ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
Nguyễn Thị Thu Trà
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội, 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
Nguyễn Thị Thu Trà
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị.
Mã số: 62.31.01.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHÍ MẠNH HỒNG
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
trong luận án có xuất xứ rõ ràng, bảo đảm độ tin cậy. Những kết luận khoa học của
luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thu Trà
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.
Số thứ tự Ký hiệu Nguyên nghĩa
Chất lƣợng cao CLC 1
Công nghiệp hóa CNH 2
CNH,HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 3
ĐH,CĐ Đại học, cao đẳng 4
Tổng sản phẩm quốc nội GDP 5
Ban chấp hành BCH 6
Ban giám hiệu BGH 7
Nghiên cứu sinh NCS 8
Nguồn nhân lực NNL 9
NNLCLC Nguồn nhân lực chất lƣợng cao 10
PTNNL Phát triển nguồn nhân lực 11
PTNNLCLC Phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao 12
Kinh tế tri thức KTTT 13
Khoa học - công nghệ KH-CN 14
Khoa học – xã hội KH-XH 15
Thanh niên cộng sản TNCS 16
Nghiên cứu và triển khai R $ D 17
Chủ nghĩa tƣ bản CNTB 18
Chủ nghĩa xã hội CNXH 19
Tƣ bản chủ nghĩa TBCN 20
Xã hội chủ nghĩa XHCN 21
Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO 22
Tổ chức lao động quốc tế ILO 23
Giải quyết việc làm GQVL 24
Doanh nghiệp nhà nƣớc DNNN 25
i
DNTN Doanh nghiệp tƣ nhân 26
CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 27
28 TCHKT Toàn cầu hóa kinh tế
29 CMKT Chuyên môn kỹ thuật
30 USD Đồng đô la
31 LLLĐ Lực lƣợng lao động
32 THCS Trung học cơ sở
33 THPT Trung học phổ thông
34 LĐTBXH Lao động thƣơng binh xã hội
35 TNTH Tốt nghiệp tiểu ọc
36 TNCS Tốt nghiệp cơ sở
37 TNPT Tốt nghiệp phổ thông
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT. ................................................................................... i
MỤC LỤC .................................................................................................................iii
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................ vii
DANH MỤC HÌNH................................................................................................viii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1.Lý do chọn đề tài ..................................................................................................................... 1
2. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ................................................................... 3
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án. ....................................................................... 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án ..................................................................... 4
6. Những đóng góp khoa học của luận án ................................................................................ 9
7. Kết cấu của luận án ................................................................................................................ 9
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI ..................................................................................................................... 10
1.1. Khái quát các công trình nghiên cứu trên thế giới ....................................... 10
1.1.1. Về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trƣờng nói
chung ......................................................................................................................... 10
1.1.2. Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm ở các nƣớc đang phát triển, đang trong
quá trình công nghiệp hóa ......................................................................................... 12
1.1.3. Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh phát triển kinh tế tri
thức ............................................................................................................................ 14
1.2. Khái quát tình hình nghiên cứu trong nƣớc .............................................................. 17
1.2.1. Về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nói chung ở Việt Nam .......................................................................... 17
1.2.2. Về vấn đề việc làm, giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam ............................................. 20
1.3. Nhận xét rút ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................. 24
iii
1.3.1. Những kết quả chủ yếu của các công trình nghiên cứu đã công bố ............... 24
1.3.2. Những "khoảng trống" và một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu ................... 25
Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 27 Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THƢ̣C TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC ...................................... 28
2.1. Việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh chung của nền kinh tế thị
trường ..................................................................................................................................... 28
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản ................................................................................. 28
2.1.2. Nguyên nhân của thất nghiệp .......................................................................... 35
2.1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới việc làm và giải quyết việc làm ............................. 38
2.2. Giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ....................................................................................... 45
2.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giải quyết việc làm ở các nƣớc đang
phát triển ................................................................................................................... 45
2.2.2. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
và ảnh hƣởng của nó đến xu thế việc làm ................................................................. 50
2.2.3. Nội dung của giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ....................................................................... 59
2.2.4. Các tiêu chí đánh giá giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ......................................................... 65
2.3. Kinh nghiệm của các nƣớc về giải quyết việc làm trong bối cảnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức .............................. 68
2.3.1. Kinh nghiệm giải quyết việc làm của một số quốc gia ................................... 68
2.3.2. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................... 77
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 77
iv
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYÉT VIỆC LÀM Ở
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓAGẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC ....................................... 80
3.1. Chủ trƣơng và chính sách giải quyết việc làm của Việt Nam trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ..................... 80
3.1.1. Các chủ trƣơng và định hƣớng cơ bản ............................................................ 80
3.1.2. Hệ thống chính sách ........................................................................................ 81
3.2. Thực trạng giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ........................................... 85
3.2.1. Quy mô và chất lƣợng nguồn nhân lực ........................................................... 85
3.2.2. Tình hình giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ......................................................... 89
3.3. Thu nhập của ngƣời lao động ....................................................................... 109
3.3.1. Mức tăng thu nhập chung của ngƣời lao động ............................................. 109
3.3.2. Thu nhập theo ngành nghề ............................................................................ 111
3.3.3. Thu nhập giữa các vùng kinh tế .................................................................... 112
3.4. Đánh giá về kết quả giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ................... 114
3.4.1. Những thành tựu đạt đƣợc ............................................................................ 114
3.4.2. Những hạn chế, yếu kém .............................................................................. 115
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém .................................................. 118
Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................. 120
Chƣơng 4. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP VỀ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA CNH, HĐH
GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC .............................................. 122
4.1. Quan điểm và định hƣớng giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển KTTT ......................... 122
4.1.1. Quan điểm về giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối cảnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ................................... 122
v
4.1.2. Định hƣớng, mục tiêu giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức .......................... 127
4.2. Các giải pháp giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối cảnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ............................ 134
4.2.1. Hoàn thiện các thể chế thị trƣờng nói chung, thể chế liên quan đến thị trƣờng
lao động nói riêng ................................................................................................... 134
4.2.2. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với thị trƣờng lao động ...... 136
4.2.3. Tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển và nâng cao chất lƣợng của hệ thống giáo dục
- đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức ..................................................................................................................... 138
4.2.4. Đẩy nhanh nhịp độ và nâng cao hiệu quả của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa thông qua đổi mới mô hình tăng trƣởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xác lập các
điều kiện thuận lợi cho sự tăng trƣởng nhanh, bền vững, phù hợp với điều kiện của
kinh tế tri thức ......................................................................................................... 142
4.2.5. Mở mang ngành nghề mới và những ngành sử dụng nhiều lao động để giải
quyết việc làm tại chỗ ............................................................................................. 144
4.2.6. Một số giải pháp khác ................................................................................... 146
Kết luận chƣơng 4 ................................................................................................. 148
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 149
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ LIÊN QUANĐẾN
LUẬN ÁN .............................................................................................................. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 152
Phụ lục .................................................................................................................... 166
vi
DANH MỤC BẢNG
STT
Bảng Nội dung Trang
1 Bảng 3.1 Số lƣợng và cơ cấu LLLĐ theo trình độ CMKT, 2004-2015 87
2 Bảng 3.2 Tỷ lệ sinh viên đại học qua các năm 88
Quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo 3 Bảng 3.3 90 khu vực thành thị-nông thôn, 2004-2015
Số lƣợng và cơ cấu lao động có việc làm theo ngành kinh tế, 4 Bảng 3.4 95 2004-2015
Cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo vị thế việc 5 Bảng 3.5 100 làm, 2005-2015
6 Bảng 3.6 Cơ cấu nhân lực có trình độ đại học theo ngành kinh tế 101
Cơ cấu sử dụng lao động một số ngành công nghệ cao và 7 Bảng 3.7 104 dịch vụ (%)
Số lƣợng lao động chia theo các loại hình kinh tế trong khu 8 Bảng 3.8 105 vực FDI thời kỳ 2009-2014 (Đơn vị: ngƣời)
Cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo hình thức sở 9 Bảng 3.9 106 hữu, 2004-2015
Quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng lao động đi làm việc ở nƣớc 10 Bảng 3.10 108 ngoài theo nƣớc tiếp nhận, 2005-2015
Tiền lƣơng bình quân tháng của lao động và tốc độ tăng 11 Bảng 3.11 110 lƣơng bình quân tháng của lao động, 2009-2015
Tốc độ tăng tiền lƣơng bình quân, GDP, chỉ số giá tiêu dùng 12 Bảng 3.12 100 và năng suất lao động theo giá hiện hành, 2009-2015
Tiền lƣơng bình quân tháng của lao động và tốc độ tăng chia 13 Bảng 3.13 111 theo nhóm ngành, 2009-2015
14 Bảng 3.14 Mức lƣơng tối thiểu vùng, 2009-2015 112
Dự báo một số chỉ tiêu dân số, lao động, việc làm chủ yếu, 15 Bảng 4.1 128 2016-2025
vii
DANH MỤC HÌNH
STT
Hình Nội dung Trang
Số lƣợng và cơ cấu lực lƣợng lao động có bằng cấp, chứng Hình 3.1 88 1 chỉ theo các cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật, 2015
Hình 3.2 Số lƣợng và tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam, 2007-2015 91 2
Tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật và theo Hình 3.3 92 3 nhóm tuổi, 2014-2015
Số lƣợng và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động, 4 Hình 3.4 93 2007-2015
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của Việt nam và các 5 Hình 3.5 95 nƣớc trong khu vực, năm 2013
Biến động việc làm theo ngành kinh tế, năm 2015 so với Hình 3.6 98 6 năm 2014
Hình 3.7 Cơ cấu lao động theo nghề (%), năm 2014 99 7
Tốc độ tăng tiền lƣơng tối thiểu vùng, chỉ số giá và tăng Hình 3.8 113 8 trƣởng kinh tế, 2009-2015
viii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hạn chế và cắt giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo ra và duy trì mức công ăn, việc làm
cao luôn là một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng hàng đầu đối với mỗi quốc gia.
Chính vì vậy, giải quyết việc làm luôn là một hƣớng ƣu tiên trong mọi chính sách của
các quốc gia trên thế giới.
Giải quyết việc làm cũng là một định hƣớng chính sách đặc biệt quan trọng
đối với các nƣớc đang và kém phát triển, đang ở thời kỳ đầu của quá trình CNH, lao
động và việc làm thƣờng tập trung cao ở khu vực nông nghiệp. Với kỹ thuật sản
xuất truyền thống, lạc hậu, đây là khu vực kinh tế có giá trị gia tăng và năng suất lao
động thấp, ngƣời lao động dù không rơi vào tình cảnh thất nghiệp “tuyệt đối” vẫn
thƣờng thiếu việc làm và có thu nhập thấp. Quá trình CNH cũng chính là quá trình
mở mang các ngành công nghiệp và dịch vụ mới, có giá trị gia tăng cao hơn, có khả
năng thu hút dần lƣợng lao động thừa, dôi dƣ từ lĩnh vực nông nghiệp, năng suất
thấp. Khi quá trình CNH chƣa hoàn thành, nền công nghiệp và khu vực dịch vụ hiện
đại tƣơng ứng chƣa đủ lớn mạnh để trở thành khu vực tạo ra của cải và việc làm
chính cho nền kinh tế. Tình trạng thiếu công ăn việc làm vẫn là vấn đề kinh tế- xã
hội căng thẳng, thƣờng trực, nhất là trong bối cảnh dân số gia tăng nhanh, hàng năm
luôn có một lực lƣợng hùng hậu dân số bổ sung vào lực lƣợng lao động. Trong điều
kiện đó, giải quyết việc làm là một nội dung cực kỳ quan trọng trong các chiến lƣợc
phát triển kinh tế - xã hội của các nƣớc đang phát triển.
Sự xuất hiện của thời đại KTTT đã tạo ra sự biến đổi sâu sắc trong nền kinh tế
thế giới, ảnh hƣởng không nhỏ đến các tiến trình kinh tế ở hầu hết mọi quốc gia,
trong đó có quá trình CNH và giải quyết việc làm ở các nƣớc đang phát triển. “Nền
kinh tế tri thức chẳng những vận hành trên cơ sở một nguyên lý sáng tạo của cải mới
mà còn là nền kinh tế thực sự mang tính chất toàn cầu hóa [90, tr10]. Nó dần dần kết
nối các nền kinh tế quốc gia thành một nền kinh tế toàn cầu chung, bất chấp sự khác
biệt về trình độ phát triển giữa chúng. Trong bối cảnh đó quá trình CNH, HĐH, sự
dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở các nƣớc đang phát triển sẽ diễn ra không hoàn toàn
1
theo những con đƣờng và cách thức truyền thống. Cơ cấu việc làm, ngành nghề, vì
thế cũng sẽ biến đổi nhanh hơn, với sự triệt tiêu nhanh hơn của nhiều ngành nghề
truyền thống và sự xuất hiện linh hoạt của các ngành nghề mới, đặc biệt là những
ngành nghề phù hợp với yêu cầu của thời đại KTTT. Yêu cầu về lao động có trình độ
cao, kỹ năng cao ngày càng trở nên bức thiết hơn, và điều này tạo ra những áp lực to
lớn đối với năng lực cung ứng lao động của nền kinh tế. Bởi thế, nó sẽ tạo ra những
thách thức mới, khác trƣớc đối với bài toán GQVL ở các nƣớc đang phát triển.
Là một nền kinh tế đang phát triển, Việt Nam đang trong quá trình thực hiện
các nhiệm vụ của thời kỳ CNH, HĐH. Xét về tổng thể, nền kinh tế đất nƣớc vẫn chƣa
thoát khỏi tính chất của một nền kinh tế nông nghiệp – nông dân, với trình độ dân trí
chung còn chƣa cao, quy mô dân số vẫn tăng nhanh, nguồn cung lao động vẫn dồi dào
trong khi các nguồn lực kinh tế khác còn nhiều hạn chế. Quá trình CNH, HĐH ở Việt
Nam vẫn chƣa hoàn thành nhƣng Việt Nam không tránh khỏi sự tác động của xu
hƣớng phát triển KTTT bộc lộ ngày càng rõ rệt trong nền kinh tế thế giới. Không né
tránh những thay đổi có ý nghĩa thời đại này, Việt Nam lựa chọn chiến lƣợc chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế nhƣ một chiến lƣợc phát triển.Chấp nhận hội nhập quốc tế
và cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu đƣợc xem là cách thức để Việt Nam tận dụng
cơ hội phát triển to lớn và mới mẻ do thời đại kinh tế tri thức mang lại. Tuy vậy, quá
trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT không khỏi làm biến đổi cấu trúc kinh tế và
cơ cấu lao động, tác động đến giáo dục đào tạo và khả năng cung ứng nguồn nhân lực,
ảnh hƣởng không nhỏ đến phƣơng thức giải quyết vấn đề việc làm ở Việt Nam. Trong
bối cảnh đó, vấn đề GQVL ở Việt Nam chẳng những là một vấn đề thời sự gay gắt, ảnh
hƣởng đến an ninh xã hội và phát triển bền vững, mà còn là một vấn đề hàm chứa
những nội dung và khía cạnh mới, cần đƣợc nghiên cứu để tìm ra các phƣơng hƣớng và
giải pháp đúng đắn, phù hợp. Do đó “ Giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức” đƣợc chọn làm đề
tài nghiên cứu của luận án này.
2. Câu hỏi nghiên cứu
Cần phải làm gì để thúc đẩy quá trình giải quyết việc làm ở Việt Nam trong
2
bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức?.
Để trả lời đƣợc câu hỏi này, cần làm rõ đƣợc những câu hỏi nhánh sau:
- Xu hƣớng phát triển kinh tế tri thức có ảnh hƣởng thế nào đến quá trình CNH,
HĐH và lĩnh vực lao động, việc làm ở các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam?
- Đánh giá nhƣ thế nào về thực trạng GQVL trong quá trình CNH,HĐH trong
điều kiện thời đại KTTT? Những thách thức và vấn đề đặt ra?
- Cần có quan điểm tiếp cận và định hƣớng giải pháp nào để thúc đẩy quá
trình giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh trên?
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tíchvấn đề việc làm và giải quyết
việc làm ở Việt Nam trong tiến trình CNH, HĐH gắn với bối cảnh thời đại KTTT
để từ đó đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình GQVL ở Việt
Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục đích trên luận án giải quyết 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
Giải quyết vấn đề lý luận:Hệ thống hóa và góp phần làm rõ cơ sở lý luận về
việc làm và GQVL trong điều kiện CNH,HĐH gắn với bối cảnh phát triển KTTT.
Giải quyết vấn đề thực tiễn: Phân tích thực trạng GQVL ở Việt Nam trong
bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT, chỉ ra những vấn đề nổi lên cần giải
quyết cũng nhƣ nguyên nhân của chúng.
Đề xuất một số quan điểm, định hướng và giải phápnhằm thúc đẩy quá trình
giải quyết vấn đề việc làm phù hợp với điều kiện ở Việt Nam trong bối cảnh CNH,
HĐH gắn với phát triển KTTT.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án.
4.1. Đối tƣợng
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam
trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian và thời gian
Luận án phân tích thực trạng giải quyết việc làm trên phạm vi cả nƣớc ở Việt
3
Nam trong hơn 10 năm (từ năm 2004 cho đến năm 2015) xét trong điều kiện của
tiến trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Ở đây, thực chất xu hƣớng chuyển
sang thời đại KTTT đƣợc xem nhƣ là bối cảnh mới chi phối quá trình CNH, HĐH ở
các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam.
- Về góc độ nghiên cứu
Tham gia vào quá trình GQVL có nhiều chủ thể khác nhau: nhà nƣớc, ngƣời
lao động, các doanh nghiệp...Ngƣời lao động, một khi đã lựa chọn tham gia vào lực
lƣợng lao động, đƣơng nhiên có động cơ tự thân tìm kiếm việc làm khi họ rơi vào
trạng thái thất nghiệp. Họ sẽ có động lực tự nhiên, phù hợp với sở thích và điều
kiện, hoàn cảnh của mình để chuẩn bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết nhằm đáp
ứng đƣợc các yêu cầu của nhà tuyển dụng. Họ sẽ tích cực tìm kiếm các thông tin về
các cơ hội việc làm và sẵn sàng biến các cơ hội đó thành hiện thực. Cái mà những
ngƣời lao động cần là một môi trƣờng thuận lợi, an toàn để chuẩn bị về mặt năng
lực, để tìm kiếm việc làm cũng nhƣ để làm việc sau khi đƣợc tuyển dụng. Các
doanh nghiệp có vai trò to lớn trong việc tạo ra các chỗ làm việc. Trên thị trƣờng
lao động, họ đóng vai trò ở phía cầu lao động. Tuy nhiên, tạo ra việc làm là hệ quả
chứ không phải là mục tiêu hay chức năng tối cao của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
không thể vì mục tiêu tạo thêm việc làm cho xã hội mà thuê mƣớn số nhân công
vƣợt quá mức tối ƣu, để phải chịu thêm những gánh nặng về chi phí một cách không
cần thiết, do đó, làm tăng thêm giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh, thu hẹp
quy mô lợi nhuận. Nói cách khác, các doanh nghiệp không có động cơ tự thân trong
việc tạo ra việc làm. Vì thế, khi đề cập đến vấn đề GQVL, luận án chỉ tập trung
phân tích vai trò của nhà nƣớc trong lĩnh vực này. Các giải pháp đề xuất cũng là
những giải pháp hƣớng đến phía nhà nƣớc. Góc độ nghiên cứu nhƣ vậy phù hợp với
cách tiếp cận kinh tế chính trị.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
5.1.Phƣơng pháp luận
Luận án sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị, chủ yếu
là phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phƣơng pháp trừu tƣợng hóa
khoa học để nghiên cứu.
Phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đòi hỏi việc nghiên cứu
4
quá trình GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT
trƣớc hết phải kế thừa những kết quả nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc. Bởi vậy,
tác giả luận án đã tích cực sƣu tầm các tài liệu viết về việc làm và GQVL nói chung,
các tài liệu viết về quá trình CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT. Các tài liệu có
liên quan đến đề tài nhƣ: Phát triển nguồn nhân lực, lao động – việc làm...Trên cơ
sở đó luận án tập trung nghiên cứu làm rõ bản chất, nguyên nhân, nội dung và các
yếu tố ảnh hƣởng tới việc làm và GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát
triển KTTT.
Phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đòi hỏi việc nghiên
cứu về GQVL cho ngƣời lao động phải xuất phát từ điều kiện khách quan nhƣ sự
vận động của thị trƣờng lao động, nhu cầu việc làm của ngƣời lao động .. do các
quy luật khách quan chi phối. Bên cạnh những quy luật khách quan, quá trình
GQVL cho ngƣời lao động chịu sự chi phối của các yếu tố chủ quan nhƣ sự tác
động của các chính sách của Nhà nƣớc, tác động của luật pháp...Bởi vậy, tác giả đã
tập trung nghiên cứu toàn diện trong đó chú trọng đến vai trò của Nhà nƣớc trong
quá trình GQVL cho ngƣời lao động vì nhân tố này giữ vai trò quyết định.
Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học đòi hỏi loại bỏ những cái ngẫu nhiên,
không cơ bản ra khỏi quá trình nghiên cứu nhƣng không ảnh hƣởng đến bản chất
vấn đề nghiên cứu ...Bởi vậy, trên thực tế có rất nhiều yếu tố tác động đến GQVL
nhƣ: Nhà nƣớc, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và ngƣời lao động nhƣng luận
án chỉ tập trung nghiên cứu vai trò của Nhà nƣớc trong quá trình GQVL cho ngƣời
lao động.
Phƣơng pháp luận đòi hỏi phải xây dựng khung lý thuyết để nghiên cứu, đồng
thời khung lý thuyết đó phải đƣợc kiểm chứng bằng thực tiễn. Do đó luận án đã
nghiên cứu kinh nghiệm của các nƣớc cho việc xây dựng chính sách về GQVL để
kiểm nghiệm cho khung lý thuyết đƣợc xây dựng trong luận án. Đồng thời, luận án
còn nghiên cứu các yếu tố tác động tới quá trình GQVL nhƣ: dân số và chất lƣợng
dân số, khoa học...Các quan hệ đó luôn đƣợc xem xét trong sự vận động, biến đổi.
5.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc áp dụng
Luận án sử dụng nhiều phƣơng pháp nhƣkết hợp logic với lịch sử, phƣơng
pháp phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp thống kê, so sánh vàđối chiếu…trên nền
5
tảng kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.
- Phương pháp kết hợp logich với lịch sử
Quan hệ logich là quan hệ tất yếu, nó xảy ra khi có những tiền đề cho mối
quan hệ đó, lịch sử là hiện thực của logich ở một đối tƣợng cụ thể trong một khoảng
không gian và thời gian nhất định. Tác giả đã sử dụng phƣơng pháp này để xem xét
và trình bày quá trình GQVL ở Việt Nam theo một trình tự liên tục và nhiều mặt.
Khi sử dụng phƣơng pháp này tác giả luận án đã đã bảo đảm tình liên tục về thời
gian trong quá trình nghiên cứu, làm rõ điều kiện, đặc điểm phát sinh phát triển từ
thấp đến cao, làm rõ các mối liên hệ đa dạng trong quá trình GQVL trong bối cảnh
CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT.
Luận án sử dụng phƣơng pháp logich và phƣơng pháp lịch sử nhằm đạt đƣợc
các mục đích sau:
+ Xác định đƣợc thời gian nghiên cứu của luận án: giai đoạn 2004 -2015 là
thời gian nghiên cứu hợp lý. Đây là giai đoạn vừa bảo đảm đƣợc độ dài của một
công trình nghiên cứu vừa là giai đoạn Việt Nam có những chuyển biến sâu sắc
trong quá trình GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT; giai
đoạn trƣớc và sau khi Việt Nam gia nhập WTO; giai đoạn khu vực ASEAN có
những bƣớc phát triển hợp tác và chuyển mình tích cực hƣớng tới xây dựng cộng
đồng kinh tế ASEAN trên mọi lĩnh vực...tất cả những yếu tố đó tác động sâu sắc tới
việc làm và GQVL nói chung và Việt Nam nói riêng.
+ Tìm đƣợc logich của quá trình GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh
CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT. Đây là một trong những vấn đề trọng tâm gắn
với quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay và cũng là vấn đề trọng tâm của kinh
tế chính trị.
Khi trình bày quá trình GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển
KTTTluận án đã chú ý đến sự vận động logich của quá trình GQVL, chỉ ra xu hƣớng
vận động có tính quy luật của vấn đề việc làm, loại bỏ các chi tiết không cơ bản và dự
báo xu hƣớng GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp đƣợc sử dụng trong cả 4 chƣơng của luận
án. Ở chƣơng 1 tác giả đã phân tích các tác phẩm kinh điển, các công trình khoa học
6
liên quan đến luận án để xem xét các công trình đó đã nghiên cứu những vấn đề gì cả
về lý luận và thực tiễn. Sau đó tác giả sử dụng phƣơng pháp tổng hợp để đánh giá, hệ
thống hóa các kết quả đạt đƣợc và nêu ra những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu.
Trong chƣơng 2, tác giả đã sử dụng phƣơng pháp phân tích để xem xét các yếu
tố hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn để nội dung của vấn đề GQVL nói chung trong
bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Sau đó phƣơng pháp tổng hợp sẽ
đƣợc sử dụng để khái quát những vấn đề phân tích hình thành khung khổ lý luận và
thực tiễn của luận án.
Chƣơng 3, phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng để phân tích thực trạng
GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Phân tích
chủ trƣơng chính sách về GQVL ở Việt Nam trong hơn 10 năm ( 2004 -2015).
Phƣơng pháp tổng hợp đƣợc sử dụng để chỉ ra những thành tựu đạt đƣợc, hạn chế
và nguyên nhân...trong quá trình GQVL ở Việt Nam trong thời gian nghiên cứu.
Trên cơ sở những vấn đề đƣợc bàn ở chƣơng 2 và chƣơng 3, luận án sử dụng
phƣơng pháp tổng hợp để đƣa ra các quan điểm, định hƣớng và đề xuất các giải
pháp ở chƣơng 4. Sau đó phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng để lý giải lý do mà
tác giả đƣa ra các giải pháp đó.
Trong quá trình sử dụng phƣơng pháp phân tích và tổng hợp đề tài có sử
dụng các số liệu thống kê đã qua xử lý với các bảng, biểu đồ thích hợp nhằm làm rõ
hơn những đặc trƣng, xu hƣớng, quy mô... của nội dung vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê mô tả
Luận án sử dụng phƣơng pháp thông kê mô tả chủ yếu trong chƣơng 3 để phân
tích và cắt nghĩa thực trạng GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với
phát triển KTTT theo những lát cắt khác nhau phù hợp với khung lý thuyết đã đƣợc
trình bày ở chƣơng 2. Dựa vào các số liệu thống kê đƣợc thu thập, cố gắng bám sát các
tiêu chí đánh giá kết quả GQVL trong điều kiện CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT,
luận án đã phân tích, suy luận, diễn giải và biểu diễn các số liệu dƣới các hình thức
thích hợp nhằm đƣa ra những nhận định, đánh giá cần thiết về thực trạng GQVL của
Việt Nam trong khoảng thời gian phân tích. Đây là cơ sở để tác giả đề xuất các giải
pháp nhằm thúc đẩy quá trình GQVL ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Phƣơng pháp so sánh và đối chiếu
7
So sánh và đối chiếu là phƣơng pháp đƣợc sử dụng nhiều trong chƣơng 2 và
chƣơng 3 của luận án. Việc so sánh, đối chiếu các quan điểm và cách tiếp cận lý
thuyết khác nhau giúp tác giả khái quát đƣợc những thành tựu và kết quả nghiên
cứu mà những công trình đi trƣớc đã đạt đƣợc, có thể và cần đƣợc kế thừa, đồng thời
nó cũng cho thấy những khoảng trống có liên quan đến chủ đề luận án cần đƣợc tiếp
tục tìm tòi, nghiên cứu, nhất là khi xem xét vấn đề GQVL trong điều kiện phát triển
mới mà thời đại quy định. Đó cũng là tiền đề để tác giả luận án tiến hành hệ thống hóa
và bổ sung một vài kiến giải riêng nhằm xây dựng khung lý thuyết thích hợp cho luận
án. Việc so sánh, đối chiếu các kinh nghiệm xử lý vấn đề GQVL ở các nƣớc khác nhau
giúp cho tác giả rút ra đƣợc một số bài học thành công cũng nhƣ không thành công mà
Việt Nam có thể tham khảo. Ở chƣơng 3, phƣơng phápso sánh đƣợc sử dụng để xác
định xu hƣớng và động thái diễn tiến theo thời gian của các chỉ tiêu phân tích: quy mô,
cơ cấu nguồn nhân lực; tỷ lệ có việc làm và tỷ lệ thất nghiệp; sự chuyển dịch cơ cấu
việc làm trong các khu vực kinh tế và các kênh GQVL khác nhau; tỷ lệ việc làm trong
những ngành công nghệ cao.... Đây là cơ sở để tác giả phân tích, đánh giá thực trạng
cũng nhƣ chỉ ra điểm mạnh và điểm yếu trong quá trình GQVL ở Việt Nam trong thời
gian qua xét theo các tiêu chí đánh giá theo chủ đề luận án.
5.3 Nguồndữ liệu
- Luận án sử dụng phƣơng pháp phân tích các tƣ liệu có sẵn của các bộ, ban
ngành nhằm tổng kết và đƣa ra những kết luận về thực trạng việc làm và GQVL ở
Việt Nam trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT.
- Nguồn dữ liệu thực hiện luận án
Nguồn dữ liệu mà luận án sử dụng là các dữ liệu thứ cấp đƣợc thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau nhằm đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu. Đó trƣớc hết là các dữ
liệu khai thác từ các cơ quan quản lý nhà nƣớc nhƣ:
Cục Thống kê: Các niên giám thống kê, các báo cáo có liên quan đến thị
trƣờng lao động Việt Nam.
Bộ Lao động Thƣơng binh và Xã hội: Các văn bản pháp luật, các báo cáo và
số liệu có liên quan đến vấn đề việc làm và GQVL.
Các văn bản. tài liệu có liên quan của Bộ Giáo dục – đào tạo, Bộ kế hoạch
đầu tƣ, Bộ khoa học công nghệ..
8
Ngoài các tài liệu đƣợc cung cấp từ các cơ quan, doanh nghiệp còn các tài
liệu thứ cấp đƣợc tác giả thu thập từ sách, báo, tạp chí chuyên ngành, mạng internet
và các cuộc hội thảo khoa học.
6. Những đóng góp khoa học của luận án
Luận án có những đóng góp chủ yếu sau:
- Góp phần làm rõ cơ sở khoa học về vấn đề việc làm vàGQVL cho ngƣời
lao động trong bối cảnh mới: CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT thông qua việc
làm rõ các đặc điểm của tiến trình CNH, HĐH đặt trong bối cảnh của thời đại
KTTT, chỉ ra ảnh hƣởng của bối cảnh này đến xu hƣớng việc làm, GQVL cũng nhƣ
đề xuất các các tiêu chí đánh giá tƣơng ứngvề kết quả GQVL cho ngƣời lao động.
- Trên cơ sở hệ thống dữ liệu, số liệu phong phú, luận án đã mô tả, phân tích,
diễn giải và đƣa ra những đánh giá khoa học về thực trạng GQVL ở Việt Nam
những năm gần đây trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT theo các
tiêu chí đã xác định. Luận án cũng chỉ ra đƣợc những bất cập, hạn chế và phân tích
nguyên nhân của những hạn chế trong lĩnh vực này.
- Luận ánđã đề xuất và luận giải một số quan điểm, định hƣớng và các giải
pháp có tính khả thi nhằm thúc đẩy quá trình GQVL ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm
4 chƣơng:
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THƢ̣C TIỄN VIỆC LÀM VÀ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC.
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Chƣơng 4. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP VỀ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓAGẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
9
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨULIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Thất nghiệp và việc làm là chủ đề đƣợc bàn luận từ lâu trong khoa học kinh
tế, đƣợc nhiều học giả và các nhà hoạch định chính sách đặc biệt quan tâm. Nó
trƣớc tiên đƣợc nghiên cứu trong bối cảnh phát triển của một nền kinh tế thị trƣờng,
khởi phát từ các nƣớc hiện thuộc nhóm phát triển. Các kết quả này sau đó đƣợc áp
dụng cho trƣờng hợp các nƣớc đang phát triển, đang trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ CNH, HĐH. Gần đây, khi thế giới bƣớc vào kỷ nguyên KTTT, vấn đề
việc làm và GQVL lại nổi lên khi chúng cần đƣợc xem xét, cắt nghĩa phù hợp với
bối cảnh mới, khác nhiều so với các thời kỳ trƣớc đây.
1.1.Khái quát các công trình nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.Về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị
trƣờng nói chung
Trải qua các giai đoạn của lịch sử xã hội đã xuất hiện nhiều lý thuyết khác
nhau về thất nghiệp – việc làm. Các nhà kinh tế cổ điển thời kỳ đầu, sống trong thời
kỳ khoa học – công nghệ chƣa phát triển, lao động thủ công là chính, mức cầu về lao
động rất lớn, nên họ cho rằng thất nghiệp chỉ là hiện tƣợng tạm thời, Theo họ, sở dĩ
có thất nghiệp là do ngƣời lao động lƣời biếng, không chăm chỉ...Các nhà kinh tế thời
kỳ này cho rằng thất nghiệp (tức sự lƣời biếng) tỷ lệ thuận với mức tiền công. Nếu
tiền lƣơng cao sẽ khiến công nhân thích ăn chơi, nhậu nhẹt, không muốn lao động.
Khi khoa học – kỹ thuật phát triển, sự ra đời của máy móc đã dẫn tới nạn
“nhân khẩu thừa” thì lý thuyết của Thomas Robert Malthus cho rằng thất nghiệp
trong xã hội chỉ do con ngƣời sinh đẻ quá nhiều.
Các. Mác (1818-1883) đã gắn vấn đề thất nghiệp với quy luật nhân khẩu
thừa tƣơng đối trong CNTB. C.Mác cho rằng cầu về lao động xã hội không quan hệ
trực tiếp với tổng số tƣ bản mà nó chỉ liên quan trực tiếp đến bộ phận tƣ bản khả
biến. Do sự phát triển của khoa học công nghệ và do quy luật tích lũy TBCN, đã
làm cho cấu tạo hữu cơ tƣ bản ngày càng tăng, bộ phận tƣ bản khả biến có xu hƣớng
giảm tƣơng đối trong tổng số tƣ bản và đó là nguyên nhân gây ra hiện tƣợng thất
nghiệp [38, tr877]. Theo C. Mác thì việc ứng dụng các thành tựu KH - CN hiện đại
thƣờng dẫn đến tăng kết cấu hữu cơ tƣ bản và tăng năng suất lao động. Sự tăng năng
suất lao động thể hiện ra ở việc giảm bớt khối lƣợng lao động sống so với khối
10
lƣợng tƣ liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt động, hay là thể hiện ra ở sự
giảm bớt đại lƣợng của nhân tố chủ quan của quá trình lao động so với nhân tố
khách quan của quá trình đó [43, tr123]. Khi trình bày quy luật nhân khẩu thừa
tƣơng đối, có lẽ C.Mác không hình dung đƣợc tiến trình “động” của việc ứng dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ. Thực tế, việc áp dụng máy móc và các kỹ thuật sản
xuất mới, một mặt làm cắt giảm nhu cầu về lao động do máy móc thay thế con
ngƣời, song mặt khác, nó lại làm xuất hiện những ngành nghề sản xuất và dịch vụ
mới, do đó lại tạo ra những nhu cầu mới về lao động. Điều này khiến cho những dự
báo rút ra từ “quy luật nhân khẩu thừa” không hẳn là phù hợp với thực tiễn của các
nền kinh tế thị trƣờng tƣ bản chủ nghĩa.
Các nhàkinh tế thuộc trƣờng phái tân cổ điển vẫn tiếp tục duy trì niềm tin cổ
điển về sức mạnh tự điều chỉnh của nền kinh tế thị trƣờng nói chung và thị trƣờng
lao động nói riêng với phƣơng pháp phân tích khác về cung – cầu thị trƣờng dựa
trên lý thuyết cận biên thay cho lý thuyết giá trị - lao động trƣớc đây. Với giả định
về tính linh hoạt của giá cả và tiền lƣơng (đây là giả định chung của các nhà kinh tế
học cổ điển mọi thời kỳ), họ cho rằng các thị trƣờng sẽ nhanh chóng xác lập sự cân
bằng. Trong điều kiện đó, những ngƣời lao động muốn tìm việc và sẵn lòng chấp
nhận mức lƣơng hiện hành trên thị trƣờng sẽ nhanh chóng tìm đƣợc việc làm. Tỷ lệ
thất nghiệp cao chỉ tồn tại nhƣ một hiện tƣợng tạm thời, và thất nghiệp không đƣợc
xem là một vấn đề nghiêm trọng của nền kinh tế.
Thực tế của cuộc Đại suy thoái 1929 – 1933 với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao ở
hầu hết các nƣớc trong thế giới tƣ bản đã giáng một đòn mạnh vào quan điểm cổ
điển về hoạt động của nền kinh tế vĩ mô, trong đó có vấn đề việc làm và thất nghiệp.
J.M. Keynes, trong tác phẩm nổi tiếng của mình“Lý thuyết chung về việc làm, lãi
suất và tiền tệ” (1936) đã đƣa ra cách nhìn hoàn toàn mới có thể cắt nghĩa vấn đề
thất nghiệp nhƣ nó bộc lộ trong thời kỳ Đại suy thoái. Khác với giả định của trƣờng
phái cổ điển, Keynes cho rằng giá cả và đặc biệt là tiền lƣơng có tính cứng nhắc, do
đó sản lƣợng của nền kinh tế sẽ thấp, nếu tổng cầu bị suy yếu và duy trì ở mức thấp.
Chẳng hạn, điều này sẽ xảy ra, khi vì một lý do nào đó mà các gia đình cắt giảm chi
tiêu tiêu dùng quá nhiều và tiết kiệm quá mức, khiến cho tổng cầu bị sụt giảm. Khi
tổng cầu suy giảm, do gặp khó khăn trong việc bán hàng, các doanh nghiệp sẽ thu
11
hẹp quy mô sản xuất cũng nhƣ cắt giảm nhu cầu thuê mƣớn lao động. Kết quả là
nền kinh tế rơi vào thời kỳ suy thoái và thất nghiệp sẽ gia tăng. Từ đó ông rút ra kết
luận: để tăng việc làm, giảm thất nghiệp phải gia tăng tổng cầu trong nền kinh tế và
trong trƣờng hợp này, chính sách của nhà nƣớc có vai trò quan trọng. Khi nền kinh
tế suy thoái, cầu tiêu dùng và đầu tƣ ở khu vực tƣ nhân thấp, Keynes đề xuất rằng
chính phủ cầnthực hiện chính sách kích cầu bằng cách tăng các khoản chi tiêu chính
phủ hoặc các biện pháp nhƣ: hạ lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá đầu tƣ, in thêm
tiền để cấp phát cho ngân sách nhà nƣớc..
Quan điểm cổ điển và quan điển Keynes là hai cách tiếp cận trái ngƣợc
nhau về vận hành của nền kinh tế vĩ mô và thị trƣờng lao động. Sau này, ngƣời ta
cho rằng cách tiếp cận cổ điển phù hợp khi phân tích nền kinh tế trong dài hạn,
còn quan điểm của Keynes lại tỏ ra thích hợp hơn khi xem xét nền kinh tế trong
ngắn hạn. Sự tổng hợp hai cách nhìn này tạo ra dòng kinh tế học chính thống ở các
nƣớc Phƣơng Tây.
1.1.2.Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm ở các nƣớc đang phát triển,
đang trong quá trình công nghiệp hóa
Nổi bật trong các nghiên cứu có tính chất nền tảng có liên quan đến vấn đề
việc làm và GQVL ở các nƣớc đang phát triển là các công trình sau:
-Lý thuyết về tạo việc làm bằng chuyển giao lao động giữa hai khu vực của
nền kinh tế của Anthur Lewis - nhà kinh tế học Jamaica đƣợc giải thƣởng Nobel
1979. Tƣ tƣởng cơ bản của lý thuyết này là quá trình GQVL ở các nƣớc đang phát
triển thực chất là quá trình chuyển số lao động dƣ thừa từ khu vực nông nghiệp sang
khu vực công nghiệp hiện đại thông qua việc đầu tƣ phát triển công nghiệp (CNH).
Do trong khu vực nông nghiệp đất đai chật hẹp, lao động lại quá dƣ thừa nên việc di
chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp có hai tác dụng.
Một là, chuyển bớt lao động ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp mà không làm giảm sản
lƣợng lƣơng thực cần cho cả nền kinh tế. Từ đó nâng cao sản lƣợng theo đầu ngƣời
đồng thời tạo việc làm cho số lao động dôi dƣ trong nông nghiệp. Mặt khác, việc di
chuyển này sẽ làm tăng lợi nhuận trong lĩnh vực công nghiệp, tạo điều kiện nâng
cao sức tăng trƣởng và phát triển kinh tế nói chung.
12
Sau đó Jonh Fei và Gustav Ranis đã chỉnh lý lại mô hình của Anthur Lewis,
biến nó thành mô hình Lewis - Ranis – Fei (LRF). Mô hình LRF giải thích hiện
tƣợng di chuyển lao động ở điều kiện bắt đầu công nghiệp hóa diễn ra ở lớp lao
động phổ thông nhằm GQVL cho lao động dôi dƣ trong nông nghiệp và tạo ra mức
thu nhập ngày càng cao cho ngƣời lao động.
- Lý thuyết của Harry Toshima: Theo Harry Toshima, lý thuyết của Anthur
Lewis không có ý nghĩa thực tế với tình trạng dƣ thừa lao động trong nông nghiệp ở
các nƣớc châu Á gió mùa. Bởi vì, nền nông nghiệp lúa nƣớc vẫn thiếu lao động lúc
đỉnh cao của thời vụ và chỉ dƣ thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Vì vậy, ông cho
rằng cần giữ lại lao động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm trong những tháng
nhàn rỗi bằng cách tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi... Đồng thời, sử dụng
lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp vào các ngành sản xuất công nghiệp cần nhiều
lao động. Việc tạo thuận lợi hơn nữa để có việc làm đầy đủ cho mọi thành viên gia
đình nông dân trong những tháng nhàn rỗi sẽ nâng cao mức thu nhập hàng năm của
họ và sẽ mở rộng đƣợc thị trƣờng trong nƣớc cho các ngành công nghiệp và dịch
vụ. Nhƣ vậy, lực lƣợng lao động sẽ đƣợc sử dụng hết.
- Mô hình thu nhập dự kiến về sự di cƣ nông thôn - thành thị (Harris - Todaro)
Do quá trình đô thị hóa diễn ra đồng thời với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, nên việc dân cƣ ở khu vực nông thôn, ngoại thành di chuyển vào
thành thị là một xu hƣớng có tính quy luật trong quá trình phát triển của tất cả các
nƣớc, đặc biệt là đối với các nƣớc phát triển. Theo mô hình này thì ngƣời di cƣ sẽ
xem xét các cơ hội khác nhau trong thị trƣờng lao động dựa vào việc tối đa hóa lợi
ích dự kiến có đƣợc từ việc di cƣ bằng cách so sánh mức thu nhập dự kiến có đƣợc
trong một khoảng thời gian nhất định ở thành thị với mức thu nhập trung bình
đang có ở nông thôn. Nếu thu nhập dự kiến cao hơn thu nhập thực tế hiện có thì
họ sẽ quyết định di cƣ. Thu nhập dự kiến thu đƣợc của lao động di chuyển tùy
thuộc vào khả năng có thể kiếm đƣợc việc làm ở thành thị, mức lƣơng ở đó cũng
nhƣ độ tuổi của ngƣời di cƣ. Theo Todaro, việc chính phủ giảm mức lƣơng ở
thành thị, xóa bỏ những “méo mó” trong giá cả của các nhân tố sản xuất, tăng việc
làm ở nông thôn, áp dụng công nghệ và có chính sách phù hợp sẽ là biện pháp tạo
thêm việc làm.
13
Khi áp dụng mô hình này vào các nƣớc đang phát triển, ngƣời ta thấy: bên
cạnh khu vực kinh tế hiện đại ở thành thị (khu vực chính quy) ở các nƣớc này còn
có một khu vực kinh tế rộng lớn với nhiều ngành nghề nhƣ: các nghề thủ công, dịch
vụ sửa chữa nhỏ, buôn bán nhỏ tự tạo việc làm hoặc kinh doanh có thuê nhân công
và thỏa thuận ngoài hệ thống luật pháp chính thức với giá nhân công rẻ. Đây là khu
vực thu hút một lực lƣợng lao động rất lớn của những nƣớc này vào làm việc – khu
vực phi chính thức. Thực tế cho thấy, việc phát triển khu vực kinh tế phi chính thức
đã, đang và sẽ có những tác dụng rất to lớn trong việc GQVL, tăng thu nhập, làm
giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị.
1.1.3. Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh phát triển
kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là hiện tƣợng mới, chỉ xuất hiện trong một vài thập kỷ gần
đây. Tuy nhiên, nó đƣợc xem là một thời đại kinh tế mới, gắn với một cung cách
sản xuất, sáng tạo của cải hoàn toàn khác trƣớc của xã hội loài ngƣời. Là một bƣớc
phát triển mới có ý nghĩa tạo lập thời đại, rõ ràng sự xuất hiện của KTTT (mang bản
chất toàn cầu hóa) có tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội ở
mọi quốc gia, trong đó có lĩnh vực lao động, việc làm.
Việc nhận diện bản chất, đặc điểm và tác động nhiều mặt của KTTT thu hút
đƣợc sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới. Có thể kể đến những công trình
của các tác giả tiêu biểu nhƣ: “ Xã hội hậu tƣ bản” của Peter F. Drucker; bộ ba cuốn
sách nổi tiếng “Cú sốc tƣơng lai”, “Làn sóng thứ ba”, “Thăng trầm quyền lực” của
nhà tƣơng lai học Alvin Toffler; “Làm giàu trong nền kinh tế tri thức” của Lester
C.Thurow; “Nghịch lý toàn cầu” và “Lối tƣ duy của tƣơng lai” của John Naisbitt;
“Nền kinh tế tri thức” của Walter W. Powell và Kaisa Snellman; Kinh tế tri thức:
“Xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI” của Ngô Quý Tùng, “Thời đại kinh tế tri thức”
của Tần Ngôn Thƣớc; “Thế giới phẳng – Tóm lƣợc lịch sử thế giới thế kỷ 21” của
Thomas L. Friedman; “Vận hành toàn cầu hóa” của J.E. Stiglitz hay những công
trình có tính chất tổng kết của Ngân hàng thế giới nhƣ “Tri thức cho phát triển. Báo
cáo về tình hình phát triển thế giới 1998”, hay “Nhà nƣớc trong một thế giới đang
chuyển đổi”...các công trình này cho thấy nền kinh tế thế giới đang chuyển nhanh
sang một giai đoạn phát triển mới, cực kỳ khác trƣớc: nguồn lực tri thức đang dần
14
trở thành nguồn lực số một, chi phối các nguồn lực khác; khoa học – công nghệ
đang dần dần trở thành lực lƣợng sản xuất trực tiếp, có ý nghĩa quyết định; năng lực
cạnh tranh quốc gia hay của doanh nghiệp ngày càng phụ thuộc chủ yếu vào đội ngũ
lao động sáng tạo, trình độ cao, chất lƣợng cao; các quá trình kinh tế thay đổi ngày
càng nhanh và có tính kết nối cao; không gian kinh tế ngày càng mở rộng trên phạm
vi toàn cầu để có thể lôi cuốn mọi nƣớc vào một nền kinh tế thế giới chung; các tổ
chức sản xuất, kinh doanh đều buộc phải biến đổi để gia tăng khả năng sáng tạo, đổi
mới và thích nghi liên tục trong một môi trƣờng luôn thay đổi với tốc độ ngày càng
nhanh...Tuy không bàn trực diện về vấn đề lao động, việc làm song các kết quả
nghiên cứu nhƣ vậy là cơ sở để hiểu rõ hơn vấn đề GQVL trong bối cảnh mới.
Chẳng hạn, trong tác phẩm “ Xã hội hậu tƣ bản”, NXB Viện quản lý kinh tế
trung ƣơng, HN 1995), Peter F. Drucker – nhà kinh tế học ngƣời Mỹ ( gốc Áo) đã
phân tích mối quan hệ giữa tri thức và năng suất lao động. Ông cho rằng: năng suất
lao động chỉ có thể tăng lên nhờ tri thức và tổ chức lao động. Cả máy móc và vốn đều
không làm đƣợc điều đó. Bởi vậy, cần “xác định trọng tâm của công việc và nhiệm
vụ là điều kiện tiên quyết cuối cùng để tạo ra hiệu quả sản xuất trong lao động trí óc”.
Trong nền kinh tế tri thức, nhà nƣớc phải đóng vai trò nhƣ ngƣời “ nhạc trƣởng”
trong quá trình GQVL cho ngƣời lao động, làm cho mọi ngƣời đều trở thành “ngƣời
có đóng góp cho xã hội”. Toffler lại cho rằng trong nền kinh tế mới thuộc “làn sóng
thứ ba”, sẽ xuất hiện những ngƣời “tiêu sản” mới, có thể tạo ra những hàng hóa, dịch
vụ cho ngƣời khác hoặc chỉ phục vụ bản thân dựa trên việc mua bán các nguyên liệu
hay linh kiện đầu vào và sự chỉ dẫn cách làm hiệu quả trên internet. Với điều kiện kết
nối internet, nhiều ngƣời có thể làm việc bán thời gian hay toàn thời gian ở nhà hoặc
với tƣ cách độc lập hoặc với tƣ cách là một thành viên của một công ty hay tổ chức.
Những điều này làm cho quá trình tổ chức công việc cũng nhƣ quan niệm về việc
làm, thất nghiệp dƣờng nhƣ không giữ nguyên nhƣ trƣớc.
Cũng theo mạch tƣ tƣởng nhƣ vậy, ngƣời ta bắt đầu chú ý hơn đến tính nhân
văn và giá trị xã hội của việc làm. Nếu thông thƣờng, việc làm đƣợc hiểu là những
công việc hợp pháp có thể mang lại thu nhập cho lao động, thì từ năm 1999, Tổ chức
lao động quốc tế ILO bắt đầu đƣa ra khái niệm “việc làm bền vững” (hay “việc làm
tử tế” - Decent Works) và khuyến cáo các quốc gia cần theo đuổi mục tiêu này nhƣ
15
một sự thích ứng với bối cảnh mới của nền kinh tế thế giới. Theo tài liệu hội thảo
năm 2008 về “Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia về việc làm và Chiến lƣợc phát triển
việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”, việc làm bền vững theo quan niệm
của ILO là việc làm trong đó ngƣời lao động có cơ hội tiếp cận công bằng đối với
công việc; họ đƣợc làm việc trong điều kiện tự do, có năng suất và hiệu quả, đƣợc đối
xử bình đẳng trong công việc, đƣợc bảo đảm an toàn và tôn trọng nhân phẩm ở nơi
làm việc. Gần đây, gắn liền với việc phổ biến hóa quan điểm “phát triển bền vững”,
“phát triển xanh”, Liên hiệp quốc và ILO cũng khuyến cáo các nƣớc tạo ra nhiều
“việc làm xanh” nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của doanh nghiệp và các ngành
kinh tế đến môi trƣờng sinh thái, nhằm đạt đến tính bền vững của các quá trình phát
triển. Những ý tƣởng và quan niệm nhƣ vậy, tuy không đƣa ra một mô hình lý thuyết
mới cắt nghĩa quá trình nền kinh tế tạo ra việc làm nhƣ thế nào song chúng lại chỉ ra
những yêu cầu mới trong lĩnh vực GQVL phù hợp với chuẩn mực và giá trị của nền
kinh tế mới.
Nhƣ ta đã biết KTTT về bản chất là nền kinh tế mang tính chất toàn cầu. Vì
thế việc GQVL ở một quốc gia không thể tách rời khỏi quá trình toàn cầu hóa. Trong
bài báo “The New Economics of Labor Migration” (“Kinh tế học mới về di chuyển
lao động quốc tế), Oded Stark và David Bloom, trong khi tập trung vào việc nghiên
cứu phúc lợi kinh tế của hộ gia đình chứ không phải của cá nhân, đã cho rằng di
chuyển lao động quốc tế đang trở thành một chiến lƣợc điển hình để giúp ngƣời lao
động tối thiểu hóa rủi ro và vƣợt qua khó khăn về nguồn vốn tạo ra nguồn thu nhập
cho gia đình.
Nhà kinh tế học Michael Piore cũng đƣa ra quan điểm tƣơng tự về việc GQVL
cho ngƣời lao động trong bối cảnh toàn cầu hóa. Theo ông di chuyển lao động quốc
tế là một trong những giải pháp quan trọng để GQVL đối với các nƣớc đang phát
triển. Ông cho rằng: “di chuyển lao động đặt trên góc độ nhu cầu quốc gia”, di
chuyển lao động từ các nƣớc đang phát triển sang các nƣớc phát triển không phải do
việc tìm kiếm cơ hội mới của những ngƣời lao động mà là do nhu cầu lao động ở các
nƣớc phát triển đối với lao động có tiền lƣơng thấp. Chính sách tuyển dụng lao động
của các nƣớc tiếp nhận lao động là cơ sở hình thành sự di chuyển lao động từ các
nƣớc dang phát triển tới các nƣớc phát triển và đây cũng chính là cơ hội để GQVL
16
cho các nƣớc đang phát triển.
Vấn đề GQVL trong bối cảnh KTTT luôn gắn chặt với việc phát triển và
nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực. Trên thế giới, các công trình nghiên cứu ban
đầu về NNL và vốn nhân lực do các nhà lý thuyết nhƣ Milton Freidman, Simon
Kuznet, Gary Becker thực hiện, và đƣợc tiếp nối bởi một loạt nhà khoa học nhƣ:
L.Nadler và Z.Nadler (1990), M.Marquardt và D.Engel (1993), D.Beg, S.Fisher và
R.Donbush (1992), Nicholas Henry (1996), Stivastata (1997), George T.Milkovich
và John W.Boudreau (2000). Các nghiên cứu của họ đã đƣa ra định nghĩa về NNL
một cách khái quát nhất: NNL là tổng thể các yếu tố vật chất và tinh thần của ngƣời
lao động tạo nên khả năng làm việc của họ và từ đó tham gia các hoạt động phục vụ
cho tổ chức nói riêng và cho xã hội nói chung. Ngoài ra, các tác giả đã có những
đóng góp quan trọng về mặt lý luận và phƣơng pháp luận về phát triển NNL. Các
công trình này lý giải mối quan hệ giữa phát triển NNL với giáo dục, đào tạo và
chăm sóc sức khỏe, dinh dƣỡng cũng nhƣ vai trò quyết định của phát triển NNL đối
với tăng trƣởng và phát triển kinh tế. Lester C.Thurow (2003) trong “ Làm giàu
trong nền kinh tế tri thức” vàEdgar Morin (2008) trong “ Bảy tri thức tất yếu cho
nền giáo dục tƣơng lai” cũng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của giáo dục. Ở những tác
phẩm này, tự giáo dục và vấn đề học tập suốt đời đƣợc xem nhƣ một phƣơng thức
hữu hiệu nhất để ngƣời lao động thích ứng với yêu cầu của thời đại mới.
1.2. Khái quát tình hình nghiên cứu trong nƣớc
GQVL ở Việt Nam thực chất luôn gắn với quá trình CNH, HĐH và chủ đề này
thu hút đƣợc sự quan tâm, nghiên cứu củanhiều học giả dƣới các góc độ khác nhau.
1.2.1. Về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu trong nƣớc thƣờng gắn trực diện với thực tiễn vấn
đề việc làm ở Việt Nam. Chẳng hạn, trong công trình"Về chính sách giải quyết việc
làm ở Việt Nam” của TS Nguyễn Hữu Dũng và các cộng sự (1997) đã đề cập đến
chính sách giải quyết việc làm của nƣớc ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất
nƣớc. Về mặt lý luận nghiên cứu đã nêu khá chi tiết về phƣơng pháp luận, cách tiếp
cận về chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao động - việc làm và phƣơng
pháp tính cũng nhƣ sự hoạt động của thị trƣờng lao động. Về mặt thực tiễn các tác
17
giả đã phân tích đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở nƣớc ta nói chung, trong
nông nghiệp, nông thôn nói riêng và những nguyên nhân chủ yếu; khái quát dòng di
chuyển lao động trên thị trƣờng lao động, nhất là di chuyển từ nông thôn ra thành
thị tìm việc làm. Trên cơ sở đó đƣa ra hệ thống quan điểm GQVL trong quá trình
đẩy mạnh CNH - HĐH ở nƣớc ta. Giải pháp cơ bản cho khu vực nông thôn đó là
giải quyết nạn thiếu việc làm còn rất phổ biến và nghiêm trọng, việc làm kém hiệu
quả và thu nhập thấp thông qua chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động theo hƣớng CNH - HĐH. Công trình: “Chính sách việc làm – thực trạng và
giải pháp” (2013) của viện nghiên cứu lập pháp - Ủy Ban thƣờng vụ quốc hội, đã
phân tích hệ thống chính sách việc làm ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Công trình
đã đánh giá những thành tựu, hạn chế của hệ thống chính sách giải quyết việc làm ở
Việt Nam sau thời ký đổi mới. Công trình này cũng phân tích nguyên nhân và đề
xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách GQVL ở Việt Nam từ 2013 đến năm 2020
tầm nhìn 2025 nhằm giải quyết một cách hiệu quả nhất việc làm cho ngƣời lao
động. TS Nguyễn Tiệp trong một số bài báo nhƣ "Tạo việc làm ở nƣớc ta – Từ
chính sách đến thực tiễn", tạp chí Tạp chí Kinh tế và Phát triển; "Phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: Các giải pháp tạo thêm việc làm", tạp chí Lao động
và công đoàn; - "Một số giải pháp tạo việc làm gắn với giải quyết các vấn đề xã hội
tại Hà Nội", tạp chí Lao động – Xã hội, cũng nhấn mạnh đến một số vấn đề xã hội
nảy sinh trong quá trình CNH, HĐH nhƣ thất nghiệp, nghèo đói…và đề xuất một số
giải pháp cụ thể, trong đó ông đánh giá cao vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong việc GQVL cho ngƣời lao động ở Việt Nam.
CNH, HĐH luôn gắn với quá trình đô thị hóa, và trong quá trình này, việc
GQVL cho những ngƣời nông dân bị thu hồi đấtlà một đòi hỏi thực tế nổi bật, đƣợc
đề cập đến trong khá nhiều công trình nghiên cứu.Trong tác phẩm "Thu nhập, đời
sống, việc làm của ngƣời có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô
thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc
gia" của Lê Du Phong và các cộng sự (2007) cũng nhƣ trong đề tài KX.01 -2005
“Việc làm và thu nhập cho lao động bị thu hồi đất trong quá trình CNH-HĐH và đô
thị hoá” do Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân thực hiện, các tác giả đã chỉ rõ sự cần
thiết phải thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình CNH - HĐH và đô thị hoá, cũng
18
nhƣ những hệ lụy phát sinh từ quá trình này. Những dữ liệu của các nghiên cứu này
cho thấy việc xử lý các vấn đề thu nhập, đời sống, việc làm của những ngƣời có đất
bị thu hồi là không đơn giản và nó đòi hỏi nhà nƣớc phải áp dụng một hệ thống
chính sách đồng bộ nhƣ: Chính sách đền bù, bồi thƣờng thiệt hại; Chính sách tạo
việc làm; Chính sách tái định cƣ; Chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của các
đơn vị đƣợc nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển các khu công
nghiệp, khu đô thị và các chính sách xã hội liên quan để đảm bảo việc làm và thu
nhập cho đối tƣợng bị thu hồi đất.
Chủ đề này cũng đƣợc khảo cứu trong các công trình của các tác giả nhƣ
Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng và các cộng sự (2010) - "GQVL cho lao động
nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa»; Trần Thị Minh Ngọc & các cộng sự
(2010) - ("Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010"; Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa
và các cộng sự (2009) - "Hậu giải phóng mặt bằng ở Hà Nội – vấn đề và giải
pháp"với dữ liệu thực tế của một số vùng hay địa phƣơng cụ thể nhƣ Vùng Đồng
bằng Sông Hồng, Hải Dƣơng hay ngoại thành Hà Nội.
Cũng theo hƣớng nghiên cứu trên, Báo cáo của Liên hiệp các Hội Khoa học
và Kỹ thuật Việt Nam "Đánh giá thực trạng lao động việc làm ở các khu vực bị thu
hồi đất nông nghiệp và hiệu quả của các chính sách hỗ trợ nhóm nông dân mất đất"
(năm 2012), thông qua ba địa bàn đƣợc lựa chọn nghiên cứu là Hải Dƣơng, Nam
Định và Nghệ An, đã đi sâu phân tích các vấn đề về đời sống, việc làm cũng nhƣ
hiệu quả của các chính sách hỗ trợ dành cho nhóm nông dân mất đất. Theo đó, Báo
cáo chỉ ra các khó khăn của ngƣời dân thuộc diện thu hồi đất trong việc tìm kiếm,
chuyển đổi việc làm, phân tích các tác động khác của quá trình thu hồi đất đến điều
kiện kinh tế - xã hội của địa phƣơng cũng nhƣ xu hƣớng chuyển dịch trong cơ cấu
việc làm và thu nhập của các hộ gia đình. Báo cáo cho thấy những khó khăn về việc
làm, thu nhập thƣờng trực cộng với sự gia tăng của các loại hình tệ nạn xã hội cùng
sự ô nhiễm môi trƣờng làm cho nhiều ngƣời dân cảm thấy băn khăn với các quyết
định chuyển đổi mục đích sử dụng đất hiện nay.
