VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NƢƠNG
ĐỐI CHIẾU GIỚI TỪ CHỈ KHÔNG GIAN “AUF/ IN”
TRONG TIẾNG ĐỨC VỚI “TRÊN/ TRONG” TRONG TIẾNG VIỆT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NƢƠNG
ĐỐI CHIẾU GIỚI TỪ CHỈ KHÔNG GIAN “AUF/ IN”
TRONG TIẾNG ĐỨC VỚI “TRÊN/ TRONG” TRONG TIẾNG VIỆT
Ngành: Ngôn ngữ học so sánh, đối chiếu
Mã số: 9.22.90.24
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS VŨ KIM BẢNG
HÀ NỘI, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu, dẫn chứng nêu trong luận án là trung thực và không trùng khớp
cũng như chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 22 tháng 07 năm 2021.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Nương
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo Học viện, lãnh đạo Khoa Ngôn ngữ
học, cùng toàn thể cán bộ, các thầy giáo, cô giáo của Học viện Khoa học xã hội đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu, triển khai thực hiện đề tài luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Vũ Kim Bảng - tập
thể các thầy giáo, cô giáo hướng dẫn khoa học đã luôn tận tình hướng dẫn, định
hướng cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, để tôi có thể hoàn thành
luận án của mình.
Tôi trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Cao đẳng Y Tế Hà Đông đã
quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu, hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Cảm ơn gia đình thương yêu, bạn bè, đồng nghiệp quý mến đã
luôn quan tâm, là điểm tựa, động viên và đồng hành với tôi, tạo điều kiện tốt để tôi
hoàn thành luận án này.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Nương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ LUẬN ....................................................................................................... 10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................... 10
1.1.1. Những nghiên cứu nói chung trên thế giới về giới từ định vị
không gian ............................................................................................... 10
1.1.2. Những nghiên cứu trong nước về giới từ định vị không gian trong
tiếng Việt .................................................................................................. 13
1.2. Một số lý thuyết về không gian trong ngôn ngữ học tri nhận ............ 15
1.2.1. Khái niệm cơ bản về tri nhận và về không gian ........................... 15
1.2.2. Sự định vị và các đặc điểm định vị không gian trong ngôn ngữ học . 18
1.2.3. Vị trí, hướng và các trục định vị không gian ................................ 19
1.2.4. Những quan điểm đa nghĩa về không gian trong ngôn ngữ học
tri nhận .................................................................................................... 20
1.2.5. Tri nhận nghiệm thân .................................................................... 21
1.2.6. Các mô hình của ngôn ngữ học tri nhận ....................................... 24
1.2.7. Ẩn dụ ý niệm và sự ý niệm hóa không gian ................................. 25
1.2.8. Sự tri nhận không gian với “con người là trung tâm” vũ trụ ........ 27
1.2.9. Những chiến lược định vị và định hướng trong không gian. ........ 28
1.3. Một số lý thuyết về giới từ trong tiếng Đức và tiếng Việt .................. 29
1.3.1. Khái niệm “giới từ” trong tiếng Đức ............................................ 29
1.3.2. Khái niệm “giới từ” trong tiếng Việt ............................................ 34
1.3.3. Nghĩa của giới từ trong ngữ nghĩa học truyền thống và ngữ nghĩa
học tri nhận ............................................................................................... 37
1.3.4. Hệ thống các giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức và tiếng Việt .. 38
1.4. Một số cơ sở lý luận về ngôn ngữ học đối chiếu .................................. 50
1.4.1. Khái niệm ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu ................................ 50
1.4.2. Các bình diện đối chiếu ngôn ngữ ................................................ 52
1.4.3. Về nghiên cứu đối chiếu ngữ nghĩa và tương đương về ngữ
nghĩa của từ giữa các ngôn ngữ ............................................................. 53
1.4.4. Mọ t sô vấn đề về ngo n ngư học so sánh đô i chiê u và đô i chiê u ngo n ngữ
................................................................................................................. 53
1.5. Tiểu kết .................................................................................................... 55
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CÁC GIỚI TỪ CHỈ KHÔNG
GIAN “AUF/ IN” TRONG TIẾNG ĐỨC ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT . 57
2.1. Giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức ............................................... 57
2.2. Giới từ “auf/in” trong tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt .................. 58
2.2.1. Đặc điểm ngữ nghĩa giới từ định vị không gian “auf” đối chiếu
với tiếng Việt ............................................................................................ 60
2.2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa giới từ tri nhận không gian “in” trong
tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt .......................................................... 79
2.3. Nhận xét .................................................................................................. 95
2.4. Tiểu kết .................................................................................................... 97
Chƣơng 3: ĐỐI CHIẾU CƠ SỞ TRI NHẬN KHÔNG GIAN CỦA
GIỚI TỪ “AUF/IN” TRONG TIẾNG ĐỨC VỚI TIẾNG VIỆT ............. 99
3.1. Sự đa dạng của tri nhận ......................................................................... 99
3.1.1. Một vài biểu hiện của sự đa dạng tri nhận trong phạm vi không
gian ngôn ngữ học ................................................................................. 100
3.1.2. So sánh về tri nhận định vị không gian ....................................... 101
3.2. Sự tri nhận không gian của giới từ “auf/ in ” trong tiếng Đức đối
chiếu với tiếng Việt ...................................................................................... 105
3.2.1. Sự giống nhau ............................................................................. 105
3.2.2. Sự khác nhau giữa giới từ “auf/ in” trong tiếng Đức với
“trên/trong” trong tiếng Việt ................................................................. 106
3.3. Đối chiếu giới từ auf/in với các giới từ tƣơng đƣơng trong tiếng
Việt nhìn từ góc độ tri nhận ....................................................................... 115
3.3.1. Về nội dung định vị có tính tôpô ................................................ 115
3.3.2. Sự khác biệt về nội dung định vị ................................................ 116
3.3.3. Giới từ “auf” nhìn từ góc độ tri nhận đối chiếu với tiếng Việt ... 120
3.3.4. Giới từ “in” nhìn từ góc độ tri nhận đối chiếu với tiếng Việt ..... 123
3.4. Nhận xét ................................................................................................ 126
3.5. Tiểu kết .................................................................................................. 128
Chƣơng 4: KHẢO SÁT THỰC TIỄN SỬ DỤNG CÁC GIỚI TỪ
“AUF” VÀ “IN” TRONG TÁC PHẨM “ĐO THẾ GIỚI” VỚI BẢN
DỊCH TIẾNG VIỆT .................................................................................... 131
4.1. Nghiên cứu thực tiễn ............................................................................ 131
4.1.1. Nghiên cứu định lượng .............................................................. 131
4.1.2. Phân tích bản dịch sang tiếng Việt của những giới từ chỉ địa
điểm ....................................................................................................... 133
4.2. Một số nhận xét .................................................................................... 143
4.2.1. Ảnh hưởng của khái niệm “hình thái tiêu chuẩn” ....................... 143
4.2.2. Ảnh hưởng của đặc điểm địa lý .................................................. 144
4.2.3. Ảnh hưởng của đặc điểm xã hội ................................................. 145
4.2.4. Ảnh hưởng của khái niệm “đường bao” ..................................... 145
4.2.5. Sự khác nhau chi tiết khi nhận thức về không gian .................... 145
4.2.6. Thói quen khi sử dụng giới từ chỉ địa điểm ................................ 146
4.3. Tiểu kết .................................................................................................. 147
KẾT LUẬN .................................................................................................. 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152
DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Viết đầy đủ
1 ĐTĐV Đối tượng định vị
2 ĐTQC Đối tượng quy chiếu
3 TR (trajector) - ĐVDC Định vị dịch chuyển
4 LM (Landmark) - MĐV Mốc định vị
5 GTĐV Giới từ định vị
6 ĐVKG Định vị không gian
DANH MỤC
CÁC BẢNG, BIỂU THỐNG KÊ TRONG LUẬN ÁN
Danh mục bảng
Bảng 4.1: Bản dịch bị ảnh hưởng bởi khái niệm “hình thái tiêu chuẩn” ................ 135
Bảng 4.2: Bản dịch bị ảnh hưởng bởi đặc điểm địa lý ............................................ 139
Bảng 4.3: Bản dịch bị ảnh hưởng bởi khái niệm “đường bao” ............................... 141
Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 4.1: Tổng quan về giới từ địa điểm “auf - trên” và “in - trong” trong
văn thể ..................................................................................................................... 131
Biểu đồ 4.2: Tổng quan từ giới từ địa điểm “auf” trong văn bản ........................... 132
Biểu đồ 4.3: Tổng quan từ giới từ địa điểm “in” trong văn bản ............................. 132
Biểu đồ 4.4: Tổng quan về các bản dịch giới từ chỉ phương hướng chuyển động
“auf” trong văn bản ................................................................................................. 133
Biểu đồ 4.5: Tổng quan về các bản dịch giới từ chỉ phương hướng chuyển động
“in” trong văn bản ................................................................................................... 133
Biểu đồ 4.6: Tổng quan về các phần dịch giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại “auf”
trong văn bản ........................................................................................................... 134
Biểu đồ 4.7: Tổng quan về các phần dịch giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại “in” trong
văn bản .................................................................................................................... 134
Hình 1: Mô hình khối lập phương ............................................................................. 38
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2: a. vor (trước) b. hinter (sau) ................................................................ 39
Hình 3: c. unter (dưới) d. auf (trên) e. über (trên, bên trên) .................. 40
Hình 4: f. in (trong) g. an (sát cạnh) h. neben (cạnh) ..................... 40
Hình 5: i. zwischen (giữa) ......................................................................................... 40
Hình 6: vor - trước cái bàn ........................................................................................ 41
Hình 7: trước - vor..................................................................................................... 42
Hình 8: trước nhà - vor .............................................................................................. 42
Hình 9: sau gốc cây - hinter ...................................................................................... 42
Hình 10: trước gốc cây - vor ..................................................................................... 43
Hình 11: an - trên ...................................................................................................... 43
Hình 12: an - vào tường ............................................................................................ 44
Hình 13: an - trên trần nhà ........................................................................................ 44
Hình 14: auf - trên bàn .............................................................................................. 44
Hình 15: über - trên bàn ............................................................................................ 45
Hình 16: über - trên chiếc bàn ................................................................................... 45
Hình 17: unter - dưới bàn .......................................................................................... 45
Hình 18:unter - dưới cốc ........................................................................................... 45
Hình 19: unter - giữa những người bạn ..................................................................... 46
Hình 20: unter - dưới bàn .......................................................................................... 46
Hình 22: neben- bên cạnh tôi .................................................................................... 48
Hình 23: zwischen - ở giữa bố và con trai ................................................................ 49
Hình 24: zwischen - giữa đèn và máy tính ................................................................ 49
Hình 25: auf - trên .................................................................................................... 67
Hình 26: auf - trên bàn .............................................................................................. 71
Hình 27: unter - dưới bàn .......................................................................................... 72
Hình 28: unter - giữa khán giả .................................................................................. 72
Hình 29: in - trong ..................................................................................................... 80
Hình 30: Vandeloise, 1994: 172................................................................................ 83
Hình 31: “in” chuyển động từ ngoài vào trong ......................................................... 93
Hình 32: Mô hình định vị/ định hướng theo trực chỉ theo Bernd Heine (87 tr.129)
................................................................................................................................. 100
Hình 33: auf (trên) in (trong) .......................................................................... 106
Hình 34: đường bao ................................................................................................. 113
Hình 35: “auf” và “über” - trên ............................................................................... 114
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay trong bối cảnh hội nhập, hợp tác quốc tế, tiếng Đức trở thành một
ngôn ngữ và phương tiện thật sự quan trọng và cần thiết. Ngôn ngữ của mỗi quốc
gia đều có những nét tương đồng và khác biệt với những ngôn ngữ khác và hàm
chứa những nét văn hóa đặc trưng. Chính những sự khác biệt về đặc điểm ngôn ngữ,
đặc biệt khi chúng ta dùng các giới từ chỉ không gian để nói về sự vật sự việc là rào
cản ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp hoặc trong văn bản và dịch thuật. Vì vậy,
việc chúng tôi nghiên cứu so sánh đặc điểm các ngôn ngữ nhằm mục đích chỉ ra
những nét tương đồng và khác biệt giữa chúng là việc làm cần thiết và có ý nghĩa
góp phần nâng cao hiệu quả giao tiếp.
Đồng thời, trong quá trình sử dụng ngôn ngữ, việc này giúp cho người đọc
và người học nhận thấy cách sử dụng đúng trong câu cũng như hiểu rõ được các loại
hình giới từ, cấu trúc câu, cấu tạo từ, chức năng ngữ pháp và ngữ nghĩa của giới từ.
Qua đó, việc nghiên cứu về những nét tương đồng và khác biệt trong hai ngôn ngữ
cũng giúp người dùng tránh dùng sai giới từ trong tiếng Đức và phân biệt được
chúng một cách rõ ràng trong các trường hợp và ngữ cảnh khác nhau.
Tiếng Đức được đánh giá là một thứ tiếng có ngữ pháp khá khó học, đặc biệt
là phần giới từ. Việc học và sử dụng giới từ sao cho chuẩn xác là một việc không
dễ. Sử dụng giới từ trong các trường hợp khác nhau, sẽ mang ý nghĩa khác nhau.
Cùng một từ nếu được kết hợp với các giới từ khác nhau sẽ có nghĩa khác nhau và
được người dùng áp dụng trong hoàn cảnh khác nhau. Vì vậy, nắm chắc các giới từ
và cách sử dụng các giới từ trong tiếng Đức là một việc quan trọng mà ai học tiếng
Đức cũng cần phải lưu ý. Tiếng Đức khó học hơn các ngôn ngữ khác bởi danh từ
trong tiếng Đức có các giống (giống đực - der, giống cái - die, giống trung - das) và
được đặt vào các cách (cách 1 - Nominativ, cách 2 - Genitiv, cách 3 - Dativ, cách 4
- Akkusativ). Mỗi giới từ đều đòi hỏi sử dụng với một cách nhất định, từ đó chúng ta
phải xác định các từ loại ngữ pháp và giống cho phù hợp. Vì vậy, chỉ bằng cách
chúng ta học thuộc để hiểu rõ và phân loại được các loại giới từ trong tiếng Đức.
Giới từ là từ loại chỉ mối liên quan giữa các từ, cụm từ trong câu. Giới từ
trong tiếng Đức được phân loại và hệ thống thành các dạng bao gồm: giới từ chỉ địa
1
điểm, giới từ chỉ thời gian, giới từ chỉ cách thức, nguyên nhân hoặc mục đích, giới
từ dùng để chỉ sự tương quan về vị trí, thời gian, kiểu cách, nguyên nhân giữa các
vật thể, sự vật, con người được nhắc đến trong câu.
Nhưng ở đây, luận án chỉ tập trung nghiên cứu các đặc điểm ngữ nghĩa của
cặp giới từ không gian auf/ in trong tiếng Đức và đối chiếu với tiếng Việt.
Một ngôn ngữ bao gồm từ vựng và ngữ pháp, nghĩa là bao gồm từ và mối
liên hệ cũng như cấu trúc giữa các từ. Điều quan trọng để nghiên cứu một ngôn ngữ
là phải hiểu được các mặt khác nhau như từ loại, cấu tạo từ, cú pháp .... Trong đó từ
loại là phần quan trọng của ngôn ngữ vì thông qua từ loại ta sẽ thấy rõ một từ đơn lẻ
có thể đảm nhiệm vai trò hoặc chức năng gì và cách các từ tạo thành câu. Bên cạnh
động từ, danh từ và tính từ, giới từ là một từ loại quan trọng, nó không chỉ mang ý
nghĩa, có chức năng ngữ pháp mà còn mang đặc điểm văn hóa. Ngoài ra từ loại này
đóng vai trò như là yếu tố kết nối, do vậy chúng ta có thể ghép các thành phần câu
với nhau khi sử dụng giới từ. Do đó, ta có thể khẳng định rằng giới từ góp phần
quan trọng trong việc cấu tạo câu. Trong tiếng Đức cũng như tiếng Việt, giới từ
xuất hiện tương đối thường xuyên trong câu. Tuy nhiên, do sự khác nhau về văn hóa
và các đặc điểm ngôn ngữ nên giới từ không được sử dụng giống nhau trong các
ngôn ngữ. Việc thiếu kiến thức sử dụng giới từ dẫn đến các tình huống hiểu nhầm.
Ví dụ người Việt Nam nói: Bức tranh treo trên trường và thường được dịch sang
tiếng Đức là Das Bild hängt auf der Wand (Bức tranh treo trên trường), trong khi
câu này nên được viết là Das Bild hängt an der Wand. (Bức tranh treo cạnh tường).
Lý do của những lỗi điển hình này là người nói chỉ dịch đơn giản từ trên
thành từ auf mà không biết rằng trong trường hợp này người Đức sử dụng cách diễn
đạt khác. Chính vì vậy việc hiểu chức năng cũng như ý nghĩa của các giới từ là rất
quan trọng. Khi tiếp nhận ngôn ngữ, người Việt học tiếng Đức thường gặp khó khăn
khi sử dụng giới từ chỉ không gian hay địa điểm. Tuy nhiên cho đến ngày nay vẫn
chưa có công trình nghiên cứu rõ ràng nào về chủ đề “giới từ chỉ không gian trong
tiếng Đức trong sự so sánh với tiếng Việt”, và đây cũng chính là một trong những lý
do mà chúng tôi lựa chọn cho mình đề tài luận án tiến sĩ “Đối chiếu giới từ chỉ
không gian „auf/in‟ trong tiếng Đức với „trên/trong‟ trong tiếng Việt”. Trong
khuôn khổ của luận án, chúng tôi đưa ra hệ thống một số giới từ chỉ không gian và
2
lựa chọn các giới từ auf/in trong tiếng Đức trong sự so sánh với tiếng Việt làm đối
tượng của công trình nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án hướng tới mục đích chỉ rõ đặc điểm ngữ nghĩa giới từ chỉ không
gian trong tiếng Đức (đối chiếu với tiếng Việt). Trên cở sở đó chúng tôi chỉ ra
những đặc điểm về văn hóa, tư duy của người Đức trong sự so sánh với người Việt.
Trong luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu hai giới từ auf/ in trong
tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt với những mục đích chính sau:
1. Phân tích, mô tả và khái quát hóa về đặc điểm ngữ nghĩa của các giới từ định
vị không gian cơ bản của tiếng Đức, trong đó tập trung chủ yếu vào hai giới từ auf/ in.
2. So sánh, đối chiếu những điểm tương đồng, sự khác biệt trong việc sử
dụng giới từ chỉ không gian auf/in trong tiếng Đức với trên/trong trong tiếng Việt.
Trên cơ sở đó, có được những tổng kết cụ thể về mức độ tương đồng và khác biệt
giữa các giới từ định vị không gian trong tiếng Đức và tiếng Việt.
3. Làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt về ngữ nghĩa và cơ chế tri
nhận của các giới từ định vị không gian auf/in của người Đức và giới từ trên/trong
của người Việt.
Để làm rõ những mục đích nghiên cứu trên, chúng tôi đưa ra cái nhìn tổng
quan về giới từ, trong đó, luận án sẽ giải thích các khái niệm về giới từ trong tiếng
Đức và tiếng Việt. Sau đó việc sử dụng giới từ chỉ không gian trong cả hai ngôn
ngữ được so sánh đối chiếu với nhau. Ngoài ra, kết quả so sánh thông qua nghiên
cứu thực tế cũng được kiểm tra.
Với luận án này, chúng tôi muốn giới thiệu cụ thể về sự giống nhau và khác
nhau khi sử dụng giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức và tiếng Việt. Qua đó có
thể tìm ra sự giống nhau và khác nhau của hai ngôn ngữ và hai đất nước trong nhiều
khía cạnh khác nhau, ví dụ như sự khác nhau về cơ chế tri nhận không gian, về văn
hóa khi sử dụng giới từ chỉ không gian của người Đức và người Việt.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
Để tiến hành thực hiện được các mục tiêu trên, luận án tập trung giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Phân tích và miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa của giới từ chỉ không gian tiếng
Đức và tiếng Việt.
- So sánh và đối chiếu về mặt ngữ nghĩa của giới từ auf/ in (giới từ chỉ địa
điểm tĩnh và giới từ chuyển động) trong tiếng Đức với trên/ trong trong tiếng Việt
nhằm chỉ ra nét giống và khác nhau về ngữ nghĩa của nhóm giới từ này.
- Phát hiện những điểm giống nhau và khác nhau trong cơ chế, cách thức tri
nhận về giới từ định vị không gian của người Đức và người Việt qua mối quan hệ
tư duy và ngôn ngữ.
- Nghiên cứu thực tiễn với việc tìm kiếm và phân tích các giới từ chỉ địa điểm
auf và in trong cuốn tiểu thuyết “Die Vermessung der Welt” (Daniel Kehlmann) và
bản dịch “Đo thế giới” (Lê Quang).
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức và tiếng
Việt, đặc biệt tập trung nghiên cứu hai giới từ “auf/in”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi ngữ liệu: Các tác phẩm nghiên cứu trong đề tài bao gồm các tác
phẩm truyện ngắn bằng tiếng Đức như: Die Blechtrommel của Günter Grass (1959),
Das Parfum của Patrick Süskind (1985), Berlin Alexanderplatz của Alfred Döblin
(1929), các bài báo tiếng Đức có ấn phẩm tại Việt Nam như: Nhập môn ngữ pháp
trong tiếng Đức hiện đại - Ấn bản được biên tập mới lần thứ 3 với sự hỗ trợ của
Werner Hackel. Sommerfeldt, K./Starke G. (1998), Nhà xuất bản Max Niemeyer,
Tübingen. Ngữ pháp văn bản của ngôn ngữ Đức. Ấn bản được chỉnh sửa lần thứ
3,Weinrich. H. (2005), nhà xuất bản Georg Olms, Hildesheim/ Zürich/ New York.
Trong luận án nhóm tác giả đặc biệt lựa chọn tác phẩm Đo thế giới, (bản dịch của
Lê Quang), Die Vermessung der Welt, Daniel Kehlmann. (2006), nhà xuất bản
Rowohlt, Hamburg để khảo sát tại chương 4 là vì số lượng giới từ auf/in xuất hiện
4
nhiều trong tác phẩm và mang nhiều nghĩa khác nhau. Số lượng giới từ, cụm giới từ
lặp đi lặp lại nhiều lần trong các ngữ cảnh khác nhau và mang nghĩa khác nhau.
- Phạm vi nội dung: Các đặc điểm ngữ nghĩa, cơ sở tri nhận và khảo sát thực
tiễn về hai giới từ auf/in.
- Phạm vi nghiên cứu: Đối chiếu đặc điểm ngữ nghĩa và cơ chế tri nhận giới
từ không gian auf/in trong tiếng Đức với trên/trong trong tiếng Việt.
Chúng tôi lựa chọn những giới từ trên với các lý do sau: Trong tiếng Đức,
các giới từ xuất hiện trong hầu hết mọi câu và chiếm tỷ lệ lớn trong khối lượng từ
của văn bản. Và những giới từ auf/in xuất hiện với tần suất nhiều hơn so với các
giới từ khác, cụ thể như giới từ in dẫn đầu trong việc sử dụng ở mọi văn bản với tần
suất dùng chiếm 23%, và giới từ auf chiếm 6% nhiều hơn so với các giới từ khác.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến các khía cạnh
nghiên cứu của giới từ này. Nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu
sâu về so sánh đối chiếu ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của những giới từ không gian
trong tiếng Đức: auf/ in với trên/ trong trong tiếng Việt.
3.3. Nguồn ngữ liệu
Nguồn ngữ liệu của luận án được chúng tôi thu thập từ các báo, tạp chí, từ điển
tiếng Đức, từ điển đối chiếu Đức-Việt, Anh-Việt, Việt-Đức, Việt Anh hoặc các từ
điển tường giải tiếng Đức, tiếng Anh và tiếng Việt, sách ngữ pháp tiếng Đức, tiếng
Anh, tiếng Việt, các nguồn trên mạng, sách tham khảo, công trình nghiên cứu của
các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài và các tác phẩm văn học nổi
tiếng của Đức, Anh và Mỹ. Riêng trong chương cuối - chương khảo sát về việc sử
dụng các giới từ tri nhận không gian “auf/ in”, chủ yếu việc khảo sát được thực hiện
từ tác phẩm văn học Die Vermessung der Welt của tác giả Daniel Kehlmann được
tác giả Lê Quang dịch sang tiếng Việt (Đo thế giới).
Tài liệu tham khảo chủ yếu của luận án là các công trình nghiên cứu của các nhà
ngôn ngữ học trong và ngoài nước về các vấn đề có liên quan đến đề tài luận án. Số
lượng tài liệu tham khảo là 146 gồm có 62 tư liệu tiếng Việt và 84 tư liệu tiếng
nước ngoài.
5
Những vấn đề được thảo luận và đánh giá của luận án được giới hạn trong
phạm vi tư liệu mà chúng tôi thu thập được. Ngoài ra, để đảm bảo tính khách quan
của ngữ liệu nghiên cứu thì việc dịch tiếng Việt tương đương với ngữ liệu tiếng Đức
lấy từ các tác phẩm văn học được giữ nguyên theo các bản dịch tiếng Việt đã được
công bố và một phần nhỏ tư liệu tiếng Đức lấy từ các nguồn khác thì được dịch sát
nghĩa để đảm bảo tính đặc thù và khách quan của ngôn ngữ.
Luận án chọn giới từ định vị không gian auf/ in trong tiếng Đức làm đối tượng
so sánh đối chiếu với giới từ định vị không gian trên/ trong trong tiếng Việt.
4. Phƣơng pháp luận và nghiên cứu
Để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu, một số phương pháp chính được sử dụng
trong luận án bao gồm: phương pháp miêu tả, phân tích, thu thập; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phương pháp phân tích ngữ nghĩa và thủ pháp thống kê phân loại.
- Phương pháp miêu tả, phân tích, thu thập được sử dụng kết hợp phương
pháp định lượng và định tính nhằm tạo nên cơ sở thực tiễn để chỉ ra điểm tương
đồng và khác biệt giữa giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức và tiếng Việt và tăng
thêm tính thuyết phục của các nhận xét, đánh giá và tổng kết của luận án. Phân tích
các ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa khái quát của nhóm giới từ định vị không gian chỉ địa
điểm tĩnh, chuyển động auf/in trong tiếng Đức với trên/ trong trong tiếng Việt và
cơ sở tri nhận của chúng. Ngoài ra, tác giả sử dụng phương pháp thu thập để giúp
lấy thông tin thông qua các bài viết xuất bản bằng tiếng Đức và các cơ sở của điều
tra mà chủ yếu là các tài liệu nghiên cứu và sách về giới từ. Qua đó, luận án có thể
khái quát được các nghĩa cũng như cơ sở tri nhận của giới từ định vị không gian
trong tiếng Đức và tiếng Việt.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng trong hầu hết các phần của
luận án, từ khâu khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích, miêu tả, kết luận… giúp
cho việc liên hệ những đặc điểm về khái niệm giới từ không gian, nhằm chỉ ra
những điểm tương đồng và khác biệt giữa các giới từ chỉ không gian trong tiếng
Đức và tiếng Việt theo cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận, so sánh đối chiếu
đặc điểm ngữ nghĩa, đặc điểm tri nhận luận không gian các giới từ auf/in trong
tiếng Đức với tiếng Việt. Đối chiếu mối quan hệ giữa auf/ in với trên/ trong từ hai
góc độ tri nhận khác nhau của người Đức và người Việt và so sánh về tri nhận định
6
vị không gian. Phương pháp so sánh đối chiếu mà tác giả sử dụng là đối chiếu một
chiều: xuất phát từ việc miêu tả, phân tích sự mở rộng, phát triển ngữ nghĩa trên cơ
sở nghiệm thân của giới từ auf/in trong tiếng Đức để tiến hành miêu tả, phân tích sự
mở rộng, phát triển đặc điểm ngữ nghĩa của từ tương đương trong tiếng Việt. Từ đó,
luận án tiến hành đối chiếu để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt được thể
hiện trong hai ngôn ngữ.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa được sử dụng để:
Phân tích các ngữ cảnh trong câu tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt, phát
hiện các nghĩa tố cần yếu trong cấu trúc nghĩa của từ.
Phân tích đặc điểm ngữ nghĩa của các giới từ không gian auf/in trong tiếng
Đức đối chiếu với tiếng Việt.
- Thủ pháp thống kê phân loại được sử dụng để thống kê phân loại các giới
từ định vị không gian auf/in căn cứ trên ngữ liệu bằng tiếng Đức và tiếng Việt được
tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau để tìm ra các nghĩa và cơ sở tri nhận của giới từ
định vị không gian của người Đức và người Việt. Thủ pháp này đặc biệt được sử
dụng nhiều ở chương cuối - chương khảo sát việc sử dụng các giới từ không gian
trong tác phẩm văn học tiếng Đức được dịch sang tiếng Việt nhằm xem xét sự
phong phú của các giới từ được sử dụng, xem xét sự chênh nhau về tần suất xuất
hiện của các giới từ có trong nguyên bản và bản dịch, xem xét tần số các của các lỗi
dịch v.v. Qua đó, luận án tìm ra các nguyên nhân để có thể có những kết luận về
cách sử dụng khác nhau các giới từ mang tính chất đặc trưng văn hóa dân tộc trong
hai thứ tiếng.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Nghiên cứu về giới từ trong tiếng Đức không nhiều. Vì vậy qua việc nghiên
cứu này, luận án đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ lý luận về đặc điểm giới từ định vị
không gian trong tiếng Đức cụ thể là các giới từ auf/in đối chiếu với tiếng Việt và
cơ sở tri nhận của nhóm giới từ này.
Luận án đã tập trung phân tích ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của giới từ không
gian auf/in trong tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt nhằm làm rõ sự tương đồng và
khác biệt về tri nhận không gian trên/ trong của người bản ngữ và người Việt.
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Có thể nói luận án là thử nghiệm đầu tiên, khảo sát, nghiên cứu lý luận về
đặc điểm giới từ định vị không gian auf/in (trên/ trong) trong tiếng Đức đối chiếu
với tiếng Việt tổng hợp từ nhiều góc độ: nghĩa học, ngôn ngữ học tri nhận và sự
hành chức của chúng (qua cuốn tiểu thuyết Die Vermessung der Welt và bản dịch
Đo thế giới). Bằng cách vận dụng những thành tựu ngôn ngữ học trong và ngoài
nước ở cả 3 lĩnh vực kể trên, đặc biệt là ngữ nghĩa học tri nhận, luận án đã làm rõ
được những sự giống nhau và khác nhau về nội dung ngữ nghĩa và các chế định tri
nhận trong việc sử dụng của các giới từ không gian trong tiếng Đức và tiếng Việt,
quyết định các đặc điểm ngữ pháp của chúng. Từ đó luận án góp phần làm sáng tỏ
các luận điểm lý thuyết, lý luận và bổ sung tư liệu cho việc nghiên cứu về đặc điểm
giới từ định vị không gian auf/ in (trên/ trong) theo các quan điểm của ngôn ngữ
học tri nhận. Ngoài ra luận án cũng tập trung nghiên cứu cặp giới từ định vị không
gian auf/in (trên/ trong) trong tiếng Đức so sánh đối chiếu với tiếng Việt.
Kết quả khảo sát về các đặc điểm ngữ nghĩa của giới từ tri nhận không gian
này góp phần giúp cho các nhà nghiên cứu có thêm luận chứng để đi sâu nghiên cứu
thêm về ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của chúng. Ngoài ra, luận án còn góp phần
khẳng định một trong những hướng đi mới của ngành ngôn ngữ hiện đại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Việc phân tích ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của giới từ định vị không gian
auf/ in (trên/ trong) có ý nghĩa thực tiễn vì nó giúp cho việc dạy và học giới từ này
hiệu quả hơn. Trong quá trình dạy và học tiếng Đức, có những sự nhầm lẫn mà
nhiều người chưa hiểu rõ nghĩa của chúng do có sự khác nhau về tri nhận không
gian giữa người bản ngữ và người Việt. Do đó, kết quả nghiên cứu của luận án góp
phần giúp người dạy và học sử dụng và hiểu dễ dàng hơn về nhóm giới từ này.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu đặc điểm giới từ định vị không gian trong tiếng
Đức so sánh đối chiếu với tiếng Việt sẽ giúp người học hiểu sâu và rõ hơn về những
sự tương đồng và khác biệt giữa chúng, cũng như đóng góp thêm một hướng nghiên
cứu mới với một màu sắc riêng về đặc điểm giới từ định vị không gian trong hai
ngôn ngữ.
8
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng cung cấp một khối ngữ liệu Đức – Việt
về giới từ này giúp ích cho công tác dịch thuật trong hai ngôn ngữ, việc biên soạn
tài liệu tham khảo, giáo trình, từ điển giải thích tiếng Việt hoặc từ điển đối chiếu
Đức - Việt và Việt - Đức cũng như có thể là đóng góp thêm ý kiến vào việc đổi mới
giáo trình phục vụ cho việc dạy và học giới từ auf/in nói riêng và tiếng Đức nói
chung.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội dung
nghiên cứu của luận án gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận
Chương 2. Đặc điểm ngữ nghĩa các giới từ chỉ không gian auf/ in trong tiếng Đức
đối chiếu với tiếng Việt.
Chương 3. Đối chiếu cơ sở tri nhận không gian của giới từ auf/ in trong tiếng Đức
với tiếng Việt
Chương 4. Khảo sát thực tiễn sử dụng các giới từ auf và in trong tác phẩm “Đo thế
giới” với bản dịch tiếng Việt.
9
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu nói chung trên thế giới về giới từ định vị không gian
Trong ngữ pháp, giới từ (tiếng Đức: Präposition) là một bộ phận lời
nói giới thiệu một giới ngữ. Một giới từ được đặt vào câu sẽ chỉ ra mối quan hệ giữa
những điều được đề cập trong câu ấy. Ví dụ, trong câu Die Katze schläft auf dem
Sofa (Con mèo ngủ trên ghế sofa), từ auf là một giới từ chỉ địa điểm, giới thiệu giới
ngữ “auf dem Sofa”. Trong tiếng Đức, các giới từ không gian được dùng phổ biến
như: in, an, auf, … Các giới từ chỉ không giann này được rất nhiều tác giả trên thế
giới nghiên cứu, theo A. Herskovits (1986), mỗi giới từ đều có một nghĩa lý tưởng
(ideal meaning), có tính hình học tồn tại trong một thế giới lý tưởng của các đường,
điểm, bề mặt và của các mối quan hệ như: bao hàm, tiếp xúc, giao nhau. Khi nói về
vị trí của giới từ thì Sommerfeldt/ Starke (1998) giải thích theo nghĩa khác: “Theo vị
trí của chúng, giới từ được xếp vào các nhóm khác nhau: giới từ luôn ở vị trí đứng
trước danh từ hoặc cụm từ như: in, an, auf, ...” [121], và “nhóm giới từ thường
đứng sau danh từ hoặc cụm từ như: zuliebe, zuwider, ... những giới từ vừa có thể
đứng trước vừa có thể đứng sau danh từ hoặc cụm từ là: nach, zu ...” [121]. Phân
loại từ loại về giới từ, chúng ta có thể tìm xem các tác giải như Wöllstein- Leisten,
A./ Heilmann, A./ Stepan, P./ Vikner, S. (2006) [145]; Musan, R. (2009) [114,
tr.16]; Pafel, J. (2011) [115]. Theo Helbig/ Buscha (2001) thì hầu hết giới từ thứ
yếu đi với thuộc cách hay sở hữu cách (Genitiv - chủ sở hữu của một vật hoặc trong
trường hợp danh từ đi kèm với những giới từ được quy định dùng với Genitiv), chỉ
rất ít đi với tặng cách (Dativ - tân ngữ gián tiếp, danh từ đi kèm với những giới từ
được quy định dùng với Dativ) hoặc đối cách (Tân ngữ trực tiếp, danh từ đi kèm với
những giới từ được quy định dùng với Akkusativ) [88, tr.353]. Trong tiếng Đức có
ba giống: đực (männlich/Maskulinum - der), cái (weiblich/Femininum - die) và
trung (sächlich/Neutrum - das). “Có 20 giới từ chính yếu, những giới từ này ngắn
có một đến hai hình vị và được sử dụng với tần số rất cao trong ngôn ngữ, trong khi
đó giới từ thứ yếu chỉ xuất hiện trong những cấu trúc tranh luận và xã hội phức
tạp” [142, tr.614]. Tác giả Wolfgang Boettcher (2009) cũng đề cập đến nguồn gốc
của giới từ, ông cho rằng “theo đó giới từ phát triển từ danh từ, động từ, trạng từ và
10
tính từ”. [143, tr.142]. Weinrich, H (2005) cho rằng “đối với những cách cụ thể thì
giới từ xuất hiện bằng cách đi kèm với mạo từ, trong một vài trường hợp thì nó có
thể được rút ngắn” [142, tr.614].
Khi đề cập đến giới từ chỉ không gian liên quan đến vấn đề tri nhận, ngôn
ngữ học tri nhận (Cognitive linguistic) trong những thập niên trở lại đây đã nổi lên
như một khuynh hướng ngôn ngữ học độc đáo, đầy triển vọng với những tên tuổi lớn
như Langacker, Fauconnier, Herskovits, Jackendoff, Lakoff, Talmy, Taylor,
Weizbicka. Năm 1957, Chomsky trong cuốn Các cấu trúc cú pháp (Syntactic
structures) đã kêu gọi ngôn ngữ học phải trở thành một bộ phận của khoa học tri nhận.
Các tác giả đã có những công trình viết về giới từ định vị không gian trong ngôn ngữ
học tri nhận.
Nhà ngữ pháp chức năng nổi tiếng Halliday [86] cho rằng “giới từ không
tách rời khỏi các từ loại khác mà luôn được xếp đặt, kết hợp, sử dụng trong tình
huống, ngữ cảnh, trong mối quan hệ tầng bậc gồm ngữ cảnh ngữ nghĩa, từ vựng-
ngữ pháp”.
Tiếp theo, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của Leech [106], Leech
và Svartvit [105] trình bày rất nhiều vấn đề liên quan đến giới từ chỉ không gian.
Hai tác giả đã chỉ ra một điều thú vị là việc lựa chọn một giới từ chỉ nơi chốn nào
đó phụ thuộc vào cái cách thức chúng ta nhìn sự vật theo các chiều không gian (một
chiều, hai chiều hay ba chiều).
Nghiên cứu chuyên sâu hơn về giới từ không gian, phải kể đến những công
nghiên cứu của Talmy [130], [134] và Herskovits [90], [91] chú trọng đến việc
miêu tả ý nghĩa và cách dùng của các giới từ không gian và các biểu đạt không gian,
cả từ góc nhìn ngôn ngữ và tri nhận. Talmy [130] nói đến các sơ đồ không gian (tức
là các kiểu hình học hóa) các đối tượng định vị, phân loại các thuộc tính không gian
thành các loại nhỏ hơn như: vật lý, hình học, tôpô, Talmy [134] thảo luận kỹ về
hình học của các vật thể trong mối quan hệ không gian và hình thành các phân loại
cấu trúc không gian của ngôn ngữ. Herskovits [90], [91] bàn về các vấn đề: các tình
huống, các nghĩa lý tưởng, các yếu tố ngữ dụng liên quan đến giới từ và các miêu tả
hình học của các vật thể trong các mối quan hệ không gian, trong đó hai cách thức
tri nhận và miêu tả không gian được gọi là hai cách nhìn cơ bản, chính tắc
11
(fundamental/canonical) và cách nhìn ý niệm hóa hình học (geometrical
conceptualization).
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về đặc điểm giới từ không
gian trong tiếng Anh như một số tác giả Brugman, Brenda, Svorou với các tác phẩm
như The Story of over (1988); The cognitive Perspective on the Polysemy of the
English Spatial Preposition Over (2014); The grammar of space (1994). Về sau
này, đáng chú ý là công trình nghiên cứu của Tyler and Evans (2003) trình bày một
phân tích lý thuyết cơ bản về ngữ nghĩa của giới từ tiếng Anh [140]. The Semantics
of English prepositions: Spatial senses, embodied meaning and cognition,
Cambridge University Press. Hoặc bản dịch Tyler, A & Evan, V. (2003), The
Semantics of English prepositions: Spatial senses, embodied meaning and
cognition, Cambridge University Press. (Bản dịch của Lâm Quang Đông và Nguyễn
Minh Hà. (2017), Ngữ nghĩa giới từ tiếng Anh: Khung cảnh không gian, nghĩa
nghiệm thân và tri nhận, Nxb ĐHQG.)
Hai tác giả Tyler and Evans cho rằng tất cả các giới từ trong tiếng Anh đều
được mã hoá trong các mối quan hệ không gian giữa hai thực thể vật lý. Ngoài
nghĩa gốc không gian của chúng, các giới từ còn có nhiều nghĩa khác không chỉ về
không gian, nhưng được gắn với sự tri nhận vật lý - không gian của con người. Các
tác giả nhấn mạnh đến một khái niệm rất quan trọng trong ngữ nghĩa của các giới từ
là “kịch cảnh không gian” (spatial scene) biểu hiện một quan hệ được ý niệm hóa (a
conceptualized relation) dựa trên sự tương tác và trải nghiệm không gian của các
thực thể. Các thực thể có quan hệ với nhau theo một cách thức hình thể - không gian
(spatio-configurational) nào đó.
Một trong những nghiên cứu gần đây nhất đó là nghiên cứu của Brenda [70]
cũng đã trình bày rất kỹ về mạng lưới nghĩa của giới từ không gian dựa trên các
nghĩa đã được Tyler và Evans [140] trình bày nhưng có sự phân tích kỹ hơn và so
sánh với các giới từ tương đương được sử dụng bởi người Ba Lan. Nghiên cứu cũng
đã cung cấp cho độc giả một cách nhìn rõ nét hơn về sự khác biệt trong tri nhận
không gian giữa người Anh và người Ba Lan.
Ngoài ra, Conventry và Garrod‟s [76] đã đóng góp thêm cho mảng nghiên
cứu này thông qua việc đưa ra các yếu tố để phân biệt các thành tố chức năng trong
các nghĩa không gian. Trong việc định vị trong không gian, việc xác định nghĩa
12
hình (Figure) và nền (Ground) rất quan trọng. Nó đóng vai trò xác định hệ quy
chiếu để định vị sự vật trong không gian.
1.1.2. Những nghiên cứu trong nước về giới từ định vị không gian trong tiếng Việt
Trong bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có một lớp từ thể hiện không gian. Chúng
phản ánh cách nhận thức về thế giới xung quanh của dân tộc nói thứ tiếng đó. Sự
nhận thức này liên quan đến đặt trưng văn hoá – tâm lý của họ. Trong khi nhận thức
về thế giới, trước hết là thế giới khách quan: con người luôn nhận biết các vật thể
trong không gian và trong thời gian. Do đó, không gian và thời gian là hai phạm trù
được đặc biệt chú ý nghiên cứu trong ngôn ngữ học.
Ngôn ngữ học truyền thống coi không gian và thời gian có vai trò như nhau,
do đó trong Việt ngữ học mới hình thành nên thuật ngữ “thời vị ngữ”. Thế nhưng
trong những năm gần đây các nhà ngôn ngữ đã có nhiều nghiên cứu về hai phạm trù
này và đã đi đến nhận xét rằng không gian có vai trò quan trọng hơn thời gian trong
việc tổ chức ngôn ngữ. Các hình ảnh trong thế giới được phản ánh qua ngôn ngữ
trước hết là sự phản ánh về sự nhận thức không gian rồi mới tới thời gian. Từ đó
trong ngôn ngữ học hiện đại hình thành nên một ngành khoa học mới gọi là khoa
học tri nhận. Điều này một lần nữa cho thấy không gian có vai trò rất quan trọng
trong ngôn ngữ. Và nó cũng là đối tượng được dùng để nghiên cứu của các ngành
khoa học khác như toán học, vật lý học, triết học…
Có thể nói lịch sử nghiên cứu về giới từ tiếng Việt được bắt nguồn từ khá
sớm nhưng vẫn còn ít công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu. Những nghiên
cứu ban đầu làm việc theo phương thức ngữ pháp dịch, cụ thể là đối chiếu với các
bản dịch tương ứng giữa các ngôn ngữ với tiếng Việt để phân loại giới từ. Và những
nghiên cứu này được nhóm các tác giả như Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm, Trần Trọng
Kim, ... đã làm trong suốt những năm đầu thế kỉ XX và là người đưa ra tên gọi “giới
từ” khi xác định chúng là “tiếng dùng để liên lạc”. Trong những nghiên cứu của các
tác giả như Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn đã dựa vào các đặc điểm từ vựng -
ngữ pháp của từ trong hoạt động ngôn ngữ để phân loại chúng nên đã khắc phục
được những nhược điểm của nhiều tác giả đi trước nghiên cứu về chúng. Theo
Nguyễn Kim Thản [39, tr.330] thì “giới từ là một loại hư từ (trong nhóm quan hệ
từ) có tác dụng nối liền từ phụ (hoặc từ tổ phụ) với từ chính (hoặc từ tổ chính) biểu
thị quan hệ ngữ pháp giữa hai đơn vị đó”.
13
Nhưng về sau này đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến giới từ
của một số tác giả như Nguyễn Lai (1990), Nguyễn Cảnh Hoa (2001), Lý Toàn
Thắng, Trần Quang Hải, Dương Kỳ Đức (2001) ... nghiên cứu sâu hơn đến phương
diện ngữ nghĩa của những giới từ. Tuy nhiên không một ai trong những tác giả này
nghiên cứu độc lập về giới từ và sử dụng chúng như là một đối tượng nghiên cứu
chủ đạo. Với Nguyễn Lai thì đối tượng mà ông quan tâm đến là nhóm từ chỉ hướng
vận động: “ra, vào, lên, xuống, qua, đến, đi, ...”. Còn với Lý Toàn Thắng lại là cơ
chế tri nhận không gian của người Việt và những đặc trưng của tri nhận không gian
trong định vị không gian.
Nguyễn Minh Thuyết (1986) khi bàn về vấn đề xác định hư từ trong
tiếng Việt cho rằng giới từ là một từ loại nằm trong hư từ chân chính, nó “(1)
không có ý nghĩa chân thực; (2) không có khả năng làm thành phần câu và khả
năng một mình làm nên một câu độc lập” [62, tr.39].
Ngoài ra, đi theo hướng nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận, chúng ta không
thể không kể đến tác giả Lý Toàn Thắng với một số công trình nghiên cứu tiêu biểu
về sự tri nhận không gian như luận án TSKH của tác giả (bằng tiếng Nga) với đề tài
“Mô hình không gian của thế giới: sự tri nhận, văn hoá và tâm lí học tộc người”
[51], từ luận án này, ông đã hoàn thành công trình nghiên cứu “Ngôn ngữ học tri
nhận: Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” [54] tiếp tục phân tích sâu về
các vấn đề liên quan đến sự tri nhận không gian, trong đó ông dành nhiều trang viết
về các từ “trên – trong”. Chú ý hơn nữa là, trong lần tái bản [55], ông đã dành gần
hết chương 8 để bàn về các ý niệm “trên - trong” và bình diện nghĩa của câu; và gần
đây ông còn có bài khảo sát riêng về Định vị không gian “trên - dưới” trong tiếng
Việt [56]. Nghiên cứu đã cung cấp cho người đọc một cách nhìn về ý niệm “trên”
trong tiếng Việt, khái niệm “định hướng tuyệt đối” và đặc điểm tri nhận trong cách
dùng từ định vị “trên”. Tác giả đã so sánh, đối chiếu tiếng Việt với các ngôn ngữ
khác như tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga và tiếng Pháp, để làm nổi bật lên nét đặc
thù trong sự định vị “trên” của tiếng Việt, tuy nhiên ông chưa đề cập đến từ “dưới”.
Tiếp đến là một nghiên cứu gần đây của Đinh Văn Đức [15] cũng đề cập đến
cách dùng của các giới từ chỉ địa điểm. Ông cũng cho rằng chỉ có người Việt mới
hiểu đúng được cách dùng thế nào là “trên” và “dưới” được minh họa trong các ví
dụ sau: Bóng đèn ở trên trần, Ngồi dưới đất. Ông cũng đưa ra thêm các ví dụ khác
14
về giới từ “trên”. Ví dụ câu “Trên bàn có cuốn sách” thì khác với câu “Trên vấn đề
này còn nhiều thắc mắc”. Ở đây, ông muốn minh chứng rõ ràng từ “trên” đã có
một sự chuyển dịch trong quá trình ý niệm hóa vì “trên bàn” là quy ước với một sự
vật cụ thể, còn “trên vấn đề” lại là một khái niệm trừ tượng. Giá trị tuyệt đối của từ
“trên” trong hai câu trên là giống nhau, đó là giá trị tuyệt đối của cái nghĩa ngữ
pháp, nó hình thức hóa bởi vị trí của giới từ ở trước danh từ. [15, tr.260].
Đáng chú ý hơn nữa là cuốn sách “Các bài giảng về từ pháp học tiếng
Việt” của tác giả Đinh Văn Đức [15], ông đã chỉ ra rằng các giới từ chỉ vị trí như:
“trên, dưới, trước, sau, trong, ngoài, cạnh, bên, …” (ở chương 7 về liên từ và giới
từ) là kết quả của quá trình tri nhận, ý niệm hóa và tạo nghĩa.
Ngoài ra, nói về đặc điểm giới từ chỉ không gian và thời gian, tác giả có thể
tìm thấy trong các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sỹ, báo cáo khoa học có đề tài liên
quan đến giới từ tiếng Đức như luận án của tác giả Lê Thị Lệ Thanh “Trường từ
vựng - ngữ nghĩa các từ ngữ biểu thị thời gian của tiếng Việt (trong sự so sánh với
tiếng Đức)” (2001). Liên quan đến đối chiếu về giới từ không gian trong tiếng Anh
và tiếng Việt, có luận án của Đặng Thị Hương Thảo “Ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận
của các giới từ định vị không gian theo chiều “trên-dưới” trong tiếng Anh, đối
chiếu với tiếng Việt.” (2019) ...
1.2. Một số lý thuyết về không gian trong ngôn ngữ học tri nhận
1.2.1. Khái niệm cơ bản về tri nhận và về không gian
Tri nhận (cognition) – là khái niệm trung tâm của khoa học tri nhận. Nó
chứa đựng hai nghĩa của những từ La Tinh kết hợp lại: cognitio có nghĩa là nhận
thức và cogitatio có nghĩa là tư duy, suy nghĩ và gọi chung là tri nhận (cognition).
Trần Văn Cơ [9] cho rằng tri nhận biểu hiện một quá trình nhận thức hoặc là tổng
thể những quá trình tâm lí (tinh thần, tư duy) – tri giác, phạm trù hoá, tư duy, lời nói
v.v… phục vụ cho việc xử lí và chế biến thông tin. Theo ông thì tri nhận là tất cả
những quá trình trong đó những dữ liệu cảm tính được сải biến khi truyền vào trong
não dưới dạng những biểu tượng tinh thần (hình ảnh, mệnh đề, khung, cảnh v.v.) để
có thể lưu lại trong trí nhớ con người.
Lý Toàn Thắng [57, tr.14] đã nhận xét: “Tri nhận được hiểu như là một quá
trình xử lí thông tin diễn ra trong tâm trí mỗi cá nhân con người. Khảo sát quá
trình đó tức là tìm hiểu xem những thông tin mà người tiếp nhận được trình bày, xử
15
lí và cải biến như thế nào trong những khả năng và quá trình tinh thần/tri nhận
khác nhau của con người, cũng như các quá trình tri nhận sử dụng các tri nhận
hiện hữu và tạo sinh các tri thức mới ra sao. Nói một cách khác, mục đích xử lí
thông tin, các hệ thống biểu hiện tri thức cũng như nghiên cứu những nguyên lí tổ
chức khả năng tri nhận của con người trong một cơ chế thống nhất và xác lập các
mối quan hệ qua lại giữa chúng”.
Ngoài ra, ông cũng nhấn mạnh: Đối với khoa học tri nhận, trên đại thể tri
nhận được hiểu như sau: đó là một hệ thống những khả năng và quá trình tinh thần
của con người liên quan tới tri thức như: tri giác, ngôn ngữ, chú ý, ký ức, suy lí,
quyết định, giải quyết vấn đề tư duy, học tập, đôi khi tùy theo tác giả, cũng có thể
kể thêm vào đây cả: cảm xúc là một cái mà bình thường ra tâm lí học vốn không coi
thuộc vào số các quá trình tinh thần/tri nhận.
N. Chomsky (1980) khẳng định rằng động từ tiếng Anh to cognize vừa biểu
hiện những hành động có mục đích, có ý thức, vừa biểu hiện những quá trình diễn
ra một cách vô thức. Đó là cơ sở để ông đối lập động từ to cognize “tri nhận” với
động từ to know “biết”.
Cấu trúc và quá trình tri nhận đã được các nhà tri nhận luận nghiên cứu dưới
nhiều dạng rất phong phú, chẳng hạn, dưới dạng những kiến tạo mô hình kiểu
khung (frame) của M. Minsky, kiểu cấu hình ứng dụng của Ch. Fillmore, kiểu mô
hình tri nhận lí tưởng của G. Lakoff, kiểu không gian tinh thần của R. Jackendoff,
kiểu siêu phạm trù ngữ nghĩa-ngữ pháp của L. Talmy hoặc kiểu bức tranh ngây thơ
về thế giới của Ju. Aprexian v.v…
Không gian là một mô hình mở rộng ba chiều không biên giới trong đó các
vật thể và sự kiện có vị trí và hướng tương đối với nhau. ... Theo quan điểm của
Isaac Newton thì không gian là tuyệt đối - theo nghĩa nó tồn tại vĩnh viễn và độc lập
với sự có mặt hay không của vật chất trong không gian. Không gian vật lý thường
được hiểu trong ba chiều tuyến tính, mặc dù các nhà vật lý thường xem nó, cùng với
thời gian, là một thực thể chung của continum bốn chiều không biên giới gọi là
không thời gian. Khái niệm không gian được coi là quan trọng cơ bản để hiểu các
tính chất vật lý và quá trình của vũ trụ. Tuy nhiên, vẫn có những tranh luận từ các
nhà triết học về liệu không gian là một thực thể, là mối liên hệ giữa các thực thể,
hay là một khái niệm định nghĩa trong khuôn khổ của ý thức.
16
Theo tác giả Frawley [84] thì khi nghiên cứu về không gian và cách biểu
hiện nó trong ngôn ngữ chúng ta cần hiểu rõ những khái niệm cơ bản như sau:
- Không gian là một khái niệm quan hệ;
- Không gian đó được tri nhận dựa trên những nhận thức kinh điển và ngây thơ
của chúng ta về thế giới.
Muốn nắm được và hiểu rõ hơn về các mối quan hệ trong không gian, chúng
ta cần phải biết đến khái niệm khung cảnh không gian. Các tác giả Tyler và Evans
[140, tr.28] đã đưa ra nhận xét như sau: “Như vậy, khung cảnh không gian và sự ý
niệm hóa khung cảnh không gian của chúng ta bao gồm các thực thể trên thế giới
có quan hệ với nhau theo những cách lặp đi lặp lại. Cái quan hệ được ý niệm hóa
phụ thuộc vào hiểu biết độc đáo của con người chúng ta cũng như trải nghiệm của
chúng ta về thế giới vật chất” và các tác giả cũng nêu rõ: “Khi một khung cảnh
không gian đã được kiến tạo, trong đó thực thể được ý niệm hóa là có quan hệ với
nhau theo những cách thức nhất định, sự ý niệm hóa này là có ý nghĩa; nó cung cấp
những khái niệm như sự nâng đỡ và sự bao chứa. Một khái niệm như sự nâng đỡ
xuất phát từ trải nghiệm không gian - vật lý; đến lượt nó, nó có thể được mở rộng
một cách có hệ thống sang các lĩnh vực phi không gian”. Nếu muốn giải thích các
nghĩa không gian và phi không gian thì chúng ta cần hiểu rõ khái niệm về không
gian cũng như khung cảnh không gian.
Ngoài ra, theo Maria và Elsa [112] chúng ta cũng cần phải nhắc tới không
gian tinh thần vì nó được kiến tạo nên bởi các khung và các mô hình tri nhận. Khi
chúng ta nghĩ và nói sẽ hình thành nên không gian tinh thần.
Khi xác định mối quan hệ trong không gian, chúng ta không chỉ xác định vị
trí tĩnh tại của chủ thể mà còn xác định cả quan hệ động của chủ thể khi chủ thể
chuyển động từ vị trí này đến vị trí khác. Để xác định rõ được mối quan hệ của chủ
thể trong không gian thì chúng ta cần xác định rõ vị trí không gian như là vị trí gốc
(xuất phát) hay là vị trí đích (cần hướng đến). Điều này được chứng minh qua mô
hình chia cắt không gian của Frawley [84] và mô hình tầng bậc quan hệ không gian
của Trujillo [139, tr.171].
Như vậy có thể nói rằng, những khái niệm và định nghĩa của các tác giả về
tri nhận và không gian là rất đa dạng, phong phú, có nhiều cách nhìn đa chiều về
không gian trong ngôn ngữ học tri nhận. Nhờ đó mà nhóm tác giả khi nghiên cứu về
17
đề tài đã dựa trên khung lý thuyết tri nhận và không gian của các tác giả đi trước để
làm tiền đề nghiên cứu cho luận án của mình.
1.2.2. Sự định vị và các đặc điểm định vị không gian trong ngôn ngữ học
Tác giả Levinson đã mở đầu cho phần tri nhận không gian trong khoa học tri
nhận như sau: “Nhân loại tư duy theo không gian” (Human beings think spatially).
Tác giả viết tiếp “Không có ngoại lệ - nhưng cũng không có bất kỳ sự hoài nghi nào
về một trong những trò lừa gạt cố hữu của sự tri nhận có tính nhân bản” [107, tr.
357]. Ở đây tác giả muốn nói đến như là một lời cảnh báo rất nghiêm túc vì khái
niệm không gian trong ngôn ngữ học là một cái gì đó rất khác với không gian vật lý
khách quan trong nhận thức khoa học, cũng như không gian chủ quan tồn tại trong
đầu óc con người với tính cách như là một chủ thể nhận thức về không gian.
Theo như Levinson đã viết “Không gian tuyệt đối là vô nghĩa, nó chỉ cần cho
chúng ta để bắt đầu bằng sự quy chiếu không gian đến một hệ thống của các trục
(đối xứng) được giới hạn một cách cố định cho cơ chế” (108, tr.5).
Cũng theo Stacey “Chúng ta trải nghiệm thế giới này bằng những cách thức
mà sự thành tạo sinh học của chúng ta đã xác định. Chúng ta được cho biết rằng có
một thế giới bên ngoài với những chi phối của các quy tắc vật lý, nhưng những gì
mà chúng ta trải nghiệm lại không nhất thiết là một thế giới có luật lệ về mọi
phương diện. Chúng ta được biết rằng có các nguyên tử, nhưng chúng ta chẳng bao
giờ nhìn thấy chúng, chúng ta được dạy rằng có trọng lực nhưng chúng ta chỉ thấy
có các quả táo rơi từ trên cây xuống, chúng ta được dạy rằng trái đất thì tròn và
chuyển động không ngừng, nhưng hình như là nó đứng yên và bằng phẳng dưới
chân ta; chúng ta được dạy rằng trái đất chuyển động quanh mặt trời, nhưng sáng
nào chúng ta cũng thấy mặt trời mọc lên từ đường chân trời, và tối nào cũng lặn
xuống, chẳng phải là trái đất chuyển động” [122, tr.8]. Cũng theo như những lời
trích dẫn từ công trình nghiên cứu The Grammar of Space (Ngữ pháp không gian)
của Svorou (1994) đã chỉ ra cho thấy một sự khác biệt lớn lao giữa không gian vật
lý và không gian nhận thức. Một cách tiên nghiệm, có thể nói rằng không gian trong
ngôn ngữ không phản ánh toàn bộ không gian nhận thức, mà là một sự phản ánh có
chọn lọc và chịu sự chi phối của hệ thống ngôn ngữ, đặc biệt là sự chi phối xuất
phát từ những khả năng hạn chế của ngôn ngữ.
18
Trong giao tiếp hàng ngày, con người trao đổi, giao tiếp với nhau về các sự
việc đồng thời cũng định vị chúng trong không gian, các diễn biến của các sự việc
được trao đổi cùng với các yếu tố cấu thành tạo nên chúng cũng như các đặc trưng
của chúng, ấn định thời gian cho chúng xuất hiện. Cũng theo Svorou (1994) thì mỗi
một biểu đạt định vị không gian có một mức độ minh bạch hay tường minh khác
nhau. Tính minh bạch tham gia vào các sự tình với những yếu tố được hình dung
khác nhau trong mối quan hệ với ý muốn của người nói. Tuy nhiên, các mức độ
minh bạch cũng phụ thuộc vào ý định giao tiếp của người nói, vào chính diện người
nghe và vào ngữ cảnh giao tiếp xung quanh mà họ đang tham dự. Theo tác giả Lê
Văn Thanh “Nếu người nói và người nghe cùng biết mốc trực chỉ “(tại) đây” và
“(trong) lúc này” và đang nói về các thực thể trong phạm vi ngữ cảnh ấy, họ có thể
sử dụng những cách diễn đạt có độ tường minh thấp (như: “(ở) đây, (ở) đó, (ở)
kia”), và như thế là đủ và thỏa đáng [48, tr.42]. Khi người nói và người nghe ít
nhiều có sự hiểu biết khác biệt về mốc trực chỉ thì thường xảy ra những cách diễn
đạt có độ tường minh cao.
1.2.3. Vị trí, hướng và các trục định vị không gian
Theo tác giả Frawley [84] thì có những vị trí phụ thuộc vào góc độ (vị trí)
của người nói, người nghe và có những vị trí mang tính độc lập riêng. Ông đã đưa
ra sự định vị có tính chia cắt không gian qua sơ đồ như sau:
Trong đó:
a. trùng, b. (bên) trong, c. (bên) ngoài, d. (bên) dưới, e. (bên) trên, f. (phía)
trước, g. (đằng) sau, h. (bên) cạnh.
Nhìn vào sơ đồ chúng ta thấy có tám vị trí và đây là những vị trí cơ bản
(được diễn giải chủ yếu từ tiếng Anh) và mang tính chất tĩnh tại. Hay nói đúng hơn
đây là tám kiểu dạng quan hệ định vị không gian chủ yếu của đối tượng định vị
(ĐTĐV) với đối tượng quy chiếu (ĐTQC) (trong đó X có quan hệ không gian với Y
theo kiểu dạng trên/ dưới, trong ...). Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy các vị trí
19
được phân bổ theo các trục được áp đặt một cách tri nhận vào ĐTQC với tư cách
như là một thực thể không gian ba chiều. Các vị trí (a, b, c) là những vị trí mang
tính tôpô, đứng độc lập khách quan. Bên cạnh khái niệm vị trí định vị không gian
thì còn có một khái niệm quan trọng cũng tham gia vào mối quan hệ định vị không
gian đó là “hướng”. Theo Frawley thì “Hướng cấu thành sự trải nghiệm không gian
của con người như là đường chuyển động và đường nhìn” [84, tr.24]. Một hướng có
thể cho là không gian. Lyons [111] đã đưa ra nhận xét rằng trong không gian nhận
thức, tồn tại ba hướng ưu tiên đến vị thế gồm các hướng như: hướng trên - dưới
(trục thẳng đứng), hướng trước - sau (trục thiên tuyến) và hướng phải - trái (trục đối
lập bên). Do vậy mà nhận xét của ông được nhiều người đồng tình, ủng hộ, xuất
phát từ những nguyên do mang tính nhân bản đó là lấy con người làm gốc rễ, làm
trung tâm như hai tác giả Becker và Carrol (1997) và những tác giả khác cũng từng
nêu rõ: “Hình dáng đứng thẳng của con người, sự phi cân xứng giữa phần trên và
phần dưới của cá thể và sự trải nghiệm các hệ quả của trọng lực cho phép nhận
biết chiều thẳng đứng. Chiều thiên tuyến có thể được phái sinh từ đường chuẩn của
chuyển động và đường nhìn và từ sự phi cân xứng của mặt trước và mặt sau của cơ
thể con người. Không có một sự phi cân xứng thị giác nào thuộc kiểu dạng đã nói
đối với trục bên ở trong tập quán phân chia trái và phải. Bên trái được xác định
theo phía trái tim theo đó con người là một ứng viên lý tưởng trong hệ thuật ngữ
hình học: một điểm không cho việc thiết lập một hệ thống nhân hình ba chiều của
các trục đồng hiện. Một hệ thống như vậy có thể áp dụng cho một đối tượng bất kì
nào ...” [68, tr.25]
1.2.4. Những quan điểm đa nghĩa về không gian trong ngôn ngữ học tri nhận
Theo hai tác giả Tyler và Evans [140, tr.37] đã đúc kết hai quan điểm để giải
thích quan hệ giữa các nghĩa khác biệt của các giới không gian: đồng âm và đơn
nghĩa. Với quan điểm đồng âm thì cho rằng các nghĩa gắn với một hình thức cụ thể
nào đó được lưu trữ đơn giản trong vốn từ vựng tinh thần với tư cách là các mục từ
đơn nhất. Từ đồng âm hay bị nhầm lẫn với từ nhiều nghĩa vì từ nhiều nghĩa là từ có
nhiều nghĩa khác nhau. Còn với quan điểm đơn nghĩa thì cho rằng có một nghĩa rất
trừu tượng duy nhất và các nghĩa khác chỉ là những biến thể theo ngữ cảnh. Tuy
nhiên, các tác giả cho rằng nếu dựa trên hai quan điểm trên để phân biệt các nghĩa
thì có thể không có lý giải thỏa đáng cho các nghĩa khác nhau. Do đó, tác giả đưa ra
20
một quan điểm khác là đa nghĩa có nguyên tắc nhằm hạn chế các nhược điểm của
hai quan điểm trên. Vì vậy dựa trên quan điểm này các tác giả đã đưa ra được
những lý giải cho việc các nghĩa của các giới từ có mối quan hệ với nhau một cách
hệ thống và có lý do.
Thêm nữa, quan điểm đa nghĩa cũng như cách thức xác định nghĩa riêng biệt
và nghĩa “nguyên thủy” của Tyler và Evans đã giúp cho việc phân tích các nghĩa trở
lên rõ ràng và hợp lý. Theo các tác giả thì chúng ta cần có tiêu chí để xác định nghĩa
“nguyên thủy”. Và sau khi phân tích các cách xác định nghĩa “nguyên thủy” của
các nhà nghiên cứu đi trước, các tác giả đã đưa ra hai loại bằng chứng để hạn chế
bớt tính võ đoán trong việc lựa chọn nghĩa “nguyên thủy” đó là: bằng chứng ngôn
ngữ và bằng chứng thực tế. Về bằng chứng về ngôn ngữ, các tác giả đưa ra 5 tiêu
chí như sau: (1) nghĩa được kiểm chứng sớm nhất, (2) chiếm ưu thế trong mạng ngữ
nghĩa, (3) sử dụng trong các dạng thức tổ hợp, (4) mối quan hệ với các giới từ
không gian khác, (5) dự đoán ngữ pháp.
1.2.5. Tri nhận nghiệm thân
Do bản chất cơ thể của mình, bao gồm cả kiến trúc giải phẫu thần kinh,
chúng ta có một cách nhìn riêng về thế giới. Nói cách khác, phân tích của chúng ta
về “hiện thực” được điều đình, ở mức độ lớn, bằng bản chất sự nghiệm thân của
chúng ta. Trí não của con người, thông qua những trải nghiệm hoặc có tính cá nhân
hoặc dựa vào hệ thống ý niệm của cộng đồng diễn ngôn, dung nạp, xử lý, lưu trữ,
phục hồi và cả truy xuất tri thức không hoàn toàn thụ động mà có tính tương tác
theo những phương thức tri nhận nhất định.
Tương tác dễ quan sát nhất là với chính cơ thể của con người, coi con người
là trung tâm, tất cả các sự tình đều xuất phát từ con người mà ngôn ngữ học gọi là
những trải nghiệm nghiệm thân. Trước hết, xuất phát từ thân xác con người (nghiệm
thân sinh lý). Thân xác - một thực thể gần gũi, nơi thu nhận thông tin đầu vào, nơi
khởi phát những ý niệm cụ thể nhưng tầm bao quát và ảnh hưởng của nó trong tri
nhận không chỉ có thế. Những trải nghiệm tinh thần như nhận thức, cảm xúc và cả
trải nghiệm vật chất như tư thế của con người tách biệt với mặt phẳng, vận động
trên mặt phẳng, đứng/ nằm; các hướng di chuyển như lên/ xuống, trước/ sau, phải /
trái; cách cảm nhận ở đây/ ở đó/ đằng kia, bây giờ/ sau này/ lúc đó/ lúc khác… của
con người đều có thể là nguồn gốc của sự phóng chiếu.
21
Tri nhận nghiệm thân không chỉ phụ thuộc vào thân thể mà còn cả sự tương
tác giữa con người với môi trường xung quanh (nghiệm thân (với) tự nhiên). Tại
đây, quá trình tương tác, chủ thể không thể không tác động đến môi trường tri nhận
và đến lượt nó, môi trường tri nhận không thể không ảnh hưởng ngược trở lại. Sự
hoạt động của trí óc con người là có cội rễ trong các cơ chế (được tiến hóa để tương
tác với môi trường xung quanh) như là các cơ chế về cảm giác, cảm xúc và sự vận
động. Chúng ta chỉ có thể nói về cái chúng ta có thể nhận thức và cảm nhận, và
những thứ mà chúng ta có thể nhận thức và thụ cảm phái sinh từ trải nghiệm được
nghiệm thân. Từ cách nhìn này, tư duy con người cần phải ảnh hưởng sâu đến trải
nghiệm được nghiệm thân. Về mặt này có thể xem tri nhận nghiệm thân như là sự
hồi âm giữa con người là chủ thể và môi trường.
Tiếp theo, là tương tác giữa những người này với người khác (nghiệm thân
xã hội), trong mối quan hệ liên nhân, trước hết là các ràng buộc gắn liền với tri thức
nền, với niềm tin, với những chia sẻ chung trong một nền văn hóa chủ đạo
(mainstream culture) nhưng không thể không kể đến còn có các giá trị của các văn
hóa nhóm (subculture).
Tác giả Lý Toàn Thắng [57, tr.16] đã đúc kết rằng các nhà ngôn ngữ học tri
nhận khi sử dụng thuật ngữ này thường nhấn mạnh một số phương diện như sau:
“Thứ nhất, tri nhận phụ thuộc vào nhiều thứ của kinh nghiệm do chỗ con
người có thân xác với nhiều khả năng cảm nhận- vận động. Những khả năng này tự
thân chúng ở mỗi cá nhân được “nghiệm thân” trong những bối cảnh bao quanh về
sinh học, tâm lí và văn hóa.
Thứ hai, mọi phương diện của tri nhận đều được tạo hình bởi các bình diện
của thân thể. Tri nhận nói ở đây bao gồm những phương diện khác nhau như: các
kết cấu tinh thần bậc cao (như ý niệm và phạm trù) và sự thực thi nhiệm vụ tri nhận
khác nhau (suy lí và phán đoán). Còn thân thể bao gồm các phương diện như thống
động (motor) và hệ thống tri giác, cũng như là sự tương tác của thân thể với môi
trường xung quanh”.
Có rất nhiều cách hiểu về “nghiệm thân” khác nhau, Johnson [96], Johnson
và Tim Rohrer [97] đã tổng kết có 12 cách hiểu khác nhau về khái niệm nghiệm
thân và dù là nghiệm thân hay trải nghiệm thân thể thì đều mang tính vật lí, tri nhận
và xã hội. Ngoài ra, tác giả cũng nhấn mạnh hai quan niệm phổ biến rộng rãi, đó là:
22
nghiệm thân là trải nghiệm chung và nghiệm thân như là cơ tầng mang tính thân
thể. Theo Brenda [70, tr.10], một trong những yếu tố quan trọng của ngôn ngữ học
tri nhận là khái niệm nghiệm thân vì nó nhấn mạnh vai trò trung tâm của thân thể
con người trong sự trải nghiệm về thế giới khách quan xung quanh chúng ta.
Hai tác giả Tyler và Evans [140, tr.32-35] cũng bàn về “thế giới vật chất của
sự trải nghiệm không gian có ý nghĩa như thế nào đối với con người chúng ta”. Với
mục đích đó, các ông đã đưa ra khái niệm “tương quan trải nghiệm” nhằm chứng
minh: “Những loại trải nghiệm có tương quan với nhau trong trải nghiệm của
chúng ta là hệ quả tất yếu của bản chất trải nghiệm của chúng ta hay nói cách khác
đây là sự tương tác giữa thế giới khách quan bên ngoài với cơ thể chúng ta. Thực
tế, đôi khi chúng ta tổ chức trải nghiệm của ta một cách vô thức nhưng chúng ta
vẫn bị ảnh hưởng lớn bởi chính những cái nguyên thủy nhất (với nghĩa là sớm nhất
và nền tảng nhất) đó là các trải nghiệm không gian và lực vật lý của chúng ta và là
những trải nghiệm mà hệ ý niệm của chúng ta dựa vào”. Điều này giúp chúng ta
giải thích sự khác biệt về cách sử dụng từ ngữ trong các ngôn ngữ.
Thêm một khái niệm nữa cũng được hai tác giả Tyler và Evans [140, tr.35]
nhắc đến đó là “tương đồng tri giác”. Theo các ông, tương đồng tri giác xác lập các
mối liên hệ giữa những ý niệm không dựa vào trải nghiệm đã có (như mối tương
quan), hay nói đúng hơn đó là kết quả của tổ chức và nhận thức. Thực tế, hai ý niệm
được nhận thức là giống nhau về một phương diện nào đó (như sự giống nhau về
vật lý nhận thức, hoặc nhận thức về những phẩm chất hoặc đặc điểm trừu tượng
chung) sẽ được gắn kết ở cấp độ ý niệm.
Tyler và Evans [140] đã dựa vào hai khái niệm trên là “tương quan trải
nghiệm” và “tương đồng tri giác” để giải thích các nghĩa của các giới từ trong
nghiên cứu của mình. Những khái niệm này cũng giúp chúng ta có thể hiểu và giải
thích rõ sự tương đồng cũng như sự khác biệt về tri nhận giữa các dân tộc mình.
Trên đây là một trong những nguyên lý chỉ đường của Nghĩa học Tri nhận và
là trái tim của nhiều nghiên cứu trong ngôn ngữ học tri nhận. Các học giả luôn kiên
định bảo vệ điều này gồm có Lakoff và Johnson (1980) trong các công trình của họ
bàn về ẩn dụ và lược đồ hình ảnh, Langacker (1987, 1991, 2008) trong sự phát triển
mô hình Ngữ pháp Tri nhận của ông, và Talmy (2000) trong những nghiên cứu sâu
23
của ông về cách thức ngôn ngữ mã hóa cấu trúc ý niệm và nghĩa học ý niệm
(Dương, 2016b).
1.2.6. Các mô hình của ngôn ngữ học tri nhận
Trong văn liệu ngôn ngữ học hiện thời, thuật ngữ Ngôn ngữ học Tri nhận
thường có hai cách hiểu: Thứ nhất, theo cách hiểu rộng, bất cứ cách tiếp cận nào coi
ngôn ngữ chủ yếu như một hiện tượng tinh thần, được định vị trong óc của những
người nói ngôn ngữ, đều có thể được coi là Ngôn ngữ học Tri nhận. Với cách hiểu
này, bất cứ nhà ngôn ngữ học nào nhấn mạnh các thuộc tính hình thức của ngôn
ngữ, hoặc cách dùng của chúng trong các ngôn cảnh tương tác, và thừa nhận những
thuộc tính này bắt nguồn một cách sau cùng từ cách hành xử của những người nói
cá nhân. Thứ hai, theo cách hiểu hẹp, thuật ngữ này tham chiếu đến một phong trào
vốn có gốc gác ở bờ Tây nước Mỹ vào những thập niên cuối của thế kỷ XX như là
sự phản ứng lại một số xu hướng về lý thuyết đang thịnh hành vào thời đó, ấy là
Ngữ pháp Sản sinh - Cải biến của Chomsky (2006).
Vì thế ngôn ngữ học tri nhận đã ứng dụng những mô hình khác nhau để lí
giải về những sự vật hiện tượng tồn tại và xảy ra ở thế giới xung quanh chúng ta.
Điều này cho thấy ngôn ngữ học tri nhận không chỉ khác ngôn ngữ học truyền thống
ở cách tiếp cận đối tượng mà còn cả ở hệ phương pháp. Chúng ta có thể kể đến các
mô hình của ngôn ngữ học tri nhận như: các mô hình về kí ức (gồm các “khung” và
các “miền”), “chú ý”, “tri giác” và “phạm trù hóa”.
Lý Toàn Thắng [57, tr.92-93], trong giới ngôn ngữ học tri nhận có những cách
phân loại khác nhau về các quá trình ý niệm hóa hay các thao tác thuyết giải; trong
số đó có hai sự phân loại đáng chú ý nhất, của Langacker [102] và Talmy [134].
Theo Langacker [102] có các loại quá trình ý niệm hóa mà ông gọi là những
“điều chỉnh tiêu điểm” bao gồm:
a. Lựa chọn (Selection)
b. Phối cảnh (Perspective)
Hình (Figure): là đối tượng chuyển động
Nền (Ground): thực thể hoặc những thực thể mà hình đang di chuyển liên quan đến
Chuyển động (Motion): sự hiện diện của chuyển động
Đường dẫn (Path): quỹ đạo của hình
Cách thức (manner): cách thức thực hiện chuyển động
24
Điểm nhìn (Viewpoint)
Chỉ xuất (Deixis)
Chủ quan (Subjectivity) / Khách quan (Objectivity).
Còn theo tác giả Talmy [134], có các loại quá trình ý niệm hóa mà ông gọi là
những “hệ thống tạo hình ảnh” hay “hệ thống sơ đồ”.
Sơ đồ hóa cấu trúc (Structural Schematization)
Phối cảnh (Deployment of Perspective)
Phân bổ Chú ý (Distribution of Attention)
Động lực (Force Dynamics)
Trừu tượng (Abstraction)
1.2.7. Ẩn dụ ý niệm và sự ý niệm hóa không gian
Ẩn dụ tri nhận (hay còn gọi là ẩn dụ ý niệm – cognitive/conceptual
metaphor) – đó là một trong những hình thức ý niệm hoá, một quá trình tri nhận biểu
hiện và hình thành những khái niệm mới và không có nó thì không thể nhận được tri
thức mới. Về nguồn gốc ẩn dụ tri nhận đáp ứng năng lực của con người nắm bắt và tạo
ra sự giống nhau giữa những cá thể và những lớp đối tượng khác nhau.
Với cách tiếp cận chung nhất ẩn dụ được xem như là cách nhìn một đối
tượng này thông qua một đối tượng khác, và với ý nghĩa đó ẩn dụ là một trong
những phương thức biểu tượng tri thức dưới dạng ngôn ngữ. Ẩn dụ thường có quan
hệ không phải với những đối tượng cô lập riêng lẻ, mà với những không gian tư duy
phức tạp (những miền kinh nghiệm cảm tính và xã hội). Trong quá trình nhận thức,
những không gian tư duy không thể quan sát trực tiếp này thông qua ẩn dụ xác lập
mối tương quan với những không gian tư duy đơn giản hơn hoặc với những không
gian tư duy có thể quan sát được cụ thể (chẳng hạn, cảm xúc của con người có thể
so sánh với lửa, các lĩnh vực kinh tế và chính trị có thể so sánh với các trò chơi, với
các cuộc thi thể thao v.v.) Trong những biểu tượng ẩn dụ tương tự diễn ra việc
chuyển ý niệm hoá không gian tư duy quan sát được sang không gian không quan
sát trực tiếp được. Đồng thời cùng một không gian tư duy có thể được biểu tượng
nhờ một hoặc một số ẩn dụ ý niệm.
Theo các tác giả Lakoff (1987); Lakoff, Johnson (1980); Langacker (1991)
thì có những loại ẩn dụ chính sau đây xác lập sự tương tự và liên tưởng giữa những
hệ thống khái niệm khác nhau và sinh ra những ẩn dụ riêng biệt như: Ẩn dụ cấu trúc
25
(structural) ý niệm hoá từng miền riêng lẻ bằng cách chuyển sang chúng sự cấu trúc
hoá một miền khác; Ẩn dụ bản thể (ontological) phạm trù hoá những bản thể trừu
tượng bằng cách vạch ranh giới của chúng trong không gian; Ẩn dụ “kênh liên lạc/
truyền thông tin” (conduit metaphor) là quá trình giao tiếp như sự vận động của
nghĩa “làm đầy” các biểu thức ngôn ngữ (vật chứa) theo “kênh” nối người nói và
người nghe; Ẩn dụ định hướng (orientational) liên quan đến việc định hướng trong
không gian với những đối lập kiểu như “lên - xuống”, “vào - ra”, “sâu - cạn”,
“trung tâm - ngoại vi” v.v; Ẩn dụ “container” (container metaphor) biểu tượng cho
những ý được hiểu như “sự làm đầy những container” - những đơn vị ngôn ngữ cụ
thể; Ẩn dụ “kiến tạo” (blockbuilding metaphor) biểu tượng ý của những sản phẩm
lời nói lớn như sự “kiến tạo” từ những ý nhỏ hơn.
Theo tác giả Lý Toàn Thắng [57, tr.100] “Trong các quá trình ý niệm hóa thì
ẩn dụ ý niệm có nhiều sự thú vị và hấp dẫn nhất, vì thế không phải ngẫu nhiên nó
lại được nghiên cứu đầu tiên và sâu sắc nhất trong các quá trình ý niệm hóa. Trong
ngôn ngữ học truyền thống, như chúng ta đã biết, ẩn dụ thường được coi là cách
thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai hiện tượng sự vật tương
đồng; là phép chuyển đổi nghĩa phổ biến nhất trong các ngôn ngữ. Ẩn dụ bao giờ
cũng mang tính quy ước do được tạo thành trong một cộng đồng văn hoá- ngôn ngữ
và được “từ vựng hoá” trong các hình thức từ ngữ. Ngôn ngữ học tri nhận xem ẩn
dụ ý niệm là các “công cụ tri nhận”, là “hiện tượng ý niệm”, và là các “quá trình ý
niệm”.
Tác giả Lý Toàn Thắng [57, tr.106-107] cũng cho rằng ẩn dụ là một một quá
trình tri nhận, một cơ chế tri nhận, bao gồm hai miền nguồn (Source) và đích
(Target), trong đó những thuộc tính của miền nguồn được “chiếu xạ” (ánh xạ,
phóng chiếu) lên miền đích. Như vậy, ẩn dụ ý niệm là một phương thức để ý niệm
hóa một miền tâm trí này (miền nguồn) qua một miền tâm trí khác (miền đích), hình
thành và biểu hiện những ý niệm mới, tri thức mới. Thông thường, các phạm trù ở
mô hình nguồn sẽ cụ thể hơn, các phạm trù ở mô hình đích sẽ trừu tượng hơn.
Tác giả Lý Toàn Thắng cũng nhấn mạnh: ngôn ngữ nào cũng có sự định
hướng không gian chỉ xuất liên quan đến người nói hay liên quan đến sự vật hiện
tượng xung quanh chúng ta, nhưng hệ thống và chiến lược của những sự định
hướng này thì có thể khác nhau Heine [87, tr.12-14]. Ngoài ra, tác giả cũng đúc kết
26
lại quan điểm của Svorou [125]: trong sự ý niệm hoá về định hướng không gian con
người chủ yếu sử dụng ba Miền Nguồn như sau:
Thứ nhất đối với các bộ phận cơ thể người (trong tư thế thẳng đứng chuẩn
tắc) là lĩnh vực quan trọng, thường dùng nhất; vì thế người ta thường nói rằng: sự ý
niệm hoá là dĩ nhân vi trung (anthropocentric).
Thứ hai là các vật mốc (Landmarks) của môi trường xung quanh, như “trời”,
“đất”, “phương”, “hướng” ... là lĩnh vực quan trọng thứ hai.
Thứ ba là các ý niệm động, bao gồm chủ yếu là các hoạt động và hành động
như “đi”, “về”, “đứng”, “ngồi”, “chạy”, “nhảy”, “lên”, “xuống” ... là lĩnh vực ít
được dùng hơn cả.
Ngoài ra cũng theo Lý Toàn Thắng [57, tr.123-125]: Trong những sự ý niệm
hoá thì đặc sắc nhất có lẽ là sự ý niệm hoá không gian và trong đó cụ thể hơn là cái
cách thức mà một sự định hướng không gian được ý niệm hoá cũng như những quá
trình ý niệm hoá diễn ra ở địa hạt này. Những cứ liệu mới sưu tầm được của các
ngôn ngữ trên thế giới cho thấy các mô hình tri nhận ở đây rất đa dạng và tương
đối về một phía, nhưng đồng thời lại cũng đồng nhất và phổ quát về một phía khác,
nhất là xét về phương diện những giải pháp lựa chọn cho sự ý niệm hoá không gian.
Với các lý thuyết trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các ý niệm cũng như ý
niệm hóa không gian trong ngôn ngữ học tri nhận. Từ đó, chúng ta có thể hiểu thêm
và nhận thức rõ được cái bản sắc, sự đặc thù trong cách nhìn, cách nghĩ về thế giới
nói chung, về các quá trình tinh thần/tri nhận của các dân tộc nói riêng.
1.2.8. Sự tri nhận không gian với “con người là trung tâm” vũ trụ
Từ xa xưa quan niệm coi con người là trung tâm đã trở thành cách nhìn, cách
nghĩ có sức hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà lý luận và các nhà
hoạt động chính trị - xã hội. Quan điểm này chính là thái độ đề cao vai trò chi phối,
quyết định của con người đối với xã hội, đối với thế giới (bên trong và bên ngoài
con người) và đối với vũ trụ. Đó là thái độ thừa nhận nguyên tắc "hoạt động cải tạo
không có giới hạn của con người".
Theo Trần Văn Cơ [9], mọi quá trình phạm trù hóa, điển dạng hóa, khuôn
mẫu hóa, biểu trưng hóa đều không thoát ra khỏi mối quan hệ của hoạt động tri
nhận trong mối quan hệ với con người mà là trung tâm của vũ trụ, hoạt động này
27
dựa trên một nguyên lí mang tính phương pháp luận chủ đạo là nguyên lí “dĩ nhân
vi trung”, dù trong bất cứ lĩnh vực nào thì con người vẫn đóng vai trò chủ đạo.
Còn tác giả Lý Toàn Thắng [55, tr.83-84] cho rằng vấn đề “con người” trong
sự tri nhận không gian có liên hệ sâu xa với ba phương diện như sau:
Thứ nhất, cấu tạo cơ thể người, trong đó dáng đứng thẳng là điểm xuất phát
của hệ tọa động không gian mà con người sử dụng để định vị và định hướng trong
không gian, với ba chiều “trước – sau”, “trên – dưới”, “phải – trái”. Điểm đáng chú
ý nhất là “trên – dưới” vì nó liên quan đến tư thế thẳng đứng của con người, theo
hướng từ đầu đến chân và theo hướng này (hướng sinh học) lại trùng với hướng vật
lí của sức hút trái đất (từ trên xuống).
Thứ hai, môi trường tự nhiên xung quanh con người, trong đó mặt đất đóng
vai trò của mặt phẳng góc, cố định trong hệ toạ độ không gian. Dưới tác động của
trọng lực và tư thế thẳng đứng mà con người có thể cảm nhận và ý thức được. Ví dụ
trời thì ở trên và đất thì ở dưới (trong khi đó nhiều ngôn ngữ chỉ dùng một từ để chỉ
hai khái niệm “trời” và “trên”, “đất” và “dưới”).
Thứ ba, các chuẩn mực và cách thức hoạt động của con người, trong đó đáng
chú ý nhất là khi giao tiếp con người thông thường đối diện nhau, còn khi vận động
thì con người di chuyển theo hướng nhìn của mắt, về phía trước. Sự định vị và định
hướng trong không gian thường được thực hiện trong một khoảng cách nhìn thấy
được và chủ yếu là ở trên mặt đất. Nhân tố này có vai trò rất quan trọng trong cách
dùng các từ chỉ không gian.
1.2.9. Những chiến lược định vị và định hướng trong không gian.
Những năm đầu của thế kỉ XX, E.Sapir đã từng nêu rằng có thể có “những
ngôn ngữ hoàn toàn không có quan hệ có thể cùng chung một văn hóa, và những
ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau - thậm chí một ngôn ngữ duy nhất - lại
thuộc vào những thế giới văn hóa khác nhau” [117, tr.263]. Điều này có nghĩa là
người nghiên cứu cần lưu ý thận trọng trong việc xử lý những vấn đề liên quan đến
bộ ba đó là: “Ngôn ngữ - văn hóa - nhận thức” khi cố gắng đi tìm kiếm những “nét
riêng biệt” hay nói cụ thể hơn chính là “lối nghĩ riêng”, “cách tư duy riêng” [53,
tr.159] của một dân tộc được phản ánh vào trong hệ thống ngôn ngữ thông qua quá
trình so sánh đối chiếu giữa các ngôn ngữ với nhau trong bản sắc văn hóa. Vì vậy có
thể nói rằng, ở phạm vi nghiên cứu định vị không gian, bất cứ nội dung nào thì
28
người ta cũng có thể tìm ra những nhân tố, những “nét riêng biệt” có tính tri nhận
theo những chiến lược và định hướng khác nhau.
Tác giả Lý Toàn Thắng [56, tr.62-63] đã nêu rằng: “Về nguyên tắc người ta
có thể sử dụng những chiến lược khác nhau để định vị, định hướng (cho mình hay
cho sự vật khác) trong một không gian nào đó và tuỳ ngôn ngữ mà một chiến lược
này hay một chiến lược khác có được vai trò quan trọng hay thứ yếu”. Ngoài ra,
ông cũng khẳng định là có hai chiến lược định vị định hướng không gian: một là
trực tiếp dựa vào quan hệ không gian giữa hai tham tố (kẻ định vị định hướng – kẻ
được định vị định hướng) và hai là gián tiếp thông qua quan hệ của một tham tố (kẻ
định vị định hướng) với một kẻ thứ ba tàng ẩn (không có tư cách là tham tố của sự
tình nơi chốn hay vận động) để xác định vị trí và phương hướng của tham tố còn lại
(kẻ được định vị định hướng).
Cũng theo Lý Toàn Thắng [55, tr.228] nhận xét rằng trong tiếng Việt có sử
dụng hai chiến lược định vị như sau:
Thứ nhất là chiến lược trực tiếp: trong đó vật X được quan niệm là ở TRÊN
vật Y, nếu X được định vị cao hơn Y trên trục thẳng đứng.
(1) Sách ở trên bàn [55]
Thứ hai là chiến lược gián tiếp: trong đó vật X được quan niệm là ở TRÊN
vật Y (mặc dù thực tế X có thể không được định vị cao hơn Y trên trục thẳng đứng),
nếu vị trí của X được chiếu theo hướng tuyệt đối của Y hoặc theo điểm nhìn của
người quan sát (thường là người nói).
(2) Đèn ở trên trần (nhà) [55]
1.3. Một số lý thuyết về giới từ trong tiếng Đức và tiếng Việt
1.3.1. Khái niệm “giới từ” trong tiếng Đức
Ludger Hoffmann cho rằng khái niệm “Präposition” (giới từ) bắt nguồn từ
tiếng Latinh, Prä- trong tiếng Đức có nghĩa là trước. [110, tr. 629] Theo đó, vị trí
của giới từ đã được giải thích. Giới từ thường đứng trước một từ, ví dụ đứng trước
danh từ “an der Tisch”, giới từ “an” đứng trước danh từ “der Tisch” và xác định đặc
tính ngữ pháp của các từ đó. Ngoài ra giới từ đứng trước một loại từ khác thể hiện
bản chất của ngữ pháp (cách 3 và cách 4). Thông qua giới từ thì mối tương quan của
hai đối tượng được thể hiện vì vậy có một tên gọi nữa là “từ chỉ quan hệ”. Còn
29
Hentschel, E./ Weydt, H. viết thông qua giới từ, mối quan hệ giữa hai yếu tố được
diễn đạt và do vậy giới từ có một tên khác là quan hệ từ. [89, tr.275].
Sommerfeldt/Starke cũng giải thích tương tự: Thuật ngữ “giới từ” (tiếng
Latinh praeponere “thêm vào trước”) liên quan đến việc thêm từ loại này vào trước
từ phụ thuộc thông thường” [121, tr.142].
Theo cấu trúc giới từ được chia thành hai loại: giới từ chính yếu và giới từ
thứ yếu. Giới từ chính yếu được dùng trong ngôn ngữ hiện đại không được phái
sinh hoặc kết hợp và thuộc từ loại tương đối đóng. Hầu hết giới từ của loại này đi
cùng với tặng cách hoặc đối cách, ví dụ: đi với cả hai cách: in, auf, hinter, tặng
cách: aus, bei, mit, đối cách: durch, gegen, ohne.
Tác giả Helbig/ Buscha cho rằng mối quan hệ chi phối thuộc các đặc điểm
quan trọng của giới từ, có nghĩa là “Giới từ cần có danh từ đi kèm (hoặc là đại danh
từ), danh từ phụ thuộc vào giới từ trong câu, thông thường đi với một cách nhất
định” [88, tr.357].
Các học giả bàn luận về giới từ trong tiếng Đức đều nhất trí xem giới từ là
một từ độc lập được dùng với danh từ, cụm danh từ hoặc đại từ, để biểu thị mối
quan hệ giữa những từ này với những từ khác trong câu. Tiếng Đức là ngôn ngữ
biến hình nhưng giới từ không bị biến đổi hình thái theo cách như danh từ, động từ,
tính từ... Tuy nhiên, chính giới từ xác định cách của đại từ hoặc danh từ đi kèm với
nó. Helbig/ Buscha cũng viết “Giới từ thường đứng trước danh từ hoặc đại từ và
đòi hỏi chúng biến đổi theo cách phù hợp để hình thành cụm giới từ” [88].
Việc phân loại các giới từ trong tiếng Đức dựa vào hai tiêu chí là ngữ nghĩa
và ngữ pháp. Phân loại theo ngữ nghĩa chỉ thuần túy phân thành các nhóm nhỏ theo
nội dung ý nghĩa, ít có tác dụng sử dụng. Cách phân loại theo ngữ pháp gắn liền với
phạm trù cách có ý nghĩa thiết thực, đặc biệt cho việc dạy và học tiếng Đức với tư
cách là một ngoại ngữ.
1.3.1.1. Phân loại giới từ trong tiếng Đức
a) Phân loại giới từ theo ngữ nghĩa
Theo hướng tiếp cận truyền thống, Hentschel, E./ Weydt, H phân chia các
giới từ tiếng Đức ra thành 7 nhóm dựa vào tiêu chí ngữ nghĩa gồm: giới từ chỉ mục
đích (um… willen), giới từ chỉ nguyên nhân (wegen, dank ...), giới từ chỉ điều kiện
30
(bei), giới từ chỉ tương phản (trotz), giới từ chỉ địa điểm (in, auf, neben …), giới từ
chỉ tình thái (mit, von) và giới từ chỉ thời gian (in, um, nach) [89].
Đi theo hướng phân loại này, Helbig, G./ Buscha, J nhận thấy rằng các giới
từ trong tiếng Đức đều có ngữ nghĩa riêng của nó và cần phải có sự phân loại chi
tiết hơn [88]. Cụ thể, các tác giả đã thống kê được 361 giới từ trong tiếng Đức với
các ý nghĩa cụ thể để tiến hành phân loại. Đây là một sự phân loại được xem là rất
chi tiết bởi ngoài các nhóm giới từ truyền thống, Helbig, G./ Buscha, J (2001) còn
chỉ ra các nhóm nhỏ hơn dựa vào ý nghĩa như: nghĩa trạng từ (entgegen, gegen,
wider), điểm mốc (für), phân chia (auf, für …), nghĩa liên tiếp (zu), nghĩa nối tiếp
(außer, neben), nghĩa giảm thiểu (ab), nghĩa thành phần (mit, von), nghĩa hạn định
(außer, ohne), nghĩa thay thế (anstelle, anstatt …), nghĩa sử dụng từ ngữ bóng bẩy
(aus, außerhalb, bei …), nghĩa khởi xướng (durch, seitens, von).
b) Phân loại giới từ theo ngữ pháp
Tiếng Đức là một ngôn ngữ biến hình, cụ thể là có 4 cách: cách 1
(Nominativ) là chủ cách làm chủ ngữ trong câu; cách 4 (Akkusativ) là đối cách làm
bổ ngữ trong câu; cách 3 (Dativ) là tặng cách làm bổ ngữ gián tiếp trong câu và
cách 2 (Genitiv) là sở hữu cách làm các thành phần khác trong câu.
Giới từ tiếng Đức đứng trước danh từ, đại từ, quán từ... và đòi hỏi những từ
sau nó theo các cách khác nhau, nhiều nhất là đòi hỏi cách 3 và cách 4 và cuối cùng
là cách 2. Căn cứ vào tiêu chí này, người ta chia giới từ thành hai cấp độ:
- Giới từ cấp độ 1: có cấu tạo đơn giản, thường đi cùng với cách 3 và cách 4.
Chúng còn được phân chia chi tiết hơn thành 3 nhóm: các giới từ chỉ đi với cách 4;
các giới từ chỉ đi với cách 3 và các giới từ đi với cả cách 4 và cách 3. Ví dụ như
cụm giới từ cố định như: in, auf, hinter, với Dativ như: aus, bei, mit, với Akkusativ:
durch, gegen, ohne...
- Giới từ cấp độ 2: phức tạp hơn được hình thành từ việc kết hợp giới từ với
danh từ và hình thành một từ mới. Ví dụ giới từ an đi với từ hand hình thành từ mới
là anhand, anstelle, ... hoặc những nhóm từ hình thành từ giới từ như: auf der Basis,
aus Anlass, ... Phần lớn những giới từ cấp độ 2 đi kèm với nó là cách 2, ít khi nó đi
với cách 3 và cách 4 [88].
Theo như trích dẫn phân chia cấp độ của Weinrich (2005) tồn tại 20 giới từ
cấp độ 1, chúng thường ngắn, từ một đến 2 âm tiết và xuất hiện với tần số cao trong
31
ngôn ngữ, trong khi giới từ cấp độ 2 thường phức tạp hơn. Theo Wolfgang
Boettcher, W. (2009) giới từ được hình thành từ động từ, danh từ, tính từ và trạng
từ. Đặc điểm quan trọng nhất của giới từ này là giới từ được đòi hỏi một danh từ
một cách nhất định. Ví dụ đi với giới từ này là cách 4, giới từ kia là cách 3. Vì thế
mà danh từ đi sau giới từ được quy định bởi giới từ và nó sẽ biến đổi theo cách 4, 3,
2. Theo Helbig/ Buscha (2001), Sommerfledt/ Starke (1998); Boettcher, W. (2009)
và Hentschel, E./ Weydt, H. (2003), giới từ có thể đứng cùng danh từ ở cách 4, cách
3 hoặc cách 2 như sau:
Thứ nhất là, giới từ với cách 4 (Akkusativ): bis, durch, für, gegen, je, ohne,
per, pro, um, wider.
Thứ hai là, giới từ với cách 3 (Dativ): aus, bei, binnen, dank, entgegen,
gegenüber, laut, gemäß, mit, nach, (mit) samt, seit, von, zu, zuliebe.
Thứ ba là, giới từ với cách 2 (Genitiv): abseits, anstatt, anstelle, aufgrund,
außerhalb, diesseits, inmitten, innerhalb, jenseits, kraft, oberhalb, seitens, trotz,
um … willen, unfern, ungeachtet, unterhalb, unweit, während, wegen, zugunsten.
(3) Trotz dem Rat des Vaters ging das Kind auf das Eis.
(Mặc lời khuyên của cha, cậu bé vẫn đi trượt băng)
Thứ tư là, đặc điểm nữa là giới từ không chỉ chỉ định về cách 2, 3, 4 mà còn
chỉ định về chức năng. Ví dụ: Nếu liên quan đến sự vật tĩnh trong phòng thì giới từ
là cách 3 (Dativ), nếu liên quan đến sự vật động mà thay đổi vị trí, không gian thì
giới từ là cách 4 (Akkusativ).
Thứ năm là, giới từ với cách 4 (Akkusativ), cách 3 (Dativ), cách 2 (Genitiv):
entlang.
(4) Den Fluss entlang gehen wir (Chúng tôi đi dọc theo sông)
(5) Die Kinder haben sich entlang der Straße aufgestellt.
(Những đứa trẻ xếp hàng/ đứng dọc theo đường).
(6) Entlang des Weges wuchsen alte Linden.
(Những cây bồ đề già mọc dọc đường)
Akkusativ đứng ở vị trí sau, nếu entlang đứng sau thì danh từ là Akkusativ,
còn entlang đứng trước thì danh từ là cách 3 (Dativ) hoặc cách 4 (Genitiv).
32
Thứ sáu là, những giới từ không có cách cố định trong vài trường hợp mà
không cần xác định cách của danh từ đó là cách nào. Trong một số văn phạm ngữ
pháp thì “als” và “wie” cũng là những giới từ không xác định.
(7) Ich arbeite als Lehrer. (Tôi làm việc như là một giáo viên)
Weinrich, H (2005) cho rằng đối với những cách cụ thể thì giới từ xuất hiện
bằng cách đi kèm với mạo từ, trong một vài trường hợp thì nó có thể được rút ngắn.
am = an dem, ans = an das, aufs = auf das,
beim = bei dem, durchs = durch das, fürs = für das,
gegens = gegen das, hinterm = hinter dem, hintern = hinter den,
hinters = hinter das, im = in dem, ins = in das,
überm = über dem, übern = über den, übers = über das,
ums = um das, unterm = unter dem, untern = unter den,
unters = unter das, vom = von dem, vorm = vor dem,
vors = vor das, zum = zu dem, zur = zu der.
1.3.1.2. Ngữ nghĩa của giới từ
Trong tiếng Đức, thông thường các giới từ được chia thành 3 loại như sau:
8 giới từ đi với cách 3 6 giới từ đi với cách 4 9 giới từ đi với cả cách 3
Dativ (Präpositionen mit Akkusativ Dativ lẫn cách 4
Dativ): ab, aus, bei, mit, (Präpositionen mit Akkusativ
nach, seit, von, zu. Akkusativ): durch, für, (Wechselpräpositionen): an,
gegen, ohne, um, bis. auf, in, vor, neben, hinter,
unter, über, zwischen.
Tuy nhiên, có một cách chia khác cũng rất quen thuộc đó là chia giới từ
thành từng nhóm theo ý nghĩa bản thân những giới từ đó. Chúng ta có 2 nhóm lớn,
đó là:
Lokale Präpositionen (Nhóm giới từ chỉ địa điểm)
Temporale Präpositionen (Nhóm giới từ chỉ thời gian)
a) Lokale Präpositionen (Giới từ chỉ địa điểm)
Nhóm giới từ này trả lời cho 3 câu hỏi: Wohin? (Đến đâu?), Wo? (Ở đâu?)
và Woher? (Từ đâu?) sử dụng với các giới từ như: nach, in, zu, an, auf, bei, aus,
von đi với các cách 3 và 4 (Dativ, Akkusativ).
33
b) Temporale Präpositionen (Giới từ chỉ thời gian)
Trước hết chúng ta sẽ nói về những giới từ chỉ từng đơn vị thời gian cụ thể
theo mức độ giảm dần tính theo cấp độ lớn đến nhỏ:
Với đơn vị thời gian là năm: Có 2 cách dùng
Không dùng giới từ: Dùng giới từ in đi kèm với Jahr:
(8) In 2015 lerne ich Deutsch (9) Im Jahr 2015 lerne ich Deutsch
(Tôi học tiếng Đức vào năm 2015) (Tôi học tiếng Đức vào năm 2017)
Đây là 2 cách dùng để chỉ năm phổ biến nhất. Ngoài ra, còn có một số cách viết
khác rất ít phổ biến, mà người học nên hạn chế dùng như: Im Jahre 2015, in 2015.
Với đơn vị thời gian là tháng và mùa: thì dùng giới từ in ở cách 3 (Dativ).
Vì các mùa hay các tháng đều mang giống đực, nên chúng ta sẽ dùng in dem = im
Xuân, hạ, thu, đông: Im Frühling, Sommer, Herbst, Winter (vào mùa xuân, mùa
hạ, mùa thu, mùa đông)
Tháng 1 đến tháng 12: Im Januar (vào tháng 1), ..., im Dezember (vào tháng 12).
Thứ Hai đến Chủ Nhật: Am Montag (vào thứ hai), am Sonntag (vào chủ nhật).
Các buổi sáng, sáng muộn, trƣa, chiều, tối: Am Morgen (vào buổi sáng), am
Vormittag (vào buổi sáng muộn), am Mittag (vào buổi trưa), am Nachmittag (vào
buổi chiều), am Abend (vào buổi tối).
Với đơn vị thời gian là giờ: Chúng ta dùng giới từ um ở cách 4 (Akkusativ)
(10) 9:00: Um 9 Uhr (vào lúc 9 giờ)
1.3.2. Khái niệm “giới từ” trong tiếng Việt
Nhiều nhà ngôn ngữ học Việt Nam cho rằng giới từ được xếp vào quan hệ từ,
là một từ loại riêng và được nghiên cứu song song với các loại từ khác như danh từ,
động từ, tính từ v.v ....
Không chỉ tập trung vào việc chỉ ra chức năng của giới từ, tác giả Nguyễn
Kim Thản làm rõ vị trí của giới từ trong hệ thống, cụ thể là giới từ là một loại hư từ
thuộc nhóm quan hệ từ. Ông cho rằng: “Giới từ là một loại hư từ (trong nhóm quan
hệ từ) có tác dụng nối liền từ phụ (hoặc từ tổ phụ) với từ chính (hoặc từ tổ chính)
biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa hai đơn vị đó” [39, tr. 330-347]. Ngoài ra, tác giả
cho rằng các từ “trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau” thuộc phạm trù “thời vị từ” vì
chúng “đứng trước danh từ, chúng và danh từ là đồng ngữ, có ý nghĩa ngữ pháp về
địa điểm, thời gian hay khối lượng, … và thành phần của câu (hay của từ tổ)”.
34
Nói đến giới từ, Diệp Quang Ban không gọi là “quan hệ từ” mà gọi từ loại
này là “kết từ”. Ông cũng phân chia kết từ thành hai lớp: lớp kết từ chính phụ (giới
từ) và lớp kết từ đẳng lập (liên từ). Tác giả quan niệm: “Kết từ chính phụ dùng để
nối kết thành tố phụ vào thành tố chính (nối kết từ phụ với từ chính, thành phần phụ
với thành phần chính của câu” [2, tr.137]. Ngoài ra ông [1] cũng cho rằng “Kết từ là
những hư từ dùng để liên kết các từ với nhau hoặc các vế trong câu” và “Trong
nhiều ngôn ngữ, kết từ được phân biệt rõ thành giới từ và liên từ”. Trên thực tế,
Diệp Quang Ban [1, tr.164] đã viết giới từ dùng để nối danh từ với thành tố chính
hoặc bổ ngữ gián tiếp của động từ với thành tố chính. Nhưng Nguyễn Lai lại xếp
giới từ vào nhóm từ chỉ hướng vận động [29].
Trong khi Diệp Quang Ban và Hoàng Hữu Thung [2] xếp giới từ vào nhóm
kết từ thì Bùi Đức Tịnh [60] cho rằng giới từ là tiếng dùng để chỉ sự tương quan ý
nghĩa giữa một tiếng và túc từ của nó.
Với Cao Xuân Hạo [20, tr.113] và đồng tác giả lại tách giới từ và liên từ ra
thành hai loại riêng biệt, giới từ được coi là “những từ được dùng để đánh dấu quan hệ
chính phụ, tức là cho biết ngữ đoạn đi sau nó là phụ (phụ của câu thì gọi là trạng ngữ,
phụ của ngữ danh từ thì gọi là định ngữ, phụ của ngữ vị từ thì gọi là bổ ngữ)”.
Còn tác giả Nguyễn Cảnh Hoa [23, tr.92-107] đã nhận định các tác giả
nghiên cứu về giới từ tiếng Việt chỉ đề cập đến một loại giới từ là giới từ đơn. Qua
đó tác giả cũng đã liệt kê một số giới từ đơn tiếng Việt phổ biến thông dụng như:
bằng, bởi, cho, của, cùng, do, dưới, đặng, để, đến, giữa, hòng, lại, lên, ngoài, nhằm,
nhờ, như, nơi, ở, qua, quanh, ra, sang, sau, tại, tận, theo, tới, trên, trong, trước, từ,
vào, về, vì, với, xuống.
Đinh Văn Đức [15, tr.250] định nghĩa giới từ như sau: “Giới từ trong ngôn
ngữ truyền thống, từ xa xưa đến hiện tại, vẫn được coi là những loại từ thuộc phạm
trù hư từ.” Theo ông, giới từ dùng để liên kết từ với từ. Khi nói đến giới từ, chúng
ta hiểu rằng ý nghĩa của giới từ không hình thành một cách dễ dàng từ thực từ như
nhiều người vẫn thường nghĩ. Giới từ là một công cụ biểu đạt cho một khía cạnh
logic. Giới từ, cũng như liên từ, là công cụ để liên kết các khái niệm trong tư duy
của con người, những khái niệm không phải chỉ là nghĩa, còn ngôn ngữ thì biểu
nghĩa chứ không trực tiếp biểu niệm. [15, tr.256-257].
35
Trong luận án tiến sĩ của Vũ Văn Thi (1995) đã mô tả thuật ngữ này, giới từ
kết nối các từ/ nhóm từ với nhau “Giới từ là một loại hư từ thuộc nhóm quan hệ từ,
có chức năng thể hiện mối quan hệ cú pháp giữa thành phần chính và thành phần
phụ trong câu” [61].
Tuy nhiên, giới từ trong tiếng Việt được phân biệt không rõ ràng với liên từ,
vì có “những quan hệ từ thuộc về giới từ và liên từ” mang chức năng của cả hai từ
loại, ví dụ: và, hay, nhưng, của, vì, nhờ, dù/ dầu. Và tác giả cho rằng điều này còn
phụ thuộc vào ngữ cảnh liệu rằng một từ mang chức năng là giới từ hay liên từ.
Khái niệm “giới từ” cũng nằm trong từ điển thuật ngữ ngôn ngữ. Ở đây ý
nghĩa của giới từ được các tác giả Đỗ Việt Hùng, Hà Quang Năng, Đặng Ngọc Lệ
và Nguyễn Như Ý (2001) giải thích: “Giới từ là biểu thị mối quan hệ của đối tượng
với đối tượng, hiện tượng, cảnh huống. Ý nghĩa này được biểu hiện không phải
bằng ý nghĩa từ vựng chân thật mà bằng đặc điểm hoạt động của chúng với tư cách
là các hư từ chỉ quan hệ” [25, tr.104]. Nguyễn Văn Thành cũng đưa ra định nghĩa
về giới từ như sau: “Giới từ là tiếng dùng để liên lạc một tiếng với tiếng túc từ của
nó”. [49]
Trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nguyễn Như Ý
định nghĩa về giới từ: “Giới từ - từ loại có ý nghĩa phạm trù đặc trưng là biểu thị
quan hệ của đối tượng với đối tượng, hiện tượng, cảnh huống. Ý nghĩa này được
biểu hiện không phải bằng ý nghĩa từ vựng chân thực mà bằng đặc điểm hoạt động
của chúng với tư cách là các hư từ chỉ quan hệ” [25]. Cũng nhấn mạnh vào chức
năng của giới từ, Phan Khôi quan niệm: “Giới từ dùng để giới thiệu danh từ hoặc
đại danh từ đến với động từ, danh từ hoặc đại danh từ khác để tỏ ra sự quan hệ
giữa chúng nó với nhau” [Phan Khôi 1997, tr.195]. Từ những quan điểm trên của
các nhà Việt ngữ học, có thể thấy rằng giới từ tiếng Việt, được hầu hết các nhà
nghiên cứu khẳng định sự tồn tại của nó. Giới từ tiếng Việt từng được gọi với nhiều
thuật ngữ khác nhau tương đương với, chẳng hạn “hư từ” hay “hư từ chân chính”
như Nguyễn Anh Quế (Hư từ trong tiếng Việt hiện đại), Nguyễn Minh Thuyết
(trong Thảo luận về vấn đề xác định hư từ trong tiếng Việt), “hư từ cú pháp” như
Đinh Văn Đức (trong Ngữ pháp tiếng Việt), Lê Biên (trong Từ loại tiếng Việt hiện
đại), hay “quan hệ từ” như Nguyễn Kim Thản (trong Lược sử ngôn ngữ học),
36
Nguyễn Hữu Quỳnh (trong Tiếng Việt hiện đại), “kết từ” như Diệp Quang Ban
(trong Một số vấn đề về câu tồn tại trong tiếng Việt).
1.3.3. Nghĩa của giới từ trong ngữ nghĩa học truyền thống và ngữ nghĩa học tri nhận
Trong cuộc sống hàng ngày từ xa xưa con người giao tiếp với nhau bằng
ngôn ngữ, ngôn ngữ rất đa dạng mang nhiều ngữ nghĩa khác nhau, nhưng ngôn ngữ,
dưới dạng tổng quát nhất, có thể được xác định nghĩa như là một “phương tiện giao
tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người”. Thông qua ngôn ngữ giúp con người
giao tiếp một cách dễ dàng, hiểu nhau và chính là một quá trình truyền tải thông tin
và nhận thông tin ngữ nghĩa.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về ngữ nghĩa học. Theo Lyons [111] “ngữ
nghĩa học là sự nghiên cứu nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp của ngôn ngữ tự nhiên”.
Các tác giả Evans và Green [83, tr.157] cũng đã nêu: ngữ nghĩa học tri nhận
giúp chúng ta khám phá bản chất của sự tương tác giữa con người với nhau và sự
hiểu biết của họ về thế giới bên ngoài. Từ đó, con người xây dựng lên một lý thuyết
về cấu trúc tri nhận phù hợp với những gì họ trải nghiệm. Hai tác giả cũng đã đưa ra
bốn nguyên lí chủ đạo của ngữ nghĩa học tri nhận: cấu trúc tri nhận có tính nghiệm
thân, cấu trúc của ngữ nghĩa là cấu trúc tri nhận, biểu hiện ý nghĩa có tính chất bách
khoa toàn thư và kết cấu ý nghĩa là sự ý niệm hóa. Khác với ngữ nghĩa học truyền
thống, nhiều nhà nghiên cứu ngữ nghĩa học tri nhận như: Croft và Cruse [77], Evans
[82], Lakoff [101] và Langacker [102] cho rằng nghĩa tồn tại trong đầu óc con
người. Ngoài ra một số nhà nghiên cứu khác cũng cho rằng, nghĩa của từ được xuất
phát từ trải nghiệm tri giác hàng ngày về những gì chúng ta nghe, nhìn, và cảm nhận
thấy từ thế giới xung quanh mình. Những khái niệm của chúng ta về thế giới xung
quanh được gọi là các mô hình tinh thần mà các mô hình này được xây dựng dựa
trên sự tiếp nhận, sự tưởng tượng, kiến thức và những trải nghiệm có thể được thay
đổi và cập nhật. [92], [100]
Còn Đỗ Hữu Châu thì cho rằng khó có được lời giải đáp nhất trí về thế nào là
“nghĩa” [5, tr.6]. Thay cho định nghĩa về “nghĩa”, tác giả đã phân lập cái gọi là
“nghĩa” thành các phương diện mà nghĩa học có thể hoặc phải quan tâm và chú ý
đến. Ngoài ra, Lý Toàn Thắng [57, tr.53] cũng đã đưa ra nhận định của Đỗ Hữu
Châu [4, tr.105-106] về ý nghĩa của từ như sau:
37
Ý nghĩa của từ là “tập hợp của một số thành phần ý nghĩa nhất định” trong
đó bao gồm: ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu niệm và ý nghĩa biểu thái.
“Sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan được phản ánh vào tư duy
thành các khái niệm, được phản ánh vào ngôn ngữ thành các ý nghĩa biểu vật và từ
các ý nghĩa biểu vật mà có được các ý nghĩa biểu niệm tương ứng”.
Theo tác giả Lý Toàn Thắng [57, tr.53] thì với ngữ nghĩa học tri nhận, từ có
nghĩa là vì nó biểu đạt cái ý niệm có trong tâm trí của con người chúng ta về một
thực thể nào đó. Ngoài ra, tác giả cũng nhận định như sau: “ngữ nghĩa học tri nhận
chú trọng và nhấn mạnh vai trò của tri giác, cái tri giác và hình ảnh trong hoạt
động tri nhận. Ý nghĩa liên đới với một biểu hiện tinh thần là ý niệm”.
Với Lê Quang Thiêm [58] thì “ngữ nghĩa học nghiên cứu nghĩa của các biểu
thức, các đơn vị của ngôn ngữ trong hệ thống cũng như những hoạt động hành
chức ở phương diện đồng đại cũng như trong tiến trình phát triển của ngôn ngữ”.
Từ những quan niệm trên cho thấy ý nghĩa của từ là do quan hệ phản ánh của
các thực thể thế giới khách quan ra bên ngoài. Đây cũng chính là điểm khác biệt
giữa ý nghĩa của từ trong ngôn ngữ học và ngôn ngữ học tri nhận.
Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy rõ quan niệm về nghĩa của từ trong ngữ
nghĩa học truyền thống và ngữ nghĩa học tri nhận là hoàn toàn khác nhau. Khi hiểu
và phân biệt rõ được sự khác biệt này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các khía cạnh
nghĩa của từ. Nếu như các nhà ngôn ngữ học phi tri nhận quan tâm tới nghĩa biểu
vật của từ thì các nhà ngôn ngữ tri nhận luận lại quan tâm tới ý niệm trong tâm trí
chúng ta về một thực thể nào đó tồn tại xung quanh con người.
1.3.4. Hệ thống các giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức và tiếng Việt
Hầu hết giới từ chỉ địa điểm đi với tặng cách. Theo mô hình của Schröder có sự
phân chia tiếp của giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại [120, tr. 26].
Hình 1: Mô hình khối lập phương
Xét về mặt nội dung ý nghĩa thì trong tiếng Đức có 9 giới từ chỉ không gian.
Nếu không gian được xem là một hình hộp tương ứng với một vật thể như trình bày
38
dưới đây là vật thể để đối chiếu, thì các giới từ như các vật thể khác có vị trí tương
quan với khối hình hộp tức vật thể đối chiếu này theo 3 trục a, b và c cùng với một
trục thứ tư d là vật thể nằm giữa hai vật thể đối chiếu khác. Các giới từ được thể
hiện về mặt không gian mang đặc điểm tĩnh và chuyển động như sau:
a) Trục a: trước/ sau
Trong tiếng Đức có hai giới từ sử dụng cho trục này:
- vor (trước) đi với một danh từ với nghĩa là vật thể đó tồn tại trước vật thể
được đối chiếu, ví dụ:
(11) Nun muss er vor dem Gericht stehen.
(Bây giờ nó phải đứng trước tòa).
- hinter (sau) đi với một danh từ với nghĩa là vật thể đó tồn tại sau vật thể
được đối chiếu, ví dụ:
(12) Er sitzt hinter dem Baum. (Nó ngồi sau cái cây).
Mối tương quan giữa vật thể đối chiếu với các vật thể đi với giới từ tương
quan với vật thể đối chiếu được trình bày như sơ đồ sau:
Hình 2: a. vor (trước) b. hinter (sau)
b) Trục b: trên/ dưới
Trong tiếng Đức có ba giới từ sử dụng cho trục này:
- unter (dưới) đi với một danh từ với nghĩa là vật thể đó tồn tại dưới vật thể
được đối chiếu, ví dụ:
(13) Unter dem Tisch sitz ein Hund. (Con chó ngồi dưới bàn).
- auf (trên sát bề mặt) đi với một danh từ với nghĩa là vật thể đó tồn tại trên
nhưng sát với vật thể được đối chiếu, ví dụ:
(14) Das Buch liegt auf dem Tisch. (Cuốn sách nằm trên bàn).
- über (trên cách bề mặt) đi với một danh từ với nghĩa là vật thể đó tồn tại
trên nhưng cách vật thể được đối chiếu một khoảng cách, ví dụ:
(15) Das Bild hängt über dem Tisch. (Bức tranh treo trên cái bàn).
Mối tương quan giữa vật thể đối chiếu với các vật thể đi với giới từ tương
quan với vật thể đối chiếu được trình bày như sơ đồ sau:
39
Hình 3: c. unter (dưới) d. auf (trên) e. über (trên, bên trên)
c) Trục c: trong/ ngoài
Trong tiếng Đức có ba giới từ sử dụng cho trục này:
- in (trong) đi với một danh từ với nghĩa là vật thể đó tồn tại bên trong vật
thể được đối chiếu, ví dụ:
(16) Er ist im Haus. (Nó đang ở trong nhà).
- an (sát cạnh) đi với một danh từ với nghĩa là vật thể đó tồn tại cạnh nhưng
sát với vật thể được đối chiếu, ví dụ:
(17) Der Stuhl steht an der Wand. (Ghế đặt sát tường).
- neben (cạnh nhưng cách một quãng) đi với một danh từ với nghĩa là vật thể
đó tồn tại bên cạnh nhưng cách vật thể được đối chiếu một khoảng cách, ví dụ:
(18) Er setzt sich neben mich. (Anh ấy ngồi xuống cạnh tôi).
Mối tương quan giữa vật thể đối chiếu với các vật thể đi với giới từ tương
quan với vật thể đối chiếu được trình bày như sơ đồ sau:
Hình 4: f. in (trong) g. an (sát cạnh) h. neben (cạnh)
d) Trục d: giữa (hai vật thể)
Trong tiếng Đức có một giới từ sử dụng cho trục này:
zwischen (nằm giữa) đi với hai danh từ với nghĩa là vật thể đó tồn tại nằm
giữa hai hay nhiều vật thể đối chiếu, ví dụ:
(19) Das Auto liegt zwischen den Bäumen. (chiếc ô tô nằm giữa hai cái cây)
Mối tương quan giữa vật thể đối chiếu với các vật thể đi với giới từ tương
quan với vật thể đối chiếu được trình bày như sơ đồ sau:
Hình 5: i. zwischen (giữa)
40
1.3.4.1. Giới từ “vor/ hinter” (trước/ sau) trong tiếng Đức
Để giải thích mối quan hệ địa điểm của giới từ “vor (trước)” và “hinter
(sau)” ta nên hiểu khái niệm “tầm nhìn” vì về nguồn gốc nó nói về hệ thống trước/
sau của con người. Benveniste cho rằng con người được coi như là cột mốc hay còn
gọi là thước đo cho sự hình thành ngôn ngữ và cột mốc hoặc thước đo này có thể
được nhìn thấy trong định hướng không gian. [54, tr.93]; [81, tr.194] “Tất cả các
điểm ngoài tòa nhà này trong phạm vi lối vào thuộc tầm nhìn của tòa nhà” [113,
tr.28]. Vor (trước) mô tả rằng một đối tượng đứng trong tầm nhìn của đối tượng
khác, trong khi đó hinter (sau) mô tả một đối tượng thấy ở mặt kia của tầm nhìn của
đối tượng khác.
(20) Die Garage ist hinter dem Haus.
(Nhà để xe ở sau ngôi nhà).
Trong diễn đạt này Garage (nhà để xe) được mô tả thông qua giới từ hinter
(sau) như là vị trí của mặt sau ngôi nhà.
(21) Der Baum steht vor dem Haus. (Cái cây đứng trước ngôi nhà). [81]
Ở đây “cái cây” có thể đảm nhiệm hai vị trí hoặc là ở mặt trước ngôi nhà hoặc giữa
ngôi nhà và người nhìn.
Mansour, M. A. (1988) cho rằng đối với những đối tượng mặt trước và mặt
(22)
sau không rõ ràng thì vor (trước) và hinter (sau) được hiểu theo từng hướng đối với
đối tượng tham chiếu. [113]
Sie sitzt hinter den Baum. (Cô ta ngồi dưới cái cây).
Trong phạm vi chuyển động, “vor” mô tả sự chuyển động trên hoặc ở mặt trước của
đối tượng. [88, tr. 368]
Hình 6: vor - trước cái bàn
(23) Stell den Schrank vor den Tisch! [88]
(Hãy đặt cái đèn đứng trước cái bàn!)
Đối với giới từ “hinter”, mục đích của sự chuyển động là mặt sau của đối
tượng [88, tr.375]. Khi sự chuyển động hướng đến mặt trước/ mặt sau của đối tượng
với khoảng cách nhỏ, mà không có đối tượng thứ ba giữa các đối tượng tham chiếu
thì mối quan hệ của các đối tượng tham chiếu được diễn đạt thông qua direkt
vor/direkt hinter (ngay trước/ ngay sau). [113, tr.116]
41
(24) Er stellt sich in der Schlange direkt hinter mich.
(Anh ta xếp hàng ngay sau tôi).
1.3.4.2. Giới từ “trước, sau” (vor, hinter) trong tiếng Việt
Giới từ “trước” đứng trước danh từ và đại từ nhân xưng và diễn tả một đối
tượng thấy ở mặt trước của đối tượng khác. Đối tượng tham chiếu có điều kiện là
phải xác định được đâu là mặt trước và mặt sau. Hướng chuyển động của con người
thông thường đi lên trước, do đó xác đinh được mặt trước và mặt sau của một
người. [54]
Mặt sau
(Hinteseite) Mặt trước
(Vorderseite)
Hình 7: trước - vor
(25) Trước mắt chúng tôi là biển cả. (Vor uns liegt das Meer)
Nhà được xác định mặt trước là mặt có cửa và hướng ra đường. Mặt khác mà được
xây song song với mặt trước được gọi là mặt sau.
Mặt trước
(Vorderseite) Mặt sau
(Hinteseite)
Cửa (Tur)
Hình 8: trước nhà - vor
(26) Chiếc ô tô đỗ trước nhà. (Das Auto wird vor dem Haus geparkt)
Dĩ nhiên không thể xác định mặt trước và mặt sau của tất cả các đồ vật.
Trong trường hợp này một đối tượng đứng “trước” hoặc “sau” một đối tượng
khác phụ thuộc vào mối quan hệ không gian giữa người nhìn, đối tượng tham chiếu
và đối tượng được định vị. Lý Toàn Thắng cho rằng người Việt Nam thường sử
dụng chiến lược “ego - facing - bản ngã đối mặt” để mô tả mối quan hệ không gian
“trước” và “sau” của đối tượng, có nghĩa là đối tượng mà ở gần người nhìn/người
nói hơn, thì đứng “trước” đối tượng khác. [54]
Hình 9: sau gốc cây - hinter
(27) Cậu bé đứng sau gốc cây (Der Junge steht hinter dem Baum)
42
Hình 10: trước gốc cây - vor
(28) Cậu bé đứng trước gốc cây (Der Junge steht vor dem Baum)
Giới từ trước /sau được sử dụng theo cách nhìn thông qua trên/dưới.[54]
(29) Ba lô trên lưng (Rucksack auf dem Rücken).
(30) Ba lô sau lưng. (Rucksack auf dem Rücken.)
(31) Huân chương trên ngực. (Medaille vor der Brust.)
(32) Huân chương trước ngực. (Medaille vor der Brust.)
Trong các ví dụ (29) và (31) lưng và ngực được coi là một mặt phẳng mà ta
có thể dựa những đồ vật vào. Cả hai bộ phận cơ thể đều thuộc phần trên của con
người do vậy theo nguyên tắc “hình thái tiêu chuẩn”, chúng ta sử dụng giới từ trên.
Ngược lại lưng và ngực trong ví dụ (30) và (32) như là các bộ phận của đối tượng
có mặt trước và mặt sau. Lưng là ở mặt sau của người nói và cần giới từ sau. Ngực
thuộc mặt trước của người nói và cần giới từ trước.
1.3.4.3. Giới từ “an/ auf/ über/” (trên), và “unter” (dưới) trong tiếng Đức
Giới từ “an” là một trong ba giới từ phổ biển nhất trong tiếng Đức [113
tr.80]. “An” mang nhiều chức năng và có nhiều cách sử dụng, diễn tả mối quan hệ
gần trực tiếp hoặc tiếp xúc hai vật thể hoặc một đối tượng ở một bên của một đối
tượng khác. [88, tr.363]
Hình 11: an - trên
(33) Das Bild hängt an der Wand (34) Peter steht an der Tafel [88]
(Bức tranh treo trên tường) (Peter đang đứng trên bảng )
Ví dụ (34) Peter đang đứng trên bảng không phải là đứng trên bề mặt chiếc bảng mà
có nghĩa là anh ta đang đứng cạnh bảng giống như trong tiếng Việt khi giáo viên
mời học sinh lên bảng làm bài.
Theo Weinrich, giới từ “an” cũng mô tả sự tiếp xúc không gian, sự tiếp xúc
này chỉ ra rằng các điều kiện không gian chặt chẽ được nói đến một hành động
[142, tr.624]: Ich warte dich am Hauptbahnhof/ am Strand/ an der Straβenrad...
43
(Tôi đợi bạn tại nhà ga/ tại bãi biển/ tại lề đường ...) Thông qua “an” một đối tượng
được xác định một vị trí của đối tượng khác với khoảng không giới hạn hoặc một
đường thẳng giới hạn. [113, tr.82]
Giới từ “an” mô tả chuyển động mà đi đến bên cạnh vị trí của đối tượng để
cuối cùng đạt được mối quan hệ “an” tĩnh tại. [88, tr.363]
Hình 12: an - vào tường
(35) Er schiebt den Schrank an die Wand. (Anh ta đẩy tủ vào tường.)
Theo Mansour, M. A. (1988) thì giới từ “an” diễn tả chuyển động đến bề mặt
của cơ thể. Trong trường hợp này “an” cần có sự tiếp xúc và sự tiếp xúc có thể được
giải thích ở bên dưới. [113, tr.143]
Hình 13: an - trên trần nhà
(36) Du soll die Lampe an die Decke hängen.
(Bạn nên treo cái đèn trên trần.)
Ở đây giới từ “an” mô tả chuyển động đến các đối tượng tuyến tính mà dẫn đến khu
vực gần trực tiếp. [88, tr.363]
(37) Wir fahren an den Strand. (Chúng tôi lái xe ra bãi biển.)
Đối với giới từ “auf”, Helbig/ Busch mô tả mối quan hệ thông qua giới từ
bằng hình ảnh sau [88, tr.364].
Hình 14: auf - trên bàn
(38) Das Buch (A) liegt auf dem Tisch (B).
(Quyển sách (A) nằm trên bàn (B).)
Ở đây ta khẳng định rằng hai đối tượng tham chiếu tiếp xúc với nhau [88,
tr.364]. Mặt đất được coi như là điểm nhìn để xác định vị trí của A và B với nhau.
Theo trục dọc xác định rằng đối tượng đứng trên mặt đất và “auf - trên” đối tượng
khác. [54, tr.166]. Cụ thể ở đây đối tượng A đứng trên mặt đất và đứng trên đối
tượng khác là B.
44
Ý nghĩa của über cũng phụ thuộc vào điểm nhìn và miêu tả vị trí cao hơn vị
trí đỉnh đầu [142, tr.637]. Tuy nhiên, über khác với auf là không có sự tiếp xúc của
đối tượng tham chiếu [81, tr.194]; [113, tr.58]. Helbig/ Buscha mô tả mối quan hệ
của đối tượng tham chiếu thông qua giới từ über như sau [88, tr.382]:
(39)
Hình 15: über - trên bàn
Das Bild hängt über dem Tisch. (Bức tranh treo trên bàn.) [88]
Ở đây ví dụ được diễn đạt thông qua giới từ “über” rằng “bức tranh” cao hơn “cái
bàn”. Schröder cho rằng “über” tạo ra một khoảng đi qua mà không được bỏ đi khi
chuyển động theo hình tròn. [113, tr.58]
Giới từ über cũng biểu thị hướng chuyển động từ dưới lên trên (phụ thuộc
vào động từ), trên khoảng không trung nhưng không có sự tiếp xúc với khu vực,
hoặc chạm đến vật liên quan [88, tr.382].
Hình 16: über - trên chiếc bàn
(40) Häng mal das Bild über den Tisch!
(Hãy treo bức tranh trên chiếc bàn!)
Ở đây từ treo mang nghĩa chuyển động, tuy nhiên giới từ “über” miêu tả sự
chuyển động với sự tiếp xúc có thể tưởng tượng được một vật bên trên một vật khác
nhưng không có sự tiếp xúc bề mặt vật này chạm vào vật kia. [113, tr.126]
Giới từ “unter” mô tả chính xác đối tượng của “über/auf” rằng một đối tượng
sâu hơn hoặc thấp hơn đối tượng khác là tham chiếu. Tuy nhiên không quan trọng
liệu có sự tiếp xúc giữa các đối tượng tham chiếu hay không. [113, tr.60]
Hình 17: unter - dưới bàn
(41) Unter dem Tisch sitzt ein Hund. (Con chó ngồi dưới bàn.) [113]
Hình 18: unter - dưới cốc
45
(42) Unter der Tasse liegt ein Zettel. (Tờ giấy nằm dưới chiếc cốc.) [113]
Đối tượng được định vị có thể bị bao phủ hoàn toàn và được hiểu như là “bảo vệ”
[142, tr.641].
Hình 19: unter - giữa những người bạn
(43) Ich stehe unter meinen Freunden. [142]
(Tôi đứng giữa những người bạn của tôi - tôi được bảo vệ xung quanh bởi họ.)
Ở đây không nói về mối quan hệ theo chiều dọc mà là mối quan hệ số lượng - yếu
tố thuần túy, điều này được xem xét ở giới từ “zwischen (ở giữa)”. [113, tr.60].
Trái ngược với giới từ “über”, giới từ “unter” mô tả sự chuyển động từ trên xuống
dưới và cũng không có sự tiếp xúc bề mặt giữa vật này với vật kia. [113, tr.384]
Hình 20: unter - dưới bàn
(44) Der Hund legt sich gemütlich unter den Tisch [113]
(Con chó nằm xuống dưới bàn một cách thoải mái)
1.3.4.4. Giới từ “trên, dưới” trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, giới từ trên thông thường theo sau động từ mà liên quan
đến sự tồn tại, như ở, sống, những động từ diễn tả trạng thái cơ thể như nằm, đứng,
cũng như động từ biểu thị hoạt động như làm việc/công tác, ... Giới từ trên mô tả
rằng một đối tượng cao hơn bề mặt cơ sở của đối tượng khác hoặc một vị trí (ví dụ
45), mà nhận thấy cao hơn vị trí đỉnh (ví dụ 46). [49, tr.681]
(45) Quyển sách nằm trên bàn. (Das Buch liegt auf dem Tisch.)
(46) Bức tranh treo trên tường. (Das Bild hängt an der Wand.)
Việc xác định trạng từ được tạo thành thông qua giới từ trên có thể đứng ở vị trí đầu
trong câu nếu có động từ có trong câu. [49, tr.681]
(47) Trên trời có đám mây xanh. [49]
(Im Himmel gibt es blaue Wolken.)
Giới từ dưới miêu tả các đối tượng hoặc hoạt động ngược lại mà ở dưới một
đối tượng khác. [49, tr.682]
(48) Chú chó con nằm dưới gầm bàn.
(Der kleine Hund liegt unter dem Tisch.)
46
Ngoài ra giới từ dưới được sử dụng khi một đối tượng được mô tả ở vị trí
thấp hơn rõ ràng vị trí của người nhìn hoặc người nói.
(49) Dưới sông này có nhiều cá lắm.
(In diesem Fluss gibt es sehr viele Fische.)
1.3.4.5. Giới từ “in” (trong) và “neben” (bên cạnh) trong tiếng Đức
Giới từ in diễn tả mối quan hệ bên trong được tạo ra thông qua một không
gian và đối tượng có trong không gian này [113, tr.96; 142, tr.632]. Vị trí bên trong
này được giải thích thông qua ví dụ sau.
(50) Die Orange liegt in der Hand. (Quả cam nằm trong tay.)
Với điều kiện là tay phải được nắm lại và quả cam nằm gọn trong lòng bàn
tay. Còn khi quả cam chỉ nằm trên bề mặt tay thì chúng ta sử dụng giới từ “auf”
thay vì sử dụng “in”.
Giới từ neben (bên cạnh) diễn đạt tính kế bên, có nghĩa là nói về chiều
ngang, ở đó sự đối diện nằm trung lập giữa các vị trí “phải” và “trái” [142, tr.636]
và được miêu tả theo hình ảnh sau đây bởi Helbig/ Buscha [88]:
Hình 21: neben - bên cạnh tủ
(51) Der Computer steht neben dem Schrank. [88]
(Cái máy tính đặt bên cạnh cái tủ.)
So với trục vor-hinter (trước – sau) ta có thể khẳng định rằng neben (bên cạnh) “mô
tả mối quan hệ của các đối tượng có thể thấy ở vị trí song song nhau” [113, tr.50].
(52) Dann sehe ich zwei Männer neben mir gehen. [113]
(Sau đó tôi nhìn thấy hai người đàn ông đi cạnh tôi.)
Ở một số trường hợp neben (bên cạnh) có thể thay bằng bei (cạnh), vì chúng
chỉ khác nhau ở một sắc thái nhỏ, điều này được làm rõ thông qua ví dụ sau.
[113, tr.50].
(53) Er saβ neben dem Lehrer. (Anh ấy ngồi gần thầy giáo) [113].
Hoặc Er saβ bei dem Lehrer. (Anh ấy ngồi cạnh thầy giáo)
Ngoài ra, giới từ neben diễn tả tính bên cạnh, tính gần bên để mô tả sự
chuyển động có mục đích ở bên phải hoặc trái của đối tượng được mô tả. [88,
tr.380; 142, tr.636].
47
Hình 22: neben- bên cạnh tôi
(54) Er setzt sich neben mich. (Anh ta ngồi bên cạnh tôi.)
Anh ta ngồi bên cạnh tôi có thể quay sang trái và quay sang phải, như vậy giới từ
neben diễn tả nghĩa kế bên nhưng vẫn có khoảng cách giữa hai đối tượng và mang
tính chuyển động theo phương hướng của người ngồi nói chuyện.
1.3.4.6. Giới từ “trong” và “bên/ cạnh/ bên cạnh/ gần/ sát” trong tiếng Việt
Giới từ “trong” diễn tả một đối tượng ở trong một đối tượng khác là một
không gian. Giới từ “trong” thường đi với các động từ mà không có sự chuyển
động, ví dụ: nằm, làm việc ... [49, tr.683]
(55) Cái váy xanh ở trong va li rồi nhé. [49]
(Das blaue Kleid ist schon im Koffer.)
Các động từ chuyển đổi địa điểm có thể xuất hiện trước giới từ trong, nếu
toàn bộ sự chuyển động diễn ra trong một không gian nhất định. [49, tr.683]
(56) Cậu bé chạy qua chạy lại trong căn phòng rộng lớn. [49]
(Im großen Raum läuft der Junge hin und her.)
Giới từ bên/ cạnh/ bên cạnh/ gần/ sát diễn tả một đối tượng ở gần một đối
tượng khác. Thông qua giới từ này câu mang tính văn học hơn. [49, tr.686]
(57) Thiếu nữ đứng bên hồ. [49]
(Die Jungfrau steht am See.)
(58) Anh sẽ luôn luôn bên em. [49]
(Ich werde immer bei dir sein.)
Giới từ cạnh mô tả một đối tượng này đứng/ngồi/nằm cạnh (sát bên) một đối
tượng khác và từ bên cạnh được coi là từ đồng nghĩa của cạnh. [49, tr.686]
(59) Anh ngồi cạnh em. [49] (Ich sitze bei dir.)
(60) Anh ngồi bên cạnh em. [49] (Ich sitze bei dir.)
Giới từ gần cũng diễn tả đối tượng được định vị gần bên cạnh đối tượng
tham chiếu. Tuy nhiên sự gần của các đối tượng được nhấn mạnh rằng chỉ có một
khoảng cách rất nhỏ giữa các đối tượng được định vị và đối tượng tham chiếu. [49]
(61) Anh thích ngồi gần em. [49] (Ich sitze gern neben dir.)
48
Giới từ sát là sự tiếp xúc giữa đối tượng được định vị và đối tượng tham
chiếu. Thông qua đặc điểm này giới từ “sát” được phân biệt với các giới từ khác
trong nhóm.
(62) Đứa bé nằm sát mép giường. [49]
(Das Baby liegt am Rand des Bettes.)
1.3.4.7. Giới từ “zwischen” (ở giữa) trong tiếng Đức
Theo Mansour, M. A. (1988) thì “zwischen diễn đạt rằng một đối tượng ở
trên một tuyến đường mà điểm cuối được giới hạn bởi hai (hoặc) nhiều đối tượng.
Các đối tượng tham chiếu được kết nối với nhau thông qua một trục” [113, tr.72].
Còn Weinrich đặt tên ý nghĩa của giới từ “zwischen” là “Spanne – Khoảng cách”.
[142, tr.646]
Helbig/ Buscha (2001) xác định vị trí đối tượng được định vị liên quan đến
đối tượng khác thông qua hình sau [88, tr.389].
Hình 23: zwischen - ở giữa bố và con trai
(63) Das Problem liegt zwischen dem Vater und dem Sohn. [88]
(Vấn đề nằm ở giữa bố và con trai - có khoảng cách ở giữa họ.)
Giới từ zwischen giải thích rằng sự chuyển động được tạo ra ở vị trí giữa hai người
hoặc vật để cuối cùng mối quan hệ giữa tĩnh tại đạt được ở cuối. [88, tr.390]
Hình 24: zwischen - giữa đèn và máy tính
(64) Ich stelle das Handy zwischen die Lampe und den Computer. [88]
(Tôi đặt điện thoại giữa đèn và máy tính.)
(65) Er parkt das Auto zwischen die Bäume. [113]
(Anh ấy đỗ ô tô giữa những cái cây.)
1.3.4.8. Giới từ “giữa” (zwischen) trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt giới từ “giữa” diễn tả một đối tượng ở bên trong một đối
tượng khác hoặc một không gian mà có hai/nhiều đối tượng. [49, tr.685]
(66) Cậu bé đứng giữa hình tròn. (Der Junge steht inmitten des Kreises.)
49
(67) Cậu bé bơi giữa hồ. (Der Junge schwimmt im See.)
(68) Cậu bé đứng (ngay) giữa đường. (Der Junge steht auf der Straße.)
(69) Cậu bé nằm giữa bố mẹ. (Der Junge liegt zwischen seinen Eltern.)
(70) Cậu bé đứng giữa đám bạn mình. (Der Junge steht unter seinen Freunden.)
Trong ba ví dụ (66), (67), (68) đối tượng được định vị ở bên trong không
gian của đối tượng tham chiếu, nhưng được miêu tả trong mỗi tình huống có ý
nghĩa khác. Trong ví dụ (66) từ giữa không miêu tả rằng đối tượng được định vị
đứng trong phạm vi của đối tượng liên quan mà vị trí của đối tượng được định vị
được xác định chính xác, cụ thể ở giữa đối tượng tham chiếu. Khi đối tượng tham
chiếu quá lớn để định vị điểm giữa, ví dụ như biển, sông, thành phố ... thì giữa được
sử dụng để mô tả rằng đối tượng được định vị quá xa với bờ hoặc viền hồ của đối
tượng tham chiếu (67). Phân tích ví dụ (68) chỉ cho chúng ta thấy sắc thái ý nghĩa
khác được diễn đạt thông qua giới từ “giữa”. Các diễn đạt bằng giới từ giữa hiếm
gặp trong tiếng Việt: ngồi giữa chợ, nằm giữa nhà, đứng giữa lối đi ...
Trong ví dụ (69) đối tượng được định vị ở giữa hai đối tượng tham chiếu và
mô tả mối quan hệ tuyến tính, trong khi đó sự định vị bằng giới từ giữa trong ví dụ
(70) không theo một trục nào cả.
Trên đây là những giới từ không gian trong tiếng Đức và tiếng Việt mà tác
giả muốn hệ thống nêu lên những đặc điểm chung giúp người học hiểu cơ bản về
cách dùng và nghĩa của chúng khi học tiếng Đức. Và trong luận án này tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu hai giới từ “auf/in” trong tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt.
1.4. Một số cơ sở lý luận về ngôn ngữ học đối chiếu
1.4.1. Khái niệm ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu
Trong nhiều nghĩa thường dùng, hai từ “so sánh” và “đối chiếu” không khác
nhau nhiều về ý nghĩa. “So sánh” là để xem xét tìm ra những điểm giống, tương tự,
hoặc khác biệt nhau về mặt số lượng, kích thước và phẩm chất.
“Đối chiếu” là so sánh hai sự vật có liên quan chặt chẽ với nhau. Thuật ngữ
so sánh, đối chiếu thường được dùng để chỉ phương pháp hoặc phân ngành nghiên cứu
lấy đối tượng chủ yếu là hai hay nhiều ngôn ngữ. Mục đích của nghiên cứu là làm sáng
tỏ những nét giống nhau và khác nhau giữa hai hay nhiều ngôn ngữ được đưa ra so
sánh, đối chiếu. Nguyên tắc nghiên cứu chủ yếu là nguyên tắc đồng đại. [24]
50
Như chúng ta đã biết, Ngôn ngữ học là ngành khoa học ngiên cứu về ngôn
ngữ học chung và ngôn ngữ cụ thể nói riêng. Ngôn ngữ học đối chiếu là một phân
môn của ngôn ngữ học ưu tiên sử dụng phương pháp đối chiếu để đối chiếu các
ngôn ngữ với nhau để tìm ra sự giống và khác nhau giữa chúng nhằm phục vụ cho
những mục đích lý luận và thực tiễn.
Trong ngôn ngữ học, các phương pháp so sánh - đối chiếu; miêu tả, phân
tích, thu thập và thủ pháp thống kê phân loại được xem là ba phương pháp quan
trọng và phổ biến nhất. Bản thân một ngôn ngữ đã là một hệ thống gồm các yếu tố
(đơn vị) cùng loại, khác loại tạo thành. Muốn tìm được bản chất của nó người ta
buộc phải phân loại các yếu tố cấu thành; so sánh và miêu tả các yếu tố cùng các
mối quan hệ giữa chúng. Trong phạm vi rộng hơn, các ngôn ngữ trên thế giới là vô
cùng lớn (khoảng 5000). Chính những khối lượng tư liệu ngôn ngữ đa dạng, phong
phú của mỗi chủng tộc và trên toàn thế giới là động lực cho phương pháp so sánh -
đối chiếu phát triển và dần trở thành một bộ môn khoa học độc lập trong ngôn ngữ
học.
Trong ngôn ngữ học Anh, lúc đầu người ta dùng phổ biến thuật ngữ so sánh
(comparative) để chỉ ngôn ngữ học so sánh (comparative linguistics) trong nghĩa
rộng và nghĩa hẹp của từ này; dần dần về sau, thuật ngữ so sánh cũng được dùng để
chỉ cả nội dung đối chiếu, và cho đến gần đây, thuật ngữ ngôn ngữ học đối chiếu
(contrastive linguistics) mới được dùng với nghĩa của nó một cách phổ biến, tức là
chỉ một phân ngành nghiên cứu riêng – nghiên cứu đối chiếu. Ngôn ngữ học đối
chiếu ở Mĩ ban đầu cũng dùng thuật ngữ comparative – comparison với nội dung
đối chiếu; từ 1960 trở lại đây, thuật ngữ contrastive linguistics được dùng phổ biến
hơn. [58, tr.37-38]
Ở Việt Nam, có các công trình nghiên cứu đối chiếu giữa các ngôn ngữ như
Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ của tác giả Lê Quang Thiêm và Ngôn ngữ học
đối chiếu của tác giả Bùi Mạnh Hùng. Tác giả Lê Quang Thiêm cho rằng, nghiên
cứu đối chiếu ra đời là từ yêu cầu giảng dạy và học tập ngoại ngữ, và kết quả nghiên
cứu sẽ phục vụ tốt hơn cho quá trình đó. Bên cạnh đó, ngôn ngữ học đối chiếu giúp
ích rất nhiều cho lí luận ngôn ngữ học và giải quyết những vấn đề đang đặt ra của lí
luận ngôn ngữ học như: vấn đề phổ niệm, ngữ pháp phổ quát, đặc trưng học, loại
hình học, … [58, tr.44-45].
51
1.4.2. Các bình diện đối chiếu ngôn ngữ
Theo tác giả Bùi Mạnh Hùng, ngôn ngữ học bao gồm nhiều phân ngành với
nhiều cách phân chia khác nhau, phổ biến nhất gồm ba phân ngành lớn dựa trên sự
phân biệt ba cách tiếp cận ngôn ngữ chủ yếu sau:
Thứ nhất, ngôn ngữ được tiếp cận như là hiện tượng của nhân loại nói chung.
Theo cách đó, ngôn ngữ học có nhiệm vụ nghiên cứu tất cả các ngôn ngữ trên thế
giới nhằm làm rõ những vấn đề triết học ngôn ngữ như bản chất, chức năng của
ngôn ngữ và qua cứ liệu của hàng loạt các ngôn ngữ khác nhau, xác lập hệ thống
các phổ niệm ngôn ngữ và xây dựng bộ máy các khái niệm, phạm trù làm công cụ
nghiên cứu các ngôn ngữ cụ thể. Đó là cách tiếp cận của lĩnh vực quen thuộc gọi là
ngôn ngữ đại cương.
Thứ hai, ngôn ngữ được nghiên cứu như là sản phẩm của từng cộng đồng
người riêng biệt. Theo cách đó, ngôn ngữ học có nhiệm vụ miêu tả từng ngôn ngữ
cụ thể để làm rõ đặc điểm của ngôn ngữ được nghiên cứu. Cách tiếp cận này có thể
coi là của ngôn ngữ học miêu tả.
Thứ ba, các ngôn ngữ của những cộng đồng người khác nhau được so sánh
với nhau. Sự tiếp cận đối tượng theo cách này được xếp vào lĩnh vực ngôn ngữ học
so sánh. [24, tr.7]
Theo Bùi Mạnh Hùng, khi đối chiếu các ngôn ngữ thì phải tuân theo những
nguyên tắc nào và vấn đề các bình diện đối chiếu ngôn ngữ là gì. Việc nghiên cứu
đối chiếu ngôn ngữ có thể thực hiện ở tất cả các bình diện khác nhau hay còn gọi là
đối tượng đối chiếu bao gồm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; ở tất cả các đơn vị thuộc
các cấp độ khác nhau của cấu trúc ngôn ngữ như âm vị, hình vị, từ và các đơn vị của
lời nói như ngữ đoạn và câu.
Ông cho rằng, ngôn ngữ học đối chiếu ngày càng thu hút được nhiều sự quan
tâm của giới nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ, đặc biệt là những người giảng dạy
ngoại ngữ, sự quan tâm này xuất phát từ những nỗ lực vượt khỏi cái khuôn khổ
thuần túy thực hành tiếng để hướng đến việc dạy tiếng có hiệu quả và có chiều sâu
hơn trên cơ sở nghiên cứu những điểm giống nhau và khác nhau giữa tiếng Việt và
các ngoại ngữ mà họ giảng dạy [24, tr.27]. Ngôn ngữ học đối chiếu không những
được ứng dụng nhiều vào lĩnh vực giảng dạy và học tập ngoại ngữ mà còn được ứng
dụng vào các lĩnh vực khác của ngôn ngữ học đối chiếu như giáo dục song ngữ,
dịch thuật và nghiên cứu về lí luận dịch thuật [24, tr.84-85].
52
Bằng nghiên cứu đối chiếu, mục đích cuối cùng của luận án chính là tìm ra,
xác định rõ và nhận diện những điểm giống nhau và khác nhau về ngữ nghĩa được
thể hiện qua một số giới từ không gian trong tiếng Đức và các tương đương trong
tiếng Việt theo cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận.
1.4.3. Về nghiên cứu đối chiếu ngữ nghĩa và tương đương về ngữ nghĩa của từ
giữa các ngôn ngữ
Tác giả Lê Quang Thiêm cho rằng, nghiên cứu đối chiếu ngữ nghĩa của từ
giữa hai hay nhiều ngôn ngữ là để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau về
ngữ nghĩa của từ giữa hai hay nhiều ngôn ngữ đó, và để thực hiện điều này thì phải
tiến hành đối chiếu trên bậc các nét nghĩa. Giả định rằng, tất cả nội dung nghĩa từ
trong nhóm là một tiểu hệ thống, chúng cấu tạo từ các nét nghĩa và các quan hệ, liên
hệ liên kết những nét nghĩa lại thành các nghĩa và toàn cấu trúc nghĩa của từ, từ đó
tiến hành phân chia nội dung nghĩa thành các nét nghĩa. Kết quả thu được qua phân
tích là các nét nghĩa của các từ riêng lẻ. Tài liệu phân tích có thể sử dụng kết quả ở
các từ điển tường giải, điều chỉnh và bổ sung chúng theo một phương pháp thống nhất
và kiểm tra lại bằng ngữ liệu thực tế ở các tác phẩm văn học. Phương thức xác lập các
nét nghĩa thực hiện qua sự đối lập các từ và xác lập các dạng thức từ và loại hình kết
hợp trong lời nói (văn bản). Sự đối lập trước hết là một cặp từ, sau đó thực hiện với
toàn nhóm. Để thấy được mặt đối lập, khác biệt nghĩa, các từ luôn luôn phải ở thế đối
lập trong một bối cảnh đồng nhất. Kết quả thu được vì vậy có nhiều loại nét nghĩa khác
nhau do các phạm vi đối lập đồng nhất khác nhau đưa lại. Mỗi nghĩa luôn luôn bao
gồm trong nó những nét nghĩa đồng nhất và khác biệt. [58, tr.258-259]
Việc tháo gỡ, xác định các nét nghĩa được thực hiện trong quá trình phân tích
đối chiếu nghĩa. Nội dung nghĩa của các từ được phân tích triệt để phản ánh qua các
nét nghĩa. Nét nghĩa xác lập trong đối lập đồng nhất nêu trên cần được bổ sung, mở
rộng thêm qua khảo sát văn bản. Chính sau khi lần tìm hết tất cả các nét nghĩa bộc
lộ ở nhiều phạm vi khác nhau trong ngôn ngữ và lời nói, trong quan hệ với hiện
thực và thuần túy ngôn ngữ, chúng ta mới phát hiện hết các nét nghĩa của từ. Toàn
bộ nét nghĩa của từ có trong hai ngôn ngữ được phát hiện đã cho ta cơ sở để so
sánh, đối chiếu, để xác định cái giống và cái khác giữa các cặp từ, nghĩa và nhóm từ
- nghĩa tương ứng. [58, tr.260-261]
53
Theo cách hiểu thông thường, tương đương là “ngang nhau, xấp xỉ nhau”.
Cơ sở của các xác định “ngang nhau, xấp xỉ nhau” ở các đơn vị đối chiếu thường có
hai khả năng: 1) Nếu các đơn vị đối sánh được xét cả hai mặt như một chỉnh thể
(mặt âm và nghĩa) thì ta có đơn vị tương đương cả hai mặt đó, nó vừa giống nhau về
mặt âm vừa giống nhau về nghĩa, trường hợp này chúng ta có các từ song song,
song hành trong các ngôn ngữ; 2) Cơ sở đối sánh chỉ là mặt nghĩa, đây chính là
phạm vi xác định tương đương mà chúng ta đang bàn, tức cũng có nghĩa là khả
năng tương đương được xác định chủ yếu về mặt nghĩa của đơn vị. Muốn xác định
các tương đương đòi hỏi phải đi vào tìm các tương ứng nội dung xác định của các
đơn vị. Tương đương là ngang bằng nhưng không giống nhau hoàn toàn, không
đồng nghĩa. Như vậy, tương đương được xác định bằng sự ngang bằng một nội
dung xác định của đơn vị, sự ngang bằng chính là sự trùng nhau ở một phần cơ bản
của nội dung nghĩa xác định các đơn vị tương ứng. [58, tr.287-288]
Do đó, luận án dựa vào lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận để tiến hành đối
chiếu ngữ nghĩa của các giới từ không gian “auf/ in” trong tiếng Đức với “trên/
trong” trong tiếng Việt.
1.4.4. Mọ t số v n đề về ngo n ngữ học so sánh đối chiếu và đối chiếu ngo n
ngữ
Trong luạ n án này, khi đối chiếu các giới từ auf/ in trong tiếng Đức với
trên/ trong trong tiếng Việt, tác giả sử dụng phu o ng pháp so sánh đối chiếu
(comparison, contrast), hay nói ngắn gọn, phu o ng pháp đối chiếu là phu o ng
pháp quan trọng nhất. Tre n thế giới, khi bàn về phu o ng pháp đối chiếu, Fisiak,
J. (1981) đu a ra định nghĩa phu o ng pháp đối chiếu là mọ t trong những
“phu o ng pháp nghie n cứu so sánh hai hay nhiều ngo n ngữ hoạ c tiểu loại
của ngo n ngữ nhằm tìm ra sự tu o ng đồng và khác biẹ t giữa chúng”. Ở Viẹ t
Nam, theo tác giả Bùi Mạnh Hùng (2008), phu o ng pháp đối chiếu đu ợc xem
là “viẹ c so sánh giữa hai đối tu ợng trong đó có mọ t đu ợc lấy làm chuẩn”
[24, tr.149].
Tương tự tác giả Le Quang Thie m (2005), trong ngo n ngữ học hiẹ n
đại cũng viết, “phu o ng pháp đối chiếu là mọ t hẹ thống, mọ t tổng thể các
phu o ng thức, thủ pháp pha n tích nhằm làm sáng tỏ cái chung và cái rie ng,
cái giống và cái khác nhau của các ngo n ngữ” [58, tr.343].
54
Nhu vạ y, có thể nói rằng bản chất của phu o ng pháp đối chiếu là tìm
ra những điểm tu o ng đồng và dị biẹ t giữa hai đối tu ợng đu ợc đối chiếu.
Để thực hiẹ n viẹ c đối chiếu cần có các tie u chí và quy trình cụ thể. Khi xét về
tie u chí đối chiếu, tác giả Bùi Mạnh Hùng (2008) cho rằng trong đối chiếu ngo n
ngữ, chúng ta cần chỉ ra được các đối tu ợng tu o ng đu o ng nhau mới có thể
so sánh đu ợc với nhau, nghĩa là so sánh đối chiếu A với B và ngược lại. Be n
cạnh đó, tác giả cũng cũng đề cạ p đến quy trình đối chiếu đu ợc thực hiẹ n qua
ba bu ớc: Bu ớc 1: Mie u tả; Bu ớc 2: Xác định các tie u chí đối chiếu và
Bu ớc 3: Đối chiếu. Trong luạ n án sẽ áp dụng phu o ng pháp và quy trình đối
chiếu của Bùi Mạnh Hùng (2008) để tìm ra những điểm tu o ng đồng và khác
biẹ t trong việc sử dụng giới từ chỉ không gian auf/in trong tiếng Đức và tiếng
Việt. Trên cơ sở đó, có được những tổng kết cụ thể về mức độ tương đồng và khác
biệt giữa các giới từ định vị không gian trong tiếng Đức và tiếng Việt. Ở bu ớc
mie u tả, luạ n án tạ p trung mie u tả các đặc điểm ngữ nghĩa nhóm giới từ định
vị không gian chỉ địa điểm tĩnh, chuyển động auf/ in trong tiếng Đức với trên/
trong trong tiếng Việt và cơ sở tri nhận của chúng. Qua đó, dựa trên kết quả miêu tả
ở bước 1, luận án có thể khái quát, xác định được các tiêu chí đối chiếu các nghĩa
cũng như cơ sở tri nhận của giới từ định vị không gian trong tiếng Đức và tiếng
Việt.
Cuối cùng, luạ n án tiến hành đối chiếu auf/ in trong tiếng Đức với trên/
trong trong tiếng Việt để tìm ra sự tu o ng đồng và khác biẹ t giữa các yếu tố
tre n trong hai ngo n ngữ. Để tiến hành đối chiếu, luạ n án sử dụng phu o ng
pháp đối chiếu song song. Tức là, luạ n án tạ p trung xem xét các hình thức thể
hiẹ n nọ i dung nào đó trong hai ngo n ngữ từ đó tìm ra những điểm tu o ng
đồng và khác biẹ t giữa chúng.
1.5. Tiểu kết
Chương một đã tổng kết được các công trình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
liên quan đến đề tài. Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước đã đề
cập đến các vấn đề nghiên cứu khác nhau của giới từ định vị không gian. Tuy nhiên,
phần lớn các nghiên cứu tập trung nghiên cứu ngữ nghĩa của giới từ định vị không
gian. Những nghiên cứu gần đây đã chú ý đến vấn đề tri nhận của các giới từ này và
nổi bật là nghiên cứu của Tyler và Evans [140] và nghiên cứu của Brenda [70].
55
Ở chương này luận án cũng đã bàn luận một cách súc tích về các lý thuyết
liên quan đến đề tài. Việc đưa ra các quan điểm về giới từ trong tiếng Đức và tiếng
Việt nhằm tìm ra được khái niệm về giới từ để giúp cho việc lựa chọn các tư liệu
nghiên cứu được chính xác và định nghĩa về giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức
của luận án. Việc phân loại giới từ cũng như phân biệt chúng với các từ loại khác
nhằm xác định rõ đặc điểm của giới từ định vị không gian trong tiếng Đức và tiếng
Việt. Giới từ định vị không gian “auf/ in” được coi là điển hình cho nhóm giới từ
định vị không gian. Đây là các giới từ đơn, thuộc nhóm giới từ định vị và mang
nghĩa không gian. Việc phân biệt ngữ nghĩa theo quan điểm truyền thống và quan
điểm tri nhận giúp cho việc hiểu và phân tích nghĩa của giới từ định vị không gian
trong tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt được rõ ràng hơn. Khi nói đến tri nhận là
nói đến cách chúng ta nhìn các sự vật, hiện tượng thế giới xung quanh hay nói cách
khác là thế giới xung quanh được phản ánh vào tâm trí chúng ta như thế nào. Dựa
vào trải nghiệm của mỗi người mà chúng ta có những lý giải khác nhau về cùng một
sự vật hiện tượng mà chúng ta nhận thức và thụ cảm. Tri nhận liên quan đến rất
nhiều vấn đề: ngữ nghĩa, không gian, quan điểm đa nghĩa về không gian trong ngôn
ngữ học tri nhận, ẩn dụ ý niệm, các mô hình tri nhận, tri nhận nghiệm thân, tri nhận
với không gian lấy con người là trung tâm của vũ trụ, chiến lược định vị và định
hướng trong không gian, …
Tóm lại, trong chương một tác giả đã trình bày các lý thuyết cơ bản liên
quan đến đề tài làm cơ sở cho việc so sánh đối chiếu về đặc điểm ngữ nghĩa và cơ
sở tri nhận của giới từ định vị không gian tiếng Đức với tiếng Việt ở trong các
chương tiếp theo. Qua đó tác giả cũng hệ thống những giới từ không gian trong
tiếng Đức và đối chiếu với tiếng Việt để làm cơ sở tập trung nghiên cứu hai giới từ
“auf/in” trong các chương tiếp theo.
56
Chƣơng 2
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CÁC GIỚI TỪ CHỈ KHÔNG GIAN “AUF/ IN”
TRONG TIẾNG ĐỨC ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT
Dẫn nhập
Chương này nhóm tác giả tập trung vào các tiểu từ không gian liên quan đến
mốc định vị (Landmark - LM) có bao giới. Chúng tôi sẽ bắt đầu với ngữ nghĩa của
auf và in. Vì tiểu từ không gian này gắn với mạng nghĩa đặc biệt phức tạp và đa
dạng, do vậy chúng tôi sẽ giới hạn phần thảo luận của mình vào một tập hợp hạn chế
các nghĩa tiêu biểu cho cách thức con người tương tác với LM có bao giới và cách
thức đó tạo nên một loạt các nghĩa đối lập. Ngoài ra, các giới từ không gian “auf/in”
khi đứng sau động từ có thể là các giới từ chỉ địa điểm, chỉ hướng hoặc phó từ, tuy
nhiên sự phân biệt này không phải bao giờ cũng rõ ràng. Vì thế, để tránh sa vào cuộc
tranh luận các giới từ không gian “auf/in” khi đứng sau động từ là các giới từ chỉ địa
điểm, chỉ hướng hay phó từ, chúng tôi chọn cách gọi chung là “từ không gian” khi
chúng đứng sau động từ.
2.1. Giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức
Một nhóm từ với ý nghĩa địa điểm tạo thành phần chính trong giới từ tiếng
Đức. Theo Schröder, giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức được chia thành hai
nhóm là giới từ chỉ địa điểm tĩnh và giới từ chỉ hướng chuyển động. Theo Mansour,
M. A. (1988) thì giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại không mô tả sự thay đổi địa điểm,
trong khi đó giới từ chỉ hướng chuyển động lại mô tả sự thay đổi địa điểm [113,
tr.23]. Tuy nhiên, không dễ để xác định liệu một giới từ nhất định thuộc về một
nhóm này hay nhóm nào khác, do đó việc mô tả địa điểm của giới từ không phải dễ
dàng. Ở đây khái niệm địa điểm đóng một vai trò quan trọng, khái niệm này liên
quan đến nhận thức. Nhận thức và mô tả địa điểm còn phụ thuộc vào các khía cạnh
của người nhận thức và hướng đến mặt đất. Sau đó, các nhân tố này dẫn đến sự
khác nhau khi sử dụng giới từ trong tiếng Đức và tiếng Việt. Phần quan trọng của
luận án là đề cập đến các giới từ thay đổi mà ý nghĩa của chúng được xếp vào giới
từ chỉ địa điểm tĩnh tại hoặc giới từ chỉ phương hướng chuyển động bằng cách thay
đổi cách. Ví dụ:
(71) Ich war heute im Park. (Hôm nay tôi ở công viên.) khác với
(72) Ich gehe jetzt in den Park. (Bây giờ tôi đang đi đến công viên).
57
Ví dụ (71) mô tả việc ở lại một khu vực, khi đối cách được sử dụng thì hướng và sự
mở rộng lên cái gì được mô tả. Ở một số ngữ cảnh tặng cách cũng diễn tả sự chuyển
động tuy nhiên chỉ trong không gian giới hạn. Trong câu Ich gehe im Park
spazieren (tôi đi dạo trong công viên) chỉ ra rằng chủ ngữ Ich chuyển động trong
khu vực Park mà không dời khỏi đó.
2.2. Giới từ “auf/in” trong tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt
Trong văn phạm tiếng Đức thì hai giới từ này có tần suất thường xuyên xuất
hiện trong hầu hết mọi câu và chiếm tỷ lệ lớn trong khối lượng từ của văn phạm.
Theo cuốn ngữ pháp tiếng Đức (Die Grammatik Unentbehrlich für richtiges
Deutsch) thì giới từ in đứng đầu với tỷ lệ 23% được sử dụng tùy theo ngữ cảnh
mang nghĩa khác nhau, tương đương với nghĩa tiếng Việt thì in có nghĩa là trong,
và theo từ điển tiếng Việt thì từ trong có các nghĩa như sau:
Nghĩa thứ nhất để nói đến:
- Phía những vị trí thuộc phạm vi được xác định nào đối lập với từ ngoài ví
dụ: trong rừng, ngồi trong nhà, quần áo để trong tủ, ý kiến trong cuộc họp, người
trong họ.
- Phía sau, so với phía trước, hoặc phía những vị trí gần trung tâm, so với
những vị trí ở xa trung tâm ví dụ: nhà trong, sống trong thành phố, đứng vòng trong
vòng ngoài, đưa bóng vào trong vòng cấm địa.
- Vùng địa lí ở vào phía nam so với địa phương xác định nào đó lấy làm
mốc, trong phạm vi đất nước Việt Nam ví dụ: đàng trong, người miền trong, trong
nam ngoài Bắc, vào công tác trong Sài Gòn.
- Nói đến khoảng thời gian trước thời điểm xác định nào đó không bao lâu,
ví dụ như: về quê từ trong Tết, hồi trong năm hai người có gặp nhau một lần.
Nghĩa thứ 2 để nói đến:
- Từ biểu thị điều nêu ra sau đó là điều kiện, hoàn cảnh, môi trường của hoạt
động, sự việc được nói đến ví dụ: sống trong nhung lụa, trưởng thành trong chiến
đấu, bị trói buộc trong vòng lễ giáo, những điều cần thiết trong cuộc sống, đau xót
trong lòng.
- Từ biểu thị điều nêu ra sau đó là giới hạn về thời gian của hoạt động, sự
việc được nói đến ví dụ: đi ngay trong đêm nay, công trình hoàn thành trong ba
năm, trong vòng một tiếng nữa phải xong, phát biểu trong năm phút.
58
Giới từ auf chiếm 6% cũng được sử dụng trong ngữ cảnh khác nhau trong
văn phạm tiếng Đức và mang nghĩa trên trong tiếng Việt nhưng ở nhiều ngữ cảnh
khác thì auf còn có các nghĩa như trên, dưới, lên, xuống, ra, vào đã được tác giả
khảo sát, liệt kê trong phần phụ lục và đối chiếu với tiếng Việt ở chương này. Theo
từ điển tiếng Việt thì từ trên có một số nghĩa như sau:
- Từ trên về không gian để nói đến phía những vị trí cao hơn trong không
gian so với một vị trí xác định nào đó, hay so với các vị trí khác nói chung ví dụ:
máy bay bay trên trời, trên trời dưới đất, đứng trên cao nhìn xuống, nhà ở tận trên
tầng chín.
- Từ “trên” nói đến vùng địa lí cao hơn so với một vùng xác định nào đó, hay
so với các vùng khác nói chung như: lên phía mạn trên, trên rừng dưới biển, tàu từ
trên Lào Cao về Hà Nội.
- Nói đến phía những vị trí ở trước một vị trí hay so với các vị trí khác nói
chung, trong một trật tự sắp xếp nhất định như: ngồi ở hàng ghế trên, như đã nói ở
phần trên, lên nhà trên, làng trên xóm dưới.
- Nghĩa tiếp theo của từ “trên” nói đến phía những vị trí cao hơn so với một
vị trí xác định nào đó, hay so với các vị trí nói chung, trong một hệ thống cấp bậc,
thứ bậc như: học sinh các lớp trên, quyết định từ trên tỉnh đưa xuống, vâng lời
người trên, các tầng lớp trên trong xã hội.
-“Trên” nói đến mức cao hơn hay số lượng nhiều hơn một mức, một số
lượng xác định nào đó như: học lực trên trung bình, con lợn được trên bốn mươi
cân, quần áo dành cho trẻ em trên mười tuổi, sản lượng đạt trên mười tấn.
- Ngoài ra “trên” là từ biểu thị điều nêu ra sau đó là đích nhắm tới của một
hoạt động theo hướng từ thấp đến cao: chạy lên trên đồi, bay vút lên trên trời cao,
mầm cây trồi lên trên mặt đất, sờ tay lên trán, ngước mắt nhìn lên trên trần nhà.
- Là từ biểu thị điều nêu ra sau đó là vị trí của vật được nói đến ở sát bề mặt
của một vật nào đó đỡ từ bên dưới, hay sát bề mặt ở phía có thể nhìn thấy rõ: sao
trên trời, trên tường treo một bức tranh, quyển sách để trên bàn.
- Là từ biểu thị điều nêu ra sau đó là nơi diễn ra sự việc, hoạt động được nói
đến: gặp nhau trên đường đi công tác, nghe giảng trên lớp, phát biểu trên tivi. Là từ
biểu thị điều nêu ra sau đó là cơ sở quy định phạm vi, nội dung, tính chất của hoạt
59
động nhận thức, ý kiến được nói đến như: góp ý trên tình bạn, làm việc trên cơ sở tự
nguyện, bài thi đạt điểm 75 trên 100.
- Từ “trên” mang các nghĩa khác nhau như “trên cơ” để nói đến việc hơn
hẳn về khả năng, trình độ hoặc cơ hội (trong một lĩnh vực nào đó) ví dụ như: một
đối thủ trên cơ, đội bóng trên cơ (trên tài); “trên dưới” nói đến cả người trên lẫn
người dưới, không trừ một ai: trên dưới đồng lòng, “gã nói năng bặm trợn, trên
dưới chả nể sợ ai, rất vũ phu nhưng cũng rất mềm mại tùy lúc ...” (Chu Lai).
- “Trên dưới” để nói đến số lượng trên chút ít hoặc dưới chút ít: cuộc họp có
trên dưới 20 người, sản lượng đạt trên dưới mười tấn, “cả hai đều đã trên dưới
năm chục tuổi, tóc bạc gần nửa, răng rụng vài ba chiếc ...” (Nguyễn Khải); “trên
đe dưới búa” để ví tình thế bị dồn ép từ cả hai phía đối lập cho nên làm thế này
không được mà làm trái lại cũng không xong, rất khó đối xử; “trên hết” trên tất cả,
hơn hết cả: vui là trên hết, “Ông anh tôi dù thương quí em đến đâu cũng vẫn vợ là
trên hết” (Bùi Bình Thi); “trên kính dưới nhường” nói đến cách ăn ở đúng mực,
biết kính trọng người trên, nhường nhịn người dưới “Nên ra trên kính dưới nhường,
Chẳng nên đạp hắt bên đường mà đi” (ca dao); “trên tài” giống nghĩa từ “trên cơ”
muốn nói hơn hẳn về khả năng, trình độ (trong một lĩnh vực nào đó): hát trên tài cả
ca sĩ chuyên nghiệp, trên tài mọi người về tài ăn nói.
2.2.1. Đặc điểm ngữ nghĩa giới từ định vị không gian “auf” đối chiếu với tiếng Việt
Trong các hoạt động định vị không gian của giới từ, chúng ta đều thấy rõ
luôn có những sự khác biệt nhất định về ý nghĩa của chúng trong từng đối tượng
định vị và tình huống cụ thể. “Auf” là một trong những tiểu tập hợp giới từ cơ bản
liên quan đến trục thẳng đứng giống như các giới từ über/ unter, oberhalb/
unterhalb. Dẫu sao thì rõ ràng là nếu muốn giải thích các cách diễn đạt thông
thường của các câu như Das Buch ist auf dem Tisch (quyển sách ở trên bàn) so với
câu Der Hund ist unter dem Tisch (con chó ở dưới bàn), chúng ta cần nhận ra rằng
các tiểu từ không gian này thực sự quy chiếu tới trục thẳng đứng. Nói về định
hướng (orientation), Langacker (1987) đã bàn đến tính cần thiết phải nhận biết trục
thẳng đứng và trục nằm ngang liên quan đến các cách thức có thể quan sát, nhìn
nhận một khung cảnh không gian. Theo tác giả thì “định hướng ... gắn với việc sắp
xếp theo các trục của trường thị giác (hoặc một hệ thống tọa độ tương tự nào đó)”
[102, tr.133]. Những mô tả điển hình của khung cảnh không gian phản ánh trường
60
thị giác của chúng ta khi thực hiện việc quan sát ở một tư thế đứng thẳng chuẩn tắc.
Langacker cũng thảo luận về không gian có định hướng (oriented space) như một
thành tố cần thiết để chúng ta hiểu rõ được sự khác biệt giữa các tiểu từ không gian
nhất định.
Nói về sự quy chiếu tới trục nằm ngang và trục thẳng đứng, chúng tôi nhận
thấy rằng điển cảnh của một tiểu từ không gian nói riêng không có liên quan đến sự
quy chiếu đó, do vậy không thể dẫn đến kết luận rằng tất cả các tiểu từ không gian
đều gợi ra sự định hướng như vậy. Đối với các tiểu từ không gian như über / unter,
oberhalb/ unterhalb thường gợi ra một cấu hình không gian mà trong đó vật định vị
dịch chuyển (trajector - TR) được định vị theo trục thẳng đứng so với mốc định vị
(LM), nghĩa là nó ở vị trí cao hơn hoặc thấp hơn, còn các tiểu từ như in (trong),
innerhalb (bên trong) hoặc außerhalb (ngoài) có vẻ như không quy chiếu tới bất cứ
trục nào. Quan điểm liệu một tiểu từ không gian nào đó có quy chiếu tới trục nằm
ngang hoặc trục thẳng đứng hay không chính là một phần trong nội dung mục từ cơ
bản của nó cũng giống với quan điểm của Langacker (1987) và Talmy (2000).
Cần đặc biệt lưu ý rằng trong tiếng Việt vị trí giữa đối tượng định vị và
người nhìn đóng vai trò quan trọng trong việc sử dụng giới từ “trên” hoặc “dưới”.
Ở ví dụ (46) Bức tranh treo trên tường (Das Bild hängt an der Wand), bức tranh
không treo “trên (auf)”, mà treo “trên - cạnh tường (an)” tường, nhưng ta phải
nhìn lên trên để nhìn nó, có nghĩa là chúng ta không sử dụng “auf” mà phải dùng
“an” nghĩa là cạnh tường nói đến hướng quy chiếu khác với cách nhìn của người
Việt. Người Đức hướng quy chiếu nhìn theo hướng thẳng đứng, còn người Việt
hướng quy chiếu nằm ngang. Bức tranh cao hơn người nhìn, ở đây giới từ trên (trên
bề mặt tường) được sử dụng. Trong ví dụ (47) Trên trời có đám mây xanh (Im
Himmel gibt es blaue Wolken) cũng được giải thích tại sao chúng ta không diễn đạt
là trong (in) trời (Himmel), mà lại là “trên trời” (im Himmel). Trước đây ta coi trái
đất là một bề mặt và tất cả trên bầu trời là ở vị trí cao hơn vị trí chúng ta dưới mặt
đất và vị trí này được miêu tả bằng “trên”, có nghĩa là trong lòng giữa khoảng
không. Trong ví dụ (49), người Việt nói Dưới sông này có nhiều cá lắm (In diesem
Fluss gibt es sehr viele Fische) ta suy ra được cách sử dụng của giới từ “dưới” rằng
người nhìn/người nói đang ở bờ của con sông, vì bề mặt nước của sông thấp hơn bờ.
Khi người nhìn đang ở sông, thì ta sẽ dùng giới từ “ở” thay vì “dưới”. Vị trí của
người nhìn đã thay đổi, không phải là tại mà là ở sông. Người Đức nói.
61
(73) In diesem Fluss gibt es sehr viele Fische.
(Ở sông này nhiều cá lắm.)
Chúng tôi nhận thấy khá thú vị về cách suy nghĩ của người Việt Nam thông
qua cách dịch câu sau “Etwas liegt auf dem Boden”. Trong tiếng Việt người ta
thường nói là Cái gì đó nằm dưới sàn nhà, vì mặt đất được coi là điểm thấp nhất so
với con người đang đứng, mặc dù đối tượng được định vị ở trên sàn. Do đó khi
dùng giới từ trong tiếng Đức chúng ta hiểu rõ ràng là trên sàn nhà nhưng cách hiểu
dịch sang tiếng Việt là dưới sàn nhà.
Giải thích cách nghĩ này cần xét đến hình thái tiêu chuẩn. Lý Toàn Thắng
cho rằng trong tiếng Việt ở phạm vi đầu/ cổ con ngưởi thì dùng trên và ở phạm vi
chân/ bàn chân thì dùng dưới.
(74) Chú chó nằm dưới chân cậu bé.
(Der Hund liegt an dem Fuß des Jungen.)
Không chỉ con người mà các đối tượng hoặc đồ vật khác trong tiếng Việt
cũng có đầu và chân như tủ, núi ... (chân tủ, chân núi, ...). Nếu đối tượng này ở vị trí
ngang thì cũng được xác định đâu là đầu và đâu là chân. Dĩ nhiên trong trường hợp
này ta lại cần giới từ trên cho phần đầu và dưới cho phần chân.
(75) Cô gái ngồi trên đầu giường.
(Das Mädchen sitzt im Bett neben dem Bettkopf.)
Ở đây cô gái ngồi trên đầu giường, từ trên được hiểu là phía trên đầu giường
(giường có hai phía là phía đầu giường và phía cuối giường). Cách diễn đạt đầu
giường không dễ dịch sang tiếng Đức, vì không có từ tiếng Đức nào phù hợp. Đầu
giường là một phần của giường được giải thích bên cạnh từ Bettkopf. Hình thái tiêu
chuẩn của con người hoặc vật quyết định lựa chọn vị trí “trên” hoặc “dưới”, ngay
cả khi con người hoặc đồ vật ở vị trí đứng hoặc nằm.
(76) Der Junge liegt im Bett. Der Hund liegt an seinen Beinen/ Füßen.
(Cậu bé nằm trên giường. Chú chó nằm dưới chân cậu.)
Tầm quan trọng của mối quan hệ không gian giữa người nhìn và đối tượng
được định vị cũng được thấy thông qua các tình huống sau:
Tình huống 1 và 2, Tim và người nhìn sống trong một ngôi nhà cao tầng trong
các phòng khác nhau. Ngược lại trong tình huống 3, người nhìn sống trong ngôi nhà
A và Tim sống trong ngôi nhà B. Khi người thứ ba, ví dụ mẹ của người nhìn và Tim
đến thăm, có thể có ba câu nói cho ba tình huống.
62
Tình huống 1: Meine Mutter ist bei Tim. (Mẹ tớ ở dưới nhà Tim.)
Tình huống 2: Meine Mutter ist bei Tim. (Mẹ tớ ở trên nhà Tim.)
Tình huống 3: Meine Mutter ist bei Tim. (Mẹ tớ bên nhà Tim.)
Be- Tim Be-
trachter Be- trachter
Tim trachter Tim
A B
Tình huống 1 Tình huống 2 Tình huống 3
Mối quan hệ không gian trên – dưới chỉ đúng khi đối tượng được định vị và
đối tượng tham chiếu trong một không gian nhất định, nếu không giới từ khác được
sử dụng.
Loại và cách thức mà người Việt Nam mô tả đồ vật quyết định cách sử dụng
giới từ trong một số trường hợp như sau:
(77) Quyển sách nằm trên giá. (Das Buch liegt im Regal!)
(78) Chúng tôi ngồi ăn dưới ánh đèn mờ.
(Wir essen beim schwachen Lampenlicht.)
Ở ví dụ (77) nên diễn đạt “trên giá sách” mà trong tiếng Việt hay được sử
dụng, thậm chí khi cái giá ở vị trí thấp hơn với người nhìn. Tương tự, “ánh đèn”
không có nghĩa là “Lampenlicht”, vì ta có thể không để ở “dưới”, mà là “trong”
hoặc “gần” ánh sáng. Ở đây, “ánh đèn” nhắc đến chiếc đèn mà được treo cao và
chủ ngữ “wir” ở dưới chiếc đèn này.
Ngoài ra tác giả cũng rất thú vị khi nghiên cứu cách người Việt định hướng
trong một không gian (trong phòng học, tàu, phòng họp, hội trường ...).
(79) Cô giáo đứng trên bảng. (Die Lehrerin steht an der Tafel.) (an - cạnh)
(80) Lan ngồi trên toa đầu. (Lan sitzt im ersten Wagon.) (im - trong)
Tình huống trong ví dụ (79) diễn ra trong lớp học. Cách diễn đạt “đứng trên
bảng” được sử dụng vì thường có cái bục ở bảng để người học có thể nhìn thấy giáo
viên rõ hơn, và ở đây người nhìn hiểu nghĩa là cô giáo đứng cạnh cái bảng. Cách
diễn đạt gốc có lẽ là “đứng trên bục bảng” (auf dem Podium stehen) và dần dần qua
thời gian từ “bục” được bỏ đi. Các phòng học ở Việt Nam thông thường được trang
bị các dãy bàn và hướng lên phía bảng. Nếu học sinh A ngồi ở một bàn, mà gần
63
bảng hơn so với bàn của học sinh B thì ta nói A ngồi trên B (A sitzt vor B) và không
ai được hiểu được câu đó rằng A ngồi lên đầu B hoặc lưng của B. Tương tự trong
phòng họp hoặc hội trường thường có một sân khấu cao hơn. Do đó, giới từ của
những cái ghế mà gần với sân khấu hơn thì được sử dụng giới từ “trên”. Ví dụ (80)
cũng được giải thích ở vị trí ngang thông qua hình thái tiêu chuẩn. Cabin mà chứa
buồng lái gọi là “đầu tàu” (der Kopf des Zuges). Câu (ví dụ 80) có thể được đặt bởi
một người mà ngồi ở trong toa xe thứ hai/ba .... vì các toa xe là phần tiếp theo của
đầu tàu là toa xe thứ nhất.
Ở đây việc sử dụng “trên” và “dưới” thậm chí được in sâu bởi văn hóa Việt Nam.
(81) Nhà tôi ở dưới quê.
(Ich wohne auf dem Land)
(82) Cậu ta làm việc trên thành phố.
(Er arbeitet in der Stadt.)
(83) Cô ấy làm việc trên Bộ Giáo dục.
(Sie arbeitet beim Ministerium für Bildung.)
Tuy nhiên các diễn đạt đó không có mối liên hệ với định hướng địa lý. Việc
sử dụng giới từ trong các câu này được giải thích thông qua hệ thống phân cấp bậc
xã hội. Các thành phố thì hiện đại hơn và tốt hơn làng quê và có vị trí “cao hơn”
làng quê. Bộ Giáo dục là cấp trên trong lĩnh vực giáo dục. Do đó ta có sự tôn trọng
và mô tả bằng giới từ “trên”. Câu ví dụ (83) có lẽ được nói bởi một người mà chỉ
làm việc ở một trường đại học hoặc trường học. Ở đó có hệ thống phân cấp bậc xã
hội mà được phản ảnh lại thông qua tiếng Việt.
64
2.2.1.1. Giới từ “auf” chỉ địa điểm tĩnh tại đối chiếu với tiếng Việt.
Về mặt cấu trúc không gian auf - trên (tương đương với giới từ on trong
tiếng Anh, theo A. Herskovits thì “auf” có ý niệm điển hình như sau: “Auf (on)
dùng cho một cấu hình hình học X tiếp xúc với một đường hay một bề mặt Y; nếu
Y là một bề mặt của một đối tượng OY và X là cái không gian được chiếm bởi một
đối tượng OX khác, để OY nâng đỡ OX” [91].
Do vậy những nghĩa lý tưởng của giới từ auf được hiện thực hóa trong hoạt
động của ngôn ngữ theo một số nghĩa sau:
1. Nghĩa bên trên
a. Vật thể này được nâng đỡ bởi một vật thể khác
b. Vật thể này tiếp xúc với một vật thể khác
c. Vật thể này ở phía trên vật thể khác.
d. Vật thể ở trên một phần của chính nó
e. Vật thể tiếp xúc với rìa của một vùng địa lý
2. Nghĩa tiếp cận được bằng tri giác
3. Nghĩa không gian được định vị trên vị trí địa lý
1. Nghĩa bên trên
a. Vật thể này được nâng đỡ bởi một vật thể khác
Lê Văn Thanh (2003) cho rằng “Một đối tượng được xem là nâng đỡ một
đối tượng khác khi nó gánh chịu trọng lượng của đối tượng này đè lên hay đeo lên
nó. Có nhiều cách thức tiếp kết khác nhau để một đối tượng này nâng đỡ một đối
tượng khác. Trường hợp điển hình thường là sức nặng của ĐTĐV đè lên bề mặt cân
bằng theo đường chân trời ở phía trên của ĐTQC” [48]. Tuy nhiên chúng ta có thể
hiểu rằng, đây chỉ là một trong rất nhiều trường hợp, bởi theo lẽ thường thì bề mặt
này cũng không nhất thiết phải là ở phần đỉnh mặc dù nó luôn là một mặt ngoài của
ĐTQC, và bề mặt này cũng không nhất thiết là phải cân bằng theo đường chân trời
cũng như không nhất thiết phải nâng đỡ toàn bộ trọng lượng của ĐTĐV.
Nên trong thực tế chúng ta thường gặp các trường hợp như: “die Tasche
auf der Treppe” (chiếc túi trên cầu thang), “Katze auf einem Stuhl” (con mèo trên
ghế), “Mädchen auf einem Stuhl” (cô gái trên ghế).
Giới từ “auf (trên)” mô tả vị trí của đối tượng mà cao hơn bề mặt cơ sở của
một đối tượng khác với sự tiếp xúc mặt đất. Đối tượng tham chiếu có một bề mặt
65
“mang một chức năng đối với đối tượng được định vị” [113, tr.55]. Tuy nhiên theo
Weinrich ba ví dụ dưới đây chỉ ra rằng vị trí của bề mặt không đóng vai trò gì:
(84) Die Blumenvase auf dem Sockel.
(Bình hoa trên bệ.) (= oben auf = bên trên)
(85) Die Farben auf dem Wandbild.
(Màu sắc trên bức tranh ở tường.) (= seitlich auf=ở bên trên)
(86) Die Figuren auf dem Deckenfresko.
(Các hình vẽ trên trần nhà.) (= unten auf=dưới, ở dưới) [142, tr. 626]
Ở ví dụ (84) bình hoa được đặt trên bệ và chịu sự đè nặng của cái bệ cũng
chính là vật nâng đỡ bình hoa. Hai ví dụ (85) và (86) chỉ mang tính miêu tả màu sắc
và hình vẽ được nhìn thấy thông qua bức tranh được gắn lên tường hoặc hình vẽ
được vẽ lên trần nhà với những tiết họa màu mắc.
Ngoài ra chúng ta cũng cần chú ý đến những trường hợp mà ĐTĐV được
treo lên, gắn vào, bám vào, đính vào ... ĐTQC như: “das Bild an der Wand” (bức
tranh trên tường), “die Lampe an der Decke”, (chiếc đèn trên trần nhà), “das
Etikett auf der Box” (nhãn mác trên hộp) ...
Những ĐTĐV (bức tranh, chiếc đèn, nhãn mác, ...) trong cách dùng này có
thể là bất kì vật thể, sự kiện hay hoạt động nào. Còn ĐTQC có thể là một phần hay
một bề mặt nào đó được thêm vào đối tượng cố hữu ví dụ như trong tiếng Việt
người ta nói: Anh ta ngủ trên sàn gạch = trên lớp gạch lót sàn (Er schlief auf dem
Fliesenboden). Ở đây về một phương diện nào đó thì lớp gạch lót sàn được xem là
một phần của sàn nhà nên trường hợp này chưa gây được sự chú ý. Còn đối với
trường hợp gây được sự chú ý thực sự là trường hợp auf tương đương với trên (ở
trên) trong tiếng Việt được dùng khi ĐTĐV có sự tiếp xúc gián tiếp với ĐTQC.
(87) Quyển sách ở trên bàn (Das Buch ist auf dem Tisch.)
Ở ví dụ này nói về quyển sách ở trên một chiếc bàn có phủ khăn trải bàn
hoặc ni lông, vì thế khăn trải bàn hoặc ni lông - trạng thái mỏng manh của vật trung
gian là nhân tố quyết định cho việc người ta có thể sử dụng ở trên (auf). Nhưng
việc sử dụng ở trên (auf) trong dạng tiếp xúc gián tiếp này không chỉ dựa vào trạng
thái mỏng manh của vật trung gian. Mặc dù có vật xen kẽ ở giữa là vật trung gian
nhưng từ ở trên (auf) vẫn giữ nguyên nghĩa trên bề mặt. Điều này được minh họa
qua hình vẽ sau:
66
Quyển sách
(das Buch)
)
Khăn trải bàn
(Tischwäsche)
)
Cái bàn (Tisch)
Hình 25: auf - trên
Nếu không dùng khăn trải bàn thì cuốn sách trên bàn là tiếp xúc trực tiếp với
cái bàn, và cái bàn là mốc định vị, là mối quan hệ nâng đỡ và bao hàm trực tiếp.
b. Vật thể này tiếp xúc với một vật thể khác
Khi vật thể này đặt lên vật thể khác thì cần có sự tiếp xúc và nâng đỡ, sự tiếp
xúc giữa hai vật thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên cũng có những sự tiếp xúc
không đi kèm với sự nâng đỡ, ví dụ với hai cái hộp để cạnh nhau hoặc cái ghế đặt
sát với cửa thì người ta không thể nói rằng:
(88) Das rote Kästchen befindet sich auf dem blauen Kästchen.
(Cái hộp đỏ ở trên cái hộp xanh.)
(89) Der Stuhl ist auf der Tür (Cái ghế trên cửa)
Mà ở đây chỉ cần nói cái hộp đỏ bên cạnh cái hộp màu xanh, cái ghế bên
cạnh cái cửa để nhận thấy sự tiếp xúc giữa hai vật có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp
mà không cần bất kì một sự nâng đỡ nào cả.
Nhưng cũng có những trường hợp giữa hai vật thể có sự tiếp xúc trực tiếp
với nhau mà không cần sự nâng đỡ, người ta cũng dùng auf.
(90) Haare auf dem Kopf. (Tóc trên đầu.)
Giới từ “trên” cũng diễn tả rằng một đối tượng này cao hơn đối tượng khác,
tuy nhiên không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa hai đối tượng. Với ý nghĩa này, “trên”
phù hợp với giới từ “über” trong tiếng Đức và có liên quan về nghĩa với giới từ
auf. Tuy nhiên trong câu tiếng Việt cần có một danh từ biểu thị độ cao mà không có
sự tiếp xúc, nếu không cần thêm vào cụm từ “lơ lửng”. [49, tr.682]
(91) Trên đầu chúng tôi lấp lánh những ngôi sao. [49]
(Die Sterne leuchten über uns.)
(92) Mụ phù thủy lẩm nhẩm cái gì đó rồi chiếc bàn bay lơ lửng trên
đầu chúng tôi. [49]
(Die Hexe murmelt etwas und dann schwebt der Tisch über uns.)
67
Ở đây những ngôi sao, chiếc bàn bay lơ lửng ở phía trên đầu chúng tôi có
một khoảng cách nào đó qua không gian mà không có sự chạm đến đầu nghĩa là
không có sự tiếp xúc trực tiếp mà chỉ là đối tượng này cao hơn một đối tượng khác
có sự tiếp xúc gián tiếp thông qua một khoảng không.
c. Vật thể này ở phía trên vật thể khác
Không giống như hai phần trên khi sử dụng auf cần có mối quan hệ nâng đỡ
hoặc tiếp xúc giữa ĐTĐV và ĐTQC thì qua ví dụ dưới đây người ta có thể sáng tạo
ra những cách dùng định vị với tư cách như là một sự mở rộng phạm vi sử dụng của
auf trong không gian mà thôi.
(93) Weiße Wolken auf der Insel.
(Những đám mây trắng trên đảo)
Ở đây không có sự hiểu lầm nào là nâng đỡ hay tiếp xúc vì người viết chỉ
đề cập đến những đám mây và điểm nhìn xuống sàn nhà, do đó mà nghĩa lý tưởng
của từ auf hầu như không được thể hiện mà có chăng là ở ví dụ (93) với vị thế của
những đám mây nằm phía trên đảo theo phương thẳng đứng. Vì vậy mà auf trong
các trường hợp trên chỉ biểu thị mối quan hệ siêu vị và không đi kèm theo sự nâng
đỡ hay tiếp xúc nào. Chúng ta định vị từ phía người nhìn từ dưới lên trên theo trục
thẳng thì thấy những đám mây ở phía bên trên đảo, còn sàn nhà là tâm điểm từ mắt
của anh ta nhìn xuống.
Tương tự như vậy chúng ta cũng có thể thấy trong tiếng Việt cũng có sự
định vị tương tự như trong tiếng Đức thông qua những ví dụ sau:
(94) Mắt của anh ấy nhìn xuống sàn nhà
(Seine Augen waren auf dem Boden.)
d. Vật thể ở trên một phần của chính nó
Theo Lê Văn Thanh thì đây là kiểu loại sử dụng mà nghĩa lý tưởng của từ
auf được ngầm ẩn ở bên trong, hay nói cách khác, được thể hiện một cách gián tiếp
thông qua bộ phận của vật thể tiếp xúc với bề mặt nâng đỡ. [48]
(95) Ein Tisch auf vier Beinen.
(Một cái bàn trên bốn chân = có bốn chân.)
Trong tiếng Việt khi nói:
(96) (Người đàn ông nằm ngửa.) [48]
(Der Mann auf dem Rücken.)
68
Ở đây chúng ta hiểu rằng người đàn ông (nằm) trên lưng của anh ta, điều
này có nghĩa là khi một vật thể này được nâng đỡ bởi một vật thể khác thì trọng
lượng của nó được dồn vào bộ phận với vật thể nâng đỡ nó. Ở ví dụ (95) thông qua
giới từ auf ta thấy bốn chân là những bộ phận của chính cái bàn nâng đỡ mặt bàn.
Ví dụ (96) người đàn ông nằm ngửa tức là chính cơ thể của anh ta đang được nâng
đỡ bởi lưng của mình. Do vậy, hình thành nên một sự trừu tượng hóa về mối quan
hệ nâng đỡ giữa vật thể và bộ phận tiếp xúc với bề mặt của vật thể nâng đỡ. Điều
này được minh chứng rõ hơn qua ví dụ sau:
(97) Er steht auf seinen Beinen.
(Anh ta đứng trên đôi chân của mình.)
Ở đây có nghĩa là anh ta đứng và được nâng đỡ bởi đôi chân (làm trụ vững)
của mình, đôi chân chính là vật nâng đỡ anh ta. Hoặc qua một ví dụ khác trong tiếng
Việt như: (cái đầu trên đôi vai rộng của anh ta) [48] (der Kopf auf seinen breiten
Schultern) chúng ta thấy có cách sử dụng khác được áp dụng cho các bộ phận phân
biệt của cùng một vật thể. Và có thể nói rằng kiểu loại sử dụng này không có tính
định vị điển hình. Điều này cũng hết sức tự nhiên, vì việc dùng một bộ phận nào đó
của vật thể làm ĐTQC có thể giúp xác định được “tư thế” hơn là vị trí của vật thể.
Qua đó nó cũng cho người ta thấy rằng, bộ phận nào là chủ yếu đóng vai trò nâng
đỡ vật thể trong một mối quan hệ định vị không gian nào đó.
e. Vật thể tiếp xúc với rìa của một vùng địa lý
Trong trường hợp này auf sử dụng ở rìa của một vùng địa lý, vì vậy ĐTĐV
trong kiểu loại sử dụng này ít có khả năng nằm trong hoặc trên phạm vi của ĐTQC.
(98) Ein Geschäft auf dem Hauptplatz.
(Một cửa hiệu trên quảng trường chính.)
(99) Ein Geschäft an der Wall Straße.
(Một cửa hàng trên phố Wall.)
(100) Eine Tankstelle an der Autobahn.
(Một trạm xăng trên đường cao tốc.)
Trong kiểu loại định vị này thì ĐVĐT phải tiếp xúc với ĐTQC nhưng phải
nằm ngoài ĐTQC, tức là tiếp xúc với rìa của ĐTQC chứ không thể nằm trong hoặc
trên ĐTQC. Ở đây trong tiếng Việt chúng ta hiểu rằng một cửa hiệu (Geschäft) chỉ
có thể là nằm bên rìa của quảng trường, một cửa hàng (Geschäft) nằm bên rìa
69
đường phố Wall, chứ không thể nằm trên mặt đường có xe cộ đi lại được. Cũng như
một trạm xăng (Tankstelle) nằm bên rìa đường cao tốc nơi có nhiều phương tiện đi
lại trên mặt đường.
Ở đây ĐTQC phải là các không gian mở, các vùng địa lý chính, còn riêng
các loại đường thì hầu như không có giới hạn nào cả. Còn ĐTĐV phải có tính cố
định, kích thước phù hợp. Cả ĐTĐV và ĐTQC phải tuân thủ mối quan hệ thông
thường giữa hình bóng và nền, do đó việc sử dụng đối tượng cố định như Straße
(phố), Autobahn (đường cao tốc) làm ĐTQC phù hợp hơn là làm ĐTĐV.
2. Nghĩa tiếp cận được bằng tri giác
Theo Mansour có sự mở rộng không gian hầu hết theo mối quan hệ chiều
ngang. Tuy nhiên, không phải tất cả đối tượng tham chiếu đều có một bề mặt:
(101) Er balanciert den Ball auf der Fingerspitze [113, tr.56]
(Anh ta cân bằng quả bóng trên đầu ngón tay).
Theo Weinrich, auf còn có ý nghĩa trong mối quan hệ chặt chẽ với điểm
nhìn. Nó mô tả ý nghĩa như là “khả năng tiếp cận”, vì “giới từ auf có trung tâm trao
đổi nhân loại học ở tay làm việc mở - nếu tay cũng ở “trên”, thì phải liên quan đến
các hoạt động. Nó diễn đạt sự sẵn sàng vì mục đích hoạt động”. [142, tr. 625]
(102) Die Farben auf der Pallette. (Những màu sắc trên bảng.)
Trong tiếng Việt, khả năng tiếp cận được hiểu rằng là màu sắc có thể được
tiếp cận đối với hoạt động vẽ trên bảng. Ở đây, trong một số trường hợp thì auf
không khác gì với in: [113, tr.57]; [142, tr.627]
(103) Ich bin schon drei Jahren auf der Universität.
(Tôi đã học ba năm ở trường đại học.)
(Auf ở đây diễn tả khả năng tiếp cận với cơ sở xã hội)
(104) Ich stehe in der Universität.
(Tôi đứng trong trường đại học.) (in nói đến không gian)
3. Nghĩa không gian được định vị trên vị trí địa lý
Khi nói đến một số vị trí địa lý, thì người ta bắt buộc sử dụng auf để biểu
thị muốn nói rằng có một đối tượng hay một sự kiện nào đó được định vị trong
phạm vi bề mặt của chúng. Dựa trên các kết quả nghiên cứu vừa mang tính kế thừa
70
tham khảo ở trong các sách ngữ pháp tiếng Đức, vừa mang tính cá nhân, chúng tôi
sẽ cung cấp một danh sách có phần chi tiết hơn về các vị trí địa lý mà người ta chỉ
có thể dùng với auf: der Erde (trái đất), der Farm (trang trại), der Ranch (trại
chăn nuôi), dem Campus (khuôn viên trường đại học), dem Spielfeld, (sân chơi),
dem Boden (sàn nhà), den Block (tòa nhà), der Insel (đảo), der Halbinsel (bán đảo),
dem Land (đất liền), dem Kontinent (lục địa), der Ebene (đồng bằng), der Weide
(đồng cỏ), der Prärie (thảo nguyên), dem Industriepark (khu công nghiệp), dem
geplanten Wohngebiet (khu dân cư), der Strasse (đường phố), ...
Kiểu định vị trên chỉ là một sự định vị đơn giản ở trong một phạm vi xác
định trong không gian. Ở đây, tác giả không đề cập đến hai nét nghĩa điển hình của
auf là nâng đỡ và tiếp xúc, vì vậy nghĩa ở đây không giữ vị trí trung tâm, ví dụ:
(105) Der Spieler auf dem Fußballplatz
(Các cầu thủ trên sân bóng đá)
Tương tự như vậy, trong tiếng Việt người ta cũng nói đến kiểu định vị này
thông qua những ví dụ:
(106) Có một cuộc diễu hành trên đường phố.
(Es gibt eine Demonstration auf der Strasse.)
Những ví dụ trên không đề cập đến sự tiếp xúc hay nâng đỡ mà chỉ nói đến
thực thể trong không gian được định vị trên vị trí địa lý mà thôi.
2.2.1.2. Giới từ “auf” chỉ phương hướng chuyển động đối chiếu với tiếng Việt.
Giới từ không gian auf mang hướng chuyển động được chia thành các nghĩa
gồm: Nghĩa chuyển động và nghĩa phương tiện.
1. Nghĩa chuyển động
Theo Mansour, M. A thì một số đối tượng có thể diễn đạt không chỉ bề mặt
mà còn diễn đạt mang nghĩa không gian mở bằng giới từ “auf” như: “Weg (đường),
Erde (đất), Boot (thuyền), Schiff (tàu), Meer (biển)...” [113, tr.57].
Nếu giới từ “auf” yêu cầu đối cách thì hướng chuyển động là từ dưới lên
trên. [88, tr.364]
Hình 26: auf - trên bàn
71
(107) Sie stellt die Vase auf den Tisch.
(Cô ta đặt lọ hoa lên trên bàn.)
Ở ví dụ trên diễn tả hoạt động cô ta cầm lọ hoa và đặt nó lên trên bàn, vì vậy
giới từ auf - trên chỉ sự chuyển động. Ngoài ra, “auf” còn miêu tả chuyển động từ
một vị trí đến một bề mặt mới như là khu vực tham chiếu. Các địa điểm như: Markt,
Straβe, Feld, Platz ... được coi là bề mặt trong tiếng Đức và cần có giới từ “auf”
[113, tr.125]
(108) Wir gehen auf den Markt.
(Chúng tôi đi ra chợ.)
Giới từ “auf” xuất hiện với các động từ chuyển động có zu hoặc với các động
từ chuyển động: marschieren, vorrücken, ziehen.
(109) Böse ging er auf mich zu.
(Anh ta giận dữ bước đến gần tôi.)
Như đã miêu tả, ý nghĩa của các giới từ “auf - trên, unter - dưới” và “über -
trên” liên quan đến cơ thể con người. Con người đứng trên mặt đất và chạm vào
mặt đất theo trục thẳng đứng. Theo mối quan hệ cơ bản này thì giới từ “auf” đứng
độc lập với các giới từ “über” và “unter” mà không yêu cầu sự tiếp xúc. [81]
Trái ngược với giới từ “auf/über - trên”, giới từ “unter - dưới” mô tả sự
chuyển động từ trên xuống dưới và cũng không có sự tiếp xúc bề mặt giữa vật này
với vật kia. [113, tr.384]
Hình 27: unter - dưới bàn
(110) Der Hund legt sich gemütlich unter den Tisch. [113]
(Con chó nằm xuống dưới bàn một cách thoải mái.)
Trong ví dụ này từ “nằm xuống” có ý nghĩa chuyển động và giới từ “unter” diễn tả
sự chuyển động ở vị trí giữa một số người hoặc vật. [88, tr.384]
Hình 28: unter - giữa khán giả
72
(111) Ich mische mich unter die Zuschauer. [88]
(Tôi hòa mình vào giữa khán giả.)
Ở đây giới từ “unter” mang nghĩa chuyển động có nghĩa là ở giữa, tôi ở giữa
đám đông là khán giả, nghĩa là ở giữa rất nhiều người cũng cùng có mặt ở đó.
Tương ứng với tiếng Việt là những giới từ “lên (trên), xuống (dưới)”. Tác giả
Nguyễn Văn Thành (2001) cho rằng giới từ “lên” diễn tả rằng đối tượng được định
vị di chuyển đến về mặt của đối tượng tham chiếu và theo sau động từ mang/vác
(tragen), đặt/để (stellen, legen) ....[49]
(112) Cậu bé đặt cuốn sách lên trên bàn một cách cẩn thận.
(Der Junge legt das Buch vorsichtig auf den Tisch.)
Giới từ “lên” miêu tả chuyển động dọc từ dưới lên trên, còn giới từ “xuống”
thì ngược lại hướng từ trên xuống dưới [27]; [28]. Giới từ “lên” và “xuống” kết hợp
với giới từ “trên” và “dưới”. Sự chuyển động mà từ một nơi được coi là “dưới” đến
một nơi được coi là “trên”, được mô tả bằng từ “lên” và theo hướng ngược lại được
mô tả bằng từ “xuống”. Khái niệm “hình thái tiêu chuẩn” đóng vai trò quan trọng
khi sử dụng “lên” và “xuống”. Theo đó “lên” mô tả hướng chuyển động đến phạm
vi của đầu và “xuống” đến phạm vi của chân. Và ở đây chúng ta không quan tâm
đến đối tượng tham chiếu ở vị trí đứng hay nằm. [54, tr.96]
(113) Đội mũ lên đầu.
(Den Hut auf den Kopf legen.)
(114) Chạy lên đầu ô tô - phía trên.
(Zum Motorraum laufen.)
(115) Để chăn xuống dưới chân.
(Die Decke an den Fuß legen.)
Ngoài ra vị trí giữa đối tượng tham chiếu và người nhìn quyết định việc sử dụng
giới từ “lên” hoặc “xuống”.
(116) Treo tranh lên trên tường.
(Das Bild an die Wand hängen.)
(117) Nhảy xuống dưới sông (In den Fluss springen.)
Như chúng tôi đã giải thích trước đó, bức tranh trong ví dụ câu (116) được treo trên
tường, dùng giới từ “an” mà không dùng “auf”, tuy nhiên hướng chuyển động lên
trên và qua đầu của người nhìn, do đó giới từ lên được sử dụng ở trong câu. Trong
73
ví dụ (117) chân được coi là mục đích của chuyển động thấp hơn điểm bắt đầu của
chuyển động, cụ thể là cái bờ sông. Chuyển động ở sông mô tả một sự chuyển động
xuống dưới và cần dùng giới từ “xuống”. Tầm quan trọng của mối quan hệ không
gian giữa người nhìn cũng được giải thích thông qua tình huống sau:
(118) Der Ball fliegt [nach unten] auf den Dach.
(Quả bóng bay xuống dưới mái nhà.)
(119) Der Ball fliegt [nach oben] auf den Dach.
(Quả bóng bay lên trên mái nhà.)
Trong hai câu, “mái nhà” được coi là mục đích của chuyển động, như vậy trái bóng
cuối cùng nằm trên mái nhà. Tuy nhiên, thông qua giới từ “lên” hoặc “xuống” trong
tiếng Việt ta có thể kết luận rằng liệu người nhìn cao hơn (118) hay là thấp hơn
(119) “mái nhà”, điều này không được thấy đối với giới từ “auf” trong tiếng Đức.
Tuy nhiên, việc sử dụng giới từ “lên” và “xuống” vẫn còn quá phức tạp, vì
“trong sự cảm nhận, sự tri giác không gian của con người đồng thời hiện hữu cả
những thuộc tính và quan hệ không gian trực quan, cảm tính, và cả những sự trừu
tượng logic, lí tính về chúng” [54, tr.145]
Vì lý do này tồn tại hai cách diễn đạt với hai giới từ có ý nghĩa trái ngược để
diễn tả sự thay đổi của tư thế từ đứng thành ngồi: ngồi xuống dưới ghế hoặc ngồi
lên trên ghế (sich auf den Stuhl setzen). Việc sử dụng các giới từ khác nhau có sự
biểu đạt khác nhau. Nếu người ngồi tự ngồi trên ghế thì hướng chuyển động hướng
xuống dưới, do đó cần sử dụng giới từ “xuống”. Đối tượng được định vị, cụ thể là
cơ thể ở trên chiếc ghế, do đó có thể sử dụng bằng giới từ “lên”.
Nhận thức không gian về sự chuyển động lên trên hoặc xuống dưới diễn ra
trong một không gian rộng lớn: đi lên núi (in die Berge fahren), đi xuống biển (ans
Meer fahren) ... và liên quan đến địa lý Việt Nam và hướng trời. [27, tr.19]; [28,
tr.28]. Trong các thành phố/ khu vực ở phía Nam của Bắc Việt Nam thường có núi
và cao hơn các đối tượng khác, do đó sự chuyển động đến các khu vực này được
biểu thị bằng giới từ “lên”. Ngược lại các thành phố/khu vực ở phía Đông miền Bắc
Việt Nam thường bao gồm hồ và biển. Để diễn đạt rằng ta lái xe về hướng đó, ta sử
dụng giới từ “xuống” như “Tôi xuống Hà Nội”.
74
Khi giải thích giới từ trên và dưới tác giả đã miêu tả hệ thống cấp bậc xã hội
theo tư duy Việt Nam của Lý Toàn Thắng mà cách sử dụng cũng bị ảnh hưởng bởi
lên và xuống. Trong ví dụ (82) Cậu ta làm việc trên thành phố (Er arbeitet in der
Stadt) chúng ta sẽ thấy rằng, vị trí của đối tượng được định vị trong thành phố được
miêu tả thông qua giới từ “trên”. Do đó, việc chuyển động lên thành phố cũng được
biểu thị bằng “lên”. [54, tr. 85]
(120) Tôi lên thành phố.
(Ich gehe in die Stadt.)
Như ở trên tác giả đã đề cập đến auf ngoài nghĩa chính là trên thì auf sử
dụng trong các ngữ cảnh khác nhau còn mang nghĩa khác nhau như: ra, vào, lên,
xuống, ... liên quan đến các giới từ có những động từ chỉ chuyển động và Nguyễn
Kim Thản gọi là động từ phương hướng vận động khi chúng đảm nhận chức năng
động từ chính, và gọi là trợ động từ khi chúng đứng vị trí sau động từ. Còn trong
tiếng Việt, trước khi đề cập đến các giới từ chỉ phương hướng chuyển động tác giả
nên chú ý đến nhóm từ chỉ hướng vận động, vì những từ này không phải luôn luôn
có chức năng như là giới từ mà nó có thể là động từ. Với Nguyễn Tài Cẩn thì động
từ phương hướng chuyển động là yếu tố trung gian hoặc quan hệ từ. Sự xuất hiện
của những từ chỉ hướng chuyển động tạo nên một mối quan hệ chặt chẽ với sự kết
hợp giữa nhận thức không gian và động từ chỉ phương hướng chuyển động. [29]. Từ
chỉ hướng chuyển động được hiểu là một từ đơn âm, thuần Việt. Nó mang hướng cụ
thể của sự vận động không gian nhưng không mang một phương thức vận động xác
định [30]. Chính vì từ chỉ hướng chuyển động không gian chưa mang phương thức
vận động xác định nên từ chuyển hướng vận động có thể đứng sau một động từ
mang tính vận động xác định nhằm bổ sung hướng hoạt động cho động từ ấy.
Trong tiếng Việt những từ như ra, vào, lên, xuống, sang, qua, đến, đi, tới... là những
từ chỉ hướng được chuyển loại từ các động từ tương ứng.
(121) Tôi ra sân. (từ ra ở đây là một động từ)
(122) Tôi đi ra sân. (từ ra trong câu này không đơn thuần là một giới từ mà
nó là một từ chỉ hướng).
75
(nhận thức về
không gian)
(Tiếp cận
động từ định
hướng)
Theo mô tả này suy ra rằng động từ chỉ hướng chuyển động và tính từ nhận
thức không gian xuất hiện ở trước những từ chỉ hướng chuyển động. Đặc biệt, các
giới từ tĩnh tại có thể được thêm vào giữa từ chỉ hướng chuyển động và động từ, ví
dụ: Dựng cái xe vào cạnh tường (Stell das Fahrrad an die Wand) hoặc hai từ chỉ
hướng chuyển động có thể đứng cạnh nhau ví dụ như: Cô ấy đi ra đến sân (Sie geht
auf den Hof). Các nhà ngôn ngữ học bày tỏ ý kiến khác nhau về số lượng từ trong
nhóm này. Lê Văn Lý xếp các từ “đi, lên, xuống, ra, vào, về, lại, đến, tới, sang,
khỏi” vào nhóm này, nhóm những từ chỉ hướng chuyển động. [27, tr.9].
Nguyễn Lai cũng cho rằng các từ chỉ phương hướng chuyển động có chức
năng khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau, đặc biệt nhấn mạnh vào chức năng
như là động từ của các từ chỉ hướng chuyển động [28]. Còn Nguyễn Kim Thản
phân loại những từ chỉ hướng chuyển động thành các động từ: “Trong những động
từ thuần, có một nhóm động từ đặc biệt là động từ chỉ sự vận động có phương
hướng xác định như: ra, vào, lên, xuống, sang, qua, lại, về, tới, đến” [40, tr.101].
Tuy nhiên có một mối liên hệ chặt chẽ giữa chức năng như là động từ và giới từ của
từ chỉ hướng chuyển động. Thông qua ví dụ sau khẳng định rằng chức năng như là
động từ của từ chỉ hướng chuyển động được phái sinh từ chức năng như là giới từ.
(123) Chim bay về tổ). [40] (Die Vögel fliegen ins Nest.)
Verb + Präposition
(124) Chim về tổ. (Die Vögel fliegen ins Nest.)
Verb
Nguyễn Lai cũng cho rằng diễn đạt câu (123) đã được rút ngắn theo thời gian và
qua đó diễn đạt thành câu (124) được xuất hiện. Động từ “về” trong câu (124) có
thể có ý nghĩa của động từ “bay” (fliegen) và giới từ “về” (in), vì chim chỉ có di
76
chuyển bằng đôi cánh và do đó từ chỉ hướng chuyển động “về” ta có thể biết được
loại và hướng chuyển động [27, tr.14]. Trong một nghiên cứu khác ông đã chỉ ra rõ
ràng rằng các giới từ chỉ phương hướng chuyển động có đặc điểm đặc biệt [28].
Trong ví dụ (123) giới từ “về” không được bỏ đi mà đó là câu bị sai ngữ pháp:
*Chim bay (...) tổ. Khác với giới từ trong nhóm khác, giới từ chỉ phương hướng
chuyển động không thể thay đổi vị trí của nó với các thành phần câu khác: *Về tổ
chim bay (Ins Nest fliegen Vögel). Đặc biệt sự bổ sung sau giới từ đóng vai trò để
làm rõ mục đích của hành động và không nhất thiết phải xuất hiện: Chim bay về.
(*Die Vögel fliegen nach/ in/ ...). Ngoài ra, các giới từ chỉ phương hướng chuyển
động có thể kết hợp với các giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại: vào trong (in + đối cách),
lên trên (auf + đối cách) ...
Giới từ “ra” biểu thị sự chuyển động từ một nơi kín hẹp đến một nơi khác
rộng mở hơn và “vào” thì ngược với “ra”. Hai giới từ theo sau động từ chuyển
động và các động từ khác như “nhìn”(sehen), “trông” (gucken/ schauen),
“mang” (tragen) [49, tr.49]; [28, tr.29]; [28, tr.30]; [26, tr.28].
Sự đóng và mở không gian được miêu tả thông qua hình khi giải thích giới từ
“trong” và “ngoài”. Theo đó, giới từ “ra” được sử dụng cho hướng chuyển động từ
không gian được biểu thị bằng “trong” đến không gian được diễn đạt bằng “ngoài”
và “ngoài” được sử dụng theo hướng ngược lại. Giới từ “ra” cũng được sử dụng để
diễn tả sự chuyển động từ phòng ngủ ra phòng khách và sự chuyển động từ phòng
khách vào phòng ngủ được diễn đạt bằng từ “vào”, vì phòng ngủ so với phòng
khách được coi như là một không gian đóng. [54]
Theo quan sát của tác giả, người Việt Nam ngoài sử dụng cách diễn đạt sang
nước ngoài còn dùng ra nước ngoài. Do vậy, tôi cho là người Việt Nam xem xét đất
nước (Việt Nam) với các khía cạnh khác nhau:
Xem xét 1: như là một đơn vị giữa các đơn vị khác (các quốc gia khác). Sự
chuyển động của một đơn vị này sang một đơn vị khác qua biên giới được mô tả
thông qua từ “sang”.
Xem xét 2: như là một không gian đóng so với các quốc gia khác. Sự di
chuyển từ không gian đóng này sang không gian mở cần dùng giới từ “ra”.
Việc sử dụng giới từ “ra” và “vào” có liên quan chặt chẽ đến địa lý Việt
Nam. Đặc điểm miền Bắc to hơn hoặc rộng hơn miền Nam Việt Nam được nhìn
77
thấy qua cách diễn đạt ra Bắc (nach Nordvietnam) và vào Nam (nach Südvietnam).
[28]. Cần lưu ý rằng “phía Bắc” (Nordvietnam) và “phía Nam” (Südvietnam) trong
trường hợp này là kết quả của việc mở rộng ý nghĩa. “Bắc” (nördlich) và “Nam”
(südlich) về nguồn gốc là hướng trời và theo thời gian mang ý nghĩa là tên của hai
khu vực: Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam.
Đặc biệt, nhận thức không gian ở các khu vực khác nhau (miền Bắc, miền
Trung, miền Nam) (Nordvietnam, Mittelvietnam, Südvietnam) cũng khác nhau. Lý
Toàn Thắng miêu tả năm yếu tố ảnh hướng đến nhận thức không gian gồm: địa
hình (cao – thấp) (hoch- niedrig), địa điểm có sông, hướng di chuyển Đất – Bãi
biển, hướng di chuyển Bắc – Nam, hướng di chuyển Địa điểm đóng – địa điểm mở.
Theo đó ta có sơ đồ sau về nhận thức khu vực của miền Bắc: [54]. (Hoa Binh ist
eine Stadt mit vielen Bergen. Neben Gia Lam fließt ein Fluss. In Quang Ninh gibt es
Strände. Die Stadt Ho Chi Minh liegt in Südvietnam. Früher war die Stadt Ha
Dong sehr geschlossen und von Wäldern bedeckt)
Cần lưu ý rằng từ “vào” không chỉ đứng trước các đối tượng có ba chiều mà còn
trước đối tượng có hai chiều, ví dụ như: tường, bàn, mâm ...
(125) Nó quay mặt vào tường.
(Er dreht sich zur Wand.)
(126) Đứng vào góc tường!
(Steh an die Ecke!)
(127) Ngồi vào mâm đi anh!
(Setz dich zu Tisch zum Essen!)
Khi người Việt Nam nói vào tường, nó không có nghĩa là “*in die Wand”
(trong tường), vì tất nhiên ta không thể di chuyển đến tường. Để giải thích cách sử
dụng của từ “vào” trong trường hợp này, tác giả muốn nhắc lại khái niệm “đường
bao”. Không chỉ con người mà còn các đối tượng vô hình cũng có một khu vực
78
xung quanh riêng. Thông qua từ “vào” trong ví dụ (125) và (126) cho rằng đối
tượng được định vị nằm trong vùng xung quanh của đối tượng tham chiếu là
“tường” và “góc”. Việc sử dụng từ “vào” trong câu (127) phụ thuộc nhiều vào văn
hóa Việt Nam. Người Việt truyền thống không ăn trên bàn mà thường ăn trên mặt
đất. Toàn bộ gia đình ngồi quanh một chiếc mâm, dưới mâm trải chiếc chiếu hoặc
đặt trên nền nhà, trên mâm có các món ăn được bày ra. Cách diễn đạt “ngồi (sich
setzen) vào (in) mâm (Tablett)” với người Việt Nam thì không được hiểu rằng ta
ngồi trên mâm mà là ta ngồi xuống xung quanh mâm để ăn cơm.
2. Nghĩa phương tiện
Ở cách sử dụng này, có thể thấy rất rõ rằng, sự bao chứa là mối quan hệ có
tính dị biệt hơn cả. Khi auf được sử dụng chủ yếu với các phương tiện vận tải có bề
mặt hoặc sàn rộng để có thể bao chứa và nâng đỡ các vật thể hoặc du khách có
trọng lượng ... Nếu phương tiện vận tải nhỏ thì sự bao chứa càng trở nên dị biệt hơn
nữa, và auf càng trở nên khó chấp nhận hơn qua việc so sánh những ví dụ như sau:
(128) Die Kinder im Bus. (im = auf)
(Những đứa trẻ trên xe buýt.)
(129) Die Besatzung auf dem Boot.
(Đội thủy thủ trên thuyền.)
Như đã nói ở trên, khi auf dùng với các phương tiện qua những ví dụ thì nó
mang tính chuyển động và phải được áp dụng trong trường hợp phương tiện vận tải
đang di chuyển, cho dù có thể ở một khoảnh khắc cụ thể khi chúng tạm thời không
di chuyển thì người ta vẫn sử dụng auf mang tính chuyển động.
Trong tiếng Việt cũng vậy, khi nói đến các phương tiện đang di chuyển để
nói đến sự bao chứa và nâng đỡ thông qua những ví dụ:
(130) Người khách hàng trên taxi. [48]
(Der Kunde im Taxi (im = auf).)
(131) Người câu cá trên xuồng. [48]
(Die Fischer auf dem Kanu.)
2.2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa giới từ tri nhận không gian “in” trong tiếng Đức đối
chiếu với tiếng Việt
Theo các tác giả (Dirven, 1993; Hawkins, 1998; Herskovits, 1986, 1988;
Hottenroth, 1993; Lindstromberg, 1998; Miller và Johnson-Laird, 1976; Quirk và các
79
cộng sự, 1985, Vandeloise, 1991, 1994) thì từ in và từ cùng gốc với nó trong ngôn ngữ
Ấn - Âu (đặc biệt trong tiếng Đức, tiếng Hà Lan và tiếng Pháp) đã được nghiên cứu rất
sâu rộng và cặn kẽ. Vì vậy, trong việc phân tích từ in trong luận án này nhằm cung cấp
một luận giải có tính phương pháp luận về phạm vi của sự đa nghĩa gắn với từ in.
Ngoài ra việc phân tích in sẽ là bước khởi đầu hữu ích để tìm hiểu ngữ nghĩa gắn với
các tiểu từ tri nhận không gian khác mà liên quan đến LM có bao giới.
Theo tác giả Tyler và Evan, (bản dịch của Lâm Quang Đông và Nguyễn
Minh Hà [140, tr.287] thì “điển cảnh của in tạo nên một quan hệ không gian trong
đó TR được định vị trong LM có ba yếu tố cấu trúc nổi bật là khu vực bên trong,
bao giới và bên ngoài”. Ngoài quan hệ không gian đã được ấn định, điển cảnh của
in gắn với yếu tố chức năng của sự bao chứa. Điển cảnh của in được thể hiện trong
hình, LM được thể hiện bằng đường viền đậm còn TR bằng hình tròn đậm.
Hình 29: in - trong
LM có bao giới phi điển hình: Như chúng ta biết, vì sự ý niệm hóa của con người có
tính linh hoạt nên các thành tố chức năng và không gian cần thiết có thể được hiểu
là song song tồn tại với các khung cảnh không gian không bao gồm các LM ba
chiều điển hình. Qua một số ví dụ sau cho thấy LM được ý niệm hóa là mặt phẳng,
như vậy là chỉ có hai chiều. Do những LM như vậy được tri nhận là có khu vực bên
trong nghĩa là có bao giới và bên ngoài, chúng được ý niệm hóa là có bao giới và vì
thế điển cảnh của in có thể được sử dụng:
(132) Der Fisch schwimmt im See.
(Cá bơi ở trong hồ.)
(133) Die winzige Oase befindet sich im Dessert.
(Ốc đảo nhỏ trong sa mạc.)
Trong ví dụ (132), ta ý niệm hóa con cá bị (bao chứa) bởi cái hồ. Tuy nhiên
ở đây thì cái hồ không phải là LM ba chiều điển hình. Do hồ có khu vực bên trong
(phần tạo nên ao), bao giới là nước, bùn, đất, bờ hồ và bên ngoài hồ, khung cảnh
không gian cụ thể này có thể được tri nhận là bao gồm một LM có bao giới và do đó
80
nó tạo nên quan hệ bao chứa. Ở đây ao bao chứa cá thường được bao lại bởi các vật
cản như bờ hồ hay tường bao kè đá ngăn hạn chế sự chuyển động và do vậy khung
cảnh không gian này có bao gồm LM ba chiều điển hình. Nhưng chúng ta cũng cần
lưu ý rằng không chỉ LM được ý niệm hóa trong những ví dụ có bao giới có vật cản
mà nó còn xuất hiện trong cả những ví dụ có bao giới mà không có vật cản vật lý
nào cản trở sự chuyển động cả, như trong ví dụ (133) cho thấy như vậy. Điều này có
nghĩa là bởi có một LM được ý niệm hóa có khu vực bên trong đối lập với bên
ngoài, kéo theo việc hiện hữu bao giới, đồng thời làm nảy sinh sự ấn định về bao
chứa. Trong ví dụ (133), LM sa mạc được ý niệm hóa là bao chứa TR ốc đảo, dù
không có rào cản vật lý nào như tường bao bao giới quanh sa mạc.
Tương tự, in thể hiện quan hệ không gian - chức năng trong khung cảnh
không gian như các châu lục, biển, đại dương, quốc gia, khu vực, tỉnh thành cũng
như sự phân giới về địa lý, vật lý khác nhau như đô thị, v.v.
(134) Deutschland in Europa
(Nước Đức ở Châu Âu)
(135) London ist die größte Stadt in England
(London là thành phố lớn nhất ở Anh)
(136) Sie lebt in der Stadt Berlin
(Cô ấy sống ở thành phố Berlin)
Tương tự như vây, trong trong tiếng Việt cũng biểu thị các khung cảnh
không gian trong đó điều kiện không khí đóng vai trò chủ đạo được ý niệm hóa là
bao bọc TR thể hiện qua các ví dụ như sau:
(137) Đứa bé bị ướt trong mưa.
(Das Kind war im Regen nass.)
(138) Chiếc lá bay trong gió.
(Blatt weht im Wind.)
Ở đây điểm mấu chốt trong kiểu sử dụng này là khung cảnh không gian
mưa, gió trong không khí cũng được hình dung là một thực thể. Do vậy, một đối
tượng vật lý không chỉ được hình dung là có thể được hàm chứa trong không gian
mà còn có thể được bao bọc hoàn toàn bởi không gian xung quanh nó, và có thể
được thay đổi từ vị trí thông thường của nó như ví dụ (138).
81
2.2.2.1. Giới từ “in” chỉ địa điểm tĩnh tại đối chiếu với tiếng Việt.
Theo Mansour, M. A [113, tr.96] và Weinrich, H [142, tr.632], giới từ in
diễn tả mối quan hệ bên trong được tạo ra thông qua một không gian và đối tượng
có trong không gian này.
Schröder cũng nêu ra chức năng khác của in. “Với in, các tên riêng về địa
điểm (không có mạo từ) như đất nước, núi, thắng cảnh và hướng trời được coi là
khu vực định vị” [120, tr.126]. Weinrich đề cập đến không gian của địa điểm thông
qua giới hạn tự nhiên hoặc giới hạn chính trị. [142]
(139) Sie war im Osten.
(Cô ta ở hướng Đông.)
(140) Es ist einfach toll, im Gebirge zu wandern.
(Thật tuyệt khi đi bộ trên núi.)
Giới từ “in - trong” diễn tả một đối tượng ở trong một đối tượng khác là một
không gian. Trong tiếng Việt, giới từ “trong” thường đi với các động từ mà không
có sự chuyển động, ví dụ: nằm, làm việc ...
(141) Cái váy đỏ ở trong va li rồi nhé.
(Das Rotes Kleid ist schon im Koffer.)
Do vậy những nghĩa lý tưởng của giới từ in được hiện thực hóa trong hoạt
động của ngôn ngữ theo năm nghĩa sau:
1. Nghĩa không gian
2. Nghĩa tại chỗ
3. Nghĩa trạng thái
4. Nghĩa viền bao quanh
5. Nghĩa tiếp cận được bằng tri giác
1. Nghĩa không gian
Về tiểu từ không gian “in”, thảo luận của Vandeloise (1991, 1994) về các
phương diện chức năng của sự bao chứa đã chứng tỏ một cách thuyết phục rằng
thành tố không gian không thể chỉ đánh đồng với riêng các yếu tố không gian mà
thôi [140, tr.282] (bản dịch Lâm Quang Đông và Nguyễn Minh Hà). Sơ đồ trong
hình sau lấy từ quan điểm của Vandeloise.
82
Hình 30: Vandeloise, 1994: 172
Theo Vandeloise hình ảnh được thể hiện trong hình có thể được tri nhận là
một chiếc bóng đèn hoặc một cái chai và ông có thể thoải mái miêu tả quan hệ giữa
vật định vị dịch chuyển (TR - trajector) bóng đèn và mốc định vị (LM - Landmark)
đui đèn như:
(142) Die Glühbirne ist in der Fassung.
(Bóng đèn trong đui đèn.)
Ở đây điển cảnh của in tạo nên một quan hệ không gian trong đó TR được
định vị trong LM có ba yếu tố cấu trúc nổi bật là khu vực bên trong, bao giới và bên
ngoài. Ngoài quan hệ không gian đã được ấn định thì ở đây điển cảnh của in gắn với
yếu tố chức năng của sự bao chứa.
Trong tiếng Việt từ trong được hiểu là một vật thể ở trong một cái bao chứa,
khi đó vật thể chứa đựng là ĐTQC và vật thể được chứa đựng là ĐTĐV. Có một số
dạng được đề cập mà phổ biến là sự chứa đựng không khép kín trong không gian,
dạng này có thể thuộc về các vật có mặt lồi lõm giống như rổ, bát, cốc, túi, ...
(143) Quả cam trong túi. (Orange in der Tasche.)
(144) Sữa trong cốc. (Milch in der Tasse.)
Một dạng chứa đựng không khép kín khác có thể thuộc về các đối tượng
giống hình trụ, hoặc có thể bao gồm các không gian được giới hạn bằng hai mặt
phẳng tại một góc.
(145) Cái bàn trong góc. (Der Tisch in der Ecke.)
(146) Những bông hoa khô trong quyển sách.
(Die getrockneten Blumen sind im Buch.)
2. Nghĩa tại chỗ
“Mối tương quan trải nghiệm giữa việc định vị một cách chắc chắn là TR cơ
bản nằm yên trong một vị trí nhất định” [140]. Theo cách hiểu truyền thống nghĩa là
TR nằm yên đồng vị với một vùng không gian nổi bật do LM ấn định trong một
83
khoảng thời gian dài và cách hiểu này cung cấp nghĩa bổ sung vốn không rõ ràng
trong điền cảnh. Nghĩa này được minh họa qua những ví dụ như sau:
(147) Er heilt im Krankenhaus.
(Anh ấy đang điều trị trong bệnh viện.)
(148) Er ist im Raum.
(Anh ấy ở trong phòng.)
Trong ví dụ (147) thì TR là anh ấy được định vị tại LM (bệnh viện) trong
một thời gian dài và có mục đích cụ thể là chữa bệnh, như vậy rõ ràng bệnh viện
thuộc một tòa nhà LM có bao giới. Còn trong ví dụ (148) TR (anh ấy) vẫn được
định vị là ở trong phòng, và TR được hiểu là đang ở vị trí mặc định là ở nhà. Do
vậy TR được định vị một cách chắc chắn, đảm bảo trong một LM có bao giới có thể
trong một khoảng thời gian dài.
Trong tiếng Việt, giới từ “trong” thường đi cùng với giới từ “ngoài” được sử
dụng khi nói về phòng khác nhau trong một ngôi nhà hoặc căn hộ. Ở Việt Nam
người ta thường thiết kế nhà sao cho phòng khách nằm ngay ở cửa nhà so với các
phòng khác. Phòng ngủ thì thường ẩn giấu vì phòng này là không gian riêng của
con người. Do đó sẽ có diễn dạt sau:
(149) Mẹ ơi, mẹ đang ở ngoài phòng khách à? Con đang ở trong phòng ngủ.
(Mama, bist du im Wohnzimmer? Ich bin im Schlafzimmer.)
Đối tượng TR được định vị có ở trong những phòng khác nhau LM và yêu
cầu các giới từ khác nhau cho vị trí của chúng. Từ đó suy ra rằng mối quan hệ
không gian giữa các phòng khác nhau mà có đối tượng tham chiếu thì việc lựa chọn
giới từ trong tiếng Việt cũng có liên quan. Trái ngược với từ trong thì ngoài mô tả
rằng một đối tượng ở bên ngoài phạm vi của một đối tượng khác. Giới từ này phù
hợp với các giới từ trong tiếng Đức là “auβer” và “auβhalb”.
(150) Cô bé đứng ngoài đường tròn.
(Das Mädchen steht außerhalb des Kreises.)
Ngoài ra giới từ “ngoài” mô tả một đối tượng nằm ngoài không gian mà một đối
tượng khác đang nằm trong.
(151) Tớ đợi cậu ngoài cửa nhé!
(Ich warte auf dich vor der Tür, ja!)
84
Ở đây cho rằng người nói đứng cạnh cửa và ngoài ngôi nhà mà một người
khác đang ở trong. “Cửa” không phải là một không gian mà chỉ là một bề mặt, tuy
nhiên cách diễn đạt “ngoài cửa” được chấp nhận vì “cửa” trong trường hợp này
tượng trưng cho ngôi nhà. Lý Toàn Thắng đưa ra lý do cho sự mở rộng ý nghĩa này
là một số từ không cần thiết sẽ bị bỏ đi theo thời gian.
Ông giải thích quá trình này thông qua sơ đồ sau:
Trong tiếng Việt thường hay có diễn đạt “ngoài biển“ (am Meer), “ngoài đồng“
(auf dem Feld), “ngoài vườn” (auf dem Feld), “ngoài đường” (auf der Straße), ...
nếu không nhắc đến một địa điểm nhất định. Các danh từ đứng sau giới từ “ngoài”,
giống nhau ở một điểm là chúng là một nơi tự do không có trần hoặc tường bao
quanh. Hình ảnh sau đây sẽ mô tả sự to lớn của không gian khác nhau trong tiếng
Việt: trong nhà (im Haus) < ngoài sân (auf dem Hof) < ngoài vườn (im Garten) <
ngoài ngõ (in der Gasse) < ngoài đường (in der Straße) < ngoài đồng (auf dem
Feld) < ngoài đê (auf dem Deich) < ngoài bãi sông (am Fluss) <đường (Straße) >
ngõ (Gasse) > vườn (Garten) > sân (Hof) > nhà (Haus) > buồng (Zimmer) ...
Mối quan hệ không gian giữa người nhìn/người nói và đối tượng được định vị quyết
định sự lựa chọn giới từ trong câu nói trong nhiều trường hợp. Ba câu nói sau với các
giới từ khác nhau trong tiếng Việt được dịch giống nhau sang tiếng Đức. Việc sử dụng
giới từ phụ thuộc vào vị trí của người nhìn và của đối tượng được định vị.
(152) Cậu bé đứng trong hàng rào. (Der Junge steht neben dem Zaun.)
(153) Cậu bé đứng ngoài hàng rào. (Der Junge steht neben dem Zaun.)
85
(154) Cậu bé đứng bên kia hàng rào.
(Der Junge steht neben dem Zaun/andererseits des Zaunes.)
Trong ví dụ (152) cậu bé đứng trong vườn và người nhìn đứng ngoài vườn.
Diễn đạt “trong hàng rào” mô tả cái gì đó cụ thể là cậu bé thấy ở trong vườn trong
trường hợp này và bên cạnh hàng rào. Ngược lại, “ngoài” trong ví dụ (153) diễn tả
rằng cậu bé đứng ngoài vườn nơi mà người nhìn đang đứng. Rất đáng lưu ý rằng
hàng rào không phải là một không gian, cách diễn đạt “ngoài hàng rào” và “trong
hàng rào” cũng xuất hiện trong tiếng Việt và không ai hiểu rằng đối tượng tham
chiếu thấy ở “trong” hoặc “ngoài hàng rào”. Trong ví dụ (154) không những người
nhìn mà còn cậu bé ở trong vườn, do đó giới từ “trong” và “ngoài” không được
dùng để miêu tả mối quan hệ không gian. Thay vào đó, “bên kia” được sử dụng vì
trong trường hợp này hàng rào được coi là ranh giới giữa họ.
3. Nghĩa trạng thái
Grady (1997a) và Lakoff và Johnson (1999) đã biện luận rằng ẩn dụ khởi
thủy dựa trên mối tương quan thông thường về trải nghiệm bao gồm một vị trí cụ
thể (LM) và trạng thái mà thực thể (TR) đó đã trải qua, hoặc tình huống cụ thể mà
TR đó ngẫu nhiên phải chịu đựng [140, tr.292]. Điều này được mô tả qua ví dụ sau:
Der Junge sitzt sehr brav auf dem Schoß seiner Oma. (155)
(Thằng nhỏ ngồi ngoan ngoãn trong lòng bà.)
Ở đây trong tiếng Việt, chúng ta hiểu rằng danh từ “lòng” có nghĩa là phần
kết nối đùi với bụng, nếu ta ngồi trên một cái ghế hoặc nằm với tư thế uốn cong.
Với ý nghĩa này có nghĩa rằng “lòng” nằm bên ngoài bụng, mặc dù không có diễn
đạt “trên lòng” mà là “trong lòng”. Lý do là vì ý nghĩa gốc của từ “lòng” là một từ
mang sắc thái trừu tượng trong bụng con người. Ở đây thằng nhỏ (TR) đang ngồi
trong lòng bà được bao bọc, che chở bởi cánh tay của bà (LM) do đó sẽ trải nghiệm
cảm giác an toàn và được yêu thương. Nếu một số em bé khác trải nghiệm cảm giác
cô lập và sợ hãi khi bị bỏ lại một mình trong phòng tối thì qua nhiều lần sẽ lặp đi
lặp lại một trạng thái cảm xúc cụ thể trải nghiệm tại một khu vực cụ thể, mối tương
quan giữa vị trí và trạng thái tình cảm hoặc trạng thái vật lý được xác lập ổn định.
Lý do là vì có mối tương quan chặt chẽ giữa việc đang được định vị trong LM có
bao giới với một trạng thái cụ thể mà việc định vị đó đem lại. Điều này được chỉ rõ
hơn qua ví dụ sau:
86
(156) Er ist im Gefängnis.
(Anh ấy ở trong tù.)
(157) Er ist ein Gefangener.
(Anh ấy là một tù nhân.)
Câu ví dụ (156) ấn định một khung cảnh hay một khu vực cụ thể trong đó anh ấy
(TR) được định vị trong một LM cụ thể có bao giới là nhà tù. Mục đích rõ ràng của
LM có bao giới bởi bốn bức tường kín như vậy để hạn chế tự do của người ngồi tù.
Ở ví dụ (157) miêu tả tù nhân có mối tương quan chặt chẽ với việc định vị trong
giới hạn của nhà tù. Rõ ràng ở cả hai ngôn ngữ, thông qua mối tương quan chặt chẽ
này giữa việc định vị trong một LM có bao giới và trạng thái được trải nghiệm
khiến cho nghĩa trạng thái riêng biệt dần dần được gắn với giới từ “in - trong”.
4. Nghĩa viền bao quanh
Khái niệm “viền bao quanh” của cơ thể con người cũng ảnh hưởng đến việc sử
dụng giới từ “trong” và “ngoài”. “Đường bao” được hiểu là cơ thể con người có
một không gian riêng bao quanh. Do đó ta sẽ xác định liệu giới từ “trong” và
“ngoài” được sử dụng như thế nào.
(158) Ein Hemd unter einem Pullover tragen.
(Mặc áo sơ mi trong áo len.)
Mặc dù ta không mặc áo sơ mi “trong” áo len nhưng giới từ “trong” vẫn được sử
dụng. Lý do là vì áo sơ mi gần với cơ thể con người hơn áo len và bên trong đường
bao hoặc “trong” không gian của cơ thể. Do đó áo len nằm ngoài đường viền này và
vị trí của nó được miêu tả bằng giới từ “ngoài”.
(159) Einen Pullover auf einem Hemd tragen.
(Mặc áo len ngoài áo sơ mi.)
Với phân tích này có một vấn đề rằng đường bao không phải lúc nào cũng được xác
định dễ dàng.
(160) Die Polizei findet keine Waffe an seinem Körper.
(Cảnh sát không tìm thấy vũ khí trong người hắn.)
(161) Ich fühle mich sehr unangenehm.
(Tôi cảm thấy rất khó chịu trong người.)
Trong ví dụ (160) không gian của cơ thể người bao gồm cơ thể và cũng bao
gồm cả quần áo mà được mặc trên cơ thể. Vũ khí mà ẩn dưới quần áo cũng thuộc
không gian của cơ thể và vị trí của nó được diễn tả bằng “trong”.
87
Ngược lại đường bao trong ví dụ (161) được coi là đường thẳng mà chỉ đường giới
hạn con người (không có quần áo). Trong người ở đây nhắc đến các cơ quan nội
tạng mà có ở trong cơ thể.
Thông qua nghiên cứu của mình Lý Toàn Thắng đã tìm ra rằng không chỉ cơ
thể con người mà cả tất cả các đồ vật khác cũng có một không gian riêng.
(162) Đứa bé nằm trong chăn.
(Das Baby liegt unter der Decke.)
Đứa trẻ tất nhiên có thể không nằm “trong” chăn, vì chăn không là một
không gian. Xung quanh cái chăn còn có một phòng mà đứa bé trong phòng có
chăn. Ở đây đứa bé nằm trong chăn tức là nằm trong không gian một căn phòng.
Các ví dụ tiếp sau đây chỉ ra không gian của đồ vật rõ ràng hơn.
(163) Đứa bé nằm trong (phía tường).
(Das Kind liegt in die Wand.)
Câu tiếng Đức nên là (Das Kind liegt neben der Wand.)
(164) Mẹ nằm ngoài (tường).
(Die Mutter liegt außerhalb die Wand)
Câu tiếng Đức nên là (Die Mutter liegt am Rand des Bettes.)
Đối với các cách diễn đạt này cần một ý nghĩa rằng chiếc giường nơi mà
người mẹ và đứa trẻ nằm được đặt cạnh tường. Vì đứa trẻ nằm gần tường hơn nên
nó sẽ được thấy trong không gian của nó. Do đó chúng ta sử dụng giới từ trong.
Ngược lại, giới từ ngoài được sử dụng cho vị trí của người mẹ vì người mẹ nằm
cạnh rìa của chiếc giường, ngoài không gian của tường. Các ví dụ (163), (164)
không dễ được dịch sang tiếng Đức vì trong tiếng Đức không có khái niệm nào như
“trong” hoặc “ngoài” tường.
Theo bản dịch của Lâm Quang Đông và Nguyễn Minh Hà thì một vấn đề lặp
đi lặp lại với sự bao chứa là TR phải được bao quanh đến mức nào bởi LM để có
thể được tri nhận là được bao chứa (Herskovits, 1988; Vandeloise, 1994, .... ). Vấn
đề này liên quan đến việc làm thế nào mà in lại có thể thể hiện một quan hệ trong đó
LM hoàn toàn bao bọc TR ví dụ như chiếc áo len đựng trong một chiếc hộp được
bọc rất đẹp (Der Pullover ist in einer wunderschön verpackten Schachtel), cũng
như một quan hệ mà chỉ có một phần của TR được bao bọc bởi LM, ví dụ như:
(165) Bóng đèn trong đui đèn.
88
(Die Glühbirne ist in der Fassung.)
5. Nghĩa tiếp cận được bằng tri giác
Nhờ có bộ máy giác quan của mình xét từ tầm nhìn thì kết quả của việc
người trải nghiệm và điểm nhìn đều được định vị bên trong LM có bao giới là TR
và môi trường bên trong do LM bao giới đều hiện hữu đối với người trải nghiệm.
Nhưng LM có bao giới (như trong một căn phòng đóng kín có bốn bức tường)
thông thường chúng ta phải có vị trí ở bên trong LM có bao giới đó sẽ khác biệt với
tình huống khi người trải nghiệm có vị trí bên ngoài LM có bao giới. Nếu người trải
nghiệm có vị trí ngoại biên so với LM có bao giới, khu vực bên trong và TR có thể
không nhìn thấy được. Và khi người trải nghiệm có vị trí bên trong LM có bao giới,
thì giới hạn của LM và giới hạn của tính tiếp cận được bằng tri giác thường trùng
nhau. Ví dụ nếu chúng ta ở trong phòng kín thì tất cả những gì chúng ta tiếp cận
được bằng tri giác đều ở trong phạm vi phòng kín đó. Còn với vị trí ngoại biên so
với LM, khu vực bao giới và khu vực bên trong, thì người trải nghiệm không thể
cảm thấy mình tri giác khái quát được khu vực lớn hơn. Qua những ví dụ sau chúng
ta có thể hiểu được rằng, nhờ trải nghiệm thường xuyên lặp đi lặp lại của người tri
nhận có vị trí bên trong LM có bao giới và kết quả là tính tiếp cận được bằng mắt
đối với không gian bị bao giới bên trong và TR đối với người tri nhận, thì “in” đã
phát triển thành nghĩa tiếp cận tri giác.
(166) Ich habe es im Blick.
(Tôi có nó trong tầm nhìn = Tôi nhìn thấy nó.)
(167) Ich habe ihn in Sicht.
(Tôi có anh ấy trong tầm nhìn = Tôi thường gặp anh ấy)
Trong tiếng Việt tương tự như vậy, từ trong cũng mang nghĩa tiếp cận tri giác.
(168) Tom luôn luôn trong tầm nhìn của mẹ.
(Tom ist immer in Sichtweite seiner Mutter.)
Những ví dụ trên đều nói đến “in - trong” biểu thị mối quan hệ giữa TR và
tính hiện tại của giác quan đối với một người trải nghiệm nào đó (điểm nhìn), tri
giác của các giác quan hiện có bị giới hạn bởi yếu tố bao giới LM. Tuy nhiên, mặc
dù tri giác của con người có thể bị giới hạn nhưng giới hạn đó không nhất thiết kéo
theo một LM bị bao giới ba chiều. Ví dụ khi chúng ta nhìn lên bầu trời thì còn có
nhiều thứ bên ngoài tầm nhìn của chúng ta mà ta ý niệm hóa giới hạn đó như đường
89
bao giới, đường bao giới này không thật sự tồn tại. Như vậy mối tương quan trải
nghiệm chặt chẽ này được phản ánh trong hệ thống ngôn ngữ không chỉ bởi các tiểu
từ không gian cụ thể được dùng để biểu thị giới hạn đối với sự tiếp cận tri giác
trong/ ngoài mà còn sử dụng các danh từ như trường thị giác, trường thị lực, tầm
nhìn, tầm thị lực (ví dụ: Họ ở ngoài tầm nhìn) được ý niệm hóa là LM có bao giới
gắn với đường bao giới.
2.2.2.2. Giới từ “in” chỉ phương hướng chuyển động đối chiếu với tiếng Việt.
Giới từ “in” đứng trước tên riêng có mạo từ như ví dụ trên là “hiệu sách” và
cụ thể là các tên riêng như “quốc gia, núi, thắng cảnh, hướng trời ...” và nó mô tả
sự chuyển động dẫn đến đối tượng bên trên. [113, tr.149]
(169) Wir fahren in die Schweiz.
(Chúng tôi sẽ đến Thụy sĩ)
Các động từ chuyển đổi địa điểm có thể xuất hiện trước giới từ “in - trong”,
nếu toàn bộ sự chuyển động diễn ra trong một không gian nhất định.
(170) Im großen Raum läuft der Junge hin und her.
Cậu bé chạy qua chạy lại trong căn phòng rộng lớn.
Giới từ in có thể được sử dụng hoặc để đánh dấu vị trí bên trong LM có
bao giới hoặc để diễn đạt định hướng tới LM. Cách sử dụng thứ nhất được diễn
đạt kết hợp với hình thức đánh dấu Tặng cách, còn cách thứ hai là bằng hình thức
đánh dấu Đối cách. Khi in xuất hiện trong những ngữ cảnh bao gồm TR ở Đối
cách và động từ chuyển động, thì cách hiểu sẽ bao gồm TR ban đầu ở bên ngoài
và hướng về phía LM và sau thì có vị trí bên trong.
Do sự hiện diện thường xuyên của các LM có bao giới trải nghiệm hàng
ngày của chúng ta, và phạm vi cũng như khác biệt của những LM như vậy, hầu
như không có gì đáng ngạc nhiên là ta tương tác với LM có bao giới theo nhiều
cách thức khác nhau. Điều này được phản ánh qua sự phức tạp của mạng đa nghĩa
gắn với in, và tập hợp các nghĩa khác nhau gắn với nó. Và chúng tôi xác định
được bảy nghĩa của in như sau:
1. Nghĩa hoạt động
2. Nghĩa phương tiện
3. Nghĩa đến nơi
4. Nghĩa biến mất
90
5. Nghĩa chuyển động từ ngoài vào trong của “in”
6. Nghĩa bao bọc một phần
7. Nghĩa hình dạng là bao giới
Khái niệm LM có bao giới giúp chọn ra vùng không gian nổi bật đang bao
chứa TR để ưu tiên và tạo nên một tập hợp các nghĩa có liên quan chặt chẽ với
nhau, chúng tôi sẽ khảo sát sơ lược từng nghĩa như sau:
1. Nghĩa hoạt động
Nghĩa hoạt động có mối tương quan thường trực giữa một hoạt động cụ thể
với LM có bao giới, nơi có hoạt động được diễn ra. Ví dụ một người làm việc cho
một giám đốc (hoạt động) trong văn phòng của ông ấy thì có thể được tri nhận và
mô tả như sau:
(171) Er arbeitet im Büro des Direktors.
(Anh ta làm việc trong văn phòng Giám đốc (=làm việc cho Giám đốc.)
TR (anh ta) làm việc cho Giám đốc diễn ra trong một LM có bao giới là văn
phòng Giám đốc. Ở đây mối tương quan giữa một hoạt động với một LM có bao
giới là văn phòng, nơi hoạt động đó được diễn ra được minh họa cụ thể qua ví dụ
trên, do đó vị trí có thể hoán dụ cho hoạt động. Kết quả của mối tương quan giữa
hoạt động với LM có bao giới là thông qua tăng cường ngữ dụng thì khái niệm hoạt
động có thể dần dần được tái phân tích là một nghĩa riêng biệt gắn với giới từ “in”.
Tuy nhiên qua những ví dụ sau về nghĩa hoạt động trong tiếng Việt chúng ta có thể
hiểu rõ hơn rằng nếu khái niệm hoạt động được lưu trong trí nhớ ngữ nghĩa thì
“trong” có thể thể hiện quan hệ giữa TR và hoạt động ngay cả khi hoạt động cụ thể
đó không còn gắn một cách hiển ngôn với một LM có bao giới cụ thể nữa.
(172) Cô ấy trong ngành Y.
(Sie ist in der Medizin.)
(173) Anh ấy làm việc trong một ngân hàng.
(Er arbeitet in einer Bank.)
2. Nghĩa phương tiện
Nói về phương tiện thì thông thường vị trí và hoạt động có mối tương quan
mật thiết với nhau trong trải nghiệm, do vậy “in” đã phát triển một nghĩa phương
tiện riêng biệt vì “in” đã có nghĩa hoạt động từ trước gắn với nó. Xét một số ví dụ
như sau về nghĩa phương tiện.
91
(174) Sie schreibt in Tinte.
(Cô ấy viết bằng mực.)
(175) Sie spricht in deutsch.
(Cô ấy nói bằng tiếng Đức.)
Trong ví dụ (174), “in” được dịch sang tiếng Việt là “bằng” biểu thị mối quan hệ
giữa một hoạt động cụ thể là viết với phương tiện là (bút) mực để hoàn thành hoạt động
đó. Còn ở ví dụ (175) từ “in” cũng được dịch sang tiếng Việt là “bằng” để nói về hoạt
động nói được hoàn thành thông qua phương tiện là tiếng Đức.
Như vậy, cả trong hai ngôn ngữ thì mối tương quan giữa các hoạt động và
phương tiện hoàn thành chúng, thông qua sự tăng cường ngữ dụng, do vậy đã dẫn
tới sự phát triển nghĩa phương tiện. Ở ví dụ (174) hoạt động viết được hạn chế bởi
phương tiện được dùng là (bút) mực để hoàn thành hoạt động bởi người dùng. Do
vậy, phương tiện còn được sử dụng để hoàn thành một hoạt động có thể được ý
niệm hóa là có ảnh hưởng hoặc có hạn chế lớn tới hoạt động. Sự ý niệm hóa này
nhất quán với khái niệm bao chứa trong điển cảnh của “in”.
3. Nghĩa đến nơi
Ở nhiều khung cảnh không gian, người trải nghiệm có vị trí bên trong LM có
bao giới, TR vốn ở vị trí một điểm ngoài LM qua một sự chuyển dịch đến khi nó có
vị trí ở bên trong LM, như vậy TR được tri giác là chuyển động đến gần hơn với
điểm nhìn bên trong, điều này diễn tả hàm ý đã đến nơi. Khái niệm đến nơi này
được lưu trong trí nhớ ngữ nghĩa như một nghĩa riêng biệt. Điều này thể hiện qua
những ví dụ sau:
(176) Endlich ist der Zug im Bahnhof.
(Chuyến tàu cuối cùng cũng đến ga.)
(177) Er beendete die Arbeit und ging in sein Zimmer, um sich auszuruhen.
(Anh ta làm xong về phòng nghỉ ngơi.)
Hay trong tiếng Việt, từ ví dụ (176) người ta vẫn thường nói “Cuối cùng tàu
cũng tới nơi”. Ở đây TR là đoàn tàu đã tới nơi nhà ga và nằm trong LM có bao giới
là nhà ga. Trong ví dụ (177) TR là anh ta đã làm xong công việc và về phòng nghỉ
ngơi nằm trong LM có bao giới là phòng.
92
4. Nghĩa biến m t
Có nhiều thực thể ở bên trong hoặc được chứa đựng bao giới của LM thường
ngăn không cho người quan sát ở ngoài thấy được bên trong và những thứ đựng bên
trong đó.
(178) Er hält das Wasser in seinem Mund.
(Anh ta ngậm nước trong mồm.)
Ở đây mối tương quan chặt chẽ giữ LM có khu vực bên trong là nước trong
mồm và sự ngăn cản, do vậy in được hiểu là có chứa nghĩa biến mất riêng biệt có
bao giới. Nhưng cũng xét tùy ngữ cảnh để xác định được nghĩa biến mất, xác định
được một nghĩa nào đó là riêng biệt hay không, vì vậy nghĩa biến mất không hoàn
toàn rõ ràng trong mọi nghĩa khác khi nó được gắn với in. Trong tiếng Việt xét
thêm ví dụ sau có thể thấy nghĩa biến mất không phụ thuộc vào ngữ cảnh và không
thể dự đoán được dựa vào bất kì nghĩa nào khác trong số các nghĩa đã xét của in
trong tiếng Đức.
(179) Mặt trời đã khuất.
(Die Sonne geht ab.)
5. Nghĩa chuyển động từ ngoài vào trong của “in”
Theo Weinrich, Helbig&Buscha, giới từ “in” mô tả chuyển động từ ngoài
vào khu vực đóng bên trong để chỉ mối liên hệ tĩnh tại xuất hiện trong trạng thái
cuối mà vị trí bên trong phải diễn đạt để người nghe hiểu ý nghĩa như hình được
minh họa bên dưới. [ 142, tr.633]; [88, tr.375]
Hình 31: “in” chuyển động từ ngoài vào trong
Trong một số tình huống giới từ “in” có thể được thay bằng “zu”, điều này
dẫn đến một chút khác nhau về nghĩa. Giới từ “zu” được sử dụng khi nghĩ đến việc
đến gần có mục đích, trong khi đó giới từ “in” mang tính bắt buộc khi thực sự phải
đạt đến khu vực đó [113, tr.148].
(180) Ich gehe in die Buchhandlung.
(Tôi đi đến hiệu sách.)
93
(181) Ich gehe zur Buchhandlung.
(Tôi đi đến hiệu sách.)
Trong tiếng Việt khi nói câu Anh ấy chạy vào phòng, thì ở đây từ vào xuất
hiện cùng với động từ chuyển động là chạy có thể hiểu rằng TR ban đầu ở bên
ngoài và hướng tới căn phòng LM và chạy sao cho TR có ở vị trí ở bên trong căn
phòng LM.
Do vậy, cả trong hai ngôn ngữ từ in - vào có thể được sử dụng hoặc để đánh
dấu vị trí bên trong LM có bao giới hoặc để diễn đạt định hướng từ bên ngoài
hướng tới LM.
6. Nghĩa bao bọc một phần
Giới từ “in - trong” cũng được dùng khi một phương tiện bao quanh một đối
tượng để đối tượng tham chiếu được bao phủ hoàn toàn.
(182) Sie geht unter Regen.
(Họ đi trong mưa).
(183) Etwas bewegt sich in der Dunkelheit.
(Có gì đó di chuyển trong bóng tối.)
Trong ví dụ (182) khái niệm “mưa” là tương đối trừu tượng vì dường như
không xác định được vị trí giữa một đối tượng và mưa. Trong tiếng Việt, mưa
được hiểu là những hạt mưa. Việc đi dưới mưa sẽ được bao phủ bởi những hạt
mưa. “Bóng tối” cũng không là một đối tượng rõ ràng, tuy nhiên nó cũng được
coi là một không gian giới hạn. Nếu đối tượng bước vào giới hạn này thì nó ở
“trong” bóng tối.
Ngoài ra điển cảnh gắn với in và bao gồm sự bao bọc một phần được sử
dụng phổ biến liên quan đến quần áo ăn mặc. Quần áo thường được trải nghiệm, vì
vậy nó được ý niệm hóa là có khu vực bên trong, là viền ngoài bao quanh, bao giới
và bên ngoài. Về chức năng của nó thì có những phương diện nhất định của sự bao
chứa như bao quanh, bảo vệ và ngăn cản mắt chúng ta không nhìn thấy những yếu
tố đang được bao chứa bên trong.
Vì vậy ở đây việc chúng ta sử dụng in để mô tả mối quan hệ này giữa người
mặc và quần áo đó là quan hệ được điền cảnh cho phép.
(184) Rockmusik Sänger in engen Lederhosen.
Ca sĩ nhạc rốc trong (= mặc) chiếc quần da bó. [140]
94
Ở đây muốn nói ca sĩ nhạc rốc đang mặc chiếc quần da bó.
7. Nghĩa hình dạng là bao giới
Theo Langacker (1987) cho rằng hình dạng của một vật thể gần như chắc
chắn là một phần trong sự thể hiện nội tâm của chúng ta về vật đó [102].
Qua ví dụ sau chúng ta hiểu rõ trong nghĩa hình dạng là bao giới thì TR tạo nên một
phần cấu hình hạn chế tạo ra hình dạng.
(185) Kinder, stellen Sie Ihre Stühle in einen Kreis.
(Các con, hãy xếp ghế thành vòng tròn nào.)
Bởi vì hình dạng của một LM có bao giới nhất định phải có mối liên hệ chặt
chẽ với bao giới của nó nên không có gì ngạc nhiên khi “in” dần ấn định một quan
hệ, trong đó hình dạng của LM tạo nên cả thực thể lẫn bao giới. Trong ví dụ trên
chúng ta hiểu trong tiếng Việt rằng đây không phải là mệnh lệnh của cô giáo hoặc
người mẹ nói với những đứa trẻ xếp những chiếc ghế bên trong một vòng tròn vẽ
sẵn trên sàn mà được hiểu là cô giáo/người mẹ nói với những đứa trẻ là sắp xếp ghế
sao cho tạo thành một vòng tròn. Hay nói cách khác việc sắp xếp tạo nên bao giới
giới hạn cho một vòng tròn.
2.3. Nhận xét
2.3.1. Sự giống nhau
Qua những phân tích đặc điểm ngữ nghĩa giới từ auf/in trong tiếng Đức
đối chiếu với tiếng Việt ở chương hai này, tác giả nhận thấy về giới từ auf trong hai
ngôn ngữ có sự trùng lặp giống nhau đó là đều sử dụng sự định hướng tuyệt đối,
ngay cả khi con người không ở trong tư thế thẳng đứng xét về trục thẳng đứng vốn
là điểm xuất phát của hệ tọa độ định vị không gian. Trong sự định vị và định hướng
không gian thì con người vẫn là ngã vi trung (ego-centric) và là trung tâm của vũ
trụ. Con người vận động theo hướng nhìn của mắt đối mặt với người hoặc vật giao
tiếp. Ở trên mặt đất và dưới tác động của trọng lực, con người có thể cảm nhận và ý
thức được. Trong cả hai ngôn ngữ đều đề cập đến vật định vị X (thường được phải
được tri giác như một mặt phẳng được gọi là không gian hai chiều). Và khi một vật
là vật nâng đỡ cho vật được định vị là Y thì cả hai luôn có sự tiếp xúc với nhau. Xét
về chiến lược định vị thì có chiến lược trực tiếp và chiến lược gián tiếp. Chiến lựơc
trực tiếp: trong đó X là vật ở trên Y nếu X được định vị cao hơn Y trên trục thẳng
đứng, ví dụ: das Buch ist auf dem Tisch (sách ở trên bàn). Chiến lược gián tiếp: vật
95
X ở trên Y (mặc dù có thể X không được định vị cao hơn Y theo hướng thẳng
đứng), nếu vị trí của X được chiếu theo định hướng tuyệt đối của Y hoặc xuất phát
từ điểm nhìn của người quan sát mà người nói là trung tâm, ví dụ: Lichter an der
Decke (đèn trên trần nhà).
Sau khi mô tả, đối chiếu cụ thể về mặt ngữ nghĩa, ngữ dụng của giới từ “in”
thì có thể thấy rằng tuy nó có những biểu hiện đa dạng về nghĩa sử dụng trong thực
tế cũng như trong nhiều ngữ cảnh khác nhau, việc sử dụng chúng lại chịu những
nhân tố chi phối ngoại ngôn, nhưng nó vẫn luôn có mối quan hệ gắn kết ở mức độ
xa, gần nhất định với nghĩa lý tưởng. Trong hai ngôn ngữ có chung một nội dung
định vị cho sự trùng giữa hai điểm, một điểm là ĐTĐV và một là ĐTQC hoặc một
là TR và một là LM. Ngoài ra cũng có chung một nội dung định vị cho một cấu
hình hình học này được bao chứa bởi một cấu hình hình học khác. Có thể chấp nhận
như vậy là do, thứ nhất là dường như không có gì phản đối từ góc nhìn mang tính
không gian tri nhận, cũng như từ cách thức định vị có tính quan hệ về mặt không
gian giữa các sự vật, sự việc. Thứ hai là không có gì trở ngại cho một xuất phát
chung từ nguồn tri thức định vị không gian có tính phổ quát từ loài người luôn là
tâm điểm của vũ trụ. Thứ ba là có thể tạo ra việc so sánh về các nội dung định vị
này trong những cách thức thực hiện hóa với những bước chuyển biến nghĩa và
dung biến nghĩa của giới từ.
2.3.2. Sự khác nhau
Trong hai ngôn ngữ có sự khác nhau là trong tiếng Việt thường sử dụng
chiến lược gián tiếp nhiều hơn so với tiếng Đức cũng như so với một số ngôn ngữ
Ấn - Âu khác. Ngoài ra, những khác biệt giữa tiếng Đức và tiếng Việt về các nội
dung định vị được thể hiện qua cách thức xử lý các nội dung định vị trong hoạt
động định vị thực tế của từng ngôn ngữ, cách xử lý cụ thể đối với các TR và LM cụ
thể, những chi phối cụ thể của cách tri nhận không gian riêng trong tiếng Đức và
tiếng Việt về ĐTQC và ĐTĐV hoặc TR và LM cũng như việc thiết lập mối quan hệ
định vị giữa chúng. Khi dịch các văn bản từ tiếng Đức sang tiếng Việt luôn tùy
thuộc vào từng ngữ cảnh để sử dụng một cách đối dịch cụ thể như sử dụng các giới
từ tương đương (ngữ nghĩa), hay dịch sang tiếng Việt bằng các yếu tố chỉ hướng
của hành động hay bằng những yếu tố từ vựng chỉ vùng, phạm vi không gian ... Có
thể nói, quan hệ không gian giữa ĐTĐV và ĐTQC được người Đức trừu tượng hóa
96
trong giới từ in khi quan hệ định vị không gian khác nhau. Tương tự cũng diễn ra
như vậy nếu chúng ta chuyển dịch ngược lại từ tiếng Việt sang tiếng Đức. Điều này
phản ánh rõ sự khác biệt đa dạng về cách thức tri nhận không gian, về sự trừu tượng
hóa các quan hệ định vị không gian đối với từng TR và LM cụ thể giữa tiếng Đức
và tiếng Việt. Trong tiếng Đức luôn định vị không gian một cách khách quan, còn
tiếng Việt bên cạnh cách thức định vị có tính khách quan thì phổ biến cách thức
định vị có tính chủ quan dựa vào mối quan hệ không gian giữa ĐTĐV và bản thân
người nói hoặc người nghe. Cũng chính từ tính chủ quan này đã định ra những tập
quán sử dụng các kết cấu như: trên trời, dưới đất, trong nhà, ngoài sân, dưới gốc
cây, trong lòng, trong bụng, ...và đây cũng chính là cái đã chi phối việc chuyển dịch
từ tiếng Đức sang tiếng Việt như sau: im Wasser (dưới nước), in Bäumen (sau vòm
cây), ....Chính sự thể hiện cách thức định vị có tính chủ quan của tiếng Việt được
thể hiện ra bằng những cách thức rất đa dạng tạo thành một thói quen, một cách
thức ứng xử định vị có tính thường trực, vì vậy đã gây ra không ít khó khăn cho
người Việt khi học và sử dụng các giới từ định vị không gian trong tiếng Đức.
2.4. Tiểu kết
Ở chương này, tác giả tập trung nghiên cứu giới từ chỉ không gian, đặc biệt
đặc điểm ngữ nghĩa của hai giới từ auf/in trong tiếng Đức với trên/trong trong
tiếng Việt. Qua phân tích giới từ auf chỉ địa điểm tĩnh đối chiếu với tiếng Việt, tác
giả đã tìm ra được ba nghĩa gồm: thứ nhất là nghĩa bên trên, trong nghĩa này tác giả
thực hiện những ý niệm khác nhau của vật thể như vật thể này được nâng đỡ bởi
một vật thể khác, vật thể này tiếp xúc với một vật thể khác, vật thể này ở phía trên
vật thể khác, vật thể ở trên một phần của chính nó, vật thể tiếp xúc với rìa của một
vùng địa lý. Thứ hai, nghĩa tiếp cận được bằng tri giác và thứ ba là nghĩa không
gian được định vị trên vị trí địa lý. Khi giới từ auf mang hướng chuyển động được
chia thành hai nghĩa là nghĩa chuyển động và nghĩa phương tiện. Đối với giới từ tri
nhận không gian in chỉ địa điểm tĩnh, tác giả đã thực hiện hóa trong hoạt động ngôn
ngữ theo năm nghĩa gồm: nghĩa không gian, nghĩa tại chỗ, nghĩa trạng thái, nghĩa
viền bao quanh, và nghĩa tiếp cận được bằng tri giác. Với giới từ in chỉ phương
hướng chuyển động, tác giả xác định được bảy nghĩa bao gồm: nghĩa hoạt động,
nghĩa phương tiện, nghĩa đến nơi, nghĩa biến mất, nghĩa chuyển động từ ngoài vào
trong của in, nghĩa bao bọc một phần và nghĩa hình dạng là bao giới. Ở đây, chúng
97
tôi có thể lập luận rằng ý nghĩa mở rộng phi không gian của mỗi tiểu từ không gian
nảy sinh từ cấu hình không gian ý niệm và thành tố chức năng, vì các tiểu từ này
xuất hiện trong ngữ cảnh khác nhau. Chẳng hạn, tiểu từ in có liên quan đến cấu hình
không gian giữa LM, mốc định vị có bao giới và TR được xác định vị trí ở khu vực
bên trong. Cấu hình không gian ý niệm tương tác theo những phương thức quan
trọng với điểm nhìn mà từ đó khung cảnh được quan sát. Những nghĩa phi không
gian khác xuất hiện trong mạng ngữ nghĩa của in phụ thuộc vào liệu điểm nhìn là ở
bên trong LM hoặc nằm ngoài LM.
Vì vậy, chúng tôi có thể lập luận thêm là thành tố chức năng nảy sinh từ cấu
hình không gian có liên quan đến TR được định vị ở vùng bên trong của một LM có
giới hạn được coi là có tính “bao chứa”. Và một trong những hệ quả của tính bao
chứa là vật bao chứa xác định được vị trí của TR.
98
Chƣơng 3
ĐỐI CHIẾU CƠ SỞ TRI NHẬN KHÔNG GIAN CỦA GIỚI TỪ “AUF/IN”
TRONG TIẾNG ĐỨC VỚI TIẾNG VIỆT
3.1. Sự đa dạng của tri nhận
Như chúng ta đều biết, ngày nay ngôn ngữ học tri nhận được rất nhiều người
quan tâm, nghiên cứu và tập trung phát triển để tìm ra nhiều cái mới hơn nữa cho
ngành ngôn ngữ học. Điều này trở nên thịnh hành là nhờ có niềm tin rằng sự phức
tạp và đa dạng của ngôn ngữ có thể được giải thích và mô tả thông qua các tác nhân
ngoại ngôn liên quan đến tri nhận không gian. Trong vài chục năm gần đây thì
những khuynh hướng nghiên cứu tri nhận đã có rất nhiều thành tựu đáng chú ý. Nó
mang lại một ấn tượng tốt đẹp và mạnh mẽ về sự thịnh vượng của các khuôn mẫu tri
nhận, những cái mà có thể được quan sát qua các nền văn hóa khác nhau trên thế
giới. Tuy nhiên, sự đa dạng khác nhau này không loại trừ đến điều khẳng định trong
lý thuyết chung rằng các khuôn mẫu khái niệm hóa chủ yếu của nhân loại luôn có
tính phổ quát về bản chất. Vào những năm đầu thế kỉ XX, có hai học giả nổi tiếng là
Sapir và Whorf (trong đó Whorf là học trò của Sapir) đã đi sâu vào khuynh hướng
nghiên cứu không gian nhìn từ góc độ tri nhận trong ngôn ngữ học. Những nghiên
cứu của hai ông mang giá trị tích cực trong các công trình nghiên cứu khoa học có
tính hệ thống và lôgic.
Và ngày nay, về cơ bản có thể nói rằng có bốn cách tiến hành nghiên cứu về
ngôn ngữ học tri nhận:
1. Coi ngôn ngữ như là một khuôn mẫu chủ yếu trong các hoạt động tinh
thần, văn hóa, xã hội và các hoạt động khác (Sapir 1921, 1949, Whorf 1956...)
2. Ngôn ngữ xuất phát từ nguồn lực có tính bản năng của con người
(Chomsky 1986, Wiersbicka 1972, 1988, ...)
3. Ngôn ngữ tương đẳng với tri nhận (Langacker 1987, 1991, ...)
4. Ngôn ngữ chính là tấm gương phản chiếu sự khái niệm hóa con người,
trong đó con người là vị trí trung tâm của không gian vũ trụ (Lakoff & Johnson
1980, Lakoff 1987, ...)
Về mặt lý thuyết là như vậy nhưng trên thực tế, các nội dung nghiên cứu nói
chung là rất phức tạp và rộng lớn. Trong đó phải kể đến giả thuyết đáng chú ý của
Whorf được nhiều người quan tâm và viện dẫn. Theo ông thì:
99
a. Nói chung, sự khác nhau về cấu trúc giữa các hệ thống ngôn ngữ sẽ được
bộc lộ khi tiến hành so sánh sự khác nhau về nhận thức phi ngôn ngữ ở những
người nói ngôn ngữ này.
b. Cấu trúc bản ngữ của bất kỳ người nào cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ hoặc
hoàn toàn quyết định các quan niệm chung (cách nhìn nhận về thế giới) mà người
đó gặp phải khi học ngôn ngữ đó.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng nếu nhận thức phi ngôn ngữ càng
khác biệt thì sự khác nhau giữa các ngôn ngữ càng lớn.
3.1.1. Một vài biểu hiện của sự đa dạng tri nhận trong phạm vi không gian ngôn
ngữ học
Liên quan đến phạm vi ngôn ngữ học không gian thì có những phạm vi
như: định vị/ định vị phương hướng, định hướng theo địa mốc; định vị/ định hướng
theo trực chỉ được lưu ý dùng để mô tả, so sánh. Trong mỗi phạm vi này, ngôn ngữ
học tri nhận đều đã có thể cung cấp một bức tranh không gian khá phong phú và đa
dạng. Ví dụ ở phạm vi định vị/ định hướng theo trực chỉ thì theo Hill (1974,
1982,...), luôn có một sự phân biệt giữa hệ thống đóng và hệ thống mở (thuật ngữ
tương ứng mà Heine sử dụng là mô hình mặt đối mặt - mô hình đóng
(geschlossenes Modell) và mô hình mặt đối gáy - mô hình mở (offenes Modell). Sự
đối lập giữa hai hệ thống đóng và mở này có thể được minh họa qua hình vẽ sau đây
[48, tr.117].
Hình 32: Mô hình định vị/ định hướng theo trực chỉ theo Bernd Heine (87 tr.129)
100
Theo mô hình trên thì tình huống được nêu ra ở đây là người A đứng đầu
tiến hành định vị hộp B trong mối tương quan vị trí không gian với ngọn núi C. Xét
về phân tích trong tình huống này thì nếu một người sử dụng nhìn từ góc hệ thống
đóng thì anh ta sẽ nói rằng hộp B ở đằng trước ngọn núi C. Còn người sử dụng nhìn
từ hệ thống mở lại cho rằng hộp B ở đằng sau ngọn núi C. Cách thức định vị này
được mô tả chi tiết trong tiếng Hausa (Nigeria), một số xã hội Phi châu và không
phải Phi châu. Để giúp dễ hiểu hơn, chúng tôi có thể trình bày theo kiểu như sau:
A B C (mô hình đóng) và A B C (mô hình mở).
3.1.2. So sánh về tri nhận định vị không gian
Như tác giả đã nêu ra khái niệm về không gian trong ngôn ngữ học tri nhận ở
chương I thì theo Frawley “không gian là một khái niệm quan hệ” (Space is a
relational concept), hay nói đúng hơn là sự định vị không gian trong ngôn ngữ,
nghĩa là không có bất cứ một sự định vị nào lại không cần đến một quy chiếu nào
đó. Định vị tức là biểu thị đặc trưng gắn liền quan hệ không gian giữa các vật thể
với nhau. Vì thế nội dung cấu trúc ngữ nghĩa của sự diễn đạt không gian là một sự
phụ thuộc giữa hai hay nhiều vật thể, sự kiện [84, tr.251] được xem, nhận thức như
là có quan hệ về mặt không gian. Do vậy, một cái được xem là đối tượng này được
định vị còn cái kia là đối tượng quy chiếu trong sự hiện thực hóa.
Một trong những nội dung quan trọng nhất về phạm trù không gian phải nói
đến là vấn đề định vị không gian được diễn đạt trong ngôn ngữ. Theo tác giả Lý
Toàn Thắng [56, tr.55], khi nghiên cứu về không gian, cần phân biệt ba khái niệm
khác nhau: (a) Không gian khách quan của thế giới vật lý bên ngoài con người; (b)
Không gian chủ quan, là kết quả của sự tri nhận không khách quan, tồn tại trong
đầu óc con người, thường được gọi là “không gian tri giác” hoặc “không gian
được phản ánh”; và (c) Không gian được biểu đạt trong ngữ nghĩa của các từ chỉ
không gian, được gọi là “không gian (trong) ngôn ngữ”. Nghiên cứu sự tri nhận
không gian từ góc độ ngôn ngữ học tức là tìm cách “phục chế” không gian loại (b)
trên cơ sở ngữ liệu của không gian loại (c).
Nghiên cứu đối với không gian ngôn ngữ thì cái có ảnh hưởng mang tính chi
phối chính là không gian nhận thức từ con người chứ không phải là không gian (vật
lý) khách quan từ bên ngoài. Vì vậy các nhà nghiên cứu thường có thái độ phổ biến
101
chung đó là không quan tâm và đề cập nhiều lắm đến khái niệm không gian khách
quan mà chủ yếu đi nghiên cứu sâu về không gian nhận thức.
Nói về không gian nhận thức sẽ liên quan đến rất nhiều các vấn đề phức tạp
cần bàn luận. Với vũ trụ không gian thì con người là tâm điểm của mọi nhận thức,
còn đối với con người thì bộ não lại là trung tâm trong quá trình nhận thức các sự
vật, sự việc trong không gian. Bộ não của con người đã xử lý như thế nào về những
hình ảnh lưu giữ ở võng mạc, và liệu có những mô hình không gian chung hay
không, ... Tuy nhiên đã có một số nghiên cứu khoa học liên quan đến khái niệm
không gian chỉ ra rằng “dường như có hai đường dẫn nơron (thần kinh) độc lập
được bao hàm trong sự tiếp nhận không gian, được gọi là các hệ thống “cái gì”
(What - Was) và “ở đâu” (Where - Wo), một cái đang điều khiển, chẳng hạn, sự tiếp
nhận về các vật thể là cái gì và cái khác (đang điều khiển) về sự định vị của chúng
trong không gian [94, tr.6] “dĩ ngã vi trung” (con người là trung tâm và lấy mình
làm trung tâm để nhận thức về mọi sự vật xung quanh mình).
Sự khác biệt về những xử lý liên quan đến “cái gì” Was) có thể nói đến đồ
vật là thứ gì đó bao gồm kích cỡ, hình dáng hay màu sắc. Còn những xử lý liên
quan đến “ở đâu” (Wo), lại là sự định vị không gian. Tuy nhiên đây lại là những vấn
đề mang tính kĩ thuật mà nội dung quan trọng nhất được các nhà nghiên cứu đã chỉ
ra cho chúng ta thấy rõ chính là không gian nhận thức và được phản ánh vào trong
ngôn ngữ học là một không gian chuẩn mực và ngây thơ. Tại sao lại là chuẩn mực?
Chuẩn mực là vì nó mang tính phổ biến chung mà ai cũng nhận thấy như vậy, hiểu
đúng theo như vậy, và diễn đạt đúng theo chuẩn mực như vậy, sự nhất quán đồng
loạt này là do nó phản ánh những trải nghiệm thực tế có tính trực quan chung cho
tất cả mọi người hay cộng đồng sử dụng chung một ngôn ngữ. Còn ngây thơ là vì
nó mang tính phi khoa học, hay nói chính xác hơn là nó không bị ảnh hưởng bởi
những tri thức khoa học nghiên cứu mang tính chuẩn mực. Nhưng những thành tựu
khoa học mới về thiên văn học, về hạt nhân, về vật lý lại không có chút ảnh hưởng
gì đến cách biểu đạt không gian của ngôn ngữ. Frawley đã từng nhận xét rằng:
“Dường như ngược lại, nội dung biểu đạt về không gian của chúng ta trong ngôn
ngữ thông thường đều dựa trên một nhận thức phi khoa học ngây thơ, về địa hình,
về vật lý, bao gồm những nguyên tắc sau đây:
a. Không gian thì trống rỗng
102
b. Các vật thể thì không có các không gian ở trong chúng
c. Mặt đất thì cố định và nâng đỡ các vật thể
d. Trái đất không chuyển động và là đường đáy (thấp nhất)
Dù rằng những nguyên tắc này là sai, nhưng chúng là những cái có tính
thiết yếu nhất để diễn giải những biểu đạt không gian” [84, tr.252].
Trong tiếng Đức, tiếng Anh cũng như tiếng Việt thì các giới từ chính là
những yếu tố thường được dùng trong các câu, ngữ cảnh, văn bản xuất hiện thường
xuyên để diễn đạt mối quan hệ không gian giữa đối tượng được định vị (ĐTĐV) và
đối tượng quy chiếu (ĐTQC). Bởi vì trong hệ thống giới từ có một số giới từ chuyên
dùng để diễn đạt các mối quan hệ không gian nên được gọi là giới từ định vị không
gian. Ví dụ như: Die Katze sitzt auf dem Sofa (Con mèo ngồi trên ghế Sôpha), thì
Katze (mèo) là ĐTĐV; Sofa (ghế sôpha) là ĐTQC; còn auf chính là giới từ định vị
không gian (ĐVKG) biểu thị mối quan hệ về mặt không gian giữa ĐTĐV Katze (mèo)
và ĐTQC Sofa (ghế sôpha). Trong ví dụ này biểu thị tình huống mà ở đây một thực
thể (Katze/ cat: mèo) phụ thuộc về mặt không gian theo một cách nào đó (cụ thể là giới
từ auf-trên) vào một thực thể khác là sopha: ghế sôpha.
Khi nghiên cứu về giới từ định vị theo hướng ngữ dụng (dựa trên ngữ liệu
tiếng Anh – tiếng Việt), Trần Quang Hải đã có đề tài luận án tiến sĩ năm 2001 khảo
sát tám quan hệ về vị trí (ba vị trí tôpô, năm vị trí quy chiếu), cùng chín quan hệ
theo đường dẫn. Đồng thời khi khảo sát các vấn đề ngữ nghĩa –ngữ dụng, tác giả đã
tìm ra 5 điểm khác biệt giữa giới từ định vị (GTĐV) trong tiếng Anh và tiếng Việt:
là sự mô tả về quan niệm “trên”, sự mô tả quan hệ giữa những giới từ “trên” và
“dưới”, sự phân biệt vị trí ngay giữa, việc sử dụng GTĐV và các giới từ chuyển
động theo đường dẫn trong tiếng Việt và tiếng Anh. Trong luận án, tác giả nêu sự
khác biệt giữa GTĐV trong tiếng Anh và tiếng Việt tập trung chủ yếu ở hai điểm đó
là: nghĩa của từ và sự lựa chọn ĐTQC. Ngoài ra, tác giả cũng đã chỉ ra 4 nguyên
nhân chính gây ra sự khác biệt ở hai ngôn ngữ là: tác động của quan niệm triết học
về chia cắt không gian, tác động bởi thói quen về nơi cư trú, tác động bởi địa hình
phương hướng không gian bầu trời và tác động bởi các luật chơi có tính xã hội cao.
Trong luận án, tác giả đã đưa ra kết luận như sau: những khác biệt giữa các sử dụng
GTĐV ở tiếng Anh và tiếng Việt chủ yếu tập trung vào vấn đề nghĩa sử dụng và
đặc biệt là quan niệm thường lấy vị trí của bản thân con người là trung tâm hay một
103
đối tượng ngầm định đã được quy ước để làm ĐTQC của người Việt. Tác giả đã
nhấn mạnh sự khác biệt cơ bản của GTĐV trong tiếng Anh và tiếng Việt không chỉ
nằm ở hình thái từ hay cú pháp mà chính là vấn đề nghĩa và quan niệm quy chiếu.
Theo Frawley thì ông đã khái quát về sự định vị không gian trong ngôn ngữ
học bằng mối quan hệ hình thức trừu tượng giữa hai thành tố gọi là X và Y, trong
đó X quan hệ không gian với Y, X là ĐTĐV và Y là ĐTQC. Cần lưu ý ở đây hai
điểm chủ yếu: một là quan hệ không gian với nhiều hình thức thể hiện cụ thể khác
nhau; hai là quan hệ không gian luôn được xử lý theo những cách thức riêng của
không gian ngôn ngữ đã được đề cập ở phân tích bên trên (không gian chuẩn mực
và ngây thơ).
Ví dụ, đối với một hình thức thể hiện cụ thể không gian trong câu tiếng
Đức và tiếng Anh: Der Nagel war in der Wand/ The nail was in the wall (Cái đinh
ở trong/ trên tường), theo Frawley ông đưa ra hai cách hiểu như sau: a) “cái đinh đã
được ghim/ đóng vào tường một phần hay toàn bộ” và b) “cái đinh đã được chứa
đựng trong khoảng không gian giữa hai bề mặt của tường” (nghĩa là cái đinh đã
nằm bên trong tường. Hoặc khi nói đến một khoảng trống hay vật thể được hàm
chứa trong một vật thể khác, thì loại này thường dùng các ĐTQC có thể xuyên qua
hay thẩm thấu được.
Đối với tiếng Việt, trong ngữ pháp truyền thống (phi tri nhận luận), giới từ
định vị không gian không được nghiên cứu tách biệt mà nó thường được nghiên cứu
chung trong cùng một bình diện với hư từ và quan hệ từ, kết từ. Ví dụ, tác giả
Hoàng Trọng Phiến [35] có bàn về từ “trên” với 6 cách phân loại: biểu thị hướng
hành động từ thấp lên cao với chỗ đứng; biểu thị địa điểm ở bậc cao hơn. Trái
ngược với từ “dưới”; biểu thị vị trí có mặt bằng hoặc sát mặt bằng nào đó mà người
nói nhìn rõ theo tầm đứng; biểu thị địa điểm cụ thể xảy ra hành động, hiện tượng;
biểu thị cơ sở, nền tảng làm phạm vi hoặc nguyên tắc cho hoạt động, hành động;
biểu thị điểm chuẩn và phương thức tính toán tỉ lệ.
Ngoài ra, khi nghiên cứu về ngữ nghĩa của các giới từ chỉ không gian trong
tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt) luận án tiến sĩ của Lê Văn Thanh [48] đã tập
trung vào phân tích, mô tả và khái quát hoá về nghĩa của hai giới từ on, in, at. Tác
giả so sánh đối chiếu ba giới từ này với các hình thức diễn đạt tương đương trong
tiếng Việt để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa cách sử dụng giới từ
104
về nghĩa, ngữ nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt. Không chỉ vậy mà tác giả còn
đưa ra một số giải pháp cụ thể cho việc dạy và học tiếng Việt và tiếng Anh liên
quan đến giới từ định vị không gian.
3.2. Sự tri nhận không gian của giới từ “auf/ in” trong tiếng Đức đối chiếu với
tiếng Việt
Trong hệ thống ngôn ngữ thì mỗi ngôn ngữ có một phương tiện riêng để bày
tỏ nhận thức không gian mà bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, ví dụ: đặc điểm hình
thái học của ngôn ngữ, văn hóa và lịch sử của quốc gia nói ngôn ngữ... Tiếng Đức
và tiếng Việt khác nhau bởi các nhân tố này, do đó nhận thức không gian của hai
ngôn ngữ rất khác nhau và việc sử dụng giới từ chỉ không gian trong hai ngôn ngữ
có nhiều điểm khác nhau. Vì giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức phù hợp với
nhiều giới từ trong tiếng Việt và ngược lại nên sẽ có sự giao thoa với nhau khi mỗi
giới từ này được so sánh với giới từ khác.
Các giới từ định vị không gian “auf/in” trong tiếng Đức đa dạng về nghĩa
hơn so với tiếng Việt. Chúng tôi căn cứ vào các khung lý thuyết đã được thảo luận ở
chương một liên quan đến tri nhận để phân tích và giải thích sự tương đồng và khác
biệt về cơ chế tri nhận của hai ngôn ngữ. Tiếng Đức và tiếng Việt có sự tương đồng
và khác biệt về nghĩa của các giới từ định vị không gian “auf/in”. Điều này tạo ra
nét đặc trưng cho từng ngôn ngữ.
3.2.1. Sự giống nhau
3.2.1.1. Phân loại
Giới từ chỉ không gian trong cả hai ngôn ngữ được chia thành hai nhóm là
giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại và giới từ chỉ phương hướng chuyển động. Giới từ chỉ
địa điểm tĩnh tại diễn tả mối quan hệ không gian không có sự thay đổi địa điểm
hoặc không hướng đến điểm đích. Ngược lại giới từ chỉ phương hướng chuyển động
nêu ra rằng một đối tượng chuyển động hoặc được chuyển động từ một nơi này đến
một nơi khác.
Đối với auf chỉ địa điểm tĩnh khi đối chiếu với tiếng Việt ở chương 2 thì
tác giả đã khảo sát được 3 nghĩa xuất hiện các ý niệm của auf - trên gồm: Nghĩa
bên trên khi nói về sự tiếp xúc và nâng đỡ của vật thể; Nghĩa tiếp cận được bằng tri
giác thông qua tầm nhìn trong không gian; thứ ba là Nghĩa không gian được định vị
trên vị trí địa lý nói đến thực thể định vị được xác định trong phạm vi không gian.
105
Khi nói đến phương hướng chuyển động thì auf - trên mang hai nét nghĩa chính là
Nghĩa chuyển động và nghĩa phương tiện miêu tả sự chuyển động từ dưới lên trên,
từ một vị trí đến một bề mặt mới như là khu vực tham chiếu. Ngoài ra auf - trên
mang nghĩa phương tiện thường là sự bao chứa trong các phương tiện vận tải ví dụ
như Die Kinder im Bus (im = auf dem Bus) (Những đứa trẻ trên xe buýt)
Đối với in chỉ địa điểm tĩnh khi đối chiếu với tiếng Việt, tác giả khảo sát
được các nghĩa gồm: Nghĩa không gian, nghĩa tại chỗ, nghĩa trạng thái, nghĩa viền
bao quanh, nghĩa tiếp cận được bằng tri giác. Khi nói đến phương hướng chuyển
động thì auf - trên có bảy nét nghĩa chính: Nghĩa hoạt động, nghĩa phương tiện,
nghĩa đến nơi, nghĩa biến mất, nghĩa chuyển động từ ngoài vào trong của “in”,
nghĩa bao bọc một phần và nghĩa hình dạng là bao giới.
3.2.1.2. Mức độ ngữ nghĩa
Trong hai ngôn ngữ, đối với từng tình huống nói, một hoặc nhiều giới từ chỉ
không gian nhất định được sử dụng để diễn tả mối quan hệ không gian giữa các đối
tượng. Giới từ chỉ không gian “auf/in” thường được dạy trong giờ học tiếng Đức
như là ngoại ngữ với các hình sau:
Hình 33: auf (trên) in (trong)
Thông qua các hình vẽ giới từ chỉ không trong tiếng Đức được chuyển sang
tiếng Việt như phần dịch trong dấu ngoặc. Trong hầu hết trường hợp việc chuyển
nghĩa mang lại những câu nói phù hợp, tuy nhiên vì nhận thức không gian và việc
sử dụng giới từ chỉ địa điểm khác nhau nên dẫn đến văn bản dịch bị sai hoặc không
hiểu. Sự khác nhau được mô tả trong phần tiếp theo.
3.2.2. Sự khác nhau giữa giới từ “auf/ in” trong tiếng Đức với “trên/trong”
trong tiếng Việt
3.2.2.1. Số lượng giới từ chỉ địa điểm
Như tác giả đã hệ thống giới từ ở chương 1 và một số giới từ có liên quan, so
với giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức thì giới từ chỉ không gian trong tiếng Việt
rõ ràng là nhiều hơn. Sau khi tổng kết trong luận án thì có 23 giới từ chỉ không gian
trong tiếng Đức (an, in/ innerhalb, auf, ab, aus, hinter, unter/ unterhalb, über,
106
außer/außerhalb, bei, oberhalb, um, zwischen, neben, von, vor, bis, nach, zu, durch,
gegen, überall, gegenüber) ít hơn 9 giới từ so với giới từ chỉ không gian trong tiếng
Việt (phụ lục). Tuy nhiên những giới từ được dùng phổ biến nhiều nhất trong văn
phạm tiếng Đức đó là hai giới từ auf/in và đây cũng là hai giới từ điển hình mà tác
giả đã lựa chọn để làm nghiên cứu xuyên suốt luận án. Ngoài ra, lý do khác nhau
quan trọng là về loại hình hình vị học của hai ngôn ngữ. Trong khi tiếng Đức có các
cách (tặng cách và đối cách) được dùng cho chín giới từ chỉ địa điểm nói chung và
hai giới từ auf/in nói riêng để mô tả địa điểm hoặc hướng, thì các giới từ chỉ địa
điểm tĩnh tại và chuyển động trong tiếng Việt lại khác nhau.
(186) auf dem Tisch sein - trên bàn
im Dativ
(187) etwas auf den Tisch stellen - đặt gì đó lên trên bàn
im Akkusativ
3.2.2.2. Cách sử dụng giới từ auf/in
Cách sử dụng giới từ chỉ không gian trong tiếng Việt khác với giới từ chỉ
không gian trong tiếng Đức. Sau khi nghiên cứu các giới từ chỉ không gian trong cả
hai ngôn ngữ chúng tôi tìm ra sáu tiêu chí quan trọng khác nhau như sau:
Thứ nh t, khái niệm “hình thái tiêu chuẩn”
Các giới từ tiếng Đức “über, auf” và “oberhalb” diễn tả đối tượng được định
vị ở vị trí cao hơn so với đối tượng tham chiếu. Ý nghĩa này cũng giống với giới từ
tiếng Việt là “trên” (auf). Tuy nhiên giới từ “trên” được sử dụng khi diễn đạt “cái
gì đó ở trên cái gì đó” (etwas ist auf etwas) theo khái niệm “hình thái tiêu chuẩn”.
Theo đó vị trí của đối tượng được diễn tả là “trên” nếu đối tượng trong hoặc cao
hơn phạm vi đầu. Khái niệm này cũng giống với giới từ “dưới” (unter). Sự khác
nhau về nhận thức không gian dẫn đến các lỗi dễ gây nhầm lẫn khi sử dụng giới từ
chỉ địa điểm. Các diễn đạt thường được dùng khi người học tiếng Đức không có khả
năng ngôn ngữ ví dụ như khi dịch các câu từ tiếng Việt sang tiếng Đức hoặc ngược
lại thì người dùng thường có sự hiểu nhầm như sau:
(188) Bức tranh treo trên tường.
Người học thường dịch là:
(Die Uhr hängt *auf der Wand - Câu sai)
Phải dịch:
(Die Uhr hängt an der Wand - Câu đúng khi dùng “an”.)
107
Tương tự như vậy khi dịch câu sau người học cũng có sự nhầm lẫn giữa cạc dùng
với “unter” và “auf” như sau:
(189) Chú chó nằm dưới đất.
Người học thường dịch là:
(Der Hund liegt *unter dem Boden - Câu sai)
Phải dịch:
(Der Hund liegt auf dem Boden - Câu đúng khi dùng “auf”.)
Nếu người học biết được sự khác nhau thì không phải khái niệm “hình thái
tiêu chuẩn” mà là mối quan hệ không gian giữa các vật thể sẽ quyết định việc lựa
chọn giới từ, giống như cái đồng hồ không thể treo trên (auf) tường hoặc con chó
không thể nằm dưới (unter) sàn, ở đây nghĩa là khi dùng 2 câu như vậy thì chúng ta
không thể dùng từ “auf” trong ví dụ (188) và giới từ “unter” trong ví dụ (189) mà
thay vào đó phải dùng giới từ “an” và “auf” để nói đến sự tiếp xúc bề mặt giữa hai
vật với nhau. Khi sử dụng các giới từ chuyển động lên (trên), xuống (dưới) và dịch
sang tiếng Đức là über/auf, unter thì cần chú ý đến “hình thái tiêu chuẩn”. Thực sự
khó cho người học khi sử dụng giới từ trong câu sau vì người học nghĩ đến cách và
sự khác nhau về nhận thức không gian, cụ thể là nhận thức không gian giữa người
lặn và nước không phải dùng từ “unter” mà là dùng từ “in” để nói đến việc người
thợ lặn nhảy xuống nước nhưng là ở phạm vi trong lòng nước.
(190) Người thợ lặn nhảy xuống (dưới) nước.
(Der Taucher springt *unter das Wasser - Câu sai)
(Der Taucher springt in das Wasser - Câu đúng khi dùng “in”.)
Khái niệm đó được áp dụng khi vật thể tham chiếu ở vị trí nằm. Cách diễn
đạt trong tiếng Đức Der Hund liegt am Fuβ des Jungen được dịch sang tiếng Việt là
Con chó nằm dưới chân cậu bé. Ở đây chúng ta không cần quan tâm con chó nằm
hay đứng mà đối với khái niệm “hình thái tiêu chuẩn”, vị trí giữa người nhìn và đối
tượng được định vị đóng một vai trò quan trọng, thông qua các ví dụ (118) Der Ball
fliegt [nach unten] auf den Dach (Quả bóng bay xuống mái nhà) và (119) Der Ball
fliegt [nach oben] auf den Dach (Quả bóng bay lên mái nhà).
Có sự khác nhau lớn về nhận thức không gian của người Đức và người Việt,
điều này dẫn đến sự khác nhau khi sử dụng giới từ chỉ địa điểm. Một trong những
nhân tố quyết định việc lựa chọn giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt là mối quan
108
hệ không gian giữa người nhìn và đối tượng được định vị, tuy nhiên trong tiếng Đức
là vị trí của đối tượng được định vị đối với đối tượng tham chiếu.
Thứ hai, ảnh hưởng của đặc điểm địa lý
Khi sử dụng giới từ tiếng Việt, địa lý của Việt Nam nên được chú ý đến.
Cách nói của tiếng Việt như lên (trên) núi được dịch dễ dàng sang tiếng Đức là “auf
den Berg”, vì trong cả hai ngôn ngữ giới từ được sử dụng (lên, auf) đều biểu thị ý
nghĩa từ dưới lên trên. Tuy nhiên có sự khác nhau khi giới từ trong tiếng Đức đứng
trước tên riêng. Địa hình của các khu vực khác nhau ở Việt Nam là khác nhau, do
vậy nhận thức không gian liên quan đến địa điểm biểu thị mối quan hệ trên – dưới
(auf – unter). Các thành phố ở phía Nam của miền Bắc Việt Nam bao gồm núi, vì lý
do như vậy nên việc đến gần các khu vực này được biểu thị bằng giới từ lên. Để
biểu thị chuyển động đến xuống phía Đông miền Bắc Việt Nam ta cần từ trái nghĩa
với từ lên, đó là từ xuống, vì trong khu vực này thấy có nhiều hồ và biển. Việc sử
dụng giới từ chỉ địa điểm khi diễn đạt lên Điện Biên, xuống Hải Phòng ... dường
như rất khó đối với người Đức khi học tiếng Việt, vì trong tiếng đức chỉ có giới từ
duy nhất đứng trước danh từ riêng là nach để diễn tả chuyển động đến nơi đó. Đặc biệt
việc sử dụng lên hoặc xuống trong trường hợp này phụ thuộc vào vị trí của người nói.
Các giới từ trong câu nói sau có lẽ sẽ nêu rõ người nói ở đâu. Ở cách diễn đạt thứ nhất
người nói có thể ở một nơi mà cao hơn Hà Nội như Cao Bằng, Điện Biên, Mai Châu,
Hòa Bình ... Ngược lại từ lên diễn tả trong câu thứ hai chỉ sự chuyển động từ một vị trí
thấp là vùng người nói đang sống có biển hoặc hồ đến Hà Nội.
(191) Tôi đi xuống Hà Nội.
(Ich fahre nach Hanoi.)
(192) Tôi đi lên Hà Nội.
(Ich fahre nach Hanoi.)
Tuy nhiên cần lưu ý rằng không chỉ mối quan hệ trên – dưới (auf – unter),
mà còn mối quan hệ trong – ngoài (in/innerhalb – auβerhalb) cũng xác định giới từ
chỉ địa điểm trước tên các thành phố. Việc lựa chọn giới từ không phụ thuộc vào
mối quan hệ không gian giữa các đối tượng mà phụ thuộc vào đối tượng tham chiếu
mở như thế nào.
(193) Những đứa bé chơi ngoài sân.
(Die Kinder spielen auf dem Hof.)
109
(194) Những đứa trẻ chạy ra (ngoài) sân.
(Die Kinder laufen auf den Hof.)
Các địa điểm có đặc điểm mở là đồng (Felder), biển (Seen), đường (Straße),
... Tuy nhiên các địa điểm có đặc điểm khi chúng đứng trong mối quan hệ không
gian với một không gian đóng. Do vậy vị trí của người nhìn/ người nói đóng một
vai trò quan trọng.
(195) Trên đường không một bóng người.
(Niemand ist auf der Straße.)
Ở đây người nói đang ở trên đường phố (Der Sprecher ist in der Straße).
(196) Ngoài đường không một bóng người.
(Niemand ist auf der Straße.)
Còn trong câu này người nói đang ở trong nhà (Der Sprecher ist im Haus).
Miền Nam Việt Nam nhỏ hơn miền Bắc Việt Nam, đó đó miền Nam so với miền
Bắc được coi là không gian đóng. Đặc điểm địa lý này xuất hiện cách diễn “trong
(miền) Nam” (im Süden), “ngoài (miền) Bắc (im Norden)” hoặc “vào (miền)
Nam” (in den Süden), “ra (miền) Bắc” (in den Norden). Theo đó các thành phố ở
miền Bắc sẽ có đặc điểm là “ngoài” và miền Nam sẽ có đặc điểm là “trong”. Một
người trong Hồ Chí Minh có thể nói các câu sau:
(197) Anh trai tôi sống ngoài Hà Nội.
(Mein Bruder wohnt in Hanoi.)
(198) Tuần tới tôi ra Hà Nội.
(Nächte Woche fahre ich nach Hanoi.)
Trong trường hợp này “ngoài” và “ra” không diễn tả mối quan hệ không
gian giữa người được định vị (anh trai tôi; tôi) và đối tượng tham chiếu (Hà Nội) mà
là mối quan hệ không gian giữa địa điểm mà đối tượng được định vị đang ở (Hồ Chí
Minh), và đối tượng tham chiếu (Hà Nội). Từ đó suy ra rằng sự ảnh hưởng của đặc
điểm địa lý phần lớn vào sự đa dạng của giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt. Đặc
điểm địa lý này không thấy trong tiếng Đức đối với giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại “in”
và giới từ chuyển động “nach”.
Thứ ba, ảnh hưởng của đặc điểm xã hội
110
Khi nói đến giới từ thì không chỉ đặc điểm địa lý mà còn đặc điểm xã hội
cũng ảnh hưởng đến việc sử dụng những giới từ chỉ địa điểm. Các cách diễn đạt sau
đây không được giải thích rõ ràng mà không chú ý đến hệ thống cấp bậc xã hội.
(199) Mai tớ lên trên Hà Nội.
(Morgen fahre ich nach Hanoi.)
(200) Trên thành phố dễ kiếm ăn hơn.
(In der Stadt ist es leichter, Geld zu verdienen.)
(201) Bà tớ sống dưới quê.
(Meine Oma wohnt auf dem Land/ Dorf.)
Hệ thống cấp bậc xã hội được mô tả thông qua nghiên cứu giới từ “trên” và
“dưới”. Theo đó ta thấy được tư duy của người Việt Nam: đơn vị xã hội được coi là
“trên” nếu có vị trí xã hội cao hơn so với các đơn vị khác. Thông qua các ví dụ
chúng ta rút ra được rằng các thành phố ví dụ như Hà Nội có vị trí xã hội cao.
Ngược lại các làng, xóm, miền quê là địa điểm với vị trí xã hội thấp và được diễn tả
với đặc điểm “dưới”. Vì vậy chúng ta có thể thấy rất rõ rằng hệ thống cấp bậc xã
hội được phân chia ra như vậy được thấy trong từng lĩnh vực.
Ví dụ nói đến lĩnh vực giáo dục: Bộ Giáo dục > Trường đại học > Khoa,
phòng.... thì có nghĩa là Bộ Giáo dục đứng ở vị trí cao nhất sau đó đến các đơn vị
khác được quy định theo trình hệ thống trình tự rất rõ ràng.
Nói đến lĩnh vực chính trị: Ủy ban nhân dân tỉnh > Ủy ban nhân dân huyện > Ủy
ban nhân dân xã .... và ở đây thì Ủy ban nhân dân tỉnh có vị trí cao nhất và thẩm
quyền cao nhất sau đó đến các đơn vị khác thấp hơn.
Việc sử dụng giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức sẽ không phụ thuộc vào các đặc
điểm xã hội này mà nó phụ thuộc vào đặc điểm của đơn vị xã hội trong câu.
(202) Ich arbeite in der Stadt/ in München.
(Tôi làm việc ở thành phố/ ở München.)
(Stadt: ein geschlossen Raum) (München: Eigenname)
(một không gian đóng) (tên riêng)
(203) Ich arbeite auf dem Land / in Au am Aign.
(Tôi làm việc trong nước/ ở Au am Aign.)
(Land: ein offner Raum) (Au am Aign: Eignenname)
111
(một không gian mở) (tên riêng)
(204) Ich bin in der Abteilung an der Univetsität.
(Tôi ở trong phòng ban/ ở trường Đại học.)
(Abteilung: ein geschlossen Raum) (Univetsität: Insitut für Forschung)
(một không gian đóng) (Viện nghiên cứu)
Tiếp theo ta nói rằng giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức chỉ miêu tả đặc
điểm về địa điểm trong khi đó giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt trong nhiều
trường hợp còn dựa trên nền tảng xã hội.
Thứ tư, khái niệm “đường bao”
Một đặc điểm tiếp theo mà chúng ta phân biệt giới từ trong tiếng Việt với
giới từ trong tiếng Đức là khái niệm “đường bao”, khái niệm này mô tả cách nghĩ
của người Việt Nam về không gian xung quanh cơ thể một đối tượng: quanh mỗi
đối tượng tồn tại một không gian bao quanh thuộc về đối tượng đó và thông qua
đường bao cơ thể sẽ giới hạn với không gian khác. Cái mà ở trong không gian này
được định vị là trong (in) đối tượng và khi cái gì đó di chuyển đến không gian này,
thì hướng được biểu thị là vào (in). Do đó trong và vào được coi là các giới từ điển
hình mô tả khái niệm này. Ngược lại ngoài (auβer) và ra (auf/ nach/ in ...) được sử
dụng ít hơn. Ngoài các ví dụ với cách diễn đạt “trong người” (am Körper), “vào bàn”
(zum Tisch), mà đã được giới thiệu khi phân tích giới từ trong, ngoài, ra, vào, tác giả
muốn một lần nữa đề cập đến ví dụ sau và giải thích bằng khái niệm “đường bao”.
(205) Thằng nhỏ ngồi ngoan ngoãn trong lòng bà.
(Der Junge sitzt sehr brav auf dem Schoß seiner Oma.)
Trong trường hợp này, liệu rằng từ “lòng” có nghĩa là “Schoβ” hay là
“Gefühlbehälter” thì đối tượng là “cậu bé” không thể thấy ở trong. Việc sử dụng từ
“trong” (in) được giải thích rằng cậu bé đã ở trong phòng và ngồi lên cơ thể của đối
tượng bà (die Oma). Theo khái niệm “đường bao” giới từ được sử dụng cho điều
này để nói đến việc một đối tượng được bao quanh bởi một đối tượng khác.
Một cách diễn đạt khác ví dụ “dán miếng băng urgo vào vết thương”
(Pflaster an die Wunde kleben) cũng được giải thích theo khái niệm “đường bao”.
Miếng băng urgo dù không ở bên trong và chỉ dán vào vết thương ở trên bề mặt
nhưng lại được mô tả theo chuyển động của miếng băng urgo thông qua giới từ vào
(in), vì đích đến của chuyển động miếng băng là ở khu vực riêng của vết thương.
112
Như vậy có thể thấy khái niệm “đường bao” không chỉ được áp dụng cho con người
mà còn cho đồ vật. Hay như một ví dụ khác người Việt Nam không nói “gõ cạnh/
bên cạnh cửa” mà nói “gõ vào cửa” (an die Tür knopfen). Hướng của sự chuyển
động nhanh vào cái gì đó cần dùng giới từ vào (in), nếu đối tượng hướng về đường
bao của đối tượng tham chiếu: “đâm vào tường” (an die Wand stoßen). Đường bao
(đường bao)
và chuyển động hướng được mô tả thông qua vào được diễn tả như sau:
Hình 34: đường bao
Thứ năm, mức độ chi tiết khác nhau khi nhận thức không gian
Trong khi giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt phản ánh đặc điểm xã hội và
địa lý thì giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức chỉ ra cách nghĩ chi tiết và logic của
người Đức khi nhận thức về không gian. Ngoài các giới từ trên/ trong (auf/ in) được
chúng tôi phân tích và đề cập chủ đạo trong luận án thì ngoài ra tác giả muốn nói
đến các từ liên quan đến định vị không gian như: “bên/ cạnh/ bên cạnh/ gần/ sát
(neben/ an)” mà nghĩa của chúng không được phân biệt rõ ràng. Ở đây chúng ta rất
khó để xác định khoảng cách giữa đối tượng được định vị và đối tượng tham chiếu.
Nhận thức về một không gian ba chiều, ổn định và liên tục không bao hàm những
sự đo lường về khoảng cách. Ví dụ như câu nói Anh ngồi cạnh em hoặc Anh ngồi
gần em liệu có thể được dịch sang tiếng Đức là Ich sitze neben dir hay không. Giới
từ duy nhất “sát” khác với các giới từ khác trong nhóm đó là giới từ nhấn mạnh sự
gần trực tiếp của các đối tượng. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là giới từ khác
không diễn tả đặc điểm này. Thông qua đặc điểm này thì chính xác có hai giới từ
trong tiếng Đức là “an” và “neben” mang ý nghĩa gần. Giới từ “an” diễn tả sự tiếp
xúc giữa các đối tượng, trong khi đó “neben” lại không mô tả sự tiếp xúc, chi tiết
này không được tìm thấy trong tiếng Việt. Việc tiếp xúc giữa hai vật thể cũng được
coi là tiêu chí khác nhau để phân biệt giới từ trong tiếng Đức là “auf” và “über”. Ý
nghĩa của hai giới từ tiếng Đức này cũng có trong tiếng Việt đó là một giới từ tĩnh
tại “trên” và một giới từ chuyển động “lên”. Liệu rằng có sự tiếp xúc giữa đối
113
tượng được định vị và đối tượng tham chiếu không thì hai giới từ “lên” và “trên”
không diễn tả điều đó.
(206) Die Tasche ist auf dem Tisch. (207) Die Wäsche hängen über dem Kopf.
(Chiếc cặp ở trên bàn.) ( Quần áo treo ngay trên đầu.)
Hình 35: “auf” và “über” - trên
(208) Die Tasche auf den Tisch stellen (209) Die Wäsche über den Kopf hängen
(Đặt chiếc cặp lên bàn) (Treo quần áo ngay trên đầu)
Qua đó ta rút ra rằng mối quan hệ không gian giữa đối tượng được định vị và đối
tượng tham chiếu rất được chú ý thông qua giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức.
Trong tiếng Việt bên cạnh sự chú ý đến mối quan hệ không gian của các đối tượng
thì các yếu tố khác cũng đóng một vai trò, ví dụ: mối quan hệ không gian giữa
người nhìn và đối tượng tham chiếu, hay đặc điểm xã hội và địa lý.
Thứ sáu, thói quen khi sử dụng giới từ chỉ không gian
Việc sử dụng giới từ chỉ địa điểm chỉ ra rằng nhận thức không gian của
người Đức dựa trên mối quan hệ không gian giữa đối tượng được định vị và đối
tượng tham chiếu. Việc sử dụng này là rất logic và rõ ràng. Ngược lại việc sử dụng
giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt thường có chút chủ quan và dùng theo thói
quen. Do đó không dễ để giải thích trong nhiều trường hợp tại sao chúng ta lại sử
dụng giới từ này hoặc giới từ kia. Về đặc điểm này sẽ được nhắc lại trong các ví dụ
(29), (30), (31) và (32). Theo thói quen sử dụng người Việt Nam thì chúng ta chấp
nhận hai cách sử dụng ba lô trên lưng; ba lô sau lưng (Rucksack auf dem Rücken)
và huân chương trên ngực; huân chương trước ngực (Medaille vor der Brust). Sự
giải thích ở đây là liệu chúng ta có chú ý đến mối quan hệ không gian của các đối
tượng hoặc khái niệm “hình thái tiêu chuẩn” hay không. Do vậy thói quen khi sử
dụng giới từ chỉ địa điểm được tìm thấy ở trong nhiều trường hợp.
der See
(hồ) das Mädchen
(cô gái)
Raumbeziehung (mối quan hệ không) gian)
114
(210) Das Mädchen steht am See.
(Cô gái đứng bên hồ)
Giới từ “bên” (an) trong ví dụ mô tả mối quan hệ không gian giữa đối tượng
được định vị là cô gái và đối tượng tham chiếu là cái hồ và đặc điểm này cũng thấy
(Vị trí người nhìn)
(Cô gái)
(Hồ)
thông qua giới từ “an”.
(211) Das Mädchen steht vor See.
(Cô gái đứng trước hồ)
Giới từ “trước” được sử dụng khi vị trí của người nhìn liên quan đến vị trí
của đối tượng được định vị và đối tượng tham chiếu được chú ý. Cách nhìn này
phân biệt giới từ trong tiếng Việt với giới từ tiếng Đức vì cách diễn đạt khi sử dụng
giới từ “vor” ở đây là không đúng mà phải là: “Das Mädchen steht vor dem See”.
Vì thói quen khi sử dụng giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt nên có thể gặp phải
nhiều khó khăn khi học tiếng Việt đối với người nước ngoài dịch sang theo ngôn
ngữ của họ.
3.3. Đối chiếu giới từ auf/in với các giới từ tƣơng đƣơng trong tiếng Việt nhìn
từ góc độ tri nhận
3.3.1. Về nội dung định vị có tính tôpô
Auf/ in là các giới từ định vị không gian có tính tôpô. Hình học tôpô
(topology) là ngành hình học nghiên cứu các thuộc tính không bị ảnh hưởng bởi sự
thay đổi và kích thước. Vì vậy, nó thường được ví như là một loại “hình học (tấm)
cao su” (rubber - sheet geometry). Điều quan tâm duy nhất của nó là “các thuộc tính
hình học vẫn được bảo tồn trong điều kiện có sự biến đổi hay biến dạng. Theo đó,
một vật hình cầu và một khối lập phương là tương đương nhau về mặt tôpô và
chúng phân biệt với một cái bánh vòng hay một cái lốp xe đạp”. [109, tr. 362]
Auf/in có tính tôpô là vì ý nghĩa định vị của chúng mà cách thức định vị của
chúng không lệ thuộc vào kích cỡ hay hình dáng của các đối tượng được định vị
cũng như đối tượng quy chiếu.
115
Khi đối chiếu hai giới từ auf/in trong tiếng Đức với tiếng Việt trên/trong thì
chúng ta hoàn toàn có thể chấp nhận một nội dung chung cho cả tiếng Đức và tiếng
Việt. Và nội dung chung này được thể hiện cụ thể qua các ý niệm điển hình của
auf/in như sau:
Thứ nhất, trong tiếng Việt, nói về sự định vị không gian có một điểm là
ĐTĐV và một điểm là ĐTQC, giữa hai điểm này có sự trùng (chồng/ choán) về một
nội dung định vị.
Thứ hai, cũng có thêm một nội dung định vị không gian giữa một cấu hình
hình học này với một cấu hình hình học khác thông qua mối quan hệ tiếp xúc và
nâng đỡ giữa hai cấu trúc này.
Thứ ba, cũng có một nội dung định vị cho một cấu hình hình học không gian
này được bao chứa bởi một cấu hình hình học không gian khác (giữa TR và LM).
Việc chúng ta có thể chấp nhận những điều trên là bởi, một là xét về cách
thức định vị giữa các thực thể có tính quan hệ không gian cũng như góc nhìn tri
nhận mang tính không gian tôpô thì không có gì đáng phản đối; hai là có thể tạo ra
những cơ sở thực tế cho việc đối chiếu so sánh về các nội dung định vị này trong
những cách thức hiện thực hóa với những bước biến nghĩa và dung biến nghĩa của
nhóm giới từ hữu quan; ba là không có gì trở ngại cho một xuất phát chung từ
nguồn tri thức định vị không gian có tính phổ quát của loài người.
3.3.2. Sự khác biệt về nội dung định vị
Ngoài nội dung chung về sự định vị không gian giữa hai ngôn ngữ được đề
cập ở phần trên thì cũng có sự khác biệt về nội dung định vị này giữa tiếng Đức và
tiếng Việt. Sự khác biệt này được thể hiện qua số lượng các giới từ hữu quan, cách
thức xử lý các nội dung định vị trong hoạt động định vị thực tế của từng ngôn ngữ,
cách thức xử lý cụ thể đối với các ĐTQC và ĐTĐV cụ thể, những sự chi phối cụ thể
của cách thức tri nhận không gian riêng của tiếng Đức và tiếng Việt về ĐTQC và
ĐTĐV cũng như việc thiết lập mối quan hệ định vị không gian giữa chúng.
3.3.2.1. Trong cách thức đối dịch của các văn bản
Tùy vào từng ngữ cảnh, trường hợp mà người dịch các văn bản tiếng Đức
sang tiếng Việt hoặc ngược lại sử dụng một cách đối dịch cụ thể dịch. Có bốn loại
dịch các giới từ auf/in sang tiếng Việt như sau:
Loại 1: Sử dụng các giới từ tương ứng (ngữ nghĩa) trong tiếng Việt để đối dịch.
116
(212) Sie lag auf dem Sofa.
(Cô ta nằm trên chiếc ghế sô pha.)
(213) Er saß auf einem Fass.
(Anh ta ngồi vắt vẻo trên một thùng tô nô.)
(214) Das Kind warf die Papiere auf den Boden.
(Đứa trẻ ném những tờ giấy trên sàn nhà.)
(215) Die Kinder werden mit ihrer Mutter in dem Wohnzimmer versammelt
(Bọn trẻ đang quây quần bên mẹ trong phòng khách.)
(216) Die Wörter in der einleitenden Seite.
(Các từ trong trang giới thiệu)
(217) Er hat viele Dollarmünzen in seiner Brieftasche
(Anh ấy có rất nhiều đồng đô la trong ví của mình.)
Loại 2: Về thực chất, loại 2 không khác loại 1. Tuy nhiên, trong loại 2 này, các giới
từ sử dụng để đối dịch không có đặc điểm “thuần túy” như loại 1. Ở loại 2, có sự
xáo trộn giữa các giới từ tiếng Việt dùng để dịch các giới từ auf/ in trong tiếng Đức.
(218) Er ist mit seinem alten Fleck auf dem Auge
(Anh ấy vẫn đang đeo miếng băng cũ che mắt của mình)
(219) Der Arzt schlug plötzlich zu und streckte den Rufian auf den Boden
(Tai nạn xảy ra đột ngột khiến anh nằm bẹp trên sàn nhà)
(220) Sie gingen und redeten, ohne zu merken, dass sie sich an einem Ort
in der leeren Klippenhöhle befanden.
(Họ vừa đi vừa nói chuyện mà không nhận ra rằng mình đang ở đâu đó
trong hang đá trống trải.)
(221) Ein Vogelschwarm fliegt in den Himmel.
(Một đàn chim đang bay lượn chập chờn trên bầu trời)
Loại 3: Các giới từ auf/ in được chuyển dịch sang tiếng Việt bằng các yếu tố chỉ
hướng hành động hay bằng những yếu tố từ vựng chỉ phạm vi không gian hoặc
vùng. Ví dụ:
(222) Der arme Mann kniete auf den Knien
(Người đàn ông tội nghiệp quỳ xuống)
(223) Die Kinder nahmen ihre Taschen und ließen alle ihre Bücher auf
den Boden fallen.
117
(Bọn trẻ lấy cặp và bỏ hết sách xuống sàn nhà.)
(224) Es sitzt in einem Sessel.
(Nó ngồi phịch xuống ghế bành.)
(225) Seine vorwurfsvollen Worte waren immer noch in meinen Ohren.
(Những lời nói trách móc của anh vẫn văng vẳng bên tai tôi.)
Loại 4: Các giới từ auf/in dường như không được chuyển dịch sang tiếng Việt.
Ví dụ:
(226) Die Kinder saßen auf dem Boden.
(Những đứa trẻ ngồi trên sàn nhà.)
(227) Endlich stand er vorsichtig auf den Knien auf.
(Cuối cùng anh ta nhẹ nhàng quỳ hai đầu gối ngồi dậy.)
(228) Haus ist in Flammen.
(Nhà đang cháy.)
(229) Er wurde in die Enge getrieben.
(Anh ấy đã bị dồn vào chân tường.)
3.3.2.2. Một số nhận xét
Đối với cách đối dịch ở loại 1 và loại 2 thường phổ biến, ở đây tác giả xin
nói về loại 3 và loại 4. Đây là hai kiểu loại phản ánh những cách thức diễn đạt khác
nhau giữa tiếng Đức và tiếng Việt về các sự tình cũng như về các đoản ngữ thường
liên quan đến động từ hành động. Chẳng hạn, ở ví dụ (229) Er wurde in die Enge
getrieben (Anh ấy đã bị dồn vào chân tường), ở đây biểu đạt ý nghĩa rằng anh ấy bị
dồn vào thế bí, ở trong vị trí bị khép kín. Với nghĩa đen này, trong tiếng Việt có
nhiều cách diễn đạt tương tự, như lâm vào thế kẹt/ ngõ cụt/ đường cùng, ... không
lối thoát, thậm chí nếu nghiêm trọng hơn thì là rơi vào chỗ chết. Vì vậy, với cách
dùng một cấu trúc định vị mang nghĩa hoán dụ như ở ví dụ (229), việc chuyển dịch
sang tiếng Việt như vậy là thỏa đáng, vì kết cấu định vị ở đây chỉ có giá trị nặng về
mô tả hơn là định vị.
Đối với ví dụ (222) Der arme Mann kniete auf den Knien (Người đàn ông
tội nghiệp quỳ xuống), thì việc sử dụng một số cấu trúc định vị đi kèm với động từ
như thế này (kniete auf den Knien) cũng là một kiểu loại thiên về miêu tả. Trong
tiếng Đức cụm từ kniete auf den Knien (trên hai đầu gối) nhưng hiểu ngầm được ẩn
hoặc tiền giả định trong ngữ nghĩa của động từ “quỳ” trong tiếng Việt. Và ở đây,
118
đối với tiếng Việt sử dụng kết cấu “quỳ” (động từ) và “xuống” (từ chỉ hướng) là đủ
nghĩa. Trong hầu hết các trường hợp khác cũng vậy, nó phản ánh cách thức diễn đạt
tình huống một cách khác nhau ở hai ngôn ngữ.
Chúng tôi khảo sát một số câu trên đây để chúng ta thấy có những người dịch
các văn bản tiếng Đức sang tiếng Việt đều đã có những thành công lớn trong việc
chuyển dịch từ tiếng Đức sang tiếng Việt. Tuy nhiên xét đến bốn loại chuyển dịch
các kết cấu định vị ở trên thì không phải bất cứ một kết cấu định vị nào của auf/ in
trong tiếng Đức đều có thể chuyển dịch bằng một kết cấu đinh vị tương đương trong
tiếng Việt. Ngay cả hệ thống giới từ được sử dụng cũng không hề có sự tương ứng
đồng đều trong hai ngôn ngữ. Ví dụ như in chẳng hạn, khi dịch sang tiếng Việt thì
in có nghĩa tương đương là trong,ở đây nghĩa lý tưởng có tính bao chứa và được
bao chứa về mối quan hệ không gian giữa ĐTQC và ĐTĐV của in và trong trong
tiếng Đức và tiếng Việt về cơ bản không có gì khác biệt. Nhưng nhiều khi in lại
được dịch chuyển sang tiếng Việt với các nghĩa như: ở, bên, trên, giữa, trước, tại ...
(230) Manchmal denke ich, ich bin in Deutschland.
(Đôi khi tôi tưởng mình đang ở Đức.)
(231) Die Kinder zeichnen einen Kreis in den Sand.
(Bọn trẻ vẽ một vòng tròn trên cát.)
(232) Es gibt sehr viele Fische in diesem Fluss.
(Có nhiều cá dưới sông này lắm.)
(233) Das Lied ist für immer in meinen Ohren.
(Bài hát cứ vang mãi bên tai tôi.)
(234) Ein neuer Ort, in einem neuen Haus.
(Một nơi mới, tại một ngôi nhà mới.)
Thực ra với những ví dụ trên thì vẫn chưa đủ phản ánh những gì mà chúng
tôi có trong tư liệu, nhưng cũng tạm đủ để chúng ta có một vài so sánh, đối chiếu và
liên hệ cần thiết. Có thể nói, mối quan hệ không gian giữa ĐTĐV và ĐTQC được
người Đức trừu tượng hóa trong giới từ in khi quan hệ định vị không gian khác
nhau, điều này cũng diễn ra tương tự khi chúng ta chuyển dịch ngược lại từ tiếng
Việt sang tiếng Đức với những cách dùng cụ thể. Điều này cũng phản ánh sự khác
biệt khá là đa dạng về cách thức tri nhận không gian đối với từng ĐTĐV và ĐTQC
cụ thể giữa tiếng Đức và tiếng Việt.
119
Trong tiếng Đức luôn định vị không gian một cách khách quan, dựa vào
mối quan hệ không gian giữa ĐTĐV và ĐTQC. Còn trong tiếng Việt, bên cạnh cách
thức định vị mang tính chủ quan, còn phổ biến cách thức định vị có tính chủ quan -
dựa vào mối quan hệ không gian giữa ĐTĐV và bản thân người nói hoặc người
nghe là ĐTQC. Và cũng chính tính chủ quan này đã định ra những tập quán sử dụng
các kết cấu như: trên trời, dưới đất, trong nhà, ngoài sân, trong bụng, ngoài mặt,
trên bờ, dưới sông, trên cây, dưới gốc cây, ....
Tuy nhiên, điều quan trọng là sự thể hiện cách thức định vị có tính chủ
quan của tiếng Việt lại được thể hiện ra bằng nhiều cách thức đa dạng tạo thành một
thói quen, một cách thức ứng xử định vị có tính thường trực. Điều này đã gây ra
không ít những khó khăn cho người Việt khi học và sử dụng các giới từ định vị
không gian trong tiếng Đức. Xét ví dụ (233) “Bài hát cứ vang mãi bên tai tôi” (Das
Lied ist für immer in meinen Ohren), có thể nói đây là tình huống định vị khá xa lạ
với người Việt vì với người Việt khi nói “bên tai” thì như là một thứ gì đó từ ngoài
vào, từ xa đưa đến. Bởi người Việt vẫn nói “nước trong tai”, “có tiếng vù vù trong
tai”, “đau trong tai”, ...
Trên đây là một số phân tích sơ lược về tình huống định vị cụ thể của in.
Trên lý thuyết cũng như thực tế, chúng ta không thể nào đề cập đến tất cả mọi
trường hợp của những tình huống khác biệt cụ thể. Do đó, một cách thức so sánh,
đối chiếu liên hệ sẽ phù hợp hơn là trở lại với các kiểu định dạng định vị của auf/ in
và các phương tiện dùng tương ứng trong tiếng Việt với nội dung ý nghĩa lý tưởng
của auf/ in trong tiếng Đức.
3.3.3. Giới từ “auf” nhìn từ góc độ tri nhận đối chiếu với tiếng Việt
Qua việc phân tích về các kiểu loại sử dụng của auf tương quan đối chiếu với
tiếng Việt mà đã được trình bày ở chương II, chúng tôi thấy nổi lên một số vấn đề
như sau:
Auf - trên là sự phân biệt có tính thường trực giữa kiểu định vị có tính chủ
quan và kiểu định vị có tính khách quan. Trong tiếng Đức, nếu xuất phát từ một
cách nhìn mang tính thực tiễn, người ta hoàn toàn có thể đặt ra vấn đề là liệu có một
phạm vi nào đó trong các kiểu định vị của auf chỉ có thể tồn tại một cách thức dịch
120
chuyển sang tiếng Việt (không phải là hai cách). Trong những trường hợp nào đó có
thể có những phạm vi như vậy. Ví dụ như:
(235) Der Riss auf dem Boden.
(Vết nứt trên sàn nhà.)
Die Falten auf seiner Stirn (những nếp nhăn trên trán anh ta); Die Bilder auf dem
Fernsehbildschirm (những hình ảnh (ở) trên màn hình ti vi); Es gibt einen Punkt auf
Der Oberfläche (có một điểm (ở) trên một bề mặt).
Trong những trường hợp trên, không thể dùng “dưới”, đây là phạm vi định
vị của một thực thể hoặc biến cố gắn liền với nó hoặc có tính cách gần như là một
bộ phận của ĐTQC nằm trong một phạm vi cụ thể (đó là ĐTQC). Khi dịch sang
tiếng Việt, người Việt thường hay bổ sung thêm một yếu tố nhằm biểu thị cụ thể
hơn nghĩa định vị theo từng tình huống cụ thể mà trong đó tập quán sử dụng đã có
những chi phối nhất định khiến cho từ ở không còn có tính thường trực vốn có. Ví
dụ với các con đường có tính cách như là ĐTĐV (kể cả đường thẳng hình học),
người Việt thường dùng từ trên và bổ sung thêm từ ở đằng trước nó như: “ổ gà (ở)
trên đường” (Schlaglöcher auf der Straße), “có một trạm xăng (ở) trên đường” (Es
gibt eine Tankstelle auf der Straße), “lúa chín (ở)trên cánh đồng” (Reifer Reis auf
dem Feld), “những vết bẩn (ở) trên áo” (die Flecken auf dem Hemd), “(ở) trên một
đường thẳng (auf gerader Linie), “(ở) trên đất trống” (auf freiem Feld), “(ở) trên
một bức khắc đồng”(auf einem alten Kupfertisch) ... trong khi đó tiếng Đức chỉ
dùng vậy từ auf... Như vậy có thể hiểu rộng hơn là, trong cách thức tri nhận không
gian của người Việt, hầu hết những thực thể xuất hiện trong một bề mặt, một
đường, được nhìn nhận như là ở trên bề mặt, trên đường đó.
Qua đây có thể nói rằng, sự tri nhận định vị không gian khách quan của
người Việt chịu sự chi phối mạnh mẽ của phương nằm ngang, ngoài ra còn chịu sự
chi phối của cái mà “có thể nhìn thấy được” theo phương nằm ngang vào phạm vi
ngữ nghĩa của trên. Xét trong tương quan này thì nội dung ngữ nghĩa của dưới
thường đối lập phân biệt với trên, và do đó có tính định vị chủ quan nhiều hơn, ví
dụ “ổ gà ở dưới đường”. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thì dưới cũng dùng với
nghĩa định vị có tính khách quan, như: “quyển sách ở dưới gầm giường”. Hai tác
giả Lý Toàn Thắng [52, 53], Trần Quang Hải [17] đã đề cập, là cái chi phối cho việc
có thể chuyển dịch những kiểu định vị như: “Er schlief auf dem Boden” dịch thành
121
“Nó ngủ trên nền nhà” (trên là kiểu định vị khách quan); “Nó ngủ dưới nền nhà“
(dưới là kiểu định vị chủ quan).
Ngoài ra, như đã phân tích ở chương 2, trong tiếng Đức, một là có một số
trường hợp on được dùng để định vị cho tình huống ĐTĐV gián cách với ĐTQC, ví
dụ Die dunklen Wolken auf der Insel (những đám mây đen trên đảo). Hai là, tiếng
Đức thường dùng auf cho kiểu loại định vị của một “vật thể ở trên một phần của
chính nó” (xem phần d mục 2.2.1.1). Kiểu loại định vị này khá xa lạ với người Việt,
hầu như không có thấy trong tiếng Việt. Hiếm khi người Việt dùng các kết cấu như
“đứng trên đôi chân” tương ứng với “steh auf deinen Füßen”, trong tiếng Đức câu
này vừa có nghĩa đen, vừa có nghĩa bóng. Còn trong tiếng Việt chúng ta thấy cách
dùng này thường có nghĩa bóng để nói đến việc tự lập, tự cường, không phụ thuộc,
.... Trong khi đó, những kết cấu như: auf den Knien (trên hai đầu gối), der Mann
auf dem Rücken (người đàn ông nằm ngửa), ...trong tiếng Đức không có nghĩa bóng
ngoài ý biểu thị “vật thể trên một phần của chính nó”. Những kết cấu như những ví
dụ này chỉ có thể chuyển dịch sang tiếng Việt bằng những kết cấu không có tính
định vị như “người đàn ông nằm ngửa hoặc nghỉ lưng”. Do vậy, kiểu loại này khá
xa lạ với tiếng Việt là một điều dễ hiểu.
Trên trong tiếng Việt, ngoài nghĩa định vị có tính gắn liền, nâng đỡ, tiếp
xúc thì nó còn nghĩa biểu thị giống với über (bên trên) trong tiếng Đức. Đây là một
sự định vị theo phương thẳng đứng có tính tô pô của một ĐTĐV ở vị trí bên trên, sự
tách rời (không có sự giới hạn liên hệ chặt chẽ về khoảng cách) với ĐTQC.
Tác giả Lý Toàn Thắng [52] đã phân tích khá kỹ về ngữ nghĩa, cơ chế tri
nhận, chiến lược định vị của từ trên. Xét những ví dụ như mây trên trời với mây
bay trên đầu thì ví dụ thứ 2 là kiểu định vị có thể quy vào loại vừa có tính chủ quan
vừa có tính khách quan. Tuy nhiên, xét theo mối quan hệ ĐTĐV và ĐTQC thì việc
quy chiếu trường hợp này vào kiểu loại định vị có tính khách quan sẽ hợp lý hơn.
Còn ở ví dụ 1 thì có thể quy vào kiểu loại định vị có tính chủ quan.
Như vậy, có thể nói rằng, trên trong tiếng Việt, với nghĩa định vị có tính
gián cách về mặt không gian theo phương thẳng đứng, có một phạm vi mang tính
đặc thù trong tương ứng so sánh với tiếng Đức, đó là ĐTĐV được xem là trên
ĐTQC, mặc dù có thể ĐTĐV không ở vị trí cao hơn ĐTQC theo phương thẳng
122
đứng nhưng cả hai ĐTĐV và ĐTQC đều nằm ở vị trí cao hơn tầm nhìn của người
nói. Ví dụ: đèn trên trần nhà.
Tóm lại, trong tương quan so sánh giữa tiếng Đức và tiếng Việt, có thể
nhận thấy rằng, nếu như auf trong tiếng Đức, ngoài phạm vi cho kiểu định vị không
giang có tính gắn liền giữa ĐTĐV và ĐTQC là một phạm vi có thể gây ra “mối
tương ứng” giả tạo giữa auf và trên ví dụ như: ein Apfel auf einem Ast (quả táo
trên cành), thì còn có một số phạm vi cần được lưu ý như: eine Medaille auf einer
Kette (một huy hiệu được đeo trên dây đeo) - nói đến một vật thể này được gắn với
một vật thể khác. Hay như nói đến đối tượng vật lý được tiếp xúc với một vật thể
khác như: Lege deinen schmutzigen Finger nicht auf meinen sauberen Anzug (Đừng
chạm những ngón tay bẩn thỉu của bạn lên bộ quần áo sạch sẽ của tôi). Hoặc nói
đến vật thể ở trên một phần của chính nó, ví dụ như: der Mann auf dem Rücken
(người đàn ông nằm ngửa) và những trường hợp sử dụng các ĐTQC trong tính cách
như là các vị trí địa lý.
Trong khi đó, trên trong tiếng Việt lại tạo ra những phạm vi có tính khác
biệt như: phạm vi định vị có tính chủ quan - trên trời (im Himmel), phạm vi định vị
có sự gián cách về không gian - “Những đám mây trắng trên núi” (Weiße Wolken
in den Bergen). Ngoài ra, sự hiện diện của đặc trưng ngữ nghĩa có thể nhìn thấy
được, như đã nói ở trên, cũng tạo ra những trường hợp khác biệt cụ thể khác như:
Bombenkrater auf dem Feld (hố bom trên cánh đồng), das Loch in der Wand
(một cái lỗ trên tường). Hay một số cách sử dụng cụ thể như: trên thế giới (in der
Welt), trên đường (auf der Straße) ...cũng tạo nên những khác biệt rất đáng chú ý.
Trên đây là một số khác biệt cơ bản mà tác giả đã trình bày cụ thể cùng với
những ví dụ được minh họa, mặc dù không có tính bao quát toàn bộ, nhưng cũng
phần nào nói đến một sự hình dung cơ bản cần thiết về mối quan hệ giữa auf và
trên từ hai góc độ tri nhận khác nhau của người Đức và người Việt.
3.3.4. Giới từ “in” nhìn từ góc độ tri nhận đối chiếu với tiếng Việt
Nói về hai giới từ auf và in trong tiếng Đức thì có lẽ in là giới từ chứa nhiều
nội dung mang tính tri nhận hơn cả trong tương quan so sánh đối chiếu giữa tiếng
Đức và tiếng Việt. Mặc dù, nhìn qua thì có vẻ như in không bị phụ thuộc nhiều vào
cách hình dung không gian giữa ĐTĐV và ĐTQC như là auf. Nhưng trên thực tế,
qua khảo sát, phân tích tư liệu cho thấy, mức độ chênh lệch giữa in và trong là khá
123
lớn, và nó liên quan nhiều đến việc người ta tri nhận như thế nào về sự bao chứa và
vật thể nào có thể là bao chứa (ĐTQC) một vật thể khác (ĐTĐV).
Phần lớn những sự khác biệt giữa in trong tiếng Đức với trong trong tiếng
Việt chủ yếu tập trung ở phạm vi các ĐTQC có mô hình không gian hay một chiều.
Còn những khác biệt với các ĐTQC có mô hình không gian ba chiều là không
nhiều. Chúng tôi xin đưa ra một số ví dụ sau:
(236) Es gibt Punkte in der Linie.
(Có các điểm trên đường thẳng.)
(237) Das Loch in der Wand.
(Một cái lỗ trên tường.)
(238) Er hob sein Glas in die Luft.
(Anh ta nâng ly của mình lên cao/trong không khí.)
(239) Ein Mann in einem schwarzen roten Hut.
(Một người đàn ông trong chiếc mũ đỏ đen.)
(240) Sie saßen in dem Schatten eines Baumes.
(Họ ngồi dưới bóng cây.)
(241) Es gibt keine Apotheke in der Nachbarschaft.
(Không có hiệu thuốc trong khu vực lân cận.)
Với các trường hợp nói trên đều có thể đặt ra những nội dung liên quan đến
cách thức tri nhận không gian đối với từng ĐTQC cụ thể. Chẳng hạn ở ví dụ (237)
việc sử dụng giới từ in gợi lên mô hình không gian ba chiều của bức tường (der
Wand). Với trường hợp ở ví dụ (238) “in die Luft” nói đến sự tri nhận của người
Đức về “không khí” hoặc “bầu trời” hoặc “không trung” như là một khoảng không
gian ba chiều mà trong tiếng Việt cũng có cách thức định vị “trong không khí/ trong
không trung/ trong bầu trời”. Nhưng trong tiếng Việt tồn tại phổ biến cách thức
định vị có tính chủ quan, và cách thức này đã tạo ra những kết cấu định vị có tính
“tập quán” cao, như: trên trời, dưới đất, dưới nước, ... (chim bay trên trời, cá bơi
dưới nước). Riêng trường hợp cụ thể như ví dụ (238), kết cấu định vị “in die Luft”
chỉ có thể dịch sang tiếng Việt là lên (như: nâng cốc hay nâng cốc lên). Nhưng nếu
là “Vögel fliegen in den Himmel” thì lại là “chim bay trên bầu trời” hoặc có vẻ
tương ứng hơn thì là “chim bay trong không trung”.
124
Còn với ví dụ (241) khái niệm “in der Nachbarschaft”, thì đây thường
được hình dung như là một mô hình không gian hai chiều, còn với ví dụ (236) “in
der Linie”, việc sử dụng giới từ in ở đây được xem như là một mô hình không gian
một chiều. Tuy vậy, nghĩa lý tưởng thường trực và phổ biến của in liên quan chủ
yếu đến các ĐTQC có mô hình không gian ba chiều, thường gắn liền với khái niệm
“sự bao chứa” về nội dung ngữ nghĩa của giới từ in. Điều này được tác giả Lê Văn
Thanh [48, tr.152] đề cập đến như là một hệ thống của:
A- ĐTĐV có mô hình không gian bất kì + in + ĐTQC có mô hình không gian ba chiều
B - ĐTĐV có mô hình không gian hai hoặc một chiều hay đơn giản hơn cả là “một
điểm” + in + ĐTQC có mô hình không gian hai chiều
C - ĐTĐV có mô hình không gian một chiều hay “một điểm” + in + ĐTQC có mô
hình không gian một chiều.
Ở đây in còn được áp dụng với cả các ĐTQC hai hoặc một chiều (thông
thường các trường hợp sử dụng in với các ĐTQC một chiều được coi là trường hợp
đặc biệt và không phổ biến). Vì vậy mô hình không gian của ĐTQC tập trung chủ
yếu nói về cái “bao chứa” để phù hợp hơn với cái nội dung ngữ nghĩa của “sự bao
chứa”. Nói chung khái niệm “bao chứa” dường như không thực sự phù hợp với
những tình huống mà ĐTĐV có mô hình không gian đa chiều hơn mô hình không
gian của ĐTQC. Và khái niệm này được hình dung qua việc ĐTĐV nằm trong
phạm vi bề mặt của ĐTQC.
Ở ví dụ (236), thì der Linie là một đường có tính hình học, nhưng ĐTĐV ở
đây lại là Punkte (các điểm). Quả thật chưa chúng tôi chưa thấy quan điểm nào bàn
về vấn đề một điểm là một thực thể có chiều hay không có chiều. Nhưng theo lôgic,
nếu đường là thực thể một chiều thì điểm lại là không có chiều. Tuy nhiên cũng có
một số trường hợp một vật thể vốn là hai chiều nhưng có thể được tri nhận như là ba
chiều, như ở ví dụ (240), Schatten (bóng cây). Ở đây chúng ta thấy, bóng cây về cơ
bản được nhận biết qua hình chiếu của nó lên một phần nào đó, có vẻ vô hình, một
bóng cây mà khi chúng ta đi ngoài nắng mà ngồi dưới gốc cây thì sẽ được che mát
bởi bóng cây vô hình này. Và như vậy, theo chúng tôi, đã củng cố việc tri nhận
“bóng cây” như là vật thể ba chiều.
Chúng tôi thảo luận về một số nội dung trên về sự tri nhận không gian đối
với các ĐTQC của in trong mối tương quan với ĐTĐV. Cũng giống như giới từ auf
125
trong so sánh với tiếng Việt, ta có thể thấy rằng sự tương ứng của của các phương
tiện diễn đạt trong tiếng Việt với tiếng Đức được thể hiện một cách đa dạng, bằng
các giới từ định vị (trong đó chủ yếu là trong) và một số cách thức biểu hiện không
có tính định vị. Thông thường thì sự tri nhận khác nhau về mối quan hệ định vị là
kết quả của sự tri nhận khác nhau về ĐTQC. Thông qua việc so sánh giữa tiếng Đức
và tiếng Việt trong phạm vi định vị của in, ta có thể nhận ra những sự khác biệt nhất
định về một số nội dung có tính tri nhận giữa hai ngôn ngữ này. Trong sự tương ứng
giữa các giới từ định vị, có nhiều tác giả cũng đã phân tích, có những trường hợp
dịch tương ứng thật sự, ví dụ như in house (trong nhà), nhưng cũng có những
trường hợp không hoàn toàn dịch tương ứng, như die Kurve in der Straße (khúc
quanh (ở) trên đường). Những trường hợp không hoàn toàn tương ứng có thể bao
gồm hai loại: một là, những trường hợp được tri nhận khác nhau về mối quan hệ
định vị như die Kurve in der Straße (khúc quanh (ở) trên đường). Hai là, những
trường hợp có sự khác nhau về “chiến lược” định vị (gián tiếp - trực tiếp hoặc chủ
quan - khách quan) mà trong tiếng Việt thường có phần thiên về chiến lược định vị
gián tiếp; trong khi đó tiếng Đức chủ yếu sử dụng chiến lược định vị trực tiếp.
Vì vậy, có thể nói rằng, ngoài nhiều điểm tương đồng thì mỗi ngôn ngữ
đều có sự khác biệt về cách thức diễn đạt sự tri nhận không gian về ĐTQC là những
vật thể đa chiều. Sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ này cũng được bộc lộ qua cách
thức diễn đạt sự tri nhận về mối quan hệ định vị với một số tình huống quan hệ
không gian tương tự giữa các ĐTQC và ĐTĐV tương ứng, tạo nên một sự chênh
lệch khá lớn về cách thể hiện cơ chế tri nhận định vị giữa hai ngôn ngữ.
3.4. Nhận xét
Ở chương ba này tác giả tập trung nghiên cứu về cơ sở tri nhận của giới từ
auf/in trong tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt và đưa ra sự giống nhau và khác
nhau trong cách sử dụng các giới từ trong hai ngôn ngữ. Sự giống nhau về phân loại
trong cả hai ngôn ngữ có chung hai nhóm giới từ là giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại và
giới từ chỉ phương hướng chuyển động. Giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại diễn tả mối
quan hệ không gian không có sự thay đổi địa điểm hoặc không hướng đến điểm
đích. Ngược lại giới từ chỉ phương hướng chuyển động nêu ra rằng một đối tượng
chuyển động hoặc được chuyển động từ một nơi này đến một nơi khác. Sự giống
nhau về mức độ ngữ nghĩa trong hai ngôn ngữ được sử dụng để diễn tả mối quan hệ
126
không gian giữa các đối tượng định vị và được định vị với nhau. Sự khác nhau
trong hai ngôn ngữ về cách sử dụng giới từ chỉ không gian trong tiếng Việt và tiếng
Đức dựa vào các tiêu chí như sau:
Thứ nhất, là khái niệm “hình thái tiêu chuẩn” tác giả nhận thấy sự khác nhau về
nhận thức không gian dẫn đến các lỗi dễ gây nhầm lẫn khi sử dụng giới từ chỉ
không gian bởi có sự khác nhau lớn về nhận thức không gian của người Đức và
người Việt. Một trong những nhân tố quyết định việc lựa chọn giới từ chỉ địa điểm
trong tiếng Việt là mối quan hệ không gian giữa người nhìn và đối tượng được định
vị, tuy nhiên trong tiếng Đức là vị trí của đối tượng được định vị đối với đối tượng
tham chiếu.
Thứ hai là về ảnh hưởng của đặc điểm địa lý, sự khác nhau giữa hai ngôn ngữ
khi sử dụng giới từ về địa hình, trong tiếng Đức khi nói về các địa danh tên riêng thì
giới từ đứng trước. Khi diễn tả sự chuyển động đi đến một nơi nào đó thì trong tiếng
Đức chỉ có giới từ duy nhất đứng trước danh từ riêng là nach để diễn tả sự chuyển
động đến nơi đó, điều này được chỉ rõ qua những ví dụ sau. Ich fahre nach Hanoi.
(Tôi đi xuống Hà Nội.), Ich fahre nach Hanoi. (Tôi đi lên Hà Nội.). Cùng là giới từ
nach nhưng trong tiếng Việt thì chúng ta có thể nói lên hoặc xuống tùy từng trường
hợp phụ thuộc vào vị trí của người nói. Địa hình của các khu vực khác nhau ở Việt
Nam là khác nhau, do vậy nhận thức không gian liên quan đến địa điểm biểu thị
mối quan hệ trên – dưới (auf – unter) và lên/ xuống. Các thành phố ở phía Nam của
miền Bắc Việt Nam bao gồm núi, vì lý do như vậy nên việc đến gần các khu vực
này được biểu thị bằng giới từ lên. Để biểu thị chuyển động đến xuống phía Đông
miền Bắc Việt Nam ta cần từ trái nghĩa với từ lên, đó là từ xuống, vì trong khu vực
này thấy có nhiều hồ và biển. Việc sử dụng giới từ chỉ địa điểm khi diễn đạt lên
Điện Biên, xuống Hải Phòng ... vì vậy khác với cách sử dụng giới từ trong tiếng
Đức chỉ dùng chung từ nach.
Sự khác biệt thứ ba là về ảnh hưởng của đặc điểm xã hội, khi nói đến giới từ thì
không chỉ đặc điểm địa lý mà còn đặc điểm xã hội cũng ảnh hưởng đến việc sử
dụng những giới từ chỉ không gian. Thông qua các ví dụ như: In der Stadt ist es
leichter, Geld zu verdienen (Trên thành phố dễ kiếm tiền hơn), Meine Oma wohnt
auf dem Land/ Dorf (Bà tớ sống dưới quê) chúng ta thấy rằng các cách diễn đạt trên
không được giải thích rõ ràng mà không chú ý đến hệ thống cấp bậc xã hội. Hệ
127
thống cấp bậc xã hội ở đây được mô tả thông qua nghiên cứu giới từ “trên” và
“dưới” cho thấy tư duy của người Việt Nam coi đơn vị xã hội như Hà Nội cao hơn
các địa điểm làng, quê được coi là vị trí thấp hơn.
Tiếp theo là về khái niệm “đường bao” nói đến việc một đối tượng này được bao
quanh bởi đối tượng khác. Khái niệm “đường bao” này mô tả cách nghĩ của người
Việt Nam về không gian xung quanh cơ thể một đối tượng, trong tiếng Đức cái mà
ở trong không gian được định vị bằng in (trong) đối tượng và khi có đối tượng khác
di chuyển đến không gian này, thì hướng được biểu thị trong tiếng Việt là vào (in).
Do đó trong và vào được coi là các giới từ điển hình mô tả khái niệm này.
Ngoài ra tác giả còn đề cập đến sự khác nhau trong hai ngôn ngữ về mức độ chi
tiết khác nhau khi nhận thức không gian thông qua hai giới từ “an” và “neben”
mang ý nghĩa gần. Giới từ “an” diễn tả sự tiếp xúc giữa các đối tượng, trong khi đó
“neben” lại không mô tả sự tiếp xúc trực tiếp, chi tiết này không được tìm thấy
trong tiếng Việt. Việc tiếp xúc giữa hai vật thể cũng được coi là tiêu chí khác nhau
để phân biệt giới từ trong tiếng Đức là “auf” và “über” thông qua các ví dụ sau: Die
Tasche ist auf dem Tisch (Chiếc cặp ở trên bàn, Die Tasche auf den Tisch stellen
(Đặt chiếc cặp lên bàn); Die Wäsche hängen über dem Kopf (Quần áo treo ngay
trên đầu), Die Wäsche über den Kopf hängen (Treo quần áo ngay trên đầu). Ý
nghĩa của hai giới từ tiếng Đức này cũng có trong tiếng Việt đó là một giới từ tĩnh
tại “trên” và một giới từ chuyển động “lên”. Nhưng liệu rằng có sự tiếp xúc giữa
đối tượng được định vị và đối tượng tham chiếu không thì hai giới từ “lên” và
“trên” lại không diễn tả điều đó.
Qua đây chúng ta có thể thấy rằng mối quan hệ không gian giữa đối tượng được
định vị và đối tượng tham chiếu rất được chú ý thông qua giới từ chỉ địa điểm trong
tiếng Đức. Còn trong tiếng Việt ngoài mối quan hệ không gian của các đối tượng thì
mối quan hệ không gian giữa người nhìn và đối tượng tham chiếu, hay đặc điểm xã
hội và địa lý là các yếu tố khác đóng vai trò quan trọng khi sử dụng.
3.5. Tiểu kết
Ở chương ba này, khi nói về sự đa dạng của tri nhận, tác giả đề cập đến bốn
cách tiến hành nghiên cứu về ngôn ngữ học tri nhận như: Coi ngôn ngữ như là một
khuôn mẫu chủ yếu trong các hoạt động tinh thần, văn hóa, xã hội và các hoạt động
khác (Sapir 1921, 1949, Whorf 1956...). Ngôn ngữ xuất phát từ nguồn lực có tính
128
bản năng của con người (Chomsky 1986, Wiersbicka 1972, 1988, ...). Ngôn ngữ
tương đẳng với tri nhận (Langacker 1987, 1991, ...). Ngôn ngữ chính là tấm gương
phản chiếu sự khái niệm hóa con người, trong đó con người là vị trí trung tâm của
không gian vũ trụ (Lakoff & Johnson 1980, Lakoff 1987, ...)
Trong một vài biểu hiện của sự đa dạng tri nhận trong phạm vi không gian
ngôn ngữ học, tác giả nêu lên mô hình đóng và mô hình mở trong ngôn ngữ học tri
nhận. Ngoài ra, liên quan đến phạm vi ngôn ngữ học không gian thì có những phạm
vi như: định vị/ định vị phương hướng, định hướng theo địa mốc; định vị/ định
hướng theo trực chỉ được lưu ý dùng để mô tả, so sánh. Trong sự so sánh về tri
nhận định vị không gian, tác giả nêu những nguyên tắc của Frawley gồm: Không
gian thì trống rỗng, các vật thể thì không có các không gian ở trong chúng, mặt đất
thì cố định và nâng đỡ các vật thể, trái đất không chuyển động và là đường đáy
(thấp nhất).
Về sự tri nhận không gian của giới từ auf/ in trong tiếng Đức đối chiếu với
tiếng Việt, tác giả nêu được sự giống nhau về phân loại và mức độ ngữ nghĩa của
giới từ auf/ in trong hai ngôn ngữ và những sự khác nhau giữa giới từ auf/ in trong
tiếng Đức với trên/ trong trong tiếng Việt về số lượng giới từ chỉ địa điểm, cách sử
dụng giới từ auf/in. Cách sử dụng giới từ chỉ không gian trong tiếng Việt khác với
giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức. Sau khi nghiên cứu các giới từ chỉ không
gian trong cả hai ngôn ngữ chúng tôi tìm ra sáu tiêu chí quan trọng khác nhau gồm:
khái niệm “hình thái tiêu chuẩn”, Ảnh hưởng của đặc điểm địa lý, Ảnh hưởng của
đặc điểm xã hội, khái niệm “đường bao”, mức độ chi tiết khác nhau khi nhận thức
không gian, thói quen khi sử dụng giới từ chỉ không gian. Trong chương này khi đối
chiếu giới từ auf/ in với các giới từ tương đương trong tiếng Việt nhìn từ góc độ tri
nhận, chúng tôi phân tích về nội dung định vị có tính tôpô, nêu lên sự khác biệt về
nội dung định vị trong cách thức đối dịch của các văn bản. Ngoài ra, khi phân tích
các giới từ auf/ in nhìn từ góc độ tri nhận đối chiếu với tiếng Việt, tác giả nêu lên
mối quan hệ giữa auf/ in và trên/ trong từ hai góc độ tri nhận khác nhau của người
Đức và người Việt. Mối quan hệ giữa ĐTĐV và ĐTQC như là auf, còn giới từ in
liên quan nhiều đến việc người ta tri nhận như thế nào về sự bao chứa và vật thể nào
có thể là bao chứa (ĐTQC) một vật thể khác (ĐTĐV). Phần lớn những sự khác biệt
giữa in trong tiếng Đức với trong trong tiếng Việt chủ yếu tập trung ở phạm vi các
129
ĐTQC có mô hình không gian hay một chiều. Còn những khác biệt với các ĐTQC
có mô hình không gian ba chiều là không nhiều.
Tuy nhiên không gian nhận thức sẽ liên quan đến rất nhiều các vấn đề phức
tạp cần tiếp tục được nghiên cứu và bàn luận sâu hơn. Trong các ngôn ngữ như
tiếng Đức, tiếng Anh cũng như tiếng Việt thì các giới từ chính là những yếu tố
thường được sử dụng nhiều trong các câu, ngữ cảnh, văn bản xuất hiện thường
xuyên để diễn đạt mối quan hệ không gian giữa đối tượng được định vị (ĐTĐV) và
đối tượng quy chiếu (ĐTQC).
130
Chƣơng 4
KHẢO SÁT THỰC TIỄN SỬ DỤNG CÁC GIỚI TỪ “AUF” VÀ “IN”
TRONG TÁC PHẨM “ĐO THẾ GIỚI” VỚI BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT
4.1. Nghiên cứu thực tiễn
Trong nghiên cứu thực tiễn này chúng tôi đề cập đến cuốn tiểu thuyết “Đo thế
giới” của Daniel Kehlmann, trong đó hai giới từ chỉ không gian “auf” và “in” được tìm
kiếm và phân tích chủ yếu. Tất cả giới từ “auf” và “in” xuất hiện trong tiểu thuyết của
Kehlmann Werk được tìm thấy cùng với thông tin địa điểm của chúng trong phần phụ
lục. Tôi lựa chọn tác phẩm này là do Daniel Kehlmann rất được yêu thích không chỉ ở
Đức mà còn ở khắp các nước Châu Âu, ở Việt Nam, tác phẩm được chuyển dịch sang
tiếng Việt bởi tác giả Lê Quang. Thông qua nghiên cứu thực tiễn tôi sẽ tìm ra khuynh
hướng nào được ưu tiên khi sử dụng giới từ “auf” và sự khác nhau khi sử dụng giới từ
chỉ địa điểm trong tiếng Việt và tiếng Đức có ảnh hưởng như thế nào đến việc chuyển
nghĩa của hai giới từ “auf” và “in” từ tiếng Đức sang tiếng Việt. Qua đó kết quả nghiên
cứu có thể được sử dụng trong việc học tập và biên dịch giới từ chỉ địa điểm.
4.1.1. Nghiên cứu định lượng
Trong bảng sau mô tả giới từ chỉ địa điểm “auf” và “in” xuất hiện thường xuyên
như thế nào với ý nghĩa “chuyển động” và “tĩnh tại” trong văn phạm nghiên cứu.
lokal (địa điểm) sontiges
(khác) Semantische
Bedeutung
(Ý nghĩa ngữ nghĩa)
statisch
(tĩnh)
536
37.30% dynamisch
(động)
315
21.92% 586
40.78%
auf
149 in
387 auf
130 in
185
Anzahl - Số
Prozent - Phần trăm
Präposition - Giới từ
Anzahl - Số
Prozent - Phần trăm 27.80% 72.20% 41.27% 58.73%
Biểu đồ 4.1: Tổng quan về giới từ địa điểm “auf - trên” và “in - trong”
trong văn thể
131
Cuốn tiểu thuyết “Đo thế giới” có tổng số 1437 lần sử dụng giới từ “auf” và “in”.
Bảng 1 chỉ ra giới từ chỉ địa điểm “auf” và giới từ “in” rõ ràng xuất hiện nhiều hơn
giới từ “auf” và “in” với chức năng khác và chiếm 59,22% trên tổng số giới từ
“auf” và “in” trong văn phạm. Qua đó chúng ta nhận biết được khuynh hướng
thường xuyên khi sử dụng giới từ theo tiêu chí ngữ nghĩa, cụ thể là giới từ chỉ địa
điểm chiếm ưu thế khi sử dụng giới từ. Đặc biệt giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại rõ ràng
được sử dụng nhiều hơn giới từ chỉ phương hướng chuyển động trong văn phạm.
Giới từ chỉ địa điểm “in” cũng xuất hiện thường xuyên hơn nhiều so với giới từ chỉ
địa điểm “auf”. Số lượng chi tiết về việc sử dụng giới từ chỉ địa điểm “in” và “auf”
được mô tả thông qua biểu đồ 4.2 và 4.3.
sontiges lokal
(địa điểm) (khác) Semantische
Bedeutung
(Ý nghĩa ngữ nghĩa)
statisch
(tĩnh)
149 dynamisch
(động)
130 Anzahl - số 109
35.48% Prozent - phần trăm
Gesamtanzahl - Tổng số
33.57% 30.95%
420
Biểu đồ 4.2: Tổng quan từ giới từ địa điểm “auf” trong văn bản
Lokal (địa điểm)
sontiges
(khác) Semantische
Bedeutung
(Ý nghĩa ngữ nghĩa) Anzahl - số statisch
(tĩnh)
387 dynamisch
(động)
185 319
Prozent - phần trăm 38.05% 18.19% 43.76%
Gesamtanzahl - tổng số 1017
Biểu đồ 4.3: Tổng quan từ giới từ địa điểm “in” trong văn bản
132
4.1.2. Phân tích bản dịch sang tiếng Việt của những giới từ chỉ địa điểm
Trong văn bản nghiên cứu ta thấy rằng giới từ địa điểm tĩnh tại “auf” và “in”
thường được dịch sang tiếng Việt là “trên” và “trong”, trong khi giới từ chuyển
động “auf” và “in” lại được dịch là “lên” và “vào”. Bảng sau mô tả phần giới từ
“trên, trong, lên, vào” như là bản dịch đối với giới từ khác trong văn phạm.
Übersetzung durch Auf Andere Umschreibung/
(Bản dịch) (Lên) Präpositionen keine Präposition
(những giới từ khác) (Mô tả/ không
Anzahl - Số 55 26 49
Prozent - Phần trăm 37.69% 42.31% có giới từ)
20%
Biểu đồ 4.4: Tổng quan về các bản dịch giới từ chỉ phương hướng chuyển động
“auf” trong văn bản
Andere Übersetzung durch
(Bản dịch) Präpositionen Umschreibung/
keine Präposition In
(Vào)
Anzahl - Số
Prozent - Phần trăm 69
37.30% (Mô tả/không có giới từ)
37
20%
(Những giới từ khác)
79
42.70%
Biểu đồ 4.5: Tổng quan về các bản dịch giới từ chỉ phương hướng chuyển động
“in” trong văn bản
133
Übersetzung durch Auf Andere Umschreibung/
(Bản dịch) (trong) Präpositionen keine Präposition
(Những giới
Anzahl - Số 89 47 (Mô tả/ không có giới từ)
13
Prozent - Phần trăm 59.73% từ khác)
31.54% 8.73%
Biểu đồ 4.6: Tổng quan về các phần dịch giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại “auf” trong
văn bản
Übersetzung durch Andere Umschreibung/
(Bản dịch) In Präpositionen keine Präposition
(trên) (Những giới từ (Mô tả/
Anzahl - Số 145 186
khác) 56
không có
Prozent - Phần trăm 37.47% 48.06% 14.47% giới từ)
Bản
Biểu đồ 4.7: Tổng quan về các phần dịch giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại “in”
trong văn bản
134
Lý do mà chúng tôi ghi lại những giới từ khác là do sự khác nhau khi sử
dụng giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức và tiếng Việt mà đã được mô tả chi tiết
trong phần 3.3 (sự khác nhau) và được giải thích thông qua nhóm giới từ trong văn
phạm và bản dịch của chúng trong các phần tiếp theo của nghiên cứu thực tiễn.
4.1.2.1. Ảnh hưởng của khái niệm “hình thái tiêu chuẩn”
Các phần dịch mà bị ảnh hưởng bởi khái niệm “hình thái tiêu chuẩn” được
mô tả trong bảng sau:
Bảng 4.1: Bản dịch bị ảnh hưởng bởi khái niệm “hình thái tiêu chuẩn”
Seite
(Trang) Seite
(Trang) Nr.
(Số
TT) Erscheinung im Korpus
auf Vietnamesischen
(Xuất hiện trong văn bản Erscheinung im Korpus
auf Deutschen
(Xuất hiện trong văn bản của
người Đức) Deutschen của người Việt)
Vietnamesischen
1 auf den Boden 7 xuống đất 9
2 auf die Straße 15 xuống đường 17
3 auf den Boden 17 xuống nền đất 20
4 auf den Boden 31 xuống sàn 36
5 auf den Boden 70 xuống đất 80
6 auf den Teppich 76 xuống thảm 86
7 auf den Boden
8 auf den Boden 90
101 xuống đất
xuống đất 102
114
9 auf die Brust 108 xuống ngực 122
10 auf die Füße 108 xuống chân 122
11 auf den Brustkorb 120 xuống ngực 136
12 auf den Boden 146 xuống đất 164
13 auf seine Jacke 176 xuống áo khoác 198
14 auf seine schmutzige Schuhe 181 xuống đôi giày lấm lem của 204
15 auf die Holzpritsche mình
xuống phản gỗ 184 206
16 auf den Boden xuống đất 207 232
17 auf die Tischplatte 215 xuống mặt bàn 242
18 auf seine durchnäßten 277 xuống hai ống quần ướt 311
Hosenbeine sũng của mình
135
19 auf den Bettrand 296 xuống cạnh giường 331
20 auf den Boden 300 xuống đất 336
21 auf den Boden 300 xuống đất 336
22 auf dem Boden 32 dƣới sàn 37
23 auf dem Boden 47 dƣới đất 54
24 auf dem Boden 79 dƣới đất 89
25 in die Kutsche 8 lên xe ngựa 10
26 in die Luft 28 lên không trung 32
27 in den Kopf 32 lên đến tận đầu 37
28 in die Luft 64 lên không trung 72
29 in den noch hellen Himmel 66 lên vòm trời còn sáng sủa 75
30 in die Luft 99 lên không 113
31 in die Dunkelheit 102 lên trời đêm 115
32 in den Nachthimmel 148 lên bầu trời đêm 166
33 ins Gesicht 185 lên mặt 207
34 in den Nachthimmel lên bầu trời đêm 235 265
35 in die Kutsche lên xe ngựa 288 323
36 in die Höhe 300 lên trời 336
96 trên xe ngựa 37 in der Kutsche 110
119 trên độ cao này 38 in der Höhe 135
140 trên trần 39 in der Decke 157
161 trên khuôn mặt 40 im Gesicht 181
191 trên khinh khí cầu 41 in Ballons 214
42 in der Stirn 254 trên trán 285
43 in zwölf Kutschen 287 trên mười hai xe ngựa 322
44 in einer Schnellkutsche 290 trên chuyến xe 326
45 in seiner Kutsche 292 trên xe ngựa của mình 328
46 in die Höhle 69 xuống hang động 78
47 in Brunnen 69 xuống giếng 78
136
78 69 48 ins Flußwasser xuống sông
84 74 49 in die Flammen xuống lửa
97 85 50 in die Unterwelt xuống địa ngục
102 90 51 in den Boden xuống đất
121 107 52 ins Wasser xuống nước
126 111 53 in die Haut xuống dưới da
129 54 in der Hölle 114 xuống địa ngục
169 55 ins Mittelmaß 149 xuống bậc tầm tầm
194 56 in die Tiefe 173 xuống được đáy sâu
222 198 57 in die Mine xuống hầm mỏ
232 206 58 in den Krater xuống miệng núi lửa
235 209 59 in den Krater xuống miệng núi lửa
229 60 in einen zweiten, tiefen xuống tầng hầm thứ hai sâu 258
301 268 gelegenen Keller
im Lehm 61 hơn
xuống bùn
62 in eine noch nie erforschte 34 xuống một khoang trống 39
Kammer chưa hề được thăm dò
40 35 63 in den Dreck xuống bùn
24 21 64 in der Unterwelt dƣới địa ngục
223 198 65 in den Achselhöhlen dƣới nách
267 237 66 im Meer dƣới biển
Đối với khái niệm “hình thái tiêu chuẩn” thì các giới từ chỉ địa điểm trong
tiếng Việt “trên, dưới, lên (trên), xuống (dưới)” đóng một vai trò quan trọng vì
chúng không chỉ giải thích mối quan hệ theo chiều dọc giữa đối tượng tham chiếu
và đối tượng được định vị, mà còn giải thích mối quan hệ không gian giữa người
nhìn và đối tượng tham chiếu, qua đó thông qua giới từ này vị trí cũng được xác
định. Vì lý do này giới từ chỉ địa điểm “in” và “auf” không được chuyển thẳng
sang tiếng Việt là “trong/vào” và “trên/ lên” mà là “trên, dưới, lên, xuống” tùy theo
từng trường hợp.
Chín giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại “in” ở số 37, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 44, 45
được dịch sang tiếng Việt là “trên”, trong khi đó giới từ Việt Nam “trên” phù hợp
với giới từ tiếng Đức “auf/über”. Theo khái niệm “hình thái tiêu chuẩn” quy định
137
rằng trong phạm vi “bầu trời” và “đầu”, giới từ “trên” được sử dụng, trong mối
quan hệ không gian đối tượng tham chiếu và đối tượng được định vị đứng cạnh
nhau. Ở số 38, 39, 41 nêu ra rằng cái gì đó được tìm thấy ở độ cao, trần nhà hoặc
khinh khí cầu, tuy nhiên đối tượng tham chiếu “độ cao”, “trần nhà” và “khinh khí
cầu” được sử dụng để so sánh với người luôn ở vị trí cao hơn, do vậy giới từ “trên”
cũng được sử dụng đối với đối tượng được định vị. Thông qua giới từ chỉ địa điểm
“trên” mối quan hệ không gian giữa đối tượng tham chiếu và đối tượng được định
vị được mô tả gián tiếp. Ở số 40 và 4 được giải thích tương tự, vì “mặt” và “trán”
như là các bộ phận cơ thể và thuộc vị trí cao nhất của cơ thể con người, do đó giới
từ “trên” được dùng trong trường hợp này. Trong các nhóm giới từ số 37, 43, 44,
45 giới từ “trên” được thay thế bằng từ “trong” mà không làm thay đổi mối quan hệ
không gian của đối tượng tham chiếu và đối tượng được tham chiếu, tuy nhiên vị trí
của người kể được quan sát khác. Giới từ “trên” diễn tả rằng người kể có thể ở ví trị
thấp hơn so với xe ngựa và nhìn lên xe ngựa. 12 giới từ chỉ địa điểm chuyển động
“in” được dịch sang tiếng Việt là “lên”. Các số 25, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32,
34, 35, 36 thuộc trường hợp này. Theo khái niệm thật dễ để giải thích trong các ngữ
cảnh này, tại sao “in” không được dịch là “vào”, mà lại là “lên”. Đối tượng tham
chiếu trong nhóm giới từ này “không khí”, “bầu trời”, “đầu”, “khuôn mặt” và “xe
ngựa” và đo đó sự chuyển động theo hướng lên các đối tượng này được diễn tả
bằng “lên”.
Thú vị rằng giới từ chỉ địa điểm “in” được dịch sang tiếng Việt không chỉ là
“lên” mà còn được dịch là “dưới”, trong khi đó hai giới từ tiếng Việt này được coi
là đối nghĩa nhau. Người Việt Nam nhận thức không gian mà mọi thứ nằm trên sàn
thì được dùng với giới từ “dưới”. Ở ví dụ 64 và 66, đối tượng tham chiếu là “thế
giới ngầm”. “Biển” ở dưới đất và mọi thứ ở trong biển thì được diễn đạt mối quan
hệ không gian thông qua giới từ chỉ địa điểm. Trong ví dụ 65, đối tượng tham chiếu
là bộ phận cơ thể cụ thể là nách ở dưới cánh tay và do đó giới từ “dưới” được dùng
cho mối quan hệ không gian của bộ phận cơ thể này.
18 giới từ chỉ địa điểm chuyển động “in” được dịch sang tiếng Việt là
“xuống”, cụ thể ở số 46, 47, 48, 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58, 59, 60, 61, 62,
63. Mặc dù hướng chuyển động đến các vật thể tham chiếu là: Ví dụ “in den Dreck,
in die Flammen, ins Wasser ...”, nhưng chúng được biểu thị bằng giới từ chỉ địa
138
điểm “xuống”, vì kết quả của sự chuyển động hướng đến một vị trí cao hơn đích
đến và chuyển động là từ trên xuống dưới. Giới từ “xuống” ít mô tả mối quan hệ
không gian giữa đối tượng tham chiếu và đối tượng được định vị, mà mô tả hướng
chuyển động của đối tượng được định vị và vị trí của đối tượng tham chiếu đến
người quan sát.
Giới từ “auf” ở nhóm giới từ số 22, 23, 24 “auf dem Boden” được dịch sang
tiếng Việt là “dưới”, mặc dù mặc dù đối tượng được định vị không nằm “dưới” mà
nằm “trên” sàn. Điều này được giải thích theo khái niệm “hình thái tiêu chuẩn”. Sẽ
không có gì đặc biệt nếu giới từ chỉ phương hướng chuyển động “auf” ở các nhóm
“auf den Boden” số 1, 2, 3, 4, 5, 7, 8, 12, 16, 20, 21 được dịch là “xuống”. Tuy
nhiên “xuống” ở nhóm giới từ số 9, 10, 11, 13, 14, 15, 17, 19 được thay thế thông
qua các giới từ chuyển động khác, nếu hướng chuyển động thay đổi. Ở số 14 có
câu: “Gauβ blickte auf seine schmutzigen Schuhe”. Ở đây “auf” phù hợp với giới từ
“xuống“ trong tiếng Việt, vì giày ở trên đất hoặc ở vị trí thấp hơn và hướng nhìn từ
trên xuống dưới. Giả định rằng giày được treo cao hơn so với đầu người, thì giới từ
“lên” được dùng để dịch cho giới từ chỉ phương hướng chuyển động “lên”.
4.1.2.2. Ảnh hưởng của đặc điểm địa lý
Ảnh hưởng của đặc điểm địa lý đến việc sử dụng giới từ chỉ địa điểm trong tiếng
Việt được mô tả thông qua các diễn đạt sau trong văn phạm.
Bảng 4.2: Bản dịch bị ảnh hưởng bởi đặc điểm địa lý
Seite
(Trang) Seite
(Trang) Nr.
(Số
TT) Erscheinung im Korpus
auf Vietnamesischen
(Xuất hiện trong văn bản Erscheinung im Korpus auf
Deutschen
(Xuất hiện trong văn bản của
người Đức) Deutschen của người Việt)
Vietnamesischen
1 auf das Fenster 115 ra cửa sổ 130
2 auf den Hauptplatz 204 (ra) đến quảng trường 230
3 auf dem Weg 228 (ra) đường 256
4 auf die Straße 245 (ra) đến phố 275
5 aufs Kaspische Meer 289 (ra) biển Caspia 324
6 auf den Ausgang 301 ra cửa 336
7 auf dem Gang 87 ngoài hành lang 99
8 auf der Straße 151 ngoài phố 170
9 auf der Straße 218 ngoài phố 246
139
234 ngoài đường 10 auf der Straße 263
249 ngoài đường 11 auf der Straße 280
25 vào bờ 12 auf das Ufer 28
13 in die Mitte des Zimmers ra giữa phòng 76 86
14 ins Morgenlicht ra vầng sáng ban mai 81 92
140 ra ngoài 15 ins Freie 157
288 ra biển 16 ins Meer 323
17 in leeren Gängen 21 ngoài lối đi trống vắng 24
87 ngoài sông 18 im Fluß 99
118 ngoài sân 19 im Hof 133
45 20 in die Südsee 39 (xuống) biển Nam
Đối với đặc điểm địa lý thì mức độ đóng của không gian được đề cập đến ví
dụ: trong nhà (im Haus) < ngoài sân (auf dem Hof) < ngoài vườn (im Garten) <
ngoài ngõ (in der Gasse) < ngoài đường (auf/in der Straße) < ngoài đồng (auf dem
Feld) < ngoài đê (auf dem Deich) < ngoài bãi (am Fluss) [54, tr.79].
Giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại được chuyển sang tiếng Việt là “trong”, tuy
nhiên ở số 17, 18, 19 lại được dùng giới từ ngược lại với trong. Lối đi, sông, sân là
những đối tượng tham chiếu, do vậy “ngoài” được dùng để diễn tả mối quan hệ
không gian giữa đối tượng được định vị và đối tượng được tham chiếu hay người
nhìn. Giới từ chỉ phương hướng chuyển động “in” phù hợp với giới từ ra trong
tiếng Việt ở số 13, 14, 15, 16. Cách diễn đạt “ra ngoài, ra biển” ở số 15 và 16
thường được sử dụng bời người Việt Nam, vì “bên ngoài” và “biển” được coi là
những nơi tự do. Giới từ “ra” ở số 13 và 14 mô tả hướng chuyển động của một nơi
tối sang một không gian sáng hơn.
Giới từ chỉ phương hướng chuyển động “auf” ở số 7, 8, 9, 10, 11 được dịch
là “ngoài” vì sự ảnh hưởng của đặc điểm địa lý khi sử dụng giới từ Việt Nam, vì đối
tượng tham chiếu “lối đi” và “đường phố” được coi là không gian mở so với ngôi
nhà. Hướng chuyển động đến không không gian mở tự do này (cửa sổ, đường, lối
ra) được sử dụng bằng giới từ chỉ phương hướng chuyển động “auf” và giới từ tiếng
Việt “ra” là bản dịch ở số 1, 4, 6.
Ở số 2, 3, 5 ý nghĩa của giới từ “auf” cũng được chuyển thành “ra”, tuy
nhiên “auf” và “ra” mang chức năng năng khác nhau. Từ “ra” trong trường hợp này
có chức năng là động từ vì khi dịch sang tiếng Việt ngoài động từ “ra” không có
140
động từ nào khác Ở số 20, giới từ “in” và động từ “schicken” được dịch thông qua
động từ “cử xuống”, mà diễn tả ý nghĩa tương tự như giới từ “xuống”. Nhóm giới từ
“in die Südsee” được xếp vào bảng 2 vì có sự chuyển đổi suy nghĩ khi nhận thức
không gian. Südsee ở vị trí địa lý thấp hơn địa điểm khác trong ngữ cảnh và sự
chuyển động đến đó được mô tả bằng “xuống”.
4.1.2.3. Ảnh hưởng của khái niệm “đường bao”
Bảng sau đây mô tả các diễn đạt mà bị ảnh hưởng bởi khái niệm “đường bao”:
Bảng 4.3: Bản dịch bị ảnh hưởng bởi khái niệm “đường bao”
Seite
(Trang) Seite
(Trang) Nr.
(Số
TT) Erscheinung im Korpus auf
Vietnamesischen
(Xuất hiện trong văn bản
Erscheinung im Korpus
auf Deutschen
(Xuất hiện trong văn bản của
người Đức)
Deutschen của người Việt)
Vietnamesischen
1 im Bett 7 trong chăn 9
2 auf preußischen Boden 12 vào đất Phổ 15
3 auf seine Taschenuhr 13 vào mặt đồng hồ 16
4 auf Eugen 16 vào Eugen 19
5 auf die Seekarte 51 vào hải đồ 58
6 auf das Ergebnis 56 vào kết quả 63
7 auf der Schulter 71 vào vai 81
8 auf das Chronometer 80 vào đồng hồ 90
9 auf seiner Stirn 115 vào trán 130
10 auf die Stoffbündel 122 vào gói vải 138
11 auf sie 128 vào họ 145
12 auf die Leichen 137 vào các xác người 154
13 auf seinen Mund
14 auf diesen Kram 154 vào miệng
156 vào công việc vớ vẩn này 173
176
15 auf die Schulter 194 vào vai 217
16 auf die Wange
17 auf den mitschreibenden 194 vào má
197 vào Gomez 217
221
Gomez
18 auf die niedrig im Fenster 220 vào mặt trời xuống thấp ngoài 248
stehende Sonne cửa sổ
19 auf den Schädel 233 vào sọ 262
141
273 20 auf sie 243 vào cô
305 272 vào tấm gương gắn phía trên
21 auf einen über der Nadel
angebrachten Spiegel cái kim
318 22 auf die Stadt 284 vào thành phố
145 23 auf keiner Karte 129 trong bản đồ nào
208 24 auf Bildern 185 trong tranh
306 25 auf einem alten Kupfertisch 273 trong một bức khắc đồng
Theo khái niệm “đường bao” có một không gian tồn tại quanh đối tượng
tham chiếu như là vùng bao quanh mà được giới hạn bởi không gian khác thông qua
đường bao. Theo đó vị trí của đối tượng được định vị được biểu thị là “trong” khi ở
bên trong phạm vi của đối tượng tham chiếu. Giới từ chuyển động “auf” ở số 23,
24, 25 được dịch là “trong” mặc dù đối tượng được định vị không ở trong đối tượng
tham chiếu. Giới từ tĩnh tại “auf” ở số 7, 9 được dịch là “vào” trong tiếng Việt. Lý
do vì là động từ trong các văn bản nguồn tiếng Đức không mô tả hướng, trong khi
đó bản dịch chỉ hướng và yêu cầu giới từ chỉ phương hướng chuyển động, cụ thể là
“vào”. Ở các số khác, giới từ chỉ phương hướng chuyển động “auf” trong tiếng Đức
được dịch là “vào”, giới từ này mô tả hướng chuyển động của đối tượng được định
vị trong vùng xung quanh của đối tượng tham chiếu, Ví dụ: “auf seine Taschenuhr
sehen” có nghĩa trong tiếng Việt là “nhìn vào mặt đồng hồ”.
Ở số 1 không chỉ nói về khái niệm “đường bao” mà còn giải thích để bản
dịch mang tính Việt Nam hơn. Văn bản nguồn ghi là “im (trong) Bett (giường)” và
được dịch sang tiếng Việt thành “trong (in) chăn (Decke)”. Giới từ in luôn phù hợp
với giới từ “trong” vì sự biểu thị đối tượng tham chiếu được giải thích.
4.1.2.4. Ảnh hưởng của thói quen khi sử dụng giới từ chỉ không gian
Mặc dù việc lựa chọn một giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt đối với một giới
từ tiếng Đức được giải thích trong nhiều tình huống khác nhau nhưng ta phải chấp
nhận trong nhiều trường hợp việc sử dụng giới từ chỉ địa điểm không có sự giải
thích nào rõ ràng vì không có nguyên tắc cho việc đó. Trong luận án trên đây chỉ
một số câu ví dụ được phân tích trong văn phạm.
Nhóm giới từ “auf dem Orinoko” [78, tr.165] được dịch thành “ở Orinoco”, [36,
tr.188] tuy nhiên “auf dem Orinoinsel” [78, tr.172] trong tiếng Việt có nghĩa là “trên
hòn đảo Orinoco” [36, tr.193]. Mặc dù đối tượng tham chiếu trong hai nhóm giới từ
và mối quan hệ không gian tạo ra là giống nhau nhưng hai từ ở Việt Nam khác nhau
142
“ở” và “trên” được sử dụng cho giới từ tiếng Đức “auf”. Theo thói quen khi sử dụng
giới từ chỉ địa điểm, giới từ “ở” thường đứng trước tên riêng và theo cách chung chỉ
rõ địa điểm “ở Orinoco”. Nếu đặc điểm của đối tượng tham chiếu được thêm vào,
cụ thể “hòn đảo” (Insel) thì mối quan hệ không gian được mô tả chi tiết: “trên hòn
đảo Orinoco”.
Giới từ “auf” trong nhóm “auf der Brust” [78, tr.213] được dịch sang tiếng Việt
là “trước” (vor) vì sự khác nhau khi nhận thức không gian. Sự khác nhau này cũng
được thấy trong “in seinen Schatten” [78, tr.301]. Đối tượng được định vị ở trong
bóng, nhưng mối quan hệ không gian được diễn tả bằng giới từ chỉ địa điểm “dưới”.
Có lẽ người Việt Nam cho rằng bóng của cái cây đến và họ coi “bóng” như là một
phần của cái cây. Khi đối tượng được định vị đứng dưới cái cây thì mối quan hệ
không gian giữa đối tượng và “bóng” được mô tả bằng giới từ “dưới”.
Giải thích này cũng được áp dụng đối với nhóm giới từ “im weiβen
Mittagslicht” [78, tr.4]. Mối quan hệ không gian “in” được phản ảnh thông qua giới
từ “dưới” trong tiếng Việt.
4.2. Một số nhận xét
- Sự giống nhau của giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức và tiếng Việt:
Giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt và tiếng Đức giống nhau ở cách phân
loại và mặt ngữ nghĩa. Giới từ chỉ địa điểm ở hai ngôn ngữ được chia thành hai
nhóm là giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại và giới từ chỉ phương hướng chuyển động.
Nhận thức về không gian mà được miêu tả thông qua chính giới từ chuyển đổi tiếng
Đức và bản dịch của chúng trong tiếng Việt cũng mang điểm giống nhau.
- Sự khác nhau của giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức và tiếng Việt:
Giới từ chỉ địa điểm trong hai ngôn ngữ trước hết khác nhau về số lượng. Về
loại hình hình thái khác nhau nên trong tiếng Đức chỉ có 23 giới từ chỉ địa điểm,
trong khi đó số lượng giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt là 32.
Đặc biệt sự khác nhau giữa giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt và tiếng Đức
còn nằm ở cách sử dụng, thông qua những điều sau:
4.2.1. Ảnh hưởng của khái niệm “hình thái tiêu chuẩn”
Trong tiếng Việt, vị trí của đối tượng được miêu tả thông qua giới từ trên,
nếu đối tượng cao hơn phạm vi đầu, ví dụ: bầu trời, không khí, ... Ngược lại, giới từ
“dưới” mô tả cái gì đó trong hoặc dưới phạm vi chân, ví dụ: đất, lỗ .... Theo khái
143
niệm này vị trí của người nhìn/người nói đóng một vai trò quan trọng mà không
xuất hiện trong tiếng Đức. Giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức chỉ mô tả mối quan
hệ không gian giữa đối tượng được định vị và đối tượng tham chiếu.
(242) Chim bay trên trời.
(Vögeln fliegen im Himmel.)
Giới từ chỉ phương hướng chuyển động “lên” và “xuống” cũng thuộc khái niệm
“hình thái tiêu chuẩn”.“Lên” không diễn tả hướng trên hoặc bên trên cái gì mà là hướng
ở độ cao, lên bầu trời ... “Xuống” diễn tả hướng ngược lại, từ trên xuống dưới.
4.2.2. Ảnh hưởng của đặc điểm địa lý
Các diễn đạt, ví dụ: trên núi (auf dem Berg), dưới biển (im Meer) không chỉ
theo khái niệm “hình thái tiêu chuẩn” mà còn tùy theo đặc điểm địa lý. Các hiện
tượng tự nhiên như “núi” hoặc “biển” được xếp vào phạm vị “phạm vi đầu” hoặc
“phạm vi cuối” theo đặc điểm địa lý của chúng. Người Việt sử dụng giới từ chỉ địa điểm
động “trên” (auf/ über), “dưới” (unter) và giới từ chỉ phương hướng chuyển động “lên,
xuống” trước tên riêng của địa điểm tùy thuộc vào đặc điểm địa lý của chúng.
(243) Dưới Hải Phòng (in Hai Phong), Xuống Hạ Long (nach Ha Long.)
(244) Trên Điện Biên (in Dien Bien), Lên Cao Bằng (nach Cao Bang)
Các thành phố như Hải Phòng, Hạ Long ... được đi với giới từ chỉ địa điểm
tĩnh tại “dưới” và giới từ chỉ phương hướng chuyển động “xuống”, vì ở các thành
phố này có nhiều hồ và biển. Vị trí của đối tượng được định vị trong các thành phố
mà có nhiều núi như Điện Biên, Cao Bằng .... được biểu thị bằng giới từ chỉ địa
điểm tĩnh tại “trên” và giới từ chỉ phương hướng chuyển động “lên”.
Không chỉ “trên, dưới, lên, xuống” có thể mô tả mối quan hệ giữa đối tượng
được định vị và địa điểm có tên riêng. Trước các tên riêng cũng có các giới từ chỉ
địa điểm tĩnh tại “trong, ngoài” và giới từ phương hướng “vào, ra”.
(245) trong/ vào Nam, ngoài/ ra Bắc
Miền Nam Việt Nam nhỏ hơn miền Bắc, do đó miền Nam so với miền Bắc như là
một không gian đóng và miền bắc được coi là một không gian mở. Mối quan hệ
không gian giữa đối tượng được định vị và các địa điểm này được xác định thông
qua, liệu địa điểm đóng hay mở. Đặc điểm “mở” có ở những nơi như: đồng
(Felder), biển (Seen), đường ...
144
Ngược lại trong tiếng Đức, trước tên riêng biểu thị địa điểm, chỉ có giới từ
chỉ địa điểm tĩnh tại “in” và giới từ chỉ phương hướng chuyển động “nach”.
4.2.3. Ảnh hưởng của đặc điểm xã hội
Thông qua giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt hệ thống phân cấp xã hội được biểu
thị, điều này khác với giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức.
(246) Dưới quê (auf dem Land), Trên thành phố (in der Stadt), Trên Bộ
Giáo dục (im Ministerium für Bildungswesen).
Mối quan hệ không gian giữa đối tượng được định vị và địa điểm được mô tả
thông qua giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại “dưới” hoặc giới từ chỉ phương hướng
chuyển động “xuống”, khi địa điểm thuộc tầng lớp xã hội thấp hơn. Trước địa điểm
có tầng lớp xã hội cao hơn, giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại “trên” hoặc giới từ chỉ
phương hướng chuyển động “lên”.
4.2.4. Ảnh hưởng của khái niệm “đường bao”
Đối với nhận thức không gian người Việt có suy nghĩ rằng xung quanh
mối đối tượng có một không gian mà thuộc về đối tượng và đường bao của cơ
thể giới hạn phân biệt với không gian khác. Nếu đối tượng được định vị nằm
trong không gian này thì vị trí của nó được diễn tả bằng “trong” đối với đối
tượng tham chiếu. Hướng trong không gian này được biểu thị bằng “vào”. Không
gian được tạo ra bằng “đường bao” là không rõ ràng, dó đó giới từ “an” và
“neben” trong nhiều trường hợp được dịch sang tiếng Việt là “trong” và “vào”
theo khái niệm này.
(247) Dán tem vào phong bì.
(Briefmarken an den Umschlag kleben.)
4.2.5. Sự khác nhau chi tiết khi nhận thức về không gian
Giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức khác với giới từ tiếng Việt thông qua sự
khác nhau chi tiết về nhận thức không gian. Mặc dù có sáu giới từ chỉ địa điểm
trong tiếng Việt “bên/ cạnh/ bên cạnh/ gần/ sát”, nhưng chỉ hai giới từ chỉ địa điểm
trong tiếng Đức “neben” và “an” là phù hợp, điều này luôn luôn khó khi xác định
khoảng cách giữa đối tượng được định vị và đối tượng tham chiếu. Chỉ với giới từ
“sát” ta mới biết sự tiếp xúc giữa đối tượng tham chiếu và đối tượng được tham
chiếu. Đặc điểm “tiếp xúc” trong 5 giới từ tiếng Việt khác không đóng vai trò gì.
145
Ngược lại giới từ chỉ địa điểm “neben” và “an” có thể được phân biệt khi
nhận thức về không gian, cụ thể “an” diễn tả sự chạm nhau giữa các đối tượng,
trong khí đó đối với “neben” ta không thấy sự tiếp xúc. Sự tiếp xúc giữa hai đối
tượng phân biệt hai giới từ chỉ địa điểm “auf” và “über”, các giới từ này có thể phù
hợp với giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại “trên” hoặc giới từ chỉ phương hướng chuyển
động “lên”. Ở đây sự tiếp xúc không được coi là tiêu chí.
4.2.6. Thói quen khi sử dụng giới từ chỉ địa điểm
Theo phân tích giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức ta rút ra rằng sự nhận
thức về không gian của người Đức phụ thuộc vào mối quan hệ không gian giữa đối
tượng được định vị và đối tượng tham chiếu. Trong hầu hết các trường hợp thì việc
sử dụng giới từ chỉ địa điểm có thể được chấp nhận. Ngược lại, việc sử dụng giới từ
chỉ địa điểm trong tiếng Việt cũng một phần do thói quen nói của người Việt Nam.
Vì lý do này nên việc sử dụng giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt không luôn luôn
được giải thích rõ ràng.
- Trong luận án này, chúng tôi cố gắng mô tả không chỉ lý thuyết mà còn so
sánh thực tiễn thông qua kết quả của nghiên cứu văn phạm trong tiếng Đức và tiếng
Việt. Việc sử dụng giới từ trong tiếng Đức “in” và “auf” có khuynh hướng rằng giới
từ chỉ địa điểm tĩnh tại nhiều hơn với 536 giới từ. Ngoài ra giới từ chỉ địa điểm “in”
xuất hiện nhiều hơn so với “auf”. Trong 572 giới từ chỉ địa điểm tiếng Đức “in” và
“auf”, thì 132 giới từ (20,08%) được chuyển sang tiếng Việt thông qua phương tiện
ngôn ngữ khác. Sự khác nhau khi sử dụng giới từ chỉ địa điểm trong hai ngôn ngữ
có ở 367 trường hợp, chiếm 64,14% của các bản dịch. Tuy nhiên, không phải tất cả
trường hợp được xem xét đến vì khuôn khổ giới hạn của luận án. Trong 367 trường
hợp dịch, khái niệm “hình thái tiêu chuẩn” được áp dụng cho 66 trường hợp
(17,98%). Khái niệm “đường bao” ảnh hưởng đến việc dịch sang tiếng Việt của 25
giới từ tiếng Đức (68,1%), 20 bản dịch (5,54%) dựa theo đặc điểm địa lý.
Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng để dạy tiếng Đức, ví dụ như trong
giờ học tiếng Đức như là ngoại ngữ hoặc giờ học biên phiên dịch. Từ nghiên cứu ta
thấy rằng nhiều câu hỏi chúng tôi không thể giải quyết trong khuôn khổ luận án này
mà vẫn còn để mở. Chúng có thể được tiếp tục trả lời trong các nghiên cứu khác, ví
dụ: trong trường hợp nào giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức không nên được
chuyển bằng giới từ chỉ địa điểm khác trong tiếng Việt.
146
4.3. Tiểu kết
Như đã mô tả ở trên rằng giới từ tiếng Việt “trên” và “trong” thường được
dịch thành giới từ tĩnh tại “auf” và “in”, “lên” và “vào” phù hợp với giới từ chuyển
động. Ngoài ra có tổng số 367 giới từ tiếng Đức “in” và “auf”, mà được chuyển
sang các giới từ khác trong các tình huống mang nghĩa khác nhau. Lý do là vì sự
khác nhau khi sử dụng giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức và tiếng Việt. Khái
niệm “hình thái tiêu chuẩn” ảnh hưởng đến 66 trường hợp dịch (17, 98%). 25 giới
từ tiếng Đức (6,81%) được dịch sang tiếng Việt theo khái niệm “đường bao”. Sự
khác nhau về đặc điểm địa lý dẫn đến 20 trường hợp (5,45%) được dịch sang giới từ
khác. Trường hợp còn lại được dịch sang giới từ tiếng Việt do thói quen sử dụng
giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt hoặc ý nghĩa của nhiều giới từ tiếng Việt trong
văn phạm mang tính chung, Ví dụ: “đến/ tới” biểu thị mục đích chung của hành
động và phù hợp với hầu hết các giới từ chỉ phương hướng chuyển động. Giới từ
“ở” cũng phù hợp với giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại “in” trong hầu hết mọi trường
hợp, vì nó chỉ ra rằng người nói hoặc người nhìn, đối tượng tham chiếu và đối
tượng được tham chiếu xuất hiện ở vùng xung quanh. Về độ dài giới hạn của luận
án nên các trường hợp này không được bàn đến chi tiết.
Ở chương 4, tác giả đã phân tích một cách đầy đủ, rõ ràng và cụ thể những
điểm tương đồng và khác biệt về những hướng mở rộng, phát triển ngữ nghĩa của
các giới từ không gian “auf/ in”, trong tiếng Đức với “trên/ trong” trong tiếng Việt
theo cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận. Những kết quả mà chương IV có
được giúp cho chúng ta hiểu rõ được những điểm tương đồng và dị biệt trong cách
định hướng không gian, sự tri nhận không gian nhìn từ góc độ ngôn ngữ học được
thể hiện trong tư duy của người bản ngữ trong hai ngôn ngữ thông qua việc sử dụng
các giới từ không gian “auf/ in” trong tiếng Đức và các biểu hiện tương ứng “trên/
trong” trong tiếng Việt.
147
KẾT LUẬN
Với những kết quả nghiên cứu đã được trình bày cụ thể qua các chương trong
quá trình thực hiện luận án “Đối chiếu giới từ chỉ không gian „auf/in‟ trong tiếng Đức
với „trên/trong‟ trong tiếng Việt”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau đây:
1. Các giới từ định vị không gian auf/ in với tư cách là một tiểu hệ thống
trong hệ thống giới từ như đã đề cập ở chương 1, (một từ loại có tính chức năng với
những biểu hiện phức tạp, đa dạng về ngữ nghĩa và cách dùng), là một phần đóng
vai trò rất quan trọng dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, chứa đựng các yếu
tố mang tính tri nhận, văn hóa, ...trong cách thức mà người bản ngữ “thiết kế lại”
thế giới bên ngoài và đưa vào trong ngôn ngữ. Mặt khác, cùng với sự phát triển lớn
mạnh của ngôn ngữ học tri nhận, với những ưu thế sẵn có của mình, các giới từ định
vị không gian thường được đưa ra nghiên cứu, so sánh đối chiếu qua các ngôn ngữ
nhằm làm nổi bật sự đa dạng, phong phú, thậm chí khác biệt về các khuôn tri nhận
về thế giới giữa các ngôn ngữ, giữa các nền văn hóa khác nhau. Do đó, một nghiên
cứu so sánh đối chiếu giữa các giới từ định vị không gian trong tiếng Đức với tiếng
Việt dù còn nhiều giới hạn và khiêm tốn nhưng có thể đóng góp nhỏ những nhận
thức hữu ích theo định hướng này.
2. Ở chương 2, việc phân tích về đặc điểm ngữ nghĩa của các giới từ chỉ
không gian auf/in trong tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt đã cho thấy có một số
lượng khá lớn những cách thức sử dụng chúng chịu sự chi phối của các tập quán tri
nhận không gian của người Đức trong sự tương ứng với tiếng Việt. Phạm vi ngữ
nghĩa được thể hiện bởi các giới từ không gian có liên quan tới sự chuyển dịch auf/
in trong tiếng Đức và các biểu hiện tương đương trên/trong trong tiếng Việt bao
hàm các hệ thống ngữ nghĩa có cấu trúc, với từng yếu tố trong từng hệ thống đó kết
nối với yếu tố khác (hay các yếu tố khác) bởi kiểu quan hệ hay mối liên hệ tri nhận
nào đó. Và nội dung quan trọng nhất ở chương 2 để nói đến phạm vi của những
cách thức sử dụng giới từ định vị không gian thuần túy mang tính định vị.
3. Nội dung nghiên cứu được trình bày cụ thể ở chương 3 về cơ sở tri nhận
của auf/in trong tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt nhằm phục vụ hai mục đích
quan trọng. Một là, giúp cho những người học tiếng Đức quan tâm đến phạm vi này
có được sự hiểu biết sâu thêm, cụ thể hơn về những cách thức sử dụng khác nhau
của hai giới từ auf/in. Hai là, làm cơ sở cho việc nghiên cứu so sánh đối chiếu về
148
cơ chế tri nhận sự định vị không gian giữa tiếng Đức và tiếng Việt trong những
phạm vi hữu quan. Ngoài ra, đây cũng là cơ sở cho sự mở rộng, phát triển ngữ nghĩa
của các giới từ không gian nói chung và các giới từ không gian “auf/in” trong tiếng
Đức với trên/ trong trong tiếng Việt. Qua quá trình đối chiếu về cơ chế tri nhận
định vị không gian giữa hai ngôn ngữ đã nói lên được những nét tương đồng và
khác biệt nhất định từ chiến lược định vị không gian, các kiểu định vị, cho đến
trường hợp định vị cụ thể. Những sự khác biệt được thể hiện khái quát ở chương 3
cho thấy một bức tranh so sánh đối chiếu định vị không gian tuy không mang tính
toàn cảnh nhưng cũng nói lên được sự phức tạp và đa dạng giữa tiếng Đức và tiếng
Việt. Và sự khác biệt này đến từ hai phía với những chiến lược định vị trực tiếp và
gián tiếp. Thông thường trong tiếng Việt có sự khác biệt lớn với tiếng Đức về phạm
vi định vị không gian theo chiến lược định vị gián tiếp mà không phải trực tiếp. Sự
khác biệt này thể hiện qua tính thuyết minh, diễn giải, ... mà không thể truyền đạt
qua hình thức đối dịch bằng văn bản.
Như vậy, những điểm tương đồng và khác biệt giữa người Đức và người Việt
trong sự định hướng không gian, trong cách biểu thị các tình huống có liên quan tới
các giới từ không gian nói chung và các từ không gian “auf/in” trong tiếng Đức với
“trên/trong” trong tiếng Việt nói riêng đều liên quan đến ba mối quan hệ, gồm: mối
quan hệ giữa con người với không gian vật lí của thế giới khách quan xung quanh
con người, mối quan hệ giữa con người với không gian văn hóa – xã hội, và mối
quan hệ giữa con người với không gian tâm lí của con người. Những điểm khác biệt
thể hiện qua những ảnh hưởng đặc điểm về địa lí, văn hóa, xã hội, thói quen, lối
sống, phong tục, tập quán, cách nhìn nhận, của người Đức có nhiều điểm khác biệt
so với người Việt. Nhưng dù là mối quan hệ nào, sự tương đồng và khác biệt nào thì
con người vẫn đóng vai trò là trung tâm của vũ trụ.
4. Những kết quả nghiên cứu của chương II và chương III đã tạo ra những
tiền đề khoa học cần thiết cho phạm vi nghiên cứu mang tính thực tiễn ở chương IV
là những khảo sát cách sử dụng những giới từ auf/in trong tác phẩm Đo thế giới với
bản dịch tiếng Việt.
5. Như đã trình bày ở phần mở đầu của luận án, trong nghiên cứu này, chúng
tôi chỉ cố gắng sử dụng một mô thức so sánh đối chiếu về đặc điểm định vị giới từ
không gian giữa tiếng Đức và tiếng Việt. Các kết quả nghiên cứu được trình bày cụ
149
thể qua phần chính văn tuy chưa thật sự sâu và còn nhiều nhược điểm cần khắc phục,
nhưng luận án đã phần nào giúp chúng ta có cơ sở và niềm tin vào mô thức nghiên
cứu này. Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu gần đây của ngôn ngữ học tri nhận,
luận án góp thêm tiếng nói khẳng định năng lực luận giải của ngôn ngữ học tri nhận
về các vấn đề có liên quan đến sự mở rộng, phát triển ngữ nghĩa của từ ngữ nói chung
và của giới từ không gian cụ thể là auf/in nói riêng. Những kết quả phân tích cụ thể
của luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho công việc nghiên cứu, tìm tài liệu, biên
soạn giáo trình, giáo án giảng dạy và học tập tiếng Đức cũng như tiếng Việt như một
ngoại ngữ cho người học. Ngoài ra nghiên cứu còn cung cấp cho giáo viên và người
học những hiểu biết cần thiết để chủ động nắm bắt, hiểu và sử dụng đúng một lớp từ
thông dụng, quan trọng trong hai ngôn ngữ. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng
biên phiên dịch Đức - Việt và Việt - Đức.
Những kết quả của luận án có thể là một vài giải pháp có tính giáo học pháp
mang tính tổng thể nhằm hỗ trợ tích cực, tiết kiệm thời gian, kích thích sự say mê học
hỏi, kiếm tìm và thụ đắc thụ sự định vị không gian tiếng Đức cho các học viên người
Việt. Tuy nhiên, ngoài những giới từ auf/in được nghiên cứu chính trong luận án,
mảng nghiên cứu này vẫn còn nhiều hướng mở cho những giới từ không gian khác
trong cùng hệ thống giới từ cần được tiếp tục mở rộng và nghiên cứu sâu hơn trong
các nghiên cứu tiếp theo.
Chúng tôi hi vọng rằng, khi những vấn đề trên được nghiên cứu cụ thể hơn
thì chúng ta có thể khắc phục được những nhược điểm hay hạn chế quan trọng
không chỉ dừng lại ở phạm vi mà chúng tôi nghiên cứu và quan tâm, mà còn ở một
phạm vi mang tính không gian rộng lớn hơn không chỉ trong ngôn ngữ mà trong các
lĩnh vực khác.
150
DANH MỤC
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Nương (2017), “Hệ thống giới từ và giới từ không gian trong tiếng
Đức”, Tạp chí Khoa học, Viện Đại học Mở, Hà Nội, 9/2017.
2. Nguyễn Thị Nương (2019), “Các giới từ chỉ địa điểm tĩnh trong tiếng Đức auf/
über/ unter” đối chiếu với tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học, Viện Đại học Mở, Hà
Nội, 12/2019.
3. Nguyễn Thị Nương (2019), “Đối chiếu giới từ địa điểm trong tiếng Đức vor
(trước)/ hinter (sau) đối chiếu với tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học, Viện Đại học Mở,
Hà Nội, 1/2020.
4. Nguyễn Thị Nương (2020), “Các giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức in (trong)/
an (ngoài)/ neben (bên cạnh) đối chiếu với tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời
sống, 8/2020.
5. Nguyễn Thị Nương (2020), “So sánh giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức và
tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, Hà Nội, 9/2020.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Diệp Quang Ban (1989), Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông, Nxb Đại học &
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban và Hoàng Hữu Thung (1998), Ngữ pháp tiếng Việt, Tập
1&2 Nxb ĐHTHCN, Hà Nội.
3. Nguyễn Tài Cẩn (1989), Về việc dùng hai động từ “vào” “ra” để chỉ sự di
chuyển đến một địa điểm ở phía Nam hay phía Bắc, Báo đại đoàn kết số 410,
Tập san của hội người Việt tại Pháp.
4. Đỗ Hữu Châu (1980), Mấy vấn đề tổng quát trong việc chuẩn mực hóa và
giữ gìn trong sáng của tiếng Việt về mặt từ vựng – ngữ nghĩa, Tạp chí Ngôn
ngữ, số 3.
5. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb GD, Hà Nội.
6. Đỗ Hữu Châu (1998), Các bình diện của từ và tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Chiến (1992), Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn
ngữ Đông Nam Á, Nxb ĐHSPNN, Hà Nội.
8. Trần Văn Cơ (2007, 2009), Ngôn ngữ học tri nhận (Ghi chép và suy nghĩ)
vào năm 2007 và cuốn Khảo luận ẩn dụ tri nhận vào năm 2009.
9. Trần Văn Cơ (2011), Ngôn ngữ học tri nhận: Từ điển, tường giải và đối
chiếu, Nxb Phương Đông.
10. Nguyễn Đức Dân (1984), Ngữ nghĩa các từ hư, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2&4.
11. Nguyễn Đức Dân (1998), Logic và tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội.
12. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Tập 1, Nxb GD, Hà Nội.
13. Nguyễn Đức Dân (2005), Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn
dụ, Tạp chí ngôn ngữ số 9.
14. Lê Đông (1991), Ngữ nghĩa – ngữ dụng của hư từ tiếng Việt, Tạp chí Ngôn
Ngữ, số 2/1991.
15. Đinh Văn Đức (2010a), Các bài giảng về từ pháp học Tiếng Việt. Từ loại
nhìn từ bình diện chức năng, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
16. Đinh Văn Đức (2010b), Ngữ pháp tiếng Việt. Từ loại, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
17. Trần Quang Hải (2001), Nghiên cứu giới từ định vị theo hướng ngữ dụng
(trên cứ liệu tiếng Anh – tiếng Việt), Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
18. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Tập 1, Nxb
KHXH, Hà Nội.
19. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa, Nxb GD, Hà Nội.
20. Cao Xuân Hạo (Chủ biên)- Nguyễn Văn Bằng – Hoàng Xuân Tâm – Bùi Tất
Tươm (2005), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt quyển 2, Ngữ đoạn và Từ loại,
Nxb KHXH, Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Hiệp (2013), Ngữ nghĩa của “RA” “VÀO” trong tiếng Việt nhìn
từ góc độ nghiệm thân, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, tại National Cheng Kung
University.
22. Nguyễn Cảnh Hoa (1998), Nhận xét về sự khác nhau của một vài giới từ
tiếng Việt và tiếng Anh. Hội thảo khoa học, Hội NNH Việt Nam, Hà Nội.
23. Nguyễn Cảnh Hoa (2001), Nghiên cứu ngữ pháp và ngữ nghĩa của giới từ
tiếng Anh, đối chiếu với tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.
24. Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, Nxb Giáo dục, Hồ Chí
Minh.
25. Đỗ Việt Hùng, Hà Quang Năng, Đặng Ngọc Lệ và Nguyễn Như Ý (2001),
Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Tái bản lần 3, Nxb GD, Hà Nội.
26. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1940), Tiếng Việt Văn Phạm.
Nxb Lê Thăng, Hà Nội.
27. Nguyễn Lai (1977): Động từ chỉ hướng vận động tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ,
số 3. Viện Ngôn Ngữ học, Hà Nội.
28. Nguyễn Lai (1989): Tính định hướng của nhóm từ chỉ hướng, Tạp chí Ngôn
ngữ, số 1-2. Viện Ngôn Ngữ học, Hà Nội.
29. Nguyễn Lai (1990), Nhóm từ chỉ hướng vận động trong tiếng Việt, tủ sách
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
30. Nguyễn Lai (2001), Ngữ nghĩa nhóm từ chỉ hướng vận động tiếng Việt
hiện đại: quá trình hình thành và phát triển, NXB Khoa học xã hội.
31. Nguyễn Lai (2012), Sự hình thành cấu trúc vận động không gian vào
Nam (từ góc nhìn tạo nghĩa của hoạt động nhận thức), Tạp chí Ngôn
ngữ, số 12, Viện Ngôn Ngữ học, Hà Nội.
32. Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn (1994).
Ngôn ngữ học: Khuynh hướng - Lĩnh vực - Khái niệm, Tập 1&2, Nxb
KHXH, Hà Nội.
33. Hoàng Phê (1989), Lôgic ngôn ngữ học, Nxb KHXH, Hà Nội. 1989.
34. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt - Câu, Nxb ĐHTHCN, Hà
Nội.
35. Hoàng Trọng Phiến (1991), Từ điển giải thích từ hư tiếng Việt, Tokyo
University of Foreign Studies.
36. Lê Quang (2007), Đo thế giới, Nxb Văn học và Nxb Nhã Nam.
37. Nguyễn Anh Quế (1994), Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH, Hà
Nội.
38. Đào Thản (1983), Cứ liệu từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt về mối quan hệ không
gian thời gian, Tạp chí NN&ĐS, số 3/1983.
39. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Nxb KHXH,
Hà Nội.
40. Nguyễn Kim Thản (1977), Động từ trong tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.
41. Lê Thị Lệ Thanh (2001) “Trường từ vựng - ngữ nghĩa các từ ngữ biểu thị
thời gian của tiếng Việt (trong sự so sánh với tiếng Đức), luận án tiến sỹ, Hà
Nội.
42. Lê Văn Thanh (1996), A. Tìm hiểu những quan niệm mới về giới từ, Ngữ học
Trẻ ‟96, Hà Nội.
43. Lê Văn Thanh (1996), B. Những hiểu biết mới về giới từ at tiếng Anh, Ngữ
học Trẻ ‟96, Hà Nội.
44. Lê Văn Thanh (2000), Các giới từ at, on, in với các học viên người Việt, Ngữ
học Trẻ 2000, Hà Nội.
45. Lê Văn Thanh (2000), Sự tình định vị không gian tiếng Anh trong sự so sánh
với tiếng Việt, (Báo cáo khoa học), Hội nghị ngôn ngữ học Liên Á, Tp.
HCM.
46. Lê Văn Thanh (5/2002), Giới từ “in” – một cách tri nhận không gian lí thú
của người Anh, Tạp chí NN&ĐS.
47. Lê Văn Thanh & Lý Toàn Thắng (2002), Ba giới từ at, on, in (thử nhìn từ góc
độ cơ chế tri nhận không gian trong sự so sánh đối chiếu với tiếng Việt), Tạp
chí Ngôn ngữ, số 9.
48. Lê Văn Thanh (2003), Ngữ nghĩa của các giới từ chỉ không gian trong tiếng
Anh (Trong sự đối chiếu với tiếng Việt), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Hà nội.
49. Nguyễn Văn Thành (2001), Tiếng Việt hiện đại. Từ pháp học, Nxb KHXH,
Hà Nội.
50. Đặng Thị Hương Thảo (2019) Ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của các giới từ
định vị không gian theo chiều “trên-dưới” trong tiếng Anh, đối chiếu với
tiếng Việt. luận án tiến sỹ.
51. Lý Toàn Thắng (1993), Mô hình không gian của thế giới: sự tri nhận, văn
hoá và tâm lí học tộc người, Luận án TSKH, Nga.
52. Lý Toàn Thắng (1994), Ngôn ngữ và sự tri nhận không gian, Tạp chí Ngôn
ngữ, số 4.
53. Lý Toàn Thắng (2001), Bản sắc văn hóa: thử nhìn từ góc độ tâm lí - ngôn
ngữ, Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb GD, Hà Nội.
54. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận. Từ lí thuyết đại cương đến
thực tiễn tiếng Việt, Nxb Phương Đông.
55. Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận. Từ lí thuyết đại cương đến
thực tiễn tiếng Việt, Tái bản có sửa chữa bổ sung, Nxb Phương Đông.
56. Lý Toàn Thắng (2012), Một số vấn đề lí luận ngôn ngữ học và tiếng Việt,
Nxb KHXH, Hà Nội.
57. Lý Toàn Thắng (2015), Ngôn ngữ học tri nhận: Những nội dung quan yếu,
Nxb KHXH.
58. Lê Quang Thiêm (2008), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, In lần thứ 2,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
59. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb GD, Hà Nội.
60. Bùi Đức Tịnh (2003), Ngữ pháp Việt Nam giản dị và thực dụng, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
61. Vũ Văn Thi (1995), Quá trình chuyển hóa của một số thực từ thành giới từ
trong tiếng Việt, Luận án PTS Ngữ văn, Trường ĐH KHXH & NV, Hà Nội.
62. Nguyễn Minh Thuyết (1986), Vấn đề xác định từ trong tiếng Việt, Tạp chí
NN&ĐS.
Tiếng nƣớc ngoài
63. Abella, A & John R. Kender (1995), Qualitatively Discribing Objects Using
Spatial Prepositions, Working papers. Columbia University.
64. Aksenko, B.N. Exercises in English Prepositions. Leningrad. 1962.
65. Andrea Tyler và Vyvyan Evans (2003) The Semantics of English
Prepositions – Spatial Scenes, Embodied Meaning and Cognition, (Lâm
Quang Đông và Nguyễn Minh Hà dịch sang tiếng Việt năm 2017 Ngữ nghĩa
giới từ tiếng Anh – khung cảnh không gian, nghĩa nghiệm thân và tri nhận).
66. Angelika Wöllstein-Leisten; Axel Heilmann; Peter Stepan; Sten Vikner
(2006), Deutsche Satzstruktur. Grundlagen der syntaktischen Analyse.
Stauffenburg, Tübingen.
67. Annette Herskovits (1986), Language and Spatial Cognition: An
Interdisciplinary Study of the Prepositions in English.
68. Becker, A & Carrol, M (1997), The Acquisition of Spatial Relations in a
Second Language. John Benjamins Publishing Company Amsterdam/
Philadelphia.
69. Beerbom, C. (1992), Modalpartikeln als Übersetzungsproblem: eine
kontrastive Studie zum Sprachenpaar Deutsch –Spanisch. Frankfurt am
Main; Bern; New York; Paris: Lang.
70. Brenda, M. (2014), The Coginitive Perspective on the Polysemy of the
English Spatial Prepositions Over, Cambridge Scholars Publishing.
71. Brinkmann, H (1971), Die deutsche Sprache. Gestalt und Leistung.
Pädagogischer Verlag Schwann. Düsseldorf.
72. Bybee, J & William, P. Cross – Linguistic Comparison and the Development
of Grammatical Meaning. Historical Semantics and Word Formation. (ed. By
Fisiak). The Hague: Mouton. 1985.
73. Carston, R. The Semantics/ Pragmatics Distinction: A View from Relevance
Theory. UCL Working
74. Chomsky, N. (1957), Syntactic Structures. The Hague: Mouton de Gruyter.
75. Chomsky, N. (1965). Aspects of the theory of syntax. Cambridge, MA: MIT
Press.
76. Coventry và Garrod„s. (2004), Saying, seeing, and acting: The psychological
semantics of spatial prepositions, Hove: Psychology Press.
77. Croft W and Cruse D.A. (2004), Cognitive Linguistics, Cambridge textbook
in Linguistics. Cambridge University Press.
78. Daniel Kehlmann. (2006), Die Vermessung der Welt. Rowohlt Verlag,
Hamburg.
79. David Lee. (2001), Cognitive Linguistics – An Introduction, cuốn sách đã
được Nguyễn Văn Hiệp và Nguyễn Hoàng An dịch sang tiếng Việt năm 2015
dưới nhan đề Dẫn luận Ngôn ngữ học Tri nhận.
80. Downing A. and Locke P.A. (1995), University Course in English Grammar,
Phoenix.
81. Eisenberg Peter (2006), Grundriss der deutschen Grammatik – Der Satz – 3.
Auflage, J. B. Metzler Verag, Stuttgart
82. Evans V. (2007), A Glossary of Cognitive Linguistics, Edinburgh University
Press.
83. Evans.V and Green.M. (2006), Cognitive linguistics. An introduction,
Edinburgh University Press.
84. Frawley, William. Linguistic Sematic, LEA. 1992.
85. Halliday, M.A.K. (1973), Explorations in Functions of Language. London.
Longman.
86. Halliday, M.A.K. (1985), An Introduction to Functional Grammar, London,
Adward Arnold.
87. Heine, Bernd. (1997), Cognitive Foundations of Grammar, Oxford: Oxford
University Press: 12-14.
88. Helbig, G./ Buscha, J. (2001), Deutsche Grammatik. Ein Handbuch für
den Auslänerunterricht. Langenscheidt, Berlin/ München/ Wien/ Zürich/ New
York.
89. Hentschel, E./ Weydt, H. (2003), Handbuch der deutschen Grammatik – 3.,
völlig neu bearbeitete Auflage. Walter de Gruyter, Berlin/ Newyork.
90. Herskovits. (1986), Languague and Spatial Cognition, Cambridge.
91. Herskovits. (2009), A Language and Spatial Cognition: An intersisciplinary
Study of the Prepositions in English, CUP.
92. Holmqvist, K. (1993), Implimenting Cognitive Semantics, Lund University.
93. James, Carl. (1980), Constrastive analysis. Addison Wesley Longman
Limited, Edinburgh Gate, Harlow.
94. Jackendoff, R & Landau, B. (1996), Spatial Language and Spatial Cognition.
In Bridges between Psychology and Linguistics: A Swarthmore Festschrift
for Lila Gleitman. Napoli, D, N & Kegl, J, A. (eds).1996.
95. Jochen Schröder. (1986), Lexikon deutscher Präpositionen. Enzyklopädie
Verlag. Leipzig.
96. Johnson, M. (1987), The Body in Mind, University of Chicago Press.
97. Johnson, Mark and Tim Rohrer. (2007). We are live creatures: Embodiment,
American Pragmatism and the cognitive organism. In: Tom Ziemke, Jordan
Zlatez and Roslyn M. Frank (eds.), Body, Language and Mind, Vol1:
Embodiment, 17-54, Berlin: De Gruyter Mouton.
98. Jürgen Pafel. (2011), Einführung in die Syntax. Grundlagen – Strukturen –
Theorie. J.B. Metzler Verlag, Weinar.
99. Klebanowska, Barbara. (1971), Znaczenie lokatywne polskich przyimko„w
wlas„ciwych, Wroclaw: Zakldad Narodowy im. Ossolin„skich.
100. Lakoff G & Johnson M. (1980), Metaphor we live by, Chicago, London.
101. Lakoff, George. (1987), Women, Fire, and Dangerous Things: What
Categories Reveal about the Mind, University of Chicago Press.
102. Langacker R.W. (1987), Foundations of Cognitive Grammar (v.1), Standford
CA: Standford University Press.
103. Langacker R.W. (1990), Concept, Image and Symbol, The Cognitive Basis of
Grammar. Mouton de Gruyter.
104. Langacker R.W. (1991), Concept, Image and Symbol, Berlin. Mouton de
Gruyter.
105. Leech. G and Svartvik. (1975), A conmmunictive grammar of English, Ingrid
R. Val.
106. Leech. G. (1969), Towards a semantic description of English, London,
Longman.
107. Levinson, S, C. (1983), Principles of Pragmatics. London. Longman.1983.
108. Levinson, S, C. Relative in Spatial Conception and Discription. In J.J
Gumperz & S. C Levision (eds). Rethinking Linguistics Relativity.
CUP.1991.
109. Levinson, S,C. Language and Space, 1994.
110. Ludger Hoffmann. (2009), Handbuch der deutschen Wortarten. Walter de
Gruyter, Berlin/ New York.
111. Lyons J. (1995), Linguistics sematics – An Introduction, Cambridge
Universtiy Press.
112. Maria, Lachlan, M & Elsa, M. (2008), Current Trends in Constrastive
Liguistics. Functional and cognitive perpectives, John Benjamins Publishing
Company.
113. Mansour, M. A. (1988), Kontrastive Analyse der lokalen und temporalen
Präpositionen im Deutschen und Arabischen. Inaugual-Dissertation zur
Erlangung der Doktorwürde der Philosophischen Fakultäten der Albert-
Ludwigs-Universität zu Freiburg i. Br., Freiburg.
114. Musan, R. (2009), Satzgliedanalyse. 2. Auflage. Universitätsverlag
Winter, Heidelberg.
115. Pafel, J. (2011), Einführung in die Syntax. Grundlagen – Strukturen –
Theorie.J.B. Metzler Verlag, Weinar.
116. Ronald W. Langacker. (1987) Foundations of Cognitive Grammar.
117. Sapir, E. (1960), Language. Harcourt. New York.1921.
118. Schirra, J. (1992), A Contribution to Reference Semantics of Spatial
Prepositions: The Visualization Problem and Its Solution in VITRA. SFB
314, VITRA University of Saarlandes, Germany.
119. Schirra, J. (1995), Connecting Visual and Verbal Space. Ph.D.Dissertation.
Cambridge University.
120. Schröder, J. (1986), Lexikon deutscher Präpositionen. Enzyklopädie
Verlag, Leipzig.
121. Sommerfeldt K., Starke G. (1998), Einführung in die Grammatik der
deutschen Gegenwartssprache – 3., neu bearbeite Auflage unter Mitwirkung
von Werner Hackel, Max Niemeyer Verlag, Tübingen.
122. Stacey, M. (1996), Spatial Expressions in Design Idea Capture Langugages.
The Paper for the AID‟ 96 Workshop on Visual Representation, Reasoning
and Interaction in Design.
123. Sternemann, R. (1983), Einführung in die konfrontative Linguistik. Leipzig:
VEB Enzyklopädie.
124. Stickel, G. (1976), Voraussetzungen und Ziele einer kontrastiven
Untersuchung des Deutschen und Japanischen. In: id. (Hrsg.), Deutsch-
japanische Kontraste. Vorstudien zu einer kontrastiven Grammatik.
[Forschungsberichte des Instituts für Deutsche Sprache (IDS), Mannheim;
Bd. 29]. Tübingen: Narr.
125. Svorou, Soterial. (1994), The Grammar of Space, Amsterdam: John
Bejamins.
126. Talmy, L. (1972), Semantic structures in English and Atsugewi. Unpublished
doctoral dissertation, University of California at Berkeley, US.
127. Talmy, L. (1975), Semantics and Syntax of Motion. In John Kimball (ed).
Syntax and Semantics.
128. Talmy, L. (1983), How Language Structures Space. In Spatial Orientation:
Theory, Research and Applicantation. H.Pick, L.Acredolo (eds). New York:
Plenum.
129. Talmy, L. (1985), Lexicalization patterns: Semantic structure in lexical
forms”. In T. Shopen (Ed.), Language typology and lexical descriptions: Vol.
III. Grammatical categories and the lexicon. Cambridge: Cambridge
University Press, pp. 36–149.
130. Talmy, L. (1988), Force dynamics in language and cognition // Cognitive
science.
131. Talmy, L. (1991), Path to realization: a typology of event conflation.
Berkeley Linguistic Society, 7, 480-519.
132. Talmy, L. (2000a), Toward a cognitive semantics: Vol. I: Concept
StructuringSystem. Cambridge, MA: MIT Press.
133. Talmy, L. (2000b), Toward a cognitive semantics: Vol. II: Typology and
process in concept structuring. Cambridge, MA: MIT Press.
134. Talmy, Leonard. (2000, 2005), Toward a cognitive semantics. Vol. 1:
Concept structuring systems, Cambridge, MA: The Massachusetts Institute
of Technology Press.
135. Talmy, L. (2003), The representation of spatial structure in spoken and signed
languages. In K. Emmorey (Ed.), Perspectives on Classifier Constructions in
Sign Language. Mahwah, NJ: Lawrence Erlbaum, pp. 169-195.
136. Taylor, H, A&Tversky, B. (1992), Spatial Mental Models Derived from
Survey and Route Descriptions. Journal of Memory and Language 31.
137. Thomson, A, J&Martinet, A, V. (1989), A Practical English Grammar.
Oxford University Press.
138. Thomson, L, A. (1965), Vietnamese Grammar. Seatle.
139. Trujillo, A. (1995), Spatial Lexicalization in the Translation of Prepositional
Phrases, Ph.D. dissertation.
140. Tyler, A & Evan, V. (2003), The semantics of English prepositions: Spatial
senses, embodied meaning and cognition, Cambridge University Press. (Bản
dịch của Lâm Quang Đông và Nguyễn Minh Hà. (2017), Ngữ nghĩa giới từ
tiếng Anh: Khung cảnh không gian, nghĩa nghiệm thân và tri nhận, Nxb
ĐHQG.)
141. Vincent. N. (1997), The Evolution of C - Structure, Prepositions and PPs
from Indo - European to Romance. LFG.
142. Weinrich. H. (2005), Textgrammatik der deutschen Sprache. 3. Revidierte
Auflage. Hildesheim/ Zürich/ New York: Georg Olms Verlag.
143. Wolfgang Boettcher (2009), Grammatik verstehen. I – Wort. Tübingen: Max
Niemeyer Verlag.
144. Wolfgang Boettcher. (2009), Grammatik verstehen. II – Einfacher Satz.
Tübingen: Max Niemeyer Verlag.
145. Wöllstein-Leisten, A./ Heilmann, A./ Stepan, P. Sten Vikner. (2006),
Deutsche Satzstruktur. Grundlagen der syntaktischen Analyse. Stauffenburg,
Tübingen.
146. Zwarts, J&Winter, Y. (2000), Vector Space Semantics: A model - Theoretic
Analysis of Locative Prepositions. Journal of Logic, Language and
Information. Volume 9. (No2).
Phụ lục
Anhang 1. Die dynamischen lokalen Präposition “auf” in “Die Vermessung der Welt”
Phụ lục 1. Giới từ địa điểm chỉ phương hướng chuyển động “auf” trong “Đo thế giới”
Nr. Erscheinung im Korpus auf Seite Erscheinung im Korpus Seite
(Số (Trang) (Trang) Deutschen auf Vietnamesischen
TT) (Xuất hiện trong văn bản của (Xuất hiện trong văn bản
người Đức)
auf den Boden của người Việt)
xuống đất 7 9 1 Deutschen
auf seine Arm lên cánh tay 11 14 2 Vietnamesischen
auf preußischen Boden vào đất Phổ 12 15 3
auf seine Taschenuhr vào mặt đồng hồ 13 16 4
auf seinen schmerzenden lên tấm lưng đau mỏi 13 16 5
Rücken
auf die Straße xuống đất 15 17 6
auf eine lichtempfindliche lên lớp i-ốt bạc cháy sáng 15 18 7
Silberjodidschicht
auf Eugen vào Eugen 16 19 8
auf den Boden xuống nền đất 17 20 9
auf den See lên mặt hồ 24 28 10
auf den Boden chân chạm đáy 24 28 11
auf den Bauch áp bụng xuống băng 25 28 12
auf das Ufer vào bờ 25 28 13
auf die Füße đứng dậy 25 29 14
aufs Bett lên giường 31 36 15
auf seinen Rücken lên lưng 31 36 16
auf den Boden xuống sàn 31 36 17
auf eine der Wunden lên một trong hai vết rạch 31 36 18
auf Humboldts blutigen 32 lên tấm lưng máu me của 37 19
Rücken
auf die Schulter Humboldt
lên vai 35 41 20
auf den Rücken sau lưng 21 38 44
auf die Hand (treten) (giẫm phải) tay 22 39 45
23 auf die Pferde 41 keine Übersetzung
24 auf die Schulter 43 lên vai 50
25 auf eine Holzhütte 48 về phía lán gỗ 55
26 auf die Seekarte 51 vào hải đồ 58
27 auf die (der Schiefertafel) 56 trên đó 63
28 auf das Ergebnis 56 vào kết quả 56
29 aufs Gymnasium 58 lên được trung học 65
30 aufs Gymnasium 59 vào trường trung học 67
auf die Zehenspitzen trên đầu ngón chân 31 67 76
32 auf sein Gesicht 68 trên môi 77
33 auf Trommelfelle 69 lên mặt trống 78
34 auf die Knie 70 quỳ hẳn xuống 79
35 auf den Boden 70 xuống đất 80
36 auf seine Ohren 72 lên tai 82
37 auf das Thermometer 73 lên nhiệt kế 83
38 auf den Rückweg 74 lên đường 84
39 auf den Teppich 76 xuống thảm 86
40 auf den Rücken 76 lên lưng 86
41 76 86 auf den gebeugten Rücken tấm lưng cong lên của cô
42 auf sein Gesicht 76 lên mặt 86
43 auf das Chronometer 80 vào đồng hồ 90
44 auf den Boden 90 xuống đất 102
45 auf ein Stücktischdecke 91 lên khăn bàn 104
46 auf die Wange 91 lên má 104
47 auf den Sessel 95 gần ghế bành 108
48 auf den Tisch 95 lên bàn 108
49 114 auf den Boden 101 xuống đất
auf die Schulter 103 vai ông 117 50
auf die Füße 105 đứng dậy 119 51
auf die Vorderpfoten lên hai chân trước 107 122 52
auf die Brust 108 xuống ngực 122 53
auf die Füße 108 xuống chân 122 54
auf die Schulter 110 lên vai 124 55
auf das Fenster 115 ra cửa sổ 130 56
auf den Brustkorb 120 xuống ngực 136 57
auf die Stoffbündel 122 vào gói vải 138 58
auf die Füße (spingen) (nhảy) bật dậy 126 139 59
auf sie 128 vào họ 145 60
auf die Schulter 130 lên vai anh 147 61
auf die Körper 131 lên người 147 62
auf den Trichter 131 cái phễu 147 63
auf Pfeile 131 lên mũi tên 148 64
132 148 auf die Knie (sinken) khuỵu gối xuống 65
auf seine Schuhe 132 mũi giày 148 66
auf die Leichen 137 vào các xác người 154 67
auf den Stein 141 lên mặt đá 158 68
auf den zwei getrennten 141 trên hai tàu thủy khác nhau 159 69
Schiffen
auf seine Knie 144 lên đầu gối 162 70
auf den Boden 146 xuống đất 164 71
165 auf einen einzelnen Körper 147 từ mọi vật thể 72
auf seine Schulter 147 lên vai anh 166 73
auf sie 150 lên người cô 169 74
auf seinen Mund 154 vào miệng 173 75
auf diesen Kram 156 vào công việc vớ vẩn này 176 76
auf die Knie 158 quỳ gối xuống 178 77
auf seinen Silbernen Stock 158 lên cây gây bạc của mình 178 78
79 auf ein Schiff lên tàu thủy 164 184
80 auf Berge lên núi 167 187
81 auf den Abgrund về phía vực thẳm 167 188
82 auf die Knie ngồi thụp xuông 172 193
83 auf seine Jacke xuống áo khoác 176 198
84 auf den Gipfel lên đỉnh 177 199
85 auf seine schmutzige Schuhe 181 xuống đôi giày lấm lem của 204
86 auf die Holzpritsche 184 mình
xuống phản gỗ 206
87 auf den Scharnhorster 186 đến điểm đo Scharnhost 209
88 Meßpunkt
auf einen Baumstrumpf lên một gốc cụt 192 215
89 auf die Schulter vào vai 194 217
90 auf die Wange vào má 194 217
91 auf den Nachthimmel lên bầu trời đêm 196 220
92 auf einen Baum lên cây 197 221
93 auf den mitschreibenden vào Gomez 197 221
94 Gomez
auf die Schulter lên vai 200 225
95 auf den Hauptplatz ra đến quảng trường 204 230
96 auf den Tisch lên bàn 205 230
97 auf den Boden xuống đất 207 232
98 auf die Schulter (schlagen) 212 (vỗ) vai 238
99 auf die Tischplatte 215 xuống mặt bàn 242
100 auf die niedrig im Fenster 220 vào mặt trời xuống thấp 248
stehende Sonne
auf die Brust 101 ngoài
lên ngực 231 260
auf den Schädel 102 cửa sổ
vào sọ 233 262
auf die Knie 103 quỳ sụp xuống 234 263
auf der Straße 104 ngoài đường 234 263
auf die Schulter 105 lên vai 234 263
106 auf die Schulter (klopfen) vỗ vai 241 271
auf sie 107 vào cô 243 273
auf diese Schulter lên bờ vai ấy 275 243 108
auf die Straße ra đến phố 275 245 109
auf ihren Arm lên tay bà 283 251 110
auf das Medium vào phòng 291 259 111
auf den höchsten Berg lên đỉnh núi cao nhất 298 266 112
113 auf einen über der Nadel 272 vào tấm gương gắn phía 305
angebrachten Spiegel
auf Berge trên
lên núi 306 272 114
auf die Zeltplane cái kim
lên vách lều 310 276 115
auf seine durchnäßten 277 xuống hai ống quần ướt 311 116
Hosenbeine 117 auf die Schultern (schlagen) sũng
(vỗ) vai 313 279
auf die Spiegelskala của mình
lên tấm gương chia vạch 315 281 118
auf einen Stein lên một tảng đá 317 282 119
auf die Stadt vào thành phố 318 284 120
auf die Schriftzeichen những ký tự 319 285 121
auf den Weg lên đường 322 287 122
aufs Kaspische Meer ra biển Caspia 324 289 123
auf Himmelskörper các thiên thể 329 293 124
auf den Bettrand xuống cạnh giường 331 296 125
auf die Schulter lên vai 331 296 126
127 auf sein Herbergszimmer về phòng trọ của mình 333 298
auf den Boden xuống đất 336 300 128
auf den Boden xuống đất 336 300 129
130 auf den Boden (strampfen) 301 giậm chân 336
131 auf den Ausgang 301 ra cửa 336
Anhang 2. Die statischen lokalen Präposition “auf” in “Die Vermessung der Welt”
Phụ lục 2. Giới từ địa điểm tĩnh “auf - trên” trong “Đo thế giới”
Nr. Erscheinung im Korpus Seite Erscheinung im Seite
(Số (Trang) (Trang) auf Deutschen Korpus auf
TT) (Xuất hiện trong văn bản của Vietnamesischen
người Đức) (Xuất hiện trong văn bản
của người Việt)
auf dem Fensterbrett 7 trên bậu cửa sổ 10 1
Vietnamesischen auf seinem Weg trên đường 19 22 2
auf dem Dach des Schlosses lên mái lâu đài 20 23 3
auf dem Dach des trên mái nhà của giáo sư 20 23 4
Physikprofessors
auf kahlen Bäumen vật lý
trên các cành cây trụi lá 23 27 5
auf dem Heimweg trên đường về nhà 28 31 6
auf Hawaii ở Hawaii 28 33 7
auf der Welt trên đời 30 35 8
auf dem Boden dưới sàn 32 37 9
auf dem schnellsten Pferd con ngựa nhanh nhất 34 40 10
auf dem Rücken sau lưng 37 42 11
auf dem Sofa trên sofa 37 43 12
auf einem Bein (stehen) (đứng) một chân 38 44 13
auf der Treppe trên bậc thang 39 45 14
auf dem Weg nach Spanien dọc đường đến Tây Ban 41 47 15
auf allen Schiffen Nha
trên mọi tàu thuyền 44 51 16
auf der Wolkendecke trên thảm mây 46 53 17
auf dem Boden dưới đất 47 54 18
auf einem Palmenstamm trên gốc cọ 47 54 19
auf ihrem Gesicht khuôn mặt 54 61 20
auf seinem Platz tại chỗ 56 64 21
auf seinem Gesicht trên khuôn mặt 57 22 64
auf seinem Platz về chỗ 57 23 64
24 auf dem Weg nach Stockholm trên đường tới Stockholm 63 72
25 auf dem geflochtenen Boden trên nền cũi 65 74
auf seinem Schulter trên vai mình 66 26 75
auf den Köpfen trên đầu 70 27 79
auf der Welt trên thế giới 71 28 80
auf der Schulter vào vai 71 29 81
auf Gras trên cỏ 72 30 81
auf dem Boden trên mặt đất 73 31 83
auf dem gesamten Planeten trên khắp hành tinh 78 32 88
auf dem Boden dưới đất 79 33 89
auf den Weltkarten trên bản đồ thế giới 80 34 90
auf dem Rücken (nằm) ngửa 81 35 92
auf einigen zerknüllten trên mấy tờ giấy nhàu nhĩ 81 36 92
Blättern
auf dem Boden trên sàn 81 37 92
auf dem Nachttisch trên bàn ngủ 84 38 95
auf der Universität ở trường đại học 85 39 96
auf der Welt trên thế gian này 86 40 97
auf dem Gang ngoài hành lang 87 41 99
auf Gottes Erde trên mặt đất của chúa 89 42 101
auf einer Fläche trên mặt phẳng 89 43 102
auf einer Kugel trên bề mặt hình cầu 89 44 102
auf der Straße trên phố 90 45 103
auf dem Rückweg trên đường về 91 46 104
auf dessen erste Seite trên trang đầu 95 47 108
auf dem Doppelberg 101 lên ngọn núi đôi 48 114
auf dem Gipfel 101 trên đỉnh núi 49 114
50 auf einem gleißenden Spiegel 102 trên một tấm gương bóng 115
auf dem Elektrometer 104 loáng
trên đồng hồ đo điện 117 51
auf dem Weg zur Herberge 106 trên đường về nhà trọ 120 52
auf den Kisten mit ihren lên những dụng cụ của 129 114 53
Instrumenten
auf seiner Stirn mình
vào trán 130 115 54
auf dem Gerät La trên máy móc của La 131 115 55
Condamie Condamines
auf dem Gerät Bouguers 115 trên máy móc của Bouguer 131 56
(Federn) auf dem Kopf đội mũ lông vũ 139 123 57
auf seinem Bauch trên bụng mình 141 125 58
auf diesem Boot trên thuyền 144 128 59
auf keiner Karte trong bản đồ nào 145 129 60
auf einem Stein trên một phiến đá 147 131 61
auf der Erde trên nền đất 148 132 62
63 auf einem umkippten Baum 132 trên một thân cây đổ 148
auf ihrer gleißenden 135 trên bề mặt chói chang của 152 64
Oberfläche
auf der anderem Seite nó
phía bên kia 152 135 65
auf den Karten lên các bản đồ 153 136 66
auf einer Felseninsel lên một đảo đá 156 139 67
auf dem Papier trên giấy 165 147 68
auf dem Rückweg trên đường về 166 148 69
auf freiem Feld 148 giữa một quãng đồng trống 166 70
auf dem Meer trên biển 167 148 71
auf dem Weg nach Hause lên đường về nhà 168 149 72
auf dem Boden trên nền nhà 169 149 73
auf dem Weg zurück lúc quay lại 169 149 74
auf der Straße ngoài phố 170 151 75
auf der Stadtmauer trên tường thành 173 153 76
auf dem Berg trên núi 184 164 77
auf dem Magdalenenfluß trên sông Magdalena 165 185 78
auf dem Orinoko ở Orinoco 165 185 79
auf dem Boden ra đất 167 188 80
auf den aus dem Schnee 169 trên các tảng đá chòi lên 190 81
ragenden Steinen 82 auf einer schmalen Plattform khỏi
trên một khoảng hẹp 170 191
auf der Orinokoinsel tuyết
phẳng
trên hòn đảo Orinoco 172 193 83
auf der Insel phiu
trên đảo 173 194 84
auf einem drei hängenden 174 trên một vòng cung bằng 195 85
Bogen aus Schnee tuyết 86 auf der anderen Seite der Erde 175 ở phía bên kia của quả đất 196
auf dem Kopf (stehen) 177 198 treo lơ lửng
lộn ngược 87
177 198 trên độ cao auf einer Höhe 88
179 201 trên cầu tuyết auf der Brücke 89
183 206 trên sàn auf dem Boden 90
184 207 trên phản gỗ auf der Pritsche 91
184 207 trên phản auf der Pritsche 92
184 207 trên phản auf der Pritsche 93
185 207 trên sàn auf dem Boden 94
185 207 ở rìa phản auf dem Bettrand 95
185 208 trong tranh auf Bildern 96
185 208 trên nền đất auf dem Boden 97
186 208 trên bãi cỏ auf einer Wiese 98
188 211 sau lưng auf dem Rücken 99
188 211 trên gốc cọ 100 auf den Palmenstämmen
190 213 trên đường 101 auf dem Weg
190 214 trên mỗi gốc cây 102 auf jedem Baum
191 214 103 auf magnetischen Skalen trên thước từ tính
193 216 104 auf einer Schiefertafel trên bảng
193 216 105 auf den feuchten Wurzeln trên những rễ cây ướt
nằm ngửa 106 auf dem Rücken (liegen) 196 220
trên đỉnh đồi auf einer Anhöhe 200 224 107
trên nền đất auf dem Boden 200 225 108
trang sổ auf seinen Block 201 226 109
110 auf einer gerade Chaussee 207 theo một đại lộ chạy thẳng 232
auf dem Hinterdeck trên khoang sau 210 236 111
trước ngực auf der Brust 213 240 112
trên bàn auf dem Tisch 213 240 113
auf dem Kupferplatten 216 trên bản đồng bằng hóa 243 114
chất
một bên auf der einen Seite 218 246 115
bên kia auf der anderen 218 246 116
ngoài phố auf der Straße 218 246 117
auf geraden Linien theo đường thẳng 220 248 118
auf seinem Hof tại chính nông trại của 254 224 119
mình
ra đường auf dem Weg 228 256 120
trên nền nhà auf dem Boden 229 257 121
auf langen Bänken trên hàng ghế băng 234 263 122
auf dem với 235 264 123
124 auf dem Weg zum Foyer trên đường ra tiền sảnh 269 240
125 auf einem mexikanischen 246 lên chiếc bàn đá nhỏ kiều 276
Steintischchen
auf der Straße Mêxicô
ngoài đường 249 280 126
auf dem Orinoko trên dòng Orinoco 252 283 127
auf der anderen Seite lấy tay kia 254 285 128
auf einer törichten ở một cuộc tụ họp ngớ 288 256 129
Versammlung
auf der Treppe ngẩn
ở cầu thang 291 259 130
131 auf der Rückfahrt von Berlin 267 trên dường từ Berlin về 300
auf der Karte lên bản đồ 300 268 132
auf der Weiterfahrt đường đi tiếp 302 269 133
134 auf einem alten Kupfertisch 273 trong một bức khắc đồng 306
auf ihr 274 trên lộ trình đó 307 135
auf freiem Feld 275 trên đất trống 309 136
auf der Weiterreise 276 trên đường đi tiếp 310 137
auf der Weiterfahrt 278 trên đường đi 312 138
auf dem Gipfel 278 trên đỉnh 312 139
auf gerader Linie 282 trên một đường thẳng 317 140
auf dem Rückweg 285 trên đường về 319 141
288 288 142 auf einer winzigen Inseln ở một hòn đảo bé xíu
291 326 auf den Prunkstiegen ở trên bục danh dự 143
auf dem Weg 298 trên đường 333 144
auf seinen Wangen 298 trên má mình 333 145
auf dem Gipfel 300 đến đỉnh núi 336 146
300 336 auf einem Felsbrocken lên một tảng đá 147
300 336 auf dem Stein trên đá 148
Anhang 3: Die dynamischen lokalen Präposition “in” in
“Die Vermessung der Welt”
Phụ lục 3: Giới từ địa điểm chuyển động “in – trong” trong “Đo thế giới”
Nr. Erscheinung im Korpus Seite Erscheinung im Korpus Seite
(Số (Trang) (Trang) auf Deutschen auf Vietnamesischen
TT) (Xuất hiện trong văn bản của (Xuất hiện trong văn bản
người Đức) của người Việt)
in die Kutsche lên xe ngựa 8 10 1
in der Deutschen Turnkunst Vietnamesischen
quyển nghệ thuật thể dục 9 12 2
in einen kränklichen Körper Đức
trong một cơ thể ốm o 10 12 3
in die Höhe (nâng) lên 12 15 4
in die gekrümmten Räume vào không gian cong 12 15 5
in tiefen Schlaf vào giấc ngủ sâu 13 15 6
in den Hof vào sân 14 7 17
in Positur vào vị trí 14 8 17
in die Tropen tới vùng nhiệt đới 19 9 21
in jedes Erdloch vào từng hang động 19 10 22
in einen Schrank vào trong tủ 21 11 23
in diese Gegend đến chốn này 22 12 25
in einen Glaskrug vào một bình thủy tinh 22 13 25
in die Luft lên không trung 28 14 32
in den Kopf lên đến tận đầu 32 15 37
in eine noch nie erforschte xuống một khoang trống 34 16 39
Kammer
ins Gesicht 34 17 40 chưa hề
vào mặt cậu
được thăm dò
in den Dreck xuống bùn 35 18 40
in die neue Welt reisen tới Tân thế giới 36 19 42
20 in unterschiedlichen Farben dọc theo những căn phòng 36 42
gestrichener Zimmer
in die Richtung der bunter 37 21 42
Zimmer
ins Gefängnis 39 22 45 quét
về phía những căn phòng
màu khác nhau
nhiều
đi tù
màu
in die Südsee xuống biển Nam 39 23 45
24 in einen dunklen Winkel des đến một góc tối trong căn 43 50
steinernen Saales
in die Tropen phòng
về vùng nhiệt đới 44 25 51
in sein Tagebuch lát đá
vào nhật ký 44 26 51
27 in den Schutz des Eingangs được cửa hang che chắn 46 53
in die Ferne về phía xa 47 54
28 in einen Molluskenschwamm vào giữa một đàn động vật 49 46
in ein dickes Logbuch nhuyễn thể
vào cuốn nhật ký hải trình 50 29 57
in Richtung dày
về hướng 51 30 59
in die Zeitung cộp
lên báo 51 31 59
ins Gesicht vào mặt 53 32 60
in der Spinnerei ở xưởng dệt 33 59 67
in den Deckenspiegeln từ gương lát trần phòng 34 61 69
35 in die Flammen 61 vào ngọn lửa 69
36 in die Rippen 62 vào mạng sườn 70
37 in die Stadt 63 đến thành phố 71
38 in die Tiefe 63 sâu xuống 72
39 in die Luft 64 lên không trung 72
40 in die Ferne 66 về phía xa xa 74
41 in die Sonne 66 về phía mặt trời 75
42 in den noch hellen Himmel lên vòm trời còn sáng sủa 66 75
in das Holzgestell eines vào khung gỗ của đống cỏ 43 67 76
Heustapels
in eine Lehmpfütze khô
vào một vũng bùn 44 67 76
45 in eine bestimmte Richtung theo hướng nhất định 68 77
46 in die Höhle 69 xuống hang động 78
47 in Brunnen 69 xuống giếng 78
48 ins Flußwasser 69 xuống sông 78
49 in die Strömung 69 trong dòng nước chảy 78
50 in die Ohren 70 xem tai 79
51 in Richtung 74 về hướng 84
52 in die Flammen 74 xuống lửa 84
53 in den Nacken 75 ngửa đầu 84
54 76 86 in die Mitte des Zimmer ra giữa phòng
55 ins Auge 77 trước mắt 87
56 in die Zeitung 78 lên báo 88
57 79 89 ins Innerste des Landes vào sâu trong đất liền
58 ins Morgenlicht 81 ra vầng sang ban mai 92
59 in den Mund 82 vào miệng 93
60 in das Zimmer 82 trở lại căn phòng 93
61 ins Bett 83 lên giường 94
ins Dorf về làng 84 96 62
in die Unterwelt xuống địa ngục 85 97 63
(den Kopf) in die Hände hai tay chống đầu 88 100 64
(stützen)
ins Auge (fassen) quan sát nghiêm ngặt 88 100 65
90 xuống đất 102 in den Boden 66
90 vào bụi lá han 102 in Brennesseln 67
90 vào bắp chân 102 in seine Wade 68
in ein kleines Zimmer vào một căn phòng 95 108 69
95 trong chăn len 108 in Wolldecken 70
99 vào tay 112 in die Hand 71
99 lên không 113 in die Luft 72
101 vào cổ áo 114 in seinen Kragen 73
in die Abendsonne về hướng mặt trời chiều 101 115 74
102 lên trời đêm 115 in die Dunkelheit 75
102 về hướng 115 in Richtung 76
103 vào mạng sườn 116 in die Seite 77
104 vào miệng 118 in den Mund 78
107 xuống nước 121 ins Wasser 79
107 trở lại thuyền 121 ins Boot 80
121 81 in seine Botanisiertrommel 107 vào hộp sưu tầm đầy cỏ
108 vào mặt anh 122 ins Gesicht 82
108 vào rừng rậm 123 ins Unterholz 83
110 vào chăn anh 124 in seine Decke 84
111 sang dòng Orinoko 126 in den Orinoko 85
111 xuống dưới da 126 in die Haut 86
112 vào buồm 127 ins Segel 87
116 vào rừng già 131 in den Urwald 88
116 tới trời xanh 132 in die Luft 89
117 vào siêu thực 133 ins Irreale 90
in Tücher vào vải 120 136 91
in die Handfläche vào lòng bàn tay 123 139 92
in den Rio Negro tới nhánh Rio Negro 127 143 93
in den Käfig vào cũi 128 144 94
in die Nase vào mũi 130 146 95
96 in einen Bananenblatttrichter 131 qua một cái phễu làm bằng 147
in die Schüsseln lá
vào bát 132 148 97
ins Maul chuối
vào mõm 132 149 98
in seine Erinnerungen vào kí ức của anh 136 153 99
in ihr altes Boot cái thuyền cũ của mình 139 156 100
ins Freie ra ngoài 140 157 101
102 in die Freiheit (schleudern) 147 (rơi) tự do 166
in den Nachthimmel lên bầu trời đêm 148 166 103
ins Mittelmaß xuống bậc tầm tầm 149 169 104
105 in ermüdend langen Tabellen 151 vào một cái bảng dài dằng 170
in seine Wohnung dặc
đến phòng khách của anh 173 154 106
in die Luft keine Übersetzung 158 107
in die kalten Höhen 165 (lên) hang động lạnh lẽo 186 108
ins Tal keine Übersetzung 166 109
ins Nichts vào hư vô 168 189 110
in Schals vào khăn 169 190 111
in die Tiefe xuống được đáy sâu 173 194 112
in die Lunge vào phổi 173 194 113
in die Tiefe (fallen) dốc xuống 176 197 114
in die Knie quỳ gối xuống 176 197 115
in den Schnee vào tuyết 178 199 116
in Richtung về phía 179 200 117
in eigene Gedanken trong suy tưởng 180 201 118
in einen Kuhfladen phải phân bò 181 203 119
120 in ein fürchterliches Loch vào một xó ghê tởm 183 206
in die falsche Richtung về phía ngược lại 184 207 121
ins Gesicht lên mặt 185 207 122
123 in einen Dornenstrauch vào bụi gai 186 208
in seine Tasse vào chén trà 187 210 124
in den Wald vào rừng 190 214 125
in die falsche Richtung (chỉ) nhầm đường 193 217 126
(schicken)
in Felslöcher vào các hang động 197 221 127
in die Mine xuống hầm mỏ 198 222 128
in den Förderkorb vào giỏ thang kéo 198 223 129
in das Gesicht khuôn mặt 201 226 130
in den Krater xuống miệng núi lửa 206 232 131
in die Stadt về thành phố 208 233 132
vỗ tay 133 in die Hände (klatschen) 208 234
in die Sonne vào mặt trời 209 234 134
in den Krater xuống miệng núi lửa 209 235 135
136 in den Himmel (schauen) nhìn trời 209 235
in die Navigation vào việc hoa tiêu 210 236 137
in die Hauptstadt vào kinh đô 211 237 138
in seine Tasse vào tách trà 219 247 139
ins Feld ở những nơi 220 249 140
in den Fuß (beißen) nắm tóc dúi đầu vào 222 251 141
in sein Gesicht vào mặt anh 227 255 142
143 in einen nach Schimmel 229 đến một căn hầm có mùi ẩm 257
mốc riechenden Kellerraum
in einen zweiten, tiefen 229 xuống tầng hầm thứ hai sâu 258 144
gelegenen Keller
in einen Winkel hơn
vào một góc 230 258 145
in den Raum vào phòng 231 259 146
in ihm (wird nicht übersetzt) 231 260 147
in die Knie khuỵu gối 232 260 148
149 in etwas vào chuyện này 234 263
150 in den Nachthimmel lên bầu trời đêm 235 265
151 in den Nacken (ngửa đầu) ra sau 238 268
152 ins Ohr (sagen) rỉ tai 240 270
153 in den dunklen Hof vào khoảng sân tối đen 249 280
154 in einen wollenen Hausrock 251 trong tấm váy ở nhà bằng 282
len
lên 155 in die Höhe 252 286
156 (Fußtritte) in den Arsch một phát đá đít 258 290
157 (seine Hand) ins Feuer (legen) 259 lấy tính mạng ra thề 291
158 in den Nachthimmel (sehen) 261 (ngắm) trời đêm 293
159 ins Charlottenburg 265 đến lâu đài Charlottenburg 297
160 ins Reich đến vương quốc 265 297
161 in die Höhlen vào các hang động 266 298
162 in Richtung về phía 270 303
163 ins Innere der Welt 272 thấu thị ruột gan thế giới 306
164 in ein Geschichtsbuch 275 vào một cuốn sử thi 309
165 in ein Goldseifenwerk 277 đến một mỏ có hàm lượng 311
166 in einen überschwemmten 277 vàng
vào một vỉa bị ngấp 311
167 Stollen
in seine Wolldecke thấp
tấm chăn len 278 312
168 in Segmente từng khoảnh 279 314
169 in die weiche Baumwolle tấm chăn bông 280 314
170 in den Nacken sau gáy 282 316
171 in Ameisenkolonen (như) đàn kiến 283 317
172 ins Innere vào đền 285 320
173 in den Tee vào trà 287 322
174 in die Kutsche lên xe ngựa 288 323
175 in die Luft vào không trung 288 323
176 ins Meer ra biển 288 323
177 in die entgegengesetzte về phía đuôi tàu 290 325
Richtung
in Ehrenbergs Ohr 290 vào tai 325 178
in seine Zelle 295 vào phòng giam của anh 330 179
ins Teufels Küche vào tình cảnh khốn khổ 295 330 180
in die Steuerkabine vào buồng lái 299 334 181
in die Kanine về phòng 299 225 182
in alle Richtungen ra mọi hướng 300 335 183
in die Luft (blasen) (thở) ra 300 336 184
in die Höhe lên trời 300 336 185
in seinen Schatten dưới bóng râm của cây 301 336 186
Anhang 4: Die statischen lokalen Präposition “in” in “Die Vermessung der Welt”
Phụ lục 4: Giới từ địa điểm tĩnh “in” trong “Đo thế giới”
Nr. Erscheinung im Korpus auf Seite Erscheinung im Seite
(Số (Trang) (Trang) Deutschen Korpus auf
TT) (Xuất hiện trong văn bản của Vietnamesischen
người Đức) (Xuất hiện trong văn bản
im Bett của người Việt)
trong chăn 7 9 1
in einer Gastwirtschaft trong một quán trọ 10 12 2 Vietnamesischen
in dem (einem Zertifikat) (chứng chỉ) với 11 13 3
in entferntesten Ländern ở mọi xứ sở xa xăm nhất 11 14 4
in seinen Taschen trong túi 12 15 5
in groben Zügen trong những nét cơ bản 12 15 6
in den Nebenstraße đến ngõ 14 17 7
im nassen Sand trong cát ướt 14 17 8
im Packhof Nummer 4 ở nhà số 4 14 17 9
in der Stadtmitte giữa 14 17 10
in Warnemünde ở Warnemünde 15 18 11
im Nebenzimmer ở phòng bên 16 19 12
13 in der ganzen Wohnung ầm nhà 16 19
14 in ganz Europa khắp châu Âu 19 21
15 in Neuspanien tới Nueva Espana 19 21
16 in einem entlegenen Zimmer ở một phòng 21 23
17 in seinem Essen trong đồ ăn của mình 21 24
18 im Schloß trong lâu đài 21 24
19 in leeren Gängen ngoài lối đi trống vắng 21 24
20 in denen (in Büchern) (sách nói) về 21 24
21 in der Unterwelt dưới địa ngục 21 24
22 in einer Alptraumfahrt 22 trong một chuyến du hành 25
ác mộng
23 in Henriettes Salon 22 phòng khách của Henriette 26
24 in der Seele trong tâm hồn 23 26
25 in der Seele tâm hồn 23 26
26 in dem leeren Zimmer trong căn phòng 26 29
27 im Kollegium ở phòng học 26 30
28 im nahen Braunschweig ở gần Braunschweig 28 32
29 in Mainz ở Mainz 28 32
30 in Freiberg Freiberg 29 33
31 in der Freiberger Kapelle ở nhà thờ Freiberg 29 33
32 in der tiefsten trong những hang tối sâu 30 35
33 thẳm nhất
trong hang Höhlendunkelheit
in der Höhle 30 35
34 trong đùi ếch in denen (Schenkeln) 31 36
35 in der Freiberger Mine trong hầm mỏ Freiberg 34 39
36 ở Weimar in Weimar 35 40
(là bạn ông) 37 in ihm (einen Freund finden) 36 42
38 ở Paris in Paris 37 43
39 trong ruột in ihrem Inneren 37 43
40 trên giường im Bett 38 44
41 in einem Thronsessel 39 trong cái ghế 45
42 in dieser oder der anderen Welt 41 ở thế giới bên này hay bên 47
in der Nähe der Hauptstadt kia
gần đến kinh đô 42 43 48
im Palast tại lâu đài 43 44 49
im weißen Mittagslicht dưới ánh sáng trắng lúc 43 45 50
in unwirklicher Symmetrie chính ngọ
trong sự đối xứng hư ảo 43 46 50
im Dunkel vào bóng tối 45 47 51
in der Ferne ở phía xa 45 48 52
im Fernrohr qua ống nhòm 45 49 52
im Hafen ở cảng 46 50 53
in einer Spange seines 46 vào đai áo choàng của anh 51 53
Gehrocks
in einer noch mit Schnee trong một hang còn ứ đầy 46 52 53
gefüllten
in sich (der Uhr) tuyết
trong mình 47 53 55
Höhle
im Licht einer abgedämpften 49 trong ánh đèn dầu vặn nhỏ 54 56
Öllampe
in den Atlanten trên bản đồ 49 55 56
im Dunst trong màn sương 50 56 58
im Boot trên chiếc xuồng 51 57 59
in seinem Gedächtnis trong trí nhớ 53 58 60
in den Büchern trong sách 54 59 62
in der Schule ở trường 55 60 62
in einem goldgeschmückten trong căn phòng trang trí 61 61 69
Raum
in Büchern đầy vàng
trong sách 61 62 69
in ganz Deutschland được cả nước Đức 62 63 70
in der Geometrie trong môn hình học 62 64 70
in Südamerika ở Nam Mỹ 63 65 71
in einem Korb trong một cái cũi đan 63 66 71
in einem der billigeren tại một quán trọ rẻ tiền 63 67 72
Gasthöfe
in Frankreich ở Pháp 64 68 72
in Braunschweig ở Braunschweig 72 64 69
in Hannover ở Hannover 72 64 70
in ihm (dem Ballon) trong đó 74 65 71
im Dunst trong sương 74 66 72
in der Pergamenthaut trên cái túi da dê 76 67 73
in Neuandalusien ở Nueva Andalcuia 78 69 74
in Trümmern thành đống hoang tàn 78 69 75
in ihren geflochten Haaren trong những bím tóc của 79 70 76
in ihren Mündern họ
vạch mồm 79 70 77
in der Mission ở trạm này 81 71 78
in der Höhle trong hang 81 72 79
in Freiberg ở Freiberg 83 73 80
in den Händen tay cầm 83 74 81
im Berg trong núi 84 74 82
in der (Klosterzelle) nơi 85 75 83
im Zimmer trong căn phòng 85 75 84
in der Hölle trạng thái khốn cùng của 86 76 85
im Inland anh
trong đất liền 87 77 86
im Urwald trong rừng nguyên sinh 87 77 87
in unterschiedlichen Höhen ở các độ cao khác nhau 88 77 88
im flackernden Licht trong ánh nến chập chờn 89 78 89
im Wind theo gió 90 79 90
in seinem Kopf trong đầu anh 93 82 91
in seinen Ohren trong tai 93 82 92
im chemischen Institut ở Viện Hóa 95 84 93
in seinem zerwühlten Bett 84 trên chiếc giường xộc xệch 95 94
in Göttingen ở Göttingen 98 86 95
im altem Accouchierhaus trong nhà hộ sinh cũ 98 86 96
in Neuandalusien ở Nueva Andalucia 87 99 97
im Fluß ngoài sông 87 99 98
in der Kapuzinerermission ở trạm truyền giáo 87 99 99
in Höhlen trong hang 87 99 100
in seiner Nähe ở gần anh 90 103 101
in Paris ở Paris 91 103 102
in einem Brief lá thư 93 105 103
in seiner Nähe ở cạnh anh 93 106 104
in der Kutsche trên xe ngựa 96 110 105
in Braunschweig đến Brauschweig 98 111 106
in seinen Ohren trong tai 99 112 107
in Caracas ở Caracas 101 114 108
in Händen trong tay 101 114 109
im Theater nhà hát 102 115 110
102 115 (Tränen) in den Augen mắt ngấn lệ 111
116 112 (die Feuchtigkeit) in der Luft 102 (độ ẩm) không khí
in ihrer Nähe cạnh đó 103 116 113
in der ganzen Welt cả thế giới 103 116 114
im Wasser trong nước 103 117 115
in der einen Hand bằng một tay 104 117 116
in der anderen Hand tay kia 104 117 117
im hohen Gras trong đám cỏ mọc cao 104 118 118
in der Stadt đến thành phố 105 119 119
im Mundwinkel nơi khóe miệng 105 119 120
121 in seinem Herbergszimmer 106 trong phòng trọ của mình 120
107 121 im Wasser trong nước 122
108 122 in der Mitte des Stromes giữa sông 123
108 122 im Tagebuch trong nhật ký 124
im Treppenhaus ở chân cầu thang 109 123 125
in Preußen ở nước Phổ 111 126 126
in der Ferne phía xa xa 111 123 127
in einer Essigwanne trong chậu giấm 111 126 128
im Tagebuch trong nhật ký 112 126 129
im Fluß trên sông 112 127 130
im Fluß trên sông 113 127 131
in der Ferne phía xa 113 127 132
in der Hölle xuống địa ngục 114 129 133
in denen (Lebensläufen) trong đó 114 129 134
in allen Kolonien ở tất cả các thuộc địa 114 129 135
im Palais Royal trong Cung Hoàng gia 114 130 136
im Fernrohr trong kính viễn vọng 115 131 137
138 im Fernrohr La Condamines 116 trong kính của La 131
im Wald Condamine
trong rừng 116 132 139
in Paris ở Paris 117 132 140
im Inland trên mặt đất 118 133 141
im Hof ngoài sân 118 133 142
im Wald trong rừng 119 135 143
119 135 in der Höhe trên độ cao này 144
145 in ihrem eigenen Korb aus 120 trong một cái giỏ đan bằng 135
121 136 Palmblättern
in der Mission lá cọ
đến trạm truyền giáo 146
121 136 in den Tüchern trong tấm vải 147
138 in der nächsten Mission 122 ở trạm truyền giáo tiếp 148
122 138 im Unterholz theo
vào bụi 149
123 138 in den Stoffballen trong gói vải 150
in einer dieser Hütte 123 trong một túp lều như thế 139 151
in den Qualmhütten 125 trong túp lều oi khói 141 152
im Dunkeln 126 trong bóng tối 142 153
in der Hütte 126 trong lều 142 154
in den Bäumen 128 trong các tán cây 144 155
in ihren Käfigen 127 trong cũi 143 156
in ihm 129 trong người 145 157
in der Luft 129 ngoài không khí 129 158
im Fluß 130 nước sông 146 159
im Urwald 133 trong rừng già 150 160
in der Hand 135 trong tay 152 161
im Norden 135 phía Bắc 152 162
in der Mitte 136 vào giữa dòng 153 163
in der Wildnis 137 ở xứ hoang dã 154 164
in Deutschland 137 ở Đức 155 165
in der Hauptstadt 138 ở kinh đô 155 166
in seinem Essen 138 trong thức ăn 155 167
in der Flußmitte 138 ở giữa sông 155 168
in der Ferne 139 đằng xa 157 169
in der Decke 140 trên trần 157 170
in den Käfigen 140 trong cũi 157 171
141 158 in den Stromschnellen trong dòng nước xiết 172
im Sturm 142 vào cơn bão 160 173
in Sankt Petersburg 146 Saint Petersbur 164 174
in der Nähe 146 gần 164 175
in der Leere 147 trong khoảng không 165 177
im Schlafzimmer 149 trong phòng ngủ 168 178
in Bremen 151 người Bremen 170 179
180 (den Kopf) in den Sternen 154 (đầu óc) toàn trăng với sao 174
179 in Händen 155 trên tay 174
in Göttingen 155 ở Göttingen 175 179
in der Nähe 157 gần đó 177 180
im Theater 157 vào nhà hát 177 181
im Hoftheater 157 trong nhà hát 177 182
in seiner Loge 158 trên lô 178 183
in Rom 158 ở Roma 178 184
im Innenministerium 158 tại Bộ nội vụ 178 185
in der Hand 160 trên tay 180 186
in der Universität đến trường đại học 160 180 187
im Flur 160 ở hành lang 180 188
in dem (Blick) 161 trong ánh mắt 181 189
im Gesicht 161 trên khuôn mặt 181 190
in Büchern 163 trong sách vở 183 191
in denen (Träumen) 163 trong đó 183 192
in Havanna 164 ở La Havana 184 193
164 184 in einem zweiten Schiff theo chiếc tàu thứ hai 194
in Alpträumen 164 trong những cơn ác mộng 185 195
in Havanna 165 ở La Havana 185 196
in Gesellschaft 166 trong phòng khách 186 197
in diesen Ländern 167 ở đất này 187 198
in Deutschland 167 ở Đức 187 199
in Weinar 167 ở Weinar 187 200
in der Erdkruste 167 vỏ trái đất 187 201
in Paris 167 ở Paris 188 202
in Havanna 169 keine Übersetzung 203
171 192 in einer Verwehung trong một đám tuyết 204
in den Adern 172 trong huyết quản 193 205
in seinen Händen 172 ở tay 193 206
im Regen trận mưa 172 207 193
in der Einsamkeit giữa sự cô quạnh 174 208 194
in der Schule gelernt ở trường 175 209 196
in fließendem Wasser trong nước 178 210 199
in seiner Hand trong tay 178 211 199
in ihrem Leben trong đời họ 179 212 201
in Sicherheit qua nguy hiểm 179 213 201
in ihm trong anh 182 214 201
in diesen Dingen những chuyện 182 215 202
(Briefe,) in denen bức thư 182 216 202
im Nacken gáy ông 182 217 205
218 in südwestlicher Richtung về hướng Tây 182 205
in der Ecke trong góc 185 219 207
in der Tür giữa khung cửa 185 220 207
in der Ecke trong góc 185 221 207
in einem Lehnstuhl trên chiếc ghế dựa 186 222 208
in der Schweiz qua Thụy Sĩ 186 223 208
in dem (Stuhl) trên đó 186 224 209
im Kopf trong đầu 186 225 209
in Deutschland ở Đức 188 226 211
in den Kordilleren 188 ở vùng núi Cordilleras 227 211
in der Eingangshalle vào tiền sảnh 190 228 213
in Ballons trên khinh khí cầu 191 229 214
in lehmigen Stiefeln trong đối ủng 191 230 215
in einem langen Brief qua một bức thư dài 192 231 215
in Neuspanien ở Nueva Espana 195 232 219
in zunehmender Höhe theo độ cao 197 233 221
im Berginneren trong lòng núi 197 234 221
im Haar trong tóc 198 223 235
in den Achselhöhlen dưới nách 198 223 236
in den Mündern trong mồm 198 223 237
im Anus trong hậu môn 198 223 238
im Schatten trong bóng 199 224 239
in keiner Metropole đến một kinh đô nào 200 224 240
241 in der spanischen Kolonie 200 tại thuộc địa của Tây Ban 225
in der Luft Nha
trong không khí 200 225 242
in Stein đá 200 225 243
in der Mitte ở giữa 201 226 244
in der Mitte ở giữa 201 226 245
in der Lehmhütte trong căn lều đất 201 226 246
im Mittelpunkt ở tâm 204 229 247
in einer davon trong một số báo 205 231 248
in einer anderen trong một tờ khác 205 231 249
im Land ở đây 206 232 250
in Acapulco ở Acapulco 206 232 251
in Händen trong tay 207 233 252
in der Ferne đằng xa 208 234 253
in Veracruz ở Veracruz 209 235 254
im Dunst vào màn sương 209 235 255
in Havanna rời Havanna 209 235 256
in Erinnerung còn ghi nhớ 210 236 257
in der Kapitänskajüte 210 trong phòng thuyền trường 236 258
in Philadelphia ở Philadelphia 210 236 259
im neu gebauten trong dinh thự 211 237 260
Regierungssitz
im Wind trong gió 212 238 261
212 238 in dunklen Gehröcken trong áo đuôi tôm 262
263 im elliptisch geformten 213 trong phòng bầu dục của 239
264 Arbeitszimmer des Präsidenten
im Land 214 tổng thống
trên mặt đất 240
in Berlin ở Berlin 214 241 265
in Warnemünde ở Warnemünde 216 243 266
216 ở Paris 243 267 in Paris
217 ở Ai Cập 244 268 in Ägypten
217 ở Nam Phi 244 269 in Südamerika
270 in einer stickigen Kammer 217 trong một căn phòng ngột 244
217 ngạt
ở nhà dưới 244 271 im Nebenhaus
219 trong nước mình 246 272 in seinem Land
219 ở châu Mỹ Latinh 246 273 in Lateinamerika
219 sụp đổ 247 274 in Trümmern
275 in Gomez´ El Baron Humboldt 219 trong cuốn Nam Tước 247
221 Humboldt của Gomez
lõng bõng như bát canh 250 276 in Ölsauce
221 sơn dầu
biến thành ngụ ngôn dối 250 277 in Lügenmärchen
222 trá
quyền tự do 250 278 in der Freiheit
223 của Châu Âu 251 279 in Europa
280 in der fünften 223 ở vị trí thứ năm sau dấu 251
224 phảy
trong lòng đất 252 281 Nachkommastelle
im Erdinneren
224 trời ạ 252 282 (Herr) im Himmel
224 theo lũy tiến 252 283 in einer Potenzreihe
225 ở Paraguay 253 285 in Paraguay
225 về Paris 253 286 in Paris
227 255 287 in seinem Wirtshaus trong một quán ăn
229 trong chiến đấu 257 288 im Kampf
229 trên nền nhà 258 289 im Boden
229 trong góc 257 290 in den Ecken
230 ở Freyburg 258 291 in Freyburg
292 in einem Gedichtband 230 cuốn thơ hay 258
293 in der Deutschen Turnkunst 230 Nghệ thuật thể dục Đức 258
294 in der Gastwirtschaft 230 trong quán ăn 259
295 in welscher Verzärtelung 232 trong vòng tay âu yếm dịu 260
im Daumenlutschschlaf dàng của ngoại quốc
trong giấc mê 232 260 296
im Kotter 234 vào cũi 262 297
in der Faust 234 trong nắm tay 263 298
im ganzen Saal 235 cả phòng 264 299
im schwarzen Äther trong tinh không 236 266 300
in ihren Paddelbooten 237 chèo thuyền 266 301
im stillen Meer 237 trong biển lặng 266 302
237 in den Erdhöhlungen trong các hang đất 267 303
im Meer 237 dưới biển 267 304
im Ausland 239 ở nước ngoài 268 305
in Berlin 239 ở Berlin 269 306
in Berlin 239 ở Berlin 269 307
in Göttingen 239 ở Göttingen 269 308
in der Hauptstadt 243 ở kinh đô 273 309
in der Großstadt 245 ở thành phố lớn 275 310
in dieser Kloake 246 trong cái núi rác rưởi này 276 311
3122 in den meisten Städten 246 hầu hết các thàh phố 276
313 in allen deutschen Staaten 246 các lãnh địa Đức cộng lại 276
314 in Waben 246 trong các bọng ong 276
3155 im großen Lehnsessel 246 trong chiêc ghế bành lớn 276
316 in der Ferne 247 ở phương xa 278
317 in Löchern, Vulkanen oder 247 trong hang lỗ, núi lửa hay 278
318 Bergwerken
in der Obhut der Gendarmen 250 hầm mỏ
ở chỗ cảnh sát 281
319 in der Singakademie 251 ở Viện âm nhạc 282
im Polizeigefängnis 252 trong trại giam của cảnh 284 320
in der Stirn 254 sát
trên trán 285 321
(nie) im Leben 254 không bao giờ 285 322
in der Hölle 255 trong địa ngục 286 323
in der Höhle 255 trong hang đá 287 324
in Tirol 257 ở Tyrol 289 325
in Asien 261 đến châu Á 293 326
(halb) im Schlaf 263 nửa tỉnh nửa mê 295 327
in der Akademie 264 ở Viện hàn lâm 297 328
im Leben 265 trong đời 300 329
im Lehm 268 xuống bùn 301 340
in Bremen 269 ở Bremen 301 341
in Petersburg ở Saint Petersburg 269 302 342
in einem der Stein 269 trong một viên hổ phách 302 343
in einem anderen trong một viên khác 270 203 344
im Gedächtnis 270 trí nhớ 303 345
in Wien 271 ở Viên 304 346
in deutlicher Erinnerung 271 nhớ rõ 304 347
in einer Verstärkerspule 272 trong một cuộc khuếch đại 305 348
im Herzen 272 trong tim 306 349
in Rußland 273 Nga 306 350
in Moskau 274 ở Matxcơva 307 351
in der Umgebung 274 ở quanh 308 352
im Räderknirschen und 275 trong tiếng bánh xe cán 308 353
Klappern
in der Stadt 275 đường và tiếng vó ngựa gõ
vào thành phố 309 354
der Hufe
in Perm 276 ở Perm 310 355
im Bett (bleiben) 277 nằm bẹp 311 356
in einer Ecke 277 trong góc 311 357
in der Ebene giữa đồng bằng 278 312 358
im Eisenwerk đến xưởng sắt 278 312 359
im Zwischenreich giữa 280 314 360
in der Stadtmitte ở trung tâm thành phố 381 315 361
in der Realität trong thực tại 383 317 362
in so vielen Kutschen 283 trong bao nhiêu xe ngựa 317 363
364 in Gouvernement Tobolsk ở tỉnh Tobolsk 283 318
in Ischim tại Ischim 283 318 365
in einiger Entfernung gần đó 284 318 366
in der Leere der Landes ngoài thảo nguyên 284 319 367
in dieser Gegend ở vùng này 287 322 368
in zwölf Kutschen trên mười hai xe ngựa 287 322 369
in Orenburg ở Orenburg 287 322 370
in seinem Schlafzimmer 288 trong phòng ngủ của mình 323 371
in diesem Leben trong kiếp này 289 324 372
in welcher Richtung ở phía nào 289 324 373
in Landschaften 289 trong những phong cảnh 325 374
in Moskau 290 ở Matxcơva 325 375
im blauen Frack 290 trong bộ áo đuôi tôm màu 325 376
in Ruhe (lassen) lam
(để) yên 290 326 377
in gereizter Stimmung bồn chồn 290 326 378
im Traum trong mơ 290 326 379
in einer Schnellkutsche trên chuyến xe 290 326 380
in Petersburg ở Saint Petersburg 291 327 381
in seinen Ohren trong tai ông 292 327 382
in der Ferne đằng xa 292 328 383
in seiner Kutsche trên xe ngựa của mình 292 328 384
in einem einzigen Buch 293 trong một cuốn sách duy 328 385
nhất
386 im Gehrock 295 trong bộ áo đuôi tôm 330
387 in einem sauber bezogenen Bett 295f trên một chiếc giường trải 331
388 im Kopf 297 sạch sẽ
trong óc 332
389 im Gedächtnis (behalten) 297 ghi nhớ 332
390 in einer anderen Gastwirtschaft 297 trong một quán ăn khác 332
in allen Gliedern 391 297 ở cả tứ chi 332
in seinem Gasthof 392 298 ở nhà trọ 333
in Teneriffa 393 300 bến Teneriffa 335
in der Nähe 394 301 gần 336
395 302 337 im Abenddunst trong sương chiều
Anhang 5: Deutsche und vietnamesische dynamische lokale Präpositionen
Phụ lục 5: Giới từ địa điểm chỉ phương hướng chuyển động tiếng Đức và tiếng Việt
Nr. Deutsche dynamische lokale Vietnamesische
(Số Präpositionen dynamische lokale Präpositionen
(Giới từ địa điểm chỉ phương (Giới từ địa điểm chỉ phươnghướng TT)
hướng chuyển động tiếng Đức) chuyển động tiếng Việt)
1 ab khỏi/ từ
2 an trên, bên cạnh
3 auf lên
4 aus khỏi/ từ
5 bis đến/ tới/ lại
6 durch qua/ sang
7 gegen đến
8 hinter sau
9 in vào
10 nach đến/ tới/ lại
11 neben bên cạnh
12 über qua/ sang/ về/ theo
13 überall suốt/khắp
14 unter xuống/ dưới
15 von khỏi/ từ
16 vor trước
17 zu đến/ tới/ lại
18 zwischen ở giữa
Anhang 6: Deutsche und vietnamesische statische lokale Präpositionen
Phụ lục 6: Giới từ địa điểm tĩnh tiếng Đức và tiếng Việt
Deutsche statische lokale Vietnamesische statische
Präpositionen lokale Präpositionen Nr.
(Số
TT)
(Giới từ địa điểm tĩnh tiếng Đức)
an (Giới từ địa điểm tĩnh tiếng Việt)
bên/ cạnh/ bên cạnh/ gần 1
2 auf trên
3 außerhalb ngoài
4 bei ở/ tại
5 bei xa
6 gegenüber trên
7 hinter sau
in 8 trong
9 innerhalb trong
10 neben bên/ cạnh/ bên cạnh/ gần
11 oberhalb trên
12 über trên
13 um quanh/ chung quanh
14 unter dưới
15 unterhalb dưới
16 vor trước
17 zwischen giữa