-1-

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trải qua nhiều năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng Nhân dân

cách mạng (NDCM) Lào khởi xƣớng và lãnh đạo đất nƣớc; nhất là từ năm

1986 đến nay đã có những thành tựu nổi bật, nhƣ: Quốc phòng, an ninh đƣợc

giữ vững; kinh tế-xã hội (KT-XH) liên tục phát triển; đời sống nhân dân đã

đƣợc cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị đƣợc củng cố; quan hệ đối ngoại đã

đƣợc mở rộng, vai trò, uy tín của nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân

(CHDCND) Lào ngày càng đƣợc nâng cao trên trƣờng quốc tế.

Đạt đƣợc những thành tựu trên đây có phần đóng góp quan trọng của

ngân sách nhà nƣớc (NSNN) - công cụ tài chính quan trọng của Nhà nƣớc.

Chi NSNN ở CHDCND Lào trung bình hàng năm tăng ở mức độ đáng kể.

Tốc độ tăng chi NSNN ở CHDCND Lào cao nhƣ vậy đã tạo ra cơ hội để đổi

mới cơ cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển KT-XH, tham gia hội nhập

kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, thực tiễn điều hành NSNN ở CHDCND Lào trong thời gian

qua còn có nhiều bất cập, nhƣ: Cơ cấu chi NSNN chƣa góp phần phân bổ

nguồn lực tài chính công hiệu quả hơn giữa các loại hình chi; Giữa các ngành,

các lĩnh vực; chƣa đảm bảo phân bổ công bằng và hƣớng về ngƣời nghèo

nhiều hơn. Mặt khác, do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ảnh

hƣởng đến việc thực hiện cơ cấu chi NSNN, mà hậu quả là phải cắt giảm một

số khoản chi, dẫn đến không đạt mục tiêu phát triển KT-XH đã đề ra. Nhận

thức đƣợc điều đó, trong quá trình phát triển đất nƣớc để thực hiện đƣợc các

mục tiêu và giải quyết vấn đề đặt ra, Nhà nƣớc phải có chủ trƣơng, chính

sách, giải pháp tích cực để từng bƣớc nâng cao chất lƣợng điều hành chi

NSNN, trong đó có giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN.

Để góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách đã nêu trên, tác giả đã

mạnh dạn chọn đề tài: “Đổi mới cơ cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển

KT-XH ở CHDCND Lào” để nghiên cứu và làm luận án tiến sĩ kinh tế.

-2-

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Trong thời gian qua, đã có nhiều tiếp cận nghiên cứu về lý luận và thực

tiễn có liên quan đến chi và quản lý chi NSNN. Sản phẩm của mỗi cách tiếp

cận đó có thể là các luận văn ở trình độ Thạc sĩ; có thể là các luận án ở trình

độ Tiến sĩ; hoặc cũng có thể là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học, hay

các bài báo thuộc các cấp khác nhau quản lý;…Tuy nhiên, với các mục đích

nghiên cứu khác nhau thì kết quả kỳ vọng đối với sản phẩm nghiên cứu khác

nhau. Nên tác giả của mỗi công trình đó cũng đã biết giới hạn lại phạm vi

nghiên cứu cho phù hợp. Có thể khái quát nội dung của các công trình trên

qua một số nét sau:

2.1. Các nghiên cứu trong nƣớc

Cùng với quá trình đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế, đổi mới quản lý

NSNN ở CHDCND Lào cũng đã đƣợc Đảng NDCM và Chính phủ CHDCND

Lào đặc biệt quan tâm. Chính yếu tố này đã thúc đẩy các nhà quản lý, các nhà

nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế nói chung và tài chính công nói riêng đầu tƣ

công sức để nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho tiến trình đổi

mới cơ chế quản lý NSNN ở CHDCND Lào trong những năm vừa qua.

Thực tế cho thấy có khá nhiều các bài báo đƣợc đăng tải trên tạp chí

của ngành Tài chính Lào xuất bản hàng tháng cũng có đề cập đến từng khía

cạnh riêng, nhỏ lẻ có liên quan đến xu hƣớng đổi mới quản lý NSNN, nhƣ:

Khamkeo Chanthavong với bài “Đổi mới phân cấp quản lý ngân sách địa

phương ở tỉnh Luangnamtha” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 4/2010;

Khamtanh Phommaseng với bài “Tăng cường quản lý chi ngân sách Thành

phố Viêng chăn” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 2/2009; Sisouphan với bài

“Đổi mới cách thức phân bổ kinh phí NSNN cho giáo dục phổ thông ở

CHDCND Lào” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 5/2011;.v.v… Điểm chung

nhất của các bài báo là chủ yếu đề xuất những ý kiến mang tính tác nghiệp

-3-

gắn liền với vị trí mà các tác giả đang phải thực thi trách nhiệm trong quản lý

NSNN ở một ngành, hay ở một địa phƣơng cụ thể. Do vậy, những thông tin từ

quản lý NSNN trên một giác độ nào đó của thực tiễn ở mỗi địa phƣơng hay

mỗi ngành đã đƣợc trình bày có giá trị tham khảo cho các nhà hoạch định

chính sách về quản lý NSNN ở Bộ Tài chính CHDCND Lào, hay các quan

chức trong bộ máy Chính phủ có trách nhiệm trong quản lý kinh tế của đất

nƣớc. Mặt khác, đây cũng là diễn đàn thể hiện tính dân chủ trong luận bàn,

đánh giá và tham vấn chính sách về quản lý NSNN một cách rộng rãi, thể

hiện quan điểm phát huy dân chủ của Chính phủ trong quản lý kinh tế nói

chung và NSNN nói riêng. Tuy nhiên, hàm lƣợng nghiên cứu mang tính lý

luận và những đòi hỏi trình bày phải có tính lôgic cho các đề xuất, kiến nghị

hoặc các luận giải về hiện tƣợng đã và đang diễn ra trong thực tiễn thì còn rất

thiếu hoặc rất nông cạn.

Gần đây đã có những công trình mang tầm lý luận và có tính khoa học

cao hơn xuất hiện trong lĩnh vực nghiên cứu về NSNN ở CHDCND Lào, nhƣ:

Luận văn Thạc sĩ kinh tế về đề tài: “Giải pháp tăng cường quản lý chi

NSNN tại nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay” của học viên

Phonexay Phongsavanh năm 2010. Tác giả của bản luận văn này đã đạt đƣợc

những thành công sau:

Đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận xoay quanh các khâu của chu

trình quản lý chi NSNN;

Đã thực hiện đánh giá thực trạng quản lý chi NSNN ở CHDCND Lào

giai đoạn 2001-2009 và chỉ ra các ƣu, nhƣợc điểm trong quản lý chi theo từng

khâu của chu trình đó;

Đã đề xuất đƣợc hệ thống giải pháp (gồm 06 nhóm giải pháp) nhằm

tăng cƣờng quản lý chi NSNN ở CHDCND Lào cho các năm 2010 trở đi.

-4-

Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bản luận văn ở trình độ Thạc sĩ

nên nội dung cũng chủ yếu tập trung vào đánh giá những hoạt động quản lý

chi NSNN trên giác độ tuân thủ pháp luật của quản lý NSNN hiện hành, hầu

nhƣ chƣa biết gắn giữa quản lý chi NSNN với trách nhiệm của các cơ quan

công quyền trong việc dùng tiền của NSNN vào việc thực hiện các nhiệm vụ

xây dựng phát triển KT-XH mà chính các cơ quan đó phải làm. Cũng chính từ

việc không biết ràng buộc giữa sử dụng tiền với nhiệm vụ các cơ quan công

quyền phải làm nên cái mà luận văn gọi là các giải pháp cũng mới chỉ dừng

lại nhƣ là các khuyến nghị mang tính chất định tính đáp ứng tăng cƣờng quản

lý chi NSNN cho thời gian đã qua.

Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Phân cấp quản lý NSNN ở

CHDCND Lào - Thực trạng và giải pháp” do NCS Pangthong Luangvanxay

hoàn thành đầu năm 2011, lại chọn cách tiếp cận thúc đẩy đổi mới quản lý

NSNN ở CHDCND Lào theo hƣớng gắn kết với đổi mới về thể chế.

Những thành công nổi bật của luận án là:

Đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phân cấp quản lý NSNN và

thống nhất nhận thức: Phân cấp quản lý NSNN nhất thiết phải gắn liền và bị

các yêu cầu của phân cấp quản lý về KT-XH chi phối;

Đã phân tích và làm sáng tỏ đƣợc mô hình phân cấp quản lý NSNN ở

CHDCND Lào từ năm 1986-2009 qua 4 giai đoạn gắn liền với những thay đổi

về cơ chế phân cấp quản lý về KT-XH qua mỗi giai đoạn đó;

Trên cơ sở đánh giá thực trạng của phân cấp quản lý NSNN qua 4 giai

đoạn nêu trên, kết hợp với chủ trƣơng, đƣờng lối về phân cấp quản lý KT-XH

những năm tới, luận án đã đề xuất 06 nhóm giải pháp nhằm tăng cƣờng phân

cấp quản lý NSNN ở CHDCND Lào những năm 2010-2015.

Mặc dù những thành công của luận án là không thể phủ nhận, nhƣng

những thành công đó cũng mới chỉ đƣợc nhìn nhận trên giác độ phân cấp về

-5-

quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi gắn với cơ quan công quyền các cấp ở

CHDCND Lào trong thời gian đã qua. Tác giả của bản luận án vẫn chƣa làm

rõ đƣợc trách nhiệm của chính các cơ quan công quyền các cấp đó trong việc

sử dụng công cụ ngân sách để thúc đẩy sự phát triển KT-XH trên mỗi địa bàn

mà mình đã đƣợc phân cấp quản lý. Hay nói cách khác, những quan hệ kinh tế

và lợi ích, chƣa đƣợc làm sáng tỏ cả về cơ sở lý luận cũng nhƣ thực tiễn quản

lý thông qua cơ chế phân cấp quản lý NSNN ở CHDCND Lào thời gian qua.

Thay vào đó là những mô tả nặng về diễn biến tình hình thu, chi NSNN qua

các giai đoạn nghiên cứu để rồi rút ra các nhận xét đánh giá nặng về cảm tính.

Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài:“Giải pháp thực hiện cân đối NSNN ở

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2011-2015” do NCS Phanxay

Thammasith hoàn thành cuối năm 2011, lại có cách tiếp cận nghiên cứu về

NSNN ở CHDCND Lào trên giác độ cân đối.

Những thành công đáng ghi nhận của bản luận án này là:

Đã trình bày có hệ thống những vấn đề lý luận về cân đối NSNN trên

các giác độ cân đối giữa thu, chi bằng tiền, và cân đối ở tầm vĩ mô theo cơ

cấu ngành kinh tế;

Đã phân tích thực trạng cân đối thu, chi NSNN và khả năng gây ra các

tác động của nó tới sự phát triển của nền kinh tế ở CHDCND Lào những năm

1999-2010;

Đã đề xuất hệ thống các giải pháp gồm 03 nhóm theo cách tiếp cận từ

hoàn thiện chính sách quản lý thu, chi đến hoàn thiên về nguyên tắc và

phƣơng pháp cân đối, và hoàn thiện về tổ chức các biện pháp mang tình

nghiệp vụ để cân đối thu, chi NSNN giai đoạn 2011-2015.

Do quá quan tâm đến các số liệu về cân đối thu, chi nên mối quan hệ

ràng buộc tất yếu giữa cân đối thu, chi NSNN với các cân đối lớn trong nền

kinh tế lại chƣa đƣợc tác giả của bản luận án này khai thác và làm cho sáng

-6-

tỏ. Chính vì vậy, ngƣời ta vẫn thấy thiếu vắng những trách nhiệm của các cơ

quan công quyền trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giải quyết các mối quan

hệ cân đối lớn trong nền kinh tế thông qua cân đối thu, chi NSNN này.

2.2. Các nghiên cứu ngoài nƣớc co liên quan đến đề tài

Là đất nƣớc láng giềng có nghĩa tình sâu đậm, có nhiều nét tƣơng đồng

với CHDCND Lào, CHXHCN Việt Nam cũng đã và đang nỗ lực thực hiện

cải cách quản lý NSNN-cốt lõi của quản lý tài chính công, từ năm 2001 đến

nay. Chính vì vậy, những công trình khoa học liên quan đến đổi mới quản lý

NSNN ở CHXHCN Việt Nam rất nhiều. Trong đó, sát thực với tên đề tài luận

án mà NCS đang thực hiện nghiên cứu tại Lào, thì ở CHXHCN Việt Nam đã

có những công trình lớn sau:

2.2.1. Các luận án Tiến sĩ kinh tế

(1) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Đổi mới cơ cấu chi NSNN trong

điều kiện hiện nay ở Việt Nam” do NCS Nguyễn Khắc Đức hoàn thành năm

2002. Những thành công đáng ghi nhận của luận án này, bao gồm:

Đã đƣa ra những vấn đề lý luận về NSNN và cơ cấu chi NSNN, trong

đó nhấn mạnh về nội dung, đặc điểm của cơ cấu chi NSNN, các nhân tố ảnh

hƣởng đến cơ cấu chi, một số mô hình cơ cấu chi NSNN;

Đã sử dụng hệ thống số liệu để phân tích cơ cấu chi NSNN ở CHXHCN

Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng thời kỳ 1989-

2000 gắn với hai giai đoạn: giai đoạn 1989-1995, trƣớc khi có Luật NSNN năm

1996 và giai đoạn 1996-2000, sau khi có Luật NSNN năm 1996;

Căn cứ trên các nhận xét về thực trạng cơ cấu chi NSNN ở CHXHCN

Việt Nam tác giả đƣa ra các quan điểm về đổi mới cơ cấu chi NSNN trong

điều kiện phát triển nền kinh tế thị trƣờng và làm chỗ dựa cho đề xuất hệ

thống giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN ở CHXHCN Việt Nam giai đoạn

2001-2010 theo 03 nhóm giải pháp lớn.

-7-

Những giới hạn của luận án:

Luận án đƣợc hoàn thành từ năm 2002, nên hệ thống số liệu, hệ thống

giải pháp đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp trong tiến trình đổi mới

không ngừng về quản lý chi NSNN ở CHXHCN Việt Nam những năm qua;

Đề tài tác giả viết về đổi mới cơ cấu chi NSNN nhƣng không gắn với

một mục tiêu cụ thể nào đó trong phát triển KT-XH, nên không có tác động

và mối quan hệ của đổi mới cơ cấu chi NSNN với sự thay đổi của nền kinh tế

trên các lĩnh vực, khía cạnh phát triển khác nhau.

(2) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Đổi mới cơ cấu chi NSNN góp

phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” do NCS Bùi

Đƣờng Nghiêu hoàn thành năm 2003.

Những thành công của luận án:

Đã làm rõ các vấn đề lý luận về NSNN, vai trò của NSNN trong nền

kinh tế thị trƣờng, các vấn đề cơ bản về cơ cấu chi NSNN trong đó tác giả đƣa

ra cơ sở xác định cơ cấu định tính và cơ cấu định lƣợng của chi NSNN và

phân tích các yếu tố ảnh hƣởng đến các cơ cấu đó;

Đã phân tích vai trò của NSNN nói chung và chi tiêu NSNN nói riêng

đối với việc thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa (CNH-HĐH) ở

CHXHCN Việt Nam;

Đã phân tích thực trạng chi NSNN từ đó có những nhận xét, đánh giá

về cơ cấu chi NSNN tác động tới tiến trình thực hiện CNH-HĐH cả trên góc

độ định tính và định lƣợng;

Đã sƣu tầm đƣợc các kinh nghiệm của thế giới về tổ chức hệ thống

NSNN trong giai đoạn 1991-2000 và rút ra những bài học cho CHXHCN Việt

Nam khi sử dụng chi NSNN nhƣ là một trong những công cụ quan trọng để

tiến hành CNH-HĐH đất nƣớc;

Hệ thống giải pháp mà tác giả đề xuất đƣợc tập trung vào các nội dung:

Tổ chức lại ngân sách thành ngân sách chung và ngân sách đặc biệt; cơ cấu lại

-8-

bảng cân đối ngân sách làm nổi bật thặng dƣ ngân sách, tạo nguồn tài lực và

động lực cho phát triển kinh tế,…đã có những khả năng gây ra tác động tích

cực tới tiến trình CNH-HĐH nền kinh tế ở CHXHCN Việt Nam những năm

2004-2010.

Những giới hạn của luận án:

Đề tài tác giả viết về đổi mới cơ cấu chi NSNN gắn với một mục tiêu

của tăng trƣởng và phát triển kinh tế là CNH-HĐH đất nƣớc. Do đó, các vấn

đề khác của tăng trƣởng ngoài phạm vi CNH-HĐH chƣa đƣợc tác giả nghiên

cứu và đề cập trong luận án;

Mặt khác, theo thời gian các luận cứ; đặc biệt là các đề xuất, khuyến

nghị của luận án cũng đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với hoàn cảnh

KT-XH của những năm hậu khủng hoảng toàn cầu này.

(3) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Đổi mới quản lý chi NSNN trong

điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” do NCS Nguyễn Thị Minh hoàn

thành năm 2008.

Những thành công của luận án:

Đã khái quát hóa và thống nhất nhận thức về chi và quản lý chi NSNN;

Đã làm sáng tỏ đƣợc tính tất yếu phải đổi mới quản lý chi NSNN ở

CHXHCN Việt Nam trong những năm mà tác giả luận án tiến hành nghiên cứu;

Đã phân tích đƣợc thực trạng quản lý chi NSNN ở CHXHCN Việt Nam

kể từ khi thành lập nƣớc CHXHCN Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945

đến 2006 có gắn liền với những đánh giá theo các phƣơng thức chi. Trên cơ

sở đó chỉ ra những bất cập của quản lý chi NSNN theo phƣơng thức truyền

thống mà CHXHCN Việt Nam vẫn đang áp dụng;

Hệ thống các giải pháp đổi mới quản lý chi NSNN trong điều kiện kinh

tế thị trƣờng ở CHXHCN Việt Nam do tác giả xây dựng dựa trên 05 nhóm

giải pháp chủ yếu đã có tính khả thi trong bối cảnh ở CHXHCN Việt Nam

những năm 2008-2010.

-9-

Những giới hạn của luận án:

Với mục đích nghiên cứu khá rộng, nên tác giả của bản luận án trên

ngoài việc trình bày các nghiên cứu của mình trên diện rộng bao phủ toàn bộ

các khâu của chu trình quản lý chi NSNN; đồng thời có dành ƣu tiên nhiều

hơn cho các đề xuất đổi mới quản lý chi NSNN theo hƣớng đổi mới các

phƣơng thức quản lý chi, nhƣ: đổi mới phƣơng thức lập và phân bổ ngân

sách; đổi mới phƣơng thức từ truyền thống theo “đầu vào” sang “đầu ra”;…

Chính vì vậy, vấn đề đổi mới cơ cấu chi NSNN hầu nhƣ chƣa đƣợc đề cập.

(4) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Hoàn thiện quản lý chi NSNN

nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” do

NCS Trần Văn Lâm hoàn thành năm 2010.

Những thành công của luận án:

Đã khái quát hóa nhận thức về phát triển KT-XH; đặc biệt nhấn mạnh

đến yêu cầu phát triển bền vững trong điều kiện hiện nay;

Đã luận giải đƣợc những vấn đề lý luận về quản lý chi NSNN trong

mối quan hệ với phát triển KT-XH, coi đó là nền tảng lý luận cho phân tích

đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp về quản lý chi NSNN;

Đã phân tích khá thấu đáo tình hình quản lý chi ngân sách tỉnh

Quảng Ninh gắn với các yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh này những

năm 2001-2007;

Với 03 nhóm giải pháp lớn đƣợc sắp xếp theo thứ tự lựa chọn thứ tự ƣu

tiên, đến chú trọng hiệu quả, công bằng trong chi ngân sách tỉnh Quảng Ninh

những năm 2010-2015 đã làm cho khả năng sử dụng ngân sách tỉnh thúc đẩy

phát triển KT-XH có tính khả thi cao.

Những hạn chế:

Luận án chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong 1 tỉnh và chủ yếu gắn

với nguồn ngân sách cấp tỉnh nên giá trị tham khảo trên quy mô quốc gia bị

-10-

hạn chế. Đặc biệt, gắn với hoàn cảnh tỉnh Quảng Ninh- một địa phƣơng đƣợc

thiên nhiên ƣu đãi khá nhiều các điều kiện thuận lợi, thì việc sử dụng chi ngân

sách rất dễ gây ra những hiệu ứng tích cực cho tiến trình phát triển hơn các

địa phƣơng khác.

2.2.2. Khảo cứu có liên quan

Một công trình nghiên cứu khá công phu của TS Phạm Thế Anh-Trung

tâm nghiên cứu và chính sách-Trƣờng Đại học kinh tế-Đại học quốc gia Hà

Nội năm 2008 với tiêu đề “ Chi tiêu Chính phủ và tăng trƣởng kinh tế; Khảo

sát lý luận tổng quan”, đã có những đánh giá khá sâu sắc về tƣơng quan giữa

2 lĩnh vực này. Cụ thể nhƣ:

Bài viết của tác giả đƣợc thực hiện dƣới hình thức phân tích, đánh giá

về lý thuyết mối quan hệ chi tiêu Chính phủ và tăng trƣởng kinh tế dựa trên

nghiên cứu các mô hình đã có của các tác giả trên thế giới. Các mô hình lý

thuyết về chi tiêu Chính phủ có tác động đến tăng trƣởng nhƣ mô hình kinh tế

của Robert Barro năm 1990, Devarajan, Swaroop, và Zou năm 1996, Davoodi

và Zou năm 1998. Bên cạnh việc đánh giá nhận định các mô hình nói trên tác

giả đƣa ra các nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả ví dụ nhƣ: Tƣ bản nhân

lực (Mankiw, Romer và Weil năm 1992), tích luỹ bí quyết công nghệ

(Nonnerman và Van năm 1996), Grier và Tullock năm 1989, Barro năm 1989

và năm 1991, Hansson và Henrekson năm 1994,...

Bên cạnh những thành công đáng kể, kết quả khảo cứu trên cũng bộc lộ

những hạn chế, nhƣ: Chƣa hệ thống đƣợc các lý luận về tác động của thay đổi

chi tiêu NSNN tới tăng trƣởng kinh tế. Tác giả có sử dụng hệ thống số liệu cho

mô hình thực nghiệm nhƣng những kết luận sau khi có kết quả mô hình chƣa

phản ánh rõ những biến động của chi NSNN tác động tới tăng trƣởng kinh tế.

Từ kết quả khảo sát các công trình có liên quan đến quản lý chi NSNN

ở các trong nƣớc và ngoài nƣớc, tác giả của luận án về đề tài: “ Đổi mới cơ

-11-

cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội ở CHDCND Lào ”, có

thể khẳng định rằng:

Cho tới nay ở CHDCND Lào chƣa có công trình nghiên cứu chuyên biệt

nào trùng hợp với tên đề tài mà tác giả đã lựa chọn. Mặt khác, kết quả kỳ vọng

mà đề tài luận án của NCS hƣớng tới là phân tích và làm sáng tỏ đƣợc quan hệ

tƣơng tác giữa cơ cấu chi NSNN gắn với các mục tiêu phát triển KT-XH ở

CHDCND Lào qua các giai đoạn; trên cơ sở đó chỉ rõ trách nhiệm của các cơ

quan công quyền khi sử dụng NSNN nhƣ là một trong những công cụ quan

trọng phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, đã mang lại những

kết quả đích thực nào? Xu hƣớng đổi mới tất yếu trong việc ràng buộc giữa cơ

cấu chi NSNN với cơ cấu phát triển KT-XH mà Chính phủ đã lựa chọn.

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

- Nghiên cứu những cơ sở lý luận về phát triển KT-XH và cơ cấu chi

NSNN nhằm thúc đẩy phát triển KT-XH.

- Phân tích đánh giá tác động của cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào

tới phát triển KT-XH giai đoạn 2001-2012.

- Đề xuất giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là cơ cấu chi NSNN và tác động của

nó tới sự phát triển KT-XH ở CHDCND Lào.

Phạm vi nghiên cứu của luận án là thực trạng cơ cấu chi NSNN ở

CHDCND Lào và tác động của cơ cấu chi đó tới sự phát triển KT-XH giai

đoạn 2001-2012. Qua đó đề xuất giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN nhằm

thúc đẩy phát triển KT-XH ở CHDCND Lào giai đoạn 2015-2020. Tuy nhiên,

do tác động của cơ cấu chi NSNN tới sự phát triển KT-XH rất rộng, nên phạm

vi nghiên cứu của đề tài cũng chỉ tập trung làm rõ các tác động đó trên 3 tiêu

chí lớn nhƣ: (i) Những thay đổi về cơ sở vật chất kỹ thuật; (ii) Những thay đổi

-12-

về cơ cấu kinh tế ; (iii) Những thay đổi về đói, nghèo và cải thiện công bằng

xã hội.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng kết hợp các phƣơng pháp: Duy vật biện chứng; duy

vật lịch sử; điều tra, thống kê; phân tích kinh tế các phƣơng pháp khác.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Ý nghĩa khoa học: Luận án hệ thống hoá, phân tích và bổ sung nhận

thức về ý nghĩa, vai trò của chi NSNN đặc biệt là cơ cấu chi NSNN nhằm

thúc đẩy phát triển KT-XH. Từ đó giúp cho nghiên cứu đề xuất các giải pháp

đổi mới cơ cấu chi NSNN phù hợp với điều kiện kinh tế thị trƣờng.

Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng cơ cấu

chi NSNN ở CHDCND Lào, luận án đƣa ra những giải pháp đổi mới cơ cấu

chi NSNN ở CHDCND Lào trong thời gian tới, làm cho chi NSNN trở thành

công cụ hữu hiệu của Nhà nƣớc trong công cuộc điều hành nền KT-XH theo

xu hƣớng thế giới thời kỳ hội nhập.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần bìa phụ, lời cam đoan, mục lục, danh mục các chữ viết tắt,

danh mục các bảng, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và

nhận xét của cán bộ hƣớng dẫn. Luận án đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:

Chƣơng 1 : CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VỚI PHÁT

TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI.

Chƣơng 2 : TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ

NƢỚC TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND LÀO GIAI

ĐOẠN 2001-2012.

Chƣơng 3 : GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ

NƢỚC ĐỂ THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND

LÀO GIAI ĐOẠN 2015-2020.

-13-

Chƣơng 1

CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC

VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI

1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÁT TIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI

1.1.1. Nhận thức chung về phát triển kinh tế

Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mỗi quốc gia đều lựa chọn những

con đƣờng phát triển riêng, phù hợp với điều kiện của mỗi nƣớc. Nhìn một

cách tổng thể, có thể hệ thống sự lựa chọn đó theo ba con đƣờng nhƣ: Thúc

đẩy tăng trƣởng nhanh; coi trọng vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và mô

hình phát triển toàn diện.

Các nƣớc phát triển theo khuynh hƣớng tƣ bản chủ nghĩa trƣớc đây

thƣờng lựa chọn con đƣờng thúc đẩy tăng trƣởng nhanh. Theo cách lựa chọn

này, Chính phủ đã tập trung chủ yếu vào các chính sách đẩy nhanh tốc độ

tăng trƣởng kinh tế mà bỏ qua vấn đề xã hội. Các vấn đề bình đẳng, công

bằng xã hội và nâng cao chất lƣợng cuộc sống dân cƣ chỉ đƣợc đặt ra khi tăng

trƣởng thu nhập đã đạt đƣợc một trình độ khá cao. Thực tế cho thấy nhiều

quốc gia thực hiện theo mô hình này đã làm cho nền kinh tế rất nhanh khởi

sắc, tốc độ tăng trƣởng bình quân hàng năm rất cao. Hiện nay, mọi quốc gia

đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế là quá trình tăng

tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế đƣợc xem nhƣ là quá trình

biến đổi cả về lƣợng và về chất; là một sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn

thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Theo cách hiểu phát

triển kinh tế cả về lƣợng và chất, thì phát triển kinh tế bao gồm: Tăng trƣởng

kinh tế và cải biến cơ cấu kinh tế.

1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế

Tăng trƣởng kinh tế là sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế

và mức gia tăng thu nhập bình quân trên đầu ngƣời. Đây là tiêu thức thể hiện

-14-

quá trình biến đổi về lƣợng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao

mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện những mục tiêu khác của

phát triển.

Theo mô hình kinh tế thị trƣờng, thƣớc đo tăng trƣởng kinh tế đƣợc xác

định theo các chỉ tiêu thuộc hệ thống tài khoản quốc gia nhƣ sau:

a. Tổng giá trị sản xuất (GO - Gross output) là tổng giá trị sản phẩm

vật chất và dịch vụ đƣợc tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong

một thời kỳ nhất định (thƣờng là một năm).

b. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross domestic product) là tổng giá

trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên

phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kỳ nhất định.

c. Tổng thu nhập quốc dân (GNI-Gross national income) là chỉ tiêu

xuất hiện trong bảng Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) năm 1993 thay cho

chỉ tiêu GNP sử dụng trong bảng SNA năm 1968. Về nội dung thì GNI và

GNP là nhƣ nhau, tuy vậy khi sử dụng GNI là muốn nói theo cách tiếp cận từ

thu nhập chứ không phải nói theo góc độ sản phẩm sản xuất nhƣ GNP.

d. Thu nhập quốc dân (NI-National income) là phần giá trị sản phẩm

vật chất và dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định. NI

chính là tổng thu nhập quốc dân (GNI) sau khi đã loại trừ đi khấu hao vốn cố

định của nền kinh tế (DP).

NI=GNI-Dp

e. Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI-National disposable income) là

phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần

trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này đƣợc hình thành sau khi thực hiện

phân phối thu nhập lần thứ hai, thực chất đó là thu nhập quốc dân (NI) sau khi

đã điều chỉnh các khoản thu, chi về chuyển nhƣợng hiện hành giữa các đơn vị

thƣờng trú và không thƣờng trú.

-15-

f. Thu nhập bình quân đầu người là có ý nghĩa phản ánh thu nhập, chỉ

tiêu GDP và GNI còn đƣợc sử dụng để đánh giá mức thu nhập bình quân trên

đầu ngƣời của mỗi quốc gia (GDP/ngƣời, GNI/ngƣời). Chỉ tiêu này phản ánh

tăng trƣởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số.

1.1.1.2. Cải biến cơ cấu kinh tế

Cải biến cơ cấu kinh tế là quá trình làm thay đổi tỷ trọng giá trị sản

lƣợng của các ngành trong tổng giá trị sản lƣợng của cả nền kinh tế theo định

hƣớng của nhà nƣớc. Tùy theo điều kiện KT-XH cụ thể mà Chính phủ của

mỗi quốc gia sẽ xác định mục tiêu và lộ trình cải biến cơ cấu kinh tế của quốc

gia đó cho phù hợp. Trong hoàn cảnh hiện nay, mục tiêu cải biến cơ cấu kinh

tế của quốc gia ngoài việc phải cân nhắc dựa trên những điều kiện của chính

quốc gia đó; còn phải cân nhắc đến các điều kiện KT-XH cụ thể của các nƣớc

khác trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, cải biến cơ cấu kinh tế

đƣợc coi là tiêu thức phản ánh sự biến đổi kinh tế về chất của một quốc gia.

Để phân biệt các giai đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển

kinh tế giữa các nƣớc với nhau, ngƣời ta thƣờng dựa vào dấu hiệu và dạng cơ

cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt đƣợc.

Cơ cấu kinh tế đƣợc hiểu là tƣơng quan giữa các bộ phận trong tổng thể

kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất

lƣợng giữa các bộ phận với nhau. Các mối quan hệ này đƣợc hình thành trong

những điều kiện KT-XH nhất định, luôn luôn vận động và hƣớng vào những

mục tiêu cụ thể. Nếu các thƣớc đo tăng trƣởng phản ánh sự thay đổi về lƣợng

thì xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế là thể hiện mặt chất kinh tế trong quá

trình phát triển.

Đánh giá sự phát triển kinh tế cần xem xét một cách toàn diện các góc

độ của cơ cấu kinh tế theo các tiêu chí chủ yếu sau:

-16-

a. Cơ cấu ngành kinh tế

Về lý thuyết, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện cả mặt định lƣợng và định

tính. Mặt định lƣợng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm trong GDP, lao

động, vốn của mỗi ngành trong tổng thể kinh tế quốc dân. Ví dụ: Giá trị sản

lƣợng ngành công nghiệp chiếm X% trong GDP. Giá trị sản lƣợng ngành

nông nghiệp chiếm Y% trong GDP,…mặt định tính thể hiện vị trí và tầm

quan trọng của mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân. Các nƣớc đang

phát triển có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp,

tỷ trọng nông nghiệp của các nƣớc này thƣờng chiếm từ 20-30% trong GDP.

Trong khi đó, ở các nƣớc phát triển, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp chỉ

chiếm từ 1-7% trong GDP. Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế

của mỗi quốc gia đều có sự chuyển đổi theo một xu hƣớng chung là tỷ trọng

nông nghiệp có xu hƣớng giảm đi, trong khi đó tỷ trọng của các ngành công

nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên.

b.Cơ cấu kinh tế theo mức độ đô thị hóa-Thành thị và nông thôn

Sự phát triển kinh tế còn đƣợc thể hiện ở cơ cấu kinh tế theo mức độ đô

thị hóa-Thành thị và nông thôn. Đây là tiêu chí phản ánh rõ nét nhất, sinh

động nhất trình độ phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung, của từng địa

phƣơng nói riêng. Xu hƣớng chung, ở các nƣớc trình độ phát triển thấp thì

mức độ đô thị hóa thấp và ngƣợc lại. Ở các nƣớc đang phát triển, kinh tế nông

thôn thƣờng chiếm tỷ trọng cao.

Chỉ tiêu định lƣợng để phản ánh cơ cấu kinh tế theo mức độ đô thị hóa

thƣờng đƣợc dùng là tỷ lệ dân số nông thôn so với tổng dân số ở cùng một

thời điểm nào đó. Nơi nào tỷ lệ dân số nông thôn cao thì bị coi là kinh tế nông

thôn vẫn đang chiếm ƣu thế về cơ cấu. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới

(WB), vào cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, 45 nƣớc có mức thu nhập thấp, tỷ

trọng dân số nông thôn chiếm 72%, còn 63 nƣớc có mức thu nhập tiếp theo,

-17-

con số này là 65%. Trong khi đó, các nƣớc phát triển có hiện tƣợng đối ngƣợc

lại, 80% dân số sống ở khu vực thành thị.

Một xu hƣớng khá phổ biến của các nƣớc đang phát triển là luôn có

một dòng di dân từ nông thôn ra thành thị. Đó là kết quả của cả “lực đẩy” từ

khu vực nông thôn bởi sự nghèo khổ cũng nhƣ sự thiếu thốn đất đai ngày

càng nhiều và cả “lực hút” từ sự hấp dẫn của khu vực thành thị. Dòng di dân

ngày càng lớn đã tạo ra áp lực rất mạnh đối với chính phủ các nƣớc đang phát

triển. Mặt khác, việc thực hiện các chính sách công nghiệp hóa nông thôn, đô

thị hóa, phát triển hệ thống công nghiệp, dịch vụ nông thôn làm cho tỷ trọng

kinh tế thành thị ở các nƣớc đang phát triển ngày càng tăng lên, tốc độ tăng

dân số thành thị cao hơn so với tốc độ tăng trƣởng dân số chung và đó chính

là xu thế hợp lý trong quá trình phát triển.

c. Cơ cấu thành phần kinh tế

Đây là dạng cơ cấu phản ánh tính chất xã hội hóa về tƣ liệu sản xuất và

tài sản của nền kinh tế. Xét về nguồn gốc thì có 2 loại hình sở hữu là sở hữu

công cộng và sở hữu tƣ nhân. Nhìn chung các nƣớc phát triển và xu hƣớng ở

các nƣớc đang phát triển, khu vực kinh tế tƣ nhân thƣờng chiếm tỷ trọng cao

và nền kinh tế phát triển theo con đƣờng tƣ nhân hóa. Hiện nay đang tồn tại 6

thành phần kinh tế là: Thành phần kinh tế nhà nƣớc, thành phần kinh tế tập

thể, thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, thành phần kinh tế tƣ bản tƣ nhân,

thành phần kinh tế tƣ bản nhà nƣớc và thành phần kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc

ngoài. Các thành phần kinh tế nói trên không có sự phân biệt về thái độ đối

xử, đều có môi trƣờng và điều kiện phát triển nhƣ nhau, trong đó kinh tế Nhà

nƣớc đóng vai trò chủ đạo.

d. Cơ cấu khu vực thể chế

Theo dạng cơ cấu này, nền kinh tế đƣợc phân chia dựa trên cơ sở vai

trò các bộ phận cấu thành trong sản xuất kinh doanh và qua đó đánh giá đƣợc

-18-

vị trí của mỗi khu vực trong vòng luân chuyển của nền kinh tế và mối quan hệ

giữa chúng trong quá trình phát triển kinh tế. Các đơn vị thể chế thƣờng trú

trong nền kinh tế đƣợc chia thành 5 khu vực: Khu vực chính phủ bao gồm tất

cả các hoạt động đƣợc thực hiện bằng NSNN, khu vực tài chính, khu vực phi

tài chính, khu vực hộ gia đình và khu vực vô vị lợi phục vụ hộ gia đình bao

gồm các tổ chức hoạt động với mục đích từ thiện, phi lợi nhuận. Mục tiêu của

khu vực chính phủ là bảo đảm các hoạt động công cộng, tạo điều kiện bình

đẳng cho các khu vực thể chế và thực hiện công bằng xã hội. Các đơn vị

thuộc khu vực phi tài chính thực hiện chức năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ

bán trên thị trƣờng và với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trên thị trƣờng hàng

hóa và dịch vụ. Khu vực tài chính cũng thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi

nhuận nhƣng ở trên thị trƣờng tài chính. Các hộ gia đình hoạt động theo mục

tiêu khác với các khu vực trên, chức năng và hành vi của họ là tiêu dùng, tuy

vậy họ cũng có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất dƣới hình thức cung

cấp sức lao động cho các doanh nghiệp hoặc tự sản xuất dƣới dạng các đơn vị

sản xuất cá thể. Các tổ chức vị lợi phục vụ hộ gia đình với nguồn tài chính

quyên góp tự nguyện nhƣ các tổ chức từ thiện, cứu trợ, các tổ chức giúp đỡ

ngƣời tàn tật,…theo đuổi mục tiêu phục vụ không vì lợi nhuận, cung cấp hàng

hóa và dịch vụ thẳng cho các hộ gia đình không lấy tiền hoặc lấy với giá

không có ý nghĩa kinh tế.

e. Cơ cấu tái sản xuất

Đây là cơ cấu kinh tế hiểu theo góc độ phân chia tổng thu nhập của nền

kinh tế theo tích lũy và tiêu dùng. Phần thu nhập dành cho tích lũy tăng lên và

chiếm tỷ trọng cao là điều kiện cung cấp vốn lớn cho quá trình tái sản xuất

mở rộng của nền kinh tế. Tỷ trọng thu nhập dành cho tích lũy ngày càng cao

chính là xu thế phù hợp trong quá trình phát triển. Tuy vậy, việc gia tăng tỷ

trọng thu nhập dành cho tích lũy tái đầu tƣ phải có tác dụng dẫn đến gia tăng

-19-

mức thu nhập dành cho tiêu dùng cuối cùng trong tƣơng lai thì mới đƣợc đánh

giá cao.

f. Cơ cấu thương mại quốc tế

Nhìn chung tất cả các nƣớc giàu hay nghèo đều tham gia một cách đáng

kể vào thƣơng mại quốc tế. Tuy vậy, hoạt động ngoại thƣơng là dấu hiệu đánh

giá sự phát triển của mỗi nƣớc. Các nƣớc đang phát triển thƣờng xuất khẩu

những sản phẩm thô nhƣ: Nguyên liệu, nông sản, thực phẩm hay những sản

phẩm thuộc các ngành dệt may, công nghiệp nhẹ còn các nƣớc phát triển

thƣờng thì xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm chế biến, các hàng hóa vốn hay

những hàng hóa lâu bền. Cơ sở lý giải cho xu hƣớng này chính là lý thuyết về

lợi thế so sánh. Theo đó, các nƣớc đó có lợi thế tƣơng đối về chi phí sản xuất

chủ yếu là sản phẩm thô với giá trị thấp thì lại phải nhập khẩu một khối lƣợng

lớn các hàng hóa là nguyên liệu đầu vào, hàng hóa vốn cũng nhƣ số hàng hóa

tiêu dùng cuối cùng. Kết quả là các nƣớc này luôn phải chấp nhận tình trạng

thâm hụt thƣơng mại quốc tế. Theo xu thế phát triển của mỗi nƣớc, nền kinh

tế có xu hƣớng mở ngày càng đa dạng, mức độ thâm hụt thƣơng mại quốc tế

ngày càng giảm đi theo xu thế giảm dần tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa thô,

hàng hóa có dung lƣợng lao động cao và tăng dần các hàng hóa có giá trị kinh

tế lớn.

Ngoài các dạng trên, cơ cấu kinh tế của đất nƣớc còn đƣợc hiểu theo

những góc độ khác nhƣ: Cơ cấu theo tính chất xã hôi, cơ cấu theo tính chất kỹ

thuật, theo quy mô sản xuất,…mỗi dạng đều phản ánh những khía cạnh và

tính chất của quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc gia.

1.1.2. Nhận thức chung về phát triển xã hội

Phát triển xã hội của các quốc gia là sự đi lên, sự tiến bộ của xã hội một

cách toàn diện, bao gồm sự tổng hợp của các nhân tố: Tăng trƣởng kinh tế

cao, thu nhập quốc dân tính trên đầu ngƣời tăng liên tục, mức sống của đại đa

-20-

số dân cƣ đƣợc cải thiện, các giá trị tinh thần đƣợc đề cao, việc xóa bỏ nghèo

đói, suy dinh dƣỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận các

dịch vụ y tế, nƣớc sạch trình độ dân trí giáo dục của quảng đại quần chúng

nhân dân,…

Theo mô hình kinh tế thị trƣờng, thƣớc đo phát triển xã hội đƣợc xác

định theo các chỉ tiêu thuộc hệ thống tài khoản quốc gia nhƣ sau:

1.1.2.1. Chỉ tiêu phản ánh nhu cầu cơ bản của con người

Việc đáp ứng nhu cầu về phát triển con ngƣời là mục tiêu cơ bản nhất

của quá trình phát triển. Đó bao gồm các nhu cầu xã hội cơ bản và những nhu

cầu xã hội chất lƣợng cao trên các lĩnh vực chủ yếu nhƣ: Nhu cầu mức sống

vật chất, nhu cầu giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe, nhu cầu việc làm. Các

chỉ tiêu cụ thể của từng lĩnh vực bao gồm:

Thứ nhất, các chỉ tiêu phản ánh mức sống: Nhu cầu mức sống vật chất

thể hiện ở nhu cầu hấp thụ calori tối thiểu bình quân trên một ngày của con

ngƣời (ví dụ: từ 2.100-2.300 calori) đảm bảo khả năng sống và làm việc bình

thƣờng, có xét tới cơ cấu nam, nữ, trọng lƣợng cơ thể cũng nhƣ điều kiện khí

hậu, môi trƣờng.

Thứ hai, nhóm chỉ tiêu phản ánh giáo dục và trình độ dân trí: Liên

Hiệp Quốc (LHQ) đã đƣa ra những chỉ tiêu đánh giá về trình độ dân trí và

giáo dục nhƣ: Tỷ lệ ngƣời lớn biết chữ (tính cho những ngƣời từ 15 tuổi trở

lên) có phân theo giới tính, khu vực; tỷ lệ nhập học các cấp tiểu học, trung

học cơ sở, phổ thông trung học; số năm đi học trung bình (tính cho những

ngƣời từ 7 tuổi trở lên); tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục so với tổng chi ngân

sách hoặc so với mức GDP. Kinh tế càng phát triển thì các chỉ tiêu trên ngày

càng tăng lên.

Thứ ba, nhóm chỉ tiêu về tuổi thọ bình quân và chăm sóc sức khỏe bao

gồm: Tuổi thọ bình quân tính từ thời điểm mới sinh; tỷ lệ trẻ em chết yểu có

thể tính cho những trẻ em chết trong vòng 1 năm hoặc trong thời gian 5 năm;

-21-

tỷ lệ trẻ em suy dinh dƣỡng theo các tiêu chuẩn chiều cao, cân nặng; tỷ lệ các

bà mẹ tử vong vì lý do sinh sản đƣợc tính bằng số bà mẹ chết trong thời gian

mang thai hoặc sau khi sinh so với 1.000 trẻ em sinh ra còn sống; tỷ lệ trẻ em

đƣợc tiêm phòng dịch, tỷ lệ chi ngân sách cho y tế.

Thứ tư, nhóm chỉ tiêu về dân số việc làm bao gồm: Tốc độ tăng trƣởng

dân số tự nhiên, tỷ lệ thất nghiệp thành thị, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở

khu vực nông thôn.

Các chỉ tiêu nói trên chỉ phản ánh từng lĩnh vực khác nhau của phát

triển xã hội. Để đánh giá tổng hợp và xếp loại trình độ phát triển KT-XH

chung giữa các quốc gia hay giữa các địa phƣơng, năm 1990 Liên Hiệp Quốc

đƣa ra một chỉ tiêu tổng hợp có tên gọi là Chỉ số phát triển con người - HDI

(Human development index). HDI chứa đựng 3 yếu tố cơ bản: Tuổi thọ bình

quân đƣợc phản ánh bằng số năm sống; trình độ giáo dục đƣợc đo bằng cách

kết hợp tỷ lệ ngƣời lớn biết chữ và tỷ lệ đi học đúng độ tuổi; mức thu nhập

bình quân trên đầu ngƣời tính theo sức mua tƣơng đƣơng. HDI đƣợc tính theo

phƣơng pháp chỉ số và nhận giá trị lớn nhất bằng 1, nhỏ nhất là 0. Quốc gia

nào có HDI càng gần 1 thì đƣợc đánh giá là càng phát triển cao. Chỉ số phát

triển con ngƣời tính chung cho cả quốc gia nhƣng cũng cần thiết phải tính cho

một nhóm quan trọng nhƣ: giới tính, thu nhập, địa phƣơng. Việc tính toán và

phân tích HDI chi tiết nhằm chỉ ra sự chênh lệch về việc bảo đảm các vấn đề

xã hội giữa các vùng, giới tính, giữa thành thị, nông thôn, giữa các dân tộc,

trên cơ sở đó có chính sách ƣu tiên đầu tƣ, chi tiêu công cộng hay viện trợ cho

các vùng và các nhóm có HDI thấp.

1.1.2.2. Chỉ tiêu nghèo đói và bất bình đẳng

Ngoài chỉ tiêu phát triển con ngƣời, một vấn đề quan trọng nằm trong

tiêu thức đánh giá sự phát triển xã hội là các chỉ tiêu liên quan đến nghèo đói

và bất bình đẳng. Đây là vấn đề phụ thuộc, một mặt vào tổng khả năng thu

-22-

nhập của nền kinh tế; mặt khác vào chính sách phân phối và phân phối lại

nhằm điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cƣ trong xã hội theo hƣớng bảo

vệ ngƣời nghèo, giúp đỡ ngƣời nghèo cũng nhƣ giải quyết vấn đề công bằng

xã hội.

Các chỉ tiêu thƣờng sử dụng trong đánh giá nghèo đói và bất bình đẳng

kinh tế bao gồm: Tỷ lệ hộ nghèo trong xã hội, sự phân chia theo từng vùng,

giới tính, dân tộc khác nhau và theo các tiêu chuẩn quy định hiện hành quốc tế

hoặc quốc gia; chỉ tiêu hệ số giãn cách thu nhập xác định mức chênh lệch thu

nhập giữa bộ phận dân cƣ giàu và nghèo trong xã hội (ví dụ nhƣ: chênh lệch

thu nhập của 20% dân số có thu nhập cao nhất với thu nhập của 20% dân số

có thu nhập thấp nhất); tiêu chuẩn “40” do Ngân hàng thế giới (WB) đề xuất

năm 2002 xác định tỷ lệ thu nhập chiếm trong tổng thu nhập dân cƣ của 40%

dân số có mức thu nhập thấp nhất trong xã hội.

Ngoài việc đánh giá nghèo đói và bất bình đẳng về kinh tế, vấn đề bất

bình đẳng về xã hội hiện nay đƣợc các nƣớc và mọi tổ chức quốc tế đặc biệt

quan tâm. Những tiêu thức và chỉ tiêu chủ yếu trong lĩnh vực này là: Mức độ

phân biệt đối xử đối với phụ nữ và vấn đề bạo lực trong gia đình; mức độ thực

hiện dân chủ cộng đồng thể hiện ở vị thế của cộng đồng dân cƣ trong việc

tham gia vào quá trình ra quyết định về những vấn đề có liên quan trực tiếp

đến cuộc sống của họ; tính minh bạch của hệ thống tài chính ở các cấp địa

phƣơng; mức độ trong sạch quốc gia thể hiện thực trạng tham nhũng và

những hiện tƣợng tiêu cực của tầng lớp quan chức chính phủ; chỉ số phát triển

giới (GDI) và quyền lực theo giới tính (GEM), đây là hai chỉ tiêu đƣợc đƣa ra

trong báo cáo phát triển con ngƣời từ năm 1997 khi đề cập đến tình trạng của

phụ nữ.

-23-

1.1.3. Mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội -

Vấn đề phát triển bền vững

Cách đây hơn một nửa thế kỷ, khi thế giới bƣớc ra khỏi thế chiến thứ

hai, vấn đề phát triển có một nội dung thuần túy kinh tế. Các chƣơng trình mở

mang quốc gia, các chính sách và kế hoạch KT-XH chỉ quan tâm tới các vấn

đề đầu tƣ, sản xuất, công nghiệp hóa, tự túc lƣơng thực, hiện đại hóa nông

nghiệp, sản xuất thay thế nhập khẩu, sản xuất nhằm thị trƣờng nƣớc ngoài,…

lúc bây giờ phát triển kinh tế đồng nghĩa với tăng trƣởng kinh tế, không có sự

phân biệt, cân nhắc hoặc so sánh giữa chất và lƣợng trong công cuộc mở

mang quốc gia. Riêng đối với các nƣớc chậm tiến có nền kinh tế lạc hậu thì

đƣợc xem nhƣ chỉ có nhu cầu gia tăng sản xuất, xúc tiến các chƣơng trình

nhằm các mục tiêu vừa kể. Kinh tế thế giới lúc bây giờ tiến lên trong khuôn

khổ các chính sách và kế hoạch dựa trên lý luận kinh tế máy móc, một chiều,

hẹp hòi và phiến diện.

Vào đầu thập niên những năm 1970, sau một thời kỳ trong đó các nƣớc

trên thế giới thi đua công nghiệp hóa, khai thác tài nguyên, tìm kiếm thị

trƣờng, Câu lạc bộ La Mã đã phát hành và phổ biến một tài liệu mang tựa là

“Giới hạn của tăng trƣởng”. Tài liệu này vì đề nghị một hƣớng đi mới cho sự

phát triển và có những nhận thức chính đáng, những nhận định xác thực về tổ

chức kinh tế, đời sống xã hội nên đã ảnh hƣởng làm thế giới cảnh tỉnh trên

vấn đề liên quan tới môi trƣờng, môi sinh. Tài liệu viết rằng sự tăng trƣởng

kinh tế và dân số quá nhanh cùng với tình trạng thi đua sản xuất không giới

hạn và khai thác vô ý thức các tài nguyên làm ô nhiễm môi trƣờng, môi sinh

và làm cạn kiệt dự trữ tài nguyên thiên nhiên trên thế giới. Câu lạc bộ La Mã

đề nghị chính sách “không tăng trƣởng” với lý do tăng trƣởng kinh tế đối

nghịch với bảo vệ môi trƣờng, môi sinh.

-24-

Chủ trƣơng “không tăng trƣởng” không thuyết phục đƣợc thế giới. Các

nƣớc nghèo và chậm tiến cũng nhƣ các quốc gia có nền kinh tế giàu có đều

chống đối quan điểm của Câu lạc bộ La Mã, tuy với những lý do hoàn toàn

khác nhau. Ngoài ra, đứng về phƣơng diện nhận thức kinh tế thì đã có những

tiến bộ quan trọng mà đáng ghi nhất là sự phân biệt giữa tăng trƣởng kinh tế

với phát triển kinh tế. Tăng trƣởng kinh tế là sự nhận thức một chiều và phiến

diện về hoạt động và sản xuất kinh tế. Nó chú trọng tới số lƣợng sản xuất,

phƣơng diện vật chất của hoạt động kinh tế. Trái lại, phát triển kinh tế là một

khái niệm xuất hiện vào khoảng giữa thập niên những năm 1960 từ một nhận

thức mở rộng về kinh tế, không còn tính cách máy móc, eo hẹp. Theo khái

niệm mới này “thêm” không đồng nghĩa với “hơn”. Do đó tăng trƣởng kinh

tế, sản xuất “thêm” không chắc chắn chỉ có lợi và thuần túy tích cực mà có thể

ảnh hƣởng không tốt làm môi trƣờng, môi sinh tiêu hao hoặc hƣ hại. Ngƣợc

lại, phát triển kinh tế là một nhận thức toàn diện bao gồm các khía cạnh tinh

thần và vật chất, kinh tế và xã hội, chất và lƣợng. Phát triển kinh tế gợi ý phải

có đổi thay và tiến bộ không ngừng, về chất và lƣợng, để KT-XH ngày một

“hơn” một cách toàn diện, cân đối, thống nhất. Nhƣ vậy nếu tăng trƣởng kinh

tế nghịch với yêu cầu bảo vệ môi trƣờng, môi sinh thì phát triển kinh tế lại có

khả năng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, di sản sinh thái, môi trƣờng, môi

sinh. Phát triển kinh tế giữ đƣợc vai trò phát huy quan hệ hỗ tƣơng giữa hoạt

động KT-XH với môi trƣờng, môi sinh để loài ngƣời có cuộc sống thực sự

tiến bộ, có an sinh và phúc lợi, có môi trƣờng, môi sinh không ô nhiễm, có hệ

sinh thái cân bằng xung quanh.

Một năm sau Câu lạc bộ La Mã công bố phúc trình “Ngừng tăng

trƣởng”/“Giới hạn của tăng trƣởng”, tổ chức Liên Hiệp Quốc triệu tập năm

1972 tại Stockholm Hội nghị Liên Hiệp Quốc về môi trƣờng. Hội nghị đã

diễn ra trong bầu không khí tranh cãi sôi nổi. Hội nghị đã đề nghị một khái

-25-

niệm mới là “Phát triển tôn trọng môi sinh” với chủ trƣơng bảo vệ môi

trƣờng, tôn trọng môi sinh, quản lý hữu hiệu tài nguyên thiên nhiên, thực hiện

công bằng và ổn định xã hội. Khái niệm “Phát triển tôn trọng môi sinh” bị các

nƣớc đã phát triển và giàu có chống đối mạnh mẽ. Cuối cùng hội nghị chỉ

thảo luận vấn đề ô nhiễm và chấm dứt với sự tán đồng quan điểm có mối liên

hệ và ảnh hƣởng hỗ tƣơng giữa nếp sống của loài ngƣời với môi trƣờng, môi

sinh giữa phát triển KT-XH với bảo tồn tài nguyên và ổn định thiên nhiên.

Ngoài ra, các nƣớc cũng thỏa thuận và cam kết hành động để bảo vệ môi

trƣờng, môi sinh và thành lập những cơ quan quốc tế và quốc gia có nhiệm vụ

bảo vệ môi trƣờng, môi sinh. Mặc dù, đề nghị “Phát triển tôn trọng môi sinh”

không đƣợc chấp thuận, nó đánh dấu một bƣớc tiến quan trọng hƣớng tới sự

khai sinh khái niệm “Phát triển bền vững”.

Vào đầu thập niên những năm 1980, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên

Quốc tế (UICN) là tổ chức đã đề khởi khái niệm phát triển bền vững. Rồi năm

1987, khái niệm này đã đƣợc Ủy ban Thế giới về Môi trƣờng và Phát triển do

Bà Gro Harlem Brundtland làm chủ tịch tiếp thu, khai triển và định nghĩa nhƣ

sau trong phúc trình mang tựa “Tƣơng lai của chúng ta”:

“Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các yêu cầu hiện

tại nhƣng không tổn hại cho khả năng của các thế hệ tƣơng lai để đáp ứng yêu

cầu của chính họ”

Khái niệm Phát triển bền vững nhƣ vậy có một nội dung bao quát,

không có phạm vi nhất định, không bị gò bó bởi những chuẩn mực hoặc

quy tắc đã định trƣớc. Nói chung, Phát triển bền vững là một hƣớng đi

dung hòa chủ trƣơng “Không tăng trƣởng” và chính sách “Phát triển tôn

trọng môi sinh”.

Từ lúc phúc trình Brundtland đƣợc phổ biến năm 1987 cho tới nay, tổ

chức Liên Hiệp Quốc đã triệu tập hai hội nghị quan trọng dành cho vấn đề

-26-

Phát triển bền vững. Hội nghị thứ nhất diễn ra năm 1992 tại Rio de Janeiro

gọi là Hội nghị Thƣợng đỉnh về Trái đất, đã chính thức hóa sự đồng lòng thỏa

thuận của các nƣớc hội viên Liên Hiệp Quốc về một chƣơng trình nghị sự

Phát triển bền vững gọi là Agenda 21. Rồi mƣời năm sau, vào năm 2002, Liên

Hiệp Quốc đã tổ chức một hội nghị khác tại Johannesburg với tên gọi là “Hội

nghị Thƣợng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững”. Hội nghị Johannesburg

đã xác định phải xúc tiến và thực hiện Agenda 21 và đã đề ra các mục tiêu

cho thiên niên kỷ 21. Hội nghị cũng đã chỉ rõ chính phát triển bền vững mới

là mục tiêu cuối cùng của mọi chính sách phát triển.

Tóm lại, Phát triển bền vững là quá trình kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài

hòa giữa 3 mặt của sự phát triển: Phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ

môi trƣờng.

- Phát triển bền vững về kinh tế là việc sử dụng một cách hiệu quả

nhất các nguồn lực, tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của nền

kinh tế.

- Phát triển bền vững về xã hội là việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội

nhƣ: Việc làm, chống đói nghèo, bất công xã hội, an ninh trật tự, giảm tệ nạn

xã hội, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, tuổi thọ, tử vong,…

- Phát triển bền vững về môi trƣờng là cân bằng hệ sinh thái, khắc

phục ô nhiễm môi trƣờng, trồng và bảo vệ rừng, sử dụng tiết kiệm tài nguyên.

Giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội có mối quan hệ biện chứng

với nhau, hỗ trợ và làm tiền đề cho kinh tế phát triển.

 Phát triển kinh tế tác động tới phát triển KT-XH:

- Tích cực: Kinh tế tăng trƣởng tạo ra nhiều cơ hội cho mọi ngƣời

tăng thêm thu nhập, cải thiện cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo. Mặt

khác, tăng nguồn thu vào NSNN, nhờ đó đầu tƣ công cũng tăng, góp phần

giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội nhƣ: Tệ nạn xã hội, việc làm,…

-27-

- Tiêu cực: Nếu quá chú ý tới vấn đề phát triển kinh tế mà không để ý

tới việc giải quyết các vấn đề xã hội, sẽ làm trầm trọng các vấn đề xã hội nhƣ:

Bần cùng hóa một số phận dân cƣ, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, tệ nạn xã

hội gia tăng, các giá trị truyền thống bị mai một,…

 Phát triển xã hội tác động tới tăng trưởng kinh tế:

- Tích cực: Tạo ra sự đồng thuận xã hội, tránh các xung đột xã hội; tạo

ra môi trƣờng ổn định thu hút đầu tƣ, từ đó thúc đẩy nền kinh tế tăng trƣởng;

mặt khác tạo ra những cơ hội để phát huy các khả năng, tiềm năng tiềm tàng

của các cá nhân trong xã hội.

- Tiêu cực: Nếu quá chú ý các vấn đề xã hội sẽ làm giảm nguồn lực

cho phát triển kinh tế, đồng thời giảm động lực cho phát triển kinh tế.

1.2. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VÀ CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH

NHÀ NƢỚC

1.2.1. Chi Ngân sách Nhà nƣớc

1.2.1.1. Khái niệm chi Ngân sách Nhà nước

Chi Ngân sách Nhà nƣớc là một trong hai nội dung cơ bản của hoạt

động NSNN. Hoạt động chi NSNN thể hiện mục tiêu hoạt động của NSNN.

Thông qua chi NSNN, Nhà nƣớc mới đảm bảo các yếu tố vật chất cho quá

trình hoạt động của mình. Ở đây, Nhà nƣớc chính là chủ thể đại diện cho

NSNN. Các yếu tố vật chất đó đƣợc phục vụ cho hoạt động cơ bản của Nhà

nƣớc, có thể tóm tắt trên hai mặt nhƣ sau:

Thứ nhất, chi NSNN để duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc.

Thật vậy, thuật ngữ “Nhà nƣớc” trong sách vở hay trên các văn bản quy

phạm pháp luật ngƣời ta thấy nó chung chung, và khá trừu tƣợng. Nhƣng

trong đời sống KT-XH hàng ngày, thì ngƣời ta lại thấy Nhà nƣớc là thực thể

tồn tại với một cơ cấu hệ thống tổ chức đồng bộ, chặt chẽ và đƣợc thiết lập từ

trên xuống dƣới; và ngƣời ta thƣờng gọi đó là bộ máy Nhà nƣớc. Cho dù Nhà

-28-

nƣớc ở các quốc gia đƣợc xây dựng theo các mô hình khác nhau do thiết chế

chính trị mà quốc gia đó đã lựa chọn; nhƣng điểm chung nhất là bộ máy Nhà

nƣớc ở bất kỳ quốc gia nào cũng bao gồm cơ quan công quyền ở hai cấp đại

diện nhƣ: Trung ƣơng và Địa phƣơng.

Nhà nƣớc muốn khẳng định sự hiện hữu và quyền lực của mình trong

đời sống KT-XH của quốc gia và trên thế giới, thì bộ máy Nhà nƣớc đó phải

hoạt động. Hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc nào càng mạnh sẽ là một trong

những nhân tố góp phần nâng cao vị thế của quốc gia đó trong khu vực và

trên toàn thế giới.

Tuy nhiên, muốn bộ máy Nhà nƣớc hoạt động và đạt kết quả tốt, thì bộ

máy Nhà nƣớc rất cần một đầu vào quan trọng là nguồn lực tài chính có thể

đáp ứng cho nhu cầu hoạt động đó. Thông thƣờng, kết quả hoạt động của bộ

máy Nhà nƣớc tỷ lệ thuận với quy mô và cơ cấu hợp lý của nguồn tài chính đã

đầu tƣ cho nó. Song do kết quả hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc chủ yếu tạo

ra các hàng hóa công cộng thuần túy, nên khó có khả năng thu hồi chi phí để

tái bù đắp cho các chu kỳ hoạt động tiếp theo. Do đó, NSNN đã trở thành quỹ

tiền tệ chủ yếu để tài trợ cho các nhu cầu chi nhằm duy trì sự tồn tại và hoạt

động của bộ máy nhà nƣớc. Khoản chi điển hình để duy trì hoạt động của bộ

máy nhà nƣớc thƣờng đƣợc gọi là chi thƣờng xuyên của NSNN.

Thứ hai, chi NSNN để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng,

nhiệm vụ của Nhà nƣớc.

Nhà nƣớc tồn tại thì phải hoạt động theo các chức năng vốn có của nó.

Các chức năng của Nhà nƣớc đƣợc thể hiện trong đời sống KT-XH hàng ngày

là các nhiệm vụ mà do chính Nhà nƣớc đó đặt ra, và cũng chính Nhà nƣớc đó

phải thực hiện. Thẩm quyền quyết định các nhiệm vụ cần phải làm trong 1

năm hay 1 giai đoạn cụ thể thuộc về cơ quan quyền lực Nhà nƣớc. Triển khai

thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nƣớc trong 1 năm hay 1 giai đoạn cụ thể đó

lại thuộc về trách nhiệm của cơ quan hành pháp. Khi kết quả thực hiện các

-29-

nhiệm vụ về kinh tế của một đất nƣớc càng cao, sẽ tạo tiền đề thuận lợi để

nâng cao vị thế của đất nƣớc đó về tất cả các mặt (kinh tế, xã hội, quốc phòng,

an ninh) trên trƣờng quốc tế; và niềm tin của ngƣời dân với Chính phủ cầm

quyền ở chính đất nƣớc đó sẽ đƣợc củng cố vững chắc hơn. Ngƣợc lại, kết

quả thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế chỉ ở mức thấp kém sẽ là nguyên nhân

chính dẫn đến các nguy cơ mà mỗi Chính phủ đều không mong muốn.

Để củng cố vị thế của mình, Nhà nƣớc ở mỗi quốc gia luôn sử dụng

NSNN nhƣ là một trong những công cụ tài chính đắc lực để cung ứng nguồn

tài chính cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, quốc

phòng, an ninh của mình. Hình thức biểu hiện của các khoản chi NSNN cho

việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nƣớc thông thƣờng đƣợc phản ảnh qua

chi đầu tƣ phát triển; một phần qua chi thƣờng xuyên và chi khác.

Nếu tiếp cận nghiên cứu chi NSNN nhƣ là quá trình vận động của các

dòng tiền, ngƣời ta nhận thấy: NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nƣớc,

nơi các nguồn tài chính đƣợc huy động và tạo lập từ rất nhiều nguồn khác

nhau, từ nhiều các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Cũng từ chính quỹ

tiền tệ đó lại đƣợc chi dùng cho các nhu cầu khác nhau, liên quan đến nhiều

lợi ích khác nhau nên trƣớc khi đƣa vào sử dụng NSNN đƣợc phân phối thành

các loại quỹ khác nhau. Nhƣ vậy, chi NSNN bao gồm hai quá trình là phân

phối và sử dụng.

Quá trình phân phối là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình

thành các loại quỹ trƣớc khi đƣa vào sử dụng.

Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ

NSNN mà không cần trải qua việc hình thành các loại quỹ trƣớc khi đƣa vào

sử dụng.

Từ những nhận thức đó có thể đƣa ra khái niệm chi NSNN nhƣ sau:

Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện

các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.

-30-

Nhƣ vậy, chi NSNN là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính

đã đƣợc tập trung vào NSNN và đƣa chúng đến mục đích sử dụng. Vì thế

chi NSNN không chỉ là những định hƣớng, hay chỉ trên giấy tờ mà chi

NSNN phải là những việc làm cụ thể, phải đƣợc phân bổ cho từng hoạt

động, từng mục tiêu và từng công việc cụ thể thuộc các chức năng nhiệm

vụ của Nhà nƣớc.

1.2.1.2. Nội dung chi NSNN

Để thực hiện đƣợc các chức năng nhiệm vụ của mình Nhà nƣớc cần rất

nhiều các khoản chi. Vì vậy, nội dung chi NSNN rất đa dạng và phong phú.

Để phân loại chi NSNN cần dựa trên những tiêu thức khác nhau.

- Theo tính chất phát sinh các khoản chi, thì chi NSNN bao gồm: Chi

thƣờng xuyên và chi không thƣờng xuyên.

 Chi thƣờng xuyên: Là những khoản chi phát sinh tƣơng đối đều đặn

cả về mặt thời gian, không gian và quy mô khoản chi. Nói cách khác, đó là

những khoản chi đƣợc lặp đi, lặp lại tƣơng đối ổn định theo những chu kỳ thời

gian cho những đối tƣợng nhất định. Phần lớn chi thƣờng xuyên mang tính

chất tiêu dùng nên thƣờng đƣợc sử dụng hết trong một thời gian ngắn. Các

khoản chi thƣờng xuyên bao gồm: Chi tiền lƣơng và các khoản có tính chất

lƣơng, chi nghiệp vụ phí, chi duy tu bảo dƣỡng,…

 Chi không thƣờng xuyên: Là những khoản chi phát sinh không đều

đặn và bất thƣờng nhƣ: Chi đầu tƣ phát triển, viện trợ, trợ cấp thiên tai địch

họa,…trong đó chi đầu tƣ phát triển thƣờng đƣợc coi là phần chủ yếu của chi

không thƣờng xuyên.

- Theo mục đích sử dụng cuối cùng, chi NSNN đƣợc chia thành chi tiêu

dùng và chi tích lũy.

 Chi tiêu dùng: Là những khoản chi nhằm mục đích phục vụ cho nhu

cầu trƣớc mắt và hầu nhƣ đƣợc sử dụng hết sau khi đã chi, nhƣ: Chi cho bộ

-31-

máy Nhà nƣớc, chi cho an ninh quốc phòng, văn hóa xã hội,…cụ thể đó là

những khoản chi lƣơng, các khoản chi có tính chất lƣơng và chi cho hoạt

động. Nói chung, các khoản chi cho tiêu dùng là những khoản chi mang tính

chất thƣờng xuyên.

 Chi tích lũy: Là những khoản chi mà hiệu quả của nó có tác dụng lâu

dài, là các khoản chi chủ yếu đƣợc sử dụng trong tƣơng lai. Nói cách khác,

đây là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế,

góp phần tăng trƣởng kinh tế, bao gồm: Chi đầu tƣ xây dựng cơ bản, chi cấp

vốn lƣu động, chi dự trữ vật tƣ của Nhà nƣớc, chi nghiên cứu khoa học công

nghệ,…

- Theo mục tiêu, chi NSNN bao gồm: Chi cho bộ máy Nhà nƣớc và chi

thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nƣớc.

 Chi cho bộ máy Nhà nƣớc: Là những khoản chi để duy trì hoạt động

bình thƣờng của bộ máy Nhà nƣớc nhƣ: Chi đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất,

mua sắm trang thiết bị, chi cho đội ngũ cán bộ công chức, các khoản chi vật

tƣ, văn phòng phẩm, công tác phí, hội nghị,…

 Chi NSNN để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc: Là

các khoản chi cho an ninh, quốc phòng để duy trì hoạt động bình thƣờng của

các lực lƣợng an ninh, quốc phòng, chi phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, chi

đảm bảo xã hội, chi phát triển kinh tế và các khoản chi khác nhƣ hỗ trợ các tổ

chức đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp,…

- Với tư cách là quỹ tiền tệ để thanh toán cho các nhu cầu của Nhà

nước và tài trợ cho các đối tượng khác nhau trong xã hội (Nhà nước với tư

cách là người mua hàng hóa, dịch vụ của thị trường), thì chi NSNN bao gồm:

Chi thanh toán và chi chuyển giao.

 Chi thanh toán: Là việc Nhà nƣớc chi trả để đƣợc hƣởng những hàng

hóa, dịch vụ mà xã hội cung cấp cho Nhà nƣớc. Chi thanh toán mang tính

-32-

hoàn trả trực tiếp với sự vận động ngƣợc chiều của hai hình thái tiền tệ và

hàng hóa, dịch vụ.

 Chi chuyển giao: Là những khoản chi mang tính chất một chiều từ

phía Nhà nƣớc, nhƣ: Chi tài trợ, trợ cấp, trợ giá, cứu trợ, viện trợ,…

- Theo quan điểm của kinh tế học công cộng, thì chi NSNN bao gồm

các nội dung sau:

 Chi ngân sách để sản xuất và cung ứng các hàng hóa công cộng

thuần túy, nhƣ: An ninh, quốc phòng; quản lý hành chính; phúc lợi công

cộng; trật tự xã hội, bảo vệ môi trƣờng, phòng chống thiên tai,…

 Chi ngân sách để sản xuất và cung ứng hàng hóa công cộng không

thuần túy, nhƣ: Giáo dục đào tạo, văn hóa xã hội và một số hoạt động sự

nghiệp kinh tế khó có thể tƣ nhân hóa,…

 Chi NSNN để sản xuất và cung ứng một số hàng hóa thiết yếu nhƣ:

Điện, nƣớc sinh hoạt,…

 Chi NSNN cho đầu tƣ sản xuất và cung ứng một số hàng hóa cá nhân

mà Nhà nƣớc cho là cần thiết phải nắm giữ để định hƣớng và quản lý nền

kinh tế.

Nhƣ vậy, chi NSNN bao gồm rất nhiều các khoản chi khác nhau theo

các tiêu thức phân loại khác nhau. Trên đây chỉ là một số cách phân loại thông

thƣờng. Theo mỗi cách phân loại chi NSNN có những ƣu, nhƣợc điểm khác

nhau. Tùy theo mục đích nghiên cứu và quản lý NSNN mà có thể vận dụng

các cách phân loại khác nhau sao cho thuận lợi và có hiệu quả nhất.

1.2.2. Cơ cấu chi Ngân sách Nhà nƣớc

1.2.2.1. Tổng quan về cơ cấu chi NSNN

Cơ cấu là một danh từ chỉ cách tổ chức sắp xếp các thành phần, bộ

phận trong nội bộ nhằm thực hiện chức năng chung của chủ thể.

-33-

Do đó, cơ cấu chi NSNN là “thuật ngữ” chỉ cách tổ chức sắp xếp các

khoản mục chi trong tổng thể chi NSNN nhằm thực hiện các chức năng của

NSNN. Nghiên cứu cơ cấu chi NSNN là nghiên cứu các nội dung chi (các yếu

tố thành phần), quan hệ giữa chúng với nhau và quan hệ với tổng thể chi

NSNN trong một chỉnh thể thống nhất, hoàn chỉnh của NSNN. Để tránh rơi

vào tình trạng siêu hình, nghiên cứu cơ cấu chi NSNN phải xác định cụ thể

phạm vi thời gian, không gian, gắn liền với bối cảnh lịch sử mà chi NSNN

đƣợc thực hiện.

Để xác định độ lớn hay “ tầm cỡ ” NSNN ngƣời ta sử dụng khai niệm

quy mô. Thông thƣờng, quy mô chi NSNN đƣợc đo bằng các chỉ tiêu tƣơng

đối và chỉ tiêu tuyệt đối nhƣ ty trọng chi NSNN so với GDP(%) và số chi

NSNN tuyệt đối hàng năm ( Kíp,USD,…). Trong khi đó, khái niệm cơ cấu chi

NSNN đƣợc dùng để xem xét các chi tiết về NSNN của Nhà nƣớc. Cơ cấu chi

NSNN cho phép nghiên cứu các vị trí và tầm quan trọng của từng khoản mục

chi trong tổng thể chi NSNN. Nếu các nội dung chi đƣợc xếp loại theo những

tiêu thức thích hợp của phƣơng pháp phân loại chi NSNN thì cơ cấu chi

NSNN sẽ đƣợc bố trí mạch lạc, có hệ thống thống nhất, phục vụ tốt các mục

đích điều hành, nghiên cứu dự báo,…góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng

NSNN.

Trong khi những nghiên cứu về quy mô thuộc loại nghiên cứu tổng thể

thì những nghiên cứu về cơ cấu thuộc loại nghiên cứu chi tiết. Nghiên cứu cơ

cấu là sự bổ sung không thể thiếu của nghiên cứu quy mô. Sự kết hợp nghiên

cứu cơ cấu với nghiên cứu quy mô sẽ cho phép đƣa ra những hình ảnh vừa

tổng quát vừa chi tiết về NSNN trong một thời kỳ nhất định của một Nhà

nƣớc. Còn nghiên cứu cơ cấu là nghiên cứu cụ thể vị trí, tầm quan trọng, kích

thƣớc, tỷ lệ từng chi tiết nào, bộ phận nào hợp lý, cần duy trì, cần đƣợc ƣu

tiên phát triển và những bộ phận, chi tiết nào kém quan trọng hơn, có thể là

-34-

thừa, cần hạn chế, cắt bỏ (nếu chƣa hoàn chỉnh). Rõ ràng nghiên cứu cơ cấu

chỉ cho phép phân tích, nhận định về quan hệ giữa các chi tiết cấu thành tổng

thể chi NSNN.

Đƣơng nhiên, khi nghiên cứu NSNN cần đề cập đến cả cơ cấu, quy mô

thu và chi nhƣng trong giới hạn của đề tài, luận án dừng lại ở những cơ cấu

chi NSNN. Cơ cấu chi NSNN đƣợc tiếp cận thông qua các chỉ tiêu định tính

(cơ cấu định tính) và các chỉ tiêu định lƣợng (cơ cấu định lƣợng).

- Về định tính: Cơ cấu chi NSNN bao gồm các chỉ tiêu phản ánh nội

dung chi NSNN đƣợc sắp xếp theo tiêu thức nhất định gọi là tiêu thức phân

loại chi NSNN. Ví dụ: Chi NSNN đƣợc chia thành các nội dung chi cho quốc

phòng, an ninh, giáo dục, đào tạo, quản lý nhà nƣớc, y tế, đầu tƣ phát triển, dự

trữ, trả nợ,…cơ cấu định tính chƣa cho biết mức độ chi cho từng khoản mục

là bao nhiêu.

- Về định lƣợng: Các khoản mục chi NSNN đƣợc lƣợng hoá qua các số

đo cụ thể bằng tỷ lệ phần trăm (theo phân loại định tính) so với tổng chi

NSNN hàng năm hoặc so với tổng GDP. Những tỷ lệ này đƣợc gọi là tỷ trọng

X của từng khoản chi) trong tổng chi NSNN (hoặc tỷ trọng so với GDP),

chúng cho phép xác định vị trí, tầm cỡ của khoản chi so với tổng số (hoặc so

với quy mô nền kinh tế). Qua đó, thấy đƣợc mức độ quan trọng của mỗi

khoản chi, phản ánh sự lựa chọn ƣu tiên của Nhà nƣớc trong bố trí cơ cấu, tỷ

trọng các nội dung chi NSNN trong mỗi thời kỳ.

Cơ cấu chi NSNN vừa mang tính chất tĩnh, vừa có tính chất động.

Nghiên cứu cơ cấu chi NSNN sẽ cho biết tình hình sử dụng NSNN trong một

thời điểm cụ thể hoặc trong một thời kỳ nhất định. Tại một thời điểm cụ thể,

ta có thể “chụp ảnh” đƣợc tình hình chi NSNN của một Nhà nƣớc cụ thể với

một kết cấu định tính cụ thể và những tỷ trọng định lƣợng cụ thể. Cơ cấu chi

NSNN cho ta biết đƣợc tình hình sử dụng NSNN tại một thời điểm cụ thể.

-35-

Trong phạm vi nguồn lực tài chính nhà nƣớc của thời điểm đó NSNN đã đƣợc

phân chia sử dụng nhƣ thế nào, vào những mục đích gì, mức độ là bao nhiêu.

Khi xem xét trong khoảng thời gian, ta có thể “quay phim” đƣợc tình

hình sử dụng NSNN của một thời kỳ nào đó, thông qua đó xem xét sự vận

động của cả kết cấu định tính và sự thay đổi của kết cấu định lƣợng về chi

NSNN. Giống nhƣ một cơ thể sống, cùng với sự vận động của thời gian, cơ

cấu chi NSNN luôn có sự biến đổi, cả về định tính và định lƣợng. Những biến

động đó tùy thuộc vào mức độ và thời lƣợng của những tác động của các yếu

tố ảnh hƣởng tới cơ cấu chi NSNN.

1.2.2.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến cơ cấu chi NSNN

Cơ cấu chi NSNN chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau, do

đó ở mỗi thời kỳ khác nhau nội dung cơ cấu chi NSNN cũng phải thay đổi

để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội của

đất nƣớc. Có thể khái quát một số nhân tố ảnh hƣởng tới cơ cấu chi NSNN

nhƣ sau:

a. Sự phát triển của lực lượng sản xuất

Sự phát triển của lực lƣợng sản xuất là nhân tood vừa tạo ra khả năng

và điều kiện cho việc hình thành nội dung, cơ cấu chi một cách hợp lý, vừa

đặt ra yêu cầu thay đổi nội dung cơ cấu chi trong từng thời kỳ nhất định.

Muốn phát triển lực lƣợng sản xuất thì trƣớc hết là phải có chủ trƣơng

thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc

theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Nhờ vậy, mới có vốn để đầu tƣ phát triển

lực lƣợng sản xuất. Sau đó là nâng cao trình độ ngƣời lao động, trình độ công

cụ lao động kết hợp với trình độ tổ chức, quản lý, trao đổi lao động phải biết

vận dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất.

-36-

b. Khả năng tích lũy của nền kinh tế

Khả năng tích lũy của nền kinh tế, nhân tố này càng lớn thì khả năng

chi đầu tƣ phát triển kinh tế càng lớn. Tuy nhiên, việc chi NSNN cho đầu tƣ

phát triển kinh tế còn tuỳ thuộc ở khả năng tập trung nguồn tích lũy vào

NSNN và chính sách chi của NSNN trong từng giải đoạn lịch sử. Từ đó, nội

dung và quy mô các khoản chi NSNN cũng vì thế mà thay đổi theo.

Chi tích luỹ của NSNN là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và

tiềm lực cho nền kinh tế, góp phần tăng trƣởng kinh tế, chính là khoản chi đầu

tƣ phát triển cơ sở hạ tầng, chi hỗ trợ doanh nghiệp Nhà nƣớc, chi các dự án

chƣơng trình quốc gia để tạo nguồn thu tài chính cho NSNN.

Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế của đất nƣớc cũng ảnh hƣởng đến cơ cấu

chi NSNN. Bởi lẽ, cơ cấu kinh tế của đất nƣớc sẽ ảnh hƣởng đến cơ cấu phân

bổ nguồn lực tài chính của đất nƣớc, ảnh hƣởng đến quá trình phân phối thu

nhâp quốc dân. Nhƣ vậy, NSNN nói chung và cơ cấu chi NSNN nói riêng

cũng chịu ảnh hƣởng bởi các nhân tố đó.

c. Mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ KT-XH mà

Nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ

- Mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước:

Chi NSNN gắn với mô hình tổ chức bộ máy Nhà nƣớc bởi vậy, bộ máy

Nhà nƣớc gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả cao sẽ tiết kiệm cho NSNN. Ngƣợc

lại, bộ máy Nhà nƣớc cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả cũng là nguyên

nhân làm tăng quy mô các khoản chi ngân sách, trong đó ảnh hƣởng nhiều

nhất vẫn là các khoản chi thƣờng xuyên. Trong điều kiện hiện nay, đây cũng

là nhân tố quan trọng quyết định trực tiếp có ảnh hƣởng đến nội dung và cơ

cấu chi NSNN và là nội dung mà Nhà nƣớc rất quan tâm khắc phục thể hiện

qua việc kiện toàn bộ máy Chính quyền và việc sắp xếp, tổ chức các cơ quan

trong bộ máy Nhà nƣớc.

-37-

- Những nhiệm vụ KT-XH mà Nhà nước đảm nhân trong từng thời kỳ:

Nhà nƣớc ra đời trên cơ sở đấu tranh giai cấp, với chức năng quản lý

nền KT-XH, với tƣ cách là chủ thể của NSNN. Nhà nƣớc sử dụng ngân sách

phục vụ cho các hoạt động đó. Các nhiệm vụ mà Nhà nƣớc đảm đƣơng là mục

tiêu phát triển KT-XH; Trong mỗi thời kỳ khác nhau nhu cầu chi tiêu NSNN

cũng khác nhau, trong một giai đoạn Nhà nƣớc càng đảm đƣơng nhiều nhiệm

vụ thì nhu cầu nguồn tài chính càng lớn, đó là nguyên nhân làm thay đổi nội

dung và quy mô các khoản chi ngân sách. Hơn nữa, một Nhà nƣớc có bản

chất chức năng, nhiệm vụ theo các mô hình kinh tế khác nhau cũng sẽ làm

cho nội dung và quy mô các khoản chi NSNN cũng khác nhau. Nhà nƣớc

càng can thiệp sâu vào nền kinh tế, mức độ bao cấp và bảo hộ đối với nền

kinh tế càng cao thi chi NSNN càng lớn. Ngƣợc lại, nếu Nhà nƣớc càng hạn

chế bảo hộ và tác động trực tiếp đối với nền kinh tế thì chi NSNN cũng giảm

xuống. Vì vậy, có thể nói rằng những nhiệm vụ KT-XH của Nhà nƣớc đảm

nhận trong từng thời kỳ phát triển đến đâu thì nội dung và cơ cấu chi NSNN

cũng sẽ chịu ảnh hƣởng cho phù hợp đến đó.

Bên cạnh đó, sự tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế

đã làm thay đổi chức năng và nhiệm vụ của Nhà nƣớc. Trong thời kỳ mới,

thời kỳ hội nhập, Nhà nƣớc không can thiệp sâu sắc và trực tiếp vào nền kinh

tế mà đóng vai trò là ngƣời cầm cân nảy mực, tạo môi trƣờng và hành lang

pháp lý cho nền kinh tế ở tầm vĩ mô, việc đầu tƣ trực tiếp vào nền kinh tế chỉ

ở những khâu trọng yếu, có ý nghĩa định hƣớng đối với nền kinh tế.

d. Sự biến động kinh tế, chính trị, xã hội, giá cả và lãi suất

Xu thế phát triển kinh tế-xã hội trên thế giới đặc biệt là xu thế hội nhập

kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay đang làm ảnh

hƣởng lớn đến sự biến động kinh tế, chính trị, xã hội, giá cả, lãi suất,…của

các nƣớc.

-38-

Trong điều kiện sự biến động của nền kinh tế, chính trị, xã hội, giá cả,

lãi suất,…trong và ngoài nƣớc không có sự biến động lớn thì cơ cấu chi

NSNN ổn định. Một khi nền kinh tế, chính trị, xã hội bất ổn định thì nội dung

chi cho phát triển kinh tế, an ninh, quốc phòng, trật tự xã hội, giải quyết các

vấn đề xã hội phải thay đổi theo chiều hƣớng khác.

e. Hiệu quả chi NSNN

Hiệu quả là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá chất lƣợng hoạt động phát

triển KT-XH. Trong hoạt động quản lý, có một số ngƣời hiểu đồng nhất khái

niệm kết quả và hiệu quả hoặc cho rằng có năng suất cao, chất lƣợng tốt là có

hiệu quả rồi. Thực chất hoàn toàn không phải nhƣ vậy. Năng suất cao, chất

lƣợng tốt là những giá trị sử dụng lớn làm thỏa mãn đƣợc nhu cầu về vật chất

và tinh thần cho xã hội, nhƣng năng suất cao, chất lƣợng tốt chƣa chắc đã là

có hiệu quả.

Hiệu quả của chi NSNN khác với hiệu quả sử dụng vốn của các doanh

nghiệp, nó đƣợc xem xét trên tầm vĩ mô và dựa vào việc hoàn thành các mục

tiêu phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng mà các khoản chi NSNN

đảm nhận.

Hiệu quả chi NSNN đề cập đến khối lƣợng công việc của quản lý chi

tiêu đƣợc triển khai đồng bộ, đúng quy trình, đúng thời gian, hƣớng đến đạt

mục tiêu cao nhất với chi phí thấp nhất. Đánh giá hiệu quả chi NSNN phải

thông qua các chỉ tiêu định tính và định lƣợng để phản ánh đánh giá phân loại

chi và tỷ trọng từng khoản chi, thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố của lao

động, các tiềm năng ứng dụng khoa học công nghệ, cải tiến các biện pháp

quản lý,…để tạo ra kết quả hoạt động (sản xuất, dịch vụ công tác,…) sao cho

kết quả đạt đƣợc tối đa, còn chi phí cho kết quả đó ở mức tối thiểu, đƣợc thể

hiện ở mấy khía cạnh dƣới đây:

-39-

Vị trí, vai trò của chi NSNN trong quốc sách, cơ chế quản lý và tổ chức

quản lý của Nhà nƣớc phải thể hiện đƣợc đầy đủ, đảm bảo cho chính quyền

hoạt động có hiệu lực, quản lý KT-XH bằng pháp luật, hỗ trợ tích cực cho sự

phát triển, đảm bảo hài hoà giữa tăng trƣởng kinh tế với tiến bộ xã hội ở nông

thôn. Hoạt động của chi NSNN phải tạo ra tiền đề vật chất cho sự tiếp thu văn

minh xã hội, tạo môi trƣờng thuận lợi cho sản xuất kinh doanh dịch vụ phát

triển, thực hiện tốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Về tiêu chí đánh giá chất lƣợng, hiệu quả quản lý NSNN hiện nay ở

trong và ngoài nƣớc vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về các khía cạnh,

khả năng đảm bảo chức năng chính quyền, phạm vi ảnh hƣởng, kết quả thu

chi. Song chỉ tiêu đƣợc sử dụng để đánh giá NSNN giữa các nƣớc lại giống

nhau, đó là tốc độ thu chi hàng năm, mức hoàn thành dự toán, quy mô, cơ cấu

thu chi,…

NSNN phản ánh khía cạnh đặc biệt nguồn lực của quốc gia và có

những ảnh hƣởng to lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, hiệu quả

chi tiêu NSNN không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần mà còn mang ý nghĩa

chính trị, văn hoá, xã hội, một yếu tố phản ánh chất lƣợng bộ máy Nhà nƣớc

và mức độ phát triển ở mỗi quốc gia. Chi tiêu NSNN với hiệu quả thấp, biểu

hiện dƣới dạng lãng phí, thất thoát, tham nhũng,… là một trong những nguyên

nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo, tụt hậu và bất ổn định an ninh chính trị. Chi

NSNN với hiệu quả cao vừa là mục tiêu vừa là điều kiện để xây dựng một xã

hội dân chủ văn minh và một Nhà nƣớc vững mạnh, tiến bộ.

1.3. TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NSNN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN

KINH TẾ-XÃ HỘI

Đầu tƣ phát triển từ nguồn vốn NSNN có tác động mạnh mẽ đến tăng

trƣởng, phát triển KT-XH, điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tƣ theo

định hƣớng của Chính phủ. Đối với nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị

-40-

trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa nói riêng thì đầu tƣ từ nguồn vốn NSNN

có tác dụng kích thích các thành phần kinh tế phát triển hiệu quả hơn và đồng

đều hơn. Trong điều kiện hiện nay, đầu tƣ của khu vực tƣ nhân và nƣớc ngoài

chỉ tập trung vào các ngành nghề, khu vực có khả năng sinh lời cao, mức độ

an toàn lớn, vốn đầu tƣ nhỏ, dẫn đến mất cân đối trong các ngành nghề và

vùng kinh tế. Để nền kinh tế phát triển một cách đồng bộ, Chính phủ phải sử

dụng nguồn vốn đầu tƣ phát triển từ NSNN để tham gia đầu tƣ vào một số

lĩnh vực thuộc khu vực công cộng có vốn đầu tƣ lớn, khả năng thu hồi vốn

chậm nhƣng giữ vai trò là nền tảng cho sự phát triển KT-XH, nhƣ: Đầu tƣ

phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH, đầu tƣ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

đầu tƣ xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy công bằng xã hội,….