Một số công trìnhcó xu hƣớng phân tích chuyên sâu về một số vấn đề phát
sinh từ quá trình thu hồi đất phục vụ mục tiêu CNH, HĐH nhƣ vấn đề sinh kế của
19
ngƣời nông dân, các mô hình thực tiễn về GQVL...Chẳng hạn, Báo cáo"Tác động
của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sinh kế nông dân Việt Nam: trường hợp một
làng ven đô Hà Nội"của TS. Nguyễn Văn Sửu đã tập trung phân tích vềtác động của
việc thu hồi đất nông nghiệp đến sinh kế của ngƣời nông dân thông qua dữ liệu của
một trƣờng hợp điển hình tại một làng ven đô Hà Nội. Bên cạnhxác nhận những đổi
thay tích cực trong thu nhập, cơ cấu ngành nghề của nhiều hộ gia đình, nghiên cứu
này cũng chỉ ra chiều hƣớng của sự chuyển dịch không đáp ứng đƣợc sự kỳ vọng
của các cơ quan quản lý cũng nhƣ các hộ gia đình. Những giảm sút thấy rõ của thu
nhập từ ngành nông nghiệp, và nhiều hƣớng sinh kế mới chuyển đổi lại thiếu bền
vững là những hệ quả đƣợc nhận diện rõ rệt nhất. Thêm vào đó, những hệ quả xã
hội khác từ việc thu hồi đất nông nghiệp của các hộ gia đình cũng diễn ra khá phức
tạp nhƣ sự bất ổn, rủi ro và bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo… gia tăng. Đề án:
"Một số giải pháp hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm cho
các hộ vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp" cũng đƣa ra nhiều phân
tích, đánh giá về quá trình triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ ngƣời dân bị
thu hồi đất ở Hà Nội, để đề xuất một số giải pháp cụ thể từ hỗ trợ về cơ sở vật chất
kỹ thuật, tái định cƣ đến đào tạo nghề cho ngƣời lao động về đào tạo nghề cho
nhóm đối tƣợng này.
1.2.2. Về vấn đề việc làm, giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
1.2.2.1. Vấn đề kinh tế tri thức và tác động của kinh tế tri thức
Các học giả Việt Nam cũng rất quan tâm đến vấn đề KTTT và tác động của
KTTT đến các tiến trình kinh tế xã hội ở Việt Nam. Ở đây chỉ nêu một số nghiên
cứu tiêu biểu:
Cuốn sách của Lƣu Ngọc Trịnh “ Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở
một số nước trên thế giới hiện nay” đã hệ thống hóa lại một số cách hiểu khác nhau
về nền KTTT, phân tích những đặc trƣng cơ bản, mô tả chi tiết thực tế và thực trạng
của các quốc gia (các nƣớc phát triển điển hình nhƣ Mỹ, EU, Nhật Bản, hay các
nƣớc Châu Á nhƣ Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore và
Malaysia..) trong việc xây dựng nền KTTT. Trên cơ sở khảo cứu quá trình chuyển
đổi từ kinh tế công nghiệp sang KTTT, tác giả đã chỉ ra những chiến lƣợc, chính
20
sách khác nhau mà các nƣớc triển khai nhằm tiến vào nền KTTT. Cuốn sách cho
rằng, đối với các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam, với xuất phát điểm thấp, nền
kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, thì tiếp cận nền KTTT là cơ hội tốt, không thể
bỏ qua để đuổi kịp các nƣớc phát triển.
Trong cuốn “ Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam”, GS. Nguyễn Kế Tuấn đã hệ thống hóa lý luận về KTTT,
làm rõ sự cần thiết và khả năng phát triển KTTT để đẩy nhanh quá trình CNH,
HĐH ở nƣớc ta. Phác họa khái quát mô hình chiến lƣợc CNH, HĐH trong điều kiện
từng bƣớc phát triển KTTT, Tác giả cũng khẳng định trong tiến trình CNH, HĐH
các nƣớc đi sau vừa phải có bƣớc đi “ nhảy vọt”, vừa có bƣớc đi tuần tự đồng thời
lựa chọn những lĩnh vực hợp lý để áp dụng trong mỗi bƣớc đi và kết hợp chúng một
cách tối ƣu. Trong cuốn sách tác giả cũng đã nêu lên những điều kiện cơ bản nhằm
từng bƣớc phát triển KTTT ở Việt Nam nhƣ phát triển nguồn nhân lực, khoa học và
công nghệ, định hƣớng đầu tƣ, huy động nguồn lực tài chính và mở rộng quan hệ
quốc tế.
Trong các cuốn sách của mình (và các cộng sự khác) (nhƣ“Kinh tế tri thức thời
cơ và thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam”, “Phát triển kinh tế tri thức gắn
với quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam”), GS.TS Đặng Hữu đã tập trung nghiên cứu là
rõ khái niệm, đặc trƣng, lịch sử hình thành và phát triển KTTT; kinh nghiệm phát triển
KTTT của một số nƣớc để đƣa ra gợi ý về định hƣớng và các giải pháp phát triển
KTTT ở Việt Nam. Ông khẳng định CHN, HĐH ở Việt Nam phải gắn với phát triển
KTTT. Quá trình CNH phải là quá trình phát triển phải là quá trình phát triển một cách
hài hòa kinh tế với văn hóa, xã hội, lấy con ngƣời làm trung tâm...Đó phải là quá trình
CNH, HĐH nhân văn đồng thời gìn giữ đƣợc tài nguyên thiên nhiên và môi trƣờng
sinh thái. Ông cũng đề xuất mô hình CNH hai tốc độ với sự kết hợp giữa kiểu phát
triển “tuần tự” lẫn “nhảy vọt” do các cơ hội mới mà KTTT tạo ra.
Đề tài trọng điểm đại học quốc gia do PGS.TS Phí Mạnh Hồng làm chủ
nhiệm “Một số vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức- cơ hội và thách thức đặt ra cho
Việt Nam” cũng nhƣ cuốn sách “Vai trò của nhà nước trong thời đại kinh tế tri
thức” của ông cũng là những công trình nghiên cứukhá chuyên sâu về KTTT. Tác
giả có những kiến giải riêng về KTTT nhƣ một thời đại kinh tế hoàn toàn khác với
21
các thời đại trƣớc đó dựa trên sự phân tích về vai trò, vị trí của các nguồn lực trong
hàm sản xuất xã hội. Tác giả chứng minh rằng, KTTT tạo ra những biến đổi sâu sắc
và toàn diện trong mọi mặt đời sống kinh tế- xã hội, trong đó có cả lĩnh vực lao
động, việc làm, thậm chí kể cả ở những nƣớc đi sau. Ngoài ra, tác giả còn nhấn
mạnh đến bản chất toàn cầu hóa của KTTT và cho rằng đây là yếu tố khiến các nền
kinh tế đang phát triển bị chi phối sâu sắc bởi các tiến trình chung của nền kinh tế
thế giới, tạo ra những cơ hội lẫn thách thức hoàn toàn mới đối với các nƣớc này.
Bởi vậy, việc tƣ duy và định vị lại vai trò của Nhà nƣớc là cơ sở nhằm đổi mới và
phát huy có hiệu quả vai trò của Nhà nƣớc Việt Nam trong thời đại KTTT.
- Luận án tiến sĩ kinh tế của Vƣơng Phƣơng Hoa “Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng”, đã nghiên cứu quá
trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT trong phạm vi một thành phố: thành phố
Đà Nẵng – một trong năm thành phố trực thuộc Trung ƣơng và đƣợc coi là “ thành
phố đáng sống” nhất ở Việt Nam hiện nay. Luận án đã xác định nội dung CNH,
HĐH gắn với phát triển KTTT, đi sâu phân tích và đánh giá thực trạng CNH, HĐH
gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng. Luận án cũng đề xuất những giải
pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT phấn
đấu sớm đƣa Đà Nẵng trở thành thành phố công nghiệp theo hƣớng hiện đại
1.2.2.2 Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong
bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Những nghiên cứu trực diện về vấn đề việc làm và GQVL ở Việt Nam (đang
trong quá trình CNH, HĐH) trong bối cảnh KTTT không nhiều và thƣờng không
mang tính chất chuyên sâu. Ở đây, các tác giả thƣờng đi sâu vào vấn đề phát triển
nguồn nhân lực nhƣ là một kênh để thúc đẩy CNH, HĐH trong bối cảnh KTTT.
Trong lĩnh vực này, có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu sau:
- Bài báo “ Ảnh hưởng của kinh tế tri thức đối với vấn đề giải quyết việc làm
ở Việt Nam” của GS.TS Đỗ Thế Tùng. Trong bài viết này, tác giả đã dự đoán xu
hƣớng tác động của cách mạng khoa học công nghệ đến cơ cấu lao động xã hội theo
những hƣớng nhƣ: Nguồn lực con ngƣời có tri thức đóng vai trò trung tâm của sự
phát triển; tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm đến mức rất nhỏ, tỷ trọng lao động
công nghiệp ngày một tăng. Số công nhân cổ trắng và cổ vàng không ngừng tăng
22
lên, số công nhân cổ xanh và công nhân tạp vụ không ngừng giảm xuống; Các
ngành công nghệ cao đòi hỏi lực lƣợng lao động trí óc và sáng tạo là yếu tố then
chốt của quá trình hiện đại hóa. Bài viết cũng nêu ra các giải pháp để giải quyết việc
làm ở Việt Nam trong thời gian tới theo ba hƣớng là: Phải đẩy mạnh giáo dục đào
tạo; chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ; có phƣơng sách
thích hợp để tuyển chọn đúng nhân tài và đào tạo công nhân cổ trắng.
- Tác giả Đặng Hữu (2005) trong bài viết “ Đào tạo nguồn nhân lực cho sự
nghiệp CNH,HĐH dựa trên tri thức ở nƣớc ta” cho rằng: “ Giáo dục góp phần tạo ra tri
thức đồng thời góp phần quảng bá tri thức”. Vì vậy, chúng ta cần phải coi gióa dục là
ngành sản xuất cơ bản nhất trong nền kinh tế tri thức. Từ đó tác giả khẳng đinh: “Nền
giáo dục nƣớc ta phải thực sự đổi mới để đảm bảo đào tạo đƣợc một thế hệ trẻ có đủ
năng lực làm chủ đất nƣớc” và phải chuyển sang mô hình học tập suốt đời.
GS.TS. Bùi Văn Nhơn (2006) trong tác phẩm “ Quản lý và phát triển nguồn
nhân lực xã hội” quan niệm: để đáp ứng đƣợc yêu cầu về phát triển NNL trong sự
nghiệp CNH,HĐH đất nƣớc thì NNL phải bảo đảm đƣợc ba nội dung là: thể lực, trí
lực và phẩm chất tâm lý xã hội. Cụ thể: về mặt thể lực, ngƣời lao động phải có sức
khỏe nhƣ: có sức chịu đựng dẻo dai; có các thông số nhân chủng học tậpđáp ứng
đƣợc các hệ thống thiết bị công nghệ phổ biến; luôn luôn tỉnh táo, sảng khoái tinh
thần. Về mặt trí lực, ngƣời lao động cần có chuyên môn kỹ thuật cao; công nhân kỹ
thuật đƣợc đào tạo kỹ lƣỡng, có chất lƣợng có tay nghề cao; các nhà huấn luyện có
chất lƣợng cao; nâng cao ý thức công dân, có lòng yêu nƣớc và có phong cách làm
việc công nghiệp. Về phẩm chất tâm lý của ngƣời lao động đòi hỏi ngƣời lao động
phải có những phẩm chất tâm lý xã hội cơ bản sau: có tác phong công nghiệp; có ý
thức tổ chức kỷ luật cao; có niềm say mê nghề nhiệp chuyên môn; sáng tạo, năng
động trong công việc; có khả năng chuyển đổi công việc cao thích ứng với những
thay đổi trong lĩnh vực công nghệ và quản lý.
Luận án tiến sĩ kinh tế của Lê Thị Hồng Điệp “ Phát triển nguồn nhân lực
chất lƣợng cao để hình thành nền kinh tế tri thức” cũng là một công trình luận bàn
về nguồn nhân lực chất lƣợng cao gắn với bối cảnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam. Luận án tập trung nghiên cứu sự tác động trực tiếp của quá
trình đào tạo ở bậc đại học đến sự hình thành nguồn nhân lực chất lƣợng cao và việc
23
sử dụng nguồn nhân lực chất lƣợng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt
Nam từ năm 2001 đến năm 2010. Luận án cũng đề xuất một số quan điểm và giải
pháp phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở
Việt Nam trong đó tham khảo kinh nghiệm thành công của Hoa Kỳ và Singgapore..
Tác giả Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hòa (2008), với tác phẩm “Giáo dục và đào
tạo – Chìa khóa của sự phát triển” đã nhấn mạnh vai trò của giáo dục đối với phát
triển con ngƣời và tầm quan trọng của cải cách giáo dục, đào tạo để phát triển nhân
lực thích ứng với sự phát triển của Việt Nam trong bối cảnh mới: công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
1.3. Nhận xét rút ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu
GQVL cho ngƣời lao động là một đề tài thu hút sự quan tâm của rất nhiều học
giả nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay,
quá trình CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT diễn ra mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên
thế giới thì càng nảy sinh nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Đây là một vấn đề rộng lớn,
phức tạp đòi hỏi phải sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi
nghiên cứu riêng về GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển
KTTT thì số lƣợng những nghiên cứu trực tiếp còn khá hạn hẹp. Vấn đề này đƣợc lồng
ghép các vấn đề nghiên cứu lớn hơn ở trong và ngoài nƣớc. Có thể nhận xét chung về
tình hình nghiên cứu nhƣ sau:
1.3.1. Những kết quả chủ yếu của các công trình nghiên cứu đã công bố
Các kết quả đạt đƣợc từ những công trình nghiên cứu đã công bố trong lĩnh
vực liên quan đến vấn đề việc làm và GQVL là rất to lớn. Có thể tóm lƣợc thành
một số điểm sau:
Thứ nhất, các nhà kinh tế đã chỉ rõ lao động là một nguồn lực quan trọng
trong nền sản xuất của thế giới nói chung và các quốc gia nói riêng. GQVL là vấn
đề đặc biệt quan trọng cả về mặt kinh tế lẫn xã hội ở tầm quốc gia nói chung cũng
nhƣ đối với cá nhân ngƣời lao động nói riêng.
Thứ hai, vấn đề tạo lập việc làm và GQVL luôn gắn với sự vận hành của thị
trƣờng lao động. Những lý thuyết kinh tế đã cung cấp những hiểu biết sâu sắc về
cung, cầu trên thị trƣờng lao động trong sự tƣơng tác của nó với các thị trƣờng khác
trong bối cảnh kinh tế vĩ mô chung. Những hiểu biết này là nền tảng quan trọng để
24
các chính phủ triển khai và thực thi các chính sách GQVL trong điều kiện nền kinh
tế thị trƣờng.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: ở các nƣớc đang phát
triển, đang trong quá trình CNH, HĐH, thông thƣờng các thể chế thị trƣờng, trong
đó có thị trƣờng lao động chƣa phát triển. Vấn đề GQVL ở các nƣớc này thƣờng đi
đôi với việc thúc đẩy các ngành công nghiệp và khu vực dịch vụ hiện đại phát triển,
hoàn thiện các thể chế thị trƣờng, duy trì đƣợc quá trình tăng trƣởng kinh tế nhanh
trong một thời gian dài. Những nƣớc thành công trong lĩnh vực này chính là những
nƣớc theo đuổi mô hình CNH có tính hội nhập quốc tế cao, chú trọng thúc đẩy nhu
cầu về lao động (dựa trên các chính sách thúc đẩy tăng trƣởng) cũng nhƣ nâng cấp
nhanh chất lƣợng nguồn cung về lao động.
Thứ tƣ, các nhà kinh tế cũng ngày càng chú ý đến xu hƣớng hình thành và
phát triển của kinh tế tri thức, coi đó là bối cảnh mới tác động sâu, rộng đến mọi
mặt của đời sống kinh tế- xã hội loài ngƣời nói chung, trong đó có cả lĩnh vực lao
động, việc làm. Các xu hƣớng chuyển dịch việc làm đang trở nên khác trƣớc, trong
đó nhiều ngành mới sẽ liên tục xuất hiện, đồng thời, nhiều ngành nghề cũ, truyền
thống nếu không thích ứng đƣợc với hoàn cảnh mới sẽ biến mất. Bên cạnh đó, sự
chuyển việc làm sẽ ngày càng mở rộng trên phạm vi toàn cầu, tạo ra những yêu cầu
và thách thức mới trong lĩnh vực GQVL ở mọi quốc gia, trong đó có cả các nƣớc
đang phát triển nhƣ Việt Nam.
Thứ năm, các công trình nghiên cứu về Việt Nam đã cung cấp một bức tranh toàn
cảnh về thực trạng GQVL ở Việt Nam trong thời gian qua trên nhiều khía cạnh: GQVL
cho nông dân, GQVL cho thanh niên...Các nghiên cứu cũng đã đƣa ra nhiều khuyến
nghị, giải pháp có cơ sở nhằm GQVL cho ngƣời lao động trong quá trình CNH, HĐH
đất nƣớc. Đây là những kết quả nghiên cứu quan trọng mà luận án sẽ kế thừa.
Tóm lại, những thành quả nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc đã cung cấp
cho nghiên cứu sinh những nền tảng lý luận và thực tiễn quan trọngđể nghiên cứu
vấn đề GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT..
1.3.2. Những "khoảng trống" và một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu đã công bố cho thấy: mặc dù các nhà nghiên cứu
đã đạt đƣợc những thành quả to lớn trong việc hình thành các tri thức về lĩnh vực
25
lao động, việc làm cũng nhƣ các chính sách GQVL trong một nền kinh tế hiện đại
song ở đây, vẫn có những “khoảng trống” cần đƣợc tiếp tục bổ khuyết.
Thứ nhất, do xu hƣớng phát triển KTTT chỉ mới hình thành trong nền kinh tế
thế giớitrong một vài thập kỷ gần đây nên những hiểu biết chung về nó vẫn chƣa
đầy đủ. Nhiều sự kiện mới xuất hiện trong thực tiễn vẫn đang thách thức các nguyên
lý của các khoa học kinh tế truyền thống (chẳng hạn kinh tế học truyền thống vẫn
dựa trên giả định về tính khan hiếm nguồn lực hay quy luật hiệu suất giảm dần
trong khi trong nền KTTT, ngƣời ta bắt đầu nhận thấy hiện tƣợng đối nghịch xuất
hiện: tính “dƣ thừa” của nguồn lực tri thức, quy luật hiệu suất tăng dần...). Vả lại,
những biến đổi của các sự kiện thực tiễn lại diễn ra với một tốc độ ngày càng nhanh.
Điều đó cho thấy việc hình thành một môn kinh tế học của nền KTTT tƣơng tự nhƣ
kinh tế học thị trƣờng hiện nay vẫn là vấn đề của tƣơng lai. Trong điều kiện đó vẫn
cần có những công trình nghiên cứu về KTTT cũng nhƣ tác động của nó đối với các
mặt khác nhau của đời sống kinh tế, trong đó bao gồm cả vấn đề lao động, việc làm.
Thứ hai, mối tƣơng quan giữa CNH, HĐH và phát triển KTTT tuy hay đƣợc
nhắc đến song chƣa thật sự đƣợc quan tâm nghiên cứu, đặc biệt ở Việt Nam. Ở đây,
phát triển KTTT không đơn giản là việc khuyến khích hay thúc đẩy việc phát triển
của khoa học, công nghệ, nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo..., mà luôn ngầm
chứa những biến đổi về mặt cấu trúc thể chế kinh tế- xã hội nhằm tạo ra môi trƣờng
để quá trình sáng tạo, phổ biến, ứng dụng tri thức trở thành tự nhiên. Trong điều
kiện đó, đồng thời gắn với tác động của quá trình toàn cầu hóa, tiến trình CNH,
HĐH ở các nƣớc đang phát triển sẽ diễn ra với những nội dung, cách thức khác
trƣớc. Đây cũng là lĩnh vực cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
Thứ ba, mặc dù vấn đề GQVL trong điều kiện CNH, HĐH đã đƣợc đề cập
nhiều trong các công trình nghiên cứu ngay cả ở Việt Nam song nhƣ lô gic tiếp nối
ở nhận xét trên, những khía cạnh liên quan đến vấn đề GQVL trong điều kiện CNH,
HĐH gắn với bối cảnh KTTT về cơ bản vẫn là một vấn đề đƣợc “bỏ ngỏ” trong các
công trình nghiên cứu. Những nghiên cứu ban đầu về một số khía cạnh nào đó có
liên quan cần đƣợc tiếp tục mở rộng nhằm làm sáng tỏ hơn đặc điểm, nội dung của
quá trình CNH, HĐH trong điều kiện thời đại KTTT cũng nhƣ tác động của chúng
đối với lĩnh vực GQVL cũng nhƣ việc thiết kế các chính sách GQVL tƣơng ứng.
26
Những “khoảng trống” lý luận và thực tiễn nhƣ vậy đòi hỏi cần có nhiều
công trình nghiên cứu tiếp theo. Luận án này cố gắng góp một phần nhỏ vào việc
lấp đầy dần “khoảng trống” nghiên cứu đó.
Kết luận chƣơng 1
Chƣơng 1 đã phân tích và tổng kết những nghiên cứu trong và ngoài nƣớc có
liên quan đến đề tài luận án. Những vấn đề đƣợc nghiên cứu có thể đƣợc kết luận
nhƣ sau:
Thứ nhất: Việc làm và GQVL thu hút đƣợc sự quan tâm nghiên cứu của rất
nhiều nhà kinh tế học trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên vẫn còn thiếu các nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề việc làm và GQVL trong bối cảnh của kỷ nguyên KTTT.
Thứ hai: Các công trình nghiên cứu về GQVL ở Việt Nam đang tập trung
vào vấn đề: GQVL cho từng đối tƣợng nhƣ nông dân bị thu hồi đất, cho thanh
niên... hoặc GQVL cho từng địa phƣơng với những đặc điểm kinh tế - xã hội riêng
biệt. Vấn đề GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT
còn đang bỏ ngỏ.
Nhƣ vậy, từ những “ khoảng trống” nghiên cứu, tác giả luận án có thể xác
định đƣợc hƣớng nghiên cứu để bổ sung vào những thiếu sót vẫn còn tồn tại hiện
nay. Luận án đi sâu tìm hiểu quá trình GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh
CNH,HDH gắn với phát triển KTTT góp phần xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn
để đề xuất các giải pháp có tính khả thi cho quá trình GQVL ở Việt Nam trong bối
cảnh CNH,HDH gắn với phát triển KTTT.
27
Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
2.1. Việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh chung của nền kinh
tế thị trƣờng
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Việc làm
Hiện nay, có những cách định nghĩa khác nhau về việc làm.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao động
đƣợc trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Ở Việt Nam trƣớc đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao
cấp, ngƣời lao động chỉ đƣợc coi là có việc làm khi đƣợc hoạt động trong thành
phần kinh tế XHCN ( quốc doanh, tập thể), nhất là đƣợc vào biên chế nhà nƣớc.
Trong cơ chế đó xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế khác,
đồng thời cũng không thừa nhận hiện tƣợng thiếu việc làm, thất nghiệp…Nhƣng
chuyển sang kinh tế thị trƣờng quan niệm này đã đƣợc thay đổi một cách căn bản:
Việc làm giờ đây đƣợc xem là mọi hoạt động của con ngƣời nhằm tạo ra thu nhập
mà không bị luật pháp cấm.
Quan niệm này đã cho thấy nội dung của việc làm đƣợc mở rộng và tạo ra
khả năng to lớn cho việc giải phóng tiềm năng lao động, GQVL cho nhiều ngƣời.
- Việc làm đƣợc đƣợc tạo ra trong tất cả các thành phần kinh tế.
- Ngƣời lao động đƣợc tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, tự do thuê
mƣớn lao động theo luật pháp và sự hƣớng dẫn của Nhà nƣớc đƣợc tự tạo việc làm
cho mình và thu hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao động trên
thị trƣờng lao động.
Chính từ quan niệm trên về việc làm trong cơ chế thị trƣờng, trong Điều 13,
Chƣơng II Bộ luật Lao động nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều
đƣợc thừa nhận là việc làm”. Năm 2012, Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật Lao động thay thế cho Luật Lao động trƣớc đó.
28
Trong Luật Lao động, điều 9, khoản 1 chỉ rõ: “Việc làm là hoạt động tạo ra thu
nhập mà không bị pháp luật cấm”.[7, tr23]
Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm thỏa mãn hai điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho ngƣời lao động và
các thành viên trong gia đình, đáp ứng một yêu cầu nào đó của xã hội.
Hai là, ngƣời lao động đƣợc tự do hành nghề, hoạt động đó không bị luật
pháp cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.
Ngoài ra, ngƣời ta còn chia việc làm thành những phạm trù xã hội – nghề
nghiệp khác nhau, từ đó có sự phân biệt các loại nghề nghiệp của lao động khác nhau.
+ Việc làm chính thức: là công việc chính mang lại thu nhập chính (đối với
những việc làm đƣợc trả công) và những thu nhập về của cải vật chất cho bản thân
và gia đình (đối với việc làm không đƣợc trả công) và những thu nhập về của cải vật
chất cho bản thân và gia đình (đối với việc làm không đƣợc trả công: nội trợ gia
đình, tự trồng trọt, chăn nuôi phục vụ nhu cầu bản thân...).
+ Việc làm phụ hay không chính thức: Là những công việc làm thêm ngoài
công việc chính thức. Đối với ngƣời nông dân, công việcchính thức của họ là sản
xuất nông nghiệp trong mùa vụ, còn việc làm không chính thức là những việc làm
thêm trong lúc nông nhàn.
Ở cấp độ nền kinh tế, để đánh giá mức độ khai thác nguồn lực lao động
chung, ngƣời ta còn đƣa ra khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý.
Việc làm đầy đủđƣợc hiểu là sự thoả mãn đầy đủ về nhu cầu việc làm cho
mọi thành viên có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân, miễn là họ chấp
nhận các mức lƣơng thị trƣờng hiện hành. Có thể nói, việc làm đầy đủ là ở trạng
thái mà mỗi ngƣời có khả năng lao động muốn làm việc với mức lƣơng hiện có trên
thị trƣờng thì đều có thể tìm đƣợc việc làm trong một thời gian tƣơng đối ngắn.
Theo kinh tế học, nền kinh tế có mức việc làm đầy đủ khi thị trƣờng lao động ở
trạng thái cân bằng, và tƣơng ứng với nó, sản lƣợng của nền kinh tế chính là sản
lƣợng tiềm năng. Khi này, trong nền kinh tế vẫn có thể có những ngƣời thất nghiệp
song họ là những ngƣời thất nghiệp tự nguyện do không muốn chấp nhận mức
lƣơng thị trƣờng hiện hành.
29
Việc làm hợp lýlàviệc làm phù hợp với khả năng và nguyện vọng của ngƣời
lao động. Khi ngƣời lao động có công ăn, việc làm hợp lý, họ có điều kiện để phát
huy tốt nhất năng lực sẵn có của mình, do đó có năng suất lao động, hiệu quả kinh
tế - xã hội cao hơn.
Ranh giới giữa có việc làm và không có việc làm luôn luôn biến đổi, vì:
Thứ nhất, hoạt động nội trợ không đƣợc coi là việc làm, trong khi đó hoạt
động nội trợ tạo ra các lợi ích phi vật chất và gián tiếp tạo ra lợi ích vật chất không
hề nhỏ; Thứ hai, khó có thể so sánh tỷ lệ ngƣời có việc làm giữa các quốc gia với
nhau vì quan niệm về việc làm giữa các quốc gia có thể khác nhau, phụ thuộc vào
luật pháp, phong tục tập quán. Có những nghề ở quốc gia này thì đƣợc cho phép và
đƣợc coi là việc làm, nhƣng ở quốc gia khác, ví dụ đánh bạc ở Việt Nam bị cấm,
nhƣng ở Thái Lan và Mỹ lại đƣợc coi là một nghề. Thậm chí nghề này rất phát triển,
vì nó thu hút khá đông tầng lớp thƣợng lƣu.
Ngoài ra, tùy theo các mục đích nghiên cứu khác nhau mà ngƣời ta còn chia
việc làm thành việc làm toàn thời gian, bán thời gian, việc làm thêm.
- Việc làm toàn thời gian: Chỉ một công việc mà ngƣời lao động có đủ việc
làm trong toàn bộ thời gian lao động (số giờ lao động trong một ngày và số ngày lao
động trong một tuần, một tháng, một năm) theo quy định của pháp luật.
- Việc làm bán thời gian: Mô tả công việc làm không đủ thời gian làm việc
trong ngày, trong tuần/tháng/năm theo quy định của pháp luật Thời gian làm việc có
thể dao động từ 0.5 đến 5 tiếng mỗi ngày và không liên tục.
Trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) còn khuyến cáo và đề cập tới việc làm nhân văn hay việc làm bền vững. Đó
là việc làm có năng suất và chất lƣợng cho tất cả mọi ngƣời, trong điều kiện tự do,
bình đẳng, an toàn và nhân phẩm đƣợc tôn trọng. Một việc làm đƣợc coi là bền
vững khi thỏa mãn các tiêu chí: có thu nhập công bằng, phải bảo đảm an toàn tại nơi
làm việc và bảo vệ xã hội cho ngƣời lao động cũng nhƣ gia đình họ; có triển vọng
phát triển cá nhân và khuyến khích hòa nhập xã hội; cho phép mọi ngƣời đƣợc tự do
bày tỏ những mối quan tâm của mình, đƣợc tự do tổ chức và tham gia vào các quyết
định ảnh hƣởng tới cuộc sống của họ; và bảo đảm cho tất cả mọi ngƣời đều có cơ
hội bình đẳng và đƣợc đối xử bình đẳng.
30
2.1.1.2. Thất nghiệp và các hình thức thất nghiệp
Đối nghịch với khái niệm việc làm là khái niệm thất nghiệp. Nó đƣợc biểu
hiện qua định nghĩa về ngƣời thất nghiệp.
Người thất nghiệp, theo quan niệm đƣợc thừa nhận chung, dùng để chỉ
những ngƣời không có việc làm song có nguyện vọng tìm việc. Chẳng hạn, trong
giáo trình “Kinh tế học”, Sameelson viết: “Thất nghiệp là những ngƣời không có
việc làm, những ngƣời đang chờ để trở lại làm việc hoặc đang tích cực tìm việc
làm” [119, tr271].
Nhƣ vậy, để xác định một ngƣời nằm trong độ tuổi lao động là ngƣời thất
nghiệp, ngƣời này vừa phải là ngƣời hiện không có việc làm, mặt khác, vừa có
mong muốn có việc làm và biểu thị rõ ràng nguyện vọng đi tìm việc nàyở thời điểm
phân tích. Một ngƣời không có việc làm, song không có nhu cầu tìm việc sẽ không
đƣợc coi là ngƣời thất nghiệp, cho dù anh ta hay chị ta vẫn nằm trong độ tuổi lao
động và có sức khỏe tốt.
Toàn bộ số ngƣời có việc làm và số ngƣời thất nghiệp trong nền kinh tế hợp
lại thành lực lƣợng lao động. Những ngƣời còn lại, dù ở trong hay ngoài độ tuổi lao
động đƣợc coi là nằm ngoài lực lƣợng lao động.
Mức độ thất nghiệp đƣợc đánh giá và đo lƣờng qua tỷ lệ thất nghiệp. Đó là tỷ
𝑈
lệ số ngƣời thất nghiệp trong lực lƣợng lao động.
𝐸+𝑈
Nói cách khác, tỷ lệ thất nghiệp (u) là: u (%) = x 100, trong đó U chỉ số
ngƣời thất nghiệp, E chi số ngƣời có việc làm.
Theoquy tắc thống kê ở Việt Nam, ngƣời thất nghiệp là ngƣời đủ 15 tuổi trở
lên trong nhóm tuổi hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ trƣớc điều tra không có việc
làm nhƣng có nhu cầu tìm việc làm:
Thứ nhất, có nỗ lực đi tìm việc trong 4 tuần qua hoặc không có hoạt động tìm
việc vì các lý do không biết tìm việc làm ở đâu hoặc tìm mãi không có việc làm.
Thứ hai, trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc
dƣới 8 giờ, và sẵn sàng làm thêm nhƣng không tìm đƣợc việc làm.
Tuy nhiên những ngƣời đủ 15 tuổi trở lên nhƣng thuộc các đối tƣợng sau đây
thì không thuộc những ngƣời thất nghiệp và không nằm trong lực lƣợng lao động:
+ Ngƣời đang đi học
31
+ Ngƣời đang làm việc nội trợ cho bản thân và gia đình.
+ Ngƣời tàn tật, ốm đau, không có khả năng lao động hoặc bị tƣớc quyền lao động.
+ Ngƣời già cả hết tuổi lao động.
+ Hoặc tình trạng khác (về hƣu hƣởng chế độ, chƣa có nhu cầu hoạt động kinh tế).
Các hình thức thất nghiệp:
Ngƣời ta có thể phân chia thất nghiệp thành các hình thức khác nhau, theo hai
cách: phân loại theo nguồn gốc của thất nghiệp hay theo tính chất của thất nghiệp.
Dựa theo nguồn gốc của thất nghiệp, thất nghiệp đƣợc chia thành thất nghiệp
tạm thời, thất nghiệp cơ cấu, thất nghiệp theo quan điểm cổ điển, thất nghiệp chu kỳ
hay thất nghiệp do thiếu cầu.
-Thất nghiệp tạm thời: Phát sinh do sự di chuyển không ngừng của con
ngƣời giữa các vùng, các công việc hoặc là các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
Hay nói cách khác đây là dạng thất nghiệp phát sinh do ngƣời lao động muốn có
thời gian để tìm việc làm thích hợp với chuyên môn và sở thích của mình.
-Thất nghiệp cơ cấu: là một dạng thất nghiệp xuất hiện khi có sự mất cân
bằng giữa cung và cầu lao động trên một thị trƣờng lao động cục bộ (ngành hay khu
vực), dù là trên thị trƣờng lao động tổng thể, cung và cầu lao động vẫn có thể cân
bằng. Thất nghiệp cơ cấu luôn nảy sinh khi cơ cấu ngành của nền kinh tế chuyển
dịch, làm cho một số ngành kinh tế cũ bị suy thoái và thu hẹp, thậm chí là biến mất,
trong khi một số ngành mới lại xuất hiện. Trong thời kỳ suy tàn của một ngành kinh
tế, sẽ có một số ngƣời thất nghiệp do họ chƣa kịp chuyển đổi để thỏa mãn các nhu
cầu về kiến thức, kỹ năng lao động mà những ngành công nghiệp mới đòi hỏi.
-Thất nghiệp chu kỳ: là thất nghiệp gắn liền với sự suy giảm theo chu kỳ của
nền kinh tế. Khi rơi vào giai đoạn suy thoái, tổng cầu về các hàng hóa, dịch vụ của
nền kinh tế suy giảm và trở nên thiếu hụt. Điều đó kéo theo sự cắt giảm nhu cầu về
thuê mƣớn lao động và nhiều ngƣời trở nên thất nghiệp.
- Thất nghiệp theo quan điểm cổ điển (gọi tắt là thất nghiệp cổ điển): biểu
thị những ngƣời thất nghiệp do tiền lƣơng bị chủ định giữ ở mức cao hơn mức
lƣơng cân bằng thị trƣờng. Điều này xảy ra khi chính phủ thực thi chính sách tiền
lƣơng tối thiểu và quy định mức lƣơng tối thiểu cao hơn mức lƣơng cân bằng. Nó
cũng có thể là hậu quả của việc can thiệp của công đoàn vào quá trình thƣơng lƣợng
32
tiền lƣơng giữa ngƣời lao động và giới chủ. Đây là cách mà các nhà kinh tế học cổ
điển giải thích tình trạng thất nghiệp cao vào những năm 1930 trong nền kinh tế thế
giới, khi mà theo mô hình của họ, tiền lƣợng và giá cả là linh hoạt để đảm bảo cho
thị trƣờng lao động là cân bằng, do đó sẽ không có cái gọi là thất nghiệp chu kỳ
trong nền kinh tế.
Ngoài những dạng thất nghiệp trên, ngƣời ta còn có thể đề cập đến một vài
loại hình thất nghiệp khác nhƣ thất nghiệp trá hình, hay thất nghiệp theo thời vụ
(điển hình hay xảy ra trong nông nghiệp. Theo một nghĩa nhất định, đây cũng là
một hình thức thất nghiệp cơ cấu). Tuy nhiên, trong các khoa học kinh tế hiện đại,
ngƣời ta ít nói đến các hình thức thất nghiệp này.
Dựa theo tính chất của thất nghiệp, ngƣời ta phân thất nghiệp thành thất
nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện.
-Thất nghiệp tự nguyện: dùng để ám chỉ những ngƣời thất nghiệp do không
chấp nhận mức lƣơng hay công việc hiện hành mà thị trƣờng cung cấp. Những
ngƣời thất nghiệp dạng này là những ngƣời hoàn toàn tự nguyện chấp nhận tình tình
trạng chƣa có việc làm.
-Thất nghiệp không tự nguyện: biểu thị những ngƣời thất nghiệp ngay cả khi
chấp nhận mức lƣơng và công việc hiện có.
Có một sự tƣơng ứng nhất định giữa hai cách phân loại thất nghiệp. Chẳng
hạn, thất nghiệp chu kỳ là thất nghiệp không tự nguyện, còn các dạng thất nghiệp
nhƣ thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu, thậm chí thất nghiệp cổ điển đều có
thể xếp vào loại hình thất nghiệp tự nguyện.
Thất nghiệp tự nguyện (tạm thời, cơ cấu…) là hình thức thất nghiệp cần
thiết, luôn tồn tại trong một nền kinh tế năng động. Nó là cách để nền kinh tế phân
bổ lại lao động một cách hợp lý hơn, phù hợp với năng lực và sở thích của ngƣời
lao động và yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
2.1.1.3. Giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm, theo nghĩa rộng, là tổng thể những biện pháp, chính sách
mà xã hội tiến hành nhằm biến những ngƣời thất nghiệp hay ngƣời chƣa có việc làm
thành những ngƣời có việc làm, đáp ứng cao nhất nhu cầu về việc làm cho mọi
ngƣời lao động.
33
Quá trình GQVL liên quan đến cả ba chủ thể kinh tế chủ yếu: những ngƣời
lao động có nhu cầu tìm việc; các doanh nghiệp hay những ngƣời sử dụng lao động
và Nhà nƣớc. Ngoài ra, các tổ chức xã hội dân sự khác nhau cũng có vai trò nhất
định trong việc GQVL.
Trong các chủ thể trên, ngƣời lao động cần tìm việc làm đƣơng nhiên có
động lực tự thân để GQVL cho chính bản thân họ. Họ sẽ lựa chọn tham gia hay rút
lui khỏi lực lƣợng lao động hay tìm mọi cách trong khả năng có thể để có đƣợc kỹ
năng, kiến thức cần thiết nhằm đáp ứng các nhu cầu của ngƣời tuyển dụng. Các
doanh nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tạo ra việc làm cho xã hội vì
chúng là chủ thể chính sử dụng lao động và tạo ra cầu về lao động. Tuy nhiên ở đây
cần thấy rằng: mục tiêu mà các doanh nghiệp theo đuổi là mục tiêu kinh doanh,
chẳng hạn nhƣ tối đa hóa lợi nhuận, mở rộng thị phần hay nâng cao năng lực cạnh
tranh chứ không phải là mục tiêu tạo việc làm. Doanh nghiệp chỉ tuyển dụng lao
động hay tạo ra việc làm trong chừng mực điều này phù hợp với lợi ích kinh doanh
của chúng. Doanh nghiệp cũng có thể sẵn sàng sa thải nhân công, cắt giảm việc làm
nếu nhƣ điều đó là cần thiết để chúng tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm, gia tăng khả năng cạnh tranh so với đối thủ. Vì thế, xét về mặt khách quan,
vai trò GQVL của các doanh nghiệp có thể đƣợc xem nhƣ hệ quả của một môi
trƣờng kinh tế- xã hội, trong đó các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi hay không
thuận lợi để xuất hiện, tồn tại và phát triển. Do vậy, khi nói đến các biện pháp,
chính sách giải quyết việc làm, điều có ý nghĩa hơn cả là các biện pháp, chính sách
thuộc về nhà nƣớc, trong đó bao gồm cả các chính sách tác động đến động lực của
chính ngƣời lao động cũng nhƣ doanh nghiệp trong lĩnh vực việc làm.
Vì thế, theo nghĩa hẹp, GQVL là các biện pháp, chính sách mà nhà nƣớc tiến
hành nhằm giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp và nền kinh
tế tạo ra nhiều việc làm cũng nhƣ tao điều kiện để ngƣời lao động có thể dễ dàng
hơn trong việc đáp ứng các nhu cầu của thị trƣờng lao động.Mục tiêu của GQVL là
phải tạo ra việc làm đầy đủ cho ngƣời lao động và cao hơn, là tạo ra tự do trong lựa
chọn việc làm, triệt để giải phóng sức lao động và các nguồn lực của xã hội nhằm
đảm bảo cho mọi ngƣời đều có mức sống và thu nhập tƣơng đối ổn định, phù hợp
và luôn đƣợc cải thiện theo thời gian.
34
2.1.2. Nguyên nhân của thất nghiệp
Cách phân chia thất nghiệp theo nguồn gốc của nó sẽ giúp ta giải thích
nguyên nhân của hiện tƣợng thất nghiệp.Trong nền kinh tế thị trƣờng, thất nghiệp
nảy sinh là do những nguyên nhân sau:
- Thời gian cần thiết để khớp nối giữa một bên là ngƣời đi tìm việc và một
bên có công việc đang tìm ngƣời thích hợp: Trong một nền kinh tế rộng lớn, việc
khớp nối này không thể diễn ra một cách tức thì và tự động và luôn cần có một thời
gian nhất định. Chẳng hạn, một sinh viên mới ra trƣờng, cần đi tìm việc, hay một
ngƣời lao động bỏ việc làm cũ hoặc nơi làm việc cũ để tìm việc làm mới hay nơi
làm việc mới cho phù hợp hơn với điều kiện, năng lực và sở thích của mình luôn
cần một thời gian để chuẩn bị hồ sơ xin việc, tìm kiếm nhà tuyển dụng thích hợp.
Nhà tuyển dụng cần tuyển lao động mới cũng cần thời gian để truyền bá thông tin,
thu thập hồ sơ đăng ký tuyển dụng, thực hiện những cuộc phỏng vấn tuyển dụng
công phu và tốn kém. Tất cả những điều đó sẽ khiến cho thất nghiệp tạm thời là
hiện tƣợng không tránh khỏi, luôn xảy ra trong nền kinh tế.
- Sự không tƣơng thích giữa kỹ năng làm việc của ngƣời lao động và cơ hội
việc làm do sự thay đổi của cơ cấu các ngành kinh tế: Khi một ngành kinh tế bƣớc
vào giai đoạn suy tàn, cầu về sản phẩm và việc làm trong ngành này giảm sút. Một
số lƣợng lao động nhất định vốn có công ăn việc làm trong ngành trƣớc đây sẽ bị sa
thải. Họ sẽ không dễ dàng và ngay lập tức kiếm đƣợc việc làm thay thế ở những
ngành nghề mới ra đời, đang có nhu cầu tuyển dụng. Một ngƣời thợ may bị thất
nghiệp không dễ dàng có đƣợc kỹ năng của một kỹ sƣ lập trình, hay nhân viên
marketing, dù rằng đây đang là những nơi cung cấp các cơ hội việc làm mới. Họ
cần có một thời gian nhất định để chuyển đổi nghề nghiệp thông qua quá trình đào
tạo hay huấn luyện lại. Trong thời gian đó, họ sẽ trở thành những ngƣời thất nghiệp
cơ cấu, trừ phi họ chấp nhận làm những công việc không đòi hỏi kỹ năng với mức
lƣơng thậm chí thấp hơn cả mức lƣơng của ngƣời thợ may trƣớc đây.
Thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu là những dạng khác nhau của thất
nghiệp tự nguyện nhƣ ở trên chúng ta đã đề cập. Chúng tồn tại ngay cả khi thị
trƣờng lao động tổng thể đang ở trạng thái cân bằng. Trong trƣờng hợp này, số
ngƣời thất nghiệp biểu thị khoảng cách hay sự chênh lệch giữa số ngƣời chấp nhận
35
nằm trong lực lƣợng lao động với số ngƣời sẵn sàng chấp nhận làm việc ở mức
lƣơng cân bằng thị trƣờng hiện hành.
- Sự duy trì mức lƣơng cao hơn mức lƣơng cân bằng một cách có chủ đích:
là nguyên nhân của thất nghiệp cổ điển. Đây có thể là hệ quả của chính sách tiền
lƣơng tối thiểu mà nhà nƣớc áp đặt khi mức lƣơng cân bằng thị trƣờng đƣợc xem là
quá thấp không đủ đảm bảo nhu cầu sống của những ngƣời lao động giản đơn, kỹ
năng thấp. Nó cũng có thể xảy ra khi công đoàn của những ngƣời lao động có sức
mạnh đến mức có thể mặc cả với giới chủ doanh nghiệp để duy trì một mức lƣơng
cao hơn mức lƣơng cân bằng thị trƣờng cho các công đoàn viên của mình. Khi mức
lƣơng cao hơn đƣợc thiết lập, trên thị trƣờng lao động sẽ có sự dƣ cung hay xuất
hiện những ngƣời thất nghiệp. Đối với từng cá nhân những ngƣời thất nghiệp dạng
này, họ là những ngƣời thất nghiệp không tự nguyện, khi trên thực tế họ vẫn sẵn
lòng làm việc với mức lƣơng thấp hơn. Tuy vậy, thông qua công đoàn, với tƣ cách
là một khối những ngƣời lao động tổng thể, việc tự nguyện thiết lập và duy trì một
mức lƣơng cao hơn (so với mức lƣơng cân bằng tiềm năng) khiến cho dƣ cung về
lao động hay thất nghiệp xuất hiện, những ngƣời thất nghiệp trong trƣờng hợp này
vẫn đƣợc coi là những ngƣời thất nghiệp tự nguyện.
- Sự thiếu hụt của tổng cầu về hàng hóa, dịch vụ và tính cứng nhắc của tiền
lƣơng: Vào thời kỳ suy thoái của nền kinh tế, trên thị trƣờng hàng hóa, dịch vụ tổng
cầu thấp khiến cho nền kinh tế phải hoạt động dƣới mức tiềm năng. Tổng cầu về
hàng hóa, dịch vụ suy giảm là nguyên nhân khiến cầu về lao động nói chung bị cắt
giảm. Nếu tiền lƣơng là hoàn toàn linh hoạt, cầu lao động thấp hơn sẽ làm mức
lƣơng thị trƣờng hạ xuống và chính sự điều chỉnh này sẽ cho phép cung và cầu về
lao động thiết lập lại sự cân bằng trên thị trƣờng. Tuy nhiên, do trong ngắn hạn, tiền
lƣơng là cứng nhắc, không linh hoạt, do đó nó có thể bị “kẹt” lại ở mức lƣơng cân
bằng trƣớc đây mà không hạ xuống phù hợp với trạng thái cung – cầu mới. Trong
điều kiện này, dƣ cung lao động lại xuất hiện và thất nghiệp lại xảy ra. Đây chính là
dạng thất nghiệp chu kỳ, gắn với giai đoạn suy thoái trong chu kỳ của các nền kinh
tế thị trƣờng. Những ngƣời rơi vào thất nghiệp trong hoàn cảnh này là những ngƣời
thất nghiệp không tự nguyện hay những ngƣời thất nghiệp khi thị trƣờng lao động
36
tổng thể là không cân bằng. Đây là hình thức thất nghiệp nghiêm trọng nhất mà xã
hội phải đối diện và tìm cách nhanh chóng xử lý.
Những nguyên nhân trên là các nguyên nhân trực diện gây ra thất nghiệp
trong một nền kinh tế thị trƣờng thông thƣờng. Xét trên thị trƣờng lao động tổng
thể, nó biểu thị sự chênh lệch giữa lƣợng ngƣời sẵn sàng tham gia vào lực lƣợng lao
động và lƣợng cung lao động tại mức lƣơng thị trƣờng hiện có (khi thị trƣờng lao
động cân bằng) hay dƣ cung về lao động (chênh lệch giữa lƣợng cung và lƣợng cầu
về lao động tại một mức lƣơng nào đó – khi thị trƣờng lao động là không cân bằng).
Tuy nhiên, trên các thị trƣờng lao động bộ phận (thị trƣờng lao động ngành/nghề cụ
thể hay thị trƣờng lao động ở các khu vực, địa phƣơng nhất định), thất nghiệp
thƣờng hiện ra nhƣ sự không ăn khớp giữa cung và cầu về các dạng lao động cụ thể
trong những khoảng thời gian và không gian cụ thể.
Ở các nƣớc đang phát triển, tình trạng thất nghiệp thƣờng trầm trọng hơn do
nền kinh tế kém phát triển, và các thị trƣờng lao động kém hoàn thiện, vận hành
thiếu hiệu quả. Các thị trƣờng lao động thƣờng bị cắt khúc và chia cắt giữa các
ngành, các vùng và các địa phƣơng. Lao động không dễ dàng di chuyển từ nơi lao
động đang dƣ thừa sang nơi đang có cơ hội việc làm cao. Các quy tắc thƣơng lƣợng,
mặc cả về tiền công, và các điều kiện làm việc thƣờng thiếu rõ ràng, kém hoàn thiện
khiến cho tiền lƣơng, tiền công càng ít mang tính chất linh hoạt. Dân số tăng nhanh
khiến cho nguồn cung lao động luôn gia tăng. Chất lƣợng nguồn lao động thấp, kỹ
năng chung của lực lƣợng lao động không cao khiến cho nhiều ngƣời không tìm
đƣợc việc làm ở những ngành đòi hỏi kỹ năng cao. Mặt khác, do khả năng tích lũy
vốn hạn chế, các ngành công nghiệp và khu vực kinh tế có giá trị gia tăng cao chậm
phát triển để tạo ra những chỗ làm việc mới. Đa số lao động tập trung và bị “kẹt” lại
ở khu vực nông nghiệp, nông thôn lạc hậu trong một thời gian dài. Ở khu vực này,
ngƣời ta có thể vẫn có việc làm theo ý nghĩa thống kê chính thức, song đó chỉ là
những việc làm tạo ra thu nhập thấp hoặc việc làm bán thời gian, có tính thời vụ
dƣới các hình thức khác nhau. Trong trƣờng hợp này, tính chất nghiêm trọng của
thất nghiệp thƣờng biểu hiện ở tình trạng thiếu việc làm phổ biến, kéo dài.
37
2.1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới việc làm và giải quyết việc làm
Hiệu quả của chính sách GQVL của nhà nƣớc luôn bị phụ thuộc và bị chi
phối bởi nhiều yếu tố, có khả năng ảnh hƣởng đến quá trình tạo lập việc làm và
GQVL.Có thể kể đến các nhân tố sau:
2.1.3.1. Trình độ phát triển chung của nền kinh tế và bối cảnh kinh tế vĩ
mô của nó trong mỗi giai đoạn
Trình độ phát triển của nền kinh tế tác động mạnh mẽ đến việc làm và GQVL.Ở
các nƣớc công nghiệp phát triển, dù việc duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp và đảm bảo mức
công ăn việc làm cao vẫn là một trong những mục tiêu kinh tế - xã hội đƣợc ƣu tiên
hàng đầu, song nó chỉ trở thành vấn đề xã hội bức thiết khi nền kinh tế rơi vào giai
đoạn suy thoái. Ở những nƣớc này, mức sống và thu nhập bình quân cao, hệ thống an
sinh xã hội tốt, các dịch vụ giáo dục, y tế phát triển đảm bảo đƣợc nhu cầu cơ bản cho
hầu hết tất cả ngƣời dân (ví dụ hệ thống giáo dục phổ thông miễn phí cho tất cả mọi
ngƣời) khiến cho vấn đề việc làm và thu nhập không còn mang ý nghĩa “sinh tồn” đối
với đại đa số ngƣời dân. Hệ thống trợ cấp xã hội cho các gia đình nghèo, trợ cấp và bảo
hiểm thất nghiệp cho những ngƣời mất việc có thể tạo ra một mạng lƣới an toàn về mặt
xã hội cho những ngƣời thất nghiệp hay có thu nhập thấp. Mức độ tích lũy vốn cao;
khu vực công nghiệp, dịch vụ phát triển;hệ thống tài chính - ngân hàng hoàn thiện, sẵn
sàng cấp vốn cho khu vực kinh doanh; mạng lƣới kết cấu hạ tầng dày đặc và sẵn sàng
hỗ trợ các hoạt động kinh tế cả ở khu vực tƣ lẫn khu vực công; các chi phí để khởi
nghiệp thấp; lao động dễ dàng di chuyển từ nơi này đến nơi khác…tất cả những điều
này tạo ra tiềm năng để nền kinh tế có thể đạt đƣợc mức công ăn, việc làm đầy đủ và
thất nghiệp không trở thành nỗi “ám ảnh” nặng nề đối với ngƣời dân nhƣ ở các nƣớc
đang phát triển. Tất nhiên, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng, vấn
đề việc làm vẫn nổi lên nhƣ một vấn đề ngầm chứa những bất bình xã hội mà các chính
phủ không thể bỏ qua. Tuy nhiên, ngay cả trong trƣờng hợp này, các chính phủ ở các
nƣớc phát triển vẫn có những điều kiện thể chế và nguồn lực thuận lợi để giải quyết
vấn đề. Các chính sách ổn định hóa kinh tế vĩ mô nhƣ các chƣơng trình kích cầu, hỗ trợ
đào tạo lại cho những ngƣời lao động…, cùng với mạng lƣới an sinh xã hội phát triển
là những phƣơng cách thƣờng đƣợc sử dụng nhằm giải quyết vấn đề việc làm cũng nhƣ
những hệ lụy có thể nảy sinh từ đó.
38
Trái lại,ở các nƣớc đang phát triển, đặc biệt là các nƣớc nghèo, thu nhập
thấp, vấn đề thất nghiệp – việc làm thƣờng nghiêm trọng hơn và năng lực chung của
xã hội và của chính phủ trong việc GQVL cũng hạn chế hơn. Khi trình độ phát triển
của nền kinh tế còn thấp, khu vực nông nghiệp truyền thống còn chiếm giữ vị trí quan
trọng, trong khi các ngành công nghiệp, dịch vụ hiện đại chƣa thật sự phát triển, mức
tích lũy vốn trên đầu ngƣời còn thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng còn nghèo nàn…thì sự
tƣơng phản giữa mức độ dồi dào tƣơng đối của nguồn lực lao động và sự thiếu thốn
tƣơng đối của các nguồn lực khác mà lao động cần kết hợp mới có thể tạo ra việc làm
càng nổi bật. Điều đó càng thể hiện rõ nét ở những nƣớc nghèo, có trình độ phát triển
thấp hơn, nơi mà dân số lại thƣờng gia tăng nhanh, nhu cầu việc làm càng trở nên bức
thiết. Mặt khác, do hệ thống giáo dục - đào tạo, hệ thống y tế ở các nƣớc này chƣa có
điều phát triển nên mặt bằng chất lƣợng chung của nguồn nhân lực ở các nƣớc đang
phát triển, đặc biệt ở các nƣớc có trình độ phát triển thấp, thƣờng không cao. Vì thế,
ngay cả khi những nƣớc này có thể thu hút đƣợc các nguồn vốn đầu tƣ từ bên ngoài
thì việc thiếu đội ngũ lao động có kỹ năng cao cũng là một rào cản nghiêm trọng cho
việc tận dụng cơ hội tạo việc làm nói riêng và phát triển kinh tế nói chungtừ các
nguồn lực quốc tế này. Trong điều kiện đó, thiếu việc làm, đặc biệt là các việc làm có
giá trị gia tăng cao, có khả năng tạo ra thu nhập xứng đáng là hiện tƣợng phổ biến ở
các nƣớc đang phát triển, có trình độ phát triển thấp.
Mặt khác, trình độ phát triển thấp của các nền kinh tế đang phát triển còn
ràng buộc năng lực của chính phủ trong việc GQVL. Suy cho cùng thì việc làm
đƣợc tạo ra chủ yếu ở khu vực dân doanh. Khi khu vực này còn yếu kém thì nền
kinh tế chƣa có đủ khả năng tạo ra việc làm đầy đủ, hợp lý cho những ngƣời lao
động. Các chính phủ, bằng các chính sách của mình có thể thúc đẩy hay kìm hãm
các quá trình tạo việc làm trong nền kinh tế. Tuy vậy, sự yếu kém về năng lực thể
chế (liên quan đến mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật, sự vận hành của bộ
máy hành chính quốc gia, khả năng thiết kế và thực thi các chính sách…) cũng nhƣ
sự hạn chế về nguồn lực (quy mô nguồn thu thuế hạn chế khiến cho các chính phủ
khó có thể triển khai các chính sách nhƣ kích cầu, khuyến khích doanh nghiệp mở
rộng đầu tƣ, phát triển hệ thống hạ tầng chung, đầu tƣ mạnh cho hệ thống giáo dục,
đào tạo, y tế, thực hiện các chƣơng trình đào tạo lại cho những ngƣời lao động thất
39
nghiệp, cần chuyển đổi ngành nghề…) tạo ra những giới hạn rõ rệt cho chính sách
giải quyết việc làm của nhà nƣớc ở các quốc gia đang phát triển.
Ở khía cạnh khác, đối với một quốc gia, ở một giai đoạn phát triển nào đó,
mức độ nghiêm trọng của vấn đề việc làm lại phụ thuộc vào bối cảnh kinh tế vĩ mô
mà nó phải đối diện ở mỗi giai đoạn. Khi nền kinh tế ở trong thời kỳ suy thoái (kể
cả do tác động từ bên ngoài do kinh tế thế giới nói chung rơi vào giai đoạn suy thoái
hay khủng hoảng kinh tế), tỷ lệ thất nghiệp trở nên cao hơn, vấn đề việc làm lại bị
đặt ra gay gắt hơn, GQVL cũng trở nên khó khăn hơn. Ngƣợc lại, khi các điều kiện
kinh tế vĩ mô là thuận lợi cho việc duy trì tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao hơn,
GQVL cũng trở nên dễ dàng hơn.
2.1.3.2. Mức độ hoàn thiện và phát triển của thị trường lao động
Thị trƣờng lao động là nơi diễn ra mua và bán sức lao động, nơi để ngƣời lao
động tìm kiếm việc làm và ngƣời sử dụng lao động tìm đƣợc ngƣời làm những công
việc phù hợp. Thị trƣờng lao động là một cơ chế quan trọng để khai thông quan hệ
cung – cầu về lao động trong xã hội. Tiền lƣơng, tiền công là tín hiệu để ngƣời lao
động lựa chọn việc cung ứng sức lao động, lựa chọn sẵn sàng làm việc cho một tổ
chức hoặc cá nhân cần thuê mƣớn lao động; đồng thời cũng là tín hiệu để ngƣời sử
dụng lao động có quyết định đúng đắn thuê số lƣợng lao động bao nhiêu, ở thời
điểm nào. Sự lên, xuống của tiền lƣơng, một mặt phản ánh những thay đổi trong
tƣơng quan cung, cầu về lao động, mặt khác lại là cơ chế để cân bằng cung, cầu thị
trƣờng. Về nguyên tắc, tiền lƣơng, càng cứng nhắc, càng kém linh hoạt, cân bằng
trên thị trƣờng lao động càng khó thiết lập. Trong điều kiện này, thất nghiệp sẽ có
thể gia tăng và thƣờng kéo dài hơn. Tính chất này của tiền lƣơng bị ảnh hƣởng
không nhỏ bởi các điều kiện thể chế có liên quan đến các quy tắc thƣơng lƣợng,
mặc cả và thiết lập các hợp đồng lao động.
Nói chung, sự vận hành của thị trƣờng lao động có tác động quan trọng đến
năng lực tạo việc làm của nền kinh tế. Khi thị trƣờng lao động hoạt động trôi chảy,
các bên đại diện cho phía cung, hoặc phía cầu trên thị trƣờng dễ dàng tìm gặp nhau,
dễ dàng thƣơng lƣợng và ký kết các hợp đồng lao động với nhau, ngƣời lao động có
nhu cầu tìm việc làm (phía cung lao động) cũng sẽ dễ dàng tìm đƣợc việc làm hơn.
Ngƣợc lại, khi thị trƣờng lao động kém hoàn thiện, sự vận hành của nó sẽ trở nên
40
khó khăn hơn, các giao dịch thị trƣờng khó thực hiện hơn. Khi các thị trƣờng bị chia
cắt, phân mảng theo ngành nghề, theo địa giới hành chính và khó kết nối vì các quy
định, thủ tục hành chính (ví dụ nhƣ chế độ quản lý ngƣời dân bằng “hộ khẩu”), luật
pháp hay tục lệ..., trong một môi trƣờng thông tin thiếu hoàn hảo và minh bạch,
ngƣời có nhu cầu tìm việc làm không dễ tìm đƣợc cơ hội việc làm mà mình mong
muốn, phù hợp với sở thích và năng lực của mình. Ngƣợc lại, doanh nghiệp cần
ngƣời cũng không dễ dàng, nhanh chóng tìm đƣợc những ngƣời lao động có những
phẩm chất và kỹ năng làm việc phù hợp yêu cầu đặc thù của doanh nghiệp. Chất
lƣợng vận hành thấp của thị trƣờng lao động sẽ gây khó khăn cho sự kết nối cung,
cầu về lao động, làm phát sinh thêm nhiều chi phí giao dịch và làm gia tăng các rủi
ro trong việc thực thi các quan hệ hay hợp đồng lao động. Đây không phải là bối
cảnh thuận lợi cho việc tạo ra việc làm. Bởi vậy mức độ hoàn thiện của thị trƣờng
lao động tác động rất lớn đến quá trình GQVL cho ngƣời lao động.
2.1.3.3. Quy mô, cơ cấu dân số và chất lượng nguồn nhân lực
- Quy mô cơ cấu dân số
Số lƣợng, tốc độ gia tăng và cơ cấu dân số có ảnh hƣởng lớn tới nguồn lao
động và vấn đề GQVL của mỗi quốc gia.
Dân số tăng nhanh dẫn tới việc phân bố dân cƣ không hợp lý, làm trầm trọng
hơn sự bất cân đối giữa nguồn lao động với các nguồn lực khác (đất đai, tài nguyên
thiên nhiên, vốn…), làm gia tăng nhanh nguồn cung về lao động khiến cho việc tạo
ra các việc làm mới gặp khó khăn, quy mô và tỷ lệ thất nghiệp có nguy cơ tăng lên.
Dân số gia tăng sẽ buộc ngân sách Nhà nƣớc nói chung, xã hội nói riêng phải
giảm chi cho đầu tƣ phát triển, tăng chi cho tiêu dùng. Vì vậy, đầu tƣ cho phát triển
nguồn nhân lực để nâng cao chất lƣợng nguồn lao động giảm xuống, cơ hội để tìm
việc làm của ngƣời lao động càng gặp khó khăn.
Ở các nƣớc đang phát triển, tình trạng di dân tự do từ nông thôn đổ ra đô thị
để tìm việc làm kiếm sống gây ra sức ép, khó khăn cho việc GQVLở các đô thị.
Nhìn chung, cơ cấu dân số trẻ, tỷ lệ tham gia lực lƣợng lao động trong dân số
cao là một điều kiện thuận lợi cho việc duy trì tăng trƣởng kinh tế trong dài hạn.
Tuy vậy, nếu tốc độ tăng dân số không đƣợc kiểm soát ở một mức độ hợp lý, nó lại
có thể tạo ra các áp lực về việc làm to lớn cũng nhƣ làm giảm đi cơ hội cải thiện
41
mức sống trung bình của ngƣời dân. Mặt khác, ở chiều ngƣợc lại, tại nhiều nƣớc
phát triển, việc giảm tốc độ tăng dân số sẽ dẫn đến hiện tƣợng “già hoá” dân số, tỷ
lệ ngƣời cao tuổi tăng lên. Điều này tuy không gây ra căng thẳng cho vấn đề giải
quyết việc làm song lại đòi hỏi các chi phí về bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội tăng
lên…, ảnh hƣởng lớn tới cơ cấu và chất lƣợng của dân số.
Từ những thực tế trên đây, vấn đề đặt ra là cần hƣớng tới việc “bảo tồn tính
cân bằng, ổn định bên trong của sự phát triển dân số” nhằm đạt đƣợc mục tiêu ổn
định tỷ lệ sinh hợp lý, nâng cao chất lƣợng dân số, trên cơ sở đó mà phát triển
nguồn lực lao động cả về số lƣợng và chất lƣợng, đáp ứng đƣợc nhu cầu đòi hỏi
ngày càng cao của thị trƣờng lao động.
- Chất lượng nguồn nhân lực:
Kinh nghiệm của nhiều nƣớc trên thế giới, nhất là các nƣớc công nghiệp mới
ở châu Á cho thấy rằng tất cả các nguồn lực nhƣ: vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý… chỉ tồn tại dƣới dạng tiềm năng, chúng chỉ phát huy tác dụng khi đƣợc kết
hợp với nguồn lực con ngƣời, với sức lực và trí lực của con ngƣời. Chính vì vậy có
những nƣớc nghèo về tài nguyên thiên nhiên (nhƣ Nhật Bản chẳng hạn) nhƣng biết
cách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực nên đã tạo ra đƣợc bƣớc phát triển thần kỳ,
tạo ra đƣợc nhiều việc làm mới.
Nhƣ vậy, chất lƣợng nguồn nhân lực là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với tăng
trƣởng kinh tế và tăng trƣởng việc làm. Chất lƣợng nhân lực thấp là nguyên nhân
quan trọng kìm hãm sự phát triển kinh tế và tạo ra việc làm ở đa số các nƣớc nghèo.
Khi nguồn nhân lực tổng thể có chất lƣợng thấp, số lƣợng lao động đƣợc đào tạo, có
kỹ năng, thích hợp với những ngành công nghiệp, dịch vụ hiện đại, có giá trị gia
tăng cao khan hiếm, thì sự phát triển của chính các ngành này sẽ gặp khó khăn. Cơ
cấu kinh tế khó chuyển dịch theo hƣớng tiến bộ và thƣờng bị “kẹt” lại ở khu vực
kinh tế lạc hậu truyền thống, năng suất thấp. Việc làm mới ít đƣợc tạo ra. Đây là
chỗ mà “vòng luẩn quẩn” trong phát triển có thể phát huy tác dụng ở các nƣớc kém
phát triển, thu nhập thấp: kinh tế kém phát triển, nhân lực chất lƣợng thấp, năng suất
lao động thấp, tích lũy và đầu tƣ (kể cả đầu tƣ cho vốn nhân lực) cực kỳ thấp, kinh
tế hầu nhƣ không tăng trƣởng và tự duy trì ở trạng thái kém phát triển. Trong thời
đại toàn cầu hóa hiện nay, việc thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài có thể là cú hích ban đầu
42
giúp các nƣớc kém phát triển phá vỡ đƣợc “vòng luẩn quẩn” này. Tuy vậy, hiệu quả
thu hút, sử dụng và hấp thụ nguồn vốn nƣớc ngoài, cũng nhƣ tác động lan tỏa từ
hoạt động này cho các khu vực còn lại của nền kinh tế lại phụ thuộc nhiều vào chất
lƣợng nguồn nhân lực. Nếu nguồn lực này kém chất lƣợng, sự hấp dẫn và sức hút
đối với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài của các nƣớc sở tại sẽ suy giảm. Trong trƣờng
hợp này, tăng trƣởng kinh tế và việc làm không diễn ra hoặc diễn ra với tốc độ cực
kỳ thấp.
2.1.3.4. Tiến bộ khoa học công nghệ và các nguồn lực khác
- Tiến bộ khoa học - công nghệ
Tiến bộ khoa học – công nghệ (KH-CN) tác động đến vấn đề việc làm theo
hai hƣớng. Một mặt, khi máy móc có thể thay thế con ngƣời trong nhiều công đoạn
của quá trình sản xuất, nó có thể trực tiếp làm giảm nhu cầu lao động so với công
nghệ cũ. Đây là chỗ mà ngƣời ta coi máy móc là thủ phạm của nạn thất nghiệp, nhất
là trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Mặt khác, tiến
bộ KH-CN lại lại kích thích việc tạo ra những việc làm mới thông qua việc giảm giá
thành và giá bán hàng hóa, thúc đẩy tăng nhu cầu về sản phẩm, cho phép doanh
nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh, nhờ đó doanh nghiệp cần thuê mƣớn lao động
nhiều hơn. Tiến bộ công nghệ cũng sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội phát
triển, làm cho nhiều ngành nghề mới ra đời hoặc dựa trên sự xuất hiện các sản
phẩm, dịch vụ mới, hoặc gắn liền với sự phân tách quy trình sản xuất phù hợp với
công nghệ mới. Nhƣ kinh nghiệm của các nƣớc phát triển cho thấy, xét tổng thể,
tiến bộ KH- CN không chỉ không làm giảm đi các cơ hội việc làm mà ngƣợc lại còn
thúc đẩy việc tạo ra những việc làm mới.
Tuy vậy, cũng cần thấy rằng: tiến bộ của KH - CN sẽ làm tăng yêu cầu việc
làm cho lao động phức tạp, có kỹ thuật và ngƣợc lại, làm giảm việc làm đối với lao
động giản đơn. Quá trình phát triển của mỗi quốc gia ngày nay đƣợc cấu trúc lại dựa
trên những lợi thế của nguồn lực con ngƣời với hàm lƣợng trí tuệ ngày một gia tăng.
Nhờ có sự tiến bộ của khoa học công nghệ mà phần tỷ lệ lao động chân tay kết tinh
vào sản phẩm ngày một giảm rõ rệt, hàm lƣợng lao động “chất xám” kết tinh vào
sản phẩm ngày càng cao. Nhƣ vậy, sự phát triển của KH - CN mang lại nhiều cơ hội
43
tạo ra việc làm nhằm GQVL cho ngƣời lao động nói chung nhƣng cũng đặt ra nhiều
thách thức đối với quá trình GQVL cho các lao động giản đơn, kỹ năng thấp.
- Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên cũng là một đầu vào quan trọng củaquá trình sản xuất.
Nó vừa là đối tƣợng lao động, vừa là tƣ liệu lao động. Các tài nguyên thiên nhiên nhƣ
đất đai, rừng, sông ngòi… là nền tảng cần thiết cho nhiều quá trình sản xuất và là môi
trƣờng sống đối với con ngƣời. Sự khác biệt về nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể
giải thích một sự khác biệt nào đó về thu nhập và mức sống ở một số nơi trên thế giới.
Về nguyên tắc, một quốc gia giàu có về tài nguyên thiên nhiên sẽ có xuất phát điểm tốt
hơn cho việc khởi động một quá trình tăng trƣởng và phát triển kinh tế nói chung, tăng
trƣởng việc làm nói riêng. Khi đƣợc khai thác tốt, hiệu quả, nguồn tài nguyên thiên
nhiên dồi dào, phong phú sẽ giúp đất nƣớc tăng trƣởng nhanh hơn, nền kinh tế sẽ sớm
có tích lũy để đầu tƣ nâng cấp cho các nguồn lực khác: tăng cƣờng vốn máy móc, thiết
bị, nâng cấp công nghệ và đặc biệt là nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực (gia tăng
vốn nhân lực). Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết bài toán giải quyết
việc làm cho lực lƣợng lao động. Tuy vậy nếu tài nguyên thiên nhiên bị lạm dụng, bị
khai thác thiếu hiệu quả, nhất là khi các nguồn thu có đƣợc từ việc khai thác nguồn lực
đặc biệt này lại không đƣợc sử dụng và đầu tƣ đúng đắn cho việc phát triển công nghệ
và nhân lực, quá trình phát triển và GQVL sẽ trở nên không bền vững. Ngƣợc lại,
những nƣớc nghèo tài nguyên thiên nhiên nhƣ Nhật Bản vẫn có thể vƣơn lên thành
nƣớc phát triển và giàu có hàng đầu trên thế giới thông qua chiến lƣợc phát triển kinh tế
hiệu quả, dựa nhiều vào nguồn nhân lực chất lƣợng cao, gắn kết với thƣơng mại quốc
tế. Việc duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao, suốt trong nhiều thập kỷ, chẳng
những giúp Nhật Bản gia tăng nhanh thu nhập và mức sống chung của ngƣời dân, mà
còn cho phép nƣớc này sớm giải quyết bài toán việc làm mà các nƣớc đang phát triển
thƣờng đối diện.
2.1.3.5. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Quá trình toàn cầu hóa buộc các nƣớc phải mở cửa và hội nhập vào nền kinh
tế thế giới nếu không muốn bị bỏ rơi trong cuộc đua tranh phát triển chung. Điều
này cũng tạo ra các cơ hội và thách thức mới cho quá trình giải quyết việc làm, đặc
biệt là ở các nƣớc đang phát triển. Một mặt, việc mở cửa sẽ giúp các nƣớc phát huy
44
đƣợc các ngành sản xuất có lợi thế so sánh. Nhờ việc sản xuất cho thị trƣờng thế
giới quy mô sản lƣợng và việc làm ở những ngành có lợi thế xuất khẩu sẽ gia tăng.
Mặt khác, do hội nhập quốc tế, nhiều ngành kinh tế sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh của hàng nhập khẩu, do đó sẽ phải thu hẹp quy mô sản xuất và việc làm. Về
dài hạn, đây là tác động tích cực của việc hội nhập, vì nó giúp nền kinh tế phải phân
bổ lại các nguồn lực một cách hiệu quả hơn, trong có nguồn lao động để tập trung
vào những ngành có lợi thế. Thông qua thƣơng mại quốc tế, nếu nền kinh tế vẫn
duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng cao hơn (so với trƣờng hợp đóng cửa) thì nó vẫn tạo
ra đƣợc nhiều việc làm hơn. Tuy vậy, trong ngắn hạn, sự khó khăn trong việc dịch
chuyển cơ cấu lao động phù hợp với điều kiện và mức độ hội nhập quốc tế có thể
tạo ra hoặc làm gia tăng lƣợng thất nghiệp cơ cấu. Hội nhập quốc tế cũng cho phép
các nƣớc thu hút đƣợc các nguồn đầu tƣ từ bên ngoài. Với các nƣớc đang phát triển,
điều này sẽ giúp nền kinh tế tăng trƣởng nhanh hơn, tạo ra nhiều việc làm hơn, so
với trƣờng hợp chỉ dùng nguồn vốn đƣợc tích lũy trong nƣớc.
Ngoài ra, hội nhập quốc tế còn cho phép thị trƣờng lao động trong nƣớc
đƣợc kết nối với thị trƣờng lao động quốc tế. Thông qua kênh xuất khẩu lao động,
thậm chí là di dân, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế rõ ràng đã tạo ra
những phƣơng thức mới để giải quyết bài toán việc làm của nền kinh tế.
2.2. Giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức
2.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giải quyết việc làm ở các
nƣớc đang phát triển
Đối với các nƣớc đang phát triển, công nghiệp hóa đƣợc xem là con đƣờng
tất yếu mà những nƣớc này phải đi qua nhằm đƣa đất nƣớc thoát khỏi tình trạng lạc
hậu của một nền kinh tế chủ yếu dựa vào ngành nông nghiệp truyền thống để trở
thành một nƣớc công nghiệp, phát triển. Vì thế, ngƣời ta thừa nhận chung rằng,
Công nghiệp hóa là quá trình tạo sự chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp với nền
kinh tế lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng suất thấp sang nền kinh tế công
nghiệp với cơ cấu kinh tế hiện đại, dựa trên lao động sử dụng bằng máy móc, tạo ra
năng suất lao động cao.
45
Quá trình CNH đã đƣợc tiến hành thành công ở nhiều nƣớc trong những giai
đoạn khác nhau, gắn với những thành tựu khác nhau trong mặt bằng khoa học –
công nghệ mà nền kinh tế thế giới đạt đƣợc. Vì thế, tƣơng thích với điều này, quá
trình CNH cũng luôn song hành với quá trình hiện đại hóa (HĐH) nền kinh tế.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định: "Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phƣơng tiện, phƣơng pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp
và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [65, tr
65].Định nghĩa đã phản ánh đƣợc phạm vi rộng lớn của CNH, HĐH; gắn CNH với
HĐH; xác định đƣợc vai trò của khoa học, công nghệ trong quá trình này; chỉ ra cái
cốt lõi của CNH là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ
thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất lao động cao...
Mặc dù nội dung cốt lõi của CNH, HĐH là quá trình cải biến kỹ thuật, công
nghệ tổng thể cho cả nền kinh tế, nhìn vào kinh nghiệm lịch sử những trƣờng hợp
thành công và không thành công khi tiến hành CNH, có thể thấy, thực chất CNH,
HĐH là một quá trình kép, trong đó những cải biến về kỹ thuật và công nghệ sản
xuất phải đi đôi với quá trình cải biến thể chế và cấu trúc xã hội của nền kinh tế
nhằm chuyển đổi nó từ một nền kinh tế mang nặng tính chất tự cung, tự cấp thành
một nền kinh tế thị trƣờng. [144, tr17].
Nhƣ vậy, CNH - HĐH cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó
tỷ trọng đóng góp trong GDP của nông nghiệp ngày càng giảm dần, còn tỷ trọng
tƣơng ứng của khu vực công nghiệp và dịch vụ hiện đại ngày càng tăng. Mặt khác,
trong quá trình này, nền kinh tế cũng ngày càng đƣợc “thị trƣờng hóa”. Suốt trong
quá trình này, cơ cấu lao động – việc làm cũng sẽ chuyển dịch theo hƣớng giảm tỷ
trọng trong khu vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng trong khu vực công nghiệp và dịch
vụ, cho đến khi chỉ còn bộ phận nhỏ lao động tham gia sản xuất nông nghiệp song
nền kinh tế vẫn đảm bảo đƣợc sự phát triển lâu dài với mức thu nhập chung cao.
Theo mô hình hai khu vực của Lewis, xuất phát điểm của quá trình CNH của
một nƣớc nghèo là một khu vực nông nghiệp rộng lớn, bao trùm, tập trung thu hút
46
hầu hết nguồn lao động xã hội. Với phƣơng thức sản xuất thủ công, năng suất thấp,
quỹ đất đai có giới hạn, quy luật hiệu suất giảm dần phát huy nên lao động nông
nghiệp vừa đƣợc trả công thấp, vừa mang tính chất dƣ thừa. Hiện tƣợng lao động dƣ
thừa trong nông nghiệp ở các nƣớc nghèo tạo ra tình trạng thất nghiệp trá hình.
Ngƣời lao động có thể vẫn có việc làm theo các quy tắc thống kê chính thức, song
số lƣợng việc làm hạn chế đƣợc chia và san sẻ cho quá nhiều lao động cần việc làm
ngƣời lao động thực chất chỉ có việc làm từng phần. Tình trạng lao động thừa này
thể hiện ở chỗ: có thể rút bớt một bộ phận lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp mà
không hề làm giảm tổng sản lƣợng đầu ra. Khi quá trình CNH đƣợc khởi động, các
nhà máy công nghiệp ở đô thị có thể lôi kéo những lao động thừa ra khỏi nông
nghiệp mà không cần phải trả công cao hơn đáng kể so với mức tiền công it ỏi mà
những lao động này nhận đƣợc trƣớc đây trong nông nghiệp. Điều này cho thấy sự
phát triển của khu vực công nghiệp trong giai đoạn đầu ít bị phụ thuộc vào nguồn
lực lao động (luôn sẵn có và dƣ thừa) mà chỉ bị giới hạn bởi những yếu tố nội tại
của chính khu vực công nghiệp nhƣ: vốn, công nghệ, khả năng kinh doanh...Chỉ khi
công nghiệp phát triển đến mức nào đó, lƣợng lao động và việc làm do nó tạo ra đủ
lớn thì hiện tƣợng lao động thừa mới biến mất. Khi này, để tiếp tục thu hút lao động
từ khu vực nông nghiệp sang những ngành công nghiệp, ngƣời ta phải trả công cao
hơn cho lao động. Mặt khác, ở điểm ngoặt này, việc giảm sút lực lƣợng lao động
làm việc trong nông nghiệp bắt đầu làm giảm sút sản lƣợng nông nghiệp, khiến cho
giá cả lƣơng thực, thực phẩm gia tăng. Điều đó lại tạo ra áp lực, đồng thời khuyến
khích sản xuất nông nghiệp phát triển. Ngành nông nghiệp buộc phải thay đổi để
cung cấp các điều kiện thuận lợi (cả về sản phẩm nông nghiệp lẫn lao động...) cho
sự phát triển công nghiệp. Nếu nhu cầu lao động của khu vực công nghiệp tăng
nhanh, năng suất lao động trong nông nghiệp cũng phải nhanh chóng đƣợc cải thiện
để không làm chậm lại quá tring tăng trƣởng của khu vực công nghiệp.
Không quá nhấn mạnh vào giả thiết lao động thừa, mô hình tân cổ điển về nền
kinh tế hai khu vực cho rằng dân số và lao động nông nghiệp tăng lên vẫn làm tăng sản
lƣợng đầu ra của nông nghiệp, bởi thế, sự di chuyển lao động ra khỏi khu vực này sẽ
làm sản lƣợng nông nghiệp sụt giảm. Trong điều kiện đó, để khu vực công nghiệp phát
triển thành công, tự bản thân nông nghiệp cũng phải phát triển đủ nhanh để tạo ra sản
47
lƣợng đầu ra đủ nuôi sống cả khu vực thành thị lẫn nông thôn với mức tiêu dùng cao
hơn, đồng thời không làm bất lợi cho sự phát triển công nghiệp. Theo cách nhìn này,
việc đầu tƣ cho nông nghiệp phát triển cần đƣợc coi trọng ngay từ đầu vì đó là điều
kiện cho sự phát triển của chính khu vực công nghiệp.
Các mô hình hai khu vực cho ta một cái nhìn khái quát về động thái chuyển
dịch cơ cấu lao động – việc làm trong quá trình CNH. Đối với mô hình “lao động
thừa”, giải quyết việc làm, xóa bỏ tình trạng lao động thừa cũng có nghĩa là tập
trung đầu tƣ cho việc phát triển các ngành công nghiệp. Đối với mô hình hai khu
vực tân cổ điển, qúa trình giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động đòi
hỏi phải phát triển đồng thời cả khu vực nông nghiệp lẫn công nghiệp.
Thực tiễn vấn đề việc làm và GQVL trong quá trình CNH ở các nƣớc đang
phát triển là một quá trình phức tạp và lâu dài. Khi ở giai đoạn đầu của sự phát triển,
các nƣớc này thƣờng đối diện với một thực trạng “bất lợi”: dân số đông và thƣờng
tăng nhanh; lực lƣợng lao động dồi dào song chất lƣợng thấp (không hoặc ít đƣợc
đào tạo, kỹ năng thấp, sức khỏe và dinh dƣỡng không đảm bảo), tập trung làm việc
ở khu vực nông nghiệp, nông thôn với năng suất và thu nhập thấp. Tình trạng thiếu
việc làm là phổ biến. Những điều kiện cho công nghiệp phát triển là hạn chế do khả
năng tích lũy vốn của nền kinh tế cực kỳ thấp, hạ tầng kinh tế kém phát triển, đội
ngũ doanh nhân thiếu thốn, các thể chế thị trƣờng chƣa phát triển...Thị trƣờng lao
động thƣờng đƣợc phân thành ba mảng lớn: lớn nhất là thị trƣờng lao động ở nông
thôn, nơi tiền công thƣờng rất thấp; thị trƣờng lao động phi chính thức ở thành thị -
nơi thu nạp khá nhiều lao động thừa cả ở nông thôn và thành thị với mức tiền lƣơng
khiêm tốn; thị trƣờng lao động chính thức ở thành thị, thƣờng có quy mô ban đầu
nhỏ bé, tập trung những lao động có kỹ năng cao hơn, đƣợc trả lƣơng cao hơn. Quá
trình CNH cũng là quá trình mà hai loại thị trƣờng đầu dần dần bị thu hẹp lại một
cách tƣơng đối, còn loại thị trƣờng sau cùng lại mở rộng dần một cách tƣơng ứng.
Khi quá trình CNH nhờ một lý do nào đó mà khởi động đƣợc (sự tích lũy vốn tiệm
tiến trong nền kinh tế hay nhờ thu hút đƣợc nguồn vốn từ nƣớc ngoài do sự mở cửa
kinh tế trong thời đại ngày nay...), các ngành nghề công nghiệp mới dần dần xuất
hiện. Một ngành mới ra đời thƣờng kéo theo sự xuất hiện của một loạt ngành/nghề
khác qua tác động liên kết của nó. Sự phát triển của khu vực công nghiệp cũng thúc
48
đẩy các hoạt động thƣơng mại, dịch vụ cũng nhƣ tác động đến chính khu vực sản
xuất nông nghiệp bằng việc cung cấp cho khu vực này những đầu vào mới, hay
công nghệ mới. Bằng việc thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp, sự phát triển
các ngành công nghiệp và dịch vụ chính là cách thức mà quá trình CNH giải quyết
bài toán việc làm. Tất nhiên, so với nông nghiệp, công nghiệp là khu vực sử dụng
tƣơng đối nhiều vốn, năng suất cao hơn, do đó số việc là mới tạo ra trên một đồng
vốn đầu tƣ thƣờng thấp hơn. Điều đó có nghĩa là sự dịch chuyển trong cơ cấu GDP
nghiêng dần về phía công nghiệp, dịch vụ hiện đại thƣờng chậm hơn nhiều so với sự
dịch chuyển về cơ cấu việc làm. Do đó, mở mang công nghiệp chắc chắn là cách thu
hút và giải phóng lao động khỏi nông nghiệp song với nhiều nƣớc, đây là một quá
trình diễn ra với tốc độ chậm.
Tuy nhiên, một số ít nƣớc lại tỏ ra khá thành công trong việc tạo lập và giải
quyết việc làm thông qua CNH khi quá trình gia tăng diễn ra với tốc độ khá nhanh.
Đây chính là trƣờng hợp các NIEs châu Á nhƣ Singapore, Hàn Quốc và vũng lãnh
thổ nhƣ Đài Loan, Hồng Kông. Những nƣớc này đã sớm triển khai chiến lƣợc CNH
hƣớng về xuất khẩu trên cơ sở thúc đẩy mạnh mẽ các ngành sản xuất xuất khẩu, mà
ở giai đoạn đầu chúng thƣờng là những ngành công nghiệp thâm dụng lao động (dệt
may, giày dép, lắp ráp...) theo nguyên tắc lợi thế so sánh. Do hƣớng ngoại, các
ngành đã phát triển rất nhanh do chúng không bị giới hạn bởi sự nhỏ hẹp của thị
trƣờng trong nƣớc. Mặt khác, do đây là những ngành thâm dụng lao động, nên
tƣơng quan giữa việc làm so với giá trị công nghiệp gia tăng thƣờng cao. Khi kinh tế
phát triển, tiền lƣơng chung tăng lên, những ngành công nghiệp thâm dụng lao động
không còn là lợi thế so sánh của những nƣớc này, thì do mức tích lũy vốn và năng lực
công nghệ tăng nhanh, chất lƣợng nhân lực đƣợc nâng cấp nhanh và liên tục, các nƣớc
này lại có điều kiện để phát triển và tạo ra việc làm từ những ngành thâm dụng vốn và
đòi hỏi kỹ năng lao động cao hơn, tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn.
Nhìn chung, GQVL trong quá trình CNH là quá trình lâu dài và phức tạp.
Các nƣớc thành công nhất trong lĩnh vực này chính là những nƣớc duy trì đƣợc tốc
độ tăng trƣởng kinh tế cao, liên tục trong một thời gian dài. Vì thế chính sách giải
quyết việc làm không tách rời chiến lƣợc và chính sách thúc đẩy tăng trƣởng kinh
tế, hƣớng đến môt sự tăng trƣởng nhanh, bền vững.
49
2.2.2. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức và ảnh hƣởng của nó đến xu thế việc làm
Cho đến trƣớc những năm 1980 của thế kỷ trƣớc, CNH ở các nƣớc đang phát
triển về cơ bản đƣợc tiến hành trong khuôn khổ của thời đại kinh tế công nghiệp.
Tuy nhiên, với sự xuất hiện của kinh tế tri thức, một thời đại kinh tế mới đã đƣợc
mở ra trong nền kinh tế thế giới. Điều đó đã tạo ra một bối cảnh mới, hoàn toàn
khác đối với quá trình CNH ở các nƣớc đang phát triển. Nó tác động sâu sắc đến nội
dung, cách thức và các bƣớc đi của tiến trình CNH ở các nƣớc này, khiến cho tiến
trình này mang những sắc thái. Đến lƣợt mình, các xu hƣớng việc làm cũng không
khỏi bị ảnh hƣởng.
2.2.2.1. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức
Theo định nghĩa của OECD , “Kinh tế tri thƣ́ c là nền kinh tế trong đó sƣ̣ sản
sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trƣởng ,
tạo ra của cải, viê ̣c làm trong tất cả các ng ành kinh tế”.[154, tr18]. Điều đó có nghĩa là, trong thời đại kinh tế tri thức, tri thức nổi lên nhƣ một nguồn lực số một, quyết
định và chi phối các nguồn lực khác trong quá trình tạo ra hàng hóa, dịch vụ. Hiện
trạng này bộc lộ rõ nhất ở các nƣớc phát triển, đặc biệt là Mỹ.
Tuy nhiên, nhƣ một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra, “kinh tế tri thức về bản chất
là nền kinh tế mang tính chất toàn cầu”.[90, tr11] Vì thế, tuy các nƣớc đang tiến
hành CNH chƣa hoàn thành các nhiệm vụ phát triển mà thời đại kinh tế công nghiệp
quy định, sự phát triển của các nƣớc này vẫn bị quy định bởi các yếu tố có tính thời
đại. Biểu hiện rõ rệt nhất là: muốn phát triển, các nƣớc này buộc phải tích cực hội
nhập vào nền kinh tế thế giới, nỗ lực tham gia vào hệ thống phân công lao động
quốc tế, chấp nhận các quy tắc, luật lệ trong cuộc chơi kinh tế toàn cầu. Trong bối
cảnh đó, CNH, HĐH ở các nƣớc này sẽ có những đặc điểm mới:CNH giờ đây mang
đậm nét và nghiêng hẳn về khía cạnh HĐH, mà thực chất là “tri thức hóa” toàn bộ
các quá trình kinh tế: CNH truyền thống tập trung vào bƣớc chuyển từ phƣơng thức
sản xuất chủ yếu dựa trên kỹ thuật thủ công sang phƣơng thức sản xuất công nghiệp
chủ yếu dựa trên kỹ thuật máy móc, cơ khí. Ở bối cảnh hiện nay, CNH không còn
đơn giản là sự lan tỏa các phƣơng pháp sản xuất công nghiệp (với trọng tâm là quá
50
trình cơ giới hóa) ra toàn bộ nền kinh tế. Nó càng ngày càng phải dựa nhiều hơn vào
việc ứng dụng các thành tựu KH và CN hiện đại. Các phƣơng tiện và công nghệ của
thời đại kinh tế tri thức (internet, các công nghệ truyền thông-thông tin hiện đại,
cộng nghệ sinh học, vật liệu mới…), dù đƣợc phát minh ở bên ngoài song cũng sẽ
đƣợc nhanh chóng áp dụng trong hầu khắp các ngành kinh tế. Không chỉ công
nghiệp mà nông nghiệp hay các ngành dịch vụ cũng sẽ đƣợc hiện đại hóa, tri thức
hóa dựa trên sự kết nối thông tin đa tầng và ứng dụng những thành tựu công nghệ
mới. Vì thế, cốt lõi của CNH hiện nay là hiện đại hóa, tri thức hóa
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong CNH sẽ diễn ra nhanh hơn,
mang lại cơ hội lớn hơn cho phương thức CNH rút ngắn: Trong thời đại KTTT, các
quá trình kinh tế diễn ra nhanh hơn, với tốc độ cao hơn. Điều đó bị quy định bởi tốc
độ sản sinh rất nhanh của các tri thức và công nghệ mới. Cạnh tranh ngày càng dựa
vào tốc độ: áp dụng công nghệ mới nhanh, đƣa ra sản phẩm mới nhanh, giao hàng
nhanh. Sáng tạo và đổi mới không ngừng trở thành vũ khí cạnh tranh của các doanh
nghiệp. Đặt trong bối cảnh mở cửa, hội nhập điều này cũng chi phối hành vi và
phƣơng thức kinh doanh của các doanh nghiệp ở các nƣớc đang CNH. Vì thế quá
trình hiện đại hóa nông nghiệp cũng nhƣ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung sẽ
diễn ra nhanh hơn. sâu sắc hơn. Các ngành công nghiệp “cổ điển” giảm dần tỉ trọng
và vai trò của nó trở nên “ mãn chiều xế bóng ”. Các ngành có hàm lƣợng khoa học
và công nghệ tăng nhanh, đặc biệt là các ngành dịch vụ kỹ thuật phục vụ sản xuất.
Chúng giữ vai trò khớp nối, đảm bảo cho toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội đƣợc
thông suốt và phát triển với tốc độ cao. Cơ cấu kinh tế trở nên mềm hoá, khu vực
kinh tế phi hình thức đƣợc mở rộng, nền kinh tế “ tƣợng trƣng ” có quy mô lớn hơn
nền kinh tế “thực tế” nhiều lần. Điều đó mở ra những cơ hội mới cho việc áp dụng
kiểu “CNH rút ngắn”. Một mặt, các nƣớc đang phát triển giờ đây có thể tận dụng
đƣợc các “lợi thế của ngƣời đi sau” để bỏ qua những công nghệ trung gian và tiến
thẳng vào khu vực công nghệ hiện đại (nhƣ đã xảy ra ở Việt Nam trong ngành viễn
thông). Mặt khác, quan trọng hơn, các nƣớc này sẽ tận dụng đƣợc các lợi thế do thời
đại kinh tế tạo ra nhờ: 1) khai thác và tận dụng các nguồn lực (vốn, tri thức, công
nghệ…) sẵn có, dễ lƣu chuyển từ bên ngoài. So với trƣớc đây, cơ hội này lớn hơn
bao giờ hết; 2) chi phí chuyển đổi thấp trong việc biến các ngành nghề hay khu vực
51
kinh tế truyền thống thành các ngành nghề, khu vực kinh tế hiện đại. Tiến thẳng vào
các lĩnh vực kinh tế dựa trên các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại dù luôn
không phải là một nhiệm vụ dễ dàng song với điều kiện KTTT hiện nay, nó khả thi
hơn bao giờ hết. Điều đó cho phép các nƣớc đi sau rút ngắn quá trình CNH, HĐH.
- Quá trình CNH, HĐH gắn liền với toàn cầu hóa, do đó hội nhập quốc tế
được xem như một kênh hay cách thức CNH một cách hiệu quả: Nhƣ đã nói, kinh tế
tri thức dựa trên nền tảng của cuộc cách mạng KH- CN hiện đại, cho phép hầu hết
các nguồn lực kinh tế, đặc biệt là tri thức dễ dàng di chuyển trên không gian toàn
cầu và kết nối các nền kinh tế quốc gia thành một nền kinh tế toàn cầu. Toàn cầu
hóa, dù vẫn bị các rào cản và trở lực khác nhau ngăn cản, vẫn trở thành một xu
hƣớng nổi trội của KTTT. Trong điều kiện đó, để phát triển và tận dụng đƣợc các cơ
hội do thời đại mới mang lại, các nƣớc cần phải mở cửa, hội nhập để trở thành một
bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thế giới. Cơ cấu kinh tế trong nƣớc giờ đây không
còn là cơ cấu khép kín mà đƣợc kết nối vàocơ cấu kinh tế toàn cầu. Sản xuất trong
nƣớc ở mức độ khác nhau sẽ đƣợc kết nối trong các chuỗi cung ứng chung, mang
tính chất đa quốc gia. Thông qua các kênh thƣơng mại và đầu tƣ quốc tế, hoạt động
kinh tế các nƣớc có thể trở nên hiệu quả hơn, song cũng phu thuộc ngày càng sâu
vào nhau hơn. Dựa trên hệ thống phân công lao động và sản xuất quốc tế, các nƣớc
đang CNH giờ đây không phải phát triển đầy đủ các ngành cả ở 2 khu vực I và II
nhƣ kiểu CNH truyền thống trƣớc đây ở Liên Xô. (Nếu một nƣớc không có lợi thế
so sánh trong việc sản xuất thép, hay phát triển công nghiệp lọc dầu, hóa chất…, nó
có thể vẫn có thể có những sản phẩm này để phục vụ sự phát triển của các ngành
khác dựa trên cơ sở nhập khẩu). Trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở cửa và hội
nhập quốc tế sẽ làm thay đổi nội dung của chiến lƣợc phát triển các ngành kinh tế
của các nƣớc đang trong quá trình CNH.
- Các tiến trình và bước đi CNH, HĐH có thể diễn ra theo nhiều cách thức
khác nhau, bao gồm cả những bƣớc đi đột phá, nhảy vọtmà không nhất thiết phải
tuân thủ quy tắc phát triển tuần tự, với cơ cầu kinh tế “hoàn chỉnh” theo kiểu truyền
thống:CNH theo kiểu truyền thống thƣờng bắt đầu với việc phát triển những ngành
công nghiệp nhẹ cung cấp các hàng hóa thiết yếu cho đại đa số ngƣời dân có thu
nhập thấp, với công nghệ sản xuất tƣơng đối giản đơn, đòi hỏi ít vốn (nhƣ các ngành
52
chế biến thực phẩm, dệt may). Sau đó, nhờ quá trình tích lũy vốn và năng lực công
nghệ, các ngành chế biến sâu hơn (ví dụ các ngành sản xuất ô tô, tủ lạnh), cũng nhƣ
các ngành công nghiệp nặng (cơ khí, luyện kim, hóa chất…) mới đƣợc lần lƣợt phát
triển. Tuy nhiên, lô gic tuần tự theo kiểu nhƣ vậy không còn đúng hoặc nhất thiết
giữ nguyên trong tiến trình CNH với bối cảnh KTTT, toàn cầu hóa. Về nguyên tắc,
nhờ việc thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, một nƣớc kém phát triển vẫn có thể
phát triển đƣợc các ngành công nghiệp chế biến sâu, hay các ngành công nghiệp
nặng thâm dụng vốn, bất chấp sự tích lũy vốn trong nƣớc còn hạn chế, miễn là điều
này là hợp lý và hiệu quả xét trong phạm vi các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn
cầu. Một số ngành nông nghiệp vẫn có thể tiến thẳng đến khu vực hiện đại (ví dụ
sản xuất hoa – một loại hàng hóa cao cấp, xa xỉ, vốn ít đƣợc chú ý phát triển ở giai
đoạn đầu ở các nƣớc nghèo - phục vụ thị trƣờng xuất khẩu bằng công nghệ cao) nhờ
nhập khẩu công nghệ ngoại. Sự phát triển của ngành viễn thông ở Việt Nam chính
là kiểu phát triển nhảy vọt, phi tuần tự nhƣ vậy.
Những đặc điểm nhƣ vậy chắc chắn sẽ ảnh hƣởng không nhỏ đến các xu
hƣớng trong lĩnh vực lao động, việc làm cũng nhƣ cách thức GQVL ở các nƣớc
đang tiến hành CNH.
2.2.2.2.Xu hƣớng việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức
Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH, HĐH trong bối cảnh
KTTT là cơ sở của xu hƣớng dịch chuyển cơ cấu việc làm trong điều kiện các nƣớc
đang phát triển hiện nay. Có thể thấy xu hƣớng đó bộc lộ ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, Việc làm và cơ cấu việc làm sẽ biến đổi và dịch chuyển nhanh
hơn. Trong bối cảnh mới, nhiều ngành mới sẽ liên tục xuất hiện, đồng thời, nhiều
ngành nghề cũ, truyền thống nếu không thích ứng đƣợc với hoàn cảnh mới sẽ biến
mất. CNH vốn dĩ sẽ tạo ra nhiều việc làm trong khu vực công nghiệp, dịch vụ hiện
đại. Tuy nhiên, CNH trong thời đạiKTTT sẽ tạo ra những việc làm mà trƣớc đây
chƣa từng có trong thời đại kinh tế công nghiệp và điều đó có thể xuất hiện ngay cả
ở những nƣớc nghèo. Đó là những việc làm liên quan đến công nghệ mới kiểu nhƣ: lắp
ráp, sữa chữa máy vi tính, lập trình, bán hàng online, các hoạt động sản xuất, kinh
doanh liên quan đến công nghệ viễn thông mới hay đến việc sử dụng các điện thoại
53
thông minh của hàng triệu ngƣời..v.v…Nhiều việc làm truyền thống (kiểu nhƣ một số
nghề thủ công truyền thống) biến mất. Tốc độ của sự biến đổi và dịch chuyển việc làm
từ khu vực nông nghiệp sang khu vực dịch vụ sẽ diễn ra nhanh hơn. Áp lực của hiện
tƣợng thiếu việc làm trong nông nghiệp nhờ những thay đổi kỹ thuật sản xuất trong khu
vực này tỏ ra mạnh hơn và mang lại nhiều thách thức hơn. Tốc độ nhanh hơn trong các
biến đổi kinh tế là một thuộc tính của thời đại kinh tế. Nó khiến cho ngƣời lao động giờ
đây ngày càng khó hơn trong việc duy trì một việc làm suốt đời. Xu hƣớng thay đổi,
“nhảy việc” liên tục dần dần trở nên bình thƣờng. Kỹ năng quan trọng của cá nhân mỗi
ngƣời lao động là kỹ năng thích ứng, là kỹ năng tự đào tạo, tự học hỏi theo nguyên lý
“học tập suốt đời” của KTTT.
Thứ hai, Nhu cầu về việc làm đòi hỏi kỹ năng cao sẽ tăng nhanh tƣơng đối so
với nhu cầu về việc làm giản đơn, kỹ năng thấp. Điều này, một mặt, sẽ mang lại lợi
thế cho những ngƣời đƣợc đào tạo tốt, có kỹ năng cao, mặt khác, sẽ gây ra sự thiếu
hụt nhất định về lao động có kỹ năng cao trong một thời kỳ nào đó, nếu hệ thống
giáo dục, đào tạo không đƣợc chú trọng phát triển đúng mức, đúng hƣớng.
Tiến bộ khoa học công nghệ đã làm gia tăng tƣơng đối việc làm cho lao động
kỹ thuật, phức tạp và ngƣợc lại, làm giảm một cách tƣơng đối việc làm đối với lao
động giản đơn. Quá trình phát triển của mỗi quốc gia ngày nay đƣợc cấu trúc lại dựa
trên những lợi thế của nguồn lực con ngƣời với hàm lƣợng trí tuệ ngày một tăng.
Nhờ có sự tiến bộ khoa học công nghệ mà phần tỷ lệ lao động chân tay kết tinh vào
sản phẩm ngày một rõ rệt, hàm lƣợng lao đông “chất xám” kết tinh vào sản phẩm
ngày một tăng lên. Chẳng hạn: trong nền kinh tế Mỹ, vào cuối những năm 1990, 93
triệu ngƣời, chiếm 80% lƣợng lao động ở Mỹ làm các công việc chuyển tải, xử lý
thông tin hay cung cấp dịch vụ cho ngƣời khác. [152, tr43]. Nền KTTT không
những làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới mà còn đòi hỏi ngƣời lao động phải
không ngừng nâng cao trình độ của mình, vì những lao động đã qua đào tạo này là
yếu tố chủ yếu làm tăng năng suất lao động và thức đẩy đổi mới. Trong thực tế ở
Mỹ các nghề nghiệp tri thức đòi hỏi phải tốt nghiệp trung học, chuyên nghiệp và đại
học đã tăng từ 27% năm 1983 lên 31% năm 1993 và 35% vào năm 1999. Bởi vậy
lao động giản đơn, lao động lành nghề bị thừa ra, thất nghiệp và không tìm đƣợc
việc làm. Hay trong nền kinh tế ở Austraylia số việc làm trong ngành công nghệ
54
thông tin đã tăng 46% trong 10 năm qua. Cầu trong các ngành công nghệ thông tin
đã tăng 12%/ năm. Trong khoảng 5 năm (2003 -2008) Autraylia phải vật lộn với sự
thiếu hụt các công nhân công nghệ thông tin. Có khoảng 30000 chỗ làm việc ở
Autraylia chƣa tìm đƣợc công nhân thích hợp và có nhiều cảnh báo tình hình này sẽ
còn xấu đi. Bởi vậy, ngành công nghệ thông tin của nƣớc này đã bắt đầu một
chƣơng trình cảnh tỉnh quốc gia và đang phát triển “ các trung tâm ƣu tú ” để giải
quyết sự thiếu hụt các kỹ năng công nghệ cao đang tăng lên. [96, tr 133]
Nhƣ vậy, quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT dẫn đến thiếu công
nhân tri thức và công nhân lành nghề nên đã mở rộng cơ hội việc làm cho những
ngƣời có tri thức, đƣợc đào tạo phù hợp với hệ thống công nghệ. Sự phát triển của
khoa học – công nghệ mang lại nhiều cơ hội để ngƣời lao động tạo ra việc làm, phát
huy khả năng cống hiến của mình cho xã hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách
thức. Khi đƣa khoa học, công nghệ tiến bộ vào sản xuất sẽ làm cho những nƣớc có
nguồn lao động giản đơn dƣ thừa nhƣng thiếu lao động phức tạp, có kỹ thuật cao
nhƣ Việt Nam hiện nay mất đi ƣu thế của lao động nhiều giá rẻ.
Thứ ba, cùng với quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế, lao động và việc làm
ở các ngành truyền thống, không có lợi thế so sánh sẽ gánh chịu nhiều rủi ro và có
xu hƣớng di chuyển sang những ngành có lợi thế so sánh. Tuy nhiên, đây là một quá
trình động, tạo ra sự biến đổi không ngừng về cơ cấu lao động, việc làm nếu xét
theo dài hạn.
CNH, HĐH trong thời đại KTTT là CNH mở, vì thế nó luôn gắn với các hoạt
đồng thƣơng mại quốc tế. Theo xu hƣớng tự do hóa thƣơng mại, các nƣớc ngày
càng phải tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế
so sánh, đồng thời, sản xuất trong nƣớc phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt từ các
hàng hóa nhập khẩu bên ngoài. Các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nƣớc dần dần
phải dỡ bỏ. Điều đó sẽ gây bất lợi và rủi ro cho những ngành sản xuất cạnh tranh
nhập khẩu trong nƣớc, nhất là những ngành vốn không có lợi thế so sánh, trƣớc đây
tồn tại đƣợc là nhờ chính sách đóng cửa hay bảo hộ. Trong điều kiện mới, những
lao động và việc làm trong những ngành này sẽ phải di chuyển sang những ngành
mà đất nƣớc có lợi thế so sánh. Tím kiếm, xác định đúng lợi thế so sánh, luôn có ý
thức nâng cấp lợi thế so sánh quốc gia sẽ phải là một nội dung trong chiến lƣợc phát
55
triển dài hạn của mỗi nƣớc.
Thứ tư, Lao động và việc làm ở khu vực dịch vụ tăng nhanh và việc chủ
động phát triển khu vực này là một kênh GQVL quan trọng của các nƣớc đang tiến
hành CNH.
Quá trình CNH thông thƣờng là quá trình tăng dần tỷ trọng của khu vực công
nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu tổng sản lƣợng và lao động xã hội, giảm dần tỷ trọng
tƣơng ứng của khu vực nông nghiệp, trong đó khu vực công nghiệp thƣờng có tốc
độ tăng trƣởng nhanh hơn khu vực dịch vụ. Chỉ khi đạt đƣợc trình độ của một nền
kinh tế phát triển, “hậu công nghiệp”, khu vực dịch vụ mới là khu vực hàng đầu của
nền kinh tế. Đó cũng chính là đặc trƣng của nền KTTT. Tuy nhiên, trong bối cảnh
mới, do các công nghệ mới kéo theo sự bùng nổ các dịch vụ hỗ trợ hoặc “ăn theo”
cũng nhƣ do tốc độ của các quá trình dịch chuyển kinh tế trở nên nhanh hơn thời kỳ
trƣớc nên ngay cả ở các nước đang phát triển, xu hƣớng phát triển các ngành, nghề
dịch vụ cũng diễn ra nhanh hơn. Sự bùng nổ các dịch vụ bán hàng, quảng cáo, tƣ
vấn, dạy học…trên nền tảng trực tuyến nói lên điều đó. Xu hƣớng này chứng tỏ tầm
quan trọng của khu vực dịch vụ trong việc tạo và GQVL gia tăng.
Thứ năm, hội nhập quốc tế mở ra những kênh GQVL mới, tạo ra cả cơ hội
lẫn thách thức mới cho việc GQVL.CNH, HĐH trong bối cảnhKTTT đi liền với
việc mở cửa, hội nhập quốc tế, do đó, nó sẽ tạo ra những cơ hội và thách thức mới
trong quá trình GQVL cho ngƣời lao động.
+ Cơ hội: Do phân công lao động xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc, các
ngành nghề mới liên tục xuất hiện, các nhu cầu mới về hàng hóa, dịch vụ luôn nảy
sinh khiến cho “dải” việc làm mà nền kinh tế có thể tạo ra ngày càng mở rộng. Nếu
có kiến thức, kỹ năng làm việc thích hợp, ngƣời lao động sẽ có nhiều cơ hội lựa
chọn việc làm hơn hẳn so với các thời kỳ trƣớc đây.
Bối cảnh mới cũng khiến cho ngƣời lao động có thể tiếp cận đến những
phƣơng thức đào tạo và tự đào tạo khác nhau để hấp thụ kiến thức, trau rèn kỹ năng
thích ứng với nhu cầu và đòi hỏi của thị trƣờng lao động. Quá trình đào tạo ngƣời
lao động giờ đây không còn bị bó buộc bởi cung cách giáo dục, đào tạo trong các
nhà trƣờng/trƣờng nghề truyền thống. Với sự phổ cập của internet và kho kiến thức
56
chung khổng lồ và ngày càng gia tăng, việc truy cập internet ngày càng dễ dàng với
chi phí thấp, quá trình đào tạo ngày càng trở thành quá trình tự đào tạo và điều này
mở ra nhiều cơ hội khác hẳn trƣớc trong việc đào tạo nguồn nhân lực.
Công nghệ mới cũng tạo điều kiện cho việc kết nối giữa cung và cầu lao
động trở nên dễ dàng hơn, ít tốn kém hơn. Ngƣời lao động có điều kiện thuận lợi
hơn trong việc tìm kiếm những thông tin về điều kiện, tiêu chuẩn và nơi tuyển dụng.
Các doanh nghiệp cũng dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm những ứng viên cần việc
làm, đáp ứng đƣợc yêu cầu tuyển dụng của mình. Sự kết nối thông tin thuận lợi hơn
phần nào khắc phục đƣợc sự bất cân xứng về thông tin trên thị trƣờng lao động,
khiến cho thị trƣờng này có điều kiện để vận hành hiệu quả hơn.
Thời đại KTTT khiến cho quá trình hội nhập quốc tế trở thành tất yếu và
chính điều này mở ra nhiều cơ hội phát triển nói chung và cơ hội GQVL cho các
nƣớc đi sau. Hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho các nƣớc đang phát triển huy động
đƣợc những nguồn lực từ bên ngoài (trong đó quan trọng nhất là vốn và công nghệ
tri thức, kinh nghiệm quản lý)để phát triển kinh tế quốc gia, đồng thời, cũng làm
cho việc sử dụng các nguồn lực trong nƣớc, kể cả nguồn lực lao động, trở nên hiệu
quả hơn. Trong xu thế TCHKT, phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc.
Tham gia vào sự phân công này, ngƣời lao động ở các quốc giađang phát triển có
thể phát huy đƣợc lợi thế, sử dụng có hiệu quả các năng lực của bản thân, nâng cao
hiệu quả của cả nền kinh tế.
Việc tham gia vào quá trình TCHKT giúp cho các nƣớc đang phát triển
nhanh chóng tiếp cận đƣợc thông tin, tri thức mới, góp phần nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực. Ngƣời lao động cũng có cơ hôi và buộc phải tiếp cận đến các
tiêu chuẩn, chuẩn mực lao động quốc tế, nhờ đó có khả năng nâng cấp năng lực và
cơ hội việc làm cho mình.
Hội nhập quốc tế còn tạo nên dòng di chuyển lao động trong nƣớc và quốc tế:
Những cơ hội việc làm đƣợc tạo ra trong hợp đồng FDI, nhất là ở các khu công nghiệp
và khu chế xuất, sự trả công hấp dẫn hơn đã tạo nên dòng di chuyển lao động trong
nƣớc từ vùng nông thôn ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp chuyển đến khu công
nghiệp, từ nơi có thu nhập thấp hơn đến nơi có thu nhập cao hơn. Ngoài ra, thông qua
57
việc xuất khẩu lao động hoặc di cƣ quốc tế, ngƣời lao động ở các nƣớc đang phát triển
có cơ hội tìm đƣợc việc làm đƣợc trả công cao hơn ở bên ngoài.
+ Thách thức: CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT cũng tạo ra nhiều thách
thức đối với ngƣời lao động. Ngƣời lao động phải có năng lực cạnh tranh toàn cầu
và bắt nhịp với xu thế phát triển trong thế giới hiện đại, nếu không sẽ khó khăn
tham gia hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Trên thực tế, họ phải cạnh tranh việc
làm với các chuyên gia, những lao động có chuyên môn, kỹ năng cao đến từ nƣớc
ngoài (ở giai đoạn đầu, sự cạnh tranh này là động lực quan trọng cho sự phát triển
thị trƣờng lao động CMKT cao ở các nƣớc đang CNH). Sự cạnh tranh trên thị
trƣờng lao động trong nƣớc thậm chí có thể xảy ra trong các công đoạn việc làm chỉ
đòi hỏi lao động kỹ năng thấp (ví dụ: lao động Trung Quốc cạnh tranh lao động Việt
Nam trong các dự án FDI có vốn từ Trung Quốc). Khi làm việc ở nƣớc ngoài, thông
qua kênh xuất khẩu lao động hay di dân, ngƣời lao động cũng phải cạnh tranh việc
làm với các lao động bản xứ hoặc lao động đến từ các quốc gia khác. Tóm lại, thách
thức trong lĩnh vực GQVL ở các nƣớc đang phát triển đến chủ yếu từ đỏi hỏi ngày
càng cao về chất lƣợng nguồn nhân lực, trong khi vì nhiều lý do, tỷ lệ lao động ít
đƣợc đào tạo, kém kỹ năng trong lực lƣợng lao động ở các nƣớc đang phát triển nói
chung còn quá lớn. Việc nâng cấp trình độ chung của lực lƣợng lao động là cần thiết
song lại là một công việc không dễ dàng.
Nói chung, sự tác động của tiến trình CNH, HĐH nói chung và trong bối
cảnh thời đại KTTT nói riêng lên việc làm và thu nhập có thể hàm chứa nhiều khía
cạnh phức tạp. Trong ngắn hạn, nó có thể theo hai xu hƣớng, cả thuận và nghịch.
Một mặt, thông qua việc mở mang các cơ sở công nghiệp, phát triển các cơ sở hạ
tầng, thúc đẩy và làm sâu sắc các quá trình phân công lao động xã hội thông qua
việc mở rộng, phát triển các quan hệ thị trƣờng, CNH, HĐH sẽ mở ra nhiều cơ hội
việc làm mới (với thu nhập cao hơn) cho ngƣời lao động. Mặt khác, do sự biến đổi
về cơ cấu kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập quốc tế và quá trình đô thị
hóa, nhiều ngành, nghề truyền thống bị thu hẹp hoặc biến mất, nhiều việc làm sẽ
mất đi. Một số ngƣời lao động sẽ gặp khó khăn trong quá trình chuyển đổi việc làm.
Tuy nhiên, xét về dài hạn, tác động thuận chiều sẽ lấn át tác động nghịch chiều.
58
CNH, HĐH chẳng những là con đƣờng tất yếu để các nƣớc nghèo thúc đẩy phát
triển kinh tế, thoát khỏi trạng thái lạc hậu mà còn là phƣơng thức để đáp ứng nhu
cầu việc làm đầy đủ cho ngƣời lao động.
2.2.3. Nội dung của giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, việc làm đƣợc tạo ra thông qua sự vận hành
của thị trƣờng lao động. Do đó, chính sách GQVLcủa nhà nƣớc đƣợc thực hiện thông
qua sự can thiệp của nó vào thị trƣờng lao động. Trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với
KTTT, điều đó đƣợc thể hiện ở những khía cạnh sau:
2.2.3.1.Tạo ra khung pháp lý cần thiết để thị trường lao động vận hành
trôi chảy
Ở các nƣớc đang phát triển, thị trƣờng lao động thƣờng chƣa phát triển, chƣa
hoàn thiện. Trong khi đó, quy mô và chất lƣợng hoạt động của thị trƣờng lao động
lại phụ thuộc nhiều vào các quy tắc chi phối các giao dịch trên thị trƣờng. Trong các
quy tắc đó, hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ về lao động đóng vai trò quan
trọng. Nó bao gồm các quy đinh pháp lý về điều kiện tham gia thị trƣờng lao động,
về mức độ dễ dàng hay không dễ dàng trong việc di chuyển lao động, về các ràng
buộc về nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên đối với công việc, tiền lƣơng, điều kiện
làm việc cũng nhƣ quá trình thƣơng lƣợng, mặc cả và ký kết các hợp đồng lao đồng.
Nó bảo đảm rằng, mỗi khi hợp đồng lao động đƣợc ký kết một cách hợp pháp, các
bên cần phải tuân thủ và sẽ bị trừng phạt hay bồi hoàn khi một bên nào đó vi phạm.
Nhờ việc cung ứng dịch vụ pháp lý nói trên, nhà nƣớc khiến cho các giao dịch thị
trƣờng trở nên dễ thực hiện hơn, các cam kết trở nên đáng tin cậy hơn, và các quan
hệ lao động có thể thực hiện với chi phí giao dịch thấp hơn. Rõ ràng chất lƣợng của
hệ thống các quy định pháp lý điều tiết thị trƣờng lao động sẽ ảnh hƣởng không nhỏ
đến sự hoạt động hiệu quả của thị trƣờng này, nhờ đó, gián tiếp tác động đến quá
trình tạo lập và GQVL trong nền kinh tế.
Vì thế, việc hoàn thiện thị trƣờng lao động, trên cơ sở tạo ra các khung pháp
lý để nó có thể vận hành hiệu quả là bƣớc đi cần thiết cho việc GQVL đối với các
nƣớc đang CNH.
59
2.2.3.2. Các chính sách tác động về phía cầu lao động
Về nguyên tắc khi cầu lao động gia tăng, số lƣợng lao động đƣợc thuê mƣớn
trên thị trƣờng sẽ gia tăng, nếu các điều kiện khác đƣợc giữ nguyên. Vì thế khuyến
khích tăng cầu về lao động cũng là cách để nhà nƣớc thúc đẩy quá trình gia tăng và
GQVL. Vì cầu về lao động xuất phát từ các doanh nghiệp nên chính sách kích cầu
về lao động cũng là chính sách khuyến khích các doanh nghiệp hay ngƣời sản xuất
mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình. Nói chung, nhà nƣớc có thể làm đƣợc
điều này thông qua nhiều biện pháp chính sách khác nhau: giảm thuế hay giảm các
chi phí và thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động khởi nghiệp hay đầu tƣ sẽ
khuyến khích nhiều ngƣời thành lập doanh nghiệp mới, mở mạng quy mô các doanh
nghiệp cũ, nhờ đó cầu về lao động gia tăng và việc làm sẽ đƣợc tạo ra nhiều hơn.
Việc cải thiện môi trƣờng đầu tƣ và kinh doanh nói chung cũng tác động thuận lợi
đến tiến trình GQVL theo hƣớng này. Tƣơng tự nhƣ vậy, các chính sách kích cầu
trong thời kỳ nền kinh tế phải đối phó với tình trạng suy thoái kinh tế hay thiếu hụt
tổng cầu, hay chính sách khuyến khích xuất khẩu và hỗ trợ doanh nghiệp tăng
cƣờng năng lực cạnh tranh xuất khẩu cũng cũng tác động đến chiều hƣớng tích cực
đối với quá trình GQVL.
Việc nhà nƣớc đầu tƣ kịp thời và đủ mức cho việc phát triển các hạ tầng chung
cho nền kinh tế (bao gồm cả hạ tầng mềm nhƣ hệ thống pháp luật, đặc biệt là các bộ
luật hay quy định pháp lý có liên quan đến các hoạt động, kinh doanh lẫn hạ tầng
cứng nhƣ hệ thống đƣờng xá, sân bay, bến cảng, điện lực…) cũng có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng đối với sự phát triển của khu vực doanh nghiệp, do đó, đến tiến trình giải
quyết việc làm. Các hạ tầng chung của nền kinh tế càng phát triển, hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp càng thuận lợi, chi phí kinh doanh của họ càng giảm
thiểu, quy mô chung của các hoạt động kinh tế càng dễ gia tăng. Trong trƣờng hợp
này, việc làm có điều kiện để đƣợc tạo ra nhiều hơn. Ngƣợc lại, hạ tầng kinh tế càng
kém phát triển, hay phát triển một cách thiếu đồng bộ, hoạt động chung của các
doanh nghiệp trở nên khó khăn, tốn kém, hiệu quả thấp, năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp trên thị trƣờng thế giới sẽ hạn chế. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy, khu vực
doanh nghiệp sẽ mở mang và phát triển chậm hơn. Hệ quả hiển nhiên là việc làm
60
cũng ít đƣợc tạo ra hơn, việc cắt giảm tỷ lệ thất nghiệp cũng sẽ khó khăn hơn.
Trong quá trình CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT, các chính sách tác
động đến cầu về lao động có thể đƣợc định hƣớng theo những khía cạnh sau:
- Tạo nhanh việc làm trên cơ sở đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn cần coi trọng việc các cơ sở công nghiệp tuyển dụng lao động tại
chỗ.Việc xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong qúa trình
CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn không chỉ tạo ra một lƣợng lớn việc làm để thu
hút số lao động ở đô thị, mà còn thu hút một lƣợng lớn lao động vốn là những ngƣời
nông dân hoặc không nghề nghiệp ổn định sống ở các vùng nông thôn, nhờ đó góp
phần làm tăng năng suất lao động tại các vùng này. Số việc làm không chỉ đƣợc tạo
ra cho số lao động làm việc chính thức tại các nhà máy, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, mà còn cho một số lƣợng lớn lao động làm dịch vụ, xây dựng cơ bản và các
khu vực phi chính thức khác phục vụ cho phát triển công nghiệp kể cả ở trong và
ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Tạo việc làm trên cơ sở ƣu tiên phát triển các ngành công nghiệp chế biến,
có giá trị gia tăng cao, khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, phát
triển các ngành dịch vụ, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hƣớng hàng hóa, phát
triển hình thức trang trại, mở rộng việc làm ở khu vực nông thôn.Cần tạo ra cơ hội
để ngƣời lao động tự tạo việc làm. Nhà nƣớc cần có chính sách và biện pháp để các
cơ sở sản xuất khi nhận quyền sử dụng đất phải có kế hoạch ƣu tiên tuyển dụng, thu
hút lao động bị mất việc làm do bị thu hồi đất. Đây là biện pháp GQVL cần thiết để
tạo đƣợc sự đồng thuận giữa các đối tƣợng liên quan đến đất bị thu hồi
- Tạo việc làm trên cơ sở khuyến khích sự phát triển các ngành dịch vụ, tiến
dần đến việc nâng cao tỷ trọng các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Đây là
hƣớng đi mà các nƣớc đang phát triển có thể tận dụng gắn liền với sự xuất hiện các
dịch vụ hiện đại, do cuộc cách mạng thông tin – viễn thông hiện đại tạo ra.
- Tạo việc làm qua quá trình tăng cƣờng hội nhập quốc tế: Để GQVL, chính
phủ các nƣớc đang CNH thƣờng tăng cƣờng thu hút FDI, theo cả hai hƣớng ƣu tiên:
một là những ngành thâm dụng lao động để giải quyết các vấn đề việc làm trƣớc
mắt; hai là những ngành công nghệ cao, có khả năng nâng cấp trình độ công nghệ
61
chung của nền kinh tế trong dài hạn. Lý tƣởng sẽ là phát triển những ngành công
nghệ tiên tiến, hiện đại song lại sử dụng nhiều lao động hơn là sử dụng nhiều vốn
nhƣ là các ngành công nghiệp phần mềm. Trong điều kiện còn dƣ thừa lao động,
việc thu hút đầu tƣ và phát triển các ngành sử dụng nhiều vốn, nhất là khi các dự án
đầu tƣ FDI đƣợc thực hiện trên cơ sở liên doanh, có sử dụng cả nguồn vốn khan
hiếm trong nƣớc thƣờng không phải là bƣớc đi hiệu quả trong lĩnh vực GQVL.
Một cách để tạo nhanh việc làm mà các NIEs đã áp dụng thành công là tăng
cƣờng phát triển các ngành xuất khẩu với cơ cấu xuất khẩu ngày càng tiến bộ (ngày
càng dựa nhiều hơn vào những ngành có giá trị gia tăng cao, ít sử dụng tài nguyên
thô hay lao động giản đơn).Nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động cũng là giải pháp
giải quyết việc làm trong giai đoạn đầu, khi vấn đề thiếu việc làm còn nghiêm trọng,
quá trình CNH, HĐH trong nƣớc chƣa tạo đủ việc làm cho ngƣời lao động, vì thế
việc tận dụng cầu lao động từ thị trƣờng bên ngoài là cần thiết.
- Xét từ góc độ các chủ thể có liên quan đến vấn đề việc làm, cầu về lao
động chủ yếu xuất phát từ phía các doanh nghiệp. Vì thế, chính sách “kích cầu”
về lao động cũng là chính sách tạo môi trƣờng thuận lợi cho việc phát triển đội
ngũ doanh nhân, và hệ thống các doanh nghiệp ở các ngành, nghề khác nhau.
Việc thành lập các doanh nghiệp, cũng nhƣ việc gia nhập hay rút lui khỏi các thị
trƣờng của chúng phải dễ dàng, với phí tổn thấp. Điều này liên quan nhiều đến
môi trƣờng pháp lý cũng nhƣ chất lƣợng hoạt động quản trị quốc gia của nhà
nƣớc.Với các nƣớc đang phát triển, do các thể chế kinh tế, chính trị chƣa hoàn
thiện thì điều này là rất có ý nghĩa.
2.2.3.3. Các chính sách tác động về phía cung lao động
Các chính sách kiểm soát dân số: Đối với các nƣớc đang phát triển, việc
kiểm soát tốt quá trình gia tăng dân số để duy trì quy mô lực lƣợng lao động thích
hợp so với quy mô dân số chung cũng làm giảm đi những áp lực việc làm do sự bổ
sung thƣờng xuyên của những ngƣời mới tham gia vào lực lƣợng lao động. Đây
thƣờng là chính sách chung đƣợc nhiều nƣớc áp dụng mặc dù mức độ thành công
là khác nhau.
Tuy nhiên, trong điều kiện KTTT, hƣớng GQVL quan trọng lại không phải
62
là kiểm soát sự gia tăng nguồn cung lao động mà là gia tăng nhanh chất lƣợng của
nguồn cung này. Do nhƣ trên đã nói, trong bối cảnh kinh tế tri thức, nhu cầu lao
động đƣợc đào tạo , có chất lƣợng cao, kỹ năng cao tăng nhanh tƣơng đối, nên việc
làm sẽ đƣợc tạo ra nhiều hơn, đồng thời mức sống và thu nhập của ngƣời lao động
cũng đƣợc cải thiện nhanh hơn nếu tỷ trọng lao động kỹ năng cao trong lực lƣợng
lao động xã hội tăng lên, chất lƣợng chung của đội ngũ lao động cải thiện nhanh.
Việc này chỉ có thể thực hiện đƣợc trƣớc hết thông qua chính sách ƣu tiên đầu tƣ và
phát triển có hiệu quả cả hệ thống giáo dục, đào tạo (cả đối với các trƣờng công lẫn
trƣờng tƣ). Một hệ thống giáo dục, đào tạo rộng khắp, có chất lƣợng mà đông đảo
ngƣời dân có thể dễ dàng tiếp cận và hƣởng thụ sẽ tăng cƣờng chất lƣợng với cơ cấu
thích hợp của nguồn nhân lực, giúp ngƣời lao động dễ có việc làm hơn, có điều kiện
đạt đƣợc mức thu nhập cao hơn. Ngoài ra, các chƣơng trình hỗ trợ đào tạo và đào
tạo lại của nhà nƣớc có thể làm giảm thất nghiệp cơ cấu.
Chất lƣợng cung về lao động còn phụ thuộc vào sức khỏe của ngƣời lao
động. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhƣ điều kiện ăn, ở, đi lại, rèn luyện sức
khỏe, hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt là hệ thống y tế. Đến lƣợt mình, sự phát triển
của hệ thống y tế, đặc biệt hệ thống y tế công cộng, có khả năng cung cấp các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản và ban đầu cho đông đảo ngƣời dân là nằm trong sự
lựa chọn các chính sách phát triển của nhà nƣớc.
Những định hƣớng chính sách tác động đến cung lao động bao gồm:
- Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, nâng nhanh tỷ lệ lao động đƣợc đào
tạo, lao động có trình độ cao, kỹ năng cao thích ứng với đòi hỏi của nền kinh tế tri
thức, toàn cầu hóa ( thông qua các giải pháp chính: phát triển giáo dục đào tạo, nâng
cấp hệ thống y tế...)
- Xác định nhu cầu về nguồn nhân lực cho các ngành KTTT. Đào tạo nguồn
nhân lực và di chuyền nguồn nhân lực từ ngành này sang ngành khác,phát triển giáo
dục - đào tạo, đặc biệt là công tác dạy nghề, bồi dƣỡng kiến thức cho ngƣời lao
động nhằm từng bƣớc tri thức hoá giai cấp nông dân, trƣớc hết là lực lƣợng lao
động trẻ ở nông thôn.
- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ cho các ngành kinh tế khác và đào
63
tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu cho các ngành kinh tế đó, cải cách triệt để nền giáo dục,
phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao phục vụ cho phát triển KTTT.
2.2.3.4. Các chính sách hỗ trợ
-Thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm, các hội chợ về việc làm cũng
nhƣ các kênh truyền thông/ thông tin khác, nhà nƣớc có thể hỗ trợ các hoạt động
cung cấp thông tin về thị trƣờng lao động, tạo ra sự kết nối cung với cầu về lao
động. Nhờ đó, thị trƣờng lao động sẽ hoạt động trôi chảy hơn, việc làm sẽ đƣợc giải
quyết tốt hơn. Mặt khác, nhà nƣớc cũng cần khuyến khích sự phát triển của các cơ
sở tƣ nhân trong việc cung cấp các dịch vụ thông tin về thị trƣờng lao động.
- Chú trọng đầu tƣ kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin:
đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế là nhiệm vụ hay chức năng của nhà
nƣớc, do khu vực tƣ nhân thƣờng không đầu tƣ cho những hàng hóa công cộng này.
Sự phát triển đúng mức, kịp thời các cơ sở hạ tầng là điều kiện thiết yếu để cho cả
nền kinh tế đặc biệt là khu vực kinh tế tƣ nhân phát triển. Do vậy, đó cũng là điều
kiện tối cần thiết cho tăng trƣởng kinh tế và tăng trƣởng việc làm. Trong điều kiện
KTTT, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (liên quan đến mạng lƣới interner, mạng
lƣới viễn thông) đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Vì thế, các chính phủ có tầm nhìn
dài hạn thƣờng ƣu tiên cao cho hoạt động đầu tƣ này.
- Phát triển KH - CN tạo điều kiện cho những ngành dựa trên KTTT có điều
kiện ra đời và phát triển thuận lợi cũng là hƣớng chính sách quan trọng đối với lĩnh
vực GQVL trong điều kiện CNH, HĐH gắn với KTTT. Đây là điều kiện để nền
kinh tế nói chung, các doanh nghiệp nói riêng có thể nâng cao đƣợc năng lực cạnh
tranh quốc tế của mình, do đó có điều kiện thuận lợi để tăng trƣởng phát triển
nhanh, tạo việc làm bền vững hơn cho ngƣời lao động.
- Hoàn thiện các thể chế thị trƣờng khác nhƣ thị trƣờng vốn, thị trƣờng đất
đai., thị trƣờng dịch vụ KH -CN..: Thị trƣờng lao động chỉ động hoạt tốt, do đó việc
làm đƣợc tạo ra nhanh và hiệu quả hơn nếu nhƣ nó đƣợc hỗ trợ bởi sự hoạt động
hiệu quả của các thị trƣờng nguồn lực khác nhƣ thị trƣờng vốn, thị trƣờng đất đai,
thị trƣờng dịch vụ KH - CN. Chẳng hạn, sự thiếu vắng hay yếu kém của hệ thống
ngân hàng, của thị trƣờng chứng khoán sẽ làm cho sự phân bổ vốn trong nền kinh tế
64
trở nên không hiệu quả. Trong điều kiện này, hiệu quả hỗ trợ vốn của thị trƣờng cho
các doanh nghiệp bị suy giảm, chi phí sử dụng vốn của các doanh nghiệp gia tăng.
Hệ thống tài chính – ngân hàng yếu kém còn ẩn chứa những rủi ro khó lƣờng, có thể
gây hậu quả lớn cho nền kinh tế. Trong môi trƣờng chung nhƣ vậy, hiệu quả GQVL
sẽ thấp.
- Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội: Hệ thống an sinh xã hội đƣợc thiết kế
nhằm tạo ra một màng lƣới an toàn tối thiểu giúp ngƣời dân đối phó tốt hơn với các
rủi ro mà họ có thể gặp phải trong cuộc sống, trong đó có rủi ro trong lĩnh vực lao
động – việc làm (rủi ro mất việc, rủi ro do gặp tai nạn lao động...). Nó là cần thiết để
làm dịu đi những bất ổn hay xung đột xã hội, góp phần vào việc thực hiện công
bằng xã hội. Tuy nhiên, mức độ phát triển của hệ thống an sinh xã hội lại tùy thuộc
vào trình độ phát triển chung của nền kinh tế. Mặt khác, nó còn tác động không nhỏ
đến tỷ lệ dân số tham gia vào lực lƣợng lao động, do đó cũng có ý nghĩa thậm chí là
tiêu cực đối với vấn đềGQVL. Thực tiễn ở nhiều nƣớc đã chứng minh rằng, một
chính sách bảo hiểm và trợ cấp thất nghiệp quá hảo phóng lại không khuyến khích
những ngƣời thất nghiệp nỗ lực tìm kiếm việc làm. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp có
thể gia tăng.
2.2.4. Các tiêu chí đánh giá giải quyết việc làm trong bối cảnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Mức độ thành công của chính sách GQVL đối với các nƣớc đang CNH
trongbối cảnh KTTT có thể đánh giá trên cơ sở hai loại tiêu chí: 1) những tiêu chí
thể hiện sự tiến bộ về mặt số lƣợng; 2) những tiêu chí thể hiện sự tiến bộ về mặt
chất lƣợng, phù hợp với xu hƣớng phát triển dài hạn mà nền kinh tế phải hƣớng tới.
2.2.4.1. Các tiêu chí chung
Tiêu chí tổng quát để đánh giá các thành tựu về giải quyết việc làm chính là
𝐸
tỷ lệ việc làm hay ngƣợc lại, tỷ lệ thất nghiệp trong lực lƣợng lao động.
𝐸+𝑈
Tỷ lệ việc làm e (%) = x 100, trong đó E là số ngƣời có việc làm, U là số
𝑈
ngƣời thất nghiệp, còn tổng (E + U) là số ngƣời nằm trong lực lƣợng lao động.
𝐸+𝑈
Tỷ lệ thất nghiệp u (%) = x 100 = 100 % - e
Nhƣ vậy, hai chỉ tiêu này có thể sử dụng thay thế nhau: e cao thì u sẽ thấp và
65
ngƣợc lại. Vì thế, để phản ánh kết quả GQVL, thông thƣờng ngƣời ta sử dụng chỉ
tiêu tỷ lệ thất nghiệp chung của nền kinh tế (quốc gia hay địa phƣơng). Duy trì tỷ lệ
này ở mức thấplà mục tiêu của các chính sách GQVL.
Xét theo thời gian, sự cải thiện trong kết quả GQVL là làm tỷ lệ thất nghiệp
giảm xuống. Tuy nhiên, vì tỷ lệ thất nghiệp không bao giờ giảm xuống 0, nên tỷ lệ
thất nghiệp lý tƣởng thể hiện trạng thái cân bằng của thị trƣờng lao động là tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên. Tƣơng ứng với tỷ lệ thất nghiệp này, mức công ăn việc làm trong
nền kinh tế đƣợc gọi là mức công ăn, việc làm đầy đủ.
Ở các nƣớc phát triển, mục tiêu việc làm là đƣa tỷ lệ thất nghiệp về tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên, và trong dài hạn, nếu có thể là giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Ở các nƣớc đang phát triển, việc tính toán tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là khó
khăn. Vì thế, việc đánh giá chiều hƣớng cải thiện dài hạn của tình trạng thất nghiệp
(giảm tỷ lệ thất nghiệp) là khả dĩ hơn, mặc dù chất lƣợng của các con số thống kê về
ngƣời thất nghiệp hay ngƣời có việc làm vẫn là một thách thức.
Ở các nƣớc đang phát triển, do dân số và lực lƣợng lao động thƣờng tăng
nhanh, nên để giảm tỷ lệ thất nghiệp cũng hàm ý rằng: tốc độ tăng trƣởng việc làm
phải cao hơn tốc độ tăng của lực lƣợng lao động. Hai chỉ tiêu này có thể dùng để
giải thích thành tựu trong lĩnh vực GQVL, trong đó đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng
việc làm cần đƣợc ƣu tiên.
Ngoài chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp chung, ngƣời ta còn có thể phân tích tỷ lệ thất
nghiệp theo nhóm tuổi, theo giới tính. Việc cải thiện tỷ lệ thất nghiệp của lao động
phụ nữ có thể phản ánh, trong một mức độ nào đó, sự tham gia tích cực hơn của lao
động nữ trong các hoạt động kinh tế xã hội. Xét theo lứa tuổi, tỷ lệ thất nghiệp của
nhóm ngƣời trung niên xứng đáng đƣợc chú ý vì nhóm ngƣời này thƣờng là những
lao động có kinh nghiệm, song không quá già, lại đóng vai trò là lao động trụ cột
trong gia đình.
2.2.4.2. Cơ cấu chuyển dịch việc làm
Theo nội dung của tiến trình CNH, HĐH gắn với KTTT, cơ cấu việc làm
chuyển dịch theo hƣớng tiến bộ sẽ đƣợc đánh giá thông qua việc so sánh tỷ lệ lao
động (việc làm) trong các khu vực của nền kinh tế quốc dân. Trong phạm vi quốc
66
gia cơ cấu dịch chuyển lao động trong khối kinh tế đƣợc xét ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Cụ thể nhƣ sau:
Cơ cấu dịch chuyển lao động theo ngành nghề
Ngành nghề ở đây có thể phân chia theo 3 lĩnh vực chính là: Nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ hoặc phân chia thành những ngành cụ thể hơn. Nhìn vào cơ
cấu dịch chuyển lao động của một quốc gia có thể đánh giá đƣợc sự dịch chuyển
của cơ cấu kinh tế. Từ đó có thể đánh giá triển vọng phát triển kinh tế của quốc gia
đó. Trong tƣơng quan so sánh, sự tiến bộ đó thể hiện ở chỗ:
- Tỷ lệ việc làm trong nông nghiệp giảm; tỷ lệ việc làm trong công nghiệp,
dịch vụ tăng
- Tỷ lệ việc làm trong các ngành công nghệ cao hoặc sử dụng lao đƣợc đào
tạo, có kỹ năng ngày càng tăng so với những ngành sử dụng lao động giản đơn (
tiêu chí này có thể xét chung trong nền kinh tế và xét riêng từng khu vực: công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
Cơ cấu dịch chuyển lao động ( việc làm) theo trình độ
Cơ cấu dịch chuyển lao động theo trình độ phản ánh quá trình dịch chuyển
lao động từ lao động không có chuyên môn, lao động bán lành nghề sang dòng lao
động có kỹ năng và trình độ tri thức ngày càng cao. Lao động không có chuyên môn
bao gồm những ngƣời lao động có trình độ ở cấp trung học hoặc thấp hơn. Với trình
độ nhƣ vậy họ chỉ có thể làm những công việc chân tay, nặng nhọc, giản đơn. Họ
cung cấp cho thị trƣờng ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp không đòi hỏi kỹ
thuật cao. Lao động bán lành nghề gồm những ngƣời lao động ở trình độ trung học
cơ sở, đã qua đào tạo nghề, thậm chí cả những ngƣời có trình độ đại học. Họ có
những kỹ năng cơ bản để làm việc trong những ngành công nghiệp, dịch vụ không
đòi hỏi kỹ thuật cao. Lao động có kỹ năng gồm những ngƣời lao động đƣợc đào tạo
ở trình độ đại học trở lên đƣợc đào tạo nghề kỹ thuật cao.Họ làm việc trong các
ngành công nghiệp và dịch vụ công nghệ cao. Đây là những nhân tố thúc đẩy nền
kinh tế phát triển theo hƣớng CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT.
Kinh tế càng phát triển thì những việc làm chuyên môn thấp càng trở nên ít
đi bởi đƣợc thay thế bằng máy móc công nghệ hiện đại. Ngƣợc lại việc làm yêu cầu
67
công nghệ cao ngày càng tăng làm cho dòng lao động đƣợc dịch chuyển. Nhìn vào
cơ cấu dịch chuyển lao động theo trình độ có thể đánh giá đƣợc trình độ phát triển
của nền kinh tế, từ đó có thể tìm ra xu hƣớng vận động của các quan hệ lao động –
việc làm. Bởi vậy, quá trình GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển
KTTT cần bảo đảm tiêu chí: Tốc độ tăng trƣởng việc làm trong các ngành công
nghệ cao, lao động có kỹ năng đại diện cho xu hƣớng phát triển KTTT phải tăng
nhanh hơn tốc độ tăng trƣởng việc làm của nền kinh tế nói chung trong quá trình
GQVL cho ngƣời lao động.
Ngoài ra, có thể đánh giá xu hƣớng mở cửa, hội nhập quốc tế (một đặc điểm nổi
trội của kinh tế tri thức) qua chỉ tiêu tốc độ tăng lao động (việc làm) trong các ngành
xuất khẩu, tỷ lệ đóng góp vào kết quả giải quyết việc làm của khu vực FDI, đặc biệt là
tỷ lệ tăng trƣởng việc làm trong các ngành công nghệ tiên tiến ở khu vực này.
2.3. Kinh nghiệm của các nƣớc về giải quyết việc làm trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
2.3.1. Kinh nghiệm giải quyết việc làm của một số quốc gia
2.3.1.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
Từ những năm 1980, Hoa Kỳ đã tiến vào nền kinh tế mới – dựa trên cơ sở
cách mạng công nghệ thông tin và toàn cầu hóa thị trƣờng đồng thời chuyển dịch cơ
cấu lao động và GQVL cho ngƣời lao động dựa trên nền tảng KTTT. Đến năm 1990
Mỹ đã nhanh chóng thúc đẩy cuộc cách mạng tin học, thƣơng nghiệp và điều chỉnh
ngành nghề. Các ngành công nghệ cao, công nghệ dịch vụ và văn phòng hiện đã trở
thành động lực tăng trƣởng của nền kinh tế Mỹ, đóng góp 60% GDP, thu hút và tạo
ra một lƣợng lao động lớn. Vào cuối những năm 1990, nền kinh tế Mỹ đã tạo ra việc
làm cho 93 triệu ngƣời – chiếm 80% lực lƣợng lao động ở Mỹ làm các công việc
truyền tải, xử lý thông tin hay cung cấp dịch vụ. Trong số những ngƣời này, lao
động làm trong các lĩnh vực quản lý và chuyên môn đã tăng từ 22% năm 1979 lên
30% vào cuối những năm 1990 và 40% vào năm 2000. Số lao động trí óc đã vƣợt số
lao động chân tay. Năm 1997, ngành công nghệ thông tin sử dụng 4,8 triệu ngƣời,
ngành ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng 43 triệu ngƣời, chiếm 45% số ngƣời
làm việc trong các doanh nghiệp tƣ nhân. Năm 2006 chiếm 50%. Nền kinh tế mới
68
làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới ở Mỹ đòi hỏi ngƣời lao động phải không
ngừng nâng cao trình độ của mình và chính những lao động đã qua đào tạo này là
yếu tố chủ yếu làm tăng năng suất lao động và thúc đẩy đổi mới. Các nghề nghiệp
tri thức đòi hỏi ngƣời lao động phải tốt nghiệp trung học và đại học đã tăng từ 27%
năm 1983 lên 31% năm 1993, 32% năm 1999 và 35% năm 2006. [152, tr215]
Nền kinh tế mới của Mỹ vận hành hết sức năng động bởi nó luôn cho ra đời
những công ty tƣ nhân tuy nhỏ nhƣng luôn đổi mới và linh hoạt, đƣợc coi là động
lực của nền kinh tế Mỹ đồng thời là chủ thể GQVL cho ngƣời lao động. Chẳng hạn,
trong thời kỳ 1993 – 1998, số lƣợng các công ty này đã tăng lên hơn 40% và tạo ra
70% số việc làm cho nền kinh tế Mỹ thời kỳ này. Ngoài ra, trong những năm 1990,
tình hình việc làm ở Mỹ cũng xáo động mạnh bằng việc các việc làm mới liên tục
thay thế cho các việc làm cũ – thể hiện tiềm năng phát triển bền vững và lâu dài của
một nền kinh tế mới. Các ngành công nghệ cao đã tăng rất nhanh và góp phần tạo ra
nhiều việc làm cho ngƣời lao động Mỹ. Việc làm trong khu vực công nghệ thông tin
cũng tăng mạnh hơn các khu vực kinh tế khác, hiện chiếm 6,1% lực lƣợng lao động
Mỹ. Sản lƣợng của khu vực công nghệ thông tin nhanh đồng nghĩa với sự tăng
mạnh về số lƣợng việc làm của khu vực này. Năm 1998, khoảng 7,4 triệu công nhân
làm việc trong khu vực công nghệ thông tin, chiếm 6,1% lực lƣợng lao động Mỹ.
Con số này bao gồm công nhân trong các ngành sản xuất công nghệ thông tin và
trong những ngành khác nhƣ phân tích hệ thống, xử lý máy tính hay vận hành và
bảo quản hạ tầng công nghệ thông tin trong các cơ sở sản xuất không thuộc lĩnh vực
công nghệ thông tin. Trong giai đoạn 1994 – 1998, việc làm trong ngành công nghệ
thông tin tăng 29%, con số này của các ngành khác chỉ là 22%. Công nghệ thông tin
kết hợp với công nghệ truyền thông đã tạo ra mạng Internet. Khu vực kinh tế
Internet này cũng phát triển rất nhanh. Trong hai năm 1998 – 1999, khu vực Internet
tăng trƣởng 36%, tạo 650.000 việc làm mới.[152, tr216]
Từ quý đầu năm 1993 đến hết năm 2000, tốc độ tăng GDP thực đạt trung
bình 4%/năm, gần gấp rƣỡi (146%) tốc độ trung bình của thời kỳ 1973 – 1993. Mức
tăng trƣởng hiếm có này phản ánh một cơ chế tạo việc làm mạnh và năng suất lao
động cao. Trong giai đoạn 1993 – 2000, nền kinh tế Mỹ đã tạo ra 22 triệu việc làm
69
mới. Năm 2000, dân số Mỹ có việc làm đạt mức kỷ lục, thất nghiệp chỉ còn 3,9%.
Riêng tỷ lệ thất nghiệp trong số ngƣời Mỹ gốc Phi và ngƣời Mỹ gốc Bồ Đào Nha
giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu thập lỷ 1970. Đà phát triển này đã dẫn đến
mức thu nhập cao và sự thịnh vƣợng trong xã hội Mỹ suốt một thập kỷ.[152, tr41]
Chính sách phát triển nguồn nhân lực đƣợc coi là mục tiêu chiến lƣợc để
chuẩn bị hành trang cho nền kinh tế Mỹ trong thế kỷ 21. Chính quyền Clinton đã
tập trung vực dậy toàn bộ hệ thống giáo dục – đào tạo Mỹ, tập trung vào xây dựng
một hệ thống giáo dục cao học mạnh. Bên cạnh đó, chính sách nhập cƣ đƣợc điều
chỉnh kịp thời để thu hút nguồn nhân lực chất xám toàn cầu.
Tổng thống B.Clinton đã từng tuyên bố “...đầu tiên và trên hết, Thời đại
thông tin là thời đại giáo dục, trong đó giáo dục phải xuất phát từ lúc con ngƣời mới
đƣợc sinh ra và đi cùng con ngƣời cho đến hết cuộc đời...”, [152, tr169] do đó chính
quyền của ông chủ trƣơng đem lại cho các công dân Mỹ tự do, công bằng, dân chủ
và một nền giáo dục có chất lƣợng.
Việc đổi mới giáo dục đƣợc thực hiện ở khắp mọi cấp, tập trung vào nâng
cấp cơ sở trƣờng lớp, nâng cao chất lƣợng giáo viên và đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ giáo dục mới. Chính quyền đƣa ra một lịch trình gồm ba phần nhằm hỗ trợ các
bang, các địa phƣơng xây dựng và duy trì một hệ thống giáo dục tiểu học – trung
học có tầm vóc quốc tế.
2.3.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc là quốc gia thuộc khu vực Đông Á, nằm ở nửa phía Nam của bán
đảo Triều Tiên, có diện tích khoảng 100,032 km vuông, dân số 50,6 triệu ngƣời
(tính đến tháng 2/2013). Trong thập niên 60 của thế kỷ 20, Hàn Quốc là một trong
số các quốc gia kém phát triển nhất ở châu Á (GDP trên đầu ngƣời thấp hơn mức
100 USD/năm). Nền kinh tế của Hàn Quốc chủ yếu dựa vào nông nghiệp trong khi
lũ lụt và hạn hán xảy ra thƣờng xuyên. Hạ tầng cơ sở nông thôn manh mún, nghèo
nàn. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn chiếm khoảng 24% [98]. Mặc dù Chính phủ
đã có nhiều biện pháp để tăng năng suất lƣơng thực nhƣng nhìn chung khu vực
nông thôn Hàn Quốc còn rất lạc hậu. Đến những năm 70 vẫn còn 70% dân số sống
ở nông thôn, trong số đó 80% sống trong nhà mái rạ, vách đất tạm bợ, dùng đèn dầu
70
và không có điện thắp sáng, đƣờng làng nhỏ hẹp, xe bò xe ngựa không qua lại đƣợc,
gần nhƣ không có các công trình vệ sinh, y tế, văn hóa kém phát triển, thất học,
thiếu đòi triền miên...Những thất bại từ công cuộc vận động tái thiết đất nƣớc sau
chiến tranh, hay từ những chƣơng trình tăng thu nhập trong nông – ngƣ nghiệp của
Chính phủ không thành công đã làm nản lòng nông dân. Nhƣng chỉ sau 40 năm, từ
một đất nƣớc nghèo nàn và lạc hậu, Hàn Quốc đã vƣơn lên trở thành một cƣờng
quốc công nghệ. Năm 2014, Hàn Quốc đạt GDP bình quân đầu ngƣời là 32.400
USD/năm, hiện nay là 34.510 USD/năm. [95]
Từ những năm 1970, với thế mạnh là một nƣớc có nguồn nhân công rẻ, lao
động cần cù có kỹ năng cao, để giải quyết việc làm cho ngƣời lao động Hàn Quốc
đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành công nghiệp xuất khẩu, thúc đẩy việc sử
dụng lực lƣợng lao động dồi dào, dần dần tăng cƣờng đƣợc khả năng cạnh tranh
trên thị trƣờng quốc tế đối với các mặt hàng sử dụng nhiều lao động. Song song với
các cải cách ở tầm vĩ mô, chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ
trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu, coi đây là động lực để cơ cấu lại nền kinh tế, thúc
đẩy tăng trƣởng. Trong quá trình phát triển kinh tế các hoạt động xuất khẩu đã tạo
nên một vòng liên hoàn với nhập khẩu và đầu tƣ trong đó ba hoạt động này bổ sung
cho nhau để tạo ra tốc độ phát triển kinh tế cao đƣa đến sự chuyển dịch từ các
ngành có giá trị gia tăng thấp sang các ngành có giá trị gia tăng cao. Vị trí của các
ngành nông – lâm – ngƣ nghiệp trong GDP sẽ giảm đi, vị trí của các ngành công
nghiệp trong GDP ngày càng tăng, trong công nghiệp của các ngành sử dụng nhiều
lao động chƣa lành nghề cũng giảm đi, trong khi đó vị trí của các ngành sử dụng
nhiều vốn và kỹ thuật cao ngày càng tăng. Tỷ lệ ngành công nghiệp chế tạo trong
GDP tăng từ 18% năm 1965 lên 30% năm 1986 cho thấy, quá trình công nghiệp hóa
diễn ra rất mạnh mẽ. Nhƣng tốc độ công nghiệp hóa trong xuất khẩu còn cao hơn
nhiều và tăng một cách liên tục. “Tỷ lệ của ngành công nghiệp trong tổng xuất khẩu
14% năm 1960 đã tăng lên 59% năm 1965 và bƣớc vào thập kỷ 1980 đạt 90%”
[155, tr 93]. Cơ cấu hàng công nghiệp xuất khẩu cũng có sự thay đổi rõ rệt. Ví dụ
kim ngạch xuất khẩu của ngành tơ sợi và ngành giày dép là là những ngành sử dụng
nhiều lao động năm 1975 chiếm 48,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn
71
Quốc, nhƣng đến năm 1988 một số chỉ còn 20,6% [152,tr216]. Ngƣợc lại, tỷ lệ mặt
hàng xuất khẩu cần nhiều vốn do kỹ thuật nhƣ máy móc, phƣơng tiện vận tải trong
tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 13,8% lên 38,6% trong cùng thời gian đó. Để
phát triển thành công các ngành sản xuất xuất khẩu, điều quan trọng trƣớc tiên là
chọn ngành nào vì điều này sẽ quyết định khả năng có thể nuôi dƣỡng những ngành
có sức cạnh tranh quốc tế hay không. Hàn Quốc đã chọn đúng ngành mà mình có
thế mạnh, có lợi thế so sánh trong từng thời điểm và giúp đỡ có trọng điểm cho
ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động nhƣ tơ sợi, vải, giày dép để khai thác
nguồn lao động rất phong phú của mình. Tiếp đó, họ đã từng bƣớc chọn các ngành
công nghiệp nặng, hóa chất, công nghệ cao cấp làm đối tƣợng, phù hợp với tình
hình tích lũy vốn và nâng cao trình độ kỹ thuật. Chính phủ và các xí nghiệp hợp sức
với nhau tiến hành phối hợp, liên kết trong xuất khẩu.
Không chỉ phát triển công nghiệp phục vụ xuất khẩu, Chính phủ Hàn Quốc
còn tập trung phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn. Với phƣơng châm “để
dân no ấm mới hết nghèo” nên Chính phủ đã tập trung phát triển nông thôn với phong
trào Saemaneul (còn gọi là Saemaul Undong – phong trào cộng đồng dân cƣ mới).
“Saemaul Undong đƣợc xây dựng trên 3 trụ cột đó là: Chuyên cần – Tự giác
– Hợp tác. Ba trụ cột đó là những giá trị xuyên suốt quá trình phát triển nông thôn
nói riêng và sự phát triển của toàn xã hội Hàn Quốc nói chung”.[93]
Cụ thể Chính phủ chủ trƣơng đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng để nông dân
phát triển sản xuất và chế biến sản phẩm tại chỗ với tƣ tƣởng “nông dân là ngƣời
chủ đích thực”.[155, tr95]
Ngoài phát triển cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh đào tạo nghề nông, Chỉnh phủ Hàn
Quốc còn đƣa những thành tựu khoa học và các giống cây trồng mới vào sản xuất
nhƣ nấm, thuốc lá,...khiến đời sống của nông dân đƣợc cải thiện rõ ràng.
Từ năm 1990, nƣớc Hàn Quốc có chiến lƣợc phát triển kinh tế tri thức và xã
hội thông minh. Số việc làm trong các công ty thông tin và và truyền thông tăng
nhanh, doanh thu trong toàn bộ ngành công nghệ thông tin trong GDP chiếm tỷ lệ
ngày càng lớn (năm 2010 ƣớc tính khoảng 20% GDP). Năm 2015, Hàn Quốc đang
đƣợc xếp thứ 12 trên thế giới về sức cạnh tranh khoa học công nghệ [30]. Theo
72
đánh giá của các chuyên gia, kinh tế Hàn Quốc đã mang một số nét đặc trƣng của
nền KTTT.
Sự phát triển nhanh và ngoạm ngục của đất nƣớc Hàn Quốc trong 4 thập
niên, trƣớc hết, là kết quả của sự kết hợp một các hữu hiệu các nhân tố kinh tế với
các nhân tố xã hội trong điều kiện thuận lợi của hoàn cảnh quốc tế: Sự hợp tác chặt
chẽ giữa khu vực Nhà nƣớc và khu vực tƣ nhân, chính sách hợp lý và sự kiên quyết
của Chính phủ những năm 60 – 70 nhằm vào các ngành công nghiệp cần nhiều lao
động và ƣu tiên xuất khẩu, tính linh hoạt rất cao trong quản lý và thái độ sẵn sàng
ứng phó trƣớc những tín hiệu phát sinh từ nền kinh tế, tỷ lệ ngày càng cao về ngƣời
lớn biết chữ và sự cần cù của dân chúng. Bởi vậy, nhân tố con ngƣời mới là cái
quyết định trong quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT của Hàn Quốc: Ý
chí cháy bỏng vƣơn tới thịnh vƣợng của ngƣời dân và lãnh đạo đất nƣớc, sự quản lý
nghiêm minh, hà khắc của chính trị Hàn Quốc. Đây có thể coi là nƣớc điển hình đã
rút ngắn bƣớc phát triển từ kinh tế nông – công nghiệp sang nền kinh tế tri thức
bằng con đƣờng tắt nhờ biết sử dụng hiệu quả lao động chất xám và thành quả KH –
CN hiện đại, kết hợp nhuần nhuyễn với việc tận dụng thời cơ và sự chuyển động
của thế giới đa cực [94].
2.3.1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Theo kết quả thống kê mới nhất và năm 2016: Dân số của Trung Quốc là
1,370 tỷ ngƣời, với tỷ lệ tham gia lực lƣợng là 76%. Hàng năm, lực lƣợng lao động
Trung Quốc tăng thêm khoảng 10 triệu ngƣời, vì vậy giải quyết việc làm là vấn đề
quan trọng và đầy áp lực đối với Trung Quốc. Trƣớc đòi hỏi cấp bách của thực tế là
giải quyết việc làm cho nông dân, ngay từ năm 1978 sau khi cải cách mở cửa nền
kinh tế, Trung Quốc thực hiện phƣơng châm “ly nông bất ly hƣơng, nhập xƣởng bất
nhập thành” thông qua chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ công nghiệp
Hƣng Trấn nhằm phát triển và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công
lại lao động ở nông thôn, rút ngắn khoảng cách nông thôn và thành thị; coi việc phát
triển công nghiệp nông thôn là con đƣờng GQVL.
Bên cạnh đó, Trung Quốc còn tiến hành xây dựng các khu đô thị nhỏ và vừa
để tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động dƣ thừa ở nông thôn bằng hai cách:
73
Thứ nhất, chuyển lao động sang các ngành công nghiệp và dịch vụ ở các vùng nông
thôn. Thứ hai, chuyển lao động đến các thành phố. Trong quá trình CNH, HĐH từ
năm 1985 – 1990 số lƣợng nông dân rời bỏ sản xuất nông nghiệp để đi tìm việc làm
đã lên tới 200 triệu ngƣời. Đến năm 1995 các khu đô thị vừa và nhỏ đã thu hút đƣợc
khoảng 60 triệu lao động [84, tr15].
Quá trình GQVL của Trung Quốc thay đổi theo từng giai đoạn và hình thức
áp dụng, cũng nhƣ ngành nghề liên quan. “Khi công cuộc cải cách kinh tế đƣợc bắt
đầu từ năm 1978, thị trƣờng lao động của Trung Quốc cũng đƣợc cải cách cơ bản,
các cơ chế thị trƣờng đƣợc áp dụng trong phân công lao động, trả lƣơng, nới lỏng
những hạn chế đối với di chuyển lao động (Knigh và Song 2005). Việc Trung Quốc
ban hành Luật Lao động năm 1994 đã tạo ra khung pháp lý quan trọng cho thời kỳ
cải cách thị trƣờng lao động của quốc gia này [156, tr15]. Kết quả, đã làm tăng hiệu
quả phân bổ lao động và cải thiện nhanh chóng năng suất lao động. Bên cạnh đó,
việc hòa nhập với nền thƣơng mại thế giới cũng tạo điều kiện thuận lợi trong việc
phát huy lợi thế lao động giá rẻ để ứng dụng và phát huy các ngành công nghiệp có
khả năng sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, theo từng giai đoạn khác nhau, việc
cải cách thị trƣờng lao động đã có những tác động tích cực và cả hệ lụy phức tạp, do
tốc độ tăng lƣơng, sự bất cân đối về chất và lƣợng của lao động ở các khu vực nông
thôn, thành thị, trình độ tay nghề khác nhau liên quan đến mức thu nhập khác nhau.
Sự khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa đã dẫn đến phân biệt đối xử trong những
ngƣời lao động di cƣ. Có thể nhận thấy, chiến lƣợc phát triển của Trung Quốc, cùng
với sự bất bình đẳng lớn giữa các khu vực và chi phí lao động có tay nghề cao ngày
càng tăng lên, đã tạo ra sự bất bình đẳng ngày càng lớn ngay cả khi tình trạng đói
nghèo nhìn chung đã giảm.
Từ thực tế trên, có thể khẳng định: việc kết hợp một cách khéo léo giữa sức
mạnh nội lực và ngoại lực là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thành công
của quá trình CNH và GQVL ở Trung Quốc. Sự kết hợp hai yếu tố đó đã phát huy
đƣợc tính tƣơng hỗ giữa chúng, tạo nên sức mạnh to lớn cho phát triển, trong đó,
việc dựa vào và phát huy yếu tố nội lực sẽ cho phép đảm bảo đƣợc các cân đối chủ
yếu, tạo sự phát triển ổn định, bảo vệ đƣợc nền kinh tế quốc gia trƣớc những ảnh
74
hƣởng mạnh mẽ của nƣớc ngoài và là cơ sở để các yếu tố tích cực từ bên ngoài
đƣợc đƣa vào nền kinh tế hiệu quả hơn. Còn sự thích ứng, chuyển đổi thể hiện sự
hội nhập có chuẩn bị, hội nhập chủ động nên sẽ đảm bảo cho đất nƣớc có thể duy trì
quyền sở hữu (độc lập, tự chủ) tính liên tục của xã hội và bản sắc dân tộc.
Những thành tựu đạt được về thực hiện vai trò của Nhà nước trong thị
trường lao động.
Dựa trên HIến pháp, Luật Lao động, các luật và pháp lệnh khác, Chính phủ
Trung Quốc đã chủ động bảo vệ quyền về việc làm trên thị trƣờng lao động của
ngƣời lao động; áp dụng nhiều chính sách và biện pháp can thiệp vào thị trƣờng lao
động để thúc đẩy việc làm, đáp ứng nhu cầu việc làm của ngƣời lao động.
- Trung Quốc thiết lập một cơ chế việc làm định hướng thị trường để giải
quyết vấn đề lao động – việc làm theo hƣớng mở rộng việc làm trong bối cảnh phát
triển và tái cơ cấu nền kinh tế.
+ Mở rộng việc làm thông qua phát triển nền kinh tế: Chính phủ Trung
Quốc xác định thúc đẩy việc làm là một nhiệm vụ chiến lƣợc của phát triển kinh
tế - xã hội.
+ Mở rộng năng lực GQVL thông qua phát triển khu vực dịch vụ: Chính phủ
Trung Quốc duy trì quan điểm phát triển ngành dịch vụ là định hƣớng chủ đạo trong
mở rộng việc làm và khuyến khích sự phát triển của các dịch vụ cộng đồng, giải trí,
lƣu thông, thƣơng mại, du lịch,...vì mục tiêu giải quyết đƣợc nhiều việc làm trong
các ngành này.
+ Khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành phần gắn với tạo nhiều
việc làm cho người lao động. Chính phủ Trung Quốc chủ trọng khai thác lợi thế
nguồn lao động và chủ động phát triển các ngành, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao
động; chú trọng phát triển doanh nghiệp tƣ nhân, nhất là khu vực doanh nghiệp vừa
và nhỏ sử dụng nhiều lao động, kết quả là việc làm trong những ngành, doanh
nghiệp này đã chiếm khoảng 80% số việc làm mới ở khu vực đô thị. Tháng 8/2002,
Trung Quốc ban hành “Luật xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ” nên đã chuẩn hóa
và thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của khối doanh nghiệp này.
Kết quả là cơ cấu việc làm đã từng bƣớc đƣợc điều chỉnh lại; số việc làm
75
ngày càng tăng; các loại hình việc làm đã mềm dẻo và ổn định hơn, đến cuối năm
2006, tổng số việc làm đã đạt 764 triệu, tỷ lệ thất nghiệp thành thị (thất nghiệp có
đăng ký) cuối năm 2006 là 4,1%, giẩm 0,1% so với năm 2005 [156, tr16].
- Trung Quốc củng cố và phát triển hệ thống dịch vụ việc làm công. Từ
cuối những năm 1990, Chính phủ Trung Quốc đã có những bƣớc đi nhằm chuẩn
hóa lại thị trƣờng lao động. Chính phủ đã thiết lập đƣợc một hệ thống dịch vụ việc
làm công. Đến nay, các cơ sở dịch vụ việc làm công đã hiện hữu ở các thành phố và
một số vùng nông thôn của Trung Quốc.
- Trung Quốc củng cố hệ thống an sinh xã hội góp phần duy trì mối quân
hệ lao động bền vững và hài hòa.
+ Thành lập hệ thống “đảm bảo 3 năm”. Vào năm 1998, chính phủ Trung
Quóc thành lập hệ thống đảm bảo 3 năm để đảm bảo cho các khoản trợ cấp thiết yếu
cho lao động dôi dƣ từ khu vực doanh nghiệp Nhà nƣớc (SOE), đảm bảo bảo hiểm
thất nghiệp và đảm bảo trợ cấp thiết yếu cho ngƣời thất nghiệp đô thị.
+ Các trung tâm dịch vụ việc làm được thiết lập ngay tại các doanh nghiệp
Nhà nước có lao động dôi dư. Lao động dôi dƣ có thể tiếp cận quỹ hỗ trợ lao động
dôi dƣ để nhận trợ cấp chi phí sinh hoạt thiết yếu hàng ngày ngay tại các trung tâm
trong vòng 3 năm. Các trung tâm này tƣ vấn việc làm cho lao động dôi dƣ, họ đƣợc
miễn phí tiếp cận thông tin tìm việc làm và một cơ hội đào tạo nghề nghiệp.
+ Trung Quốc củng cố hệ thống đảm bảo thất nghiệp. Vào giữa những năm
1980, Trung Quốc đã thành lập hệ thống bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ ngƣời thất
nghiệp cả chế độ trợ cấp thất nghiệp và chế độ bảo hiểm y tế; đồng thời, hệ thống
cũng hỗ trợ về mặt hành chính và dịch vụ xúc tiến giải quyết việc làm cho ngƣời
thất nghiệp.
Nền kinh tế cải cách và mở cửa đang tạo ra nhiều hình thức việc làm mới
nhƣ việc làm trong khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh khác, việc làm bán thời gian; việc làm tạm thời, việc làm mùa vụ,
việc làm theo giờ,... Những hình thức việc làm này trở nên quan trọng trong gia tăng
số việc làm cho ngƣời lao động. Tuy nhiên, chất lƣợng của những hình thức việc
làm mới này đang là thách thức đối với Trung Quốc trong bối cảnh hội nhập, đáp
76
ứng các thông lệ quốc tế về việc làm bền vững cho ngƣời lao động.
2.3.2. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nƣớc về giải quyết việc làm trong
bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức có thể rút
ra một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Cụ thể nhƣ sau:
2.3.2.1. Những bài học thành công
Thứ nhất, kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, các nƣớc thành công nhất
trong lĩnh vực GQVL chính là những nƣớc duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng kinh tế
cao, liên tục trong một thời gian dài. Vì thế chính sách GQVL không tách rời chiến
lƣợc và chính sách thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, hƣớng đến một sự tăng trƣởng
nhanh, bền vững. Trong giai đoạn đầu tiến hành CNH, các quốc giai đều phải ƣu
tiên GQVL cho nông dân và có các chính sách hỗ trợ cho nông dân trong quá trình
tự tạo việc làm.
Song song với quá trình đó, các nƣớc này đều chú trọng phát triển công
nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành thu hút nhiều lao động với mục đích vừa
giải quyết việc làm cho nông dân vừa phát triển công nghiệp.
Thứ hai, xây dựng các khu công nghiệp tập trung đông thời đào tạo nguồn
lao động đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng (tức là đào tạo theo địa chỉ nơi sử dụng lao
động). Đây là những giải pháp GQVL cho ngƣời lao động trong quá trình chuyển
đổi của nền kinh tế từ nông nghiệp sang CNH, HĐH.
Thứ ba, cùng với quá trình GQVL trong nƣớc, các quốc gia cũng đẩy mạnh
đào tạo để xuất khẩu lao động để vừa GQVL cho ngƣời lao động (Trung Quốc, Hàn
Quốc) vừa tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ của các nƣớc tiên tiến để
phát triển sản xuất trong nƣớc.
Thứ tƣ, đƣa mục tiêu GQVL vào trong các kế hoạch chƣơng trình phát triển
kinh tế xã hội của địa phƣơng. Đồng thời, tích cực đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hƣớng CNH, HĐH phát triển nhanh các khu vực dịch vụ, khuyến khích
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với nhiều hƣớng sản xuất, kinh doanh;
nhiều ngành, nhiều cấp và tạo điều kiện để nhân dân tự tạo việc làm dƣới nhiều hình
thức khác nhau.
77
Thứ năm, chú trọng đầu tƣ phát triển giáo dục đào tạo để nâng cao chất
lƣợng nguồn nhân lực, chú trọng công tác đào tạo nghề, mở rộng mạng lƣới cơ sở
dạy nghề, nâng cao chất lƣợng đào tạo đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng lao động.
Khuyến khích các hình thức du học và tranh thủ đi nhanh và phát triển nguồn nhân
lực chất lƣợng cao phù hợp với xu hƣớng phát triển KTTT.
Thứ sáu, xây dựng chính sách ƣu tiên, khuyến khích, hỗ trợ phát triển sản
xuất kinh doanh, tạo mở việc làm mới nhƣ: cho vay vốn ƣu đãi, miễn giảm thuế 5
năm thời kỳ đầu đối với ngành nghề mới, cho thuê, mƣợn mặt bằng để tổ chức sản
xuất. Xây dựng cơ chế chính sách, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn
và dự án công nghiệp và đô thị.
Thứ bảy, hình thành và phát triển thị trƣờng lao động, xây dựng và hoàn
thiện hệ thống thông tin thị trƣờng lao động, thông qua hệ thống môi giới, tƣ vấn
việc làm và nghề nghiệp để làm cầu nối cho cung – cầu lao động gặp nhau.
3.3.2.2. Những bài học nên tránh
Thứ nhất, kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy việc thực hiện mục tiêu việc
làm bền vững, trong đó ngƣời lao động làm việc có hiệu quả, đƣợc tôn trọng nhân
phẩm, có thu nhâp xứng đáng là không dễ dàng, song cần đƣợc quan tâm thích
đáng, vì đây là những giá trị, chuẩn mực quốc tế của thế giới hiện đại.
Thứ hai, để GQVL cần thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nhanh. Tuy nhiên, nếu
chỉ chú ý đến khía cạnh tốc độ mà không chú ý thỏa đáng đến chất lƣợng, hiệu quả
và tính bền vững của quá trình tăng trƣởng thì quá trình tăng trƣởng và GQVL dài
hạn sẽ bị đe dọa. Thực tế, những tác động tiêu cực đến môi trƣờng cũng nhƣ mức
độ bất bình đẳng trong thu nhập giữa nông thôn và thành thị, giữa các tầng lớp dân
cƣ làm lu mờ một phần thành tựu GQVL của Trung Quốc.
Thứ ba, những sự kiện ở Mỹ gần đây cho thấy quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế ngay cả ở một nƣớc phát triển vẫn có thể chứa đựng những vấn đề
kinh tế - xã hội không dễ giải quyết. Quá trình này có thể làm thiệt đến thu nhập và
việc làm của một bộ phận dân cƣ hay một vùng, địa phƣơng nhất định. Không tạo ra
sự phân phối việc làm và thu nhập một cách tƣơng đối công bằng sẽ tạo ra tâm lý
bất mãn, chống “toàn cầu hóa” và tiềm ẩn những bất ổn xã hội.
78
Kết luận chương 2
CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT là một xu hƣớng tất yếu của thời đại
mà bất cứ quốc gia nào cũng phải trải qua. Trong xu hƣớng đó, KTTT với kỹ năng
lao động cao sẽ thay thế vốn và tài nguyên thiên nhiên. GQVL trong bối cảnh CNH,
HĐH gắn với phát triển KTTT là một thách thức to lớn đối với mỗi quốc gia đang
thực hiện quá trính chuyển đổi của nền kinh tế. GQVL cho ngƣời lao động trong
quá trình CNH, HĐH trong bối cảnh KTTT Nhà nƣớc phải có các chính sách tác
động đến cầu và các chính sách tác động đến cung về lao động cùng các chính sách
hỗ trợ khác nhằm GQVL cho ngƣời lao động.
Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, trong giai đoạn đầu tiến hành CNH,
các quốc gia đều phải ƣu tiên GQVL cho nông dân. Họ chú trọng mở rộng những
ngành thu hút nhiều lao động nhằm tần dụng nguồn lao động tại chỗ để đảm bảo
toàn dụng nguồn nhân lực.
Xây dựng các khu công nghiệp tập trung đồng thời đào tạo nguồn lao động
đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng (tức là đào tạo theo địa chỉ nơi sử dụng lao động).
Đây là những giải pháp GQVL cho ngƣời lao động trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế từ nông nghiệp sang CNH, HĐH.
Cùng với quá trình GQVL trong nƣớc, các quốc gia cũng đẩy mạnh đào tạo
để xuất khẩu lao động. Đƣa ra mục tiêu GQVL vào trong các kế hoạch chƣơng trình
phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng. Đồng thời, tích cực đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH, HĐH, phát triển nhanh các khu vực dịch vụ,
khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tự tạo việc làm dƣới nhiều hình thức
khác nhau.
Chú trọng đầu tƣ phát triển giáo dục đào tạo để nâng cao chất lƣợng nguồn
nhân lực, chú trọng công tác đào tạo nghề, mở rộng mạng lƣới cơ sở dạy nghề, nâng
cao chất lƣợng đào tạo đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng lao động, Khuyến khích các
hình thức du học và tranh thủ đi nhanh vào những ngành KTTT có khả năng và lợi
thế để từng bƣớc hình thành và phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao phù hợp
với xu hƣớng phát triển KTTT.
79
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYÉT VIỆC LÀM
Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓAGẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
3.1. Chủ trƣơng và chính sách giải quyết việc làm của Việt Nam trong
bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
3.1.1. Các chủ trƣơng và định hƣớng cơ bản
Giải quyết việc làm là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của Đảng
và Nhà nƣớc Việt Nam. Mục tiêu của chính sách lao động và GQVL của Đảng là
hƣớng vào giải phóng sức sản xuất, giải phóng và phát huy mọi tiềm năng sức lao
động, khơi dậy tiềm năng của mọi ngƣời và toàn xã hội, coi trọng giá trị sức lao
động, mở rộng cơ hội cho mọi ngƣời đều phát triển. Những quan điểm, tƣ tƣởng
nhƣ vậy đƣợc thể hiện rất rõ trong các văn kiện Đại hội của Đảng thời kỳ đổi mới.
Chẳng hạn, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: "Giải
quyết việc làm là một trong những chính sách cơ bản của quốc gia. Bằng nhiều biện
pháp, hằng năm tạo ra hàng triệu việc làm mới, tận dụng số ngày công lao động
chƣa đƣợc sử dụng đến nhất là trên địa bàn nông thôn” [67, tr.210]. Đến Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, vấn đề này đƣợc cụ thể hóa hơn bằng chủ
trƣơng GQVL trên cơ sở “Khuyến khích ngƣời lao động tự tạo việc làm, phát triển
nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao động. Chú trọng đào tạo
nghề, tạo việc làm cho nông dân,nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi
do đô thị hoá và công nghiệp. Phát triển các dịch vụ phục vụ đời sống của ngƣời lao
động ở các khu công nghiệp. Tiếp tục thực hiện chƣơng trình xuất khẩu lao động,
tăng tỷ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào tạo, quản lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi
chính đáng của ngƣời lao động” [71, tr.215-216]. Tạo môi trƣờng và điều kiện để
mọi ngƣời lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lƣơng và
chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đề ra mục tiêu: "Giải quyết việc
làm cho 8 triệu lao động... Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/ năm, tỷ lệ lao động qua
đào tạo đạt 55%... Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu
80
nhập; khuyến khích tạo thuận lợi để ngƣời lao động học tập nâng cao trình độ lao động,
tay nghề; đồng thời có cơ chế chính sách phát triển, trọng dụng nhân tài”[72, tr.53].
Vấn đề GQVL ở Việt Nam đƣợc thực hiện thông qua việc “đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH”, theo đó, mô hình công nghiệp hóa đƣợc xác định là phải gắn
công nghiệp hóa với kinh tế tri thức, coi “từng bƣớc phát triển kinh tế tri thức” là
phƣơng hƣớng và nhiệm vụ quan trọng. Tƣ tƣởng này đƣợc tuyên bố nhất quán qua
các kỳ Đại hội Đảng, từ Đại hội IX (2001) đến nay.
3.1.2. Hệ thống chính sách
- Chính sách, thể chế phát triển thị trƣờng lao động
Trong những năm đổi mới, nhất là từ giai đoạn 2001 đến nay, hệ thống pháp
luật kinh tế tiếp tục đƣợc hoàn thiện và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế, đồng
thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. (Luật Đất đai,
Luật Đầu tƣ, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Thuế, Luật Phá sản...) đã
góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo điều kiện cho thị trƣờng lao động phát triển.
Đặc biệt, từ khi ban hành Nghị quyết Trung ƣơng 6 khóa X đến nay, Quốc hội và
Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội đã ban hành 191 bộ luật, pháp lệnh nhằm tiến tới hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trƣờng và phát triển thị trƣờng lao động. Bộ luật lao động,
sửa đổi bổ sung năm 2002 và 2006, Luật bảo hiểm xã hội, Luật dạy nghề, Luật
ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài, các nghị định, thông tƣ liên
quan tới lao động, thị trƣờng lao động và việc làm đã hoàn thiện khung pháp lý cho
thị trƣờng lao động phát triển, tăng cƣờng cơ hội việc làm và hoàn thiện quan hệ lao
động. Các chế độ về tiền lƣơng, thu nhập, trợ cấp ngày càng hoàn thiện, góp phần
nâng cao năng suất lao động và cải thiện thu nhập của ngƣời lao động.
- Chính sách kết nối cung cầu lao động
Hệ thống dịch vụ việc làm đƣợc phát triển từ năm 1992 qua Chƣơng trình
việc làm quốc gia theo Nghị quyết số 120/1992/NQ-HĐBT ngày 11/4/1992, đã tạo
môi trƣờng pháp lý phát triển dịch vụ kết nối cung-cầu về lao động, tăng cƣờng cơ
hội để ngƣời lao động tiếp cận thông tin về việc làm, lựa chọn công việc. Đặc biệt,
với việc sửa Điều 18 của Bộ luật lao động năm 1995, Nghị định số 19/2005/NĐ-
81
CP ngày 28/5/2005 và Nghị định số 71/2008/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 19/2005/NĐ-CP đã từng bƣớc hoàn thiện
khung pháp lý cho dịch vụ việc làm. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bƣớc thích ứng với nguyên tắc và chuẩn
mực của thị trƣờng toàn cầu nhằm kết nối cung - cầu về lao động giữa thị trƣờng
trong nƣớc và quốc tế. Cùng với các trung tâm giới thiệu việc làm công lập, các
doanh nghiệp cũng đƣợc phép hoạt động giới thiệu việc làm, kể cả sự tham gia của
các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.
- Chính sách hỗ trợ lao động di chuyển
Chính phủ đã thực hiện các chƣơng trình hỗ trợ di cƣ đến các vùng kinh tế
mới; hỗ trợ di dân thực hiện định canh định cƣ đối với đồng bào dân tộc thiểu số
(Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg)[phụ lục 2] Chƣơng trình di dân gắn với xóa đói
giảm nghèo (thuộc nội dung của Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo
giai đoạn 2006- 2010). Các chƣơng trình di dân đã đáp ứng một phần về tái phân bổ
nguồn lao động, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế vùng, góp phần ổn định đời
sống cho đồng bào dân tộc thiểu số và bảo vệ an ninh quốc phòng.
Các quy định về cƣ trú, đăng ký hộ khẩu tại các khu đô thị, các thành phố lớn
ngày càng thông thoáng. Luật Cƣ trú (năm 2007) đã mở rộng quyền cƣ trú của công
dân, giúp cho việc di chuyển lao động dễ dàng hơn. Các chính sách phát triển đô thị,
các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm... cũng có tác động
kích thích di chuyển lao động, nhất là di chuyển nông thôn - đô thị, góp phần
chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao điều kiện về việc làm và thu nhập cho lao
động nông thôn [78, tr.15].
- Chính sách tín dụng ƣu đãi cho sản xuất, kinh doanh
Thông qua việc ban hành gần 20 chính sách tín dụng ƣu đãi, sử dụng cơ chế
cho vay tín dụng thông qua các chƣơng trình, tổ chức, hội đoàn thể, Nhà nƣớc hỗ
trợ vốn sản xuất, kinh doanh cho các nhóm yếu thế nhƣ lao động nghèo, lao động
nông thôn, lao động đi làm việc có thời hạn ở nƣớc ngoài, lao động vùng chuyển
đổi sử dụng đất nông nghiệp, các tổ chức kinh doanh thu hút nhiều lao động.
82
- Đối với các cá nhân, tổ chức kinh doanh: Chƣơng trình Việc làm quốc gia
đƣợc thành lập theo Nghị quyết số 120/1992/NQ-HĐBT ngày 11/4/1992 có nội
dung cung cấp các khoản vav với lãi suất ƣu đãi để doanh nghiệp và hộ gia đình tạo
việc làm và xuất khẩu lao động. Từ năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
90/2001/NĐ - CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Quy định chính sách hỗ trợ doanh nghiệp từ Trung ƣơng đến địa phƣơng. Ngày
23/10/2006, Thủ tƣớng chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 236/2006/QĐ-TTg
phêduyệt kế hoạch phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2005 - 2010 và đề ra các giải
pháp nhằm tạo môi trƣờng đầu tƣ, kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh
tranh cho các doanh nghiệp trên cơ sở huy động các nguồn lực trong và ngoài nƣớc.
- Đối với ngƣời lao động: Nhà nƣớc đã ban hành nhiều chính sách tín dụng
ƣu đãi cho ngƣời nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số, ngƣời khuyết tật, thanh niên: hỗ trợ
hộ nghèo vay vốn phát triển sản xuất thông qua Chƣơng trình mục tiêu quốc gia xoá
đói giảm nghèo; Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 về việc cho vay
vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn;
Quyết định số 126/2008/QĐ-TTg ngày 15/9/2008 [phụ lục 1] về vay vốn phát triển
sản xuất cho hộ dân tộc; Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 phê duyệt
Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo
bền vững giai đoạn 2009-2020[phụ lục 3].
Bên cạnh đó, nhiều chƣơng trình hỗ trợ khác đƣợc triển khai trong thời kỳ
suy giảm kinh tế từ 2007 đến nay nhằm giúp cho nhiều doanh nghiệp, các hộ sản
xuất kinh doanh vƣợt qua giai đoạn khó khăn, duy trì sản xuất, trả lƣơng và đóng
bảo hiểm xã hội cho ngƣời lao động. Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg ngày
23/02/20 09 về việc hỗ trợ đối với ngƣời lao động mất việc làm trong doanh
nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế; Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày
08/7/2009 về tín dụng đối với thƣơng nhân hoạt động thƣơng mại tại vùng khó
khăn. Một số biện pháp hỗ trợ khác nhƣ: miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp, giãn
thời gian nộp một số loại thuế (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về
những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
83
đảm an sinh xã hội; Nghị quyết số 08/2011/QH13 về ban hành bổ sung một số giải
pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân; Quyết định số
21/2011/QĐ-TTg ngày 06/4/2011 về gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp của
doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tháo gỡ khó khăn, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế...). Ngoài ra, còn có các biện pháp hỗ trợ nhƣ khuyến khích xuất khẩu, ứng
trƣớc kế hoạch đầu tƣ ngân sách nhà nƣớc của các năm sau... đã tác động trực tiếp
tới vấn đề duy trì việc làm và thu nhập cho ngƣời lao động trong bối cảnh suy
giảm kinh tế, ngƣời mất việc làm gia tăng.
- Chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động
Nhà nƣớc đã hình thành một hệ thống chính sách thúc đẩy việc làm ngoài
nƣớc, xây dựng các chƣơng trình trọn gói từ đào tạo, cho vay vốn để hỗ trợ ngƣời
lao động khi về nƣớc, đặc biệt là ngƣời lao động thuộc hộ nghèo: Quyết định số
365/2004/QĐ-NHNN về việc cho vay vốn đối với lao động đi làm việc ở nƣớc
ngoài theo hợp đồng; Quyết định số 143/2007/QĐ-TTg ngày 06/7/2007 về việc
thành lập, quản lý Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nƣớc; Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg
ngày 29/4/2009 phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao
động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020. Quyết định số
1465/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về việc thực hiện thí điểm ký quỹ đối với
ngƣời lao động đi làm việc tại Hàn Quốc theo Chƣơng trình cấp phép việc làm cho
lao động nƣớc ngoài tại Hàn Quốc đƣợc triển khai năm 2013. Ngoài ra Nhà nƣớc
còn hỗ trợ thông tin, tƣ vấn xuất khẩu lao động trên các thị trƣờng lao động quốc tế.
- Chính sách dân số và kiểm soát dân số
Chính sách dân số ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1961 và có thể chia ra thành 2
giai đoạn: giai đoạn giảm sinh từ 1961-2000 và giai đoạn giảm sinh và nâng cao
chất lƣợng dân số 2001-2010. Một số nội dung chủ yếu của các chính sách này nhƣ:
giảm nạo phá thai; giảm mất cân bằng giới tính khi sinh; nâng cao chất lƣợng dân
số.
Một số chính sách kiểm soát mức sinh cụ thể nhƣ sau: thay đổi độ tuổi kết
hôn; bãi bỏ luật chống phá thai; biện pháp chế tài khi sinh nhiều con; nâng cao vị
84
thế phụ nữ; tuyên truyền hạn chế sinh đẻ. Một số chính sách nâng cao chất lƣợng
dân số đƣợc áp dụng nhƣ: sàng lọc bệnh trƣớc hôn nhân; sàng lọc trƣớc khi sinh;
sàng lọc bệnh đối tƣợng sinh con; sàng lọc trẻ sơ sinh.
Sau nhiều năm thực hiện chiến lƣợc Dân số Việt Nam và chiến lƣợc quốc gia
về chăm sóc sức khoẻ sinh sản, Việt Nam đƣợc đánh giá là một trong số ít nƣớc ở
khu vực thành công trong việc kiểm soát tốt mức sinh, đặc biệt là thành tựu giảm số
con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 6.3 con năm 1960 xuống còn
2.03 con năm 2009.
- Chính sách giáo dục đào tạo
Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam đã có nhiều chủ trƣơng, chính sách giáo dục và
đào tạo, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực nhằm GQVL cho ngƣời lao động
trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX nhấn mạnh: “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tƣ cho giáo dục và đào tạo là đầu
tƣ cho sự phát triển” [67]. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định mục tiêu chung
của giáo dục đào tạo là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dƣỡng nhân tài.
Đào tạo ra những ngƣời lao động có phẩm chất chính trị, đạo đức, kiến thức, kỹ
năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ;
có sức khỏe, có khả năng sáng tạo, trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi
trƣờng làm việc và có khả năng hội nhập quốc tế.
Trong thời gian qua có rất nhiều chính sách, chƣơng trình, đề án giáo dục và
đào tạo đã và đang triển khai với mục tiêu nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực
nhằm GQVL cho ngƣời lao động trong trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát
triển KTTT.
3.2. Thực trạng giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
3.2.1. Quy mô và chất lƣợng nguồn nhân lực
3.2.1.1. Quy mô nguồn nhân lực
Theo báo cáo của Bộ Lao động thƣơng binh và xã hội (LĐ-TB&XH) tính
85
đến thời điểm 31/12/2016 dân số cả nƣớc là 95 triệu ngƣời, lực lƣợng lao động (dân
số từ 15 tuổi trở lên đang hoạt động kinh tế) cả nƣớc đạt gần 55,79 triệu ngƣời
(chiếm 59,24% tổng dân số), tăng 1,07 triệu ngƣời (2,04%) so với năm 2015. Giai
đoạn 2004-2016, LLLĐ tăng với tốc độ bình quân 2,31%/năm (tƣơng đƣơng 1,057
triệu ngƣời/năm), gấp hơn 2 lần tốc độ tăng dân số, phản ánh “thời kỳ cơ cấu dân số
vàng”. Tiềm năng lao động lớn của Việt Nam còn thể hiện ở tỷ lệ tham gia lực
lƣợng lao động của ngƣời dân. Lực lƣợng lao động lớn luôn có khoảng 77% (thậm
chí năm 2014 lên tới 77,7%) số ngƣời tham gia[phụ lục 4].Nguồn cung lao động dồi
dào vừa là lợi thế, vừa gây ra thách thức không nhỏ cho vấn đề GQVL.
3.2.1.2. Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lƣợng nguồn nhân lực Việt Nam có thể đƣợc thể hiện qua số liệu ở
Bảng 3.1. và hình 3.1. Các số liệu cho thấy, một mặt, trình độ CMKTcủa LLLĐ
liên tục được cải thiện trong giai đoạn 2004-2015, với mức tăng bình quân
10,51%/năm(1,6 triệu ngƣời/năm), trong đó lao động qua đào tạo có bằng
cấp/chứng chỉ tăng 6,35%/năm (458 nghìn ngƣời/năm), đồng thời, tỷ lệ lao động có
CMKT đã tăng khá nhanh từ 22,7% năm 2004 lên 51,64% năm 2015. Mặt khác,
mặt bằng chất lượng lao động Việt Nam vẫn còn khá thấp so với các nƣớc trong
khu vực. Trong số lao động có CMKT, đến năm 2015, tỷ trọng lao động qua đào tạo
có bằng cấp/chứng chỉ trong LLLĐ còn thấp, mới chỉ đạt 20,29%, tƣơng ứng với
10,69 triệu ngƣời (trong số đó 42% đạt trình độ từ đại học trở lên). Tỷ lệ tƣơng quan
giữa trình độ đại học trở lên - cao đẳng - trung cấp-sơ cấp trong năm 2014 là 1-0,35-
0,63-0,38, phản ánh sự bất hợp lý trong cơ cấu lao động qua đào tạo. Điều này cảnh
báo về sự thiếu hụt kỹ sƣ thực hành và công nhân kỹ thuật bậc cao, cũng nhƣ sự
cạnh tranh việc làm ngày càng gia tăng đối với những ngƣời mới tốt nghiệp đại học.
86
Bảng 3.1: Số lƣợng và cơ cấu LLLĐ theo trình độ CMKT, 2004-2015
Tốc độ tăng
bình quân Tiêu chí 2004 2009 2011 2013 2014 2015 2009- 2004-
2015 2015
Số lượng 43,24 49,30 51,72 53,25 53,75 53,98 1,68 2,34 (triệu người)
1. Không có CMKT 33,43 30,47 30,00 28,08 27,34 26,10 -2,37 -1,73
2. Có CMKT 9,82 18,83 21,72 25,17 26,41 27,88 7,17 10,51
Trong đó, Lao động
qua đào tạo có bằng 5,36 7,94 8,90 9,72 9,99 10,69 4,87 6,35
cấp/chứng chỉ
Cơ cấu (%) 100 100 100 100 100 100
1. Không có CMKT 77,30 61,80 58,00 52,73 50,86 48,36 -2,24 -2,63
2. Có CMKT 22,70 38,20 42,00 47,27 49,14 51,64 2,24 2,64
Trong đó, Lao động
qua đào tạo có bằng 12,39 16,10 17,21 18,26 18,59 20,29 6,98 7,18
cấp/chứng chỉ
Nguồn: - Điều tra Việc làm-Thất nghiệp các năm 1996-2006, Bộ LĐTBXH
- Điều tra Lao động- Việc làm các năm 2007-2015, TCTK
- Số liệu lao động qua đào tạo không có bang cấp/chứng 2004-2015, Bộ LĐTBXH.
- Về nguồn nhân lực chất lƣợng cao. Cả nƣớc hiện có khoảng 9.000 giáo
sƣ và phó giáo sƣ, cùng với trên 3 vạn tiến sĩ, có khoảng hơn 20 vạn ngƣời có trình
độ thạc sỹ. Với số lƣợng trên, Việt Nam là một nƣớc có số lƣợng lớn lao động có
bằng cấp trình độ sau đại học trong khu vực đông Nam Á. Nhƣng số ngƣời có trình
độ đại học trong tổng số lao động lại thấp. Sự gia tăng số nhân lực trình độ đại học
phụ thuộc rất lớn vào số lƣợng sinh viên, quy mô tuyển mới và sinh viên tốt nghiệp
hằng năm.
87
Hình 3.1: Số lƣợng và cơ cấu lực lƣợng lao động có bằng cấp, chứng chỉ
theo các cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật, 2015
Sơ cấp nghề, 1,763,435, 16%
Trung cấp nghề, 770,458, 7%
Đại học trở lên, 4,653,715, 42%
THCN, 2,140,449, 20%
Cao đẳng nghề, 191,745, 2%
Cao đẳng, 1,435,791, 13%
Đơn vị: người
Nguồn: TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm năm 2015
Theo số liệu tổng hợp từ Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Lao động - Thƣơng binh
và Xã hội, năm 2000, Việt Nam có 135 sinh viên/vạn dân, năm 2015 ƣớc tính đạt
215 sinh viên/vạn dân (Bảng 3.2). Với mức độ tăng nhƣ trên, mục tiêu đến năm
2020 sẽ đạt tỉ lệ 450 sinh viên/ 1 vạn dân nhƣ Chính phủ đề ra sẽ khó hoàn thành.
Bảng 3.2. Tỷ lệ siuh viên đại học qua các năm
Năm 2000 2007 2009 2013 2015
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Báo
SV/vạn dân 135 165 196 204 215
cáo của Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội năm 2009 - 2015.
Theo kinh nghiệm của các nƣớc đã thành công trong phát triển đột phá ở khu
vực Đông Á nhƣ Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, thì phải đạt chỉ số sinh viên/vạn
dân từ 300 đến 400 mới đủ nguồn nhân lực trình độ cao, tạo bƣớc nhảy vọt trong
phát triển kinh tế (Năm 2014 chỉ số sinh viên/ 1 vạn dân của Thái lan là 374 sinh
88
viên/1 vạn dân, Hàn Quốc là 670 sinh viên/ 1 vạn dân, Úc 500 sinh viên/ 1 vạn dân,
Mỹ570 sinh viên/ 1 vạn dân. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi từ 20 - 24 học đại học thì
ViệtNam là 10%, Thái Lan là 41%, Trung Quốc là 15%, Hàn Quốc là 89%)[75, 35].
Những con số này cho thấy trên thực tế Việt Nam đang trong tình trạng thiếu cả
“thầy” và “thợ” cho nhu cầu phát triển theo hƣớng KTTT.
Theo kết quả so sánh, chất lƣợng nguồn nhân lực Việt Nam hiện xếp thứ 11
trên tổng số 12 quốc gia đƣợc lựa chọn nghiên cứu. Điều đáng nhấn mạnh là, các
điểm số đánh giá về chất lƣợng cán bộ quản lý hành chính, mức độ thành thạo tiếng
Anh và sự thành thạo công nghệ cao của nguồn nhân lực CLC Việt Nam là rất thấp,
thậm chí thấp hơn và bằng với Indonexia, nƣớc xếp cuối cùng trong bảng so sánh
xếp hạng (các điểm số đó lần lƣợt là 2,75; 2,62; 2,50 trên thang điểm 10).
3.2.2. Tình hình giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
3.2.2.1. Chỉ tiêu giải quyết việc làm trong nền kinh tế
Năm 2015, cả nƣớc có 52,84 triệu ngƣời từ 15 tuổi trở lên có việc làm,
tăng khoảng 95 nghìn ngƣời (0,18%) so với năm 2014. Trong giai đoạn 2004-
2015, mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn
cầu, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng tƣơng đối cao
(6,09%/năm). Khả năng tạo việc làm của nền kinh tế vẫn đƣợc duy trì với tốc độ
tăng trƣởng việc làm bình quân 2,14%/năm trong cùng giai đoạn. Kết quả, hệ số
co giãn việc làm theo tăng trƣởng kinh tế đạt mức 0,35 (tăng trƣởng kinh tế tăng
thêm 1% thì việc làm tăng thêm 0,35%). Tuy nhiên, nếu xét riêng cho giai đoạn
2011-2015, tăng trƣởng kinh tế đã chậm lại, chỉ đạt bình quân 5,81%/năm; tăng
trƣởng việc làm cũng giảm, chỉ đạt 1,3%/năm. Theo đó, hệ số co giãn việc làm
giảm mạnh, chỉ còn 0,22%)[135, tr.20].
Năm 2015, ở thành thị có 16,37 triệu ngƣời có việc làm, tăng thêm 367 nghìn
ngƣời (2,29%); ở nông thôn có 36,47 triệu ngƣời có việc làm, giảm 272 nghìn ngƣời
(-0,74%) so với năm 2014. Giai đoạn 2004-2015, lao động có việc làm ở thành thị
vẫn tiếp tục tăng bình quân 581 nghìn ngƣời/năm (4,9%/năm), trong khi ở nông
89
thôn chỉ tăng 376 nghìn ngƣời/năm (l,12%/năm)[135, tr.21].
Bảng 3.3: Quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo khu
vực thành thị-nông thôn, 2004-2015
Tốc độ tăng
(%/năm)
2015 Giai 2004 2009 2011 2013 2014 2015 so đoạn
với 2004-
2014 2015
1. Quy mô 42,24 43,45 48,02 51,64 52,75 52,84 0,18 2,14 (triệu người)
Thành thị 10,52 13,33 15,39 16,01 16,37 2,29 4,90
Nông thôn 32,93 34,69 36,25 36,74 36,47 -0,74 1,12
2. Cơ cấu (%) 100 100 100 100 100 100 100
Thành thị 24,22 27,76 29,80 29,40 30,98 44,97 1,92
Nông thôn 75,78 72,24 70,20 70,60 69,02 65,03 1,11
Nguồn: - Bộ LĐTBXH, Điều tra Việc làm-Thất nghiệp qua các năm 2004-2006
- TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015
Tình hình thất nghiệp
Trong năm 2015, cả nƣớc có hơn 1,1 triệu ngƣời trong độ tuổi lao động bị
thất nghiệp, tăng 233 nghìn ngƣời so với năm 2014. Tỷ lệ thất nghiệp chung toàn
quổc là 2,33%, tăng 0,49 phần trăm so với năm 2014. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp
thành thị là 3,37%, bằng 1,7 lần so với của khu vực nông thôn (1,82%). Xét trong cả
giai đoạn 2007-2015, tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam vẫn luôn duy trì ở mức thấp dƣới
3%, tuy nhiên có dấu hiệu tăng dần trong những năm gần đây.
90
Tổng số (tr.người), 2010, 1335
Tổng số (tr.người), 2009, 1253
Tổng số (tr.người), 2015, 1104
Tổng số (tr.người),
Tổng số (tr.người), 2011, 1035
2013, 1027Tổng số (tr.người),
2014, 994
Tổng số (tr.người), 2008, 936
Tổng số (tr.người), 2012, 919
Tổng số (tr.người), 2007, 908
Tổng số (tr.người)
Tỷ lệ thất nghiệp chung (%)
Tỷ lệ thất nghiệp thành thị (%)
Hình 3.2: Số lƣợng và tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam, 2007-2015
Nguồn: TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015
Năm 2015, nhóm thanh niên từ 15-24 tuổi có tỷ lệ thất nghiệp cao, 7,03% (tiếp
tục tăng mạnh so với năm 2014), trong khi tỷ lệ thất nghiệp của ngƣời trƣởng thành
từ 25-55 tuổi (nữ)/60 tuổi (nam) chỉ là 1,37%. Ngƣời thất nghiệp trong độ tuổi thanh
niên từ 15-24 chiếm hơn 50% tổng số ngƣời bị thất nghiệp trong năm 2015.
Năm 2015, tỷ lệ thất nghiệp của các nhỏm lao động có trình độ CMKT cao
vẫn giữ ở mức cao. Tỷ lệ thất nghiệp cao nhất ở nhóm có trình độ cao đẳng (7,29%)
và cao đẳng nghề (6,04%), tiếp đến là nhóm có trình độ đại học trở lên (4,07%). So
với năm 2014, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng trong nhóm có trình độ cao đẳng, sơ cấp
nghề và không có CMKT hay bằng cấp/chứng chỉ, giữ nguyên ở nhóm có trình độ
91
đại học trở lên, giảm nhẹ trong các nhóm có trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề
và THCN. Xét về số lƣợng thất nghiệp, lao động không có CMKT chiếm đa số
(69%) trong tổng số ngƣời thất nghiệp)[135, tr.26].
Hình 3.3: Tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật và theo
nhóm tuổi, 2014-2015
2014
2015
8
7.29
7.03
6.83
7
6.41
6.26
6.04
6
5
4.5
4.07
4.07
3.88
3.79
4
3.2
3
2.22
2.1
1.79
1.57
2
1.37
1.3
1
0
THCN
Cao đẳng
Trung cấp nghề
Sơ cấp nghề
Trung cấp nghề
Cao đẳng nghề
Thanh niên (15-24)
Đại học/ Trên đại học
Người lớn (>25-55(nữ) /60 (nam)
Đơn vị: %
Số liệu phân tích trên hình 3.3 cho thấy trong giai đoạn cải cách kinh tế này
Nguồn: TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm năm 2014-2015
tốc độ mất việc làm cao hơn so với tốc độ tạo việc làm, do vậy sẽ tăng tỷ lệ thất
nghiệp. Việc mở cửa tham gia vào thị trƣờng quốc tế làm tăng mức độ biến động
kinh tế vĩ mô. Những bất ổn về tỷ giá và các luồng vốn đầu tƣ làm tăng tỷ lệ thất
nghiệp. Thậm chí nếu tỷ lệ thất nghiệp trung bình trong suốt cả chu kỳ không thay
đổi thì tỷ lệ thay đổi nhân viên có thể tăng và cùng với hiện tƣợng đó là thu nhập và
kinh tế không đƣợc bảo đảm. Trong tổng số ngƣời thất nghiệp thanh niên (từ 15 - 29
tuổi) chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm tới 49,3%) do họ không có kinh nghiệm và trình
độ đào tạo không đáp ứng đƣợc yêu cầu công việc. Có tới 1/3 số ngƣời thất nghiệp
có trình độ từ trung học phổ thông trở lên điều này cho thấy vấn đề quan trọng của
92
kết nối giữa giáo dục và việc làm. Đáng chú ý số lƣợng lao động ở nông nông thôn
bị thất nghiệp đã tăng rất nhanh do tác động đồng thời của việc giảm đất canh tác và
mất việc do tác động của khủng hoảng kinh tế cũng nhƣ các khó khăn của lao động
nông thôn khi tìm việc làm tại đô thị do trình độ tay nghề kém.
Thiếu việc làm
Năm 2015, cả nƣớc có 912 nghìn ngƣời thiếu việc làm (làm việc dưới 35
gìờ/tuần, có mong muốn và sẵn sàng làm thêm giờ), chiếm 2,05% tổng số lao động
trong độ tuổi có việc làm, giảm 203 nghìn ngƣời so với năm 2014. Mức độ thiếu
việc làm ở khu vực nông thôn trầm trọng hơn so với khu vục thành thị. Tỷ lệ thiếu
việc làm ở khu vực nông thôn gấp 2,4 lần ở khu vực thành thị (2,61% so với
1,09%). Lao động thiếu việc làm ở nông thôn chiếm 81,1% tổng số lao động thiếu
việc làm (dù đã giảm gần 127 nghìn ngƣời so với năm 2014).
Giai đoạn 2007-2015, số lao động thiếu việc làm có xu hƣớng giảm nhanh,
bình quân giảm 482 nghìn ngƣời/năm (-17,44%/năm). Kết quả là tỷ lệ lao động
thiếu việc làm đã giảm từ 11,3% năm 2007 xuống còn 2,05% năm 2015.[136, tr.28].
Tổng số người thiếu việc làm (Triệu người)
Tỷ lệ thiếu việc làm chung (%)
Tỷ lệ thiếu việc làm nông thôn (%)
13.43
5
25
4.77
4
20
9.05
3
15
3.38
6.51
6.5
2.5
2.45
4.26
2
10
11.3
3.35
3.28
2.96
2.61
1.61
7.87
1
5
1.27
1.26
1.12
5.61
5.48
0.91
3.57
2.77
2.75
0
0
2.4
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2.05 2015
Hình 3.4: Số lƣợng và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động, 2007-2015
Nguồn: TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015
Nhóm ngành nông nghiệp có tỷ lệ thiếu việc làm cao nhất. Năm 2015, tỷ lệ
thiếu việc làm trong ngành nông nghiệp là 3,75%, trong khi tỷ lệ thiếu việc làm
93
trong ngành CN&XD và ngành DV chỉ tƣơng ứng là 0,94% và 0,78%. Lao động
ngành nông nghiệp vẫn chiếm đến 76,54% tổng lao động thiếu việc làm, mặc dù đã
giảm gần 89 nghìn ngƣời so với năm 2014.[136, tr.29]
Nhóm lao động dễ bị tổn thương bao gồm lao động gia đình và lao động tự
làm có tỷ lệ thiếu việc làm cao nhất (tƣơng ứng là 3,52% và 2,31%), 2 nhóm này
cũng chiếm đến 79,1% tổng lao động thiếu việc làm, tỷ lệ này đã tăng nhẹ so với
năm 2014. Lao động làm công ăn lƣơng có tỷ lệ thiếu việc làm thấp, chỉ là 1,12%.
Mức độ thiếu việc làm trầm trọng hơn ở nhóm lao động trẻ. Năm 2015 tỷ lệ lao
động thiếu việc làm trong LLLĐ từ 29 tuổi trở xuống là 6,04% (tăng so với năm 2014,
5,8%), trong khi tỷ lệ này trong nhóm lao động trƣởng thành là 1,61%.)[136, tr.28].
3.2.2.2. Chuyển dịch việc làm trong cả nền kinh tế
Quá trình chuyển dịch cơ cấu việc làm theo ngành kinh tế đã chậm lại từ sau
khủng hoảng và có xu hướng chững lại trong những năm gần đây. Đến năm 2014,
tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn còn trên 46%, chỉ giảm bình quân mỗi năm 1 phần
trăm trong giai đoạn 2010 -2014, chậm hơn so với giai đoạn trƣớc (1,4 phần
trăm/năm giai đoạn 2004 - 2009). Năm 2015 đánh dấu sự chuyển biến tích cực
trong cơ cấu lao động theo ngành kinh tế. Ngành nông nghiệp có 23,26 triệu lao
động, giảm 1,2 triệu ngƣời (-4,9%) so với năm 2014. Trong khi đó, ngành công
nghiệp có 11,9 triệu lao động, tăng 588 nghìn ngƣời (5,2%); ngành dịch vụ có 17,68
triệu lao động, tăng 692 nghìn ngƣời (4,07%). Sự phục hồi của ngành dịch vụ và
công nghiệpđã góp phần hút nhanh lao dộng ra khỏi nông nghiệp. Tỷ trọng lao động
nông nghiệp đã giảm mạnh, 2,24 điểm phần trăm so với năm 2014 (44,02% năm
2015 so với 46,36% năm 2014), nhanh hơn mức bình quân trong cả giai đoạn 2005-
2015 (chỉ gần 1 điểm phần trăm/năm)[23, tr.26].
Trong giai đoạn này, trung bình mỗi năm lao động trong ngành xây dựng
tăng thêm 323 nghìn ngƣời (2,49%/năm) và ngành dịch vụ tăng thêm 708 nghìn
(4,39%/năm), trong khi đó ngành nông nghiệp chỉ giảm nhẹ 126 nghìn ngƣời
(0,16%/năm)[23, tr.27]. Điều này cho thấy tốc độ thu hút lao động khỏi nông
nghiệp của khu vực phi nông nghiệp (công nghiệp, xây dựng và dịch vụ) vẫn còn
chậm, chƣa giảm đƣợc lao động trong ngành nông nghiệp.
94
Bảng 3.4: Số lƣợng và cơ cấu lao động có việc làm theo ngành kinh
tế2004-2015
Tiêu chí 2004 2009 2011 2013 2014 2015
Tốc độ tăng BQ (%/năm) 2004- 2009- 2015 2015
2,34 42,32 48,02 50,68 51,64 52,75 52,84 1,76
9,62
0,03 100 100 100 100
-0,16 0,00 24,50 24,75 24,52 24,24 24,43 23,26 4,92 7,34 2,49 10,79 10,91 11,31 11,9 5,00 10,48 13,65 15,37 16,49 16,99 17,68 4,39 100 100 100 100 - 1,24 -4,9 57,90 51,50 48,40 46,95 46,31 44,2 4,6 17,40 20,00 21,30 21,12 21,44 22,52 5,2 0,85 24,80 28,40 30,30 31,93 32,20 33,46 4,67 0,05
Cả nƣớc (Triệu ngƣời) Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Không xác định Cơ cấu (%) Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Không xác định Nguồn: Điều tra Việc làm - Thất nghiệp các năm 1996-2006, 2007-2015, Bộ LĐTBXH Đến nay, Việt Nam vẫn là nƣớc có cơ cấu lao động lạc hậu trong ASEAN với tỷ lệ
lao động nông nghiệp cao thứ 4 (sau Lào, Ấn Độ và Myanmar)
Hình 3.5: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế (%) của Việt Nam và các nƣớc
trong khu vực, năm 2013
100
20.4
28.1
31.93
37.8
38.5
40.6
41.5
80
8.3
53.4
71.4
77.2
24.8
60
21.12
20.3
19.4
30.1
25.2
15.6
40
71.3
47.1
46.95
41.9
40
20
33.3
24.9
31.4
30.9
16.8
6.1
3.7
0
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Nguồn:- ADB&ILO, Báo cáo Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới thịnh vượng chung và việc làm tốt hơn.
95
3.2.2.3. Giải quyết việc làm trong các khu vực kinh tế
Việc làm trong khu vực nông nghiệp, nông thôn:
Năm 2004, ở khu vực nông thôn, số hộ thuần nông chiếm 68,8%, hộ kiêm
nghề chiếm 12,7% và phi nông nghiệp 18,4%. Nguồn thu của hộ nông dân từ nông,
lâm, ngƣ nghiệp chiếm 77,5%; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ nông thôn chiếm
22,5% tổng thu. Lao động trong nông, lâm, ngƣ nghiệp chiếm 59,04% trong tổngsố
lao động xã hội. Năm 2015 tỷ lệ lao động trong nông, lâm, ngƣ nghiệp giảm xuống
còn 44,02% đánh dấu sự chuyển dịch nhất định trong cơ cấu lao động chung. Tuy
kết quả chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn những năm qua diễn ra còn chậm so
với yêu cầu, chƣa đều giữa các vùng và các địa phƣơng nhƣng cũng có những điểm
mới là xu hƣớng đa dạng hóa ngành nghề của lao động ở khu vực nông thôn ngày
càng tăng. Các làng nghề nông thôn đƣợc khôi phục và phát triển, tạo nhiều việc
làm, góp phần thúc đẩy sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Cùng với
sự ra đời của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, nhiều làng nghề đƣợc khôi
phục và phát triển đã thu hút đƣợc nhiều nguồn vốn trong dân cƣ, tạo đƣợc việc làm
tại chỗ cho hàng chục vạn lao động và đào tạo, bồi dƣỡng những lao động phổ
thông thành lao động có kỹ thuật. Sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và ngành nghề
nông thôn tăng bình quân 15%/năm. Năm 2015 cả nƣớc có 2.971 làng nghề, khoảng
1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với khoảng 1,4 triệu hộ, thu hút hơn 10 triệu
lao động (trong đó có khoảng 1,5 triệu ngƣời làm hàng mỹ nghệ)[26, tr.57].Tuy
vậy, trong nền kinh tế, lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn chủ yếu vẫn có
trình độ chuyên môn thấp, năng suất lao động không cao.
Việc làm trong công nghiệp
Trong giai đoạn 2004 - 2015 giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp bình
quân khoảng 10%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản
tăng trƣởng bình quân 12-14%/năm. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp cũng có sự
chuyển dịch tích cực theo hƣớng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến từ 80,9 %
năm 2004 đến 84,4% năm 2014[29, tr.22]. Lợi thế so sánh trong các ngành chế
biến, chế tạo sử dụng nhiều lao động đã đƣợc khai thác với ƣu thế của ngành công
96
nghiệp chế biến xuất khẩu so với các sản phẩm xuất khẩu thô. Nhiều sản phẩm
công nghiệp không chỉ đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế nhƣ dệt,
may, sắt thép, hàng điện tử... mà còn tham gia vào xuất khẩu và chiếm tỷ trọng
cao. Các sản phẩm xuất khẩu của ngành dệt may và giày dép đã vƣợt mức 10 tỷ
USD)[29, tr.26] dẫn đầu các ngành hàng tham gia xuất khẩu. Đây đƣợc coi là
những yếu tố thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH,
HĐH. Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của khu vực công nghiệp còn yếu ngay cả
với các nƣớc trong khu vực, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm chƣa cao. Hầu hết các mặt
hàng công nghiệp của nƣớc ta nằm dƣới dạng nguyên liệu hoặc dƣới dạng gia
công (giày dép, dệt, may), lắp ráp (điện tử, máy vi tính), tỷ lệ sản phẩm chế tạo rất
thấp, giá trị mới tạo ra trong sản phẩm chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Bởi vậy, số lƣợng việc
làm đƣợc tạo ra từ sản xuất công nghiệp chủ yếu vẫn là lao động có giá trị gia tăng
thấp. Công nghiệp chế biến vẫn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu và vật liệu phụ
nhập khẩu, dù phí cao. Trong hơn 30 năm đổi mới, lĩnh vực công nghiệp chế biến,
chế tạo chỉ tăng đƣợc 1,6% [145]. Bởi vậy, lĩnh vực này chƣa tạo ra nhiều việc làm
nhƣ kỳ vọng.
Việc làm trong các ngành dịch vụ
Năm 2015 chứng kiến sự tăng trưởng việc làm mạnh mẽ trong một số ngành
dịch vụ nhƣ Thông tin và truyền thông (20,1%); Hoạt động hành chính và dịch vụ
hỗ trợ (17,1%); sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nƣớc nặng, hơi nƣớc và điều
hòa không khí (16%); Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình
(11,1%). Tuy nhiên, tổng việc làm trong 4 ngành này chỉ chiếm 1,7% tổng việc làm
của nền kinh tế)[23, tr.28]. Bên cạnh đó, việc làm trong hoạt động tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm và hoạt động kinh doanh bất động sản, chiếm 1% trong tổng việc
làm, tăng trƣởng khá (tƣơng ứng 6,3% và 5,7%). Quan trọng hơn nữa, việc làm
trong các ngành bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và các xe có động
cơ khác, chiếm 12,4% trong tổng việc làm, đang có dấu hiệu phục hồi (tăng trƣởng
0,7%)[23, tr.29]. So với năm 2014, bảy ngành có lao động tăng nhiều nhất là “công
nghiệp chế biến, chế tạo” (tăng 675 nghìn ngƣời), “dịch vụ lƣu trú và ăn uống”
97
(tăng 139 nghìn ngƣời), “bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có
động cơ khác” (tăng 135 nghìn ngƣời), “hoạt động dịch vụ khác” (tăng 95 nghìn
ngƣời), “vận tải kho bãi” (tăng 86 nghìn ngƣời), “xây dựng” (tăng 47 nghìn ngƣời)
và “y tế và hoạt động TGXH” (47 nghìn ngƣời). Ngƣợc lại, ba ngành giảm lao động
nhiều nhất là “nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản” (giảm gần 1,2 triệu ngƣời),
“khai khoáng” (giảm 16 nghìn ngƣời), “hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính
trị xã hội, quản lý nhà nƣớc, an ninh quốc phòng, đảm bảo xã hội bắt buộc” (giảm
11 nghìn ngƣời). [133]
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
675
Khai khoáng
139
Hoạt động của ĐCS, tổ chức chính trị xã hội, QLNN, ANQP, BĐXH bắt buộc
135
SX và phân phối điện, khí đốt, nước năng, hơi nước và điều hòa không khí
95
Giáo dục và đào tạo
86
Hoạt động KD bất động sản
47
Hoạt động của các tổ chức và cơ quan quốc tế
47
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ
27
Nghệ thuật vui chơi và giải trí
20
Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải
13
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
12
Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình
11
Thông tin và truyền thông
10
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ
9
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội
1
Xây dựng
(1)
Vận tải kho bãi
(5)
Hoạt động dịch vụ khác
(6)
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe và các xe có động cơ khác
(11)
Dịch vụ lưu trú và ăn uống
(16)
Công nghiệp chế tạo
(1,169)
(1,200)
(1,000)
(800)
(600)
(400)
(200)
0
200
400
600
800
Hình 3.6: Biến động việc làm theo ngành kinh tế, năm 2015 so với năm 2014
Nguồn: TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm năm 2014-2015
Trong những năm qua dịch vụ là ngành tạo ra nhiều việc làm nhất và có tốc
độ tăng trƣởng nhanh nhất. Tuy nhiên những năm gần đây tốc độ tăng trƣởng của
dịch vụ có phần chậm lại do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
98
Cơ cấu việc làm theo nghề vẫn còn lạc hậu. Đến năm 2014, vẫn còn hơn
40% số lao động có việc làm đang làm trong các nghề sơ cấp, lao động giản đơn;
khoảng 49,39% tập trung trong các nghề yêu cầu kỹ năng trung bình nhƣ nhân viên
văn phòng, nhân viên làm dịch vụ cá nhân, bảo vệ, lao động có kỹ thuật trong nông
nghiệp, thợ thủ công, thợ lắp ráp & vận hành máy móc, thiết bị,... Trong khi đó, chỉ
có khoảng 9,22% số việc làm thuộc nhóm nghề CMKT bậc cao, bậc trung và hơn
1,1% là các nhà lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị. Đáng lƣu ý, tỷ
trọng lao động giản đơn trong tổng việc làm lại có xu hƣớng tăng nhẹ từ 39,1% lên
40,05% trong giai đoạn 2010-2014.[136,tr 30]
45.00
40.05
40.00
35.00
30.00
25.00
20.00
16.1
15.00
12.22 11.97
7.37
10.00
6.11
3.11
5.00
1.73
1.09
0.21
0.00
Hình 3.7: Cơ cấu lao động theo nghề (%), năm 2014
Nguồn: Điều tra Lao động-Việc làm năm 2014, TCTK
Đặc biệt, cũng đang tồn tại bất cập giữa nghề nghiệp và trình độ đào tạo của
lao động. Năm 2014, trong tổng số 46,4 triệu lao động có việc làm trong độ tuổi lao
động, có 1,68 triệu ngƣời (chiếm 3,61%) làm các công việc thấp hơn so với trình độ
đào tạo của họ và 526 nghìn ngƣời có CMKT (chiếm 1,13%) nhƣng lại làm công
việc của lao động giản đơn. Ngƣợc lại, hơn 495 nghìn ngƣời (chiếm 1,07%) làm
99
công việc cao hơn so với trình độ đƣợc đào tạo[136, tr.26].
Chuyển dịch việc làm theo vị thế còn chậm do tăng trưởng việc làm công ăn
lương đang có xu hướng chậm lại, năm 2015, cả nƣớc có 20,77 triệu lao động làm
công hƣởng lƣơng, chiếm 39,32% trong tổng số việc làm, tăng 3,68 phần trăm so
với năm 2014; 1,53 triệu chủ doanh nghiệp có thuê lao động, chiếm 2,9%; 21,44
triệu lao động tự làm và 9,07 triệu lao động hộ gia đình. Giai đoạn 2005-2015, tốc
độ tăng trƣởng việc làm theo vị thế tăng mạnh ở nhóm chủ doanh nghiệp
(22,25%/năm) và lao động làm công ăn lƣơng (5,91%/năm). Trong khi đó, lao động
tự làm và lao động hộ gia đình chỉ tăng rất nhẹ 0,11%/năm và đã giảm khá mạnh ở
năm 2015, cho thấy dấu hiệu tích cực trong TTLĐ.[136, tr.26].
Bảng 3.5: Cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo vị thế việc
làm, 2005-2015
Cơ cấu (%) Tốc độ tăng (%/năm)
2015 so Giai đoạn 2005 2009 2013 2014 2015 với 2014 2005-2015
1. Lao động làm 25,70 33,80 34,80 35,64 39,32 10,50 5,91 công hƣởng lƣơng
2. Chủ doanh nghiệp 0,40 4,80 2,49 2,09 2,90 39,08 22,25 có thuê lao động
3. Lao động tự làm 73,90 61,40 62,71 62,28 57,78 -7,03 0,11 và lao động gia đình
Tổng cộng 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
Nguồn: - Bộ LĐTBXH, Điều tra Việc làm-Thất nghiệp qua các năm 2005-2006
- TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015
Khu vực làm công hưởng lương vẫn còn khá phổ biến tình trạng việc làm dễ
bị tổn thương. Đến năm 2015, khu vực này có hơn 8,2 triệu lao động chƣa đƣợc ký
kết HĐLĐ bằng văn bản, chiếm 40,29% tổng số lao động làm công hƣởng lƣơng.
Không có HĐLĐ đồng nghĩa với việc những lao động này không đƣợc tham gia
đóng và hƣởng các chế độ BHXH, BHYT bắt buộc, cùng với đó là nguy cơ bị sa
100
thải bất cứ lúc nào do nằm ngoài sự bảo vệ của pháp luật lao động. Giai đoạn 2013-
2015, mặc dù tỷ lệ lao động này đã giảm (từ 41,23% năm 2013 còn 40,29% năm
2015), song số lƣợng vẫn tiếp tục tăng hơn 400 nghìn ngƣời/năm.[136, tr.26].
3.2.2.4. Sự thay đổi trong cơ cấu việc làm có trình độ cao trong các ngành
Nền kinh tế nƣớc ta hiện nay là nền kinh tế mở cửa ra thế giới, nền kinh tế
hƣớng ngoại. Bởi vậy, cùng với sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế kéo theo sự
chuyển dịch của cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế. Trong quá trình CNH,
HĐH gắn với phát triển KTTT với sự phát triển của các ngành nghề mới và nâng
cấp trong các ngành nghề đã tác động đến đổi mới chất lƣợng nguồn nhân lực để
đáp ứng quá trình chuyển giao công nghệ, làm chủ công nghệ, xử lý hệ thống thông
tin kỹ thuật, lắp đặt và vận hành, bảo trì công nghệ, tổ chức sản xuất...Cơ cấu sử
dụng lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật trong các ngành này có sự khác
biệt so với các ngành khác. Kéo theo sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế trình độ
ngƣời lao động trong từng ngành nghề cũng có sự thay đổi.
Bảng 3.6. Cơ cấu nhân lực có trình độ đại học theo ngành kinh tế
Ngành kinh tế
Tổng số nhân lực CLC Nông, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp khai thác mỏ Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nƣớc Xây dựng Công nghiệp chế biến, chế tạo Thƣơng nghiệp, sửa chữa xem có động cơ Dịch vụ lƣu trú và ăn uống Thông tin và truyền thông Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ Giáo dục và đào tạo Các hoạt động khác 2004 100 4,34 1,17 1,57 4,46 10,46 8,31 1,64 2,11 3,82 0,93 33,47 22,72 2013 Tăng/giảm 100 3,46 0,85 1,51 4,30 11,05 9,41 1,96 3,50 4,11 1,25 33,83 24,77 Giảm Giảm Giảm Giảm Tăng Tăng Tăng Tăng Tăng Tăng Tăng Tăng
Nguồn: Điều tra cầu lao động tại 8 tỉnh/TP 12/2013: Điều tra LĐ-VL năm
2013 Bộ LĐTH&XH.
101
Cơ cấu nhân lực theo ngành kinh tế trong bảng thống kê trên phát triển theo
hai xu hƣớng:
(1) Xu hƣớng giảm tỷ trọng nhân lực trình độ đại học trong những ngành
gồm: Nông, lâm nghiệp, thủy sản (giảm từ 4,34% xuống 3,46%); Đối với nhóm
ngành chế biến nông, lâm hải sản nhất là chế biến thực phẩm và đồ uống đóng góp
quan trọng vào cơ cấu chế biến
Công nghiệp khai thác mỏ (giảm từ 1,17% xuống 0,85%); Sản xuất và phân
phối điện, khí đốt, nƣớc (giảm từ 1,57% xuống 1,51%); trong tổng số nhân lực đại
học. Đây là những ngành gắn liền với nền kinh tế nông nhiệp và ít gần với tri thức
khoa học công nghệ hiện đại.
(2) Xu hƣớng tăng tỷ trọng nhân lực trình độ đại học trong những ngành:
Công nghiệp chế biến, chế tạo: Thƣơng nghiệp, sửa chữa xe có động cơ; Dịch vụ
lƣu trú và ăn uống; Thông tin và truyền thông; Tài chính, ngân hàng và bảo
hiểm; Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ; Giáo dục và đào tạo. Đây
là nhữngngành mà yêu cầu về hàm lƣợng chất xám và tri thức KH - CN nghệ hiện
đạt đƣợc đặt ra ở mức cao, gắn với xu hƣớng phát triển của thời đại.
3.2.2.5. Việc làm trong các ngành công nghệ cao ở Việt Nam
Công nghệ thông tin vàtruyền thông (ICT) là một điểm sáng trong phát
triển KTTT với tỷ trọng đóng góp cao trong các tiêu chí phát triển KTTT của Việt
Nam. Sự lớn mạnh của ICT Việt Nam không chỉ thể hiện ở cả xếp bậc thứ hạng mà
còn cả quy mô ngành và thị trƣờng cũng nhƣ tốc độ phát triển. Tuy nhiên nếu tính
theo tỷ lệ dân truy cập Internet thì hiện nay Việt Nam vẫn đang ở thứ hạng khá
khiêm tốn: xếp thứ 9 trong khu vực châu Á và thứ 93 trên thế giới.
Công nghệ thông tin đƣợc ứng dụng khá sâu rộng trong nhiều lĩnh vực kinh
tế quốc dân và hoạt động xã hội nhƣ ngân hàng, dầu khí, hàng không, bƣu chính
viễn thông. Hàng loạt công nghệ hiện đại đã đƣợc ứng dụng thành công nhƣ mạng
viễn thông số hóa, mạng cáp quang, công nghệ GSM và CDMA. Một số công nghệ
mới nhƣ 3G, 4G, WiMax và mobile TV đang đƣợc tiếp tục thử nghiệm để đƣa vào
ứng dụng. Ngoài các tuyến cáp quang nhƣ SEA-ME-WE-3, Thái Lan-Việt Nam-
102
Hồng Kông, còn có hệ thống cáp ngầm Á - Mỹ sẽ đƣợc hoàn thành vào cuối năm
2008. Công nghệ WiFi ngày càng trở nên phổ biến.
Đến 2014, tổng doanh thu ngành công nghệ thông tin đạt 5,22 tỷ USD trong
đó phần cứng đạt 4,1 tỷ USD, phần mềm đạt 680 triệu USD, công nghiệp nội dung
số đạt 440 triệu USD. Tổng nhân lực trong ngành công nghiệp công nghệ thông tin
ƣớc trên 200.000 ngƣời, trong đó lao động thuộc lĩnh vực phần cứng là 110.000
ngƣời, phần mềm 57.000 ngƣời, lĩnh vực nội dung số là 33.000 ngƣời[147, tr.97].
Theo phân tích của VietnamWorks, trong 3 năm vừa qua, số lƣợng công việc
ngành Công Nghệ Thông Tin - Phần Mềm đã tăng trung bình 47% mỗi năm. Tuy
nhiên, số lƣợng nhân sự ngành này chỉ tăng ở mức trung bình 8%.
Thực tế cho thấy, thị trƣờng nhân lực CNTT đang thiếu hụt nghiêm trọng.
Cụ thể, từ nay đến năm 2020, nếu tiếp tục tăng trƣởng nhân lực ở mức 8%, chúng ta
sẽ thiếu hụt khoảng 78.000 nhân lực IT mỗi năm, và đến năm 2020 sẽ thiếu
hơn500.000 nhân lực IT, chiếm hơn 78% tổng số nhân lực IT thị trƣờng cần.
Hiện nay, cả nƣớc có 271 cơ sở đào tạo CNTT. Thậm chí, ngay cả dựa theo chỉ
tiêu tuyển sinh với quy mô đào tạo tăng 10% mỗi năm, Bộ Thông tin&Truyềnthông
vẫn dự báo nguy cơ thiếu nhân lực CNTT trầm trọng trong những năm tới. Điều đáng
nói là, đa phần những sinh viên CNTT hiện nay đang chƣa thể đáp ứng nhu cầu tuyển
dụng của doanh nghiệp do thiếu những kỹ năng cần thiết trong công việc nhƣ kiến thức
và khả năng thực hành lập trình, khả năng tiếp cận công nghệ mới, tiếng Anh, kỹ năng
giao tiếp, phỏng vấn, tiếp xúc cùng doanh nghiệp... Theo thống kê của Viện Chiến lƣợc
CNTT, hiện nay 72% sinh viên ngành CNTT không có kinh nghiệm thực hành, 42%
thiếu kỹ năng làm việc nhóm, 100% không biết lĩnh vực hành nghề. Đặc biệt là đối với
các sinh viên mới tốt nghiệp, chỉ khoảng 15% sinh viên ra trƣờng đáp ứng yêu cầu
doanh nghiệp. Hơn 80% lập trình viên phải đào tạo lại, cá biệt có những doanh nghiệp
phải mất tới 2 năm để đào tạo lại. Đồng thời các doanh nghiệp, công ty phần mềm
trong nƣớc cũng đang chật vật tìm kiếm nguồn nhân lực CNTT chất lƣợng cao.
Nói chung, nhu cầu lao động chất lƣợng cao trong các ngành công nghệ cao
(CNTT, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới...) và một số loại hình dịch vụ
103
hiện đại đã thúc đẩy phát triển đào tạo lao động chất lƣợng. Cơ cấu sử dụng lao động
theo trình độ CMKT trong các ngành này có sự khác biệt so với các ngành khác.
Bảng 3.7: Cơ cấu sử dụng lao động một số ngành công nghệ cao và dịch vụ (%)
LĐ phổ CNKT, Trung CĐ ĐH Tổng số Lĩnh vực hoạt động thông sơ cấp cấp trở lên
Công nghệ TT 28,22 20,4 51,38 100
KH, công nghệ 16,2 22,5 15,5 45,8 100
Thông tin liên lạc 10,0 61,0 22,7 20,5 100
Tài chính, ứng dụng 8,5 28,1 21,4 42,0 100
HĐ của TC QT 6,2 6,3 25 62,5 100
Nguồn: Điều tra cầu lao động tại 8 tỉnh/TP 12/2013: Điều tra LĐ-VL năm
2013 Bộ LĐTH&XH.
Phần lớn lao động làm việc trong các ngành này là lao động có kỹ năng. Đây
là những ngành mới phát triển mạnh ở nƣớc ta (công nghệ thông tin...) hoặc các
ngành phải đổi mới về quy trình, công nghệ hoạt động phù hợp với xu thế
TCHKT(viễn thông, kinh doanh ngân hàng, bảo hiểm...). Trong các ngành này tỷ lệ
lao động có trình độ CĐ, ĐH trở lên rất cao: ngành CNTT 51,38%, hoạt động của
các tổ chức quốc tế 62,5%[149, tr.25]. Chính sự phát triển của các ngành này trong
các năm qua là một kênh kích thích phát triển đào tạo lao động trình độ CMKT cao.
3.2.2.6. Giải quyết việc làm thông qua thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Mở cửa, hội nhập, thu hút FDI là cách các nƣớc đang phát triển thích ứng với
bối cảnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức. Ở Việt Nam, từ khi tiến hành đổi mới,
hoạt động thu hút FDI rất đƣợc coi trọng. Trong giai đoạn 2004 - 2014 các dự án
đầu tƣ nƣớc ngoài tập trung đầu tƣ vào lĩnh vực công nghiệp chiếm tỷ trọng cao
nhất với tổng số 2.431 dự án và trên 45,7194 tỷ USD (chiếm 66,26% về số dự án
đầu tƣ và trên 56,67% về vốn đầu tƣ đăng ký). Trong đó, công nghiệp nặng là 995
dự án, công nghiệp nhẹ là 975 dự án, xây dựng là 242 dự án, công nghiệp thực
phẩm là 190 dự án và công nghiệp dầu khí là 29 dự án. Kế đến là lĩnh vực dịch vụ
với 754 dự án đầu tƣ, thu hút trên 14,52 tỷ USD vốn đầu tƣ (chiếm 20,55% số dự án
104
và trên 37,14% số vốn đăng ký đầu tƣ). Lĩnh vực nông - lâm - nghiệp thu hút ít dự
án đầu tƣ nhất, chỉ có 484 dự án với số vốn 2,42 tỷ USD (chiếm 13,19% số dự án và
chỉ chiếm 6,19% tổng vốn đăng ký)[24, tr.25]. Qua bảng 3.8 ta thấy khu vực FDI
thu hút lao động không nhiều nhƣng tốc độ tăng việc làm của khu vực này khá ổn
định, đạt tốc độ bình quân năm là 16,6%, làm tăng tỷ trọng lao động làm việc ở khu
vực này từ mức 0,83% trong năm 2000 lên tới 6,17 % trong năm 2014[23, tr.28].
Bảng 3.8: Số lƣợng lao động chia theo các loại hình kinh tế trong khu
vực FDI thời kỳ 2009-2014 (Đơn vị: ngƣời)
Ngành Công nghiệp và xây dựng Nông nghiệp Dịch vụ Năm
2000 366.370 3.902 37.293
2005 1.1.41.091 7.700 71.039
2010 1.993.230 11.151 72.825
2012 2.498.707 9.141 212.118
2014 2.932.232 9.813 280.494
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Xét về cơ cấu lao động theo ngành ta thấy: trong khu vực FDI, lao động và việc
làm chủ yếu tập trung trong các công nghiệp và xây dựng (năm 2013 chiếm tới 90,5%).
Xét về tỷ trọng sử dụng lao động theo giới tính, số lao động nữ ở khu vực có vốn FDI
chiếm 65,4% [52, tr.18], chủ yếu làm việc trong ngành công nghiệp chế biến (ngành dệt
may) và làm nghề vận hành máy móc thiết bị (chủ yếu là vận hành máy may công nghiệp).
Đối với một số ngành công nghiệp xuất khẩu, tác động tạo việc làm của khu
vực FDI lớn hơn so với mức bình quân chung.Tỷ trọng lao động trong khu vực FDI
trong các ngành công nghiệp xuất khẩu có tỷ lệ cao [phụ lục 5] và ngày càng tăng
lên nhƣ: ngành may mặc (21,2%), ngành dệt (18,8%), các sản phẩm sản xuất da
(38,7%)[52, tr.l9]. Rõ ràng, khu vực FDI đã có tác động tích cực chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và cơ cấu lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Số việc làm do khu vực FDI tạo ra chiếm tỷ trọng không lớn nhƣng là việc
làm có suất đầu tƣ cao (suất đầu tƣ bình quân/ chỗ làm việc khu vực FDI là 663,4
triệu đồng, so với mức bình quân của toàn bộ nền kinh tế là khoảng 39,3 triệu
105
đồng). Mức đầu tƣ/ chỗ làm việc cao của khu vực FDI đã góp phần nâng cao trình
độ công nghệ và quản lý, năng suất và hiệu quả của việc làm [25, tr.15].
Khu vực FDI cũng tạo việc làm gián tiếp cho ngƣời lao động với mức cao
hơn gấp nhiều lần so với số việc làm trực tiếp, thông qua các hợp đồng cung ứng
dịch vụ, gia công và đại lý (tỷ lệ tạo việc làm trực tiếp so với việc làm gián tiếp của
một số doanh nghiệp FDI nhƣ Coca Cola là 1/12; American Feed: 1/23; Shell
Comado: 1/59,1; Haiha-katobuki: 1/31; Samsung Vina: 1/9,9)[25, tr.15].
Trong xu thế nhƣ vậy, khu vực FDI cùng với khu vực tư nhân đang dần
thay thế khu vực nhà nước trong tạo việc làm. Năm 2015, khu vực FDI, chiếm
4,17% tổng việc làm của nền kinh tế, với tốc độ tăng trƣởng việc làm
12,47%/năm trong cả giai đoạn 2005-2015 (các con số tƣơng ứng của khu vực tƣ
nhân là 11% và 6,77%/năm). Khu vực nhà nƣớc chiếm 10,16% tổng số việc làm
của nền kinh tế, song tốc độ tăng việc làm của khu vực này thấp và có xu hƣớng
giảm nhanh trong những năm gần đây (1,56%/năm giai đoạn 2011-2015 so với
2,35%/năm giai đoạn 2005- 2015)[25,tr.55].
Bảng 3.9: Cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo hình thức sở hữu,
2004-2015
Cơ cấu (%)
Tốc độ tăng (%/năm)
Thành phần
2015 so
Giaiđoạn
kinh tế
2004
2005
2009
2013
2014
2015
với 2014
2005-2015
l. Nhà nƣớc
14,20 10,20
9,89
10,21
10,34
9,81
-4,89
2,35
2. Tập thể
2,34
2,40
0,23
0,22
-2,51
0,60
0,24
-18,39
3. Tƣ nhân
5,90
6,10
8,80
10,95
24,70
6,29
8,37
6,77
4. Cá thể
64,36 79,70
83,22
77,76
76,36
74,74
-1,95
1,55
5. Có vốn đầutƣ
1,20
1,60
2,36
3,42
3,88
4,17
7,51
12,47
nƣớc ngoài
6.Khác/Hỗn hợp
0,00
0,00
0,00
0,39
0,10
Tổng cộng
100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
Nguồn:- Bộ LĐTBXH, Điều tra Việc làm-Thất nghiệp qua các năm 2005-2006
- TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015
106
3.2.2.7. Giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu hàng hóa và lao động
- Xuất khẩu hàng hóa với vấn đề GQVL
Tận dụng lợi thế nhân công giá rẻ, xuất khẩu hàng hóa đã tạo ra số lƣợng
đáng kể việc làm cho ngƣời lao động và gián tiếp góp phần giải quyết vấn đề xã hội.
Tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu luôn cao gấp 2 đến 3 lần tốc độ tăng trƣởng GDP,
thời gian qua, xuất khẩu đã giúp tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho hàng triệu
nông dân và các lao động khác nhau tham gia xuất khẩu hàng nông sản, hàng dệt
may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ và các hàng hóa khác.
So với các ngành khác của nền kinh tế, theo báo cáo “Năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp xuất khẩu” do CIEM công bố, các doanh nghiệp xuất khẩu đã
tạo đƣợc nhiều việc làm hơn so với doanh nghiệp không xuất khẩu cùng ngành.
Cụ thể, năm 2009, trung bình một doanh nghiệp xuất khẩu may mặc tuyển dụng
215 lao động, cao gấp 3,5 lần so với doanh nghiệp không xuất khẩu, ngành thủy
sản cao cấp 2,4 lần và điện tử cao gấp 3 lần [26, tr.12]. Sau năm suy thoái kinh tế
2008 đến nay, trong khi xu hƣớng giảm lao động vẫn đang tiếp tục ở hầu hết các
doanh nghiệpkhông xuất khẩu thì số lao động ở các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn
duy trì và đang tăng trở lại. Điều này thể hiện phần nào sự phản ứng tốt hơn của
doanh nghiệp xuất khẩu so với doanh nghiệp không xuất khẩu hoạt động trong môi
trƣờng cạnh tranh khốc liệt hơn sau khi Việt Nam thực hiện cam kết WTO cũng nhƣ
tác động của khủng hoảng tài chính và lạm phát cao trong nƣớc.
- Xuất khẩu lao động
Tác động của toàn cầu hóa đối với di chuyển lao động nƣớc ta ra thị trƣờng
lao động thế giới theo cơ chế thị trƣờng đƣợc hình thành kể từ năm 1990. Đƣa
ngƣời lao độngViệt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài (gọi tắt là xuất khẩu lao động)
đã đóng vai trò quan trọng trong GQVL, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, góp
phần phát triển kinh tế, giảm nghèo trong giai đoạn vừa qua. Kể từ khi Luật “Đƣa
ngƣời Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nƣớc ngoài theo hợp đồng” chính thức
có hiệu lực, tổng số lƣợt ngƣời đi làm việc ở nƣớc ngoài tăng nhanh: Năm 1990 là
3069 ngƣời, 2000: 31 nghìn ngƣời. Giai đoạn 2005-2015, số lƣợng lao động Việt
107
Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài bình quân mỗi năm là 80,82 nghìn ngƣời và tăng
với tốc độ bình quân 3,7%/năm (tƣơng đƣơng 4,54 nghìn ngƣời/năm). Đặc biệt,
năm 2015, số lƣợng lao động Việt Nam đƣa đi làm việc ở nƣớc ngoài đã đạt mức
kỷ lục cao nhất từ trƣớc đến nay, gần 116 nghìn ngƣời, tăng mạnh so với năm
2014 (8,55%) nhờ sự khai thác tốt các thị trƣờng trọng điểm truyền thống nhƣ Đài
Loan (chiếm 57,87% tổng số lao động xuất khẩu của cả nƣớc), Nhật Bản (23,29%)
và Malaixia (6,34%) [136, tr.25].
Bảng 3.10: Quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng lao động đi làm việc ở nƣớc
ngoài theo nƣớc tiếp nhận, 2005-2015
Tốc độ tăng (%/năm)
2005 2009 2013 2014 2015 2015 so Giai đoạn
với 2014 2005-2015
Quy mô 70,59 73,03 88,16 106,84 115,98 8,55 3,70 (nghìn người)
2. Cơ cấu (%)
- Đài Loan 32,27 29,68 52,60 58,15 57,87 8,04 9,53
- Hàn Quốc 17,14 10,38 6,18 6,78 5,19 -16,89 -2,93
4,19 7,47 10,99 18,50 23,29 36,65 - Nhật bản 18,68
34,85 3,82 8,58 2,11 6,34 226,22 -14,09 - Malaysia
9,58 3,75 5,51 0,00 0,00 - Lào
- A-rập Xê út 0,00 2,44 1,93 3,92 3,43
1,43 1,12 2,35 0,78 0,25 - U.A.E
0,53 41,34 11,86 9,76 3,63 - Khác
Đưa lao động có nghề đi làm việc ở nước ngoài ngày càng được chú trọng.
Nguồn: Bộ LĐTBXH, Cục Quản lý lao động ngoài nước
Tỷ lệ lao động có CMKT đƣa đi làm việc ở nƣớc ngoài hằng năm đã tăng đáng kể
từ 14,1% năm 2004 lên 44,1% năm 2015. Đến nay, số lƣợng lao động có nghề đƣa
đi làm việc ở nƣớc ngoài ngày càng tăng thông qua các chƣơng trình tu nghiệp sinh,
108
chƣơng trình thẻ vàng của Hàn Quốc, các chƣơng trình đƣa lao động là kỹ sƣ,
chuyên gia sang Nhật, Đức và một số thị trƣờng khác... Đặc biệt trong những năm
gần đây, Việt Nam đã tăng cƣờng hợp tác về lao động trong lĩnh vực у tế với chính
phủ Đức và Nhật Bản với việc thí điểm đƣa điều dƣỡng viên, hộ lý sang các nƣớc
này làm việc.
Bên cạnh các tác động tích cực, hoạt động xuất khẩu lao động cũng đã và
đang tồn tại một số vấn đề. Mặc dù chất lƣợng lao động xuất khẩu đã đƣợc cải
thiện, song mặt bằng chung còn thấp. Hiện nay, nhìn chung các thị trƣờng (ngay cả
đối với thị trƣờng nhận nhiều lao động phổ thông nhƣ: Malaysia, Đài Loan, Trung
Đông) đều gia tăng nhu cầu lao động có tay nghề. Đối với những thị trƣờng luôn đòi
hỏi lao động có trình độ tay nghề cao (Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Đông Âu), ngƣời
lao động còn phải có trình độ ngoại ngữ nhất định.
Khả năng tiếp cận các dịch vụ XKLĐ qua các kênh thông tin chính thức
của ngƣời lao động còn hạn chế. Việc chuẩn bị cho ngƣời lao động các kỹ năng và
văn hóa cần thiết trƣớc khi ra nƣớc ngoài chƣa đƣợc đảm bảo. Việc làm và thu
nhập của bộ phận ngƣời đi XKLĐ không ổn định, gặp nhiều khó khăn trong việc
thích nghi với điều kiện sống và làm việc tại nƣớc ngoài. Chính sách hậu xuất
khẩu lao động về giải quyết việc làm và tái hòa nhập cho ngƣời lao động sau khi
kết thúc hợp đồng về nƣớc còn thiếu. Công tác hỗ trợ ngƣời lao động của các
doanh nghiệp XKLĐ còn nhiều bất cập.
3.3. Thu nhập của ngƣời lao động
3.3.1. Mức tăng thu nhập chung của ngƣời lao động
Năm 2015, mức tiền lƣơng bình quân tháng của một lao động là 4.151 nghìn
đồng, tăng khoảng gần 1,90 lần so với năm 2009 (2.258 nghìn đồng) và tốc độ tăng
giai đoạn 2009-2015 khá cao, 11,90%/năm [135, tr.34].
109
Bảng 3.11: Tiền lƣơng bình quân tháng của lao động và tốc độ tăng
lƣơng bình quân tháng của lao động, 2009-2015
Tiền lƣơng bình quân (nghìn đồng/lao động/tháng) Tốc độ tăng,
2009-2015 Nhóm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 (%/năm)
11,90 Chung 2.258 2.474 2.809 3.483 3.789 4.126 4.151
11,02 Nam 2.483 2.668 3.056 3.630 3.938 4.302 4.402
12,41 Nữ 1.987 2.297 2.712 3.267 3.575 3.881 3.807
Nguồn: ILSSA tính toán từ số liệu Điều tra Lao động-Việc làm của TCTK
qua các năm 2009-2015
Tốc độ tăng tiền lƣơng danh nghĩa từ 2009 đến 2012 khá phù hợp với tốc độ
tăng NSLĐ, tuy nhiên từ năm 2013 tốc độ tăng tiền lƣơng có xu hƣớng tăng nhanh
hơn tốc độ tăng NSLĐ, điều này là do quá trình điều chỉnh tăng tiền lƣơng tối thiểu
từ năm 2012 đến nay.
Bảng 3.12: Tốc độ tăng tiền lƣơng bình quân, GDP, chỉ số giá tiêu dùng
và năng suất lao động theo giá hiện hành, 2009-2015
Đơn vị: %
Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Tốc độ tăng tiền lƣơng bình quân 9,57 13,54 23,99 8,79 8,89 12,00
Tốc độ tăng CPI 6,88 9,19 18,58 9,21 6,60 4,09 0,63
Tốc độ tăng GDP 5,40 6,42 6,24 5,25 5,42 5,98 6,68
Tốc độ tăng NSLĐ 10,17 15,71 25,82 15,06 8,78 8,81 6,16
Nguồn: - TCTK, Số liệu báo cáo kinh tế xã hội hàng năm 2009-2015
- ILSSA tính toán từ số liệu Điều tra Lao động-Việc làm của TCTK qua các năm 2009-2015
Tiền lương trong giai đoạn 2009 - 2015, tăng nhanh qua các năm
nhưngmức tiền lương bình quân vẫn khá thấp.
Tốc độ tăng tiền lƣơng thực tế bình quân của Việt Nam trong 5 năm trở lại
đây là 7.8%/năm. Mức tăng này một phần là do tiền lƣơng tối thiểu vùng do Chính
110
phủ quy định đƣợc điều chỉnh tăng hàng năm (bình quân khoảng 15%/năm, trong
cùng giai đoạn) và các doanh nghiệp trả lƣơng cho lao động bám sát so với tiền
lƣơng tối thiểu vùng. Mặc dù vậy, mức tiền lƣơng bình quân/lao động ở Việt Nam
vẫn rất thấp.
3.3.2. Thu nhập theo ngành nghề
Cùng với sự chuyển dich của cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong giai
đoạn 2004-2015 thu nhập của ngƣời lao động trong các ngành kinh tế khác nhau
cũng có sự thay đổi. Đặc biệt từ năm 2009 đến năm 2015 thu nhập theo ngành kinh
tế đã có sự thay đổi rõ rệt.
Bảng 3.13: Tiền lƣơng bình quân tháng của lao động và tốc độ tăng chia theo
nhóm ngành, 2009-2015
Tiền lƣơng bình quân (nghìn đồng/lao động/tháng)
Tốc độ tăng
Ngành
2009-2015
kinh tế
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
(%/năm)
10,39
Nông nghiệp 1.693,9 1.827,4 2.203,2 2.559,2 2.719,4 2.874,7 2.936
10,82
Công nghiệp 2.221,9 2.389,8 2.633,9 3.110,5 3.339,9 3.664,9 4.027
10,06
Dịch vụ
2.953,2 2.833,6 3.417,4 4.095,3 4.522,4 4.876,8 4.583
Nguồn: ILSSA tính toán từ số liệu Điều tra Lao động-Việc làm của TCTK
qua các năm 2009-2015
Số liệu ở Bảng 3.13 cho thấy, nông nghiệp là khu vực có mức tiền lương
thấp nhất, mặc dù có tốc độ tăng tiền lương cao hơn, song vẫn chưa thu hẹp
được khoảng cách về tiền lương với các khu vực còn lại. Năm 2015, mức tiền
lƣơng trong nông nghiệp là 2.936 triệu đồng/ngƣời/tháng, chỉ bằng 70,73% mức
tiền lƣơng chung và bằng 64,06% mức lƣơng trong khu vực dịch vụ, mặc dù
trong cả giai đoạn, tốc độ tăng tiền lƣơng trong nông nghiệp khá cao
(10,39%/năm). Khu vực công nghiệp có mức tăng tiền lƣơng thấp nhất, trong đó
ngành công nghiệp chế biến chế tạo chỉ tăng 10.8%. Thực tế cũng cho thấy đây là
ngành có nhân công giá rẻ và và đây đƣợc coi là một lợi thế để thu hút đầu tƣ
nƣớc ngoài. Tuy nhiên, mức tiền lƣơng khá thấp đang trở thành khó khăn và
111
thách thức lớn cho ngƣời lao động trong việc cải thiện cuộc sống lẫn nâng cao
trình độ, chất lƣợng lao động. Khu vực dịch vụ có mức tiền lƣơng cao nhất và liên
tục tăng qua các năm với tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2009-2015 là
10,06%/năm[136, tr.36].
3.3.3. Thu nhập giữa các vùng kinh tế
Theo số liệu thống kê của Bộ LĐ - TBXH, mức lƣơng tối thiểu vùng do Nhà
nƣớc quy định, áp dụng đối với ngƣời lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp,
hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có
thuê mƣớn lao động, là mức sàn thấp nhất để doanh nghiệp và ngƣời lao động thỏa
thuận tiền lƣơng.
Tiền lương tối thiểu vùng đã dần theo hướng thị trường và thông qua
thương lượng ba bên ở cấp quốc gia
Mức lƣơng tối thiểu vùng đƣợc Chính phủ điều chỉnh hàng năm, căn cứ vào
khuyến nghị của Hội đồng tiền lƣơng quốc gia dựa trên kết quả đồng thuận thông
qua thƣơng lƣợng của các bên. Năm 2015, mức tiền lƣơng tối thiểu vùng I là 3.100
nghìn đồng, vùng II là 2.750 nghìn đồng, vùng III (tƣơng đƣơng bình quân cả nƣớc)
là 2.400 nghìn đồng và vùng IV là 2.150 nghìn đồng; vùng 3 (gần mức bình quân
của cả nƣớc) tăng bình quân giai đoạn 2009-2015 là 26,94%/năm.[136, tr.36].
Bảng 3.14: Mức lƣơng tối thiểu vùng, 2009-2015
Đơn vị: nghìn đồng/người/tháng
2009 2010 2011
10/2011 DN DN DN Vùng 2013 2014 2015 DN DN DN -2012 trong trong trong FDI FDI FDI nƣớc nƣớc nƣớc
Vùng I 800 1.200 980 1.340 1.350 1.550 2.000 2.350 2.700 3.100
Vùng II 740 1.080 880 1.190 1.200 1.350 1.780 2.100 2.400 2.750
Vùng III 690 950 810 1.040 1.050 1.170 1.550 1.800 2.100 2.400
Vùng IV 650 920 730 1.000 830 1.100 1.400 1.650 1.900 2.150
Nguồn: Thống kê mức tiền lương tối thiểu theo quy định của Chính phủ
112
Tốc độ tăng tiền lương tối thiểu vùng cao hơn so với tốc độ tăng chỉ số giá
và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Hình 3.8: Tốc độ tăng tiền lƣơng tối thiểu vùng, chỉ số giá và tăng trƣởng kinh
tế, 2009-2015
50
47.62
40
30
29.63
27.78
20
18.58
17.39
16.67
16.13
14.29
10
6.6 6.6
9.19 6.42
6.24
6.88 5.4
9.21 5.25
5.98 4.09
6.68 0.63
0
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Tốc độ tăng TL tối thiểu
Tốc độ tăng CPI
Tốc độ tăng GDP
Nguồn: Thống kê về tiền lương tối thiểu vùng theo quy định của Chính phủ và TCTK qua
các năm 2009-2014
Tiền lương tối thiểu* của vùng 3, vùng có mức tiền lương tối thiểu gần tương đương với
tiền lương tối thiểu chung
Đơn vị: %
Giai đoạn từ 2009-2015, tốc độ tăng tiền lƣơng tối thiểu vùng khá nhanh, bình
quân 26,94%/năm, bình quân tăng cao hơn 4,63 lần so với tốc độ tăng GDP và 3,31
lần so với tốc độ tăng chỉ số giá. Nguyên nhân chính là do ảnh hƣởng bởi suy giảm
tăng trƣởng (đến 2015 tăng trƣởng kinh tế mới bƣớc đầu phục hồi), Chính phủ sử
dụng nhiều chính sách nhƣ thắt chặt và cắt giảm chi tiêu công, các chính sách kiềm
chế lạm phát nên chỉ số giá tiêu dùng đã giảm từ 18% năm 2011 xuống 0,63% năm
2015,[136, tr.36] mức tiền lƣơng tối thiểu chƣa đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu. Do
vậy, trong thời kỳ này, nếu chỉ nhìn vào tốc độ tăng của tiền lƣơng tối thiểu, tăng
trƣởng kinh tế và chỉ số giá tiêu dùng thì mối quan hệ giữa các yếu tố này theo lý
thuyết là chƣa hợp lý.
Tiền lương tối thiểu tăng nhanh, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu sống
tối thiểu của người lao động
113
Mặc dù tiền lƣơng tối thiểu tăng nhanh nhƣng vẫn chƣa đáp ứng đủ nhu cầu
sống tối thiểu của ngƣời lao động, đặc biệt trong năm 2010 và 2011 khi chỉ số giá
tăng cao, mức lƣơng tối thiểu vùng quy định chỉ đáp ứng khoảng 47% nhu cầu tối
thiểu của ngƣời lao động. Do tốc độ tăng nhanh của tiền lƣơng tối thiểu khu vực
doanh nghiệp nên đến 2015 mức đáp ứng này đã tăng lên 80%. Do tiền lƣơng tối
thiểu của vùng 3 có mức gần nhất với tiền lƣơng tối thiểu bình quân cả nƣớc,
hìnhdƣới đây mô phỏng tiền lƣơng tối thiểu quy định của Chính phủ và các mức
tiền lƣơng tối thiểu đủ sống theo tính toán.
3.4. Đánh giá về kết quả giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
3.4.1. Những thành tựu đạt đƣợc
Trong hơn 10 năm vừa qua, kinh tế Việt Nam đã vƣợt qua đƣợc những khó
khăn do tác động của cuộc suy thoái toàn cầu gây ra, quá trình CNH, HĐH theo
hƣớng hội nhập quốc tế, gắn với phát triển KTTT vẫn tiếp tục đƣợc đẩy mạnh, tăng
trƣởng kinh tế tuy chậm lại song vẫn duy trì đƣợc mức tƣơng đối cao và điều đó đã
có ảnh hƣởng tích cực đến các kết quả GQVL. Những thành tựu chính trong lĩnh
vực này là:
Thứ nhất, với việc ƣu tiên cao cho mục tiêu GQVL, hệ thống luật và chính
sách liên quan đến vấn đề GQVL đã đƣợc ban hành ngày càng đầy đủ và hoàn thiện
hơn. Các chính sách tạo việc làm và hỗ trợ để ngƣời lao động tự tạo việc làm
(Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về việc làm, dự án cho vay giải quyết việc làm...);
hỗ trợ đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài (cho vay tín dụng, bồi dƣỡng
kiến thức, nghề nghiệp trƣớc khi đi lao động ở nƣớc ngoài,...)...đã góp phần không
nhỏ vào việc GQVL ở Việt Nam.
Thứ hai, nền kinh tế ngày càng tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Cơ hội có
việc làm của ngƣời lao động tăng lên, giải tỏa đƣợc sức ép về việc làm cho ngƣời
lao động trong bối cảnh lực lƣợng tham gia lao động ngày càng tăng, với tốc độ
tăng bằng 2 lần tốc độ tăng dân số trong giai đoạn 2014 -2015. Tỷ lệ thất nghiệp
chung luôn duy trì đƣợc ở mức dƣới 3% (năm 2015: 2,33%).
114
Thứ ba, cơ cấu việc làm dịch chuyển theo hƣớng tiến bộ phù hợp với yêu cầu
của quá trình CNH, HĐH, gắn với phát triển KTTT. Việc làm trong ngành công
nghiệp và dịch vụ tăng nhanh hơn ngành nông nghiệp. Tỷ trọng lao động việc làm
trong nông nghiệp giảm từ 59,6% năm 2004 xuống còn 44,02% năm 2015. Sốlƣợng
việc làm trong các ngành công nghệ cao (đặc biệt ngành CNTT) ngày càng tăng.
Lao động phổ thông giảm cả tƣơng đối và tuyệt đối. Lao động làm công ăn lƣơng có
xu hƣớng tăng. Lao động làm việc trong khu vực FDI, trong lĩnh vực sản xuất phục
vụ xuất khẩu cũng nhƣ ở nƣớc ngoài tiếp tục tăng cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọngcho
thấy phản ứng tích cực của nền kinh tế trƣớc nhu cầu hội nhập quốc tế trong bối
cảnh KTTT.
Thứ tư, quy mô, cơ cấu và chất lƣợng lao động ngày càng đƣợc cải thiện.
Điểm mạnh của nguồn nhân lực nƣớc ta là quy mô lớn, có khả năng tiếp thu
nhanh các thành tựu khoa học - công nghệ của thế giới, một bộ phận lao động lành
nghề và lành nghề cao đã đƣợc đào tạo trong và ngoài nƣớc theo các chuẩn mực lao
động quốc tế. Hệ thống giáo dục, đào tạo, dạy nghề tuy còn nhiều bất cập vẫn tiếp
tục đƣợc mở rộng và phát triển, có khả năng hội nhập, thích ứng nhanh với nền giáo
dục và đào tạo hiện đại của khu vực và thế giới.
Thứ năm, thu nhập của ngƣời lao động ngày càng tăng. Xét trong toàn bộ nền
kinh tế, trong cả thời kỳ 2004 - 2015 mức tăng thu nhập của ngƣời lao động xấp xỉ
12%/ năm cao hơn mức tăng thu nhập trung bình của khu vực ASEAN (khu vực
ASEAN tăng gần 9% giai đoạn 2004 - 2015) [23, 34]. Trong khi đó, chênh lệch tiền
lƣơng giữa các nhóm lao động có xu hƣớng đƣợc thu hẹp.
Thứ sáu,lao động có xu hƣớng việc làm bền vững hơn thể hiện ở sự gia tăng
tỷ lệ lao động có hình thức ký kết hợp đồng lao động (HĐLĐ) không xác định thời
hạn. Tổ chức công đoàn có sự gia tăng về số lƣợng cơ sở, số lƣợng đoàn viên góp
phần tích cực hơn trong vai trò hỗ trợ và bảo vệ ngƣời lao động và là tiền đề hình
thành thỏa ƣớc lao động tập thể (TƢLĐTT).
3.4.2. Những hạn chế, yếu kém
- Tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp cơ cấu vẫn đáng quan ngại.
115
Trong giai đoạn 2004 - 2015, theo số liệu thống kê chính thức, tỷ lệ
thấtnghiệp chung của cả nƣớc là tƣơng đối thấp (các năm đều dƣới 3%). Tuy vậy
con số này có lẽ không bao quát đầy đủ đƣợc hiện trạng thất nghiệp ở Việt Nam
do việc thu thập số liệu thống kê là khó khăn khi mà khu vực kinh tế phi chính
thức còn rất rộng lớn. Vấn đề thực sự cần quan tâm ở đây là các hình thức thất
nghiệp “trá hình” (làm việc không đầy đủ thời gian hay làm việc trong điều kiện
tồi tệ, kém an toàn, thu nhập thấp), đặc biệt ở khu vực nông thôn (năm 2015, tỷ lệ
thiếu việc làm ở nông thôn là 2,61% cao gấp 2,4 lần so với khu vực thành thị). Tỷ
lệ thất nghiệp cao trong thanh niên và trong nhóm lao động đƣợc đào tạo, có trình
độ CMKT cao là đáng quan ngại vì nó làm gia tăng chi phí kinh tế - xã hội, lãng
phí nguồn nhân lực, đồngthời làm giảm cơ hội tăng trƣởng kinh tế. Sốthất nghiệp
thanh niên 15-24 tuổi chiếm hơn 50% tổng số ngƣời thất nghiệp của năm 2015.
Cũng trong năm này, tỷ lệ thất nghiệp của đối tƣợng tốt nghiệp cao đẳng lên tới
7,29%, tốt nghiệp cao đẳng nghề là 7,9%, của nhóm có trình độ đại học trở lên là
4,07%. Điều này phản ánh phần nào sự bất cập của hệ thống giáo dục đào tạo
trong đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng lao động.
Xu hƣớng tỷ lệ thất nghiệp tăng đặc biệt sau năm 2008, cho thấy tác động
của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và mức độ tổn thƣơng của nền kinh tế do các tác
động bên ngoài trong môi trƣờng hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chất lƣợng lao động Việt Nam còn thấp, so với đòi hỏi của quá trình CNH,
HĐH trong bối cảnh KTTT.
Mặc dù đã có sự chuyển biến tích cực về chất lƣợng, trình độ của LLLĐ Việt
Nam vẫn còn thấp, so với yêu cầu phát triển cũng nhƣ so với các nƣớc trong khu
vực. Năm 2015, hơn 48% LLLĐ không có chuyên môn kỹ thuật (CMKT) và chỉ có
khoảng 20,29% LLLĐ đƣợc đào tạo, có bằng cấp/chứng chỉ. Hiện nay, quy mô lao
động qua đào tạo và chất lƣợng lao động CMKT vẫn còn có khoảng cách so với các
nƣớc NICs và các nƣớc phát triển. Trình độ văn hóa bình quân của ngƣời lao động
là 7.4 năm/12, thấp hơn so với nhiều nƣớc trong khu vực.
Tỷ lệ lao động có việc làm qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp nên chất lƣợng việc
116
làm không cao, năng suất lao động thấp.
- Chất lƣợng lao động thấp cũng đƣợc biểu hiện ở chất lƣợng và cơ cấu việc
làm. Ở Việt Nam, trên 63% trong tổng số việc làm là việc làm dễ bị tổn thƣơng (lao
động tự làm và lao động hộ gia đình); 41% là các công việc giản đơn; hơn 44% là
việc làm trong ngành nông nghiệp có năng suất thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động
chƣa tƣơng xứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu việc làm theo ngành kinh tế đã chậm lại từ sau
khủng hoảng. Giai đoạn 2010 - 2014, tỷ lệ lao động nông nghiệp chỉ giảm 1,66 phần
trăm; tăng trƣởng việc làm trong ngành dịch vụ cao gần gấp đôi so với ngành công
nghiệp (4,2%/năm so với 2,3%/năm), trong khi đó việc làm trong ngành nông nghiệp
cũng vẫn tiếp tục tăng nhẹ (0,1%/năm), cho thấy tốc độ thu hút lao động khỏi nông
nghiệp của khu vực phi nông nghiệp vẫn còn quá chậm, chƣa giảm đƣợclao động
trong ngành nông nghiệp. Tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực nông, lâm, thủy sản
cao cho thấy mục tiêu “đến năm 2020 còn khoảng 25-30% lao động xã hội”[11,
tr.l5]làm việc trong khu vực này không thể thực hiện đƣợc.
Hiện nay, tình trạng thiếu công nhân lành nghề cao là nghiêm trọng; cả nƣớc
chỉ có khoảng 8000 công nhân lao động bậc cao (tƣơng đƣơng bậc 6,7), chỉ có
khoảng 9,22% số việc làm thuộc nhóm nghề CMKT bậc cao, bậc trung và hơn 1,1%
là các nhà lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị. Đáng lƣu ý, tỷ trọng lao
động giản đơn trong tổng việc làm lại có xu hƣớng tăng nhẹ từ 39,1% lên 40,05%
trong giai đoạn 2010-2014 [23, tr.l3]. Các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao và xuất khẩu lao động còn gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động
CMKT phù hợp với công nghệ mới và các chuẩn mực lao động quốc tế.
Trên thị trƣờng lao động, có sự mất cân đối rõ rệt giữa cung và cầu lao động,
đặc biệt là lao động chất lƣợng cao do đào tạo chƣa gắn vào nhu cầu của các khu
vực kinh tế và các ngành và sự mất cân đối giữa các ngành nghề đào tạo. Hiện nay,
số lƣợng sinh viên ngành văn hóa nghệ thuật là 1,3%, nông lâm ngƣ nghiệp là
3,13%, khoa học cơ bản là 15,5%, khoa học công nghệ và kỹ thuật là 15,2%, khoa
học xã hội 42,78%[23, tr.15]. Thực tế này tạo ra tình trạng cung lao động CMKT
117
cao hơn nhiều so với cầu lao động đối với một số ngành nghề, lĩnh vực, cho dù trên
bình diện chung, lao động chất lƣợng cao là thiếu hụt.
Ngoài ra, thu nhập lao động ở Việt Nam nói chung còn thấp, đặc biệt là ở
khu vực nông nghiệp, nông thôn hay trong khu vực kinh tế phi chính thức. Cũng có
sự chênh lệch thu nhập từ việc làm giữa các vùng và điều này cũng có thể làm nảy
sinh những vấn đề xã hội cần giải quyết.
NSLĐ: Mặc dù, NSLĐ của Việt Nam vẫn còn thấp nhƣng xét về khoảng
cách NSLĐ giữa Việt Nam với các quốc gia có NSLĐ cao thì đang có sự thu hẹp
khoảng cách tích cực. Nguyên nhân NSLĐ của Việt Nam ở trong nhóm nƣớc có
mức thấp trong khu vực, gồm: (i) Trình độ công nghệ sản xuất của Việt Nam thấp;
(ii) Việc làm vẫn tập trung ở nhóm ngành có năng suất thấp; (iii) Chất lƣợng lao
động thấp,Việt Nam hiện đang chủ yếu làm công nghiệp chế biến và gia công, với ít
hàm lƣợng tri thức; (iv) Trình độ quản lý chƣa cao và đóng góp của năng suất nhân
tố tổng hợp (TFP) cho tăng trƣởng kinh tế còn hạn chế.
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
Kết quả GQVL hạn chế trƣớc hết phản ánh những bất cập chung của cả nền
kinh tế, trong đó mô hình tăng trƣởng kinh tế theo chiều rộng dần dần bộc lộ những
nhƣợc điểm của nó, nhất là khi các nguồn lực đầu vào vật chất (vốn, tài nguyên
thiên nhiên) ngày càng khó huy động; chất lƣợng tăng trƣởng suy giảm và không
mang tính bền vững. Hệ quả là việc làm chậm đƣợc chuyển dịch theo hƣớng tiến
bộ, bị kẹt lại quá lâu trong những khu vực, ngành nghề có giá trị gia tăng thấp, dựa
nhiều vào lao động giản đơn hay khai thác tài nguyên thô (nông nghiệp, công
nghiệp khai khoáng, dệt may...).
Nhà nƣớc chƣa có định hƣớng, quy hoạch tổng thể phát triển việc làm dài
hạn, quy hoạch phát triển vùng, ngành nghề sản xuất kinh doanh cho nên sự chuyển
dịch cơ cấu lao động còn chậm, lạo động chủ yếu làm trong lĩnh vực nông nghiệp
hoặc khu vực phi chính thức có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp.
Khung pháp lý có liên quan đến vấn đề việc làm, GQVL và sự vận hành của
thị trƣờng lao động tuy đã có bƣớc hoàn thiện song vẫn còn nhiều điểm bất cập. Thị
118
trƣờng lao động còn chƣa phát triển, còn bị chia cắt giữa các ngành, vùng, miền địa
phƣơng. Ngƣời lao động còn chƣa thật sự đƣợc di chuyển tự do trong việc tìm kiếm
việc làm thích hợp. Sự kết nối cung cầu về lao động còn gặp nhiều khó khăn. Tổ
chức hoạt động dịch vụ việc làm chƣa chuyên nghiệp, chƣa khoa học.
Chẳng hạn, Báo cáo lao động và tiếp cận việc làm (UNDL, 3/2013) đã chỉ ra
một số hạn chế của Bộ luật lao động hiện hành: (i) Luật chỉ áp dụng cho các doanh
nghiệp có ít nhất 10 lao động, nên đã bỏ qua một bộ phận lớn trong nền kinh tế, đặc
biệt là khu vực phi chính thức; (ii) Lao động trong khu vực Nhà nƣớc có nhiều quyền
lợi và đƣợc bảo vệ nhiều hơn so với khu vực ngoài quốc doanh; (iii) Lao động tự do
và lao động trong nông nghiệp gần nhƣ nằm ngoài phạm vi tác động của Luật.
Luật Dạy nghề chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 song đến nay, một số
nội dung của Luật vẫn chƣa đƣợc hƣớng dẫn đầy đủ để thực hiện bằng các văn bản
dƣới Luật. Điều này ít nhiều đã có những ảnh hƣởng nhất định tới hiệu quả của
Luật. Bên cạnh đó, quá trình thực thi Luật Dạy nghề cũng vấp phải khá nhiều các
vấn đề khi Luật này có sự chồng chéo và xung đột với Luật Giáo dục, đặc biệt là về
công tác quản lý, điều hành.
Một hạn chế lớn của các chính sách việc làm hiện nay là chúng chủ yếu mới
chú trọng đến tạo việc làm theo chiều rộng, càng tạo ra nhiều việc làm càng tốt mà
chƣa chú trọng đến chất lƣợng việc làm hay “việc làm bền vững”. Các nhà hoạch
định chính sách thƣờng tập trung quan tâm vào chỉ tiêu “tạo việc làm mới”, không
phân biệt việc làm theo ngành nghề, giới tính, khu vực nông thôn/thành thị, không
đảm bảo tính so sánh quốc tế, độ tin cậy thấp, phản ánh không sát với thực tế. Các
chính sách cả về phía cung lẫn cầu về lao động chƣa thật sự khuyến khích sự
chuyển dịch cơ cấu việc làm theo hƣớng ƣu tiên chất lƣợng.
Tổ chức thực hiện các chính sách việc làm chƣa tốt. Sự phối hợp giữa các cơ
quan trung ƣơng và địa phƣơng chƣa đồng bộ. Công tác tuyên truyền, phổ biến
chính sách việc làm đã đƣợc các cơ quan, tổ chức và các địa phƣơng quan tâm
nhƣng hiệu quả chƣa đƣợc nhƣ mong muốn.
Việc thực hiện chính sách Nhà nƣớc về GQVL còn thiếu đồng bộ và không
119
hiệu quả. Hệ thống chính sách về lao động, việc làm và GQVL ở Việt Nam còn
chồng chéo và chứa đựng nhiều bất cập. Việc chồng chéo về mặt chính sách đƣợc
thể hiện khi có quá nhiều các Bộ, ngành cùng tham gia vào các chƣơng trình, dự án
hoặc có sự chồng chéo về đối tƣợng thụ hƣởng, vùng dự án.
Hoạt động đƣa lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài chƣa hiệu quả. Công tác
quản lý nhà nƣớc về xuất khẩu lao động chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, việc kiểm
tra, giám sát hoạt động xuất khẩu lao động của cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với
hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp chƣa thƣờng xuyên và kịp thời
nên đã xảy ra một số hiện tƣợng môi giới, lừa gạt trong xuất khẩu lao động làm ảnh
hƣởng đến quyền lợi của ngƣời lao động và tác động xấu đến những doanh nghiệp
làm ăn chân chính. Các chƣơng trình hỗ trợ ngƣời lao động trở về nƣớc tái hòa nhập
thị trƣờng lao động trong nƣớc chƣa đƣợc chú trọng.
Những bất cập về chất lƣợng lao động và việc làm còn bắt nguồn từ một
nguyên nhân khá cốt lõi: sự yếu kém của hệ thống giáo dục, đào tạo. Có thể nói, hệ
thống này ở Việt Nam hiện đang nằm trong thòi kỳ “khủng hoảng” về mặt chất lƣợng
cả trong phạm vi giáo dục phổ thông, giáo dục đại học lẫn đào tạo nghề. “Hệ thống
giáo dục đại học tuy gia tăng nhanh về mặt quy mô và số lƣợng, song về mặt chất
lƣợng lại tỏ ra tụt hậu khá xa so với mặt bằng chung của thế giới, do đó chƣa đảm
nhận đƣợc chức năng là nơi sáng tạo ra các tri thức mới cũng nhƣ cung cấp nguồn
nhân lực trình độ cao, chất lƣợng cao cho nền kinh tế. Theo bảng xếp hạng của Times
Higher Education năm 2014 - 2015, không có trƣờng đại học nào của Việt Nam lọt
vào top 800 các trƣờng đại học hàng đầu của thế giới, thua cả các nƣớc vốn đƣợc xem
là "lạc hậu" về trình độ phát triển nhƣ Bangladet hay Pakistan" [90, tr.239-240].
Kết luận chương 3
Thực trạng GQVL ở Việt Nam trong những năm qua cho thấy nền kinh tế đã
tạo ra đƣợc nhiều việc làm, đáp ứng khá tốt áp lực việc làm từ việc gia tăng nhanh
của LLLĐ. Mặt khác, sự chuyển dịch cơ cấu lao động và việc làm ở Việt Nam thời
gian vần đây cũng đi theo chiều hƣớng tích cực: giảm tỷ trọng việc làm ở khu vực
nông nghiệp và đặc biệt tăng ở khu vực dịch vụ gắn với công nghệ cao. Lao động
120
trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng tăng. Sự dịch chuyển này phù hợp với yêu cầu
của cnhhdh gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Giai đoạn 2004 - 2015, chất lƣợng việc làm dần đƣợc nâng lên song vẫn còn
thấp và cơ cấu việc làm còn lạc hậu, tỷ lệ lao động có việc làm qua đào tạo chiếm tỷ
lệ thấp khiến chất lƣợng việc làm và năng suất lao động không cao. Tình trạng thất
nghiệp phổ biến hơn ở khu vực thành thị, trong khi tình trạng thiếu việc làm lại phổ
biến hơn ở khu vực nông thôn. Thất nghiệp là vấn đề đáng lo ngại đối với lao động
trẻ và lao động có trình độ CMKT cao (trình độ cao đẳng, đại học trở lên). Tỷ lệ
thất nghiệp cao trong thanh niên và trong nhóm lao động có trình độ CMKT cao
làm tăng chi phí kinh tế - xã hội, lãng phí nguồn nhân lực, đồng thời làm giảm cơ
hội tăng trƣởng kinh tế.
Những hạn chế, bất cập trong lĩnh vực GQVL ở Việt Nam bắt nguồn từ
những nguyên nhân khác nhau, liên quan đến cả cấu trúc chung của nền kinh tế,
việc thực thi mô hình tăng trƣởng, các lựa chọn chính sách và đặc biệt là chất lƣợng
của hệ thống giáo dục - đào tạo.
121
Chƣơng 4. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP VỀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA CNH,
HĐH GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
4.1. Quan điểm và định hƣớng giải quyết việc làm cho ngƣời lao động
trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển KTTT
4.1.1. Quan điểm về giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
4.1.1.1. Coi giải quyết việc làm là một trong mục tiêu kinh tế vĩ mô quan
trọng hàng đầu của mọi chiến lƣợc phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức
Không ngừng nâng cao thu nhập, cải thiện mức sống của mọi ngƣời dân là
mục tiêu mà mọi quốc gia đều theo đuổi. Điều đó chỉ có thể thực hiện đƣợc trên cơ
sở thúc đẩy nền kinh tế tăng trƣởng nhanh, bền vững, có khả năng tạo ra nhiều công
ăn, việc làm. Vì thế, mục tiêu về việc làm phải nằm trong số ít các mục tiêu ƣu tiên
khi xây dựng và thực thi các chiến lƣợc phát triển trong thời kỳ CNH, HĐH gắn với
phát triển KTTT.
Thật ra mục tiêu đảm bảo việc làm không chỉ gắn trực tiếp với mục tiêu
cuối cùng của các quá trình phát triển (cải thiện phúc lợi của nhân dân) mà nó
còn quan hệ trực tiếp đến việc đảm bảo công bằng xã hội - một mục tiêu mà các
quá trình phát triển hiện đại không thể bỏ qua, nhất là ở một nƣớc theo đuổi
"định hƣớng XHCN" nhƣ Việt Nam. Điều này là dễ hiểu vì với đại đa số ngƣời
dân, việc làm là kênh quan trọng nhất, thậm chí là duy nhất tạo ra thu nhập. Vì
thế, tạo ra nhiều việc làm trong quá trình tăng trƣởng và phát triển kinh tế là
cách để các thành tựu tăng trƣởng đƣợc chia sẻ và phân phối cho nhiều ngƣời
thụ hƣởng. Ƣu tiên cho các mô hình và chính sách tăng trƣởng tạo ra nhiều việc
làm là cách thức để giải quyết một cách hài hòa mối quan hệ giữa tăng trƣởng
và công bằng, là phƣơng thức đảm bảo công bằng xã hội một cách bền vững,
tích cực.
122
4.1.1.2. Lấy tăng trƣởng kinh tế nhanh, bền vững, có chất lƣợng làm cơ
sở để giải quyết việc làm
Tăng hƣởng kinh tế (tăng trƣởng sản lƣợng hay thu nhập) và tăng hƣởng việc
làm nói chung thƣờng có mối tƣơng quan thuận với nhau. Khi nền kinh tế đạt
đƣợcmức sản lƣợng cao, sát với sản lƣợng tiềm năng, nó cũng có mức công ăn việc
làm cao, sát với trạng thái việc làm đầy đủ. Ở thời kỳ suy thoái, sản lƣợng đạt thấp,
tỷ lệ thất nghiệp thƣờng cao. Xét về dài hạn, nhất là ở các nƣớc đang phát triển, tăng
trƣởng kinh tế nhanh, bền vững là cách duy nhất để tạo ra nhiều việc làm một cách
nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu việc làm của ngƣời dân, nhất là trong điều kiện lực
lƣợng lao động thƣờng xuyên đƣợc bổ sung, gia tăng. Kinh nghiệm phát triển trong
lịch sử thế giới cũng cho thấy các nƣớc thành công nhất trong lĩnh vực giải quyết
việc làm khi tiến hành CNH cũng là những nƣớc duy trì đƣợc tốc độ tăng hƣởng
kinh tế cao trong suốt một thời gian dài (nổi bật là các hƣờng hợp Singapore, Đài
Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông). Vì thế, phải đặt vấn đề giải quyết việc làm nhƣ một
nội dung của chiến lƣợc và mô hình tăng trƣởng kinh tế dài hạn, gắn các chƣơng
trình, chính sách giải quyết việc làm với các chƣơng trình, chính sách thúc đẩy tăng
hƣởng kinh tế. Nói cách khác, cần coi tăng trƣởng kinh tế nhanh, hiệu quả là
phƣơng thức giải quyết việc làm nhanh, hiệu quả. Trong trƣờng hợp ngƣợc lại, khi
vấn đề việc làm và tăng trƣởng kinh tế đƣợc xử lý một cách riêng rẽ, tách rời nhau,
hiệu quả giải quyết việc làm thƣờng không đạt đƣợc một cách bền vững. Ví dụ, các
chƣơng trình hỗ trợ việc làm trực tiếp cho ngƣời lao động có thể không hiệu quả khi
ngƣời lao động không có năng lực tổ chức các hoạt động sản xuất, kinh doanh so
với các chƣơng trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu có năng lực, hoạt động
trong các ngành thâm dụng lao động.
Gắn việc GQVL với việc thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế cho thấy cần ƣu tiên
các mô hình, chiến lƣợc tăng trƣởng kinh tế nhanh song lại tạo ra nhiều việc làm.
Trong thời kỳ đầu, khi nguồn lao động là dồi dào và rẻ, những ngành thâm dụng lao
động vẫn là những ngành có lợi thế so sánh (mặc dù lợi thế này sẽ sớm mất đi trong
bối cảnh cạnh tranh toàn cầu hiện nay). Trong trƣờng hợp đó, thực thi chiến lƣợc
123
CNH mở cửa, khuyến khích xuất khẩu sẽ đáp ứng tốt cả mục tiêu tăng trƣởng lẫn
mục tiêu việc làm hơn là chiến lƣợc CNH dựa nhiều vào việc phát triển các ngành
thâm dụng vốn, ít tạo ra việc làm (nhƣ lọc dầu, sản xuất thép...).
4.1.1.3. Giải quyết việc làm trên cơ sở nguyên tắc thị trƣờng, trong đó
việc hoàn thiện các thể chế thị trƣờng nói chung, thị trƣờng lao động nói riêng
là nền tảng quan trọng để xử lý các vấn đề việc làm trong dài hạn
Vấn đề việc làm phải đƣợc giải quyết trong bối cảnh nền kinh tế thị
trƣờng,theo các nguyên tắc thị trƣờng, thông qua các giao dịch tự nguyện của các
bên trên thị trƣờng lao động. Do đó, tìm kiếm việc làm, nỗ lực để có việc làm
trƣớc hết là sự lựa chọn và trách nhiệm của ngƣời lao động. Để có việc làm, quyền
chủ động phải thuộc về ngƣời lao động. Nếu mong muốn có việc làm, ngƣời lao
động phải chủ động trang bị cho mình các kiến thức, kỹ năng cần thiết, phải đảm
bảo đƣợc nền tảng sức khỏe nhất định...nhằm đáp ứng các yêu cầu của nhà tuyển
dụng. Nhà nƣớc không thể GQVL theo kiểu bao cấp nhƣ thời kỳ kế hoạch hóa tập
trung trƣớc đây. Nhà nƣớc cũng không thể ép buộc các doanh nghiệp mở rộng các
cơ hội việc làm cho ngƣời lao động, buộc họ tuyển dụng lao động vƣợt quá nhu
cầu của mình, nếu điều này gây tổn hại cho lợi ích kinh doanh của họ. Dĩ nhiên,
Nhà nƣớc phải quan tâm và phải thực thi các chính sách GQVL song điều đó
không đƣợc làm mất đi tính hiệu quả của việc GQVL thông qua cơ chế thị trƣờng.
Do đó, ở đây điều quan trọng là phải xác định đúng vai trò của Nhà nước
trong lĩnh vực GQVL. Đó là vai trò thiết lập thị trƣờng, hỗ trợ thị trƣờng, (đặc biệt
và trực tiếp là thị trƣờng lao động), tạo điều kiện và đảm bảo cho nó vận hành suôn
sẻ, có hiệu quả (việc Nhà nƣớc phải hoàn thiện các thể chế thị trƣờng, trong đó có
thị trƣờng lao động là rất quan trọng cho việc GQVL và đã đƣợc phân tích). Nhà
nƣớc cũng có thể can thiệp vào thị trƣờng lao động bằng các chính sách tác động
vào cung, cầu lao động thích hợp khi có các “thất bại thị trƣờng”. Chẳng hạn, vì
giáo dục, đào tạo là những “hàng hóa” gây ngoại ứng tích cực nên việc Nhà nƣớc hỗ
trợ, trợ cấp, đầu tƣ nhằm thúc đẩy và khuyến khích các hoạt động trong lĩnh vực
này, kể cả trong khu vực tƣ nhân, đƣợc xem là cần thiết. Nhà nƣớc cũng phải cung
124
cấp các dịch vụ giáo dục, у tế cơ bản miễn phí (ví dụ, chính sách phổ cập giáo dục ở
một số bậc học), hay hỗ trợ các con em nhà nghèo trong việc học hành nói chung,
nhằm tác động vào nguồn cung lao động tƣơng lai vì thị trƣờng tự nó không đảm
bảo đƣợc vấn đề công bằng trong việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục, у tế tối cần
thiết...Ngoài ra, Nhà nƣớc cũng có thể can thiệp vào lĩnh vực việc làm mà không
làm vô hiệu các nguyên tắc thị trƣờng khi xây dựng và triển khai các chiến lƣợc
tăng trƣởng kinh tế trong thời kỳ CNH thích hợp với mục tiêu tạo việc làm nhanh.
4.1.1.4. Giải quyết việc làm phải phù hợp với nguyên tắc của một nền
kinh tế mở cửa, hội nhập quốc tế
Bối cảnh thời đại KTTT, nhƣ đã phân tích, đòi hỏi CNH hiệu quả là CNH,
HĐH theo nguyên tắc mở cửa, hội nhập quốc tế. Vì thế, việc xử lý bài toán việc
làm nói chung của nền kinh tế cũng phải tuân thủ nguyên tắc này. Điều đó có
nghĩa là Việt Nam phải chấp nhận sự kết nối thị trƣờng lao động của mình với thị
trƣờng lao động quốc tế, chấp nhận sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực lao động,
việc làm một cách trực tiếp (thông qua thị trƣờng lao động) hay gián tiếp (thông
qua các thị trƣờng hàng hóa). Ở đây, một mặt, để chiến thắng trong cạnh tranh, đội
ngũ lao động Việt Nam nói chung dần dần phải đƣợc đào tạo và nâng cấp chất
lƣợng để có các kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc... theo các chuẩn mực quốc
tế. Các quy tắc, luật lệ chi phối các quan hệ lao động (các chế độ tuyển dụng, sử
dụng lao động, các điều kiện làm việc, quyền lợi và trách nhiệm của ngƣời lao
động và ngƣời sử dụng lao động, các quy định liên quan đến việc sử dụng lao
động trẻ em, lao động nữ, hay các loại “lao động” đặc biệt nhƣ các tù nhân...) phải
phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực đƣợc thừa nhận chung trên thế giới. Mặt
khác, cần tính đến điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế để thiết kế các chính sách
GQVL hiệu quả hơn (GQVL nhanh hơn thông qua việc thúc đẩy và khuyến khích
các ngành xuất khẩu; phân bổ việc làm hợp lý hơn theo nguyên tắc chuyển đổi lao
động từ những ngành bất lợi thế so sánh và bất lợi thế cạnh tranh sang những
ngành có lợi thế; nỗ lực chung để nâng cấp năng lực cạnh tranh quốc tế tổng thể
của cả nền kinh tế, khai thác hiệu quả các kênh xuất khẩu lao động...).
125
4.1.1.5. Coi nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực là khâu then chốt trong
lĩnh vực giải quyết việc làm một cách dài hạn
Trong điều kiện kinh tế tri thức, với việc mở cửa và hội nhập quốc tế
ngàycàng sâu, rộng, yêu cầu cạnh tranh kinh tế đang đƣợc đặt trên những nền
tảng mới, theo những chuẩn mực quốc tế ngày càng cao. Giờ đây, sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp và nền kinh tế ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào năng
lực công nghệ và chất lƣợng đội ngũ lao động. Thật ra, công nghệ và nhân lực là
hai mặt của cùng một vấn đề. Công nghệ, kỹ thuật sản xuất giản đơn (kiểu sản
xuất đặc trƣng của nền nông nghiệp truyền thống) chỉ đòi hỏi những lao động
giản đơn hay laođộng cơ bắp. Ngƣợc lại, công nghệ cao, dựa chủ yếu vào tri thức
nhƣ hiện nay chỉ có thể vận hành đƣợc thông qua những lao động đƣợc đào tạo
tốt, có kỹ năng cao, có khả năng sáng tạo, đổi mới. Điều đó có nghĩa là trong
thời đại KTTT, công việc nói chung của ngƣời lao động sẽ ngày càng mang tính
chất “trí óc” hơn, do đó phức tạp và thú vị hơn. Vềmặt trình độ, ngƣời lao động
sẽ cần phải có những kiến thức, kỹ năng mới, cao hơn các thời kỳ trƣớc (chẳng
hạn, giờ đây những kỹ năng nhƣ sử dụng máy vi tính, sử dụng tiếng Anh, kỹ
năng kết nối và làm việc với ngƣời khác theo kiểu làm việc nhóm... đang dần trở
thành các kỹ năng thông thƣờng mà bất cứ ngƣời lao động nào cũng phải có.
Trong giai đoạn chuyển đổi, rõ ràng thế hệ những ngƣời lao động lớn tuổi, ít học
sẽ gặp nhiều bất lợi do không tích lũy hoặc khó tích lũy đƣợc những kỹ năng
kiểu này). Gắn liền với các thành tựu KH - CN mới, các ngành nghề mới sẽ xuất
hiện ngày càng nhiều hơn, và có thể lan tỏa nhanh chóng trên khắp thế giới. Các
ngành nghề cũ, truyền thống hoặc sẽ dần dần biến mất, hoặc sẽ đƣợc hiện đại
hóa để thích ứng với yêu cầu của thời đại. Chẳng hạn, nông nghiệp truyền thống
dần dần sẽ phải ứng dụng các công nghệ sinh học mới, việc quản lý, chăm sóc
cây trồng, vật nuôi sẽ đƣợc dẫn dắt bởi các công nghệ thông minh hơn, sử dụng
ít nguồn lực đầu vào hơn, thân thiện với môi trƣờng hơn. Ngoài khả năng áp
dụng các công nghệ này, ngƣời nông dân muốn thành công sẽ còn phải có các kỹ
năng mới nhƣ kỹ năng marketing, bán hàng trực tuyến. Các công việc giản đơn,
chỉ thuần túy đòi hỏi sức lao động cơ bắp sẽ dần dần khan hiếm và hoàn toàn có
126
thể đƣợc thay thế bằng máy móc. Vì lý do nhƣ vậy, Báo cáo Phát triển Việt Nam
2014 do Ngân hàng Thế giới công bố, nhấn mạnh rằng: bản chất công việc trong
một nền kinh tế thị trƣờng hiện đại sẽ thay đổi và trở nên phức tạp hơn. Ngày
nay, ngƣời sử dụng lao động ngay cả ở Việt Nam cũng đang tìm kiếm một tập
hợp các kỹ năng nhận thức, hành vi và kỹ thuật chất lƣợng cao. Hay nhƣ bà
Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia, Ngân hàng Thể giới khẳng định "Tỷ lệ
lao động Việt Nam có kỹ năng đọc, viết và tính toán cao hơn so với các nước
khác, kể cả các nước giàu có hơn Việt Nam, nhưng một lực lượng lao động có kỹ
năng cao mới sẽ là chìa khóa thành công trong chuyển đổi kinh tế" [29]. Vì thế,
chất lƣợng cao của nguồn nhân lực trở nên có tầm quan trọng đặc biệt đối với
công cuộc CNH, HĐH trong thời đại KTTT hiện nay.
Khi yêu cầu về chất lƣợng chung của đội ngũ lao động trở nên khắt khe hơn,
nhu cầu về việc làm chỉ đòi hỏi kỹ năng lao động giản đơn, hay kỹ năng thấp trở nên
giảm sút tƣơng đối tƣơng ứng với nhu cầu về các lao động đƣợc đào tạo tốt, có kỹ
năng cao gia tăng nhanh. Những ngƣời lao động không đƣợc đào tạo, thiếu kỹ năng
sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, và nếu may mắn có việc làm, họ
sẽ phải chấp nhận mức lƣơng thấp. Trong bối cảnh đó, những tắc nghẽn trong việc cải
thiện chất lƣợng đội ngũ lao động sẽ chẳng những kìm hãm tốc độ mở rộng kinh
doanh của các doanh nghiệp, hạn chế sự thu hút và sử dụng các nguồn vốn FDI, làm
chậm lại tốc độ tăng trƣởng chung của nền kinh tế mà còn kìm hãm tốc độ gia tăng
của số lƣợng chỗ làm việc mới. Kết quả là các thành tựu về giải quyết việc làm sẽ trở
nên khiêm tốn hơn. Vì lẽ đó, ƣu tiên nâng cấp nhanh chất lƣợng chung của đội ngũ
lao động phải đƣợc xem là hƣớng đi chiến lƣợc cả trong các lựa chọn chính sách phát
triển nói chung lẫn chính sách giải quyết việc làm nói riêng.
4.1.2. Định hƣớng, mục tiêu giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong
bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Với tốc độ gia tăng dân số nhƣ hiện nay, quy mô dân số cả nƣớc tiếp tục tăng
dự báo đến năm 2025 đạt 101, 27 triệu ngƣời, lực lƣợng lao động nƣớc ta có khoảng
62 triệu ngƣời[23, tr.24]. Nhƣ vậy, bình quân mỗi năm lực lƣợng lao động tăng
thêm một triệu ngƣời cùng với số ngƣời thất nghiệp hàng năm thì một năm cần phải
127
giải quyết việc làm cho 1,4 - 1,5 triệu ngƣời. Với việc gia tăng nhanh số lƣợng các
trƣờng cao đẳng, đại học và thực hiện cải cách giáo dục, đào tạo, xã hội hóa giáo
dục nên số lƣợng lao động chất lƣợng cao sẽ tăng nhanh và chất lƣợng ngày càng
đƣợc cải thiện. Theo dự báo của viện khoa học lao động và xã hội Việt Nam sự gia
tăng dân số, lao động và việc làm diễn biến nhƣ sau:
Bảng 4.1: Dự báo một số chỉ tiêu dân số, lao động, việc làm chủ yếu, 2016-2025
2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025
92,67 93,64 94,59 95,55 96,50 97,44 98,38 99,34 100,3 101,27
71,47 72,35 73,24 74,14 75,05 77,88 78,74 79,7 80,57 81,56
lƣợng
55,54 56,26 57,04 57,77 58,56 59,76 60,28 60,88 61,41 62,02
77,70 77,76 77,89 77,92 78,03 76,38 76,20 76,04 75,87 75,70
53,86 55,96 58,00 59,89 61,75 63,75 65,25 66,72 68,10 69,46
21,45 22,39 23,34 24,18 25,34 26,52 27,79 29,08 31,54 32,97
54,37 55,07 55,78 56,49 57,21 58,32 58,74 59,27 59,70 60,23
39,73 41,73 43,93 46,43 49,13 51,43 54,23 56,83 59,73 62,73
44,11 42,46 40,76 39,01 37,20 35,70 34,60 32,80 30,80 28,90
tổng
tuổi
2,37 2,39 2,51 2,57 2,73
2,82
2,92 3,08
3,28
3,45
3,56 3,24 4,02 3,81 3,75
3,65
4,19 4,18
4,42
4,74
Chỉ tiêu 1. Dân số trung bình (triệu người) 2. Dân số từ 15 tuổi trở lên (triệu người) lao 3. Lực động từ 15 tuổi trở lên (triệu người) 4.Tỷ lệ tham gia lực lƣợng lao động (%) 5. Tỷ lệ lao động qua đào tạo (%) Trong đó:Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ(%) 6. Lao động có việc làm (triệu người) 7. Tỷ lệ lao động làm công ăn lƣơng (% của tổng lao động đang làm việc) 8. Tỷ lệ lao động nông, lâm, thuỷ sản lao (% của động đang làm việc) 9. Tỷ lệ thất nghiệp lao trong độ động (%) Trong đó,thất nghiệp thành thị (%)
Nguồn: Dự báo của ILSSA từ số liệu của TCTK
128
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo: để đáp ứng yêu cầu hội nhập, cần tăng nhanh tỷ
lệ lao động qua đào tạo, đặc biệt là lao động có bằng cấp/chứng chỉ. Tỷ lệ lao động
qua đào tạo phải tăng lên 70%năm 2025. Trong đó, tỷ lệ lao động có bằng cấp
chứng chỉ cũng sẽ tăng từ 21,45% năm 2016 lên 32,97% năm 2025.
- Lao động có việc làm: dự báo kết quả của chuyển đổi mô hình tăng trƣởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, nền kinh tế thiên về tạo việc làm chất lƣợng, bền vững hơn là số lƣợng. Do đó, tăng trƣởng việc làm cũng sẽ chậm lại, còn 1,17%/năm (so với 1,51%/năm giai đoạn 2011 - 2014), tƣơng ứng tăng 654 nghìn ngƣời/năm. Quy mô việc làm đạt 60,23 triệu ngƣời năm 2025.[136,tr48]
- Tỷ lệ lao động nông nghiệp sẽ giảm nhanh hơn do yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Bởi vậy, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp phải giảm từ 44,11% năm 2016 xuống còn 28,90% năm 2025.[136, tr49]
- Tỷ lệ lao động làm công ăn lương sẽ tiếp tục tăng nhanh từ 39,73% năm
2016 lên 63,73% năm 2025 do chủ trƣơng thu hẹp khu vực kinh tế phi chính thức
và đẩy mạnh quá trình chính thức hóa việc làm phi chính thức.
- Thất nghiệp: tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động tiếp tục
tăng do sức ép về GQVL đang gia tăng trong bối cảnh một nền kinh tế đang tái cấu
trúc. Tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nƣớc tăng từ 2,37% năm 2016 lên 3,45% năm
2025. Đặc biệt, tỷ lệ thất nghiệp thành thị cũng sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn từ 3,56%
lên 4,74% trong cùng giai đoạn.[136,tr50]
Để thực hiện mục tiêu GQVL trong điều kiện dân số và LLLĐ gia tăng, cần
tập trung vào các định hƣớng nhƣ sau:
Thứ nhất, cần xem xét điều chỉnh mức sinh hợp lý trong thời gian tới để
làm chậm quá trình già hóa dân số. Trong vòng 5 năm tới, từng bƣớc nới lỏng
chính sách kiểm soát mức sinh theo Pháp lệnh Dân số 2003. Chủ động già hóa,
già hóa tích cực ở góc độ lao động-việc làm. Trong đó, cần chủ trọng phát triển
chính sách việc làm cho ngƣời cao tuổi thông qua tạo việc làm phù hợp và duy trì,
cải thiện việc làm cho ngƣời cao tuổi. Đặc biệt, trong phát triển các chƣơng trình
cải cách việc làm quốc gia phải chú trọng đến nhu cầu tăng tỷ lệ lao động cao tuổi;
sử dụng các công cụ và chƣơng trình sẵn có để tăng cƣờng sự tham gia cho lao
129
động cao tuổi trong TTLĐ; hỗ trợ vai trò của các tổ chức công và các đối tác khác
để có thể đƣa ra các hƣớng dẫn, trợ giúp hiệu quả và phù hợp, đáp ứng nhu cầu cá
nhân bao gồm cả những lao động cao tuổi, do các dịch vụ việc làm, tƣ nhân và
phi lợi nhuận cungcấp. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến công tác đào tạo để chuyển
đổi nghề nghiệp cho lao động trung niên và cao tuổi.
Thứ hai, tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trƣờng lao động trong nƣớc và
trong điều kiện hội nhập quốc tế. Phát triển thị trƣờng lao động chất lƣợng cao đáp
ứng sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Phát triển thị trƣờng lao động
chất lƣợng cao phải hƣớng vào phục vụ đắc lực cho quá trình thực hiện chiến lƣợc
CNH, HĐH nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Phải gắn phát triển thị trƣờng
lao động chất lƣợng cao với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với nhu cầu mở rộng
liên thông thị trƣờng lao động giữa lao động nƣớc ta với thị trƣờng lao động quốc
tế, coi đó là điều kiện đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐHđất nƣớc.
Từ định hƣớng này, việc phát triển thị trƣờng lao động phải phát triển cung
và cầu lao động, giải quyết mối quan hệ giữa cung cầu lao động trong mối quan hệ
với CNH, HĐH.
Thứ nhất, phát triển chính sách hỗ trợ lao động để ứng phó với các vấn đề
xã hội nảy sinh từ quá trình đô thị hóa, gia tăng thất nghiệp thành thị, đảm bảo an
ninh việc làm cho lao động thành thị. Sự hồi phục của nền kinh tế trong những năm
tới sẽ góp phần đẩy mạnh quá trình . Theo đó, cơ cấu dân số thành thị sẽ tăng nhanh
khiến cho nhu cầu ngày càng tăng đối với dịch vụ xã hội (giáo dục, у tế, nhà ở,
nƣớc và vệ sinh, giao thông, không gian thƣ giãn...) của dân cƣ đô thị và cũng làm
gia tăng các vấn đề về việc làm, nhu cầu về năng lƣợng, môi trƣờng, v.v… ởkhu
vực thành thị, do đó cần phải tính trƣớc những chính sách để ứng phó với các vấn
đề xã hội nảy sinh từ quá trình đô thị hóa, gia tăng thất nghiệp thành thị, đảm bảo an
ninh việc làm cho lao động thành thị trong quá trình CNH, HĐH.
Thứ hai, bảo đảm phân bố lao động đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, phát
triển mạnh thị trƣờng lao động chính thức, đặc biệt chú trọng phát triển doanh
130
nghiệp trong các đô thị lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu
chế xuất, hỗ trợ lao động trong khu vực phi chính thức để giảm sự chia cắt giữa
thành thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế, giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa
các nhóm ngƣời lao động kỹ năng và không kỹ năng.
Trong thời gian tới một mặt phải tìm cách tăng cung lao động CMKT cao,
mặt khác phải đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng kinh tế mở mang ngành nghề công
nghiệp, dịch vụ mới, để tăng cầu lao động CMKT cao. Thị trƣờng lao động CMKT
cao ở nƣớc ta tuy đã đƣợc thừa nhận về mặt pháp lý, nhƣng do ảnh hƣởng của tƣ
duy cũ làm cho việc phát triển thị trƣờng lao động CMKT cao còn có nhiều bất cập.
Để phát triển thị trƣờng sức lao động có trình độ cao cần phải tôn trọng cơ chế vận
hành khách quan của thị trƣờng lao động, phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của
thị trƣờng lao động CMKT cao và thật sự coi sức lao động CMKT cao là hàng hóa.
Cung lao động chất lƣợng cao bao gồm những ngƣời đƣợc đào tạo có hệ
thống có khả năng lao động, sẵn sàng tham gia vào thị trƣờng sức lao động trình độ
cao (cao đẳng, đại học trở lên). Cung phải đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng lao động
chất lƣợng cao về số lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu, đồng thời phải chủ động linh
hoạt, thích nghi với yêu cầu của thị trƣờng.
Cầu lao động chất lƣợng cao bao gồm những ngƣời sử dụng thuê mƣớn lao
động chất lƣợng cao. Đây là lực lƣợng chủ động và tích cực của thị trƣờng lao
động. Họ có vai trò tạo việc làm, không ngừng mở rộng cầu lao động cất lƣợng cao.
Họ phải có quyền tự do trong tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ lao động chất lƣợng cao.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách thuộc lĩnh
vực lao động, việc làm. Đặc biệt, xem xét sửa đổi Bộ Luật lao động sửa đổi
2012, Luật Việc làm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014, để làm cơ sở thiết
kế và tổ chức thực hiện các chƣơng trình TTLĐ chủ động và thụ động đáp ứng
yêu cầu của hội nhập và phát triển kinh tế đất nƣớc, phù hợp với Tuyên bố 1998
của Tổ chức Lao động quốc tế và các cam kết trong các hiệp định tự do thƣơng
mại. Trong giai đoạn đầu dựa vào chiến lƣợc phát triển các ngành sử dụng nhiều
lao động, hƣớng về xuất khẩu, phát huy đƣợc các lợi thế so sánh và tiềm năng
131
của lực lƣợng lao động nhƣng cần xóa bỏ sự phụ thuộc vào lao động giá rẻ và kỹ
năng thấp; giai đoạn sau tập trung vào nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển các
ngành công nghiệp, dịch vụ yêu cầu công nghệ và kỹ năng cao nhằm đạt mức
năng suất lao động trung bình trong khu vực. Tăng cường gắn kết giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển TTLĐ, hỗ trợ khu vực phi chính thức, nông nghiệp,
nông thôn, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa…để tăng năng suất và tính cạnh
tranh của việc làm nhằm tránh bẫy “chi phí laođộng thấp”, giảm thất nghiệp và
thiếu việc làm trong thanh niên và các nhóm đặc thù khác, bảo vệ tốt hơn các nhóm
lao động, đặc biệt là lao động cao tuổi và lao động yếu thế trong TTLĐ. Hỗ trợ
ngƣời lao động tham gia các chƣơng trình TTLĐ, BHXH, BHYT và các hình thức
khác để họ đƣợc bảo vệ tốt hơn.
Thứ tư, nâng cao chất lượng LLLĐ (nhằm tận dụng cơ hội dân số vàng) đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Trƣớc mắt, cần tập trung
tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ, đổi mới đào tạo để có những
kỹ năng mới, tiêu chuẩn mới hiện đại tiên tiến đáp ứng yêu cầu của ngành/doanh
nghiệp. Đặc biệt, ƣu tiên đầu tƣ và tổ chức triển khai các chính sách, biện pháp tập
trung nâng cao chất lƣợng lao động CMKT trình độ cao để tăng cƣờng năng lực
cạnh tranh của nguồn nhân lực; có chính sách và giải pháp đúng hƣớng để nâng cao
chất lƣợng giáo dục đào tạo, dạy nghề, bồi dƣỡng kỹ năng để cung ứng nguồn lao
động có kỹ năng cho những ngành, nghề kinh tế mũi nhọn. Bên cạnh đó, tập trung
xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế, chuyển đổi sang hệ thống tiêu chuẩn năng lực phù hợp; tổ chức đánh
giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho ngƣời lao động. Đồng thời triển khai
các hoạt động đánh giá và công nhận kỹ năng nghề giữa Việt Nam và các nƣớc
ASEAN. Đặc biệt, đẩy mạnh hợp tác với các nƣớc ASEAN để tiến tới công nhận kỹ
năng nghề giữa Việt Nam và các nƣớc ở 8 nghề đƣợc tự do di chuyển trong ASEAN
thông qua các thỏa thuận công nhận lẫn nhau gồm: kế toán, kiến trúc sƣ, nha sĩ, bác
sĩ, điều dƣỡng viên, kỹ sƣ, nhân viên trong ngành khảo sát, đo đạc, bản đồ và nhân
viên ngành du lịch, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực thông qua đẩy mạnh đào
132
tạo kỹ năng, năng lực thực hành, phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo đáp ứng nhƣ
cầu của thị trƣờng lao động trong nƣớc và quốc tế và nhu cầu học suốt đời của
ngƣời dân, chuẩn hóa chất lƣợng đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ năm, bảo đảm sự tự do lựa chọn việc làm và thúc đẩy dịch chuyển lao
động đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng của thị trƣờng lao động và
tổ chức cung cấp các dịch vụ công có hiệu quả. Hoàn thiện hệ thống trung gian thị
trƣờng lao động và tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc đối với thị trƣờng lao động nhằm
gắn kết cung - cầu lao động.
Thứ sáu, tăng cƣờng an sinh xã hội cho ngƣời lao động trong khi làm việc và
chuyển đổi việc làm. Mở rộng liên thông thị trƣờng lao động nƣớc ta với thị trƣờng
lao động các nƣớc trên thế giới, hoàn thiện và phát triển TTLĐ trong nước nhằm kết
nối cung-cầu lao động hiệu quả. Tổ chức tốt hệ thống thông tin TTLĐ, bao gồm thị
trƣờng trong nƣớc để giới thiệu và chắp nối việc làm trong nƣớc và TTLĐ ngoài
nƣớc. Đặc biệt, tăng cƣờng và nâng cao chất lƣợng dự báo nhu cầu lao động. Đổi
mới và đẩy mạnh công tác tƣ vấn hƣớng nghiệp, đảm bảo phân luồng học sinh hiệu
quả ngay từ cấp THCS và THPT. Tổ chức lại và nâng cao năng lực của hệ thống
trung tâm dịch vụ việc làm nhằm tăng cƣờng sự liên kết, chia sẻ thông tin, hỗ trợ
nhau trong công tác cung ứng và tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp. Thành
lập Hội đồng nghề nghiệp Quốc gia theo từng nhóm nghề (gồm đại diện doanh
nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp, công đoàn, cơ quan quản lý các cấp, trƣờng đào tạo,
viện nghiên cứu...), trƣớc mắt ƣu tiên những nghề có khả năng phát triển mạnh hoặc
bị tác động lớn của hội nhập quốc tế (nhƣ nghề chăn nuôi, trồng rau củ quả, da giày,
dệt may, điện tử...); Hội đồng có nhiệm vụ đánh giá khả năng phát triển, nhu cầu lao
động về số lƣợng, cơ cấu, chất lƣợng và đề xuất nhu cầu đào tạo nhân lực.
Việc mở rộng liên thông thị trƣờng lao động nƣớc ta với thị trƣờng lao động
các nƣớc trên thế giới có ý nghĩa quan trọng trong thúc đẩy sự phát triển nhanh, chất
lƣợng của cung và cầu lao động. Đặc biệt là khi nƣớc ta tham gia tổ chức thƣơng
mại quốc tế (WTO) thì đội ngũ lao động CMKT cao có vị trí đặc biệt quan trọng
133
đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
Cuối cùng, đẩy mạnh và phát triển TTLĐ ở nước ngoài hướng tới di cư an
toàn và hiệu quả. Trong đó, tập trung khai thác các thị trƣờng tiếp nhận lao động có
nghề và thu nhập cao, ổn định nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc và CHLB Đức, EU...; tiếp
tục thực thi các giải pháp giải quyết tình trạng lao động Việt Nam làm việc bất hợp
pháp ở nƣớc ngoài.
Xuất khẩu lao động là hƣớng quan trọng để thúc đẩy phát triển cung và
cầu lao động trên thị trƣờng lao động. Trong xuất khẩu lao động cần giải quyết
mối quan hệ hài hòa giữa đảm bảo nguồn nhân lực cho quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền kinh tế và nguồn nhân lực cho xuất khẩu lao động. Ngoài
ra, cần mở rộng họp tác với tất cả các nƣớc để gửi sinh viên đi đào tạo phù hợp
với cơ chế thịtrƣờng có sự khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nƣớc. Tăng cƣờng hình
thức liên kết nghiên cứu khoa học giữa nƣớc ta và các nƣớc trên thế giới để GQVL
và đào tạo nguồn nhân lực chất lƣơng cao. Các hình thức chủ yếu của hợp tác hệ
kinh tế quốc tế là: hợp tác đầu tƣ, ngoại thƣơng, hợp tác khoa học công nghệ, hợp
tác tín dụng, xuất khẩu chuyên gia...
Mục tiêu chung của phát triển thị trƣờng lao động trong quá trình CNH,
HĐH gắn với phát triển KTTT là đảm bảo có một thị trƣờng hiện đại, hiệu quả,
cạnh tranh và công bằng, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nƣớc.
4.2. Các giải pháp giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
4.2.1. Hoàn thiện các thể chế thị trƣờng nói chung, thể chế liên quan đến
thị trƣờng lao động nói riêng
Nhƣ trên đã nói, tăng trƣởng kinh tế nhanh, bền vững là nền tảng, cơ sở để
tăng trƣởng việc làm nhanh và bền vững. Vì thế, mọi giải pháp thúc đẩy tăng trƣởng
kinh tế dài hạn về cơ bản đều có ý nghĩa thúc đẩy quá trình giải quyết việc làm. Trong
số đó việc hoàn thiện các thể chế kinh tế, thể chế thị trƣờng nói chung có ý nghĩa rất
quan trọng. Ngoài ra, liên quan trực tiếp đến vấn đề lao động, việc làm, việc hoàn
thiện các thể chế chi phối sự vận hành của thị trƣờng lao động là giải pháp cần thiết.
134
Hệ thống pháp luật của Việt Nam trong hai thập kỷ qua đã có sự phát triển
mạnh mẽ với nhiều thành tựu to lớn. Chính trong những thành tựu này trong lĩnh
vực lập pháp và hành pháp đã giúp Việt Nam vƣợt qua những điều kiện về mặt thể
chế mà WTO đặt ra khi kết nạp thành viên. Tuy nhiên, để tạo việc làm và giảm tỷ
lệ thất nghiệp cho ngƣời lao động, hệ thống pháp luật của ta cần phải hoàn thiện
theo hƣớng nhƣ sau:
- Rà soát lại các loại văn bản các cấp ban hành đang còn thiếu tính hệ thống,
nên tạo nên mâu thuẫn, chồng chéo. Sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn của văn
bản làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp,
khó hiểu và khó áp dụng, và vì thế, kém hiệu lực;
- Tạo sự ổn định về pháp luật, tránh hiện tƣợng pháp luật thƣờng xuyên
thay đổi. Thực tế này có nguyên nhân ở những nhà lập pháp, do hạn chế tầm
nhìnvà quan điểm chiến lƣợc cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Chính vì
vậy, nhiều văn bản pháp luật đƣợc áp dụng trong thời gian rất ngắn, thậm chí mới
ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Pháp luật thƣờng
xuyên bị thay đổi dẫn đến những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện và tác động
xấu đến sự ổn định quan hệ giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động;
- Nhiều văn bản pháp luật có tính quy định thấp, tức là thiếu những quy tắc
xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Nhiều nội dung trong quan hệ lao động phải
đƣợc điều chỉnh cụ thể, chi tiết hơn trong luật lao động;
- Xây dựng hoàn chỉnh các quy phạm pháp luật cho công tác bảo vệ, chăm
sóc trẻ em khi tham gia lao động tại các cơ sở, doanh nghiệp; đề xuất các giải pháp
và những hoạt động can thiệp; bổ sung, sửa đổi luật pháp liên quan đến quyền lợi
của trẻ em; hoàn thiện các tiêu chuển cụ thể về bảo vệ, chăm sóc trẻ em;
- Xây dựng riêng luật tố tụng về lao động để tạo thuận lợi giải quyết các tranh
chấp về lao động, vì quan hệ lao động hoàn toàn khác với quan hệ dân sự khác;
- Xây dựng chính sách đào tạo lãnh đạo công đoàn tại các cơ sở, doanh
nghiệp, cơ quan... sao cho tổ chức công đoàn phải chủ động đi sâu nghiên cứu, nắm
bắt kịp thời tâm tƣ, nguyện vọng của ngƣời lao động. Tổ chức công đoàn phải khéo
135
léo, có đủ khả năng giải quyết các tranh chấp giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng
lao động trong quan hệ lao động;
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách, văn bản hƣớng dẫn Luật Ngƣời lao động
Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng một cách đồng bộ, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động ở nƣớc ngoài, đồng thời có chế tài đủ
mạnh để xử lý những tổ chức, cá nhân vi phạm.
Nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ công nhằm đáp ứng yêu cầu nâng
cao khả năng tiếp cận các dịch vụ công cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và
ngƣời lao động, Nhà nƣớc cần phải cải cách khu vực dịch vụ công nhƣ:
- Nâng cao nhận thức về hoạt động nghề nghiệp và chất lƣợng chuyên
môn của đội ngũ viên chức cũng là nhu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới
trong việc tổ chức cung ứng các dịch vụ đáp ứng nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho
ngƣời dân và cộng đồng;
- Nâng cao chất lƣợng phục vụ tại các bệnh viện giúp ngƣời lao động có thể
tiếp cận một cách dễ dàng.
- Nâng cao dịch vụ công thông qua công nghệ thông tin và truyền thông,
giúp các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và ngƣời lao động dễ dàng sử dụng mạng
và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác, đời sống của mình;
- Nâng cao chất lƣợng dịch vụ công thông qua các Ngân hàng Nhà nƣớc.
Việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trong thời gian qua còn nhiều hạn chế. Trƣớc
hết, các chủ thể cung cấp dịch vụ ngân hàng khá phát triển, nhƣng năng lực tài
chính của DN còn yếu. Ngân hàng đã xác định ƣu tiên cho doanh nghiệp nhỏ và
vừa vay vốn, song các doanh nghiệp này vẫn khó tiếp cận nguồn vốn của ngân
hàng do không có tài sản thế chấp. Khi nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá
sản, chủ nợ trốn thì cuộc sống ngƣời lao động gặp nhiều khó khăn do thất nghiệp
và bị quỵt tiền lao động;
4.2.2. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với thị
trƣờng lao động
Việc hoàn thiện thể chế thị trƣờng lao động gắn liền với việc nâng cao năng
lực và hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với thị trƣờng này.
136
Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng có bốn chức năng chủ yếu là thiết lập
khung khổ pháp luật tạo môi trƣờng pháp lý mà mọi chủ thể kinh tế kể cả nhà nƣớc
cũng phải tuân theo, hạn chế khuyết tật của thị trƣờng để thị trƣờng hoạt động hiệu
quả hơn, thực hiện công bằng xã hội, điều tiết vĩ mô. Đối với thị trƣờng lao động
vai trò của nhà nƣớc thể hiện:
+ Nắm cung cầu và sự chuyển biến cung cầu lao động làm cơ sở để quyết
định chính sách quốc gia, phát triển cung, cầu lao động, sử dụng hiệu quả lao động
trong toàn xã hội.
+ Ban hành, điều chỉnh, hƣớng dẫn hệ thống văn bản về thị trƣờng lao động
nhƣ các văn bản pháp luật lao động về việc làm, đào tạo, xuất, nhập khẩu lao động...
phù hợp với thị trƣờng lao động.
+ Quyết định các chính sách về tiền lƣơng, bảo hiểm xã hội, an toàn về an
sinh lao động đối với nguồn nhân lực và các chính sách khác về lao động và xã hội,
xây dựng mối quan hệ lao động lành mạnh, hài hòa trong các doanh nghiệp.
+ Tổ chức tiến hành nghiên cứu khoa học về lao động CMKT cao, thống kê
thông tin về thị trƣờng lao động CMKT cao, về mức sống, thu nhập của lao động
CMKT cao.
+ Nâng cao vai trò quản lý của nhà nƣớc đối với các trung tâm dịch vụ giới
thiệu việc làm, công ty cung ứng nhân lực cao cấp, nhân lực CMKT cao, doanh
nghiệp xuất khẩu lao động để hoạt động của các tổ chức này hiệu quả và theo đúng
pháp luật.
- Hoàn thiện các chính sách đối với di chuyển lao động và thúc đẩy tăng mức
độ linh hoạt của cung lao động trên thị trƣờng. Điều tiết di chuyển là một giải pháp
quan trọng tác động đến cung lao động. Đây là công cụ quan trọng để điều chỉnh thị
trƣờng lao động và thu nhập giữa các vùng. Hiện nay, ở nƣớc ta có những xu hƣớng
di chuyển lao động nội địa đáng chú ý là từ miền Bắc và miền Nam, từ các tỉnh phía
Bắc và Duyên hải miền Trung, từ nông thôn ra thành thị, từ khu vực nhà nƣớc đến
khu vực FDI và khu vực ngoài nhà nƣớc hoặc ra nƣớc ngoài. Bên cạnh các tác động
tích cực nhƣ điều tiết thị trƣờng lao động, GQVL, tăng thu nhập cho lao động.
137
4.2.3. Tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển và nâng cao chất lƣợng của hệ
thống giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức
Thực trạng thị trƣờng lao động Việt Nam cho thấy mặt bằng chất lƣợng
nguồn nhân lực Việt Nam nói chung là khá thấp; sự thiếu hụt các lao động đƣợc đào
tạo tốt, có kỹ năng cao là nghiêm trọng. Rõ ràng điều này ảnh hƣởng lớn đến tốc độ
và chất lƣợng của tăng trƣởng kinh tế cũng nhƣ tăng trƣởng việc làm. Nguyên nhân
căn bản của thực tế này nằm trong sự yếu kém và hạn chế của hệ thống giáo dục và
đào tạo. Khi nâng cao chất lƣợng nguồn lao động đƣợc coi là yếu tố then chốt thì
việc tập trung phát triển, nâng cấp để nâng cao chất lƣợng của chính hệ thống giáo
dục, đào tạo là giải pháp cực kỳ cần thiết và quan trọng.
Do vậy, để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực cần:
- Phát triển và nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lƣợng cao là một đột phá chiến lƣợc, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trƣởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo
đảm kinh tế - xã hội phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Để hƣớng tới nền
KTTTdân trí phải trở thành nhân lực, nhân tài phải là một bộ phận chất lƣợng
cao của nhân lực và đƣợc coi nhƣ là đầu tầu của toàn bộ nguồn nhân lực. Đó là
hƣớng tổng quát nhất của nền giáo dục đi vào phục vụ nền KTTT. Bởi vậy, phải
coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia,
quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ
đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công
nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt
chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và nhà nƣớc
để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chƣơng trình, đề
án đào tạo nhân lực chất lƣợng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi
nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dƣỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho
phát triển kinh tế tri thức.
138
- Nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo một cách toàn diện; đổi mới cơ
cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phƣơng pháp dạy và học; thực hiện
"chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa", chấn hƣng nền giáo dục, đào tạo Việt
Nam. Xây dựng chiến lƣợc giáo dục - đào tạo phát triển con ngƣời phải đáp ứng
yêu cầu của cả ba nền kinh tế: kinh tế lao động, kinh tế tài nguyên và kinh tế tri
thức. Phổ cập công nghệ trên cơ sở giáo dục nhân cách theo tinh thần giáo dục
nhân văn, nhân bản. Chuyển dần mô hình giáo dục, đào tạo hiện nay sang mô
hình giáo dục, đào tạo mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt
đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát
triển hệ thống học tập cho mọi ngƣời và những hình thức học tập, thực hành linh
hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thƣờng xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác
nhau cho ngƣời học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục, đào tạo. Chú ý
giáo dục lòng tự tin, tự lý giải các vấn đề, sáng tạo trong cuộc sống...nhằm mục
tiêu phát triển con ngƣời một cách toàn diện. Tăng cƣờng giáo dục truyền thống
dân tộc,giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc đồng thời tăng cƣờng năng lực giao
tiếp, giao lƣu với nƣớc ngoài nhằm đào tạo và rèn luyện một đội ngũ lao động đủ
sức cạnh tranh toàn cầu.
Phát triển mạnh hệ thống giáo dục cao đẳng, đại học, đa dạng hóa các loại
hình trƣờng lớp trên cơ sở mục đào tạo, nội dung, chuẩn kiến thức đều thống nhất
chotất cả các loại hình trƣờng lớp. Tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề
cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế trọng điểm và cho xuất khẩu lao
động. Bằng các cơ chế thích hợp, huy động các nguồn lực để nâng cao cơ sở vật
chất, trang thiết bị... và đào tạo nâng cao chất lƣợng đội ngũ giảng viên, đổi mới
chƣơng trình, phƣơng pháp giảng dạy để tạo chuyển biến căn bản về chất lƣợng
đào tạo cao đẳng, đại học. Đồng thời, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực
và thế giới, đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các hình thức giáo dục, đào tạo
đa dạng, linh hoạt.
139
- Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử
dụng trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân
lực chất lƣợng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng phát hiện, bồi
dƣỡng trọng dụng nhân tài, khẩn trƣơng xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý
về ngành nghề, trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền... Có cơ chế và chính sách
gắn kết có hiệu quả trƣờng đại học với cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ
vào sản xuất kinh doanh, xây dựng một số trƣờng đại học trọng điểm đạt trình độ
khu vực và quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020 giáo dục đại học Việt Nam đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới. Nhƣ vậy
cần phải tập trung nỗ lực thực hiện các vấn đề sau:
+ Khuyến khích tập đoàn doanh nghiệp lớn mở trƣờng đại học, đổi mới cơ
cấu đào tạo và hoàn thiện mạng lƣới cơ sở giáo dục đại học là vấn đề đầu tiên
trong đó ƣu tiên mở rộng quy mô các chƣơng trình định hƣớng nghề nghiệp -
ứng dụng, áp dụng quy trình đào tạo mềm dẻo, liên thông, kết hợp mô hình
truyền thống với mô hình đa giai đoạn để tăng cơ hội học tập và phân tầng trình
độ nhân lực. Chuyển đổi một số cơ sở giáo dục đại học sang tƣ thục và xây dựng
quy chế chuyển tiếp đào tạo với các trƣờng đại học. Khuyến khích mở các cơ sở
giáo dục đại học trong các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn, sát nhập cơ sở giáo
dục đại học với các cơ sở nghiên cứu khoa học để gắn kết chặt chẽ đào tạo với
nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh. Khuyến khích hiệu quả các tổ
chức, cá nhân nƣớc ngoài xây dựng trƣờng đại học, cao đẳng cấp quốc tế với đầu
ra chất lƣợng cao.
+ Cơ cấu lại khung chƣơng trình giảng dạy, bảo đảm sự liên thông của các
cấp học. Triển khai đổi mới phƣơng pháp đào tạo theo ba tiêu chí: Trang bị cách
học, phát huy tính chủ động của ngƣời học, sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong hoạt động dạy và học. Xây dựng và thực hiện lộ trình, chuyển sang chế
độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
140
+ Tăng quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học. Cải tiến tuyển sinh theo
hƣớng áp dụng công nghệ đo lƣờng giáo dục hiện đại.
+ Đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng giáo viên và cán
bộ quản lý. Trong đó, chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sƣ
phạm của giáo viên, tầm nhìn chiến lƣợc, năng lực sáng tạo và tính chuyên nghiệp
của cán bộ lãnh đạo quản lý.
+ Nhà nƣớc đầu tƣ nâng cấp xây dựng mới một số cơ sở nghiên cứu mạnh
trong các cơ sở giáo dục đại học, khuyến khích thành lập các cơ cở nghiên cứu, các
doanh nghiệp khoa học công nghệ. Tập trung đầu tƣ xây dựng một số cơ sở dùng
chung nhƣ: Trung tâm dữ liệu quốc gia, hệ thống thƣ viện điện tử, phòng thí nghiệm
trọng điểm, ký túc xá và các cơ sở văn hóa thể dục thể thao.
+ Chính sách học phí, học bổng, tín dụng sinh viên, xây dựng lại trên cơ sở
xác lập những nguyên tắc kết hợp giữa nhà nƣớc, ngƣời học và cộng đồng.
+ Triển khai dạy và học bằng tiếng nƣớc ngoài, tiếp thu có chọn lọc các
chƣơng trình đào tạo tiên tiến quốc tế, tƣơng đƣơng về văn bằng, chƣơng trình đào
tạo với các cơ sở giáo dục đại học trên thế giới, khuyến khích các hình thức liên kết
đào tạo chất lƣợng cao, trao đổi giáo viên, chuyên gia với nƣớc ngoài, khuyến khích
ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài tham gia giảng dạy ở Việt Nam, khuyến
khích du học tại chỗ.
- Đối với hệ đào tạo cao học và nghiên cứu sinh cần điều chỉnh quy mô
chƣơng trình đào tạo cho sát với yêu cầu thực tiễn. Chú trọng chất lƣợng đầu
vào, quản lý chặt chẽ đầu ra, nhất là những chất lƣợng luận án tiến sỹ. Đối với
những ngƣời tốt nghiệp thạc sỹ hay tiến sỹ, ngoài việc giảng dạy, nghiên cứu,
cần phải có những công trình nghiên cứu khoa học. Đối với đội ngũ giảng viên
cần phải chuẩnhóa cao hơn so với quy định của giáo dục hiện hành: giảng dạy ở
bậc cao học nhất thiết phải có học vị từ tiến sỹ trở lên còn giảng dạy nghiên cứu
sinh thì phải là tiến sỹ khoa học hoặc giáo sƣ, phó giáo sƣ.
141
4.2.4. Đẩy nhanh nhịp độ và nâng cao hiệu quả của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thông qua đổi mới mô hình tăng trƣởng, cơ cấu lại
nền kinh tế, xác lập các điều kiện thuận lợi cho sự tăng trƣởng nhanh, bền
vững, phù hợp với điều kiện của kinh tế tri thức
Tăng trƣởng việc làm chỉ có thể diễn ra trong điều kiện của tăng trƣởng kinh
tế, hơn nữa, tốc độ tăng trƣởng kinh tế phải cao hơn tốc độ tăng dân số và lao động
một cách đáng kể. Tuy nhiên, những năm gần đây, tăng trƣởng kinh tế của Việt
Nam có xu hƣớng chững lại. Các động lực của mô hình tăng trƣởng cũ, theo chiều
rộng đã dần dần cạn kiệt, đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới mô hình và cách thức tăng
trƣởng, chuyển dần sang phƣơng thức tăng trƣởng theo chiều sâu, dựa vào chất
lƣợng và hiệu quả, đƣợc dẫn dắt nhiều hơn bởi tiến bộ công nghệ và đội ngũ nhân
lực chất lƣợng cao. Rõ ràng đây là định hƣớng giải pháp có ý nghĩa chiến lƣợc, phù
hợp với nguyên tắc của kinh tế tri thức.
Theo hƣớng này, các giải pháp cần thiết là:
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hƣớng
CNH, HĐH. Đây là giải pháp có tác dụng tăng tổng cầu lao động cho phát triển
chiều sâu các ngành nông, lâm ngƣ nghiệp. Nhà nƣớc cần có cơ chế, chính sách
thúc đẩy hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, các thị trấn thị tứ, vùng sản
xuất kinh doanh hàng hóa nông nghiệp... để thu hút lao động, xây dựng nông thôn
mới. Nhà nƣớc phải đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội ở nông thôn
để ngƣời lao động (đặc biệt là lao động di cƣ) yên tâm công tác ở địa phƣơng lâu
dài. Nhà nƣớc cần có chính sách để thu hút giáo viên, kỹ sƣ, cử nhân về vùng cao,
vùng sâu, vùng xa.
- Phát triển nhanh các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ: đây là những
ngành chủ lực của nền kinh tế, do đó cần phải khuyến khích phát triển, nhất là các ngành
công nghệ cao, công nghệ phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh tạo
nhiều sản phẩm xuất khẩu chất lƣợng cao và thu hút nhiều lao động chất lƣợng cao. Tăng
tốc thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển, nhất là những ngành có chấtlƣợng cao, có tiềm
năng lớn. Các ngành này sẽ cần nguồn nhân lực chất lƣợng cao trên nhiều lĩnh vực.
142
- Phát triển nhanh các ngành công nghệ cao, ngành kinh tế mũi nhọn, ngành
dịch vụ chất lƣợng cao tại các vùng kinh tế trọng điểm để thu hút số lƣợng lớn lao
động của vùng kinh tế trọng điểm, các vùng lân cận và lao động của cả nƣớc vào
làm việc. Việc phát triển các vùng kinh tế trọng điểm với các khu công nghiệp, khu
chế xuất cần phải đi đôi với việc giải quyết các vấn đề xã hội nhƣ: phát triển đồng
bộ hạ tầng cơ sở xã hội (điện, nƣớc, trƣờng học, chợ, hệ thống tín dụng...), hệ thống
nhà ở... để đảm bảo các điều kiện sinh sống thuận lợi cho lao động đến làm việc.
- Thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế: hội nhập kinh tế quốc tế tạo cho Việt
Nam có nhiều cơ hội mới, nhất là tranh thủ đƣợc các nguồn vốn, công nghệ mới,
khoa học quản lý tiên tiến, mở rộng thị trƣờng, tham gia vào quá trình phân công
lao động quốc tế, tạo nhiều việc làm cho lao động và mở ra khả năng đào tạo lao
động cất lƣợng cao trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, Việt Nam đứng trƣớc những
thách thức là phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trƣờng khu vực và thế
giới, trong khi cạnh tranh của nền kinh tế, của lao động Việt Nam còn thấp, năng
lực quản lý, hạ tầng cơ sở yếu kém và các rào cản phi thƣơng mại khác.
- Có cơ chế chính sách điều chỉnh nguồn nhân lực trình độ cao một cách hợp
lý cho các ngành, vùng, địa phƣơng, cụ thể tập trung vào các giải pháp:
+ Để thu hút nguồn nhân lực chất lƣợng cao về công tác tại địa phƣơng, nên
có chính sách khuyến khích đối với số sinh viên nông thôn nghèo bằng chế độ học
bổng gắn với điều kiện phân công công tác về địa phƣơng. Ngoài ra, cần khuyến
khích công tác tuyển sinh theo hệ cử tuyển: địa phƣơng gửi đến các trƣờng đào tạo,
sau khi tốt nghiệp phải về công tác tại địa phƣơng. Mặt khác, phải có chính sách
"chiêu hiền đãi sỹ" đối với lao động chất lƣợng cao ở nới khác về công tác tại địa
phƣơng về cả vật chất và tinh thần.
+ Nhà nƣớc đầu tƣ, củng cố, hoàn thiện mạng lƣới trƣờng phổ thông dân tộc
nội trú ở những vùng khó khăn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo và đồng
bào dân tộc ít ngƣời.
+ Điều chỉnh, bổ sung các quy định, tiêu chuẩn, chế độ cử tuyển, đào tạo dự
bị đại học đối với học sinh là ngƣời dân tộc, các vùng kinh tế xã hội khó khăn và
đặc biệt khó khăn.
143
+ Điều chỉnh chế độ học bổng với đối tƣợng sinh viên cử tuyển, sinh viên dự
bị đại học
+ Hoàn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, giáo viên làm việc
trong các trƣờng dân tộc nội trú.
- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là lao động CMKT cao đồng thời
nhập khẩu lao động CMKT cao mà Việt Nam khan hiếm. Để xuất khẩu lao động
CMKT cao đạt hiệu quả cao cần hoàn thiện khung pháp lý về xuất khẩu lao động,
tăng cƣờng tính minh bạch của hệ thống hạch toán tài chính xuất khẩu lao động,
tăng cƣờng độ tin cậy của hệ thống các chính sách, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã
hội. Các hoạt động của cơ sở xuất khẩu lao động, xử lý hiệu quả các hành vi vi
phạm về xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động phải tính đến hiệu quả kinh tế đem
lại cho ngƣời lao động, cho tổ chức và xã hội.
Việc nhập khẩu lao động CMKT cao mà Việt Nam khan hiếm cũng cần phải
đƣợc xúc tiến, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, dịch vụ trình độ cao và
quản lý ở những ngành nghề đƣợc ƣu tiên phát triển trong nền kinh tế. Hiện nay ở
nƣớc ta, ở một số ngành có sự thiếu hụt cán bộ đầu đàn cho nên việc nhập khẩu lao
động CMKT cao là cần thiết. Từ đó, có thể giải quyết đƣợc các vấn đề kinh tế, xã
hội của các ngành, các lĩnh vực nhƣ năng lƣợng, hóa dầu, công nghệ vũ trụ, đóng
tàu, cơ khí chế tạo, điện tử, khoa học về biển, tự động hóa... Nhập khẩu lao động
CMKT cao còn góp phần đào tạo đội ngũ lao động CMKT cao trong nƣớc để tiếp
cận các thành tựu khoa học, công nghệ mới của nhân loại. Do đó, cần phải đơn giản
hóa các thủ tục xuất nhập cảnh, thành lập doanh nghiệp cung ứng nguồn nhân lực
CMKT cao, có chế độ trả lƣơng cao cùng các ƣu đãi khác đối với các chuyên gia
nƣớc ngoài và ngƣời Việt Nam làm việc.
4.2.5. Mở mang ngành nghề mới và những ngành sử dụng nhiều lao
động để giải quyết việc làm tại chỗ
Tạo việc làm tại chỗ có một ý nghĩa quan trọng không chỉ với vấn đề lao
động việc làm của khu vực nông thôn mà còn có ý nghĩa nhiều hơn với sự phát
triểncủa cả quốc gia. Trên thế giới tạo việc làm phi nông nghiệp tại các vùng nông
thôn là một trong những giải pháp chính giúp thay đổi bộ mặt nông thôn tại nhiều
144
quốc gia. Đầu tƣ vào nông nghiệp, nông thôn đƣợc cải thiện cũng có nghĩa làm gia
tăng cơ hội việc làm trên cả hai lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Khi việc
làm tại khu vực nông thôn cũng nhƣ nông nghiệp đƣợc cải thiện cũng đồng nghĩa
với áp lực phải cải thiện về cầu lao động, thu nhập, điều kiện làm việc tại các khu
vực công nghiệp, dịch vụ có sử dụng lao động của khu vực nông thôn sẽ tăng lên.
Do yêu cầu tạo việc làm mới trong những năm trƣớc mắt và đặc biệt là tạo
việc làm mới cho nông dân sau thu hồi đất, vì vậy chúng ta cần phải phát triển, mở
rộng những ngành sử dụng nhiều lao động nhƣ may mặc, da giày, các ngành dịch vụ
- thƣơng mại... đồng thời đẩy mạnh sự phát triển những làng nghề thủ công truyền
thống để thu hút thêm nhiều lao động, đặc biệt là lao động giản đơn. Do đặc thù của
lao động nông thôn là lao động chƣa qua đào tạo, không có trình độ chuyên môn
cũng nhƣ những kỹ năng trong sản xuất vì vậy họ chỉ có thể đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi của những công việc giản đơn, hơn nữa lực lƣợng lao động ở đây rất đông vì
vậy, để đáp ứng nhu cầu giải quyết lao động dƣ thừa và tạo thêm việc làm đòi hỏi
chúng ta bên cạnh việc phát triển những ngành công nghệ cao thì cũng phải phát
triển những ngành ở trình độ kỹ thuật trung bình. Đây là một trong những phƣơng
thức tạo việc làm một cách hiệu quả và ổn định cho số lao động ngày theo phƣơng
châm "ly nông bất ly hƣơng" để tránh sức ép cho khu vực thành thị.
Yêu cầu này đòi hỏi các cấp chính quyền của thành phố cũng nhƣ bản thân
ngƣời lao động phải tìm những hƣớng phát triển ngành nghề phù hợp để lao động
nông thôn có việc làm mới sau thu hồi đất, yên tâm sản xuất kinh doanh mà không
di chuyển vào khu vực thành thị. Trong những năm tới, thành phố tập trung vào một
số vấn đề sau:
- Phát triển các hoạt động dịch vụ gắn với phục vụ sản xuất nông nghiệp:
cung cấp cây, con giống; cung cấp phân bón; cung cấp thông tin thị trƣờng tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp...
- Hình thành và phát triển một số làng nghề mới để cung cấp một số sản
phẩm dịch vụ, phục vụ cuộc sống cho ngƣời dân: phát triển các nghề chế biến
rau quả ở các vùng ven đô và các vùng chuyên canh rau an toàn, nghề chế biến
145
thuốcnam, đông dƣợc hay khôi phục và phát triển mạnh mẽ những làng nghề thủ
công truyền thống trên cơ sở áp dụng khoa học, kỹ thuật trong một số công đoạn để
nâng cao năng suất lao động, làm ra nhiều sản phẩm có chất lƣợng tốt...
- Khuyến khích các tổ chức và cá nhân có điều kiện về vốn, đất đai, kiến
thức và kinh nghiệm đầu tƣ gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh...
- Hiện nay thu hút đầu tƣ vào khu vực nông thôn rất nhỏ và rất khó có sự
thay đổi đột biến trong tƣơng lai gần do chƣa khắc phục đƣợc những hạn chế về môi
trƣờng đầu tƣ. Do vậy, cần có những chính sách tốt hơn, cởi mở hơn để thu hút các
doanh nghiệp đầu tƣ vào khu vực nông thôn nhằm mục tiêu GQVL tại chỗ góp phần
to lớn tạo ra một sự ổn định về kinh tế - xã hội của khu vực nông thôn nói riêng
cũng nhƣ tạo ra sự phát triển bền vững cho cả nƣớc nói chung.
4.2.6. Một số giải pháp khác
Về nguyên tắc, mọi chính sách có thể thúc đẩy, hỗ trợ tăng trƣởng kinh tế
nhanh đều thúc đẩy và hỗ trợ gia tăng việc làm, miễn là sự tăng trƣởng đó phải
đƣợc thiết lập trên cơ sở chất lƣợng và hiệu quả để tăng trƣởng kinh tế ngắn hạn
trong một thời kỳ không làm suy giảm tốc độ tăng trƣởng kinh tế của các thời kỳ
sau. Bởi thế, các chính sách về tiền lƣơng, về tài chính, về ngoại thƣơng, về dân
số... cũng đều có vai trò quan trọng trong lĩnh vực giải quyết việc làm. Chẳng hạn,
trong lĩnh vực giá cả và tiền lương, điều quan trọng là Nhà nƣớc phải hạn chế để
tránh đi những can thiệp có khả năng tạo ra những mức giá và lƣơng méo mó,
phản ánh sai lạc các tín hiệu thị trƣờng, và do đó, làm cho các thị trƣờng hàng hóa
và thị trƣờng lao động hoạt động không hiệu quả. Vì nhiều lý do, các chính phủ,
trong đó có chính phủ Việt Nam, đều thực thi chính sách tiền lƣơng tối thiểu. Tuy
nhiên, nếu áp đặt một mức lƣơng tối thiểu quá cao so với mức lƣơng có thể có trên
thị trƣờng, mức cầu về lao động của các doanh nghiệp sẽ giảm, cơ hội việc làm
đối với các lao động giản đơn sẽ bị cắt giảm tƣơng ứng. Trong điều kiện lao động
còn dƣ thừa nhƣ ở Việt Nam, điều này cần đƣợc lƣu ý.
Trong các chính sách hỗ trợ cho sự gia tăng về cầu lao động, việc nâng cấp
các cơ sở hạ tầng nhƣ đƣờng xá, bến cảng, sân bay, hệ thống cung ứng điện nhằm
146
đảm bảo sự kết nối kinh tế giữa các vùng miền, cắt giảm chi phí vận chuyển cho
các doanh nghiệp, đảm bảo nguồn năng lƣợng ổn định phù hợp với nhu cầu phát
triển của các doanh nghiệp và nền kinh tế là rất quan trọng. Mặc dù hệ thống cơ
sở hạ tầng nói trên ở Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều cải thiện, song
tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu
vẫn đang phải gánh chịu các chi phí cao so với mặt bằng chung của khu vực
chứng tỏ là hệ thống này vẫn còn nhiều yếu kém. Điều đáng quan ngại nữa là
hiệu quả đầu tƣ công, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển các cơ sở hạ tầng của nền
kinh tế những năm qua là thấp (do quy hoạch thiếu hợp lý, do đầu tƣ phân tán,
thiếu đồng bộ, trùng lắp khi các quyết định đầu tƣ bị dẫn dắt bởi các lợi ích xung
đột nhau; do tham nhũng...). Không xử lý đƣợc vấn đề này, hiệu quả chung của
nền kinh tế cũng nhƣ hiệu quả giải quyết việc làm sẽ bị ảnh hƣởng tiêu cực,
nghiêm trọng.
Trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với KTTT, hệ thống hạ tầng thông tin-
viễn thông cần đƣợc đặc biệt ƣu tiên, đầu tƣ. Điều đó sẽ giúp cho các doanh
nghiệp cắt giảm đƣợc các chi phí thông tin liên lạc, có điều kiện cải tiến các hoạt
động quản lý, marketing và cũng nhƣ toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh của
mình trên nền tảng ứng dụng các thành tựu CNTT hiện đại, nhờ đó khả năng
cạnh tranh quốc tế và sức tăng trƣởng của các doanh nghiệp đƣợc cải thiện hơn.
Mặt khác, hạ tầng thông tin - viễn thông tốt, dễ tiếp cận, chi phí rẻ còn tạo ra vô
vàn các cơ hội việc làm khác nhau cho cá nhân những ngƣời lao động, kể cả khi
chỉ là ngƣời lao động tự do, làm việc ở nhà. Đây rõ ràng cũng là hƣớng
GQVLtrong kỷ nguyên KTTT.
Ngoài ra, đối với Việt Nam hiện nay, xuất khẩu lao động vẫn là một kênh có
ý nghĩa đối với lĩnh vực GQVL. Điều quan trọng ở đây là cần thực hiện tốt hơn vai
trò quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động này sao cho việc cung ứng các dịch vụ xuất
khẩu lao động phải đƣợc thực hiện trên nền tảng của một thị trƣờng mang tính cạnh
tranh, công khai, minh bạch.
147
Kết luận chương 4
Với bối cảnh của một nƣớc đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập sâu
hơn vào nền kinh tế thế giới thì sự hình thành và phát triển của thị trƣờng lao động
Việt Nam vẫn mang đặc điểm của một thị trƣờng còn nhiều yếu kém. Đó là, lao động
chủ yếu làm việc trong khu vực nông nghiệp, khu vực phi kết cấu, năng suất thấp,
nhiều rủi ro, tình trạng chia sẻ công việc, chia sẻ việc làm còn phổ biến; về cơ bản
Việt Nam vẫn là một thị trƣờng dƣ thừa lao động trong nông nghiệp, nông thôn với
chất lƣợng cung lao động thấp, phân bố chƣa hợp lý và khả năng di chuyển còn bị
hạn chế; cầu lao động thấp về số lƣợng và vẫn còn một tỷ lệ lớn lao động làm việc
trong các nghề giản đơn, không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật, khu vực làm công ăn
lƣơng phát triển chậm; tuy nhiên thất nghiệp thấp, nhƣng tỷ lệ thiếu việc làm vẫn
còn khá nghiêm trọng. Để GQVL ở Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH gắn với
phát triển KTTT cần thống nhất theo các quan điểm: Coi GQVL là một trong mục
tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng hàng đầu của mọi chiến lƣợc phát triển trong thời kỳ
CNH, HĐH gắn liền với phát triển KTTT; Lấy tăng trƣởng kinh tế nhanh, bền vững,
có chất lƣợng làm cơ sở để GQVL; GQVL trên cơ sở nguyên tắc thị trƣờng, trong
đó việc hoàn thiện các thể chế thị trƣờng nói chung, thị trƣờng lao động nói riêng là
nền tảng quan trọng để xử lý các đề việc làm trong dài hạn; GQVL phải phù hợp
với nguyên tắc của một nền kinh tế mở cửa, hội nhập quốc tế; Coi nâng cao chất
lƣợng nguồn nhân lực là khâu then chốt trong lĩnh vực GQVL một cách dài hạn.
Mục tiêu chung của phát triển thị trƣờng lao động trong quá trình CNH,
HĐH gắn với phát triển KTTT là đảm bảo có một thị trƣờng hiện đại, hiệu quả,
cạnh tranh và công bằng, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nƣớc. Để
thực hiện đƣợc mục tiêu này cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong đó Nhà
nƣớc đóng vai trò chủ đạo trong quá trình GQVL cho ngƣời lao động.
148
KẾT LUẬN
1. Trong thời đại ngày nay, nền KTTT đã hình thành và trở thành hiện thực
ở nhiều nƣớc, đó là xu thế tất yếu của quá trình phát triển sức sản xuất là thành tựu
quan trọng của loài ngƣời. Không nền kinh tế của một quốc gia nào ngày nay có
thể nằm ngoài mạng lƣới kinh tế toàn cầu, và đƣơng nhiên hiểu biết về các quốc
gia khác để có cách phát triển kinh tế hợp lý của mình là điều hiển nhiên rất quan
trọng. Nhiều nƣớc đang phát triển lựa chọn chiến lƣợc “đi tắt” và họ đang đi
nhanh vào kinh tế tri thức. Đối với nƣớc ta đây là thời cơ và cũng là thách thức hết
sức to lớn và quyết liệt.
2. Quá trình CNH, HĐH ở nƣớc ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ
cực kỳ lớn lao: Chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và chuyển
từ kinh tế công nghiệp sang KTTT. Hai nhiệm vụ ấy phải thực hiện đồng thời, lồng
ghép vào nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Khi thực hiện đồng thời cả hai nhiệm vụ
ấy nƣớc ta đang đứng trƣớc một tình huống: Vừa thừa lao động giản đơn công nhân
tạp vụ vừa thiếu lao động có chất lƣợng cao phục vụ sự phát triển của nền KTTT.
3. Trong thời gian qua, Nhà nƣớc đã thực hiện nhiều chính sách và sử dụng
các giải pháp để chúng ta GQVL cho ngƣời lao động. Những tỷ lệ lao động thất
nghiệp và thiếu việc làm vẫn tồn tại ở nhiều nơi, nhiều lúc trở thành vấn đề bức xúc
trở thành một trong những vấn đề cơ bản của quá trình phát triển kinh tế xã hội.
4. Điều khó khăn nhất đối với nƣớc ta hiện nay là vừa phải đào tạo nhân lực để đi
ngay vào KTTT, tiếp thu công nghệ mới, vừa phải GQVL cho hàng chục triệu lao động
giản đơn. Trong 10 năm qua số lƣợng lao động rút khỏi nông nghiệp ít hơn là số lƣợng
lao động tăng thêm do tốc độ tăng dân số ở nông thôn vẫn còn khá cao, vì vậy dân số và
lực lƣợng lao động ở nông thôn không những không giảm đi mà vẫn duy trì ở quy mô
khá lớn, do đó, số ngƣời không có hoặc không đủ việc làm cũng tăng lên. Thất nghiệp và
tình trạng thiếu việc làm ở nƣớc ta đang trở nên gay gắt. Thƣờng xuyên có khoảng 30%
lao động thiếu việc làm ở nông thôn, thất nghiệp ở thành thị cũng có xu hƣớng tăng, đặc
biệt là tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên(lứa tuổi từ 15 - 24) đã ở mức báo động.
5. Sự chuyển dịch cơ cấu việc làm theo xu thế CNH, HĐH gắn với phát
triển KTTT đã có sự chuyển biến nhất định nhƣng thực tế cho thấy tốc độ
chuyển biến rất chậm chƣa đáp ứng nhu cầu phát triển của nền KTTT. Tỷ lệ
LĐCLC trong nền kinh tế còn chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn so với tiêu chí phát triển
149
của nền KTTT. Số lƣợng lao động qua đào tạo đã tăng lên nhƣng không đáp ứng
yêu cầu của thị trƣờng lao động trong bối cảnh toàn cầu hóa và KTTT. Tỷ lệ thất
nghiệp của sinh viên ngày càng tăng lên.
6. Thực trạng GQVL ở Việt Nam trong những năm qua cho thấy: quá trình
GQVL chƣa đạt đƣợc những nội dung và tiêu chí của GQVL trong quá trình CNH,
HĐH gắn với phát triển KTTT. Đó là vừa giải quyết đƣợc việc làm cho số lƣợng lao
động dôi dƣ trong nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH vừa gia tăng nhanh số
lƣợng lao động chất lƣợng cao đáp ứng nhu cầu phát triển của nền KTTT.
7. Xét về thu nhập của ngƣời lao động: lực lƣợng lao động trong các ngành KTTT
đã tăng lên nhƣng tốc độ tăng trƣởng không thu nhập của lao động động trí tuệ chƣa bắt
kịp quá trình tăng thu nhập của nền kinh tế nói chung. Thu nhập chƣa trở thành động lực
mạnh mẽ để lôi cuốn ngƣời lao động theo xu hƣớng phát triển của nền KTTT.
8. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trong quá trình GQVL ở Việt
Nam thời gian qua là nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, các thể
chế thị trƣờng, trong đó có thị trƣờng lao động chƣa phát triển đồng bộ, hệ thống
giáo dục - đào tạo nhân lực chậm đƣợc đổi mới, chứa đựng quá nhiều bất cập trong
khi quá trình tăng trƣởng "mắc kẹt" quá lâu ở mô hình tăng trƣởng theo chiều rộng.
9. Để đạt đƣợc mục tiêu phát triển của thị trƣờng lao động trong quá trình
CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT cần xây dựng đƣợc một nền kinh tế thị trƣờng
hiện đại, hiệu quả, cạnh tranh và công bằng gắn với sự đổi mới hoàn thiện các thể
chế kinh tế, chính trị, đặc biệt là thể chế nhà nƣớc. Mục tiêu này cần đƣợc triển khai
thành các mục tiêu cụ thể thể hiện rõ các yêu cầu về mặt cung, cầu, kết nối cũng
nhƣ an sinh cho ngƣời lao động trong quá trình GQVL: Tuân thủ nguyên tắc thị
trƣờng, bảo đảm công khai minh bạch, đồng thời tham gia hội nhập với thị trƣờng
toàn cầu, tuân thủ theo nguyên tắc và thông lệ quốc tế.
10. Để GQVL cho ngƣời lao động trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát
triến KTTT, Nhà nƣớc phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm tác động vào cả
cung lẫn cầu về lao động. Trong số các giải pháp về phía cung, việc ƣu tiên nâng cấp
hệ thống giáo đục đào tạo là giải pháp then chốt, có ý nghĩa chiến lƣợc, lâu dài. Ngoài
điều đó, Nhà nƣớc cần tập trung vào các giải pháp nhằm nâng cao tốc độ và chất
lƣợng tăng trƣởng kinh tế, coi đó là phƣơng thức chính để tăng cầu về lao động.
150
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thu Trà (2015), “Đào tạo lao động theo nhu cầu”, Tạp chí Đại
đoàn kết dân tộc và miền núi”, số tháng 3/2015, tr 6-7.
2. Nguyễn Thị Thu Trà (2015), "Việc làm cho ngƣời lao động trong các công
ty có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp", Tạp
chí Dân tộc (171), tr.23-26.
3. Nguyễn Thị Thu Trà (2016), "Kinh nghiệm của Trung Quốc và Malaysia về
giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa", Tạp chí Giáo dục lý luận (243), tr.78-81.
4. Nguyễn Thị Thu Trà (2016), “Những yếu tố tác động đến vấn đề giải quyết
việc làm ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí khoa học chính trị, số 7/ 2016, tr 66-70.
5. Nguyễn Thị Thu Trà, (2016), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Công
sản điện tử (số ra ngày 11/10/2016).
6. Nguyễn Thị Thu Trà, (2016), “Công nghiệp hóa và kinh tế tri thức: Một số
đặc điểm và tác động việc làm”, Tạp chí kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 484,
tr.70-73.
7. Nguyễn Thị Thu Trà, Phạm Thị Mai Vui (2016) "Phát triển nguồn nhân lực
chất lƣợng cao để hình thành nền kinh tế tri thức. Vận dụng vào Trƣờng Đại học Hà
Nội ", Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trƣờng Đại học Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Thu Trà, (2017), “Xây dựng con ngƣời mới XHCN theo tinh
thần Nghị quyết Trung Ƣơng IV - Khóa XII của Đảng”, Kỷ yếu hội thảo khoa học -
khoa Giáo dục chính trị - Trƣờng Đại học Hà Nội.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Xuân An (2005), Giải quyết việc làm ở Thái Bình, thực trạng và giải
pháp, NXB Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Mạc Tiến Anh (2007), “Đào tạo nghề theo hƣớng cầu một số vấn đề đặt ra”,
Tạp chí Lao động xã hội số 319.
3. Alvin Toffler (2000), Cú sốc tương lai, NXB Thanh niên
4. Alvin Toffler (2001), Thăng trầm quyền lực, NXB Thanh niên
5. Alvin Toffler (2003), Làn sóng thứ ba , NXB Thế giới Hà Nội
6. Ban Chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ƣơng (2009), Tổng điều
tra dân số và nhà ở năm 2009 - các kết quả suy rộng mẫu.
7. Bộ luật lao động nướcCộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), NXB
Chính trị quốc gia Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục đào tạo (2001), "Chiến lƣợc phát triển giáo dục 2001 - 2010",
Văn phòng Bộ
9. Bộ Giáo dục đào tạo (2012), “Chiến lƣợc phát triển Giáo dục - Đào tạo
2011-2020”, Văn phòng Bộ
10. Bộ Giáo dục đào tạo (2005), “Đề án xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH”, Văn phòng Bộ
11. Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, “Chiến lƣợc CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn”
12. Bộ KH-CN (2001), “Chiến lƣợc phát triển KH&CN giai đoạn 2001-
2010”, Văn phòng Bộ
13. Bộ KH-CN (2011), “Chiến lƣợc phát triển KH&CN giai đoạn 2011-
2020”, Văn phòng Bộ
14. Bộ Lao động - Thƣơng binh và xã hội (2009) Sổ tay thống kê thông tin thị
trường lao động ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2005), Niên giám thống kê lao
động thương binh và xã hội, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
152
16. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2005), Đánh giá việc thực hiện
chiến lược việc làm giai đoạn 2001-2005 và xây dựng chiến lược việc làm trong
thời kỳ Đại hội X (2006-2010), Hà Nội.
17. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Tài chính (2008), Hướng dẫn
quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước, Hà Nội.
18. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2011), Báo cáo điều tra lao động
và việc làm năm 2011, Hà Nội.
19. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2011), Báo cáo nghiên cứu về việc
làm nông thôn Việt Nam, Hà Nội.
20. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2011), Xu hƣớng lao động - việc
làm Việt Nam 2000 - 2010, Cục Việc làm - Văn phòng Bộ.
21. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2012), Xu hƣớng lao động - việc
làm Việt Nam 2012, Cục Việc làm - Văn phòng Bộ.
22. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2013), Xu hƣớng lao động - việc
làm Việt Nam 2013, Cục Việc làm - Văn phòng Bộ.
23. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2014), Xu hƣớng lao động - việc
làm Việt Nam 2014, Cục Việc làm - Văn phòng Bộ.
24. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2010), Báo cáo tình hình và giải pháp tăng cường
thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới năm (2005-2010). Văn phòng Bộ
25. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2007), Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm (2007), và những giải pháp chính năm (2008). Văn phòng Bộ
26. Báo cáo nghiên cứu về việc làm nông thôn tại Việt Nam, do Văn phòng
Hỗ trợ Tƣ vấn Phản biện và Giám định Xã hội (OSEC) trực thuộc Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) thực hiện dƣới sự hỗ trợ về tài chính và
kỹ thuật của Văn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế tại Việt Nam (ILO) thông qua
Cục Việc làm thuộc Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (MOLISA).
27. Báo cáo của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2012),
Đánh giá thực trạng lao động việc làm ở các khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp và
hiệu quả của các chính sách hỗ trợ nhóm nông dân mất đất. Hà Nội
153
28. Báo cáo phát triển Thế giới (2013) do Ngân hàng Thế giới công bố
29. Báo cáo phát triển của Việt Nam (2014) do Ngân hàng Thế giới công bố
30. Báo điện tử Thanh niên (2015), Đất nước Hàn Quốc từ quá khứ đến hiện
tại, số tháng 6/2015.
31. Vũ Đình Cự (2014), “Phát triển kinh tế tri thức, cơ hội và thách thức của
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học công nghệ Việt Nam, số 15, tr. 32-36.
32. Vũ Đình Cự ( 2007), Khoa học công nghệ và thông tin điện tử, triển vọng
phát triển và ứng dụng trong hai thập niên tới, NXB khoa học và kỹ thuật Hà Nội.
33. Vũ Đình Cự - Trần Xuân Sầm (2013), Lực lượng sản xuất mới và kinh tế
tri thức, NXB khoa học và kỹ thuật Hà Nội.
34. Nguyễn Sinh Cúc (2003), “Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn
đề đặt ra”, Tạp chí Con số và Sự kiện, số 8.
35. Đỗ Minh Cƣơng (2003), “Đào tạo nghề trở thành mối quan tâm của toàn
xã hội”, Tạp chí Lao động xã hội số 2.
36. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật lao động (2003), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Phạm Đức Chính (2007) Thị trƣờng lao động: “Vấn đề lý thuyết và thực
trạng hình thành, phát triển ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển kinh tế,
số tháng 1.
38. C.Mác Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb sự thật, Hà Nội - 1980.
39. C.Mác - Ph.Ăngghen, Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 1, NXB
CTBQG HCM, Hà Nội - 1995.
40. C.Mác - Ph.Ăngghen, Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 20, NXB
CTQG HCM, Hà Nội - 1994.
41. C.Mác - Ph.Ăngghen, Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 23, NXB
CTQG HCM, Hà Nội - 1993.
42. C.Mác, Toàn tập, tập 3, quyển I, NXBSự thật, Hà Nội - 1973.
43. C.Mác, Bộ Tư bản, tập thứ nhất, quyển I, phần 1, NXBSự thật, Hà Nội -1984
44. C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995
154
45. C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội -1994
46. Trần Đình Chiến (2003), “Giải quyết việc làm cho ngƣời lao động ở các
tỉnh duyên hải trung bộ và một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Khoa học chính trịsố 4.
47. Cục Thống kê Hà Nội (2009), Niên giám thống kê Hà Nội 2008, Công ty
TNHH in Khuyến học, Hà Nội.
48. Cục Thống kê Hà Nội (2010), Niên giám thống kê Hà Nội 2009, Công ty
TNHH in Khuyến học, Hà Nội.
49. Cục Thống kê Hà Nội (2011), Niên giám thống kê Hà Nội 2010, Công ty
TNHH in Khuyến học, Hà Nội.
50. Cục Thống kê Hà Nội (2012), Niên giám thống kê Hà Nội 2011, Công ty
TNHH in Khuyến học, Hà Nội.
51. Cục Thống kê Hà Nội (2013), Niên giám thống kê Hà Nội 2012, Công ty
TNHH in Khuyến học, Hà Nội.
52. Cục Thống kê Hà Nội (2014), Niên giám thống kê Hà Nội 2013, Công ty
TNHH in Khuyến học, Hà Nội.
53. Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị định
số 29-2008, ngày 14 tháng 3 năm 2008 Quy định về thành lập, hoạt động, chính
sách và quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu
kinh tế cửa khẩu.
54. Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Nghị định
36/CP của Chính phủ về quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
55. David. Slandes (2001), Sự giàu nghèo của các dân tộc, NXB Thống Kê,
Hà Nội.
56. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (2007), Về chính sách giải quyết việc
làm ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Lê Văn Dũng (2008), Việc làm cho người lao động nông thôn tỉnh Thanh
Hóa, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
58. Nguyễn Ngọc Dũng (2005), “Một số vấn đề xã hội trong xây dựng và phát
triển các khu công nghiệp ở Việt Nam”, Kinh tế và dự báo số 3/2005.
155
59. Nguyễn Tuấn Dũng (2011), “Vềđẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
gắn với pháttriển kinh tế tri thức và phát triển bền vững”, Tạp chí Xây dựng Đảng
số 1, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Xuân Dũng (2013),Côngnghiệp VN trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế, NXB khoa học xã hội.
61. Phạm Tất Dong (2011), “Vai trò của giáo dục - dào tạo trong nền kinh tế
tri thức”, Vietbao.vn gia HCM
62. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khoá VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp
hành trung ương khoá VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứXI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
73. Nguyễn Đại Đồng (2008), “Chiến lƣợc việc làm của Việt Nam trong bối
cảnh tăng trƣởng và hội nhập”, Tạp chí Lao động xã hội, số 326.
74. Đàm Hữu Đắc (2008), “Đổi mới đào tạo nghề để nâng cao chất lƣợng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”, Tạp chí
Lao động xã hội, số 333.
75. Lê Thị Hồng Điệp (2010), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để
hình thành nền kinh tế tri thức”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế chuyên ngành kinh tế
chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội.
76. EF. Schumacher (1994), Những nguồn lực, NXB Lao động, Hà Nội.
77. Edgar Morin (2008), Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai, NXB
Tri thức
78. Nguyễn Thúy Hà (2013), “Chính sách việc làm: Thực trạng và giải pháp”,
Tạp chí lập pháp, số ra ngày 07/06.
79. Hà Thị Hằng (2010), Việc làm cho người lao động sau thu hồi đất trong
quá trình đô thị hoá ở thành phố Huế,, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
80. Vƣơng Phƣơng Hoa (2014), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, chuyên ngành
kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
81. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2012), Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội thành phố Hà Nội 5 năm 2011-2015, Hà Nội.
82. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2012), Nghị quyết về nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội năm 2013 của thành phố Hà Nội, Hà Nội.
83. Nguyễn Thị Lan Hƣơng (Chủ biên) (2002), Thị trường lao động Việt Nam
định hướng phát triển, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
84. Nguyễn Thị Hằng (2008), “Chiến lƣợc việc làm của Việt Nam trong bối
cảnh tăng trƣởng và hội nhập”, Tạp chí Lao động xã hội, số 326.
85. Nguyễn Thị Hằng (2003), “Lao động việc làm những bƣớc tiến quan
trọng”, Tạp chí Lao động xã hội, số 23.
157
86. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Kinh tế - Chính trị,
(2005), Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực trạng và triển vọng, Tổng quan khoa học.
87. Lê Minh Hùng - Đàm Vân Dung (2009), "Mức sống của ngƣời lao động
làm việc trong khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng", Tạp chí Thông tin
khoa học, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế- xã hội thành phố Đà Nẵng, số 7.
88. Ngô Hƣớng (2004), “Các khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc”, Tạp chí Cộng sản số 17.
89. Phí Mạnh Hồng (2006), Đề tài trọng điểm đại học quốc gia, Một số vấn đề
cơ bản về kinh tế tri thức- cơ hội và thách thức đặt ra cho Việt Nam.
90. Phí Mạnh Hồng (2016), Vai trò của Nhà nước trong thời đại kinh tế tri
thức, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
91. Đặng Hữu (2003), Phát triển kinh tế tri thức - rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta, đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc, mã số KX.02.03
92. Đặng Hữu (2004), Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với sự phát
triển của Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
93. Hàn Quốc và bài học 40 cho Việt Nam, Tuần Vietnam.net, số ra ngày
05/12/2013.
94. Hàn Quốc - Điều kỳ diệu bên sông Hàn, thongtinhanquoc.info, ngày
11/01/2016.
95. Hàn Quốc và những điều cần biết, báo thanh niên số ra ngày 31/05/2015.
96. Trần Ngọc Hiên (2014), “Những vấn đề cơ bản trong nhận thức về kinh tế
tri thức và thực hiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học công
nghệ số 2
97. Phạm Thanh Khiết (2007), Phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp ở các
tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ - Thực trạng và những vấn đề đặt ra, Đề tài khoa học
cấp cơ sở, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III, Đà Nẵng
98. Kinh tế Hàn Quốc - Thời kỳ những năm thập niên 60,
thongtinhanquoc.info,ngày 20/02/2016.
99. Lester C.Thurow (2003), Làm giàu trong nền kinh tế tri thức, NXB Trẻ
158
100. Lester C.Thurow (2005), Nghịch lý toàn cầu, NXB Trẻ
101. Trần Thị Lan (2012), “Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất
ở thành phố Hà Nội”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 1.
102. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2012), Đánh giá
thực trạng lao động việc làm ở các khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp và hiệu quả
của các chính sách hỗ trợ nhóm nông dân mất đất”, Hà Nội.
103. Nguyễn Hoàng Long (2003), Giải quyết việc làm trong thời kỳ đẩy
nhanh tốc độ đô thị hoá ở Đà Nẵng, Lao động và xã hội, số 218.
104. Trần Quang Lâm (chủ biên) (2004), Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Thực trạng
và triển vọng, Đề tài cấp bộ, của khoa Kinh tế - Chính trị, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
105. Trần Quang Lâm - TS. An Nhƣ Hải (2006), Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
106. Hoàng Thị Bích Loan (chủ biên)(2008), Thu hút đầu tư trực tiếp của
các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Hồng Minh (2003), "Hải Dƣơng: Lao động nông thôn muốn có việc
làm phải đƣợc học nghề", Tạp chí Lao động xã hội, số (224, 225).
108. Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa (2009), Vấn đề hậu giải phóng
mặt bằng ở Hà Nội, thực trạng và giải pháp, NXBCTQG HCM, Hà Nội.
109. Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Ngọc Bắc, Hoàng Xuân Nghĩa, Nguyễn Thanh
Bình(2010), Giải phóng mặt bằng ở Hà Nội - hệ luỵ và phương hướng giải quyết,
NXBCTQG HCM, Hà Nội.
110. Đặng Thị Mai, Khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh
Hải Dương, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội - 2009.
111. Nguyễn Thị Thuý Mai (2009), “Định hƣớng phát triển công nghiệp Đà
Nẵng đến năm 2020”, Tạp chí Thông tin khoa học, Viện nghiên cứu phát triển kinh
tế- xã hội thành phố Đà Nẵng số 7.
159
112. Nguyễn Văn Nhƣờng (2010), Chính sách an sinh xã hội đối với người nông dân
sau khi thu hồi đất để phát triển các cụm công nghiệp (nghiên cứu tại Bắc Ninh), Hà Nội.
113. Trần Thị Minh Ngọc (2010), Việc làm của nông dân trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Cao Nguyên (2015), “Lời giải cho bài toán phát triển kinh tế tri thức
trong nông nghiệp”, Hội thảo “ Vai trò của Doanh ngiệp trong phát triển KTTT ở
Việt Nam”, Hà Nội
115. Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Lao động,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
116. Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Bộ luật Lao động,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
117. Nolwen Henaff Jean-Yves Martin (2001), Lao động, việc làm và nguồn
nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới, NXB Thế giới, Hà Nội.
118. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Kinh tế phát triển, Giáo trình trƣờng Đại
học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
119. Paul. Samuelson (2008), Kinh tế học, NXB Thống kê, Hà Nội
120. Peter F. Drucker ( 1995), Xã hội hậu tư bản, Viện nghiên cứu quản lý
kinh tế T.W- Trung tâm thông tin tƣ liệu
121. Lê Du Phong (2007), Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị
thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia, NXB Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, TP.Hồ Chí Minh.
122. Phạm Tiên Phong (2009), “Vềsự lựa chọn công nghệ cao”, Tạp chí Thông
tin khoa học, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng, số 7.
123. Đỗ Đức Quân (2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông
thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp
(qua khảo sát các tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Dương, Ninh Bình), NXBCTQG HCM, Hà Nội.
160
124. Nguyễn Thế Quang (2006), "Hà Nội với các biện pháp trợ giúp phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa", Lao động và xã hội, số 283.
125. Nguyễn Văn Quý (2012), “Phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học và
công nghệ làm động lực hàng đầu”, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển kinh tế, số ra
ngày 23/1/212
126. TS. Nguyễn Minh Quang - TS. Đoàn Xuân Thuỷ đồng chủ biên (2010),
Chính sách ứng phó khủng hoảng kinh tế của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
127. Nguyễn Thị Thanh Quý (2016), "Phát triển nguồn nhân lực ngành
hàng không Việt Nam", Luận án Tiến sĩ Kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị,
128. John Naisbitt (2000), Lối tư duy của tương lai, NXB Lao động xã hội
129. J.E. Stiglitz (2001), Vận hành toàn cầu hóa, NXB Trẻ
130. J.M. Keynes ( 1994), Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi xuất và tiền tệ,
NXB Giáo dục và Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
131. Nguyễn Văn Sửu (2010), Báo cáo tác động của công nghiệp hóa và đô
thị hóa đến sinh kế nông dân Việt Nam: trường hợp một làng ven đô Hà Nội, Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
132. Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội Hà Nội (2006), Phòng Lao động
- Việc làm, Báo cáo tổng hợp kết quả giải quyết việc làm của thành phố Hà Nội
2001-2005, Hà Nội.
133. Sở Kế hoạch và Đầu tƣ Hà Nội (2010), Báo cáo khảo sát lập căn cứ
xây dựng các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, Hà Nội.
134. ILO (2012), Khủng hoảng việc làm thanh niên: Một kêu gọi hành động,
Nghị quyết và kết luận của Hội nghị Lao động quốc tế, Kỳ họp thứ 101, Geneva
135. ILO (2013), Khảo sát nhà tuyển dụng ASEAN về kỹ năng và năng lực
cạnh tranh
136. ILSSA (2016), Xu hướng lao động và xã hội Việt Nam, Báo cáo thƣờng
niên 2015, NXB Lao động xã hội
161
137. GS.TS. Phạm Đức Thành, PGS.TS. Phạm Quý Thọ, ThS. Thang Mạnh
Hợp (2003), “Vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay”, Tạp chí
Lao động và Công đoàn, số 298.
138. Trung tâm thông tin tƣ liệu khoa học và CN quốc gia (2000), Kỷ yếu
hội thảo: “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam.
139. Nguyễn Kế Tuấn (2004), Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia.
140. Phạm Ngọc Tuấn (2011), “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 2, tr 15
141. Đỗ Thế Tùng (Chủ biên) (2005), Giáo trình kinh tế chính trị, Chƣơng
trình cao cấp tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
142. Đỗ Thế Tùng, Ảnh hƣởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết
việc làm ở Việt Nam, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 6 - 2002.
143. Nguyễn Xuân Tố (2008), “Mấy kinh nghiệm về tiếp cận và phát triển
kinh tế tri thức trên thế giới”, Tạp chí Khoa học Pháp luật số 2/2008
144. Trần Đình Thiên - Phí Mạnh Hồng ( 2005), Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam: Phác thảo lộ trình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
145. Trần Đình Thiên (2016), “Công nghiệp chế tạo Việt Nam: Phát triển
không nhƣ mong đợi”, Diễn đàn sản xuất và công nghiệp Việt Nam, ngày
21/04/2016 tại Hà Nội.
146. Nguyễn Văn Trình - Nguyễn Tiến Dũng - Vũ Văn Nghinh (2000), Lịch
sử các học thuyết kinh tế, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
147. Đào Thị Thu Trang (2016), “Sự tham gia của Việt Nam vào di chuyển
lao động nội khối ASEAN" Luận án Tiến sĩ Kinh tế chuyên ngành kinh tế chính trị,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
148. Hồng Lê Thọ (2008), “Lao động có kỹ năng: Lỗ hổng nghiêm trọng
trong phát triển ở Việt Nam”, Tạp chí lao động, số 3.
149. Tổng cục Thống kê (2009), Điều tra biến động dân số, nguồn lao động
và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2009 - Những kết quả chủ yếu.
162
150. Tổng cục Thống kê (2013), Điều tra biến động dân số, nguồn lao động
và kế hoạch hoá gia đình 1/5/3013 - Những kết quả chủ yếu.
151. Tổng cục Thống kê - Bộ Lao động Thƣơng binh và Xã hội (2006), Điều
tra lao động và việc làm 2002-2007.
152. Lƣu Ngọc Trịnh (2002), Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức của một
số nước trên thế giới hiện nay, NXB Giáo dục, Hà Nội.
153. Ngô Đăng Thành (chủ biên) (2009), Các mô hình Công nghiệp hóa trên
Thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.
154. Ngô Quý Tùng (2001), Kinh tế tri thức - Xu thế mới của xã hội thế kỷ
XXI, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
155. Trần Văn Thọ (1997), Công nghiệp hóa Việt Nam trong thời đại châu Á
- Thái Bình Dương, NXB TP Hồ Chí Minh.
156. Lê Văn Toan (2007), Lao động, việc làm trong xu thế toàn cầu hoá,
NXB Lao động - xã hội, Hà Nội.
157. Phạm Đức Thành (2002), “Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam”,
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 64.
158. Vũ Đình Thắng (2002), “Vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn”,
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 3.
159. Phạm Thị Thuỷ (2007), Giải quyết việc làm cho người lao động ở các
huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
160. Phạm Thị Thuỷ (2010), “Giải bài toán việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất ở ngoại thành Hà Nội", Tạp chí Lao động và công đoàn, số 453.
161. Nguyễn Tiệp (2004), Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn:
Các giải pháp tạo thêm việc làm, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 309.
162. Nguyễn Tiệp (2005), “Tạo việc làm ở nƣớc ta - Từ chính sách đến thực
tiễn”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 94.
163. Nguyễn Tiệp (2005), Đào tạo nguồn nhân lực ở các huyện ngoại thành
Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
163
164. Nguyễn Tiệp (2006), “Một số giải pháp tạo việc làm gắn với giải quyết
các vấn đề xã hội tại Hà Nội”, Tạp chí Lao động và xã hội, số 289.
165. Nguyễn Tiệp (2008), “ Một số giải pháp giải quyết việc làm cho ngƣời
lao động trong thời gian tới”, Tạp chí lao động và xã hội số 326, tr28
166. Nguyễn Bằng Toàn (2008), Việc làm của người có đất bị thu hồi để
phát triển công nghiệp ở tỉnh Nghệ An, Hà Nội.
167. Nguyễn Anh Tuấn (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển
kinh tế ở Việt Nam, NXB Tƣ pháp, Hà Nội.
168. Trần Xuân Tùng (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực
trạng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
169. Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng (2010), Giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
170. Thủ tƣớng Chính phủ (2006), Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg quy định về
giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp, Hà Nội.
171. Thủ tƣớng Chính phủ (2009), Đề án đào tạo nghề cho lao động nông
thôn đến năm 2020, Hà Nội.
172. Thủ tƣớng Chính phủ (2012), QĐ số52/2012/QĐ-TTg về chính sách hỗ
trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông
nghiệp, Hà Nội.
173. Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân (2005), Thực trạng thu nhập, đời
sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô
thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc
gia, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc, Hà Nội.
174. Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân (2005), Đề tài cấp nhà nƣớc KX.01 -
2005, Việc làm và thu nhập cho lao động bị thu hồi đất trong quá trình CNH-HĐH
và đô thị hoá, Hà Nội.
175. Nguyễn Huy Thám (1999), Luận án tiến sĩ kinh tế, Kinh nghiệm thu hút
vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam, Hà Nội.
164
176. Dƣơng Thanh (2015), Bốn kỹ năng mà mọi ngƣời lao động Việt Nam
phải có để hội nhập TPP, báo Người tiêu dùng số ra ngày 12/12/2015
177. Thomas L. Friedman (2014), Thế giới phẳng - Tóm lược lịch sử thế giới
thế kỷ 21, NXB Trẻ
178. Văn phòng Hỗ trợ Tƣ vấn Phản biện và Giám định Xã hội (2009), Báo
cáo nghiên cứu về việc làm nông thôn tại Việt Nam, Hà Nội.
179. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 3, NXB Tiến bộ, Matxcơva.
180. V.Lênin (1997), toàn tập, T.40 NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
181. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, NXB Tiến Bộ, Mát-xcơ-va.
182. V.I.Lênin (1992), Toàn tập, tập 32, NXB Sự thật, Hà Nội.
183. William Easterly (2009), Truy tìm căn nguyên tăng trưởng, NXB Lao
động - xã hội
184. Walter W.Powell và Kaisa Snellman (1999), Nền kinh tế tri thức, NXB
Tri thức
185. World Bank (1998), Tri thức cho phát triển. Báo cáo về tình hình phát
triển thế giới 1998
186. World Bank (2014), Báo cáo phát triển Việt Nam 2014: Nâng cao kỹ
năng Việt Nam: Chuẩn bị nguồn nhân lực cho nền kinh tế thị trường hiện đại.
187. http://laodong.com.vn
188. http://luatsuhanoi.vn
189. http://dangcongsan.vn
190. http://laodongxahoionline.vn
165
Phụ lục 1
THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
****** Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
******
Số: 32/2007/QĐ-TTg Hà Nội, ngày 05 tháng 03 năm 2007
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC CHO VAY VỐN PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT ĐỐI VỚI HỘ ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC THIỂU SỐ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Xét đề nghị của Bộ trưởng, Chủ nhiệm ủy ban Dân tộc,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Thực hiện việc cho vay vốn đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc
biệt khó khăn để phát triển sản xuất, ổn định đời sống, sớm vƣợt qua đói nghèo.
1. Đối tƣợng đƣợc vay vốn
Hộ đồng bào dân tộc thiểu số (kể cả các hộ có vợ hoặc chồng là ngƣời dân
tộc thiểu số) sống ở các xã (xã, phƣờng, thị trấn) thuộc vùng khó khăn quy định tại
Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 3 năm 2007 của Thủ tƣớng Chính
phủ về việc ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn, có đủ
3 tiêu chí:
a) Có mức thu nhập bình quân đầu ngƣời dƣới 60.000 đồng/tháng;
b) Tổng giá trị tài sản của hộ không quá 3 triệu đồng (không tính giá trị
quyền sử dụng đất, giá trị các lán trại trên nƣơng rẫy, nhà ở đƣợc Nhà nƣớc và các
tổ chức hỗ trợ);
c) Có phƣơng hƣớng sản xuất nhƣng thiếu hoặc không có vốn sản xuất.
2. Nguyên tắc cho vay vốn
a) Việc xem xét hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn dƣợc thực
166
hiện trên cơ sở bình xét công khai, dân chủ, đúng đối tƣợng ở cơ sở và đƣợc lập
danh sách theo từng xã; hàng năm danh sách này đƣợc rà soát để bổ sung và đƣa ra
khỏi danh sách những hộ không còn thuộc đối tƣợng;
b) Việc cho vay phải dựa trên các phƣơng án sản xuất và cam kết cụ thể của
từng hộ hoặc nhóm hộ gắn với việc hƣớng dẫn cách làm ăn của chính quyền và các
tổ chức chính trị - xã hội các cấp; ƣu tiên những hộ khó khăn hơn đƣợc vay vốn
trƣớc;
c) Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện việc cho vay và có thể uỷ thác
từng phần cho các tổ chức chính trị - xã hội cấp cơ sở trong việc cho vay vốn và thu
hồi nợ.
3. Thời gian thực hiện giai đoạn 1 từ năm 2007 đến năm 2010.
Năm 2010 thực hiện việc tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện và điều chỉnh,
bổ sung chính sách cho phù hợp với các giai đoạn tiếp theo.
Điều 2. Nội dung chính sách cho vay
1. Điều kiện đƣợc vay vốn
a) Các hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn quy định tại khoản 1
Điều 1 Quyết định này, có nơi cƣ trú hợp pháp, có trong danh sách do ủy ban nhân
dân xã lập và đƣợc ủy ban nhân dân huyện phê duyệt;
b) Có phƣơng án sử dụng vốn vay vào sản xuất kinh doanh đƣợc chính
quyền cùng các tổ chức chính trị - xã hội của thôn, bản xác nhận hoặc hỗ trợ gia
đình lập.
2. Hình thức và mức vay vốn
a) Có thể vay một lần hoặc nhiều lần;
b) Tổng mức vay các lần không quá 5 triệu đồng/hộ; không phải dùng tài sản
bảo đảm và đƣợc miễn lệ phí làm thủ tục hành chính trong việc vay vốn.
Trƣờng hợp các hộ có nhu cầu vay vốn ngoài mức quy định trên, thì áp dụng
chính sách cho vay hộ nghèo quy định tại Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04
tháng 10 năm 2002 của Chính phủ về tín dụng đối với ngƣời nghèo và các đối
tƣợng chính sách khác.
167
3. Thời hạn cho vay căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ
của hộ vay vốn và do Ngân hàng Chính sách xã hội quy định. Trƣờng hợp đến hạn
trả nợ, những hộ vay vẫn thuộc diện hộ đặc biệt khó khăn và có nhu cầu tiếp tục sử
dụng vốn vay thì Ngân hàng Chính sách xã hội xem xét cho gia hạn nợ.
4. Lãi xuất cho vay bằng 0%.
5. Xử lý rủi ro
Đối với các hộ gặp rủi ro do thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh hoặc các khó khăn
bất khả kháng khác không trả đƣợc nợ, ủy ban nhân dân xã lập Biên bản xác nhận
gửiNgân hàng Chính sách xã hội huyện tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân huyện
phê duyệt để gửi Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh tổng hợp trình Ủy ban nhân dân
tỉnh xem xét, quyết định xóa nợ.
Điều 3. Về nguồn vốn
1. Đối với các địa phƣơng chƣa tự cân đối đƣợc ngân sách: ngân sách trung
ƣơng cấp vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để thực hiện việc cho vay theo
Quyết định này.
2. Đối với các địa phƣơng tự cân đối đƣợc ngân sách: kinh phí thực hiện
đƣợc tính vào ngân sách địa phƣơng. Hàng năm Ủy ban nhân dân các cấp bố trí
khoản kinh phí này trong dự toán ngân sách địa phƣơng trình Hội đồng nhân dân
phê duyệt và chuyển cho Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện việc cho vay vốn.
Điều 4. Tổ chức thực hiện
1. Ủy ban Dân tộc có trách nhiệm:
a) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan ban hành Thông tƣ
hƣớng dẫn thực hiện Quyết định này;
b) Chủ trì hàng năm rà soát, bổ sung, xây dựng kế hoạch nhu cầu vốn gửi Bộ
Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài chính để tổng hợp vào dự toán ngân sách nhà nƣớc
hàng năm; riêng năm 2007, giao hai Bộ: Kế hoạch và Đầu tƣ, Tài chính tìm nguồn
vốn đề xuất với Thủ tƣớng Chính phủ xem xét, quyết định;
c) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan kiểm tra, giám sát việc thực
hiện chính sách vay vốn và tổng hợp báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ hàng năm.
168
2. Ngân hàng Chính sách xã hội:
a) Trách nhiệm:
- Hƣớng dẫn quy trình và thủ tục cho vay bảo đảm đơn giản, rõ ràng, dễ thực
hiện; thực hiện cho vay vốn, thu hồi nợ, tham mƣu cho Ủy ban nhân dân các cấp xử
lý rủi ro;
- Lập kế hoạch tiến độ giải ngân gửi Bộ Tài chính (đồng gửi Bộ Kế hoạch và
Đầu tƣ, ủy ban Dân tộc đề phối hợp);
- Định kỳ 6 tháng báo cáo kết quả thực hiện với Thủ tƣớng Chính phủ (đồng
gửi ủy ban Dân tộc, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài chính).
b) Quyền lợi: đƣợc cấp bù chi phí quản lý bằng 0,3% dƣ nợ bình quân hàng
năm.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ có trách nhiệm: chủ trì, phối hợp với Bộ Tài
chính, Ủy ban Dân tộc xây dựng kế hoạch vốn, trình Thủ tƣớng Chính phủ.
4. Bộ Tài chính có trách nhiệm: cấp vốn và chi phí quản lý cho Ngân hàng
Chính sách xã hội theo tiến độ thực hiện.
5. Ủy ban nhân dân tỉnh chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn diện việc chỉ đạo, tổ
chức thực hiện cho vay và thu hồi nợ tại địa phƣơng, cụ thể:
a) Cụ thể hoá các văn bản hƣớng dẫn sát hợp với tình hình của địa phƣơng
(nếu cần thiết);
b) Chỉ đạo lồng ghép nguồn vốn thực hiện các chính sách khác trên địa bàn
(Chƣơng trình 134, Chƣơng trình 135, chính sách trợ giá trợ cƣớc, khuyến nông,
khuyến lâm...) nhằm tăng hiệu quả việc sử dụng vốn vay và hạn chế rủi ro;
c) Phân công trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị (sở, ban, ngành, các tổ
chức đoàn thể...) của tỉnh thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến việc tổ chức hƣớng
dẫn cho các hộ vay vốn cách làm ăn, cách sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả đƣợc
nợ cho Ngân hàng Chính sách xã hội; cơ quan công tác dân tộc tại địa phƣơng là cơ
quan thƣờng trực tham mƣu giúp Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện chính
sách vay vốn này;
d) Ra Quyết định xóa nợ theo đề nghị của Ủy ban nhân dân huyện do Chi
169
nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh trình;
đ) Kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện việc cho vay và sử dựng vốn tại địa
phƣơng và báo cáo ủy ban Dân tộc theo quy định.
6. Ủy ban nhân dân huyện có trách nhiệm:
a) Chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã và hỗ trợ Ngân hàng Chính sách xã hội tổ
chức thực hiện việc cho vay và thu hồi nợ;
b) Phê duyệt danh sách đối tƣợng thụ hƣởng và diện đƣợc vay hàng năm của
từng xã để báo cáo ủy ban nhân dân tỉnh;
c) Thẩm định báo cáo tình hình rủi ro trong sử dụng vốn vay của các xã gửi
Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh để tổng hợp trình Ủy ban nhân dân
tỉnh ra quyết định xử lý;
d) Định kỳ 6 tháng báo cáo kết quả thực hiện với ủy ban nhân dân tỉnh.
7. Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm:
a) Phổ biến rộng rãi đến toàn dân các văn bản quy định, hƣớng dẫn thực hiện
việc cho vay vốn đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; tổ chức
bình xét công khai, xếp loại ƣu tiên, lập danh sách đối tƣợng thụ hƣởng hàng năm
gửi ủy ban nhân dân huyện phê duyệt và phân công tổ chức, cá nhân trực tiếp giúp
đỡ, hƣớng dẫn hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn cách làm ăn, xoá đói
giảm nghèo gửi Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt;
b) Hỗ trợ Ngân hàng Chính sách xã hội trong việc giải ngân; thƣờng xuyên
theo dõi, kiểm tra đôn đốc và hỗ trợ các hộ trong quá trình sử dụng vốn và hoàn trả
vốn vay;
c) Chỉ đạo Ban Chỉ đạo Chƣơng trình xoá đói, giảm nghèo cấp xã phối hợp
với các tổ chức chính trị - xã hội giám sát việc bình xét hộ đồng bào dân tộc thiểu số
đặc biệt khó khăn đƣợc vay vốn bảo đảm dân chủ, công khai, xác nhận danh sách
hộ vay vốn; phối hợp với tổ chức cho vay, tổ tiết kiệm và vay vốn kiểm tra việc sử
dụng vốn vay và đôn đốc thu hồi nợ;
d) Định kỳ 6 tháng báo cáo kết quả thực hiện với Ủy ban nhân dân huyện.
Điều 5. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng
170
Công báo. Bãi bỏ Quyết định số 166/2001/QĐ-UBDT ngày 05 tháng 9 năm 2001
của Bộ trƣởng, Chủ nhiệm ủy ban Dân tộc và Miền núi về ban hành Quy định tiêu
chí hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn và Thông tƣ liên tịch số 912/2001/
TTLT/UBDTMN/BTC/BKHĐT ngày 16 tháng 1 thăm 2001 của liên tịch Ủy ban
Dân tộc và Miền núi - Bộ Tài chính - Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ hƣớng dẫn thực hiện
chính sách hỗ trợ hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn.
Điều 6. Các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trƣởng cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ƣơng, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội
chịu trách nhiệm thi hành Quyết đinh này./.
THỦ TƢỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
171
Quyết định số 126/2009/QĐ-TTG của Thủ tƣớng Chính phủ : Ban hành cơ
chếhỗ trợ vốn ngân sách trung ƣơng đối với đầu tƣ phát triển hệ thống kết cấu
hạ
tầng khu kinh tế ven biển
THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦCỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 126/2009/QĐ-TTg Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2009
QUYẾT ĐỊNH
Ban hành cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách trung ƣơng đối với
đầu tƣ phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng khu kinh tế ven biển
THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Ngân sách nhà nƣớc ngày 16 tháng 12 năm 2002;
Căn cứ Luật Đầu tƣ ngày 29 tháng 11 năm 2005;
Căn cứ Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính
phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế;
Xét đề nghị của Bộ trƣởng Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tƣợng áp dụng
1. Quyết định này quy định về điều kiện, nguyên tắc, tiêu chí, loại dự án,
công trình đƣợc hỗ trợ vốn từ ngân sách trung ƣơng để đầu tƣ phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đối với khu kinh tế ven biển và quản lý,
sử dụng nguồn vốn hỗ trợ này.
2. Khu kinh tế ven biển đƣợc hỗ trợ vốn đầu tƣ từ ngân sách trung ƣơng theo
quy định tại Quyết định này phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) Có trong Quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến
năm 2020 theo Quyết định số 1353/QĐ-TTg ngày 23 tháng 9 năm 2008 của Thủ
172
tƣớng Chính phủ;
b) Đƣợc thành lập theo Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ và hoạt động
theo quy định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của
Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế;
c) Có Ban Quản lý khu kinh tế đƣợc thành lập theo quyết định của Thủ tƣớng
Chính phủ.
Điều 2. Nguyên tắc phân bổ vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ
1. Vốn ngân sách trung ƣơng đƣợc phân bổ để hỗ trợ đầu tƣ phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội thiết yếu nhằm đảm bảo cho hoạt
động và phát triển của khu kinh tế ven biển.
2. Việc phân bổ vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ phải tuân theo các nguyên tắc sau:
a) Chỉ phân bổ vốn cho các dự án, công trình quy định tại Điều 4 Quyết định
này mà không có khả năng thu hồi vốn;
b) Các dự án, công trình đƣợc phân bổ vốn phải phù hợp với quỵ hoạch xây
dựng khu kinh tế ven biển đã đƣợc phê duyệt và có đầy đủ thủ tục đầu tƣ theo quy
định về quản lý đầu tƣ xây dựng cơ bản;
c) Việc phân bổ vốn phải tập trung, bảo đảm hiệu quả đầu tƣ; ƣu tiên phân bổ
cho các dự án, công trình quan trọng, cấp bách và hoàn thành trong kỳ kế hoạch.
Điều 3. Nguyên tắc ƣu tiên và tiêu chí phân bổ vốn ngân sách trung
ƣơng hỗ trợ
1. Việc phân bổ vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ các khu kinh tế ven biển
đƣợc thực hiện theo nguyên tắc ƣu tiên sau:
a) Khu kinh tế ven biển có các dự án, công trình đầu tƣ mang tính động lực
và có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển ngành và lĩnh vực đã đƣợc cấp Giấy
chứng nhận đầu tƣ hoặc quyết định đầu tƣ có tổng mức vốn đầu tƣ đăng ký từ
20.000 tỷ đồng trở lên;
b) Khu kinh tế ven biển thành lập ở địa phƣơng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn;
173
c) Khu kinh tế ven biển đang triển khai đầu tƣ xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật thiết yếu, các dự án bồi thƣờng giải phóng mặt bằng, tái định cƣ phục
vụ các dự án, công trình quy định tại điểm а khoản này.
2. Tiêu chí và cách xác định vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ đƣợc thực hiện
theo quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định này.
Điều 4. Dự án, công trình được sử dụng vốn ngân sách trung ương hỗ trợ
1. Đầu tƣ xây dựng hệ thống giao thông trục chính trong khu kinh tế ven biển và
hệ thống giao thông kết nối khu kinh tế ven biển với hệ thống giao thông bên ngoài.
2. Bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng các dự án, công trình quy định tại điểm а
khoản 1 Điều 3 Quyết định này.
3. Bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng và xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng
xã hội khu nhà ở công nhân và khu tái định cƣ phục vụ ngƣời bị thu hồi đất trong
khu kinh tế ven biển.
4. Đầu tƣ xây dựng khu xử lý chất thải rắn tập trung và hệ thống xử lý nƣớc
thải tập trung của khu công nghiệp, khu phi thuế quan trong khu kinh tế ven biển
(bao gồm hệ thống thoát nƣớc thải, trạm xử lý nƣớc thải tập trung).
Điều 5. Quản lý, sử dụng vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ
1. Việc quản lý, sử dụng, thanh toán, quyết toán vốn ngân sách trung ƣơng hỗ
trợ tại Quyết định này đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý đầu tƣ
xây dựng cơ bản, Luật Ngân sách nhà nƣớc và các quy định pháp luật có liên quan.
2. Vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ sử dụng không đúng mục đích sẽ bị thu
hồi về ngân sách trung ƣơng.
Điều 6. Nguồn vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ
1. Vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ƣơng đƣợc phân bổ theo kế
hoạch hàng năm.
2. Vốn trái phiếu Chính phủ đối với hệ thống giao thông trục chính, quan trọng.
3. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
Điều 7. Quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ
1. Hàng năm, căn cứ vào khả năng cân đối vốn đầu tƣ của ngân sách trung
174
ƣơng, tình hình phát triển các khu kinh tế ven biển, nhu cầu và tình hình triển khai
các dự án, công trình của các khu kinh tế ven biển, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ chủ trì,
phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan dự kiến phƣơng án vốn ngân
sách trung ƣơng hỗ trợ cho các khu kinh tế ven biển theo quy định tại Quyết định
này để tổng hợp trong tổng dự toán chi đầu tƣ phát triển chung báo cáo Chính phủ
trình Quốc hội xem xét, quyết định theo quy định của Luật Ngân sách nhà nƣớc.
2. Hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành,
địa phƣơng có liên quan tổng hợp, đánh giá tình hình thực hiện và hiệu quả sử dụng
vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ theo quy định tại Quyết định này, báo cáo Thủ
tƣớng Chính phủ.
Điều 8. Quyền hạn, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ƣơng và Ban Quản lý khu kinh tế
1. Quyền hạn, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ƣơng:
a) Quyết định phân bổ vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ cho các dự án, công
trình của khu kinh tế ven biển ở địa phƣơng theo quy định tại Quyết định này;
b) Chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan và đơn vị sử dụng vốn ngân sách
trung ƣơng hỗ trợ đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với quy định tại Quyết định
này và quy định của pháp luật hiện hành;
c) Chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ đối
với khu kinh tế ven biển ở địa phƣơng theo quy định của pháp luật;
d) Cân đối vốn ngân sách địa phƣơng đầu tƣ phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu kinh tế ven biển ở địa phƣơng theo quy định của
pháp luật về quản lý đầu tƣ xây dựng cơ bản, Luật Ngân sách nhà nƣớc và các quy
định khác của pháp luật có liên quan;
đ) Báo cáo tình hình phân bổ, quản lý, sử dụng, hiệu quả sử dụng vốn ngân
sách trung ƣơng hỗ trợ đối với khu kinh tế ven biển; nhu cầu vốn ngân sách trung
ƣơng hỗ trợ đầu tƣ trong năm kế hoạch tiếp theo; kết quả xác định điểm số theo
hƣớng dẫn tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định này và gửi về Bộ Kế hoạch và
175
Đầu tƣ trƣớc ngày 31 tháng 7 hàng năm để Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ triển khai các
nhiệm vụ quy định tại Điều 7 Quyết định này.
2. Quyền hạn, trách nhiệm của Ban Quản lý khu kinh tế: quản lý và sử dụng
vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ theo quy định tại Điều 39 Nghị định số
29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về khu công
nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế và các quy định pháp luật có liên quan.
Điều 9. Điều khoản thi hành
1. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.
2. Đối với các hạng mục, công trình của khu kinh tế ven biển không thuộc
quy định tại Điều 4 Quyết định này nhƣng đã đƣợc phân bổ và sử dụng vốn đầu tƣ
từ ngân sách trung ƣơng trƣớc ngày Quyết định này có hiệu lực thi hành thì đƣợc
tiếp tục thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2011 theo quyết định phê duyệt của
cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
3. Các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trƣởng cơ quan thuộc
Chính phủ và Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng có
liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận: - Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng; - Thủ tƣớng, các Phó Thủ tƣớng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP; - VP BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng; - HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW; - Văn phòng TW và các Ban của Đảng; - Văn phòng Chủ tịch nƣớc; - Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Tòa án nhân dân tối cao; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - UB Giám sát tài chính QG; - Kiểm toán Nhà nƣớc; - Ngân hàng Chính sách Xã hội; - Ngân hàng Phát triển Việt Nam; - Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Cơ quan Trung ƣơng của các đoàn thể; - VPCP: BTCN, các PCN, cổng TTĐT,
176
các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lƣu: Văn thƣ, KTTH (5b). M
177
Phụ lục 2 THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 33/2007/QĐ-TTg
Hà Nội, ngày 05 tháng 3 năm 2007
QUYẾT ĐỊNH
Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cƣ
cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2010
THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Chƣơng trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ƣơng khoá IX về công tác dân tộc;
Xét đề nghị của Bộ trƣởng, Chủ nhiệm ủy ban Dân tộc,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cƣ cho
đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2010.
1. Mục tiêu
a) Mục tiêu chung
Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cƣ cho đồng bào dân tộc
thiểu số nhằm tạo điều kiện cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cƣ có
nơi ở ổn định, có đủ điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần, xoá đói, giảm nghèo; góp phần bảo vệ rừng, bảo vệ môi trƣờng sinh thái và
giữ vững an ninh - chính trị, trật tự - an toàn xã hội tại các địa phƣơng.
b) Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2010, phấn đấu đạt các mục tiêu sau:
- Hoàn thành cơ bản việc định canh, định cƣ cho các hộ đồng bào dân tộc
thiểu số còn du canh, du cƣtrênphạm vi cả nƣớc;
178
- 70% số điểm định canh, định cƣ tập trung (thôn, bản) có đủ các công trình
cơ sở hạ tầng thiết yếu, phù hợp với quy hoạch chung, bao gồm: đƣờng giao thông,
điện, thuỷ lợi nhỏ, lớp học, nhà mẫu giáo, nhà sinh hoạt cộng đồng và một số công
trình thiết yếu khác;
- 100% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cƣ đƣợc tổ chức định
canh, định cƣ theo quy hoạch, có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nƣớc sinh hoạt... theo
quy định; trong đó: trên 70% số hộ đƣợc sử dụng điện, nƣớc sinh hoạt hợp vệ sinh;
- Tại các điểm định canh, định cƣ không còn hộ đói, mỗi năm giảm 2 - 3% số
hộ nghèo (theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08
tháng 7 năm 2005 của Thủ tƣớng Chính phủ).
2. Phạm vi áp dụng
Chính sách này áp dụng cho việc thực hiện định canh, định cƣ đối với các hộ
đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cƣ thuộc vùng khó khăn quy định tại
Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 3 năm 2007 của Thủ tƣớng Chính
phủ về việc ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn.
3. Đối tƣợng áp dụng
Hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cƣ, có đủ ba tiêu chí sau:
a) Không có đất sản xuất ổn định thuộc quyền sử dụng của hộ theo quy định
của Nhà nƣớc;
b) Nơi ở không ổn định, xa điểm dân cƣ, di chuyển chỗ ở theo nơi sản xuất;
c) Chƣa đƣợc hƣởng các chính sách hỗ trợ tƣơng tự của Nhà nƣớc quy định
tại Quyết định số 190/2003/QĐ-TTg ngày 16 tháng 9 năm 2003, Quyết định số
120/2003/QĐ-TTg ngày 11 tháng 6 năm 2003, Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg
ngày 20 tháng 7 năm 2004 và Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 8
năm 2006 của Thủ tƣớng Chính phủ,...
4. Nguyên tắc
а)Bố trí định canh, định cƣ phải phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội, Quy hoạch tổng thể bố trí dân cƣ của địa phƣơng; phù hợp với
phong tục tập quán, văn hoá của từng dân tộc; đồng thời, phải chọn phƣơng án đầu
tƣ xây dựng hạ tầng hợp lý và tiết kiệm nhất;
179
b) Vốn của Nhà nƣớc tập trung đầu tƣ và ƣu tiên hỗ trợ cho cộng đồng dân
cƣ và hỗ trợ trực tiếp cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cƣ nhằm
sớm ổn định sản xuất và đời sống nơi định canh, định cƣ mới;
c) Mỗi hộ chỉ đƣợc hƣởng chính sách quy định tại Quyết định này một lần
cho cả giai đoạn 2007 - 2010;
d) Thực hiện lồng ghép nguồn vốn của các chƣơng trình, dự án, chính sách
khác trên địa bàn để thực hiện định canh, định cƣ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số
du canh, du cƣ.
Điều 2. Chính sách hỗ trợ cụ thể
1. Hỗ trợ đầu tƣ cho cộng đồng
a) Đối với điểm định canh, định cƣ tập trung: ngân sách nhà nƣớc hỗ trợ đầu
tƣ xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng thiết yếu, bao gồm: bồi thƣờng, giải phóng mặt
bằng, san gạt đất ở, khai hoang đất sản xuất; xây dựng đƣờng giao thông, điện, thuỷ
lợi nhỏ, hệ thống nƣớc sinh hoạt, lớp học, nhà mẫu giáo và nhà sinh hoạt cộng đồng
thôn, bản và một số công trình thiết yếu khác theo nhu cầu thực tế;
b) Đối với điểm định canh, định cƣ xen ghép: ngân sách nhà nƣớc hỗ trợ cho
ngân sách xã với mức 20 triệu đồng/hộ, để sử dụng vào việc bồi thƣờng đất ở, đất
sản xuất cho hộ dân sở tại bị thu hồi giao cho hộ định canh, định cƣ theo chế độ quy
định, phần còn lại sử dụng để đầu tƣ, nâng cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu của xã;
c) Hỗ trợ cán bộ phát triển cộng đồng tại các điểm định canh, định cƣ tập
trung, gồm: cán bộ у tế và cán bộ khuyến nông, lâm (02 ngƣời); mức hỗ trợ tƣơng
đƣơng mức lƣơng bậc 01 của ngạch cán bộ, công chức quy định tại Nghị định số
204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 và Nghị định số 94/2006/NĐ-CP
ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ; thời gian hỗ trợ: 3 năm tính từ khi các hộ
dân về điểm định canh, định cƣ mới;
d). Hỗ trợ kinh phí áp dụng khoa học kỹ thuật, giống mới đƣa vào sản xuất 3
năm đầu, mỗi năm 30 triệu đồng/thôn, bản (điểm định canh, định cƣ tập trung).
2. Hỗ trợ trực tiếp hộ du canh, du cƣ thực hiện định canh, định cƣ
a) Đƣợc giao đất ở, đất sản xuất, diện tích tối thiểu theo mức quy định tại Quyết
định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20 tháng 7 năm 2004 của Thủ tƣớng Chính phủ
180
vềmột số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nƣớc sinh hoạt cho hộ đồng
bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn;
b) Hỗ trợ bình quân 15 triệu đồng/hộ định canh, định cƣ để làm nhà ở, phát
triển sản xuất, mua lƣơng thực 6 tháng đầu tính từ khi đến điểm định canh, định cƣ,
nƣớc sinh hoạt; mức hỗ trợ cụ thể cho từng hộ và từng mục đích do Ủy ban nhân
dân tỉnh quy định;
c) Đối với hộ định canh, định cƣ xen ghép đƣợc hỗ trợ 01 triệu đồng/hộ để
tạo nền nhà;
d) Hỗ trợ di chuyển các hộ từ nơi ở cũ đến nơi định canh, định cƣ (tính theo
thực tế khi lập dự án).
Các hộ du canh, du cƣ sau khi đƣợc tổ chức định canh, định cƣ đƣợc hƣởng
các chính sách hiện hành khác nhƣ ngƣời dân tại chỗ và đƣợc vay vốn của Ngân
hàng Chính sách xã hội theo quy định để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
3. Nguồn vốn thực hiện: ngân sách trung ƣơng hỗ trợ có mục tiêu cho ngân sách
địa phƣơng thực hiện chính sách hỗ trợ định canh, định cƣ theo Quyết định này.
4. Vềcơ chế quản lý
a) Nguồn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ có mục tiêu cho ngân sách địa phƣơng
trong kế hoạch hàng năm (ghi thành mục riêng);
b) Cơ chế quản lý đầu tƣ và xây dựng công trình hạ tầng của các dự án định
canh, định cƣ thực hiện theo cơ chế quản lý đầu tƣ xây dựng các công trình hạ tầng
thuộc Chƣơng trình 135 giai đoạn 2006 - 2010.
5. Thời gian thực hiện: từ năm 2007 đến năm 2010.
Điều 3. Tổ chức thực hiện
1. Trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ƣơng
a) Ủy ban Dân tộc:
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ hƣớng dẫn địa phƣơng xây
dựng kế hoạch, dự án định canh, định cƣ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh,
du cƣ cho từng năm và cả giai đoạn;
- Tổng hợp kế hoạch (các dự án) định canh, định cƣ của các tỉnh trình Thủ
tƣớng Chính phủ phê duyệt;
181
- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài chính trong việc bố trí vốn
thực hiện kế hoạch định canh, định cƣ;
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan kiểm tra, giám sát việc thực
hiện chính sách hỗ trợ định canh, định cƣ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số giai
đoạn 2007 - 2010 và kế hoạch định canh, định cƣ ở các địa phƣơng; định kỳ 6 tháng
và hàng năm báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ (đồng gửi các Bộ: Kế hoạch và Đầu tƣ,
Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động - Thƣơng binh và Xã
hội) kết quả thực hiện Quyết định này.
b) Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ:
- Thẩm định kế hoạch (các dự án) định canh, định cƣ cho các hộ đồng bào
dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nƣớc do ủy ban Dân tộc trình Thủ tƣớng Chính
phủ;
- Chủ trì, phối hợp với ủy ban Dân tộc và Bộ Tài chính dự kiến nguồn vốn
ngân sách trung ƣơng hỗ trợ cho ngân sách địa phƣơng hàng năm để thực hiện kế
hoạch định canh, định cƣ cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nƣớc
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
c) Bộ Tài chính:
- Phối hợp với ủy ban Dân tộc, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ dự kiến nguồn vốn
ngân sách trung ƣơng hỗ trợ cho ngân sách địa phƣơng hàng năm để thực hiện kế
hoạch định canh, định cƣ cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nƣớc
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Hƣớng dẫn cơ chế tài chính thực hiện công tác định canh, định cƣ đối với
đồng bào dân tộc thiều số.
d) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì hƣớng dẫn các địa phƣơng
rà soát, điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch bố trí, sắp xếp dân cƣ, trong đó có các điểm
định canh, định cƣ cho phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
của địa phƣơng và công tác khuyến nông, khuyến lâm, phát triển sản xuất cho vùng
có dự án định canh, định cƣ;
đ) Các Bộ, cơ quan Trung ƣơng theo chức năng, nhiệm vụ của mình hƣớng
dẫn, chỉ đạo các địa phƣơng ƣu tiên thực hiện các chƣơng trình, dự án do Bộ, ngành
182
mình quản lý đối với các địa bàn có dự án định canh, định cƣ nhằm nâng cao hiệu
quả đầu tƣ các dự án định canh, định cƣ.
2. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các tỉnh:
a) Tuyên truyền, vận động các hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cƣ
thực hiện định canh, định cƣ, thay đổi tập quán sản xuất, áp dụng tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất, tăng thu nhập, ổn định đời sống;
b) Chỉ đạo các tổ chức và cộng đồng vùng dự án định canh, định cƣ tích cực
tham gia thực hiện công tác định canh, định cƣ;
c) Xây dựng kế hoạch và các dự án định canh, định cƣ đối với hộ đồng bào
dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2010 và kế hoạch hàng năm gửi Ủy ban Dân tộc,
thời gian chậm nhất đầu quý II năm 2007 để tổng hợp trình Thủ tƣớng Chính phủ;
d) Điều tra, khảo sát, lập, phê duyệt các dự án định canh, định cƣ; thực hiện
đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các điểm định canh, định cƣ tập trung
(thôn, bản mới) và bổ sung, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho các thôn, bản tiếp nhận hộ
du canh, du cƣ thuộc đối tƣợng định canh, định cƣ;
đ) Tổ chức huy động nguồn lực của nhân dân, của các tổ chức kinh tế, chính trị,
xã hội trên địa bàn để thực hiện kế hoạch, dự án định canh, định cƣ; thực hiện lồng
ghép các nguồn vốn, các chính sách, chƣơng trình, dự án trên địa bàn để nâng cao hiệu
quả thực hiện các dự án định canh, định cƣ, bảo đảm định canh, định cƣ bền vững;
e) Bố trí kinh phí trong ngân sách địa phƣơng hàng năm để điều tra, khảo sát
và lập các dự án định canh, định cƣ;
g) Tăng cƣờng công tác quản lý, kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện
các dự án định canh, định cƣ bảo đảm chất lƣợng công trình, không để lãng phí, thất
thoát và tham nhũng; ƣu tiên nguồn vốn thực hiện trƣớc cho các đối tƣợng định
canh, định cƣ, vùng dự án định canh, định cƣ đƣợc thụ hƣởng các chính sách,
chƣơng trình, dự án khác trên địa bàn để nâng cao hiệu quả đầu tƣ;
h) Đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến công và hƣớng dẫn
phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với giao khoán bảo vệ rừng cho hộ thuộc
đối tƣợng định canh, định cƣ;
i) Kiện toàn các tổ chức của hệ thống chính trị cơ sở tại các điểm đã tổ chức
183
định canh, định cƣ (thôn, bản) và phát huy vai trò của các tổ chức trong các hoạt
động kinh tế, xã hội góp phần sớm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao
đời sống cho đồng bào;
k) Định kỳ 6 tháng, hàng năm báo cáo tình hình thực hiện chính sách, kế
hoạch, các dự án định canh, định cƣ với ủy ban Dân tộc để tổng hợp báo cáo Thủ
tƣớng Chính phủ.
Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng
Công báo.
Điều 5. Các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trƣởng cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ƣơng chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận: - Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng; - Thủ tƣớng, các Phó Thủ tƣớng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP; - Văn phòng BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; - Văn phòng Trung ƣơng và các Ban của Đảng; - Các Ban Chỉ đạo: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; - Văn phòng Chủ tịch nƣớc; - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - Tòa án nhân dân tối cao; - Kiểm toán Nhà nƣớc; - Cơ quan Trung ƣơng của các đoàn thể; - Học viện Hành chính quốc gia; - Ngân hàng Chính sách xã hội; - VPCP: BTCN, các Phó Chu nhiệm, Website Chính phủ, Ban Điều hành 112, Ngƣời phát ngôn của Thủ tƣớng Chính phủ, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; Lƣu: Văn thƣ, ĐP (5b). A
184
Phụ lục 3
THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 71/2009/QĐ-TTg
Hà Nội, ngày 29 tháng 04 năm 2009
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN HỖ TRỢ CÁC HUYỆN NGHÈO ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG GÓP PHẦN GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG GIAI ĐOẠN 2009-2020
THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng ngày 29 thÁng 11 năm 2006;
Căn cứ Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của
Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện
nghèo; Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao
động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020 với những nội dung chủ
yếu sau:
I. MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU
1. Mục tiêu
Nâng cao chất lƣợng lao động và tăng số lƣợng lao động ở các huyện nghèo
tham gia xuất khẩu lao động, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và thực hiện
giảm nghèo bền vững.
2. Chỉ tiêu
- Giai đoạn 2009 - 2010: thực hiện thí điểm đƣa 10 nghìn lao động thuộc các
huyện nghèo đi làm việc ở nƣớc ngoài (bình quân mỗi năm sẽ đƣa khoảng 5.000 lao
185
động), trong đó: khoảng 80% lao động thuộc hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số; khoảng
70% lao động qua đào tạo nghề; góp phần giảm 8.000 hộ nghèo (giảm 2,8% số hộ
nghèo thuộc 61 huyện nghèo).
- Giai đoạn 2011 - 2015: đƣa 50 nghìn lao động thuộc các huyện nghèo đi
làm việc ở nƣớc ngoài (bình quân mỗi năm sẽ đƣa đƣợc khoảng 10.000 lao động),
trong đó: khoảng 90% lao động thuộc hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số; khoảng 80%
lao động qua đào tạo nghề; góp phần giảm 45.000 hộ nghèo (giảm 15,6% số hộ
nghèo thuộc 61 huyện nghèo).
- Giai đoạn 2016 - 2020: tăng 15% tổng số ngƣời đi làm việc ở nƣớc ngoài so
với giai đoạn 2011 - 2015, trong đó khoảng 95% lao động thuộc hộ nghèo, hộ dân
tộc thiểu số, góp phần giảm khoảng 19% số hộ nghèo thuộc 61 huyện nghèo.
II. ĐỐI TƢỢNG CỦA ĐỀ ÁN
Là ngƣời lao động cƣ trú dài hạn tại 61 huyện nghèo; các tổ chức, doanh
nghiệp hoạt động theo Luật Ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài
theo hợp đồng, các cơ sở dạy nghề cho lao động xuất khẩu.
III. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA ĐỀ ÁN
1. Các chính sách đối với ngƣời lao động
a) Hỗ trợ ngƣời lao động nâng cao trình độ văn hóa để tham gia xuất khẩu
lao động
- Đối tƣợng: ngƣời lao động thuộc hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số có trình độ
văn hóa từ bậc tiểu học trở lên đã đƣợc lựa chọn để tham gia xuất khẩu lao động
nhƣng trình độ văn hóa chƣa đáp ứng yêu cầu, cần phải bổ túc thêm về văn hóa.
- Thời gian học: tối đa không quá 12 tháng.
- Nội dung chính sách:
+ Hỗ trợ toàn bộ học phí, tài liệu học tập, sách giáo khoa, vở viết;
+ Hỗ trợ tiền ăn, sinh hoạt phí trong thời gian học, tiền tàu xe và trang cấp ban
đầu nhƣ chế độ áp dụng đối với học sinh trong các trƣờng phổ thông dân tộc nội trú.
- Cơ quan chủ trì: Ủy ban nhân dân tỉnh có huyện nghèo theo Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008.
186
- Cơ quan phối họp: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thƣơng binh và
Xã hội, Bộ Tài chính, Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
- Cơ chế thực hiện: Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt kế hoạch tạo nguồn lao
động theo đối tƣợng của Đề án, bảo đảm có đủ trình độ văn hóa theo yêu cầu xuất
khẩu lao động; quyết định số lƣợng và danh sách lao động đƣợc hỗ trợ học văn hóa
để bảo đảm có đủ số lƣợng tham gia xuất khẩu lao động theo đề nghị của ủy ban
nhândân các huyện nghèo; giao nhiệm vụ cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
nghèo chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành liên quan tổ chức thực hiện việc dạy văn
hóa cho ngƣời lao động theo quy định.
- Nguồn kinh phí: ngân sách trung ƣơng.
- Cơ chế tài chính: ngân sách trung ƣơng bổ sung có mục tiêu cho địa
phƣơng để thực hiện quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí theo quy định hiện
hành.
b) Hỗ trợ ngƣời lao động học nghề, ngoại ngữ, bồi dƣỡng kiến thức cần thiết
theo quy định của Luật Ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo
hợp đồng; hỗ trợ chi phí khám sức khỏe; làm hộ chiếu, viza và lý lịch tƣ pháp để
tham gia xuất khẩu lao động.
- Đối tƣợng: ngƣời lao động đƣợc lựa chọn học nghề, ngoại ngữ, bồi dƣỡng
kiến thức cần thiết theo quy định của Luật Ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở
nƣớc ngoài theo hợp đồng để tham gia xuất khẩu lao động theo quy định của Đề án.
- Thời gian học: căn cứ vào nghề đào tạo và yêu cầu của thị trƣờng xuất khẩu
lao động, Bộ trƣởng Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội xem xét, quy định cụ
thể thời gian học, nhƣng tối đa không quá 12 tháng. Sau các khóa học, ngƣời lao
động đƣợc cấp chứng chỉ công nhận trình độ tay nghề và chứng chỉ về bồi dƣỡng
kiến thức cần thiết theo quy định.
- Nội dung chính sách:
+ Hỗ trợ 100% học phí học nghề, ngoại ngữ và bồi dƣỡng kiến thức cần thiết
cho ngƣời lao động thuộc hộ nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số;
+ Hỗ trợ 50% học phí học nghề, ngoại ngữ, bồi dƣỡng kiến thức cần thiết
187
cho các đối tƣợng khác thuộc 61 huyện nghèo;
+ Riêng ngƣời lao động thuộc hộ nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số đƣợc hỗ trợ
thêm:
. Tiền ăn, sinh hoạt phí trong thời gian học với mức 40.000đ/ngƣời/ngày;
. Tiền ở với mức 200.000đ/ngƣời/tháng;
. Tiền trang cấp đồ dùng cá nhân thiết yếu cho ngƣời lao động (quần áo đồng
phục, chăn màn, giày dép ...) với mức 400.000đ/ngƣời;
. Tiền tàu, xe (cả đi và về) 01 lần từ nơi cƣ trú đến nơi đào tạo; mức hỗ trợ
theo giá cƣớc của phƣơng tiện vận tải hành khác thông thƣờng tại thời điểm thanh
toán;
. Chi phí làm thủ tục trƣớc khi đi làm việc ở nƣớc ngoài theo các mức quy
định về phí làm hộ chiếu, phí visa, phí khám sức khỏe, lệ phí làm lý lịch tƣ pháp.
- Cơ quan chủ trì: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.
- Cơ quan phối họp: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Ủy ban nhân dân
các tỉnh có huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12
năm 2008, Trung ƣơng Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
- Cơ chế thực hiện: cơ quan chủ trì lựa chọn doanh nghiệp, cơ sở sự nghiệp
có đủ năng lực, kinh nghiệm tham gia Đề án; thực hiện cơ chế đặt hàng đào tạo.
- Nguồn kinh phí: ngân sách trung ƣơng và các nguồn tài chính hợp pháp
khác.
- Cơ chế tài chính: ngân sách trung ƣơng bố trí trong dự toán ngân sách hàng
năm của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội; quản lý, sử dụng và quyết toán
kinh phí theo quy định hiện hành.
c) Hỗ trợ rủi ro
- Đối tƣợng: ngƣời lao động thuộc đối tƣợng của đề án khi tham gia xuất
khẩu lao động gặp rủi ro.
- Nội dung:
+ Đƣợc hỗ trợ rủi ro theo quy định tại mục 3 khoản 3 Điều 3 Quyết định số
188
144/2007/QĐ-TTg ngày 31 tháng 8 năm 2007 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc
thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nƣớc;
+ Trƣờng họp ngƣời lao động có thời gian làm việc thực tế dƣới 12 tháng
phải về nƣớc thì đƣợc hỗ trợ bằng một lƣợt vé máy bay khi gặp phải một trong các
lý do: (i) vì sức khỏe không phù hợp với yêu cầu công việc, (ii) vì chủ sử dụng lao
động gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh nên ngƣời lao động bị mất việc làm,
(iii) vì chủ sử dụng lao động đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao động.
- Cơ quan chủ trì: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội;
- Cơ quan phối họp: Bộ Tài chính;
- Nguồn kinh phí: Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nƣớc.
- Cơ chế thực hiện: theo cơ chế của Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nƣớc.
2. Chính sách tín dụng ƣu đãi
a) Tín dụng ƣu đãi đối với ngƣời lao động
- Đối tƣợng: ngƣời lao động thuộc huyện nghèo đã đƣợc tuyển chọn, có nhu
cầu vay vốn để đi xuất khẩu lao động.
- Mức vay: theo nhu cầu, tối đa bằng các khoản chi phí ngƣời lao động phải
đóng góp theo từng thị trƣờng.
- Lãi suất:
+ Ngƣời lao động thuộc các hộ nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số đƣợc vay với
lãi suất bằng 50% lãi suất cho vay hiện hành của Ngân hàng Chính sách Xã hội áp
dụng cho đối tƣợng chính sách đi xuất khẩu lao động;
+ Các đối tƣợng còn lại của các huyện nghèo đƣợc vay với lãi suất cho vay
hiện hành của Ngân hàng Chính sách Xã hội áp dụng cho đối tƣợng chính sách đi
xuất khẩu lao động.
- Cơ quan chủ trì: Ngân hàng Chính sách Xã hội.
- Nguồn vốn: Ngân sách nhà nƣớc chuyển sang Ngân hàng Chính sách Xã
hội theo kế hoạch xuất khẩu lao động của các địa phƣơng.
- Cơ chế thực hiện: Ngân hàng Chính sách Xã hội cùng Bộ Lao động -
189
Thƣơng binh và Xã hội quy định mức trần cho vay theo từng thị trƣờng, doanh
nghiệp xuất khẩu lao động tham gia Đề án xác nhận số tiền ngƣời lao động phải
đóng góp khi đi làm việc ở nƣớc ngoài; thời hạn vay vốn tối đa bằng thời gian của
hợp đồng lao động; Ngân hàng Chính sách Xã hội căn cứ xác nhận của doanh
nghiệp và đơn đề nghị vay vốn của ngƣời lao động để quyết định số tiền cho vay,
thời hạn vay và những điều kiện khác theo quy định hiện hành.
b) Tín dụng ƣu đãi đối với cơ sở dạy nghề cho lao động xuất khẩu
- Đối tƣợng: cơ sở dạy nghề, doanh nghiệp xuất khẩu lao động tham gia Đề
án (do Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội lựa chọn).
- Nội dung: Vay vốn để đầu tƣ tăng quy mô phòng học, ký túc xá, trang thiết
bị dạy nghề, phƣơng tiện dạy học phục vụ đào tạo lao động xuất khẩu.
- Mức vay, lãi suất vay, điều kiện, thủ tục vay thực hiện theo cơ chế cho vay
ƣu đãi của Nhà nƣớc theo quy định hiện hành.
- Cơ quan thực hiện: Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
- Nguồn vốn: Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
- Cơ chế thực hiện: theo cơ chế vay ƣu đãi đầu tƣ phát triển của Nhà nƣớc
thực hiện qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
3. Các hoạt động
a) Hoạt động truyền thông và nâng cao năng lực, nhận thức về xuất khẩu lao
động
- Mục tiêu: Nâng cao năng lực hoạt động xuất khẩu lao động cho cán bộ địa
phƣơng; nâng cao nhận thức, cập nhật thông tin đến các cấp chính quyền địa
phƣơng và ngƣời dân về cơ chế, chính sách, hiệu quả của xuất khẩu lao động.
- Nội dung:
+ Tập huấn, bồi dƣỡng nghiệp vụ về xuất khẩu lao động cho cán bộ địa
phƣơng, tuyên truyền viên cơ sở;
+ Tổ chức các hoạt động điều tra về nhu cầu tham gia xuất khẩu lao động và
nhu cầu việc làm sau xuất khẩu lao động;
+ Tuyên truyền, thông tin đầy đủ về chính sách, chế độ, về điều kiện tuyển
190
chọn, điều kiện làm việc, sinh hoạt và thu nhập của ngƣời lao động ở các thị trƣờng
trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng ở Trung ƣơng và địa phƣơng; phối hợp với
Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xây dựng chuyên mục
“Thanh niên với việc tham gia xuất khẩu lao động” bằng tiếng Kinh và tiếng dân tộc
phát trên sóng phát thanh, truyền hình Trung ƣơng và địa phƣơng. Tuyên truyền về
những gƣơng lao động tiêu biểu và những điển hình tốt trong tổ chức thực hiện Đề
án; biểu dƣơng, tôn vinh, khen thƣởng các cá nhân, tập thể tiêu biểu trong hoạt động
xuất khẩu lao động trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng và trang Website của
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.
- Cơ quan chủ trì: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.
- Cơ quan phối hợp: Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Quốc phòng, Trung
ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân các tỉnh.
b) Hoạt động tƣ vấn, giới thiệu việc làm sau khi ngƣời lao động về nƣớc
- Mục tiêu: Giúp ngƣời lao động đã hoàn thành hợp đồng lao động về nƣớc
tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm; hƣớng dẫn ngƣời lao động và gia đình họ sử
dụng hiệu quả nguồn thu từ xuất khẩu lao động.
- Nội dung:
+ Xây dựng cơ sở dữ liệu về ngƣời lao động thuộc các huyện nghèo đi làm
việc ở nƣớc ngoài để quản lý và trợ giúp, hỗ trợ ngƣời ngƣời lao động đi làm việc ở
nƣớc ngoài trong quá trình thực hiện Đề án;
+ Tổ chức tƣ vấn và giới thiệu việc làm cho ngƣời lao động phù hợp với
ngành nghề, kinh nghiệm đã học hỏi và tích lũy đƣợc trong thời gian làm việc ở
nƣớc ngoài;
+ Tổ chức tƣ vấn, hƣớng dẫn ngƣời lao động và gia đình họ sử dụng nguồn
thu từ xuất khẩu lao động đầu tƣ phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại; tổ chức các
khóa đào tạo về khởi sự doanh nghiệp.
- Cơ quan chủ trì: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.
- Cơ quan phối họp: Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
191
Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh có huyện
nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008.
c) Hoạt động giám sát, đánh giá
- Mục tiêu: Bảo đảm thực hiện đúng mục tiêu, chỉ tiêu và đối tƣợng của Đề án.
- Nội dung: giám sát, đánh giá thực hiện các chính sách, hoạt động của Đề án:
+ Các cơ quan đơn vị tham gia Đề án tự giám sát, đánh giá, báo cáo định kỳ
về Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội;
+ Hợp đồng giám sát, đánh giá với các cơ quan tƣ vấn độc lập.
- Cơ quan chủ trì: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.
- Cơ quan phối họp: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Trung ƣơng
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân các tỉnh có huyện nghèo
theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008.
d) Kinh phí và cơ chế tài chính thực hiện các hoạt động
- Nguồn kinh phí: ngân sách nhà nƣớc.
- Cơ chế tài chính:
+ Các hoạt động tại Trung ƣơng: ngân sách trung ƣơng bố trí trong dự toán
hàng năm của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội; quản lý, sử dụng và quyết
toán kinh phí theo quy định hiện hành;
+ Các hoạt động tại địa phƣơng: ngân sách trung ƣơng hỗ trợ có mục tiêu
cho địa phƣơng trên cơ sở dự toán ngân sách hàng năm của tỉnh; quản lý, sử dụng
và quyết toán kinh phí theo quy định hiện hành.
IV. KINH PHÍ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
Tổng kinh phí thực hiện Đề án là 4.715 tỷ đồng, trong đó phần vốn hỗ trợ
ngƣời lao động là 1.542 tỷ đồng, vốn tín dụng ƣu đãi là 3.173 tỷ đồng.
V. THỜI GIAN THỰC HIỆN: Từ năm 2009 đến năm 2020
- Giai đoạn 2009 - 2010: thực hiện thí điểm các chính sách, hoạt động của đề
án; sơ kết rút kinh nghiệm và hoàn thiện chính sách, mô hình, quy trình, cơ chế vận
hành chính sách hỗ trợ ngƣời lao động các huyện nghèo tham gia xuất khẩu lao động.
192
- Giai đoạn 2011 - 2015: điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện để thực hiện đầy
đủ các chính sách, hoạt động của đề án; mở rộng quy mô, tăng đối tƣợng lao động
các huyện nghèo tham gia xuất khẩu lao động.
- Giai đoạn 2016 - 2020: nâng cao chất lƣợng lao động, tăng tỷ trọng lao
động các huyện nghèo đi làm việc ở các thị trƣờng có thu nhập cao.
VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội có trách nhiệm:
- Là cơ quan thƣờng trực Đề án, Bộ trƣởng Bộ Lao động - Thƣơng binh và
Xã hội quyết định thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án, hƣớng dẫn thành lập và
chỉ đạo nghiệp vụ các Tiểu Ban Chỉ đạo thực hiện Đe án cấp huyện.
- Chủ trì, điều phối thực hiện các chính sách, hoạt động của Đề án; xây dựng
kế hoạch hàng năm thực hiện Đề án, bao gồm: kế hoạch về nhiệm vụ, mục tiêu, nhu
cầu kinh phí và đề xuất các giải pháp thực hiện gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài
chính để tổng hợp báo cáo Chính phủ đƣa vào kế hoạch và dự toán ngân sách nhà
nƣớc; phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hƣớng dẫn thực hiện các chính sách,
hoạt động của Đề án.
- Xây dựng tiêu chí và tổ chức lựa chọn các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động, các cơ sở sự nghiệp theo tiêu chí để tham gia Đề án; lựa chọn những hợp
đồng và những thị trƣờng phù hợp, có điều kiện làm việc và thu nhập tốt, ổn định để
đƣa lao động đến làm việc; thẩm định, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các hợp
đồng theo Đề án; giải quyết kịp thời những khó khăn, vƣớng mắc và rủi ro cho
ngƣời lao động.
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài chính và các cơ quan
liên quan kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện Đề án.
2. Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ có trách nhiệm:
- Bố trí kinh phí thực hiện Đề án từ năm 2009 theo quy định của Luật Ngân
sách nhà nƣớc.
- Phối họp với Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội hƣớng dẫn cơ chế quản
lý tài chính, đầu tƣ đối với các chính sách, hoạt động trong Đề án; tổ chức thẩm
193
định giá các hợp đồng đặt hàng dịch vụ công; phối hợp kiểm tra, giám sát thực hiện
Đề án.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm:
Nghiên cứu xây dựng chƣơng trình, tài liệu bổ túc kiến thức văn hóa phù hợp
với đặc thù của ngƣời nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số. Chỉ đạo các cơ quan giáo dục
địa phƣơng tổ chức các khóa bổ túc văn hóa cho ngƣời lao động để tham gia xuất
khẩu lao động.
4. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm:
Hƣớng dẫn các cơ chế, chính sách liên quan; xây dựng kế hoạch và chỉ đạo
thực hiện các nội dung của Đề án theo chức năng và thẩm quyền.
5. Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách Xã hội có trách
nhiệm:
Thực hiện chính sách tín dụng ƣu đãi đối với các cơ sở dạy nghề tham gia
thực hiện Đe án; thực hiện các chính sách hỗ trợ và chính sách tín dụng ƣu đãi của
Đề án đối với ngƣời lao động theo đúng trình tự và quy định hiện hành.
Phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện Đề án
tại địa phƣơng.
6. Ủy ban nhân dân các tỉnh có huyện nghèo theo Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 có trách nhiệm
- Thành lập và chỉ đạo hoạt động của Tiểu Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án hỗ
trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động cấp huyện.
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện tại địa phƣơng trên cơ sở Đề án đã
đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt và các văn bản hƣớng dẫn của các Bộ, ngành;
thực hiện chế độ báo cáo định kỳ với Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.
- Nghiên cứu, ban hành và thực hiện các chính sách, cơ chế hỗ trợ bổ sung của
địa phƣơng cho ngƣời lao động.
194
7. Đề nghị Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, các tổ
chức chính trị - xã hội chỉ đạo các cấp cơ sở phối hợp với các Ban, ngành liên quan
triển khai thực hiện Đề án ở địa phƣơng.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Điều 3. Các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trƣởng cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh có huyện nghèo theo Nghị
quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 chịu trách nhiệm thi hành
Quyết định này.
KT. THỦ TƢỚNG PHÓ THỦ TƢỚNG
Nguyễn Sinh Hùng
Nơi nhận: - Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng; - Thủ tƣớng, các Phó Thủ tƣớng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; - VP BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; - Văn phòng Trung ƣơng và các Ban của Đảng; - Văn phòng Chủ tịch nƣớc; - Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Tòa án nhân dân tối cao; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - Kiểm toán Nhà nƣớc; - Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia; - Ngân hàng Chính sách Xã hội; - Ngân hàng Phát triển Việt Nam; - UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Cơ quan Trung ƣơng của các đoàn thể; - VPCP: BTCN, các PCN, cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lƣu Văn thƣ, KGVX (5b).
195
Phụ lục 4
Quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng dân số của Việt Nam
theo khu vực thành thị - nông thôn, 2005-2015
2005 2009 2013 2014 2015
Tốc độ tăng (%/năm) Giai đoạn 2015 so 2005-2015 với 2014
90,73 86,03 82,39 89,72 91,70 1,07 1,08
22,33 60,06 29,03 60,68 29,26 61,47
32,36 67,64 27,10 72,90 32,25 67,75 5,32 -0,95 3,31 0,13
1. Quy mô (triệu người) 30,82 25,59 Thành thị Nông thôn 60,89 60,44 2. Cơ cấu (%) 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 33,60 29,70 Thành thị Nông thôn 66,40 70,30 Nguồn: - TCTK, Niên giám thông kê qua các năm 2005-2015 - Bộ LĐTBXH, Điều tra Việc Ỉàm-Thất nghiệp qua các năm 2005-2006 - TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015
Tháp tuổi của dân số Tháp tuổi của dân số
Việt Nam năm 2006 Việt Nam năm 2015
4,000
2,000
0
2,000
4,000
4,000
2,000
0
2,000
4,000
80+ 75-79 70-74 65-69 60-64 55-59 50-54 45-49 40-44 35-39 30-34 25-29 20-24 15-19 10-14 5-9 0-4
80+ 75-79 70-74 65-69 60-64 55-59 50-54 45-49 40-44 35-39 30-34 25-29 20-24 15-19 10-14 5-9 0-4
4,000
2,000
0
2,000
4,000
4,000
2,000
0
2,000
4,000
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Đơn vị: nghìn người Đơn vị: nghìn người
Nguồn: - TCTK, Niên giám thống kê qua các năm 2006-2015 - TCTK, Tổng điều tra dân số 2009vàĐiều tra biến động dân số hằng năm
196
Phụ lục 5
Việc làm trực tiếp và việc làm gián tiếp trong 10 DN FDI
Tên doanh Việc làm Việc làm Trực tiếp/ TT Lĩnh vực hoạt động nghiệp trực tiếp gián tiếp Gián tiếp
1 VNC SX, KD ô tô 574 1540 1/2,68
2 American Thức ăn gia súc 130 3010 1/23
Feed
Everton SX& chế biến NS 400 4236 1/10,6 3
Coca cola Nƣớc giải khát 1500 18030 1/12 4
Shell KD dầu nhờn 39 2306 1/59,1 5
Comado
6 Haiha- KD bánh kẹo 115 3580 1/31
katobuki
7 Samsung Điện tử 323 3210 1/9,9
Vina
8 Sony Điện tử 600 4820 1/8
Vietnam
9 Visintex SXlụa tơ tăm 321 1209 1/3,7
10 Vinataxi Vận tải taxi 686 1350 1/1,97
TS 10 4688 43286 1/9,23
Nguồn: Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài
vàoViệt Nam- Nhà xuất bản Thông kê- Hà Nội, 2015.