-1-
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trải qua nhiều năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng Nhân dân
cách mạng (NDCM) Lào khởi xƣớng và lãnh đạo đất nƣớc; nhất là từ năm
1986 đến nay đã có những thành tựu nổi bật, nhƣ: Quốc phòng, an ninh đƣợc
giữ vững; kinh tế-xã hội (KT-XH) liên tục phát triển; đời sống nhân dân đã
đƣợc cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị đƣợc củng cố; quan hệ đối ngoại đã
đƣợc mở rộng, vai trò, uy tín của nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân
(CHDCND) Lào ngày càng đƣợc nâng cao trên trƣờng quốc tế.
Đạt đƣợc những thành tựu trên đây có phần đóng góp quan trọng của
ngân sách nhà nƣớc (NSNN) - công cụ tài chính quan trọng của Nhà nƣớc.
Chi NSNN ở CHDCND Lào trung bình hàng năm tăng ở mức độ đáng kể.
Tốc độ tăng chi NSNN ở CHDCND Lào cao nhƣ vậy đã tạo ra cơ hội để đổi
mới cơ cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển KT-XH, tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, thực tiễn điều hành NSNN ở CHDCND Lào trong thời gian
qua còn có nhiều bất cập, nhƣ: Cơ cấu chi NSNN chƣa góp phần phân bổ
nguồn lực tài chính công hiệu quả hơn giữa các loại hình chi; Giữa các ngành,
các lĩnh vực; chƣa đảm bảo phân bổ công bằng và hƣớng về ngƣời nghèo
nhiều hơn. Mặt khác, do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ảnh
hƣởng đến việc thực hiện cơ cấu chi NSNN, mà hậu quả là phải cắt giảm một
số khoản chi, dẫn đến không đạt mục tiêu phát triển KT-XH đã đề ra. Nhận
thức đƣợc điều đó, trong quá trình phát triển đất nƣớc để thực hiện đƣợc các
mục tiêu và giải quyết vấn đề đặt ra, Nhà nƣớc phải có chủ trƣơng, chính
sách, giải pháp tích cực để từng bƣớc nâng cao chất lƣợng điều hành chi
NSNN, trong đó có giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN.
Để góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách đã nêu trên, tác giả đã
mạnh dạn chọn đề tài: “Đổi mới cơ cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển
KT-XH ở CHDCND Lào” để nghiên cứu và làm luận án tiến sĩ kinh tế.
-2-
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, đã có nhiều tiếp cận nghiên cứu về lý luận và thực
tiễn có liên quan đến chi và quản lý chi NSNN. Sản phẩm của mỗi cách tiếp
cận đó có thể là các luận văn ở trình độ Thạc sĩ; có thể là các luận án ở trình
độ Tiến sĩ; hoặc cũng có thể là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học, hay
các bài báo thuộc các cấp khác nhau quản lý;…Tuy nhiên, với các mục đích
nghiên cứu khác nhau thì kết quả kỳ vọng đối với sản phẩm nghiên cứu khác
nhau. Nên tác giả của mỗi công trình đó cũng đã biết giới hạn lại phạm vi
nghiên cứu cho phù hợp. Có thể khái quát nội dung của các công trình trên
qua một số nét sau:
2.1. Các nghiên cứu trong nƣớc
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế, đổi mới quản lý
NSNN ở CHDCND Lào cũng đã đƣợc Đảng NDCM và Chính phủ CHDCND
Lào đặc biệt quan tâm. Chính yếu tố này đã thúc đẩy các nhà quản lý, các nhà
nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế nói chung và tài chính công nói riêng đầu tƣ
công sức để nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho tiến trình đổi
mới cơ chế quản lý NSNN ở CHDCND Lào trong những năm vừa qua.
Thực tế cho thấy có khá nhiều các bài báo đƣợc đăng tải trên tạp chí
của ngành Tài chính Lào xuất bản hàng tháng cũng có đề cập đến từng khía
cạnh riêng, nhỏ lẻ có liên quan đến xu hƣớng đổi mới quản lý NSNN, nhƣ:
Khamkeo Chanthavong với bài “Đổi mới phân cấp quản lý ngân sách địa
phương ở tỉnh Luangnamtha” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 4/2010;
Khamtanh Phommaseng với bài “Tăng cường quản lý chi ngân sách Thành
phố Viêng chăn” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 2/2009; Sisouphan với bài
“Đổi mới cách thức phân bổ kinh phí NSNN cho giáo dục phổ thông ở
CHDCND Lào” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 5/2011;.v.v… Điểm chung
nhất của các bài báo là chủ yếu đề xuất những ý kiến mang tính tác nghiệp
-3-
gắn liền với vị trí mà các tác giả đang phải thực thi trách nhiệm trong quản lý
NSNN ở một ngành, hay ở một địa phƣơng cụ thể. Do vậy, những thông tin từ
quản lý NSNN trên một giác độ nào đó của thực tiễn ở mỗi địa phƣơng hay
mỗi ngành đã đƣợc trình bày có giá trị tham khảo cho các nhà hoạch định
chính sách về quản lý NSNN ở Bộ Tài chính CHDCND Lào, hay các quan
chức trong bộ máy Chính phủ có trách nhiệm trong quản lý kinh tế của đất
nƣớc. Mặt khác, đây cũng là diễn đàn thể hiện tính dân chủ trong luận bàn,
đánh giá và tham vấn chính sách về quản lý NSNN một cách rộng rãi, thể
hiện quan điểm phát huy dân chủ của Chính phủ trong quản lý kinh tế nói
chung và NSNN nói riêng. Tuy nhiên, hàm lƣợng nghiên cứu mang tính lý
luận và những đòi hỏi trình bày phải có tính lôgic cho các đề xuất, kiến nghị
hoặc các luận giải về hiện tƣợng đã và đang diễn ra trong thực tiễn thì còn rất
thiếu hoặc rất nông cạn.
Gần đây đã có những công trình mang tầm lý luận và có tính khoa học
cao hơn xuất hiện trong lĩnh vực nghiên cứu về NSNN ở CHDCND Lào, nhƣ:
Luận văn Thạc sĩ kinh tế về đề tài: “Giải pháp tăng cường quản lý chi
NSNN tại nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay” của học viên
Phonexay Phongsavanh năm 2010. Tác giả của bản luận văn này đã đạt đƣợc
những thành công sau:
Đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận xoay quanh các khâu của chu
trình quản lý chi NSNN;
Đã thực hiện đánh giá thực trạng quản lý chi NSNN ở CHDCND Lào
giai đoạn 2001-2009 và chỉ ra các ƣu, nhƣợc điểm trong quản lý chi theo từng
khâu của chu trình đó;
Đã đề xuất đƣợc hệ thống giải pháp (gồm 06 nhóm giải pháp) nhằm
tăng cƣờng quản lý chi NSNN ở CHDCND Lào cho các năm 2010 trở đi.
-4-
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bản luận văn ở trình độ Thạc sĩ
nên nội dung cũng chủ yếu tập trung vào đánh giá những hoạt động quản lý
chi NSNN trên giác độ tuân thủ pháp luật của quản lý NSNN hiện hành, hầu
nhƣ chƣa biết gắn giữa quản lý chi NSNN với trách nhiệm của các cơ quan
công quyền trong việc dùng tiền của NSNN vào việc thực hiện các nhiệm vụ
xây dựng phát triển KT-XH mà chính các cơ quan đó phải làm. Cũng chính từ
việc không biết ràng buộc giữa sử dụng tiền với nhiệm vụ các cơ quan công
quyền phải làm nên cái mà luận văn gọi là các giải pháp cũng mới chỉ dừng
lại nhƣ là các khuyến nghị mang tính chất định tính đáp ứng tăng cƣờng quản
lý chi NSNN cho thời gian đã qua.
Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Phân cấp quản lý NSNN ở
CHDCND Lào - Thực trạng và giải pháp” do NCS Pangthong Luangvanxay
hoàn thành đầu năm 2011, lại chọn cách tiếp cận thúc đẩy đổi mới quản lý
NSNN ở CHDCND Lào theo hƣớng gắn kết với đổi mới về thể chế.
Những thành công nổi bật của luận án là:
Đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phân cấp quản lý NSNN và
thống nhất nhận thức: Phân cấp quản lý NSNN nhất thiết phải gắn liền và bị
các yêu cầu của phân cấp quản lý về KT-XH chi phối;
Đã phân tích và làm sáng tỏ đƣợc mô hình phân cấp quản lý NSNN ở
CHDCND Lào từ năm 1986-2009 qua 4 giai đoạn gắn liền với những thay đổi
về cơ chế phân cấp quản lý về KT-XH qua mỗi giai đoạn đó;
Trên cơ sở đánh giá thực trạng của phân cấp quản lý NSNN qua 4 giai
đoạn nêu trên, kết hợp với chủ trƣơng, đƣờng lối về phân cấp quản lý KT-XH
những năm tới, luận án đã đề xuất 06 nhóm giải pháp nhằm tăng cƣờng phân
cấp quản lý NSNN ở CHDCND Lào những năm 2010-2015.
Mặc dù những thành công của luận án là không thể phủ nhận, nhƣng
những thành công đó cũng mới chỉ đƣợc nhìn nhận trên giác độ phân cấp về
-5-
quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi gắn với cơ quan công quyền các cấp ở
CHDCND Lào trong thời gian đã qua. Tác giả của bản luận án vẫn chƣa làm
rõ đƣợc trách nhiệm của chính các cơ quan công quyền các cấp đó trong việc
sử dụng công cụ ngân sách để thúc đẩy sự phát triển KT-XH trên mỗi địa bàn
mà mình đã đƣợc phân cấp quản lý. Hay nói cách khác, những quan hệ kinh tế
và lợi ích, chƣa đƣợc làm sáng tỏ cả về cơ sở lý luận cũng nhƣ thực tiễn quản
lý thông qua cơ chế phân cấp quản lý NSNN ở CHDCND Lào thời gian qua.
Thay vào đó là những mô tả nặng về diễn biến tình hình thu, chi NSNN qua
các giai đoạn nghiên cứu để rồi rút ra các nhận xét đánh giá nặng về cảm tính.
Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài:“Giải pháp thực hiện cân đối NSNN ở
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2011-2015” do NCS Phanxay
Thammasith hoàn thành cuối năm 2011, lại có cách tiếp cận nghiên cứu về
NSNN ở CHDCND Lào trên giác độ cân đối.
Những thành công đáng ghi nhận của bản luận án này là:
Đã trình bày có hệ thống những vấn đề lý luận về cân đối NSNN trên
các giác độ cân đối giữa thu, chi bằng tiền, và cân đối ở tầm vĩ mô theo cơ
cấu ngành kinh tế;
Đã phân tích thực trạng cân đối thu, chi NSNN và khả năng gây ra các
tác động của nó tới sự phát triển của nền kinh tế ở CHDCND Lào những năm
1999-2010;
Đã đề xuất hệ thống các giải pháp gồm 03 nhóm theo cách tiếp cận từ
hoàn thiện chính sách quản lý thu, chi đến hoàn thiên về nguyên tắc và
phƣơng pháp cân đối, và hoàn thiện về tổ chức các biện pháp mang tình
nghiệp vụ để cân đối thu, chi NSNN giai đoạn 2011-2015.
Do quá quan tâm đến các số liệu về cân đối thu, chi nên mối quan hệ
ràng buộc tất yếu giữa cân đối thu, chi NSNN với các cân đối lớn trong nền
kinh tế lại chƣa đƣợc tác giả của bản luận án này khai thác và làm cho sáng
-6-
tỏ. Chính vì vậy, ngƣời ta vẫn thấy thiếu vắng những trách nhiệm của các cơ
quan công quyền trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giải quyết các mối quan
hệ cân đối lớn trong nền kinh tế thông qua cân đối thu, chi NSNN này.
2.2. Các nghiên cứu ngoài nƣớc co liên quan đến đề tài
Là đất nƣớc láng giềng có nghĩa tình sâu đậm, có nhiều nét tƣơng đồng
với CHDCND Lào, CHXHCN Việt Nam cũng đã và đang nỗ lực thực hiện
cải cách quản lý NSNN-cốt lõi của quản lý tài chính công, từ năm 2001 đến
nay. Chính vì vậy, những công trình khoa học liên quan đến đổi mới quản lý
NSNN ở CHXHCN Việt Nam rất nhiều. Trong đó, sát thực với tên đề tài luận
án mà NCS đang thực hiện nghiên cứu tại Lào, thì ở CHXHCN Việt Nam đã
có những công trình lớn sau:
2.2.1. Các luận án Tiến sĩ kinh tế
(1) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Đổi mới cơ cấu chi NSNN trong
điều kiện hiện nay ở Việt Nam” do NCS Nguyễn Khắc Đức hoàn thành năm
2002. Những thành công đáng ghi nhận của luận án này, bao gồm:
Đã đƣa ra những vấn đề lý luận về NSNN và cơ cấu chi NSNN, trong
đó nhấn mạnh về nội dung, đặc điểm của cơ cấu chi NSNN, các nhân tố ảnh
hƣởng đến cơ cấu chi, một số mô hình cơ cấu chi NSNN;
Đã sử dụng hệ thống số liệu để phân tích cơ cấu chi NSNN ở CHXHCN
Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng thời kỳ 1989-
2000 gắn với hai giai đoạn: giai đoạn 1989-1995, trƣớc khi có Luật NSNN năm
1996 và giai đoạn 1996-2000, sau khi có Luật NSNN năm 1996;
Căn cứ trên các nhận xét về thực trạng cơ cấu chi NSNN ở CHXHCN
Việt Nam tác giả đƣa ra các quan điểm về đổi mới cơ cấu chi NSNN trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trƣờng và làm chỗ dựa cho đề xuất hệ
thống giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN ở CHXHCN Việt Nam giai đoạn
2001-2010 theo 03 nhóm giải pháp lớn.
-7-
Những giới hạn của luận án:
Luận án đƣợc hoàn thành từ năm 2002, nên hệ thống số liệu, hệ thống
giải pháp đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp trong tiến trình đổi mới
không ngừng về quản lý chi NSNN ở CHXHCN Việt Nam những năm qua;
Đề tài tác giả viết về đổi mới cơ cấu chi NSNN nhƣng không gắn với
một mục tiêu cụ thể nào đó trong phát triển KT-XH, nên không có tác động
và mối quan hệ của đổi mới cơ cấu chi NSNN với sự thay đổi của nền kinh tế
trên các lĩnh vực, khía cạnh phát triển khác nhau.
(2) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Đổi mới cơ cấu chi NSNN góp
phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” do NCS Bùi
Đƣờng Nghiêu hoàn thành năm 2003.
Những thành công của luận án:
Đã làm rõ các vấn đề lý luận về NSNN, vai trò của NSNN trong nền
kinh tế thị trƣờng, các vấn đề cơ bản về cơ cấu chi NSNN trong đó tác giả đƣa
ra cơ sở xác định cơ cấu định tính và cơ cấu định lƣợng của chi NSNN và
phân tích các yếu tố ảnh hƣởng đến các cơ cấu đó;
Đã phân tích vai trò của NSNN nói chung và chi tiêu NSNN nói riêng
đối với việc thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa (CNH-HĐH) ở
CHXHCN Việt Nam;
Đã phân tích thực trạng chi NSNN từ đó có những nhận xét, đánh giá
về cơ cấu chi NSNN tác động tới tiến trình thực hiện CNH-HĐH cả trên góc
độ định tính và định lƣợng;
Đã sƣu tầm đƣợc các kinh nghiệm của thế giới về tổ chức hệ thống
NSNN trong giai đoạn 1991-2000 và rút ra những bài học cho CHXHCN Việt
Nam khi sử dụng chi NSNN nhƣ là một trong những công cụ quan trọng để
tiến hành CNH-HĐH đất nƣớc;
Hệ thống giải pháp mà tác giả đề xuất đƣợc tập trung vào các nội dung:
Tổ chức lại ngân sách thành ngân sách chung và ngân sách đặc biệt; cơ cấu lại
-8-
bảng cân đối ngân sách làm nổi bật thặng dƣ ngân sách, tạo nguồn tài lực và
động lực cho phát triển kinh tế,…đã có những khả năng gây ra tác động tích
cực tới tiến trình CNH-HĐH nền kinh tế ở CHXHCN Việt Nam những năm
2004-2010.
Những giới hạn của luận án:
Đề tài tác giả viết về đổi mới cơ cấu chi NSNN gắn với một mục tiêu
của tăng trƣởng và phát triển kinh tế là CNH-HĐH đất nƣớc. Do đó, các vấn
đề khác của tăng trƣởng ngoài phạm vi CNH-HĐH chƣa đƣợc tác giả nghiên
cứu và đề cập trong luận án;
Mặt khác, theo thời gian các luận cứ; đặc biệt là các đề xuất, khuyến
nghị của luận án cũng đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với hoàn cảnh
KT-XH của những năm hậu khủng hoảng toàn cầu này.
(3) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Đổi mới quản lý chi NSNN trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” do NCS Nguyễn Thị Minh hoàn
thành năm 2008.
Những thành công của luận án:
Đã khái quát hóa và thống nhất nhận thức về chi và quản lý chi NSNN;
Đã làm sáng tỏ đƣợc tính tất yếu phải đổi mới quản lý chi NSNN ở
CHXHCN Việt Nam trong những năm mà tác giả luận án tiến hành nghiên cứu;
Đã phân tích đƣợc thực trạng quản lý chi NSNN ở CHXHCN Việt Nam
kể từ khi thành lập nƣớc CHXHCN Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945
đến 2006 có gắn liền với những đánh giá theo các phƣơng thức chi. Trên cơ
sở đó chỉ ra những bất cập của quản lý chi NSNN theo phƣơng thức truyền
thống mà CHXHCN Việt Nam vẫn đang áp dụng;
Hệ thống các giải pháp đổi mới quản lý chi NSNN trong điều kiện kinh
tế thị trƣờng ở CHXHCN Việt Nam do tác giả xây dựng dựa trên 05 nhóm
giải pháp chủ yếu đã có tính khả thi trong bối cảnh ở CHXHCN Việt Nam
những năm 2008-2010.
-9-
Những giới hạn của luận án:
Với mục đích nghiên cứu khá rộng, nên tác giả của bản luận án trên
ngoài việc trình bày các nghiên cứu của mình trên diện rộng bao phủ toàn bộ
các khâu của chu trình quản lý chi NSNN; đồng thời có dành ƣu tiên nhiều
hơn cho các đề xuất đổi mới quản lý chi NSNN theo hƣớng đổi mới các
phƣơng thức quản lý chi, nhƣ: đổi mới phƣơng thức lập và phân bổ ngân
sách; đổi mới phƣơng thức từ truyền thống theo “đầu vào” sang “đầu ra”;…
Chính vì vậy, vấn đề đổi mới cơ cấu chi NSNN hầu nhƣ chƣa đƣợc đề cập.
(4) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Hoàn thiện quản lý chi NSNN
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” do
NCS Trần Văn Lâm hoàn thành năm 2010.
Những thành công của luận án:
Đã khái quát hóa nhận thức về phát triển KT-XH; đặc biệt nhấn mạnh
đến yêu cầu phát triển bền vững trong điều kiện hiện nay;
Đã luận giải đƣợc những vấn đề lý luận về quản lý chi NSNN trong
mối quan hệ với phát triển KT-XH, coi đó là nền tảng lý luận cho phân tích
đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp về quản lý chi NSNN;
Đã phân tích khá thấu đáo tình hình quản lý chi ngân sách tỉnh
Quảng Ninh gắn với các yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh này những
năm 2001-2007;
Với 03 nhóm giải pháp lớn đƣợc sắp xếp theo thứ tự lựa chọn thứ tự ƣu
tiên, đến chú trọng hiệu quả, công bằng trong chi ngân sách tỉnh Quảng Ninh
những năm 2010-2015 đã làm cho khả năng sử dụng ngân sách tỉnh thúc đẩy
phát triển KT-XH có tính khả thi cao.
Những hạn chế:
Luận án chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong 1 tỉnh và chủ yếu gắn
với nguồn ngân sách cấp tỉnh nên giá trị tham khảo trên quy mô quốc gia bị
-10-
hạn chế. Đặc biệt, gắn với hoàn cảnh tỉnh Quảng Ninh- một địa phƣơng đƣợc
thiên nhiên ƣu đãi khá nhiều các điều kiện thuận lợi, thì việc sử dụng chi ngân
sách rất dễ gây ra những hiệu ứng tích cực cho tiến trình phát triển hơn các
địa phƣơng khác.
2.2.2. Khảo cứu có liên quan
Một công trình nghiên cứu khá công phu của TS Phạm Thế Anh-Trung
tâm nghiên cứu và chính sách-Trƣờng Đại học kinh tế-Đại học quốc gia Hà
Nội năm 2008 với tiêu đề “ Chi tiêu Chính phủ và tăng trƣởng kinh tế; Khảo
sát lý luận tổng quan”, đã có những đánh giá khá sâu sắc về tƣơng quan giữa
2 lĩnh vực này. Cụ thể nhƣ:
Bài viết của tác giả đƣợc thực hiện dƣới hình thức phân tích, đánh giá
về lý thuyết mối quan hệ chi tiêu Chính phủ và tăng trƣởng kinh tế dựa trên
nghiên cứu các mô hình đã có của các tác giả trên thế giới. Các mô hình lý
thuyết về chi tiêu Chính phủ có tác động đến tăng trƣởng nhƣ mô hình kinh tế
của Robert Barro năm 1990, Devarajan, Swaroop, và Zou năm 1996, Davoodi
và Zou năm 1998. Bên cạnh việc đánh giá nhận định các mô hình nói trên tác
giả đƣa ra các nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả ví dụ nhƣ: Tƣ bản nhân
lực (Mankiw, Romer và Weil năm 1992), tích luỹ bí quyết công nghệ
(Nonnerman và Van năm 1996), Grier và Tullock năm 1989, Barro năm 1989
và năm 1991, Hansson và Henrekson năm 1994,...
Bên cạnh những thành công đáng kể, kết quả khảo cứu trên cũng bộc lộ
những hạn chế, nhƣ: Chƣa hệ thống đƣợc các lý luận về tác động của thay đổi
chi tiêu NSNN tới tăng trƣởng kinh tế. Tác giả có sử dụng hệ thống số liệu cho
mô hình thực nghiệm nhƣng những kết luận sau khi có kết quả mô hình chƣa
phản ánh rõ những biến động của chi NSNN tác động tới tăng trƣởng kinh tế.
Từ kết quả khảo sát các công trình có liên quan đến quản lý chi NSNN
ở các trong nƣớc và ngoài nƣớc, tác giả của luận án về đề tài: “ Đổi mới cơ
-11-
cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội ở CHDCND Lào ”, có
thể khẳng định rằng:
Cho tới nay ở CHDCND Lào chƣa có công trình nghiên cứu chuyên biệt
nào trùng hợp với tên đề tài mà tác giả đã lựa chọn. Mặt khác, kết quả kỳ vọng
mà đề tài luận án của NCS hƣớng tới là phân tích và làm sáng tỏ đƣợc quan hệ
tƣơng tác giữa cơ cấu chi NSNN gắn với các mục tiêu phát triển KT-XH ở
CHDCND Lào qua các giai đoạn; trên cơ sở đó chỉ rõ trách nhiệm của các cơ
quan công quyền khi sử dụng NSNN nhƣ là một trong những công cụ quan
trọng phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, đã mang lại những
kết quả đích thực nào? Xu hƣớng đổi mới tất yếu trong việc ràng buộc giữa cơ
cấu chi NSNN với cơ cấu phát triển KT-XH mà Chính phủ đã lựa chọn.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu những cơ sở lý luận về phát triển KT-XH và cơ cấu chi
NSNN nhằm thúc đẩy phát triển KT-XH.
- Phân tích đánh giá tác động của cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào
tới phát triển KT-XH giai đoạn 2001-2012.
- Đề xuất giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là cơ cấu chi NSNN và tác động của
nó tới sự phát triển KT-XH ở CHDCND Lào.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là thực trạng cơ cấu chi NSNN ở
CHDCND Lào và tác động của cơ cấu chi đó tới sự phát triển KT-XH giai
đoạn 2001-2012. Qua đó đề xuất giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN nhằm
thúc đẩy phát triển KT-XH ở CHDCND Lào giai đoạn 2015-2020. Tuy nhiên,
do tác động của cơ cấu chi NSNN tới sự phát triển KT-XH rất rộng, nên phạm
vi nghiên cứu của đề tài cũng chỉ tập trung làm rõ các tác động đó trên 3 tiêu
chí lớn nhƣ: (i) Những thay đổi về cơ sở vật chất kỹ thuật; (ii) Những thay đổi
-12-
về cơ cấu kinh tế ; (iii) Những thay đổi về đói, nghèo và cải thiện công bằng
xã hội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp các phƣơng pháp: Duy vật biện chứng; duy
vật lịch sử; điều tra, thống kê; phân tích kinh tế các phƣơng pháp khác.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học: Luận án hệ thống hoá, phân tích và bổ sung nhận
thức về ý nghĩa, vai trò của chi NSNN đặc biệt là cơ cấu chi NSNN nhằm
thúc đẩy phát triển KT-XH. Từ đó giúp cho nghiên cứu đề xuất các giải pháp
đổi mới cơ cấu chi NSNN phù hợp với điều kiện kinh tế thị trƣờng.
Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng cơ cấu
chi NSNN ở CHDCND Lào, luận án đƣa ra những giải pháp đổi mới cơ cấu
chi NSNN ở CHDCND Lào trong thời gian tới, làm cho chi NSNN trở thành
công cụ hữu hiệu của Nhà nƣớc trong công cuộc điều hành nền KT-XH theo
xu hƣớng thế giới thời kỳ hội nhập.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần bìa phụ, lời cam đoan, mục lục, danh mục các chữ viết tắt,
danh mục các bảng, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
nhận xét của cán bộ hƣớng dẫn. Luận án đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1 : CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VỚI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI.
Chƣơng 2 : TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƢỚC TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND LÀO GIAI
ĐOẠN 2001-2012.
Chƣơng 3 : GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƢỚC ĐỂ THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND
LÀO GIAI ĐOẠN 2015-2020.
-13-
Chƣơng 1
CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÁT TIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
1.1.1. Nhận thức chung về phát triển kinh tế
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mỗi quốc gia đều lựa chọn những
con đƣờng phát triển riêng, phù hợp với điều kiện của mỗi nƣớc. Nhìn một
cách tổng thể, có thể hệ thống sự lựa chọn đó theo ba con đƣờng nhƣ: Thúc
đẩy tăng trƣởng nhanh; coi trọng vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và mô
hình phát triển toàn diện.
Các nƣớc phát triển theo khuynh hƣớng tƣ bản chủ nghĩa trƣớc đây
thƣờng lựa chọn con đƣờng thúc đẩy tăng trƣởng nhanh. Theo cách lựa chọn
này, Chính phủ đã tập trung chủ yếu vào các chính sách đẩy nhanh tốc độ
tăng trƣởng kinh tế mà bỏ qua vấn đề xã hội. Các vấn đề bình đẳng, công
bằng xã hội và nâng cao chất lƣợng cuộc sống dân cƣ chỉ đƣợc đặt ra khi tăng
trƣởng thu nhập đã đạt đƣợc một trình độ khá cao. Thực tế cho thấy nhiều
quốc gia thực hiện theo mô hình này đã làm cho nền kinh tế rất nhanh khởi
sắc, tốc độ tăng trƣởng bình quân hàng năm rất cao. Hiện nay, mọi quốc gia
đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế là quá trình tăng
tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế đƣợc xem nhƣ là quá trình
biến đổi cả về lƣợng và về chất; là một sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn
thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Theo cách hiểu phát
triển kinh tế cả về lƣợng và chất, thì phát triển kinh tế bao gồm: Tăng trƣởng
kinh tế và cải biến cơ cấu kinh tế.
1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trƣởng kinh tế là sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế
và mức gia tăng thu nhập bình quân trên đầu ngƣời. Đây là tiêu thức thể hiện
-14-
quá trình biến đổi về lƣợng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao
mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện những mục tiêu khác của
phát triển.
Theo mô hình kinh tế thị trƣờng, thƣớc đo tăng trƣởng kinh tế đƣợc xác
định theo các chỉ tiêu thuộc hệ thống tài khoản quốc gia nhƣ sau:
a. Tổng giá trị sản xuất (GO - Gross output) là tổng giá trị sản phẩm
vật chất và dịch vụ đƣợc tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong
một thời kỳ nhất định (thƣờng là một năm).
b. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross domestic product) là tổng giá
trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kỳ nhất định.
c. Tổng thu nhập quốc dân (GNI-Gross national income) là chỉ tiêu
xuất hiện trong bảng Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) năm 1993 thay cho
chỉ tiêu GNP sử dụng trong bảng SNA năm 1968. Về nội dung thì GNI và
GNP là nhƣ nhau, tuy vậy khi sử dụng GNI là muốn nói theo cách tiếp cận từ
thu nhập chứ không phải nói theo góc độ sản phẩm sản xuất nhƣ GNP.
d. Thu nhập quốc dân (NI-National income) là phần giá trị sản phẩm
vật chất và dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định. NI
chính là tổng thu nhập quốc dân (GNI) sau khi đã loại trừ đi khấu hao vốn cố
định của nền kinh tế (DP).
NI=GNI-Dp
e. Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI-National disposable income) là
phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần
trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này đƣợc hình thành sau khi thực hiện
phân phối thu nhập lần thứ hai, thực chất đó là thu nhập quốc dân (NI) sau khi
đã điều chỉnh các khoản thu, chi về chuyển nhƣợng hiện hành giữa các đơn vị
thƣờng trú và không thƣờng trú.
-15-
f. Thu nhập bình quân đầu người là có ý nghĩa phản ánh thu nhập, chỉ
tiêu GDP và GNI còn đƣợc sử dụng để đánh giá mức thu nhập bình quân trên
đầu ngƣời của mỗi quốc gia (GDP/ngƣời, GNI/ngƣời). Chỉ tiêu này phản ánh
tăng trƣởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số.
1.1.1.2. Cải biến cơ cấu kinh tế
Cải biến cơ cấu kinh tế là quá trình làm thay đổi tỷ trọng giá trị sản
lƣợng của các ngành trong tổng giá trị sản lƣợng của cả nền kinh tế theo định
hƣớng của nhà nƣớc. Tùy theo điều kiện KT-XH cụ thể mà Chính phủ của
mỗi quốc gia sẽ xác định mục tiêu và lộ trình cải biến cơ cấu kinh tế của quốc
gia đó cho phù hợp. Trong hoàn cảnh hiện nay, mục tiêu cải biến cơ cấu kinh
tế của quốc gia ngoài việc phải cân nhắc dựa trên những điều kiện của chính
quốc gia đó; còn phải cân nhắc đến các điều kiện KT-XH cụ thể của các nƣớc
khác trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, cải biến cơ cấu kinh tế
đƣợc coi là tiêu thức phản ánh sự biến đổi kinh tế về chất của một quốc gia.
Để phân biệt các giai đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển
kinh tế giữa các nƣớc với nhau, ngƣời ta thƣờng dựa vào dấu hiệu và dạng cơ
cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt đƣợc.
Cơ cấu kinh tế đƣợc hiểu là tƣơng quan giữa các bộ phận trong tổng thể
kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất
lƣợng giữa các bộ phận với nhau. Các mối quan hệ này đƣợc hình thành trong
những điều kiện KT-XH nhất định, luôn luôn vận động và hƣớng vào những
mục tiêu cụ thể. Nếu các thƣớc đo tăng trƣởng phản ánh sự thay đổi về lƣợng
thì xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế là thể hiện mặt chất kinh tế trong quá
trình phát triển.
Đánh giá sự phát triển kinh tế cần xem xét một cách toàn diện các góc
độ của cơ cấu kinh tế theo các tiêu chí chủ yếu sau:
-16-
a. Cơ cấu ngành kinh tế
Về lý thuyết, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện cả mặt định lƣợng và định
tính. Mặt định lƣợng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm trong GDP, lao
động, vốn của mỗi ngành trong tổng thể kinh tế quốc dân. Ví dụ: Giá trị sản
lƣợng ngành công nghiệp chiếm X% trong GDP. Giá trị sản lƣợng ngành
nông nghiệp chiếm Y% trong GDP,…mặt định tính thể hiện vị trí và tầm
quan trọng của mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân. Các nƣớc đang
phát triển có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp,
tỷ trọng nông nghiệp của các nƣớc này thƣờng chiếm từ 20-30% trong GDP.
Trong khi đó, ở các nƣớc phát triển, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp chỉ
chiếm từ 1-7% trong GDP. Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế
của mỗi quốc gia đều có sự chuyển đổi theo một xu hƣớng chung là tỷ trọng
nông nghiệp có xu hƣớng giảm đi, trong khi đó tỷ trọng của các ngành công
nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên.
b.Cơ cấu kinh tế theo mức độ đô thị hóa-Thành thị và nông thôn
Sự phát triển kinh tế còn đƣợc thể hiện ở cơ cấu kinh tế theo mức độ đô
thị hóa-Thành thị và nông thôn. Đây là tiêu chí phản ánh rõ nét nhất, sinh
động nhất trình độ phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung, của từng địa
phƣơng nói riêng. Xu hƣớng chung, ở các nƣớc trình độ phát triển thấp thì
mức độ đô thị hóa thấp và ngƣợc lại. Ở các nƣớc đang phát triển, kinh tế nông
thôn thƣờng chiếm tỷ trọng cao.
Chỉ tiêu định lƣợng để phản ánh cơ cấu kinh tế theo mức độ đô thị hóa
thƣờng đƣợc dùng là tỷ lệ dân số nông thôn so với tổng dân số ở cùng một
thời điểm nào đó. Nơi nào tỷ lệ dân số nông thôn cao thì bị coi là kinh tế nông
thôn vẫn đang chiếm ƣu thế về cơ cấu. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới
(WB), vào cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, 45 nƣớc có mức thu nhập thấp, tỷ
trọng dân số nông thôn chiếm 72%, còn 63 nƣớc có mức thu nhập tiếp theo,
-17-
con số này là 65%. Trong khi đó, các nƣớc phát triển có hiện tƣợng đối ngƣợc
lại, 80% dân số sống ở khu vực thành thị.
Một xu hƣớng khá phổ biến của các nƣớc đang phát triển là luôn có
một dòng di dân từ nông thôn ra thành thị. Đó là kết quả của cả “lực đẩy” từ
khu vực nông thôn bởi sự nghèo khổ cũng nhƣ sự thiếu thốn đất đai ngày
càng nhiều và cả “lực hút” từ sự hấp dẫn của khu vực thành thị. Dòng di dân
ngày càng lớn đã tạo ra áp lực rất mạnh đối với chính phủ các nƣớc đang phát
triển. Mặt khác, việc thực hiện các chính sách công nghiệp hóa nông thôn, đô
thị hóa, phát triển hệ thống công nghiệp, dịch vụ nông thôn làm cho tỷ trọng
kinh tế thành thị ở các nƣớc đang phát triển ngày càng tăng lên, tốc độ tăng
dân số thành thị cao hơn so với tốc độ tăng trƣởng dân số chung và đó chính
là xu thế hợp lý trong quá trình phát triển.
c. Cơ cấu thành phần kinh tế
Đây là dạng cơ cấu phản ánh tính chất xã hội hóa về tƣ liệu sản xuất và
tài sản của nền kinh tế. Xét về nguồn gốc thì có 2 loại hình sở hữu là sở hữu
công cộng và sở hữu tƣ nhân. Nhìn chung các nƣớc phát triển và xu hƣớng ở
các nƣớc đang phát triển, khu vực kinh tế tƣ nhân thƣờng chiếm tỷ trọng cao
và nền kinh tế phát triển theo con đƣờng tƣ nhân hóa. Hiện nay đang tồn tại 6
thành phần kinh tế là: Thành phần kinh tế nhà nƣớc, thành phần kinh tế tập
thể, thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, thành phần kinh tế tƣ bản tƣ nhân,
thành phần kinh tế tƣ bản nhà nƣớc và thành phần kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài. Các thành phần kinh tế nói trên không có sự phân biệt về thái độ đối
xử, đều có môi trƣờng và điều kiện phát triển nhƣ nhau, trong đó kinh tế Nhà
nƣớc đóng vai trò chủ đạo.
d. Cơ cấu khu vực thể chế
Theo dạng cơ cấu này, nền kinh tế đƣợc phân chia dựa trên cơ sở vai
trò các bộ phận cấu thành trong sản xuất kinh doanh và qua đó đánh giá đƣợc
-18-
vị trí của mỗi khu vực trong vòng luân chuyển của nền kinh tế và mối quan hệ
giữa chúng trong quá trình phát triển kinh tế. Các đơn vị thể chế thƣờng trú
trong nền kinh tế đƣợc chia thành 5 khu vực: Khu vực chính phủ bao gồm tất
cả các hoạt động đƣợc thực hiện bằng NSNN, khu vực tài chính, khu vực phi
tài chính, khu vực hộ gia đình và khu vực vô vị lợi phục vụ hộ gia đình bao
gồm các tổ chức hoạt động với mục đích từ thiện, phi lợi nhuận. Mục tiêu của
khu vực chính phủ là bảo đảm các hoạt động công cộng, tạo điều kiện bình
đẳng cho các khu vực thể chế và thực hiện công bằng xã hội. Các đơn vị
thuộc khu vực phi tài chính thực hiện chức năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ
bán trên thị trƣờng và với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trên thị trƣờng hàng
hóa và dịch vụ. Khu vực tài chính cũng thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận nhƣng ở trên thị trƣờng tài chính. Các hộ gia đình hoạt động theo mục
tiêu khác với các khu vực trên, chức năng và hành vi của họ là tiêu dùng, tuy
vậy họ cũng có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất dƣới hình thức cung
cấp sức lao động cho các doanh nghiệp hoặc tự sản xuất dƣới dạng các đơn vị
sản xuất cá thể. Các tổ chức vị lợi phục vụ hộ gia đình với nguồn tài chính
quyên góp tự nguyện nhƣ các tổ chức từ thiện, cứu trợ, các tổ chức giúp đỡ
ngƣời tàn tật,…theo đuổi mục tiêu phục vụ không vì lợi nhuận, cung cấp hàng
hóa và dịch vụ thẳng cho các hộ gia đình không lấy tiền hoặc lấy với giá
không có ý nghĩa kinh tế.
e. Cơ cấu tái sản xuất
Đây là cơ cấu kinh tế hiểu theo góc độ phân chia tổng thu nhập của nền
kinh tế theo tích lũy và tiêu dùng. Phần thu nhập dành cho tích lũy tăng lên và
chiếm tỷ trọng cao là điều kiện cung cấp vốn lớn cho quá trình tái sản xuất
mở rộng của nền kinh tế. Tỷ trọng thu nhập dành cho tích lũy ngày càng cao
chính là xu thế phù hợp trong quá trình phát triển. Tuy vậy, việc gia tăng tỷ
trọng thu nhập dành cho tích lũy tái đầu tƣ phải có tác dụng dẫn đến gia tăng
-19-
mức thu nhập dành cho tiêu dùng cuối cùng trong tƣơng lai thì mới đƣợc đánh
giá cao.
f. Cơ cấu thương mại quốc tế
Nhìn chung tất cả các nƣớc giàu hay nghèo đều tham gia một cách đáng
kể vào thƣơng mại quốc tế. Tuy vậy, hoạt động ngoại thƣơng là dấu hiệu đánh
giá sự phát triển của mỗi nƣớc. Các nƣớc đang phát triển thƣờng xuất khẩu
những sản phẩm thô nhƣ: Nguyên liệu, nông sản, thực phẩm hay những sản
phẩm thuộc các ngành dệt may, công nghiệp nhẹ còn các nƣớc phát triển
thƣờng thì xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm chế biến, các hàng hóa vốn hay
những hàng hóa lâu bền. Cơ sở lý giải cho xu hƣớng này chính là lý thuyết về
lợi thế so sánh. Theo đó, các nƣớc đó có lợi thế tƣơng đối về chi phí sản xuất
chủ yếu là sản phẩm thô với giá trị thấp thì lại phải nhập khẩu một khối lƣợng
lớn các hàng hóa là nguyên liệu đầu vào, hàng hóa vốn cũng nhƣ số hàng hóa
tiêu dùng cuối cùng. Kết quả là các nƣớc này luôn phải chấp nhận tình trạng
thâm hụt thƣơng mại quốc tế. Theo xu thế phát triển của mỗi nƣớc, nền kinh
tế có xu hƣớng mở ngày càng đa dạng, mức độ thâm hụt thƣơng mại quốc tế
ngày càng giảm đi theo xu thế giảm dần tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa thô,
hàng hóa có dung lƣợng lao động cao và tăng dần các hàng hóa có giá trị kinh
tế lớn.
Ngoài các dạng trên, cơ cấu kinh tế của đất nƣớc còn đƣợc hiểu theo
những góc độ khác nhƣ: Cơ cấu theo tính chất xã hôi, cơ cấu theo tính chất kỹ
thuật, theo quy mô sản xuất,…mỗi dạng đều phản ánh những khía cạnh và
tính chất của quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc gia.
1.1.2. Nhận thức chung về phát triển xã hội
Phát triển xã hội của các quốc gia là sự đi lên, sự tiến bộ của xã hội một
cách toàn diện, bao gồm sự tổng hợp của các nhân tố: Tăng trƣởng kinh tế
cao, thu nhập quốc dân tính trên đầu ngƣời tăng liên tục, mức sống của đại đa
-20-
số dân cƣ đƣợc cải thiện, các giá trị tinh thần đƣợc đề cao, việc xóa bỏ nghèo
đói, suy dinh dƣỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận các
dịch vụ y tế, nƣớc sạch trình độ dân trí giáo dục của quảng đại quần chúng
nhân dân,…
Theo mô hình kinh tế thị trƣờng, thƣớc đo phát triển xã hội đƣợc xác
định theo các chỉ tiêu thuộc hệ thống tài khoản quốc gia nhƣ sau:
1.1.2.1. Chỉ tiêu phản ánh nhu cầu cơ bản của con người
Việc đáp ứng nhu cầu về phát triển con ngƣời là mục tiêu cơ bản nhất
của quá trình phát triển. Đó bao gồm các nhu cầu xã hội cơ bản và những nhu
cầu xã hội chất lƣợng cao trên các lĩnh vực chủ yếu nhƣ: Nhu cầu mức sống
vật chất, nhu cầu giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe, nhu cầu việc làm. Các
chỉ tiêu cụ thể của từng lĩnh vực bao gồm:
Thứ nhất, các chỉ tiêu phản ánh mức sống: Nhu cầu mức sống vật chất
thể hiện ở nhu cầu hấp thụ calori tối thiểu bình quân trên một ngày của con
ngƣời (ví dụ: từ 2.100-2.300 calori) đảm bảo khả năng sống và làm việc bình
thƣờng, có xét tới cơ cấu nam, nữ, trọng lƣợng cơ thể cũng nhƣ điều kiện khí
hậu, môi trƣờng.
Thứ hai, nhóm chỉ tiêu phản ánh giáo dục và trình độ dân trí: Liên
Hiệp Quốc (LHQ) đã đƣa ra những chỉ tiêu đánh giá về trình độ dân trí và
giáo dục nhƣ: Tỷ lệ ngƣời lớn biết chữ (tính cho những ngƣời từ 15 tuổi trở
lên) có phân theo giới tính, khu vực; tỷ lệ nhập học các cấp tiểu học, trung
học cơ sở, phổ thông trung học; số năm đi học trung bình (tính cho những
ngƣời từ 7 tuổi trở lên); tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục so với tổng chi ngân
sách hoặc so với mức GDP. Kinh tế càng phát triển thì các chỉ tiêu trên ngày
càng tăng lên.
Thứ ba, nhóm chỉ tiêu về tuổi thọ bình quân và chăm sóc sức khỏe bao
gồm: Tuổi thọ bình quân tính từ thời điểm mới sinh; tỷ lệ trẻ em chết yểu có
thể tính cho những trẻ em chết trong vòng 1 năm hoặc trong thời gian 5 năm;
-21-
tỷ lệ trẻ em suy dinh dƣỡng theo các tiêu chuẩn chiều cao, cân nặng; tỷ lệ các
bà mẹ tử vong vì lý do sinh sản đƣợc tính bằng số bà mẹ chết trong thời gian
mang thai hoặc sau khi sinh so với 1.000 trẻ em sinh ra còn sống; tỷ lệ trẻ em
đƣợc tiêm phòng dịch, tỷ lệ chi ngân sách cho y tế.
Thứ tư, nhóm chỉ tiêu về dân số việc làm bao gồm: Tốc độ tăng trƣởng
dân số tự nhiên, tỷ lệ thất nghiệp thành thị, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở
khu vực nông thôn.
Các chỉ tiêu nói trên chỉ phản ánh từng lĩnh vực khác nhau của phát
triển xã hội. Để đánh giá tổng hợp và xếp loại trình độ phát triển KT-XH
chung giữa các quốc gia hay giữa các địa phƣơng, năm 1990 Liên Hiệp Quốc
đƣa ra một chỉ tiêu tổng hợp có tên gọi là Chỉ số phát triển con người - HDI
(Human development index). HDI chứa đựng 3 yếu tố cơ bản: Tuổi thọ bình
quân đƣợc phản ánh bằng số năm sống; trình độ giáo dục đƣợc đo bằng cách
kết hợp tỷ lệ ngƣời lớn biết chữ và tỷ lệ đi học đúng độ tuổi; mức thu nhập
bình quân trên đầu ngƣời tính theo sức mua tƣơng đƣơng. HDI đƣợc tính theo
phƣơng pháp chỉ số và nhận giá trị lớn nhất bằng 1, nhỏ nhất là 0. Quốc gia
nào có HDI càng gần 1 thì đƣợc đánh giá là càng phát triển cao. Chỉ số phát
triển con ngƣời tính chung cho cả quốc gia nhƣng cũng cần thiết phải tính cho
một nhóm quan trọng nhƣ: giới tính, thu nhập, địa phƣơng. Việc tính toán và
phân tích HDI chi tiết nhằm chỉ ra sự chênh lệch về việc bảo đảm các vấn đề
xã hội giữa các vùng, giới tính, giữa thành thị, nông thôn, giữa các dân tộc,
trên cơ sở đó có chính sách ƣu tiên đầu tƣ, chi tiêu công cộng hay viện trợ cho
các vùng và các nhóm có HDI thấp.
1.1.2.2. Chỉ tiêu nghèo đói và bất bình đẳng
Ngoài chỉ tiêu phát triển con ngƣời, một vấn đề quan trọng nằm trong
tiêu thức đánh giá sự phát triển xã hội là các chỉ tiêu liên quan đến nghèo đói
và bất bình đẳng. Đây là vấn đề phụ thuộc, một mặt vào tổng khả năng thu
-22-
nhập của nền kinh tế; mặt khác vào chính sách phân phối và phân phối lại
nhằm điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cƣ trong xã hội theo hƣớng bảo
vệ ngƣời nghèo, giúp đỡ ngƣời nghèo cũng nhƣ giải quyết vấn đề công bằng
xã hội.
Các chỉ tiêu thƣờng sử dụng trong đánh giá nghèo đói và bất bình đẳng
kinh tế bao gồm: Tỷ lệ hộ nghèo trong xã hội, sự phân chia theo từng vùng,
giới tính, dân tộc khác nhau và theo các tiêu chuẩn quy định hiện hành quốc tế
hoặc quốc gia; chỉ tiêu hệ số giãn cách thu nhập xác định mức chênh lệch thu
nhập giữa bộ phận dân cƣ giàu và nghèo trong xã hội (ví dụ nhƣ: chênh lệch
thu nhập của 20% dân số có thu nhập cao nhất với thu nhập của 20% dân số
có thu nhập thấp nhất); tiêu chuẩn “40” do Ngân hàng thế giới (WB) đề xuất
năm 2002 xác định tỷ lệ thu nhập chiếm trong tổng thu nhập dân cƣ của 40%
dân số có mức thu nhập thấp nhất trong xã hội.
Ngoài việc đánh giá nghèo đói và bất bình đẳng về kinh tế, vấn đề bất
bình đẳng về xã hội hiện nay đƣợc các nƣớc và mọi tổ chức quốc tế đặc biệt
quan tâm. Những tiêu thức và chỉ tiêu chủ yếu trong lĩnh vực này là: Mức độ
phân biệt đối xử đối với phụ nữ và vấn đề bạo lực trong gia đình; mức độ thực
hiện dân chủ cộng đồng thể hiện ở vị thế của cộng đồng dân cƣ trong việc
tham gia vào quá trình ra quyết định về những vấn đề có liên quan trực tiếp
đến cuộc sống của họ; tính minh bạch của hệ thống tài chính ở các cấp địa
phƣơng; mức độ trong sạch quốc gia thể hiện thực trạng tham nhũng và
những hiện tƣợng tiêu cực của tầng lớp quan chức chính phủ; chỉ số phát triển
giới (GDI) và quyền lực theo giới tính (GEM), đây là hai chỉ tiêu đƣợc đƣa ra
trong báo cáo phát triển con ngƣời từ năm 1997 khi đề cập đến tình trạng của
phụ nữ.
-23-
1.1.3. Mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội -
Vấn đề phát triển bền vững
Cách đây hơn một nửa thế kỷ, khi thế giới bƣớc ra khỏi thế chiến thứ
hai, vấn đề phát triển có một nội dung thuần túy kinh tế. Các chƣơng trình mở
mang quốc gia, các chính sách và kế hoạch KT-XH chỉ quan tâm tới các vấn
đề đầu tƣ, sản xuất, công nghiệp hóa, tự túc lƣơng thực, hiện đại hóa nông
nghiệp, sản xuất thay thế nhập khẩu, sản xuất nhằm thị trƣờng nƣớc ngoài,…
lúc bây giờ phát triển kinh tế đồng nghĩa với tăng trƣởng kinh tế, không có sự
phân biệt, cân nhắc hoặc so sánh giữa chất và lƣợng trong công cuộc mở
mang quốc gia. Riêng đối với các nƣớc chậm tiến có nền kinh tế lạc hậu thì
đƣợc xem nhƣ chỉ có nhu cầu gia tăng sản xuất, xúc tiến các chƣơng trình
nhằm các mục tiêu vừa kể. Kinh tế thế giới lúc bây giờ tiến lên trong khuôn
khổ các chính sách và kế hoạch dựa trên lý luận kinh tế máy móc, một chiều,
hẹp hòi và phiến diện.
Vào đầu thập niên những năm 1970, sau một thời kỳ trong đó các nƣớc
trên thế giới thi đua công nghiệp hóa, khai thác tài nguyên, tìm kiếm thị
trƣờng, Câu lạc bộ La Mã đã phát hành và phổ biến một tài liệu mang tựa là
“Giới hạn của tăng trƣởng”. Tài liệu này vì đề nghị một hƣớng đi mới cho sự
phát triển và có những nhận thức chính đáng, những nhận định xác thực về tổ
chức kinh tế, đời sống xã hội nên đã ảnh hƣởng làm thế giới cảnh tỉnh trên
vấn đề liên quan tới môi trƣờng, môi sinh. Tài liệu viết rằng sự tăng trƣởng
kinh tế và dân số quá nhanh cùng với tình trạng thi đua sản xuất không giới
hạn và khai thác vô ý thức các tài nguyên làm ô nhiễm môi trƣờng, môi sinh
và làm cạn kiệt dự trữ tài nguyên thiên nhiên trên thế giới. Câu lạc bộ La Mã
đề nghị chính sách “không tăng trƣởng” với lý do tăng trƣởng kinh tế đối
nghịch với bảo vệ môi trƣờng, môi sinh.
-24-
Chủ trƣơng “không tăng trƣởng” không thuyết phục đƣợc thế giới. Các
nƣớc nghèo và chậm tiến cũng nhƣ các quốc gia có nền kinh tế giàu có đều
chống đối quan điểm của Câu lạc bộ La Mã, tuy với những lý do hoàn toàn
khác nhau. Ngoài ra, đứng về phƣơng diện nhận thức kinh tế thì đã có những
tiến bộ quan trọng mà đáng ghi nhất là sự phân biệt giữa tăng trƣởng kinh tế
với phát triển kinh tế. Tăng trƣởng kinh tế là sự nhận thức một chiều và phiến
diện về hoạt động và sản xuất kinh tế. Nó chú trọng tới số lƣợng sản xuất,
phƣơng diện vật chất của hoạt động kinh tế. Trái lại, phát triển kinh tế là một
khái niệm xuất hiện vào khoảng giữa thập niên những năm 1960 từ một nhận
thức mở rộng về kinh tế, không còn tính cách máy móc, eo hẹp. Theo khái
niệm mới này “thêm” không đồng nghĩa với “hơn”. Do đó tăng trƣởng kinh
tế, sản xuất “thêm” không chắc chắn chỉ có lợi và thuần túy tích cực mà có thể
ảnh hƣởng không tốt làm môi trƣờng, môi sinh tiêu hao hoặc hƣ hại. Ngƣợc
lại, phát triển kinh tế là một nhận thức toàn diện bao gồm các khía cạnh tinh
thần và vật chất, kinh tế và xã hội, chất và lƣợng. Phát triển kinh tế gợi ý phải
có đổi thay và tiến bộ không ngừng, về chất và lƣợng, để KT-XH ngày một
“hơn” một cách toàn diện, cân đối, thống nhất. Nhƣ vậy nếu tăng trƣởng kinh
tế nghịch với yêu cầu bảo vệ môi trƣờng, môi sinh thì phát triển kinh tế lại có
khả năng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, di sản sinh thái, môi trƣờng, môi
sinh. Phát triển kinh tế giữ đƣợc vai trò phát huy quan hệ hỗ tƣơng giữa hoạt
động KT-XH với môi trƣờng, môi sinh để loài ngƣời có cuộc sống thực sự
tiến bộ, có an sinh và phúc lợi, có môi trƣờng, môi sinh không ô nhiễm, có hệ
sinh thái cân bằng xung quanh.
Một năm sau Câu lạc bộ La Mã công bố phúc trình “Ngừng tăng
trƣởng”/“Giới hạn của tăng trƣởng”, tổ chức Liên Hiệp Quốc triệu tập năm
1972 tại Stockholm Hội nghị Liên Hiệp Quốc về môi trƣờng. Hội nghị đã
diễn ra trong bầu không khí tranh cãi sôi nổi. Hội nghị đã đề nghị một khái
-25-
niệm mới là “Phát triển tôn trọng môi sinh” với chủ trƣơng bảo vệ môi
trƣờng, tôn trọng môi sinh, quản lý hữu hiệu tài nguyên thiên nhiên, thực hiện
công bằng và ổn định xã hội. Khái niệm “Phát triển tôn trọng môi sinh” bị các
nƣớc đã phát triển và giàu có chống đối mạnh mẽ. Cuối cùng hội nghị chỉ
thảo luận vấn đề ô nhiễm và chấm dứt với sự tán đồng quan điểm có mối liên
hệ và ảnh hƣởng hỗ tƣơng giữa nếp sống của loài ngƣời với môi trƣờng, môi
sinh giữa phát triển KT-XH với bảo tồn tài nguyên và ổn định thiên nhiên.
Ngoài ra, các nƣớc cũng thỏa thuận và cam kết hành động để bảo vệ môi
trƣờng, môi sinh và thành lập những cơ quan quốc tế và quốc gia có nhiệm vụ
bảo vệ môi trƣờng, môi sinh. Mặc dù, đề nghị “Phát triển tôn trọng môi sinh”
không đƣợc chấp thuận, nó đánh dấu một bƣớc tiến quan trọng hƣớng tới sự
khai sinh khái niệm “Phát triển bền vững”.
Vào đầu thập niên những năm 1980, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên
Quốc tế (UICN) là tổ chức đã đề khởi khái niệm phát triển bền vững. Rồi năm
1987, khái niệm này đã đƣợc Ủy ban Thế giới về Môi trƣờng và Phát triển do
Bà Gro Harlem Brundtland làm chủ tịch tiếp thu, khai triển và định nghĩa nhƣ
sau trong phúc trình mang tựa “Tƣơng lai của chúng ta”:
“Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các yêu cầu hiện
tại nhƣng không tổn hại cho khả năng của các thế hệ tƣơng lai để đáp ứng yêu
cầu của chính họ”
Khái niệm Phát triển bền vững nhƣ vậy có một nội dung bao quát,
không có phạm vi nhất định, không bị gò bó bởi những chuẩn mực hoặc
quy tắc đã định trƣớc. Nói chung, Phát triển bền vững là một hƣớng đi
dung hòa chủ trƣơng “Không tăng trƣởng” và chính sách “Phát triển tôn
trọng môi sinh”.
Từ lúc phúc trình Brundtland đƣợc phổ biến năm 1987 cho tới nay, tổ
chức Liên Hiệp Quốc đã triệu tập hai hội nghị quan trọng dành cho vấn đề
-26-
Phát triển bền vững. Hội nghị thứ nhất diễn ra năm 1992 tại Rio de Janeiro
gọi là Hội nghị Thƣợng đỉnh về Trái đất, đã chính thức hóa sự đồng lòng thỏa
thuận của các nƣớc hội viên Liên Hiệp Quốc về một chƣơng trình nghị sự
Phát triển bền vững gọi là Agenda 21. Rồi mƣời năm sau, vào năm 2002, Liên
Hiệp Quốc đã tổ chức một hội nghị khác tại Johannesburg với tên gọi là “Hội
nghị Thƣợng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững”. Hội nghị Johannesburg
đã xác định phải xúc tiến và thực hiện Agenda 21 và đã đề ra các mục tiêu
cho thiên niên kỷ 21. Hội nghị cũng đã chỉ rõ chính phát triển bền vững mới
là mục tiêu cuối cùng của mọi chính sách phát triển.
Tóm lại, Phát triển bền vững là quá trình kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài
hòa giữa 3 mặt của sự phát triển: Phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ
môi trƣờng.
- Phát triển bền vững về kinh tế là việc sử dụng một cách hiệu quả
nhất các nguồn lực, tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của nền
kinh tế.
- Phát triển bền vững về xã hội là việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội
nhƣ: Việc làm, chống đói nghèo, bất công xã hội, an ninh trật tự, giảm tệ nạn
xã hội, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, tuổi thọ, tử vong,…
- Phát triển bền vững về môi trƣờng là cân bằng hệ sinh thái, khắc
phục ô nhiễm môi trƣờng, trồng và bảo vệ rừng, sử dụng tiết kiệm tài nguyên.
Giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội có mối quan hệ biện chứng
với nhau, hỗ trợ và làm tiền đề cho kinh tế phát triển.
Phát triển kinh tế tác động tới phát triển KT-XH:
- Tích cực: Kinh tế tăng trƣởng tạo ra nhiều cơ hội cho mọi ngƣời
tăng thêm thu nhập, cải thiện cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo. Mặt
khác, tăng nguồn thu vào NSNN, nhờ đó đầu tƣ công cũng tăng, góp phần
giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội nhƣ: Tệ nạn xã hội, việc làm,…
-27-
- Tiêu cực: Nếu quá chú ý tới vấn đề phát triển kinh tế mà không để ý
tới việc giải quyết các vấn đề xã hội, sẽ làm trầm trọng các vấn đề xã hội nhƣ:
Bần cùng hóa một số phận dân cƣ, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, tệ nạn xã
hội gia tăng, các giá trị truyền thống bị mai một,…
Phát triển xã hội tác động tới tăng trưởng kinh tế:
- Tích cực: Tạo ra sự đồng thuận xã hội, tránh các xung đột xã hội; tạo
ra môi trƣờng ổn định thu hút đầu tƣ, từ đó thúc đẩy nền kinh tế tăng trƣởng;
mặt khác tạo ra những cơ hội để phát huy các khả năng, tiềm năng tiềm tàng
của các cá nhân trong xã hội.
- Tiêu cực: Nếu quá chú ý các vấn đề xã hội sẽ làm giảm nguồn lực
cho phát triển kinh tế, đồng thời giảm động lực cho phát triển kinh tế.
1.2. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VÀ CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƢỚC
1.2.1. Chi Ngân sách Nhà nƣớc
1.2.1.1. Khái niệm chi Ngân sách Nhà nước
Chi Ngân sách Nhà nƣớc là một trong hai nội dung cơ bản của hoạt
động NSNN. Hoạt động chi NSNN thể hiện mục tiêu hoạt động của NSNN.
Thông qua chi NSNN, Nhà nƣớc mới đảm bảo các yếu tố vật chất cho quá
trình hoạt động của mình. Ở đây, Nhà nƣớc chính là chủ thể đại diện cho
NSNN. Các yếu tố vật chất đó đƣợc phục vụ cho hoạt động cơ bản của Nhà
nƣớc, có thể tóm tắt trên hai mặt nhƣ sau:
Thứ nhất, chi NSNN để duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc.
Thật vậy, thuật ngữ “Nhà nƣớc” trong sách vở hay trên các văn bản quy
phạm pháp luật ngƣời ta thấy nó chung chung, và khá trừu tƣợng. Nhƣng
trong đời sống KT-XH hàng ngày, thì ngƣời ta lại thấy Nhà nƣớc là thực thể
tồn tại với một cơ cấu hệ thống tổ chức đồng bộ, chặt chẽ và đƣợc thiết lập từ
trên xuống dƣới; và ngƣời ta thƣờng gọi đó là bộ máy Nhà nƣớc. Cho dù Nhà
-28-
nƣớc ở các quốc gia đƣợc xây dựng theo các mô hình khác nhau do thiết chế
chính trị mà quốc gia đó đã lựa chọn; nhƣng điểm chung nhất là bộ máy Nhà
nƣớc ở bất kỳ quốc gia nào cũng bao gồm cơ quan công quyền ở hai cấp đại
diện nhƣ: Trung ƣơng và Địa phƣơng.
Nhà nƣớc muốn khẳng định sự hiện hữu và quyền lực của mình trong
đời sống KT-XH của quốc gia và trên thế giới, thì bộ máy Nhà nƣớc đó phải
hoạt động. Hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc nào càng mạnh sẽ là một trong
những nhân tố góp phần nâng cao vị thế của quốc gia đó trong khu vực và
trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, muốn bộ máy Nhà nƣớc hoạt động và đạt kết quả tốt, thì bộ
máy Nhà nƣớc rất cần một đầu vào quan trọng là nguồn lực tài chính có thể
đáp ứng cho nhu cầu hoạt động đó. Thông thƣờng, kết quả hoạt động của bộ
máy Nhà nƣớc tỷ lệ thuận với quy mô và cơ cấu hợp lý của nguồn tài chính đã
đầu tƣ cho nó. Song do kết quả hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc chủ yếu tạo
ra các hàng hóa công cộng thuần túy, nên khó có khả năng thu hồi chi phí để
tái bù đắp cho các chu kỳ hoạt động tiếp theo. Do đó, NSNN đã trở thành quỹ
tiền tệ chủ yếu để tài trợ cho các nhu cầu chi nhằm duy trì sự tồn tại và hoạt
động của bộ máy nhà nƣớc. Khoản chi điển hình để duy trì hoạt động của bộ
máy nhà nƣớc thƣờng đƣợc gọi là chi thƣờng xuyên của NSNN.
Thứ hai, chi NSNN để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nƣớc.
Nhà nƣớc tồn tại thì phải hoạt động theo các chức năng vốn có của nó.
Các chức năng của Nhà nƣớc đƣợc thể hiện trong đời sống KT-XH hàng ngày
là các nhiệm vụ mà do chính Nhà nƣớc đó đặt ra, và cũng chính Nhà nƣớc đó
phải thực hiện. Thẩm quyền quyết định các nhiệm vụ cần phải làm trong 1
năm hay 1 giai đoạn cụ thể thuộc về cơ quan quyền lực Nhà nƣớc. Triển khai
thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nƣớc trong 1 năm hay 1 giai đoạn cụ thể đó
lại thuộc về trách nhiệm của cơ quan hành pháp. Khi kết quả thực hiện các
-29-
nhiệm vụ về kinh tế của một đất nƣớc càng cao, sẽ tạo tiền đề thuận lợi để
nâng cao vị thế của đất nƣớc đó về tất cả các mặt (kinh tế, xã hội, quốc phòng,
an ninh) trên trƣờng quốc tế; và niềm tin của ngƣời dân với Chính phủ cầm
quyền ở chính đất nƣớc đó sẽ đƣợc củng cố vững chắc hơn. Ngƣợc lại, kết
quả thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế chỉ ở mức thấp kém sẽ là nguyên nhân
chính dẫn đến các nguy cơ mà mỗi Chính phủ đều không mong muốn.
Để củng cố vị thế của mình, Nhà nƣớc ở mỗi quốc gia luôn sử dụng
NSNN nhƣ là một trong những công cụ tài chính đắc lực để cung ứng nguồn
tài chính cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, quốc
phòng, an ninh của mình. Hình thức biểu hiện của các khoản chi NSNN cho
việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nƣớc thông thƣờng đƣợc phản ảnh qua
chi đầu tƣ phát triển; một phần qua chi thƣờng xuyên và chi khác.
Nếu tiếp cận nghiên cứu chi NSNN nhƣ là quá trình vận động của các
dòng tiền, ngƣời ta nhận thấy: NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nƣớc,
nơi các nguồn tài chính đƣợc huy động và tạo lập từ rất nhiều nguồn khác
nhau, từ nhiều các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Cũng từ chính quỹ
tiền tệ đó lại đƣợc chi dùng cho các nhu cầu khác nhau, liên quan đến nhiều
lợi ích khác nhau nên trƣớc khi đƣa vào sử dụng NSNN đƣợc phân phối thành
các loại quỹ khác nhau. Nhƣ vậy, chi NSNN bao gồm hai quá trình là phân
phối và sử dụng.
Quá trình phân phối là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình
thành các loại quỹ trƣớc khi đƣa vào sử dụng.
Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ
NSNN mà không cần trải qua việc hình thành các loại quỹ trƣớc khi đƣa vào
sử dụng.
Từ những nhận thức đó có thể đƣa ra khái niệm chi NSNN nhƣ sau:
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện
các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.
-30-
Nhƣ vậy, chi NSNN là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính
đã đƣợc tập trung vào NSNN và đƣa chúng đến mục đích sử dụng. Vì thế
chi NSNN không chỉ là những định hƣớng, hay chỉ trên giấy tờ mà chi
NSNN phải là những việc làm cụ thể, phải đƣợc phân bổ cho từng hoạt
động, từng mục tiêu và từng công việc cụ thể thuộc các chức năng nhiệm
vụ của Nhà nƣớc.
1.2.1.2. Nội dung chi NSNN
Để thực hiện đƣợc các chức năng nhiệm vụ của mình Nhà nƣớc cần rất
nhiều các khoản chi. Vì vậy, nội dung chi NSNN rất đa dạng và phong phú.
Để phân loại chi NSNN cần dựa trên những tiêu thức khác nhau.
- Theo tính chất phát sinh các khoản chi, thì chi NSNN bao gồm: Chi
thƣờng xuyên và chi không thƣờng xuyên.
Chi thƣờng xuyên: Là những khoản chi phát sinh tƣơng đối đều đặn
cả về mặt thời gian, không gian và quy mô khoản chi. Nói cách khác, đó là
những khoản chi đƣợc lặp đi, lặp lại tƣơng đối ổn định theo những chu kỳ thời
gian cho những đối tƣợng nhất định. Phần lớn chi thƣờng xuyên mang tính
chất tiêu dùng nên thƣờng đƣợc sử dụng hết trong một thời gian ngắn. Các
khoản chi thƣờng xuyên bao gồm: Chi tiền lƣơng và các khoản có tính chất
lƣơng, chi nghiệp vụ phí, chi duy tu bảo dƣỡng,…
Chi không thƣờng xuyên: Là những khoản chi phát sinh không đều
đặn và bất thƣờng nhƣ: Chi đầu tƣ phát triển, viện trợ, trợ cấp thiên tai địch
họa,…trong đó chi đầu tƣ phát triển thƣờng đƣợc coi là phần chủ yếu của chi
không thƣờng xuyên.
- Theo mục đích sử dụng cuối cùng, chi NSNN đƣợc chia thành chi tiêu
dùng và chi tích lũy.
Chi tiêu dùng: Là những khoản chi nhằm mục đích phục vụ cho nhu
cầu trƣớc mắt và hầu nhƣ đƣợc sử dụng hết sau khi đã chi, nhƣ: Chi cho bộ
-31-
máy Nhà nƣớc, chi cho an ninh quốc phòng, văn hóa xã hội,…cụ thể đó là
những khoản chi lƣơng, các khoản chi có tính chất lƣơng và chi cho hoạt
động. Nói chung, các khoản chi cho tiêu dùng là những khoản chi mang tính
chất thƣờng xuyên.
Chi tích lũy: Là những khoản chi mà hiệu quả của nó có tác dụng lâu
dài, là các khoản chi chủ yếu đƣợc sử dụng trong tƣơng lai. Nói cách khác,
đây là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế,
góp phần tăng trƣởng kinh tế, bao gồm: Chi đầu tƣ xây dựng cơ bản, chi cấp
vốn lƣu động, chi dự trữ vật tƣ của Nhà nƣớc, chi nghiên cứu khoa học công
nghệ,…
- Theo mục tiêu, chi NSNN bao gồm: Chi cho bộ máy Nhà nƣớc và chi
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nƣớc.
Chi cho bộ máy Nhà nƣớc: Là những khoản chi để duy trì hoạt động
bình thƣờng của bộ máy Nhà nƣớc nhƣ: Chi đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất,
mua sắm trang thiết bị, chi cho đội ngũ cán bộ công chức, các khoản chi vật
tƣ, văn phòng phẩm, công tác phí, hội nghị,…
Chi NSNN để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc: Là
các khoản chi cho an ninh, quốc phòng để duy trì hoạt động bình thƣờng của
các lực lƣợng an ninh, quốc phòng, chi phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, chi
đảm bảo xã hội, chi phát triển kinh tế và các khoản chi khác nhƣ hỗ trợ các tổ
chức đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp,…
- Với tư cách là quỹ tiền tệ để thanh toán cho các nhu cầu của Nhà
nước và tài trợ cho các đối tượng khác nhau trong xã hội (Nhà nước với tư
cách là người mua hàng hóa, dịch vụ của thị trường), thì chi NSNN bao gồm:
Chi thanh toán và chi chuyển giao.
Chi thanh toán: Là việc Nhà nƣớc chi trả để đƣợc hƣởng những hàng
hóa, dịch vụ mà xã hội cung cấp cho Nhà nƣớc. Chi thanh toán mang tính
-32-
hoàn trả trực tiếp với sự vận động ngƣợc chiều của hai hình thái tiền tệ và
hàng hóa, dịch vụ.
Chi chuyển giao: Là những khoản chi mang tính chất một chiều từ
phía Nhà nƣớc, nhƣ: Chi tài trợ, trợ cấp, trợ giá, cứu trợ, viện trợ,…
- Theo quan điểm của kinh tế học công cộng, thì chi NSNN bao gồm
các nội dung sau:
Chi ngân sách để sản xuất và cung ứng các hàng hóa công cộng
thuần túy, nhƣ: An ninh, quốc phòng; quản lý hành chính; phúc lợi công
cộng; trật tự xã hội, bảo vệ môi trƣờng, phòng chống thiên tai,…
Chi ngân sách để sản xuất và cung ứng hàng hóa công cộng không
thuần túy, nhƣ: Giáo dục đào tạo, văn hóa xã hội và một số hoạt động sự
nghiệp kinh tế khó có thể tƣ nhân hóa,…
Chi NSNN để sản xuất và cung ứng một số hàng hóa thiết yếu nhƣ:
Điện, nƣớc sinh hoạt,…
Chi NSNN cho đầu tƣ sản xuất và cung ứng một số hàng hóa cá nhân
mà Nhà nƣớc cho là cần thiết phải nắm giữ để định hƣớng và quản lý nền
kinh tế.
Nhƣ vậy, chi NSNN bao gồm rất nhiều các khoản chi khác nhau theo
các tiêu thức phân loại khác nhau. Trên đây chỉ là một số cách phân loại thông
thƣờng. Theo mỗi cách phân loại chi NSNN có những ƣu, nhƣợc điểm khác
nhau. Tùy theo mục đích nghiên cứu và quản lý NSNN mà có thể vận dụng
các cách phân loại khác nhau sao cho thuận lợi và có hiệu quả nhất.
1.2.2. Cơ cấu chi Ngân sách Nhà nƣớc
1.2.2.1. Tổng quan về cơ cấu chi NSNN
Cơ cấu là một danh từ chỉ cách tổ chức sắp xếp các thành phần, bộ
phận trong nội bộ nhằm thực hiện chức năng chung của chủ thể.
-33-
Do đó, cơ cấu chi NSNN là “thuật ngữ” chỉ cách tổ chức sắp xếp các
khoản mục chi trong tổng thể chi NSNN nhằm thực hiện các chức năng của
NSNN. Nghiên cứu cơ cấu chi NSNN là nghiên cứu các nội dung chi (các yếu
tố thành phần), quan hệ giữa chúng với nhau và quan hệ với tổng thể chi
NSNN trong một chỉnh thể thống nhất, hoàn chỉnh của NSNN. Để tránh rơi
vào tình trạng siêu hình, nghiên cứu cơ cấu chi NSNN phải xác định cụ thể
phạm vi thời gian, không gian, gắn liền với bối cảnh lịch sử mà chi NSNN
đƣợc thực hiện.
Để xác định độ lớn hay “ tầm cỡ ” NSNN ngƣời ta sử dụng khai niệm
quy mô. Thông thƣờng, quy mô chi NSNN đƣợc đo bằng các chỉ tiêu tƣơng
đối và chỉ tiêu tuyệt đối nhƣ ty trọng chi NSNN so với GDP(%) và số chi
NSNN tuyệt đối hàng năm ( Kíp,USD,…). Trong khi đó, khái niệm cơ cấu chi
NSNN đƣợc dùng để xem xét các chi tiết về NSNN của Nhà nƣớc. Cơ cấu chi
NSNN cho phép nghiên cứu các vị trí và tầm quan trọng của từng khoản mục
chi trong tổng thể chi NSNN. Nếu các nội dung chi đƣợc xếp loại theo những
tiêu thức thích hợp của phƣơng pháp phân loại chi NSNN thì cơ cấu chi
NSNN sẽ đƣợc bố trí mạch lạc, có hệ thống thống nhất, phục vụ tốt các mục
đích điều hành, nghiên cứu dự báo,…góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN.
Trong khi những nghiên cứu về quy mô thuộc loại nghiên cứu tổng thể
thì những nghiên cứu về cơ cấu thuộc loại nghiên cứu chi tiết. Nghiên cứu cơ
cấu là sự bổ sung không thể thiếu của nghiên cứu quy mô. Sự kết hợp nghiên
cứu cơ cấu với nghiên cứu quy mô sẽ cho phép đƣa ra những hình ảnh vừa
tổng quát vừa chi tiết về NSNN trong một thời kỳ nhất định của một Nhà
nƣớc. Còn nghiên cứu cơ cấu là nghiên cứu cụ thể vị trí, tầm quan trọng, kích
thƣớc, tỷ lệ từng chi tiết nào, bộ phận nào hợp lý, cần duy trì, cần đƣợc ƣu
tiên phát triển và những bộ phận, chi tiết nào kém quan trọng hơn, có thể là
-34-
thừa, cần hạn chế, cắt bỏ (nếu chƣa hoàn chỉnh). Rõ ràng nghiên cứu cơ cấu
chỉ cho phép phân tích, nhận định về quan hệ giữa các chi tiết cấu thành tổng
thể chi NSNN.
Đƣơng nhiên, khi nghiên cứu NSNN cần đề cập đến cả cơ cấu, quy mô
thu và chi nhƣng trong giới hạn của đề tài, luận án dừng lại ở những cơ cấu
chi NSNN. Cơ cấu chi NSNN đƣợc tiếp cận thông qua các chỉ tiêu định tính
(cơ cấu định tính) và các chỉ tiêu định lƣợng (cơ cấu định lƣợng).
- Về định tính: Cơ cấu chi NSNN bao gồm các chỉ tiêu phản ánh nội
dung chi NSNN đƣợc sắp xếp theo tiêu thức nhất định gọi là tiêu thức phân
loại chi NSNN. Ví dụ: Chi NSNN đƣợc chia thành các nội dung chi cho quốc
phòng, an ninh, giáo dục, đào tạo, quản lý nhà nƣớc, y tế, đầu tƣ phát triển, dự
trữ, trả nợ,…cơ cấu định tính chƣa cho biết mức độ chi cho từng khoản mục
là bao nhiêu.
- Về định lƣợng: Các khoản mục chi NSNN đƣợc lƣợng hoá qua các số
đo cụ thể bằng tỷ lệ phần trăm (theo phân loại định tính) so với tổng chi
NSNN hàng năm hoặc so với tổng GDP. Những tỷ lệ này đƣợc gọi là tỷ trọng
X của từng khoản chi) trong tổng chi NSNN (hoặc tỷ trọng so với GDP),
chúng cho phép xác định vị trí, tầm cỡ của khoản chi so với tổng số (hoặc so
với quy mô nền kinh tế). Qua đó, thấy đƣợc mức độ quan trọng của mỗi
khoản chi, phản ánh sự lựa chọn ƣu tiên của Nhà nƣớc trong bố trí cơ cấu, tỷ
trọng các nội dung chi NSNN trong mỗi thời kỳ.
Cơ cấu chi NSNN vừa mang tính chất tĩnh, vừa có tính chất động.
Nghiên cứu cơ cấu chi NSNN sẽ cho biết tình hình sử dụng NSNN trong một
thời điểm cụ thể hoặc trong một thời kỳ nhất định. Tại một thời điểm cụ thể,
ta có thể “chụp ảnh” đƣợc tình hình chi NSNN của một Nhà nƣớc cụ thể với
một kết cấu định tính cụ thể và những tỷ trọng định lƣợng cụ thể. Cơ cấu chi
NSNN cho ta biết đƣợc tình hình sử dụng NSNN tại một thời điểm cụ thể.
-35-
Trong phạm vi nguồn lực tài chính nhà nƣớc của thời điểm đó NSNN đã đƣợc
phân chia sử dụng nhƣ thế nào, vào những mục đích gì, mức độ là bao nhiêu.
Khi xem xét trong khoảng thời gian, ta có thể “quay phim” đƣợc tình
hình sử dụng NSNN của một thời kỳ nào đó, thông qua đó xem xét sự vận
động của cả kết cấu định tính và sự thay đổi của kết cấu định lƣợng về chi
NSNN. Giống nhƣ một cơ thể sống, cùng với sự vận động của thời gian, cơ
cấu chi NSNN luôn có sự biến đổi, cả về định tính và định lƣợng. Những biến
động đó tùy thuộc vào mức độ và thời lƣợng của những tác động của các yếu
tố ảnh hƣởng tới cơ cấu chi NSNN.
1.2.2.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến cơ cấu chi NSNN
Cơ cấu chi NSNN chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau, do
đó ở mỗi thời kỳ khác nhau nội dung cơ cấu chi NSNN cũng phải thay đổi
để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội của
đất nƣớc. Có thể khái quát một số nhân tố ảnh hƣởng tới cơ cấu chi NSNN
nhƣ sau:
a. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
Sự phát triển của lực lƣợng sản xuất là nhân tood vừa tạo ra khả năng
và điều kiện cho việc hình thành nội dung, cơ cấu chi một cách hợp lý, vừa
đặt ra yêu cầu thay đổi nội dung cơ cấu chi trong từng thời kỳ nhất định.
Muốn phát triển lực lƣợng sản xuất thì trƣớc hết là phải có chủ trƣơng
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc
theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Nhờ vậy, mới có vốn để đầu tƣ phát triển
lực lƣợng sản xuất. Sau đó là nâng cao trình độ ngƣời lao động, trình độ công
cụ lao động kết hợp với trình độ tổ chức, quản lý, trao đổi lao động phải biết
vận dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất.
-36-
b. Khả năng tích lũy của nền kinh tế
Khả năng tích lũy của nền kinh tế, nhân tố này càng lớn thì khả năng
chi đầu tƣ phát triển kinh tế càng lớn. Tuy nhiên, việc chi NSNN cho đầu tƣ
phát triển kinh tế còn tuỳ thuộc ở khả năng tập trung nguồn tích lũy vào
NSNN và chính sách chi của NSNN trong từng giải đoạn lịch sử. Từ đó, nội
dung và quy mô các khoản chi NSNN cũng vì thế mà thay đổi theo.
Chi tích luỹ của NSNN là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và
tiềm lực cho nền kinh tế, góp phần tăng trƣởng kinh tế, chính là khoản chi đầu
tƣ phát triển cơ sở hạ tầng, chi hỗ trợ doanh nghiệp Nhà nƣớc, chi các dự án
chƣơng trình quốc gia để tạo nguồn thu tài chính cho NSNN.
Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế của đất nƣớc cũng ảnh hƣởng đến cơ cấu
chi NSNN. Bởi lẽ, cơ cấu kinh tế của đất nƣớc sẽ ảnh hƣởng đến cơ cấu phân
bổ nguồn lực tài chính của đất nƣớc, ảnh hƣởng đến quá trình phân phối thu
nhâp quốc dân. Nhƣ vậy, NSNN nói chung và cơ cấu chi NSNN nói riêng
cũng chịu ảnh hƣởng bởi các nhân tố đó.
c. Mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ KT-XH mà
Nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ
- Mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước:
Chi NSNN gắn với mô hình tổ chức bộ máy Nhà nƣớc bởi vậy, bộ máy
Nhà nƣớc gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả cao sẽ tiết kiệm cho NSNN. Ngƣợc
lại, bộ máy Nhà nƣớc cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả cũng là nguyên
nhân làm tăng quy mô các khoản chi ngân sách, trong đó ảnh hƣởng nhiều
nhất vẫn là các khoản chi thƣờng xuyên. Trong điều kiện hiện nay, đây cũng
là nhân tố quan trọng quyết định trực tiếp có ảnh hƣởng đến nội dung và cơ
cấu chi NSNN và là nội dung mà Nhà nƣớc rất quan tâm khắc phục thể hiện
qua việc kiện toàn bộ máy Chính quyền và việc sắp xếp, tổ chức các cơ quan
trong bộ máy Nhà nƣớc.
-37-
- Những nhiệm vụ KT-XH mà Nhà nước đảm nhân trong từng thời kỳ:
Nhà nƣớc ra đời trên cơ sở đấu tranh giai cấp, với chức năng quản lý
nền KT-XH, với tƣ cách là chủ thể của NSNN. Nhà nƣớc sử dụng ngân sách
phục vụ cho các hoạt động đó. Các nhiệm vụ mà Nhà nƣớc đảm đƣơng là mục
tiêu phát triển KT-XH; Trong mỗi thời kỳ khác nhau nhu cầu chi tiêu NSNN
cũng khác nhau, trong một giai đoạn Nhà nƣớc càng đảm đƣơng nhiều nhiệm
vụ thì nhu cầu nguồn tài chính càng lớn, đó là nguyên nhân làm thay đổi nội
dung và quy mô các khoản chi ngân sách. Hơn nữa, một Nhà nƣớc có bản
chất chức năng, nhiệm vụ theo các mô hình kinh tế khác nhau cũng sẽ làm
cho nội dung và quy mô các khoản chi NSNN cũng khác nhau. Nhà nƣớc
càng can thiệp sâu vào nền kinh tế, mức độ bao cấp và bảo hộ đối với nền
kinh tế càng cao thi chi NSNN càng lớn. Ngƣợc lại, nếu Nhà nƣớc càng hạn
chế bảo hộ và tác động trực tiếp đối với nền kinh tế thì chi NSNN cũng giảm
xuống. Vì vậy, có thể nói rằng những nhiệm vụ KT-XH của Nhà nƣớc đảm
nhận trong từng thời kỳ phát triển đến đâu thì nội dung và cơ cấu chi NSNN
cũng sẽ chịu ảnh hƣởng cho phù hợp đến đó.
Bên cạnh đó, sự tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
đã làm thay đổi chức năng và nhiệm vụ của Nhà nƣớc. Trong thời kỳ mới,
thời kỳ hội nhập, Nhà nƣớc không can thiệp sâu sắc và trực tiếp vào nền kinh
tế mà đóng vai trò là ngƣời cầm cân nảy mực, tạo môi trƣờng và hành lang
pháp lý cho nền kinh tế ở tầm vĩ mô, việc đầu tƣ trực tiếp vào nền kinh tế chỉ
ở những khâu trọng yếu, có ý nghĩa định hƣớng đối với nền kinh tế.
d. Sự biến động kinh tế, chính trị, xã hội, giá cả và lãi suất
Xu thế phát triển kinh tế-xã hội trên thế giới đặc biệt là xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay đang làm ảnh
hƣởng lớn đến sự biến động kinh tế, chính trị, xã hội, giá cả, lãi suất,…của
các nƣớc.
-38-
Trong điều kiện sự biến động của nền kinh tế, chính trị, xã hội, giá cả,
lãi suất,…trong và ngoài nƣớc không có sự biến động lớn thì cơ cấu chi
NSNN ổn định. Một khi nền kinh tế, chính trị, xã hội bất ổn định thì nội dung
chi cho phát triển kinh tế, an ninh, quốc phòng, trật tự xã hội, giải quyết các
vấn đề xã hội phải thay đổi theo chiều hƣớng khác.
e. Hiệu quả chi NSNN
Hiệu quả là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá chất lƣợng hoạt động phát
triển KT-XH. Trong hoạt động quản lý, có một số ngƣời hiểu đồng nhất khái
niệm kết quả và hiệu quả hoặc cho rằng có năng suất cao, chất lƣợng tốt là có
hiệu quả rồi. Thực chất hoàn toàn không phải nhƣ vậy. Năng suất cao, chất
lƣợng tốt là những giá trị sử dụng lớn làm thỏa mãn đƣợc nhu cầu về vật chất
và tinh thần cho xã hội, nhƣng năng suất cao, chất lƣợng tốt chƣa chắc đã là
có hiệu quả.
Hiệu quả của chi NSNN khác với hiệu quả sử dụng vốn của các doanh
nghiệp, nó đƣợc xem xét trên tầm vĩ mô và dựa vào việc hoàn thành các mục
tiêu phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng mà các khoản chi NSNN
đảm nhận.
Hiệu quả chi NSNN đề cập đến khối lƣợng công việc của quản lý chi
tiêu đƣợc triển khai đồng bộ, đúng quy trình, đúng thời gian, hƣớng đến đạt
mục tiêu cao nhất với chi phí thấp nhất. Đánh giá hiệu quả chi NSNN phải
thông qua các chỉ tiêu định tính và định lƣợng để phản ánh đánh giá phân loại
chi và tỷ trọng từng khoản chi, thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố của lao
động, các tiềm năng ứng dụng khoa học công nghệ, cải tiến các biện pháp
quản lý,…để tạo ra kết quả hoạt động (sản xuất, dịch vụ công tác,…) sao cho
kết quả đạt đƣợc tối đa, còn chi phí cho kết quả đó ở mức tối thiểu, đƣợc thể
hiện ở mấy khía cạnh dƣới đây:
-39-
Vị trí, vai trò của chi NSNN trong quốc sách, cơ chế quản lý và tổ chức
quản lý của Nhà nƣớc phải thể hiện đƣợc đầy đủ, đảm bảo cho chính quyền
hoạt động có hiệu lực, quản lý KT-XH bằng pháp luật, hỗ trợ tích cực cho sự
phát triển, đảm bảo hài hoà giữa tăng trƣởng kinh tế với tiến bộ xã hội ở nông
thôn. Hoạt động của chi NSNN phải tạo ra tiền đề vật chất cho sự tiếp thu văn
minh xã hội, tạo môi trƣờng thuận lợi cho sản xuất kinh doanh dịch vụ phát
triển, thực hiện tốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Về tiêu chí đánh giá chất lƣợng, hiệu quả quản lý NSNN hiện nay ở
trong và ngoài nƣớc vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về các khía cạnh,
khả năng đảm bảo chức năng chính quyền, phạm vi ảnh hƣởng, kết quả thu
chi. Song chỉ tiêu đƣợc sử dụng để đánh giá NSNN giữa các nƣớc lại giống
nhau, đó là tốc độ thu chi hàng năm, mức hoàn thành dự toán, quy mô, cơ cấu
thu chi,…
NSNN phản ánh khía cạnh đặc biệt nguồn lực của quốc gia và có
những ảnh hƣởng to lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, hiệu quả
chi tiêu NSNN không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần mà còn mang ý nghĩa
chính trị, văn hoá, xã hội, một yếu tố phản ánh chất lƣợng bộ máy Nhà nƣớc
và mức độ phát triển ở mỗi quốc gia. Chi tiêu NSNN với hiệu quả thấp, biểu
hiện dƣới dạng lãng phí, thất thoát, tham nhũng,… là một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo, tụt hậu và bất ổn định an ninh chính trị. Chi
NSNN với hiệu quả cao vừa là mục tiêu vừa là điều kiện để xây dựng một xã
hội dân chủ văn minh và một Nhà nƣớc vững mạnh, tiến bộ.
1.3. TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NSNN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ-XÃ HỘI
Đầu tƣ phát triển từ nguồn vốn NSNN có tác động mạnh mẽ đến tăng
trƣởng, phát triển KT-XH, điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tƣ theo
định hƣớng của Chính phủ. Đối với nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị
-40-
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa nói riêng thì đầu tƣ từ nguồn vốn NSNN
có tác dụng kích thích các thành phần kinh tế phát triển hiệu quả hơn và đồng
đều hơn. Trong điều kiện hiện nay, đầu tƣ của khu vực tƣ nhân và nƣớc ngoài
chỉ tập trung vào các ngành nghề, khu vực có khả năng sinh lời cao, mức độ
an toàn lớn, vốn đầu tƣ nhỏ, dẫn đến mất cân đối trong các ngành nghề và
vùng kinh tế. Để nền kinh tế phát triển một cách đồng bộ, Chính phủ phải sử
dụng nguồn vốn đầu tƣ phát triển từ NSNN để tham gia đầu tƣ vào một số
lĩnh vực thuộc khu vực công cộng có vốn đầu tƣ lớn, khả năng thu hồi vốn
chậm nhƣng giữ vai trò là nền tảng cho sự phát triển KT-XH, nhƣ: Đầu tƣ
phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH, đầu tƣ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đầu tƣ xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy công bằng xã hội,….
1.3.1. Cơ cấu chi NSNN phục vụ đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH
1.3.1.1. Cơ sở hạ tầng và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH:
* Khái niệm
Thuật ngữ cơ sở hạ tầng đƣợc sử dụng lần đầu tiên trong lĩnh vực quân
sự. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thuật ngữ này đƣợc sử dụng rộng rãi
trong các lĩnh vực khác nhau nhƣ: Giao thông, kiến trúc, xây dựng,…đó là
những cơ sở vật chất kỹ thuật đƣợc hình thành theo một kết cấu nhất định và
đóng vai trò nền tảng cho các hoạt động diễn ra trong đó. Với ý nghĩa đó,
thuật ngữ “cơ sở hạ tầng” đƣợc mở rộng ra cả các lĩnh vực hoạt động có tính
chất xã hội để chỉ các cơ sở trƣờng học, bệnh viện, vƣờn văn hóa,…phục vụ
cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa,…
Nhƣ vậy, cơ sở hạ tầng là tổng thể các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật
và kiến trúc đóng vai trò nền tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế, xã hội
đƣợc diễn ra một cách bình thƣờng.
Đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH có thể đƣợc hiểu là đầu tƣ các
nguồn lực để xây dựng hệ thống giao thông vận tải nhƣ: Đƣờng bộ, đƣờng
-41-
sông, đƣờng biển, đƣờng sắt, đƣờng hàng không, đƣờng ống; hệ thống liên lạc
viễn thông, hệ thống cung cấp năng lƣợng, nƣớc,…hệ thống cơ sở hạ tầng
hiện đại có một tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của mọi nền kinh
tế, vì nó đảm bảo vận tải nhanh chóng với chi phí thấp, đảm bảo các quan hệ
liên lạc thông suốt kịp thời, cung cấp đủ điện nƣớc cho toàn bộ hoạt động của
nền kinh tế đất nƣớc,…chính vì tầm quan trọng nhƣ vậy, nên các quốc gia
phát triển để ngay từ đầu, ƣu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại trong một
thời gian ngắn 20-30 năm, tạo ra những tiền đề cho sự bứt phá phát triển.
Khi lực lƣợng sản xuất chƣa phát triển quá trình tiến hành các hoạt
động chỉ là sự kết hợp giản đơn giữa 3 yếu tố đó là lao động, đối tƣợng lao
động và tƣ liệu lao động chƣa có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Nhƣng khi
lực lƣợng sản xuất đã phát triển đến trình độ cao thì để sản xuất có hiệu quả
cần có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đƣợc phát triển
mạnh mẽ gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 17 đến thế kỷ
19. Bên cạnh đó, chính vì sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng kỹ thuật
mà nó thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội từ cuối thế kỷ 19 đến
đầu thế kỷ 20. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành phát triển cơ sở hạ tầng ở
giai đoạn vừa phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật vừa phát triển cơ sở hạ tầng xã
hội. Nhƣ vậy, khi khoa học kỹ thuật ngày càng đƣợc nâng cao thì cơ sở hạ
tầng càng phát triển.
* Phân loại:
+ Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm:Cơ
sở hạ tầng kinh tế và cơ sở hạ tầng xã hội.
- Cơ sở hạ tầng kinh tế là những công trình phục vụ sản xuất nhƣ: Bến
cảng, hệ thống điện, giao thông, sân bay,…
- Cơ sở hạ tầng xã hội là toàn bộ các cơ sở thiết bị và công trình phục
vụ cho vụ cho hoạt động văn hóa, nâng cao dân trí, văn hóa tinh thần của dân
cƣ nhƣ: Trƣờng học, bệnh viện, công viên, các khu vui chơi giải trí,…
-42-
+ Căn cứ vào chức năng, tính chất và đặc điểm người ta chia các công
trình cơ sở hạ tầng thành 3 loại:
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật;
- Cơ sở hạ tầng xã hội;
- Cơ sở hạ tầng môi trƣờng.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là các công trình phục vụ cho sản xuất và đời
sống bao gồm: Các công trình thiết bị chuyển tải và cung cấp năng lƣợng,
mạng lƣới giao thông, cấp thoát nƣớc, thông tin liên lạc.
Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm các công trình phục vụ cho các địa điểm
dân cƣ nhƣ: Vƣờn văn hoá, bệnh viện, trƣờng học, nhà ở và các hoạt động
dịch vụ công cộng khác. Các công trình này thƣờng gắn với các địa điểm dân
cƣ làm cơ sở góp phần ổn định, nâng cao đời sống dân cƣ trên vùng lãnh thổ.
Cơ sở hạ tầng môi trường là toàn bộ hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ
cho việc bảo vệ, giữ gìn và bảo vệ môi trƣờng sinh thái của đất nƣớc và môi
trƣờng sống của con ngƣời. Hệ thống này bao gồm các công trình phòng
chống thiên tai, các công trình bảo vệ đất đai, vùng biển và các nguồn tài
nguyên thiên nhiên.
* Đặc điểm:
Hệ thống cơ sở hạ tầng có nhiều đặc điểm riêng biệt khác với hệ thống
KT-XH khác. Đứng dƣới góc độ đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng cần xem xét
các đặc điểm sau:
Bản thân hệ thống cơ sở hạ tầng là một tập hợp các công trình xây dựng
có vốn đầu tƣ lớn, thời gian thu hồi vốn dài thƣờng là thông qua các hoạt
động kinh tế khác để thu hồi vốn.
Trong cơ chế thị trƣờng hiện nay, đồng vốn luôn vận động một cách
năng động và chịu sự chi phối của lợi nhuận, nơi nào có lợi nhuận cao, thời
gian thu hồi vốn nhanh thì sẽ đƣợc đầu tƣ nhiều và ngƣợc lại. Vì thế, lĩnh vực
-43-
kinh doanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật thƣờng đƣợc các nhà đầu tƣ ít quan tâm
hơn là dịch vụ kinh doanh buôn bán khác.
Các công trình cơ sở hạ tầng mang tính xã hội hoá cao, có nhiều đặc
tính của hàng hoá công cộng. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng thì không chỉ có sự
tham gia của chính phủ mà còn có sự đóng góp của khu vực tƣ nhân, còn
hàng hoá công cộng về cơ bản do chính phủ cung cấp, chính phủ là ngƣời
đứng ra bỏ vốn đầu tƣ xây dựng mà chủ yếu là vốn từ ngân sách, tƣ nhân thì
rất ít, đầu tƣ thì các công trình này thƣờng có vốn đầu tƣ hơn, thời gian thu
hồi vốn chậm, thậm chí rất khó thu hồi vốn.
Hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật mang tính kỹ thuật cao,
quy mô lớn nó không chỉ đáp ứng nhu cầu cuộc sống, sản xuất, dịch vụ, đời
sống con ngƣời,...trong hiện tại và cả trong tƣơng lai nữa. Mặt khác thời gian
tồn tại của các công trình cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ là rất lâu dài. Vì thế
những sai lầm trong bố trí địa điểm, áp dụng công nghê sẽ đều phải trả giá rất
đắt. Do đó, yêu cầu khi xây dựng cơ sở hạ tầng bên cạnh việc áp dụng những
thành tựu tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phải căn cứ vào quy hoạch phát triển
vùng và dự kiến đƣợc những biến động trong tƣơng lai.
Các công trình cơ sở hạ tầng trên phạm vị lãnh thổ có chức năng phục
vụ sản xuất và đời sống. Tuy vậy, nếu xét về bản chất kết quả hoạt động của
các cơ sở hạ tầng lại là từ dịch vụ chứ không phải là sản xuất vật chất cụ thể
chẳng hạn dịch vụ bƣu chính viễn thông, giáo dục đào tạo đây chính là điểm
phân biệt giữa cơ cở hạ tầng với các ngành sản xuất vật chất khác.
1.3.1.2. Tác động của đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tới mục tiêu phát triển
kinh tế-xã hội
Với tính chất đa dạng và thiết thực, cơ sở hạ tầng là nền tảng vật chất
có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH của mỗi quốc
gia cũng nhƣ mỗi vùng lãnh thổ. Có cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại, nền
-44-
kinh tế mới có điều kiện để tăng trƣởng nhanh, ổn định và bền vững. Có rất
nhiều công trình nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng, phát triển cơ sở hạ tầng
có tác động tích cực đến phát triển KT-XH ở cả các nƣớc phát triển và đang
phát triển. Trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng có ảnh hƣởng quyết định đến
trình độ phát triển của đất nƣớc. Trong công trình nghiên cứu về “Ảnh hưởng
của phát triển cơ sở hạ tầng đến tăng trưởng và phân phối thu nhập” năm
2004, Cesar Calderon và Luis Serven sau khi nghiên cứu bộ dữ liệu ở 121
nƣớc trong thời kỳ 1960-2000 đã đƣa ra hai kết luận quan trọng là:
(1) Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng có tác động tích cực đến tăng
trƣởng kinh tế.
(2) Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng càng cao thì mức độ bất bình đẳng
về thu nhập trong xã hội càng giảm.
Từ hai kết luận này, các tác giả đã đƣa ra một kết luận chung là
trình độ phát triển cơ sở hạ tầng có tác động mạnh đến công tác xoá đói,
giảm nghèo.
Naoyuki Yoshino và Masaki Nakahigashi năm 2000 đã nghiên cứu về
vai trò của cơ sở hạ tầng đối với sự phát triển kinh tế ở các nƣớc Đông Nam Á
và đƣa ra kết luận rằng, cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế của các nƣớc vì hai lý do: (1) Phát triển cơ sở hạ tầng góp phần
nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế; và (2) Phát triển cơ sở hạ tầng
có tác động rất tích cực đến giảm nghèo. Còn tác giả Kingsley Thomas năm
2004 cho rằng, cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng không chỉ vì nó là điều
kiện thiết yếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
cũng nhƣ đời sống của các hộ gia đình, mà cơ sở hạ tầng còn là lĩnh vực kinh
tế chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của một nƣớc. Đầu tƣ cho phát triển cơ sở hạ
tầng thƣờng chiếm khoảng 20% trong tổng vốn đầu tƣ và chiếm từ 40-60%
trong vốn đầu tƣ công ở hầu hết các nƣớc đang phát triển. Tính trung bình,
-45-
lƣợng đầu tƣ này chiếm 4% GDP của các nƣớc đang phát triển, cá biệt có
nƣớc chiếm hơn 10%.
Nghiên cứu về tác động của việc phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam, tác
giả Phạm Thị Tuý năm 2006 đã phát hiện ra sáu tác động quan trọng sau đây:
(1) Cơ sở hạ tầng phát triển mở ra khả năng thu hút các luồng vốn đầu
tƣ đa dạng cho phát triển KT-XH;
(2) Cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại là điều kiện để phát triển
các vùng kinh tế động lực, các vùng trọng điểm và từ đó tạo ra các tác động
lan toả lôi kéo các vùng liền kề phát triển;
(3) Cơ sở hạ tầng phát triển trực tiếp tác động đến các vùng nghèo, hộ
nghèo thông qua việc cải thiện hạ tầng mà nâng cao điều kiện sống của hộ.
(4) Phát triển cơ sở hạ tầng thực sự có ích với ngƣời nghèo và góp phần
vào việc giữ gìn môi trƣờng;
(5) Đầu tƣ cho cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông nông thôn, đem
đến tác động cao nhất đối với giảm nghèo;
(6) Phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện nâng cao trình độ kiến thức và
cải thiện tình trạng sức khoẻ cho ngƣời dân, góp phần giảm thiểu bất bình
đẳng về mặt xã hội cho ngƣời nghèo.
Tóm lại, cơ sở hạ tầng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển KT-XH của một quốc gia, tạo động lực cho sự phát triển. Hệ thống cơ sở
hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, nâng cao
năng suất, hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
Ngƣợc lại, một hệ thống cơ sở hạ tầng kém phát triển là một trở lực lớn đối
với sự phát triển. Ở nhiều nƣớc đang phát triển hiện nay, cơ sở hạ tầng thiếu
và yếu đã gây ứ đọng trong luân chuyển các nguồn lực, khó hấp thụ vốn đầu
tƣ, gây ra những “Nút cổ chai cơ sở hạ tầng” ảnh hƣởng trực tiếp đến tăng
trƣởng kinh tế. Ngân hàng Thế giới năm 2000 trong một nghiên cứu về
-46-
60.000 ngƣời nghèo trên thế giới cũng chỉ ra rằng, cơ sở hạ tầng yếu kém dẫn
đến chất lƣợng cuộc sống thấp kể cả khi thu nhập có tăng nhanh.
Thực tế trên thế giới hiện nay, những quốc gia phát triển cũng là những
nƣớc có hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ và hiện đại. Trong khi đó,
hầu hết các quốc gia đang phát triển đang có hệ thống cơ sở hạ tầng kém phát
triển. Chính vì vậy, việc đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng đang là ƣu tiên của
nhiều quốc gia đang phát triển. Ở CHXHCN Việt Nam, với quan điểm “Cơ sở
hạ tầng đi trƣớc một bƣớc”, trong những năm qua Chính phủ nƣớc CHXHCN
Việt Nam đã dành một mức đầu tƣ cao cho phát triển cơ sở hạ tầng, khoảng 9-
10% GDP hàng năm đã đƣợc đầu tƣ vào ngành giao thông, năng lƣợng, viễn
thông, nƣớc và vệ sinh, một tỷ lệ đầu tƣ cơ sở hạ tầng cao so với chuẩn quốc
tế. Và nhiều nghiên cứu kinh tế vi mô cũng cho thấy rằng có mối liên hệ
mạnh mẽ giữa đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng với tăng trƣởng và giảm nghèo
ở CHXHCN Việt Nam. Độ dài của mạng lƣới đƣờng bộ đã tăng hơn gấp đôi
tính từ năm 1990, và chất lƣợng cũng cải thiện đáng kể. Tất cả các khu vực
thành thị và 90% hộ dân nông thôn đƣợc tiếp cận với điện. Số đƣờng điện
thoại cố định và di động trên 100 dân tăng gấp mƣời lần từ năm 1995. Tiếp
cận nƣớc sạch tăng từ 26% dân số lên 57% trong khoảng thời gian từ năm
1993 đến năm 2004, và trong cùng giai đoạn này tiếp cận nhà vệ sinh đạt tiêu
chuẩn tăng từ 10% lên 31% dân số. Rõ ràng, đây là những thành tựu rất đáng
ghi nhận.
1.3.2. Cơ cấu chi NSNN thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.3.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế với phát triển KT-XH
* Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ phát triển của
lực lƣợng sản xuất và phân công lao động xã hội. Nó không cố định mà luôn
luôn biến đổi, chuyển dịch phù hợp với trình độ phát triển của lực lƣợng sản
-47-
xuất và phân công lao động xã hội trong nƣớc và quốc tế. Trong quá trình
phát triển kinh tế không chỉ số lƣợng các ngành thay đổi mà cả quy mô, trình
độ và các mối liên hệ cũng thay đổi, từ đó vai trò, vị trí của các ngành cũng có
sự biến đổi. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi của cơ cấu kinh
tế từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp
hơn với môi trƣờng và điều kiện phát triển của nền kinh tế. Trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mỗi quốc gia, hay mỗi một ngành kinh tế, hay
mỗi vùng, địa phƣơng có thể đƣa vào cơ cấu kinh tế những ngành mới (sản
phẩm, dịch vụ mới) hay có thể loại khỏi cơ cấu kinh tế những ngành (những
sản phẩm) không còn phù hợp, hoặc có thể chuyển dịch theo hƣớng tăng hay
giảm tỷ trọng của một ngành (sản phẩm) nào đó. Đó là quá trình chuyển từ cơ
cấu kinh tế lạc hậu, bất hợp lý sang cơ cấu kinh tế hợp lý; hoàn thiện và bổ
sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu kinh tế mới hiện đại và phù
hợp hơn. Sự thay đổi nhƣ vậy không đơn giản chỉ là sự thay đổi số lƣợng các
ngành và tỷ trọng của mỗi ngành, mà còn bao gồm sự thay đổi vị trí, tính chất
mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành.
Trạng thái cơ cấu ngành là dấu hiệu phản ánh trình độ phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia. Quá trình phát triển kinh tế luôn gắn với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tiến bộ. Ngƣợc lại, tính chất bền vững của quá
trình tăng trƣởng kinh tế lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch cơ cấu
ngành linh hoạt, phù hợp với việc khai thác đƣợc các tiềm năng và lợi thế
tƣơng đối cũng nhƣ các điều kiện bên trong và bên ngoài của nền kinh tế.
* Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là vấn đề mang tính quy luật đối với
các nƣớc trong quá trình phát triển.
Xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã đƣợc nhà kinh tế học
ngƣời Đức E. Engel và nhà kinh tế học ngƣời Mỹ A. Fisher nghiên cứu từ
những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
-48-
Bằng quan sát thực nghiệm E. Engel đã rút ra quy luật tiêu dùng cá
nhân là khi thu nhập bình quân đầu ngƣời tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của hộ gia
đình cho lƣơng thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực
nông nghiệp là sản xuất lƣơng thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng
của nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm khi thu nhập tăng lên đến
một mức nhất định.
Nhà kinh tế học ngƣời Mỹ A. Fisher trong cuốn “Các quan hệ kinh tế
của tiến bộ kỹ thuật” đã quan niệm nền kinh tế gồm 3 khu vực: Khu vực thứ
nhất bao gồm các ngành nông, lâm, thủy sản và khai thác khoáng sản; Khu
vực thứ hai bao gồm các ngành công nghiệp chế biến và xây dựng; Khu vực
thứ ba là các ngành dịch vụ. Ông đã phân tích: theo xu thế phát triển khoa học
và công nghệ, ngành nông nghiệp có khả năng dễ thay thế lao động nhất, do
sử dụng máy móc, thiết bị và phƣơng thức canh tác mới đã tạo điều kiện cho
nông dân tăng năng suất lao động thay thế cho lao động chân tay đã tạo điều
kiện cho nông dân tăng năng suất lao động. Kết quả là chỉ cần một lƣợng lao
động ít hơn nhƣng vẫn có khả năng đáp ứng nhu cầu lƣơng thực, thực phẩm
cần thiết cho xã hội nên không cần thiết phải sử dụng một lực lƣợng lao động
nhƣ cũ. Vì vậy, tỷ lệ lực lƣợng lao động nông nghiệp có xu hƣớng giảm dần
trong cơ cấu ngành kinh tế. Đối với ngành công nghiệp do tính chất phức tạp
về công nghệ sản xuất nên khả năng thay thế lao động khó hơn nông nghiệp.
Mặt khác, độ co giãn nhu cầu tiêu dùng của sản phẩm công nghiệp là dƣơng.
Vì vậy, theo sự phát triển kinh tế, tỷ trọng công nghiệp có xu hƣớng tăng lên.
Ngành dịch vụ đƣợc coi là khó có khả năng thay thế lao động nhất do đặc
điểm của hoạt động dịch vụ nên nhiều lĩnh vực máy móc, thiết bị khó có thể
thay thế đƣợc lao động con ngƣời. Trong khi đó độ co giãn của cầu về sản
phẩm dịch vụ là cao hơn cầu về sản phẩm công nghiệp. Vì vậy tỷ trọng lao
động trong ngành dịch vụ sẽ có xu hƣớng tăng lên cùng với quá trình phát
triển kinh tế.
-49-
Từ những cơ sở lý thuyết nêu trên có thể rút ra xu hƣớng có tính quy
luật chung của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đối với các nƣớc từ nền
kinh tế nông nghiệp đi lên là chuyển dịch theo hƣớng CNH-HĐH. Trong quá
trình này, các ngành công nghiệp và dịch vụ có tốc độ tăng trƣởng cao hơn
nông nghiệp. Do đó, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu của nền kinh tế giảm
dần, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Đối với các nƣớc đã công
nghiệp hóa thành công thì xu hƣớng chung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
phát triển mạnh các ngành dịch vụ. Trong quá trình này không chỉ nông
nghiệp mà cả công nghiệp tăng trƣởng chậm hơn so với khu vực dịch vụ. Do
đó, dần dần tỷ trọng nông nghiệp và công nghiệp giảm dần, tỷ trọng các
ngành dịch vụ tăng lên.
1.3.2.2. Tác động của cơ cấu chi NSNN đến mục tiêu thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
Vai trò quan trọng của ngân sách trong tác động đến cơ cấu chi NSNN
thể hiện qua việc Nhà nƣớc định hƣớng, xác định tỷ trọng các nội dung chi
ngân sách một cách hợp lý. Tác động của cơ cấu chi NSNN với mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH-HĐH đƣợc thể hiện trong từng
lĩnh vực nhƣ sau:
a. Cơ cấu chi NSNN có vai trò tạo điều kiện cho cơ cấu giữa các ngành
kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH-HĐH tức là xây dựng
một cơ cấu kinh tế hợp lý, tiên tiến và hiện đại. Nếu xét theo nghĩa rộng thì đó
là việc xây dựng mối quan hệ giữa các ngành, các vùng và các thành phần
kinh tế. Nếu xét theo nghĩa hẹp thì đó là mối quan hệ kinh tế giữa các ngành,
trong đó mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp và với dịch vụ là
quan trọng nhất.
Thông qua chính sách điều hành chi ngân sách, Nhà nƣớc có thể tập
trung các khoản chi ngân sách cho ƣu tiên phát triển các ngành công nghiệp,
-50-
dịch vụ trên cơ sở định hƣớng: giá trị sản lƣợng của ngành công nghiệp và
dịch vụ chiếm ƣu thế về tăng tỷ lệ tƣơng đối và tuyệt đối, chiếm tỷ trọng lớn
trong GDP; giá trị sản lƣợng của ngành nông nghiệp giảm tỷ lệ tƣơng đối
nhƣng vẫn tăng lên tuyệt đối, chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP.
Các khoản chi ngân sách cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hƣớng CNH-HĐH chủ yếu là chi đầu tƣ xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng kinh tế, đầu tƣ hỗ trợ cho doanh nghiệp, trợ giá, cho vay,…tuy nhiên, để
sử dụng các khoản chi NSNN một cách hiệu quả nhất phải xác định Nhà nƣớc
cần đầu tƣ vào lĩnh vực nào, khâu nào một cách hợp lý. Trong cơ chế thị
trƣờng hiện nay, vai trò của Nhà nƣớc chỉ nên định hƣớng, dẫn dắt, tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia.
b. Cơ cấu chi NSNN có vai trò hỗ trợ và tạo điều kiên cho các vùng
phát triển cân đối.
Giữa các vùng trong một tỉnh hay giữa các vùng trên phạm vi của một
quốc gia, do điều kiện về tự nhiên, điều kiện KT-XH khác nhau nên mức độ
phát triển về KT-XH luôn có sự chênh lệch. Nhiệm vụ của Nhà nƣớc là thông
qua điều chỉnh cơ cấu chi NSNN, ƣu tiên đầu tƣ, hỗ trợ cho các vùng có điều
kiện KT-XH khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Các khoản chi ngân sách của Nhà
nƣớc nếu bố trí hợp lý sẽ có tác dụng thúc đẩy thu hút vốn đầu tƣ ngoài ngân
sách từ những khu vực khác, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khai
thác các lợi thế, tiềm năng của mỗi vùng để phát triển KT-XH.
Bản thân nền kinh tế thị trƣờng với tính tự phát của nó luôn dẫn đến xu
thế phân hóa giàu và nghèo trong xã hội ngày càng sâu sắc, khoảng cách về
trình độ phát triển KT-XH giữa thành thị với nông thôn, giữa đồng bằng với
miền núi ngày càng tăng. Chính vì vậy, vai trò định hƣớng của Nhà nƣớc
thông qua điều hành cơ cấu chi NSNN có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ
và tạo điều kiện cho các vùng phát triển cân đối.
-51-
c. Cơ cấu chi NSNN có vai trò bảo đảm kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng
định hướng.
Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nƣớc thể hiện ở chỗ các
doanh nghiệp Nhà nƣớc phải nắm giữ những lĩnh vực quan trọng thiết yếu có
tính quyết định đến phát triển KT-XH, giữ vững an ninh quốc phòng. Để thực
hiện nhiệm vụ trên, cơ cấu chi NSNN đƣợc điều hành thông qua những khoản
chi hỗ trợ về vốn, trợ giá để giúp doanh nghiệp đứng vững và nâng cao năng
lực cạnh tranh.
Bên cạnh việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nƣớc, chi NSNN cũng
nhằm vào mục tiêu hỗ trợ, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác đầu
tƣ vào những ngành, những lĩnh vực, những vùng cần khuyến khích theo
chiến lƣợc chung về phát triển KT-XH.
d. Bố trí hợp lý các nội dung trong cơ cấu chi NSNN sẽ góp phần thúc
đẩy đổi mới trang thiết bị theo công nghệ tiên tiến hiện đại.
Tỷ trọng bố trí khoản chi đầu tƣ hỗ trợ cho các doanh nghiệp và chi cho
vay trong cơ cấu chi NSNN càng cao thì càng có tác dụng thúc đẩy các doanh
nghiệp đầu tƣ đổi mới trang thiết bị theo công nghệ tiên tiến, hiện đại. Thông
qua đó, từng bƣớc nâng cao trình độ, quy mô kỹ thuật của nền kinh tế theo
hƣớng CNH-HĐH, tăng năng suất lao động, tạo điều kiện cho tăng trƣởng và
phát triển.
Cũng phải thấy rằng, CHDCND Lào xây dựng, phát triển nền kinh tế
với một xuất phát điểm thấp, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, nguồn vốn
đầu tƣ luôn bị thiếu hụt; do vậy, trong điều hành ngân sách cần xác định rõ
đầu tƣ vốn vào những ngành quan trọng, những lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh,
những ngành hàng xuất khẩu mũi nhọn theo định hƣớng từng thời kỳ.
-52-
1.3.3. Tác động của cơ cấu chi NSNN tới vấn đề giảm đói nghèo và đảm
bảo công bằng xã hội
Trong chiến lƣợc toàn diện về tăng trƣởng và xóa đói giảm nghèo,
CHDCND Lào khẳng định, thừa nhận khái niệm về nghèo do Ủy ban KT-XH
khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng (ESCAP) tổ chức tại thủ đô Băng Cốc ở
Thái Lan tháng 9 năm 2003 “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cƣ không
đƣợc hƣởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con ngƣời mà những nhu
cầu này đã đƣợc xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển KT-XH và
phong tục tập quán của từng địa phƣơng.
“Nghèo” đƣợc hiểu là vấn đề không đảm bảo đƣợc nhu cầu thiết yếu
cơ bản về sinh hoạt hàng ngày chẳng hạn nhƣ: Thiếu lƣơng thực, thiếu mặc,
lối sống không ổn định, không có khả năng tiếp cận về giáo dục, y tế và điều
kiện đi lại gặp khó khăn hoặc quan niệm khác nghèo không chỉ là mức thu
nhập, tiêu dùng thấp.
“ Đói” với ý nghĩa biểu hiện trực tiếp là đói ăn, thiếu lƣơng thực, thực
phẩm để duy trì sự tồn tại của con ngƣời thƣờng chỉ có ở các nƣớc nghèo,
chậm phát triển, đói cũng có hai dạng nhƣ: Đói kinh niên và đói mang tính
thời vụ.
Chi NSNN là công cụ tài chính có ảnh hƣởng rất lớn đến các mục tiêu
kinh tế vĩ mô nhƣ sản lƣợng, việc làm và sự ổn định của nền kinh tế. Thông
qua quyết định chi NSNN và cơ cấu chi NSNN ảnh hƣởng trực tiếp đến phân
bổ các nguồn lực tài chính cho các nhu cầu chi theo những mục tiêu KT-XH
cụ thể mà Nhà nƣớc theo đuổi. Chi NSNN có tác động rất lớn đến giảm nghèo
thông qua việc tăng hay giảm chi NSNN, thông qua cách thức sử dụng chi
NSNN sẽ có tác động đến giảm nghèo.
Chi NSNN có tác động trực tiếp đến hoạt động giảm nghèo. Nhà nƣớc
là ngƣời đầu tƣ vốn mà sản phẩm của nó phục vụ lợi ích công cộng và lợi ích
-53-
lâu dài của cả đất nƣớc. Chi NSNN là công cụ của Nhà nƣớc để cùng với thị
trƣờng tác động tích cực vào nền kinh tế để tạo ra động lực khuyến khích mọi
thành phần kinh tế phát triển, hạn chế tối đa các tiêu cực để mọi tổ chức, cá
nhân cùng hƣởng lợi. Chi NSNN ƣu tiên lựa chọn mục tiêu trọng tâm, trọng
điểm, đào tạo nhân lực, phát triển nội lực, thu hút, huy động và chuyển hoá
ngoại lực thành nội lực, nhằm phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo.
Trƣớc đây nhiều nhà kinh tế chủ trƣơng xây dựng một ngân sách tối
thiểu và công bằng, có quy mô thu chi vừa đủ để duy trì hệ thống cơ sở hạ
tầng, bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nƣớc công quyền, bảo vệ
an ninh quốc phòng, an toàn xã hội. Điều đó có nghĩa là NSNN chỉ giới
hạn nằm ở khâu sau phân phối lại của NSNN. Hiện nay, quan điểm đƣợc
nhiều quốc gia áp dụng là NSNN không chỉ phân phối lại kết quả sản xuất
kinh doanh mà trƣớc khi phân phối lại thì NSNN đã tham gia phân phối các
yếu tố đầu vào của quá trình kinh tế nhƣ: Đầu tƣ hạ tầng KT-XH, đầu tƣ
phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển thị trƣờng, xúc tiến thƣơng
mại,...với đặc điểm này, NSNN chủ động thúc đẩy phát triển sản xuất và
đảm bảo xóa đói giảm nghèo. Cụ thể về vai trò của chi NSNN đối với xóa
đói giảm nghèo nhƣ sau:
- Chi NSNN là khoản chi quan trọng góp phần đảm bảo đƣợc nhu cầu
vật chất để duy trì cuộc sống cho những ngƣời nghèo. Nếu không có những
khoản chi này thì cùng với những khuyết tật của kinh tế thị trƣờng, tình trạng
đói nghèo sẽ ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
- Chi NSNN tạo điều kiện thu hút và huy động thêm sự đóng góp của
nhân dân, của các tổ chức xã hội và các thành phần kinh tế trong việc xây
dựng, sửa chữa và cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng cho xã hội, cũng nhƣ xây
dựng nhà ở, tạo điều kiện cho nhân dân “an cƣ, lạc nghiệp”.
-54-
- Góp phần thực hiện công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách giàu
nghèo giữa các bộ phận dân cƣ trong xã hội, đảm bảo phát triển cân đối giữa
các vùng, địa phƣơng.
- Chi NSNN cũng đóng vai trò gián tiếp trong việc phát triển KT-XH,
giảm đƣợc nạn nghèo cho dân thì xã hội sẽ ổn định từ đó thúc đẩy phát triển
kinh tế. Thực tế cho thấy, ngƣời nghèo thƣờng sử dụng các dịch vụ cấp thấp
hơn trong tất cả các lĩnh vực đặc biệt là giáo dục và y tế. Cho nên chi NSNN
có ý nghĩa trong việc giúp ngƣời nghèo đƣợc hƣởng lợi nhiều hơn bằng cách
tăng chi tiêu công để giúp ngƣời nghèo có cơ hội đƣợc tiếp cận và sử dụng
những dịch vụ đó.
- Sự can thiệp của NSNN thông qua chi ngân sách cho các nhóm dân
cƣ nghèo là điều cần thiết để họ chống chọi với rủi ro tốt hơn vì ngƣời nghèo
thƣờng dễ gặp phải các rủi ro dƣới nhiều hình thức khác nhau nhƣ mất mùa
hoặc tài sản bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh,...
- NSNN đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ điều tiết vĩ mô trong lĩnh vực
thu nhập đối với các thành viên xã hội nhằm thực hiện công bằng xã hội về
thu nhập, đảm bảo ổn định cuộc sống của các tầng lớp dân cƣ nhất là những
ngƣời nghèo. Các khoản chi mục tiêu phúc lợi xã hội, mục tiêu trợ cấp cho
ngƣời nghèo đƣợc bố trí theo chiều hƣớng tăng lên sẽ góp phần quan trọng để
giảm nghèo.
Tóm lại, cơ chế tác động của công cụ này là thông qua cơ cấu phân bổ
ngân sách để điều chỉnh cơ cấu đầu tƣ của Nhà nƣớc, dùng đầu tƣ của Nhà
nƣớc nhƣ là một đòn bẩy thúc đẩy cơ cấu kinh tế phát triển theo định hƣớng.
Một mặt, tập trung đầu tƣ trực tiếp vào các ngành kinh tế có khả năng tạo ra
những chuyển biến có tính chiến lƣợc trong cơ cấu kinh tế. Còn đầu tƣ gián
tiếp nhằm tạo những tiền đề hỗ trợ quá trình này nhƣ: Kết cấu hạ tầng giao
-55-
thông; chuyển giao công nghệ; giáo dục đào tạo; công tác khuyến nông; giống
cây trồng, vật nuôi,...
1.4. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM VỀ BỐ TRÍ
CƠ CẤU CHI NSNN NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KT-XH; BÀI
HỌC RÚT RA CHO CHDCND LÀO
1.4.1. Kinh nghiệm về bố trí cơ cấu chi Ngân sách Nhà nƣớc của Trung
Quốc và Việt Nam
1.4.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Quy mô chi NSNN của Trung Quốc giảm mạnh từ 31% GDP năm 1978
xuống khoảng 12% GDP trong thập kỷ 90 và cơ cấu chi đã có bƣớc chuyển
dịch cơ bản trong giai đoạn 1978-1995, Cụ thể nhƣ: Vốn đầu tƣ vào các dự án
sản xuất giảm, chi cho xây dựng kinh tế từ 60% còn 26,6% trong tổng chi
NSNN, chi cho đầu tƣ cơ bản từ 40,3% giảm còn 11,6%; chi y tế, giáo dục,
phúc lợi từ 11,6% tăng lên 23,2%; chi quốc phòng giảm từ 14,96% xuống
9,33%. Nhà nƣớc đã chủ động rút ra khỏi sản xuất kinh doanh thuần túy để
tập trung cho chức năng điều chỉnh và định hƣớng ở tầm vĩ mô, theo số liệu
chính thức đầu tƣ Nhà nƣớc giảm từ 16% năm 1978 xuống còn chƣa đầy 3%
GDP năm 1995. Mức động viên vào NSNN thời kỳ này giảm từ 31% GDP
xuống 11,8% GDP; cắt giảm thuế đã chuyển khoảng 1/5 thu nhập từ Chính
phủ sang khu vực công ty và các nguồn này đã đƣợc sử dụng hiệu quả, tái đầu
tƣ mở rộng kinh doanh (Do không đánh thuế thu nhập đối với khu vực tƣ
nhân). Năm 2004, GDP/đầu ngƣời theo sức mua tƣơng đƣơng (PPP) đã đạt
5.530 USD thì quy mô động viên vẫn rất thấp so với năm 2005 là 16% GDP;
nói cách khác Trung Quốc vẫn chủ trƣơng duy trì mức động viên tối thiểu để
kích thích tăng trƣởng, tối đa hóa tăng trƣởng và đây là lý do thực giải thích
tại sao 12 năm qua GDP vẫn tăng trƣởng 10%/năm. Quy mô chi NSNN nhỏ,
cơ cấu hợp lý kết hợp với chính sách động viên thấp đã tạo ra động lực mạnh
-56-
mẽ, bền vững hiếm thấy trên thế giới thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn
định và lâu dài. Về triển vọng phát triển, nhiều công trình nghiên cứu quốc tế
tầm cỡ khẳng định Trung Quốc có tiềm năng duy trì tốc độ tăng trƣởng cao
trong 20 năm tới.
Về phân cấp NSNN, Trung Quốc chủ trƣơng cần phải tập trung,
nhƣng không thể quá tập trung; song trong điều chỉnh, tỷ trọng của Ngân
sách Trung ƣơng (NSTW) liên tục giảm và duy trì ở mức thấp. Nếu năm
1979 tỷ trọng giữa NSTW và Ngân sách Địa phƣơng (NSĐP) là 50,8% và
49,2% thì đến năm 1993 tỷ lệ này là 22% và 78%. Xu hƣớng này tuy tạo
điều kiện cho NSĐP, nhƣng sinh ra tình trạng bất lợi là NSTW thiếu nguồn
lực tài chính nên việc đạt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và cân bằng giữa
các khu vực ngày càng khó khăn hơn. NSTW eo hẹp Chính phủ không thể
lập ra các chƣơng trình tầm cỡ hỗ trợ các vùng kém phát triển, hệ thống
chuyển giao tài chính trung ƣơng và địa phƣơng ít có vai trò cân đối lại
chênh lệch, điều tiết nguồn lực ngân sách từ tỉnh giàu sang tỉnh nghèo nên
Trung Quốc trở thành một trong ba nƣớc bị mất cân đối giữa các vùng lớn
nhất thế giới.
Quy mô NSNN của Trung Quốc khoảng 12% GDP trong thập kỷ 90 là
rất thấp so với chỉ số của Mỹ trên 30% GDP, còn Anh, Pháp, Đức đều trên
40%, mức bình quân của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thập
kỷ 80 là 42,04% và trên 40% cuối thập kỷ 80, các nƣớc đang phát triển là
24,18%; Nếu tính cả vay nợ thì chỉ số này của Mỹ gần 40%, của Đức, Pháp
đều vƣợt trên 50%, Nhật và Ấn Độ đều đạt 30%. Năm 2005 quy mô chi
NSNN OECD vẫn ở mức gần 50% GDP, mức trung bình của các nƣớc đang
phát triển là 32%, của Trung Quốc cũng chỉ 16% GDP.
Căn cứ vào số liệu chính thức trên thế giới Trung Quốc có hai chỉ số:
tỷ trọng thu NSNN và tỷ trọng NSTW đều thấp. Trước đây Trung Quốc nằm
vào tình thế tài chính doanh nghiệp, dân cư thì giàu có còn tài chính Nhà
-57-
nước thì nghèo tương đối. Nguyên nhân là trong cải cách Trung Quốc thực
hiện phương châm “Nới quyền, nhượng lợi”.
Khi năng lực tài chính NSNN, NSTW nhỏ có thể đem lại nhiều hậu quả
nghiêm trọng trên các mặt, không có cách nào khống chế tốt tài chính vĩ mô;
về lâu dài có khả năng đe dọa đến ổn định chính trị, xã hội và vấn đề bảo vệ
chủ quyền quốc gia, sự thống nhất đất nƣớc. Năm 1994 Trung Quốc thông
qua luật NSNN và đặt mục tiêu nâng tỷ trọng của NSTW lên 50% và đã đạt
mức 52% trong các năm 1995-1998, nhƣng phần sử dụng của NSTW sau
chuyển giao chỉ còn 22,7% tổng chi NSNN.
1.4.1.2. Kinh nghiệm của Việt Nam
Cơ cấu chi ngân sách góp phần phát triển KT-XH. Có thể đánh giá, sự
đổi mới cơ cấu chi NSNN đã góp phần quan trọng trong phát triển KT-XH.
Trước hết, đổi mới cơ cấu chi NSNN đã góp phần đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế. Có thể nói, thành công cơ bản trong chính sách chi NSNN
giai đoạn từ năm 1991 đến nay là cơ cấu lại chi NSNN một cách tích cực để
thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH của đất nƣớc.
Bảng 1.1: Tốc độ tăng và tỷ trọng chi NSNN so GDP 1996-2006
(Đơn vị tính: %)
Chỉ tiêu/năm
91-95
1996
2001
2002
2003
2004
2005
1.Tốc độ tăng chi NSNN
111,7 112,5 113,5 119,1 113,3 119,9 118,5
Trong đó:
111,7 112,8
99,8 135,8 109,3 117,3 117,3
- Chi ĐTPT
- Trả nợ & viện trợ
106,0 107,8
97,7 112,6 132,5 125,1 125,1
- Chi thường xuyên
109,5 109,2 117,7 115,8 108,8 121,9 121,9
2. Chi NSNN/GDP
24,4
25,9
24,7
27,0
27,4
29,1
28,4
Trong đó:
- Chi ĐTPT
6,7
6,1
6,7
8,4
8,2
8,5
8,6
-58-
- Trả nợ & viện trợ
3,2
3,9
3,0
3,1
3,7
4,1
3,8
- Chi thường xuyên
14,5
15,8
14,0
14,9
14,5
15,7
15,4
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính Việt Nam)
- Tăng quy mô và tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển trong NSNN để tập
trung đầu tƣ hạ tầng KT-XH, đảm bảo nguồn lực thực hiện những dự án quan
trọng của quốc gia, đặc biệt là những dự án thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo;
- Đã có sự thay đổi rất cơ bản phƣơng thức hỗ trợ phát triển sản xuất
kinh doanh từ NSNN, bố trí và sử dụng có hiệu quả vốn, kinh phí NSNN. Chú
trọng hơn việc xã hội hóa các nguồn lực đầu tƣ, đã huy động ngày càng nhiều
các nguồn vốn của các thành phần kinh tế để giải quyết tốt hơn yêu cầu chi
đầu tƣ phát triển và các sự nghiệp giáo dục, đào tạo, văn hóa, y tế và xã hội,
đảm bảo ƣu tiên chi đầu tƣ cho chiến lƣợc phát triển nguồn nhân lực, cho
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát triển giáo dục, văn hóa, xã
hội,…Nhà nƣớc tăng đầu tƣ để giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội, nhƣ:
Việc làm, hạn chế tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội,…
- Thực hiện cải cách chế độ tiền lƣơng, tiền thƣởng để tạo động lực, từ
đó nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động dịch vụ công; Bƣớc đầu xác
định phạm vi chi của NSNN trong từng lĩnh vực, đồng thời đã có một số
chính sách chế độ cụ thể hóa chủ trƣơng xã hội hóa nhằm huy động thêm
nguồn lực để phát triển các lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, xã hội.
Thực hiện chính sách bội chi hợp lý để tăng nguồn lực cả trong và ngoài nƣớc
cho đầu tƣ phát triển, thực hiện đầy đủ các cam kết trả nợ đến hạn, giữ mức
dƣ nợ Chính phủ và dƣ nợ Quốc gia ở mức hợp lý, không ảnh hƣởng đến kinh
tế vĩ mô, không ảnh hƣởng đến tính lành mạnh của nền tài chính quốc gia.
Với định hƣớng trên, cùng với những tiến bộ quan trọng đạt đƣợc trong
động viên NSNN, chi NSNN từ năm 1996 đến nay liên tục tăng với tốc độ
-59-
khá cao (bình quân 15%/năm), tỷ trọng chi NSNN so với GDP có xu hƣớng
tăng và là công cụ quan trọng để Nhà nƣớc tác động vào nền kinh tế.
Hai là, chi NSNN và đổi mới cơ cấu chi NSNN đã góp phần phát triển
kết cấu cơ sở hạ tầng và một số lĩnh vực quan trọng khác.
- Về phát triển cơ sở hạ tầng: Đây là một nhiệm vụ quan trọng đƣợc
quan tâm đầu tƣ, tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển trong tổng chi NSNN tiếp tục
xu hƣớng tăng lên, bình quân thời kỳ 1996-2000 là 26,2%, bình quân giai
đoạn 2001-2005 đạt 27,1%, riêng năm 2005 chiếm 28,8% tổng chi NSNN.
Tốc độ tăng chi đầu tƣ phát triển bình quân 19%/năm, cao hơn tốc độ tăng của
tổng chi NSNN và chi thƣờng xuyên. Tổng chi đầu tƣ phát triển giai đoạn
1996-2000 chiếm khoảng 6,4% so với GDP; giai đoạn 2001-2005 khoảng
7,36% so GDP, năm 2001 là 7,4%; năm 2002 là 8,2%, năm 2003 là 8,1%,
năm 2004 là 7,9%, năm 2005 là 8,9%. Nhờ sự đầu tƣ tăng lên của NSNN,
nhiều công trình kinh tế quan trọng đã đƣợc hoàn thành, hạ tầng cơ sở kinh tế
và hạ tầng xã hội có bƣớc cải thiện quan trọng.
- Chi xây dựng cơ bản có xu hƣớng tăng lên từ 78,6% so tổng chi đầu
tƣ phát triển năm 1991 lên 90% năm 1995 và đạt tỷ lệ 91,4% năm 2000 và đạt
tỷ lệ 90,2% năm 2005. Cơ cấu đầu tƣ xây dựng cơ bản có sự thay đổi theo
hƣớng giảm tỷ lệ bao cấp của NSNN cho doanh nghiệp, tăng cƣờng đầu tƣ
xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình phúc lợi, phục vụ đời sống
nhân dân. Tỷ lệ chi NSNN cho DNNN giảm dần trên 30% giai đoạn 1996-
2000, đến nay chỉ chiếm dƣới 10% tổng chi XDCB; nguồn vốn đầu tƣ xây
dựng cơ bản trong giai đoạn này đƣợc tập trung ƣu tiên cho các lĩnh vực nhƣ:
Giao thông 25%, nông nghiệp nông thôn chiếm 15%, giáo dục 8%, y tế 4%,..
- Song song với việc tăng chi xây dựng cơ sở hạ tầng, NSNN còn tập
trung chi cho các chƣơng trình KT-XH lớn nhƣ: Cho vay giải quyết việc làm,
-60-
xóa đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng kinh tế vùng có khó khăn, chƣơng
trình 135, phủ xanh đất trống đồi núi trọc,…
- Bên cạnh nguồn vốn NSNN và vốn vay nợ, viện trợ của các nƣớc, các
tổ chức quốc tế, Nhà nƣớc thực hiện chính sách huy động đóng góp của các tổ
chức kinh tế và của dân cƣ cho việc đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng các công
trình trọng yếu tại các địa phƣơng, huyện, xã nhƣ: Đƣờng liên thôn, liên xã,
trƣờng học, trạm xá,… Nhờ có chính sách này mà nhiều địa phƣơng đã cải
thiện đáng kể hạ tầng cơ sở và cung cấp các dịch vụ công, đồng thời phát triển
sản xuất tại địa phƣơng. Tính đến nay có 85% số xã có điện. Giao thông nông
thôn có bƣớc phát triển mới, cả nƣớc 98% số xã có đƣờng ô tô. Mạng lƣới
trƣờng học, trạm xá, nhà trẻ, chợ,… Ở nông thôn đƣợc mở rộng 99,8% số xã
có trƣờng cấp tiểu học, 76,6% xã có trƣờng phổ thông cơ sở, 7% xã có trƣờng
phổ thông trung học, 98% xã có trạm y tế xã, 78% số xã có trƣờng mẫu giáo,
36% số xã có nhà trẻ, 38% số xã có trạm truyền thanh, 54% số xã có chợ,
65% số hộ nông thôn đƣợc dùng nƣớc sạch.
Thứ ba, về chi trả nợ và viện trợ: Chiếm khoảng 12%-14% tổng chi
NSNN và 3,1%-3,6% so với GDP. Nhìn chung, công tác quản lý nợ của Nhà
nƣớc có tiến bộ, chủ động đàm phán để giãn, hoãn nợ hoặc đạt đƣợc phƣơng
thức trả nợ có lợi nhất (trả bằng hàng, tái đầu tƣ cho nền kinh tế); Dƣ nợ của
Nhà nƣớc ở mức tƣơng đối hợp lý, chƣa có biểu hiện tác động xấu đến sự ổn
định kinh tế vĩ mô, nghĩa vụ trả nợ ngoài nƣớc hàng năm dƣới 20% GDP.
Thứ tư, chi NSNN đảm bảo quản lý Nhà nước và xã hội ngày càng tốt
hơn: Chi phát triển các sự nghiệp KT-XH, quốc phòng, an ninh, quản lý hành
chính chiếm khoảng 57,2% tổng chi NSNN và tƣơng đƣơng 14,5% GDP. Các
nhiệm vụ quan trọng có tốc độ tăng chi khá cao, nhƣ: Chi giáo dục đào tạo
năm 2001 tăng 24,3%, năm 2005 tăng 12,8%; chi khoa học công nghệ và môi
trƣờng tăng 31,1% năm 2001 và 11,7% năm 2005; y tế tăng 21,4% năm 2001
-61-
và 7,6% năm 2005. Đồng thời, với tăng nguồn Ngân sách, đã huy động nguồn
lực trong xã hội để bổ sung phát triển các ngành giáo dục đào tạo, y tế, văn
hóa, nghệ thuật,…cơ chế quản lý tài chính theo hƣớng tăng cƣờng tự chủ tài
chính và nâng cao trách nhiệm của đơn vị sử dụng Ngân sách đƣợc thí điểm
đã có kết quả bƣớc đầu, tạo cơ sở cho việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính
công trong những năm sau theo hƣớng mở rộng đối tƣợng thực hiện khoán
chi, khoán biên chế hành chính, áp dụng cơ chế quản lý tài chính mới tăng
quyền và trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp.
1.4.2. Bài học rút ra cho nƣớc CHDCND Lào
Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm về bố trí cơ cấu chi NSNN của Việt
Nam và Trung Quốc, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm có thể vận
dụng vào điều kiện thực tiễn ở CHDCND Lào đƣợc nhƣ sau:
+ Thứ nhất, phải có một hệ thống các quy định đồng bộ về quản lý chi
NSNN. Các quy định này phải đƣợc thể chế hóa bằng luật pháp, chế độ quản
lý chi tiêu ngân sách do chính quyền trung ƣơng thống nhất quy định chung
về khung, chính quyền các địa phƣơng đƣợc phép ban hành một số chế độ
trong phạm vi do trung ƣơng quy định. Trong quản lý chi NSNN, cần phân
định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của từng cấp và giao quyền độc lập tƣơng đối
cho họ trong quá trình thực thu nhiệm vụ đƣợc giao. Chính quyền trung ƣơng
chỉ cần can thiệp khi cần thiết hoặc đóng vai trò điều hòa, điều tiết để đảm
bảo sự công bằng và phát triển cân đối giữa các vùng lãnh thổ trong quốc gia.
+ Thứ hai, dự toán NSNN cần đƣợc chuẩn bị kỹ và trong một thời gian
dài (thƣờng là 12 tháng). Dự toán NSNN phải đƣợc lập từ cơ sở và qua nhiều
vòng thảo luận công khai, dân chủ giữa các Bộ, ngành, địa phƣơng cũng nhƣ
tại Quốc hội. Dự toán chi NSNN phải đƣợc lập và phê duyệt chi tiết đến mục
chi theo nhu cầu chi tiêu của các đơn vị.
Trong lập và phê duyệt dự toán, cần gắn việc chi tiêu của từng năm với
kế hoạch chi tiêu của các năm tiếp theo để đảm bảo tính liên hoàn và kế thừa
-62-
có hiệu quả các khoản chi của các năm trƣớc, đồng thời cần tập trung thảo
luận kỹ về sự cần thiết, cũng nhƣ hiệu quả các khoản chi mới phát sinh hoặc
không thiết yếu để có sự cắt giảm cho phù hợp. Các khoản chi đã đƣợc quy
định trong luật hoặc đã đƣợc cam kết từ trƣớc cần đƣợc đảm bảo thực thi
trong thực tế.
+ Thứ ba, trong chấp hành chi NSNN, cần đảm bảo một cơ chế kiểm
tra, kiểm soát chặt chẽ trên cơ sở phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của
từng tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác quản lý chi, đặc biệt là trách
nhiệm của ngƣời chuẩn chi với ngƣời cấp phát, thanh toán. Thực hiện nguyên
tắc mọi khoản chi phải đƣợc thanh toán, chi trả cho ngƣời trực tiếp đƣợc thụ
hƣởng thông qua tài khoản của họ mở tại ngân hàng.
+ Thứ tư, coi trọng và đánh giá đúng mức vai trò của công tác phân
tích, dự báo kinh tế phục vụ cho việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô
và chính sách chi NSNN. Quan tâm đầu tƣ thích đáng cho các lĩnh vực công
nghệ thông tin, đảm bảo cung cấp kịp thời, chính xác các số liệu cho việc
quản lý, điều hành NSNN, tạo điều kiện nâng cao chất lƣợng công tác quản lý
và tiết kiệm các chi phí chung của toàn xã hội.
-63-
Kết luận chƣơng 1
Với mục tiêu của chƣơng 1 là nghiên cứu và hệ thống hóa những cơ sở
lý luận về phát triển KT-XH và cơ cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển
KT-XH, chƣơng này đã hoàn thành những nội dung cơ bản nhƣ sau: Hệ thống
hóa các cơ sở lý luận về phát triển kinh tế, phát triển xã hội, mối quan hệ hữu
cơ giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội; cơ sở lý luận về chi NSNN và
cơ cấu chi NSNN.
Qua phân tích các tác động của cơ cấu chi NSNN đối với sự phát triển
KT-XH thông qua đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH, đầu tƣ nhằm thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã
hội và qua nghiên cứu cơ cấu chi NSNN của Trung Quốc và Việt Nam, là hai
quốc gia có hình thái KT-XH và xuất phát điểm đi lên có những nét tƣơng
đồng với CHDCND Lào có thể rút ra một số kết luận và bài học rút ra cho
CHDCND Lào nhƣ sau:
Bài học thứ nhất, về quản lý chi NSNN cần phải: (i) Có một hệ thống
các quy định đồng bộ về quản lý chi NSNN; (ii) Dự toán NSNN cần đƣợc
chuẩn bị kỹ và trong một thời gian dài (thƣờng là 12 tháng) ; (iii) Phân định
rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác
quản lý chi; (iv) Coi trọng và đánh giá đúng mức vai trò của công tác phân
tích, dự báo kinh tế phục vụ cho việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô
và chính sách chi NSNN.
Bài học thứ hai, đẩy mạnh đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng làm nền tảng
thúc đẩy tăng trƣởng, phát triển KT-XH, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo đúng định hƣớng, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội.
-64-
Chƣơng 2
TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC
TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND LÀO
GIAI ĐOẠN 2001-2012
2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND LÀO
GIAI ĐOẠN 2001-2012
2.1.1. Khái quát về đặc điểm kinh tế ở CHDCND Lào
CHDCND Lào Sau khi giành đƣợc độc lập dân tộc năm 1975, Đảng
NDCM Lào đã lựa chọn con đƣờng phát triển theo con đƣờng XHCN, xây
dựng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và chủ yếu có quan hệ kinh tế
với các nƣớc xã hội chủ nghĩa. Theo đó kinh tế tƣ nhân bị thu hẹp và hạn chế,
nền kinh tế tồn tại dựa trên hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và
tập thể. Sau đó, từ năm 1986, CHDCND Lào đã thực hiện đƣờng lối đổi mới
phát triển kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần, có sự quản lý kiểm soát của
Nhà nƣớc; phát triển thị trƣờng trong nƣớc và mở rộng ra ngoài nƣớc; thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng nâng cao tỷ trọng sản xuất công
nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản xuất nông nghiệp; mở rộng kinh tế đối
ngoại, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, đƣa nền kinh tế hội
nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới; phát triển mạnh mẽ
khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo; xóa đói giảm nghèo, từng bƣớc cải
thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; phát triển đi đôi với việc bảo
vệ môi trƣờng sinh thái, bảo đảm phát triển bền vững. Nhiều thế kỷ qua, nền
kinh tế ở CHDCND Lào đƣợc tồn tại bởi nền kinh tế tự nhiên, nhƣng trong
mấy chục năm qua và gần đây đã xuất hiện kinh tế nửa tự nhiên và một phần
trong vùng đồng bằng dọc theo sông Mê Kông, vùng biên giới của đất nƣớc
đang phát triển theo kinh tế thị trƣờng. Các trọng điểm sản xuất nông nghiệp
-65-
chủ yếu là các vùng đồng bằng dọc theo sông Mê Kông, năng suất thấp chƣa
đủ để sản xuất chế biến và xuất khẩu. Công nghiệp, chủ yếu chỉ có một số
ngành nhƣ thuỷ điện và khai thác chế biến gỗ. Công nghiệp chế biến còn lạc
hậu về kỹ thuật công nghệ và vẫn là công nghiệp nhỏ bé, chỉ đáp ứng đƣợc
một phần nhu cầu của nhân dân.
Cơ cấu kinh tế theo vùng và lãnh thổ mất cân đối, phát triển vùng nông
thôn diễn ra chậm, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chƣa có sự chuyển biến
nhiều, kết cấu hạ tầng ở CHDCND Lào chƣa phát triển chỉ mới xây dựng
xong đƣờng quốc lộ 13 và một số cầu các tuyến đƣờng liên tỉnh thì chƣa đủ
vốn để củng cố nâng cấp. Nguồn vốn trong nƣớc rất hạn chế, năng lực sản
xuất thấp kéo theo tích luỹ thấp mà 90% tổng sản phẩm xã hội của mỗi năm là
đƣa vào tiêu dùng. Do đó sự phát triển và tăng trƣởng kinh tế phải nhờ vào
nguồn vốn từ nƣớc ngoài dƣới nhiều hình thức nhƣ: Viện trợ, vay nợ, những
nguồn vốn này cũng rất hạn chế.
Hệ thống thị trƣờng, đặc biệt là thị trƣờng hàng hoá phát triển không
đồng đều trong toàn quốc, thị trƣờng tiền tệ và lao động mới hình thành và
phát triển với tốc độ chậm, bị bó hẹp ở những thành phố và không ổn định,
lạm phát tăng gây biến động lớn về KT-XH.
Giữa năm 1997 đến cuối năm 1999, Kinh tế của đất nƣớc bị ảnh hƣởng
của khủng hoảng kinh tế tài chính Châu Á và thiên tai, trong tình hình đó Đại
hội Đảng NDCM Lào lần thứ VII đã đề ra mục tiêu phấn đấu kế hoạch phát
triển KT-XH 5 năm giai đoạn 2001-2005 để đảm bảo tình hình chính trị vững
chắc, kinh tế phát triển, xã hội trật tự, ổn định và bảo vệ môi trƣờng.
2.1.1.1.Giai đoạn 2001-2005
Nền kinh tế mang lại kết quả khả quan về tốc độ tăng trƣởng kinh tế,
Tổng sản phẩm quốc nội GDP tăng bình quân hàng năm là 6,2% (Trong đó:
Ngành nông lâm nghiệp, thủy sản bình quân 3,4%; ngành công nghiệp và xây
-66-
dựng bình quân 11,3%; khu vực dịch vụ bình quân 6,7%) so với giai đoạn
1996-2000 cao hơn 0,3%, nếu so với mục tiêu đề ra là thấp hơn 0,8%. Trong
tình trạng kinh tế trong và ngoài nƣớc không thuận lợi nhƣng tốc độc tăng
trƣởng kinh tế của đất nƣớc trong giai đoạn này là mức còn cao hơn các nƣớc
trong khu vực nhƣ: Campuchia 5,5%; Indonesia 4,2%; Malaysia 4,3%;
Philippines 4,2%; Singapore 3,7%; Thái Lan 4% và Việt Nam cao hơn 7,5%.
Trong giai đoạn này cơ cấu kinh tế cũng đã có sự chuyển dịch theo
chiều hƣớng tốt, tỷ trọng ngành nông nghiệp từ 51,9%/GDP năm 2000 giảm
xuống còn 45,4%/GDP năm 2005, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng từ
22,4%/GDP năm 2000 tăng lên 28,2%/GDP năm 2005, tỷ trọng ngành dịch
vụ từ 25,7%/GDP năm 2000 tăng lên 26,4%/GDP năm 2005, cơ cấu kinh tế
về ngành nông nghiệp có xu hƣớng giảm dần, đồng thời ngành công nghiệp
đã có tốc độ tăng trƣởng nhanh, một số sản phẩm thuộc ngành công nghiệp đã
có đƣợc vị thế trên thị trƣờng; tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến từng bƣớc
tăng lên, có khả năng khai thác nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nƣớc và
nâng cao giá trị sản phẩm để xuất khẩu; tỷ trọng ngành dịch vụ cũng đang có
chiều hƣớng gia tăng, đáp ứng các nhu cầu của xã hội và sản xuất kinh doanh
ngày càng tăng.
Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,83 tỷ USD, với tốc độ tăng bình quân
hàng năm là 7,1%, tăng cao hơn giai đoạn 1996-2000 là 1,6%/năm. Tổng
kim ngạch xuất khẩu tính bình quân trên đầu ngƣời trong năm 2005 là 86,7
USD so với các nƣớc trong khu vực là còn thấp, các mặt hàng xuất khẩu
chính nhƣ: Điện, café, sản phẩm gỗ, khoáng sản,…xuất sang 40 Quốc gia
nhƣ: EU, Mỹ, Trung quốc, Thái Lan, Việt Nam,…riêng năm 2005, thu nhập
từ xuất khẩu đạt 456 triệu USD, trong đó, mặt hàng nông lâm nghiệp chiếm
10,2%, năng lƣợng điện và khoáng sản chiếm 42,8%, công nghiệp và thủ
công chiếm 47%.
-67-
Tổng kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2001-2005 đạt 2,86 tỷ kíp, bình
quân hàng năm tăng 4,9%, tăng cao hơn giai đoạn 1996-2000 là 1,4%/năm,
tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2005 là 686 triệu USD, tính bình quân trên
đầu ngƣời là 122,5 USD. Việc chuyển dịch cơ cấu nhập khẩu tƣơng đối phù
hợp với khả năng và nhu cầu của nền kinh tế, đặc biệt là tỷ lệ nhập khẩu hàng
lƣơng thực thực phẩm từ 32,6% năm 2000 giảm xuống còn 9,9% năm 2002
và còn 4% năm 2003, đến năm 2005 kim ngạch nhập khẩu đạt 686 triệu USD,
trong đó: Mặt hàng máy móc thiết bị và phụ tùng chiếm 39,2%, nguyên vật
liệu và xăng dầu chiếm 47%, hàng tiêu dùng chiếm 13,8%.
Thâm hụt cán cân thƣơng mại giai đoạn này là 1,03 tỷ USD bằng 57%
của tổng kim ngạch xuất khẩu và bình quân hàng năm 9,4%/GDP, điều đáng
kể nhất là tỷ lệ thâm hụt cán cân thƣơng mại so với GDP đã giảm xuống
nhanh từng năm trong giai đoạn 2001-2005 từ đầu năm kế hoạch là 11,1%
giảm còn 8% năm 2005.
Do Nhà nƣớc chú trọng trong việc quản lý tiền tệ dẫn đến tốc độ tăng
lƣợng tiền (M2) bình quân hàng năm đạt 20%, nguồn vốn huy động tăng
19,2%/năm. Vì lý do đồng tiền kíp ổn định dẫn đến tỷ lệ lạm phát ngày càng
giảm xuống, tính bình quân hàng năm 9,6%; Tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền
kíp và USD tăng lên 7%/năm.
Thu Ngân sách Nhà nƣớc 5 năm đạt đƣợc 15.000 tỷ kíp, tăng lên
17,2%/năm, tỷ lệ động viên thu NSNN đạt đƣợc 13,6%/GDP;
Tổng chi NSNN đạt 22.830 tỷ kíp, tăng 13%/năm, tỷ trọng chi NSNN
21,3%/GDP, trong tổng chi NSNN có tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển chiếm
đến 49,5% (trong đó: Vốn trong nƣớc chiếm 1/3 và có xu hƣớng giảm đồng
thời vốn ngoài nƣớc chiếm 2/3 và có xu hƣớng tăng lên. Điều đó khẳng định
rằng Nhà nƣớc đã chú trọng việc đầu tƣ phát triển để kích thích tốc độ tăng
trƣởng kinh tế.
-68-
Thâm hụt NSNN 5 năm qua là 7.820 tỷ kíp, bình quân hàng năm là
7,4%/GDP đây là mức quá cao, vì nguồn cân đối chủ yếu là từ nguồn vốn huy
động ngoài nƣớc.
Về chuyển dịch cơ cấu lao động 5 năm qua, đã đào tạo, cung cấp nguồn
lao động mới cho xã hội đạt 505 nghìn ngƣời, trong đó: Lao động ngành nông
lâm nghiệp chiếm 67.92%, công nghiệp và xây dựng 11,48%, thƣơng mại và
dịch vụ 20,59%. Đối với tỷ lệ ngƣời chƣa có việc làm đã giảm xuống từ 5,6%
năm 2000 còn 5% năm 2005.
Về thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 5 năm qua nhƣ: Từ vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) đạt 935 triệu USD, bình quân hàng năm 187 triệu
USD, Nhìn chung hiệu quả sử dụng vốn ODA có xu hƣớng tăng lên vì các
nƣớc hỗ trợ đã tin tƣởng và ủng hộ chính sách phát triển KT-XH ở CHDCND
Lào, đồng thời có thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) đƣợc 585 dự
án, tổng vốn đăng ký 2,8 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 1,07 tỷ USD, nhìn chung
vốn nƣớc ngoài đã góp phần trong việc sản xuất hàng hóa, thúc đẩy tăng
trƣởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, da dạng hóa và khuyến kích lĩnh vƣc
kinh tế tƣ nhân phát triển ngày càng tốt hơn.
2.1.1.2. Giai đoạn 2006-2010
Kế hoạch phát triển KT-XH đã lập trên mục tiêu chiến lƣợc phát triển
KT-XH đến 2020 và nghị quyết VIII của Đảng NDCM Lào, kế hoạch đó là
khâu đột phá bắt đầu coi kinh tế là trọng tâm, cũng trong giai đoạn này đất
nƣớc đã bị tác động từ thiên tai 2 lần và ảnh hƣởng khủng hoảng tài chính thế
giới. Nhƣng CHDCND Lào đã đạt đƣợc kết quả tốt, nhìn chung kinh tế vĩ mô
tăng trƣởng liên tục và tƣơng đối ổn định, thể hiện qua tổng sản phẩm quốc
nội GDP 5 năm qua có tốc độ tăng trƣởng bình quân 7,9%, bằng 219.853 tỷ
kíp, bình quân 43.970 tỷ kíp/năm. Trong đó: Ngành nông lâm nghiệp tăng lên
4%; Ngành công nghiệp đạt 12,6% và Ngành dịch vụ tăng 8,4% so với giai
đoạn trƣớc đó.
-69-
Thu nhập bình quân đầu ngƣời, năm 2010 là 1.069 USD tăng lên 18%
so với năm trƣớc, điều đó làm cho chỉ số giá tiêu dùng trong tháng của hộ gia
đình bình quân tăng 14,8%/năm, năm 2003 tăng từ 1,1 triệu kíp đến 2,2 triệu
kíp năm 2008. Trong đó, tiêu dùng trong thành thị tăng từ 1,7-2,9 triệu kíp và
tiêu dùng trong nông thôn tăng từ 0,9-1,8 triệu kíp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế bao cấp sang kinh tế sản xuất
hàng hóa thị trƣờng, nhìn chung cơ cấu kinh tế 5 năm qua nhƣ: Ngành nông
lâm nghiệp chiếm 30,4%, công nghiệp chiếm 26,1% và dịch vụ chiếm 37,2%.
Thị trƣờng ngoại hối diễn ra hoạt động khả quan vì nhà đầu tƣ ngoài
nƣớc tăng lên, thể hiện nhƣ: Lƣợng tiền (M2) bình quân tăng lên 23%, chiếm
19,6%/GDP.
Tỷ lệ lạm phát có diễn biến giảm dần bình quân 5 năm ở mức 5,09%,
trong mức lạm phát một con số. Nhìn chung giai đoạn 5 năm qua giá cả hàng
tiêu dùng ổn định, tỷ lệ lạm phát kiểm soát đƣợc và thấp hơn tốc độ tăng
trƣởng kinh tế, làm tăng sức mua của ngƣời tiêu dùng.
Tỷ giá hối đoái diễn ra ổn định, giá đồng tiền kíp tăng liên tục từng
năm trong giai đoạn này, tính bình quân 5 năm qua là tăng 5,28 % /năm.
Trong 5 năm qua Nhà nƣớc đã tạo công ăn việc làm cho ngƣời lao động
Lào có việc làm 642.884 ngƣời. Trong đó: Lao động làm trong nƣớc 626.691
ngƣời (nông lâm nghiệp 584.589 ngƣời, công nghiệp và xây dựng 38.435
ngƣời và dịch vụ 3.667 ngƣời); lao động xuất khẩu có 16.193 ngƣời (nông
lâm nghiệp 1.042 ngƣời, công nghiệp và xây dựng 13.396 ngƣời và dịch vụ
1.755 ngƣời). Nhìn chung về cơ cấu lao động theo ngành kinh tế có tốc động
chậm nhƣng chuyển biến tiến bộ theo chuyển dịch cơ cấu kinh tế và công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Tỷ lệ lao động ngành nông lâm nghiệp từng bƣớc
giảm dần từ 78,5% năm 2005 xuống còn 75,1% năm 2010; tỷ lệ lao động
công nghiệp và xây dựng có xu hƣớng tăng từ 4,8% năm 2005 đến 5,5% năm
-70-
2010 và Tỷ lệ lao động dịch vụ tăng từ 16,7% năm 2005 đến 19,5% năm
2010.
Về đầu tƣ công trong 5 năm qua việc phân bổ vốn cho 11 chƣơng trình
111 dự án mục tiêu của đất nƣớc đạt 24.747 tỷ kíp nhƣ: Vốn đầu tƣ trong
nƣớc 3.982 tỷ kíp (trong đó: Lĩnh vực kinh tế chiếm 54%, lĩnh vực xã hội
24% và lĩnh vực khác 22%); vốn đầu tƣ nƣớc ngoài có 20.765 tỷ kíp.
Cán cân thƣơng mại ở CHDCND Lào để thực hiện lời cam kết về kinh
tế với quốc tế đạt hiệu quả cao, trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), khuôn khổ thƣơng mại song phƣơng và đa phƣơng, đồng
thời CHDCND Lào đang chuẩn bị gia nhập thành viên Tổ chức thƣơng mại
thế giới (WTO). Vì mục tiêu là tăng tỷ lệ xuất khẩu mặt hàng có giá trị cao để
tăng trƣởng kinh tế, Trong 5 năm qua tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 5,69 tỷ
USD, chiếm 23,4%/GDP và tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 6,61 tỷ kíp, chiếm
27,3%.
Về việc thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 5 năm qua nhƣ: Từ vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) thực hiện đƣợc 2.251 dự án, đạt 2.443 triệu
USD, bình quân hàng năm 488 triệu USD, nhìn chung nguồn vốn ODA có xu
hƣớng tăng lên vì các nƣớc đối tác phát triển đã tin tƣởng và ủng hộ chính
sách phát triển KT-XH ở CHDCND Lào, đồng thời có khả năng thu hút vốn
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) trong và nƣớc ngoài đƣợc 1.022 dự án, bằng
11,01 tỷ USD (vốn trong nƣớc 2,2 tỷ kíp). Nhìn chung, vốn nƣớc ngoài đã
góp phần trong việc sản xuất hàng hóa, thúc đẩy tăng trƣởng và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, da dạng hóa và khuyến khích lĩnh vực kinh tế tƣ nhân phát
triển ngày càng tốt hơn.
2.1.1.3. Giai đoạn từ năm 2011 đến nay
Trong bối cảnh kinh tế thế giới vừa ra khỏi giai đoạn khó khăn nhất của
cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái và bƣớc đầu phục hồi, kinh tế của
-71-
Trung Quốc tăng trƣởng 10%, Ấn độ 9%, các nƣớc khu vực ASEAN, các
nƣớc đối tác và các tổ chức quốc tế còn tiếp tục ủng hộ và viện trợ cho các
nƣớc đang phát triển. Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2011 là năm đầu của
nhiệm vụ phát triển KT-XH 5 năm giai đoạn 2011-2015, diễn ra nhƣ sau: Tốc
độ tăng trƣởng GDP năm 2011 đạt 8,1% (Trong đó: Nông nghiệp 2,9%, công
nghiệp15,8% và dịch vụ 7,8%) và tốc độ tăng trƣởng 6 tháng đầu năm 2012
đạt 8% (Trong đó: Nông nghiệp 2,7%, công nghiệp 13,5% và dịch vụ 8,1%).
Bất chấp việc nền nông nghiệp bị tàn phá nặng nề do lũ lụt trong năm
2011, kinh tế ở CHDCND Lào vẫn tăng trƣởng, tốc độ gia tăng mạnh mẽ nhất
khu vực. Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) nhận định tốc độ tăng trƣởng
đáng kinh ngạc của đất nƣớc chủ yếu phụ thuộc vào việc mở rộng các lĩnh
vực kinh tế quan trọng, đặc biệt là thủy điện, khai khoáng và dịch vụ, chiếm
khoảng 80% vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI).
Cơ cấu ngành kinh tế nhƣ: Năm 2011, ngành nông lâm nghiệp chiếm
27,9%, công nghiệp chiếm 27% và dịch vụ chiếm 39,2% và 6 tháng đầu năm
2012, ngành nông lâm nghiệp chiếm 26,7%, công nghiệp chiếm 28% và dịch
vụ chiếm 39,2%.
GDP bình quân đầu dân từ 1.217 USD năm 2011 tăng lên 1.355 USD 6
tháng đầu năm 2012.
Thu NSNN từ 13.155,16 tỷ kíp năm 2011 và ƣớc thực hiện 15.322,15
tỷ kíp năm 2012 (trong đó: Viện trợ 4.216,04 tỷ kíp).
Chi NSNN từ 15.981,25 tỷ kíp năm 2011 và ƣớc thực hiện 17.427,11 tỷ
kíp năm 2012.
Thâm hụt ngân sách từ 2.826,09 tỷ kíp và ƣớc thực hiện giảm 2.104,96
tỷ kíp năm 2012.
Dù có đƣợc tốc độ tăng trƣởng mạnh mẽ, ADB bày tỏ lo ngại về lạm
phát cao ở CHDCND Lào khi dự báo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của nƣớc này
-72-
chạm mức 9,8% trong tháng 5 và lạm phát trung bình cả năm là 7,6% (tăng
1,6% so với năm 2010). Tỷ lệ lạm phát 6 tháng đầu năm 2012 là 6,74% so với
cùng kỳ năm 2011 là 6,61%. Nếu so từng tháng một lạm phát có biến động từ
6,66% tháng 10/2011 tăng 7,93% tháng 11/2011; từ 7,72% tháng 12/2011
giảm còn 6,69% tháng 1/2012; từ 6,61% tháng 2/2012 giảm còn 5,33% tháng
3/2012. Nguyên nhân là do đà leo thang của giá thực phẩm và nhiên liệu nhập
khẩu cũng nhƣ sự tăng trƣởng của hoạt động tín dụng.
Về tỷ giá hối đoái đồng tiền kíp so với đồng tiền USD có giá tăng mạnh
từ 8.052,12/USD tháng 6 năm 2011 đến 8.027,8/USD tháng 6 năm 2012, tăng
0,19%. Nguyên nhân là do luồng tiền vốn nƣớc ngoài đổ vào đất nƣớc từ 2-3
năm trƣớc và cũng do đồng tỉền USD giảm giá trong thị trƣờng quốc tế vì tình
hình kinh tế Mỹ và vấn đề nợ đọng của Châu Âu.
Lƣợng tiền (M2), đến tháng 3/2012 tăng lên 15,05% so với tháng
9/2011 và tăng lên 25,31% so với cùng kỷ năm trƣớc, Nguyên nhân làm cho
lƣợng tiền (M2) tăng là Ngân hàng Trung ƣơng đã cung cấp vốn cho kinh tế
và tổ chức tài chính để thúc đẩy sản xuất hàng hóa và xóa đói giảm nghèo.
Thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở CHDCND Lào diễn ra trong bối cảnh
kinh tế của khu vực và quốc tế còn đang tình trạng khó khăn nhƣng các nƣớc
đối tác còn tiếp ủng hộ cho vay mƣợn và viện trợ nhằm thực hiện mục tiêu
Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) nhƣ: Ngành giáo dục, y tế và và khí tƣợng
thủy văn. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tăng từ 630 triệu USD năm
2011 đến 703 triệu USD năm 2012, tăng 11,6%. Đồng thời CHDCND Lào
cũng đã điều chỉnh các quy chế cản trở đầu tƣ nhằm tạo thuận lợi cho nhà đầu
tƣ ngày càng tốt hơn, đáng kể nhất là thực hiện cơ chế một cửa ở cơ quan
hành chính Nhà nƣớc để phục vụ đầu tƣ nhanh chóng và minh bạch thể hiện
việc thực hiện thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) trong và nƣớc
ngoài tăng từ 15.348,7 tỷ kíp năm 2011 đến 16.016 tỷ kíp năm 2012, tăng lên
-73-
4,35%. Năm 2011, CHDCND Lào đã mở cửa sàn giao dịch chứng khoán đầu
tiên, một bƣớc đi mà Nhà nƣớc hy vọng sẽ thu hút đƣợc nguồn vốn đầu tƣ
trong nƣớc và quốc tế, giúp biến đổi sự thịnh vƣợng của một trong những
quốc gia nghèo nhất Châu Á và chậm công nghiệp hoá.
2.1.2. Khái quát về đặc điểm xã hội ở CHDCND Lào
2.1.2.1. Đặc điểm về Dân số và Lao động
CHDCND Lào là một nƣớc có diện tích 236.800km2, tổng dân số
6.385.057 ngƣời có 3.196.392 nữ, dân số xếp thứ 8 trong khu vực ASEAN
năm 2011 và dự kiến 2012 dân số sẽ tăng 6.630 nghìn ngƣời, mật độ dân số
trung bình là 27 ngƣời/km2, có 1 Thủ đô, 16 tỉnh, 144 huyện, 8.636 bản,
1.136.376 hộ gia đình. GDP bình quân đầu dân đạt 1.355 USD. Với kết cấu
dân số trẻ, tỷ lệ dân số từ 0-14 tuổi gấp 3 lần các nƣớc phát triển, dân số từ 65
tuổi trở lên rất ít, chỉ bằng khoảng 1/5-1/6 lần các nƣớc phát triển. Tuổi trung
bình dân số chỉ bằng 1/2 của các nƣớc phát triển. Nguyên nhân của tình trạng
này do tỷ lệ sinh con ở mức cao, tỷ lệ tử thấp, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên ở
CHDCND Lào là 2,1% gấp 2 lần của thế giới (thế giới là khoảng 1,3%). Tỷ lệ
nghèo là 22% /tổng dân cƣ, tỷ lệ hộ nghèo là 17% /tổng hộ gia đình, tỷ lệ dân
số biết chữ từ 15 tuổi trở lên đạt 84%, tỷ lệ dân số đƣợc dùng nƣớc sạch đạt
81%, cơ sở y tế có 6.485 đơn vị, trong năm 2012 đã đào tạo tay nghề lao động
đạt 44,3 nghìn ngƣời và sức lao động có việc làm đạt 55,36 nghìn ngƣời, tỷ lệ
thất nghiệp không quá 1%. Theo Liên hiệp quốc công bố năm 2011 chỉ số
phát triển con ngƣời (HDI) tăng đạt 0,524 xếp thứ 138/187 hạng chỉ số các
nƣớc trên thế giới, chủ yếu do tăng trƣởng kinh tế, còn những tiến bộ về y tế,
giáo dục diễn ra chậm và đóng góp ít cho chỉ số phát trỉển con ngƣời ở
CHDCND Lào.
Số dân tăng cũng là một yếu tố trong việc kích cầu kinh tế và làm kinh
tế tăng trƣởng. Ngƣợc lại, tốc độ dân số cao dẫn đến tốc độ tăng trƣởng lao
-74-
động lớn hơn so với khả năng tăng trƣởng việc làm và tình trạng thất nghiệp
trở thành vấn đề bức xúc của xã hội. Vì vậy, CHDCND Lào vẫn thể hiện là
nƣớc nghèo, mức sống của dân cƣ thấp so với nhiều nƣớc trong khu vực và
trên thế giới nhƣ: GDP/ngƣời còn thấp, đây là rào cản lớn cho sự phát triển
kinh tế, an sinh xã hội và làm giảm sút mức sống.
CHDCND Lào có 49 dân tộc dựa vào tính chất, đặc điểm ngôn ngữ,
văn hoá và hình thức sản xuất truyền thống nhƣ: Nhóm tộc Lào sống ở vùng
thấp chiếm khoảng 55% dân số cả nƣớc. Họ sống bằng nghề trồng lúa và chăn
nuôi, giữ vai trò lịch sử nhƣ một dân tộc trụ cột trong việc liên kết các nhóm
tộc Lào khác; nhóm tộc Lào sống ở vùng trung du chiếm khoảng 30% dân số.
Họ sống bằng phá rừng làm nƣơng. Nhóm tộc Lào sống ở vùng cao chiếm
khoảng 15% dân số. Họ sống bằng làm rẫy và chăn nuôi. Từ các nhóm bộ tộc
có đặc thù kinh tế, xã hội khác nhau nhƣng đều có quan hệ giao lƣu với nhau
thƣờng xuyên, các bộ tộc đã tập hợp thành một dân tộc Lào thống nhất và
dùng tiếng Lào là ngôn ngữ chính thức, tiếng Anh và tiếng Pháp là ngôn ngữ
thứ 2, đem nền văn hóa các bộ tộc hoà vào nền văn hoá chung phong phú đa
dạng của dân tộc Lào. Dân tộc Lào có tinh thần yêu quê hƣơng đất nƣớc Lào,
có lòng bao dung yêu thƣơng giúp đỡ lẫn nhau, yêu lao động, siêu năng cần
cù, yêu hoà bình, là một dân tộc có lịch sử vinh quang trong dựng nƣớc và
bảo vệ đất nƣớc.
Ở CHDCND Lào nông dân chiếm hơn 90% dân số và sản phẩm nông
nghiệp chiếm hơn 60% của GDP, sức lao động chƣa đƣợc khai thác và sử
dụng một cách thích đáng vào sản xuất. Những năm gần đây, tuy số lao động
trong ngành công nghiệp và thƣơng mại đã bắt đầu có sự thay đổi lớn nhƣng
về mặt chất lƣợng trình độ văn hoá kỹ thuật tay nghề còn nhiều hạn chế. Công
tác giáo dục đào tạo chƣa thành chiến lƣợc và quan tâm đúng mức từ phía
Nhà nƣớc, năng lực quản lý kinh doanh còn non yếu. Tất cả những điều đó là
-75-
một trong những nguyên nhân cản trở việc mở rộng và nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh, tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại.
2.1.2.2. Đặc điểm về tâm lý xã hội
Nhân dân các bộ tộc Lào đã có lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc hàng
nghìn năm. Nhƣng lịch sử chính thức của CHDCND Lào đƣợc ghi thành văn
bản thì mới bắt đầu vào thế kỷ XIV sau khi đất nƣớc Lào đƣợc thống nhất
dƣới triều đại vua Pha Ngùm với tên gọi Vƣơng Quốc Lạn Xạng (triệu con
voi), với 68 tộc ngƣời cơ sở tâm lý xã hội phổ biến là dựa trên đạo Phật đã
phát triển, đạo phật là Quốc đạo chiếm 67% dân số; thiên chúa giáo chiếm
1,5% dân số; các tôn giáo khác và chƣa xác định 31,5% tồn tại và đƣợc nhân
dân Lào kính trọng. Phật giáo đã thấm sâu vào tƣ tƣởng tình cảm và ý thức
của nhân dân Lào để tạo nên một nền văn hóa dân tộc Lào thống nhất, vừa
mang sắc thái bình yên của ngƣời Lào. Phật giáo có ảnh hƣởng sâu sắc trong
đời sống của ngƣời Lào, từ nếp sống trong gia đình đến sự ứng xử xã hội và
hoạt động kinh tế. Triết lý đạo Phật khuyên con ngƣời nên sống bình thƣờng,
đơn giản, không nên tham lam, cần cù và dựa vào bản thân mình và tạo cho
đời sau tốt hơn. Đức tính vốn có đó của dân Lào rất phù hợp và mang tính
nhân văn, nhƣng cũng chính đặc điểm này ảnh hƣởng không nhỏ đến kinh tế
hàng hoá, thị trƣờng. Tâm lý tự thoả mãn trong sản xuất và tiêu dùng ảnh
hƣởng đến tăng trƣởng; nhiều nguồn lực, tài nguyên chậm đƣợc khai thác.
Từ những đặc điểm vị trí đã nêu trên đều chứng tỏ rằng những điều đó
có nhân tố đặc trƣng ảnh hƣởng đến sự tăng trƣởng KT-XH của đất nƣớc nói
chung và đối với việc đổi mới cơ cấu chi NSNN nói riêng. Cùng với sự nỗ lực
thực hiện chiến lƣợc chính sách đổi mới kinh tế, ổn định chính trị, kiện toàn
tổ chức do Đảng và Nhà nƣớc đề ra, việc cải cách đổi mới quản lý chi NSNN
ở CHDCND Lào sẽ góp phần không nhỏ vào sự nghiệp củng cố về chính trị
và KT-XH ở đất nƣớc Lào có bao nhiêu nguồn tài nguyên phong phú và quý
-76-
giá. Sự giàu có ấy cùng với sự đoàn kết thƣơng yêu nhau, tinh thần lao động
cần cù dũng cảm và sáng tạo của nhân dân các bộ tộc Lào, là điều kiện hết sức
thuận lợi để xây dựng đất nƣớc Lào phồn vinh và xã hội chủ nghĩa.
2.2. TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NSNN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KT-
XH Ở CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN 2001-2012
2.2.1. Thực trạng bố trí cơ cấu chi ngân sách Nhà nƣớc ở CHDCND Lào
giai đoạn 2001-2012
Công cuộc đổi mới từ năm 1986 của Đảng NDCM Lào đã có đƣợc
những thành tựu to lớn nhƣ: Tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định,
nền kinh tế đạt tốc độ tăng trƣởng, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng
hƣớng. Nền kinh tế bƣớc đầu có tích lũy, cơ sở vật chất đƣợc tăng cƣờng,
nhiều vấn đề xã hội đƣợc giải quyết, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện ngày
càng tốt hơn. Với vị trí địa lý đất nƣớc có nhiều hạn chế, là một nƣớc không
có biển, không tạo điều kiện thuận lợi về giao lƣu quốc tế nhƣng CHDCND
Lào có nguồn tài nguyên phong phú về sông suối và khoáng sản có đầy đủ
điều kiện để phát triển đất nƣớc và hội nhập quốc tế. Vì vậy, cơ cấu chi
NSNN cũng có những chuyển biến tích cực và thích ứng với đặc điểm xã hội
và cơ chế kinh tế mới làm cho quy mô NSNN tăng nhanh và liên tục đảm bảo
phân bổ hiệu quả hơn giữa các loại hình chi tiêu trong những giai đoạn 2001-
2012 và mang lại những kết quả khả quan. Theo nội dung kinh tế, chi NSNN
bao gồm các khoản chi nhƣ: Chi tiêu dùng thƣờng xuyên (đảm bảo an ninh,
quốc phòng và các hoạt động bộ máy của Nhà nƣớc); chi đầu tƣ phát triển; chi
trả nợ (gốc, lãi…); chi dự phòng và chi khác (dự trữ, viện trợ, trợ giá,…)
Trong giai đoạn 2001-2012, tổng chi NSNN đạt 104.396,7 tỷ kíp, tƣơng
ứng bình quân đạt 22,78% GDP. Giai đoạn này, chi NSNN ở CHDCND Lào
có diễn biến nhƣ sau:
-77-
2.2.1.1. Về chi thường xuyên
- Giai đoạn 2001-2005: Tổng chi thƣờng xuyên chiếm tỷ trọng 32,78%
trong tổng cơ cấu chi NSNN bằng 6,42% GDP, nhìn chung trong giai đoạn
này các khoản chi thƣờng xuyên có xu hƣớng tăng dần hàng năm từ 6,04%
GDP năm 2001 lên 7,42% GDP năm 2005, việc tăng chi thƣờng xuyên giai
đoạn này do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu là
do Nhà nƣớc đã tăng biên chế và điều chỉnh hệ số tiền lƣơng cơ bản, phụ cấp
từ 1.000 kíp năm 2002 lên 1.300 kíp năm 2003 và năm 2005 tăng 1.500 kíp.
Đây là khoản chi để đảm bảo chi cần thiết cho sinh hoạt của cán bộ, công viên
chức Nhà nƣớc. Song hành với sự điều chỉnh hệ số tiền lƣơng, quy chế, định
mức và tiêu chuẩn chi hành chính Nhà nƣớc do Bộ Tài chính CHDCND Lào
quy định cũng đƣợc điều chỉnh liên tục cho thích ứng với đặc điểm KT-XH
đổi mới theo từng giai đoạn.
- Giai đoạn 2006-2010: Tỷ trọng chi thƣờng xuyên bình quân hàng
năm trong tổng cơ cấu chi NSNN đạt 40,93%, bằng 9,15% GDP. Trong giai
đoạn này việc bố trí cơ cấu chi thƣờng xuyên trong tổng chi NSNN có diễn
biến tăng dần, từ 37,86% bằng 7,96% GDP năm 2006 lên tới 47,94% bằng
10,64% GDP năm 2009 tăng gấp 1,27 lần, sau đó lại giảm xuống còn 38,84%
bằng 10,03% GDP năm 2010.
Thực tế số chi thƣờng xuyên, kể cả tiền lƣơng và tính chất lƣơng trong
từng năm đều tăng song hành với sự điều chỉnh hệ số tiền lƣơng từ 1.800 kíp
năm 2006 lên 2.000 kíp năm 2007; Năm 2008 là 2.500 kíp lên 3.000 kíp năm
2009. Đây là khoản chi để đảm bảo chi cần thiết cho sinh hoạt của cán bộ,
công viên chức Nhà nƣớc, đồng thời Chính phủ đang thực hiện Luật NSNN
sửa đổi bổ sung số 02/QH, ngày 26/12/2006; Quyết định số 35/TTCP, ngày
26/04/2010 về trợ cấp chức vụ hành chính Nhà nƣớc; Thông tƣ quy chế, tiêu
chuẩn, định mức chi tiêu công số 008/BTC năm 2010 trƣớc đây là số
-78-
2348/BTC năm 2008 và Mục lục NSNN năm 2009 sửa đổi bổ sung theo quyết
định số 2983/BTC, ngày 17/11/2009 và Chỉ thị của Thủ tƣớng Chính Phủ số
88/TTCP, ngày 11/09/2008 về việc điều chỉnh hệ số tiền lƣơng cơ bản, tiền
trợ cấp và học bổng,… nhất là đã thành công thí điểm ở 3 ngành dọc nhƣ:
Kho bạc Quốc gia, Hải quan, Thuế; trong 3 Tỉnh là Sa Vắn Na Khết, Khăm
Muôn, Bo Ly Khăm Xay; và đang thí điểm tại thủ đô Viêng Chăn và tỉnh
Viêng Chăn. Những động thái trên đã làm cho cơ cấu chi thƣờng xuyên của
NSNN cũng thay đổi theo. Nếu so với các nƣớc láng giềng nhƣ: Việt Nam,
Thái Lan và các nƣớc trong khu vực và thế giới thì các khoản chi thƣờng
xuyên ở CHDCND Lào vẫn còn ở mức thấp và trong những năm tới chi
thƣờng xuyên ở CHDCND Lào sẽ tăng lên để phù hợp với công cuộc đổi mới
nhƣng trên cơ sở tiết kiệm và hiệu quả nhất.
- Giai đoạn từ 2011 đến nay: Tỷ trọng chi NSNN có diễn biến giảm
nhẹ, từ 39,09% tổng cơ cấu chi NSNN bằng 10,19% GDP năm 2011, xuống
còn 38,69% tổng cơ cấu chi NSNN bằng 9,88% GDP năm 2012. Tình hình
chi thƣờng xuyên từ năm 2011 đến năm 2012 là hai năm đầu thực hiện nhiệm
vụ phát triển KT-XH giai đoạn 2011-2015 đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng,
CHDCND Lào đã cải cách tổ chức theo Nghị quyết của Quốc hội lần thứ VII
số 10/QH, ngày 24/06/2011 về cơ cấu tổ chức của Chính phủ bao gồm 18 Bộ
và 3 cơ quan ngang bộ, đồng thời Lào đang chuẩn bị để trở thành thành viên
Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) và việc liên kết kinh tế khu vực ASEAN
trong năm 2015 hay còn gọi là Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Để chuẩn
bị cho các sự kiện lớn trên, chi thƣờng xuyên ở CHDCND Lào cũng có những
đổi mới trong cơ cấu cũng nhƣ trong các chính sách về tiền lƣơng và các
khoản mang tính chất lƣơng. Đặc biệt là chính sách điều chỉnh tiển lƣơng tối
thiểu và phụ cấp, từ 3.500 kíp năm 2011 tăng mạnh lên 4.800 kíp năm 2012,
dự kiến tăng lên 6.700 kíp năm 2013, 9.300 kíp năm 2014; và phụ cấp là
-79-
760.000 kíp/biên chế/tháng, cùng các khoản trợ cấp chức vụ khác theo Nghị
định số 221/NĐ-CP ngày 30/05/2012 về thực hiện lƣơng và phụ cấp theo biên
chế năm 2013-2015 và Nghị định số 177/NĐ-CP ngày 05/04/2010 về quy
biên chế và cơ cấu lƣơng giáo viên. Đây là khoản chi để đảm bảo chi cần thiết
cho sinh hoạt của cán bộ, công viên chức nhà nƣớc trong xu thế hội nhập kinh
tế quốc tế.
Trong tổng chi thƣờng xuyên còn có một khoản chi không kém quan
trọng đó là chi bổ sung KT-XH hàng năm. Khoản chi này không biến động
tăng gỉảm nhiều qua các năm. Do các nguyên nhân tác động từ bên ngoài nhƣ:
Giá xăng dầu trên thị trƣờng thế giới, thị trƣờng tiền tệ liên tục biến động,
điều đó tác động đến thực hiện kế hoạch và dự toán, làm cho giá nguyên vật
liệu cơ bản tăng lên, làm ảnh hƣởng tới các mặt hoạt động sản xuất kinh
doanh và tác động tới đời sống nhân dân, không tạo điều kiện thuận lợi cho
các ngành sản xuất và không kích thích đƣợc tiêu dùng, thậm chí ảnh hƣởng
đến thu nhập không đạt kế hoạch.
Trên thực tế, tổng số chi thƣờng xuyên hàng năm ở CHDCND Lào đều
tăng lên hàng năm trong tổng chi NSNN. Trong nhiệm vụ giai đoạn phát triển
KT-XH giai đoạn 2011-2015, Chính phủ CHDCND Lào đã ban hành Chỉ thị
số 16/CT-TT, ngày 15/06/2012 của Thủ tƣớng về việc thí điểm Tỉnh trở thành
đơn vị chiến lƣợc, Huyện trở thành đơn vị vững mạnh mọi mặt và Bản trở
thành đơn vị phát triển. Đây là một công cuộc cải cách về mặt tổ chức hành
chính Nhà nƣớc khá lơn và sẽ kéo theo sự tăng lên tƣơng đối cao trong chi
thƣờng xuyên ở CHDCND Lào, đồng thời, không chỉ riêng tỷ trọng chi
thƣờng xuyên tăng lên mà kể cả các khoản chi khác, đặc biệt là chi đầu tƣ
phát triển cũng sẽ tăng mạnh theo.
2.2.1.2. Chi đầu tư phát triển
-80-
- Giai đoạn 2001-2005: Tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển giai đoạn này có
diễn biến nhƣ: Năm 2001 chi đầu tƣ chiếm 58,39% trong tổng chi NSNN
bằng 13,67% GDP; năm 2002 giảm xuống còn 53,53% bằng 10,86% GDP;
năm 2003 chi đầu tƣ lại tăng lên 57,28% bằng 11,74% GDP; năm 2005 giảm
xuống còn 43,34% bằng 8,22% GDP, tính bình quân chiếm 51,03% bằng
10,29% GDP. Nguyên nhân của diễn biến tăng giảm tỷ trọng chi đầu tƣ phát
triển giai đoạn 2001-2005 là do tác động từ tình hình chính trị, kinh tế thế giới
và khu vực tiếp tục bất ổn định, nhất là chiến tranh ở Irắc, khủng bố ở Trung
Đông đã ảnh hƣởng đến giá xăng dầu trên thị trƣờng; thậm chí đến đầu năm
2003 lại bùng phát dịch cúm gà, bệnh SARS tác động mạnh mẽ đối với kinh
tế khu vực Châu Á, nhất là một số nƣớc của khối ASEAN và Trung Đông Á,
làm cho kinh doanh hàng không, du lịch, thƣơng mại và đầu tƣ trong khu vực
này giảm xuống tới 40%. Từ tình hình đó đã làm cho tăng trƣởng kinh tế thế
giới và khu vực giảm 1-2%, nền kinh tế ở CHDCND Lào giai đoạn này vẫn
chƣa thoát khỏi những ảnh hƣởng từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-
2001, lại phải chịu ảnh hƣởng từ tình hình bất ổn kinh tế, chính trị thế giới
giai đoạn 2001-2005. Vì vậy, về tăng trƣởng kinh tế ở CHDCND Lào giai
đoạn này nhìn chung là chậm, các chi tiêu vĩ mô các năm liên tục không đạt
theo kế hoạch. Đây là các nguyên nhân chính tác động đến việc thực hiện kế
hoạch phát triển KT-XH và dự toán NSNN ở CHDCND Lào. Cụ thể Chính
phủ phải điều chỉnh kế hoạch NSNN năm 2004-2005 nhƣ: Thu nội địa từ
3.600 tỷ kíp xuống 3.467 tỷ kíp, giảm 3% và chi NSNN từ 6.007 tỷ kíp xuống
5.807 tỷ kíp, giảm 3%. Sự điều chỉnh nhƣ vậy tác động đối với các chỉ tiêu
phấn đấu đã quy định trong kế hoạch nhƣ: Kế hoạch đầu tƣ và tỷ lệ tăng
trƣởng của GDP.
- Giai đoạn 2006-2010: Tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển có giảm còn
44,74% trong tổng chi NSNN năm 2006 bằng 9,40% GDP; năm 2009 giảm dần
-81-
còn 31,71% bằng 7,04% GDP; năm 2010 tăng mạnh lên 45,79% bằng 11,83%
GDP, bình quân giai đoạn này tỷ trọng chi đầu tƣ ở mức 40,31% bằng 9,05%
GDP. Trong giai đoạn 2006-2010 Quốc hội đã thông qua kế hoạch phát triển
KT-XH 5 năm bị chậm lại 1 năm, dẫn đến việc triển khai những chƣơng trình
quốc gia và các dự án gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, CHDCND Lào còn chịu
ảnh hƣởng nặng nề bởi các thiên tai ở năm 2008 và năm 2009, bệnh dịch
H1N1, điều này tác động khá nhiều đến sự phát triển của ở CHDCND Lào.
Khủng hoảng tài chính thế giới đã tác động tới thành phần kinh doanh nhất là
xuất khẩu, đầu tƣ của một số dự án lớn làm cho các chƣơng trình và dự án thiếu
nguồn vốn. Nhƣng trƣớc những khó khăn trên, CHDCND Lào đã đƣợc nhiều
nƣớc trên thế giới và trong khu vực ủng hộ mạnh mẽ về nhiều mặt để vƣợt qua
khó khăn, vững bƣớc phát triển và đã đạt đƣợc các kết quả khả quan, tạo tiền
đề cho sự phát triển KT-XH giai đoạn tiếp theo.
- Giai đoạn 2011 đến nay: Đây là năm thứ hai thực hiện nhiệm vụ phát
triển KT-XH 5 năm lần thứ VII giai đoạn 2011-2015, đồng thời cũng là năm
đầu tiên trong việc triển khai Nghị quyết lần IX của Đảng NDCM Lào về 4
khâu đột phá: (1). Tƣ tƣởng; (2). Phát triển nhân lực và chất lƣợng giáo dục;
(3). Thể chế; (4). Xóa đói giảm nghèo. Trong giai đoạn này tỷ trọng chi đầu
tƣ phát triển không biến động nhiều nhƣ: Năm 2011 tỷ trọng chi đầu tƣ phát
triển chiếm 43,46% tổng chi NSNN bằng 11,33% GDP; năm 2012 tăng lên
44,3% bằng 11,32% GDP; dự kiến năm 2013 thực hiện cơ cấu lại chi NSNN
theo hƣớng ƣu tiên tăng đầu tƣ cho con ngƣời, an sinh xã hội; rà soát, sắp xếp
lại chi đầu tƣ công; nâng cao hiệu quả chi NSNN. Nghiên cứu xây dựng
khuôn khổ pháp lý về đầu tƣ công trung hạn.
2.2.1.3. Về Chi trả nợ của Chính phủ
Các khoản chi trả nợ là những khoản chi đã đƣợc Luật NSNN ở
CHDCND Lào quy định khá rõ và có ngay từ đầu trong kế hoạch NSNN hàng
-82-
năm để đảm bảo uy tín với cộng đồng quốc tế và tăng cƣờng các quan hệ
quốc tế.
- Trong giai đoạn 2001-2005: Tỷ trọng chi trả nợ trong tổng chi
NSNN có diễn biến nhƣ sau: Năm 2001 tỷ trọng chi trả nợ chiếm 13,73%
trong tổng chi NSNN bằng 3,21% GDP; năm 2003 giảm xuống còn 10,89%
bằng 2,23% GDP; sau đó bắt đầu tăng lên 18,19% bằng 2,97% GDP năm
2004 và giảm nhẹ xuống mức 17,54% bằng 3,33% GDP vào năm 2005, bình
quân giai đoạn này chi trả nợ chiếm 15,02% bằng 2,95% GDP.
- Giai đoạn 2006-2010: Tỷ trọng chi trả nợ của năm 2006 có tăng
nhẹ 14,25% trong tổng chi NSNN bằng 2,99% GDP; năm 2008 tăng lên
15,6% bằng 3,37% GDP; sau đó năm 2010 giảm còn 12,23% bằng 3,16%
GDP, bình quân giai đoạn này chi trả nợ chiếm 14,35% bằng 3,19% GDP.
Trong giai đoạn 2006-2010, một biến đổi rất tích cực trong điều hành
hoạt động NSNN, đó là gần nhƣ Chính phủ không dùng công cụ tín dụng
ngân hàng và phát hành trái phiếu để tài trợ thâm hụt NSNN ở CHDCND
Lào, mà sử dụng các nguồn vay trong nƣớc và vay nợ nƣớc ngoài để cân đối
NSNN. Bên cạnh đó, các khoản vay nợ nƣớc ngoài chủ yếu là các khoản vay
nợ có kì hạn và đều đƣợc hƣởng lãi suất ƣu đãi, thời gian trả nợ dài.
- Giai đoạn 2011 đến nay: Năm 2011, Chính phủ đã bố trí chi trả nợ
14,33% trong tổng chi NSNN bằng 3,74% GDP; năm 2012 tăng nhẹ 14,76%
bằng 3,77% GDP. Trong quản lý nợ, Chính phủ đã tổng hợp, bố trí và chi tiết
cụ thể các khoản nợ từ các dự án đầu tƣ, nợ hành chính và nợ khác trong cơ
cấu nợ hàng năm nhất là bố trí trả nợ cho các khoản nợ kéo dài, bố trí cho
những các dự án có hiệu quả kinh tế cao. Hàng năm chính phủ sử dụng nguồn
trả nợ công bằng nguồn trích từ 35% trong tổng chi đầu tƣ trong nƣớc; 50% từ
các khoản thƣởng vƣợt thu NSNN trên các địa bàn; biến tài sản thành vốn;
phát hành trái phiếu. Và đặc biệt năm từ năm 2012 đến nay, Chính phủ đã đề
xuất giải pháp quản lý nợ công bằng việc mua nợ có chiết khấu (đối với các
-83-
khoản nợ từ các dự án đầu tƣ cơ sở hạ tầng chiết khấu 20% và các khoản nợ
từ các dự án đầu tƣ đƣờng xã, thủy lợi chiết khấu 30%). Đây là những nét mới
trong chính sách quản lý nợ công của Chính phủ ở CHDCND Lào nhằm
hƣớng tới giải quyết những khoản nợ đọng lâu năm của đất nƣớc.
2.2.1.4. Chi dự phòng và chi khác
Để đối phó với rủi ro có thể xảy ra góp phần vào việc thiết lập lại sự ổn
định của nền kinh tế, quỹ dự phòng đƣợc phép lập ra ở cấp trung ƣơng và cấp
tỉnh (hoặc thành phố trực thuộc trung ƣơng). Nhờ quỹ này những trục trặc về
KT-XH mang tính cục bộ ở CHDCND Lào dễ dàng đƣợc xử lý, đồng thời
không làm tăng thêm mức thâm hụt NSNN. Chi dự phòng và chi khác đƣợc
sử dụng trong những nhu cầu đột xuất, khắc phục thiên tai, dịch bệnh và
khuyến khích, phát triển, tạo thu nhập. Giai đoạn 2001-2012, các khoản chi
dự phòng và chi khác có diễn biến nhƣ sau:
- Giai đoạn 2001-2005: Năm 2001, tỷ trọng chi dự phòng và chi
khác có biến động giảm dần từ 2,07% trong tổng chi NSNN bằng 0,49%
GDP giảm xuống còn 0% năm 2005; tính bình quân giai đoạn này đạt
1,17% bằng 0,24% GDP.
- Giai đoạn 2006-2010: Tỷ trọng chi dự phòng và chi khác có biến
động tăng giảm nhƣ: Năm 2006 tăng từ 3,15% trong tổng chi NSNN bằng
0,66% GDP lên 6,17% tổng chi NSNN bằng 1,37% GDP năm 2009; năm
2010 giảm còn 3,13% bằng 0,81% GDP, tính bình quân đạt 4,42% bằng
0,98% GDP.
- Giai đoạn 2011 đến nay: Chi dự phòng và chi khác cũng diễn ra giảm
nhẹ từ 3,11% tổng chi năm 2001 bằng 0,81% GDP xuống còn 2,24% tổng chi,
bằng 0,57% GDP năm 2012.
-84-
Bảng 2.1: Cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012
(Đơn vị: Tỷ lệ % )
CHỈ TIÊU 2001 2002 2003 2004 2005 BQ 2006 2007 2008 2009 2010 BQ 2011 2012
TỔNG CHI (%/GDP) 23,41 20,28 20,49 16,31 18,97 19,89 21,02 21,27 21,58 22,20 25,82 22,38 26,07 25,55
Chi thƣờng xuyên 6,04 6,17 6,21 6,24 7,42 6,42 7,96 8,32 8,82 10,64 10,03 9,15 10,19 9,88
T
ỷ
Chi trả nợ 3,21 2,99 2,23 2,97 3,33 2,95 2,99 3,29 3,37 3,15 3,16 3,19 3,74 3,77
Chi đầu tƣ phát triển 13,67 10,86 11,74 6,95 8,22 10,29 9,40 8,90 8,09 7,04 11,83 9,05 11,33 11,32
t
r
ọ
n
g
/
G
D
P
Chi DP + chi khác 0,49 0,26 0,31 0,16 0,24 0,66 0,76 1,30 1,37 0,81 0,98 0,81 0,57
TỔNG CHI (%) 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
Chi thƣờng xuyên 25,80 30,43 30,33 38,24 39,12 32,78 37,86 39,12 40,89 47,94 38,84 40,93 39,09 38,69
C
ơ
c
ấ
u
c
h
i
Chi trả nợ 13,73 14,73 10,89 18,19 17,54 15,02 14,25 15,46 15,60 14,18 12,23 14,35 14,33 14,76
N
D
Chi đầu tƣ 58,39 53,53 57,28 42,59 43,34 51,03 44,74 41,84 37,46 31,71 45,79 40,31 43,46 44,30
N
S
N
N
Chi DP + chi khác 2,07 1,30 1,50 0,99 1,17 3,15 3,58 6,04 6,17 3,13 4,42 3,11 2,24
t
h
e
o
(Nguồn: Vụ NSNN, Bộ Tài chính CHDCND Lào )
-85-
2.2.2.Tác động của cơ cấuchi NSNN tới sự phát triển KT-XH ở CHDCND
Lào giai đoạn 2001-2012
2.2.2.1. Tác động của cơ cấu chi NSNN tới đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
KT-XH
CHDCND Lào với vị trí địa lý không giáp biển, toàn bộ diện tích đất
nƣớc nằm cô lập giữa các quốc gia, với một cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn, lạc
hậu. Điều này đã đặt ra một hạn chế đối với sự phát triển KT-XH ở
CHDCND Lào. Nhận thức rõ tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng đối với quá
trình phát triển KT-XH đất nƣớc, Chính phủ đã đƣa ra một chiến lƣợc phát
triển cơ sở hạ tầng đƣa đất nƣớc trở thành cầu nối liên kết giữa các nƣớc
ASEAN, khu vực tiểu vùng sông Mê Kông, và khu vực tam giác phát triển.
Chiến lƣợc này của Chính phủ đề cập đến tầm quan trọng của việc phát triển
cơ sở hạ tầng, đặc biệt là phát triển các hệ thống đƣờng giao thông, vận tải
khu vực, nhằm đạt đƣợc các mục tiêu phát triển KT-XH trong tầm nhìn đến
năm 2030, CHDCND Lào là thoát khỏi danh sách các nƣớc kém phát triển
và xóa đói giảm nghèo. Phát triển cơ sở hạ tầng đã đƣợc Chính phủ xác định
là quan trọng cho cả xóa đói giảm nghèo và phát triển khu vực kinh tế tƣ
nhân với những lý do sau:
Một là, tập trung vào xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông nhằm liên
kết giữa thị trƣờng tiêu thụ với khu vực sản xuất nông nghiệp, tạo liên kết
giữa ngƣời nông dân với nhu cầu thị trƣờng trong nƣớc ngày càng tăng, trong
đó quan trọng là thực hiện các mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
Hai là, cải thiện cơ sở hạ tầng hậu cần, đặc biệt là giao thông vận tải từ
các nhà máy đến các cảng; điều này rất quan trọng trong việc tăng cƣờng hiệu
quả kinh doanh, phát triển xuất khẩu và tăng trƣởng kinh tế.
Ba là, việc tạo ra nhiều sự lựa chọn đối với giao thông vận tải trong
chiến lƣợc phát triển cơ sở hạ tầng của đất nƣớc sẽ thúc đẩy tăng trƣởng và hỗ
trợ trong các chƣơng trình xóa đói giảm nghèo.
-86-
Trong giai đoạn 2001-2012, thực hiện chi NSNN ở CHDCND Lào
phục vụ đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng đạt 12.201,763 tỷ kíp, chiếm 26,85%
tổng chi đầu tƣ phát triển và chiếm 11,69% tổng chi NSNN bằng 2,66% GDP.
Trong cơ cấu chi đầu tƣ phát triển, bao gồm chi đầu tƣ ngoài nƣớc và
chi đầu tƣ trong nƣớc. Các khoản chi đầu tƣ ngoài nƣớc chủ yếu là cho vay và
tài trợ, chiếm phần lớn tổng chi đầu tƣ phát triển tính bình quân giai đoạn
2001-2012 chiếm tới 72,51% tổng chi đầu tƣ phát triển bằng 7,19% GDP. Đối
với các khoản chi đầu tƣ trong nƣớc, Chính phủ dành gần nhƣ toàn bộ để
phục vụ đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng trong nƣớc.
Bảng 2.2: Cơ cấu chi Đầu tƣ phát triển ở CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012
(Đơn vị: Tỷ lệ %)
Chi đầu tƣ phát triển
Đầu tƣ trong nƣớc
Đầu tƣ
TT
Năm
Tổng số
ngoài
Đầu tƣ
Tổng
Khác
nƣớc
XDCSHT
Tỷ trọng trên tổng chi đầu tƣ phát triển
100
57,92
42,08
41,29
0,79
1
2000-2001
100
48,35
51,65
50,97
0,68
2
2001-2002
100
59,37
40,63
40,35
0,29
3
2002-2003
100
65,80
34,20
34,00
0,19
4
2003-2004
100
80,78
19,22
18,89
0,33
5
2004-2005
100
87,04
12,96
12,83
0,13
6
2005-2006
100
84,00
16,00
15,94
0,06
7
2006-2007
100
81,11
18,89
18,70
0,19
8
2007-2008
100
65,77
34,23
33,83
0,40
9
2008-2009
100
73,31
26,69
26,00
0,69
10
2009-2010
100
73,43
26,57
25,85
0,73
11
2010-2011
100
72,15
27,85
26,28
1,57
12
2011-2012
100
72,51
27,49
26,85
0,64
Tổng cộng
-87-
Tỷ trọng trên tổng chi NSNN
1
2000-2001
58,39
33,82
24,57
24,11
0,46
2
2001-2002
53,53
25,88
27,65
27,28
0,37
3
2002-2003
57,28
34,00
23,28
23,1
0,16
4
2003-2004
42,59
28,03
14,56
14,48
0,08
5
2004-2005
43,34
35,01
8,33
8,19
0,14
6
2005-2006
44,74
38,94
5,80
5,74
0,06
7
2006-2007
41,84
35,14
6,69
6,67
0,02
8
2007-2008
37,46
30,39
7,08
7,00
0,07
9
2008-2009
31,71
20,86
10,85
10,73
0,13
10
2009-2010
45,79
33,57
12,22
11,91
0,32
11
2010-2011
43,46
31,91
11,55
11,23
0,32
12
2011-2012
44,30
31,97
12,34
11,64
0,70
43,54
31,57
11,97
11,69
0,28
Tổng cộng
Tỷ trọng trên GDP
1
2000-2001
13,67
7,92
5,75
5,64
0,11
2
2001-2002
10,86
5,25
5,61
5,53
0,07
3
2002-2003
11,74
6,97
4,77
4,74
0,03
4
2003-2004
6,95
4,57
2,38
2,36
0,01
5
2004-2005
8,22
6,64
1,58
1,55
0,03
6
2005-2006
9,40
8,18
1,22
1,21
0,01
7
2006-2007
8,90
7,47
1,42
1,42
0,01
8
2007-2008
8,09
6,56
1,53
1,51
0,02
9
2008-2009
7,04
4,63
2,41
2,38
0,03
10
2009-2010
11,83
8,67
3,16
3,07
0,08
11
2010-2011
11,33
8,32
3,01
2,93
0,08
12
2011-2012
11,32
8,17
3,15
2,97
0,18
9,92
7,19
2,73
2,66
0,06
Tổng cộng
( Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư CHDCND Lào )
-88-
Tính đến hết năm 2012, tổng chiều dài hệ thống đƣờng giao thông ở
CHDCND Lào dài 55.247 Km, tăng lên 1,63 lần so với năm 2005 chỉ dài
33.861 Km.
Bảng 2.3: Hệ thống đƣờng giao thông ở CHDCND Lào
(Đơn vị: Km)
TT
Loại đƣờng
1976
1985
1995
2005
2012
Tổng cộng
11.462
12.393
18.363
33.861 55.247
1
Đƣờng nhựa
1.427
2.350
2.446
4.586
7.246
2
Đƣờng rải sỏi
4.371
3.263
5.138 11.608 19.734
3
Đƣờng đất
5.664
6.780
10.779 17.667 28.267
Biểu đồ 2.1: Hệ thống đƣờng giao thông ở CHDCND Lào
(Nguồn: Tổng cục thống kê ở CHDCND Lào năm 2013)
Đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đã tạo điều kiện một cách
trực tiếp và gián tiếp cho các ngành thƣơng mại đầu tƣ phát triển, vận chuyển
hành khách và hàng hóa tăng lên, sản xuất nông lâm nghiệp phát triển, an
ninh quốc phòng ổn định và đảm bảo lƣu thông trong nƣớc đƣợc thông suốt.
-89-
Các cầu nối đƣờng bộ và đƣờng hàng không với các tiểu vùng cũng có những
bƣớc tiến khả quan. Giai đoạn này, CHDCND Lào đã hoàn thành và đƣa vào
sử dụng dự án bảo vệ bờ kè sông Mê Kông; dự án đầu tƣ xây dựng nhà máy
cung cấp nƣớc sạch ở bản Đông Mạc Khai; đang tổ chức thực hiện dự án phát
triển thị trấn giai đoạn 1; dự án cung cấp nƣớc và các dịch vụ vệ sinh thị trấn
giai đoạn 1; dự án cung cấp nƣớc sạch và các dịch vụ vệ sinh miền Bắc -
Trung và dự án cung cấp nƣớc sạch ở bản Chi Nai Mô. Đã hoàn thành thủy
điện sông Măng 3 trong năm 2005; thủy điện sông Lich 1,2; Dự án thủy điện
sông Ngừm 2, thủy điện sông Kha Man 3, dự án thủy điện sông Ngừm 5 và
thủy điện thác Sa Len; Dự án dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2013 nhƣ:
thủy điện sông Thơn Hin Bun mở rộng và thủy sông Song; Dự án dây điện
truyền tải miền Bắc, Trung, Nam, hoàn thành dự án dây diện ở 7 huyện của
tỉnh U Đôm Xay. Hoàn thành công trình thủy lợi nhƣ: Sông Tiến tỉnh Xay
Nha Bu Ly, bản Đông Phô Si thủ đô Viêng Chăn và đã sửa chữa các công
trình thủy lợi từ thiên tai và một số thủy lợi nhiều năm.
Bên cạnh đó, việc đầu tƣ cơ sở hạ tầng để đảm bảo phát triển các ngành
du lịch, nhất là những khách sạn và nhà nghỉ cũng tăng lên khả quan. Đối với
việc đầu tƣ về du lịch ở CHDCND Lào là tập trung đầu tƣ vào cơ sở hạ tầng
nhƣ: Cải thiện đƣờng đầu mối với các tỉnh, cải thiện việc vận chuyển đƣờng
thủy, đƣờng bộ và đƣờng hàng không, nâng cấp phƣơng tiện hiện đại trong hệ
thống vận chuyển, tăng thêm chuyến bay, mở rộng tuyến bay giữa các tỉnh,
tăng thêm các chuyến xe vận hành và có nhiều mức dịch vụ.
Hiện tại, CHDCND Lào đang tập trung vào các dự án cải tạo sân bay
tỉnh Luang Nam Tha; dự án đầu tƣ xây dựng đƣờng R3 (đây là con đƣờng đầu
mối nối với các nƣớc trong khu vực); dự án xây dựng quốc lộ 12, khánh thành
dự án cầu hữu nghị Lào - Thái nối giữa 2 tỉnh Sa vắn na khết và tỉnh Muc Đa
Han và một số đƣờng quốc lộ khác để hội nhập với các nƣớc láng giềng; làm
-90-
đƣờng vào các điểm du lịch và cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ việc du lịch,
giao lƣu, giao thƣơng giữa các nƣớc.
2.2.2.2. Tác động của cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào tới thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thông qua chi NSNN, Nhà nƣớc tập trung các khoản chi NSNN cho ƣu
tiên phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ trên cơ sở định hƣớng nhƣ:
Giá trị sản lƣợng của ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm ƣu thế về tăng tỷ lệ
tƣơng đối, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP; giá trị sản lƣợng của ngành nông
nghiệp giảm tỷ lệ tƣơng đối nhƣng vẫn tăng lên tuyệt đối, chiếm tỷ trọng nhỏ
trong GDP, thời kỳ từ 2001-2012 có diễn biến nhƣ sau:
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu ngành kinh tế ở CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012
( Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư CHDCND Lào )
a.Giai đoạn 2001-2005
- Nông, lâm nghiệp: Trong 5 năm qua ngành nông lâm nghiệp có tốc
độ diễn biến giảm dần từ 51,1% GDP năm 2001 xuống còn 45% GDP năm
-91-
2005 với tốc độ bình quân hàng năm đạt 3,3% bằng 48,52% GDP. CHDCND
Lào đã chú trọng phát triển sản xuất nông nghiệp theo hƣớng chuyển từ nền
nông nghiệp tự nhiên sang sản xuất hàng hóa nhằm cung cấp nguyên liệu cho
các ngành chế biến ngày một tăng lên. Vì vậy, giá trị sản lƣợng nông nghiệp
bình quân hàng năm tăng lên ở mức 3,3%; sản lƣợng trồng trọt đến năm 2005
đã tăng lên khả quan so với cùng kỳ năm 2000, nhất là việc trồng cây công
nghiệp có giá trị kinh tế cao; về thủy lợi, đảm bảo cung cấp đủ nƣớc cho các
điểm nông nghiệp tăng từ 19.170 điểm năm 2000 lên 24.695 điểm vào cuối
năm 2004. Do đó, đã làm cho sản lƣợng thóc tăng từ 3,06 tấn/ha năm 2000
lên 3,6 tấn/ha năm 2005, sản lƣợng thóc năm 2005 đạt 2,56 triệu tấn, bình
quân đầu ngƣời đạt 457 kg/ngƣời; việc chăn nuôi gia súc giai đoạn này phát
triển khá nhanh vì đã có phƣơng pháp chăn nuôi sử dụng trang trại hay công
nghiệp chăn nuôi gia súc; việc khai thác gỗ trong 5 năm qua đã giảm từ mức
khoảng 300 m3 năm 2001 xuống mức 150 m3 năm 2005.
- Công nghiệp: Có tốc độ diễn biến tăng từ 9,4% chiếm 23,2% GDP
năm 2001 lên 15,1% chiếm 28,8% GDP năm 2005 với tốc độ bình quân hàng
năm đạt 11,62% chiếm 25,62% GDP. Trong giai đoạn 2001-2005 sản lƣợng
công nghiệp có bƣớc tiến triển mạnh với tốc độ tăng trƣởng hàng năm đạt
11,62% vƣợt chỉ tiêu đề ra khoảng 10-11%, trong đó: Khoáng sản tăng
33,87%; chế biến lƣơng thực tăng 9,17%; thuốc lá tăng 20,75%; dệt may tăng
20,11%; may mặc tăng 11,15%; giầy dép tăng 7,75%; chế biến gỗ tăng
1,17%. Nhìn chung, vốn đầu tƣ vào ngành công nghiệp ngày càng tăng lên
nhất là đầu tƣ nƣớc ngoài, còn đầu tƣ tƣ nhân trong nƣớc có tiến độ chậm, sản
phẩm chủ yếu của công nghiệp có tỷ lệ tăng cao so với cùng kỳ năm 2000
nhất là than đá, muối, bia, nƣớc ngọt, thuốc lá, thức ăn chăn nuôi, xà phòng,
giầy da, thuốc chữa bệnh, sản phẩm nhựa, nội thất, quần áo, gạch, xi măng,
thiết bị sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, đã khai thác mỏ vàng ở Tỉnh Sa vắn
-92-
na khết từ năm 2003, mỗi năm đạt đƣợc 6 tấn vàng, riêng năm 2005 đạt đƣợc
6,5 tấn vàng. Những sản phẩm của công nghiệp đó có khả năng đáp ứng đƣợc
nhu cầu cho các ngành kinh tế trong nƣớc, thay thế đƣợc một số mặt hàng
nhập khẩu nhất là điện, sát thép, xi măng,..và một số hàng công nghiệp xuất
khẩu khá nhiều chủ yếu là điện, khoáng sản, dệt may và sản phẩm gỗ. Riêng
ngành công nghiệp khai thác khoáng sản đã phát triển mạnh mẽ đến năm 2005
có 90 nhà đầu tƣ đang khai thác khoáng sản, trong đó có 34 nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài và có 56 nhà đầu tƣ trong nƣớc.
Đi đôi với các sản phẩm nêu trên còn có sản phẩm thủ công cũng
không kém tăng nhanh trong nƣớc có cơ sở công nghiệp thủ công tăng từ
23.574 đơn vị năm 2001 lên 26.200 đơn vị năm 2005. CHDCND Lào đã bắt
đầu thành lập khu công nghiệp ở Thủ đô Viêng Chăn, khu kinh tế đặc biệt tại
tỉnh Savannakhet đây đã tạo cơ hội thuận lợi trong việc thu hút vốn đầu tƣ
trong và nƣớc ngoài.
- Dịch vụ: Ngành dịch vụ có tốc độ diễn biến tăng từ 5,5% chiếm
25,7% GDP năm 2001 lên 6,9% chiếm 26,2% GDP năm 2005 với tốc độ bình
quân hàng năm đạt 6,52% chiếm 25,86% GDP. Ngành dịch vụ đã có bƣớc
tiến triển có khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và phục vụ đời
sống của nhân dân khá tốt, các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đƣợc phát triển
về số lƣợng và chất lƣợng ngày tốt hơn. Trong giai đoạn 2001-2005, tổng giá
trị bán lẻ và thu nhập từ dịch vụ bình quân hàng năm tăng 10%. Tốc độ tăng
trƣởng giá trị tăng thêm trong ngành dịch vụ bình quân hàng năm đạt 6,52%
thấp hơn chỉ tiêu đề ra 8-9%/năm. Về hoạt động thƣơng mại và dịch vụ của
những doanh nghiệp đến cuối năm 2003 có 61,2 nghìn đơn vị đã đăng ký kinh
doanh. Kết cấu cơ sở hạ tầng của ngành thƣơng mại cải thiện tốt hơn, trong
nƣớc có 209 chợ lớn, có 11 chợ biên giới cửa khẩu quốc tế, có 28 chợ biên
giới cửa khẩu truyền thống. Mặc dù 3 năm đầu thực hiện nhiệm vụ phát triển
-93-
KT-XH không thuận lợi do ảnh hƣởng của chiến tranh ở IRắc và bệnh SARS,
sau đó từ năm 2004 đến cuối giai đoạn 2001-2005 tình hình trong và nƣớc
ngoài đƣợc hồi phục rồi tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch phát triển
mạnh cơ sở hạ tấng nhƣ: Số lƣợng khách sản và nhà nghỉ tăng từ 468 năm
2000 lên 887 năm 2003 và năm 2005 tăng 1.200. Đến năm 2005 có 364 điểm
du lịch để phục vụ du khách trong và nƣớc ngoài. Trong 5 năm qua số lƣợng
du khách đạt 4 triệu du khách, bình quân hàng năm du khách vào CHDCND
Lào đạt hơn 800 nghìn ngƣời. Tổng thu nhập từ ngành du lịch hàng năm đạt
hơn 100 triệu USD. Đặc biệt, là tỷ lệ du khách Châu Âu đã tăng từ 11,7%
năm 2000 lên 14,8% năm 2003 và tăng lên 16,5% năm 2005. CHDCND Lào
đã có chính sách mở rộng và khuyến khích đầu tƣ vào ngành du lịch ngày
cáng tăng lên để thực hiện phƣơng châm trong việc phát triển ngành du lịch
trở thành 1 trong 8 ngành kinh tế mũi nhọn, đã mở rộng quan hệ du lịch với
các nƣớc trong thế giới, đặc biệt là năm 2005 các nƣớc ASEAN đƣợc miễn
Visa cho du khách vào CHDCND Lào. Đã nâng cấp 13 cửa khẩu biên giới
truyền thống trở thành cửa khẩu quốc tế và cấp Visa cho nƣớc ngoài tại biên
giới, CHDCND Lào tổ chức Hội chợ thƣơng mại du lịch ASEAN 2004 (ATF
2004) tại thủ đô Viêng Chăn để thu hút du khách trong và nƣớc ngoài. Năm
2006 có100 công tỷ du lịch của nƣớc Anh đã bỏ phiếu cho cố đô Luâng Pha
Bang nhận danh hiệu giải Cúp vàng là vì một điểm du lịch ƣa thích nhất trên
thế gíới. Về ngành vận tải hành khách và hàng hóa trong 5 năm qua khối
lƣợng vận tải hàng hóa bình quân hàng năm tăng 11%, khối lƣợng hàng hóa
lƣu thông hàng năm tăng 15%. Vận tải hành khách hàng năm tăng 7%, khối
lƣợng lƣu thông hành khách hàng năm tăng 5%, đặc biệt khối lƣợng hàng vận
chuyển quá cảnh tăng cao bình quân hàng năm cao hơn 20%. Số tử vong do
tai nạn giảm từ 19 ngƣời trên 10.000 xe năm 2001 xuống còn 10 ngƣời năm
2005. Ngành giao thông đƣợc cải thiện tốt hơn nhất là nâng cấp đƣờng bộ dài
-94-
đạt 1.130 KM, xây cầu 39 chiếc với tổng dài 2.611 m. Số lƣợng xe vận
chuyển đƣờng bộ và đƣơng thủy hàng năm tăng lên 10-12% bên cảnh đó cũng
xây dựng và cải thiện các các cảng dọc sông Mê Kông, nâng cấp và xây dựng
hệ thống sân bay; đặc biệt sân bay quốc tế Wattay ở thủ đô Viêng Chăn đƣợc
cải thiện và nâng cấp sân bay cố đô Luâng Pha Bang, Tỉnh Chăm Pa Sắc trở
thành sân bay quốc tế. khảo sát và thiết kế đƣờng sắt chiều dài 14 KM. Về
ngành dịch vụ bƣu chính viễn thông cũng phát triển mạnh, mở rộng mạng
lƣới đến thị trấn miền núi, biên giới và vùng xa. Đến năm 2005 có 87.500
điện thoại cố định, có 404 địên thoại công cộng, có 327.000 điện thọai di
động có tỷ lệ sử dụng 7,3 chiếc/100 ngƣời, vƣợt kế hoạch 2,5 chiếc/100
ngƣời. trong nƣớc có 2.570 quán Internet và có 130 đơn vị bƣu điện.
b. Giai đoạn 2006-2010
- Nông lâm nghiệp: Có tốc độ tăng giảm không đồng đều từ 3,2%
chiếm 32,1% GDP năm 2006 đột ngột tăng lên 5,5% chiếm 30.9% GDP năm
2007, sau đó tốc độ có diễn biến giảm từ 3.1% chiếm 29.5% GDP năm 2008
xuống còn 3% chiếm 29% GDP năm 2010 với tốc độ bình quân hàng năm đạt
3,62% chiếm 30,5% GDP. Trong 5 năm qua ngành nông, lâm nghiệp đã tăng
trƣởng với tốc độ bình quân hàng năm 3,62% chiếm 30,5% GDP trong đó:
Ngành trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp tăng trƣởng 4,07% chiếm 88,6%
của tổng giá trị gia tăng trong nông nghiệp; ngành thuỷ sản tăng trƣởng 4,03%
chiếm 11,4% của tổng giá trị gia tăng trong nông nghiệp, nhìn chung sản xuất
ngành nông lâm nghiệp đã phát triển và có khả năng đáp ứng nhu cầu lƣơng
thực thực phẩm trong nƣớc. Tính bình quân hộ gia đình làm nông nghiệp có
diện tích đất sản xuất khoảng 1,6 ha. Về khuyến khích sản xuất thực phẩm và
rau quả, có sản xuất lúa gạo bình quân hàng năm đạt 2,9 triệu tấn tăng lên so
với cung kỳ năm 2005 là đạt 2,56 triệu tấn bằng 88% kế họach hàng năm phải
đạt 3,3 triệu tấn. tính bình quân đầu ngƣời hàng năm đạt 470 kg/ngƣời, sản
-95-
lƣợng thóc tăng từ 3,49 triệu tấn/ha năm 2005 lên 3,54 triệu tấn/ha năm 2008,
năm 2009 sản xuất thóc đƣợc 3,14 triệu tấn/ha. Diện tích trồng ngô tăng
32,7% từ 113,8 nghìn ha năm 2005 lên 151 nghìn ha năm 2010 và sản lƣợng
ngô tăng 88,3% từ 403,5 nghìn tấn năm 2005 lên 760 nghìn tấn năm 2010;
sản lƣợng sản xuất sắn tăng 3 lần từ 51 nghìn tấn năm 2005 lên 161 nghìn tấn
năm 2010; sản lƣợng mía tăng 3 lần từ 218 nghìn tấn năm 2005 lên 703 nghìn
tấn năm 2010; và sản lƣợng cà phê hàng năm đạt 45.194 tấn; việc chăn nuôi
gia súc và thủy sản đã đảm bảo lƣơng thực trong nƣớc; việc sản xuất các sản
phẩm lâm nghiệp có khả năng đáp ứng trong nƣớc 31,4 triệu USD và xuất
khẩu 74,4 triệu USD, có nhà đầu tƣ nƣớc ngoài nhƣ: Việt Nam, Thái Lan và
Trung Quốc sang đầu tƣ trồng cây cao su và cây bạch đàn. Việc khai thác gỗ
và sản phẩm từ rừng trong những năm qua Chính phủ đã có chế độ chính sách
quản lý khá tốt nhƣ chế biến gỗ trƣớc khi xuất khẩu.
- Công nghiệp: Có tốc độ tăng trƣởng mạnh 21,6% chiếm 26,7% GDP
năm 2006 và đột ngột xuống 9,6% chiếm 26,4% năm 2007, sau đó tăng lên từ
13,7% chiếm 27,5% GDP năm 2008 đến 17,7% chiếm 26% năm 2010 với tốc
độ bình quân hàng năm đạt 15,48% chiếm 26,12% GDP trong đó khai thác
khoáng sản chiếm 35,4%, công nghiệp chế biến chiếm 34,3%, công nghiệp
điện và nƣớc chiếm 11,57% và công nghiệp xây dựng chiếm 18,68 % trong
tổng giá trị gia tăng công nghiệp; sản xuất điện bình quân hàng năm đạt 9,3%,
chiếm 15% của ngành công nghiệp chiếm 3% GDP; khai thác khoáng sản
tăng lên khoảng 19,91% của ngành công nghiệp chiếm 9,5% GDP; giá trị sản
xuất công nghiệp chế biến tăng trƣởng bình quân hàng năm đạt 9,4%. Ngành
công nghiệp chế biến là một ngành sử dụng ít vốn so với ngành công nghiệp
khác nhƣng có trả tiền công khá cao, số lƣợng doanh nghiệp chế biến công
nghiệp có 24.331 đơn vị chiếm 19,2% trong tổng doanh nghiệp. Ngành dệt
may cũng là một ngành tăng trƣởng có khả năng tạo thu nhập, tạo công ăn
-96-
việc làm cho xã hội khá tốt. Có 463 nhà máy may, tổng vốn đầu tƣ tƣ nhân
vào ngành may từ 2006-2009 đạt 15.715 nghìn USD so với giai đoạn 2001-
2005 tăng lên 84,9%. Nhìn chung ngành dệt may còn chịu áp lực một số vấn
đề nhƣ: Thiếu vốn, thiếu liên kết sản xuất để đáp ứng và hỗ trợ việc tiếp tục
sản xuất, tốn kém chi phí vận chuyển và thuế sản xuất. Các sản phẩm thủ
công mỹ nghệ của ngành thủ công đã đƣợc từng bƣớc phát triển mở rộng thị
trƣờng trong và nƣớc ngoài. Ngành thủ công cũng là một ngành đã tạo công
ăn việc làm và thu nhập, giảm tỷ lệ nghèo đói theo chính sách của Chính phủ,
sản phẩm tăng lên 7-8%. Sản xuất vật liệu xây dựng tăng trƣởng nhanh theo
nhu cầu phát triển nhất là xi măng có khả năng đáp ứng nhu cầu trong nƣớc
đƣợc 80%, việc đầu tƣ vào ngành này có xu hƣớng tăng trong giai đoạn 2006-
2010 có 6 nhà máy sản xuất xi măng năng lực sản xuất bình quân hàng năm
đạt 1,2 triệu tấn, ngoài ra còn có 24 nhà máy sắt thép, có 10 nhà máy tôn
gạch, có 308 nhà máy bê tông; chế biến thực phẩm và giải khát đây là một
ngành đã phát triển trong suốt thời gian qua có khả năng đáp ứng tiêu thụ
trong nƣớc 100% và còn một phần xuất ra nƣớc ngoài, có 15.804 doanh
nghiệp chế biến, trong đó: Có 28 nhà máy lớn tạo công ăn việc làm cho 100
lao đọng, có 171 nhà máy vừa có từ 10-99 lao động còn lại là nhà máy nhỏ có
10 lao động.
Nhƣ vậy, ngành công nghiệp chế biến ở CHDCND Lào đã đáp ứng sản
phẩm cho xã hội khá tốt, trong đó doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần quan
trọng phát triển ngành công nghiệp chế biến tăng trƣởng trong năm 2006 có
24.331doanh nghiệp chế biến chiếm 19,2% trong tổng doanh nghiệp cả nƣớc.
- Dịch vụ: Có tốc độ tăng trƣởng từ 5,2% chiếm 41,2% GDP năm 2006
tăng lên 10,4% chiếm 42,7% GDP năm 2007, sau đó bắt đầu giảm tốc độ từ
9,9% chiếm 43% GDP năm 2008 xuống còn 6,7% chiếm 45% GDP năm 2010
với tốc độ bình quân hàng năm đạt 7,98% chiếm 43,38% GDP trong đó: Bán
-97-
buôn và bán lẻ chiếm 51%; dịch vụ Nhà nƣớc chiếm 17,3%; vận tải, bƣu
chính và viễn thông chiếm 12,5%; và còn lại dịch vụ tài chính, dịch vụ kinh
doanh,…
Về thƣơng mại có tổng giá trị lƣu thông hàng hóa trong nƣớc 5 năm
qua đạt 29.395 tỷ kíp bình quân hàng năm tăng 11%; việc xây dựng cơ sở hạ
tầng thƣơng mại có 628 chợ trong đó có 73 chợ lớn 156 chợ vừa và 429 chợ
nhỏ, ngoài ra còn có trung tâm thƣơng mại, siêu thị, chợ đêm có 4 tỉnh lớn và
có 17 cửa khẩu quốc tế, có 43 cửa khẩu truyền thống có 63 phòng giao dịch
biên giới đến cuối năm 2009 đạt 122.182 doanh nghiệp thƣơng mại.
Về dịch vụ giao thông vận tải, bƣu chính, viễn thông: Trong giai đoạn
2006-2010 ngành dịch vụ giao thông vận tải đã tập trung vào việc thực hiện
25 dự án thúc đẩy các dự án nằm trong 11 chƣơng trình 111 dự án, nhất là tập
trung vào 2 dự án quan trọng (1) Dự án xây dựng, cải thiện giao thông, vận tải
và giao tiếp trong khu vực và tiểu khu vực; (2) Dự án xây dựng, cải thiện giao
thông, vận tải và giao tiếp trong nƣớc. Hiện nay, việc giao thông bao gồm 4
hình thức nhƣ: (1) Vận tải qua đƣờng ô tô dài 37.768 km chiếm 80% tổng
khối lƣợng vận tải, có vận tải hàng hóa bình quân hàng năm tăng 5-8% và vận
tải hành khách 8-10%; (2) Vận tải đƣờng thủy nhiều hơn 3.000 km chiếm
18% tổng khối lƣợng vận tải; (3) Vận tải đƣờng hàng không có 11 sân bay
chiếm 2% và (4) vận tải đƣờng sắt. Công việc cầu đƣờng đã phát triển hơn so
với ngành khác nhất là đƣờng mạng tăng lên 17% trong giai đoạn 2005-2009
từ 33.803 km tăng lên 39.568 km năm. Bình quân hàng năm tăng đạt 4,6%
bằng 1.824 km, đã hoàn thành cầu nối sông Mê Kông Lào - Thái tại tỉnh Sa
vắn na khết và đang xây cầu nối tại tỉnh Khăm muôn, hoàn thành ga đƣờng
sắt bản Dong Pho Sy - Tha Na Leng dai 3 km. Nhƣ vậy, dịch vụ vận tải trong
suất giai đoạn 2006-2010 tổ chức thực hiện đƣợc 111,9 triệu tấn thấp hơn chỉ
tiêu đề ra 1%, khối lƣợng vận tải hành khách đạt 210 triệu ngƣời giảm 2%.
-98-
Việc bƣu chính và viễn thông có 119 bƣu điện, mở rộng cáp vỏ bọc sợi thủy
tinh đạt 11.500 km, có 99 doanh nghiệp viễn thông, thu nhập từ bƣu chính đạt
40,11 tỷ kíp so cùng kỳ năm trƣớc tăng 2% và viễn thông đạt 2.127 tỷ kíp so
với cùng kỳ năm trƣớc tăng 32%. Nhƣ vậy, dịch vụ giao thông vận tải, bƣu
chính, viễn thông bình quân hàng năm tăng trƣởng 7,8% chiếm 4,6% trong
tổng cơ cấu kinh tế quốc dân.
Về dịch vụ du lịch: ngành dịch vụ du lịch cũng là một lĩnh vực quan trọng
khác là tạo ra nhiều lợi ích và thu nhập tối thiểu cho dân tộc. Đây là lĩnh vực
tăng trƣởng nhanh điều chứng minh là du khách vào CHDCND Lào đạt 8,79
triệu ngƣời, bình quân hàng năm đạt 1,76 triệu ngƣời tăng 15,8%/năm và tạo thu
nhập 258,04 triệu USD/năm so với giai đoạn 2001-2005 tăng 44,45% và tạo thu
nhập tăng gấp đôi. Trong năm 2010 có 383 khách sạn, có 1.379 nhà nghỉ và khu
nghỉ dƣỡng cao cấp (Resort), có 1.389 nhà hàng, bình quân hàng năm khách sạn
tăng 21% và nhà nghỉ tăng 5%. Có 164 điểm vui chơi giải trí tăng 20% so với
cùng kỳ năm 2005 và tăng 7,2% so với năm 2007. Công ty du lịch tăng gấp đôi
từ 93 công ty năm 2006 lên 169 công ty năm 2010 ngoài ra còn có chi nhánh
công ty du lịch từ 44 đơn vị năm 2006 lên 77 đơn vị năm 2010, ta thấy từ năm
2005 đến năm 2010 số chi nhánh công ty du lịch tăng lên 41 đơn vị tăng gấp đôi.
Điểm du lịch trong nƣớc có 1.493 nơi, trong đó: Có 849 điểm du lịch tự nhiên,
có 435 điểm du lịch văn hóa, có 209 điểm du lịch lịch sử.
Nhƣ vậy, đạt kết quả trên đây do chính sách mở rộng và thúc đẩy du
lịch của Chính phủ đã đảm bảo chất lƣợng dịch vụ càng ngày tốt hơn thu
hút đƣợc du khách có chất lƣợng tạo công ăn việc làm cho dân có đời sống
tốt hơn.
c. Giai đoạn 2011 đến nay
- Nông lâm nghiệp: Có tốc độ tăng trƣởng giảm từ 2,9% chiếm 27,9%
GDP năm 2011 xuống còn 2,7% chiếm 26,7% GDP năm 2012 cụ thể nhƣ:
-99-
Trong năm 2012, sản xuất lúa gạo đạt đƣợc 3,07 triệu tấn bằng 85% của kế
hoạch năm; sản xuất cây lƣơng thực có điện tích trồng ngô 4,46 nghìn ha sản
lƣợng đạt 15.617 tấn bằng 15% của kế hoạch, diện tích trồng khoai 14.988 ha
sản lƣợng đạt 157.370 tấn bằng 50% của kế hoạch; diện tích trồng hoa quả
7.736 ha sản lƣợng đạt 85.100 tấn bằng 20,35%; diện tích trồng rau quả
55.560 ha sản lƣợng đạt 555.580 tấn bằng 53%. Việc chăn nuôi và thủy sản
cung cấp sản xuất động vật và cá cho thị trƣờng đạt 157.666 tấn bằng 50%
của kế hoạch tính bình quân đạt 48 kg/đầu dân. Việc thủy lợi cung cấp nƣớc
tƣới đạt 147.346 ha bằng 67% của kế hoạch.
- Công nghiệp: Có tốc độ tăng trƣởng từ 15,8% chiếm 27% GDP năm
2011 lên 16,8% chiếm 29,6% GDP năm 2012. Năm 2012 có 37.960 nhà máy
công nghiệp và chế biến có tổng vốn đầu tƣ 1.120 tỷ kíp đã tạo việc làm cho
hơn 72.567 ngƣời lao động; việc đầu tƣ phát triển vùng và trang trại công
nghiệp của nhà kinh doanh trong và nƣớc ngoài đã quy hoạch khu công
nghiệp trong 17 Tỉnh, Thủ đô có tổng diện tích 14.852 ha năm 2012 so với
năm 2011 tăng lên 1.416,68 ha; ngành công nghiệp chế biến và thủ công đạt
đƣợc 2.143,34 tỷ kíp trong đó công nghiệp chế biến chiếm 97,4% bằng
2.087,61 tỷ kíp năm 2012 so với cùng kỳ năm trƣớc tăng 6,86% và thủ công
chiếm 2,6% bằng 55,72 tỷ kíp so với cùng kỳ năm trƣớc tăng 0,29%.
- Dịch vụ: Có tốc độ tăng trƣởng từ 7,8% chiếm 45,1% GDP năm 2011
lên 8,1% chiếm 43,7% GDP năm 2012.
2.2.2.3. Tác động của cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào tới xóa đói giảm
nghèo và đảm bảo công bằng xã hội
Chi NSNN trực tiếp góp phần giảm đói nghèo thông qua 3 khoản mục:
Một là, hạ tầng kinh tế và các dịch vụ hỗ trợ, đặc biệt là thuỷ lợi, khuyến nông
và hệ thống đƣờng ở nông thôn , đây là những nhân tố đầu vào chủ yếu để
làm tăng các cơ hội thu nhập đối với ngƣời nghèo; Hai là, dịch vụ xã hội nhƣ:
-100-
Giáo dục cơ bản, y tế,…đây cũng là những khoản đầu tƣ thiết yếu vào dân trí
nhằm tăng năng suất lao động; Ba là, để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của
ngƣời nghèo cũng nhƣ làm tăng khả năng di chuyển tới các vùng có tiềm năng
tăng trƣởng cao.
- Về chi đầu tƣ, đầu tƣ cho cơ sở hạ tầng có tầm quan trọng to lớn trong
việc giảm nghèo. Nhận thức đƣợc điều này, Đảng và Nhà nƣớc coi cơ sở hạ
tầng là nhân tố chính trong các chƣơng trình mục tiêu chủ yều nhằm giải
quyết tình trạng nghèo. Vì vậy, cơ sở hạ tầng trong thời gian qua đã có những
cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, theo đánh giá về hiệu quả đầu tƣ chung trong đó có đầu tƣ
cơ sở hạ tầng ở CHDCND Lào, từ các chuyên gia nƣớc ngoài năm 2010 thì tỷ
lệ đầu tƣ cao cho thấy việc sử dụng vốn tích luỹ chƣa đạt hiệu quả cao. Theo
một số nhà nghiên cứu thì dựa trên phân tích phát triển kinh tế ở 17 tỉnh thành
trên cả nƣớc, ngƣời ta có thể cho rằng tác động tăng trƣởng của đầu tƣ tƣ
nhân là có lãi, còn của đầu tƣ công là lỗ. Điều khẳng định trên chƣa thể đánh
giá là chính xác hay không nhƣng có một điều chắc chắn là không phải mọi
khoản đầu tƣ công đều hiệu quả. Chỉ số giản đơn về tính hiệu quả đầu tƣ là
ICOR tỷ lệ vốn trên sản lƣợng cận biên. Chỉ số này cho biết cần đầu tƣ bao
nhiêu để có mỗi điểm phần trăm GDP cho tăng trƣởng kinh tế. ICOR càng
thấp thì khối lƣợng nguồn lực cần thiết để có thêm một điểm GDP trong tăng
trƣởng kinh tế càng nhỏ. Về cơ cấu, tỷ lệ đầu tƣ tăng trƣởng của một nền kinh
tế đƣợc thể hiện bằng cách chia tỷ lệ cho chỉ số ICOR. Tử số càng lớn tức là
khối lƣợng đầu tƣ càng lớn và mẫu số càng nhỏ chất lƣợng đầu tƣ càng cao
thì nền kinh tế càng tăng trƣởng nhanh. Tỷ lệ đầu tƣ thể hiện khối lƣợng
nguồn lực dành cho tích luỹ tài sản, chứ không thể hiện tác động của các
nguồn lực này đối với những kết quả phát triển chủ chốt, nhƣ tăng trƣởng
kinh tế hay giảm nghèo.
-101-
Từ năm 2001-2012 đã phát triển đáng kể cơ sở hạ tầng công cộng ở
khu vực miền Bắc, miền Trung và miền Nam, tỷ lệ nghèo ở các khu vực này
trƣớc đây rất cao và các công trình đầu tƣ công có thể đã góp phần quan trọng
vào việc giảm nghèo. Về lâu dài, khó có thể nâng cao tỷ lệ đầu tƣ hơn mức
hiện nay. Đồng thời khó có thể tiếp tục giảm đói nghèo với tốc độ nhƣ hiện
nay, bởi vì các nhóm đối tƣợng đặc biệt khó khăn và chủ yếu là các dân tộc
thiểu số chiếm ngày càng nhiều trong tỷ lệ đói nghèo. Chỉ giữ mức tăng
trƣởng phục vụ ngƣời nghèo thôi cũng thực sự là một thách thức lớn đối với
Đảng và Nhà nƣớc CHDCND Lào. Điều đó khiến chất lƣợng đầu tƣ vẫn là
phƣơng tiện chính để đạt đƣợc mức tăng trƣởng nhanh hơn và kết quả khả
quan hơn trong chiến dịch chống nghèo đói.
- Về chi ngân sách cho nông thôn. Phân tích hiệu quả của chi ngân sách
cho nông thôn đối với xóa đói, giảm nghèo là hết sức cần thiết vì đa số ngƣời
nghèo sống ở nông thôn. Mô hình hoá kinh tế nông thôn đƣợc xét trên các
mối quan hệ nhƣ sau:
Một là, mức độ nghèo đƣợc giả định là giảm khi sản lƣợng nông nghiệp
và việc làm phi nông nghiệp của dân nông thôn tăng, có tính đến những yếu
tố khác;
Hai là, sản lƣợng trong nông nghiệp còn phụ thuộc vào những đầu vào
đƣợc sử dụng, mức độ nghiên cứu nông nghiệp, sự phát triển hạ tầng cơ sở ở
địa phƣơng và trình độ học vấn của dân nông thôn, đây chính là hàm sản xuất
trong ngành công nghiệp;
Ba là, việc làm phi nông nghiệp đƣợc giả định là sẽ tăng theo sản lƣợng
nông nghiệp, với cơ sở hạ tầng địa phƣơng và trình độ học vấn, đây chính là
phƣơng trình về cầu lao động. Mô hình này cho phép tính đƣợc tác động giảm
nghèo trực tiếp và gián tiếp của việc chi tiêu nhiều hơn cho nghiên cứu nông
nghiệp, hoặc đầu tƣ xây dựng đƣờng nông thôn, công trình thuỷ lợi hoặc giáo dục.
-102-
- Về chi ngân sách cho các dịch vụ xã hộ, chi NSNN cho các dịch vụ xã
hội nhƣ: Giáo dục cơ bản, y tế,…là những khoản chi tiêu thiết yếu vào nguồn
dân trí nhằm tăng năng suất lao động và đáp ứng các nhu cầu cơ bản của
ngƣời nghèo, cũng nhƣ làm tăng khả năng di chuyển tới các vùng có tiềm
năng tăng trƣởng cao. Vai trò của Nhà nƣớc là vô cùng quan trọng, thậm chí
cả khi có sự tham gia của tƣ nhân. Điều đó do Nhà nƣớc điều tiết hay trợ cấp
kinh phí cho ngƣời nghèo vì họ không có khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ
bản nếu phải trả đầy đủ các khoản chi phí. Ai có thể tiếp cận với các dịch vụ
xã hội, với chi phí bao nhiêu và chất lƣợng nhƣ thế nào là những vấn đề quyết
định đến giảm nghèo, trên cơ sở đó, ta có thể đánh giá đƣợc hiệu quả sử dụng
của các dịch vụ công cho mục tiêu giảm nghèo.
Đối với giáo dục trung học cơ sở, tỷ lệ học sinh đến trƣờng đã tăng
đáng kể trong năm vừa qua nhƣng với mức độ tƣơng đối khác nhau giữa
ngƣời giàu và ngƣời nghèo. Chẳng hạn trong năm 2006, trên 80% trẻ em
trong nhóm dân số giàu nhất học trung học cơ sở, trong khi đó chỉ có hơn một
nửa số trẻ em trong nhóm nghèo nhất. Tỷ lệ học phổ thông giữa ngƣời giàu và
ngƣời nghèo là tƣơng đối cao. Một lý do chính của sự chênh lệch là những
đứa trẻ này phải tự làm việc để nuôi sống bản thân hay giúp đỡ gia đình, việc
đi học không mang lại lợi ích ngay tức thì cho chúng để bù đắp những thu
nhập bị mất trong thời gian đi học, ngoài ra còn có lý do là từ nhà đến trƣờng
rất xa, có khi phải đi bộ hơn chục cây số mới đến trƣờng.
Nguồn tài chính cho giáo dục ở CHDCND Lào trong thời gian qua
phần lớn đã đến với ngƣời nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có sự chênh
lệch giữa nhóm ngƣời giàu và nghèo. Hiện nay, sự chênh lệch này tƣơng đối
lớn nhƣng điều đó cũng cho thấy nguồn lực tài chính này cần phải hƣớng tới
ngƣời nghèo nhiều hơn nữa. Ngoài ra, sự chênh lệch còn thể hiện ở kết quả
học tập đối với những trẻ em đƣợc đi học.
-103-
Về dịch vụ y tế cho ngƣời nghèo: Y tế ở CHDCND Lào trong thời gian
qua đã đạt đƣợc những kết quả đáng kể, đã đạt đƣợc những tiến bộ rất ấn
tƣợng trong việc giảm tỷ lệ tử vong trong bà mẹ và trẻ sơ sinh, tỷ lệ tử vong
trẻ em. Sức khoẻ sinh sản cũng đã đƣợc cải thiện nhiều. Tuy nhiên, ngành y tế
vẫn còn đang trong giai đoạn chuyển đổi. Các công cụ chính sách mới đƣợc
xây dựng, trong đó có phí của ngƣời sử dụng, bảo hiểm y tế và các quỹ chăm
sóc sức khoẻ cho ngƣời nghèo. Những công cụ này có đặc điểm chung là tập
trung giải quyết tài chính cho y tế. Việc phân bổ nguồn lực này dựa vào hai
kênh chủ yếu: Một là, phân bổ theo quy mô dân số có tính đến yếu tố chênh
lệch giữa các vùng, các miền; Hai là, phân bổ theo hình thức các Chƣơng
trình sức khoẻ quốc gia.
* Các tiêu chí, chuẩn mực đánh giá nghèo đói ở CHDCND Lào hiện
nay:
(1) Các tiêu chí đánh giá nghèo đói ở CHDCND Lào hiện nay:
Ở CHDCND Lào hiện nay không chỉ thiên về tiêu chí thu nhập bình
quân đầu ngƣời mà còn xem xét cả tiêu chí chất lƣợng sống, trong đó tiêu chí
phát triển con nghƣời (HDI) đƣợc quan niệm nhƣ là một trong những nguồn
lực ở CHDCND Lào trong thế kỷ XXI.
Dựa trên định hƣớng tiêu chí đánh giá nghèo đói trên thế giới, hiện nay
ở CHDCND Lào đang sử dụng một loại các thƣớc đo nhƣ: Lấy lƣơng thực, tài
sản, thu nhập, có con cháu đi học cấp I trở lên và sống theo quy định của Bộ
Y tế để đánh giá mức độ nghèo đói.
Trong một loạt các tiêu chí đánh giá nghèo đói nhƣ: Thu nhập, nhà ở,
tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu gia đình, hƣởng thụ văn hóa,…thì các tiêu chí thu
nhập bình quân nhân khẩu một tháng hoặc một năm đƣợc xác định là tiêu chí
chính. Các tiêu chí khác đƣợc xem xét thêm khi đánh giá mức độ nghèo đói.
-104-
Nhận thức lấy thu nhập bình quân đầu ngƣời là tiêu chí đánh giá nghèo
đói đƣợc tính bằng tiền. Tuy nhiên, với một nƣớc còn ở trình độ kém phát
triển và tập quán sinh hoạt ở CHDCND Lào thì gạo cũng đƣợc lấy làm thƣớc
đo đánh giá nghèo đói. Đặc biệt đối với ngƣời nghèo đói nói chung và nông
dân nghèo ở CHDCND Lào nói riêng, chỉ tiêu số lƣợng kg gạo nếp bình quân
đầu ngƣời/tháng là rất có ý nghĩa và rất thực tế. Việc chọn gạo nếp làm đơn vị
đo lƣờng mức độ nghèo của nông dân không phái là quay trở lại chế độ trao
đổi hiện vật giản đơn mà thực chất là một bƣớc thực tế hóa khái niệm về thu
nhập ở CHDCND Lào.
(2) Các chuẩn mực đánh giá nghèo đói ở CHDCND Lào hiện nay:
Trong quá trình nghiên cứu nghèo đói và thực hiện chƣơng trình xóa
đói giảm nghèo ở CHDCND Lào, Ngân hàng thế giới (WB) cũng đƣa ra hai
mức chuẩn nghèo đối với CHDCND Lào. Thứ nhất, là số tiên cần thiết để
mua một số lƣơng thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu dinh dƣỡng với lƣợng
2.100kcalo/ngƣời/ngày, gọi là chuẩn nghèo về lƣơng thực thực phẩm. Thứ
hai, là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lƣơng thực thực phẩm và chi
tiêu cho các nhu cầu phi lƣơng thực thiết yếu khác gọi là chuẩn nghèo chung.
Theo quan niệm của WB ngoài chỉ tiêu tối thiểu về lƣơng thực để đảm bảo đủ
lƣợng 2.100kcalo/ngƣời/ngày còn có những khoản chi tiêu tối thiểu phi lƣơng
thực, thực phẩm. Do đó chuẩn nghèo chung có mức cao hơn chuẩn nghèo
lƣơng thực, thực phẩm.
Còn ở CHDCND Lào thì có 4 chuẩn mực để xác định tình trạng nghèo
đói của hộ gia đình, chẳng hạn nhƣ:
Một là, có nhà tƣơng đối tốt, một tầng trở lên ( nhà gỗ hay nhà xây );
Hai là, có cơm đủ ăn cả năm, mức sống tối thiểu quy ra gạo nếp là
135kg/ngƣời/năm;
Ba là, có trẻ em đi học và tốt nghiệp cấp I trở lên;
-105-
Bốn là, mức sống đúng theo quy định của Bộ Y tế (ăn, ở, uống sạch).
Với 4 tiêu chuẩn trên thì hộ nào đạt dƣới mức này thì đƣợc thuộc vào
hộ nghèo. Từ mức này trở lên thì thoát nghèo.
Năm 2001-2005, Ủy ban xóa đói giảm nghèo đã đặt ra tiêu chuẩn hộ
gia đình, bản và khu vực trọng điểm đã hoàn thành bƣớc đầu về phát triển.
* Cấp gia đình: Là những gia đình đáp ứng đƣợc yêu cầu thiết yếu cơ
bản về sinh hoạt hàng ngày nhƣ:
- Có đủ lƣơng thực để ăn (có gạo nếp16kg/tháng/ngƣời).
- Có nhà ở kiên cố vững vàng.
- Hộ gia đình có thu nhập ổn định bình quân 85.000 kíp/tháng/ngƣời,
đảm bảo chi tiêu trong sinh hoạt nhƣ: Mặc, đồ dùng trong gia đình, y tế, chi
phí học hành của con cái,…
- Ngƣời lớn trong gia đình có độ tuổi từ 15-45 tuổi phải biết chữ, trẻ em
trong độ tuổi đi học phải đƣợc học hành.
- Thực hiện khẩu hiệu 3 sạch nhƣ: Ăn sạch, uống sạch, ở sạch.
- Có phƣơng tiện đi lại thuận tiện.
- Có sự đoàn kết trong nội bộ gia đình và với các gia đình lân cận.
- Mọi ngƣời trong gia đình có ý thức tự giác trong việc thực hiện các
công việc chung của bản.
* Cấp bản:
- Số hộ gia đình trong bản phải chiếm trên 90% có gạo đủ ăn
16kg/tháng/ngƣời.
- Số hộ gia đình trong bảo phải chiếm trên 75% có nhà ở kiên cố nhà
cấp 4.
- Số hộ gia đình trong bản phải chiếm trên 80% ổn định về nghề
nghiệp. Thu nhập chung của bản bình quân 85.000 kíp/tháng.
-106-
- Trong bản có trƣờng tiểu học hay bản khác có nhƣng có thể đi học
đƣợc, trẻ em trong độ tuổi đi học phải đƣợc đi học, ngƣời lớn có độ tuổi từ
15-45 có tỷ lệ biết chữ trên 85%.
- Mọi gia đình trong bản thực hiện đƣợc 3 sạch nhƣ: Ăn sạch, uống
sạch, ở sạch.
- Trong bản có hộp thuốc, hiệu bán thuốc hay trạm y tế.
- Có đƣờng xe ôtô vào tới bản đƣợc 2 mùa vì ở CHDCND Lào thì có
hai mùa, là mùa mƣa và mùa khô, có điện thắp sáng ở những chỗ có điều kiện
thuận lợi.
- Bản có sự ổn định về trật tự xã hội.
- Các tổ chức Đảng, Chính quyền, Quần chúng phải vững mạnh và hoạt
động có hiệu quả.
* Cấp khu vực trọng điểm:
- Các bản trong khu vực trọng điểm chiếm trên 90% có gạo đủ ăn;
- Các bản trong khu vực trọng điểm phải thực hiện hoàn tất việc giao
đất, khoán rừng, chấm dứt viêc phát rẫy làm nƣơng và trồng cây thuốc phiện,
các hộ nông dân có nghề nghiệp ổn định, có sự phát triển sản xuất hàng hóa,
thu nhập bình quân 85.000 kíp/tháng/ngƣời;
- Các bản trong khu vực trọng điểm phải có trên 75% nhà ở kiên cố;
- Nhân khẩu trong khu vực trọng điểm có độ tuổi từ 15 trở lên phải biết
chữ với trình độ cấp II hay cao hợn chiếm trên 85%; trẻ em trong độ tuổi đi học
phải đƣợc đi học; khu vực trọng điểm phải có trƣờng cấp II, có trạm tập huấn
và dạy nghề, có trạm thí nghiệm và thực nghiệm ở những nơi có điều kiện;
- Có trạm y tế và bệnh viện nhỏ cỡ 12-15 giƣờng;
- Có hội chợ để trao đổi mua bán hàng hóa và các sinh hoạt văn hóa
khác trong khu vực trọng điểm;
- Có hơn 75% số bản thực hiện 3 sạch;
-107-
- Có đƣờng xe ô tô đi lại đƣợc hai mùa tới các bản trong khu vực trọng điểm;
- Bản phải đƣợc dùng điện ở những nơi có đủ điều kiện có nguồn điện;
- Có văn phòng và có Ban chỉ đạo trọng điểm thƣờng trực ở cụm trọng
điểm thƣờng xuyên.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CƠ CẤU CHI NSNN Ở CHDCND LÀO GIAI
ĐOẠN 2001-2012 - THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
2.3.1. Những thành tựu đạt đƣợc
Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế nói
chung, đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nƣớc nói riêng,
về cơ bản đã tạo đƣợc những biến đổi sâu sắc cả về nhận thức lý luận và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn. Chi NSNN từng bƣớc đƣợc cơ cấu lại theo hƣớng
tích cực và chi hiệu quả hơn để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Cụ thể các
thành tựu đạt đƣợc kể từ khi ban hành luật NSNN năm 2006 có thể khái quát
nhƣ sau:
- Trong chi đầu tƣ phát triển đƣợc ƣu tiên bố trí với tốc độ tăng cao hơn
tốc độ tăng chi thƣờng xuyên. Đặc biệt chi đầu tƣ trong nƣớc ƣu tiên cho chi
đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là chi cho các công trình cơ sở hạ tầng
nhƣ: Mạng lƣới giao thông, viễn thông,...
- Trong chi thƣờng xuyên là ƣu tiên chi cho sự nghiệp xã hội mà chủ
yếu là phát triển giáo dục, y tế, quản lý hành chính, đảm bảo an ninh quốc
phòng và dành tỷ lệ thích hợp cho sự nghiệp kinh tế. Ƣu tiên chi cho con
ngƣời nhƣ: Chi tiền lƣơng và các khoản có tính chất lƣơng, hạn chế các khoản
chi hội họp,...
- Bố trí đảm bảo kinh phí trang trải các nghĩa vụ nợ đến hạn, phù hợp
với thực tế nghĩa vụ nợ chi trả nợ cũng tăng dần trong những năm qua để tạo
uy tín tốt trong quan hệ quốc tế và chi khác cũng đƣợc bố trí đúng mức.
-108-
- Chi tiêu NSNN đƣợc thực hiện theo hƣớng cơ cấu lại, tiếp tục xoá bao
cấp. Các khoản chi bao cấp qua NSNN nhƣ: Chế độ chi bù giá, bù lỗ trực tiếp
cho doanh nghiệp Nhà nƣớc cơ bản đã đƣợc chấm dứt.
- Tăng cƣờng nhiều biện pháp để thực hành tiết kiệm, nâng cao hiệu
quả sử dụng nguồn vốn NSNN nhƣ: Xem xét quy định lại các định mức chi
tiêu hành chính, nghiên cứu để áp dụng cơ chế khoán chi cho các cơ quan
hành chính, sự nghiệp và các hoạt động công ích đã đem lại nhiều hiệu quả
thiết thực; nâng cao đƣợc chất lƣợng, tiết kiệm đƣợc nguồn lực tài chính
Nhà nƣớc.
Tóm lại, cơ cấu chi NSNN đã có những chuyển biến tích cực, đang
thích ứng dần với cơ chế kinh tế mới. Quy mô NSNN tăng liên tục qua các
năm đã cho phép Nhà nƣớc giải quyết khá tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH
quan trọng. Yếu tố nay đã cho phép khắc phục đƣợc cơ bản tình trạng bất cập
cơ cấu chi NSNN, từng bƣớc lành mạnh hóa hoạt động NSNN.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Một là, trong chi đầu tƣ phát triển từ nguồn vốn NSNN, thì tính tập
trung, dứt điểm và hiệu quả đầu tƣ vẫn đang là vấn đề. Cơ cấu chi, cơ cấu đầu
tƣ chƣa có vai trò tác động rõ rệt đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao
hiệu quả chi ngân sách. Đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng xã
hội quá thấp trong tƣơng quan xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Chi đầu tƣ xây
dựng cơ bản còn quá dàn trải, lãng phí ngay từ khâu thiết kế và lựa chọn dự
án đầu tƣ. Mặc dù các dự án đầu tƣ phải trải qua nhiều vòng thẩm định, nhiều
khâu xét duyệt, nhƣng có những dự án không nằm trong quy hoạch hoặc đã
có trong quy hoạch nhƣng chƣa đƣợc đƣa vào kế hoạch xây dựng, vẫn đƣợc
triển khai. Biểu hiện rõ nét nhất là trong các chƣơng trình phát triển, sản xuất
gỗ, trồng một số cây công nghiệp, cây ăn quả,...
-109-
Hai là, tuy đã giảm nhiều khoản chi bao cấp từ NSNN nhƣng nhiều nội
dung bao cấp vẫn còn tồn tại ngay trong quá trình lập và chấp hành NSNN.
Ngân sách vẫn còn chi cấp vốn lƣu động hoặc gia hạn nợ đọng thuế hoặc
khoanh nợ, đảo nợ, giảm nợ cho các doanh nghiệp nhà nƣớc. Chính phủ vẫn
còn đề nghị thực hiện các bịên pháp bao cấp cho các doanh nghiệp nhà nƣớc
(DNNN) qua lãi suất, qua bảo lãnh vay, những biện pháp này cần đến nhiều tỷ
kíp và gây không ít khó khăn trong điều hành NSNN. Các cấp, các ngành đều
có chƣơng trình tổ chức lại, sắp xếp, cổ phần hoá, chuyển đổi DNNN, nhƣng
triển khai chậm; hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN thấp, khu vực
DNNN vẫn có tƣ tƣởng ỷ vào bao cấp từ NSNN. Tình trạng bảo hộ, bao cấp
của Nhà nƣớc đối với DNNN có chiều hƣớng gia tăng (các khoản chi từ nguồn
NSNN hỗ trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức tài chính của Nhà nƣớc bù lãi suất,
bổ sung các quỹ hỗ trợ trong năm qua chiếm tỷ trọng tƣơng đối nhiều tổng chi
NSNN cho đầu tƣ phát triển kinh tế, nếu tính cả các khoản xoá nợ, khoanh nợ,
bù lỗ, xoá hoặc giảm lãi suất vốn vay thì mức bảo hộ còn lớn hơn nhiều).
Ba là, trong chi thƣờng xuyên ngoài việc bao cấp một số lĩnh vực hoạt
động thì cơ cấu nội dung chi và sắp xếp nội dung, lĩnh vực chi còn nhiều bất
cập, xu hƣớng vẫn chú trọng tới mục tiêu chi hơn là hiệu quả chi. Vì vậy, mức
độ bảo đảm của chi thƣờng xuyên cho khu vực hành chính còn quá thấp, nên
hiệu quả quản lý Nhà nƣớc không đƣợc phát huy tốt. Quá trình tinh giảm biên
chế và bộ máy diễn ra chậm. Công tác xã hội hoá đã đƣợc thúc đẩy, nhƣng kết
quả còn hạn chế. Những khoản chi vì lợi ích lâu dài, yếu tố cơ sở đảm bảo
tăng trƣởng bền vững còn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức (các khoản chi cho
khoa học công nghệ, bảo vệ môi trƣờng, giáo dục, đào tạo nghề,...). Những
khoản chi này chỉ chiếm vị trí rất khiêm tốn trong tổng chi NSNN hàng năm.
Tóm lại, việc đổi mới cơ cấu chi NSNN trong giai đọan 2001-2012 vừa
qua tuy đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng kể, bảo đảm thực hiện thành công
-110-
các nhiệm vụ chính trị, duy trì sự ổn định vĩ mô và vai trò chủ đạo của kinh tế
Nhà nƣớc. Tuy nhiên, nhìn chung, cũng vẫn chƣa đƣợc điều hành trên nền
tảng lý luận về tài chính nhà nƣớc trong kinh tế thị trƣờng, chƣa xây dựng
đƣợc chiến lƣợc NSNN rõ ràng. Việc sử dụng NSNN làm công cụ chính sách
chủ yếu mang tính thụ động, đối phó với tình hình diễn biến kinh tế cụ thể mà
không có một định hƣớng chiến lƣợc lâu dài. Trong xây dựng và điều hành
công tác quản lý chi tiêu NSNN còn thiếu vắng các quan điểm táo bạo, tích
cực nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh chóng, ổn định và bền vững.
Những hạn chế nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Cơ chế chính sách trong lĩnh vực tài chính và chi tiêu NSNN chƣa
đồng bộ, chƣa đầy đủ; mặt khác còn lạc hậu, không phù hợp với thực tế, nhất
là đối với lĩnh vực chi thƣờng xuyên. Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nƣớc
đã từng bƣớc hoàn chỉnh và điều chỉnh khung pháp lý cho hoạt động chi
NSNN. Tuy nhiên, hệ thống khuôn khổ pháp luật này vẫn đang còn đƣợc
nghiên cứu và hoàn thiện. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu ảnh hƣởng đến
chất lƣợng của toàn bộ quá trình quản lý chi NSNN.
- Công tác phân tích và dự báo chƣa đƣợc chú trọng, số liệu dự báo chủ
yếu mang tính định tính, chƣa có dự báo mang tính định lƣợng, cùng với trình
độ kế hoạch hoá của các khoản chi tiêu của đơn vị còn hạn chế. Vì vậy, dẫn
đến tình trạng dự toán của các đơn vị chƣa dự trù hết đƣợc những biến động có
thể xảy ra, điều chỉnh dự toán hoặc bổ sung dự toán thƣờng xuyên xảy ra.
- Cơ sở vật chất sử dụng cho công tác tổ chức dự báo và lập dự toán
chƣa đƣợc quan tâm thích đáng. Hệ thống tin học chƣa đƣợc thiết lập một
cách hiện đại, vì vậy tốn rất nhiều công sức và thời gian cho công tác lập và
phân bổ dự toán chi NSNN.
- Mặc dù hiện nay, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phƣơng,
thủ trƣởng các đơn vị sử dụng NSNN cấp dƣới đƣợc quy định rõ trong các
-111-
văn bản của Nhà nƣớc song trách nhiệm này chƣa đƣợc đề cao, chƣa có chế
tài đủ mạnh để xử lý đối với những trƣờng hợp sử dụng không đúng đối
tƣợng, mục tiêu theo quy định của Nhà nƣớc, của luật định.
- Trình độ đội ngũ cán bộ của các cơ quan Nhà nƣớc chƣa cao và nhiều
ngƣời không đƣợc đào tạo một cách chuyên sâu và bài bản dẫn đến việc quản
lý nguồn tài chính Nhà nƣớc dễ bị thất thoát và không hiệu quả.
- Một số các quy định của chế độ kiểm soát, thanh toán vốn hiện tại đã
bộc lộ những hạn chế làm giảm hiệu quả và khả năng kiểm soát của Kho bạc
Quốc gia.
- Tập quán chi tiêu và sử dụng tiền mặt của ngƣời dân ảnh hƣởng đến
việc quản lý cấp phát thanh toán bằng tiền mặt trong chi NSNN. Hệ thống
thanh toán, công nghệ thanh toán chƣa đủ mạnh, còn lạc hậu.
- Các thủ tục hành chính còn rƣờm rà, văn bản pháp quy của Nhà nƣớc
chồng chéo giữa các cấp, các ngành; công tác phối kết hợp giữa các cơ quan
Kế hoạch và Đầu tƣ, Tài chính và Kho bạc nhiều khi không đồng bộ, thống
nhất gây cản trở đến quá trình chấp hành NSNN.
- Công tác kiểm tra, kiểm soát chƣa đƣợc chú trọng. Cơ quan tài chính,
Kho bạc quốc gia chƣa sát sao trong công tác kiểm tra, kiểm soát các đơn vị
sử dụng NSNN, các đơn vị chƣa thực sự chấp hành tốt công tác quản lý chi
tiêu tại đơn vị dẫn đến việc sử dụng đồng vốn NSNN không đúng mục tiêu.
-112-
Kết luận chƣơng 2
Chƣơng 2 đã tập trung trình bày thực trạng bố trí cơ cấu chi NSNN ở
CHDCND Lào trong giai đoạn 2001-2012, trong đó đã đi vào các nội dung
chủ yếu nhƣ sau:
- Thứ nhất, khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình KT-XH ở CHDCND
Lào nhằm đƣa ra những nét chung nhất về những khó khăn, thuận lợi để phát
triển KT-XH ở CHDCND Lào.
- Thứ hai, trình bày thực trạng bố trí cơ cấu chi NSNN ở CHDCND
Lào giai đoạn 2001-2012 và đánh giá các tác động của cơ cấu chi NSNN ở
CHDCND Lào giai đoạn này đối với đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xóa đói giảm nghèo.
- Thứ ba, đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những
hạn chế trong bố trí cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012
làm cơ sở đề xuất những giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND
Lào thời gian tới.
-113-
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC
Ở CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN 2015-2020
3.1. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KT-XH VÀ YÊU CẦU VỀ CHI NSNN
GIAI ĐOẠN 2015-2020
3.1.1. Định hƣớng chung
- Một là, phát triển nền kinh tế Quốc gia về mọi mặt: Xây dựng một cơ
sở vững chắc cho tăng trƣởng kinh tế bền vững dựa trên những nguồn lực,
công nghệ sẵn có nhằm đƣa đất nƣớc thoát khỏi tình trạng của một nƣớc kém
phát triển, giảm đói nghèo; phát triển kinh tế là trọng tâm, cốt lõi; hỗ trợ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, hƣớng tới trở thành một nƣớc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phân phối thu nhập, giảm phân hoá giàu
nghèo; thực hiện nền kinh tế thị trƣờng có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc,
thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời cũng tích cực thúc đẩy sự
tham gia của mỗi ngƣời dân vào quá trình phát triển KT-XH đất nƣớc.
- Hai là, thực hiện những thay đổi, cải cách năng động, hƣớng vào
phát triển khu vực nông thôn, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của
ngƣời dân, thực hiện công bằng xã hội, giảm phân hoá giữa khu vực thành
thị và nông thôn, giữa ngƣời giàu và ngƣời nghèo (thông qua nâng cao năng
lực và giáo dục), hỗ trợ sản xuất hàng hoá, chăm sóc sức khoẻ con ngƣời qua
việc giữ gìn vệ sinh môi trƣờng tốt hơn, kiểm soát dịch bệnh, phát triển cơ
sở hạ tầng.
- Ba là, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội phải đi đôi với nhau, thúc
đẩy cải thiện cuộc sống (cả về vật chất lẫn tinh thần) bằng các biện pháp cải
cách mạnh mẽ về giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, ví dụ nhƣ: Thông
qua nâng cao và mở rộng giáo dục, phát triển trí tuệ, cung cấp các dịch vụ
-114-
giáo dục tốt hơn, tiếp tục gìn giữ và phát huy những giá trị văn hoá dân tộc
cùng với mở cửa giao lƣu quốc tế, nâng cao hiệu quả của các phƣơng tiện
thông tin, truyền thông.
- Bốn là, nâng cao việc thực thi và hiệu quả của công tác quản lý hành
chính, cải cách hành chính, thực hiện dân chủ theo quy định của pháp luật,
đảm bảo bình đẳng và công bằng xã hội, chống tham nhũng, gia tăng tiết kiệm
và giảm lãng phí. Chú ý đến những khó khăn, thách thức về mặt xã hội một
cách kịp thời, phân công trách nhiệm và phân định vai trò rõ ràng giữa Trung
ƣơng với chính quyền địa phƣơng các cấp.
- Năm là, bảo đảm quốc phòng an ninh trên toàn lãnh thổ để duy trì sự
ổn định chính trị, trật tự xã hội; cải thiện các cơ chế và thực thi các quy tắc,
quy định về di dân, tôn trọng các quy định của pháp luật.
- Sáu là, nâng cao các kỹ năng, năng lực nguồn nhân lực để phù hợp
với sự phát triển của đất nƣớc; phân bổ, tổ chức lại và tối ƣu hoá việc sử dụng
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tăng cƣờng hợp tác với các Quốc gia thân
thiện trong khu vực và thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển KT-XH,
tăng cƣờng hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh (tập trung
vào đầu tƣ trong và ngoài nƣớc), hƣớng tới tăng trƣởng kinh tế mạnh mẽ, phát
triển cơ sở hạ tầng một cách có hệ thống, và hoạch định các chính sách
khuyến khích đầu tƣ vào các khu vực ƣu tiên phát triển, các khu vực sản xuất,
và các khu vực xa xôi gặp nhiều khó khăn.
- Bảy là, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển
các ngành và các khu vực kinh tế tập trung, trong đó phát huy những điều
kiện thuận lợi và các yếu tố tích cực để thu hẹp khoảng cách về trình độ phát
triển với các nƣớc khác. Tập trung vào các dự án lớn, thúc đẩy các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các đơn vị sản xuất áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
công nghệ nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
-115-
3.1.2. Các mục tiêu vĩ mô
* Về Kinh tế vĩ mô:
- Mục tiêu đạt tốc độ tăng trƣởng GDP không ít hơn 8%/ năm. Trong
khu vực nông lâm nghiệp tăng trƣởng ít nhất 3%/năm chiếm 23% GDP; khu
vực công nghiệp tăng 15%/năm chiếm 39% GDP; và khu vực dịch vụ tăng
trƣởng 6,5%/năm chiếm 38% GDP. GDP bình quân đầu ngƣời đạt 1.700 USD
(với tỷ giá quy đổi 8.500 kíp/USD).
- Tỷ lệ lạm phát giữ ở mức thấp hơn tốc độ tăng trƣởng kinh tế, duy trì
tỷ giá hối đoái ổn định, và giữ mức biến động tỷ giá đồng kíp không quá 5%
so với các ngoại tệ mạnh khác.
- Tỷ lệ tiêu dùng trong toàn xã hội chiếm 75% GDP, đầu tƣ (bao gồm
đầu tƣ công và đầu tƣ tƣ nhân) ở mức 40% GDP, xuất khẩu ở mức 35% GDP
và nhập khẩu là 50% GDP.
- Thu nội địa hàng năm ở mức 16-17% GDP, tổng thu ngân sách (bao
gồm các khoản viện trợ) ở mức 18-19% GDP và thâm hụt NSNN không vƣợt
quá 3-5%/năm. Tăng lƣợng tiền gửi lên khoảng 20%/năm bằng 30% GDP.
* Trên lĩnh vực kinh tế:
- Sản xuất lúa gạo đạt 4 triệu tấn trên diện tích 1,04 triệu ha và đạt năng
suất khoảng 3,9 tấn/ha.
- Mục tiêu tăng trƣởng về chăn nuôi đạt 4-5%/ năm, trong đó có chăn
nuôi trâu, bò khoảng 2-3%; lợn và gia cầm tăng khoảng 6%.
- Mục tiêu tăng trƣởng về xuất khẩu hàng năm khoảng 18% và nhập
khẩu tăng 8%/năm.
- Mở rộng đƣờng dây tải điện 22 KV và cung cấp điện cho các khu vực
chƣa có điện gồm cả khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa phấn đấu đạt
đƣợc 80% số hộ trong cả nƣớc.
-116-
- Tăng cƣờng khai thác mỏ, chế biến khoáng sản chính nhƣ: Sản lƣợng
đồng đạt 86.200 tấn/năm; sản lƣợng vàng đạt 6 tấn/năm; và sản lƣợng than
đạt 728.000 tấn/năm.
- Phấn đấu thu hút khoảng 2,8 triệu lƣợt khách du lịch mỗi năm, khám
phá và mở rộng thiên nhiên, văn hóa, lịch sử nhằm mục đích có ít nhất thêm 2
di sản văn hóa thế giới.
- Ngành hàng không phấn đấu tăng trƣởng 8-10%/năm.
- Cung cấp nƣớc sạch cho 67% ngƣời dân trong các khu vực đô thị.
- Mở rộng dịch vụ mạng và truyền thông đến các vùng nông thôn, phủ
sóng đến 90% các bản trong cả nƣớc; tăng thêm số thuê bao di động và kết
nối điện thoại cố định đạt 80% dân số.
* Về mặt xã hội:
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dƣới 19% tổng dân số và xuống dƣới 11%
tổng số hộ trong cả nƣớc vào năm 2015.
- Tăng phổ cập tiểu học lên 98% tổng dân số trong năm 2015; tỷ lệ biết
chữ của ngƣời dân trong độ tuổi từ 15-23 đạt 99%.
- Giảm tỷ lệ trẻ em tử vong dƣới 5 tuổi ở mức 70/100 đứa trẻ đƣợc sinh
ra; tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh ở mức 45/1000 trẻ; Trẻ em dƣới 5 tuổi bị thiếu
cân giảm xuống mức 20% và suy dinh dƣỡng là 34%; giảm tỷ lệ tử vong ở
các bà mẹ không vƣợt quá 260 phụ nữ/ 100.000 ca sinh.
- Số ngƣời dân đƣợc sử dụng nƣớc sạch tăng lên 80% và phòng vệ sinh
ở mức 60% tổng số dân.
- Kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp trung bình không vƣợt quá 2%, trong đó
,Giảm số lƣợng lao động làm việc tại khu vực nông lâm nghiệp xuống còn
70%; lao động tại khu vực công nghiệp xây dựng và khai thác mỏ tăng lên
7%; và lao động trong khu vực dịch vụ lên 23% tổng số lao động.
-117-
- Tăng số bản văn hóa lên con số hơn 700 bản; số gia đình văn hóa lên
hơn 100.000 hộ; phát triển thêm ít nhất 4 khu công viên cấp Trung ƣơng và ít
nhất mỗi tỉnh 1 công viên.
* Về môi trường:
- Đảm bảo độ che phủ của rừng ở mức 65% tổng diện tích rừng của
đất nƣớc.
- Bảo tồn các nguồn khoáng sản, giữ gìn các nguồn tài nguyên, khoáng
sản ở mức hơn 65% tổng số tài nguyên, khoáng sản trên cả nƣớc; duy trì sự
ổn định của các nguồn tài nguyên đất nƣớc và giúp giảm nhẹ tình trạng biến
đổi khí hậu.
* Về đầu tư: Để đảm bảo mục tiêu tăng trƣởng kinh tế 8%/năm, ƣớc
tính ngân sách dành cho đầu tƣ, phát triển ở mức khoảng 32% GDP, trong đó
đầu tƣ công khoảng 43-47 nghìn tỷ kíp; đầu tƣ tƣ nhân trong và ngoài nƣớc và
các tài sản chuyển đổi thành vốn ở mức 64-70 nghìn tỷ kíp.
* Về cân đối NSNN: Kỳ vọng về tổng thu NSNN bình quân giai đoạn
2013-2020 đạt khoảng 18-19% GDP; tổng chi Ngân sách Nhà nƣớc ở mức
20-22% GDP; và thâm hụt ở mức 3-5% GDP.
* Cán cân lao động: Đến năm 2020 ƣớc tính nhu cầu về lao động sẽ ở
mức 3,26 triệu lao động song nguồn cung lao động sẽ chỉ cung ứng đƣợc ở
mức 3,17 triệu lao động. Trong đó, lao động làm việc ở khu vực nông nghiệp
tăng khoảng 209.669 lao động, khu vực công nghiệp tăng khoảng 14.272 lao
động, và khu vực dịch vụ tăng khoảng 34.431 lao động.
3.2.QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NSNN TRONG THỜI GIAN TỚI
3.2.1.Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải nhằm phát huy hiệu quả cao nhất
của việc sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nƣớc
Hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách thể hiện ở các mặt tiết kiệm, đƣợc
việc và tác động vĩ mô của chi NSNN. Hiện tại, hiệu quả chi NSNN và hiệu
-118-
lực của các cơ chế, chính sách chi ngân sách ở CHDCND Lào còn thấp; chi
NSNN còn dàn trải, thiếu tập trung, thiếu trọng điểm, còn chứa đựng những
dáng dấp cấp phát, thụ động, chịu nhiều sức ép tài chính khi điều hành.
Trong giới hạn quy mô NSNN còn nhỏ nhƣng phải đảm nhiệm nhiều
nhiệm vụ cùng một lúc thì vấn đề lựa chọn trọng tâm trọng điểm chi để nhanh
chóng phát huy hiệu quả chi thông qua đổi mới cơ cấu chi NSNN lại càng
quan trọng.
3.2.2. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải căn cứ vào nhu cầu về hàng hóa
dịch vụ công cộng ngày càng tăng của đời sống KT-XH
Mục tiêu của sự nghiệp phát triển KT-XH, công nghiệp hóa-hiện đại
hóa đất nƣớc là dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng văn minh, nền kinh tế
càng phát triển. Mục tiêu trên đƣợc thể hiện thông qua mức độ thỏa mãn nhu
cầu về hàng hóa dịch vụ công cộng cho đời sống KT-XH.
Khi CHDCND Lào chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng thì phải quan tâm
đến hiệu quả cuối cùng của chi tiêu công cộng bởi trong nền kinh tế thị trƣờng,
vai trò hàng đầu của Nhà nƣớc là tăng cƣờng phúc lợi xã hội. Do đó, chi NSNN
trƣớc hết phải đƣợc tập trung vào việc đầu tƣ cung cấp những hàng hóa dịch vụ
công cộng mà thị trƣờng không thể hoặc cung cấp không đủ.
Với chủ trƣơng “ Xã hội hóa”. mà thực chất là đa dạng hóa các nguồn
tài chính cho các hoạt động xã hội, trong đó nguồn lực tài chính của Nhà nƣớc
có vị trí chủ đạo, thực sự là cách lựa chọn đúng đắn để phát huy sức mạnh
tổng hợp của tài chính trong điều kiện kinh tế thị trƣờng.
Ngoài ra, Nhà nƣớc có thể lựa chọn đầu tƣ và cung cấp một số hàng
hóa dịch vụ cá nhân có tính then chốt mũi nhọn với cơ chế đầu tƣ thích hợp
nhƣ góp vốn cổ phần, đầu tƣ trực tiếp nhƣng trách nhiệm chính trong cung
cấp hàng hóa, dịch vụ này phải thuộc về các thành phần kinh tế.
-119-
3.2.3.Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải gắn chặt với chiến lƣợc phát triển
KT-XH và chiến lƣợc tài chính-tiền tệ của đất nƣớc
Hệ thống mục tiêu chiến lƣợc phát triển KT-XH, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa là nền tảng, vừa là đối tƣợng phục vụ chi
NSNN, trong điều kiện đó, đổi mới cơ cấu chi NSNN phải:
- Tạo đủ nguồn lực để thực hiện các mục tiêu của chiến lƣợc phát triển
KT-XH giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030.
- Nâng cao vai trò và tính chủ động của NSNN trong kinh tế thị trƣờng,
hoàn thiện công cụ chi NSNN sắc bén, đồng bộ trong hệ thống các công cụ
điều tiết vĩ mô đối với nền KT-XH, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền
vững, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đảm bảo an sinh xã hội.
- Biến quản lý chi NSNN thành cầu nối gắn liền việc thực hiện các
nhiệm vụ chính trị với việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính có hạn.
Đảng và Nhà nƣớc đã xác định chiến lƣợc phát triển KT-XH đến năm
2020 và các năm tiếp theo trên cơ sở nhận thức đúng đắn và vận dụng một
cách hợp lý các quy luật kinh tế khách quan, đánh giá đúng thực trạng, phân
tích khoa học triển vọng phát triển KT-XH của đất nƣớc trong môi trƣờng vận
động của hội nhập khu vực và quốc tế.
Quan điểm chủ đạo của chiến lƣợc phát triển KT-XH trong thời gian
tới là phát triển nhanh và bền vững, tăng trƣởng đi đôi với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội. Với chiến lƣợc phát triển KT-XH nhƣ vậy đòi hỏi phải dự
tính đƣợc các nguồn thu của NSNN bao gồm các nguồn lực trong và ngoài
nƣớc có thể huy động đƣợc. Từ đó xác lập cơ cấu chi ngân sách một cách hợp
lý, tối ƣu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu sao cho việc thực hiện chiến lƣợc phát
triển KT-XH phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.
3.2.4. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý
KT-XH của Nhà nƣớc
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Nhà nƣớc phù hợp với cơ
chế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ hết sức
-120-
quan trọng. Trong những năm qua cùng với đổi mới cơ chế kinh tế, vai trò
Nhà nƣớc đã chuyển dần từ ngƣời quản lý trực tiếp và duy nhất mọi hoạt động
KT-XH sang quản lý có tính vĩ mô trên cơ sở khuôn khổ pháp lý mang tính
thực tiễn, toàn diện và ngày càng rõ ràng, công khai đã hỗ trợ cho nền kinh tế
phát triển theo đúng mục tiêu đã xác định.
Tuy nhiên, trong quá trình đó, vai trò và hiệu lực quản lý Nhà nƣớc còn
thấp, các tệ nạn cửa quyền tham nhũng, hối lộ,...vẫn còn tồn tại. Vì vậy, nâng
cao vai trò quản lý Nhà nƣớc, tăng cƣờng chế độ pháp quyền là một yêu cầu
cấp bách để phục vụ cho mục tiêu ổn định chính trị, tăng cƣờng vai trò Nhà
nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng theo hƣớng xã hội chủ nghĩa và cũng là cơ
sở căn bản để thực hiện đổi mới cơ cấu chi NSNN.
Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải góp phần duy trì sự ổn định, bền vững
của tài chính Nhà nƣớc, tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy tăng trƣởng đạt tốc độ cao, liên tục trong thời gian dài, trên cơ sở đó
ổn định lâu dài nền tài chính quốc gia, góp phần ổn định chính trị xã hội.
3.2.5. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải tính đến bối cảnh hội nhập kinh tế,
tài chính quốc tế
Đổi mới cơ cấu chi NSNN đòi hỏi phải tích cực tìm thêm nguồn lực
cho phát triển KT-XH, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhƣng đồng
thời luôn phải gắn chặt với bối cảnh toàn cầu hóa về tài chính đang diễn ra
rộng khắp và liên tục trong một thế giới luôn biến động và ràng buộc chặt chẽ
với nhau nhằm bảo vệ an ninh tài chính Nhà nƣớc, góp phần bảo vệ an ninh
tài chính quốc gia, duy trì sự ổn định, bền vững của nền tài chính và ổn định
chính trị-xã hội.
Về mặt đối ngoại, việc đổi mới cơ cấu chi NSNN phải gắn với bối cảnh
thực tiễn mới, phải lƣờng trƣớc đƣợc xu hƣớng vận động của nền tài chính
Nhà nƣớc trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập tài chính, kinh tế đang
-121-
diễn ra mạnh mẽ để có giải pháp đối phó thích hợp, chủ động hội nhập hiệu
quả với khu vực và thế giới theo tốc độ và mức độ hợp lý.
3.3. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NSNN Ở CHDCND LÀO GIAI
ĐOẠN 2015-2020 VÀ TẦM NHÌN 2030
3.3.1. Nhóm các giải pháp chung
3.3.1.1. Lựa chọn thứ tự ưu tiên trong cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào,
cần tập trung chi đầu tư phát triển rồi mới đến các khoản chi thường xuyên
trên nguyên tắc hợp lý, hiệu quả.
Mục tiêu của việc xác định thứ tự ƣu tiên các nội dung chi ngân sách là
nhằm hoạch định kế hoạch chi Ngân sách Nhà nƣớc trong dài hạn. Nó thể
hiện vai trò quan trọng của NSNN trong việc đảm bảo phục vụ có hiệu quả
các nhiệm vụ phát triển KT-XH. So với các nƣớc trong khu vực cũng nhƣ trên
thế giới CHDCND Lào là một quốc gia còn nghèo, nền kinh tế còn ở trình độ
phát triển thấp, cơ cấu kinh tế lạc hậu, nhu cầu về vốn đầu tƣ là rất lớn, do đó
trong khi thu ngân sách chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu chi thì việc xác định thứ
tự ƣu tiên các khoản chi trong cơ cấu chi NSNN đƣợc xem là nhiệm vụ trọng
tâm trong quản lý điều hành chi ngân sách.
Để hoàn thành các mục tiêu phát triển KT-XH ở CHDCND Lào theo
hƣớng phát triển bền vững, cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào trong giai
đoạn 2015-2020 về nguyên tắc vẫn phải tiếp tục sắp xếp theo thứ tự ƣu tiên
cho chi đầu tƣ phát triển rồi mới đến chi thƣờng xuyên.
Chi đầu tƣ phát triển đƣợc xếp thứ tự ƣu tiên hàng đầu vì vốn đầu tƣ
ngân sách luôn đóng vai trò quan trọng mang tính quyết định trong phát triển
KT-XH, trong thời gian tới hàng năm phải dành từ 35-40% chi NSNN để đầu
tƣ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, để phát huy một cách hiệu quả nhất đồng vốn
bỏ ra, các cấp quản lý phải cân nhắc đầu tƣ vào khu vực nào, ngành nào quan
trọng then chốt, mang tính chất quyết định.
-122-
Trong cơ chế thị trƣờng có sự định hƣớng của Nhà nƣớc, vốn đầu tƣ
phát triển từ NSNN sẽ chủ yếu đầu tƣ vào xây dựng, nâng cấp các công trình
kết cấu hạ tầng KT-XH, nhất là các công trình kết cấu hạ tầng nông nghiệp và
nông thôn để tạo điều kiện thu hút vốn từ các thành phần kinh tế khác khai
thác các tiềm năng, lợi thế của các địa phƣơng để phát triển. Ngoài ra, vốn
đầu tƣ phát triển từ NSNN còn phải tập trung cho các vùng trọng điểm, các
công trình trọng điểm, các mục tiêu, nhiệm vụ ƣu tiên của chiến lƣợc, hỗ trợ
đầu tƣ phát triển hợp lý cho các vùng còn khó khăn.
Nhƣ vậy, các khoản chi đầu tƣ từ ngân sách phải từng bƣớc mang tính
định hƣớng, xóa bỏ bao cấp. Để tập trung nguồn lực đầu tƣ phát triển, phải
hạn chế các khoản chi đầu tƣ mang tính chất tiêu dùng nhƣ chi xây dựng trụ
sở cơ quan hành chính sự nghiệp.
Chi thƣờng xuyên trong NSNN bao gồm các nội dung chi phát sinh
tƣơng đối đều đặn trong những khoảng thời gian ngắn, đƣợc sắp xếp sau chi
đầu tƣ phát triển về thứ tự ƣu tiên. Tuy nhiên, không thể hiểu là trong điều
hành NSNN, Nhà nƣớc phải bằng mọi giá thắt chặt các khoản chi thƣờng
xuyên để tập trung cho chi đầu tƣ phát triển. Mục tiêu đề ra của sắp xếp thứ tự
ƣu tiên trong chi NSNN là vừa phải bảo đảm nguồn lực để phát triển, vừa
phải bảo đảm các nhu cầu chi thực sự cần thiết phục vụ hoạt động của bộ máy
Nhà nƣớc nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình.
Do vậy, phát triển KT-XH ở CHDCND Lào theo hƣớng bền vững thì
cơ cấu chi NSNN mà trong đó chi đầu tƣ phát triển phải đƣợc ƣu tiên nhƣng
chỉ trong trƣờng hợp đã thỏa mãn nhu cầu tối thiểu các khoản chi thƣờng
xuyên theo định mức chi tiêu.
Bên cạnh việc xác định trình tự ƣu tiên giữa chi đầu tƣ phát triển với
chi thƣờng xuyên, còn phải xác định đƣợc thứ tự ƣu tiên giữa các nội dung
chi trong cơ cấu chi đầu tƣ phát triển và các nội dung chi trong cơ cấu chi
thƣờng xuyên.
-123-
* Xác định trình tự ưu tiên hợp lý trong cơ cấu chi đầu tư phát triển
Chi đầu tƣ phát triển trong thời gian tới phải tập trung vào các ngành
thế mạnh, mũi nhọn của đất nƣớc, ƣu tiên cho phát triển các vùng đồng bào
dân tộc, vùng sâu, vùng xa.
Về vốn đầu tƣ xây dựng cơ bản: Tập trung bố trí vốn cho xây dựng các
công trình cơ sở hạ tầng KT-XH, đầu tƣ phát triển các lĩnh vực then chốt của
đất nƣớc nhƣ: Đƣờng giao thông, thủy lợi, vệ sinh môi trƣờng, đầu tƣ ở các
vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn nhằm thu hút vốn đầu tƣ từ các
thành phần khác, tạo việc làm cho ngƣời lao động.
Vốn xây dựng cơ bản bố trí một cách tập trung, không dàn trải, không
kéo dài thời gian thi công, nhanh chóng đƣa công trình vào sử dụng để phát
huy ngay hiệu quả, phục vụ cho phát triển sản xuất và lƣu thông hàng hóa. Cơ
cấu vốn đầu tƣ cần đƣợc bố trí cho các lĩnh vực ngành nghề vừa tạo tăng
trƣởng kinh tế nhƣng đồng thời phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển KT-XH đất nƣớc.
Hạn chế việc xây dựng các trụ sở làm việc, các công trình chƣa cấp
bách, ít hiệu quả. Không bố trí vốn trong kế hoạch đối với các công trình
không đầy đủ thủ tục xây dựng cơ bản. Ƣu tiên vốn cho các công trình trọng
điểm và các công trình chuyển tiếp có khả năng hoàn thành đƣa vào sử dụng
trong năm. Ngoài ra, cũng cần ƣu tiên cho những công trình có tỷ lệ vốn đầu
tƣ thiết bị cao trong tổng vốn đầu tƣ để khuyến khích đổi mới công nghệ.
Việc quản lý vốn đầu tƣ phải chấp hành đúng theo các quy định của
Chính phủ. Cơ quan quản lý Nhà nƣớc cần thận trọng trong khâu lựa chọn dự
án, mở rộng dự án và nâng cao chất lƣợng đấu thầu, kiểm soát chặt chẽ đơn
giá, thực hiện cấp phát vốn theo giá đấu thầu. Quản lý và tổ chức thực hiện tốt
quy chế đấu thầu thi công, hạn chế tình trạng chỉ định thầu, giao thầu.
-124-
Về vốn cho các doanh nghiệp: Chỉ thực hiện cho vay ƣu đãi từ NSNN
đối với những doanh nghiệp Nhà nƣớc làm ăn thực sự có hiệu quả và có khả
năng cạnh tranh cao, những doanh nghiệp mới thành lập thuộc danh mục
đƣợc Nhà nƣớc khuyến khích và cần hỗ trợ vốn ban đầu. Vốn cho các doanh
nghiệp vay phải bố trí tập trung một cách hiệu quả, không bố trí cho vay dàn
trải. Bảo đảm 100% vốn pháp định đối với những doanh nghiệp nhà nƣớc làm
ăn có hiệu qủa mà Nhà nƣớc cần nắm 100% vốn. Các doanh nghiệp khác phải
tự huy động vốn từ các nguồn khác theo cơ chế thị trƣờng.
* Xác định trình tự ưu tiên hợp lý trong cơ cấu chi thường xuyên
Trong chi thƣờng xuyên, các nội dung chi phải đƣợc sắp xếp ƣu tiên
theo trình tự hợp lý. Cụ thể là:
Chi giáo dục đào tạo:
Con ngƣời là động lực của mọi sự phát triển, do đó, chi cho giáo dục
đào tạo là nội dung đƣợc ƣu tiên hàng đầu trong cơ cấu chi thƣờng xuyên cùa
NSNN. Hiện nay, để phát triển ở CHDCND Lào không chỉ thiếu thốn về máy
móc thiết bị với công nghiệp hiện đại mà còn thiếu cả đội ngũ cán bộ quản lý
kinh tế, đội ngũ kỹ thuật, công nhân lành nghề. Chỉ có tập trung ƣu tiên cho
giáo dục đào tạo mới có thể nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dƣỡng lực lƣợng lao
động đáp ứng yêu cầu ngày càng cao để phát triển KT-XH.
Để thực hiện đƣợc yêu cầu trên, từ nay đến 2020 chi cho sự nghiệp giáo
dục, đào tạo phải giữ đƣợc tốc độ tăng hàng năm bình quân khoảng 15-16%;
trong cơ cấu chi NSNN, chi cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo giữ tỷ lệ khoảng 35-
40% so với tổng chi thƣờng xuyên. Trong đó, các khoản chi ngân sách phải
nhằm mục đích nâng cao chất lƣợng giáo dục thông qua chính sách đãi ngộ giáo
viên, đổi mới chƣơng trình giảng dạy, nghiên cứu phƣơng pháp dạy mới,…
Chi quản lý hành chính:
Đây là những khoản chi mang tính chất tƣơng đối đều đặn, bảo đảm
duy trì cho hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc. Mặc dù chiếm tỷ trọng khá lớn
-125-
trong cơ cấu chi ngân sách nhƣng do thu ngân sách CHDCND Lào còn chƣa
đủ thỏa mãn các nhu cầu chi nên những năm qua, khoản chi này thƣờng bị cắt
xén để tập trung cho chi đầu tƣ phát triển.
Trong thời gian tới, công tác quản lý điều hành chi NSNN một mặt kiên
quyết cắt giảm các khoản chi không thực sự cần thiết hoặc không hợp lý, mặt
khác vẫn phải bảo đảm các nhu cầu cơ bản về chi quản lý hành chính để phát
huy hiệu quả hoạt động bộ máy Nhà nƣớc. Để phù hợp với yêu cầu về chi
lƣơng, trang thiết bị làm việc, tốc độ tăng hàng năm của chi quản lý hành
chính nên tính bình quân khoảng 15-16%.
Chi sự nghiệp kinh tế:
Đây là các khoản chi chủ yếu cho các hoạt động kinh tế, tạo điều kiện
thúc đẩy phát triển sản xuất các ngành nông lâm nghiệp, chi vận hành và bảo
trì nhằm duy trì sự hoạt động và phát huy có hiệu quả tài sản Nhà nƣớc đã
đƣợc đầu tƣ. Cũng nhƣ chi quản lý hành chính, các khoản chi về sự nghiệp
kinh tế trƣớc đây cũng thƣờng xuyên bị cắt giảm khi cân đối ngân sách căng
thẳng. Hiện nay, chi sự nghiệp kinh tế chủ yếu do NSNN đảm nhận, do vậy
để có kinh phí duy trì hệ thống đƣờng giao thông trong tỉnh bảo đảm hoạt
động tốt, trong thời gian tới chi sự nghiệp kinh tế cần đƣợc sắp xếp ƣu tiên
trong cơ cấu chi NSNN với tốc độ tăng hàng năm bình quân khoảng 13%. Tỷ
lệ của nội dung chi quản lý sự nghiệp kinh tế trong cơ cấu chi thƣờng xuyên
đề nghị giữ ổn định ở mức khoảng 16%.
Chi sự nghiệp khoa học công nghệ:
Đây là khoản chi chiếm tỷ lệ tƣơng đối nhỏ trong chi thƣờng xuyên. Tuy
nhiên, để thúc đẩy phát triển KT-XH ở CHDCND Lào trong giai đoạn tới
không thể xem nhẹ vai trò mũi nhọn của khoa học công nghệ. Trong điều kiện
hiện nay, mặc dù còn khó khăn nhƣng chi ngân sách ở CHDCND Lào cũng cần
cố gắng dành sự ƣu tiên đáng kể cho việc đẩy mạnh thành lập các trung tâm
-126-
nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, các dịch vụ về công nghệ thông tin.
Tỷ lệ của nội dung chi sự nghiệp khoa học công nghệ trong cơ cấu chi thƣờng
xuyên đề nghị nâng lên ở mức khoảng 2%.
Ngoài những nội dung đã trình bày nêu trên, các nội dung còn lại trong
chi thƣờng xuyên tùy thuộc tình hình thực tế và khả năng thu Ngân sách Nhà
nƣớc để sắp xếp bố trí cho phù hợp. Tuy nhiên, về nguyên tắc có thể sắp xếp
theo thứ tự ƣu tiên nhƣ: Chi sự nghiệp y tế, chi sự nghiệp văn hóa thông tin,
chi sự nghiệp xã hội,…
3.3.1.2. Quản lý và điều hành các nội dung chi NSNN một cách linh hoạt,
cơ cấu chi NSNN luôn được điều chỉnh theo đòi hỏi của tình hình KT-XH
từng giai đoạn
Ngân sách Nha nƣớc giữ vai trò đảm bảo hoạt động cho bộ máy quản lý
Nhà nƣớc và phát triển KT-XH, công tác quản lý và điều hành chi NSNN
phải tuân theo những nguyên tắc về xây dựng chiến lƣợc, kế hoạch mang tính
ổn định cao. Trong cả ngắn hạn lẫn dài hạn, cơ cấu các khoản chi NSNN phải
đƣợc xây dựng dựa trên những luận cứ khoa học, khả năng đáp ứng của thu
NSNN và các mục tiêu phát triển KT-XH của Nhà nƣớc. Tuy nhiên, việc điều
hành cơ cấu chi NSNN không phải chỉ tuân theo một công thức, một khuôn
mẫu đã đƣợc xác định sẵn, mà nó còn thể hiện tính linh hoạt, luôn đƣợc điều
chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Ngoài ra, trong cơ chế thị trƣờng, chi
từ NSNN không còn là kênh cấp phát duy nhất cho các hoạt động của nền
kinh tế. Sự đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở
hữu đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tƣ vốn, tham gia vào gần
nhƣ mọi hoạt động KT-XH. Với cơ chế mới, công tác hoạch định và điều
hành chi NSNN cũng phải đổi mới cho phù hợp trên cơ sở vừa duy trì đƣợc
tính ổn định cần thiết vừa thể hiện tính linh hoạt trong việc quản lý ngân sách
Nhà nƣớc.
-127-
Với vai trò là công cụ quan trọng điều chỉnh kinh tế vĩ mô, chính sách
chi NSNN tác động đến mọi lĩnh vực KT-XH; do vậy cơ cấu chi NSNN luôn
luôn phải đƣợc điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở tổng kết thực tế và dự báo về
tình hình phát triển KT-XH của địa phƣơng trong giai đoạn kế tiếp. Có nhƣ
vậy, các chính sách chi NSNN của tỉnh mới phát huy đầy đủ vai trò thúc đẩy
phát triển KT-XH.
3.3.1.3. Thực hiện quy chế dân chủ và công khai hóa cơ cấu chi NSNN
Thực hiện quy chế dân chủ và công khai tài chính nói chung nhằm phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, cán bộ về kinh tế, đồng thời tạo điều kiện
cho việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan, các đoàn thể, các tổ chức xã hội
và quần chúng nhân dân, thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập, thực
hiện chính sách tiết kiệm, chống lãng phí và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi
phạm chế độ quản lý tài chính.
Trong khâu lập dự toán chi NSNN, cơ quan quản lý ngân sách cấp trên
phải công khai đối với cơ quan quản lý ngân sách cấp dƣới và các ngành liên
quan về các định mức tiêu chuẩn, các nguyên tắc và phƣơng thức phân bổ
kinh phí ngân sách theo từng lĩnh vực chi, nhiệm vụ chi, số bổ sung từ ngân
sách cấp trên, tỷ lệ điều tiết. Cần xem trọng công tác hƣớng dẫn xây dựng dự
toán theo từng nội dung chi thƣờng xuyên và chi xây dựng cơ bản, dự lƣờng
đầy đủ các khoản chi chính đáng dự kiến sẽ phát sinh.
Thực hiện quy chế dân chủ trong chấp hành dự toán chi NSNN thể hiện
thông qua việc ban hành và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong
chi ngân sách một cách hợp lý, tiết kiệm và công bằng. Hạn chế việc chi
ngoài dự toán đã duyệt đầu năm, mọi khoản chi phí phát sinh trong năm phải
đƣợc sắp xếp chi trong kinh phí đã đƣợc bố trí cho cơ quan, đơn vị, trừ những
khoản chi phát sinh khách quan, bất khả kháng.
Cơ quan quản lý ngân sách cấp dƣới và các đơn vị thụ hƣởng ngân sách
cũng phải công bố công khai khối lƣợng, chất lƣợng, kết quả nhiệm vụ đã
-128-
thực hiện. Thƣờng xuyên tổ chức kiểm tra việc thực hiện công khai ngân sách
gắn liền với thực hiện quy chế dân chủ ở các ngành, các cấp, các đơn vị.
3.3.2. Về đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội
3.3.2.1. Điều chỉnh tăng tỷ trọng chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH
và ưu tiên đầu tư tại các khu vực có lợi thế, tiềm năng khai thác.
Trong điều kiện xuất phát điểm thấp thì nhu cầu về vốn đầu tƣ xây
dựng cơ bản của địa phƣơng để phát triển KT-XH trong thời gian tới là rất
lớn. Trong tình trạng tất cả các ngành, các lĩnh vực đều cần vốn, việc thiết lập
thứ tự ƣu tiên các khoản chi ngân sách về đầu tƣ xây dựng cơ bản phải tập
trung ƣu tiên cho các công trình trọng điểm của tỉnh có tính chất quyết định
và tạo đà để thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH giai đoạn 2015-2020.
Trong đó, các lĩnh vực đƣợc NSNN ƣu tiên hàng đầu là vốn đầu tƣ các công
trình về xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Trong thời gian tới, Chính phủ CHDCND Lào cần xem xét, nghiên cứu
tăng quy mô và tỷ trọng chi đầu tƣ phát triển trong NSNN để tập trung đầu tƣ
hạ tầng KT-XH, đảm bảo các nguồn lực nhằm thực hiện các dự án quan trọng
quốc gia, đặc biệt là các dự án thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện
xóa đói giảm nghèo. Với cơ cấu chi đầu tƣ phát triển hiện nay, tỷ trọng chi đầu
tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH là quá khiêm tốn (1/4 tổng chi đầu tƣ phát
triển), trong khi tỷ trọng chi đầu tƣ cho vay và viện trợ lại chiếm tỷ trọng quá
cao trong chi đầu tƣ phát triển (3/4 tổng chi đầu tƣ phát triển). Với mục tiêu đạt
tốc độ tăng trƣởng GDP không ít hơn 8%/ năm. Khu vực nông lâm nghiệp tăng
trƣởng ít nhất 3%/năm, chiếm 23% GDP; khu vực công nghiệp tăng 15% mỗi
năm, chiếm 39% GDP; và khu vực dịch vụ tăng trƣởng 6,5%/năm chiếm 38%
GDP. GDP bình quân đầu ngƣời đạt 1.700 USD (với tỷ giá quy đổi 8.500
kíp/USD), Chính phủ CHDCND Lào cần điều chỉnh tỷ trọng chi đầu tƣ xây
dựng cơ sở hạ tầng lên từ 5-6% GDP (hiện nay là khoảng 2-3% GDP).
-129-
Đối với CHDCND Lào, cơ sở hạ tầng đƣợc đầu tƣ xây dựng từ những
năm qua đã và đang phát huy đƣợc tác dụng phục vụ sản xuất và dân sinh,
góp phần phát huy nội lực của nhân dân địa phƣơng và thu hút đầu tƣ từ bên
ngoài. Tuy nhiên, tại những khu vực trọng điểm mà CHDCND Lào chủ
trƣơng tập trung phát triển về công nghiệp, du lịch, nhìn chung về cơ sở hạ
tầng còn chƣa đáp ứng về yêu cầu, hệ thống đƣờng giao thông chất lƣợng xấu,
các dịch vụ cung cấp điện, nƣớc, thông tin liên lạc chƣa có hoặc đã có nhƣng
chƣa đồng bộ.
Định hƣớng ở CHDCND Lào trong thời gian tới là xây dựng đƣợc cơ
cấu kinh tế công nghiệp, dịch vụ, nông lâm nghiệp, ngƣ nghiệp. Tuy nhiên,
trong cơ chế thị trƣờng, vai trò của các khoản chi đầu tƣ từ NSNN chỉ nên
định hƣớng, dẫn dắt, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia.
Nhƣ vậy, NSNN không thể và cũng không nên tập trung vốn đầu tƣ trực tiếp
xây dựng các khu công nghiệp, các dự án du lịch, các nhà máy chế biến nông
sản tại khu vực nông thôn mà vai trò đó thuộc về chủ đầu tƣ các thành phần
kinh tế khác. Vai trò của vốn đầu tƣ xây dựng cơ bản chỉ cần tập trung ở một
số khâu then chốt nhất nhƣ: Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng một
chính sách tài chính thông thoáng và hợp lý sẽ thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ.
Cụ thể về các khoản chi đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng mà NSNN cần tập
trung trong giai đoạn tới:
Thứ nhất, để phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, NSNN phải
đảm nhận phần lớn kinh phí cải tạo và xây dựng mới hệ thống đƣờng giao
thông liên tỉnh để tạo thế liên hoàn phát triển, đẩy mạnh giao thƣơng với các
quốc gia láng giềng nhƣ: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam,…NSNN phải
đảm bảo cung cấp đầy đủ các dịch vụ về điện, nƣớc, bƣu chính viễn thông đến
các khu công nghiệp, các dự án du lịch. Nhà nƣớc cần khuyến khích và tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế khác đầu tƣ vốn vào các dự án dƣới các
-130-
hình thức chủ yếu nhƣ: BT, BTO, BOT, liên doanh liên kết. Vốn đầu tƣ để
xây dựng các dự án công nghiệp, du lịch có quy mô lớn chủ yếu kêu gọi từ
nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và các nhà đầu tƣ từ các tỉnh khác.
Thứ hai, để thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH khu vực nông nghiệp
ở các bản, NSNN cần tập trung đầu tƣ cho việc nâng cấp, mở rộng đƣờng giao
thông nông thôn, đầu tƣ các công trình thủy lợi, quy hoạch tổng thể các vùng
nguyên liệu, hỗ trợ thông qua nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất nông nghiệp. Vốn đầu tƣ để thực hiện phát triển KT-XH
khu vực nông thôn chủ yếu kêu gọi từ nguồn nội lực trong dân, các nhà đầu tƣ
trong và ngoài nƣớc.
3.3.2.2. Tăng cường và đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng KT-XH
Để đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH ở CHDCND Lào trong những
năm tới đòi hỏi Chính phủ phải tăng vốn đầu tƣ vào phát triển cơ sở hạ tầng
KT-XH. Để đảm bảo có đủ lƣợng vốn này, việc đẩy mạnh huy động các
nguồn vốn đầu tƣ đa dạng cho phát triển cơ sở hạ tầng đƣợc coi là giải pháp
mang tính đột phá. CHDCND Lào có nhiều cơ hội để huy động đủ nguồn vốn
đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng. Chủ trƣơng của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào là khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể
cả doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia phát triển cơ sở hạ tầng,
tập trung các nguồn lực để ƣu tiên cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống
giao thông, thông tin liên lạc, điện năng, tăng tỷ trọng đầu tƣ phát triển hạ
tầng giáo dục, y tế,...
Để thực hiện tốt mục tiêu đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tƣ phát triển
cơ sở hạ tầng KT-XH, cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
- Thứ nhất, cần đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa đầu tƣ phát triển kết cấu
hạ tầng, mở rộng các phƣơng thức đầu tƣ. Vốn Nhà nƣớc chỉ tập trung đầu tƣ
-131-
cho công tác quy hoạch, hỗ trợ đầu tƣ các công trình hạ tầng trọng yếu, ngoài
ra cần đẩy mạnh thu hút các nguồn vốn ngoài Nhà nƣớc với các phƣơng thức
đa dạng nhƣ: Phát hành trái phiếu Chính phủ áp dụng cho các công trình giao
thông quan trọng, có quy mô lớn; đầu tƣ theo hình thức BOT áp dụng cho một
số dự án có khả năng hoàn vốn, chủ yếu là các dự án đƣờng bộ chiến lƣợc,
một số cầu lớn; đầu tƣ bằng nguồn vốn trái phiếu công trình áp dụng cho các
dự án có khả năng hoàn vốn cao; đầu tƣ theo hình thức chuyển nhƣợng thu
phí; đổi đất lấy hạ tầng áp dụng cho các tuyến đi qua đô thị; lập các quỹ bảo
trì đƣờng bộ, quỹ đầu tƣ phát triển đô thị, quỹ đầu tƣ phát triển nông thôn,...
tạo vốn “mồi” để huy động các nguồn vốn khác từ các thành phần kinh tế
trong xã hội.
Nhà nƣớc phải tạo ra một khung pháp lý thống nhất, đồng bộ; cần
nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho việc thực hiện
xã hội hóa đầu tƣ phát triển kết cấu hạ tầng. Chính phủ cần ban hành Nghị
định về xã hội hóa đầu tƣ cơ sở hạ tầng theo hƣớng tăng cƣờng phân cấp cho
các địa phƣơng, khu vực tƣ nhân, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp
trong đầu tƣ và sản xuất kinh doanh; Nhà nƣớc chỉ thực hiện chức năng quản
lý, quy hoạch, kế hoạch, ban hành các chính sách, tổ chức thực hiện kiểm tra
và giám sát.
Để tạo đƣợc các nguồn vốn bền vững và đa dạng, công tác quy hoạch
phải luôn đi trƣớc một bƣớc, vì vậy, cần phải đổi mới công tác quy hoạch.
Các Bộ, cơ quan ngang bộ và địa phƣơng cần sớm rà soát, lập quy hoạch và
đề ra cơ chế, ban hành các danh mục đầu tƣ cơ sở hạ tầng để thu hút các
doanh nghiệp đầu tƣ vào lĩnh vực này.
- Thứ hai, cần nâng cao chất lƣợng sử dụng vốn đầu tƣ phát triển cơ sở
hạ tầng hơn nữa, huy động vốn theo chiều sâu. Theo quan điểm này, Chính
phủ cần xem xét thứ tự ƣu tiên trong đầu tƣ. Tuy nhiên, nếu việc lựa chọn thứ
-132-
tự ƣu tiên này là có ích cho toàn xã hội thì nó lại có thể gây tổn hại tới lợi ích
của một khu vực hay một bộ phận nào đó, do đó, để có thứ tự ƣu tiên đúng
đắn thì phải vƣợt qua đƣợc các lợi ích cục bộ. Đây không phải là một điều dễ
dàng. Muốn vậy phải có phƣơng pháp luận đúng đắn để đánh giá cụ thể và
khách quan hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của các dự án đầu tƣ phát triển
cở sở hạ tầng, từ đó mới có cơ sở xác định thứ tự ƣu tiên của các dự án một
cách hợp lý và có sức thuyết phục.
- Thứ ba, cần có sự phối hợp cân đối giữa chi tiêu cho đầu tƣ xây dựng
cơ sở hạ tầng và chi tiêu thƣờng xuyên cho bảo dƣỡng, sửa chữa các công
trình hạ tầng. Sự thiếu phối hợp này sẽ làm giảm hiệu quả đầu tƣ. Phần lớn
các công trình khi mới xây dựng xong đƣa vào sử dụng, nhu cầu chi phí bảo
dƣỡng là chƣa đáng kể. Tuy nhiên, qua một thời gian nhu cầu chi phí này sẽ
tăng lên nhiều, nếu không kịp đáp ứng thì công trình sẽ nhanh chóng xuống
cấp, gây lãng phí trong đầu tƣ.
3.3.3. Về thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hƣớng CNH-
HĐH cần lựa chọn các ngành ƣu tiên tập trung phát triển
Vấn đề lựa chọn các ngành cần tập trung ƣu tiên phát triển luôn là vấn
đề đƣợc đặt ra trong nghiên cứu cơ cấu kinh tế. Nhìn chung, các Nhà nghiên
cứu đã thống nhất với quan điểm của việc lựa chọn là xuất phát từ trạng thái
nguồn lực của đất nƣớc, yêu cầu về tính hiệu quả trong khuôn khổ những mục
tiêu tăng trƣởng cao, đòi hỏi chiến lƣợc cơ cấu trong giai đoạn đầu phải có
tính ƣu tiên cho những ngành sử dụng nhiều lao động, có năng lực dịch
chuyển cao một khi các tƣơng quan về nguồn lực thay đổi và có tính hƣớng
ngoại rõ rệt. Cả hai khía cạnh này của chiến lƣợc phát triển đều nhằm khai
thác một cách có hiệu quả các lợi thế tƣơng đối mà đất nƣớc sẵn có trong bối
cảnh nền kinh tế thế giới ngày càng mang tính toàn cầu.
Trong thời gian tới, CHDCND Lào cần tiếp tục tập trung khai thác và
phát triển các ngành có tiềm năng cao để tạo điều kiện cho tăng trƣởng kinh
tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhƣ:
-133-
- Ngành Nông nghiệp: Tập trung công nghiệp hóa và hiện đại hóa cho
nơi có điều kiện, nhất là sự biến đổi của nông nghiệp, phát triển sản xuất công
nghiệp thực phẩm (trồng lúa gạo, trồng cây thực phẩm, rau sạch, chăn nuôi
trang trại sử dụng công nghệ cao) để cung cấp cho thị trƣờng trong nƣớc và
xuất khẩu, cây công nghiệp (theo tiềm năng thực tế của từng địa phƣơng).
- Ngành công nghiệp: Tập trung phát triển các ngành công nghiệp có
lợi thế và cạnh tranh cao chẳng hạn nhƣ thủy điện, năng lƣợng nhiệt than,
công nghiệp khoáng chất (vàng, đồng và ka li, sắt, bốc xít,...), công nghiệp
chế biến (sản phẩm chế biến nông lâm nghiệp, khai thác mỏ,...), công nghiệp
hàng may mặc để xuất khẩu, hàng dệt may thủ công, sản xuất công nghiệp vật
liệu xây dựng (xi măng, tôn lợp, gạch, cáp dây điện, sắt thép), phụ tùng máy
móc cho thị trƣờng trong nƣớc và xuất khẩu,...
- Ngành dịch vụ: Tập trung vào phát triển công nghiệp du lịch, dịch vụ
quá cảnh, dịch vụ tổ chức hội nghị của khu vực và quốc tế, việc giao thông
vận tải trong và ngoài nƣớc, ngân hàng,...
Việc phát triển ngành có tiềm năng trên đây phải tạo ra thành dự án lớn
và dự án vừa, phát triển một ngành công nghiệp trụ cột đối với việc công
nghiệp hóa và hiện đại hóa của đất nƣớc cùng với việc thực hiện chiến lƣợc
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thƣơng mại vạch ra trở thành hiện thực.
Xuất phát từ định hƣớng phát triển từng ngành kinh tế trên, về nguyên
tắc vốn đầu tƣ phải tập trung ƣu tiên cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Tuy
nhiên, trong thực tế, xu hƣớng vốn đầu tƣ ngoài khu vực ngân sách chủ yếu
tập trung vào các ngành công nghiệp, dịch vụ, là những ngành thu đƣợc lợi
nhuận cao hơn. Do vậy, để các ngành phát triển cân đối, cơ cấu vốn đầu tƣ
phát triển từ khu vực NSNN cho từng ngành kinh tế có thể phân bổ theo tỷ
trọng nhƣ sau:
- Vốn đầu tƣ cho ngành công nghiệp xây dựng chiếm khoảng 40% tổng
chi đầu tƣ phát triển trong nƣớc;
-134-
- Vốn đầu tƣ cho ngành dịch vụ chiếm khoảng 40% tổng chi đầu tƣ
phát triển trong nƣớc;
- Vốn đầu tƣ cho ngành nông lâm nghiệp chiếm khoảng 20% tổng chi
đầu tƣ phát triển trong nƣớc.
3.3.4. Về xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội
3.3.4.1. Gắn mục tiêu xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội với
mục tiêu tăng trưởng và phát triển KT-XH
Trong điều kiện hiện nay xóa đói giảm nghèo là điều kiện cần thiết,
đảm bảo cho việc ổn định chính trị. Thành công của xóa đói giảm nghèo sẽ là
nhân tố rất quan trọng, củng cố bảo vệ chế độ chính trị và giữ vững ổn định
chính trị. Mọi biện pháp lớn nhỏ để xóa đói giảm nghèo đều phải đƣợc nhìn
nhận từ chính trị, từ việc bảo vệ quyền làm chủ chế độ, làm chủ xã hội của
nhân dân lao động.