1.3.1. Cơ cấu chi NSNN phục vụ đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH

1.3.1.1. Cơ sở hạ tầng và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH:

* Khái niệm

Thuật ngữ cơ sở hạ tầng đƣợc sử dụng lần đầu tiên trong lĩnh vực quân

sự. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thuật ngữ này đƣợc sử dụng rộng rãi

trong các lĩnh vực khác nhau nhƣ: Giao thông, kiến trúc, xây dựng,…đó là

những cơ sở vật chất kỹ thuật đƣợc hình thành theo một kết cấu nhất định và

đóng vai trò nền tảng cho các hoạt động diễn ra trong đó. Với ý nghĩa đó,

thuật ngữ “cơ sở hạ tầng” đƣợc mở rộng ra cả các lĩnh vực hoạt động có tính

chất xã hội để chỉ các cơ sở trƣờng học, bệnh viện, vƣờn văn hóa,…phục vụ

cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa,…

Nhƣ vậy, cơ sở hạ tầng là tổng thể các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật

và kiến trúc đóng vai trò nền tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế, xã hội

đƣợc diễn ra một cách bình thƣờng.

Đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH có thể đƣợc hiểu là đầu tƣ các

nguồn lực để xây dựng hệ thống giao thông vận tải nhƣ: Đƣờng bộ, đƣờng

-41-

sông, đƣờng biển, đƣờng sắt, đƣờng hàng không, đƣờng ống; hệ thống liên lạc

viễn thông, hệ thống cung cấp năng lƣợng, nƣớc,…hệ thống cơ sở hạ tầng

hiện đại có một tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của mọi nền kinh

tế, vì nó đảm bảo vận tải nhanh chóng với chi phí thấp, đảm bảo các quan hệ

liên lạc thông suốt kịp thời, cung cấp đủ điện nƣớc cho toàn bộ hoạt động của

nền kinh tế đất nƣớc,…chính vì tầm quan trọng nhƣ vậy, nên các quốc gia

phát triển để ngay từ đầu, ƣu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại trong một

thời gian ngắn 20-30 năm, tạo ra những tiền đề cho sự bứt phá phát triển.

Khi lực lƣợng sản xuất chƣa phát triển quá trình tiến hành các hoạt

động chỉ là sự kết hợp giản đơn giữa 3 yếu tố đó là lao động, đối tƣợng lao

động và tƣ liệu lao động chƣa có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Nhƣng khi

lực lƣợng sản xuất đã phát triển đến trình độ cao thì để sản xuất có hiệu quả

cần có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đƣợc phát triển

mạnh mẽ gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 17 đến thế kỷ

19. Bên cạnh đó, chính vì sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng kỹ thuật

mà nó thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội từ cuối thế kỷ 19 đến

đầu thế kỷ 20. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành phát triển cơ sở hạ tầng ở

giai đoạn vừa phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật vừa phát triển cơ sở hạ tầng xã

hội. Nhƣ vậy, khi khoa học kỹ thuật ngày càng đƣợc nâng cao thì cơ sở hạ

tầng càng phát triển.

* Phân loại:

+ Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm:Cơ

sở hạ tầng kinh tế và cơ sở hạ tầng xã hội.

- Cơ sở hạ tầng kinh tế là những công trình phục vụ sản xuất nhƣ: Bến

cảng, hệ thống điện, giao thông, sân bay,…

- Cơ sở hạ tầng xã hội là toàn bộ các cơ sở thiết bị và công trình phục

vụ cho vụ cho hoạt động văn hóa, nâng cao dân trí, văn hóa tinh thần của dân

cƣ nhƣ: Trƣờng học, bệnh viện, công viên, các khu vui chơi giải trí,…

-42-

+ Căn cứ vào chức năng, tính chất và đặc điểm người ta chia các công

trình cơ sở hạ tầng thành 3 loại:

- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật;

- Cơ sở hạ tầng xã hội;

- Cơ sở hạ tầng môi trƣờng.

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là các công trình phục vụ cho sản xuất và đời

sống bao gồm: Các công trình thiết bị chuyển tải và cung cấp năng lƣợng,

mạng lƣới giao thông, cấp thoát nƣớc, thông tin liên lạc.

Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm các công trình phục vụ cho các địa điểm

dân cƣ nhƣ: Vƣờn văn hoá, bệnh viện, trƣờng học, nhà ở và các hoạt động

dịch vụ công cộng khác. Các công trình này thƣờng gắn với các địa điểm dân

cƣ làm cơ sở góp phần ổn định, nâng cao đời sống dân cƣ trên vùng lãnh thổ.

Cơ sở hạ tầng môi trường là toàn bộ hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ

cho việc bảo vệ, giữ gìn và bảo vệ môi trƣờng sinh thái của đất nƣớc và môi

trƣờng sống của con ngƣời. Hệ thống này bao gồm các công trình phòng

chống thiên tai, các công trình bảo vệ đất đai, vùng biển và các nguồn tài

nguyên thiên nhiên.

* Đặc điểm:

Hệ thống cơ sở hạ tầng có nhiều đặc điểm riêng biệt khác với hệ thống

KT-XH khác. Đứng dƣới góc độ đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng cần xem xét

các đặc điểm sau:

Bản thân hệ thống cơ sở hạ tầng là một tập hợp các công trình xây dựng

có vốn đầu tƣ lớn, thời gian thu hồi vốn dài thƣờng là thông qua các hoạt

động kinh tế khác để thu hồi vốn.

Trong cơ chế thị trƣờng hiện nay, đồng vốn luôn vận động một cách

năng động và chịu sự chi phối của lợi nhuận, nơi nào có lợi nhuận cao, thời

gian thu hồi vốn nhanh thì sẽ đƣợc đầu tƣ nhiều và ngƣợc lại. Vì thế, lĩnh vực

-43-

kinh doanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật thƣờng đƣợc các nhà đầu tƣ ít quan tâm

hơn là dịch vụ kinh doanh buôn bán khác.

Các công trình cơ sở hạ tầng mang tính xã hội hoá cao, có nhiều đặc

tính của hàng hoá công cộng. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng thì không chỉ có sự

tham gia của chính phủ mà còn có sự đóng góp của khu vực tƣ nhân, còn

hàng hoá công cộng về cơ bản do chính phủ cung cấp, chính phủ là ngƣời

đứng ra bỏ vốn đầu tƣ xây dựng mà chủ yếu là vốn từ ngân sách, tƣ nhân thì

rất ít, đầu tƣ thì các công trình này thƣờng có vốn đầu tƣ hơn, thời gian thu

hồi vốn chậm, thậm chí rất khó thu hồi vốn.

Hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật mang tính kỹ thuật cao,

quy mô lớn nó không chỉ đáp ứng nhu cầu cuộc sống, sản xuất, dịch vụ, đời

sống con ngƣời,...trong hiện tại và cả trong tƣơng lai nữa. Mặt khác thời gian

tồn tại của các công trình cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ là rất lâu dài. Vì thế

những sai lầm trong bố trí địa điểm, áp dụng công nghê sẽ đều phải trả giá rất

đắt. Do đó, yêu cầu khi xây dựng cơ sở hạ tầng bên cạnh việc áp dụng những

thành tựu tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phải căn cứ vào quy hoạch phát triển

vùng và dự kiến đƣợc những biến động trong tƣơng lai.

Các công trình cơ sở hạ tầng trên phạm vị lãnh thổ có chức năng phục

vụ sản xuất và đời sống. Tuy vậy, nếu xét về bản chất kết quả hoạt động của

các cơ sở hạ tầng lại là từ dịch vụ chứ không phải là sản xuất vật chất cụ thể

chẳng hạn dịch vụ bƣu chính viễn thông, giáo dục đào tạo đây chính là điểm

phân biệt giữa cơ cở hạ tầng với các ngành sản xuất vật chất khác.

1.3.1.2. Tác động của đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tới mục tiêu phát triển

kinh tế-xã hội

Với tính chất đa dạng và thiết thực, cơ sở hạ tầng là nền tảng vật chất

có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH của mỗi quốc

gia cũng nhƣ mỗi vùng lãnh thổ. Có cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại, nền

-44-

kinh tế mới có điều kiện để tăng trƣởng nhanh, ổn định và bền vững. Có rất

nhiều công trình nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng, phát triển cơ sở hạ tầng

có tác động tích cực đến phát triển KT-XH ở cả các nƣớc phát triển và đang

phát triển. Trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng có ảnh hƣởng quyết định đến

trình độ phát triển của đất nƣớc. Trong công trình nghiên cứu về “Ảnh hưởng

của phát triển cơ sở hạ tầng đến tăng trưởng và phân phối thu nhập” năm

2004, Cesar Calderon và Luis Serven sau khi nghiên cứu bộ dữ liệu ở 121

nƣớc trong thời kỳ 1960-2000 đã đƣa ra hai kết luận quan trọng là:

(1) Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng có tác động tích cực đến tăng

trƣởng kinh tế.

(2) Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng càng cao thì mức độ bất bình đẳng

về thu nhập trong xã hội càng giảm.

Từ hai kết luận này, các tác giả đã đƣa ra một kết luận chung là

trình độ phát triển cơ sở hạ tầng có tác động mạnh đến công tác xoá đói,

giảm nghèo.

Naoyuki Yoshino và Masaki Nakahigashi năm 2000 đã nghiên cứu về

vai trò của cơ sở hạ tầng đối với sự phát triển kinh tế ở các nƣớc Đông Nam Á

và đƣa ra kết luận rằng, cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát

triển kinh tế của các nƣớc vì hai lý do: (1) Phát triển cơ sở hạ tầng góp phần

nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế; và (2) Phát triển cơ sở hạ tầng

có tác động rất tích cực đến giảm nghèo. Còn tác giả Kingsley Thomas năm

2004 cho rằng, cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng không chỉ vì nó là điều

kiện thiết yếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

cũng nhƣ đời sống của các hộ gia đình, mà cơ sở hạ tầng còn là lĩnh vực kinh

tế chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của một nƣớc. Đầu tƣ cho phát triển cơ sở hạ

tầng thƣờng chiếm khoảng 20% trong tổng vốn đầu tƣ và chiếm từ 40-60%

trong vốn đầu tƣ công ở hầu hết các nƣớc đang phát triển. Tính trung bình,

-45-

lƣợng đầu tƣ này chiếm 4% GDP của các nƣớc đang phát triển, cá biệt có

nƣớc chiếm hơn 10%.

Nghiên cứu về tác động của việc phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam, tác

giả Phạm Thị Tuý năm 2006 đã phát hiện ra sáu tác động quan trọng sau đây:

(1) Cơ sở hạ tầng phát triển mở ra khả năng thu hút các luồng vốn đầu

tƣ đa dạng cho phát triển KT-XH;

(2) Cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại là điều kiện để phát triển

các vùng kinh tế động lực, các vùng trọng điểm và từ đó tạo ra các tác động

lan toả lôi kéo các vùng liền kề phát triển;

(3) Cơ sở hạ tầng phát triển trực tiếp tác động đến các vùng nghèo, hộ

nghèo thông qua việc cải thiện hạ tầng mà nâng cao điều kiện sống của hộ.

(4) Phát triển cơ sở hạ tầng thực sự có ích với ngƣời nghèo và góp phần

vào việc giữ gìn môi trƣờng;

(5) Đầu tƣ cho cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông nông thôn, đem

đến tác động cao nhất đối với giảm nghèo;

(6) Phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện nâng cao trình độ kiến thức và

cải thiện tình trạng sức khoẻ cho ngƣời dân, góp phần giảm thiểu bất bình

đẳng về mặt xã hội cho ngƣời nghèo.

Tóm lại, cơ sở hạ tầng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát

triển KT-XH của một quốc gia, tạo động lực cho sự phát triển. Hệ thống cơ sở

hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, nâng cao

năng suất, hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.

Ngƣợc lại, một hệ thống cơ sở hạ tầng kém phát triển là một trở lực lớn đối

với sự phát triển. Ở nhiều nƣớc đang phát triển hiện nay, cơ sở hạ tầng thiếu

và yếu đã gây ứ đọng trong luân chuyển các nguồn lực, khó hấp thụ vốn đầu

tƣ, gây ra những “Nút cổ chai cơ sở hạ tầng” ảnh hƣởng trực tiếp đến tăng

trƣởng kinh tế. Ngân hàng Thế giới năm 2000 trong một nghiên cứu về

-46-

60.000 ngƣời nghèo trên thế giới cũng chỉ ra rằng, cơ sở hạ tầng yếu kém dẫn

đến chất lƣợng cuộc sống thấp kể cả khi thu nhập có tăng nhanh.

Thực tế trên thế giới hiện nay, những quốc gia phát triển cũng là những

nƣớc có hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ và hiện đại. Trong khi đó,

hầu hết các quốc gia đang phát triển đang có hệ thống cơ sở hạ tầng kém phát

triển. Chính vì vậy, việc đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng đang là ƣu tiên của

nhiều quốc gia đang phát triển. Ở CHXHCN Việt Nam, với quan điểm “Cơ sở

hạ tầng đi trƣớc một bƣớc”, trong những năm qua Chính phủ nƣớc CHXHCN

Việt Nam đã dành một mức đầu tƣ cao cho phát triển cơ sở hạ tầng, khoảng 9-

10% GDP hàng năm đã đƣợc đầu tƣ vào ngành giao thông, năng lƣợng, viễn

thông, nƣớc và vệ sinh, một tỷ lệ đầu tƣ cơ sở hạ tầng cao so với chuẩn quốc

tế. Và nhiều nghiên cứu kinh tế vi mô cũng cho thấy rằng có mối liên hệ

mạnh mẽ giữa đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng với tăng trƣởng và giảm nghèo

ở CHXHCN Việt Nam. Độ dài của mạng lƣới đƣờng bộ đã tăng hơn gấp đôi

tính từ năm 1990, và chất lƣợng cũng cải thiện đáng kể. Tất cả các khu vực

thành thị và 90% hộ dân nông thôn đƣợc tiếp cận với điện. Số đƣờng điện

thoại cố định và di động trên 100 dân tăng gấp mƣời lần từ năm 1995. Tiếp

cận nƣớc sạch tăng từ 26% dân số lên 57% trong khoảng thời gian từ năm

1993 đến năm 2004, và trong cùng giai đoạn này tiếp cận nhà vệ sinh đạt tiêu

chuẩn tăng từ 10% lên 31% dân số. Rõ ràng, đây là những thành tựu rất đáng

ghi nhận.

1.3.2. Cơ cấu chi NSNN thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

1.3.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế với phát triển KT-XH

* Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

Cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ phát triển của

lực lƣợng sản xuất và phân công lao động xã hội. Nó không cố định mà luôn

luôn biến đổi, chuyển dịch phù hợp với trình độ phát triển của lực lƣợng sản

-47-

xuất và phân công lao động xã hội trong nƣớc và quốc tế. Trong quá trình

phát triển kinh tế không chỉ số lƣợng các ngành thay đổi mà cả quy mô, trình

độ và các mối liên hệ cũng thay đổi, từ đó vai trò, vị trí của các ngành cũng có

sự biến đổi. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi của cơ cấu kinh

tế từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp

hơn với môi trƣờng và điều kiện phát triển của nền kinh tế. Trong quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mỗi quốc gia, hay mỗi một ngành kinh tế, hay

mỗi vùng, địa phƣơng có thể đƣa vào cơ cấu kinh tế những ngành mới (sản

phẩm, dịch vụ mới) hay có thể loại khỏi cơ cấu kinh tế những ngành (những

sản phẩm) không còn phù hợp, hoặc có thể chuyển dịch theo hƣớng tăng hay

giảm tỷ trọng của một ngành (sản phẩm) nào đó. Đó là quá trình chuyển từ cơ

cấu kinh tế lạc hậu, bất hợp lý sang cơ cấu kinh tế hợp lý; hoàn thiện và bổ

sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu kinh tế mới hiện đại và phù

hợp hơn. Sự thay đổi nhƣ vậy không đơn giản chỉ là sự thay đổi số lƣợng các

ngành và tỷ trọng của mỗi ngành, mà còn bao gồm sự thay đổi vị trí, tính chất

mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành.

Trạng thái cơ cấu ngành là dấu hiệu phản ánh trình độ phát triển kinh tế

của mỗi quốc gia. Quá trình phát triển kinh tế luôn gắn với quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tiến bộ. Ngƣợc lại, tính chất bền vững của quá

trình tăng trƣởng kinh tế lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch cơ cấu

ngành linh hoạt, phù hợp với việc khai thác đƣợc các tiềm năng và lợi thế

tƣơng đối cũng nhƣ các điều kiện bên trong và bên ngoài của nền kinh tế.

* Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là vấn đề mang tính quy luật đối với

các nƣớc trong quá trình phát triển.

Xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã đƣợc nhà kinh tế học

ngƣời Đức E. Engel và nhà kinh tế học ngƣời Mỹ A. Fisher nghiên cứu từ

những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.

-48-

Bằng quan sát thực nghiệm E. Engel đã rút ra quy luật tiêu dùng cá

nhân là khi thu nhập bình quân đầu ngƣời tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của hộ gia

đình cho lƣơng thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực

nông nghiệp là sản xuất lƣơng thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng

của nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm khi thu nhập tăng lên đến

một mức nhất định.

Nhà kinh tế học ngƣời Mỹ A. Fisher trong cuốn “Các quan hệ kinh tế

của tiến bộ kỹ thuật” đã quan niệm nền kinh tế gồm 3 khu vực: Khu vực thứ

nhất bao gồm các ngành nông, lâm, thủy sản và khai thác khoáng sản; Khu

vực thứ hai bao gồm các ngành công nghiệp chế biến và xây dựng; Khu vực

thứ ba là các ngành dịch vụ. Ông đã phân tích: theo xu thế phát triển khoa học

và công nghệ, ngành nông nghiệp có khả năng dễ thay thế lao động nhất, do

sử dụng máy móc, thiết bị và phƣơng thức canh tác mới đã tạo điều kiện cho

nông dân tăng năng suất lao động thay thế cho lao động chân tay đã tạo điều

kiện cho nông dân tăng năng suất lao động. Kết quả là chỉ cần một lƣợng lao

động ít hơn nhƣng vẫn có khả năng đáp ứng nhu cầu lƣơng thực, thực phẩm

cần thiết cho xã hội nên không cần thiết phải sử dụng một lực lƣợng lao động

nhƣ cũ. Vì vậy, tỷ lệ lực lƣợng lao động nông nghiệp có xu hƣớng giảm dần

trong cơ cấu ngành kinh tế. Đối với ngành công nghiệp do tính chất phức tạp

về công nghệ sản xuất nên khả năng thay thế lao động khó hơn nông nghiệp.

Mặt khác, độ co giãn nhu cầu tiêu dùng của sản phẩm công nghiệp là dƣơng.

Vì vậy, theo sự phát triển kinh tế, tỷ trọng công nghiệp có xu hƣớng tăng lên.

Ngành dịch vụ đƣợc coi là khó có khả năng thay thế lao động nhất do đặc

điểm của hoạt động dịch vụ nên nhiều lĩnh vực máy móc, thiết bị khó có thể

thay thế đƣợc lao động con ngƣời. Trong khi đó độ co giãn của cầu về sản

phẩm dịch vụ là cao hơn cầu về sản phẩm công nghiệp. Vì vậy tỷ trọng lao

động trong ngành dịch vụ sẽ có xu hƣớng tăng lên cùng với quá trình phát

triển kinh tế.

-49-

Từ những cơ sở lý thuyết nêu trên có thể rút ra xu hƣớng có tính quy

luật chung của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đối với các nƣớc từ nền

kinh tế nông nghiệp đi lên là chuyển dịch theo hƣớng CNH-HĐH. Trong quá

trình này, các ngành công nghiệp và dịch vụ có tốc độ tăng trƣởng cao hơn

nông nghiệp. Do đó, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu của nền kinh tế giảm

dần, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Đối với các nƣớc đã công

nghiệp hóa thành công thì xu hƣớng chung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là

phát triển mạnh các ngành dịch vụ. Trong quá trình này không chỉ nông

nghiệp mà cả công nghiệp tăng trƣởng chậm hơn so với khu vực dịch vụ. Do

đó, dần dần tỷ trọng nông nghiệp và công nghiệp giảm dần, tỷ trọng các

ngành dịch vụ tăng lên.

1.3.2.2. Tác động của cơ cấu chi NSNN đến mục tiêu thúc đẩy chuyển dịch

cơ cấu kinh tế

Vai trò quan trọng của ngân sách trong tác động đến cơ cấu chi NSNN

thể hiện qua việc Nhà nƣớc định hƣớng, xác định tỷ trọng các nội dung chi

ngân sách một cách hợp lý. Tác động của cơ cấu chi NSNN với mục tiêu

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH-HĐH đƣợc thể hiện trong từng

lĩnh vực nhƣ sau:

a. Cơ cấu chi NSNN có vai trò tạo điều kiện cho cơ cấu giữa các ngành

kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH-HĐH tức là xây dựng

một cơ cấu kinh tế hợp lý, tiên tiến và hiện đại. Nếu xét theo nghĩa rộng thì đó

là việc xây dựng mối quan hệ giữa các ngành, các vùng và các thành phần

kinh tế. Nếu xét theo nghĩa hẹp thì đó là mối quan hệ kinh tế giữa các ngành,

trong đó mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp và với dịch vụ là

quan trọng nhất.

Thông qua chính sách điều hành chi ngân sách, Nhà nƣớc có thể tập

trung các khoản chi ngân sách cho ƣu tiên phát triển các ngành công nghiệp,

-50-

dịch vụ trên cơ sở định hƣớng: giá trị sản lƣợng của ngành công nghiệp và

dịch vụ chiếm ƣu thế về tăng tỷ lệ tƣơng đối và tuyệt đối, chiếm tỷ trọng lớn

trong GDP; giá trị sản lƣợng của ngành nông nghiệp giảm tỷ lệ tƣơng đối

nhƣng vẫn tăng lên tuyệt đối, chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP.

Các khoản chi ngân sách cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hƣớng CNH-HĐH chủ yếu là chi đầu tƣ xây dựng các công trình kết cấu hạ

tầng kinh tế, đầu tƣ hỗ trợ cho doanh nghiệp, trợ giá, cho vay,…tuy nhiên, để

sử dụng các khoản chi NSNN một cách hiệu quả nhất phải xác định Nhà nƣớc

cần đầu tƣ vào lĩnh vực nào, khâu nào một cách hợp lý. Trong cơ chế thị

trƣờng hiện nay, vai trò của Nhà nƣớc chỉ nên định hƣớng, dẫn dắt, tạo điều

kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia.

b. Cơ cấu chi NSNN có vai trò hỗ trợ và tạo điều kiên cho các vùng

phát triển cân đối.

Giữa các vùng trong một tỉnh hay giữa các vùng trên phạm vi của một

quốc gia, do điều kiện về tự nhiên, điều kiện KT-XH khác nhau nên mức độ

phát triển về KT-XH luôn có sự chênh lệch. Nhiệm vụ của Nhà nƣớc là thông

qua điều chỉnh cơ cấu chi NSNN, ƣu tiên đầu tƣ, hỗ trợ cho các vùng có điều

kiện KT-XH khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Các khoản chi ngân sách của Nhà

nƣớc nếu bố trí hợp lý sẽ có tác dụng thúc đẩy thu hút vốn đầu tƣ ngoài ngân

sách từ những khu vực khác, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khai

thác các lợi thế, tiềm năng của mỗi vùng để phát triển KT-XH.

Bản thân nền kinh tế thị trƣờng với tính tự phát của nó luôn dẫn đến xu

thế phân hóa giàu và nghèo trong xã hội ngày càng sâu sắc, khoảng cách về

trình độ phát triển KT-XH giữa thành thị với nông thôn, giữa đồng bằng với

miền núi ngày càng tăng. Chính vì vậy, vai trò định hƣớng của Nhà nƣớc

thông qua điều hành cơ cấu chi NSNN có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ

và tạo điều kiện cho các vùng phát triển cân đối.

-51-

c. Cơ cấu chi NSNN có vai trò bảo đảm kinh tế Nhà nước giữ vai trò

chủ đạo, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng

định hướng.

Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nƣớc thể hiện ở chỗ các

doanh nghiệp Nhà nƣớc phải nắm giữ những lĩnh vực quan trọng thiết yếu có

tính quyết định đến phát triển KT-XH, giữ vững an ninh quốc phòng. Để thực

hiện nhiệm vụ trên, cơ cấu chi NSNN đƣợc điều hành thông qua những khoản

chi hỗ trợ về vốn, trợ giá để giúp doanh nghiệp đứng vững và nâng cao năng

lực cạnh tranh.

Bên cạnh việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nƣớc, chi NSNN cũng

nhằm vào mục tiêu hỗ trợ, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác đầu

tƣ vào những ngành, những lĩnh vực, những vùng cần khuyến khích theo

chiến lƣợc chung về phát triển KT-XH.

d. Bố trí hợp lý các nội dung trong cơ cấu chi NSNN sẽ góp phần thúc

đẩy đổi mới trang thiết bị theo công nghệ tiên tiến hiện đại.

Tỷ trọng bố trí khoản chi đầu tƣ hỗ trợ cho các doanh nghiệp và chi cho

vay trong cơ cấu chi NSNN càng cao thì càng có tác dụng thúc đẩy các doanh

nghiệp đầu tƣ đổi mới trang thiết bị theo công nghệ tiên tiến, hiện đại. Thông

qua đó, từng bƣớc nâng cao trình độ, quy mô kỹ thuật của nền kinh tế theo

hƣớng CNH-HĐH, tăng năng suất lao động, tạo điều kiện cho tăng trƣởng và

phát triển.

Cũng phải thấy rằng, CHDCND Lào xây dựng, phát triển nền kinh tế

với một xuất phát điểm thấp, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, nguồn vốn

đầu tƣ luôn bị thiếu hụt; do vậy, trong điều hành ngân sách cần xác định rõ

đầu tƣ vốn vào những ngành quan trọng, những lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh,

những ngành hàng xuất khẩu mũi nhọn theo định hƣớng từng thời kỳ.

-52-

1.3.3. Tác động của cơ cấu chi NSNN tới vấn đề giảm đói nghèo và đảm

bảo công bằng xã hội

Trong chiến lƣợc toàn diện về tăng trƣởng và xóa đói giảm nghèo,

CHDCND Lào khẳng định, thừa nhận khái niệm về nghèo do Ủy ban KT-XH

khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng (ESCAP) tổ chức tại thủ đô Băng Cốc ở

Thái Lan tháng 9 năm 2003 “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cƣ không

đƣợc hƣởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con ngƣời mà những nhu

cầu này đã đƣợc xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển KT-XH và

phong tục tập quán của từng địa phƣơng.

“Nghèo” đƣợc hiểu là vấn đề không đảm bảo đƣợc nhu cầu thiết yếu

cơ bản về sinh hoạt hàng ngày chẳng hạn nhƣ: Thiếu lƣơng thực, thiếu mặc,

lối sống không ổn định, không có khả năng tiếp cận về giáo dục, y tế và điều

kiện đi lại gặp khó khăn hoặc quan niệm khác nghèo không chỉ là mức thu

nhập, tiêu dùng thấp.

“ Đói” với ý nghĩa biểu hiện trực tiếp là đói ăn, thiếu lƣơng thực, thực

phẩm để duy trì sự tồn tại của con ngƣời thƣờng chỉ có ở các nƣớc nghèo,

chậm phát triển, đói cũng có hai dạng nhƣ: Đói kinh niên và đói mang tính

thời vụ.

Chi NSNN là công cụ tài chính có ảnh hƣởng rất lớn đến các mục tiêu

kinh tế vĩ mô nhƣ sản lƣợng, việc làm và sự ổn định của nền kinh tế. Thông

qua quyết định chi NSNN và cơ cấu chi NSNN ảnh hƣởng trực tiếp đến phân

bổ các nguồn lực tài chính cho các nhu cầu chi theo những mục tiêu KT-XH

cụ thể mà Nhà nƣớc theo đuổi. Chi NSNN có tác động rất lớn đến giảm nghèo

thông qua việc tăng hay giảm chi NSNN, thông qua cách thức sử dụng chi

NSNN sẽ có tác động đến giảm nghèo.

Chi NSNN có tác động trực tiếp đến hoạt động giảm nghèo. Nhà nƣớc

là ngƣời đầu tƣ vốn mà sản phẩm của nó phục vụ lợi ích công cộng và lợi ích

-53-

lâu dài của cả đất nƣớc. Chi NSNN là công cụ của Nhà nƣớc để cùng với thị

trƣờng tác động tích cực vào nền kinh tế để tạo ra động lực khuyến khích mọi

thành phần kinh tế phát triển, hạn chế tối đa các tiêu cực để mọi tổ chức, cá

nhân cùng hƣởng lợi. Chi NSNN ƣu tiên lựa chọn mục tiêu trọng tâm, trọng

điểm, đào tạo nhân lực, phát triển nội lực, thu hút, huy động và chuyển hoá

ngoại lực thành nội lực, nhằm phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo.

Trƣớc đây nhiều nhà kinh tế chủ trƣơng xây dựng một ngân sách tối

thiểu và công bằng, có quy mô thu chi vừa đủ để duy trì hệ thống cơ sở hạ

tầng, bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nƣớc công quyền, bảo vệ

an ninh quốc phòng, an toàn xã hội. Điều đó có nghĩa là NSNN chỉ giới

hạn nằm ở khâu sau phân phối lại của NSNN. Hiện nay, quan điểm đƣợc

nhiều quốc gia áp dụng là NSNN không chỉ phân phối lại kết quả sản xuất

kinh doanh mà trƣớc khi phân phối lại thì NSNN đã tham gia phân phối các

yếu tố đầu vào của quá trình kinh tế nhƣ: Đầu tƣ hạ tầng KT-XH, đầu tƣ

phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển thị trƣờng, xúc tiến thƣơng

mại,...với đặc điểm này, NSNN chủ động thúc đẩy phát triển sản xuất và

đảm bảo xóa đói giảm nghèo. Cụ thể về vai trò của chi NSNN đối với xóa

đói giảm nghèo nhƣ sau:

- Chi NSNN là khoản chi quan trọng góp phần đảm bảo đƣợc nhu cầu

vật chất để duy trì cuộc sống cho những ngƣời nghèo. Nếu không có những

khoản chi này thì cùng với những khuyết tật của kinh tế thị trƣờng, tình trạng

đói nghèo sẽ ngày càng trở nên trầm trọng hơn.

- Chi NSNN tạo điều kiện thu hút và huy động thêm sự đóng góp của

nhân dân, của các tổ chức xã hội và các thành phần kinh tế trong việc xây

dựng, sửa chữa và cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng cho xã hội, cũng nhƣ xây

dựng nhà ở, tạo điều kiện cho nhân dân “an cƣ, lạc nghiệp”.

-54-

- Góp phần thực hiện công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách giàu

nghèo giữa các bộ phận dân cƣ trong xã hội, đảm bảo phát triển cân đối giữa

các vùng, địa phƣơng.

- Chi NSNN cũng đóng vai trò gián tiếp trong việc phát triển KT-XH,

giảm đƣợc nạn nghèo cho dân thì xã hội sẽ ổn định từ đó thúc đẩy phát triển

kinh tế. Thực tế cho thấy, ngƣời nghèo thƣờng sử dụng các dịch vụ cấp thấp

hơn trong tất cả các lĩnh vực đặc biệt là giáo dục và y tế. Cho nên chi NSNN

có ý nghĩa trong việc giúp ngƣời nghèo đƣợc hƣởng lợi nhiều hơn bằng cách

tăng chi tiêu công để giúp ngƣời nghèo có cơ hội đƣợc tiếp cận và sử dụng

những dịch vụ đó.

- Sự can thiệp của NSNN thông qua chi ngân sách cho các nhóm dân

cƣ nghèo là điều cần thiết để họ chống chọi với rủi ro tốt hơn vì ngƣời nghèo

thƣờng dễ gặp phải các rủi ro dƣới nhiều hình thức khác nhau nhƣ mất mùa

hoặc tài sản bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh,...

- NSNN đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ điều tiết vĩ mô trong lĩnh vực

thu nhập đối với các thành viên xã hội nhằm thực hiện công bằng xã hội về

thu nhập, đảm bảo ổn định cuộc sống của các tầng lớp dân cƣ nhất là những

ngƣời nghèo. Các khoản chi mục tiêu phúc lợi xã hội, mục tiêu trợ cấp cho

ngƣời nghèo đƣợc bố trí theo chiều hƣớng tăng lên sẽ góp phần quan trọng để

giảm nghèo.

Tóm lại, cơ chế tác động của công cụ này là thông qua cơ cấu phân bổ

ngân sách để điều chỉnh cơ cấu đầu tƣ của Nhà nƣớc, dùng đầu tƣ của Nhà

nƣớc nhƣ là một đòn bẩy thúc đẩy cơ cấu kinh tế phát triển theo định hƣớng.

Một mặt, tập trung đầu tƣ trực tiếp vào các ngành kinh tế có khả năng tạo ra

những chuyển biến có tính chiến lƣợc trong cơ cấu kinh tế. Còn đầu tƣ gián

tiếp nhằm tạo những tiền đề hỗ trợ quá trình này nhƣ: Kết cấu hạ tầng giao

-55-

thông; chuyển giao công nghệ; giáo dục đào tạo; công tác khuyến nông; giống

cây trồng, vật nuôi,...

1.4. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM VỀ BỐ TRÍ

CƠ CẤU CHI NSNN NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KT-XH; BÀI

HỌC RÚT RA CHO CHDCND LÀO

1.4.1. Kinh nghiệm về bố trí cơ cấu chi Ngân sách Nhà nƣớc của Trung

Quốc và Việt Nam

1.4.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Quy mô chi NSNN của Trung Quốc giảm mạnh từ 31% GDP năm 1978

xuống khoảng 12% GDP trong thập kỷ 90 và cơ cấu chi đã có bƣớc chuyển

dịch cơ bản trong giai đoạn 1978-1995, Cụ thể nhƣ: Vốn đầu tƣ vào các dự án

sản xuất giảm, chi cho xây dựng kinh tế từ 60% còn 26,6% trong tổng chi

NSNN, chi cho đầu tƣ cơ bản từ 40,3% giảm còn 11,6%; chi y tế, giáo dục,

phúc lợi từ 11,6% tăng lên 23,2%; chi quốc phòng giảm từ 14,96% xuống

9,33%. Nhà nƣớc đã chủ động rút ra khỏi sản xuất kinh doanh thuần túy để

tập trung cho chức năng điều chỉnh và định hƣớng ở tầm vĩ mô, theo số liệu

chính thức đầu tƣ Nhà nƣớc giảm từ 16% năm 1978 xuống còn chƣa đầy 3%

GDP năm 1995. Mức động viên vào NSNN thời kỳ này giảm từ 31% GDP

xuống 11,8% GDP; cắt giảm thuế đã chuyển khoảng 1/5 thu nhập từ Chính

phủ sang khu vực công ty và các nguồn này đã đƣợc sử dụng hiệu quả, tái đầu

tƣ mở rộng kinh doanh (Do không đánh thuế thu nhập đối với khu vực tƣ

nhân). Năm 2004, GDP/đầu ngƣời theo sức mua tƣơng đƣơng (PPP) đã đạt

5.530 USD thì quy mô động viên vẫn rất thấp so với năm 2005 là 16% GDP;

nói cách khác Trung Quốc vẫn chủ trƣơng duy trì mức động viên tối thiểu để

kích thích tăng trƣởng, tối đa hóa tăng trƣởng và đây là lý do thực giải thích

tại sao 12 năm qua GDP vẫn tăng trƣởng 10%/năm. Quy mô chi NSNN nhỏ,

cơ cấu hợp lý kết hợp với chính sách động viên thấp đã tạo ra động lực mạnh

-56-

mẽ, bền vững hiếm thấy trên thế giới thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn

định và lâu dài. Về triển vọng phát triển, nhiều công trình nghiên cứu quốc tế

tầm cỡ khẳng định Trung Quốc có tiềm năng duy trì tốc độ tăng trƣởng cao

trong 20 năm tới.

Về phân cấp NSNN, Trung Quốc chủ trƣơng cần phải tập trung,

nhƣng không thể quá tập trung; song trong điều chỉnh, tỷ trọng của Ngân

sách Trung ƣơng (NSTW) liên tục giảm và duy trì ở mức thấp. Nếu năm

1979 tỷ trọng giữa NSTW và Ngân sách Địa phƣơng (NSĐP) là 50,8% và

49,2% thì đến năm 1993 tỷ lệ này là 22% và 78%. Xu hƣớng này tuy tạo

điều kiện cho NSĐP, nhƣng sinh ra tình trạng bất lợi là NSTW thiếu nguồn

lực tài chính nên việc đạt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và cân bằng giữa

các khu vực ngày càng khó khăn hơn. NSTW eo hẹp Chính phủ không thể

lập ra các chƣơng trình tầm cỡ hỗ trợ các vùng kém phát triển, hệ thống

chuyển giao tài chính trung ƣơng và địa phƣơng ít có vai trò cân đối lại

chênh lệch, điều tiết nguồn lực ngân sách từ tỉnh giàu sang tỉnh nghèo nên

Trung Quốc trở thành một trong ba nƣớc bị mất cân đối giữa các vùng lớn

nhất thế giới.

Quy mô NSNN của Trung Quốc khoảng 12% GDP trong thập kỷ 90 là

rất thấp so với chỉ số của Mỹ trên 30% GDP, còn Anh, Pháp, Đức đều trên

40%, mức bình quân của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thập

kỷ 80 là 42,04% và trên 40% cuối thập kỷ 80, các nƣớc đang phát triển là

24,18%; Nếu tính cả vay nợ thì chỉ số này của Mỹ gần 40%, của Đức, Pháp

đều vƣợt trên 50%, Nhật và Ấn Độ đều đạt 30%. Năm 2005 quy mô chi

NSNN OECD vẫn ở mức gần 50% GDP, mức trung bình của các nƣớc đang

phát triển là 32%, của Trung Quốc cũng chỉ 16% GDP.

Căn cứ vào số liệu chính thức trên thế giới Trung Quốc có hai chỉ số:

tỷ trọng thu NSNN và tỷ trọng NSTW đều thấp. Trước đây Trung Quốc nằm

vào tình thế tài chính doanh nghiệp, dân cư thì giàu có còn tài chính Nhà

-57-

nước thì nghèo tương đối. Nguyên nhân là trong cải cách Trung Quốc thực

hiện phương châm “Nới quyền, nhượng lợi”.

Khi năng lực tài chính NSNN, NSTW nhỏ có thể đem lại nhiều hậu quả

nghiêm trọng trên các mặt, không có cách nào khống chế tốt tài chính vĩ mô;

về lâu dài có khả năng đe dọa đến ổn định chính trị, xã hội và vấn đề bảo vệ

chủ quyền quốc gia, sự thống nhất đất nƣớc. Năm 1994 Trung Quốc thông

qua luật NSNN và đặt mục tiêu nâng tỷ trọng của NSTW lên 50% và đã đạt

mức 52% trong các năm 1995-1998, nhƣng phần sử dụng của NSTW sau

chuyển giao chỉ còn 22,7% tổng chi NSNN.

1.4.1.2. Kinh nghiệm của Việt Nam

Cơ cấu chi ngân sách góp phần phát triển KT-XH. Có thể đánh giá, sự

đổi mới cơ cấu chi NSNN đã góp phần quan trọng trong phát triển KT-XH.

Trước hết, đổi mới cơ cấu chi NSNN đã góp phần đẩy nhanh tốc độ

phát triển kinh tế. Có thể nói, thành công cơ bản trong chính sách chi NSNN

giai đoạn từ năm 1991 đến nay là cơ cấu lại chi NSNN một cách tích cực để

thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH của đất nƣớc.

Bảng 1.1: Tốc độ tăng và tỷ trọng chi NSNN so GDP 1996-2006

(Đơn vị tính: %)

Chỉ tiêu/năm

91-95

1996

2001

2002

2003

2004

2005

1.Tốc độ tăng chi NSNN

111,7 112,5 113,5 119,1 113,3 119,9 118,5

Trong đó:

111,7 112,8

99,8 135,8 109,3 117,3 117,3

- Chi ĐTPT

- Trả nợ & viện trợ

106,0 107,8

97,7 112,6 132,5 125,1 125,1

- Chi thường xuyên

109,5 109,2 117,7 115,8 108,8 121,9 121,9

2. Chi NSNN/GDP

24,4

25,9

24,7

27,0

27,4

29,1

28,4

Trong đó:

- Chi ĐTPT

6,7

6,1

6,7

8,4

8,2

8,5

8,6

-58-

- Trả nợ & viện trợ

3,2

3,9

3,0

3,1

3,7

4,1

3,8

- Chi thường xuyên

14,5

15,8

14,0

14,9

14,5

15,7

15,4

(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính Việt Nam)

- Tăng quy mô và tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển trong NSNN để tập

trung đầu tƣ hạ tầng KT-XH, đảm bảo nguồn lực thực hiện những dự án quan

trọng của quốc gia, đặc biệt là những dự án thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo;

- Đã có sự thay đổi rất cơ bản phƣơng thức hỗ trợ phát triển sản xuất

kinh doanh từ NSNN, bố trí và sử dụng có hiệu quả vốn, kinh phí NSNN. Chú

trọng hơn việc xã hội hóa các nguồn lực đầu tƣ, đã huy động ngày càng nhiều

các nguồn vốn của các thành phần kinh tế để giải quyết tốt hơn yêu cầu chi

đầu tƣ phát triển và các sự nghiệp giáo dục, đào tạo, văn hóa, y tế và xã hội,

đảm bảo ƣu tiên chi đầu tƣ cho chiến lƣợc phát triển nguồn nhân lực, cho

nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát triển giáo dục, văn hóa, xã

hội,…Nhà nƣớc tăng đầu tƣ để giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội, nhƣ:

Việc làm, hạn chế tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội,…

- Thực hiện cải cách chế độ tiền lƣơng, tiền thƣởng để tạo động lực, từ

đó nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động dịch vụ công; Bƣớc đầu xác

định phạm vi chi của NSNN trong từng lĩnh vực, đồng thời đã có một số

chính sách chế độ cụ thể hóa chủ trƣơng xã hội hóa nhằm huy động thêm

nguồn lực để phát triển các lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, xã hội.

Thực hiện chính sách bội chi hợp lý để tăng nguồn lực cả trong và ngoài nƣớc

cho đầu tƣ phát triển, thực hiện đầy đủ các cam kết trả nợ đến hạn, giữ mức

dƣ nợ Chính phủ và dƣ nợ Quốc gia ở mức hợp lý, không ảnh hƣởng đến kinh

tế vĩ mô, không ảnh hƣởng đến tính lành mạnh của nền tài chính quốc gia.

Với định hƣớng trên, cùng với những tiến bộ quan trọng đạt đƣợc trong

động viên NSNN, chi NSNN từ năm 1996 đến nay liên tục tăng với tốc độ

-59-

khá cao (bình quân 15%/năm), tỷ trọng chi NSNN so với GDP có xu hƣớng

tăng và là công cụ quan trọng để Nhà nƣớc tác động vào nền kinh tế.

Hai là, chi NSNN và đổi mới cơ cấu chi NSNN đã góp phần phát triển

kết cấu cơ sở hạ tầng và một số lĩnh vực quan trọng khác.

- Về phát triển cơ sở hạ tầng: Đây là một nhiệm vụ quan trọng đƣợc

quan tâm đầu tƣ, tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển trong tổng chi NSNN tiếp tục

xu hƣớng tăng lên, bình quân thời kỳ 1996-2000 là 26,2%, bình quân giai

đoạn 2001-2005 đạt 27,1%, riêng năm 2005 chiếm 28,8% tổng chi NSNN.

Tốc độ tăng chi đầu tƣ phát triển bình quân 19%/năm, cao hơn tốc độ tăng của

tổng chi NSNN và chi thƣờng xuyên. Tổng chi đầu tƣ phát triển giai đoạn

1996-2000 chiếm khoảng 6,4% so với GDP; giai đoạn 2001-2005 khoảng

7,36% so GDP, năm 2001 là 7,4%; năm 2002 là 8,2%, năm 2003 là 8,1%,

năm 2004 là 7,9%, năm 2005 là 8,9%. Nhờ sự đầu tƣ tăng lên của NSNN,

nhiều công trình kinh tế quan trọng đã đƣợc hoàn thành, hạ tầng cơ sở kinh tế

và hạ tầng xã hội có bƣớc cải thiện quan trọng.

- Chi xây dựng cơ bản có xu hƣớng tăng lên từ 78,6% so tổng chi đầu

tƣ phát triển năm 1991 lên 90% năm 1995 và đạt tỷ lệ 91,4% năm 2000 và đạt

tỷ lệ 90,2% năm 2005. Cơ cấu đầu tƣ xây dựng cơ bản có sự thay đổi theo

hƣớng giảm tỷ lệ bao cấp của NSNN cho doanh nghiệp, tăng cƣờng đầu tƣ

xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình phúc lợi, phục vụ đời sống

nhân dân. Tỷ lệ chi NSNN cho DNNN giảm dần trên 30% giai đoạn 1996-

2000, đến nay chỉ chiếm dƣới 10% tổng chi XDCB; nguồn vốn đầu tƣ xây

dựng cơ bản trong giai đoạn này đƣợc tập trung ƣu tiên cho các lĩnh vực nhƣ:

Giao thông 25%, nông nghiệp nông thôn chiếm 15%, giáo dục 8%, y tế 4%,..

- Song song với việc tăng chi xây dựng cơ sở hạ tầng, NSNN còn tập

trung chi cho các chƣơng trình KT-XH lớn nhƣ: Cho vay giải quyết việc làm,

-60-

xóa đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng kinh tế vùng có khó khăn, chƣơng

trình 135, phủ xanh đất trống đồi núi trọc,…

- Bên cạnh nguồn vốn NSNN và vốn vay nợ, viện trợ của các nƣớc, các

tổ chức quốc tế, Nhà nƣớc thực hiện chính sách huy động đóng góp của các tổ

chức kinh tế và của dân cƣ cho việc đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng các công

trình trọng yếu tại các địa phƣơng, huyện, xã nhƣ: Đƣờng liên thôn, liên xã,

trƣờng học, trạm xá,… Nhờ có chính sách này mà nhiều địa phƣơng đã cải

thiện đáng kể hạ tầng cơ sở và cung cấp các dịch vụ công, đồng thời phát triển

sản xuất tại địa phƣơng. Tính đến nay có 85% số xã có điện. Giao thông nông

thôn có bƣớc phát triển mới, cả nƣớc 98% số xã có đƣờng ô tô. Mạng lƣới

trƣờng học, trạm xá, nhà trẻ, chợ,… Ở nông thôn đƣợc mở rộng 99,8% số xã

có trƣờng cấp tiểu học, 76,6% xã có trƣờng phổ thông cơ sở, 7% xã có trƣờng

phổ thông trung học, 98% xã có trạm y tế xã, 78% số xã có trƣờng mẫu giáo,

36% số xã có nhà trẻ, 38% số xã có trạm truyền thanh, 54% số xã có chợ,

65% số hộ nông thôn đƣợc dùng nƣớc sạch.

Thứ ba, về chi trả nợ và viện trợ: Chiếm khoảng 12%-14% tổng chi

NSNN và 3,1%-3,6% so với GDP. Nhìn chung, công tác quản lý nợ của Nhà

nƣớc có tiến bộ, chủ động đàm phán để giãn, hoãn nợ hoặc đạt đƣợc phƣơng

thức trả nợ có lợi nhất (trả bằng hàng, tái đầu tƣ cho nền kinh tế); Dƣ nợ của

Nhà nƣớc ở mức tƣơng đối hợp lý, chƣa có biểu hiện tác động xấu đến sự ổn

định kinh tế vĩ mô, nghĩa vụ trả nợ ngoài nƣớc hàng năm dƣới 20% GDP.

Thứ tư, chi NSNN đảm bảo quản lý Nhà nước và xã hội ngày càng tốt

hơn: Chi phát triển các sự nghiệp KT-XH, quốc phòng, an ninh, quản lý hành

chính chiếm khoảng 57,2% tổng chi NSNN và tƣơng đƣơng 14,5% GDP. Các

nhiệm vụ quan trọng có tốc độ tăng chi khá cao, nhƣ: Chi giáo dục đào tạo

năm 2001 tăng 24,3%, năm 2005 tăng 12,8%; chi khoa học công nghệ và môi

trƣờng tăng 31,1% năm 2001 và 11,7% năm 2005; y tế tăng 21,4% năm 2001

-61-

và 7,6% năm 2005. Đồng thời, với tăng nguồn Ngân sách, đã huy động nguồn

lực trong xã hội để bổ sung phát triển các ngành giáo dục đào tạo, y tế, văn

hóa, nghệ thuật,…cơ chế quản lý tài chính theo hƣớng tăng cƣờng tự chủ tài

chính và nâng cao trách nhiệm của đơn vị sử dụng Ngân sách đƣợc thí điểm

đã có kết quả bƣớc đầu, tạo cơ sở cho việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính

công trong những năm sau theo hƣớng mở rộng đối tƣợng thực hiện khoán

chi, khoán biên chế hành chính, áp dụng cơ chế quản lý tài chính mới tăng

quyền và trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp.

1.4.2. Bài học rút ra cho nƣớc CHDCND Lào

Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm về bố trí cơ cấu chi NSNN của Việt

Nam và Trung Quốc, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm có thể vận

dụng vào điều kiện thực tiễn ở CHDCND Lào đƣợc nhƣ sau:

+ Thứ nhất, phải có một hệ thống các quy định đồng bộ về quản lý chi

NSNN. Các quy định này phải đƣợc thể chế hóa bằng luật pháp, chế độ quản

lý chi tiêu ngân sách do chính quyền trung ƣơng thống nhất quy định chung

về khung, chính quyền các địa phƣơng đƣợc phép ban hành một số chế độ

trong phạm vi do trung ƣơng quy định. Trong quản lý chi NSNN, cần phân

định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của từng cấp và giao quyền độc lập tƣơng đối

cho họ trong quá trình thực thu nhiệm vụ đƣợc giao. Chính quyền trung ƣơng

chỉ cần can thiệp khi cần thiết hoặc đóng vai trò điều hòa, điều tiết để đảm

bảo sự công bằng và phát triển cân đối giữa các vùng lãnh thổ trong quốc gia.

+ Thứ hai, dự toán NSNN cần đƣợc chuẩn bị kỹ và trong một thời gian

dài (thƣờng là 12 tháng). Dự toán NSNN phải đƣợc lập từ cơ sở và qua nhiều

vòng thảo luận công khai, dân chủ giữa các Bộ, ngành, địa phƣơng cũng nhƣ

tại Quốc hội. Dự toán chi NSNN phải đƣợc lập và phê duyệt chi tiết đến mục

chi theo nhu cầu chi tiêu của các đơn vị.

Trong lập và phê duyệt dự toán, cần gắn việc chi tiêu của từng năm với

kế hoạch chi tiêu của các năm tiếp theo để đảm bảo tính liên hoàn và kế thừa

-62-

có hiệu quả các khoản chi của các năm trƣớc, đồng thời cần tập trung thảo

luận kỹ về sự cần thiết, cũng nhƣ hiệu quả các khoản chi mới phát sinh hoặc

không thiết yếu để có sự cắt giảm cho phù hợp. Các khoản chi đã đƣợc quy

định trong luật hoặc đã đƣợc cam kết từ trƣớc cần đƣợc đảm bảo thực thi

trong thực tế.

+ Thứ ba, trong chấp hành chi NSNN, cần đảm bảo một cơ chế kiểm

tra, kiểm soát chặt chẽ trên cơ sở phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của

từng tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác quản lý chi, đặc biệt là trách

nhiệm của ngƣời chuẩn chi với ngƣời cấp phát, thanh toán. Thực hiện nguyên

tắc mọi khoản chi phải đƣợc thanh toán, chi trả cho ngƣời trực tiếp đƣợc thụ

hƣởng thông qua tài khoản của họ mở tại ngân hàng.

+ Thứ tư, coi trọng và đánh giá đúng mức vai trò của công tác phân

tích, dự báo kinh tế phục vụ cho việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô

và chính sách chi NSNN. Quan tâm đầu tƣ thích đáng cho các lĩnh vực công

nghệ thông tin, đảm bảo cung cấp kịp thời, chính xác các số liệu cho việc

quản lý, điều hành NSNN, tạo điều kiện nâng cao chất lƣợng công tác quản lý

và tiết kiệm các chi phí chung của toàn xã hội.

-63-

Kết luận chƣơng 1

Với mục tiêu của chƣơng 1 là nghiên cứu và hệ thống hóa những cơ sở

lý luận về phát triển KT-XH và cơ cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển

KT-XH, chƣơng này đã hoàn thành những nội dung cơ bản nhƣ sau: Hệ thống

hóa các cơ sở lý luận về phát triển kinh tế, phát triển xã hội, mối quan hệ hữu

cơ giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội; cơ sở lý luận về chi NSNN và

cơ cấu chi NSNN.

Qua phân tích các tác động của cơ cấu chi NSNN đối với sự phát triển

KT-XH thông qua đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH, đầu tƣ nhằm thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã

hội và qua nghiên cứu cơ cấu chi NSNN của Trung Quốc và Việt Nam, là hai

quốc gia có hình thái KT-XH và xuất phát điểm đi lên có những nét tƣơng

đồng với CHDCND Lào có thể rút ra một số kết luận và bài học rút ra cho

CHDCND Lào nhƣ sau:

Bài học thứ nhất, về quản lý chi NSNN cần phải: (i) Có một hệ thống

các quy định đồng bộ về quản lý chi NSNN; (ii) Dự toán NSNN cần đƣợc

chuẩn bị kỹ và trong một thời gian dài (thƣờng là 12 tháng) ; (iii) Phân định

rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác

quản lý chi; (iv) Coi trọng và đánh giá đúng mức vai trò của công tác phân

tích, dự báo kinh tế phục vụ cho việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô

và chính sách chi NSNN.

Bài học thứ hai, đẩy mạnh đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng làm nền tảng

thúc đẩy tăng trƣởng, phát triển KT-XH, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo đúng định hƣớng, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội.

-64-

Chƣơng 2

TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC

TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND LÀO

GIAI ĐOẠN 2001-2012

2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND LÀO

GIAI ĐOẠN 2001-2012

2.1.1. Khái quát về đặc điểm kinh tế ở CHDCND Lào

CHDCND Lào Sau khi giành đƣợc độc lập dân tộc năm 1975, Đảng

NDCM Lào đã lựa chọn con đƣờng phát triển theo con đƣờng XHCN, xây

dựng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và chủ yếu có quan hệ kinh tế

với các nƣớc xã hội chủ nghĩa. Theo đó kinh tế tƣ nhân bị thu hẹp và hạn chế,

nền kinh tế tồn tại dựa trên hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và

tập thể. Sau đó, từ năm 1986, CHDCND Lào đã thực hiện đƣờng lối đổi mới

phát triển kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần, có sự quản lý kiểm soát của

Nhà nƣớc; phát triển thị trƣờng trong nƣớc và mở rộng ra ngoài nƣớc; thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng nâng cao tỷ trọng sản xuất công

nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản xuất nông nghiệp; mở rộng kinh tế đối

ngoại, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, đƣa nền kinh tế hội

nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới; phát triển mạnh mẽ

khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo; xóa đói giảm nghèo, từng bƣớc cải

thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; phát triển đi đôi với việc bảo

vệ môi trƣờng sinh thái, bảo đảm phát triển bền vững. Nhiều thế kỷ qua, nền

kinh tế ở CHDCND Lào đƣợc tồn tại bởi nền kinh tế tự nhiên, nhƣng trong

mấy chục năm qua và gần đây đã xuất hiện kinh tế nửa tự nhiên và một phần

trong vùng đồng bằng dọc theo sông Mê Kông, vùng biên giới của đất nƣớc

đang phát triển theo kinh tế thị trƣờng. Các trọng điểm sản xuất nông nghiệp

-65-

chủ yếu là các vùng đồng bằng dọc theo sông Mê Kông, năng suất thấp chƣa

đủ để sản xuất chế biến và xuất khẩu. Công nghiệp, chủ yếu chỉ có một số

ngành nhƣ thuỷ điện và khai thác chế biến gỗ. Công nghiệp chế biến còn lạc

hậu về kỹ thuật công nghệ và vẫn là công nghiệp nhỏ bé, chỉ đáp ứng đƣợc

một phần nhu cầu của nhân dân.

Cơ cấu kinh tế theo vùng và lãnh thổ mất cân đối, phát triển vùng nông

thôn diễn ra chậm, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chƣa có sự chuyển biến

nhiều, kết cấu hạ tầng ở CHDCND Lào chƣa phát triển chỉ mới xây dựng

xong đƣờng quốc lộ 13 và một số cầu các tuyến đƣờng liên tỉnh thì chƣa đủ

vốn để củng cố nâng cấp. Nguồn vốn trong nƣớc rất hạn chế, năng lực sản

xuất thấp kéo theo tích luỹ thấp mà 90% tổng sản phẩm xã hội của mỗi năm là

đƣa vào tiêu dùng. Do đó sự phát triển và tăng trƣởng kinh tế phải nhờ vào

nguồn vốn từ nƣớc ngoài dƣới nhiều hình thức nhƣ: Viện trợ, vay nợ, những

nguồn vốn này cũng rất hạn chế.

Hệ thống thị trƣờng, đặc biệt là thị trƣờng hàng hoá phát triển không

đồng đều trong toàn quốc, thị trƣờng tiền tệ và lao động mới hình thành và

phát triển với tốc độ chậm, bị bó hẹp ở những thành phố và không ổn định,

lạm phát tăng gây biến động lớn về KT-XH.

Giữa năm 1997 đến cuối năm 1999, Kinh tế của đất nƣớc bị ảnh hƣởng

của khủng hoảng kinh tế tài chính Châu Á và thiên tai, trong tình hình đó Đại

hội Đảng NDCM Lào lần thứ VII đã đề ra mục tiêu phấn đấu kế hoạch phát

triển KT-XH 5 năm giai đoạn 2001-2005 để đảm bảo tình hình chính trị vững

chắc, kinh tế phát triển, xã hội trật tự, ổn định và bảo vệ môi trƣờng.

2.1.1.1.Giai đoạn 2001-2005

Nền kinh tế mang lại kết quả khả quan về tốc độ tăng trƣởng kinh tế,

Tổng sản phẩm quốc nội GDP tăng bình quân hàng năm là 6,2% (Trong đó:

Ngành nông lâm nghiệp, thủy sản bình quân 3,4%; ngành công nghiệp và xây

-66-

dựng bình quân 11,3%; khu vực dịch vụ bình quân 6,7%) so với giai đoạn

1996-2000 cao hơn 0,3%, nếu so với mục tiêu đề ra là thấp hơn 0,8%. Trong

tình trạng kinh tế trong và ngoài nƣớc không thuận lợi nhƣng tốc độc tăng

trƣởng kinh tế của đất nƣớc trong giai đoạn này là mức còn cao hơn các nƣớc

trong khu vực nhƣ: Campuchia 5,5%; Indonesia 4,2%; Malaysia 4,3%;

Philippines 4,2%; Singapore 3,7%; Thái Lan 4% và Việt Nam cao hơn 7,5%.

Trong giai đoạn này cơ cấu kinh tế cũng đã có sự chuyển dịch theo

chiều hƣớng tốt, tỷ trọng ngành nông nghiệp từ 51,9%/GDP năm 2000 giảm

xuống còn 45,4%/GDP năm 2005, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng từ

22,4%/GDP năm 2000 tăng lên 28,2%/GDP năm 2005, tỷ trọng ngành dịch

vụ từ 25,7%/GDP năm 2000 tăng lên 26,4%/GDP năm 2005, cơ cấu kinh tế

về ngành nông nghiệp có xu hƣớng giảm dần, đồng thời ngành công nghiệp

đã có tốc độ tăng trƣởng nhanh, một số sản phẩm thuộc ngành công nghiệp đã

có đƣợc vị thế trên thị trƣờng; tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến từng bƣớc

tăng lên, có khả năng khai thác nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nƣớc và

nâng cao giá trị sản phẩm để xuất khẩu; tỷ trọng ngành dịch vụ cũng đang có

chiều hƣớng gia tăng, đáp ứng các nhu cầu của xã hội và sản xuất kinh doanh

ngày càng tăng.

Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,83 tỷ USD, với tốc độ tăng bình quân

hàng năm là 7,1%, tăng cao hơn giai đoạn 1996-2000 là 1,6%/năm. Tổng

kim ngạch xuất khẩu tính bình quân trên đầu ngƣời trong năm 2005 là 86,7

USD so với các nƣớc trong khu vực là còn thấp, các mặt hàng xuất khẩu

chính nhƣ: Điện, café, sản phẩm gỗ, khoáng sản,…xuất sang 40 Quốc gia

nhƣ: EU, Mỹ, Trung quốc, Thái Lan, Việt Nam,…riêng năm 2005, thu nhập

từ xuất khẩu đạt 456 triệu USD, trong đó, mặt hàng nông lâm nghiệp chiếm

10,2%, năng lƣợng điện và khoáng sản chiếm 42,8%, công nghiệp và thủ

công chiếm 47%.

-67-

Tổng kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2001-2005 đạt 2,86 tỷ kíp, bình

quân hàng năm tăng 4,9%, tăng cao hơn giai đoạn 1996-2000 là 1,4%/năm,

tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2005 là 686 triệu USD, tính bình quân trên

đầu ngƣời là 122,5 USD. Việc chuyển dịch cơ cấu nhập khẩu tƣơng đối phù

hợp với khả năng và nhu cầu của nền kinh tế, đặc biệt là tỷ lệ nhập khẩu hàng

lƣơng thực thực phẩm từ 32,6% năm 2000 giảm xuống còn 9,9% năm 2002

và còn 4% năm 2003, đến năm 2005 kim ngạch nhập khẩu đạt 686 triệu USD,

trong đó: Mặt hàng máy móc thiết bị và phụ tùng chiếm 39,2%, nguyên vật

liệu và xăng dầu chiếm 47%, hàng tiêu dùng chiếm 13,8%.

Thâm hụt cán cân thƣơng mại giai đoạn này là 1,03 tỷ USD bằng 57%

của tổng kim ngạch xuất khẩu và bình quân hàng năm 9,4%/GDP, điều đáng

kể nhất là tỷ lệ thâm hụt cán cân thƣơng mại so với GDP đã giảm xuống

nhanh từng năm trong giai đoạn 2001-2005 từ đầu năm kế hoạch là 11,1%

giảm còn 8% năm 2005.

Do Nhà nƣớc chú trọng trong việc quản lý tiền tệ dẫn đến tốc độ tăng

lƣợng tiền (M2) bình quân hàng năm đạt 20%, nguồn vốn huy động tăng

19,2%/năm. Vì lý do đồng tiền kíp ổn định dẫn đến tỷ lệ lạm phát ngày càng

giảm xuống, tính bình quân hàng năm 9,6%; Tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền

kíp và USD tăng lên 7%/năm.

Thu Ngân sách Nhà nƣớc 5 năm đạt đƣợc 15.000 tỷ kíp, tăng lên

17,2%/năm, tỷ lệ động viên thu NSNN đạt đƣợc 13,6%/GDP;

Tổng chi NSNN đạt 22.830 tỷ kíp, tăng 13%/năm, tỷ trọng chi NSNN

21,3%/GDP, trong tổng chi NSNN có tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển chiếm

đến 49,5% (trong đó: Vốn trong nƣớc chiếm 1/3 và có xu hƣớng giảm đồng

thời vốn ngoài nƣớc chiếm 2/3 và có xu hƣớng tăng lên. Điều đó khẳng định

rằng Nhà nƣớc đã chú trọng việc đầu tƣ phát triển để kích thích tốc độ tăng

trƣởng kinh tế.

-68-

Thâm hụt NSNN 5 năm qua là 7.820 tỷ kíp, bình quân hàng năm là

7,4%/GDP đây là mức quá cao, vì nguồn cân đối chủ yếu là từ nguồn vốn huy

động ngoài nƣớc.

Về chuyển dịch cơ cấu lao động 5 năm qua, đã đào tạo, cung cấp nguồn

lao động mới cho xã hội đạt 505 nghìn ngƣời, trong đó: Lao động ngành nông

lâm nghiệp chiếm 67.92%, công nghiệp và xây dựng 11,48%, thƣơng mại và

dịch vụ 20,59%. Đối với tỷ lệ ngƣời chƣa có việc làm đã giảm xuống từ 5,6%

năm 2000 còn 5% năm 2005.

Về thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 5 năm qua nhƣ: Từ vốn hỗ trợ phát

triển chính thức (ODA) đạt 935 triệu USD, bình quân hàng năm 187 triệu

USD, Nhìn chung hiệu quả sử dụng vốn ODA có xu hƣớng tăng lên vì các

nƣớc hỗ trợ đã tin tƣởng và ủng hộ chính sách phát triển KT-XH ở CHDCND

Lào, đồng thời có thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) đƣợc 585 dự

án, tổng vốn đăng ký 2,8 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 1,07 tỷ USD, nhìn chung

vốn nƣớc ngoài đã góp phần trong việc sản xuất hàng hóa, thúc đẩy tăng

trƣởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, da dạng hóa và khuyến kích lĩnh vƣc

kinh tế tƣ nhân phát triển ngày càng tốt hơn.

2.1.1.2. Giai đoạn 2006-2010

Kế hoạch phát triển KT-XH đã lập trên mục tiêu chiến lƣợc phát triển

KT-XH đến 2020 và nghị quyết VIII của Đảng NDCM Lào, kế hoạch đó là

khâu đột phá bắt đầu coi kinh tế là trọng tâm, cũng trong giai đoạn này đất

nƣớc đã bị tác động từ thiên tai 2 lần và ảnh hƣởng khủng hoảng tài chính thế

giới. Nhƣng CHDCND Lào đã đạt đƣợc kết quả tốt, nhìn chung kinh tế vĩ mô

tăng trƣởng liên tục và tƣơng đối ổn định, thể hiện qua tổng sản phẩm quốc

nội GDP 5 năm qua có tốc độ tăng trƣởng bình quân 7,9%, bằng 219.853 tỷ

kíp, bình quân 43.970 tỷ kíp/năm. Trong đó: Ngành nông lâm nghiệp tăng lên

4%; Ngành công nghiệp đạt 12,6% và Ngành dịch vụ tăng 8,4% so với giai

đoạn trƣớc đó.

-69-

Thu nhập bình quân đầu ngƣời, năm 2010 là 1.069 USD tăng lên 18%

so với năm trƣớc, điều đó làm cho chỉ số giá tiêu dùng trong tháng của hộ gia

đình bình quân tăng 14,8%/năm, năm 2003 tăng từ 1,1 triệu kíp đến 2,2 triệu

kíp năm 2008. Trong đó, tiêu dùng trong thành thị tăng từ 1,7-2,9 triệu kíp và

tiêu dùng trong nông thôn tăng từ 0,9-1,8 triệu kíp.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế bao cấp sang kinh tế sản xuất

hàng hóa thị trƣờng, nhìn chung cơ cấu kinh tế 5 năm qua nhƣ: Ngành nông

lâm nghiệp chiếm 30,4%, công nghiệp chiếm 26,1% và dịch vụ chiếm 37,2%.

Thị trƣờng ngoại hối diễn ra hoạt động khả quan vì nhà đầu tƣ ngoài

nƣớc tăng lên, thể hiện nhƣ: Lƣợng tiền (M2) bình quân tăng lên 23%, chiếm

19,6%/GDP.

Tỷ lệ lạm phát có diễn biến giảm dần bình quân 5 năm ở mức 5,09%,

trong mức lạm phát một con số. Nhìn chung giai đoạn 5 năm qua giá cả hàng

tiêu dùng ổn định, tỷ lệ lạm phát kiểm soát đƣợc và thấp hơn tốc độ tăng

trƣởng kinh tế, làm tăng sức mua của ngƣời tiêu dùng.

Tỷ giá hối đoái diễn ra ổn định, giá đồng tiền kíp tăng liên tục từng

năm trong giai đoạn này, tính bình quân 5 năm qua là tăng 5,28 % /năm.

Trong 5 năm qua Nhà nƣớc đã tạo công ăn việc làm cho ngƣời lao động

Lào có việc làm 642.884 ngƣời. Trong đó: Lao động làm trong nƣớc 626.691

ngƣời (nông lâm nghiệp 584.589 ngƣời, công nghiệp và xây dựng 38.435

ngƣời và dịch vụ 3.667 ngƣời); lao động xuất khẩu có 16.193 ngƣời (nông

lâm nghiệp 1.042 ngƣời, công nghiệp và xây dựng 13.396 ngƣời và dịch vụ

1.755 ngƣời). Nhìn chung về cơ cấu lao động theo ngành kinh tế có tốc động

chậm nhƣng chuyển biến tiến bộ theo chuyển dịch cơ cấu kinh tế và công

nghiệp hóa hiện đại hóa. Tỷ lệ lao động ngành nông lâm nghiệp từng bƣớc

giảm dần từ 78,5% năm 2005 xuống còn 75,1% năm 2010; tỷ lệ lao động

công nghiệp và xây dựng có xu hƣớng tăng từ 4,8% năm 2005 đến 5,5% năm

-70-

2010 và Tỷ lệ lao động dịch vụ tăng từ 16,7% năm 2005 đến 19,5% năm

2010.

Về đầu tƣ công trong 5 năm qua việc phân bổ vốn cho 11 chƣơng trình

111 dự án mục tiêu của đất nƣớc đạt 24.747 tỷ kíp nhƣ: Vốn đầu tƣ trong

nƣớc 3.982 tỷ kíp (trong đó: Lĩnh vực kinh tế chiếm 54%, lĩnh vực xã hội

24% và lĩnh vực khác 22%); vốn đầu tƣ nƣớc ngoài có 20.765 tỷ kíp.

Cán cân thƣơng mại ở CHDCND Lào để thực hiện lời cam kết về kinh

tế với quốc tế đạt hiệu quả cao, trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN (AFTA), khuôn khổ thƣơng mại song phƣơng và đa phƣơng, đồng

thời CHDCND Lào đang chuẩn bị gia nhập thành viên Tổ chức thƣơng mại

thế giới (WTO). Vì mục tiêu là tăng tỷ lệ xuất khẩu mặt hàng có giá trị cao để

tăng trƣởng kinh tế, Trong 5 năm qua tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 5,69 tỷ

USD, chiếm 23,4%/GDP và tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 6,61 tỷ kíp, chiếm

27,3%.

Về việc thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 5 năm qua nhƣ: Từ vốn hỗ trợ

phát triển chính thức (ODA) thực hiện đƣợc 2.251 dự án, đạt 2.443 triệu

USD, bình quân hàng năm 488 triệu USD, nhìn chung nguồn vốn ODA có xu

hƣớng tăng lên vì các nƣớc đối tác phát triển đã tin tƣởng và ủng hộ chính

sách phát triển KT-XH ở CHDCND Lào, đồng thời có khả năng thu hút vốn

đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) trong và nƣớc ngoài đƣợc 1.022 dự án, bằng

11,01 tỷ USD (vốn trong nƣớc 2,2 tỷ kíp). Nhìn chung, vốn nƣớc ngoài đã

góp phần trong việc sản xuất hàng hóa, thúc đẩy tăng trƣởng và chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, da dạng hóa và khuyến khích lĩnh vực kinh tế tƣ nhân phát

triển ngày càng tốt hơn.

2.1.1.3. Giai đoạn từ năm 2011 đến nay

Trong bối cảnh kinh tế thế giới vừa ra khỏi giai đoạn khó khăn nhất của

cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái và bƣớc đầu phục hồi, kinh tế của

-71-

Trung Quốc tăng trƣởng 10%, Ấn độ 9%, các nƣớc khu vực ASEAN, các

nƣớc đối tác và các tổ chức quốc tế còn tiếp tục ủng hộ và viện trợ cho các

nƣớc đang phát triển. Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2011 là năm đầu của

nhiệm vụ phát triển KT-XH 5 năm giai đoạn 2011-2015, diễn ra nhƣ sau: Tốc

độ tăng trƣởng GDP năm 2011 đạt 8,1% (Trong đó: Nông nghiệp 2,9%, công

nghiệp15,8% và dịch vụ 7,8%) và tốc độ tăng trƣởng 6 tháng đầu năm 2012

đạt 8% (Trong đó: Nông nghiệp 2,7%, công nghiệp 13,5% và dịch vụ 8,1%).

Bất chấp việc nền nông nghiệp bị tàn phá nặng nề do lũ lụt trong năm

2011, kinh tế ở CHDCND Lào vẫn tăng trƣởng, tốc độ gia tăng mạnh mẽ nhất

khu vực. Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) nhận định tốc độ tăng trƣởng

đáng kinh ngạc của đất nƣớc chủ yếu phụ thuộc vào việc mở rộng các lĩnh

vực kinh tế quan trọng, đặc biệt là thủy điện, khai khoáng và dịch vụ, chiếm

khoảng 80% vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI).

Cơ cấu ngành kinh tế nhƣ: Năm 2011, ngành nông lâm nghiệp chiếm

27,9%, công nghiệp chiếm 27% và dịch vụ chiếm 39,2% và 6 tháng đầu năm

2012, ngành nông lâm nghiệp chiếm 26,7%, công nghiệp chiếm 28% và dịch

vụ chiếm 39,2%.

GDP bình quân đầu dân từ 1.217 USD năm 2011 tăng lên 1.355 USD 6

tháng đầu năm 2012.

Thu NSNN từ 13.155,16 tỷ kíp năm 2011 và ƣớc thực hiện 15.322,15

tỷ kíp năm 2012 (trong đó: Viện trợ 4.216,04 tỷ kíp).

Chi NSNN từ 15.981,25 tỷ kíp năm 2011 và ƣớc thực hiện 17.427,11 tỷ

kíp năm 2012.

Thâm hụt ngân sách từ 2.826,09 tỷ kíp và ƣớc thực hiện giảm 2.104,96

tỷ kíp năm 2012.

Dù có đƣợc tốc độ tăng trƣởng mạnh mẽ, ADB bày tỏ lo ngại về lạm

phát cao ở CHDCND Lào khi dự báo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của nƣớc này

-72-

chạm mức 9,8% trong tháng 5 và lạm phát trung bình cả năm là 7,6% (tăng

1,6% so với năm 2010). Tỷ lệ lạm phát 6 tháng đầu năm 2012 là 6,74% so với

cùng kỳ năm 2011 là 6,61%. Nếu so từng tháng một lạm phát có biến động từ

6,66% tháng 10/2011 tăng 7,93% tháng 11/2011; từ 7,72% tháng 12/2011

giảm còn 6,69% tháng 1/2012; từ 6,61% tháng 2/2012 giảm còn 5,33% tháng

3/2012. Nguyên nhân là do đà leo thang của giá thực phẩm và nhiên liệu nhập

khẩu cũng nhƣ sự tăng trƣởng của hoạt động tín dụng.

Về tỷ giá hối đoái đồng tiền kíp so với đồng tiền USD có giá tăng mạnh

từ 8.052,12/USD tháng 6 năm 2011 đến 8.027,8/USD tháng 6 năm 2012, tăng

0,19%. Nguyên nhân là do luồng tiền vốn nƣớc ngoài đổ vào đất nƣớc từ 2-3

năm trƣớc và cũng do đồng tỉền USD giảm giá trong thị trƣờng quốc tế vì tình

hình kinh tế Mỹ và vấn đề nợ đọng của Châu Âu.

Lƣợng tiền (M2), đến tháng 3/2012 tăng lên 15,05% so với tháng

9/2011 và tăng lên 25,31% so với cùng kỷ năm trƣớc, Nguyên nhân làm cho

lƣợng tiền (M2) tăng là Ngân hàng Trung ƣơng đã cung cấp vốn cho kinh tế

và tổ chức tài chính để thúc đẩy sản xuất hàng hóa và xóa đói giảm nghèo.

Thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở CHDCND Lào diễn ra trong bối cảnh

kinh tế của khu vực và quốc tế còn đang tình trạng khó khăn nhƣng các nƣớc

đối tác còn tiếp ủng hộ cho vay mƣợn và viện trợ nhằm thực hiện mục tiêu

Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) nhƣ: Ngành giáo dục, y tế và và khí tƣợng

thủy văn. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tăng từ 630 triệu USD năm

2011 đến 703 triệu USD năm 2012, tăng 11,6%. Đồng thời CHDCND Lào

cũng đã điều chỉnh các quy chế cản trở đầu tƣ nhằm tạo thuận lợi cho nhà đầu

tƣ ngày càng tốt hơn, đáng kể nhất là thực hiện cơ chế một cửa ở cơ quan

hành chính Nhà nƣớc để phục vụ đầu tƣ nhanh chóng và minh bạch thể hiện

việc thực hiện thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) trong và nƣớc

ngoài tăng từ 15.348,7 tỷ kíp năm 2011 đến 16.016 tỷ kíp năm 2012, tăng lên

-73-

4,35%. Năm 2011, CHDCND Lào đã mở cửa sàn giao dịch chứng khoán đầu

tiên, một bƣớc đi mà Nhà nƣớc hy vọng sẽ thu hút đƣợc nguồn vốn đầu tƣ

trong nƣớc và quốc tế, giúp biến đổi sự thịnh vƣợng của một trong những

quốc gia nghèo nhất Châu Á và chậm công nghiệp hoá.

2.1.2. Khái quát về đặc điểm xã hội ở CHDCND Lào

2.1.2.1. Đặc điểm về Dân số và Lao động

CHDCND Lào là một nƣớc có diện tích 236.800km2, tổng dân số

6.385.057 ngƣời có 3.196.392 nữ, dân số xếp thứ 8 trong khu vực ASEAN

năm 2011 và dự kiến 2012 dân số sẽ tăng 6.630 nghìn ngƣời, mật độ dân số trung bình là 27 ngƣời/km2, có 1 Thủ đô, 16 tỉnh, 144 huyện, 8.636 bản,

1.136.376 hộ gia đình. GDP bình quân đầu dân đạt 1.355 USD. Với kết cấu

dân số trẻ, tỷ lệ dân số từ 0-14 tuổi gấp 3 lần các nƣớc phát triển, dân số từ 65

tuổi trở lên rất ít, chỉ bằng khoảng 1/5-1/6 lần các nƣớc phát triển. Tuổi trung

bình dân số chỉ bằng 1/2 của các nƣớc phát triển. Nguyên nhân của tình trạng

này do tỷ lệ sinh con ở mức cao, tỷ lệ tử thấp, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên ở

CHDCND Lào là 2,1% gấp 2 lần của thế giới (thế giới là khoảng 1,3%). Tỷ lệ

nghèo là 22% /tổng dân cƣ, tỷ lệ hộ nghèo là 17% /tổng hộ gia đình, tỷ lệ dân

số biết chữ từ 15 tuổi trở lên đạt 84%, tỷ lệ dân số đƣợc dùng nƣớc sạch đạt

81%, cơ sở y tế có 6.485 đơn vị, trong năm 2012 đã đào tạo tay nghề lao động

đạt 44,3 nghìn ngƣời và sức lao động có việc làm đạt 55,36 nghìn ngƣời, tỷ lệ

thất nghiệp không quá 1%. Theo Liên hiệp quốc công bố năm 2011 chỉ số

phát triển con ngƣời (HDI) tăng đạt 0,524 xếp thứ 138/187 hạng chỉ số các

nƣớc trên thế giới, chủ yếu do tăng trƣởng kinh tế, còn những tiến bộ về y tế,

giáo dục diễn ra chậm và đóng góp ít cho chỉ số phát trỉển con ngƣời ở

CHDCND Lào.

Số dân tăng cũng là một yếu tố trong việc kích cầu kinh tế và làm kinh

tế tăng trƣởng. Ngƣợc lại, tốc độ dân số cao dẫn đến tốc độ tăng trƣởng lao

-74-

động lớn hơn so với khả năng tăng trƣởng việc làm và tình trạng thất nghiệp

trở thành vấn đề bức xúc của xã hội. Vì vậy, CHDCND Lào vẫn thể hiện là

nƣớc nghèo, mức sống của dân cƣ thấp so với nhiều nƣớc trong khu vực và

trên thế giới nhƣ: GDP/ngƣời còn thấp, đây là rào cản lớn cho sự phát triển

kinh tế, an sinh xã hội và làm giảm sút mức sống.

CHDCND Lào có 49 dân tộc dựa vào tính chất, đặc điểm ngôn ngữ,

văn hoá và hình thức sản xuất truyền thống nhƣ: Nhóm tộc Lào sống ở vùng

thấp chiếm khoảng 55% dân số cả nƣớc. Họ sống bằng nghề trồng lúa và chăn

nuôi, giữ vai trò lịch sử nhƣ một dân tộc trụ cột trong việc liên kết các nhóm

tộc Lào khác; nhóm tộc Lào sống ở vùng trung du chiếm khoảng 30% dân số.

Họ sống bằng phá rừng làm nƣơng. Nhóm tộc Lào sống ở vùng cao chiếm

khoảng 15% dân số. Họ sống bằng làm rẫy và chăn nuôi. Từ các nhóm bộ tộc

có đặc thù kinh tế, xã hội khác nhau nhƣng đều có quan hệ giao lƣu với nhau

thƣờng xuyên, các bộ tộc đã tập hợp thành một dân tộc Lào thống nhất và

dùng tiếng Lào là ngôn ngữ chính thức, tiếng Anh và tiếng Pháp là ngôn ngữ

thứ 2, đem nền văn hóa các bộ tộc hoà vào nền văn hoá chung phong phú đa

dạng của dân tộc Lào. Dân tộc Lào có tinh thần yêu quê hƣơng đất nƣớc Lào,

có lòng bao dung yêu thƣơng giúp đỡ lẫn nhau, yêu lao động, siêu năng cần

cù, yêu hoà bình, là một dân tộc có lịch sử vinh quang trong dựng nƣớc và

bảo vệ đất nƣớc.

Ở CHDCND Lào nông dân chiếm hơn 90% dân số và sản phẩm nông

nghiệp chiếm hơn 60% của GDP, sức lao động chƣa đƣợc khai thác và sử

dụng một cách thích đáng vào sản xuất. Những năm gần đây, tuy số lao động

trong ngành công nghiệp và thƣơng mại đã bắt đầu có sự thay đổi lớn nhƣng

về mặt chất lƣợng trình độ văn hoá kỹ thuật tay nghề còn nhiều hạn chế. Công

tác giáo dục đào tạo chƣa thành chiến lƣợc và quan tâm đúng mức từ phía

Nhà nƣớc, năng lực quản lý kinh doanh còn non yếu. Tất cả những điều đó là

-75-

một trong những nguyên nhân cản trở việc mở rộng và nâng cao hiệu quả sản

xuất kinh doanh, tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại.

2.1.2.2. Đặc điểm về tâm lý xã hội

Nhân dân các bộ tộc Lào đã có lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc hàng

nghìn năm. Nhƣng lịch sử chính thức của CHDCND Lào đƣợc ghi thành văn

bản thì mới bắt đầu vào thế kỷ XIV sau khi đất nƣớc Lào đƣợc thống nhất

dƣới triều đại vua Pha Ngùm với tên gọi Vƣơng Quốc Lạn Xạng (triệu con

voi), với 68 tộc ngƣời cơ sở tâm lý xã hội phổ biến là dựa trên đạo Phật đã

phát triển, đạo phật là Quốc đạo chiếm 67% dân số; thiên chúa giáo chiếm

1,5% dân số; các tôn giáo khác và chƣa xác định 31,5% tồn tại và đƣợc nhân

dân Lào kính trọng. Phật giáo đã thấm sâu vào tƣ tƣởng tình cảm và ý thức

của nhân dân Lào để tạo nên một nền văn hóa dân tộc Lào thống nhất, vừa

mang sắc thái bình yên của ngƣời Lào. Phật giáo có ảnh hƣởng sâu sắc trong

đời sống của ngƣời Lào, từ nếp sống trong gia đình đến sự ứng xử xã hội và

hoạt động kinh tế. Triết lý đạo Phật khuyên con ngƣời nên sống bình thƣờng,

đơn giản, không nên tham lam, cần cù và dựa vào bản thân mình và tạo cho

đời sau tốt hơn. Đức tính vốn có đó của dân Lào rất phù hợp và mang tính

nhân văn, nhƣng cũng chính đặc điểm này ảnh hƣởng không nhỏ đến kinh tế

hàng hoá, thị trƣờng. Tâm lý tự thoả mãn trong sản xuất và tiêu dùng ảnh

hƣởng đến tăng trƣởng; nhiều nguồn lực, tài nguyên chậm đƣợc khai thác.

Từ những đặc điểm vị trí đã nêu trên đều chứng tỏ rằng những điều đó

có nhân tố đặc trƣng ảnh hƣởng đến sự tăng trƣởng KT-XH của đất nƣớc nói

chung và đối với việc đổi mới cơ cấu chi NSNN nói riêng. Cùng với sự nỗ lực

thực hiện chiến lƣợc chính sách đổi mới kinh tế, ổn định chính trị, kiện toàn

tổ chức do Đảng và Nhà nƣớc đề ra, việc cải cách đổi mới quản lý chi NSNN

ở CHDCND Lào sẽ góp phần không nhỏ vào sự nghiệp củng cố về chính trị

và KT-XH ở đất nƣớc Lào có bao nhiêu nguồn tài nguyên phong phú và quý

-76-

giá. Sự giàu có ấy cùng với sự đoàn kết thƣơng yêu nhau, tinh thần lao động

cần cù dũng cảm và sáng tạo của nhân dân các bộ tộc Lào, là điều kiện hết sức

thuận lợi để xây dựng đất nƣớc Lào phồn vinh và xã hội chủ nghĩa.

2.2. TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NSNN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KT-

XH Ở CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN 2001-2012

2.2.1. Thực trạng bố trí cơ cấu chi ngân sách Nhà nƣớc ở CHDCND Lào

giai đoạn 2001-2012

Công cuộc đổi mới từ năm 1986 của Đảng NDCM Lào đã có đƣợc

những thành tựu to lớn nhƣ: Tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định,

nền kinh tế đạt tốc độ tăng trƣởng, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng

hƣớng. Nền kinh tế bƣớc đầu có tích lũy, cơ sở vật chất đƣợc tăng cƣờng,

nhiều vấn đề xã hội đƣợc giải quyết, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện ngày

càng tốt hơn. Với vị trí địa lý đất nƣớc có nhiều hạn chế, là một nƣớc không

có biển, không tạo điều kiện thuận lợi về giao lƣu quốc tế nhƣng CHDCND

Lào có nguồn tài nguyên phong phú về sông suối và khoáng sản có đầy đủ

điều kiện để phát triển đất nƣớc và hội nhập quốc tế. Vì vậy, cơ cấu chi

NSNN cũng có những chuyển biến tích cực và thích ứng với đặc điểm xã hội

và cơ chế kinh tế mới làm cho quy mô NSNN tăng nhanh và liên tục đảm bảo

phân bổ hiệu quả hơn giữa các loại hình chi tiêu trong những giai đoạn 2001-

2012 và mang lại những kết quả khả quan. Theo nội dung kinh tế, chi NSNN

bao gồm các khoản chi nhƣ: Chi tiêu dùng thƣờng xuyên (đảm bảo an ninh,

quốc phòng và các hoạt động bộ máy của Nhà nƣớc); chi đầu tƣ phát triển; chi

trả nợ (gốc, lãi…); chi dự phòng và chi khác (dự trữ, viện trợ, trợ giá,…)

Trong giai đoạn 2001-2012, tổng chi NSNN đạt 104.396,7 tỷ kíp, tƣơng

ứng bình quân đạt 22,78% GDP. Giai đoạn này, chi NSNN ở CHDCND Lào

có diễn biến nhƣ sau:

-77-

2.2.1.1. Về chi thường xuyên

- Giai đoạn 2001-2005: Tổng chi thƣờng xuyên chiếm tỷ trọng 32,78%

trong tổng cơ cấu chi NSNN bằng 6,42% GDP, nhìn chung trong giai đoạn

này các khoản chi thƣờng xuyên có xu hƣớng tăng dần hàng năm từ 6,04%

GDP năm 2001 lên 7,42% GDP năm 2005, việc tăng chi thƣờng xuyên giai

đoạn này do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu là

do Nhà nƣớc đã tăng biên chế và điều chỉnh hệ số tiền lƣơng cơ bản, phụ cấp

từ 1.000 kíp năm 2002 lên 1.300 kíp năm 2003 và năm 2005 tăng 1.500 kíp.

Đây là khoản chi để đảm bảo chi cần thiết cho sinh hoạt của cán bộ, công viên

chức Nhà nƣớc. Song hành với sự điều chỉnh hệ số tiền lƣơng, quy chế, định

mức và tiêu chuẩn chi hành chính Nhà nƣớc do Bộ Tài chính CHDCND Lào

quy định cũng đƣợc điều chỉnh liên tục cho thích ứng với đặc điểm KT-XH

đổi mới theo từng giai đoạn.

- Giai đoạn 2006-2010: Tỷ trọng chi thƣờng xuyên bình quân hàng

năm trong tổng cơ cấu chi NSNN đạt 40,93%, bằng 9,15% GDP. Trong giai

đoạn này việc bố trí cơ cấu chi thƣờng xuyên trong tổng chi NSNN có diễn

biến tăng dần, từ 37,86% bằng 7,96% GDP năm 2006 lên tới 47,94% bằng

10,64% GDP năm 2009 tăng gấp 1,27 lần, sau đó lại giảm xuống còn 38,84%

bằng 10,03% GDP năm 2010.

Thực tế số chi thƣờng xuyên, kể cả tiền lƣơng và tính chất lƣơng trong

từng năm đều tăng song hành với sự điều chỉnh hệ số tiền lƣơng từ 1.800 kíp

năm 2006 lên 2.000 kíp năm 2007; Năm 2008 là 2.500 kíp lên 3.000 kíp năm

2009. Đây là khoản chi để đảm bảo chi cần thiết cho sinh hoạt của cán bộ,

công viên chức Nhà nƣớc, đồng thời Chính phủ đang thực hiện Luật NSNN

sửa đổi bổ sung số 02/QH, ngày 26/12/2006; Quyết định số 35/TTCP, ngày

26/04/2010 về trợ cấp chức vụ hành chính Nhà nƣớc; Thông tƣ quy chế, tiêu

chuẩn, định mức chi tiêu công số 008/BTC năm 2010 trƣớc đây là số

-78-

2348/BTC năm 2008 và Mục lục NSNN năm 2009 sửa đổi bổ sung theo quyết

định số 2983/BTC, ngày 17/11/2009 và Chỉ thị của Thủ tƣớng Chính Phủ số

88/TTCP, ngày 11/09/2008 về việc điều chỉnh hệ số tiền lƣơng cơ bản, tiền

trợ cấp và học bổng,… nhất là đã thành công thí điểm ở 3 ngành dọc nhƣ:

Kho bạc Quốc gia, Hải quan, Thuế; trong 3 Tỉnh là Sa Vắn Na Khết, Khăm

Muôn, Bo Ly Khăm Xay; và đang thí điểm tại thủ đô Viêng Chăn và tỉnh

Viêng Chăn. Những động thái trên đã làm cho cơ cấu chi thƣờng xuyên của

NSNN cũng thay đổi theo. Nếu so với các nƣớc láng giềng nhƣ: Việt Nam,

Thái Lan và các nƣớc trong khu vực và thế giới thì các khoản chi thƣờng

xuyên ở CHDCND Lào vẫn còn ở mức thấp và trong những năm tới chi

thƣờng xuyên ở CHDCND Lào sẽ tăng lên để phù hợp với công cuộc đổi mới

nhƣng trên cơ sở tiết kiệm và hiệu quả nhất.

- Giai đoạn từ 2011 đến nay: Tỷ trọng chi NSNN có diễn biến giảm

nhẹ, từ 39,09% tổng cơ cấu chi NSNN bằng 10,19% GDP năm 2011, xuống

còn 38,69% tổng cơ cấu chi NSNN bằng 9,88% GDP năm 2012. Tình hình

chi thƣờng xuyên từ năm 2011 đến năm 2012 là hai năm đầu thực hiện nhiệm

vụ phát triển KT-XH giai đoạn 2011-2015 đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng,

CHDCND Lào đã cải cách tổ chức theo Nghị quyết của Quốc hội lần thứ VII

số 10/QH, ngày 24/06/2011 về cơ cấu tổ chức của Chính phủ bao gồm 18 Bộ

và 3 cơ quan ngang bộ, đồng thời Lào đang chuẩn bị để trở thành thành viên

Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) và việc liên kết kinh tế khu vực ASEAN

trong năm 2015 hay còn gọi là Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Để chuẩn

bị cho các sự kiện lớn trên, chi thƣờng xuyên ở CHDCND Lào cũng có những

đổi mới trong cơ cấu cũng nhƣ trong các chính sách về tiền lƣơng và các

khoản mang tính chất lƣơng. Đặc biệt là chính sách điều chỉnh tiển lƣơng tối

thiểu và phụ cấp, từ 3.500 kíp năm 2011 tăng mạnh lên 4.800 kíp năm 2012,

dự kiến tăng lên 6.700 kíp năm 2013, 9.300 kíp năm 2014; và phụ cấp là

-79-

760.000 kíp/biên chế/tháng, cùng các khoản trợ cấp chức vụ khác theo Nghị

định số 221/NĐ-CP ngày 30/05/2012 về thực hiện lƣơng và phụ cấp theo biên

chế năm 2013-2015 và Nghị định số 177/NĐ-CP ngày 05/04/2010 về quy

biên chế và cơ cấu lƣơng giáo viên. Đây là khoản chi để đảm bảo chi cần thiết

cho sinh hoạt của cán bộ, công viên chức nhà nƣớc trong xu thế hội nhập kinh

tế quốc tế.

Trong tổng chi thƣờng xuyên còn có một khoản chi không kém quan

trọng đó là chi bổ sung KT-XH hàng năm. Khoản chi này không biến động

tăng gỉảm nhiều qua các năm. Do các nguyên nhân tác động từ bên ngoài nhƣ:

Giá xăng dầu trên thị trƣờng thế giới, thị trƣờng tiền tệ liên tục biến động,

điều đó tác động đến thực hiện kế hoạch và dự toán, làm cho giá nguyên vật

liệu cơ bản tăng lên, làm ảnh hƣởng tới các mặt hoạt động sản xuất kinh

doanh và tác động tới đời sống nhân dân, không tạo điều kiện thuận lợi cho

các ngành sản xuất và không kích thích đƣợc tiêu dùng, thậm chí ảnh hƣởng

đến thu nhập không đạt kế hoạch.

Trên thực tế, tổng số chi thƣờng xuyên hàng năm ở CHDCND Lào đều

tăng lên hàng năm trong tổng chi NSNN. Trong nhiệm vụ giai đoạn phát triển

KT-XH giai đoạn 2011-2015, Chính phủ CHDCND Lào đã ban hành Chỉ thị

số 16/CT-TT, ngày 15/06/2012 của Thủ tƣớng về việc thí điểm Tỉnh trở thành

đơn vị chiến lƣợc, Huyện trở thành đơn vị vững mạnh mọi mặt và Bản trở

thành đơn vị phát triển. Đây là một công cuộc cải cách về mặt tổ chức hành

chính Nhà nƣớc khá lơn và sẽ kéo theo sự tăng lên tƣơng đối cao trong chi

thƣờng xuyên ở CHDCND Lào, đồng thời, không chỉ riêng tỷ trọng chi

thƣờng xuyên tăng lên mà kể cả các khoản chi khác, đặc biệt là chi đầu tƣ

phát triển cũng sẽ tăng mạnh theo.

2.2.1.2. Chi đầu tư phát triển

-80-

- Giai đoạn 2001-2005: Tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển giai đoạn này có

diễn biến nhƣ: Năm 2001 chi đầu tƣ chiếm 58,39% trong tổng chi NSNN

bằng 13,67% GDP; năm 2002 giảm xuống còn 53,53% bằng 10,86% GDP;

năm 2003 chi đầu tƣ lại tăng lên 57,28% bằng 11,74% GDP; năm 2005 giảm

xuống còn 43,34% bằng 8,22% GDP, tính bình quân chiếm 51,03% bằng

10,29% GDP. Nguyên nhân của diễn biến tăng giảm tỷ trọng chi đầu tƣ phát

triển giai đoạn 2001-2005 là do tác động từ tình hình chính trị, kinh tế thế giới

và khu vực tiếp tục bất ổn định, nhất là chiến tranh ở Irắc, khủng bố ở Trung

Đông đã ảnh hƣởng đến giá xăng dầu trên thị trƣờng; thậm chí đến đầu năm

2003 lại bùng phát dịch cúm gà, bệnh SARS tác động mạnh mẽ đối với kinh

tế khu vực Châu Á, nhất là một số nƣớc của khối ASEAN và Trung Đông Á,

làm cho kinh doanh hàng không, du lịch, thƣơng mại và đầu tƣ trong khu vực

này giảm xuống tới 40%. Từ tình hình đó đã làm cho tăng trƣởng kinh tế thế

giới và khu vực giảm 1-2%, nền kinh tế ở CHDCND Lào giai đoạn này vẫn

chƣa thoát khỏi những ảnh hƣởng từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-

2001, lại phải chịu ảnh hƣởng từ tình hình bất ổn kinh tế, chính trị thế giới

giai đoạn 2001-2005. Vì vậy, về tăng trƣởng kinh tế ở CHDCND Lào giai

đoạn này nhìn chung là chậm, các chi tiêu vĩ mô các năm liên tục không đạt

theo kế hoạch. Đây là các nguyên nhân chính tác động đến việc thực hiện kế

hoạch phát triển KT-XH và dự toán NSNN ở CHDCND Lào. Cụ thể Chính

phủ phải điều chỉnh kế hoạch NSNN năm 2004-2005 nhƣ: Thu nội địa từ

3.600 tỷ kíp xuống 3.467 tỷ kíp, giảm 3% và chi NSNN từ 6.007 tỷ kíp xuống

5.807 tỷ kíp, giảm 3%. Sự điều chỉnh nhƣ vậy tác động đối với các chỉ tiêu

phấn đấu đã quy định trong kế hoạch nhƣ: Kế hoạch đầu tƣ và tỷ lệ tăng

trƣởng của GDP.

- Giai đoạn 2006-2010: Tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển có giảm còn

44,74% trong tổng chi NSNN năm 2006 bằng 9,40% GDP; năm 2009 giảm dần

-81-

còn 31,71% bằng 7,04% GDP; năm 2010 tăng mạnh lên 45,79% bằng 11,83%

GDP, bình quân giai đoạn này tỷ trọng chi đầu tƣ ở mức 40,31% bằng 9,05%

GDP. Trong giai đoạn 2006-2010 Quốc hội đã thông qua kế hoạch phát triển

KT-XH 5 năm bị chậm lại 1 năm, dẫn đến việc triển khai những chƣơng trình

quốc gia và các dự án gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, CHDCND Lào còn chịu

ảnh hƣởng nặng nề bởi các thiên tai ở năm 2008 và năm 2009, bệnh dịch

H1N1, điều này tác động khá nhiều đến sự phát triển của ở CHDCND Lào.

Khủng hoảng tài chính thế giới đã tác động tới thành phần kinh doanh nhất là

xuất khẩu, đầu tƣ của một số dự án lớn làm cho các chƣơng trình và dự án thiếu

nguồn vốn. Nhƣng trƣớc những khó khăn trên, CHDCND Lào đã đƣợc nhiều

nƣớc trên thế giới và trong khu vực ủng hộ mạnh mẽ về nhiều mặt để vƣợt qua

khó khăn, vững bƣớc phát triển và đã đạt đƣợc các kết quả khả quan, tạo tiền

đề cho sự phát triển KT-XH giai đoạn tiếp theo.

- Giai đoạn 2011 đến nay: Đây là năm thứ hai thực hiện nhiệm vụ phát

triển KT-XH 5 năm lần thứ VII giai đoạn 2011-2015, đồng thời cũng là năm

đầu tiên trong việc triển khai Nghị quyết lần IX của Đảng NDCM Lào về 4

khâu đột phá: (1). Tƣ tƣởng; (2). Phát triển nhân lực và chất lƣợng giáo dục;

(3). Thể chế; (4). Xóa đói giảm nghèo. Trong giai đoạn này tỷ trọng chi đầu

tƣ phát triển không biến động nhiều nhƣ: Năm 2011 tỷ trọng chi đầu tƣ phát

triển chiếm 43,46% tổng chi NSNN bằng 11,33% GDP; năm 2012 tăng lên

44,3% bằng 11,32% GDP; dự kiến năm 2013 thực hiện cơ cấu lại chi NSNN

theo hƣớng ƣu tiên tăng đầu tƣ cho con ngƣời, an sinh xã hội; rà soát, sắp xếp

lại chi đầu tƣ công; nâng cao hiệu quả chi NSNN. Nghiên cứu xây dựng

khuôn khổ pháp lý về đầu tƣ công trung hạn.

2.2.1.3. Về Chi trả nợ của Chính phủ

Các khoản chi trả nợ là những khoản chi đã đƣợc Luật NSNN ở

CHDCND Lào quy định khá rõ và có ngay từ đầu trong kế hoạch NSNN hàng

-82-

năm để đảm bảo uy tín với cộng đồng quốc tế và tăng cƣờng các quan hệ

quốc tế.

- Trong giai đoạn 2001-2005: Tỷ trọng chi trả nợ trong tổng chi

NSNN có diễn biến nhƣ sau: Năm 2001 tỷ trọng chi trả nợ chiếm 13,73%

trong tổng chi NSNN bằng 3,21% GDP; năm 2003 giảm xuống còn 10,89%

bằng 2,23% GDP; sau đó bắt đầu tăng lên 18,19% bằng 2,97% GDP năm

2004 và giảm nhẹ xuống mức 17,54% bằng 3,33% GDP vào năm 2005, bình

quân giai đoạn này chi trả nợ chiếm 15,02% bằng 2,95% GDP.

- Giai đoạn 2006-2010: Tỷ trọng chi trả nợ của năm 2006 có tăng

nhẹ 14,25% trong tổng chi NSNN bằng 2,99% GDP; năm 2008 tăng lên

15,6% bằng 3,37% GDP; sau đó năm 2010 giảm còn 12,23% bằng 3,16%

GDP, bình quân giai đoạn này chi trả nợ chiếm 14,35% bằng 3,19% GDP.

Trong giai đoạn 2006-2010, một biến đổi rất tích cực trong điều hành

hoạt động NSNN, đó là gần nhƣ Chính phủ không dùng công cụ tín dụng

ngân hàng và phát hành trái phiếu để tài trợ thâm hụt NSNN ở CHDCND

Lào, mà sử dụng các nguồn vay trong nƣớc và vay nợ nƣớc ngoài để cân đối

NSNN. Bên cạnh đó, các khoản vay nợ nƣớc ngoài chủ yếu là các khoản vay

nợ có kì hạn và đều đƣợc hƣởng lãi suất ƣu đãi, thời gian trả nợ dài.

- Giai đoạn 2011 đến nay: Năm 2011, Chính phủ đã bố trí chi trả nợ

14,33% trong tổng chi NSNN bằng 3,74% GDP; năm 2012 tăng nhẹ 14,76%

bằng 3,77% GDP. Trong quản lý nợ, Chính phủ đã tổng hợp, bố trí và chi tiết

cụ thể các khoản nợ từ các dự án đầu tƣ, nợ hành chính và nợ khác trong cơ

cấu nợ hàng năm nhất là bố trí trả nợ cho các khoản nợ kéo dài, bố trí cho

những các dự án có hiệu quả kinh tế cao. Hàng năm chính phủ sử dụng nguồn

trả nợ công bằng nguồn trích từ 35% trong tổng chi đầu tƣ trong nƣớc; 50% từ

các khoản thƣởng vƣợt thu NSNN trên các địa bàn; biến tài sản thành vốn;

phát hành trái phiếu. Và đặc biệt năm từ năm 2012 đến nay, Chính phủ đã đề

xuất giải pháp quản lý nợ công bằng việc mua nợ có chiết khấu (đối với các

-83-

khoản nợ từ các dự án đầu tƣ cơ sở hạ tầng chiết khấu 20% và các khoản nợ

từ các dự án đầu tƣ đƣờng xã, thủy lợi chiết khấu 30%). Đây là những nét mới

trong chính sách quản lý nợ công của Chính phủ ở CHDCND Lào nhằm

hƣớng tới giải quyết những khoản nợ đọng lâu năm của đất nƣớc.

2.2.1.4. Chi dự phòng và chi khác

Để đối phó với rủi ro có thể xảy ra góp phần vào việc thiết lập lại sự ổn

định của nền kinh tế, quỹ dự phòng đƣợc phép lập ra ở cấp trung ƣơng và cấp

tỉnh (hoặc thành phố trực thuộc trung ƣơng). Nhờ quỹ này những trục trặc về

KT-XH mang tính cục bộ ở CHDCND Lào dễ dàng đƣợc xử lý, đồng thời

không làm tăng thêm mức thâm hụt NSNN. Chi dự phòng và chi khác đƣợc

sử dụng trong những nhu cầu đột xuất, khắc phục thiên tai, dịch bệnh và

khuyến khích, phát triển, tạo thu nhập. Giai đoạn 2001-2012, các khoản chi

dự phòng và chi khác có diễn biến nhƣ sau:

- Giai đoạn 2001-2005: Năm 2001, tỷ trọng chi dự phòng và chi

khác có biến động giảm dần từ 2,07% trong tổng chi NSNN bằng 0,49%

GDP giảm xuống còn 0% năm 2005; tính bình quân giai đoạn này đạt

1,17% bằng 0,24% GDP.

- Giai đoạn 2006-2010: Tỷ trọng chi dự phòng và chi khác có biến

động tăng giảm nhƣ: Năm 2006 tăng từ 3,15% trong tổng chi NSNN bằng

0,66% GDP lên 6,17% tổng chi NSNN bằng 1,37% GDP năm 2009; năm

2010 giảm còn 3,13% bằng 0,81% GDP, tính bình quân đạt 4,42% bằng

0,98% GDP.

- Giai đoạn 2011 đến nay: Chi dự phòng và chi khác cũng diễn ra giảm

nhẹ từ 3,11% tổng chi năm 2001 bằng 0,81% GDP xuống còn 2,24% tổng chi,

bằng 0,57% GDP năm 2012.

-84-

Bảng 2.1: Cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012

(Đơn vị: Tỷ lệ % )

CHỈ TIÊU 2001 2002 2003 2004 2005 BQ 2006 2007 2008 2009 2010 BQ 2011 2012

TỔNG CHI (%/GDP) 23,41 20,28 20,49 16,31 18,97 19,89 21,02 21,27 21,58 22,20 25,82 22,38 26,07 25,55

Chi thƣờng xuyên 6,04 6,17 6,21 6,24 7,42 6,42 7,96 8,32 8,82 10,64 10,03 9,15 10,19 9,88

T ỷ

Chi trả nợ 3,21 2,99 2,23 2,97 3,33 2,95 2,99 3,29 3,37 3,15 3,16 3,19 3,74 3,77

Chi đầu tƣ phát triển 13,67 10,86 11,74 6,95 8,22 10,29 9,40 8,90 8,09 7,04 11,83 9,05 11,33 11,32

t r ọ n g / G D P

Chi DP + chi khác 0,49 0,26 0,31 0,16 0,24 0,66 0,76 1,30 1,37 0,81 0,98 0,81 0,57

TỔNG CHI (%) 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100

Chi thƣờng xuyên 25,80 30,43 30,33 38,24 39,12 32,78 37,86 39,12 40,89 47,94 38,84 40,93 39,09 38,69

C ơ c ấ u c h

i

Chi trả nợ 13,73 14,73 10,89 18,19 17,54 15,02 14,25 15,46 15,60 14,18 12,23 14,35 14,33 14,76

N D

Chi đầu tƣ 58,39 53,53 57,28 42,59 43,34 51,03 44,74 41,84 37,46 31,71 45,79 40,31 43,46 44,30

N S N N

Chi DP + chi khác 2,07 1,30 1,50 0,99 1,17 3,15 3,58 6,04 6,17 3,13 4,42 3,11 2,24

t h e o

(Nguồn: Vụ NSNN, Bộ Tài chính CHDCND Lào )

-85-

2.2.2.Tác động của cơ cấuchi NSNN tới sự phát triển KT-XH ở CHDCND

Lào giai đoạn 2001-2012

2.2.2.1. Tác động của cơ cấu chi NSNN tới đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

KT-XH

CHDCND Lào với vị trí địa lý không giáp biển, toàn bộ diện tích đất

nƣớc nằm cô lập giữa các quốc gia, với một cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn, lạc

hậu. Điều này đã đặt ra một hạn chế đối với sự phát triển KT-XH ở

CHDCND Lào. Nhận thức rõ tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng đối với quá

trình phát triển KT-XH đất nƣớc, Chính phủ đã đƣa ra một chiến lƣợc phát

triển cơ sở hạ tầng đƣa đất nƣớc trở thành cầu nối liên kết giữa các nƣớc

ASEAN, khu vực tiểu vùng sông Mê Kông, và khu vực tam giác phát triển.

Chiến lƣợc này của Chính phủ đề cập đến tầm quan trọng của việc phát triển

cơ sở hạ tầng, đặc biệt là phát triển các hệ thống đƣờng giao thông, vận tải

khu vực, nhằm đạt đƣợc các mục tiêu phát triển KT-XH trong tầm nhìn đến

năm 2030, CHDCND Lào là thoát khỏi danh sách các nƣớc kém phát triển

và xóa đói giảm nghèo. Phát triển cơ sở hạ tầng đã đƣợc Chính phủ xác định

là quan trọng cho cả xóa đói giảm nghèo và phát triển khu vực kinh tế tƣ

nhân với những lý do sau:

Một là, tập trung vào xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông nhằm liên

kết giữa thị trƣờng tiêu thụ với khu vực sản xuất nông nghiệp, tạo liên kết

giữa ngƣời nông dân với nhu cầu thị trƣờng trong nƣớc ngày càng tăng, trong

đó quan trọng là thực hiện các mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

Hai là, cải thiện cơ sở hạ tầng hậu cần, đặc biệt là giao thông vận tải từ

các nhà máy đến các cảng; điều này rất quan trọng trong việc tăng cƣờng hiệu

quả kinh doanh, phát triển xuất khẩu và tăng trƣởng kinh tế.

Ba là, việc tạo ra nhiều sự lựa chọn đối với giao thông vận tải trong

chiến lƣợc phát triển cơ sở hạ tầng của đất nƣớc sẽ thúc đẩy tăng trƣởng và hỗ

trợ trong các chƣơng trình xóa đói giảm nghèo.

-86-

Trong giai đoạn 2001-2012, thực hiện chi NSNN ở CHDCND Lào

phục vụ đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng đạt 12.201,763 tỷ kíp, chiếm 26,85%

tổng chi đầu tƣ phát triển và chiếm 11,69% tổng chi NSNN bằng 2,66% GDP.

Trong cơ cấu chi đầu tƣ phát triển, bao gồm chi đầu tƣ ngoài nƣớc và

chi đầu tƣ trong nƣớc. Các khoản chi đầu tƣ ngoài nƣớc chủ yếu là cho vay và

tài trợ, chiếm phần lớn tổng chi đầu tƣ phát triển tính bình quân giai đoạn

2001-2012 chiếm tới 72,51% tổng chi đầu tƣ phát triển bằng 7,19% GDP. Đối

với các khoản chi đầu tƣ trong nƣớc, Chính phủ dành gần nhƣ toàn bộ để

phục vụ đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng trong nƣớc.

Bảng 2.2: Cơ cấu chi Đầu tƣ phát triển ở CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012

(Đơn vị: Tỷ lệ %)

Chi đầu tƣ phát triển

Đầu tƣ trong nƣớc

Đầu tƣ

TT

Năm

Tổng số

ngoài

Đầu tƣ

Tổng

Khác

nƣớc

XDCSHT

Tỷ trọng trên tổng chi đầu tƣ phát triển

100

57,92

42,08

41,29

0,79

1

2000-2001

100

48,35

51,65

50,97

0,68

2

2001-2002

100

59,37

40,63

40,35

0,29

3

2002-2003

100

65,80

34,20

34,00

0,19

4

2003-2004

100

80,78

19,22

18,89

0,33

5

2004-2005

100

87,04

12,96

12,83

0,13

6

2005-2006

100

84,00

16,00

15,94

0,06

7

2006-2007

100

81,11

18,89

18,70

0,19

8

2007-2008

100

65,77

34,23

33,83

0,40

9

2008-2009

100

73,31

26,69

26,00

0,69

10

2009-2010

100

73,43

26,57

25,85

0,73

11

2010-2011

100

72,15

27,85

26,28

1,57

12

2011-2012

100

72,51

27,49

26,85

0,64

Tổng cộng

-87-

Tỷ trọng trên tổng chi NSNN

1

2000-2001

58,39

33,82

24,57

24,11

0,46

2

2001-2002

53,53

25,88

27,65

27,28

0,37

3

2002-2003

57,28

34,00

23,28

23,1

0,16

4

2003-2004

42,59

28,03

14,56

14,48

0,08

5

2004-2005

43,34

35,01

8,33

8,19

0,14

6

2005-2006

44,74

38,94

5,80

5,74

0,06

7

2006-2007

41,84

35,14

6,69

6,67

0,02

8

2007-2008

37,46

30,39

7,08

7,00

0,07

9

2008-2009

31,71

20,86

10,85

10,73

0,13

10

2009-2010

45,79

33,57

12,22

11,91

0,32

11

2010-2011

43,46

31,91

11,55

11,23

0,32

12

2011-2012

44,30

31,97

12,34

11,64

0,70

43,54

31,57

11,97

11,69

0,28

Tổng cộng

Tỷ trọng trên GDP

1

2000-2001

13,67

7,92

5,75

5,64

0,11

2

2001-2002

10,86

5,25

5,61

5,53

0,07

3

2002-2003

11,74

6,97

4,77

4,74

0,03

4

2003-2004

6,95

4,57

2,38

2,36

0,01

5

2004-2005

8,22

6,64

1,58

1,55

0,03

6

2005-2006

9,40

8,18

1,22

1,21

0,01

7

2006-2007

8,90

7,47

1,42

1,42

0,01

8

2007-2008

8,09

6,56

1,53

1,51

0,02

9

2008-2009

7,04

4,63

2,41

2,38

0,03

10

2009-2010

11,83

8,67

3,16

3,07

0,08

11

2010-2011

11,33

8,32

3,01

2,93

0,08

12

2011-2012

11,32

8,17

3,15

2,97

0,18

9,92

7,19

2,73

2,66

0,06

Tổng cộng

( Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư CHDCND Lào )

-88-

Tính đến hết năm 2012, tổng chiều dài hệ thống đƣờng giao thông ở

CHDCND Lào dài 55.247 Km, tăng lên 1,63 lần so với năm 2005 chỉ dài

33.861 Km.

Bảng 2.3: Hệ thống đƣờng giao thông ở CHDCND Lào

(Đơn vị: Km)

TT

Loại đƣờng

1976

1985

1995

2005

2012

Tổng cộng

11.462

12.393

18.363

33.861 55.247

1

Đƣờng nhựa

1.427

2.350

2.446

4.586

7.246

2

Đƣờng rải sỏi

4.371

3.263

5.138 11.608 19.734

3

Đƣờng đất

5.664

6.780

10.779 17.667 28.267

Biểu đồ 2.1: Hệ thống đƣờng giao thông ở CHDCND Lào

(Nguồn: Tổng cục thống kê ở CHDCND Lào năm 2013)

Đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đã tạo điều kiện một cách

trực tiếp và gián tiếp cho các ngành thƣơng mại đầu tƣ phát triển, vận chuyển

hành khách và hàng hóa tăng lên, sản xuất nông lâm nghiệp phát triển, an

ninh quốc phòng ổn định và đảm bảo lƣu thông trong nƣớc đƣợc thông suốt.

-89-

Các cầu nối đƣờng bộ và đƣờng hàng không với các tiểu vùng cũng có những

bƣớc tiến khả quan. Giai đoạn này, CHDCND Lào đã hoàn thành và đƣa vào

sử dụng dự án bảo vệ bờ kè sông Mê Kông; dự án đầu tƣ xây dựng nhà máy

cung cấp nƣớc sạch ở bản Đông Mạc Khai; đang tổ chức thực hiện dự án phát

triển thị trấn giai đoạn 1; dự án cung cấp nƣớc và các dịch vụ vệ sinh thị trấn

giai đoạn 1; dự án cung cấp nƣớc sạch và các dịch vụ vệ sinh miền Bắc -

Trung và dự án cung cấp nƣớc sạch ở bản Chi Nai Mô. Đã hoàn thành thủy

điện sông Măng 3 trong năm 2005; thủy điện sông Lich 1,2; Dự án thủy điện

sông Ngừm 2, thủy điện sông Kha Man 3, dự án thủy điện sông Ngừm 5 và

thủy điện thác Sa Len; Dự án dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2013 nhƣ:

thủy điện sông Thơn Hin Bun mở rộng và thủy sông Song; Dự án dây điện

truyền tải miền Bắc, Trung, Nam, hoàn thành dự án dây diện ở 7 huyện của

tỉnh U Đôm Xay. Hoàn thành công trình thủy lợi nhƣ: Sông Tiến tỉnh Xay

Nha Bu Ly, bản Đông Phô Si thủ đô Viêng Chăn và đã sửa chữa các công

trình thủy lợi từ thiên tai và một số thủy lợi nhiều năm.

Bên cạnh đó, việc đầu tƣ cơ sở hạ tầng để đảm bảo phát triển các ngành

du lịch, nhất là những khách sạn và nhà nghỉ cũng tăng lên khả quan. Đối với

việc đầu tƣ về du lịch ở CHDCND Lào là tập trung đầu tƣ vào cơ sở hạ tầng

nhƣ: Cải thiện đƣờng đầu mối với các tỉnh, cải thiện việc vận chuyển đƣờng

thủy, đƣờng bộ và đƣờng hàng không, nâng cấp phƣơng tiện hiện đại trong hệ

thống vận chuyển, tăng thêm chuyến bay, mở rộng tuyến bay giữa các tỉnh,

tăng thêm các chuyến xe vận hành và có nhiều mức dịch vụ.

Hiện tại, CHDCND Lào đang tập trung vào các dự án cải tạo sân bay

tỉnh Luang Nam Tha; dự án đầu tƣ xây dựng đƣờng R3 (đây là con đƣờng đầu

mối nối với các nƣớc trong khu vực); dự án xây dựng quốc lộ 12, khánh thành

dự án cầu hữu nghị Lào - Thái nối giữa 2 tỉnh Sa vắn na khết và tỉnh Muc Đa

Han và một số đƣờng quốc lộ khác để hội nhập với các nƣớc láng giềng; làm

-90-

đƣờng vào các điểm du lịch và cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ việc du lịch,

giao lƣu, giao thƣơng giữa các nƣớc.

2.2.2.2. Tác động của cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào tới thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Thông qua chi NSNN, Nhà nƣớc tập trung các khoản chi NSNN cho ƣu

tiên phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ trên cơ sở định hƣớng nhƣ:

Giá trị sản lƣợng của ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm ƣu thế về tăng tỷ lệ

tƣơng đối, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP; giá trị sản lƣợng của ngành nông

nghiệp giảm tỷ lệ tƣơng đối nhƣng vẫn tăng lên tuyệt đối, chiếm tỷ trọng nhỏ

trong GDP, thời kỳ từ 2001-2012 có diễn biến nhƣ sau:

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu ngành kinh tế ở CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012

( Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư CHDCND Lào )

a.Giai đoạn 2001-2005

- Nông, lâm nghiệp: Trong 5 năm qua ngành nông lâm nghiệp có tốc

độ diễn biến giảm dần từ 51,1% GDP năm 2001 xuống còn 45% GDP năm

-91-

2005 với tốc độ bình quân hàng năm đạt 3,3% bằng 48,52% GDP. CHDCND

Lào đã chú trọng phát triển sản xuất nông nghiệp theo hƣớng chuyển từ nền

nông nghiệp tự nhiên sang sản xuất hàng hóa nhằm cung cấp nguyên liệu cho

các ngành chế biến ngày một tăng lên. Vì vậy, giá trị sản lƣợng nông nghiệp

bình quân hàng năm tăng lên ở mức 3,3%; sản lƣợng trồng trọt đến năm 2005

đã tăng lên khả quan so với cùng kỳ năm 2000, nhất là việc trồng cây công

nghiệp có giá trị kinh tế cao; về thủy lợi, đảm bảo cung cấp đủ nƣớc cho các

điểm nông nghiệp tăng từ 19.170 điểm năm 2000 lên 24.695 điểm vào cuối

năm 2004. Do đó, đã làm cho sản lƣợng thóc tăng từ 3,06 tấn/ha năm 2000

lên 3,6 tấn/ha năm 2005, sản lƣợng thóc năm 2005 đạt 2,56 triệu tấn, bình

quân đầu ngƣời đạt 457 kg/ngƣời; việc chăn nuôi gia súc giai đoạn này phát

triển khá nhanh vì đã có phƣơng pháp chăn nuôi sử dụng trang trại hay công

nghiệp chăn nuôi gia súc; việc khai thác gỗ trong 5 năm qua đã giảm từ mức khoảng 300 m3 năm 2001 xuống mức 150 m3 năm 2005.

- Công nghiệp: Có tốc độ diễn biến tăng từ 9,4% chiếm 23,2% GDP

năm 2001 lên 15,1% chiếm 28,8% GDP năm 2005 với tốc độ bình quân hàng

năm đạt 11,62% chiếm 25,62% GDP. Trong giai đoạn 2001-2005 sản lƣợng

công nghiệp có bƣớc tiến triển mạnh với tốc độ tăng trƣởng hàng năm đạt

11,62% vƣợt chỉ tiêu đề ra khoảng 10-11%, trong đó: Khoáng sản tăng

33,87%; chế biến lƣơng thực tăng 9,17%; thuốc lá tăng 20,75%; dệt may tăng

20,11%; may mặc tăng 11,15%; giầy dép tăng 7,75%; chế biến gỗ tăng

1,17%. Nhìn chung, vốn đầu tƣ vào ngành công nghiệp ngày càng tăng lên

nhất là đầu tƣ nƣớc ngoài, còn đầu tƣ tƣ nhân trong nƣớc có tiến độ chậm, sản

phẩm chủ yếu của công nghiệp có tỷ lệ tăng cao so với cùng kỳ năm 2000

nhất là than đá, muối, bia, nƣớc ngọt, thuốc lá, thức ăn chăn nuôi, xà phòng,

giầy da, thuốc chữa bệnh, sản phẩm nhựa, nội thất, quần áo, gạch, xi măng,

thiết bị sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, đã khai thác mỏ vàng ở Tỉnh Sa vắn

-92-

na khết từ năm 2003, mỗi năm đạt đƣợc 6 tấn vàng, riêng năm 2005 đạt đƣợc

6,5 tấn vàng. Những sản phẩm của công nghiệp đó có khả năng đáp ứng đƣợc

nhu cầu cho các ngành kinh tế trong nƣớc, thay thế đƣợc một số mặt hàng

nhập khẩu nhất là điện, sát thép, xi măng,..và một số hàng công nghiệp xuất

khẩu khá nhiều chủ yếu là điện, khoáng sản, dệt may và sản phẩm gỗ. Riêng

ngành công nghiệp khai thác khoáng sản đã phát triển mạnh mẽ đến năm 2005

có 90 nhà đầu tƣ đang khai thác khoáng sản, trong đó có 34 nhà đầu tƣ nƣớc

ngoài và có 56 nhà đầu tƣ trong nƣớc.

Đi đôi với các sản phẩm nêu trên còn có sản phẩm thủ công cũng

không kém tăng nhanh trong nƣớc có cơ sở công nghiệp thủ công tăng từ

23.574 đơn vị năm 2001 lên 26.200 đơn vị năm 2005. CHDCND Lào đã bắt

đầu thành lập khu công nghiệp ở Thủ đô Viêng Chăn, khu kinh tế đặc biệt tại

tỉnh Savannakhet đây đã tạo cơ hội thuận lợi trong việc thu hút vốn đầu tƣ

trong và nƣớc ngoài.

- Dịch vụ: Ngành dịch vụ có tốc độ diễn biến tăng từ 5,5% chiếm

25,7% GDP năm 2001 lên 6,9% chiếm 26,2% GDP năm 2005 với tốc độ bình

quân hàng năm đạt 6,52% chiếm 25,86% GDP. Ngành dịch vụ đã có bƣớc

tiến triển có khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và phục vụ đời

sống của nhân dân khá tốt, các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đƣợc phát triển

về số lƣợng và chất lƣợng ngày tốt hơn. Trong giai đoạn 2001-2005, tổng giá

trị bán lẻ và thu nhập từ dịch vụ bình quân hàng năm tăng 10%. Tốc độ tăng

trƣởng giá trị tăng thêm trong ngành dịch vụ bình quân hàng năm đạt 6,52%

thấp hơn chỉ tiêu đề ra 8-9%/năm. Về hoạt động thƣơng mại và dịch vụ của

những doanh nghiệp đến cuối năm 2003 có 61,2 nghìn đơn vị đã đăng ký kinh

doanh. Kết cấu cơ sở hạ tầng của ngành thƣơng mại cải thiện tốt hơn, trong

nƣớc có 209 chợ lớn, có 11 chợ biên giới cửa khẩu quốc tế, có 28 chợ biên

giới cửa khẩu truyền thống. Mặc dù 3 năm đầu thực hiện nhiệm vụ phát triển

-93-

KT-XH không thuận lợi do ảnh hƣởng của chiến tranh ở IRắc và bệnh SARS,

sau đó từ năm 2004 đến cuối giai đoạn 2001-2005 tình hình trong và nƣớc

ngoài đƣợc hồi phục rồi tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch phát triển

mạnh cơ sở hạ tấng nhƣ: Số lƣợng khách sản và nhà nghỉ tăng từ 468 năm

2000 lên 887 năm 2003 và năm 2005 tăng 1.200. Đến năm 2005 có 364 điểm

du lịch để phục vụ du khách trong và nƣớc ngoài. Trong 5 năm qua số lƣợng

du khách đạt 4 triệu du khách, bình quân hàng năm du khách vào CHDCND

Lào đạt hơn 800 nghìn ngƣời. Tổng thu nhập từ ngành du lịch hàng năm đạt

hơn 100 triệu USD. Đặc biệt, là tỷ lệ du khách Châu Âu đã tăng từ 11,7%

năm 2000 lên 14,8% năm 2003 và tăng lên 16,5% năm 2005. CHDCND Lào

đã có chính sách mở rộng và khuyến khích đầu tƣ vào ngành du lịch ngày

cáng tăng lên để thực hiện phƣơng châm trong việc phát triển ngành du lịch

trở thành 1 trong 8 ngành kinh tế mũi nhọn, đã mở rộng quan hệ du lịch với

các nƣớc trong thế giới, đặc biệt là năm 2005 các nƣớc ASEAN đƣợc miễn

Visa cho du khách vào CHDCND Lào. Đã nâng cấp 13 cửa khẩu biên giới

truyền thống trở thành cửa khẩu quốc tế và cấp Visa cho nƣớc ngoài tại biên

giới, CHDCND Lào tổ chức Hội chợ thƣơng mại du lịch ASEAN 2004 (ATF

2004) tại thủ đô Viêng Chăn để thu hút du khách trong và nƣớc ngoài. Năm

2006 có100 công tỷ du lịch của nƣớc Anh đã bỏ phiếu cho cố đô Luâng Pha

Bang nhận danh hiệu giải Cúp vàng là vì một điểm du lịch ƣa thích nhất trên

thế gíới. Về ngành vận tải hành khách và hàng hóa trong 5 năm qua khối

lƣợng vận tải hàng hóa bình quân hàng năm tăng 11%, khối lƣợng hàng hóa

lƣu thông hàng năm tăng 15%. Vận tải hành khách hàng năm tăng 7%, khối

lƣợng lƣu thông hành khách hàng năm tăng 5%, đặc biệt khối lƣợng hàng vận

chuyển quá cảnh tăng cao bình quân hàng năm cao hơn 20%. Số tử vong do

tai nạn giảm từ 19 ngƣời trên 10.000 xe năm 2001 xuống còn 10 ngƣời năm

2005. Ngành giao thông đƣợc cải thiện tốt hơn nhất là nâng cấp đƣờng bộ dài

-94-

đạt 1.130 KM, xây cầu 39 chiếc với tổng dài 2.611 m. Số lƣợng xe vận

chuyển đƣờng bộ và đƣơng thủy hàng năm tăng lên 10-12% bên cảnh đó cũng

xây dựng và cải thiện các các cảng dọc sông Mê Kông, nâng cấp và xây dựng

hệ thống sân bay; đặc biệt sân bay quốc tế Wattay ở thủ đô Viêng Chăn đƣợc

cải thiện và nâng cấp sân bay cố đô Luâng Pha Bang, Tỉnh Chăm Pa Sắc trở

thành sân bay quốc tế. khảo sát và thiết kế đƣờng sắt chiều dài 14 KM. Về

ngành dịch vụ bƣu chính viễn thông cũng phát triển mạnh, mở rộng mạng

lƣới đến thị trấn miền núi, biên giới và vùng xa. Đến năm 2005 có 87.500

điện thoại cố định, có 404 địên thoại công cộng, có 327.000 điện thọai di

động có tỷ lệ sử dụng 7,3 chiếc/100 ngƣời, vƣợt kế hoạch 2,5 chiếc/100

ngƣời. trong nƣớc có 2.570 quán Internet và có 130 đơn vị bƣu điện.

b. Giai đoạn 2006-2010

- Nông lâm nghiệp: Có tốc độ tăng giảm không đồng đều từ 3,2%

chiếm 32,1% GDP năm 2006 đột ngột tăng lên 5,5% chiếm 30.9% GDP năm

2007, sau đó tốc độ có diễn biến giảm từ 3.1% chiếm 29.5% GDP năm 2008

xuống còn 3% chiếm 29% GDP năm 2010 với tốc độ bình quân hàng năm đạt

3,62% chiếm 30,5% GDP. Trong 5 năm qua ngành nông, lâm nghiệp đã tăng

trƣởng với tốc độ bình quân hàng năm 3,62% chiếm 30,5% GDP trong đó:

Ngành trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp tăng trƣởng 4,07% chiếm 88,6%

của tổng giá trị gia tăng trong nông nghiệp; ngành thuỷ sản tăng trƣởng 4,03%

chiếm 11,4% của tổng giá trị gia tăng trong nông nghiệp, nhìn chung sản xuất

ngành nông lâm nghiệp đã phát triển và có khả năng đáp ứng nhu cầu lƣơng

thực thực phẩm trong nƣớc. Tính bình quân hộ gia đình làm nông nghiệp có

diện tích đất sản xuất khoảng 1,6 ha. Về khuyến khích sản xuất thực phẩm và

rau quả, có sản xuất lúa gạo bình quân hàng năm đạt 2,9 triệu tấn tăng lên so

với cung kỳ năm 2005 là đạt 2,56 triệu tấn bằng 88% kế họach hàng năm phải

đạt 3,3 triệu tấn. tính bình quân đầu ngƣời hàng năm đạt 470 kg/ngƣời, sản

-95-

lƣợng thóc tăng từ 3,49 triệu tấn/ha năm 2005 lên 3,54 triệu tấn/ha năm 2008,

năm 2009 sản xuất thóc đƣợc 3,14 triệu tấn/ha. Diện tích trồng ngô tăng

32,7% từ 113,8 nghìn ha năm 2005 lên 151 nghìn ha năm 2010 và sản lƣợng

ngô tăng 88,3% từ 403,5 nghìn tấn năm 2005 lên 760 nghìn tấn năm 2010;

sản lƣợng sản xuất sắn tăng 3 lần từ 51 nghìn tấn năm 2005 lên 161 nghìn tấn

năm 2010; sản lƣợng mía tăng 3 lần từ 218 nghìn tấn năm 2005 lên 703 nghìn

tấn năm 2010; và sản lƣợng cà phê hàng năm đạt 45.194 tấn; việc chăn nuôi

gia súc và thủy sản đã đảm bảo lƣơng thực trong nƣớc; việc sản xuất các sản

phẩm lâm nghiệp có khả năng đáp ứng trong nƣớc 31,4 triệu USD và xuất

khẩu 74,4 triệu USD, có nhà đầu tƣ nƣớc ngoài nhƣ: Việt Nam, Thái Lan và

Trung Quốc sang đầu tƣ trồng cây cao su và cây bạch đàn. Việc khai thác gỗ

và sản phẩm từ rừng trong những năm qua Chính phủ đã có chế độ chính sách

quản lý khá tốt nhƣ chế biến gỗ trƣớc khi xuất khẩu.

- Công nghiệp: Có tốc độ tăng trƣởng mạnh 21,6% chiếm 26,7% GDP

năm 2006 và đột ngột xuống 9,6% chiếm 26,4% năm 2007, sau đó tăng lên từ

13,7% chiếm 27,5% GDP năm 2008 đến 17,7% chiếm 26% năm 2010 với tốc

độ bình quân hàng năm đạt 15,48% chiếm 26,12% GDP trong đó khai thác

khoáng sản chiếm 35,4%, công nghiệp chế biến chiếm 34,3%, công nghiệp

điện và nƣớc chiếm 11,57% và công nghiệp xây dựng chiếm 18,68 % trong

tổng giá trị gia tăng công nghiệp; sản xuất điện bình quân hàng năm đạt 9,3%,

chiếm 15% của ngành công nghiệp chiếm 3% GDP; khai thác khoáng sản

tăng lên khoảng 19,91% của ngành công nghiệp chiếm 9,5% GDP; giá trị sản

xuất công nghiệp chế biến tăng trƣởng bình quân hàng năm đạt 9,4%. Ngành

công nghiệp chế biến là một ngành sử dụng ít vốn so với ngành công nghiệp

khác nhƣng có trả tiền công khá cao, số lƣợng doanh nghiệp chế biến công

nghiệp có 24.331 đơn vị chiếm 19,2% trong tổng doanh nghiệp. Ngành dệt

may cũng là một ngành tăng trƣởng có khả năng tạo thu nhập, tạo công ăn

-96-

việc làm cho xã hội khá tốt. Có 463 nhà máy may, tổng vốn đầu tƣ tƣ nhân

vào ngành may từ 2006-2009 đạt 15.715 nghìn USD so với giai đoạn 2001-

2005 tăng lên 84,9%. Nhìn chung ngành dệt may còn chịu áp lực một số vấn

đề nhƣ: Thiếu vốn, thiếu liên kết sản xuất để đáp ứng và hỗ trợ việc tiếp tục

sản xuất, tốn kém chi phí vận chuyển và thuế sản xuất. Các sản phẩm thủ

công mỹ nghệ của ngành thủ công đã đƣợc từng bƣớc phát triển mở rộng thị

trƣờng trong và nƣớc ngoài. Ngành thủ công cũng là một ngành đã tạo công

ăn việc làm và thu nhập, giảm tỷ lệ nghèo đói theo chính sách của Chính phủ,

sản phẩm tăng lên 7-8%. Sản xuất vật liệu xây dựng tăng trƣởng nhanh theo

nhu cầu phát triển nhất là xi măng có khả năng đáp ứng nhu cầu trong nƣớc

đƣợc 80%, việc đầu tƣ vào ngành này có xu hƣớng tăng trong giai đoạn 2006-

2010 có 6 nhà máy sản xuất xi măng năng lực sản xuất bình quân hàng năm

đạt 1,2 triệu tấn, ngoài ra còn có 24 nhà máy sắt thép, có 10 nhà máy tôn

gạch, có 308 nhà máy bê tông; chế biến thực phẩm và giải khát đây là một

ngành đã phát triển trong suốt thời gian qua có khả năng đáp ứng tiêu thụ

trong nƣớc 100% và còn một phần xuất ra nƣớc ngoài, có 15.804 doanh

nghiệp chế biến, trong đó: Có 28 nhà máy lớn tạo công ăn việc làm cho 100

lao đọng, có 171 nhà máy vừa có từ 10-99 lao động còn lại là nhà máy nhỏ có

10 lao động.

Nhƣ vậy, ngành công nghiệp chế biến ở CHDCND Lào đã đáp ứng sản

phẩm cho xã hội khá tốt, trong đó doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần quan

trọng phát triển ngành công nghiệp chế biến tăng trƣởng trong năm 2006 có

24.331doanh nghiệp chế biến chiếm 19,2% trong tổng doanh nghiệp cả nƣớc.

- Dịch vụ: Có tốc độ tăng trƣởng từ 5,2% chiếm 41,2% GDP năm 2006

tăng lên 10,4% chiếm 42,7% GDP năm 2007, sau đó bắt đầu giảm tốc độ từ

9,9% chiếm 43% GDP năm 2008 xuống còn 6,7% chiếm 45% GDP năm 2010

với tốc độ bình quân hàng năm đạt 7,98% chiếm 43,38% GDP trong đó: Bán

-97-

buôn và bán lẻ chiếm 51%; dịch vụ Nhà nƣớc chiếm 17,3%; vận tải, bƣu

chính và viễn thông chiếm 12,5%; và còn lại dịch vụ tài chính, dịch vụ kinh

doanh,…

Về thƣơng mại có tổng giá trị lƣu thông hàng hóa trong nƣớc 5 năm

qua đạt 29.395 tỷ kíp bình quân hàng năm tăng 11%; việc xây dựng cơ sở hạ

tầng thƣơng mại có 628 chợ trong đó có 73 chợ lớn 156 chợ vừa và 429 chợ

nhỏ, ngoài ra còn có trung tâm thƣơng mại, siêu thị, chợ đêm có 4 tỉnh lớn và

có 17 cửa khẩu quốc tế, có 43 cửa khẩu truyền thống có 63 phòng giao dịch

biên giới đến cuối năm 2009 đạt 122.182 doanh nghiệp thƣơng mại.

Về dịch vụ giao thông vận tải, bƣu chính, viễn thông: Trong giai đoạn

2006-2010 ngành dịch vụ giao thông vận tải đã tập trung vào việc thực hiện

25 dự án thúc đẩy các dự án nằm trong 11 chƣơng trình 111 dự án, nhất là tập

trung vào 2 dự án quan trọng (1) Dự án xây dựng, cải thiện giao thông, vận tải

và giao tiếp trong khu vực và tiểu khu vực; (2) Dự án xây dựng, cải thiện giao

thông, vận tải và giao tiếp trong nƣớc. Hiện nay, việc giao thông bao gồm 4

hình thức nhƣ: (1) Vận tải qua đƣờng ô tô dài 37.768 km chiếm 80% tổng

khối lƣợng vận tải, có vận tải hàng hóa bình quân hàng năm tăng 5-8% và vận

tải hành khách 8-10%; (2) Vận tải đƣờng thủy nhiều hơn 3.000 km chiếm

18% tổng khối lƣợng vận tải; (3) Vận tải đƣờng hàng không có 11 sân bay

chiếm 2% và (4) vận tải đƣờng sắt. Công việc cầu đƣờng đã phát triển hơn so

với ngành khác nhất là đƣờng mạng tăng lên 17% trong giai đoạn 2005-2009

từ 33.803 km tăng lên 39.568 km năm. Bình quân hàng năm tăng đạt 4,6%

bằng 1.824 km, đã hoàn thành cầu nối sông Mê Kông Lào - Thái tại tỉnh Sa

vắn na khết và đang xây cầu nối tại tỉnh Khăm muôn, hoàn thành ga đƣờng

sắt bản Dong Pho Sy - Tha Na Leng dai 3 km. Nhƣ vậy, dịch vụ vận tải trong

suất giai đoạn 2006-2010 tổ chức thực hiện đƣợc 111,9 triệu tấn thấp hơn chỉ

tiêu đề ra 1%, khối lƣợng vận tải hành khách đạt 210 triệu ngƣời giảm 2%.

-98-

Việc bƣu chính và viễn thông có 119 bƣu điện, mở rộng cáp vỏ bọc sợi thủy

tinh đạt 11.500 km, có 99 doanh nghiệp viễn thông, thu nhập từ bƣu chính đạt

40,11 tỷ kíp so cùng kỳ năm trƣớc tăng 2% và viễn thông đạt 2.127 tỷ kíp so

với cùng kỳ năm trƣớc tăng 32%. Nhƣ vậy, dịch vụ giao thông vận tải, bƣu

chính, viễn thông bình quân hàng năm tăng trƣởng 7,8% chiếm 4,6% trong

tổng cơ cấu kinh tế quốc dân.

Về dịch vụ du lịch: ngành dịch vụ du lịch cũng là một lĩnh vực quan trọng

khác là tạo ra nhiều lợi ích và thu nhập tối thiểu cho dân tộc. Đây là lĩnh vực

tăng trƣởng nhanh điều chứng minh là du khách vào CHDCND Lào đạt 8,79

triệu ngƣời, bình quân hàng năm đạt 1,76 triệu ngƣời tăng 15,8%/năm và tạo thu

nhập 258,04 triệu USD/năm so với giai đoạn 2001-2005 tăng 44,45% và tạo thu

nhập tăng gấp đôi. Trong năm 2010 có 383 khách sạn, có 1.379 nhà nghỉ và khu

nghỉ dƣỡng cao cấp (Resort), có 1.389 nhà hàng, bình quân hàng năm khách sạn

tăng 21% và nhà nghỉ tăng 5%. Có 164 điểm vui chơi giải trí tăng 20% so với

cùng kỳ năm 2005 và tăng 7,2% so với năm 2007. Công ty du lịch tăng gấp đôi

từ 93 công ty năm 2006 lên 169 công ty năm 2010 ngoài ra còn có chi nhánh

công ty du lịch từ 44 đơn vị năm 2006 lên 77 đơn vị năm 2010, ta thấy từ năm

2005 đến năm 2010 số chi nhánh công ty du lịch tăng lên 41 đơn vị tăng gấp đôi.

Điểm du lịch trong nƣớc có 1.493 nơi, trong đó: Có 849 điểm du lịch tự nhiên,

có 435 điểm du lịch văn hóa, có 209 điểm du lịch lịch sử.

Nhƣ vậy, đạt kết quả trên đây do chính sách mở rộng và thúc đẩy du

lịch của Chính phủ đã đảm bảo chất lƣợng dịch vụ càng ngày tốt hơn thu

hút đƣợc du khách có chất lƣợng tạo công ăn việc làm cho dân có đời sống

tốt hơn.

c. Giai đoạn 2011 đến nay

- Nông lâm nghiệp: Có tốc độ tăng trƣởng giảm từ 2,9% chiếm 27,9%

GDP năm 2011 xuống còn 2,7% chiếm 26,7% GDP năm 2012 cụ thể nhƣ:

-99-

Trong năm 2012, sản xuất lúa gạo đạt đƣợc 3,07 triệu tấn bằng 85% của kế

hoạch năm; sản xuất cây lƣơng thực có điện tích trồng ngô 4,46 nghìn ha sản

lƣợng đạt 15.617 tấn bằng 15% của kế hoạch, diện tích trồng khoai 14.988 ha

sản lƣợng đạt 157.370 tấn bằng 50% của kế hoạch; diện tích trồng hoa quả

7.736 ha sản lƣợng đạt 85.100 tấn bằng 20,35%; diện tích trồng rau quả

55.560 ha sản lƣợng đạt 555.580 tấn bằng 53%. Việc chăn nuôi và thủy sản

cung cấp sản xuất động vật và cá cho thị trƣờng đạt 157.666 tấn bằng 50%

của kế hoạch tính bình quân đạt 48 kg/đầu dân. Việc thủy lợi cung cấp nƣớc

tƣới đạt 147.346 ha bằng 67% của kế hoạch.

- Công nghiệp: Có tốc độ tăng trƣởng từ 15,8% chiếm 27% GDP năm

2011 lên 16,8% chiếm 29,6% GDP năm 2012. Năm 2012 có 37.960 nhà máy

công nghiệp và chế biến có tổng vốn đầu tƣ 1.120 tỷ kíp đã tạo việc làm cho

hơn 72.567 ngƣời lao động; việc đầu tƣ phát triển vùng và trang trại công

nghiệp của nhà kinh doanh trong và nƣớc ngoài đã quy hoạch khu công

nghiệp trong 17 Tỉnh, Thủ đô có tổng diện tích 14.852 ha năm 2012 so với

năm 2011 tăng lên 1.416,68 ha; ngành công nghiệp chế biến và thủ công đạt

đƣợc 2.143,34 tỷ kíp trong đó công nghiệp chế biến chiếm 97,4% bằng

2.087,61 tỷ kíp năm 2012 so với cùng kỳ năm trƣớc tăng 6,86% và thủ công

chiếm 2,6% bằng 55,72 tỷ kíp so với cùng kỳ năm trƣớc tăng 0,29%.

- Dịch vụ: Có tốc độ tăng trƣởng từ 7,8% chiếm 45,1% GDP năm 2011

lên 8,1% chiếm 43,7% GDP năm 2012.

2.2.2.3. Tác động của cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào tới xóa đói giảm

nghèo và đảm bảo công bằng xã hội

Chi NSNN trực tiếp góp phần giảm đói nghèo thông qua 3 khoản mục:

Một là, hạ tầng kinh tế và các dịch vụ hỗ trợ, đặc biệt là thuỷ lợi, khuyến nông

và hệ thống đƣờng ở nông thôn , đây là những nhân tố đầu vào chủ yếu để

làm tăng các cơ hội thu nhập đối với ngƣời nghèo; Hai là, dịch vụ xã hội nhƣ:

-100-

Giáo dục cơ bản, y tế,…đây cũng là những khoản đầu tƣ thiết yếu vào dân trí

nhằm tăng năng suất lao động; Ba là, để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của

ngƣời nghèo cũng nhƣ làm tăng khả năng di chuyển tới các vùng có tiềm năng

tăng trƣởng cao.

- Về chi đầu tƣ, đầu tƣ cho cơ sở hạ tầng có tầm quan trọng to lớn trong

việc giảm nghèo. Nhận thức đƣợc điều này, Đảng và Nhà nƣớc coi cơ sở hạ

tầng là nhân tố chính trong các chƣơng trình mục tiêu chủ yều nhằm giải

quyết tình trạng nghèo. Vì vậy, cơ sở hạ tầng trong thời gian qua đã có những

cải thiện đáng kể.

Tuy nhiên, theo đánh giá về hiệu quả đầu tƣ chung trong đó có đầu tƣ

cơ sở hạ tầng ở CHDCND Lào, từ các chuyên gia nƣớc ngoài năm 2010 thì tỷ

lệ đầu tƣ cao cho thấy việc sử dụng vốn tích luỹ chƣa đạt hiệu quả cao. Theo

một số nhà nghiên cứu thì dựa trên phân tích phát triển kinh tế ở 17 tỉnh thành

trên cả nƣớc, ngƣời ta có thể cho rằng tác động tăng trƣởng của đầu tƣ tƣ

nhân là có lãi, còn của đầu tƣ công là lỗ. Điều khẳng định trên chƣa thể đánh

giá là chính xác hay không nhƣng có một điều chắc chắn là không phải mọi

khoản đầu tƣ công đều hiệu quả. Chỉ số giản đơn về tính hiệu quả đầu tƣ là

ICOR tỷ lệ vốn trên sản lƣợng cận biên. Chỉ số này cho biết cần đầu tƣ bao

nhiêu để có mỗi điểm phần trăm GDP cho tăng trƣởng kinh tế. ICOR càng

thấp thì khối lƣợng nguồn lực cần thiết để có thêm một điểm GDP trong tăng

trƣởng kinh tế càng nhỏ. Về cơ cấu, tỷ lệ đầu tƣ tăng trƣởng của một nền kinh

tế đƣợc thể hiện bằng cách chia tỷ lệ cho chỉ số ICOR. Tử số càng lớn tức là

khối lƣợng đầu tƣ càng lớn và mẫu số càng nhỏ chất lƣợng đầu tƣ càng cao

thì nền kinh tế càng tăng trƣởng nhanh. Tỷ lệ đầu tƣ thể hiện khối lƣợng

nguồn lực dành cho tích luỹ tài sản, chứ không thể hiện tác động của các

nguồn lực này đối với những kết quả phát triển chủ chốt, nhƣ tăng trƣởng

kinh tế hay giảm nghèo.

-101-

Từ năm 2001-2012 đã phát triển đáng kể cơ sở hạ tầng công cộng ở

khu vực miền Bắc, miền Trung và miền Nam, tỷ lệ nghèo ở các khu vực này

trƣớc đây rất cao và các công trình đầu tƣ công có thể đã góp phần quan trọng

vào việc giảm nghèo. Về lâu dài, khó có thể nâng cao tỷ lệ đầu tƣ hơn mức

hiện nay. Đồng thời khó có thể tiếp tục giảm đói nghèo với tốc độ nhƣ hiện

nay, bởi vì các nhóm đối tƣợng đặc biệt khó khăn và chủ yếu là các dân tộc

thiểu số chiếm ngày càng nhiều trong tỷ lệ đói nghèo. Chỉ giữ mức tăng

trƣởng phục vụ ngƣời nghèo thôi cũng thực sự là một thách thức lớn đối với

Đảng và Nhà nƣớc CHDCND Lào. Điều đó khiến chất lƣợng đầu tƣ vẫn là

phƣơng tiện chính để đạt đƣợc mức tăng trƣởng nhanh hơn và kết quả khả

quan hơn trong chiến dịch chống nghèo đói.

- Về chi ngân sách cho nông thôn. Phân tích hiệu quả của chi ngân sách

cho nông thôn đối với xóa đói, giảm nghèo là hết sức cần thiết vì đa số ngƣời

nghèo sống ở nông thôn. Mô hình hoá kinh tế nông thôn đƣợc xét trên các

mối quan hệ nhƣ sau:

Một là, mức độ nghèo đƣợc giả định là giảm khi sản lƣợng nông nghiệp

và việc làm phi nông nghiệp của dân nông thôn tăng, có tính đến những yếu

tố khác;

Hai là, sản lƣợng trong nông nghiệp còn phụ thuộc vào những đầu vào

đƣợc sử dụng, mức độ nghiên cứu nông nghiệp, sự phát triển hạ tầng cơ sở ở

địa phƣơng và trình độ học vấn của dân nông thôn, đây chính là hàm sản xuất

trong ngành công nghiệp;

Ba là, việc làm phi nông nghiệp đƣợc giả định là sẽ tăng theo sản lƣợng

nông nghiệp, với cơ sở hạ tầng địa phƣơng và trình độ học vấn, đây chính là

phƣơng trình về cầu lao động. Mô hình này cho phép tính đƣợc tác động giảm

nghèo trực tiếp và gián tiếp của việc chi tiêu nhiều hơn cho nghiên cứu nông

nghiệp, hoặc đầu tƣ xây dựng đƣờng nông thôn, công trình thuỷ lợi hoặc giáo dục.

-102-

- Về chi ngân sách cho các dịch vụ xã hộ, chi NSNN cho các dịch vụ xã

hội nhƣ: Giáo dục cơ bản, y tế,…là những khoản chi tiêu thiết yếu vào nguồn

dân trí nhằm tăng năng suất lao động và đáp ứng các nhu cầu cơ bản của

ngƣời nghèo, cũng nhƣ làm tăng khả năng di chuyển tới các vùng có tiềm

năng tăng trƣởng cao. Vai trò của Nhà nƣớc là vô cùng quan trọng, thậm chí

cả khi có sự tham gia của tƣ nhân. Điều đó do Nhà nƣớc điều tiết hay trợ cấp

kinh phí cho ngƣời nghèo vì họ không có khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ

bản nếu phải trả đầy đủ các khoản chi phí. Ai có thể tiếp cận với các dịch vụ

xã hội, với chi phí bao nhiêu và chất lƣợng nhƣ thế nào là những vấn đề quyết

định đến giảm nghèo, trên cơ sở đó, ta có thể đánh giá đƣợc hiệu quả sử dụng

của các dịch vụ công cho mục tiêu giảm nghèo.

Đối với giáo dục trung học cơ sở, tỷ lệ học sinh đến trƣờng đã tăng

đáng kể trong năm vừa qua nhƣng với mức độ tƣơng đối khác nhau giữa

ngƣời giàu và ngƣời nghèo. Chẳng hạn trong năm 2006, trên 80% trẻ em

trong nhóm dân số giàu nhất học trung học cơ sở, trong khi đó chỉ có hơn một

nửa số trẻ em trong nhóm nghèo nhất. Tỷ lệ học phổ thông giữa ngƣời giàu và

ngƣời nghèo là tƣơng đối cao. Một lý do chính của sự chênh lệch là những

đứa trẻ này phải tự làm việc để nuôi sống bản thân hay giúp đỡ gia đình, việc

đi học không mang lại lợi ích ngay tức thì cho chúng để bù đắp những thu

nhập bị mất trong thời gian đi học, ngoài ra còn có lý do là từ nhà đến trƣờng

rất xa, có khi phải đi bộ hơn chục cây số mới đến trƣờng.

Nguồn tài chính cho giáo dục ở CHDCND Lào trong thời gian qua

phần lớn đã đến với ngƣời nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có sự chênh

lệch giữa nhóm ngƣời giàu và nghèo. Hiện nay, sự chênh lệch này tƣơng đối

lớn nhƣng điều đó cũng cho thấy nguồn lực tài chính này cần phải hƣớng tới

ngƣời nghèo nhiều hơn nữa. Ngoài ra, sự chênh lệch còn thể hiện ở kết quả

học tập đối với những trẻ em đƣợc đi học.

-103-

Về dịch vụ y tế cho ngƣời nghèo: Y tế ở CHDCND Lào trong thời gian

qua đã đạt đƣợc những kết quả đáng kể, đã đạt đƣợc những tiến bộ rất ấn

tƣợng trong việc giảm tỷ lệ tử vong trong bà mẹ và trẻ sơ sinh, tỷ lệ tử vong

trẻ em. Sức khoẻ sinh sản cũng đã đƣợc cải thiện nhiều. Tuy nhiên, ngành y tế

vẫn còn đang trong giai đoạn chuyển đổi. Các công cụ chính sách mới đƣợc

xây dựng, trong đó có phí của ngƣời sử dụng, bảo hiểm y tế và các quỹ chăm

sóc sức khoẻ cho ngƣời nghèo. Những công cụ này có đặc điểm chung là tập

trung giải quyết tài chính cho y tế. Việc phân bổ nguồn lực này dựa vào hai

kênh chủ yếu: Một là, phân bổ theo quy mô dân số có tính đến yếu tố chênh

lệch giữa các vùng, các miền; Hai là, phân bổ theo hình thức các Chƣơng

trình sức khoẻ quốc gia.

* Các tiêu chí, chuẩn mực đánh giá nghèo đói ở CHDCND Lào hiện

nay:

(1) Các tiêu chí đánh giá nghèo đói ở CHDCND Lào hiện nay:

Ở CHDCND Lào hiện nay không chỉ thiên về tiêu chí thu nhập bình

quân đầu ngƣời mà còn xem xét cả tiêu chí chất lƣợng sống, trong đó tiêu chí

phát triển con nghƣời (HDI) đƣợc quan niệm nhƣ là một trong những nguồn

lực ở CHDCND Lào trong thế kỷ XXI.

Dựa trên định hƣớng tiêu chí đánh giá nghèo đói trên thế giới, hiện nay

ở CHDCND Lào đang sử dụng một loại các thƣớc đo nhƣ: Lấy lƣơng thực, tài

sản, thu nhập, có con cháu đi học cấp I trở lên và sống theo quy định của Bộ

Y tế để đánh giá mức độ nghèo đói.

Trong một loạt các tiêu chí đánh giá nghèo đói nhƣ: Thu nhập, nhà ở,

tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu gia đình, hƣởng thụ văn hóa,…thì các tiêu chí thu

nhập bình quân nhân khẩu một tháng hoặc một năm đƣợc xác định là tiêu chí

chính. Các tiêu chí khác đƣợc xem xét thêm khi đánh giá mức độ nghèo đói.

-104-

Nhận thức lấy thu nhập bình quân đầu ngƣời là tiêu chí đánh giá nghèo

đói đƣợc tính bằng tiền. Tuy nhiên, với một nƣớc còn ở trình độ kém phát

triển và tập quán sinh hoạt ở CHDCND Lào thì gạo cũng đƣợc lấy làm thƣớc

đo đánh giá nghèo đói. Đặc biệt đối với ngƣời nghèo đói nói chung và nông

dân nghèo ở CHDCND Lào nói riêng, chỉ tiêu số lƣợng kg gạo nếp bình quân

đầu ngƣời/tháng là rất có ý nghĩa và rất thực tế. Việc chọn gạo nếp làm đơn vị

đo lƣờng mức độ nghèo của nông dân không phái là quay trở lại chế độ trao

đổi hiện vật giản đơn mà thực chất là một bƣớc thực tế hóa khái niệm về thu

nhập ở CHDCND Lào.

(2) Các chuẩn mực đánh giá nghèo đói ở CHDCND Lào hiện nay:

Trong quá trình nghiên cứu nghèo đói và thực hiện chƣơng trình xóa

đói giảm nghèo ở CHDCND Lào, Ngân hàng thế giới (WB) cũng đƣa ra hai

mức chuẩn nghèo đối với CHDCND Lào. Thứ nhất, là số tiên cần thiết để

mua một số lƣơng thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu dinh dƣỡng với lƣợng

2.100kcalo/ngƣời/ngày, gọi là chuẩn nghèo về lƣơng thực thực phẩm. Thứ

hai, là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lƣơng thực thực phẩm và chi

tiêu cho các nhu cầu phi lƣơng thực thiết yếu khác gọi là chuẩn nghèo chung.

Theo quan niệm của WB ngoài chỉ tiêu tối thiểu về lƣơng thực để đảm bảo đủ

lƣợng 2.100kcalo/ngƣời/ngày còn có những khoản chi tiêu tối thiểu phi lƣơng

thực, thực phẩm. Do đó chuẩn nghèo chung có mức cao hơn chuẩn nghèo

lƣơng thực, thực phẩm.

Còn ở CHDCND Lào thì có 4 chuẩn mực để xác định tình trạng nghèo

đói của hộ gia đình, chẳng hạn nhƣ:

Một là, có nhà tƣơng đối tốt, một tầng trở lên ( nhà gỗ hay nhà xây );

Hai là, có cơm đủ ăn cả năm, mức sống tối thiểu quy ra gạo nếp là

135kg/ngƣời/năm;

Ba là, có trẻ em đi học và tốt nghiệp cấp I trở lên;

-105-

Bốn là, mức sống đúng theo quy định của Bộ Y tế (ăn, ở, uống sạch).

Với 4 tiêu chuẩn trên thì hộ nào đạt dƣới mức này thì đƣợc thuộc vào

hộ nghèo. Từ mức này trở lên thì thoát nghèo.

Năm 2001-2005, Ủy ban xóa đói giảm nghèo đã đặt ra tiêu chuẩn hộ

gia đình, bản và khu vực trọng điểm đã hoàn thành bƣớc đầu về phát triển.

* Cấp gia đình: Là những gia đình đáp ứng đƣợc yêu cầu thiết yếu cơ

bản về sinh hoạt hàng ngày nhƣ:

- Có đủ lƣơng thực để ăn (có gạo nếp16kg/tháng/ngƣời).

- Có nhà ở kiên cố vững vàng.

- Hộ gia đình có thu nhập ổn định bình quân 85.000 kíp/tháng/ngƣời,

đảm bảo chi tiêu trong sinh hoạt nhƣ: Mặc, đồ dùng trong gia đình, y tế, chi

phí học hành của con cái,…

- Ngƣời lớn trong gia đình có độ tuổi từ 15-45 tuổi phải biết chữ, trẻ em

trong độ tuổi đi học phải đƣợc học hành.

- Thực hiện khẩu hiệu 3 sạch nhƣ: Ăn sạch, uống sạch, ở sạch.

- Có phƣơng tiện đi lại thuận tiện.

- Có sự đoàn kết trong nội bộ gia đình và với các gia đình lân cận.

- Mọi ngƣời trong gia đình có ý thức tự giác trong việc thực hiện các

công việc chung của bản.

* Cấp bản:

- Số hộ gia đình trong bản phải chiếm trên 90% có gạo đủ ăn

16kg/tháng/ngƣời.

- Số hộ gia đình trong bảo phải chiếm trên 75% có nhà ở kiên cố nhà

cấp 4.

- Số hộ gia đình trong bản phải chiếm trên 80% ổn định về nghề

nghiệp. Thu nhập chung của bản bình quân 85.000 kíp/tháng.

-106-

- Trong bản có trƣờng tiểu học hay bản khác có nhƣng có thể đi học

đƣợc, trẻ em trong độ tuổi đi học phải đƣợc đi học, ngƣời lớn có độ tuổi từ

15-45 có tỷ lệ biết chữ trên 85%.

- Mọi gia đình trong bản thực hiện đƣợc 3 sạch nhƣ: Ăn sạch, uống

sạch, ở sạch.

- Trong bản có hộp thuốc, hiệu bán thuốc hay trạm y tế.

- Có đƣờng xe ôtô vào tới bản đƣợc 2 mùa vì ở CHDCND Lào thì có

hai mùa, là mùa mƣa và mùa khô, có điện thắp sáng ở những chỗ có điều kiện

thuận lợi.

- Bản có sự ổn định về trật tự xã hội.

- Các tổ chức Đảng, Chính quyền, Quần chúng phải vững mạnh và hoạt

động có hiệu quả.

* Cấp khu vực trọng điểm:

- Các bản trong khu vực trọng điểm chiếm trên 90% có gạo đủ ăn;

- Các bản trong khu vực trọng điểm phải thực hiện hoàn tất việc giao

đất, khoán rừng, chấm dứt viêc phát rẫy làm nƣơng và trồng cây thuốc phiện,

các hộ nông dân có nghề nghiệp ổn định, có sự phát triển sản xuất hàng hóa,

thu nhập bình quân 85.000 kíp/tháng/ngƣời;

- Các bản trong khu vực trọng điểm phải có trên 75% nhà ở kiên cố;

- Nhân khẩu trong khu vực trọng điểm có độ tuổi từ 15 trở lên phải biết

chữ với trình độ cấp II hay cao hợn chiếm trên 85%; trẻ em trong độ tuổi đi học

phải đƣợc đi học; khu vực trọng điểm phải có trƣờng cấp II, có trạm tập huấn

và dạy nghề, có trạm thí nghiệm và thực nghiệm ở những nơi có điều kiện;

- Có trạm y tế và bệnh viện nhỏ cỡ 12-15 giƣờng;

- Có hội chợ để trao đổi mua bán hàng hóa và các sinh hoạt văn hóa

khác trong khu vực trọng điểm;

- Có hơn 75% số bản thực hiện 3 sạch;

-107-

- Có đƣờng xe ô tô đi lại đƣợc hai mùa tới các bản trong khu vực trọng điểm;

- Bản phải đƣợc dùng điện ở những nơi có đủ điều kiện có nguồn điện;

- Có văn phòng và có Ban chỉ đạo trọng điểm thƣờng trực ở cụm trọng

điểm thƣờng xuyên.

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CƠ CẤU CHI NSNN Ở CHDCND LÀO GIAI

ĐOẠN 2001-2012 - THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN

2.3.1. Những thành tựu đạt đƣợc

Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế nói

chung, đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nƣớc nói riêng,

về cơ bản đã tạo đƣợc những biến đổi sâu sắc cả về nhận thức lý luận và chỉ

đạo hoạt động thực tiễn. Chi NSNN từng bƣớc đƣợc cơ cấu lại theo hƣớng

tích cực và chi hiệu quả hơn để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Cụ thể các

thành tựu đạt đƣợc kể từ khi ban hành luật NSNN năm 2006 có thể khái quát

nhƣ sau:

- Trong chi đầu tƣ phát triển đƣợc ƣu tiên bố trí với tốc độ tăng cao hơn

tốc độ tăng chi thƣờng xuyên. Đặc biệt chi đầu tƣ trong nƣớc ƣu tiên cho chi

đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là chi cho các công trình cơ sở hạ tầng

nhƣ: Mạng lƣới giao thông, viễn thông,...

- Trong chi thƣờng xuyên là ƣu tiên chi cho sự nghiệp xã hội mà chủ

yếu là phát triển giáo dục, y tế, quản lý hành chính, đảm bảo an ninh quốc

phòng và dành tỷ lệ thích hợp cho sự nghiệp kinh tế. Ƣu tiên chi cho con

ngƣời nhƣ: Chi tiền lƣơng và các khoản có tính chất lƣơng, hạn chế các khoản

chi hội họp,...

- Bố trí đảm bảo kinh phí trang trải các nghĩa vụ nợ đến hạn, phù hợp

với thực tế nghĩa vụ nợ chi trả nợ cũng tăng dần trong những năm qua để tạo

uy tín tốt trong quan hệ quốc tế và chi khác cũng đƣợc bố trí đúng mức.

-108-

- Chi tiêu NSNN đƣợc thực hiện theo hƣớng cơ cấu lại, tiếp tục xoá bao

cấp. Các khoản chi bao cấp qua NSNN nhƣ: Chế độ chi bù giá, bù lỗ trực tiếp

cho doanh nghiệp Nhà nƣớc cơ bản đã đƣợc chấm dứt.

- Tăng cƣờng nhiều biện pháp để thực hành tiết kiệm, nâng cao hiệu

quả sử dụng nguồn vốn NSNN nhƣ: Xem xét quy định lại các định mức chi

tiêu hành chính, nghiên cứu để áp dụng cơ chế khoán chi cho các cơ quan

hành chính, sự nghiệp và các hoạt động công ích đã đem lại nhiều hiệu quả

thiết thực; nâng cao đƣợc chất lƣợng, tiết kiệm đƣợc nguồn lực tài chính

Nhà nƣớc.

Tóm lại, cơ cấu chi NSNN đã có những chuyển biến tích cực, đang

thích ứng dần với cơ chế kinh tế mới. Quy mô NSNN tăng liên tục qua các

năm đã cho phép Nhà nƣớc giải quyết khá tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH

quan trọng. Yếu tố nay đã cho phép khắc phục đƣợc cơ bản tình trạng bất cập

cơ cấu chi NSNN, từng bƣớc lành mạnh hóa hoạt động NSNN.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Một là, trong chi đầu tƣ phát triển từ nguồn vốn NSNN, thì tính tập

trung, dứt điểm và hiệu quả đầu tƣ vẫn đang là vấn đề. Cơ cấu chi, cơ cấu đầu

tƣ chƣa có vai trò tác động rõ rệt đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao

hiệu quả chi ngân sách. Đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng xã

hội quá thấp trong tƣơng quan xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Chi đầu tƣ xây

dựng cơ bản còn quá dàn trải, lãng phí ngay từ khâu thiết kế và lựa chọn dự

án đầu tƣ. Mặc dù các dự án đầu tƣ phải trải qua nhiều vòng thẩm định, nhiều

khâu xét duyệt, nhƣng có những dự án không nằm trong quy hoạch hoặc đã

có trong quy hoạch nhƣng chƣa đƣợc đƣa vào kế hoạch xây dựng, vẫn đƣợc

triển khai. Biểu hiện rõ nét nhất là trong các chƣơng trình phát triển, sản xuất

gỗ, trồng một số cây công nghiệp, cây ăn quả,...

-109-

Hai là, tuy đã giảm nhiều khoản chi bao cấp từ NSNN nhƣng nhiều nội

dung bao cấp vẫn còn tồn tại ngay trong quá trình lập và chấp hành NSNN.

Ngân sách vẫn còn chi cấp vốn lƣu động hoặc gia hạn nợ đọng thuế hoặc

khoanh nợ, đảo nợ, giảm nợ cho các doanh nghiệp nhà nƣớc. Chính phủ vẫn

còn đề nghị thực hiện các bịên pháp bao cấp cho các doanh nghiệp nhà nƣớc

(DNNN) qua lãi suất, qua bảo lãnh vay, những biện pháp này cần đến nhiều tỷ

kíp và gây không ít khó khăn trong điều hành NSNN. Các cấp, các ngành đều

có chƣơng trình tổ chức lại, sắp xếp, cổ phần hoá, chuyển đổi DNNN, nhƣng

triển khai chậm; hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN thấp, khu vực

DNNN vẫn có tƣ tƣởng ỷ vào bao cấp từ NSNN. Tình trạng bảo hộ, bao cấp

của Nhà nƣớc đối với DNNN có chiều hƣớng gia tăng (các khoản chi từ nguồn

NSNN hỗ trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức tài chính của Nhà nƣớc bù lãi suất,

bổ sung các quỹ hỗ trợ trong năm qua chiếm tỷ trọng tƣơng đối nhiều tổng chi

NSNN cho đầu tƣ phát triển kinh tế, nếu tính cả các khoản xoá nợ, khoanh nợ,

bù lỗ, xoá hoặc giảm lãi suất vốn vay thì mức bảo hộ còn lớn hơn nhiều).

Ba là, trong chi thƣờng xuyên ngoài việc bao cấp một số lĩnh vực hoạt

động thì cơ cấu nội dung chi và sắp xếp nội dung, lĩnh vực chi còn nhiều bất

cập, xu hƣớng vẫn chú trọng tới mục tiêu chi hơn là hiệu quả chi. Vì vậy, mức

độ bảo đảm của chi thƣờng xuyên cho khu vực hành chính còn quá thấp, nên

hiệu quả quản lý Nhà nƣớc không đƣợc phát huy tốt. Quá trình tinh giảm biên

chế và bộ máy diễn ra chậm. Công tác xã hội hoá đã đƣợc thúc đẩy, nhƣng kết

quả còn hạn chế. Những khoản chi vì lợi ích lâu dài, yếu tố cơ sở đảm bảo

tăng trƣởng bền vững còn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức (các khoản chi cho

khoa học công nghệ, bảo vệ môi trƣờng, giáo dục, đào tạo nghề,...). Những

khoản chi này chỉ chiếm vị trí rất khiêm tốn trong tổng chi NSNN hàng năm.

Tóm lại, việc đổi mới cơ cấu chi NSNN trong giai đọan 2001-2012 vừa

qua tuy đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng kể, bảo đảm thực hiện thành công

-110-

các nhiệm vụ chính trị, duy trì sự ổn định vĩ mô và vai trò chủ đạo của kinh tế

Nhà nƣớc. Tuy nhiên, nhìn chung, cũng vẫn chƣa đƣợc điều hành trên nền

tảng lý luận về tài chính nhà nƣớc trong kinh tế thị trƣờng, chƣa xây dựng

đƣợc chiến lƣợc NSNN rõ ràng. Việc sử dụng NSNN làm công cụ chính sách

chủ yếu mang tính thụ động, đối phó với tình hình diễn biến kinh tế cụ thể mà

không có một định hƣớng chiến lƣợc lâu dài. Trong xây dựng và điều hành

công tác quản lý chi tiêu NSNN còn thiếu vắng các quan điểm táo bạo, tích

cực nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh chóng, ổn định và bền vững.

Những hạn chế nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu sau:

- Cơ chế chính sách trong lĩnh vực tài chính và chi tiêu NSNN chƣa

đồng bộ, chƣa đầy đủ; mặt khác còn lạc hậu, không phù hợp với thực tế, nhất

là đối với lĩnh vực chi thƣờng xuyên. Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nƣớc

đã từng bƣớc hoàn chỉnh và điều chỉnh khung pháp lý cho hoạt động chi

NSNN. Tuy nhiên, hệ thống khuôn khổ pháp luật này vẫn đang còn đƣợc

nghiên cứu và hoàn thiện. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu ảnh hƣởng đến

chất lƣợng của toàn bộ quá trình quản lý chi NSNN.

- Công tác phân tích và dự báo chƣa đƣợc chú trọng, số liệu dự báo chủ

yếu mang tính định tính, chƣa có dự báo mang tính định lƣợng, cùng với trình

độ kế hoạch hoá của các khoản chi tiêu của đơn vị còn hạn chế. Vì vậy, dẫn

đến tình trạng dự toán của các đơn vị chƣa dự trù hết đƣợc những biến động có

thể xảy ra, điều chỉnh dự toán hoặc bổ sung dự toán thƣờng xuyên xảy ra.

- Cơ sở vật chất sử dụng cho công tác tổ chức dự báo và lập dự toán

chƣa đƣợc quan tâm thích đáng. Hệ thống tin học chƣa đƣợc thiết lập một

cách hiện đại, vì vậy tốn rất nhiều công sức và thời gian cho công tác lập và

phân bổ dự toán chi NSNN.

- Mặc dù hiện nay, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phƣơng,

thủ trƣởng các đơn vị sử dụng NSNN cấp dƣới đƣợc quy định rõ trong các

-111-

văn bản của Nhà nƣớc song trách nhiệm này chƣa đƣợc đề cao, chƣa có chế

tài đủ mạnh để xử lý đối với những trƣờng hợp sử dụng không đúng đối

tƣợng, mục tiêu theo quy định của Nhà nƣớc, của luật định.

- Trình độ đội ngũ cán bộ của các cơ quan Nhà nƣớc chƣa cao và nhiều

ngƣời không đƣợc đào tạo một cách chuyên sâu và bài bản dẫn đến việc quản

lý nguồn tài chính Nhà nƣớc dễ bị thất thoát và không hiệu quả.

- Một số các quy định của chế độ kiểm soát, thanh toán vốn hiện tại đã

bộc lộ những hạn chế làm giảm hiệu quả và khả năng kiểm soát của Kho bạc

Quốc gia.

- Tập quán chi tiêu và sử dụng tiền mặt của ngƣời dân ảnh hƣởng đến

việc quản lý cấp phát thanh toán bằng tiền mặt trong chi NSNN. Hệ thống

thanh toán, công nghệ thanh toán chƣa đủ mạnh, còn lạc hậu.

- Các thủ tục hành chính còn rƣờm rà, văn bản pháp quy của Nhà nƣớc

chồng chéo giữa các cấp, các ngành; công tác phối kết hợp giữa các cơ quan

Kế hoạch và Đầu tƣ, Tài chính và Kho bạc nhiều khi không đồng bộ, thống

nhất gây cản trở đến quá trình chấp hành NSNN.

- Công tác kiểm tra, kiểm soát chƣa đƣợc chú trọng. Cơ quan tài chính,

Kho bạc quốc gia chƣa sát sao trong công tác kiểm tra, kiểm soát các đơn vị

sử dụng NSNN, các đơn vị chƣa thực sự chấp hành tốt công tác quản lý chi

tiêu tại đơn vị dẫn đến việc sử dụng đồng vốn NSNN không đúng mục tiêu.

-112-

Kết luận chƣơng 2

Chƣơng 2 đã tập trung trình bày thực trạng bố trí cơ cấu chi NSNN ở

CHDCND Lào trong giai đoạn 2001-2012, trong đó đã đi vào các nội dung

chủ yếu nhƣ sau:

- Thứ nhất, khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình KT-XH ở CHDCND

Lào nhằm đƣa ra những nét chung nhất về những khó khăn, thuận lợi để phát

triển KT-XH ở CHDCND Lào.

- Thứ hai, trình bày thực trạng bố trí cơ cấu chi NSNN ở CHDCND

Lào giai đoạn 2001-2012 và đánh giá các tác động của cơ cấu chi NSNN ở

CHDCND Lào giai đoạn này đối với đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH,

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xóa đói giảm nghèo.

- Thứ ba, đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những

hạn chế trong bố trí cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012

làm cơ sở đề xuất những giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND

Lào thời gian tới.

-113-

Chƣơng 3

GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC

Ở CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN 2015-2020

3.1. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KT-XH VÀ YÊU CẦU VỀ CHI NSNN

GIAI ĐOẠN 2015-2020

3.1.1. Định hƣớng chung

- Một là, phát triển nền kinh tế Quốc gia về mọi mặt: Xây dựng một cơ

sở vững chắc cho tăng trƣởng kinh tế bền vững dựa trên những nguồn lực,

công nghệ sẵn có nhằm đƣa đất nƣớc thoát khỏi tình trạng của một nƣớc kém

phát triển, giảm đói nghèo; phát triển kinh tế là trọng tâm, cốt lõi; hỗ trợ

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, hƣớng tới trở thành một nƣớc

công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phân phối thu nhập, giảm phân hoá giàu

nghèo; thực hiện nền kinh tế thị trƣờng có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc,

thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời cũng tích cực thúc đẩy sự

tham gia của mỗi ngƣời dân vào quá trình phát triển KT-XH đất nƣớc.

- Hai là, thực hiện những thay đổi, cải cách năng động, hƣớng vào

phát triển khu vực nông thôn, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của

ngƣời dân, thực hiện công bằng xã hội, giảm phân hoá giữa khu vực thành

thị và nông thôn, giữa ngƣời giàu và ngƣời nghèo (thông qua nâng cao năng

lực và giáo dục), hỗ trợ sản xuất hàng hoá, chăm sóc sức khoẻ con ngƣời qua

việc giữ gìn vệ sinh môi trƣờng tốt hơn, kiểm soát dịch bệnh, phát triển cơ

sở hạ tầng.

- Ba là, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội phải đi đôi với nhau, thúc

đẩy cải thiện cuộc sống (cả về vật chất lẫn tinh thần) bằng các biện pháp cải

cách mạnh mẽ về giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, ví dụ nhƣ: Thông

qua nâng cao và mở rộng giáo dục, phát triển trí tuệ, cung cấp các dịch vụ

-114-

giáo dục tốt hơn, tiếp tục gìn giữ và phát huy những giá trị văn hoá dân tộc

cùng với mở cửa giao lƣu quốc tế, nâng cao hiệu quả của các phƣơng tiện

thông tin, truyền thông.

- Bốn là, nâng cao việc thực thi và hiệu quả của công tác quản lý hành

chính, cải cách hành chính, thực hiện dân chủ theo quy định của pháp luật,

đảm bảo bình đẳng và công bằng xã hội, chống tham nhũng, gia tăng tiết kiệm

và giảm lãng phí. Chú ý đến những khó khăn, thách thức về mặt xã hội một

cách kịp thời, phân công trách nhiệm và phân định vai trò rõ ràng giữa Trung

ƣơng với chính quyền địa phƣơng các cấp.

- Năm là, bảo đảm quốc phòng an ninh trên toàn lãnh thổ để duy trì sự

ổn định chính trị, trật tự xã hội; cải thiện các cơ chế và thực thi các quy tắc,

quy định về di dân, tôn trọng các quy định của pháp luật.

- Sáu là, nâng cao các kỹ năng, năng lực nguồn nhân lực để phù hợp

với sự phát triển của đất nƣớc; phân bổ, tổ chức lại và tối ƣu hoá việc sử dụng

các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tăng cƣờng hợp tác với các Quốc gia thân

thiện trong khu vực và thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển KT-XH,

tăng cƣờng hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh (tập trung

vào đầu tƣ trong và ngoài nƣớc), hƣớng tới tăng trƣởng kinh tế mạnh mẽ, phát

triển cơ sở hạ tầng một cách có hệ thống, và hoạch định các chính sách

khuyến khích đầu tƣ vào các khu vực ƣu tiên phát triển, các khu vực sản xuất,

và các khu vực xa xôi gặp nhiều khó khăn.

- Bảy là, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển

các ngành và các khu vực kinh tế tập trung, trong đó phát huy những điều

kiện thuận lợi và các yếu tố tích cực để thu hẹp khoảng cách về trình độ phát

triển với các nƣớc khác. Tập trung vào các dự án lớn, thúc đẩy các doanh

nghiệp vừa và nhỏ, các đơn vị sản xuất áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật

công nghệ nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh.

-115-

3.1.2. Các mục tiêu vĩ mô

* Về Kinh tế vĩ mô:

- Mục tiêu đạt tốc độ tăng trƣởng GDP không ít hơn 8%/ năm. Trong

khu vực nông lâm nghiệp tăng trƣởng ít nhất 3%/năm chiếm 23% GDP; khu

vực công nghiệp tăng 15%/năm chiếm 39% GDP; và khu vực dịch vụ tăng

trƣởng 6,5%/năm chiếm 38% GDP. GDP bình quân đầu ngƣời đạt 1.700 USD

(với tỷ giá quy đổi 8.500 kíp/USD).

- Tỷ lệ lạm phát giữ ở mức thấp hơn tốc độ tăng trƣởng kinh tế, duy trì

tỷ giá hối đoái ổn định, và giữ mức biến động tỷ giá đồng kíp không quá 5%

so với các ngoại tệ mạnh khác.

- Tỷ lệ tiêu dùng trong toàn xã hội chiếm 75% GDP, đầu tƣ (bao gồm

đầu tƣ công và đầu tƣ tƣ nhân) ở mức 40% GDP, xuất khẩu ở mức 35% GDP

và nhập khẩu là 50% GDP.

- Thu nội địa hàng năm ở mức 16-17% GDP, tổng thu ngân sách (bao

gồm các khoản viện trợ) ở mức 18-19% GDP và thâm hụt NSNN không vƣợt

quá 3-5%/năm. Tăng lƣợng tiền gửi lên khoảng 20%/năm bằng 30% GDP.

* Trên lĩnh vực kinh tế:

- Sản xuất lúa gạo đạt 4 triệu tấn trên diện tích 1,04 triệu ha và đạt năng

suất khoảng 3,9 tấn/ha.

- Mục tiêu tăng trƣởng về chăn nuôi đạt 4-5%/ năm, trong đó có chăn

nuôi trâu, bò khoảng 2-3%; lợn và gia cầm tăng khoảng 6%.

- Mục tiêu tăng trƣởng về xuất khẩu hàng năm khoảng 18% và nhập

khẩu tăng 8%/năm.

- Mở rộng đƣờng dây tải điện 22 KV và cung cấp điện cho các khu vực

chƣa có điện gồm cả khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa phấn đấu đạt

đƣợc 80% số hộ trong cả nƣớc.

-116-

- Tăng cƣờng khai thác mỏ, chế biến khoáng sản chính nhƣ: Sản lƣợng

đồng đạt 86.200 tấn/năm; sản lƣợng vàng đạt 6 tấn/năm; và sản lƣợng than

đạt 728.000 tấn/năm.

- Phấn đấu thu hút khoảng 2,8 triệu lƣợt khách du lịch mỗi năm, khám

phá và mở rộng thiên nhiên, văn hóa, lịch sử nhằm mục đích có ít nhất thêm 2

di sản văn hóa thế giới.

- Ngành hàng không phấn đấu tăng trƣởng 8-10%/năm.

- Cung cấp nƣớc sạch cho 67% ngƣời dân trong các khu vực đô thị.

- Mở rộng dịch vụ mạng và truyền thông đến các vùng nông thôn, phủ

sóng đến 90% các bản trong cả nƣớc; tăng thêm số thuê bao di động và kết

nối điện thoại cố định đạt 80% dân số.

* Về mặt xã hội:

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dƣới 19% tổng dân số và xuống dƣới 11%

tổng số hộ trong cả nƣớc vào năm 2015.

- Tăng phổ cập tiểu học lên 98% tổng dân số trong năm 2015; tỷ lệ biết

chữ của ngƣời dân trong độ tuổi từ 15-23 đạt 99%.

- Giảm tỷ lệ trẻ em tử vong dƣới 5 tuổi ở mức 70/100 đứa trẻ đƣợc sinh

ra; tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh ở mức 45/1000 trẻ; Trẻ em dƣới 5 tuổi bị thiếu

cân giảm xuống mức 20% và suy dinh dƣỡng là 34%; giảm tỷ lệ tử vong ở

các bà mẹ không vƣợt quá 260 phụ nữ/ 100.000 ca sinh.

- Số ngƣời dân đƣợc sử dụng nƣớc sạch tăng lên 80% và phòng vệ sinh

ở mức 60% tổng số dân.

- Kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp trung bình không vƣợt quá 2%, trong đó

,Giảm số lƣợng lao động làm việc tại khu vực nông lâm nghiệp xuống còn

70%; lao động tại khu vực công nghiệp xây dựng và khai thác mỏ tăng lên

7%; và lao động trong khu vực dịch vụ lên 23% tổng số lao động.

-117-

- Tăng số bản văn hóa lên con số hơn 700 bản; số gia đình văn hóa lên

hơn 100.000 hộ; phát triển thêm ít nhất 4 khu công viên cấp Trung ƣơng và ít

nhất mỗi tỉnh 1 công viên.

* Về môi trường:

- Đảm bảo độ che phủ của rừng ở mức 65% tổng diện tích rừng của

đất nƣớc.

- Bảo tồn các nguồn khoáng sản, giữ gìn các nguồn tài nguyên, khoáng

sản ở mức hơn 65% tổng số tài nguyên, khoáng sản trên cả nƣớc; duy trì sự

ổn định của các nguồn tài nguyên đất nƣớc và giúp giảm nhẹ tình trạng biến

đổi khí hậu.

* Về đầu tư: Để đảm bảo mục tiêu tăng trƣởng kinh tế 8%/năm, ƣớc

tính ngân sách dành cho đầu tƣ, phát triển ở mức khoảng 32% GDP, trong đó

đầu tƣ công khoảng 43-47 nghìn tỷ kíp; đầu tƣ tƣ nhân trong và ngoài nƣớc và

các tài sản chuyển đổi thành vốn ở mức 64-70 nghìn tỷ kíp.

* Về cân đối NSNN: Kỳ vọng về tổng thu NSNN bình quân giai đoạn

2013-2020 đạt khoảng 18-19% GDP; tổng chi Ngân sách Nhà nƣớc ở mức

20-22% GDP; và thâm hụt ở mức 3-5% GDP.

* Cán cân lao động: Đến năm 2020 ƣớc tính nhu cầu về lao động sẽ ở

mức 3,26 triệu lao động song nguồn cung lao động sẽ chỉ cung ứng đƣợc ở

mức 3,17 triệu lao động. Trong đó, lao động làm việc ở khu vực nông nghiệp

tăng khoảng 209.669 lao động, khu vực công nghiệp tăng khoảng 14.272 lao

động, và khu vực dịch vụ tăng khoảng 34.431 lao động.

3.2.QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NSNN TRONG THỜI GIAN TỚI

3.2.1.Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải nhằm phát huy hiệu quả cao nhất

của việc sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nƣớc

Hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách thể hiện ở các mặt tiết kiệm, đƣợc

việc và tác động vĩ mô của chi NSNN. Hiện tại, hiệu quả chi NSNN và hiệu

-118-

lực của các cơ chế, chính sách chi ngân sách ở CHDCND Lào còn thấp; chi

NSNN còn dàn trải, thiếu tập trung, thiếu trọng điểm, còn chứa đựng những

dáng dấp cấp phát, thụ động, chịu nhiều sức ép tài chính khi điều hành.

Trong giới hạn quy mô NSNN còn nhỏ nhƣng phải đảm nhiệm nhiều

nhiệm vụ cùng một lúc thì vấn đề lựa chọn trọng tâm trọng điểm chi để nhanh

chóng phát huy hiệu quả chi thông qua đổi mới cơ cấu chi NSNN lại càng

quan trọng.

3.2.2. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải căn cứ vào nhu cầu về hàng hóa

dịch vụ công cộng ngày càng tăng của đời sống KT-XH

Mục tiêu của sự nghiệp phát triển KT-XH, công nghiệp hóa-hiện đại

hóa đất nƣớc là dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng văn minh, nền kinh tế

càng phát triển. Mục tiêu trên đƣợc thể hiện thông qua mức độ thỏa mãn nhu

cầu về hàng hóa dịch vụ công cộng cho đời sống KT-XH.

Khi CHDCND Lào chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng thì phải quan tâm

đến hiệu quả cuối cùng của chi tiêu công cộng bởi trong nền kinh tế thị trƣờng,

vai trò hàng đầu của Nhà nƣớc là tăng cƣờng phúc lợi xã hội. Do đó, chi NSNN

trƣớc hết phải đƣợc tập trung vào việc đầu tƣ cung cấp những hàng hóa dịch vụ

công cộng mà thị trƣờng không thể hoặc cung cấp không đủ.

Với chủ trƣơng “ Xã hội hóa”. mà thực chất là đa dạng hóa các nguồn

tài chính cho các hoạt động xã hội, trong đó nguồn lực tài chính của Nhà nƣớc

có vị trí chủ đạo, thực sự là cách lựa chọn đúng đắn để phát huy sức mạnh

tổng hợp của tài chính trong điều kiện kinh tế thị trƣờng.

Ngoài ra, Nhà nƣớc có thể lựa chọn đầu tƣ và cung cấp một số hàng

hóa dịch vụ cá nhân có tính then chốt mũi nhọn với cơ chế đầu tƣ thích hợp

nhƣ góp vốn cổ phần, đầu tƣ trực tiếp nhƣng trách nhiệm chính trong cung

cấp hàng hóa, dịch vụ này phải thuộc về các thành phần kinh tế.

-119-

3.2.3.Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải gắn chặt với chiến lƣợc phát triển

KT-XH và chiến lƣợc tài chính-tiền tệ của đất nƣớc

Hệ thống mục tiêu chiến lƣợc phát triển KT-XH, đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa là nền tảng, vừa là đối tƣợng phục vụ chi

NSNN, trong điều kiện đó, đổi mới cơ cấu chi NSNN phải:

- Tạo đủ nguồn lực để thực hiện các mục tiêu của chiến lƣợc phát triển

KT-XH giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030.

- Nâng cao vai trò và tính chủ động của NSNN trong kinh tế thị trƣờng,

hoàn thiện công cụ chi NSNN sắc bén, đồng bộ trong hệ thống các công cụ

điều tiết vĩ mô đối với nền KT-XH, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền

vững, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đảm bảo an sinh xã hội.

- Biến quản lý chi NSNN thành cầu nối gắn liền việc thực hiện các

nhiệm vụ chính trị với việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính có hạn.

Đảng và Nhà nƣớc đã xác định chiến lƣợc phát triển KT-XH đến năm

2020 và các năm tiếp theo trên cơ sở nhận thức đúng đắn và vận dụng một

cách hợp lý các quy luật kinh tế khách quan, đánh giá đúng thực trạng, phân

tích khoa học triển vọng phát triển KT-XH của đất nƣớc trong môi trƣờng vận

động của hội nhập khu vực và quốc tế.

Quan điểm chủ đạo của chiến lƣợc phát triển KT-XH trong thời gian

tới là phát triển nhanh và bền vững, tăng trƣởng đi đôi với thực hiện tiến bộ,

công bằng xã hội. Với chiến lƣợc phát triển KT-XH nhƣ vậy đòi hỏi phải dự

tính đƣợc các nguồn thu của NSNN bao gồm các nguồn lực trong và ngoài

nƣớc có thể huy động đƣợc. Từ đó xác lập cơ cấu chi ngân sách một cách hợp

lý, tối ƣu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu sao cho việc thực hiện chiến lƣợc phát

triển KT-XH phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.

3.2.4. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý

KT-XH của Nhà nƣớc

Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Nhà nƣớc phù hợp với cơ

chế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ hết sức

-120-

quan trọng. Trong những năm qua cùng với đổi mới cơ chế kinh tế, vai trò

Nhà nƣớc đã chuyển dần từ ngƣời quản lý trực tiếp và duy nhất mọi hoạt động

KT-XH sang quản lý có tính vĩ mô trên cơ sở khuôn khổ pháp lý mang tính

thực tiễn, toàn diện và ngày càng rõ ràng, công khai đã hỗ trợ cho nền kinh tế

phát triển theo đúng mục tiêu đã xác định.

Tuy nhiên, trong quá trình đó, vai trò và hiệu lực quản lý Nhà nƣớc còn

thấp, các tệ nạn cửa quyền tham nhũng, hối lộ,...vẫn còn tồn tại. Vì vậy, nâng

cao vai trò quản lý Nhà nƣớc, tăng cƣờng chế độ pháp quyền là một yêu cầu

cấp bách để phục vụ cho mục tiêu ổn định chính trị, tăng cƣờng vai trò Nhà

nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng theo hƣớng xã hội chủ nghĩa và cũng là cơ

sở căn bản để thực hiện đổi mới cơ cấu chi NSNN.

Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải góp phần duy trì sự ổn định, bền vững

của tài chính Nhà nƣớc, tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

thúc đẩy tăng trƣởng đạt tốc độ cao, liên tục trong thời gian dài, trên cơ sở đó

ổn định lâu dài nền tài chính quốc gia, góp phần ổn định chính trị xã hội.

3.2.5. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải tính đến bối cảnh hội nhập kinh tế,

tài chính quốc tế

Đổi mới cơ cấu chi NSNN đòi hỏi phải tích cực tìm thêm nguồn lực

cho phát triển KT-XH, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhƣng đồng

thời luôn phải gắn chặt với bối cảnh toàn cầu hóa về tài chính đang diễn ra

rộng khắp và liên tục trong một thế giới luôn biến động và ràng buộc chặt chẽ

với nhau nhằm bảo vệ an ninh tài chính Nhà nƣớc, góp phần bảo vệ an ninh

tài chính quốc gia, duy trì sự ổn định, bền vững của nền tài chính và ổn định

chính trị-xã hội.

Về mặt đối ngoại, việc đổi mới cơ cấu chi NSNN phải gắn với bối cảnh

thực tiễn mới, phải lƣờng trƣớc đƣợc xu hƣớng vận động của nền tài chính

Nhà nƣớc trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập tài chính, kinh tế đang

-121-

diễn ra mạnh mẽ để có giải pháp đối phó thích hợp, chủ động hội nhập hiệu

quả với khu vực và thế giới theo tốc độ và mức độ hợp lý.

3.3. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NSNN Ở CHDCND LÀO GIAI

ĐOẠN 2015-2020 VÀ TẦM NHÌN 2030

3.3.1. Nhóm các giải pháp chung

3.3.1.1. Lựa chọn thứ tự ưu tiên trong cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào,

cần tập trung chi đầu tư phát triển rồi mới đến các khoản chi thường xuyên

trên nguyên tắc hợp lý, hiệu quả.

Mục tiêu của việc xác định thứ tự ƣu tiên các nội dung chi ngân sách là

nhằm hoạch định kế hoạch chi Ngân sách Nhà nƣớc trong dài hạn. Nó thể

hiện vai trò quan trọng của NSNN trong việc đảm bảo phục vụ có hiệu quả

các nhiệm vụ phát triển KT-XH. So với các nƣớc trong khu vực cũng nhƣ trên

thế giới CHDCND Lào là một quốc gia còn nghèo, nền kinh tế còn ở trình độ

phát triển thấp, cơ cấu kinh tế lạc hậu, nhu cầu về vốn đầu tƣ là rất lớn, do đó

trong khi thu ngân sách chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu chi thì việc xác định thứ

tự ƣu tiên các khoản chi trong cơ cấu chi NSNN đƣợc xem là nhiệm vụ trọng

tâm trong quản lý điều hành chi ngân sách.

Để hoàn thành các mục tiêu phát triển KT-XH ở CHDCND Lào theo

hƣớng phát triển bền vững, cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào trong giai

đoạn 2015-2020 về nguyên tắc vẫn phải tiếp tục sắp xếp theo thứ tự ƣu tiên

cho chi đầu tƣ phát triển rồi mới đến chi thƣờng xuyên.

Chi đầu tƣ phát triển đƣợc xếp thứ tự ƣu tiên hàng đầu vì vốn đầu tƣ

ngân sách luôn đóng vai trò quan trọng mang tính quyết định trong phát triển

KT-XH, trong thời gian tới hàng năm phải dành từ 35-40% chi NSNN để đầu

tƣ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, để phát huy một cách hiệu quả nhất đồng vốn

bỏ ra, các cấp quản lý phải cân nhắc đầu tƣ vào khu vực nào, ngành nào quan

trọng then chốt, mang tính chất quyết định.

-122-

Trong cơ chế thị trƣờng có sự định hƣớng của Nhà nƣớc, vốn đầu tƣ

phát triển từ NSNN sẽ chủ yếu đầu tƣ vào xây dựng, nâng cấp các công trình

kết cấu hạ tầng KT-XH, nhất là các công trình kết cấu hạ tầng nông nghiệp và

nông thôn để tạo điều kiện thu hút vốn từ các thành phần kinh tế khác khai

thác các tiềm năng, lợi thế của các địa phƣơng để phát triển. Ngoài ra, vốn

đầu tƣ phát triển từ NSNN còn phải tập trung cho các vùng trọng điểm, các

công trình trọng điểm, các mục tiêu, nhiệm vụ ƣu tiên của chiến lƣợc, hỗ trợ

đầu tƣ phát triển hợp lý cho các vùng còn khó khăn.

Nhƣ vậy, các khoản chi đầu tƣ từ ngân sách phải từng bƣớc mang tính

định hƣớng, xóa bỏ bao cấp. Để tập trung nguồn lực đầu tƣ phát triển, phải

hạn chế các khoản chi đầu tƣ mang tính chất tiêu dùng nhƣ chi xây dựng trụ

sở cơ quan hành chính sự nghiệp.

Chi thƣờng xuyên trong NSNN bao gồm các nội dung chi phát sinh

tƣơng đối đều đặn trong những khoảng thời gian ngắn, đƣợc sắp xếp sau chi

đầu tƣ phát triển về thứ tự ƣu tiên. Tuy nhiên, không thể hiểu là trong điều

hành NSNN, Nhà nƣớc phải bằng mọi giá thắt chặt các khoản chi thƣờng

xuyên để tập trung cho chi đầu tƣ phát triển. Mục tiêu đề ra của sắp xếp thứ tự

ƣu tiên trong chi NSNN là vừa phải bảo đảm nguồn lực để phát triển, vừa

phải bảo đảm các nhu cầu chi thực sự cần thiết phục vụ hoạt động của bộ máy

Nhà nƣớc nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình.

Do vậy, phát triển KT-XH ở CHDCND Lào theo hƣớng bền vững thì

cơ cấu chi NSNN mà trong đó chi đầu tƣ phát triển phải đƣợc ƣu tiên nhƣng

chỉ trong trƣờng hợp đã thỏa mãn nhu cầu tối thiểu các khoản chi thƣờng

xuyên theo định mức chi tiêu.

Bên cạnh việc xác định trình tự ƣu tiên giữa chi đầu tƣ phát triển với

chi thƣờng xuyên, còn phải xác định đƣợc thứ tự ƣu tiên giữa các nội dung

chi trong cơ cấu chi đầu tƣ phát triển và các nội dung chi trong cơ cấu chi

thƣờng xuyên.

-123-

* Xác định trình tự ưu tiên hợp lý trong cơ cấu chi đầu tư phát triển

Chi đầu tƣ phát triển trong thời gian tới phải tập trung vào các ngành

thế mạnh, mũi nhọn của đất nƣớc, ƣu tiên cho phát triển các vùng đồng bào

dân tộc, vùng sâu, vùng xa.

Về vốn đầu tƣ xây dựng cơ bản: Tập trung bố trí vốn cho xây dựng các

công trình cơ sở hạ tầng KT-XH, đầu tƣ phát triển các lĩnh vực then chốt của

đất nƣớc nhƣ: Đƣờng giao thông, thủy lợi, vệ sinh môi trƣờng, đầu tƣ ở các

vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn nhằm thu hút vốn đầu tƣ từ các

thành phần khác, tạo việc làm cho ngƣời lao động.

Vốn xây dựng cơ bản bố trí một cách tập trung, không dàn trải, không

kéo dài thời gian thi công, nhanh chóng đƣa công trình vào sử dụng để phát

huy ngay hiệu quả, phục vụ cho phát triển sản xuất và lƣu thông hàng hóa. Cơ

cấu vốn đầu tƣ cần đƣợc bố trí cho các lĩnh vực ngành nghề vừa tạo tăng

trƣởng kinh tế nhƣng đồng thời phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát

triển KT-XH đất nƣớc.

Hạn chế việc xây dựng các trụ sở làm việc, các công trình chƣa cấp

bách, ít hiệu quả. Không bố trí vốn trong kế hoạch đối với các công trình

không đầy đủ thủ tục xây dựng cơ bản. Ƣu tiên vốn cho các công trình trọng

điểm và các công trình chuyển tiếp có khả năng hoàn thành đƣa vào sử dụng

trong năm. Ngoài ra, cũng cần ƣu tiên cho những công trình có tỷ lệ vốn đầu

tƣ thiết bị cao trong tổng vốn đầu tƣ để khuyến khích đổi mới công nghệ.

Việc quản lý vốn đầu tƣ phải chấp hành đúng theo các quy định của

Chính phủ. Cơ quan quản lý Nhà nƣớc cần thận trọng trong khâu lựa chọn dự

án, mở rộng dự án và nâng cao chất lƣợng đấu thầu, kiểm soát chặt chẽ đơn

giá, thực hiện cấp phát vốn theo giá đấu thầu. Quản lý và tổ chức thực hiện tốt

quy chế đấu thầu thi công, hạn chế tình trạng chỉ định thầu, giao thầu.

-124-

Về vốn cho các doanh nghiệp: Chỉ thực hiện cho vay ƣu đãi từ NSNN

đối với những doanh nghiệp Nhà nƣớc làm ăn thực sự có hiệu quả và có khả

năng cạnh tranh cao, những doanh nghiệp mới thành lập thuộc danh mục

đƣợc Nhà nƣớc khuyến khích và cần hỗ trợ vốn ban đầu. Vốn cho các doanh

nghiệp vay phải bố trí tập trung một cách hiệu quả, không bố trí cho vay dàn

trải. Bảo đảm 100% vốn pháp định đối với những doanh nghiệp nhà nƣớc làm

ăn có hiệu qủa mà Nhà nƣớc cần nắm 100% vốn. Các doanh nghiệp khác phải

tự huy động vốn từ các nguồn khác theo cơ chế thị trƣờng.

* Xác định trình tự ưu tiên hợp lý trong cơ cấu chi thường xuyên

Trong chi thƣờng xuyên, các nội dung chi phải đƣợc sắp xếp ƣu tiên

theo trình tự hợp lý. Cụ thể là:

Chi giáo dục đào tạo:

Con ngƣời là động lực của mọi sự phát triển, do đó, chi cho giáo dục

đào tạo là nội dung đƣợc ƣu tiên hàng đầu trong cơ cấu chi thƣờng xuyên cùa

NSNN. Hiện nay, để phát triển ở CHDCND Lào không chỉ thiếu thốn về máy

móc thiết bị với công nghiệp hiện đại mà còn thiếu cả đội ngũ cán bộ quản lý

kinh tế, đội ngũ kỹ thuật, công nhân lành nghề. Chỉ có tập trung ƣu tiên cho

giáo dục đào tạo mới có thể nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dƣỡng lực lƣợng lao

động đáp ứng yêu cầu ngày càng cao để phát triển KT-XH.

Để thực hiện đƣợc yêu cầu trên, từ nay đến 2020 chi cho sự nghiệp giáo

dục, đào tạo phải giữ đƣợc tốc độ tăng hàng năm bình quân khoảng 15-16%;

trong cơ cấu chi NSNN, chi cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo giữ tỷ lệ khoảng 35-

40% so với tổng chi thƣờng xuyên. Trong đó, các khoản chi ngân sách phải

nhằm mục đích nâng cao chất lƣợng giáo dục thông qua chính sách đãi ngộ giáo

viên, đổi mới chƣơng trình giảng dạy, nghiên cứu phƣơng pháp dạy mới,…

Chi quản lý hành chính:

Đây là những khoản chi mang tính chất tƣơng đối đều đặn, bảo đảm

duy trì cho hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc. Mặc dù chiếm tỷ trọng khá lớn

-125-

trong cơ cấu chi ngân sách nhƣng do thu ngân sách CHDCND Lào còn chƣa

đủ thỏa mãn các nhu cầu chi nên những năm qua, khoản chi này thƣờng bị cắt

xén để tập trung cho chi đầu tƣ phát triển.

Trong thời gian tới, công tác quản lý điều hành chi NSNN một mặt kiên

quyết cắt giảm các khoản chi không thực sự cần thiết hoặc không hợp lý, mặt

khác vẫn phải bảo đảm các nhu cầu cơ bản về chi quản lý hành chính để phát

huy hiệu quả hoạt động bộ máy Nhà nƣớc. Để phù hợp với yêu cầu về chi

lƣơng, trang thiết bị làm việc, tốc độ tăng hàng năm của chi quản lý hành

chính nên tính bình quân khoảng 15-16%.

Chi sự nghiệp kinh tế:

Đây là các khoản chi chủ yếu cho các hoạt động kinh tế, tạo điều kiện

thúc đẩy phát triển sản xuất các ngành nông lâm nghiệp, chi vận hành và bảo

trì nhằm duy trì sự hoạt động và phát huy có hiệu quả tài sản Nhà nƣớc đã

đƣợc đầu tƣ. Cũng nhƣ chi quản lý hành chính, các khoản chi về sự nghiệp

kinh tế trƣớc đây cũng thƣờng xuyên bị cắt giảm khi cân đối ngân sách căng

thẳng. Hiện nay, chi sự nghiệp kinh tế chủ yếu do NSNN đảm nhận, do vậy

để có kinh phí duy trì hệ thống đƣờng giao thông trong tỉnh bảo đảm hoạt

động tốt, trong thời gian tới chi sự nghiệp kinh tế cần đƣợc sắp xếp ƣu tiên

trong cơ cấu chi NSNN với tốc độ tăng hàng năm bình quân khoảng 13%. Tỷ

lệ của nội dung chi quản lý sự nghiệp kinh tế trong cơ cấu chi thƣờng xuyên

đề nghị giữ ổn định ở mức khoảng 16%.

Chi sự nghiệp khoa học công nghệ:

Đây là khoản chi chiếm tỷ lệ tƣơng đối nhỏ trong chi thƣờng xuyên. Tuy

nhiên, để thúc đẩy phát triển KT-XH ở CHDCND Lào trong giai đoạn tới

không thể xem nhẹ vai trò mũi nhọn của khoa học công nghệ. Trong điều kiện

hiện nay, mặc dù còn khó khăn nhƣng chi ngân sách ở CHDCND Lào cũng cần

cố gắng dành sự ƣu tiên đáng kể cho việc đẩy mạnh thành lập các trung tâm

-126-

nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, các dịch vụ về công nghệ thông tin.

Tỷ lệ của nội dung chi sự nghiệp khoa học công nghệ trong cơ cấu chi thƣờng

xuyên đề nghị nâng lên ở mức khoảng 2%.

Ngoài những nội dung đã trình bày nêu trên, các nội dung còn lại trong

chi thƣờng xuyên tùy thuộc tình hình thực tế và khả năng thu Ngân sách Nhà

nƣớc để sắp xếp bố trí cho phù hợp. Tuy nhiên, về nguyên tắc có thể sắp xếp

theo thứ tự ƣu tiên nhƣ: Chi sự nghiệp y tế, chi sự nghiệp văn hóa thông tin,

chi sự nghiệp xã hội,…

3.3.1.2. Quản lý và điều hành các nội dung chi NSNN một cách linh hoạt,

cơ cấu chi NSNN luôn được điều chỉnh theo đòi hỏi của tình hình KT-XH

từng giai đoạn

Ngân sách Nha nƣớc giữ vai trò đảm bảo hoạt động cho bộ máy quản lý

Nhà nƣớc và phát triển KT-XH, công tác quản lý và điều hành chi NSNN

phải tuân theo những nguyên tắc về xây dựng chiến lƣợc, kế hoạch mang tính

ổn định cao. Trong cả ngắn hạn lẫn dài hạn, cơ cấu các khoản chi NSNN phải

đƣợc xây dựng dựa trên những luận cứ khoa học, khả năng đáp ứng của thu

NSNN và các mục tiêu phát triển KT-XH của Nhà nƣớc. Tuy nhiên, việc điều

hành cơ cấu chi NSNN không phải chỉ tuân theo một công thức, một khuôn

mẫu đã đƣợc xác định sẵn, mà nó còn thể hiện tính linh hoạt, luôn đƣợc điều

chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Ngoài ra, trong cơ chế thị trƣờng, chi

từ NSNN không còn là kênh cấp phát duy nhất cho các hoạt động của nền

kinh tế. Sự đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở

hữu đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tƣ vốn, tham gia vào gần

nhƣ mọi hoạt động KT-XH. Với cơ chế mới, công tác hoạch định và điều

hành chi NSNN cũng phải đổi mới cho phù hợp trên cơ sở vừa duy trì đƣợc

tính ổn định cần thiết vừa thể hiện tính linh hoạt trong việc quản lý ngân sách

Nhà nƣớc.

-127-

Với vai trò là công cụ quan trọng điều chỉnh kinh tế vĩ mô, chính sách

chi NSNN tác động đến mọi lĩnh vực KT-XH; do vậy cơ cấu chi NSNN luôn

luôn phải đƣợc điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở tổng kết thực tế và dự báo về

tình hình phát triển KT-XH của địa phƣơng trong giai đoạn kế tiếp. Có nhƣ

vậy, các chính sách chi NSNN của tỉnh mới phát huy đầy đủ vai trò thúc đẩy

phát triển KT-XH.

3.3.1.3. Thực hiện quy chế dân chủ và công khai hóa cơ cấu chi NSNN

Thực hiện quy chế dân chủ và công khai tài chính nói chung nhằm phát

huy quyền làm chủ của nhân dân, cán bộ về kinh tế, đồng thời tạo điều kiện

cho việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan, các đoàn thể, các tổ chức xã hội

và quần chúng nhân dân, thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập, thực

hiện chính sách tiết kiệm, chống lãng phí và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi

phạm chế độ quản lý tài chính.

Trong khâu lập dự toán chi NSNN, cơ quan quản lý ngân sách cấp trên

phải công khai đối với cơ quan quản lý ngân sách cấp dƣới và các ngành liên

quan về các định mức tiêu chuẩn, các nguyên tắc và phƣơng thức phân bổ

kinh phí ngân sách theo từng lĩnh vực chi, nhiệm vụ chi, số bổ sung từ ngân

sách cấp trên, tỷ lệ điều tiết. Cần xem trọng công tác hƣớng dẫn xây dựng dự

toán theo từng nội dung chi thƣờng xuyên và chi xây dựng cơ bản, dự lƣờng

đầy đủ các khoản chi chính đáng dự kiến sẽ phát sinh.

Thực hiện quy chế dân chủ trong chấp hành dự toán chi NSNN thể hiện

thông qua việc ban hành và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong

chi ngân sách một cách hợp lý, tiết kiệm và công bằng. Hạn chế việc chi

ngoài dự toán đã duyệt đầu năm, mọi khoản chi phí phát sinh trong năm phải

đƣợc sắp xếp chi trong kinh phí đã đƣợc bố trí cho cơ quan, đơn vị, trừ những

khoản chi phát sinh khách quan, bất khả kháng.

Cơ quan quản lý ngân sách cấp dƣới và các đơn vị thụ hƣởng ngân sách

cũng phải công bố công khai khối lƣợng, chất lƣợng, kết quả nhiệm vụ đã

-128-

thực hiện. Thƣờng xuyên tổ chức kiểm tra việc thực hiện công khai ngân sách

gắn liền với thực hiện quy chế dân chủ ở các ngành, các cấp, các đơn vị.

3.3.2. Về đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội

3.3.2.1. Điều chỉnh tăng tỷ trọng chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH

và ưu tiên đầu tư tại các khu vực có lợi thế, tiềm năng khai thác.

Trong điều kiện xuất phát điểm thấp thì nhu cầu về vốn đầu tƣ xây

dựng cơ bản của địa phƣơng để phát triển KT-XH trong thời gian tới là rất

lớn. Trong tình trạng tất cả các ngành, các lĩnh vực đều cần vốn, việc thiết lập

thứ tự ƣu tiên các khoản chi ngân sách về đầu tƣ xây dựng cơ bản phải tập

trung ƣu tiên cho các công trình trọng điểm của tỉnh có tính chất quyết định

và tạo đà để thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH giai đoạn 2015-2020.

Trong đó, các lĩnh vực đƣợc NSNN ƣu tiên hàng đầu là vốn đầu tƣ các công

trình về xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, thông tin liên lạc.

Trong thời gian tới, Chính phủ CHDCND Lào cần xem xét, nghiên cứu

tăng quy mô và tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển trong NSNN để tập trung đầu tƣ

hạ tầng KT-XH, đảm bảo các nguồn lực nhằm thực hiện các dự án quan trọng

quốc gia, đặc biệt là các dự án thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện

xóa đói giảm nghèo. Với cơ cấu chi đầu tƣ phát triển hiện nay, tỷ trọng chi đầu

tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH là quá khiêm tốn (1/4 tổng chi đầu tƣ phát

triển), trong khi tỷ trọng chi đầu tƣ cho vay và viện trợ lại chiếm tỷ trọng quá

cao trong chi đầu tƣ phát triển (3/4 tổng chi đầu tƣ phát triển). Với mục tiêu đạt

tốc độ tăng trƣởng GDP không ít hơn 8%/ năm. Khu vực nông lâm nghiệp tăng

trƣởng ít nhất 3%/năm, chiếm 23% GDP; khu vực công nghiệp tăng 15% mỗi

năm, chiếm 39% GDP; và khu vực dịch vụ tăng trƣởng 6,5%/năm chiếm 38%

GDP. GDP bình quân đầu ngƣời đạt 1.700 USD (với tỷ giá quy đổi 8.500

kíp/USD), Chính phủ CHDCND Lào cần điều chỉnh tỷ trọng chi đầu tƣ xây

dựng cơ sở hạ tầng lên từ 5-6% GDP (hiện nay là khoảng 2-3% GDP).

-129-

Đối với CHDCND Lào, cơ sở hạ tầng đƣợc đầu tƣ xây dựng từ những

năm qua đã và đang phát huy đƣợc tác dụng phục vụ sản xuất và dân sinh,

góp phần phát huy nội lực của nhân dân địa phƣơng và thu hút đầu tƣ từ bên

ngoài. Tuy nhiên, tại những khu vực trọng điểm mà CHDCND Lào chủ

trƣơng tập trung phát triển về công nghiệp, du lịch, nhìn chung về cơ sở hạ

tầng còn chƣa đáp ứng về yêu cầu, hệ thống đƣờng giao thông chất lƣợng xấu,

các dịch vụ cung cấp điện, nƣớc, thông tin liên lạc chƣa có hoặc đã có nhƣng

chƣa đồng bộ.

Định hƣớng ở CHDCND Lào trong thời gian tới là xây dựng đƣợc cơ

cấu kinh tế công nghiệp, dịch vụ, nông lâm nghiệp, ngƣ nghiệp. Tuy nhiên,

trong cơ chế thị trƣờng, vai trò của các khoản chi đầu tƣ từ NSNN chỉ nên

định hƣớng, dẫn dắt, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia.

Nhƣ vậy, NSNN không thể và cũng không nên tập trung vốn đầu tƣ trực tiếp

xây dựng các khu công nghiệp, các dự án du lịch, các nhà máy chế biến nông

sản tại khu vực nông thôn mà vai trò đó thuộc về chủ đầu tƣ các thành phần

kinh tế khác. Vai trò của vốn đầu tƣ xây dựng cơ bản chỉ cần tập trung ở một

số khâu then chốt nhất nhƣ: Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng một

chính sách tài chính thông thoáng và hợp lý sẽ thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ.

Cụ thể về các khoản chi đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng mà NSNN cần tập

trung trong giai đoạn tới:

Thứ nhất, để phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, NSNN phải

đảm nhận phần lớn kinh phí cải tạo và xây dựng mới hệ thống đƣờng giao

thông liên tỉnh để tạo thế liên hoàn phát triển, đẩy mạnh giao thƣơng với các

quốc gia láng giềng nhƣ: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam,…NSNN phải

đảm bảo cung cấp đầy đủ các dịch vụ về điện, nƣớc, bƣu chính viễn thông đến

các khu công nghiệp, các dự án du lịch. Nhà nƣớc cần khuyến khích và tạo

điều kiện cho các thành phần kinh tế khác đầu tƣ vốn vào các dự án dƣới các

-130-

hình thức chủ yếu nhƣ: BT, BTO, BOT, liên doanh liên kết. Vốn đầu tƣ để

xây dựng các dự án công nghiệp, du lịch có quy mô lớn chủ yếu kêu gọi từ

nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và các nhà đầu tƣ từ các tỉnh khác.

Thứ hai, để thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH khu vực nông nghiệp

ở các bản, NSNN cần tập trung đầu tƣ cho việc nâng cấp, mở rộng đƣờng giao

thông nông thôn, đầu tƣ các công trình thủy lợi, quy hoạch tổng thể các vùng

nguyên liệu, hỗ trợ thông qua nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học kỹ

thuật vào sản xuất nông nghiệp. Vốn đầu tƣ để thực hiện phát triển KT-XH

khu vực nông thôn chủ yếu kêu gọi từ nguồn nội lực trong dân, các nhà đầu tƣ

trong và ngoài nƣớc.

3.3.2.2. Tăng cường và đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở

hạ tầng KT-XH

Để đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH ở CHDCND Lào trong những

năm tới đòi hỏi Chính phủ phải tăng vốn đầu tƣ vào phát triển cơ sở hạ tầng

KT-XH. Để đảm bảo có đủ lƣợng vốn này, việc đẩy mạnh huy động các

nguồn vốn đầu tƣ đa dạng cho phát triển cơ sở hạ tầng đƣợc coi là giải pháp

mang tính đột phá. CHDCND Lào có nhiều cơ hội để huy động đủ nguồn vốn

đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng. Chủ trƣơng của Đảng Nhân dân

cách mạng Lào là khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể

cả doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia phát triển cơ sở hạ tầng,

tập trung các nguồn lực để ƣu tiên cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống

giao thông, thông tin liên lạc, điện năng, tăng tỷ trọng đầu tƣ phát triển hạ

tầng giáo dục, y tế,...

Để thực hiện tốt mục tiêu đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tƣ phát triển

cơ sở hạ tầng KT-XH, cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

- Thứ nhất, cần đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa đầu tƣ phát triển kết cấu

hạ tầng, mở rộng các phƣơng thức đầu tƣ. Vốn Nhà nƣớc chỉ tập trung đầu tƣ

-131-

cho công tác quy hoạch, hỗ trợ đầu tƣ các công trình hạ tầng trọng yếu, ngoài

ra cần đẩy mạnh thu hút các nguồn vốn ngoài Nhà nƣớc với các phƣơng thức

đa dạng nhƣ: Phát hành trái phiếu Chính phủ áp dụng cho các công trình giao

thông quan trọng, có quy mô lớn; đầu tƣ theo hình thức BOT áp dụng cho một

số dự án có khả năng hoàn vốn, chủ yếu là các dự án đƣờng bộ chiến lƣợc,

một số cầu lớn; đầu tƣ bằng nguồn vốn trái phiếu công trình áp dụng cho các

dự án có khả năng hoàn vốn cao; đầu tƣ theo hình thức chuyển nhƣợng thu

phí; đổi đất lấy hạ tầng áp dụng cho các tuyến đi qua đô thị; lập các quỹ bảo

trì đƣờng bộ, quỹ đầu tƣ phát triển đô thị, quỹ đầu tƣ phát triển nông thôn,...

tạo vốn “mồi” để huy động các nguồn vốn khác từ các thành phần kinh tế

trong xã hội.

Nhà nƣớc phải tạo ra một khung pháp lý thống nhất, đồng bộ; cần

nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho việc thực hiện

xã hội hóa đầu tƣ phát triển kết cấu hạ tầng. Chính phủ cần ban hành Nghị

định về xã hội hóa đầu tƣ cơ sở hạ tầng theo hƣớng tăng cƣờng phân cấp cho

các địa phƣơng, khu vực tƣ nhân, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp

trong đầu tƣ và sản xuất kinh doanh; Nhà nƣớc chỉ thực hiện chức năng quản

lý, quy hoạch, kế hoạch, ban hành các chính sách, tổ chức thực hiện kiểm tra

và giám sát.

Để tạo đƣợc các nguồn vốn bền vững và đa dạng, công tác quy hoạch

phải luôn đi trƣớc một bƣớc, vì vậy, cần phải đổi mới công tác quy hoạch.

Các Bộ, cơ quan ngang bộ và địa phƣơng cần sớm rà soát, lập quy hoạch và

đề ra cơ chế, ban hành các danh mục đầu tƣ cơ sở hạ tầng để thu hút các

doanh nghiệp đầu tƣ vào lĩnh vực này.

- Thứ hai, cần nâng cao chất lƣợng sử dụng vốn đầu tƣ phát triển cơ sở

hạ tầng hơn nữa, huy động vốn theo chiều sâu. Theo quan điểm này, Chính

phủ cần xem xét thứ tự ƣu tiên trong đầu tƣ. Tuy nhiên, nếu việc lựa chọn thứ

-132-

tự ƣu tiên này là có ích cho toàn xã hội thì nó lại có thể gây tổn hại tới lợi ích

của một khu vực hay một bộ phận nào đó, do đó, để có thứ tự ƣu tiên đúng

đắn thì phải vƣợt qua đƣợc các lợi ích cục bộ. Đây không phải là một điều dễ

dàng. Muốn vậy phải có phƣơng pháp luận đúng đắn để đánh giá cụ thể và

khách quan hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của các dự án đầu tƣ phát triển

cở sở hạ tầng, từ đó mới có cơ sở xác định thứ tự ƣu tiên của các dự án một

cách hợp lý và có sức thuyết phục.

- Thứ ba, cần có sự phối hợp cân đối giữa chi tiêu cho đầu tƣ xây dựng

cơ sở hạ tầng và chi tiêu thƣờng xuyên cho bảo dƣỡng, sửa chữa các công

trình hạ tầng. Sự thiếu phối hợp này sẽ làm giảm hiệu quả đầu tƣ. Phần lớn

các công trình khi mới xây dựng xong đƣa vào sử dụng, nhu cầu chi phí bảo

dƣỡng là chƣa đáng kể. Tuy nhiên, qua một thời gian nhu cầu chi phí này sẽ

tăng lên nhiều, nếu không kịp đáp ứng thì công trình sẽ nhanh chóng xuống

cấp, gây lãng phí trong đầu tƣ.

3.3.3. Về thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hƣớng CNH-

HĐH cần lựa chọn các ngành ƣu tiên tập trung phát triển

Vấn đề lựa chọn các ngành cần tập trung ƣu tiên phát triển luôn là vấn

đề đƣợc đặt ra trong nghiên cứu cơ cấu kinh tế. Nhìn chung, các Nhà nghiên

cứu đã thống nhất với quan điểm của việc lựa chọn là xuất phát từ trạng thái

nguồn lực của đất nƣớc, yêu cầu về tính hiệu quả trong khuôn khổ những mục

tiêu tăng trƣởng cao, đòi hỏi chiến lƣợc cơ cấu trong giai đoạn đầu phải có

tính ƣu tiên cho những ngành sử dụng nhiều lao động, có năng lực dịch

chuyển cao một khi các tƣơng quan về nguồn lực thay đổi và có tính hƣớng

ngoại rõ rệt. Cả hai khía cạnh này của chiến lƣợc phát triển đều nhằm khai

thác một cách có hiệu quả các lợi thế tƣơng đối mà đất nƣớc sẵn có trong bối

cảnh nền kinh tế thế giới ngày càng mang tính toàn cầu.

Trong thời gian tới, CHDCND Lào cần tiếp tục tập trung khai thác và

phát triển các ngành có tiềm năng cao để tạo điều kiện cho tăng trƣởng kinh

tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhƣ:

-133-

- Ngành Nông nghiệp: Tập trung công nghiệp hóa và hiện đại hóa cho

nơi có điều kiện, nhất là sự biến đổi của nông nghiệp, phát triển sản xuất công

nghiệp thực phẩm (trồng lúa gạo, trồng cây thực phẩm, rau sạch, chăn nuôi

trang trại sử dụng công nghệ cao) để cung cấp cho thị trƣờng trong nƣớc và

xuất khẩu, cây công nghiệp (theo tiềm năng thực tế của từng địa phƣơng).

- Ngành công nghiệp: Tập trung phát triển các ngành công nghiệp có

lợi thế và cạnh tranh cao chẳng hạn nhƣ thủy điện, năng lƣợng nhiệt than,

công nghiệp khoáng chất (vàng, đồng và ka li, sắt, bốc xít,...), công nghiệp

chế biến (sản phẩm chế biến nông lâm nghiệp, khai thác mỏ,...), công nghiệp

hàng may mặc để xuất khẩu, hàng dệt may thủ công, sản xuất công nghiệp vật

liệu xây dựng (xi măng, tôn lợp, gạch, cáp dây điện, sắt thép), phụ tùng máy

móc cho thị trƣờng trong nƣớc và xuất khẩu,...

- Ngành dịch vụ: Tập trung vào phát triển công nghiệp du lịch, dịch vụ

quá cảnh, dịch vụ tổ chức hội nghị của khu vực và quốc tế, việc giao thông

vận tải trong và ngoài nƣớc, ngân hàng,...

Việc phát triển ngành có tiềm năng trên đây phải tạo ra thành dự án lớn

và dự án vừa, phát triển một ngành công nghiệp trụ cột đối với việc công

nghiệp hóa và hiện đại hóa của đất nƣớc cùng với việc thực hiện chiến lƣợc

tạo điều kiện thuận lợi cho việc thƣơng mại vạch ra trở thành hiện thực.

Xuất phát từ định hƣớng phát triển từng ngành kinh tế trên, về nguyên

tắc vốn đầu tƣ phải tập trung ƣu tiên cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Tuy

nhiên, trong thực tế, xu hƣớng vốn đầu tƣ ngoài khu vực ngân sách chủ yếu

tập trung vào các ngành công nghiệp, dịch vụ, là những ngành thu đƣợc lợi

nhuận cao hơn. Do vậy, để các ngành phát triển cân đối, cơ cấu vốn đầu tƣ

phát triển từ khu vực NSNN cho từng ngành kinh tế có thể phân bổ theo tỷ

trọng nhƣ sau:

- Vốn đầu tƣ cho ngành công nghiệp xây dựng chiếm khoảng 40% tổng

chi đầu tƣ phát triển trong nƣớc;

-134-

- Vốn đầu tƣ cho ngành dịch vụ chiếm khoảng 40% tổng chi đầu tƣ

phát triển trong nƣớc;

- Vốn đầu tƣ cho ngành nông lâm nghiệp chiếm khoảng 20% tổng chi

đầu tƣ phát triển trong nƣớc.

3.3.4. Về xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội

3.3.4.1. Gắn mục tiêu xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội với

mục tiêu tăng trưởng và phát triển KT-XH

Trong điều kiện hiện nay xóa đói giảm nghèo là điều kiện cần thiết,

đảm bảo cho việc ổn định chính trị. Thành công của xóa đói giảm nghèo sẽ là

nhân tố rất quan trọng, củng cố bảo vệ chế độ chính trị và giữ vững ổn định

chính trị. Mọi biện pháp lớn nhỏ để xóa đói giảm nghèo đều phải đƣợc nhìn

nhận từ chính trị, từ việc bảo vệ quyền làm chủ chế độ, làm chủ xã hội của

nhân dân lao động.

Xóa đói giảm nghèo là một chủ trƣơng lớn của Đảng và Nhà nƣớc

CHDCND Lào, là yếu tố quan trọng đảm bảo sự ổn định, phát triển KT-XH,

đó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề của toàn Đảng và toàn dân Lào.

Xóa đói giảm nghèo không chỉ dừng lại ở việc thực hiện các chính sách

xã hội, không chỉ việc riêng của ngành lao động xã hội hay một số ngành

khác mà nó là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa là nhiệm vụ chung của toàn

Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả

mọi cán bộ Đảng, chính quyền đều phải quan tâm cùng giải quyết, thực hiện

các giải pháp một cách đồng bộ và có sự tham gia của toàn thể cộng đồng.

Đẩy mạnh cuộc vận động xóa đói giảm nghèo, coi đó là trách nhiệm

của toàn Đảng, toàn xã hội. Tăng cƣờng tuyên truyền, giáo dục nâng cao hơn

nữa nhận thức của mọi cán bộ Đảng viên ở tất cả các ngành, các cấp trong các

tầng lớp dân cƣ về ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội của vấn đề xóa đói giảm

nghèo, với tầm cỡ to lớn và khó khăn phức tạp của nó xóa đói giảm nghèo

-135-

không thể chỉ dừng ở các chủ trƣơng, đƣờng lối chung, mà phải có sự phối

hợp đồng bộ, nhất quán từ chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc, các

chính sách, biện pháp cụ thể của Nhà nƣớc các cấp đến sự nỗ lực của mỗi gia

đình, mỗi cá nhân trong xã hội.

Đảng và Nhà nƣớc chủ trƣơng thực hiện phƣơng châm dân giàu, nƣớc

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh,…có thể nói đây là định hƣớng và

mục tiêu xuyên suốt của công cuộc đổi mới mở cửa và chƣơng trình xóa đói

giảm nghèo ở CHDCND Lào. Trong văn kiện Đại hội IX giai đoạn từ 2011-

2015 có nêu rõ quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về phân phối và phát triển

sản xuất: “Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành

phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo

nhất định trong xã hội, nhƣng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của ngƣời lao

động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi

trọng xóa đói giảm nghèo, từng bƣớc thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm

cho mọi ngƣời, mọi nhà đều khá giả.” “Phân phối và phân phối lại hợp lý các

thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo, không để

diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng,

các tầng lớp dân cƣ”.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX năm 2011 của nhân dân các bộ tộc

Lào vừa qua cũng tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhiều hình thức phân phối,

lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời

phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất

kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi sản xuất. Sở dĩ Đảng và Nhà

nƣớc xác định phân phối theo lao động là hình thức phân phối chủ yếu vì đây

là hình thức phân phối hợp lý và công bằng nhất so với các hình thức phân

phối khác. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nƣớc cũng đã thực hiện các hình thức

phân phối khác nhƣ phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực sản xuất và

-136-

phân phối thông qua phúc lợi nhằm phát huy tính tích cực lao động của ngƣời

dân và nâng cao thêm mức sống của ngƣời dân, đặc biệt là với những ngƣời

có thu nhập thấp và khó khăn. Để đạt đƣợc mục tiêu từng bƣớc thu hẹp và xóa

bỏ sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, Đảng và Nhà nƣớc chủ trƣơng

phát triển sức sản xuất, hoàn thiện chính sách tiền lƣơng, điều tiết thu nhập

dân cƣ nhằm hạn chế sự chênh lệnh quá đáng về mức thu nhập, khuyến khích

làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Với quan điểm nhƣ vậy, có

thể nhận thấy, chính sách phân phối của Đảng và Nhà nƣớc trong thời gian

qua thiên nhiều theo hƣớng song song với phát triển kinh tế cố gắng đảm bảo

công bằng xã hội, cố gắng tối đa thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các

tầng lớp dân cƣ trong xã hội.

Kinh nghiệm ở CHDCND Lào cho thấy, để giải quyết thu hẹp khoảng

cách giàu nghèo giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cƣ, trƣớc hết

CHDCND Lào thực hiện chiến lƣợc đầu tƣ mạnh cho những vùng miền,

ngành nghề lĩnh vực có khả năng phát triển và đảm bảo đƣợc hiệu quả đầu tƣ

cao, sau đó thông qua các chính sách nhƣ: Thuế, ƣu đãi đầu tƣ, hợp tác tài

chính để điều tiết thu nhập giữa vùng giàu với vùng nghèo, giữa nông thôn và

thành thị, giữa các cá nhân trong xã hội, ngoài ra CHDCND Lào còn thực

hiện phân bổ nguồn lực tài chính tƣơng đối đồng đều cho các vùng, đồng thời

có phần ƣu tiên cho các vùng nghèo, vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên cách làm ở

CHDCND Lào đã dẫn tới tình trạng đầu tƣ tràn lan, mỗi nơi một chút, hiệu

quả thấp. Trong khi đó khoảng cách giàu nghèo vẫn ngày càng rộng hơn, mặc

dù giảm nghèo trên diện rộng, song CHDCND Lào vẫn đang phải đối phó với

tình trạng khoảng cách chênh lệnh giữa các tầng lớp dân cƣ có chiều hƣớng

doãng ra. Hiện nay thu nhập của 10% dân số có thu nhập cao nhất cao gấp 6

lần so với 10% dân số có mức thu nhập thấp nhất. Trong khi đó, số dân xấp xỉ

ngƣỡng nghèo là rất lớn. Chính vì thế, trong thời gian tới, để giảm bớt khoảng

-137-

cách chênh lệnh giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cƣ, Đảng và Nhà nƣớc

nên điều chỉnh chênh lệnh giàu nghèo giữa các vùng miền, các tầng lớp dân

cƣ thông qua biện pháp gián tiếp chẳng hạn nhƣ: Là thuế, điều phối ngân

sách,…không nên thông qua các giải pháp trực tiếp kinh nghiệm đầu tƣ xây

dựng nhà máy chế biến nông sản ở bản Tha Ngon thủ đô Viêng Chăn,…tràn

lan trong những năm qua đã cho thấy điều đó.

Gắn giáo dục với xóa đói giảm nghèo; để ngƣời nghèo có thể tiếp cận

với giáo dục cần giải quyết đƣợc các vấn đề là phải giảm chi phí cho việc đi

học của ngƣời nghèo và nâng cao lợi ích của việc giáo dục, có nghĩa là tạo ra

những hiệu quả thiết thực nhận đƣợc từ giáo dục của ngƣời nghèo. Các giải

pháp để giải quyết các vấn đề đó ở CHDCND Lào.

Xóa bỏ tình trạng bản trắng về cơ sở giáo dục, xóa mù chữ, thực hiện

phổ cập giáo dục tiểu học cho các hộ nghèo, phổ cập nghề phổ thông cho các

thanh niên không có điều kiện. Tăng cƣờng đầu tƣ để nhanh chóng củng cố và

phát triển đến bản hoặc cụm bản hệ thống tổ chức giáo dục, đào tạo đảm bảo

hầu hết các bản nghèo có đủ các phòng học cấp tiểu học và trung học cơ sở,

đa dạng hóa các hình thức dạy và học; nâng cấp cơ sở vật chất các trƣờng nội

trú hiện có và mở thêm một số trƣờng ở những nơi cần thiết cho con em đồng

bào dân tộc để tạo nguồn và khuyến khích các cá nhân, các tổ chức trong và

ngoài nƣớc tham gia giáo dục miễn phí cho các hộ nghèo, ngƣời nghèo.

Nâng cao chất lƣợng giáo dục và các cấp học cơ sở ở các tỉnh miền núi,

vùng sâu, vùng sa biên giới, đảm bảo đủ đội ngũ giáo viên. Có chính sách trợ

cấp và học bổng để tạo điều kiện cho con em các gia đình nghèo đƣợc tới

trƣờng. Có chính sách ƣu đãi đối với giáo viên lên dạy học ở vùng sâu, vùng

xa,…

Gắn đào tạo nghề nghiệp với xóa đói giảm nghèo; các hộ nghèo đói

phần lớn là không có nghề, không biết cách làm ăn và thiếu kinh nghiệm là

-138-

một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra nghèo đói. Phần lớn ngƣời

nghèo có trình độ văn hóa thấp hầu nhƣ không hoặc ít đƣợc đào tạo về nghề

nghiệp và do những yếu kém về thể chất, hạn chế về vốn, về tƣ liệu sản xuất

cho nên hầu hết ngƣời nghèo thiếu kiến thức sản xuất kinh doanh, không biết

sử dụng hợp lý các nguồn lực và điều kiện sẵn có để sản xuất và tiêu thụ sản

phẩm. Chính vì vậy cần phải đào tạo nghề cho ngƣời nghèo.

Đào tạo các nghề có nhu cầu phát triển nhất là cách sơ chế, chế biến

các sản phẩm từ nông, công nghiệp và các loại nghề thủ công có ở trong vùng

mình để ngƣời nghèo có việc làm thêm mới có thể có đủ thu nhập trang trải

hàng ngày.

Hƣớng dẫn kỹ thuật canh tác làm ruộng, vƣờn, chăn nuôi gia súc, gia

cầm và các vật nuôi khác với những tiến bộ kỹ thuật và điều kiện đang có sẵn

trong địa phƣơng mình để tăng năng suất và hiệu quả sản xuất cho ngƣời

nghèo, hộ nghèo.

Hƣớng dẫn các tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong

khuôn khổ doanh nghiệp quy mô gia đình cho phù hợp với điều kiện thực tế

với yêu cầu của thị trƣờng.

Cách hƣớng dẫn, giúp đỡ ngƣời nghèo đói cần phải theo một quy trình

nhất định thống nhất, bắt đầu từ khâu điều tra, nắm thực trạng nguyên nhân

nghèo đói, vạch ra kế hoạch và các giải pháp giúp đỡ thiết thực, phân công

trách nhiệm, kiểm tra đánh giá kết quả, đƣa ra các giải pháp, cần sáng tạo với

cách làm phù hợp với đối tƣợng,…

Cần phải tổ chức một cách rộng rãi việc dạy nghề cho các hộ nghèo,

ngƣời nghèo, chủ yếu là cho các ngành nghề về sản xuất nông lâm nghiệp với

những tiến bộ mới về công nghệ sinh học,…đồng thời cũng phải quan tâm

đào tạo có trọng điểm cho các lực lƣợng lao động trẻ, các ngành tiểu thủ công

nghiệp và những nghề mới phù hợp với thị trƣờng.

-139-

Gắn chăm sóc y tế với xóa đói giảm nghèo; tạo điều kiện để ngƣời

nghèo đƣợc cung cấp các dịch vụ y tế, đƣợc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y

tế có chất lƣợng với giá cả phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và mức

thu nhập của các cá nhân trong xã hội. Thực hiện công bằng trong chăm sóc

sức khỏe nhất là ngƣời nghèo, hộ nghèo và các đối tƣợng chính sách,...các hộ

nghèo do sức khỏe yếu kém, không có sức lao động, dễ bị mắc bệnh thì các

cấp chính quyền trung ƣơng, tỉnh, huyện, bản nên thực hiện chính sách ƣu đãi

xã hội cho hộ nghèo, ngƣời nghèo cần phải xem xét từng hộ nghèo đói để áp

dụng các chính sách xã hội cho phù hợp với thực tiễn chẳng hạn: Chính sách

ƣu đãi, trợ cấp xã hội và các hình thức khác,…đồng thời cũng nên quan tâm

tới các đối tƣợng hộ nghèo, ngƣời nghèo nói chung.

3.3.4.2. Hoàn thiện cơ chế định mức phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước

sát với mục tiêu xóa đói giảm nghèo

Xây dựng một định mức phân bổ ngân sách nhà nƣớc phù hợp với mục

tiêu xóa đói giảm nghèo và phải đơn giản, cụ thể cho các huyện và bản thực

hiện. Điều đó, sẽ giúp cho các địa phƣơng lập và thực hiện dự toán dễ dàng

hơn, xác định đƣợc nhu cầu sử dụng ngân sách của địa phƣơng mình, tự chủ,

tự chịu trách nhiệm quản lý ngân sách đó. Từ đó, góp phần thiết thực cho xóa

đói giảm nghèo. Những định mức Ngân sách có thể đƣợc áp dụng thống nhất

ở các cấp chính quyền khác nhau không có nghĩa là thẩm quyền về ngân sách

của các tỉnh, thành phố bị mất đi mà nó tạo ra cơ chế cho quan hệ theo thứ

bậc giữa tỉnh, thành phố với các huyện và bản hoạt động theo hƣớng minh

mạch và công bằng hơn. Cải tiến cơ chế huy động, phân bổ và quản lý nguồn

lực theo hƣớng đa nguồn, coi trọng tại chỗ của từng địa phƣơng; có chính

sách phù hợp để thu hút các doanh nghiệp đầu tƣ vào miền núi, nhất là ƣu đãi

về đất, thuế; kêu gọi sự hỗ trợ của các nƣớc và các tổ chức quốc tế, tạo lực

mạnh về tài chính cho các vùng nghèo.

-140-

Tập trung ƣu tiên nguồn lực cho các bản miền núi, bản có tỷ lệ hộ

nghèo cao và đảm bảo công bằng giữa các vùng, miền có điều kiện nhƣ nhau,

phân bổ theo số đối tƣợng của địa phƣơng, miền Bắc tập trung số hộ nghèo

chiếm số lƣợng cao trong cả nƣớc, tình hình kinh tế giữa ba miền Bắc, Trung

và Nam không đồng đều do đặc thù vị trí địa lý giữa ba miền rất khác nhau,

cho nên cần có định mức phân bổ phù hợp cho các bản đặc biệt khó khăn.

3.4. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU

CHI NSNN

3.4.1. Hoàn thiện quy trình thực hiện chi NSNN trên cơ sở cải cách thủ

tục hành chính

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là các thủ tục hành

chính trong khâu cấp phát, thanh toán vốn.

Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đơn vị trong hệ

thống ngành tài chính ở địa phƣơng để không có sự chồng chéo trong quản lý

tài chính và ngân sách, mặt khác tạo sự kết hợp đồng bộ giữa các đơn vị để

thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý ngân sách ở địa phƣơng. Hoàn thiện các thủ

tục hành chính nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị thụ hƣởng NSNN chủ động

trong sử dụng kinh phí, khắc phục tình trạng kinh phí NSNN phải đi vòng vèo

qua các khâu trung gian không cần thiết. Thực hiện triệt để nguyên tắc cấp

phát thanh toán trực tiếp qua hệ thống Kho bạc Quốc gia cho mọi đối tƣợng

sử dụng ngân sách, mục đích là để hạn chế tối đa tồn đọng kinh phí ngân sách

ở tài khoản hoặc quỹ tiền mặt của các đơn vị, qua đó kiểm soát chặt chẽ việc

sử dụng kinh phí NSNN đúng mục đích.

Cơ quan tài chính duyệt dự toán chi tiết cho các đơn vị thụ hƣởng ngân

sách và hƣớng dẫn định mức các khoản chi tiêu. Dự toán và định mức chi

đƣợc thông báo cho các đơn vị ra lệnh chuẩn chi kèm theo hồ sơ gửi Kho bạc

để cấp phát thanh toán trực tiếp.

-141-

3.4.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cƣờng bồi dƣỡng, đào tạo cán bộ

làm công tác quản lý thu, chi NSNN

Trên cơ sở rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, cơ quan Tài

chính các cấp, Kho bạc Quốc gia cần tiến hành sắp xếp lại bộ máy tổ chức

hiện có đảm bảo nguyên tắc gọn nhẹ, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của

từng đơn vị, bộ phận trong quá trình thực thi nhiệm vụ đƣợc giao; hạn chế

thấp nhất các thủ tục hành chính không cần thiết. Thành lập Vụ phân tích và

Dự báo thuộc Bộ Tài chính để thực hiện nhiệm vụ phân tích và dự báo sự biến

động của các chỉ số kinh tế phục vụ cho công tác quản lý và điều hành NSNN.

Bên cạnh đó cần không ngừng đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ

cán bộ làm công tác quản lý NSNN để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu

nhiệm vụ đƣợc giao, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin và các

thiết bị hiện đại trong quản lý kinh tế.

Việc kiện toàn tổ chức, bồi dƣỡng đào tạo cán bộ là những yếu tố mang

tính quyết định cho sự thành công của một hệ thống thu, chi NSNN.

Trên cơ sở thực trạng cán bộ thực thi công tác quản lý NSNN ở

CHDCND Lào hiện nay, mặc dù đã đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng khá nhiều. Tuy

nhiên, đội ngũ cán bộ ở CHDCND Lào chƣa thực sự phù hợp với yêu cầu

hiện tại.

Trong thời gian tới cần tập trung vào một số nội dung sau đây:

- Tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ cán bộ trực tiếp, kể cả về chuyên

môn và nghiệp vụ khác nhƣ: Máy vi tính, ngoại ngữ,…

- Cần tổ chức và sắp xếp lại các cán bộ của các cơ quan cho đúng với

chuyên môn nghiệp vụ thực mà các cán bộ đã từng học đồng thời bổ sung cán

bộ mới có trình độ chuyên môn cao vào làm việc, các cán bộ đó phải đảm bảo

phù hợp với yêu cầu thực tế của cơ cấu tổ chức hiện hành và phù hợp với khả

năng thực tiễn của họ nhằm phát huy triệt để tiềm năng, sở trƣờng của cán bộ,

-142-

tinh giảm biên chế đối với một số trƣờng hợp yếu kém, mất phẩm chất không

còn phù hợp với yêu cầu quản lý hiện nay, tránh tình trạng nhận cán bộ không

đúng chuyên môn.

- Cải cách chế độ tiền lƣơng, thƣởng và các chế độ đãi ngộ, phúc lợi xã

hội đối với cán bộ, đảm bảo cho những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của các cán

bộ công nhân viên trong ngành, có nhƣ vậy mới đảm bảo cho họ thực sự yên tâm

trong công tác, tránh đƣợc những nguy cơ phát sinh các hiện tƣợng tiêu cực.

Hàng năm cần thiết phải tổ chức cuộc thi tuyển chọn, sát hạch về

chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ trên cơ sở đánh giá phân loại cán bộ

theo các tiêu chuẩn đề ra.

3.4.3. Nâng cao kỹ năng khai thác và nuôi dƣỡng nguồn thu

Khai thác nguồn thu đƣợc hiểu là việc xác định đúng các lợi thế của địa

phƣơng về tài nguyên thiên nhiên, nhân lực, vật lực để tận dụng đƣa vào phát

triển kinh tế, tăng thu cho NSNN, phù hợp với pháp luật của Nhà nƣớc.

Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động quản lý khai thác thu NSNN là ngay

từ khi lập dự toán, nhà quản lý phải đánh giá, phân tích kỹ lƣỡng những tiềm

năng và thế mạnh của địa phƣơng, dự báo đƣợc tính khả thi của các nguồn thu

bằng những căn cứ xác đáng để không tạo khoảng cách giữa việc lập dự toán

với các khoản thực thu. Điều đó đòi hỏi: Những phân tích, đánh giá yếu tố

ảnh hƣởng, tác động nhiều mặt đến khai thác tiềm năng của địa phƣơng phải

chính xác, đảm bảo đánh giá tiềm năng, lợi thế của địa phƣơng không thấp

hơn thực tế để không bỏ sót nguồn thu và cũng không đƣợc cao hơn thực tế,

để các nguồn thu đã chỉ ra phải chắc chắn thu đƣợc.

Việc khai thác nguồn thu phải gắn với nuôi dƣỡng, phát triển nguồn

thu, không vì mục tiêu trƣớc mắt, tận thu làm cạn kiệt nguồn thu, mất đi

nguồn thu lâu dài. Khi tiến hành khai thác, nuôi dƣỡng nguồn thu NSNN, chủ

thể quản lý cần tiến hành theo các bƣớc sau:

-143-

- Bước 1: Xác định đầy đủ phạm vi các nguồn thu hiện có;

- Bước 2: Làm rõ thế mạnh của những nguồn thu có khả năng khai thác

mở rộng;

- Bước 3: Có những hỗ trợ kịp thời bằng chính vai trò của chính quyền

Nhà nƣớc nhằm tăng cƣờng khả năng mở rộng nguồn thu tiềm năng.

Việc phân loại, đánh giá các nguồn thu là cần thiết; nhƣng điều kiện đủ

là đòi hỏi chính quyền cấp tỉnh, thành phố cần sử dụng tổng hợp các kỹ năng

hỗ trợ khai thác thu để hoạt động tổ chức khai thác thu NSNN thực sự có hiệu

quả. Cụ thể là:

- Thứ nhất: Lập kế hoạch xác định đúng những vấn đề trọng tâm trong

khai thác nguồn thu Ngân sách:

+ Xác định rõ mục đích của từng khoản thu là gì? Làm thế nào để cho

mọi ngƣời dân trong mỗi tỉnh, thành phố có thể hiểu và nhất trí với mục đích

của từng khoản thu;

+ Chính quyền cấp tỉnh, thành phố cần quan tâm đến cách thức công

khai cho mọi ngƣời dân về các vấn đề ngân sách. Tuy nhiên, cần chú ý tính

ƣu, nhƣợc điểm của từng cách thức để có phƣơng án kết hợp tốt, đạt hiệu quả

quản lý thu ngân sách;

+ Tổ chức cho nhân dân có thể tham gia quyết định các mức thu và

cách thu đối với các khoản thu đóng góp tự nguyện;

- Thứ hai: Xúc tiến các hoạt động hỗ trợ khai thác nguồn thu NSNN:

+ Tuyên truyền, vận động làm rõ ý nghĩa của việc huy động, vai trò của

ngƣời dân trong sự đóng góp cho Ngân sách tỉnh, thành phố làm cho họ hiểu

và thấy đƣợc lợi ích từ sự đóng góp của họ;

+ Có kế hoạch, chính sách kêu gọi đầu tƣ cho quê hƣơng, hỗ trợ tổ

chức họp hội đồng hƣơng để quyên góp hỗ trợ ngƣời nghèo và xây dựng quê

-144-

hƣơng. Xây dựng chính sách thu hút đầu tƣ nhƣ khuyến khích đầu tƣ, xây

dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính;

+ Có chính sách đấu thầu đúng quy định, thông báo và bỏ thầu công

khai, rộng rãi nhằm thu hút đƣợc nhiều nhà thầu, tăng sức cạnh tranh để định

giá cao nhất đối với các hoa lợi, công sản;

+ Đánh giá đúng những tiềm năng và lợi thế của địa bàn để có chính

sách phù hợp, tạo cơ sở hạ tầng tốt hỗ trợ cho ngày càng nhiều cá nhân, đơn

vị kinh doanh tiến hành sản xuất kinh doanh đồng thời thu hút các nhà đầu tƣ

nƣớc ngoài;

+ Đƣa các nguồn vật lực, tài nguyên, đất đai vào sử dụng, hạn chế tối

đa tình trạng bỏ hoang;

+ Thực hiện trùng tu đình chùa, sửa chữa nâng cấp các khu vui chơi

giải trí, danh lam thắng cảnh,…thu hút khách tham quan nhằm tăng các khoản

thu từ các khoản phí;

+ Chuyển đổi hình thức sử dụng đất đai, đầm hồ, cơ cấu kinh tế địa

phƣơng theo chủ trƣơng đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, khai

thác tiềm năng, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống;

Khai thác và nuôi dƣỡng nguồn thu NSNN một cách hợp lý là một vấn

đề khó khăn, đòi hỏi chính quyền cấp tỉnh, thành phố phải quan tâm đến đời

sống của ngƣời dân, tạo đƣợc lòng tin đối với dân trong quản lý, sử dụng có

hiệu quả ngân sách. Mặt khác, thu phải công bằng đối với mọi ngƣời và phải

đảm bảo yếu tố bền vững của nguồn thu.

3.4.4. Công tác tuyên truyền

Tăng cƣờng tuyên truyền, phổ biến thông tin để các cấp, ngành có liên

quan và đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nƣớc nhận thức đúng đắn về ý nghĩa,

vai trò và tầm quan trọng của quá trình cải cách hoạt động thu, chi NSNN để

có những biện pháp thiết thực thực góp phần cân đối NSNN, ổn định kinh tế

-145-

vĩ mô và thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm lần thứ VII ở

CHDCND Lào.

Trong công tác tập trung các khoản thu NSNN có kịp thời đầy đủ và có

hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào ý thức tự giác chấp hành các quy

định về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, về thời hạn, quy định thu NSNN

của các đối tƣợng nộp.

Kinh nghiệm ở hầu hết các nƣớc cho thấy, yếu tố cơ bản để thực hiện

thành công một sắc thuế mới không chỉ phụ thuộc vào hệ thống văn bản pháp

luật mà còn rất cần có sự hiểu biết sâu sắc, kỹ lƣỡng ý thức tự giác chấp hành

của mỗi cán bộ thuế và của quảng đại quần chúng nhân dân, đặc biệt là của

những ngƣời nộp thuế. Cần giải thích để họ hiểu rằng bản chất thuế dƣới chế

độ xã hội chủ nghĩa là của dân, do dân, vì dân, Nhà nƣớc thu thuế để thực

hiện chức năng quản lý Nhà nƣớc, phát triển KT-XH để xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, công bằng văn

minh, vì vậy, nộp thuế là trách nhiệm của toàn dân. Cần phải coi công tác

tuyên truyền, giải thích về quyền lợi, trách nhiệm của ngƣời nộp thuế là một

công việc quan trọng cần đƣợc thực hiện thƣờng xuyên. Cơ quan thuế cần có

sự phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phƣơng và các cơ quan

thông tin tuyên truyền đại chúng để tiến hành các công việc cụ thể sau:

- Soạn thảo, phổ biến rộng rãi các tài liệu giải thích, tuyên truyền về

thuế cho mọi ngƣời dân biết để họ có hiểu biết đầy đủ, tƣờng tận về chính

sách thuế, phƣơng pháp kê khai thuế, cách tính thuế và thời hạn nộp thuế,...

qua đó giúp các đối tƣợng thực hiện tốt hơn nghĩa vụ nộp thuế của mình.

Thực hiện đôn đốc tuyên truyền và giải thích những thắc mắc về các chính

sách thuế tại các địa điểm tập trung đông dân cƣ và phát hành các tờ rơi tài

liệu có liên quan đến chính sách thuế đồng thời kết hợp sử dụng các phƣơng

tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền giải thích chính sách thuế

-146-

(Đài phát thanh, đài truyền hình, sách báo, tạp chí,...). Lập trang web về thuế

trên mạng Internet để các tổ chức, cá nhân có thể khai thác tìm hiểu về chính

sách thuế và các thủ tục về thuế, cài đặt hệ thống giải đáp thắc mắc về thuế

qua mạng Internet, điện thoại.

- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về chính sách thuế, viết bài tuyên

truyền về thuế, chiến dịch tuyên truyền về thuế.

- Thực hiện tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế sâu rộng tới các tầng

lớp dân cƣ thông qua các tổ chức đoàn thể nhƣ: Trung tâm xúc tiến thƣơng

mại đầu tƣ, phòng công nghiệp và thƣơng mại, Hiệp hội doanh nghiệp trẻ.

Đƣa giáo dục về thuế vào chƣơng trình giảng dạy ở các trƣờng học, đƣa ra

quy định mọi tổ chức, cá nhân trƣớc khi kinh doanh đều phải đƣợc cấp chứng

chỉ đã qua lớp tập huấn, hƣớng dẫn về thuế.

- Thành lập trung tâm tƣ vấn giải đáp thắc mắc, trả lời các vấn đề liên

quan đến chính sách thuế miễn phí cho mọi đối tƣợng.

Ngoài ra, cơ quan thuế cần tổ chức các buổi tọa đàm, đối thoại với nhân

dân, với các cơ sở kinh doanh để thăm dò nguyện vọng của nhân dân, kịp thời

giúp đỡ cơ sở sản xuất kinh doanh, tháo gỡ khó khăn, vƣớng mắc trong việc

chấp hành chính sách thuế, qua đó phản ánh kịp thời các bất cập của cơ chế

hiện hành lên cơ quan quản lý cấp trên để có những sửa đổi, bổ sung nhằm

làm cho chính sách thuế ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho

việc tập trung ngày càng nhiều nguồn thu cho NSNN.

3.4.5. Tăng cƣờng trang thiết bị hiện đại hoá phục vụ công tác quản lý

thu, chi NSNN

Xuất phát từ bản chất, các cơ quan Thuế, Kho bạc Quốc gia các cấp là

cơ quan công quyền thực hiện chức năng của Nhà nƣớc, do vậy thƣờng xuyên

tiếp xúc với hầu hết các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, trụ sở các cơ quan này

phải đƣợc đầu tƣ thoả đáng, đảm bảo tính nghiêm minh của cơ quan Nhà

-147-

nƣớc. Mạng lƣới các cơ quan thực thi và quản lý NSNN từ Trung ƣơng đến

Địa phƣơng cần phải khang trang bề thế đồng thời phải tạo điều kiện thuận lợi

nhất cho đối tƣợng trong việc giao dịch với các cơ quan.

Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào hoạt động của các cơ quan

Thuế, Kho bạc Quốc gia; trong đó, ƣu tiên đầu tƣ sử dụng các phần mềm tiên

tiến trên thế giới phù hợp với yêu cầu quản lý tài chính và ngân sách trong

tình hình mới và theo thông lệ quốc tế.

Huy động các nguồn lực tài chính để thực hiện đầu tƣ cho ứng dụng và

phát triển công nghệ thông tin. Chú trọng thu hút nguồn vốn ngoài nƣớc cho

các dự án hiện đại hoá, tập trung vào dự án hệ thống thông tin quản lý thu, chi

NSNN của giai đoạn hiện nay và hƣớng mở rộng của dự án các năm tới.

3.4.6. Về hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin phục vụ cho việc lập dự toán

và quản lý, điều hành NSNN theo dự toán

Để thực hiện việc xây dựng dự toán theo khuôn khổ chi tiêu trung hạn

và thực hiện quản lý, điều hành NSNN theo dự toán, hệ thống cơ sở dữ liệu và

thông tin thu, chi NSNN đóng một vai trò hết sức quan trọng. Bộ Tài chính

cần tiến hành xây dựng các chỉ tiêu báo cáo thống nhất để làm cơ sở cho việc

thu thập, tổng hợp số liệu, đồng thời cần xây dựng một hệ thống lƣu trữ số

liệu thu, chi NSNN hoàn chỉnh. Trên cơ sở các mạng thông tin cục bộ hiện có

(mạng thông tin của cơ quan thu, của kho bạc quốc gia), ngành tài chính cần

sớm xây dựng một trung tâm cơ sở dữ liệu và truyền thông thống nhất của

toàn ngành. Hệ thống này đƣợc sử dụng để lƣu trữ toàn bộ các thông tin có

liên quan đến thu, chi NSNN; tiến độ tập trung nguồn thu; tiến độ chi; tồn quỹ

NSNN hiện có để cơ quan tài chính và kho bạc quốc gia có thể chủ động điều

hành NSNN trong mọi tình huống. Các dữ liệu đƣợc lƣu trữ một cách có hệ

thống tại trung tâm này cũng là những căn cứ quan trọng để các bộ phận có

chức năng tổng hợp, phân tích, dự báo các thông số kinh tế vĩ mô và các biến

-148-

động có thể ảnh hƣởng đến kế hoạch NSNN phục vụ cho việc xây dựng dự

toán và quản lý, điều hành NSNN.

3.4.7. Nâng cao trình độ thanh toán cho nền kinh tế

Trình độ công nghệ thanh toán của nền kinh tế trong đó có công nghệ

thanh toán của hệ thống Ngân hàng và Kho bạc Quốc gia có tác động trực tiếp

đến hiệu quả quản lý chi NSNN nói riêng và hiệu quả sử dụng vốn nói chung

của toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ cần có các giải pháp cụ thể để thúc đẩy sự

phát triển của hệ thống công nghệ thanh toán hiện đại nhằm hạn chế tối đa

việc sử dụng tiền mặt trong các quan hệ thanh toán; tiến tới sử dụng phổ biến

hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nhằm góp phần tiết kiệm chi phí xã

hội và nâng cao hiệu quả quản lý NSNN của Nhà nƣớc.

3.4.8. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý, điều hành

NSNN

Tăng cƣờng sự phối hợp giữa cơ quan Tài chính, Thuế, Hải quan, Kho

bạc Quốc gia nhằm đẩy nhanh việc tập trung các khoản thu NSNN để đáp ứng

các nhu cầu chi tiêu của các đơn vị sử dụng NSNN. Cơ quan Tài chính, Kho

bạc Quốc gia thƣờng xuyên trao đổi thông tin để nắm bắt kịp thời các số liệu

về thu, chi, tồn quỹ NSNN để có biện pháp điều hành linh hoạt trong từng

tình huống cụ thể. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa cơ quan Tài chính, Kho bạc

Quốc gia với ngân hàng trong việc tổ chức thanh toán, chi trả các khoản chi

của NSNN và bố trí nguồn đáp ứng các nhu cầu chi tiêu khi tồn quỹ NSNN bị

thiếu hụt tạm thời.

Trong công tác chống thất thu thuế, cơ quan Thuế tuy là nòng cốt nhƣng

không thể một mình chống thất thu có hiệu quả đƣợc mà phải dựa vào các tầng

lớp dân cƣ, đặc biệt là các cấp các ngành, các cơ quan có chức năng nhƣ:

- Văn phòng bản: cơ quan Thuế nên phối hợp một cách thƣờng xuyên

và chặt chẽ với tổ chức này để nắm bắt đƣợc những đặc điểm riêng biệt của

từng hộ kinh doanh và cũng có thể phát hiện ra đƣợc những hộ nào mới ra

-149-

kinh doanh từ đó hƣớng dẫn cho các hộ này đi đăng ký kinh doanh và cấp mã

số thuế cho họ, hoặc có thể phối hợp với Văn phòng bản để tổ chức những

buổi gặp mặt giữa đội tuyên truyền thuế và các hộ kinh doanh trong bản từ đó

cán bộ thuế có thể tuyên truyền, hƣớng dẫn và giải đáp những vƣớng mắc về

thuế để cho các hộ kinh doanh có thể hiểu biết đƣợc sâu rộng hơn đối với

quyền lợi và nghĩa vụ của họ đối với cơ quan Thuế.

Ngoài ra phối hợp với Văn phòng bản cũng có thể biết đƣợc kịp thời

những hộ đang có ý định chuyển đi kinh doanh nơi khác có nợ đọng thuế hay

không, tránh tình trạng các đơn vị có nợ đọng trốn đi kinh doanh nơi khác mà

không trả tiền thuế trƣớc.

- Phòng Tài chính: Phòng thuế cũng cần thƣờng xuyên phối hợp với

các phòng Tài chính của huyện và các bản để có thể biết đƣợc nhu cầu chi

tiêu và tiêu dùng trong phạm vi huyện, bản của mình.

- Bộ phận quản lý thị trƣờng: để có thể biết đƣợc tình hình biến động về

giá cả thị trƣờng của từng mặt hàng, ngành nghề, cơ quan Thuế cần phối hợp

với bộ phận này một cách chặt chẽ để từ đó có thể ấn định đƣợc doanh số cho

các đơn vị nộp thuế theo phƣơng pháp ấn định doanh thu và các hộ khoán.

Ngoài ra còn có thể phát hiện ra những mặt hàng chƣa dán tem và thông báo

cho cơ quan Thuế đến dán tem,…

- Phối hợp với cơ quan Công an (đặc biệt là Công an kinh tế): để xử lý

và điều tra những vụ trốn lậu thuế hoặc điều tra những hộ có nợ đọng lớn

không nộp tiền thuế rồi trốn đi kinh doanh ở các nơi khác mà không báo lại

với cơ quan Thuế.

- Phối hợp với các cơ quan chức năng khác để có thể theo dõi đƣợc sát

sao và kịp thời về mọi mặt biến đổi về số lƣợng, quy mô kinh doanh,…trên

địa bàn của các đơn vị kinh doanh từ đó mới có thể quản lý và thu đúng, thu

đủ, thu kịp thời và chính xác.

-150-

Kết luận chƣơng 3:

Trong chƣơng 3, trên cơ sở các mục tiêu, định hƣớng phát triển KT-XH

ở CHDCND Lào giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030, luận án đã trình bày

các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào với những nội

dung chủ yếu nhƣ sau:

- Các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH trong giai đoạn 2015-2020

ở CHDCND Lào;

- Các quan điểm chung về hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND

Lào nhằm mục tiêu phát triển KT-XH giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030;

- Trình bày hệ thống các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở

CHDCND Lào và các giải pháp hỗ trợ cần thực hiện nhằm tao điều kiện tốt

nhất cho việc thực hiện các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở

CHDCND Lào thời gian tới.

Toàn bộ các giải pháp trên đƣợc cấu thành nhƣ một hệ thống, có quan

hệ mật thiết với nhau. Chính vì vậy, để hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở

CHDCND Lào trong giai đoạn tới cần thực hiện một cách đồng bộ các giải

pháp. Mặt khác không đƣợc xem nhẹ các giải pháp hỗ trợ vì đây là những

điều kiện cần thiết để hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào.

-151-

KẾT LUẬN

Cùng với quá trình phát triển KT-XH đất nƣớc, thời gian qua công tác

quản lý điều hành chi NSNN ở CHDCND Lào đã đạt đƣợc nhiều tiến bộ nhất

định. Cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào đã cơ bản đảm bảo đƣợc các nhu

cầu chi tiêu tối thiểu của bộ máy Nhà nƣớc, từng bƣớc gắn với các mục tiêu

phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm

bảo công bằng xã hội. Bên cạnh đó, những hạn chế, tồn tại trong cơ cấu chi

NSNN ở CHDCND Lào đòi hỏi phải sớm đƣợc khắc phục và hoàn thiện trong

thời gian tới.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đánh giá tác động của cơ cấu

chi NSNN ở CHDCND Lào đến đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công

bằng xã hội, nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở

CHDCND Lào giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030, Luận án đã hoàn thành

đƣợc các nội dung chủ yếu nhƣ sau:

- Về lý luận, Chƣơng 1 đã hệ thống hóa những lý thuyết cơ bản về

NSNN và cơ cấu chi NSNN với phát triển KT-XH. Trong đó các nội dung đã

tổng hợp và trình bày theo hệ thống về khái niệm, bản chất, cơ cấu, chức

năng, và các tác động của cơ cấu chi NSNN tới phát triển KT-XH, biểu hiện

thông qua các lĩnh vực đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội.

- Về thực tiễn, Chƣơng 2 đã tập trung liệt kê, trình bày diễn biến cơ cấu

chi ngân sách nhà nƣớc ở CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012, qua đó trình

bày các tác động của cơ cấu chi NSNN tới đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng,

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công

-152-

bằng xã hội. Qua đó, đánh giá những thành tựu, hạn chế, phân tích nguyên

nhân khách quan và chủ quan của những tồn tại, hạn chế đó.

- Xuất phát từ lý luận và thực tiễn, Chƣơng 3 đã đề xuất một hệ thống

các giải pháp, các kiến nghị cụ thể để tiếp tục hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở

CHDCND Lào trong giai đoạn tới góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH của

đất nƣớc.

Hoàn thiện cơ cấu chi NSNN là một lĩnh vực khá phức tạp về mặt thực

tiễn thực hiện, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều ngành khác

nhau, do vậy đòi hỏi phải đƣợc Chính phủ, các ngành, các cấp quan tâm, tập

trung nghiên cứu để từng bƣớc hoàn chỉnh.

-153-

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Cơ cấu chi NSNN-Kinh nghiệm của Trung Quốc và Việt Nam bài

học cho CHDCND Lào, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 01 (114) -

2013, từ trang 68-70.

2. Cơ cấu chi ngân sách CHDCND Lào giai đoạn 2001- 2012, Tạp chí

Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 02 (115) - 2013, từ trang 62-64.

3. Tác động của cơ cấu chi NSNN đối với tăng trƣởng kinh tế và phát

tiển kinh tế xã hội ở CHDCND Lào, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán,

số 03 (128) - 2014, từ trang 55-58.

-154-

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chƣơng 1. CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VỚI PHÁT TRIỂN

KINH TẾ-XÃ HỘI ........................................................................................ 13

1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI ......... 13

1.1.1. Nhận thức chung về phát triển kinh tếError! Bookmark not defined.

1.1.2. Nhận thức chung về phát triển xã hộiError! Bookmark not defined.

1.1.3. Mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội -

Vấn đề phát triển bền vững ....................................................................... 23

1.2. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VÀ CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH

NHÀ NƢỚC ................................................. Error! Bookmark not defined.

1.2.1. Chi Ngân sách Nhà nƣớc ................................................................ 27

1.2.2. Cơ cấu chi Ngân sách Nhà nƣớc ..................................................... 32

1.3. TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NSNN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN

KINH TẾ-XÃ HỘI ....................................................................................... 39

1.3.1. Cơ cấu chi NSNN phục vụ đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH40

1.3.2. Cơ cấu chi NSNN thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ................. 46

1.3.3. Tác động của cơ cấu chi NSNN tới vấn đề giảm đói nghèo và đảm

bảo công bằng xã hội................................................................................. 52

1.4. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM VỀ BỐ TRÍ

CƠ CẤU CHI NSNN NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KT-XH; BÀI

HỌC RÚT RA CHO CHDCND LÀO ......................................................... 55

1.4.1. Kinh nghiệm về bố trí cơ cấu chi Ngân sách Nhà nƣớc của Trung

Quốc và Việt Nam ..................................................................................... 55

1.4.2. Bài học rút ra cho nƣớc CHDCND Lào .......................................... 61

Kết luận chƣơng 1 ........................................................................................... 63

-155-

Chƣơng 2. TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC

TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND LÀO GIAI

ĐOẠN 2001-2012 ........................................................................................... 64

2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND LÀO

GIAI ĐOẠN 2001-2012 .............................................................................. 64

2.1.1. Khái quát về đặc điểm kinh tế ở CHDCND Lào ............................ 64

2.1.2. Khái quát về đặc điểm xã hội ở CHDCND Lào ............................. 73

2.2. TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NSNN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KT-

XH Ở CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN 2001-2012 ........................................ 76

2.2.1. Thực trạng bố trí cơ cấu chi Ngân sách Nhà nƣớc ở CHDCND Lào

giai đoạn 2001-2012 ................................. Error! Bookmark not defined.

2.2.2. Tác động của cơ cấu chi NSNN tới sự phát triển KT-XH ở

CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012 ........................................................ 85

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CƠ CẤU CHI NSNN Ở CHDCND LÀO GIAI

ĐOẠN 2001-2012 - THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN..... 107

2.3.1. Những thành tựu đạt đƣợc ............................................................ 107

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân .................................................... 108

Kết luận chƣơng 2: ........................................................................................ 112

Chƣơng 3. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ

NƢỚC Ở CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN 2015-2020 ................................. 113

3.1. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KT-XH VÀ YÊU CẦU VỀ CHI NSNN

GIAI ĐOẠN 2015-2020 ............................................................................ 113

3.1.1. Định hƣớng chung ........................................................................ 113

3.1.2. Các mục tiêu vĩ mô ....................................................................... 115

3.2.QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NSNN TRONG THỜI GIAN

TỚI ............................................................................................................. 117

-156-

3.2.1.Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải nhằm phát huy hiệu quả cao nhất

của việc sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nƣớc ..................................... 117

3.2.2. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải căn cứ vào nhu cầu về hàng hóa

dịch vụ công cộng ngày càng tăng của đời sống KT-XH ....................... 118

3.2.3.Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải gắn chặt với chiến lƣợc phát triển

KT-XH và chiến lƣợc tài chính-tiền tệ của đất nƣớc .............................. 119

3.2.4. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý

KT-XH của Nhà nƣớc ............................................................................. 119

3.2.5. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải tính đến bối cảnh hội nhập kinh tế,

tài chính quốc tế ...................................................................................... 120

3.3. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NSNN Ở CHDCND LÀO GIAI

ĐOẠN 2015 - 2020 VÀ TẦM NHÌN 2030 ............................................... 121

3.3.1. Nhóm các giải pháp chung ............................................................ 121

3.3.2. Về đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội ......................... 128

3.3.3. Về thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hƣớng CNH-

HĐH cần lựa chọn các ngành ƣu tiên tập trung phát triển ...................... 132

3.3.4. Về xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội ................. 134

3.4. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU

CHI NSNN ................................................................................................. 140

3.4.1. Hoàn thiện quy trình thực hiện chi NSNN trên cơ sở cải cách thủ

tục hành chính ......................................................................................... 140

3.4.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cƣờng bồi dƣỡng, đào tạo cán bộ

làm công tác quản lý thu, chi NSNN ...................................................... 141

3.4.3. Nâng cao kỹ năng khai thác và nuôi dƣỡng nguồn thu ................. 142

3.4.4. Công tác tuyên truyền ................................................................... 144

3.4.5. Tăng cƣờng trang thiết bị hiện đại hoá phục vụ công tác quản lý

thu, chi NSNN ......................................................................................... 146

-157-

3.4.6. Về hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin phục vụ cho việc lập dự toán

và quản lý, điều hành NSNN theo dự toán ............................................. 147

3.4.7. Nâng cao trình độ thanh toán cho nền kinh tế .............................. 148

3.4.8. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý, điều hành

NSNN ...................................................................................................... 148

Kết luận chƣơng 3: ........................................................................................ 150

KẾT LUẬN .................................................................................................. 151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN