HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ TRUNG KIÊN
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRONG KINH TẠNG
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VĂN HỆ PÀLI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ TRUNG KIÊN
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRONG KINH TẠNG
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VĂN HỆ PÀLI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
MÃ SỐ: 9229040
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc
2. PGS.TS. Nguyễn Thanh Xuân
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Nghiên cứu sinh
chịu trách nhiệm về những lời cam đoan trên là đúng sự thật.
Tác giả
Lê Trung Kiên
MỤC LỤC
Trang MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ LÝ LUẬN .......... 15 1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ......... 15 1.2. Một số vấn đề rút ra và hướng nghiên cứu tiếp ................................ 32 1.3. Lý thuyết nghiên cứu và một số khái niệm thao tác ......................... 35
Chƣơng 2: PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VÀ KINH TẠNG PHẬT
GIÁO NGUYÊN THỦY VĂN HỆ PÀLI .................................... 55 2.1. Lược sử Phật giáo và Phật giáo Nguyên thủy ................................... 55 2.2. Kinh tạng Phật giáo và kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ
Pàli ............................................................................................................. 66 2.3. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam ........................................... 80
Chƣơng 3: GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẶC ĐIỂM GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRONG KINH TẠNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VĂN HỆ PÀLI ................................................................... 86
3.1. Những biểu hiện của giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo
Nguyên thủy văn hệ Pàli qua những phạm trù phổ quát ................. 86 3.2. Những biểu hiện của giá trị đạo đức cá nhân .................................... 92 3.3. Những biểu hiện giá trị đạo đức trong quan hệ xã hội ................... 101 3.4. Biểu hiện giá trị đạo đức trong mối quan hệ giữa người với vật ........ 116 3.5. Một số đánh giá và đặc điểm của giáo trị đạo đức trong kinh
tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli ........................................ 121
Chƣơng 4: BÀN LUẬN VỀ SỰ TỒN TẠI CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRONG KINH TẠNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VĂN HỆ PÀLI TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN NAY ................... 129
4.1. Những giá trị đạo đức hiện tồn và những biểu hiện giá trị đạo
đức đã được tiếp biến ..................................................................... 129
4.2. Ảnh hưởng của giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo
Nguyên thủy văn hệ Pàli với đời sống hiện nay ............................ 142
4.3. Một số yếu tố tác động đến việc phát huy giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli trong đời sống hiện nay ....................................................................................... 151 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 158 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...................... 161 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 162 PHỤ LỤC ......................................................................................................... 172
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCH Ban chấp hành :
CMĐĐ Chuẩn mực đạo đức :
CTQGHGM Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh :
ĐĐPG Đạo đức Phật giáo :
ĐĐTG Đạo đức tôn giáo
ĐĐXH Đạo đức xã hội :
ĐHKHXHNV Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn :
Đại học Quốc gia Hà Nội ĐHQGHN :
Giáo dục GD :
Giáo hội Phật giáo Việt Nam GHPGVN :
GTĐĐ Giá trị đạo đức :
GTVH Giá trị văn hóa :
KH Khoa học :
KTKĐ Kết tập kinh điển :
Nxb Nhà xuất bản :
PG Phật giáo :
TNTG Tín ngưỡng tôn giáo :
TW Trung ương :
VH Văn hóa :
VHĐĐ Văn hóa đạo đức :
VHPG Văn hóa Phật giáo :
VHTG Văn hóa tôn giáo :
VN Việt Nam :
XH Xã hội :
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Phật giáo là tôn giáo (TG) có số lượng tín đồ đông đảo nhất trong số
các tôn giáo ở Việt Nam. Tính đến tháng 12/2019, chỉ tính riêng số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam - tổ chức tôn giáo hợp pháp được Nhà
nước công nhận, có 53 nghìn tăng ni; 18 nghìn cơ sở thờ tự; 14 triệu tín đồ [4]. Trải qua gần hai ngàn năm tồn tại và phát triển, Phật giáo có ảnh hưởng
sâu đậm trong đời sống văn hóa (VH), tinh thần của người Việt Nam. Không chỉ tạo nên các thiết chế văn hóa như cơ sở thờ tự, hoạt động tu học, phát triển
giáo lý, hoằng truyền chính pháp..., mà giá trị văn hóa (GTVH), đạo đức Phật giáo còn tác động rất lớn đến việc hình thành nên đạo đức xã hội.
Nghiên cứu sinh tìm hiểu đề tài “Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli” với những cơ sở lý luận và thực tiễn cụ
thể như sau.
Về mặt lý luận
Ở Việt Nam, qua việc nhìn nhận vai trò xã hội và thực tế đóng góp của tôn giáo nói chung, đặc biệt là Phật giáo với đất nước và dân tộc, Đảng ta đã
có cái nhìn đổi mới, cởi mở đối với tôn giáo. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII (1998) của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó xác định xây dựng tư tưởng, đạo đức là nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa cơ bản, thường xuyên và lâu dài của
sự nghiệp văn hóa. Nghị quyết cũng xác định phát huy các di sản văn hóa, các
giá trị tích cực của VH, đạo đức tôn giáo (ĐĐTG), thực hiện chính sách văn hóa đối với tôn giáo để xây dựng con người và phát triển văn hóa đất nước.
Văn kiện Đại hội X (2006), đại hội XII (2016) và Nghị quyết số 33-NQ/TU của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước đã khẳng định “Phát huy những GTVH, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”. Đảng, Nhà nước luôn quan
tâm và động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”. Để bổ sung cơ sở thực tiễn và lý luận cho những quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam từ đó phát huy những GTVH, đạo đức tốt đẹp trong các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam nói
2
chung và Phật giáo nói riêng, chúng ta cần nghiên cứu, đánh giá đúng những giá trị đạo đức (GTĐĐ) của tôn giáo và vai trò của nó đối với việc xây dựng
con người và phát triển nền văn hoá của dân tộc.
Trên phương diện lý luận, rất cần làm rõ những nhận thức về giá trị
đạo đức Phật giáo. Thích Ca là người được cho là đã hoàn thành con đường
tu tập, với những chuẩn mực đạo đức, làm mô phạm và mẫu mực cho xã
hội. Xã hội từ Đông sang Tây đã tu tập và thực hành theo giáo lý mang giá
trị đạo đức của Phật giáo. Đại Hội đồng LHQ đã xem Phật giáo là một tôn
giáo hòa bình với những giá trị văn hóa, đạo đức phổ quát cho toàn nhân loại.
Lễ Vesak là ngày lễ hội văn hoá tôn giáo thế giới được LHQ tổ chức hàng
năm với mục đích ca ngợi tinh thần, văn hóa, đạo đức của Phật giáo trong xã
hội. Trong các kỳ tổ chức Vesak, các hội thảo về đạo đức Phật giáo thường
được nghiên cứu dưới góc nhìn đạo đức học hay những ứng dụng của đạo đức
Phật giáo vào giải quyết những thực trạng của đạo đức xã hội. LHQ đánh giá
cao về vai trò của Phật giáo trong đời sống văn hóa xã hội, trong đó có giá trị
đạo đức Phật giáo. Vậy giá trị đạo đức được thể hiện trong giáo lý, kinh
điển Phật giáo đó cụ thể là gì, có ý nghĩa như thế nào trong việc hình thành
đạo đức xã hội. Điều này cần thiết được nghiên cứu.
Về mặt thực tiễn
Trên thế giới, xung đột sắc tộc, tôn giáo thường xuyên sảy ra. Tuy
nhiên, không có xung đột liên quan đến Phật giáo. Người ta đi tìm những
nguyên nhân được cho là nằm trong giáo lý nhân văn của Phật giáo, và ở đó,
giá trị đạo đức trong kinh điển Phật giáo lại càng được quan tâm.
Trong xã hội Việt Nam gần đây, dư luận xã hội và hệ thống truyền
thông đại chúng đang nóng lên và lan truyền những thông tin liên quan đến
việc thực hành Phật giáo tại các cơ sở thờ tự có biểu hiện xa dời giáo lý, đi
ngược lại các giá trị, những chuẩn mực của đạo đức tôn giáo và chuẩn mực
đạo đức xã hội. Một bộ phận chức sắc Phật giáo thì bê trễ giới luật, thực hiện
mê tín dị đoan, trục lợi, cơ hội, lợi ích nhóm, tham quyền cố vị, mâu thuẫn,
mất đoàn kết. Báo chí đã phản ánh những vụ việc như: vụ việc mặc cả để
3
dâng sao giải hạn; bán bùa cầu an; cao điểm hơn là vụ cúng vong, gọi vong,
trục vong để chữa bệnh; hay nổi cộm là vụ việc “gạ tình” nữ phóng viên của
một vị tu hành... ở một số ngôi chùa, làm cho tín đồ, Phật tử, những người có
thiện cảm vốn xưa nay đề cao giá trị đạo đức Phật giáo nay suy giảm niềm tin.
Do đó, việc truy tìm về cội gốc những chuẩn mực, quy tắc, giá trị đạo đức
Phật giáo trong kho tàng kinh tạng Nguyên thủy là điều cần thiết để lý giải và
định hướng cho những người tin theo và cộng đồng xã hội.
Chúng ta có thể bắt gặp ở đâu đó những công trình đề cập đến đạo
đức Phật giáo, vai trò của đạo đức Phật giáo hay những ảnh hưởng của đạo
đức Phật giáo với xã hội. Tuy nhiên, các tác giả cơ bản căn cứ giáo lý của
các hệ phái, tông phái Phật giáo nhất định, hoặc chủ yếu căn cứ vào Luật
tạng - giới luật (chỉ áp dụng cho người xuất gia) sẽ thiếu tính toàn diện. Vì
vậy, việc nhìn nhận một cách tổng quan để hoàn thiện lý luận về giá trị đạo
đức Phật giáo trên cơ sở khảo cứu toàn bộ Kinh tạng Phật giáo Nguyên
thủy văn hệ Pàli là việc làm cần thiết.
Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu nâng cao nguồn nhân lực phục vụ
công tác quản lý, nghiên cứu, giảng dạy cấp đại học và sau đại học về tôn
giáo, văn hóa và những ngành liên quan đến tôn giáo, các cơ sở đào tạo thực
hiện đào tạo hệ đại học và sau đại học về chuyên ngành tôn giáo học được
thành lập ngày càng nhiều, đòi hỏi cần có những nghiên cứu cơ bản, đặc biệt
là những công trình nghiên cứu sâu sắc, toàn diện về tôn giáo nói chung và
Phật giáo nói riêng. Nhưng thực tế công tác nghiên cứu, học thuật chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra.
Vì vậy, việc khảo cứu tổng thể về kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy
văn hệ Pàli làm cơ sở về lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo, về văn hóa đồng thời
làm tư liệu cho việc tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy và học tập về tôn
giáo học, về công tác quản lý nhà nước đối với Phật giáo nói riêng và tôn
giáo nói chung, đồng thời tìm hiểu và phát huy những giá trị của nó trong
đời sống xã hội nhằm xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt Nam
là việc làm cần thiết.
4
Vì những lí do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề Giá trị đạo đức
trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli làm đề tài nghiên cứu
cho luận án tiến sỹ chuyên ngành Văn hóa học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu đề tài Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật
giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli, chúng tôi nhằm tới mục đích nhận diện giá trị
đạo đức Phật giáo và khẳng định giá trị đạo đức Phật giáo trong đời sống xã
hội Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để cụ thể hóa được mục đích trên, chúng tôi xác định một số nhiệm vụ
cơ bản phải thực hiện trong quá trình nghiên cứu đề tài là:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về giá trị và giá trị đạo đức Phật giáo.
- Khái quát lịch sử Phật giáo, Phật giáo Nguyên thủy và kinh tạng Phật
giáo Nguyên thủy.
- Nhận diện giá trị đạo đức và chỉ ra đặc điểm giá trị đạo đức trong kinh
tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli.
- Bàn luận để làm rõ hơn về sự hiện tồn, tiếp biến của giá trị đạo đức
trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli trong đời sống hiện nay.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo
Nguyên thủy văn hệ Pàli.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khách thể: là kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli,
đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản với năm bộ kinh Nikàya, gồm 24
tập, do Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam thuộc Giáo hội Phật giáo Việt
Nam thực hiện. Năm bộ kinh cụ thể là: Kinh trường bộ (tập 1, tập 2); Kinh
Trung bộ (tập 1, tập 2, tập 3); Kinh Tương ưng bộ (tập 1, tập 2, tập 3, tập 4,
5
tập 5); Kinh Tăng chi bộ (tập 1, tập 2, tập 3, tập 4); Kinh Tiểu bộ (tập 1, tập 2,
tập 3, tập 4, tập 5, tập 6, tập 7, tập 8, tập 9, tập 10).
- Phạm vi thời gian: tập trung vào thời gian từ 1991(khi tập đầu tiên
trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli được Giáo hội Phật giáo
Việt Nam phát hành) đến nay (2020).
Tuy nhiên, luận án nghiên cứu và đề cập đến lịch sử Phật giáo trên thế
giới và ở Việt Nam, trong đó có bối cảnh ra đời của Phật giáo tại Ấn Độ, vì
vậy, thời gian khởi điểm được đề cập trong luận án, về mặt lịch sử sẽ là từ
khoảng năm 600 TCN, khi Thích Ca - người khai sáng Phật giáo sinh ra. Luận
án cũng nghiên cứu những ảnh hưởng của giá trị đạo đức Phật giáo với xã hội
Việt Nam hiện nay, nên điểm cuối thời gian được nêu trong luận án sẽ là mốc
thời điểm hiện tại, 2020.
- Phạm vi không gian: xã hội Việt Nam.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận của luận án
Về mặt lý luận, luận án sẽ làm rõ khái niệm giá trị đạo đức Phật giáo
và nhận diện giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ
Pàli để góp làm hoàn thiện lý luận ngành văn hóa học khi nghiên cứu về tôn
giáo như một đối tượng của văn hóa học. Từ đó, luận án sẽ nghiên cứu để làm
rõ những đặc điểm, sự tồn tại và tiếp biến của giá trị đạo đức Phật giáo trong
kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli với đạo đức xã hội, đồng thời
làm rõ hơn sự ảnh hưởng của giá trị đạo đức Phật giáo trong việc hình thành,
vận hành của đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay. Kết quả những nghiên cứu
này sẽ bổ sung làm vững chắc hơn những cơ sở lý luận cho những nhận định
mang tính khái quát trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về
những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của tôn giáo để nhân rộng và phát huy
nó như một nguồn lực tôn giáo trong đời sống xã hội.
Ở một mức độ nhất định, luận án mong muốn góp phần cung cấp một
số luận cứ khoa học để tham khảo trong việc hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với văn hóa và tôn giáo.
6
- Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án là công trình khoa học có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
việc nghiên cứu, giảng dạy về văn hóa nói chung; về văn hóa tôn giáo và đạo
đức tôn giáo nói riêng.
Luận án cũng có thể được dùng làm cơ sở bước đầu cho Giáo hội Phật
giáo Việt Nam tham khảo để nhận diện, khắc phục và điều chỉnh những lệch
chuẩn đạo đức, sự tha hóa, xa dời giáo lý, đi ngược lại các giá trị, chuẩn mực đạo
đức tôn giáo trong một bộ phận tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam hiện nay.
5. Cách tiếp cận, cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận
* Tiếp cận Văn hóa học
Dưới cách tiếp cận này, Phật giáo với tư cách là một thực thể xã hội, là
chủ thể của văn hóa. Phật giáo được nhìn nhận là một tập hợp xã hội bao gồm
những con người có cùng niềm tin, là một tổ chức với cơ cấu chặt chẽ về mặt
giáo hội, có những quy định cụ thể về mặt hoạt động, trong đó các thành viên
tự mình thụ nhận và thực hành giáo lý do chính họ đề ra và phát triển giáo lý
ấy để phục vụ lý tưởng của chính Phật giáo. Đến lượt nó, Phật giáo lại trở
thành văn hóa, với tư cách là kết quả của năng lực người. Phật giáo bao hàm
trong mình những giá trị văn hóa về nhận thức, tư tưởng, luân lý, đạo đức, lối
sống, kiến trúc, điêu khắc, nghi lễ, nghệ thuật âm nhạc, v.v., Đến đây nó lại
tác động trở lại, quy định, chi phối, điều chỉnh chính chủ thể sinh ra nó và
cộng đồng xã hội trong một mối liên hệ chặt chẽ và đa chiều. Chính dưới góc
nhìn này, tôn giáo, với ý nghĩa tổng thể nhất của nó, trở thành đối tượng
nghiên cứu của văn hóa học.
Cách tiếp cận văn hóa học này còn chỉ ra rằng, tất cả những nỗ lực cố
gắng thể hiện năng lực người của tôn giáo, từ cố gắng xây dựng giải thích
nguyên nhân tạo thành, sự vận hành, quy luật chi phối tự nhiên, xã hội, tư duy
con người, đến những quan điểm về đạo đức luận, giáo dục luận... đều được
cộng đồng Phật giáo và xã hội thừa nhận, đánh giá, đề cao với thái độ coi đó
là các chuẩn mực, từ đó thúc đẩy cộng đồng cố gắng thực hành theo. Với ý
nghĩa đó, chúng đã mang những giá trị cụ thể.
7
Với cách tiếp cận văn hóa học, giáo lý Phật giáo, mà tập trung nhất là
những luân lý, quy phạm, đạo đức và các chuẩn mực, mang trong mình những
giá trị văn hóa. Và chính nó, với tên gọi là giá trị đạo đức Phật giáo, biểu hiện
cụ thể của GTVH, lại trở thành bộ quy chiếu, cơ sở đánh giá các ý nghĩ (tâm
lý), lời nói, và việc làm (hành vi) với tiêu chuẩn của giá trị đạo đức. Phật giáo,
với giáo lý của mình mang đến trong văn hóa những giá trị đạo đức, lại trở
thành hệ quy chiếu của đạo đức cộng đồng và đạo đức xã hội. Ở đó, những
tiếp biến về giá trị đạo đức sẽ xảy ra, một mặt làm cho toàn xã hội được lan
tỏa các giá trị của văn hóa đạo đức Phật giáo, mặt khác, chính Phật giáo sẽ
tiếp thu giá trị văn hóa đạo đức xã hội làm phong phú thêm, hoàn thiện thêm
văn hóa đạo đức Phật giáo.
Vì là luận án thuộc mã ngành văn hóa học, với đề tài “Giá trị đạo đức
trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hê Pàli” nên luận án đương nhiên sẽ
sử dụng cách tiếp cận văn hóa học trong suốt quá trình nghiên cứu.
* Cách tiếp cận liên ngành
Đối tượng của văn hóa học cũng có thể là đối tượng của nhiều ngành
khoa học khác. Bên cạnh đó, văn hóa không phải tồn tại tĩnh lặng, bất động và
riêng biệt mà nó luôn vận động trong không gian, thời gian với các chủ thể,
khách thể khác biệt. Vì vậy, nghiên cứu sinh áp dụng cách tiếp cận liên ngành
trong nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu sự hình thành, biểu hiện,
đặc điểm, sự tồn tại và ảnh hưởng của giá trị đạo đức Phật giáo đối với đạo
đức xã hội Việt Nam hiện nay.
Chúng tôi áp dụng cách tiếp cận liên ngành trong nghiên cứu vấn đề cụ
thể đạo đức Phật giáo, đó là chúng tôi áp dụng phương pháp, lý thuyết và kết
quả quá trình nghiên cứu của Đạo đức học, Tôn giáo học, Xã hội học văn hóa
vào nghiên cứu văn hóa học với vấn đề nghiên cứu cụ thể là giá trị văn hóa
đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli.
* Cách tiếp cận văn bản học
Luận án vận dụng cách tiếp cận này để nghiên cứu, xử lý 24 tập của
năm bộ kinh Nikàya với quan điểm và cách vận dụng của luận án như sau:
8
Văn bản (ở đây chỉ năm bộ kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy) là dạng
thức tồn tại độc lập, hoàn thiện và duy nhất của tác phẩm, trong đó nội dung
được thể hiện qua ngôn ngữ của tác giả. Nó là dạng thức văn bản đơn nghĩa,
thống nhất, cụ thể, được ra đời trong một bối cảnh lịch sử.
Khi áp dụng cách tiếp cận văn bản học vào nghiên cứu vấn đề, chúng
tôi đã lựa chọn và đánh giá cao tính chỉnh thể, toàn vẹn và xác định của năm
bộ Nikàya với 24 tập sách của tạng kinh Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli.
Luận án coi đây là bằng cứ đầu tiên và quan trọng nhất trong suốt quá trình
tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp về những biểu hiện của giá trị đạo
đức Phật giáo. Đương nhiên, bên ngoài nó - 24 tập sách, hay liên hệ với nó,
còn có tự nhiên, xã hội, và những yếu tố liên quan đến tác giả, hoàn cảnh lịch sử,
chúng tôi coi đây là bối cảnh của văn bản, sẽ tác động trực tiếp đến nội dung văn
bản. Khi tiếp cận nội dung văn bản luận án sẽ đặc biệt lưu ý phương diện này.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng cho rằng, ngôn từ, hình thức của tác phẩm, các
hình ảnh ẩn dụ, so sánh… là yếu tố bên ngoài nhưng là phương thức quan trọng
và trực tiếp nhất biểu hiện ý nghĩa bên trong, nội dung chính và là thông điệp của
tác giả muốn chuyển tải. Luận án sẽ cố gắng để tìm ra hạt nhân bên trong của
những thông tin ngôn ngữ, hình ảnh, bố cục để chỉ ra được những nội dung, cái
hàm ẩn bên trong về những biểu hiện của giá trị đạo đức Phật giáo và những giá
trị của nó sẽ tác động đến người đọc, người thực hành như thế nào. Đây sẽ là
cách tiếp cận chủ đạo mà luận án áp dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng cách tiếp cận đa ngành trong nghiên cứu
đề tài luận án.
5.2. Cơ sở phương pháp luận
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa.
Các nhà lý luận mác - xít khi trình bày về bản chất của văn hóa thường
dựa vào quan điểm của C. Mác và Ph.Ăngghen nói về các lực lương bản chất
người. Các ông cũng đã phân tích tính chất xã hội của các lực lượng bản chất
người. Đây không phải là lực lượng bẩm sinh xuất hiện một cách tự nhiên mà
chúng sinh ra và biến đổi do tác động của các quan hệ xã hội, do trình độ phát
9
triển của văn hóa. Các lực lượng bản chất người ấy được khách thể hóa thông
qua hoạt động thích ứng và cải tạo thế giới của con người. Quan điểm mác -
xít cho rằng, nguồn gốc của văn hóa là lao động sáng tạo. Khi bàn về tính chất
của văn hóa, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, văn hóa là phương thức sản xuất
tinh thần, nó phản ánh và chịu sự quy định của sản xuất vật chất. Và các ông
thống nhất cho rằng, văn hóa không từ trên trời rơi xuống, hay ngẫu nhiên xuất
hiện, văn hóa do quần chúng nhân dân sáng tạo nên. Các ông cho rằng, khi
những yếu tố văn hóa phản ánh hiện thực khách quan và hướng đến sự tiến bộ xã
hội thì chúng là tài sản của toàn dân, mang tính nhân loại phổ biến, bất kể nó do
giai cấp nào tạo ra. Văn hóa là giá trị, giá trị chính là văn hóa. Về chức năng của
văn hóa, các nhà mác - xít cho rằng văn hóa có chức năng giáo dục, chức năng
nhận thức, chức năng thẩm mỹ, chức năng dự báo [10, tr.1 -20].
Quan điểm Mác - Lênin cho rằng, giá trị văn hóa thông qua đánh giá
mà có, tuy nhiên, đánh giá không tạo nên giá trị. Nội dung khách quan giá trị
do lao động đã được kết tinh và đã được xã hội hóa quy định. Giá trị văn hóa
có tính quy định về mặt lịch sử. Có những giá trị lâu bền, có giá trị một thời
và có các giá trị muôn thủa [77, tr.70-71].
Dưới phương pháp luận Mác - Lênin về văn hóa, Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của sự
phát triển kinh tế xã hội. Hội nghị lần thứ năm BCH TW Đảng khóa VIII về
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nêu rõ:
“Khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện... trong các tôn giáo”
[60, tr.67]. Như vậy, Đảng đã nhận định tính tích cực của tôn giáo, trong tôn
giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và khẳng định cần khuyến
khích, cần khai thác, phát huy các giá trị đó nhiều hơn nữa để góp phần xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Tôn giáo là một hình thức xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân
loại. Về nguồn gốc tôn giáo, đa số các quan điểm đều cho rằng tôn giáo ra đời
khi trình độ nhận thức và khả năng hoạt động thực tiễn của con người đều rất
thấp. Thời sơ khai, tôn giáo thể hiện sự yếu đuối, sợ hãi, bất lực của con
10
người trước các lực lượng của tự nhiên và xã hội dẫn đến thần thánh hóa
chúng và tôn thờ chúng. Ph. Ăngghen cho rằng “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua
chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực
lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh
trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu
trần thế” [12, tr.437]. Cũng trên lập trường duy vật vô thần, C.Mác đã nêu ra
quan điểm nổi tiếng khi bàn về cơ sở xã hội của sự hình thành tôn giáo và vai
trò xã hội của nó, khi cho rằng sự nghèo nàn của tôn giáo vừa biểu hiện sự
nghèo nàn của hiện thực ấy. Và khi chỉ ra những hạn chế của tôn giáo cũng như
xác định vai trò của nhà nước cách mạng, C.Mác cho rằng: “Tôn giáo là thuốc
phiện của nhân dân”. Vì vậy, việc xóa bỏ tôn giáo trong lòng xã hội mới là cần
thiết và xóa bỏ tôn giáo, với tư cách là xóa bỏ hạnh phúc ảo tưởng của nhân
dân là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân [12, tr. 569-570].
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, tôn giáo không có lịch sử riêng của
mình, không có bản chất đặc biệt và nôi dung đặc biệt nằm ngoài thế giới.
Tôn giáo phát triển trong bối cảnh lịch sử xã hội; sự tiến hóa của tôn giáo diễn
ra tùy thuộc vào sự phát triển của sản xuất xã hội, của hệ thống quan hệ xã
hội. Trong tôn giáo, con người biến thế giới kinh nghiệm của mình thành một
bản chất tưởng tượng, hay một thế giới lý tưởng, đứng đối lập với nó như một
thế giới xa lạ nhưng đầy hoàn mỹ [117, tr.21].
Như vậy, dưới góc nhìn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo là một
trong những hình thái ý thức của xã hội, ra đời sớm, phát triển cùng xã hội
loài người, phát sinh và phát triển trên nền tảng của hiện thực xã hội và
phản ánh, theo cách riêng của tôn giáo, về những thực tại xã hội. Tôn giáo
là một phạm trù lịch sử. Các nhà mác - xít cũng cho rằng, dù dưới dạng
thức ảo vọng hay tinh thần lý tưởng, tôn giáo vẫn có giá trị xoa dịu tin
thần của con người, và trong tôn giáo, những thực tại không như mong
ước sẽ được hiện thực hóa trong các lý tưởng tôn giáo một cách đẹp đẽ,
hoàn mỹ. Đó là các lý tưởng tôn giáo, trong đó có lý tưởng về đạo đức xã
hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ Đảng Cộng sản Việt Nam, kế thừa và
11
phát triển tinh thần ấy của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, Người cho
rằng, các tôn giáo đều có chung một tinh thần nhân văn, đó là lòng nhân
ái và đạo đức cao cả [97, tr.272].
Kế thừa và phát triển thêm một bước quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể
hiện sự đổi mới nhận thức về tôn giáo và nêu rõ trong Nghị quyết của Đảng,
rằng tôn giáo còn tồn tại lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Đảng cũng xác định “mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” là điểm tương đồng giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã
hội, từ đó Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng cần “phát huy những giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội
mới” [61, tr. 50-55].
Chúng ta có thể thấy, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
đều cho rằng, tôn giáo tồn tại trong xã hội, và chính tôn giáo là một phản ánh của
tồn tại xã hội, tôn giáo sinh ra trong xã hội và tôn giáo chứa đựng những mong
ước, lý tưởng của con người về một xã hội, một cõi sống mà ở đó chính
quyền, xã hội, người dân đều tốt đẹp. Những lý tưởng tốt đẹp ấy của các tôn
giáo được cụ thể hóa trong giáo lý, tín điều của mỗi tôn giáo một cách khác
nhau, nhưng nó đều mang trong mình một điều chung tốt đẹp, đó là những giá
trị về chân - thiện - mỹ.
* Quan điểm phi mác - xít về tôn giáo
Với quan điểm thực thể tôn giáo, Emile Durkheim và Resgis Debray cho
rằng, tôn giáo là một thực thể xã hội và thiết chế xã hội có vai trò chức năng
trong chỉnh thể của xã hội. Tự thân tôn giáo thực hiện những chức năng khác
nhau trong xã hội. Bản thân tôn giáo bao chứa và sản sinh ra các biểu hiện của
văn hóa, của tinh thần. Giá trị đạo đức là một sản phẩm được sinh ra và lưu
trữ trong kho tàng tôn giáo. Như vậy, khi tiếp cập quan điểm này, luận án sẽ
nghiên cứu những chức năng, vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, nhất
là chức năng văn hóa, chức năng thúc đẩy và hình thành đạo đức xã hội của
tôn giáo (Nội dung này NCS sẽ trình bày rõ hơn trong phần lý thuyết thực thể
tôn giáo ở chương 1).
12
5.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê - so sánh - đối chiếu:
Trên cơ sở cứ liệu là 24 cuốn sách kinh Phật giáo Nguyên thủy văn hệ
Pàli, luận án sẽ lần lượt tiếp cận kỹ càng, chi tiết nội dung từng trang sách để
chỉ ra những biểu hiện của giá trị đạo đức Phật giáo và thống kê những biểu
hiện giá trị đạo đức đó theo từng chủ đề, từng nhóm tác động, hay các nhóm
quan hệ xã hội mà ở đó nội dung đạo đức Phật giáo được biểu hiện. Mục tiêu
của phương pháp này là để tìm tòi, nhận diện và tạo dựng một “bức tranh”
tổng quát về những biểu hiện của giá trị đạo đức Phật giáo trong kinh tạng
Pàli. Phương pháp này sẽ được nghiên cứu sinh áp dụng để xử lý thô, hay
chính là bước xử lý tư liệu. Trên cơ sở kết quả của việc áp dụng phương pháp
này tác giả sẽ tiến thành tiếp những bước nghiên cứu tiếp theo.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp:
Trên cơ sở những kết quả của việc áp dụng phương pháp thống kê - so
sánh như nói ở trên, chúng tôi sẽ đi phân tích, đánh giá để chỉ ra những đặc
điểm và khái quát hóa, tổng hợp thành những biểu hiện của giá trị đạo đức
trong tạng kinh của Phật giáo thành những giá trị đạo đức và chỉ ra sự hiện tồn
và tiếp biến cũng như ảnh hưởng của nó trong việc tác động, hình thành, chi
phối sự tồn tại và vận động của đạo đức xã hội nhằm xây dựng con người và
phát triển văn hóa Việt Nam.
- Phương pháp chuyên gia
Phương pháp này được áp dụng để phỏng vấn các chuyên gia nghiên
cứu về tôn giáo học, văn hóa, di sản văn hóa và nhà quản lý tôn giáo, để bổ
sung những nhận định, đánh giá trong phần bàn luận về sự tồn tại của giá trị
đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli trong đời sống
hôm nay.
- Phương pháp hệ thống - chức năng
Áp dụng phương pháp này nghiên cứu sinh sẽ chỉ ra được các thành tố
cấu tạo nên hệ thống nhận diện của giá trị đạo đức như những giá trị đạo đức
13
phổ quát, những chuẩn mực đạo đức cá nhân, những chuẩn mực đạo đức xã
hội... và luận án cũng cố gắng chỉ ra chức năng của giá trị đạo đức biểu hiện
trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli có chức năng như thế nào
trong việc tác động, tạo nên đạo đức xã hội Việt Nam.
- Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi còn áp dụng các
phương pháp điền dã tham dự để trực tiếp thâm nhập vấn đề nghiên cứu.
5.4. Câu hỏi và giả thiết nghiên cứu
5.4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Để định hướng cho những nghiên cứu và đưa ra kết luận, luận án đặt ra
và đi nghiên cứu làm rõ để trả lời cho các câu hỏi:
- Phật giáo Nguyên thủy và kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ
Pàli có những nội dung cơ bản gì?
- Những chuẩn mực đạo đức cá nhân và xã hội được phán ánh như thế
nào trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli?
- Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy Văn hệ Pàli
được biểu hiện thế nào và có những đặc điểm gì?
- Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy Văn hệ Pàli có
còn hiện tồn và ảnh hưởng như thế nào trong đời sống hiện nay?
5.4.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Giá trị đạo đức chứa đựng trong những lời dạy của Thích Ca Mâu Ni
được ghi chép trong kinh điển Phật giáo.
- Kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli phản ánh những nội dung
liên quan đến những quy phạm, nguyên tắc, luân lý, chuẩn mực, đạo đức và đó
chính là những biểu hiện của giá trị đạo đức. Đến lượt nó, những giá trị đạo đức
ấy tác động và ảnh hưởng nhất định đến quá trình hình thành đạo đức xã hội.
- Giá trị đạo đức thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ
Pàli có những điểm tương đồng với giá trị đạo đức xã hội mới ở Việt, nó còn
14
hiện tồn và ảnh hưởng tích cực đến đời sống hiện nay trong việc xây dựng và
hình thành đạo đức xã hội.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình nghiên cứu,
Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận án được cấu trúc thành 4
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và lý luận
Chương 2: Phật giáo Nguyên thủy và kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy
văn hệ Pàli
Chương 3: Giá trị đạo đức và đặc điểm giá trị đạo đức trong kinh tạng
Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli
Chương 4: Bàn luận về sự tồn tại của giá trị đạo đức trong kinh tạng
Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli trong đời sống hiện nay.
15
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ LÝ LUẬN
1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về tôn giáo có liên quan đến đạo
đức tôn giáo và đạo đức Phật giáo
Max Weber (1864 - 1920), trong tác phẩm “Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản”, xuất bản lần đầu tiên năm 1904, tại Đức, ông đã nhắc đến đạo đức tôn giáo (ĐĐTG) và những ảnh hưởng mạnh mẽ của nó đến tiến trình xã hội. Mặc dù chỉ đề cập chủ yếu đến các tôn giáo phương Tây, tập trung nhất là Tin lành (một kết quả cải cách từ Công giáo - NCS), mà chưa nhắc nhiều đến các tôn giáo ở phương Đông (điều này là hạn chế lịch sử tất yếu, Mác, Ăng-ghen cũng không vượt qua được hạn chế lịch sử và không gian địa lý này - NCS), nhưng ông đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu và xác lập đối tượng nghiên cứu về ĐĐTG với những biểu hiện hệ thống, đầy đủ của nó mà ông gọi là nền - nền đạo đức Tin lành, với những tác động mạnh mẽ của ĐĐTG đến đạo đức xã hội (ĐĐXH) và tiến trình xã hội. Ông đã phân tích, chứng minh và cuối cùng đưa ra kết luận, nền đạo đức Tin lành không những là nguồn gốc mà còn là tinh thần của chủ nghĩa Tư bản. Ông viết: “Chủ nghĩa Tư bản hiện đại không thể hình thành nếu không có một nền đạo đức tương ứng với nó, nhưng nền đạo đức này (nền đạo đức Tin lành - NCS) cũng không thể được thiết lập mà không có chủ nghĩa tư bản làm cơ sở” [93, tr.41]. Năm 2012, với báo cáo khoa học “Văn hóa tôn giáo nhìn từ góc độ triết học”, Đặng Thị Lan, khi bàn về thuật ngữ văn hóa tôn giáo, cho rằng: “có thể hiểu khái niệm này (văn hóa tôn giáo - NCS) theo hai nghĩa: Tôn giáo là bộ phận cấu thành văn hóa hoặc bản thân tôn giáo là văn hóa, là một hình thức của văn hóa”. Theo tác giả, cả hai đều đúng, và giải thích, trên thực tế, tôn giáo góp phần quan trọng trong việc hình thành nền VH của mỗi dân tộc, VH của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền đều gắn bó chặt chẽ với tôn giáo thông qua những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, trong đó có đạo đức, lối sống, phong tục tập quán [85, tr.55].
16
Trần Quốc Vượng, khi nghiên cứu về tôn giáo dưới góc nhìn văn hóa
học, cho rằng: “Ở trung tâm mỗi tôn giáo lớn đều có hạt nhân triết học, đều có
chủ nghĩa nhân đạo - là thành tựu văn hóa lớn nhất của loài người. Cái từ bi
của nhà Phật, cái bác ái của Chúa Kitô, cái nhân nghĩa của Khổng Nho là hạt
ngọc văn hóa đó, tôi thấy thế này: xét theo quan điểm lịch sử phát sinh và
trưởng thành, tôn giáo vừa là sản phẩm của văn hóa, vừa là thành phần hữu
cơ, một nhân tố cấu thành văn hóa” [123, tr.55].
Đặng Văn Bài, khi nói về giá trị di sản của các tôn giáo, ông cho rằng:
“Xét một cách tổng quát, giá trị đạo đức tôn giáo là cái được xã hội thừa
nhận, lựa chọn, đánh giá, đó là việc làm có ý nghĩa tích cực đối với đời
sống của con người, được lương tâm của chúng ta khuyến khích, dư luận
xã hội ủng hộ. Đạo đức tôn giáo có tác dụng giáo dục con người tự giác
thực hiện, tự điều chỉnh hành vi của mình, tiếp nhận, chuyển hóa giá trị đạo
đức thành hành động” [96, tr.163].
Hoàng Thị Thơ, trong báo cáo khoa học “Vai trò của triết học trong
giáo dục Phật giáo” tại Hội thảo Giáo dục Phật giáo Việt Nam - Định hướng
và phát triển, do Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) tổ chức, tác giả
cho rằng giới luật Phật giáo chính là đạo đức. Hay nói cách khác, theo tác giả,
hành trì giới luật Phật giáo sẽ mang lại một đời sống đạo đức. Vì vậy, trong
nội dung giáo dục Phật giáo, tác giả đề xuất: “luôn kết hợp đồng thời 3
phương diện: Giới (đạo đức), Định (thực hành có niềm tin), Tuệ (thông thái,
minh triết). Có thể coi đó là sự kết hợp ba lĩnh vực: đạo đức + tôn giáo + nhận
thức” [69, tr.168].
Bùi Thanh Quất, cùng thống nhất quan điểm, việc hành trì giới luật
và sống theo giáo pháp sẽ tạo nên một đời sống hạnh phúc, trong báo cáo
khoa học “Giáo dục Phật giáo - Từ góc nhìn tâm linh”. Ông cho rằng:
“Phật giáo có cách lý giải và thực hành riêng của mình dành cho cuộc
sống của mỗi người và cả cộng đồng nhằm giúp họ xóa đi được nỗi lo âu,
niềm bất hạnh, đạt tới được niềm hạnh phúc, trạng thái an lành trong cuộc
đời”. Và “Muốn có được đời sống hạnh phúc đích thực, thì mỗi người
17
nhất thiết phải chăm lo đời sống đạo đức của riêng mình trên mọi phương
diện”. Theo ông “Trường tâm linh” an lạc, hạnh phúc và đạo đức đó của
Phật giáo được tạo ra bởi con người và cộng đồng nhờ đời sống đức hạnh
của họ” [69, tr. 153].
Lê Văn Lợi trong cuốn sách “VHTG trong đời sống tinh thần xã hội
Việt Nam hiện nay”, xuất bản năm 2012, ông định nghĩa: “VHTG là hệ thống
giá trị kết tinh và phát lộ lực lượng bản chất người trong lĩnh vực tôn giáo và
chịu quy định của ý thức tôn giáo, thông qua đó nó cũng thực hiện chức năng
“nhân hóa” tự nhiên, xã hội hóa con người và nhân đạo hóa xã hội”. Khi bàn
về kết cấu của văn hóa tôn giáo, ông cho rằng, kết cấu dễ nhận diện nhất của
văn hóa tôn giáo là kết cấu theo thành tố văn hóa. Tác giả cho rằng thành tố
tạo nên văn hóa tôn giáo, gồm: các giá trị khoa học; các giá trị nghệ thuật; các
giá trị đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán, lễ hội... [89, tr. 53-55].
Tác giả Dipti Mahanta, Đại học Maha Chulalongkon, Thái Lan, trong
bài “Trung đạo cho sự phát triển bền vững giữa những đổi thay xã hội” tại
Hội thảo quốc tế được tổ chức trong khuôn khổ Đại lễ Vesak Liên Hợp quốc
2014, cho rằng, đức hạnh và thiền theo tinh thần Phật giáo Nguyên thủy là cơ
sở nền tảng của Phật giáo thúc đẩy xã hội Phát triển bền vững. Ông nói: “triển
vọng đạo đức về cuộc sống và tất cả cam kết của một người là căn bản trong
việc mang đến sự phát triển bền vững ở mặt cá nhân cũng như mặt xã hội. Ý
nghĩa của nguyên tắc đạo đức (yếu tố nền tảng của Phật giáo - NCS) là công
cụ hỗ trợ cho việc thực hiện sự phát triển bền vững không thể bị từ chối. Việc
không tuân thủ theo nguyên tắc đạo đức dẫn đến sự mất mát cá nhân cũng
như phá vỡ sự hòa bình và hài hòa” [23, tr.63].
Cũng trong Hội thảo nêu trên, tác giả Kaushalya Karunasagara, Viện
Phật giáo quốc tế Sri Lanka, khi trình bày về nhưng điều cần lưu ý khi thực
hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc, đã nhấn mạnh bốn
nội dung chính: Bình đẳng giới; Hợp tác phát triển toàn cầu; Tăng cường giáo
dục tiểu học; Nâng cao giá trị đạo đức của tất cả các cộng đồng tôn giáo.
Trong nội dung thứ tư, tác giả cho rằng, giá trị đạo đức Phật giáo làm cho xã
18
hội hòa bình, phi bạo lực, con người sống trên những nguyên tắc của giới luật
và giáo lý Phật giáo, đối xử với nhau bằng niềm tin, thực hiện những hành
động vì lợi ích, hạnh phúc của dân chúng sẽ thúc đẩy xây dựng một xã hội
phát triển bền vững [81, tr.112-114].
Với đề tài “Xóa đói giảm nghèo: Mô hình đạo đức kinh tế gia đình”
trong Hội thảo của Đại lễ Vesak Liên Hợp quốc nói trên, tác giả
G.A.Somarate, Giám đốc Dự án Dhammachai Tipitaka, đưa ra quan điểm
rằng, “Bất kỳ một chương trình xóa đói giảm nghèo của Phật giáo phải là một
nỗ lực trao quyền cho các gia đình để thoát khỏi đói nghèo của chính họ bằng
cách nhận ra tiềm năng của chính mình trong khung đạo đức được thể hiện
qua ngôn từ của Phật pháp”. Tác giả cũng nhấn mạnh, khung đạo đức liên
quan là trong thời Phật giáo Nguyên thủy, và cho rằng, chỉ có sự song hành
giữa tăng trưởng kinh tế với duy trì khung đạo đức Phật giáo mới có thể tạo
nên sự thoát nghèo và phát triển bền vững. Tác giả kết luận: “Mối liên kết
giữa kinh tế và đạo đức kêu gọi gia đình Phật tử cố gắng đạt được cùng một
lúc sự thịnh vượng kinh tế và niềm hạnh phúc đạo đức, một cơ thể khỏe mạnh
và một tâm trí lành mạnh” [65, tr.151].
Năm 2016, tại Hội thảo “Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng
của Việt Nam: 25 năm nhìn lại”, tác giả Lê Văn Lợi cho rằng: “Trong thời kỳ
đổi mới, cùng với việc nhìn nhận tôn giáo với tư cách là “phạm trù chính trị”,
Đảng từng bước tiếp cận văn hóa về tôn giáo, nhìn nhận tôn giáo với tư cách
là “phạm trù văn hóa”, thể hiện ở việc tôn trọng và phát huy các nhân tố tích
cực, GTVH, đạo đức tốt đẹp của TG” [90, tr. 92].
Tác giả Đỗ Lan Hiền, cũng tại Hội thảo vừa nêu, đưa ra quan điểm, từ
khía cạnh nhà nước, không nên can thiệp vào tôn giáo, không nên lấy tôn giáo
này làm hình mẫu cho các tôn giáo khác, cũng không nên tác động vào các
tôn giáo theo ý chủ quan của nhà nước. Tác giả đã đưa ra chứng lý về tôn giáo
ở Đức, Ý, Pháp, Mỹ, và Phật giáo Việt Nam ở đời Trần, và đi đến nhận định
mỗi tôn giáo có những giá trị riêng của nó và nếu thực sự là các giá trị, nó sẽ
tự nhiên lan tỏa trong xã hội. Tác giả nhấn mạnh: “không nên có ý định uốn
19
nắn, điều chỉnh tôn giáo theo mong muốn chủ quan, mà phải làm ngược
lại”. Tác giả cũng cho rằng: “sự áp đặt những giá trị chung của tôn giáo
này cho các tôn giáo khác là phá hỏng quy luật của sự đoàn kết và đồng
thuận xã hội” [75, tr. 68].
Năm 2016, Tác giả Nguyễn Thị Thanh Thảo đã bảo vệ thành công
Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Văn hóa học với đề tài “Ảnh hưởng của Phật
giáo đối với VHĐĐ các vương triều Lý - Trần” [112]. Với lý thuyết về
VHĐĐ , tác giả đã đi nghiên cứu về dấu ấn của Phật giáo trong VHĐĐ các
vương triều Lý - Trần, thể hiện qua các nội dung: triết lý, tư tưởng đạo đức;
giá trị, chuẩn mực, khuôn mẫu đạo đức; thực hành VHĐĐ; các yếu tố ngoại
hiện của VHĐĐ. Tác giả đi đến nhận định, trong thời kỳ mở cửa hội nhập,
Phật giáo với các giá trị của nó đang có vai trò quan trọng trong việc xây dựng đời
sống xã hội, thúc đẩy văn hóa và đạo đức xã hội để tạo sự phát triển bền vững.
Tại Hội thảo Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng của Việt
Nam: 25 năm nhìn lại,do Học viện CTQG HCM tổ chức, năm 2016, trong báo
cáo khoa học: “Việc phát huy giá trị VH, ĐĐ tôn giáo trong thời kỳ đổi mới”,
tác giả Hoàng Thị Lan đã khẳng định các tôn giáo đã có đóng góp quan trọng
vào các lĩnh vực đời sống xã hội. Điều đó có được do sự thôi thúc từ việc phát
huy các GTVH ĐĐ đức sẵn có trong mỗi tôn giáo. Tác giả cũng đề xuất việc
tiếp tục phát huy các GTVH ĐĐ tốt đẹp của tôn giáo trong đời sống xã hội
qua việc thực hiện một cách bài bản, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị,
tạo các hành lang pháp lý phù hợp, đồng thời kết hợp chặt chẽ với các tôn
giáo cũng như học tập kinh nghiệm của các nước trong việc phát huy giá trị
VHĐĐ tôn giáo để xây dựng và phát triển đất nước [87, tr.356].
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về Phật giáo có đề cập đến đạo
đức Phật giáo
Năm 1943, Ấn Thuận, người Trung Quốc, đã xuất bản cuốn sách “Phật
pháp khái luận”, trong chương thứ 14, ông có đề cập đến yếu tố tâm trong đức
hạnh và nguyên tắc thực thi. Ông đã sử dụng lý thuyết về đạo đức học, tâm lý
đạo đức để đề cập đến đạo đức Phật giáo (ĐĐPG). Theo ông, yếu tố tâm
20
quyết định ý hướng đạo đức và thực hành đạo đức trong Phật giáo. Vì để tịnh
hóa nội tâm theo tinh thần giáo lý của Phật giáo nên sẽ dẫn đến tâm lý đạo
đức thanh lọc những cẩu uế trong tâm, dẹp tan những tâm ý xấu xa và các ý
tưởng dục vọng tầm thường, hướng tới những điều cao cả theo giáo lý Phật,
từ đó huân tập và biểu hiện thành các hành vi đạo đức [132, tr.197]. Đương
nhiên, những nội dung giáo lý ông nêu ở đây là tư tưởng của Phật giáo Đại
thừa và y cứ trên kinh văn Hán tạng.
Năm 1971, tại Cao Hùng, Đài Loan, Lâm Thế Mẫn đã viết cuốn sách
“Những điểm đặc sắc của Phật giáo” với mục tiêu mang giáo lý Phật giáo để
dạy cho học sinh phổ thông. Tác giả cho rằng: “Tôi tin chắc rằng Phật pháp là
nhu cầu cần thiết cho xã hội ngày nay (...) Tôi tin chắc rằng lời di giáo của
đức Phật Thích Ca Mâu Ni hơn 2.000 năm, đối với thế đạo nhân tâm ngày nay
vẫn là bài thuốc quý có tác dụng cứu trị” [120, tr.11]. Qua quá trình trải
nghiệm thực tiễn bằng cả cuộc đời nghiên cứu Phật học và giáo dục của mình,
ông khẳng định rằng, một giáo viên mang giáo lý Phật giáo giảng dạy cho học
sinh không phải là người “giáo sỹ truyền giáo”, vì “mục đích của giáo dục
không chỉ ở chỗ truyền trao tri thức mà trọng yếu nhất vẫn là ở chỗ truyền đạo
đức, giải tỏa nghi ngờ, dùng đạo lý làm người xử thế để dạy cho họ, giải đáp
cho họ những nghi ngờ về vấn đề nhân sinh, khiến họ tỉnh thức, tăng trưởng
đạo đức, lợi ích lý trí” [120, tr.17].
Năm 1971, Trong cuốn “Phật học tinh hoa một tổng hợp đạo lý”, Thích
Đức Nhuận khẳng định, Phật giáo là một thực thể văn hóa. Theo ông: “Nếu
một tôn giáo nào đó có khả năng cung ứng cho con người về nhu cầu thăng
hoa những giá trị sáng - mới - đẹp thì tôn giáo đó đương nhiên là một thực thể
văn hóa. Phật giáo là một thực thể văn hóa. Với bản chất này, đạo Phật đã
mang giá trị nhân bản đúng nghĩa rồi vậy. Vì đạo Phật là một tôn giáo giác
ngộ và giải thoát, nên nó trở thành một thực thể văn hóa của thời đại ngày
nay” [102, tr.359].
Năm 1993, trong cuốn “Lược sử Phật giáo Việt Nam”, Thích Minh Tuệ
coi Phật giáo là một thành tố văn hóa trong lòng văn hóa dân tộc, và cho rằng:
21
Lễ nghi của Phật giáo không nhằm phủ nhận, cố tình xóa bỏ lễ nghi của dân
tộc mà còn tô điểm thêm cho nền văn hóa bốn ngàn năm. Bởi thế, khi Phật
giáo truyền vào Việt Nam, dân tộc đã tiếp nhận một cách vinh dự, hài hòa.
Rồi từ đó đến nay, Phật giáo chung cùng tô bồi cho nền văn hóa dân tộc”
[131, tr.30]. Khi nhắc đến vai trò của giới luật Phật giáo, ông cho rằng,
“những điều răn cấm trong giới luật Phật giáo giúp con người tránh khỏi tội
lỗi, phát triển đạo đức, xây dựng nhân cách con người sống trong cộng
đồng xã hội” [131, tr 25].
Thích Tịnh Không, người Đài Loan, viết trong cuốn “Nhận thức Phật
giáo là giáo dục hạnh phúc mỹ mãn” rằng: “Phật giáo Tiểu thừa được xây
dựng trên nền tảng của quan hệ đạo đức con người. Đó chính là hiếu thân, tôn
sư, từ bi, tu mười điều thiện. Nó chính là điều kiện cần thiết để học Phật, là cơ
sở chân chính để vào Phật môn” [119, tr.42].
Năm 2012, tác giả Minh Hoa, người Trung Quốc, đăng trên trang khoa
học Phật học (Xuefo) bài nghiên cứu “Phật giáo trong thực tiễn - Tiêu chuẩn
đạo đức Phật giáo”với những luận điểm cho rằng, ở phạm vi xã hội, đạo đức
duy trì an ninh quốc gia, bảo vệ an toàn cho cuộc sống người dân. Tác giả đưa
ra các tiêu chuẩn của đạo đức Phật giáo, gồm: tiêu chuẩn đạo đức ngũ giới
thập thiện; tiêu chuẩn đạo đức tế thế lợi nhân; tiêu chuẩn đạo đức trí tuệ Bát -
nhã. Tác giả khẳng định: “Các tiêu chuẩn đạo đức của Phật giáo dựa trên các
tiêu chí của ngũ giới thập thiện, hoàn thiện nhân cách con người, ích đời, giúp
người và thăng hoa đạo đức [76]. Như vậy, tác giả cũng chủ yếu tập trung vào
khía cạnh đạo đức của giới luật Phật giáo, cơ bản là Phật giáo Đại thừa, và
ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội.
Tác giả K.Sri Dhammananda, người Sri Lanka, trong cuốn “Đạo Phật
vì cuộc sống con người” để hoằng truyền về giáo lý Phật giáo Nguyên thủy và
khẳng định giá trị của nó trong đời sống con người, khi nhắc đến ba yếu tố
nền tảng của Phật giáo là Sìla (Giới), Samadhi (Định), Panna (Tuệ), tác giả
nhấn mạnh nền tảng và tính quan trọng của Sìla (Giới). Ông cho rằng, “giới
luật” và “đạo đức” là những từ và cụm từ đồng nghĩa với “Sìla”. Ông nhấn
22
mạnh, Sìla, hoặc sự mở mang đạo đức, có thể đạt được thông qua việc giữ
mình theo giới luật. Và việc thực hành giới luật - đạo đức đó sẽ để lại dấu vết
nơi con người, đó là nhân cách, bao gồm trong đó tất cả những đức hạnh của
con người lương thiện đáng kính [80, tr.41-42].
Nàrada Mahà Thera, người Sri Lanka, trong tác phẩm “Đức Phật và
Phật pháp” (The Buddha and His Teachings), được xem là cuốn sách căn bản
cho ai nghiên cứu về Phật giáo Nguyên thủy, trong mục Phật giáo và Luân lý,
ông viết:
Giáo lý của Đức Phật có phần luân lý tuyệt hảo dành cho cả bậc
xuất gia lẫn hàng cư sỹ. Tuy nhiên, Phật giáo không phải chỉ là một
hệ thống giáo huấn về luân lý thông thường. Giáo lý Phật giáo
không đặt nền tảng trên những lời dạy thần khải khả nghi, do một
thần linh truyền lại, mà là những quy tắc hợp lý và thực tiễn, căn cứ
trên những sự kiện có thể kiểm chứng được và trong kinh nghiệm
cá nhân. Quy tắc Phật giáo là một trong những quy tắc hoàn hảo
nhất trên thế gian [98, tr.281- 282].
Ông coi trọng và nhấn mạnh đặc trưng của Phật giáo đó là giáo lý về
đức hạnh, điều cần thiết cho chính cuộc sống con người ở trần gian chứ không
chỉ là phương tiện tu tập cho các vị tu sỹ. Vì lẽ đó, ông cho rằng, Phật giáo
đang ôn hòa thâm nhập vào tất cả các quốc gia, chính vì giá trị cố hữu sẵn có
và tính cách tốt đẹp mang tính đạo đức trong lời giáo huấn chứ không phải
nhờ vũ lực hay một phương tiện can thiệp nào khác. Ông cũng nhắc lại lời của
Lord Russell đánh giá về giá trị của Phật giáo Nguyên thủy, rằng: “Trong tất
cả các tôn giáo lớn của lịch sử, tôi chọn Phật giáo, đặc biệt trong những hình
thức Nguyên thủy; bởi vì ở đây yếu tố ngược đãi là nhỏ bé nhất” [98, tr.295].
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về đạo đức Phật giáo và giá trị đạo
đức Phật giáo
Năm 1987, Tác giả Hammalawa Saddhatissa, người Sri Lanka, xuất
bản cuốn “Đạo đức học Phật giáo” tại London, Anh quốc. Đây là một cuốn
sách nghiên cứu về đạo đức Phật giáo một cách hệ thống và nghiêm túc trên
nền tảng của Luật tạng Nguyên thủy hệ Pàli. Trong phần lời tựa, ông viết:
23
Cuốn sách này phân tích, đánh giá và giải thích những khái niệm
đạo đức theo tinh thần Phật giáo. Điểm mấu chốt là những khái
niệm đạo đức của tất cả các trường phái Phật giáo, và sự thật không
có sự khác biệt giữa những khái niệm đạo đức trong những trường
phái khác nhau đó, cũng như Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) và
Phật giáo Phát triển (Mahayana) [15, tr.10].
Tuy nhiên, nội dung đề cập chính trong cuốn sách của ông là giới luật
Phật giáo Nguyên thủy. Ông cho rằng những quy định về hành vi đạo đức là
giới luật Phật giáo, và có mối quan hệ khăng khít giữa giới luật xuất gia và
giới luật tại gia, đồng thời ông cũng nhấn mạnh vai trò của cư sỹ tại gia trong
việc phát triển và thúc đẩy đạo đức xã hội.
Tác giả Thích Minh Châu, viết trong cuốn sách “Đạo đức Phật giáo và
hạnh phúc con người”:
Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc cho con
người, đề cao giá trị con người; một nếp sống trong sạch, thanh
tịnh, lành mạnh loại bỏ các bất thiện, thành tựu các thiện pháp; một
nếp sống đi đôi với an lạc, không đi đôi với khổ; một nếp sống
trong ấy trí tuệ đóng vai trò then chốt, sống hài hòa với thiên nhiên,
với con người; một nếp sống vô ngã, vị tha [16, tr 23].
Vì là một tu sỹ Phật giáo nên đương nhiên tác giả lý giải căn cội, tiêu
chuẩn, thực hành, vai trò đạo đức Phật giáo với xã hội dựa trên nguyên lý Phật
giáo. Trong đó tác giả cũng nhấn mạnh, nếp sống đạo đức (không chỉ là lý luận -
NCS) của người tu Phật dựa trên kinh nghiệm thực chứng và những lời dạy của
Thích Ca Mâu Ni. Nghĩa là nếp sống đạo đức chỉ có được trên cơ sở hành trì, thực
hành giáo lý Phật giáo, mà điều đầu tiên phải thực hành là xóa bỏ những điều ác,
thực hành những điều thiện, sống khổ hạnh, giữ giới để đạt được trí tuệ, an lạc và
cuối cùng là mang lại hạnh phúc cho người khác.
Năm 2004, Hoàng Thị Lan công bố Luận án Tiến sỹ Triết học với đề
tài “Ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo đối với đạo đức trong xã hội của Việt
Nam hiện nay” [86]. Tác giả cho rằng, mỗi tôn giáo đều đưa ra một hế thống
24
tiêu chuẩn đạo đức cho mình, từ đó đã khảo cứu những nội dung và biểu hiện
của đạo đức tôn giáo nói chung và xem xét sự tác động của nó đến đạo đức xã
hội Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Năm 2005, Đặng Thị Lan bảo vệ thành công Luận án Tiến sỹ Triết học
với đề tài “Đạo đức Phật giáo và ảnh hướng của nó đến đạo đức con người
Việt Nam” [85]. Đề tài này tác giả nghiên cứu chuyên biệt đối với Phật giáo
với những biểu hiện đạo đức của nó. Tuy nhiên, giáo lý Phật giáo được tác giả
nhắc đến trong luận án cơ bản là Phật giáo Đại thừa, Phát triển với khía cạnh
đạo đức biểu hiện qua: Từ bi, Ngũ giới, quan điểm về nhân duyên - quả báo,
và sự vận hành của luân hồi. Qua đó, tác giả đưa ra đánh giá, ĐĐPG có vai trò
trong việc xây dựng, ảnh hưởng đến quá trình vun bồi và hoàn thiện đạo đức
con người Việt Nam hiện nay.
Tác giả Alastair Gornall của Đại học Cambridge, trong tác phẩm “Đạo
đức trong giới luật Phật giáo” công bố năm 2010, cho rằng, đạo đức Phật giáo
là phẩm chất tồn tại thật sự và song hành với việc tu tập của một tu sỹ Phật
giáo. Dù trong công trình của ông chỉ đề cập đến giới luật Phật giáo, và mặc
dù có những giới điều không phản ánh khía cạnh nào của đạo đức (như việc cạo
tóc), nhưng ông ủng hộ quan điểm cho rằng giới luật có thể được coi là quy tắc
đạo đức. Những quy định trong giới luật Phật giáo mang tính đạo đức vì chúng
được xem xét trên phương diện có khả năng gây hại cho người khác [2].
Với đề tài “Đạo đức Phật giáo và xã hội hiện đại”, tác giả Tề Quần,
người Trung Quốc công bố kết quả nghiên cứu của mình vào năm 2013,
khẳng định: “Sau khi nghiên cứu toàn diện và chi tiết về quy tắc đạo đức của
nhân loại, tôi nhận thấy rằng đạo đức Phật giáo không chỉ là hoàn thiện nhất, mà
còn phù hợp với định hướng phát triển của xã hội hiện tại và tương lai” [109].
Cũng trong tác phẩm này, ông phân tích cơ sở của đạo đức Phật giáo gồm: tư
tưởng nhân bản là cơ sở; lý thuyết nhân - duyên - quả là căn cứ; ngũ giới thập
thiện là chuẩn tắc. Từ đó, ông cho rằng, những giá trị đạo đức xuất phát từ tôn
giáo này đã duy trì ổn định cho xã hội loài người trong hàng ngàn năm.
25
Năm 2013, tác giả Ngụy Hải, người Trung Quốc đăng trên trang Phật
giáo Trung Quốc bài nghiên cứu “Đạo đức quan trong Phật giáo”, trong đó đề
cập về đặc điểm của Phật giáo lấy tri thức làm nguồn gốc của đạo đức; tiêu
chuẩn của đạo đức ấy đồng nhất với tiêu chuẩn về thiện ác; nền tảng của đạo
đức ấy xây dựng trên cơ sở mang lại lợi ích cho số đông; thực tiễn của đạo
đức ấy lấy việc thực hành ngũ giới, thập thiện làm cơ bản; tôn chỉ của đạo đức
ấy chính là từ bi và lợi tha [74]. Đây là quan điểm tiêu biểu của các học giả
Phật giáo Đại thừa.
Tác giả Thu Phong Lương, người Trung Quốc, trong công trình “Đạo
đức Phật giáo và những phân tích sơ bộ về ý nghĩa thực tiễn” đã đề cập đến:
quy phạm đạo đức cơ bản của Phật giáo (với những nội dung về ngũ giới,
thập thiện, bát chính đạo...); ý nghĩa thực tiễn của đạo đức Phật giáo. Ông cho
rằng, trong Phật giáo, đạo đức của nó bao hàm một loạt giá trị tinh thần nhân
văn riêng biệt như trí tuệ, từ bi, bình đẳng, không tham lam, tịnh tâm, có ý
nghĩa quan trọng tác động nhất định và ảnh hưởng đến việc xây dựng một xã
hội hài hòa, bảo vệ hòa bình thế giới, và thúc đẩy sự phát triển bền vững của
nhân loại [92].
Tác giả Bổn Tính, tu sỹ Phật giáo người Trung Quốc, trong bài “Ý
nghĩa hiện đại của đạo đức Phật giáo” đã gắn những nội dung của ngũ giới, tứ
nhiếp vào đời sống xã hội hiện đại để chỉ ra ý nghĩa của nó trong việc tu sửa
thân tâm, đối xử với cá nhân và trách nhiệm với cộng đồng bằng tinh thần ái
hữu, hành thiện, mang lại lợi ích cho nhân quần, xã hội [118],
Tác gả Barbara Hoetsu O’Brien, người Mỹ, trong tác phẩm “Phật giáo
và đạo đức” đã cho rằng, theo quan đểm của Phật giáo, hành vi đạo đức là
dòng chảy tự nhiên của việc kiểm soát bản ngã ham muốn, nuôi dưỡng lòng
yêu thương và lòng trắc ẩn. Nhưng tác giả cũng cho rằng, Phật giáo tiếp cận
đạo đức, nghĩa là không có đạo đức tuyệt đối trong Phật giáo. Theo tác giả,
quan điểm nhận diện hay những tiêu chí của đạo đức Phật giáo lại dựa trên
giáo lý về nhân - duyên - quả, mà điều này thì thường biến chứ không cố định
và vĩnh cửu [8].
26
Luke Wayne, người Mỹ, trong công trình khoa học “Đạo đức trong
Phật giáo” đăng trên trang của Viện nghiên cứu và biện giải Cơ Đốc giáo, cho
rằng, không giống như Cơ Đốc giáo, đạo đức xác lập trên nguyên tắc của
công lý do đức Chúa Trời mạc khải, đạo đức trong Phật giáo là thứ do con
người tạo ra đơn giản dựa trên việc điều ấy có lợi, phù hợp và “khôn ngoan”
chứ không phải điều ấy khách quan là tốt hay đúng. Tác giả cũng dẫn lời của
Giáo sư Phật giáo Nguyên thủy người Mỹ - Rodney Smith, chọn cách miêu tả
Bát chính đạo trong giáo lý đạo Phật với các tiêu chí về “khôn ngoan” (lời nói
khôn ngoan, quan điểm khôn ngoan, hành động khôn ngoan...) thay cho tiêu
chí về “đúng”. Ông trích dẫn nhận xét của Giáo sư Tôn giáo học người Nhật-
Maso Abe để giải thích cho quan điểm này, rằng “Không có khái niệm công
lý trong Phật giáo như Cơ Đốc giáo. Thay vào đó, Phật giáo nói về sự khôn
ngoan”. Mặc dù, theo Luke Wayne , vẫn có rất nhiều quan điểm về đạo đức
của Phật giáo nhận được sự đồng tình hoàn toàn từ Cơ Đốc giáo, như không
giết hại, không ăn cắp, tà dâm.... Nguồn gốc dẫn tới quan điểm này của Luke
Wayne, theo ông “Phật giáo dạy rằng, không có cái tôi cá nhân và vì vậy cũng
không có cái tôi của cá nhân nào khác”. Nghĩa là sẽ không có chủ thể và
khách thể để đánh giá chân lý, cơ sở để xác định đạo đức theo quan điểm của
Cơ Đốc giáo [82].
Cũng lấy Luật tạng (giới luật) của Phật giáo làm đối tượng nghiên cứu,
học giả Khangembam Romesh, người Ấn Độ, trong tác phẩm “Yếu tố đạo
đức trong Luật tạng Phật giáo” đã khám phá bản chất thật của các yếu tố đạo
đức, là nền tảng của Triết học Phật giáo. Tác giả cho rằng, yếu tố đạo đức đi
vào trong đạo đức Phật giáo là sự phân tích và hiểu biết về hành động của con
người với tư cách là đạo đức của con người. Đây là nguyên tắc chính của đạo
đức Phật giáo và được mô tả đúng như một hệ thống đạo đức tự trị. Tác giả
nhận định, các nguyên tắc đạo đức Phật giáo không chỉ điều chỉnh hành vi của
con người mà còn hướng dẫn thực hiện hành động đúng đắn. Khangembam
Romesh đưa ra kết luận: “Không thể phủ nhận thực tế rằng Phật giáo chiếm
một vị trí rất nổi bật trong khía cạnh đạo đức. Nó cũng ảnh hướng rất lớn đến
đạo đức Ấn Độ ở một mức độ nào đó [83].
27
Trong tác phẩm “Đạo đức Phật giáo Nguyên thủy”, tác giả David
Chapman cho rằng, đạo đức Phật giáo hiện đại không giống với đạo đức Phật
giáo Nguyên thủy. Vì những nguyên tắc của “phương tiện”, “tùy duyên”, mà
Phật giáo hiện đại (Phật giáo phát triển - Đại thừa) có những đánh giá khác
nhau về cùng một vấn đề là đạo đức hay phi đạo đức. Ví dụ như chiến tranh,
xâm lược là phi đạo đức, vệ quốc bảo vệ dân thường là chính đáng, đạo đức.
Nhưng bản chất của chiến tranh vẫn là bạo lực dẫn đến cái chết. Ông cho
rằng, trong Phật giáo Nguyên thủy, nhiều quan điểm đạo đức là chính xác. Và
ông nhận định, vẫn còn nhiều nơi trên thế giới sẽ tốt hơn với đạo đức Phật
giáo Nguyên thủy [20]. Còn trong tác phẩm “Phật giáo Nguyên thủy không có
hệ thống đạo đức”, David Chapman lại cho rằng, không tồn tại đạo đức
(ethics) Phật giáo với tiêu chuẩn đạo đức chung mang tính xã hội, mà chỉ tồn
tại dạng thức các quan niệm tốt - xấu (moral) gắn với đạo đức phẩm chất của
cá nhân [21].
Tác giả P.D. Premasiri, người Sri Lanka, trong tác phẩm “Đạo đức Phật
giáo, sự hoàn hảo về đạo đức và xã hội hiện tại”, đã khẳng định vai trò xã hội
tích cực của đạo đức Phật giáo là thúc đẩy, bổ khuyết và hoàn thiện đạo đức xã
hội hiện đại. Tác giả cho rằng, mục tiêu tối thượng của Phật giáo là giảng dạy
đạo đức Phật giáo với chủ trương hướng tới sự hoàn hảo về đạo đức. Cũng trong
tác phẩm này, ông đã đề cập đến giá trị của đạo đức Phật giáo. Theo tác giả,
cũng như giá trị đạo đức nói chung, giá trị đạo đức Phật giáo được nhận định là
có tính chủ quan và phù hợp với các giá trị đạo đức truyền thống [103].
“Tinh thần của đạo đức Phật giáo và giá trị đương đại của giáo dục đạo
đức” là công trình của Đường Ái Dân, người Trung Quốc. Trong tác phẩm
này tác giả đã chỉ ra cốt lõi tinh thần đạo đức của văn hóa Phật giáo là làm
thiện, tránh ác. Tác giả cho rằng khái niệm thiện và ác là giá trị cốt lõi xuyên
suốt trong tất cả giáo lý của Phật giáo. Đây là cốt lõi thống nhất của tất cả các
nguyên tắc, và những chuẩn mực thể hiện trong đạo đức của Phật giáo. Giới
luật và các giá trị đạo đức của Phật giáo là nền tảng của việc xây dựng văn
hóa Phật giáo. Trong đó, lòng từ bi là tinh thần cơ bản của văn hóa Phật giáo
28
và là khái niệm đạo đức cơ bản nhất. Lòng hiếu thảo là một trong những cốt
lõi xuyên suốt văn hóa đạo đức Phật giáo, và nó cũng là biểu tượng chính của
hội nhập văn hóa Phật giáo và văn hóa thế tục. Ông cũng cho rằng, tinh thần
cốt lõi của VHPG là do giá trị đương đại của giáo dục ĐĐPG mang lại. Ông
nhấn mạnh, tinh thần đạo đức của VHPG có ý nghĩa tham khảo văn hóa và
giá trị nhất định để mọi người phản ánh về hiện trạng đạo đức và xây dựng
một kế hoạch giáo dục đạo đức mới [22]. Như vậy, Đường Ái Dân đã nhắc
đến và khẳng định VHĐĐ Phật giáo có giá trị cốt lõi ít biến đổi. Và dù đã hơn
2500 năm tồn tại nhưng vẫn có giá trị trong xã hội hiện nay. Đương nhiên,
những nhận định của ông trên cơ sở nhìn nhận về Phật giáo Đại thừa tại
Trung Quốc hiện đại.
Tác giả Vương Quốc Miên, người Trung Quốc, trong tác phẩm “Văn hóa
đạo đức Phật giáo và xây dựng đạo đức đương đại” ông nghiên cứu mối quan hệ
giữa văn hóa đạo đức Phật giáo và đạo đức xã hội Trung Hoa hiện nay. Tác giả
khẳng định, giá trị cốt lõi của VHPG là một phần quan trọng của văn hóa tư
tưởng và đạo đức Trung Quốc cổ đại và văn hóa Trung Hoa truyền thống. Do
đó, VHĐĐ của Phật giáo Trung Hoa mang giá trị thực tiễn của nó trong xã hội
hiện đại. Quan điểm của ông là, trên cở sở cốt lõi hợp lý (giá trị lắng đọng có
tính ổn định bền vững - NCS), chúng ta nên bổ sung tinh thần của thời đại và lựa
chọn các yếu tốt cốt lõi của đạo đức và thời đại để xây dựng một hệ thống đạo
đức xã hội thích ứng với hiện đại và thuộc về hiện tại.[94].
Công trình “Thuyết giá trị đạo đức và giá trị giải thoát của Phật giáo”
của Bạch Băng, người Trung Quốc, cho rằng “Nếu nói rằng thuyết giải thoát
có liên quan đến cá nhân, thì thuyết giá trị đạo đức Phật giáo Trung Quốc cho
thấy mối quan hệ giữa con người với xã hội và thiên nhiên, thể hiện rõ ràng
sự công bằng từ bi trong Phật giáo Đại thừa, và tinh thần Bồ tát tế thế độ
nhân”. Tác giả nhận định, “Lý thuyết giá trị đạo đức Phật giáo cùng với lý
thuyết giá trị đạo đức Nho giáo, lý thuyết giá trị tự nhiên Đạo giáo, là một
phần quan trọng trong lý thuyết giá trị triết học truyền thống của Trung
Quốc”. Tác giả giải thích thêm, “Lý thuyết giá trị đạo đức Phật giáo bao gồm
29
các quan niệm về thế giới người người bình đẳng, giá trị sinh thái y chính bất
nhị và giá trị nhân cách bình đẳng và từ bi, tương ứng giải thích đạo đức của
con người và xã hội, tự nhiên và cá nhân. Nếu giải thoát là cảnh giới con
người sống và an trú, thì đạo đức là nền tảng của sự chung sống hài hòa của
con người và vạn vật” [9].
Tác giả Joseph Edkins, người Anh, trong công bố nghiên cứu về “Hệ
thống đạo đức Phật giáo”, đã nhắc đến những điều răn, giới luật của Phật
giáo như là một hệ thống đạo đức và so sánh nó với đạo đức Cơ Đốc giáo. Tác
giả ví quan niệm đạo đức của Phật giáo giống tư tưởng “nhân chi sơ tính bản
thiện” của Nho giáo. Và cho rằng, sự tồn tại của một hệ thống đức hạnh và thói
xấu cho thấy tác dụng của lương tâm đối với người tạo ra nó, vì việc sử dụng hệ
thống đó trong giáo huấn đạo đức kéo theo việc đánh thức lương tâm của tín đồ.
Ông cũng dẫn lời của Max Muler: “Quy tắc đạo đức Phật giáo là một trong
những thế giới hoàn hảo nhất từng biết đến” [79].
Lý Tư Long, người Trung Quốc, trong công trình khoa học “Giá trị văn
hóa Phật giáo Trung Quốc đương đại”, đã khẳng định “Phật giáo là một văn
hóa”, trong đó ông nhấn mạnh “giá trị văn hóa Phật giáo” và coi giá trị đạo
đức Phật giáo là thành tố đương nhiên của “giá trị văn hóa Phật giáo”. Tác giả
cũng cho rằng, xây dựng văn hóa Trung Hoa đương đại cần phát huy giá trị
văn hóa Phật giáo [91].
Năm 2013, tác giả Thích Gia Quang, xuất bản cuốn Đạo đức PG và
ảnh hưởng của nó đối với một số lĩnh vực của đời sống XH Việt Nam hiện
nay. Khi đề cập đến cơ sở hình thành ĐĐPG, ông đưa ra bốn cơ sở: một là,
Phật giáo đặt trọng tâm vào con người; hai là, Phật giáo xây dựng đạo đức
trên nền tảng của thuyết Nhân - Quả; ba là, Phật giáo xây dựng đạo đức trên
nền tảng của triết lý Vô ngã; bốn là, Phật giáo đề cao tinh thần của Bi, Trí,
Dũng. Theo ông, những phạm trù cơ bản của ĐĐPG giáo được thể hiện qua 6
nội dung: Thiện, Giới luật, Tứ vô lượng tâm, Lục hòa, Tứ ân, Lục độ. Từ đó,
ông đi đến đánh giá đặc điểm của ĐĐPG: mục đích của ĐĐPG là vì con
người và giải thoát con người khỏi đau khổ; ĐĐPG là do tự cá nhân đạt được
30
qua tu tập; ĐĐPG là con đường đưa đến giải thoát, an lạc; ĐĐPG là thống
nhất, hệ thống và liên tục; ĐĐPG là hạnh phúc. Vì vậy, tác giả kết luận,
ĐĐPG có vai trò đặc biệt trong việc giáo dục con người, hình thành lối sống
với những phẩm chất, tiêu chí đạo đức của người dân và góp phần thúc đẩy
đạo đức, VHXH Việt Nam [108].
Năm 2014, tác giả Thích Chân Quang công bố cuốn sách Tâm lý đạo
đức (3 tập), trong đó cho rằng, tâm lý con người có nhiều loại, tâm lý bất
thiện, tâm lý thực dụng, tâm lý tín ngưỡng, tâm lý yếm thế, tâm lý lạc quan,
và cuốn sách chỉ đề cập đến tâm lý đạo đức qua lăng kính của Phật giáo [105].
Tác giả Damien Keown, Đại học London, trong cuốn “Dẫn luận về Đạo
đức Phật giáo”, đã áp dụng các lý thuyết đạo đức học phổ biến trong giới
khoa học phương Tây (Thuyết nghĩa vụ luận - dentology; Thuyết vị lợi -
untilitarianism; Thuyết đạo đức học đức hạnh - virtue ethics) để tiếp cận vấn
đề, trong đó sử dụng phương pháp đạo đức học so sánh để đối chiếu, phân
tích, làm rõ sự tương đồng và khác biệt giữa đạo đức phương Đông - phương
Tây, đạo đức Phật giáo và đạo đức trong xã hội truyền thống dựa trên quan
điểm xã hội và quan điểm tôn giáo phương Tây. Ông cho rằng: “Với những
phân rẽ như trên, tôi nghĩ hoàn toàn có thể nói giữa học giả đang có sự đồng
thuận gia tăng rằng đạo đức Phật giáo giống với đạo đức học đức hạnh hơn
bất kỳ lý thuyết đạo đức phương Tây nào khác” [19, tr.49]. Tuy nhiên, cũng
chính Damien Keown lại cho rằng có sự “thiếu vắng” đạo đức trong Phật
giáo. Ông giải thích rằng, cái chúng ta vẫn cho rằng đó là đạo đức, thực ra nó
gần với luân lý - những quy tắc ứng xử , những hành vi có kỷ luật, hơn là
phẩm chất của đạo đức. Lý do của sự “thiếu vắng” đạo đức trong Phật giáo,
theo Damien Keown, thứ nhất, bởi Phật giáo được sinh ra trong một nền quân
chủ ở Ấn Độ, ít dân chủ hơn một nền cộng hòa ở phương Tây; thứ hai, vì Phật
giáo sinh ra và đến từ một trào lưu du sỹ, chối bỏ đời sống xã hội (tách biệt
với xã hội - NCS). Theo Damien Keown, đạo đức đúng nghĩa, phải sinh ra
31
trên một nền dân chủ, như xã hội Hy Lạp, và có môn khoa học chính trị xuất
hiện để phát triển những tổ chức có nền tảng dựa trên các nguyên lý đạo đức
như là sự công bằng [19, tr.57]. Như vậy, Damien Keown cho rằng, sẽ không
có đạo đức đúng nghĩa trong một xã hội thiếu dân chủ và sự công bằng như
trong xã hội Ấn Độ quân chủ, thời điểm Phật giáo được sinh ra. Đây là ý kiến
riêng của tác giả, và cũng chính luận điểm này thôi thúc nghiên cứu sinh tiếp
tục thực hiện đề tài luận án của mình để chứng minh điều ngược lại.
Thích Phước Toàn, với cuốn sách “Đạo đức Phật giáo con đường và sự
biểu hiện”, đã triển khai các nội dung nghiên cứu cơ bản: Khái luận về đạo
đức Phật giáo; Ngũ giới - nền tảng của đạo đức của người cư sỹ; Quán niệm -
một phương diện biểu hiện của đạo đức Phật giáo. Dẫn lời của Damien
Keown trong cuốn “Dẫn luận về đạo đức Phật giáo”, cũng cho rằng “Đạo đức
Phật giáo được xác định là nền tảng căn bản, cốt lõi của mọi thực hành Phật
pháp”. Tác giả đưa ra hai cấp độ về đạo đức Phật giáo, cấp độ 1 - hẹp, đạo
đức Phật giáo chính là các quy tắc, chuẩn mực mang tính luân lý; cấp độ 2 -
rộng, đạo đức Phật giáo được xem là nền tảng của đời sống an lạc, giải thoát,
nghĩa là toàn bộ giáo lý Phật giáo. Theo tác giả, khái niệm đạo đức Phật giáo,
vì vậy, cũng có thể xem xét từ 2 phạm vi. Phạm vi hẹp và cũng là góc nhìn
thông thường, “đạo đức Phật giáo được hiểu là các nguyên tắc, các quy định,
chỉ dẫn nhằm giúp người đệ tử Phật điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù
hợp với chuẩn mực, lối sống đạo đức của cộng đồng Phật giáo, đồng thời
cũng phù hợp với các quy chuẩn của đạo đức cộng đồng, xã hội” [122, tr. 34].
Theo nghĩa rộng, “đạo đức Phật giáo là toàn bộ giá trị, chuẩn mực, phẩm
hạnh, an lạc, hạnh phúc,... của con người có được từ việc thực hành giáo
pháp, tức lời dạy của đức Phật” [87, tr. 35]. Tuy nhiên, tác giả cho rằng
“Không có một nghĩa vụ bắt buộc nào trong thực hành đạo đức Phật giáo.
Thực hành đạo đức Phật giáo là một việc mang tính tự nguyện. Bạn có thể
thực hành, bạn cũng có thể từ bỏ nó” [122, tr.33].
32
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT RA VÀ HƢỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP 1.2.1. Một số nhận định khái quát về kết quả của các công trình đã
đƣợc nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu, các đề tài luận án, các cuốn sách chuyên
khảo khoa học được điểm luận ở trên đây cơ bản có đề cập trực tiếp hay gián
tiếp, gần hoặc xa đến đối tượng nghiên cứu của luận án. Thực tế, có những
công trình không công nhận Phật giáo có hệ thống đạo đức (ethics) mang tính
xã hội, mà cho đó là những quy tắc ứng xử, luân lý (moral) mang tính cá nhân
(Damien Keown), hay không có đạo đức tuyệt đối trong Phật giáo (Barbara
O’Brien), hay đạo đức Phật giáo không hình thành dựa trên nguyên tắc của
tinh thần dân chủ và công lý (đúng - sai) mà dự trên những tiêu chí đánh giá
về sự “khôn ngoan” (Luke Wayne), hoặc có thể thực hành hoặc không thực
hành đạo đức Phật giáo (Thích Phước Toàn). Ngược lại, có những tác giả cho
rằng đạo đức Phật giáo là phẩm chất tồn tại thực sự (Alastair Gornall), đạo
đức Phật giáo là một hệ thống đầy đủ và hoàn hảo nhất (Max Muler), ĐĐPG
là hiển nhiên và là nền tảng của giáo lý Phật giáo (Thích Minh Châu, Thích
Gia Quang)… Đây sẽ là những tài liệu tham khảo có giá trị, các nhận định,
đánh giá và kết luận qua những công trình của các tác giả giúp cho nghiên
cứu sinh khi triển khai đề tài luận án “Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật
giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli”. Có thể đưa ra một số đánh giá khái quát về
kết quả của các công trình nghiên cứu nêu trên cũng như luận điểm của các
tác giả đã đề cập tron công trình đó mà luận án sẽ kế thừa:
Thứ nhất, các công trình đều đề cập và khẳng định ĐĐPG, hay luân lý,
chuẩn mực ứng xử cá nhân dưới góc nhìn của Phật giáo thúc đẩy đạo đức cá
nhân và đạo đức xã hội. Dù là những chuẩn mực đạo đức cá nhân (như quan
điểm của Damien Keown), thì suy cho cùng, không có cá nhân nào đứng
ngoài gia đình và xã hội, anh ta buộc phải tham gia các quan hệ gia đình, xã
hội, và trong khi đó anh ta thể hiện mình với tư cách là chủ thể của hành vi
đạo đức. Đây là nền tảng tạo nên các quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức.
Các công trình đều được nghiên cứu một cách nghiêm túc, công phu, có khảo
33
sát kỹ với các luận cứ, luận chứng xác thực và đáng tin cậy. Các công trình
này sẽ cho nghiên cứu sinh sự kế thừa về góc nhìn, phương pháp nghiên cứu
đạo đức Phật giáo.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về ĐĐ của PG Nguyên thủy của các
học giả phương Tây, Sri Lanka, Thái Lan, Ấn Độ thì chủ yếu khảo sát trên
giới luật Phật giáo (Luật tạng), nghĩa là bàn đến đạo đức tu hành (đạo đức
của tu sỹ xuất gia) trên cơ sở nghiên cứu về giới luật Phật giáo mà các tu sỹ
thụ trì, chưa đề cập nhiều đến kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy. Các tác
giả cho rằng, có sự khác biệt trong quan điểm đạo đức giữa Phật giáo
Nguyên Thủy và Phật giáo Phát triển (Phật giáo Đại thừa), cùng với sự
phát triển và vận động của xã hội, những tiêu chí hay nhận định về đạo
đức Phật giáo thay đổi theo. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu của
các tác giả Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam thì chủ yếu khảo sát trên
kinh điển giáo lý và giới luật của Phật giáo Đại thừa, mà chưa đề cấp đến
Phật giáo Nguyên thủy. Các tác giả này khẳng định sự tồn tại của đạo đức
Phật giáo, nhất là gắn với đời sống phạm hạnh của các vị tu sỹ xuất gia,
thông qua việc giảng pháp, hoằng truyền tư tưởng Phật giáo đến xã hội,
ĐĐPG đã tác động đến đạo đức xã hội. Các tác giả cũng cho rằng, ĐĐPG
có vai trò hoàn thiện nhân cách con người và tạo nên nền tảng của đạo
đức con người; ĐĐPG phù hợp với đạo đức xã hội. Đây là những kết luận
quan trọng dựa trên cơ sở khoa học mà các công trình nghiên cứu đã chỉ
ra, luận án sẽ kế thừa và phát huy trong quá trình thực hiện đề tài. Luận
án cũng sẽ kế thừa từ các công trình này về phương pháp nghiên cứu khi
áp dụng vào đối tượng cụ thể của đề tài.
Thứ ba, với các công trình nghiên cứu về văn hóa Phật giáo (VHPG),
các nhà khoa học chủ yếu khảo cứu trên kinh điển Phật giáo Đại thừa, trong
đó các tác giả đề cập và nhấn mạnh đến sự tồn tại của VHPG như một thực
thể bao gồm trong nó các thành tố: VHĐĐ Phật giáo, ngôn ngữ, lễ hội, điêu
khắc, kiến trúc Phật giáo… Các tác giả cho rằng, VHĐĐ Phật giáo cùng các
thành tố khác trong VHPG góp phần tạo nên văn hóa quốc gia, dân tộc. Một
34
số công trình nghiên cứu GTĐĐ PG Nguyên thủy, với tư cách là cốt lõi của
giá trị VHPG, thì chủ yếu khảo cứu trên quy định của giới luật dành cho
người xuất gia (Luật tạng) hay các Phật tử thuần thành, và cho rằng, giới luật
tạo nên quy tắc đạo đức của người xuất gia, nó là nền tảng của đạo đức con
người, và có vai trò bổ khuyết và hoàn thiện đạo đức xã hội. Tuy nhiên, nếu
chỉ lấy giới luật cho người xuất gia làm đối tượng nghiên cứu để chỉ ra các
nguyên tắc đạo đức, thì thực tế số lượng người xuất gia, hành trì giới luật
không phải chiếm số đông trong xã hội, vì vậy sự tác động của các GTĐĐ đó
có phạm vi tác động xã hội không lớn. Mặc dù vậy nghiên cứu sinh sẽ kế thừa
kết quả, phương pháp nghiên cứu của các công trình nêu trên để phát triển
trong đề tài luận án của mình.
Thứ tư, các công trình nghiên cứu đều thống nhất ĐĐPG tương ứng,
phù hợp với ĐĐ XH, có vai trò thúc đẩy ĐĐ XH và là cơ sở cho việc phát
triển bền vững. Tuy nhiên, các công trình vì những mục tiêu nghiên cứu nhất
định, đều chưa khảo cứu tổng thể trên kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy và chỉ
ra một cách hệ thống giá trị đạo đức Phật giáo cùng tác động của nó trong bối
cảnh xã hội hiện nay. Nghiên cứu sinh sẽ kế thừa những luận điểm, kết luận
và nhận xét đánh giá của các công trình nêu trên để áp dụng và phát triển
trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
Thứ năm, phần lớn các công trình được nghiên cứu dưới góc nhìn và
phương pháp nghiên cứu của triết học, tôn giáo học, xã hội học, đạo đức học mà
ít có công trình nào (trừ Luận án Tiến sỹ của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thảo)
nghiên cứu dưới góc nhìn của văn hóa học. Đây là phần nghiên cứu sinh kế thừa
được ít nhất về phương pháp chuyên ngành nhưng lại gợi ý cho luận án về áp
dụng phương pháp liên ngành, đa ngành trong nghiên cứu đề tài.
1.2.2. Hƣớng nghiên cứu của nghiên cứu sinh
Trên cơ sở những nội dung rút ra từ những công trình khoa học được
điểm luận ở trên, nghiên cứu sinh sẽ khẳng định hướng nghiên cứu mới của
mình để thực hiện đề tài luận án “Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo
Nguyên thủy văn hệ Pàli”:
35
Thứ nhất, với mã ngành văn hóa học, luận án sẽ tập trung và nghiên
cứu đối tượng là GTĐĐ PG. Đây là một nội dung đặc trưng của văn hóa tôn
giáo và là đối tượng của ngành nghiên cứu văn hóa học. Đối tượng nghiên
cứu của luận án thể hiện tính khác biệt mới đối với các công trình khoa học
vừa điểm luận ở trên.
Thứ hai, trong các công trình khoa học được nêu trên, tùy từng quan
điểm, hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu khác nhau mà các tác giả
đưa ra các kết quả khác nhau, thậm chí ngược nhau, như phần rút ra ở trên
đây nghiên cứu sinh đã nêu. Vì vậy, luận án sẽ nghiên cứu để nhận diện rõ
những biểu hiện thống nhất và có hệ thống của GTĐĐPG. Đây là hướng phát
triển, là nhiệm vụ trọng tâm của đề tài luận án.
Thứ ba, công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên chủ yếu khảo cứu
trên cứ liệu kinh điển của giới luật (luật tạng) Phật giáo Nguyên thủy, hoặc giáo
lý phổ biến trong kinh tạng và luật tạng của Phật giáo Phát triển. Vì vậy, thực
hiện đề tài này NCS sẽ tập trung vào khảo cứu kinh điển kinh tạng Phật giáo
Nguyên thủy thuộc văn hệ Pàli mà không khảo cứu lại trên kinh điển của luật
tạng (giới luật) Phật giáo Nguyên thủy. Tác giả cũng không khảo cứu tiếp về
Phật giáo Đại thừa mà kế thừa từ những công trình đã công bố trước đây.
Thứ tư, trên cơ sở nhận diện GTĐĐ PG, nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục
nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm của giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật
giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli và phân tích làm rõ sự hiện tồn cũng như tiếp
biến của giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli
trong đời sống hôm nay. Đồng thời, NCS cũng sẽ bàn luận để làm rõ thêm
những ảnh hưởng của nó với đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay. Đây là
hướng nghiên cứu mới của luận án, và cũng chính là để làm rõ thêm mã
ngành văn hóa học trong việc nghiên cứu đề tài luận án. Qua đó, NCS đưa ra
một số yếu tố tác động đến việc phát huy giá trị đạo đức Phật giáo trong đời
sống hôm nay.
1.3. LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM THAO TÁC 1.3.1. Lý thuyết nghiên cứu
- Lý thuyết giá trị:
36
Lý thuyết về giá trị được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ
thứ XIX với tính chất là một lĩnh vực của triết học, bởi các tác giả nổi tiếng
như: I. Kant, R.H. Lotze, F.W. Nietzsche, W. Windeband, H. Rickert, C.Mác
và một số học giả khác.
Immanuel Kant (1724 - 1804) là người đầu tiên bàn rất kỹ về các khía
cạnh triết học của khái niệm giá trị. Trong tác phẩm “Cơ sở của siêu hình học
đạo đức” (1785), I. Kant viết: “Mọi vật thể có xu hướng giá trị quy định, bởi
lẽ nếu không có xu hướng và nhu cầu xây dựng trên những xu hướng ấy thì
vật thể sẽ chẳng có giá trị gì” [115, tr.23]. Ông cũng chia giá trị ra thành 3
thành tố: giá trị thị trường (giá trị vật chất - thực dụng); giá trị do ảnh hưởng
quy định (giá trị thẩm mỹ); giá trị nhân phẩm (giá trị luân lý- đạo đức, hay giá
trị nội tại - đây là loại giá trị cao nhất, giá trị vô giá).
Nửa đầu thế kỷ XX, đánh dấu giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển
của giá trị học, một loạt trường phái nghiên cứu giá trị học đã ra đời, nổi tiếng
là các trường phái: tiếp cận giá trị từ tâm lý học của C.V. Ehrenfels và J.Cl.
Kreibig; giá trị học tự nhiên của R.B. Perry và J. Deway; giá trị nội tại của
G.E. Moore; giá trị khách quan của M.F. Scheler.
Từ giữa thế kỳ XX, giá trị học đã trở thành một môn khoa học phát
triển ra toàn thế giới, với đội ngũ các nhà khoa học hùng hậu và việc nghiên
cứu giá trị học thể hiện rất rõ trong định nghĩa của các trường phái, các học
giả. Tuy nhiên, có thể tổng kết việc nghiên cứu giá trị thành bốn xu hướng
định nghĩa giá trị như sau:
- Quan niệm đồng nhất giá trị với khách thể, cho rằng giá trị thuộc về
bản thân sự vật, giá trị không thay đổi mà chỉ có quan hệ của con người với
giá trị thay đổi. Đây là quan niệm tự nhiên nhất xét theo quá trình nhật thức
của con người.
- Quan niệm giá trị thuộc về chủ thể định giá, gắn liền giá trị với chủ
thể. Đây là quan niệm phổ biến nhất. Giá trị, theo quan niệm này, có sự thay
đổi tùy theo sự nhận định của từng chủ thể, nhóm chủ thể. Cùng một đối
tượng, các chủ thể khác nhau sẽ có cách đánh giá về giá trị khác nhau.
37
- Quan niệm giá trị nằm trong các mối quan hệ. Có hai loại quan hệ
được dùng làm cơ sở để định nghĩa giá trị là quan hệ giữa chủ thể với khách
thể và quan hệ giữa khách thể với nhau. Mặc dù xem xét giá trị dưới góc độ
kinh tế chính trị học, C.Mác cũng được xếp vào số các học giả có quan điểm
này khi ông cho rằng: “giá trị chỉ có thể thể hiện ra trong mối quan hệ xã hội
giữa hàng hóa này với hàng hóa khác mà thôi”.
- Quan niệm tách giá trị thành một thế giới độc lập. Quan niệm này
tách giá trị ra thành một thế giới độc lập bên cạnh thế giới sự kiện và thế giới
chân lý [115, tr.23-32].
Nhận định về lịch sử nghiên cứu lý thuyết giá trị, Giáo sư Phạm Minh
Hạc cho rằng, trong giai đoạn cận đại ở phương Tây, giá trị học được dạy
trong môn triết học, đấy là việc sắp xếp chương trình, môn học nhà trường,
chứ giá trị học không chỉ là phân môn của triết học. Lúc đầu là như vậy, sau
giá trị học là một môn khoa học độc lập và có liên quan đến nhiều bộ môn, có
giá trị trong chính trị học, xã hội học, nhân học văn hóa, nghiên cứu con
người, giáo dục học, tâm lý học, đạo đức học, thẩm mỹ học, v.v… Mỗi môn
khoa học kết hợp với giá trị học có đối tượng riêng của nó, như chính trị học
nghiên cứu các giá trị xã hội, đạo đức học nghiên cứu các giá trị đạo đức,
thẩm mỹ học nghiên cứu giá trị thẩm mỹ… Giá trị học quan hệ mật thiết với
tâm lý học, với nghiên cứu con người, giá trị học giữ vai trò đặc biệt trong
văn hóa học, vì thông thường coi văn hóa trong nghĩa rộng nhất là tổng của
các giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Đối tượng của văn hóa học (xét một
cách đại thể) là các giá trị [72, tr. 33 - 34].
Kế thừa quan điểm của các học giả đi trước ở phương Tây với các xu
hướng định nghĩa giá trị khác nhau, Trần Ngọc Thêm cho rằng, trừ xu hướng
thứ tư, quan niệm giá trị là thế giới độc lập, và giá trị nằm trong các mối quan
hệ, cả ba xu hướng quan niệm về giá trị trước đó đều đúng và đều cần thiết.
Bởi lẽ, nói về giá trị, không thể bỏ qua thuộc tính, phẩm chất của bản thân đối
tượng (khách thể); không thể bỏ quan nhận thức, quan niệm của người định
giá (chủ thể); cũng không thể bỏ qua quan hệ của đối tượng (khách thể) với
38
chủ thể, và quan hệ giữa các khách thể với nhau. Từ quan điểm này, Trần
Ngọc Thêm đưa ra định nghĩa về giá trị như sau: “Giá trị là tính chất của
khách thể, được chủ thể đánh giá là tích cực xét trong so sánh với các khách
thể khác cùng loại trong một bối cảnh không gian, thời gian cụ thể” [115,
tr.33]. Và ông cho rằng văn hóa là hệ thống các giá trị mang tính lịch sử do
con người sáng tạo ra. Văn hóa chính là giá trị. Nhưng, theo ông, giá trị gồm
có: giá trị tự nhiên và giá trị nhân sinh. Giá trị văn hóa phân biệt với giá trị tự
nhiên bởi tính nhân sinh cao cả. Quan niệm này cũng phù hợp với quan điểm
của C.Mác khi cho rằng, văn hóa chính là việc thể hiện trình độ người.
Trần Ngọc Thêm cũng cho rằng, nếu hiểu “văn hóa” và “giá trị” theo
nghĩa rộng, chấp nhận coi văn hóa là hệ thống giá trị do con người sáng tạo
ra, thì khái niệm “văn hóa” trong cụm từ “giá trị văn hóa” phải được hiểu là
“do con người sáng tạo ra”. Giá trị văn hóa đối lập với giá trị tự nhiên và bao
gồm tất cả các loại GTĐĐ, giá trị kinh tế, giá trị pháp lý, giá trị ký hiệu học,
giá trị toán học v.v., vì mọi giá trị và hệ giá trị do con người sáng tạo ra đều
thuộc văn hóa [113, tr. 92-93]. Như vậy, giá trị đạo đức, nhìn dưới góc độ văn
hóa học, là thành tố trong cấu trúc và là cốt lõi của giá trị văn hóa - đối tượng
nghiên cứu của ngành văn hóa học.
Luận án vận dụng lý thuyết này để nghiên cứu về GTĐĐ trong kinh
tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli, là tính chất của ĐĐ PG sinh ra do sự
đánh giá, nhìn nhận, xây dựng từ cộng đồng Phật giáo trong mối quan hệ với tự
nhiên, xã hội, tư duy con người, được cộng đồng Phật giáo đánh giá là tích cực,
được thực tiễn cuộc sống tôn giáo và cuộc sống xã hội của họ chứng thực, trải
nghiệm và trở thành những chuẩn mực định hướng suy nghĩ và hành động của
họ trong cuộc sống. Những giá GTĐĐ đó có tính lan tỏa, tác động và ảnh hưởng
đến các cộng đồng cư dân khác, thậm chí không phải là tín đồ Phật giáo, dần
hình thành nên trong những cộng đồng xã hội rộng lớn này những chuẩn mực
ĐĐ mới bắt nguồn từ GTĐĐ PG. Áp dụng lý thuyết này giúp luận án làm rõ
được GTĐĐ PG và ảnh hưởng của nó trong đời sống hôm nay.
39
Chủ ý diễn giải dài như trên vì đề tài luận án là “Giá trị đạo đức trong
kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli” nên lý thuyết giá trị và giá trị
đạo đức sẽ là lý thuyết quan trọng nhất được ưu tiên sử dụng trong suốt quá
trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh.
- Lý thuyết thực thể tôn giáo:
Emile Durkheim (1858 - 1917), người được coi như ông tổ của ngành
xã hội học về tôn giáo cho rằng: Một tôn giáo là một hệ thống vững chắc các
niềm tin tôn giáo và thực hành liên hệ với các vật thiêng, tức là các vật được
phân biệt, kiêng cữ, các niềm tin và thực hành thống nhất thành một cộng
đồng luân lý, được gọi là giáo hội, đối với tất cả những ai tin theo”. E.
Durkheim đòi hỏi xã hội phải tiếp cận tôn giáo theo phương pháp hệ thống
như là các thực thể xã hội và thiết chế xã hội có vai trò chức năng trong chỉnh
thể của xã hội. Tiếp nhận quan điểm này, J.M. Yinger định nghĩa tôn giáo như
một nỗ lực nào đó để thực hiện các chức năng khác nhau, chính xác hơn là
“một tổng thể niềm tin và thực hành mà nhờ đó một nhóm nhất định có thể
đối diện với các vấn đề trọng đại trong đời sống của họ”. Chính trong quan
điểm về tôn giáo này, tôn giáo được coi như một phần của bản chất người, tôn
giáo là văn hóa để thực hiện những chức năng văn hóa của nó trong xã hội mà
nó được sinh ra. Cách tiếp cận này cũng làm đảo ngược cách tiếp cận duy lý
cho rằng tôn giáo chỉ là một phản ánh hư ảo. Phát triển lý thuyết chức năng
luận này, nhà xã hội học người Đức - Niklas Luhmann (1927 - 1998) đã xây
dựng và hoàn thiện lý thuyết cấu trúc luận chức năng. Theo N. Luhmann, tôn
giáo cũng tạo nên một tiểu hệ thống biểu trưng đặc biệt có chức năng coi thế
giới là một toàn thể và chế ngự cái ngẫu nhiên. Dưới lý thuyết chức năng này,
cần lưu ý ba điểm về chức năng của tôn giáo: thứ nhất, tôn giáo có các chức
năng không thể phủ nhận, có nghĩa tôn giáo là sự cần thiết của con người, là
một phần của bản chất người, làm cho cuộc sống của con người có ý nghĩa và
duy trì xã hội con người đặt trong bối cảnh là các mối quan hệ thiết yếu, cân
bằng và hòa hợp; thứ hai, chức năng của tôn giáo không chỉ phản ánh sự
40
tương tác thuận cho xã hội mà còn chỉ ra cả mâu thuẫn, xung đột; thứ ba,
không sử dụng một hệ biến duy nhất cho mọi phân tích, nghĩa là không có
khuôn mẫu bất biến các chức năng của hiện tượng tôn giáo cho mọi xã hội,
mọi thời gian và mọi nhóm người. Quan điểm này cũng khẳng định, hiện
tượng tôn giáo là một trong những phương thức tồn tại của con người. Nghĩa
là tiếp cận tôn giáo dưới một cách nhìn cấu trúc, tức là một thiết chế xã hội
như nhiều thiết chế xã hội khác, một thực thể xã hội như nhiều thực thể xã hội
khác và được điều chỉnh bằng luật pháp (là các pháp nhân tôn giáo - NCS).
Như vậy, lý thuyết thực thể tôn giáo - coi tôn giáo là một thực thể xã
hội, thực thể văn hóa, được nhận thức, hình thành và phát triển từ những quan
niệm về lý thuyết chức năng, cấu trúc luận chức năng. Người đầu tiên nói rõ
quan niệm về thực thể tôn giáo là Resgis Debray, Giáo sư Trường Đại học
Lyon III. Theo ông, một thực thể tôn giáo có ba tính chất: thứ nhất, nó được
nhận thấy và áp đặt cho tất cả; thứ hai, nó là thực thể không suy đoán được bản
chất, cũng chẳng giả định về tình trạng luân lý hay nhận thức luận có đồng ý
với nó hay không; thứ ba, nó là một thực thể bao hàm, không một tôn giáo nào
có ưu thế hơn, được coi là chân lý, đáng tin cậy hơn các tôn giáo khác. Lý
thuyết thực thể tôn giáo phát triển còn giải thích, tôn giáo có bốn khía cạnh:
tính lịch sử; tính tập thể: các cá nhân chung chia công việc và có cùng cảm
nhận về thế giới; tính tài liệu: tôn giáo là kho lưu trữ các dạng thức biểu hiện
của văn hóa; tính biểu tượng: các biểu thị về thế giới, cái tự nó, thần linh, thần
học, học thuyết, hệ luân lý; tính kiêm nghiệm và nhạy cảm. Như vậy, sự tồn tại
của các cộng đồng tôn giáo là thực thể xã hội đặc biệt, một tiểu hệ thống có chức
năng riêng so với các tiểu hệ thống khác của xã hội tổng thể [130, tr.3-19].
Người tiếp thu, giới thiệu và phát triển lý thuyết thực thể TG có hệ
thống và đầy đủ ở Việt Nam là Tiến sỹ Nguyễn Quốc Tuấn, nguyên Viện
trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Tác giả
cho rằng, tôn giáo, hay đúng hơn là hiện tượng tôn giáo, là một thực thể, thực thể
tôn giáo, và thực thể tôn giáo không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong lòng xã hội
với nhiều quan hệ chằng chịt và chồng chéo nhau. Với tư cách là một thực thể xã
41
hội - văn hóa, với hệ thống giáo lý, giới luật, tín điều đạo đức, nghi lễ và tổ chức
giáo hội, tôn giáo mang trong mình những giá trị, bao gồm: giá trị chân lý, giá trị
luân lý - đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị tư tưởng [130, tr.52].
Luận án với đề tài “Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên
thủy văn hệ Pàli” tiếp cận khách thể Phật giáo như một thực thể xã hội, bao
gồm niềm tin, tín ngưỡng, những luân lý, đạo đức, những chuẩn mực tôn
thờ và kính ngưỡng được biểu hiện và kết tinh thành các giá trị đạo đức tôn
giáo; việc thực hành thể hiện sự gắn kết và lan tỏa các GTĐĐ TG đó với
người có cùng niềm tin, tín ngưỡng trong cộng đồng Phật giáo và với toàn
xã hội. Lý thuyết này không chỉ giúp luận án đi đúng hướng mã ngành văn
hóa học mà còn thể hiện góc nhìn biện chứng trong việc hình thành GTĐĐ
PG, và phản ánh được mối quan hệ, sự tác động của GTĐĐ TG trong việc
hình thành đạo đức XH.
- Lý thuyết hệ thống:
Luận án vận dụng lý thuyết này để nghiên cứu về tôn giáo như một
chỉnh thể, các thành tố cấu tạo nên tôn giáo như niềm tin, những chuẩn mực
trong đời sống, những điều kiêng kỵ, giá trị văn hóa đạo đức… có quan hệ
mật thiết, thống nhất với nhau và tác động qua lại lẫn nhau. Thông qua lý
thuyết này giúp luận án trình bày được rõ ràng, mạch lạc, thống nhất giá trị
đạo đức Phật giáo và những biểu hiện cụ thể của nó trong lời dạy của Thích
Ca Mâu Ni suốt quá trình ông dẫn dắt giáo đoàn của mình và hoằng truyền tư
tưởng Phật giáo, GTĐĐ PG là giá trị lắng đọng, bền vững lâu dài và vẫn thể
hiện liên tục từ khi Phật giáo ra đời ở Ấn Độ cho đến hiện nay ở khắp nơi trên
thế giới, trong đó có Việt Nam.
- Lý thuyết lựa chọn hợp lý tôn giáo:
Vận dụng lý thuyết này giúp luận án làm rõ được tại sao một cộng đồng
cư dân trước đó theo tín ngưỡng, tôn giáo khác, hoặc không theo tôn giáo cụ
thể nào nhưng lại lựa chọn theo Phật giáo, cho dù tồn tại những tôn giáo khác
cùng không gian và thời điểm đó. Lý thuyết này cũng giúp luận án làm sáng
42
tỏ tính hợp lý, sự phù hợp khi đi lý giải nguyên nhân việc một cộng đồng lựa
chọn tin theo Phật giáo, đó là tính tương đồng giữa xu hướng chuẩn mực
ĐĐXH mà họ hướng đến với GTĐĐ PG sẵn có.
1.3.2. Một số khái niệm thao tác
* Tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng đặc thù trong xã hội loài người. Nó được
sinh ra bởi con người nhưng lại chế ngự đời sống tinh thần XH và tác động
mạnh mẽ đến đời sống xã hội. Với những biểu hiện đa diện về giáo lý, giáo
luật, lễ nghi, tổ chức giáo hội, các thiết chế chặt chẽ, tôn giáo không chỉ là đối
tượng của ngành nghiên cứu tôn giáo học mà trở thành đối tượng nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học: triết học, chính trị học, xã hội học, tâm lý học, dân
tộc học, nhân học, đạo đức học, văn hóa học...
Về mặt từ nguyên, “tôn giáo”, ở phương Đông đều dựa trên gốc tự chữ
Hán là 宗教, phiên âm sang tiếng Việt là “tông giáo” hay “tôn giáo”. Chữ
này lấy nguyên nghĩa trong thiên thứ nhất của sách Trung Dung (tác giả
Khổng Cấp - cháu nội Khổng Tử: 天命之謂性,率性之謂道,修道之謂教:
Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo) chỉ sự truyền
thừa của một học phái, giáo phái mang tính chất hệ tư tưởng, một hệ thống
quan điểm, lý luận về vũ trụ, thế giới tự nhiên, xã hội và con người.
Ở phương Tây, đều ảnh hưởng và bắt nguồn từ ký tự Latinh, tiếng Anh,
tiếng Pháp là “religion”, tiếng Nga cũng ghi âm là “Ry-li-ghi-a”, có nghĩa là
“mộ đạo”, “thần thánh”, “đối tượng sùng bái”.
Từ điển Oxford định nghĩa: “Tôn giáo là một hệ thống đức tin và nghi
thức cúng lễ; sự nhận biết của con người về quyền năng kiểm soát của siêu nhân
và nhất là một Thượng đế của riêng mình được gọi tên để vâng theo” [80, tr.22].
Nhà Tôn giáo học Ninian Smart không định nghĩa tôn giáo mà đưa ra
bảy khía cạnh của tôn giáo: (1) thực hành nghi lễ; (2) trải nghiệm cảm xúc;
(3) truyền thuyết và thần thoại; (4) giáo lý và triết học; (5) đạo đức và luật lệ;
(6) xã hội và thể chế; (7) hữu hình. Theo ông, được coi là tôn giáo khi nó đảm
bảo bảy yếu tố này [84, tr.18].
43
Nói chung, tôn giáo thường được nghiên cứu dưới hai khía cạnh: một
hình thái ý thức XH, với những quan điểm triết học về thế giới tự nhiên, về xã
hội con người, về nhân sinh quan; và một thực thể xã hội, với những quan
điểm có tính lô - gic và hệ thống trong giáo lý, giới luật, tín điều đạo đức,
nghi lễ và tổ chức giáo hội. Tác giả Trần Quốc Vượng khẳng định: “Nhìn
nhận vấn đề tôn giáo trên quan điểm “văn hóa học”, xét theo lịch sử phát sinh
và trưởng thành, tôn giáo vừa là một sản phẩm của văn hóa, vừa là một thành
phần hữu cơ, một nhân tố cấu thành của văn hóa” [123, tr.80].
Từ những quan điểm trên, NCS rút ra quan điểm của mình về tôn giáo:
Tôn giáo là một thực thể xã hội, được sinh ra trong xã hội con người do sự
sùng bái hoặc tin theo một phương pháp tu tập nào đó. Nó bao gồm những
quan điểm có tính lô-gic và hệ thống về thế giới quan, nhân sinh quan tôn
giáo, được thể hiện trong giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tín điều đạo đức và tổ
chức giáo hội.
* Phật giáo
Thích Đức Nhuận, trong cuốn “Phật học tinh hoa một tổng hợp đạo lý”,
cho rằng, Phật giáo không phải là triết học, Phật giáo cũng không phải là khoa
học, mà Phật giáo là tất cả những thứ đó. Đạo Phật là con đường tìm tới hạnh
phúc cho chúng sinh [102]. Khi nghiên cứu về tôn giáo, K.Sri Dhammananda
đưa ra bốn loại hình tôn giáo: tôn giáo tự nhiên; tôn giáo hệ thống hóa (có tổ
chức); tôn giáo thần khải (được mách bảo); tôn giáo tập tục hóa (được dựng
thành thể chế). Và tác giả kết luận, Phật giáo chẳng thuộc loại nào trong số
bốn loại hình tôn giáo kể trên. Ông cho rằng, dù chúng ta dùng từ “tôn giáo”
khi nói tới đạo Phật, nhưng chúng ta vẫn thấy khó khăn khi xếp loại đạo Phật
như một tôn giáo theo nghĩa của từ đó ghi trong từ điển [80, tr.22].
Danh từ Phật giáo (Buddhism) xuất nguyên từ chữ “buddhi” trong tiếng
Ấn Độ cổ, có nghĩa “giác ngộ”, “thức tỉnh”. Như vậy, Phật giáo ở đây mà
chúng ta đề cập, được hiểu là tôn giáo được hình thành từ thế kỷ thứ VI,TCN,
tại Ấn Độ cổ đại, do Thái tử Tất Đạt Đa là người khởi xướng. Chính ông đã tu
tập và tự mình giác ngộ quy luật của tự nhiên, xã hội, tư duy con người và
được tôn xưng là Phật (người giác ngộ) [84, tr.7]
44
Trong góc nhìn triết học, Phật giáo được hiểu là một hình thái ý thức
XH với những nội dung mang đậm tính triết học khi giải thích về thế giới
quan, nhân sinh quan, xã hội luận. Những nội dung triết học trên được thể
hiện trong tam tạng kinh điển của Phật giáo: kinh, luật, luận. Dưới góc nhìn
văn hóa, Phật giáo được nhìn nhận là một thực thể như các thực thể xã hội
khác - đó chính là thực thể văn hóa, khi mang trong mình những giá trị và vai
trò xã hội được biểu hiện bởi giáo lý, giáo luật, những tín điều đạo đức, lễ
nghi, và tổ chức giáo hội.
Từ những quan điểm trên, NCS có thể rút ra rằng, Phật giáo là tôn giáo do
Thích Ca Mâu Ni sáng lập tại đước nước Ấn Độ cổ vào thế kỷ thứ VI, TCN. Nó
tồn tại như một thiết chế xã hội bao gồm những người tin theo phương pháp tu
tập do Thích Ca Mâu Ni sáng tạo, thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan Phật
giáo với những biểu hiện của nó trong giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tín điều đạo
đức Phật giáo, trong một thiết chế tổ chức giáo hội đặc trưng.
*Phật giáo Nguyên thủy
Có nhiều cách phân kỳ Phật giáo, nhưng căn bản đều dựa trên đặc điểm
của nội dung kinh tạng Phật giáo. Hầu hết các học giả đều thống nhất chia Phật
giáo thành 3 thời kỳ: Nguyên thủy - Bộ phái (Tiểu thừa) - Đại thừa, như đề xuất
của tác giả Tiến sỹ Nalinaksha Dutt, người uyên thâm về Pàli và Sankrit, trong
cuốn “Aspects of Mahàyàna Buddhism and Its Relation to Hìnayàna” (Đại thừa
và sự liên hệ với Tiểu thừa) mà tác giả Thích Minh Châu - Nguyên Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đã thống nhất quan điểm này: “tiến trình
lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo
các bộ phái và Phật giáo Đại thừa” [18, tr.11-12]. Ông cũng cho rằng, Phật giáo
Nguyên thủy được gìn giữ phần lớn trong các tập kinh Pàli Nikaya, và luật bộ
Vinaya (Luật tạng, hay còn gọi là Vi diệu pháp).
Trên nền tảng của văn hệ Sankrit của bốn bộ A-hàm, các học giả Phật
giáo Đại thừa cũng thống nhất phân kỳ lịch sử thành 3 giai đoạn: Nguyên
Thủy - Tiểu thừa - Đại thừa. Tiêu biểu cho quan điểm này là nhà Phật học lỗi
lạc người Nhật Bản, Tiến sỹ Kimura Taiken (Mộc Thôn Thái Hiền). Ông chia
45
Phật giáo Ấn Độ ra thành 3 bộ môn: Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận;
Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận; Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận. Và ông
cố gắng chỉ cho mọi người thấy sự tiếp nối liên tục và căn nguyên để phân
chia 3 bộ phận trong tư tưởng luận Phật giáo của ông. Ông giải thích:
Nguyên thủy Phật giáo là Phật giáo thời kỳ nào? Dĩ nhiên, vấn đề
này tùy theo sự nhận xét khác nhau của các nhà khảo cứu mà có sự
bất đồng; nhưng, theo tôi, nếu nói một cách đại thể, thì Phật giáo
Nguyên thủy ở vào thời gian đức Phật còn tại thế cho đến thời kỳ
sau Phật nhập diện khoảng 100 năm, điều này có thể tin là xác đáng
[64, tr.25].
Quan điểm này được Hòa thượng Thích Quảng Độ, một trong số các
dịch giả Phật giáo hàng đầu Việt Nam, đồng thuận. Ông chính là người dịch
loạt công trình nghiên cứu của Tiến sỹ Kimura Taiken sang tiếng Việt. Trong
phần lời tựa của cuốn “Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận”, ông viết: “Phật
giáo cũng giống như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân, và phần ngọn
gồm nhiều cành lá. Nguyên thủy Phật giáo là phần gốc, Tiểu thừa Phật giáo là
phần thân, Đại thừa Phật giáo là phần ngọn” [63, tr.5].
Thánh Nghiêm, một học giả Phật học nổi tiếng người Trung Quốc, ông
lấy bằng Tiến sỹ Phật học tại Đại học Lập Chính Tôkyô, giảng dạy Phật học
tại Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Mỹ, sáng lập và là Viện trưởng Viện
nghiên cứu Phật học Trung Hoa tại Đài Loan, đồng quan điểm này. Trong
cuốn sách “Lịch sử Phật giáo thế giới”, ông cho rằng: “Phật giáo Nguyên thủy
là chỉ lời nói, việc làm của Phật Đà khi tại thế và lời nói, việc làm đã được
Phật Đà chấp thuận của các đệ tử. Giáo lý Phật giáo Nguyên thủy quả là rất
đơn giản và phác thực. Phật Đà chưa hề huyền đàm siêu hình, tất cả đều nói
kinh nghiệm lý tính” [99, tr. 54-55].
Có thể nói, tuy có sự khác nhau về cách phân chia và tên gọi của các
thời kỳ lịch sử Phật giáo, nhưng các học giả lớn trên thế giới và ở Việt Nam
đều thống nhất lịch sử Phật giáo được chia thành 3 thời kỳ, và thời kỳ đầu là
Phật giáo Nguyên thủy. Khái niệm Phật giáo Nguyên thủy ở đây dùng để chỉ
giáo lý Phật giáo nguyên bản, thuần phác, được hình thành và công nhận
46
trong thời kỳ Phật Thích Ca còn sống và thời gian sau đó không lâu (hết đời
của các đại đệ tử nối pháp của ông). Đây là nguồn giáo lý nguyên sơ nhất, thể
hiện cốt tủy của giáo lý Phật giáo. Nó được kết tập và ghi chép sớm nhất
thành văn bản trong năm bộ Nikàya thông qua văn tự Pàli. (NCS sẽ trở lại làm
rõ hơn vấn đề này ở mục Khái lược về Phật giáo Nguyên thủy).
* Văn hệ Pàli
Ngôn ngữ của người Arya, chủ thể của văn hóa Ấn Độ cổ từ phía Bắc
tràn xuống, là tiếng Phệ Đà, về sau phát triển thành tiếng Phạn. Tiếng Phạn
vốn cùng ngữ hệ với tiếng Ba Tư và tiếng La-tinh, từ đó tiến triển thành các
loại ngôn ngữ văn tự Ấn Độ. Khi Phật giáo ra đời, chữ Phạn không còn phổ
biến nữa, các thứ tiếng bản địa đã thay thế nó. Trên cơ sở chỉnh lý và bổ sung
từ ngôn ngữ văn tự địa phương, tiếng Phạn đã chỉnh lý thành thứ tiếng Sankrit
(Nhã ngữ), và trở thành thứ ngôn ngữ văn tự trước tác của các học giả cổ Ấn
Độ, nó được coi như ngôn ngữ quý tộc, chính thống của nhà nước. Nhưng, từ
những văn bia, văn khắc phát hiện gần đây và những từ ngữ dịch âm của kinh
Phật ở Trung Quốc, có thể suy ra rằng, ngôn ngữ của Thích Ca dùng đương
thời, trong cộng đồng Phật giáo để thuyết giảng cho những người ở đẳng cấp
thấp, là một thứ ngôn ngữ thông tục hỗn hợp của đại chúng. Loại ngôn ngữ này
thông qua nhiều lần thay đổi, cải cách thành ra tiếng Pàli. Ngôn ngữ văn tự Pàli
mà dòng Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) - Nam truyền dùng ngày nay, được
dùng để ghi chép năm bộ Nikàya là trên cở sở của văn tự Pàli thời Thích Ca, so
với tiếng Phạn (Sankrit) ghi chép kinh điển A - hàm thì có sớm hơn [101, tr.19].
Vì ngữ văn mà kinh tạng tiếng Pàli dòng Nguyên thủy Phật giáo dùng đã gần với
ngôn ngữ thông dụng thời Phật Thích Ca, cho nên năm bộ Nikàya (kinh tạng)
truyền ở phương Nam có màu sắc nguyên thủy, cổ điển hơn bốn bộ A-hàm dịch
ra tiếng Phạn (Sankrit) truyền ở phương Bắc. Một lý do nữa, là năm bộ kinh tạng
Nikàya Phật giáo Nguyên thủy Pàli được kết tập và viết ra từ một nguồn thống
nhất, trong khi bốn bộ A-hàm bằng tiếng Sankrit thì từ nhiều bộ phận hợp thành.
Vì vậy, các học giả cận đại và hiện đại, khi trích dẫn kinh điển Phật giáo, để có
căn cứ gốc, đảm bảo tính thống nhất, chính thống và chính xác cao thường trích
dẫn kinh điển Pàli [101, tr.70].
47
Kinh tạng Phật giáo từ gốc ký tự Pàli, hay Phạn (Sankrit) đã được dịch
ra nhiều thứ tiếng: Tây Tạng, Hán, Thái, Myanmar, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Anh, Đức, Pháp, Việt Nam... Tuy nhiên, quy ước chung của các học giả Phật
giáo trên thế giới là trích dẫn các thuật ngữ chuyên môn Phật học từ nguyên
gốc ký tự Pàli [19, tr.10].
Điều cần chú ý là, ngôn ngữ văn tự Pàli là một cổ ngữ, và được coi như
một tử ngữ. Nó được dùng và trích dẫn dưới dạng văn tự, nhưng thực chất
không phải ký tự Pàli cổ (giống như ký tự Ba Tư, Ả rập hiện nay), mà là dạng
phiên thiết hình vị - văn tự và âm vận từ nguyên gốc Pàli sang hệ ký tự La-
tinh, ví dụ các ký tự: Sìla (giới), Nikaya (kinh tạng), Nibbana (Niết bàn). Đây
là quy định của Hội Văn kinh Pàli - Pàli Text Society trên toàn thế giới. Như
vậy, khi nói văn tự Pàli là ý nói về dạng thức văn tự ghi chép cổ xưa nhất về
những lời dạy của Thích Ca. Hay nói khác, kinh điển Phật giáo chính thống
và nguyên thủy đúng với lời Thích Ca nhất là kinh điển được ghi chép bằng
dạng thức văn tự Pàli. Còn khi nói văn hệ Pàli là nói kinh tạng Nguyên thủy
Phật giáo được phiên thiết hình vị - văn tự từ nguyên gốc ký tự Pàli sang ngữ
hệ ký tự La-tinh hoặc sang bất kỳ một ngôn ngữ văn tự của một quốc gia nào.
Kinh tạng văn hệ Pàli (hay còn gọi là Pàli tạng) là ý chỉ hệ thống kinh tạng
Phật giáo có tính nguyên gốc chứ không chỉ dạng thức ghi chép của kinh điển,
ở đây, nó chỉ năm bộ Nikàya dù được phiên thiết sang bất kỳ loại văn tự nào.
Văn hệ Pàli của Phật giáo Nguyên thủy dùng để phân biệt với văn hệ Srankrit
- là cơ sở phát triển kinh điển Phật giáo Đại thừa.
* Kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli
Kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli (Nikàya): Là một bộ phận
cấu thành nên kinh điển Phật giáo Nguyên thủy (gồm 3 tạng: kinh, luật, luận)
được tập hợp, ghi chép, cố định thành văn bản sau khi Thích Ca Mâu Ni nhập
diệt. Đầu tiên được ghi chép bằng chữ Pàli là dạng thức văn tự cổ xưa của Ấn
Độ, sau được phiên dịch sang các thứ tiếng trên cơ sở giữ nguyên hình vị - âm
tiết Pàli, gọi là văn hệ Pàli. Khi nói đến kinh tạng Pàli văn hệ Pàli thì đã hàm
chứa nét nghĩa Nguyên thủy. Kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli ở đây
chỉ năm bộ kinh đã được dịch sang tiếng Việt với 24 tập:
48
Kinh Trường bộ (Dìgha-Nikàya), gồm 2 tập;
Kinh Trung bộ (Majhima-Nikàya), gồm 3 tập;
Kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta-Nikàya), gồm 5 tập;
Kinh Tăng chi bộ (Angttara-Nikàya), gồm 4 tập;
Kinh Tiểu bộ (Khuddaka-Nikàya), gồm 10 tập.
Những nội dung ghi chép trong kinh tạng Pàli của Phật giáo được xác
định là trung thành nhất với những lời dạy của Thích Ca Mâu Ni. Khái niệm
Kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli trong luận án này có nội hàm
trùng với khái niệm Pàli tạng.
* Văn hóa
Văn hóa là một khái niệm rộng, thu hút sự quan tâm của nhiều ngành
nghiên cứu và nhiều nhà khoa học. Người ta khổng thể thống kê hết các định
nghĩa về văn hóa. Tuy nhiên, có một cách nhìn nhận về văn hóa mà ai cũng
chấp nhận, đó là: văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con
người tạo ra trong đời sống xã hội, nhằm cải tạo xã hội và phát triển con người.
Tổ chức VH, KH và GD LHQ (UNESCO) xác định: “Văn hóa bao gồm
nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Chính văn
hóa làm cho chúng ta trở thành sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc
phê phán và dấn thân một cách đạo lý [133]. Trong định nghĩa này, UNESCO
xếp tôn giáo là một thành tố thuộc văn hóa.
Khi bàn về văn hóa và xác định nội hàm của khái niệm văn hóa cũng
như chỉ ra thành tố cấu tạo nên nó, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ đạo đức, tôn giáo
là những thành tố cơ bản của văn hóa [96, tr.431].
E.b.Tylor (1832 - 1917), định nghĩa văn hóa: “Từ văn hóa hay văn
minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm tri thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán và một số năng lực thói quen khác..
được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên xã hội” [71, tr.20].
Các định nghĩa nêu trên dù có góc nhìn và cách tiếp cận khác nhau, tuy
nhiên, các tác giả đều thống nhất trong thành tố của văn hóa có đạo đức và tín
49
ngưỡng, tôn giáo. Từ các quan điểm khác nhau về văn hóa như vậy, chúng ta
có thể hiểu: “Văn hóa là hệ thống các giá trị kết tinh và phát lộ lực lượng bản
chất người, được con người sáng tạo ra bằng lao động trên cả hai lĩnh vực sản
xuất vật chất và sản xuất tinh thần, nhằm phục vụ nhu cầu sống của mình
đồng thời hoàn thiện, hoàn mỹ các cá thể và cả tộc người” [89, tr.23].
Từ các định nghĩa trên về văn hóa, chúng ta có thể đi đến cách hiểu về
văn hóa tôn giáo như sau: “Văn hóa tôn giáo là hệ thống giá trị kết tinh và
phát lộ lực lượng bản chất người trong lĩnh vực tôn giáo và chịu quy định của
ý thức tôn giáo, thông qua đó nó cũng thực hiện chức năng “nhân hóa” tự
nhiên, xã hội hóa con người và nhân đạo hóa xã hội” [89, tr.55]. NCS thống
nhất và sử dụng quan điểm về văn hóa tôn giáo này trong quá trình nghiên
cứu đề tài.
* Giá trị
Immanuel Kant (1724 - 1804) là người đầu tiên bàn rất kỹ về các khía
cạnh triết học của khái niệm giá trị. Trong tác phẩm “Cơ sở của siêu hình học
đạo đức” (1785), I. Kant viết: “Mọi vật thể có xu hướng giá trị quy định, bởi
lẽ nếu không có xu hướng và nhu cầu xây dựng trên những xu hướng ấy thì
vật thể sẽ chẳng có giá trị gì” [115, tr.23]. Ông cũng chia giá trị ra thành 3
thành tố: giá trị thị trường (giá trị vật chất - thực dụng); giá trị do ảnh hưởng
quy định (giá trị thẩm mỹ); giá trị nhân phẩm (giá trị luân lý- đạo đức, hay giá
trị nội tại - đây là loại giá trị cao nhất, giá trị vô giá).
Theo Phạm Minh Hạc, trong giai đoạn cận đại ở phương Tây, giá trị
học được dạy trong môn triết học, đấy là việc sắp xếp chương trình, môn học
nhà trường, chứ giá trị học không chỉ là phân môn của triết học. Lúc đầu là
như vậy, sau giá trị học là một môn khoa học độc lập và có liên quan đến
nhiều bộ môn, có giá trị trong chính trị học, xã hội học, nhân học văn hóa,
nghiên cứu con người, giáo dục học, tâm lý học, đạo đức học, thẩm mỹ học,
v.v… Mỗi môn khoa học kết hợp với giá trị học có đối tượng riêng của nó,
như chính trị học nghiên cứu các giá trị xã hội, đạo đức học nghiên cứu các
giá trị đạo đức, thẩm mỹ học nghiên cứu giá trị thẩm mỹ… Giá trị học quan
50
hệ mật thiết với tâm lý học, với nghiên cứu con người, giá trị học giữ vai trò
đặc biệt trong văn hóa học, vì thông thường coi văn hóa trong nghĩa rộng nhất
là tổng của các giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Đối tượng của văn hóa học
(xét một cách đại thể) là các giá trị [72, tr. 33 - 34].
Theo Trần Ngọc Thêm: “Giá trị là tính chất của khách thể, được chủ
thể đánh giá là tích cực xét trong so sánh với các khách thể khác cùng loại
trong một bối cảnh không gian, thời gian cụ thể” [115, tr.33].
Từ định nghĩa giá trị như trên, Trần Ngọc Thêm nghiên cứu về giá trị
văn hóa với những cấu trúc và chức năng của nó. Ông lưỡng phân giá trị
thành: giá trị tự nhiên và giá trị nhân sinh. Trong giá trị nhân sinh ông lại tiếp
tục lưỡng phân thành: giá trị văn hóa và giá trị văn minh. Như vậy, theo Trần
Ngọc Thêm, giá trị văn hóa cấu thành giá trị nhân sinh và là thành tố của giá
trị. Ông cũng cho rằng, giá trị văn hóa đã bao gồm giá trị con người, cho nên
khi nói hệ giá trị Việt Nam, hệ giá trị văn hóa Việt Nam tức là nói đến một hệ
thống bao gồm hai tiểu hệ là tiểu hệ giá trị xã hội và tiểu hệ giá trị con người.
Khi bàn về cấu trúc giá trị văn hóa, ứng dụng cách phân chia cấu trúc giá trị
của I. Kant, Trần Ngọc Thêm cho đó là cấu trúc giá trị văn hóa xét theo tầm
quan trọng của giá trị. Xét theo chủ thể, theo Trần Ngọc Thêm, cấu trúc giá trị
văn hóa được chia thành: giá trị nhận thức; giá trị đạo đức; giá trị thẩm mỹ
[115, tr.63].
Tóm lại, các tác giả đều thống nhất, trong cấu trúc giá trị văn hóa có
thành tố là giá trị đạo đức. Hay nói một cách cụ thể, GTĐĐ là một trong ba
thành tố (nhận thức - đạo đức - thẩm mỹ) của của GTVH.
* Văn hóa đạo đức
Khái niệm “văn hóa đạo đức” được các nhà lý luận văn hóa Xô Viết
dùng đầu tiên để chỉ “văn hóa đạo đức của hành vi con người”, và cho rằng
văn hóa đạo đức không thể tồn tại ngoài những hình thức cụ thể của hành vi,
không chỉ dừng lại ở ý thức đạo đức. Khái niệm này được các nhà khoa học
Việt Nam sử dụng rõ hơn về nội hàm khái niệm. Cũng từ góc nhìn này, Viện
Văn hóa và Phát triển thuộc Học viện CTQG HCM đưa ra định nghĩa về văn
hóa đạo đức (VHĐĐ) như sau:
51
Văn hóa đạo đức là một bộ phận (thành tố) của văn hóa tinh thần xã
hội, biểu hiện trình độ người của các quan hệ xã hội, bao gồm tổng
thể các giá trị, chuẩn mực đạo đức của một cộng đồng, được cộng
đồng thừa nhận và chấp nhận. Văn hóa đạo đức được thúc đẩy, vận
hành, làm mối dây liên kết và tác động giữa các cá nhân trong xã
hội. Văn hóa đạo đức chi phối những ứng xử của con người trong
các mối quan hệ xã hội [134, tr.147].
NCS kế thừa và sử dụng định nghĩa VHĐĐ như quan điểm nêu trên của
Viện Văn hóa và Phát triển để áp dụng trong quá trình nghiên cứu và thực
hiện đề tài.
Từ khái niệm VHĐĐ nêu trên, chúng ta dễ nhận thấy cấu trúc của
VHĐĐ gồm bốn thành tố: hệ thống các giá trị đạo đức (GTĐĐ); hệ thống chuẩn
mực; khuôn mẫu đạo đức; hệ thống thiết chế đạo đức và hành vi biểu hiện.
* Giá trị đạo đức
Căn cứ vào phân cấu trúc của VHĐĐ trên đây, chúng ta thấy thành tố
cấu thành VHĐĐ có bốn thành tố với bốn hệ thống tương ứng, gồm:
Hệ thống GTĐĐ
Hệ thống chuẩn mực, khuôn mẫu đạo đức
Hệ thống thiết chế đạo đức
Hệ thống hành vi biểu hiện đạo đức
Trong cấu trúc đó, GTĐĐ được hiểu là giá trị được tạo bởi các nguyên
tắc (đạo lý), quy tắc về các phương thức ứng xử đã được cộng đồng lựa chọn,
thừa nhận và chấp nhận, trở thành kinh nghiệm tập thể của mỗi cộng đồng.
Trên cơ sở đó, NCS rút ra cách hiểu về GTĐĐ mang tính chất là khái
niệm làm việc: GTĐĐ là hệ thống cốt lõi, là hạt nhân cấu thành văn hóa đạo
đức. GTĐĐ thể hiện tính lắng đọng và thống nhất đánh giá của cộng đồng xã
hội. Có thể có sự đánh giá khác nhau trong mỗi giai đoạn lịch sử hoặc trong
mỗi bối cảnh xã hội với những tập hợp người khác nhau về GTĐĐ. Và như
vậy, sẽ có những GTĐĐ mang tính phổ quát, tương đối ổn định, lắng đọng
52
lâu dài, có những GTĐĐ là tiêu chuẩn hướng đến của cộng đồng xã hội này,
nhưng chưa phải là điều hướng đến của cộng đồng xã hội kia. Nghĩa là,
GTĐĐ mang tính xã hội và do cộng đồng sinh ra nó đánh giá, xác định.
GTĐĐ vì vậy mang tính xã hội, mang tính lịch sử, bị ảnh hưởng và giới
hạn bởi thời gian và không gian xác định và đương nhiên GTĐĐ mang cả dấu
ấn của cộng đồng tạo nên nó.
* Giá trị đạo đức Phật giáo
Giá trị đạo đức PG là giá trị được tạo bởi các nguyên tắc (đạo lý), quy
tắc về các phương thức ứng xử đã được cộng đồng Phật giáo lựa chọn, thừa
nhận và chấp nhận, trở thành những chuẩn mực, quy tắc, quy định hoạt động
của cá nhân, tổ chức Phật giáo và trở thành tiêu chí đánh giá một người thực
hành theo giáo lý Phật giáo.
* Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli
GTĐĐ trong kinh tạng PG Nguyên thủy văn hệ Pàli là GTĐĐ được
biểu hiện trong kinh tạng Phật giáo Pàli qua các nguyên tắc (đạo lý), quy tắc
về các phương thức ứng xử đã được cộng đồng Phật giáo lựa chọn, thừa nhận
và chấp nhận, trở thành những chuẩn mực, quy tắc, quy định hoạt động của
cá nhân, tổ chức Phật giáo và trở thành tiêu chí đánh giá về cá nhân, về quan
hệ trong giáo đoàn Phật giáo.
Tiểu kết chƣơng 1
Phật giáo là một tôn giáo lớn, có quá trình hình thành, phát triển và phổ
biến rộng khắp trên toàn thế giới. Phật giáo có ảnh hưởng đến đời sống
con người, đặc biệt ở các nước phương Đông. Giá trị mà Phật giáo mang
lại cho loài người, đầu tiên phải nhắc đến đó là những giáo lý về tính
thiện, khuyến thiện, hành thiện và đồng thời với đó là trừ ác. Và, đời sống
một tu sỹ, hay một cư sỹ tại gia, theo quan điểm Phật giáo, không gì khác
là một đời sống phạm hạnh, đạo đức, mẫu mực. Với những tinh thần đó,
giáo lý và quan niệm đạo đức Phật giáo thực sự đã thanh lọc hóa con
người và làm nhân văn hóa xã hội.
53
Vì những lý do trên, Phật giáo luôn là đối tượng quan tâm không chỉ
của các nhà tôn giáo học, triết học, đạo đức học, mà còn là đối tượng nghiên
cứu của văn hóa học, xã hội học... Lẽ đương nhiên ấy, có nhiều công trình, từ
trong lịch sử, suốt quá trình phát triển của Phật giáo, và cho đến ngày nay, khi
Phật giáo được LHQ công nhận là tôn giáo vì hòa bình, ngày lễ Tam hợp đức
Phật được coi là lễ hội văn hóa tôn giáo trên toàn thế, giới được tổ chức trong
khuôn khổ LHQ, thì những nghiên cứu về Phật giáo dưới góc độ văn hóa học,
xã hội học ngày càng được công bố nhiều. Cùng với đó, quá trình phiên dịch
kinh tạng Phật giáo từ nguyên ngữ Pàli, Sankrit ra các ngôn ngữ trên thế giới
cũng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Quá trình chuyển dịch và phổ
biết kinh điển Phật giáo ấy cũng chính là quá trình phổ biến và truyền bá các
giá trị Phật giáo trên phạm vi toàn thế giới.
Từ việc điểm luận những công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước
như đã nêu ở trên, nghiên cứu sinh xin đưa ra một số nhận định như sau:
- Phật giáo là một tôn giáo ra đời vì con người, những nội dung trong
giáo lý PG dù có đề cập đến thế giới quan, vũ trụ luận, bản thể luận thì cũng
là để hướng về giải quyết vấn đề nhân sinh quan, vấn đề con người một cách
toàn diện và rốt ráo hơn.
- Trong toàn bộ kinh điển, giáo pháp Phật giáo, mà các nhà nghiên cứu,
các nhà Phật học, các Phật tử nghiên cứu và khẳng định, có hai cấp độ giáo lý
được Thích Ca tuyên thuyết và diễn giảng trước đệ tử xuất gia và tại gia của
ông: cấp độ nhân thừa (bàn về con người trong đời sống nhân sinh) và cấp độ
Phật thừa (bàn về con đường tu tập để đạt quả vị giải thoát cuối cùng), nhưng
cách thức và phương pháp thống nhất và xuyên suốt đó chính là rèn tập con
người theo những tiêu chuẩn đạo đức, thực hiện đời sống phạm hạnh, làm cho
cá nhân mỗi con người trở nên tốt đẹp để thúc đẩy xã hội đạt đến toàn thiện.
- Trong các công trình nghiên cứu về VHTG nói chung, mặc dù mức độ
có khác nhau, cách diễn đạt khác nhau, những các nhà nghiên cứu cả trong và
ngoài nước đều khẳng định, Phật giáo, cũng như tôn giáo nói chung, là thành
tố của văn hóa. Phật giáo mang GTVH, trong đó tiêu biểu là GTĐĐ PG.
54
- Vẫn còn những cách đánh giá và kết luận khác nhau về tính phổ quát,
tính xã hội của GTĐĐ Phật giáo hay tính cá nhân của ĐĐPG. Còn có những
nhận định khác nhau về đạo đức trong Phật giáo là bản chất đương nhiên gắn
với giáo lý, hay đạo đức Phật giáo giáo không có tính cố định, có thể tự
nguyện thực hiện hay từ bỏ. Còn có những khác biệt về khách thể nghiên cứu
là Phật giáo Đại thừa hay Phật giáo Nguyên thủy; kinh tạng hay luật tạng.
Nhưng điều thống nhất trong các công trình kể trên là việc khẳng định Thích
Ca là tiêu biểu của đời sống phạm hạnh, đạo đức, và giới luật trong Phật giáo
chính là những quy định về thực hành đạo đức mang tính nền tảng nhất.
- Các công trình của các tác giả được điểm luận trên đây chưa đặt nhiều sự
quan tâm đến kinh tạng khi nghiên cứu GTĐĐ của Phật giáo. Đây chính là công
việc tiếp tục nghiên cứu sinh thực hiện trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
Như vậy, qua nghiên cứu về những công trình đã công bố, có liên quan
gần và liên quan xa đến đề tài của luận án, nghiên cứu sinh làm rõ những vấn
đề mà các tác giả đi trước đã thực hiện, phạm vi nội dung mà các tác giả đã đề
cập, đồng thời cố gắng chỉ ra những nội dung mà tùy từng ý tưởng khoa học
cụ thể, các tác giả chưa đề cập trong công trình khoa học. Cũng trên cơ sở
điểm luận công trình khoa học và lịch sử nghiên cứu, nghiên cứu sinh cũng
chỉ rõ thành tựu của các công trình khoa học đã công bố mà nghiên cứu sinh
sẽ kế thừa, hay những phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề của các
tác giả mà nghiên cứu sinh sẽ áp dụng và phát huy trong nghiên cứu cụ thể đề
tài của mình. Nghiên cứu sinh cũng đã cố gắng đưa ra một số nhận định,
không với ý tưởng là phản biện tính xác thực của kết quả nghiên cứu, mà
chỉ là sự nhận định về phạm vi nghiên cứu, những nội dung được đề cập
trong các công trình có liên quan và khác biệt như thế nào đối với đề tài
luận án của nghiên cứu sinh. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh đã khẳng định
hướng nghiên cứu riêng sẽ thực hiện trong đề tài luận án của mình. Có thể
còn có những công trình mới đăng tải, hay vì lý do nào đó mà tác giả chưa
công bố, nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục tìm hiểu và cố gắng tiếp cận trong suốt
quá trình thực hiện đề tài của mình.
55
Chƣơng 2
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
VÀ KINH TẠNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VĂN HỆ PÀLI
2.1. LƢỢC SỬ PHẬT GIÁO VÀ PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
2.1.1. Lƣợc sử Phật giáo
2.1.1.1. Bối cảnh hình thành Phật giáo tại Ấn Độ
* Về điều kiện kinh tế - xã hội
Người Ấn Độ cổ tôn sùng các nghi thức tế lễ, thờ cúng các thần linh.
Xã hội Ấn Độ phát triển cả về kinh tế, chính trị đặc biệt là về kinh tế. Sau khi
người Aryan du nhập, nền kinh tế Ấn Độ phát triển mạnh, thúc đẩy sự phát
triển của văn hoá, đã hình thành bốn chức nghiệp: Sỹ, nông, công, thương.
Dần dần nghề nghiệp đã trở thành đẳng cấp hoá: đẳng cấp Bà La Môn; đẳng
cấp Sát Đế Lợi; đẳng cấp Vệ Xá; đẳng cấp Thủ Đà La. Để nắm giữ quyền
thống trị một cách lâu dài, hai đẳng cấp Bà La Môn và Sát Đế Lợi đã hợp
thức hóa để nhằm xác định địa vị cao quý của họ bằng đạo Bà La Môn và bộ
luật Ma - nu. Họ cho rằng:
- Đẳng cấp Bà La Môn (Brahman): là đẳng cấp của những con người
được sinh ra từ miệng Phạm Thiên, nên có quyền cúng tế thiên thần, chiếm
địa vị cao quý nhất trong xã hội bấy giờ.
- Đẳng cấp Sát Đế Lợi (Kchatriya): là đẳng cấp được sinh ra từ rốn
Phạm Thiên, là đẳng cấp của dòng họ vua, quan và quý tộc, nắm giữ quyền
cai trị và thâu tóm gần như toàn thể ruộng đất.
- Đẳng cấp Vệ Xá (Vaisya): là đẳng cấp được sinh ra từ xương sống
Phạm Thiên, đây là đẳng cấp của những người giàu có, buôn bán và làm các
nghề thủ công.
- Đẳng cấp Thủ Đà La (Sùdra): là đẳng cấp sinh ra từ gót chân của
Phạm Thiên, nên chỉ là đẳng cấp hạ tiện, làm nô lệ phục vụ cho ba giai cấp trên.
Cũng theo quan niệm đó, trong bốn đẳng cấp này, ba đẳng cấp trên có
quyền tụng niệm kinh Vệ đà và quyền tế tự. Sau khi chết ba đẳng cấp được
56
đầu thai làm người. Các giai cấp được duy trì theo chế độ thế tập, cha truyền
con nối tạo thành một xã hội hết sức bất công, bất bình đẳng. Vì vậy, mâu
thuẫn giữa các giai cấp ngày càng trở nên gay gắt. Các giai cấp thống trị giàu
có sinh ra truỵ lạc. Giai cấp nô lệ bị áp bức phải lao động cật lực để phục vụ
cho các giai cấp trên. Tình hình xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ đã nung nấu, tiềm
tàng cuộc đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp thống trị, áp bức bóc lột, kiến lập
một xã hội công bằng hơn. Trong điều kiện xã hội Ấn Độ thời cổ đại (vào
giữa thiên niên kỷ I, khoảng thế kỷ thứ VI - TCN) phân chia theo chế độ đẳng
cấp (Vác-na) rất nghiệt ngã và bất bình đẳng như vậy, Phật giáo ra đời được
coi là một trong những học thuyết xã hội có tính cách mạng chống lại chế độ
phân chia đẳng cấp ở Ấn Độ.
* Tiền đề tư tưởng, tôn giáo
Ấn Độ là một quốc gia có nền văn hoá sớm phát triển, cùng với sự xuất
hiện của người Aryan, Ấn Độ đã dần hình thành văn tự (chữ viết). Ấn Độ đã bắt
đầu có bộ kinh điển đầu tiên là kinh Vệ - đà do dân tộc Aryan chế tác. Nội dung
của kinh điển tuy có tính thần thoại nhưng chứa đựng nhiều tư tưởng về vũ trụ
và nhân sinh quan, mở đầu cho nền văn minh và triết học ở Ấn Độ sau này.
Thời kỳ đầu ở Ấn Độ, tôn giáo thờ rất nhiều thần (đa thần giáo), sau thờ
nhất thần (thờ Phạm Thiên - là Thượng đế), đó là đạo Bà La Môn. Người Ấn
Độ cổ quan niệm, Thượng đế có quyền ban phúc, giáng hoạ cho con người.
Hàng nghìn năm trước công nguyên ở Ấn Độ, các luồng tư tưởng tôn
giáo, triết học được tự do phát sinh, phát triển. Song, tựu chung lại các
trường phái triết học cũng như các nhà hiền triết tập trung ở một số luồng
tư tưởng chính:
- Chủ tương tu khổ hạnh để mong cầu giải thoát: Phái này cho rằng
mọi vui - buồn, hoạ - phúc của con người đều do tiền nghiệp đã định trước,
muốn thoát khỏi tiền nghiệp đó con người cần phải tu luyện, hành hạ thân xác
để mong cầu giải thoát.
57
- Chủ trương thuyết Ngẫu nhiên và Tự nhiên: Phái này không tin vào
luật nhân quả, cho rằng mọi vui - khổ, hoạ - phúc của con người đều là ngẫu
nhiên, không bị ảnh hưởng bởi bất cứ một nguyên nhân nào.
- Chủ trương Nhị nguyên luận: Cho rằng vật chất là yếu tố để thành lập
vạn vật, đối lập với vật chất là vô số linh hồn (tinh thần). Linh hồn thì hoạt
động kết hợp với vật chất để tạo thành sinh vật. Bản chất của linh hồn thì
thuần tuý chủ quan, không biến động; vật chất là khách quan luôn biến đổi.
Họ đã dựa vào sự thay đổi đó để giải thích hiện tượng vạn hữu.
- Chủ trương Đa nguyên luận: Phái này cho rằng con người khi sinh ra
trần thế là đã gặp rất nhiều sự khổ cho nên họ lấy phương châm lìa khổ để đạt
tới giải thoát làm mục đích.
- Chủ trương không trọng dụng phương diện tinh thần và đạo đức:
Trường phái này không tin thuyết linh hồn tồn tại bất diệt của phái Bà la môn,
họ cho rằng chết là hết. Với quan niệm như thế nên dẫn con người đến một
cuộc sống sa đoạ, ăn chơi, hưởng lạc, mất hết đạo lý chỉ nhằm để thoả mãn
mọi nhu cầu của mình.
Có thể nói, các trường phái triết học và tư tưởng tôn giáo đều rơi vào
hai khuynh hướng: Tả - Hữu. Đạo Phật ra đời là sự kế thừa nhưng có chọn lọc
theo con đường trung đạo, không chấp nhận đa thần nhưng cũng bác bỏ nhất
thần theo quan điểm của Bà La Môn; bác bỏ sự hành hạ thân xác nhưng cũng
không chấp nhận quan niệm chỉ cầu sự hưởng lạc. Đạo Phật đã đưa ra một cái
nhìn tổng quan về đời sống hiện hữu của con người, các mối quan hệ biện
chứng giữa con người và xã hội, cách giải quyết mâu thuẫn trong các mối
quan hệ đó.
2.1.1.2. Người sáng lập Phật giáo
* Xuất thân và con đường tu đạo của Tất Đạt Đa
Người sáng lập ra Phật giáo là Thái tử Cồ Đàm Tất Đạt Đa (Gautama
Siddhattha) sinh năm 563-TCN, con vua Tịnh Phạm (Shuddhodana) thuộc bộ
tộc Thích Ca (Sakya), trị vì vương quốc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavaxtu) ở vùng
trung lưu sông Hằng (Ganga). Cồ Đàm Tất Đạt Đa đã từ bỏ cuộc sống nhung
58
lụa nơi hoàng cung để tu hành và cuối cùng ông tuyên bố đã tìm ra được chân
lý, hiểu được bản chất của vạn pháp trong vũ trụ, nguồn gốc của khổ đau
phiền não của con người và cách thức để giải thoát sự khổ đau. Từ đó ông
được gọi là bậc giác ngộ (Phật) và được tôn là bậc thánh của dòng họ Thích
Ca (Thích Ca Mâu Ni). Sau khi tuyên bố giác ngộ, Phật Thích Ca đi truyền bá
các lý thuyết của mình để sau này trở thành tôn giáo lớn: Phật giáo.
Lịch sử Phật giáo đều ghi nhận, năm 19 tuổi Tất Đạt Đa lấy vợ - công
chúa Da Du Đà La, con gái chúa thành Thiên Tí (Devadaha), và ông có một
người con trai tên là La Hầu La (Rãhula) sau này cũng tham gia giáo đoàn
tăng của ông.
Mặc dù cuộc sống xa hoa giàu sang quyền quý, nhưng Tất Đạt Đa
không an phận. Ông quan tâm đến cuộc sống xã hội phía ngoài những bức
tường thành của cung cấm. Sau một số lần dạo chơi các cổng thành, Tất Đạt
Đa tận mắt chứng kiến con người đau khổ, quằn quại trong các cảnh huống:
già, bệnh, chết, và một cảnh của người an lạc tu đạo. Từ đó trong ông nung
nấu những câu hỏi không có lời đáp: Làm sao để không già? Làm sao để
không bệnh? Làm sao để không chết? Làm sao để an lạc, tự tại, vượt thoát ra
ngoài sự chi phối của ba cảnh huống buồn khổ đó? Đó cũng chính là nguồn
khởi thôi thúc mãnh liệt con đường xuất gia tu hành, tìm lời giải đáp của
chính ông và cũng là câu hỏi chung của nhân loại.
Vào đêm trăng tròn tháng Vesak của lịch Ấn Độ cổ (tương đương với
tháng Tư âm lịch), Tất Đạt Đa rời bỏ hoàng cung, nơi có ngai vàng cùng
người vợ trẻ và con thơ, bắt đầu con đường xuất gia cầu đạo. Ông cầu học
theo nhiều vị thầy với nhiều pháp môn khác nhau, không thỏa mãn. Ông vào
rừng sâu và tu theo con đường khổ hạnh sáu năm ròng. Nhưng điều đó chẳng
những không giúp ông tìm ra con đường giải thoát mà còn làm cho thân thể
và tinh thần ông tiều tụy. Hiểu ra điều đó, ông thực hành tu tập theo con
đường trung đạo (không phóng giật, cũng không khổ hạnh). Cuối cùng, sau
49 ngày thiền định dưới cội bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, Tất Đạt Đa
đã chứng đạt được những chân lý trong cuộc đời, trở thành bậc giác ngộ. Thời
59
điểm đó cũng vào đêm trăng tròn tháng Vesak. Sau khi tìm ra chân lý, ông đã
đi khắp nơi trên mảnh đất Ấn Độ cổ để tuyên truyền và hoằng hóa giáo lý của
mình. Lịch sử Phật giáo ghi nhận quá trình hoằng truyền đạo Phật của ông
kéo dài suốt 49 năm. Điều trùng hợp là, ông nhập niết bàn cũng đúng vào
ngày trăng tròn tháng Vesak khi ở tuổi 80.
Đây cũng là lý do để Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc lấy ngày trăng tròn
tháng Vesak kỷ niệm tam hợp Đức Phật (xuất ra, thành đạo, nhập diệt) làm
ngày lễ hội văn hóa tôn giáo trên toàn thế giới.
* Giáo lý cơ bản do Thích Ca chứng đạt, truyền giảng
Như trên đã nêu, nguồn gốc phát khởi con đường xuất gia tu đạo của
Tất Đạt Đa không phải vì lý do muốn mình trở thành một vị thánh, không
phải vì mục đích giải quyết những ham muốn hay cầu tìm cá nhân, mà điều
thúc giục ông xuất gia cầu đạo nằm ở chính ý nghĩ về con người, làm cho con
người không phải chịu sự đau khổ của cảnh già, cảnh bệnh, cảnh chết, và làm
sao để con người sống mà không bị chi phối bởi những quy luật tự nhiên ấy.
Đó chính là nguồn gốc nhân văn - vì con người của Phật giáo. Vì vậy, khi tìm
ra chân lý, nghĩa là tìm ra con đường, phương pháp để trả lời câu hỏi trước
khi xuất gia, thì những nội dung thể hiện sự chiêm nghiệm của ông cũng
không gì khác ngoài mục đích vì chính con người. Đó cũng chính là bản chất
của giáo lý Phật giáo. Kinh điển Phật giáo dù có ngàn vạn quyển và trải qua
hơn 2000 năm vận động, phát triển khác nhau, nhưng tựu chung đều thâu
nhập trong những nội dung cốt lõi sau:
- Tứ diệu đế: là bốn nhận định mang tính chân lý chắc thật trong cuộc
sống, gồm:
Khổ đế: Phật giáo cho rằng, nỗi khổ trong cuộc đời của mỗi con người
là có thật. Không yếm thế né tránh nó, mà cần phải rõ ràng nhìn nhận nó để từ
đó mới có phương cách diệt trừ, thoát khỏi nó. Phật giáo chỉ ra có 8 nỗi khổ,
trong đó có 4 nỗi khổ về thân, đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ; và 4
nỗi khổ về tâm, đó là: ái biệt ly (yêu thương mà phải xa lìa là khổ), oán tăng
60
hội (căm ghét, đố kỵ mà phải gặp gỡ là khổ); cầu bất đắc (điều mong mỏi mà
không như ý nguyện là khổ), ngũ thụ sí thịnh (năm cảm quan của con người
nung nấu muốn thỏa mãn mà không được chiều là khổ).
Tập đế: Phật giáo chỉ ra nguyên nhân huân tập, tích tụ dẫn đến các
nỗi khổ vừa nên ở trên. Đó là do phiền não, vô minh, tham, sân, si tạo ra
nghiệp; do tạo nghiệp mà phải chịu quả báo khổ.
Diệt đế: Là cảnh giới an lạc, tự tại, giải thoát khổ não, hiểu rõ được
nguyên nhân và dứt trừ được căn nguyên dẫn đến khổ não. Phật giáo cho đó là
cảnh giới niết bàn. Đây chính là mục đích hướng đến của việc tu tập Phật giáo.
Đạo đế: Là phương pháp diệt khổ, là cách thức để tu trì, thực hành hằng
ngày, để nương vào đó mà đạt được cảnh giới niết bàn. Phật giáo chỉ ra 37
phương cách hỗ trợ để đạt được sự an lạc, giải thoát, trong đó tập trung quan
trọng nhất là tám con đường chân chính để đến được với chính đạo, Phật giáo
gọi đó là bát chính đạo.
- Thập nhị nhân duyên: là 12 nhân duyên nối tiếp nhau, nhân - quả
tương tục không ngớt, mang tính quy luật chi phối cuộc sống con người. Theo
Phật giáo, 12 nhân duyên đó là: Vô minh - Hành - Thức - Danh sắc - Lục
nhập - Súc - Thụ - Ái - Thủ - Hữu - Sinh - Lão tử. Trong đó, giáo lý Phật giáo
nhấn mạnh bản chất sâu xa của đau khổ chính là vô minh. Vì vô mình nên
chấp trước vào mọi thứ là có thật vĩnh cửu, nên tạo nghiệp, vì tạo nghiệp nên
chịu khổ. Đây chính là giáo lý về Duyên khởi. Lý Duyên khởi giải thích, vạn
vật trong vũ trụ tự nhiên, xã hội và tư duy con người, khi một thứ gì đó sinh
ra là kết quả của sự kết hợp nhân (điều kiện cần) và duyên (điều kiện đủ, tác
động và thúc đẩy nhân vận hành và phát triển) mà thành. Vũ trụ bao la, nên
nhân - duyên cũng bao la và tác động vào nhau không ngừng nghỉ, Phật giáo
gọi đó là “trùng trùng duyên khởi” làm cho vũ trụ, xã hội, tư duy con người
luôn vận động và biến đổi.
- Bát chính đạo: Tinh thần bản chất của việc chỉ ra nỗi khổ, căn nguyên của nỗi khổ chỉ là bước đầu. Điều quan trọng của giáo lý Phật giáo là chỉ bày con đường thoát khổ. Trong 37 cách thức, con đường thực hiện việc thoát khổ đó, Phật giáo nhấn mạnh 8 con đường quan trọng nhất, đó là bát chính đạo,
61
gồm: 1 - Chính kiến: là nhận biết đúng với bản chất của sự việc, hiện tượng; 2 - Chính tư duy: là suy nghĩ thấu đáo, kỹ càng; 3- Chính ngữ: ngôn ngữ chân thành; 4 - Chính nghiệp: thân nghiệp chính đáng; 5 - Chính mệnh: hành nghề chính đáng; 6 - Chính tinh tiến: Nỗ lực không ngừng; 7 - Chính niệm: Không có ý nghĩ tà vạy; 8 - Chính định: nhất tâm, không vọng tưởng.
- Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ. Giới là thực hiện những điều răn cấm và khuyến khích. Định là tập trung cao độ thân và tâm khi thực hiện bất kỳ việc gì để chuyên nhất, không tạp loạn phân tâm. Tuệ là sự hiểu biết bản chất rốt ráo đến cùng tột sự việc, vấn đề. Muốn có trí Tuệ để nhận biết và vượt thoát được vô minh, đạt cảnh giới an lạc thì cần phải Định. Muốn không bị phân tâm, tập trung thiền Định thì phải thực hành Giới. Đó chính là quy trình của sự tu tập Phật giáo.
- Tam pháp ấn: Giáo lý Phật giáo rộng lớn mênh mông, đáp ứng cho mọi sự tìm hiểu và tu tập từ vũ trụ bao la cho đến những điều cụ thể. Lấy gì làm dấu chỉ cho kinh điển nào đó đích thị là kinh điển Phật giáo, được chính Tất Đạt Đa - bậc được tôn xưng là giác ngộ nói ra. Đó chính là 3 dấu chỉ, được Phật giáo gọi là Tam pháp ấn. Tam pháp ấn trong quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy thể hiện cốt tủy tinh thần Phật giáo, cụ thể là:
Chư hành vô thường: Mọi kết quả sự cảm thụ, nhận biết thông qua giác quan, thông qua nhận thức đều không dừng yên một chỗ, mà luôn thay đổi. Mọi vật trong vũ trụ tự nhiên, xã hội, tư duy con người đều không vĩnh cửu hay đứng yên, mà nó luôn thay đổi, đó là vô thường.
Chư pháp vô ngã: Mọi vật chất trong tự nhiên, mọi sự việc trong xã hội, mọi trạng thái trong tư duy con người, không gì là tự nhiên mà có, không gì là tự nó sinh ra, nghĩa là không có tự ngã. Tất cả đều do nhân duyên giả hợp tạo thành, rồi lại do nhân duyên mà thay đổi.
Hữu lậu giai khổ: Trong đời sống thực tại, khi chưa dứt được những phiền não, chưa thoát khỏi sự tác động tiêu cực của ngoại cảnh (phiền) và nội tâm (não), thì cuộc sống con người luôn phải đối diện với những thực tại của khổ đau theo những nội dung tám nỗi khổ mà giáo lý Phật giáo đã chỉ ra. Đó là một thực tế, không nên né tránh mà cần phải nhận biết rõ ràng nó để tiến tới xóa bỏ nó.
62
2.1.2. Khái lƣợc về Phật giáo Nguyên thủy
Thích Ca nhập diệt, ông đã trở thành một nhân vật lịch sử. Tuy nhiên,
giáo pháp của ông vẫn được hoằng truyền qua các thế hệ Thích tử, Thích tôn
từ bấy cho đến nay. Căn cứ vào giai đoạn lịch sử, sự hoằng truyền giáo lý và
sự pháp triển của giáo pháp mà các nhà nghiên cứu chia diễn trình Phật giáo
thành các giai đoạn khác nhau. Có quan điểm chia lịch sử Phật giáo ra 3 thời
kỳ, tiêu biểu như các tác giả Đại sư Thái Hư (Trung Hoa), Mộc Thôn Thái
Hiền và Vũ Tỉnh Bá Thọ (Nhật Bản). Có quan điểm chia Phật giáo ra 4 thời
kỳ như quan điểm của Long Sơn Chương Chính (Nhật Bản). Lại có quan
điểm chia lịch sử Phật giáo thành 5 thời kỳ, như quan điểm của tác giả Ấn
Thuận (Trung Hoa) [101,tr. 53-54].
Trong luận án này, chúng tôi kế thừa quan điểm của học giả
Nalinaksha. Dutt trong cuốn Aspects of Mahayana Buddhism and Its Relation
to Hinayana (Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa) chia lịch sử Phật giáo
thành 3 thời kỳ. Đây cũng chính là quan điểm được học giả, TS. Thích Minh
Châu (người biên dịch toàn bộ kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy từ Pali ngữ
sang Việt ngữ) thống nhất và được đông đảo các nhà Phật học hiện đại tán
đồng. Ba giai đoạn phát triển của Phật giáo trong lịch sử, đó là: Phật giáo
Nguyên thủy, Phật giáo Bộ phái, Phật giáo Phát triển.
- Phật giáo Nguyên thủy: Thời kỳ Thích Ca còn tại thế và tuyên truyền
giáo pháp của ông kéo dài đến khoảng gần 100 năm sau, khi những đệ tử kế
tục trực tiếp truyền thừa tư tưởng của ông qua đời.
- Phật giáo Bộ phái: Giai đoạn Phật giáo này được tính từ sau khi Thích Ca nhập diệt khoảng 100 năm cho đến 500 năm. Đây là gia đoạn nở rộ của các trào lưu khác nhau, các phái bộ khác nhau phát triển cực đoan một hay một số giáo lý của Thích Ca. Sự phát triển này xuất phát từ cách hiểu và giải thích khác nhau của cùng một lời dạy của Thích Ca. Kết quả là, có hàng chục bộ phái Phật giáo khác nhau ở các vùng miền trên đất nước Ấn Độ cổ được hình thành. Đây chính là quá trình vận động và khẳng định vị thế của các bộ phái khác nhau trong Phật giáo. Và cuối cùng, những bộ phái nhỏ mất
63
dần đi, các bộ phái lớn có sự thống nhất nhất định hợp chung lại, thành ra hai hệ phái lớn: Phật giáo Thượng tọa bộ (Theravada) và Phật giáo Đại chúng bộ (Mahayana).
- Phật giáo Pháp triển: Giai đoạn này được gọi chung cho Phật giáo từ khoảng 500 năm sau khi Thích Ca nhập diệt cho đến nay. Trong đó, giai đoạn từ 500 năm đến khoảng 700 năm sau khi Thích Ca nhập diệt, được coi là giai đoạn đầu của Phật giáo Phát triển, hay còn gọi là Phật giáo Đại thừa.
Trong luận án này, chúng tôi sẽ cố gắng tránh nhắc đến thuật ngữ Tiểu thừa trong mối quan hệ với Đại thừa như cách gọi thông thường của các học giả các nước phương Đông và các Phật tử Đại thừa. Vì lẽ, các nhà Phật học cho rằng, Tiểu thừa và Đại thừa được cho là các danh từ được gán về sau bởi các nhà Bà La Môn giáo. Người ta không tìm thấy hai khái niệm này (Tiểu thừa và Đại thừa) trong ngũ bộ kinh tạng Pàli hay tứ bộ A-hàm của kinh điển Phật giáo Nguyên thủy. Theo TS. Thích Minh Châu, cách gọi Tiểu thừa có yếu tố không coi trọng, coi Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ) là nhỏ hẹp. Ông cho rằng: “Thái độ của một số Phật tử Đại thừa xem những gì về Tiểu thừa là thiển cận, nhỏ hẹp, không đáng học hỏi, cũng là một thái độ nguy hiểm, nông nổi, nếu không muốn nói là ngây thơ, phản tri thức” [18, tr.13].
Trong giai đoạn Phật giáo Nguyên thủy, giai đoạn sơ khởi của Phật giáo, giáo lý Phật giáo thể hiện tinh thần giản dị, rõ ràng, chỉ là những ghi chép ghi lại lời nói, việc làm của Thích Ca khi còn tại thế và những lời nói, việc làm đã được Thích Ca chấp nhận của các đệ tử. Tổng thuật về đặc điểm giáo lý của Phật giáo Nguyên thủy, các nhà khoa học nghiên cứu về Phật giáo hệ Pàli tạng đều thống nhất một số nhận định sau:
Về không gian tồn tại và hoạt động của giáo đoàn Phât giáo: Phật giáo giáo đã xuất hiện tại các thành phố, làng mạc từ phía Đông sang phía Tây Ấn Độ thuộc thành Vương Xá (Kajangala, Campa, Rajagaha), thành Xá Vệ (Gaya, Kasi, Nalanda, Pataliputta, Vesali, Savatthi) trong địa lý xã hội Ấn Độ cổ, và thêm một số ở vùng phụ cận phía Bắc (Maddarattha) và phía Nam (Patitthaha, Gandhara) Ấn Độ. Nghĩa là, Phật giáo đã chiếm lĩnh một không gian tương đối lớn trên phạm vi Ấn Độ cổ, vì tiếng tăm của Thích Ca và những ảnh hưởng tích cực từ giáo lý tôn giáo của ông đến xã hội.
64
Về sự tin theo của các vua chúa: Trong kinh điển Phật giáo Nguyên
thủy có ghi chép, thời đức Phật còn tại thế và thời gian trong khoảng 100 năm
sau khi ông qua đời, Phật giáo đã được nhiều vị vua chúa tin theo và thể hiện
niềm mộ đạo của mình một cách mạnh mẽ tại các vương quốc mà họ trị vì.
Các tài liệu lịch sử Phật giáo đã đề cập đến các vị vua thời trước của A-Dục
(Asoka) như vua Tần-Bà-Ta-La (Bimbisara), vua A-Xà-Thế (Ajatasattu), vua
Ba-Tư-Nặc xứ Kiều-Tát-La (Pasenadi Kosala), và đến cả những bộ lạc như:
Canda Pajjota, Buli, Koliya, Vajji... Như vậy, với giáo lý bình đẳng, chống lại
sự phân biệt giai cấp, Phật giáo không chỉ thu hút quần chúng nhân dân lao
động mà mọi giai tầng trong xã hội, thậm chí cả những người Bà La Môn, các
vua chúa, quý tộc.
Về vị trí, vai trò của hàng cư sỹ tại gia: Phật giáo Nguyên thủy mặc dù
chưa xác lập vai trò của cư sỹ tại gia như thành phần tu tập của tăng đoàn, của
giáo hội (khái niệm Tứ chúng: Tăng, Ni, Ưu-bà-tắc (nam Phật tử), Ưu-bà-di
(nữ Phật tử) chỉ có sau này) nhưng đã khẳng định vai trò hộ pháp, ngoại hộ,
trợ giúp đắc lực cho giáo đoàn do Thích Ca dẫn dắt của các Phật tử, cư sỹ tại
gia. Các cư sỹ tại gia đã thụ nhận, hành trì giới luật tại gia, nghe thuyết giảng
Phật pháp và thực hành nghi lễ Phật giáo, giữ gìn những phẩm hạnh đạo đức
và phát huy nó trong đời sống xã hội hiện thực.
Về hình ảnh của Đức Phật: không bị huyền hóa như những quan điểm
phát triển sau này. Đức Phật trong kinh điển Nguyên thủy chính là Thích Ca,
một con người lịch sử, một con người bằng xương thịt, người thành lập, tổ
chức, giáo huấn và dẫn dắt giáo đoàn Phật giáo. Ông chỉ khác người thường là
chứng đắc được những tuệ giác, hiểu biết toàn tri, hiểu trọn vẹn những điều
mà người thường không hiểu biết được. Phật Thích Ca trong kinh tạng
Nguyên thủy là một con người hiếm có trong đời và phải qua rất nhiều kiếp
mới có một vị xuất hiện. Đời sống và hành đạo của Thích Ca được ghi chép
trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thỷ chỉ thuần túy từ khi ông xuất gia, đến
giai đoạn thành đạo, dẫn dắt giáo đoàn và hoằng truyền tư tưởng giáo lý tự
ngộ, cho đến khi nhập diệt. Những nội dung về tiền thân Phật (nhiều đời
trước) rất hiếm được nhắc đến trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy.
65
Về giáo lý và kinh điển: Kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy cơ bản giới
hạn trong Tam pháp ấn, Tứ diệu đế, lý Duyên khởi, Tam vô lậu học và Bát
chính đạo. Những nội dung về các hạnh Ba-la-mật (các hạnh Bồ tát, vì chúng
sinh) còn chưa thể hiện rõ trong những nội dung kinh điển này. Những giáo lý
và nội dung trong kinh điển Phật giáo Nguyên thủy là những giáo lý thực
hành, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, tránh việc diễn giảng những nghĩa lý sâu
xa và lối diễn đạt bóng bẩy hay đầy tinh thần triết học “hình nhi thượng” như
đề cập trong kinh điển Phật giáo Phát triển sau này.
Về mục đích của tu hành: Cấp bậc quả vị mà người tu hành trong thời
kỳ Phật giáo Nguyên thủy, kể cả Thích Ca, cũng chỉ là đời sống và sự giác
ngộ của một vị A-la-hán. Đây là quả vị cao nhất trong 4 quả vị tu hành mà
một người tu theo Phật giáo đạt được. Bốn quả vị đó gồm: (1) Dự lưu, hay
còn gọi là Tu-đà-hoàn (Sotapana - được dự vào vị trí tu tập đắc đạo, giống
như quan điểm về người dự bị hay dự khuyết hiện nay); (2) Nhất lai, hay còn
gọi là Tư-đà-hàm (Sakadagami - còn một lần phải tái sinh trong cõi đời); (3)
Bất lai, hay còn gọi là A-na-hàm (Anagami - không còn phải tái sinh trầm
luân trong cõi đời); (4) A-la-hán (Arahatta - quả vị tối thắng, cao nhất trong tu
tập Phật giáo). Thích Ca trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy cũng chỉ
chứng đạt quả vị này. Khái niệm quả vị Phật hay Bồ tát dưới góc nhìn của
Phật giáo Phát triển chưa được thấy đề cập trong kinh tạng Phật giáo Nguyên
thủy, đó là sản phẩm của Phật giáo Phát triển sau này.
Về cảnh giới giải thoát: Phật giáo Nguyên thủy cho rằng, cảnh giới giải
thoát cuối cùng và cao nhất người tu theo Phật giáo đạt được đó là Niết bàn.
Niết bàn là một trạng thái, một cảnh giới về tinh thần mà người tu hành đạt
được. Trong cảnh giới tinh thần đó người tu chứng đạt được trạng thái hoàn
toàn an tịnh, cực lạc, diệt trừ hết mọi phiền não, đau khổ. Theo Phật giáo
Nguyên thủy, Thích Ca là người chứng đạt cảnh giới này [18, tr. 17 - 19].
Niết bàn không bao gồm ý nghĩa về không gian, một cõi nước, không phải
là “nước Phật” hay “Tây thiên” như một phần không ít các Phật tử và
người nghiên cứu Phật học hiện nay hiểu. Niết bàn trong Phật giáo là một
cảnh giới tinh thần an lạc, tự tại.
66
2.2. KINH TẠNG PHẬT GIÁO VÀ KINH TẠNG PHẬT GIÁO NGUYÊN
THỦY VĂN HỆ PÀLI
2.2.1. Kinh tạng Phật giáo Giới nghiên cứu Phật học và Phật tử đều cho rằng, Phật giáo “thiên kinh vạn quyển”, nhiều sách vở, kinh điển, giáo lý, không thể tường tận hết được kinh điển Phật giáo gồm những gì và số lượng bao nhiêu. Chính vì lẽ này mà người mới tiếp cận Phật giáo thường thấy hoang mang và không biết bắt đầu từ đâu. Tuy vậy, kho tàng kinh điển của Phật giáo cũng có những cấu trúc và hạng mục cụ thể. Toàn bộ kinh điển của Phật giáo được tập hợp thống nhất trong ba tạng kinh điển. Nói cách khác, ba tạng kinh điển của Phật giáo là 3 kho tàng lưu trữ kinh điển được chia thành: tạng Kinh, tạng Luật, tạng Luận.
Tạng Kinh (nói theo truyền thống của Phật giáo là Kinh tạng): là phần kinh điển ghi lại những lời dạy của Thích Ca trong suốt quá trình ông dẫn dắt giáo đoàn, du phương hoằng hóa và tuyên thuyết giáo lý của mình. Kinh tạng Phật giáo được giới nghiên cứu và đệ tử Phật trên khắp thế giới tôn xưng là Pháp, được coi như hiện thân của Phật Thích Ca, được tuyên thuyết từ “kim khẩu” của Thích Ca khi ông còn tại thế. Kinh tạng của Phật giáo không phải được viết ra ngay khi Thích Ca còn tại thế, mà nó được tập hợp và viết thành sách sau khi Thích Ca nhập diệt. Những lời dạy của Thích Ca không phải cùng một lúc, một chủ đề, với cùng một đối tượng mà rất phong phú. Thời gian dẫn dắt giáo đoàn của ông được giới nghiên cứu xác định là 49 năm, như vậy, những ghi chép về lời dạy của ông cũng ròng rã trong suốt quá trình đó. Phạm vi phổ biến và dịch chuyển của Thích Ca cũng khắp các vùng của đất nước Ấn Độ cổ, và quan trọng nhất, những lời dạy của ông không chỉ được nói ra cho các đồ chúng, học trò xuất gia đi theo ông, mà còn là nội dung Thích Ca tuyên thuyết với mọi thứ bậc người trong xã hội, từ ông vua cho đến tướng lĩnh, từ vị y sỹ đến người nông phu, từ người thợ rèn đến kẻ đánh xe, từ người chăn dắt động vật cho đến kẻ ăn cướp, gái làng chơi... Tất cả mọi hạng người đều được Thích Ca chỉ bày những điều tốt đẹp, thiện lành, đạo đức, hành thiện, lánh ác. Những lời Thích Ca nói thường rõ ràng, cụ thể, không huyền hoặc cao viễn, dễ hiểu và dễ thực hiện.
67
Ở đây nghiên cứu sinh xin nêu thêm về Kinh tạng Phật giáo Nguyên
thủy, là khách thể nghiên cứu của đề tài luận án. Kinh tạng Phật giáo Nguyên
thủy được Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam thực hiện Việt dịch từ nguyên
gốc văn hệ Pàli bởi một Hội đồng phiên dịch kinh tạng gồm các vị cao tăng
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) có trình độ Tiến sỹ, được đào
tạo bởi các chuyên khoa Phật học và Trường Đại học Phật giáo nổi tiếng trên
thế giới, do Hòa thượng Tiến sỹ Thích Minh Châu, Viện trưởng Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam đầu tiên, Viên trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam
đầu tiên, làm Chủ tịch. Bộ Kinh tạng này bao gồm 24 cuốn, được chia thành
năm bộ Nikàya:
Kinh Trường bộ (Dìgha - Nikàya),
Kinh Trung bộ (Majjhima - Nikàya),
Kinh Tương ưng bộ (Samyutta - Nikàya),
Kinh Tăng chi bộ (Angttara - Nikàya),
Kinh Tiểu bộ (Khuddaka - Nikàya).
Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp nhưng không được ghi chép thành văn
bản ngay khi ông tại thế, mà sau khi ông nhập diệt một thời gian ngắn, để
thống nhất và hệ thống hóa những lời dạy của ông, các đồ đệ lớn của ông mới
tổ chức cùng nhau họp lại và cùng đọc tụng, xác nhận lại toàn bộ lời dạy của
ông bao gồm trong Tam tạng kinh điển. Lịch sử Phật giáo gọi việc hệ thống
hóa và thống nhất những lời dạy của Thích Ca Mâu Ni thành giáo lý Phật giáo
này là kết tập kinh điển. Lịch sử Phật giáo ghi nhận 6 kỳ kết tập kinh điển
(KTKĐ), và từ kỳ KTKĐ lần thứ 3, kinh điển Phật giáo được truyền thừa từ
thời Thích Ca Mâu Ni đến khi đó mới được ghi chép thành văn bản với loại
văn tự Pàli. Kinh điển được ghi chép bằng văn tự Pàli này được cho là dạng
thức kinh điển Nguyên thủy, ghi chép trung thực với những lời Thích Ca Nâu
Ni nói khi ông còn sống. Đó là giáo lý mà giới học thuật Phật giáo cho là
nguyên chất, thuần nhất, ban đầu. Vì ngữ văn và kinh tạng tiếng Pàli dòng
phương Nam đã dùng, gần với ngôn ngữ thông tục thường dùng thời Phật,
cho nên, kinh tạng Pàli (Ngũ bộ Nikàya) truyền ở phương Nam có màu sắc
68
Nguyên thủy hơn tạng kinh Tứ A - hàm bằng chữ Sankrit đã dịch sang chữ
Hán truyền ở phương Bắc [101, tr.70]. Đại tạng kinh Việt Nam do GHPGVN
phiên dịch và phát hành bao gồm cả hai văn hệ: Pàli tạng và Hán tạng.
Tạng Luật (Phật giáo truyền thống gọi là Luật tạng): là những điều răn,
giới cấm do Thích Ca chế ra trong suốt quá trình hoạt động của tăng đoàn và
trở thành quy định tổ chức và hoạt động của tăng đoàn. Cũng như kinh tạng,
không phải ngay một thời điểm mà luật tạng được chế tác hoàn bị. Nó được
chế ra để điều chỉnh các hoạt động và để răn cấm. Mục tiêu của luật tạng là
làm cho người tu tập dứt hết những việc làm xấu ác, tăng trưởng những hành
động tốt lành. Luật tạng của Phật giáo Nguyên thủy được các nhà nghiên cứu
và giới Phật tử gọi với cái tên: Vi diệu pháp, vì nó làm tăng trưởng công đức
cho người thụ nhận và hành trì, nó là nền tảng đầu tiên và quan trọng trong
hành trình một người tu theo Phật, nó đứng đầu trong Tam vô lậu học: Giới,
Định, Tuệ. Luật tạng Phật giáo bao gồm hai phần chính: (1) phần Giới, là
những điều răn cấm, là những quy định mà một người xuất gia tu hành hay tín
đồ Phật tử không được vi phạm vì bất cứ lý do nào, ví dụ như giết người, trộm
cắp, nói dối... vì nó là những điều ác, làm hao tổn những công đức được tích
lũy, biến con người trở thành người bất thiện; (2) phần Luật, là những điều
đặt ra để khuyến khích đệ tử cả tại gia và xuất gia nên hành trì và thực hiện để
tích lũy và tăng trưởng những công đức, ví dụ như: ăn uống hợp thời (đúng
giờ), ăn mặc giản kiệm, nói lời ái ngữ, khi đi hoằng truyền Phật pháp thì phải
tổ chức 3 - 4 người cùng đi để hỗ trợ và kiểm soát lẫn nhau, khi nhận trẻ vị
thành niên xuất gia cần phải có ý kiến chấp thuận của cha mẹ hoặc người
giám hộ... Tuỳ theo quốc độ (phạm vi đất nước), giai đoạn lịch sử, mà giới
luật Phật giáo có thể có những giáo điều lạc hậu, không phù hợp (ví dụ quy
định mệnh giá số tiền được lấy trộm khi vi phạm giới luật, từ thời Ấn Độ cổ,
không còn phù hợp với mệnh giá tiền hiện nay), hay những hoạt động, đối
tượng mới phát sinh chưa được điều chỉnh trong giới luật (như bia, chất kích
thích... chưa được đề cập trong giới cấm uống rượu). Với trí tuệ của mình,
Thích Ca biết trước được việc này, nên ông cũng cho phép đồ đệ của mình
nếu thấy cần phải điều chỉnh một điều khoản nào trong giới luật, thì có thể
69
xem xét thực hiện, tuy nhiên, việc thực hiện đó phải được bàn bạc, thảo luận,
thống nhất trong tất cả tăng đoàn (Phật giáo gọi là tác pháp yết - ma).
Tạng Luận (Phật giáo truyền thống gọi là Luận tạng): là tập hợp những
điều giảng luận do chính Thích Ca hay các đệ tử lớn của ông chế ra nhằm
mục đích giải thích, bình luận, làm rõ các nội dung trong Kinh tạng và Luật
tạng. Lý do luận tạng được sinh ra, vì những điều mục được nêu trong phần
kinh tạng, hay luật tạng đôi khi quá súc tích, cần phải diễn giải lại để dễ thụ
nhận và thực hiện, cũng đôi khi vì lý do có nhiều cách hiểu một lời Thích Ca
thuyết chế, nên cần có giảng giải kỹ để làm cơ sở điều chỉnh hành động và
việc tu tập của tăng đoàn. Đôi khi, vì các ngoại đạo công kích, chống phá, hủy
báng, xuyên tạc hay thậm chí là khiêu chiến bằng các cuộc tranh biện trực tiếp
với Phật giáo mà Thích Ca hay các đại đồ đệ của ông phải lập luận, minh
giảng, tập hợp các luận chứng, luận cứ để tuyên thuyết và khẳng định tính
đúng đắn của giáo lý Phật, nhờ đó luận tạng được ra đời. Lịch sử Phật giáo
ghi chép, Xá-Lợi-Phất là một đại đồ đệ của Thích Ca, (người mà sau này
Thích Ca đã giao làm thầy cho La-Hầu-La, con trai của Thích Ca) nguyên là
bậc thầy, là người dẫn dắt 2500 đệ tử tu tập theo một môn phái khác Phật
giáo, vì tranh biện với Thích Ca, những lý lẽ minh triết, sâu sắc nhưng xác
thật của Thích Ca đã làm ông tâm phục, khẩu phục, và mang cả giáo đoàn với
2500 đồ đệ của mình xin làm đệ tử Phật. Những nội dung tranh biện và diễn
giảng này được ghi chép trong luận tạng. Lịch sử Phật giáo cũng ghi chép
những vị luận sư nổi tiếng các giai đoạn sau, mà các công trình luận thuyết
của các ông đã trở thành một phần quan trọng trong Luận tạng Phật giáo, như:
Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước...
Như vậy, Kinh tạng là một phần quan trọng cấu thành Tam tạng kinh
điển của Phật giáo. Kinh tạng ghi chép những lời Thích Ca giảng thuyết trong
suốt quá trình sống, hoằng hóa, dẫn dắt giáo đoàn và hoằng truyền tư tưởng
Phật giáo của ông. Vì thế, Kinh tạng chứa đựng đầy đủ và chân xác những lời
dạy của người khởi lập nên Phật giáo và phản ánh nội dung tư tưởng giáo lý
Phật giáo.
70
Tam tạng kinh điển của Phật giáo đều bắt nguồn từ hai văn hệ: văn hệ
Pàli và văn hệ Sankrit, được phiên dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Ở
Việt Nam có Đại tạng kinh Việt Nam do Giáo hội Phật giáo Việt Nam phiên
dịch, và xuất bản.
2.2.2. Lịch sử tập hợp và hình thành kinh điển Phật giáo
Việc tập hợp và hành thành kinh điển Phật giáo được giới Phật học và
đệ tử Phật gọi với thuật ngữ: Kết tập kinh điển (KTKĐ). Đó chính là việc tập
hợp, thống nhất kinh điển thông qua việc đọc tụng và ghi chép, được thực hiện
bởi một hội đồng với những tiêu chí quy định tỉ mỉ, thận trọng và nghiêm túc.
Cũng giống như các tôn giáo lớn trên thế giới, Phật giáo, ngay khi ra
đời và thời kỳ đầu phát triển, những lời dạy của Thích Ca với đệ tử của ông hay
những điều ông giác ngộ được nói ra, gọi là Pháp, chưa hề được ghi chép thành
văn bản. Sau khi Thích Ca nhập diệt, có một thực trạng “tam sao thất bản”
những lời dạy của ông. Vì vậy, yêu cầu về việc thống nhất những lời dạy của
Thích Ca trong toàn bộ giáo đoàn Phật giáo, để làm cơ sở cho việc tu học, hành
trì, hoằng dương Phật pháp là việc tối quan trọng trong tăng đoàn Phật giáo.
Lịch sử Phật giáo ghi nhận 6 kỳ KTKĐ Phật giáo.
Kỳ kết tập kinh điển lần 1:
Người triệu tập kỳ KTKĐ: Trưởng lão Ma-ha-ca-diếp (Maha Kassapa).
Chủ trì: A-nhã-kiều-trần-như, Phú-lâu-na, Đàm-di, Đà-bà-ca-diếp, Bạt-đà-ca-
diếp, Ma-ha-ca-diếp, Ưu-ba-li, A-na-luật (các đại để tử của Thích Ca). Địa
điểm diễn ra cuộc kết tập là chân núi Vibhara, gần thành phố Rajgir (Vương
xá), kinh đô của vương quốc Magadha - gần biên giới Ấn Độ và Nepal ngày
nay. Thời gian: Sau khi Phật nhập Niết bàn một thời gian ngắn (khoảng 3
tháng). Kỳ KTKĐ này kéo dài trong 7 tháng. Người hỗ trợ tài chính cho cuộc
kết tập là vua A-xà-thế chủ thành Vương xá. Số lượng tham gia KTKĐ đúng
500 vị chứng quả vị A-la-hán, những người không phải là A-la-hán không
được tham gia. Do số lượng là 500 mà cuộc kết tập lần này còn có tên là Ngũ
bách kết tập. Người đọc về kinh là tôn giả A-nan, anh em họ của Thích Ca và
là người theo hầu Thích Ca suốt 25 năm, ông được dự nghe Phật thuyết pháp
71
nhiều và có trí nhớ rất tốt. Người đọc về luật là tôn giả Ưu-ba-li, người rất
thông hiểu về giới luật. Hình thức chấp thuận: A-Nan và Ưu-ba-li đọc, các
thành viên trong đại hội nếu đồng ý thì coi đó là lời Phật đã nói.
Hình thức lưu trữ: Thời đó không ghi ra giấy mà chỉ đọc tụng và được
ghi nhớ trong đầu. Cũng vì để dễ nhớ mà các bộ kinh có kết cấu lặp đi lặp lại.
Do độ lớn của kinh và luật nên mỗi một nhóm đảm trách công việc ghi nhớ
chuyên biệt một số chương nhất định, những nhóm này về sau thường xuyên
trao đổi thông tin với nhau để tránh việc mất mát và hiểu sai.
Quan điểm: tất cả đều đồng ý giữ nguyên những gì do Thích Ca Mâu Ni
thuyết giảng, nhưng tùy thời điểm mà áp dụng, không thêm, cũng không bớt.
Kỳ kết tập kinh điển lần 2:
Khác với cuộc KTKĐ lần thứ 1, là các đồ đệ của Thích Ca, vì mục đích
hệ thống lại lời dạy của Thích Ca, tránh sự tản mát, cầu mong sự hoàn bị và
đầy đủ để lưu nhớ và hoằng truyền được trọn vẹn, nên cuộc KTKĐ lần 1 được
thực hiện cơ bản trong thống nhất và không thiếu khuyết, vì nó diễn ra ngày
sau khi Thích Ca từ trần khoảng 3 tháng. Cuộc KTKĐ lần 2 này được tổ chức
do việc mâu thuẫn trong thực hiện giới luật của Thích Ca chế khi ông còn
tại thế.
Tiêu biểu cho kỳ KTKĐ lần này là hai nhánh Phật giáo hệ phương
Đông với trung tâm là thành Tỳ Xá Ly, và hệ phương Tây với trung tâm là
thành Ma Du La thuộc Ấn Độ cổ. Địa điểm KTKĐ lần 2 này cũng ở gần vị trí
của cuộc KTKĐ lần 1 - vùng giáp ranh biên giới Ấn Độ và Nepal ngày nay.
Thời gian diễn ra cuộc KTKĐ này khoảng 100 năm sau khi Thích Ca qua đời.
Số lượng đại biểu tham dự kỳ KTKĐ này là 700 người, do vị sư già Da Xá
gợi ý triệu tập và chủ tọa. Người bảo trợ cho kỳ KTKĐ lần 2 này có những
quan điểm khác nhau, có học giả cho rằng dưới thời Ashoka Đại đế, tuy
nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu cho rằng Ashoka Đại đế bảo trợ cho kỳ
KTKĐ lần 3, còn kỳ KTKĐ lần 2 này được bảo trợ bởi vị vua Kalasoka. Nội
dung tập hợp và thống nhất trong kỳ kết tập lần 2 này chủ yếu xoay quanh
những nội dung về giới luật.
72
Kỳ kết tập kinh điển lần 3: Niên đại của kỳ KTKĐ lần 3 cũng không được thống nhất trong lịch sử của các bộ phái Phật giáo. Có phái cho rằng, niên đại của kỳ tập hợp, thống nhất kinh điển lần 3 có thể diễn ra khoảng 140 năm sau khi Thích Ca nhập diệt; có phái lại cho rằng vào thời gian sau 230 năm sau khi Thích Ca nhập diệt; thậm chí có phái cho rằng, niên đại của kỳ KTKĐ lần 3 này khá xa về sau, khoảng 500 năm sau khi Thích Ca nhập diệt.
Tuy nhiên, về nhân sự chủ trì và tham dự kỳ KTKĐ lần 3 này của các hệ phái cơ bản thống nhất. Họ cho rằng, người chủ trì là vị sư mang tên Moggalliputta Tissa. Tổng số người được mời tham dự kỳ này là 1000 người, số lượng tham gia đông nhất trong các kỳ từ trước đến lúc đó. Người bảo trợ tài chính và các điều kiện tổ chức kỳ KTKĐ lần 3 được xác định là vị vua kính tín Phật giáo, đó là Đại đế Ashoka (A - Dục). Từ cứ liệu thống nhất này có thể suy ra chắc chắn rằng, thời gian của kỳ KTKĐ lần 3 là khoảng 300 năm sau khi Thích Ca nhập diệt.
Nội dung được tập hợp, thống nhất trong kỳ này là cả tạng Kinh và tạng Luật. Tạng Luật được thống nhất và ghi chép vào bộ Vi diệu pháp (luật tạng của Phật giáo Nguyên thủy). Tạng Kinh được ghi chép, thống nhất và được chỉ định khắc in bằng ngôn ngữ Ấn Độ đương thịnh lúc đó và ở nhiều nơi trên khắp cõi nước Ấn Độ.
Thông tin quan trọng nhất trong kỳ KTKĐ lần thứ 3 này khác với 2 lần trước là, lần đầu tiên, kinh Phật được tập hợp, ghi chép đầy đủ bằng văn bản với dạng thức ký tự phổ biến lúc bấy giờ - ký tự Pàli. Đây cũng là khởi nguyên quan trọng của việc kinh điển Phật giáo được lưu trữ, đảm bảo đầy đủ và được tuyên diễn, phổ biến đến nhiều nơi trên khắp thế giới [100, tr.81] . Điều này có thể xác tín, vì theo lịch sử, thời Ashoka, chữ Pài đã phổ biến, nhiều bản kinh văn Phật giáo được ghi chép và theo lệnh Ashoka đã được khắc ở nhiều nơi.
Kỳ kết tập kinh điển lần 4: Về niên đại kỳ KTKĐ lần thứ 4, cũng có sự không thống nhất giữa các nguồn tư liệu. Tuy nhiên, cơ bản các học giả hiện nay đều cho rằng kỳ KTKĐ lần thứ 4 diễn ra khoảng 400 năm sau khi Thích Ca nhập diệt tại Srilanka.
73
Người chủ trì và có vai trò điều hành cuộc tập hợp kinh điển lần thứ 4
này là vị sư có tên Mahinda. Tổng số người tham dự được cho là hàng nghìn
người. Hỗ trợ tài chính và các điều kiện cho cuộc tập hợp kinh điển lần thứ 4
này là vị vua Devànampiyatissa của đất nước Srilanka. Trong cuộc tập hợp,
thống nhất kinh điển lần 4 này, ba tạng kinh, luật, luận đều được tập hợp và
tuyên thuyết.
Cũng trong kỳ KTKĐ lần 4 này, những manh nha của Phật giáo Đại
thừa đã được khởi phát và thể hiện sự phát triển mạnh mẽ. Kết quả là, 2 hệ
phái Phật giáo lớn sau quá trình mấy trăm năm vận động, biến đổi và phát
triển đã được hình thành, đó là Phật giáo Nguyên thủy - Thượng tọa bộ và
Phật giáo Đại thừa - Đại chúng bộ. Kinh điển của phái Phật giáo Nguyên thủy
một lần nữa được củng cố lại và ghi lại bằng văn tự Pali trên lá bối, được
hoằng truyền sang các nước ở Đông Nam Á như Myanmar, Thái Lan,
Campuchia, Lào. [14, tr.7].
Kỳ kết tập kinh điển lần 5:
Về mặt thời gian, kỳ KTKĐ lần thứ 5 này diễn ra rất xa với 4 kỳ KTKĐ
lần trước. Thời điểm được xác định diễn ra kỳ KTKĐ này là vào năm 1871.
Người triệu tập và chủ trì kỳ KTKĐ lần 5 là vị sư Pong Yi Sayadaw, người
Myanmar. Số lượng sư tăng được mời tham dự là 2.400 người. Người bảo trợ
và ủng hộ mọi điều kiện tổ chức là vị vua Mindon của đất nước Miến Điện
(Myanmar). Trong kỳ này, Phật giáo được thống nhất và khắc in vừa trên lá
bối, lá buông truyền thống, lại vừa được trạm khắc trên đá, trên thạch động để
bảo lưu được lâu.
Lý do của việc KTKĐ lần thứ 5 diễn ra rất xa sau 4 kỳ tập hợp kinh
điển trước đây, và cuộc kết tập không diễn ra tại nước Ấn Độ như trong
truyền thống, đó là:
Phật giáo dù sinh ra ở Ấn Độ, có giai đoạn phát triển hưng vượng dưới
sự bảo trợ của các vị vua, A Xà Thế, Tần Bà Xa La, Ashoka... nhưng càng về
sau, vai trò chủ lưu trong tư tưởng xã hội Ấn Độ của Phật giáo mất dần, thay
vào đó là tôn giáo truyền thống Ba La Môn được cải cách thành Hin - đu giáo
và có số lượng tín đồ chiếm đa số tại Ấn Độ.
74
Một trong những lý do khác, là Phật giáo đã phát triển theo tính truyền
thừa thành những hệ phái, pháp pháp, tông môn và có sự ổn định nhất định.
Phạm vi phổ biến và phát triển của Phật giáo là trên khắp thế giới, không còn
khuôn hẹp ở Ấn Độ và một số nước xung quanh như trong các kỳ tập hợp
kinh điển trước. Những cát cứ trong từng cương vực lãnh thổ quốc gia, và sự
khúc sạ, tiếp biến trong văn hóa của cộng đồng tiếp nhận Phật giáo đã làm
cho nhu cầu giải quyết những mâu thuẫn, chưa thống nhất trong giáo lý tôn
giáo hầu như không thôi thúc. Một lý do nữa là, sau 4 kỳ tập hợp, ghi chép,
phổ biến, kinh điển Phật giáo đã có một nguồn y cứ văn bản đồ sộ, đáp ứng
mọi nhu cầu tu hành và học tập của giới Phật giáo.
Kỳ kết tập kinh điển lần 6:
Ngày lễ Phật đản năm 1956 được xác định là thời gian của kỳ KTKĐ
Phật giáo lần thứ 6. Địa điểm tổ chức là thủ đô Yangon của đất nước
Myanmar. Vị sư chủ trì cuộc tập hợp kinh điển lần này là Nyungan Sayadaw,
ngoài ra còn tập hợp sự có mặt của 2.500 đại biểu sư tăng từ các nước trên thế
giới. Phật giáo Việt Nam cũng có đại biểu tham dự kỳ tập hợp kinh điển lần
này, đó là Hòa thượng Bửu Chơn. Cuộc KTKĐ kỳ này đặt dưới sự bảo trợ
của Chính phủ Myanmar và Thủ tướng Myanmar - U Nu. Trong kỳ KTKĐ
này, tất cả các bản kinh cổ nhất bằng những ngôn ngữ khác nhau đều được
đem ra đối chiếu, bổ khuyết và hoàn thiện.
Cần phải nhấn mạnh rằng, lịch sử KTKĐ Phật giáo nêu trên đây với 6
kỳ là nói theo lịch sử của Phật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Phát triển không
công nhận sáu kỳ KTKĐ này mà chỉ thừa nhận bốn, thậm chí ba kỳ kết tập
(trước đó) trong lịch sử.
2.2.3. Nội dung kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli
Có một thực tế là, dù quan điểm phương Đông hay phương Tây, dù là
các học giả xuất phát từ các truyền thống Phật giáo Nguyên thủy hay Phật
giáo Phát triển thì đều có chung một nhận định, kinh tạng Phật giáo được
chép trong các tạng Pàli, các bộ A - hàm là những tinh hoa tốt đẹp nhất và
nguyên thủy nhất của lời Phật dạy [18, tr.13] .
75
Theo TS. Thích Trung Định (người có bề dày và nghiên cứu một cách
hệ thống về Phật giáo Nguyên thủy, làm nghiên cứu sinh Phật học tại Đại học
Gautam Buddha, Ấn Độ) cho rằng, theo truyền thống Phật giáo, có hai tạng
kinh tồn tại song hành, đó là kinh tạng Nikàya được ghi chép bằng ngôn ngữ
Pali, và kinh tạng A - hàm, được ghi lại bằng ngôn ngữ Sankrit. Ông dẫn lời
nhà nghiên cứu Bodhi và khẳng định: “Kinh tạng Pàli là những văn bản cổ
xưa nhất về lời dạy của Đức Phật mà chúng ta có được. Đó là những gì gần
gũi nhất với bài giảng của Đức Phật lịch sử - Tất Đạt Đa” [62, tr.11]. Thích
Trung Định cũng cho rằng, những lời dạy của Thích Ca được tìm thấy trong
kinh tạng Pàli là đầu nguồn của những dòng chảy tiến hóa của giáo lý thực
hành trong đạo Phật, qua nhiều thế kỷ. Vì lý do đó, những bài kinh Pàli tạo
thành một di sản chung cho tất cả mọi truyền thống của Phật giáo.
Kinh tạng Phật giáo văn hệ Pàli chia thành năm bộ, còn gọi là ngũ bộ
Nikàya. Năm bộ kinh Nikàya gồm:
Kinh Trường bộ (Dìgha - Nikàya),
Kinh Trung bộ (Majjhima - Nikàya),
Kinh Tương ưng bộ (Samyutta - Nikàya),
Kinh Tăng chi bộ (Angttara - Nikàya),
Kinh Tiểu bộ (Khuddaka - Nikàya).
Khái quát về bố cục và nội dung của năm bộ kinh này như sau:
Kinh Trường bộ (Dìgha - Nikàya), là bộ sưu tập 34 bài kinh dài (nên
gọi là Trường bộ) ghi lại lời dạy của Thích Ca, chia thành 3 phẩm: phẩm Giới
uẩn, phẩm Lớn, phẩm Ba-lê-tử. Trong đó, phẩm Giới uẩn gồm 13 bài kinh
nói về giới luật, giới cho bậc tu hành cao (đại giới) và giới cho mọi người có
thể tu tập (tiểu giới). Phẩm Lớn (hay còn gọi là Đại phẩm), gồm 10 bài kinh
dài và quan trọng về lịch sử cũng như về giáo lý, như kinh Đại bát Niết bàn,
kinh Đại bổn, kinh Đại duyên, kinh Tứ niệm xứ, là những giáo lý cơ bản của
Phật giáo. Phẩm Ba-lê-tử (Ba-lê-tử là tên một tu sỹ ngoại đạo, người này cật
vấn những vấn đề khác nhau với giáo đoàn của Thích Ca, Thích Ca nhân đó
mà thuyết pháp), gồm 11 bài kinh, trong đó ghi lại lời của Thích Ca bàn về
76
các vấn đề khác nhau, như thế giới quan, vấn đề sinh ra, biến đổi của vạn vận
trong vũ trụ; vấn đề bổn phận công dân trong xã hội; vấn đề tu khổ hạnh của
các giáo phái ngoại đạo. Trên cơ sở đó Thích Ca tuyên thuyết những lời dạy
của ông. Kinh Trường bộ có những kinh quan trọng như: Kinh Phạm võng,
nói về các quan điểm triết học và siêu hình thời Phật giáo sơ khai; Kinh Sa-
môn quả, nói về giáo lý của sáu đạo sư ngoại đạo thời Phật giáo sơ khai và về
kết quả của đời sống Sa-môn; Kinh Đại bổn, là tích truyện về sáu vị Phật đã
ra đời trước vị Phật lịch sử; Kinh Đại duyên, luận giảng về giáo lý Duyên
khởi; Kinh Đại Bát-niết-bàn, kể lại những ngày tháng cuối cùng trước khi
Phật Thích-ca nhập diệt; Kinh Giáo Thọ Thi-ca-la-việt, đặc biệt quan trọng
cho giới cư sĩ, nhắc nhở bổn phận của cha mẹ, thầy dạy, học trò. Trong bản
Việt dịch, 34 bài kinh trong Kinh Trường bộ được chia thành 2 tập, Kinh
Trường bộ tập 1 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 1) gồm 16 kinh,
Kinh Trường bộ tập 2 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 2) gồm
18 kinh.
Kinh Trung bộ (Majjhima - Nikàya), là bộ sưu tập 152 bài kinh có độ
dài trung bình (nên gọi là Trung bộ), ghi lại những lời thuyết giảng của Thích
Ca, cùng những bài thuyết giảng thể hiện sự chứng đạt giáo lý của các đệ tử
của Thích Ca. Bản Việt dịch được chia thành 3 tập, Kinh Trung bộ tập 1
(tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 3) gồm 50 kinh; Kinh Trung bộ tập
2 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 4) gồm 50 kinh; Kinh Trung bộ
tập 3 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 5) gồm 52 kinh. Các học giả
cho rằng Kinh Trung bộ là bộ kinh quan trọng nhất, chứa đựng những tinh
hoa và các pháp môn căn bản trong giáo lý Phật giáo. Bộ kinh còn tái hiện
cho người đọc thấy được các sinh hoạt hàng ngày của một Đức Phật lịch sử
(chứ không phải huyền thoại) cùng tăng đoàn của ngài trong suốt 49 năm
truyền đạo. Nghiên cứu 152 bài kinh trong Kinh Trung bộ sẽ thấy nội dung đề
cập rất phong phú, đối tượng mà Thích Ca thuyết giảng cũng gồm nhiều thành
phần khác nhau trong xã hội, từ các bậc vua chúa, vương giả, chư thiên, đến
các bậc chân tu khổ hạnh, từ các học giả, các nhà hùng biện, cho đến những
77
thương gia, nông dân, từ người chăn ngựa, chăn bò đến tướng cướp, gái làng
chơi... Qua những lời thuyết pháp, những đối thoại được ghi lại trong kinh,
các pháp môn quan trọng của Phật giáo được diễn giải, như: Tứ diệu đế, Bát
chính đạo, Vô ngã, Niết bàn, Thập nhị nhân duyên, Nghiệp hành, Tái sinh,
các tầng thiền, các pháp quán niệm, các quả vị giải thoát, các thế giới luân
hồi... Trong kinh, những chuẩn mực về ứng xử, đạo đức ứng với mỗi bổn
phận con người trong xã hội, con đường tu tập để đạt sự thanh lọc trong tâm
hồn cho người tại gia, và quả vị chứng đắc, giải thoát với người xuất gia đều
được chỉ rõ. Một điều đặc biệt, Kinh Trung bộ không chỉ kết tập những bài
kinh do Thích Ca giảng thuyết, mà còn ghi chép nhiều bài kinh do các đại đồ
đệ của ông tuyên thuyết cho thính chúng, dưới sự chứng minh của Thích Ca
Mâu Ni. Cụ thể, có 9 bài kinh của Xá-lợi-phất (Sariputra); 7 bài kinh của A-
nan-đà (Ananda); 4 bài kinh của Đại Ca-chiên-diên (Maha Kaccana); 2 bài
của Đại Mục-kiền-liên (Maha Moggallana); 1 bài của Ni sư Dhammadinna
được Thích Ca khen ngợi là bậc đại trí tuệ. Điều này thể hiện mấy ý nghĩa.
Thứ nhất, giáo pháp của Thích Ca không chỉ mình Thích Ca chứng đắc, mà
cho những người khác có thể chứng đắc. Thứ hai, không phải đợi đến một
thời vị lai xa xôi, các đồ đệ của Thích Ca đã chứng đắc ngay khi Thích Ca còn
tại thế. Thứ ba, bất kể là ai thuyết giảng, chỉ cần những nội dung thuyết giảng
đó đúng với bản ý của Thích Ca và có thể giúp người khác tu tập đạt được sự
thanh lọc trong tâm hồn, hay cao hơn là chứng đắc các quả vị tu tập thì đều
được coi là Pháp - tức giáo lý Phật giáo. Thứ tư, ngay tại thời Thích Ca còn
sống, đệ tử của ông đã chứng đạt giáo lý, thì những người đệ tử đó hoàn toàn
đủ phẩm hạnh và sự chứng đạt để tuyên thuyết, truyền bá, ghi chép lại lời dạy
của Thích Ca một cách chính xác, kể cả sau khi Thích Ca nhập diệt, vẫn được
coi là chính pháp, đúng với lời thuyết dạy của Thích Ca. Đây là y cứ quan
trọng của việc kết tập kinh điển sau khi Thích Ca nhập diệt mà vẫn được xác
định là chính pháp do Thích Ca tuyên diễn.
Kinh Tương ưng bộ (Samyutta - Nikàya), là tập hợp những bài kinh có
khối lượng không dài, tổng cộng 2.889 bài kinh, với nhiều nội dung phong
phú và diễn giải sâu sắc về giáo lý Phật giáo. Trong đó, từ các pháp môn tu
78
tập, từ những giáp lý căn bản về tính Không, Vô thường, Vô ngã, Duyên khởi,
Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Ngũ căn, Ngũ lực, Lục thức, Lục xúc, Bảy giác
chi, Bát chính đạo.... đến quả vị tu tập giải thoát, từ những giới điều răn cấm
đến cảnh giới an lạc, Niết bàn, từ những ví dụ rắn độc, tổ chim, đến núi lớn,
sông Hằng, từ phẩm hạnh của bậc sa môn đến phẩm hạnh của vị quân vương,
từ việc tài sản đến sinh con... đều được thuyết giảng với lời lẽ sâu sắc, dễ hiểu
và toát lên thâm ý của Thích Ca về con đường rèn luyện đạo đức (đối với
người tại gia) và tu tập đạt thánh quả (đối với người xuất gia). Trong bản Việt
dịch, Kinh Tương ưng bộ được chia thành 5 tập với 56 tương ưng (chữ
Samyutta trong ngôn ngữ Pàli được dịch là Tương ưng, nghĩa là cặp, là ràng
buộc, là sự liên quan chặt chẽ): Kinh Tương ưng bộ tập 1 (tương đương Đại
tạng kinh Việt Nam tập 6) gồm 11 tương ưng; Kinh Tương ưng bộ tập 2
(tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 7) gồm 10 tương ưng; Kinh Tương
ưng bộ tập 3 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 8) gồm 13 tương ưng;
Kinh Tương ưng bộ tập 4 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 9) gồm
10 tương ưng; Kinh Tương ưng bộ tập 5 (tương đương Đại tạng kinh Việt
Nam tập 10) gồm 12 tương ưng.
Kinh Tăng chi bộ (Angttara - Nikàya), là tập hợp những bài kinh ngắn,
mà nội dung của chúng được sắp xếp theo tiêu đề của kinh liên quan đến sự
tăng dần của số gắn với khái niệm pháp (gọi là pháp số), như: Một pháp, hai
pháp, ba pháp.... Vì vậy gọi là Tăng chi. Kinh Tăng chi bộ bản Việt dịch được
chia thành 4 tập với 11 chương, tương đương với 11 pháp (bao gồm 2,308 bài
kinh, nhưng con số này không thống nhất vì số kinh phân biệt không được rõ
ràng, và có học giả tính theo số đoạn, tổng cộng là 7,557): Kinh Tăng chi bộ
tập 1 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 11) nội dung từ Một pháp đến
phần đầu của Bốn pháp ; Kinh Tăng chi bộ tập 2 (tương đương Đại tạng kinh
Việt Nam tập 12) nội dung từ phần sau của Bốn pháp đến hết phần Năm
pháp; Kinh Tăng chi bộ tập 3 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 13)
nội dung từ Sáu pháp đến Tám pháp; Kinh Tăng chi bộ tập 4 (tương đương
Đại tạng kinh Việt Nam tập 14) nội dung từ Chín pháp đến Mười một pháp.
Nội dung của Kinh Tăng chi bộ đề cập vô cùng phong phú, với nội dung pháp
79
số là căn bản và triển khai rốt ráo nhưng sinh động, giáo lý của Phật giáo ứng
dụng trong đời sống từ tu tập của các tỷ kheo đến cuộc sống và bổn phận của
mọi người trong xã hội. Kinh Tăng chi bộ có một vị trí đặc biệt trong toàn bộ
kinh tạng Phật giáo, vì nó là phần quan trọng nhất cấu thành quan điểm về
tâm lý học và đạo đức Phật giáo. Chính trong bộ kinh này, Thích Ca đã chỉ
bày những bổn phận phải làm, những đức hạnh phải tu tập, những chuẩn mực
đạo đức phải ứng xử gắn với mỗi hạng người trong xã hội. Có thể thấy hai
con đường, hai vị trí chứng đạt của hai đối tượng khác nhau khi cùng hành trì
một giáo lý Phật giáo thống nhất, đó là, với người xuất gia thì mục đích đạt
tới giải thoát, an lạc, Niết bàn; còn đối với người tại gia, dù giữ vị trí nào
trong xã hội, đó là một đời sống lành mạnh, thanh tịnh, đạo đức và phạm hạnh
mẫu mực. Cũng chính vì vậy, Kinh Tăng chi bộ có thể được coi là đạo đức
luận Phật giáo. Đây là phần văn bản sẽ thu hút nhiều sự nghiên cứu, tìm tòi
của nghiên cứu sinh để chỉ ra những biểu hiện của giá trị đạo đức.
Kinh Tiểu bộ (Khuddaka - Nikàya) là tập hợp những bài kinh ngắn,
nhỏ lẻ, đôi khi không liên quan với nhau về chủ đề, vì thế gọi là Tiểu bộ. Nội
dung của kinh ghi chép từ những giáo lý cơ bản của Phật giáo, đến những bài
thi kệ (thơ), từ đời sống của các tỷ kheo trong giáo đoàn Phật giáo đến chuyện
thiên cung, ngạ quỷ, từ lịch sử Thích Ca đến những tiền thân của Phật. Nội
dung này được cho là ghi chép về sau hơn so với 4 bộ kinh nên trên. Vì là
phản ánh nội dung phong phú, nên, qua nội dung kinh văn có thể thấy được từ
thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo, đến lịch sử, văn hóa, phong tục, đời
sống tâm linh thời Thích Ca Mâu Ni còn tại thế. Các nội dung giáo lý hoặc
lịch sử, văn hóa trong kinh cơ bản được trình bày thành những câu văn vần,
dễ đọc tụng. Trong bản Việt dịch, Kinh Tiểu bộ được chia thành 10 tập: Kinh
Tiểu bộ tập 1(tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 15); Kinh Tiểu bộ tập
2 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 16); Kinh Tiểu bộ tập 3 (tương
đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 17); Kinh Tiểu bộ tập 4 (tương đương Đại
tạng kinh Việt Nam tập 18); Kinh Tiểu bộ tập 5 (tương đương Đại tạng kinh
Việt Nam tập 19); Kinh Tiểu bộ tập 6 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam
tập 20); Kinh Tiểu bộ tập 7 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 21);
80
Kinh Tiểu bộ tập 8 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 22); Kinh Tiểu
bộ tập 9 (tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 23); Kinh Tiểu bộ tập 10
(tương đương Đại tạng kinh Việt Nam tập 24).
Có thể nói, năm bộ kinh Nikàya được giới học giả nghiên cứu Phật học
trên thế giới xem là căn cứ văn bản khả tín nhất, được định bản sớm nhất và
ghi chép gần như nguyên vẹn lời dạy của Thích Ca Mâu Ni. Năm bộ kinh này
không chỉ trình bày một cách hệ thống, đầy đủ những giáo lý cơ bản của Phật
giáo, mà nó còn phản ánh cả bối cảnh lịch sử, văn hóa, chính trị, phong tục
tập quán, tôn giáo của xã hội Ấn Độ cổ thời Thích Ca Mâu Ni. Như đã nêu ở
trên, năm bộ Nikàya không chỉ bao chứa các pháp môn, con đường tu tập giúp
bậc hành giả (người xuất gia theo Phật) chứng đắc từng quả vị, để cuối cùng
đạt được an lạc, Niết bàn, giải thoát, mà nó còn là một bộ cẩm nang chi tiết,
cụ thể và hệ thống để giúp cho những con người bình thường (những Phật tử
tại gia) có thể rèn luyện đạo đức, nhân phẩm để xây dựng một đời sống phạm
hạnh, toàn thiện. Vì vậy, vượt ra ngoài khuổn khổ tôn giáo, vượt ra ngoài
cộng đồng chức sắc, tín đồ, Phật tử, những lời dạy của Thích Ca trở thành
những bài học đạo đức thực tiễn đầy sâu sắc và có ý nghĩa xã hội. Trải qua
hơn hai nghìn năm trăm năm, kể từ khi Phật giáo ra đời, và hơn hai nghìn
năm, kể từ khi giáo lý Phật giáo được kết tập thành kinh điển, năm bộ kinh
Nikàya vẫn không ngừng được các học giả trên khắp thế giới phiên dịch sang
các thứ tiếng, không ngừng được hiệu đính, chú giảng, diễn giải, để làm cho
tư tưởng, giáo lý, giá trị xã hội, nhất là giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật
giáo trở nên sống động, thiết thực và có ích cho toàn nhân loại.
2.3. SỰ DU NHẬP CỦA PHẬT GIÁO VÀO VIỆT NAM
2.3.1. Thời điểm và bối cảnh du nhập Phật giáo vào Việt Nam
Sau khi Thích Ca nhập diệt một thời gian dài (khoảng từ 100 năm - 500
năm), Phật giáo bước vào thời kỳ bộ phái. Nhiều tông phái hình thành và
tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó có hai hệ phái nổi lên mạnh mẽ
hơn cả đã thâu nhiếp các tông phái khác, đó là Nguyên thủy - Tiểu thừa
(Hinayana) và Phát triển - Đại thừa (Mahayana). Hai hệ phái này tiếp tục
đẩy mạnh việc hoằng truyền giáo lý của mình ra ngoài biên giới Ấn Độ với
81
sự nỗ lực của các vị tăng sỹ và sự hỗ trợ tài chính, điều kiện của các vị vua
chúa. Hệ phái Nguyên thủy - Tiểu thừa lấy vùng đất phía Nam Ấn Độ cổ
làm trung tâm, từ đó hoằng truyền giáo lý sang các nước lân cận phía Nam,
như Srilanka, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam... Phật giáo
Phát triển - Đại thừa có trung tâm ở phía Bắc Ấn Độ cổ, và truyền thừa lên
các nước lân cận phía Bắc, như Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt
Nam. (Nê Pan ngày nay, trong thời kỳ đó là thành bang Lâm Tỳ Ni, là vùng
đất nơi Thích Ca sinh ra, nằm ở phía Đông Bắc thuộc Ấn Độ cổ).
Theo lịch sử Phật giáo, vào khoảng năm 300 trước Công nguyên, dưới
thời hoàng đế A-Dục (Asoka), người đã bảo trợ cho cuộc kết tập kinh điển lần
thứ 3, đã phái sai nhiều đoàn truyền giáo đến hoằng truyền Phật giáo ở phía
Tây, phía Đông, phía Đông Nam Ấn Độ. Theo đó, một phái đoàn do hai vị sư
là Uttara và Sona đã được phái đến các nước Đông Nam Á. Cả sử liệu Phật
giáo Myanmar và sử liệu Phật giáo Thái Lan đều chép rằng hai vị cao tăng đó
đã đến Myanmar và Thái Lan truyền giáo [95, tr.22]. Tuy nhiên, không có
thông tin chắc chắn rằng hai vị sư này có đến truyền giáo tại Việt Nam hay
không. Mặc dù vậy, cuốn lịch sử Phật giáo thành văn ghi chép thông tin sớm
nhất về Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ XIII là Thiền uyển tập anh cũng
thừa nhận rằng, trong khoảng thế kỷ VI – VII, khi Bành Thành và Lạc Dương
(hai trung tâm Phật giáo Trung Quốc) chưa độ tăng và dịch kinh Phật được
bao nhiêu thì ở Việt Nam, Luy Lâu đã trở thành trung tâm Phật giáo, dịch in
được 15 bộ kinh Phật, thế độ được hơn 500 tăng sỹ, xây dựng được hơn 20
ngọn bảo tháp [121, tr.33]. Từ những suy luận này, cộng với cứ liệu về Phật
giáo Việt Nam được ghi chép trong sách Hậu Hán thư, các nhà nghiên cứu
đều thống nhất cho rằng Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ những năm
đầu Công nguyên, cụ thể là khoảng thế kỷ thứ II - III [116, tr.11].
Bối cảnh xã hội Việt Nam khi Phật giáo du nhập, thế kỷ II - III, là bối
cảnh xã hội nội thuộc Trung Quốc. Xã hội Việt Nam cơ bản phân thành hai
giai tầng. Giai tầng trên là các quan lại giúp việc trong bộ máy cai trị của
phương Bắc. Họ học chữ Hán, tin tưởng và thực hành học thuyết Nho gia, tin
vào mệnh trời và rèn tập theo những chuẩn mực đạo đức mà họ cho đó là
82
người quân tử. Tuy nhiên, chính họ cũng mê muội trong phương thuật do tầng
lớp cai trị phương Bắc mang lại. Giai tầng dưới là người dân lao động thuần
nông. Họ tin vào thần linh trong tự nhiên và những hiện tương gió, mưa, sấm,
chớp. Vạn vật xunh quanh con người đều có linh và tạo cho họ sự sợ hãi. Mặc
dù, nhân sinh quan và thế giới quan Phật giáo không quen thuộc với cả hai
giai tầng này trong xã hội Việt Nam, nhưng, quan điểm bình đẳng, tiến bộ của
Phật giáo, phát huy giá trị tự thân và vai trò chủ thể của con người trong tự
nhiên và xã hội đã được người dân Việt Nam, nhất là giai tầng thấp, nhân dân
lao động chấp nhận và dần tiếp nhận nó. Từ đó đến nay, Phật giáo đã gắn bó
với đông đảo người dân Việt Nam. Tư tưởng Phật giáo, nhất là nhân sinh
quan Phật giáo với tinh thần từ, bi, hỷ, xả, cứu khổ, ban vui của giáo lý nhân
văn Phật giáo đã trở thành thân thuộc, làm nên thành tố đặc trưng của tinh
thần văn hóa, đạo đức người Việt Nam.
2.3.2. Con đƣờng du nhập Phật giáo vào Việt Nam
Cũng theo tác giả Thiền uyển tập anh khi nhắc lời của Pháp sư Đàm
Thiên tâu với vua Cao Tổ Tùy Văn Đế (590 - 618), Trung Quốc, rằng cõi
Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc (Ấn Độ), đường đó còn gần hơn
từ Thiên Trúc sang Trung Quốc, như vậy Giao Châu theo đạo Phật trước
Trung Quốc, bấy giờ đã có các vị sư là Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội,
Chi Cương Lương từ cõi Tây Trúc đến truyền đạo [121, tr.32-33]. Với cứ liệu
lịch sử quan trọng này, có thể khẳng định, Phật giáo du nhập vào Việt Nam ở
giai đoạn đầu là trực tiếp từ Ấn Độ. Con đường du nhập Phật giáo vào Việt
Nam là đường thủy và đường bộ.
Về mặt địa lý, chúng ta có thể thấy rõ, Việt Nam và Ấn Độ có con
đường biển thông thương. Đây chính là con đường truyền giáo đầu tiên của
Phật giáo từ Ấn Độ sang Việt Nam [95, tr.13]. Trên con đường này, vào
những năm đầu Công nguyên các thương nhân đi từ Nam Ấn Độ, theo gió
mùa Tây Nam, đi về phía Đông Nam Á, đến Malaixia, Indonexia, vượt eo biển
Malacca vào Biển Đông và đến Việt Nam. Theo các đoàn thương nhân đó là các
tu sỹ Phật giáo. Họ đến, dừng chân và truyền Phật giáo, thời điểm này là Phật
giáo Nguyên thủy, vào đất Giao Châu (phía Bắc Việt Nam hiện nay).
83
Song song với đường thủy theo hướng Nam, các tăng sỹ ở miền Trung
và Bắc Ấn Độ còn theo đường bộ qua Lào và qua Myanmar sang Vân Nam,
Nam Trung Quốc đến Việt Nam truyền đạo. Con đường bộ này cũng được ghi
nhận vào khoảng thế kỷ II [95, tr.21]. Mặc dù vậy, nó được cho là con đường
khó khăn hơn đường thủy phía Nam. Con đường này cũng khẳng định, Phật
giáo được các tăng sỹ Ấn Độ trực tiếp đến truyền vào Việt Nam. Tuy trong
suốt nghìn năm Bắc thuộc sau này, Phật giáo Việt Nam chịu tác động và ảnh
hưởng trực tiếp từ Phật giáo Đại thừa Trung Quốc. Nhưng các nhà khoa học
và giới Phật giáo đều khẳng định một số nội dung sau: (1) Phật giáo truyền
đến Việt Nam trực tiếp từ Ấn Độ; (2) con đường du nhập Phật giáo đến Việt
Nam đầu tiên là đường thủy; (3) các tăng sỹ đầu tiên truyền Phật giáo đến
Việt Nam là tăng sỹ người Ấn Độ; (4) Phật giáo giai đoạn đầu truyền tới Việt
Nam thông qua các tăng sỹ người Ấn Độ là Phật giáo Nguyên thủy có trung
tâm ở phía Nam Ấn Độ; (5) vùng đất được Phật giáo Nguyên thủy do tăng sỹ
Ấn Độ truyền đến Việt Nam giai đoạn đầu là vùng Giao Châu với trung tâm
là Luy Lâu và chứng tích là tháp Phật tại cửa biển Đồ Sơn, Hải Phòng.
Tiểu kết chƣơng 2
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ thời kỳ cổ đại, có lịch sử trên 2500 năm phát
triển và phổ biến đến tất cả các châu lục trên toàn thế giới. Cùng trong quá
trình phát triển và phổ biến đó, Phật giáo cũng tự thân có những vận động,
biến đổi chính trong giáo lý, quan điểm hành đạo cũng như cách tổ chức tăng
đoàn và hoạt động tu học của lực lượng tăng, ni, tín đồ Phật tử. Hiện nay,
Phật giáo là tôn giáo có số lượng tín đồ lớn thứ 4 trên thế giới (sau Ki tô giáo,
Hồi giáo, Hin đu giáo) và có sự ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực trong đời
sống nhân loại. Khi tìm hiểu về lịch sử phát triển của Phật giáo, Phật giáo
Nguyên thủy, nghiên cứu sinh đã trả lời câu hỏi nêu ra trong phần Câu hỏi
nghiên cứu: Phật giáo Nguyên thủy và kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn
hệ Pàli có những nội dung cơ bản gì. Từ đó, nghiên cứu sinh đi đến một số
nhận định sau đây:
84
- Phật giáo ra đời trong bối cảnh lịch sử xã hội Ấn Độ cổ, với những
tiền đề và cơ sở về xã hội là chế độ đẳng cấp hà khắc, xác lập vị trí của giai
cấp thống trị với những đặc quyền đặc lợi; tiền đề kinh tế là sự phát triển
tương đối cao của lực lượng và quan hệ sản xuất; tiền đề tư tưởng là các triết
thuyết, học phái, trào lưu tư tưởng, trào lưu tôn giáo nở rộ; và tiền đề nội tại
tự thân đó là thái tử Tất Đạt Đa với sự chiêm nghiệm thực tại xã hội và những
nan đề đưa ra không có lời giải đã thôi thúc ông ra đi tìm chân lý.
- Người sáng lập Phật giáo - Tất Đạt Đa là một thái tử, người được chỉ
định kế vị ngai vàng. Ông được nuôi dạy và chăm sóc trong môi trường tốt.
Ông được thụ giáo tất cả mọi lĩnh vực kiến thức xã hội từ những vị thầy là các
bậc hiền triết lỗi lạc đương thời. Đó chính là nền tảng tư duy để ông thành tựu
và tự chứng đạt được những chân lý trong tự nhiên và xã hội, và biến đó
thành tinh thần cơ bản trong giáo lý Phật giáo sau này.
- Với bản thân thuộc tầng lớp cao, tầng lớp quý tộc (sau Bà la môn)
trong xã hội đẳng cấp hà khắc Ấn Độ, đáng lý Tất Đạt Đa phải thể hiện sự đặc
quyền, đặc lợi trên vị thế xã hội kế vị ngai vàng của mình. Nhưng không, với
tâm thức tôn trọng con người, và tôn trọng sự bình đẳng xã hội, Phật giáo ra đời
đã chính diện phản đối trật tự đẳng cấp hà khắc của xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, vì
chính mục tiêu tôn trọng con người, bình đẳng giữa các hạng người, và giải thoát
con người khỏi những trói buộc, kìm hãm của tự thân, tự nhiên và xã hội.
- Thời kỳ Thích Ca sống và hoằng truyền giáo pháp của mình, chính là
thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy thuần chất nhất. Sau khi ông nhập diệt trong
vòng 100 năm tinh thần thuần chất và nguyên thủy trong những lời dạy của
Thích Ca cơ bản vẫn được các đệ tử, đệ tôn của ông kế thừa trọn vẹn và
hoằng truyền cho thế hệ sau. Giai đoạn này, Phật giáo là một tôn giáo thực
hành, ít phô triển giáo lý huyền hoặc mà tập trung cho việc hướng dẫn hành
động và sự tu dưỡng trong thân tâm con người.
- Cốt tủy trong tinh thần giáo lý Phật giáo Nguyên thủy thể hiện qua 5
bộ kinh Nikàya, là những lời dạy làm những việc thiện, lánh những điều ác,
để từ đó vun bồi công đức và trí tuệ, cùng với việc hành trì giới luật và nhiếp
85
tâm không bị vọng tưởng những tà kiến để tiến dần tới cảnh giới an lạc. Bản
chất mục đích giáo dục của Phật giáo chính là giáo dục các chuẩn mực đạo
đức và thực hành đạo đức.
- Lịch sử Phật giáo Nguyên thủy ghi nhận 6 kỳ kết tập kinh điển. Đó
chính là quá trình kinh điển Phật giáo được thống nhất, chỉnh lý, và ghi chép
cố định thành văn bản để phổ biến khắp thế giới. Việc tập hợp và ghi chép đó
đã hình thành nên Tam tạng kinh điển Phật giáo. Trong đó, Kinh tạng Phật
giáo Nguyên thủy là một thành phần quan trọng, ghi lại lời dạy của Thích Ca
với đệ tử của ông và các thành thành phần khác trong xã hội.
- Trong các hệ tạng kinh điển Phật giáo thì kinh tạng Nguyên thủy văn
hệ Pali được xác định là dạng thức văn bản sớm nhất, ghi chép chân xác, đáng
tin cậy và trung thực với lời dạy của Thích Ca, thể hiện cốt tủy của tinh thần
Phật giáo ở giai đoạn đầu tiên cho chính người khai lập đạo tuyên thuyết.
- Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, thế kỷ thứ II - III, trực
tiếp từ các tăng sỹ Ấn Độ. Giáo lý Phật giáo được truyền vào Việt Nam giai
đoạn đầu là giáo lý Phật giáo Nguyên thủy. Mặc dù vậy, Phật giáo Việt Nam
là thống nhất và có tính liền mạch từ khi được du nhập cho đến ngày nay.
86
Chƣơng 3
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẶC ĐIỂM GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRONG KINH TẠNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VĂN HỆ PÀLI
3.1. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRONG KINH TẠNG
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VĂN HỆ PÀLI QUA NHỮNG PHẠM TRÙ PHỔ QUÁT
3.1.1. Thiện và bất thiện
Qua những biểu hiện của GTĐĐ thể hiện qua những lời dạy của Thích
Ca được ghi chép trong kinh điển Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli mà
nghiên cứu sinh đã cố gắng tìm tòi trong toàn bộ 24 tập sách, của năm bộ kinh
tạng Nikaya, và trích dẫn để làm cơ sở nhận diện như nêu trên đây, có thể
khái quát thành các GTĐĐ mang tính phổ quát, như: thiện - ác; tốt - xấu, coi
trọng sinh mệnh.
Kinh điển Phật giáo có ghi lại rằng, khi được tu sỹ Vacchagotta yêu cầu
giảng vắn tắt các pháp thiện và các pháp bất thiện, Thích Ca phân tích rõ ràng
mười pháp thiện và mười pháp bât thiện. Nội dung này được chép lại trong
Kinh Trung bộ, tập 2:
Tham lam là bất thiện, vô tham là thiện. Sân là bất thiện, vô sân là
thiện, Si là bất thiện, vô si là thiện. Như vậy, ba pháp là thiện, ba
pháp là bất thiện. Sát sinh là bất thiện, từ bỏ sát sinh là thiện. Lấy
của không cho là bất thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện. Tà
hạnh trong các dục là bất thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện.
Nói láo là bất thiện, từ bỏ nói láo là thiện. Nói hai lưỡi là bất thiện,
từ bỏ nói hai lưỡi là thiện. Nói ác khẩu là bất thiện, từ bỏ nói ác
khẩu là thiện. Nói lời phù phiếm là bất thiện, từ bỏ nói lời phù
phiếm là thiện. San tham là bất thiện, từ bỏ san tham là thiện. Sân là
bất thiện, từ bỏ sân là thiện. Tà kiến là bất thiện, từ bỏ tà kiến là
thiện. Như vậy, này Vacchagotta, mười pháp là bất thiện, mười
pháp là thiện [31, tr.328-329].
Thiện là giá trị cao nhất trong tinh thần văn hóa và ĐĐPG. Thiện là
biểu hiện của người đáng được kính nể và tôn trọng trong xã hội. Người đạt
87
được tính thiện, về cá nhân thì không tham tài vật đến sắc dục, không giận
bực, không mê muội; về hành xử với chúng sinh và con người thì thực hiện
được lòng tôn trọng sinh mạng của tất cả con người cho đến loài vật, vì vậy
nên không những không sát sinh, mà còn cứu vớt các sinh mệnh. Người đạt
đến thiện thì lưu trữ tài sản và hành xử mẫu mực, không lấy của không cho,
không nói láo, không tà kiến, không thực hiện những điều tà hạnh. Đoạn kinh
trên chỉ ra những biểu hiện giá trị của thiện mà con người trong xã hội do rèn
luyện, tu tập, thực hành mà có được. Trong đó, được chia ra: Các điều thiện
về tâm: vô tham (không tham lam), vô sân (không giận bực), vô si (không ngu
muội si mê). Các điều thiện về thân: từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho,
từ bỏ tà hạnh trong các dục. Các điều thiện về khẩu: từ bỏ nói láo, từ bỏ nói
hai lưỡi, tử bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm. Các điều thiện về ý: từ bỏ
tà kiến. Có thể nói, theo kinh Phật, thực hành những điều thiện là căn bản đầu
tiên tạo nên giá trị đạo đức một con người. Những nội dung cụ thể của những
giá trị đạo đức về thiện trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli dù
được Thích Ca nói ra cách nay hơn 2500 năm nhưng vẫn có tính thời sự và
đúng với chuẩn giá trị đạo đức xã hội hiện nay.
Ác - bất thiện là phản giá trị, là những điều bị lên án, bị xua đuổi, cần
phải diệt trừ. Ác dù nhỏ, cũng là mầm mống làm hư hại đạo đức con người và
băng hoại đạo đức xã hội. Tiêu biểu của cái ác đó là tham tài vật cho đến
tham sắc dục, là giận bực và không kiềm chế được bản thân, là mê mờ không
có trí tuệ, là sát sinh, không tôn trọng mạng sống các loài, là lấy của không
cho, nói láo, tà kiến, tà hạnh. Nói tóm lại, ác hay bất thiện, là những điều trái
với thiện, đó là những điều không được chấp nhận, cần bị loại bỏ trong quá trình
sống của một con người đạo đức, là những điều đi ngược với đạo đức xã hội.
Cũng như vậy, tốt - xấu luôn là cặp phạm trù thể hiện sự nhận thức, đánh
giá về hành động (thân), về lời nói (khẩu), hay về một suy nghĩ (ý) của một con
người theo những tiêu chuẩn đạo đức mà cộng đồng xã hội quy định cho nó.
Trên tinh thần của những tiêu chí biểu hiện quan điểm về thiện - bất thiện và
những lợi ích tác động đến con người khi hiện thực hóa các hành động, lời nói,
việc làm theo tiêu chí cụ thể ấy Phật giáo đưa ra những đánh giá về tốt và xấu.
88
Tốt là đánh giá tích cực thể hiện quan điểm, thái độ, nhận định trước
một việc làm (thân), lời nói (khẩu), ý nghĩ (ý), trong mối quan hệ với thủ thể
đánh giá và khách thể tạo tác. Tốt được xác định theo tinh thần Phật giáo
Nguyên thủy là những suy nghĩ, những lời nói, những việc làm mang lại lợi
ích cho người khác và mang lại lợi ích cho chính mình. Tốt cũng được xác
định là những suy nghĩ, những lời nói, những việc làm không mang lại lợi ích
cho chính mình nhưng mang lại lợi ích cho người khác.
Xấu là đánh giá tiêu cực thể hiện quan điểm, thái độ, nhận định trước
một ý nghĩ (ý), lời nói (khẩu), việc làm (thân) trong mối quan hệ với thủ thể
đánh giá và khách thể tạo tác. Xấu được xác định theo tinh thần Phật giáo
Nguyên thủy là những suy nghĩ, những lời nói, những việc làm không mang
lại lợi ích cho chính mình và không mang lại lợi ích cho người khác. Xấu
cũng được xác định là những suy nghĩ, những lời nói, những việc làm mang
lại lợi ích cho chính mình nhưng không mang lại lợi ích cho người khác.
3.1.2. Bình đẳng và trọng sinh
Trọng sinh (coi trọng sinh mạng mọi loài): Đây là GTĐĐ quan trọng
nhất được Phật giáo nhắc đến và có tính phổ quát trong tất cả các hệ phái,
thường phái Phật giáo. Nội dung này cũng chính là một giá trị của thiện được
nhắc đến trên đây (không sát sinh là thiện). Coi trọng sinh mạng chính là
không sát sinh với bất ký lý do nào. GTĐĐ này xuất phát từ nguyên lý, nhân
sinh quan của Phật giáo, đó là tinh thần bình đẳng của mọi chúng sinh và việc
khẳng định thân người là khó đạt được. Con người cho đến chúng sinh mọi
loài đều tham sống, sợ chết, và sự sinh sôi, phát triển là quy luật được tạo hóa
sinh ra và hàm dưỡng. Vì vậy, bất luận vì lý do gì, không được giết chóc, cho
đến làm tổn thương sinh mạng của các loài. Đặc biệt, sinh mạng con người là
cao quý và cần phải được trân trọng. Không sát sinh không chỉ là không chém
giết, không làm tổn hại đến sinh mệnh con người và các loài khác mà còn bao
gồm cả việc ân dưỡng, chăm sóc, giúp cho các loài được bảo toàn thân mạng,
phát triển thân mạng, chăm sóc và bảo vệ thân mạng của mọi loài.
89
Bình đẳng: Đây là một trong những GTĐĐ phổ quát không chỉ riêng
của Phật giáo mà là sự hướng đến của mọi xã hội. Bình đẳng là sự không
phân biệt cao - thấp trong xuất thân và vị thế xã hội, bình đẳng là việc coi
trọng và tạo điều kiện cho mỗi con người cùng phát huy giá trị tích cực và
tiếp cận đến những giá trị và lợi ích ngang nhau. Bình đẳng còn thể hiện thân
mạng của mọi loài là quý giá như nhau và không có quyền hy sinh thân mạng
của loài này cho sự sống của loài kia. Vì bình đẳng nên không sát sinh. Bình
đẳng nên cần chăm lo và tạo điều kiện cho mọi loài cùng phát triển trong sự
hài hòa. Cũng cần nhắc lại rằng, Phật giáo ra đời trong bối cảnh xã hội Ấn Độ
cổ có sự phân biệt đẳng cấp khắt khe. Các đẳng cấp trên giữ đặc quyền đặc
lợi. Các đẳng cấp thấp phụ thuộc và chịu thiệt thòi, phải trở thành nô lệ, tôi tớ
cho đẳng cấp trên. Chính những người cai trị, giai cấp cầm quyền muốn duy
trì chế độ đẳng cấp và ngày càng muốn ranh giới, khoảng cách giữa các đẳng
cấp ấy càng rõ rệt. Chính Thích Ca cũng xuất thân từ đẳng cấp vua quan, cai
trị xã hội. Trong bối cảnh đó, Thích Ca lại tuyên thuyết về sự bình đẳng,
tuyên bố không có khoảng cách giữa những con người khác nhau trong xã
hội. Trong bối cảnh xã hội Ấn Độ cổ, đó là một tư tưởng đại cách mạng về
giai cấp, một tư tưởng mang giá trị nhân văn và đề cao giá trị con người.
Việc bình đẳng phải được thể hiện từ điều kiện phát huy cá nhân, cơ
hội và vị thế xã hội, đến việc ghi nhận sự nỗ lực đóng góp và cả tinh thần tu
tập. Thích Ca đã chỉ dạy các học trò và lời dạy của ông đã được các học trò
ghi nhớ và mang đến chỉ bày cho những người khác. Đó là không có sự phân
biệt trong những con người có cùng màu da, cùng màu máu, cùng vị mồ hôi.
Những chuẩn mực về tính thiện, bất thiện (ác), tốt, xấu… cần được mọi người
trong mọi thành phần xã hội tôn trọng và cùng thực hiện. Đặc biệt, với GTĐĐ
về sự bình đằng, Thích Ca đã tin tưởng rằng, mọi con người đều mang trong
mình một hạt giống tốt, hạt giống cho việc gặt hái những điều thiện. Điều này
được Phật giáo nhắc đến như một tuyên ngôn về nhân phẩm con người, nghĩa
là tất thảy chúng sinh đều có hạt giống Phật tính tiềm tàng có thể nảy nở thành
cây giác ngộ. Hạt giống ấy có từ người giác ngộ cho đến kẻ sơ cơ mới tu tập,
90
có từ vị vua thuộc đẳng cấp quý tộc đến người đánh xe, thậm chí Thích Ca
còn cho rằng, hạt giống tốt đó vẫn thường trực và ẩn khuất bên trong những
kẻ ăn cướp hay gái làng chơi. Khi được phát khởi nó sẽ thúc đẩy con người
trở nên tốt đẹp, thuần thiện.
Về quan hệ và đẳng cấp xã hội, khi Vàsettha, một vị xuất thân từ Bà la
môn đi theo giáo đoàn của Thích Ca, ông đã bị gia đình và đẳng cấp quý tộc
của mình chửi rủa, phỉ báng:
Bà la môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt. Chỉ có giai
cấp Bà la môn là da trắng, giai cấp khác là da đen. Chỉ có Bà la
môn là thuần túy, các giai cấp phi Bà la môn không phải như vậy.
Chỉ có Bà la môn là con chính tông của Phạm Thiên, sinh từ miệng
Phạm Thiên, do Phạm Thiên sinh, do Phạm Thiên tạo ra, là con
cháu thừa tự của Phạm Thiên. Các ngươi đã từ bỏ giai cấp tối
thượng, cúi mình vào giai cấp hạ tiện, giai cấp các Sa môn trọc đầu,
đê tiện, đen đủi, giòng giống thuộc bàn chân. Làm vậy thật là không
tốt, làm vậy thật là không hợp, khi các ngươi từ bỏ giai cấp tối
thượng, cúi mình vào giai cấp hạ tiện, giai cấp các Sa môn trọc đầu,
đê tiện, đen đủi, giòng giống thuộc bàn chân [29, tr.389].
Đoạn kinh này phản ánh cái nhìn bất bình đẳng của xã hội Ấn Độ cổ.
Sự bất bình đẳng không chỉ được khẳng định bằng vai trò xã hội và cơ hội
được thụ hưởng các điều kiện, giá trị khác nhau của những hạng người khác
nhau trong cuộc sống. Nó còn bó chặt và thôi thúc sự cam chịu từ trong tinh
thần con người bằng việc hợp thức sự bất công, bất bình đẳng ấy bằng truyền
thuyết tạo sinh loài người trong thần thoại Ấn Độ với nhân vật Phạm Thiên.
Trong bối cảnh chế độ xã hội phân cấp hà khắc như thế, càng thấy tinh thần
cách mạng, tiến bộ vượt bậc và ý nghĩa nhân văn trong quan điểm của Thích
Ca, khi ông cho rằng, không có sự khác biệt nào đối với từng loại người trong
xã hội. Sự khác nhau trong vai trò xã hội thuần túy chỉ là sự phân công lao
động. Và việc phân công lao động ấy không tỷ lệ thuận với sự thuần thiện,
đạo đức trong mỗi con người ở các giai tầng xã hội cao thấp khác nhau.
91
Thích Ca đã khẳng định không có giai cấp nào cao, giai cấp nào thấp,
không có giai cấp sang trọng hay giai cấp hạ tiện trong những con người nước
mắt cùng mặn và máu cùng đỏ. Đây là quan điểm về sự bình đẳng giữa con
người với con người. Xóa bỏ những quan điểm truyền thống trong xã hội Ấn
Độ cổ về việc phân biệt con người cao thấp do đẳng cấp xã hội. Thích Ca đưa
ra một quan điểm nhân văn khác, rằng sự cao thấp giữa những con người
trong xã hội, nếu có, đó là sự cao thấp trong nhân phẩm, trong đạo đức, trong
những phẩm chất người đã được rèn luyện là thành tựu. Mà các phẩm vị đạo
đức thì có thể rèn luyện và tu tập theo các chuẩn mực và những điều thiện.
Thích Ca cho rằng, các giai cấp của xã hội Ấn Độ (cổ) đều có người tốt và có
người xấu. Những người tốt đó là do thực hiện những điều thiện, người xấu là
do thực hiện các điều bất thiện:
Này Vàsettha, có người trong bốn giai cấp: Sát đế lỵ, Bà la môn,
Phệ xá và Thủ đà la sát sinh, lấy của không cho (ăn trộm), có tà
hạnh, nói láo, nói hai lưỡi (trắng thành đen, đen thằng trắng), nói ác
khẩu, nói lời phù phiếm, có tâm tham, có tâm sân, có tà kiến.
Những pháp ấy là bất thiện, là có tội, là không nên hành trì và
những pháp ấy bị quở trách [29, tr.390-391].
Này Vàsettha, có người Sát đế lỵ, có người Bà la môn, có người
Phệ xá, có người Thủ đà la không sát sinh, không lấy của không
cho (ăn trộm - NCS), không có tà hạnh, không nói láo, không nói
hai lưỡi (trắng thành đen, đen thằng trắng - NCS), không nói ác
khẩu, không nói lời phù phiếm, không có tâm tham, không có tâm
sân, có chính kiến. Những pháp ấy là thiện, nên hành trì và được tán
thán [29, tr.391].
Thích Ca cho rằng, dù xã hội Ấn Độ lúc đó có phân chia giai tầng thành
bốn hạng loại người khác nhau, nhưng không có căn cứ để cho rằng một
người ở đẳng cấp cao thì tư cách đạo đức và nhân phẩm cao, đáng được trân
trọng, và cũng không có căn cứ để cho rằng một người ở đẳng cấp thấp thì tư
cách đạo đức, nhân phẩm đáng bị chê trách. Và thực tế, một người ở đẳng cấp
92
cao, dù là dòng dõi Bà la môn hay Sát đế lị thì khi sát sinh, ăn trộm, nói láo, tà
hạnh đều là vô đạo đức và là bất thiện, đáng bị chê trách. Ngược lại, những
con người dù ở đẳng cấp thấp, ví như Phệ xá hay Thủ đà la nếu rèn tập theo
điều thiện hành, sống, làm việc bằng nghề nghiệp liêm chính, không sát sinh,
không ăn trộm, không nói dối, không vướng mắc vào dục lạc và những tà
hạnh, thì người Phệ xá hay Thủ đà la đó là thiện nhân, là đạo đức, là đáng
được tán thán và trở thành biểu tượng tốt đẹp của xã hội, cho người khác noi
theo. Và một điều tích cực mà Thích Ca khẳng định, phải luôn nhìn nhận vạn
vật, nhất là con người trong cái nhìn biện chứng, luôn vận động (vô thường)
để biết rằng một người lúc này tốt, lúc sau có thể không tốt, lúc trước không
tốt, nhưng lúc này có thể trở nên tốt đẹp.
Như vậy, giá trị đạo đức mà Thích Ca đưa ra trong lời dạy của ông là:
Trân trọng cuộc sống mọi loài;
Trân trọng cuộc sống con người;
Trân trọng nhân phẩm con người;
Con người là bình đẳng;
Con người có hạt giống tốt đẹp về đạo đức;
Con người có thể thay đổi tích cực từ xấu thành tốt.
3.2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CÁ NHÂN
3.2.1. Những điều có lợi và những điều không có lợi
Mục Khả lạc, Phẩm Ước nguyện, Kinh Tăng chi bộ, tập 4, kinh tạng
Nikàya văn hệ Pàli chép lời dạy của Thích Ca về những điều không tốt đẹp,
không có lợi, đáng chê trách, nó là nguyên nhân chính dẫn đến những tiều tổn
lại về thân, tâm, tài vật, đạo đức, nhân phẩm một con người:
Thụ động và không hăng hái là chướng ngại cho tài sản. Không
trang sức, không tô điểm là chướng ngại cho dung sắc. Hành động
không thích ứng là chướng ngại cho không bệnh. Ác bằng hữu là
chướng ngại cho giới đức. Không chế ngự các căn là chướng ngại
cho phạm hạnh. Lừa dối là chướng ngại cho bạn bè. Không học tập
là chướng ngại cho nhiều trí. Không nghe, không hỏi là chướng
93
ngại cho trí tuệ. Không có chú tâm, không có quan sát là chướng ngại
cho các pháp. Tà hạnh là chướng ngại cho thiên giới [41, tr.419].
Theo Thích Ca, thụ động là chây ỳ, là dựa dẫm, và không hăng hái, không
nhiệt tình công việc, không cố gắng vượt mọi khó khăn đó là nguyên nhân ngăn
cản sự thành công của công việc, nó dẫn đến sự thất bại, sự thất thu tiền của và
tài sản. Vì vậy, thụ động và không hăng hái là chướng ngại cho tài sản trong
cuộc sống được hình thành. Con người dù đẹp đến mấy vẫn cần sự gìn giữ dung
nhan, tô điểm, trang sức. Đây chính là quan điểm “người đẹp vì lụa”. Vì vậy,
không trang sức, không tô điểm là làm cho hư hao nhan sắc, làm tổn hại và
chướng ngại cho dung sắc được phô bày. Hành động không thích ứng là những
hành động tự do, vô tổ chức, không trật tự, không điều độ. Điều đó sẽ gây ảnh
hưởng và làm cản trở việc giữ thân không bệnh. Ác bằng hữu là những người
bằng hữu xấu, không có đạo đức và nhân phẩm. Nếu kết thân và chơi cùng
những người bạn bè xấu sẽ huân nhiễm, lây lan những điều xấu từ bạn bè. Vì
vậy, giao du, kết thân với ác bằng hữu chính là nguyên nhân lớn nhất làm tổn
hại, làm chướng ngại cho việc hình thành và gìn giữ nhân cách, đạo đức tốt đẹp.
Phạm hạnh là những chuẩn mực đạo đức đã được cụ thể hóa bằng ý nghĩ, lời
nói, hành động cụ thể trong đời sống của con người. Không chế ngự các căn,
nghĩa là để cho lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tự ý tung tác, phóng dật,
buông thả theo những dục lạc của cuộc sống. Không chế ngự các căn sẽ là
chướng ngại, gây khó khăn, thậm chí phá hỏng việc xây dựng một đời sống
phạm hạnh, đức độ của con người. Lừa dối là không giữ chữ tín, không tạo nên
sự tin tưởng, không tạo được sợi dây kết nối chân thành, vì vậy lừa dối là
chướng ngại cho tình thân bạn bè, lừa dối, mất niềm tin là chướng ngại cho việc
xây dựng tình đoàn kết thân hữu. Không học tập, không tìm hiểu, không lắng
nghe và không quan sát là cản trở cho việc hình thành và hoàn bị về tri thức và
sự hiểu biết thế giới. Tà hạnh là những việc làm sai trái, ngược với các quy
chuẩn đạo đức và ứng xử xã hội, sẽ làm cản trở cho việc đạt được những điều tốt
đẹp, những quả vị tu tập sánh ngang với các đấng bậc đáng được trân trọng nơi
thiên giới.
94
Như vậy, những điều xấu cần phải tránh bỏ là: không hăng hái làm
việc, hành động không phù hợp, kết thân bạn bè xấu, không chịu học tập rèn
luyện, và thực hiện các tà hạnh. Thích Ca cảnh giới cho mọi người những
điều nguy hại và làm sa sút nhân cách, đạo đức một con người. Đồng thời,
Thích Ca cũng dạy những điều cần thiết cho cá nhân con người, đó chính là
thức ăn, là nguyên liệu cho việc tạo dựng đạo đức, nhân cách một người:
Không thụ động, hăng hái là thức ăn cho tài sản. Trang sức, tô điểm
là món ăn cho dung sắc. Hành động thích ứng là món ăn cho không
bệnh. Bạn bè với thiện là thức ăn cho giới đức. Chế ngự các căn là
thức ăn cho phạm hạnh. Không có lừa dối là thức ăn cho các bạn
bè. Học tập là thức ăn cho nhiều trí. Khéo nghe, biết hỏi là thức ăn
cho trí tuệ. Chú tâm quán sát là thức ăn cho các pháp. Chánh hạnh
là thức ăn cho thiên giới [41, tr.419].
Đó là những điều quan trọng, điều cần thiết, điều không thể không thực
hiện để rèn rũa một con người trở thành một người tốt, người có lợi, người có
đạo đức và phẩm giá, bất kỳ họ làm gì và giữ vị trí nào trong xã hội.
3.2.2. Những điều nên thực hiện và không nên thực hiện
Khi nói chuyện với người thợ rèn Cunda, Thích Ca cho rằng có mười
nghiệp đạo bất thiện liên quan đến thân, khẩu, ý, dẫn con người đến cuộc
sống của địa ngục trần gian, vô đạo đức như loài ác quỷ. Nếu tu dưỡng và
tránh được những điều bất thiện về thân, khẩu, ý đó sẽ dẫn con người đến sự
trong sạch, đức hạnh và xứng đáng được sinh lên Thiên giới:
Này Cunda, tịnh hạnh về thân có ba, tịnh hạnh về lời có bốn, tịnh
hạnh về ý có ba. Này Cunda, thế nào là tịnh hạnh về thân có ba? Ở
đây, này Cunda, có người đoạn tận sát sinh, từ bỏ sát sinh, bỏ
trượng, bỏ kiếm, tàm quý (hổ thẹn về tội lỗi - NCS), không lấy của
không cho và từ bỏ hẳn các đam mê dục lạc. Như vậy, này Cunda,
tịnh hạnh về thân có ba (1-không sát sinh, chém giết; 2- không trộm
cắp; 3- không tà dâm - NCS).
95
Và này, Cunda, thế nào là tịnh hạnh về lời có bốn? Ở đây, này
Cunda, có người đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đến chỗ chúng tội,
khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi: “Này người kia, hãy nói
những gì người biết”. Nếu không biết, người ấy nói “Tôi không
biết”. Nếu biết, người ấy nói “Tôi biết”. Hay nếu không thấy, người
ấy nói “Tôi không thấy”. Nếu thấy, người ấy nói “Tôi thấy”. Như
vậy, lời nói của người ấy không trở thành có ý vọng ngữ, hoặc
nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên
nhân vì một vài quyền lợi gì. Đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai
lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói, để sinh chia
rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với
những người này, để sinh chia rẽ những người kia. Như vậy, người
ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp,
thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Đoạn tận lời nói
độc ác, từ bỏ lời nói độc ác, nói những lời nhu hòa, êm tai, dễ
thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui ý
nhiều người, người ấy nói những lời như vậy. Đoạn tận lời nói phù
phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói pháp, nói
luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói
thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, lợi ích. Như vậy, này Cunda, tịnh
hạnh về lời có bốn (1- không làm chứng dối; 2 - không nói lưỡi hai
chiều; 3 - không nói lời độc ác; 4 - không nói lời phù phiếm - NCS).
Và này, Cunda: “Có bố thí, có cúng thí, có tế lễ, các hành vi thiện
ác, có kết quả dị thục, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các
loại hóa sinh; trong đời có các Sa môn, Bà la môn chân chính hành
trì, chân chính thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng, lại tuyên bố cho
đời này và cho đời sau”. Như vậy, ngày Cunda, có ba điều ý tịnh
hạnh (1 - không tham lam; 2 - không sân hận; 3 - có chính kiến,
không dao động, không điên đảo) [41, tr. 591-594].
96
Như vậy, theo Thích Ca, cần giữ gìn thân (hành động), khẩu (lời nói), ý
(tư tưởng) một cách trong sạch mà ông gọi đó là những điều tịnh hạnh sẽ làm
cho một con người trở nên đẹp đẽ, đạo đức và cao đẹp. Trong đó, có 3 điều
tịnh hạnh về thân hành: không sát sinh, chém giết; không trộm cắp; không tà
dâm. Có 4 điều tịnh hạnh về lời nói: không làm chứng dối; không nói lưỡi hai
chiều; không nói lời độc ác; không nói lời phù phiếm. Có 3 điều tịnh hạnh về
ý tưởng: không tham lam; không sân hận; có chính kiến, không dao động,
không điên đảo. Đó chính là mười thiện nghiệp đạo mà Phật giáo khuyên răn
con người, bất kể là tại gia hay xuất gia, bất kể là người giàu, kẻ nghèo, bất kể
là người sang, kẻ hèn, nếu muốn tránh những quả báo ác xấu, muốn đạt được
một cuộc sống tịnh hạnh, đạo đức, thì đều cần phải thực hiện.
Khi nói về vai trò, công hạnh, tác dụng của việc hành trì những điều
tịnh hạnh nói trên, Thích Ca chỉ bày:
Này Cunda, có mười điều tốt này (1-không sát sinh, chém giết; 2-
không trộm cắp; 3- không tà dâm; 4- không làm chứng dối; 5 - không
nói lưỡi hai chiều; 6 - không nói lời độc ác; 7 - không nói lời phù
phiếm; 8 - không tham lam; 9 - không sân hận;10 - có chính kiến,
không dao động, không điên đảo) nếu thực hiện được, thì dù cho
người nào đó chạm chân hay không xuống bùn đất, vẫn sạch; chạm
phân bò ướt, hay không chạm phân bò ướt, vị ấy (người hầu, tầng lớp
thấp nhất trong xã hội Ấn Độ- NCS) vẫn trong sạch. Nếu vị ấy chạm
cỏ xanh, hay không chạm cỏ xanh, vị ấy (người lao động tự do, đẳng
cấp thứ ba trong xã hội Ấn Độ - NCS) vẫn trong sạch. Nếu vị ấy thờ
lửa, hay không thờ lửa, vị ấy (người tu theo đạo Lửa) vẫn trong sạch.
Nếu vị ấy chắp tay đảnh lễ mặt trời, hay không chắp tay đảnh lễ mặt
trời, vị ấy (người tu theo đạo thờ Mặt trời) vẫn trong sạch. Nếu vào
buổi chiều, vị ấy xuống hay không xuống nước, vị ấy (gột rửa bằng
nước sông - NCS) vẫn trong sạch. Người làm tốt mười điều thiện này
xứng đáng được sinh lên cõi Trời [41, tr. 591-594].
97
Nội dung này được chép trong mục Cunda, người thợ rèn, Phẩm
Jànussoni, Kinh Tăng chi bộ, tập 4, kinh tạng Nikaya văn hệ Pàli. Chính
nội dung này cũng được Thích Ca thuyết giảng cho các Tỳ kheo là đồ đệ
của ông. Nội dung này cũng được ghi chép lại đầy đủ trong Kinh nên
hành trì, không nên hành trì, Kinh Trung bộ, tập 3, kinh tạng Nikaya văn
hệ Pàli [32, tr.191-216]. Nội dung trên thể hiện sự khẳng định của Thích
Ca về giá trị, ích lợi và tác dụng của những điều thiện, điều tốt. Đó là
mười điều thiện (hay còn gọi là Thập thiện) không sát sinh, không chém
giết; không trộm cắp; không tà dâm; không làm chứng dối; không nói lưỡi hai
chiều; không nói lời độc ác; không nói lời phù phiếm; không tham lam; không
sân hận; có chính kiến, không dao động, không điên đảo, là những điều nên
làm. Nó nên làm, và cần thiết được thực hiện, vì nó sinh ra và tạo nên đức
hạnh, nhân phẩm, đạo đức con người.
Khi nói về sự nhiễm ô, cẩu uế bên trong con người, Thích Ca cho
người nhận ra mình không trong sạch về đức hạnh đó được gọi là hạng người
“ưu thắng”, có người thì không nhận ra sự ô nhiễm cấu uế trong mình, gọi là
hạng người hạ liệt. Tuy nhiên, sẽ có người biết khởi lên mong muốn tích cực
để làm sạch cấu uế đó khi nhận thấy rằng: “Nội thân ta có cấu uế”. Do đó:
“Người này sẽ khởi lên ước muốn, sẽ cố gắng, sẽ tinh tấn để diệt trừ cấu uế.
Người này sẽ từ trần khi không còn tham, không còn sân, không còn si, trong
khi không còn cấu uế, khi trong tâm không còn ô nhiễm” [30,tr.62]. Nhưng
cũng có người không có ý thức diệt trừ làm sạch cấu uế. Do đó, “Người này
sẽ không khởi lên ước muốn, sẽ không cố gắng, sẽ không tinh tấn để diệt trừ
cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần khi còn có tham, còn có sân, còn có si, trong
khi còn cấu uế, khi trong tâm còn ô nhiễm” [30, tr.61].
Khi nói chuyện với các gia chủ là người Bà la môn ở Sala khi tranh
luận với các Sa môn về tội ác, những việc dẫn đến tội các và những việc dẫn
đến những điều tốt đẹp, Thích Ca nói:
Tự làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết,
đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người
gây phiền muộn, gây ác não hay khiến người gây ác não, tự mình
98
gây sợ hãi hay khiến người gây sợ hãi, sát sinh, lấy của không cho,
phá cửa mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chặn đường
cướp giật, tư thông vợ người, nói láo, hành động như vậy có tội ác.
Nếu lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sinh trên cõi đất
thành một đống thịt, thành một chồng thịt, thì do nhân duyên này có
tội ác, gây ra sự tiếp tục của tội ác. Nếu có người giết hại, tàn sát,
chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, thì
do nhân duyên này có tội ác, có gây ra sự tiếp tục của tội ác. Nếu có
người bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, thì do nhân
duyên này có phúc báo. Bố thí, điều phục, tự chế, nói thật, đều có
phúc báo, có tạo thành sự tiếp tục của phúc báo [31, tr.153].
Như vậy, theo chuẩn mực ứng xử xã hội, quy định pháp luật và của
quy tắc đạo đức, những điều cần tránh là: chém giết, sân hận, phá hoại, cướp
bóc, ăn cắp, ác khẩu, gian dâm. Đó là những hành động tội lỗi, làm tổn hại
đến đạo đức một con người, tạo ra nghiệp quả xấu ác, làm con người không
được an lạc và hạnh phúc trong cuộc sống. Đây cũng chính là cốt yếu của ngũ
giới tại gia Phật tử, đồng thời cũng là nội dung chính tạo nên thập giới của
hàng tu sỹ xuất gia ở bậc đầu tiên trong lộ trình tu tập theo giới luật Phật giáo.
Ngay sau khi đưa ra những điều tội lỗi, cần tránh, cần xóa bỏ, Thích Ca nêu ra
những điều cần thực hiện, đó là bố thí, tế lễ, điều phục thân tâm theo những
điều tốt lành, tránh xa những điều cấm kỵ, nói lời chân thành, đáng nghe. Đây
là những điều, mà theo Thích Ca, nếu thực hiện được sẽ tạo nên kết quả tốt,
phúc báu, được an lạc, hạnh phúc ngay trong cuộc đời. Mục đích tu tập và
thực hành đời sống phạm hạnh của Phật giáo trên cơ sở làm những điều thiện,
ngăn trừ những việc ác dành cho hai đối tượng khác nhau trong hàng ngũ đệ
tử Phật là có mục đích khác nhau. Nếu mục tiêu tu tập theo giới luật, giữ thân,
khẩu, ý trong sạch, yên định sẽ là nền tảng để phát khởi trí tuệ Phật giáo, từ
đó đạt được cảnh giới giải thoát, an lạc, niết bàn, thì mục tiêu của người Phật
tử tại gia, nếu gìn giữ được những điều cấm kỵ, tránh xa những điều xấu ác,
tổn hại, tăng cường làm những việc ích lợi, đáp ứng những tiêu chuẩn và quy
99
định của đạo đức xã hội thì sẽ đạt được sự viên mãn, tốt đẹp, an lạc của đời
sống đạo đức. Nói tóm lại, vì người xuất gia là cắt ái ly gia, không tham dự
những hoạt động sống của người thường trong xã hội, tu tập theo giới luật
Phật giáo, nên mục tiêu của họ là giải thoát. Còn với Phật tử tại gia, vì họ còn
những quan hệ và trách nhiệm xã hội cần thực hiện, nên nếu gìn giữ và thực
hiện được những điều tốt đẹp, tránh xa những điều xấu ác sẽ đưa họ đến mục
đích cuộc sống an lạc, đạo đức và toàn thiện. Như vậy, mục đích cuối cùng
của giáo lý Phật giáo ra đời là để làm cho con người trong xã hội có được một
đời sống đạo đức mẫu mực.
Trong một lần khác, tiếp tục câu chuyện với người thợ rèn Cunda,
Thích Ca cho rằng, con người ta nếu biết khéo tu tập, khéo nhiếp phục ý nghĩ,
lời nói, hành động của mình theo những điều thiện lành, nhiếp phục tâm mình
theo hướng thiện lành thì sẽ đưa đến sự hạnh phúc, tốt đẹp trong cuộc sống
mỗi con người. Ông nói:
Này Cunda, đối với người làm hại, không làm hại đưa đến giải
thoát; đối với con người sát sinh, từ bỏ sát sinh đưa đến giải thoát;
đối với con người lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho đưa
đến giải thoát; đối với con người không sống phạm hạnh, sống
phạm hạnh đưa đến giải thoát; đối với con người nói láo, từ bỏ nói
láo đưa đến giải thoát; đối với con người có tâm sân hận, từ bỏ tâm
sân hận đưa đến giải thoát; đối với con người có tà kiến, chánh kiến
đưa đến giải thoát; đối với con người có tà nghiệp, chánh nghiệp
đưa đến giải thoát; đối với con người tà mạng, chánh mạng đưa đến
giải thoát; đối với con người có tà niệm, chánh niệm đưa đến giải
thoát; đối với con người tật đố, không tật đố đưa đến giải thoát...
[30, tr.106-108].
Mục tiêu của cuộc sống của bất kỳ con người nào thuộc giai tầng nào
trong xã hội, từ bậc đến vương đến kẻ hành khất, suy cho cùng cũng chỉ là
hạnh phúc và an lạc. Như vậy, sống như thế nào để đạt được hạnh phúc và an
lạc chính là điều Thích Ca đã tự mình chứng ngộ và ông dành cả cuộc đời 49
100
năm thuyết pháp để nói cho đệ tử và những người nghe pháp cách thức để đạt
được. Thích Ca cho rằng, điều đó nói thì chẳng cao siêu, và thực sự đơn giản,
những để làm được trọn vẹn thì không phải ai cũng thực hiện được.
Nói về các cách làm cho con người an lạc, hạnh phúc, Thích Ca cho
rằng: không tham ái, không sân hận, không si mê, không dục lạc. Những điều
đó sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc. Trái lại, nếu tham ái, sân hận, si mê, dục lạc,
con người sẽ đau khổ, không an lạc [30, tr.676-677].
Thích Ca nhấn mạnh việc đạt được những cảm xúc hỷ lạc do ly diệt
được nguồn gốc bất thiện là tham ái, sân hận, và mê muội, đó là cội nguồn tạo
nên đạo đức Phật giáo.
Khi nói về nhân cách một con người, Thích Ca có nhắc đến và phân ra
loại người không có đạo đức, đó là người bất chính:
Người bất chính: không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế
tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác,... Người bất chính bố
thí một cách vô lễ, bố thí không phải tự tay, bố thí không có suy tư
kỹ lưỡng, bố thí không nghĩ đến tương lai, không giao du với người
thiện lành, suy nghĩ tà kiến, không biết hổ thẹn [32, tr.146-148].
Người bất chính có sống cũng như trong cảnh giới địa ngục, đau khổ và
tối tăm, không có đức hạnh. Ngược lại với người bất chính, theo Thích Ca,
người chân chính có đầy đủ những điều chân chính tốt đẹp, mẫu mực về đạo
đức: “Người chân chính có đầy đủ chính pháp như vậy, giao du với người
chân chính như vậy, suy tư như người chân chính như vậy, tư lường như
người chân chính như vậy, nói năng như người chân chính như vậy, hành
động như người chân chính như vậy, có chính kiến như người chân chính như
vậy, bố thí như người chân chính như vậy. Đó là đại tính của chư Thiên hay
đại tính của loài Người” [32, tr.152]. Như vậy, chân chính là một phẩm chất
cao đẹp, là nhân phẩm lớn của con người được Phật ca ngợi, thể hiện đạo đức,
theo nhận định của Thích Ca.
Từ những lời dạy của Thích Ca trong kinh tạng Nguyên thủy văn hệ
Pàli, mà những biểu hiện của nó đã được liệt kê ở trên, nghiên cứu sinh khái
quát, đưa ra thành những giá trị cụ thể như sau:
101
Ca ngợi đời sống đạo đức;
Ca ngợi vẻ đẹp của việc giữ gìn phạm hạnh, không vị phạm điều cấm;
Phê phán những thói hư tật xấu làm ảnh hướng đến đạo đức con
người: chém giết, cướp bóc, nói láo, ăn trộm, dâm dục, không giữ gìn
những đều răn cấm, dùng các chất uống dẫn đến sự say và chất kích thích
dẫn đến ảo giác.
3.3. NHỮNG BIỂU HIỆN GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRONG QUAN
HỆ XÃ HỘI
3.3.1. Chuẩn mực đạo đức của một vị vua
Thích Ca khi còn là một thái tử, ông không tham màng quyền uy, ngai
vàng, không muốn trở thành người cai trị đất nước, nên ông đã chọn con
người tu hành để đạt giác ngộ. Nhưng khi đã thành chính giác, thì chính Thích
Ca lại thường xuyên quan tâm đến các vấn đề xã hội, từ việc cai trị đất nước
của một vị vua, đến cai quản gia đình của một vị điền chủ. Không tự nhiên
ông coi trọng và quan tâm vấn đề ấy. Nó đơn giản là công việc liên quan đến
chính con người, phục vụ, đáp ứng trực triếp quyền lợi và sinh mệnh của con
người trong xã hội. Vì sự quan tâm của ông đến chính sự, cũng như sự sẵn
lòng tư vấn, giải đáp, khuyên nhủ các bậc quân vương để thực hiện chính sự
mà các Vua thường xuyên hỏi Thích Ca về vấn đề trị quốc, mưu sách quốc
gia an bang tế thế.
Về phép trị nước, với tư cách của một vị quân vương, Thích Ca nhắc
đến việc trị quốc đúng chính pháp của Chuyển luân Thánh vương như hình
mẫu của đạo đức chính trị, trong Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống:
Vua Chuyển luân Thánh vương tên là Dalhanemi (Kiên Cố Niệm),
là vị pháp vương, lấy chính pháp trị nước, chinh phục bốn thiên hạ,
thống trị các quốc độ và đầy đủ bảy món báu. Vị ấy có đầy đủ bảy
món báu, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia
chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị ấy có hơn một ngàn
hoàng tử, dũng kiện, hùng mạnh, nhiếp phục ngoại địch. Vị này trị
102
vì quả đất này cho đến hải biên, dùng chính pháp trị nước, không
dùng trượng, không dùng kiếm [29, tr.355].
Vị Chuyển luân thánh vương này nhắc đi nhắc lại lời dạy các vua chư
hầu: “Chớ có sát sinh! Chớ có lấy của không cho! Chớ có sống tà hạnh trong
các dục! Chớ có nói láo! Chớ có uống rượu! Và hãy thọ hưởng theo những gì
đã có để thọ hưởng” [29, tr. 360]. Đây cũng chính là những tiêu chuẩn đạo
đức của mỗi con người nói chung và càng cần thiết cho người làm vua đứng
đầu thiên hạ. Thông điệp mà Thích Ca đưa ra, những quy chuẩn đạo đức thể
hiện văn hóa của một bậc quân vương muốn làm khuôn mẫu cho khắp thiên
hạ, thì hơn ai hết, vị quân vương đó phải cao đẹp hơn những người khác, và
đương nhiên đạo đức đó phải xây dựng trên nền tảng chuẩn mực đạo đức của
một con người.
Một vị quân vương, người đứng đầu đất nước thì điều cần nhiết là lấy
chính pháp trị nước. Chính pháp đó phải được xây dựng trên tinh thần phụng
sự vì lý tưởng cao đẹp, vì mong muốn của lê dân trăm họ, vì hạnh phúc và an
lành của bách tính. Chính pháp đó phải được ban bố và thực thi vởi hệ thống
quan lại, chính quyền trong sạch, vì dân vì nước, chí công vô tư. Chính pháp
đó phải hợp với lòng dân, phải tạo nên sự hưng thịnh, giàu có chính đáng của
nhân dân và đoàn kết trong đất nước. Chính pháp đó phải được chỉ đạo thi
hành bởi một người đứng đầu mẫu mực về đức hạnh và lòng thiện, biết lãnh
đạo nhân dân xây dựng một cuộc sống no đủ về vật chất và phong phú, cao
đẹp về tinh thần, lánh xa và xóa bỏ mọi mầm mống của điều xấu ác trong xã
hội. Tiếp đó, người đứng đầu đất nước phải làm yên được bốn cõi, tránh mâu
thuẫn, xung đột trong dân, bên trong thì làm cho yên trị, bên ngoài thì thu
phục các nước hữu hảo hướng về, nhiếp phục người trong nước và lân bang
bằng tài năng, uy tín, trí tuệ, và đức hạnh. Đặc biệt, việc thu phục lòng người
trong nước và nhiếp phục lân bang phải bằng con đường chính đáng, đó là bất
bạo lực, không dùng binh đao, không gây chiến tranh. Đó là chính pháp trị
quốc. Cốt cách và phẩm hạnh của một bậc quân vương là như vậy. Nhưng để
có được nó, không phải xa xôi hay cầu tìm từ một điều linh thiêng nào, mà
103
theo Thích Ca, đó là do công đức tu dưỡng, thực hành những điều đạo đức cơ
bản, như: không sát sinh để phát khởi tinh thần bình đẳng và trân trọng mạng
sống; không lấy của không cho để phát khởi nghề nghiệp và làm việc nghiêm
túc tạo ra thành quả cho chính mình; không sống tà hạnh trong các dục, là để
không buông thả thân tâm, nhiếp phục thân, tâm theo những chuẩn mực đạo
đức; không nói láo, không nói dối, không thêu dệt là để tạo nên sự chân thành,
đáng tin tưởng; không uống rượu là để kiểm soát trí tuệ, cảm xúc cho đến
những hành động trong chuẩn mực; thọ hưởng theo những gì có để thọ hưởng
là để tránh xa những điều phi pháp, thụ dụng vật phẩm, tiền của và những
điều giá trị một cách chính đáng và phù hợp với công sức chính mình. Như
vậy, để rèn rũa đạo đức trở thành một bậc quân vương, thì trước hết phài rèn
tập đạo đức của một con người thường trong xã hội. Chỉ có trên nền tảng của
những giá trị đạo đức phổ quát thì một vị vua mới thực thi được việc cai trị
đúng chính pháp theo lời Thích Ca thuyết giảng.
Qua đoạn kinh văn và phân tích trên, có thể rút ra những giá trị đạo đức
mà Thích Ca muốn một vị quân vương, người đứng đầu đất nước phải hướng
đến, gìn giữ và thực hành, đó là:
Cai trị đất nước, nhiếp phục nhân dân bằng uy tín, trí tuệ, đạo đức của
bậc quân vương;
Việc rèn luyện, vun bồi đạo đức của người lãnh đạo đất nước là quan
trọng và cần thành tựu trước hết;
Chăm lo hạnh phúc tinh thần, vật chất của mọi người dân trong đất
nước là trách nhiệm của người lãnh đạo đất nước;
Người lãnh đạo đất nước phải là hình mẫu cho trăm dân noi theo;
Phê phán việc dùng sức mạnh, binh đao, vũ khí, binh lính và tà thuật
trong việc cai trị đất nước.
3.3.2. Chuẩn mực đạo đức của một công dân, thành viên xã hội
Theo Thích Ca, trong xã hội, ở trong một tập thể hay một tổ chức nào,
các thành viên trong tổ chức ấy cần thực hiện sáu phép hòa kính để tạo nên sự
từ ái, đoàn kết, hòa hợp để cùng phát triển. Sáu phép hòa kính đó là: (1) “An
104
trú thân hành - Thành tựu thân nghiệp” (thân hòa đồng trụ) hòa hợp cùng
chung sống, không gây ra những hậu quả xấu do việc tồn tại thân thể của
mình trong tập thể; (2) “An trú khẩu hành - Thành tựu khẩu nghiệp” (khẩu
hòa vô tranh) là nói lời dễ nghe, ái ngữ, không cãi chửi, tranh giành, để tăng
cường truyền thông và tăng trưởng sự hòa hợp; (3) “An trú ý hành - Thành
tựu ý nghiệp” (ý hóa đồng duyệt) là cùng đưa ra sự bàn góp, xây dựng và trân
trọng, cùng vui với kiến nghị, đề xuất của người khác; (4) “Thành tựu tri
kiến” (kiến hòa đồng giải) là cùng có nhận thức, đánh giá, nhìn nhận tự nhiên,
xã hội, tư duy con người dưới góc nhìn của kẻ trí, của tư duy biện chứng, lô
gic và khách quan, nắm rõ bản chất của mọi vật và chủ động với sự biến đổi
của thế giới; (5) “Thành tựu giới luật” (giới hòa đồng tu), cùng nhau thực hiện
quy định, quy chế, pháp luật, điều lệ, giới luật chung của quốc gia, xã hội,
nhóm xã hội, tổ chức quy định; (6) “Lợi hòa đồng quân - san sẻ tài vật” là khi
có lợi ích hợp pháp về vật chất cùng chia sẻ cho người khác thụ hưởng một
cách công bằng, tự nguyện, vui vẻ [29, tr.615-616], [29, tr.704-705]. Thích Ca
nhấn mạnh: “Sáu pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành
tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí”
[30, tr.705]. Theo Thích Ca, nếu thực hiện được sáu điều nêu trên ở mỗi con
người trong xã hội, thì xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, đoàn kết, hòa hợp. Thích Ca
cho rằng thực hiện thành công sáu điều nêu trên sẽ làm cho người người trong
xã hội yêu thương lẫn nhau, kính trọng lẫn nhau. Sáu điều đó được thực hiện
sẽ đưa đến sự hòa đồng, không có xung đột, không tạo nên tranh luận, mâu
thuẫn mà dễ dàng tạo nên sự hòa hợp, thống nhất, cùng chung ý nguyện, cùng
chung mục đích, cùng chung lý tưởng. Đó chính là cảnh giới cao đẹp, an lạc,
hạnh phúc nhất mà bất cứ quốc gia, xã hội nào cũng mong mỏi hướng đến. Đó
chính là cảnh giới Niết bàn an lạc không cần cầu tìm đâu xa mà có thể hiện
hữu ngay trên thế gian này, theo tinh thần của Phật giáo.
Thích Ca cho rằng, sống trong xã hội thì hành động (thân) cùng hòa
hợp; lời nói (khẩu) cùng hòa hợp; kiến nghị, đề xuất (ý) cùng hòa hợp; cùng
có nhận thức, hiểu biết (tri kiến) đúng đắn; chia sẻ các quyền lợi; tôn trọng
105
các quy định và cùng thực hiện mọi công việc chung trong tinh thần trách
nhiệm, hòa kính là trách nhiệm chung của công dân, mỗi thành viên trong xã
hội phải thực hiện để làm cơ sở, nền tảng tạo nên xã hội hài hòa, ổn định và
phát triển. Như vậy, qua lời dạy của Thích Ca được ghi chép trong kinh điển,
giá trị đạo đức đối với một công dân, một con người cụ thể trong xã hội cần
đạt được là:
Phải chế ngự ý nghĩ, lời nói, hành động bất thiện;
Tán dương, khuyến khích ý nghĩ, lời nói, hành động thiện lành;
Tôn trọng và tìm sự thống nhất với ý kiến, quan điểm của người khác
trong xử lý và giải quyết các việc chung;
Cùng tự ý thức thực hiện nghiêm túc và hỗ trợ người khác nghiêm túc
thực hiện những điều răn cấm, những quy đinh, quy chế, pháp luật chung của
toàn xã hội;
Cùng chung tay chia sẻ và gánh vác công việc chung trong tinh thần
nhiệt huyết và trách nhiệm;
Cùng chia đều những quyền lợi và các giá trị xã hội chung có;
Không phân biệt đẳng cấp xã hội.
3.3.3. Chuẩn mực đạo đức trong quan hệ cha mẹ - con cái
* Chuẩn mực đạo đức của một người con đối với cha mẹ
Thích Ca dạy Singàlaka (Thi ca la việt) về cách lễ phương Đông, ông
cho rằng cần phải ghi nhớ phương Đông là cha mẹ, và những quy chuẩn về
đạo đức của người con đối với cha mẹ cần tâm niệm và thực hiện năm phẩm
hạnh: “Được nuôi dưỡng, tôi sẽ nôi dưỡng lại cha mẹ; Tôi sẽ làm bổn phận
đối với cha mẹ; Tôi sẽ giữ gìn gia đình và truyền thống gia đình; Tôi bảo vệ
tài sản thừa tự; Tôi sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời” [29, tr.542]. Đó là
chuẩn mực ứng xử thể hiện GTĐĐ của người con đối với cha mẹ. Những nội
dung cơ bản về đạo đức của người giữ phận làm con, Thích Ca dạy những nội
dung vẫn đúng, có giá trị và phù hợp với bất kỳ xã hội nào và thời điểm nào.
Đó là: phụng dưỡng cha mẹ bằng lòng kính trọng, biết ơn và đáp đền vì cha
mẹ đã sinh ra thân mình, nuôi dưỡng mình lớn khôn, dạy cho mình hiểu lẽ
106
đạo lẽ đời. Vì thực tế, một mẹ có thế nuôi dạy trưởng thành được chín, mười
người con, nhưng chín, mười người con đùn đẩy nhau không nuôi được cha
mẹ lúc về già. Bảo vệ gia đình và giữ gìn truyền thống cũng chính là trách vụ
của người con, không chỉ theo tinh thần Phật giáo mà đạo hiếu của Nho gia
cũng nhấn mạnh nội dung này. Không thiếu trường hợp, đời ông cha dầy công
gây dựng và giữ gìn truyền thống, cơ nghiệp, nhưng đến đời con cháu thì phá
hoại gia sản, sự nghiệp, làm tiêu tan truyền thống tốt đẹp của gia đình. Vì vậy,
bảo vệ tài sản thừa tự là một chuẩn mực ứng xử, chuẩn mực đạo đức thể hiện
lòng hiếu kính của con cái. Vì tài sản đó chính là công sức, là tâm huyết, là
mồ hôi, nước mắt, thậm chí là máu xương của, ông bà, cha mẹ để tạo nên.
Không chỉ giữ gìn và bảo vệ tài sản thừa tự mà phải làm cho nó gia tăng, sản
sinh và phát triển, đó chính là hạnh hiếu mà người con cần phải làm. Làm
tang lễ khi cha mẹ qua đời là việc quan trọng. Việc làm tang phải đúng lễ, thể
hiện sự ai thương, thành kính, đúng với di huấn của cha mẹ, không trái với
truyền thống văn hóa dân tộc, không hà tiện qua loa, nhưng lại không khuếch
trương hoang phí, điều cốt yếu là giữ được thanh danh của gia đình, cha mẹ.
Dù chỉ là 5 điều quy phạm đạo đạo đức mà Thích Ca chỉ bày cho con người
trong hành trình sống và thực hiện đạo làm con, nhưng nếu thực hành trọn
vẹn bổn phận đó trong sự chân thành và đạo đức là vô cùng khó.
Tóm lại, đối với con cái trong gia đình, Thích Ca chỉ bày những nội
dung thể hiện những giá trị đạo đức cần cho việc thực hiện đạo làm con:
Phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ khi sống;
Thành kính thờ phụng cha mẹ khi qua đời;
Nghe lời và giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ;
Giữ gìn truyền thống gia đình;
Không làm mất danh tiếng gia đình;
Bảo vệ, phát triển tài sản và truyền thống gia đình do cha mẹ để lại.
* Chuẩn mực đạo đức của cha mẹ đối với con cái
Thích Ca dạy: “được con phụng dưỡng như phương Đông, theo năm
cách như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách: Ngăn
107
chặn con làm điều ác; Khuyến khích con làm điều thiện; Dạy con nghề
nghiệp; Cưới vợ xứng đáng cho con; Đúng thời trao của thừa tự cho con”
[29, tr.542]. Đây là năm điều thương tưởng, là năm trách nhiệm cần được cha
mẹ thực hiện đối với con cái của mình, đó là những chuẩn mực ĐĐ gắn với
trách nhiệm lớn lao của các bậc cha mẹ mọi đời. Đây không chỉ là quan điểm
của Phật giáo, mà có sự trùng hợp tự nhiên phản ánh tâm thức và những giá
trị đạo đức mà con người hướng đến trong mọi giai đoạn lịch sử, ở mọi quốc
gia. Quan điểm Nho giáo cho rằng “Dưỡng bất giáo, phụ chi quá”, nghĩa là
nuôi con mà không dạy con nên người, là lỗi của cha mẹ. Trách nhiệm của
cha mẹ không chỉ nuôi cho con cái khôn lớn, mà quan trọng hơn phải chỉ bày
cho con nhận thức và thực hiện những điều thiện lành, ngăn cấm và tránh xa
những điều xấu ác. Ngăn con làm điều ác là để con cái không phạm tội, không
tạo ra lỗi lầm, không phải nhận quả báo xấu trong tương lai. Nhưng nếu chỉ
ngăn ác thì cũng chưa tích lũy được giá trị tốt đẹp gì, nên ngăn ác rồi thì điều
song hành là phải chỉ bày cho con cái những con đường tốt đẹp cần theo,
những việc thiện cần làm, để từ đó tích lũy công đức, lòng từ ái và đạo đức
của con người, để con cái trở thành một người thiện lành, tốt đẹp. Khi con cái
lớn khôn, cha mẹ phải dạy cho con nghề nghiệp để trước hết là con tự nuôi
sống chính mình, sau đó để con trở thành một con người có ích cho xã hội.
Nhưng nghề nghiệp cha mẹ dạy con phải đúng tinh thần của chính mệnh và
chính nghiệp. Đó là những nghề nghiệp chính đáng, làm và thụ hưởng thành
quả lao động bằng chính công sức của mình, không lừa lọc điêu gian, không
sử dụng những tà thuật mê muội lòng người để trục lợi. Khi con cái trưởng
thành, cha mẹ phải lo cưới vợ, gả chồng xứng đáng, phù hợp cho con. Người
vợ, người chồng là bạn đời của con cái, vì vậy, cha mẹ phải thận trọng trong
việc tìm hiểu truyền thống gia đình người con muốn cưới gả, phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh gia đình mình. Việc cưới hỏi phải được thực hiện trên
tinh thần tự nguyện và tình yêu thương, đồng thời tôn trọng ý kiến của con cái
trong việc xây dựng cuộc sống gia đình. Cha mẹ phải chọn thời điểm phù hợp
để trao thừa tự cho con, đúng thời ấy là khi con cái đã trưởng thành, có ý thức
108
bảo vệ truyền thống gia đình và của thừa tự cha mẹ để lại, đúng thời là lúc
trao đồ thừa tự vừa giúp cho con cái xây dựng cuộc sống tốt đẹp lại vừa đảm
bảo việc của cải thừa tự được gìn giữ và phát triển. Nói tóm lại, như lời dạy
của Thích Ca, cha mẹ cần có trách nhiệm hướng dẫn, chỉ bảo, dạy dỗ, gây
dựng cuộc sống và vun vén cho hạnh phúc cả cuộc đời cho con cái.
Qua đoạn kinh văn nêu trên có thể chỉ ra những giá trị đạo đức mà
Thích Ca muốn người làm cha mẹ trong gia đình cần đạt được là:
Nuôi dưỡng con cái và dạy dỗ cho con trưởng thành về trí tuệ, nhân cách;
Chỉ dạy cho con biết và tránh xa điều ác, gần gũi và thực hiện các điều thiện;
Cho con học và thành tựu nghề nghiệp tốt;
Lo lắng hạnh phúc gia đình cho con;
Trao của thừa tự cho con khi thuận dịp.
3.3.4. Chuẩn mực đạo đức trong quan hệ thầy - trò
* Chuẩn mực đạo đức của trò đối với thầy
Thích Ca dạy khi đảnh lễ phương Nam, phải tưởng hiện phương Nam
là thầy, là sư trưởng, và trong khi đảnh lễ phương Nam phải tâm niệm và
gắng gỏi thực hiện năm điều để phụng thờ các bậc sư trưởng. Đó là thể hiện
văn hóa, đạo đức của kẻ học trò, của người đệ tử: “Đứng dậy để chào; Hầu
hạ kính lễ thầy; Hăng hái học tập lời thầy dạy; Tự tay, đích thân phục vụ thầy
bằng lòng kính trọng; Chú tâm học hỏi và thành tựu nghề nghiệp thầy chỉ
dạy” [29, tr. 542]. Có thể thấy rõ, tinh thần đạo đức mà Thích Ca muốn khẳng
định qua lời dạy của ông đối với người học trò, người đệ tử, cốt tủy nhất là
lòng kính trọng thầy, chịu khó học hỏi, ghi nhớ những điều thầy dạy và cuối
cùng đó là thành tựu những điều thầy dạy, mang những lời thầy dạy áp dụng,
thực hành vào cuộc sống và đạt được kết quả tốt như mong đợi. Tinh thần văn
hóa và chuẩn mực đạo đức dành cho người học trò, qua lời dạy của Thích Ca,
lại một lần nữa trùng với lời dạy của Khổng Tử với các đồ đệ của mình.
Không chỉ là sự tôn kính thầy của hàng đệ tử là việc làm cần thiết, giữ lễ với
thầy cả trong cuộc đời, vì “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, mà còn phải mang điều
thầy dạy áp dụng có hiệu quả trong cuộc sống, đó mới thực sự là niềm vui
109
chân thật của việc học tập “học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ”. Không
phải học để có bằng cấp, không phải học để trở thành ông nọ bà kia, có danh
vị cao trong xã hội, mà việc học đầu tiên và cuối cùng là phải hành, phải
mang điều được học vào áp dụng trong cuộc sống của người học. Không chỉ
các bậc vỹ nhân có chung quan điểm, mà quan điểm trên đây của các vị đã
hợp với lòng người và trở thành điều hướng đến của mọi người trong thiên hạ.
Có thể rút ra những giá trị đạo đức qua lời dạy của Thích Ca với người
đi học, những người làm học trò trong xã hội:
Phải kính trọng và thờ phụng ân đức của thầy;
Tinh cần, nỗ lực, gắng công học tập;
Áp dụng lời dạy của thầy vào rèn luyện và thực hành;
Thành công nghề nghiệp tốt đẹp mà thầy chỉ dạy.
* Chuẩn mực đạo đức của thầy đối với trò
Không chỉ học trò phải chu toàn bổ phận với thầy, mà ngược lại,
Thích Ca dạy, về trách nhiệm của thầy tổ với học trò, với đồ đệ của mình:
Được đệ tử phụng dưỡng như vậy, các bậc sư trưởng có lòng
thương tưởng đến các đệ tử theo năm cách: Huấn luyện để tử những
gì mình đã được khéo huấn luyện; Dạy cho đệ tử biết bảo trì những
gì mình được khéo bảo trì; Dạy cho học trò thuần thục các nghề
nghiệp; Khen ngợi, tán dương đệ tử đúng dịp với các bạn bè quen
thuộc; Đảm bảo nghề nghiệp cho đệ tử về mọi mặt” [29, tr.543].
Thích Ca cho rằng, sư trưởng được đệ tử phụng dưỡng như phương
Nam theo năm cách và sư trưởng có lòng thương tưởng đến đệ tử theo năm
cách. Như vậy phương Nam được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi
các sự sợ hãi. Phương Nam đó chính là phương của sự tri ân thầy - trò. Bổn
phận của người thầy với đệ tử như thế chính là thể hiện chuẩn mực văn hóa,
đạo đức nghề nghiệp gắn với một chức phận quan trọng trong xã hội - người
thầy. Quan điểm này của Phật giáo cũng đồng nhất với quan điểm “giáo bất
nghiêm, sư chi đọa” của Nho giáo khi cho rằng dạy học mà không nghiêm,
không hết mình, là lỗi của bậc làm thầy. Người thầy phải giữ được hạnh mô
110
phạm, giáo dục, đó là dạy lại tất cả, truyền thụ cho học trò tất cả những gì
mình được huấn luyện, truyền thụ, không giữ “miếng”. Đồng thời người thầy
cũng phải chỉ bày cho học trò cách để bảo vệ, gìn giữ và luôn phát triển
những gì được học, được truyền thụ. Không chỉ dạy kiến thức xã hội, kiến
thức chuyên ngành, mà trách nhiệm lớn của người thầy là tạo nên những học
trò có đạo đức, nhân cách và tạo cho học trò một nghề nghiệp vững vàng, đủ
để nuôi sống cá nhân và gia đình. Đó là việc dạy hướng vào thực tiễn, việc
dạy hướng vào xã hội, không lý thuyết xuông. Nếu học trò tiến bộ, hoàn thành
xuất sắc những yêu cầu bài học và thực hành thuần thục được những gì người
thầy chỉ dạy thì phải khen ngợi đúng dịp, kịp thời, công khai trước những học
trò khác. Điều đó không chỉ động viên người học trò giỏi mà còn có tác dụng
nhắc nhở, động viện những bạn đồng học của học trò. Đó là một nghiệp vụ sư
phạm cần thiết những người làm thầy phải biết và thực hiện khéo léo. Cuối
cùng, không ai khác, theo Thích Ca, mà chính là người thầy phải đảm bảo
nghề nghiệp cho đệ tử. Việc đảm bảo này có ý nghĩa là nghề nghiệp được học
và công việc được làm phải gắn bó, công việc phải tạo nên thu nhập ổn định,
công việc và thu nhập phải chính đáng đủ làm cho người học trò chuyên tâm
rèn luyện và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp được huấn luyện hơn nữa. Người
thầy phải chịu trách nhiệm về sản phầm đào tạo của mình.
Những giá trị rút ra trên những quy chuẩn đạo đức mà Thích Ca yêu
cầu đối với người làm thầy trong xã hội, đó là:
Phải mẫu mực về trí tuệ, nhân cách và đạo hạnh;
Không giấu kiến thức, kỹ năng;
Hết lòng vì học trò mà chỉ bày những chuyên môn và các kiến thức;
Đảm bảo cho học trò có được nghề nghiệp tốt;
Chịu tránh nhiệm về sản phẩm đào tạo của mình.
3.3.5. Chuẩn mực đạo đức trong ứng xử vợ - chồng
* Chuẩn mực đạo đức trong ứng xử của chồng đối với vợ
Có năm cách người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây, Thích
Ca chỉ dạy: “Kính trọng vợ; Không bất kính đối với vợ; Trung thành với vợ;
111
Giao quyền hành cho vợ; Sắm đồ nữ trang cho vợ” [29, tr.543]. Đó là bổn
phận của người chồng thể hiện chuẩn mực ứng xử, đạo đức trong mối quan hệ
với vợ anh ta, được Thích Ca tuyên thuyết cho bất kỳ người đàn ông có vợ
nào, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Nội dung này thể hiện tinh thần
bình đẳng, tiến bộ xã hội, tôn trọng phụ nữ trong quan điểm của Thích Ca.
Phật giáo cho rằng, người chồng không chỉ làm trụ cột trong gia đình, là
người định hướng và đảm bảo đời sống hôn nhân, mà người chồng còn phải
luôn kính trọng vợ. Vì người vợ là một nửa tạo nên gia đình, người vợ được
cưới gả đàng hoàng và hôn nhân được xây dựng trên tình yêu và tinh thần tự
nguyện. Ý kiến của người vợ luôn phải được tôn trọng trong tất cả công việc
chung của gia đình. Người đàn ông không được thể hiện ý nghĩ, lời nói, hành
động bất kính đối với vợ, coi thường vợ, vì điều đó sẽ dẫn đến ngã mạn, bất
hòa, và đe dọa đến hạnh phúc gia đình. Đó là tinh thần của sự bình đẳng giới
và bình đẳng trong gia đình. Trung thành với vợ, đó là việc gắn bó lợi ích và
cuộc sống của người chồng với người vợ suốt đời, yêu thương chăm sóc và
chung thủy. Dù là trụ cột, nhưng người đàn ông không giữ quyền quyết định
mọi việc mà cần giao quyền cho vợ ở những công việc mà vợ có thể phát huy,
phải tin tưởng và trân trọng sự hiểu biết và năng lực của vợ. Một điều chính
đáng và tiến bộ nữa mà Thích Ca chỉ dạy cho những ông chồng: sắm đồ nữ
trang cho vợ, tặng lễ vật và quà cho vợ vào những dịp cần thiết và phù hợp.
Điều đó vừa thể hiện sự quan tâm, vừa thể hiện sự trân trọng của chồng với
vợ lại vừa thúc đẩy và gia tăng được tình yêu và hành phúc gia đình.
* Chuẩn mực đạo đức trong ứng xử của vợ đối với chồng
Thích Ca cho rằng, mối quan hệ ứng xử để giữ bổn phận theo đạo hạnh
cần phải đến từ hai phía, và bình đẳng với nhau. Kinh chép lời dạy của Thích
Ca rằng: “Được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như vậy, người
vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách: Thi hành tốt đẹp bổn phận
của mình; Khéo léo tiếp đón bà con; Trung thành với chồng; Khéo giữ gìn tài
sản của chồng; Khéo léo và nhanh nhẹn trong công việc” [29, tr.543]. Thực
hiện những chuẩn mực này, thể hiện bổn phận của người vợ trong mối quan
hệ với chồng mình, theo Thích Ca, đó là tiêu chuẩn đạo đức cần thiết và bắt
112
buộc cho tất cả những người đã làm vợ trên thế gian này, không phân biệt địa
vị, giàu nghèo. Thích Ca dạy những người phụ nữ có chồng phải thực hành
bổn phận của người vợ, là giữ ấm hạnh phúc gia đình. Không chỉ khéo léo
trong công việc, mà người vợ còn phải biết giữ gìn tài sản của chồng gây
dựng và giao cho, làm cho tài sản được sinh sôi, phát triển, để làm cơ sở vững
chắc cho việc tạo dựng gia đình và nuôi dạy con cái. Chung thủy với chồng là
điều bắt buộc, ngoài ra người vợ còn phải khéo léo tiếp đón những người thân
bên nhà chồng, thể hiện văn hóa, trách nhiệm và tình thân yêu, sự trân trọng.
Qua lời dạy của Thích Ca với người đàn ông và với người đàn bà trong
quan hệ vợ - chồng của họ, có thể rút ra những giá trị đạo đức:
Vợ chồng phải kính trọng nhau;
Vợ chồng phải chung thủy, trung thành với nhau;
Vợ chồng phải chăm sóc, vỗ về, an ủi nhau về vật chất và tinh thần;
Vợ chồng cùng nhau tạo lập và giữ gìn của cải;
Vợ chồng phải tiếp đón và đối đãi tốt đẹp với người thân của hai bên.
3.3.6. Chuẩn mực đạo đức trong ứng xử với bạn bè
Theo lời Thích Ca, bạn bè sống với nhau cần có lòng thương, chân
thành, và đã là những người bạn với nhau cần phải giữ các bổn phận và các
chuẩn mực đạo đức. Bạn bè phải đối xử với nhau như khi kính ngưỡng đảnh
lễ phương Bắc: “bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, không lường gạt”. Thích
Ca cũng nêu rõ năm cách mà những người bạn đối xử với nhau với tư cách là
các vị thiện nam tử: “Che chở nếu vị thiện nam tử phóng túng; Bảo trì tài sản
của vị thiện nam tử nếu vị này phóng túng; Chở thành chỗ nương tựa khi vị
thiện nam tử gặp nguy hiểm; Không tránh xa khi vị thiện nam tử gặp khó
khăn; Kính trọng gia đình của vị thiện nam tử” [29, tr.544]. Trong dân gian
cũng vẫn có câu “giàu vì bạn” để thể hiện vai trò quan trọng trong việc kết
thân hữu và có một người bạn tốt theo đúng nghĩa. Ý nghĩa của lời dạy là cần
tìm bạn tốt, kết thân với người thiện lành, giữ gìn không làm tổn hại đến tinh
thần và vật chất của bạn, luôn đồng hành, làm chỗ dựa tin cậy, bảo vệ bạn và
tương trợ bạn khi cần thiết, có trách nhiệm kéo bạn tránh xa những điều xấu
ác, bảo vệ, không làm hư hao tài sản của bạn, và tôn trọng gia đình của bạn bè.
113
Như vậy, đối với bạn bè, những giá trị đạo đức cần hướng tới theo lời
chỉ dạy của Thích Ca là:
Chân thành với nhau và bảo vệ nhau;
Làm chỗ dựa về tinh thần cho nhau;
Bảo vệ của cải, tài sản của nhau
Cũng giúp nhau tránh xa điều xấu ác, phát triển những tốt lành;
Kính trọng gia đình bạn và gìn giữ danh tiếng của bạn.
3.3.7. Chuẩn mực đạo đức trong ứng xử cấp trên - cấp dƣới
* Ứng xử của cấp trên với cấp dưới, người giúp việc
“Có năm cách một vị chủ nhân đối xử với hạng nô bộc, giúp việc như
phương Dưới: Giao việc đúng theo sức lực của họ; lo cho họ ăn uống và tiền
lương; Điều trị cho họ khi bệnh hoạn; Chia sẻ các mỹ vị đồ ăn thức uống đặc
biệt cho họ; Thỉnh thoảng cho họ nghỉ phép” [29, tr.544]. Đó là bổn phận của
người chủ, bậc bề trên đối với người làm công, cấp dưới của mình. Bổn phận
đó chính là những chuẩn mực văn hóa đạo đức gắn với chức phận của người
chủ. Người chủ, cấp trên phải biết rõ về năng lực và giao việc đúng năng lực
cho cấp dưới của mình; phải trả công và đãi ngộ lương thưởng xứng đáng; khi
người làm công gặp bệnh tật thì người chủ phải có trách nhiệm lo trị thuốc
thang; chia sẻ các giá trị vật chất cho người giúp việc và cho người giúp việc
nghỉ phép để thực hiện công việc gia đình, tái tạo lức sao động là việc làm cần
thiết và cũng là trách nhiệm đạo đức của người làm chủ.
Yêu cầu Thích Ca đưa ra gắn với giá trị đạo đức cấp trên, người lãnh
đạo đối với cấp dưới, người giúp việc là:
Hướng dẫn chuyên môn, nghề nghiệp cho cấp dưới;
Giao cho nhân viên, cấp dưới công việc phù hợp;
Trả thù lao xứng đáng, chia sẻ lợi ích cho nhân viên cấp dưới;
Cho cấp dưới, người lao động nghỉ phép;
Chăm sóc sức khỏe và điều trị khi cấp dưới bị bệnh;
Hỗ trợ nhân viên, cấp dưới khi gặp khó khăn.
114
* Đạo đức trong ứng xử của cấp dưới với cấp trên, người chủ
Theo Thích Ca, khi đã được người chủ đối xử và giữa bổn phận với
năm cách như phương Dưới, những người làm công, cấp dưới, tôi tớ cần phải
có lòng thương, sự tôn trọng đối với vị chủ nhân và đối xử theo năm cách như
phương Trên: “Dậy trước khi chủ dậy; Đi ngủ sau chủ; Tự bằng lòng với các
vật đã cho; Khéo làm các công việc được giao; Đem danh tiếng tốt đẹp đến
cho chủ”[31, tr. 544-545]. Như vậy, năm điều bổn phận này chính là chuẩn
mực đạo đức bắt buộc, cần yếu dành cho người giúp việc, kẻ làm công, bậc
tôi tớ, cấp dưới trong mối quan hệ với người chủ hay cấp trên của mình. Kẻ
bề tôi, người giúp việc khi đã được người chủ, cấp trên đối đãi hợp tình hợp
lý thì trách nhiệm của anh ta cũng phải đối đãi xứng đáng với những gì được
ân sủng: nhiệt tình và trách nhiệm với công việc không nề hà thời gian; hoàn
thành cao nhất nhiệm vụ được giao; bằng lòng đối với những đãi ngộ vật chất
và giữ gìn tiếng tăm, truyền thống, uy tín của ông chủ, gia đình chủ và cơ
quan tổ chức do cấp trên lãnh đạo quản lý.
Giá trị đạo đức gắn với trách nhiệm của người làm công, nhân viên, cấp
dưới trong quan hệ với ông chủ, cấp trên được Thích Ca hướng các đệ tử tại
gia của mình đến, đó là:
Nhiệt tình, tâm huyết và dành thời gian nhiều cho công việc;
Nghiêm túc thực hiện giờ giấc và quy chế làm việc;
Thực hiện tốt các công việc được giao;
Bằng lòng với khoản thù lao được nhận;
Giữ uy tín cho cấp trên và tổ chức.
3.3.8. Quan điểm đạo đức thể hiện trong cách đánh giá, nhìn nhận
những ngƣời hạ tiện trong xã hội
* Quan điểm đạo đức thể hiện trong nhìn nhận đối với tên cướp
Trong lần nói chuyện với Thích Ca, vua Pasenadi nước Kosali nói về
một tên cướp hung tợn tên là Angulimala: “Có tên cướp tên là Angulimala, là
tên thợ săn, bàn tay vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có lòng từ mẫn đối với
chúng sinh. Do vì nó, các làng trở thành không làng, các thị trấn trở thành
115
không thị trấn, quốc độ trở thành không quốc độ. Do nó luôn giết người, nó
mang một vòng hoa làm bằng ngón tay người” [31, tr.581]. Trước một tên
cướp manh động, hung hãn, giết người như trở bàn tay, đáng lẽ mọi người
đều phải kinh sợ, xa lánh, nhưng Thích Ca không như thế. Kinh điển ghi chép
rằng, với lòng nhân từ, bao dung, cùng việc tin vững chắc vào khả năng có thể
cải hoán trở nên tốt đẹp của bất kỳ con người nào, dù là người đã phạm trọng
tội, cộng khả năng thuyết phục đi vào lòng người, Thích Ca đã gặp và làm
thay đổi nhận thức và hành vi của tên cướp. Thích Ca đã làm cho tên cướp
Angulimala nhận ra tội nghiệp, sám hối, và phát tâm xuất gia trở thành một
con người tu bồi đạo hạnh. Kinh chép rằng: “Angualimala cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, từ bỏ sát sinh, từ
bỏ lấy của không cho, từ bỏ nói láo, ăn một ngày một bữa, sống phạm hạnh,
giữ giới, hành trì thiện pháp” [31, tr.582]. Thấy điều vi diệu tưởng chừng
không bao giờ xảy ra như vậy được Thích Ca giúp cho thành tựu, trừ được
mối họa cho nước, cho dân, lại biến một tên vô đạo thành một vị tu hành
phạm hạnh, vua Pasenadi nước Kosali đã chân thành thưa với Thích Ca: “Con
sẽ đảnh lễ, hay đứng dậy, hay đưa ghế mời ngồi, hay lo liệu bốn sự cúng
dường Angulimala” [31, tr.583]. Câu chuyện không những thể hiện quan
điểm nhân văn của Thích Ca mà còn thể hiện ý nghĩa cao đẹp và nhân văn của
giá trị đạo đức Phật giáo.
* Quan điểm đạo đức thể hiện trong nhìn nhận đối với gái làng chơi
Trong bất kỳ xã hội nào, dù truyền thống hay hiện đại, những người
thuộc tầng lớp hạ tiện làm những việc hạ tiện, như gái bán dâm, luôn bị xã hội
ruồng rãy và xa lánh. Tuy nhiên, với lòng bao dung, với tâm bình đẳng, Thích
Ca đã nhìn nhận việc một người phụ nữ phải hành một nghề vô đạo đức, dù là
xấu ác, nhưng chắc có lý do cực chẳng đã. Và dù con người ta có đang phải
gánh chịu sự phỉ báng vì những hành động xấu, được xếp vị trí thấp nhất
trong xã hội, nhưng vì hạt giống tốt lành trong lòng mỗi con người luôn có xu
hướng được vun bồi để nảy nở, nên Thích Ca tin tưởng và tạo cơ hội cho
người đó được tiếp cận với chính pháp, với đức hạnh để tự cách mạng chính
116
mình. Thích Ca không những không xa lánh mà còn cố tình thuyết giảng cho
gái làng chơi tên là Ambapàli để hiểu được chính pháp. Sau khi nghe Thích
Ca thuyết pháp với những lời lẽ đẹp đẽ và đức hạnh, Ambapàli đã ngộ ra lỗi
lầm và phát tâm cúng dàng bữa cơm đối với Thích Ca và đệ tử của ông. Cho
dù một vị công tử cũng muốn đón thầy trò Thích Ca để cúng dàng, nhưng với
sự kính pháp và trân trọng đức hạnh của Thích Ca, cùng việc ý thức được giá
trị của sự cúng dàng đúng pháp, cô gái đã từng là gái làng chơi Ambapàli
khảng khái: “Dầu quý Công tử có cho tôi cả thành Vesàli cùng với các đất
phụ thuộc, tôi cũng không nhường bữa cơm quan trọng này”. Sau khi cúng
dàng Thích Ca thọ dùng cơm chay xong, cô còn phát tâm cúng dàng giáo
đoàn Phật giáo cả khu vườn mà cô sở hữu. Từ đó, Ambapàli trở thành một
người tu tập và giữ giới hạnh theo tinh thần Phật tử [31, tr.576-578].
Với quan điểm biện chứng và tin vào sự biến đổi tốt đẹp của con người,
thậm chí là với những người xấu, phạm tội trước đó, Thích Ca vẫn chỉ bày và
hướng đến các giá trị đạo đức mang tính nhân văn, nhân bản cao cả:
Chỉ cho người phạm lỗi thấy những lỗi lầm;
Chỉ cho người phạm lỗi cách sửa trị lỗi lầm;
Bao dung, không xa lánh, động viên tinh thần người đã từng phạm lỗi;
Tạo điều kiện, giúp đỡ người phạm lỗi trở thành người tốt;
Tin tưởng và phát huy những điều tốt đẹp trong những người đã mắc lỗi lầm.
3.4. BIỂU HIỆN GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRONG MỐI QUAN HỆ
GIỮA NGƢỜI VỚI VẬT
3.4.1. Chuẩn mực đạo đức thể hiện trong mối quan hệ với tài vật
Thích Ca đặc biệt phê phán hành động tà hạnh, phi đạo đức “lấy của không cho”. Trong Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống, Thích Ca đã nhắc đi nhắc lại đến 14 lần: “Người này lấy vật không có của những người khác, tức là ăn trộm” [29, tr. 365-371]. Thích Ca đặc biệt phê phán và phỉ báng hành động bất thiện đó. Lấy của không cho, từ món tài vật nhỏ đến khối tài sản lớn, đó là vơ vét, là chiếm dụng, là tham ô, là đục khoét, là xâu mọt của quốc gia. Nó là nguồn gốc của những tranh giành, của sở hữu phi pháp,
117
của tiêu sài bất chính. Trong quan hệ cá nhân với cá nhân, đó là trộm cắp. Trong quan hệ cá nhân và xã hội, đó là tham ô, chiếm dụng bất hợp pháp. Trong quan hệ quốc gia với quốc gia, đó là bóc lột, là xung đột, là chiến tranh. Vì vậy, lấy của không cho, từ trong tư tưởng đến hành động đều là mầm họa. Đó là việc làm đáng bị chê trách, bị phỉ báng và phải bị trừng phạt.
Về hưởng thụ và mong cầu tài sản cá nhân, Thích Ca dạy người gia chủ
có ba điều đáng quở trách:
Ở đây, này gia chủ, có hạng người hưởng dục, tầm cầu tài sản phi pháp với sức mạnh là điều khiển trách thứ nhất. Khi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng uy vũ và sức mạnh xong người ấy thấy bất an trong lòng vì việc chiếm đoạt tài sản bằng sức mạnh là điều khiển trách thứ hai. Không có chia sẻ mà độc dụng tài sản, không mang tài sản để bố thí, giúp đỡ người khác là khiển trách thứ ba. [41, tr.480].
Những điều được tán thán đối với việc tìm cầu và hưởng thụ tài sản cá
nhân, Thích Ca dạy:
Này gia chủ, vị hưởng dục này tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh. Sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc, hân hoan, chia sẻ và làm các công đức. Người ấy hưởng thọ tài sản ấy, đúng chuẩn mực, đúng pháp và người ấy đáng được ca ngợi [41, tr.485-486].
Khi trả lời một nữ du sỹ ngoại đạo tên là Sùcimukhi hỏi về việc thụ dụng đồ ăn vừa khất thực về và nguồn gốc của đồ ăn đấy có phải có được một cách phi đạo đức với các tà hạnh hay không, Thích Ca trả lời:
Nuôi sống bằng những tà mạng như địa lý và súc sinh minh (nghề hèn hạ), ăn cúi mặt xuống. Nôi sống bằng những tà mạng như thiên văn và súc sinh minh (nghề hèn hạ), ăn ngưỡng mặt lên. Nôi sống bằng những tà mạng như đưa tin tức, làm trung gian môi giới, ăn hướng mặt về bốn phương chính. Nuôi sống bằng những tà mạng như bói toán và các nghề hèn hạ, ăn hướng mặt về bốn phương phụ. Ta không nuôi sống bằng những tà mạng và các nghề hèn hạ. [35, tr.389-390].
118
Suy cho cùng, mỗi người sống trên cuộc đời này dù có làm nghề nọ, nghiệp kia, nhưng cũng không ngoài hai chữ kiếm sống. Kiếm ăn là để nuôi thân, từ đó mới có cơ sở để làm những điều cao đẹp và to lớn khác. Tuy nhiên, không thể vì miếng ăn mà làm bất kỳ công việc hay nghề nghiệp nào. Có những công việc, dù trong xã hội xưa hay xã hội nay, được coi là nghề, nhưng thực đó là những nghề không xứng đáng, không ngay chính. Việc kiếm lợi từ những công việc đó đều gọi là tà mạng, hay tà mệnh (hành động kiếm sống không ngay chính) đi ngược với những hành động, việc làm kiếm sống chính đáng (chính mạng, hay chính mệnh). Thích Ca chỉ ra những tà mạng đó là: làm nghề xem xét địa lý, chiêm đoán thiên văn, trung gian môi giới tin tức, bói toán. Nó không chính đáng và được cho là tà mạng vì nó dựa trên niềm tin không có căn cứ của người khác, nó được thực hiện không trên cơ sở của luật nhân - quả. Và phần lớn, nó được thực hiện trên những sự phỏng đoán, dọa dẫm, lợi dụng niềm tin của người khác. Những công việc này hiện nay chúng ta đang cho là mê tín dị đoan. Thích Ca phê phán những hành vi thể hiện mê tín dị đoan. Đó là các hành vi không ngay chính, vô đạo đức và cần được xã hội phê phán, loại bỏ. Nếu kiếm ăn, trục lợi từ các hành vi đó đều là hành vi phi pháp, vô đạo đức.
Khi vua Pasennadi nước Kosala đi đến xem tài sản của vị triệu phú gia chủ ở Sàvatthi chết mà không có con nối dõi và thừa kế được xử lý như thế nào, Thích Ca nói với vua Pasennadi:
Thưa đại vương, một kẻ không phải chân nhân, dầu cho có được tài sản lớn không đem lại an lạc cho mình, không đem lại an lạc cho cha mẹ, không đem lại an lạc cho vợ con, không đem lại an lạc cho các người phục vụ, cho các người làm công hoan hỷ, không đem lại an lạc cho bạn bè thân hữu. Tài sản nếu không thọ dụng chân chính, đưa đển tổn giảm, không đưa đến thọ thưởng [33, tr.201-202]. Nghĩa là Thích Ca phê phán việc thọ dụng tài sản phi nghĩa và không do mình tạo lập chính đáng. Ông nhấn mạnh tính chân chính của nguồn gốc tài sản: Và bậc chân nhân, thưa đại vương, có được tài sản lớn, đem lại an lạc cho mình, đem lại an lạc cho cha mẹ, đem lại an lạc cho vợ con, đem lại an lạc cho người phục vụ, cho người làm công, đem lại an
119
lạc cho bạn bè thân hữu. Các tài sản của người ấy thọ dụng chân chính, thì vua chúa không cướp đoạt, hay trộm cắp không cướp đoạt, hay không bị lửa đốt, hay không bị nước cuốn trôi, hay không bị con cháu thừa tự thù nghịch cướp đoạt. [33, tr. 202-203].
Tài sản chân chính là của mình, do mình tạo lập một cách chính đáng,
không phải dùng vũ lực cướp đoạt, không dùng các hành động phi pháp tạo
tác, không dùng các công việc tà mạng tạo dựng sẽ là chính đáng thuộc về
mình. Chỉ khi tạo dựng tài sản như vậy và thọ dụng tài sản như vậy mới được
thực sự an lạc, hạnh phúc, mới không bị nhà chức trách sung công, thậm chí
không sợ bị cướp bóc hay thù nghịch chiếm đoạt. Tài sản là chính nghĩa thì
đến thiên tại địch họa cũng không sợ làm tổn hại. Đó là cách tạo lập và thụ
dụng tài sản phù hợp với những chuẩn mực đạo đức.
Cũng về nội dung hưởng thụ vật dục, khi nói pháp với vị thôn trưởng
Ràsiya, Thích Ca chỉ rõ:
Này Thôn trưởng, có người hưởng thụ vật dục, cầu tìm tài sản phi
pháp và dùng sức mạnh, người ấy không tự vui sướng, không hoan
hỷ, không san sẻ, không làm các công đức. Người ấy hưởng thụ với
tâm tham trước, đắm say, phạm tội, không thấy sự nguy hiểm.
Người ấy bị chỉ trích [36,tr.522-523].
Ngược lại là người được tán thán, được ngợi khen:
Ở đây, này Thôn trưởng, có người hưởng thọ vật dục, cầu tìm tài
sản hợp pháp và không dùng sức mạnh. Người ấy tự mình vui
sướng, hoan hỷ, san sẻ và làm các công đức. Người ấy hưởng thụ
các tài sản ấy, không có tham trước, không có say đắm, không có
phạm tội, vị ấy được tán thán [36, tr.530-531].
Đối với tài vật thì có hai điều, đó là tạo lập và thụ dụng. Thích Ca chỉ
rõ, tạo lập hay cầu tìm phải hợp pháp, nghĩa là đúng với các chuẩn mực đạo
đức, quy tắc ứng xử xã hội, phù hợp với quy định của pháp luật, và đặc biệt
không dùng vũ lực. Với việc cầu tìm tài sản, Thích Ca nhấn mạnh, phải bằng
con đường chính nghĩa, tự thân, bằng công sức và trí tuệ. Đặc biệt không
được dùng sức mạnh, đe dọa vũ lực, cướp bóc, chiếm đoạt bằng vũ lực. Đó là
120
cầu tìm và tạo lập tài sản hợp pháp. Đối với việc thụ dụng tài vật thì cũng có
hai điều, tự thân thụ dụng thì phải giản ước, tiết kiệm; chia sẻ cho người khác
thụ dụng thì phải chân thành, bằng tình yêu thương và trách nhiệm đối với
người khác, nhất là những người thiệt thòi và yếu kém trong xã hội. Việc chỉ
bày cụ thể, chi tiết cho từng đối tượng, Thích Ca muốn tuyên truyền những
giá trị đạo đức trong việc ứng xử với tài vật là:
Không trộm cắp và tạo tác từ các hành động phi pháp;
Xây dựng, tạo tác chính đáng từ chính nghề nghiệp, năng lực bản thân;
Tiết kiệm, không hoang phí, chia sẻ cho cho cộng đồng cùng thụ hưởng;
Không tham đắm thụ hưởng tài sản và thường xuyên làm các công đức.
3.4.2. Chuẩn mực đạo đức thể hiện trong mối quan hệ với động vật
Trong Kinh người chăn bò, Thích Ca nói với ông Anathapindika (Cấp
Cô Độc) về mười một đức mà người chăn bò cần phải có trong việc đối xử
với đàn bò của mình, để cho đàn bò được phát triển và hưng thịnh:
Một người chăn bò cần phải biết chăm sóc và gìn giữ đàn bò của
mình mạnh khỏe, phát triển, thường tăng lên về số lượng. Người
chăn bò ấy phải biết tìm nơi cỏ non và sạch sẽ cho bò ăn, tìm nơi
nước trong và sạch sẽ cho bò uống, tìm nơi trong lành, mát mẻ và
yên tĩnh để buộc giữ cho bò nghỉ. Lại thêm nữa, người chăn bò ấy
phải xông khói để đuổi các loài ruồi muỗi cắn hút đàn bò. Người
chăn bò ấy cũng phải thường tắm cho đàn bò để xua đuổi các loài
bọ chét bám ký dưới lớp lông bò. [30, tr. 481-482].
Như vậy, Thích Ca dạy, không chỉ đối xử với người mà đối với vật hay
động vật, con người cũng cần có những quy chuẩn về ứng xử, đạo đức nhất
định. Đó là điều bắt buộc nếu muốn tăng trưởng các lợi ích và đạo đức.
Về cách hành xử và thuần phục voi, Thích Ca nói lại lời của một vị
Vương tử với người tượng sư (người huấn luyện voi):
Này Aggivessana, người điều phục voi đóng một cọc trụ lớn vào đất, cột cổ con voi rừng, để điều phục nếp sống rừng của nó, để điều phục tâm tư rừng núi, để điều phục sự ưu tư, mệt nhọc, phiền não của núi rừng, để làm cho nó thích thú với thôn làng, và làm cho
121
nó quen thuộc với nếp sống loài người. Rồi lại nói với nó bằng những lời nhẹ nhàng, đẹp tai, chân tình, đi đến tâm, thanh nhã, khiến nhiều người vui thích, khiến nhiều người hoan hỷ. Khi con voi rừng đã được nhiếp phục và dạy dỗ thuần phục như thế người điều phục mang cỏ thơm đến cho nó ăn và mang nước sạch đến cho nó uống như một hành động ghi nhận và thưởng tặng [32, tr.344-345]. Như vậy, Thích Ca dạy, đối với một con voi rừng, để huấn luyện thuần thục nó, làm cho nó quen với cuộc sống con người, giúp ích cho con người thì cần phải điều phục được thú tính hoang dã của nó bằng phương pháp cứng rắn, như đóng cột trụ lớn để cột cổ voi, sau đó vẫn phải dùng phương pháp nhẹ nhàng là nói lời nhẹ nhàng, thanh nhã, khiến voi chú tâm lắng nghe và học hỏi để chế ngự được cái tính hoang dại kia, và cuối cùng, khi đã thuần thục được, phải cho nó ăn cỏ và uống nước, đó là những phần thưởng đích đáng và cần thiết. Với tinh thần bình đẳng và tôn trọng mọi loài. Thích Ca cho rằng, các loài chúng sinh đều bình đẳng như nhau. Cũng như con người, động vật cũng có tri giác, cảm nhận, đặc biệt khi nó gắn bó thân thiết với con người, động vật cũng biết cảm thụ những điều kiện thuận lợi hay mệt nhọc, cũng muốn tiếp nhận sự đối đãi nhẹ nhàng, sự chăm sóc cẩn thận và gần gũi. Vì vậy, với động vật cũng nên dùng tâm thế hành xử như với con người. Đó là lời dạy của Thích Ca mang đầy đạo đức trong việc ứng xử với động vật. Thích Ca đã chỉ ra những giá trị đạo đức mà một người chủ chăn vật nuôi phải đạt được, đó là:
Phải dạy dỗ, uốn nắn vật nuôi để bớt đi tính hoang dã; Phải làm cho vật nuôi thân thiện và quen với cuộc sống con người; Dạy cho vật nuôi những kỹ năng, thói quen tốt để trở nên có ích; Chăm sóc, nuôi dưỡng và cổ vũ, vỗ về chúng bằng tình yêu thương. 3.5. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA GIÁO TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRONG KINH TẠNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY PÀLI
3.5.1. Một số đánh giá khái quát về những biểu hiện giá trị đạo đức
qua kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli
Có thể nói, qua việc khảo toàn bộ nội dung kinh tạng Phật giáo Nguyên
thủy văn hệ Pàli, với năm bộ Nikaya, gồm 24 tập kinh sách, có thể thấy:
122
Về phân bố: những biểu hiện GTĐĐ thể hiện tập trung trong bốn bộ
kinh: Kinh Trường bộ (Dìgha Nikàya); Kinh Trung bộ (Majhima Nikàya);
Kinh Tương ưng bộ (Samyutta Nikàya); Kinh Tăng chi bộ (Angttara Nikàya).
Nội dung trên được đề cập ít hơn trong Kinh Tiểu bộ (Khuddaka Nikàya), vì
lý do, nội dung của bộ kinh này đề cập nhiều hơn đến Phật sử, chuyện tiền
thân của Phật Thích Ca, chuyện về thiên cung, ngạ quỷ và những nội dung
khác mang tính văn thơ, phúng tụng, thi kệ.
Về nội dung: biểu hiện GTĐĐ trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy
văn hệ Pàli được Thích Ca thuyết giáo và đồ đệ của ông ghi chép lại đề cập
đến những tiêu chuẩn đạo đức, những quy tắc, những chuẩn mực ứng xử, từ
việc tu rèn cá nhân theo những điều thiện, tránh xa và dứt trừ những việc ác,
đến việc thực hiện bổn phận của mỗi người trong xã hội, trong gia đình, thậm
chí trong cả việc thực hiện những công việc thường nhật trong cuộc sống. Đó
là bổn phận của một vị quân vương với những tiêu chuẩn đạo đức của người
chăm sóc và có trách nhiệm phục vụ, bảo vệ thần dân. Đó là bổn phận của
một người chủ, người quản lý đối với người làm công, thợ thuyền. Đó là bổn
phận và những chuẩn mực đạo đức quy định cho người thầy và người trò
trong trường lớp. Đó còn là trách nhiệm, chuẩn mực đạo đức của người con
đối với cha mẹ. Đó là bổn phận và những chuẩn mực ứng xử, đạo đức của
người vợ đối với người chồng. Trong những lời dạy của mình, Thích Ca cũng
đưa ra thái độ, cách đánh giá và cách hành xử, đối với những người lầm lỡ,
lạc đường, có tội lỗi trong xã hội. Đó là những chuẩn mực về lòng bao dung,
sự sẻ chia và giúp đỡ để những người xấu, ác trong xã hội có điều kiện được
tiến bộ, được hạnh phúc và an lạc trong cuộc đời.
Về đối tượng: là con người trong đời sống xã hội với mọi mối quan hệ:
từ phổ quát, đến cụ thể; từ cá nhân, đến con người trong các mối quan hệ với
cha mẹ, con cái, vợ, chồng, bạn bè, thầy giáo, học trò, lãnh đạo, người giúp
việc, thậm chí từ phẩm hạnh một vị vua, vị trưởng giả, đến người chăn bò,
người thợ rèn, người quản tượng, và hạ đẳng nhất cho đến tên trộm cướp và
gái làng chơi.
123
Trong bất kỳ cuộc nói chuyện nào dù là do người đối diện hỏi, dù là do
Thích Ca chủ động tuyên thuyết, dù là việc công, việc xã hội, việc cai trị đất
nước hay những công việc thường nhật của người hỏi, tùy thuộc và căn cơ,
trình độ của người đối diện, Thích Ca đều nên lên những chuẩn mực ĐĐ tốt
đẹp cần hướng đến, những điều cấm kỵ cần tránh bỏ để trưởng dưỡng đạo
hạnh của con người, bất kể là người tu hay người cư sỹ, bất kể vua quan,
khanh tướng hay người lao động tự do. Ta thấy nổi lên trong tư tưởng Thích
Ca quan điểm vị nhân sinh cao cả. Ông ca ngợi, tán thán những đức hạnh và
việc làm tốt đẹp bao nhiêu thì ông phê phán, đả phá việc thiếu đức hạnh và
việc làm xấu ác bấy nhiêu. Nhưng hơn ai hết, ông không phê phán và đả phá
con người, mà ngược lại, ông trân trọng phẩm giá con người. Thích Ca chỉ
phê phán những hành động xấu, ý niệm xấu, lời nói xấu và những biểu hiện
xấu của sự thiếu đức hạnh, vụ lợi, vị kỷ, nhiễm ô. Ông yêu thương con người
và trân trọng con người. Ông cho rằng, không có sự phân cấp sang - hèn, quý
- tiện giữa những con người có nước mắt cùng mặn và máu cùng đỏ. Chỉ có
nhân phẩm - những biểu hiện của GTĐĐ làm người ta trở thành đáng được ca
ngợi hay đáng bị phê phán. Ông cũng cho rằng, đạo đức, phẩm hạnh của con
người, cũng như niềm hạnh phúc, an lạc, giống như sự mặn, sự nhạt, sự nóng, sự
lạnh, không thể đứng ngoài mà cảm nhận, phải thực chứng, phải đích thân thực
hiện thì mới có trải nghiệm và thành tựu. Nghĩa là, nhân phẩm, đạo hạnh, đạo
đức của của người phải do rèn luyện, không phải sinh ra mà có, phải khổ nhọc
vun bồi, không thể mua bằng tiền của, hay không thể xin ai ban phát. Con người,
đương nhiên có đủ sự xấu xa và cao đẹp. Và, những xấu xa là điều con người
cần chán bỏ, những cao đẹp là điều con người cần hướng tới và thành tựu nó.
3.5.2. Một số đặc điểm giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo
Nguyên thủy văn hệ Pàli
Từ những trích dẫn cụ thể, qua phân tích và đánh giá ở trên, có thể rút
ra một số đặc điểm giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn
hệ Pàli như sau:
Thứ nhất, giá trị đạo đức thể hiện trong kinh tạng Pàli vận hành trong
đời sống xã hội theo quy luật của nhân - quả và không nằm ngoài quy luật
124
nhân -quả. Đây là điều đặc biệt riêng có, xuyên suốt và thống nhất trong giáo
lý Phật giáo. Điều này làm cho giá trị đạo đức Phật giáo khác với bất kỳ quan
điểm đạo đức hay giá trị đạo đức của tôn giáo nào. Không giống như quan
niệm của một số tôn giáo, rằng đạo đức và giá trị đạo đức do đấng sáng tạo
sinh ra hay mạc khải. Phật giáo cho rằng, mọi thứ đều có tính biện chứng của
nó, và giá trị đạo đức cũng vậy. Không có điều ác nào tự sinh ra, cũng không
có điều thiện nào tự đưa tới. Mọi hành vi đạo đức, giá trị đạo đức người ta
nhận được đều là kết quả của quá trình vận động, thực hành và rèn luyện thân,
khẩu, ý. Một người chuyên lo tu tập, rèn rũa phẩm hạnh và đạo đức ắt sẽ có một
đời sống tốt đẹp, an lạc mà ở đó các giá trị đạo đức được thể hiện. Ngược lại, với
một người không lo gìn giữ hành động, lời nói, việc làm theo những quy chuẩn
đạo đức người đó sẽ phải nhận những đau khổ do chính hành động, lời nói, việc
làm của họ đưa lại. Không ai khác ngoài con người, dù có là thượng đế, quỷ
thần, hay người khác chi phối được đời sống đạo đức, giá trị đạo đức của một
ai đó được thụ hưởng hay gánh chịu. Đó chính là quy luật nhân - quả phản
ánh trong giá trị đạo đức Phật giáo.
Thứ hai, trên cơ sở những luân lý, những chuẩn mực, giá trị đạo đức
trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli hướng tới hạnh phúc, an
lạc của con người, đề cao giá trị con người. Một cuộc sống an lạc, phạm hạnh,
thanh tịnh, lành mạnh, dẹp bỏ những điều bất thiện, gây dựng những điều
thiện lành, hướng con người đến sự toàn thiện, đó là mục đích tối hậu của giá
trị đạo đức Phật giáo. Phật giáo tin tưởng rằng, con người có thể rèn luyện, tu
tập, vun bồi những phẩm hạnh, nhân cách cao đẹp. Và chính con người, chứ
không phải loài nào khác, sẽ thành công trong quá trình xây dựng và chinh
phục các giá trị đạo đức do chính mình mang lại. Không ai có thể tốt mãi, nếu
không tiếp tục rèn rũa, thực hành những điều tốt đẹp. Cũng thế, không ai có
thể xấu mãi, nếu họ biết sửa trị, thực hành theo những điều tốt đẹp, ý nghĩa và
giá trị. Phật giáo chủ trương mọi con người đều có thể trở nên tốt đẹp, toàn
thiện, toàn mỹ, dù họ đã từng là người xấu xa, phạm lỗi. Tin tưởng vào năng
lực của con người, trong đó có năng lực phát khởi và hiện thực hóa các giá trị
đạo đức, đó là nhân sinh quan, đạo đức quan nhân văn của Phật giáo.
125
Thứ ba, giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli
thể hiện sự bình đẳng giữa con người với con người, giữa con người với mọi loài.
Giá trị đạo đức Phật giáo hướng tới mọi đối tượng, không phân biệt đẳng cấp, giới
tính, sắc tộc, vị trí xã hội. Từ ông vua, bậc vương giả, đến người nông dân, nhà
buôn, người chăn bò hay người thợ rèn, thậm chí là tên cướp hay gái làng chơi,
đều có trách nhiệm hiện thực hóa giá trị đạo đức trong đời sống của chính họ. Mọi
con người đều bình đẳng để thành tựu giá trị đạo đức, cũng như thụ hưởng những
điều tốt đẹp do giá trị đạo đức mang lại. Đồng thời, mọi con người đều phải chịu
trách nhiệm về những hành vi của mình theo sự chi phối của chuẩn mực đạo đức.
Đó là tính bình đẳng trong giá trị đạo đức. Việc ứng xử giữa người với người
được chi phối thông qua những chuẩn mực, giá trị đạo đức. Cũng như vậy, việc
đối xử với động vật, thú nuôi hay các món tiền tài, vật chất đều cần phải tuân thủ
những chuẩn mực đạo đức và hướng tới các giá trị đạo đức.
Thứ tư, giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli
bắt nguồn từ quan điểm vô ngã, hướng đến sự lợi tha, mang lại lợi ích cho số
đông. Có thể thấy rõ điều này từ những giá trị đạo đức phổ quát, như quan điểm
thiện - ác, tốt - xấu, bình đẳng, trọng sinh, đến những chuẩn mực đạo đức cá
nhân những điều nên làm, những điều cần tránh, hay những giá trị đạo đức cần
hướng tới trong các mối quan hệ gia đình và xã hội đều vì mục đích mang lại lợi
ích, điều tốt đẹp cho người khác và cho chính mình, hoặc nếu không mang lại
những tốt đẹp hơn cho mình thì phải mạng lại những tốt đẹp cho người khác. Đó
là quan điểm vị tha, vô ngã trong tinh thần Phật giáo. Cũng đúng như lời tuyên
thuyết của Thích Ca, Phật giáo ra đời vì hạnh phúc của chúng sinh và loài người,
những giá trị đạo đức Phật giáo hướng đến cũng là để phục vụ mục đích mang
lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho số đông, cho nhân sinh, mà hạ thấp dẫn đến xóa
bỏ cái tôi, cái bản ngã. Đó chính là giá trị nhân văn của đạo đức Phật giáo.
Thứ năm, giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ
Pàli hướng con người tới sự xả bỏ những dục lạc, tài vật và những điều phi
pháp. Phật giáo cho rằng, tài vật, dục lạc là những điều ngăn trở sự rèn luyện
và giữ gìn những phẩm hạnh đạo đức. Không những thế, tài vật, dục lạc còn
là mầm mống của những khổ đau, tranh giành, xung đột, đi ngược lại với việc
126
thành tựu các giá trị đạo đức. Vì vậy, để đạt được giá trị đạo đức, con người
phải biết giữ mình, biết đủ, xa lìa những cám dỗ của tài vật, dục lạc tầm
thường, nhất là những điều phi pháp, phi lễ, không đúng với chuẩn mực và
quy tắc ứng xử. Không tham ái, xa lìa dục vọng và những điều sở hữu phi
pháp, đó là con đường bắt buộc để gây dựng và đạt được các giá trị đạo đức.
Thứ sáu giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ
Pàli được nhìn nhận và xây dựng trên quan điểm về sự vô thường. Vạn vật
đều biến đổi không ngừng, từ tự nhiên, xã hội đến tư duy con người. Không
có bất cứ thứ gì là vĩnh cửu. Đó là quan điểm về vô thường. Bởi vậy, những
giá trị đạo đức cũng vận hành trong sự chi phối đó. Nó không đứng yên và
không là tiêu chuẩn bất biến. Tuy nhiên, giáo lý Phật giáo cho rằng, mọi thứ,
kể cả con người, đều không có tự ngã, không có tự tính, mà nó là sự nương
duyên, giả hợp và đối đãi trong sự vận động không ngừng. Như vậy, không
thể lấy cái mình cho là đúng, là tốt để quy định, để chi phối người khác hoặc
xã hội. Cũng như thế, những điều được đánh giá là thiện - ác, tốt - xấu cũng
nằm trong quan niệm đối đãi. Trong bối cảnh này là tốt, những trong bối cảnh
kia chưa phải là tốt. Trong bối cảnh này là thiện nhưng trong bối cảnh kia
chưa hẳn đã là thiện. Ví như lời nói dối của bác sỹ về tình trạng bệnh của
bệnh nhân. Nghĩa là phải đề cao sự đánh giá và tiêu chuẩn chung, về lợi ích
chung của cộng đồng, dẹp bỏ tự cao, tư lợi cá nhân. Nhìn nhận sự vật, sự việc,
con người trong sự vận động để đánh giá đúng với bối cảnh. Trong xu hướng
ấy, giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli không
phải là điều bất biến. Tuy nhiên, có những giá trị có sự lắng đọng lâu dài, ở
tầng đáy, trở thành những giá trị chung của cộng đồng. Có những giá trị ở
tầng mặt, có thể biến đổi theo từng giai đoạn, tùy thuộc vào không gian và
nhóm xã hội, như những quan điểm về giai tầng xã hội, xuất thân, giới tính...
(NCS sẽ đề cập sâu hơn nội dung này ở phần bàn luận trong chương 4).
Đặc điểm cuối cùng, giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên
thủy văn hệ Pàli có tính hệ thống. Có thể nói, khó có thể tìm thấy trong thệ
thống tư tưởng, triết thuyết nào một dung lượng lớn của nội dung kinh điển đề
cập đến giá trị đạo đức thể hiện qua những luân lý, quy tắc ứng xử, chuẩn
127
mực xã hội, chuẩn mực đạo đức như trong kinh tạng Phật giáo. Từ các phạm
trù đạo đức phổ quát, đến những chuẩn mực đạo đức của cá nhân, cộng đồng
xã hội, những chuẩn mực đạo đức ứng với mỗi hạng người trong xã hội, thậm
chí cả quan điểm đạo đức trong việc ứng xử với hạng người hạ tiện hay trong
ứng xử với động vật, tài vật đều được thể hiện rất rõ ràng, cụ thể, chi tiết
trong kinh tạng. Giá trị đạo đức chi phối và tác động đến hành vi đạo đức, đời
sống đạo đức của toàn xã hội. Mỗi con người, ứng với mỗi vai trò xã hội, bố
mẹ, con cái, vợ chồng, thầy trò, người quản lý, ông chủ... đều phải thực hiện
và bị chi phối bởi các giá trị đạo đức ứng với mỗi vai trò xã hội của họ. Trong
bối cảnh cụ thể qua kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli hệ thống giá
trị đạo đức tương đối hoàn thiện đã chi phối và thúc đẩy để đem lại cho con
người một đời sống hướng tới hạnh phúc, toàn thiện.
Tiểu kết chƣơng 3
Như vậy, thông qua việc đọc, rà sát cụ thể qua từng bộ kinh của 24 tập
sách kinh Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli, nghiên cứu sinh đã lần lượt thực
hiện một cách thận trọng, nghiêm túc mảng công việc lớn đặt ra, là:
1- Chỉ ra, tập hợp những biểu hiện và tổng hợp thành các giá trị đạo
đức thông qua lời dạy của Thích Ca trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy
văn hệ Pàli.
2 - Đưa ra một số đánh giá và chỉ ra những đặc điểm giá trị đạo đức thể
hiện qua kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli.
Khi thực hiện nhiệm vụ nêu trên với những kết quả cụ thể, nghiên cứu
sinh đã đi đến khẳng định những nội dung được nêu trong giả thuyết nghiên
cứu, đó là:
- Giá trị đạo đức chứa đựng trong những lời dạy của Thích Ca Mâu Ni
được ghi chép cụ thể, chi tiết trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli.
- Kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli phản ánh những nội dung
liên quan đến những quy phạm, nguyên tắc, luân lý, chuẩn mực, đạo đức và đó
chính là những biểu hiện của giá trị đạo đức. Đến lượt nó, những giá trị đạo đức
ấy, qua lời dạy của Thích Ca đã tác động và ảnh hưởng đến quá trình hình thành
đạo đức con người, góp phần xây dựng đạo đức xã hội thời Thích Ca.
128
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu và triển khai đề tài, nghiên cứu
sinh đã lần lượt trả lời những câu hỏi đặt ra trong phần lý thuyết nghiên cứu:
- Giá trị đạo đức được biểu hiện cụ thể thế nào trong kinh tạng Phật
giáo Nguyên thủy Văn hệ Pàli? Kết quả nghiên cứu cho thấy, kinh tạng Phật
giáo Nguyên thủy Văn hệ Pàli chứa đựng giá trị đạo đức biểu hiện cụ thể trong
các phạm trù và mọi quan hệ xã hội: từ phạm trù phổ quát như: thiện - ác; tốt -
xấu; bình đẳng; coi trọng sinh mạng mọi loài; đến những biểu hiện của giá trị
đạo đức cá nhân (những điều có lợi và không có lợi; những điều nên thực hiện
và không nên thực hiện); những biểu hiện của giá trị đạo đức trong quan hệ xã
hội (của vị vua, của công dân, của cha mẹ - con cái, của vợ - chồng, của thầy trò,
của bạn bè, của chủ - thợ, với người hạ tiện, với động vật, với tài vật).
- Những đặc điểm của giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên
thủy Văn hệ Pàli là gì? Qua nội dung và phân tích, nghiên cứu sinh cố gắng
chỉ ra các đặc điểm của giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy
Văn hệ Pàli, là: (1) vận hành theo quy luật của nhân - quả; (2) hướng tới hạnh
phúc, an lạc của con người, đề cao giá trị con người; (3) thể hiện sự bình
đẳng; (4) hướng tới sự lợi tha, vì người khác; (5) hướng con người tới sự xả
bỏ những dục lạc, tài vật và những điều phi pháp; (6) được nhìn nhận và xây
dựng trong quan điểm vô thường, vô ngã; (7) có tính hệ thống.
Qua việc nghiên cứu trực tiếp trên các bản kinh văn của kinh tạng Phật
giáo Nguyên thủy Văn hệ Pàli, đã cho thấy rằng, những biểu hiện giá trị đạo đức
tập trung trong 4/5 bộ kinh: kinh Trường bộ, kinh Trung bộ, kinh Tương ưng bộ
và kinh Tăng chi bộ. Đối tượng được đề cập là mọi thành phần trong trong xã
hội và nội dung cũng vô cùng phong phú. Kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy Văn
hệ Pàli là một tập hợp của những quan điểm về đạo đức luận Phật giáo.
Có thể nói, kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy Văn hệ Pàli bao chứa một
dung lượng lớn nội dung đề cập đến các chuẩn mực, luân lý, đạo đức. Nó
chính là những biểu hiện sinh động, cụ thể của giá trị đạo đức. Qua quá trình
lịch sử, những lời dạy của Thích Ca trở thành những bài học đạo đức thực tiễn
đầy sâu sắc và có ý nghĩa xã hội.
129
Chƣơng 4
BÀN LUẬN VỀ SỰ TỒN TẠI CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRONG KINH TẠNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VĂN HỆ PÀLI
TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN NAY
4.1. NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC HIỆN TỒN VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN GIÁ
TRỊ ĐẠO ĐỨC ĐÃ ĐƢỢC TIẾP BIẾN
4.1.1. Những giá trị đạo đức hiện tồn
Những lời thuyết pháp của Thích Ca được nói ra cách nay đã trên 2.500
năm. Kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli cũng được kết tập cách
nay trên 2.000 năm. Nhưng trong suốt chiều dài lịch sử, kinh tạng Phật giáo
vẫn luôn được hoằng truyền và không ngừng được phiên dịch, chuyển ngữ,
nghiên cứu và đọc tụng bởi các chức sắc, tín đồ, học giả, và những người
quan tâm trên khắp thế giới. Ở Việt Nam, không phân biệt kinh tạng Phật giáo
Nguyên thủy hay kinh tạng Phật giáo Phát triển, đều được đưa vào chương
trình học thống nhất của các cấp học Phật giáo. Không những thế, kinh tạng
Pàli và văn tự Pàli còn được dạy trong các Học viện Phật giáo Việt với tinh
thần tiếp cận vào tư tưởng nguyên thủy của Phật giáo, để có cái nhìn tổng
quan, chỉnh thể về giáo lý Phật giáo (phụ lục 1). Điều này chứng tỏ rằng, dưới
góc nhìn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, không có sự phân biệt trong giáo
lý Nguyên thủy hay Phát triển. Khi giáo lý chuyển tải trong kinh điển vẫn
thường xuyên được nghiên cứu, đọc tụng thì những giá trị đạo đức chứa đựng
trong kinh điển đó cũng vẫn thường xuyên được tiếp cận, thụ hưởng và phát
khởi trong đời sống không chỉ của chức sắc Phật giáo mà còn trong đông đảo
tín đồ Phật tử, quần chúng quan tâm đến Phật giáo và toàn thể xã hội.
Tôn giáo nào cũng sinh ra từ con người và phục vụ nhu cầu, đời sống
tinh thần của con người. Đó là lý do để tôn giáo được tiếp nhận và phát triển
trong đời sống xã hội. Phật giáo cũng như vậy. Song song với quá trình hoằng
truyền, phát triển, tiếp nhận của Phật giáo đến Việt Nam, các giá trị đạo đức
biểu hiện qua lời dạy của Thích Ca, ghi chép trong kinh điển Nguyên thủy
văn hệ Pàli cũng được người Việt tiếp nhận. Trong đó có những giá trị đạo
130
đức vẫn bảo lưu và hiện tồn trong đời sống văn hóa, đạo đức, tinh thần người
Việt. Nhận định này cũng rất phù hợp với quan điểm Mác - Lênin về văn hóa,
khi cho rằng, giá trị văn hóa, trong đó có giá trị đạo đức, có tính quy định về
mặt lịch sử, có những giá trị lâu bền, có giá trị một thời và có giá trị muôn
thủa [10, tr.1-20] Có thể hệ thống lại để chỉ ra những giá trị đạo đức trong
kinh tạng Phật giáo văn hệ Pàli hiện tồn thông qua những phạm trù giá trị đạo
đức phổ quát và những giá trị đạo đức cụ thể.
(1) Thiện - ác, Tốt - xấu
Dù trong xã hội nào thì những phạm trù phổ quát như thiện - ác, tốt -
xấu vẫn luôn là những nội dung quan trọng để định đặt tiêu chuẩn của đạo
đức. Và điều thiện, điều tốt luôn là điều mang lại lợi ích cho xã hội, cho cộng
đồng, cho mỗi cá nhân, làm trưởng dưỡng phẩm hạnh và đạo đức con người.
Ngược lại, điều ác, điều xấu luôn là điều mang đến những tổn hại cho xã hội,
cho cộng đồng, cho mỗi cá nhân, luôn là điều mà xã hội muốn xa lìa, tránh
bỏ, đó là điều phi đạo đức. Điều này cũng phù hợp với lý thuyết Giá trị nội tại
của G.E. Moore khi nhấn mạnh giá trị bên trong, giá trị nhân phẩm hay giá trị
đạo đức - luân lý. G.E. Moore cho rằng Thiện (cùng với Chân và Mỹ) là giá
trị đạo đức phổ quát của mọi xã hội từ Đông sang Tây, từ cổ đại đến hiện đại.
(2) Bình đẳng, Trọng sinh
Bình đẳng giữa con người với con người, rộng ra là bình đẳng giữa dân
tộc này với dân tộc kia, bình đẳng giữa quốc gia này với quốc gia kia, bình
đẳng trong việc thụ hưởng các lợi ích, các cơ hội phát triển, các điều kiện tiến
bộ và giải phóng con người không chỉ là mục tiêu hướng đến của giá trị đạo
đức mà còn là lý tưởng xã hội của mọi thể chế trong xã hội hiện đại. Tôn
trọng và bảo vệ mạng sống con người là chuẩn mực đạo đức nhưng cũng
chính là những quy định được luật pháp quốc gia và công ước quốc tế ghi
nhận và bảo hộ. Tuy nhiên, Phật giáo là một tôn giáo, nên ngoài lý tưởng xã
hội, Phật giáo còn hướng đến lý tưởng tôn giáo, vì vậy quan điểm bình đẳng
trong giáo lý Phật giáo thể hiện qua kinh điển đề cập và nhấn mạnh đến việc
tôn trọng sinh mệnh mọi loài và bình đẳng giữa mọi loài chúng sinh. Đương
nhiên, Phật giáo chú trọng vào sự bình đẳng trong hạt giống thiện lành ở mọi
131
loài chúng sinh, là nền tảng để tu tập và giải thoát. Mặc dù vậy, những giá trị
đạo đức mà kinh điển Phật giáo đề cập, như: Trân trọng cuộc sống con người;
Trân trọng nhân phẩm con người; Con người là bình đẳng; Con người có hạt
giống tốt đẹp về đạo đức; Con người có thể thay đổi tích cực từ xấu thành tốt,
vẫn là điều hướng đến trong đạo đức xã hội hiện nay.
(3) Những điều nên thực hiện và những điều không nên thực hiện
Những điều nên thực hiện, trong Pàli tạng, đó là: 10 điều thiện (hay
còn gọi là Thập thiện) không sát sinh, không chém giết; không trộm cắp;
không tà dâm; không làm chứng dối; không nói lưỡi hai chiều; không nói lời
độc ác; không nói lời phù phiếm; không tham lam; không sân hận; có chính
kiến, không dao động, không điên đảo. Đó là những điều nên làm, và cần
thiết được thực hiện, vì nó sinh ra và tạo nên đức hạnh, nhân phẩm, đạo
đức con người.
Những điều không nên thực hiện: 10 điều bất thiện (hay còn gọi là
Thập nghiệp đạo): sát sinh, chém giết; trộm cắp; tà dâm; làm chứng dối; nói
lưỡi hai chiều; nói lời độc ác; nói lời phù phiếm; tham lam; sân hận; không
chính kiến, dao động, điên đảo. Đó là những điều không nên làm, và cần
thiết được loại bỏ, vì nó sinh ra kết quả xấu (nghiệp xấu) làm tổn hại đức
hạnh, nhân phẩm, đạo đức con người.
Trong xã hội hiện nay, những điều nên làm và những điều không
nên làm như đề cập trong kinh tạng nêu trên vẫn luôn được đề cập và cơ
bản phù hợp với tâm thức và đạo đức xã hội. Tuy nhiên, trong quan điểm
của Phật giáo Nguyên thủy, với bất kỳ lý do nào việc sát sinh, cướp đi
sinh mạng của người khác, của loài khác là tội lỗi, vô đạo đức và không
thể dung tha. Nhưng trong xã hội hiện nay, giá trị này cũng đã được tiếp
biến. Dù vậy, giá trị hướng đến trong kinh tạng và đạo đức xã hội hiện
nay vẫn có điểm chung: Ca ngợi đời sống đạo đức; Ca ngợi vẻ đẹp của việc
giữ gìn phạm hạnh, không vị phạm điều cấm; Phê phán những thói hư tật
xấu làm ảnh hưởng đến đạo đức con người như: chém giết, cướp bóc, nói
láo, ăn trộm, tà dâm, không giữ gìn những đều răn cấm, dùng các chất
uống dẫn đến sự say và chất kích thích dẫn đến ảo giác.
132
(4) Giá trị đạo đức người lãnh đạo đất nước cần hướng tới:
Chế độ khác, thể chế khác, đương nhiên sẽ có sự khác biệt về tổ chức
bộ máy nhà nước. Theo đó, danh xưng người đứng đầu đất nước cũng có
khác. Tuy nhiên, những giá trị đạo đức mà người đứng đầu đất nước phải
hướng tới như kinh tạng đề cập vẫn phù hợp trong đòi hỏi của đạo đức xã hội,
chế định pháp luật và quy định của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay:
Người đứng đầu, lãnh đạo, quản lý đất nước, nhiếp phục nhân dân bằng uy
tín, trí tuệ, đạo đức; Chăm lo hạnh phúc tinh thần, vật chất của mọi người
dân trong đất nước là trách nhiệm của người lãnh đạo đất nước; Người lãnh
đạo đất nước phải là hình mẫu cho trăm dân noi theo.
(5) Giá trị đạo đức một công dân cần hướng tới
Những giá trị đạo đức được đề cập trong Pàli tạng đối với một công dân
của đất nước là: Không phân biệt đẳng cấp xã hội; Phải chế ngự ý nghĩ, lời
nói, hành động bất thiện; Tán dương, khuyến khích ý nghĩ, lời nói, hành động
thiện lành; Tôn trọng và tìm sự thống nhất với ý kiến, quan điểm của người
khác trong xử lý và giải quyết các việc chung; Cùng tự ý thức thực hiện
nghiêm túc và hỗ trợ người khác nghiêm túc thực hiện những điều răn cấm,
những quy đinh, quy chế, pháp luật chung của toàn xã hội; Cùng chung tay
chia sẻ và gánh vác công việc chung trong tinh thần nhiệt huyết và trách
nhiệm; Cùng chia đều những quyền lợi và các giá trị xã hội chung có. Những
nội dung này vẫn còn nguyên ý nghĩa và giá trị. Đó cũng là điều hướng đến
của xã hội Việt Nam hiện nay.
(6) Giá trị đạo đức bậc làm cha mẹ cần hướng tới
Dù trong giai đoạn lịch sử nào thì các bậc làm cha mẹ luôn phải có trách
nhiệm: Nuôi dưỡng con cái và dạy dỗ cho con trưởng thành về trí tuệ, hoàn
thiện về nhân cách; Chỉ dạy cho con biết và tránh xa điều ác, gần gũi và thực
hiện các điều thiện; Cho con học và thành tựu nghề nghiệp tốt; Lo lắng hạnh
phúc gia đình cho con; Trao của thừa tự cho con khi thuận dịp. Những giá trị
đạo đức trên đây được đề cập trong Pàli tạng cũng chính là giá trị đạo đức
hướng đến và phải đạt được của các bậc làm cha mẹ trong xã hội hiện nay.
133
(7) Giá trị đạo đức người làm con cần hướng tới
Phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ khi sống; Thành kính thờ phụng cha
mẹ khi qua đời; Nghe lời và giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ; Giữ gìn truyền
thống gia đình; Không làm mất danh tiếng gia đình; Bảo vệ, phát triển tài sản
và truyền thống gia đình do cha mẹ để lại. Đó không chỉ là giá trị đạo đức
được kinh điển Phật giáo đề cập mà còn là đích hướng đến của đạo đức người
con trong xã hội Việt Nam chúng ta dù truyền thống hay hiện đại.
(8) Giá trị đạo đức người thầy cần hướng tới
Người thầy trong bất kỳ xã hội nào, dù truyền thống hay hiện đại đều
có vị thế quan trọng và được nể phục. Vì lẽ, người thầy không chỉ dạy kiến
thức, kỹ năng, chuyên môn, nghề nghiệp, mà hơn nữa, người thầy dạy học trò
cách làm người, một người có đạo đức và có ích cho xã hội. Vì thế, những giá
trị đạo đức mà kinh tạng Phật giáo đề cập: Phải mẫu mực về trí tuệ, nhân
cách và đạo hạnh; Không giấu kiến thức, kỹ năng; Hết lòng vì học trò mà chỉ
bày những chuyên môn và các kiến thức khác; Đảm bảo cho học trò có được
nghề nghiệp tốt; Chịu tránh nhiệm về việc đào tạo của mình, cũng chính là
những giá trị đạo đức mà người thầy trong xã hội chúng ta hiện nay cần
hướng tới.
(9) Giá trị đạo đức người học trò cần hướng tới
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, do tác động từ mặt trái của cơ chế thị
trường và sự suy thoái đạo đức của một bộ phận người trẻ trong xã hội, những
giá trị đạo đức được kinh điển Phật giáo đề cập như: Phải kính trọng thầy;
Tinh cần, nỗ lực, gắng công học tập; Áp dụng lời dạy của thầy vào rèn luyện
và thực hành; Thành công nghề nghiệp tốt đẹp mà thầy chỉ dạy, càng trở nên
cần thiết, thời sự và phù hợp với đòi hỏi của đạo đức xã hội hiện nay.
(10) Giá trị đạo đức vợ chồng cần hướng tới
Giá trị đạo đức mà Thích Ca chỉ dạy cho những người vợ, những người
chồng của hơn 2000 năm trước, được ghi chép trong Pàli tạng: Vợ chồng phải
kính trọng nhau; Vợ chồng phải chung thủy, trung thành với nhau; Vợ chồng
phải chăm sóc, vỗ về, an ủi nhau về vật chất và tinh thần; Vợ chồng cùng nhau
134
tạo lập và giữ gìn của cải; Vợ chồng phải tiếp đón và đối đãi tốt đẹp với người
thân của hai bên, càng trở nên cần thiết và quan trọng khi những nguy cơ về sự
tan vỡ gia đình, bạo hành gia đình, mất bình đẳng gia đình, hay con cái không
được chăm sóc và nuôi dạy tốt ngày càng gia tăng trong xã hội hiện nay.
(11) Giá trị đạo đức bạn bè cần hướng tới
Chính trong xã hội chúng ta hiện nay, không thiếu trường hợp vì tin bạn
mà bị lừa đảo, theo chúng bạn mà sa ngã vào nghiện ngập, trộm cắp, cờ bạc,
hay mất cả gia sản và sự nghiêp, thậm chí là sinh mạng, vì kết thân và tin vào
những người bạn xấu. Vì vậy, những giá trị và chuẩn mực đạo đức dành cho
những người bạn bè: Chân thành với nhau và bảo vệ nhau; Làm chỗ dựa về
tinh thần cho nhau; Bảo vệ của cải, tài sản của nhau; Cũng giúp nhau tránh
xa điều xấu ác, phát triển những tốt lành; Kính trọng gia đình bạn và gìn giữ
danh tiếng của bạn, được ghi chép trong kinh điển Pàli tạng vẫn luôn mang ý
nghĩa thời sự và phù hợp với đòi hỏi của đạo đức xã hội hôm nay.
(12) Giá trị đạo đức người chủ, người quản lý lao động cần hướng tới
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và mở rộng dân chủ, những người
làm “ông chủ”, người quản lý, phải đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của
đòi hỏi ở vị trí làm việc và vai trò xã hội của họ. Theo đó, nhưng giá trị đạo
đức họ hướng tới cũng phải đầy đủ, toàn diện hơn. Tuy nhiên, những giá trị
đạo đức thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pàli với các nội dung: Hướng dẫn
chuyên môn, nghề nghiệp cho cấp dưới; Giao cho nhân viên, cấp dưới công
việc phù hợp; Trả thù lao xứng đáng, chia sẻ lợi ích cho nhân viên cấp dưới;
Cho cấp dưới, người lao động nghỉ phép; Chăm sóc sức khỏe và điều trị khi
cấp dưới bị bệnh; Hỗ trợ nhân viên, cấp dưới khi gặp khó khăn, vẫn là những
giá trị mà người chủ, người sử dụng lao động, người quản lý cấp trên trong xã
hội hiện nay cần hướng tới, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa và vai trò của
doanh nghiệp, doanh nhân được đề cao trong xã hội.
(13) Giá trị đạo đức người làm công, người lao động cần hướng tới
Hiện nay, các doanh nghiệp phát triển ngày càng nhiều, giải quyết công
ăn, việc làm cho một lực lướng lớn người lao động, văn hóa doanh nghiệp,
135
hơn lúc nào hết được cọi trọng và không ngừng được xây dựng. Trong xu thế
đó, đạo đức người lao động cũng cần được hoàn thiện. Có thể còn cần những
tiêu chuẩn khác nữa, nhưng những giá trị đạo đức được phản ánh qua kinh
tạng Pàli đối với người làm công, người lao động, như: Nhiệt tình, tâm huyết
và dành thời gian nhiều cho công việc; Nghiêm túc thực hiện giờ giấc và quy
chế làm việc; Thực hiện tốt các công việc được giao; Bằng lòng với khoản thù
lao được nhận; Giữ uy tín cho cấp trên và đơn vị, vẫn là những điều cần thiết
phải thực hiện trong xã hội hiện nay.
(14) Giá trị đạo đức cần hướng tới trong việc hành xử với người lầm lỗi
Dù xã hội có phát triển đến mấy, nhưng không thể không có những
người, vì lý do nào đó mà mắc lỗi lầm. Sẽ quá đơn giản nếu đẩy họ về phía
bên kia, hay cách ly họ vĩnh viễn với xã hội. Điều cần thiết hơn, nhân văn hơn
mà bất kỳ xã hội nào, nhất là trong xã hội xã hội chủ nghĩa ưu việt của Việt
Nam hiện nay, cần thực hiện, đó là: Chỉ cho người phạm lỗi thấy những lỗi
lầm; Hướng dẫn người phạm lỗi cách sửa trị lỗi lầm; Bao dung, không xa
lánh, động viên tinh thần người đã từng phạm lỗi; Tạo điều kiện, giúp đỡ
người phạm lỗi trở thành người tốt. Đó cũng chính là những giá trị đạo đức
được biểu hiện trong kinh tạng Pàli.
(15) Biểu hiện quan điểm đạo đức trong đối xử với động vật
Trong xã hội cũ, động vật, vật nuôi được sử dụng nhiều hơn để phục vụ
cuộc sống con người. Trong xã hội hiện đại, động vật vẫn có mối quan hệ gắn
bó với con người theo nhiều cách. Để cho vật nuôi, thú cưng hay động vật nói
chung, trở nên có ích cho cuộc sống con người thì cũng cần phải chăm sóc,
huấn luyện và dạy dỗ một cách phù hợp. Lời dạy của Thích Ca được ghi chép
trong kinh điển Pàli tạng dường như vẫn còn nguyên giá trị cho đến hiện nay:
Phải dạy dỗ, uốn nắn vật nuôi để bớt đi tính hoang dã; Phải làm cho vật nuôi
thân thiện và quen với cuộc sống con người; Dạy cho vật nuôi những kỹ năng,
thói quen tốt để trở nên có ích; Chăm sóc, nuôi dưỡng và cổ vũ, vỗ về chúng
bằng tình yêu thương.
136
(16) Biểu hiện quan điểm đạo đức khi ứng xử với tài vật
Vật chất là thứ vô tri, nhưng người tạo tác, sử dụng vật chất nói chung
và tài sản nói riêng phải luôn có ý thức. Cách thức tạo tác, sử dụng tài vật thể
hiện quan điểm đạo đức và văn hóa của con người. Không trộm cắp và tạo tác
tài sản từ các hành động phi pháp; Xây dựng, tạo tác tài sản chính đáng từ
chính nghề nghiệp, năng lực bản thân; Sử dụng tiết kiệm, không hoang phí tài
sản; Không tham đắm hưởng thụ tài sản, đó là những giá trị đạo đức được
phản ánh qua kinh điển Phật giáo Pàli tạng, vẫn cơ bản bảo lưu được ý nghĩa
và giá trị trong xã hội hiện nay.
Có thể nói, những giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên
thủy văn hệ Pàli, qua quá trình vận hành trong đời sống xã hội, trải qua nhiều
giai đoạn lịch sử, đã được con người Việt Nam tiếp nhận và thúc đẩy nó vận
thông trong đời sống xã hội. Có những giá trị đạo đức đã kết tụ, lắng đọng ở
tầng sâu trở thành những giá trị đạo đức chung được xã hội Việt Nam tiếp
nhận và bảo lưu suốt trong quá trình lịch sử cho đến hiện nay. Đó là những
giá trị đạo đức tương đối vững bền, thậm chí có giá trị muôn thủa vì ý nghĩa
nhân văn cao cả mà bất kỳ xã hội nào, dù phát triển đến đâu cũng cần hướng
đến. Đương nhiên, có thể những giá trị đó chưa phải đầy đủ, toàn diện trong
bối cảnh xã hội hôm nay.
4.1.2. Những biểu hiện của giá trị đạo đức đã đƣợc tiếp biến
Như trên đã nhận định, một trong những đặc điểm của giá trị đạo đức
trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli là vận động trong quan
điểm vô thường, nên việc thay đổi, tiếp biến tùy theo từng không gian nó lan
truyền, chủ thể tiếp nhận, sự đổi mới, tiến bộ trong tâm thức xã hội là điều
bình thường. Trải qua thời gian (trước và sau 2000 năm), trải qua không gian
(xã hội Ấn Độ cổ và xã hội Việt Nam hiện đại), và sự thay đổi của các chủ thế
tiếp nhận (cư dân Ấn Độ cổ đại và cư dân Việt Nam trong xã hội hiện đại) thì
những nội dung phản ánh giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo văn hệ Pàli
bên cạnh những giá trị hiện tồn được cộng đồng bảo lưu, chắc chắn phải có sự
tiếp biến. Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo văn hệ Pàli mặc dù có tính
hệ thống như vậy, nhưng chưa hoàn thiện, không đầy đủ (có những nội dung
137
chưa được đề cập) để đáp ứng hệ thống giá trị đạo đức trong xã hội Việt Nam
hiện nay, có những nội dung biểu hiện sự lạc hậu, đã được tiếp biến, như
những nội dung đề cập sau đây:
Thứ nhất: trọng sinh, không có nghĩa là không hy sinh. Trong giá trị
trân trọng sinh mạng con người và chúng sinh, kinh tạng Phật giáo Pàli phản
ánh việc tôn trọng sinh mạng, không chấp nhận bất cứ hành vi nào làm tổn hại
hay cướp đi sinh mạng của người khác, thậm chí là những loài động vật. Hành
động cướp đi sinh mạng đó đều bị coi là bất thiện, là xấu, là đáng bị trừng
phạt và cần phải từ bỏ. Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử mà xã hội Việt Nam
trải qua, việc hy sinh thân mạng của những con người để bảo vệ nền độc lập,
hòa bình của đất nước luôn được coi là hành động cao cả, đáng ca ngợi. Đồng
thời, việc chống lại kẻ thù xâm lược, tiêu diệt kẻ thù hung bạo để giải phóng
dân tộc là hành động chính nghĩa và cần phải thực hiện. Những việc nêu trên
đều có thể dẫn đến cái chết. Nhưng có những cái chết, như sự hy sinh của
những người lính bảo vệ tổ quốc được coi là sự hy sinh cao cả; có những cái
chết, như sự bỏ mạng của kẻ thù là điều bắt buộc, nếu muốn giữ sinh mạng,
sự bình yên của số đông nhân dân. Đây cũng là nội dung đã được tiếp biến
trong quan điểm của các vị thiền sư tham gia chống giặc, cứu nước trong suốt
chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, có những người phạm tội, được
xác định là đối tượng vô cùng nguy hiểm, việc xử nghiêm để loại bỏ ra khỏi
xã hội là cần thiết, vì vậy án tử hình dành để trừng trị người phạm tội, nhưng
là để giữ lại sự bình yên, an toàn cho xã hội là điều pháp luật Việt Nam hiện
nay đang thực hiện.
Thứ hai: bình đẳng chỉ được đề cập trong xã hội con người. Không
phân biệt xuất thân, vị trí, thành phần xã hội và giới tính, mọi con người đều
bình đẳng, các dân tộc đều bình đẳng, các quốc gia đều bình đẳng. Điều đó
thống nhất từ trong nội dung kinh điển đến xã hội hôm nay. Tuy nhiên, kinh
tạng Phật giáo đều cho rằng, sự bình đẳng phải thực hiện đến các chúng sinh,
loài hữu tình (động vật có hệ thống thần kinh). Quan điểm xã hội Việt Nam
hiện nay không thế. Sự bình đẳng, trong điều kiện hiện tại, chỉ được xem xét
138
trong xã hội con người, không đề cập đến các loài khác. Thực tế, việc dùng
động vật phục vụ cuộc sống con người hay nuôi động vật (gia súc, gia cầm,
cá, tôm, cua...) lấy thịt đang được coi là một ngành kinh tế mang lại lợi ích
kinh tế lớn cho đất nước. Nó không những không bị ngăn cấm mà còn được
khuyến khích.
Thứ ba: vẫn còn bất bình đẳng giới biểu hiện trong những quy định đối
với nữ tu trong giáo đoàn Phật giáo. Trong lịch sử Phật giáo, người nữ đi tu
đầu tiên tham gia giáo đoàn của Thích Ca chính là người mẹ kế cũng là dì
ruột của Tất Đạt Đa, tên là Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahapajapati Gotami).
Trước đó, Ma Ha Ba Xà Ba Đề ba lần quỳ lễ xin Thích Ca cho đi tu, tham gia
giáo đoàn, nhưng đều bị Thích Ca từ chối vì lý do nếu cho người nữ xuất gia
sẽ khiến cho Phật pháp trụ thế không lâu dài. Sau khi được A Nan đứng ra xin
với Thích Ca, Thích Ca mới cho người nữ xuất gia, và bà Ma Ha Ba Xà Ba
Đề là nữ tu sỹ Phật giáo đầu tiên, nhưng với điều kiện phải tuân thủ Bát kính
pháp (Tám điều trong giới luật quy định một vị tỷ kheo ni (nữ tu) phải tôn
kính vị tăng). Điều này đã được các học giả lý giải là vì Thích Ca nhận thấy
nghiệp chướng cũng như căn cơ giác ngộ của người nữ thấp hơn người nam,
do những đặc trưng tất yếu về mặt giới tính của họ. Việc đưa ra và bắt buộc
người nữ tu phải thực hành Bát kính pháp để tôn kính bậc tu nam, dù có giải
thích bằng những lý do thuần lý tôn giáo, hay cho rằng trong bối cảnh lịch sử Ấn
Độ cổ phân biệt nam nữ khắt khe lúc đó thì hành động của Thích Ca đã thể hiện
sự tiến bộ trong quan điểm về bình đẳng giới, cũng không thể tránh khỏi cách
đánh giá là có sự phân biệt giới tính. Thực tế, cho đến hiện nay, trong Phật giáo
Nguyên thủy không chấp nhận cho người nữ đi tu, còn trong Phật giáo Phát triển
thì nữ tu phải thực hành Bát kính pháp như trong giới luật Phật chế. Điều này đi
ngược lại những nỗ lực của Phật giáo về bình đẳng và cũng đi ngược với mục
tiêu xây dựng xã hội và đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay.
Thứ tư: người quản lý đất nước, nguyên thủ quốc gia trong xã hội mới
không phải ông vua trong chế độ cũ. Đây là sự lạc hậu đương nhiên của thời
đại. Bên cạnh đó, những giá trị đạo đức mà Thích Ca đưa ra, được kinh điển
139
ghi chép lại, có những nội dung không còn phù hợp trong xã hội hiện nay, bị
xã hội hiện nay phê phán, như cho rằng: quân vương phải xuất thân quyền
quý (quý tộc); quân vương có nhiều thê thiếp; việc trị quốc của quân vương
không được chấp nhận khi dùng quân đội, binh đao. Đây là nội dung đi ngược
với quan điểm đạo đức xã hội hiện đại. Người lãnh đạo, quản lý đất nước
không quan trọng xuất thân, mà quan trọng phải có tài, có đức, được nhân dân
tin phục, làm việc, cống hiến vì lợi ích chung của nhân dân, luôn chăm lo vì
sự phát triển của đất nước. Trong điều kiện nào cũng vậy, hạnh phúc gia đình
và sự chung thủy luôn là những giá trị cần hướng tới. Khi chấp nhận việc ông
vua có nhiều thê thiếp, nghĩa là chấp nhận sự tranh giành ân sủng giữa những
người phụ nữ có chung một chồng, nó có thể ví như sự gián tiếp cổ vũ cho
việc không chung thủy. Người lãnh đạo, quản lý đất nước, không chỉ chăm lo
phát triển kinh tế, xã hội, chăm lo văn hóa, giáo dục, đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân, mà một trong những nhiệm vụ quốc gia quan trọng, đó là giữ
gìn sự hòa bình, ổn định, độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn của quốc gia. Vì
vậy, nếu an ninh quốc gia bị đe dọa, an toàn xã hội bị ảnh hưởng, thì trong khuôn
khổ của pháp luật, người lãnh đạo, quản lý đất nước có thẩm quyền và trách
nhiệm huy động quân đội, lực lượng vũ trang đế chống bạo loạn bên trong, giặc
dã bên ngoài, trấn áp những phần tử có mưu đồ phá hoại an ninh quốc gia để giữ
bình yên cho đất nước. Mặc dù huy động quân đội, vũ trang không phải là điều
mong muốn, nhưng là việc cần thiết và bắt buộc phải làm. Nếu an ninh quốc gia
và toàn vẹn lãnh thổ bị đe dọa, mà người đứng đầu đất nước không thực hiện các
hành động cần thiết, như thế mới là điều phi pháp, đáng trách.
Thứ năm: không chấp nhận sự tồn tại của những người bị coi là nô lệ
và quan hệ chủ - tớ. Mặc dù thể hiện quan điểm bình đẳng rất rõ trong giáo lý,
nhưng trong kinh điển Phật giáo vẫn phản ánh thực trạng xã hội phân cấp
khắc nghiệt đó và hơn thế, còn đưa ra những tiêu chuẩn đạo đức, giá trị đạo
đức cần hướng đến cho những người trong quan hệ chủ - tớ này, như: người
làm công không được đi ngủ trước chủ, không được thức dậy sau chủ, không
được đòi hỏi (mà phải an phận) sự đãi ngộ của chủ (nội dung này đã được
140
trích dẫn cụ thể trong chương 3) cho thấy địa vị thấp kém, thân phận phụ
thuộc của người làm trong quan hệ với người chủ. Điều này, vô tình lại là sự
chấp nhận trật tự xã hội có giai cấp khắc nghiệt như xã hội Ấn Độ cổ. Đối lập
với quan điểm này, đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được
xây dựng trên động cơ rõ rệt đó là xóa bỏ chế độ phân biệt giai cấp và đề cao
tinh thần bình đẳng trong xã hội con người.
Thứ sáu: thờ phụng (ân đức) của người thầy dạy, không phải là điều bắt
buộc. Trong nội dung đề cập về những tiêu chuẩn đạo đức đối với người học
trò, một định hướng giá trị được biểu hiện qua kinh tạng Pàli là, người học trò
cần thờ phụng người thầy dạy của mình để thể hiện sự tri ân. Nội dung này đã
được coi là tiêu chuẩn đạo đức mẫu mực của những kẻ là học trò trong xã hội
phương Đông trong một thời gian dài, mà trong xã hội Việt Nam thời phong
kiến cũng vậy. Cho đến hiện nay, việc kính trọng những thế hệ người thầy
vẫn luôn là một giá trị đạo đức cần hướng tới. Tuy nhiên, việc kính trọng và
việc thờ phụng lại có sự khác biệt lớn. Việc thờ phụng sẽ được hiểu là, không
chỉ trong lúc học, mà trong cả cuộc đời sau này, người học trò sẽ phải “sống
thì tết, chết thì giỗ” đối với người thầy dạy mình. Là một nét đẹp, là một giá
trị, nhưng nếu bị bày biện hình thức, rườm rà, không còn phù hợp trong bối
cảnh văn hóa thì điều đó sẽ là lực cản, sự lạc hậu. Và trong xã hội Việt Nam
hiện nay, nội dung này không còn bắt buộc hay đưa lên thành một chuẩn giá
trị đạo đức.
Thứ bảy: không có đồ hy sinh, cúng tế thần thánh không thể coi là bất
chính, vô đạo đức. Trong những lời dạy của Thích Ca được ghi chép trong
kinh tạng Pàli (đã được trích dẫn ở chương trước), rằng người bất chính
không có lễ hy sinh, không cúng tế. (Theo nghĩa gốc Hán, hy là con vật nuôi
riêng để hiến thân mạng nó phục vụ việc cúng tế thần thánh; sinh là con vật
nuôi riêng đó đã được làm thịt bày lên án lễ thần thánh. Vì vậy, hy sinh còn
được hiểu với nét nghĩa hiến đi thân thể mạng sống của mình - NCS). Quan
niệm tín ngưỡng gắn với đạo đức này được phản ánh từ trong xã hội Ấn Độ
cổ, khi mà các trào lưu tôn giáo, tín ngưỡng nở rộ, việc dùng vật hiến tế (tam
141
sinh) để cúng tế thần thánh được coi là quy định bắt buộc, gắn với đạo đức
mỗi con người. Phật giáo ra đời trong giai đoạn này, nên không thể không
phản ánh tâm thức của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Tuy nhiên, trong
xã hội Việt Nam hiện nay, những điều đó đã bị coi là hủ tục, là lạc hậu, là cản
trở sự phát triển. Việc không có lễ hy sinh, không cúng tế không thể là tiêu
chí đánh giá sự bất chính hay vô đạo đức của con người.
Thứ tám: chia sẻ tài vật cho cộng đồng cùng thụ hưởng; thường xuyên
làm các công đức bằng tài sản của mình, cần phải hiểu trong mỗi bối cảnh cụ
thể. Đối với tài sản, vật chất nói chung, Phật giáo luôn khuyên con người phải
kiệm ước, xả bỏ, không tham lam. Đó là điều cần thiết. Tuy nhiên, việc chia
sẻ tài vật của một cá nhân cho cộng đồng cùng thụ hưởng, hay thường xuyên
làm các công đức (bố thí, cúng dường) bằng tài sản của cá nhân cần phải xem
xét trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, không thể gắn nó với những
tiêu chí đạo đức bắt buộc đối với tất cả mọi người. Vì thực tế, trong ba món
bố thí của Phật giáo (tài thí, pháp thí, vô úy thí) chỉ thực hiện được khi người
thực hiện bố thí có điều kiện dư giả hay hơn người khác về vật (tài, pháp, vô
úy) bố thí. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, việc chia sẻ với người
khó khăn vừa là trách nhiệm, vừa là tình cảm, vừa là đạo đức được xã hội đề
cao. Tuy nhiên, thực hiện nó phải tùy vào điều kiện mỗi người, và đặc biệt, nó
phải hoàn toàn tự nguyện và vô điều kiện. Không nên coi đó là việc cần thực
hiện với tất cả cộng đồng, càng không nên gắn nó với đạo đức, trong khi thực
sự có những người “lực bất tòng tâm”.
Thứ chín: tin tưởng và phát huy những điều tốt đẹp trong những người
đã mắc lỗi lầm để biến họ trở nên tốt đẹp là cần thiết nhưng không phải lúc
nào cũng như thế. Thực tế, có những người phạm tội với đầy những tình tiết
tăng nặng, như: vi phạm có hệ thống, có tổ chức, dã man... và những tội lỗi
mà họ phạm phải là không thể sửa trị và không thể có thời gian cho việc thay
đổi; có những người phạm tội nhiều lần mà bản tính không thể cải tạo, họ chỉ
thấy ăn năn khi đứng trước cái chết. Nhân đạo, hay tin vào điều tốt đẹp là cần
thiết. Nhưng chủ quan, hay quá tin vào điều không thể thành hiện thực, hay
142
tin nhầm vào điều xấu ác, thì đó chính là hành động tiếp tay cho cái ác. Đó
phải là hành động bị phê phán và trong trường hợp này là không được phép
thực hiện. Tin vào điều tốt đẹp, tạo điều kiện để điều tốt đẹp phát triển, phải
đi đôi với hạn chế điều xấu ác và ngăn cấm điều xấu ác bộ lộ. Đó mới là một
quan điểm đầy đủ. Tiêu chí đạo đức dù trở thành giá trị trong quan điểm của
Phật giáo, thì vẫn có thể không phù hợp trong những trường hợp cụ thể trong
xã hội Việt Nam hiện nay.
4.2. ẢNH HƢỞNG CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRONG KINH TẠNG PHẬT
GIÁO NGUYÊN THỦY VĂN HỆ PÀLI VỚI ĐỜI SỐNG HIỆN NAY
4.2.1. Kết quả nghiên cứu từ kinh tạng Pàli
Trong phần nhỏ này, NCS muốn bàn luận thêm để làm rõ sự ảnh hưởng
của giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli đến đạo
đức xã hội thời Phật giáo thịnh hành ở xã hội Ấn Độ cổ, trên cơ sở đó chỉ ra
tự tiếp nối liên tục sự ảnh hưởng của giá trị đạo đức Phật giáo đến đạo đức xã
hội hiện nay.
Trong toàn bộ nội dung kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli và
trong đời sống thực tiễn Phật giáo trong lịch sử cũng như trong hiện đại,
chúng ta đều thấy vai trò của GTĐĐPG trong đời sống VHĐĐ xã hội và
những tác động, ảnh hưởng của nó đến sự nhận thức, ý thức, hành vi của
con người, ảnh hưởng đến việc điều chỉnh những chuẩn mực ĐĐ, ảnh
hưởng đến việc tạo thành các chuẩn mực và xây dựng ĐĐXH. Kinh tạng
Phật giáo văn hệ Pàli đã phản ánh một cách có hệ thống và chi tiết những
chuẩn mực đạo đức gắn với mỗi vai trò xã hội của con người trong xã hội
Ấn Độ cổ, từ các vị vua quan, giới chủ quý tộc, người thầy dạy học, người
học trò, các bậc cha mẹ, phận sự người con, đến những người làm công,
người thợ thủ công, người chăn ngựa, chăn bò, đến cả những tên kẻ cướp
và gái làng chơi. Những lời dạy đức hạnh của Thích Ca với các hạng
người đó trong xã hội đã phản ánh những giá trị đạo đức làm cho họ nhận
biết, thay đổi ý nghĩ và thay đổi hành vi, mang các giá trị đạo đức đó thực
hành ngay trong đời sống hàng ngày của họ, lan tỏa, ảnh hưởng, góp phần
tạo nên những giá trị đạo đức xã hội.
143
Từ việc vua Asoka (A Dục) nguyên là một vị vua tham đắm chinh phục
và chém giết, trở thành một người mộ đạo, thực hiện chính pháp trên ngai
vàng trị quốc, tuyên truyền giáo lý Phật giáo sau khi ông tiếp cận và thấm
nhuần những lời dạy của Thích Ca. Đến việc những vị đại quý tộc, đại thí chủ
như Cấp Cô Độc (người bỏ tiền vàng ra mua và xây dựng tịnh xá rộng lớn
dâng cúng Phật - Khi du nhập vào Việt Nam, nhân vật Cấp Cô Độc được thể
hiện với hình ảnh “Đức Ông” và tôn trí thờ trên chùa Phật với ý nghĩa người
bảo trợ cho Phật giáo), thái từ Kỳ Đà (người đã cùng Cấp Cô Độc xây dựng
tịnh xá với tên chung của hai ông - Tịnh xá Kỳ Đà thụ Cấp Cô độc viên - để
dâng cúng Phật) vì nể trọng đạo hạnh và giá trị tốt đẹp mà đức Phật đem lại
cho xã hội đã cúng dàng toàn bộ vàng bạc, điền sản, xây dựng tịnh xá để dâng
tặng Phật và tăng đoàn, và cũng từ đó, họ trở thành những tín đồ tại gia thuần
thành của Phật giáo, thụ trì và thực hành những chuẩn mực đạo đức được đem
lại qua giáo lý Phật giáo. Rồi đến những người lao động bình thường như thợ
rèn Cunda, người chăn bò, người quản tượng, đã vì giá trị đạo đức trong lời
dạy của Thích Ca mà vâng theo, rồi áp dụng ngay vào đời sống thực tiễn
hàng ngày của họ. Một minh chứng tiêu biểu nữa là Thi-ca-la-việt, người đã
được Thích Ca dạy về những chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ với gia
đình, cha mẹ, vợ chồng, thầy trò, bạn bè, chủ tớ... đã ứng dụng vào đời sống
của anh ta, làm cho cuộc sống của anh ta trở nên thuần thiện, đạo đức, và
được mọi người ca tụng. Hay hạ đẳng nhất, xấu xa nhất như tên kẻ cướp
Angulimala, gái làng chơi Ambapàli, khi được tiếp cận, lắng nghe những lời
dạy đầy đạo đức và phẩm hạnh của Thích Ca, đã tự nguyện xuất gia tu hành
hoặc thọ trì giới pháp tu hành tại gia, dừng bặt những ý nghĩ, lời nói và hành
động xấu ác, trở thành những con người có đời sống phạm hạnh, được mọi
người kính trọng. Những trường hợp được nêu lại ở đây mới là một vài nhân
vật tiêu biểu, có thật trong lịch sử Phật giáo, có sự ảnh hướng lớn, còn hàng
triệu người đã và đang học tập và làm theo những lời răn dạy của Thích Ca,
đang thúc đẩy trong chính cá nhân họ quá trình thanh lọc hóa tâm hồn, đạo
144
đức hóa ứng xử, và nhân đạo hóa chính con người họ, rồi biến thành các
hành động với những chuẩn mực về ĐĐ, từ đó lan tỏa làm thúc đẩy sự tốt
đẹp của ĐĐ xã hội. Đó chính là sự biểu hiện GTĐĐ được thể hiện qua lời
dạy của Thích Ca, được đệ tử ông ghi chép thành kinh điển, được lưu truyền
đến ngày nay.
4.2.2. Kết quả nghiên cứu từ thực hiện chính sách quản lý nhà nƣớc
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, qua ảnh hưởng cụ thể và trực tiếp của
các GTĐĐ được đánh giá là tốt đẹp của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói
riêng đến ĐĐXH và VHXH, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, văn
hóa và đạo đức tôn giáo có nhiều điểm tương đồng với ĐĐ xã hội mới. Trên
cơ sở những ảnh hưởng tích cực của văn hóa, ĐĐ tôn giáo tới xã hội, Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định trong cương lĩnh và nghị quyết của mình sẽ
lãnh đạo Nhà nước và cụ thể hóa các thiết chế để thúc đẩy việc phát huy
GTVH, ĐĐ tốt đẹp của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng trong đời
sống xã hội. Những đóng góp của tôn giáo, trong đó có vai trò quan trọng
của Phật giáo, cho xã hội là không thể phủ nhận. Tại cuộc gặp mặt của Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc với chức sắc, chức việc có đóng góp
tiêu biểu trong sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, diễn ra vào
08/9/2019 tại thành phố Đà Nẵng, Thủ tướng Chính phủ đã ghi nhận và
khuyến khích các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam, với giáo lý nhân văn của
mình hãy phát huy mạnh mẽ và thiết thực hơn nữa mọi nguồn lực tôn giáo,
để đóng góp hiệu quả vào phát triển, xây dựng và bảo vệ đất nước [5].
Trong các nguồn lực đó, trước hết phải đánh giá cao nguồn lực về văn hóa
và đạo đức tôn giáo. Phật giáo là một tôn giáo tiêu biểu, có số lượng chức
sắc, tín đồ đông nhất ở Việt Nam. Thực tế trong đời sống xã hội, Phật giáo
cũng luôn là tôn giáo đi đầu trong các hoạt động từ thiện, nhân đạo, y tế,
giáo dục, chung tay cùng các cấp chính quyền, chia sẻ vơi người dân để với
bớt gánh nặng thiên tai, dịch bệnh, xóa đói giảm nghèo. Chỉ trong mấy
tháng đầu năm 2020, hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban Trung ương Mặt
145
trận Tổ quốc Việt Nam, các cấp Giáo hội Phật giáo từ trung ương đến tận
cơ sở thờ tự đã đóng góp tiền và hiện vật ủng hộ công tác phòng, chống
dịch bệnh Covid-19 với tổng giá trị lên tới hàng chục tỷ đồng [6]. Có
được hoạt động xã hội đầy ý nghĩa nhân văn này, là xuất phát từ giá trị
đạo đức trong bản chất giáo lý của Phật giáo đã được hiện thực hóa trong
đời sống xã hội.
Trong nội dung chuẩn bị văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII, Tiểu ban kinh tế - xã hội đã giao Ban Tôn
giáo Chính phủ thực hiện nghiên cứu và báo cáo kết quả chuyên đề số 32
với chủ đề “Đánh giá việc thực hiện chính sách tôn giáo giai đoạn 2011-
2020 và mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2021-2030, kế hoạch 5 năm 2021-
2025”, trong đó phần đề cập đến nguồn lực văn hóa, đạo đức tôn giáo có
khẳng định:
Phật giáo là tôn giáo truyền thống của người Việt. Đạo đức,
văn hóa Phật giáo có ảnh hưởng quan trọng đối với văn hóa,
đạo đức xã hội Việt Nam. Phật giáo, với những giá trị nhân
văn trong giáo lý, tinh thần nhập thế tích cực với trách nhiệm
xã hội cao cả, cùng những giá trị văn hóa đạo đức sâu sắc, hệ
thống trong kinh điển, được hoằng truyền mỗi ngày qua lời
thuyết pháp và đời sống tu hành của các vị tăng ni, được tiếp
nhận và cụ thể hóa trong đời sống của tín đồ, Phật tử và cộng
đồng xã hội, sẽ luôn nhận được sự quan tâm từ các giai tầng
trong xã hội [7, tr.57].
Đây là nhận định có căn cứ thực tiễn và lý luận từ công trình nghiên
cứu nghiêm túc của do Viện Nghiên cứu Chính sách Tôn giáo thuộc Ban
Tôn giáo Chính phủ thực hiện, đã được Tiểu ban kinh tế - xã hội phục vụ
văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII nghiệm thu, đánh giá cao.
Trên cơ sở nhận định, đánh giá này về giá trị đạo đức Phật giáo, báo cáo
chuyên đề cũng đề xuất thể chế hóa quan điểm phát huy giá trị văn hóa,
đạo đức tôn giáo của Đảng, để tạo hành lang pháp lý cho việc bảo vệ, phát
146
huy các giá trị đạo đức tôn giáo phù hợp với đạo đức xã hội, góp phần điều
chỉnh hành vi ứng xử của người dân. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tôn
giáo phù hợp với văn hóa, đạo đức dân tộc tạo nên bản sắc dân tộc, loại bỏ
những yếu tố phản văn hóa, phi đạo đức, ngăn chặn sự xuống cấp đạo đức
xã hội, nhất là trong một bộ phận giới trẻ hiện nay [7, tr.88].
Như vậy, có thể nói cả trong thực tiễn chính sách nhà nước, thực tiễn
công tác quản lý và cả trong công tác tổng kết thực tiễn thành lý luận để tiếp
tục đề xuất chủ trương, chính sách với Đảng, Nhà nước, công tác tôn giáo và
công tác văn hóa đã khẳng định giá trị đạo đức Phật giáo, được thể hiện căn
bản và hệ thống qua kinh tạng, phản ánh sự phù hợp với đạo đức xã hội Việt
Nam, có ảnh hưởng quan trọng đến việc hình thành đạo đức xã hội. Quá trình
vận hành của giá trị đạo đức Phật giáo trong đời sống thực tiễn hiện nay đã
thực hiện chức năng quan trọng, đó là góp phần điều chỉnh hành vi, loại bỏ
các yếu tố phi đạo đức, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc và ngăn chặn sự
xuống cấp của đạo đức xã hội.
4.2.3. Kết quả nghiên cứu từ phỏng vấn chuyên gia
Để có ý kiến bàn luận thêm ở tiểu mục này, NCS đã xin ý kiến từ các
chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu Phật học, quản lý nhà nước về Phật
giáo, cán bộ giảng dạy về di sản văn hóa tôn giáo và cán bộ trung tâm
nghiên cứu bảo tồn di sản văn hóa tôn giáo (danh sách chuyên gia tại phụ
lục 2, câu hỏi phỏng vấn chuyên gia tại phụ lục 3). Từ ý kiến của các
chuyên gia về giá trị đạo đức trong kinh tạng Pàli, NCS tổng kết và đưa ra
trong phần bàn luận này về sự ảnh hưởng của giá trị đạo đức thể hiện qua
kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli đến đời sống đạo đức xã hội
qua một số nét cụ thể sau:
Thứ nhất, giá trị đạo đức thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Nguyên
thủy văn hệ Pàli góp phần quan trọng vào việc hình thành, thúc đẩy văn hóa
và ĐĐXH. Giá trị ĐĐPG đã tác động để hình thành quan điểm về cái thiện,
về cái ác trong xã hội; những nhận định mang tính chất nhân - quả đạo đức,
như “thiện giả thiện báo”, “ác giả ác báo”, “ở hiền gặp lành”, những quan
147
điểm đạo đức về sự bình đẳng giữa mọi con người, quan điểm về trọng sinh,
coi trọng sinh mạng loài người và muôn loài, những điều thiện nên làm,
những điều ác cần bỏ... phù hợp với tâm thức và đạo đức xã hội nói chung,
đã trở thành những chuẩn mực đạo đức văn hóa xã hội chung, không chỉ
riêng trong cộng đồng Phật giáo. Các giá trị đạo đức Phật giáo đó được xã
hội chấp nhận, tiếp nhận, thực hành, coi là các chuẩn mực, cùng với
những thiết thế đạo đức tôn giáo, nó có tác dụng hình thành những nhận
thức đạo đức và thúc đẩy đạo đức cá nhân, góp phần thúc đẩy việc hình
thành, hoàn thiện đạo đức xã hội.
Thứ hai, giá trị đạo đức thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy
văn hệ Pàli tác động tích cực vào ý thức ĐĐ con người, dẫn đến sự thay đổi
tích cực trong ý nghĩ, lời nói, hành động theo hướng tốt đẹp. Những ý nghĩ,
lời nói, việc làm tốt đẹp đó thể hiện các giá trị được cụ thể hóa, và những
chuẩn mực trong đời sống xã hội. Những giá trị đạo đức được kinh điển Phật
giáo nêu ra, gắn với mỗi trách nhiệm đạo đức của mỗi vị trí xã hội của con
người, như giá trị đạo đức cần hướng đến đối với người đứng đầu đất nước,
đối với những người quản lý xã hội và quản lý lao động, đối với người làm
công, đối với bậc làm cha mẹ, đối với người làm con cái, đối với người làm
thầy, đối với người làm học trò, đối với bạn bè, thân hữu... đã tạo nên hệ
thống giá trị đạo đức, tác động vào đạo đức cá nhân và ảnh hưởng tích cực
đến việc hình thành đạo đức xã hội.
Những quan điểm ĐĐPG như: “Dù xây chín bậc phù đồ (tháp), không
bằng làm phúc cứu cho một người”; “Cứu nhất nhân đắc kỳ vạn phúc, cứu
một người phúc đẳng hà sa”; hay quan niệm “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu
là hạnh Phật”; hoặc cách đánh giá và trân trọng, cùng những trách nhiệm
phụng dưỡng bố mẹ theo chuẩn mực đạo hiếu trong Phật giáo “Phụ mẫu tại
đường như Phật tại thế”; hoặc những chuẩn mực trong tinh thần ái ngữ của
Phật giáo “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”... là
kết quả đúc rút của nhận thức đạo đức và thực hành đạo đức theo lời dạy
trong kinh điển Phật giáo. Những quan niệm đó, tiêu chuẩn đó đã trở thành
148
những chuẩn mực đạo đức xã hội, trở thành công cụ, trở thành thước đo đánh
giá đạo đức, nhân phẩm con người.
Thứ ba, giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ
Pàli góp phần trở thành công cụ hữu hiệu đẩy lùi dẫn đến xóa bỏ những biểu
hiện tiêu cực phi đạo đức trong xã hội. Tính nhân - quả trong quan điểm đạo
đức Phật giáo cho rằng, nếu một người thực hiện những lời nói, suy nghĩ,
hành động đạo đức sẽ nhận được phúc báo về những điều tốt đẹp, như được
mọi người kính trọng, tin tưởng, tán thán, tuân phục, đạt được sự hạnh phúc
và niềm vui trong cuộc sống, dứt lìa được những lo lắng xấu ác có thể xảy ra.
Ngược lại, nếu một người thực hành những lời nói, ý nghĩ, hành động phi
pháp, vô đạo đức sẽ phải nhận những quả báo xấu ác, bị mọi người khinh khi,
xa lánh, người đó sẽ không có được sự yên vui hạnh phúc trong cuộc sống.
Quy luật lô gic trong quan điểm về nhân - quả đạo đức của kinh điển Phật
giáo đã trở thành một sự răn đe, cảnh tỉnh cho đạo đức cá nhân, vì đó mà nỗ
lực thực hiện lời nói, ý nghĩ, việc làm theo những chuẩn mực, giá trị đạo đức.
Nhờ đó, những giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Pàli trở thành công
cụ thúc đẩy đạo đức xã hội và xóa bỏ những biểu hiện phi đạo đức.
Thực hành những chuẩn mực đạo đức không chỉ làm tăng lên những giá
trị tốt đẹp của con người trong xã hội, mà ngay khi những giá trị đạo đức ấy
được thực hành thì cũng chính là lúc những điều vô đạo đức, những điều xấu
ác được ngăn chặn và loại bỏ. Những lời răn khuyên trong kinh điển Phật giáo
như thân không làm các việc ác: sát sinh, trộm cắp, tà dâm; khẩu không nói
lời thô dữ, độc ác và nói dối; ý không tham lam, sân hận và si mê, đồng thời
việc khuyến khích sống tuân thủ theo tinh thần của năm cấm giới, không sát
sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không uống rượu
như đã nêu trong lời giáo huấn của Thích Ca chính là biện pháp bảo vệ quyền
con người hữu hiệu nhất. Việc tuân thủ năm giới cấm, như nêu trên, hoàn toàn
ngăn chặn sự phạm pháp của năm khía cạnh quan trọng về nhân quyền được
ghi lại trong các Công ước Nhân quyền của LHQ. Cụ thể là, (1) mỗi người
đều có quyền để bảo vệ cuộc sống của mình, (2) mỗi người đều có quyền để
bảo vệ của cải và tài sản, (3) mỗi người đều có quyền sống một cuộc sống gia
149
đình bình yên, (4) mỗi người đều có quyền được biết thông tin đúng và (5)
mỗi người đều có quyền để duy trì sự an bình của tâm. Các quyền cơ bản vẫn
được giữ nguyên bởi việc chấp hành năm tiêu chuẩn đạo đức trong xã hội.
Các giá trị ĐĐPG đồng hành cùng sự Phát triển của Phật giáo trong
lòng xã hội Việt Nam, một mặt nó tạo nên những CMĐĐ tốt đẹp, như những
đúc kết mang tính giáo dục: “thương người như thể thương thân”, “một con
ngựa đau vả tàu bỏ cỏ”, “lá lành đùm lá ránh”... Thậm chí, GTĐĐPG còn đi
từ đời thực vào thi ca, vào những loại hình sân khấu nghệ thuật, mà “Quan
Âm Thị Kính”. “Tấm Cám” là những tiêu biểu cho việc điển hình hóa
GTĐĐPG. Qua những hình tượng tiêu biểu và những hành vi thể hiện
GTĐĐPG, nó đã góp phần tích cực khẳng định những điều tốt đẹp, thiện lành,
đẩy lùi những biểu hiện xấu, ác, làm thanh lọc xã hội.
Thứ tư, giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ
Pàli góp phần hình thành hệ giá trị để đánh giá, định giá ĐĐ xã hội. Có thể
khẳng định, đạo đức là nền tảng luân lý mà bất kỳ thời đại nào cũng cần phải
xây dựng, củng cố và phát triển. Con người nếu không có đạo đức thì không
dùng được. Xã hội nếu thiếu nền tảng đạo đức thì xã hội sẽ rối loạn. Luân lý
đạo đức là phương châm, lối sống định hướng cho con người và xã hội sống
tốt, sống thiện, mang đến an bình và hạnh phúc. Đó là những giá trị mà đạo
đức Phật giáo khẳng định. Có nhiều quan niệm về đạo đức, như: đạo đức
phương Đông, đạo đức phương Tây, đạo đức Khổng giáo, Lão giáo và đạo
đức theo các tôn giáo khác. Mỗi tôn giáo, vùng địa lý và cộng đồng xã hội
đều có chuẩn mực đạo đức luân lý của riêng mình. Nhưng giá trị đạo đức Phật
giáo thiết lập nhằm mục đích thanh tịnh đời sống, đưa đến đời sống an lạc
hạnh phúc thật sự. Đây được xem là nền đạo đức luân lý tiêu chuẩn có giá trị
ứng dụng cao hình thành hệ thống các chuẩn giá trị đạo đức trong cuộc sống
con người. Tâm thức xã hội đã quen với những câu ví thể hiện việc đánh
giá chuẩn mực đạo đức đi ra từ những giá trị đạo đức Phật giáo, như: “Ác
như ma, hiền như Bụt”, hay “đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
150
giấy”... GTĐĐPG không chỉ là công cụ đánh giá, mà nó còn trở thành các
tiêu chí điều chỉnh hành vi đạo đức và ửng xử của con người.
Phật giáo thiết lập một nền tảng đạo đức luân lý bằng cách tịnh hóa tam nghiệp (thân, khẩu, ý) và ngăn chặn tam độc (tham sân, si) sinh khởi trong con người. Do vậy, cần phải ngăn chặn các hành vi vi phạm các nguyên tắc đạo đức, nhằm củng cố thêm sức mạnh nội tâm cũng như năng lượng phòng hộ cho bản thân. Mặc khác thúc đẩy sự nỗ lực trong việc thực hành các thiện hạnh, phát triển lòng từ bi, vô ngã vị tha nhằm hóa giải tất cả những hận thù, tranh chấp trong đời sống. Dưới góc nhìn chỉnh thể của Phật giáo và với lý thuyết thực thể tôn giáo, việc tuân thủ nề nếp thuần khiết đạo đức, thiết lập các điều kiện và nền tảng căn bản của thiện hạnh sẽ mang lại một cuộc sống lành mạnh cho cá nhân cũng như xã hội.
Thứ năm, giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli với những nội dung liên quan đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn với mỗi con người với mỗi ngành nghề xã hội đã thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế, chính trị, xã hội. Những lời răn dạy về những hành động chính nghiệp, chính mệnh, không kiếm tiền tài, của cải, vật chất từ các ngành nghề phi pháp, phi đạo đức, trái với chuẩn mực và luân lý xã hội, không xung đột, không gây chiến giữa những nhóm xã hội và các quốc gia. Cùng những nội dung như chia sẻ thu nhập, nguồn lợi có được một cách hợp pháp cho những người nghèo đói, thiếu thốn hơn, thực hiện quản lý nghề nghiệp, quản lý xã hội bằng tài năng, đạo đức và vì lợi ích chung; cùng bàn luận, cùng thực hiện công việc trong sự thống nhất và đoàn kết; giải quyết những mâu thuẫn, những hiểu lầm, những tranh chấp bằng thành ý, tinh thần bình đẳng và lòng yêu thương đã góp phần thúc đẩy việc tạo lập một xã hội hài hòa, cân bằng, ổn định, xóa bỏ sự chênh lệch về kinh tế, xã hội, làm giảm những bất ổn chính trị, thúc đẩy xã hội phát triển bền vững.
Có thể nói, qua kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli, Thích Ca Mâu Ni không chỉ là một nhà tôn giáo, nhà văn hóa, nhà giáo dục thành công, ông còn là một nhà đạo đức học uyên thâm trên cơ sở chỉ ra những quan điểm đạo đức, tâm lý đạo đức, hành vi đạo đức và hơn hết, ông nhìn ra được những tác động của các chuẩn mực đạo đức đến đời sống mỗi con người nói riêng và
151
đời sống xã hội nói chung. Qua kinh tạng Pàli có thể thấy quan điểm của Thích Ca về việc thiết lập nền tảng đạo đức để tạo nên lối sống lành mạnh là điều kiện thiết yếu trong việc kiến tạo hạnh phúc an lạc lâu dài cho đời sống của con người. Thích Ca cũng cho rằng, dựa trên nền tảng những giá trị đạo đức, con người thiết lập một đời sống an bình, và thịnh vượng. Điều này là hẳn nhiên, vì bất kỳ ở đâu, giai đoạn nào thì đạo đức và lối sống lành mạnh cần phải được giữ gìn, phát triển. Khi tất cả mọi người đều ý thức đầy đủ về giá trị của đạo đức thì cuộc đời sẽ trở nên thanh bình, hạnh phúc và an lạc. Giá trị đời sống sẽ được nâng cao, năng lượng thiện lành sẽ lan tỏa khắp mọi nơi. Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo, khi được phát triển rộng ra, khi được con người tiếp nhận và thực hành sẽ đã thúc đẩy việc hành thành một xã hội tốt đẹp, toàn thiện.
4.3. MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO
ĐỨC TRONG KINH TẠNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VĂN HỆ PÀLI TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN NAY
4.3.1. Chính sách nhà nƣớc * Đạo đức tôn giáo là thành tố của văn hóa Giới tôn giáo học và văn hóa học thế giới, đã từ lâu, đều thống nhất và coi tín ngưỡng tôn giáo là một thành tố của văn hóa. Các định nghĩa về văn hóa của UNESCO [133], nhà khoa học E.b.Tylor [71, tr.20], hay quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh [95, tr.431] đều khẳng định, trong thành tố của văn hóa có tín ngưỡng tôn giáo. Nói cách khác, tín ngưỡng tôn giáo là thành tố quan trọng tạo nên văn hóa. Điều này sẽ quyết định chính sách tôn giáo và chính sách văn hóa của Nhà nước, thông qua đó để thúc đẩy hay hạn chế sự tác động của các GTĐĐ tôn giáo đến đạo đức xã hội.
Các văn bản mang tính định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam có
nhắc đến mối quan hệ tôn giáo và văn hóa, hay nhận định tôn giáo là thành
tố của văn hóa, trong đó nhấn mạnh các giá trị đạo đức tôn giáo như: Hội
nghị lần thứ năm BCH TW Đảng khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nêu rõ: “Khuyến khích ý tưởng
công bằng, bác ái, hướng thiện... trong các tôn giáo” [60, tr.67]. Như vậy,
Đảng nhận định, trong tôn giáo có những GTVH, đạo đức tốt đẹp và khẳng
152
định cần khuyến khích, cần khai thác, phát huy các giá trị đó nhiều hơn nữa
để góp phần xây dựng nền VHVN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiếp
đó, Đảng ta cũng xác định “mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” là điểm tương đồng giữa tôn giáo và chủ nghĩa
xã hội, từ đó Đảng CSVN xác định, cần “phát huy những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới”
[61, tr. 50-55]. Như vậy, những nhận định mang tính phát triển so với quan
điểm mác-xít về tôn giáo trong cương lĩnh của Đảng CSVN đã tuyên bố rõ
ràng về sự tồn tại của tôn giáo trong lòng xã hội và khẳng định giá trị đạo
đức tôn giáo. Đây là nền tảng lý luận quan trọng và có tác động mạnh mẽ
đến việc phát huy giá trị đạo đức tôn giáo góp phần xây dựng đạo đức xã
hội Việt Nam.
* Xác định nền tảng văn hóa đạo đức xã hội
Trong lý luận phát triển văn hóa của các nhà mác - xít và đường lối văn
hóa của Đảng CSVN đều thống nhất khẳng định: văn hóa là mục tiêu và là
động lực của sự phát triển xã hội. Như vậy, văn hóa đóng vai trò là nền tảng
tinh thần xã hội, trong đó có nền tảng đạo đức xã hội.
Như trên đã nói, khi xác định tôn giáo là thành tố của văn hóa, và giá trị
đạo đức tôn giáo, trong trường hợp này là giá trị đạo đức Phật giáo, là thành
tố quan trọng tạo nên giá trị văn hóa tôn giáo. Đến lượt nó, giá trị văn hóa tôn
giáo, chứa hạt nhân là giá trị đạo đức tôn giáo, là thành tố tạo nên giá trị tinh
thần xã hội. Tiến thêm một bước trong quan điểm của Đảng CSVN về vai trò
của văn hóa tôn giáo nói chung và đạo đức tôn giáo nói riêng, Đảng xác định
cần “phát huy những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo trong
công cuộc xây dựng xã hội mới”. Ở khía cạnh này, Đảng CSVN không đề cập
sự khác biệt trong những quan điểm về thế giới, về con người, hay ý thức hệ
mà chỉ đề cập đến những quan điểm đạo đức, những GTĐĐ mà tôn giáo, ở
đây là Phật giáo, đem lại cho xã hội. Với hệ thống GTĐĐ PG đã và đang thể
hiện vai trò quan trọng của mình góp phần hình thành và thúc đẩy ĐĐXH.
Nghĩa là, GTĐĐ PG, dù hình thành trên góc nhìn về thế giới và con người của
153
Phật giáo, nhưng cùng với GTĐĐ của các tôn giáo, đã trở thành một trong
những nền tảng văn hóa ĐĐXH Việt Nam. Tuy nhiên, quan điểm nhận định
của Đảng thì như thế, nhưng trên thực tế trong công tác quản lý của Nhà
nước, chủ trương về “phát huy những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của các
tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới” chưa được thể chế hóa cụ thể
thành căn cứ pháp lý cho hoạt động quản lý của cơ quan chức năng và hoạt
động thực tiễn của các tôn giáo. Vì vậy, trong điều kiện cụ thể, việc phát huy
giá trị đạo đức tôn giáo chưa thực sự đạt được như sự lãnh đạo của Đảng.
* Vốn xã hội và nguồn lực đạo đức tôn giáo
Nhìn ở góc độ xã hội, tôn giáo là một nguồn lực xã hội, là vốn xã hội.
Trên thế giới, với tinh thần nhân văn và giá trị đạo đức trong giáo lý, tôn giáo
đã tham gia tích cực, hiệu quả cùng LHQ, các quốc gia, các tổ chức phi chính
phủ để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, nỗ lực cùng
nhân loại thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của LHQ. Thực tế ở Việt Nam,
báo cáo hàng năm về tôn giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ đều ghi nhận
những đóng góp trong nhiều lĩnh vực của tôn giáo, như: y tế, giáo dục, từ
thiện, di sản, văn hóa xã hội... với trị giá tính bằng tiền lên tới hàng nghìn tỷ
đồng/năm [3]. Báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ cũng nên rõ những tiềm
năng về nguồn lực tôn giáo, đặc biệt là nguồn lực văn hóa tôn giáo và hướng
đề xuất chính sách để phát huy nguồn lực tôn giáo, với vị thế là một thực thể
xã hội, là tổ chức tôn giáo, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Như
vậy, nếu chỉ tính đến GTĐĐ tôn giáo, chưa đề cập đến những giá trị và chức
năng khác của tôn giáo, khi chúng ta coi đó là vốn xã hội và là nguồn lực văn
hóa, sẽ được huy động sử dụng để thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, xã
hội, văn hóa của đất nước theo hướng bền vững.
Mặc dù, trong các văn bản thể hiện quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam và chính sách, pháp luật của nhà nước Việt Nam, vai trò của các nguồn lực
văn hóa tôn giáo có được nhắc đến và tạo điều kiện để phát huy, nhất là các giá
trị văn hóa đạo đức tôn giáo. Tuy nhiên, chúng ta mới chỉ đề cập đến tôn giáo
với sự thể hiện vai trò của các cá nhân chức sắc, tín đồ có niềm tin chứ chưa đề
154
cập đến tôn giáo như một thực thể xã hội, một tổ chức xã hội có tư cách pháp
nhân, chịu sự tác động, điều tiết, quản lý chung của nhà nước. Và như vậy, chưa
thực sự tạo điều kiện để phát huy nguồn lực này một cách hiệu quả.
4.3.2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam
* Phật giáo đồng hành cùng dân tộc
Phật giáo được tiếp nhận vào nước ta khoảng những năm đầu Công
nguyên, đến nay cũng đã hơn 2000 năm. Trong thời gian này, Phật giáo đã để
lại nhiều dấu ấn trong lòng xã hội, có thể thấy từ tín ngưỡng cho đến văn hóa,
phong tục tập quán, từ quan niệm về xã hội đến trách nhiệm đạo đức của con
người, từ tư tưởng đến tình cảm... Nhiều vấn đề của lịch sử dân tộc, của văn
hóa dân tộc sẽ không sáng rõ nếu không hiểu được Phật giáo dân tộc, trong đó
có lịch sử Phật giáo dân tộc [116, tr.5]. Với nhận định này, tác giả cuốn “Lịch sử
Phật giáo Việt Nam” đã khẳng định vai trò của PGVN và sự gắn bó, cố hữu giữa
tinh thần PG và tinh thần dân tộc, mà tác giả gọi là “Phật giáo dân tộc”.
Phật giáo không chỉ được cộng đồng tăng ni, tín đồ Phật tử tin theo mà
còn được dân tộc Việt Nam chấp nhận bởi vai trò của Phật giáo trong suốt
chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Sự gắn bó “đạo - đời”
với những cố kết sâu sắc ấy, một mặt tạo điều kiện cho việc chấp nhận sự phổ
biến của Phật giáo trong đời sống xã hội, mặt khác thúc đẩy sự phát huy vai
trò của giá trị đạo đức Phật giáo trong lòng xã hội. Giá trị đạo đức Phật giáo
càng được xã hội chấp nhận và tạo điều kiện khẳng định vị thế, chỗ đứng
cũng như tác động quan trọng vào việc hình thành đạo đức xã hội.
* Các hoạt động xã hội tích cực của Phật giáo
Chung tay cùng các cấp chính quyền và các tổ chức xã hội, Phật giáo
Việt Nam nói chung và Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói riêng đã nỗ lực huy
động các nguồn lực tôn giáo để thực hiện có hiệu quả các hoạt động xã hội
hóa y tế, giáo dục, văn hóa, từ thiện, nhân đạo, môi trường đồng thời tham gia
tích cực vào các hoạt động bảo vệ an ninh trật tự và xây dựng hệ thống chính
trị, thông qua việc cử đại biểu ưu tú tham gia cơ quan quyền lực từ trung ương
đến địa phương, các tổ chức đoàn thể chính trị, chính trị xã hội. Hoạt động xã
155
hội tích cực đó của Phật giáo đã tạo nên những đánh giá tích cực, ngày càng
tạo thiện cảm từ xã hội. Trên nền tảng đó, qua các thiết chế đó, các giá trị đạo
đức Phật giáo không chỉ nằm trong kinh sách mà nó được hiện thực hóa qua
hành động, lời nói, việc làm, và nó có sức lan tỏa tích cực trong đời sống xã
hội. Việc thực hiện hiệu quả các hoạt động xã hội của Phật giáo cũng chính là
một điều kiện thuận lợi, một kênh đắc dụng để phát huy giá trị đạo đức Phật
giáo trong đời sống xã hội Việt Nam.
Tiểu kết chƣơng 4
Phật giáo du nhập, bén rễ và phát triển ở Việt Nam hơn 2000 năm nay,
cùng với quá trình đó là sự gắn bó chặt chẽ với vận mệnh dân tộc và đồng
hành với chính quyền nhà nước của PGVN. Những nội dung giáo lý về việc
ca ngợi điều thiện, ca ngợi hành động vì mục đích số đông, ca ngợi sự học tập
nghề nghiệp chính đáng và rèn rũa trí tuệ, hướng dẫn con người chế ngự
những dục vọng thấp hèn, rèn luyện đạo đức hướng thượng để phục vụ xã hội
và mọi người... đó là những căn bản giáo lý mang GTĐĐ cao cả. Chính vì lẽ
đó, Phật giáo được cư dân Việt Nam thừa nhận và thực hành theo. Trong thực
tiễn đời sống tu học và hoạt động tôn giáo của chức sắc, tín đồ, nhân dân có
tín ngưỡng Phật giáo, các GTĐĐ thể hiện qua lời dạy của Thích Ca, được ghi
chép trong kinh tạng Pàli, ngày càng được lan truyền và phát dương trong
lòng xã hội.
Phật giáo được coi là một thiết chế, một thực thể văn hóa. Trong quá
trình vận hành, phát triển của nó ở bất kỳ quốc gia nào, cũng như ở Việt Nam,
một mặt nó chịu sự tác động của bối cảnh xã hội, bị khúc xạ từ xã hội mà nó
đang tồn tại, mặt khác, với tinh thần độc lập tương đối, Phật giáo có tác động,
ảnh hưởng trở lại xã hội, làm thay đổi xã hội theo tính chất và chiều tác động,
ảnh hưởng của nó. Trong sự tác động đa diện đến các lĩnh vực của đời sống
xã hội thì phải ghi nhận sự ảnh hưởng của giá trị đạo đức, văn hóa Phật giáo
đến đạo đức xã hội Việt Nam.
Khi đi nghiên cứu để thực hiện các nhiệm cụ của đề tài và cụ thể vào
chương 4 của luận án, NCS đưa ra một số bàn luận, đánh giá như sau:
156
- Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli với
nội dung cơ bản còn hiện tồn trong đời sống văn hóa, đạo đức xã hội Việt
Nam hiện nay, như những nhìn nhận về giá trị đạo đức phổ quát: thiện - ác,
tốt - xấu; bình đẳng, trọng sinh; những điều nên làm, những điều cần tránh;
giá trị đạo đức cần hướng tới của người đứng đầu đất nước, của một công dân,
của bậc làm cha mẹ và con cái, của thầy và trò, của vợ và chồng, của bạn bè,
của chủ - thợ; những biểu hiện đạo đức trong đối xử với động vật, tài vật. Bên
cạnh đó, cùng sự phát triển của xã hội, một số biểu hiện của giá trị đạo đức đã
được tiếp biến trong xã hội hiện nay, như quan điểm về trọng sinh, về bình
đẳng, về danh xưng hay tiêu chuẩn đạo đức đối với người giữ các vị trí xã hội
lãnh đạo đất nước, về sự phân tầng giai cấp xã hội, về thờ phụng ân đức của
người thầy, về quan điểm đánh giá đồ lễ tế, về việc chia sẻ tài vật với cộng
đồng và việc nhìn nhận sự thay đổi của những người đã mắc lỗi lầm.
- Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli có
ảnh hưởng tích cực đối với việc hình thành đạo đức xã hội Ấn Độ cổ cũng
như việc hình thành đạo đức cá nhân và thúc đẩy việc hình thành đạo đức xã
hội Việt Nam hiện nay.
- Sự ảnh hưởng của giá trị đạo đức thể hiện trong kinh tạng Phật giáo
Nguyên thủy văn hệ Pàli với đạo đức xã hội Việt Nam thể hiện qua những nội
dung cụ thể như: (1) góp phần quan trọng vào việc hình thành, thúc đẩy văn
hóa và ĐĐXH; (2) tác động tích cực vào ý thức ĐĐ con người, dẫn đến sự
thay đổi tích cực trong ý nghĩ, lời nói, hành động theo hướng tốt đẹp: (3) góp
phần trở thành công cụ hữu hiệu đẩy lùi dẫn đến xóa bỏ những biểu hiện tiêu
cực phi văn hóa đạo đức trong xã hội; (4) trở thành một chuẩn công cụ, thành
hệ giá trị để đánh giá, định giá ĐĐ xã hội; (5) thúc đẩy sự phát triển bền vững
kinh tế, chính trị, xã hội.
- Việc phát huy giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy
văn hệ Pàli trong đời sống xã hội hiện nay, trong khuôn khổ thực hiện của đề
tài luận án, NCS cũng cố gắng chỉ ra một số vấn đề tác động thuộc chính sách
nhà nước, như: việc xác định đạo đức tôn giáo là thành tố của văn hóa; xác
157
định nền tảng văn hóa đạo đức xã hội; vốn xã hội và nguồn lực đạo đức tôn
giáo, cùng các yếu tố tác động thuộc Phật giáo, như: các hoạt động xã hội tích
cực của Phật giáo; hoạt động đồng hành cùng dân tộc của Phật giáo.
Tuy nhiên, trong thực thế, việc phát huy giá trị đạo đức Phật giáo cũng
đang phải đổi diện với một số cản trở mà trong khuôn khổ hạn hẹp của một
luận án, NCS chưa có cơ hội đề cập sâu hơn.
158
KẾT LUẬN
Giá trị đạo đức tôn giáo luôn được biểu hiện trong đời sống XH, không
chỉ trong bộ phận những người tin theo tôn giáo đó mà nó vượt ra các bộ phận
dân cư khác trên một phạm vi lãnh thổ rộng lớn. Phật giáo cũng như vậy. Với
mục tiêu góp phần làm sáng tỏ định hướng phát huy các GTĐĐ PG trong đời
sống xã hội trong định hướng phát triển văn hóa của Đảng, Nhà nước Việt
Nam, việc nghiên cứu đề tài luận án là để tìm hiểu và chỉ ra những luận chứng
mang tính lý luận và thực tiễn để làm cơ sở củng cố vững chắc thêm cho nhận
định nêu trên, đồng thời đánh giá một cách khách quan vai trò, ảnh hưởng của
GTĐĐ PG, trên cơ sở đó phát huy nó trong đời sống xã hội, để góp phần xây
dựng và thúc đẩy sự tiến bộ của XH, phát triển theo hướng nhân văn, nhằm
xây dựng con người và phát triển văn hóa. Sau khi thực nhiện những nhiệm
vụ nghiên cứu đề tài “Giá trị đạo đức trong kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy
văn hệ Pàli” nghiên cứu sinh đi tới nhận xét sau:
1 - Phật giáo ra đời và phát triển trên khắp thế giới là vì mục tiêu phục
vụ cuộc sống con người không phân biệt sắc tộc, địa vị kinh tế - xã hội, quan
điểm chính trị, giới tính. Lấy con người làm trung tâm cho quá trình tu tập,
thực hành và chứng đạt cảnh giới an lạc, Phật giáo là một tôn giáo lấy con
người làm trung tâm, vì con người mà thực hiện.
2 - Lời dạy của Thích Ca Mâu Ni không phải ngay lúc đầu được hình
thành đầy đủ mà nó phản ánh quá trình nhận thức, trải nghiệm, chứng đạt
trong tư duy của ông phù hợp với quy luật tự nhiên, xã hội, và tư duy con
người. Trong những lời dạy đó, dù cho đối tượng là tu sỹ hay cư sỹ, hoặc là
hạng người nào trong xã hội thì những lời khuyên làm việc thiện, tránh điều
ác, thực hiện những điều đức hạnh và đạt đến chuẩn mực đạo đức luôn được
nhắc đến. Những lời dạy đó, sau này được ghi chép trong kinh điển Phật giáo
qua các kỳ kết tập kinh điển.
3 - Kinh điển Phật giáo không được ghi chép thành văn bản ngay khi
Thích Ca Mâu Ni còn sống, mà nó chỉ được ghi lại thành văn bản sau khi ông
mất, và vì mục tiêu đoàn thể Phật giáo yêu cầu nên ghi lại. Các học trò giỏi
159
nhất của ông là những người đầu tiên có ý tưởng ghi chép lời dạy của Thích
Ca Mâu Ni thành văn bản, gọi là tam tạng kinh điển. Tuy nhiên, quá trình tập
hợp (kết tập) và ghi chép thành văn bản của kinh điển Phật giáo mà kinh tạng
Phật giáo là một thành tố quan trọng cấu thành, diễn ra lâu dài và do nhiều
người thực hiện.
4 - Kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli được xác định là dạng
thức văn bản cổ xưa nhất, phản ánh trung thực nhất lời dạy của Thích Ca Mâu
Ni với chúng đồ đệ và những người khác khi ông còn sống. Từ văn hệ Pàli,
kinh tạng Phật giáo có thể được chuyển dịch hoặc phiên tự theo mã hóa ký tự
quốc tế theo quy định của Hội Pali Text Society quốc tế và vẫn giữ nguyên nội
dung và âm đọc ký tự Pàli gốc.
5 - Qua những lời dạy của Thích Ca được ghi chép trong các bộ kinh
Nguyên thủy văn hệ Pàli các chuẩn mực ứng xử, luân lý, tiêu chuẩn đạo đức
gắn với mỗi hạng người, mỗi vị trí xã hội của con người được phản ánh một
cách hệ thống, chi tiết, cụ thể, từ những phạm trù phổ quát, đến các chuẩn
mực đạo đức cá nhân, các chuẩn mực đạo đức xã hội, hay những tiêu chuẩn
đạo đức trong việc ứng xử của con người với động vật hay đồ vật. Điều đó đã
thể hiện người sáng lập Phật giáo rất quan tâm đến những chuẩn mực đạo đức
gắn với mỗi con người trong đời sống xã hội. Đạo đức, với Phật giáo, là điệu
kiện để làm cho con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện, hạnh phúc và an lạc.
Nó cũng trở thành các giá trị đạo đức lắng đọng và vận hành trong đời sống
xã hội.
6 - Giá trị đạo đức biểu hiện qua kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn
hệ Pàli biểu hiện ở tất cả 5 bộ kinh Nikàya, tuy nhiên tập trung hơn ở các bộ
kinh: Trường bộ, Trung bộ, Tương ưng bộ, Tăng chi bộ và có một số đặc
điểm như: (1) tính nhân - quả; (2) hướng tới hạnh phúc con người; (3) hướng
tới sự xả bỏ dục lạc, tài vật và những điều phi pháp; (4) được nhìn nhận trong
quan điểm vô thường, vô ngã; (5) có tính hệ thống.
7 - Vận thông trong xã hội, giá trị đạo đức biểu hiện qua kinh tạng Phật
giáo Nguyên thủy văn hệ Pàli có những nội dung cơ bản còn được hiện tồn,
160
bảo lưu trong đời sống hiện nay; cũng có những biểu hiện đã có sự tiếp biến
hay biến đổi nhất định để phù hợp với bối cảnh xã hội mới.
8 - Giá trị đạo đức biểu hiện qua kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy văn
hệ Pàli có ảnh hưởng đến đời sống đạo đức xã hội hiện nay cơ bản theo hướng
thúc đẩy tích cực, góp phần hình thành đạo đức xã hội, trở thành công cụ hữu
hiệu làm phát sinh những điều tốt đẹp, hạn chế và đẩy lùi những điều xấu ác
trong đời sống xã hội, thúc đẩy sự phát triển xã hội theo hướng bền vững.
9 - Kết quả nghiên cứu thể hiện qua các chương của luận án đã khẳng
định giả thuyết nghiên cứu là đúng, đồng thời lần lượt đã chỉ ra các đáp án, trả
lời những câu hỏi nghiên cứu mà nghiên cứu sinh đặt ra trong phần mở đầu
của luận án.
10 - Để giá trị đạo đức biểu hiện qua kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy
văn hệ Pàli được phát huy trong đời sống hiện nay, thì những yếu tố từ chính
sách nhà nước, như việc xác định thành tố văn hóa; việc xác định nền tảng
văn hóa đạo đức xã hội; việc xác định vốn xã hội và nguồn lực đạo đức tôn
giáo, hay những yếu tố từ phía Giáo hội Phật giáo Việt Nam, như sự đồng
hành cùng dân tộc; các hoạt động xã hội tích cực của Phật giáo, sẽ có tác động
quan trọng.
Có thể nói, giá trị đạo đức biểu hiện qua kinh tạng Phật giáo Nguyên
thủy văn hệ Pàli cơ bản có ảnh hưởng tích cực đến đời sống hiện nay, và nếu
được phát huy trong đời sống xã hội, nó sẽ thúc đẩy sự hình thành đạo đức xã
hội theo hướng tích cực, góp phần xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc.
161
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Lê Trung Kiên (2019), “Giá trị văn hóa đạo đức Phật giáo thể hiện qua
kinh tạng Pàli trong mối quan hệ giữa người với tài vật”, Tạp chí Công
tác Tôn giáo, (7), tr. 33 - 35.
2. Lê Trung Kiên (2019), “Giá trị văn hóa đạo đức Phật giáo với đạo đức xã
hội thể hiện trong kinh tạng Nguyên thủy văn hệ Pàli”, Tạp chí Công tác
Tôn giáo, (9), tr. 36 - 38,45.
3. Lê Trung Kiên (2019), “Phật giáo Nguyên thủy”, Tạp chí Công tác Tôn
giáo, (10), tr. 28-30.
4. Lê Trung Kiên (2019), “Ảnh hưởng của giá trị đạo đức Phật giáo với đạo
đức xã hội Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Công tác Tôn giáo, (11), tr. 43, 47
5. Lê Trung Kiên (2020), “Văn hóa đạo đức Phật giáo với việc xây dựng
vương triều Trần”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (4), tr. 18-20.
162
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2015), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thế giới, Hà Nội.
2. Alastair Gornall (2018), “Đạo đức trong giới luật Phật giáo”, tại trang
https://www.buddhistdoor.net, [truy cập ngày 03/7/2018].
3. Ban Tôn giáo Chính phủ (2016), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết 25-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng về công tác tôn giáo, Hà Nội.
4. Ban Tôn giáo Chính phủ (2019), Báo cáo tổng kết tình hình, công tác
năm 2019 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2020 của ngành
quản lý nhà nước về tôn giáo.
5. Ban Tôn giáo Chính phủ (2019), Kỷ yếu Thủ tướng Chính phủ gặp mặt,
biểu dương chức sắc, chức việc tôn giáo có đóng góp tiêu biểu trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (lưu hành nội bộ).
6. Ban Tôn giáo Chính phủ (2020), Báo cáo công tác phòng, chống dịch
Covid-19 trong các tôn giáo, Hà Nội.
7. Ban Tôn giáo Chính phủ (2020), Báo cáo đánh giá việc thực hiện chính
sách tôn giáo giai đoạn 2011-2020 và mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn
2021-2030, kế hoạch 5 năm 2021-2025, Hà Nội.
8. Barbara O’Brien (2018), “Phật giáo và đạo đức”, tại trang
https://www.thoughtco.com, [truy cập ngày 03/7/2018].
9. Bạch Băng (2018), “Thuyết giá trị đạo đức và thuyết giá trị giải thoát
của Phật giáo”, tại trang https://wenku.baidu.com, [truy cập ngày
28/7/2018].
10. Trần Văn Bính (2006) (chủ biên), Giáo trình Lý luận văn hóa và đường
lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam (Hệ cao cấp lý luận chính trị),
Nxb Chính trị, Hà Nội.
11. Phan Kế Bính (2018), Việt Nam phong tục, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
12. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
163
13. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
14. Lê Trọng Cường (dịch) (2016), Bụt đã dạy gì (What the Buddha Taught),
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
15. Thích Thiện Chánh (2017) (dịch), Đạo đức học Phật giáo, Nxb Hồng
Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
16. Thích Minh Châu (2002), Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người¸
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
17. Thích Minh Châu (2018), “Kinh Kalama, Kinh Tăng chi bộ III”, trang 4,
nguồn: Thư viện hoa sen, tại trang: https://thuvienhoasen.org, [truy cập
ngày 20/10/2018].
18. Thích Minh Châu (dịch) (2015), Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
19. Damien Keown (2016), Dẫn luận về đạo đức Phật giáo, Nxb Hồng Đức,
Thành Phố Hồ Chí Minh.
20. David Chapman (2018), “Đạo đức Phật giáo Nguyên thủy”, tại trang
http://vividness.live, [truy cập ngày 04/7/2018].
21. David Chapman (2018), “Phật giáo Nguyên thủy không có hệ thống đạo
đức”, tại trang http://vividness.live, [truy cập ngày 04/7/2018].
22. Đường Ái Dân (2018), “Tinh thần của đạo đức văn hóa Phật giáo và giá
trị đương đại của giáo dục đạo đức”, tại trang https://wenku.baidu.com,
[truy cập ngày 06/7/2018].
23. Dipti Mahanta (2014), Trung đạo cho sự phát triển bền vững giữa
những đổi thay xã hội, Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo về phát triển bền vững
và thay đổi xã hội, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
24. Trần Khánh Dư (2010), Lược sử Phật giáo các nước theo hệ Nam truyền
(Nam tông - Tiểu thừa), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
25. Trần Khánh Dư (2012), Lược sử Phật giáo Bắc tông ở các nước trên thế
giới, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
164
26. Thích Tuệ Đăng, (2010), Luận giảng Đại thừa khởi tín, Nxb Tôn giáo, Hà
Nội.
27. Thích Tuệ Đăng (2011), Đại cương Đại Trí độ luận, Nxb Tôn giáo, Hà
Nội.
28. Đại tạng kinh Việt Nam 1 (1991), Kinh Trường bộ, tập 1, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
29. Đại tạng kinh Việt Nam 2 (1991), Kinh Trường bộ, tập 2, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
30. Đại tạng kinh Việt Nam 3 (1992), Kinh Trung bộ, tập 1, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
31. Đại tạng kinh Việt Nam 4 (1992), Kinh Trung bộ, tập 2, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
32. Đại tạng kinh Việt Nam 5 (1992), Kinh Trung bộ, tập 3, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
33. Đại tạng kinh Việt Nam 6 (1993), Kinh Tương ưng bộ, tập 1, Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
34. Đại tạng kinh Việt Nam 7 (1993), Kinh Tương ưng bộ, tập 2, Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
35. Đại tạng kinh Việt Nam 8 (1993), Kinh Tương ưng bộ, tập 3, Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
36. Đại tạng kinh Việt Nam 9 (1993), Kinh Tương ưng bộ, tập 4, Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
37. Đại tạng kinh Việt Nam 10 (1993), Kinh Tương ưng bộ, tập 5, Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
38. Đại tạng kinh Việt Nam 11 (1996), Kinh Tăng chi bộ, tập 1, Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
39. Đại tạng kinh Việt Nam 12 (1996), Kinh Tăng chi bộ, tập 2, Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
40. Đại tạng kinh Việt Nam 13 (1996), Kinh Tăng chi bộ, tập 3, Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
165
41. Đại tạng kinh Việt Nam 14 (1996), Kinh Tăng chi bộ, tập 4, Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, thành phố Hồ Chí Minh.
42. Đại tạng kinh Việt Nam 15 (1999), Kinh Tiểu bộ, tập 1, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam thực hiện, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
43. Đại tạng kinh Việt Nam 16 (1999), Kinh Tiểu bộ, tập 2, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam thực hiện, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
44. Đại tạng kinh Việt Nam 17 (2000), Kinh Tiểu bộ, tập 3, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam thực hiện, Nxb thành phố Hồ Chí Minh
45. Đại tạng kinh Việt Nam 18 (2001), Kinh Tiểu bộ, tập 4, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam thực hiện, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
46. Đại tạng kinh Việt Nam 19 (2001), Kinh Tiểu bộ, tập 5, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam thực hiện, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
47. Đại tạng kinh Việt Nam 20 (2002), Kinh Tiểu bộ, tập 6, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam thực hiện, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
48. Đại tạng kinh Việt Nam 21 (2002), Kinh Tiểu bộ, tập 7, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam thực hiện, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
49. Đại tạng kinh Việt Nam 22 (2003), Kinh Tiểu bộ, tập 8, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam thực hiện, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
50. Đại tạng kinh Việt Nam 23 (2004), Kinh Tiểu bộ, tập 9, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam thực hiện, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
51. Đại tạng kinh Việt Nam 24 (2004), Kinh Tiểu bộ, tập 10, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam thực hiện, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
52. Đại tạng kinh Việt ngữ (2015), Đại phẩm, tập 1, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
53. Đại tạng kinh Việt ngữ (2015), Đại phẩm, tập 2, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
54. Đại tạng kinh Việt ngữ (2015), Phân tích giới Tỳ khưu, tập 1, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
55. Đại tạng kinh Việt ngữ (2015), Phân tích giới Tỳ khưu, tập 2, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
56. Đại tạng kinh Việt ngữ (2015), Tập yếu, tập 1, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
57. Đại tạng kinh Việt ngữ (2015), Tập yếu, tập 2, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
166
58. Đại tạng kinh Việt ngữ (2015), Tiểu phẩm, tập 1, Nxb Tôn giáo, Hà
Nội.
59. Đại tạng kinh Việt ngữ (2015), Tiểu phẩm, tập 2, Nxb Tôn giáo, Hà
Nội.
60. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Thích Trung Định (2019), Những suy nghĩ về lời Phật dạy qua kinh
tạng Pàli, Nxb Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
63. Thích Quảng Độ (dịch) (2012), Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
64. Thích Quảng Độ (dịch) (2012), Tiểu thừa - A Tỳ Đạt Ma Phật giáo tư
tưởng luận, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
65. G.A.Somarate (2014), Xóa đói giảm nghèo: Mô hình đạo đức kinh tế
gia đình, Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo về phát triển bền vững và thay đổi
xã hội, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
66. Trần Thanh Giang, Đỗ Minh Hợp (2017), Văn hóa và khoa học về văn
hóa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
67. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012), Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa xã
hội và Hòa bình, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
68. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012), Giáo dục Phật giáo Việt Nam
định hướng và phát triển, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
69. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012), Giáo dục Phật giáo Việt Nam,
định hướng và phát triển, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
70. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2018), Hiến chương Giáo hội Phật giáo
Việt Nam tu chỉnh lần thứ VI, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
71. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2003), Xã hội học văn hóa, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
167
72. Phạm Minh Hạc (2012), Giá trị học - cơ sở lý luận góp phần đúc kết, xây
dựng giá trị chung của người Việt Nam thời nay, Nxb Dân trí, Hà Nội.
73. Thích Nhất Hạnh (2011), Đạo Bụt nguyên chất, Nxb Phương Đông,
thành phố Hồ Chí Minh.
74. Ngụy Hải (2018), “Đạo đức quan trong Phật giáo”, tại trang
http://www.chinabuddhism.com.cn, [truy cập ngày 02/7/2018].
75. Đỗ Lan Hiền (2016), Kỷ yếu Hội thảo Chính sách, pháp luật về tôn
giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại, Nxb Lý luận Chính
trị, Hà Nội.
76. Minh Hoa cư sỹ (2018), “Phật giáo trong thực tiễn - Tiêu chuẩn đạo
đức”, tại trang http://www.xuefo.net, [truy cập ngày 02/7/2018].
77. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), (2006), Văn hóa mục tiêu và động lực
của sự phát triển xã hội, Nxb Chính trị, Hà Nội.
78. Nguyễn Thừa Hỷ (2015), Văn hóa Việt Nam truyền thống một góc nhìn,
Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
79. Joseph Edkins (2018), “Hệ thống đạo đức Phật giáo”¸ tại trang
http://www.sacred-texts.com, [truy cập ngày 29/7/2018].
80. K.Sri Dhammananda (2016), Đạo Phật vì cuộc sống con người, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
81. Kaushalya Karunasagara (2014), Phật giáo hưởng ứng mục tiêu phát
triển bền vững, đổi mới xã hội, Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo về phát triển
bền vững và thay đổi xã hội, Nxb Tôn giáo, Hà Nội
82. Kuke Wayne (2018), “Đạo đức trong Phật giáo”, tại trang
http://carm.org, [truy cập ngày 03/7/2018].
83. Khangembam Romesh (2018),“Yếu tố đạo đức trong Luận tạng Phật
giáo”, tại trang http://cejsh.icm.edu.pl, [truy cập ngày 04/7/2018].
84. Khánh Phạm Kim Khánh,Bình Anson (biên dịch) (2011), Phật pháp
vấn đáp, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
168
85. Đặng Thị Lan (2005), Đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo
đức con người Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Triết học, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
86. Hoàng Thị Lan (2004), Ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo đối với đạo
đức trong xã hội Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Triết học, trường
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
87. Hoàng Thị Lan (2016), Việc phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tôn giáo
trong thời kỳ đổi mới, Kỷ yếu Hội thảo Chính sách, pháp luật về tôn
giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại, Nxb Lý luận Chính trị,
Hà Nội.
88. Tố Liên (2007), Ký sự phái đoàn Phật giáo Việt Nam đi Ấn Độ và Tích
Lan, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
89. Lê Văn Lợi (2012), Văn hóa tôn giáo trong đời sống tinh thần xã hội
Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
90. Lê Văn Lợi (2016), Đảng Cộng sản Việt Nam với việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo trong thời kỳ mới, Kỷ yếu Hội thảo
Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm
nhìn lại, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
91. Lý Tư Long (2018), “Giá trị văn hóa Phật giáo Trung Quốc đương
đại”, tại trang http://www.360doc.com, [truy cập ngày 29/7/2018].
92. Thu Phong Lương (2018), “Đạo đức Phật giáo và phân tích sơ bộ về ý
nghĩa thực tiễn”, tại trang https://wenku.baidu.com, [truy cập ngày
03/7/2018].
93. Max Weber (2014), Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa
Tư bản, Nxb Tri thức, Hà Nội.
94. Vương Quốc Miên (2018), “Văn hóa đạo đức Phật giáo và xây dựng
đạo đức đương đại”, tại trang https://www.xzbu.com, [truy cập ngày
28/7/2018].
95. Hồ Chí Minh (1995), toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
169
97. Hồ Chí Minh (1995), toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Nàrada Mahà Thera (2013), Đức Phật và Phật pháp, Nxb Tổng hợp,
thành phố Hồ Chí Minh.
99. Thánh Nghiêm (1995), Lịch sử Phật giáo thế giới, Tập 1, Nxb Hà Nội.
100. Thánh Nghiêm (1995), Lịch sử Phật giáo thế giới, Tập 2, Nxb Hà Nội.
101. Thánh Nghiêm, Pháp sư Tịnh Hải (2008), Lịch sử Phật giáo thế giới,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
102. Thích Đức Nhuận (1971), Phật học tinh hoa một tổng hợp đạo lý, Viện
Đại học Vạn Hạnh xuất bản, thành phố Hồ Chí Minh.
103. P.D. Premasiri (2018), “Đạo đức Phật giáo, sự hoàn hảo vè đạo đức và
xã hội hiện đại”, tại trang https://www.budsas.org , [truy cập ngày
04/7/2018.
104. Tương Phùng (dịch) (2017), Mật mã văn hóa, Nxb Lao Động, Hà Nội.
105. Thích Chân Quang (2014), Tâm lý đạo đức, tập 1, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
106. Thích Chân Quang (2014), Tâm lý đạo đức, tập 2, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
107. Thích Chân Quang (2014), Tâm lý đạo đức, tập 3, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
108. Thích Gia Quang (2013), Đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối
với một số lĩnh vực đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
109. Tề Quần (2018), “Đạo đức Phật giáo và xã hội hiện đại”, tại trang
http://www.fjnet.com, [truy cập ngày 02/7/2018.
110. Nguyễn Toàn Thắng (2014), Những vẫn đề lý luận về phát triển văn
hóa trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội.
111. Nhất Thanh (2018), Đất lề quê thói phong tục Việt Nam, Nxb Hồng
Đức, Hà Nội.
112. Nguyễn Thị Thanh Thảo (2016), Ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn
hóa đạo đức các vương triều Lý - Trần, Luận án Tiến sỹ Văn hóa học,
trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
170
113. Trần Ngọc Thêm (2013), Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng
dụng, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
114. Trần Ngọc Thêm (2013), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, Nxb
Văn hóa - Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
115. Trần Ngọc Thêm (2017), Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
116. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1991), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
117. Đinh Quang Tiến (2017), Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời
sống cư dân Nam Bộ, Luận án Tiến sỹ Văn hóa học tại Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
118. Bổn Tính (2018), “Ý nghĩa hiện đại của đạo đức Phật giáo”, tại trang
http://blog.sina.com.cn, [truy cập ngày 03/7/2018].
119. Tịnh Không pháp sư (2003), Nhận thức Phật giáo là giáo dục hạnh
phúc mỹ mãn, Nxb Cơ sở giáo dục Phật đà, Đài Loan, Trung Quốc
120. Thích Chân Tính (2014) (dịch), Những điểm đặc sắc của Phật giáo,
Nxb Tổng hợp, thành phố Hồ Chí Minh.
121. Thích Nguyên Toàn (2013), Tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
122. Thích Phước Toàn (2017), Đạo đức Phật giáo con đường và sự biểu
hiện, Nxb Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
123. Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Tôn giáo (2012), Một số vấn đề về
văn hóa tôn giáo và tư vấn bảo tồn di sản văn hóa tôn giáo trong giai
đoạn hiện nay, Nxb Thời đại, Hà Nội.
124. Thích Nhật Từ, Thích Đức Thiện (2019), Nền tảng giáo dục Phật giáo
về đạo đức, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
125. Thích Nhật Từ, Thích Đức Thiện (2019), Phật giáo và cách mạng công
nghiệp 4.0, Nxb Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
126. Thích Nhật Từ, Thích Đức Thiện (2019), Phật giáo và giáo dục đạo
đức toàn cầu, Nxb Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
171
127. Thích Nhật Từ, Thích Đức Thiện (2019), Phật giáo về phát triển bền
vững và thay đổi xã hội, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
128. Thích Nhật Từ, Thích Đức Thiện (2019), Quan điểm Phật giáo về lối
sống lành mạnh, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
129. Tuần báo Giác Ngộ (2015).
130. Nguyễn Quốc Tuấn (2014), “Triển khai lý thuyết thực thể tôn
giáo”¸Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (10), Hà Nội.
131. Thích Minh Tuệ (1993), Lược sử Phật giáo Việt Nam, Sở Văn hóa
Thông tin, thành phố Hồ Chí Minh.
132. Thích Phúc Tuệ, Thích Thanh Ninh (2011) (dịch), Phật pháp khái luận,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
133. UNESCO (1982), Tuyên bố về những chính sách văn hóa, tại Hội nghị
quốc tế do UNESCO tổ chức tại Mêxicô, Mêxicô.
134. Viện Văn hóa và Phát triển (2006), Giáo trình Lý luận văn hóa và
đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam (hệ cao cấp lý luận
chính trị), Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
Tài liệu chữ Hán
135. 釋仁煥 (2008),佛教与生命, 广西灵阳寺印行,中國.
136. 淩海成 (2005),中国佛教, 五洲傳播出版社,中國.
137. 正果法師 (1999),佛教基本知識, 佛阤教育基金會印行,台灣.
138. 演培法師(1989),般若波羅密多心經講記心經十二講,觀世音雜誌
139. 佛弟子(2009),大乘大集地藏十論經,興亞印制公司印行,香港中國.
社印行,台北.
140. 巴如多法師著-陳颜玲譯(2009),佛教對健康狀況的整體觀,泰國.
141. 浄空法師(1999),佛說大乘無量夀莊嚴清淨平等覺經親聞記,
財團法人佛阤教育基金會印行,台灣.
142. 釋浄空(1991),認識佛敎幸福美滿的敎育,陀教育基礎叢書印行,台
灣 中國.
172
PHỤ LỤC
173
Phụ lục 1 KHUNG CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO PHẬT HỌC CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM CÁC HỆ CAO ĐẲNG, CỬ NHÂN, THẠC SĨ, TIẾN SĨ
----------
I. HỆ CAO ĐẲNG - HỌC VIỆN (6 năm) NĂM THỨ NHẤT
STT MÔN SỐ TIẾT
1 Kinh Bát Đại Nhân Giác 30
2 Kinh Tứ Thập Nhị Chương 30
3 Kinh Di Giáo 30
4 Kinh Thập Thiện 30
5 Kinh Bách Dụ 30
6 Quy Sơn cảnh sách 30
7 Khuyến phát Bồ đề tâm văn 30
8 Kinh NIKAYA 75
9 Sa Di Luật giải 90
10 150 Phật pháp cơ bản (Phật giáo Tam Tự kinh + Sơ đẳng Phật học giáo khoa thư)
11 Tiếng Việt thực hành 90
12 Hán cổ 150
13 Trung văn 90
14 Thiền học cơ bản (thực hành) 45
15 Tin học 30
16 Âm nhạc 45
17 Nghi lễ Phật giáo và Ngoại khóa 45
Tổng 1.020
174
NĂM THỨ HAI
STT MÔN SỐ TIẾT
1 Trường A hàm + Trung A hàm 60
2 Kinh Pháp Cú 45
3 Luật học đại cương 90
4 Duy thức Tam tự kinh 45
5 Bát thức Quy củ tụng 45
6 150 Phật pháp cơ bản (Sơ đẳng + Trung đẳng Phật học giáo khoa thư)
7 Văn học Việt Nam 60
8 Lịch sử Phật giáo Ấn Độ 90
9 Lịch sử Phật giáo Trung Quốc 90
10 Hán cổ 150
11 Trung văn 90
12 Anh văn 60
13 Hội họa 45
14 Nghi lễ Phật giáo và ngoại khóa 45
Tổng 1.065
NĂM THỨ BA
STT MÔN SỐ TIẾT
1 Tăng nhất A hàm + Tạp A hàm 60
2 Kinh Kim Cương 60
3 Kinh Pháp Bảo Đàn 60
4 Luật học 90
5 120 Phật pháp cơ bản (Trung đẳng Phật học giáo khoa thư)
175
6 Thiền Lâm bảo huấn 45
7 Lịch sử Việt Nam 60
8 Lịch sử Phật giáo Việt Nam 90
9 Triết học đại cương 45
10 Triết học Phương Đông 75
11 Phật giáo văn học sử 45
12 Tín ngưỡng Tôn giáo Việt Nam 45
13 Hán cổ 150
14 Trung văn 90
15 Anh văn 60
16 Niên luận 30
Tổng 1.125
NĂM THỨ TƢ
STT MÔN SỐ TIẾT
1 Kinh Pháp Hoa 60
2 Kinh Niết Bàn 60
3 Luật học 90
4 Bách pháp minh môn luận 60
5 Đại thừa khởi tín luận 60
6 Dị bộ tông luân luận 60
7 60 Triết học Phật giáo ( Nguyên thủy + Bộ phái + Phát triển)
8 Các tông phái Phật giáo Trung Quốc 75
9 Hán cổ 150
10 Trung văn 90
176
11 Anh văn 60
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 12 45
Triết học Mác - Lê - nin 13 45
14 Kinh tế chính trị Mác - Lê - nin 45
Chủ nghĩa Xã hội khoa học 15 45
Soạn thảo văn bản 16 30
17 Niên luận 30
Tổng 1.065
MÔN
Kinh Duy Ma Cật Kinh Hoa Nghiêm Luật học Trung Quán luận Câu Xá luận Duy thức tam thập tụng Thắng pháp tập yếu luận Lịch sử tư tưởng triết học Phật giáo VN Triết học phương Tây Triết học Ấn Độ
Trung văn
SỐ TIẾT 60 60 90 75 60 45 45 75 60 60 150 90 60 45
15 75 NĂM THỨ NĂM STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Hán cổ 12 13 Anh văn Pali 14 Văn hóa Phật giáo (Nghi lễ + Kiến trúc mỹ thuật + Lễ hội Phật giáo)
16 Niên luận
Tổng 30 1.080
177
NĂM THỨ SÁU
STT MÔN SỐ TIẾT
1 Kinh Niết Bàn 60
2 Kinh Viên Giác 60
3 Luật học: 90
4 Thanh tịnh Đạo luận 60
5 Logic học Đại cương 45
6 Duy thức học Đại cương 60
7 Nhân minh luận 60
8 Tôn giáo học 45
9 Xã hội học 45
10 Tâm lý giáo dục học 45
11 Giáo học pháp 45
12 Hán cổ 150
13 Trung văn 90
14 Anh văn 60
Pali 15 45
Luận văn và thi tốt nghiệp 16 120
Tổng 1.080
II. KHUNG CHƢƠNG TRÌNH HỆ CỬ NHÂN NĂM THỨ NHẤT
STT MÔN HỌC SỐ TIẾT
1 Giới thiệu hệ thống Kinh Nikaya 45
2 Giới thiệu hệ thống Kinh A - hàm 45
178
Luật học Đại cương 3 90
Lịch sử Phật giáo Ấn Độ 4 75
Lịch sử Phật giáo Trung Quốc 5 75
Lịch sử Phật giáo Việt Nam 6 90
Triết học Ấn Độ 7 45
Lịch sử triết học Phương Tây 8 45
Lịch sử Việt Nam 9 60
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam 10 30
Triết học Mác Lê Nin 11 45
CNXH khoa học 12 30
Kinh tế chính trị 13 30
Tiếng Việt thực hành 14 45
Thiền học cơ bản (thực hành) 15 45
Hán cổ 16 150
Trung văn 17 60
Anh văn 18 45
Âm nhạc 19 45
Tổng số tiết 1.095
NĂM THỨ HAI
STT MÔN HỌC SỐ TIẾT
1 Kinh Duy Ma Cật 60
2 Kinh Kim Cương 60
3 Luật học: Chỉ trì 90
179
4 Câu Xá luận Đại cương 45
5 Thắng pháp tập yếu 45
6 Trung Quán luận 60
7 Bát nhã học 45
8 Lịch sử triết học Phương Đông 75
9 Việt Nam văn học sử 45
10 Giáo học pháp 45
11 Xã hội học đại cương 45
12 Tâm lý học Đại cương 45
13 75 Văn Hóa Phật giáo (KTMT - NL - LH)
14 Hán cổ 150
15 Trung văn 90
16 Anh văn 45
17 Hội họa 45
18 Niên luận + ngoại khóa 45
Tổng số tiết 1.110
NĂM THỨ BA
STT MÔN HỌC SỐ TIẾT
1 Kinh Hoa Nghiêm 60
2 Kinh Viên Giác 60
3 Kinh Pháp Bảo Đàn 60
4 90 Luật học: Tác trì - (Yết Ma Chỉ Nam)
180
Nhân minh luận 5 45
Duy thức học 6 60
Thanh Tịnh Đạo luận 7 45
Logic học 8 45
9 75 Lịch sử TTTH Phật giáo (Nguyên thủy + Bộ phái + Phát triển)
Các tông phái PG Trung Quốc 10 45
Tôn giáo học 11 45
Tỳ Lư Giá Na Phật và TH Mật thừa 12 45
13 45 Tín ngưỡng, Tôn giáo Việt Nam (cơ sở văn hóa + tín ngưỡng)
Hán cổ 14 150
Trung văn 15 60
Anh văn 16 45
Tin học 17 30
Pali 18 45
Niên luận 19 30
Tổng số tiết 1.080
NĂM THỨ TƢ
STT MÔN HỌC SỐ TIẾT
Kinh Niết Bàn 1 60
Kinh Pháp Hoa 2 60
Tỳ khiêu giới bản như thích (Tăng) 3 90 Tỳ khiêu ni Sớ sao (Ni) 4
181
5 Đại thừa Khởi tín luận 60
6 Lịch sử tư tưởng triết học PGVN 75
7 Lịch sử Phật giáo thế giới 60
8 Văn học Phật giáo 60
9 Lịch sử Văn minh thế giới 45
10 Văn bản học 45
11 Hiến pháp và Hiến chương GHPGVN 30
12 Phương pháp NCKH và viết luận án 30
13 Hán cổ 150
14 Trung văn 90
15 Pali 45
16 Anh văn 45
17 Ôn thi và viết Khóa luận tốt nghiệp 120
Tổng số tiết 1.065
III. KHUNG CHƢƠNG TRÌNH HỆ LIÊN THÔNG CAO ĐẲNG - CỬ NHÂN NĂM THỨ NHẤT
STT MÔN HỌC SỐ TIẾT
1 Kinh Kim Cương 45
2 Kinh Pháp Hoa 45
3 Luật học: 90
4 Trung Quán Luận 75
5 Câu Xá Luận 60
6 Đại thừa Khởi Tín Luận 45
182
Thắng pháp tập yếu Luận 7 45
8 60 LS TTTH PG Nguyên thủy + Bộ phái + Phát triển (khái quát)
Duy Thức học đại cương 9 60
Lịch sử Phật giáo Ấn Độ (khái quát) 10 45
11 60
12 90 Lịch sử Phật giáo Trung Quốc (khái quát) Lịch sử Phật giáo Việt Nam (khái quát)
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam 13 30
Triết học Mác - Lê nin 14 30
Chủ nghĩa XHKH 15 30
Kinh tế chính trị Mác - Lê - Nin 16 30
17 Hán cổ 120
18 Tiếng Trung 45
19 Tiếng Anh 45
20 PaLi 45
21 60 Văn hóa PG (Nghi lễ - Kiến trúc Mỹ thuật - Lễ hội Phật giáo )
22 Niên luận 30
Tổng số tiết 1.185
NĂM THỨ HAI
STT MÔN HỌC SỐ TIẾT
1 Kinh Niết Bàn 45
2 Kinh Duy Ma Cật 45
3 Kinh Viên Giác 45
4 Kinh Hoa Nghiêm 45
5 Pháp Bảo Đàn Kinh 45
183
120 Luật học: 6
45 Thanh tịnh Đạo luận 7
45 Nhân Minh Luận 8
75 Lịch sử TH Phương Đông 9
60 Lịch sử TTTH PG Việt Nam 10
45 Triết học Ấn Độ 11
45 Xã hội học đại cương 12
45 Tôn giáo học 13
45 Tâm lý học đại cương 14
45 Văn học Phật giáo 15
45 Giáo học pháp 16
150 Hán cổ 17
45 Trung văn 18
45 PaLi 19
45 Anh văn 20
120 Ôn thi và viết luận án tốt nghiệp 21
1.245 Tổng số tiết
IV. CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ PHẬT HỌC A. CHƢƠNG TRÌNH BỔ TÚC KIẾN THỨC ĐẦU VÀO
STT HỌC PHẦN TÍN CHỈ
30 Đối với các học viên có bằng Cử nhân hoặc Thạc sĩ không đúng chuyên ngành Phật học
1 Tôn giáo học đại cương 03
2 Phật học đại cương 03
3 Đại cương hệ thống Kinh Nikàya 02
4 Đại cương hệ thống Kinh Àgama 02
184
5 Đại cương hệ thống Kinh Mahàyàna 03
6 Đại cương Luật tạng Phật giáo 02
7 Đại cương Luận tạng 02
8 Đại cương Lịch sử Phật giáo Ấn Độ 03
9 Đại cương Lịch sử Phật giáo Trung Quốc 03
10 Đại cương Lịch sử Phật giáo Việt Nam 03
11 Các phương pháp nghiên cứu khoa học 02
12 02 Đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về Tôn giáo
B. CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ PHẬT HỌC
STT HỌC PHẦN TÍN CHỈ
I Khối kiến thức chung 13 TC
1 Triết học nâng cao 05
2 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Tôn giáo 02
3 06 Ngôn ngữ bổ trợ (Hán ngữ, Tiếng anh cơ bản, Tiếng Trung nâng cao)
II Khối kiến thức chuyên ngành 20 TC
1 Duy thức học 03
2 Bát Nhã học 03
3 Thiền tông và Thiền Việt Nam 02
4 Nhân minh học Phật giáo 02
5 Phật giáo trong tiến trình lịch sử Việt Nam 02
6 Tam giáo và Tam giáo ở Việt Nam 02
7 Nghi lễ và Lễ hội Phật giáo Việt Nam 02
8 Công tác An sinh xã hội với Phật giáo Việt Nam 02
9 Tôn giáo và những vấn đề toàn cầu 02
III 06 TC
Tiểu luận chuyên đề và Luận văn: Mỗi đề tài Luận văn Thạc sĩ phải xây dựng 3 chuyên đề phù hợp với hướng dẫn nghiên cứu của đề tài. Có
185
1 06
2 06
3 06
thể phân thành các nhóm chuyên đề định hướng nghiên cứu sau: Kinh điển và triết học Phật giáo (3 chuyên đề, mỗi chuyên đề 02TC) Lịch sử và Văn hóa Phật giáo (3 chuyên đề, mỗi chuyên đề 02TC) Phật giáo với các vấn đề của xã hội đương đại (như: Đạo đức và Môi trường, An sinh xã hội, Truyền thống và hội nhập phát triển...; 3 chuyên đề, mỗi chuyên đề 02 TC, )
IV 40
Luận văn Thạc sĩ Tổng 79 TC
V. CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾN SĨ PHẬT HỌC (TỪ CỬ NHÂN) A. CHƢƠNG TRÌNH BỔ TÚC KIẾN THỨC ĐẦU VÀO
STT HỌC PHẦN TÍN CHỈ
30
Các học phần chuyển đổi công nhận tƣơng đƣơng Cử nhân Phật học (Đối với các ngành học có 50% tín chỉ các môn học tƣơng đƣơng)
Tôn giáo học đại cương 1 03
Phật học đại cương 2 03
Đại cương hệ thống Kinh Nikàya 3 02
Đại cương hệ thống Kinh Mahàyàna 4 03
Đại cương hệ thống Kinh Àgama 5 02
Đại cương Luật tạng Phật giáo 6 02
Đại cương Luận tạng 7 02
Đại cương Lịch sử Phật giáo Ấn Độ 8 03
Đại cương Lịch sử Phật giáo Trung Quốc 9 03
10 Đại cương Lịch sử Phật giáo Việt Nam 03
11 Các phương pháp nghiên cứu khoa học 02
12 02 Đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về Tôn giáo
186
B. CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ PHẬT HỌC (36 TC) STT HỌC PHẦN TÍN CHỈ
I Khối kiến thức chung 13 TC
1 Triết học nâng cao 05
2 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Tôn giáo 02
3 06 Ngôn ngữ bổ trợ (Hán ngữ, Tiếng anh cơ bản, Tiếng Trung nâng cao)
II Khối kiến thức chuyên ngành 23 TC
1 Duy thức học 03
2 Bát Nhã học 03
3 Triết học Như lai tạng 03
4 Thiền tông và Thiền Việt Nam 02
5 Nhân minh học Phật giáo 02
6 Phật giáo trong tiến trình lịch sử Việt Nam 02
7 Tam giáo và Tam giáo ở Việt Nam 02
8 Nghi lễ và Lễ hội Phật giáo Việt Nam 02
9 Công tác An sinh xã hội với Phật giáo Việt Nam 02
10 Tôn giáo và những vấn đề toàn cầu 02
C. CHƢƠNG TRÌNH TIẾN SĨ : CÁC HỌC PHẦN, CHUYÊN ĐỀ, TỔNG QUAN, LUẬN ÁN (132 TC)
I. I.1. 14 10
1. 3 Các học phần tiến sĩ Bắt buộc Đặc trưng bản chất của Phật học và phương pháp luận nghiên cứu
2. Lịch sử hình thành và truyền bá Kinh tạng 3. Vấn đề phân phái Phật giáo 4. Khoa học đương đại và Phật giáo I.2. Tự chọn 5. Phật giáo với xã hội Đông Á và Đông Nam Á 6. Vấn đề chân lí trong nhận thức luận Phật giáo 7. Thuyết Y nghiệp luân hồi 2 3 2 4/10 2 2 2
187
8. 2 Phong trào Phục hưng Phật giáo trên thế giới và Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam
9. Phật giáo Việt Nam đương đại: Vấn đề nội tại và xu hướng 10. Vấn đề con người trong Triết học Phật giáo II.. Kĩ năng bổ trợ, thực hành, ngoại ngữ học thuật nâng cao II.1 Kĩ năng bổ trợ và thực hành nâng cao 11. Kỹ năng, thực hành nâng cao 2 2 12 4 4
8 II.2.
Ngoại ngữ học thuật nâng cao (chọn 1 trong 2 ngoại ngữ: Anh, Trung) III Các chuyên đề tiến sĩ
III.1. Bắt buộc
12. Tư tưởng Bát nhã và giải thoát luận Phật giáo 13. Đặc sắc của tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm Việt Nam 34 19 3 2
14. 3 Dung thông và tiếp biến Tam giáo trong tư tưởng và văn hóa Việt Nam
15. Phật giáo và các vấn đề xã hội, con người đương đại 16. Phật giáo nhập thế, xu hướng và giải pháp 3 2
6
6
17.
6
6 Chuyên đề theo định hướng luận án (chọn một trong các nhóm sau) Nhóm chuyên đề định hướng nghiên cứu kinh điển và triết học Phật giáo Nhóm chuyên đề định hướng nghiên cứu Lịch sử và văn hoá Phật giáo Nhóm chuyên đề định hướng nghiên cứu Phật giáo và các vấn đề đương đại
III.2. Tự chọn
18. Chùa Việt Nam 19. Cư sĩ trong lịch sử Phật giáo 20. Chú giải và truyền bá kinh điển Phật giáo 21. Văn hóa và xã hội Việt Nam thời Lý - Trần 22. Đạo Mẫu và các tín ngưỡng bản địa Việt Nam 23. Phật giáo Việt Nam hội nhập và phát triển 24. Phật giáo và văn hóa Việt Nam 25. Giáo dục học Phật giáo truyền thống và hiện đại 15/38 2 2 2 2 2 2 2 2
188
26. Phật giáo và giao lưu văn hóa Trung - Ấn 27. Kiến trúc và mỹ thuật Phật giáo 28. Hán Nôm nâng cao 29. Phạn văn nâng cao IV 30. Tiểu luận tổng quan Luận án tiến sĩ 2 2 9 9 2 70
VI. CHƢƠNG TRÌNH TIẾN SĨ PHẬT HỌC (TỪ THẠC SĨ) A. CHƢƠNG TRÌNH BỔ TÚC KIẾN THỨC ĐẦU VÀO
STT HỌC PHẦN TÍN CHỈ
30 Đối với các học viên có bằng Cử nhân hoặc Thạc sĩ không đúng chuyên ngành Phật học
1 Tôn giáo học đại cương 03
2 Phật học đại cương 03
3 Đại cương hệ thống Kinh Nikàya 02
4 Đại cương hệ thống Kinh Àgama 02
5 Đại cương hệ thống Kinh Mahàyàna 03
6 Đại cương Luật tạng Phật giáo 02
7 Đại cương Luận tạng 02
8 Đại cương Lịch sử Phật giáo Ấn Độ 03
9 Đại cương Lịch sử Phật giáo Trung Quốc 03
10 Đại cương Lịch sử Phật giáo Việt Nam 03
11 Các phương pháp nghiên cứu khoa học 02
12 02 Đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về Tôn giáo
B. CHƢƠNG TRÌNH TIẾN SĨ: CÁC HỌC PHẦN, CHUYÊN ĐỀ, TỔNG QUAN, LUẬN ÁN (132 TC)
I. I.1. Các học phần tiến sĩ Bắt buộc
1. Đặc trưng bản chất của Phật học và phương pháp luận nghiên cứu 14 10 3
189
Tự chọn
2. Lịch sử hình thành và truyền bá Kinh tạng 3. Vấn đề phân phái Phật giáo 4. Khoa học đương đại và Phật giáo I.2. 5. Phật giáo với xã hội Đông Á và Đông Nam Á 6. Vấn đề chân lí trong nhận thức luận Phật giáo 7. Thuyết Y nghiệp luân hồi 2 3 2 4/10 2 2 2
8. 2 Phong trào Phục hưng Phật giáo trên thế giới và Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam
9. Phật giáo Việt Nam đương đại: Vấn đề nội tại và xu hướng 10. Vấn đề con người trong Triết học Phật giáo II.. Kĩ năng bổ trợ, thực hành, ngoại ngữ học thuật nâng cao II.1 Kĩ năng bổ trợ và thực hành nâng cao 11. Kỹ năng, thực hành nâng cao
II.2. Ngoại ngữ học thuật nâng cao (chọn 1 trong 2 ngoại ngữ: Anh, Trung) III III.1. Các chuyên đề tiến sĩ Bắt buộc
12. Tư tưởng Bát nhã và giải thoát luận Phật giáo 13. Đặc sắc tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm Việt Nam 2 2 12 4 4 8 34 19 3 2
14. 3 Dung thông và tiếp biến Tam giáo trong tư tưởng và văn hóa Việt Nam
15. Phật giáo và các vấn đề xã hội, con người đương đại 16. Phật giáo nhập thế, xu hướng và giải pháp
3 2 6
6
17. 6
6 Chuyên đề theo định hướng luận án (chọn một trong các nhóm sau) Nhóm chuyên đề định hướng nghiên cứu kinh điển và triết học Phật giáo Nhóm chuyên đề định hướng nghiên cứu Lịch sử và văn hoá Phật giáo Nhóm chuyên đề định hướng nghiên cứu Phật giáo và các vấn đề đương đại
III.2. Tự chọn
18. Chùa Việt Nam 19. Cư sĩ trong lịch sử Phật giáo 20. Chú giải và truyền bá kinh điển Phật giáo 15/38 2 2 2
190
Tiểu luận tổng quan Luận án tiến sĩ 2 2 2 2 2 2 2 9 9 2 70
21. Văn hóa và xã hội Việt Nam thời Lý - Trần 22. Đạo Mẫu và các tín ngưỡng bản địa Việt Nam 23. Phật giáo Việt Nam hội nhập và phát triển 24. Phật giáo và văn hóa Việt Nam 25. Giáo dục học Phật giáo truyền thống và hiện đại 26. Phật giáo và giao lưu văn hóa Trung - Ấn 27. Kiến trúc và mỹ thuật Phật giáo 28. Hán Nôm nâng cao 29. Phạn văn nâng cao IV 30.
191
Phụ lục 2 DANH SÁCH CÁC CHUYÊN GIA VÀ NGƢỜI CUNG CẤP THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
----------
Cơ quan STT Họ tên Số điện thoại
1 PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc 0913395615
2 PGS.TS. Nguyễn Thanh Xuân 0912002309
3 PGS.TS. Phạm Duy Đức 0913395289
4 PGS.TS. Lê Quý Đức 0903279131
5 PGS.TS. Hoàng Thị Lan 0912670204
6 TS. Nguyễn Tiến Thư 0983371417
7 TS. Bùi Hữu Dược 0918763798
8 TS. Đinh Quang Tiến 09150887775
9 TS. Thích Gia Quang 0913203614
10 TS. Thích Trung Định 0934947366
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Ban Tôn giáo Chính phủ Ban Tôn giáo Chính phủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Giáo hội Phật giáo Việt Nam Đại học Văn hóa 11 ThS. Nguyễn Đức Bá 0912895944
12 CN. Trần Khánh Dư 0917511507 Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Tôn giáo
192
Phụ lục 3 DANH MỤC CÂU HỎI PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA PHỤC VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1- Kính thưa ông/bà, xin vui lòng cho biết họ tên, pháp danh, chức
danh và vị trí công tác hiện tại trong cơ quan, tổ chức?
2 -Theo ông/bà, trong bản chất giáo lý của Phật giáo có phân chia hệ
4 - Lịch sử Phật giáo thế giới phát triển qua mấy thời kỳ/giai đoạn? Các
phái, sơn môn hay không? 3 - Lịch sử Phật giáo ghi chép bao nhiêu kỳ kết tập kinh điển? Lý do gì dẫn đến việc kết tập kinh điển đó trong lịch sử Phật giáo? Sự khác biệt hay biến đổi tính nguyên thủy trong giáo lý Phật giáo có phải là lý do cơ bản không? thời kỳ đó là gì? Đặc trưng về mặt giáo lý tiêu biểu của các thời kỳ đó là gì?
5 - Theo lịch sử Phật giáo, ngay khi Đức Phật còn tại thế, những lời tuyên thuyết của Ngài chưa được ghi chép thành văn bản. Những nội dung này chỉ được cố định trong văn bản sau kỳ kết tập kinh điển lần thứ 3, sớm nhất là kỳ kết tập kinh điển lần thứ 2. Trong khi, các nhà nghiên cứu Phật học đều cơ bản thông nhất phân kỳ Phật giáo và cho rằng kinh điển, nhất là các bộ Nikàya tạng Pali được ghi chép vào giai đoạn Phật giáo phân chia bộ phái, hoặc Phật giáo Tiểu thừa. Như vậy, lý do gì để nhận định rằng kinh tạng Phật giáo văn hệ Pali được gọi là gần gũi, phản ánh chân xác với lời dạy của Thích Ca và tại sao được coi là Phật giáo Nguyên thủy? 6 - Trong kinh tạng Nikàya, những quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức có được đề cập? Nội dung đó tập trung trong bộ kinh nào? Những quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức đó có được đề cập một cách hệ thống, gắn với mỗi loại người, mỗi vai trò xã hội của con người hay không? Ông/bà có thể nêu một số ví dụ? 7 - Những chuẩn mực đạo đức trong kinh tạng Pàli có tác động như thế nào, làm chuyển biến theo hướng nào đến đạo đức con người nói chung và tín đồ Phật tử nói riêng?
8 - Theo ông/bà, giá trị đạo đức trong kinh tạng Pàli có khác biệt với đạo đức xã hội? Trải qua hơn 2000 năm vận động và phát triển, những nội dung nào trong đạo đức Phật giáo qua king tạng Pali còn được duy trì đến nay trong đời sống xã hội, những nội dung nào biến đổi (tiếp biến)?
193
9 - Ông/bà có thể dẫn ra một vài ví dụ thể hiện những chuẩn mực đạo
đức xã hội có nguồn gốc từ đạo đức Phật giáo?
10 - Có người nói, giá trị đạo đức Phật giáo góp phần tạo nên đạo đức xã hội Việt Nam và tạo nên những chuẩn giá trị, thước đo đạo đức xã hội. Ông/bà đánh giá như thế nào về điều này?
11 - Có nên phát huy vai trò giá trị đạo đức Phật giáo trong xã hội Việt
Nam hiện nay? Và cần có những biện pháp gì để thực hiện điều đó? 12 - Thời gian gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh một số vụ việc liên quan đến vấn đề xuống cấp đạo hạnh của một bộ phận chức sắc, nhà tu hành Phật giáo cùng một số hoạt động tôn giáo mang màu sắc mê tín dị đoan. Vậy giá trị đạo đức Phật giáo có vai trò như thế nào trong việc định hướng các chuẩn mực tu tập, và hoạt động tôn giáo trong chức sắc Phật giáo cũng như tín đồ Phật tử? 13 - Di sản tôn giáo được xác định là những gì, xét theo cấu trúc di sản vật thể và phi vật thể? Giá trị đạo đức tôn giáo giữ vai trò quan trọng thế nào trong di sản tôn giáo đó? 14 - Giá trị đạo đức Phật giáo có được xác định là di sản văn hóa tôn giáo phi vật thể hay không? Có những biểu hiện cụ thể gì? Việc đánh giá nó với tư cách là di sản cụ thể như thế nào?
15 - Giá trị đạo đức Phật giáo có ảnh hưởng và vai trò như thế nào
17 - Những yếu tố nào tác động đến việc phát huy giá trị đạo đức Phật
trong đời sống văn hóa Việt Nam trước đây và hiện nay? 16 - Để phát huy giá trị đạo đức Phật giáo với tư cách là di sản văn hóa, cần phải có cơ chế gì từ khía cạnh nhà nước, khía cạnh xã hội và khía cạnh giáo hội? giáo trong đời sống xã hội hôm nay?
18 - Tổ chức tôn giáo và các chức sắc, chức việc Phật giáo có trách nhiệm và vai trò như thế nào trong việc hướng dẫn các hoạt động tôn giáo tuân thủ quy định của pháp luật, phù hợp với hiến chương của tổ chức tôn giáo và phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc; đồng thời phát huy được các giá trị đạo đạo đức, văn hóa tốt đẹp của tôn giáo trong đời sống xã hội?