Xóa đói giảm nghèo là một chủ trƣơng lớn của Đảng và Nhà nƣớc
CHDCND Lào, là yếu tố quan trọng đảm bảo sự ổn định, phát triển KT-XH,
đó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề của toàn Đảng và toàn dân Lào.
Xóa đói giảm nghèo không chỉ dừng lại ở việc thực hiện các chính sách
xã hội, không chỉ việc riêng của ngành lao động xã hội hay một số ngành
khác mà nó là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa là nhiệm vụ chung của toàn
Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả
mọi cán bộ Đảng, chính quyền đều phải quan tâm cùng giải quyết, thực hiện
các giải pháp một cách đồng bộ và có sự tham gia của toàn thể cộng đồng.
Đẩy mạnh cuộc vận động xóa đói giảm nghèo, coi đó là trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn xã hội. Tăng cƣờng tuyên truyền, giáo dục nâng cao hơn
nữa nhận thức của mọi cán bộ Đảng viên ở tất cả các ngành, các cấp trong các
tầng lớp dân cƣ về ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội của vấn đề xóa đói giảm
nghèo, với tầm cỡ to lớn và khó khăn phức tạp của nó xóa đói giảm nghèo
-135-
không thể chỉ dừng ở các chủ trƣơng, đƣờng lối chung, mà phải có sự phối
hợp đồng bộ, nhất quán từ chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc, các
chính sách, biện pháp cụ thể của Nhà nƣớc các cấp đến sự nỗ lực của mỗi gia
đình, mỗi cá nhân trong xã hội.
Đảng và Nhà nƣớc chủ trƣơng thực hiện phƣơng châm dân giàu, nƣớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh,…có thể nói đây là định hƣớng và
mục tiêu xuyên suốt của công cuộc đổi mới mở cửa và chƣơng trình xóa đói
giảm nghèo ở CHDCND Lào. Trong văn kiện Đại hội IX giai đoạn từ 2011-
2015 có nêu rõ quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về phân phối và phát triển
sản xuất: “Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành
phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo
nhất định trong xã hội, nhƣng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của ngƣời lao
động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi
trọng xóa đói giảm nghèo, từng bƣớc thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm
cho mọi ngƣời, mọi nhà đều khá giả.” “Phân phối và phân phối lại hợp lý các
thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo, không để
diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng,
các tầng lớp dân cƣ”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX năm 2011 của nhân dân các bộ tộc
Lào vừa qua cũng tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhiều hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời
phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất
kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi sản xuất. Sở dĩ Đảng và Nhà
nƣớc xác định phân phối theo lao động là hình thức phân phối chủ yếu vì đây
là hình thức phân phối hợp lý và công bằng nhất so với các hình thức phân
phối khác. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nƣớc cũng đã thực hiện các hình thức
phân phối khác nhƣ phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực sản xuất và
-136-
phân phối thông qua phúc lợi nhằm phát huy tính tích cực lao động của ngƣời
dân và nâng cao thêm mức sống của ngƣời dân, đặc biệt là với những ngƣời
có thu nhập thấp và khó khăn. Để đạt đƣợc mục tiêu từng bƣớc thu hẹp và xóa
bỏ sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, Đảng và Nhà nƣớc chủ trƣơng
phát triển sức sản xuất, hoàn thiện chính sách tiền lƣơng, điều tiết thu nhập
dân cƣ nhằm hạn chế sự chênh lệnh quá đáng về mức thu nhập, khuyến khích
làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Với quan điểm nhƣ vậy, có
thể nhận thấy, chính sách phân phối của Đảng và Nhà nƣớc trong thời gian
qua thiên nhiều theo hƣớng song song với phát triển kinh tế cố gắng đảm bảo
công bằng xã hội, cố gắng tối đa thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các
tầng lớp dân cƣ trong xã hội.
Kinh nghiệm ở CHDCND Lào cho thấy, để giải quyết thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cƣ, trƣớc hết
CHDCND Lào thực hiện chiến lƣợc đầu tƣ mạnh cho những vùng miền,
ngành nghề lĩnh vực có khả năng phát triển và đảm bảo đƣợc hiệu quả đầu tƣ
cao, sau đó thông qua các chính sách nhƣ: Thuế, ƣu đãi đầu tƣ, hợp tác tài
chính để điều tiết thu nhập giữa vùng giàu với vùng nghèo, giữa nông thôn và
thành thị, giữa các cá nhân trong xã hội, ngoài ra CHDCND Lào còn thực
hiện phân bổ nguồn lực tài chính tƣơng đối đồng đều cho các vùng, đồng thời
có phần ƣu tiên cho các vùng nghèo, vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên cách làm ở
CHDCND Lào đã dẫn tới tình trạng đầu tƣ tràn lan, mỗi nơi một chút, hiệu
quả thấp. Trong khi đó khoảng cách giàu nghèo vẫn ngày càng rộng hơn, mặc
dù giảm nghèo trên diện rộng, song CHDCND Lào vẫn đang phải đối phó với
tình trạng khoảng cách chênh lệnh giữa các tầng lớp dân cƣ có chiều hƣớng
doãng ra. Hiện nay thu nhập của 10% dân số có thu nhập cao nhất cao gấp 6
lần so với 10% dân số có mức thu nhập thấp nhất. Trong khi đó, số dân xấp xỉ
ngƣỡng nghèo là rất lớn. Chính vì thế, trong thời gian tới, để giảm bớt khoảng
-137-
cách chênh lệnh giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cƣ, Đảng và Nhà nƣớc
nên điều chỉnh chênh lệnh giàu nghèo giữa các vùng miền, các tầng lớp dân
cƣ thông qua biện pháp gián tiếp chẳng hạn nhƣ: Là thuế, điều phối ngân
sách,…không nên thông qua các giải pháp trực tiếp kinh nghiệm đầu tƣ xây
dựng nhà máy chế biến nông sản ở bản Tha Ngon thủ đô Viêng Chăn,…tràn
lan trong những năm qua đã cho thấy điều đó.
Gắn giáo dục với xóa đói giảm nghèo; để ngƣời nghèo có thể tiếp cận
với giáo dục cần giải quyết đƣợc các vấn đề là phải giảm chi phí cho việc đi
học của ngƣời nghèo và nâng cao lợi ích của việc giáo dục, có nghĩa là tạo ra
những hiệu quả thiết thực nhận đƣợc từ giáo dục của ngƣời nghèo. Các giải
pháp để giải quyết các vấn đề đó ở CHDCND Lào.
Xóa bỏ tình trạng bản trắng về cơ sở giáo dục, xóa mù chữ, thực hiện
phổ cập giáo dục tiểu học cho các hộ nghèo, phổ cập nghề phổ thông cho các
thanh niên không có điều kiện. Tăng cƣờng đầu tƣ để nhanh chóng củng cố và
phát triển đến bản hoặc cụm bản hệ thống tổ chức giáo dục, đào tạo đảm bảo
hầu hết các bản nghèo có đủ các phòng học cấp tiểu học và trung học cơ sở,
đa dạng hóa các hình thức dạy và học; nâng cấp cơ sở vật chất các trƣờng nội
trú hiện có và mở thêm một số trƣờng ở những nơi cần thiết cho con em đồng
bào dân tộc để tạo nguồn và khuyến khích các cá nhân, các tổ chức trong và
ngoài nƣớc tham gia giáo dục miễn phí cho các hộ nghèo, ngƣời nghèo.
Nâng cao chất lƣợng giáo dục và các cấp học cơ sở ở các tỉnh miền núi,
vùng sâu, vùng sa biên giới, đảm bảo đủ đội ngũ giáo viên. Có chính sách trợ
cấp và học bổng để tạo điều kiện cho con em các gia đình nghèo đƣợc tới
trƣờng. Có chính sách ƣu đãi đối với giáo viên lên dạy học ở vùng sâu, vùng
xa,…
Gắn đào tạo nghề nghiệp với xóa đói giảm nghèo; các hộ nghèo đói
phần lớn là không có nghề, không biết cách làm ăn và thiếu kinh nghiệm là
-138-
một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra nghèo đói. Phần lớn ngƣời
nghèo có trình độ văn hóa thấp hầu nhƣ không hoặc ít đƣợc đào tạo về nghề
nghiệp và do những yếu kém về thể chất, hạn chế về vốn, về tƣ liệu sản xuất
cho nên hầu hết ngƣời nghèo thiếu kiến thức sản xuất kinh doanh, không biết
sử dụng hợp lý các nguồn lực và điều kiện sẵn có để sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Chính vì vậy cần phải đào tạo nghề cho ngƣời nghèo.
Đào tạo các nghề có nhu cầu phát triển nhất là cách sơ chế, chế biến
các sản phẩm từ nông, công nghiệp và các loại nghề thủ công có ở trong vùng
mình để ngƣời nghèo có việc làm thêm mới có thể có đủ thu nhập trang trải
hàng ngày.
Hƣớng dẫn kỹ thuật canh tác làm ruộng, vƣờn, chăn nuôi gia súc, gia
cầm và các vật nuôi khác với những tiến bộ kỹ thuật và điều kiện đang có sẵn
trong địa phƣơng mình để tăng năng suất và hiệu quả sản xuất cho ngƣời
nghèo, hộ nghèo.
Hƣớng dẫn các tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong
khuôn khổ doanh nghiệp quy mô gia đình cho phù hợp với điều kiện thực tế
với yêu cầu của thị trƣờng.
Cách hƣớng dẫn, giúp đỡ ngƣời nghèo đói cần phải theo một quy trình
nhất định thống nhất, bắt đầu từ khâu điều tra, nắm thực trạng nguyên nhân
nghèo đói, vạch ra kế hoạch và các giải pháp giúp đỡ thiết thực, phân công
trách nhiệm, kiểm tra đánh giá kết quả, đƣa ra các giải pháp, cần sáng tạo với
cách làm phù hợp với đối tƣợng,…
Cần phải tổ chức một cách rộng rãi việc dạy nghề cho các hộ nghèo,
ngƣời nghèo, chủ yếu là cho các ngành nghề về sản xuất nông lâm nghiệp với
những tiến bộ mới về công nghệ sinh học,…đồng thời cũng phải quan tâm
đào tạo có trọng điểm cho các lực lƣợng lao động trẻ, các ngành tiểu thủ công
nghiệp và những nghề mới phù hợp với thị trƣờng.
-139-
Gắn chăm sóc y tế với xóa đói giảm nghèo; tạo điều kiện để ngƣời
nghèo đƣợc cung cấp các dịch vụ y tế, đƣợc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y
tế có chất lƣợng với giá cả phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và mức
thu nhập của các cá nhân trong xã hội. Thực hiện công bằng trong chăm sóc
sức khỏe nhất là ngƣời nghèo, hộ nghèo và các đối tƣợng chính sách,...các hộ
nghèo do sức khỏe yếu kém, không có sức lao động, dễ bị mắc bệnh thì các
cấp chính quyền trung ƣơng, tỉnh, huyện, bản nên thực hiện chính sách ƣu đãi
xã hội cho hộ nghèo, ngƣời nghèo cần phải xem xét từng hộ nghèo đói để áp
dụng các chính sách xã hội cho phù hợp với thực tiễn chẳng hạn: Chính sách
ƣu đãi, trợ cấp xã hội và các hình thức khác,…đồng thời cũng nên quan tâm
tới các đối tƣợng hộ nghèo, ngƣời nghèo nói chung.
3.3.4.2. Hoàn thiện cơ chế định mức phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước
sát với mục tiêu xóa đói giảm nghèo
Xây dựng một định mức phân bổ ngân sách nhà nƣớc phù hợp với mục
tiêu xóa đói giảm nghèo và phải đơn giản, cụ thể cho các huyện và bản thực
hiện. Điều đó, sẽ giúp cho các địa phƣơng lập và thực hiện dự toán dễ dàng
hơn, xác định đƣợc nhu cầu sử dụng ngân sách của địa phƣơng mình, tự chủ,
tự chịu trách nhiệm quản lý ngân sách đó. Từ đó, góp phần thiết thực cho xóa
đói giảm nghèo. Những định mức Ngân sách có thể đƣợc áp dụng thống nhất
ở các cấp chính quyền khác nhau không có nghĩa là thẩm quyền về ngân sách
của các tỉnh, thành phố bị mất đi mà nó tạo ra cơ chế cho quan hệ theo thứ
bậc giữa tỉnh, thành phố với các huyện và bản hoạt động theo hƣớng minh
mạch và công bằng hơn. Cải tiến cơ chế huy động, phân bổ và quản lý nguồn
lực theo hƣớng đa nguồn, coi trọng tại chỗ của từng địa phƣơng; có chính
sách phù hợp để thu hút các doanh nghiệp đầu tƣ vào miền núi, nhất là ƣu đãi
về đất, thuế; kêu gọi sự hỗ trợ của các nƣớc và các tổ chức quốc tế, tạo lực
mạnh về tài chính cho các vùng nghèo.
-140-
Tập trung ƣu tiên nguồn lực cho các bản miền núi, bản có tỷ lệ hộ
nghèo cao và đảm bảo công bằng giữa các vùng, miền có điều kiện nhƣ nhau,
phân bổ theo số đối tƣợng của địa phƣơng, miền Bắc tập trung số hộ nghèo
chiếm số lƣợng cao trong cả nƣớc, tình hình kinh tế giữa ba miền Bắc, Trung
và Nam không đồng đều do đặc thù vị trí địa lý giữa ba miền rất khác nhau,
cho nên cần có định mức phân bổ phù hợp cho các bản đặc biệt khó khăn.
3.4. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU
CHI NSNN
3.4.1. Hoàn thiện quy trình thực hiện chi NSNN trên cơ sở cải cách thủ
tục hành chính
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là các thủ tục hành
chính trong khâu cấp phát, thanh toán vốn.
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đơn vị trong hệ
thống ngành tài chính ở địa phƣơng để không có sự chồng chéo trong quản lý
tài chính và ngân sách, mặt khác tạo sự kết hợp đồng bộ giữa các đơn vị để
thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý ngân sách ở địa phƣơng. Hoàn thiện các thủ
tục hành chính nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị thụ hƣởng NSNN chủ động
trong sử dụng kinh phí, khắc phục tình trạng kinh phí NSNN phải đi vòng vèo
qua các khâu trung gian không cần thiết. Thực hiện triệt để nguyên tắc cấp
phát thanh toán trực tiếp qua hệ thống Kho bạc Quốc gia cho mọi đối tƣợng
sử dụng ngân sách, mục đích là để hạn chế tối đa tồn đọng kinh phí ngân sách
ở tài khoản hoặc quỹ tiền mặt của các đơn vị, qua đó kiểm soát chặt chẽ việc
sử dụng kinh phí NSNN đúng mục đích.
Cơ quan tài chính duyệt dự toán chi tiết cho các đơn vị thụ hƣởng ngân
sách và hƣớng dẫn định mức các khoản chi tiêu. Dự toán và định mức chi
đƣợc thông báo cho các đơn vị ra lệnh chuẩn chi kèm theo hồ sơ gửi Kho bạc
để cấp phát thanh toán trực tiếp.
-141-
3.4.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cƣờng bồi dƣỡng, đào tạo cán bộ
làm công tác quản lý thu, chi NSNN
Trên cơ sở rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, cơ quan Tài
chính các cấp, Kho bạc Quốc gia cần tiến hành sắp xếp lại bộ máy tổ chức
hiện có đảm bảo nguyên tắc gọn nhẹ, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của
từng đơn vị, bộ phận trong quá trình thực thi nhiệm vụ đƣợc giao; hạn chế
thấp nhất các thủ tục hành chính không cần thiết. Thành lập Vụ phân tích và
Dự báo thuộc Bộ Tài chính để thực hiện nhiệm vụ phân tích và dự báo sự biến
động của các chỉ số kinh tế phục vụ cho công tác quản lý và điều hành NSNN.
Bên cạnh đó cần không ngừng đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ
cán bộ làm công tác quản lý NSNN để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu
nhiệm vụ đƣợc giao, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin và các
thiết bị hiện đại trong quản lý kinh tế.
Việc kiện toàn tổ chức, bồi dƣỡng đào tạo cán bộ là những yếu tố mang
tính quyết định cho sự thành công của một hệ thống thu, chi NSNN.
Trên cơ sở thực trạng cán bộ thực thi công tác quản lý NSNN ở
CHDCND Lào hiện nay, mặc dù đã đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng khá nhiều. Tuy
nhiên, đội ngũ cán bộ ở CHDCND Lào chƣa thực sự phù hợp với yêu cầu
hiện tại.
Trong thời gian tới cần tập trung vào một số nội dung sau đây:
- Tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ cán bộ trực tiếp, kể cả về chuyên
môn và nghiệp vụ khác nhƣ: Máy vi tính, ngoại ngữ,…
- Cần tổ chức và sắp xếp lại các cán bộ của các cơ quan cho đúng với
chuyên môn nghiệp vụ thực mà các cán bộ đã từng học đồng thời bổ sung cán
bộ mới có trình độ chuyên môn cao vào làm việc, các cán bộ đó phải đảm bảo
phù hợp với yêu cầu thực tế của cơ cấu tổ chức hiện hành và phù hợp với khả
năng thực tiễn của họ nhằm phát huy triệt để tiềm năng, sở trƣờng của cán bộ,
-142-
tinh giảm biên chế đối với một số trƣờng hợp yếu kém, mất phẩm chất không
còn phù hợp với yêu cầu quản lý hiện nay, tránh tình trạng nhận cán bộ không
đúng chuyên môn.
- Cải cách chế độ tiền lƣơng, thƣởng và các chế độ đãi ngộ, phúc lợi xã
hội đối với cán bộ, đảm bảo cho những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của các cán
bộ công nhân viên trong ngành, có nhƣ vậy mới đảm bảo cho họ thực sự yên tâm
trong công tác, tránh đƣợc những nguy cơ phát sinh các hiện tƣợng tiêu cực.
Hàng năm cần thiết phải tổ chức cuộc thi tuyển chọn, sát hạch về
chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ trên cơ sở đánh giá phân loại cán bộ
theo các tiêu chuẩn đề ra.
3.4.3. Nâng cao kỹ năng khai thác và nuôi dƣỡng nguồn thu
Khai thác nguồn thu đƣợc hiểu là việc xác định đúng các lợi thế của địa
phƣơng về tài nguyên thiên nhiên, nhân lực, vật lực để tận dụng đƣa vào phát
triển kinh tế, tăng thu cho NSNN, phù hợp với pháp luật của Nhà nƣớc.
Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động quản lý khai thác thu NSNN là ngay
từ khi lập dự toán, nhà quản lý phải đánh giá, phân tích kỹ lƣỡng những tiềm
năng và thế mạnh của địa phƣơng, dự báo đƣợc tính khả thi của các nguồn thu
bằng những căn cứ xác đáng để không tạo khoảng cách giữa việc lập dự toán
với các khoản thực thu. Điều đó đòi hỏi: Những phân tích, đánh giá yếu tố
ảnh hƣởng, tác động nhiều mặt đến khai thác tiềm năng của địa phƣơng phải
chính xác, đảm bảo đánh giá tiềm năng, lợi thế của địa phƣơng không thấp
hơn thực tế để không bỏ sót nguồn thu và cũng không đƣợc cao hơn thực tế,
để các nguồn thu đã chỉ ra phải chắc chắn thu đƣợc.
Việc khai thác nguồn thu phải gắn với nuôi dƣỡng, phát triển nguồn
thu, không vì mục tiêu trƣớc mắt, tận thu làm cạn kiệt nguồn thu, mất đi
nguồn thu lâu dài. Khi tiến hành khai thác, nuôi dƣỡng nguồn thu NSNN, chủ
thể quản lý cần tiến hành theo các bƣớc sau:
-143-
- Bước 1: Xác định đầy đủ phạm vi các nguồn thu hiện có;
- Bước 2: Làm rõ thế mạnh của những nguồn thu có khả năng khai thác
mở rộng;
- Bước 3: Có những hỗ trợ kịp thời bằng chính vai trò của chính quyền
Nhà nƣớc nhằm tăng cƣờng khả năng mở rộng nguồn thu tiềm năng.
Việc phân loại, đánh giá các nguồn thu là cần thiết; nhƣng điều kiện đủ
là đòi hỏi chính quyền cấp tỉnh, thành phố cần sử dụng tổng hợp các kỹ năng
hỗ trợ khai thác thu để hoạt động tổ chức khai thác thu NSNN thực sự có hiệu
quả. Cụ thể là:
- Thứ nhất: Lập kế hoạch xác định đúng những vấn đề trọng tâm trong
khai thác nguồn thu Ngân sách:
+ Xác định rõ mục đích của từng khoản thu là gì? Làm thế nào để cho
mọi ngƣời dân trong mỗi tỉnh, thành phố có thể hiểu và nhất trí với mục đích
của từng khoản thu;
+ Chính quyền cấp tỉnh, thành phố cần quan tâm đến cách thức công
khai cho mọi ngƣời dân về các vấn đề ngân sách. Tuy nhiên, cần chú ý tính
ƣu, nhƣợc điểm của từng cách thức để có phƣơng án kết hợp tốt, đạt hiệu quả
quản lý thu ngân sách;
+ Tổ chức cho nhân dân có thể tham gia quyết định các mức thu và
cách thu đối với các khoản thu đóng góp tự nguyện;
- Thứ hai: Xúc tiến các hoạt động hỗ trợ khai thác nguồn thu NSNN:
+ Tuyên truyền, vận động làm rõ ý nghĩa của việc huy động, vai trò của
ngƣời dân trong sự đóng góp cho Ngân sách tỉnh, thành phố làm cho họ hiểu
và thấy đƣợc lợi ích từ sự đóng góp của họ;
+ Có kế hoạch, chính sách kêu gọi đầu tƣ cho quê hƣơng, hỗ trợ tổ
chức họp hội đồng hƣơng để quyên góp hỗ trợ ngƣời nghèo và xây dựng quê
-144-
hƣơng. Xây dựng chính sách thu hút đầu tƣ nhƣ khuyến khích đầu tƣ, xây
dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính;
+ Có chính sách đấu thầu đúng quy định, thông báo và bỏ thầu công
khai, rộng rãi nhằm thu hút đƣợc nhiều nhà thầu, tăng sức cạnh tranh để định
giá cao nhất đối với các hoa lợi, công sản;
+ Đánh giá đúng những tiềm năng và lợi thế của địa bàn để có chính
sách phù hợp, tạo cơ sở hạ tầng tốt hỗ trợ cho ngày càng nhiều cá nhân, đơn
vị kinh doanh tiến hành sản xuất kinh doanh đồng thời thu hút các nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài;
+ Đƣa các nguồn vật lực, tài nguyên, đất đai vào sử dụng, hạn chế tối
đa tình trạng bỏ hoang;
+ Thực hiện trùng tu đình chùa, sửa chữa nâng cấp các khu vui chơi
giải trí, danh lam thắng cảnh,…thu hút khách tham quan nhằm tăng các khoản
thu từ các khoản phí;
+ Chuyển đổi hình thức sử dụng đất đai, đầm hồ, cơ cấu kinh tế địa
phƣơng theo chủ trƣơng đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, khai
thác tiềm năng, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống;
Khai thác và nuôi dƣỡng nguồn thu NSNN một cách hợp lý là một vấn
đề khó khăn, đòi hỏi chính quyền cấp tỉnh, thành phố phải quan tâm đến đời
sống của ngƣời dân, tạo đƣợc lòng tin đối với dân trong quản lý, sử dụng có
hiệu quả ngân sách. Mặt khác, thu phải công bằng đối với mọi ngƣời và phải
đảm bảo yếu tố bền vững của nguồn thu.
3.4.4. Công tác tuyên truyền
Tăng cƣờng tuyên truyền, phổ biến thông tin để các cấp, ngành có liên
quan và đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nƣớc nhận thức đúng đắn về ý nghĩa,
vai trò và tầm quan trọng của quá trình cải cách hoạt động thu, chi NSNN để
có những biện pháp thiết thực thực góp phần cân đối NSNN, ổn định kinh tế
-145-
vĩ mô và thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm lần thứ VII ở
CHDCND Lào.
Trong công tác tập trung các khoản thu NSNN có kịp thời đầy đủ và có
hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào ý thức tự giác chấp hành các quy
định về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, về thời hạn, quy định thu NSNN
của các đối tƣợng nộp.
Kinh nghiệm ở hầu hết các nƣớc cho thấy, yếu tố cơ bản để thực hiện
thành công một sắc thuế mới không chỉ phụ thuộc vào hệ thống văn bản pháp
luật mà còn rất cần có sự hiểu biết sâu sắc, kỹ lƣỡng ý thức tự giác chấp hành
của mỗi cán bộ thuế và của quảng đại quần chúng nhân dân, đặc biệt là của
những ngƣời nộp thuế. Cần giải thích để họ hiểu rằng bản chất thuế dƣới chế
độ xã hội chủ nghĩa là của dân, do dân, vì dân, Nhà nƣớc thu thuế để thực
hiện chức năng quản lý Nhà nƣớc, phát triển KT-XH để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, công bằng văn
minh, vì vậy, nộp thuế là trách nhiệm của toàn dân. Cần phải coi công tác
tuyên truyền, giải thích về quyền lợi, trách nhiệm của ngƣời nộp thuế là một
công việc quan trọng cần đƣợc thực hiện thƣờng xuyên. Cơ quan thuế cần có
sự phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phƣơng và các cơ quan
thông tin tuyên truyền đại chúng để tiến hành các công việc cụ thể sau:
- Soạn thảo, phổ biến rộng rãi các tài liệu giải thích, tuyên truyền về
thuế cho mọi ngƣời dân biết để họ có hiểu biết đầy đủ, tƣờng tận về chính
sách thuế, phƣơng pháp kê khai thuế, cách tính thuế và thời hạn nộp thuế,...
qua đó giúp các đối tƣợng thực hiện tốt hơn nghĩa vụ nộp thuế của mình.
Thực hiện đôn đốc tuyên truyền và giải thích những thắc mắc về các chính
sách thuế tại các địa điểm tập trung đông dân cƣ và phát hành các tờ rơi tài
liệu có liên quan đến chính sách thuế đồng thời kết hợp sử dụng các phƣơng
tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền giải thích chính sách thuế
-146-
(Đài phát thanh, đài truyền hình, sách báo, tạp chí,...). Lập trang web về thuế
trên mạng Internet để các tổ chức, cá nhân có thể khai thác tìm hiểu về chính
sách thuế và các thủ tục về thuế, cài đặt hệ thống giải đáp thắc mắc về thuế
qua mạng Internet, điện thoại.
- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về chính sách thuế, viết bài tuyên
truyền về thuế, chiến dịch tuyên truyền về thuế.
- Thực hiện tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế sâu rộng tới các tầng
lớp dân cƣ thông qua các tổ chức đoàn thể nhƣ: Trung tâm xúc tiến thƣơng
mại đầu tƣ, phòng công nghiệp và thƣơng mại, Hiệp hội doanh nghiệp trẻ.
Đƣa giáo dục về thuế vào chƣơng trình giảng dạy ở các trƣờng học, đƣa ra
quy định mọi tổ chức, cá nhân trƣớc khi kinh doanh đều phải đƣợc cấp chứng
chỉ đã qua lớp tập huấn, hƣớng dẫn về thuế.
- Thành lập trung tâm tƣ vấn giải đáp thắc mắc, trả lời các vấn đề liên
quan đến chính sách thuế miễn phí cho mọi đối tƣợng.
Ngoài ra, cơ quan thuế cần tổ chức các buổi tọa đàm, đối thoại với nhân
dân, với các cơ sở kinh doanh để thăm dò nguyện vọng của nhân dân, kịp thời
giúp đỡ cơ sở sản xuất kinh doanh, tháo gỡ khó khăn, vƣớng mắc trong việc
chấp hành chính sách thuế, qua đó phản ánh kịp thời các bất cập của cơ chế
hiện hành lên cơ quan quản lý cấp trên để có những sửa đổi, bổ sung nhằm
làm cho chính sách thuế ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tập trung ngày càng nhiều nguồn thu cho NSNN.
3.4.5. Tăng cƣờng trang thiết bị hiện đại hoá phục vụ công tác quản lý
thu, chi NSNN
Xuất phát từ bản chất, các cơ quan Thuế, Kho bạc Quốc gia các cấp là
cơ quan công quyền thực hiện chức năng của Nhà nƣớc, do vậy thƣờng xuyên
tiếp xúc với hầu hết các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, trụ sở các cơ quan này
phải đƣợc đầu tƣ thoả đáng, đảm bảo tính nghiêm minh của cơ quan Nhà
-147-
nƣớc. Mạng lƣới các cơ quan thực thi và quản lý NSNN từ Trung ƣơng đến
Địa phƣơng cần phải khang trang bề thế đồng thời phải tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho đối tƣợng trong việc giao dịch với các cơ quan.
Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào hoạt động của các cơ quan
Thuế, Kho bạc Quốc gia; trong đó, ƣu tiên đầu tƣ sử dụng các phần mềm tiên
tiến trên thế giới phù hợp với yêu cầu quản lý tài chính và ngân sách trong
tình hình mới và theo thông lệ quốc tế.
Huy động các nguồn lực tài chính để thực hiện đầu tƣ cho ứng dụng và
phát triển công nghệ thông tin. Chú trọng thu hút nguồn vốn ngoài nƣớc cho
các dự án hiện đại hoá, tập trung vào dự án hệ thống thông tin quản lý thu, chi
NSNN của giai đoạn hiện nay và hƣớng mở rộng của dự án các năm tới.
3.4.6. Về hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin phục vụ cho việc lập dự toán
và quản lý, điều hành NSNN theo dự toán
Để thực hiện việc xây dựng dự toán theo khuôn khổ chi tiêu trung hạn
và thực hiện quản lý, điều hành NSNN theo dự toán, hệ thống cơ sở dữ liệu và
thông tin thu, chi NSNN đóng một vai trò hết sức quan trọng. Bộ Tài chính
cần tiến hành xây dựng các chỉ tiêu báo cáo thống nhất để làm cơ sở cho việc
thu thập, tổng hợp số liệu, đồng thời cần xây dựng một hệ thống lƣu trữ số
liệu thu, chi NSNN hoàn chỉnh. Trên cơ sở các mạng thông tin cục bộ hiện có
(mạng thông tin của cơ quan thu, của kho bạc quốc gia), ngành tài chính cần
sớm xây dựng một trung tâm cơ sở dữ liệu và truyền thông thống nhất của
toàn ngành. Hệ thống này đƣợc sử dụng để lƣu trữ toàn bộ các thông tin có
liên quan đến thu, chi NSNN; tiến độ tập trung nguồn thu; tiến độ chi; tồn quỹ
NSNN hiện có để cơ quan tài chính và kho bạc quốc gia có thể chủ động điều
hành NSNN trong mọi tình huống. Các dữ liệu đƣợc lƣu trữ một cách có hệ
thống tại trung tâm này cũng là những căn cứ quan trọng để các bộ phận có
chức năng tổng hợp, phân tích, dự báo các thông số kinh tế vĩ mô và các biến
-148-
động có thể ảnh hƣởng đến kế hoạch NSNN phục vụ cho việc xây dựng dự
toán và quản lý, điều hành NSNN.
3.4.7. Nâng cao trình độ thanh toán cho nền kinh tế
Trình độ công nghệ thanh toán của nền kinh tế trong đó có công nghệ
thanh toán của hệ thống Ngân hàng và Kho bạc Quốc gia có tác động trực tiếp
đến hiệu quả quản lý chi NSNN nói riêng và hiệu quả sử dụng vốn nói chung
của toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ cần có các giải pháp cụ thể để thúc đẩy sự
phát triển của hệ thống công nghệ thanh toán hiện đại nhằm hạn chế tối đa
việc sử dụng tiền mặt trong các quan hệ thanh toán; tiến tới sử dụng phổ biến
hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nhằm góp phần tiết kiệm chi phí xã
hội và nâng cao hiệu quả quản lý NSNN của Nhà nƣớc.
3.4.8. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý, điều hành
NSNN
Tăng cƣờng sự phối hợp giữa cơ quan Tài chính, Thuế, Hải quan, Kho
bạc Quốc gia nhằm đẩy nhanh việc tập trung các khoản thu NSNN để đáp ứng
các nhu cầu chi tiêu của các đơn vị sử dụng NSNN. Cơ quan Tài chính, Kho
bạc Quốc gia thƣờng xuyên trao đổi thông tin để nắm bắt kịp thời các số liệu
về thu, chi, tồn quỹ NSNN để có biện pháp điều hành linh hoạt trong từng
tình huống cụ thể. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa cơ quan Tài chính, Kho bạc
Quốc gia với ngân hàng trong việc tổ chức thanh toán, chi trả các khoản chi
của NSNN và bố trí nguồn đáp ứng các nhu cầu chi tiêu khi tồn quỹ NSNN bị
thiếu hụt tạm thời.
Trong công tác chống thất thu thuế, cơ quan Thuế tuy là nòng cốt nhƣng
không thể một mình chống thất thu có hiệu quả đƣợc mà phải dựa vào các tầng
lớp dân cƣ, đặc biệt là các cấp các ngành, các cơ quan có chức năng nhƣ:
- Văn phòng bản: cơ quan Thuế nên phối hợp một cách thƣờng xuyên
và chặt chẽ với tổ chức này để nắm bắt đƣợc những đặc điểm riêng biệt của
từng hộ kinh doanh và cũng có thể phát hiện ra đƣợc những hộ nào mới ra
-149-
kinh doanh từ đó hƣớng dẫn cho các hộ này đi đăng ký kinh doanh và cấp mã
số thuế cho họ, hoặc có thể phối hợp với Văn phòng bản để tổ chức những
buổi gặp mặt giữa đội tuyên truyền thuế và các hộ kinh doanh trong bản từ đó
cán bộ thuế có thể tuyên truyền, hƣớng dẫn và giải đáp những vƣớng mắc về
thuế để cho các hộ kinh doanh có thể hiểu biết đƣợc sâu rộng hơn đối với
quyền lợi và nghĩa vụ của họ đối với cơ quan Thuế.
Ngoài ra phối hợp với Văn phòng bản cũng có thể biết đƣợc kịp thời
những hộ đang có ý định chuyển đi kinh doanh nơi khác có nợ đọng thuế hay
không, tránh tình trạng các đơn vị có nợ đọng trốn đi kinh doanh nơi khác mà
không trả tiền thuế trƣớc.
- Phòng Tài chính: Phòng thuế cũng cần thƣờng xuyên phối hợp với
các phòng Tài chính của huyện và các bản để có thể biết đƣợc nhu cầu chi
tiêu và tiêu dùng trong phạm vi huyện, bản của mình.
- Bộ phận quản lý thị trƣờng: để có thể biết đƣợc tình hình biến động về
giá cả thị trƣờng của từng mặt hàng, ngành nghề, cơ quan Thuế cần phối hợp
với bộ phận này một cách chặt chẽ để từ đó có thể ấn định đƣợc doanh số cho
các đơn vị nộp thuế theo phƣơng pháp ấn định doanh thu và các hộ khoán.
Ngoài ra còn có thể phát hiện ra những mặt hàng chƣa dán tem và thông báo
cho cơ quan Thuế đến dán tem,…
- Phối hợp với cơ quan Công an (đặc biệt là Công an kinh tế): để xử lý
và điều tra những vụ trốn lậu thuế hoặc điều tra những hộ có nợ đọng lớn
không nộp tiền thuế rồi trốn đi kinh doanh ở các nơi khác mà không báo lại
với cơ quan Thuế.
- Phối hợp với các cơ quan chức năng khác để có thể theo dõi đƣợc sát
sao và kịp thời về mọi mặt biến đổi về số lƣợng, quy mô kinh doanh,…trên
địa bàn của các đơn vị kinh doanh từ đó mới có thể quản lý và thu đúng, thu
đủ, thu kịp thời và chính xác.
-150-
Kết luận chƣơng 3:
Trong chƣơng 3, trên cơ sở các mục tiêu, định hƣớng phát triển KT-XH
ở CHDCND Lào giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030, luận án đã trình bày
các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào với những nội
dung chủ yếu nhƣ sau:
- Các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH trong giai đoạn 2015-2020
ở CHDCND Lào;
- Các quan điểm chung về hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND
Lào nhằm mục tiêu phát triển KT-XH giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030;
- Trình bày hệ thống các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở
CHDCND Lào và các giải pháp hỗ trợ cần thực hiện nhằm tao điều kiện tốt
nhất cho việc thực hiện các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở
CHDCND Lào thời gian tới.
Toàn bộ các giải pháp trên đƣợc cấu thành nhƣ một hệ thống, có quan
hệ mật thiết với nhau. Chính vì vậy, để hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở
CHDCND Lào trong giai đoạn tới cần thực hiện một cách đồng bộ các giải
pháp. Mặt khác không đƣợc xem nhẹ các giải pháp hỗ trợ vì đây là những
điều kiện cần thiết để hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào.
-151-
KẾT LUẬN
Cùng với quá trình phát triển KT-XH đất nƣớc, thời gian qua công tác
quản lý điều hành chi NSNN ở CHDCND Lào đã đạt đƣợc nhiều tiến bộ nhất
định. Cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào đã cơ bản đảm bảo đƣợc các nhu
cầu chi tiêu tối thiểu của bộ máy Nhà nƣớc, từng bƣớc gắn với các mục tiêu
phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm
bảo công bằng xã hội. Bên cạnh đó, những hạn chế, tồn tại trong cơ cấu chi
NSNN ở CHDCND Lào đòi hỏi phải sớm đƣợc khắc phục và hoàn thiện trong
thời gian tới.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đánh giá tác động của cơ cấu
chi NSNN ở CHDCND Lào đến đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công
bằng xã hội, nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở
CHDCND Lào giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030, Luận án đã hoàn thành
đƣợc các nội dung chủ yếu nhƣ sau:
- Về lý luận, Chƣơng 1 đã hệ thống hóa những lý thuyết cơ bản về
NSNN và cơ cấu chi NSNN với phát triển KT-XH. Trong đó các nội dung đã
tổng hợp và trình bày theo hệ thống về khái niệm, bản chất, cơ cấu, chức
năng, và các tác động của cơ cấu chi NSNN tới phát triển KT-XH, biểu hiện
thông qua các lĩnh vực đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội.
- Về thực tiễn, Chƣơng 2 đã tập trung liệt kê, trình bày diễn biến cơ cấu
chi ngân sách nhà nƣớc ở CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012, qua đó trình
bày các tác động của cơ cấu chi NSNN tới đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công
-152-
bằng xã hội. Qua đó, đánh giá những thành tựu, hạn chế, phân tích nguyên
nhân khách quan và chủ quan của những tồn tại, hạn chế đó.
- Xuất phát từ lý luận và thực tiễn, Chƣơng 3 đã đề xuất một hệ thống
các giải pháp, các kiến nghị cụ thể để tiếp tục hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở
CHDCND Lào trong giai đoạn tới góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH của
đất nƣớc.
Hoàn thiện cơ cấu chi NSNN là một lĩnh vực khá phức tạp về mặt thực
tiễn thực hiện, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều ngành khác
nhau, do vậy đòi hỏi phải đƣợc Chính phủ, các ngành, các cấp quan tâm, tập
trung nghiên cứu để từng bƣớc hoàn chỉnh.
-153-
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Cơ cấu chi NSNN-Kinh nghiệm của Trung Quốc và Việt Nam bài
học cho CHDCND Lào, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 01 (114) -
2013, từ trang 68-70.
2. Cơ cấu chi ngân sách CHDCND Lào giai đoạn 2001- 2012, Tạp chí
Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 02 (115) - 2013, từ trang 62-64.
3. Tác động của cơ cấu chi NSNN đối với tăng trƣởng kinh tế và phát
tiển kinh tế xã hội ở CHDCND Lào, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán,
số 03 (128) - 2014, từ trang 55-58.
-154-
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ-XÃ HỘI ........................................................................................ 13
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI ......... 13
1.1.1. Nhận thức chung về phát triển kinh tếError! Bookmark not defined.
1.1.2. Nhận thức chung về phát triển xã hộiError! Bookmark not defined.
1.1.3. Mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội -
Vấn đề phát triển bền vững ....................................................................... 23
1.2. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VÀ CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƢỚC ................................................. Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Chi Ngân sách Nhà nƣớc ................................................................ 27
1.2.2. Cơ cấu chi Ngân sách Nhà nƣớc ..................................................... 32
1.3. TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NSNN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ-XÃ HỘI ....................................................................................... 39
1.3.1. Cơ cấu chi NSNN phục vụ đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH40
1.3.2. Cơ cấu chi NSNN thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ................. 46
1.3.3. Tác động của cơ cấu chi NSNN tới vấn đề giảm đói nghèo và đảm
bảo công bằng xã hội................................................................................. 52
1.4. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM VỀ BỐ TRÍ
CƠ CẤU CHI NSNN NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KT-XH; BÀI
HỌC RÚT RA CHO CHDCND LÀO ......................................................... 55
1.4.1. Kinh nghiệm về bố trí cơ cấu chi Ngân sách Nhà nƣớc của Trung
Quốc và Việt Nam ..................................................................................... 55
1.4.2. Bài học rút ra cho nƣớc CHDCND Lào .......................................... 61
Kết luận chƣơng 1 ........................................................................................... 63
-155-
Chƣơng 2. TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC
TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND LÀO GIAI
ĐOẠN 2001-2012 ........................................................................................... 64
2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI Ở CHDCND LÀO
GIAI ĐOẠN 2001-2012 .............................................................................. 64
2.1.1. Khái quát về đặc điểm kinh tế ở CHDCND Lào ............................ 64
2.1.2. Khái quát về đặc điểm xã hội ở CHDCND Lào ............................. 73
2.2. TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI NSNN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KT-
XH Ở CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN 2001-2012 ........................................ 76
2.2.1. Thực trạng bố trí cơ cấu chi Ngân sách Nhà nƣớc ở CHDCND Lào
giai đoạn 2001-2012 ................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Tác động của cơ cấu chi NSNN tới sự phát triển KT-XH ở
CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012 ........................................................ 85
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CƠ CẤU CHI NSNN Ở CHDCND LÀO GIAI
ĐOẠN 2001-2012 - THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN..... 107
2.3.1. Những thành tựu đạt đƣợc ............................................................ 107
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân .................................................... 108
Kết luận chƣơng 2: ........................................................................................ 112
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƢỚC Ở CHDCND LÀO GIAI ĐOẠN 2015-2020 ................................. 113
3.1. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KT-XH VÀ YÊU CẦU VỀ CHI NSNN
GIAI ĐOẠN 2015-2020 ............................................................................ 113
3.1.1. Định hƣớng chung ........................................................................ 113
3.1.2. Các mục tiêu vĩ mô ....................................................................... 115
3.2.QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NSNN TRONG THỜI GIAN
TỚI ............................................................................................................. 117
-156-
3.2.1.Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải nhằm phát huy hiệu quả cao nhất
của việc sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nƣớc ..................................... 117
3.2.2. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải căn cứ vào nhu cầu về hàng hóa
dịch vụ công cộng ngày càng tăng của đời sống KT-XH ....................... 118
3.2.3.Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải gắn chặt với chiến lƣợc phát triển
KT-XH và chiến lƣợc tài chính-tiền tệ của đất nƣớc .............................. 119
3.2.4. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý
KT-XH của Nhà nƣớc ............................................................................. 119
3.2.5. Đổi mới cơ cấu chi NSNN phải tính đến bối cảnh hội nhập kinh tế,
tài chính quốc tế ...................................................................................... 120
3.3. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NSNN Ở CHDCND LÀO GIAI
ĐOẠN 2015 - 2020 VÀ TẦM NHÌN 2030 ............................................... 121
3.3.1. Nhóm các giải pháp chung ............................................................ 121
3.3.2. Về đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội ......................... 128
3.3.3. Về thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hƣớng CNH-
HĐH cần lựa chọn các ngành ƣu tiên tập trung phát triển ...................... 132
3.3.4. Về xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội ................. 134
3.4. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU
CHI NSNN ................................................................................................. 140
3.4.1. Hoàn thiện quy trình thực hiện chi NSNN trên cơ sở cải cách thủ
tục hành chính ......................................................................................... 140
3.4.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cƣờng bồi dƣỡng, đào tạo cán bộ
làm công tác quản lý thu, chi NSNN ...................................................... 141
3.4.3. Nâng cao kỹ năng khai thác và nuôi dƣỡng nguồn thu ................. 142
3.4.4. Công tác tuyên truyền ................................................................... 144
3.4.5. Tăng cƣờng trang thiết bị hiện đại hoá phục vụ công tác quản lý
thu, chi NSNN ......................................................................................... 146
-157-
3.4.6. Về hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin phục vụ cho việc lập dự toán
và quản lý, điều hành NSNN theo dự toán ............................................. 147
3.4.7. Nâng cao trình độ thanh toán cho nền kinh tế .............................. 148
3.4.8. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý, điều hành
NSNN ...................................................................................................... 148
Kết luận chƣơng 3: ........................................................................................ 150
KẾT LUẬN .................................................................................................. 151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN