển. Nhóm tiêu
chí về nhân lực gắn với những kết quả trực tiếp và gián tiếp về phát triển nguồn nhân
lực KH&CN nói chung và nhân lực của NNCM nói riêng trong trƣờng đại học. Nhóm
tiêu chí về môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu gắn với kết quả đầu tƣ trang thiết bị
phục vụ nghiên cứu, tăng cƣờng nguồn lực thông tin và đổi mới công tác quản lý hoạt
động KH&CN. Nhóm tiêu chí về hợp tác và phát triển nhấn mạnh đến sự thu hút và
khai thác nguồn lực trong và ngoài nƣớc để triển khai các hoạt động KH&CN.
62
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA CÁC NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ CỦA ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
3.1. Dẫn nhập
Phân tích và đánh giá thực trạng về NNCM có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc phân tích, đánh giá chính sách phát triển NNCM của Nhà nƣớc nói chung và
chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN hiện nay nói riêng. Có thể nói, thực trạng về
NNCM là tấm gƣơng phản chiếu của chính sách phát triển NNCM, là hệ quả của các
chính sách hiện hành đối với NNCM. Với ý nghĩa đó, trong chƣơng này sẽ bàn về bốn
nội dung chính sau đây:
Nội dung thứ nhất đề cập đến cơ sở hình thành và phát triển của các NNCM tại
ĐHQGHN. Các điểm chính sẽ đƣợc đi sâu phân tích bao gồm: nhu cầu thực tiễn từ
hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa học và hoạt động quản lý của các nhà quản lý;
tầm nhìn, chiến lƣợc của lãnh đạo ĐHQGHN; tiêu chí thành lập NNCM và cơ sở hình
thành và phát triển NNCM ở ĐHQGHN.
Nội dung thứ hai của chƣơng làm rõ quy mô, cơ cấu và tổ chức của các NNCM
tại ĐHQGHN. Điểm quan trọng ở đây là tác giả luận án sẽ phân tích sâu cơ cấu và tổ
chức của các NNCM trên nhiều phƣơng diện khác nhau. Các phƣơng diện cụ thể sẽ
đƣợc tập trung phản ánh bao gồm: cơ cấu NNCM trên cơ sở độ tuổi, chức danh, học
vị, lĩnh vực nghiên cứu của các thành viên nhóm. Đồng thời tác giả luận án cũng phân
tích sâu tổ chức của các NNCM bằng cách tìm hiểu cơ chế hoạt động, mối tƣơng tác
giữa các thành viên của NNCM và giữa thành viên NNCM với trƣởng nhóm.
Nội dung thứ ba của chƣơng sẽ bàn về kết quả nâng cao hiệu quả hoạt động
KH&CN của NNCM ở ĐHQGHN. Các kết quả này đƣợc đánh giá trên ba phƣơng
diện, bao gồm: đóng góp về mặt sản phẩm KH&CN của NNCM; đóng góp của NNCM
trên phƣơng diện đào tạo, và đóng góp của NNCM trong lĩnh vực phục vụ cộng đồng.
Nội dung cuối cùng của chƣơng tập trung phân tích các yếu tố tác động đến
nhóm các NNCM ở ĐHQGHN. Ở đây, tác giả luận án chú ý đến hai nhóm yếu tố:
nhóm yếu tố nội tại bên trong các nhóm và nhóm yếu tố từ bên ngoài tác động lên các
nhóm. Các nhóm yếu tố này sẽ đƣợc phân tích sâu trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể, chƣơng này sẽ cung cấp một cách nhìn tổng
quan nhƣng có chiều sâu về thực trạng và những tác động của các NNCM ở
63
ĐHQGHN trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN qua các chiều cạnh cụ
thể, bao gồm quy mô, cơ cấu, tổ chức, hoạt động, đóng góp của NNCM cũng nhƣ
những nhân tố tác động đến các NNCM. Những phần viết dƣới đây sẽ lần lƣợc triển
khai các nội dung này.
3.2. Cơ sở hình thành và phát triển NNCM ở ĐHQGHN
3.2.1. Tầm nhìn và chiến lược của ĐHQGHN
Với định hƣớng xây dựng đại học nghiên cứu và mục tiêu chiến lƣợc đƣa
ĐHQGHN trở thành 100 trƣờng đại học hàng đầu châu Á vào năm 2020, ĐHQGHN
đã xác định NNCM vừa là mục tiêu, vừa là phƣơng thức để xây dựng đại học nghiên
cứu. Trên cơ sở nhận thức đƣợc tầm quan trọng của NNCM với việc nâng cao chất
lƣợng đào tạo và nghiên cứu, ĐHQGHN đã tập trung xây dựng và phát triển các
NNCM, các trung tâm xuất sắc (Center of Excellence - COE) và các mạng lƣới liên
hoàn, điều này đƣợc cụ thể hóa trong Chiến lƣợc phát triển ĐHQGHN đến năm 2010
và tầm nhìn đến năm 2020 .
Để thúc đẩy sự ra đời và hoạt động của các NNCM, tại Hội nghị tổng kết hoạt
động NCKH giai đoạn 2006-2010 và Phương hướng phát triển KH&CN giai đoạn
2011-2015, ĐHQGHN chủ trƣơng tiếp tục thực hiện các giải pháp ƣu tiên “Phát triển
các NNCM, NNC quốc tế và tập thể khoa học tinh nhuệ để có thể đạt được các kết quả
khoa học đỉnh cao và sản phẩm công nghệ đột phá gắn với bằng sở hữu trí tuệ, các
giải thưởng KH&CN cấp quốc gia, quốc tế, các bài báo quốc tế đăng trên các tạp chí
khoa học danh tiếng, các công trình chuyên khảo có uy tín và các giải pháp tư vấn
chính sách cho các cơ quan hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước”[2].
Thực tế cho thấy, một trong những tầm nhìn và chiến lƣợc căn bản đó là, việc
đầu tƣ, xây dựng NNCM cần bắt đầu từ các nhóm vốn đã mạnh trong ĐHQGHN.
NNCM là nhóm các nhà khoa học đã đạt và tiềm năng đạt đƣợc các KQNC tốt nhất
trong cộng đồng các NNC hiện có của ĐHQGHN. Nhóm này bao gồm các cán bộ và
sinh viên hiện đang hoạt động trong các lĩnh vực chuyên môn của mình ngay cả khi
ĐHQGHN chƣa có chiến lƣợc xây dựng và phát triển NNCM. Họ đã tự ý thức đƣợc tầm
quan trọng của việc tự nâng cao chất lƣợng nghiên cứu và đào tạo để phát triển với sự
đầu tƣ của nhiều tổ chức trong đó có ĐHQGHN. Để đạt đƣợc danh hiệu NNCM, các
thành viên của nhóm phải tạo ra đƣợc nhiều sản phẩm nghiên cứu đƣợc đánh giá khách
quan bởi các nhà khoa học và cộng đồng xã hội. Đó có thể là sản phẩm cụ thể, là công
trình đƣợc công bố quốc gia, quốc tế, số lƣợng ThS, TS đã đào tạo...[17].
64
Chính vì thế, do sớm nhìn nhận và đánh giá đúng mức tầm quan trọng của việc
liên kết nhóm trong một tập thể nghiên cứu mạnh, vừa phát huy tối đa đƣợc nội lực cá
nhân mà vẫn đảm bảo đƣợc mục tiêu nghiên cứu chung là một thách thức lớn, song
cũng là yếu tố căn bản duy trì sự phát triển của từng NNC. Cho nên, trong hơn 10 năm
trở lại đây ĐHQGHN đã ban hành nhiều chính sách nhằm tăng cƣờng năng lực
KH&CN cho các đơn vị thành viên, trong đó ƣu tiên đầu tƣ nguồn lực để phát triển
các NNCM. Điều đó đƣợc cụ thể hóa bằng việc, năm 2013, ĐHQGHN ban hành văn
bản hƣớng dẫn xây dựng và phát triển các Chƣơng trình nghiên cứu trọng điểm và
NNCM ở ĐHQGHN kèm theo đó là hệ thống các chính sách hỗ trợ cho sự phát triển
của các NNCM. Ngay sau khi văn bản đƣợc ban hành, năm 2014, Giám đốc
ĐHQGHN đã quyết định công nhận và trao bằng khen cho16 NNCM cấp ĐHQGHN
có thành tích xuất sắc trong nghiên cứu và đào tạo; Năm 2015, có thêm 05 NNCM
đƣợc ĐHQGHN công nhận, nâng tổng số NNCM là 21; Đến 2016, thêm 02 NNCM
đƣợc công nhận, năm 2017, thêm 4 nhóm và năm 2018 thêm 01 nữa đƣợc công nhận.
Tính đến tháng 10 năm 2018, ĐHQGHN có tổng cộng 28 NNCM (Biểu đồ 3.1, Phụ
lục 1). Biểu đồ 3.1 đã cho thấy rõ sự phát triển của NNCM theo từng năm. Bên cạnh
đó, ĐHQGHN còn có trên 100 NNC khác nhau đƣợc chia theo 4 loại hình nghiên cứu
gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu cơ bản định hƣớng ứng dụng, nghiên cứu ứng
dụng và nghiên cứu liên ngành (Phụ lục 2).
Biểu đồ 3.1: Sự phát triển của NNCM ở ĐHQGHN
Công nhận 16 NNCM
Thêm 1 NNCM đƣợc công nhận, nâng tổng số NNCM lên 28
Thêm 5 NNCM đƣợc công nhận, nâng tổng số NNCM lên 21
Thêm 4 NNCM đƣợc công nhận, nâng tổng số NNCM lên 27
Thêm 2 NNCM đƣợc công nhận, nâng tổng số NNCM lên 23
Năm 2015
Năm 2014
Năm 2016 Năm 2017
Năm 2018
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
65
3.2.2. Cơ sở hình thành và cách tiếp cận xây dựng NNCM ở ĐHQGHN
Theo Báo cáo tổng kết xây dựng và phát triển NNCM ở ĐHQGHN, NNCM
đƣợc phân thành 2 cấp, tùy theo kết quả đã đạt đƣợc, mức độ tập hợp và tầm ảnh
hƣởng của Nhóm: 1) cấp ĐHQGHN là các NNC có khả năng tích hợp, kết nối nhiều
đề tài thành những chƣơng trình nghiên cứu lớn, hƣớng đến sản phẩm tiêu biểu quốc
gia, quốc tế; tạo đƣợc các yếu tố cạnh tranh; có thể đầu tƣ hƣớng tới hình thành các
trung tâm nghiên cứu xuất sắc; 2) cấp đơn vị là các NNC có khả năng gia tăng số
lƣợng và chất lƣợng các sản phẩm KH&CN, gia tăng trọng số nghiên cứu và thúc đẩy
sự phát triển đơn vị theo định hƣớng nghiên cứu[2].
Từ thực tiễn nghiên cứu, tác giả luận án nhận thấy, NNCM của ĐHQGHN về cơ
bản đƣợc hình thành do nhu cầu của các nhà khoa học, xuất phát từ bối cảnh khoa học
có sự phân ngành, liên ngành cao, việc tiến hành nghiên cứu các vấn đề cơ bản, những
vấn đề chuyên sâu của từng chuyên ngành khoa học đòi hỏi các nhà khoa học luôn đi
tìm cái mới, các vấn đề chƣa đƣợc giải quyết. Để giải quyết đƣợc những vấn đề nhƣ vậy,
các nhà khoa học cần có cách nhìn và cách tiếp cận của nhiều ngành nghiên cứu khác
nhau, đồng thời cũng cần có sự bổ trợ tri thức cần thiết từ các nhà khoa học khác trong
chính chuyên ngành nghiên cứu. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu các nhà khoa
học đã cảm nhận đƣợc sự đơn độc về hành động, về tƣ duy, vì thế họ có nhu cầu chia sẻ,
tuyên bố những tƣ tƣởng của bản thân về vấn đề nghiên cứu. Sự cộng tác giữa các nhà
khoa học trong quá trình nghiên cứu giải quyết những vấn đề có tính phức tạp, trao đổi
tri thức là khía cạnh quan trọng trong việc đẩy mạnh các hoạt động gắn kết giữa các nhà
khoa học. Về nguyên tắc, mọi nhà khoa học đều có khả năng học hỏi và nhận biết đƣợc
các kĩ năng, phƣơng pháp giải quyết những vấn đề nghiên cứu cụ thể nhƣng sẽ mất rất
nhiều thời gian nếu mỗi cá nhân nhà nghiên cứu, nhà khoa học làm việc độc lập. Thực tế
đã cho thấy không có cá nhân nhà khoa học nào có thể nắm bắt đƣợc mọi tri thức, mọi
kĩ năng[15]. Đó chính là động cơ để các nhà khoa học tự nguyện gắn kết lại với nhau
hình thành nên các NNC. Sự gắn kết hay tính cố kết giữa các thành viên là khá chặt chẽ
bởi họ kết hợp với nhau bởi niềm đam mê, sự đồng điệu trong khoa học. Hiện nay ở
ĐHQGHN, xu hƣớng chung là tiếp cận xây dựng NNCM theo hƣớng công nhận về mặt
tổ chức dựa trên thành tích đạt đƣợc của các NNC vốn đã mạnh và có chính sách đầu tƣ
cho một số Nhóm để Nhóm phát huy đƣợc thế mạnh trong hoạt động KH&CN, đồng
thời cũng định hƣớng Nhóm thực hiện các mục tiêu chiến lƣợc do ĐHQGHN đề ra.
Đồng thời, tạo lợi thế cho Nhóm để thu hút đầu tƣ thông qua các chƣơng trình hợp tác
nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hầu hết các NNCM đƣợc
66
xây dựng không gắn liền với một chƣơng trình nghiên cứu cụ thể, các NNC tự chủ động
tìm kiếm nguồn kinh phí để triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu. Nếu các NNCM xây
dựng đƣợc nhiệm vụ và đƣợc đầu tƣ theo hƣớng đặt hàng hoặc đấu thầu thành công thì
nhóm sẽ triển khai các hoạt động nghiên cứu. Còn ngƣợc lại nếu không có nhiệm vụ
nghiên cứu thì nhóm vẫn cứ tồn tại nhƣ thế và tiếp tục tìm kiếm cơ hội để đấu thầu các
nhiệm vụ NCKH hoặc tồn tại mà không có các hoạt động khoa học cụ thể nào. Một điều
ngạc nhiên là ĐHQGHN và các trƣờng thành viên không tiến hành đánh giá hiệu quả
hoạt động của các NNCM và giải thể các NNCM hoạt động không hiệu quả, có chăng là
tích hợp nhóm này vào nhóm kia. Theo tác giả luận án, đây là cách tiếp cận chƣa hợp lý
bởi một phần nào đó cho thấy tính hình thức trong việc xây dựng tổ chức nhóm và việc
không tiến hành giải thế nhóm cũng làm thui chột đi động lực phải xây dựng các nhiệm
vụ nghiên cứu mới, bởi không có nhiệm vụ nghiên cứu thì nhóm vẫn tồn tại. Chính điều
này, dẫn đến việc không đảm bảo tính mới trong khoa học và tạo ra sự kém hiệu quả
trong các hoạt động KH&CN của các NNC, đồng thời gây lãng phí trong đầu tƣ cơ sở
vật chất và trang thiết bị của Nhà trƣờng.
3.2.3. Bàn về tiêu chí NNCM của ĐHQGHN
Để có cơ sở thành lập các NNCM, ĐHQGHN đã ban hành bộ tiêu chí đối với
NNCM[29], với những nội dung đƣợc nêu trong chƣơng 2. Phần này, mục tiêu mà tác
giả luận án hƣớng đến là xem xét tính phù hợp trong các tiêu chí đối với NNCM, cũng
nhƣ tính hội nhập quốc tế của các NNCM ở ĐHQGHN khi áp với tiêu chí của trƣờng
đại học trên thế giới. Để xem xét về những tiêu chí đặt ra đối các NNC đƣợc coi là
mạnh, tác giả luận án nhận thấy các trƣờng đại học của Úc đều có những tiêu chí riêng,
trong đó điểm chung về tiêu chí của các nhóm đƣợc dựa trên 4 yếu tố (1) Sự phù hợp về
hƣớng nghiên cứu của nhóm đối với định hƣớng phát triển của trƣờng đại học. Trong
đó, NNC đã xây dựng đƣợc các nhiệm vụ nghiên cứu, kế hoạch và kinh phí để thực hiện
nhiệm vụ trong tối thiểu 3 năm; (2) Đánh giá tiềm năng của các nhà khoa học thông qua
các KQNC đã đƣợc công bố của các thành viên nòng cốt; (3) Kinh phí huy động đƣợc
cho các hoạt động nghiên cứu trƣớc đó; (4) Kinh nghiệm hƣớng dẫn nghiên cứu. Từ rất
nhiều tiêu chí của trƣờng đại của Úc, tác giả luận án lựa chọn tiêu chí của Đại học RMIT
để xem xét mức độ đáp ứng các tiêu chí của NNCM ở ĐHQGHN. Lý do tác giả luận án
chọn tiêu chí của đại học RMIT bởi thứ nhất, giữa Đại học RMIT và ĐHQGHN cơ bản
có tính tƣơng đồng về lĩnh vực nghiên cứu đa ngành, về quy mô và tổ chức, thứ hai, tiêu
chí của RMIT đặt ra là tƣơng đối cụ thể và rõ ràng, các tiêu chí của RMIT cũng đã đƣợc
tác giả luận án trình bày trong phần cơ sở lý luận.
67
Từ các tiêu chí của đại học RMIT, tác giả luận án đã tiến hành lấy ý kiến đánh
giá của 113 nhà khoa học và 28 nhà quản lý có liên quan trực tiếp đến việc thực thi
chính sách phát triển NNCM từ cấp đơn vị thành viên đến cấp ĐHQGHN về mức độ
đạt đƣợc các tiêu của NNCM thuộc ĐHQGHN, kết quả thu đƣợc nhƣ sau (Bảng 3.1):
Bảng 3.1: Đánh giá mức độ đạt được các tiêu chí quốc tế của NNCM ở ĐHQGHN
Trung Tiêu chí lấy ý kiến đánh giá bình
Có định hƣớng nghiên phù hợp với lĩnh vực ƣu tiên trong chiến lƣợc
phát triển của Trƣờng, đi kèm với đó là kế hoạch, nhiệm vụ và kinh phí 3.56
để triển khai hoạt động nghiên cứu với thời gian tối thiểu 3 năm
Có tối thiểu 6 thành viên nòng cốt, mỗi thành viên phải có ít nhất 05
công trình nghiên cứu đã công bố (gồm ấn phẩm hoặc các sẩn phẩm 3.60 sáng tạo) trong 3 năm trƣớc đó (tính từ thời điểm nộp hồ sơ để đƣợc
công nhận là NNCM)
Các thành viên nòng cốt phải có ít nhất 600.000 USD thu nhập từ
nghiên cứu (must have at least $600.000 in external research income)
đối với lĩnh vực KH&CN và sức khỏe hoặc 300.000 USD đối với lĩnh 2.13
vực kinh tế, khoa học XH&NV, thiết kế sáng tạo và nghệ thuật trong 3
năm trƣớc đó
Mỗi thành viên nòng cốt phải có thời gian hƣớng dẫn sinh viên nghiên 3.74 cứu trong ít nhất 1 học kỳ.
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Từ kết quả trên đây (Bảng 3.1) tác giả luận án nhận thấy, tỉ lệ đánh giá các
NNCM của ĐHQGHN hoàn toàn đạt đƣợc các tiêu chí là không nhiều, tỉ lệ đánh giá ở
mức cao có khả quan hơn song tiêu chí “Các thành viên nòng cốt phải có ít nhất
600.000 USD huy động đƣợc để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu (must have at least
$600.000 in external research income) đối với lĩnh vực KH&CN và sức khỏe hoặc
300.000 USD đối với lĩnh vực kinh tế, khoa học XH&NV, thiết kế sáng tạo và nghệ
thuật trong 3 năm trƣớc đó” là rất thấp và đây là vấn đề của các NNCM ở ĐHQGHN.
Từ những tiêu chí của đại học RMIT, chúng ta nhận thấy, các tiêu chí đặt ra khá
ngắn gọn nhƣng vẫn đảm bảo các yêu cầu của một NNCM. Đặc biệt, tính định lƣợng
trong từng tiêu chí đƣợc thể hiện rất rõ, đồng thời RMIT đã xét đến thế mạnh trong các
lĩnh vực để đặt ra tiêu chí khác nhau. Điều này giúp cho việc xem xét thành lập các
NNC đƣợc dễ dàng và thuận lợi hơn.
68
Ở chiều ngƣợc lại các tiêu chí đặt ra đối với NNCM của ĐHQGHN là rất nhiều.
Trong đó, nhiều tiêu chí định tính nhƣ “Trưởng NNCM có tầm nhìn, kế hoạch chiến
lược dài hạn, có khả năng đánh giá tầm ảnh hưởng và xu hướng phát triển của lĩnh
vực nghiên cứu, có quan điểm phát triển bền vững; Có khả năng đề xuất các nghiên
cứu tích hợp, kết nối thành những chương trình nghiên cứu lớn, hướng đến sản phẩm
tầm cỡ quốc gia, quốc tế; Có khả năng huy động các nguồn lực đảm bảo điều kiện cho
hoạt động của nhóm…”. Trong khi, những tiêu chí này hoàn toàn có thể đo bằng
những công trình nghiên cứu đƣợc công bố trong và ngoài nƣớc của trƣởng NNCM và
các thành viên chủ chốt. Bên cạnh đó, có những tiêu chí mâu thuẫn với nhau, chẳng
hạn, ở tiêu chí thành viên của NNC phải đảm bảo 2 tiêu chí, nhƣ “Là các nhà khoa học
trong nước (và quốc tế) có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ trở lên; đã có các sản phẩm
KH&CN tiêu biểu trong hướng nghiên cứu và đã và đang hướng dẫn HVCH và NCS”.
Nhƣ vậy, chúng ta nhận thấy tiêu chí sau mâu thuẫn với tiêu chí trƣớc bởi nếu
nhà khoa học có trình độ từ thạc sĩ thì sẽ không đủ tiêu chuẩn để hƣớng dẫn thạc sĩ và
NCS, điều này, vô hình trung tiêu chí sau đã loại các thành viên của NNC có học vị
thạc sĩ. Bên cạnh đó, tiêu chí thành viên cũng không đƣợc xác định rõ ràng vì thành
viên ở đây có rất nhiều loại nhƣ: Thành viên chính là những thành viên chủ chốt của
nhóm, thành viên phụ là những thành viên tham gia cộng tác, hợp tác, thuê khoán
trong một đề tài/dự án nghiên cứu, hay những thành viên chỉ tham gia với tƣ cách
tham vấn, tƣ vấn, hỗ trợ…Chƣa kể đến việc thành viên làm toàn thời gian, làm bán
thời gian, thành viên thuộc ĐHQGHN, thành viên không thuộc ĐHQGHN…Việc
không xác định rõ tiêu chí thành viên NNCM sẽ gây nhiều khó khăn cho các nhà thực
thi chính sách bởi không biết phải ƣu đãi cho nhóm thành viên nào. Ngoài ra, việc áp
các tiêu chí của trƣờng ĐHNC thuộc nhóm 500 của thế giới (Ít nhất 2 bài báo, báo cáo
trong nước và quốc tế trung bình trên cán bộ khoa học hàng năm; Ít nhất 5 bài báo
(01 bài báo đối với lĩnh vực KHXH) ISI hoặc/và Scopus trên cán bộ khoa học trong 5
năm gần đây; 10 chuyên khảo xuất bản mỗi năm; 10 Sản phẩm KH&CN tiêu biểu
quốc gia, quốc tế của đơn vị mỗi năm; 10 giải thưởng khoa học quốc gia, quốc tế của
cán bộ và người học trong 5 năm gần đây;…) đối với NNCM ở tiêu chí phát triển bền
vững dƣờng nhƣ là một sự kỳ vọng quá lớn đối với NNCM. Đặc biệt, các tiêu chí
NNCM của ĐHQGHN đã không xem xét đến những đặc điểm riêng của từng loại hình
nghiên cứu (cơ bản, ứng dụng), cũng không xem xét đến đặc điểm riêng của từng lĩnh
vực (khoa học tự nhiên, khoa học XH&NV, khoa học KT&CN hay các khoa học khác).
69
Trong quá trình nghiên cứu chính sách thành lập NNCM ở ĐHQGHN, tác giả
luận án nhận thấy có sự chồng chéo và thiếu nhất quán trong xây dựng NNCM. Điều
này thể hiện ở việc, Trƣờng ĐHKHTN, một thành viên của ĐHQGHN đã ban hành
chính sách phát triển NNCM riêng, trong khi tất cả các trƣờng thành viên còn lại thì
không. Xem xét cụ thể những tiêu chí thành lập NNCM của Trƣờng ĐHKHTN cho
thấy, ở một số tiêu chí đặt ra cao hơn và cơ bản đã khắc phục đƣợc những hạn chế
trong bộ tiêu chí về NNCM của ĐHQGHN. Đồng thời, trong tiêu chí NNCM của
Trƣờng ĐHKHTN đã xét đến số thành viên chính tối thiểu, tính đặc thù trong từng loại
hình nghiên cứu của Nhóm (cơ bản, ứng dụng) để có những tiêu chí định lƣợng khác
nhau. Đồng thời, định hƣớng chính sách tác động vào trƣởng nhóm và thành viên
chính của nhóm (Hộp 3.1).
Hộp 3.1: Tiêu chí đánh giá NNCM của Trƣờng Đại học KHTN, ĐHQGHN 1. Tiêu chí nhân lực: Quy định có tối thiểu 3 nhà khoa học đang công tác tại Trƣờng Đại học KHTN. Trong đó: 1.1. Về trưởng NNCM: Có học vị TS hoặc có chức danh PGS trở lên, có ít nhất 5 năm kinh nghiệm hoạt động nghiên cứu với những công trình nghiên cứu nổi bật nhƣ:
- Đã chủ trì thực hiện thành công ít nhất 01 đề tài cấp nhà nƣớc hoặc tƣơng đƣơng;
Hƣớng dẫn ít nhất 01 NCS đã bảo vệ thành công LATS;
- Trong vòng 5 năm gần nhất trƣớc thời điểm đăng ký đạt đƣợc các kết quả khoa học sau: Đối với trưởng NNC cơ bản: là tác giả hoặc đồng tác giả của ít nhất 5 công bố khoa học trên tạp trí thuộc danh mục ISI; hoặc chủ biên 01 sách chuyên khảo đã đƣợc xuất bản bởi nhà xuất bản quốc tế có uy tín. Đối với trưởng NNC ứng dụng: là tác giả hoặc đồng tác giả của ít nhất 3 công trình khoa học công bố trên tạp trí thuộc danh mục ISI; hoặc chủ biên 01 sách chuyên khảo đã đƣợc xuất bản bởi nhà xuất bản quốc tế có uy tín; hoặc là tác giả của ít nhất 01 Bằng độc quyền sáng chế; hoặc có các sản phẩm KH&CN đƣợc giải thƣởng, có giá trị lý luận, làm cơ sở tƣ vấn cho hoạch định chính sách quốc gia hoặc có ứng dụng thực tế thiết thực;
- Sử dụng thành thạo ít nhất một ngoại ngữ phố biến (Anh, Nga, Pháp, Đức), trong đó
giao tiếp đƣợc bằng tiếng Anh; có kinh nghiệm hợp tác quốc tế về KH&CN;
- Có tầm nhìn, có khả năng đánh giá tầm ảnh hƣởng và xu hƣớng phát triển của lĩnh vực
nghiên cứu;
- Có mục tiêu và chiến lƣợc nghiên cứu rõ ràng, phù hợp với các hƣớng nghiên cứu trọng
tâm, mũi nhọn của Quốc gia, ĐHQGHN và Trƣờng ĐHKHTN;
- Có khả năng huy động các nguồn lực đảm bảo điều kiện cho hoạt động của nhóm
1.2. Về thành viên chính của NNCM: Là các nhà khoa học (trong nƣớc hoặc quốc tế) có trình độ tiến sĩ trở lên; Đã có kinh nghiệm và thành tích hoạt động KH&CN (thể hiện ở kết quả công bố hoặc/và ứng dụng thực tiễn) liên quan trực tiếp đến hƣớng nghiên cứu phát triển của Nhóm. 2. Tiêu chí cơ sở vật chất và trang thiết bị: Quy định NNCM đã có cơ sở vật chất và các trang thiết bị cơ bản để triển khai hƣớng nghiên cứu.
(Nguồn: Đại học KHTN - ĐHQGHN)
70
Từ kết quả phân tích cơ bản trên đây, rõ ràng tiêu chí NNCM của ĐHQGHN
rất cần đƣợc xem xét để có sự thống nhất và có những điều chỉnh phù hợp, tăng tính
định lƣợng nhƣng vẫn đảm bảo đo lƣờng đƣợc khả năng cũng nhƣ năng lực nghiên
cứu của các NNCM. Đặc biệt, tiêu chí xây dựng đƣợc nhiệm vụ nghiên cứu dài hạn
trong 3-5 năm phải đƣợc xem là yếu tố quyết định, các tiêu chí đầu ra liên quan đến
kết quả nghiên cứu của thành viên chỉ là những tiêu chí cho thấy các thành viên có
đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu do nhóm đề xuất. Đồng thời, các tiêu
chí cũng cần xem xét đến những đặc điểm về loại hình nghiên cứu, lĩnh vực nghiên
cứu khác nhau.
3.2.4. Những đặc điểm của NNCM ở ĐHQGHN
Trong phần này, tác giả luận án sẽ xem xét những đặc điểm của các NNCM ở
ĐHQGHN, trên cơ sở khảo sát thực tiễn 28 NNCM của ĐHQGHN, trong đó tập trung
vào 2 yếu tố chính sau đây: 1) Cơ cấu nhân lực; 2) Tổ chức hoạt động. Việc xem xét
đặc điểm của NNCM nhằm tìm hiểu bản chất, lý giải nội hàm bên trong, cơ cấu bên
trong, nhận dạng mối liên hệ và mối tác động qua lại giữa các yếu tố để từ đó xác định
những điểm, những yếu tố chính sách cần tác động nhằm thúc đẩy và phát huy năng
lực, hiệu quả hoạt động của NNCM.
a) Cơ cấu nhân lực
Nhƣ đã nêu ở trên, kể từ năm 2014 đến nay cả ĐHQGHN có 28 NNCM, với
441 nhà khoa học làm việc trong các NNCM. Trong đó:
Xét về cấu trúc của NNCM ở ĐHQGHN, tác giả luận án nhận thấy cấu trúc
của nhóm đƣợc xây dựng cơ bản theo triết lý vòng hạt nhân gồm 3 vòng tròn đồng
tâm (Hình 3.1). Vòng thứ nhất là vòng trung tâm gồm Trƣởng nhóm và các thành
viên cốt cán có vai trò định hƣớng, tổ chức, chỉ đạo thực hiện các hoạt động nghiên
cứu của nhóm, trong đó vai trò của ngƣời đứng đầu có ý nghĩa quyết định. Do vậy,
Trƣởng nhóm thƣờng là các Giáo sƣ, Phó Giáo sƣ, chuyên gia đầu ngành của một
lĩnh vực khoa học cụ thể. Vòng thứ hai rộng hơn, ở ngay sau vòng thứ nhất gồm
những thành viên chịu trách nhiệm thực hiện các công việc cụ thể do vòng thứ nhất
phân công. Các thành viên này hoạt động thƣờng xuyên và thƣờng là các học viên,
NCS hay cán bộ trẻ ở các Trƣờng đại học, viện nghiên cứu. Vòng thứ 3 lớn nhất, là
vòng ngoài cùng gồm những thành viên cộng tác chặt chẽ với nhóm trong các hoạt
động đào tạo, nghiên cứu. Trong không ít trƣờng hợp, những ngƣời tham gia còn bao
gồm các nhà khoa học quốc tế.
71
Hình 3.1: Cấu trúc của NNCM
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Xét theo lĩnh vực nghiên cứu, NNCM ở ĐHQGHN tập trung chủ yếu ở 4 lĩnh
vực là Khoa học Tự nhiên, Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật và công
nghệ, khoa học Y - Dƣợc. Trong đó, mật độ phân bổ NNCM ở lĩnh vực khoa học tự
nhiên chiếm 29%, khoa học xã hội và nhân văn chiếm 53%, KHKT&CN chiếm 11%
và KHYD chiếm 7% (Biểu đồ 3.3) và mật độ phân bổ nhân lực của NNCM ở lĩnh vực
khoa học tự nhiên chiếm 31%, khoa học xã hội và nhân văn chiếm 43%, KHKT&CN
chiếm 14% và KHYD chiếm 12% (Biểu đồ 3.2)
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Nhƣ vậy, số lƣợng NNCM và các nhà khoa học làm việc trong các NNCM phân
bổ không đồng đều giữa các lĩnh vực và tập trung chủ yếu vào 2 lĩnh vực là khoa học
tự nhiên và khoa học xã hội và nhân văn, đây là 2 lĩnh vực truyền thống và có thế
mạnh của ĐHQGHN.
72
Xét theo quy mô của nhóm, tác giả luận án nhận thấy, các NNCM của
ĐHQGHN chủ yếu có quy mô trung bình trở lên với tỉ lệ NNCM có số lƣợng từ 10
đến 20 thành viên là 57.2% , NNCM có trên 20 thành viên trở lên là 21.4% và NNCM
có số lƣợng dƣới 10 thành viên 21.4% (Biểu đồ 3.4). Đây đƣợc xem là quy mô nhân
lực phù hợp để xây dựng và triển khai các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu của
ĐHQGHN, trong phần phân tích những đóng góp của NNCM đối với việc nâng cao
hiệu quả hoạt động KH&CN, tác giả luận án sẽ cho thấy rõ hơn về nhận định này.
Biểu đồ 3.4: Cấu trúc NNCM theo quy mô thành viên
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Xét theo trình độ khoa học, tác giả luận án nhận thấy rằng, các nhà khoa học
làm việc trong các NNCM đều là những ngƣời có trình độ cao (GS.TS, GS.TSKH,
PGS.TS, TS), đồng thời với đó là những học viên, NCS đƣợc tạo cơ hội để tham gia
vào Nhóm. Theo số liệu thống kê, tỉ lệ các nhà khoa học có học vị từ tiến sĩ trở lên là
61%; NCS, HVCH, SV là 23%; ThS, CN là 16% (Biểu đồ 3.6). Đặc biệt, các trƣởng
NNCM đều là các nhà khoa học có chức danh, học vị từ PGS.TS, GS.TS, GS.TSKH
(Biểu đồ 3.5) và là những ngƣời dày dặn kinh nghiệm, có thâm niên công tác lâu năm
trong lĩnh vực hoạt động (Biều đồ 3.7).
Biểu đồ 3.5: Cấu trúc trình độ của các Trưởng NNCM
73
Biểu đồ 3.6: Cấu trúc trình độ của các thành viên NNCM
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Với vai trò quyết định trong việc xác định hƣớng nghiên cứu và hình thành
NNCM, Trƣởng nhóm là nhân tố đặc biệt quan trọng dẫn đến thành công của Nhóm.
Các trƣởng NNCM, bằng uy tín khoa học, NLNC, xác định hƣớng nghiên cứu chính,
tập hợp lực lƣợng, xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu, huy động nguồn kinh phí là cở sở
bền vững cho hoạt động nghiên cứu của nhóm. Do vậy, ngƣời đứng đầu có ảnh hƣởng
xuyên suốt đến các thành viên của nhóm. Khảo sát thực tế các NNCM ở ĐHQGHN,
tác giả luận án nhận thấy, một đặc điểm rất quan trọng đó là việc lựa chọn nhân sự cho
nhóm xuất phát từ triết lý của ngƣời đứng đầu. Đây là một đặc điểm rất thú vị, có thể
coi là thế mạnh trong rất nhiều NNCM ở ĐHQGHN. Chính trong quá trình tổ chức
giảng dạy, nghiên cứu, hƣớng dẫn luận văn, luận án... thủ lĩnh nhóm đã lựa chọn chính
những sinh viên, học viên, NCS hay những giảng viên trẻ do mình đào tạo tham gia
vào Nhóm. Đó là những ngƣời cùng chung chí hƣớng, thật sự đam mê nghiên cứu, tâm
huyết với lĩnh vực chuyên môn. Bên cạnh đó, bằng uy tín cá nhân, năng lực khoa học
và mối quan hệ rộng rãi, Trƣởng NNCM thƣờng mời thêm các nhà khoa học có uy tín
trong và ngoài nƣớc có cùng quan tâm đến hƣớng nghiên cứu làm cố vấn khoa học,
đồng thời hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, xuất bản, tăng cƣờng hợp tác
quốc tế và sự phát triển của nhóm. Có nhiều Trƣởng NNCM là thầy của những học trò
xuất sắc và là thầy của những ngƣời thầy xuất sắc. Đặc biệt, để xây dựng NNC ngƣời
đứng đầu thƣờng dựa vào ba nhân tố để tạo nên sự hợp tác, gắn kết chặt chẽ giữa các
74
thành viên của một NNCM đó là tình cảm thày trò, tình cảm đồng nghiệp (thông
thường chính người đứng đầu đã dùng uy tín và sức ảnh hưởng của mình tìm kiếm
công việc ổn định cho các thành viên trong nhóm), tình cảm gia đình (các hoạt động
sinh hoạt ngoài chuyên môn được tổ chức và gắn kết như các thành viên trong gia
đình, cùng chia sẻ, động viên, hỗ trợ nhau trong những lúc khó khăn, hoạn nạn).
Chính ngƣời đứng đầu là những “thủ lĩnh” gắn kết và dẫn dắt các thành viên trẻ, hỗ trợ
công bố các bài báo khoa học, tuyền bá phƣơng pháp, tri thức, giúp họ có đủ năng lực
và tự tin trong việc đứng ra chủ trì những đề tài, dự án lớn. Điều này tạo nên sức ảnh
hƣởng lớn của ngƣời thủ lĩnh đến các thành viên trong nhóm và hình thành phong cách
làm việc của nhóm.
Biểu đồ 3.7: Cấu trúc độ tuổi của Trưởng NNCM
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Tuy nhiên, số liệu thống kê cũng cho thấy, độ tuổi trung bình của trƣởng
NNCM là tƣơng đối cao (59.8 tuổi), trình độ càng cao thì tuổi càng cao. Trong đó, có
đến 59% số trƣởng NNCM đã qua tuổi 60 không còn giữ chức vụ quản lý (Biểu đồ
3.7), 41% trƣởng NNCM dƣới 60 tuổi đều đang giữ các chức vụ từ cấp lãnh đạo khoa,
lãnh đạo trƣờng thành viên đến lãnh đạo các Ban hay lãnh đạo ĐHQGHN. Điều đó
vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn cho các NNCM trong quá trình triển khai hoạt động
KH&CN. Thuận lợi ở chỗ, đối với trƣởng NNCM đã qua tuổi 60 (tức qua tuổi giữ
chức vụ quản lý) họ có nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu, đối với những
trƣởng NNCM dƣới 60 tuổi (đang giữ chức vụ quản lý) họ có mối quan hệ rộng để kết
nối và huy động các đề tài, dự án nghiên cứu. Ngƣợc lại, khó khăn ở chỗ những thủ
75
lĩnh nhóm có độ tuổi cao, sức yếu, khả năng, động lực đóng góp cho khoa học dần
giảm sút, còn những ngƣời trẻ, sung sức lại đang giữ những chức vụ quản lý quan
trọng và do vậy họ không có nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu.
Xét ở góc độ tương quan giữa nhóm độ tuổi và nhóm số lượng bài báo
ISI/Scopus được công bố của các thành viên của Nhóm, (Bảng 3.2) tác giả luận án
nhận thấy, không có mối tƣơng quan chặt giữa nhóm độ tuổi và nhóm số lƣợng bài báo
ISI/Scopus đƣợc công bố. Đồng thời, không có sự chênh lệch quá lớn giữa tỉ lệ bài báo
công bố quốc tế giữa các nhóm độ tuổi.
Bảng 3.2: Tương quan giữa độ tuổi với số lượng bài báo ISI/Scopus
Tổng
17
Nhóm bài báo ISI/Scopus đƣợc công bố 03-05 >10 0 7
01-02 14
06-10 9
4
51
Dƣới 40
33,3%
27,5%
13,7%
17,6%
7,8%
100%
14
4
4
7
41
12
Từ 41-55
34,1%
29,3%
9,8%
9,8%
17,1%
100%
6
5
3
2
21
5
Trên 55
28,6%
23,8%
23,8%
14,3%
9,5%
100%
37
16
16
13
113
31
Tổng
Khả năng công bố quốc tế theo độ tuổi Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi
32,7%
11,5%
14,2%
14,2%
100%
27,4% (Pearson Chi-Square=5.013; p=0.756>0.05; Phi = 0.756; Cramer’V=0.756)
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Xét tương quan giữa nhóm độ tuổi và nhóm số lượng nhóm đề tài chủ trì của
các thành viên NNC(Bảng 3.3), tác giả luận án nhận thấy có mối tƣơng quan chặt chẽ
giữa nhóm độ tuổi của các nhà khoa học với nhóm đề tài do các nhà khoa học chủ trì.
Bảng 3.3: Tương quan giữa độ tuổi với số lượng đề tài chủ trì
Tổng
Khả năng thành công trong việc chủ trì đề tài theo độ tuổi
0
>10
Nhóm đề tài chủ trì 04-06 12
07-10 8
01-03 23
1
51
7
Dƣới 40
2.0%
45.1%
23.5%
15.7%
13.7%
100%
17
10
3
41
6
Từ 41-55
41.5%
24.4%
7.3%
14.6%
100%
5 12.2% 2
8
5
3
21
3
Trên 55
9.5%
38.1%
23.8%
14.3%
14.3%
100%
8
48
27
14
16
113
Total
Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi Tần số % trong nhóm tuổi
7.1%
42.5%
23.9%
12.4%
14.2%
100%
(Pearson Chi-Square=19.172; p=0.014<0.05; Phi = 0.014; Cramer’V=0.014)
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
76
Xét ở góc độ tương quan chặt chẽ giữa nhóm chức danh, học vị và nhóm số
lượng bài báo ISI/Scopus được công bố của các thành viên Nhóm, tác giả luận án
không thấy mối tƣơng quan chặt chẽ giữa nhóm chức danh, học vị và nhóm số lƣợng
bài báo ISI/Scopus đƣợc công bố của các thành viên Nhóm (Bảng 3.4). Đồng thời,
yếu tố chức danh, học vị cũng chƣa hẳn là yếu tố quyết định đối với kết quả công bố
quốc tế.
Bảng 3.4: So sánh giữa chức danh, học vị với số lượng bài báo ISI/Scopus
Khả năng công bố quốc tế
Nhóm bài báo ISI/Scopus
Tổng
theo chức danh, học vị
01-02
03-05
06-10
>10
0
8
4
0
0
1
13
Tần suất
% trong nhóm
61.5%
30.8%
0.0%
0.0%
7.7%
100%
ThS
chức danh, học vị
Tần suất
16
14
9
7
3
49
% trong nhóm
32.7%
28.6%
18.4%
14.3%
6.1%
100%
TS/TSKH
chức danh, học vị
Tần suất
10
13
5
8
6
42
% trong nhóm
23.8%
31.0%
11.9%
19.0%
14.3%
100%
PGS.TS
chức danh, học vị
Tần suất
3
0
2
1
3
9
% trong nhóm
33.3%
0.0%
22.2%
11.1%
33.3%
100%
GS.TS
chức danh, học vị
Tần suất
37
31
16
16
13
113
Tổng:
% trong nhóm
32.7%
27.4%
14.2%
14.2%
11.5%
100%
chức danh, học vị
(Pearson Chi-Square=18.086; p=0.113>0.05; Phi = 0.113; Cramer’V=0.113)
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Xét tương quan giữa nhóm chức danh, học vị và nhóm số lượng đề tài chủ trì
của các thành viên NNC (Bảng 3.5), tác giả luận án nhận thấy, có mối tƣơng quan chặt
giữa hai nhóm so sánh. Các nhà khoa học ở nhóm chức danh học vị cao GS/PGS.TS
có tỉ lệ thành công trong việc chủ trì đề tài cao. Điều này đƣợc xem là phù hợp với
năng lực và kinh nghiệm trong nghiên cứu của các nhà khoa học đầu đàn, đầu ngành.
77
Bảng 3.5: Tương quan giữa nhóm chức danh, học vị với số lượng đề tài chủ trì
Tổng
0
>10
8
Nhóm số lƣợng đề tài chủ trì 04-06 1
01-03 4
07-10 0
0
13
ThS
61.5%
30.8%
7.7%
0.0%
0.0%
100%
7
12
19
9
2
49
TS/TSKH
14.3%
24.5%
38.8%
18.4%
4.1%
100%
3
5
15
12
7
42
PGS.TS
7.1% 11.90% 35.70%
28.6%
16.7%
100%
0
1
2
0
6
9
GS.TS
0.0%
11.0%
22.2%
0.0% 66.70%
100%
18
22
37
21
15
113
Tổng
15.9%
19.5%
32.7%
18.6%
13.3%
100%
Khả năng thành công trong việc chủ trì đề tài theo độ tuổi Tần suất % trong nhóm chức danh, học vị Tần suất % trong nhóm chức danh, học vị Tần suất % trong nhóm chức danh, học vị Tần suất % trong nhóm chức danh, học vị Tần suất % trong nhóm chức danh, học vị
(Pearson Chi-Square=57.908; p=0.0<0.05; Phi = 0.0; Cramer’V=0.0)
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Từ việc so sánh tƣơng quan giữa nhóm độ tuổi và chức danh, học vị với nhóm
đề tài chủ trì và số bài báo công bố quốc tế đã cho thấy có mối tƣơng quan chặt giữa
nhóm độ tuổi, chức danh học vị với nhóm chủ trì đề tài nghiên cứu. Đây đƣợc xem là
phát hiện quan trọng giúp cho việc định hƣớng chính sách ƣu tiên xét duyệt đề tài hay
giao đề tài cho NNCM cũng cần chú trọng đến độ tuổi và chức danh, học vị.
b) Tổ chức hoạt động
Tổ chức hoạt động của các NNCM ở ĐHQGHN, cũng đƣợc xem là một đặc
điểm quan trọng, bởi qua quy trình phân công việc của NNC dƣới đây, chúng ta thấy rõ
điều này. Quy trình đó đƣợc thực hiện căn cứ vào cấu trúc vòng hạt nhân (Hình 3.1).
Vòng thứ nhất còn đƣợc gọi và vòng trung tâm gồm Trƣởng nhóm và những
thành viên cốt cán chịu trách nhiệm định hƣớng nghiên cứu, xây dựng chiến lƣợc, mục
tiêu, lên kế hoạch thực hiện các công việc nghiên cứu theo từng giai đoạn cụ thể và rõ
ràng. Hầu hết các đề tài nghiên cứu, đặc biệt là các đề tài nghiên cứu mang tính trọng
điểm, cấp Nhà nƣớc hay liên ngành sẽ do vòng thứ nhất quyết định và chịu trách
nhiệm tổ chức các hoạt động nghiên cứu.
Vòng thứ hai rộng hơn nằm ngay sau vòng thứ nhất gồm các học viên, NCS hay
những giảng viên trẻ. Họ sẽ là những ngƣời thực hiện những nhiệm vụ cụ thể theo sự
phân công của vòng thứ nhất và chịu trách nhiệm báo cáo thƣờng xuyên các công việc
78
đã thực hiện để vòng thứ nhất đƣa ra những quyết định tiếp theo hoặc điều chỉnh quyết
định phù hợp.
Vòng thứ 3 lớn nhất là vòng ngoài cùng thƣờng là những nhà khoa học ở các tổ
chức trong và ngoài nƣớc cùng quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu của Nhóm. Những
thành viên ở vòng này thƣờng tạo hậu thuẫn, hỗ trợ trong nghiên cứu hoặc đƣa ra
những ý kiến phản biện, tƣ vấn, góp ý về những vấn đề nghiên cứu của Nhóm. Mặc dù
vậy, thực tế không phải NNC nào cũng tổ chức hoạt động đƣợc chặt chẽ nhƣ quy trình
đã nêu bởi những hạn chế trong việc xây dựng chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu, khả
năng huy động nguồn kinh phí và nhân lực để triển khai hoạt động.
Sự kết hợp nhân lực giữa 3 nhóm thành viên là tƣơng tối mềm dẻo, ngoài NNC
chủ chốt thuộc vòng thứ nhất là ổn định thì các thành viên thuộc vòng thứ 2 và thứ 3
rất linh hoạt và thƣờng xuyên có sự thay đổi, họ đƣợc tập hợp căn cứ vào nhu cầu và
sự phù hợp của từng nhiệm vụ nghiên cứu. Chính trong quá trình phát triển của
NNCM một số thành viên thuộc vòng 2 có sự phát triển mạnh và di động về vòng 1.
3.2.5. Những đóng góp của NNCM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN
ở ĐHQGHN
Phần viết này sẽ làm rõ đóng góp về về mặt khoa học của NNCM ở ĐHQGHN.
Cụ thể hơn, tác giả luận án sẽ bàn về công trình khoa học đã đƣợc công bố, đề tài đã và
đang đƣợc thực hiện, sản phẩm đào tạo, sản phẩm KH&CN đƣợc ứng dụng hay triển
khai trên thực tế và hoạt động hợp tác trong và ngoài nƣớc của các NNCM.
Trước hết, chúng ta đề cập đến các công trình khoa học đã đƣợc công bố của
NNCM. Nhƣ đã đề cập ở trên, hiện nay, ĐHQGHN đã công nhận chính thức 28
NNCM. Cuộc khảo sát thực hiện đối với 113 thành viên của các NNC trong đó có 73
thành viên thuộc NNCM và 40 thành viên thuộc các NNC chƣa đƣợc công nhận là
NNCM vào thời điểm tháng 6 năm 2018 cho kết quả về số lƣợng các công trình mà
những nhà khoa học này đã công bố trong 5 năm cụ thể nhƣ sau.
Bảng 3.6: Số lượng công trình khoa học được công bố bởi thành viên NNCM
Nội dung
Sách chuyên khảo
TT 1. 2. Bài báo trên tạp chí không thuộc danh mục ISI/Scopus 3. Bài báo trên tạp chí thuộc danh mục ISI/Scopus 4. Bài báo công bố trên các tạp chí trong nƣớc 5. 6.
Sản phẩm đạt giải thƣởng KH&CN Sản phẩm KH&CN hoàn chỉnh có thể chuyển giao và thƣơng mại hóa
Kết quả 182 351 293 1351 16 50
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
79
Dữ liệu trên (Bảng 3.6) cho chúng ta mấy nhận xét đáng lƣu ý sau đây. Thứ nhất,
nếu tính trung bình thì một thành viên của NNCM trong 5 năm đã công bố 2.49 sách
chuyên khảo, 4.8 bài báo trên tạp chí thuộc danh mục ISI/Scopus, 4.0 bài báo trên tạp
chí không thuộc danh mục ISI/Scopus; 18.5 bài báo công bố trên các tạp chí trong
nƣớc. Thứ hai, tính trung bình trong 5 năm, mỗi thành viên thuộc NNCM có 0,68 sản
phẩm KH&CN hoàn chỉnh có thể chuyển giao và thƣơng mại hóa. Thêm nữa, trong 5
năm, trung bình cứ gần 5 thành viên của NNCM thì một ngƣời có sản Sản phẩm đạt
giải thƣởng KH&CN ở các cấp khác nhau. Điều đáng lƣu ý nữa ở đây là số lƣợng bài
báo của các thành viên NNCM đăng trên các tạp chí khoa học trong nƣớc gấp khoảng
hơn 2 lần so với các bài báo công bố trên các tạp chí quốc tế.
Nếu so sánh năng suất khoa học trung bình trong vòng 5 năm của NNCM theo
các lĩnh vực nghiên cứu (Bảng 3.7, Biểu đồ 3.8) có thể thấy, lĩnh vực KHKT&CN và
KHTN có thế mạnh trong việc công bố bố quốc tế ở các nhóm tạp chí có uy tín, trong
khi lĩnh vực KHXH&NV có thế mạnh trong việc xuất bản sách chuyên khảo.
Bảng 3.7: So sánh năng suất nghiên cứu trung bình 5 năm của
thành viên NNCM theo lĩnh vực nghiên cứu
KQNC ở từng lĩnh vực
TT
Nội dung
KHTN KHXH&NV KHKT&CN KH Y DƢỢC
1. Sách chuyên khảo
1.29
4.27
1.25
1.14
2. Bài báo trên tạp chí không
3.93
5.73
5.88
3.14
thuộc danh mục ISI/Scopus
3. Bài báo trên tạp chí thuộc
5.43
0.90
12.00
2.57
danh mục ISI/Scopus
4. Bài báo công bố trên các
18.21
19.10
23.63
11.29
tạp chí trong nƣớc
5. Sản phẩm đạt giải thƣởng
0.11
0.17
1.0
0.0
KH&CN
6. Sản phẩm KH&CN hoàn
chỉnh có thể chuyển giao và
0.71
0.90
0.38
0.0
thƣơng mại hóa
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
80
Biểu đồ 3.8: So sánh năng suất nghiên cứu trung bình 5 năm của
thành viên NNCM theo lĩnh vực nghiên cứu
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Nếu so sánh năng suất khoa học của các thành viên NNCM với đội ngũ các nhà
khoa học của ĐHQGHN nói chung, có thể thấy, năng suất nghiên cứu của các thành
viên NNCM cao hơn gấp nhiều lần so với mặt bằng chung của ĐHQGHN (Bảng 3.8).
Bảng 3.8: So sánh kết quả nghiên cứu của thành viên NNCM
KQNC trung bình trong 5
KQNC trung bình trong 10
Nội dung
năm của thành viên NNCM
năm của các nhà khoa học
(sản phẩm/cán bộ)*
(sản phẩm/cán bộ)**
Sách chuyên khảo
2.49
0.63
Bài báo ISI/Scopus
4.8
0.99
Bài báo quốc tế khác
4.0
0.58
Bài báo trong nƣớc
18.5
2.8
Số sản phẩm hoàn chỉnh có thể
0.68
/
chuyển giao và thƣơng mại hóa
Số lần tham dự hội nghị/hội
thảo quốc tế với tƣ cách là báo
2.6 lần/cán bộ
/
cáo viên đƣợc mời (invited
speaker)
Số đề tài các cấp đã và đang
3.9
0.26
chủ trì
so với mặt bằng chung của ĐHQGHN
(* Nguồn khảo sát của đề tài; ** Nguồn khảo sát của Ban Tổ chức cán bộ - ĐHQGHN)
81
Một điểm đáng quan tâm ở đây là nếu chúng ta đi sâu vào các sản phẩm khoa học
cụ thể của các NNCM, có thể thấy, trong các thành tựu NCKH, đã hình thành các sản
phẩm KH&CN nổi bật trong nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng thực tiễn của
các NNCM ở ĐHQGHN. Một số sản phẩm điển hình thể hiện vai trò quan trọng của
NNCM qua những thành công trong khoa học nhƣ nhóm về Công nghệ môi trƣờng của
GS.TS. Phạm Hùng Việt, là nhà khoa học của ĐHQGHN có bài báo đăng trên tạp chí
Nature về luận giải cơ chế nhiễm Asen trong nƣớc ngầm tại Hà Nội và đƣợc chọn là một
trong 10 sự kiện tiêu biểu của KH&CN Việt Nam năm 2013, là kết quả của sự lao động
quên mình của tập thể các nhà khoa học trong NNC suốt từ năm 1998; Giải thƣởng Nhà
nƣớc về KH&CN năm 2005 dành cho GS. Trần Nghi, là sự ghi nhận về những đóng góp
của ông và tập thể các nhà khoa học, NNC đã nhiều năm say sƣa lặn lội nghiên cứu về
địa chất địa mạo và đa dạng sinh học của Phong Nha - Kẻ Bàng, góp phần quan trọng
trong việc cung cấp cho UNESCO những luận cứ quan trọng để công nhận Phong Nha-
Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới; Báo cáo thƣờng niên kinh tế Việt Nam của NNC
Lý thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập kin tế của Việt Nam, với
5 năm liên tục đã gây đƣợc tiếng vang trong giới kinh tế về những đóng góp mang tính
phản biện xã hội, đã cung cấp một cái nhìn và đánh giá toàn cảnh về kinh tế thế giới,
cũng nhƣ kinh tế Việt Nam trong những năm qua, đƣợc các chuyên gia kinh tế, các nhà
hoạch định chính sách quan tâm và đánh giá cao; Công trình khoa học “Người Việt với
biển” do NNC Lịch sử và Quan hệ thƣơng mại châu Á thực hiện đã góp phần khẳng
định chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, đồng thời tạo sức ảnh hƣởng lớn đến cộng đồng
khoa học, giới chính trị trong và ngoài nƣớc; Quy hoạch Công viên Địa chất toàn cầu
Cao nguyên đá Đồng Văn đƣợc hoàn thành dựa trên nghiên cứu của các nhà khoa học
thuộc ĐHQGHN đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 310/QĐ-
Ttg ngày 27/2/2013 đã đƣợc ứng dụng thực tiễn; NNC Chính sách và Quản lý đã có
nhiều đóng góp khoa học, đào tạo, hợp tác quốc tế. Đặc biệt, một số sản phẩm nghiên
cứu của Nhóm đã đƣợc Quốc hội sử dụng làm tài liệu tham khảo và nghiên cứu. Với
nhiều thành tích đạt đƣợc trong suốt 17 năm, NNC Chính sách và Quản lý đã phát triển
thành TTNC trọng điểm của ĐHQGHN…[2].
Thứ hai, NNCM cũng đóng góp rất tích cực trong việc chủ trì và tham gia các đề
tài/dự án nghiên cứu. Kết quả từ Bảng 3.9 cho chúng ta thấy, nếu tính trung bình thì cứ
một thành viên của NNCM trong 5 năm đã chủ trì 3 đề tài/dự án nghiên cứu và tham
gia 5.2 đề tài/dựa án nghiên cứu.
82
Bảng 3.9: Số lượng đề tài do thành viên NNCM chủ trì và tham gia
TT Nội dung Kết quả
1. Số đề tài các cấp Thầy/Cô chủ trì đã và đang chủ trì 226
2. Số đề tài các cấp Thầy/Cô tham gia đã và đang 385
tham gia
Thứ ba, NNCM có những đóng góp khá quan trọng trong hoạt động tăng cường
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
hội nhập quốc tế. Các NNCM của ĐHQGHN đã thiết lập đƣợc quan hệ hợp tác nghiên
cứu hiệu quả với nhiều cơ sở nghiên cứu quốc tế. Cụ thể, các NNCM đã có nghiên cứu
công bố quốc tế chung với 65 Trƣờng đại học, Viện nghiên cứu quốc tế [2].
Thứ tƣ, các NNCM của ĐHQGHN đã có đóng góp tích cực cho công tác đào
tạo sau đại học của ĐHQGHN, cụ thể: từ năm 2008 đến nay, thông qua hoạt động
nghiên cứu, ĐHQGHN đã đào tạo sau đại học hiệu quả và có chất lƣợng tốt: đã cấp
bằng cho 12.334 thạc sỹ (và đang đào tạo trên 11.000 HVCH), 423 tiến sỹ (và đang
đào tạo 1.180 NCS). Theo thống kê từ năm 2012 đến nay, khoảng 50% số NCS của
các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ của ĐHQGHN khi bảo vệ luận án tiến sỹ
đều có bài đăng trên các tạp chí quốc tế[41]. Cũng cần nhấn mạnh rằng, các NNCM
đều có kết quả và chất lƣợng đào tạo rất tốt. Đáng lƣu ý là 80% các công bố quốc tế
của các thầy, cô hƣớng dẫn là công bố đồng tác giả với các NCS[2]. Một số NNCM đã
góp phần mở ra các ngành/chuyên ngành đào tạo mới nhƣ NNC chính sách và quản lý
phát triển 2 chƣơng trình đào tạo ở bậc thạc sĩ và tiến sĩ về Quản lý KH&CN; NNC
Vật liệu và kết cấu tiên tiến phát triển 2 chƣơng trình đào tạo là Công nghệ Kỹ thuật
Xây dựng ở bậc đại học và Vật liệu và kết cấu tiên tiến ở bậc thạc sĩ…
Để có cái nhìn khách quan hơn về những đóng góp của NNCM trong việc nâng
cao hiệu quả hoạt động KH&CN, tác giả luận án đã lấy ý kiến đánh giá của các nhà
khoa học, các nhà quản lý ở ĐHQGHN, với thang điểm từ 1 đến 5, (1 tương ứng với
mức độ rất hạn chế và 5 tương ứng với mức độ rất tích cực). Theo đó, giá trị trung
bình của mỗi yếu tố càng gần với điểm 5 thì ý kiến đánh giá đánh càng gần với mức
“rất tích cực”, kết quả nhƣ sau:
83
Bảng 3.10: Đánh giá mức độ đóng góp của NNCM đối với việc nâng cao
hiệu quả hoạt động KH&CN
Nội dung lấy ý kiến đánh giá
Điểm trung
bình
4,11
Hỗ trợ sự phát triển và duy trì một môi trƣờng nghiên cứu hợp tác, chất
lƣợng cao
Tập trung phát triển các lĩnh vực sở trƣởng trong nghiên cứu và đào tạo, đặc
4,10
biệt trong lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, xuyên ngành
Tăng cƣờng và hỗ trợ đào tạo nghiên cứu và khuyến khích sự tham gia của
4,18
sinh viên, học viên, NCS
Cung cấp các cơ hội và hỗ trợ cho sinh viên, học viên, NCS để tạo nên các
3,98
KQNC chất lƣợng cao, phát triển thành tích nghiên cứu và xây dựng sự
nghiệp nghiên cứu thành công
Hỗ trợ đổi mới nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, môi trƣờng và
3,73
xã hội trong tƣơng lai, trong lĩnh vực Trƣờng hoạt động
Đảm bảo KQNC có đóng góp thiết thực trong việc phát triển lĩnh vực
3,84
chuyên môn của trƣờng đại học, và đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nƣớc
Đảm bảo nghiên cứu chất lƣợng cao để củng cố và tăng cƣờng các CTĐT
4,01
của trƣờng đại học
Tăng cƣờng các cơ hội để đạt đƣợc nguồn tài trợ từ các Quỹ hỗ trợ nghiên
4,02
cứu trong và ngoài nƣớc cho hoạt động nghiên cứu trọng tâm
Cung cấp cho khách hàng những KQNC hữu ích, kịp thời và hiệu quả
3,25
(Nguồn: kết quả khảo sát của đề tài)
Từ kết quả khảo sát (Bảng 3.10) cho thấy, hầu hết nhà khoa học đều đánh giá
cao những đóng góp của NNCM trong việc hỗ trợ sự phát triển và duy trì một môi
trƣờng nghiên cứu hợp tác, chất lƣợng cao; Tập trung phát triển các lĩnh vực sở trƣởng
trong nghiên cứu và đào tạo, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, xuyên
ngành; Tăng cƣờng các cơ hội để đạt đƣợc nguồn tài trợ từ các Quỹ hỗ trợ nghiên cứu
trong và ngoài nƣớc cho hoạt động nghiên cứu trọng tâm; Cung cấp các cơ hội và hỗ
trợ cho sinh viên, học viên, NCS để tạo nên các KQNC chất lƣợng cao, phát triển
thành tích nghiên cứu và xây dựng sự nghiệp nghiên cứu thành công; Đảm bảo nghiên
cứu chất lƣợng cao để củng cố và tăng cƣờng các CTĐT của trƣờng đại học; Đảm bảo
KQNC có đóng góp thiết thực trong việc phát triển lĩnh vực chuyên môn của trƣờng
84
đại học, và đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc; Hỗ trợ đổi mới
nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, môi trƣờng và xã hội trong tƣơng lai,
trong lĩnh vực Trƣờng hoạt động.
Đặc biệt, các nhà khoa học đánh giá rất cao đóng góp của NNCM trong việc
tăng cƣờng và hỗ trợ đào tạo nghiên cứu và khuyến khích sự tham gia của sinh viên,
học viên, NCS. Tuy nhiên, các KQNC chƣa đƣợc cung cấp cho khách hàng một cách
kịp thời và đem lại những hiệu quả rõ rệt, điều này phần nào phản ánh một thực tế là
những KQNC gắn với thực tiễn còn ít và chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của xã hội.
3.2.6. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển NNCM
Nhƣ tác giả luận án đã đề cập ở trên, việc xây dựng, phát triển và duy trì hiệu
quả hoạt động của các NNCM phụ thuộc rất nhiều vào những yếu tố bên trong của
nhóm, đó là những yếu tố nội tại thuộc về năng lực của đội ngũ nhà khoa học, mối
quan hệ của các thành viên và các vấn đề liên quan đến lợi ích.
Về yếu tố con người, trong quá trình nghiên cứu tác giả luận án nhận thấy rằng
chính những hạn chế về năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học có ảnh hƣởng lớn nhất
đến đến sự phát triển của NNC. Kết quả khảo sát (Bảng 3.11, Biểu đồ 3.9) cho thấy,
chính việc không tìm kiếm đƣợc nguồn kinh phí để đảm bảo cho hoạt động nghiên
cứu, thiếu cán bộ khoa học có tầm ảnh hƣởng lớn, năng lực đội ngũ còn kém là yếu
tố ảnh hƣởng mạnh mẽ nhất đến sự phát triển NNCM. Bên cạnh đó, những vấn đề
thuộc về kỹ năng làm việc nhóm, khả năng sử dụng internet để khai thác thông tin
trên mạng cũng phần nào ảnh hƣởng đến sự phát triển của NNCM, nhƣng đó không
phải là yếu tố chính.
Bảng 3.11: Những yếu tố thuộc về năng lực ảnh hưởng
đến sự phát triển của NNCM
Điểm trung
Nội dung lấy ý kiến đánh giá
bình
Không tìm kiến đƣợc nguồn kinh phí để đảm bảo cho hoạt động của nhóm
4.39
Thiếu cán bộ nhà khoa học có uy tín và tầm ảnh hƣởng lớn
4.31
Năng lực đội ngũ còn kém
4.01
Thiếu kỹ năng làm việc nhóm
3.85
Khả năng sử dụng máy tính, tra cứu thông tin trên mạng Internet
3.20
(Nguồn: kết quả khảo sát của đề tài)
85
Biểu đồ 3.9: Những yếu tố thuộc về năng lực ảnh hưởng
đến sự phát triển của NNCM
Về mối quan hệ gắn kết và lợi ích của NNCM, tác giả luận án nhận thấy rằng:
- Xét từ tương tác tâm lí giữa cá nhân và nhóm, việc nhóm có sức thu hút đối
với những thành viên của mình hay không và cá nhân có chịu sức hút đó không đều có
ảnh hƣởng quan trọng đối với sự gắn kết của nhóm. Nếu một nhóm thực sự có sức hấp
dẫn những thành viên của mình, và những thành viên của nhóm đó tự giác ý thức đƣợc
điểm này thì sự gắn kết của nhóm sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.
- Xét từ cấu trúc quan hệ của thành viên trong nhóm, cấu trúc quan hệ này có
tuân theo nguyên tắc thống nhất và nguyên tắc bổ sung hay không cũng có ảnh hƣởng
trực tiếp đến sự gắn kết của nhóm. Nếu phƣơng diện thái độ nhận thức của thành viên
về tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội, bối cảnh văn hoá, đặc biệt là quan điểm khoa
học có sự tƣơng đồng hoặc thống nhất, thì sự gắn kết giữa các thành viên sẽ trở nên
mạnh mẽ, dễ trở thành nhóm đoàn kết chặt chẽ. Mặt khác, trên các phƣơng diện nhƣ
giới tính, tuổi tác, tính cách, khí chất và năng lực các thành viên có thể tƣơng trợ bổ
sung lẫn nhau một cách thoả đáng, mối quan hệ tƣơng hỗ rõ ràng sẽ hình thành và
thƣờng sẽ làm tăng thêm sự gắn kết giữa các thành viên. Đến lúc đó, giữa các thành
viên sẽ nhận ra rằng họ là một phần không thể thiếu trong tập thể họ đang làm việc.
- Xét từ mối quan hệ của thành viên với người trưởng nhóm, việc thành viên
có hiểu và tin tƣởng vào năng lực của ngƣời trƣởng nhóm hay không, và tƣ cách lãnh
đạo, cũng nhƣ bản thân ngƣời trƣởng nhóm có sức hấp dẫn hay không đều có ảnh
hƣởng rất lớn đến sự gắn kết của nhóm. Trƣởng nhóm có năng lực, uy tín và đƣợc
các thành viên công nhận, ủng hộ là một điều kiện vô cùng quan trọng để tạo nên sự
bền vững của nhóm.
86
- Xét từ quan hệ giữa nhóm và hoàn cảnh của nó, nếu trong nội bộ nhóm vẫn
chƣa tồn tại những nhân tố mang tính chia rẽ, thì khi đứng trƣớc sự đe doạ và áp lực to
lớn của hoàn cảnh, sự gắn kết của nhóm đó cũng sẽ tăng lên.
- Xét từ quan hệ lợi ích giữa cá nhân và nhóm, việc duy trì đƣợc sự thống nhất
giữa hai lợi ích này cũng có ảnh hƣởng tới sự gắn kết của nhóm. Quan hệ giữa thành
viên với nhóm, giữa thành viên với thành viên phải tuân theo nguyên tắc hai bên cùng
có lợi, nghĩa là cùng thu đƣợc lợi ích thì mới có thể duy trì đƣợc mối quan hệ lâu dài.
Nếu các thành viên hoạt động trong nhóm đều tuân theo quy tắc của nhóm, từ đó có
thể thoả mãn đầy đủ đƣợc những nhu cầu của họ thì sẽ kích thích đƣợc tính tích cực
của các thành viên, nâng cao hiệu quả gắn kết của nhóm.
Kết quả khảo sát của đề tài (Bảng 3.12, Biểu đồ 3.10) đã cho thấy, việc trƣởng
nhóm không tạo đƣợc sự gắn kết giữa các thành viên có ảnh hƣởng lớn nhất đến sự
phát triển của Nhóm. Đồng thời, việc không đảm bảo quyền lợi và thiếu minh bạch
trong phân chia lợi ích cũng có ảnh hƣởng khá lớn đến sự phát triển của Nhóm. Ngoài
ra, còn là những ảnh hƣởng thuộc về yếu tố cá tính của mỗi thành viên, tuy nhiên đây
không phải là yếu tố có ảnh hƣởng lớn.
Bảng 3.12: Những yếu tố thuộc về mối quan hệ và lợi ích ảnh hưởng
đến sự phát triển của NNCM
Nội dung lấy ý kiến đánh giá
Trƣởng nhóm không tạo đƣợc sự gắn kết giữa các thành viên Sự khác nhau về cá tính của mỗi thành viên Quyền lợi không đƣợc đảm bảo Không minh bạch trong phân chia lợi ích
Điểm trung bình 4,09 3,14 3,79 3,74
(Nguồn: kết quả khảo sát của đề tài)
Biểu đồ 3.10: Những yếu tố thuộc về mối quan hệ và lợi ích ảnh hưởng
đến sự phát triển của NNCM
87
Bên cạnh đó, các yếu tố bên ngoài thuộc về môi trƣờng, chính sách cũng có ảnh
hƣởng lớn đến hiệu quả hoạt động và khả năng phát huy năng lực cũng nhƣ quá trình
xây dựng và phát triển NNCM. Qua thăm dò ý kiến của các nhà khoa học, các nhà
quản lý tác giả luận án thu đƣợc một số kết quả nhƣ sau:
Khi đƣợc hỏi về những nguyên nhân ảnh hƣởng đến hiệu quả hoạt động, khả
năng phát huy năng lực nghiên cứu của các NNCM, có đến 14/17 yếu tố đƣợc các nhà
khoa học, các nhà quản lý đánh giá có ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển của NNCM.
Trong đó, nguyên nhân chính nằm ở chỗ kinh phí cho NCKH quá eo hẹp, thủ tục thanh
toán còn phiều phức, cơ chế quản lý NCKH còn mang nặng tính xin-cho, điều kiện vật
chất thiếu thốn, định mức chi cho NCKH không phù hợp và thu nhập từ làm NCKH
còn quá thấp. Trong khi, những yếu tố liên quan đến giảng dạy, quản lý và bảo hộ
quyền tác giả lại không đƣợc xem là những yếu tố có ảnh hƣởng nhiều đến sự phát của
của các NNC (Bảng 3.13, Biểu đồ 3.11).
Bảng 3.13: Những yếu tố thuộc về môi trường, chính sách có ảnh hưởng
đến sự phát triển của NNCM
Nội dung lấy ý kiến đánh giá
Điểm trung bình
Kinh phí nghiên cứu khoa học quá eo hẹp
4.28
Thủ tục thanh toán còn phiền phức
4.17
Cơ chế quản lý NCKH còn mang nặng tính xin-cho
4.11
Định mức chi cho nghiên cứu không phù hợp
3.99
Thiếu điều kiện vật chất (thiết bị, vật liệu, tƣ liệu…)
3.89
Thu nhập từ làm NCKH quá thấp so với làm các việc khác
3.80
Chƣa gắn kết đƣợc công tác NCKH và CGCN với ngƣời sử dụng kết quả
3.79
Môi trƣờng nghiên cứu còn chƣa thật sự dân chủ
3.68
Nguồn tƣ liệu phục vụ NC còn hạn chế
3.67
Thiếu thông tin về nhu cầu KH&CN
3.61
Trang thiết bị cho công tác NCKH quá lạc hậu
3.54
Nhu cầu đổi mới CN ở các doanh nghiệp còn thấp
3.52
Thiếu thông tin về NCKH hiện đại
3.45
Thị trƣờng công nghệ chƣa phát triển
3.45
Giảng dạy quá nhiều
3.34
Chính sách bảo hộ quyền tác giả còn nhiều hạn chế
3.18
Công tác quản lý quá bận rộn
3.08
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
88
Biểu đồ 3.11: Những yếu tố thuộc về môi trường, chính sách có ảnh hưởng
đến sự phát triển của NNCM
Bên cạnh những yếu tố chung thuộc về môi trƣờng, chính sách. Tác giả luận án
cũng tiến hành phân tích sâu hơn những ảnh hƣởng của việc chọn nội dung nghiên cứu
và cá nhân/đơn vị thực hiện. Theo tác giả luận án, đây là nội dung quan trọng và cần
thiết phải xem xét bởi “đề tài” chính là nguồn năng lƣợng giúp các nhà khoa học cũng
nhƣ các NNC duy trì và phát triển. Nếu công việc này đƣợc thực hiện không tốt sẽ gây
ra những ảnh hƣởng không tốt đến hiệu quả hoạt động khoa học của các nhà khoa học
cũng nhƣ gây ra những lãng phí trong đầu tƣ, thậm chí là những hệ lụy không tốt cho
xã hội. Ý kiến đánh giá của các nhà khoa học, các nhà quản lý nhƣ sau:
Bảng 3.14: Đánh giá mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung,
cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài
Điểm trung bình
Loại đề tài
Chọn nội dung Chọn cá nhân/đơn vị thực hiện
Đề tài cấp nhà nƣớc
3.35
3.41
Đề tài cấp Bộ
3.24
3.31
Đề tài Quỹ Nafosted
4.27
4.21
Đề tài cấp ĐHQGHN
3.68
3.76
Đề tài cấp đơn vị trực thuộc ĐHQGHN
3.58
3.50
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
89
Biểu đồ 3.12: Đánh giá mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung,
cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài
Từ kết quả trên đây (Bảng 3.14, Biểu đồ 3.12) cho thấy, đề tài thuộc Quỹ
Nafosted đƣợc đánh giá cao nhất về mức độ đảm bảo yêu cầu cả trong lựa chọn nội
dung nghiên cứu và cá nhân/đơn vị thực hiện. Đánh giá này phần nào phản ánh mức
độ khách quan và phù hợp trong tuyển chọn nội dung và cá nhân/đơn vị thực hiện đề
tài của Quỹ. Điều này đƣợc xem là phù hợp với thực tiễn bởi những đổi mới mạnh mẽ
trong quản lý hoạt động của Quỹ trong thời gian qua. Những yêu cầu đặt ra cao cả
trong yếu tố đầu vào (nhân lực) và sản phẩm đầu ra (bài báo công bố quốc tế trên
những tạp chí có uy tín của thế giới thuộc danh mục ISI/Scopus) là những điều kiện
quan trọng giúp hạn chế những rủi ro trong đầu tƣ cho nghiên cứu.
Về cơ bản đề tài của ĐHQGHN và đơn thị thành viên đã đảm bảo yêu cầu trong
việc tuyển chọn nội dung và cá nhân/đơn vị thực hiện. Duy chỉ có đề tài cấp nhà nƣớc,
đề tài cấp bộ đƣợc các nhà khoa học đánh giá ở mức chƣa cao (khoảng từ 3,24 đến
3,41) trong cả vấn đề đảm bảo nội dung và cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài. Từ sự đồng
nhất trong ý kiến đánh giá của các nhà khoa học rõ ràng, việc xét duyệt đề tài nghiên
cứu mặc dù đã có nhiều đổi mới, song chƣa giải quyết đƣợc những bất cập căn bản. Cụ
thể, việc tài trợ cho các đề tài nghiên cứu chƣa dựa trên những căn cứ rõ ràng để làm
tiêu chí xét duyệt cấp kinh phí cho các dự án khoa học. Hội đồng xét duyệt thƣờng
nhìn vào tên tuổi, chức danh, học vị của các nhà khoa học chủ trì và tham gia đề tài
cũng nhƣ cơ quan của ngƣời đề xuất để quyết định tài trợ (Hộp 3.2).
90
Hộp 3.2: Việc xem xét nhân lực khi xét duyệt đề tài còn mang tính hình thức
“…Tôi được một trưởng NNCM mời tham gia xây dựng thuyết minh và thực hiện một đề tài
cấp nhà nước và khi đề tài được phê duyệt và triển khai tôi mới biết mình không có tên
thành viên chính thức trong Quyết định phê duyệt đề tài bởi tôi là NCS, chưa có bằng tiến
sĩ. Chủ nhiệm đề tài giải thích rằng, để hồ sơ thuyết minh được “đẹp” và dễ được phê duyệt
hơn thì thành viên của đề tài nên gồm những người có học vị tiến sĩ hoặc có chức danh
GS/PGS. Thực tế, hầu hết những người có chức danh/học vị cao đó ít tham gia thực hiện đề
tài”, ThS (NCS), 40 tuổi.
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)
Cách xét duyệt theo kiểu “nhìn mặt đặt tên” nhƣ trên có hệ quả là hầu hết các đề
tài đƣợc xét duyệt thuộc về các nhà nghiên cứu có danh, có vị, có các mối “quan hệ”
rộng và thuộc về các cơ quan “có tên tuổi”. Kiểu tài trợ nhƣ vậy thƣờng dẫn đến một
thực hành phổ biến hiện nay là các đề tài thƣờng có một danh sách ngƣời chủ trì và
thành viên dƣờng nhƣ đã đƣợc định sẵn, nhƣng kết quả thì có thể rất hạn chế, vì ngƣời
ta có xu hƣớng mƣợn tên các nhà khoa học đứng ở vị trí chủ trì và cả danh sách thành
viên. Thêm nữa, vì mỗi thành viên đứng tên để “thanh khoản” nên các dự án khoa học
lại thƣờng tạo ra tác dụng ngƣợc, có nguy cơ triệt tiêu sáng tạo khoa học và làm mất cá
tính sáng tạo của cá nhân nhà khoa học. Sẽ chỉ còn một nhóm những ngƣời hợp-tan
xung quanh một đề tài, dự án nghiên cứu mà không sản xuất đƣợc các tri thức khoa
học mới, chủ trì đề tài có vai trò khá mơ hồ và dễ thoái thác trách nhiệm do tính “tập
thể’ của dự án nghiên cứu[61].
Ngoài ra, tác giả luận án cũng lấy ý kiến đánh giá của các nhà khoa học và các
nhà quản lý về những nguyên nhân dẫn đến việc không đảm đảm bảo tính nghiêm túc
và chính xác trong đánh giá nghiệm thu đề tài nghiên cứu, kết quả thu đƣợc nhƣ sau:
Bảng 3.15: Đánh giá mức độ nghiêm túc, chính xác trong kiểm tra,
đánh giá, nghiệm thu đề tài nghiên cứu
Nội dung xin ý kiến đánh giá
Điểm trung bình
Văn bản quy định còn chƣa chặt chẽ, hợp lý
3.36
Quá trình thực hiện có tiêu cực
3.09
Cơ chế đánh giá không theo thông lệ quốc tế
3.91
Hội đồng tuyển chọn không đủ năng lực
3.09
Hội đồng đánh giá có nể nang, dễ dãi
3.75
Tiêu chí đánh giá chƣa rõ ràng
3.56
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
91
Biểu đồ 3.13: Đánh giá mức độ nghiêm túc, chính xác trong kiểm tra,
đánh giá, nghiệm thu đề tài nghiên cứu
Từ Bảng 3.15 và Biểu đồ 3.13 trên đây cho thấy, cơ chế đánh giá không theo
thông lệ quốc tế đƣợc các nhà khoa học đánh giá là nguyên nhân chính có ảnh hƣởng
lớn đến mức độ đảm bảo tính nghiêm túc, chính xác trong kiểm tra, đánh giá, nghiệm
thu đề tài/dự án hiện nay. Bên cạnh đó là những ảnh hƣởng từ việc các tiêu chí đánh
giá còn chƣa rõ ràng, văn bản quy định còn chƣa chặt chẽ, hợp lý, sự nể nang, dễ dãi
của hội đồng trong quá trình kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu. Ngoài ra, những vấn đề
tiêu cực trong quá trình thực hiện kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu cũng đƣợc xem là
nguyên nhân dẫn đến kết quả nghiên cứu còn hạn chế (Hộp 3.3).
Hộp 3.3: Tiêu cực phí trong tuyển chọn, nghiệm thu và thanh quyết toán đề tài
“…cần triệt tiêu, hạn chế các tiêu cực phí trong xét duyệt và thanh toán đề tài”
(Nam, 39 tuổi, TS; Nam, 30 tuổi, ThS)
“Cần hạn chế tình trạng phí bôi trơn trong tuyển chọn đề tài và các thủ tục hành
chính rườm rà trong thanh quyết toán đề tài, dự án” (Nam, 44 tuổi, PGS.TS)
“Hạn chế các khoản “hành chính phí” trong tuyển chọn, nghiệm thu đề tài”
(Nam, 35 tuổi, TS)
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
92
3.3. Tiểu kết chƣơng 3
Với những kết quả đã thực hiện, tác giả luận án ghi nhận một số điểm chính
sau đây:
Thứ nhất, các NNCM của ĐHQGHN hầu hết đƣợc hình thành xuất phát từ
chính nhu cầu của các nhà khoa học. Về cơ bản các NNCM đã nhận đƣợc sự hỗ trợ
thông qua một số chính sách trực tiếp và gián tiếp từ ĐHQGHN. Tuy nhiên, thực tiễn
cho thấy, các NNCM đƣợc thành lập không gắn liền với các chƣơng trình nghiên cứu
cụ thể, ĐHQGHN và các trƣờng thành viên cũng không tiến hành đánh giá hiệu quả
hoạt động của các NNCM và giải thể các NNCM do đó việc thành lập NNCM phần
nào đó còn mang tính hình thức. Việc không tiến hành giải thể NNCM cũng làm thui
chột đi động lực phải xây dựng các nhiệm vụ nghiên cứu mới, cũng nhƣ không đảm
bảo tính mới trong khoa học, vì thế hiệu quả hoạt động KH&CN của các NNCM về
lâu dài sẽ không cao.
Thứ hai, các tiêu chí NNCM của ĐHQGHN đã hƣớng đến việc xem xét 3 nội
dung chính gồm: (1) Hƣớng nghiên cứu, tiêu chí này nhằm làm rõ thế mạnh của Nhóm
trong lĩnh vực nghiên cứu mà nhóm theo đuổi; (2) Sự xuất sắc của các thành viên, tiêu
chí này nhằm đánh giá năng lực của các thành viên trong việc thực hiện các chƣơng
trình/dự án nghiên cứu, các kết quả nghiên cứu đƣợc công bố hoặc ứng dụng trong
thực tiễn; (3) Cơ sở vật chất - trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, tiêu chí này nhằm
đánh giá các điều kiện cơ bản để nhóm có thể triển khai các chƣơng trình, dự án
nghiên cứu. Tuy nhiên, các tiêu chí còn định tính khó đo lƣờng, có những tiêu chí đặt
ra quá cao không phù hợp với thực tế, các tiêu chí cũng không xem xét đến tình đặc
thù của từng lĩnh vực nghiên cứu. Đặc biệt, các tiêu chí còn thiếu thống nhất khi áp
dụng trong ĐHQGHN. Kết quả đánh giá của các nhà khoa học về khả năng đáp ứng
các tiêu chí quốc tế của các NNCM ở ĐHQGHN là không cao do đó các NNCM ở
ĐHQGHN vẫn còn một khoảng cách khá xa so với các NNC quốc tế.
Thứ ba, đặc trƣng chính trong các NNCM ở ĐHQGHN là các nhóm đƣợc tổ
chức theo triết lý vòng hạt nhân gồm 3 vòng tròn đồng tâm, với việc phân định vai trò
và tập hợp lực lƣợng theo 3 nhóm nhân lực trong nhóm. Khảo sát thực tế cho thấy, lĩnh
vực KHTN và KHXH&NV là hai lĩnh vực thế mạnh của các NNCM, các nhà khoa học
làm việc trong các NNCM đều là các nhà khoa học có trình độ cao, quy mô thành viên
hợp lý, năng lực nghiên cứu của các thành viên NNCM cao hơn nhiều so với mặt bằng
chung, điều này đƣợc minh chứng bởi những đóng góp tích cực của Nhóm trong việc
93
nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN, đƣợc các nhà khoa học, các nhà quản lý đánh
giá cao. Tuy nhiên, một điểm đáng lƣu ý là độ tuổi trung bình của trƣởng NNCM là
tƣơng đối cao (59.8 tuổi), trình độ càng cao thì tuổi càng cao. Trong đó, có đến 59% số
trƣởng NNCM đã qua tuổi 60 không còn giữ chức vụ quản lý, 41% trƣởng NNCM
dƣới 60 tuổi đều đang giữ các chức vụ từ cấp lãnh đạo khoa, lãnh đạo trƣờng thành
viên đến lãnh đạo các Ban hay lãnh đạo ĐHQGHN. Điều đó vừa là thuận lợi, vừa là
khó khăn cho các NNCM trong quá trình triển khai hoạt động KH&CN. Thuận lợi ở
chỗ, đối với trƣởng NNCM đã qua tuổi 60 (tức qua tuổi giữ chức vụ quản lý) họ có
nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu, đối với những trƣởng NNCM dƣới 60
tuổi (đang giữ chức vụ quản lý) họ có mối quan hệ rộng để kết nối và huy động các đề
tài, dự án nghiên cứu. Ngƣợc lại, khó khăn ở chỗ những thủ lĩnh nhóm có độ tuổi cao,
sức yếu, khả năng, động lực đóng góp cho khoa học dần giảm sút, còn những ngƣời
trẻ, sung sức lại đang giữ những chức vụ quản lý quan trọng và do vậy họ không có
nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu.
Cuối cùng, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, việc không tìm kiếm đƣợc nguồn
kinh phí để đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu, thiếu cán bộ khoa học có tầm ảnh
hƣởng lớn, năng lực đội ngũ còn kém là yếu tố ảnh hƣởng mạnh mẽ nhất đến sự phát
triển NNCM. Bên cạnh đó, các yếu tố thuộc về môi trƣờng, chính sách nhƣ: Kinh phí
nghiên cứu khoa học quá eo hẹp, thủ tục thanh toán còn phiều phức, cơ chế quản lý
NCKH còn mang nặng tính xin-cho, điều kiện vật chất thiếu thốn, định mức chi cho
NCKH không phù hợp và thu nhập từ làm NCKH còn quá thấp cũng có ảnh hƣởng lớn
đến hiệu quả hoạt động và khả năng phát huy năng lực cũng nhƣ quá trình xây dựng và
phát triển NNCM.
94
CHƢƠNG 4. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
4.1. Dẫn nhập
Từ việc xem xét thực trạng cơ sở hình thành và phát triển NNCM trong các
trƣờng đại học thông qua trƣờng hợp ĐHQGHN, tác giả luận án nhận thấy các NNCM
sẽ không thể hình thành và phát triển nếu không có những chính sách đầu tƣ, định
hƣớng của của Nhà nƣớc nói chung và các trƣờng đại học nói riêng. Do vậy, việc phân
tích, đánh giá những tác động của chính sách hiện hành để có những bổ sung, điều
chỉnh phù hợp là rất quan trọng nhằm thúc đẩy NNCM phát triển. Theo đó, chƣơng
này sẽ tập trung vào hai nội dung chính sau đây:
Nội dung thứ nhất, đề cập một cách tổng quan về những chính sách ở tầm quốc
gia có tác động đến sự hình thành và phát triển NNCM bao gồm 1) Quy định quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN; 2) Chính sách tài trợ cho NNCM
thông qua triển khai các chƣơng trình/dự án nghiên cứu; 3) Chính sách đào tạo, bồi
dƣỡng theo NNC và nhiệm vụ nghiên cứu; 4) Chính sách đầu tƣ phát triển tiềm lực và
khuyến khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở GDĐH; 5) Chính sách đẩy mạnh đổi
mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KH&CN; 6) Chính sách tuyển sinh và đào tạo tiến
sĩ; 7) Quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức
danh GS/PGS; 8) Hƣớng dẫn phát triển các NNCM trong các cơ sở giáo dục đại học
đang đƣợc Bộ GD&ĐT dự thảo.
Nội dung thứ hai, tập trung phân tích và đánh giá tổng thể 3 nhóm chính sách
phát triển NNCM của ĐHQGHN bao gồm: Nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn
nhân lực; Nhóm chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu; Nhóm chính
sách hợp tác và phát triển. Đây là những nhóm chính sách có tác động cả trực tiếp và
gián tiếp đến sự phát triển NNCM ở ĐHQGHN hiện nay. Theo đó, với mỗi nhóm
chính sách, luận án sẽ xem xét nội dung thực hiện, kết quả thực hiện, đánh giá tác
động, hiệu lực, hiệu quả của chính sách, cũng nhƣ những hạn chế của các nhóm chính
sách để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách.
4.2. Tổng quan về chính sách của Nhà nƣớc có tác động đến sự hình thành và
phát triển NNCM trong các trƣờng đại học
Vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức khoa học trong phát triển và xây dựng
đất nƣớc đã đƣợc Đảng ta chỉ ra ngay từ những ngày lập nƣớc, điều này đã đƣợc thể
95
hiện trong Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam đối với trí thức, trong đó, chỉ rõ
“Trí thức là vốn quý của dân tộc. Không có trí thức hợp tác với công - nông thì cách
mạng không thể thành công và sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam mới sẽ không
thể hoàn thành được”[1] .
Đây là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nƣớc ta trong suốt quá trình xây
dựng, đổi mới và phát triển. Với ý nghĩa đó, giáo dục và đào tạo, KH&CN luôn đƣợc
coi là quốc sách hàng đầu và đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm đầu tƣ trong hàng thập
kỷ qua, bởi, để có đƣợc đội ngũ trí khoa học mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng thì
giáo dục và đào tạo, KH&CN có vai trò quyết định.
Với nhận thức chung rằng, NNCM là nơi hội tụ của các nhà khoa học chất lƣợng
cao, những ngƣời có năng lực tổ chức nghiên cứu, có khả năng kết hợp để xây dựng
những hƣớng nghiên cứu mới, giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu phức tạp, quy mô
lớn, huy động đƣợc các nguồn lực để triển khai hoạt động KH&CN nhằm tạo ra các
công trình nghiên cứu có chất lƣợng ở tầm lý luận và thực tiễn, đóng góp tích cực cho sự
phát triển chung của nền khoa học học thế giới và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nƣớc, trong hơn 10 năm trở lại đây Đảng và Nhà nƣớc đã có nhiều chủ trƣơng, chính
sách nhằm thúc đẩy phát triển NNCM trong trƣờng đại học. Điều này đƣợc cụ thể hóa
trong luật KH&CN; Luật Giáo dục và Đào tạo; các Nghị định về việc đầu tƣ phát triển
tiềm lực và khuyết khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở giáo dục đại học; các
Quyết định phê duyệt đề án đào tạo, bồi dƣỡng nhân lực KH&CN trong và ngoài nƣớc
bằng ngân sách nhà nƣớc; các thông tƣ quy định quản lý đề tài nghiên cứu v.v.
Để làm rõ hơn những nội dung của chính sách, trong phần này, tác giả luận án
sẽ tập trung xem xét một cách tổng quan về những chính sách của Nhà nƣớc có tác
động đến sự hình thành và phát triển của NNCM trong các trƣờng đại học hiện nay
bao gồm: Nghị định 115/2005/NĐ-CP, ngày 05/9/2005 (nay được thay thể bởi Nghị
định 54/2016/NĐ-CP, ngày 14/6/2016), Nghị định 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006
(nay được thay thể bởi Nghị định 16/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015) của Chính phủ;
Thông tƣ số 37/2014/TT-BKHCN, ngày 12/12/2014, Quy định quản lý đề tài nghiên
cứu cơ bản do Quỹ phát triển KH&CN Quốc gia tài trợ; Đề án đào tạo, bồi dƣỡng
nhân lực KH&CN trong nƣớc và nƣớc ngoài bằng ngân sách nhà nƣớc đƣợc phê duyệt
theo Quyết định số 2395/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tƣớng chính phủ; Nghị
định 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/1014 của Thủ tƣớng Chính phủ quy định việc đầu tƣ
phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở giáo dục đại
96
học; Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KH&CN”; Thông tƣ số
08/2017/TT-BGDĐT, ngày 04/4/2017 của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc
ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ; Quyết định số 37/2018/QĐ-
TTg ngày 31/8/2018 của Thủ tƣớng chính phủ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn,
thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sƣ, phó giáo sƣ; thủ
tục xét hủy bỏ công nhận chức danh và miễn nhiệm chức danh giáo sƣ, phó giáo sƣ;
Dự thảo Thông tƣ Hƣớng dẫn phát triển NNCM trong các cơ sở giáo dục đại học đƣợc
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì xây dựng và đang lấy ý kiến đóng góp của các cơ sở
đào tạo trong cả nƣớc ngày 01/4/2019. Sau đây là những nội dung cụ thể:
4.2.1. Chính sách quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
KH&CN công lập, đơn vị sự nghiệp công lập
Đây là chính sách đƣợc quy định tại Nghị định 115/2005/NĐ-CP, ngày
05/9/2005 (nay được thay thể bởi Nghị định 54/2016/NĐ-CP, ngày 14/6/2016), Nghị
định 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006 (nay được thay thể bởi Nghị định 16/2015/NĐ-
CP, ngày 14/02/2015) của Chính phủ. Xét về bản chất đây là những Nghị định mang
triết lý “Tự trị” của KH&CN. Đó là một triết lý tiến bộ, phù hợp với xu thế của một
nền KH&CN đƣơng đại. Nghị định đã xác khẳng định hệ thống KH&CN Việt Nam
phải là một hệ thống KH&CN đƣợc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Điều này, trở thành
động lực để các tổ chức KH&CN đƣợc nêu lên những đòi hỏi chính đáng về quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động KH&CN, cũng nhƣ có nhiều cơ hội để từng
bƣớc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mình.
Tuy nhiên, về cơ bản Nhà nƣớc vẫn nắm quyền làm chủ các nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học. Bên cạnh đó, sự không tƣơng thích giữa triết lý tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của tổ chức KH&CN với các thiết chế quản lý vĩ mô về nhiều mặt nhƣ nhân
lực, tài chính, tổ chức… cũng đang là những rào cản không dễ tháo gỡ đối với vấn để
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN. Một trong những minh chứng
cho những bất cập nêu trên phải kể đến vấn đề tuyển chọn, đấu thầu, xét duyệt đề tài
nhà nƣớc các cấp. Cụ thể là trƣớc đây, ngƣời đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu thì không
đƣợc tham gia đấu thầu, kết quả, không ai muốn đề xuất nữa bởi ngƣời đấu thầu không
nhất thiết là những ngƣời thật sự am hiểu ý tƣởng khoa học trong nhiệm vụ nghiên
cứu. Hiện nay, ngƣời đề xuất ý tƣởng cũng đƣợc tham gia đấu thầu thì lại gặp tính
huống khác, khi sản phẩm là một đối tƣợng sở hữu công nghiệp, thì quyền sở hữu
thuộc nhà đầu tƣ, tức Nhà nƣớc, không thuộc tác giả, vì tác giả trên danh nghĩa là
97
ngƣời làm thuê. Đây là hiện tƣợng bất hợp lý và dẫn đến một hệ lụy khác là không ai
muốn đề xuất ý tƣởng nghiên cứu cho Nhà nƣớc nữa. Họ để dành ý tƣởng nghiên cứu
để tìm kiếm dự án xin tài trợ nƣớc ngoài. Bên cạnh đó là việc sáng kiến của các
chuyên gia trong nhiều trƣờng hợp, lại không hoàn toàn gắn với nhu cầu nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trƣờng[7, tr.152]. Nhƣ vậy, các trƣờng
đại học công lập với tƣ cách là một tổ KH&CN hay cơ quan sự nghiệp công lập vẫn
đang loay hoay với vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm thì các, NNC, NNCM với tƣ
cách là hạt nhân triển khai các hoạt động KH&CN của các trƣờng đại học cũng chịu
tác động bởi những rào cản của chính sách nêu trên.
4.2.2. Chính sách tài trợ cho NNCM
Đây là một trong những chính sách đƣợc xem là có tính đột phá, tác động trực
tiếp đến sự phát triển các NNCM, với kỳ vọng tạo ra những kết quả nghiên cứu chất
lƣợng cao, đƣợc đo lƣờng bởi các tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế, đƣợc Quỹ Nafosted
thực hiện theo Quy định tại Thông tƣ số 37/2014/TT-BKHCN ngày 12/12/2014 của
Bộ trƣởng Bộ KH&CN. Theo đó, để nhận đƣợc tài trợ từ Quỹ, NNCM ngoài việc xây
dựng đƣợc một chƣơng trình nghiên cứu xứng tầm thì các tiêu chuẩn đối với các thành
viên chủ chốt cũng rất cao, cụ thể: 1) Chủ nhiệm đề tài có kết quả công bố trên các tạp
chí ISI có uy tín phù hợp trong thời gian 05 năm tính đến thời điểm nộp hồ sơ, có khả
năng tập hợp đƣợc nhiều nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao tham gia thực hiện
đề tài, duy trì đƣợc hợp tác nghiên cứu khoa học thƣờng xuyên với các NNC quốc tế
cùng ngành, liên ngành; 2) Có ít nhất 02 thành viên nghiên cứu chủ chốt của đề tài đáp
ứng yêu cầu của chủ nhiệm đề tài; 3) Tổ chức chủ trì đề tài có đủ điều kiện về cơ sở
vật chất - kỹ thuật, năng lực nghiên cứu và cam kết hỗ trợ trong thời gian thực hiện
nghiên cứu. Đồng thời, kết quả đề tài do NNCM thực hiện phải có ít nhất 02 bài báo
công bố trên tạp chí ISI có uy tín và 01 bài báo công bố trên tạp chí quốc gia có uy tín.
Trong đó, chủ nhiệm đề tài là tác giả chính của ít nhất 01 bài báo công bố trên tạp chí
quốc tế có uy tín là kết quả của đề tài. Đặc biệt, thời gian và kinh phí thực hiện chƣơng
trình nghiên cứu do NNCM chủ động đề xuất trên cơ sở nội dung nghiên cứu và khối
lƣợng công việc của chƣơng trình. Những đề xuất của NNCM chƣa đạt đƣợc những
tiêu chuẩn yêu cầu, NNCM vẫn có cơ hội đƣợc tài trợ ở các chƣơng trình nghiên cứu
thông thƣờng của Quỹ.
Nhƣ vậy, chính sách đầu tƣ trực tiếp cho các NNCM là một trong những cơ hội
lớn để các NNCM phát triển. Đặc biệt, việc không khống chế trần kinh phí và thời
98
gian thực hiện nghiên cứu là một điểm rất mới, rất đột phá trong chính sách của Nhà
nƣớc nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học có cơ hội phát triển NNCM
có chất lƣợng, hƣớng đến giải quyết các vấn đề khoa học phức tạp, quy mô lớn, chất
lƣợng cao. Mặc dù vậy, thực tế cho thấy, kể từ năm 2013 đến nay, tức sau 5 năm thực
hiện chính sách, trong cả nƣớc mới có ba NNCM nhận đƣợc tài trợ từ Quỹ, con số đó
cho thấy số lƣợng NNCM đƣợc tài trợ còn rất thấp và do đó chƣa tạo đƣợc sự bứt phá,
có tầm ảnh hƣởng lớn cho nền khoa học nƣớc nhà.
4.2.3. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với NNC
Đây là một trong những nội dung đƣợc triển khai trong Đề án đào tạo, bồi
dƣỡng nhân lực KH&CN trong nƣớc và nƣớc ngoài bằng ngân sách nhà nƣớc đƣợc
phê duyệt theo Quyết định số 2395/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ tƣớng chính
phủ. Với mục tiêu từ 2016 - 2025 sẽ đào tạo đƣợc khoảng 130 NNC ở nƣớc ngoài
trong thời gian 6 tháng nhằm hình thành các NNCM, có đủ năng lực giải quyết các
nhiệm vụ KH&CN quan trọng của ngành, lĩnh vực. Nhƣ vậy, đây là một trong những
chính sách có tiếp cận rất mới bởi thay vì tiếp cận đào tạo theo từng cá nhân nhà khoa
học thì chính sách đã tiếp cận đến việc đào tạo theo nhóm các nhà khoa học, để tìm
hiểu rõ hơn về chính sách, tác giả luận án đã có buổi trao đổi trực tiếp với lãnh đạo
Viện Chiến lƣợc và Chính sách KH&CN tại Hội thảo Tăng cƣờng hoạt động NCKH
gắn với phát triển các NNCM của Trƣờng Đại học KHTN, ĐHQGHN, sau đây là một
số ghi nhận về những nội dung chính sẽ đƣợc Đề án triển khai (Hộp 4.1).
Hộp 4.1: Ý kiến của lãnh đạo Viện Chiến lƣợc và Chính sách KH&CN về chính sách
đào tạo đối với NNCM.
1) Đề án hướng đến việc gắn thực tiễn đào tạo với doanh nghiệp, các nhà khoa học
có thể ra nước ngoài học tập, nghiên cứu hoặc cũng có thể tham gia nghiên cứu tại chính
các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, kinh phí được Nhà nước tài trợ toàn bộ. Các
nhà khoa học sẽ làm việc trong các phòng thí nghiệm, hay các phòng Lab tại các cơ quan,
doanh nghiệp. Từ quá trình nghiên cứu tại các cơ quan, doanh nghiệp sẽ mở ra cho các
nhà nghiên cứu việc ký kết hợp tác triển khai các hoạt động nghiên cứu qua đó nâng cao
hiệu quả nghiên cứu và thúc đẩy các nghiên cứu gắn với thực tiễn và góp phần phát triển
kinh tế xã hội. Đây cũng là đề án đầu tiên hướng đến việc hỗ trợ cho các NNC, nếu như các
đề án trước đây hỗ trợ cho riêng các nhà khoa học thì đề án này sẽ hỗ trợ cho các NNC. Đề
án sẽ hỗ trợ các nhóm ở các lĩnh vực khác nhau để cùng thực hiện một hoạt động, một
nhiệm vụ nghiên cứu và kết quả là giải quyết được bài toán nghiên cứu và nội dung nghiên
cứu của Nhóm;
99
2) Đề án hướng đến quản lý nguồn nhân lực, quản lý quá trình tổ chức hoạt động
KH&CN. Nếu như trước đây, quản lý KH&CN vẫn hiểu là quản lý nhiệm vụ nghiên cứu,
quản lý đề tài, quản lý quá trình nghiên cứu thì quản lý hoạt động KH&CN hiện nay sẽ bao
gồm quản lý nguồn nhân lực, quản lý cái quá trình tổ chức hoạt động KH&CN, như vấn đề
giải quyết bài bài toán đánh giá công nghệ, lựa chọn công nghệ để xem công nghệ nào phù
hợp trong điều kiện của nước ta; đánh giá công nghệ thế nào? chuyển giao công nghệ ra
sao? các quyền sở hữu trí tuệ, quản lý tài sản trí tuệ, khai thác và sử dụng các tài sản trí
tuệ như thế nào? và các nội dung này sẽ được đề án tài trợ; 3) Đề án sẽ hỗ trợ và tài trợ
toàn bộ kinh phí đi lại, ăn ở, trong và ngoài nước cho các NNC và đặc biệt là kinh phí sẽ
chi trả cho cơ sở doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị hay công ty mà nhà khoa học đến làm việc,
học tập.
Việc xét duyệt hồ sơ tài trợ là nguồn nhân lực của nhóm và quá trình hoạt động KH&CN
của nhóm như là một nhiệm vụ nghiên cứu, yêu cầu nghiên cứu mà nhóm cần giải quyết và
trên cơ sở yêu cầu đó các thuyết minh đầu ra để đáp ứng yêu cầu. Kinh phí sẽ cấp trực tiếp
cho những nhóm nộp đơn và kinh phí chi trả trực tiếp cho các cơ quan doanh nghiệp mà
các nhà khoa học đi học tập và nghiên cứu. Bộ KH&CN cũng sẽ xây dựng một bộ cơ sở dữ
liệu các đối tác ở nước ngoài để các nhà khoa học khi có nhu cầu có thể tìm kiếm, Bộ
KH&CN có mạng lưới văn phòng KH&CN ở khắp các tỉnh thành và các văn phòng có
nhiệm vụ tìm các đối tác để hỗ trợ lại cho các nhà khoa học Việt Nam khi có các yêu cầu và
bài toán cần phải giải quyết.
Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài
Nhƣ vậy, đây là một trong những chính sách có tác động trực tiếp đến sự phát
triển của các NNCM, tính mới trong tiếp cận của đề án là đào tạo theo nhóm, đào tạo
theo hƣớng nghiên cứu, chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo gắn liền với
thực tiễn tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nƣớc ngoài tại Việt Nam hoặc các cơ
quan, tổ chức doanh nghiệp ở nƣớc ngoài nhằm giải quyết những vấn đề nghiên cứu cụ
thể của các nhà khoa học. Mặc dù trên thực tế, đề án đã đƣợc phê duyệt từ năm 2015,
tuy nhiên theo ghi nhận của tác giả luận án, khi phỏng vấn trực tiếp lãnh đạo Viện
Chiến lƣợc và Chính sách KH&CN, chính sách đang ở giai đoạn khởi động và kêu gọi
các nhà khoa học đề xuất hồ sơ xin tài trợ. Do vậy, chƣa có cơ sở để xem xét hiệu lực
và hiệu quả của chính sách nhƣng rõ ràng chính sách đã cho thấy sự thay đổi trong
nhận thức của các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách về việc đào tạo những
ngƣời làm khoa học thực sự, đào tạo qua nghiên cứu, để nghiên cứu nhằm khắc phục
tình trạng ngƣời đƣợc tào tạo thì không làm khoa học, ngƣời làm khoa học thì không
100
đƣợc đào tạo. Đồng thời, chính sách cũng là cơ hội tốt cho các nhà khoa học nâng cao
năng lực nghiên cứu.
4.2.4. Chính sách đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động KH&CN
trong các cơ sở GDĐH
Đây là chính sách đƣợc ban hành theo Nghị định 99/2014/NĐ-CP ngày
25/10/1014 của Thủ tƣớng Chính phủ, với mục tiêu tạo điều kiện tốt cho những ngƣời
làm khoa học tại các trƣờng tham gia hiệu quả vào việc nâng cao tiềm lực KH&CN
của đất nƣớc. Đây cũng là một trong những chính sách có tác động trực tiếp đến các
nhà khoa học làm việc tại các cơ sở GDĐH, theo đó, giảng viên trong các cơ sở này
đƣợc hƣởng ƣu đãi về thuế thu nhập cá nhân đối với phần thu nhập có từ hợp đồng
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thuộc lĩnh vực ƣu tiên, trọng điểm cũng
nhƣ các hợp đồng thực hiện tại miền núi, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn. Giảng
viên đƣợc thƣởng tiền không quá 30 lần mức lƣơng cơ sở chung nếu công bố đƣợc 1
bài báo trên tạp chí khoa học quốc tế uy tín trong danh mục ISI, SCI, SCIE.
Ngoài ra, các nhà khoa học đƣợc hỗ trợ 50% phí đăng ký bảo hộ quyền tác giả
và đƣợc tính tƣơng đƣơng 20 giờ giảng dạy lý thuyết nếu công bố đƣợc 1 bài báo trên
tạp chí khoa học có thang điểm 1 trong danh mục của Hội đồng chức danh Giáo sƣ
Nhà nƣớc. Lực lƣợng cán bộ giảng dạy - nghiên cứu có trình độ cao nhƣ các giáo sƣ sẽ
đƣợc hỗ trợ thành lập NNC xuất sắc và đƣợc cấp kinh phí hoạt động; đƣợc tham gia
hội thảo, hội nghị khoa học trong nƣớc và quốc tế (tối đa 2 lần/năm) từ nguồn kinh phí
sự nghiệp KH&CN; đƣợc ƣu tiên chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ gắn với
nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ. Còn giảng viên là các nhà khoa học trẻ tài năng thì bên cạnh
việc đƣợc hƣởng các chính sách khuyến khích hỗ trợ theo Nghị định 40/2014/NĐ-CP
ngày 12-5-2014 của Chính phủ, còn đƣợc ƣu tiên tuyển chọn đi học nâng cao trình độ;
đƣợc tạo điều kiện tham gia NCKH, giao chủ trì việc thực hiện các nhiệm vụ tiềm
năng với hình thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng; đƣợc xem xét hỗ trợ kinh phí
tham gia các hội nghị, hội thảo; đƣợc sử dụng các PTN trọng điểm quốc gia, chuyên
ngành, liên ngành...
4.2.5. Chính sách đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KH&CN
Đây là chính sách nhằm phát triển các tổ chức KH&CN công lập, liên kết giữa
các tổ chức Viện - Trƣờng- Doanh nghiệp và thu hút chuyên gia nƣớc ngoài, ngƣời
Việt Nam ở nƣớc ngoài về Việt Nam hợp tác nghiên cứu đƣợc thực hiện bởi Dự án
“Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KH&CN” hay còn gọi là Dự án
101
FIRST, với tổng kinh phí 110.000.000 USD, trong đó vốn vay ƣu đãi của IDA là
100.000.000 USD và vốn đối ứng của Việt Nam là 10.000.000 USD, giai đoạn triển
khai từ 2013-2019. Đây là một trong những chính sách đầu tƣ cho KH&CN rất lớn
đƣợc triển khai hƣớng đến mục tiêu đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu
KH&CN góp phần hỗ trợ nâng cao năng suất, khả năng cạnh tranh và chất lƣợng tăng
trƣởng của nền kinh tế Việt Nam; Việc tăng cƣờng hiệu quả hoạt động nghiên cứu
khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động sáng
tạo, đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp sẽ tạo thêm giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Trong đó, chú trọng hỗ trợ phát triển KH&CN, thúc đẩy đổi mới sáng tạo công nghệ
thông qua 1) Xây dựng và thí điểm triển khai một số chính sách mới góp phần hoàn
thiện khung chính sách quốc gia khuyến khích phát triển KH&CN; 2) Nâng cao năng
lực của các tổ chức KH&CN theo hƣớng chủ động gắn kết chặt chẽ với nhu cầu của
thị trƣờng và các doanh nghiệp; 3) Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong các doanh
nghiệp, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp KH&CN[46].
Kết quả sơ bộ của dự án tính đến năm 2018 cho thấy, có trên 600 chuyên gia
giỏi nƣớc ngoài tham gia hỗ trợ, hợp tác với các đối tác, viện, trƣờng đại học và doanh
nghiệp trong nƣớc để giải quyết các vấn đề cụ thể trong nghiên cứu, đào tạo và sản
xuất, kinh doanh. Các chuyên gia giỏi nƣớc ngoài đã cùng các đối tác trong nƣớc xây
dựng và nộp 212 đề xuất/tiểu dự án cụ thể. Dự án FIRST đã xem xét, lựa chọn và tài
trợ cho gần 90 chuyên gia giỏi nƣớc ngoài, trong đó có 29 chuyên gia ngƣời Việt Nam
ở nƣớc ngoài để thực hiện 38 tiểu dự án[57].
4.2.6. Chính sách tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ
Đây là chính sách đƣợc ban hành theo Thông tƣ số 08/2017/TT-BGDĐT, ngày
01/4/2017 của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nội dung của chính sách đã cho thấy
những bƣớc tiến quan trọng trong việc áp những chuẩn mực quốc tế nhằm hƣớng đến
mục tiêu nâng cao chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu. Sau đây là 5 nội dung chính có tác
động trực tiếp đến NCS và các nhà khoa học tham gia vào quá trình đào tạo NCS, cụ
thể: 1) Tiêu chuẩn đầu vào tiến sĩ được nâng cao hơn về cả học lực, công trình nghiên
cứu và ngoại ngữ đối với ứng viên, theo đó ứng viên phải có bằng thạc sĩ hoặc bằng đại
học loại giỏi, đồng thời phải là tác giả hoặc đồng tác giả của tối thiểu 1 bài báo liên quan
đến lĩnh vực hoặc đề tài nghiên cứu dự kiến đăng trên các tạp chí thuộc danh mục các
tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc 1 báo cáo đăng tại kỷ yếu của các hội nghị, hội thảo
khoa học trong nƣớc hoặc nƣớc ngoài trong thời hạn 3 năm tính đến ngày đăng ký dự
102
tuyển. Bên cạnh đó, các ứng viên phải đảm bảo có chứng chỉ tiếng Anh TOEFL iBT từ
45 trở lên hoặc Chứng chỉ IELTS (Academic Test) từ 5.0 trở lên hoặc Chứng chỉ
TOEIC từ 500 điểm trở lên do một tổ chức khảo thí đƣợc quốc tế và Việt Nam công
nhận cấp trong thời hạn 2 năm (24 tháng) kể từ ngày cấp đến ngày đăng ký dự tuyển; 2)
Thời gian đào tạo tiến sĩ cũng được quy định chặt chẽ theo hướng đào tạo tập trung, rút
ngắn thời gian đào tạo, theo đó tổng thời gian đào tạo tiến sĩ là 5 - 6 năm kể từ khi có
quyết định công nhận NCS; 3) Tiêu chuẩn đối với đầu ra NCS cũng được nâng lên rất
cao, theo đó NCS phải công bố ít nhất 2 bài báo có liên quan trực tiếp đến luận án, trong
đó có ít nhất 1 bài đăng trong tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI/ Scopus
hoặc 2 báo cáo đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc 2 bài báo đăng trên
tạp chí khoa học nƣớc ngoài có phản biện khác.
Đặc biệt, nếu luận án của NCS không đƣợc Hội đồng đánh giá luận án thông
qua thì đơn vị đào tạo ra quyết định thôi học đối với NCS và không bảo lƣu kết quả
đào tạo; 4) Tiêu chuẩn đối với cán bộ hướng dẫn khoa học cũng đặt ra yêu cầu cao
hơn, theo đó ngƣời hƣớng dẫn có chức danh giáo sƣ hoặc phó giáo sƣ hoặc có bằng
tiến sĩ khoa học hoặc tiến sĩ phải có chuyên môn phù hợp với đề tài luận án hoặc lĩnh
vực nghiên cứu của NCS. Đồng thời, cán bộ hƣớng dẫn NCS cũng phải chủ trì các
nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở trở lên. Đặc biệt, cán bộ hƣớng dẫn phải có tối thiểu 1
bài báo đăng trên các tạp chí ISI hoặc Scopus hoặc 1 sách tham khảo của các nhà xuất
bản nƣớc ngoài có mã số chuẩn quốc tế ISBN hoặc có 2 báo cáo đăng trên tạp chí khoa
học nƣớc ngoài có phản biện khác thuộc lĩnh vực nghiên cứu liên quan tới đề tài luận
án của NCS và có năng lực ngoại ngữ để phục vụ nghiên cứu vào trao đổi khoa học
quốc tế. Ngoài ra, với ngƣời hƣớng dẫn NCS độc lập có trình độ tiến sĩ chƣa đƣợc
phong chức danh GS, PGS thì phải có thêm 1 bài báo hoặc công trình đăng trên tạp chí
khoa học thuộc danh mục ISI/ Scopus và phải có ít nhất 3 năm kinh nghiệm trong
nghiên cứu hoặc giảng dạy; 5) Tiêu chuẩn đối với thành viên hội đồng chấm luận án
tiến sĩ cũng đặt ra cao hơn, theo đó thành viên hội đồng phải có công trình nghiên
cứu, có uy tín và kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp liên quan đến lĩnh vực nghiên
cứu của NCS, trong đó ngƣời phản biện phải có tối thiểu 1 bài báo hoặc báo cáo khoa
học đăng trên tạp chí khoa học nƣớc ngoài có phản biện hoặc trong kỷ yếu hội thảo
quốc tế có phản biện.
Xem xét ở góc độ thực tế kể từ khi chính sách ra đời và có hiệu lực đến nay cho
thấy, chính sách đã có tác động rõ rệt đến công tác tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ của các
103
trƣờng đại học. Theo số liệu thống kê của ĐHQGHN, trƣớc khi quy chế đào tào tạo
tiến sĩ mới ra đời, hàng năm, ĐHQGHN tuyển khoảng 350 NCS và tổng quy mô đào
tạo tính đến năm 2018 khoảng 1400 NCS, trong đó, quy mô đào tạo của riêng khối
KHTN và Công nghệ khoảng 500 NCS, 80% NCS trong số đó có bài ISI/Scopus. Theo
đó, trong số khoảng 600 bài ISI/Scopus hàng năm của ĐHQGHN có hơn 400 bài có
đóng góp tích cực của các NCS. Tuy nhiên, tác động từ những quy định mới của Quy
chế đã khiến cho lƣợng NCS sụt giảm mạnh, cụ thể, nếu chỉ tính riêng kỳ tuyển sinh
đợt 1 (4/2017), ĐHQGHN tuyển đƣợc 220 NCS thì đợt 1 năm 2018 (4/2018) số NCS
tuyển đƣợc chỉ còn 54 tức giảm khoảng 75%. Nhƣ vậy, nếu tiếp tục, số lƣợng tuyển
mới chỉ khoảng 100 NCS/năm và quy mô sẽ khoảng 300 NCS. Điều đó kéo theo việc
công bố quốc tế sẽ giảm, với quy mô NCS nhƣ trên dự báo mỗi năm, ĐHQGHN sẽ chỉ
còn 150 bài ISI, thay vì 400 nhƣ trƣớc. Từ những áp lực đặt ra bởi Quy chế, nhiều nhà
khoa học tin rằng để thu hút NCS và nâng cao chất lƣợng đào tạo thì NCS cần đƣợc
làm việc trong một không gian chuyên nghiệp, tham gia vào các NNCM, từ đó phát
triển đƣợc hƣớng nghiên cứu lâu dài[8]. Nhƣ vậy, Quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến
sĩ mới ra đời đã cho thấy nhận thức của các nhà làm chính sách giáo dục đã có những
thay đổi theo hƣớng tiếp cận đến chất lƣợng và không còn chú trọng đến số lƣợng nhƣ
trƣớc đây. Điều này dẫn đến việc, chính sách không chỉ gây áp lực buộc các trƣờng đại
học phải thay đổi cách thức đào tạo và nghiên cứu để thích ứng với tình hình mới mà
còn tạo áp lực với cả ngƣời đào tạo và ngƣời đƣợc đào tạo theo hƣớng hiệu quả và
thực chất hơn. Đồng thời, chính sách cũng có thể xem là động lực để các nhà khoa học
hƣớng đến làm việc cùng nhau thông qua mô hình NNCM nhằm thúc đẩy hiệu quả đào
tạo và nghiên cứu. Bởi NNCM cần NCS để thực hiện các chƣơng trình, dự án nghiên
cứu và NCS cũng cần số liệu từ các chƣơng trình, dự án nghiên cứu, cũng nhƣ tƣ liệu
và kinh phí để thực hiện chƣơng trình luận án của cá nhân.
4.2.7. Chính sách quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ
nhiệm chức danh GS/PGS
Đây là chính sách đƣợc ban hành theo Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg ngày
31/8/2018 của Thủ tƣớng chính phủ. Nội dung của chính sách đã có những bƣớc tiến
quan trọng trong việc hƣớng đến mục tiêu đánh giá đúng năng lực của các nhà khoa
học và dần hội nhập với chuẩn mực quốc tế. Sau đây, tác giả luận án sẽ điểm qua
những quy định rất mới đƣợc xem là ƣu điểm của chính sách cũng nhƣ một số bất cập
có tác động trực tiếp đến các nhà khoa học, cụ thể: 1) Tiêu chuẩn đánh giá năng lực
104
của các nhà khoa học sẽ dựa trên năng suất nghiên cứu thông qua việc công bố các
công trình nghiên cứu trên tạp chí quốc tế uy tín (ISI/Scopus); 2) các tiêu chuẩn không
còn bị bó cứng ở các khung riêng biệt nhƣ trƣớc đây mà các tiêu chuẩn đƣợc áp dụng
linh hoạt, thông qua việc các tiêu chuẩn có thể hoán đổi cho nhau, thiếu điều kiện này
thì đƣợc bù bằng điều kiện khác; 3) Chức danh của các nhà khoa học cũng đƣợc xác
định theo nhiệm kỳ 5 năm. Sau thời gian đó các chức danh đƣợc rà soát, đánh giá lại
một lần; 4) Danh dách hội đồng thẩm định hồ sơ ứng viên và kết quả thẩm định đƣợc
công bố công khai.
Nhƣ vậy, với những tiêu chuẩn đặt ra rất cao hƣớng đến chất lƣợng thông qua
các kết quả nghiên cứu sẽ tạo áp lực lớn đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải có thay đổi cả
trong nhận thức lẫn thực tiễn triển khai hoạt động KH&CN của mình. Đồng thời,
chính sách cũng tạo động lực thúc đẩy các nhà khoa học liên kết, hợp tác nhằm tối ƣu
năng suất và hiệu quả của hoạt động KH&CN, mà mô hình NNCM làm môi trƣờng
thuận lợi để các nhà khoa học làm việc cùng nhau. Bên cạnh, những ƣu điểm của
chính sách đã đƣợc đề cập trên đây thì đâu đó vẫn còn những điểm tồn chƣa đƣợc tháo
gỡ, điều này gây ra những rào cản đối cản đối với các nhà khoa học. Trong đó, phải kể
đến 2 vấn đề chính sau đây: 1) Việc chƣa quy định cụ thể những tiêu chuẩn và công
khai lý lịch khoa học đối với các thành viên hội đồng thẩm định, cũng nhƣ không quy
định các tiêu chuẩn của thành viên hội đồng phải bằng hoặc cao hơn so với tiêu chuẩn
của ứng viên sẽ gây ra nhiều nghi vấn về phẩm chất và năng lực thực sự của các thành
viên hội động thẩm định; 2) Việc duy trì quy trình bỏ phiếu của hội đồng và việc
không quy định thành viên hội đồng phải giải trình về những lý do ứng viên không đạt
tiêu chuẩn cũng sẽ đặt ra những nghi vấn về tính công bằng, minh bạch và trách nhiệm
của thành viên hội đồng thẩm định.
4.2.8. Dự thảo chính sách phát triển các NNCM trong các cơ sở giáo dục đại học
Đây là dự thảo chính sách đƣợc Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì xây dựng và
đang lấy ý kiến đóng góp của các cơ sở đào tạo trong cả nƣớc kể từ 01/4/2019. Đây là
một trong những chính sách mới nhất của Nhà nƣớc đƣợc dự thảo nhằm xây dựng
những thiết chế, chính sách cụ thể với mục tiêu điều tiết, định hƣớng, đầu tƣ và tạo
môi trƣờng thuận lợi cho các NNCM hoạt động và phát triển trong thời gian tới. Khi
xem xét nội dung của chính sách, tác giả luận án nhận thấy, điểm mạnh trong chính
sách này là việc các NNCM sẽ đƣợc thành lập gắn liền với một chƣơng trình nghiên
cứu cụ thể, nó giống với cách mà Quỹ Nafosted đã và đang tài trợ cho NNCM hiện
105
nay, nhƣng tiêu chí đặt ra đối với trƣởng nhóm và các thành viên chủ chốt cao hơn.
Chúng ta chƣa biết chính sách có đem lại hiệu lực, hiệu quả trong thực tế hay không
nhƣng rõ ràng đây là một tín hiệu rất đáng mừng cho các cơ sở giáo dục và đào tạo nói
chung và các NNCM nói riêng. Nó cho thấy, Nhà nƣớc đánh giá rất cao vai trò của
NNCM trong việc nâng cao chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu khoa học trong các cơ
sở giáo dục và đào tạo hiện nay và việc xây dựng và phát triển NNCM trong tƣơng lai
cần đƣợc quan tâm và đầu tƣ đúng mức thông qua hệ thống chính sách của Nhà nƣớc.
4.3. Những ƣu điểm trong chính sách phát triển NNCM của ĐHQGHN
Căn cứ các chính sách chung của Nhà nƣớc, đồng thời với mục tiêu thu hút,
khuyến khích, tôn vinh và đãi ngộ các nhà khoa học có trình độ cao; thu hút các nhà
khoa học, NCS quốc tế đến giảng dạy, nghiên cứu và lãnh đạo NNC. Tạo cơ chế thuê
chuyên gia trong và ngoài nƣớc. Cũng nhƣ tổ chức đào tạo, bồi dƣỡng thƣờng xuyên
đội ngũ công chức, viên chức và ngƣời lao động theo chức danh và quy hoạch; nâng
cao tính chuyên nghiệp, trách nhiệm thi hành công vụ, ĐHQGHN đã ban hành nhiều
chính sách cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu nêu trên, điều đó đƣợc minh chứng bằng:
Hƣớng dẫn số 2164/HD-ĐHQGHN, ngày 21/7/2010 của Giám đốc ĐHQGHN về thực
hiện chế độ, chính sách ƣu đãi cán bộ khoa học trình độ cao ở ĐHQGHN; Hƣớng dẫn
1409/HD-KHCN, ngày 8/5/2013 của Giám đốc ĐHQGHN về xây dựng và phát triển
các chƣơng trình nghiên cứu trọng điểm và NNCM ở ĐHQGHN; Đề án phát triển đội
ngũ cán bộ khoa học và quản lý trình độ cao của ĐHQGHN đến năm 2020 và tầm nhìn
2030, năm 2014; Nghị quyết 91/NQ/ĐU ngày 31/12/2015 của Ban Chấp hành Đảng bộ
ĐHQGHN về thí điểm chính sách trọng dụng cán bộ trình độ cao ở ĐHQGHN; Nghị
quyết 63/NQ-HĐ ngày 14/1/2016 của Hội đồng ĐHQGHN trong đó có nội dung
Quyết nghị về thí điểm chính sách trọng dụng cán bộ trình độ cao ở ĐHQGHN; Công
văn 982/ĐHQGHN-TCCB ngày 11/4/2016 về việc thí điểm xây dựng chính sách trọng
dụng nhà khoa học trình độ cao; Công văn 851/ĐHQGHN-KHCN ngày 01/4/2016
hƣớng dẫn về việc xây dựng các NNC tiềm năng; Quyết định số 868/QĐ-ĐHQGHN
ngày 01/4/2016: Quy định về chế độ làm việc đối với giảng viên, nghiên cứu viên tại
ĐHQGHN; Công văn số 2933/ĐHQGHN-KHCN 14/8/2015 yêu cầu các đơn vị báo
cáo về việc chế độ cho các NNCM ở ĐHQGHN; Quyết định số 3668/QĐ-ĐHQGHN
ngày 15/10/2014: Quy định về việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển, từ
chức, miễn nhiệm và chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp trách nhiệm đối với
công chức viên chức quản lý trong ĐHQGHN; Quyết định số 572/ QĐ-ĐHQGHN
106
ngày 25/2/2014 về việc ban hành Quỹ thi đua, khen thƣởng tại ĐHQGHN; Quyết định
số 3768/ QĐ-ĐHQGHN ngày 22/10/2014: Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản
lý công chức, viên chức, ngƣời lao động trong ĐHQGHN…
Từ các chính sách của ĐHQGHN trên đây, tác giả luận án tập trung phân tích
và đánh giá 3 nhóm chính sách cụ thể sau đây:
4.3.1. Nhóm chính sách đầu tư, phát triển nguồn nhân lực
Trong phần này, tác giả luận án sẽ đánh giá những ƣu điểm trong chính sách
đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực của ĐHQGHN, trong đó tập trung vào 4 nội dung
chính sau đây:
Thứ nhất, để thu hút, tuyển dụng đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao,
ĐHQGHN thực hiện chính sách tuyển dụng đặc cách cán bộ khoa học có trình độ
tiến sĩ, hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực hiện chính sách thu hút các CBKH
mạnh ở trong và ngoài nƣớc, ƣu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành
trên cơ sở các phòng thí nghiệm (PTN), bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu..., trả
thu nhập thỏa đáng theo hiệu quả công tác trên cơ sở thỏa thuận giữa đơn vị và
CBKH. Để hỗ trợ cho việc triển khai chính sách, ĐHQGHN xây dựng cổng thông tin
tuyển dụng của ĐHQGHN. Trong đó, các nhu cầu, các hƣớng nghiên cứu, các NNC,
tiềm lực KH&CN, các điều kiện làm việc, ƣu đãi của ĐHQGHN đƣợc đăng tải công
khai trên mạng internet và kết nối với các mạng và diễn đàn cựu sinh viên Việt Nam
học ở nƣớc ngoài[43].
Thứ hai, nhằm nâng cao hơn nữa năng lực đội ngũ, ĐHQGHN thực hiện chính
sách đào tạo nhà khoa học trình độ thạc sỹ đạt trình độ tiến sỹ chuẩn song song với
chính sách thu hút, tuyển dụng cán bộ. Nếu nhƣ thu hút, tuyển dụng cho phép có
những nhân tố mới và văn hóa mới thì đào tạo cho phép phát hiện và giữ đƣợc những
HVCH ƣu tú. Đào tạo tiến sĩ không phải là mục tiêu cuối cùng của ĐHQGHN mà là
tiến sĩ đạt chuẩn. Do đó, ĐHQGHN chỉ tuyển nhà khoa học là thạc sĩ về đào tạo nguồn
nếu đủ năng lực về ngoại ngữ và có tố chất NCKH. Nếu một thạc sỹ có thể giảng dạy
đƣợc bằng ngoại ngữ, có công bố quốc tế thì khả năng đạt chuẩn tiến sĩ sau 3 năm là
hoàn toàn khả thi. Chính sách đào tạo cán bộ của ĐHQGHN đƣợc thiết kế linh hoạt
tùy thuộc vào từng đối tƣợng cán bộ: (i) đào tạo trong nƣớc (yêu cầu NCS sinh hoạt
chuyên môn tại một NNC), (ii) bồi dƣỡng năng lực ngoại ngữ và công bố quốc tế
(ĐHQGHN hỗ trợ 100% kinh phí) và (iii) bồi dƣỡng ngắn hạn ở nƣớc ngoài
(ĐHQGHN hỗ trợ 50% kinh phí). Đồng thời, ĐHQGHN cũng quy định, các nhà khoa
107
học cơ hữu trình độ thạc sỹ dƣới 45 tuổi (với nam) và 40 tuổi (với nữ) bắt buộc tham
gia CTĐT tiến sỹ chuẩn của ĐHQGHN. Đối với NCS không phải nhà khoa học cơ
hữu của ĐHQGHN: tuyển dụng tham gia NNC của ĐHQGHN, hƣởng lƣơng tƣơng
đƣơng lƣơng khởi điểm của nhà khoa học trình độ thạc sỹ tại ĐHQGHN (Trưởng NNC
có trách nhiệm tạo nguồn trả lương NCS).
Trong quá trình đào tạo, NCS đƣợc bồi dƣỡng đạt chuẩn ngoại ngữ; hỗ trợ để có
công bố quốc tế; đƣợc tham gia khóa đào tạo, nghiên cứu ngắn hạn ở nƣớc ngoài. Sau
khi khi kết thúc CTĐT, NCS đƣợc hỗ trợ tìm học bổng postdoc ở nƣớc ngoài. Việc đào
tạo, bồi dƣỡng nhà khoa học trình độ tiến sỹ đạt chuẩn ngoại ngữ giúp nhà khoa học tiếp
cận nhiều cơ hội hơn. Tham gia đào tạo ngoại ngữ là quyền và nghĩa vụ của nhà khoa
học, nhất là nhà khoa học trẻ. Theo đó, chƣơng trình bồi dƣỡng đạt chuẩn ngoại ngữ
đƣợc ĐHQGHN thiết kế tùy theo trình độ đầu vào của cán bộ; tổ chức ngoài giờ hành
chính; 50% giờ giảng bởi giảng viên nƣớc ngoài; kết hợp bồi dƣỡng ngoại ngữ với kỹ
năng giảng dạy chuyên môn bằng ngoại ngữ, kỹ năng thuyết trình tại hội thảo khoa học
quốc tế; nhóm 10% cán bộ xuất sắc đƣợc đi thực hành ở nƣớc ngoài. Cán bộ khoa học
của ĐHQGHN có thể lựa chọn học ngoại ngữ ở cơ sở bên ngoài ĐHQGHN và đƣợc
ĐHQGHN hỗ trợ 100% kinh phí với điều kiện cam kết có chứng chỉ B2 theo khung
tham chiếu châu Âu (hoặc tƣơng đƣơng) trong thời hạn quy định. Đồng thời với những
chính sách ƣu đãi trong đào tạo đối với cán bộ, ĐHQGHN ban hành cơ chế thƣởng/phạt
khi cán bộ đạt chuẩn/không đạt chuẩn trong thời hạn quy định (không có chứng chỉ
ngoại ngữ hoặc không có công bố quốc tế theo quy định).
Thứ ba, nhằm tạo động lực và khai thác hiệu quả đội ngũ khoa học, ĐHQGHN
thực hiện chính sách ƣu đãi, trọng dụng các nhà khoa học trình độ cao theo từng nhóm
đối tƣợng từ cán bộ cơ hữu, đang công tác tại ĐHQGHN, cán bộ khoa học (CBKH)
đƣợc ĐHQGHN ký hợp đồng giảng dạy, NCKH, CBKH của ĐHQGHN đã nghỉ hƣu,
CBKH biên chế ở các đơn vị ngoài ĐHQGHN) đến CBKH là Việt kiều hoặc ngƣời
nƣớc ngoài.
Đặc biệt, ĐHQGHN thực hiện chính sách ƣu đãi riêng đối với cán bộ làm việc
trong các NNCM, nhƣ Trƣởng NNCM đƣợc bố trí nơi làm việc và sinh hoạt khoa học;
Trƣởng NNCM đƣợc nhận hệ số trách nhiệm quản lý 0.6; Giảng viên tham gia NNCM
cấp ĐHQGHN chỉ thực hiện định mức giảng dạy không quá 150 giờ tín chỉ quy
chuẩn/năm (tương đương 55,55% giờ chuẩn theo quy định) để ƣu tiên dành thời gian
cho NCKH. Sau 5 năm giảng dạy đƣợc nghỉ 01 học kỳ để tập trung toàn bộ thời gian
108
cho nhiệm vụ nghiên cứu ở trong hoặc ngoài nƣớc; Đƣợc cung cấp quyền truy cập
thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI, Sciendirect; Đƣợc đầu tƣ kinh phí
nghiên cứu theo phƣơng thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN (top-down) hoặc ƣu
tiên xét duyệt các đề tài do nhóm đề xuất trong khuôn khổ các chƣơng trình nghiên
cứu tƣơng ứng; Đƣợc ƣu tiên nhận hƣớng dẫn NCS (kể cả NCS nước ngoài) và HVCH
làm luận văn, luận án theo hình thức đào tạo tập trung. NCS của NNCM đƣợc hỗ trợ
chỗ ở trong các ký túc xá của ĐHQGHN, tham gia một số nội dung của các đề tài của
nhóm và hƣởng thù lao theo kinh phí khoán chi của đề tài; ƣu tiên tham gia đề án 911
và các chƣơng trình học bổng khác; Đƣợc hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực
hiện chính sách thu hút các nhà khoa học xuất sắc ở trong và ngoài nƣớc đến làm việc
trực tiếp hoặc trực tuyến. Các công trình nghiên cứu do hợp tác chung đƣợc công bố
quốc tế nhƣng chƣa có bất kỳ tài trợ nào ở trong nƣớc sẽ đƣợc ĐHQGHN hỗ trợ. Đƣợc
hỗ trợ tham gia các hội nghị, hội thảo trong nƣớc và quốc tế nếu có ấn phẩm xuất bản
trong hệ thống của ISI hoặc Scopus
Thứ tư, để động viên, khích lệ kịp thời cán bộ KH&CN phát huy khả năng sáng
tạo, ứng dụng các thành tựu KH&CN vào sản xuất và đời sống, ĐHQGHN cũng ban
hành những chính sách khen thƣởng riêng cho các nhà khoa học thông qua việc xét trao
giải thƣởng công trình khoa học - công nghệ tiêu biểu, với cơ cấu giải thƣởng khác nhau
theo từng giai đoạn, cụ thể: năm 2009, ĐHQGHN trao giải thƣởng dành cho công trình
khoa học xuất sắc, tiêu biểu cho hoạt động KH - CN trong một lĩnh vực khoa học hoặc
công nghệ hàng năm; Giải thƣởng Công trình KH - CN xuất sắc, có triển vọng của nhà
khoa học trẻ 2 năm một lần do tác giả ở độ tuổi dƣới 35 chủ trì thực hiện; Giải thƣởng
KH - CN ĐHQGHN đƣợc xét và trao tặng 5 năm một lần dành cho công trình KH - CN
đặc biệt xuất sắc, có tầm vóc khoa học và ý nghĩa thực tiễn cao, tiêu biểu cho hoạt động
KH - CN của ĐHQGHN; năm 2018, ĐHQGHN ban hành chính sách mới theo đó quy
định giải thƣởng đƣợc xét tặng 3 năm một lần dành cho tối đa 5 công trình KH&CN đặc
biệt xuất sắc, có tầm vóc khoa học và có ý nghĩa thực tiễn cao.
Bên cạnh những giải thƣởng dành cho những công trình khoa học xuất sắc,
ĐHQGHN thực hiện chính sách thƣởng cho các công bố quốc tế, chính sách này đƣợc
cụ thể hóa trên cơ sở chính sách thƣởng tiền không quá 30 lần mức lƣơng cơ sở cho
các nhà khoa học công bố đƣợc 01 bài báo trên tạp chí khoa học quốc tế uy tín trong
danh mục ISI, SCI, SCIE; hỗ trợ 50% phí đăng ký bảo hộ quyền tác giả; xem xét hỗ
trợ kinh phí tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học trong nƣớc và quốc tế thuộc lĩnh
109
vực chuyên môn của mình đƣợc quy định tại Nghị định số 99/2014/NĐ-CP của Chính
phủ. Theo đó, từ năm 2013, ĐHQGHN thực hiện chính sách khen thƣởng cho các
công quốc tế theo các mức độ khác nhau từ 5 đến 30 triệu đồng tùy thuộc vào chất
lƣợng bài; năm 2015, ĐHQGHN điều chỉnh chính sách này theo hƣớng tăng mức
thƣởng cho các bài báo quốc tế và bổ sung chính sách khen thƣởng đối với danh mục
sách xuất bản tại các nhà xuất bản uy tín của nƣớc ngoài, mức thƣởng cao nhất lên tới
75 triệu đồng (Phụ lục 5).
Từ việc triển khai đồng bộ nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực,
số lƣợng NNCM đƣợc hình thành và phát triển tăng dần theo từng năm (Biểu đồ 3.1),
số cán bộ của ĐHQGHN đã tăng lên nhanh chóng cả về số lƣợng, trình độ đào tạo và
chức danh khoa học (Bảng 4.1).
Bảng 4.1: Số liệu thống kế nhân lực theo chức danh và trình độ đào tạo
Chia theo trình độ đào tạo Chức danh Năm Tổng số TS/TSKH ThS CN/KS Khác GS PGS
2012 775 1,189 1,031 313 44 243 3.311
2014 826 1.316 957 336 49 305 3.437
2017 1.131 1.493 1.155 218 67 370 3.997
2018 1.178 1.559 943 66 326 4.072
Tính đến 15/01/2018, trong tổng số 4.072 công chức, viên chức và lao động
(Nguồn: http://vnu.edu.vn)
hợp đồng của ĐHQGHN có 2.253 CBKH chiếm 55,3% với 1.950 giảng viên, 302
nghiên cứu viên, với số lƣợng CBKH có trình độ từ ThS trở lên khá mạnh: 1.559 ThS,
1.178 TS và TSKH (trong đó số lƣợng CBKH là 1.141 ngƣời), 66 GS và 326 PGS.
Phần lớn đội ngũ CBKH của ĐHQGHN là các nhà khoa học đầu ngành, đầu đàn có uy
tín lớn ở trong và ngoài nƣớc về các ngành, chuyên ngành thuộc các lĩnh vực khoa học
tự nhiên, khoa học XH&NV, ngoại ngữ, công nghệ, kinh tế, luật, giáo dục...Tỷ lệ
CBKH có trình độ TS, TSKH đạt 50,6%; tỷ lệ CBKH đạt chức danh GS, PGS (chƣa
kể số GS, PGS mới đạt chuẩn chức danh của năm 2017) đạt 17,4%, cao gấp 3 lần so
với tỷ lệ trung bình của cả nƣớc. Tỷ lệ CBKH có bài báo, công trình khoa học đƣợc
đăng hoặc công bố trong các tạp chí khoa học, kỷ yếu và hội thảo quốc tế trong năm
2017 đạt 29,4%. Ở một số đơn vị thành viên và trực thuộc, tỷ lệ CBKH có trình độ TS
trở lên đạt từ 60% trở lên tập trung tại một số đơn vị nhƣ: Khoa Luật (77,9%), Trƣờng
110
Đại học Giáo dục (77,8%), Khoa Quản trị và Kinh doanh (76,2%), Trƣờng Đại học
Kinh tế (73,1%), Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên (62,2%), Viện Công nghệ Thông
tin (61,1%), Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (60,7%), Viện Đảm bảo
chất lƣợng giáo dục (60%) và một số đơn vị đạt 100% CBKH có trình độ TS: Trƣờng
Đại học Việt Nhật và Viện Quốc tế Pháp ngữ, Khoa Các khoa học liên ngành
(100%)[50].
Tính đến nay, ĐHQGHN có 18 nhà khoa học đƣợc nhận giải thƣởng Hồ Chí
Minh, 11 nhà khoa học nhận giải thƣởng Nhà nƣớc, 3 nhà khoa học nhận giải thƣởng
quốc tế, 53 giải thƣởng KH&CN cấp ĐHQGHN (giai đoạn 2007 - 2015) và 15 giải
thƣởng khác dành cho các công trình khoa học có tính ứng dụng cao (Phụ lục 6). Đồng
thời, theo số liệu thống kê chƣa đầy đủ, từ 2013 đến 2016, ĐHQGHN trao thƣởng cho
129 nhà khoa học có công bố quốc tế thuộc danh mục ISI/Scopus. Những chính sách
vinh danh, khen thƣởng trên đây của Nhà nƣớc cũng nhƣ ĐHQGHN là rất quan trọng
nhằm tạo động lực cho các nhà khoa hăng say nghiên cứu và công bố các sản phẩm
khoa học của mình.
Với nguồn nhân lực khoa học mạnh trên đây, ĐHQGHN hoàn toàn có đủ năng
lực để xây dựng và phát triển những tập thể khoa học mạnh nhằm hƣớng đến những
thành tựu khoa học và đào tạo nguồn nhân lực có chất lƣợng tốt cho xã hội.
4.3.2. Nhóm chính sách cải thiện môi trường và điều kiện nghiên cứu
Nhằm tạo điệu kiện và môi trƣờng nghiên cứu thuận lợi cho các nhà khoa học
phát huy tài năng, sáng tạo cho hoạt động KH&CN, trong hơn 10 năm trở lại đây,
ĐHQGHN đã tiến hành tái cơ cấu hoạt động KH&CN, từ mô hình các nhà khoa học
nghiên cứu độc lập ở các bộ môn, sang mô hình tập trung với các PTN và các NNCM.
ĐHQGHN xác định, xây dựng và phát triển các NNCM và các PTN trọng điểm là
phƣơng thức để ĐHQGHN xác định các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm kết hợp với tập
trung ƣu tiên đầu tƣ tăng cƣờng tiềm lực KH&CN để một số NNC có đủ khả năng làm
đầu mối triển khai các nghiên cứu đỉnh cao, hƣớng đến các sản phẩm khoa học hoàn
chỉnh và hình thành các NNCM, Trung tâm nghiên cứu xuất sắc. Đồng thời, các
NNCM cũng là giải pháp phát huy sáng tạo và khát vọng khoa học của các nhà khoa
học, tăng khả năng thu hút nguồn lực, tạo động lực gia tăng các giá trị KH&CN, nâng
cao chất lƣợng đào tạo, thúc đẩy sự phát triển ĐHQGHN và các đơn vị theo định
hƣớng nghiên cứu.
111
Xuất phát từ quan điểm đổi mới phƣơng thức quản lý và hoạt động KH&CN,
hàng loạt các chính sách cụ thể đã đƣợc ĐHQGHN triển khai bao gồm: Chính sách sắp
xếp kiện toàn hệ thống mạng lƣới PTN; Chính sách đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ nghiên cứu và đào tạo; Chính sách đầu tƣ tăng cƣờng năng lực thông tin; Chính
sách đổi mới quản lý nhiệm vụ KH&CN. Dƣới đây là những ƣu điểm của chính sách:
Thứ nhất, với định hƣớng phân tầng chất lƣợng, phân cấp quản lý và khai thác
hiệu quả hệ thống PTN phục vụ cho hoạt động nghiên cứu và đào tạo, thời gian qua,
ĐHQGHN đã triển khai việc sắp xếp, kiện toàn và xây dựng mới hệ thống PTN dựa
trên số lƣợng, quy mô, tính chất và các loại hình khác nhau phù hợp với từng lĩnh vực
hoạt động của ĐHQGHN. Điều này không chỉ nhằm kiến tạo môi trƣờng nghiên cứu
thuận lợi, tạo tiền đề phát triển các NNCM, trung tâm nghiên cứu xuất sắc và còn giúp
cho công tác quản lý và đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm, phát huy hiệu quả đầu tƣ.
Đến nay, hệ thống PTN của ĐHQGHN đã dần đƣợc hoàn thiện với 210 PTN (Bảng
4.2). Theo đó, hệ thống PTN đƣợc phân thành 3 cấp, cấp độ quản lý gồm: 1) PTN
trọng điểm cấp nhà nƣớc; 2) PTN trọng điểm cấp ĐHQGHN; 3) PTN cấp trƣờng, cấp
độ chuyên môn gồm: 1) PTN mục tiêu, trọng điểm; 2) PTN chuyên đề; 3) PTN/thực
hành cơ sở.
Bảng 4.2: Hiện trạng các PTN tính đến ngày 1/3/2016
Đã đƣợc đầu tƣ
Cần đầu tƣ
Chƣa đƣợc
Tổng
TT
Loại PTN
mới và đồng bộ
bổ sung
đầu tƣ
Phân theo cấp độ quản lý
1
1.
PTN trọng điểm cấp nhà nƣớc
2
5
2.
PTN trọng điểm cấp ĐHQGHN
3.
PTN cấp trƣờng
26
128
48
Phân theo cấp độ chuyên môn
4
22
9
9
1.
PTN mục tiêu, trọng điểm
PTN chuyên đề
2.
14
144
103
27
PTN thực hành/cơ sở
3.
8
44
18
18
Tổng
26
210
130
54
(Nguồn Ban KH&CN, ĐHQGHN)
112
Đặc biệt, năm 2016, ĐHQGHN thành lập 7 PTN trọng điểm, với 3 PTN có các
giáo sƣ ngƣời nƣớc ngoài đƣợc mời làm đồng giám đốc. PTNTĐ đƣợc hình thành
nhằm thu hút và trọng dụng nhà khoa học trình độ cao, những ngƣời có khả năng thiết
kế và tổ chức triển khai các bài toán khoa học lớn. Nơi đây, đƣợc kỳ vọng sẽ là một
môi trƣờng làm việc tốt và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học giỏi,
trong đó có cả các nhà khoa học quốc tế chuyên tâm vào nghiên cứu[20]. Với hệ thống
mạng lƣới 210 PTN đƣợc kiện toàn và quy hoạch sẽ là cơ sở thuận lợi để ĐHQGHN
định hƣớng đầu tƣ trang thiết bị, quản lý và khai thác hiệu quả hoạt động của các PTN.
Thứ hai, trên cơ sở hệ thống mạng lƣới các PTN hiện có, ĐHQGHN đã xây
dựng các Dự án đầu tƣ chiều sâu có quy mô, có tính liên ngành cao, thiết bị dùng
chung, tăng hiệu quả dự án với kinh phí lớn hơn nhiều so với các dự án đầu tƣ trƣớc
đó. Với tiêu chí này, ĐHQGHN đã nhận đƣợc sự ủng hộ của các Bộ, Ngành liên quan
nhƣ Bộ KH&CN, Bộ Kế hoạch đầu tƣ và Bộ Tài chính. Nhờ đó một loạt dự án lớn đã
đƣợc triển khai ở ĐHQGHN góp phần tạo dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại
phục vụ đẩy mạnh nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao. Ngoài đầu tƣ
hệ thống trang thiết bị cho hoạt động nghiên cứu của các NNC, ĐHQGHN còn đầu tƣ
tăng cƣờng năng lực cho các NNCM, hệ thống trang thiết bị nhỏ lẻ phục vụ vận hành
các PTN. Theo báo cáo của Ban KH&CN - ĐHQGHN, tính đến ngày 1/3/2016,
ĐHQGHN đã huy động các nguồn lực tài chính với tổng kinh phí lên tới
749.731.000.000 đồng để đầu tƣ cho các PTN thuộc 4 lĩnh vực khoa học bao gồm
khoa học tự nhiên - y dƣợc, khoa học XH&NV, Khoa học KT&CN, khoa học liên
ngành (Phụ lục 4). Ngoài ra, ĐHQGHN tiếp tục phê duyệt và cấp kinh phí triển khai
dự án đầu tƣ hoàn thiện cho 5/7 PTN trọng điểm cấp ĐHQGHN (trong đó có 2/7 PTN
còn lại đã được đầu tư hoàn thiện) với tổng kinh phí 90 tỉ; hệ thống PTN chuyên đề
với tổng kinh phí 90 tỉ (tập trung vào lĩnh vực công nghệ và kỹ thuật, một phần cho
lĩnh vực khoa học tư nhiên); hệ thống các PTN thực hành cơ bản với tổng kinh phí 80
tỉ (tập trung cho lĩnh vực khoa học XH&NV)[3].
Thứ ba, trong bối cảnh hội nhập quốc tế với sự di chuyển tự do của các nguồn
lực, đặc biệt là nguồn lực thông tin và tri thức cùng với yêu cầu ngày càng khắt khe
của xã hội về chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu đã dẫn tới yêu cầu thay đổi chức năng
vốn có của thƣ viện. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động xây dựng hệ
thống thƣ viện số với cơ sở dữ liệu đƣợc kết nối và chia sẻ ở trong và ngoài nƣớc,
cung cấp không gian mở phục vụ nhu cầu học tập và sáng tạo của ngƣời dùng ở mọi
113
nơi, mọi lúc là những nhu cầu bức thiết. Nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn lực
thông tin trong bối cảnh hiện nay, ĐHQGHN đã thực hiện nhiều chính sách đầu tƣ
tăng cƣờng nguồn lực thông tin, xây dựng hệ thống quản lý và khai thác thông tin hiệu
quả dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại cho Trung tâm Thông tin - Thƣ
viện, ĐHQGHN nhằm kiến tạo môi trƣờng học tập và nghiên cứu hiện đại, đáp ứng
đƣợc yêu cầu của đại học tiên tiến.
Theo số liệu của Ban KH&CN, ĐHQGHN, tính đến tháng 6/2016, Trung tâm
TT-TV đã tiếp nhận đầu tƣ từ ĐHQGHN tổng kinh phí 199.940.000.000 đồng (Phụ
lục 4) để xây dựng thƣ viện số với gần 54.000 đối tƣợng tài liệu, với hơn 2,5 triệu
trang; nâng cấp, phát triển các sản phẩm và dịch vụ thông tin - thƣ viện theo hƣớng
tích hợp giải pháp công nghệ hiện đại: Truy cập từ xa, truy cập qua thiết bị di động,
scan tài liệu, hỗ trợ trực tuyến qua hệ thống Chat Online, dịch vụ học tập nghiên cứu
theo chủ đề, dịch vụ mƣợn và trả sách tự động 24/7, dịch vụ mƣợn tài liệu số. Trên cơ
sở lựa chọn và áp dụng các chuẩn nghiệp vụ thƣ viện quốc tế trong xử lý và tổ chức,
sắp xếp kho tài liệu in cũng nhƣ áp dụng các công nghệ hiện đại để xử lý và tổ chức
khai thác nguồn tài liệu số. Đồng thời, ĐHQGHN cũng tạo tƣ cách pháp nhân, cho
phép Trung tâm TT-TV đƣợc tự chủ trong nhiều lĩnh vực hoạt động. Đến nay, Trung
tâm Thông tin - Thƣ viện, ĐHQGHN đƣợc đánh giá là đơn vị hàng đầu trong hệ thống
hơn 230 thƣ viện trƣờng đại học và cao đẳng tại Việt Nam. Đây là mô hình thƣ viện
đại học Việt Nam đầu tiên có tƣ cách pháp nhân để triển các dịch vụ thƣ viện và hỗ trợ
các nhà khoa học, sinh viên, học viên, NCS khai thác hiệu quả nguồn tƣ liệu khoa học
phong phú phục vụ cho hoạt động học tập và nghiên cứu[45].
Thứ tư, bên cạnh việc sắp xếp, kiện toàn các PTN; tăng cƣờng cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu, năm 2014, ĐHQGHN tiếp tục thực hiện
đổi mới công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển
các sản phẩm KH&CN theo phƣơng án đầu tƣ mới, bằng việc ban hành Quy định về
quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp ĐHQGHN. Trong đó, nhiều quy định mới đã đƣợc áp
dụng, cụ thể: 1) Điều chỉnh tiêu chí cán bộ tham gia chủ nhiệm đề tài có trình độ thạc
sĩ thay vì tiến sĩ nhƣ trƣớc đây, quy định này giúp mở rộng đối tƣợng tham gia thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu; 2) Kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN không giới
hạn mức trần mà căn cứ vào từng loại hình nhiệm vụ cụ thể để cấp kinh phí phù hợp.
Đây là một trong những tiếp cận mới cho thấy, ĐHQGHN đã thay đổi quan điểm cấp
kinh phí theo hƣớng “cào bằng” nhƣ trƣớc đây; 3) Phƣơng thức giao đề tài KH&CN
114
cũng có những điều chỉnh theo hƣớng đặt hàng và giao qua tuyển chọn hoặc xét chọn.
Quy trình xác định danh mục đề tài KH&CN, tuyển chọn đƣợc thực hiện thông qua
Hội đồng tuyển chọn, xét chọn, Hội đồng do Giám đốc ĐHQGHN quyết định thành
lập, thành viên Hội đồng phải có tối thiểu 03 uỷ viên Hội đồng ngành, liên ngành. Các
đơn vị thành viên, trực thuộc làm đầu mối chuẩn bị và tổ chức họp Hội đồng tuyển
chọn, xét chọn đề tài KH&CN; 4) Quy trình đánh giá, nghiệm thu các đề tài, nhiệm vụ
KH&CN cũng đƣợc điều chỉnh quy về một cấp thực hiện thay vì 2 cấp nhƣ trƣớc đây.
Việc quản lý hiệu quả đầu tƣ cũng có những điều chỉnh theo tiếp cận đầu ra, nghĩa là
các KQNC sẽ đƣợc công bố trên các tạp chí uy tín trong nƣớc và nƣớc ngoài.
Tổng hợp lại, từ việc thực hiện đồng bộ chính sách đầu tƣ cải thiện môi trƣờng
và điều kiện nghiên cứu, đã cho thấy ĐHQGHN đang nỗ lực tăng cƣờng tiềm lực
KH&CN nhằm tạo môi trƣờng nghiên cứu thuận lợi cho các nhà khoa học triển khai
hoạt động KH&CN. Điều đó đƣợc khẳng định bằng quyết tâm xây dựng các tập thể
nghiên cứu mạnh nhằm đạt đƣợc những thành tựu khoa học đỉnh cao, đào tạo nguồn
nhân lực có chất lƣợng, góp phần phát triển ĐHQGHN ngang tầm với các trƣờng đại
học trong khu vực và thế giới, thúc đẩy sự nghiệp công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nƣớc. Theo thống kê đối chiếu, hiệu quả sau đầu tƣ, khai thác hệ thống trang
thiết bị ở 4 đơn vị thành viên do Ban KH&CN thực hiện trong giai đoạn 2005 - 2015
(Bảng 4.3), đã phần nào cho thấy những kết quả đạt đƣợc của ĐHQGHN là tƣơng đối
tích cực.
Bảng 4.3: Đối chiếu hiệu quả sau đầu tư khai thác hệ thống trang thiết bị
ở một số đơn vị giai đoạn 2005-2015
TT Hiệu
Tiêu chí
Trƣờng
Trƣờng
Khoa Y
Viện
quả
ĐHKHTN
ĐHCN
Dƣợc
VSV&CNSH
1
Tổng mức đầu tư
446 tỉ
63 tỉ
104 tỉ
37.4 tỉ
Số bài báo
2
22
1101
27
13
ISP/Scopus
Số bài báo quốc tế
3
26
417
9
15
khác
ệ h g n g n ô c
à v
ố bài báo trong
4
14
2256
120
163
nƣớc
Số đề tài cấp nhà
c ọ h a o h K
5
4
184
-
7
nƣớc
115
TT Hiệu
Tiêu chí
Trƣờng
Trƣờng
Khoa Y
Viện
quả
ĐHKHTN
ĐHCN
Dƣợc
VSV&CNSH
Số đề tài cấp
6
621
8
5
67
ĐHQGHN, Bộ
7
Số đề tài cấp cơ sở
427
4
24
24
Số đăng ký sở hữu
8
23
4
0
-
trí tuệ
Số đối tác hình
thành trong nƣớc
129
9
23
30
7
và quốc tế
Số hội HN/HT/lớp
10
230
22
29
12
tập huấn
Số cử nhân đƣợc
11
4343
81
-
-
đào tạo
Số thạc sĩ đƣợc đào
12
3176
25
-
134
o ạ t
tạo
o à Đ
13
4
-
16
Số TS đƣợc đào tạo
195
Tổng số giờ phục
14
11
7
83.012
255
vụ thực hành
Số CN thu hút
c ự
15
110
21
57
5
l
đƣợc
Số ThS thu hút
16
101
8
48
5
đƣợc
17
Số TS thu hút đƣợc
43
8
30
3
Nhóm nghiên cứu
18
15
9
2
1
n â h n n ồ u g n n ể i r t t á h P
đƣợc hình thành
(Nguồn: Ban KH&CN - ĐHQGHN)
4.3.3. Nhóm chính sách hợp tác và phát triển
Trong bối cảnh nguồn kinh phí đầu tƣ phát triển KH&CN của Nhà nƣớc cho
ĐHQGHN còn nhiều hạn chế, trong khi đó, với tiềm lực khoa học mạnh, ĐHQGHN
hoàn toàn có khả năng hợp tác cung cấp, chuyển giao cho các đối tác trong và ngoài
nƣớc những sản phẩm khoa học hoàn chỉnh, đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao
hay tƣ vấn hoạch định chính sách kinh tế, xã hội cho các cơ quan từ trung ƣơng đến
địa phƣơng.
116
Việc đa dạng hoá nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt động khoa học và bồi
dƣỡng, phát triển nguồn nhân lực thông qua hoạt động hợp tác là một trong những giải
pháp quan trọng đƣợc ĐHQGHN thúc đẩy mạnh mẽ trong nhiều năm qua và đặc biệt
là trong 5 năm trở lại đây. Thông qua các chƣơng trình hợp tác quốc tế, hợp tác với cơ
quan, doanh nghiệp từ trung ƣơng đến địa phƣơng, các hoạt động ứng dụng, chuyển
giao, kết nối cung cầu giữa ĐHQGHN và các đối tác trong và ngoài nƣớc đƣợc đẩy
mạnh và đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng khích lệ. Điều đó đƣợc thể hiện ở những nội
dung chính sau đây:
Thứ nhất, ĐHQGHN xác định, hợp tác quốc tế trong KH&CN là cách tốt nhất
để đƣa NCKH của ĐHQGHN tiệm cận với chuẩn mức quốc tế, kết nối cộng đồng
khoa học thế giới. Đặc biệt là huy động đƣợc nguồn kinh phí dồi dào từ các tổ chức
quốc tế để giải quyết các vấn đề đặt ra của ĐHQGHN cũng nhƣ của Việt Nam. Đồng
thời với việc tăng cƣờng hợp tác thông qua các tổ chức, ĐHQGHN cũng hỗ trợ và thúc
đẩy hợp tác quốc tế thông qua việc mời các nhà khoa học nƣớc ngoài tham gia cùng
nghiên cứu. Điều này, không chỉ giúp thúc đẩy các NNC của ĐHQGHN phát huy nội
lực, kết hợp với ngoại lực để tăng cƣờng công bố quốc tế mà còn giúp cho năng lực
KH&CN của các NNC nâng cao và hội nhập quốc tế nhanh hơn.
Tính đến nay, ĐHQGHN đã thiết lập quan hệ hợp tác với 135 trƣờng đại học và
tổ chức giáo dục, KH&CN quốc tế, trong đó có các trƣờng đại học hàng đầu trên thế
giới nhƣ Viện đại học Công nghệ Machachusset; Đại học Illinois, Đại học Brown; Đại
học Turf; Đại học Hawaii; Đại học Oregon; Đại học Princeton; Đại học Califorlia; Đại
học East London; Đại học Leeds; Đại học Nottingham; Đại học East Anglia; Đại học
Bách khoa Paris; Đại học Paris Sud; Đại học Toulouse; Đại học Tokyo; Đại học
Osaka; Đại học quốc gia Seoul; Đại học Bắc Kinh; Đại học Thanh Hoa; Đại học Quốc
gia Singapore…[52].
Trên cơ sở phát huy nội lực và kết hợp với ngoại lực thông qua hoạt động hợp
tác quốc tế, nhiều NNCM cũng đã đƣợc hình thành và phát triển. Điển hình cho
phƣơng thức này đƣợc thực hiện đầu tiên ở trƣờng ĐHKHTN, ĐHQGHN là Trung
tâm Khoa học vật liệu và PTN trọng điểm Enzym-Protein. Hai đơn vị khoa học này đã
trở thành 02 NNCM có uy tín trong nƣớc và quốc tế. Mô hình này đƣợc tiếp tục thực
hiện cho PTN công nghệ Micro Nano tại trƣờng Đại học Công nghệ, ĐHQGHN. Đây
là mô hình đầu tƣ phát triển các NNC tƣơng đối hiệu quả. Qua mô hình này, các NNC
đã phát huy khả năng công bố quốc tế đồng thời phát triển các sản phẩm KH&CN
117
hoàn chỉnh, có thể ứng dụng thực tiễn. Đối với phƣơng thức này điểm mấu chốt là các
NNC đã đón đầu xu hƣớng KH&CN mới và thúc đẩy hợp tác quốc tế. Bằng cách này,
một số NNCM có tính hội nhập đã hình thành, tiêu biểu là Trung tâm nghiên cứu tài
nguyên và môi trƣờng (CRES), Trung tâm nghiên cứu môi trƣờng và phát triển bền
vững (CETASD). Đây cũng là phƣơng thức phù hợp để phát triển các NNCM đối với
lĩnh vực khoa học cơ bản và lý thuyết, nhƣ NNC Tô pô đại số (trƣờng đại học KHTN)
và Tâm lý học lâm sàng của trƣờng ĐHGD. Theo số liệu thống kê chƣa đầy đủ từ Ban
Tổ chức - Cán bộ, giai đoạn 2007 - 2017, ĐHQGHN đã triển khai 141 đề tài nghiên
cứu theo hình thức hợp tác quốc tế hoặc do các tổ chức quốc tế tài trợ. Bên cạnh đó,
năm 2018, ĐHQGHN đã ký kết 6 hợp đồng chuyển giao công nghệ cho Lào, bao gồm:
Công nghệ sản xuất Diesel sinh học; Sản phẩm công nghệ vi sinh vật trong xử lý môi
trƣờng và ứng dụng phát triển nông nghiệp xanh (phân vi sinh, thức ăn chăn nuôi gia
súc, thuốc bảo vệ nông nghiệp); Công nghệ thông tin - truyền thông phục vụ quản lý
đô thị thông minh và dịch vụ vận tải thông minh EMMDI[44].
Thứ hai, song song với hoạt động hợp tác quốc tế, ĐHQGHN cũng chú trọng
đến hoạt động hợp tác và phát triển với các cơ quan doanh nghiệp, các tổ chức khoa
học trong nƣớc. Hoạt động này đặc biệt khởi sắc và có nhiều thành tựu trong 5 năm trở
lại đây khi các hoạt động kết nối giữa các nhà khoa học với các sở, ban, ngành, doanh
nghiệp từ trung ƣơng đến địa phƣơng đã đƣợc thúc đẩy mạnh mẽ thông qua các hội
nghị trao đổi và ký kết hợp đồng hợp tác. Kết quả, giai đoạn 2016-2020, ĐHQGHN ký
kết hợp tác với Lào Cai triển khai 18 nhiệm vụ, trong đó 3 hợp đồng đƣợc triển khai
trong năm 2016; ký kết với Nghệ An triển khai 8 nhiệm vụ trong năm 2016; ký kết với
PVN triển khai 1 đề tài nghiên cứu; Ký kết với BIDV triển khai chƣơng trình nghiên
cứu về Gen và Giáo dục; Ký kết với Viettel triển khai nghiên cứu về cảm biến hồng
ngoại; Ký kết với Hà Giang, Sơn La, Lào Cai và một số bộ ngành có liên quan chuyển
giao khung năng lực lãnh đạo quản lý; Ký kết hợp tác đào tạo, bồi dƣỡng lãnh đạo cấp
sở huyện cho các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam, Hà Nội, Cao Bằng, Quảng Ninh, Nghệ An,
Phú Thọ…
Trên cơ sở các hoạt động hợp tác và chuyển giao tri thức với các doanh nghiệp
và địa phƣơng, các NNCM có điều kiện thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu chuyên
sâu, vừa từng bƣớc hình thành nền tảng tài chính mạnh góp phần quan trọng cho sự
phát triển của ĐHQGHN nói chung và của nhóm nói riêng. Theo phƣơng thức tiếp cận
này, nhiều NNC của ĐHQGHN đã đƣợc hình thành và phát triển, trong đó phải kể đến
118
NNC Công nghệ hóa học vật liệu và năng lƣợc sạch, đây là NNC có rất nhiều hợp tác
với các doanh nghiệp và địa phƣơng trong các dự án, nghiên cứu sản xuất biodiesel;
NNC Phục hồi đất ngập nƣớc; NNC về khu vực học và khoa học phát triển (Viện Việt
Nam học và Khoa học phát triển); NNC Tài nguyên biển và lục địa; NNC Giải quyết
các vấn đề về tai biến và thảm họa thiên nhiên của các địa phƣơng và khu vực…
Với việc đổi mới hoạt động hợp tác và phát triển theo hƣớng sản phẩm hợp tác,
đầu tƣ hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm để các nhà khoa học dễ dàng triển khai các
nhiệm vụ khoa học và đào tạo, thời gian qua các hoạt động chuyển giao tri thức,
chuyển giao công nghệ và phát triển nguồn nhân lực của ĐHQGHN đã đƣợc mở rộng
và phát triển cả về quy mô và số lƣợng. Đặc biệt các NNC của ĐHQGHN đã tham gia
sâu rộng vào việc triển khai các hoạt động hợp tác nhƣ: NNC phát triển nguồn nhân
lực; NNC phát triển giáo viên, giảng viên; NNC về quản trị chất lƣợng đại học; NNC
và chuyển giao công nghệ 3D; NNC chính sách và phát triển, NNC về mô hình sinh kế
cộng đồng dân cƣ; NNC về chuỗi giá trị sản xuất nông, lâm, ngƣ nghiệp; NNC và
chuyển giao công nghệ hỗ trợ chuẩn đoán sớm; NNC bạnh lạ, bệnh hiếm gặp; NNC
thuốc; NNC về ứng dụng CNTT trong quản lý hành chính công; nhóm nghiên ứng
dụng phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trƣờng…
Theo kết quả thông kê chƣa đầy đủ, ĐHQGHN đã triển khai các hoạt động hợp
tác nghiên cứu và triển khai với 13 tập đoàn, doanh nghiệp trong nƣớc và nƣớc ngoài và
nhiều cơ quan ban ngành của 18 tỉnh thành trong cả nƣớc(Phụ lục 3). Trong giai đoạn từ
2011-2015, thông qua hợp tác toàn diện đã ký kết với các tập đoàn và doanh nghiệp lớn
(Dầu khí, Viettel, VinGroup, AIC, BRG…), bình quân mỗi năm đã có gần 1.500 lƣợt
cán bộ và trên 1.200 lƣợt sinh viên đƣợc học tập, trao đổi ở nƣớc ngoài, hàng nghìn sinh
viên bậc đại học đƣợc trao học bổng từ các doanh nghiệp với tổng giá trị 5 tỷ đồng/năm;
các nhà khoa học và các đơn vị thuộc ĐHQGHN triển khai hàng chục đề tài/chƣơng
trình/dự án lớn phục vụ cộng đồng và theo đặt hàng của các doanh nghiệp. Với lợi thế
về vị thế và địa vị pháp lý cao, trong giai đoạn 2011- 2015, ĐHQGHN nhận tài trợ nhiều
trang thiết bị, cơ sở vật chất và học bổng. Tuy nhiên, tính bình quân thì doanh thu từ các
đề tài, dự án nghiên cứu khoa học do doanh nghiệp đặt hàng chiếm chƣa đến 30% tổng
nguồn thu từ các hoạt động hợp tác. Hợp tác với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trong
R&D đạt mức cao nhất vào các năm 2012, 2013 với 4 đề tài nghiên cứu, tổng kinh phí
10 tỷ đồng. Nhƣng tất cả các đề tài này đều do các nhà khoa học thuộc các đơn vị trong
ĐHQGHN nhận trực tiếp từ Tập đoàn thông qua hợp đồng[25]
119
Điều đó, phần nào cho thấy, ĐHQGHN đã cơ bản thành công trong việc làm
cầu nối giữa các nhà khoa học và cơ quan, doanh nghiệp để những cán bộ khoa học có
ý tƣởng nghiên cứu có thể thƣơng mại hóa thành quả nghiên cứu của mình, cũng nhƣ
huy động các nguồn lực thông qua hợp tác để triển khai các hoạt động KH&CN.
4.4. Những hạn chế của chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN
Trong quá trình nghiên cứu và khảo sát, tác giả luận án nhận thấy chính sách
phát triển NNCM của ĐHQGHN đƣợc xây dựng với sự can dự hạn chế của các nhà
khoa học (Bảng 4.5). Các nhà khoa học là những ngƣời chịu tác động trực tiếp bởi
chính sách nhƣng chỉ đƣợc phép có ý kiến sau hoặc khi có vấn đề phát sinh. Hơn nữa,
với mô hình đại học 2 cấp, các chính sách của ĐHQGHN khi đƣợc triển khai xuống
các trƣờng/đơn vị thành viên nhiều khi không đƣợc thực hiện bởi ĐHQGHN không
phải lúc nào cũng cấp kinh phí để triển khai mà các đơn vị phải tự cân đối các nguồn
thu để thực hiện chính sách, do đó các đơn vị thành viên của ĐHQGHN thƣờng căn cứ
vào nguồn lực của mình để cân đối cũng nhƣ cân nhắc để thực hiện toàn phần, hay một
phần của chính sách hoặc không thực hiện do không đủ nguồn lực (Hộp 4.2).
Hộp 4.2: Chính sách ban hành không đi kèm với nguồn lực thực hiện
“…ĐHQGHN ra chính sách không đi kèm với chuyện giao tiền, chẳng hạn cơ sở vật
chất, mỗi nhóm nghiên cứu đòi một phòng làm việc thì lấy đâu ra phòng. Tiền ngân
sách như thế, không có đầu tư. ĐHQGHN nói tạo điều kiện cho việc giao đề tài nghiên
cứu nhưng bây giờ chưa có. Như vậy, phòng quản lý nghiên cứu chúng tôi không biết
phải nói thế nào với các NNCM” (Nam, Phó trƣởng phòng, 36 tuổi)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)
ĐHQGHN có rất nhiều chiến lƣợc, trong đó có chiến lƣợc chung của
ĐHQGHN và chiến lƣợc riêng của các đơn vị thành viên. Các chiến lƣợc thƣờng đƣợc
xây dựng bởi các nhà quản lý mà chƣa có sự tham gia của các nhà khoa học, nên chất
lƣợng chƣa thực sự tốt. Xem xét cụ thể chính sách phát triển NNCM tác giả luận án
nhận thấy, việc xây dựng chính sách quá phân tán và có sự chồng lấn bởi các văn bản
ban hành khác nhau. Chẳng hạn ĐHQGHN đã ban hành chính sách thành lập NNCM,
trƣờng thành viên cũng ban hành chính sách thành lập NNCM dẫn đến việc triển khai
thiếu thống nhất giữa các đơn vị hay nhƣ nội dung liên quan đến chính sách giảm giờ
cho thành viên của NNCM có sự trùng lặp ở cả 2 văn bản là những ví dụ điển hình sẽ
đƣợc tác giả luận án trình bày cụ thể trong phần này. Bên cạnh đó, ĐHQGHN đã xây
120
dựng nhiều kế hoạch, chiến lƣợc trong bối cảnh nguồn lực tài chính còn hạn chế, phụ
thuộc nhiều vào nguồn ngân sách của nhà nƣớc dẫn đến kế hoạch, chiến lƣợc đƣợc
triển khai trong thực tế vẫn còn ở phạm vi và quy mô vừa phải. Minh chứng cho vấn
đề nêu trên sẽ đƣợc tác giả luận án luận giải thông qua những hạn chế sau đây:
Thứ nhất, hạn chế xuất phát từ quan điểm sai lầm của ĐHQGHN trong xây dựng
chính sách, điều này thể hiện ở việc, ĐHQGHN coi NNCM vừa là mục tiêu vừa là
phƣơng thức để xây dựng đại học nghiên cứu. Với việc coi NNCM là mục tiêu,
ĐHQGHN đặt ra chỉ tiêu số lƣợng NNCM phải thành lập cho các các đơn vị thành viên
hàng năm[22]. Do dó, dẫn đến tác động ngoại biên âm tính mà các nhà làm chính sách
không lƣờng hết đó là các đơn vị thành viên xây dựng hồ sơ để đƣợc công nhận NNCM
theo kiểu gƣợng ép, làm cho xong để đạt chỉ tiêu ĐHQGHN đề ra, bởi áp lực phải hoàn
thành nhiệm vụ theo chỉ tiêu đƣợc giao. Điều này dẫn đến một thực tế, có không ít
NNCM còn mang tính hình thức, hoạt động không hiệu quả hoặc hoạt động riêng lẻ ở
từng cá nhân nhà khoa học chứ không phải trên danh nghĩa NNCM. Nhƣ vậy, chính
sách kích thích các đơn vị cố gắng thuyết minh để thành lập NNCM cho đủ số lƣợng
theo chỉ tiêu. Nhƣ vậy, chính sách trọng số lƣợng hơn trọng chất lƣợng và thực tế nhƣ
phân tích ở trên, có NNCM không có các nhiệm vụ nghiên cứu nên không có hoạt động,
hoặc hoạt động cầm chừng không hiệu quả. Bên cạnh đó, chính sách thành lập NNCM
của ĐHQGHN mới tác động theo nghĩa tạo danh tiếng cho NNCM, giúp cho NNCM có
cơ hội thuận lợi hơn trong việc đấu thấu các đề tài nhiệm vụ nghiên cứu các cấp, tiếp
nhận đầu tƣ, hỗ trợ từ các tổ chức nƣớc ngoài hay ký kết các dự án hợp tác nghiên cứu
với các tổ chức, cơ quan doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc. Ghi nhận ý kiến từ lãnh đạo
cấp cao của ĐHQGHN (Hộp 4.3) phần nào cho thấy điều này.
Hộp 4.3: Ý kiến của lãnh đạo ĐHQGHN về thành lập NNCM
“…ĐHQGHN thực hiện chính sách đẩy, tức ép cho NNCM phát triển bằng việc thành
lập Nhóm, đánh vào danh dự và lòng tự trọng của Nhóm nhằm thúc đẩy nhóm tăng
cường hoạt động KH&CN. Nhưng cách đi đó chưa chắc đã đúng bởi khi chính sách
đẩy được thực hiện thì Nhóm lại đòi cái này, đòi cái kia…” (Nam, GS.TS, 60 tuổi)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)
Thứ hai, khâu xét công nhận NNCM chƣa đƣợc thực hiện chặt chẽ, còn hiện
tƣợng mƣợn tên các nhà khoa học có chức danh, học vị, uy tín khoa học nhằm thuyết
minh hồ sơ để đƣợc công nhận là NNCM. Thực tế phần nào cho thấy, khi xem xét để
121
công nhận NNCM, ĐHQGHN thƣờng điểm danh nhà khoa học trong nhóm, các công
trình đƣợc công bố của mỗi cá nhân thành viên mà chƣa xem xét đến tính cố kết của
các thành viên hay sự gắn kết của các nhà học trong nhóm, nói cách khác các KQNC
thƣờng là của riêng cá nhân từng nhà khoa học trong nhóm mà ít có những công trình
nghiên cứu thực sự do sự hợp tác tạo ra. Thậm chí, có không ít các nhà khoa học đầu
ngành với các chức danh, học vị cao, có uy tín khoa học khi đƣợc hỏi về chính sách
phát triển NNCM với tƣ cách là thành viên của NNCM họ đã rất bất ngờ bởi không
biết mình có tên trong NNCM nào (Hộp 4.4).
Hộp 4.4: Hiện tƣợng mƣợn tên nhà khoa học khi thành lập NNCM
- “… tôi không thể trả lời giúp em các câu hỏi này bởi tôi không phải là thành
viên của NNCM”,…dạ thầy ơi, thầy là thành viên của NNCM … “… tôi không biết
bởi tôi không được báo mình là thành viên của NNCM cũng như không tham gia
thực hiện các đề tài/dự án với nhóm và các hoạt động khoa học của nhóm, nếu tôi là
thành viên của NNCM thì tôi phải có quyết định chứ” (Nam, TS, 62 tuổi)
- Ý kiến của một nhà khoa học phản hồi qua email “Tôi không thể trả lời được
các câu hỏi của bạn bởi tôi không phải là thành viên của NNCM”,.… dạ thầy ơi,
thầy có tên trong danh sách thành viên của NNCM… Kết quả là tôi không nhận đƣợc
thông tin phản hồi của nhà khoa học đó (Nam, PGS.TS, 60 tuổi)
- Một ý kiến khác “…, thầy trả lời phiếu hỏi của em rồi, thầy trả lời với tư cách
là trưởng NNC chưa được công nhận là NNCM chứ không phải là thành viên của
NNCM đâu nhé”. (Nam, GS.TS, 64 tuổi, một thành viên của NNCM)
- Bên cạnh đó là 7 ý kiến khác cũng trả lời tương tự vì không biết mình là thành
viên của NNCM khi tác giả tiến hành lấy ý kiến đánh giá.
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)
Thứ ba, “chính sách quy định một đằng, thực hiện một nẻo”, cụ thể: Chính sách
thành lập NNCM đƣợc ban hành đã quy định NNCM đƣợc thành lập song song với
các chƣơng trình nghiên cứu trọng điểm, tuy nhiên, trong quá trình triển khai chính
sách, quy định này đã không đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc. Nếu thực hiện
nghiêm túc chính sách này, NNCM sẽ chỉ đƣợc thành lập nếu Nhóm có đƣợc một
chƣơng trình nghiên cứu, đi kèm theo đó là các nguồn lực đảm bảo cho nhóm hoạt
động trong thời gian nhất định theo quy định của chƣơng trình, hết thời gian này
ĐHQGHN sẽ tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động của NNCM dựa trên kết quả thực
122
hiện chƣơng trình đƣợc giao, để từ đó ĐHQGHN cân nhắc tiếp tục đầu tƣ hay giải thể
NNCM. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn nhiều NNCM vẫn đƣợc thành lập nhƣng không
gắn với chƣơng trình nghiên cứu nào, không có báo cáo thƣờng niên, ĐHQGHN cũng
không tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động KH&CN của NNCM kể từ khi các nhóm
đƣợc thành lập.
Thứ tư, chính sách xây dựng và phát triển NNCM của ĐHQGHN không quy
định hoạt động báo cáo thƣờng niên, nhƣ vậy phàm những NNCM nào đã đƣợc thành
lập sẽ nghiễm nhiên đƣợc hƣởng những chính sách ƣu đãi với tƣ các là NNCM. Đồng
thời chính sách cũng không quy định việc giải thể, nhƣ vậy phàm là những NNCM nào
đã đƣợc thành lập thì dù có hoạt động hay không hoạt động thì nhóm vẫn tồn tại và
không có ai đánh giá. Từ thực tế trên cho thấy, chính sách kích thích hình thức thay vì
thực chất.
Để làm rõ hơn căn nguyên của vấn đề này, tác giả luận án tiến hành lấy ý kiến
đánh giá của các nhà quản lý, những ngƣời trực tiếp thực thi chính sách nêu trên, kết
quả tác giả luận án thu đƣợc nhƣ sau:
Bảng 4.4: Những nguyên nhân cản trở việc giải thể NNCM
Nội dung lấy ý kiến đánh giá
Điểm trung bình
Chính sách không quy định cụ thể về việc giải thể NNC
3,57
Ngại đụng chạm vì Trƣởng NNC là những ngƣời giữ chức vụ cao
3,50
trong cơ quan
Bệnh hình thức, coi NNC là vật trang điểm cho trƣờng đại học
3,29
Ngại đụng chạm vì Trƣởng NNC là các nhà khoa học đầu ngành,
3,75
đầu đàn
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Nhƣ vậy, từ kết quả trên đây (Bảng 4.4) cho thấy căn nguyên của vấn đề nằm ở
chỗ chính sách đã không quy định cụ thể về việc giải thể NNCM. Điều này dẫn đến
việc những ngƣời thực thi chính sách rất khó có thể giải thể các NNCM vì sợ đụng
chạm đến các nhà khoa học đầu ngành, đầu đàn hay trƣởng NNCM là những ngƣời giữ
chức vụ cao trong cơ quan. Bên cạnh đó, bệnh thành tích cũng là một trong những vấn
đề ăn sâu vào trong tiềm thức của không ít cán bộ lãnh đạo, dẫn đến suy nghĩ dù nhóm
hoạt động không hiệu quả nhƣng thà có còn hơn không.
Phỏng vấn sâu một lãnh đạo cấp cao của ĐHQGHN (Hộp 4.5), tác giả luận án
đƣợc biết:
123
Hộp 4.5: Ý kiến của lãnh đạo ĐHQGHN về hoạt động đánh giá
“…nguyên nhân là chúng ta chưa thực hiện việc đánh giá, chẳng hạn cứ vào đại học
được là ra (tốt nghiệp) được, trung tâm nghiên cứu đã được thành lập thì cứ tồn tại
mãi…, ”, (Nam, GS.TS, 60 tuổi)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)
Nhƣ vậy, rõ ràng việc không thực hiện đánh giá sẽ là giải pháp an toàn cho các
nhà quản lý bởi nếu có đánh giá thì cũng không có hành lang pháp lý để giải thể những
NNC hoạt động không hiệu quả, mà đã đánh giá thì sẽ đụng chạm đến nhiều ngƣời.
Thứ năm, chính sách ƣu đãi về giờ giảng đối với thành viên của NNCM không
đƣợc thực hiện nghiêm túc và đồng bộ. Cụ thể, theo quy định, định mức giảng dạy
của các thành viên NNC không quá 150 giờ/năm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở mỗi
đơn vị thành viên của ĐHQGHN lại áp dụng và thực hiện chính sách theo các cách
rất khác nhau, có đơn vị thì chỉ áp dụng giảm định mức 20% cho trƣởng NNCM, có
đơn vị thì đã có quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ nhƣng chƣa áp dụng, cũng có
đơn vị thì không thực hiện chính sách này (Hộp 4.6). Nhƣ vậy, có thể khẳng định
chính sách quy định giờ định mức đối với giảng viên là thành viên của NNCM đã
không đƣợc thực thi một cách nghiêm túc và đồng bộ ở các đơn vị thành viên của
ĐHQGHN. Nhƣng có một thực tế đáng ngạc nhiên hơn nữa là các thành viên của
NNCM cũng không hề có phản ứng gì liên quan đến vấn đề đòi quyền lợi cho mình.
Nguyên nhân của vấn đề này một phần là do các thành viên của NNCM không nắm
đƣợc chính sách để đòi quyền lợi hoặc có thể họ thờ ơ với chính sách, nhƣng nguyên
nhân chính là quyết định công nhận NNCM chỉ có tên trƣởng nhóm mà không có tên
thành viên nên họ không có căn cứ để đòi quyền lợi cho mình. Bên cạnh đó, ngay cả
trƣởng NNCM cũng không đƣợc hƣởng chính sách này ở hầu hết các đơn vị, duy
nhất có một đơn vị áp dụng giảm giờ cho trƣởng NNCM. Đồng thời, kết quả phỏng
vấn cũng cho thấy sự chồng chéo trong nội dung chính sách. Từ thực tế kể trên lại
cho thấy, những bất cập trong chính sách thành lập NNCM của ĐHQGHN không chỉ
ở nội dung của chính sách mà còn ở sự quan liêu của ngƣời thực thi chính sách. Nhƣ
vậy, rõ ràng tính hiệu lực của chính sách đã không đƣợc thực thi và chắc chắn chính
sách giảm giờ đã không đem lại hiệu quả.
124
Hộp 4.6: Thực tế triển khai chính sách ưu đãi giờ giảng đối với thành viên NNCM
Theo quy định, thành viên NNCM có định mức 150 giờ/năm, vậy Trường thầy/cô thực
hiện chính sách này thế nào?
“… tôi chưa nghe thấy quy định này, để tôi kiểm tra lại”…Hôm sau, khi đã kiểm tra lại
văn bản anh cho biết “…Quy định đó là do Ban KH&CN đề xuất, trong khi giờ định
mức phải do Ban Tổ chức - Cán bộ đề xuất mới đúng chức năng…, thực tế hiện nay
giờ định mức đối với thành viên của NNCM của trườngđang là 270 giờ/năm” (Nam,
Phó trƣởng phòng);
“…Định mức giờ giảng của Trường tôi là 270 giờ/năm. Trong đó trưởng NNCM được
giảm 20% số giờ định mức, còn các thành viên của NNCM thì không được giảm” (Nữ,
Phó Trƣởng phòng);
“…Bên tôi quy định mức giảng dạy là 270 giờ/năm, không thực hiện chính sách
150giờ/năm của ĐHQGHN” và anh không giải thích lý do vì sao (Nam, Trƣởng
phòng);
“…Trường tôi áp dụng giờ định mức chung cho cán bộ giảng viên là 185 giờ/năm, đối
với chính sách quy định của ĐHQGHN, trường tôi đã đưa nội dung này vào Quy chế
chi tiêu nội bộ, tuy nhiên đến nay vẫn chưa thực hiện, vẫn đang lấy ý kiến của các đơn
vị, có thể sang năm mới thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay nội dung này có trong 2 văn
bản, đối với hướng dẫn 1409 quy định giờ cụ thể là 150 đối với thành viên của NNCM,
nhưng với quy định 1819 thì lại quy định về việc giảm giờ định mức theo tỷ lệ cho
trưởng NNCM nên Trường tôi sẽ xem xét cái nào có lợi cho giảng viên thì thực hiện”,
(Nữ, chuyên viên phụ trách trực tiếp công tác này).
(Ghi chú: Thời điểm ban hành và có hiệu lực của chính sách so với thời điểm phỏng
vấn cách nhau khoảng gần 5 năm)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)
Thứ sáu, thiếu sự phân định rõ ràng giữa NNCM, TTNC, Viện NC, PTNTĐ và
có sự chồng chéo giữa các chính sách. Điều này thể hiện ở việc nhiều NNCM cũng
đồng thời là TTNC hoặc Viện NC, hoặc PTNTĐ, hoặc TTNCTĐ… Minh chứng cụ
thể cho vấn đề này nhƣ sau: Năm 2013, khi xây dựng và phát triển các các chƣơng
trình nghiên cứu trọng điểm và NNCM, ĐHQGHN ban hành hƣớng dẫn số 1409/HD-
ĐHQGHN; năm 2015, khi thành lập phòng thí thí nghiệm trọng điểm, ĐHQGHN ban
hành hƣớng dẫn 1666/HD-ĐHQGHN. Trong đó, có không ít nhà khoa học vừa là
125
Trƣởng NNCM vừa là Giám đốc PTN trọng điểm hay TTNC trọng điểm… và họ
không biết đƣợc hƣởng ƣu đãi theo chính sách nào và phải thực hiện việc báo cáo,
kiểm tra, đánh giá theo cơ chế ra sao (Hộp 4.7).
Hộp 4.7: Ý kiến của nhà khoa học về chính sách thành lập NNCM
“…Tôi không thể cùng lúc làm 2 báo cáo về hoạt động KH&CN, một với tư cách là
NNCM, hai với tư cách là PTN trọng điểm” (Nam, GS.TS, Trƣởng NNCM, đồng thời
là Giám đốc PTN trọng điểm)
“…Nhóm thì nó mong manh lắm, hiện nay, Nhóm của tôi ngoài một quyết định công
nhận ra thì chúng tôi chưa nhận được bất cứ đầu tư gì, thỉnh thoảng ĐHQGHN lại
thúc đẩy Nhóm thông qua một số cuộc họp chỉ đạo, nhưng việc đầu tư bài bản từ 3 đến
5 năm thì không có, nên chúng tôi quyết tâm xây dựng Nhóm thành Trung tâm nghiên
cứu cấp trường bởi nó có tư cách pháp nhân, pháp lý” (Nam, GS.TS, trƣởng NNCM,
Giám đốc TTNC)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)
Thứ bảy, việc thực thi chính sách đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các
NNCM thông qua các dự án tăng cƣờng NLNC còn có những hạn chế. Trong quá trình
nghiên cứu, tác giả luận án ghi nhận một số hạn chế sau: Khi xây dựng dự án thuyết
minh với ĐHQGHN đầu tƣ tăng cƣờng NLNC, một trong những đơn vị thành viên của
ĐHQGHN thực hiện việc tập hợp một số chuyên gia để xây dựng dự án thay vì giao
cho đơn vị có nhu cầu tăng cƣờng trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, điều này dẫn đến
việc, nhóm thuyết minh dự án thì không phải là những ngƣời tiếp nhận trang thiết bị
đầu tƣ, còn nhóm tiếp nhận dự án lại không có nhu cầu (Hộp 4.8). Một trong những
tiêu chuẩn để đề án đƣợc phê duyệt là phải có các công bố quốc tế thuộc danh mục
ISI/Scopus hàng năm thông qua việc khai thác các trang thiết bị đầu tƣ của dự án và
đây là mấu chốt bộc lộ những hạn chế. Minh chứng cho hạn chế này đó là sau khi dự
án đƣợc phê duyệt, ĐHQGHN triển khai bàn giao cho đơn vị thì xảy ra vƣớng mắc vì
nhóm chuyên gia xây dựng dự án thì không phải là ngƣời tiếp nhận các trang thiết bị
đƣợc đầu tƣ mà Nhà trƣờng giao cho các Khoa đào tạo của Trƣờng triển khai hoạt
động nghiên cứu thông qua đội ngũ các nhà khoa học thuộc các NNC. Các NNC sau
khi tiếp nhận dự án đầu tƣ thì “tá hỏa” vì bản cam kết khi thuyết minh dự án là phải
công bố 2 bài báo quốc tế thƣờng niên mà việc này thì nhóm không đủ khả năng để
thực hiện, dẫn tới các đơn vị và các NNC đùn đẩy nhau không tiếp nhận các trang thiết
126
bị này. Cuối cùng dự án đó vẫn đƣợc “cƣỡng ép” bàn giao cho một đơn vị làm đầu mối
sử dụng và một số đơn vị khác tham gia với tƣ cách phối hợp sử dụng. Tuy nhiên, khi
có đơn vị tiếp nhận bàn giao thiết bị thì lại phát sinh vấn đề khác bởi các thiết bị đƣợc
đầu tƣ là các thiết bị rất hiện đại, nhiều nhà khoa học trong NNC chƣa bao giờ sử dụng
thiết bị này, trong khi Nhà trƣờng không có cán bộ kỹ thuật riêng để tiếp nhận và vận
hành thiết bị. Mặc dù, các nhà khoa học đã đƣợc đào tạo để sử dụng nhƣng ngay chính
đơn vị đào tạo là đơn vị nhập thiết bị để lắp đặt cho Nhà trƣờng cũng chƣa bao giờ vận
hành hay sử dụng thiết bị dẫn đến cả ngƣời đào tạo và ngƣời đƣợc đào tạo cùng “mò
mẫm” để có thể sử dụng đƣợc thiết bị.
Hộp 4.8: Nghịch lý trong triển khai dự án tăng cƣờng NLNC, ngƣời cần thì
không đƣợc giao, ngƣời đƣợc giao thì không cần.
Xin Cô có thể cho biết Cô tham gia xây dựng dự án tăng cƣờng NLNC với tƣ cách gì?
“Tôi được lãnh đạo Nhà trường mời với tư cách chuyên gia, thay mặt cho Nhà trường
xây dựng dự án tăng cường NLNC và thuyết minh về tính khả thi của dự án với
ĐHQGHN để được đầu tư”
Vậy Cô có đƣợc định hƣớng sẽ quản lý dự án thiết bị đầu tƣ này hay không?
“Nhà trường không định hướng sau này sẽ giao cho tôi tiếp nhận dự án đầu tư này”
Vậy Cô có sẵn sàng tiếp nhận các sản phẩm của dự án đầu tƣ này không?
“Có chứ, bởi tôi cũng rất cần sử dụng những thiết bị này cho hoạt động nghiên cứu
của mình, nhưng tôi nghĩ Nhà trường không bao giờ giao cho tôi với tư cách cá nhân
tiếp nhận dự án đầu tư lớn như thế đâu”
Vậy Cô có nghĩ rằng nếu Cô đƣợc tiếp nhận dự án đó Cô có tin rằng mình đạt đƣợc chỉ
tiêu đề ra là công bố 2 bài báo quốc tế/năm không?
“Tôi cũng không dám chắc, thuyết minh là vậy thôi chứ để có bài công bố thì phải có
nhiệm vụ nghiên cứu” (Nữ, PGS.TS, 44 tuổi)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của đề tài)
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng việc xét duyệt và quản lý dự án đầu tƣ thiếu chặt chẽ
sẽ dẫn đến những lãng phí nguồn lực tài chính của Nhà nƣớc. Bên cạnh đó, việc yêu
cầu đề án cam kết phải có bài báo công bố quốc tế hàng năm làm tiêu chí để phê duyệt
đề án cũng đƣợc xem là một bất cập, bởi, không thể lấy sản phẩm đầu ra của một
nhiệm vụ nghiên cứu làm sản phẩm đầu ra cho một phƣơng tiện nghiên cứu.
127
Từ những hạn chế của chính sách đƣợc nêu trên đây, tác giả nhận thấy,
nguyên nhân của vấn đề chủ yếu do chính sách đƣợc ban hành chƣa đƣợc triển khai
chƣa đồng bộ và phù hợp với thực tế, kết quả khảo sát những cán bộ lãnh đạo làm
công tác quản lý ở những phòng, ban có liên quan trực tiếp đến việc thực thi chính
sách từ cấp ĐHQGHN đến cấp đơn vị thành viên (Bảng 4.5) phần nào minh chứng
cho nhận định này.
Bảng 4.5: Nguyên nhân chính sách được ban hành chưa phù hợp với thực tế
Nội dung lấy ý kiến đánh giá Điểm trung bình
Nội dung chƣa tạo đƣợc động lực cho sự phát triển NNCM 3.75
Điều chỉnh, thay đổi nội dung chậm so với thực tiễn 3.71
Quá trình lấy ý kiến đóng góp chƣa thật rộng rãi, dân chủ 3.68
Sự phối hợp giữa ĐHQGHN và các đơn vị có liên quan trong quá 3.29 trình soạn thảo chƣa tốt
Thời gian chuẩn bị văn bản lâu; nội dung văn bản thể hiện không 3.18 rõ ràng
Hƣớng dẫn thiếu chính xác/thiếu chi tiết 3.18
Nhóm chịu tác động bởi chính sách chƣa đƣợc tham gia vào quá 3.36 trình làm chính sách
Từ kết quả trên (Bảng 4.5) cho thấy, nguyên nhân chính là do nội dung của
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
chính sách chƣa tạo động lực cho sự phát triển NNCM. Điều đó dẫn đến một thực tế,
những ngƣời trực tiếp thực thi chính sách chƣa có niềm tin vào những chuyển biến tích
cực sẽ đƣợc tạo ra trong thực tế khi chính sách đƣợc triển khai. Nguyên nhân tiếp theo
là do việc điều chỉnh, thay đổi nội dung của chính sách chậm so với thực tiễn. Điều
này tiếp tục cho thấy, nếu nội dung của chính sách chƣa phù hợp với thực tế thì các
nhà quản lý cũng chƣa có niềm tin vào việc nội dung đó sẽ đƣợc kịp thời điều chỉnh.
Bên cạnh đó, là việc trong quá trình làm chính sách nhóm đối tƣợng chịu tác động bởi
chính sách ít đƣợc tham gia góp ý, cũng nhƣ nội dung của chính sách chƣa đƣợc lấy ý
kiến rộng rãi và dân chủ. Ngoài ra, những vấn đề liên quan khác nhƣ thời gian chuẩn
bị văn bản lâu, nội dung văn bản thể hiện không rõ ràng, hƣớng dẫn thiếu chính
xác/thiếu chi tiết, sự phối hợp giữa ĐHQGHN và các đơn vị có liên quan trong quá
trình soạn thảo chƣa tốt là những vấn đề mà các nhà thực thi chính sách lo ngại.
128
4.5. Đánh giá tác động của chính sách phát triển NNCM đến hoạt động KH&CN
ở ĐHQGHN
Để đánh giá chính sách phát triển NNCM có tác động đến việc nâng cao hiệu quả
hoạt động KH&CN của các NNCM, luận án tiến hành lấy ý kiến đánh giá của 113 nhà
khoa học thuộc các NNC và 28 nhà quản lý liên trực tiếp đến việc thực thi chính sách từ
cấp ĐHQGHN đến cấp đơn vị thành viên của ĐHQGHN. Luận án sử dụng thang đo
Likert với 5 mức độ (các mức tác động từ 1 đến 5, trong đó 5 là mức tác động mạnh
nhất và 1 là mức tác động thấp nhất) để tiến hành lấy ý kiến đánh giá và phỏng vấn đối
tƣợng có liên quan. Dữ liệu đƣợc thu thập và xử lý bằng phần mềm SPSS… Trong đó,
chính sách phát triển NNCM gồm 3 nhóm chính sách là nhóm chính sách đầu tƣ, phát
triển nguồn nhân lực; nhóm chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu;
nhóm chính sách hợp tác và phát triển, kết quả thu đƣợc nhƣ sau:
4.5.1. Chính sách đầu tư, phát triển nguồn nhân lực
Qua thăm dò tác động của Nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực
đã đƣợc triển khai trong giai đoạn vừa qua (Bảng 4.7), đánh giá của các nhà khoa học,
các nhà quản lý cho thấy, có 18/21 nội dung của chính sách đƣợc các nhà khoa học,
các nhà quản lý đánh giá ở mức cao, trong đó tập trung vào những nội dung nhƣ “Hỗ
trợ CB tham gia các hội nghị, hội thảo trong nƣớc và quốc tế nếu có ấn phẩm xuất bản
trong hệ thống của ISI hoặc Scopus”; “Trƣởng NNCM đƣợc bố trí nơi làm việc và sinh
hoạt khoa học”; “Đƣợc truy cập thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI,
Sciendirect”; “Tuyển dụng đặc cách cán bộ khoa học có trình độ tiến sĩ”; “Hỗ trợ kinh
phí để xuất bản các công trình khoa học, sách chuyên khảo, các sáng chế”; “Hỗ trợ đối
với các công bố quốc tế trong hệ thống ấn phẩm của ISI hoặc Scopus”, còn lại chỉ 3/21
nội dung khác của chính sách đƣợc đánh giá ở mức độ trung bình, tập trung vào các
nội dung “CBKH có trình độ tiến sĩ trở lên, giảng dạy chuyên môn bằng ngoại ngữ sẽ
đƣợc ƣu tiên xét duyệt đề tài KH&CN với mức tối thiểu là 50 triệu đồng”; “NCS của
nhóm đƣợc hỗ trợ chỗ ở, tham gia thực hiện đề tài cùng NNC và hƣởng kinh phí theo
đề tài; ƣu tiên tham gia đề án 911 và các chƣơng trình”; “Sau 5 năm giảng dạy đƣợc
nghỉ 01 học kỳ để tập trung cho nghiên cứu”. Điều này phần nào cho thấy chính sách
đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực đã phát huy đƣợc hiệu quả tích cực trong thực tế.
Minh chứng rõ ràng nhất về nhận định này đó là số lƣợng nhà khoa học và chất lƣợng
nhà khoa học (xét theo học vị và chức danh) của ĐHQGHN đã tăng dần theo từng
năm. Tuy nhiên, nếu so với chỉ chỉ tiêu phát triển nguồn nhân lực đƣợc đặt ra trong
129
chiến lƣợc phát triển ĐHQGHN đến năm 2020 tầm nhìn 2030 theo từng giai đoạn thì
ĐHQGHN vẫn chƣa đạt đƣợc các chỉ tiêu này (Bảng 4.6).
Bảng 4.6: Tỉ lệ cán bộ khoa học năm 2018 so với chỉ tiêu năm 2015 và 2020
Tỉ lệ cán bộ khoa học so với chỉ tiêu theo từng giai đoạn
Tiêu chí Chỉ tiêu đạt đƣợc đến Chỉ tiêu năm Chỉ tiêu năm
năm 2018 đến 2015 đến 2020
Tỉ lệ cán bộ khoa học 55.3% 60% 62%
Tỉ lệ GS, PGS 17.4% 25% 25%
Tỉ lệ tiến sĩ, TSKH 50.6% 50% 60%
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn
(Trích nguồn: Chiến lược phát triển ĐHQGHN đến 2020 tầm nhìn 2030)
nhân lực chƣa phát huy đƣợc hiệu quả cao, theo tác giả luận án ngoài những vấn đề do
những hạn chế từ bản thân chính sách, thì còn nhiều vấn đề liên quan đến việc thực thi
và tính phù hợp của chính sách. Vấn đề này sẽ đƣợc tác giả luận án nêu ra ra trong
phần hạn chế của chính sách. Tất nhiên, mọi sự đánh giá đều mang tính tƣơng đối và
khó khăn, nhất là với các nhà khoa học bởi họ là ngƣời chịu tác động bởi chính sách
nhƣng lại không đƣợc trực tiếp tham gia vào quá trình hoạch định chính sách. Nhƣ
vậy, có thể thấy tính phù hợp của chính sách, thực tế quá trình triển khai chính sách
cũng cần đƣợc xem xét một cách thƣờng xuyên và thấu đấu hơn.
Bảng 4.7: Đánh giá tác động của nhóm chính sách đầu tư, phát triển
nguồn nhân lực đến sự phát triển NNCM
Điểm Nội dung khảo sát trung bình
Tuyển dụng đặc cách cán bộ khoa học có trình độ tiến sĩ 3.89
Đƣợc hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực hiện chính sách thu 3.68 hút các CBKH mạnh ở trong và ngoài nƣớc
Đƣợc cấp kinh phí để cử đi đào tạo, bồi dƣỡng ở trong nƣớc và 3.63 nƣớc ngoài
Ƣu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở các 3.62 PTN, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu...
CBKH nƣớc ngoài đƣợc đơn vị bố trí chỗ ở, phƣơng tiện đi lại, chỗ 3.56 làm việc và các trang thiết bị cần thiết cho nghiên cứu
130
Điểm Nội dung khảo sát trung bình
Đƣợc trả thu nhập thỏa đáng theo hiệu quả công tác trên cơ sở thỏa 3.64 thuận giữa đơn vị và CBKH
Trƣởng NNCM đƣợc bố trí nơi làm việc và sinh hoạt khoa học 3.93
Trƣởng NNCM đƣợc nhận hệ số trách nhiệm quản lý 0.6 3.47
Đầu tƣ kinh phí NC theo phƣơng thức đặt hàng, giao nhiệm vụ 3.67 KH&CN hoặc đề xuất của NNC
Định mức giảng dạy không quá 150 giờ tín chỉ quy chuẩn/năm 3.43
Sau 5 năm giảng dạy đƣợc nghỉ 01 học kỳ để tập trung cho nghiên cứu 3.23
Đƣợc ƣu tiên nhận hƣớng dẫn NCS (kể cả NCS nƣớc ngoài) và HVCH 3.49
NCS của nhóm đƣợc hỗ trợ chỗ ở, tham gia thực hiện đề tài cùng NNC
và hƣởng kinh phí theo đề tài; ƣu tiên tham gia đề án 911 và các 3.39
chƣơng trình học bổng khác
CBKH có trình độ tiến sĩ trở lên, giảng dạy chuyên môn bằng ngoại
ngữ sẽ đƣợc ƣu tiên xét duyệt đề tài KH&CN với mức tối thiểu là 50 3.32
triệu đồng
Hỗ trợ kinh phí để xuất bản các công trình khoa học, sách chuyên 3.89 khảo, các sáng chế
Ƣu tiên tiên cao nhất trong việc tham gia hoặc chủ trì biên soạn giáo 3.55 trình, bài giảng, tham gia các hội đồng đánh giá đề tài, dự án KH&CN
GS dƣới 50 tuổi, PGS dƣới 45 tuổi, TS, TSKH dƣới 40 tuổi đƣợc ƣu 3.41 tiên giao những nhiệm vụ đào tạo, NCKH đặc biệt;
Hỗ trợ CB tham gia các hội nghị, hội thảo trong nƣớc và quốc tế nếu 4.00 có ấn phẩm xuất bản trong hệ thống của ISI hoặc Scopus
Hỗ trợ đối với các công bố quốc tế trong hệ thống ấn phẩm của ISI 3.89 hoặc Scopus
Đƣợc truy cập thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI, 3.91 Sciendirect
Khen thƣởng, vinh danh 3.48
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
131
Từ kết quả trên (Bảng 4.6, Bảng 4.7), luận án rút ra kết luận quan trọng đánh
giá về nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực nhƣ sau:
a) Tính hiệu quả:
Chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực của ĐHQGHN đã cơ bản thành
công trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch thu hút, tuyển dụng, đào tạo đạt
chuẩn đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, với quy mô hợp lý và cơ cấu đồng bộ về
chuyên môn, trình độ, có kế thừa và phát triển. Trong đó, ĐHQGHN đã đặc biệt
chú trọng bồi dƣỡng những nhà khoa học đầu ngành, đầu đàn tƣơng lai, tạo môi
trƣờng thuận lợi để họ phát huy năng lực và lòng nhiệt huyết trong khoa học; Tổ
chức đƣợc các NNCM để xây dựng các dự án, đề tài khoa học có tính trọng điểm,
gắn quyền lợi và trách nhiệm của NNCM trong hoạt động KH&CN của ĐHQGHN.
Các NNCM đã tạo ra đƣợc sự gắn kết và dẫn dắt thế hệ trẻ, tuyền bá phƣơng pháp,
tri thức khoa học, điều này đƣợc thể hiện thông qua những đóng góp của NNCM
trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN đã đƣợc tác giả luận án phân tích
ở phần trên. Chú trọng bồi dƣỡng đào tạo cán bộ nghiên cứu trẻ, giao các nhiệm vụ
trọng trách về NCKH và giảng dạy, tạo điều kiện về mặt thời gian kinh phí cho các
cán bộ trẻ đi dự các hội nghị khoa học cấp quốc gia, quốc tế. Tạo cơ hội và những
điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học tham gia các hoạt động chuyên môn ở
trong và ngoài nƣớc, thực hiện chế độ định kỳ 5 năm 1 lần đƣợc nghỉ giảng dạy để
các nhà khoa học có thời gian trau dồi, học tập, NCKH, trao đổi học thuật và nâng
cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ.
Hiệu quả của nhóm chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực đƣợc minh
chứng bằng số lƣợng các nhà khoa học đƣợc ĐHQGHN thu hút tăng mạnh kể từ
năm 2012 đến nay, số lƣợng cán bộ đƣợc đào tạo và số công trình khoa học đƣợc
công bố tăng hàng năm, số lƣợng NNCM đƣợc công nhận cũng tăng dần kể từ năm
2014 đến nay.
b) Tính hiệu lực:
Từ thực tế mức độ đánh giá của các nhà khoa học và các nhà quản lý cũng nhƣ
những kết quả đạt đƣợc của chính sách đã đƣợc nêu trên đây cho thấy, chính sách đã
đạt đƣợc cơ bản mục tiêu đề ra, tuy ở những mực độ còn hạn chế, song chính sách đã
có những đóng góp quan trọng đối với việc phát triển đội ngũ nhân lực trong thời gian
qua ở ĐHQGHN. Cùng với nguồn số liệu bằng phƣơng pháp định lƣợng, các nhà khoa
132
học cơ bản đánh giá chính sách có tác động tích cực đến sự phát triển nguồn nhân lực,
tạo nền tảng cho việc xây dựng các NNCM .
Tất cả những điều này cho thấy các chính sách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân
lực của ĐHQGHN chủ yếu đã có hiệu lực. Tuy nhiên tính hiệu lực này chƣa cao vì
thực tế triển khai chính sách còn bộc lộ nhiều bất cập, nhƣ luận án đã đề cập trong
phần những hạn chế của chính sách.
4.5.2. Chính sách cải thiện môi trường và điều kiện nghiên cứu
Kết quả đánh giá tác động của chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện
nghiên cứu (Bảng 4.8) cho thấy, việc các NNCM đƣợc đầu tƣ trang thiết bị đồng
bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi và đƣợc bố trí phòng làm việc đã đƣợc các nhà
khoa học, các nhà quản lý đánh giá là có tác động tích cực đến sự phát triển của các
NNCM. Điều đó khẳng định rằng, việc đầu tƣ cơ sở vật chất trang thiết bị, tạo điều
kiện tốt nhất cho NNCM hoạt động KH&CN là vô cùng quan trọng và là sự đầu tƣ
đúng hƣớng của ĐHQGHN. Bằng chứng là các nhà khoa học và các nhà quản lý
đều đánh giá cao việc các NNCM “Đƣợc bố trí nơi làm việc”, “Đƣợc đầu tƣ trang
thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi”, “Sắp xếp và kiện toàn các tổ chức
NCKH”, “đổi mới cơ chế quản lý KH&CN”, “Phát triển nguồn lực thông tin”,
“Đƣợc ƣu tiên sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng chung”, “Hỗ trợ kinh phí
hoạt động thƣờng xuyên cho NNCM”. Bên cạnh đó, vẫn còn một số nội dung của
chính sách chƣa đƣợc các nhà khoa học đánh giá cao nhƣ việc tạo lập thị trƣờng
công nghệ, phát triển quỹ KH&CN, hỗ trợ khởi nghiệp, xây dựng tạp chí đạt chuẩn
quốc tế. Kết quả đánh giá của các nhà khoa học và các nhà quản lý cho thấy, các
nội dung nêu trên của chính sách chỉ ở mức trung bình (tức mức điểm dao động
trong khoảng từ 3,09/5 điểm đến 3,35/5 điểm). Nhƣ vậy, một số nội dung trong
chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu còn chƣa phát huy đƣợc
hiệu quả cao trong thực tế.
133
Bảng 4.8: Đánh giá tác động của nhóm chính sách cải thiện môi trường và điều kiện
nghiên cứu đến sự phát triển NNCM
Điểm Nội dung khảo sát trung bình
Đƣợc đầu tƣ trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi 3,82
Sắp xếp và kiện toàn các tổ chức NCKH (NNCM, Trung tâm NC, PTN 3,74 trọng điểm, PTN chuyên đề, khu chế thử…)
Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN 3,59
Đƣợc ƣu tiên sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng chung 3,61
Phát triển nguồn lực thông tin 3,74
Hỗ trợ kinh phí hoạt động thƣờng xuyên cho NNCM 3,67
Tạo lập thị trƣờng công nghệ 3,34
NNCM đƣợc bố trí phòng làm việc 3,85
Hỗ trợ khởi nghiệp 3,09
Phát triển quỹ KH&CN 3,35
Xây dựng tạp chí đạt chuẩn quốc tế 3,26
Từ kết quả trên (Bảng 4.8), luận án rút ra kết luận quan trọng đánh giá về nhóm
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu nhƣ sau:
a) Tính hiệu quả:
Chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu của ĐHQGHN đã cơ
bản thành công trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các NNCM bằng các dự án tăng
cƣờng NLNC, cải thiện môi trƣờng nghiên cứu, qua các dự án này các NNCM đã có
đƣợc cơ sở vật chất trang thiết bị hiện đại để triển khai các hoạt động KH&CN. Hiệu
quả của nhóm chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu đƣợc minh
chứng bởi hiệu quả trong các hoạt động KH&CN của NNCM ở ĐHQGHN, quy tụ
đƣợc các nhà khoa học tham gia nghiên cứu trong các NNCM, các PTN trọng điểm,
PTN chuyên đề…
b) Tính hiệu lực:
Từ thực tế mức độ đánh giá cao của các nhà khoa học và các nhà quản lý, cũng
nhƣ những kết quả đạt đƣợc của chính sách tạo điều kiện và môi trƣờng nghiên cứu
thuận lợi cho các nhà khoa học nhƣ nêu trên cho thấy, chính sách đã đạt đƣợc mục tiêu
134
quan trọng nhất, đó là quy tụ đƣợc các nhà khoa học làm việc trong các NNC và các
PTN…tuy ở những mức độ khác nhau, nhƣng điều đó phần nào khẳng định, những
đóng góp quan trọng trong việc tăng cƣờng tiềm lực KH&CN ở ĐHQGHN. Nhƣ vậy,
các chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu của ĐHQGHN đã cơ bản
phát huy hiệu lực. Tuy nhiên, tính hiệu lực còn chƣa cao bởi những hạn chế, bất cập
trong quá trình trển khai chính sẽ đƣợc tác giả luận án trình bày ở phần dƣới đây.
4.5.3. Chính sách hợp tác và phát triển
Qua việc thăm dò tác động của nhóm chính sách hợp tác và phát triển trong giai
đoạn vừa qua, đánh giá của các nhà khoa học, các nhà quản lý (Bảng 4.9) cho thấy,
ĐHQGHN có những thành công nhất định trong việc thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với
các cơ quan/tổ chức nghiên cứu nƣớc ngoài, điều này không chỉ đƣợc minh chứng bởi
những kết quả hợp tác quốc tế đƣợc tác giả luận án phân tích ở phần trên mà còn đƣợc
các nhà khoa học, các nhà quản lý đánh giá cao với tỉ lệ ủng hộ ở mức 4.09/5 điểm.
Bên cạnh đó, các hoạt động hợp tác với các cơ quan, doanh nghiệp trong nƣớc cũng đã
có những tín hiệu rất khả quan điều đó phần nào đƣợc minh chứng bởi những văn bản
ký kết hợp tác nghiên cứu, các hợp đồng chuyển giao công nghệ, các đề tài/dự án cùng
hợp tác triển khai nhƣ tác giả luận án trình bày rõ ràng ở trên, đồng thời đánh giá của
các nhà khoa học và các nhà quản lý cũng phần nào phù hợp với nhận định này (tỉ lệ
ủng hộ dao động trong khoảng 3.53/5 điểm đến 3.78/5 điểm)
Bảng 4.9: Đánh giá tác động của nhóm chính sách hợp tác và phát triển
đến sự phát triển NNCM
Điểm
Nội dung xin ý kiến đánh giá
trung bình
3,66
Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với doanh nghiệp
3,78
Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu trong nƣớc
3,53
Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các địa phƣơng
4,09
Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu nƣớc ngoài
Nhƣ vậy, chính sách hợp tác và phát triển của ĐHQGHN đã phát huy tác dụng
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
quan trọng trong việc tận dụng ngoại lực, phát huy nội lực để triển khai các nhiệm vụ
nghiên cứu trong thời gian qua. Điều này khẳng định chính sách đã phát huy hiệu lực
trong thực tế và cơ bản đem lại hiệu quả thiết thực cho ĐHQGHN, cũng nhƣ các bên
có liên quan.
135
4.6. Tiểu kết chƣơng 4
Những phần viết ở trên đã bàn về thực trạng chính sách phát triển nhóm nghiên
cứu mạnh trong hoạt động KH&CN ở ĐHQGHN. Đến đây, tác giả luận án sẽ nhìn lại
một số điểm chính.
Thứ nhất, về những ƣu điểm và hạn chế trong chính sách của Nhà nƣớc. Chính
sách của nhà nƣớc đã thành công trong việc khẳng định việc tự chủ của tổ chức
KH&CN. Tuy nhiên, bất cập cơ bản của chính sách là Nhà nƣớc vẫn nắm quyền làm
chủ các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nên sự tự chủ của các tổ chức KH&CN vẫn
còn giới hạn. Cụ thể là việc lựa chọn, đấu thầu, giao nhiệm vụ nghiên cứu vẫn cơ bản
thực hiện theo cơ chế hành chính, bao cấp dẫn đến hoạt động KH&CN khó phát triển
lành mạnh. Điểm cần nhấn mạnh thêm là chính sách của Nhà nƣớc đã hƣớng đến việc
đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm cho các NNCM thông qua các dự án nghiên cứu dài
hạn, quy mô lớn với thời gian và kinh phí không giới hạn. Ngoài ra, chính sách của
Nhà nƣớc cũng chú trọng việc đào tạo theo nhóm chuyên gia, đào tạo theo hƣớng
nghiên cứu, dự án nghiên cứu và đào tạo gắn liền với thực tiễn tại các cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp nƣớc ngoài tại Việt Nam hoặc các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp
ở nƣớc ngoài nhằm giải quyết những vấn đề nghiên cứu cụ thể của các nhà khoa học.
Một điểm đáng lưu ý nữa là chính sách nhà nƣớc cũng chú trọng đầu tƣ phát triển tiềm
lực và khuyến khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở GDĐH, đồng thời, thúc đẩy
phát triển các tổ chức KH&CN công lập, liên kết giữa các tổ chức Viện - Trƣờng-
Doanh nghiệp và thu hút chuyên gia nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài về
Việt Nam hợp tác nghiên cứu thông qua các dự án đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong
nghiên cứu KH&CN, các dự án tăng cƣờng năng lực nghiên cứu. Chính sách Nhà
nƣớc cũng chú trọng đến chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao trong
tƣơng lai bằng việc nâng chuẩn đối với ứng viên đào tạo tiến sĩ và các nhà khoa học
tham gia vào quá trình đào tạo tiến sĩ.
Thứ hai, về những ƣu điểm và hạn chế trong chính sách phát triển NNCM của
ĐHQGHN. Liên quan đến ƣu điểm, chính sách của ĐHQGHN đã cơ bản thành công
trong việc đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực KH&CN nói chung và NNCM nói riêng
thông qua việc thu hút, tuyển dụng đặc cách các nhà khoa học có trình tiến sĩ và đào
tạo cán bộ khoa học đạt chuẩn, với quy mô hợp lý và cơ cấu đồng bộ về chuyên môn,
trình độ, có kế thừa và phát triển từ đó hình thành 28 NNCM. Thêm nữa, chính sách
của ĐHQGHN cũng đã góp phần cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu cho các
136
nhà khoa học thông qua việc tái cơ cấu hoạt động KH&CN. Điểm cần nói thêm là
chính sách của ĐHQGHN cũng bƣớc đầu thành công trong việc đa dạng hoá nguồn
kinh phí phục vụ cho hoạt động KH&CN.
Về hạn chế, chính sách ĐHQGHN chƣa xác lập đƣợc lĩnh vực ƣu tiên để đầu
tƣ có trọng tâm, trọng điểm nhằm tối đa hóa lợi thế cạnh tranh của Trƣờng. Việc các
NNCM đƣợc thành lập không gắn liền với một chƣơng trình nghiên cứu cụ thể, các
chính sách đƣợc thể chế hóa nhằm ƣu đãi đối với các nhà khoa học chƣa đƣợc thực
thi là minh chứng cụ thể cho nhận định trên. Một điều cần phải khẳng định rằng, sự
xuất sắc của các NNCM ở ĐHQGHN không thể đạt đƣợc bằng việc tự công nhận mà
phải do cộng đồng khoa học và xã hội quyết định. Xét ở góc độ quản lý cho thấy,
ĐHQGHN thiếu các thiết chế để quản lý và điều chỉnh, cơ cấu tổ chức còn có sự
chồng chéo, cơ chế quản trị còn cồng kềnh, quan liêu, tƣ duy kiểu hành chính bao
cấp chƣa có sự thay đổi rõ ràng là những rào cản lớn đối với sự phát triển các tổ chức
KH&CN nói chung và các NNCM nói riêng. Bên cạnh đó, các quy định công chức
nhà nƣớc và khuôn khổ tài chính cứng nhắc là những rào cản lớn đối với vấn đề thu
hút các các giáo sƣ và nhà khoa học có năng lực trong và ngoài nƣớc đến ĐHQGHN
làm việc.
137
CHƢƠNG 5. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
5.1. Dẫn nhập
Nhƣ đã phân tích trong các chƣơng trƣớc, NNCM sẽ không thể hình thành và
phát triển nếu không có đƣợc môi trƣờng chính sách thuận lợi và sự hỗ trợ ban đầu,
trực tiếp từ khu vực Nhà nƣớc và trƣờng đại học. Từ việc nhận diện những ƣu điểm,
cũng nhƣ những điểm còn hạn chế của chính sách KH&CN của Nhà nƣớc nói chung
và chính sách phát triển NNCM của ĐHQGHN nói riêng, trong chƣơng này, tác giả
luận án trình bày kết quả nghiên cứu về những giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính
sách phát triển NNCM cho ĐHQGHN, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các NNCM
phát huy tối đa NLNC, sáng tạo của họ. Theo đó, chƣơng này sẽ tập trung vào những
nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, xác định rõ những thách thức đặt ra, những quan điểm, định hƣớng đề
xuất giải pháp hoàn thiện chính sách, mục tiêu đề xuất giải pháp chính sách và các
nguyên tắc đề xuất giải pháp chính sách.
Thứ hai, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và phát triển NNC từ một số trƣờng
đại học nƣớc ngoài để từ đó rút ra những nội dung quan trọng góp phần hoàn thiện
chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN.
Thứ ba, trình bày một cách có hệ thống các giải pháp hoàn thiện chính sách
phát triển NNCM cho ĐHQGHN.
5.2. Bối cảnh, quan điểm định hƣớng, mục tiêu, nguyên tắc đề xuất giải pháp
hoàn thiện chính sách phát triển NNCM
5.2.1. Bối cảnh bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, xu hƣớng
bao trùm của nền kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế dựa vào tri thức. Trong đó, tri
thức khoa học có vai trò quan trọng trong việc tạo ra những thành tựu công nghệ mới,
ứng dụng trong hoạt động sản suất, góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho giới công
nghiệp. Việt Nam đang chuẩn bị kết thúc quá trình thực hiện “Chiến lƣợc phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020” và đang hoàn tất “Chiến lƣợc phát triển kinh tế -
xã hội giai đoạn 2021-2030”. Chiến lƣợc mới này xác định rõ khoa học, công nghệ và
138
đổi mới sáng tạo là một đột phá chiến lƣợc, trong đó nêu rõ khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo là lực lƣợng sản xuất trực tiếp, là động lực chính của mô hình tăng
trƣởng kinh tế giai đoạn 2021- 2025 và 2026-2030. Chính vì vậy, phát triển NNCM sẽ
góp phần vào việc thực hiện Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 -
2030. Điểm cần nhấn mạnh thêm ở đây là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, cùng với việc tham các FTA thế hệ mới, đòi hỏi Nhà nƣớc phải có chính sách
phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của NNCM, để có đƣợc các sản phẩm khoa học
có giá trị, góp phần giúp Việt Nam hội nhập có hiệu quả vào khu vực và toàn cầu hóa.
Bên cạnh đó, sự bùng nổ của cuộc cách mạng về KH&CN, cùng những thay đổi
từ thị trƣờng và sự thay đổi trong chính sách ở tầm vĩ mô sẽ tạo ra không ít thách thức
nhƣng cũng là cơ hội cho ĐHQGHN và các trƣờng đại học trong việc đổi mới hoạt
động đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Trong bối cảnh đó, rõ ràng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ là thách
thức, có tác động rất lớn đến giáo dục đại học trong hiện tại và tƣơng lai. Các trƣờng
đại học, trong đó có ĐHQGHN sẽ đứng trƣớc nhiều thách thức rất lớn nhƣ không thể
dự đoán các kỹ năng mà thị trƣờng lao động sẽ cần do tốc độ thay đổi công nghệ diễn
ra quá nhanh; các hoạt động đào tạo và nghiên cứu đối mặt với các yêu cầu cải cách và
cạnh tranh mới. Giới công nghiệp sẽ có nhiều trải nghiệm quý giá mà giới hàn lâm đại
học chƣa kịp cập nhật. Theo nhận định của các chuyên gia, điều này làm giảm đáng kể
ranh giới và khoảng cách về tri thức, khả năng sáng tạo giữa khu vực đại học và công
nghiệp. Cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ đòi hỏi giáo dục và đào tạo, KH&CN phải
đào tạo đƣợc nguồn nhân lực chất lƣợng cao với những kỹ năng, kiến thức cơ bản lẫn
tƣ duy sáng tạo, khả năng thích nghi với các thách thức và yêu cầu công việc thay đổi
liên tục để tránh nguy cơ bị đào thải. Cũng nhƣ, không ngừng sáng tạo tri thức, làm
chủ tri thức, làm chủ công nghệ và vận dụng sáng tạo trong bối cảnh mới. Bên cạnh
đó, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đã và đang làm thay đổi căn bản cách thức
quản lý và thu hút nguồn lực để phát triển. Sự lớn mạnh của các tập đoàn công nghệ
nhƣ Uber, Grab khi họ ứng dụng CNTT kết nối và thỏa thuận với cánh lái xe nhằm
cung cấp một lƣợng rất lớn các phƣơng tiện đi lại cho khách hàng trong khi họ không
sở hữu một chiếc xe máy hay ô tô chính thức nào là một minh chứng rõ ràng cho vấn
đề này. Điều này đặt ra cho các trƣờng đại học trong vấn đề Uber, Grab nhân lực
KH&CN nhằm tối ƣu hóa sức mạnh và sức cạnh tranh trên thị trƣờng. Thực tế đã cho
thấy, NNCM trong các trƣờng đại học hiện nay họ mạnh lên bởi họ đang vận hành
139
theo cách thức mà Uber và Grab đang thực hiện. Tức thành viên của NNCM đƣợc tập
hợp dựa trên sự hợp tác, chia sẻ lợi ích và vận hành dựa trên sự thỏa thuận và niềm tin
của các thành viên NNC với ông trƣởng nhóm. Do đó, xu hƣớng tất yếu trong cả hiện
tại và tƣơng lai mà các trƣờng đại học phải hƣớng đến là phát triển các NNCM nhằm
tận dụng nguồn lực, nâng cao lợi thế và sự cạnh tranh.
Bên cạch tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ thì ĐHQGHN và
các trƣờng đại học công lập sẽ phải đối mặt với vấn đề tài chính. Nguồn kinh phí của
Nhà nƣớc dành cho hoạt động KH&CN thấp hơn nhiều so với các nƣớc trong khu vực
và thế giới (ở Việt Nam NSNN đầu tư cho KH&CN năm 2015 là 0,41% GDP, còn
châu Âu năm 2013 là 2,01%, Mỹ năm 2012 là 2,81%, Nga năm 2013 là 1,13%, Trung
Quốc năm 2013 2,01%, Nhật Bản năm 2013 là 3,47%, Hàn Quốc năm 2013 là 4,15%,
Singapore năm 2013 là 2,1%, Maylaysia năm 2011 là 1,07%) [51], trong khi đó, việc
cấp kinh phí nghiên cứu cho các trƣờng đại học còn thấp hơn nhiều so với các Viện,
trung tâm NC&TK (Bảng 5.1). Trên cơ sở so sánh tƣơng quan giữa nguồn lực khoa
học trong các trƣờng đại học và các viện, trung tâm NC&TK về kinh phí đƣợc đầu tƣ,
tác giả luận án nhận thấy rằng, có một sự chênh lệch rất lớn trong việc đầu tƣ tài chính
cho hoạt động NC&TK giữa khu vực đại học và khu vực các viện, trung tâm nghiên
cứu. Điều này, có vẻ nhƣ là một nghịch lý bởi trong khi nhân lực khoa học của các
trƣờng đại học cao gấp hơn 2 lần so với các viện, trung tâm NC&TK nhƣng kinh phí
cấp cho các trƣờng đại học chỉ bằng gần 1/7 so với các viện, trung tâm NC&TK. Điều
này dẫn đến ĐHQGHN, cũng nhƣ các trƣờng đại học khác gặp rất nhiều khó khăn
trong việc xây dựng các NNCM để triển khai các hoạt động KH&CN chất lƣợng cao.
Bởi để đầu tƣ phát triển NNCM cần nguồn tài chính lớn, đầu tƣ dài hạn và có những
chính sách đãi ngộ thích đáng đối với các nhà khoa học tài năng.
Bảng 5.1: Tương quan nhân lực và kinh phí được cấp giữa các viện,
trung tâm NC&TK và các trường đại học
Nhân lực (ngƣời)
Kinh phí nhà
Khu vực hoạt động
Chia theo trình độ chuyên môn
nƣớc cấp
Tổng
(tỉ đồng)
số
Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng
Các viện, trung tâm
25.347
2862
7493
14140
852
4.056,8
NC&TK
Trƣờng đại học
53.920
6765
26845
19396
914
593,4
(Nguồn: Tổng hợp từ Điều tra NC&TK 2014 và Điều tra doanh nghiệp 2014)
140
Trong những năm gần đây, nhà nƣớc đã đầu tƣ cho phát triển NNCM bằng việc
tài trợ cho các NNC thông qua Quỹ KH&CN quốc gia (Nafosted). Tuy nhiên, không
dễ để các NNC nhận đƣợc nguồn tài trợ từ Quỹ nếu không thực sự mạnh, tính đến nay
cũng chỉ có 3 NNCM đƣợc lựa chọn để đầu tƣ[58]. Trong đó, không có NNCM nào
của ĐHQGHN thuộc nhóm đƣợc đầu tƣ của Quỹ. Do vậy, cuộc cạnh quyết liệt giữa
NNC trong việc thể hiện sự xuất sắc nhằm nhận đƣợc sự đầu tƣ từ Quỹ sẽ vô cùng lớn.
Điều đó đặt ra cho ĐHQGHN phải có những điều chỉnh trong chính sách của mình để
nâng cao sức cạnh tranh cho các nhà khoa học.
Hơn nữa, thực tế cho thấy có sự khủng hoảng niềm tin của giới doanh nghiệp
vào khả năng nghiên cứu và triển khai của nhân lực hàn lâm. Sự mất niềm tin này có
sơ sở khi mà hoạt động R&D từ các trƣờng đại học còn rất yếu; có rất ít bằng chứng
cho thấy khả năng nghiên cứu và triển khai các sản phẩm có tính sáng tạo khoa học
cao, hoặc tính ứng dụng xã hội phổ biến. Mặt khác, sự mất niềm tin này cũng do nhiều
doanh nghiệp thiếu một tầm nhìn về mặt đầu tƣ nghiên cứu, theo đuổi các mục tiêu tài
chính ngắn hạn[14]. Thách thức này dẫn đến một thực tế là việc đầu tƣ cho hoạt động
KH&CN từ doanh nghiệp cho các trƣờng đại học công nhƣ ĐHQGHN sẽ là rất hạn
chế. Thời gian qua, ĐHQGHN đã có nhiều công trình nghiên cứu có tính ứng dụng
cao, nhƣng triển khai trong thực tiễn còn ở phạm vi nhỏ nên rất khó để thu hút nguồn
lực từ khu vực này để đầu tƣ phát triển nguồn lực và nâng cao hiệu quả hoạt động
KH&CN nếu không có những thay đổi mang tính chiến lƣợc. Bên cạnh đó, những tín
hiệu gần đây cho thấy, một số tập đoàn doanh nghiệp đang đầu tƣ lớn vào các trƣờng
đại học dân lập và thu hút các nhà khoa học giỏi với mức trả lƣơng rất cao so với các
đại học công lập, một trong những minh chứng rõ ràng nhất cho điều này là sự đầu tƣ
của tập đoàn Phenikaa,vào trƣờng Đại học Thành tây, Tập đoàn Vingroups đầu tƣ xây
dựng Đại học VinUni, Tập đoàn FLC đầu tƣ xây dựng Đại học FLC, Tập đoàn
Nguyễn Hoàng đầu tƣ vào đại học Hoa Sen, Đại học Quốc tế Hồng Bàng, Đại học Gia
Định và Đại học Bà Rịa-Vũng Tàu....Đặc biệt, với nguồn đầu tƣ lớn Đại học Phenikaa
đã thu hút nhiều chuyên gia xuất sắc từ các trƣờng đại học danh tiếng đến làm việc
nhƣ: GS.TS Nguyễn Văn Hiếu, GS.TS Phạm Thành Huy, PGS.TS Lê Anh Tuấn của
Đại học Bách Khoa Hà Nội, TS. Vƣơng Quân Hoàng, ĐH Tổng hợp Bruxelles, TS
Raja Das…[65] Đồng thời, xây dựng Quỹ nghiên cứu KH&CN, với quy mô 500 tỉ
đồng[64]. Nhƣ vậy, doanh nghiệp đang dần thay đổi nhận thức và họ cho thấy họ cần
các nhà khoa học giỏi thực sự để nghiên cứu cải tiến công nghệ, tạo ra vật liệu mới,
141
hoặc các sản phẩm ứng dụng …Với nguồn kinh phí lớn, cộng với việc thu hút đƣợc
các chuyên gia xuất sắc, một số trƣờng đại học ngoài công lập đang xây dựng những
NNC rất mạnh nhằm tăng tính cạnh tranh trong bối cảnh hiện tại và tƣơng lai. Đây tiếp
tục là một trong những thách thức không nhỏ đối với ĐHQGHN trong việc cạnh tranh
với các trƣờng đại học ngoài công lập và thu hút nguồn lực từ giới doanh nghiệp. Theo
đó, việc thu hút nguồn nhân lực tài năng đến ĐHQGHN làm việc đã khó thì việc giữ
đƣợc các nhà khoa học càng khó hơn. Việc nhiều nhà khoa học xuất sắc của Đại học
Bách khoa Hà Nội đã chuyển sang Đại học Phenikaa làm việc là một minh chứng rõ
ràng cho vấn đề này.
Ngoài ra, ĐHQGHN cũng chịu tác động lớn bởi sự điều chỉnh của chính sách vĩ
mô. Thực tế cho thấy, sau khi Quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ mới ra đời năm
2017 và Quy định về tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm
chức danh giáo sư, phó giáo sư đƣợc ban hành năm 2018 đã dẫn đến sự sụt giảm rất
lớn về số lƣợng NCS ở ĐHQGHN, đồng thời với đó là vấn đề NCS đã trúng tuyển
nhƣng thầy hƣớng dẫn không đạt chuẩn để hƣớng dẫn đã xảy ra ở lĩnh vực văn học của
ĐHQGHN. Điều này tiếp tục tạo ra những áp lực không nhỏ đối với ĐHQGHN trong
việc thu hút nguồn nhân lực và nâng cao chất lƣợng nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân
lực thông qua mô hình NNCM, khi nhân lực trẻ, sáng tạo, có động lực để nghiên cứu
và là nguồn sức mạnh của các NNC đó là các NCS, postdoc ngày các ít, trong khi kinh
phí đầu tƣ nhằm tuyển chọn đƣợc những ngƣời giỏi rất hạn chế.
5.2.2. Quan điểm định hướng đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách
phát triển NNCM
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 về phát triển KH&CN phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định rõ: Phát triển và ứng dụng KH&CN là
quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế
- xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần đƣợc ƣu tiên tập trung đầu tƣ trƣớc
một bƣớc trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực
quản lý của Nhà nƣớc và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ KH&CN đóng vai trò
quyết định thành công của sự nghiệp phát triển KH&CN; Đầu tƣ cho nhân lực
KH&CN là đầu tƣ cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của
dân tộc. Đảng và Nhà nƣớc có chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ
cán bộ KH&CN[26]. Đồng thời, trong Chiến lƣợc phát triển KH&CN giai đoạn 2011-
142
2020 cũng khẳng định: Tập trung đầu tƣ phát triển các tổ chức KH&CN trọng điểm;
liên kết các tổ chức KH&CN cùng tính chất, lĩnh vực hoặc liên ngành; hình thành các
NNCM đủ năng lực giải quyết những nhiệm vụ quốc gia. Nâng cao năng lực nghiên
cứu cơ bản của trƣờng đại học trọng điểm quốc gia. Phát triển các NNC trẻ có tiềm
năng trong các trƣờng đại học, viện nghiên cứu [30].
ĐHQGHN trong chiến phát triển đến năm 2020 tầm nhìn 2030 cũng xác định: Xây
dựng đại học định hƣớng nghiên cứu tiên tiến vừa là mục tiêu vừa là động lực để tăng
cƣờng các nguồn lực, phát triển đội ngũ cán bộ, đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng
cao, bồi dƣỡng nhân tài, nghiên cứu KH&CN đỉnh cao phục vụ nâng cao chất lƣợng
đào tạo và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Phát huy sức mạnh tổng
hợp từ mọi nguồn lực, phát huy tinh thần cộng đồng và uy tín của ĐHQGHN; nâng
cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm xã hội và sáng tạo của các đơn vị; đẩy mạnh liên
thông, liên kết, hợp tác toàn diện giữa các đơn vị trong ĐHQGHN với các cơ quan,
doanh nghiệp, địa phƣơng và các đối tác nƣớc ngoài để tạo các giá trị gia tăng và các
sản phẩm độc đáo; Phát triển toàn diện và bền vững, áp dụng các giải pháp mang tính
đột phá; ƣu tiên đầu tƣ phát triển các hƣớng nghiên cứu khoa học trọng điểm, mũi
nhọn; phát triển nhanh một số ngành, chuyên ngành, lĩnh vực, bộ môn, khoa và đơn vị
đạt trình độ quốc tế. Trong đó, một trong những giải pháp nhằm thực hiện chiến lƣợc
phát triển ĐHQGHN đó là phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, trong đó có một số
nhóm nghiên cứu đạt trình độ quốc tế[42]
Từ quan điểm, định hƣớng của Đảng, Nhà nƣớc và ĐHQGHN có thể thấy rằng,
NNCM trong trƣờng đại học là nơi hội tụ của các nhà khoa học chất lƣợng cao, những
ngƣời có năng lực tổ chức nghiên cứu, có khả năng kết hợp để xây dựng những hƣớng
nghiên cứu mới, giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu phức tạp, quy mô lớn, huy
động đƣợc các nguồn lực để triển khai hoạt động KH&CN nhằm tạo ra các công trình
nghiên cứu đỉnh cao ở tầm lý luận và thực tiễn, đóng góp tích cực cho sự phát triển
chung của nền khoa học thế giới và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Do đó,
đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực là đầu tƣ quan trọng nhất trong chiến lƣợc phát triển
của bất kỳ trƣờng đại học nào. Trong đó, đặc biệt là nguồn nhân lực khoa học chất
lƣợng cao có vai trò quan trọng nhất để khẳng định lợi thế và sức mạnh của các trƣờng
đại học. Cuộc cạnh tranh để dành lợi thế trong lĩnh vực khoa học và giáo dục trên cơ
sở những lợi thế so sánh càng trở lên khốc liệt hơn trong bối cảnh các tiêu chí xếp
hạng trƣờng đại học dựa trên các giá trị đƣợc tạo ra bởi hoạt động khoa học và đào tạo.
143
Trƣờng đại học nào thu hút đƣợc nguồn lực khoa học mạnh, trƣờng đại học đó sẽ có
sức cạnh tranh cao trong lĩnh vực khoa học và giáo dục ở tầm quốc gia và trên toàn
cầu. Tuy nhiên, để có đƣợc điều đó, vấn đề cơ bản là phải có đƣợc nguồn nhân lực
khoa học mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng. Trong đó các NNCM là nơi quy tụ của
các nhà khoa học tinh hoa có khả năng giải quyết những đề tài khoa học lớn cần phải
đƣợc đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm với những chính sách phù hợp.
Hạt nhân của việc điều chỉnh, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM trong các
trƣờng đại học thực chất là vấn đề giải quyết hài hòa, hợp lý các quan hệ lợi ích. Đó là
cơ chế đòn bẩy, tạo động lực phát triển, giải phóng tối đa mọi tiềm năng sáng tạo, cả
trong lĩnh vực vật chất và tinh thần của từng cá nhân, cũng nhƣ tập thể. Đối với
NNCM thì ngoài lợi ích vật chất, vấn đề quan trọng hơn là môi trƣờng học thuật (tự
do, minh bạch, bình đẳng và công bằng) thuận lợi cho sự sáng tạo. Nếu các giá trị và
chuẩn mực này không đƣợc đảm bảo hoặc bị vi phạm sẽ gây ra những tác động tiêu
cực, kìm hãm sự sáng tạo không chỉ của cá nhân mà còn kìm hãm sự phát triển của các
tổ chức khoa học.
Việc giải quyết hài hòa lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển cá tính sáng tạo của từng cá nhân với sự phát triển của tổ
chức. Việc đảm bảo công bằng về cơ hội phát triển, đánh giá khách quan những cống
hiến sáng tạo của từng nhà khoa học, từng tập thể khoa học, vinh danh tài năng và
những giá trị khoa học, trả thu nhập thỏa đáng cho các nhà khoa học tài năng, tạo
thuận lợi các nhà khoa học trẻ phát triển là những điều kiện quan trọng cho sự phát
triển một môi trƣờng học thuật, sáng tạo.
Việc xây dựng mạng lƣới hỗ trợ các nhà khoa học trong việc chuyển giao kết
quả nghiên cứu vào thực tiễn, kết nối nhà khoa học với cơ quan/doanh nghiệp sẽ góp
phần mở rộng mối quan hệ hợp tác của các NNCM với các thực thể khác trong xã hội.
Bên cạnh đó, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông cũng
cho thấy các nhà khoa học, các NNCM sẽ mở rộng không gian hoạt động với sự kết
hợp giữa không gian thực và không gian ảo để triển khai các hoạt động KH&CN và
mở rộng tầm ảnh hƣởng thông qua việc công bố, giới thiệu các sản phẩm KH&CN đến
cộng đồng xã hội. Vì vậy, việc đầu tƣ mạnh mẽ cho việc phát triển hệ thống công nghệ
thông tin và truyền thông sẽ góp phần quan trọng làm gia tăng các kết nối trong cộng
đồng khoa học và nâng tầm ảnh hƣởng của các nhà khoa học, các NNCM thông qua
hoạt động truyền thông một cách công khai và minh bạch.
144
5.2.3. Mục tiêu đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn hiện chính sách phát triển NNCM
Trên cơ sở sứ mạng, tầm nhìn, mục tiêu phát triển của ĐHQGHN[42], tác giả
luận án xác định mục tiêu đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn hiện chính sách phát triển
NNCM, cụ thể nhƣ sau:
Xây dựng và quy tụ đƣợc nguồn nhân lực khoa học chất lƣợng cao, có năng
lực, trình độ, bản lĩnh để phát triển thành các NNCM, có khả năng tạo ra tri thức khoa
học, công nghệ; tiếp thu, làm chủ tri thức khoa học, công nghệ tiên tiến, đổi mới sáng
tạo, phát triển thành tựu KH&CN, vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện của đất
nƣớc và áp dụng một cách hiệu quả nhất vào thực tiễn của Việt Nam, thúc đẩy nhanh
tiến trình hội nhập quốc tế.
Động viên khích lệ tinh thần, đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm đối với đội ngũ
các nhà khoa học, nhất là các nhà khoa học trình độ cao, cũng nhƣ tạo điều kiện thuận
lợi về môi trƣờng nghiên cứu, nguồn tƣ liệu, sơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại,
đồng bộ để các nhà khoa học phát huy năng lực, khả năng sáng tạo trong hoạt động
KH&CN.
5.2.4. Nguyên tắc đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển
NNCM
Trên cơ sở sứ mạng, tầm nhìn, mục tiêu phát triển của ĐHQGHN[42], tác giả
luận án xác định nguyên tắc đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát
triển NNCM cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, đảm bảo chính sách phát triển NNCM phải tạo ra động lực để quy tụ
đƣợc các nhà khoa học có chất lƣợng cao, phát huy năng lực sáng tạo cống hiến tiềm
năng trí tuệ nhằm phát triển và duy trì một môi trƣờng nghiên cứu hợp tác; Phát triển
các lĩnh vực sở trƣờng trong nghiên cứu và đào tạo; Tạo nền tảng cho sự phát triển
kinh tế và xã hội trong tƣơng lai, đóng góp thiết thực trong việc phát triển triển kinh tế
xã hội của đất nƣớc; Củng cố và tăng cƣờng các trƣơng trình đào tạo; Đạt đƣợc nguồn
tài trợ từ các quỹ hỗ trợ nghiên cứu trong và ngoài nƣớc cũng nhƣ cung cấp cho xã hội
những KQNC hữu ích, kịp thời và hiệu quả.
Thứ hai, đảm bảo sự đãi ngộ xứng đáng cho những thành quả nghiên cứu có
chất lƣợng cao do NNCM đã tạo ra. Trong đó, đảm bảo việc đánh giá đúng, công bằng
năng lực và cống hiến của các nhà khoa học tài năng thông qua hệ thống đánh giá,
công nhận về trình độ và năng lực chuyên môn, về khả năng và thành tích hoạt động
khoa học; Biểu dƣơng, tôn vinh cống hiến bằng những danh hiệu vinh dự, cao quý và
145
nhiều hình thức động viên, khích lệ khác; đảm bảo thu nhập thỏa đáng theo vị trí, năng
lực và hiệu xuất công việc, các nhu cầu sinh hoạt phù hợp với tài năng và đóng góp
của các nhà khoa học; đảm bảo các phần thƣởng vật chất tƣơng xứng đối với những
đóng góp có giá trị cao cho phát triển ĐHQGHN và đóng góp cho sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nƣớc.
Thứ ba, đảm bảo các điều kiện cần thiết về nguồn lực cũng nhƣ cơ chế quản lý
phù hợp để cho các nhà khoa học tài năng có thể phấn đấu vƣơn lên sáng tạo, đổi mới,
đề xuất các giải pháp đột phá phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, xã hội. Cung cấp
các điều kiện vật chất cần thiết phù hợp với yêu cầu của công việc.
Thứ tư, đảm bảo sự cân bằng trong đãi ngộ, tôn vinh đối với các công trình/sản
phẩm nghiên cứu đƣợc tạo ra bởi các nhà nghiên cứu. Đây là một nguyên tắc quan trọng
để khắc phục trình trạng đãi ngộ, tôn vinh với những sản phẩm công bố khác nhau đƣợc
tạo ra bởi các nhà khoa học. Thực tế đã cho thấy, các nhà làm chính sách hiện nay đang
ƣu đãi và tôn vinh cho những bài báo công bố quốc tế (ISI/Scopus), nhƣng lại không có
chính sách ƣu đãi, tôn vinh tƣơng xứng cho những giải pháp hữu ích hay những sản
phẩm phục vụ dân sinh, có tính ứng dụng cao, đem lại hiệu quả phát triển kinh tế xã hội.
Trong khi để tạo ra những sản phẩm có tính ứng dụng các nhà khoa học phải lăn lộn với
thực tế, phải có đủ nhiệt huyết để theo đuổi sản phẩm tới cùng và nhiều khi phải chịu
nhiều rủi ro hơn so với việc công bố các bài báo quốc tế. Điều này, ở góc độ nào đó
chính sách đang định hƣớng các nhà khoa học nghiên cứu để công bố quốc tế thay vì
nghiên cứu ứng dụng để phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc.
5.3. Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng và phát triển NNCM
5.3.1. Kinh nghiệm xây dựng NNCM của Đức
Vào đầu năm 2018, tôi có dịp phỏng vấn Giáo sƣ Joachim Spangenberg, một
chuyên gia nghiên cứu thuộc một Viện nghiên cứu lớn của Đức (Sustainable Europe
Research Institute SERI Germany) khi ông sang hợp tác nghiên cứu với Viện Chính
sách và Quản lý thuộc Trƣờng ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN. Tôi đã trao đổi với Giáo
sƣ về luận án của mình và xin phỏng vấn Giáo sƣ về kinh nghiệm xây dựng NNCM ở
Đức (Phụ lục 7), sau đây là những tổng hợp và rút ra một số đặc điểm về chính sách
đối với các NNC, NNCM ở Đức hiện nay:
1) Nhóm nghiên cứu được xây dựng và thành lập linh hoạt
Với hệ thống học thuật của Đức (ở cả 3 lĩnh vực là nghiên cứu cơ bản, nghiên
cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản - ứng dụng), thì phần lớn các NNC đều là một
146
phần không thể thiếu của các trƣờng đại học và các viện nghiên cứu. Thông thƣờng,
mỗi khoa ở Viện hay trƣờng đại học thƣờng có khoảng 50 thành viên và mỗi khoa có
vài NNC, mỗi NNC có từ 2 - 3 giáo sƣ. Những NNC này thƣờng đƣợc thành lập bởi
những nhà nghiên cứu có chung mối quan tâm. Viện hay trƣờng sẽ công nhận một
Nhóm là chính thức hoặc không chính thức. Lúc đầu nhóm có thể là không chính thức,
nhƣng sau đó sẽ đƣợc công nhận chính thức. Để một NNC đƣợc công nhận là chính
thức thƣờng phải mất khoảng thời gian là 3 tuần nhƣng cũng có thể lên đến 6 tháng.
Về quy trình lập NNC, nếu một vị giáo sƣ đại học có 3 NCS và vị GS này có
một đề tài rất hay, muốn lập một NNC. Những ngƣời có trách nhiệm ở các đơn vị học
thuật sẽ hỏi vị GS này các câu hỏi, rồi chuyển phần ghi chép cho lãnh đạo của mình và
vị GS trên sẽ nhận đƣợc sự đồng ý. Việc này rất dễ vì không liên quan đến tiền, NNC
không nhận đƣợc tiền, đây là một đặc trƣng rất đặc thù của Đức. Các NNC có thể đƣợc
nhận thêm phòng để họp nhóm nhƣng không đƣợc thêm tiền. Nhƣng khi một cá nhân
nào đó có một dự án hay và lập một NNC gồm các đồng nghiệp, lúc đó tiền là cho dự
án. NNC sẽ đƣợc ghi nhận về mặt học thuật chứ không phải nhận tiền.
Chính vì thế, đặc trƣng nổi bật ở Đức đó là các NNC tồn tại và có “tuổi thọ”
gắn liền với thời hạn của các dự án nghiên cứu. Viện nghiên cứu ở Đức có nhiều quy
mô. Một viện nhỏ có thể không có trung tâm hay NNC. Cả viện có thể chỉ có một
NNC với 2 giáo sƣ, 2 trợ lý. Tất cả phụ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu. Cấp trung tâm
vẫn là cấp hợp pháp nhƣng NNC vẫn linh hoạt hơn do dễ thành lập, dễ quyết định thời
gian hoạt động, không phải 3 hay 5 năm mà thời gian của nhóm kéo dài cùng dự án.
Thông thƣờng, ở Đức, không có dự án dƣới 3 năm và thời gian tối ƣu nhất là 3 - 5 năm
vì một lý do đơn giản: các đơn vị học thuật muốn các NCS phải hoàn thành luận án
trong thời gian làm dự án, thực tế thời gian hợp pháp để một NCS hoàn thành luận án
là 3 năm.
2) Chính sách của Đức dành cho các NNC và NNCM
Đối với hoạt động của các NNC thì chính sách của nhà nƣớc giữ vai trò quan
trọng, đặc biệt là trong phân bổ kinh phí thực thi. Khi mỗi NNC tiến hành làm dự án,
họ cần rất nhiều loại chi phí nhƣ chi phí tài liệu, chi phí nhân sự, chi phí hành chính.
Chi phí hành chính là để hỗ trợ dự án, chiếm 25-40% tiền dự án. Một phần số tiền đó
thuộc về Trƣờng để lo việc hành chính, 1 phần thuộc về khoa và có thể sử dụng tiền đó
để làm việc với NNC, có thể thuê sinh viên vì sinh viên cũng đƣợc coi là nhân sự và
sinh viên cũng đƣợc coi nhƣ một thứ cần mua cho dự án nhƣ máy tính, giấy…
147
Đối với nguồn tài chính đƣợc cung cấp, thông thƣờng, nguồn tài chính phụ
thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu. Nếu nghiên cứu thuộc ngành cơ khí hay máy móc, tiền
có thể đến từ các doanh nghiệp, các lĩnh vực khác có thể nhận tiền từ chính quyền từ
cấp địa phƣơng, quốc gia hay liên minh châu Âu.
Về sự hỗ trợ dành cho giảng viên, các nhà nghiên cứu khi tham gia dự án, thông
thƣờng, trƣờng đại học có các loại chƣơng trình nghiên cứu. Khoa/Viện sẽ gửi đề tài
hàng năm. Nếu là đề tài ƣu tiên thì ngoài tiền cơ bản để trả lƣơng giáo sƣ, các đề tài
này sẽ có thêm các khoản tiền khác nhƣ để thuê NCS. Các dự án ƣu tiên này thƣờng
kéo dài 3-4 năm.
Về vấn đề thu nhập/lƣơng khi tham gia các dự án, ở Đức có một đặc điểm là,
nếu một nhà nghiên cứu là ngƣời của trƣờng và làm dự án, anh ta vẫn đƣợc lƣơng từ
trƣờng và không nhận lƣơng dự án. Anh ta chỉ có thể nhận từ dự án các chi phí nhƣ chi
phí đi lại để tham dự hội thảo quốc tế. Ở Đức, lƣơng giáo sƣ cố định và đƣợc trả 1 năm
2 lần, vào mùa hè và cuối năm. Lƣơng là cố định, vì thế anh ta có thể thỏa thuận với
trƣờng về số giờ giảng. Nếu làm dự án, anh có thể giảm giờ dạy.
Bên cạnh các NNC đƣợc tổ chức và hoạt động linh hoạt, thì ở Đức, tuy chỉ có số
lƣợng nhỏ, song cũng có mô hình các NNCM thông qua các chƣơng trình nghiên cứu
xuất sắc. Ở Đức có khoảng 50 NNCM phân bố ở các lĩnh vực khác nhau, phân bổ đều ở
khoa học xã hội, khoa học tự nhiên,... và phân bổ đều giữa các trƣờng và các viện.
Tiêu chí lựa chọn NNCM đó là, họ nộp đề cƣơng trong vòng 5 năm. Đề cƣơng
phải đạt 3 tiêu chí: có tham vọng, phù hợp và thực tiễn. Tham vọng là tiêu chí khoa
học, thực tiễn là tiêu chí liên quan đến tài chính và phù hợp là tiêu chí kinh tế - xã hội.
Nhóm sẽ đƣợc đánh giá dựa trên các công bố khoa học. Nếu họ chƣa có công bố,
không ai tin họ có thể hoàn thành dự án trong 5 năm tới. Vậy tiêu chí là kết hợp công
bố khoa học và đề cƣơng.
Điểm khác biệt giữa NNC và NNCM chỉ là tiền dành cho dự án. Các khoa/viện
đƣợc chính phủ chọn sẽ nhận thêm tiền, nhƣng tiền này không dành cho các NNC mà
cho các cấp cao hơn. Thành viên NNC sẽ nhận đƣợc chứng nhận.
3) Đánh giá hoạt động của NNC và NNCM
Một trong những đặc trƣng tiêu biểu ở Đức đó là, nhà nƣớc không đánh giá riêng
từng NNC, mà chỉ cần xem xét công việc dự án tốt hay không. Việc đánh giá đƣợc thực
hiện hàng năm để, nếu kết quả không tốt, NNC không nên làm việc cùng nhau.
148
Với các dự án lớn, ở Đức, thƣờng có bên đánh giá ngoài độc lập. Bên đánh giá
này thƣờng thực hiện đánh giá kết quả nghiên cứu hàng năm thông qua việc tham gia
các buổi họp, phỏng vấn,… bên đánh giá độc lập này đƣợc trả tiền bởi nhà tài trợ. Bên
cạnh đó, khi thực hiện một dự án, các NNC cần nộp bản báo cáo một năm một lần để
bên tài trợ kiểm tra, và bên tài trợ cũng đánh giá kết quả dự án hàng năm. Bên tài trợ
sẽ có nhóm nhà khoa học để kiểm tra chất lƣợng dự án. Thông thƣờng, không có phần
đánh giá của xã hội chỉ trừ các nghiên cứu có tính ứng dụng. Các đánh giá xã hội này
thƣờng ở cấp liên bang và bởi ngƣời đứng đầu trƣờng đại học, nhà hoạch định chính
sách, chính trị gia, thƣơng gia,….
Về đánh giá của xã hội ở các cấp, chỉ đƣợc thực hiện khi liên quan đến quyết
định câu hỏi nghiên cứu và hƣớng đi, và không đối với các nội dung chi tiết, phƣơng
pháp nghiên cứu,… Nhƣng khi nghiên cứu là một dạng nghiên cứu giải quyết vấn đề
thì các trƣờng đại học/viện nghiên cứu cần thảo luận nhiều với các chính trị gia,
thƣơng gia, bên hành chính, họ chính là ngƣời biết rõ nhất về vấn đề đang diễn ra, vấn
đề cần giải quyết.
Về báo cáo định kỳ 1-2 năm, còn tùy thuộc nhà tài trợ là ai, có nhà tài trợ yêu cầu
báo cáo 6 tháng/lần. Nhƣng nhƣ thế sẽ không tốt vì anh phải dành nhiều thời gian viết
báo cáo thay vì làm nghiên cứu, thông thƣờng ở Đức hoặc liên minh châu Âu thì một
năm một lần. Các báo cáo định kỳ thƣờng đƣợc gửi cho nhà tài trợ. Nếu nhà tài trợ là
chính phủ thì họ sẽ gửi 01 bản copy cho Trƣờng. Đôi khi báo cáo chỉ có 2 trang ở dạng
bảng câu hỏi có/không, nhƣng vào năm thứ 2 và 3 của dự án, các NNC sẽ phải công bố
kết quả nghiên cứu trên tạp chí quốc tế có phản biện. Trong trƣờng hợp không có công
bố, họ sẽ yêu cầu bạn báo cáo chi tiết hơn nữa. Nếu dự án đƣợc đánh giá bởi nhà tài trợ
thì các NNC không phải lo về phần trƣờng đại học, nhƣng công bố quốc tế thì luôn phải
phản biện do đó là phần rất quan trọng để đánh giá thành công của một dự án.
Ngoài ra, hiệu quả của các chƣơng trình nghiên cứu/dự án còn đƣợc đánh giá
thông qua các công bố quốc tế, đặc biệt là các tạp chí nằm trong danh mục ISI. Đây là
tiêu chí đánh giá căn bản của chính phủ đối với các NNC vào năm 2 và 3. Tiền tăng
hay giảm sẽ phụ thuộc việc có công bố hay không. Khi xin một dự án, các NNC phải
kèm danh sách các công bố trên tạp chí ISI. Tất cả các công bố này đều không đƣợc
tiền từ trƣờng đại học và viện nghiên cứu. Ngƣời châu Âu cho rằng nghiên cứu khoa
học cũng nhƣ bóng đá, anh nhận lƣơng để đá, cũng nhƣ giáo sƣ để viết bài.
149
Về đánh giá NNCM, tất cả các nhóm này đều đƣợc đánh giá khi đƣợc 1/2 dự án
(trong quá trình thực hiện). Dự án kết thúc sau 5 năm. Nếu NNCM làm tốt, họ có thể
xin thêm các đề tài/dự án khác, nếu chƣa tốt, họ sẽ bị loại.
Về thời hạn tồn tại của NNCM, NNCM không phải là mãi mãi. Ở Đức đã mạnh
không nhất thiết là đang mạnh. Tiền nghiên cứu chỉ dành cho Nhóm hiện tại đang mạnh.
4) Những gợi mở đối với Việt Nam từ chính sách và hiện trạng các NNCM ở Đức
Qua thảo luận, GS. Joachim Spangenberg đã gợi mở về chính sách phát triển
NNCM cho các trƣờng đại học, các đơn vị học thuật của Việt Nam. Từ kinh nghiệm
của GS. Joachim Spangenberg, việc xây dựng và vận hành các NNC/NNCM nên linh
hoạt và chú trọng vào các dự án hay chƣơng trình nghiên cứu mà các nhóm theo đuổi.
Theo đó, các dự án/chƣơng trình nghiên cứu nên đƣợc đánh giá bởi một bên độc lập
nhƣ nhà tài trợ sẽ tốt và hiệu quả. Theo ông, một NNC hiệu quả là phải giải quyết
đƣợc vấn đề nghiên cứu. Và cứ khi nhóm trả lời đƣợc một câu hỏi thì sẽ có câu hỏi,
một nghiên cứu mới xuất hiện. Tiêu chí để chọn (thêm) thành viên của nhóm không
nằm ở chỗ họ có kinh nghiệm tìm kiếm nguồn tài trợ hay số lƣợng bài giảng mà phụ
thuộc việc anh có gì để góp phần giải quyết vấn đề nghiên cứu. Một khi vấn đề/câu hỏi
nghiên cứu đƣợc giải quyết họ sẽ có công bố tốt.
Ngoài ra, mỗi trƣờng cần có 01 trung tâm xuất bản với vài chuyên gia là ngƣời
từ các nƣớc nói tiếng Anh, các tác giả đều gửi bài qua đây. Kinh phí cho trung tâm này
nên khoảng 2% ngân sách của Trƣờng. Các tác giả cũng có thể học hỏi đƣợc nhiều từ
những nhà nghiên cứu nói tiếng Anh này để tránh mắc lỗi trong những lần sau.
5.3.2. Kinh nghiệm xây dựng đơn vị nghiên cứu của Đại học RMIT, Australia
Đại học RMIT hay còn gọi là Viện Công nghệ Hoàng gia Melbourne là viện đại
học lâu đời thứ ba tại bang Victoria và là cơ sở giáo dục đại học công lập lâu đời thứ 8
tại Úc. Hiện nay, RMIT là nhà cung cấp giáo dục lớn nhất tại Úc với số lƣợng nhập
học của trƣờng vào khoảng 75,000 học sinh, bao gồm cả ba cấp độ dạy nghề, đại học
và sau đại học.
Đại học RMIT đƣợc xếp hạng trong 13 trƣờng đại học hàng đầu tại Úc và thứ
21 trên thế giới trong các trƣờng đại học dƣới 50 tuổi (2018 QS Top 50 Under - 50 chỉ
số); Thứ 85 trên thế giới về các hồ sơ quốc tế của đội ngũ giảng viên; Trong top 21
trƣờng đại học trên thế giới (2018 QS World University Rankings - theo chủ đề); 250
trƣờng đại học hàng đầu thế giới. RMIT là trƣờng đại học đƣợc đánh giá 5 sao theo
QS. Đánh giá này đƣa đại học RMIT sánh ngang với các trƣờng đại học hàng đầu thế
giới về sự xuất sắc trong giáo dục đại học [74].
150
Việc tham khảo kinh nghiệm của RMIT thông qua xem xét chính sách thành lập
cấu trúc nghiên cứu của RMIT là cơ sở quan trọng cho việc đề xuất hoàn thiện chính
sách phát triển NNCM của ĐHQGHN, sau đây là một số ghi nhận của tác giả luận án
về chính sách thành lập cấu trúc nghiên cứu của RMIT[75].
Hoạt động nghiên cứu của RMIT đƣợc dắt dẫn bởi 7 NNC, 23 trung tâm nghiên
cứu thuộc khoa, 4 trung tâm nghiên cứu thuộc đơn vị thành viên và 4 viện nghiên cứu
lớn ở cấp độ đại học.
Để phác thảo khuôn khổ nghiên cứu, trong đó bao gồm cá nhân nhà nghiên cứu,
NNC, trung tâm nghiên cứu và các viện nghiên cứu, Đại học RMIT ban hành những
chính sách rõ ràng đối với hoạt động của các cá nhân và đơn vị nghiên cứu này với
mục tiêu tối ƣu hóa và hỗ trợ các mục tiêu nghiên cứu chính của RMIT thông qua việc
xác định và thiết lập cấu trúc 'nhóm', 'Trung tâm', và 'Viện' nghiên cứu (Hình 5.1). Đại
học RMIT công nhận bốn cấp độ của hoạt động nghiên cứu nội bộ, theo thứ tự tăng
dần dựa trên quy mô và độ phức tạp của vấn đề nghiên cứu, bao gồm:
Hình 5.1: Sơ đồ khung chính sách cấu trúc nghiên cứu của RMIT
(Nguồn: RMIT University)
151
- Cá nhân các học giả: Cá nhân mỗi học giả tại RMIT không nhất thiết phải
thuộc về một NNC, Trung tâm nghiên cứu, hoặc viện nghiên cứu, mà với trách nhiệm
giảng dạy và lãnh đạo, tất cả các học giả sẽ thực hiện các hoạt động nghiên cứu, mà về
bản chất những hoạt động nghiên cứu này đƣợc thảo luận và thống nhất nhƣ một phần
của quá trình kế hoạch công tác.
Nhóm nghiên cứu: NNC đƣợc đặt tại các Khoa và thƣờng thực hiện nghiên cứu
tập trung trong một lĩnh vực chuyên ngành. Mặc dù một NNC thƣờng liên quan đến
đội ngũ giảng viên từ bên trong một Khoa cụ thể, song một NNC có thể bao gồm các
thành viên từ các Khoa khác.
- Trung tâm Nghiên cứu: Trung tâm nghiên cứu đƣợc đặt tại các Khoa và/hoặc
Trƣờng thành viên, đƣợc công nhận bởi khả năng của họ để thực hiện những nghiên
cứu có ảnh hƣởng lớn, đƣợc công nhận ở tầm quốc gia. Một Trung tâm Nghiên cứu có
thể bao gồm các thành viên từ nhiều Khoa, những ngƣời làm việc trong cùng lĩnh vực
chuyên môn.
- Các viện nghiên cứu: Viện nghiên cứu là các đơn vị ở cấp độ đại học, mà ở đó
quy tụ các nhóm đa ngành với nhiều học giả để thực hiện nghiên cứu có tính tập trung
vào những lĩnh vực nghiên cứu có ảnh hƣởng lớn, nhằm giải quyết các câu hỏi nghiên
cứu phức tạp có ý nghĩa quốc gia và toàn cầu.
Theo đó, chính sách thành lập đơn vị nghiên cứu của RMIT tập trung vào 5 nội
dung chính sau đây:
1) Cơ sở thành lập đơn vị nghiên cứu
Để đƣợc công nhận là các đơn vị nghiên cứu chính thức, các đơn vị nghiên
cứu này (NNC, trung tâm nghiên cứu, viện nghiên cứu) phải đáp ứng các tiêu chí cơ
bản nhƣ số cán bộ chủ chốt (NNC: ít nhất 3, TTNC: ít nhất 6, Viện NNC ít nhất bằng
hoặc hơn TTNC), năng lực nghiêu cứu, hiệu quả nghiên cứu thông qua các KQNC
đƣợc đánh giá và các khoản kinh phí huy động đƣợc trong hoạt động nghiên cứu
(Hộp 5.1).
152
Hộp 5.1: Tiêu chí thành viên và thành viên nòng cốt của NNC, TTNC, Viện NC
Thành viên nòng cốt: để trở thành thành viên nòng cốt, một giảng viên phải có
tổng cộng ít nhất 5 KQNC trong 3 năm gần nhất, thuộc danh mục các nghiên cứu
xuất sắc của Úc do ERA (Excellence Research in Australia) xếp hạng. Sách và các
công trình tiêu biểu khác sẽ được cân đối một cách thích hợp và có thể được chấp
nhận thay cho 5 KQNC riêng biệt. RMIT công nhận các KQNC khác gồm các ấn
phẩm có thể thích hợp trong các ngành như sáng tạo nghệ thuật, kiến trúc, các
nghiên cứu đa phương tiện …
Thành viên: Để trở thành một thành viên của NNC, trung tâm nghiên cứu hay viện
nghiên cứu, một học giả phải đáp ứng các kỳ vọng do các tổ chức nghiên cứu này đặt
ra. Trưởng nhóm, Giám đốc Trung tâm, Giám đốc Viện nghiên cứu là người chịu
trách nhiệm tuyển chọn thành viên và quyết định công nhận thành viên của đơn vị.
(Nguồn: RMIT University)
Các đơn vị nghiên cứu trong cấu trúc nghiên cứu chung của RMIT đƣợc thành
lập dựa trên các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể và đi kèm với đó là các
nguồn lực để đảm cho các hoạt động nghiên cứu.
Việc thành lập các đơn vị nghiên cứu đòi hỏi hƣớng nghiên cứu của đơn vị đó
phải phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu ƣu tiên đƣợc RMIT xác định trong kế hoạch
nghiên cứu của Trƣờng (giai đoạn 5 năm).
Tiêu chí để thành lập một đơn vị nghiên cứu tùy thuộc vào quy mô và độ phức
tạp của vấn đề nghiên cứu. Trong đó, bao gồm tiêu chí về nhân lực chủ chốt (được
đánh giá trên cơ sở KQNC đã công bố), tài chính (kinh phí huy động được để thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu), kinh nghiệm hƣớng dẫn nghiên cứu (xác định bằng thời
gian hướng dẫn nghiên cứu toàn thời gian trong ít nhất 1 học kỳ). Các tiêu chí đƣợc
xác định ở mức độ khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu.
2) Thời gian hoạt động của đơn vị nghiên cứu
Thời gian tồn tại của một đơn vị nghiên cứu đƣợc xác định theo chƣơng trình
hoặc nhiệm vụ nghiên cứu, 3 năm đối với NNC, trung tâm nghiên cứu và 5 năm đối
với Viện nghiên cứu. Sau 3 năm hoặc 5 năm các đơn vị này có thể gia hạn thêm 3 năm
hoặc 5 năm tiếp theo, điều này tùy thuộc vào việc đơn vị nghiên cứu đó có các chƣơng
trình hoặc nhiệm vụ nghiên cứu mới hay không.
153
3) Hồ sơ đối với đơn vị nghiên cứu
Hồ sơ để đƣợc công nhận là một đơn vị trong cấu trúc nghiên cứu của RMIT
luôn bao gồm một bản thuyết minh đầy đủ với các nhiệm vụ và nguồn lực đi kèm,
cộng với một bản kế hoạch nghiên cứu chi tiết trong giai đoạn 3 năm hoặc năm 5. Hồ
sơ nghiên cứu nghiên cứu phải trả lời đƣợc 4 câu hỏi: (1) NNC kỳ vọng đạt đƣợc điều
gì? (2) Các hoạt động đƣợc đề xuất để đáp ứng các mục tiêu đề ra là gì?; Các hoạt
động của Nhóm phù hợp thế nào với kế hoạch nghiên cứu và đổi mới của Trƣờng? (3)
Kết quả mà NNC hy vọng sẽ cung cấp là gì? (4) Thời gian cụ thể để nhóm hoàn thành
từng mục tiêu là khi nào? Trong đó hồ sơ của đơn vị nghiên cứu cũng phải đảm bảo
các điều kiện sau đây: Có đƣợc tài trợ từ bên ngoài để tập trung nghiên cứu; Tăng
cƣờng và hỗ trợ đào tạo nghiên cứu; Hỗ trợ và phát triển môi trƣờng nghiên cứu chất
lƣợng cao; Phát triển đối tác để tăng cƣờng hiệu quả hoạt động; Tiếp thị và quảng bá
về đơn vị nghiên cứu; Hỗ trợ các nhà nghiên cứu mới bƣớc vào nghề.
4) Báo cáo và đánh giá
Đơn vị nghiên cứu sẽ nộp báo cáo thƣờng niên và cập nhật kế hoạch nghiên cứu
trong giai đoạn ba năm cho Trƣởng khoa và đƣợc phê duyệt bởi ngƣời đƣợc Phó Hiệu
trƣởng phụ trách về công tác nghiên cứu và đổi mới ủy quyền.
Hoạt động của các đơn vị nghiên cứu đƣợc đánh giá thƣờng niên và đánh giá
kết thúc giai đoạn nghiên cứu (3 năm hoặc 5 năm). Đơn vị nghiên cứu sẽ bị giải thể
nếu lĩnh vực nghiên cứu mà đơn vị nghiên cứu đang theo đuổi không còn là hƣớng ƣu
tiên của RMIT, thời gian hoạt động của đơn vị nghiên cứu đã hết, Hội đồng đánh giá
thƣờng niên khuyến nghị rằng đơn vị nghiên cứu không hoàn thành mục tiêu đã đề ra
hoặc Thủ trƣởng đơn vị nghiên cứu xin từ chức.
5) Kinh phí, nguồn lực và hỗ trợ
Đơn vị nghiên cứu sẽ nhận đƣợc hỗ trợ hành chính, yêu cầu về vốn, bảo trì và
nâng cấp thiết bị, các chuyến đi nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của
nhóm và các tài nguyên khác bởi Khoa hoặc Trƣờng, điều này tùy thuộc vào việc đơn
vị nghiên cứu đó thuộc cấp nào, đồng thời là các nguồn tài trợ từ quỹ hỗ trợ nghiên
cứu ngoài Nhà trƣờng.
Các đơn vị nghiên cứu sẽ có một trang website riêng đƣợc đặt trong website
chung của RMIT để cập nhật các hoạt động nghiên cứu, công bố KQNC và tuyển
thành viên là các NCS, học viên hoặc sinh viên. Đồng thời, xây dựng chiến lƣợc
marketing của đơn vị.
154
5.3.3. Những ghi nhận quan trọng
Qua trao đổi chuyên gia về chính sách phát triển NNCM của Đức và nghiên cứu
chính sách phát triển đơn vị nghiên cứu của trƣờng đại học RMIT Australia, có thể
thấy rằng với các quy định rõ ràng, quy trình quản lý chặt chẽ và chính sách hỗ trợ phù
hợp là cơ sở quan trọng để NNCM hình thành và phát triển. Từ kết quả này, tác giả
luận án rút ra một số ghi nhận quan trọng sau đây:
Thứ nhất, chính sách phát triển NNCM ở tầm quốc gia nói chung và chính sách
phát triển NNCM của trƣờng đại học nói riêng luôn đóng vai trò định hƣớng, đầu tƣ,
điều tiết và thúc đẩy hoạt động KH&CN của các NNC, NNCM hay các đơn vị nghiên
cứu. Nếu nhƣ ở Đức, Nhà nƣớc định hƣớng, đầu tƣ, điều tiết và thúc đẩy hoạt động
KH&CN của các NNCM thông qua các chƣơng trình xuất sắc đƣợc phủ đều ở tất cả
các lĩnh vực thì chính sách riêng của Trƣờng đại học RMIT tập trung vào các lĩnh vực
ƣu tiên đƣợc quy định trong chiến lƣợc phát triển của Trƣờng.
Thứ hai, chính sách đặt ra các tiêu chí cao đối với các NNCM khi thành lập để
tài trợ hoặc hỗ trợ. Tiêu chí lựa chọn tài trợ/hoặc thành lập NNCM là sự kết hợp giữa
đề cƣơng nghiên cứu và năng lực của các thành viên. Nếu nhƣ ở Đức, đề cƣơng nghiên
cứu phải đạt 3 tiêu chí: có tham vọng, phù hợp và thực tiễn (Tham vọng là tiêu chí
khoa học, thực tiễn là tiêu chí liên quan đến tài chính và phù hợp là tiêu chí kinh tế -
xã hội) thì ở đại học RMIT, đề cƣơng nghiên cứu phải trả lời đƣợc 4 câu hỏi: (1) NNC
kỳ vọng đạt đƣợc điều gì? (2) Các hoạt động đƣợc đề xuất để đáp ứng các mục tiêu đề
ra là gì?; Các hoạt động của Nhóm phù hợp thế nào với kế hoạch nghiên cứu và đổi
mới của Trƣờng? (3) Kết quả mà NNC hy vọng sẽ cung cấp là gì? (4) Thời gian cụ thể
để nhóm hoàn thành từng mục tiêu là khi nào?. Tiêu chí năng lực nghiên cứu đƣợc
đánh giá dựa trên các kết quả nghiên cứu đƣợc công bố trên các tạp chí quốc tế có uy
tín. Đây là tiêu chí chung và quan trọng không kém đối với tiêu chí đề cƣơng nghiên
cứu, nếu nhóm chƣa có công bố quốc tế, không ai tin nhóm có thể hoàn thành dự án
nghiên cứu trong 3 hoặc 5 năm tới.
Thứ ba, chính sách quy định rất chặt chẽ đối với khâu báo cáo và đánh giá hiệu
quả hoạt động của NNCM thông qua việc thực hiện các mục tiêu đƣợc thuyết minh
trong chƣơng trình nghiên cứu. Ở Đức, các NNCM phải nộp báo cáo thƣờng niên và
việc đánh giá kết quả nghiên cứu đƣợc thực hiện bởi nhóm chuyên gia độc lập do Bên
tài trợ mời, nếu kết quả đánh giá không tốt, nhóm không nên làm việc cùng nhau. Còn ở
đại học RMIT, các NNCM sẽ phải nộp báo cáo thƣờng niên và cập nhật kế hoạch
nghiên cứu trong giai đoạn hoạt động của nhóm (3 - 5 năm) để Hội đồng thẩm định xem
155
xét báo cáo Hội đồng khoa học nhà trƣờng phê duyệt. NNC có thể bị giải thể bất cứ khi
nào nếu mục đích mà nhóm đƣợc thành lập đã hoàn thành hoặc Hội đồng thẩm định
khuyến nghị rằng nhóm không còn đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn kể từ khi đƣợc thành
lập hoặc lĩnh vực trọng tâm của NNC không còn là chiến lƣợc ƣu tiên của Trƣờng.
Thứ tƣ, các NNCM hay đơn vị nghiên cứu sẽ nhận đƣợc nguồn tài trợ từ nhà
nƣớc/doanh nghiệp để triển khai các hoạt động nghiên cứu hoặc hỗ trợ hành chính, yêu
cầu về vốn, bảo trì thiết bị và nâng cấp, các chuyến đi nghiên cứu liên quan và các tài
nguyên khác của trƣờng đại học.
5.4. Giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN
Từ thách thức đƣợc đặt ra trên đây và những hạn chế đƣợc chỉ ra trong hoạch
định và tổ chức thực hiện chính sách đã đƣợc nêu ở chƣơng trƣớc, cũng nhƣ những bài
học rút ra từ kinh nghiệm quốc tế, tác giả luận án cho rằng, việc bổ sung, hoàn thiện
chính sách phát triển NNCM của ĐHQGHN cần phải đƣợc đặt trong hệ thống thiết chế
quản lý để xem xét một cách tổng thể và đồng bộ với 3 yếu tố căn cốt sau đây:
- Chiến lƣợc: Sự lựa chọn hƣớng nghiên cứu hay lĩnh vực nghiên cứu mà
ĐHQGHN có thế mạnh để ƣu tiên đầu tƣ và tạo thế cạnh tranh với các trƣờng đại học
trong và ngoài nƣớc. Trong đó, NNCM là một trong những nhân tố quan trọng để thực
hiện chiến lƣợc.
- Chính sách: Sự đối xử, hay sự đầu tƣ nguồn lực của ĐHQGHN cho NNCM
để đảm bảo các điều kiện và tạo động lực thúc đẩy NNCM thực hiện hƣớng nghiên
cứu ƣu tiên do ĐHQGHN lựa chọn.
- Luật hay quy định: Sự điều chỉnh, tức các biện pháp nhằm quản lý các hoạt
động của NNCM, đảm bảo những chính sách đối với NNCM đem lại hiệu quả trong
việc thực hiện hƣớng nghiên cứu ƣu tiên do ĐHQGHN đề ra.
Trong quá trình phân tích chính sách phát triển NNCM ở ĐHQGHN, tác giả
luận án nhận thấy ở cả 3 nội dung trên đây đều cho thấy những điểm bất cập nổi cộm.
Cụ thể:
(1) Nhìn từ góc độ chiến lược, ĐHQGHN chƣa xác lập đƣợc lĩnh vực ƣu tiên để
đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm nhằm tối đa hóa lợi thế cạnh tranh của mình.
(2) Nhìn ở góc độ chính sách, việc đầu tƣ của ĐHQGHN còn phân tán và dàn
trải, trong bối cảnh nguồn lực tài chính còn hạn chế, phụ thuộc chủ yếu vào sự phân bổ
của Nhà nƣớc. Nhiều chính sách đã đƣợc thể chế hóa nhƣng không đƣợc thực hiện
trong thực tiễn do nguồn lực tài chính hạn chế.
156
(3) Nhìn ở góc độ quản lý, các quy định còn chồng lấn, rời rạc và thiếu chế tài
để điều chỉnh và xử lý.
Xuất phát từ những thách thức và hạn chế trên đây, hơn bao giờ hết, tình hình
đó đòi hỏi ĐHQGHN phải xem xét thế mạnh của mình trong mối tƣơng quan của nền
giáo dục quốc gia, khu vực và thế giới để có những điều chỉnh chiến lƣợc và xây dựng
hệ thống chính sách đồng bộ, tạo dựng lòng tin và thúc đẩy sự tham gia tích cực của
các nhà khoa học nhằm tạo thế cạnh tranh và duy trì sự phát triển. Nhƣ vậy, việc xây
dựng mạng lƣới NNC phải đi kèm với hệ thống chính sách đồng bộ nhằm thúc đẩy
hợp tác, tăng cƣờng đầu tƣ, kiến tạo môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu thuận lợi cho
NNC phát triển để từ đó hình thành lên các NNCM, các trung tâm, viện nghiên cứu
xuất sắc hƣớng đến mục tiêu xây dựng đại học nghiên cứu (Hình 5.2). Trong mối
tƣơng quan đó, việc tạo dựng môi trƣờng nghiên cứu thuận lợi, minh bạch và đầu tƣ,
phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao phải đƣợc coi là vấn đề sống còn và việc xây
dựng các NNCM nhằm quy tụ đƣợc các nhà khoa học tài năng để thúc đẩy những lĩnh
vực KH&CN có thế mạnh phải đƣợc xem là yếu tố căn cốt.
Tóm lại, những nội dung đƣợc trình bày trên đây sẽ là cơ sở quan trọng để luận
ĐHNC
Nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN (KQNC, SPCN và đào tạo nhân lực có chất lượng cao)
Quy mô phát triển của nhóm nghiên cứu mạnh
Hình thành và phát triển NNCM/TTNCXS/ Mạng lƣới liên hoàn
Thúc đẩy hợp tác, tăng cƣờng đầu tƣ, kiến tạo môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu thuận lợi cho NNC phát triển
Mạng lƣới NNC
Hệ thống chính sách
Hệ thống chính sách
Hình 5.2: Khung định hướng chiến lược cho ĐHQGHN (Nguồn: Đề xuất của đề tài)
án đề xuất biện pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM cho ĐHQGHN.
157
5.4.1. Biện pháp bổ sung, hoàn thiện về chiến lược
Từ những phân tích và lập luận trên đây, rõ ràng ở góc độ chiến lƣợc,
ĐHQGHN cần xác định thế mạnh, cũng nhƣ thế yếu của mình trong tƣơng quan với
các trƣờng đại học ở Việt Nam, khu vực và thế giới để từ đó quyết định phƣơng án lựa
chọn tối ƣu, đảm bảo sự lựa chọn đó tạo ra sự bứt phá quan trọng trong hoạt động
KH&CN mà ĐHQGHN có thế mạnh.
Đây là vấn đề mấu chốt nhất, buộc ĐHQGHN phải khẳng định một tƣ tƣởng
chiến lƣợc: một mặt vẫn duy trì việc đầu tƣ cho KH&CN để phát triển các lĩnh vực
nghiên cứu nói chung nhƣng quan trọng hơn là ĐHQGHN phải đầu tƣ có trọng tâm,
trọng điểm vào những lĩnh vực ƣu tiên nhằm tạo ra thế mạnh riêng của mình. Sự lựa
chọn đó là cơ sở cho việc hoạch định chiến lƣợc phát triển giáo dục và đào tạo,
KH&CN của ĐHQGHN. Đó sẽ là chiến lƣợc với những mục tiêu chọn lọc, những
chính sách đầu tƣ đầy đủ về nguồn lực để đảm bảo cho sự phát triển tiềm lực KH&CN
của những lĩnh vực ƣu tiên mà ĐHQGHN đã lựa chọn.
Một thực tế hiện nay đang cho thấy, các nhiệm vụ KH&CN của ĐHQGHN vẫn
chủ yếu dựa vào các đề xuất từ các nhà khoa học ở dƣới lên, trên cơ sở đề xuất đó
ĐHQGHN xem xét phê duyệt và đầu tƣ, do vậy, các hƣớng nghiên cứu thƣờng phân
tán và không rõ nên đầu tƣ theo hƣớng nào. Bên cạnh đó việc xây dựng các hội đồng
chuyên ngành để đánh giá và phê duyệt các đề tài/dự án cũng chƣa thật hợp lý dẫn đến
việc đánh giá các đề xuất chƣa đảm bảo tính khách quan, nghiêm túc. ĐHQGHN thành
lập nhiều NNCM, nhiều trung tâm nghiên cứu trọng điểm, nhiều phòng thí nghiệp
trọng điểm… trong cơ cấu nghiên cứu của mình, nhƣng chính sách cần tác động vào
đâu để tạo sự bứt phá thì chƣa có do thiếu sự lựa chọn mang tính chiến lƣợc.
Với việc xác định NNCM có vai trò quan trọng đối với chiến lƣợc phát triển
của ĐHQGHN thì vấn đề đầu tƣ phát triển NNCM phải đƣợc xem là một trong những
nội dung quan trọng để đảm bảo cho việc thực hiện chiến lƣợc đó. Trong bối cảnh
nguồn kính phí đầu tƣ cho nghiên cứu còn hạn hẹp việc lựa chọn hƣớng ƣu tiên để đầu
tƣ có ý nghĩa quyết định. Hiện nay, hoạt động nghiên cứu và đào tạo của ĐHQGHN có
thể đƣợc gói lại theo 4 nhóm lĩnh vực: 1) Khoa học tự nhiên (bao gồm cả Toán); 2)
Khoa học XH&NV; 3) Khoa học KT&CN; 4) Khoa học Y dƣợc. Nhƣng, phải khẳng
định một tất yếu khách quan rằng không phải tất các hƣớng nghiên cứu trong các lĩnh
vực này đều mạnh. Nhƣ vậy, trong 4 nhóm lĩnh vực này, mỗi lĩnh vực ĐHQGHN cần
lựa chọn những điểm trồi để ƣu tiên, tập trung đầu tƣ. Bên cạnh đó, việc xác định
158
hƣớng ƣu tiên cần đƣợc đặt trong mối tƣơng quan với các lĩnh vực, các hƣớng nghiên
cứu theo xu hƣớng phát triển KH&CN của khu vực và thế giới. Đó là tất cả những gì
ĐHQGHN cần xem xét để điều chỉnh chiến lƣợc của mình. Kinh nghiệm của Đại học
RMIT, Australia trên đây có thể là tham khảo tốt cho ĐHQGHN.
5.4.2. Các biện pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách
Nhƣ đã đề cập ở trên, chính sách ở đây đƣợc hiểu là sự đối xử của ĐHQGHN
đối với NNCM để tạo điều kiện và tạo động lực thúc đẩy NNCM thực hiện hƣớng
nghiên cứu ƣu tiên do ĐHQGHN lựa chọn. Trong quá trình nghiên cứu chính sách
phát triển NNCM của ĐHQGHN, tác giả luận án nhận thấy, điều mà ĐHQGHN đang
thiếu là một hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán để phát triển các đơn vị nghiên
cứu nói chung và NNCM nói riêng. Điều này đƣợc minh chứng bởi việc mỗi đơn vị
nghiên cứu (NNCM, TTNC, Viện NC, PTNTĐ, …) khi thành lập, đƣợc thực hiện ở các
văn bản chính sách khác nhau, các văn bản thiếu tính thống nhất và có phần chồng
chéo, gây ra nhiều khó khăn trong quá trình thực thi chính sách. Cho nên, việc bổ
sung, hoàn thiện chính sách sách phát triển NNCM không thể nằm ngoài chính sách
phát triển các đơn vị nghiên cứu nói chung của ĐHQGHN. Bên cạnh đó, kết quả khảo
sát thực tiễn (Bảng 5.2) cũng cho thấy, điều mà các nhà khoa học cần nhất ở
ĐHQGHN đó là việc “Tạo dựng môi trƣờng nghiên cứu thuận lợi, minh bạch”, “Trọng
dụng nhà khoa học trình độ cao”, “Đổi mới chính sách tài chính theo hƣớng công khai,
minh bạch, khoán đến sản phẩm đầu ra”. Bên cạnh đó là việc “Ƣu tiên đầu tƣ kinh phí
NC theo phƣơng thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN cho các NNCM”, “Xây dựng
chế độ đãi ngộ thích hợp đối với những sáng chế, cải tiến công nghệ nhằm tạo động
lực cho nhà khoa học”, “Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp trong và ngoài nƣớc căn cứ vào thế mạnh của từng lĩnh vực”, “Tăng cƣờng đào
tạo, bồi dƣỡng, phát triển đội ngũ khoa học trình độ cao”, “Có chế độ đãi ngộ phù hợp
để thu hút các nhà khoa học có trình độ cao ở ngoài nƣớc về làm việc”, “Xây dựng và
mở rộng Quỹ KH&CN”, “Đầu tƣ trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận
lợi”, “Hỗ trợ chế độ bảo hộ sản phẩm KH&CN, tạo điều kiện cho tri thức yên tâm
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ”. Ngoài ra, việc “Ƣu tiên bổ sung nhân lực đối
với các NNC hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm
nghiên cứu....” đƣợc các nhà khoa học đánh giá là cần thiết nhƣng chƣa phải là yếu tố
quyết định.
159
Bảng 5.2: Đánh giá mức độ cần thiết của các chính sách đối với
sự phát triển của NNCM ở ĐHQGHN
Điểm trung
Nội dung đánh giá bình
Tạo dựng môi trƣờng nghiên cứu thuận lợi, minh bạch 4.70
Trọng dụng nhà khoa học trình độ cao 4.69
Đối mới chính sách tài chính theo hƣớng công khai, minh bạch, 4.64 khoán đến sản phẩm đầu ra.
Ƣu tiên đầu tƣ kinh phí NC theo phƣơng thức đặt hàng, giao 4.50 nhiệm vụ KH&CN cho các NNC mạnh
Xây dựng chế độ đãi ngộ thích hợp đối với những sáng chế, cải 4.46 tiến công nghệ nhằm tạo động lực cho nhà khoa học
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc căn cứ vào thế mạnh của từng 4.45
lĩnh vực
Tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng, phát triển đội ngũ khoa học 4.42 trình độ cao
Có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút các nhà khoa học có trình 4.40 độ cao ở ngoài nƣớc về làm việc
Xây dựng và mở rộng Quỹ KH&CN 4.40
Đầu tƣ trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi 4.38
Hỗ trợ chế độ bảo hộ sản phẩm KH&CN, tạo điều kiện cho tri 4.24 thức yên tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ
Ƣu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở 3.96 các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu...
(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài)
Do đó, biện pháp trƣớc tiên đối với ĐHQGHN là xây dựng văn bản chính sách
đồng bộ và nhất quán đối với việc thành lập các đơn vị nghiên cứu, trên cơ sở những
văn bản chính sách rời rạc hiện nay. Trong đó, chính sách tổng thể đó phải giải quyết
đƣợc 4 vấn đề chính sau đây:
160
Thứ nhất, cần phân định rõ các thành phần nghiên cứu trong cơ cấu tổ chức
nghiên cứu của ĐHQGHN, bao gồm: NNC, NNC tiềm năng; NNCM; Trung tâm
nghiên cứu; Trung tâm nghiên cứu xuất sắc; Viện nghiên cứu; PTN trọng điểm; PTN
chuyên đề. Trong đó, mỗi thành phần này, cần đƣợc định nghĩa rõ ràng, phân định rõ
các tiêu chí thành lập, quy trình thành lập, quy định rõ cơ cấu tổ chức hoạt động, quy
trình báo cáo, kiểm tra - đánh giá, quy trình giải thể và các vấn đề liên quan đến việc
minh bạch thông tin hoạt động KH&CN của từng đơn vị nghiên cứu.
Thứ hai, hệ thống biểu mẫu, hƣớng dẫn đối với mỗi thành phần trong cơ cấu tổ
chức nghiên cứu của ĐHQGHN phải đƣợc phân định rõ ràng.
Thứ ba, cần quy định rõ các chính sách đầu tƣ thỏa đáng đối với từng thành
phần trong cơ cấu tổ chức nghiên cứu của ĐHQGHN, tạo ra các thứ bậc trong thang
phát triển của từng đơn vị nghiên cứu dựa trên quy mô, khả năng giải quyết những vấn
đề phức tạp từ lý luận đến thực tiễn.
Thứ tƣ, cần quy định rõ các đơn vị chỉ đạo, quản lý, phối hợp, tƣ vấn, cơ chế
báo cáo, trách nhiệm giải trình của các bên liên quan trong quá trình hoạt động
KH&CN của các thành phần trong cơ cấu tổ chức nghiên cứu của ĐHQGHN.
Kinh nghiệm của Đại học RMIT trong việc xây dựng khung chính sách cấu trúc
nghiên cứu có thể là tham khảo tốt cho ĐHQGHN.
Biện pháp thứ hai là ĐHQGHN cần hoàn thiện bộ tiêu chí về NNCM. Nhƣ
trong phần đánh giá thực trạng chính sách thành lập NNCM, hạn chế của bộ tiêu chí
thành lập NNCM của ĐHQGHN đã đƣợc tác giả luận án chỉ ra do đó việc hoàn thiện
tiêu chí NNCM phải tập trung vào 4 nội dung chính sau đây:
(1) Hƣớng nghiên cứu của NNCM phải nằm trong hƣớng nghiên cứu ƣu tiên
đƣợc ĐHQGHN xác định trong chiến lƣợc phát triển của Trƣờng.
(2) NNCM phải có đƣợc các nhà khoa học chủ chốt, có trình độ cao, có uy tín
và có năng lực tổ chức, dắt dẫn NNCM phát triển (trong bối cảnh ĐHQGHN hiện này
mỗi nhóm nên có tối thiểu 3 nhà khoa học chủ chốt có đủ tầm như vậy). Trong đó:
Tiêu chí đánh giá năng lực và khả năng của các thành viên chủ chốt phải dựa trên
các công trình nghiên cứu đƣợc công bố, các sản phẩm KH&CN đã và đang đƣợc triển
khai (Bài báo công bố quốc tế thuộc danh mục ISI/Scopus, sách chuyên khảo được xuất
bản ở nhà xuất bản quốc tế có uy tín, bằng sáng chế, các sản phẩm KH&CN khác được
xem xét công nhận tương đương…) trong thời gian 5 năm tính đến thời điểm nộp hồ sơ
để đƣợc công nhận là NNCM. Việc lƣợng hóa các tiêu chí này cần đƣợc xem xét dựa
161
trên các đặc điểm của từng loại hình nghiên cứu, từng lĩnh vực nghiên cứu khác nhau.
Các tiêu chí thỏa đáng sẽ tập trung vào những thành viên chủ chốt.
Các thành viên khác sẽ đƣợc các thành viên chủ chốt của nhóm lựa chọn, bổ sung
vào nhóm tùy thuộc vào từng chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể theo từng giai
đoạn, thời gian làm việc của họ (toàn thời gian hay bán thời gian). Lƣơng bổng của các
thành viên này do NNCM tự chi trả theo các nhiệm vụ/chƣơng trình nghiên cứu.
(3) Trƣởng nhóm và các thành viên viên chủ chốt của Nhóm phải xây dựng
đƣợc các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu quy mô, tầm cỡ và kế hoạch nghiên cứu
bài bản để thuyết phục đƣợc ĐHQGHN, hay các Quỹ nghiên cứu do các cơ quan nhà
nƣớc, các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nƣớc tài trợ.
Tiêu chí này phải đƣợc xem là quan trọng nhất. Nếu tiêu chí thứ nhất cho thấy
nhóm đi theo định hƣớng chiến lƣợc của ĐHQGHN đề ra, thì tiêu chí thứ hai cho thấy
nhóm có khả năng để triển khai các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu, còn tiêu chí
thứ 3 cho thấy Nhóm đƣợc thành lập để thực hiện một chƣơng trình/một nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể, gắn với một giai đoạn nghiên cứu nhất định.
(4) Nhóm có cơ sở vật chất, trang thiết bị đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu.
Tiêu chí này là cần thiết, tuy nhiên cần xem xét ở từng loại hình nghiên cứu, từng lĩnh
vực nghiên cứu bởi với mỗi loại hình nghiên cứu khác nhau, mỗi lĩnh vực nghiên cứu
khác nhau lại cần có những điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị khác nhau. Có
những loại hình nghiên cứu, lĩnh vực nghiên cứu cần các cơ sở vật chất, trang thiết bị
hiện đại và nếu không có các trang thiết bị này Nhóm sẽ không đảm bảo đƣợc các điều
kiện thực hiện chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu thì tiêu chí này cần đƣợc coi trọng,
thậm chí là bắt buộc. Nhƣng cũng có những loại hình nghiên cứu, lĩnh vực nghiên cứu
chỉ cần cơ sở vật chất, trang thiết bị thông thƣờng thì tiêu chí này chỉ nên xem là tiêu
chí phụ và nếu nhóm đã đảm bảo đƣợc 3 tiêu chí trên, ĐHQGHN hoàn toàn có thể đầu
tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị khi Nhóm đƣợc thành lập.
Biện pháp thứ ba là ĐHQGHN cần phát triển NNCM gắn liền với chính sách
đầu tƣ cho các NNCM theo các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu và gắn với việc đào
tạo NCS. Hiện nay, các NNCM đã đƣợc ĐHQGHN thành lập nhƣng không gắn với
các chƣơng trình nghiên cứu cụ thể, đo đó ĐHQGHN rất khó để định hƣớng và điều
tiết hoạt động KH&CN của các NNC. Bên cạnh đó, ĐHQGHN cần định hƣớng xây
dựng NNCM dựa vào năng lực hiện có và nhu cầu phát triển của ĐHQGHN trong mối
quan hệ với định hƣớng phát triển của đất nƣớc và xu hƣớng phát triển của thế giới;
162
kết hợp phát triển các NNC mạnh trong đơn vị thành viên để hình thành và phát triển
những NNC mới. Việc đầu tƣ có thể từ dƣới lên theo đề xuất của các NNCM hoặc
giao nhiệm vụ từ trên xuống tùy thuộc vào tình hình thực tiễn. Chƣơng trình nghiên
cứu của Nhóm nên có thời gian tối thiểu là 3 năm và gắn việc đầu tƣ các chƣơng
trình/nhiệm vụ nghiên cứu với việc đào tạo NCS. NCS sẽ là nhân lực chính để triển
khai các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu của Nhóm, bởi NCS là những ngƣời có
động lực nghiên cứu, có động lực để công bố quốc tế do chịu áp lực bởi Quy chế đào
tạo tiến sĩ hiện nay. Thời gian đầu tƣ nhƣ vậy là không quá ngắn cũng không quá dài
và đây là thời gian đủ để các NCS hoàn thành chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu và
đồng thời hoàn thành luận án. Thời gian này cũng phù hợp để NNC phát triển tổ chức
và đào tạo nguồn nhân lực, bao gồm cả nhân lực kế cận. Hết thời gian đầu tƣ, các
NNCM tiếp tục đề xuất các nhiệm vụ nghiên cứu mới để ĐHQGHN xem xét đầu tƣ
tiếp hoặc giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu. Kinh nghiệm của Đức cho
thấy NNC đã mạnh không nhất thiết là đang mạnh, tiền nghiên cứu chỉ dành cho
Nhóm hiện tại đang mạnh. .
Giải pháp thứ tư là phát triển Quỹ KH&CN. Hiện nay, Quỹ KH&CN của
ĐHQGHN còn ít ỏi và chủ yếu trông chờ vào nguồn kính phí đƣợc cấp từ ngân sách
nhà nƣớc, vì thế, các hoạt động đầu tƣ từ Quỹ hiện nay chủ yếu mới đƣợc sử dụng để
khen thƣởng cho các công bố quốc tế và triển khai các hội nghị/tọa đàm khoa học gắn
với hoạt động của Câu lạc bộ nhà khoa học trong thời gian qua. Trong đó việc kêu gọi
đầu tƣ từ các cơ quan, doanh nghiệp còn mang tính hình thức và chƣa đem lại hiệu
quả. Do vậy, để phát triển nguồn quỹ, trong điều kiện hiện nay của ĐHQGHN, ngoài
nguồn kinh phí do Nhà nƣớc cấp, ĐHQGHN cần phát triển Quỹ KH&CN thông qua
việc quy định cụ thể tỉ lệ % học phí trích nộp vào Quỹ, tỉ lệ này nên là 5% tính theo
đầu sinh viên, học viên và NCS. Nhƣ vậy, với quy mô 30.213 sinh viên, 5.697 học
viên và 1.494 nghiên cứu sinh (Số liệu thống kê tính đến tháng 11/2018 của
ĐHQGHN), mỗi năm ĐHQGHN sẽ có trung bình khoảng 20 tỉ bổ sung vào Quỹ
KH&CN. Bên cạnh đó, ĐHQGHN cần đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tƣ thông qua
việc hợp tác với các cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác chuyển giao công nghệ. Đồng thời
huy động nguồn kinh phí tài trợ từ các cựu sinh viên tài năng đã khẳng định đƣợc vị trí
và vị thế trong xã hội để mở rộng nguồn Quỹ. Tuy nhiên, để huy động đƣợc nguồn tài
chính từ khối doanh nghiệp, ĐHQGHN cần phải làm cho các doanh nghiệp hiểu và có
niềm tin vào các kết quả nghiên cứu do các nhà khoa học của ĐHQGHN có khả năng
163
nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trƣờng, đem lại
lợi ích cho sản xuất kinh doanh hoặc nâng cao năng lực quản trị của doanh nghiệp.
Nhƣ vậy, với nguồn Quỹ KH&CN đƣợc bổ sung hàng năm theo tỉ lệ % học phí và các
nguồn tài chính khác thu hút đƣợc, ĐHQGHN hoàn toàn có thể tự chủ trong việc đầu
tƣ có chiều sâu, quy mô và dài hạn cho các NNCM nhằm thực hiện mục tiêu chiến
lƣợc đề ra. Việc tài trợ cho các chƣơng trình nghiên cứu xuất sắc thông qua quỹ cần
đƣợc công bố công khai để các NNC đăng ký và cạnh tranh bình đẳng. Việc tuyển
chọn, giao nhiệm vụ nghiên cứu cho các NNC cần căn cứ vào hệ thống tiêu chí rõ ràng
để đánh giá đúng tiềm lực và khả năng của từng NNC.
Biện pháp thứ năm là ĐHQGHN cần đầu tƣ xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về
kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và phần mềm quản lý hoạt động KH&CN
thống nhất. Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu khoa học và phần mềm quản lý hoạt
động KH&CN thống nhất trong toàn ĐHQGHN nên đƣợc coi là một nội dung quan
trọng và thiết yếu trong việc quản lý và đánh giá hiệu quả các hoạt động KH&CN của
ĐHQGHN. Thông qua việc quản lý và kiểm soát hiệu quả các KQNC sẽ là cơ sở để
đƣa ra những chỉ báo quan trọng nhằm đánh giá hiệu lực, hiện quả của các chính sách
đầu tƣ, đồng thời có nhƣng điều chỉnh chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động
KH&CN của ĐHQGHN, cũng nhƣ đánh giá hiệu quả hoạt động KH&CN của đội ngũ
nhân lực khoa học.
Biện pháp thứ sáu là ĐHQGHN cần có chính sách đầu tƣ cho công tác đào tạo
kỹ năng hoạch định, quản lý và tổ chức thực hiện chính sách. Xét ở góc độ đội ngũ
thực thi chính sách, hiệu quả hoạt động khoa học của các NNCM cũng có thể đƣợc
tăng cƣờng nhờ vào việc xây dựng đội ngũ quản lý tốt, tạo đƣợc lòng tin của các nhà
khoa học, xây dựng đƣợc mạng lƣới hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng các nhà khoa
học. Do đó, ĐHQGHN cần triển khai các CTĐT bồi dƣỡng kỹ năng hoạch định, quản
lý và tổ chức thực hiện chính sách cho đội ngũ cán bộ quản lý ở ĐHQGHN. Bên cạnh
đó, ĐHQGHN cần thúc đẩy các hoạt động đào tạo, bội dƣỡng nguồn nhân lực theo các
NNCM thông qua việc cử các NNCM thực tập nghiên cứu tại các cơ quan, doanh
nghiệp của nƣớc ngoài, gắn việc đào tạo NNC với các chƣơng trình nghiên cứu thực
tiễn tại các cơ quan doanh nghiệp. Thông qua hoạt động đào tạo cũng dần tạo ra sự kết
nối giữa trƣờng đại học và doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy hợp tác với các doanh
nghiệp trong việc xây dựng các chƣơng trình nhiệm vụ nghiên cứu, đánh giá các kết
quả nghiên cứu, điều đó cũng giúp cho các kết của nghiên cứu phù hợp với thực tiễn,
164
thông qua đó thu hút đầu tƣ từ các doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ cho doanh
nghiệp. Để làm đƣợc điều đó ĐHQGHN cần khai thác hiệu quả đề án 2395 của Nhà
nƣớc. Bên cạnh đó, ĐHQGHN cũng cần có chính sách tài chính mạnh để thu hút các
nhà khoa học nƣớc ngoài và các nhà khoa học Việt Nam ở nƣớc ngoài về làm việc.
Thời gian qua, ĐHQGHN đã có bƣớc tiến quan trọng trong việc triển khai thu hút các
chuyên gia đầu ngành ở nƣớc ngoài kiêm nhiệm các vị trí đồng giám đốc các phòng thí
nghiệm trọng điểm nhằm thúc đẩy hoạt động KH&CN, tuy nhiên, phải xác định rằng
việc có chuyên gia nƣớc ngoài không đồng nghĩa với việc chất lƣợng và hiệu quả hoạt
động nghiên cứu đƣợc nâng lên nếu không có những đầu tƣ cụ thể thông qua các
chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu để khai thác chất xám của họ.
5.4.3. Các biện pháp bổ sung, hoàn thiện quy định về quản lý
Nhƣ đã đề cập ở trên, bên cạnh hạn chế liên quan đến chính sách đầu tƣ cho
những lĩnh vực cần ƣu tiên, thì hạn chế trong hoạt động đánh giá cũng là vấn đề lớn
của ĐHQGHN. Hạn chế này xuất phát từ việc thiếu chế tài để điều chỉnh, xử lý cũng
nhƣ sự quan liêu của đội ngũ thực thi chính sách. Điều này sẽ dẫn đến những tác hại
lâu dài nếu kỷ luật khoa học không đƣợc thực thi một cách nghiêm túc và đạo đức
khoa học thiếu sự tôn trọng. Do đó, để xây dựng và phát triển NNCM thì bên cạnh
những chính sách đầu tƣ phù hợp thì việc đặt ra những chế tài nhằm đánh giá, điều
chỉnh hoạt động KH&CN của các NNCM là vô cùng quan trọng. Theo đó, ĐHQGHN
cần thực hiện một số biện pháp sau đây:
Biện pháp thứ nhất là ĐHQGHN cần cấu trúc lại hệ thống các đơn vị nghiên
cứu (NNCM, TTNC, Viện NC) hiện nay theo chính sách mở, cấu trúc mềm, tức hoạt
động gắn liền với các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể theo từng giai đoạn
(3-5 năm) tùy vào quy mô và lĩnh vực nghiên cứu của từng đơn vị, nguồn nhân lực
khoa học chất lƣợng cao cần đƣợc tập hợp theo cách mà Uber và Grab đang làm để
triển khai các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy
không có tổ chức khoa học nào tồn tại và mạnh mãi, các tổ chức đều hoạt động dựa
trên các chƣơng trình và nhiệm vụ cụ thể, có đánh giá thƣờng niên và đánh giá cuối
kỳ, sự tồn tại hay suy vong của các NNCM phụ thuộc vào các chƣơng trình, nhiệm vụ
nghiên cứu và hiệu quả hoạt động của nó. Do đó, ĐHQGHN cần chấm dứt các đơn vị
nghiên cứu tồn tại theo hình thức suốt đời, cứ thành lập là tồn tại mãi, cứ “đẻ ra là phải
nuôi”, hoạt động đánh giá không đƣợc coi trọng. Để làm đƣợc điều đó vấn đề quan
trọng là ĐHQGHN cần xây dựng đƣợc hệ thống tiêu chí phù hợp với chuẩn mực quốc
165
gia và hƣớng đến chuẩn quốc tế. Đây là cơ sở quan trọng để phát triển tổ chức nghiên
cứu, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức nghiên cứu. Đồng thời, xây dựng các
quy định về trách nhiệm giải trình của các bên liên quan trong việc đề xuất, thẩm định,
thực hiện và đánh giá kết quả nghiên cứu. Các chƣơng trình hoạt động và kết quả
nghiên cứu cần đƣợc công khai, minh bạch để cộng đồng khoa học và xã hội giám sát
đánh giá.
Biện pháp thứ hai là ĐHQGHN cần bổ sung, hoàn thiện quy định và quy trình
đánh giá NNCM. Việc đánh giá NNCM cần có quy trình, quy định đánh giá minh
bạch, rõ ràng thông qua hệ thống tiêu chí phù hợp. Khi các thành quả do NNCM tạo ra
đƣợc đánh giá đúng mức và có chính sách đãi ngộ xứng đáng về vật chất và tinh thần
mới tạo động lực thúc đẩy NNCM phát triển.
Theo đó, việc đánh giá đề cƣơng hay chƣơng trình, kế hoạch nghiên cứu của
Nhóm để đầu tƣ và ƣu đãi phải đƣợc xem là nội dung quan trọng nhất, với những tiêu
chí đánh giá rõ ràng và minh bạch. Việc đánh giá nên đƣợc thực bởi Hội đồng đánh giá
độc lập, có chuyên môn phù hợp. Tuy nhiên, việc thành lập Hội đồng chuyên ngành
cần phải tính đến yếu tố phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu của NNCM. Đồng thời,
ĐHQGHN cần tăng cƣờng công tác quản lý hoạt động KH&CN của các NNCM.
Trong đó, cần quy định cụ thể hoạt động báo cáo thƣờng niên, các NNCM phải thực
hiện nghiêm quy định đệ trình một bản báo cáo hoạt động KH&CN cho ĐHQGHN,
với nội dung thể hiện chi tiết hoạt động của Nhóm, gồm cả các thành quả nghiên cứu,
các hoạt động KH&CN đang đƣợc triển khai. Đồng thời trong báo cáo đó cũng phải
đƣa ra những kế hoạch cho các năm tiếp theo và báo cáo cuối kỳ để ĐHQGHN xem
xét - đánh giá. Đây là cơ sở quan trọng để ĐHQGHN tiến hành việc đánh giá hoạt
động KH&CN đối với các NNCM, định kỳ hàng năm tiến hành kiểm tra hoạt động của
các NNCM nhằm đảm bảo tất cả các hoạt động nghiên cứu KH&CN của Nhóm phù
hợp với chiến lƣợc phát triển của ĐHQGHN. Nếu, Hội đồng đánh giá xét thấy khả
năng của Nhóm không đạt đƣợc mục tiêu đã đề ra, hoặc nhóm không xây dựng đƣợc
các chƣơng trình/nhiệm vụ nghiên cứu cho các năm/giai đoạn tiếp theo, Hội đồng hoàn
toàn có sơ sở để đề xuất giải thể NNCM.
Việc thực hiện đánh giá nghiêm túc hoạt động KH&CN của các NNCM trên cơ
sở kiểm tra các kết quả thực hiện của Nhóm sẽ là bằng chứng đánh giá hiệu quả hoạt
động của NNCM với các tiêu chí xác thực. Bên cạnh bản báo cáo tự đánh giá của
NNCM, Hội đồng đánh giá của ĐHQGHN cũng sẽ chuẩn bị một bản đánh giá chi tiết
166
về Nhóm và hoạt động của Nhóm, đồng thời đƣa ra đề nghị nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của Nhóm hay thậm chí là đề xuất với lãnh đạo ĐHQGHN giải thể NNCM
hoạt động không hiệu quả. Việc đánh giá nghiêm túc hiệu quả hoạt động KH&CN của
các NNCM cũng buộc các NNCM phải luôn đổi mới, thúc đẩy sự ra đời của các
chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu mới. Chỉ khi việc đánh giá đƣợc công khai, minh
bạch thông qua hiệu quả hoạt động của các NNC mới các tác động thúc đẩy các
NNCM phát huy khả năng sáng tạo trong hoạt động KH&CN.
Ngoài ra, ĐHQGHN cần quy định mỗi NNCM cần có một trang web riêng để
thƣờng xuyên cập nhật các hoạt động KH&CN, một mặt quảng bá thƣơng hiệu của
NNCM nhằm thu hút NCS, các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc đến hợp tác, cộng
tác triển khai các hoạt động nghiên cứu hay thu hút các cơ quan doanh nghiệp đầu tƣ
cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Mặt khác, cũng cần công khai với xã hội về
hiệu quả hoạt động của các NNCM để xã hội đánh giá, giám sát, điều này cũng phần
nào khẳng định mức độ công khai, minh bạch trong hoạt động của các tổ chức
KH&CN của ĐHQGHN.
Bên cạnh chính sách đầu tƣ tăng cƣờng năng lực nghiên cứu cho các NNCM
thông qua việc chăm lo môi trƣờng làm việc, đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện
đại, ĐHQGHN cần tăng cƣờng giám sát và quản lý hiệu quả các dự án đầu tƣ này.
Thực tế đã cho thấy có không ít dự án đầu tƣ cơ sở vật chất lớn nhƣng không hiệu quả,
gây lãng phí.
5.5. Điều kiện cần và đủ để các giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát
triển NNCM có tính khả thi
Để các giải pháp chính phát triển NNCM nêu trên có thể đi vào thực tiễn, điều
kiện và và đủ đối với ĐHQGHN là:
5.5.1 Điều kiện cần
Thứ nhất, ĐHQGHN cần bắt đầu bằng sự thay đổi quan điểm khi xây dựng và
phát triển NNCM. Theo đó, NNCM phải đƣợc coi là phƣơng tiện để thực hiện chiến
lƣợc nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN. Việc coi
NNCM là mục tiêu sẽ khiến cho NNCM phần nhiều mang tính hình thức, giống nhƣ
vật trang trí của trƣờng đại học hơn là thực chất. Những sai lầm khi lấy phƣơng tiện
làm mục tiêu đã dẫn đến sự ra đời của nhiều chính sách chỉ mang tính hình thức,
không phù hợp với thực tiễn đã đƣợc tác giả luận án nêu trong chƣơng trƣớc là những
minh chứng rõ ràng.
167
Thứ hai, ĐHQGHN cần bắt đầu với những điều chỉnh và đổi mới quy trình
hoạch định chính sách phát triển KH&CN. Trong đó, việc hoạch định chính sách cần
có sự tham gia của tất cả các bên liên quan, từ cấp ĐHQGHN đến các đơn vị thành
viên, thậm chí có thể cả giới doanh nghiệp. Bên cạnh sự tham gia của các nhà lãnh
đạo, quản lý thì các nhà khoa học là những ngƣời trực tiếp chịu tác động bởi chính
sách phải đƣợc tham gia. Đôi khi, các nhà khoa học hoặc các đơn vị thành viên hay
thậm chí là các NNCM/trung tâm nghiên cứu/viện nghiên cứu có thể vạch ra một chiến
lƣợc trình ĐHQGHN.
Trong xây dựng chính sách phát triển NNCM, ĐHQGHN cần lắng nghe cộng
đồng khoa học thƣờng xuyên, nắm rõ điều các nhà khoa học cần. Hiện nay, nhiều khi
ĐHQGHN không biết các nhà khoa học thực sự muốn gì. Và đôi khi còn thiếu niềm
tin vào các nhà khoa học hoặc ngƣợc lại. Do đó, bƣớc đi đầu tiên là xây dựng một
kênh cho phép các nhà khoa học thuộc các NNCM/trung tâm nghiên cứu/viện nghiên
cứu và ĐHQGHN đối thoại thƣờng xuyên.
Khâu quan trọng trong hoạch định chính sách là tiến hành rà soát lại kế hoạch
theo từng giai đoạn (3-5 năm) để có sự điều chỉnh thích hợp khi hoàn cảnh thay đổi. Ở
cấp ĐHQGHN, cần xây dựng diễn đàn khoa học đối thoại với Giám đốc, trong đó, các
nhà khoa học đặc biệt các trƣởng NNCM có thể trao đổi trực tiếp với Giám đốc về
những nhiệm vụ nghiên cứu có quy mô lớn.
Đối với cấp đơn vị thành viên, cần có tổ công tác về tham vấn chính sách, nơi các
nhà khoa học đối thoại cụ thể các vấn đề để hoạch định chính sách. Cần có rất nhiều
nhóm nhƣ vậy và các nhóm này thảo luận nhằm xây dựng quy định hoặc chiến lƣợc của
đơn vị, cũng nhƣ tƣ vấn cho ĐHQGHN. Sau các diễn đàn thảo luận đó, các đơn vị thành
viên và ĐHQGHN hiểu các nhà khoa học muốn gì và các nhà khoa học biết ĐHQGHN
định làm gì. Và nhƣ vậy, chính sách đƣợc triển khai sẽ phù hợp với thực tiễn.
Thứ ba, ĐHQGHN cần xây dựng kế hoạch cho việc rà soát, đánh giá những
chính sách đã đƣợc triển khai trong thời gian qua một cách tổng thể, với quy mô lớn
hơn để có những điều chỉnh phù hợp. Đặc biệt, cần đánh giá và cân đối các nguồn lực
hiện có và khả năng huy động các nguồn lực khác để triển khai chính sách trong thực
tế. Tránh trƣờng hợp chính sách đƣa ra rất hay, rất hoành tráng nhƣng khi triển khai
trong thực tế thì thiếu nguồn lực hay năng lực triển khai chính sách yếu dẫn đến chỉ
triển khai đƣợc một phần hoặc không triển khai gây ảnh hƣởng tiêu cực đến động lực
làm việc của các nhà khoa học, các NNC cũng nhƣ làm giảm uy tín của các cấp lãnh
168
đạo của ĐHQGHN. Để làm đƣợc điều đó, ĐHQGHN cần thực hiện những đánh giá
sâu hơn về hiệu quả hoạt động của các NNCM hiện nay, sau 5 năm đƣợc thành lập
nhằm phát hiện những vấn đề đặt ra và dự báo xu hƣớng phát triển. Thấy rõ những ƣu
điểm, những điểm còn hạn chế của các NNCM để làm cơ sở thực tiễn cho việc bổ sung
và hòan thiện chính sách. Trong phát triển NNCM, việc tăng về số lƣợng nhằm xây
dựng mạng lƣới KH&CN là cần thiết, nhƣng quan trọng hơn là chất lƣợng và hiệu quả
của các NNCM.
5.5.2 Điều kiện đủ
Thứ nhất, ĐHQGHN cần tăng cƣờng xây dựng lòng tin của các nhà khoa học
vào chủ trƣơng, chính sách, quy định và hành động của ĐHQGHN. Lòng tin của các
nhà khoa học vào hệ thống chính sách của ĐHQGHN sẽ góp phần tăng cƣờng sự phát
triển của các tổ chức KH&CN. Đồng thời, nó sẽ góp phần mở rộng mạng lƣới nghiên
cứu thông qua việc thu hút các nguồn lực bên trong và bên ngoài, cũng nhƣ thúc đẩy
sự tham gia của các nhà khoa học vào các thảo luận chính sách, các phản biệt xã hội.
Lòng tin cần đƣợc củng cố cả ở cấp đơn vị thành viên và cấp ĐHQGHN.
Thứ hai, ĐHQGHN cần hạn chế các tiêu cực phí liên quan đến xét duyệt,
nghiệm thu, thanh toán đề tài/dự án. Đồng thời, nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động
KH&CN thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý.
Thứ ba, ĐHQGHN cần tạo ra chuyển biến về nhận thức từ cấp lãnh đạo
ĐHQGHN đến đội ngũ lãnh đạo cấp đơn vị thành viên và cả các nhà khoa học, tránh
rơi vào chủ nghĩa hình thức, quan liêu, xa rời thực tiễn, nói không đi đôi với làm, nói
rất hay nhƣng thực hiện trong thực tế thì rất hạn chế, trọng hình thức thay vì thực chất.
Các nhà quản lý cũng phải hiểu rằng, việc quản lý NNCM theo kiểu hành chính là
không phù hợp. Việc coi chức vụ trƣởng NNC giống nhƣ tƣớc quan và cấp kinh phí
quản lý nhƣ những chức vụ hành chính sẽ không đem lại hiệu quả. Thực tế đã cho
thấy, NNCM chỉ có thể tồn tại và phát triển thông qua các chƣơng trình nhiệm vụ
nghiên cứu do vậy việc đầu tƣ cho NNCM là đầu tƣ thông qua các chƣơng trình
nghiên cứu và việc quản lý NNCM quản lý thông qua các chƣơng trình, nhiệm vụ
nghiên cứu và kết quả nghiên cứu do nhóm thực hiện và tạo ra.
5.6. Tiểu kết chƣơng 5
Từ những kết quả nghiên cứu nêu trên, tác giả luận án đi đến kết luận sau đây:
Việc bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển NNCM của ĐHQGHN cần phải đƣợc đặt
trong hệ thống thiết chế quản lý để xem xét một cách tổng thể và đồng bộ, trong đó:
169
Về mặt chiến lƣợc, ĐHQGHN cần có điều chỉnh theo hƣớng xác định thế
mạnh, của mình trong tƣơng quan với các trƣờng đại học ở Việt Nam, khu vực và thế
giới để từ đó quyết định phƣơng án lựa chọn tối ƣu, đảm bảo sự lựa chọn đó tạo ra sự
bứt phá quan trọng trong hoạt động KH&CN mà ĐHQGHN có thế mạnh. Đó sẽ là
chiến lƣợc với những mục tiêu chọn lọc, những chính sách đầu tƣ đầy đủ về nguồn lực
để đảm bảo cho sự phát triển tiềm lực KH&CN của những lĩnh vực ƣu tiên mà
ĐHQGHN đã lựa chọn.
Về mặt chính sách, ĐHQGHN cần xây dựng văn bản chính sách đồng bộ và
nhất quán đối với việc thành lập các đơn vị nghiên cứu nói chung, và NNCM nói
riêng; Hoàn thiện khung tiêu chí cho việc thành lập và đánh giá NNCM; Đầu tƣ cho
NNCM là đầu tƣ thông qua các chƣơng trình nhiệm vụ nghiên cứu, gắn với đào tạo
nghiên cứu sinh; Phát triển quỹ KH&CN bằng việc hàng năm trích ít nhất 5% học phí
bổ sung vào nguồn quỹ song song với việc đẩy mạnh thu hút tài trợ và đầu tƣ từ bên
ngoài; Đầu tƣ xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học và phần mềm quản lý hoạt động KH&CN thống nhất; Đầu tƣ cho công tác đào tạo
kỹ năng hoạch định, quản lý và tổ chức thực hiện chính sách song song với việc đào
tạo theo NNC.
Về mặt thiết chế quản lý, ĐHQGHN cần cấu trúc lại hệ thống các đơn vị nghiên
cứu (NNCM, TTNC, Viện NC…) hiện nay theo chính sách mở, cấu trúc mềm, tức
hoạt động gắn liền với các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể theo từng giai
đoạn (3-5 năm) tùy vào quy mô và lĩnh vực nghiên cứu của từng đơn vị, nguồn nhân
lực khoa học chất lƣợng cao cần đƣợc tập hợp theo cách mà Uber và Grab đang làm để
triển khai các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu; Việc đánh giá NNCM cần có quy
trình, quy định đánh giá minh bạch, rõ ràng thông qua hệ thống tiêu chí phù hợp với
thông lệ quốc tế. Việc đánh giá nghiêm túc hiệu quả hoạt động KH&CN của các
NNCM cũng buộc các NNCM phải luôn đổi mới, thúc đẩy sự ra đời của các chƣơng
trình, nhiệm vụ nghiên cứu mới. Chỉ khi việc đánh giá đƣợc công khai, minh bạch
thông qua hiệu quả hoạt động của các NNCM mới các tác động thúc đẩy các NNCM
phát huy khả năng sáng tạo trong hoạt động KH&CN. Mặt khác, cũng cần công khai
với xã hội về hiệu quả hoạt động của các NNCM để xã hội đánh giá, giám sát, điều
này cũng phần nào khẳng định mức độ công khai, minh bạch trong hoạt động của các
tổ chức KH&CN của ĐHQGHN.
170
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Các chƣơng nội dung của luận án đƣợc trình bày ở trên đã bàn về “Chính sách
phát triển nhóm nghiên cứu mạnh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và
công nghệ trong các trường đại học (Nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà
Nội)” đến đây tác giả luận án sẽ nhìn lại một số điểm chính, cụ thể nhƣ sau:
- Về Thực trạng các NNCM và tác động của NNCM đến việc nâng cao hiệu quả
hoạt động KH&CN của ĐHQGHN.
Thứ nhất, các NNCM của ĐHQGHN hầu hết đƣợc hình thành xuất phát từ
chính nhu cầu của các nhà khoa học. Về cơ bản, các NNCM đã nhận đƣợc sự hỗ trợ
thông qua một số chính sách trực tiếp và gián tiếp từ ĐHQGHN và nhà nƣớc. Tuy
nhiên, các NNCM đƣợc thành lập không gắn liền với các chƣơng trình nghiên cứu cụ
thể. Thêm nữa, ĐHQGHN và các trƣờng thành viên cũng không tiến hành đánh giá
hiệu quả hoạt động của các NNCM và giải thể các NNCM. Do đó, việc thành lập
NNCM phần nào đó còn mang tính hình thức. Việc không tiến hành giải thể NNCM
cũng làm thui chột đi động lực phải xây dựng các nhiệm vụ nghiên cứu mới, cũng nhƣ
không đảm bảo tính mới trong khoa học, vì thế hiệu quả hoạt động KH&CN của các
NNCM về lâu dài sẽ không cao.
Thứ hai, các tiêu chí NNCM của ĐHQGHN đã hƣớng đến việc xem xét 3 nội
dung chính gồm: (1) Hƣớng nghiên cứu, tiêu chí này nhằm làm rõ thế mạnh của nhóm
trong lĩnh vực nghiên cứu mà nhóm theo đuổi; (2) Sự xuất sắc của các thành viên, tiêu
chí này nhằm đánh giá năng lực của các thành viên trong việc thực hiện các chƣơng
trình/dự án nghiên cứu, các kết quả nghiên cứu đƣợc công bố hoặc ứng dụng trong
thực tiễn; (3) Cơ sở vật chất - trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, tiêu chí này nhằm
đánh giá các điều kiện cơ bản để nhóm có thể triển khai các chƣơng trình, dự án
nghiên cứu. Tuy nhiên, các tiêu chí này còn định tính, khó đo lƣờng; có những tiêu chí
đặt ra quá cao không phù hợp với thực tế; các tiêu chí cũng không xem xét đến tình
đặc thù của từng lĩnh vực nghiên cứu. Đặc biệt, các tiêu chí còn thiếu thống nhất khi
áp dụng trong ĐHQGHN. Kết quả đánh giá của các nhà khoa học về khả năng đáp ứng
các tiêu chí quốc tế của các NNCM ở ĐHQGHN là không cao do đó các NNCM ở
ĐHQGHN vẫn còn một khoảng cách khá xa so với các NNC quốc tế.
171
Thứ ba, đặc trƣng chính trong các NNCM ở ĐHQGHN là các nhóm đƣợc tổ
chức theo triết lý vòng hạt nhân gồm 3 vòng tròn đồng tâm, với việc phân định vai trò
và tập hợp lực lƣợng theo 3 nhóm nhân lực trong nhóm. Khảo sát thực tế cho thấy, lĩnh
vực KHTN và KHXH&NV là hai lĩnh vực thế mạnh của các NNCM. Các nhà khoa
học làm việc trong các NNCM đều là các nhà khoa học có trình độ cao, năng lực
nghiên cứu của các thành viên NNCM cao hơn nhiều so với mặt bằng chung. Quy mô
NNCM hợp lý. Tuy nhiên, một điểm đáng lƣu ý là độ tuổi trung bình của trƣởng
NNCM là tƣơng đối cao, trình độ càng cao thì tuổi càng cao. Điều đó vừa là thuận lợi,
vừa là khó khăn cho các NNCM trong quá trình triển khai hoạt động KH&CN. Thuận
lợi ở chỗ, đối với trƣởng NNCM đã qua tuổi 60 (tức qua tuổi giữ chức vụ quản lý) họ
có nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu, đối với những trƣởng NNCM dƣới
60 tuổi (đều đang giữ chức vụ quản lý) họ có mối quan hệ rộng để kết nối và huy động
các đề tài, dự án nghiên cứu. Nhƣng khó khăn ở chỗ, những thủ lĩnh nhóm có độ tuổi
cao, sức yếu, khả năng, động lực đóng góp cho khoa học dần giảm sút, còn những
ngƣời trẻ, sung sức lại đang giữ những chức vụ quản lý quan trọng và do vậy họ không
có nhiều thời gian để chuyên tâm cho nghiên cứu.
Cuối cùng, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, việc không tìm kiếm đƣợc nguồn
kinh phí để đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu, thiếu cán bộ khoa học có tầm ảnh
hƣởng lớn, năng lực đội ngũ còn kém là những yếu tố ảnh hƣởng mạnh mẽ nhất đến sự
phát triển NNCM. Bên cạnh đó, các yếu tố thuộc về môi trƣờng, chính sách nhƣ: Kinh
phí nghiên cứu khoa học quá eo hẹp, thủ tục thanh toán còn phiều phức, cơ chế quản lý
NCKH còn mang nặng tính xin cho, điều kiện vật chất thiếu thốn, định mức chi cho
NCKH không phù hợp và thu nhập từ làm NCKH còn quá thấp cũng có ảnh hƣởng lớn
đến hiệu quả hoạt động và khả năng phát huy năng lực cũng nhƣ quá trình xây dựng và
phát triển NNCM.
- Về thực trạng và tác động của chính sách phát triển NNCM đối với việc nâng
cao hiệu quả hoạt động KH&CN của ĐHQGHN.
Thứ nhất, các chính sách của nhà nƣớc đã thành công trong việc khẳng định
việc tự chủ của tổ chức KH&CN. Tuy nhiên, bất cập cơ bản của chính sách là Nhà
nƣớc vẫn nắm quyền làm chủ các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nên sự tự chủ của
các tổ chức KH&CN vẫn còn giới hạn. Cụ thể là việc lựa chọn, đấu thầu, giao nhiệm
vụ nghiên cứu vẫn cơ bản thực hiện theo cơ chế hành chính, bao cấp dẫn đến hoạt
động KH&CN khó phát triển lành mạnh. Điểm cần nhấn mạnh thêm là chính sách của
Nhà nƣớc đã hƣớng đến việc đầu tƣ có trọng tâm, trọng điểm cho các NNCM thông
172
qua các dự án nghiên cứu dài hạn, quy mô lớn với thời gian và kinh phí không giới
hạn. Ngoài ra, chính sách của Nhà nƣớc cũng chú trọng việc đào tạo theo nhóm
chuyên gia, đào tạo theo hƣớng nghiên cứu, dự án nghiên cứu và đào tạo gắn liền với
thực tiễn tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nƣớc ngoài tại Việt Nam hoặc các cơ
quan, tổ chức doanh nghiệp ở nƣớc ngoài nhằm giải quyết những vấn đề nghiên cứu cụ
thể của các nhà khoa học. Một điểm đáng lƣu ý nữa là chính sách nhà nƣớc cũng chú
trọng đầu tƣ phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở
GDĐH, đồng thời, thúc đẩy phát triển các tổ chức KH&CN công lập, liên kết giữa các
tổ chức Viện - Trƣờng- Doanh nghiệp và thu hút chuyên gia nƣớc ngoài, ngƣời Việt
Nam ở nƣớc ngoài về Việt Nam hợp tác nghiên cứu thông qua các dự án đẩy mạnh đổi
mới sáng tạo trong nghiên cứu KH&CN, các dự án tăng cƣờng năng lực nghiên cứu.
Chính sách Nhà nƣớc cũng chú trọng đến chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực chất
lƣợng cao trong tƣơng lai bằng việc nâng chuẩn đối với ứng viên đào tạo tiến sĩ và các
nhà khoa học tham gia vào quá trình đào tạo tiến sĩ.
Thứ hai, các chính sách của ĐHQGHN đã cơ bản thành công trong việc đầu tƣ,
phát triển nguồn nhân lực KH&CN nói chung và NNCM nói riêng thông qua việc thu
hút, tuyển dụng đặc cách các nhà khoa học có trình tiến sĩ và đào tạo cán bộ khoa học
đạt chuẩn, với quy mô hợp lý và cơ cấu đồng bộ về chuyên môn, trình độ, có kế thừa và
phát triển. Thêm nữa, chính sách của ĐHQGHN cũng đã góp phần cải thiện môi trƣờng
và điều kiện nghiên cứu cho các nhà khoa học thông qua việc tái cơ cấu hoạt động
KH&CN. Điểm cần nói thêm là chính sách của ĐHQGHN cũng bƣớc đầu thành công
trong việc đa dạng hoá nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt động KH&CN. Tuy nhiên,
chính sách ĐHQGHN chƣa xác lập đƣợc lĩnh vực ƣu tiên để đầu tƣ có trọng tâm, trọng
điểm nhằm tối đa hóa lợi thế cạnh tranh của Trƣờng. Việc các NNCM đƣợc thành lập
không gắn liền với một chƣơng trình nghiên cứu cụ thể, các chính sách đƣợc thể chế hóa
nhằm ƣu đãi đối với các nhà khoa học chƣa đƣợc thực thi là những hạn chế lớn của
chính sách. Một điều cần phải khẳng định là sự xuất sắc của các NNCM ở ĐHQGHN
không thể đạt đƣợc bằng việc tự công nhận mà phải do cộng đồng khoa học và xã hội
quyết định. Đặc biệt, chính sách của ĐHQGHN thiếu các thiết chế để quản lý và điều
chỉnh, cơ cấu tổ chức còn có sự chồng chéo, cơ chế quản trị còn cồng kềnh, quan liêu, tƣ
duy kiểu hành chính bao cấp chƣa có sự thay đổi rõ ràng là những rào cản lớn đối với sự
phát triển các tổ chức KH&CN nói chung và các NNCM nói riêng. Bên cạnh đó, các
quy định công chức nhà nƣớc và khuôn khổ tài chính cứng nhắc là những rào cản lớn
173
đối với vấn đề thu hút các các giáo sƣ và nhà khoa học có năng lực trong và ngoài nƣớc
đến ĐHQGHN làm việc.
- Về giải pháp bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển nhóm nghiên cứu
mạnh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN.
Thứ nhất, về mặt chiến lƣợc, ĐHQGHN cần có điều chỉnh theo hƣớng xác định
thế mạnh của mình trong tƣơng quan với các trƣờng đại học ở Việt Nam, khu vực và thế
giới để từ đó quyết định phƣơng án lựa chọn tối ƣu nhằm tạo ra sự bứt phá quan trọng
trong hoạt động KH&CN mà ĐHQGHN có thế mạnh. Đó sẽ là chiến lƣợc với những
mục tiêu chọn lọc, những chính sách đầu tƣ đầy đủ về nguồn lực để đảm bảo cho sự
phát triển tiềm lực KH&CN của những lĩnh vực ƣu tiên mà ĐHQGHN đã lựa chọn.
Thứ hai, về mặt chính sách, ĐHQGHN nên lƣu ý một số điểm cụ thể sau đây:
Xây dựng văn bản chính sách đồng bộ và nhất quán đối với việc thành lập các đơn vị
nghiên cứu nói chung, và NNCM nói riêng; hoàn thiện khung tiêu chí cho việc thành
lập và đánh giá NNCM; đầu tƣ cho NNCM là đầu tƣ thông qua các chƣơng trình
nhiệm vụ nghiên cứu, gắn với đào tạo nghiên cứu sinh; phát triển quỹ KH&CN bằng
việc hàng năm trích ít nhất 5% học phí bổ sung vào nguồn quỹ song song với việc đẩy
mạnh thu hút tài trợ và đầu tƣ từ bên ngoài; đầu tƣ xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về
kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và phần mềm quản lý hoạt động KH&CN
thống nhất; đầu tƣ cho công tác đào tạo kỹ năng hoạch định, quản lý và tổ chức thực
hiện chính sách song song với việc đào tạo theo NNC.
Thứ ba, về mặt thiết chế quản lý, ĐHQGHN cần cấu trúc lại hệ thống các đơn
vị nghiên cứu (NNCM, TTNC, Viện NC…) hiện nay theo chính sách mở, cấu trúc
mềm, tức hoạt động gắn liền với các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể theo
từng giai đoạn (3-5 năm) tùy vào quy mô và lĩnh vực nghiên cứu của từng đơn vị,
nguồn nhân lực khoa học chất lƣợng cao cần đƣợc tập hợp theo cách mà Uber và Grab
đang làm để triển khai các chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu. Việc đánh giá NNCM
cần có quy trình, quy định đánh giá minh bạch, rõ ràng thông qua hệ thống tiêu chí phù
hợp với thông lệ quốc tế. Việc đánh giá nghiêm túc hiệu quả hoạt động KH&CN của
các NNCM cũng buộc các NNCM phải luôn đổi mới, thúc đẩy sự ra đời của các
chƣơng trình, nhiệm vụ nghiên cứu mới. Chỉ khi việc đánh giá đƣợc công khai, minh
bạch thông qua hiệu quả hoạt động của các NNCM mới có tác động thúc đẩy các
NNCM phát huy khả năng sáng tạo trong hoạt động KH&CN. Mặt khác, ĐHQGHN
cũng cần công khai với xã hội về hiệu quả hoạt động của các NNCM để xã hội đánh
174
giá, giám sát, điều này cũng phần nào khẳng định mức độ công khai, minh bạch trong
hoạt động của các tổ chức KH&CN của ĐHQGHN.
2. Khuyến nghị
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu ở trên chỉ ra rằng: việc coi NNCM là mục tiêu sẽ
khiến cho NNCM phần nhiều mang tính hình thức, giống nhƣ vật trang trí của trƣờng
đại học hơn là thực chất. Có thể nói, đây là việc lấy phƣơng tiện làm mục tiêu. Điều
này dẫn đến sự ra đời của nhiều quy định chỉ mang tính hình thức, không phù hợp với
thực tiễn. Từ những căn cứ này, khuyến nghị của tác giả luận án là: ĐHQGHN cần bắt
đầu bằng sự thay đổi quan điểm khi xây dựng và phát triển NNCM. Theo đó, NNCM
phải đƣợc coi là phƣơng tiện để thực hiện chiến lƣợc nâng cao chất lƣợng và hiệu quả
hoạt động KH&CN của ĐHQGHN.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận án đã chỉ ra rằng: Chính sách phát triển
NNCM của ĐHQGHN đƣợc xây dựng với sự can dự hạn chế của các nhà khoa học.
Các nhà khoa học là những ngƣời chịu tác động trực tiếp bởi chính sách nhƣng chỉ
đƣợc phép có ý kiến sau hoặc khi có vấn đề phát sinh. Do đó, khuyến nghị của tác giả
là ĐHQGHN cần điều chỉnh và đổi mới quy trình hoạch định chính sách phát triển
KH&CN. Trong đó, việc hoạch định chính sách cần có sự tham gia của tất cả các bên
liên quan, từ cấp ĐHQGHN đến các đơn vị thành viên, thậm chí có thể cả giới doanh
nghiệp. Bên cạnh sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý thì các nhà khoa học là
những ngƣời trực tiếp chịu tác động bởi chính sách phải đƣợc tham gia. Đôi khi, các
nhà khoa học hoặc các đơn vị thành viên hay thậm chí là các NNCM/trung tâm nghiên
cứu/viện nghiên cứu có thể vạch ra một chiến lƣợc trình ĐHQGHN. ĐHQGHN cũng
cần xây dựng diễn đàn khoa học đối thoại với Giám đốc, trong đó, các nhà khoa học
đặc biệt các trƣởng NNCM có thể trao đổi trực tiếp với Giám đốc về những nhiệm vụ
nghiên cứu có quy mô lớn
Thứ ba, kết quả nghiên cứu của luận án cũng chỉ ra rằng: Các chính sách của
ĐHQGHN khi đƣợc triển khai xuống các trƣờng/đơn vị thành viên nhiều khi không
đƣợc thực hiện bởi ĐHQGHN không phải lúc nào cũng cấp kinh phí để triển khai mà
các đơn vị phải tự cân đối các nguồn thu để thực hiện chính sách. Do đó, các đơn vị
thành viên của ĐHQGHN thƣờng căn cứ vào nguồn lực của mình để cân đối cũng nhƣ
cân nhắc để thực hiện toàn phần, hay một phần của của chính sách hoặc không thực hiện
do không đủ nguồn lực. Hơn nữa, nội dung của chính sách vẫn còn nhiều điểm hạn chế
nhƣ chính sách không quy định NNCM phải báo cáo thƣờng niên, chính sách cũng thiếu
175
sự phân định rõ ràng giữa NNCM, TTNC, Viện NC, PTNTĐ, cũng nhƣ đối tƣợng đƣợc
thụ hƣởng chính sách và còn sự chồng chéo giữa các chính sách. Đặc biệt, việc thực thi
chính sách cũng còn nhiều điểm bất cập nhƣ việc xét duyệt và quản lý dự án đầu tƣ thiếu
chặt chẽ dẫn đến những lãng phí nguồn lực tài chính của Nhà nƣớc. Thực tế còn có hiện
tƣợng mƣợn tên các nhà khoa học có chức danh, học vị, uy tín khoa học nhằm thuyết
minh hồ sơ để đƣợc công nhận là NNCM hay còn có tiêu cực phí trong xét duyệt,
nghiệm thu đề tài… Ngoài ra, cũng phải nói thêm là, việc quản lý NNCM theo kiểu
hành chính là không phù hợp, việc coi chức vụ trƣởng NNC giống nhƣ tƣớc quan và cấp
kinh phí quản lý nhƣ những chức vụ hành chính sẽ không đem lại hiệu quả. Do đó, tác
giả luận án khuyến nghị ĐHQGHN cần xây dựng kế hoạch rà soát, đánh giá những
chính sách đã đƣợc triển khai trong thời gian qua một cách tổng thể, với quy mô lớn hơn
để có những điều chỉnh phù hợp. Đặc biệt, ĐHQGHN cần đánh giá và cân đối các
nguồn lực hiện có và khả năng huy động các nguồn lực khác để triển khai chính sách
trong thực tế; tránh trƣờng hợp chính sách đƣa ra rất hay, rất hoành tráng nhƣng khi
triển khai trong thực tế thì thiếu nguồn lực hay năng lực triển khai chính sách yếu dẫn
đến chỉ triển khai đƣợc một phần hoặc không triển khai gây ảnh hƣởng tiêu cực đến
động lực làm việc của các nhà khoa học, các NNC cũng nhƣ làm giảm uy tín của các
cấp lãnh đạo của ĐHQGHN. Thêm nữa, ĐHQGHN cần thực hiện đánh giá sâu hơn về
hiệu quả hoạt động của các NNCM hiện nay (sau 5 năm được thành lập) nhằm phát
hiện những vấn đề đặt ra và dự báo xu hƣớng phát triển.
Cuối cùng, dƣới một góc nhìn nhất định, những kết quả nghiên cứu trên đây có
thể là khung tham chiếu hữu ích cho các cơ quan hoạch định chính sách, trƣờng đại
học, đặc biệt là ĐHQGHN tham khảo, vận dụng trong việc bổ sung, hoàn thiện chính
sách phát triển NNCM nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN. Tuy nhiên, việc
vận dụng các kết quả nghiên cứu trên đây vào thực tiễn còn phụ thuộc vào bối cảnh cụ
thể của từng cơ sở đào tạo, từng trƣờng đại học.
176
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đào Minh Quân (2014), “Ứng dụng mô hình 7S của Mackinsey trong xây dựng
nhóm nghiên cứu mạnh ở các trƣờng đại học”. Tạp chí KH&CN Việt Nam (14),
tr.25-28.
2. Đào Minh Quân (2016), “Những rào cản trong chuyển giao công nghệ giữa doanh
nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam”. Sách chuyên khảo “Tổ chức và hoạt động
chuyển giao công nghệ: Kinh nghiệm của Australia và đề xuất cho Việt Nam”, NXB
Thế giới, tr.432-443.
3. Đào Minh Quân (2016), “Thực trạng và một số biện pháp xây dựng, phát triển nhóm
nghiên cứu mạnh ở Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san Nghiên cứu chính
sách và Quản lý, 32(4), tr.25-40.
4. Đào Minh Quân (2018), “Đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển nhóm nghiên
cứu mạnh ở ĐHQGHN”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san
Nghiên cứu chính sách và Quản lý, 34(3), tr.26-40.
5. Đào Minh Quân (2019), “Chính sách phát triển nhóm nghiên cứu mạnh ở Đại học
Quốc gia Hà Nội: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia
Hà Nội, Chuyên san Nghiên cứu chính sách và Quản lý, 35(1), tr.79-98.
6. Đào Minh Quân, Nguyễn Đình Đức (2019), “Nhận diện vai trò của nhóm nghiên
cứu mạnh trong các trƣờng đại học dựa trên tiếp cận các mối quan hệ của nhóm
nghiên cứu”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 61(10), tr.19-23.
177
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam đối với trí thức, Báo Nhân dân, số
1269, ngày 28/9/1957
2. ĐHQGHN (2014), Báo cáo tổng kết: Xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu
mạnh ở ĐHQGHN, Ban KH&CN.
3. ĐHQGHN (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm học 2016-2016, triển khai kế
hoạch nhiệm vụ năm 2017-2018.
4. Vũ Cao Đàm (1999), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
5. Vũ Cao Đàm (2009), Giáo trình Khoa học chính sách, Nhà xuất bản ĐHQGHN.
6. Vũ Cao Đàm (2016), Kỹ năng đánh giá chính sách, Nhà xuất bản thế giới.
7. Vũ Cao Đàm (2017), Đánh giá kết quả và đề xuất giải pháp tăng cƣờng triển khai
thực hiện Nghị định 115/2015/NQ-CP về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các tổ chức KH&CN công lập và Nghị định 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp
KH&CN.
8. Nguyễn Đình Đức (2018), Cần đầu tư thỏa đáng cho nghiên cứu sinh, Bản tin
ĐHQGHN (328), tr54-57.
9. Nguyễn Tiến Dũng (2011), Nghiên cứu, phân tích những yếu tố tiềm lực (nhân
lực, cơ sở vật chất), điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của hoạt động
nghiên cứu trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
10. Hoàng Thị Hảo (2017), Hoàn thiện chính sách giảm nghèo ở tỉnh Quảng Ninh,
Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý Kinh tế.
11. Trƣơng Quang Học (2014), Xây dựng Trung tâm nghiên cứu xuất sắc: kinh
nghiệm quốc tế và thực tế ở Việt Nam, Nhà xuất bản ĐHQGHN (280), tr.33-37.
12. ĐHQGHN (2014), Hợp tác và trao quyền trong giáo dục đại học, Bản tin
ĐHQGHN (283).
13. Phạm Thành Huy (2009),“Mô hình các Nhóm nghiên cứu mạnh trên thế giới,
định nghĩa và phân tích”, Báo cáo hội thảo Nghiên cứu xây dựng và phát triển
các nhóm nghiên cứu mạnh tại ĐHQG TP.HCM, tr. 57-74.
14. Ngô Quang Hƣng (2015), Nghiên cứu và phát triển trong đại học, Bản tin
ĐHQGHN (296).
178
15. TrầnVăn Kham (2004), Hợp tác nghiên cứu trong cộng đồng khoa học hiện nay,
Luận văn khoa học ngành Xã hội học.
16. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (2004), Khuyến nghị tiêu chuẩn
thực tiễn cho điều tra nghiên cứu và phát triển, Tài liệu hƣớng dẫn Frascati 2002,
Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
17. ĐHQGHN (2014), “Mô hình xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh trên
cơ sở hợp tác quốc tế”, Kỷ yếu Hội nghị tổng kết Xây dựng và phát triển NNCM
ở ĐHQGHN.
18. Phan Kim Ngọc (2010), “Vài chia sẻ về xây dựng NNC khoa học”, Tạp chí hoạt
động khoa học (606).
19. Nguyễn Thị Thu Oanh (2009), “Xây dựng quy trình, phƣơng pháp và tiêu chí lựa
chọn nhóm nghiên cứu mạnh”, Báo cáo hội thảo Nghiên cứu xây dựng và phát
triển các nhóm nghiên cứu mạnh tại ĐHQG TP.HCM, tr. 107-112.
20. ĐHQGHN (2016), PTN trọng điểm: giải pháp để thu hút và trọng dụng nhà khoa
học trình độ cao, Bản tin ĐHQGHN (303).
21. Đào Minh Quân (2009), Xây dựng nhóm nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả
gắn kết giữa nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học (Nghiên cứu trường
hợp trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN), Luận văn thạc sĩ ngành Quản lý
KH&CN.
22. ĐHQGHN (2015), Quyết định ban hành chỉ tiêu thực hiện kế hoạch nhiệm vụ
năm 2015 đối với các đơn vị đào tạo và nghiên cứu của ĐHQGHN
23. Rosa Luxemburg Stiftung Vietnam, Trƣờng ĐHKHXH&NV (2011), Kỹ năng
phân tích và hoạch định chính sách, Nhà xuất bản Thế giới.
24. Phạm Xuân Thảo (2009), “Đề xuất quy trình xây dựng NNCM và phƣơng án
nuôi dƣỡng, phát triển các NNCM phù hợp trong điều kiện Việt Nam”, Báo cáo
hội thảo Nghiên cứu xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh tại
ĐHQG TP.HCM, tr. 113-125.
25. Đinh Văn Toàn (2016), Hợp tác đại học - doanh nghiệp trên thế giới và một số
gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, chuyên san Kinh tế và Kinh
doanh, 32(4), tr.69-80.
26. Ban Chấp hành Trung ƣơng (2012), Nghị quyết Số 20-NQ/TW, ngày 01/11/2012,
Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoa XI về phát triển
khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
179
27. Bộ Khoa học và Công nghệ (2008), Quyết định Số 12/2008/QĐ-BKHCN, ngày
4/9/2008, Ban hành một số bảng phân loại thống kê khoa học và công nghệ.
28. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư số 37/2014/TT-BKHCN, ngày
12/12/2014, Quy định quản lý đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ phát triển Khoa
học và Công nghệ Quốc gia tài trợ.
29. ĐHQGHN (2013), Văn bản số 1409/HD-KHCN, ngày 8/5/2013, Hướng dẫn xây
dựng và phát triển các chương trình nghiên cứu trọng điểm và nhóm nghiên cứu
mạnh ở ĐHQGHN.
30. Thủ tƣớng chính phủ (2012), Quyết định Số 418/QĐ-TTg, ngày 11/4/2012, Phê
duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020.
Tiếng Anh
31. Joseph S. Fruton (1990), “Constracts in scientific Style: Research Groups”,The
Chemical and BiochemocalResearchs, Diana Publishes.
32. D. deB. Beaver, R. Rosen (1979), Studies in Scientific Collaboration Part III.
Professionalization and The Natural History of Modern Scientific Co-authorship.
Scientometrics, 1(3), pp.231-245.
33. Fabiola Bertolotti, Elisa Mattarelli, Matteo Vignoli, Diego Maria Macrì (2015),
Exploring the relationship between multiple team membership and team
performance: The role of social networks and collaborative technology.
Research Policy, 44, pp.911-924.
34. David L. Morgan - Porland State University (1997), Focus Groups as Qualitative
Research, Second Edition,Sage Publications Inc.
35. Sooho Lee và Barry Bozeman (2005), The Impact of Research Collaboration on
Scientific Productivity. Social Studies of Science, 35(5), pp.673-702.
36. Sharon Mickan, Sylvia Rodger (2000), Characteristics of effective teams: a
literature review. Australian Health Review, 23(3), pp.201-208.
37. Nasim Nobahar, Masoomeh Nobahar, Mohsen Hamidi (2014), Investigation of
Research Barriers and Challenges in University from the Perspective of Faculty
Members of Kermanshah City. International Journal of Social Sciences (IJSS),
4(4), pp.15-21.
38. Neshaneh Pakdaman, Mohammad Ali Ahmadi, Rakhshaneh Pakdaman, Narges
Malih (2016), Barriers to research activities of faculty members in Islamic Azad
University. Social Determinants of Health, 2(2), pp.76-83.
180
39. Ha Nguyen Thi Thu, Duc Bui Minh, Duc Nguyen Dinh (2019), Major factors
impacting the operational efficiency of scientific working groups. VNU Journal
of Science: Education Research, 35(1), pp.54-63
40. Valerie I. Sessa, Manuel London, Taylor & Francis Group (2008), Handbook:
Work Group Learning.
Website
41. Các chƣơng trình đào tạo thí điểm - “đặc sản” trong đào tạo của ĐHQGHN, Truy
cập ngày từ 15/6/2018 https://vnu.edu.vn/ttsk/?C2492/N16145/Cac-chuong-trinh-
dao-tao-thi-diem-%E2%80%93-%E2%80%9Cdac-san%E2%80%9D-trong-dao-
tao-cua-DHQGHN.htm
42. Chiến lƣợc phát triển ĐHQGHN đến năm 2020 tầm nhìn 2030, Truy cập ngày
15/02/2014, từ địa chỉ http://www.vnu.edu.vn/home/?C1918.
43. Cổng thông tin tuyển dụng của ĐHQGHN, truy cập ngày 28/7/2018, từ địa chỉ
http://tuyendung.vnu.edu.vn/
44. ĐHQGHN ký 6 hợp đồng chuyển giao công nghệ sang Lào, truy cập ngày
11/9/2018, từ địa chỉ http://vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/N22754/[Video]%C4%90
HQGHN-ky-6-hop-%C4%91 ong-chuyen-giao-cong-nghe-sang-Lao.html
45. Đầu tƣ xây dựng hệ thống thƣ viện đại học làm nền tảng cho một xã hội thông
minh, truy cập ngày 26/11/2018, từ địa chỉ http://vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/
N22886/dau-tu-xay-dung-he-thong-thu-vien-dai-hoc-lam-nen-tang-cho-mot-xa-
hoi-thong-minh.htm
46. Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ, truy
cập ngày 25/7/2018, từ địa chỉ http://first-most.vn/vi-VN/gioi-thieu/gioi-thieu-
chung/day-manh-doi-moi-sang-tao-thong-qua-nghien-cuu-khoa-hoc-va-cong-
nghe_t114c17n40
47. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khoá VIII) về
định hƣớng chiến lƣợc phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000,
http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-
trung-uong/khoa-viii/nghi-quyet-hoi-nghi-lan-thu-hai-ban-chap-hanh-trung-
uong-dang-khoa-viii-ve-dinh-huong-chien-luoc-phat-trien-giao-duc-666
181
48. Nguyễn Đình Đức (2014), Phát triển nhóm nghiên cứu trong trường đại học - Xu
thế tất yếu, truy cập ngày 22/6/2015, từ địa chỉ http://vov.vn/xa-hoi/phat-trien-
nhom-nghien-cuu-trong-truong-dh-xu-the-tat-yeu-325151.vov.
49. Nguyễn Hữu Đức (2014), NNCM vừa là phương thức vừa là mục tiêu để phát
triển đại học nghiên cứu, truy cập ngày 15/02/2014, từ địa chỉ
http://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C151/N16301/Nhom-nghien-cuu-manh-vua-la-
phuong-thuc-vua-la-muc-tieu-de-phat-trien-dH-nghien-cuu.
50. Giới thiệu chung về công tác cán bộ của ĐHQGHN, truy cập ngày 12/01/2019,
từ địa chỉ http://www.vnu.edu.vn/home/?C2207
51. Nguyễn Hồ Phi Hà (2018), Thực trạng đầu tư cho phát triển KH&CN từ NSNN,
truy cập ngày 18/03/2018, từ địa chỉ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-
doi/trao-doi-binh-luan/thuc-trang-dau-tu-cho-phat-trien-khoa-hoc-va-cong-nghe-
tu-ngan-sach-nha-nuoc-131338.html
52. Hợp tác và phát triển, truy cập ngày 11/12/2018, từ địa chỉ
http://www.vnu.edu.vn/home/?C2031
53. Trƣơng Quang Học (2008), Nhóm nghiên cứu - yếu tố quyết định tới chất lượng
của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học. Truy cập ngày
14/08/2013, từ địa chỉ http://dt.ussh.edu.vn/noi-dung-khac/nhom-nghien-cuu-
khoa-hoc-yeu-to-quyet-dinh-toi-chat-luong-cua-hoat-dong-khoa-hoc-cong-nghe-
va-dao-tao-sau-dai-hoc
54. Trƣơng Quang Học (2008), Kinh nghiệm xây dựng và phát triển NNC. Truy cập
ngày 12/4/2014, từ địa chỉ http://www.vnu.edu.vn/210/210p19-21.pdf.
55. Trƣơng Quang Học (2014), Xây dựng NNC: Kinh nghiệm quốc tế, Truy cập ngày
30/5/2014, từ địa chỉ http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/xay-dung-nhom-
nghien-cuu-kinh-nghiem-quoc-te-7532.
56. Kết quả điều tra NC&TK năm 2014 và điều tra doanh nghiệp năm 2014, truy cập
ngày 25/10/2017, từ địa chỉ http://www.vista.gov.vn/Default.aspx?
tabid=83&IntroId=218&temidclicked =218& language=vi-VN.
57. Lễ ký thoả thuận tài trợ chuyên gia giỏi nƣớc ngoài về khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo của dự án first - Vòng III, truy cập ngày 13/11/2018, từ địa chỉ
http://first-most.vn/vi-VN/tin-tuc/tin-hoat-dong-du-an/le-ky-thoa-thuan-tai-tro-
chuyen-gia-gioi-nuoc-ngoai-ve-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-vong-
iii_t114c23n462
182
58. NAFOSTED đầu tƣ cho NNCM, truy cập ngày 24/08/2017, từ địa chỉ
http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/NAFOSTED-dau-tu-cho-nhom-nghien-
cuu-manh--10876.
59. Trần Đình Phong (2016), Tài trợ nghiên cứu cơ bản theo mô hình 3 mức, truy
cập ngày 15/01/2017, từ địa chỉ http:/tiasang.com.vn/-dien-dan/Tai-tro-nghien -
cuu-co-ban-theo-mo-hinh-ba-muc-10333/
60. Nguyễn Anh Phƣơng (2015), Chính sách, chính sách công và khoa học chính
sách, truy cập ngày 29/02/2016, từ địa chỉ http://chinhsach.vn/chinh-sach-chinh-
sach-cong-va-khoa-hoc-chinh-sach/
61. Tài trợ cho các đề tài nghiên cứu Khoa học Xã hội, truy cập ngày 16/11/2016, từ
địa chỉ http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/Tai-tro-cho-cac-de-tai-nghien-
cuu-Khoa-hoc-Xa-hoi-10032
62. Ngô Đức Thế (2013), Đầu tư cho nhóm nghiên cứu khởi phát: Chìa khóa để thu
hút tài năng và cải thiện hiệu suất nghiên cứu khoa học, truy cập ngày
25/01/2014, từ địa chỉ http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/dau-tu-cho-
nhom-nghien-cuu-khoi-phat-6434/.
63. Thomas J. Vallely - Ben Wilkinson, Giáo dục bậc đại học ở Việt Nam: Khủng
hoảng và phản ứng, bài viết đăng tại website: http://www.hks.harvard.edu/
innovations/asia/Documents/HigherEducationOverview112008.pdf
64. Trƣờng Đại học Phenikaa đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, truy cập
ngày 12/3/2019 từ địa chỉ http://phenikaa.com/vi/tin-t%E1%BB%A9c/tr%
C6%B0%E1%BB%9Dng-%C4%91%E1%BA%A1i-h%E1%BB%8Dc-
phenikaa-%C4%91%E1%BA%A9y-m%E1%BA%A1nh-ho%E1%BA%A1t-
%C4%91%E1%BB%99ng-nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u-khoa-
h%E1%BB%8Dc
65. Trƣờng Đại học PHENIKAA ra mắt các nhóm nghiên cứu mạnh, truy cập ngày
18/5/2019, từ địa chỉ http://phena.phenikaa-uni.edu.vn/chitiet/tin-tuc_2019_2_22
_7_56_40/truong-dai-hoc-phenikaa-ra-mat-cac-nhom-nghien-cuu-manh-2019-5-
16-11-45-449
66. Phạm Hùng Việt (2015), Năng lực nghiên cứu là yếu tố quan trọng, truy cập
ngày 20/3/2016, từ địa chỉ http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/nang-luc-
nghien-cuu-la-yeu-to-quan-trong-8761, .
183
67. Phạm Hùng Việt (2015), Xây dựng và phát triển NNCM trong trường đại học,
truy cập ngày 20/3/2016, từ địa chỉ http://tiasang.com.vn/Default.aspx ?tabid
=110&CategoryID=36& News=8833, .
68. Xếp hạng đại học châu Á 2019: ĐHQGHN duy trì vị trí 124, truy cập ngày
14/12/2018, từ địa chỉ https://vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/N23042/dai-hoc-Quoc-gia-
Ha-Noi-vuon-len-vi-tri-thu-124-trong-bang-xep-hang-QS-Chau-a-nam-2019.htm
69. Xếp hạng ĐHQGHN trong TOP 1000 trƣờng đại học thế giới, truy cập ngày
18/6/2018, từ địa chỉ http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Viet-Nam-co-2-truong-
trong-top-1000-dai-hoc-the-gioi-post186916.gd.
70. Zhigang Hu, Chaomei Chen, và Zeyuan Liu (2012), How are Collaboration and
Productivity Correlated at Various Career Stages of Scientists?, from
https://journals.plos.org/plosone/article?id=10.1371/ journal.pone.0049176.
71. Max Planck Research group, truy cập từ https://www.mpl.mpg.de/en/leuchs/
publications.html
72. Nano Research Group, School of Materials and Engineering, Georgia Institute of
Technology, http://www.nanoscience.gatech.edu/group/Current%20 Members/
Group%20Leader/Zhong%20Lin%20Wang.php
73. Scientific Working Group, Truy cập ngày 21/3/2014 từ địa chỉ
https://en.wikipedia.org/wiki/ Scientific_Working_Group
74. RMIT University, QS Top Universities , truy cập ngày 05/9/2018 từ địa chỉ
http://www.topuniversities.com /universities/rmit-university
75. RMIT policy: Research Structures Policy; Establishment of Research Groups
Procedure; Establishment of Research Centres Procedure; Establishment of
Research Institutes Procedure, truy cập 05/03/2018 từ địa chỉ
https://www.rmit.edu.au
76. The Abruña group, Department of Chemistry and Chemical Biology, Cornell
University, United State, truy cập từ http://abruna.chem.cornell.edu/
77. The Group Semiconductor Components, University of Twente, truy cập từ
https://www.utwente.nl/ewi/
184
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1 BẢNG TỔNG HỢP NHÂN LỰC CỦA CÁC NNCM Ở ĐHQGHN
TT
Tên nhóm
Trưởng nhóm
ThS CN NCS HVCH SV Tổng
Năm được công nhận
GS.TS/ GS.TSKH
PGS. TS
TS/ TSKH
1. Topo đại số
2014
GS.TSKH Nguyễn Hữu Việt Hưng
1
1
2
1
2
7
2014
PGS.TS PGS.TS Phạm Chí Vĩnh
6
2.
2
3
4
14
Sóng trong các môi trường đàn hồi
2014
GS.TSKH Lưu Văn Bôi
3.
3
6
2
2
1
20
6
Công nghệ hóa học vật liệu và năng lượng sạch
2014
GS.TS Nguyễn Quang Báu
4.
2
3
16
1
25
3
Phương pháp lý thuyết trường lượng tử
5.
1
5
30
1
2014
GS.TS Phạm Hùng Việt
7
5
4
7
Khoa học phân tích trong môi trường Y sinh, thực phẩm và ứng dụng
6.
2014
GS.TS Phan Tuấn Nghĩa
6
11
4
2
24
1
Công nghệ Enzym và Protein
7.
2014
GS.TS Bạch Thành Công
7
8
3
3
1
23
1
Nhóm Khoa Học Vật liệu Tính toán
8. Tâm lý học lâm sàng
2014
PGS.TS Đặng Hoàng Minh
2
5
3
1
11
9.
2014
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
4
8
2
17
3
Nghiên cứu về Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư pháp
TT
Tên nhóm
Trưởng nhóm
ThS CN NCS HVCH SV Tổng
Năm được công nhận
GS.TS/ GS.TSKH
PGS. TS
TS/ TSKH
2014
GS.TS Nguyễn Văn Kim
10.
1
1
3
3
4
12
Nghiên cứu Lịch sử và Quan hệ Thương mại Châu Á
2014
PGS.TS Nguyễn Thị Kim Hoa
11.
6
6
Công tác xã hội và an sinh xã hội
2014
GS.TS Nguyễn Năng Định
12.
1
3
5
2
2
13
Vật lý và công nghệ tổ hợp nano hữu cơ
2014
GS.TS Nguyễn Hữu Đức
13.
1
2
1
2
4
10
Vật liệu và linh kiện Micro-nano
14.
2
2014
PGS.TS Nguyễn Đức Thành
23
4
3
2
3
37
Lý thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập kinh tế của Việt Nam
15.
2014
GS.TS Nguyễn Đăng Dung
4
3
6
2
15
Nghiên cứu về Luật Hiến pháp - Hành chính
16.
2014
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc
1
1
1
4
7
Nghiên cứu khu vực học
17.
2015
1
5
5
4
3
2
20
Nghiên cứu chính sách và quản lý
PGS.TS Vũ Cao Đàm, PGS.TS Đào Thanh Trường
18.
2015
GS.TS Đinh Văn Đức
3
2
1
6
Ngôn ngữ học ứng dụng và ngôn ngữ học đối chiếu
TT
Tên nhóm
Trưởng nhóm
ThS CN NCS HVCH SV Tổng
Năm được công nhận
GS.TS/ GS.TSKH
PGS. TS
TS/ TSKH
2015
GS.TS Nguyễn Văn Nội
19.
1
7
3
1
12
Vật liệu tiên tiến trong bảo vệ môi trường và phát triển xanh
2015
PGS. TS Nguyễn Hồng Sơn
20.
3
4
3
10
Hội nhập kinh tế quốc tế
2015
PGS.TS. Phan Chí Anh
1
2
21.
4
1
4
12
Nghiên cứu về năng suất chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam
22.
2016
GS.TS Phan Văn Tân
3
2
9
1
4
19
Mô hình hóa khí hậu khu vực và biến đổi khí hậu
23. Tôn giáo và pháp quyền
2016
GS.TS Đỗ Quang Hưng
2
4
6
4
16
24.
2017
GS.TS Nguyễn Bá Diến
2
1
4
1
8
Pháp luật quốc tế phục vụ chiến lược và bảo vệ chủ quyền và Hội nhập quốc tế của Việt Nam
25.
1
2017
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức
11
2
10
3
12
39
Vật liệu và kết cấu tiên tiến
26.
2017
PGS.TS Nguyễn Hùng Huy
1
1
3
5
Hóa học phức chất và hóa sinh vô cơ
27.
2017
PGS.TS Trần Thị Thanh Tú
1
2
5
3
11
Nghiên cứu về quản trị công ty trong ngân hàng
28.
2018
GS.TS Hoàng Bá Thịnh
1
2
6
2
11
Nghiên cứu về giới, dân số và môi trường
PHỤ LỤC 2
DANH SÁCH NNC PHÂN THEO LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU
TẠI CÁC ĐƠN VỊ Ở ĐHQGHN - NĂM 2014
TT
Đơn vị
Tổng số NNC
Số nhóm NCCB
Số nhóm NCƢD
Số nhóm NC liên ngành
Số nhóm NCCB định hƣớng ƢD 42
1.
Trường ĐH Khoa học Tự nhiên
52
6
3
17
2.
10
3
2
5
Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn
3.
Trường ĐH Ngoại ngữ
13
0
7
5
4.
Trường ĐH Công nghệ
4
0
0
4
5.
Trường ĐH Kinh tế
3
2
0
0
6.
Trường ĐH Giáo dục
3
0
2
1
7.
Khoa Luật
6
0 0
0 0
6 0
8.
Khoa Sau Đại học
0
0
0
0
9.
Khoa Quốc tế
0
0
0
0
Khoa Quản trị Kinh doanh
10.
0
11.
Khoa Y Dược
2
0
2
0
12.
Viện Công nghệ Thông tin
1
0
0
1
13.
0
0
0
0
0 1 4 2 2 0 0 0 0 1 0 0
Viện Đảm bảo Chất lượng giáo dục
14.
0
0
1
1
0
Viện Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học
15.
0
0
3
3
3
Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển
16.
Viện Tin học Pháp ngữ
3
2
0
0
17.
0
1
1
3
3 3
Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường
18.
0
0
2
2
0
Trung tâm Dự báo phát triển nguồn nhân lực
19.
Trung tâm Nghiên cứu Đô thị
0
0
0
0
20.
0
0
1
1
0 0
Trung tâm Giáo dục Quốc phòng- An ninh
Cộng
107
13
72
17
36
(Nguồn: Ban KH&CN - ĐHQGHN)
PHỤ LỤC 3
TỔNG HỢP MỘT SỐ KẾT QUẢ HỢP TÁC TRONG NƢỚC
VÀ NƢỚC NGOÀI CỦA ĐHQGHN
Ký kết hợp tác
Tập đoàn Shimadzu
ĐHQGHN (Trung tâm Công nghệ môi trường và phát triển bền vững)
Ngân hàng thế giới
-
ĐHQGHN (Khoa Hóa học Trường ĐHKHXTN)
ĐHQGHN
Khu Công nghệ cao Hòa Lạc
Công ty CP Tư vấn CN, Thiết bị và Kiểm định xây dựng (CONINCO)
ĐHQGHN (Trường Đại học Công nghệ; Trường Đại học Việt Nhật)
ĐHQGHN
Tỉnh Ninh Bình
thông
ĐHQGHN (Đại học Công nghệ)
Tập đoàn Viễn Quân đội Viettel
Kết quả - Xây dựng PTN phục vụ đào tạo và triển khai các dự án nghiên cứu về môi trường, đồng thời quảng bá các thiết bị phân tích của công ty - Hỗ trợ xây dựng dự án khoa học sự sống với kinh phí 100 triệu Yên (2003) Mua sắm một số trang thiết bị hiện đại (LCMS-2010, LC-10Avp system, Prep- LC 8A, UV 2450, ASS 6800, GC 2010) phục vụ cho hoạt động đào tạo và nghiên cứu Chia sẻ và sử dụng cơ sở vật chất, kỹ thuật, dịch vụ; Đào tạo, bồi dưỡng, cung cấp nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao; Hỗ trợ khởi nghiệp và xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp; Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Chuyển giao công nghệ; Ứng dụng và sản xuất sản phẩm công nghệ cao. - Đào tạo thạc sĩ ngành Kỹ thuật hạ tầng - Thiết lập các chương trình nghiên cứu chung, xây dựng các phòng/trung tâm nghiên cứu - Tạo cơ hội thực tập và việc làm cho sinh viên - Hợp tác trên các phương diện về du lịch, nông nghiệp, văn hóa, giáo dục dựa trên nhu cầu của tình và thế mạnh về đào tạo, nghiên cứu, chuyên giao công nghệ của ĐHQGHN - Triển khai đề án nghiên cứu về Triều Đinh và không gian văn hóa Trường Yên - Thành lập Viện công nghệ Hàng không vũ trụ; Xây dựng CTĐT ngành Công nghệ hàng không vũ trụ - Phối hợp NC về công nghệ xử lý ảnh phục vụ trinh sát UAV, trinh sát vệ tinh, công nghệ truyền tin UAV, … (từ 2010 đến nay)
Ký kết hợp tác
ĐHQGHN
Tỉnh Hà Giang
Samsung
ĐHQGHN (Đại học Công nghệ)
Công ty Electronics
ĐHQGHN
Tỉnh Nghệ An
ĐHQGHN
Tập đoàn Vingroup
ĐHQGHN
thống Phát
Kết quả Triển khai đề tài cấp nhà nước thuộc chương trình Tây Bắc, Dự án Phát triển xanh, nghiên cứu ứng dụng mô hình quản trị hướng dịch vụ; Tư vấn, hoàn thiện văn bản chính sách và tư vấy xây dựng chiến lược phát triển cho tỉnh (2014) Hợp tá tổ chức chương trình tài năng Samsung, trong đó Samsung hỗ trợ xây dựng 4 phòng học và thực hành hiện đại, cấp 60 xuất học bổng cho sinh viên (trung bình 45 triệu cho mỗi xuất) cho SV của ĐHQGHN; Tài trợ cho các dự án phát triển công nghệ di động với trị giá khoảng 20.000USD/dự án (2014) Xây dựng và chuyển giao công nghệ; phát triển nguồn nhân lực; phát triển du lịch, y tế, xã hội và xúc tiến đầu tư. - Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao - Hỗ trợ cấp học bổng thuộc chương trình Talent Pool cho sinh viên ĐHQGHN (2016) Xây dựng các chương trình truyền hình giáo dục
ĐHQGHN
Hệ thanh- truyền hình Giáo dục của Hàn Quốc Tỉnh Sơn La và Hà giang Nghiên cứu phát triển nhân lực lãnh
ĐHQGHN
Tỉnh Quảng Ninh, Hưng Yên
ĐHQGHN
Tỉnh Quảng trị
ĐHQGHN
đạo, quản lý cho tỉnh (2014) - Triển khai 3 đề tài nghiên cứu quy hoạch và bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Ninh đến 2020) Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng và đề xuất giải pháp khắc phục hậu quả của chất động hóa học Dioxin Nghiên cứu và đánh giá đặc điểm tài nguyên thiên nhiên và tai biến thiên nhiên
ĐHQGHN
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn thám và GIS trong đánh giá tài nguyên và theo dĩ diễn biến tài nguyên.
ĐHQGHN
Các cơ quan nghiên cứu và các tỉnh Sóc Trăng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Phú Quốc, Thừa Thiên Huế, Hà Giang Các cơ quan nghiên cứu và các tỉnh Hải Phòng, Tây Nguyên, Hòa Bình, Quảng Ngãi, Đà Nẵng TP. Hà Nội, Thừa Thiên Huế
Nghiên cứu ứng dụng địa chính và công nghệ địa chính
Ký kết hợp tác
ĐHQGHN
ty Kinh doanh
ĐHQGHN
Công nước sạch Hà Nội Tỉnh Bạc Liêu
ĐHQGHN
TP Hà Nội
ĐHQGHN
ĐHQGHN
Nhà máy mía đường Lam Sơn, Thanh Hóa Cục quản lý tài nguyên nước, Bộ NN&PTNT
ĐHQGHN
Kết quả Nghiên cứu loại bỏ asen khỏi nước cấp (2008) Chuyển giao cộng nghệ sản xuất vật liệu xác tác xử lý nước nhiễm phèn kiểu Ferrose (2008-2009) Nghiên cứu cải thiện chất lượng nước hồ Kim Liên và hồ Hữu Tiệp bằng tổ hợp phương pháp cơ sinh hóa học (trong khuôn khổ Dự án kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, 2009-2010) Xây dựng phương án cải tạo hệ thống xử lý hèm cồn (2009) Đào tạo, kiểm tra chéo chất lượng phân tích asen trong nước cho các tình trên toàn quốc (2007-2008) Giám sát thực hiện các chương trình quan trắc môi trường (2007-2008)
Trung tâm Quan trắc môi trường, Sở tài nguyên và môi trường Hà Nội Công ty vận chuyển khách Bài Thơ, Hạ Long
Chuyển giao 28 tấn dầu trên tổng số 36 tấn dầu diesel sinh học (2013)
(Trường
ĐHQGHN (Khoa Hóa Trường học, ĐHKHTN) ĐHQGHN ĐHKHTN)
Chuyển giao gạch xốp cách nhiệt chịu lửa
(Trường
ĐHQGHN ĐHCN)
Công ty cổ phần vật liệu lửa và xây lắp điện Việt Trung Công ty cổ phần điện tử chuyên dụng Hanel
ty TNHH dược
Công phẩm Mê Linh
Hợp tác chế tạo hệ thống thiết bị và điều khiển trung tâm cho hệ thống chiếu sáng công cộng với công nghệ năng lượng mặt trời, ứng dụng công nghệ mạng GSM/GPRS kết hợp với mạng RF (1 tỉ đồng, 2014) Chuyển giao 11 chế phẩm vi sinh (tương đương 400Kg), trị giá 1 tỉ đồng.
ĐHQGHN (Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học) ĐHQGHN (Khoa Y dược)
Công ty cổ phần dược phẩm Quảng Bình
(Trường
ty
cổ
ĐHQGHN ĐHKHTN)
ĐHQGHN (Đại học Công nghệ)
Công phần ANABIO RESEARCH & DEVELOPMENT Công ty CP Công nghệ Bưu chính viễn thông (VNPT Technoloy)
Chuyển giao công nghệ báo chế thuốc viên nén bao phim Enereffect-Plus có độ ổn định cao Chuyển giao công nghệ sản xuất 3 loại bộ kít tinh sạch DNA/RNA bằng hạt nano từ bọc silica Nghiên cứu các công nghệ nền tảng, phát triển và sản xuất các sản phẩm viễn thông, công nghệ thông tin
(Nguồn: Kết quả tổng hợp của đề tài)
PHỤ LỤC 4
KINH PHÍ ĐẦU TƢ CHO CÁC PTN THEO LĨNH VỰC KHCN
TT
Tên PTN
1 2 3 4 5 6 7 8
Thời gian đầu tƣ 2008-2014 2012 2006-2009
Kinh phí (Triệu đồng) 230.918 55.800 0 0 0 1.000 3.000 20.000
9 10 11 12 13
2009-2014 2005 2000
30.000 25.000 10.000
Lĩnh vực khoa học tự nhiên và y dược PTN trọng điểm công nghệ Enzym và Protein PTN Vật lý Năng lượng và Vũ trụ học PTN Tính toán trong Khoa học vật liệu PTN Phân tích môi trường Trung tâm tính toán hiệu năng cao Trung tâm Động lực học Thủy khí Môi trường Trung tâm Nghiên cứu Biển và Đảo Trung tâm nghiên cứu Quan trắc và Mô hình hóa Môi trường (CEMM) Trung tâm Khoa học Vật liệu Trung tâm Hóa dầu Trung tâm Ứng dụng tin học trong hóa học Trung tâm nghiên cứu Khoa học sự sống Trung tâm Nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học phân tích PTN Hóa dược PTN Hóa Môi trường PTN nghiên cứu quản lý biển PTN nghiên cứu Dự báo thời tiết và Khí hậu Trung tâm Nghiên cứu Địa chất ứng dụng PTN trung tâm y học và tiềm lâm sàng PTN trung tâm dược học Lĩnh vực khoa học XH&NV
2007-2011 2012-2015 2012-2014 2012-2014 2014
39.318 800 28.500 17.500 83.200 3.900
14 15 16 17 18 19 20 1. Phòng Multimedia 2. Phòng thực nghiệm ngôn ngữ 3. Trung tâm thiết kế và sản xuất hệ thống học liệu Multimedia phục vụ nghiên cứu và giảng dạy ngoại ngữ với sự hỗ trợ của CNTT
4. Bảo tàng nhân học 5. Trung tâm kinh tế vĩ mô 6. Phòng sản xuất học liệu 7. Trung tâm nghiệp vụ báo chí truyền thông và bảo
2009-2013 2013-2014 2013-2014 2009-2015
4.600 10.000 1.300 63.400
tồn văn hóa Lĩnh vực KHCN và kỹ thuật
1. PTN trọng điểm Micronano
2. PTN Vật liệu và Từ tính Nano 3. Phòng Công nghệ Vật liệu và Linh kiện Nano 4. PTN hệ thống viễn thông 5. PTN mô hình hóa và mô phỏng
2006-2009 2009-2013 2006-2009 2009-2011 2011-2012
194.700 24.150 35.000 24.150 2.000 700
TT
Tên PTN
Thời gian đầu tƣ 2010 2011 2006-2008 2011-2014 Trig B 2010 2010 - 2014
Kinh phí (Triệu đồng) 1.400 2.400 21.900 70.000 1.000 3.000
6. PTN Công nghệ Cơ điện tử và Thủy tin học 7. PTN MEMS 8. PTN các hệ thống tích hợp thông minh SIS 9. PTN hệ thống và mạng truyền dẫn thông minh 10. PTN công nghệ tri thức 11. PTN Tín hiệu và hệ thống 12. PTN Hệ thống nhúng 13. PTN Robotic 14. PTN Giám sát hiện trường 15. PTN tương tác Người - Máy 16. PTN An toàn thông tin 17. PTN Hợp tác Toshiba-UET về Công nghệ phần
mềm
Lĩnh vực khoa học liên ngành
Thích ứng biến đổi khí hậu
2014-2016 2014-2015 2006-2013 2009-2013 2012-2014 2009-2013
7.000 2.000 240.913 57.000 40.000 23.500 15.000
18. PTN Samsung 19. PTN Tin sinh 20. PTN các kỹ thuật xử lý nội dung số 21. PTN các hệ thống nhúng 1. PTN Địa chất, Địa kỹ thuật, Địa môi trường và 2. 3. 4. Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Phát triển
bền vững (CETASD)
64.000 4.000
5. Trung tâm Nano và năng lượng 6. Trung tâm nghiên cứu ứng dụng Viễn thám và hệ
thông tin địa lý (CARGIS)
2009-2013 2005; 2012-2013 2008-2013
37.413
7. Công nghệ sinh học 8. Phòng Enzyme và Protein 9. PTN giống gốc nấm 10. Phòng sinh học Tảo 11. Phòng sinh thái Vi sinh vật 12. Phòng Công nghệ lên men và phát triển sinh
phẩm
(Nguồn Ban KH&CN-ĐHQGHN)
PHỤ LỤC 5
1. Mức hỗ trợ cơ bản các công trình khoa học chuyên ngành năm 2013
TỔNG HỢP CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CÔNG BỐ QUỐC TẾ CỦA ĐHQGHN
Mức hỗ trợ/01 công trình*
Công trình
TT
Chính
Phụ
1
15.000.000 đ
10.000.000 đ
Bài báo công bố trên tạp chí thuộc danh sách của ISI (SCI, SCIE, SSCI và A&HCI)
2
15.000.000 đ
10.000.000 đ
Bài báo công bố trên tạp chí thuộc danh sách của SCOPUS
3
15.000.000 đ
10.000.000 đ
Bài báo công bố trên tạp chí khoa học có chỉ số f từ 2 trở lên
4
10.000.000 đ
5.000.000 đ
Bài báo công bố trên tạp chí khoa học có chỉ số f từ 0.1 đến 2
5
10.000.000 đ
5.000.000 đ
Bài viết đăng toàn văn trên kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện (Peer Review) của nhà xuất bản nước ngoài có mã số chuẩn quốc tế ISBN
6
15.000.000 đ
10.000.000 đ
Sách chuyên khảo, sách tham khảo được xuất bản bằng tiếng nước ngoài tại nhà xuất bản nước ngoài có mã số chuẩn quốc tế ISBN
7
30.000.000 đ
15.000.000 đ
Sản phẩm khoa học công nghệ được cấp bằng phát minh, sáng chế quốc tế
2. Mức hỗ trợ cơ bản các CTKH chuyên ngành đợt 1 năm 2016
Công trình
TT
Mức hỗ trợ/01 công trình công bố quốc tế (1)
(2)
Cột j
Hàng i
1
25.000.000 đ
15.000.000 đ
Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q1
2
20.000.000 đ
10.000.000 đ
Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q2
3
15.000.000 đ 7.000.000 đ
- Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q3-Q4 - Bài báo công bố trên chuyên san Vật liệu và linh kiện tiên tiến (Advanced Materials and Devices - AMD) của tạp chí Khoa học ĐHQGHN đạt chuẩn SCOPUS hợp tác với Nhà xuất bản Elsevier
3. Mức hỗ trợ cơ bản các CTKH chuyên ngành đợt 2 năm 2016
Mức hỗ trợ/01 công trình công bố quốc tế
TT
Công trình
Tác giả phụ
Tác giả chính/ tác giả liên hệ
1
30.000.000 đ
16.000.000 đ
Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q1
2
20.000.000 đ
12.000.000 đ
3
16.000.000 đ
8.000.000 đ
Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q2 Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q3
4
16.000.000 đ
8.000.000 đ
Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q4
4. Định mức hỗ trợ cho các CTKH được ưu tiên tài trợ đợt 2 năm 2016
Mức hỗ trợ/01 ấn phẩm
TT
Công trình
Tác giả chính/ tác giả liên hệ
Tác giả phụ/ đồng chủ biên
I
1
12.000.000 đ
6.000.000 đ
2
8.000.000 đ
4.000.000 đ
3
4.000.000 đ
2.000.000 đ
Áp dụng với nhóm lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn Công trình công bố trên tạp chí quốc tế ngoài hệ thống ISI hoặc SCOPUS nhưng thuộc nhà xuất bản co uy tín trên thế giới hoặc nhà xuất bản của 100 trường đại học hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng của THE Công trình được đăng trong kỷ yếu hội nghị/hội thảo khoa học quốc tế được SCImago xếp hạng (Conference and Proceeding) Công trình được đăng trên các tạp chí thương mại được SCImago xếp hạng (Trade Journals)
II
4
75.000.000 đ
40.000.000 đ
Áp dụng với xuất bản sách Chủ biên (đồng chủ biên) sách được xuất bản tại Nhà xuất bản nước ngoài có mã số chuẩn ISBN
5
30.000.000 đ
18.000.000 đ
Biên dịch sách tham khảo chuyên ngành của Nhà xuất bản uy tín nước ngoài sang tiếng Việt để phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, có mã số chuẩn ISBN; được hội đồng thẩm định thông qua và đưa vào sử dụng
Mức hỗ trợ/01 ấn phẩm
TT
Công trình
Tác giả chính/ tác giả liên hệ
Tác giả phụ/ đồng chủ biên
20.000.000 đ
12.000.000 đ
6
Công trình được đăng trong sách khoa học chuyên khảo xuất bản tại nước ngoài được SCImago xếp hạng (Book series)
8.000.000 đ
4.000.000 đ
7
Công trình được đăng trong sách được xuất bản tại Nhà xuất bản nước ngoài, có mã số chuẩn ISBN
III Mức thưởng tăng thêm - Extra Bonus (EB)
45.000.000 đ
24.000.000 đ
15.000.000 đ
8.000.000 đ
SCImago xếp hạng Q1
10.000.000 đ
6.000.000 đ
Công trình công bố trên tạp chí khoa học thuộc TOP 20 tạp chí hàng đầu được phân loại theo nhóm lĩnh vực, ngành/chuyên ngành của SCImago và tương ứng với lĩnh vực chuyên môn của tác giả (Excellence with Leadership -EwL) Công trình công bố mang tính liên ngành và theo xu hướng “nội lực” (nhóm tác giả của công trình đều là cán bộ của ĐHQGHN)
8.000.000 đ
4.000.000 đ
7.500.000 đ
4.000.000 đ
SCImago xếp hạng Q2 SCImago xếp hạng Q3-Q4 SCImago xếp hạng Q1
5.000.000 đ
3.000.000 đ
Nhà khoa học lần đầu tiên công bố công trình khoa học thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI/SCOPUS và được SCImago xếp hạng
4.000.000 đ
2.000.000 đ
SCImago xếp hạng Q2 SCImago xếp hạng Q3-Q4
Ghi chú: Không áp dụng song song mức thưởng tăng thêm cho cùng một công trình hỗ trợ
(Nguồn: Câu lạc bộ Nhà khoa học - ĐHQGHN)
PHỤ LỤC 6
TỔNG HỢP CÁC GIẢI THƢỞNG KHOA HỌC CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC Ở ĐHQGHN
1. 2. 3. 4. 5. 6. 7.
8.
9. 10. 11.
12.
13.
14.
15.
16.
17. 18.
Cụm công trình lịch sử và văn hóa Việt Nam- Giáo sư Đào Duy Anh Cụm công trình Ngữ pháp và lịch sử Tiếng Việt- Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn Cụm công trình Dao động phi tuyến của các hệ động lực- GS.TSKH Nguyễn Văn Đạo Công trình về Lịch sử Việt Nam gồm 5 bộ, 18 tập (1956-1978)-GS Trần Văn Giàu Nghiên cứu các hạt sơ cấp- Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu Tư tưởng phương Đông (1950 - 1960 - 1979) - GS Cao Xuân Huy Cụm công trình gồm 4 tác phẩm nghiên cứu về văn học dân gian và văn hóa dân gian Việt Nam (1972, 1989, 1993, 1995)- GS. Đinh Gia Khánh Cụm công trình gồm 8 tác phẩm: Nghiên cứu văn học Việt Nam và văn học thế giới (1945-1984)- GS Đặng Thai Mai Theo dấu các văn hoá cổ- Giáo sư Hà Văn Tấn Tìm về cội nguồn ngôn ngữ và ý thức- Giáo sư Trần Đức Thảo Cụm công trình về nghiên cứu cơ bản của toán học lý thuyết và những bài toán về ứng dụng (1960-1970)- Giáo sư Lê Văn Thiêm Tập hợp các công trình điều tra cơ bản động vật học ở Việt Nam (1957 - 1980)-Giáo sư Đào Văn Tiến Các công trình thuộc lĩnh vực tối ưu toàn hóa, nổi bật là 2 công trình: "Giải tích tối ưu toàn cục" và "Quy hoạch D.C và ứng dụng" (những năm 60)- Giáo sư Hoàng Tụy Cụm công trình Văn hoá Việt Nam - Truyền thống và hiện đại- Giáo sư Trần Quốc Vượng Cụm công trình Sự nghiệp văn học, báo chí Hồ Chí Minh và một số vấn đề lý luận, thực tiễn văn hoá, văn nghệ Việt Nam- GS. Hà Minh Đức Cụm công trình Nghiên cứu tương tác của các hạt cơ bản và hạt nhân ở năng lượng cao và Phát hiện phản hạt Hyperon Sigma âm- GS. Nguyễn Đình Tứ Công trình Atlas quốc gia Việt Nam- GS. Nguyễn Văn Chiển Công trình Lịch sử và Văn hóa Việt Nam - Tiếp cận bộ phận - GS. Phan Huy Lê
2. Giải thưởng Nhà nước
1.
2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11.
Một số thành tựu tiêu biểu trong nghiên cứu vật liệu liệu từ tính - GS.TSKH. Nguyễn Châu, PGS.TS. Bạch Thành Công, PGS.TS. Đặng Lê Minh Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam - GS.TS. Phan Hữu Dật Làng xã Việt Nam - Một vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội - GS. Phan Đại Doãn Phương ngữ học tiếng Việt - GS. Hoàng Thị Châu Khảo và luận một số thể loại, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam - PGS. Bùi Duy Tân Cụm công trình về Văn học Việt Nam hiện đại - Giáo sư Hà Minh Đức Tìm về cội nguồn Cụm công trình về Lịch sử Việt Nam trung đại -GS. Phan Huy Lê Công trình “Ngữ âm tiếng Việt” - GS. Đoàn Thiện Thuật Công trình “Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII-XVIII-XIX” - PGS.TS Nguyễn Thừa Hỷ Cụm công trình “Từ và từ vựng học tiếng Việt” - GS.TS Nguyễn Thiện Giáp Cụm công trình “Nghiên cứu cơ bản và định hướng ứng dụng các vật liệu từ liên kim loại đất hiếm - kim loại chuyển tiếp” - Hai đồng tác giả thuộc ĐHQGHN: GS.TS Nguyễn Hữu Đức và GS.TSKH Nguyễn Hoàng Lương
1. Giải thưởng Hồ Chí Minh
3. Công trình/cụm công trình đạt Giải thưởng KH&CN ĐHQGHN tiêu biểu hằng năm (trao năm 2015)
Tên công trình/cụm công trình
TT 1 Nghiên cứu sàng lọc các chủng vi khuẩn
Bacillus từ gà và tôm để sản xuất probiotic có tính ưu việt cho lĩnh vực chăn nuôi và thủy sản
2 Mô hình hệ tư vấn mờ trực cảm trong hỗ
trợ chẩn đoán bệnh
3 Deltex-3-like (DTX3L) stimulates
metastasis of melanoma through FAK/PI3K/AKT but not MEK/ERK pathway
Tác giả/tập thể tác giả/đơn vị PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh, TS. Nguyễn Hòa Anh, ThS. Nguyễn Văn Đức, CN. Ngô Thị Hương, CN. Nguyễn Thị Như Trang, CN. Trần Thị Mỹ, Nguyễn Minh Quang, Trần Vân Anh TS. Lê Hoàng Sơn, CN. Nguyễn Thọ Thông TS. Nguyễn Đình Thắng, PGS.TS. Ichiro Yajima, TS. Mayuko Y.Kumasaka, TS. Machiko Iida, GS.TS. Tamio Suzuki, GS.TS. Masashi Kato. TS. Phạm Xuân Thạch
4 Sự khởi sinh của tính hiện đại - trần thuật Việt Nam trong ba thập kỷ đầu thế kỷ XX
4. Các giải thưởng khác
TT
Danh hiệu
1 Màng lọc dịch tiêm truyền
composite - Cúp Vàng Techmart 2007
2 Mô hình dự báo khí tƣợng, sóng và nƣớc biển dâng - Cúp Vàng Techmart 2006
3
4
Chủ nhiệm đề tài, dự án, hợp đồng, thời gian thực hiện Dự án mã số SXT.06.03: “Hoàn thiện công nghệ sản xuất màng lọc dịch tiêm truyền composite”. Chủ trì: PGS.TS. Lê Viết Kim Ba, PGS. TS. Bùi Duy Cam - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN. Thời gian: 4/2006-4/2008. Đề tài “Dự báo trƣờng khí tƣợng thủy văn biển đông” của GS.TS. Trần Tân Tiến, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN, thời gian: 2003-200. Chủ trì:KS. Nguyễn Đức Tâm - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Tự nghiên cứu phát triển, thời gian 2003-2005. PGS.TS. Nguyễn Thị Chính, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN. Đề tài theo nghị định thư Việt Nam - Hàn Quốc, phát triển công nghệ sản xuất nấm dược liệu phục vụ tăng cường sức khỏe, thời gian: 2003-2005.0
5
ThS. Đào Kiến Quốc, Trung tâm Công nghệ Phần mềm, Đại học Công nghệ - ĐHQGHN. Năm 2006, phần mềm do TT tự nghiên cứu và phát triển
Công nghệ sản xuất vật liệu xốp Aluminum Silicate - Cúp Vàng Techmart 2007 Công nghệ sản xuất và chế biến nấm dƣợc liệu; Cúp Vàng Techmart 2007; 2 sản phẩm được giải Giải Tinh hoa Việt Nam (Triển lãm Diễn đàn APEC hội nhập) Phần mềm tổ chức quản lý và chấm thi trắc nghiệm (MRTEST) - Giải Nhất Nhân tài Đất Việt 2006 - Cúp Bạc Techmart 2007 6 Hệ thống dẫn đƣờng quán tính - Giải Ba Nhân tài đất Việt 2008
Đề tài trọng điểm ĐHQGHN: “Nghiên cứu tích hợp hệ thống dẫn đường quán tính trên cơ sở cảm biến vi cơ điện tử phục vụ điều khiển dẫn đường phương tiện chuyển động” mã số QGTĐ.05.09. Chủ trì GS.TSKH. Nguyễn Phú Thùy, Trường Đại học Công nghệ - ĐHQGHN. 2005-2007.
TT
Danh hiệu
Chủ nhiệm đề tài, dự án, hợp đồng, thời gian thực hiện
7
Đồng chủ biên: GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc, PGS.TS. Vũ Văn Quân, Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển - ĐHQGHN, 2006-2007.
8
PGS.TS. Phạm Văn Nho Trường Đại học KHTN
9
GS.TS. Bùi Công Hiển Trường Đại học KHTN
Sách: “Địa chí cổ loa”; Giải Bạc sách hay toàn quốc 2008 của Hội Xuất bản Việt Nam; Giải đồng sách đẹp toàn quốc của Hội Xuất bản Việt Nam NXB Hà Nội - 2007 “Khẩu trang y tế” Bằng độc quyền Giải pháp hữu ích số 782 theo Quyết định số15372/QĐ- SHTT ngày 20/7/2009 “Công nghệ nhân nuôi côn trùng phục vụ bảo tồn sinh học” Cúp vàng Techmart Việt Nam ASEAN+3 năm 2009 10 “Vi mạch mã hóa tín hiệu
PGS.TS Trần Xuân Tú và nhóm nghiên cứu Trường Đại học Công nghệ
video VENGME H.264/AVC”;Giải Nhì Giải thưởng Nhân tài đất Việt 2015
11 Cụm công trình “Các đồng cấu
GS. TSKH. Nguyễn Hữu Việt Hưng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
GS.TSKH Đinh Dũng Viện Công nghệ thông tin
giữa các đại số Dickson - Mùi xem nhƣ các Moodun trên đại số Steenrod”-Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2014 12 Công trình “Xấp xỉ và khôi phục tín hiệu có số chiều rất lớn trên lƣới thƣa”; Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2015
13 Công trình “Nghiên cứu sự
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Minh Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
giải phóng Kali đi kèm với quá trình hòa tan Phytolith trong rơm rạ” Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2016
Nhóm tác giả của PGS.TS Phạm Bảo Sơn Trường Đại học Công nghệ
14 “DoIT - Hệ thống hỗ trợ nâng cao chất lƣợng văn bản”-GiảI Nhì Giải thưởng Nhân tài đất Việt 2017
15 Huy chƣơng Pushkin năm
PGS.TSKH. Nguyễn Thị Tuyết Mai Khoa Quốc tế
2017
PHỤ LỤC 7
BÀI PHỎNG VẤN GIÁO SƢ JOACHIM SPANGENBERG VỀ CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN NHÓM NGHIÊN CỨU CỦA ĐỨC
Đào Minh Quân (ĐMQ): Xin Giáo sư chia sẻ về mô hình NNC ở các trường
Vào đầu năm 2018, tôi có cơ hội gặp Giáo sư Joachim Spangenberg, một chuyên gia nghiên cứu thuộc một Viện nghiên cứu lớn của Đức khi ông sang hợp tác nghiên cứu với Viện Chính sách và Quản lý thuộc Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN. Tôi đã trao đổi với Giáo sư về luận án của mình và xin phỏng vấn Giáo sư về kinh nghiệm xây dựng NNC ở Đức, sau đây là một số nội dung trao đổi: đại học của Đức. Joachim Spangenberg (JS): Trước hết, tôi phải nói về hệ thống học thuật của Đức. Tôi không làm việc ở trường đại học mà ở một viện nghiên cứu, với những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản-ứng dụng. Tiền Nhà nước cấp cho hoạt động nghiên cứu thì một nửa cho Viện, một nửa cho Trường đại học. Trường đại học thì đào tạo và nghiên cứu, còn Viện thì chỉ nghiên cứu. Kinh nghiệm của tôi là làm nghiên cứu ở Viện nhiều hơn ở Trường đại học.
Hầu hết các NNC đều là một phần của Viện. Tôi đang làm cho một Viện rất lớn, có 2000 nhân viên, 40 khoa, mỗi khoa có khoảng 50 thành viên và mỗi khoa có vài NNC, thông thường mỗi NNC có từ 2 - 3 giáo sư. Những NNC này thường được thành lập bởi những nhà nghiên cứu có chung mối quan tâm. Viện sẽ công nhận một Nhóm là chính thức hoặc không chính thức. Lúc đầu nhóm có thể là không chính thức, nhưng sau đó sẽ được công nhận chính thức.
ĐMQ: Mất khoảng bao lâu để thành một NNC chính thức? JS: Còn tùy, thường là 3 tuần nhưng cũng có thể đến 6 tháng. ĐMQ: Vậy quy trình lập nhóm thế nào? JS: Ví dụ, bạn là một giáo sư đại học, bạn có 3 NCS và bạn có một đề tài rất hay, bạn muốn lập một NNC. Chúng tôi sẽ hỏi bạn các câu hỏi, chuyển phần ghi chép cho Giám đốc viện và ông ấy sẽ đồng ý. Việc này rất dễ vì không liên quan đến tiền, NNC không nhận được tiền. Bạn có thể được nhận thêm phòng để họp nhóm nhưng không được thêm tiền. Nhưng khi bạn có một dự án hay và lập một NNC gồm các đồng nghiệp, lúc đó tiền là cho dự án. Bạn sẽ được ghi nhận về mặt học thuật chứ không phải nhận tiền.
ĐMQ: Ví dụ: ông có một dự án và một NNC làm việc cho ông, ông trả tiền
cho họ bằng tiền dự án, điều này có đúng ở Đức?
JS: Không, tiền là dành cho dự án, không dành cho NNC. ĐMQ: Ông làm việc cho trường đại học, vậy tiền dự án chuyển thẳng cho
Trường đúng không?
JS: Đúng. Khi bạn làm dự án, bạn cần chi phí tài liệu, chi phí nhân sự chi phí hành chính. Chi phí hành chính là để hỗ trợ dự án, chiếm 25-40% tiền dự án. Một phần số tiền đó thuộc về Trường để lo việc hành chính, 1 phần thuộc về khoa và bạn có thể sử dụng tiền đó để làm việc với NNC, có thể thuê sinh viên vì sinh viên cũng được coi là nhân sự và sinh viên cũng được coi như một thứ cần mua cho dự án như máy tính, giấy…
ĐMQ: Ở Úc, thông thường có 3 cấp độ nghiên cứu: NNC, Trung tâm nghiên cứu và Viện nghiên cứu, điều này tùy thuộc vào phạm vi nghiên cứu, tiền, nhân sự, KQNC và thời gian nghiên cứu. Trung bình 1 dự án ở Úc kéo dài 3 năm, tối đa là 5 năm. ở Đức có khác không?
JS: Viện nghiên cứu ở Đức có nhiều quy mô. Một viện nhỏ có thể không có trung tâm hay NNC. Cả viện có thể chỉ có một NNC với 2 giáo sư, 2 trợ lý. Tất cả phụ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu. Ở Viện của tôi, thường là có các trung tâm, và mỗi trung tâm lại có các NNC và mỗi nhóm có 2-3 giáo sư. Cấp trung tâm vẫn là cấp hợp pháp nhưng NNC vẫn linh hoạt hơn do dễ thành lập, dễ quyết định thời gian hoạt động, không phải 3 hay 5 năm mà thời gian của nhóm kéo dài cùng dự án. Chúng tôi cố không có dự án dưới 3 năm. Tốt nhất là 3 - 5 năm vì một lý do đơn giản: chúng tôi muốn NCS hoàn thành luận án trong thời gian làm dự án, thực tế thời gian hợp pháp để một NCS hoàn thành luận án là 3 năm.
ĐMQ: Ở Đức việc đánh giá NNC thế nào? JS: Kết quả làm việc của NNC phụ thuộc vào việc dự án được đánh giá tốt hay không. Chúng tôi không cần đánh giá riêng NNC mà chỉ cần xem kết quả công việc dự án tốt hay không. Việc đánh giá được thực hiện hàng năm để, nếu kết quả không tốt, NNC không nên làm việc cùng nhau.
ĐMQ: Vậy một dự án được đánh giá như thế nào? JS: Còn tùy. Với các dự án rất lớn chúng tôi thường có bên đánh giá ngoài độc lập. Bên đánh giá này thường thực hiện đánh giá KQNC hàng năm thông qua việc tham gia các buổi họp, phỏng vấn,… bên đánh giá độc lập này được trả tiền bởi nhà tài trợ. Bên cạnh đó, khi thực hiện một dự án, anh cần nộp bản báo cáo một năm một lần để bên tài trợ kiểm tra, và bên tài trợ cũng đánh giá kết quả dự án hàng năm. Bên tài trợ sẽ có nhóm nhà khoa học để kiểm tra chất lượng dự án. Thông thường, không có phần đánh giá của xã hội chỉ trừ các nghiên cứu có tính ứng dụng. Các đánh giá xã hội này thường ở cấp liên bang và bởi người đứng đầu trường đại học, nhà hoạch định chính sách, chính trị gia, thương gia,….
ĐMQ: Câu hỏi đặt ra là có cần tham gia đánh giá của xã hội ở các cấp
khác không?
JS: Câu trả lời là có chỉ khi liên quan đến quyết định câu hỏi nghiên cứu và hướng đi, và không đối với các chi tiết, phương pháp nghiên cứu,…. Nhưng khi nghiên cứu là một dạng nghiên cứu giải quyết vấn đề thì chúng tôi cần thảo luận nhiều với các chính trị gia, thương gia, bên hành chính, họ chính là người biết rõ nhất về vấn đề đang diễn ra, vấn đề cần giải quyết.
ĐMQ: Khi có dự án lớn, các ông có cần báo cáo định kỳ 1-2 năm lên chính
phủ hay trường đại học không?
JS: Còn tùy thuộc nhà tài trợ là ai. Có nhà tài trợ yêu cầu báo cáo 6 tháng/lần. Nhưng như thế sẽ không tốt vì anh phải dành nhiều thời gian viết báo cáo thay vì làm nghiên cứu, thông thường ở Đức hoặc liên minh châu Âu thì một năm một lần.
ĐMQ: Các báo cáo đó gửi cho nhà tài trợ, trường đại học hay chính phủ? JS: Chúng tôi gửi cho nhà tài trợ. Nếu nhà tài trợ là chính phủ thì họ sẽ gửi 01 bản copy cho Trường. Đôi khi báo cáo chỉ có 2 trang ở dạng bảng câu hỏi có/không, nhưng vào năm thứ 2 và 3 của dự án, bạn sẽ phải công bố KQNC trên tạp chí quốc tế có phản biện. Trong trường hợp không có công bố họ sẽ yêu cầu bạn báo cáo chi tiết hơn nữa. Nếu dự án được đánh giá bởi nhà tài trợ thì bạn không phải lo về phần trường đại học, nhưng công bố quốc tế thì luôn phải phản biện do đó là phần rất quan trọng để đánh giá thành công của một dự án.
ĐMQ: Ở VN chúng tôi có NNCM, ở Đức có ko? Các ông có ưu tiên hay định
hướng gì cho các NNC không?
JS: Chúng tôi có chương trình nghiên cứu xuất sắc trong 5 năm. Điểm khác biệt là tiền dành cho dự án. Các khoa/viện được chính phủ chọn sẽ nhận thêm tiền, nhưng tiền này không dành cho các NNC mà cho các cấp cao hơn. Thành viên NNC sẽ nhận được chứng nhận.
ĐMQ: Hiện tại ở Đức có bao nhiêu NNCM? JS: Khoảng 50, nhưng ở các lĩnh vực khác nhau, phân bổ đều ở khoa học xã
hội, khoa học tự nhiên,...và phân bổ đều giữa các trường và các viện.
ĐMQ: Xin giáo sư cho biết các nguồn tài trợ cho các dự án nghiên cứu ở Đức? JS: Nguồn tài chính phụ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu. Nếu nghiên cứu thuộc ngành cơ khí hay máy móc, tiền có thể đến từ các doanh nghiệp, các lĩnh vực khác có thể nhận tiền từ chính quyền từ cấp địa phương, quốc gia hay liên minh châu Âu.
ĐMQ: Ví dụ tôi có một dự án, tôi đang làm cho một đại học ở Đức, vậy
trường có hỗ trợ tôi không?
JS: Trường đại học có các loại chương trình nghiên cứu. Khoa/Viện sẽ gửi đề tài hàng năm. Nếu là đề tài ưu tiên thì ngoài tiền cơ bản để trả lương giáo sư, các đề tài này sẽ có thêm các khoản tiền khác như để thuê NCS. Các dự án ưu tiên này thường kéo dài 3-4 năm.
ĐMQ: Ở VN, khi làm dự án, tôi vẫn được lương hàng tháng cộng tiền từ dự
án, ở Đức thế nào?
JS: Ở Đức thì khác. Nếu anh là người của trường và làm dự án, anh vẫn được lương từ trường và không nhận lương dự án. Anh chỉ có thể nhận từ dự án các chi phí như chi phí đi lại để tham dự hội thảo quốc tế. Ở Đức lương giáo sư cố định và được trả 1 năm 2 lần, vào mùa hè và cuối năm. Lương là cố định, vì thế anh có thể thỏa thuận với trường về số giờ giảng. Nếu làm dự án, anh có thể giảm giờ dạy. Tôi thấy ở VN lương của anh phụ thuộc số giờ giảng và số sinh viên theo học. Tôi cũng
thấy ở Mỹ, giáo sư được trả tiền theo số giờ giảng, nhưng họ không được lương trong 3 tháng khi các trường nghỉ học và họ phải làm việc 9 tháng cho cả 3 tháng còn lại, vì thế họ phải tìm các dự án. Như vậy, việc giáo sư có nhận tiền từ dự án hay không, phụ thuộc vào chính sách trả lương ở mỗi nước.
ĐMQ: Ở Việt Nam công bố 01 bài báo ISI, Trường sẽ thưởng tiền, ở Đức
có không?
JS: Không gì cả, việc công bố trên tạp chí ISI là một phần công việc của anh. Đây là tiêu chí đánh giá căn bản của chính phủ đối với chúng tôi vào năm 2 và 3. Tiền tăng hay giảm sẽ phụ thuộc việc có công bố hay không. Khi xin một dự án anh phải kèm danh sách các công bố trên tạp chí ISI. Tất cả các công bố này đều không được tiền. Mỗi năm tôi công bố 5-6 bài, hiện tại có khoảng 80 bài. Với các công bố này, việc bạn được trích dẫn thể hiện bạn được công nhận trong giới khoa học. Người châu Âu cho rằng NCKH cũng như bóng đá, anh nhận lương để đá, cũng như giáo sư để viết bài. Tóm lại việc công bố bài báo là một phần công việc anh nhận lương. Trường chỉ thưởng khi anh được nhận huy chương danh dự.
ĐMQ: Để xin dự án thì cần các yếu tố nào? JS: Để thành công, anh phải biết lĩnh vực của mình đang phát triển đến đâu, nghiên cứu của anh có phù hợp trong lĩnh vực đó không, anh phải liên hệ với các đồng nghiệp giỏi vì họ sẽ là một phần trong NNC mang tính cạnh tranh của anh, thảo luận với họ cách trả lời câu hỏi nghiên cứu. Thông thường anh phải có một điểm làm cho nghiên cứu của mình nổi bật mà không nghiên cứu nào có. Sau đó anh nộp xin dự án, kết quả thì khó đoán.
ĐMQ: Ở Đức có hiện tượng „lobby‟ không? JS: Có, nhưng rất ít. Việc “lobby” hầu như không hiệu quả và rất đắt đỏ. Ở Đức, luật pháp rất có hiệu lực, nếu vi phạm luật (tham nhũng) thì anh bị phạt rất nhiều tiền hoặc có thể bị đi tù.
ĐMQ: Theo Giáo sư tiêu chí để chọn NNCM là gì? JS: Họ nộp đề cương trong vòng 5 năm. Đề cương phải đạt 3 tiêu chí: có tham vọng, phù hợp và thực tiễn. Tham vọng là tiêu chí khoa học, thực tiễn là tiêu chí liên quan đến tài chính và phù hợp là tiêu chí kinh tế - xã hội. Nhóm sẽ được đánh giá dựa trên các công bố khoa học. Nếu họ chưa có công bố, không ai tin họ có thể hoàn thành dự án trong 5 năm tới. Vậy tiêu chí là kết hợp công bố khoa học và đề cương.
ĐMQ: Sau 5 năm, NNCM có được đánh giá hay không? JS: Tất cả các nhóm này đều được đánh giá khi được 1/2 dự án (trong quá trình thực hiện). Dự án kết thúc sau 5 năm. Nếu anh làm tốt, anh có thể xin thêm các đề tài/dự án khác, nếu chưa tốt, anh sẽ bị loại.
ĐMQ: NNCM có tồn tại vĩnh viễn? JS: Chúng tôi đánh giá trực tiếp các giai đoạn để giúp Nhóm đi đúng định hướng. Nhưng chương trình này chỉ kéo dài 5 năm, sau 5 năm anh có thể xin vào một nhóm/chương trình nghiên cứu xuất sắc khác.
ĐMQ: Nếu tôi không xin được dự án tiếp theo thì sao? JS: Với kinh nghiệm và thành tựu từ NNC trước, anh có thể hy vọng. Nếu không xin được, anh trở thành „cựu‟, việc đó là thực tế. Tôi biết vài người có lúc đã ở trong NNCM, nhưng NNCM không phải là mãi mãi. Ở Đức đã mạnh không nhất thiết là đang mạnh. Tiền nghiên cứu chỉ dành cho Nhóm hiện tại đang mạnh.
ĐMQ: Ở Đức việc công bố theo các loại hình nghiên cứu thế nào? JS: Chúng tôi có ba lĩnh vực: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản - ứng dụng. Với nghiên cứu ứng dụng, có người không công bố bài báo mà là bằng sáng chế, và bằng sáng chế cũng được tính như bài báo, chỉ là được xuất bản theo cách khác. Một số tạp chí về một số lĩnh vực như khoa học thông tin, để phản biện một bài báo cần đến 6 tuần, như vậy nội dung bài báo sẽ bị lạc hậu. Tác giả có thể công bố online, cách này giúp bắt kịp những phát triển chóng mặt trong lĩnh vực này. Như vậy, việc công bố rõ ràng phụ thuộc lĩnh vực nghiên cứu.
ĐMQ: Giáo sư có gợi ý nào về chính sách để phát triển NNCM cho các
trường đại học ở Việt Nam hay chính phủ Việt Nam?
JS: Chỉ là từ kinh nghiệm của tôi. Việc dự án được đánh giá bởi một bên độc lập như nhà tài trợ sẽ tốt. Theo tôi, một NNC hiệu quả là phải giải quyết được vấn đề. Và cứ khi nhóm trả lời được một câu hỏi thì sẽ có câu hỏi, một nghiên cứu mới xuất hiện. Tiêu chí để chọn (thêm) thành viên của nhóm không nằm ở chỗ họ có kinh nghiệm tìm kiếm nguồn tài trợ hay số lượng bài giảng mà phụ thuộc việc anh có gì để góp phần giải quyết vấn đề nghiên cứu. Một khi vấn đề/câu hỏi nghiên cứu được giải quyết họ sẽ có công bố tốt.
Theo tôi, mỗi trường cần có 01 trung tâm xuất bản với vài chuyên gia là người từ các nước nói tiếng Anh, các tác giả đều gửi bài qua đây. Kinh phí cho trung tâm này nên khoảng 2% ngân sách của Trường. Các tác giả cũng có thể học hỏi được nhiều từ những nhà nghiên cứu nói tiếng Anh này để tránh mắc lỗi trong những lần sau. ĐMQ: Xin cảm ơn Giáo sư.
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN __________________
PHIẾU XIN Ý KIẾN (Dùng cho cán bộ làm công tác quản lý ở ĐHQGHN và Trường thành viên)
Thưa Quý Thầy/Cô Trong phạm vi nghiên cứu của luận án chúng tôi đang thực hiện, chúng tôi đang tiến hành lấy ý của Thầy/Cô về chính sách phát triển nhóm nghiên cứu (NNC) mạnh ở ĐHQGHN. Để có cơ sở cho việc đề xuất giải pháp xây dựng và hoàn thiện chính sách, xin thầy cô vui lòng trả lời một số câu hỏi dưới đây. Sự cộng tác tích cực của Thầy/Cô thông qua việc trả lời một cách chân thực, đầy đủ vào phiếu hỏi này là việc làm có ý nghĩa nhất để giúp chúng tôi hoàn thành tốt mục tiêu nghiên cứu của mình.
Xin cam đoan những ý kiến của Thầy/Cô chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu và
được giữ bí mật.
Xin trân thành cảm ơn sự cộng tác của Thầy/Cô.
Câu 1. Xin Thầy/Cô cho biết một số thông tin về cá nhân
Vui lòng tích dấu vào ô phù hợp hoặc điền thông tin vào khoảng trống 2. Nữ
1. Nam
Thâm niên công tác: ………………năm
1. Cử nhân/Kỹ sư 4. PGS-TS
2.Thạc sĩ 3. Tiến sĩ/TSKH 5. GS-TS
Trưởng phòng
Phó trưởng phòng
3- Đào tạo
1.1. Giới tính 1.2. Tuổi:………………… 1.3. Chức danh-học vị: 1.4. Chức vụ hiện nay: Giám đốc Phó Giam đốc Hiệu trưởng Phó Hiệu trưởng Khác:…………………… 1.5 Chuyên môn phụ trách: 1- Tổ chức 2- Khoa học 4- Khác……………
Câu 2. Xin thầy/cô đánh giá mức độ đóng góp của nhóm nghiên cứu mạnh đối với việc đào tạo, nghiên cứu và phục vụ xã hội? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng:
1-Rất hạn chế; 2- Hạn chế; 3-Bình thường; 4-Tích cực; 5-Rất tích cực)
Điểm
Điểm
Nội dung đánh giá Hỗ trợ sự phát triển và duy trì một môi trường nghiên cứu hợp tác, chất lượng cao
Tập trung phát triển các lĩnh vực sở trưởng trong nghiên cứu và đào tạo, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, xuyên ngành
Nội dung đánh giá Hỗ trợ đổi mới nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, môi trường và xã hội trong tương lai, trong lĩnh vực Trường hoạt động Đảm bảo kết quả nghiên cứu có đóng góp thiết thực trong việc phát triển lĩnh vực chuyên môn của trường đại học, và đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước Đảm bảo nghiên cứu chất lượng cao để củng cố và tăng cường các chương trình đào tạo của trường đại học
Tăng cường và hỗ trợ đào tạo nghiên cứu và khuyến khích sự tham gia của sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh
Nội dung đánh giá
Điểm
Nội dung đánh giá
Điểm
Cung cấp các cơ hội và hỗ trợ cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh để tạo nên các kết quả nghiên cứu chất lượng cao, phát triển thành tích nghiên cứu và xây dựng sự nghiệp nghiên cứu thành công
Tăng cường các cơ hội để đạt được nguồn tài trợ từ các Quỹ hỗ trợ nghiên cứu trong và ngoài nước cho hoạt động nghiên cứu trọng tâm Cung cấp cho khách hàng những kết quả nghiên cứu hữu ích, kịp thời và hiệu quả
Câu 3. Theo Thầy/Cô, những nguyên nhân liệt kê dưới đây đã ảnh hưởng thế nào đến hiệu quả hoạt động của các nhóm nghiên cứu? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không ảnh hưởng; 2-Ảnh hưởng ít; 3-Bình thường; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều)
Nội dung đánh giá
Điểm
Thiếu thông tin về NCKH hiện đại Thị trường công nghệ chưa phát triển
Điểm
Nội dung đánh giá Các thành viên giảng dạy quá nhiều Công tác quản lý quá bận rộn Kinh phí nghiên cứu khoa học quá eo hẹp
Thiếu thông tin về nhu cầu KH&CN Năng lực NCKH của bản thân còn hạn chế Trang thiết bị cho công tác NCKH quá lạc hậu Chính sách bảo hộ quyền tác giả còn nhiều hạn chế Thu nhập từ làm NCKH quá thấp so với làm các việc khác
Định mức chi không phù hợp Cơ chế quản lý NCKH còn mang nặng tính xin-cho Thiếu điều kiện vật chất (thiết bị, vật liệu, tư liệu…) Chưa gắn kết được công tác NCKH và CGCN với người sử dụng kết quả Câu 4. Theo Thầy/Cô, những yếu tố dưới đây có ảnh hưởng thế nào đến khả năng phát huy năng lực nghiên cứu của nhóm nghiên cứu? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Không ảnh hưởng; 2-Ảnh hưởng ít; 3-Ảnh hưởng vừa phải; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều)
Nội dung đánh giá
Điểm
Điểm
Năng lực đội ngũ còn kém
Nội dung đánh giá Kinh phí nghiên cứu còn hạn hẹp Thu nhập từ NC còn thấp dẫn tới chưa tạo động lực Nhu cầu sử dụng kết quả NC trong xã hội còn thấp
Thiếu gắn kết NC và sử dụng nên SP không phù hợp với nhu cầu thực tiễn Thiếu gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu nên chất lượng sản phẩm nghiên cứu còn thấp Thiết chế quản lý các đơn vị nghiên cứu triển khai chưa thích hợp, còn bao cấp Thị trường công nghệ chưa phát triển Chế độ hỗ trợ còn chưa rõ ràng đối với NCCB, NC có độ rủi ro cao Chế đội đãi ngộ chưa cao đối với các SP mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nguồn tư liệu phục vụ NC còn hạn chế
Khả năng sử dụng máy tính, tra cứu thông tin trên mạng Internet
Phương tiện nghiên cứu còn thiếu và lạc hậu Trở ngại ngôn ngữ Môi trường nghiên cứu còn chưa thật sự dân chủ Nhu cầu đổi mới CN ở các doanh nghiệp còn thấp Thủ tục thanh toán còn phiền phức Hiệu lực của chế độ bản quyền chưa rõ ràng
Câu 5. Theo Thầy/Cô, mức độ ảnh hưởng của những yếu tố sau đây đến việc xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu: (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không ảnh hưởng; 2- Ảnh hưởng ít; 3-Ảnh hưởng vừa phải; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều)
Điểm
Điểm
Nội dung đánh giá Chính sách không tạo động lực làm việc nhóm Thiếu đầu tư kinh phí cho nhóm nghiên cứu Không tìm kiến được nguồn kinh phí để đảm bảo cho hoạt động của nhóm Quyền lợi không được đảm bảo Không minh bạch trong phân chia lợi ích
Nội dung đánh giá Thiếu cán bộ nhà khoa học có uy tín và tầm ảnh hướng lớn Thiếu môi trường và phương tiện làm việc Trưởng nhóm không tạo được sự gắn kết giữa các thành viên Thiếu kỹ năng làm việc nhóm Sự khác nhau về cá tính của mỗi thành viên Câu 6. Xin Thầy/cô cho biết mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung và cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài các cấp hiện nay? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không đảm bảo yêu cầu; 2-Đảm bảo một phần yêu cầu; 3-Cơ bản đảm bảo yêu cầu; 4-Đa phần đảm bảo yêu cầu; 5-Đảm bảo yêu cầu)
Nội dung đánh giá
Chọn đúng nội dung cần làm
Điểm Chọn đúng người/đơn vị có năng lực nhất để thực hiện
Đề tài cấp nhà nước Đề tài cấp Bộ Đề tài Quỹ Nafosted Đề tài cấp ĐHQGHN Đề tài cấp đơn vị trực thuộc ĐHQGHN
Câu 7. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về mức độ không đảm bảo yêu cầu trong việc tuyển chọn các cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài nghiên cứu? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng)
Điểm
Điểm
Nội dung đánh giá Chưa công khai và thông báo rộng rãi đến các đơn vị/cá nhân có khả năng NC Hội đồng tuyển chọn còn nể nang dễ dãi Có tiêu cực trong tuyển chọn hoặc tuyển chọn dựa vào mối quan hệ
Nội dung đánh giá Chưa lấy ý kiến rộng rãi về nội dung nghiên cứu của đề tài trên cơ sở định hướng đã xác định Văn bản quy định việc tuyển chọn còn chưa hợp lý Hội đồng tuyển chọn không đủ năng lực Câu 8. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về mức độ không đảm bảo tính nghiêm túc và chính xác trong kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu đề tài/dự án hiện nay? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng)
Điểm
Nội dung đánh giá
Điểm
Hội đồng đánh giá có hạn chế về năng lực Hội đồng đánh giá có nể nang, dễ dãi Tiêu chí đánh giá chưa rõ ràng
Nội dung đánh giá Văn bản quy định còn chưa chặt chẽ, hợp lý Quá trình thực hiện có tiêu cực Cơ chế đánh giá không theo thông lệ quốc tế
Câu 9. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về nguyên nhân nghiên cứu sau khi hoàn thành chưa đưa vào thực tiễn ? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng)
Điểm
Nội dung đánh giá
Điểm
Nội dung đánh giá Công tác NCKH còn xa rời thực tế Nhu cầu đổi mới CN của doanh nghiệp/xã hội còn thấp Chưa có điều kiện để nhà khoa học giới thiệu sản phẩm
Việc tuyển chọn đề tài chưa hợp lý Doanh nghiệp chưa có niềm tin vào các thành quả NCKH trong nước Vấn đề sở hữu trí tuệ chưa đảm bảo dẫn đến nhà khoa học ngại công bố rộng rãi kết quả NC của mình
Câu 10. Theo Thầy/Cô, chế độ đãi ngộ hiện nay đối với những kết quả nghiên cứu được đánh giá có hiệu quả lớn, có giá trị khoa học cao đã phù hợp chưa? (Vui lòng cho điểm từ 1- 5 vào ô tương ứng: 1-Không phù hợp; 2-Chưa phù hợp; 3-Khá phù hợp; 4-Phù hợp 5-Hoàn toàn phù hợp)
Nội dung đánh giá
Điểm
Giá trị vật chất Tuyên dương, phong tặng Bảo hộ bản quyền Câu 11. Theo kinh nghiệm quốc tế, để được thành lập, NNC mạnh cần đạt được những tiêu chí dưới đây. Xin Thầy/Cô đánh giá mức độ đạt được từng tiêu chí của các nhóm nghiên mạnh hiện nay? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không đạt; 2-Đạt mức thấp; 3-Đạt mức trung bình; 4-Đạt mức cao; 5-Hoàn toàn đạt được)
Nội dung
Điểm
Có định hướng nghiên cứu lâu dài, đi kèm với đó là kế hoạch, nhiệm vụ và kinh phí để triển khai hoạt động nghiên cứu với thời gian tối thiểu 3 năm. Có tối thiểu 6 thành viên nòng cốt, mỗi thành viên phải có ít nhất 05 công trình nghiên cứu đã công bố (gồm ấn phẩm hoặc các sẩn phẩm sáng tạo) trong 3 năm trước đó (tính từ thời điểm nộp hồ sơ để được công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh) Các thành viên nòng cốt phải có ít nhất 600.000 USD thu nhập từ nghiên cứu (must have at least $600.000 in external research income) đối với lĩnh vực khoa học công nghệ và sức khỏe hoặc 300.000 USD đối với lĩnh vực kinh tế, khoa học xã hội và nhân văn, thiết kế sáng tạo và nghệ thuật trong 3 năm trước đó Mỗi thành viên nòng cốt phải có thời gian hướng dẫn sinh viên nghiên cứu trong ít nhất 1 học kỳ.
Câu 12. Thầy/Cô đánh giá thế nào về tác động của những chính sách dưới đây đối với sự phát triển nhóm nghiên cứu mạnh (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Rất hạn chế; 2- Hạn chế; 3-Bình thường; 4- Tích cực; 5- Rất tích cực)
Nội dung đánh giá
Điểm
Nội dung đánh giá
Điểm
Chính sách đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực
Tuyển dụng đặc cách cán bộ khoa học có trình độ tiến sĩ Được hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực hiện chính sách thu hút các CBKH mạnh trong và ngoài nước
Trưởng NNC mạnh được nhận hệ số trách nhiệm quản lý 0.6 Được đầu tư kinh phí NC theo phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN hoặc đề xuất của NNC
Điểm
Điểm
Nội dung đánh giá Định mức giảng dạy không quá 150 giờ quy chuẩn/năm Trưởng NNC mạnh được bố trí nơi làm việc và sinh hoạt khoa học
Được truy cập thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI, Sciendirect
GS dưới 50 tuổi, PGS dưới 45 tuổi, TS, TSKH dưới 40 tuổi được ưu tiên giao những nhiệm vụ đào tạo, NCKH đặc biệt; Được trả thu nhập thỏa đáng theo hiệu quả công tác trên cơ sở thỏa thuận giữa đơn vị và CBKH
Nội dung đánh giá Sau 5 năm giảng dạy được nghỉ 01 học kỳ để tập trung cho nghiên cứu Được ưu tiên nhận hướng dẫn NCS (kể cả NCS nước ngoài) và học viên cao học Hỗ trợ CB tham gia các hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế nếu có ấn phẩm xuất bản trong hệ thống của ISI hoặc Scopus Được cấp kinh phí để cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước và nước ngoài Khen thưởng, vinh danh CBKH nước ngoài được đơn vị bố trí chỗ ở, phương tiện đi lại, chỗ làm việc và các trang thiết bị cần thiết cho nghiên cứu Hỗ trợ kinh phí để xuất bản các công trình khoa học, sách chuyên khảo, các phát minh, sáng chế
Ưu tiên tiên cao nhất trong việc tham gia hoặc chủ trì biên soạn giáo trình, bài giảng, tham gia các hội đồng đánh giá đề tài, dự án KHCN Hỗ trợ đối với các công bố quốc tế trong hệ thống ấn phẩm của ISI hoặc Scopus
Ưu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu... NCS của nhóm được hỗ trợ chỗ ở, tham gia thực hiện đề tài cùng NNC và hưởng kinh phí theo đề tài; ưu tiên tham gia đề án 911 và các chương trình học bổng khác CBKH có trình độ tiến sĩ trở lên, giảng dạy chuyên môn bằng ngoại ngữ sẽ được ưu tiên xét duyệt đề tài KHCN với mức tối thiểu là 50 triệu đồng
Chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu
Được ưu tiên sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng chung Phát triển nguồn lực thông tin Hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên cho NNC mạnh
Được đầu tư trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi Sắp xếp và kiện toàn các tổ chức NCKH (NNC mạnh, Trung tâm NC, PTN trọng điểm, PTN chuyên đề, khu chế thử…) Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN Phát triển quỹ khoa học và công nghệ Xây dựng tạp chí đạt chuẩn quốc tế
Tạo lập thị trường công nghệ Hỗ trợ khởi nghiệp NNC mạnh được bố trí phòng làm việc
Chính sách hợp tác và phát triển
Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các doanh nghiệp Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu trong nước
Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các địa phương Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu nước ngoài
Điểm
Điểm
Nội dung đánh giá Nội dung chưa tạo được động lực cho sự phát triển NNC mạnh
Điều chỉnh, thay đổi nội dung chậm so với thực tiễn Quá trình lấy ý kiến đóng góp chưa thật rộng rãi, dân chủ
Câu 13. Xin Thầy/Cô đánh giá những nguyên nhân dẫn đến việc những chính sách được ban chưa phù hợp với thực tế? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2- Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng) Nội dung đánh giá Sự phối hợp giữa ĐHQGHN và các đơn vị có liên quan trong quá trình soạn thảo chưa tốt Thời gian chuẩn bị văn bản lâu; nội dung văn bản thể hiện không rõ ràng Hướng dẫn thiếu chính xác/thiếu chi tiết Nhóm chịu tác động bởi chính sách chưa được tham gia vào quá trình làm chính sách
Câu 14. Xin Thầy/Cô cho biết mức độ theo dõi, đánh giá tác động của chính sách phát triển phát triển NNC mạnh đang được triển khai? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Không bao giờ; 2-Hiếm khi; 3-Thỉnh thoảng; 4-Thường xuyên; 5-Rất thường xuyên)
Điểm
Nội dung đánh giá
Điểm
Nội dung đánh giá Tổ chức khảo sát, lấy ý kiến của các thành viên trong NNC theo mẫu Tổ chức sơ kết/đánh giá chính sách theo chuyên đề
Lập bảng thống kê số lượng và chất lượng của các NNC Cử cán bộ tham dự hoạt động của NNC Lấy ý kiến từ các trưởng NNC Câu 15. Xin Thầy/Cô cho biết mức độ thực hiện các nội dung dưới đây sau các đợt kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện chính sách? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Không thực hiện; 2- Hiếm khi thực hiện; 3- Làm chiếu lệ; 4-Thực hiện ngay; Thực hiện ngay và quyết liệt)
Điểm
Điểm
Nội dung đánh giá
Nội dung đánh giá Xem xét nội dung cần thiết để điều chỉnh chính sách Xem xét lại các điều kiện thực thi chính sách
Nội dung đánh giá
Điểm
Điểm
Do hành chính quan liêu
Xem xét hiệu quả của chính sách Phân tích các vấn đề của chính sách Câu 16. Theo Thầy/Cô, những nguyên nhân nào sau đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về việc kết quả kiểm tra, đánh giá không được sử dụng hoặc chậm được sử dụng trong điều chỉnh chính sách? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng) Nội dung đánh giá Do không có kinh phí để thực hiện việc này Do không rõ trách nhiệm ai/bộ phận nào phải tiếp thu, điều chỉnh chính sách
Do cán bộ không có động cơ thúc đẩy thực hiện việc này Câu 17. Xin Thầy/Cô cho biết mức độ khó khăn trong quá trình thực thi chính sách? (Trong đó: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5- Hoàn toàn đúng)
Điểm
Điểm
Nội dung đánh giá Cán bộ ít không bao quát hết
Kinh phí dành cho công tác kiểm tra, tổng kết chính sách quá ít Do chính sách còn thiếu nên lúng túng
Nội dung đánh giá Kính phí đầu tư thực hiện chính sách còn hạn chế Do trình độ cán bộ thực hiện chính sách còn nhiều hạn chế Văn bản chính sách không rõ nên khó vận dụng
Câu 18. Thực trạng hiện nay cho thấy, việc giải thể các nhóm nghiên cứu hoạt động không hiệu quả không thực hiện được, quan điểm của Thầy/Cô thế nào về những rào cản sau đây: (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn không đồng ý; 2-Không đồng ý; 3- Phân vân; 4- Đồng ý; 5-Hoàn toàn đồng ý)
Điểm
Điểm
Nội dung đánh giá Chính sách không quy định cụ thể về việc giải thể nhóm nghiên cứu
Nội dung đánh giá Bệnh hình thức, coi nhóm nghiên cứu là vật trang điểm cho trường đại học Ngại đụng chạm vì Trưởng nhóm là các nhà khoa học đầu đàn, đầu ngành
Ngại đụng chạm vì Trưởng nhóm nghiên cứu là những người giữ chức vụ cao trong cơ quan Câu 19. Để thực hiện tốt hơn chính sách phát triển nhóm nghiên cứu mạnh, theo Thầy/Cô đội ngũ cán bộ hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách của ĐHQGHN/đơn vị thành viên cần chú ý nâng cao hơn những mặt nào sau đây? (Trong đó: 1-Không cần thiết; 2-Ít cần thiết; 3-Khá cần thiết; 4-Cần thiết; 5-Rất cần thiết)
Điểm
Nội dung đánh giá
Điểm
Nội dung đánh giá Khắc phục thói quan liêu Khắc phục tính ỷ lại, chờ cấp trên trong khi có thể tự giải quyết
Năng lực vận dụng chính sách Tăng cường nắm bắt tình hình thực tế ở cơ sở Khả năng phối kết hợp các đơn vị liên quan Câu 20. Theo thầy/cô trường đại học cần tập trung vào những chính sách nào sau đây để xây dựng và phát huy hơn nữa vai trò của các NNC mạnh trong thời gian tới: (Trong đó: 1- Không cần thiết; 2-Ít cần thiết; 3-Khá cần thiết; 4-Cần thiết; 5-Rất cần thiết)?
Nội dung đánh giá
Điểm
Điểm
Trọng dụng nhà khoa học trình độ cao Có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút các nhà khoa học có trình độ cao ở ngoài nước về làm việc Xây dựng chế độ đãi ngộ thích hợp đối với những phát minh, sáng chế, cải tiến công nghệ nhằm tạo động lực cho nhà khoa học Hỗ trợ chế độ bảo hộ sản phẩm KH&CN, tạo điều kiện cho tri thức yên tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ Xây dựng và mở rộng Quỹ KH&CN
Tạo dựng môi trường nghiên cứu thuận lợi, minh bạch
Nội dung đánh giá Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ khoa học trình độ cao Ưu tiên đầu tư kinh phí NC theo phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN cho các NNC mạnh Ưu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu... Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước căn cứ vào thế mạnh của từng lĩnh vực Đầu tư trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi Đối mới chính sách tài chính theo hướng công khai, minh bạch, khoán đến sản phẩm đầu ra.
Câu 21. Theo Thầy/Cô để phát triển những nhóm nghiên cứu mạnh, hình thành các trường phái nghiên cứu trong trường đại học, cần những chính sách gì?
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn Thầy/cô đã tham gia trả lời !
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN __________________
PHIẾU XIN Ý KIẾN (Dùng cho các thành viên của Nhóm nghiên cứu)
Xin cam đoan những ý kiến của Thầy/Cô chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu và
Thưa Quý Thầy/Cô Trong phạm vi nghiên cứu của luận án chúng tôi đang thực hiện, chúng tôi đang tiến hành lấy ý của Thầy/Cô về chính sách phát triển nhóm nghiên cứu (NNC) mạnh ở ĐHQGHN. Để có cơ sở cho việc đề xuất giải pháp xây dựng và hoàn thiện chính sách, xin thầy cô vui lòng trả lời một số câu hỏi dưới đây. Sự cộng tác tích cực của Thầy/Cô thông qua việc trả lời một cách chân thực, đầy đủ vào phiếu hỏi này là việc làm có ý nghĩa nhất để giúp chúng tôi hoàn thành tốt mục tiêu nghiên cứu của mình. được giữ bí mật.
Xin trân thành cảm ơn sự cộng tác của Thầy/Cô.
Câu 1. Xin Thầy/Cô cho biết một số thông tin về cá nhân
1. Nam
Vui lòng tích dấu vào ô phù hợp hoặc điền thông tin vào khoảng trống 2. Nữ
1.1. Giới tính 1.2. Tuổi:………………… Thâm niên công tác giảng dạy/NCKH: ………………năm 1.3. Chức danh-học vị:
2. Thạc sĩ 3. Tiến sĩ/TSKH 5. GS-TS
1. Cử nhân/Kỹ sư 4. PGS-TS Nhận bằng tốt nghiệp với học vị cao nhất ở? 1. Trong nước
2.Nước ngoài
2. Khoa học kỹ thuật và công nghệ
1. Khoa học tự nhiên 3. Khoa học xã hội và nhân văn 4. Khoa học y sinh 5. Khoa học nông nghiệp 6. Khác (xin ghi rõ)……………………………………………………………………
1.4 . Lĩnh vực thầy/cô tham gia giảng dạy/NCKH: 1.5 Xin thầy/cô cho biết vai trò của thầy/cô trong nhóm nghiên cứu?
☐ Trưởng nhóm NC mạnh ☐ Thành viên của nhóm NC mạnh ☐ Cộng tác viên của nhóm NC mạnh ☐ Trưởng nhóm NC khác ☐ Thành viên của nhóm NC khác ☐ Cộng tác viên của nhóm NC khác
(Nhóm NC khác được hiểu là nhóm nghiên cứu chưa được công nhận là NNCM)
1.6. Xin Thầy/Cô cho biết, thời gian giảng dạy trung bình (số tiết quy đổi/năm học) của Thầy/Cô là …..….. tiết/năm.
1.7. Việc sử dụng quỹ thời gian làm việc của thầy/cô dành cho các hoạt động sau:
Các hoạt động
Nghiên cứu khoa học
Tỉ lệ thời gian (%) …………………………….
Giảng dạy
…………………………….
Học tập/bồi dưỡng nâng cao trình độ Quản lý Các hoạt động xã hội khác
……………………………. ……………………………. …………………………….
Cộng:
100%
………………
……………… ……………… ……………… ………………
………………
Câu 2. Xin Thầy/Cô cho biết những kết quả/thành tích đã đạt được trong 5 năm trở lại đây: - Số lượng sách chuyên khảo mà Thầy/Cô là tác giả hoặc đồng tác giả ……………… - Số công trình/bài báo được công bố ở nước ngoài (không thuộc hệ thống ISP/Scopus) - Số công trình/bài báo được công bố ở nước ngoài (thuộc hệ thống ISI/Scopus) - Số công trình/bài báo công bố trên các tạp chí khoa học trong nước - Số sản phẩm đạt giải thưởng KH&CN. - Số sản phẩm KH&CN hoàn chỉnh, có thể chuyển giao và thương mại hóa - Số lần tham dự hội nghị/hội thảo quốc tế với tư cách là báo cáo viên được mời (invited speaker) - Số đề tài các cấp Thầy/Cô chủ trì đã và đang chủ trì ……………… - Số đề tài các cấp Thầy/Cô tham gia đã và đang tham gia ……………… Câu 3. Xin Thầy/Cô đánh giá mức độ đóng góp của nhóm nghiên cứu mạnh đối với việc đào tạo, nghiên cứu và phục vụ xã hội? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Rất hạn chế; 2- Hạn chế; 3-Bình thường; 4-Tích cực; 5-Rất tích cực)
Điểm
Điểm
Nội dung đánh giá Hỗ trợ sự phát triển và duy trì một môi trường nghiên cứu hợp tác, chất lượng cao
Tập trung phát triển các lĩnh vực sở trưởng trong nghiên cứu và đào tạo, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, xuyên ngành
Nội dung đánh giá Hỗ trợ đổi mới nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, môi trường và xã hội trong tương lai, trong lĩnh vực Trường hoạt động Đảm bảo kết quả nghiên cứu có đóng góp thiết thực trong việc phát triển lĩnh vực chuyên môn của trường đại học, và đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước Đảm bảo nghiên cứu chất lượng cao để củng cố và tăng cường các chương trình đào tạo của trường đại học
Tăng cường và hỗ trợ đào tạo nghiên cứu và khuyến khích sự tham gia của sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh Cung cấp các cơ hội và hỗ trợ cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh để tạo nên các kết quả nghiên cứu chất lượng cao, phát triển thành tích nghiên cứu và xây dựng sự nghiệp nghiên cứu thành công
Tăng cường các cơ hội để đạt được nguồn tài trợ từ các Quỹ hỗ trợ nghiên cứu trong và ngoài nước cho hoạt động nghiên cứu trọng tâm Cung cấp cho khách hàng những kết quả nghiên cứu hữu ích, kịp thời và hiệu quả
Nội dung đánh giá
Nội dung đánh giá
Câu 4. Theo Thầy/Cô, những nguyên nhân liệt kê dưới đây đã ảnh hưởng thế nào đến hiệu quả hoạt động của Thầy/Cô? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không ảnh hưởng; 2-Ảnh hưởng ít; 3-Bình thường; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều) Điểm
Giảng dạy quá nhiều Công tác quản lý quá bận rộn Kinh phí nghiên cứu khoa học eo hẹp
Điểm
Định mức chi không phù hợp
Thiếu thông tin về NCKH hiện đại Thị trường công nghệ chưa phát triển Thiếu thông tin về nhu cầu KH&CN Năng lực NC của bản thân còn hạn chế Trang thiết bị cho công tác NCKH quá lạc hậu Chính sách bảo hộ quyền tác giả còn nhiều hạn chế Thu nhập từ làm NCKH quá thấp so với làm các việc khác
Cơ chế quản lý NCKH còn mang nặng tính xin-cho Thiếu điều kiện vật chất (thiết bị, vật liệu, tư liệu…) Chưa gắn kết được công tác NCKH và CGCN với người sử dụng kết quả
Câu 5. Theo Thầy/Cô, những yếu tố dưới đây có ảnh hưởng thế nào đến khả năng phát huy năng lực nghiên cứu của nhóm nghiên cứu? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Không ảnh hưởng; 2-Ảnh hưởng ít; 3-Ảnh hưởng vừa phải; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều)
Nội dung đánh giá
Điểm
Điểm
Năng lực đội ngũ còn kém
Thiếu gắn kết NC và sử dụng nên SP không phù hợp với nhu cầu thực tiễn Thiếu gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu nên chất lượng sản phẩm nghiên cứu còn thấp Thiết chế quản lý các đơn vị nghiên cứu triển khai chưa thích hợp, còn bao cấp Thị trường công nghệ chưa phát triển Chế độ hỗ trợ còn chưa rõ ràng đối với NCCB, NC có độ rủi ro cao Chế đội đãi ngộ chưa cao đối với các SP mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nguồn tư liệu phục vụ NC còn hạn chế
Khả năng sử dụng máy tính, tra cứu thông tin trên mạng Internet
Nội dung đánh giá Kinh phí nghiên cứu còn hạn hẹp Thu nhập từ NC còn thấp dẫn tới chưa tạo động lực Nhu cầu sử dụng kết quả NC trong xã hội còn thấp Phương tiện nghiên cứu còn thiếu và lạc hậu Trở ngại ngôn ngữ Môi trường nghiên cứu còn chưa thật sự dân chủ Nhu cầu đổi mới CN ở các doanh nghiệp còn thấp Thủ tục thanh toán còn phiền phức Hiệu lực của chế độ bản quyền chưa rõ ràng
Câu 6. Theo Thầy/Cô, mức độ ảnh hưởng của những yếu tố sau đây đến việc xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu: (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không ảnh hưởng; 2- Ảnh hưởng ít; 3-Ảnh hưởng vừa phải; 4-Ảnh hưởng nhiều; 5- Ảnh hưởng rất nhiều)
Điểm
Điểm
Nội dung đánh giá Thiếu cán bộ nhà khoa học có uy tín và tầm ảnh hướng lớn Thiếu môi trường và phương tiện làm việc Trưởng nhóm không tạo được sự gắn kết giữa các thành viên
Nội dung đánh giá Chính sách không tạo động lực làm việc nhóm Thiếu đầu tư kinh phí cho nhóm nghiên cứu Không tìm kiến được nguồn kinh phí để đảm bảo cho hoạt động của nhóm Quyền lợi không được đảm bảo Không minh bạch trong phân chia lợi ích
Thiếu kỹ năng làm việc nhóm Sự khác nhau về cá tính của mỗi thành viên Câu 7. Xin Thầy/cô cho biết mức độ đảm bảo yêu cầu trong tuyển chọn nội dung và cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài các cấp hiện nay? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không đảm bảo yêu cầu; 2-Đảm bảo một phần yêu cầu; 3-Cơ bản đảm bảo yêu cầu; 4-Đa phần đảm bảo yêu cầu; 5-Đảm bảo yêu cầu)
Nội dung đánh giá
Chọn đúng nội dung cần làm
Điểm Chọn đúng người/đơn vị có năng lực nhất để thực hiện
Đề tài cấp nhà nước Đề tài cấp Bộ Đề tài Quỹ Nafosted Đề tài cấp ĐHQGHN Đề tài cấp đơn vị trực thuộc ĐHQGHN
Câu 8. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về mức độ không đảm bảo yêu cầu trong việc tuyển chọn các cá nhân/đơn vị thực hiện đề tài nghiên cứu? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng)
Nội dung đánh giá
Điểm
Nội dung đánh giá
Điểm
Chưa lấy ý kiến rộng rãi về nội dung nghiên cứu của đề tài trên cơ sở định hướng đã xác định
Chưa công khai và thông báo rộng rãi đến các đơn vị/cá nhân có khả năng NC
Văn bản quy định việc tuyển chọn còn chưa hợp lý
Hội đồng tuyển chọn còn nể nang dễ dãi
Hội đồng tuyển chọn không đủ năng lực
Có tiêu cực trong tuyển chọn hoặc tuyển chọn dựa vào mối quan hệ
Câu 9. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về mức độ không đảm bảo tính nghiêm túc và chính xác trong kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu đề tài/dự án hiện nay? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4-Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng)
Nội dung đánh giá
Điểm
Nội dung đánh giá
Điểm
Văn bản quy định còn chưa chặt chẽ, hợp lý
Hội đồng đánh giá có hạn chế về năng lực
Quá trình thực hiện có tiêu cực
Hội đồng đánh giá có nể nang, dễ dãi
Tiêu chí đánh giá chưa rõ ràng
Cơ chế đánh giá không theo thông lệ quốc tế Câu 10. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào dưới đây phù hợp với đánh giá của Thầy/Cô về nguyên nhân nghiên cứu sau khi hoàn thành chưa đưa vào thực tiễn ? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Hoàn toàn sai; 2-Cơ bản là sai; 3-Nửa đúng, nửa sai; 4- Cơ bản là đúng; 5-Hoàn toàn đúng) Nội dung đánh giá
Nội dung đánh giá
Điểm
Điểm
Công tác NCKH còn xa rời thực tế
Việc tuyển chọn đề tài chưa hợp lý
Nhu cầu đổi mới CN của doanh nghiệp/xã hội còn thấp
Doanh nghiệp chưa có niềm tin vào các thành quả NCKH trong nước
Chưa có điều kiện để nhà khoa học giới thiệu sản phẩm
Vấn đề sở hữu trí tuệ chưa đảm bảo dẫn đến nhà khoa học ngại công bố rộng rãi kết quả NC của mình
Câu 11.Theo Thầy/Cô, chế độ đãi ngộ hiện nay đối với những kết quả nghiên cứu được đánh giá có hiệu quả lớn, có giá trị khoa học cao đã phù hợp chưa? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không phù hợp; 2-Chưa phù hợp; 3-Khá phù hợp; 4-Phù hợp 5-Hoàn toàn phù hợp)
Nội dung đánh giá
Điểm
Giá trị vật chất
Tuyên dương, phong tặng
Bảo hộ bản quyền
Câu 12. Theo kinh nghiệm quốc tế, để được thành lập, NNC mạnh cần đạt được những tiêu chí dưới đây. Xin Thầy/Cô cho biết mức độ đạt được của từng tiêu chí? (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1-Không đạt; 2-Đạt mức thấp; 3-Đạt mức trung bình; 4-Đạt mức cao; 5-Hoàn toàn đạt được)
Điểm
Nội dung
Có định hướng nghiên cứu lâu dài, đi kèm với đó là kế hoạch, nhiệm vụ và kinh phí để triển khai hoạt động nghiên cứu với thời gian tối thiểu 3 năm. Có tối thiểu 6 thành viên nòng cốt, mỗi thành viên phải có ít nhất 05 công trình nghiên cứu đã công bố (gồm ấn phẩm hoặc các sẩn phẩm sáng tạo) trong 3 năm trước đó (tính từ thời điểm nộp hồ sơ để được công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh) Các thành viên nòng cốt phải có ít nhất 600.000 USD thu nhập từ nghiên cứu (must have at least $600.000 in external research income) đối với lĩnh vực khoa học công nghệ và sức khỏe hoặc 300.000 USD đối với lĩnh vực kinh tế, khoa học xã hội và nhân văn, thiết kế sáng tạo và nghệ thuật trong 3 năm trước đó Mỗi thành viên nòng cốt phải có thời gian hướng dẫn sinh viên nghiên cứu trong ít nhất 1 học kỳ.
Câu 13. Thầy/Cô đánh giá thế nào về tác động của những chính sách dưới đây đối với sự phát triển nhóm nghiên cứu mạnh (Vui lòng cho điểm từ 1-5 vào ô tương ứng: 1- Rất hạn chế; 2- Hạn chế; 3-Bình thường; 4- Tích cực; 5- Rất tích cực)
Nội dung đánh giá
Điểm
Nội dung đánh giá
Điểm
Chính sách đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực
Trưởng NNC mạnh được nhận hệ số trách nhiệm quản lý 0.6 Được đầu tư kinh phí NC theo phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN hoặc đề xuất của NNC
Tuyển dụng đặc cách cán bộ khoa học có trình độ tiến sĩ Được hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực hiện chính sách thu hút các CBKH mạnh ở trong và ngoài nước Định mức giảng dạy không quá 150 giờ quy chuẩn/năm Trưởng NNC mạnh được bố trí nơi làm việc và sinh hoạt khoa học
Được truy cập thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI, Sciendirect
Sau 5 năm giảng dạy được nghỉ 01 học kỳ để tập trung cho nghiên cứu Được ưu tiên nhận hướng dẫn NCS (kể cả NCS nước ngoài) và học viên cao học Hỗ trợ CB tham gia các hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế nếu có ấn phẩm xuất bản trong hệ thống của ISI hoặc Scopus Được cấp kinh phí để cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước và nước ngoài
GS dưới 50 tuổi, PGS dưới 45 tuổi, TS, TSKH dưới 40 tuổi được ưu tiên giao những nhiệm vụ đào tạo, NCKH đặc biệt;
Khen thưởng, vinh danh
Được trả thu nhập thỏa đáng theo hiệu quả công tác trên cơ sở thỏa thuận giữa đơn vị và CBKH
CBKH nước ngoài được đơn vị bố trí chỗ ở, phương tiện đi lại, chỗ làm việc và các trang thiết bị cần thiết cho nghiên cứu
Nội dung đánh giá
Điểm
Nội dung đánh giá
Điểm
Hỗ trợ kinh phí để xuất bản các công trình khoa học, sách chuyên khảo, các phát minh, sáng chế
Ưu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu...
Ưu tiên tiên cao nhất trong việc tham gia hoặc chủ trì biên soạn giáo trình, bài giảng, tham gia các hội đồng đánh giá đề tài, dự án KHCN
NCS của nhóm được hỗ trợ chỗ ở, tham gia thực hiện đề tài cùng NNC và hưởng kinh phí theo đề tài; ưu tiên tham gia đề án 911 và các chương trình học bổng khác
Hỗ trợ đối với các công bố quốc tế trong hệ thống ấn phẩm của ISI hoặc Scopus
CBKH có trình độ tiến sĩ trở lên, giảng dạy chuyên môn bằng ngoại ngữ sẽ được ưu tiên xét duyệt đề tài KHCN với mức tối thiểu là 50 triệu đồng
Chính sách cải thiện môi trƣờng và điều kiện nghiên cứu
Được đầu tư trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi
Được ưu tiên sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng chung
Phát triển nguồn lực thông tin
Hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên cho NNC mạnh
Sắp xếp và kiện toàn các tổ chức NCKH (NNC mạnh, Trung tâm NC, PTN trọng điểm, PTN chuyên đề, khu chế thử…)
Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN
Tạo lập thị trường công nghệ
Hỗ trợ khởi nghiệp
Phát triển quỹ khoa học và công nghệ
Xây dựng tạp chí đạt chuẩn quốc tế
NNC mạnh được bố trí phòng làm việc
Chính sách hợp tác và phát triển
Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các doanh nghiệp
Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các địa phương
Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu trong nước
Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các cơ quan/tổ chức nghiên cứu nước ngoài
Câu 14. Theo thầy/cô trường đại học cần tập trung vào những chính sách nào sau đây để xây dựng và phát huy hơn nữa vai trò của các NNC mạnh trong thời gian tới: (Trong đó: 1- Không cần thiết; 2-Ít cần thiết; 3-Khá cần thiết; 4-Cần thiết; 5-Rất cần thiết)?
Nội dung đánh giá
Điểm
Điểm
Trọng dụng nhà khoa học trình độ cao Có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút các nhà khoa học có trình độ cao ở ngoài nước về làm việc Xây dựng chế độ đãi ngộ thích hợp đối với những phát minh, sáng chế, cải tiến công nghệ nhằm tạo động lực cho nhà khoa học
Nội dung đánh giá Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ khoa học trình độ cao Ưu tiên đầu tư kinh phí NC theo phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN cho các NNC mạnh Ưu tiên bổ sung nhân lực đối với các NNC hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu...
Nội dung đánh giá
Điểm
Điểm
Hỗ trợ chế độ bảo hộ sản phẩm KH&CN, tạo điều kiện cho tri thức yên tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ Xây dựng và mở rộng Quỹ KH&CN
Tạo dựng môi trường nghiên cứu thuận lợi, minh bạch
Nội dung đánh giá Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước căn cứ vào thế mạnh của từng lĩnh vực Đầu tư trang thiết bị đồng bộ, điều kiện nghiên cứu thuận lợi Đối mới chính sách tài chính theo hướng công khai, minh bạch, khoán đến sản phẩm đầu ra.
Câu 15. Theo Thầy/Cô để phát triển những nhóm nghiên cứu mạnh, hình thành các trường phái nghiên cứu trong trường đại học, cần bổ sung những chính sách gì?
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn Thầy/cô đã tham gia trả lời !