ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

Nguyễn Thị Thu Trà

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM TRONG

BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội, 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

Nguyễn Thị Thu Trà

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM TRONG

BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị.

Mã số: 62.31.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHÍ MẠNH HỒNG

Hà Nội, 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu

trong luận án có xuất xứ rõ ràng, bảo đảm độ tin cậy. Những kết luận khoa học của

luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thu Trà

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.

Số thứ tự Ký hiệu Nguyên nghĩa

Chất lƣợng cao CLC 1

Công nghiệp hóa CNH 2

CNH,HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 3

ĐH,CĐ Đại học, cao đẳng 4

Tổng sản phẩm quốc nội GDP 5

Ban chấp hành BCH 6

Ban giám hiệu BGH 7

Nghiên cứu sinh NCS 8

Nguồn nhân lực NNL 9

NNLCLC Nguồn nhân lực chất lƣợng cao 10

PTNNL Phát triển nguồn nhân lực 11

PTNNLCLC Phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao 12

Kinh tế tri thức KTTT 13

Khoa học - công nghệ KH-CN 14

Khoa học – xã hội KH-XH 15

Thanh niên cộng sản TNCS 16

Nghiên cứu và triển khai R $ D 17

Chủ nghĩa tƣ bản CNTB 18

Chủ nghĩa xã hội CNXH 19

Tƣ bản chủ nghĩa TBCN 20

Xã hội chủ nghĩa XHCN 21

Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO 22

Tổ chức lao động quốc tế ILO 23

Giải quyết việc làm GQVL 24

Doanh nghiệp nhà nƣớc DNNN 25

i

DNTN Doanh nghiệp tƣ nhân 26

CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 27

28 TCHKT Toàn cầu hóa kinh tế

29 CMKT Chuyên môn kỹ thuật

30 USD Đồng đô la

31 LLLĐ Lực lƣợng lao động

32 THCS Trung học cơ sở

33 THPT Trung học phổ thông

34 LĐTBXH Lao động thƣơng binh xã hội

35 TNTH Tốt nghiệp tiểu ọc

36 TNCS Tốt nghiệp cơ sở

37 TNPT Tốt nghiệp phổ thông

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT. ................................................................................... i

MỤC LỤC .................................................................................................................iii

DANH MỤC BẢNG ................................................................................................ vii

DANH MỤC HÌNH................................................................................................viii

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1.Lý do chọn đề tài ..................................................................................................................... 1

2. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................................ 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ................................................................... 3

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án. ....................................................................... 3

5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án ..................................................................... 4

6. Những đóng góp khoa học của luận án ................................................................................ 9

7. Kết cấu của luận án ................................................................................................................ 9

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI ..................................................................................................................... 10

1.1. Khái quát các công trình nghiên cứu trên thế giới ....................................... 10

1.1.1. Về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trƣờng nói

chung ......................................................................................................................... 10

1.1.2. Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm ở các nƣớc đang phát triển, đang trong

quá trình công nghiệp hóa ......................................................................................... 12

1.1.3. Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh phát triển kinh tế tri

thức ............................................................................................................................ 14

1.2. Khái quát tình hình nghiên cứu trong nƣớc .............................................................. 17

1.2.1. Về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nói chung ở Việt Nam .......................................................................... 17

1.2.2. Về vấn đề việc làm, giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam ............................................. 20

1.3. Nhận xét rút ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................. 24

iii

1.3.1. Những kết quả chủ yếu của các công trình nghiên cứu đã công bố ............... 24

1.3.2. Những "khoảng trống" và một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu ................... 25

Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 27 Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THƢ̣C TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI

QUYẾT VIỆC LÀM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC ...................................... 28

2.1. Việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh chung của nền kinh tế thị

trường ..................................................................................................................................... 28

2.1.1. Một số khái niệm cơ bản ................................................................................. 28

2.1.2. Nguyên nhân của thất nghiệp .......................................................................... 35

2.1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới việc làm và giải quyết việc làm ............................. 38

2.2. Giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với

phát triển kinh tế tri thức ....................................................................................... 45

2.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giải quyết việc làm ở các nƣớc đang

phát triển ................................................................................................................... 45

2.2.2. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

và ảnh hƣởng của nó đến xu thế việc làm ................................................................. 50

2.2.3. Nội dung của giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ....................................................................... 59

2.2.4. Các tiêu chí đánh giá giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ......................................................... 65

2.3. Kinh nghiệm của các nƣớc về giải quyết việc làm trong bối cảnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức .............................. 68

2.3.1. Kinh nghiệm giải quyết việc làm của một số quốc gia ................................... 68

2.3.2. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................... 77

Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 77

iv

Chƣơng 3. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYÉT VIỆC LÀM Ở

VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

HÓAGẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC ....................................... 80

3.1. Chủ trƣơng và chính sách giải quyết việc làm của Việt Nam trong bối cảnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ..................... 80

3.1.1. Các chủ trƣơng và định hƣớng cơ bản ............................................................ 80

3.1.2. Hệ thống chính sách ........................................................................................ 81

3.2. Thực trạng giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ........................................... 85

3.2.1. Quy mô và chất lƣợng nguồn nhân lực ........................................................... 85

3.2.2. Tình hình giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ......................................................... 89

3.3. Thu nhập của ngƣời lao động ....................................................................... 109

3.3.1. Mức tăng thu nhập chung của ngƣời lao động ............................................. 109

3.3.2. Thu nhập theo ngành nghề ............................................................................ 111

3.3.3. Thu nhập giữa các vùng kinh tế .................................................................... 112

3.4. Đánh giá về kết quả giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối cảnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ................... 114

3.4.1. Những thành tựu đạt đƣợc ............................................................................ 114

3.4.2. Những hạn chế, yếu kém .............................................................................. 115

3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém .................................................. 118

Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................. 120

Chƣơng 4. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP VỀ GIẢI

QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA CNH, HĐH

GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC .............................................. 122

4.1. Quan điểm và định hƣớng giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối

cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển KTTT ......................... 122

4.1.1. Quan điểm về giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối cảnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ................................... 122

v

4.1.2. Định hƣớng, mục tiêu giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối cảnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức .......................... 127

4.2. Các giải pháp giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối cảnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ............................ 134

4.2.1. Hoàn thiện các thể chế thị trƣờng nói chung, thể chế liên quan đến thị trƣờng

lao động nói riêng ................................................................................................... 134

4.2.2. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với thị trƣờng lao động ...... 136

4.2.3. Tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển và nâng cao chất lƣợng của hệ thống giáo dục

- đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế

tri thức ..................................................................................................................... 138

4.2.4. Đẩy nhanh nhịp độ và nâng cao hiệu quả của quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa thông qua đổi mới mô hình tăng trƣởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xác lập các

điều kiện thuận lợi cho sự tăng trƣởng nhanh, bền vững, phù hợp với điều kiện của

kinh tế tri thức ......................................................................................................... 142

4.2.5. Mở mang ngành nghề mới và những ngành sử dụng nhiều lao động để giải

quyết việc làm tại chỗ ............................................................................................. 144

4.2.6. Một số giải pháp khác ................................................................................... 146

Kết luận chƣơng 4 ................................................................................................. 148

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 149

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ LIÊN QUANĐẾN

LUẬN ÁN .............................................................................................................. 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 152

Phụ lục .................................................................................................................... 166

vi

DANH MỤC BẢNG

STT

Bảng Nội dung Trang

1 Bảng 3.1 Số lƣợng và cơ cấu LLLĐ theo trình độ CMKT, 2004-2015 87

2 Bảng 3.2 Tỷ lệ sinh viên đại học qua các năm 88

Quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo 3 Bảng 3.3 90 khu vực thành thị-nông thôn, 2004-2015

Số lƣợng và cơ cấu lao động có việc làm theo ngành kinh tế, 4 Bảng 3.4 95 2004-2015

Cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo vị thế việc 5 Bảng 3.5 100 làm, 2005-2015

6 Bảng 3.6 Cơ cấu nhân lực có trình độ đại học theo ngành kinh tế 101

Cơ cấu sử dụng lao động một số ngành công nghệ cao và 7 Bảng 3.7 104 dịch vụ (%)

Số lƣợng lao động chia theo các loại hình kinh tế trong khu 8 Bảng 3.8 105 vực FDI thời kỳ 2009-2014 (Đơn vị: ngƣời)

Cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo hình thức sở 9 Bảng 3.9 106 hữu, 2004-2015

Quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng lao động đi làm việc ở nƣớc 10 Bảng 3.10 108 ngoài theo nƣớc tiếp nhận, 2005-2015

Tiền lƣơng bình quân tháng của lao động và tốc độ tăng 11 Bảng 3.11 110 lƣơng bình quân tháng của lao động, 2009-2015

Tốc độ tăng tiền lƣơng bình quân, GDP, chỉ số giá tiêu dùng 12 Bảng 3.12 100 và năng suất lao động theo giá hiện hành, 2009-2015

Tiền lƣơng bình quân tháng của lao động và tốc độ tăng chia 13 Bảng 3.13 111 theo nhóm ngành, 2009-2015

14 Bảng 3.14 Mức lƣơng tối thiểu vùng, 2009-2015 112

Dự báo một số chỉ tiêu dân số, lao động, việc làm chủ yếu, 15 Bảng 4.1 128 2016-2025

vii

DANH MỤC HÌNH

STT

Hình Nội dung Trang

Số lƣợng và cơ cấu lực lƣợng lao động có bằng cấp, chứng Hình 3.1 88 1 chỉ theo các cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật, 2015

Hình 3.2 Số lƣợng và tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam, 2007-2015 91 2

Tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật và theo Hình 3.3 92 3 nhóm tuổi, 2014-2015

Số lƣợng và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động, 4 Hình 3.4 93 2007-2015

Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của Việt nam và các 5 Hình 3.5 95 nƣớc trong khu vực, năm 2013

Biến động việc làm theo ngành kinh tế, năm 2015 so với Hình 3.6 98 6 năm 2014

Hình 3.7 Cơ cấu lao động theo nghề (%), năm 2014 99 7

Tốc độ tăng tiền lƣơng tối thiểu vùng, chỉ số giá và tăng Hình 3.8 113 8 trƣởng kinh tế, 2009-2015

viii

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hạn chế và cắt giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo ra và duy trì mức công ăn, việc làm

cao luôn là một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng hàng đầu đối với mỗi quốc gia.

Chính vì vậy, giải quyết việc làm luôn là một hƣớng ƣu tiên trong mọi chính sách của

các quốc gia trên thế giới.

Giải quyết việc làm cũng là một định hƣớng chính sách đặc biệt quan trọng

đối với các nƣớc đang và kém phát triển, đang ở thời kỳ đầu của quá trình CNH, lao

động và việc làm thƣờng tập trung cao ở khu vực nông nghiệp. Với kỹ thuật sản

xuất truyền thống, lạc hậu, đây là khu vực kinh tế có giá trị gia tăng và năng suất lao

động thấp, ngƣời lao động dù không rơi vào tình cảnh thất nghiệp “tuyệt đối” vẫn

thƣờng thiếu việc làm và có thu nhập thấp. Quá trình CNH cũng chính là quá trình

mở mang các ngành công nghiệp và dịch vụ mới, có giá trị gia tăng cao hơn, có khả

năng thu hút dần lƣợng lao động thừa, dôi dƣ từ lĩnh vực nông nghiệp, năng suất

thấp. Khi quá trình CNH chƣa hoàn thành, nền công nghiệp và khu vực dịch vụ hiện

đại tƣơng ứng chƣa đủ lớn mạnh để trở thành khu vực tạo ra của cải và việc làm

chính cho nền kinh tế. Tình trạng thiếu công ăn việc làm vẫn là vấn đề kinh tế- xã

hội căng thẳng, thƣờng trực, nhất là trong bối cảnh dân số gia tăng nhanh, hàng năm

luôn có một lực lƣợng hùng hậu dân số bổ sung vào lực lƣợng lao động. Trong điều

kiện đó, giải quyết việc làm là một nội dung cực kỳ quan trọng trong các chiến lƣợc

phát triển kinh tế - xã hội của các nƣớc đang phát triển.

Sự xuất hiện của thời đại KTTT đã tạo ra sự biến đổi sâu sắc trong nền kinh tế

thế giới, ảnh hƣởng không nhỏ đến các tiến trình kinh tế ở hầu hết mọi quốc gia,

trong đó có quá trình CNH và giải quyết việc làm ở các nƣớc đang phát triển. “Nền

kinh tế tri thức chẳng những vận hành trên cơ sở một nguyên lý sáng tạo của cải mới

mà còn là nền kinh tế thực sự mang tính chất toàn cầu hóa [90, tr10]. Nó dần dần kết

nối các nền kinh tế quốc gia thành một nền kinh tế toàn cầu chung, bất chấp sự khác

biệt về trình độ phát triển giữa chúng. Trong bối cảnh đó quá trình CNH, HĐH, sự

dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở các nƣớc đang phát triển sẽ diễn ra không hoàn toàn

1

theo những con đƣờng và cách thức truyền thống. Cơ cấu việc làm, ngành nghề, vì

thế cũng sẽ biến đổi nhanh hơn, với sự triệt tiêu nhanh hơn của nhiều ngành nghề

truyền thống và sự xuất hiện linh hoạt của các ngành nghề mới, đặc biệt là những

ngành nghề phù hợp với yêu cầu của thời đại KTTT. Yêu cầu về lao động có trình độ

cao, kỹ năng cao ngày càng trở nên bức thiết hơn, và điều này tạo ra những áp lực to

lớn đối với năng lực cung ứng lao động của nền kinh tế. Bởi thế, nó sẽ tạo ra những

thách thức mới, khác trƣớc đối với bài toán GQVL ở các nƣớc đang phát triển.

Là một nền kinh tế đang phát triển, Việt Nam đang trong quá trình thực hiện

các nhiệm vụ của thời kỳ CNH, HĐH. Xét về tổng thể, nền kinh tế đất nƣớc vẫn chƣa

thoát khỏi tính chất của một nền kinh tế nông nghiệp – nông dân, với trình độ dân trí

chung còn chƣa cao, quy mô dân số vẫn tăng nhanh, nguồn cung lao động vẫn dồi dào

trong khi các nguồn lực kinh tế khác còn nhiều hạn chế. Quá trình CNH, HĐH ở Việt

Nam vẫn chƣa hoàn thành nhƣng Việt Nam không tránh khỏi sự tác động của xu

hƣớng phát triển KTTT bộc lộ ngày càng rõ rệt trong nền kinh tế thế giới. Không né

tránh những thay đổi có ý nghĩa thời đại này, Việt Nam lựa chọn chiến lƣợc chủ động

và tích cực hội nhập quốc tế nhƣ một chiến lƣợc phát triển.Chấp nhận hội nhập quốc tế

và cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu đƣợc xem là cách thức để Việt Nam tận dụng

cơ hội phát triển to lớn và mới mẻ do thời đại kinh tế tri thức mang lại. Tuy vậy, quá

trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT không khỏi làm biến đổi cấu trúc kinh tế và

cơ cấu lao động, tác động đến giáo dục đào tạo và khả năng cung ứng nguồn nhân lực,

ảnh hƣởng không nhỏ đến phƣơng thức giải quyết vấn đề việc làm ở Việt Nam. Trong

bối cảnh đó, vấn đề GQVL ở Việt Nam chẳng những là một vấn đề thời sự gay gắt, ảnh

hƣởng đến an ninh xã hội và phát triển bền vững, mà còn là một vấn đề hàm chứa

những nội dung và khía cạnh mới, cần đƣợc nghiên cứu để tìm ra các phƣơng hƣớng và

giải pháp đúng đắn, phù hợp. Do đó “ Giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức” đƣợc chọn làm đề

tài nghiên cứu của luận án này.

2. Câu hỏi nghiên cứu

Cần phải làm gì để thúc đẩy quá trình giải quyết việc làm ở Việt Nam trong

2

bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức?.

Để trả lời đƣợc câu hỏi này, cần làm rõ đƣợc những câu hỏi nhánh sau:

- Xu hƣớng phát triển kinh tế tri thức có ảnh hƣởng thế nào đến quá trình CNH,

HĐH và lĩnh vực lao động, việc làm ở các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam?

- Đánh giá nhƣ thế nào về thực trạng GQVL trong quá trình CNH,HĐH trong

điều kiện thời đại KTTT? Những thách thức và vấn đề đặt ra?

- Cần có quan điểm tiếp cận và định hƣớng giải pháp nào để thúc đẩy quá

trình giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh trên?

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tíchvấn đề việc làm và giải quyết

việc làm ở Việt Nam trong tiến trình CNH, HĐH gắn với bối cảnh thời đại KTTT

để từ đó đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình GQVL ở Việt

Nam trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ của luận án

Để thực hiện mục đích trên luận án giải quyết 3 nhiệm vụ cơ bản sau:

Giải quyết vấn đề lý luận:Hệ thống hóa và góp phần làm rõ cơ sở lý luận về

việc làm và GQVL trong điều kiện CNH,HĐH gắn với bối cảnh phát triển KTTT.

Giải quyết vấn đề thực tiễn: Phân tích thực trạng GQVL ở Việt Nam trong

bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT, chỉ ra những vấn đề nổi lên cần giải

quyết cũng nhƣ nguyên nhân của chúng.

Đề xuất một số quan điểm, định hướng và giải phápnhằm thúc đẩy quá trình

giải quyết vấn đề việc làm phù hợp với điều kiện ở Việt Nam trong bối cảnh CNH,

HĐH gắn với phát triển KTTT.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án.

4.1. Đối tƣợng

Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam

trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian và thời gian

Luận án phân tích thực trạng giải quyết việc làm trên phạm vi cả nƣớc ở Việt

3

Nam trong hơn 10 năm (từ năm 2004 cho đến năm 2015) xét trong điều kiện của

tiến trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Ở đây, thực chất xu hƣớng chuyển

sang thời đại KTTT đƣợc xem nhƣ là bối cảnh mới chi phối quá trình CNH, HĐH ở

các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam.

- Về góc độ nghiên cứu

Tham gia vào quá trình GQVL có nhiều chủ thể khác nhau: nhà nƣớc, ngƣời

lao động, các doanh nghiệp...Ngƣời lao động, một khi đã lựa chọn tham gia vào lực

lƣợng lao động, đƣơng nhiên có động cơ tự thân tìm kiếm việc làm khi họ rơi vào

trạng thái thất nghiệp. Họ sẽ có động lực tự nhiên, phù hợp với sở thích và điều

kiện, hoàn cảnh của mình để chuẩn bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết nhằm đáp

ứng đƣợc các yêu cầu của nhà tuyển dụng. Họ sẽ tích cực tìm kiếm các thông tin về

các cơ hội việc làm và sẵn sàng biến các cơ hội đó thành hiện thực. Cái mà những

ngƣời lao động cần là một môi trƣờng thuận lợi, an toàn để chuẩn bị về mặt năng

lực, để tìm kiếm việc làm cũng nhƣ để làm việc sau khi đƣợc tuyển dụng. Các

doanh nghiệp có vai trò to lớn trong việc tạo ra các chỗ làm việc. Trên thị trƣờng

lao động, họ đóng vai trò ở phía cầu lao động. Tuy nhiên, tạo ra việc làm là hệ quả

chứ không phải là mục tiêu hay chức năng tối cao của doanh nghiệp. Doanh nghiệp

không thể vì mục tiêu tạo thêm việc làm cho xã hội mà thuê mƣớn số nhân công

vƣợt quá mức tối ƣu, để phải chịu thêm những gánh nặng về chi phí một cách không

cần thiết, do đó, làm tăng thêm giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh, thu hẹp

quy mô lợi nhuận. Nói cách khác, các doanh nghiệp không có động cơ tự thân trong

việc tạo ra việc làm. Vì thế, khi đề cập đến vấn đề GQVL, luận án chỉ tập trung

phân tích vai trò của nhà nƣớc trong lĩnh vực này. Các giải pháp đề xuất cũng là

những giải pháp hƣớng đến phía nhà nƣớc. Góc độ nghiên cứu nhƣ vậy phù hợp với

cách tiếp cận kinh tế chính trị.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án

5.1.Phƣơng pháp luận

Luận án sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị, chủ yếu

là phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phƣơng pháp trừu tƣợng hóa

khoa học để nghiên cứu.

Phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đòi hỏi việc nghiên cứu

4

quá trình GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT

trƣớc hết phải kế thừa những kết quả nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc. Bởi vậy,

tác giả luận án đã tích cực sƣu tầm các tài liệu viết về việc làm và GQVL nói chung,

các tài liệu viết về quá trình CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT. Các tài liệu có

liên quan đến đề tài nhƣ: Phát triển nguồn nhân lực, lao động – việc làm...Trên cơ

sở đó luận án tập trung nghiên cứu làm rõ bản chất, nguyên nhân, nội dung và các

yếu tố ảnh hƣởng tới việc làm và GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát

triển KTTT.

Phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đòi hỏi việc nghiên

cứu về GQVL cho ngƣời lao động phải xuất phát từ điều kiện khách quan nhƣ sự

vận động của thị trƣờng lao động, nhu cầu việc làm của ngƣời lao động .. do các

quy luật khách quan chi phối. Bên cạnh những quy luật khách quan, quá trình

GQVL cho ngƣời lao động chịu sự chi phối của các yếu tố chủ quan nhƣ sự tác

động của các chính sách của Nhà nƣớc, tác động của luật pháp...Bởi vậy, tác giả đã

tập trung nghiên cứu toàn diện trong đó chú trọng đến vai trò của Nhà nƣớc trong

quá trình GQVL cho ngƣời lao động vì nhân tố này giữ vai trò quyết định.

Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học đòi hỏi loại bỏ những cái ngẫu nhiên,

không cơ bản ra khỏi quá trình nghiên cứu nhƣng không ảnh hƣởng đến bản chất

vấn đề nghiên cứu ...Bởi vậy, trên thực tế có rất nhiều yếu tố tác động đến GQVL

nhƣ: Nhà nƣớc, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và ngƣời lao động nhƣng luận

án chỉ tập trung nghiên cứu vai trò của Nhà nƣớc trong quá trình GQVL cho ngƣời

lao động.

Phƣơng pháp luận đòi hỏi phải xây dựng khung lý thuyết để nghiên cứu, đồng

thời khung lý thuyết đó phải đƣợc kiểm chứng bằng thực tiễn. Do đó luận án đã

nghiên cứu kinh nghiệm của các nƣớc cho việc xây dựng chính sách về GQVL để

kiểm nghiệm cho khung lý thuyết đƣợc xây dựng trong luận án. Đồng thời, luận án

còn nghiên cứu các yếu tố tác động tới quá trình GQVL nhƣ: dân số và chất lƣợng

dân số, khoa học...Các quan hệ đó luôn đƣợc xem xét trong sự vận động, biến đổi.

5.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc áp dụng

Luận án sử dụng nhiều phƣơng pháp nhƣkết hợp logic với lịch sử, phƣơng

pháp phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp thống kê, so sánh vàđối chiếu…trên nền

5

tảng kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.

- Phương pháp kết hợp logich với lịch sử

Quan hệ logich là quan hệ tất yếu, nó xảy ra khi có những tiền đề cho mối

quan hệ đó, lịch sử là hiện thực của logich ở một đối tƣợng cụ thể trong một khoảng

không gian và thời gian nhất định. Tác giả đã sử dụng phƣơng pháp này để xem xét

và trình bày quá trình GQVL ở Việt Nam theo một trình tự liên tục và nhiều mặt.

Khi sử dụng phƣơng pháp này tác giả luận án đã đã bảo đảm tình liên tục về thời

gian trong quá trình nghiên cứu, làm rõ điều kiện, đặc điểm phát sinh phát triển từ

thấp đến cao, làm rõ các mối liên hệ đa dạng trong quá trình GQVL trong bối cảnh

CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT.

Luận án sử dụng phƣơng pháp logich và phƣơng pháp lịch sử nhằm đạt đƣợc

các mục đích sau:

+ Xác định đƣợc thời gian nghiên cứu của luận án: giai đoạn 2004 -2015 là

thời gian nghiên cứu hợp lý. Đây là giai đoạn vừa bảo đảm đƣợc độ dài của một

công trình nghiên cứu vừa là giai đoạn Việt Nam có những chuyển biến sâu sắc

trong quá trình GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT; giai

đoạn trƣớc và sau khi Việt Nam gia nhập WTO; giai đoạn khu vực ASEAN có

những bƣớc phát triển hợp tác và chuyển mình tích cực hƣớng tới xây dựng cộng

đồng kinh tế ASEAN trên mọi lĩnh vực...tất cả những yếu tố đó tác động sâu sắc tới

việc làm và GQVL nói chung và Việt Nam nói riêng.

+ Tìm đƣợc logich của quá trình GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh

CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT. Đây là một trong những vấn đề trọng tâm gắn

với quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay và cũng là vấn đề trọng tâm của kinh

tế chính trị.

Khi trình bày quá trình GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển

KTTTluận án đã chú ý đến sự vận động logich của quá trình GQVL, chỉ ra xu hƣớng

vận động có tính quy luật của vấn đề việc làm, loại bỏ các chi tiết không cơ bản và dự

báo xu hƣớng GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp

Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp đƣợc sử dụng trong cả 4 chƣơng của luận

án. Ở chƣơng 1 tác giả đã phân tích các tác phẩm kinh điển, các công trình khoa học

6

liên quan đến luận án để xem xét các công trình đó đã nghiên cứu những vấn đề gì cả

về lý luận và thực tiễn. Sau đó tác giả sử dụng phƣơng pháp tổng hợp để đánh giá, hệ

thống hóa các kết quả đạt đƣợc và nêu ra những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu.

Trong chƣơng 2, tác giả đã sử dụng phƣơng pháp phân tích để xem xét các yếu

tố hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn để nội dung của vấn đề GQVL nói chung trong

bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Sau đó phƣơng pháp tổng hợp sẽ

đƣợc sử dụng để khái quát những vấn đề phân tích hình thành khung khổ lý luận và

thực tiễn của luận án.

Chƣơng 3, phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng để phân tích thực trạng

GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Phân tích

chủ trƣơng chính sách về GQVL ở Việt Nam trong hơn 10 năm ( 2004 -2015).

Phƣơng pháp tổng hợp đƣợc sử dụng để chỉ ra những thành tựu đạt đƣợc, hạn chế

và nguyên nhân...trong quá trình GQVL ở Việt Nam trong thời gian nghiên cứu.

Trên cơ sở những vấn đề đƣợc bàn ở chƣơng 2 và chƣơng 3, luận án sử dụng

phƣơng pháp tổng hợp để đƣa ra các quan điểm, định hƣớng và đề xuất các giải

pháp ở chƣơng 4. Sau đó phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng để lý giải lý do mà

tác giả đƣa ra các giải pháp đó.

Trong quá trình sử dụng phƣơng pháp phân tích và tổng hợp đề tài có sử

dụng các số liệu thống kê đã qua xử lý với các bảng, biểu đồ thích hợp nhằm làm rõ

hơn những đặc trƣng, xu hƣớng, quy mô... của nội dung vấn đề nghiên cứu.

- Phương pháp thống kê mô tả

Luận án sử dụng phƣơng pháp thông kê mô tả chủ yếu trong chƣơng 3 để phân

tích và cắt nghĩa thực trạng GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với

phát triển KTTT theo những lát cắt khác nhau phù hợp với khung lý thuyết đã đƣợc

trình bày ở chƣơng 2. Dựa vào các số liệu thống kê đƣợc thu thập, cố gắng bám sát các

tiêu chí đánh giá kết quả GQVL trong điều kiện CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT,

luận án đã phân tích, suy luận, diễn giải và biểu diễn các số liệu dƣới các hình thức

thích hợp nhằm đƣa ra những nhận định, đánh giá cần thiết về thực trạng GQVL của

Việt Nam trong khoảng thời gian phân tích. Đây là cơ sở để tác giả đề xuất các giải

pháp nhằm thúc đẩy quá trình GQVL ở Việt Nam trong thời gian tới.

- Phƣơng pháp so sánh và đối chiếu

7

So sánh và đối chiếu là phƣơng pháp đƣợc sử dụng nhiều trong chƣơng 2 và

chƣơng 3 của luận án. Việc so sánh, đối chiếu các quan điểm và cách tiếp cận lý

thuyết khác nhau giúp tác giả khái quát đƣợc những thành tựu và kết quả nghiên

cứu mà những công trình đi trƣớc đã đạt đƣợc, có thể và cần đƣợc kế thừa, đồng thời

nó cũng cho thấy những khoảng trống có liên quan đến chủ đề luận án cần đƣợc tiếp

tục tìm tòi, nghiên cứu, nhất là khi xem xét vấn đề GQVL trong điều kiện phát triển

mới mà thời đại quy định. Đó cũng là tiền đề để tác giả luận án tiến hành hệ thống hóa

và bổ sung một vài kiến giải riêng nhằm xây dựng khung lý thuyết thích hợp cho luận

án. Việc so sánh, đối chiếu các kinh nghiệm xử lý vấn đề GQVL ở các nƣớc khác nhau

giúp cho tác giả rút ra đƣợc một số bài học thành công cũng nhƣ không thành công mà

Việt Nam có thể tham khảo. Ở chƣơng 3, phƣơng phápso sánh đƣợc sử dụng để xác

định xu hƣớng và động thái diễn tiến theo thời gian của các chỉ tiêu phân tích: quy mô,

cơ cấu nguồn nhân lực; tỷ lệ có việc làm và tỷ lệ thất nghiệp; sự chuyển dịch cơ cấu

việc làm trong các khu vực kinh tế và các kênh GQVL khác nhau; tỷ lệ việc làm trong

những ngành công nghệ cao.... Đây là cơ sở để tác giả phân tích, đánh giá thực trạng

cũng nhƣ chỉ ra điểm mạnh và điểm yếu trong quá trình GQVL ở Việt Nam trong thời

gian qua xét theo các tiêu chí đánh giá theo chủ đề luận án.

5.3 Nguồndữ liệu

- Luận án sử dụng phƣơng pháp phân tích các tƣ liệu có sẵn của các bộ, ban

ngành nhằm tổng kết và đƣa ra những kết luận về thực trạng việc làm và GQVL ở

Việt Nam trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT.

- Nguồn dữ liệu thực hiện luận án

Nguồn dữ liệu mà luận án sử dụng là các dữ liệu thứ cấp đƣợc thu thập từ

nhiều nguồn khác nhau nhằm đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu. Đó trƣớc hết là các dữ

liệu khai thác từ các cơ quan quản lý nhà nƣớc nhƣ:

Cục Thống kê: Các niên giám thống kê, các báo cáo có liên quan đến thị

trƣờng lao động Việt Nam.

Bộ Lao động Thƣơng binh và Xã hội: Các văn bản pháp luật, các báo cáo và

số liệu có liên quan đến vấn đề việc làm và GQVL.

Các văn bản. tài liệu có liên quan của Bộ Giáo dục – đào tạo, Bộ kế hoạch

đầu tƣ, Bộ khoa học công nghệ..

8

Ngoài các tài liệu đƣợc cung cấp từ các cơ quan, doanh nghiệp còn các tài

liệu thứ cấp đƣợc tác giả thu thập từ sách, báo, tạp chí chuyên ngành, mạng internet

và các cuộc hội thảo khoa học.

6. Những đóng góp khoa học của luận án

Luận án có những đóng góp chủ yếu sau:

- Góp phần làm rõ cơ sở khoa học về vấn đề việc làm vàGQVL cho ngƣời

lao động trong bối cảnh mới: CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT thông qua việc

làm rõ các đặc điểm của tiến trình CNH, HĐH đặt trong bối cảnh của thời đại

KTTT, chỉ ra ảnh hƣởng của bối cảnh này đến xu hƣớng việc làm, GQVL cũng nhƣ

đề xuất các các tiêu chí đánh giá tƣơng ứngvề kết quả GQVL cho ngƣời lao động.

- Trên cơ sở hệ thống dữ liệu, số liệu phong phú, luận án đã mô tả, phân tích,

diễn giải và đƣa ra những đánh giá khoa học về thực trạng GQVL ở Việt Nam

những năm gần đây trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT theo các

tiêu chí đã xác định. Luận án cũng chỉ ra đƣợc những bất cập, hạn chế và phân tích

nguyên nhân của những hạn chế trong lĩnh vực này.

- Luận ánđã đề xuất và luận giải một số quan điểm, định hƣớng và các giải

pháp có tính khả thi nhằm thúc đẩy quá trình GQVL ở Việt Nam trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm

4 chƣơng:

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI

Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THƢ̣C TIỄN VIỆC LÀM VÀ GIẢI

QUYẾT VIỆC LÀM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC.

Chƣơng 3. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở

VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN

VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

Chƣơng 4. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP VỀ GIẢI

QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHIỆP

HÓA, HIỆN ĐẠI HÓAGẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

9

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨULIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Thất nghiệp và việc làm là chủ đề đƣợc bàn luận từ lâu trong khoa học kinh

tế, đƣợc nhiều học giả và các nhà hoạch định chính sách đặc biệt quan tâm. Nó

trƣớc tiên đƣợc nghiên cứu trong bối cảnh phát triển của một nền kinh tế thị trƣờng,

khởi phát từ các nƣớc hiện thuộc nhóm phát triển. Các kết quả này sau đó đƣợc áp

dụng cho trƣờng hợp các nƣớc đang phát triển, đang trong quá trình thực hiện

nhiệm vụ CNH, HĐH. Gần đây, khi thế giới bƣớc vào kỷ nguyên KTTT, vấn đề

việc làm và GQVL lại nổi lên khi chúng cần đƣợc xem xét, cắt nghĩa phù hợp với

bối cảnh mới, khác nhiều so với các thời kỳ trƣớc đây.

1.1.Khái quát các công trình nghiên cứu trên thế giới

1.1.1.Về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị

trƣờng nói chung

Trải qua các giai đoạn của lịch sử xã hội đã xuất hiện nhiều lý thuyết khác

nhau về thất nghiệp – việc làm. Các nhà kinh tế cổ điển thời kỳ đầu, sống trong thời

kỳ khoa học – công nghệ chƣa phát triển, lao động thủ công là chính, mức cầu về lao

động rất lớn, nên họ cho rằng thất nghiệp chỉ là hiện tƣợng tạm thời, Theo họ, sở dĩ

có thất nghiệp là do ngƣời lao động lƣời biếng, không chăm chỉ...Các nhà kinh tế thời

kỳ này cho rằng thất nghiệp (tức sự lƣời biếng) tỷ lệ thuận với mức tiền công. Nếu

tiền lƣơng cao sẽ khiến công nhân thích ăn chơi, nhậu nhẹt, không muốn lao động.

Khi khoa học – kỹ thuật phát triển, sự ra đời của máy móc đã dẫn tới nạn

“nhân khẩu thừa” thì lý thuyết của Thomas Robert Malthus cho rằng thất nghiệp

trong xã hội chỉ do con ngƣời sinh đẻ quá nhiều.

Các. Mác (1818-1883) đã gắn vấn đề thất nghiệp với quy luật nhân khẩu

thừa tƣơng đối trong CNTB. C.Mác cho rằng cầu về lao động xã hội không quan hệ

trực tiếp với tổng số tƣ bản mà nó chỉ liên quan trực tiếp đến bộ phận tƣ bản khả

biến. Do sự phát triển của khoa học công nghệ và do quy luật tích lũy TBCN, đã

làm cho cấu tạo hữu cơ tƣ bản ngày càng tăng, bộ phận tƣ bản khả biến có xu hƣớng

giảm tƣơng đối trong tổng số tƣ bản và đó là nguyên nhân gây ra hiện tƣợng thất

nghiệp [38, tr877]. Theo C. Mác thì việc ứng dụng các thành tựu KH - CN hiện đại

thƣờng dẫn đến tăng kết cấu hữu cơ tƣ bản và tăng năng suất lao động. Sự tăng năng

suất lao động thể hiện ra ở việc giảm bớt khối lƣợng lao động sống so với khối

10

lƣợng tƣ liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt động, hay là thể hiện ra ở sự

giảm bớt đại lƣợng của nhân tố chủ quan của quá trình lao động so với nhân tố

khách quan của quá trình đó [43, tr123]. Khi trình bày quy luật nhân khẩu thừa

tƣơng đối, có lẽ C.Mác không hình dung đƣợc tiến trình “động” của việc ứng dụng

tiến bộ khoa học, công nghệ. Thực tế, việc áp dụng máy móc và các kỹ thuật sản

xuất mới, một mặt làm cắt giảm nhu cầu về lao động do máy móc thay thế con

ngƣời, song mặt khác, nó lại làm xuất hiện những ngành nghề sản xuất và dịch vụ

mới, do đó lại tạo ra những nhu cầu mới về lao động. Điều này khiến cho những dự

báo rút ra từ “quy luật nhân khẩu thừa” không hẳn là phù hợp với thực tiễn của các

nền kinh tế thị trƣờng tƣ bản chủ nghĩa.

Các nhàkinh tế thuộc trƣờng phái tân cổ điển vẫn tiếp tục duy trì niềm tin cổ

điển về sức mạnh tự điều chỉnh của nền kinh tế thị trƣờng nói chung và thị trƣờng

lao động nói riêng với phƣơng pháp phân tích khác về cung – cầu thị trƣờng dựa

trên lý thuyết cận biên thay cho lý thuyết giá trị - lao động trƣớc đây. Với giả định

về tính linh hoạt của giá cả và tiền lƣơng (đây là giả định chung của các nhà kinh tế

học cổ điển mọi thời kỳ), họ cho rằng các thị trƣờng sẽ nhanh chóng xác lập sự cân

bằng. Trong điều kiện đó, những ngƣời lao động muốn tìm việc và sẵn lòng chấp

nhận mức lƣơng hiện hành trên thị trƣờng sẽ nhanh chóng tìm đƣợc việc làm. Tỷ lệ

thất nghiệp cao chỉ tồn tại nhƣ một hiện tƣợng tạm thời, và thất nghiệp không đƣợc

xem là một vấn đề nghiêm trọng của nền kinh tế.

Thực tế của cuộc Đại suy thoái 1929 – 1933 với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao ở

hầu hết các nƣớc trong thế giới tƣ bản đã giáng một đòn mạnh vào quan điểm cổ

điển về hoạt động của nền kinh tế vĩ mô, trong đó có vấn đề việc làm và thất nghiệp.

J.M. Keynes, trong tác phẩm nổi tiếng của mình“Lý thuyết chung về việc làm, lãi

suất và tiền tệ” (1936) đã đƣa ra cách nhìn hoàn toàn mới có thể cắt nghĩa vấn đề

thất nghiệp nhƣ nó bộc lộ trong thời kỳ Đại suy thoái. Khác với giả định của trƣờng

phái cổ điển, Keynes cho rằng giá cả và đặc biệt là tiền lƣơng có tính cứng nhắc, do

đó sản lƣợng của nền kinh tế sẽ thấp, nếu tổng cầu bị suy yếu và duy trì ở mức thấp.

Chẳng hạn, điều này sẽ xảy ra, khi vì một lý do nào đó mà các gia đình cắt giảm chi

tiêu tiêu dùng quá nhiều và tiết kiệm quá mức, khiến cho tổng cầu bị sụt giảm. Khi

tổng cầu suy giảm, do gặp khó khăn trong việc bán hàng, các doanh nghiệp sẽ thu

11

hẹp quy mô sản xuất cũng nhƣ cắt giảm nhu cầu thuê mƣớn lao động. Kết quả là

nền kinh tế rơi vào thời kỳ suy thoái và thất nghiệp sẽ gia tăng. Từ đó ông rút ra kết

luận: để tăng việc làm, giảm thất nghiệp phải gia tăng tổng cầu trong nền kinh tế và

trong trƣờng hợp này, chính sách của nhà nƣớc có vai trò quan trọng. Khi nền kinh

tế suy thoái, cầu tiêu dùng và đầu tƣ ở khu vực tƣ nhân thấp, Keynes đề xuất rằng

chính phủ cầnthực hiện chính sách kích cầu bằng cách tăng các khoản chi tiêu chính

phủ hoặc các biện pháp nhƣ: hạ lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá đầu tƣ, in thêm

tiền để cấp phát cho ngân sách nhà nƣớc..

Quan điểm cổ điển và quan điển Keynes là hai cách tiếp cận trái ngƣợc

nhau về vận hành của nền kinh tế vĩ mô và thị trƣờng lao động. Sau này, ngƣời ta

cho rằng cách tiếp cận cổ điển phù hợp khi phân tích nền kinh tế trong dài hạn,

còn quan điểm của Keynes lại tỏ ra thích hợp hơn khi xem xét nền kinh tế trong

ngắn hạn. Sự tổng hợp hai cách nhìn này tạo ra dòng kinh tế học chính thống ở các

nƣớc Phƣơng Tây.

1.1.2.Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm ở các nƣớc đang phát triển,

đang trong quá trình công nghiệp hóa

Nổi bật trong các nghiên cứu có tính chất nền tảng có liên quan đến vấn đề

việc làm và GQVL ở các nƣớc đang phát triển là các công trình sau:

-Lý thuyết về tạo việc làm bằng chuyển giao lao động giữa hai khu vực của

nền kinh tế của Anthur Lewis - nhà kinh tế học Jamaica đƣợc giải thƣởng Nobel

1979. Tƣ tƣởng cơ bản của lý thuyết này là quá trình GQVL ở các nƣớc đang phát

triển thực chất là quá trình chuyển số lao động dƣ thừa từ khu vực nông nghiệp sang

khu vực công nghiệp hiện đại thông qua việc đầu tƣ phát triển công nghiệp (CNH).

Do trong khu vực nông nghiệp đất đai chật hẹp, lao động lại quá dƣ thừa nên việc di

chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp có hai tác dụng.

Một là, chuyển bớt lao động ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp mà không làm giảm sản

lƣợng lƣơng thực cần cho cả nền kinh tế. Từ đó nâng cao sản lƣợng theo đầu ngƣời

đồng thời tạo việc làm cho số lao động dôi dƣ trong nông nghiệp. Mặt khác, việc di

chuyển này sẽ làm tăng lợi nhuận trong lĩnh vực công nghiệp, tạo điều kiện nâng

cao sức tăng trƣởng và phát triển kinh tế nói chung.

12

Sau đó Jonh Fei và Gustav Ranis đã chỉnh lý lại mô hình của Anthur Lewis,

biến nó thành mô hình Lewis - Ranis – Fei (LRF). Mô hình LRF giải thích hiện

tƣợng di chuyển lao động ở điều kiện bắt đầu công nghiệp hóa diễn ra ở lớp lao

động phổ thông nhằm GQVL cho lao động dôi dƣ trong nông nghiệp và tạo ra mức

thu nhập ngày càng cao cho ngƣời lao động.

- Lý thuyết của Harry Toshima: Theo Harry Toshima, lý thuyết của Anthur

Lewis không có ý nghĩa thực tế với tình trạng dƣ thừa lao động trong nông nghiệp ở

các nƣớc châu Á gió mùa. Bởi vì, nền nông nghiệp lúa nƣớc vẫn thiếu lao động lúc

đỉnh cao của thời vụ và chỉ dƣ thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Vì vậy, ông cho

rằng cần giữ lại lao động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm trong những tháng

nhàn rỗi bằng cách tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi... Đồng thời, sử dụng

lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp vào các ngành sản xuất công nghiệp cần nhiều

lao động. Việc tạo thuận lợi hơn nữa để có việc làm đầy đủ cho mọi thành viên gia

đình nông dân trong những tháng nhàn rỗi sẽ nâng cao mức thu nhập hàng năm của

họ và sẽ mở rộng đƣợc thị trƣờng trong nƣớc cho các ngành công nghiệp và dịch

vụ. Nhƣ vậy, lực lƣợng lao động sẽ đƣợc sử dụng hết.

- Mô hình thu nhập dự kiến về sự di cƣ nông thôn - thành thị (Harris - Todaro)

Do quá trình đô thị hóa diễn ra đồng thời với quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, nên việc dân cƣ ở khu vực nông thôn, ngoại thành di chuyển vào

thành thị là một xu hƣớng có tính quy luật trong quá trình phát triển của tất cả các

nƣớc, đặc biệt là đối với các nƣớc phát triển. Theo mô hình này thì ngƣời di cƣ sẽ

xem xét các cơ hội khác nhau trong thị trƣờng lao động dựa vào việc tối đa hóa lợi

ích dự kiến có đƣợc từ việc di cƣ bằng cách so sánh mức thu nhập dự kiến có đƣợc

trong một khoảng thời gian nhất định ở thành thị với mức thu nhập trung bình

đang có ở nông thôn. Nếu thu nhập dự kiến cao hơn thu nhập thực tế hiện có thì

họ sẽ quyết định di cƣ. Thu nhập dự kiến thu đƣợc của lao động di chuyển tùy

thuộc vào khả năng có thể kiếm đƣợc việc làm ở thành thị, mức lƣơng ở đó cũng

nhƣ độ tuổi của ngƣời di cƣ. Theo Todaro, việc chính phủ giảm mức lƣơng ở

thành thị, xóa bỏ những “méo mó” trong giá cả của các nhân tố sản xuất, tăng việc

làm ở nông thôn, áp dụng công nghệ và có chính sách phù hợp sẽ là biện pháp tạo

thêm việc làm.

13

Khi áp dụng mô hình này vào các nƣớc đang phát triển, ngƣời ta thấy: bên

cạnh khu vực kinh tế hiện đại ở thành thị (khu vực chính quy) ở các nƣớc này còn

có một khu vực kinh tế rộng lớn với nhiều ngành nghề nhƣ: các nghề thủ công, dịch

vụ sửa chữa nhỏ, buôn bán nhỏ tự tạo việc làm hoặc kinh doanh có thuê nhân công

và thỏa thuận ngoài hệ thống luật pháp chính thức với giá nhân công rẻ. Đây là khu

vực thu hút một lực lƣợng lao động rất lớn của những nƣớc này vào làm việc – khu

vực phi chính thức. Thực tế cho thấy, việc phát triển khu vực kinh tế phi chính thức

đã, đang và sẽ có những tác dụng rất to lớn trong việc GQVL, tăng thu nhập, làm

giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị.

1.1.3. Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh phát triển

kinh tế tri thức

Kinh tế tri thức là hiện tƣợng mới, chỉ xuất hiện trong một vài thập kỷ gần

đây. Tuy nhiên, nó đƣợc xem là một thời đại kinh tế mới, gắn với một cung cách

sản xuất, sáng tạo của cải hoàn toàn khác trƣớc của xã hội loài ngƣời. Là một bƣớc

phát triển mới có ý nghĩa tạo lập thời đại, rõ ràng sự xuất hiện của KTTT (mang bản

chất toàn cầu hóa) có tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội ở

mọi quốc gia, trong đó có lĩnh vực lao động, việc làm.

Việc nhận diện bản chất, đặc điểm và tác động nhiều mặt của KTTT thu hút

đƣợc sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới. Có thể kể đến những công trình

của các tác giả tiêu biểu nhƣ: “ Xã hội hậu tƣ bản” của Peter F. Drucker; bộ ba cuốn

sách nổi tiếng “Cú sốc tƣơng lai”, “Làn sóng thứ ba”, “Thăng trầm quyền lực” của

nhà tƣơng lai học Alvin Toffler; “Làm giàu trong nền kinh tế tri thức” của Lester

C.Thurow; “Nghịch lý toàn cầu” và “Lối tƣ duy của tƣơng lai” của John Naisbitt;

“Nền kinh tế tri thức” của Walter W. Powell và Kaisa Snellman; Kinh tế tri thức:

“Xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI” của Ngô Quý Tùng, “Thời đại kinh tế tri thức”

của Tần Ngôn Thƣớc; “Thế giới phẳng – Tóm lƣợc lịch sử thế giới thế kỷ 21” của

Thomas L. Friedman; “Vận hành toàn cầu hóa” của J.E. Stiglitz hay những công

trình có tính chất tổng kết của Ngân hàng thế giới nhƣ “Tri thức cho phát triển. Báo

cáo về tình hình phát triển thế giới 1998”, hay “Nhà nƣớc trong một thế giới đang

chuyển đổi”...các công trình này cho thấy nền kinh tế thế giới đang chuyển nhanh

sang một giai đoạn phát triển mới, cực kỳ khác trƣớc: nguồn lực tri thức đang dần

14

trở thành nguồn lực số một, chi phối các nguồn lực khác; khoa học – công nghệ

đang dần dần trở thành lực lƣợng sản xuất trực tiếp, có ý nghĩa quyết định; năng lực

cạnh tranh quốc gia hay của doanh nghiệp ngày càng phụ thuộc chủ yếu vào đội ngũ

lao động sáng tạo, trình độ cao, chất lƣợng cao; các quá trình kinh tế thay đổi ngày

càng nhanh và có tính kết nối cao; không gian kinh tế ngày càng mở rộng trên phạm

vi toàn cầu để có thể lôi cuốn mọi nƣớc vào một nền kinh tế thế giới chung; các tổ

chức sản xuất, kinh doanh đều buộc phải biến đổi để gia tăng khả năng sáng tạo, đổi

mới và thích nghi liên tục trong một môi trƣờng luôn thay đổi với tốc độ ngày càng

nhanh...Tuy không bàn trực diện về vấn đề lao động, việc làm song các kết quả

nghiên cứu nhƣ vậy là cơ sở để hiểu rõ hơn vấn đề GQVL trong bối cảnh mới.

Chẳng hạn, trong tác phẩm “ Xã hội hậu tƣ bản”, NXB Viện quản lý kinh tế

trung ƣơng, HN 1995), Peter F. Drucker – nhà kinh tế học ngƣời Mỹ ( gốc Áo) đã

phân tích mối quan hệ giữa tri thức và năng suất lao động. Ông cho rằng: năng suất

lao động chỉ có thể tăng lên nhờ tri thức và tổ chức lao động. Cả máy móc và vốn đều

không làm đƣợc điều đó. Bởi vậy, cần “xác định trọng tâm của công việc và nhiệm

vụ là điều kiện tiên quyết cuối cùng để tạo ra hiệu quả sản xuất trong lao động trí óc”.

Trong nền kinh tế tri thức, nhà nƣớc phải đóng vai trò nhƣ ngƣời “ nhạc trƣởng”

trong quá trình GQVL cho ngƣời lao động, làm cho mọi ngƣời đều trở thành “ngƣời

có đóng góp cho xã hội”. Toffler lại cho rằng trong nền kinh tế mới thuộc “làn sóng

thứ ba”, sẽ xuất hiện những ngƣời “tiêu sản” mới, có thể tạo ra những hàng hóa, dịch

vụ cho ngƣời khác hoặc chỉ phục vụ bản thân dựa trên việc mua bán các nguyên liệu

hay linh kiện đầu vào và sự chỉ dẫn cách làm hiệu quả trên internet. Với điều kiện kết

nối internet, nhiều ngƣời có thể làm việc bán thời gian hay toàn thời gian ở nhà hoặc

với tƣ cách độc lập hoặc với tƣ cách là một thành viên của một công ty hay tổ chức.

Những điều này làm cho quá trình tổ chức công việc cũng nhƣ quan niệm về việc

làm, thất nghiệp dƣờng nhƣ không giữ nguyên nhƣ trƣớc.

Cũng theo mạch tƣ tƣởng nhƣ vậy, ngƣời ta bắt đầu chú ý hơn đến tính nhân

văn và giá trị xã hội của việc làm. Nếu thông thƣờng, việc làm đƣợc hiểu là những

công việc hợp pháp có thể mang lại thu nhập cho lao động, thì từ năm 1999, Tổ chức

lao động quốc tế ILO bắt đầu đƣa ra khái niệm “việc làm bền vững” (hay “việc làm

tử tế” - Decent Works) và khuyến cáo các quốc gia cần theo đuổi mục tiêu này nhƣ

15

một sự thích ứng với bối cảnh mới của nền kinh tế thế giới. Theo tài liệu hội thảo

năm 2008 về “Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia về việc làm và Chiến lƣợc phát triển

việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”, việc làm bền vững theo quan niệm

của ILO là việc làm trong đó ngƣời lao động có cơ hội tiếp cận công bằng đối với

công việc; họ đƣợc làm việc trong điều kiện tự do, có năng suất và hiệu quả, đƣợc đối

xử bình đẳng trong công việc, đƣợc bảo đảm an toàn và tôn trọng nhân phẩm ở nơi

làm việc. Gần đây, gắn liền với việc phổ biến hóa quan điểm “phát triển bền vững”,

“phát triển xanh”, Liên hiệp quốc và ILO cũng khuyến cáo các nƣớc tạo ra nhiều

“việc làm xanh” nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của doanh nghiệp và các ngành

kinh tế đến môi trƣờng sinh thái, nhằm đạt đến tính bền vững của các quá trình phát

triển. Những ý tƣởng và quan niệm nhƣ vậy, tuy không đƣa ra một mô hình lý thuyết

mới cắt nghĩa quá trình nền kinh tế tạo ra việc làm nhƣ thế nào song chúng lại chỉ ra

những yêu cầu mới trong lĩnh vực GQVL phù hợp với chuẩn mực và giá trị của nền

kinh tế mới.

Nhƣ ta đã biết KTTT về bản chất là nền kinh tế mang tính chất toàn cầu. Vì

thế việc GQVL ở một quốc gia không thể tách rời khỏi quá trình toàn cầu hóa. Trong

bài báo “The New Economics of Labor Migration” (“Kinh tế học mới về di chuyển

lao động quốc tế), Oded Stark và David Bloom, trong khi tập trung vào việc nghiên

cứu phúc lợi kinh tế của hộ gia đình chứ không phải của cá nhân, đã cho rằng di

chuyển lao động quốc tế đang trở thành một chiến lƣợc điển hình để giúp ngƣời lao

động tối thiểu hóa rủi ro và vƣợt qua khó khăn về nguồn vốn tạo ra nguồn thu nhập

cho gia đình.

Nhà kinh tế học Michael Piore cũng đƣa ra quan điểm tƣơng tự về việc GQVL

cho ngƣời lao động trong bối cảnh toàn cầu hóa. Theo ông di chuyển lao động quốc

tế là một trong những giải pháp quan trọng để GQVL đối với các nƣớc đang phát

triển. Ông cho rằng: “di chuyển lao động đặt trên góc độ nhu cầu quốc gia”, di

chuyển lao động từ các nƣớc đang phát triển sang các nƣớc phát triển không phải do

việc tìm kiếm cơ hội mới của những ngƣời lao động mà là do nhu cầu lao động ở các

nƣớc phát triển đối với lao động có tiền lƣơng thấp. Chính sách tuyển dụng lao động

của các nƣớc tiếp nhận lao động là cơ sở hình thành sự di chuyển lao động từ các

nƣớc dang phát triển tới các nƣớc phát triển và đây cũng chính là cơ hội để GQVL

16

cho các nƣớc đang phát triển.

Vấn đề GQVL trong bối cảnh KTTT luôn gắn chặt với việc phát triển và

nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực. Trên thế giới, các công trình nghiên cứu ban

đầu về NNL và vốn nhân lực do các nhà lý thuyết nhƣ Milton Freidman, Simon

Kuznet, Gary Becker thực hiện, và đƣợc tiếp nối bởi một loạt nhà khoa học nhƣ:

L.Nadler và Z.Nadler (1990), M.Marquardt và D.Engel (1993), D.Beg, S.Fisher và

R.Donbush (1992), Nicholas Henry (1996), Stivastata (1997), George T.Milkovich

và John W.Boudreau (2000). Các nghiên cứu của họ đã đƣa ra định nghĩa về NNL

một cách khái quát nhất: NNL là tổng thể các yếu tố vật chất và tinh thần của ngƣời

lao động tạo nên khả năng làm việc của họ và từ đó tham gia các hoạt động phục vụ

cho tổ chức nói riêng và cho xã hội nói chung. Ngoài ra, các tác giả đã có những

đóng góp quan trọng về mặt lý luận và phƣơng pháp luận về phát triển NNL. Các

công trình này lý giải mối quan hệ giữa phát triển NNL với giáo dục, đào tạo và

chăm sóc sức khỏe, dinh dƣỡng cũng nhƣ vai trò quyết định của phát triển NNL đối

với tăng trƣởng và phát triển kinh tế. Lester C.Thurow (2003) trong “ Làm giàu

trong nền kinh tế tri thức” vàEdgar Morin (2008) trong “ Bảy tri thức tất yếu cho

nền giáo dục tƣơng lai” cũng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của giáo dục. Ở những tác

phẩm này, tự giáo dục và vấn đề học tập suốt đời đƣợc xem nhƣ một phƣơng thức

hữu hiệu nhất để ngƣời lao động thích ứng với yêu cầu của thời đại mới.

1.2. Khái quát tình hình nghiên cứu trong nƣớc

GQVL ở Việt Nam thực chất luôn gắn với quá trình CNH, HĐH và chủ đề này

thu hút đƣợc sự quan tâm, nghiên cứu củanhiều học giả dƣới các góc độ khác nhau.

1.2.1. Về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung ở Việt Nam

Các công trình nghiên cứu trong nƣớc thƣờng gắn trực diện với thực tiễn vấn

đề việc làm ở Việt Nam. Chẳng hạn, trong công trình"Về chính sách giải quyết việc

làm ở Việt Nam” của TS Nguyễn Hữu Dũng và các cộng sự (1997) đã đề cập đến

chính sách giải quyết việc làm của nƣớc ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất

nƣớc. Về mặt lý luận nghiên cứu đã nêu khá chi tiết về phƣơng pháp luận, cách tiếp

cận về chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao động - việc làm và phƣơng

pháp tính cũng nhƣ sự hoạt động của thị trƣờng lao động. Về mặt thực tiễn các tác

17

giả đã phân tích đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở nƣớc ta nói chung, trong

nông nghiệp, nông thôn nói riêng và những nguyên nhân chủ yếu; khái quát dòng di

chuyển lao động trên thị trƣờng lao động, nhất là di chuyển từ nông thôn ra thành

thị tìm việc làm. Trên cơ sở đó đƣa ra hệ thống quan điểm GQVL trong quá trình

đẩy mạnh CNH - HĐH ở nƣớc ta. Giải pháp cơ bản cho khu vực nông thôn đó là

giải quyết nạn thiếu việc làm còn rất phổ biến và nghiêm trọng, việc làm kém hiệu

quả và thu nhập thấp thông qua chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao

động theo hƣớng CNH - HĐH. Công trình: “Chính sách việc làm – thực trạng và

giải pháp” (2013) của viện nghiên cứu lập pháp - Ủy Ban thƣờng vụ quốc hội, đã

phân tích hệ thống chính sách việc làm ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Công trình

đã đánh giá những thành tựu, hạn chế của hệ thống chính sách giải quyết việc làm ở

Việt Nam sau thời ký đổi mới. Công trình này cũng phân tích nguyên nhân và đề

xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách GQVL ở Việt Nam từ 2013 đến năm 2020

tầm nhìn 2025 nhằm giải quyết một cách hiệu quả nhất việc làm cho ngƣời lao

động. TS Nguyễn Tiệp trong một số bài báo nhƣ "Tạo việc làm ở nƣớc ta – Từ

chính sách đến thực tiễn", tạp chí Tạp chí Kinh tế và Phát triển; "Phát triển doanh

nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: Các giải pháp tạo thêm việc làm", tạp chí Lao động

và công đoàn; - "Một số giải pháp tạo việc làm gắn với giải quyết các vấn đề xã hội

tại Hà Nội", tạp chí Lao động – Xã hội, cũng nhấn mạnh đến một số vấn đề xã hội

nảy sinh trong quá trình CNH, HĐH nhƣ thất nghiệp, nghèo đói…và đề xuất một số

giải pháp cụ thể, trong đó ông đánh giá cao vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ

trong việc GQVL cho ngƣời lao động ở Việt Nam.

CNH, HĐH luôn gắn với quá trình đô thị hóa, và trong quá trình này, việc

GQVL cho những ngƣời nông dân bị thu hồi đấtlà một đòi hỏi thực tế nổi bật, đƣợc

đề cập đến trong khá nhiều công trình nghiên cứu.Trong tác phẩm "Thu nhập, đời

sống, việc làm của ngƣời có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô

thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc

gia" của Lê Du Phong và các cộng sự (2007) cũng nhƣ trong đề tài KX.01 -2005

“Việc làm và thu nhập cho lao động bị thu hồi đất trong quá trình CNH-HĐH và đô

thị hoá” do Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân thực hiện, các tác giả đã chỉ rõ sự cần

thiết phải thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình CNH - HĐH và đô thị hoá, cũng

18

nhƣ những hệ lụy phát sinh từ quá trình này. Những dữ liệu của các nghiên cứu này

cho thấy việc xử lý các vấn đề thu nhập, đời sống, việc làm của những ngƣời có đất

bị thu hồi là không đơn giản và nó đòi hỏi nhà nƣớc phải áp dụng một hệ thống

chính sách đồng bộ nhƣ: Chính sách đền bù, bồi thƣờng thiệt hại; Chính sách tạo

việc làm; Chính sách tái định cƣ; Chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của các

đơn vị đƣợc nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển các khu công

nghiệp, khu đô thị và các chính sách xã hội liên quan để đảm bảo việc làm và thu

nhập cho đối tƣợng bị thu hồi đất.

Chủ đề này cũng đƣợc khảo cứu trong các công trình của các tác giả nhƣ

Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng và các cộng sự (2010) - "GQVL cho lao động

nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa»; Trần Thị Minh Ngọc & các cộng sự

(2010) - ("Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010"; Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa

và các cộng sự (2009) - "Hậu giải phóng mặt bằng ở Hà Nội – vấn đề và giải

pháp"với dữ liệu thực tế của một số vùng hay địa phƣơng cụ thể nhƣ Vùng Đồng

bằng Sông Hồng, Hải Dƣơng hay ngoại thành Hà Nội.

Cũng theo hƣớng nghiên cứu trên, Báo cáo của Liên hiệp các Hội Khoa học

và Kỹ thuật Việt Nam "Đánh giá thực trạng lao động việc làm ở các khu vực bị thu

hồi đất nông nghiệp và hiệu quả của các chính sách hỗ trợ nhóm nông dân mất đất"

(năm 2012), thông qua ba địa bàn đƣợc lựa chọn nghiên cứu là Hải Dƣơng, Nam

Định và Nghệ An, đã đi sâu phân tích các vấn đề về đời sống, việc làm cũng nhƣ

hiệu quả của các chính sách hỗ trợ dành cho nhóm nông dân mất đất. Theo đó, Báo

cáo chỉ ra các khó khăn của ngƣời dân thuộc diện thu hồi đất trong việc tìm kiếm,

chuyển đổi việc làm, phân tích các tác động khác của quá trình thu hồi đất đến điều

kiện kinh tế - xã hội của địa phƣơng cũng nhƣ xu hƣớng chuyển dịch trong cơ cấu

việc làm và thu nhập của các hộ gia đình. Báo cáo cho thấy những khó khăn về việc

làm, thu nhập thƣờng trực cộng với sự gia tăng của các loại hình tệ nạn xã hội cùng

sự ô nhiễm môi trƣờng làm cho nhiều ngƣời dân cảm thấy băn khăn với các quyết

định chuyển đổi mục đích sử dụng đất hiện nay.

Một số công trìnhcó xu hƣớng phân tích chuyên sâu về một số vấn đề phát

sinh từ quá trình thu hồi đất phục vụ mục tiêu CNH, HĐH nhƣ vấn đề sinh kế của

19

ngƣời nông dân, các mô hình thực tiễn về GQVL...Chẳng hạn, Báo cáo"Tác động

của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sinh kế nông dân Việt Nam: trường hợp một

làng ven đô Hà Nội"của TS. Nguyễn Văn Sửu đã tập trung phân tích vềtác động của

việc thu hồi đất nông nghiệp đến sinh kế của ngƣời nông dân thông qua dữ liệu của

một trƣờng hợp điển hình tại một làng ven đô Hà Nội. Bên cạnhxác nhận những đổi

thay tích cực trong thu nhập, cơ cấu ngành nghề của nhiều hộ gia đình, nghiên cứu

này cũng chỉ ra chiều hƣớng của sự chuyển dịch không đáp ứng đƣợc sự kỳ vọng

của các cơ quan quản lý cũng nhƣ các hộ gia đình. Những giảm sút thấy rõ của thu

nhập từ ngành nông nghiệp, và nhiều hƣớng sinh kế mới chuyển đổi lại thiếu bền

vững là những hệ quả đƣợc nhận diện rõ rệt nhất. Thêm vào đó, những hệ quả xã

hội khác từ việc thu hồi đất nông nghiệp của các hộ gia đình cũng diễn ra khá phức

tạp nhƣ sự bất ổn, rủi ro và bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo… gia tăng. Đề án:

"Một số giải pháp hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm cho

các hộ vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp" cũng đƣa ra nhiều phân

tích, đánh giá về quá trình triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ ngƣời dân bị

thu hồi đất ở Hà Nội, để đề xuất một số giải pháp cụ thể từ hỗ trợ về cơ sở vật chất

kỹ thuật, tái định cƣ đến đào tạo nghề cho ngƣời lao động về đào tạo nghề cho

nhóm đối tƣợng này.

1.2.2. Về vấn đề việc làm, giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

1.2.2.1. Vấn đề kinh tế tri thức và tác động của kinh tế tri thức

Các học giả Việt Nam cũng rất quan tâm đến vấn đề KTTT và tác động của

KTTT đến các tiến trình kinh tế xã hội ở Việt Nam. Ở đây chỉ nêu một số nghiên

cứu tiêu biểu:

Cuốn sách của Lƣu Ngọc Trịnh “ Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở

một số nước trên thế giới hiện nay” đã hệ thống hóa lại một số cách hiểu khác nhau

về nền KTTT, phân tích những đặc trƣng cơ bản, mô tả chi tiết thực tế và thực trạng

của các quốc gia (các nƣớc phát triển điển hình nhƣ Mỹ, EU, Nhật Bản, hay các

nƣớc Châu Á nhƣ Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore và

Malaysia..) trong việc xây dựng nền KTTT. Trên cơ sở khảo cứu quá trình chuyển

đổi từ kinh tế công nghiệp sang KTTT, tác giả đã chỉ ra những chiến lƣợc, chính

20

sách khác nhau mà các nƣớc triển khai nhằm tiến vào nền KTTT. Cuốn sách cho

rằng, đối với các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam, với xuất phát điểm thấp, nền

kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, thì tiếp cận nền KTTT là cơ hội tốt, không thể

bỏ qua để đuổi kịp các nƣớc phát triển.

Trong cuốn “ Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở Việt Nam”, GS. Nguyễn Kế Tuấn đã hệ thống hóa lý luận về KTTT,

làm rõ sự cần thiết và khả năng phát triển KTTT để đẩy nhanh quá trình CNH,

HĐH ở nƣớc ta. Phác họa khái quát mô hình chiến lƣợc CNH, HĐH trong điều kiện

từng bƣớc phát triển KTTT, Tác giả cũng khẳng định trong tiến trình CNH, HĐH

các nƣớc đi sau vừa phải có bƣớc đi “ nhảy vọt”, vừa có bƣớc đi tuần tự đồng thời

lựa chọn những lĩnh vực hợp lý để áp dụng trong mỗi bƣớc đi và kết hợp chúng một

cách tối ƣu. Trong cuốn sách tác giả cũng đã nêu lên những điều kiện cơ bản nhằm

từng bƣớc phát triển KTTT ở Việt Nam nhƣ phát triển nguồn nhân lực, khoa học và

công nghệ, định hƣớng đầu tƣ, huy động nguồn lực tài chính và mở rộng quan hệ

quốc tế.

Trong các cuốn sách của mình (và các cộng sự khác) (nhƣ“Kinh tế tri thức thời

cơ và thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam”, “Phát triển kinh tế tri thức gắn

với quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam”), GS.TS Đặng Hữu đã tập trung nghiên cứu là

rõ khái niệm, đặc trƣng, lịch sử hình thành và phát triển KTTT; kinh nghiệm phát triển

KTTT của một số nƣớc để đƣa ra gợi ý về định hƣớng và các giải pháp phát triển

KTTT ở Việt Nam. Ông khẳng định CHN, HĐH ở Việt Nam phải gắn với phát triển

KTTT. Quá trình CNH phải là quá trình phát triển phải là quá trình phát triển một cách

hài hòa kinh tế với văn hóa, xã hội, lấy con ngƣời làm trung tâm...Đó phải là quá trình

CNH, HĐH nhân văn đồng thời gìn giữ đƣợc tài nguyên thiên nhiên và môi trƣờng

sinh thái. Ông cũng đề xuất mô hình CNH hai tốc độ với sự kết hợp giữa kiểu phát

triển “tuần tự” lẫn “nhảy vọt” do các cơ hội mới mà KTTT tạo ra.

Đề tài trọng điểm đại học quốc gia do PGS.TS Phí Mạnh Hồng làm chủ

nhiệm “Một số vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức- cơ hội và thách thức đặt ra cho

Việt Nam” cũng nhƣ cuốn sách “Vai trò của nhà nước trong thời đại kinh tế tri

thức” của ông cũng là những công trình nghiên cứukhá chuyên sâu về KTTT. Tác

giả có những kiến giải riêng về KTTT nhƣ một thời đại kinh tế hoàn toàn khác với

21

các thời đại trƣớc đó dựa trên sự phân tích về vai trò, vị trí của các nguồn lực trong

hàm sản xuất xã hội. Tác giả chứng minh rằng, KTTT tạo ra những biến đổi sâu sắc

và toàn diện trong mọi mặt đời sống kinh tế- xã hội, trong đó có cả lĩnh vực lao

động, việc làm, thậm chí kể cả ở những nƣớc đi sau. Ngoài ra, tác giả còn nhấn

mạnh đến bản chất toàn cầu hóa của KTTT và cho rằng đây là yếu tố khiến các nền

kinh tế đang phát triển bị chi phối sâu sắc bởi các tiến trình chung của nền kinh tế

thế giới, tạo ra những cơ hội lẫn thách thức hoàn toàn mới đối với các nƣớc này.

Bởi vậy, việc tƣ duy và định vị lại vai trò của Nhà nƣớc là cơ sở nhằm đổi mới và

phát huy có hiệu quả vai trò của Nhà nƣớc Việt Nam trong thời đại KTTT.

- Luận án tiến sĩ kinh tế của Vƣơng Phƣơng Hoa “Công nghiệp hóa, hiện đại

hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng”, đã nghiên cứu quá

trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT trong phạm vi một thành phố: thành phố

Đà Nẵng – một trong năm thành phố trực thuộc Trung ƣơng và đƣợc coi là “ thành

phố đáng sống” nhất ở Việt Nam hiện nay. Luận án đã xác định nội dung CNH,

HĐH gắn với phát triển KTTT, đi sâu phân tích và đánh giá thực trạng CNH, HĐH

gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng. Luận án cũng đề xuất những giải

pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT phấn

đấu sớm đƣa Đà Nẵng trở thành thành phố công nghiệp theo hƣớng hiện đại

1.2.2.2 Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong

bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Những nghiên cứu trực diện về vấn đề việc làm và GQVL ở Việt Nam (đang

trong quá trình CNH, HĐH) trong bối cảnh KTTT không nhiều và thƣờng không

mang tính chất chuyên sâu. Ở đây, các tác giả thƣờng đi sâu vào vấn đề phát triển

nguồn nhân lực nhƣ là một kênh để thúc đẩy CNH, HĐH trong bối cảnh KTTT.

Trong lĩnh vực này, có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu sau:

- Bài báo “ Ảnh hưởng của kinh tế tri thức đối với vấn đề giải quyết việc làm

ở Việt Nam” của GS.TS Đỗ Thế Tùng. Trong bài viết này, tác giả đã dự đoán xu

hƣớng tác động của cách mạng khoa học công nghệ đến cơ cấu lao động xã hội theo

những hƣớng nhƣ: Nguồn lực con ngƣời có tri thức đóng vai trò trung tâm của sự

phát triển; tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm đến mức rất nhỏ, tỷ trọng lao động

công nghiệp ngày một tăng. Số công nhân cổ trắng và cổ vàng không ngừng tăng

22

lên, số công nhân cổ xanh và công nhân tạp vụ không ngừng giảm xuống; Các

ngành công nghệ cao đòi hỏi lực lƣợng lao động trí óc và sáng tạo là yếu tố then

chốt của quá trình hiện đại hóa. Bài viết cũng nêu ra các giải pháp để giải quyết việc

làm ở Việt Nam trong thời gian tới theo ba hƣớng là: Phải đẩy mạnh giáo dục đào

tạo; chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ; có phƣơng sách

thích hợp để tuyển chọn đúng nhân tài và đào tạo công nhân cổ trắng.

- Tác giả Đặng Hữu (2005) trong bài viết “ Đào tạo nguồn nhân lực cho sự

nghiệp CNH,HĐH dựa trên tri thức ở nƣớc ta” cho rằng: “ Giáo dục góp phần tạo ra tri

thức đồng thời góp phần quảng bá tri thức”. Vì vậy, chúng ta cần phải coi gióa dục là

ngành sản xuất cơ bản nhất trong nền kinh tế tri thức. Từ đó tác giả khẳng đinh: “Nền

giáo dục nƣớc ta phải thực sự đổi mới để đảm bảo đào tạo đƣợc một thế hệ trẻ có đủ

năng lực làm chủ đất nƣớc” và phải chuyển sang mô hình học tập suốt đời.

GS.TS. Bùi Văn Nhơn (2006) trong tác phẩm “ Quản lý và phát triển nguồn

nhân lực xã hội” quan niệm: để đáp ứng đƣợc yêu cầu về phát triển NNL trong sự

nghiệp CNH,HĐH đất nƣớc thì NNL phải bảo đảm đƣợc ba nội dung là: thể lực, trí

lực và phẩm chất tâm lý xã hội. Cụ thể: về mặt thể lực, ngƣời lao động phải có sức

khỏe nhƣ: có sức chịu đựng dẻo dai; có các thông số nhân chủng học tậpđáp ứng

đƣợc các hệ thống thiết bị công nghệ phổ biến; luôn luôn tỉnh táo, sảng khoái tinh

thần. Về mặt trí lực, ngƣời lao động cần có chuyên môn kỹ thuật cao; công nhân kỹ

thuật đƣợc đào tạo kỹ lƣỡng, có chất lƣợng có tay nghề cao; các nhà huấn luyện có

chất lƣợng cao; nâng cao ý thức công dân, có lòng yêu nƣớc và có phong cách làm

việc công nghiệp. Về phẩm chất tâm lý của ngƣời lao động đòi hỏi ngƣời lao động

phải có những phẩm chất tâm lý xã hội cơ bản sau: có tác phong công nghiệp; có ý

thức tổ chức kỷ luật cao; có niềm say mê nghề nhiệp chuyên môn; sáng tạo, năng

động trong công việc; có khả năng chuyển đổi công việc cao thích ứng với những

thay đổi trong lĩnh vực công nghệ và quản lý.

Luận án tiến sĩ kinh tế của Lê Thị Hồng Điệp “ Phát triển nguồn nhân lực

chất lƣợng cao để hình thành nền kinh tế tri thức” cũng là một công trình luận bàn

về nguồn nhân lực chất lƣợng cao gắn với bối cảnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế

quốc tế của Việt Nam. Luận án tập trung nghiên cứu sự tác động trực tiếp của quá

trình đào tạo ở bậc đại học đến sự hình thành nguồn nhân lực chất lƣợng cao và việc

23

sử dụng nguồn nhân lực chất lƣợng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt

Nam từ năm 2001 đến năm 2010. Luận án cũng đề xuất một số quan điểm và giải

pháp phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở

Việt Nam trong đó tham khảo kinh nghiệm thành công của Hoa Kỳ và Singgapore..

Tác giả Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hòa (2008), với tác phẩm “Giáo dục và đào

tạo – Chìa khóa của sự phát triển” đã nhấn mạnh vai trò của giáo dục đối với phát

triển con ngƣời và tầm quan trọng của cải cách giáo dục, đào tạo để phát triển nhân

lực thích ứng với sự phát triển của Việt Nam trong bối cảnh mới: công nghiệp hóa,

hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.

1.3. Nhận xét rút ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu

GQVL cho ngƣời lao động là một đề tài thu hút sự quan tâm của rất nhiều học

giả nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay,

quá trình CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT diễn ra mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên

thế giới thì càng nảy sinh nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Đây là một vấn đề rộng lớn,

phức tạp đòi hỏi phải sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi

nghiên cứu riêng về GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển

KTTT thì số lƣợng những nghiên cứu trực tiếp còn khá hạn hẹp. Vấn đề này đƣợc lồng

ghép các vấn đề nghiên cứu lớn hơn ở trong và ngoài nƣớc. Có thể nhận xét chung về

tình hình nghiên cứu nhƣ sau:

1.3.1. Những kết quả chủ yếu của các công trình nghiên cứu đã công bố

Các kết quả đạt đƣợc từ những công trình nghiên cứu đã công bố trong lĩnh

vực liên quan đến vấn đề việc làm và GQVL là rất to lớn. Có thể tóm lƣợc thành

một số điểm sau:

Thứ nhất, các nhà kinh tế đã chỉ rõ lao động là một nguồn lực quan trọng

trong nền sản xuất của thế giới nói chung và các quốc gia nói riêng. GQVL là vấn

đề đặc biệt quan trọng cả về mặt kinh tế lẫn xã hội ở tầm quốc gia nói chung cũng

nhƣ đối với cá nhân ngƣời lao động nói riêng.

Thứ hai, vấn đề tạo lập việc làm và GQVL luôn gắn với sự vận hành của thị

trƣờng lao động. Những lý thuyết kinh tế đã cung cấp những hiểu biết sâu sắc về

cung, cầu trên thị trƣờng lao động trong sự tƣơng tác của nó với các thị trƣờng khác

trong bối cảnh kinh tế vĩ mô chung. Những hiểu biết này là nền tảng quan trọng để

24

các chính phủ triển khai và thực thi các chính sách GQVL trong điều kiện nền kinh

tế thị trƣờng.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: ở các nƣớc đang phát

triển, đang trong quá trình CNH, HĐH, thông thƣờng các thể chế thị trƣờng, trong

đó có thị trƣờng lao động chƣa phát triển. Vấn đề GQVL ở các nƣớc này thƣờng đi

đôi với việc thúc đẩy các ngành công nghiệp và khu vực dịch vụ hiện đại phát triển,

hoàn thiện các thể chế thị trƣờng, duy trì đƣợc quá trình tăng trƣởng kinh tế nhanh

trong một thời gian dài. Những nƣớc thành công trong lĩnh vực này chính là những

nƣớc theo đuổi mô hình CNH có tính hội nhập quốc tế cao, chú trọng thúc đẩy nhu

cầu về lao động (dựa trên các chính sách thúc đẩy tăng trƣởng) cũng nhƣ nâng cấp

nhanh chất lƣợng nguồn cung về lao động.

Thứ tƣ, các nhà kinh tế cũng ngày càng chú ý đến xu hƣớng hình thành và

phát triển của kinh tế tri thức, coi đó là bối cảnh mới tác động sâu, rộng đến mọi

mặt của đời sống kinh tế- xã hội loài ngƣời nói chung, trong đó có cả lĩnh vực lao

động, việc làm. Các xu hƣớng chuyển dịch việc làm đang trở nên khác trƣớc, trong

đó nhiều ngành mới sẽ liên tục xuất hiện, đồng thời, nhiều ngành nghề cũ, truyền

thống nếu không thích ứng đƣợc với hoàn cảnh mới sẽ biến mất. Bên cạnh đó, sự

chuyển việc làm sẽ ngày càng mở rộng trên phạm vi toàn cầu, tạo ra những yêu cầu

và thách thức mới trong lĩnh vực GQVL ở mọi quốc gia, trong đó có cả các nƣớc

đang phát triển nhƣ Việt Nam.

Thứ năm, các công trình nghiên cứu về Việt Nam đã cung cấp một bức tranh toàn

cảnh về thực trạng GQVL ở Việt Nam trong thời gian qua trên nhiều khía cạnh: GQVL

cho nông dân, GQVL cho thanh niên...Các nghiên cứu cũng đã đƣa ra nhiều khuyến

nghị, giải pháp có cơ sở nhằm GQVL cho ngƣời lao động trong quá trình CNH, HĐH

đất nƣớc. Đây là những kết quả nghiên cứu quan trọng mà luận án sẽ kế thừa.

Tóm lại, những thành quả nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc đã cung cấp

cho nghiên cứu sinh những nền tảng lý luận và thực tiễn quan trọngđể nghiên cứu

vấn đề GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT..

1.3.2. Những "khoảng trống" và một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Các công trình nghiên cứu đã công bố cho thấy: mặc dù các nhà nghiên cứu

đã đạt đƣợc những thành quả to lớn trong việc hình thành các tri thức về lĩnh vực

25

lao động, việc làm cũng nhƣ các chính sách GQVL trong một nền kinh tế hiện đại

song ở đây, vẫn có những “khoảng trống” cần đƣợc tiếp tục bổ khuyết.

Thứ nhất, do xu hƣớng phát triển KTTT chỉ mới hình thành trong nền kinh tế

thế giớitrong một vài thập kỷ gần đây nên những hiểu biết chung về nó vẫn chƣa

đầy đủ. Nhiều sự kiện mới xuất hiện trong thực tiễn vẫn đang thách thức các nguyên

lý của các khoa học kinh tế truyền thống (chẳng hạn kinh tế học truyền thống vẫn

dựa trên giả định về tính khan hiếm nguồn lực hay quy luật hiệu suất giảm dần

trong khi trong nền KTTT, ngƣời ta bắt đầu nhận thấy hiện tƣợng đối nghịch xuất

hiện: tính “dƣ thừa” của nguồn lực tri thức, quy luật hiệu suất tăng dần...). Vả lại,

những biến đổi của các sự kiện thực tiễn lại diễn ra với một tốc độ ngày càng nhanh.

Điều đó cho thấy việc hình thành một môn kinh tế học của nền KTTT tƣơng tự nhƣ

kinh tế học thị trƣờng hiện nay vẫn là vấn đề của tƣơng lai. Trong điều kiện đó vẫn

cần có những công trình nghiên cứu về KTTT cũng nhƣ tác động của nó đối với các

mặt khác nhau của đời sống kinh tế, trong đó bao gồm cả vấn đề lao động, việc làm.

Thứ hai, mối tƣơng quan giữa CNH, HĐH và phát triển KTTT tuy hay đƣợc

nhắc đến song chƣa thật sự đƣợc quan tâm nghiên cứu, đặc biệt ở Việt Nam. Ở đây,

phát triển KTTT không đơn giản là việc khuyến khích hay thúc đẩy việc phát triển

của khoa học, công nghệ, nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo..., mà luôn ngầm

chứa những biến đổi về mặt cấu trúc thể chế kinh tế- xã hội nhằm tạo ra môi trƣờng

để quá trình sáng tạo, phổ biến, ứng dụng tri thức trở thành tự nhiên. Trong điều

kiện đó, đồng thời gắn với tác động của quá trình toàn cầu hóa, tiến trình CNH,

HĐH ở các nƣớc đang phát triển sẽ diễn ra với những nội dung, cách thức khác

trƣớc. Đây cũng là lĩnh vực cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu làm rõ.

Thứ ba, mặc dù vấn đề GQVL trong điều kiện CNH, HĐH đã đƣợc đề cập

nhiều trong các công trình nghiên cứu ngay cả ở Việt Nam song nhƣ lô gic tiếp nối

ở nhận xét trên, những khía cạnh liên quan đến vấn đề GQVL trong điều kiện CNH,

HĐH gắn với bối cảnh KTTT về cơ bản vẫn là một vấn đề đƣợc “bỏ ngỏ” trong các

công trình nghiên cứu. Những nghiên cứu ban đầu về một số khía cạnh nào đó có

liên quan cần đƣợc tiếp tục mở rộng nhằm làm sáng tỏ hơn đặc điểm, nội dung của

quá trình CNH, HĐH trong điều kiện thời đại KTTT cũng nhƣ tác động của chúng

đối với lĩnh vực GQVL cũng nhƣ việc thiết kế các chính sách GQVL tƣơng ứng.

26

Những “khoảng trống” lý luận và thực tiễn nhƣ vậy đòi hỏi cần có nhiều

công trình nghiên cứu tiếp theo. Luận án này cố gắng góp một phần nhỏ vào việc

lấp đầy dần “khoảng trống” nghiên cứu đó.

Kết luận chƣơng 1

Chƣơng 1 đã phân tích và tổng kết những nghiên cứu trong và ngoài nƣớc có

liên quan đến đề tài luận án. Những vấn đề đƣợc nghiên cứu có thể đƣợc kết luận

nhƣ sau:

Thứ nhất: Việc làm và GQVL thu hút đƣợc sự quan tâm nghiên cứu của rất

nhiều nhà kinh tế học trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên vẫn còn thiếu các nghiên cứu

chuyên sâu về vấn đề việc làm và GQVL trong bối cảnh của kỷ nguyên KTTT.

Thứ hai: Các công trình nghiên cứu về GQVL ở Việt Nam đang tập trung

vào vấn đề: GQVL cho từng đối tƣợng nhƣ nông dân bị thu hồi đất, cho thanh

niên... hoặc GQVL cho từng địa phƣơng với những đặc điểm kinh tế - xã hội riêng

biệt. Vấn đề GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT

còn đang bỏ ngỏ.

Nhƣ vậy, từ những “ khoảng trống” nghiên cứu, tác giả luận án có thể xác

định đƣợc hƣớng nghiên cứu để bổ sung vào những thiếu sót vẫn còn tồn tại hiện

nay. Luận án đi sâu tìm hiểu quá trình GQVL ở Việt Nam trong bối cảnh

CNH,HDH gắn với phát triển KTTT góp phần xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn

để đề xuất các giải pháp có tính khả thi cho quá trình GQVL ở Việt Nam trong bối

cảnh CNH,HDH gắn với phát triển KTTT.

27

Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN

ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

2.1. Việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh chung của nền kinh

tế thị trƣờng

2.1.1. Một số khái niệm cơ bản

2.1.1.1. Việc làm

Hiện nay, có những cách định nghĩa khác nhau về việc làm.

Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao động

đƣợc trả công bằng tiền và bằng hiện vật.

Ở Việt Nam trƣớc đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao

cấp, ngƣời lao động chỉ đƣợc coi là có việc làm khi đƣợc hoạt động trong thành

phần kinh tế XHCN ( quốc doanh, tập thể), nhất là đƣợc vào biên chế nhà nƣớc.

Trong cơ chế đó xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế khác,

đồng thời cũng không thừa nhận hiện tƣợng thiếu việc làm, thất nghiệp…Nhƣng

chuyển sang kinh tế thị trƣờng quan niệm này đã đƣợc thay đổi một cách căn bản:

Việc làm giờ đây đƣợc xem là mọi hoạt động của con ngƣời nhằm tạo ra thu nhập

mà không bị luật pháp cấm.

Quan niệm này đã cho thấy nội dung của việc làm đƣợc mở rộng và tạo ra

khả năng to lớn cho việc giải phóng tiềm năng lao động, GQVL cho nhiều ngƣời.

- Việc làm đƣợc đƣợc tạo ra trong tất cả các thành phần kinh tế.

- Ngƣời lao động đƣợc tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, tự do thuê

mƣớn lao động theo luật pháp và sự hƣớng dẫn của Nhà nƣớc đƣợc tự tạo việc làm

cho mình và thu hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao động trên

thị trƣờng lao động.

Chính từ quan niệm trên về việc làm trong cơ chế thị trƣờng, trong Điều 13,

Chƣơng II Bộ luật Lao động nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ:

“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều

đƣợc thừa nhận là việc làm”. Năm 2012, Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật Lao động thay thế cho Luật Lao động trƣớc đó.

28

Trong Luật Lao động, điều 9, khoản 1 chỉ rõ: “Việc làm là hoạt động tạo ra thu

nhập mà không bị pháp luật cấm”.[7, tr23]

Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm thỏa mãn hai điều kiện:

Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho ngƣời lao động và

các thành viên trong gia đình, đáp ứng một yêu cầu nào đó của xã hội.

Hai là, ngƣời lao động đƣợc tự do hành nghề, hoạt động đó không bị luật

pháp cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.

Ngoài ra, ngƣời ta còn chia việc làm thành những phạm trù xã hội – nghề

nghiệp khác nhau, từ đó có sự phân biệt các loại nghề nghiệp của lao động khác nhau.

+ Việc làm chính thức: là công việc chính mang lại thu nhập chính (đối với

những việc làm đƣợc trả công) và những thu nhập về của cải vật chất cho bản thân

và gia đình (đối với việc làm không đƣợc trả công) và những thu nhập về của cải vật

chất cho bản thân và gia đình (đối với việc làm không đƣợc trả công: nội trợ gia

đình, tự trồng trọt, chăn nuôi phục vụ nhu cầu bản thân...).

+ Việc làm phụ hay không chính thức: Là những công việc làm thêm ngoài

công việc chính thức. Đối với ngƣời nông dân, công việcchính thức của họ là sản

xuất nông nghiệp trong mùa vụ, còn việc làm không chính thức là những việc làm

thêm trong lúc nông nhàn.

Ở cấp độ nền kinh tế, để đánh giá mức độ khai thác nguồn lực lao động

chung, ngƣời ta còn đƣa ra khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý.

Việc làm đầy đủđƣợc hiểu là sự thoả mãn đầy đủ về nhu cầu việc làm cho

mọi thành viên có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân, miễn là họ chấp

nhận các mức lƣơng thị trƣờng hiện hành. Có thể nói, việc làm đầy đủ là ở trạng

thái mà mỗi ngƣời có khả năng lao động muốn làm việc với mức lƣơng hiện có trên

thị trƣờng thì đều có thể tìm đƣợc việc làm trong một thời gian tƣơng đối ngắn.

Theo kinh tế học, nền kinh tế có mức việc làm đầy đủ khi thị trƣờng lao động ở

trạng thái cân bằng, và tƣơng ứng với nó, sản lƣợng của nền kinh tế chính là sản

lƣợng tiềm năng. Khi này, trong nền kinh tế vẫn có thể có những ngƣời thất nghiệp

song họ là những ngƣời thất nghiệp tự nguyện do không muốn chấp nhận mức

lƣơng thị trƣờng hiện hành.

29

Việc làm hợp lýlàviệc làm phù hợp với khả năng và nguyện vọng của ngƣời

lao động. Khi ngƣời lao động có công ăn, việc làm hợp lý, họ có điều kiện để phát

huy tốt nhất năng lực sẵn có của mình, do đó có năng suất lao động, hiệu quả kinh

tế - xã hội cao hơn.

Ranh giới giữa có việc làm và không có việc làm luôn luôn biến đổi, vì:

Thứ nhất, hoạt động nội trợ không đƣợc coi là việc làm, trong khi đó hoạt

động nội trợ tạo ra các lợi ích phi vật chất và gián tiếp tạo ra lợi ích vật chất không

hề nhỏ; Thứ hai, khó có thể so sánh tỷ lệ ngƣời có việc làm giữa các quốc gia với

nhau vì quan niệm về việc làm giữa các quốc gia có thể khác nhau, phụ thuộc vào

luật pháp, phong tục tập quán. Có những nghề ở quốc gia này thì đƣợc cho phép và

đƣợc coi là việc làm, nhƣng ở quốc gia khác, ví dụ đánh bạc ở Việt Nam bị cấm,

nhƣng ở Thái Lan và Mỹ lại đƣợc coi là một nghề. Thậm chí nghề này rất phát triển,

vì nó thu hút khá đông tầng lớp thƣợng lƣu.

Ngoài ra, tùy theo các mục đích nghiên cứu khác nhau mà ngƣời ta còn chia

việc làm thành việc làm toàn thời gian, bán thời gian, việc làm thêm.

- Việc làm toàn thời gian: Chỉ một công việc mà ngƣời lao động có đủ việc

làm trong toàn bộ thời gian lao động (số giờ lao động trong một ngày và số ngày lao

động trong một tuần, một tháng, một năm) theo quy định của pháp luật.

- Việc làm bán thời gian: Mô tả công việc làm không đủ thời gian làm việc

trong ngày, trong tuần/tháng/năm theo quy định của pháp luật Thời gian làm việc có

thể dao động từ 0.5 đến 5 tiếng mỗi ngày và không liên tục.

Trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, Tổ chức lao động quốc tế

(ILO) còn khuyến cáo và đề cập tới việc làm nhân văn hay việc làm bền vững. Đó

là việc làm có năng suất và chất lƣợng cho tất cả mọi ngƣời, trong điều kiện tự do,

bình đẳng, an toàn và nhân phẩm đƣợc tôn trọng. Một việc làm đƣợc coi là bền

vững khi thỏa mãn các tiêu chí: có thu nhập công bằng, phải bảo đảm an toàn tại nơi

làm việc và bảo vệ xã hội cho ngƣời lao động cũng nhƣ gia đình họ; có triển vọng

phát triển cá nhân và khuyến khích hòa nhập xã hội; cho phép mọi ngƣời đƣợc tự do

bày tỏ những mối quan tâm của mình, đƣợc tự do tổ chức và tham gia vào các quyết

định ảnh hƣởng tới cuộc sống của họ; và bảo đảm cho tất cả mọi ngƣời đều có cơ

hội bình đẳng và đƣợc đối xử bình đẳng.

30

2.1.1.2. Thất nghiệp và các hình thức thất nghiệp

Đối nghịch với khái niệm việc làm là khái niệm thất nghiệp. Nó đƣợc biểu

hiện qua định nghĩa về ngƣời thất nghiệp.

Người thất nghiệp, theo quan niệm đƣợc thừa nhận chung, dùng để chỉ

những ngƣời không có việc làm song có nguyện vọng tìm việc. Chẳng hạn, trong

giáo trình “Kinh tế học”, Sameelson viết: “Thất nghiệp là những ngƣời không có

việc làm, những ngƣời đang chờ để trở lại làm việc hoặc đang tích cực tìm việc

làm” [119, tr271].

Nhƣ vậy, để xác định một ngƣời nằm trong độ tuổi lao động là ngƣời thất

nghiệp, ngƣời này vừa phải là ngƣời hiện không có việc làm, mặt khác, vừa có

mong muốn có việc làm và biểu thị rõ ràng nguyện vọng đi tìm việc nàyở thời điểm

phân tích. Một ngƣời không có việc làm, song không có nhu cầu tìm việc sẽ không

đƣợc coi là ngƣời thất nghiệp, cho dù anh ta hay chị ta vẫn nằm trong độ tuổi lao

động và có sức khỏe tốt.

Toàn bộ số ngƣời có việc làm và số ngƣời thất nghiệp trong nền kinh tế hợp

lại thành lực lƣợng lao động. Những ngƣời còn lại, dù ở trong hay ngoài độ tuổi lao

động đƣợc coi là nằm ngoài lực lƣợng lao động.

Mức độ thất nghiệp đƣợc đánh giá và đo lƣờng qua tỷ lệ thất nghiệp. Đó là tỷ

𝑈

lệ số ngƣời thất nghiệp trong lực lƣợng lao động.

𝐸+𝑈

Nói cách khác, tỷ lệ thất nghiệp (u) là: u (%) = x 100, trong đó U chỉ số

ngƣời thất nghiệp, E chi số ngƣời có việc làm.

Theoquy tắc thống kê ở Việt Nam, ngƣời thất nghiệp là ngƣời đủ 15 tuổi trở

lên trong nhóm tuổi hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ trƣớc điều tra không có việc

làm nhƣng có nhu cầu tìm việc làm:

Thứ nhất, có nỗ lực đi tìm việc trong 4 tuần qua hoặc không có hoạt động tìm

việc vì các lý do không biết tìm việc làm ở đâu hoặc tìm mãi không có việc làm.

Thứ hai, trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc

dƣới 8 giờ, và sẵn sàng làm thêm nhƣng không tìm đƣợc việc làm.

Tuy nhiên những ngƣời đủ 15 tuổi trở lên nhƣng thuộc các đối tƣợng sau đây

thì không thuộc những ngƣời thất nghiệp và không nằm trong lực lƣợng lao động:

+ Ngƣời đang đi học

31

+ Ngƣời đang làm việc nội trợ cho bản thân và gia đình.

+ Ngƣời tàn tật, ốm đau, không có khả năng lao động hoặc bị tƣớc quyền lao động.

+ Ngƣời già cả hết tuổi lao động.

+ Hoặc tình trạng khác (về hƣu hƣởng chế độ, chƣa có nhu cầu hoạt động kinh tế).

Các hình thức thất nghiệp:

Ngƣời ta có thể phân chia thất nghiệp thành các hình thức khác nhau, theo hai

cách: phân loại theo nguồn gốc của thất nghiệp hay theo tính chất của thất nghiệp.

Dựa theo nguồn gốc của thất nghiệp, thất nghiệp đƣợc chia thành thất nghiệp

tạm thời, thất nghiệp cơ cấu, thất nghiệp theo quan điểm cổ điển, thất nghiệp chu kỳ

hay thất nghiệp do thiếu cầu.

-Thất nghiệp tạm thời: Phát sinh do sự di chuyển không ngừng của con

ngƣời giữa các vùng, các công việc hoặc là các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.

Hay nói cách khác đây là dạng thất nghiệp phát sinh do ngƣời lao động muốn có

thời gian để tìm việc làm thích hợp với chuyên môn và sở thích của mình.

-Thất nghiệp cơ cấu: là một dạng thất nghiệp xuất hiện khi có sự mất cân

bằng giữa cung và cầu lao động trên một thị trƣờng lao động cục bộ (ngành hay khu

vực), dù là trên thị trƣờng lao động tổng thể, cung và cầu lao động vẫn có thể cân

bằng. Thất nghiệp cơ cấu luôn nảy sinh khi cơ cấu ngành của nền kinh tế chuyển

dịch, làm cho một số ngành kinh tế cũ bị suy thoái và thu hẹp, thậm chí là biến mất,

trong khi một số ngành mới lại xuất hiện. Trong thời kỳ suy tàn của một ngành kinh

tế, sẽ có một số ngƣời thất nghiệp do họ chƣa kịp chuyển đổi để thỏa mãn các nhu

cầu về kiến thức, kỹ năng lao động mà những ngành công nghiệp mới đòi hỏi.

-Thất nghiệp chu kỳ: là thất nghiệp gắn liền với sự suy giảm theo chu kỳ của

nền kinh tế. Khi rơi vào giai đoạn suy thoái, tổng cầu về các hàng hóa, dịch vụ của

nền kinh tế suy giảm và trở nên thiếu hụt. Điều đó kéo theo sự cắt giảm nhu cầu về

thuê mƣớn lao động và nhiều ngƣời trở nên thất nghiệp.

- Thất nghiệp theo quan điểm cổ điển (gọi tắt là thất nghiệp cổ điển): biểu

thị những ngƣời thất nghiệp do tiền lƣơng bị chủ định giữ ở mức cao hơn mức

lƣơng cân bằng thị trƣờng. Điều này xảy ra khi chính phủ thực thi chính sách tiền

lƣơng tối thiểu và quy định mức lƣơng tối thiểu cao hơn mức lƣơng cân bằng. Nó

cũng có thể là hậu quả của việc can thiệp của công đoàn vào quá trình thƣơng lƣợng

32

tiền lƣơng giữa ngƣời lao động và giới chủ. Đây là cách mà các nhà kinh tế học cổ

điển giải thích tình trạng thất nghiệp cao vào những năm 1930 trong nền kinh tế thế

giới, khi mà theo mô hình của họ, tiền lƣợng và giá cả là linh hoạt để đảm bảo cho

thị trƣờng lao động là cân bằng, do đó sẽ không có cái gọi là thất nghiệp chu kỳ

trong nền kinh tế.

Ngoài những dạng thất nghiệp trên, ngƣời ta còn có thể đề cập đến một vài

loại hình thất nghiệp khác nhƣ thất nghiệp trá hình, hay thất nghiệp theo thời vụ

(điển hình hay xảy ra trong nông nghiệp. Theo một nghĩa nhất định, đây cũng là

một hình thức thất nghiệp cơ cấu). Tuy nhiên, trong các khoa học kinh tế hiện đại,

ngƣời ta ít nói đến các hình thức thất nghiệp này.

Dựa theo tính chất của thất nghiệp, ngƣời ta phân thất nghiệp thành thất

nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện.

-Thất nghiệp tự nguyện: dùng để ám chỉ những ngƣời thất nghiệp do không

chấp nhận mức lƣơng hay công việc hiện hành mà thị trƣờng cung cấp. Những

ngƣời thất nghiệp dạng này là những ngƣời hoàn toàn tự nguyện chấp nhận tình tình

trạng chƣa có việc làm.

-Thất nghiệp không tự nguyện: biểu thị những ngƣời thất nghiệp ngay cả khi

chấp nhận mức lƣơng và công việc hiện có.

Có một sự tƣơng ứng nhất định giữa hai cách phân loại thất nghiệp. Chẳng

hạn, thất nghiệp chu kỳ là thất nghiệp không tự nguyện, còn các dạng thất nghiệp

nhƣ thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu, thậm chí thất nghiệp cổ điển đều có

thể xếp vào loại hình thất nghiệp tự nguyện.

Thất nghiệp tự nguyện (tạm thời, cơ cấu…) là hình thức thất nghiệp cần

thiết, luôn tồn tại trong một nền kinh tế năng động. Nó là cách để nền kinh tế phân

bổ lại lao động một cách hợp lý hơn, phù hợp với năng lực và sở thích của ngƣời

lao động và yêu cầu phát triển của nền kinh tế.

2.1.1.3. Giải quyết việc làm

Giải quyết việc làm, theo nghĩa rộng, là tổng thể những biện pháp, chính sách

mà xã hội tiến hành nhằm biến những ngƣời thất nghiệp hay ngƣời chƣa có việc làm

thành những ngƣời có việc làm, đáp ứng cao nhất nhu cầu về việc làm cho mọi

ngƣời lao động.

33

Quá trình GQVL liên quan đến cả ba chủ thể kinh tế chủ yếu: những ngƣời

lao động có nhu cầu tìm việc; các doanh nghiệp hay những ngƣời sử dụng lao động

và Nhà nƣớc. Ngoài ra, các tổ chức xã hội dân sự khác nhau cũng có vai trò nhất

định trong việc GQVL.

Trong các chủ thể trên, ngƣời lao động cần tìm việc làm đƣơng nhiên có

động lực tự thân để GQVL cho chính bản thân họ. Họ sẽ lựa chọn tham gia hay rút

lui khỏi lực lƣợng lao động hay tìm mọi cách trong khả năng có thể để có đƣợc kỹ

năng, kiến thức cần thiết nhằm đáp ứng các nhu cầu của ngƣời tuyển dụng. Các

doanh nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tạo ra việc làm cho xã hội vì

chúng là chủ thể chính sử dụng lao động và tạo ra cầu về lao động. Tuy nhiên ở đây

cần thấy rằng: mục tiêu mà các doanh nghiệp theo đuổi là mục tiêu kinh doanh,

chẳng hạn nhƣ tối đa hóa lợi nhuận, mở rộng thị phần hay nâng cao năng lực cạnh

tranh chứ không phải là mục tiêu tạo việc làm. Doanh nghiệp chỉ tuyển dụng lao

động hay tạo ra việc làm trong chừng mực điều này phù hợp với lợi ích kinh doanh

của chúng. Doanh nghiệp cũng có thể sẵn sàng sa thải nhân công, cắt giảm việc làm

nếu nhƣ điều đó là cần thiết để chúng tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản

phẩm, gia tăng khả năng cạnh tranh so với đối thủ. Vì thế, xét về mặt khách quan,

vai trò GQVL của các doanh nghiệp có thể đƣợc xem nhƣ hệ quả của một môi

trƣờng kinh tế- xã hội, trong đó các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi hay không

thuận lợi để xuất hiện, tồn tại và phát triển. Do vậy, khi nói đến các biện pháp,

chính sách giải quyết việc làm, điều có ý nghĩa hơn cả là các biện pháp, chính sách

thuộc về nhà nƣớc, trong đó bao gồm cả các chính sách tác động đến động lực của

chính ngƣời lao động cũng nhƣ doanh nghiệp trong lĩnh vực việc làm.

Vì thế, theo nghĩa hẹp, GQVL là các biện pháp, chính sách mà nhà nƣớc tiến

hành nhằm giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp và nền kinh

tế tạo ra nhiều việc làm cũng nhƣ tao điều kiện để ngƣời lao động có thể dễ dàng

hơn trong việc đáp ứng các nhu cầu của thị trƣờng lao động.Mục tiêu của GQVL là

phải tạo ra việc làm đầy đủ cho ngƣời lao động và cao hơn, là tạo ra tự do trong lựa

chọn việc làm, triệt để giải phóng sức lao động và các nguồn lực của xã hội nhằm

đảm bảo cho mọi ngƣời đều có mức sống và thu nhập tƣơng đối ổn định, phù hợp

và luôn đƣợc cải thiện theo thời gian.

34

2.1.2. Nguyên nhân của thất nghiệp

Cách phân chia thất nghiệp theo nguồn gốc của nó sẽ giúp ta giải thích

nguyên nhân của hiện tƣợng thất nghiệp.Trong nền kinh tế thị trƣờng, thất nghiệp

nảy sinh là do những nguyên nhân sau:

- Thời gian cần thiết để khớp nối giữa một bên là ngƣời đi tìm việc và một

bên có công việc đang tìm ngƣời thích hợp: Trong một nền kinh tế rộng lớn, việc

khớp nối này không thể diễn ra một cách tức thì và tự động và luôn cần có một thời

gian nhất định. Chẳng hạn, một sinh viên mới ra trƣờng, cần đi tìm việc, hay một

ngƣời lao động bỏ việc làm cũ hoặc nơi làm việc cũ để tìm việc làm mới hay nơi

làm việc mới cho phù hợp hơn với điều kiện, năng lực và sở thích của mình luôn

cần một thời gian để chuẩn bị hồ sơ xin việc, tìm kiếm nhà tuyển dụng thích hợp.

Nhà tuyển dụng cần tuyển lao động mới cũng cần thời gian để truyền bá thông tin,

thu thập hồ sơ đăng ký tuyển dụng, thực hiện những cuộc phỏng vấn tuyển dụng

công phu và tốn kém. Tất cả những điều đó sẽ khiến cho thất nghiệp tạm thời là

hiện tƣợng không tránh khỏi, luôn xảy ra trong nền kinh tế.

- Sự không tƣơng thích giữa kỹ năng làm việc của ngƣời lao động và cơ hội

việc làm do sự thay đổi của cơ cấu các ngành kinh tế: Khi một ngành kinh tế bƣớc

vào giai đoạn suy tàn, cầu về sản phẩm và việc làm trong ngành này giảm sút. Một

số lƣợng lao động nhất định vốn có công ăn việc làm trong ngành trƣớc đây sẽ bị sa

thải. Họ sẽ không dễ dàng và ngay lập tức kiếm đƣợc việc làm thay thế ở những

ngành nghề mới ra đời, đang có nhu cầu tuyển dụng. Một ngƣời thợ may bị thất

nghiệp không dễ dàng có đƣợc kỹ năng của một kỹ sƣ lập trình, hay nhân viên

marketing, dù rằng đây đang là những nơi cung cấp các cơ hội việc làm mới. Họ

cần có một thời gian nhất định để chuyển đổi nghề nghiệp thông qua quá trình đào

tạo hay huấn luyện lại. Trong thời gian đó, họ sẽ trở thành những ngƣời thất nghiệp

cơ cấu, trừ phi họ chấp nhận làm những công việc không đòi hỏi kỹ năng với mức

lƣơng thậm chí thấp hơn cả mức lƣơng của ngƣời thợ may trƣớc đây.

Thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu là những dạng khác nhau của thất

nghiệp tự nguyện nhƣ ở trên chúng ta đã đề cập. Chúng tồn tại ngay cả khi thị

trƣờng lao động tổng thể đang ở trạng thái cân bằng. Trong trƣờng hợp này, số

ngƣời thất nghiệp biểu thị khoảng cách hay sự chênh lệch giữa số ngƣời chấp nhận

35

nằm trong lực lƣợng lao động với số ngƣời sẵn sàng chấp nhận làm việc ở mức

lƣơng cân bằng thị trƣờng hiện hành.

- Sự duy trì mức lƣơng cao hơn mức lƣơng cân bằng một cách có chủ đích:

là nguyên nhân của thất nghiệp cổ điển. Đây có thể là hệ quả của chính sách tiền

lƣơng tối thiểu mà nhà nƣớc áp đặt khi mức lƣơng cân bằng thị trƣờng đƣợc xem là

quá thấp không đủ đảm bảo nhu cầu sống của những ngƣời lao động giản đơn, kỹ

năng thấp. Nó cũng có thể xảy ra khi công đoàn của những ngƣời lao động có sức

mạnh đến mức có thể mặc cả với giới chủ doanh nghiệp để duy trì một mức lƣơng

cao hơn mức lƣơng cân bằng thị trƣờng cho các công đoàn viên của mình. Khi mức

lƣơng cao hơn đƣợc thiết lập, trên thị trƣờng lao động sẽ có sự dƣ cung hay xuất

hiện những ngƣời thất nghiệp. Đối với từng cá nhân những ngƣời thất nghiệp dạng

này, họ là những ngƣời thất nghiệp không tự nguyện, khi trên thực tế họ vẫn sẵn

lòng làm việc với mức lƣơng thấp hơn. Tuy vậy, thông qua công đoàn, với tƣ cách

là một khối những ngƣời lao động tổng thể, việc tự nguyện thiết lập và duy trì một

mức lƣơng cao hơn (so với mức lƣơng cân bằng tiềm năng) khiến cho dƣ cung về

lao động hay thất nghiệp xuất hiện, những ngƣời thất nghiệp trong trƣờng hợp này

vẫn đƣợc coi là những ngƣời thất nghiệp tự nguyện.

- Sự thiếu hụt của tổng cầu về hàng hóa, dịch vụ và tính cứng nhắc của tiền

lƣơng: Vào thời kỳ suy thoái của nền kinh tế, trên thị trƣờng hàng hóa, dịch vụ tổng

cầu thấp khiến cho nền kinh tế phải hoạt động dƣới mức tiềm năng. Tổng cầu về

hàng hóa, dịch vụ suy giảm là nguyên nhân khiến cầu về lao động nói chung bị cắt

giảm. Nếu tiền lƣơng là hoàn toàn linh hoạt, cầu lao động thấp hơn sẽ làm mức

lƣơng thị trƣờng hạ xuống và chính sự điều chỉnh này sẽ cho phép cung và cầu về

lao động thiết lập lại sự cân bằng trên thị trƣờng. Tuy nhiên, do trong ngắn hạn, tiền

lƣơng là cứng nhắc, không linh hoạt, do đó nó có thể bị “kẹt” lại ở mức lƣơng cân

bằng trƣớc đây mà không hạ xuống phù hợp với trạng thái cung – cầu mới. Trong

điều kiện này, dƣ cung lao động lại xuất hiện và thất nghiệp lại xảy ra. Đây chính là

dạng thất nghiệp chu kỳ, gắn với giai đoạn suy thoái trong chu kỳ của các nền kinh

tế thị trƣờng. Những ngƣời rơi vào thất nghiệp trong hoàn cảnh này là những ngƣời

thất nghiệp không tự nguyện hay những ngƣời thất nghiệp khi thị trƣờng lao động

36

tổng thể là không cân bằng. Đây là hình thức thất nghiệp nghiêm trọng nhất mà xã

hội phải đối diện và tìm cách nhanh chóng xử lý.

Những nguyên nhân trên là các nguyên nhân trực diện gây ra thất nghiệp

trong một nền kinh tế thị trƣờng thông thƣờng. Xét trên thị trƣờng lao động tổng

thể, nó biểu thị sự chênh lệch giữa lƣợng ngƣời sẵn sàng tham gia vào lực lƣợng lao

động và lƣợng cung lao động tại mức lƣơng thị trƣờng hiện có (khi thị trƣờng lao

động cân bằng) hay dƣ cung về lao động (chênh lệch giữa lƣợng cung và lƣợng cầu

về lao động tại một mức lƣơng nào đó – khi thị trƣờng lao động là không cân bằng).

Tuy nhiên, trên các thị trƣờng lao động bộ phận (thị trƣờng lao động ngành/nghề cụ

thể hay thị trƣờng lao động ở các khu vực, địa phƣơng nhất định), thất nghiệp

thƣờng hiện ra nhƣ sự không ăn khớp giữa cung và cầu về các dạng lao động cụ thể

trong những khoảng thời gian và không gian cụ thể.

Ở các nƣớc đang phát triển, tình trạng thất nghiệp thƣờng trầm trọng hơn do

nền kinh tế kém phát triển, và các thị trƣờng lao động kém hoàn thiện, vận hành

thiếu hiệu quả. Các thị trƣờng lao động thƣờng bị cắt khúc và chia cắt giữa các

ngành, các vùng và các địa phƣơng. Lao động không dễ dàng di chuyển từ nơi lao

động đang dƣ thừa sang nơi đang có cơ hội việc làm cao. Các quy tắc thƣơng lƣợng,

mặc cả về tiền công, và các điều kiện làm việc thƣờng thiếu rõ ràng, kém hoàn thiện

khiến cho tiền lƣơng, tiền công càng ít mang tính chất linh hoạt. Dân số tăng nhanh

khiến cho nguồn cung lao động luôn gia tăng. Chất lƣợng nguồn lao động thấp, kỹ

năng chung của lực lƣợng lao động không cao khiến cho nhiều ngƣời không tìm

đƣợc việc làm ở những ngành đòi hỏi kỹ năng cao. Mặt khác, do khả năng tích lũy

vốn hạn chế, các ngành công nghiệp và khu vực kinh tế có giá trị gia tăng cao chậm

phát triển để tạo ra những chỗ làm việc mới. Đa số lao động tập trung và bị “kẹt” lại

ở khu vực nông nghiệp, nông thôn lạc hậu trong một thời gian dài. Ở khu vực này,

ngƣời ta có thể vẫn có việc làm theo ý nghĩa thống kê chính thức, song đó chỉ là

những việc làm tạo ra thu nhập thấp hoặc việc làm bán thời gian, có tính thời vụ

dƣới các hình thức khác nhau. Trong trƣờng hợp này, tính chất nghiêm trọng của

thất nghiệp thƣờng biểu hiện ở tình trạng thiếu việc làm phổ biến, kéo dài.

37

2.1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới việc làm và giải quyết việc làm

Hiệu quả của chính sách GQVL của nhà nƣớc luôn bị phụ thuộc và bị chi

phối bởi nhiều yếu tố, có khả năng ảnh hƣởng đến quá trình tạo lập việc làm và

GQVL.Có thể kể đến các nhân tố sau:

2.1.3.1. Trình độ phát triển chung của nền kinh tế và bối cảnh kinh tế vĩ

mô của nó trong mỗi giai đoạn

Trình độ phát triển của nền kinh tế tác động mạnh mẽ đến việc làm và GQVL.Ở

các nƣớc công nghiệp phát triển, dù việc duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp và đảm bảo mức

công ăn việc làm cao vẫn là một trong những mục tiêu kinh tế - xã hội đƣợc ƣu tiên

hàng đầu, song nó chỉ trở thành vấn đề xã hội bức thiết khi nền kinh tế rơi vào giai

đoạn suy thoái. Ở những nƣớc này, mức sống và thu nhập bình quân cao, hệ thống an

sinh xã hội tốt, các dịch vụ giáo dục, y tế phát triển đảm bảo đƣợc nhu cầu cơ bản cho

hầu hết tất cả ngƣời dân (ví dụ hệ thống giáo dục phổ thông miễn phí cho tất cả mọi

ngƣời) khiến cho vấn đề việc làm và thu nhập không còn mang ý nghĩa “sinh tồn” đối

với đại đa số ngƣời dân. Hệ thống trợ cấp xã hội cho các gia đình nghèo, trợ cấp và bảo

hiểm thất nghiệp cho những ngƣời mất việc có thể tạo ra một mạng lƣới an toàn về mặt

xã hội cho những ngƣời thất nghiệp hay có thu nhập thấp. Mức độ tích lũy vốn cao;

khu vực công nghiệp, dịch vụ phát triển;hệ thống tài chính - ngân hàng hoàn thiện, sẵn

sàng cấp vốn cho khu vực kinh doanh; mạng lƣới kết cấu hạ tầng dày đặc và sẵn sàng

hỗ trợ các hoạt động kinh tế cả ở khu vực tƣ lẫn khu vực công; các chi phí để khởi

nghiệp thấp; lao động dễ dàng di chuyển từ nơi này đến nơi khác…tất cả những điều

này tạo ra tiềm năng để nền kinh tế có thể đạt đƣợc mức công ăn, việc làm đầy đủ và

thất nghiệp không trở thành nỗi “ám ảnh” nặng nề đối với ngƣời dân nhƣ ở các nƣớc

đang phát triển. Tất nhiên, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng, vấn

đề việc làm vẫn nổi lên nhƣ một vấn đề ngầm chứa những bất bình xã hội mà các chính

phủ không thể bỏ qua. Tuy nhiên, ngay cả trong trƣờng hợp này, các chính phủ ở các

nƣớc phát triển vẫn có những điều kiện thể chế và nguồn lực thuận lợi để giải quyết

vấn đề. Các chính sách ổn định hóa kinh tế vĩ mô nhƣ các chƣơng trình kích cầu, hỗ trợ

đào tạo lại cho những ngƣời lao động…, cùng với mạng lƣới an sinh xã hội phát triển

là những phƣơng cách thƣờng đƣợc sử dụng nhằm giải quyết vấn đề việc làm cũng nhƣ

những hệ lụy có thể nảy sinh từ đó.

38

Trái lại,ở các nƣớc đang phát triển, đặc biệt là các nƣớc nghèo, thu nhập

thấp, vấn đề thất nghiệp – việc làm thƣờng nghiêm trọng hơn và năng lực chung của

xã hội và của chính phủ trong việc GQVL cũng hạn chế hơn. Khi trình độ phát triển

của nền kinh tế còn thấp, khu vực nông nghiệp truyền thống còn chiếm giữ vị trí quan

trọng, trong khi các ngành công nghiệp, dịch vụ hiện đại chƣa thật sự phát triển, mức

tích lũy vốn trên đầu ngƣời còn thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng còn nghèo nàn…thì sự

tƣơng phản giữa mức độ dồi dào tƣơng đối của nguồn lực lao động và sự thiếu thốn

tƣơng đối của các nguồn lực khác mà lao động cần kết hợp mới có thể tạo ra việc làm

càng nổi bật. Điều đó càng thể hiện rõ nét ở những nƣớc nghèo, có trình độ phát triển

thấp hơn, nơi mà dân số lại thƣờng gia tăng nhanh, nhu cầu việc làm càng trở nên bức

thiết. Mặt khác, do hệ thống giáo dục - đào tạo, hệ thống y tế ở các nƣớc này chƣa có

điều phát triển nên mặt bằng chất lƣợng chung của nguồn nhân lực ở các nƣớc đang

phát triển, đặc biệt ở các nƣớc có trình độ phát triển thấp, thƣờng không cao. Vì thế,

ngay cả khi những nƣớc này có thể thu hút đƣợc các nguồn vốn đầu tƣ từ bên ngoài

thì việc thiếu đội ngũ lao động có kỹ năng cao cũng là một rào cản nghiêm trọng cho

việc tận dụng cơ hội tạo việc làm nói riêng và phát triển kinh tế nói chungtừ các

nguồn lực quốc tế này. Trong điều kiện đó, thiếu việc làm, đặc biệt là các việc làm có

giá trị gia tăng cao, có khả năng tạo ra thu nhập xứng đáng là hiện tƣợng phổ biến ở

các nƣớc đang phát triển, có trình độ phát triển thấp.

Mặt khác, trình độ phát triển thấp của các nền kinh tế đang phát triển còn

ràng buộc năng lực của chính phủ trong việc GQVL. Suy cho cùng thì việc làm

đƣợc tạo ra chủ yếu ở khu vực dân doanh. Khi khu vực này còn yếu kém thì nền

kinh tế chƣa có đủ khả năng tạo ra việc làm đầy đủ, hợp lý cho những ngƣời lao

động. Các chính phủ, bằng các chính sách của mình có thể thúc đẩy hay kìm hãm

các quá trình tạo việc làm trong nền kinh tế. Tuy vậy, sự yếu kém về năng lực thể

chế (liên quan đến mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật, sự vận hành của bộ

máy hành chính quốc gia, khả năng thiết kế và thực thi các chính sách…) cũng nhƣ

sự hạn chế về nguồn lực (quy mô nguồn thu thuế hạn chế khiến cho các chính phủ

khó có thể triển khai các chính sách nhƣ kích cầu, khuyến khích doanh nghiệp mở

rộng đầu tƣ, phát triển hệ thống hạ tầng chung, đầu tƣ mạnh cho hệ thống giáo dục,

đào tạo, y tế, thực hiện các chƣơng trình đào tạo lại cho những ngƣời lao động thất

39

nghiệp, cần chuyển đổi ngành nghề…) tạo ra những giới hạn rõ rệt cho chính sách

giải quyết việc làm của nhà nƣớc ở các quốc gia đang phát triển.

Ở khía cạnh khác, đối với một quốc gia, ở một giai đoạn phát triển nào đó,

mức độ nghiêm trọng của vấn đề việc làm lại phụ thuộc vào bối cảnh kinh tế vĩ mô

mà nó phải đối diện ở mỗi giai đoạn. Khi nền kinh tế ở trong thời kỳ suy thoái (kể

cả do tác động từ bên ngoài do kinh tế thế giới nói chung rơi vào giai đoạn suy thoái

hay khủng hoảng kinh tế), tỷ lệ thất nghiệp trở nên cao hơn, vấn đề việc làm lại bị

đặt ra gay gắt hơn, GQVL cũng trở nên khó khăn hơn. Ngƣợc lại, khi các điều kiện

kinh tế vĩ mô là thuận lợi cho việc duy trì tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao hơn,

GQVL cũng trở nên dễ dàng hơn.

2.1.3.2. Mức độ hoàn thiện và phát triển của thị trường lao động

Thị trƣờng lao động là nơi diễn ra mua và bán sức lao động, nơi để ngƣời lao

động tìm kiếm việc làm và ngƣời sử dụng lao động tìm đƣợc ngƣời làm những công

việc phù hợp. Thị trƣờng lao động là một cơ chế quan trọng để khai thông quan hệ

cung – cầu về lao động trong xã hội. Tiền lƣơng, tiền công là tín hiệu để ngƣời lao

động lựa chọn việc cung ứng sức lao động, lựa chọn sẵn sàng làm việc cho một tổ

chức hoặc cá nhân cần thuê mƣớn lao động; đồng thời cũng là tín hiệu để ngƣời sử

dụng lao động có quyết định đúng đắn thuê số lƣợng lao động bao nhiêu, ở thời

điểm nào. Sự lên, xuống của tiền lƣơng, một mặt phản ánh những thay đổi trong

tƣơng quan cung, cầu về lao động, mặt khác lại là cơ chế để cân bằng cung, cầu thị

trƣờng. Về nguyên tắc, tiền lƣơng, càng cứng nhắc, càng kém linh hoạt, cân bằng

trên thị trƣờng lao động càng khó thiết lập. Trong điều kiện này, thất nghiệp sẽ có

thể gia tăng và thƣờng kéo dài hơn. Tính chất này của tiền lƣơng bị ảnh hƣởng

không nhỏ bởi các điều kiện thể chế có liên quan đến các quy tắc thƣơng lƣợng,

mặc cả và thiết lập các hợp đồng lao động.

Nói chung, sự vận hành của thị trƣờng lao động có tác động quan trọng đến

năng lực tạo việc làm của nền kinh tế. Khi thị trƣờng lao động hoạt động trôi chảy,

các bên đại diện cho phía cung, hoặc phía cầu trên thị trƣờng dễ dàng tìm gặp nhau,

dễ dàng thƣơng lƣợng và ký kết các hợp đồng lao động với nhau, ngƣời lao động có

nhu cầu tìm việc làm (phía cung lao động) cũng sẽ dễ dàng tìm đƣợc việc làm hơn.

Ngƣợc lại, khi thị trƣờng lao động kém hoàn thiện, sự vận hành của nó sẽ trở nên

40

khó khăn hơn, các giao dịch thị trƣờng khó thực hiện hơn. Khi các thị trƣờng bị chia

cắt, phân mảng theo ngành nghề, theo địa giới hành chính và khó kết nối vì các quy

định, thủ tục hành chính (ví dụ nhƣ chế độ quản lý ngƣời dân bằng “hộ khẩu”), luật

pháp hay tục lệ..., trong một môi trƣờng thông tin thiếu hoàn hảo và minh bạch,

ngƣời có nhu cầu tìm việc làm không dễ tìm đƣợc cơ hội việc làm mà mình mong

muốn, phù hợp với sở thích và năng lực của mình. Ngƣợc lại, doanh nghiệp cần

ngƣời cũng không dễ dàng, nhanh chóng tìm đƣợc những ngƣời lao động có những

phẩm chất và kỹ năng làm việc phù hợp yêu cầu đặc thù của doanh nghiệp. Chất

lƣợng vận hành thấp của thị trƣờng lao động sẽ gây khó khăn cho sự kết nối cung,

cầu về lao động, làm phát sinh thêm nhiều chi phí giao dịch và làm gia tăng các rủi

ro trong việc thực thi các quan hệ hay hợp đồng lao động. Đây không phải là bối

cảnh thuận lợi cho việc tạo ra việc làm. Bởi vậy mức độ hoàn thiện của thị trƣờng

lao động tác động rất lớn đến quá trình GQVL cho ngƣời lao động.

2.1.3.3. Quy mô, cơ cấu dân số và chất lượng nguồn nhân lực

- Quy mô cơ cấu dân số

Số lƣợng, tốc độ gia tăng và cơ cấu dân số có ảnh hƣởng lớn tới nguồn lao

động và vấn đề GQVL của mỗi quốc gia.

Dân số tăng nhanh dẫn tới việc phân bố dân cƣ không hợp lý, làm trầm trọng

hơn sự bất cân đối giữa nguồn lao động với các nguồn lực khác (đất đai, tài nguyên

thiên nhiên, vốn…), làm gia tăng nhanh nguồn cung về lao động khiến cho việc tạo

ra các việc làm mới gặp khó khăn, quy mô và tỷ lệ thất nghiệp có nguy cơ tăng lên.

Dân số gia tăng sẽ buộc ngân sách Nhà nƣớc nói chung, xã hội nói riêng phải

giảm chi cho đầu tƣ phát triển, tăng chi cho tiêu dùng. Vì vậy, đầu tƣ cho phát triển

nguồn nhân lực để nâng cao chất lƣợng nguồn lao động giảm xuống, cơ hội để tìm

việc làm của ngƣời lao động càng gặp khó khăn.

Ở các nƣớc đang phát triển, tình trạng di dân tự do từ nông thôn đổ ra đô thị

để tìm việc làm kiếm sống gây ra sức ép, khó khăn cho việc GQVLở các đô thị.

Nhìn chung, cơ cấu dân số trẻ, tỷ lệ tham gia lực lƣợng lao động trong dân số

cao là một điều kiện thuận lợi cho việc duy trì tăng trƣởng kinh tế trong dài hạn.

Tuy vậy, nếu tốc độ tăng dân số không đƣợc kiểm soát ở một mức độ hợp lý, nó lại

có thể tạo ra các áp lực về việc làm to lớn cũng nhƣ làm giảm đi cơ hội cải thiện

41

mức sống trung bình của ngƣời dân. Mặt khác, ở chiều ngƣợc lại, tại nhiều nƣớc

phát triển, việc giảm tốc độ tăng dân số sẽ dẫn đến hiện tƣợng “già hoá” dân số, tỷ

lệ ngƣời cao tuổi tăng lên. Điều này tuy không gây ra căng thẳng cho vấn đề giải

quyết việc làm song lại đòi hỏi các chi phí về bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội tăng

lên…, ảnh hƣởng lớn tới cơ cấu và chất lƣợng của dân số.

Từ những thực tế trên đây, vấn đề đặt ra là cần hƣớng tới việc “bảo tồn tính

cân bằng, ổn định bên trong của sự phát triển dân số” nhằm đạt đƣợc mục tiêu ổn

định tỷ lệ sinh hợp lý, nâng cao chất lƣợng dân số, trên cơ sở đó mà phát triển

nguồn lực lao động cả về số lƣợng và chất lƣợng, đáp ứng đƣợc nhu cầu đòi hỏi

ngày càng cao của thị trƣờng lao động.

- Chất lượng nguồn nhân lực:

Kinh nghiệm của nhiều nƣớc trên thế giới, nhất là các nƣớc công nghiệp mới

ở châu Á cho thấy rằng tất cả các nguồn lực nhƣ: vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí

địa lý… chỉ tồn tại dƣới dạng tiềm năng, chúng chỉ phát huy tác dụng khi đƣợc kết

hợp với nguồn lực con ngƣời, với sức lực và trí lực của con ngƣời. Chính vì vậy có

những nƣớc nghèo về tài nguyên thiên nhiên (nhƣ Nhật Bản chẳng hạn) nhƣng biết

cách đầu tƣ, phát triển nguồn nhân lực nên đã tạo ra đƣợc bƣớc phát triển thần kỳ,

tạo ra đƣợc nhiều việc làm mới.

Nhƣ vậy, chất lƣợng nguồn nhân lực là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với tăng

trƣởng kinh tế và tăng trƣởng việc làm. Chất lƣợng nhân lực thấp là nguyên nhân

quan trọng kìm hãm sự phát triển kinh tế và tạo ra việc làm ở đa số các nƣớc nghèo.

Khi nguồn nhân lực tổng thể có chất lƣợng thấp, số lƣợng lao động đƣợc đào tạo, có

kỹ năng, thích hợp với những ngành công nghiệp, dịch vụ hiện đại, có giá trị gia

tăng cao khan hiếm, thì sự phát triển của chính các ngành này sẽ gặp khó khăn. Cơ

cấu kinh tế khó chuyển dịch theo hƣớng tiến bộ và thƣờng bị “kẹt” lại ở khu vực

kinh tế lạc hậu truyền thống, năng suất thấp. Việc làm mới ít đƣợc tạo ra. Đây là

chỗ mà “vòng luẩn quẩn” trong phát triển có thể phát huy tác dụng ở các nƣớc kém

phát triển, thu nhập thấp: kinh tế kém phát triển, nhân lực chất lƣợng thấp, năng suất

lao động thấp, tích lũy và đầu tƣ (kể cả đầu tƣ cho vốn nhân lực) cực kỳ thấp, kinh

tế hầu nhƣ không tăng trƣởng và tự duy trì ở trạng thái kém phát triển. Trong thời

đại toàn cầu hóa hiện nay, việc thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài có thể là cú hích ban đầu

42

giúp các nƣớc kém phát triển phá vỡ đƣợc “vòng luẩn quẩn” này. Tuy vậy, hiệu quả

thu hút, sử dụng và hấp thụ nguồn vốn nƣớc ngoài, cũng nhƣ tác động lan tỏa từ

hoạt động này cho các khu vực còn lại của nền kinh tế lại phụ thuộc nhiều vào chất

lƣợng nguồn nhân lực. Nếu nguồn lực này kém chất lƣợng, sự hấp dẫn và sức hút

đối với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài của các nƣớc sở tại sẽ suy giảm. Trong trƣờng

hợp này, tăng trƣởng kinh tế và việc làm không diễn ra hoặc diễn ra với tốc độ cực

kỳ thấp.

2.1.3.4. Tiến bộ khoa học công nghệ và các nguồn lực khác

- Tiến bộ khoa học - công nghệ

Tiến bộ khoa học – công nghệ (KH-CN) tác động đến vấn đề việc làm theo

hai hƣớng. Một mặt, khi máy móc có thể thay thế con ngƣời trong nhiều công đoạn

của quá trình sản xuất, nó có thể trực tiếp làm giảm nhu cầu lao động so với công

nghệ cũ. Đây là chỗ mà ngƣời ta coi máy móc là thủ phạm của nạn thất nghiệp, nhất

là trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Mặt khác, tiến

bộ KH-CN lại lại kích thích việc tạo ra những việc làm mới thông qua việc giảm giá

thành và giá bán hàng hóa, thúc đẩy tăng nhu cầu về sản phẩm, cho phép doanh

nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh, nhờ đó doanh nghiệp cần thuê mƣớn lao động

nhiều hơn. Tiến bộ công nghệ cũng sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội phát

triển, làm cho nhiều ngành nghề mới ra đời hoặc dựa trên sự xuất hiện các sản

phẩm, dịch vụ mới, hoặc gắn liền với sự phân tách quy trình sản xuất phù hợp với

công nghệ mới. Nhƣ kinh nghiệm của các nƣớc phát triển cho thấy, xét tổng thể,

tiến bộ KH- CN không chỉ không làm giảm đi các cơ hội việc làm mà ngƣợc lại còn

thúc đẩy việc tạo ra những việc làm mới.

Tuy vậy, cũng cần thấy rằng: tiến bộ của KH - CN sẽ làm tăng yêu cầu việc

làm cho lao động phức tạp, có kỹ thuật và ngƣợc lại, làm giảm việc làm đối với lao

động giản đơn. Quá trình phát triển của mỗi quốc gia ngày nay đƣợc cấu trúc lại dựa

trên những lợi thế của nguồn lực con ngƣời với hàm lƣợng trí tuệ ngày một gia tăng.

Nhờ có sự tiến bộ của khoa học công nghệ mà phần tỷ lệ lao động chân tay kết tinh

vào sản phẩm ngày một giảm rõ rệt, hàm lƣợng lao động “chất xám” kết tinh vào

sản phẩm ngày càng cao. Nhƣ vậy, sự phát triển của KH - CN mang lại nhiều cơ hội

43

tạo ra việc làm nhằm GQVL cho ngƣời lao động nói chung nhƣng cũng đặt ra nhiều

thách thức đối với quá trình GQVL cho các lao động giản đơn, kỹ năng thấp.

- Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên thiên nhiên cũng là một đầu vào quan trọng củaquá trình sản xuất.

Nó vừa là đối tƣợng lao động, vừa là tƣ liệu lao động. Các tài nguyên thiên nhiên nhƣ

đất đai, rừng, sông ngòi… là nền tảng cần thiết cho nhiều quá trình sản xuất và là môi

trƣờng sống đối với con ngƣời. Sự khác biệt về nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể

giải thích một sự khác biệt nào đó về thu nhập và mức sống ở một số nơi trên thế giới.

Về nguyên tắc, một quốc gia giàu có về tài nguyên thiên nhiên sẽ có xuất phát điểm tốt

hơn cho việc khởi động một quá trình tăng trƣởng và phát triển kinh tế nói chung, tăng

trƣởng việc làm nói riêng. Khi đƣợc khai thác tốt, hiệu quả, nguồn tài nguyên thiên

nhiên dồi dào, phong phú sẽ giúp đất nƣớc tăng trƣởng nhanh hơn, nền kinh tế sẽ sớm

có tích lũy để đầu tƣ nâng cấp cho các nguồn lực khác: tăng cƣờng vốn máy móc, thiết

bị, nâng cấp công nghệ và đặc biệt là nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực (gia tăng

vốn nhân lực). Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết bài toán giải quyết

việc làm cho lực lƣợng lao động. Tuy vậy nếu tài nguyên thiên nhiên bị lạm dụng, bị

khai thác thiếu hiệu quả, nhất là khi các nguồn thu có đƣợc từ việc khai thác nguồn lực

đặc biệt này lại không đƣợc sử dụng và đầu tƣ đúng đắn cho việc phát triển công nghệ

và nhân lực, quá trình phát triển và GQVL sẽ trở nên không bền vững. Ngƣợc lại,

những nƣớc nghèo tài nguyên thiên nhiên nhƣ Nhật Bản vẫn có thể vƣơn lên thành

nƣớc phát triển và giàu có hàng đầu trên thế giới thông qua chiến lƣợc phát triển kinh tế

hiệu quả, dựa nhiều vào nguồn nhân lực chất lƣợng cao, gắn kết với thƣơng mại quốc

tế. Việc duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao, suốt trong nhiều thập kỷ, chẳng

những giúp Nhật Bản gia tăng nhanh thu nhập và mức sống chung của ngƣời dân, mà

còn cho phép nƣớc này sớm giải quyết bài toán việc làm mà các nƣớc đang phát triển

thƣờng đối diện.

2.1.3.5. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Quá trình toàn cầu hóa buộc các nƣớc phải mở cửa và hội nhập vào nền kinh

tế thế giới nếu không muốn bị bỏ rơi trong cuộc đua tranh phát triển chung. Điều

này cũng tạo ra các cơ hội và thách thức mới cho quá trình giải quyết việc làm, đặc

biệt là ở các nƣớc đang phát triển. Một mặt, việc mở cửa sẽ giúp các nƣớc phát huy

44

đƣợc các ngành sản xuất có lợi thế so sánh. Nhờ việc sản xuất cho thị trƣờng thế

giới quy mô sản lƣợng và việc làm ở những ngành có lợi thế xuất khẩu sẽ gia tăng.

Mặt khác, do hội nhập quốc tế, nhiều ngành kinh tế sẽ phải đối mặt với sự cạnh

tranh của hàng nhập khẩu, do đó sẽ phải thu hẹp quy mô sản xuất và việc làm. Về

dài hạn, đây là tác động tích cực của việc hội nhập, vì nó giúp nền kinh tế phải phân

bổ lại các nguồn lực một cách hiệu quả hơn, trong có nguồn lao động để tập trung

vào những ngành có lợi thế. Thông qua thƣơng mại quốc tế, nếu nền kinh tế vẫn

duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng cao hơn (so với trƣờng hợp đóng cửa) thì nó vẫn tạo

ra đƣợc nhiều việc làm hơn. Tuy vậy, trong ngắn hạn, sự khó khăn trong việc dịch

chuyển cơ cấu lao động phù hợp với điều kiện và mức độ hội nhập quốc tế có thể

tạo ra hoặc làm gia tăng lƣợng thất nghiệp cơ cấu. Hội nhập quốc tế cũng cho phép

các nƣớc thu hút đƣợc các nguồn đầu tƣ từ bên ngoài. Với các nƣớc đang phát triển,

điều này sẽ giúp nền kinh tế tăng trƣởng nhanh hơn, tạo ra nhiều việc làm hơn, so

với trƣờng hợp chỉ dùng nguồn vốn đƣợc tích lũy trong nƣớc.

Ngoài ra, hội nhập quốc tế còn cho phép thị trƣờng lao động trong nƣớc

đƣợc kết nối với thị trƣờng lao động quốc tế. Thông qua kênh xuất khẩu lao động,

thậm chí là di dân, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế rõ ràng đã tạo ra

những phƣơng thức mới để giải quyết bài toán việc làm của nền kinh tế.

2.2. Giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

gắn với phát triển kinh tế tri thức

2.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giải quyết việc làm ở các

nƣớc đang phát triển

Đối với các nƣớc đang phát triển, công nghiệp hóa đƣợc xem là con đƣờng

tất yếu mà những nƣớc này phải đi qua nhằm đƣa đất nƣớc thoát khỏi tình trạng lạc

hậu của một nền kinh tế chủ yếu dựa vào ngành nông nghiệp truyền thống để trở

thành một nƣớc công nghiệp, phát triển. Vì thế, ngƣời ta thừa nhận chung rằng,

Công nghiệp hóa là quá trình tạo sự chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp với nền

kinh tế lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng suất thấp sang nền kinh tế công

nghiệp với cơ cấu kinh tế hiện đại, dựa trên lao động sử dụng bằng máy móc, tạo ra

năng suất lao động cao.

45

Quá trình CNH đã đƣợc tiến hành thành công ở nhiều nƣớc trong những giai

đoạn khác nhau, gắn với những thành tựu khác nhau trong mặt bằng khoa học –

công nghệ mà nền kinh tế thế giới đạt đƣợc. Vì thế, tƣơng thích với điều này, quá

trình CNH cũng luôn song hành với quá trình hiện đại hóa (HĐH) nền kinh tế.

Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định: "Công

nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ

công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,

phƣơng tiện, phƣơng pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp

và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [65, tr

65].Định nghĩa đã phản ánh đƣợc phạm vi rộng lớn của CNH, HĐH; gắn CNH với

HĐH; xác định đƣợc vai trò của khoa học, công nghệ trong quá trình này; chỉ ra cái

cốt lõi của CNH là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ

thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất lao động cao...

Mặc dù nội dung cốt lõi của CNH, HĐH là quá trình cải biến kỹ thuật, công

nghệ tổng thể cho cả nền kinh tế, nhìn vào kinh nghiệm lịch sử những trƣờng hợp

thành công và không thành công khi tiến hành CNH, có thể thấy, thực chất CNH,

HĐH là một quá trình kép, trong đó những cải biến về kỹ thuật và công nghệ sản

xuất phải đi đôi với quá trình cải biến thể chế và cấu trúc xã hội của nền kinh tế

nhằm chuyển đổi nó từ một nền kinh tế mang nặng tính chất tự cung, tự cấp thành

một nền kinh tế thị trƣờng. [144, tr17].

Nhƣ vậy, CNH - HĐH cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó

tỷ trọng đóng góp trong GDP của nông nghiệp ngày càng giảm dần, còn tỷ trọng

tƣơng ứng của khu vực công nghiệp và dịch vụ hiện đại ngày càng tăng. Mặt khác,

trong quá trình này, nền kinh tế cũng ngày càng đƣợc “thị trƣờng hóa”. Suốt trong

quá trình này, cơ cấu lao động – việc làm cũng sẽ chuyển dịch theo hƣớng giảm tỷ

trọng trong khu vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng trong khu vực công nghiệp và dịch

vụ, cho đến khi chỉ còn bộ phận nhỏ lao động tham gia sản xuất nông nghiệp song

nền kinh tế vẫn đảm bảo đƣợc sự phát triển lâu dài với mức thu nhập chung cao.

Theo mô hình hai khu vực của Lewis, xuất phát điểm của quá trình CNH của

một nƣớc nghèo là một khu vực nông nghiệp rộng lớn, bao trùm, tập trung thu hút

46

hầu hết nguồn lao động xã hội. Với phƣơng thức sản xuất thủ công, năng suất thấp,

quỹ đất đai có giới hạn, quy luật hiệu suất giảm dần phát huy nên lao động nông

nghiệp vừa đƣợc trả công thấp, vừa mang tính chất dƣ thừa. Hiện tƣợng lao động dƣ

thừa trong nông nghiệp ở các nƣớc nghèo tạo ra tình trạng thất nghiệp trá hình.

Ngƣời lao động có thể vẫn có việc làm theo các quy tắc thống kê chính thức, song

số lƣợng việc làm hạn chế đƣợc chia và san sẻ cho quá nhiều lao động cần việc làm

ngƣời lao động thực chất chỉ có việc làm từng phần. Tình trạng lao động thừa này

thể hiện ở chỗ: có thể rút bớt một bộ phận lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp mà

không hề làm giảm tổng sản lƣợng đầu ra. Khi quá trình CNH đƣợc khởi động, các

nhà máy công nghiệp ở đô thị có thể lôi kéo những lao động thừa ra khỏi nông

nghiệp mà không cần phải trả công cao hơn đáng kể so với mức tiền công it ỏi mà

những lao động này nhận đƣợc trƣớc đây trong nông nghiệp. Điều này cho thấy sự

phát triển của khu vực công nghiệp trong giai đoạn đầu ít bị phụ thuộc vào nguồn

lực lao động (luôn sẵn có và dƣ thừa) mà chỉ bị giới hạn bởi những yếu tố nội tại

của chính khu vực công nghiệp nhƣ: vốn, công nghệ, khả năng kinh doanh...Chỉ khi

công nghiệp phát triển đến mức nào đó, lƣợng lao động và việc làm do nó tạo ra đủ

lớn thì hiện tƣợng lao động thừa mới biến mất. Khi này, để tiếp tục thu hút lao động

từ khu vực nông nghiệp sang những ngành công nghiệp, ngƣời ta phải trả công cao

hơn cho lao động. Mặt khác, ở điểm ngoặt này, việc giảm sút lực lƣợng lao động

làm việc trong nông nghiệp bắt đầu làm giảm sút sản lƣợng nông nghiệp, khiến cho

giá cả lƣơng thực, thực phẩm gia tăng. Điều đó lại tạo ra áp lực, đồng thời khuyến

khích sản xuất nông nghiệp phát triển. Ngành nông nghiệp buộc phải thay đổi để

cung cấp các điều kiện thuận lợi (cả về sản phẩm nông nghiệp lẫn lao động...) cho

sự phát triển công nghiệp. Nếu nhu cầu lao động của khu vực công nghiệp tăng

nhanh, năng suất lao động trong nông nghiệp cũng phải nhanh chóng đƣợc cải thiện

để không làm chậm lại quá tring tăng trƣởng của khu vực công nghiệp.

Không quá nhấn mạnh vào giả thiết lao động thừa, mô hình tân cổ điển về nền

kinh tế hai khu vực cho rằng dân số và lao động nông nghiệp tăng lên vẫn làm tăng sản

lƣợng đầu ra của nông nghiệp, bởi thế, sự di chuyển lao động ra khỏi khu vực này sẽ

làm sản lƣợng nông nghiệp sụt giảm. Trong điều kiện đó, để khu vực công nghiệp phát

triển thành công, tự bản thân nông nghiệp cũng phải phát triển đủ nhanh để tạo ra sản

47

lƣợng đầu ra đủ nuôi sống cả khu vực thành thị lẫn nông thôn với mức tiêu dùng cao

hơn, đồng thời không làm bất lợi cho sự phát triển công nghiệp. Theo cách nhìn này,

việc đầu tƣ cho nông nghiệp phát triển cần đƣợc coi trọng ngay từ đầu vì đó là điều

kiện cho sự phát triển của chính khu vực công nghiệp.

Các mô hình hai khu vực cho ta một cái nhìn khái quát về động thái chuyển

dịch cơ cấu lao động – việc làm trong quá trình CNH. Đối với mô hình “lao động

thừa”, giải quyết việc làm, xóa bỏ tình trạng lao động thừa cũng có nghĩa là tập

trung đầu tƣ cho việc phát triển các ngành công nghiệp. Đối với mô hình hai khu

vực tân cổ điển, qúa trình giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động đòi

hỏi phải phát triển đồng thời cả khu vực nông nghiệp lẫn công nghiệp.

Thực tiễn vấn đề việc làm và GQVL trong quá trình CNH ở các nƣớc đang

phát triển là một quá trình phức tạp và lâu dài. Khi ở giai đoạn đầu của sự phát triển,

các nƣớc này thƣờng đối diện với một thực trạng “bất lợi”: dân số đông và thƣờng

tăng nhanh; lực lƣợng lao động dồi dào song chất lƣợng thấp (không hoặc ít đƣợc

đào tạo, kỹ năng thấp, sức khỏe và dinh dƣỡng không đảm bảo), tập trung làm việc

ở khu vực nông nghiệp, nông thôn với năng suất và thu nhập thấp. Tình trạng thiếu

việc làm là phổ biến. Những điều kiện cho công nghiệp phát triển là hạn chế do khả

năng tích lũy vốn của nền kinh tế cực kỳ thấp, hạ tầng kinh tế kém phát triển, đội

ngũ doanh nhân thiếu thốn, các thể chế thị trƣờng chƣa phát triển...Thị trƣờng lao

động thƣờng đƣợc phân thành ba mảng lớn: lớn nhất là thị trƣờng lao động ở nông

thôn, nơi tiền công thƣờng rất thấp; thị trƣờng lao động phi chính thức ở thành thị -

nơi thu nạp khá nhiều lao động thừa cả ở nông thôn và thành thị với mức tiền lƣơng

khiêm tốn; thị trƣờng lao động chính thức ở thành thị, thƣờng có quy mô ban đầu

nhỏ bé, tập trung những lao động có kỹ năng cao hơn, đƣợc trả lƣơng cao hơn. Quá

trình CNH cũng là quá trình mà hai loại thị trƣờng đầu dần dần bị thu hẹp lại một

cách tƣơng đối, còn loại thị trƣờng sau cùng lại mở rộng dần một cách tƣơng ứng.

Khi quá trình CNH nhờ một lý do nào đó mà khởi động đƣợc (sự tích lũy vốn tiệm

tiến trong nền kinh tế hay nhờ thu hút đƣợc nguồn vốn từ nƣớc ngoài do sự mở cửa

kinh tế trong thời đại ngày nay...), các ngành nghề công nghiệp mới dần dần xuất

hiện. Một ngành mới ra đời thƣờng kéo theo sự xuất hiện của một loạt ngành/nghề

khác qua tác động liên kết của nó. Sự phát triển của khu vực công nghiệp cũng thúc

48

đẩy các hoạt động thƣơng mại, dịch vụ cũng nhƣ tác động đến chính khu vực sản

xuất nông nghiệp bằng việc cung cấp cho khu vực này những đầu vào mới, hay

công nghệ mới. Bằng việc thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp, sự phát triển

các ngành công nghiệp và dịch vụ chính là cách thức mà quá trình CNH giải quyết

bài toán việc làm. Tất nhiên, so với nông nghiệp, công nghiệp là khu vực sử dụng

tƣơng đối nhiều vốn, năng suất cao hơn, do đó số việc là mới tạo ra trên một đồng

vốn đầu tƣ thƣờng thấp hơn. Điều đó có nghĩa là sự dịch chuyển trong cơ cấu GDP

nghiêng dần về phía công nghiệp, dịch vụ hiện đại thƣờng chậm hơn nhiều so với sự

dịch chuyển về cơ cấu việc làm. Do đó, mở mang công nghiệp chắc chắn là cách thu

hút và giải phóng lao động khỏi nông nghiệp song với nhiều nƣớc, đây là một quá

trình diễn ra với tốc độ chậm.

Tuy nhiên, một số ít nƣớc lại tỏ ra khá thành công trong việc tạo lập và giải

quyết việc làm thông qua CNH khi quá trình gia tăng diễn ra với tốc độ khá nhanh.

Đây chính là trƣờng hợp các NIEs châu Á nhƣ Singapore, Hàn Quốc và vũng lãnh

thổ nhƣ Đài Loan, Hồng Kông. Những nƣớc này đã sớm triển khai chiến lƣợc CNH

hƣớng về xuất khẩu trên cơ sở thúc đẩy mạnh mẽ các ngành sản xuất xuất khẩu, mà

ở giai đoạn đầu chúng thƣờng là những ngành công nghiệp thâm dụng lao động (dệt

may, giày dép, lắp ráp...) theo nguyên tắc lợi thế so sánh. Do hƣớng ngoại, các

ngành đã phát triển rất nhanh do chúng không bị giới hạn bởi sự nhỏ hẹp của thị

trƣờng trong nƣớc. Mặt khác, do đây là những ngành thâm dụng lao động, nên

tƣơng quan giữa việc làm so với giá trị công nghiệp gia tăng thƣờng cao. Khi kinh tế

phát triển, tiền lƣơng chung tăng lên, những ngành công nghiệp thâm dụng lao động

không còn là lợi thế so sánh của những nƣớc này, thì do mức tích lũy vốn và năng lực

công nghệ tăng nhanh, chất lƣợng nhân lực đƣợc nâng cấp nhanh và liên tục, các nƣớc

này lại có điều kiện để phát triển và tạo ra việc làm từ những ngành thâm dụng vốn và

đòi hỏi kỹ năng lao động cao hơn, tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn.

Nhìn chung, GQVL trong quá trình CNH là quá trình lâu dài và phức tạp.

Các nƣớc thành công nhất trong lĩnh vực này chính là những nƣớc duy trì đƣợc tốc

độ tăng trƣởng kinh tế cao, liên tục trong một thời gian dài. Vì thế chính sách giải

quyết việc làm không tách rời chiến lƣợc và chính sách thúc đẩy tăng trƣởng kinh

tế, hƣớng đến môt sự tăng trƣởng nhanh, bền vững.

49

2.2.2. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển

kinh tế tri thức và ảnh hƣởng của nó đến xu thế việc làm

Cho đến trƣớc những năm 1980 của thế kỷ trƣớc, CNH ở các nƣớc đang phát

triển về cơ bản đƣợc tiến hành trong khuôn khổ của thời đại kinh tế công nghiệp.

Tuy nhiên, với sự xuất hiện của kinh tế tri thức, một thời đại kinh tế mới đã đƣợc

mở ra trong nền kinh tế thế giới. Điều đó đã tạo ra một bối cảnh mới, hoàn toàn

khác đối với quá trình CNH ở các nƣớc đang phát triển. Nó tác động sâu sắc đến nội

dung, cách thức và các bƣớc đi của tiến trình CNH ở các nƣớc này, khiến cho tiến

trình này mang những sắc thái. Đến lƣợt mình, các xu hƣớng việc làm cũng không

khỏi bị ảnh hƣởng.

2.2.2.1. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển

kinh tế tri thức

Theo định nghĩa của OECD , “Kinh tế tri thƣ́ c là nền kinh tế trong đó sƣ̣ sản

sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trƣởng ,

tạo ra của cải, viê ̣c làm trong tất cả các ng ành kinh tế”.[154, tr18]. Điều đó có nghĩa là, trong thời đại kinh tế tri thức, tri thức nổi lên nhƣ một nguồn lực số một, quyết

định và chi phối các nguồn lực khác trong quá trình tạo ra hàng hóa, dịch vụ. Hiện

trạng này bộc lộ rõ nhất ở các nƣớc phát triển, đặc biệt là Mỹ.

Tuy nhiên, nhƣ một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra, “kinh tế tri thức về bản chất

là nền kinh tế mang tính chất toàn cầu”.[90, tr11] Vì thế, tuy các nƣớc đang tiến

hành CNH chƣa hoàn thành các nhiệm vụ phát triển mà thời đại kinh tế công nghiệp

quy định, sự phát triển của các nƣớc này vẫn bị quy định bởi các yếu tố có tính thời

đại. Biểu hiện rõ rệt nhất là: muốn phát triển, các nƣớc này buộc phải tích cực hội

nhập vào nền kinh tế thế giới, nỗ lực tham gia vào hệ thống phân công lao động

quốc tế, chấp nhận các quy tắc, luật lệ trong cuộc chơi kinh tế toàn cầu. Trong bối

cảnh đó, CNH, HĐH ở các nƣớc này sẽ có những đặc điểm mới:CNH giờ đây mang

đậm nét và nghiêng hẳn về khía cạnh HĐH, mà thực chất là “tri thức hóa” toàn bộ

các quá trình kinh tế: CNH truyền thống tập trung vào bƣớc chuyển từ phƣơng thức

sản xuất chủ yếu dựa trên kỹ thuật thủ công sang phƣơng thức sản xuất công nghiệp

chủ yếu dựa trên kỹ thuật máy móc, cơ khí. Ở bối cảnh hiện nay, CNH không còn

đơn giản là sự lan tỏa các phƣơng pháp sản xuất công nghiệp (với trọng tâm là quá

50

trình cơ giới hóa) ra toàn bộ nền kinh tế. Nó càng ngày càng phải dựa nhiều hơn vào

việc ứng dụng các thành tựu KH và CN hiện đại. Các phƣơng tiện và công nghệ của

thời đại kinh tế tri thức (internet, các công nghệ truyền thông-thông tin hiện đại,

cộng nghệ sinh học, vật liệu mới…), dù đƣợc phát minh ở bên ngoài song cũng sẽ

đƣợc nhanh chóng áp dụng trong hầu khắp các ngành kinh tế. Không chỉ công

nghiệp mà nông nghiệp hay các ngành dịch vụ cũng sẽ đƣợc hiện đại hóa, tri thức

hóa dựa trên sự kết nối thông tin đa tầng và ứng dụng những thành tựu công nghệ

mới. Vì thế, cốt lõi của CNH hiện nay là hiện đại hóa, tri thức hóa

- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong CNH sẽ diễn ra nhanh hơn,

mang lại cơ hội lớn hơn cho phương thức CNH rút ngắn: Trong thời đại KTTT, các

quá trình kinh tế diễn ra nhanh hơn, với tốc độ cao hơn. Điều đó bị quy định bởi tốc

độ sản sinh rất nhanh của các tri thức và công nghệ mới. Cạnh tranh ngày càng dựa

vào tốc độ: áp dụng công nghệ mới nhanh, đƣa ra sản phẩm mới nhanh, giao hàng

nhanh. Sáng tạo và đổi mới không ngừng trở thành vũ khí cạnh tranh của các doanh

nghiệp. Đặt trong bối cảnh mở cửa, hội nhập điều này cũng chi phối hành vi và

phƣơng thức kinh doanh của các doanh nghiệp ở các nƣớc đang CNH. Vì thế quá

trình hiện đại hóa nông nghiệp cũng nhƣ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung sẽ

diễn ra nhanh hơn. sâu sắc hơn. Các ngành công nghiệp “cổ điển” giảm dần tỉ trọng

và vai trò của nó trở nên “ mãn chiều xế bóng ”. Các ngành có hàm lƣợng khoa học

và công nghệ tăng nhanh, đặc biệt là các ngành dịch vụ kỹ thuật phục vụ sản xuất.

Chúng giữ vai trò khớp nối, đảm bảo cho toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội đƣợc

thông suốt và phát triển với tốc độ cao. Cơ cấu kinh tế trở nên mềm hoá, khu vực

kinh tế phi hình thức đƣợc mở rộng, nền kinh tế “ tƣợng trƣng ” có quy mô lớn hơn

nền kinh tế “thực tế” nhiều lần. Điều đó mở ra những cơ hội mới cho việc áp dụng

kiểu “CNH rút ngắn”. Một mặt, các nƣớc đang phát triển giờ đây có thể tận dụng

đƣợc các “lợi thế của ngƣời đi sau” để bỏ qua những công nghệ trung gian và tiến

thẳng vào khu vực công nghệ hiện đại (nhƣ đã xảy ra ở Việt Nam trong ngành viễn

thông). Mặt khác, quan trọng hơn, các nƣớc này sẽ tận dụng đƣợc các lợi thế do thời

đại kinh tế tạo ra nhờ: 1) khai thác và tận dụng các nguồn lực (vốn, tri thức, công

nghệ…) sẵn có, dễ lƣu chuyển từ bên ngoài. So với trƣớc đây, cơ hội này lớn hơn

bao giờ hết; 2) chi phí chuyển đổi thấp trong việc biến các ngành nghề hay khu vực

51

kinh tế truyền thống thành các ngành nghề, khu vực kinh tế hiện đại. Tiến thẳng vào

các lĩnh vực kinh tế dựa trên các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại dù luôn

không phải là một nhiệm vụ dễ dàng song với điều kiện KTTT hiện nay, nó khả thi

hơn bao giờ hết. Điều đó cho phép các nƣớc đi sau rút ngắn quá trình CNH, HĐH.

- Quá trình CNH, HĐH gắn liền với toàn cầu hóa, do đó hội nhập quốc tế

được xem như một kênh hay cách thức CNH một cách hiệu quả: Nhƣ đã nói, kinh tế

tri thức dựa trên nền tảng của cuộc cách mạng KH- CN hiện đại, cho phép hầu hết

các nguồn lực kinh tế, đặc biệt là tri thức dễ dàng di chuyển trên không gian toàn

cầu và kết nối các nền kinh tế quốc gia thành một nền kinh tế toàn cầu. Toàn cầu

hóa, dù vẫn bị các rào cản và trở lực khác nhau ngăn cản, vẫn trở thành một xu

hƣớng nổi trội của KTTT. Trong điều kiện đó, để phát triển và tận dụng đƣợc các cơ

hội do thời đại mới mang lại, các nƣớc cần phải mở cửa, hội nhập để trở thành một

bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thế giới. Cơ cấu kinh tế trong nƣớc giờ đây không

còn là cơ cấu khép kín mà đƣợc kết nối vàocơ cấu kinh tế toàn cầu. Sản xuất trong

nƣớc ở mức độ khác nhau sẽ đƣợc kết nối trong các chuỗi cung ứng chung, mang

tính chất đa quốc gia. Thông qua các kênh thƣơng mại và đầu tƣ quốc tế, hoạt động

kinh tế các nƣớc có thể trở nên hiệu quả hơn, song cũng phu thuộc ngày càng sâu

vào nhau hơn. Dựa trên hệ thống phân công lao động và sản xuất quốc tế, các nƣớc

đang CNH giờ đây không phải phát triển đầy đủ các ngành cả ở 2 khu vực I và II

nhƣ kiểu CNH truyền thống trƣớc đây ở Liên Xô. (Nếu một nƣớc không có lợi thế

so sánh trong việc sản xuất thép, hay phát triển công nghiệp lọc dầu, hóa chất…, nó

có thể vẫn có thể có những sản phẩm này để phục vụ sự phát triển của các ngành

khác dựa trên cơ sở nhập khẩu). Trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở cửa và hội

nhập quốc tế sẽ làm thay đổi nội dung của chiến lƣợc phát triển các ngành kinh tế

của các nƣớc đang trong quá trình CNH.

- Các tiến trình và bước đi CNH, HĐH có thể diễn ra theo nhiều cách thức

khác nhau, bao gồm cả những bƣớc đi đột phá, nhảy vọtmà không nhất thiết phải

tuân thủ quy tắc phát triển tuần tự, với cơ cầu kinh tế “hoàn chỉnh” theo kiểu truyền

thống:CNH theo kiểu truyền thống thƣờng bắt đầu với việc phát triển những ngành

công nghiệp nhẹ cung cấp các hàng hóa thiết yếu cho đại đa số ngƣời dân có thu

nhập thấp, với công nghệ sản xuất tƣơng đối giản đơn, đòi hỏi ít vốn (nhƣ các ngành

52

chế biến thực phẩm, dệt may). Sau đó, nhờ quá trình tích lũy vốn và năng lực công

nghệ, các ngành chế biến sâu hơn (ví dụ các ngành sản xuất ô tô, tủ lạnh), cũng nhƣ

các ngành công nghiệp nặng (cơ khí, luyện kim, hóa chất…) mới đƣợc lần lƣợt phát

triển. Tuy nhiên, lô gic tuần tự theo kiểu nhƣ vậy không còn đúng hoặc nhất thiết

giữ nguyên trong tiến trình CNH với bối cảnh KTTT, toàn cầu hóa. Về nguyên tắc,

nhờ việc thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, một nƣớc kém phát triển vẫn có thể

phát triển đƣợc các ngành công nghiệp chế biến sâu, hay các ngành công nghiệp

nặng thâm dụng vốn, bất chấp sự tích lũy vốn trong nƣớc còn hạn chế, miễn là điều

này là hợp lý và hiệu quả xét trong phạm vi các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn

cầu. Một số ngành nông nghiệp vẫn có thể tiến thẳng đến khu vực hiện đại (ví dụ

sản xuất hoa – một loại hàng hóa cao cấp, xa xỉ, vốn ít đƣợc chú ý phát triển ở giai

đoạn đầu ở các nƣớc nghèo - phục vụ thị trƣờng xuất khẩu bằng công nghệ cao) nhờ

nhập khẩu công nghệ ngoại. Sự phát triển của ngành viễn thông ở Việt Nam chính

là kiểu phát triển nhảy vọt, phi tuần tự nhƣ vậy.

Những đặc điểm nhƣ vậy chắc chắn sẽ ảnh hƣởng không nhỏ đến các xu

hƣớng trong lĩnh vực lao động, việc làm cũng nhƣ cách thức GQVL ở các nƣớc

đang tiến hành CNH.

2.2.2.2.Xu hƣớng việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

gắn với phát triển kinh tế tri thức

Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH, HĐH trong bối cảnh

KTTT là cơ sở của xu hƣớng dịch chuyển cơ cấu việc làm trong điều kiện các nƣớc

đang phát triển hiện nay. Có thể thấy xu hƣớng đó bộc lộ ở một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, Việc làm và cơ cấu việc làm sẽ biến đổi và dịch chuyển nhanh

hơn. Trong bối cảnh mới, nhiều ngành mới sẽ liên tục xuất hiện, đồng thời, nhiều

ngành nghề cũ, truyền thống nếu không thích ứng đƣợc với hoàn cảnh mới sẽ biến

mất. CNH vốn dĩ sẽ tạo ra nhiều việc làm trong khu vực công nghiệp, dịch vụ hiện

đại. Tuy nhiên, CNH trong thời đạiKTTT sẽ tạo ra những việc làm mà trƣớc đây

chƣa từng có trong thời đại kinh tế công nghiệp và điều đó có thể xuất hiện ngay cả

ở những nƣớc nghèo. Đó là những việc làm liên quan đến công nghệ mới kiểu nhƣ: lắp

ráp, sữa chữa máy vi tính, lập trình, bán hàng online, các hoạt động sản xuất, kinh

doanh liên quan đến công nghệ viễn thông mới hay đến việc sử dụng các điện thoại

53

thông minh của hàng triệu ngƣời..v.v…Nhiều việc làm truyền thống (kiểu nhƣ một số

nghề thủ công truyền thống) biến mất. Tốc độ của sự biến đổi và dịch chuyển việc làm

từ khu vực nông nghiệp sang khu vực dịch vụ sẽ diễn ra nhanh hơn. Áp lực của hiện

tƣợng thiếu việc làm trong nông nghiệp nhờ những thay đổi kỹ thuật sản xuất trong khu

vực này tỏ ra mạnh hơn và mang lại nhiều thách thức hơn. Tốc độ nhanh hơn trong các

biến đổi kinh tế là một thuộc tính của thời đại kinh tế. Nó khiến cho ngƣời lao động giờ

đây ngày càng khó hơn trong việc duy trì một việc làm suốt đời. Xu hƣớng thay đổi,

“nhảy việc” liên tục dần dần trở nên bình thƣờng. Kỹ năng quan trọng của cá nhân mỗi

ngƣời lao động là kỹ năng thích ứng, là kỹ năng tự đào tạo, tự học hỏi theo nguyên lý

“học tập suốt đời” của KTTT.

Thứ hai, Nhu cầu về việc làm đòi hỏi kỹ năng cao sẽ tăng nhanh tƣơng đối so

với nhu cầu về việc làm giản đơn, kỹ năng thấp. Điều này, một mặt, sẽ mang lại lợi

thế cho những ngƣời đƣợc đào tạo tốt, có kỹ năng cao, mặt khác, sẽ gây ra sự thiếu

hụt nhất định về lao động có kỹ năng cao trong một thời kỳ nào đó, nếu hệ thống

giáo dục, đào tạo không đƣợc chú trọng phát triển đúng mức, đúng hƣớng.

Tiến bộ khoa học công nghệ đã làm gia tăng tƣơng đối việc làm cho lao động

kỹ thuật, phức tạp và ngƣợc lại, làm giảm một cách tƣơng đối việc làm đối với lao

động giản đơn. Quá trình phát triển của mỗi quốc gia ngày nay đƣợc cấu trúc lại dựa

trên những lợi thế của nguồn lực con ngƣời với hàm lƣợng trí tuệ ngày một tăng.

Nhờ có sự tiến bộ khoa học công nghệ mà phần tỷ lệ lao động chân tay kết tinh vào

sản phẩm ngày một rõ rệt, hàm lƣợng lao đông “chất xám” kết tinh vào sản phẩm

ngày một tăng lên. Chẳng hạn: trong nền kinh tế Mỹ, vào cuối những năm 1990, 93

triệu ngƣời, chiếm 80% lƣợng lao động ở Mỹ làm các công việc chuyển tải, xử lý

thông tin hay cung cấp dịch vụ cho ngƣời khác. [152, tr43]. Nền KTTT không

những làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới mà còn đòi hỏi ngƣời lao động phải

không ngừng nâng cao trình độ của mình, vì những lao động đã qua đào tạo này là

yếu tố chủ yếu làm tăng năng suất lao động và thức đẩy đổi mới. Trong thực tế ở

Mỹ các nghề nghiệp tri thức đòi hỏi phải tốt nghiệp trung học, chuyên nghiệp và đại

học đã tăng từ 27% năm 1983 lên 31% năm 1993 và 35% vào năm 1999. Bởi vậy

lao động giản đơn, lao động lành nghề bị thừa ra, thất nghiệp và không tìm đƣợc

việc làm. Hay trong nền kinh tế ở Austraylia số việc làm trong ngành công nghệ

54

thông tin đã tăng 46% trong 10 năm qua. Cầu trong các ngành công nghệ thông tin

đã tăng 12%/ năm. Trong khoảng 5 năm (2003 -2008) Autraylia phải vật lộn với sự

thiếu hụt các công nhân công nghệ thông tin. Có khoảng 30000 chỗ làm việc ở

Autraylia chƣa tìm đƣợc công nhân thích hợp và có nhiều cảnh báo tình hình này sẽ

còn xấu đi. Bởi vậy, ngành công nghệ thông tin của nƣớc này đã bắt đầu một

chƣơng trình cảnh tỉnh quốc gia và đang phát triển “ các trung tâm ƣu tú ” để giải

quyết sự thiếu hụt các kỹ năng công nghệ cao đang tăng lên. [96, tr 133]

Nhƣ vậy, quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT dẫn đến thiếu công

nhân tri thức và công nhân lành nghề nên đã mở rộng cơ hội việc làm cho những

ngƣời có tri thức, đƣợc đào tạo phù hợp với hệ thống công nghệ. Sự phát triển của

khoa học – công nghệ mang lại nhiều cơ hội để ngƣời lao động tạo ra việc làm, phát

huy khả năng cống hiến của mình cho xã hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách

thức. Khi đƣa khoa học, công nghệ tiến bộ vào sản xuất sẽ làm cho những nƣớc có

nguồn lao động giản đơn dƣ thừa nhƣng thiếu lao động phức tạp, có kỹ thuật cao

nhƣ Việt Nam hiện nay mất đi ƣu thế của lao động nhiều giá rẻ.

Thứ ba, cùng với quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế, lao động và việc làm

ở các ngành truyền thống, không có lợi thế so sánh sẽ gánh chịu nhiều rủi ro và có

xu hƣớng di chuyển sang những ngành có lợi thế so sánh. Tuy nhiên, đây là một quá

trình động, tạo ra sự biến đổi không ngừng về cơ cấu lao động, việc làm nếu xét

theo dài hạn.

CNH, HĐH trong thời đại KTTT là CNH mở, vì thế nó luôn gắn với các hoạt

đồng thƣơng mại quốc tế. Theo xu hƣớng tự do hóa thƣơng mại, các nƣớc ngày

càng phải tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế

so sánh, đồng thời, sản xuất trong nƣớc phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt từ các

hàng hóa nhập khẩu bên ngoài. Các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nƣớc dần dần

phải dỡ bỏ. Điều đó sẽ gây bất lợi và rủi ro cho những ngành sản xuất cạnh tranh

nhập khẩu trong nƣớc, nhất là những ngành vốn không có lợi thế so sánh, trƣớc đây

tồn tại đƣợc là nhờ chính sách đóng cửa hay bảo hộ. Trong điều kiện mới, những

lao động và việc làm trong những ngành này sẽ phải di chuyển sang những ngành

mà đất nƣớc có lợi thế so sánh. Tím kiếm, xác định đúng lợi thế so sánh, luôn có ý

thức nâng cấp lợi thế so sánh quốc gia sẽ phải là một nội dung trong chiến lƣợc phát

55

triển dài hạn của mỗi nƣớc.

Thứ tư, Lao động và việc làm ở khu vực dịch vụ tăng nhanh và việc chủ

động phát triển khu vực này là một kênh GQVL quan trọng của các nƣớc đang tiến

hành CNH.

Quá trình CNH thông thƣờng là quá trình tăng dần tỷ trọng của khu vực công

nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu tổng sản lƣợng và lao động xã hội, giảm dần tỷ trọng

tƣơng ứng của khu vực nông nghiệp, trong đó khu vực công nghiệp thƣờng có tốc

độ tăng trƣởng nhanh hơn khu vực dịch vụ. Chỉ khi đạt đƣợc trình độ của một nền

kinh tế phát triển, “hậu công nghiệp”, khu vực dịch vụ mới là khu vực hàng đầu của

nền kinh tế. Đó cũng chính là đặc trƣng của nền KTTT. Tuy nhiên, trong bối cảnh

mới, do các công nghệ mới kéo theo sự bùng nổ các dịch vụ hỗ trợ hoặc “ăn theo”

cũng nhƣ do tốc độ của các quá trình dịch chuyển kinh tế trở nên nhanh hơn thời kỳ

trƣớc nên ngay cả ở các nước đang phát triển, xu hƣớng phát triển các ngành, nghề

dịch vụ cũng diễn ra nhanh hơn. Sự bùng nổ các dịch vụ bán hàng, quảng cáo, tƣ

vấn, dạy học…trên nền tảng trực tuyến nói lên điều đó. Xu hƣớng này chứng tỏ tầm

quan trọng của khu vực dịch vụ trong việc tạo và GQVL gia tăng.

Thứ năm, hội nhập quốc tế mở ra những kênh GQVL mới, tạo ra cả cơ hội

lẫn thách thức mới cho việc GQVL.CNH, HĐH trong bối cảnhKTTT đi liền với

việc mở cửa, hội nhập quốc tế, do đó, nó sẽ tạo ra những cơ hội và thách thức mới

trong quá trình GQVL cho ngƣời lao động.

+ Cơ hội: Do phân công lao động xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc, các

ngành nghề mới liên tục xuất hiện, các nhu cầu mới về hàng hóa, dịch vụ luôn nảy

sinh khiến cho “dải” việc làm mà nền kinh tế có thể tạo ra ngày càng mở rộng. Nếu

có kiến thức, kỹ năng làm việc thích hợp, ngƣời lao động sẽ có nhiều cơ hội lựa

chọn việc làm hơn hẳn so với các thời kỳ trƣớc đây.

Bối cảnh mới cũng khiến cho ngƣời lao động có thể tiếp cận đến những

phƣơng thức đào tạo và tự đào tạo khác nhau để hấp thụ kiến thức, trau rèn kỹ năng

thích ứng với nhu cầu và đòi hỏi của thị trƣờng lao động. Quá trình đào tạo ngƣời

lao động giờ đây không còn bị bó buộc bởi cung cách giáo dục, đào tạo trong các

nhà trƣờng/trƣờng nghề truyền thống. Với sự phổ cập của internet và kho kiến thức

56

chung khổng lồ và ngày càng gia tăng, việc truy cập internet ngày càng dễ dàng với

chi phí thấp, quá trình đào tạo ngày càng trở thành quá trình tự đào tạo và điều này

mở ra nhiều cơ hội khác hẳn trƣớc trong việc đào tạo nguồn nhân lực.

Công nghệ mới cũng tạo điều kiện cho việc kết nối giữa cung và cầu lao

động trở nên dễ dàng hơn, ít tốn kém hơn. Ngƣời lao động có điều kiện thuận lợi

hơn trong việc tìm kiếm những thông tin về điều kiện, tiêu chuẩn và nơi tuyển dụng.

Các doanh nghiệp cũng dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm những ứng viên cần việc

làm, đáp ứng đƣợc yêu cầu tuyển dụng của mình. Sự kết nối thông tin thuận lợi hơn

phần nào khắc phục đƣợc sự bất cân xứng về thông tin trên thị trƣờng lao động,

khiến cho thị trƣờng này có điều kiện để vận hành hiệu quả hơn.

Thời đại KTTT khiến cho quá trình hội nhập quốc tế trở thành tất yếu và

chính điều này mở ra nhiều cơ hội phát triển nói chung và cơ hội GQVL cho các

nƣớc đi sau. Hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho các nƣớc đang phát triển huy động

đƣợc những nguồn lực từ bên ngoài (trong đó quan trọng nhất là vốn và công nghệ

tri thức, kinh nghiệm quản lý)để phát triển kinh tế quốc gia, đồng thời, cũng làm

cho việc sử dụng các nguồn lực trong nƣớc, kể cả nguồn lực lao động, trở nên hiệu

quả hơn. Trong xu thế TCHKT, phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc.

Tham gia vào sự phân công này, ngƣời lao động ở các quốc giađang phát triển có

thể phát huy đƣợc lợi thế, sử dụng có hiệu quả các năng lực của bản thân, nâng cao

hiệu quả của cả nền kinh tế.

Việc tham gia vào quá trình TCHKT giúp cho các nƣớc đang phát triển

nhanh chóng tiếp cận đƣợc thông tin, tri thức mới, góp phần nâng cao dân trí, phát

triển nguồn nhân lực. Ngƣời lao động cũng có cơ hôi và buộc phải tiếp cận đến các

tiêu chuẩn, chuẩn mực lao động quốc tế, nhờ đó có khả năng nâng cấp năng lực và

cơ hội việc làm cho mình.

Hội nhập quốc tế còn tạo nên dòng di chuyển lao động trong nƣớc và quốc tế:

Những cơ hội việc làm đƣợc tạo ra trong hợp đồng FDI, nhất là ở các khu công nghiệp

và khu chế xuất, sự trả công hấp dẫn hơn đã tạo nên dòng di chuyển lao động trong

nƣớc từ vùng nông thôn ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp chuyển đến khu công

nghiệp, từ nơi có thu nhập thấp hơn đến nơi có thu nhập cao hơn. Ngoài ra, thông qua

57

việc xuất khẩu lao động hoặc di cƣ quốc tế, ngƣời lao động ở các nƣớc đang phát triển

có cơ hội tìm đƣợc việc làm đƣợc trả công cao hơn ở bên ngoài.

+ Thách thức: CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT cũng tạo ra nhiều thách

thức đối với ngƣời lao động. Ngƣời lao động phải có năng lực cạnh tranh toàn cầu

và bắt nhịp với xu thế phát triển trong thế giới hiện đại, nếu không sẽ khó khăn

tham gia hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Trên thực tế, họ phải cạnh tranh việc

làm với các chuyên gia, những lao động có chuyên môn, kỹ năng cao đến từ nƣớc

ngoài (ở giai đoạn đầu, sự cạnh tranh này là động lực quan trọng cho sự phát triển

thị trƣờng lao động CMKT cao ở các nƣớc đang CNH). Sự cạnh tranh trên thị

trƣờng lao động trong nƣớc thậm chí có thể xảy ra trong các công đoạn việc làm chỉ

đòi hỏi lao động kỹ năng thấp (ví dụ: lao động Trung Quốc cạnh tranh lao động Việt

Nam trong các dự án FDI có vốn từ Trung Quốc). Khi làm việc ở nƣớc ngoài, thông

qua kênh xuất khẩu lao động hay di dân, ngƣời lao động cũng phải cạnh tranh việc

làm với các lao động bản xứ hoặc lao động đến từ các quốc gia khác. Tóm lại, thách

thức trong lĩnh vực GQVL ở các nƣớc đang phát triển đến chủ yếu từ đỏi hỏi ngày

càng cao về chất lƣợng nguồn nhân lực, trong khi vì nhiều lý do, tỷ lệ lao động ít

đƣợc đào tạo, kém kỹ năng trong lực lƣợng lao động ở các nƣớc đang phát triển nói

chung còn quá lớn. Việc nâng cấp trình độ chung của lực lƣợng lao động là cần thiết

song lại là một công việc không dễ dàng.

Nói chung, sự tác động của tiến trình CNH, HĐH nói chung và trong bối

cảnh thời đại KTTT nói riêng lên việc làm và thu nhập có thể hàm chứa nhiều khía

cạnh phức tạp. Trong ngắn hạn, nó có thể theo hai xu hƣớng, cả thuận và nghịch.

Một mặt, thông qua việc mở mang các cơ sở công nghiệp, phát triển các cơ sở hạ

tầng, thúc đẩy và làm sâu sắc các quá trình phân công lao động xã hội thông qua

việc mở rộng, phát triển các quan hệ thị trƣờng, CNH, HĐH sẽ mở ra nhiều cơ hội

việc làm mới (với thu nhập cao hơn) cho ngƣời lao động. Mặt khác, do sự biến đổi

về cơ cấu kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập quốc tế và quá trình đô thị

hóa, nhiều ngành, nghề truyền thống bị thu hẹp hoặc biến mất, nhiều việc làm sẽ

mất đi. Một số ngƣời lao động sẽ gặp khó khăn trong quá trình chuyển đổi việc làm.

Tuy nhiên, xét về dài hạn, tác động thuận chiều sẽ lấn át tác động nghịch chiều.

58

CNH, HĐH chẳng những là con đƣờng tất yếu để các nƣớc nghèo thúc đẩy phát

triển kinh tế, thoát khỏi trạng thái lạc hậu mà còn là phƣơng thức để đáp ứng nhu

cầu việc làm đầy đủ cho ngƣời lao động.

2.2.3. Nội dung của giải quyết việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, việc làm đƣợc tạo ra thông qua sự vận hành

của thị trƣờng lao động. Do đó, chính sách GQVLcủa nhà nƣớc đƣợc thực hiện thông

qua sự can thiệp của nó vào thị trƣờng lao động. Trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với

KTTT, điều đó đƣợc thể hiện ở những khía cạnh sau:

2.2.3.1.Tạo ra khung pháp lý cần thiết để thị trường lao động vận hành

trôi chảy

Ở các nƣớc đang phát triển, thị trƣờng lao động thƣờng chƣa phát triển, chƣa

hoàn thiện. Trong khi đó, quy mô và chất lƣợng hoạt động của thị trƣờng lao động

lại phụ thuộc nhiều vào các quy tắc chi phối các giao dịch trên thị trƣờng. Trong các

quy tắc đó, hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ về lao động đóng vai trò quan

trọng. Nó bao gồm các quy đinh pháp lý về điều kiện tham gia thị trƣờng lao động,

về mức độ dễ dàng hay không dễ dàng trong việc di chuyển lao động, về các ràng

buộc về nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên đối với công việc, tiền lƣơng, điều kiện

làm việc cũng nhƣ quá trình thƣơng lƣợng, mặc cả và ký kết các hợp đồng lao đồng.

Nó bảo đảm rằng, mỗi khi hợp đồng lao động đƣợc ký kết một cách hợp pháp, các

bên cần phải tuân thủ và sẽ bị trừng phạt hay bồi hoàn khi một bên nào đó vi phạm.

Nhờ việc cung ứng dịch vụ pháp lý nói trên, nhà nƣớc khiến cho các giao dịch thị

trƣờng trở nên dễ thực hiện hơn, các cam kết trở nên đáng tin cậy hơn, và các quan

hệ lao động có thể thực hiện với chi phí giao dịch thấp hơn. Rõ ràng chất lƣợng của

hệ thống các quy định pháp lý điều tiết thị trƣờng lao động sẽ ảnh hƣởng không nhỏ

đến sự hoạt động hiệu quả của thị trƣờng này, nhờ đó, gián tiếp tác động đến quá

trình tạo lập và GQVL trong nền kinh tế.

Vì thế, việc hoàn thiện thị trƣờng lao động, trên cơ sở tạo ra các khung pháp

lý để nó có thể vận hành hiệu quả là bƣớc đi cần thiết cho việc GQVL đối với các

nƣớc đang CNH.

59

2.2.3.2. Các chính sách tác động về phía cầu lao động

Về nguyên tắc khi cầu lao động gia tăng, số lƣợng lao động đƣợc thuê mƣớn

trên thị trƣờng sẽ gia tăng, nếu các điều kiện khác đƣợc giữ nguyên. Vì thế khuyến

khích tăng cầu về lao động cũng là cách để nhà nƣớc thúc đẩy quá trình gia tăng và

GQVL. Vì cầu về lao động xuất phát từ các doanh nghiệp nên chính sách kích cầu

về lao động cũng là chính sách khuyến khích các doanh nghiệp hay ngƣời sản xuất

mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình. Nói chung, nhà nƣớc có thể làm đƣợc

điều này thông qua nhiều biện pháp chính sách khác nhau: giảm thuế hay giảm các

chi phí và thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động khởi nghiệp hay đầu tƣ sẽ

khuyến khích nhiều ngƣời thành lập doanh nghiệp mới, mở mạng quy mô các doanh

nghiệp cũ, nhờ đó cầu về lao động gia tăng và việc làm sẽ đƣợc tạo ra nhiều hơn.

Việc cải thiện môi trƣờng đầu tƣ và kinh doanh nói chung cũng tác động thuận lợi

đến tiến trình GQVL theo hƣớng này. Tƣơng tự nhƣ vậy, các chính sách kích cầu

trong thời kỳ nền kinh tế phải đối phó với tình trạng suy thoái kinh tế hay thiếu hụt

tổng cầu, hay chính sách khuyến khích xuất khẩu và hỗ trợ doanh nghiệp tăng

cƣờng năng lực cạnh tranh xuất khẩu cũng cũng tác động đến chiều hƣớng tích cực

đối với quá trình GQVL.

Việc nhà nƣớc đầu tƣ kịp thời và đủ mức cho việc phát triển các hạ tầng chung

cho nền kinh tế (bao gồm cả hạ tầng mềm nhƣ hệ thống pháp luật, đặc biệt là các bộ

luật hay quy định pháp lý có liên quan đến các hoạt động, kinh doanh lẫn hạ tầng

cứng nhƣ hệ thống đƣờng xá, sân bay, bến cảng, điện lực…) cũng có ý nghĩa cực kỳ

quan trọng đối với sự phát triển của khu vực doanh nghiệp, do đó, đến tiến trình giải

quyết việc làm. Các hạ tầng chung của nền kinh tế càng phát triển, hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp càng thuận lợi, chi phí kinh doanh của họ càng giảm

thiểu, quy mô chung của các hoạt động kinh tế càng dễ gia tăng. Trong trƣờng hợp

này, việc làm có điều kiện để đƣợc tạo ra nhiều hơn. Ngƣợc lại, hạ tầng kinh tế càng

kém phát triển, hay phát triển một cách thiếu đồng bộ, hoạt động chung của các

doanh nghiệp trở nên khó khăn, tốn kém, hiệu quả thấp, năng lực cạnh tranh của các

doanh nghiệp trên thị trƣờng thế giới sẽ hạn chế. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy, khu vực

doanh nghiệp sẽ mở mang và phát triển chậm hơn. Hệ quả hiển nhiên là việc làm

60

cũng ít đƣợc tạo ra hơn, việc cắt giảm tỷ lệ thất nghiệp cũng sẽ khó khăn hơn.

Trong quá trình CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT, các chính sách tác

động đến cầu về lao động có thể đƣợc định hƣớng theo những khía cạnh sau:

- Tạo nhanh việc làm trên cơ sở đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nông

nghiệp nông thôn cần coi trọng việc các cơ sở công nghiệp tuyển dụng lao động tại

chỗ.Việc xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong qúa trình

CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn không chỉ tạo ra một lƣợng lớn việc làm để thu

hút số lao động ở đô thị, mà còn thu hút một lƣợng lớn lao động vốn là những ngƣời

nông dân hoặc không nghề nghiệp ổn định sống ở các vùng nông thôn, nhờ đó góp

phần làm tăng năng suất lao động tại các vùng này. Số việc làm không chỉ đƣợc tạo

ra cho số lao động làm việc chính thức tại các nhà máy, các cơ sở sản xuất, kinh

doanh, mà còn cho một số lƣợng lớn lao động làm dịch vụ, xây dựng cơ bản và các

khu vực phi chính thức khác phục vụ cho phát triển công nghiệp kể cả ở trong và

ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất.

- Tạo việc làm trên cơ sở ƣu tiên phát triển các ngành công nghiệp chế biến,

có giá trị gia tăng cao, khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, phát

triển các ngành dịch vụ, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hƣớng hàng hóa, phát

triển hình thức trang trại, mở rộng việc làm ở khu vực nông thôn.Cần tạo ra cơ hội

để ngƣời lao động tự tạo việc làm. Nhà nƣớc cần có chính sách và biện pháp để các

cơ sở sản xuất khi nhận quyền sử dụng đất phải có kế hoạch ƣu tiên tuyển dụng, thu

hút lao động bị mất việc làm do bị thu hồi đất. Đây là biện pháp GQVL cần thiết để

tạo đƣợc sự đồng thuận giữa các đối tƣợng liên quan đến đất bị thu hồi

- Tạo việc làm trên cơ sở khuyến khích sự phát triển các ngành dịch vụ, tiến

dần đến việc nâng cao tỷ trọng các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Đây là

hƣớng đi mà các nƣớc đang phát triển có thể tận dụng gắn liền với sự xuất hiện các

dịch vụ hiện đại, do cuộc cách mạng thông tin – viễn thông hiện đại tạo ra.

- Tạo việc làm qua quá trình tăng cƣờng hội nhập quốc tế: Để GQVL, chính

phủ các nƣớc đang CNH thƣờng tăng cƣờng thu hút FDI, theo cả hai hƣớng ƣu tiên:

một là những ngành thâm dụng lao động để giải quyết các vấn đề việc làm trƣớc

mắt; hai là những ngành công nghệ cao, có khả năng nâng cấp trình độ công nghệ

61

chung của nền kinh tế trong dài hạn. Lý tƣởng sẽ là phát triển những ngành công

nghệ tiên tiến, hiện đại song lại sử dụng nhiều lao động hơn là sử dụng nhiều vốn

nhƣ là các ngành công nghiệp phần mềm. Trong điều kiện còn dƣ thừa lao động,

việc thu hút đầu tƣ và phát triển các ngành sử dụng nhiều vốn, nhất là khi các dự án

đầu tƣ FDI đƣợc thực hiện trên cơ sở liên doanh, có sử dụng cả nguồn vốn khan

hiếm trong nƣớc thƣờng không phải là bƣớc đi hiệu quả trong lĩnh vực GQVL.

Một cách để tạo nhanh việc làm mà các NIEs đã áp dụng thành công là tăng

cƣờng phát triển các ngành xuất khẩu với cơ cấu xuất khẩu ngày càng tiến bộ (ngày

càng dựa nhiều hơn vào những ngành có giá trị gia tăng cao, ít sử dụng tài nguyên

thô hay lao động giản đơn).Nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động cũng là giải pháp

giải quyết việc làm trong giai đoạn đầu, khi vấn đề thiếu việc làm còn nghiêm trọng,

quá trình CNH, HĐH trong nƣớc chƣa tạo đủ việc làm cho ngƣời lao động, vì thế

việc tận dụng cầu lao động từ thị trƣờng bên ngoài là cần thiết.

- Xét từ góc độ các chủ thể có liên quan đến vấn đề việc làm, cầu về lao

động chủ yếu xuất phát từ phía các doanh nghiệp. Vì thế, chính sách “kích cầu”

về lao động cũng là chính sách tạo môi trƣờng thuận lợi cho việc phát triển đội

ngũ doanh nhân, và hệ thống các doanh nghiệp ở các ngành, nghề khác nhau.

Việc thành lập các doanh nghiệp, cũng nhƣ việc gia nhập hay rút lui khỏi các thị

trƣờng của chúng phải dễ dàng, với phí tổn thấp. Điều này liên quan nhiều đến

môi trƣờng pháp lý cũng nhƣ chất lƣợng hoạt động quản trị quốc gia của nhà

nƣớc.Với các nƣớc đang phát triển, do các thể chế kinh tế, chính trị chƣa hoàn

thiện thì điều này là rất có ý nghĩa.

2.2.3.3. Các chính sách tác động về phía cung lao động

Các chính sách kiểm soát dân số: Đối với các nƣớc đang phát triển, việc

kiểm soát tốt quá trình gia tăng dân số để duy trì quy mô lực lƣợng lao động thích

hợp so với quy mô dân số chung cũng làm giảm đi những áp lực việc làm do sự bổ

sung thƣờng xuyên của những ngƣời mới tham gia vào lực lƣợng lao động. Đây

thƣờng là chính sách chung đƣợc nhiều nƣớc áp dụng mặc dù mức độ thành công

là khác nhau.

Tuy nhiên, trong điều kiện KTTT, hƣớng GQVL quan trọng lại không phải

62

là kiểm soát sự gia tăng nguồn cung lao động mà là gia tăng nhanh chất lƣợng của

nguồn cung này. Do nhƣ trên đã nói, trong bối cảnh kinh tế tri thức, nhu cầu lao

động đƣợc đào tạo , có chất lƣợng cao, kỹ năng cao tăng nhanh tƣơng đối, nên việc

làm sẽ đƣợc tạo ra nhiều hơn, đồng thời mức sống và thu nhập của ngƣời lao động

cũng đƣợc cải thiện nhanh hơn nếu tỷ trọng lao động kỹ năng cao trong lực lƣợng

lao động xã hội tăng lên, chất lƣợng chung của đội ngũ lao động cải thiện nhanh.

Việc này chỉ có thể thực hiện đƣợc trƣớc hết thông qua chính sách ƣu tiên đầu tƣ và

phát triển có hiệu quả cả hệ thống giáo dục, đào tạo (cả đối với các trƣờng công lẫn

trƣờng tƣ). Một hệ thống giáo dục, đào tạo rộng khắp, có chất lƣợng mà đông đảo

ngƣời dân có thể dễ dàng tiếp cận và hƣởng thụ sẽ tăng cƣờng chất lƣợng với cơ cấu

thích hợp của nguồn nhân lực, giúp ngƣời lao động dễ có việc làm hơn, có điều kiện

đạt đƣợc mức thu nhập cao hơn. Ngoài ra, các chƣơng trình hỗ trợ đào tạo và đào

tạo lại của nhà nƣớc có thể làm giảm thất nghiệp cơ cấu.

Chất lƣợng cung về lao động còn phụ thuộc vào sức khỏe của ngƣời lao

động. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhƣ điều kiện ăn, ở, đi lại, rèn luyện sức

khỏe, hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt là hệ thống y tế. Đến lƣợt mình, sự phát triển

của hệ thống y tế, đặc biệt hệ thống y tế công cộng, có khả năng cung cấp các dịch

vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản và ban đầu cho đông đảo ngƣời dân là nằm trong sự

lựa chọn các chính sách phát triển của nhà nƣớc.

Những định hƣớng chính sách tác động đến cung lao động bao gồm:

- Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, nâng nhanh tỷ lệ lao động đƣợc đào

tạo, lao động có trình độ cao, kỹ năng cao thích ứng với đòi hỏi của nền kinh tế tri

thức, toàn cầu hóa ( thông qua các giải pháp chính: phát triển giáo dục đào tạo, nâng

cấp hệ thống y tế...)

- Xác định nhu cầu về nguồn nhân lực cho các ngành KTTT. Đào tạo nguồn

nhân lực và di chuyền nguồn nhân lực từ ngành này sang ngành khác,phát triển giáo

dục - đào tạo, đặc biệt là công tác dạy nghề, bồi dƣỡng kiến thức cho ngƣời lao

động nhằm từng bƣớc tri thức hoá giai cấp nông dân, trƣớc hết là lực lƣợng lao

động trẻ ở nông thôn.

- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ cho các ngành kinh tế khác và đào

63

tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu cho các ngành kinh tế đó, cải cách triệt để nền giáo dục,

phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao phục vụ cho phát triển KTTT.

2.2.3.4. Các chính sách hỗ trợ

-Thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm, các hội chợ về việc làm cũng

nhƣ các kênh truyền thông/ thông tin khác, nhà nƣớc có thể hỗ trợ các hoạt động

cung cấp thông tin về thị trƣờng lao động, tạo ra sự kết nối cung với cầu về lao

động. Nhờ đó, thị trƣờng lao động sẽ hoạt động trôi chảy hơn, việc làm sẽ đƣợc giải

quyết tốt hơn. Mặt khác, nhà nƣớc cũng cần khuyến khích sự phát triển của các cơ

sở tƣ nhân trong việc cung cấp các dịch vụ thông tin về thị trƣờng lao động.

- Chú trọng đầu tƣ kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin:

đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế là nhiệm vụ hay chức năng của nhà

nƣớc, do khu vực tƣ nhân thƣờng không đầu tƣ cho những hàng hóa công cộng này.

Sự phát triển đúng mức, kịp thời các cơ sở hạ tầng là điều kiện thiết yếu để cho cả

nền kinh tế đặc biệt là khu vực kinh tế tƣ nhân phát triển. Do vậy, đó cũng là điều

kiện tối cần thiết cho tăng trƣởng kinh tế và tăng trƣởng việc làm. Trong điều kiện

KTTT, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (liên quan đến mạng lƣới interner, mạng

lƣới viễn thông) đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Vì thế, các chính phủ có tầm nhìn

dài hạn thƣờng ƣu tiên cao cho hoạt động đầu tƣ này.

- Phát triển KH - CN tạo điều kiện cho những ngành dựa trên KTTT có điều

kiện ra đời và phát triển thuận lợi cũng là hƣớng chính sách quan trọng đối với lĩnh

vực GQVL trong điều kiện CNH, HĐH gắn với KTTT. Đây là điều kiện để nền

kinh tế nói chung, các doanh nghiệp nói riêng có thể nâng cao đƣợc năng lực cạnh

tranh quốc tế của mình, do đó có điều kiện thuận lợi để tăng trƣởng phát triển

nhanh, tạo việc làm bền vững hơn cho ngƣời lao động.

- Hoàn thiện các thể chế thị trƣờng khác nhƣ thị trƣờng vốn, thị trƣờng đất

đai., thị trƣờng dịch vụ KH -CN..: Thị trƣờng lao động chỉ động hoạt tốt, do đó việc

làm đƣợc tạo ra nhanh và hiệu quả hơn nếu nhƣ nó đƣợc hỗ trợ bởi sự hoạt động

hiệu quả của các thị trƣờng nguồn lực khác nhƣ thị trƣờng vốn, thị trƣờng đất đai,

thị trƣờng dịch vụ KH - CN. Chẳng hạn, sự thiếu vắng hay yếu kém của hệ thống

ngân hàng, của thị trƣờng chứng khoán sẽ làm cho sự phân bổ vốn trong nền kinh tế

64

trở nên không hiệu quả. Trong điều kiện này, hiệu quả hỗ trợ vốn của thị trƣờng cho

các doanh nghiệp bị suy giảm, chi phí sử dụng vốn của các doanh nghiệp gia tăng.

Hệ thống tài chính – ngân hàng yếu kém còn ẩn chứa những rủi ro khó lƣờng, có thể

gây hậu quả lớn cho nền kinh tế. Trong môi trƣờng chung nhƣ vậy, hiệu quả GQVL

sẽ thấp.

- Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội: Hệ thống an sinh xã hội đƣợc thiết kế

nhằm tạo ra một màng lƣới an toàn tối thiểu giúp ngƣời dân đối phó tốt hơn với các

rủi ro mà họ có thể gặp phải trong cuộc sống, trong đó có rủi ro trong lĩnh vực lao

động – việc làm (rủi ro mất việc, rủi ro do gặp tai nạn lao động...). Nó là cần thiết để

làm dịu đi những bất ổn hay xung đột xã hội, góp phần vào việc thực hiện công

bằng xã hội. Tuy nhiên, mức độ phát triển của hệ thống an sinh xã hội lại tùy thuộc

vào trình độ phát triển chung của nền kinh tế. Mặt khác, nó còn tác động không nhỏ

đến tỷ lệ dân số tham gia vào lực lƣợng lao động, do đó cũng có ý nghĩa thậm chí là

tiêu cực đối với vấn đềGQVL. Thực tiễn ở nhiều nƣớc đã chứng minh rằng, một

chính sách bảo hiểm và trợ cấp thất nghiệp quá hảo phóng lại không khuyến khích

những ngƣời thất nghiệp nỗ lực tìm kiếm việc làm. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp có

thể gia tăng.

2.2.4. Các tiêu chí đánh giá giải quyết việc làm trong bối cảnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Mức độ thành công của chính sách GQVL đối với các nƣớc đang CNH

trongbối cảnh KTTT có thể đánh giá trên cơ sở hai loại tiêu chí: 1) những tiêu chí

thể hiện sự tiến bộ về mặt số lƣợng; 2) những tiêu chí thể hiện sự tiến bộ về mặt

chất lƣợng, phù hợp với xu hƣớng phát triển dài hạn mà nền kinh tế phải hƣớng tới.

2.2.4.1. Các tiêu chí chung

Tiêu chí tổng quát để đánh giá các thành tựu về giải quyết việc làm chính là

𝐸

tỷ lệ việc làm hay ngƣợc lại, tỷ lệ thất nghiệp trong lực lƣợng lao động.

𝐸+𝑈

Tỷ lệ việc làm e (%) = x 100, trong đó E là số ngƣời có việc làm, U là số

𝑈

ngƣời thất nghiệp, còn tổng (E + U) là số ngƣời nằm trong lực lƣợng lao động.

𝐸+𝑈

Tỷ lệ thất nghiệp u (%) = x 100 = 100 % - e

Nhƣ vậy, hai chỉ tiêu này có thể sử dụng thay thế nhau: e cao thì u sẽ thấp và

65

ngƣợc lại. Vì thế, để phản ánh kết quả GQVL, thông thƣờng ngƣời ta sử dụng chỉ

tiêu tỷ lệ thất nghiệp chung của nền kinh tế (quốc gia hay địa phƣơng). Duy trì tỷ lệ

này ở mức thấplà mục tiêu của các chính sách GQVL.

Xét theo thời gian, sự cải thiện trong kết quả GQVL là làm tỷ lệ thất nghiệp

giảm xuống. Tuy nhiên, vì tỷ lệ thất nghiệp không bao giờ giảm xuống 0, nên tỷ lệ

thất nghiệp lý tƣởng thể hiện trạng thái cân bằng của thị trƣờng lao động là tỷ lệ thất

nghiệp tự nhiên. Tƣơng ứng với tỷ lệ thất nghiệp này, mức công ăn việc làm trong

nền kinh tế đƣợc gọi là mức công ăn, việc làm đầy đủ.

Ở các nƣớc phát triển, mục tiêu việc làm là đƣa tỷ lệ thất nghiệp về tỷ lệ thất

nghiệp tự nhiên, và trong dài hạn, nếu có thể là giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.

Ở các nƣớc đang phát triển, việc tính toán tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là khó

khăn. Vì thế, việc đánh giá chiều hƣớng cải thiện dài hạn của tình trạng thất nghiệp

(giảm tỷ lệ thất nghiệp) là khả dĩ hơn, mặc dù chất lƣợng của các con số thống kê về

ngƣời thất nghiệp hay ngƣời có việc làm vẫn là một thách thức.

Ở các nƣớc đang phát triển, do dân số và lực lƣợng lao động thƣờng tăng

nhanh, nên để giảm tỷ lệ thất nghiệp cũng hàm ý rằng: tốc độ tăng trƣởng việc làm

phải cao hơn tốc độ tăng của lực lƣợng lao động. Hai chỉ tiêu này có thể dùng để

giải thích thành tựu trong lĩnh vực GQVL, trong đó đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng

việc làm cần đƣợc ƣu tiên.

Ngoài chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp chung, ngƣời ta còn có thể phân tích tỷ lệ thất

nghiệp theo nhóm tuổi, theo giới tính. Việc cải thiện tỷ lệ thất nghiệp của lao động

phụ nữ có thể phản ánh, trong một mức độ nào đó, sự tham gia tích cực hơn của lao

động nữ trong các hoạt động kinh tế xã hội. Xét theo lứa tuổi, tỷ lệ thất nghiệp của

nhóm ngƣời trung niên xứng đáng đƣợc chú ý vì nhóm ngƣời này thƣờng là những

lao động có kinh nghiệm, song không quá già, lại đóng vai trò là lao động trụ cột

trong gia đình.

2.2.4.2. Cơ cấu chuyển dịch việc làm

Theo nội dung của tiến trình CNH, HĐH gắn với KTTT, cơ cấu việc làm

chuyển dịch theo hƣớng tiến bộ sẽ đƣợc đánh giá thông qua việc so sánh tỷ lệ lao

động (việc làm) trong các khu vực của nền kinh tế quốc dân. Trong phạm vi quốc

66

gia cơ cấu dịch chuyển lao động trong khối kinh tế đƣợc xét ở nhiều khía cạnh khác

nhau. Cụ thể nhƣ sau:

Cơ cấu dịch chuyển lao động theo ngành nghề

Ngành nghề ở đây có thể phân chia theo 3 lĩnh vực chính là: Nông nghiệp,

công nghiệp và dịch vụ hoặc phân chia thành những ngành cụ thể hơn. Nhìn vào cơ

cấu dịch chuyển lao động của một quốc gia có thể đánh giá đƣợc sự dịch chuyển

của cơ cấu kinh tế. Từ đó có thể đánh giá triển vọng phát triển kinh tế của quốc gia

đó. Trong tƣơng quan so sánh, sự tiến bộ đó thể hiện ở chỗ:

- Tỷ lệ việc làm trong nông nghiệp giảm; tỷ lệ việc làm trong công nghiệp,

dịch vụ tăng

- Tỷ lệ việc làm trong các ngành công nghệ cao hoặc sử dụng lao đƣợc đào

tạo, có kỹ năng ngày càng tăng so với những ngành sử dụng lao động giản đơn (

tiêu chí này có thể xét chung trong nền kinh tế và xét riêng từng khu vực: công

nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.

Cơ cấu dịch chuyển lao động ( việc làm) theo trình độ

Cơ cấu dịch chuyển lao động theo trình độ phản ánh quá trình dịch chuyển

lao động từ lao động không có chuyên môn, lao động bán lành nghề sang dòng lao

động có kỹ năng và trình độ tri thức ngày càng cao. Lao động không có chuyên môn

bao gồm những ngƣời lao động có trình độ ở cấp trung học hoặc thấp hơn. Với trình

độ nhƣ vậy họ chỉ có thể làm những công việc chân tay, nặng nhọc, giản đơn. Họ

cung cấp cho thị trƣờng ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp không đòi hỏi kỹ

thuật cao. Lao động bán lành nghề gồm những ngƣời lao động ở trình độ trung học

cơ sở, đã qua đào tạo nghề, thậm chí cả những ngƣời có trình độ đại học. Họ có

những kỹ năng cơ bản để làm việc trong những ngành công nghiệp, dịch vụ không

đòi hỏi kỹ thuật cao. Lao động có kỹ năng gồm những ngƣời lao động đƣợc đào tạo

ở trình độ đại học trở lên đƣợc đào tạo nghề kỹ thuật cao.Họ làm việc trong các

ngành công nghiệp và dịch vụ công nghệ cao. Đây là những nhân tố thúc đẩy nền

kinh tế phát triển theo hƣớng CNH,HĐH gắn với phát triển KTTT.

Kinh tế càng phát triển thì những việc làm chuyên môn thấp càng trở nên ít

đi bởi đƣợc thay thế bằng máy móc công nghệ hiện đại. Ngƣợc lại việc làm yêu cầu

67

công nghệ cao ngày càng tăng làm cho dòng lao động đƣợc dịch chuyển. Nhìn vào

cơ cấu dịch chuyển lao động theo trình độ có thể đánh giá đƣợc trình độ phát triển

của nền kinh tế, từ đó có thể tìm ra xu hƣớng vận động của các quan hệ lao động –

việc làm. Bởi vậy, quá trình GQVL trong bối cảnh CNH,HĐH gắn với phát triển

KTTT cần bảo đảm tiêu chí: Tốc độ tăng trƣởng việc làm trong các ngành công

nghệ cao, lao động có kỹ năng đại diện cho xu hƣớng phát triển KTTT phải tăng

nhanh hơn tốc độ tăng trƣởng việc làm của nền kinh tế nói chung trong quá trình

GQVL cho ngƣời lao động.

Ngoài ra, có thể đánh giá xu hƣớng mở cửa, hội nhập quốc tế (một đặc điểm nổi

trội của kinh tế tri thức) qua chỉ tiêu tốc độ tăng lao động (việc làm) trong các ngành

xuất khẩu, tỷ lệ đóng góp vào kết quả giải quyết việc làm của khu vực FDI, đặc biệt là

tỷ lệ tăng trƣởng việc làm trong các ngành công nghệ tiên tiến ở khu vực này.

2.3. Kinh nghiệm của các nƣớc về giải quyết việc làm trong bối cảnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

2.3.1. Kinh nghiệm giải quyết việc làm của một số quốc gia

2.3.1.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ

Từ những năm 1980, Hoa Kỳ đã tiến vào nền kinh tế mới – dựa trên cơ sở

cách mạng công nghệ thông tin và toàn cầu hóa thị trƣờng đồng thời chuyển dịch cơ

cấu lao động và GQVL cho ngƣời lao động dựa trên nền tảng KTTT. Đến năm 1990

Mỹ đã nhanh chóng thúc đẩy cuộc cách mạng tin học, thƣơng nghiệp và điều chỉnh

ngành nghề. Các ngành công nghệ cao, công nghệ dịch vụ và văn phòng hiện đã trở

thành động lực tăng trƣởng của nền kinh tế Mỹ, đóng góp 60% GDP, thu hút và tạo

ra một lƣợng lao động lớn. Vào cuối những năm 1990, nền kinh tế Mỹ đã tạo ra việc

làm cho 93 triệu ngƣời – chiếm 80% lực lƣợng lao động ở Mỹ làm các công việc

truyền tải, xử lý thông tin hay cung cấp dịch vụ. Trong số những ngƣời này, lao

động làm trong các lĩnh vực quản lý và chuyên môn đã tăng từ 22% năm 1979 lên

30% vào cuối những năm 1990 và 40% vào năm 2000. Số lao động trí óc đã vƣợt số

lao động chân tay. Năm 1997, ngành công nghệ thông tin sử dụng 4,8 triệu ngƣời,

ngành ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng 43 triệu ngƣời, chiếm 45% số ngƣời

làm việc trong các doanh nghiệp tƣ nhân. Năm 2006 chiếm 50%. Nền kinh tế mới

68

làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới ở Mỹ đòi hỏi ngƣời lao động phải không

ngừng nâng cao trình độ của mình và chính những lao động đã qua đào tạo này là

yếu tố chủ yếu làm tăng năng suất lao động và thúc đẩy đổi mới. Các nghề nghiệp

tri thức đòi hỏi ngƣời lao động phải tốt nghiệp trung học và đại học đã tăng từ 27%

năm 1983 lên 31% năm 1993, 32% năm 1999 và 35% năm 2006. [152, tr215]

Nền kinh tế mới của Mỹ vận hành hết sức năng động bởi nó luôn cho ra đời

những công ty tƣ nhân tuy nhỏ nhƣng luôn đổi mới và linh hoạt, đƣợc coi là động

lực của nền kinh tế Mỹ đồng thời là chủ thể GQVL cho ngƣời lao động. Chẳng hạn,

trong thời kỳ 1993 – 1998, số lƣợng các công ty này đã tăng lên hơn 40% và tạo ra

70% số việc làm cho nền kinh tế Mỹ thời kỳ này. Ngoài ra, trong những năm 1990,

tình hình việc làm ở Mỹ cũng xáo động mạnh bằng việc các việc làm mới liên tục

thay thế cho các việc làm cũ – thể hiện tiềm năng phát triển bền vững và lâu dài của

một nền kinh tế mới. Các ngành công nghệ cao đã tăng rất nhanh và góp phần tạo ra

nhiều việc làm cho ngƣời lao động Mỹ. Việc làm trong khu vực công nghệ thông tin

cũng tăng mạnh hơn các khu vực kinh tế khác, hiện chiếm 6,1% lực lƣợng lao động

Mỹ. Sản lƣợng của khu vực công nghệ thông tin nhanh đồng nghĩa với sự tăng

mạnh về số lƣợng việc làm của khu vực này. Năm 1998, khoảng 7,4 triệu công nhân

làm việc trong khu vực công nghệ thông tin, chiếm 6,1% lực lƣợng lao động Mỹ.

Con số này bao gồm công nhân trong các ngành sản xuất công nghệ thông tin và

trong những ngành khác nhƣ phân tích hệ thống, xử lý máy tính hay vận hành và

bảo quản hạ tầng công nghệ thông tin trong các cơ sở sản xuất không thuộc lĩnh vực

công nghệ thông tin. Trong giai đoạn 1994 – 1998, việc làm trong ngành công nghệ

thông tin tăng 29%, con số này của các ngành khác chỉ là 22%. Công nghệ thông tin

kết hợp với công nghệ truyền thông đã tạo ra mạng Internet. Khu vực kinh tế

Internet này cũng phát triển rất nhanh. Trong hai năm 1998 – 1999, khu vực Internet

tăng trƣởng 36%, tạo 650.000 việc làm mới.[152, tr216]

Từ quý đầu năm 1993 đến hết năm 2000, tốc độ tăng GDP thực đạt trung

bình 4%/năm, gần gấp rƣỡi (146%) tốc độ trung bình của thời kỳ 1973 – 1993. Mức

tăng trƣởng hiếm có này phản ánh một cơ chế tạo việc làm mạnh và năng suất lao

động cao. Trong giai đoạn 1993 – 2000, nền kinh tế Mỹ đã tạo ra 22 triệu việc làm

69

mới. Năm 2000, dân số Mỹ có việc làm đạt mức kỷ lục, thất nghiệp chỉ còn 3,9%.

Riêng tỷ lệ thất nghiệp trong số ngƣời Mỹ gốc Phi và ngƣời Mỹ gốc Bồ Đào Nha

giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu thập lỷ 1970. Đà phát triển này đã dẫn đến

mức thu nhập cao và sự thịnh vƣợng trong xã hội Mỹ suốt một thập kỷ.[152, tr41]

Chính sách phát triển nguồn nhân lực đƣợc coi là mục tiêu chiến lƣợc để

chuẩn bị hành trang cho nền kinh tế Mỹ trong thế kỷ 21. Chính quyền Clinton đã

tập trung vực dậy toàn bộ hệ thống giáo dục – đào tạo Mỹ, tập trung vào xây dựng

một hệ thống giáo dục cao học mạnh. Bên cạnh đó, chính sách nhập cƣ đƣợc điều

chỉnh kịp thời để thu hút nguồn nhân lực chất xám toàn cầu.

Tổng thống B.Clinton đã từng tuyên bố “...đầu tiên và trên hết, Thời đại

thông tin là thời đại giáo dục, trong đó giáo dục phải xuất phát từ lúc con ngƣời mới

đƣợc sinh ra và đi cùng con ngƣời cho đến hết cuộc đời...”, [152, tr169] do đó chính

quyền của ông chủ trƣơng đem lại cho các công dân Mỹ tự do, công bằng, dân chủ

và một nền giáo dục có chất lƣợng.

Việc đổi mới giáo dục đƣợc thực hiện ở khắp mọi cấp, tập trung vào nâng

cấp cơ sở trƣờng lớp, nâng cao chất lƣợng giáo viên và đẩy mạnh ứng dụng công

nghệ giáo dục mới. Chính quyền đƣa ra một lịch trình gồm ba phần nhằm hỗ trợ các

bang, các địa phƣơng xây dựng và duy trì một hệ thống giáo dục tiểu học – trung

học có tầm vóc quốc tế.

2.3.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Hàn Quốc là quốc gia thuộc khu vực Đông Á, nằm ở nửa phía Nam của bán

đảo Triều Tiên, có diện tích khoảng 100,032 km vuông, dân số 50,6 triệu ngƣời

(tính đến tháng 2/2013). Trong thập niên 60 của thế kỷ 20, Hàn Quốc là một trong

số các quốc gia kém phát triển nhất ở châu Á (GDP trên đầu ngƣời thấp hơn mức

100 USD/năm). Nền kinh tế của Hàn Quốc chủ yếu dựa vào nông nghiệp trong khi

lũ lụt và hạn hán xảy ra thƣờng xuyên. Hạ tầng cơ sở nông thôn manh mún, nghèo

nàn. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn chiếm khoảng 24% [98]. Mặc dù Chính phủ

đã có nhiều biện pháp để tăng năng suất lƣơng thực nhƣng nhìn chung khu vực

nông thôn Hàn Quốc còn rất lạc hậu. Đến những năm 70 vẫn còn 70% dân số sống

ở nông thôn, trong số đó 80% sống trong nhà mái rạ, vách đất tạm bợ, dùng đèn dầu

70

và không có điện thắp sáng, đƣờng làng nhỏ hẹp, xe bò xe ngựa không qua lại đƣợc,

gần nhƣ không có các công trình vệ sinh, y tế, văn hóa kém phát triển, thất học,

thiếu đòi triền miên...Những thất bại từ công cuộc vận động tái thiết đất nƣớc sau

chiến tranh, hay từ những chƣơng trình tăng thu nhập trong nông – ngƣ nghiệp của

Chính phủ không thành công đã làm nản lòng nông dân. Nhƣng chỉ sau 40 năm, từ

một đất nƣớc nghèo nàn và lạc hậu, Hàn Quốc đã vƣơn lên trở thành một cƣờng

quốc công nghệ. Năm 2014, Hàn Quốc đạt GDP bình quân đầu ngƣời là 32.400

USD/năm, hiện nay là 34.510 USD/năm. [95]

Từ những năm 1970, với thế mạnh là một nƣớc có nguồn nhân công rẻ, lao

động cần cù có kỹ năng cao, để giải quyết việc làm cho ngƣời lao động Hàn Quốc

đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành công nghiệp xuất khẩu, thúc đẩy việc sử

dụng lực lƣợng lao động dồi dào, dần dần tăng cƣờng đƣợc khả năng cạnh tranh

trên thị trƣờng quốc tế đối với các mặt hàng sử dụng nhiều lao động. Song song với

các cải cách ở tầm vĩ mô, chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ

trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu, coi đây là động lực để cơ cấu lại nền kinh tế, thúc

đẩy tăng trƣởng. Trong quá trình phát triển kinh tế các hoạt động xuất khẩu đã tạo

nên một vòng liên hoàn với nhập khẩu và đầu tƣ trong đó ba hoạt động này bổ sung

cho nhau để tạo ra tốc độ phát triển kinh tế cao đƣa đến sự chuyển dịch từ các

ngành có giá trị gia tăng thấp sang các ngành có giá trị gia tăng cao. Vị trí của các

ngành nông – lâm – ngƣ nghiệp trong GDP sẽ giảm đi, vị trí của các ngành công

nghiệp trong GDP ngày càng tăng, trong công nghiệp của các ngành sử dụng nhiều

lao động chƣa lành nghề cũng giảm đi, trong khi đó vị trí của các ngành sử dụng

nhiều vốn và kỹ thuật cao ngày càng tăng. Tỷ lệ ngành công nghiệp chế tạo trong

GDP tăng từ 18% năm 1965 lên 30% năm 1986 cho thấy, quá trình công nghiệp hóa

diễn ra rất mạnh mẽ. Nhƣng tốc độ công nghiệp hóa trong xuất khẩu còn cao hơn

nhiều và tăng một cách liên tục. “Tỷ lệ của ngành công nghiệp trong tổng xuất khẩu

14% năm 1960 đã tăng lên 59% năm 1965 và bƣớc vào thập kỷ 1980 đạt 90%”

[155, tr 93]. Cơ cấu hàng công nghiệp xuất khẩu cũng có sự thay đổi rõ rệt. Ví dụ

kim ngạch xuất khẩu của ngành tơ sợi và ngành giày dép là là những ngành sử dụng

nhiều lao động năm 1975 chiếm 48,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn

71

Quốc, nhƣng đến năm 1988 một số chỉ còn 20,6% [152,tr216]. Ngƣợc lại, tỷ lệ mặt

hàng xuất khẩu cần nhiều vốn do kỹ thuật nhƣ máy móc, phƣơng tiện vận tải trong

tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 13,8% lên 38,6% trong cùng thời gian đó. Để

phát triển thành công các ngành sản xuất xuất khẩu, điều quan trọng trƣớc tiên là

chọn ngành nào vì điều này sẽ quyết định khả năng có thể nuôi dƣỡng những ngành

có sức cạnh tranh quốc tế hay không. Hàn Quốc đã chọn đúng ngành mà mình có

thế mạnh, có lợi thế so sánh trong từng thời điểm và giúp đỡ có trọng điểm cho

ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động nhƣ tơ sợi, vải, giày dép để khai thác

nguồn lao động rất phong phú của mình. Tiếp đó, họ đã từng bƣớc chọn các ngành

công nghiệp nặng, hóa chất, công nghệ cao cấp làm đối tƣợng, phù hợp với tình

hình tích lũy vốn và nâng cao trình độ kỹ thuật. Chính phủ và các xí nghiệp hợp sức

với nhau tiến hành phối hợp, liên kết trong xuất khẩu.

Không chỉ phát triển công nghiệp phục vụ xuất khẩu, Chính phủ Hàn Quốc

còn tập trung phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn. Với phƣơng châm “để

dân no ấm mới hết nghèo” nên Chính phủ đã tập trung phát triển nông thôn với phong

trào Saemaneul (còn gọi là Saemaul Undong – phong trào cộng đồng dân cƣ mới).

“Saemaul Undong đƣợc xây dựng trên 3 trụ cột đó là: Chuyên cần – Tự giác

– Hợp tác. Ba trụ cột đó là những giá trị xuyên suốt quá trình phát triển nông thôn

nói riêng và sự phát triển của toàn xã hội Hàn Quốc nói chung”.[93]

Cụ thể Chính phủ chủ trƣơng đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng để nông dân

phát triển sản xuất và chế biến sản phẩm tại chỗ với tƣ tƣởng “nông dân là ngƣời

chủ đích thực”.[155, tr95]

Ngoài phát triển cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh đào tạo nghề nông, Chỉnh phủ Hàn

Quốc còn đƣa những thành tựu khoa học và các giống cây trồng mới vào sản xuất

nhƣ nấm, thuốc lá,...khiến đời sống của nông dân đƣợc cải thiện rõ ràng.

Từ năm 1990, nƣớc Hàn Quốc có chiến lƣợc phát triển kinh tế tri thức và xã

hội thông minh. Số việc làm trong các công ty thông tin và và truyền thông tăng

nhanh, doanh thu trong toàn bộ ngành công nghệ thông tin trong GDP chiếm tỷ lệ

ngày càng lớn (năm 2010 ƣớc tính khoảng 20% GDP). Năm 2015, Hàn Quốc đang

đƣợc xếp thứ 12 trên thế giới về sức cạnh tranh khoa học công nghệ [30]. Theo

72

đánh giá của các chuyên gia, kinh tế Hàn Quốc đã mang một số nét đặc trƣng của

nền KTTT.

Sự phát triển nhanh và ngoạm ngục của đất nƣớc Hàn Quốc trong 4 thập

niên, trƣớc hết, là kết quả của sự kết hợp một các hữu hiệu các nhân tố kinh tế với

các nhân tố xã hội trong điều kiện thuận lợi của hoàn cảnh quốc tế: Sự hợp tác chặt

chẽ giữa khu vực Nhà nƣớc và khu vực tƣ nhân, chính sách hợp lý và sự kiên quyết

của Chính phủ những năm 60 – 70 nhằm vào các ngành công nghiệp cần nhiều lao

động và ƣu tiên xuất khẩu, tính linh hoạt rất cao trong quản lý và thái độ sẵn sàng

ứng phó trƣớc những tín hiệu phát sinh từ nền kinh tế, tỷ lệ ngày càng cao về ngƣời

lớn biết chữ và sự cần cù của dân chúng. Bởi vậy, nhân tố con ngƣời mới là cái

quyết định trong quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT của Hàn Quốc: Ý

chí cháy bỏng vƣơn tới thịnh vƣợng của ngƣời dân và lãnh đạo đất nƣớc, sự quản lý

nghiêm minh, hà khắc của chính trị Hàn Quốc. Đây có thể coi là nƣớc điển hình đã

rút ngắn bƣớc phát triển từ kinh tế nông – công nghiệp sang nền kinh tế tri thức

bằng con đƣờng tắt nhờ biết sử dụng hiệu quả lao động chất xám và thành quả KH –

CN hiện đại, kết hợp nhuần nhuyễn với việc tận dụng thời cơ và sự chuyển động

của thế giới đa cực [94].

2.3.1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Theo kết quả thống kê mới nhất và năm 2016: Dân số của Trung Quốc là

1,370 tỷ ngƣời, với tỷ lệ tham gia lực lƣợng là 76%. Hàng năm, lực lƣợng lao động

Trung Quốc tăng thêm khoảng 10 triệu ngƣời, vì vậy giải quyết việc làm là vấn đề

quan trọng và đầy áp lực đối với Trung Quốc. Trƣớc đòi hỏi cấp bách của thực tế là

giải quyết việc làm cho nông dân, ngay từ năm 1978 sau khi cải cách mở cửa nền

kinh tế, Trung Quốc thực hiện phƣơng châm “ly nông bất ly hƣơng, nhập xƣởng bất

nhập thành” thông qua chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ công nghiệp

Hƣng Trấn nhằm phát triển và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công

lại lao động ở nông thôn, rút ngắn khoảng cách nông thôn và thành thị; coi việc phát

triển công nghiệp nông thôn là con đƣờng GQVL.

Bên cạnh đó, Trung Quốc còn tiến hành xây dựng các khu đô thị nhỏ và vừa

để tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động dƣ thừa ở nông thôn bằng hai cách:

73

Thứ nhất, chuyển lao động sang các ngành công nghiệp và dịch vụ ở các vùng nông

thôn. Thứ hai, chuyển lao động đến các thành phố. Trong quá trình CNH, HĐH từ

năm 1985 – 1990 số lƣợng nông dân rời bỏ sản xuất nông nghiệp để đi tìm việc làm

đã lên tới 200 triệu ngƣời. Đến năm 1995 các khu đô thị vừa và nhỏ đã thu hút đƣợc

khoảng 60 triệu lao động [84, tr15].

Quá trình GQVL của Trung Quốc thay đổi theo từng giai đoạn và hình thức

áp dụng, cũng nhƣ ngành nghề liên quan. “Khi công cuộc cải cách kinh tế đƣợc bắt

đầu từ năm 1978, thị trƣờng lao động của Trung Quốc cũng đƣợc cải cách cơ bản,

các cơ chế thị trƣờng đƣợc áp dụng trong phân công lao động, trả lƣơng, nới lỏng

những hạn chế đối với di chuyển lao động (Knigh và Song 2005). Việc Trung Quốc

ban hành Luật Lao động năm 1994 đã tạo ra khung pháp lý quan trọng cho thời kỳ

cải cách thị trƣờng lao động của quốc gia này [156, tr15]. Kết quả, đã làm tăng hiệu

quả phân bổ lao động và cải thiện nhanh chóng năng suất lao động. Bên cạnh đó,

việc hòa nhập với nền thƣơng mại thế giới cũng tạo điều kiện thuận lợi trong việc

phát huy lợi thế lao động giá rẻ để ứng dụng và phát huy các ngành công nghiệp có

khả năng sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, theo từng giai đoạn khác nhau, việc

cải cách thị trƣờng lao động đã có những tác động tích cực và cả hệ lụy phức tạp, do

tốc độ tăng lƣơng, sự bất cân đối về chất và lƣợng của lao động ở các khu vực nông

thôn, thành thị, trình độ tay nghề khác nhau liên quan đến mức thu nhập khác nhau.

Sự khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa đã dẫn đến phân biệt đối xử trong những

ngƣời lao động di cƣ. Có thể nhận thấy, chiến lƣợc phát triển của Trung Quốc, cùng

với sự bất bình đẳng lớn giữa các khu vực và chi phí lao động có tay nghề cao ngày

càng tăng lên, đã tạo ra sự bất bình đẳng ngày càng lớn ngay cả khi tình trạng đói

nghèo nhìn chung đã giảm.

Từ thực tế trên, có thể khẳng định: việc kết hợp một cách khéo léo giữa sức

mạnh nội lực và ngoại lực là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thành công

của quá trình CNH và GQVL ở Trung Quốc. Sự kết hợp hai yếu tố đó đã phát huy

đƣợc tính tƣơng hỗ giữa chúng, tạo nên sức mạnh to lớn cho phát triển, trong đó,

việc dựa vào và phát huy yếu tố nội lực sẽ cho phép đảm bảo đƣợc các cân đối chủ

yếu, tạo sự phát triển ổn định, bảo vệ đƣợc nền kinh tế quốc gia trƣớc những ảnh

74

hƣởng mạnh mẽ của nƣớc ngoài và là cơ sở để các yếu tố tích cực từ bên ngoài

đƣợc đƣa vào nền kinh tế hiệu quả hơn. Còn sự thích ứng, chuyển đổi thể hiện sự

hội nhập có chuẩn bị, hội nhập chủ động nên sẽ đảm bảo cho đất nƣớc có thể duy trì

quyền sở hữu (độc lập, tự chủ) tính liên tục của xã hội và bản sắc dân tộc.

Những thành tựu đạt được về thực hiện vai trò của Nhà nước trong thị

trường lao động.

Dựa trên HIến pháp, Luật Lao động, các luật và pháp lệnh khác, Chính phủ

Trung Quốc đã chủ động bảo vệ quyền về việc làm trên thị trƣờng lao động của

ngƣời lao động; áp dụng nhiều chính sách và biện pháp can thiệp vào thị trƣờng lao

động để thúc đẩy việc làm, đáp ứng nhu cầu việc làm của ngƣời lao động.

- Trung Quốc thiết lập một cơ chế việc làm định hướng thị trường để giải

quyết vấn đề lao động – việc làm theo hƣớng mở rộng việc làm trong bối cảnh phát

triển và tái cơ cấu nền kinh tế.

+ Mở rộng việc làm thông qua phát triển nền kinh tế: Chính phủ Trung

Quốc xác định thúc đẩy việc làm là một nhiệm vụ chiến lƣợc của phát triển kinh

tế - xã hội.

+ Mở rộng năng lực GQVL thông qua phát triển khu vực dịch vụ: Chính phủ

Trung Quốc duy trì quan điểm phát triển ngành dịch vụ là định hƣớng chủ đạo trong

mở rộng việc làm và khuyến khích sự phát triển của các dịch vụ cộng đồng, giải trí,

lƣu thông, thƣơng mại, du lịch,...vì mục tiêu giải quyết đƣợc nhiều việc làm trong

các ngành này.

+ Khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành phần gắn với tạo nhiều

việc làm cho người lao động. Chính phủ Trung Quốc chủ trọng khai thác lợi thế

nguồn lao động và chủ động phát triển các ngành, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao

động; chú trọng phát triển doanh nghiệp tƣ nhân, nhất là khu vực doanh nghiệp vừa

và nhỏ sử dụng nhiều lao động, kết quả là việc làm trong những ngành, doanh

nghiệp này đã chiếm khoảng 80% số việc làm mới ở khu vực đô thị. Tháng 8/2002,

Trung Quốc ban hành “Luật xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ” nên đã chuẩn hóa

và thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của khối doanh nghiệp này.

Kết quả là cơ cấu việc làm đã từng bƣớc đƣợc điều chỉnh lại; số việc làm

75

ngày càng tăng; các loại hình việc làm đã mềm dẻo và ổn định hơn, đến cuối năm

2006, tổng số việc làm đã đạt 764 triệu, tỷ lệ thất nghiệp thành thị (thất nghiệp có

đăng ký) cuối năm 2006 là 4,1%, giẩm 0,1% so với năm 2005 [156, tr16].

- Trung Quốc củng cố và phát triển hệ thống dịch vụ việc làm công. Từ

cuối những năm 1990, Chính phủ Trung Quốc đã có những bƣớc đi nhằm chuẩn

hóa lại thị trƣờng lao động. Chính phủ đã thiết lập đƣợc một hệ thống dịch vụ việc

làm công. Đến nay, các cơ sở dịch vụ việc làm công đã hiện hữu ở các thành phố và

một số vùng nông thôn của Trung Quốc.

- Trung Quốc củng cố hệ thống an sinh xã hội góp phần duy trì mối quân

hệ lao động bền vững và hài hòa.

+ Thành lập hệ thống “đảm bảo 3 năm”. Vào năm 1998, chính phủ Trung

Quóc thành lập hệ thống đảm bảo 3 năm để đảm bảo cho các khoản trợ cấp thiết yếu

cho lao động dôi dƣ từ khu vực doanh nghiệp Nhà nƣớc (SOE), đảm bảo bảo hiểm

thất nghiệp và đảm bảo trợ cấp thiết yếu cho ngƣời thất nghiệp đô thị.

+ Các trung tâm dịch vụ việc làm được thiết lập ngay tại các doanh nghiệp

Nhà nước có lao động dôi dư. Lao động dôi dƣ có thể tiếp cận quỹ hỗ trợ lao động

dôi dƣ để nhận trợ cấp chi phí sinh hoạt thiết yếu hàng ngày ngay tại các trung tâm

trong vòng 3 năm. Các trung tâm này tƣ vấn việc làm cho lao động dôi dƣ, họ đƣợc

miễn phí tiếp cận thông tin tìm việc làm và một cơ hội đào tạo nghề nghiệp.

+ Trung Quốc củng cố hệ thống đảm bảo thất nghiệp. Vào giữa những năm

1980, Trung Quốc đã thành lập hệ thống bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ ngƣời thất

nghiệp cả chế độ trợ cấp thất nghiệp và chế độ bảo hiểm y tế; đồng thời, hệ thống

cũng hỗ trợ về mặt hành chính và dịch vụ xúc tiến giải quyết việc làm cho ngƣời

thất nghiệp.

Nền kinh tế cải cách và mở cửa đang tạo ra nhiều hình thức việc làm mới

nhƣ việc làm trong khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và các thành phần kinh tế

ngoài quốc doanh khác, việc làm bán thời gian; việc làm tạm thời, việc làm mùa vụ,

việc làm theo giờ,... Những hình thức việc làm này trở nên quan trọng trong gia tăng

số việc làm cho ngƣời lao động. Tuy nhiên, chất lƣợng của những hình thức việc

làm mới này đang là thách thức đối với Trung Quốc trong bối cảnh hội nhập, đáp

76

ứng các thông lệ quốc tế về việc làm bền vững cho ngƣời lao động.

2.3.2. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nƣớc về giải quyết việc làm trong

bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức có thể rút

ra một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Cụ thể nhƣ sau:

2.3.2.1. Những bài học thành công

Thứ nhất, kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, các nƣớc thành công nhất

trong lĩnh vực GQVL chính là những nƣớc duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng kinh tế

cao, liên tục trong một thời gian dài. Vì thế chính sách GQVL không tách rời chiến

lƣợc và chính sách thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, hƣớng đến một sự tăng trƣởng

nhanh, bền vững. Trong giai đoạn đầu tiến hành CNH, các quốc giai đều phải ƣu

tiên GQVL cho nông dân và có các chính sách hỗ trợ cho nông dân trong quá trình

tự tạo việc làm.

Song song với quá trình đó, các nƣớc này đều chú trọng phát triển công

nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành thu hút nhiều lao động với mục đích vừa

giải quyết việc làm cho nông dân vừa phát triển công nghiệp.

Thứ hai, xây dựng các khu công nghiệp tập trung đông thời đào tạo nguồn

lao động đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng (tức là đào tạo theo địa chỉ nơi sử dụng lao

động). Đây là những giải pháp GQVL cho ngƣời lao động trong quá trình chuyển

đổi của nền kinh tế từ nông nghiệp sang CNH, HĐH.

Thứ ba, cùng với quá trình GQVL trong nƣớc, các quốc gia cũng đẩy mạnh

đào tạo để xuất khẩu lao động để vừa GQVL cho ngƣời lao động (Trung Quốc, Hàn

Quốc) vừa tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ của các nƣớc tiên tiến để

phát triển sản xuất trong nƣớc.

Thứ tƣ, đƣa mục tiêu GQVL vào trong các kế hoạch chƣơng trình phát triển

kinh tế xã hội của địa phƣơng. Đồng thời, tích cực đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hƣớng CNH, HĐH phát triển nhanh các khu vực dịch vụ, khuyến khích

phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với nhiều hƣớng sản xuất, kinh doanh;

nhiều ngành, nhiều cấp và tạo điều kiện để nhân dân tự tạo việc làm dƣới nhiều hình

thức khác nhau.

77

Thứ năm, chú trọng đầu tƣ phát triển giáo dục đào tạo để nâng cao chất

lƣợng nguồn nhân lực, chú trọng công tác đào tạo nghề, mở rộng mạng lƣới cơ sở

dạy nghề, nâng cao chất lƣợng đào tạo đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng lao động.

Khuyến khích các hình thức du học và tranh thủ đi nhanh và phát triển nguồn nhân

lực chất lƣợng cao phù hợp với xu hƣớng phát triển KTTT.

Thứ sáu, xây dựng chính sách ƣu tiên, khuyến khích, hỗ trợ phát triển sản

xuất kinh doanh, tạo mở việc làm mới nhƣ: cho vay vốn ƣu đãi, miễn giảm thuế 5

năm thời kỳ đầu đối với ngành nghề mới, cho thuê, mƣợn mặt bằng để tổ chức sản

xuất. Xây dựng cơ chế chính sách, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn

và dự án công nghiệp và đô thị.

Thứ bảy, hình thành và phát triển thị trƣờng lao động, xây dựng và hoàn

thiện hệ thống thông tin thị trƣờng lao động, thông qua hệ thống môi giới, tƣ vấn

việc làm và nghề nghiệp để làm cầu nối cho cung – cầu lao động gặp nhau.

3.3.2.2. Những bài học nên tránh

Thứ nhất, kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy việc thực hiện mục tiêu việc

làm bền vững, trong đó ngƣời lao động làm việc có hiệu quả, đƣợc tôn trọng nhân

phẩm, có thu nhâp xứng đáng là không dễ dàng, song cần đƣợc quan tâm thích

đáng, vì đây là những giá trị, chuẩn mực quốc tế của thế giới hiện đại.

Thứ hai, để GQVL cần thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nhanh. Tuy nhiên, nếu

chỉ chú ý đến khía cạnh tốc độ mà không chú ý thỏa đáng đến chất lƣợng, hiệu quả

và tính bền vững của quá trình tăng trƣởng thì quá trình tăng trƣởng và GQVL dài

hạn sẽ bị đe dọa. Thực tế, những tác động tiêu cực đến môi trƣờng cũng nhƣ mức

độ bất bình đẳng trong thu nhập giữa nông thôn và thành thị, giữa các tầng lớp dân

cƣ làm lu mờ một phần thành tựu GQVL của Trung Quốc.

Thứ ba, những sự kiện ở Mỹ gần đây cho thấy quá trình toàn cầu hóa và hội

nhập quốc tế ngay cả ở một nƣớc phát triển vẫn có thể chứa đựng những vấn đề

kinh tế - xã hội không dễ giải quyết. Quá trình này có thể làm thiệt đến thu nhập và

việc làm của một bộ phận dân cƣ hay một vùng, địa phƣơng nhất định. Không tạo ra

sự phân phối việc làm và thu nhập một cách tƣơng đối công bằng sẽ tạo ra tâm lý

bất mãn, chống “toàn cầu hóa” và tiềm ẩn những bất ổn xã hội.

78

Kết luận chương 2

CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT là một xu hƣớng tất yếu của thời đại

mà bất cứ quốc gia nào cũng phải trải qua. Trong xu hƣớng đó, KTTT với kỹ năng

lao động cao sẽ thay thế vốn và tài nguyên thiên nhiên. GQVL trong bối cảnh CNH,

HĐH gắn với phát triển KTTT là một thách thức to lớn đối với mỗi quốc gia đang

thực hiện quá trính chuyển đổi của nền kinh tế. GQVL cho ngƣời lao động trong

quá trình CNH, HĐH trong bối cảnh KTTT Nhà nƣớc phải có các chính sách tác

động đến cầu và các chính sách tác động đến cung về lao động cùng các chính sách

hỗ trợ khác nhằm GQVL cho ngƣời lao động.

Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, trong giai đoạn đầu tiến hành CNH,

các quốc gia đều phải ƣu tiên GQVL cho nông dân. Họ chú trọng mở rộng những

ngành thu hút nhiều lao động nhằm tần dụng nguồn lao động tại chỗ để đảm bảo

toàn dụng nguồn nhân lực.

Xây dựng các khu công nghiệp tập trung đồng thời đào tạo nguồn lao động

đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng (tức là đào tạo theo địa chỉ nơi sử dụng lao động).

Đây là những giải pháp GQVL cho ngƣời lao động trong quá trình chuyển đổi nền

kinh tế từ nông nghiệp sang CNH, HĐH.

Cùng với quá trình GQVL trong nƣớc, các quốc gia cũng đẩy mạnh đào tạo

để xuất khẩu lao động. Đƣa ra mục tiêu GQVL vào trong các kế hoạch chƣơng trình

phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng. Đồng thời, tích cực đẩy mạnh chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH, HĐH, phát triển nhanh các khu vực dịch vụ,

khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tự tạo việc làm dƣới nhiều hình thức

khác nhau.

Chú trọng đầu tƣ phát triển giáo dục đào tạo để nâng cao chất lƣợng nguồn

nhân lực, chú trọng công tác đào tạo nghề, mở rộng mạng lƣới cơ sở dạy nghề, nâng

cao chất lƣợng đào tạo đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng lao động, Khuyến khích các

hình thức du học và tranh thủ đi nhanh vào những ngành KTTT có khả năng và lợi

thế để từng bƣớc hình thành và phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao phù hợp

với xu hƣớng phát triển KTTT.

79

Chƣơng 3. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYÉT VIỆC LÀM

Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

HÓAGẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

3.1. Chủ trƣơng và chính sách giải quyết việc làm của Việt Nam trong

bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

3.1.1. Các chủ trƣơng và định hƣớng cơ bản

Giải quyết việc làm là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của Đảng

và Nhà nƣớc Việt Nam. Mục tiêu của chính sách lao động và GQVL của Đảng là

hƣớng vào giải phóng sức sản xuất, giải phóng và phát huy mọi tiềm năng sức lao

động, khơi dậy tiềm năng của mọi ngƣời và toàn xã hội, coi trọng giá trị sức lao

động, mở rộng cơ hội cho mọi ngƣời đều phát triển. Những quan điểm, tƣ tƣởng

nhƣ vậy đƣợc thể hiện rất rõ trong các văn kiện Đại hội của Đảng thời kỳ đổi mới.

Chẳng hạn, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: "Giải

quyết việc làm là một trong những chính sách cơ bản của quốc gia. Bằng nhiều biện

pháp, hằng năm tạo ra hàng triệu việc làm mới, tận dụng số ngày công lao động

chƣa đƣợc sử dụng đến nhất là trên địa bàn nông thôn” [67, tr.210]. Đến Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, vấn đề này đƣợc cụ thể hóa hơn bằng chủ

trƣơng GQVL trên cơ sở “Khuyến khích ngƣời lao động tự tạo việc làm, phát triển

nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao động. Chú trọng đào tạo

nghề, tạo việc làm cho nông dân,nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi

do đô thị hoá và công nghiệp. Phát triển các dịch vụ phục vụ đời sống của ngƣời lao

động ở các khu công nghiệp. Tiếp tục thực hiện chƣơng trình xuất khẩu lao động,

tăng tỷ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào tạo, quản lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi

chính đáng của ngƣời lao động” [71, tr.215-216]. Tạo môi trƣờng và điều kiện để

mọi ngƣời lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lƣơng và

chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đề ra mục tiêu: "Giải quyết việc

làm cho 8 triệu lao động... Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/ năm, tỷ lệ lao động qua

đào tạo đạt 55%... Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu

80

nhập; khuyến khích tạo thuận lợi để ngƣời lao động học tập nâng cao trình độ lao động,

tay nghề; đồng thời có cơ chế chính sách phát triển, trọng dụng nhân tài”[72, tr.53].

Vấn đề GQVL ở Việt Nam đƣợc thực hiện thông qua việc “đẩy nhanh quá

trình CNH, HĐH”, theo đó, mô hình công nghiệp hóa đƣợc xác định là phải gắn

công nghiệp hóa với kinh tế tri thức, coi “từng bƣớc phát triển kinh tế tri thức” là

phƣơng hƣớng và nhiệm vụ quan trọng. Tƣ tƣởng này đƣợc tuyên bố nhất quán qua

các kỳ Đại hội Đảng, từ Đại hội IX (2001) đến nay.

3.1.2. Hệ thống chính sách

- Chính sách, thể chế phát triển thị trƣờng lao động

Trong những năm đổi mới, nhất là từ giai đoạn 2001 đến nay, hệ thống pháp

luật kinh tế tiếp tục đƣợc hoàn thiện và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế, đồng

thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. (Luật Đất đai,

Luật Đầu tƣ, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Thuế, Luật Phá sản...) đã

góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo điều kiện cho thị trƣờng lao động phát triển.

Đặc biệt, từ khi ban hành Nghị quyết Trung ƣơng 6 khóa X đến nay, Quốc hội và

Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội đã ban hành 191 bộ luật, pháp lệnh nhằm tiến tới hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trƣờng và phát triển thị trƣờng lao động. Bộ luật lao động,

sửa đổi bổ sung năm 2002 và 2006, Luật bảo hiểm xã hội, Luật dạy nghề, Luật

ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài, các nghị định, thông tƣ liên

quan tới lao động, thị trƣờng lao động và việc làm đã hoàn thiện khung pháp lý cho

thị trƣờng lao động phát triển, tăng cƣờng cơ hội việc làm và hoàn thiện quan hệ lao

động. Các chế độ về tiền lƣơng, thu nhập, trợ cấp ngày càng hoàn thiện, góp phần

nâng cao năng suất lao động và cải thiện thu nhập của ngƣời lao động.

- Chính sách kết nối cung cầu lao động

Hệ thống dịch vụ việc làm đƣợc phát triển từ năm 1992 qua Chƣơng trình

việc làm quốc gia theo Nghị quyết số 120/1992/NQ-HĐBT ngày 11/4/1992, đã tạo

môi trƣờng pháp lý phát triển dịch vụ kết nối cung-cầu về lao động, tăng cƣờng cơ

hội để ngƣời lao động tiếp cận thông tin về việc làm, lựa chọn công việc. Đặc biệt,

với việc sửa Điều 18 của Bộ luật lao động năm 1995, Nghị định số 19/2005/NĐ-

81

CP ngày 28/5/2005 và Nghị định số 71/2008/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định số 19/2005/NĐ-CP đã từng bƣớc hoàn thiện

khung pháp lý cho dịch vụ việc làm. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên

nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bƣớc thích ứng với nguyên tắc và chuẩn

mực của thị trƣờng toàn cầu nhằm kết nối cung - cầu về lao động giữa thị trƣờng

trong nƣớc và quốc tế. Cùng với các trung tâm giới thiệu việc làm công lập, các

doanh nghiệp cũng đƣợc phép hoạt động giới thiệu việc làm, kể cả sự tham gia của

các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.

- Chính sách hỗ trợ lao động di chuyển

Chính phủ đã thực hiện các chƣơng trình hỗ trợ di cƣ đến các vùng kinh tế

mới; hỗ trợ di dân thực hiện định canh định cƣ đối với đồng bào dân tộc thiểu số

(Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg)[phụ lục 2] Chƣơng trình di dân gắn với xóa đói

giảm nghèo (thuộc nội dung của Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo

giai đoạn 2006- 2010). Các chƣơng trình di dân đã đáp ứng một phần về tái phân bổ

nguồn lao động, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế vùng, góp phần ổn định đời

sống cho đồng bào dân tộc thiểu số và bảo vệ an ninh quốc phòng.

Các quy định về cƣ trú, đăng ký hộ khẩu tại các khu đô thị, các thành phố lớn

ngày càng thông thoáng. Luật Cƣ trú (năm 2007) đã mở rộng quyền cƣ trú của công

dân, giúp cho việc di chuyển lao động dễ dàng hơn. Các chính sách phát triển đô thị,

các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm... cũng có tác động

kích thích di chuyển lao động, nhất là di chuyển nông thôn - đô thị, góp phần

chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao điều kiện về việc làm và thu nhập cho lao

động nông thôn [78, tr.15].

- Chính sách tín dụng ƣu đãi cho sản xuất, kinh doanh

Thông qua việc ban hành gần 20 chính sách tín dụng ƣu đãi, sử dụng cơ chế

cho vay tín dụng thông qua các chƣơng trình, tổ chức, hội đoàn thể, Nhà nƣớc hỗ

trợ vốn sản xuất, kinh doanh cho các nhóm yếu thế nhƣ lao động nghèo, lao động

nông thôn, lao động đi làm việc có thời hạn ở nƣớc ngoài, lao động vùng chuyển

đổi sử dụng đất nông nghiệp, các tổ chức kinh doanh thu hút nhiều lao động.

82

- Đối với các cá nhân, tổ chức kinh doanh: Chƣơng trình Việc làm quốc gia

đƣợc thành lập theo Nghị quyết số 120/1992/NQ-HĐBT ngày 11/4/1992 có nội

dung cung cấp các khoản vav với lãi suất ƣu đãi để doanh nghiệp và hộ gia đình tạo

việc làm và xuất khẩu lao động. Từ năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

90/2001/NĐ - CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Quy định chính sách hỗ trợ doanh nghiệp từ Trung ƣơng đến địa phƣơng. Ngày

23/10/2006, Thủ tƣớng chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 236/2006/QĐ-TTg

phêduyệt kế hoạch phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2005 - 2010 và đề ra các giải

pháp nhằm tạo môi trƣờng đầu tƣ, kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh

tranh cho các doanh nghiệp trên cơ sở huy động các nguồn lực trong và ngoài nƣớc.

- Đối với ngƣời lao động: Nhà nƣớc đã ban hành nhiều chính sách tín dụng

ƣu đãi cho ngƣời nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số, ngƣời khuyết tật, thanh niên: hỗ trợ

hộ nghèo vay vốn phát triển sản xuất thông qua Chƣơng trình mục tiêu quốc gia xoá

đói giảm nghèo; Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 về việc cho vay

vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn;

Quyết định số 126/2008/QĐ-TTg ngày 15/9/2008 [phụ lục 1] về vay vốn phát triển

sản xuất cho hộ dân tộc; Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 phê duyệt

Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo

bền vững giai đoạn 2009-2020[phụ lục 3].

Bên cạnh đó, nhiều chƣơng trình hỗ trợ khác đƣợc triển khai trong thời kỳ

suy giảm kinh tế từ 2007 đến nay nhằm giúp cho nhiều doanh nghiệp, các hộ sản

xuất kinh doanh vƣợt qua giai đoạn khó khăn, duy trì sản xuất, trả lƣơng và đóng

bảo hiểm xã hội cho ngƣời lao động. Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg ngày

23/02/20 09 về việc hỗ trợ đối với ngƣời lao động mất việc làm trong doanh

nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế; Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày

08/7/2009 về tín dụng đối với thƣơng nhân hoạt động thƣơng mại tại vùng khó

khăn. Một số biện pháp hỗ trợ khác nhƣ: miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp, giãn

thời gian nộp một số loại thuế (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về

những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo

83

đảm an sinh xã hội; Nghị quyết số 08/2011/QH13 về ban hành bổ sung một số giải

pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân; Quyết định số

21/2011/QĐ-TTg ngày 06/4/2011 về gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp của

doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tháo gỡ khó khăn, góp phần thúc đẩy phát triển

kinh tế...). Ngoài ra, còn có các biện pháp hỗ trợ nhƣ khuyến khích xuất khẩu, ứng

trƣớc kế hoạch đầu tƣ ngân sách nhà nƣớc của các năm sau... đã tác động trực tiếp

tới vấn đề duy trì việc làm và thu nhập cho ngƣời lao động trong bối cảnh suy

giảm kinh tế, ngƣời mất việc làm gia tăng.

- Chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động

Nhà nƣớc đã hình thành một hệ thống chính sách thúc đẩy việc làm ngoài

nƣớc, xây dựng các chƣơng trình trọn gói từ đào tạo, cho vay vốn để hỗ trợ ngƣời

lao động khi về nƣớc, đặc biệt là ngƣời lao động thuộc hộ nghèo: Quyết định số

365/2004/QĐ-NHNN về việc cho vay vốn đối với lao động đi làm việc ở nƣớc

ngoài theo hợp đồng; Quyết định số 143/2007/QĐ-TTg ngày 06/7/2007 về việc

thành lập, quản lý Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nƣớc; Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg

ngày 29/4/2009 phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao

động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020. Quyết định số

1465/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về việc thực hiện thí điểm ký quỹ đối với

ngƣời lao động đi làm việc tại Hàn Quốc theo Chƣơng trình cấp phép việc làm cho

lao động nƣớc ngoài tại Hàn Quốc đƣợc triển khai năm 2013. Ngoài ra Nhà nƣớc

còn hỗ trợ thông tin, tƣ vấn xuất khẩu lao động trên các thị trƣờng lao động quốc tế.

- Chính sách dân số và kiểm soát dân số

Chính sách dân số ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1961 và có thể chia ra thành 2

giai đoạn: giai đoạn giảm sinh từ 1961-2000 và giai đoạn giảm sinh và nâng cao

chất lƣợng dân số 2001-2010. Một số nội dung chủ yếu của các chính sách này nhƣ:

giảm nạo phá thai; giảm mất cân bằng giới tính khi sinh; nâng cao chất lƣợng dân

số.

Một số chính sách kiểm soát mức sinh cụ thể nhƣ sau: thay đổi độ tuổi kết

hôn; bãi bỏ luật chống phá thai; biện pháp chế tài khi sinh nhiều con; nâng cao vị

84

thế phụ nữ; tuyên truyền hạn chế sinh đẻ. Một số chính sách nâng cao chất lƣợng

dân số đƣợc áp dụng nhƣ: sàng lọc bệnh trƣớc hôn nhân; sàng lọc trƣớc khi sinh;

sàng lọc bệnh đối tƣợng sinh con; sàng lọc trẻ sơ sinh.

Sau nhiều năm thực hiện chiến lƣợc Dân số Việt Nam và chiến lƣợc quốc gia

về chăm sóc sức khoẻ sinh sản, Việt Nam đƣợc đánh giá là một trong số ít nƣớc ở

khu vực thành công trong việc kiểm soát tốt mức sinh, đặc biệt là thành tựu giảm số

con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 6.3 con năm 1960 xuống còn

2.03 con năm 2009.

- Chính sách giáo dục đào tạo

Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam đã có nhiều chủ trƣơng, chính sách giáo dục và

đào tạo, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực nhằm GQVL cho ngƣời lao động

trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Văn kiện Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ IX nhấn mạnh: “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển

khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tƣ cho giáo dục và đào tạo là đầu

tƣ cho sự phát triển” [67]. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định mục tiêu chung

của giáo dục đào tạo là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dƣỡng nhân tài.

Đào tạo ra những ngƣời lao động có phẩm chất chính trị, đạo đức, kiến thức, kỹ

năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ;

có sức khỏe, có khả năng sáng tạo, trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi

trƣờng làm việc và có khả năng hội nhập quốc tế.

Trong thời gian qua có rất nhiều chính sách, chƣơng trình, đề án giáo dục và

đào tạo đã và đang triển khai với mục tiêu nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực

nhằm GQVL cho ngƣời lao động trong trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát

triển KTTT.

3.2. Thực trạng giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

3.2.1. Quy mô và chất lƣợng nguồn nhân lực

3.2.1.1. Quy mô nguồn nhân lực

Theo báo cáo của Bộ Lao động thƣơng binh và xã hội (LĐ-TB&XH) tính

85

đến thời điểm 31/12/2016 dân số cả nƣớc là 95 triệu ngƣời, lực lƣợng lao động (dân

số từ 15 tuổi trở lên đang hoạt động kinh tế) cả nƣớc đạt gần 55,79 triệu ngƣời

(chiếm 59,24% tổng dân số), tăng 1,07 triệu ngƣời (2,04%) so với năm 2015. Giai

đoạn 2004-2016, LLLĐ tăng với tốc độ bình quân 2,31%/năm (tƣơng đƣơng 1,057

triệu ngƣời/năm), gấp hơn 2 lần tốc độ tăng dân số, phản ánh “thời kỳ cơ cấu dân số

vàng”. Tiềm năng lao động lớn của Việt Nam còn thể hiện ở tỷ lệ tham gia lực

lƣợng lao động của ngƣời dân. Lực lƣợng lao động lớn luôn có khoảng 77% (thậm

chí năm 2014 lên tới 77,7%) số ngƣời tham gia[phụ lục 4].Nguồn cung lao động dồi

dào vừa là lợi thế, vừa gây ra thách thức không nhỏ cho vấn đề GQVL.

3.2.1.2. Chất lượng nguồn nhân lực

Chất lƣợng nguồn nhân lực Việt Nam có thể đƣợc thể hiện qua số liệu ở

Bảng 3.1. và hình 3.1. Các số liệu cho thấy, một mặt, trình độ CMKTcủa LLLĐ

liên tục được cải thiện trong giai đoạn 2004-2015, với mức tăng bình quân

10,51%/năm(1,6 triệu ngƣời/năm), trong đó lao động qua đào tạo có bằng

cấp/chứng chỉ tăng 6,35%/năm (458 nghìn ngƣời/năm), đồng thời, tỷ lệ lao động có

CMKT đã tăng khá nhanh từ 22,7% năm 2004 lên 51,64% năm 2015. Mặt khác,

mặt bằng chất lượng lao động Việt Nam vẫn còn khá thấp so với các nƣớc trong

khu vực. Trong số lao động có CMKT, đến năm 2015, tỷ trọng lao động qua đào tạo

có bằng cấp/chứng chỉ trong LLLĐ còn thấp, mới chỉ đạt 20,29%, tƣơng ứng với

10,69 triệu ngƣời (trong số đó 42% đạt trình độ từ đại học trở lên). Tỷ lệ tƣơng quan

giữa trình độ đại học trở lên - cao đẳng - trung cấp-sơ cấp trong năm 2014 là 1-0,35-

0,63-0,38, phản ánh sự bất hợp lý trong cơ cấu lao động qua đào tạo. Điều này cảnh

báo về sự thiếu hụt kỹ sƣ thực hành và công nhân kỹ thuật bậc cao, cũng nhƣ sự

cạnh tranh việc làm ngày càng gia tăng đối với những ngƣời mới tốt nghiệp đại học.

86

Bảng 3.1: Số lƣợng và cơ cấu LLLĐ theo trình độ CMKT, 2004-2015

Tốc độ tăng

bình quân Tiêu chí 2004 2009 2011 2013 2014 2015 2009- 2004-

2015 2015

Số lượng 43,24 49,30 51,72 53,25 53,75 53,98 1,68 2,34 (triệu người)

1. Không có CMKT 33,43 30,47 30,00 28,08 27,34 26,10 -2,37 -1,73

2. Có CMKT 9,82 18,83 21,72 25,17 26,41 27,88 7,17 10,51

Trong đó, Lao động

qua đào tạo có bằng 5,36 7,94 8,90 9,72 9,99 10,69 4,87 6,35

cấp/chứng chỉ

Cơ cấu (%) 100 100 100 100 100 100

1. Không có CMKT 77,30 61,80 58,00 52,73 50,86 48,36 -2,24 -2,63

2. Có CMKT 22,70 38,20 42,00 47,27 49,14 51,64 2,24 2,64

Trong đó, Lao động

qua đào tạo có bằng 12,39 16,10 17,21 18,26 18,59 20,29 6,98 7,18

cấp/chứng chỉ

Nguồn: - Điều tra Việc làm-Thất nghiệp các năm 1996-2006, Bộ LĐTBXH

- Điều tra Lao động- Việc làm các năm 2007-2015, TCTK

- Số liệu lao động qua đào tạo không có bang cấp/chứng 2004-2015, Bộ LĐTBXH.

- Về nguồn nhân lực chất lƣợng cao. Cả nƣớc hiện có khoảng 9.000 giáo

sƣ và phó giáo sƣ, cùng với trên 3 vạn tiến sĩ, có khoảng hơn 20 vạn ngƣời có trình

độ thạc sỹ. Với số lƣợng trên, Việt Nam là một nƣớc có số lƣợng lớn lao động có

bằng cấp trình độ sau đại học trong khu vực đông Nam Á. Nhƣng số ngƣời có trình

độ đại học trong tổng số lao động lại thấp. Sự gia tăng số nhân lực trình độ đại học

phụ thuộc rất lớn vào số lƣợng sinh viên, quy mô tuyển mới và sinh viên tốt nghiệp

hằng năm.

87

Hình 3.1: Số lƣợng và cơ cấu lực lƣợng lao động có bằng cấp, chứng chỉ

theo các cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật, 2015

Sơ cấp nghề, 1,763,435, 16%

Trung cấp nghề, 770,458, 7%

Đại học trở lên, 4,653,715, 42%

THCN, 2,140,449, 20%

Cao đẳng nghề, 191,745, 2%

Cao đẳng, 1,435,791, 13%

Đơn vị: người

Nguồn: TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm năm 2015

Theo số liệu tổng hợp từ Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Lao động - Thƣơng binh

và Xã hội, năm 2000, Việt Nam có 135 sinh viên/vạn dân, năm 2015 ƣớc tính đạt

215 sinh viên/vạn dân (Bảng 3.2). Với mức độ tăng nhƣ trên, mục tiêu đến năm

2020 sẽ đạt tỉ lệ 450 sinh viên/ 1 vạn dân nhƣ Chính phủ đề ra sẽ khó hoàn thành.

Bảng 3.2. Tỷ lệ siuh viên đại học qua các năm

Năm 2000 2007 2009 2013 2015

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Báo

SV/vạn dân 135 165 196 204 215

cáo của Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội năm 2009 - 2015.

Theo kinh nghiệm của các nƣớc đã thành công trong phát triển đột phá ở khu

vực Đông Á nhƣ Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, thì phải đạt chỉ số sinh viên/vạn

dân từ 300 đến 400 mới đủ nguồn nhân lực trình độ cao, tạo bƣớc nhảy vọt trong

phát triển kinh tế (Năm 2014 chỉ số sinh viên/ 1 vạn dân của Thái lan là 374 sinh

88

viên/1 vạn dân, Hàn Quốc là 670 sinh viên/ 1 vạn dân, Úc 500 sinh viên/ 1 vạn dân,

Mỹ570 sinh viên/ 1 vạn dân. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi từ 20 - 24 học đại học thì

ViệtNam là 10%, Thái Lan là 41%, Trung Quốc là 15%, Hàn Quốc là 89%)[75, 35].

Những con số này cho thấy trên thực tế Việt Nam đang trong tình trạng thiếu cả

“thầy” và “thợ” cho nhu cầu phát triển theo hƣớng KTTT.

Theo kết quả so sánh, chất lƣợng nguồn nhân lực Việt Nam hiện xếp thứ 11

trên tổng số 12 quốc gia đƣợc lựa chọn nghiên cứu. Điều đáng nhấn mạnh là, các

điểm số đánh giá về chất lƣợng cán bộ quản lý hành chính, mức độ thành thạo tiếng

Anh và sự thành thạo công nghệ cao của nguồn nhân lực CLC Việt Nam là rất thấp,

thậm chí thấp hơn và bằng với Indonexia, nƣớc xếp cuối cùng trong bảng so sánh

xếp hạng (các điểm số đó lần lƣợt là 2,75; 2,62; 2,50 trên thang điểm 10).

3.2.2. Tình hình giải quyết việc làm ở Việt Nam trong bối cảnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

3.2.2.1. Chỉ tiêu giải quyết việc làm trong nền kinh tế

Năm 2015, cả nƣớc có 52,84 triệu ngƣời từ 15 tuổi trở lên có việc làm,

tăng khoảng 95 nghìn ngƣời (0,18%) so với năm 2014. Trong giai đoạn 2004-

2015, mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn

cầu, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng tƣơng đối cao

(6,09%/năm). Khả năng tạo việc làm của nền kinh tế vẫn đƣợc duy trì với tốc độ

tăng trƣởng việc làm bình quân 2,14%/năm trong cùng giai đoạn. Kết quả, hệ số

co giãn việc làm theo tăng trƣởng kinh tế đạt mức 0,35 (tăng trƣởng kinh tế tăng

thêm 1% thì việc làm tăng thêm 0,35%). Tuy nhiên, nếu xét riêng cho giai đoạn

2011-2015, tăng trƣởng kinh tế đã chậm lại, chỉ đạt bình quân 5,81%/năm; tăng

trƣởng việc làm cũng giảm, chỉ đạt 1,3%/năm. Theo đó, hệ số co giãn việc làm

giảm mạnh, chỉ còn 0,22%)[135, tr.20].

Năm 2015, ở thành thị có 16,37 triệu ngƣời có việc làm, tăng thêm 367 nghìn

ngƣời (2,29%); ở nông thôn có 36,47 triệu ngƣời có việc làm, giảm 272 nghìn ngƣời

(-0,74%) so với năm 2014. Giai đoạn 2004-2015, lao động có việc làm ở thành thị

vẫn tiếp tục tăng bình quân 581 nghìn ngƣời/năm (4,9%/năm), trong khi ở nông

89

thôn chỉ tăng 376 nghìn ngƣời/năm (l,12%/năm)[135, tr.21].

Bảng 3.3: Quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo khu

vực thành thị-nông thôn, 2004-2015

Tốc độ tăng

(%/năm)

2015 Giai 2004 2009 2011 2013 2014 2015 so đoạn

với 2004-

2014 2015

1. Quy mô 42,24 43,45 48,02 51,64 52,75 52,84 0,18 2,14 (triệu người)

Thành thị 10,52 13,33 15,39 16,01 16,37 2,29 4,90

Nông thôn 32,93 34,69 36,25 36,74 36,47 -0,74 1,12

2. Cơ cấu (%) 100 100 100 100 100 100 100

Thành thị 24,22 27,76 29,80 29,40 30,98 44,97 1,92

Nông thôn 75,78 72,24 70,20 70,60 69,02 65,03 1,11

Nguồn: - Bộ LĐTBXH, Điều tra Việc làm-Thất nghiệp qua các năm 2004-2006

- TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015

Tình hình thất nghiệp

Trong năm 2015, cả nƣớc có hơn 1,1 triệu ngƣời trong độ tuổi lao động bị

thất nghiệp, tăng 233 nghìn ngƣời so với năm 2014. Tỷ lệ thất nghiệp chung toàn

quổc là 2,33%, tăng 0,49 phần trăm so với năm 2014. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp

thành thị là 3,37%, bằng 1,7 lần so với của khu vực nông thôn (1,82%). Xét trong cả

giai đoạn 2007-2015, tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam vẫn luôn duy trì ở mức thấp dƣới

3%, tuy nhiên có dấu hiệu tăng dần trong những năm gần đây.

90

Tổng số (tr.người), 2010, 1335

Tổng số (tr.người), 2009, 1253

Tổng số (tr.người), 2015, 1104

Tổng số (tr.người),

Tổng số (tr.người), 2011, 1035

2013, 1027Tổng số (tr.người),

2014, 994

Tổng số (tr.người), 2008, 936

Tổng số (tr.người), 2012, 919

Tổng số (tr.người), 2007, 908

Tổng số (tr.người)

Tỷ lệ thất nghiệp chung (%)

Tỷ lệ thất nghiệp thành thị (%)

Hình 3.2: Số lƣợng và tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam, 2007-2015

Nguồn: TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015

Năm 2015, nhóm thanh niên từ 15-24 tuổi có tỷ lệ thất nghiệp cao, 7,03% (tiếp

tục tăng mạnh so với năm 2014), trong khi tỷ lệ thất nghiệp của ngƣời trƣởng thành

từ 25-55 tuổi (nữ)/60 tuổi (nam) chỉ là 1,37%. Ngƣời thất nghiệp trong độ tuổi thanh

niên từ 15-24 chiếm hơn 50% tổng số ngƣời bị thất nghiệp trong năm 2015.

Năm 2015, tỷ lệ thất nghiệp của các nhỏm lao động có trình độ CMKT cao

vẫn giữ ở mức cao. Tỷ lệ thất nghiệp cao nhất ở nhóm có trình độ cao đẳng (7,29%)

và cao đẳng nghề (6,04%), tiếp đến là nhóm có trình độ đại học trở lên (4,07%). So

với năm 2014, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng trong nhóm có trình độ cao đẳng, sơ cấp

nghề và không có CMKT hay bằng cấp/chứng chỉ, giữ nguyên ở nhóm có trình độ

91

đại học trở lên, giảm nhẹ trong các nhóm có trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề

và THCN. Xét về số lƣợng thất nghiệp, lao động không có CMKT chiếm đa số

(69%) trong tổng số ngƣời thất nghiệp)[135, tr.26].

Hình 3.3: Tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật và theo

nhóm tuổi, 2014-2015

2014

2015

8

7.29

7.03

6.83

7

6.41

6.26

6.04

6

5

4.5

4.07

4.07

3.88

3.79

4

3.2

3

2.22

2.1

1.79

1.57

2

1.37

1.3

1

0

THCN

Cao đẳng

Trung cấp nghề

Sơ cấp nghề

Trung cấp nghề

Cao đẳng nghề

Thanh niên (15-24)

Đại học/ Trên đại học

Người lớn (>25-55(nữ) /60 (nam)

Đơn vị: %

Số liệu phân tích trên hình 3.3 cho thấy trong giai đoạn cải cách kinh tế này

Nguồn: TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm năm 2014-2015

tốc độ mất việc làm cao hơn so với tốc độ tạo việc làm, do vậy sẽ tăng tỷ lệ thất

nghiệp. Việc mở cửa tham gia vào thị trƣờng quốc tế làm tăng mức độ biến động

kinh tế vĩ mô. Những bất ổn về tỷ giá và các luồng vốn đầu tƣ làm tăng tỷ lệ thất

nghiệp. Thậm chí nếu tỷ lệ thất nghiệp trung bình trong suốt cả chu kỳ không thay

đổi thì tỷ lệ thay đổi nhân viên có thể tăng và cùng với hiện tƣợng đó là thu nhập và

kinh tế không đƣợc bảo đảm. Trong tổng số ngƣời thất nghiệp thanh niên (từ 15 - 29

tuổi) chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm tới 49,3%) do họ không có kinh nghiệm và trình

độ đào tạo không đáp ứng đƣợc yêu cầu công việc. Có tới 1/3 số ngƣời thất nghiệp

có trình độ từ trung học phổ thông trở lên điều này cho thấy vấn đề quan trọng của

92

kết nối giữa giáo dục và việc làm. Đáng chú ý số lƣợng lao động ở nông nông thôn

bị thất nghiệp đã tăng rất nhanh do tác động đồng thời của việc giảm đất canh tác và

mất việc do tác động của khủng hoảng kinh tế cũng nhƣ các khó khăn của lao động

nông thôn khi tìm việc làm tại đô thị do trình độ tay nghề kém.

Thiếu việc làm

Năm 2015, cả nƣớc có 912 nghìn ngƣời thiếu việc làm (làm việc dưới 35

gìờ/tuần, có mong muốn và sẵn sàng làm thêm giờ), chiếm 2,05% tổng số lao động

trong độ tuổi có việc làm, giảm 203 nghìn ngƣời so với năm 2014. Mức độ thiếu

việc làm ở khu vực nông thôn trầm trọng hơn so với khu vục thành thị. Tỷ lệ thiếu

việc làm ở khu vực nông thôn gấp 2,4 lần ở khu vực thành thị (2,61% so với

1,09%). Lao động thiếu việc làm ở nông thôn chiếm 81,1% tổng số lao động thiếu

việc làm (dù đã giảm gần 127 nghìn ngƣời so với năm 2014).

Giai đoạn 2007-2015, số lao động thiếu việc làm có xu hƣớng giảm nhanh,

bình quân giảm 482 nghìn ngƣời/năm (-17,44%/năm). Kết quả là tỷ lệ lao động

thiếu việc làm đã giảm từ 11,3% năm 2007 xuống còn 2,05% năm 2015.[136, tr.28].

Tổng số người thiếu việc làm (Triệu người)

Tỷ lệ thiếu việc làm chung (%)

Tỷ lệ thiếu việc làm nông thôn (%)

13.43

5

25

4.77

4

20

9.05

3

15

3.38

6.51

6.5

2.5

2.45

4.26

2

10

11.3

3.35

3.28

2.96

2.61

1.61

7.87

1

5

1.27

1.26

1.12

5.61

5.48

0.91

3.57

2.77

2.75

0

0

2.4

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2.05 2015

Hình 3.4: Số lƣợng và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động, 2007-2015

Nguồn: TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015

Nhóm ngành nông nghiệp có tỷ lệ thiếu việc làm cao nhất. Năm 2015, tỷ lệ

thiếu việc làm trong ngành nông nghiệp là 3,75%, trong khi tỷ lệ thiếu việc làm

93

trong ngành CN&XD và ngành DV chỉ tƣơng ứng là 0,94% và 0,78%. Lao động

ngành nông nghiệp vẫn chiếm đến 76,54% tổng lao động thiếu việc làm, mặc dù đã

giảm gần 89 nghìn ngƣời so với năm 2014.[136, tr.29]

Nhóm lao động dễ bị tổn thương bao gồm lao động gia đình và lao động tự

làm có tỷ lệ thiếu việc làm cao nhất (tƣơng ứng là 3,52% và 2,31%), 2 nhóm này

cũng chiếm đến 79,1% tổng lao động thiếu việc làm, tỷ lệ này đã tăng nhẹ so với

năm 2014. Lao động làm công ăn lƣơng có tỷ lệ thiếu việc làm thấp, chỉ là 1,12%.

Mức độ thiếu việc làm trầm trọng hơn ở nhóm lao động trẻ. Năm 2015 tỷ lệ lao

động thiếu việc làm trong LLLĐ từ 29 tuổi trở xuống là 6,04% (tăng so với năm 2014,

5,8%), trong khi tỷ lệ này trong nhóm lao động trƣởng thành là 1,61%.)[136, tr.28].

3.2.2.2. Chuyển dịch việc làm trong cả nền kinh tế

Quá trình chuyển dịch cơ cấu việc làm theo ngành kinh tế đã chậm lại từ sau

khủng hoảng và có xu hướng chững lại trong những năm gần đây. Đến năm 2014,

tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn còn trên 46%, chỉ giảm bình quân mỗi năm 1 phần

trăm trong giai đoạn 2010 -2014, chậm hơn so với giai đoạn trƣớc (1,4 phần

trăm/năm giai đoạn 2004 - 2009). Năm 2015 đánh dấu sự chuyển biến tích cực

trong cơ cấu lao động theo ngành kinh tế. Ngành nông nghiệp có 23,26 triệu lao

động, giảm 1,2 triệu ngƣời (-4,9%) so với năm 2014. Trong khi đó, ngành công

nghiệp có 11,9 triệu lao động, tăng 588 nghìn ngƣời (5,2%); ngành dịch vụ có 17,68

triệu lao động, tăng 692 nghìn ngƣời (4,07%). Sự phục hồi của ngành dịch vụ và

công nghiệpđã góp phần hút nhanh lao dộng ra khỏi nông nghiệp. Tỷ trọng lao động

nông nghiệp đã giảm mạnh, 2,24 điểm phần trăm so với năm 2014 (44,02% năm

2015 so với 46,36% năm 2014), nhanh hơn mức bình quân trong cả giai đoạn 2005-

2015 (chỉ gần 1 điểm phần trăm/năm)[23, tr.26].

Trong giai đoạn này, trung bình mỗi năm lao động trong ngành xây dựng

tăng thêm 323 nghìn ngƣời (2,49%/năm) và ngành dịch vụ tăng thêm 708 nghìn

(4,39%/năm), trong khi đó ngành nông nghiệp chỉ giảm nhẹ 126 nghìn ngƣời

(0,16%/năm)[23, tr.27]. Điều này cho thấy tốc độ thu hút lao động khỏi nông

nghiệp của khu vực phi nông nghiệp (công nghiệp, xây dựng và dịch vụ) vẫn còn

chậm, chƣa giảm đƣợc lao động trong ngành nông nghiệp.

94

Bảng 3.4: Số lƣợng và cơ cấu lao động có việc làm theo ngành kinh

tế2004-2015

Tiêu chí 2004 2009 2011 2013 2014 2015

Tốc độ tăng BQ (%/năm) 2004- 2009- 2015 2015

2,34 42,32 48,02 50,68 51,64 52,75 52,84 1,76

9,62

0,03 100 100 100 100

-0,16 0,00 24,50 24,75 24,52 24,24 24,43 23,26 4,92 7,34 2,49 10,79 10,91 11,31 11,9 5,00 10,48 13,65 15,37 16,49 16,99 17,68 4,39 100 100 100 100 - 1,24 -4,9 57,90 51,50 48,40 46,95 46,31 44,2 4,6 17,40 20,00 21,30 21,12 21,44 22,52 5,2 0,85 24,80 28,40 30,30 31,93 32,20 33,46 4,67 0,05

Cả nƣớc (Triệu ngƣời) Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Không xác định Cơ cấu (%) Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Không xác định Nguồn: Điều tra Việc làm - Thất nghiệp các năm 1996-2006, 2007-2015, Bộ LĐTBXH Đến nay, Việt Nam vẫn là nƣớc có cơ cấu lao động lạc hậu trong ASEAN với tỷ lệ

lao động nông nghiệp cao thứ 4 (sau Lào, Ấn Độ và Myanmar)

Hình 3.5: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế (%) của Việt Nam và các nƣớc

trong khu vực, năm 2013

100

20.4

28.1

31.93

37.8

38.5

40.6

41.5

80

8.3

53.4

71.4

77.2

24.8

60

21.12

20.3

19.4

30.1

25.2

15.6

40

71.3

47.1

46.95

41.9

40

20

33.3

24.9

31.4

30.9

16.8

6.1

3.7

0

Nông nghiệp

Công nghiệp

Dịch vụ

Nguồn:- ADB&ILO, Báo cáo Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới thịnh vượng chung và việc làm tốt hơn.

95

3.2.2.3. Giải quyết việc làm trong các khu vực kinh tế

Việc làm trong khu vực nông nghiệp, nông thôn:

Năm 2004, ở khu vực nông thôn, số hộ thuần nông chiếm 68,8%, hộ kiêm

nghề chiếm 12,7% và phi nông nghiệp 18,4%. Nguồn thu của hộ nông dân từ nông,

lâm, ngƣ nghiệp chiếm 77,5%; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ nông thôn chiếm

22,5% tổng thu. Lao động trong nông, lâm, ngƣ nghiệp chiếm 59,04% trong tổngsố

lao động xã hội. Năm 2015 tỷ lệ lao động trong nông, lâm, ngƣ nghiệp giảm xuống

còn 44,02% đánh dấu sự chuyển dịch nhất định trong cơ cấu lao động chung. Tuy

kết quả chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn những năm qua diễn ra còn chậm so

với yêu cầu, chƣa đều giữa các vùng và các địa phƣơng nhƣng cũng có những điểm

mới là xu hƣớng đa dạng hóa ngành nghề của lao động ở khu vực nông thôn ngày

càng tăng. Các làng nghề nông thôn đƣợc khôi phục và phát triển, tạo nhiều việc

làm, góp phần thúc đẩy sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Cùng với

sự ra đời của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, nhiều làng nghề đƣợc khôi

phục và phát triển đã thu hút đƣợc nhiều nguồn vốn trong dân cƣ, tạo đƣợc việc làm

tại chỗ cho hàng chục vạn lao động và đào tạo, bồi dƣỡng những lao động phổ

thông thành lao động có kỹ thuật. Sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và ngành nghề

nông thôn tăng bình quân 15%/năm. Năm 2015 cả nƣớc có 2.971 làng nghề, khoảng

1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với khoảng 1,4 triệu hộ, thu hút hơn 10 triệu

lao động (trong đó có khoảng 1,5 triệu ngƣời làm hàng mỹ nghệ)[26, tr.57].Tuy

vậy, trong nền kinh tế, lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn chủ yếu vẫn có

trình độ chuyên môn thấp, năng suất lao động không cao.

Việc làm trong công nghiệp

Trong giai đoạn 2004 - 2015 giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp bình

quân khoảng 10%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản

tăng trƣởng bình quân 12-14%/năm. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp cũng có sự

chuyển dịch tích cực theo hƣớng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến từ 80,9 %

năm 2004 đến 84,4% năm 2014[29, tr.22]. Lợi thế so sánh trong các ngành chế

biến, chế tạo sử dụng nhiều lao động đã đƣợc khai thác với ƣu thế của ngành công

96

nghiệp chế biến xuất khẩu so với các sản phẩm xuất khẩu thô. Nhiều sản phẩm

công nghiệp không chỉ đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế nhƣ dệt,

may, sắt thép, hàng điện tử... mà còn tham gia vào xuất khẩu và chiếm tỷ trọng

cao. Các sản phẩm xuất khẩu của ngành dệt may và giày dép đã vƣợt mức 10 tỷ

USD)[29, tr.26] dẫn đầu các ngành hàng tham gia xuất khẩu. Đây đƣợc coi là

những yếu tố thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH,

HĐH. Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của khu vực công nghiệp còn yếu ngay cả

với các nƣớc trong khu vực, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm chƣa cao. Hầu hết các mặt

hàng công nghiệp của nƣớc ta nằm dƣới dạng nguyên liệu hoặc dƣới dạng gia

công (giày dép, dệt, may), lắp ráp (điện tử, máy vi tính), tỷ lệ sản phẩm chế tạo rất

thấp, giá trị mới tạo ra trong sản phẩm chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Bởi vậy, số lƣợng việc

làm đƣợc tạo ra từ sản xuất công nghiệp chủ yếu vẫn là lao động có giá trị gia tăng

thấp. Công nghiệp chế biến vẫn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu và vật liệu phụ

nhập khẩu, dù phí cao. Trong hơn 30 năm đổi mới, lĩnh vực công nghiệp chế biến,

chế tạo chỉ tăng đƣợc 1,6% [145]. Bởi vậy, lĩnh vực này chƣa tạo ra nhiều việc làm

nhƣ kỳ vọng.

Việc làm trong các ngành dịch vụ

Năm 2015 chứng kiến sự tăng trưởng việc làm mạnh mẽ trong một số ngành

dịch vụ nhƣ Thông tin và truyền thông (20,1%); Hoạt động hành chính và dịch vụ

hỗ trợ (17,1%); sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nƣớc nặng, hơi nƣớc và điều

hòa không khí (16%); Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình

(11,1%). Tuy nhiên, tổng việc làm trong 4 ngành này chỉ chiếm 1,7% tổng việc làm

của nền kinh tế)[23, tr.28]. Bên cạnh đó, việc làm trong hoạt động tài chính, ngân

hàng, bảo hiểm và hoạt động kinh doanh bất động sản, chiếm 1% trong tổng việc

làm, tăng trƣởng khá (tƣơng ứng 6,3% và 5,7%). Quan trọng hơn nữa, việc làm

trong các ngành bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và các xe có động

cơ khác, chiếm 12,4% trong tổng việc làm, đang có dấu hiệu phục hồi (tăng trƣởng

0,7%)[23, tr.29]. So với năm 2014, bảy ngành có lao động tăng nhiều nhất là “công

nghiệp chế biến, chế tạo” (tăng 675 nghìn ngƣời), “dịch vụ lƣu trú và ăn uống”

97

(tăng 139 nghìn ngƣời), “bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có

động cơ khác” (tăng 135 nghìn ngƣời), “hoạt động dịch vụ khác” (tăng 95 nghìn

ngƣời), “vận tải kho bãi” (tăng 86 nghìn ngƣời), “xây dựng” (tăng 47 nghìn ngƣời)

và “y tế và hoạt động TGXH” (47 nghìn ngƣời). Ngƣợc lại, ba ngành giảm lao động

nhiều nhất là “nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản” (giảm gần 1,2 triệu ngƣời),

“khai khoáng” (giảm 16 nghìn ngƣời), “hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính

trị xã hội, quản lý nhà nƣớc, an ninh quốc phòng, đảm bảo xã hội bắt buộc” (giảm

11 nghìn ngƣời). [133]

Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

675

Khai khoáng

139

Hoạt động của ĐCS, tổ chức chính trị xã hội, QLNN, ANQP, BĐXH bắt buộc

135

SX và phân phối điện, khí đốt, nước năng, hơi nước và điều hòa không khí

95

Giáo dục và đào tạo

86

Hoạt động KD bất động sản

47

Hoạt động của các tổ chức và cơ quan quốc tế

47

Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ

27

Nghệ thuật vui chơi và giải trí

20

Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải

13

Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm

12

Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình

11

Thông tin và truyền thông

10

Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ

9

Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội

1

Xây dựng

(1)

Vận tải kho bãi

(5)

Hoạt động dịch vụ khác

(6)

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe và các xe có động cơ khác

(11)

Dịch vụ lưu trú và ăn uống

(16)

Công nghiệp chế tạo

(1,169)

(1,200)

(1,000)

(800)

(600)

(400)

(200)

0

200

400

600

800

Hình 3.6: Biến động việc làm theo ngành kinh tế, năm 2015 so với năm 2014

Nguồn: TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm năm 2014-2015

Trong những năm qua dịch vụ là ngành tạo ra nhiều việc làm nhất và có tốc

độ tăng trƣởng nhanh nhất. Tuy nhiên những năm gần đây tốc độ tăng trƣởng của

dịch vụ có phần chậm lại do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

98

Cơ cấu việc làm theo nghề vẫn còn lạc hậu. Đến năm 2014, vẫn còn hơn

40% số lao động có việc làm đang làm trong các nghề sơ cấp, lao động giản đơn;

khoảng 49,39% tập trung trong các nghề yêu cầu kỹ năng trung bình nhƣ nhân viên

văn phòng, nhân viên làm dịch vụ cá nhân, bảo vệ, lao động có kỹ thuật trong nông

nghiệp, thợ thủ công, thợ lắp ráp & vận hành máy móc, thiết bị,... Trong khi đó, chỉ

có khoảng 9,22% số việc làm thuộc nhóm nghề CMKT bậc cao, bậc trung và hơn

1,1% là các nhà lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị. Đáng lƣu ý, tỷ

trọng lao động giản đơn trong tổng việc làm lại có xu hƣớng tăng nhẹ từ 39,1% lên

40,05% trong giai đoạn 2010-2014.[136,tr 30]

45.00

40.05

40.00

35.00

30.00

25.00

20.00

16.1

15.00

12.22 11.97

7.37

10.00

6.11

3.11

5.00

1.73

1.09

0.21

0.00

Hình 3.7: Cơ cấu lao động theo nghề (%), năm 2014

Nguồn: Điều tra Lao động-Việc làm năm 2014, TCTK

Đặc biệt, cũng đang tồn tại bất cập giữa nghề nghiệp và trình độ đào tạo của

lao động. Năm 2014, trong tổng số 46,4 triệu lao động có việc làm trong độ tuổi lao

động, có 1,68 triệu ngƣời (chiếm 3,61%) làm các công việc thấp hơn so với trình độ

đào tạo của họ và 526 nghìn ngƣời có CMKT (chiếm 1,13%) nhƣng lại làm công

việc của lao động giản đơn. Ngƣợc lại, hơn 495 nghìn ngƣời (chiếm 1,07%) làm

99

công việc cao hơn so với trình độ đƣợc đào tạo[136, tr.26].

Chuyển dịch việc làm theo vị thế còn chậm do tăng trưởng việc làm công ăn

lương đang có xu hướng chậm lại, năm 2015, cả nƣớc có 20,77 triệu lao động làm

công hƣởng lƣơng, chiếm 39,32% trong tổng số việc làm, tăng 3,68 phần trăm so

với năm 2014; 1,53 triệu chủ doanh nghiệp có thuê lao động, chiếm 2,9%; 21,44

triệu lao động tự làm và 9,07 triệu lao động hộ gia đình. Giai đoạn 2005-2015, tốc

độ tăng trƣởng việc làm theo vị thế tăng mạnh ở nhóm chủ doanh nghiệp

(22,25%/năm) và lao động làm công ăn lƣơng (5,91%/năm). Trong khi đó, lao động

tự làm và lao động hộ gia đình chỉ tăng rất nhẹ 0,11%/năm và đã giảm khá mạnh ở

năm 2015, cho thấy dấu hiệu tích cực trong TTLĐ.[136, tr.26].

Bảng 3.5: Cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo vị thế việc

làm, 2005-2015

Cơ cấu (%) Tốc độ tăng (%/năm)

2015 so Giai đoạn 2005 2009 2013 2014 2015 với 2014 2005-2015

1. Lao động làm 25,70 33,80 34,80 35,64 39,32 10,50 5,91 công hƣởng lƣơng

2. Chủ doanh nghiệp 0,40 4,80 2,49 2,09 2,90 39,08 22,25 có thuê lao động

3. Lao động tự làm 73,90 61,40 62,71 62,28 57,78 -7,03 0,11 và lao động gia đình

Tổng cộng 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00

Nguồn: - Bộ LĐTBXH, Điều tra Việc làm-Thất nghiệp qua các năm 2005-2006

- TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015

Khu vực làm công hưởng lương vẫn còn khá phổ biến tình trạng việc làm dễ

bị tổn thương. Đến năm 2015, khu vực này có hơn 8,2 triệu lao động chƣa đƣợc ký

kết HĐLĐ bằng văn bản, chiếm 40,29% tổng số lao động làm công hƣởng lƣơng.

Không có HĐLĐ đồng nghĩa với việc những lao động này không đƣợc tham gia

đóng và hƣởng các chế độ BHXH, BHYT bắt buộc, cùng với đó là nguy cơ bị sa

100

thải bất cứ lúc nào do nằm ngoài sự bảo vệ của pháp luật lao động. Giai đoạn 2013-

2015, mặc dù tỷ lệ lao động này đã giảm (từ 41,23% năm 2013 còn 40,29% năm

2015), song số lƣợng vẫn tiếp tục tăng hơn 400 nghìn ngƣời/năm.[136, tr.26].

3.2.2.4. Sự thay đổi trong cơ cấu việc làm có trình độ cao trong các ngành

Nền kinh tế nƣớc ta hiện nay là nền kinh tế mở cửa ra thế giới, nền kinh tế

hƣớng ngoại. Bởi vậy, cùng với sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế kéo theo sự

chuyển dịch của cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế. Trong quá trình CNH,

HĐH gắn với phát triển KTTT với sự phát triển của các ngành nghề mới và nâng

cấp trong các ngành nghề đã tác động đến đổi mới chất lƣợng nguồn nhân lực để

đáp ứng quá trình chuyển giao công nghệ, làm chủ công nghệ, xử lý hệ thống thông

tin kỹ thuật, lắp đặt và vận hành, bảo trì công nghệ, tổ chức sản xuất...Cơ cấu sử

dụng lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật trong các ngành này có sự khác

biệt so với các ngành khác. Kéo theo sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế trình độ

ngƣời lao động trong từng ngành nghề cũng có sự thay đổi.

Bảng 3.6. Cơ cấu nhân lực có trình độ đại học theo ngành kinh tế

Ngành kinh tế

Tổng số nhân lực CLC Nông, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp khai thác mỏ Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nƣớc Xây dựng Công nghiệp chế biến, chế tạo Thƣơng nghiệp, sửa chữa xem có động cơ Dịch vụ lƣu trú và ăn uống Thông tin và truyền thông Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ Giáo dục và đào tạo Các hoạt động khác 2004 100 4,34 1,17 1,57 4,46 10,46 8,31 1,64 2,11 3,82 0,93 33,47 22,72 2013 Tăng/giảm 100 3,46 0,85 1,51 4,30 11,05 9,41 1,96 3,50 4,11 1,25 33,83 24,77 Giảm Giảm Giảm Giảm Tăng Tăng Tăng Tăng Tăng Tăng Tăng Tăng

Nguồn: Điều tra cầu lao động tại 8 tỉnh/TP 12/2013: Điều tra LĐ-VL năm

2013 Bộ LĐTH&XH.

101

Cơ cấu nhân lực theo ngành kinh tế trong bảng thống kê trên phát triển theo

hai xu hƣớng:

(1) Xu hƣớng giảm tỷ trọng nhân lực trình độ đại học trong những ngành

gồm: Nông, lâm nghiệp, thủy sản (giảm từ 4,34% xuống 3,46%); Đối với nhóm

ngành chế biến nông, lâm hải sản nhất là chế biến thực phẩm và đồ uống đóng góp

quan trọng vào cơ cấu chế biến

Công nghiệp khai thác mỏ (giảm từ 1,17% xuống 0,85%); Sản xuất và phân

phối điện, khí đốt, nƣớc (giảm từ 1,57% xuống 1,51%); trong tổng số nhân lực đại

học. Đây là những ngành gắn liền với nền kinh tế nông nhiệp và ít gần với tri thức

khoa học công nghệ hiện đại.

(2) Xu hƣớng tăng tỷ trọng nhân lực trình độ đại học trong những ngành:

Công nghiệp chế biến, chế tạo: Thƣơng nghiệp, sửa chữa xe có động cơ; Dịch vụ

lƣu trú và ăn uống; Thông tin và truyền thông; Tài chính, ngân hàng và bảo

hiểm; Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ; Giáo dục và đào tạo. Đây

là nhữngngành mà yêu cầu về hàm lƣợng chất xám và tri thức KH - CN nghệ hiện

đạt đƣợc đặt ra ở mức cao, gắn với xu hƣớng phát triển của thời đại.

3.2.2.5. Việc làm trong các ngành công nghệ cao ở Việt Nam

Công nghệ thông tin vàtruyền thông (ICT) là một điểm sáng trong phát

triển KTTT với tỷ trọng đóng góp cao trong các tiêu chí phát triển KTTT của Việt

Nam. Sự lớn mạnh của ICT Việt Nam không chỉ thể hiện ở cả xếp bậc thứ hạng mà

còn cả quy mô ngành và thị trƣờng cũng nhƣ tốc độ phát triển. Tuy nhiên nếu tính

theo tỷ lệ dân truy cập Internet thì hiện nay Việt Nam vẫn đang ở thứ hạng khá

khiêm tốn: xếp thứ 9 trong khu vực châu Á và thứ 93 trên thế giới.

Công nghệ thông tin đƣợc ứng dụng khá sâu rộng trong nhiều lĩnh vực kinh

tế quốc dân và hoạt động xã hội nhƣ ngân hàng, dầu khí, hàng không, bƣu chính

viễn thông. Hàng loạt công nghệ hiện đại đã đƣợc ứng dụng thành công nhƣ mạng

viễn thông số hóa, mạng cáp quang, công nghệ GSM và CDMA. Một số công nghệ

mới nhƣ 3G, 4G, WiMax và mobile TV đang đƣợc tiếp tục thử nghiệm để đƣa vào

ứng dụng. Ngoài các tuyến cáp quang nhƣ SEA-ME-WE-3, Thái Lan-Việt Nam-

102

Hồng Kông, còn có hệ thống cáp ngầm Á - Mỹ sẽ đƣợc hoàn thành vào cuối năm

2008. Công nghệ WiFi ngày càng trở nên phổ biến.

Đến 2014, tổng doanh thu ngành công nghệ thông tin đạt 5,22 tỷ USD trong

đó phần cứng đạt 4,1 tỷ USD, phần mềm đạt 680 triệu USD, công nghiệp nội dung

số đạt 440 triệu USD. Tổng nhân lực trong ngành công nghiệp công nghệ thông tin

ƣớc trên 200.000 ngƣời, trong đó lao động thuộc lĩnh vực phần cứng là 110.000

ngƣời, phần mềm 57.000 ngƣời, lĩnh vực nội dung số là 33.000 ngƣời[147, tr.97].

Theo phân tích của VietnamWorks, trong 3 năm vừa qua, số lƣợng công việc

ngành Công Nghệ Thông Tin - Phần Mềm đã tăng trung bình 47% mỗi năm. Tuy

nhiên, số lƣợng nhân sự ngành này chỉ tăng ở mức trung bình 8%.

Thực tế cho thấy, thị trƣờng nhân lực CNTT đang thiếu hụt nghiêm trọng.

Cụ thể, từ nay đến năm 2020, nếu tiếp tục tăng trƣởng nhân lực ở mức 8%, chúng ta

sẽ thiếu hụt khoảng 78.000 nhân lực IT mỗi năm, và đến năm 2020 sẽ thiếu

hơn500.000 nhân lực IT, chiếm hơn 78% tổng số nhân lực IT thị trƣờng cần.

Hiện nay, cả nƣớc có 271 cơ sở đào tạo CNTT. Thậm chí, ngay cả dựa theo chỉ

tiêu tuyển sinh với quy mô đào tạo tăng 10% mỗi năm, Bộ Thông tin&Truyềnthông

vẫn dự báo nguy cơ thiếu nhân lực CNTT trầm trọng trong những năm tới. Điều đáng

nói là, đa phần những sinh viên CNTT hiện nay đang chƣa thể đáp ứng nhu cầu tuyển

dụng của doanh nghiệp do thiếu những kỹ năng cần thiết trong công việc nhƣ kiến thức

và khả năng thực hành lập trình, khả năng tiếp cận công nghệ mới, tiếng Anh, kỹ năng

giao tiếp, phỏng vấn, tiếp xúc cùng doanh nghiệp... Theo thống kê của Viện Chiến lƣợc

CNTT, hiện nay 72% sinh viên ngành CNTT không có kinh nghiệm thực hành, 42%

thiếu kỹ năng làm việc nhóm, 100% không biết lĩnh vực hành nghề. Đặc biệt là đối với

các sinh viên mới tốt nghiệp, chỉ khoảng 15% sinh viên ra trƣờng đáp ứng yêu cầu

doanh nghiệp. Hơn 80% lập trình viên phải đào tạo lại, cá biệt có những doanh nghiệp

phải mất tới 2 năm để đào tạo lại. Đồng thời các doanh nghiệp, công ty phần mềm

trong nƣớc cũng đang chật vật tìm kiếm nguồn nhân lực CNTT chất lƣợng cao.

Nói chung, nhu cầu lao động chất lƣợng cao trong các ngành công nghệ cao

(CNTT, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới...) và một số loại hình dịch vụ

103

hiện đại đã thúc đẩy phát triển đào tạo lao động chất lƣợng. Cơ cấu sử dụng lao động

theo trình độ CMKT trong các ngành này có sự khác biệt so với các ngành khác.

Bảng 3.7: Cơ cấu sử dụng lao động một số ngành công nghệ cao và dịch vụ (%)

LĐ phổ CNKT, Trung CĐ ĐH Tổng số Lĩnh vực hoạt động thông sơ cấp cấp trở lên

Công nghệ TT 28,22 20,4 51,38 100

KH, công nghệ 16,2 22,5 15,5 45,8 100

Thông tin liên lạc 10,0 61,0 22,7 20,5 100

Tài chính, ứng dụng 8,5 28,1 21,4 42,0 100

HĐ của TC QT 6,2 6,3 25 62,5 100

Nguồn: Điều tra cầu lao động tại 8 tỉnh/TP 12/2013: Điều tra LĐ-VL năm

2013 Bộ LĐTH&XH.

Phần lớn lao động làm việc trong các ngành này là lao động có kỹ năng. Đây

là những ngành mới phát triển mạnh ở nƣớc ta (công nghệ thông tin...) hoặc các

ngành phải đổi mới về quy trình, công nghệ hoạt động phù hợp với xu thế

TCHKT(viễn thông, kinh doanh ngân hàng, bảo hiểm...). Trong các ngành này tỷ lệ

lao động có trình độ CĐ, ĐH trở lên rất cao: ngành CNTT 51,38%, hoạt động của

các tổ chức quốc tế 62,5%[149, tr.25]. Chính sự phát triển của các ngành này trong

các năm qua là một kênh kích thích phát triển đào tạo lao động trình độ CMKT cao.

3.2.2.6. Giải quyết việc làm thông qua thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Mở cửa, hội nhập, thu hút FDI là cách các nƣớc đang phát triển thích ứng với

bối cảnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức. Ở Việt Nam, từ khi tiến hành đổi mới,

hoạt động thu hút FDI rất đƣợc coi trọng. Trong giai đoạn 2004 - 2014 các dự án

đầu tƣ nƣớc ngoài tập trung đầu tƣ vào lĩnh vực công nghiệp chiếm tỷ trọng cao

nhất với tổng số 2.431 dự án và trên 45,7194 tỷ USD (chiếm 66,26% về số dự án

đầu tƣ và trên 56,67% về vốn đầu tƣ đăng ký). Trong đó, công nghiệp nặng là 995

dự án, công nghiệp nhẹ là 975 dự án, xây dựng là 242 dự án, công nghiệp thực

phẩm là 190 dự án và công nghiệp dầu khí là 29 dự án. Kế đến là lĩnh vực dịch vụ

với 754 dự án đầu tƣ, thu hút trên 14,52 tỷ USD vốn đầu tƣ (chiếm 20,55% số dự án

104

và trên 37,14% số vốn đăng ký đầu tƣ). Lĩnh vực nông - lâm - nghiệp thu hút ít dự

án đầu tƣ nhất, chỉ có 484 dự án với số vốn 2,42 tỷ USD (chiếm 13,19% số dự án và

chỉ chiếm 6,19% tổng vốn đăng ký)[24, tr.25]. Qua bảng 3.8 ta thấy khu vực FDI

thu hút lao động không nhiều nhƣng tốc độ tăng việc làm của khu vực này khá ổn

định, đạt tốc độ bình quân năm là 16,6%, làm tăng tỷ trọng lao động làm việc ở khu

vực này từ mức 0,83% trong năm 2000 lên tới 6,17 % trong năm 2014[23, tr.28].

Bảng 3.8: Số lƣợng lao động chia theo các loại hình kinh tế trong khu

vực FDI thời kỳ 2009-2014 (Đơn vị: ngƣời)

Ngành Công nghiệp và xây dựng Nông nghiệp Dịch vụ Năm

2000 366.370 3.902 37.293

2005 1.1.41.091 7.700 71.039

2010 1.993.230 11.151 72.825

2012 2.498.707 9.141 212.118

2014 2.932.232 9.813 280.494

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Xét về cơ cấu lao động theo ngành ta thấy: trong khu vực FDI, lao động và việc

làm chủ yếu tập trung trong các công nghiệp và xây dựng (năm 2013 chiếm tới 90,5%).

Xét về tỷ trọng sử dụng lao động theo giới tính, số lao động nữ ở khu vực có vốn FDI

chiếm 65,4% [52, tr.18], chủ yếu làm việc trong ngành công nghiệp chế biến (ngành dệt

may) và làm nghề vận hành máy móc thiết bị (chủ yếu là vận hành máy may công nghiệp).

Đối với một số ngành công nghiệp xuất khẩu, tác động tạo việc làm của khu

vực FDI lớn hơn so với mức bình quân chung.Tỷ trọng lao động trong khu vực FDI

trong các ngành công nghiệp xuất khẩu có tỷ lệ cao [phụ lục 5] và ngày càng tăng

lên nhƣ: ngành may mặc (21,2%), ngành dệt (18,8%), các sản phẩm sản xuất da

(38,7%)[52, tr.l9]. Rõ ràng, khu vực FDI đã có tác động tích cực chuyển dịch cơ cấu

kinh tế và cơ cấu lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Số việc làm do khu vực FDI tạo ra chiếm tỷ trọng không lớn nhƣng là việc

làm có suất đầu tƣ cao (suất đầu tƣ bình quân/ chỗ làm việc khu vực FDI là 663,4

triệu đồng, so với mức bình quân của toàn bộ nền kinh tế là khoảng 39,3 triệu

105

đồng). Mức đầu tƣ/ chỗ làm việc cao của khu vực FDI đã góp phần nâng cao trình

độ công nghệ và quản lý, năng suất và hiệu quả của việc làm [25, tr.15].

Khu vực FDI cũng tạo việc làm gián tiếp cho ngƣời lao động với mức cao

hơn gấp nhiều lần so với số việc làm trực tiếp, thông qua các hợp đồng cung ứng

dịch vụ, gia công và đại lý (tỷ lệ tạo việc làm trực tiếp so với việc làm gián tiếp của

một số doanh nghiệp FDI nhƣ Coca Cola là 1/12; American Feed: 1/23; Shell

Comado: 1/59,1; Haiha-katobuki: 1/31; Samsung Vina: 1/9,9)[25, tr.15].

Trong xu thế nhƣ vậy, khu vực FDI cùng với khu vực tư nhân đang dần

thay thế khu vực nhà nước trong tạo việc làm. Năm 2015, khu vực FDI, chiếm

4,17% tổng việc làm của nền kinh tế, với tốc độ tăng trƣởng việc làm

12,47%/năm trong cả giai đoạn 2005-2015 (các con số tƣơng ứng của khu vực tƣ

nhân là 11% và 6,77%/năm). Khu vực nhà nƣớc chiếm 10,16% tổng số việc làm

của nền kinh tế, song tốc độ tăng việc làm của khu vực này thấp và có xu hƣớng

giảm nhanh trong những năm gần đây (1,56%/năm giai đoạn 2011-2015 so với

2,35%/năm giai đoạn 2005- 2015)[25,tr.55].

Bảng 3.9: Cơ cấu và tốc độ tăng lao động có việc làm theo hình thức sở hữu,

2004-2015

Cơ cấu (%)

Tốc độ tăng (%/năm)

Thành phần

2015 so

Giaiđoạn

kinh tế

2004

2005

2009

2013

2014

2015

với 2014

2005-2015

l. Nhà nƣớc

14,20 10,20

9,89

10,21

10,34

9,81

-4,89

2,35

2. Tập thể

2,34

2,40

0,23

0,22

-2,51

0,60

0,24

-18,39

3. Tƣ nhân

5,90

6,10

8,80

10,95

24,70

6,29

8,37

6,77

4. Cá thể

64,36 79,70

83,22

77,76

76,36

74,74

-1,95

1,55

5. Có vốn đầutƣ

1,20

1,60

2,36

3,42

3,88

4,17

7,51

12,47

nƣớc ngoài

6.Khác/Hỗn hợp

0,00

0,00

0,00

0,39

0,10

Tổng cộng

100,00 100,00 100,00 100,00 100,00

Nguồn:- Bộ LĐTBXH, Điều tra Việc làm-Thất nghiệp qua các năm 2005-2006

- TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015

106

3.2.2.7. Giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu hàng hóa và lao động

- Xuất khẩu hàng hóa với vấn đề GQVL

Tận dụng lợi thế nhân công giá rẻ, xuất khẩu hàng hóa đã tạo ra số lƣợng

đáng kể việc làm cho ngƣời lao động và gián tiếp góp phần giải quyết vấn đề xã hội.

Tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu luôn cao gấp 2 đến 3 lần tốc độ tăng trƣởng GDP,

thời gian qua, xuất khẩu đã giúp tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho hàng triệu

nông dân và các lao động khác nhau tham gia xuất khẩu hàng nông sản, hàng dệt

may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ và các hàng hóa khác.

So với các ngành khác của nền kinh tế, theo báo cáo “Năng lực cạnh tranh

của doanh nghiệp xuất khẩu” do CIEM công bố, các doanh nghiệp xuất khẩu đã

tạo đƣợc nhiều việc làm hơn so với doanh nghiệp không xuất khẩu cùng ngành.

Cụ thể, năm 2009, trung bình một doanh nghiệp xuất khẩu may mặc tuyển dụng

215 lao động, cao gấp 3,5 lần so với doanh nghiệp không xuất khẩu, ngành thủy

sản cao cấp 2,4 lần và điện tử cao gấp 3 lần [26, tr.12]. Sau năm suy thoái kinh tế

2008 đến nay, trong khi xu hƣớng giảm lao động vẫn đang tiếp tục ở hầu hết các

doanh nghiệpkhông xuất khẩu thì số lao động ở các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn

duy trì và đang tăng trở lại. Điều này thể hiện phần nào sự phản ứng tốt hơn của

doanh nghiệp xuất khẩu so với doanh nghiệp không xuất khẩu hoạt động trong môi

trƣờng cạnh tranh khốc liệt hơn sau khi Việt Nam thực hiện cam kết WTO cũng nhƣ

tác động của khủng hoảng tài chính và lạm phát cao trong nƣớc.

- Xuất khẩu lao động

Tác động của toàn cầu hóa đối với di chuyển lao động nƣớc ta ra thị trƣờng

lao động thế giới theo cơ chế thị trƣờng đƣợc hình thành kể từ năm 1990. Đƣa

ngƣời lao độngViệt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài (gọi tắt là xuất khẩu lao động)

đã đóng vai trò quan trọng trong GQVL, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, góp

phần phát triển kinh tế, giảm nghèo trong giai đoạn vừa qua. Kể từ khi Luật “Đƣa

ngƣời Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nƣớc ngoài theo hợp đồng” chính thức

có hiệu lực, tổng số lƣợt ngƣời đi làm việc ở nƣớc ngoài tăng nhanh: Năm 1990 là

3069 ngƣời, 2000: 31 nghìn ngƣời. Giai đoạn 2005-2015, số lƣợng lao động Việt

107

Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài bình quân mỗi năm là 80,82 nghìn ngƣời và tăng

với tốc độ bình quân 3,7%/năm (tƣơng đƣơng 4,54 nghìn ngƣời/năm). Đặc biệt,

năm 2015, số lƣợng lao động Việt Nam đƣa đi làm việc ở nƣớc ngoài đã đạt mức

kỷ lục cao nhất từ trƣớc đến nay, gần 116 nghìn ngƣời, tăng mạnh so với năm

2014 (8,55%) nhờ sự khai thác tốt các thị trƣờng trọng điểm truyền thống nhƣ Đài

Loan (chiếm 57,87% tổng số lao động xuất khẩu của cả nƣớc), Nhật Bản (23,29%)

và Malaixia (6,34%) [136, tr.25].

Bảng 3.10: Quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng lao động đi làm việc ở nƣớc

ngoài theo nƣớc tiếp nhận, 2005-2015

Tốc độ tăng (%/năm)

2005 2009 2013 2014 2015 2015 so Giai đoạn

với 2014 2005-2015

Quy mô 70,59 73,03 88,16 106,84 115,98 8,55 3,70 (nghìn người)

2. Cơ cấu (%)

- Đài Loan 32,27 29,68 52,60 58,15 57,87 8,04 9,53

- Hàn Quốc 17,14 10,38 6,18 6,78 5,19 -16,89 -2,93

4,19 7,47 10,99 18,50 23,29 36,65 - Nhật bản 18,68

34,85 3,82 8,58 2,11 6,34 226,22 -14,09 - Malaysia

9,58 3,75 5,51 0,00 0,00 - Lào

- A-rập Xê út 0,00 2,44 1,93 3,92 3,43

1,43 1,12 2,35 0,78 0,25 - U.A.E

0,53 41,34 11,86 9,76 3,63 - Khác

Đưa lao động có nghề đi làm việc ở nước ngoài ngày càng được chú trọng.

Nguồn: Bộ LĐTBXH, Cục Quản lý lao động ngoài nước

Tỷ lệ lao động có CMKT đƣa đi làm việc ở nƣớc ngoài hằng năm đã tăng đáng kể

từ 14,1% năm 2004 lên 44,1% năm 2015. Đến nay, số lƣợng lao động có nghề đƣa

đi làm việc ở nƣớc ngoài ngày càng tăng thông qua các chƣơng trình tu nghiệp sinh,

108

chƣơng trình thẻ vàng của Hàn Quốc, các chƣơng trình đƣa lao động là kỹ sƣ,

chuyên gia sang Nhật, Đức và một số thị trƣờng khác... Đặc biệt trong những năm

gần đây, Việt Nam đã tăng cƣờng hợp tác về lao động trong lĩnh vực у tế với chính

phủ Đức và Nhật Bản với việc thí điểm đƣa điều dƣỡng viên, hộ lý sang các nƣớc

này làm việc.

Bên cạnh các tác động tích cực, hoạt động xuất khẩu lao động cũng đã và

đang tồn tại một số vấn đề. Mặc dù chất lƣợng lao động xuất khẩu đã đƣợc cải

thiện, song mặt bằng chung còn thấp. Hiện nay, nhìn chung các thị trƣờng (ngay cả

đối với thị trƣờng nhận nhiều lao động phổ thông nhƣ: Malaysia, Đài Loan, Trung

Đông) đều gia tăng nhu cầu lao động có tay nghề. Đối với những thị trƣờng luôn đòi

hỏi lao động có trình độ tay nghề cao (Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Đông Âu), ngƣời

lao động còn phải có trình độ ngoại ngữ nhất định.

Khả năng tiếp cận các dịch vụ XKLĐ qua các kênh thông tin chính thức

của ngƣời lao động còn hạn chế. Việc chuẩn bị cho ngƣời lao động các kỹ năng và

văn hóa cần thiết trƣớc khi ra nƣớc ngoài chƣa đƣợc đảm bảo. Việc làm và thu

nhập của bộ phận ngƣời đi XKLĐ không ổn định, gặp nhiều khó khăn trong việc

thích nghi với điều kiện sống và làm việc tại nƣớc ngoài. Chính sách hậu xuất

khẩu lao động về giải quyết việc làm và tái hòa nhập cho ngƣời lao động sau khi

kết thúc hợp đồng về nƣớc còn thiếu. Công tác hỗ trợ ngƣời lao động của các

doanh nghiệp XKLĐ còn nhiều bất cập.

3.3. Thu nhập của ngƣời lao động

3.3.1. Mức tăng thu nhập chung của ngƣời lao động

Năm 2015, mức tiền lƣơng bình quân tháng của một lao động là 4.151 nghìn

đồng, tăng khoảng gần 1,90 lần so với năm 2009 (2.258 nghìn đồng) và tốc độ tăng

giai đoạn 2009-2015 khá cao, 11,90%/năm [135, tr.34].

109

Bảng 3.11: Tiền lƣơng bình quân tháng của lao động và tốc độ tăng

lƣơng bình quân tháng của lao động, 2009-2015

Tiền lƣơng bình quân (nghìn đồng/lao động/tháng) Tốc độ tăng,

2009-2015 Nhóm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 (%/năm)

11,90 Chung 2.258 2.474 2.809 3.483 3.789 4.126 4.151

11,02 Nam 2.483 2.668 3.056 3.630 3.938 4.302 4.402

12,41 Nữ 1.987 2.297 2.712 3.267 3.575 3.881 3.807

Nguồn: ILSSA tính toán từ số liệu Điều tra Lao động-Việc làm của TCTK

qua các năm 2009-2015

Tốc độ tăng tiền lƣơng danh nghĩa từ 2009 đến 2012 khá phù hợp với tốc độ

tăng NSLĐ, tuy nhiên từ năm 2013 tốc độ tăng tiền lƣơng có xu hƣớng tăng nhanh

hơn tốc độ tăng NSLĐ, điều này là do quá trình điều chỉnh tăng tiền lƣơng tối thiểu

từ năm 2012 đến nay.

Bảng 3.12: Tốc độ tăng tiền lƣơng bình quân, GDP, chỉ số giá tiêu dùng

và năng suất lao động theo giá hiện hành, 2009-2015

Đơn vị: %

Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Tốc độ tăng tiền lƣơng bình quân 9,57 13,54 23,99 8,79 8,89 12,00

Tốc độ tăng CPI 6,88 9,19 18,58 9,21 6,60 4,09 0,63

Tốc độ tăng GDP 5,40 6,42 6,24 5,25 5,42 5,98 6,68

Tốc độ tăng NSLĐ 10,17 15,71 25,82 15,06 8,78 8,81 6,16

Nguồn: - TCTK, Số liệu báo cáo kinh tế xã hội hàng năm 2009-2015

- ILSSA tính toán từ số liệu Điều tra Lao động-Việc làm của TCTK qua các năm 2009-2015

Tiền lương trong giai đoạn 2009 - 2015, tăng nhanh qua các năm

nhưngmức tiền lương bình quân vẫn khá thấp.

Tốc độ tăng tiền lƣơng thực tế bình quân của Việt Nam trong 5 năm trở lại

đây là 7.8%/năm. Mức tăng này một phần là do tiền lƣơng tối thiểu vùng do Chính

110

phủ quy định đƣợc điều chỉnh tăng hàng năm (bình quân khoảng 15%/năm, trong

cùng giai đoạn) và các doanh nghiệp trả lƣơng cho lao động bám sát so với tiền

lƣơng tối thiểu vùng. Mặc dù vậy, mức tiền lƣơng bình quân/lao động ở Việt Nam

vẫn rất thấp.

3.3.2. Thu nhập theo ngành nghề

Cùng với sự chuyển dich của cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong giai

đoạn 2004-2015 thu nhập của ngƣời lao động trong các ngành kinh tế khác nhau

cũng có sự thay đổi. Đặc biệt từ năm 2009 đến năm 2015 thu nhập theo ngành kinh

tế đã có sự thay đổi rõ rệt.

Bảng 3.13: Tiền lƣơng bình quân tháng của lao động và tốc độ tăng chia theo

nhóm ngành, 2009-2015

Tiền lƣơng bình quân (nghìn đồng/lao động/tháng)

Tốc độ tăng

Ngành

2009-2015

kinh tế

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

(%/năm)

10,39

Nông nghiệp 1.693,9 1.827,4 2.203,2 2.559,2 2.719,4 2.874,7 2.936

10,82

Công nghiệp 2.221,9 2.389,8 2.633,9 3.110,5 3.339,9 3.664,9 4.027

10,06

Dịch vụ

2.953,2 2.833,6 3.417,4 4.095,3 4.522,4 4.876,8 4.583

Nguồn: ILSSA tính toán từ số liệu Điều tra Lao động-Việc làm của TCTK

qua các năm 2009-2015

Số liệu ở Bảng 3.13 cho thấy, nông nghiệp là khu vực có mức tiền lương

thấp nhất, mặc dù có tốc độ tăng tiền lương cao hơn, song vẫn chưa thu hẹp

được khoảng cách về tiền lương với các khu vực còn lại. Năm 2015, mức tiền

lƣơng trong nông nghiệp là 2.936 triệu đồng/ngƣời/tháng, chỉ bằng 70,73% mức

tiền lƣơng chung và bằng 64,06% mức lƣơng trong khu vực dịch vụ, mặc dù

trong cả giai đoạn, tốc độ tăng tiền lƣơng trong nông nghiệp khá cao

(10,39%/năm). Khu vực công nghiệp có mức tăng tiền lƣơng thấp nhất, trong đó

ngành công nghiệp chế biến chế tạo chỉ tăng 10.8%. Thực tế cũng cho thấy đây là

ngành có nhân công giá rẻ và và đây đƣợc coi là một lợi thế để thu hút đầu tƣ

nƣớc ngoài. Tuy nhiên, mức tiền lƣơng khá thấp đang trở thành khó khăn và

111

thách thức lớn cho ngƣời lao động trong việc cải thiện cuộc sống lẫn nâng cao

trình độ, chất lƣợng lao động. Khu vực dịch vụ có mức tiền lƣơng cao nhất và liên

tục tăng qua các năm với tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2009-2015 là

10,06%/năm[136, tr.36].

3.3.3. Thu nhập giữa các vùng kinh tế

Theo số liệu thống kê của Bộ LĐ - TBXH, mức lƣơng tối thiểu vùng do Nhà

nƣớc quy định, áp dụng đối với ngƣời lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp,

hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có

thuê mƣớn lao động, là mức sàn thấp nhất để doanh nghiệp và ngƣời lao động thỏa

thuận tiền lƣơng.

Tiền lương tối thiểu vùng đã dần theo hướng thị trường và thông qua

thương lượng ba bên ở cấp quốc gia

Mức lƣơng tối thiểu vùng đƣợc Chính phủ điều chỉnh hàng năm, căn cứ vào

khuyến nghị của Hội đồng tiền lƣơng quốc gia dựa trên kết quả đồng thuận thông

qua thƣơng lƣợng của các bên. Năm 2015, mức tiền lƣơng tối thiểu vùng I là 3.100

nghìn đồng, vùng II là 2.750 nghìn đồng, vùng III (tƣơng đƣơng bình quân cả nƣớc)

là 2.400 nghìn đồng và vùng IV là 2.150 nghìn đồng; vùng 3 (gần mức bình quân

của cả nƣớc) tăng bình quân giai đoạn 2009-2015 là 26,94%/năm.[136, tr.36].

Bảng 3.14: Mức lƣơng tối thiểu vùng, 2009-2015

Đơn vị: nghìn đồng/người/tháng

2009 2010 2011

10/2011 DN DN DN Vùng 2013 2014 2015 DN DN DN -2012 trong trong trong FDI FDI FDI nƣớc nƣớc nƣớc

Vùng I 800 1.200 980 1.340 1.350 1.550 2.000 2.350 2.700 3.100

Vùng II 740 1.080 880 1.190 1.200 1.350 1.780 2.100 2.400 2.750

Vùng III 690 950 810 1.040 1.050 1.170 1.550 1.800 2.100 2.400

Vùng IV 650 920 730 1.000 830 1.100 1.400 1.650 1.900 2.150

Nguồn: Thống kê mức tiền lương tối thiểu theo quy định của Chính phủ

112

Tốc độ tăng tiền lương tối thiểu vùng cao hơn so với tốc độ tăng chỉ số giá

và tốc độ tăng trưởng kinh tế

Hình 3.8: Tốc độ tăng tiền lƣơng tối thiểu vùng, chỉ số giá và tăng trƣởng kinh

tế, 2009-2015

50

47.62

40

30

29.63

27.78

20

18.58

17.39

16.67

16.13

14.29

10

6.6 6.6

9.19 6.42

6.24

6.88 5.4

9.21 5.25

5.98 4.09

6.68 0.63

0

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

Tốc độ tăng TL tối thiểu

Tốc độ tăng CPI

Tốc độ tăng GDP

Nguồn: Thống kê về tiền lương tối thiểu vùng theo quy định của Chính phủ và TCTK qua

các năm 2009-2014

Tiền lương tối thiểu* của vùng 3, vùng có mức tiền lương tối thiểu gần tương đương với

tiền lương tối thiểu chung

Đơn vị: %

Giai đoạn từ 2009-2015, tốc độ tăng tiền lƣơng tối thiểu vùng khá nhanh, bình

quân 26,94%/năm, bình quân tăng cao hơn 4,63 lần so với tốc độ tăng GDP và 3,31

lần so với tốc độ tăng chỉ số giá. Nguyên nhân chính là do ảnh hƣởng bởi suy giảm

tăng trƣởng (đến 2015 tăng trƣởng kinh tế mới bƣớc đầu phục hồi), Chính phủ sử

dụng nhiều chính sách nhƣ thắt chặt và cắt giảm chi tiêu công, các chính sách kiềm

chế lạm phát nên chỉ số giá tiêu dùng đã giảm từ 18% năm 2011 xuống 0,63% năm

2015,[136, tr.36] mức tiền lƣơng tối thiểu chƣa đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu. Do

vậy, trong thời kỳ này, nếu chỉ nhìn vào tốc độ tăng của tiền lƣơng tối thiểu, tăng

trƣởng kinh tế và chỉ số giá tiêu dùng thì mối quan hệ giữa các yếu tố này theo lý

thuyết là chƣa hợp lý.

Tiền lương tối thiểu tăng nhanh, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu sống

tối thiểu của người lao động

113

Mặc dù tiền lƣơng tối thiểu tăng nhanh nhƣng vẫn chƣa đáp ứng đủ nhu cầu

sống tối thiểu của ngƣời lao động, đặc biệt trong năm 2010 và 2011 khi chỉ số giá

tăng cao, mức lƣơng tối thiểu vùng quy định chỉ đáp ứng khoảng 47% nhu cầu tối

thiểu của ngƣời lao động. Do tốc độ tăng nhanh của tiền lƣơng tối thiểu khu vực

doanh nghiệp nên đến 2015 mức đáp ứng này đã tăng lên 80%. Do tiền lƣơng tối

thiểu của vùng 3 có mức gần nhất với tiền lƣơng tối thiểu bình quân cả nƣớc,

hìnhdƣới đây mô phỏng tiền lƣơng tối thiểu quy định của Chính phủ và các mức

tiền lƣơng tối thiểu đủ sống theo tính toán.

3.4. Đánh giá về kết quả giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối

cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

3.4.1. Những thành tựu đạt đƣợc

Trong hơn 10 năm vừa qua, kinh tế Việt Nam đã vƣợt qua đƣợc những khó

khăn do tác động của cuộc suy thoái toàn cầu gây ra, quá trình CNH, HĐH theo

hƣớng hội nhập quốc tế, gắn với phát triển KTTT vẫn tiếp tục đƣợc đẩy mạnh, tăng

trƣởng kinh tế tuy chậm lại song vẫn duy trì đƣợc mức tƣơng đối cao và điều đó đã

có ảnh hƣởng tích cực đến các kết quả GQVL. Những thành tựu chính trong lĩnh

vực này là:

Thứ nhất, với việc ƣu tiên cao cho mục tiêu GQVL, hệ thống luật và chính

sách liên quan đến vấn đề GQVL đã đƣợc ban hành ngày càng đầy đủ và hoàn thiện

hơn. Các chính sách tạo việc làm và hỗ trợ để ngƣời lao động tự tạo việc làm

(Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về việc làm, dự án cho vay giải quyết việc làm...);

hỗ trợ đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài (cho vay tín dụng, bồi dƣỡng

kiến thức, nghề nghiệp trƣớc khi đi lao động ở nƣớc ngoài,...)...đã góp phần không

nhỏ vào việc GQVL ở Việt Nam.

Thứ hai, nền kinh tế ngày càng tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Cơ hội có

việc làm của ngƣời lao động tăng lên, giải tỏa đƣợc sức ép về việc làm cho ngƣời

lao động trong bối cảnh lực lƣợng tham gia lao động ngày càng tăng, với tốc độ

tăng bằng 2 lần tốc độ tăng dân số trong giai đoạn 2014 -2015. Tỷ lệ thất nghiệp

chung luôn duy trì đƣợc ở mức dƣới 3% (năm 2015: 2,33%).

114

Thứ ba, cơ cấu việc làm dịch chuyển theo hƣớng tiến bộ phù hợp với yêu cầu

của quá trình CNH, HĐH, gắn với phát triển KTTT. Việc làm trong ngành công

nghiệp và dịch vụ tăng nhanh hơn ngành nông nghiệp. Tỷ trọng lao động việc làm

trong nông nghiệp giảm từ 59,6% năm 2004 xuống còn 44,02% năm 2015. Sốlƣợng

việc làm trong các ngành công nghệ cao (đặc biệt ngành CNTT) ngày càng tăng.

Lao động phổ thông giảm cả tƣơng đối và tuyệt đối. Lao động làm công ăn lƣơng có

xu hƣớng tăng. Lao động làm việc trong khu vực FDI, trong lĩnh vực sản xuất phục

vụ xuất khẩu cũng nhƣ ở nƣớc ngoài tiếp tục tăng cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọngcho

thấy phản ứng tích cực của nền kinh tế trƣớc nhu cầu hội nhập quốc tế trong bối

cảnh KTTT.

Thứ tư, quy mô, cơ cấu và chất lƣợng lao động ngày càng đƣợc cải thiện.

Điểm mạnh của nguồn nhân lực nƣớc ta là quy mô lớn, có khả năng tiếp thu

nhanh các thành tựu khoa học - công nghệ của thế giới, một bộ phận lao động lành

nghề và lành nghề cao đã đƣợc đào tạo trong và ngoài nƣớc theo các chuẩn mực lao

động quốc tế. Hệ thống giáo dục, đào tạo, dạy nghề tuy còn nhiều bất cập vẫn tiếp

tục đƣợc mở rộng và phát triển, có khả năng hội nhập, thích ứng nhanh với nền giáo

dục và đào tạo hiện đại của khu vực và thế giới.

Thứ năm, thu nhập của ngƣời lao động ngày càng tăng. Xét trong toàn bộ nền

kinh tế, trong cả thời kỳ 2004 - 2015 mức tăng thu nhập của ngƣời lao động xấp xỉ

12%/ năm cao hơn mức tăng thu nhập trung bình của khu vực ASEAN (khu vực

ASEAN tăng gần 9% giai đoạn 2004 - 2015) [23, 34]. Trong khi đó, chênh lệch tiền

lƣơng giữa các nhóm lao động có xu hƣớng đƣợc thu hẹp.

Thứ sáu,lao động có xu hƣớng việc làm bền vững hơn thể hiện ở sự gia tăng

tỷ lệ lao động có hình thức ký kết hợp đồng lao động (HĐLĐ) không xác định thời

hạn. Tổ chức công đoàn có sự gia tăng về số lƣợng cơ sở, số lƣợng đoàn viên góp

phần tích cực hơn trong vai trò hỗ trợ và bảo vệ ngƣời lao động và là tiền đề hình

thành thỏa ƣớc lao động tập thể (TƢLĐTT).

3.4.2. Những hạn chế, yếu kém

- Tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp cơ cấu vẫn đáng quan ngại.

115

Trong giai đoạn 2004 - 2015, theo số liệu thống kê chính thức, tỷ lệ

thấtnghiệp chung của cả nƣớc là tƣơng đối thấp (các năm đều dƣới 3%). Tuy vậy

con số này có lẽ không bao quát đầy đủ đƣợc hiện trạng thất nghiệp ở Việt Nam

do việc thu thập số liệu thống kê là khó khăn khi mà khu vực kinh tế phi chính

thức còn rất rộng lớn. Vấn đề thực sự cần quan tâm ở đây là các hình thức thất

nghiệp “trá hình” (làm việc không đầy đủ thời gian hay làm việc trong điều kiện

tồi tệ, kém an toàn, thu nhập thấp), đặc biệt ở khu vực nông thôn (năm 2015, tỷ lệ

thiếu việc làm ở nông thôn là 2,61% cao gấp 2,4 lần so với khu vực thành thị). Tỷ

lệ thất nghiệp cao trong thanh niên và trong nhóm lao động đƣợc đào tạo, có trình

độ CMKT cao là đáng quan ngại vì nó làm gia tăng chi phí kinh tế - xã hội, lãng

phí nguồn nhân lực, đồngthời làm giảm cơ hội tăng trƣởng kinh tế. Sốthất nghiệp

thanh niên 15-24 tuổi chiếm hơn 50% tổng số ngƣời thất nghiệp của năm 2015.

Cũng trong năm này, tỷ lệ thất nghiệp của đối tƣợng tốt nghiệp cao đẳng lên tới

7,29%, tốt nghiệp cao đẳng nghề là 7,9%, của nhóm có trình độ đại học trở lên là

4,07%. Điều này phản ánh phần nào sự bất cập của hệ thống giáo dục đào tạo

trong đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng lao động.

Xu hƣớng tỷ lệ thất nghiệp tăng đặc biệt sau năm 2008, cho thấy tác động

của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và mức độ tổn thƣơng của nền kinh tế do các tác

động bên ngoài trong môi trƣờng hội nhập kinh tế quốc tế.

- Chất lƣợng lao động Việt Nam còn thấp, so với đòi hỏi của quá trình CNH,

HĐH trong bối cảnh KTTT.

Mặc dù đã có sự chuyển biến tích cực về chất lƣợng, trình độ của LLLĐ Việt

Nam vẫn còn thấp, so với yêu cầu phát triển cũng nhƣ so với các nƣớc trong khu

vực. Năm 2015, hơn 48% LLLĐ không có chuyên môn kỹ thuật (CMKT) và chỉ có

khoảng 20,29% LLLĐ đƣợc đào tạo, có bằng cấp/chứng chỉ. Hiện nay, quy mô lao

động qua đào tạo và chất lƣợng lao động CMKT vẫn còn có khoảng cách so với các

nƣớc NICs và các nƣớc phát triển. Trình độ văn hóa bình quân của ngƣời lao động

là 7.4 năm/12, thấp hơn so với nhiều nƣớc trong khu vực.

Tỷ lệ lao động có việc làm qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp nên chất lƣợng việc

116

làm không cao, năng suất lao động thấp.

- Chất lƣợng lao động thấp cũng đƣợc biểu hiện ở chất lƣợng và cơ cấu việc

làm. Ở Việt Nam, trên 63% trong tổng số việc làm là việc làm dễ bị tổn thƣơng (lao

động tự làm và lao động hộ gia đình); 41% là các công việc giản đơn; hơn 44% là

việc làm trong ngành nông nghiệp có năng suất thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động

chƣa tƣơng xứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu việc làm theo ngành kinh tế đã chậm lại từ sau

khủng hoảng. Giai đoạn 2010 - 2014, tỷ lệ lao động nông nghiệp chỉ giảm 1,66 phần

trăm; tăng trƣởng việc làm trong ngành dịch vụ cao gần gấp đôi so với ngành công

nghiệp (4,2%/năm so với 2,3%/năm), trong khi đó việc làm trong ngành nông nghiệp

cũng vẫn tiếp tục tăng nhẹ (0,1%/năm), cho thấy tốc độ thu hút lao động khỏi nông

nghiệp của khu vực phi nông nghiệp vẫn còn quá chậm, chƣa giảm đƣợclao động

trong ngành nông nghiệp. Tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực nông, lâm, thủy sản

cao cho thấy mục tiêu “đến năm 2020 còn khoảng 25-30% lao động xã hội”[11,

tr.l5]làm việc trong khu vực này không thể thực hiện đƣợc.

Hiện nay, tình trạng thiếu công nhân lành nghề cao là nghiêm trọng; cả nƣớc

chỉ có khoảng 8000 công nhân lao động bậc cao (tƣơng đƣơng bậc 6,7), chỉ có

khoảng 9,22% số việc làm thuộc nhóm nghề CMKT bậc cao, bậc trung và hơn 1,1%

là các nhà lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị. Đáng lƣu ý, tỷ trọng lao

động giản đơn trong tổng việc làm lại có xu hƣớng tăng nhẹ từ 39,1% lên 40,05%

trong giai đoạn 2010-2014 [23, tr.l3]. Các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công

nghệ cao và xuất khẩu lao động còn gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động

CMKT phù hợp với công nghệ mới và các chuẩn mực lao động quốc tế.

Trên thị trƣờng lao động, có sự mất cân đối rõ rệt giữa cung và cầu lao động,

đặc biệt là lao động chất lƣợng cao do đào tạo chƣa gắn vào nhu cầu của các khu

vực kinh tế và các ngành và sự mất cân đối giữa các ngành nghề đào tạo. Hiện nay,

số lƣợng sinh viên ngành văn hóa nghệ thuật là 1,3%, nông lâm ngƣ nghiệp là

3,13%, khoa học cơ bản là 15,5%, khoa học công nghệ và kỹ thuật là 15,2%, khoa

học xã hội 42,78%[23, tr.15]. Thực tế này tạo ra tình trạng cung lao động CMKT

117

cao hơn nhiều so với cầu lao động đối với một số ngành nghề, lĩnh vực, cho dù trên

bình diện chung, lao động chất lƣợng cao là thiếu hụt.

Ngoài ra, thu nhập lao động ở Việt Nam nói chung còn thấp, đặc biệt là ở

khu vực nông nghiệp, nông thôn hay trong khu vực kinh tế phi chính thức. Cũng có

sự chênh lệch thu nhập từ việc làm giữa các vùng và điều này cũng có thể làm nảy

sinh những vấn đề xã hội cần giải quyết.

NSLĐ: Mặc dù, NSLĐ của Việt Nam vẫn còn thấp nhƣng xét về khoảng

cách NSLĐ giữa Việt Nam với các quốc gia có NSLĐ cao thì đang có sự thu hẹp

khoảng cách tích cực. Nguyên nhân NSLĐ của Việt Nam ở trong nhóm nƣớc có

mức thấp trong khu vực, gồm: (i) Trình độ công nghệ sản xuất của Việt Nam thấp;

(ii) Việc làm vẫn tập trung ở nhóm ngành có năng suất thấp; (iii) Chất lƣợng lao

động thấp,Việt Nam hiện đang chủ yếu làm công nghiệp chế biến và gia công, với ít

hàm lƣợng tri thức; (iv) Trình độ quản lý chƣa cao và đóng góp của năng suất nhân

tố tổng hợp (TFP) cho tăng trƣởng kinh tế còn hạn chế.

3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém

Kết quả GQVL hạn chế trƣớc hết phản ánh những bất cập chung của cả nền

kinh tế, trong đó mô hình tăng trƣởng kinh tế theo chiều rộng dần dần bộc lộ những

nhƣợc điểm của nó, nhất là khi các nguồn lực đầu vào vật chất (vốn, tài nguyên

thiên nhiên) ngày càng khó huy động; chất lƣợng tăng trƣởng suy giảm và không

mang tính bền vững. Hệ quả là việc làm chậm đƣợc chuyển dịch theo hƣớng tiến

bộ, bị kẹt lại quá lâu trong những khu vực, ngành nghề có giá trị gia tăng thấp, dựa

nhiều vào lao động giản đơn hay khai thác tài nguyên thô (nông nghiệp, công

nghiệp khai khoáng, dệt may...).

Nhà nƣớc chƣa có định hƣớng, quy hoạch tổng thể phát triển việc làm dài

hạn, quy hoạch phát triển vùng, ngành nghề sản xuất kinh doanh cho nên sự chuyển

dịch cơ cấu lao động còn chậm, lạo động chủ yếu làm trong lĩnh vực nông nghiệp

hoặc khu vực phi chính thức có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp.

Khung pháp lý có liên quan đến vấn đề việc làm, GQVL và sự vận hành của

thị trƣờng lao động tuy đã có bƣớc hoàn thiện song vẫn còn nhiều điểm bất cập. Thị

118

trƣờng lao động còn chƣa phát triển, còn bị chia cắt giữa các ngành, vùng, miền địa

phƣơng. Ngƣời lao động còn chƣa thật sự đƣợc di chuyển tự do trong việc tìm kiếm

việc làm thích hợp. Sự kết nối cung cầu về lao động còn gặp nhiều khó khăn. Tổ

chức hoạt động dịch vụ việc làm chƣa chuyên nghiệp, chƣa khoa học.

Chẳng hạn, Báo cáo lao động và tiếp cận việc làm (UNDL, 3/2013) đã chỉ ra

một số hạn chế của Bộ luật lao động hiện hành: (i) Luật chỉ áp dụng cho các doanh

nghiệp có ít nhất 10 lao động, nên đã bỏ qua một bộ phận lớn trong nền kinh tế, đặc

biệt là khu vực phi chính thức; (ii) Lao động trong khu vực Nhà nƣớc có nhiều quyền

lợi và đƣợc bảo vệ nhiều hơn so với khu vực ngoài quốc doanh; (iii) Lao động tự do

và lao động trong nông nghiệp gần nhƣ nằm ngoài phạm vi tác động của Luật.

Luật Dạy nghề chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 song đến nay, một số

nội dung của Luật vẫn chƣa đƣợc hƣớng dẫn đầy đủ để thực hiện bằng các văn bản

dƣới Luật. Điều này ít nhiều đã có những ảnh hƣởng nhất định tới hiệu quả của

Luật. Bên cạnh đó, quá trình thực thi Luật Dạy nghề cũng vấp phải khá nhiều các

vấn đề khi Luật này có sự chồng chéo và xung đột với Luật Giáo dục, đặc biệt là về

công tác quản lý, điều hành.

Một hạn chế lớn của các chính sách việc làm hiện nay là chúng chủ yếu mới

chú trọng đến tạo việc làm theo chiều rộng, càng tạo ra nhiều việc làm càng tốt mà

chƣa chú trọng đến chất lƣợng việc làm hay “việc làm bền vững”. Các nhà hoạch

định chính sách thƣờng tập trung quan tâm vào chỉ tiêu “tạo việc làm mới”, không

phân biệt việc làm theo ngành nghề, giới tính, khu vực nông thôn/thành thị, không

đảm bảo tính so sánh quốc tế, độ tin cậy thấp, phản ánh không sát với thực tế. Các

chính sách cả về phía cung lẫn cầu về lao động chƣa thật sự khuyến khích sự

chuyển dịch cơ cấu việc làm theo hƣớng ƣu tiên chất lƣợng.

Tổ chức thực hiện các chính sách việc làm chƣa tốt. Sự phối hợp giữa các cơ

quan trung ƣơng và địa phƣơng chƣa đồng bộ. Công tác tuyên truyền, phổ biến

chính sách việc làm đã đƣợc các cơ quan, tổ chức và các địa phƣơng quan tâm

nhƣng hiệu quả chƣa đƣợc nhƣ mong muốn.

Việc thực hiện chính sách Nhà nƣớc về GQVL còn thiếu đồng bộ và không

119

hiệu quả. Hệ thống chính sách về lao động, việc làm và GQVL ở Việt Nam còn

chồng chéo và chứa đựng nhiều bất cập. Việc chồng chéo về mặt chính sách đƣợc

thể hiện khi có quá nhiều các Bộ, ngành cùng tham gia vào các chƣơng trình, dự án

hoặc có sự chồng chéo về đối tƣợng thụ hƣởng, vùng dự án.

Hoạt động đƣa lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài chƣa hiệu quả. Công tác

quản lý nhà nƣớc về xuất khẩu lao động chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, việc kiểm

tra, giám sát hoạt động xuất khẩu lao động của cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với

hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp chƣa thƣờng xuyên và kịp thời

nên đã xảy ra một số hiện tƣợng môi giới, lừa gạt trong xuất khẩu lao động làm ảnh

hƣởng đến quyền lợi của ngƣời lao động và tác động xấu đến những doanh nghiệp

làm ăn chân chính. Các chƣơng trình hỗ trợ ngƣời lao động trở về nƣớc tái hòa nhập

thị trƣờng lao động trong nƣớc chƣa đƣợc chú trọng.

Những bất cập về chất lƣợng lao động và việc làm còn bắt nguồn từ một

nguyên nhân khá cốt lõi: sự yếu kém của hệ thống giáo dục, đào tạo. Có thể nói, hệ

thống này ở Việt Nam hiện đang nằm trong thòi kỳ “khủng hoảng” về mặt chất lƣợng

cả trong phạm vi giáo dục phổ thông, giáo dục đại học lẫn đào tạo nghề. “Hệ thống

giáo dục đại học tuy gia tăng nhanh về mặt quy mô và số lƣợng, song về mặt chất

lƣợng lại tỏ ra tụt hậu khá xa so với mặt bằng chung của thế giới, do đó chƣa đảm

nhận đƣợc chức năng là nơi sáng tạo ra các tri thức mới cũng nhƣ cung cấp nguồn

nhân lực trình độ cao, chất lƣợng cao cho nền kinh tế. Theo bảng xếp hạng của Times

Higher Education năm 2014 - 2015, không có trƣờng đại học nào của Việt Nam lọt

vào top 800 các trƣờng đại học hàng đầu của thế giới, thua cả các nƣớc vốn đƣợc xem

là "lạc hậu" về trình độ phát triển nhƣ Bangladet hay Pakistan" [90, tr.239-240].

Kết luận chương 3

Thực trạng GQVL ở Việt Nam trong những năm qua cho thấy nền kinh tế đã

tạo ra đƣợc nhiều việc làm, đáp ứng khá tốt áp lực việc làm từ việc gia tăng nhanh

của LLLĐ. Mặt khác, sự chuyển dịch cơ cấu lao động và việc làm ở Việt Nam thời

gian vần đây cũng đi theo chiều hƣớng tích cực: giảm tỷ trọng việc làm ở khu vực

nông nghiệp và đặc biệt tăng ở khu vực dịch vụ gắn với công nghệ cao. Lao động

120

trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng tăng. Sự dịch chuyển này phù hợp với yêu cầu

của cnhhdh gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Giai đoạn 2004 - 2015, chất lƣợng việc làm dần đƣợc nâng lên song vẫn còn

thấp và cơ cấu việc làm còn lạc hậu, tỷ lệ lao động có việc làm qua đào tạo chiếm tỷ

lệ thấp khiến chất lƣợng việc làm và năng suất lao động không cao. Tình trạng thất

nghiệp phổ biến hơn ở khu vực thành thị, trong khi tình trạng thiếu việc làm lại phổ

biến hơn ở khu vực nông thôn. Thất nghiệp là vấn đề đáng lo ngại đối với lao động

trẻ và lao động có trình độ CMKT cao (trình độ cao đẳng, đại học trở lên). Tỷ lệ

thất nghiệp cao trong thanh niên và trong nhóm lao động có trình độ CMKT cao

làm tăng chi phí kinh tế - xã hội, lãng phí nguồn nhân lực, đồng thời làm giảm cơ

hội tăng trƣởng kinh tế.

Những hạn chế, bất cập trong lĩnh vực GQVL ở Việt Nam bắt nguồn từ

những nguyên nhân khác nhau, liên quan đến cả cấu trúc chung của nền kinh tế,

việc thực thi mô hình tăng trƣởng, các lựa chọn chính sách và đặc biệt là chất lƣợng

của hệ thống giáo dục - đào tạo.

121

Chƣơng 4. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP VỀ

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA CNH,

HĐH GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

4.1. Quan điểm và định hƣớng giải quyết việc làm cho ngƣời lao động

trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển KTTT

4.1.1. Quan điểm về giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối

cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

4.1.1.1. Coi giải quyết việc làm là một trong mục tiêu kinh tế vĩ mô quan

trọng hàng đầu của mọi chiến lƣợc phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức

Không ngừng nâng cao thu nhập, cải thiện mức sống của mọi ngƣời dân là

mục tiêu mà mọi quốc gia đều theo đuổi. Điều đó chỉ có thể thực hiện đƣợc trên cơ

sở thúc đẩy nền kinh tế tăng trƣởng nhanh, bền vững, có khả năng tạo ra nhiều công

ăn, việc làm. Vì thế, mục tiêu về việc làm phải nằm trong số ít các mục tiêu ƣu tiên

khi xây dựng và thực thi các chiến lƣợc phát triển trong thời kỳ CNH, HĐH gắn với

phát triển KTTT.

Thật ra mục tiêu đảm bảo việc làm không chỉ gắn trực tiếp với mục tiêu

cuối cùng của các quá trình phát triển (cải thiện phúc lợi của nhân dân) mà nó

còn quan hệ trực tiếp đến việc đảm bảo công bằng xã hội - một mục tiêu mà các

quá trình phát triển hiện đại không thể bỏ qua, nhất là ở một nƣớc theo đuổi

"định hƣớng XHCN" nhƣ Việt Nam. Điều này là dễ hiểu vì với đại đa số ngƣời

dân, việc làm là kênh quan trọng nhất, thậm chí là duy nhất tạo ra thu nhập. Vì

thế, tạo ra nhiều việc làm trong quá trình tăng trƣởng và phát triển kinh tế là

cách để các thành tựu tăng trƣởng đƣợc chia sẻ và phân phối cho nhiều ngƣời

thụ hƣởng. Ƣu tiên cho các mô hình và chính sách tăng trƣởng tạo ra nhiều việc

làm là cách thức để giải quyết một cách hài hòa mối quan hệ giữa tăng trƣởng

và công bằng, là phƣơng thức đảm bảo công bằng xã hội một cách bền vững,

tích cực.

122

4.1.1.2. Lấy tăng trƣởng kinh tế nhanh, bền vững, có chất lƣợng làm cơ

sở để giải quyết việc làm

Tăng hƣởng kinh tế (tăng trƣởng sản lƣợng hay thu nhập) và tăng hƣởng việc

làm nói chung thƣờng có mối tƣơng quan thuận với nhau. Khi nền kinh tế đạt

đƣợcmức sản lƣợng cao, sát với sản lƣợng tiềm năng, nó cũng có mức công ăn việc

làm cao, sát với trạng thái việc làm đầy đủ. Ở thời kỳ suy thoái, sản lƣợng đạt thấp,

tỷ lệ thất nghiệp thƣờng cao. Xét về dài hạn, nhất là ở các nƣớc đang phát triển, tăng

trƣởng kinh tế nhanh, bền vững là cách duy nhất để tạo ra nhiều việc làm một cách

nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu việc làm của ngƣời dân, nhất là trong điều kiện lực

lƣợng lao động thƣờng xuyên đƣợc bổ sung, gia tăng. Kinh nghiệm phát triển trong

lịch sử thế giới cũng cho thấy các nƣớc thành công nhất trong lĩnh vực giải quyết

việc làm khi tiến hành CNH cũng là những nƣớc duy trì đƣợc tốc độ tăng hƣởng

kinh tế cao trong suốt một thời gian dài (nổi bật là các hƣờng hợp Singapore, Đài

Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông). Vì thế, phải đặt vấn đề giải quyết việc làm nhƣ một

nội dung của chiến lƣợc và mô hình tăng trƣởng kinh tế dài hạn, gắn các chƣơng

trình, chính sách giải quyết việc làm với các chƣơng trình, chính sách thúc đẩy tăng

hƣởng kinh tế. Nói cách khác, cần coi tăng trƣởng kinh tế nhanh, hiệu quả là

phƣơng thức giải quyết việc làm nhanh, hiệu quả. Trong trƣờng hợp ngƣợc lại, khi

vấn đề việc làm và tăng trƣởng kinh tế đƣợc xử lý một cách riêng rẽ, tách rời nhau,

hiệu quả giải quyết việc làm thƣờng không đạt đƣợc một cách bền vững. Ví dụ, các

chƣơng trình hỗ trợ việc làm trực tiếp cho ngƣời lao động có thể không hiệu quả khi

ngƣời lao động không có năng lực tổ chức các hoạt động sản xuất, kinh doanh so

với các chƣơng trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu có năng lực, hoạt động

trong các ngành thâm dụng lao động.

Gắn việc GQVL với việc thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế cho thấy cần ƣu tiên

các mô hình, chiến lƣợc tăng trƣởng kinh tế nhanh song lại tạo ra nhiều việc làm.

Trong thời kỳ đầu, khi nguồn lao động là dồi dào và rẻ, những ngành thâm dụng lao

động vẫn là những ngành có lợi thế so sánh (mặc dù lợi thế này sẽ sớm mất đi trong

bối cảnh cạnh tranh toàn cầu hiện nay). Trong trƣờng hợp đó, thực thi chiến lƣợc

123

CNH mở cửa, khuyến khích xuất khẩu sẽ đáp ứng tốt cả mục tiêu tăng trƣởng lẫn

mục tiêu việc làm hơn là chiến lƣợc CNH dựa nhiều vào việc phát triển các ngành

thâm dụng vốn, ít tạo ra việc làm (nhƣ lọc dầu, sản xuất thép...).

4.1.1.3. Giải quyết việc làm trên cơ sở nguyên tắc thị trƣờng, trong đó

việc hoàn thiện các thể chế thị trƣờng nói chung, thị trƣờng lao động nói riêng

là nền tảng quan trọng để xử lý các vấn đề việc làm trong dài hạn

Vấn đề việc làm phải đƣợc giải quyết trong bối cảnh nền kinh tế thị

trƣờng,theo các nguyên tắc thị trƣờng, thông qua các giao dịch tự nguyện của các

bên trên thị trƣờng lao động. Do đó, tìm kiếm việc làm, nỗ lực để có việc làm

trƣớc hết là sự lựa chọn và trách nhiệm của ngƣời lao động. Để có việc làm, quyền

chủ động phải thuộc về ngƣời lao động. Nếu mong muốn có việc làm, ngƣời lao

động phải chủ động trang bị cho mình các kiến thức, kỹ năng cần thiết, phải đảm

bảo đƣợc nền tảng sức khỏe nhất định...nhằm đáp ứng các yêu cầu của nhà tuyển

dụng. Nhà nƣớc không thể GQVL theo kiểu bao cấp nhƣ thời kỳ kế hoạch hóa tập

trung trƣớc đây. Nhà nƣớc cũng không thể ép buộc các doanh nghiệp mở rộng các

cơ hội việc làm cho ngƣời lao động, buộc họ tuyển dụng lao động vƣợt quá nhu

cầu của mình, nếu điều này gây tổn hại cho lợi ích kinh doanh của họ. Dĩ nhiên,

Nhà nƣớc phải quan tâm và phải thực thi các chính sách GQVL song điều đó

không đƣợc làm mất đi tính hiệu quả của việc GQVL thông qua cơ chế thị trƣờng.

Do đó, ở đây điều quan trọng là phải xác định đúng vai trò của Nhà nước

trong lĩnh vực GQVL. Đó là vai trò thiết lập thị trƣờng, hỗ trợ thị trƣờng, (đặc biệt

và trực tiếp là thị trƣờng lao động), tạo điều kiện và đảm bảo cho nó vận hành suôn

sẻ, có hiệu quả (việc Nhà nƣớc phải hoàn thiện các thể chế thị trƣờng, trong đó có

thị trƣờng lao động là rất quan trọng cho việc GQVL và đã đƣợc phân tích). Nhà

nƣớc cũng có thể can thiệp vào thị trƣờng lao động bằng các chính sách tác động

vào cung, cầu lao động thích hợp khi có các “thất bại thị trƣờng”. Chẳng hạn, vì

giáo dục, đào tạo là những “hàng hóa” gây ngoại ứng tích cực nên việc Nhà nƣớc hỗ

trợ, trợ cấp, đầu tƣ nhằm thúc đẩy và khuyến khích các hoạt động trong lĩnh vực

này, kể cả trong khu vực tƣ nhân, đƣợc xem là cần thiết. Nhà nƣớc cũng phải cung

124

cấp các dịch vụ giáo dục, у tế cơ bản miễn phí (ví dụ, chính sách phổ cập giáo dục ở

một số bậc học), hay hỗ trợ các con em nhà nghèo trong việc học hành nói chung,

nhằm tác động vào nguồn cung lao động tƣơng lai vì thị trƣờng tự nó không đảm

bảo đƣợc vấn đề công bằng trong việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục, у tế tối cần

thiết...Ngoài ra, Nhà nƣớc cũng có thể can thiệp vào lĩnh vực việc làm mà không

làm vô hiệu các nguyên tắc thị trƣờng khi xây dựng và triển khai các chiến lƣợc

tăng trƣởng kinh tế trong thời kỳ CNH thích hợp với mục tiêu tạo việc làm nhanh.

4.1.1.4. Giải quyết việc làm phải phù hợp với nguyên tắc của một nền

kinh tế mở cửa, hội nhập quốc tế

Bối cảnh thời đại KTTT, nhƣ đã phân tích, đòi hỏi CNH hiệu quả là CNH,

HĐH theo nguyên tắc mở cửa, hội nhập quốc tế. Vì thế, việc xử lý bài toán việc

làm nói chung của nền kinh tế cũng phải tuân thủ nguyên tắc này. Điều đó có

nghĩa là Việt Nam phải chấp nhận sự kết nối thị trƣờng lao động của mình với thị

trƣờng lao động quốc tế, chấp nhận sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực lao động,

việc làm một cách trực tiếp (thông qua thị trƣờng lao động) hay gián tiếp (thông

qua các thị trƣờng hàng hóa). Ở đây, một mặt, để chiến thắng trong cạnh tranh, đội

ngũ lao động Việt Nam nói chung dần dần phải đƣợc đào tạo và nâng cấp chất

lƣợng để có các kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc... theo các chuẩn mực quốc

tế. Các quy tắc, luật lệ chi phối các quan hệ lao động (các chế độ tuyển dụng, sử

dụng lao động, các điều kiện làm việc, quyền lợi và trách nhiệm của ngƣời lao

động và ngƣời sử dụng lao động, các quy định liên quan đến việc sử dụng lao

động trẻ em, lao động nữ, hay các loại “lao động” đặc biệt nhƣ các tù nhân...) phải

phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực đƣợc thừa nhận chung trên thế giới. Mặt

khác, cần tính đến điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế để thiết kế các chính sách

GQVL hiệu quả hơn (GQVL nhanh hơn thông qua việc thúc đẩy và khuyến khích

các ngành xuất khẩu; phân bổ việc làm hợp lý hơn theo nguyên tắc chuyển đổi lao

động từ những ngành bất lợi thế so sánh và bất lợi thế cạnh tranh sang những

ngành có lợi thế; nỗ lực chung để nâng cấp năng lực cạnh tranh quốc tế tổng thể

của cả nền kinh tế, khai thác hiệu quả các kênh xuất khẩu lao động...).

125

4.1.1.5. Coi nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực là khâu then chốt trong

lĩnh vực giải quyết việc làm một cách dài hạn

Trong điều kiện kinh tế tri thức, với việc mở cửa và hội nhập quốc tế

ngàycàng sâu, rộng, yêu cầu cạnh tranh kinh tế đang đƣợc đặt trên những nền

tảng mới, theo những chuẩn mực quốc tế ngày càng cao. Giờ đây, sức cạnh tranh

của các doanh nghiệp và nền kinh tế ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào năng

lực công nghệ và chất lƣợng đội ngũ lao động. Thật ra, công nghệ và nhân lực là

hai mặt của cùng một vấn đề. Công nghệ, kỹ thuật sản xuất giản đơn (kiểu sản

xuất đặc trƣng của nền nông nghiệp truyền thống) chỉ đòi hỏi những lao động

giản đơn hay laođộng cơ bắp. Ngƣợc lại, công nghệ cao, dựa chủ yếu vào tri thức

nhƣ hiện nay chỉ có thể vận hành đƣợc thông qua những lao động đƣợc đào tạo

tốt, có kỹ năng cao, có khả năng sáng tạo, đổi mới. Điều đó có nghĩa là trong

thời đại KTTT, công việc nói chung của ngƣời lao động sẽ ngày càng mang tính

chất “trí óc” hơn, do đó phức tạp và thú vị hơn. Vềmặt trình độ, ngƣời lao động

sẽ cần phải có những kiến thức, kỹ năng mới, cao hơn các thời kỳ trƣớc (chẳng

hạn, giờ đây những kỹ năng nhƣ sử dụng máy vi tính, sử dụng tiếng Anh, kỹ

năng kết nối và làm việc với ngƣời khác theo kiểu làm việc nhóm... đang dần trở

thành các kỹ năng thông thƣờng mà bất cứ ngƣời lao động nào cũng phải có.

Trong giai đoạn chuyển đổi, rõ ràng thế hệ những ngƣời lao động lớn tuổi, ít học

sẽ gặp nhiều bất lợi do không tích lũy hoặc khó tích lũy đƣợc những kỹ năng

kiểu này). Gắn liền với các thành tựu KH - CN mới, các ngành nghề mới sẽ xuất

hiện ngày càng nhiều hơn, và có thể lan tỏa nhanh chóng trên khắp thế giới. Các

ngành nghề cũ, truyền thống hoặc sẽ dần dần biến mất, hoặc sẽ đƣợc hiện đại

hóa để thích ứng với yêu cầu của thời đại. Chẳng hạn, nông nghiệp truyền thống

dần dần sẽ phải ứng dụng các công nghệ sinh học mới, việc quản lý, chăm sóc

cây trồng, vật nuôi sẽ đƣợc dẫn dắt bởi các công nghệ thông minh hơn, sử dụng

ít nguồn lực đầu vào hơn, thân thiện với môi trƣờng hơn. Ngoài khả năng áp

dụng các công nghệ này, ngƣời nông dân muốn thành công sẽ còn phải có các kỹ

năng mới nhƣ kỹ năng marketing, bán hàng trực tuyến. Các công việc giản đơn,

chỉ thuần túy đòi hỏi sức lao động cơ bắp sẽ dần dần khan hiếm và hoàn toàn có

126

thể đƣợc thay thế bằng máy móc. Vì lý do nhƣ vậy, Báo cáo Phát triển Việt Nam

2014 do Ngân hàng Thế giới công bố, nhấn mạnh rằng: bản chất công việc trong

một nền kinh tế thị trƣờng hiện đại sẽ thay đổi và trở nên phức tạp hơn. Ngày

nay, ngƣời sử dụng lao động ngay cả ở Việt Nam cũng đang tìm kiếm một tập

hợp các kỹ năng nhận thức, hành vi và kỹ thuật chất lƣợng cao. Hay nhƣ bà

Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia, Ngân hàng Thể giới khẳng định "Tỷ lệ

lao động Việt Nam có kỹ năng đọc, viết và tính toán cao hơn so với các nước

khác, kể cả các nước giàu có hơn Việt Nam, nhưng một lực lượng lao động có kỹ

năng cao mới sẽ là chìa khóa thành công trong chuyển đổi kinh tế" [29]. Vì thế,

chất lƣợng cao của nguồn nhân lực trở nên có tầm quan trọng đặc biệt đối với

công cuộc CNH, HĐH trong thời đại KTTT hiện nay.

Khi yêu cầu về chất lƣợng chung của đội ngũ lao động trở nên khắt khe hơn,

nhu cầu về việc làm chỉ đòi hỏi kỹ năng lao động giản đơn, hay kỹ năng thấp trở nên

giảm sút tƣơng đối tƣơng ứng với nhu cầu về các lao động đƣợc đào tạo tốt, có kỹ

năng cao gia tăng nhanh. Những ngƣời lao động không đƣợc đào tạo, thiếu kỹ năng

sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, và nếu may mắn có việc làm, họ

sẽ phải chấp nhận mức lƣơng thấp. Trong bối cảnh đó, những tắc nghẽn trong việc cải

thiện chất lƣợng đội ngũ lao động sẽ chẳng những kìm hãm tốc độ mở rộng kinh

doanh của các doanh nghiệp, hạn chế sự thu hút và sử dụng các nguồn vốn FDI, làm

chậm lại tốc độ tăng trƣởng chung của nền kinh tế mà còn kìm hãm tốc độ gia tăng

của số lƣợng chỗ làm việc mới. Kết quả là các thành tựu về giải quyết việc làm sẽ trở

nên khiêm tốn hơn. Vì lẽ đó, ƣu tiên nâng cấp nhanh chất lƣợng chung của đội ngũ

lao động phải đƣợc xem là hƣớng đi chiến lƣợc cả trong các lựa chọn chính sách phát

triển nói chung lẫn chính sách giải quyết việc làm nói riêng.

4.1.2. Định hƣớng, mục tiêu giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong

bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Với tốc độ gia tăng dân số nhƣ hiện nay, quy mô dân số cả nƣớc tiếp tục tăng

dự báo đến năm 2025 đạt 101, 27 triệu ngƣời, lực lƣợng lao động nƣớc ta có khoảng

62 triệu ngƣời[23, tr.24]. Nhƣ vậy, bình quân mỗi năm lực lƣợng lao động tăng

thêm một triệu ngƣời cùng với số ngƣời thất nghiệp hàng năm thì một năm cần phải

127

giải quyết việc làm cho 1,4 - 1,5 triệu ngƣời. Với việc gia tăng nhanh số lƣợng các

trƣờng cao đẳng, đại học và thực hiện cải cách giáo dục, đào tạo, xã hội hóa giáo

dục nên số lƣợng lao động chất lƣợng cao sẽ tăng nhanh và chất lƣợng ngày càng

đƣợc cải thiện. Theo dự báo của viện khoa học lao động và xã hội Việt Nam sự gia

tăng dân số, lao động và việc làm diễn biến nhƣ sau:

Bảng 4.1: Dự báo một số chỉ tiêu dân số, lao động, việc làm chủ yếu, 2016-2025

2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025

92,67 93,64 94,59 95,55 96,50 97,44 98,38 99,34 100,3 101,27

71,47 72,35 73,24 74,14 75,05 77,88 78,74 79,7 80,57 81,56

lƣợng

55,54 56,26 57,04 57,77 58,56 59,76 60,28 60,88 61,41 62,02

77,70 77,76 77,89 77,92 78,03 76,38 76,20 76,04 75,87 75,70

53,86 55,96 58,00 59,89 61,75 63,75 65,25 66,72 68,10 69,46

21,45 22,39 23,34 24,18 25,34 26,52 27,79 29,08 31,54 32,97

54,37 55,07 55,78 56,49 57,21 58,32 58,74 59,27 59,70 60,23

39,73 41,73 43,93 46,43 49,13 51,43 54,23 56,83 59,73 62,73

44,11 42,46 40,76 39,01 37,20 35,70 34,60 32,80 30,80 28,90

tổng

tuổi

2,37 2,39 2,51 2,57 2,73

2,82

2,92 3,08

3,28

3,45

3,56 3,24 4,02 3,81 3,75

3,65

4,19 4,18

4,42

4,74

Chỉ tiêu 1. Dân số trung bình (triệu người) 2. Dân số từ 15 tuổi trở lên (triệu người) lao 3. Lực động từ 15 tuổi trở lên (triệu người) 4.Tỷ lệ tham gia lực lƣợng lao động (%) 5. Tỷ lệ lao động qua đào tạo (%) Trong đó:Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ(%) 6. Lao động có việc làm (triệu người) 7. Tỷ lệ lao động làm công ăn lƣơng (% của tổng lao động đang làm việc) 8. Tỷ lệ lao động nông, lâm, thuỷ sản lao (% của động đang làm việc) 9. Tỷ lệ thất nghiệp lao trong độ động (%) Trong đó,thất nghiệp thành thị (%)

Nguồn: Dự báo của ILSSA từ số liệu của TCTK

128

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo: để đáp ứng yêu cầu hội nhập, cần tăng nhanh tỷ

lệ lao động qua đào tạo, đặc biệt là lao động có bằng cấp/chứng chỉ. Tỷ lệ lao động

qua đào tạo phải tăng lên 70%năm 2025. Trong đó, tỷ lệ lao động có bằng cấp

chứng chỉ cũng sẽ tăng từ 21,45% năm 2016 lên 32,97% năm 2025.

- Lao động có việc làm: dự báo kết quả của chuyển đổi mô hình tăng trƣởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, nền kinh tế thiên về tạo việc làm chất lƣợng, bền vững hơn là số lƣợng. Do đó, tăng trƣởng việc làm cũng sẽ chậm lại, còn 1,17%/năm (so với 1,51%/năm giai đoạn 2011 - 2014), tƣơng ứng tăng 654 nghìn ngƣời/năm. Quy mô việc làm đạt 60,23 triệu ngƣời năm 2025.[136,tr48]

- Tỷ lệ lao động nông nghiệp sẽ giảm nhanh hơn do yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Bởi vậy, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp phải giảm từ 44,11% năm 2016 xuống còn 28,90% năm 2025.[136, tr49]

- Tỷ lệ lao động làm công ăn lương sẽ tiếp tục tăng nhanh từ 39,73% năm

2016 lên 63,73% năm 2025 do chủ trƣơng thu hẹp khu vực kinh tế phi chính thức

và đẩy mạnh quá trình chính thức hóa việc làm phi chính thức.

- Thất nghiệp: tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động tiếp tục

tăng do sức ép về GQVL đang gia tăng trong bối cảnh một nền kinh tế đang tái cấu

trúc. Tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nƣớc tăng từ 2,37% năm 2016 lên 3,45% năm

2025. Đặc biệt, tỷ lệ thất nghiệp thành thị cũng sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn từ 3,56%

lên 4,74% trong cùng giai đoạn.[136,tr50]

Để thực hiện mục tiêu GQVL trong điều kiện dân số và LLLĐ gia tăng, cần

tập trung vào các định hƣớng nhƣ sau:

Thứ nhất, cần xem xét điều chỉnh mức sinh hợp lý trong thời gian tới để

làm chậm quá trình già hóa dân số. Trong vòng 5 năm tới, từng bƣớc nới lỏng

chính sách kiểm soát mức sinh theo Pháp lệnh Dân số 2003. Chủ động già hóa,

già hóa tích cực ở góc độ lao động-việc làm. Trong đó, cần chủ trọng phát triển

chính sách việc làm cho ngƣời cao tuổi thông qua tạo việc làm phù hợp và duy trì,

cải thiện việc làm cho ngƣời cao tuổi. Đặc biệt, trong phát triển các chƣơng trình

cải cách việc làm quốc gia phải chú trọng đến nhu cầu tăng tỷ lệ lao động cao tuổi;

sử dụng các công cụ và chƣơng trình sẵn có để tăng cƣờng sự tham gia cho lao

129

động cao tuổi trong TTLĐ; hỗ trợ vai trò của các tổ chức công và các đối tác khác

để có thể đƣa ra các hƣớng dẫn, trợ giúp hiệu quả và phù hợp, đáp ứng nhu cầu cá

nhân bao gồm cả những lao động cao tuổi, do các dịch vụ việc làm, tƣ nhân và

phi lợi nhuận cungcấp. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến công tác đào tạo để chuyển

đổi nghề nghiệp cho lao động trung niên và cao tuổi.

Thứ hai, tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trƣờng lao động trong nƣớc và

trong điều kiện hội nhập quốc tế. Phát triển thị trƣờng lao động chất lƣợng cao đáp

ứng sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Phát triển thị trƣờng lao động

chất lƣợng cao phải hƣớng vào phục vụ đắc lực cho quá trình thực hiện chiến lƣợc

CNH, HĐH nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Phải gắn phát triển thị trƣờng

lao động chất lƣợng cao với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với nhu cầu mở rộng

liên thông thị trƣờng lao động giữa lao động nƣớc ta với thị trƣờng lao động quốc

tế, coi đó là điều kiện đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐHđất nƣớc.

Từ định hƣớng này, việc phát triển thị trƣờng lao động phải phát triển cung

và cầu lao động, giải quyết mối quan hệ giữa cung cầu lao động trong mối quan hệ

với CNH, HĐH.

Thứ nhất, phát triển chính sách hỗ trợ lao động để ứng phó với các vấn đề

xã hội nảy sinh từ quá trình đô thị hóa, gia tăng thất nghiệp thành thị, đảm bảo an

ninh việc làm cho lao động thành thị. Sự hồi phục của nền kinh tế trong những năm

tới sẽ góp phần đẩy mạnh quá trình . Theo đó, cơ cấu dân số thành thị sẽ tăng nhanh

khiến cho nhu cầu ngày càng tăng đối với dịch vụ xã hội (giáo dục, у tế, nhà ở,

nƣớc và vệ sinh, giao thông, không gian thƣ giãn...) của dân cƣ đô thị và cũng làm

gia tăng các vấn đề về việc làm, nhu cầu về năng lƣợng, môi trƣờng, v.v… ởkhu

vực thành thị, do đó cần phải tính trƣớc những chính sách để ứng phó với các vấn

đề xã hội nảy sinh từ quá trình đô thị hóa, gia tăng thất nghiệp thành thị, đảm bảo an

ninh việc làm cho lao động thành thị trong quá trình CNH, HĐH.

Thứ hai, bảo đảm phân bố lao động đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, phát

triển mạnh thị trƣờng lao động chính thức, đặc biệt chú trọng phát triển doanh

130

nghiệp trong các đô thị lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu

chế xuất, hỗ trợ lao động trong khu vực phi chính thức để giảm sự chia cắt giữa

thành thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế, giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa

các nhóm ngƣời lao động kỹ năng và không kỹ năng.

Trong thời gian tới một mặt phải tìm cách tăng cung lao động CMKT cao,

mặt khác phải đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng kinh tế mở mang ngành nghề công

nghiệp, dịch vụ mới, để tăng cầu lao động CMKT cao. Thị trƣờng lao động CMKT

cao ở nƣớc ta tuy đã đƣợc thừa nhận về mặt pháp lý, nhƣng do ảnh hƣởng của tƣ

duy cũ làm cho việc phát triển thị trƣờng lao động CMKT cao còn có nhiều bất cập.

Để phát triển thị trƣờng sức lao động có trình độ cao cần phải tôn trọng cơ chế vận

hành khách quan của thị trƣờng lao động, phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của

thị trƣờng lao động CMKT cao và thật sự coi sức lao động CMKT cao là hàng hóa.

Cung lao động chất lƣợng cao bao gồm những ngƣời đƣợc đào tạo có hệ

thống có khả năng lao động, sẵn sàng tham gia vào thị trƣờng sức lao động trình độ

cao (cao đẳng, đại học trở lên). Cung phải đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng lao động

chất lƣợng cao về số lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu, đồng thời phải chủ động linh

hoạt, thích nghi với yêu cầu của thị trƣờng.

Cầu lao động chất lƣợng cao bao gồm những ngƣời sử dụng thuê mƣớn lao

động chất lƣợng cao. Đây là lực lƣợng chủ động và tích cực của thị trƣờng lao

động. Họ có vai trò tạo việc làm, không ngừng mở rộng cầu lao động cất lƣợng cao.

Họ phải có quyền tự do trong tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ lao động chất lƣợng cao.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách thuộc lĩnh

vực lao động, việc làm. Đặc biệt, xem xét sửa đổi Bộ Luật lao động sửa đổi

2012, Luật Việc làm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014, để làm cơ sở thiết

kế và tổ chức thực hiện các chƣơng trình TTLĐ chủ động và thụ động đáp ứng

yêu cầu của hội nhập và phát triển kinh tế đất nƣớc, phù hợp với Tuyên bố 1998

của Tổ chức Lao động quốc tế và các cam kết trong các hiệp định tự do thƣơng

mại. Trong giai đoạn đầu dựa vào chiến lƣợc phát triển các ngành sử dụng nhiều

lao động, hƣớng về xuất khẩu, phát huy đƣợc các lợi thế so sánh và tiềm năng

131

của lực lƣợng lao động nhƣng cần xóa bỏ sự phụ thuộc vào lao động giá rẻ và kỹ

năng thấp; giai đoạn sau tập trung vào nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển các

ngành công nghiệp, dịch vụ yêu cầu công nghệ và kỹ năng cao nhằm đạt mức

năng suất lao động trung bình trong khu vực. Tăng cường gắn kết giữa tăng

trưởng kinh tế và phát triển TTLĐ, hỗ trợ khu vực phi chính thức, nông nghiệp,

nông thôn, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa…để tăng năng suất và tính cạnh

tranh của việc làm nhằm tránh bẫy “chi phí laođộng thấp”, giảm thất nghiệp và

thiếu việc làm trong thanh niên và các nhóm đặc thù khác, bảo vệ tốt hơn các nhóm

lao động, đặc biệt là lao động cao tuổi và lao động yếu thế trong TTLĐ. Hỗ trợ

ngƣời lao động tham gia các chƣơng trình TTLĐ, BHXH, BHYT và các hình thức

khác để họ đƣợc bảo vệ tốt hơn.

Thứ tư, nâng cao chất lượng LLLĐ (nhằm tận dụng cơ hội dân số vàng) đáp

ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Trƣớc mắt, cần tập trung

tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ, đổi mới đào tạo để có những

kỹ năng mới, tiêu chuẩn mới hiện đại tiên tiến đáp ứng yêu cầu của ngành/doanh

nghiệp. Đặc biệt, ƣu tiên đầu tƣ và tổ chức triển khai các chính sách, biện pháp tập

trung nâng cao chất lƣợng lao động CMKT trình độ cao để tăng cƣờng năng lực

cạnh tranh của nguồn nhân lực; có chính sách và giải pháp đúng hƣớng để nâng cao

chất lƣợng giáo dục đào tạo, dạy nghề, bồi dƣỡng kỹ năng để cung ứng nguồn lao

động có kỹ năng cho những ngành, nghề kinh tế mũi nhọn. Bên cạnh đó, tập trung

xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia phù hợp với tiêu

chuẩn quốc tế, chuyển đổi sang hệ thống tiêu chuẩn năng lực phù hợp; tổ chức đánh

giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho ngƣời lao động. Đồng thời triển khai

các hoạt động đánh giá và công nhận kỹ năng nghề giữa Việt Nam và các nƣớc

ASEAN. Đặc biệt, đẩy mạnh hợp tác với các nƣớc ASEAN để tiến tới công nhận kỹ

năng nghề giữa Việt Nam và các nƣớc ở 8 nghề đƣợc tự do di chuyển trong ASEAN

thông qua các thỏa thuận công nhận lẫn nhau gồm: kế toán, kiến trúc sƣ, nha sĩ, bác

sĩ, điều dƣỡng viên, kỹ sƣ, nhân viên trong ngành khảo sát, đo đạc, bản đồ và nhân

viên ngành du lịch, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực thông qua đẩy mạnh đào

132

tạo kỹ năng, năng lực thực hành, phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo đáp ứng nhƣ

cầu của thị trƣờng lao động trong nƣớc và quốc tế và nhu cầu học suốt đời của

ngƣời dân, chuẩn hóa chất lƣợng đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế.

Thứ năm, bảo đảm sự tự do lựa chọn việc làm và thúc đẩy dịch chuyển lao

động đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hóa và

hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng của thị trƣờng lao động và

tổ chức cung cấp các dịch vụ công có hiệu quả. Hoàn thiện hệ thống trung gian thị

trƣờng lao động và tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc đối với thị trƣờng lao động nhằm

gắn kết cung - cầu lao động.

Thứ sáu, tăng cƣờng an sinh xã hội cho ngƣời lao động trong khi làm việc và

chuyển đổi việc làm. Mở rộng liên thông thị trƣờng lao động nƣớc ta với thị trƣờng

lao động các nƣớc trên thế giới, hoàn thiện và phát triển TTLĐ trong nước nhằm kết

nối cung-cầu lao động hiệu quả. Tổ chức tốt hệ thống thông tin TTLĐ, bao gồm thị

trƣờng trong nƣớc để giới thiệu và chắp nối việc làm trong nƣớc và TTLĐ ngoài

nƣớc. Đặc biệt, tăng cƣờng và nâng cao chất lƣợng dự báo nhu cầu lao động. Đổi

mới và đẩy mạnh công tác tƣ vấn hƣớng nghiệp, đảm bảo phân luồng học sinh hiệu

quả ngay từ cấp THCS và THPT. Tổ chức lại và nâng cao năng lực của hệ thống

trung tâm dịch vụ việc làm nhằm tăng cƣờng sự liên kết, chia sẻ thông tin, hỗ trợ

nhau trong công tác cung ứng và tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp. Thành

lập Hội đồng nghề nghiệp Quốc gia theo từng nhóm nghề (gồm đại diện doanh

nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp, công đoàn, cơ quan quản lý các cấp, trƣờng đào tạo,

viện nghiên cứu...), trƣớc mắt ƣu tiên những nghề có khả năng phát triển mạnh hoặc

bị tác động lớn của hội nhập quốc tế (nhƣ nghề chăn nuôi, trồng rau củ quả, da giày,

dệt may, điện tử...); Hội đồng có nhiệm vụ đánh giá khả năng phát triển, nhu cầu lao

động về số lƣợng, cơ cấu, chất lƣợng và đề xuất nhu cầu đào tạo nhân lực.

Việc mở rộng liên thông thị trƣờng lao động nƣớc ta với thị trƣờng lao động

các nƣớc trên thế giới có ý nghĩa quan trọng trong thúc đẩy sự phát triển nhanh, chất

lƣợng của cung và cầu lao động. Đặc biệt là khi nƣớc ta tham gia tổ chức thƣơng

mại quốc tế (WTO) thì đội ngũ lao động CMKT cao có vị trí đặc biệt quan trọng

133

đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.

Cuối cùng, đẩy mạnh và phát triển TTLĐ ở nước ngoài hướng tới di cư an

toàn và hiệu quả. Trong đó, tập trung khai thác các thị trƣờng tiếp nhận lao động có

nghề và thu nhập cao, ổn định nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc và CHLB Đức, EU...; tiếp

tục thực thi các giải pháp giải quyết tình trạng lao động Việt Nam làm việc bất hợp

pháp ở nƣớc ngoài.

Xuất khẩu lao động là hƣớng quan trọng để thúc đẩy phát triển cung và

cầu lao động trên thị trƣờng lao động. Trong xuất khẩu lao động cần giải quyết

mối quan hệ hài hòa giữa đảm bảo nguồn nhân lực cho quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nền kinh tế và nguồn nhân lực cho xuất khẩu lao động. Ngoài

ra, cần mở rộng họp tác với tất cả các nƣớc để gửi sinh viên đi đào tạo phù hợp

với cơ chế thịtrƣờng có sự khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nƣớc. Tăng cƣờng hình

thức liên kết nghiên cứu khoa học giữa nƣớc ta và các nƣớc trên thế giới để GQVL

và đào tạo nguồn nhân lực chất lƣơng cao. Các hình thức chủ yếu của hợp tác hệ

kinh tế quốc tế là: hợp tác đầu tƣ, ngoại thƣơng, hợp tác khoa học công nghệ, hợp

tác tín dụng, xuất khẩu chuyên gia...

Mục tiêu chung của phát triển thị trƣờng lao động trong quá trình CNH,

HĐH gắn với phát triển KTTT là đảm bảo có một thị trƣờng hiện đại, hiệu quả,

cạnh tranh và công bằng, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nƣớc.

4.2. Các giải pháp giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong bối cảnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

4.2.1. Hoàn thiện các thể chế thị trƣờng nói chung, thể chế liên quan đến

thị trƣờng lao động nói riêng

Nhƣ trên đã nói, tăng trƣởng kinh tế nhanh, bền vững là nền tảng, cơ sở để

tăng trƣởng việc làm nhanh và bền vững. Vì thế, mọi giải pháp thúc đẩy tăng trƣởng

kinh tế dài hạn về cơ bản đều có ý nghĩa thúc đẩy quá trình giải quyết việc làm. Trong

số đó việc hoàn thiện các thể chế kinh tế, thể chế thị trƣờng nói chung có ý nghĩa rất

quan trọng. Ngoài ra, liên quan trực tiếp đến vấn đề lao động, việc làm, việc hoàn

thiện các thể chế chi phối sự vận hành của thị trƣờng lao động là giải pháp cần thiết.

134

Hệ thống pháp luật của Việt Nam trong hai thập kỷ qua đã có sự phát triển

mạnh mẽ với nhiều thành tựu to lớn. Chính trong những thành tựu này trong lĩnh

vực lập pháp và hành pháp đã giúp Việt Nam vƣợt qua những điều kiện về mặt thể

chế mà WTO đặt ra khi kết nạp thành viên. Tuy nhiên, để tạo việc làm và giảm tỷ

lệ thất nghiệp cho ngƣời lao động, hệ thống pháp luật của ta cần phải hoàn thiện

theo hƣớng nhƣ sau:

- Rà soát lại các loại văn bản các cấp ban hành đang còn thiếu tính hệ thống,

nên tạo nên mâu thuẫn, chồng chéo. Sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn của văn

bản làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp,

khó hiểu và khó áp dụng, và vì thế, kém hiệu lực;

- Tạo sự ổn định về pháp luật, tránh hiện tƣợng pháp luật thƣờng xuyên

thay đổi. Thực tế này có nguyên nhân ở những nhà lập pháp, do hạn chế tầm

nhìnvà quan điểm chiến lƣợc cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Chính vì

vậy, nhiều văn bản pháp luật đƣợc áp dụng trong thời gian rất ngắn, thậm chí mới

ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Pháp luật thƣờng

xuyên bị thay đổi dẫn đến những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện và tác động

xấu đến sự ổn định quan hệ giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động;

- Nhiều văn bản pháp luật có tính quy định thấp, tức là thiếu những quy tắc

xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Nhiều nội dung trong quan hệ lao động phải

đƣợc điều chỉnh cụ thể, chi tiết hơn trong luật lao động;

- Xây dựng hoàn chỉnh các quy phạm pháp luật cho công tác bảo vệ, chăm

sóc trẻ em khi tham gia lao động tại các cơ sở, doanh nghiệp; đề xuất các giải pháp

và những hoạt động can thiệp; bổ sung, sửa đổi luật pháp liên quan đến quyền lợi

của trẻ em; hoàn thiện các tiêu chuển cụ thể về bảo vệ, chăm sóc trẻ em;

- Xây dựng riêng luật tố tụng về lao động để tạo thuận lợi giải quyết các tranh

chấp về lao động, vì quan hệ lao động hoàn toàn khác với quan hệ dân sự khác;

- Xây dựng chính sách đào tạo lãnh đạo công đoàn tại các cơ sở, doanh

nghiệp, cơ quan... sao cho tổ chức công đoàn phải chủ động đi sâu nghiên cứu, nắm

bắt kịp thời tâm tƣ, nguyện vọng của ngƣời lao động. Tổ chức công đoàn phải khéo

135

léo, có đủ khả năng giải quyết các tranh chấp giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng

lao động trong quan hệ lao động;

- Tiếp tục hoàn thiện chính sách, văn bản hƣớng dẫn Luật Ngƣời lao động

Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng một cách đồng bộ, nhằm bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động ở nƣớc ngoài, đồng thời có chế tài đủ

mạnh để xử lý những tổ chức, cá nhân vi phạm.

Nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ công nhằm đáp ứng yêu cầu nâng

cao khả năng tiếp cận các dịch vụ công cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và

ngƣời lao động, Nhà nƣớc cần phải cải cách khu vực dịch vụ công nhƣ:

- Nâng cao nhận thức về hoạt động nghề nghiệp và chất lƣợng chuyên

môn của đội ngũ viên chức cũng là nhu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới

trong việc tổ chức cung ứng các dịch vụ đáp ứng nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho

ngƣời dân và cộng đồng;

- Nâng cao chất lƣợng phục vụ tại các bệnh viện giúp ngƣời lao động có thể

tiếp cận một cách dễ dàng.

- Nâng cao dịch vụ công thông qua công nghệ thông tin và truyền thông,

giúp các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và ngƣời lao động dễ dàng sử dụng mạng

và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác, đời sống của mình;

- Nâng cao chất lƣợng dịch vụ công thông qua các Ngân hàng Nhà nƣớc.

Việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trong thời gian qua còn nhiều hạn chế. Trƣớc

hết, các chủ thể cung cấp dịch vụ ngân hàng khá phát triển, nhƣng năng lực tài

chính của DN còn yếu. Ngân hàng đã xác định ƣu tiên cho doanh nghiệp nhỏ và

vừa vay vốn, song các doanh nghiệp này vẫn khó tiếp cận nguồn vốn của ngân

hàng do không có tài sản thế chấp. Khi nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá

sản, chủ nợ trốn thì cuộc sống ngƣời lao động gặp nhiều khó khăn do thất nghiệp

và bị quỵt tiền lao động;

4.2.2. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với thị

trƣờng lao động

Việc hoàn thiện thể chế thị trƣờng lao động gắn liền với việc nâng cao năng

lực và hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với thị trƣờng này.

136

Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng có bốn chức năng chủ yếu là thiết lập

khung khổ pháp luật tạo môi trƣờng pháp lý mà mọi chủ thể kinh tế kể cả nhà nƣớc

cũng phải tuân theo, hạn chế khuyết tật của thị trƣờng để thị trƣờng hoạt động hiệu

quả hơn, thực hiện công bằng xã hội, điều tiết vĩ mô. Đối với thị trƣờng lao động

vai trò của nhà nƣớc thể hiện:

+ Nắm cung cầu và sự chuyển biến cung cầu lao động làm cơ sở để quyết

định chính sách quốc gia, phát triển cung, cầu lao động, sử dụng hiệu quả lao động

trong toàn xã hội.

+ Ban hành, điều chỉnh, hƣớng dẫn hệ thống văn bản về thị trƣờng lao động

nhƣ các văn bản pháp luật lao động về việc làm, đào tạo, xuất, nhập khẩu lao động...

phù hợp với thị trƣờng lao động.

+ Quyết định các chính sách về tiền lƣơng, bảo hiểm xã hội, an toàn về an

sinh lao động đối với nguồn nhân lực và các chính sách khác về lao động và xã hội,

xây dựng mối quan hệ lao động lành mạnh, hài hòa trong các doanh nghiệp.

+ Tổ chức tiến hành nghiên cứu khoa học về lao động CMKT cao, thống kê

thông tin về thị trƣờng lao động CMKT cao, về mức sống, thu nhập của lao động

CMKT cao.

+ Nâng cao vai trò quản lý của nhà nƣớc đối với các trung tâm dịch vụ giới

thiệu việc làm, công ty cung ứng nhân lực cao cấp, nhân lực CMKT cao, doanh

nghiệp xuất khẩu lao động để hoạt động của các tổ chức này hiệu quả và theo đúng

pháp luật.

- Hoàn thiện các chính sách đối với di chuyển lao động và thúc đẩy tăng mức

độ linh hoạt của cung lao động trên thị trƣờng. Điều tiết di chuyển là một giải pháp

quan trọng tác động đến cung lao động. Đây là công cụ quan trọng để điều chỉnh thị

trƣờng lao động và thu nhập giữa các vùng. Hiện nay, ở nƣớc ta có những xu hƣớng

di chuyển lao động nội địa đáng chú ý là từ miền Bắc và miền Nam, từ các tỉnh phía

Bắc và Duyên hải miền Trung, từ nông thôn ra thành thị, từ khu vực nhà nƣớc đến

khu vực FDI và khu vực ngoài nhà nƣớc hoặc ra nƣớc ngoài. Bên cạnh các tác động

tích cực nhƣ điều tiết thị trƣờng lao động, GQVL, tăng thu nhập cho lao động.

137

4.2.3. Tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển và nâng cao chất lƣợng của hệ

thống giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn

với phát triển kinh tế tri thức

Thực trạng thị trƣờng lao động Việt Nam cho thấy mặt bằng chất lƣợng

nguồn nhân lực Việt Nam nói chung là khá thấp; sự thiếu hụt các lao động đƣợc đào

tạo tốt, có kỹ năng cao là nghiêm trọng. Rõ ràng điều này ảnh hƣởng lớn đến tốc độ

và chất lƣợng của tăng trƣởng kinh tế cũng nhƣ tăng trƣởng việc làm. Nguyên nhân

căn bản của thực tế này nằm trong sự yếu kém và hạn chế của hệ thống giáo dục và

đào tạo. Khi nâng cao chất lƣợng nguồn lao động đƣợc coi là yếu tố then chốt thì

việc tập trung phát triển, nâng cấp để nâng cao chất lƣợng của chính hệ thống giáo

dục, đào tạo là giải pháp cực kỳ cần thiết và quan trọng.

Do vậy, để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực cần:

- Phát triển và nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực

chất lƣợng cao là một đột phá chiến lƣợc, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại

nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trƣởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo

đảm kinh tế - xã hội phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Để hƣớng tới nền

KTTTdân trí phải trở thành nhân lực, nhân tài phải là một bộ phận chất lƣợng

cao của nhân lực và đƣợc coi nhƣ là đầu tầu của toàn bộ nguồn nhân lực. Đó là

hƣớng tổng quát nhất của nền giáo dục đi vào phục vụ nền KTTT. Bởi vậy, phải

coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia,

quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ

đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công

nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt

chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và nhà nƣớc

để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chƣơng trình, đề

án đào tạo nhân lực chất lƣợng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi

nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dƣỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho

phát triển kinh tế tri thức.

138

- Nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo một cách toàn diện; đổi mới cơ

cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phƣơng pháp dạy và học; thực hiện

"chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa", chấn hƣng nền giáo dục, đào tạo Việt

Nam. Xây dựng chiến lƣợc giáo dục - đào tạo phát triển con ngƣời phải đáp ứng

yêu cầu của cả ba nền kinh tế: kinh tế lao động, kinh tế tài nguyên và kinh tế tri

thức. Phổ cập công nghệ trên cơ sở giáo dục nhân cách theo tinh thần giáo dục

nhân văn, nhân bản. Chuyển dần mô hình giáo dục, đào tạo hiện nay sang mô

hình giáo dục, đào tạo mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt

đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát

triển hệ thống học tập cho mọi ngƣời và những hình thức học tập, thực hành linh

hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thƣờng xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác

nhau cho ngƣời học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục, đào tạo. Chú ý

giáo dục lòng tự tin, tự lý giải các vấn đề, sáng tạo trong cuộc sống...nhằm mục

tiêu phát triển con ngƣời một cách toàn diện. Tăng cƣờng giáo dục truyền thống

dân tộc,giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc đồng thời tăng cƣờng năng lực giao

tiếp, giao lƣu với nƣớc ngoài nhằm đào tạo và rèn luyện một đội ngũ lao động đủ

sức cạnh tranh toàn cầu.

Phát triển mạnh hệ thống giáo dục cao đẳng, đại học, đa dạng hóa các loại

hình trƣờng lớp trên cơ sở mục đào tạo, nội dung, chuẩn kiến thức đều thống nhất

chotất cả các loại hình trƣờng lớp. Tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề

cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế trọng điểm và cho xuất khẩu lao

động. Bằng các cơ chế thích hợp, huy động các nguồn lực để nâng cao cơ sở vật

chất, trang thiết bị... và đào tạo nâng cao chất lƣợng đội ngũ giảng viên, đổi mới

chƣơng trình, phƣơng pháp giảng dạy để tạo chuyển biến căn bản về chất lƣợng

đào tạo cao đẳng, đại học. Đồng thời, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực

và thế giới, đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các hình thức giáo dục, đào tạo

đa dạng, linh hoạt.

139

- Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử

dụng trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân

lực chất lƣợng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng phát hiện, bồi

dƣỡng trọng dụng nhân tài, khẩn trƣơng xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý

về ngành nghề, trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền... Có cơ chế và chính sách

gắn kết có hiệu quả trƣờng đại học với cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ

vào sản xuất kinh doanh, xây dựng một số trƣờng đại học trọng điểm đạt trình độ

khu vực và quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020 giáo dục đại học Việt Nam đạt trình

độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới. Nhƣ vậy

cần phải tập trung nỗ lực thực hiện các vấn đề sau:

+ Khuyến khích tập đoàn doanh nghiệp lớn mở trƣờng đại học, đổi mới cơ

cấu đào tạo và hoàn thiện mạng lƣới cơ sở giáo dục đại học là vấn đề đầu tiên

trong đó ƣu tiên mở rộng quy mô các chƣơng trình định hƣớng nghề nghiệp -

ứng dụng, áp dụng quy trình đào tạo mềm dẻo, liên thông, kết hợp mô hình

truyền thống với mô hình đa giai đoạn để tăng cơ hội học tập và phân tầng trình

độ nhân lực. Chuyển đổi một số cơ sở giáo dục đại học sang tƣ thục và xây dựng

quy chế chuyển tiếp đào tạo với các trƣờng đại học. Khuyến khích mở các cơ sở

giáo dục đại học trong các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn, sát nhập cơ sở giáo

dục đại học với các cơ sở nghiên cứu khoa học để gắn kết chặt chẽ đào tạo với

nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh. Khuyến khích hiệu quả các tổ

chức, cá nhân nƣớc ngoài xây dựng trƣờng đại học, cao đẳng cấp quốc tế với đầu

ra chất lƣợng cao.

+ Cơ cấu lại khung chƣơng trình giảng dạy, bảo đảm sự liên thông của các

cấp học. Triển khai đổi mới phƣơng pháp đào tạo theo ba tiêu chí: Trang bị cách

học, phát huy tính chủ động của ngƣời học, sử dụng công nghệ thông tin và truyền

thông trong hoạt động dạy và học. Xây dựng và thực hiện lộ trình, chuyển sang chế

độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ.

140

+ Tăng quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học. Cải tiến tuyển sinh theo

hƣớng áp dụng công nghệ đo lƣờng giáo dục hiện đại.

+ Đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng giáo viên và cán

bộ quản lý. Trong đó, chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sƣ

phạm của giáo viên, tầm nhìn chiến lƣợc, năng lực sáng tạo và tính chuyên nghiệp

của cán bộ lãnh đạo quản lý.

+ Nhà nƣớc đầu tƣ nâng cấp xây dựng mới một số cơ sở nghiên cứu mạnh

trong các cơ sở giáo dục đại học, khuyến khích thành lập các cơ cở nghiên cứu, các

doanh nghiệp khoa học công nghệ. Tập trung đầu tƣ xây dựng một số cơ sở dùng

chung nhƣ: Trung tâm dữ liệu quốc gia, hệ thống thƣ viện điện tử, phòng thí nghiệm

trọng điểm, ký túc xá và các cơ sở văn hóa thể dục thể thao.

+ Chính sách học phí, học bổng, tín dụng sinh viên, xây dựng lại trên cơ sở

xác lập những nguyên tắc kết hợp giữa nhà nƣớc, ngƣời học và cộng đồng.

+ Triển khai dạy và học bằng tiếng nƣớc ngoài, tiếp thu có chọn lọc các

chƣơng trình đào tạo tiên tiến quốc tế, tƣơng đƣơng về văn bằng, chƣơng trình đào

tạo với các cơ sở giáo dục đại học trên thế giới, khuyến khích các hình thức liên kết

đào tạo chất lƣợng cao, trao đổi giáo viên, chuyên gia với nƣớc ngoài, khuyến khích

ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài tham gia giảng dạy ở Việt Nam, khuyến

khích du học tại chỗ.

- Đối với hệ đào tạo cao học và nghiên cứu sinh cần điều chỉnh quy mô

chƣơng trình đào tạo cho sát với yêu cầu thực tiễn. Chú trọng chất lƣợng đầu

vào, quản lý chặt chẽ đầu ra, nhất là những chất lƣợng luận án tiến sỹ. Đối với

những ngƣời tốt nghiệp thạc sỹ hay tiến sỹ, ngoài việc giảng dạy, nghiên cứu,

cần phải có những công trình nghiên cứu khoa học. Đối với đội ngũ giảng viên

cần phải chuẩnhóa cao hơn so với quy định của giáo dục hiện hành: giảng dạy ở

bậc cao học nhất thiết phải có học vị từ tiến sỹ trở lên còn giảng dạy nghiên cứu

sinh thì phải là tiến sỹ khoa học hoặc giáo sƣ, phó giáo sƣ.

141

4.2.4. Đẩy nhanh nhịp độ và nâng cao hiệu quả của quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa thông qua đổi mới mô hình tăng trƣởng, cơ cấu lại

nền kinh tế, xác lập các điều kiện thuận lợi cho sự tăng trƣởng nhanh, bền

vững, phù hợp với điều kiện của kinh tế tri thức

Tăng trƣởng việc làm chỉ có thể diễn ra trong điều kiện của tăng trƣởng kinh

tế, hơn nữa, tốc độ tăng trƣởng kinh tế phải cao hơn tốc độ tăng dân số và lao động

một cách đáng kể. Tuy nhiên, những năm gần đây, tăng trƣởng kinh tế của Việt

Nam có xu hƣớng chững lại. Các động lực của mô hình tăng trƣởng cũ, theo chiều

rộng đã dần dần cạn kiệt, đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới mô hình và cách thức tăng

trƣởng, chuyển dần sang phƣơng thức tăng trƣởng theo chiều sâu, dựa vào chất

lƣợng và hiệu quả, đƣợc dẫn dắt nhiều hơn bởi tiến bộ công nghệ và đội ngũ nhân

lực chất lƣợng cao. Rõ ràng đây là định hƣớng giải pháp có ý nghĩa chiến lƣợc, phù

hợp với nguyên tắc của kinh tế tri thức.

Theo hƣớng này, các giải pháp cần thiết là:

- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hƣớng

CNH, HĐH. Đây là giải pháp có tác dụng tăng tổng cầu lao động cho phát triển

chiều sâu các ngành nông, lâm ngƣ nghiệp. Nhà nƣớc cần có cơ chế, chính sách

thúc đẩy hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, các thị trấn thị tứ, vùng sản

xuất kinh doanh hàng hóa nông nghiệp... để thu hút lao động, xây dựng nông thôn

mới. Nhà nƣớc phải đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội ở nông thôn

để ngƣời lao động (đặc biệt là lao động di cƣ) yên tâm công tác ở địa phƣơng lâu

dài. Nhà nƣớc cần có chính sách để thu hút giáo viên, kỹ sƣ, cử nhân về vùng cao,

vùng sâu, vùng xa.

- Phát triển nhanh các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ: đây là những

ngành chủ lực của nền kinh tế, do đó cần phải khuyến khích phát triển, nhất là các ngành

công nghệ cao, công nghệ phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh tạo

nhiều sản phẩm xuất khẩu chất lƣợng cao và thu hút nhiều lao động chất lƣợng cao. Tăng

tốc thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển, nhất là những ngành có chấtlƣợng cao, có tiềm

năng lớn. Các ngành này sẽ cần nguồn nhân lực chất lƣợng cao trên nhiều lĩnh vực.

142

- Phát triển nhanh các ngành công nghệ cao, ngành kinh tế mũi nhọn, ngành

dịch vụ chất lƣợng cao tại các vùng kinh tế trọng điểm để thu hút số lƣợng lớn lao

động của vùng kinh tế trọng điểm, các vùng lân cận và lao động của cả nƣớc vào

làm việc. Việc phát triển các vùng kinh tế trọng điểm với các khu công nghiệp, khu

chế xuất cần phải đi đôi với việc giải quyết các vấn đề xã hội nhƣ: phát triển đồng

bộ hạ tầng cơ sở xã hội (điện, nƣớc, trƣờng học, chợ, hệ thống tín dụng...), hệ thống

nhà ở... để đảm bảo các điều kiện sinh sống thuận lợi cho lao động đến làm việc.

- Thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế: hội nhập kinh tế quốc tế tạo cho Việt

Nam có nhiều cơ hội mới, nhất là tranh thủ đƣợc các nguồn vốn, công nghệ mới,

khoa học quản lý tiên tiến, mở rộng thị trƣờng, tham gia vào quá trình phân công

lao động quốc tế, tạo nhiều việc làm cho lao động và mở ra khả năng đào tạo lao

động cất lƣợng cao trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, Việt Nam đứng trƣớc những

thách thức là phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trƣờng khu vực và thế

giới, trong khi cạnh tranh của nền kinh tế, của lao động Việt Nam còn thấp, năng

lực quản lý, hạ tầng cơ sở yếu kém và các rào cản phi thƣơng mại khác.

- Có cơ chế chính sách điều chỉnh nguồn nhân lực trình độ cao một cách hợp

lý cho các ngành, vùng, địa phƣơng, cụ thể tập trung vào các giải pháp:

+ Để thu hút nguồn nhân lực chất lƣợng cao về công tác tại địa phƣơng, nên

có chính sách khuyến khích đối với số sinh viên nông thôn nghèo bằng chế độ học

bổng gắn với điều kiện phân công công tác về địa phƣơng. Ngoài ra, cần khuyến

khích công tác tuyển sinh theo hệ cử tuyển: địa phƣơng gửi đến các trƣờng đào tạo,

sau khi tốt nghiệp phải về công tác tại địa phƣơng. Mặt khác, phải có chính sách

"chiêu hiền đãi sỹ" đối với lao động chất lƣợng cao ở nới khác về công tác tại địa

phƣơng về cả vật chất và tinh thần.

+ Nhà nƣớc đầu tƣ, củng cố, hoàn thiện mạng lƣới trƣờng phổ thông dân tộc

nội trú ở những vùng khó khăn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo và đồng

bào dân tộc ít ngƣời.

+ Điều chỉnh, bổ sung các quy định, tiêu chuẩn, chế độ cử tuyển, đào tạo dự

bị đại học đối với học sinh là ngƣời dân tộc, các vùng kinh tế xã hội khó khăn và

đặc biệt khó khăn.

143

+ Điều chỉnh chế độ học bổng với đối tƣợng sinh viên cử tuyển, sinh viên dự

bị đại học

+ Hoàn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, giáo viên làm việc

trong các trƣờng dân tộc nội trú.

- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là lao động CMKT cao đồng thời

nhập khẩu lao động CMKT cao mà Việt Nam khan hiếm. Để xuất khẩu lao động

CMKT cao đạt hiệu quả cao cần hoàn thiện khung pháp lý về xuất khẩu lao động,

tăng cƣờng tính minh bạch của hệ thống hạch toán tài chính xuất khẩu lao động,

tăng cƣờng độ tin cậy của hệ thống các chính sách, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã

hội. Các hoạt động của cơ sở xuất khẩu lao động, xử lý hiệu quả các hành vi vi

phạm về xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động phải tính đến hiệu quả kinh tế đem

lại cho ngƣời lao động, cho tổ chức và xã hội.

Việc nhập khẩu lao động CMKT cao mà Việt Nam khan hiếm cũng cần phải

đƣợc xúc tiến, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, dịch vụ trình độ cao và

quản lý ở những ngành nghề đƣợc ƣu tiên phát triển trong nền kinh tế. Hiện nay ở

nƣớc ta, ở một số ngành có sự thiếu hụt cán bộ đầu đàn cho nên việc nhập khẩu lao

động CMKT cao là cần thiết. Từ đó, có thể giải quyết đƣợc các vấn đề kinh tế, xã

hội của các ngành, các lĩnh vực nhƣ năng lƣợng, hóa dầu, công nghệ vũ trụ, đóng

tàu, cơ khí chế tạo, điện tử, khoa học về biển, tự động hóa... Nhập khẩu lao động

CMKT cao còn góp phần đào tạo đội ngũ lao động CMKT cao trong nƣớc để tiếp

cận các thành tựu khoa học, công nghệ mới của nhân loại. Do đó, cần phải đơn giản

hóa các thủ tục xuất nhập cảnh, thành lập doanh nghiệp cung ứng nguồn nhân lực

CMKT cao, có chế độ trả lƣơng cao cùng các ƣu đãi khác đối với các chuyên gia

nƣớc ngoài và ngƣời Việt Nam làm việc.

4.2.5. Mở mang ngành nghề mới và những ngành sử dụng nhiều lao

động để giải quyết việc làm tại chỗ

Tạo việc làm tại chỗ có một ý nghĩa quan trọng không chỉ với vấn đề lao

động việc làm của khu vực nông thôn mà còn có ý nghĩa nhiều hơn với sự phát

triểncủa cả quốc gia. Trên thế giới tạo việc làm phi nông nghiệp tại các vùng nông

thôn là một trong những giải pháp chính giúp thay đổi bộ mặt nông thôn tại nhiều

144

quốc gia. Đầu tƣ vào nông nghiệp, nông thôn đƣợc cải thiện cũng có nghĩa làm gia

tăng cơ hội việc làm trên cả hai lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Khi việc

làm tại khu vực nông thôn cũng nhƣ nông nghiệp đƣợc cải thiện cũng đồng nghĩa

với áp lực phải cải thiện về cầu lao động, thu nhập, điều kiện làm việc tại các khu

vực công nghiệp, dịch vụ có sử dụng lao động của khu vực nông thôn sẽ tăng lên.

Do yêu cầu tạo việc làm mới trong những năm trƣớc mắt và đặc biệt là tạo

việc làm mới cho nông dân sau thu hồi đất, vì vậy chúng ta cần phải phát triển, mở

rộng những ngành sử dụng nhiều lao động nhƣ may mặc, da giày, các ngành dịch vụ

- thƣơng mại... đồng thời đẩy mạnh sự phát triển những làng nghề thủ công truyền

thống để thu hút thêm nhiều lao động, đặc biệt là lao động giản đơn. Do đặc thù của

lao động nông thôn là lao động chƣa qua đào tạo, không có trình độ chuyên môn

cũng nhƣ những kỹ năng trong sản xuất vì vậy họ chỉ có thể đáp ứng yêu cầu đòi

hỏi của những công việc giản đơn, hơn nữa lực lƣợng lao động ở đây rất đông vì

vậy, để đáp ứng nhu cầu giải quyết lao động dƣ thừa và tạo thêm việc làm đòi hỏi

chúng ta bên cạnh việc phát triển những ngành công nghệ cao thì cũng phải phát

triển những ngành ở trình độ kỹ thuật trung bình. Đây là một trong những phƣơng

thức tạo việc làm một cách hiệu quả và ổn định cho số lao động ngày theo phƣơng

châm "ly nông bất ly hƣơng" để tránh sức ép cho khu vực thành thị.

Yêu cầu này đòi hỏi các cấp chính quyền của thành phố cũng nhƣ bản thân

ngƣời lao động phải tìm những hƣớng phát triển ngành nghề phù hợp để lao động

nông thôn có việc làm mới sau thu hồi đất, yên tâm sản xuất kinh doanh mà không

di chuyển vào khu vực thành thị. Trong những năm tới, thành phố tập trung vào một

số vấn đề sau:

- Phát triển các hoạt động dịch vụ gắn với phục vụ sản xuất nông nghiệp:

cung cấp cây, con giống; cung cấp phân bón; cung cấp thông tin thị trƣờng tiêu thụ

sản phẩm nông nghiệp...

- Hình thành và phát triển một số làng nghề mới để cung cấp một số sản

phẩm dịch vụ, phục vụ cuộc sống cho ngƣời dân: phát triển các nghề chế biến

rau quả ở các vùng ven đô và các vùng chuyên canh rau an toàn, nghề chế biến

145

thuốcnam, đông dƣợc hay khôi phục và phát triển mạnh mẽ những làng nghề thủ

công truyền thống trên cơ sở áp dụng khoa học, kỹ thuật trong một số công đoạn để

nâng cao năng suất lao động, làm ra nhiều sản phẩm có chất lƣợng tốt...

- Khuyến khích các tổ chức và cá nhân có điều kiện về vốn, đất đai, kiến

thức và kinh nghiệm đầu tƣ gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh...

- Hiện nay thu hút đầu tƣ vào khu vực nông thôn rất nhỏ và rất khó có sự

thay đổi đột biến trong tƣơng lai gần do chƣa khắc phục đƣợc những hạn chế về môi

trƣờng đầu tƣ. Do vậy, cần có những chính sách tốt hơn, cởi mở hơn để thu hút các

doanh nghiệp đầu tƣ vào khu vực nông thôn nhằm mục tiêu GQVL tại chỗ góp phần

to lớn tạo ra một sự ổn định về kinh tế - xã hội của khu vực nông thôn nói riêng

cũng nhƣ tạo ra sự phát triển bền vững cho cả nƣớc nói chung.

4.2.6. Một số giải pháp khác

Về nguyên tắc, mọi chính sách có thể thúc đẩy, hỗ trợ tăng trƣởng kinh tế

nhanh đều thúc đẩy và hỗ trợ gia tăng việc làm, miễn là sự tăng trƣởng đó phải

đƣợc thiết lập trên cơ sở chất lƣợng và hiệu quả để tăng trƣởng kinh tế ngắn hạn

trong một thời kỳ không làm suy giảm tốc độ tăng trƣởng kinh tế của các thời kỳ

sau. Bởi thế, các chính sách về tiền lƣơng, về tài chính, về ngoại thƣơng, về dân

số... cũng đều có vai trò quan trọng trong lĩnh vực giải quyết việc làm. Chẳng hạn,

trong lĩnh vực giá cả và tiền lương, điều quan trọng là Nhà nƣớc phải hạn chế để

tránh đi những can thiệp có khả năng tạo ra những mức giá và lƣơng méo mó,

phản ánh sai lạc các tín hiệu thị trƣờng, và do đó, làm cho các thị trƣờng hàng hóa

và thị trƣờng lao động hoạt động không hiệu quả. Vì nhiều lý do, các chính phủ,

trong đó có chính phủ Việt Nam, đều thực thi chính sách tiền lƣơng tối thiểu. Tuy

nhiên, nếu áp đặt một mức lƣơng tối thiểu quá cao so với mức lƣơng có thể có trên

thị trƣờng, mức cầu về lao động của các doanh nghiệp sẽ giảm, cơ hội việc làm

đối với các lao động giản đơn sẽ bị cắt giảm tƣơng ứng. Trong điều kiện lao động

còn dƣ thừa nhƣ ở Việt Nam, điều này cần đƣợc lƣu ý.

Trong các chính sách hỗ trợ cho sự gia tăng về cầu lao động, việc nâng cấp

các cơ sở hạ tầng nhƣ đƣờng xá, bến cảng, sân bay, hệ thống cung ứng điện nhằm

146

đảm bảo sự kết nối kinh tế giữa các vùng miền, cắt giảm chi phí vận chuyển cho

các doanh nghiệp, đảm bảo nguồn năng lƣợng ổn định phù hợp với nhu cầu phát

triển của các doanh nghiệp và nền kinh tế là rất quan trọng. Mặc dù hệ thống cơ

sở hạ tầng nói trên ở Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều cải thiện, song

tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu

vẫn đang phải gánh chịu các chi phí cao so với mặt bằng chung của khu vực

chứng tỏ là hệ thống này vẫn còn nhiều yếu kém. Điều đáng quan ngại nữa là

hiệu quả đầu tƣ công, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển các cơ sở hạ tầng của nền

kinh tế những năm qua là thấp (do quy hoạch thiếu hợp lý, do đầu tƣ phân tán,

thiếu đồng bộ, trùng lắp khi các quyết định đầu tƣ bị dẫn dắt bởi các lợi ích xung

đột nhau; do tham nhũng...). Không xử lý đƣợc vấn đề này, hiệu quả chung của

nền kinh tế cũng nhƣ hiệu quả giải quyết việc làm sẽ bị ảnh hƣởng tiêu cực,

nghiêm trọng.

Trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với KTTT, hệ thống hạ tầng thông tin-

viễn thông cần đƣợc đặc biệt ƣu tiên, đầu tƣ. Điều đó sẽ giúp cho các doanh

nghiệp cắt giảm đƣợc các chi phí thông tin liên lạc, có điều kiện cải tiến các hoạt

động quản lý, marketing và cũng nhƣ toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh của

mình trên nền tảng ứng dụng các thành tựu CNTT hiện đại, nhờ đó khả năng

cạnh tranh quốc tế và sức tăng trƣởng của các doanh nghiệp đƣợc cải thiện hơn.

Mặt khác, hạ tầng thông tin - viễn thông tốt, dễ tiếp cận, chi phí rẻ còn tạo ra vô

vàn các cơ hội việc làm khác nhau cho cá nhân những ngƣời lao động, kể cả khi

chỉ là ngƣời lao động tự do, làm việc ở nhà. Đây rõ ràng cũng là hƣớng

GQVLtrong kỷ nguyên KTTT.

Ngoài ra, đối với Việt Nam hiện nay, xuất khẩu lao động vẫn là một kênh có

ý nghĩa đối với lĩnh vực GQVL. Điều quan trọng ở đây là cần thực hiện tốt hơn vai

trò quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động này sao cho việc cung ứng các dịch vụ xuất

khẩu lao động phải đƣợc thực hiện trên nền tảng của một thị trƣờng mang tính cạnh

tranh, công khai, minh bạch.

147

Kết luận chương 4

Với bối cảnh của một nƣớc đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập sâu

hơn vào nền kinh tế thế giới thì sự hình thành và phát triển của thị trƣờng lao động

Việt Nam vẫn mang đặc điểm của một thị trƣờng còn nhiều yếu kém. Đó là, lao động

chủ yếu làm việc trong khu vực nông nghiệp, khu vực phi kết cấu, năng suất thấp,

nhiều rủi ro, tình trạng chia sẻ công việc, chia sẻ việc làm còn phổ biến; về cơ bản

Việt Nam vẫn là một thị trƣờng dƣ thừa lao động trong nông nghiệp, nông thôn với

chất lƣợng cung lao động thấp, phân bố chƣa hợp lý và khả năng di chuyển còn bị

hạn chế; cầu lao động thấp về số lƣợng và vẫn còn một tỷ lệ lớn lao động làm việc

trong các nghề giản đơn, không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật, khu vực làm công ăn

lƣơng phát triển chậm; tuy nhiên thất nghiệp thấp, nhƣng tỷ lệ thiếu việc làm vẫn

còn khá nghiêm trọng. Để GQVL ở Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH gắn với

phát triển KTTT cần thống nhất theo các quan điểm: Coi GQVL là một trong mục

tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng hàng đầu của mọi chiến lƣợc phát triển trong thời kỳ

CNH, HĐH gắn liền với phát triển KTTT; Lấy tăng trƣởng kinh tế nhanh, bền vững,

có chất lƣợng làm cơ sở để GQVL; GQVL trên cơ sở nguyên tắc thị trƣờng, trong

đó việc hoàn thiện các thể chế thị trƣờng nói chung, thị trƣờng lao động nói riêng là

nền tảng quan trọng để xử lý các đề việc làm trong dài hạn; GQVL phải phù hợp

với nguyên tắc của một nền kinh tế mở cửa, hội nhập quốc tế; Coi nâng cao chất

lƣợng nguồn nhân lực là khâu then chốt trong lĩnh vực GQVL một cách dài hạn.

Mục tiêu chung của phát triển thị trƣờng lao động trong quá trình CNH,

HĐH gắn với phát triển KTTT là đảm bảo có một thị trƣờng hiện đại, hiệu quả,

cạnh tranh và công bằng, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nƣớc. Để

thực hiện đƣợc mục tiêu này cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong đó Nhà

nƣớc đóng vai trò chủ đạo trong quá trình GQVL cho ngƣời lao động.

148

KẾT LUẬN

1. Trong thời đại ngày nay, nền KTTT đã hình thành và trở thành hiện thực

ở nhiều nƣớc, đó là xu thế tất yếu của quá trình phát triển sức sản xuất là thành tựu

quan trọng của loài ngƣời. Không nền kinh tế của một quốc gia nào ngày nay có

thể nằm ngoài mạng lƣới kinh tế toàn cầu, và đƣơng nhiên hiểu biết về các quốc

gia khác để có cách phát triển kinh tế hợp lý của mình là điều hiển nhiên rất quan

trọng. Nhiều nƣớc đang phát triển lựa chọn chiến lƣợc “đi tắt” và họ đang đi

nhanh vào kinh tế tri thức. Đối với nƣớc ta đây là thời cơ và cũng là thách thức hết

sức to lớn và quyết liệt.

2. Quá trình CNH, HĐH ở nƣớc ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ

cực kỳ lớn lao: Chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và chuyển

từ kinh tế công nghiệp sang KTTT. Hai nhiệm vụ ấy phải thực hiện đồng thời, lồng

ghép vào nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Khi thực hiện đồng thời cả hai nhiệm vụ

ấy nƣớc ta đang đứng trƣớc một tình huống: Vừa thừa lao động giản đơn công nhân

tạp vụ vừa thiếu lao động có chất lƣợng cao phục vụ sự phát triển của nền KTTT.

3. Trong thời gian qua, Nhà nƣớc đã thực hiện nhiều chính sách và sử dụng

các giải pháp để chúng ta GQVL cho ngƣời lao động. Những tỷ lệ lao động thất

nghiệp và thiếu việc làm vẫn tồn tại ở nhiều nơi, nhiều lúc trở thành vấn đề bức xúc

trở thành một trong những vấn đề cơ bản của quá trình phát triển kinh tế xã hội.

4. Điều khó khăn nhất đối với nƣớc ta hiện nay là vừa phải đào tạo nhân lực để đi

ngay vào KTTT, tiếp thu công nghệ mới, vừa phải GQVL cho hàng chục triệu lao động

giản đơn. Trong 10 năm qua số lƣợng lao động rút khỏi nông nghiệp ít hơn là số lƣợng

lao động tăng thêm do tốc độ tăng dân số ở nông thôn vẫn còn khá cao, vì vậy dân số và

lực lƣợng lao động ở nông thôn không những không giảm đi mà vẫn duy trì ở quy mô

khá lớn, do đó, số ngƣời không có hoặc không đủ việc làm cũng tăng lên. Thất nghiệp và

tình trạng thiếu việc làm ở nƣớc ta đang trở nên gay gắt. Thƣờng xuyên có khoảng 30%

lao động thiếu việc làm ở nông thôn, thất nghiệp ở thành thị cũng có xu hƣớng tăng, đặc

biệt là tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên(lứa tuổi từ 15 - 24) đã ở mức báo động.

5. Sự chuyển dịch cơ cấu việc làm theo xu thế CNH, HĐH gắn với phát

triển KTTT đã có sự chuyển biến nhất định nhƣng thực tế cho thấy tốc độ

chuyển biến rất chậm chƣa đáp ứng nhu cầu phát triển của nền KTTT. Tỷ lệ

LĐCLC trong nền kinh tế còn chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn so với tiêu chí phát triển

149

của nền KTTT. Số lƣợng lao động qua đào tạo đã tăng lên nhƣng không đáp ứng

yêu cầu của thị trƣờng lao động trong bối cảnh toàn cầu hóa và KTTT. Tỷ lệ thất

nghiệp của sinh viên ngày càng tăng lên.

6. Thực trạng GQVL ở Việt Nam trong những năm qua cho thấy: quá trình

GQVL chƣa đạt đƣợc những nội dung và tiêu chí của GQVL trong quá trình CNH,

HĐH gắn với phát triển KTTT. Đó là vừa giải quyết đƣợc việc làm cho số lƣợng lao

động dôi dƣ trong nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH vừa gia tăng nhanh số

lƣợng lao động chất lƣợng cao đáp ứng nhu cầu phát triển của nền KTTT.

7. Xét về thu nhập của ngƣời lao động: lực lƣợng lao động trong các ngành KTTT

đã tăng lên nhƣng tốc độ tăng trƣởng không thu nhập của lao động động trí tuệ chƣa bắt

kịp quá trình tăng thu nhập của nền kinh tế nói chung. Thu nhập chƣa trở thành động lực

mạnh mẽ để lôi cuốn ngƣời lao động theo xu hƣớng phát triển của nền KTTT.

8. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trong quá trình GQVL ở Việt

Nam thời gian qua là nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, các thể

chế thị trƣờng, trong đó có thị trƣờng lao động chƣa phát triển đồng bộ, hệ thống

giáo dục - đào tạo nhân lực chậm đƣợc đổi mới, chứa đựng quá nhiều bất cập trong

khi quá trình tăng trƣởng "mắc kẹt" quá lâu ở mô hình tăng trƣởng theo chiều rộng.

9. Để đạt đƣợc mục tiêu phát triển của thị trƣờng lao động trong quá trình

CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT cần xây dựng đƣợc một nền kinh tế thị trƣờng

hiện đại, hiệu quả, cạnh tranh và công bằng gắn với sự đổi mới hoàn thiện các thể

chế kinh tế, chính trị, đặc biệt là thể chế nhà nƣớc. Mục tiêu này cần đƣợc triển khai

thành các mục tiêu cụ thể thể hiện rõ các yêu cầu về mặt cung, cầu, kết nối cũng

nhƣ an sinh cho ngƣời lao động trong quá trình GQVL: Tuân thủ nguyên tắc thị

trƣờng, bảo đảm công khai minh bạch, đồng thời tham gia hội nhập với thị trƣờng

toàn cầu, tuân thủ theo nguyên tắc và thông lệ quốc tế.

10. Để GQVL cho ngƣời lao động trong bối cảnh CNH, HĐH gắn với phát

triến KTTT, Nhà nƣớc phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm tác động vào cả

cung lẫn cầu về lao động. Trong số các giải pháp về phía cung, việc ƣu tiên nâng cấp

hệ thống giáo đục đào tạo là giải pháp then chốt, có ý nghĩa chiến lƣợc, lâu dài. Ngoài

điều đó, Nhà nƣớc cần tập trung vào các giải pháp nhằm nâng cao tốc độ và chất

lƣợng tăng trƣởng kinh tế, coi đó là phƣơng thức chính để tăng cầu về lao động.

150

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Thu Trà (2015), “Đào tạo lao động theo nhu cầu”, Tạp chí Đại

đoàn kết dân tộc và miền núi”, số tháng 3/2015, tr 6-7.

2. Nguyễn Thị Thu Trà (2015), "Việc làm cho ngƣời lao động trong các công

ty có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp", Tạp

chí Dân tộc (171), tr.23-26.

3. Nguyễn Thị Thu Trà (2016), "Kinh nghiệm của Trung Quốc và Malaysia về

giải quyết việc làm cho ngƣời lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa", Tạp chí Giáo dục lý luận (243), tr.78-81.

4. Nguyễn Thị Thu Trà (2016), “Những yếu tố tác động đến vấn đề giải quyết

việc làm ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí khoa học chính trị, số 7/ 2016, tr 66-70.

5. Nguyễn Thị Thu Trà, (2016), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát

triển kinh tế tri thức theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Công

sản điện tử (số ra ngày 11/10/2016).

6. Nguyễn Thị Thu Trà, (2016), “Công nghiệp hóa và kinh tế tri thức: Một số

đặc điểm và tác động việc làm”, Tạp chí kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 484,

tr.70-73.

7. Nguyễn Thị Thu Trà, Phạm Thị Mai Vui (2016) "Phát triển nguồn nhân lực

chất lƣợng cao để hình thành nền kinh tế tri thức. Vận dụng vào Trƣờng Đại học Hà

Nội ", Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trƣờng Đại học Hà Nội.

8. Nguyễn Thị Thu Trà, (2017), “Xây dựng con ngƣời mới XHCN theo tinh

thần Nghị quyết Trung Ƣơng IV - Khóa XII của Đảng”, Kỷ yếu hội thảo khoa học -

khoa Giáo dục chính trị - Trƣờng Đại học Hà Nội.

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Xuân An (2005), Giải quyết việc làm ở Thái Bình, thực trạng và giải

pháp, NXB Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

2. Mạc Tiến Anh (2007), “Đào tạo nghề theo hƣớng cầu một số vấn đề đặt ra”,

Tạp chí Lao động xã hội số 319.

3. Alvin Toffler (2000), Cú sốc tương lai, NXB Thanh niên

4. Alvin Toffler (2001), Thăng trầm quyền lực, NXB Thanh niên

5. Alvin Toffler (2003), Làn sóng thứ ba , NXB Thế giới Hà Nội

6. Ban Chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ƣơng (2009), Tổng điều

tra dân số và nhà ở năm 2009 - các kết quả suy rộng mẫu.

7. Bộ luật lao động nướcCộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), NXB

Chính trị quốc gia Hà Nội.

8. Bộ Giáo dục đào tạo (2001), "Chiến lƣợc phát triển giáo dục 2001 - 2010",

Văn phòng Bộ

9. Bộ Giáo dục đào tạo (2012), “Chiến lƣợc phát triển Giáo dục - Đào tạo

2011-2020”, Văn phòng Bộ

10. Bộ Giáo dục đào tạo (2005), “Đề án xây dựng và phát triển đội ngũ trí

thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH”, Văn phòng Bộ

11. Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, “Chiến lƣợc CNH, HĐH nông

nghiệp nông thôn”

12. Bộ KH-CN (2001), “Chiến lƣợc phát triển KH&CN giai đoạn 2001-

2010”, Văn phòng Bộ

13. Bộ KH-CN (2011), “Chiến lƣợc phát triển KH&CN giai đoạn 2011-

2020”, Văn phòng Bộ

14. Bộ Lao động - Thƣơng binh và xã hội (2009) Sổ tay thống kê thông tin thị

trường lao động ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2005), Niên giám thống kê lao

động thương binh và xã hội, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.

152

16. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2005), Đánh giá việc thực hiện

chiến lược việc làm giai đoạn 2001-2005 và xây dựng chiến lược việc làm trong

thời kỳ Đại hội X (2006-2010), Hà Nội.

17. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Tài chính (2008), Hướng dẫn

quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước, Hà Nội.

18. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2011), Báo cáo điều tra lao động

và việc làm năm 2011, Hà Nội.

19. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2011), Báo cáo nghiên cứu về việc

làm nông thôn Việt Nam, Hà Nội.

20. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2011), Xu hƣớng lao động - việc

làm Việt Nam 2000 - 2010, Cục Việc làm - Văn phòng Bộ.

21. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2012), Xu hƣớng lao động - việc

làm Việt Nam 2012, Cục Việc làm - Văn phòng Bộ.

22. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2013), Xu hƣớng lao động - việc

làm Việt Nam 2013, Cục Việc làm - Văn phòng Bộ.

23. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2014), Xu hƣớng lao động - việc

làm Việt Nam 2014, Cục Việc làm - Văn phòng Bộ.

24. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2010), Báo cáo tình hình và giải pháp tăng cường

thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới năm (2005-2010). Văn phòng Bộ

25. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2007), Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài tại

Việt Nam năm (2007), và những giải pháp chính năm (2008). Văn phòng Bộ

26. Báo cáo nghiên cứu về việc làm nông thôn tại Việt Nam, do Văn phòng

Hỗ trợ Tƣ vấn Phản biện và Giám định Xã hội (OSEC) trực thuộc Liên hiệp các Hội

Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) thực hiện dƣới sự hỗ trợ về tài chính và

kỹ thuật của Văn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế tại Việt Nam (ILO) thông qua

Cục Việc làm thuộc Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (MOLISA).

27. Báo cáo của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2012),

Đánh giá thực trạng lao động việc làm ở các khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp và

hiệu quả của các chính sách hỗ trợ nhóm nông dân mất đất. Hà Nội

153

28. Báo cáo phát triển Thế giới (2013) do Ngân hàng Thế giới công bố

29. Báo cáo phát triển của Việt Nam (2014) do Ngân hàng Thế giới công bố

30. Báo điện tử Thanh niên (2015), Đất nước Hàn Quốc từ quá khứ đến hiện

tại, số tháng 6/2015.

31. Vũ Đình Cự (2014), “Phát triển kinh tế tri thức, cơ hội và thách thức của

Việt Nam”, Tạp chí Khoa học công nghệ Việt Nam, số 15, tr. 32-36.

32. Vũ Đình Cự ( 2007), Khoa học công nghệ và thông tin điện tử, triển vọng

phát triển và ứng dụng trong hai thập niên tới, NXB khoa học và kỹ thuật Hà Nội.

33. Vũ Đình Cự - Trần Xuân Sầm (2013), Lực lượng sản xuất mới và kinh tế

tri thức, NXB khoa học và kỹ thuật Hà Nội.

34. Nguyễn Sinh Cúc (2003), “Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn

đề đặt ra”, Tạp chí Con số và Sự kiện, số 8.

35. Đỗ Minh Cƣơng (2003), “Đào tạo nghề trở thành mối quan tâm của toàn

xã hội”, Tạp chí Lao động xã hội số 2.

36. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật lao động (2003), NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Phạm Đức Chính (2007) Thị trƣờng lao động: “Vấn đề lý thuyết và thực

trạng hình thành, phát triển ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển kinh tế,

số tháng 1.

38. C.Mác Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb sự thật, Hà Nội - 1980.

39. C.Mác - Ph.Ăngghen, Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 1, NXB

CTBQG HCM, Hà Nội - 1995.

40. C.Mác - Ph.Ăngghen, Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 20, NXB

CTQG HCM, Hà Nội - 1994.

41. C.Mác - Ph.Ăngghen, Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 23, NXB

CTQG HCM, Hà Nội - 1993.

42. C.Mác, Toàn tập, tập 3, quyển I, NXBSự thật, Hà Nội - 1973.

43. C.Mác, Bộ Tư bản, tập thứ nhất, quyển I, phần 1, NXBSự thật, Hà Nội -1984

44. C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995

154

45. C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội -1994

46. Trần Đình Chiến (2003), “Giải quyết việc làm cho ngƣời lao động ở các

tỉnh duyên hải trung bộ và một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Khoa học chính trịsố 4.

47. Cục Thống kê Hà Nội (2009), Niên giám thống kê Hà Nội 2008, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

48. Cục Thống kê Hà Nội (2010), Niên giám thống kê Hà Nội 2009, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

49. Cục Thống kê Hà Nội (2011), Niên giám thống kê Hà Nội 2010, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

50. Cục Thống kê Hà Nội (2012), Niên giám thống kê Hà Nội 2011, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

51. Cục Thống kê Hà Nội (2013), Niên giám thống kê Hà Nội 2012, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

52. Cục Thống kê Hà Nội (2014), Niên giám thống kê Hà Nội 2013, Công ty

TNHH in Khuyến học, Hà Nội.

53. Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị định

số 29-2008, ngày 14 tháng 3 năm 2008 Quy định về thành lập, hoạt động, chính

sách và quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu

kinh tế cửa khẩu.

54. Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Nghị định

36/CP của Chính phủ về quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.

55. David. Slandes (2001), Sự giàu nghèo của các dân tộc, NXB Thống Kê,

Hà Nội.

56. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (2007), Về chính sách giải quyết việc

làm ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Lê Văn Dũng (2008), Việc làm cho người lao động nông thôn tỉnh Thanh

Hóa, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

58. Nguyễn Ngọc Dũng (2005), “Một số vấn đề xã hội trong xây dựng và phát

triển các khu công nghiệp ở Việt Nam”, Kinh tế và dự báo số 3/2005.

155

59. Nguyễn Tuấn Dũng (2011), “Vềđẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

gắn với pháttriển kinh tế tri thức và phát triển bền vững”, Tạp chí Xây dựng Đảng

số 1, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Nguyễn Xuân Dũng (2013),Côngnghiệp VN trong tiến trình hội nhập kinh

tế quốc tế, NXB khoa học xã hội.

61. Phạm Tất Dong (2011), “Vai trò của giáo dục - dào tạo trong nền kinh tế

tri thức”, Vietbao.vn gia HCM

62. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp

hành Trung ương khoá VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp

hành trung ương khoá VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

68. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban

Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứXI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

156

73. Nguyễn Đại Đồng (2008), “Chiến lƣợc việc làm của Việt Nam trong bối

cảnh tăng trƣởng và hội nhập”, Tạp chí Lao động xã hội, số 326.

74. Đàm Hữu Đắc (2008), “Đổi mới đào tạo nghề để nâng cao chất lƣợng

nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”, Tạp chí

Lao động xã hội, số 333.

75. Lê Thị Hồng Điệp (2010), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để

hình thành nền kinh tế tri thức”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế chuyên ngành kinh tế

chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội.

76. EF. Schumacher (1994), Những nguồn lực, NXB Lao động, Hà Nội.

77. Edgar Morin (2008), Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai, NXB

Tri thức

78. Nguyễn Thúy Hà (2013), “Chính sách việc làm: Thực trạng và giải pháp”,

Tạp chí lập pháp, số ra ngày 07/06.

79. Hà Thị Hằng (2010), Việc làm cho người lao động sau thu hồi đất trong

quá trình đô thị hoá ở thành phố Huế,, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Hành

chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

80. Vƣơng Phƣơng Hoa (2014), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát

triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, chuyên ngành

kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

81. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2012), Kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội thành phố Hà Nội 5 năm 2011-2015, Hà Nội.

82. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2012), Nghị quyết về nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội năm 2013 của thành phố Hà Nội, Hà Nội.

83. Nguyễn Thị Lan Hƣơng (Chủ biên) (2002), Thị trường lao động Việt Nam

định hướng phát triển, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.

84. Nguyễn Thị Hằng (2008), “Chiến lƣợc việc làm của Việt Nam trong bối

cảnh tăng trƣởng và hội nhập”, Tạp chí Lao động xã hội, số 326.

85. Nguyễn Thị Hằng (2003), “Lao động việc làm những bƣớc tiến quan

trọng”, Tạp chí Lao động xã hội, số 23.

157

86. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Kinh tế - Chính trị,

(2005), Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực trạng và triển vọng, Tổng quan khoa học.

87. Lê Minh Hùng - Đàm Vân Dung (2009), "Mức sống của ngƣời lao động

làm việc trong khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng", Tạp chí Thông tin

khoa học, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế- xã hội thành phố Đà Nẵng, số 7.

88. Ngô Hƣớng (2004), “Các khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc”, Tạp chí Cộng sản số 17.

89. Phí Mạnh Hồng (2006), Đề tài trọng điểm đại học quốc gia, Một số vấn đề

cơ bản về kinh tế tri thức- cơ hội và thách thức đặt ra cho Việt Nam.

90. Phí Mạnh Hồng (2016), Vai trò của Nhà nước trong thời đại kinh tế tri

thức, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

91. Đặng Hữu (2003), Phát triển kinh tế tri thức - rút ngắn quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta, đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc, mã số KX.02.03

92. Đặng Hữu (2004), Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với sự phát

triển của Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

93. Hàn Quốc và bài học 40 cho Việt Nam, Tuần Vietnam.net, số ra ngày

05/12/2013.

94. Hàn Quốc - Điều kỳ diệu bên sông Hàn, thongtinhanquoc.info, ngày

11/01/2016.

95. Hàn Quốc và những điều cần biết, báo thanh niên số ra ngày 31/05/2015.

96. Trần Ngọc Hiên (2014), “Những vấn đề cơ bản trong nhận thức về kinh tế

tri thức và thực hiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học công

nghệ số 2

97. Phạm Thanh Khiết (2007), Phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp ở các

tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ - Thực trạng và những vấn đề đặt ra, Đề tài khoa học

cấp cơ sở, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III, Đà Nẵng

98. Kinh tế Hàn Quốc - Thời kỳ những năm thập niên 60,

thongtinhanquoc.info,ngày 20/02/2016.

99. Lester C.Thurow (2003), Làm giàu trong nền kinh tế tri thức, NXB Trẻ

158

100. Lester C.Thurow (2005), Nghịch lý toàn cầu, NXB Trẻ

101. Trần Thị Lan (2012), “Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất

ở thành phố Hà Nội”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 1.

102. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2012), Đánh giá

thực trạng lao động việc làm ở các khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp và hiệu quả

của các chính sách hỗ trợ nhóm nông dân mất đất”, Hà Nội.

103. Nguyễn Hoàng Long (2003), Giải quyết việc làm trong thời kỳ đẩy

nhanh tốc độ đô thị hoá ở Đà Nẵng, Lao động và xã hội, số 218.

104. Trần Quang Lâm (chủ biên) (2004), Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Thực trạng

và triển vọng, Đề tài cấp bộ, của khoa Kinh tế - Chính trị, Học viện Chính trị - Hành

chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

105. Trần Quang Lâm - TS. An Nhƣ Hải (2006), Kinh tế có vốn đầu tư nước

ngoài ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

106. Hoàng Thị Bích Loan (chủ biên)(2008), Thu hút đầu tư trực tiếp của

các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc

gia Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Hồng Minh (2003), "Hải Dƣơng: Lao động nông thôn muốn có việc

làm phải đƣợc học nghề", Tạp chí Lao động xã hội, số (224, 225).

108. Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa (2009), Vấn đề hậu giải phóng

mặt bằng ở Hà Nội, thực trạng và giải pháp, NXBCTQG HCM, Hà Nội.

109. Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Ngọc Bắc, Hoàng Xuân Nghĩa, Nguyễn Thanh

Bình(2010), Giải phóng mặt bằng ở Hà Nội - hệ luỵ và phương hướng giải quyết,

NXBCTQG HCM, Hà Nội.

110. Đặng Thị Mai, Khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh

Hải Dương, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội - 2009.

111. Nguyễn Thị Thuý Mai (2009), “Định hƣớng phát triển công nghiệp Đà

Nẵng đến năm 2020”, Tạp chí Thông tin khoa học, Viện nghiên cứu phát triển kinh

tế- xã hội thành phố Đà Nẵng số 7.

159

112. Nguyễn Văn Nhƣờng (2010), Chính sách an sinh xã hội đối với người nông dân

sau khi thu hồi đất để phát triển các cụm công nghiệp (nghiên cứu tại Bắc Ninh), Hà Nội.

113. Trần Thị Minh Ngọc (2010), Việc làm của nông dân trong quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

114. Cao Nguyên (2015), “Lời giải cho bài toán phát triển kinh tế tri thức

trong nông nghiệp”, Hội thảo “ Vai trò của Doanh ngiệp trong phát triển KTTT ở

Việt Nam”, Hà Nội

115. Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Lao động,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

116. Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Bộ luật Lao động,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

117. Nolwen Henaff Jean-Yves Martin (2001), Lao động, việc làm và nguồn

nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới, NXB Thế giới, Hà Nội.

118. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Kinh tế phát triển, Giáo trình trƣờng Đại

học kinh tế quốc dân, Hà Nội.

119. Paul. Samuelson (2008), Kinh tế học, NXB Thống kê, Hà Nội

120. Peter F. Drucker ( 1995), Xã hội hậu tư bản, Viện nghiên cứu quản lý

kinh tế T.W- Trung tâm thông tin tƣ liệu

121. Lê Du Phong (2007), Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị

thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia, NXB Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh, TP.Hồ Chí Minh.

122. Phạm Tiên Phong (2009), “Vềsự lựa chọn công nghệ cao”, Tạp chí Thông

tin khoa học, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng, số 7.

123. Đỗ Đức Quân (2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông

thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp

(qua khảo sát các tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Dương, Ninh Bình), NXBCTQG HCM, Hà Nội.

160

124. Nguyễn Thế Quang (2006), "Hà Nội với các biện pháp trợ giúp phát

triển doanh nghiệp nhỏ và vừa", Lao động và xã hội, số 283.

125. Nguyễn Văn Quý (2012), “Phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học và

công nghệ làm động lực hàng đầu”, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển kinh tế, số ra

ngày 23/1/212

126. TS. Nguyễn Minh Quang - TS. Đoàn Xuân Thuỷ đồng chủ biên (2010),

Chính sách ứng phó khủng hoảng kinh tế của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội

127. Nguyễn Thị Thanh Quý (2016), "Phát triển nguồn nhân lực ngành

hàng không Việt Nam", Luận án Tiến sĩ Kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị,

128. John Naisbitt (2000), Lối tư duy của tương lai, NXB Lao động xã hội

129. J.E. Stiglitz (2001), Vận hành toàn cầu hóa, NXB Trẻ

130. J.M. Keynes ( 1994), Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi xuất và tiền tệ,

NXB Giáo dục và Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

131. Nguyễn Văn Sửu (2010), Báo cáo tác động của công nghiệp hóa và đô

thị hóa đến sinh kế nông dân Việt Nam: trường hợp một làng ven đô Hà Nội, Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

132. Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội Hà Nội (2006), Phòng Lao động

- Việc làm, Báo cáo tổng hợp kết quả giải quyết việc làm của thành phố Hà Nội

2001-2005, Hà Nội.

133. Sở Kế hoạch và Đầu tƣ Hà Nội (2010), Báo cáo khảo sát lập căn cứ

xây dựng các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, Hà Nội.

134. ILO (2012), Khủng hoảng việc làm thanh niên: Một kêu gọi hành động,

Nghị quyết và kết luận của Hội nghị Lao động quốc tế, Kỳ họp thứ 101, Geneva

135. ILO (2013), Khảo sát nhà tuyển dụng ASEAN về kỹ năng và năng lực

cạnh tranh

136. ILSSA (2016), Xu hướng lao động và xã hội Việt Nam, Báo cáo thƣờng

niên 2015, NXB Lao động xã hội

161

137. GS.TS. Phạm Đức Thành, PGS.TS. Phạm Quý Thọ, ThS. Thang Mạnh

Hợp (2003), “Vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay”, Tạp chí

Lao động và Công đoàn, số 298.

138. Trung tâm thông tin tƣ liệu khoa học và CN quốc gia (2000), Kỷ yếu

hội thảo: “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam.

139. Nguyễn Kế Tuấn (2004), Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia.

140. Phạm Ngọc Tuấn (2011), “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 2, tr 15

141. Đỗ Thế Tùng (Chủ biên) (2005), Giáo trình kinh tế chính trị, Chƣơng

trình cao cấp tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

142. Đỗ Thế Tùng, Ảnh hƣởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết

việc làm ở Việt Nam, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 6 - 2002.

143. Nguyễn Xuân Tố (2008), “Mấy kinh nghiệm về tiếp cận và phát triển

kinh tế tri thức trên thế giới”, Tạp chí Khoa học Pháp luật số 2/2008

144. Trần Đình Thiên - Phí Mạnh Hồng ( 2005), Công nghiệp hóa, hiện đại

hóa ở Việt Nam: Phác thảo lộ trình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

145. Trần Đình Thiên (2016), “Công nghiệp chế tạo Việt Nam: Phát triển

không nhƣ mong đợi”, Diễn đàn sản xuất và công nghiệp Việt Nam, ngày

21/04/2016 tại Hà Nội.

146. Nguyễn Văn Trình - Nguyễn Tiến Dũng - Vũ Văn Nghinh (2000), Lịch

sử các học thuyết kinh tế, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

147. Đào Thị Thu Trang (2016), “Sự tham gia của Việt Nam vào di chuyển

lao động nội khối ASEAN" Luận án Tiến sĩ Kinh tế chuyên ngành kinh tế chính trị,

Đại học Quốc gia Hà Nội.

148. Hồng Lê Thọ (2008), “Lao động có kỹ năng: Lỗ hổng nghiêm trọng

trong phát triển ở Việt Nam”, Tạp chí lao động, số 3.

149. Tổng cục Thống kê (2009), Điều tra biến động dân số, nguồn lao động

và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2009 - Những kết quả chủ yếu.

162

150. Tổng cục Thống kê (2013), Điều tra biến động dân số, nguồn lao động

và kế hoạch hoá gia đình 1/5/3013 - Những kết quả chủ yếu.

151. Tổng cục Thống kê - Bộ Lao động Thƣơng binh và Xã hội (2006), Điều

tra lao động và việc làm 2002-2007.

152. Lƣu Ngọc Trịnh (2002), Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức của một

số nước trên thế giới hiện nay, NXB Giáo dục, Hà Nội.

153. Ngô Đăng Thành (chủ biên) (2009), Các mô hình Công nghiệp hóa trên

Thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.

154. Ngô Quý Tùng (2001), Kinh tế tri thức - Xu thế mới của xã hội thế kỷ

XXI, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

155. Trần Văn Thọ (1997), Công nghiệp hóa Việt Nam trong thời đại châu Á

- Thái Bình Dương, NXB TP Hồ Chí Minh.

156. Lê Văn Toan (2007), Lao động, việc làm trong xu thế toàn cầu hoá,

NXB Lao động - xã hội, Hà Nội.

157. Phạm Đức Thành (2002), “Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam”,

Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 64.

158. Vũ Đình Thắng (2002), “Vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn”,

Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 3.

159. Phạm Thị Thuỷ (2007), Giải quyết việc làm cho người lao động ở các

huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.

160. Phạm Thị Thuỷ (2010), “Giải bài toán việc làm cho nông dân bị thu hồi

đất ở ngoại thành Hà Nội", Tạp chí Lao động và công đoàn, số 453.

161. Nguyễn Tiệp (2004), Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn:

Các giải pháp tạo thêm việc làm, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 309.

162. Nguyễn Tiệp (2005), “Tạo việc làm ở nƣớc ta - Từ chính sách đến thực

tiễn”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 94.

163. Nguyễn Tiệp (2005), Đào tạo nguồn nhân lực ở các huyện ngoại thành

Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.

163

164. Nguyễn Tiệp (2006), “Một số giải pháp tạo việc làm gắn với giải quyết

các vấn đề xã hội tại Hà Nội”, Tạp chí Lao động và xã hội, số 289.

165. Nguyễn Tiệp (2008), “ Một số giải pháp giải quyết việc làm cho ngƣời

lao động trong thời gian tới”, Tạp chí lao động và xã hội số 326, tr28

166. Nguyễn Bằng Toàn (2008), Việc làm của người có đất bị thu hồi để

phát triển công nghiệp ở tỉnh Nghệ An, Hà Nội.

167. Nguyễn Anh Tuấn (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển

kinh tế ở Việt Nam, NXB Tƣ pháp, Hà Nội.

168. Trần Xuân Tùng (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực

trạng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

169. Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng (2010), Giải quyết việc làm cho lao

động nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

170. Thủ tƣớng Chính phủ (2006), Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg quy định về

giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử

dụng đất nông nghiệp, Hà Nội.

171. Thủ tƣớng Chính phủ (2009), Đề án đào tạo nghề cho lao động nông

thôn đến năm 2020, Hà Nội.

172. Thủ tƣớng Chính phủ (2012), QĐ số52/2012/QĐ-TTg về chính sách hỗ

trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông

nghiệp, Hà Nội.

173. Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân (2005), Thực trạng thu nhập, đời

sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô

thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc

gia, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc, Hà Nội.

174. Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân (2005), Đề tài cấp nhà nƣớc KX.01 -

2005, Việc làm và thu nhập cho lao động bị thu hồi đất trong quá trình CNH-HĐH

và đô thị hoá, Hà Nội.

175. Nguyễn Huy Thám (1999), Luận án tiến sĩ kinh tế, Kinh nghiệm thu hút

vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam, Hà Nội.

164

176. Dƣơng Thanh (2015), Bốn kỹ năng mà mọi ngƣời lao động Việt Nam

phải có để hội nhập TPP, báo Người tiêu dùng số ra ngày 12/12/2015

177. Thomas L. Friedman (2014), Thế giới phẳng - Tóm lược lịch sử thế giới

thế kỷ 21, NXB Trẻ

178. Văn phòng Hỗ trợ Tƣ vấn Phản biện và Giám định Xã hội (2009), Báo

cáo nghiên cứu về việc làm nông thôn tại Việt Nam, Hà Nội.

179. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 3, NXB Tiến bộ, Matxcơva.

180. V.Lênin (1997), toàn tập, T.40 NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va.

181. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, NXB Tiến Bộ, Mát-xcơ-va.

182. V.I.Lênin (1992), Toàn tập, tập 32, NXB Sự thật, Hà Nội.

183. William Easterly (2009), Truy tìm căn nguyên tăng trưởng, NXB Lao

động - xã hội

184. Walter W.Powell và Kaisa Snellman (1999), Nền kinh tế tri thức, NXB

Tri thức

185. World Bank (1998), Tri thức cho phát triển. Báo cáo về tình hình phát

triển thế giới 1998

186. World Bank (2014), Báo cáo phát triển Việt Nam 2014: Nâng cao kỹ

năng Việt Nam: Chuẩn bị nguồn nhân lực cho nền kinh tế thị trường hiện đại.

187. http://laodong.com.vn

188. http://luatsuhanoi.vn

189. http://dangcongsan.vn

190. http://laodongxahoionline.vn

165

Phụ lục 1

THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

****** Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

******

Số: 32/2007/QĐ-TTg Hà Nội, ngày 05 tháng 03 năm 2007

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC CHO VAY VỐN PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT ĐỐI VỚI HỘ ĐỒNG BÀO

DÂN TỘC THIỂU SỐ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN

THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Xét đề nghị của Bộ trưởng, Chủ nhiệm ủy ban Dân tộc,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Thực hiện việc cho vay vốn đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc

biệt khó khăn để phát triển sản xuất, ổn định đời sống, sớm vƣợt qua đói nghèo.

1. Đối tƣợng đƣợc vay vốn

Hộ đồng bào dân tộc thiểu số (kể cả các hộ có vợ hoặc chồng là ngƣời dân

tộc thiểu số) sống ở các xã (xã, phƣờng, thị trấn) thuộc vùng khó khăn quy định tại

Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 3 năm 2007 của Thủ tƣớng Chính

phủ về việc ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn, có đủ

3 tiêu chí:

a) Có mức thu nhập bình quân đầu ngƣời dƣới 60.000 đồng/tháng;

b) Tổng giá trị tài sản của hộ không quá 3 triệu đồng (không tính giá trị

quyền sử dụng đất, giá trị các lán trại trên nƣơng rẫy, nhà ở đƣợc Nhà nƣớc và các

tổ chức hỗ trợ);

c) Có phƣơng hƣớng sản xuất nhƣng thiếu hoặc không có vốn sản xuất.

2. Nguyên tắc cho vay vốn

a) Việc xem xét hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn dƣợc thực

166

hiện trên cơ sở bình xét công khai, dân chủ, đúng đối tƣợng ở cơ sở và đƣợc lập

danh sách theo từng xã; hàng năm danh sách này đƣợc rà soát để bổ sung và đƣa ra

khỏi danh sách những hộ không còn thuộc đối tƣợng;

b) Việc cho vay phải dựa trên các phƣơng án sản xuất và cam kết cụ thể của

từng hộ hoặc nhóm hộ gắn với việc hƣớng dẫn cách làm ăn của chính quyền và các

tổ chức chính trị - xã hội các cấp; ƣu tiên những hộ khó khăn hơn đƣợc vay vốn

trƣớc;

c) Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện việc cho vay và có thể uỷ thác

từng phần cho các tổ chức chính trị - xã hội cấp cơ sở trong việc cho vay vốn và thu

hồi nợ.

3. Thời gian thực hiện giai đoạn 1 từ năm 2007 đến năm 2010.

Năm 2010 thực hiện việc tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện và điều chỉnh,

bổ sung chính sách cho phù hợp với các giai đoạn tiếp theo.

Điều 2. Nội dung chính sách cho vay

1. Điều kiện đƣợc vay vốn

a) Các hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn quy định tại khoản 1

Điều 1 Quyết định này, có nơi cƣ trú hợp pháp, có trong danh sách do ủy ban nhân

dân xã lập và đƣợc ủy ban nhân dân huyện phê duyệt;

b) Có phƣơng án sử dụng vốn vay vào sản xuất kinh doanh đƣợc chính

quyền cùng các tổ chức chính trị - xã hội của thôn, bản xác nhận hoặc hỗ trợ gia

đình lập.

2. Hình thức và mức vay vốn

a) Có thể vay một lần hoặc nhiều lần;

b) Tổng mức vay các lần không quá 5 triệu đồng/hộ; không phải dùng tài sản

bảo đảm và đƣợc miễn lệ phí làm thủ tục hành chính trong việc vay vốn.

Trƣờng hợp các hộ có nhu cầu vay vốn ngoài mức quy định trên, thì áp dụng

chính sách cho vay hộ nghèo quy định tại Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04

tháng 10 năm 2002 của Chính phủ về tín dụng đối với ngƣời nghèo và các đối

tƣợng chính sách khác.

167

3. Thời hạn cho vay căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ

của hộ vay vốn và do Ngân hàng Chính sách xã hội quy định. Trƣờng hợp đến hạn

trả nợ, những hộ vay vẫn thuộc diện hộ đặc biệt khó khăn và có nhu cầu tiếp tục sử

dụng vốn vay thì Ngân hàng Chính sách xã hội xem xét cho gia hạn nợ.

4. Lãi xuất cho vay bằng 0%.

5. Xử lý rủi ro

Đối với các hộ gặp rủi ro do thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh hoặc các khó khăn

bất khả kháng khác không trả đƣợc nợ, ủy ban nhân dân xã lập Biên bản xác nhận

gửiNgân hàng Chính sách xã hội huyện tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân huyện

phê duyệt để gửi Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh tổng hợp trình Ủy ban nhân dân

tỉnh xem xét, quyết định xóa nợ.

Điều 3. Về nguồn vốn

1. Đối với các địa phƣơng chƣa tự cân đối đƣợc ngân sách: ngân sách trung

ƣơng cấp vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để thực hiện việc cho vay theo

Quyết định này.

2. Đối với các địa phƣơng tự cân đối đƣợc ngân sách: kinh phí thực hiện

đƣợc tính vào ngân sách địa phƣơng. Hàng năm Ủy ban nhân dân các cấp bố trí

khoản kinh phí này trong dự toán ngân sách địa phƣơng trình Hội đồng nhân dân

phê duyệt và chuyển cho Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện việc cho vay vốn.

Điều 4. Tổ chức thực hiện

1. Ủy ban Dân tộc có trách nhiệm:

a) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan ban hành Thông tƣ

hƣớng dẫn thực hiện Quyết định này;

b) Chủ trì hàng năm rà soát, bổ sung, xây dựng kế hoạch nhu cầu vốn gửi Bộ

Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài chính để tổng hợp vào dự toán ngân sách nhà nƣớc

hàng năm; riêng năm 2007, giao hai Bộ: Kế hoạch và Đầu tƣ, Tài chính tìm nguồn

vốn đề xuất với Thủ tƣớng Chính phủ xem xét, quyết định;

c) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan kiểm tra, giám sát việc thực

hiện chính sách vay vốn và tổng hợp báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ hàng năm.

168

2. Ngân hàng Chính sách xã hội:

a) Trách nhiệm:

- Hƣớng dẫn quy trình và thủ tục cho vay bảo đảm đơn giản, rõ ràng, dễ thực

hiện; thực hiện cho vay vốn, thu hồi nợ, tham mƣu cho Ủy ban nhân dân các cấp xử

lý rủi ro;

- Lập kế hoạch tiến độ giải ngân gửi Bộ Tài chính (đồng gửi Bộ Kế hoạch và

Đầu tƣ, ủy ban Dân tộc đề phối hợp);

- Định kỳ 6 tháng báo cáo kết quả thực hiện với Thủ tƣớng Chính phủ (đồng

gửi ủy ban Dân tộc, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài chính).

b) Quyền lợi: đƣợc cấp bù chi phí quản lý bằng 0,3% dƣ nợ bình quân hàng

năm.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ có trách nhiệm: chủ trì, phối hợp với Bộ Tài

chính, Ủy ban Dân tộc xây dựng kế hoạch vốn, trình Thủ tƣớng Chính phủ.

4. Bộ Tài chính có trách nhiệm: cấp vốn và chi phí quản lý cho Ngân hàng

Chính sách xã hội theo tiến độ thực hiện.

5. Ủy ban nhân dân tỉnh chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn diện việc chỉ đạo, tổ

chức thực hiện cho vay và thu hồi nợ tại địa phƣơng, cụ thể:

a) Cụ thể hoá các văn bản hƣớng dẫn sát hợp với tình hình của địa phƣơng

(nếu cần thiết);

b) Chỉ đạo lồng ghép nguồn vốn thực hiện các chính sách khác trên địa bàn

(Chƣơng trình 134, Chƣơng trình 135, chính sách trợ giá trợ cƣớc, khuyến nông,

khuyến lâm...) nhằm tăng hiệu quả việc sử dụng vốn vay và hạn chế rủi ro;

c) Phân công trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị (sở, ban, ngành, các tổ

chức đoàn thể...) của tỉnh thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến việc tổ chức hƣớng

dẫn cho các hộ vay vốn cách làm ăn, cách sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả đƣợc

nợ cho Ngân hàng Chính sách xã hội; cơ quan công tác dân tộc tại địa phƣơng là cơ

quan thƣờng trực tham mƣu giúp Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện chính

sách vay vốn này;

d) Ra Quyết định xóa nợ theo đề nghị của Ủy ban nhân dân huyện do Chi

169

nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh trình;

đ) Kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện việc cho vay và sử dựng vốn tại địa

phƣơng và báo cáo ủy ban Dân tộc theo quy định.

6. Ủy ban nhân dân huyện có trách nhiệm:

a) Chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã và hỗ trợ Ngân hàng Chính sách xã hội tổ

chức thực hiện việc cho vay và thu hồi nợ;

b) Phê duyệt danh sách đối tƣợng thụ hƣởng và diện đƣợc vay hàng năm của

từng xã để báo cáo ủy ban nhân dân tỉnh;

c) Thẩm định báo cáo tình hình rủi ro trong sử dụng vốn vay của các xã gửi

Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh để tổng hợp trình Ủy ban nhân dân

tỉnh ra quyết định xử lý;

d) Định kỳ 6 tháng báo cáo kết quả thực hiện với ủy ban nhân dân tỉnh.

7. Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm:

a) Phổ biến rộng rãi đến toàn dân các văn bản quy định, hƣớng dẫn thực hiện

việc cho vay vốn đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; tổ chức

bình xét công khai, xếp loại ƣu tiên, lập danh sách đối tƣợng thụ hƣởng hàng năm

gửi ủy ban nhân dân huyện phê duyệt và phân công tổ chức, cá nhân trực tiếp giúp

đỡ, hƣớng dẫn hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn cách làm ăn, xoá đói

giảm nghèo gửi Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt;

b) Hỗ trợ Ngân hàng Chính sách xã hội trong việc giải ngân; thƣờng xuyên

theo dõi, kiểm tra đôn đốc và hỗ trợ các hộ trong quá trình sử dụng vốn và hoàn trả

vốn vay;

c) Chỉ đạo Ban Chỉ đạo Chƣơng trình xoá đói, giảm nghèo cấp xã phối hợp

với các tổ chức chính trị - xã hội giám sát việc bình xét hộ đồng bào dân tộc thiểu số

đặc biệt khó khăn đƣợc vay vốn bảo đảm dân chủ, công khai, xác nhận danh sách

hộ vay vốn; phối hợp với tổ chức cho vay, tổ tiết kiệm và vay vốn kiểm tra việc sử

dụng vốn vay và đôn đốc thu hồi nợ;

d) Định kỳ 6 tháng báo cáo kết quả thực hiện với Ủy ban nhân dân huyện.

Điều 5. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng

170

Công báo. Bãi bỏ Quyết định số 166/2001/QĐ-UBDT ngày 05 tháng 9 năm 2001

của Bộ trƣởng, Chủ nhiệm ủy ban Dân tộc và Miền núi về ban hành Quy định tiêu

chí hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn và Thông tƣ liên tịch số 912/2001/

TTLT/UBDTMN/BTC/BKHĐT ngày 16 tháng 1 thăm 2001 của liên tịch Ủy ban

Dân tộc và Miền núi - Bộ Tài chính - Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ hƣớng dẫn thực hiện

chính sách hỗ trợ hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn.

Điều 6. Các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trƣởng cơ quan

thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ƣơng, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội

chịu trách nhiệm thi hành Quyết đinh này./.

THỦ TƢỚNG

Nguyễn Tấn Dũng

171

Quyết định số 126/2009/QĐ-TTG của Thủ tƣớng Chính phủ : Ban hành cơ

chếhỗ trợ vốn ngân sách trung ƣơng đối với đầu tƣ phát triển hệ thống kết cấu

hạ

tầng khu kinh tế ven biển

THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦCỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 126/2009/QĐ-TTg Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2009

QUYẾT ĐỊNH

Ban hành cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách trung ƣơng đối với

đầu tƣ phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng khu kinh tế ven biển

THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật Ngân sách nhà nƣớc ngày 16 tháng 12 năm 2002;

Căn cứ Luật Đầu tƣ ngày 29 tháng 11 năm 2005;

Căn cứ Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính

phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế;

Xét đề nghị của Bộ trƣởng Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ.

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tƣợng áp dụng

1. Quyết định này quy định về điều kiện, nguyên tắc, tiêu chí, loại dự án,

công trình đƣợc hỗ trợ vốn từ ngân sách trung ƣơng để đầu tƣ phát triển hệ thống

kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đối với khu kinh tế ven biển và quản lý,

sử dụng nguồn vốn hỗ trợ này.

2. Khu kinh tế ven biển đƣợc hỗ trợ vốn đầu tƣ từ ngân sách trung ƣơng theo

quy định tại Quyết định này phải đáp ứng các điều kiện sau:

a) Có trong Quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến

năm 2020 theo Quyết định số 1353/QĐ-TTg ngày 23 tháng 9 năm 2008 của Thủ

172

tƣớng Chính phủ;

b) Đƣợc thành lập theo Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ và hoạt động

theo quy định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của

Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế;

c) Có Ban Quản lý khu kinh tế đƣợc thành lập theo quyết định của Thủ tƣớng

Chính phủ.

Điều 2. Nguyên tắc phân bổ vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ

1. Vốn ngân sách trung ƣơng đƣợc phân bổ để hỗ trợ đầu tƣ phát triển hệ

thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội thiết yếu nhằm đảm bảo cho hoạt

động và phát triển của khu kinh tế ven biển.

2. Việc phân bổ vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ phải tuân theo các nguyên tắc sau:

a) Chỉ phân bổ vốn cho các dự án, công trình quy định tại Điều 4 Quyết định

này mà không có khả năng thu hồi vốn;

b) Các dự án, công trình đƣợc phân bổ vốn phải phù hợp với quỵ hoạch xây

dựng khu kinh tế ven biển đã đƣợc phê duyệt và có đầy đủ thủ tục đầu tƣ theo quy

định về quản lý đầu tƣ xây dựng cơ bản;

c) Việc phân bổ vốn phải tập trung, bảo đảm hiệu quả đầu tƣ; ƣu tiên phân bổ

cho các dự án, công trình quan trọng, cấp bách và hoàn thành trong kỳ kế hoạch.

Điều 3. Nguyên tắc ƣu tiên và tiêu chí phân bổ vốn ngân sách trung

ƣơng hỗ trợ

1. Việc phân bổ vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ các khu kinh tế ven biển

đƣợc thực hiện theo nguyên tắc ƣu tiên sau:

a) Khu kinh tế ven biển có các dự án, công trình đầu tƣ mang tính động lực

và có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển ngành và lĩnh vực đã đƣợc cấp Giấy

chứng nhận đầu tƣ hoặc quyết định đầu tƣ có tổng mức vốn đầu tƣ đăng ký từ

20.000 tỷ đồng trở lên;

b) Khu kinh tế ven biển thành lập ở địa phƣơng có điều kiện kinh tế - xã hội

khó khăn;

173

c) Khu kinh tế ven biển đang triển khai đầu tƣ xây dựng hệ thống kết cấu hạ

tầng kỹ thuật thiết yếu, các dự án bồi thƣờng giải phóng mặt bằng, tái định cƣ phục

vụ các dự án, công trình quy định tại điểm а khoản này.

2. Tiêu chí và cách xác định vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ đƣợc thực hiện

theo quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định này.

Điều 4. Dự án, công trình được sử dụng vốn ngân sách trung ương hỗ trợ

1. Đầu tƣ xây dựng hệ thống giao thông trục chính trong khu kinh tế ven biển và

hệ thống giao thông kết nối khu kinh tế ven biển với hệ thống giao thông bên ngoài.

2. Bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng các dự án, công trình quy định tại điểm а

khoản 1 Điều 3 Quyết định này.

3. Bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng và xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng

xã hội khu nhà ở công nhân và khu tái định cƣ phục vụ ngƣời bị thu hồi đất trong

khu kinh tế ven biển.

4. Đầu tƣ xây dựng khu xử lý chất thải rắn tập trung và hệ thống xử lý nƣớc

thải tập trung của khu công nghiệp, khu phi thuế quan trong khu kinh tế ven biển

(bao gồm hệ thống thoát nƣớc thải, trạm xử lý nƣớc thải tập trung).

Điều 5. Quản lý, sử dụng vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ

1. Việc quản lý, sử dụng, thanh toán, quyết toán vốn ngân sách trung ƣơng hỗ

trợ tại Quyết định này đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý đầu tƣ

xây dựng cơ bản, Luật Ngân sách nhà nƣớc và các quy định pháp luật có liên quan.

2. Vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ sử dụng không đúng mục đích sẽ bị thu

hồi về ngân sách trung ƣơng.

Điều 6. Nguồn vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ

1. Vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ƣơng đƣợc phân bổ theo kế

hoạch hàng năm.

2. Vốn trái phiếu Chính phủ đối với hệ thống giao thông trục chính, quan trọng.

3. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).

Điều 7. Quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ

1. Hàng năm, căn cứ vào khả năng cân đối vốn đầu tƣ của ngân sách trung

174

ƣơng, tình hình phát triển các khu kinh tế ven biển, nhu cầu và tình hình triển khai

các dự án, công trình của các khu kinh tế ven biển, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ chủ trì,

phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan dự kiến phƣơng án vốn ngân

sách trung ƣơng hỗ trợ cho các khu kinh tế ven biển theo quy định tại Quyết định

này để tổng hợp trong tổng dự toán chi đầu tƣ phát triển chung báo cáo Chính phủ

trình Quốc hội xem xét, quyết định theo quy định của Luật Ngân sách nhà nƣớc.

2. Hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành,

địa phƣơng có liên quan tổng hợp, đánh giá tình hình thực hiện và hiệu quả sử dụng

vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ theo quy định tại Quyết định này, báo cáo Thủ

tƣớng Chính phủ.

Điều 8. Quyền hạn, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ƣơng và Ban Quản lý khu kinh tế

1. Quyền hạn, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ƣơng:

a) Quyết định phân bổ vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ cho các dự án, công

trình của khu kinh tế ven biển ở địa phƣơng theo quy định tại Quyết định này;

b) Chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan và đơn vị sử dụng vốn ngân sách

trung ƣơng hỗ trợ đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với quy định tại Quyết định

này và quy định của pháp luật hiện hành;

c) Chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ đối

với khu kinh tế ven biển ở địa phƣơng theo quy định của pháp luật;

d) Cân đối vốn ngân sách địa phƣơng đầu tƣ phát triển hệ thống kết cấu hạ

tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu kinh tế ven biển ở địa phƣơng theo quy định của

pháp luật về quản lý đầu tƣ xây dựng cơ bản, Luật Ngân sách nhà nƣớc và các quy

định khác của pháp luật có liên quan;

đ) Báo cáo tình hình phân bổ, quản lý, sử dụng, hiệu quả sử dụng vốn ngân

sách trung ƣơng hỗ trợ đối với khu kinh tế ven biển; nhu cầu vốn ngân sách trung

ƣơng hỗ trợ đầu tƣ trong năm kế hoạch tiếp theo; kết quả xác định điểm số theo

hƣớng dẫn tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định này và gửi về Bộ Kế hoạch và

175

Đầu tƣ trƣớc ngày 31 tháng 7 hàng năm để Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ triển khai các

nhiệm vụ quy định tại Điều 7 Quyết định này.

2. Quyền hạn, trách nhiệm của Ban Quản lý khu kinh tế: quản lý và sử dụng

vốn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ theo quy định tại Điều 39 Nghị định số

29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về khu công

nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế và các quy định pháp luật có liên quan.

Điều 9. Điều khoản thi hành

1. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.

2. Đối với các hạng mục, công trình của khu kinh tế ven biển không thuộc

quy định tại Điều 4 Quyết định này nhƣng đã đƣợc phân bổ và sử dụng vốn đầu tƣ

từ ngân sách trung ƣơng trƣớc ngày Quyết định này có hiệu lực thi hành thì đƣợc

tiếp tục thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2011 theo quyết định phê duyệt của

cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.

3. Các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trƣởng cơ quan thuộc

Chính phủ và Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng có

liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

Nơi nhận: - Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng; - Thủ tƣớng, các Phó Thủ tƣớng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP; - VP BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng; - HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW; - Văn phòng TW và các Ban của Đảng; - Văn phòng Chủ tịch nƣớc; - Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Tòa án nhân dân tối cao; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - UB Giám sát tài chính QG; - Kiểm toán Nhà nƣớc; - Ngân hàng Chính sách Xã hội; - Ngân hàng Phát triển Việt Nam; - Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Cơ quan Trung ƣơng của các đoàn thể; - VPCP: BTCN, các PCN, cổng TTĐT,

176

các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lƣu: Văn thƣ, KTTH (5b). M

177

Phụ lục 2 THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 33/2007/QĐ-TTg

Hà Nội, ngày 05 tháng 3 năm 2007

QUYẾT ĐỊNH

Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cƣ

cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2010

THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Chƣơng trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội

nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ƣơng khoá IX về công tác dân tộc;

Xét đề nghị của Bộ trƣởng, Chủ nhiệm ủy ban Dân tộc,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cƣ cho

đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2010.

1. Mục tiêu

a) Mục tiêu chung

Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cƣ cho đồng bào dân tộc

thiểu số nhằm tạo điều kiện cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cƣ có

nơi ở ổn định, có đủ điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần, xoá đói, giảm nghèo; góp phần bảo vệ rừng, bảo vệ môi trƣờng sinh thái và

giữ vững an ninh - chính trị, trật tự - an toàn xã hội tại các địa phƣơng.

b) Mục tiêu cụ thể

Đến năm 2010, phấn đấu đạt các mục tiêu sau:

- Hoàn thành cơ bản việc định canh, định cƣ cho các hộ đồng bào dân tộc

thiểu số còn du canh, du cƣtrênphạm vi cả nƣớc;

178

- 70% số điểm định canh, định cƣ tập trung (thôn, bản) có đủ các công trình

cơ sở hạ tầng thiết yếu, phù hợp với quy hoạch chung, bao gồm: đƣờng giao thông,

điện, thuỷ lợi nhỏ, lớp học, nhà mẫu giáo, nhà sinh hoạt cộng đồng và một số công

trình thiết yếu khác;

- 100% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cƣ đƣợc tổ chức định

canh, định cƣ theo quy hoạch, có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nƣớc sinh hoạt... theo

quy định; trong đó: trên 70% số hộ đƣợc sử dụng điện, nƣớc sinh hoạt hợp vệ sinh;

- Tại các điểm định canh, định cƣ không còn hộ đói, mỗi năm giảm 2 - 3% số

hộ nghèo (theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08

tháng 7 năm 2005 của Thủ tƣớng Chính phủ).

2. Phạm vi áp dụng

Chính sách này áp dụng cho việc thực hiện định canh, định cƣ đối với các hộ

đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cƣ thuộc vùng khó khăn quy định tại

Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 3 năm 2007 của Thủ tƣớng Chính

phủ về việc ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn.

3. Đối tƣợng áp dụng

Hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cƣ, có đủ ba tiêu chí sau:

a) Không có đất sản xuất ổn định thuộc quyền sử dụng của hộ theo quy định

của Nhà nƣớc;

b) Nơi ở không ổn định, xa điểm dân cƣ, di chuyển chỗ ở theo nơi sản xuất;

c) Chƣa đƣợc hƣởng các chính sách hỗ trợ tƣơng tự của Nhà nƣớc quy định

tại Quyết định số 190/2003/QĐ-TTg ngày 16 tháng 9 năm 2003, Quyết định số

120/2003/QĐ-TTg ngày 11 tháng 6 năm 2003, Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg

ngày 20 tháng 7 năm 2004 và Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 8

năm 2006 của Thủ tƣớng Chính phủ,...

4. Nguyên tắc

а)Bố trí định canh, định cƣ phải phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế - xã hội, Quy hoạch tổng thể bố trí dân cƣ của địa phƣơng; phù hợp với

phong tục tập quán, văn hoá của từng dân tộc; đồng thời, phải chọn phƣơng án đầu

tƣ xây dựng hạ tầng hợp lý và tiết kiệm nhất;

179

b) Vốn của Nhà nƣớc tập trung đầu tƣ và ƣu tiên hỗ trợ cho cộng đồng dân

cƣ và hỗ trợ trực tiếp cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cƣ nhằm

sớm ổn định sản xuất và đời sống nơi định canh, định cƣ mới;

c) Mỗi hộ chỉ đƣợc hƣởng chính sách quy định tại Quyết định này một lần

cho cả giai đoạn 2007 - 2010;

d) Thực hiện lồng ghép nguồn vốn của các chƣơng trình, dự án, chính sách

khác trên địa bàn để thực hiện định canh, định cƣ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số

du canh, du cƣ.

Điều 2. Chính sách hỗ trợ cụ thể

1. Hỗ trợ đầu tƣ cho cộng đồng

a) Đối với điểm định canh, định cƣ tập trung: ngân sách nhà nƣớc hỗ trợ đầu

tƣ xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng thiết yếu, bao gồm: bồi thƣờng, giải phóng mặt

bằng, san gạt đất ở, khai hoang đất sản xuất; xây dựng đƣờng giao thông, điện, thuỷ

lợi nhỏ, hệ thống nƣớc sinh hoạt, lớp học, nhà mẫu giáo và nhà sinh hoạt cộng đồng

thôn, bản và một số công trình thiết yếu khác theo nhu cầu thực tế;

b) Đối với điểm định canh, định cƣ xen ghép: ngân sách nhà nƣớc hỗ trợ cho

ngân sách xã với mức 20 triệu đồng/hộ, để sử dụng vào việc bồi thƣờng đất ở, đất

sản xuất cho hộ dân sở tại bị thu hồi giao cho hộ định canh, định cƣ theo chế độ quy

định, phần còn lại sử dụng để đầu tƣ, nâng cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu của xã;

c) Hỗ trợ cán bộ phát triển cộng đồng tại các điểm định canh, định cƣ tập

trung, gồm: cán bộ у tế và cán bộ khuyến nông, lâm (02 ngƣời); mức hỗ trợ tƣơng

đƣơng mức lƣơng bậc 01 của ngạch cán bộ, công chức quy định tại Nghị định số

204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 và Nghị định số 94/2006/NĐ-CP

ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ; thời gian hỗ trợ: 3 năm tính từ khi các hộ

dân về điểm định canh, định cƣ mới;

d). Hỗ trợ kinh phí áp dụng khoa học kỹ thuật, giống mới đƣa vào sản xuất 3

năm đầu, mỗi năm 30 triệu đồng/thôn, bản (điểm định canh, định cƣ tập trung).

2. Hỗ trợ trực tiếp hộ du canh, du cƣ thực hiện định canh, định cƣ

a) Đƣợc giao đất ở, đất sản xuất, diện tích tối thiểu theo mức quy định tại Quyết

định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20 tháng 7 năm 2004 của Thủ tƣớng Chính phủ

180

vềmột số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nƣớc sinh hoạt cho hộ đồng

bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn;

b) Hỗ trợ bình quân 15 triệu đồng/hộ định canh, định cƣ để làm nhà ở, phát

triển sản xuất, mua lƣơng thực 6 tháng đầu tính từ khi đến điểm định canh, định cƣ,

nƣớc sinh hoạt; mức hỗ trợ cụ thể cho từng hộ và từng mục đích do Ủy ban nhân

dân tỉnh quy định;

c) Đối với hộ định canh, định cƣ xen ghép đƣợc hỗ trợ 01 triệu đồng/hộ để

tạo nền nhà;

d) Hỗ trợ di chuyển các hộ từ nơi ở cũ đến nơi định canh, định cƣ (tính theo

thực tế khi lập dự án).

Các hộ du canh, du cƣ sau khi đƣợc tổ chức định canh, định cƣ đƣợc hƣởng

các chính sách hiện hành khác nhƣ ngƣời dân tại chỗ và đƣợc vay vốn của Ngân

hàng Chính sách xã hội theo quy định để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.

3. Nguồn vốn thực hiện: ngân sách trung ƣơng hỗ trợ có mục tiêu cho ngân sách

địa phƣơng thực hiện chính sách hỗ trợ định canh, định cƣ theo Quyết định này.

4. Vềcơ chế quản lý

a) Nguồn ngân sách trung ƣơng hỗ trợ có mục tiêu cho ngân sách địa phƣơng

trong kế hoạch hàng năm (ghi thành mục riêng);

b) Cơ chế quản lý đầu tƣ và xây dựng công trình hạ tầng của các dự án định

canh, định cƣ thực hiện theo cơ chế quản lý đầu tƣ xây dựng các công trình hạ tầng

thuộc Chƣơng trình 135 giai đoạn 2006 - 2010.

5. Thời gian thực hiện: từ năm 2007 đến năm 2010.

Điều 3. Tổ chức thực hiện

1. Trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ƣơng

a) Ủy ban Dân tộc:

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ hƣớng dẫn địa phƣơng xây

dựng kế hoạch, dự án định canh, định cƣ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh,

du cƣ cho từng năm và cả giai đoạn;

- Tổng hợp kế hoạch (các dự án) định canh, định cƣ của các tỉnh trình Thủ

tƣớng Chính phủ phê duyệt;

181

- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài chính trong việc bố trí vốn

thực hiện kế hoạch định canh, định cƣ;

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan kiểm tra, giám sát việc thực

hiện chính sách hỗ trợ định canh, định cƣ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số giai

đoạn 2007 - 2010 và kế hoạch định canh, định cƣ ở các địa phƣơng; định kỳ 6 tháng

và hàng năm báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ (đồng gửi các Bộ: Kế hoạch và Đầu tƣ,

Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động - Thƣơng binh và Xã

hội) kết quả thực hiện Quyết định này.

b) Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ:

- Thẩm định kế hoạch (các dự án) định canh, định cƣ cho các hộ đồng bào

dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nƣớc do ủy ban Dân tộc trình Thủ tƣớng Chính

phủ;

- Chủ trì, phối hợp với ủy ban Dân tộc và Bộ Tài chính dự kiến nguồn vốn

ngân sách trung ƣơng hỗ trợ cho ngân sách địa phƣơng hàng năm để thực hiện kế

hoạch định canh, định cƣ cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nƣớc

trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

c) Bộ Tài chính:

- Phối hợp với ủy ban Dân tộc, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ dự kiến nguồn vốn

ngân sách trung ƣơng hỗ trợ cho ngân sách địa phƣơng hàng năm để thực hiện kế

hoạch định canh, định cƣ cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nƣớc

trình cấp có thẩm quyền phê duyệt;

- Hƣớng dẫn cơ chế tài chính thực hiện công tác định canh, định cƣ đối với

đồng bào dân tộc thiều số.

d) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì hƣớng dẫn các địa phƣơng

rà soát, điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch bố trí, sắp xếp dân cƣ, trong đó có các điểm

định canh, định cƣ cho phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội

của địa phƣơng và công tác khuyến nông, khuyến lâm, phát triển sản xuất cho vùng

có dự án định canh, định cƣ;

đ) Các Bộ, cơ quan Trung ƣơng theo chức năng, nhiệm vụ của mình hƣớng

dẫn, chỉ đạo các địa phƣơng ƣu tiên thực hiện các chƣơng trình, dự án do Bộ, ngành

182

mình quản lý đối với các địa bàn có dự án định canh, định cƣ nhằm nâng cao hiệu

quả đầu tƣ các dự án định canh, định cƣ.

2. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các tỉnh:

a) Tuyên truyền, vận động các hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cƣ

thực hiện định canh, định cƣ, thay đổi tập quán sản xuất, áp dụng tiến bộ kỹ thuật

vào sản xuất, tăng thu nhập, ổn định đời sống;

b) Chỉ đạo các tổ chức và cộng đồng vùng dự án định canh, định cƣ tích cực

tham gia thực hiện công tác định canh, định cƣ;

c) Xây dựng kế hoạch và các dự án định canh, định cƣ đối với hộ đồng bào

dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2010 và kế hoạch hàng năm gửi Ủy ban Dân tộc,

thời gian chậm nhất đầu quý II năm 2007 để tổng hợp trình Thủ tƣớng Chính phủ;

d) Điều tra, khảo sát, lập, phê duyệt các dự án định canh, định cƣ; thực hiện

đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các điểm định canh, định cƣ tập trung

(thôn, bản mới) và bổ sung, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho các thôn, bản tiếp nhận hộ

du canh, du cƣ thuộc đối tƣợng định canh, định cƣ;

đ) Tổ chức huy động nguồn lực của nhân dân, của các tổ chức kinh tế, chính trị,

xã hội trên địa bàn để thực hiện kế hoạch, dự án định canh, định cƣ; thực hiện lồng

ghép các nguồn vốn, các chính sách, chƣơng trình, dự án trên địa bàn để nâng cao hiệu

quả thực hiện các dự án định canh, định cƣ, bảo đảm định canh, định cƣ bền vững;

e) Bố trí kinh phí trong ngân sách địa phƣơng hàng năm để điều tra, khảo sát

và lập các dự án định canh, định cƣ;

g) Tăng cƣờng công tác quản lý, kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện

các dự án định canh, định cƣ bảo đảm chất lƣợng công trình, không để lãng phí, thất

thoát và tham nhũng; ƣu tiên nguồn vốn thực hiện trƣớc cho các đối tƣợng định

canh, định cƣ, vùng dự án định canh, định cƣ đƣợc thụ hƣởng các chính sách,

chƣơng trình, dự án khác trên địa bàn để nâng cao hiệu quả đầu tƣ;

h) Đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến công và hƣớng dẫn

phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với giao khoán bảo vệ rừng cho hộ thuộc

đối tƣợng định canh, định cƣ;

i) Kiện toàn các tổ chức của hệ thống chính trị cơ sở tại các điểm đã tổ chức

183

định canh, định cƣ (thôn, bản) và phát huy vai trò của các tổ chức trong các hoạt

động kinh tế, xã hội góp phần sớm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao

đời sống cho đồng bào;

k) Định kỳ 6 tháng, hàng năm báo cáo tình hình thực hiện chính sách, kế

hoạch, các dự án định canh, định cƣ với ủy ban Dân tộc để tổng hợp báo cáo Thủ

tƣớng Chính phủ.

Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng

Công báo.

Điều 5. Các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trƣởng cơ quan

thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ƣơng chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

Nơi nhận: - Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng; - Thủ tƣớng, các Phó Thủ tƣớng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP; - Văn phòng BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; - Văn phòng Trung ƣơng và các Ban của Đảng; - Các Ban Chỉ đạo: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; - Văn phòng Chủ tịch nƣớc; - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - Tòa án nhân dân tối cao; - Kiểm toán Nhà nƣớc; - Cơ quan Trung ƣơng của các đoàn thể; - Học viện Hành chính quốc gia; - Ngân hàng Chính sách xã hội; - VPCP: BTCN, các Phó Chu nhiệm, Website Chính phủ, Ban Điều hành 112, Ngƣời phát ngôn của Thủ tƣớng Chính phủ, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; Lƣu: Văn thƣ, ĐP (5b). A

184

Phụ lục 3

THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ

CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 71/2009/QĐ-TTg

Hà Nội, ngày 29 tháng 04 năm 2009

QUYẾT ĐỊNH

PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN HỖ TRỢ CÁC HUYỆN NGHÈO ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU

LAO ĐỘNG GÓP PHẦN GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG GIAI ĐOẠN 2009-2020

THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp

đồng ngày 29 thÁng 11 năm 2006;

Căn cứ Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của

Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện

nghèo; Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao

động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020 với những nội dung chủ

yếu sau:

I. MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU

1. Mục tiêu

Nâng cao chất lƣợng lao động và tăng số lƣợng lao động ở các huyện nghèo

tham gia xuất khẩu lao động, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và thực hiện

giảm nghèo bền vững.

2. Chỉ tiêu

- Giai đoạn 2009 - 2010: thực hiện thí điểm đƣa 10 nghìn lao động thuộc các

huyện nghèo đi làm việc ở nƣớc ngoài (bình quân mỗi năm sẽ đƣa khoảng 5.000 lao

185

động), trong đó: khoảng 80% lao động thuộc hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số; khoảng

70% lao động qua đào tạo nghề; góp phần giảm 8.000 hộ nghèo (giảm 2,8% số hộ

nghèo thuộc 61 huyện nghèo).

- Giai đoạn 2011 - 2015: đƣa 50 nghìn lao động thuộc các huyện nghèo đi

làm việc ở nƣớc ngoài (bình quân mỗi năm sẽ đƣa đƣợc khoảng 10.000 lao động),

trong đó: khoảng 90% lao động thuộc hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số; khoảng 80%

lao động qua đào tạo nghề; góp phần giảm 45.000 hộ nghèo (giảm 15,6% số hộ

nghèo thuộc 61 huyện nghèo).

- Giai đoạn 2016 - 2020: tăng 15% tổng số ngƣời đi làm việc ở nƣớc ngoài so

với giai đoạn 2011 - 2015, trong đó khoảng 95% lao động thuộc hộ nghèo, hộ dân

tộc thiểu số, góp phần giảm khoảng 19% số hộ nghèo thuộc 61 huyện nghèo.

II. ĐỐI TƢỢNG CỦA ĐỀ ÁN

Là ngƣời lao động cƣ trú dài hạn tại 61 huyện nghèo; các tổ chức, doanh

nghiệp hoạt động theo Luật Ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài

theo hợp đồng, các cơ sở dạy nghề cho lao động xuất khẩu.

III. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA ĐỀ ÁN

1. Các chính sách đối với ngƣời lao động

a) Hỗ trợ ngƣời lao động nâng cao trình độ văn hóa để tham gia xuất khẩu

lao động

- Đối tƣợng: ngƣời lao động thuộc hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số có trình độ

văn hóa từ bậc tiểu học trở lên đã đƣợc lựa chọn để tham gia xuất khẩu lao động

nhƣng trình độ văn hóa chƣa đáp ứng yêu cầu, cần phải bổ túc thêm về văn hóa.

- Thời gian học: tối đa không quá 12 tháng.

- Nội dung chính sách:

+ Hỗ trợ toàn bộ học phí, tài liệu học tập, sách giáo khoa, vở viết;

+ Hỗ trợ tiền ăn, sinh hoạt phí trong thời gian học, tiền tàu xe và trang cấp ban

đầu nhƣ chế độ áp dụng đối với học sinh trong các trƣờng phổ thông dân tộc nội trú.

- Cơ quan chủ trì: Ủy ban nhân dân tỉnh có huyện nghèo theo Nghị quyết số

30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008.

186

- Cơ quan phối họp: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thƣơng binh và

Xã hội, Bộ Tài chính, Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

- Cơ chế thực hiện: Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt kế hoạch tạo nguồn lao

động theo đối tƣợng của Đề án, bảo đảm có đủ trình độ văn hóa theo yêu cầu xuất

khẩu lao động; quyết định số lƣợng và danh sách lao động đƣợc hỗ trợ học văn hóa

để bảo đảm có đủ số lƣợng tham gia xuất khẩu lao động theo đề nghị của ủy ban

nhândân các huyện nghèo; giao nhiệm vụ cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện

nghèo chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành liên quan tổ chức thực hiện việc dạy văn

hóa cho ngƣời lao động theo quy định.

- Nguồn kinh phí: ngân sách trung ƣơng.

- Cơ chế tài chính: ngân sách trung ƣơng bổ sung có mục tiêu cho địa

phƣơng để thực hiện quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí theo quy định hiện

hành.

b) Hỗ trợ ngƣời lao động học nghề, ngoại ngữ, bồi dƣỡng kiến thức cần thiết

theo quy định của Luật Ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo

hợp đồng; hỗ trợ chi phí khám sức khỏe; làm hộ chiếu, viza và lý lịch tƣ pháp để

tham gia xuất khẩu lao động.

- Đối tƣợng: ngƣời lao động đƣợc lựa chọn học nghề, ngoại ngữ, bồi dƣỡng

kiến thức cần thiết theo quy định của Luật Ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở

nƣớc ngoài theo hợp đồng để tham gia xuất khẩu lao động theo quy định của Đề án.

- Thời gian học: căn cứ vào nghề đào tạo và yêu cầu của thị trƣờng xuất khẩu

lao động, Bộ trƣởng Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội xem xét, quy định cụ

thể thời gian học, nhƣng tối đa không quá 12 tháng. Sau các khóa học, ngƣời lao

động đƣợc cấp chứng chỉ công nhận trình độ tay nghề và chứng chỉ về bồi dƣỡng

kiến thức cần thiết theo quy định.

- Nội dung chính sách:

+ Hỗ trợ 100% học phí học nghề, ngoại ngữ và bồi dƣỡng kiến thức cần thiết

cho ngƣời lao động thuộc hộ nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số;

+ Hỗ trợ 50% học phí học nghề, ngoại ngữ, bồi dƣỡng kiến thức cần thiết

187

cho các đối tƣợng khác thuộc 61 huyện nghèo;

+ Riêng ngƣời lao động thuộc hộ nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số đƣợc hỗ trợ

thêm:

. Tiền ăn, sinh hoạt phí trong thời gian học với mức 40.000đ/ngƣời/ngày;

. Tiền ở với mức 200.000đ/ngƣời/tháng;

. Tiền trang cấp đồ dùng cá nhân thiết yếu cho ngƣời lao động (quần áo đồng

phục, chăn màn, giày dép ...) với mức 400.000đ/ngƣời;

. Tiền tàu, xe (cả đi và về) 01 lần từ nơi cƣ trú đến nơi đào tạo; mức hỗ trợ

theo giá cƣớc của phƣơng tiện vận tải hành khác thông thƣờng tại thời điểm thanh

toán;

. Chi phí làm thủ tục trƣớc khi đi làm việc ở nƣớc ngoài theo các mức quy

định về phí làm hộ chiếu, phí visa, phí khám sức khỏe, lệ phí làm lý lịch tƣ pháp.

- Cơ quan chủ trì: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.

- Cơ quan phối họp: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Ủy ban nhân dân

các tỉnh có huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12

năm 2008, Trung ƣơng Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

- Cơ chế thực hiện: cơ quan chủ trì lựa chọn doanh nghiệp, cơ sở sự nghiệp

có đủ năng lực, kinh nghiệm tham gia Đề án; thực hiện cơ chế đặt hàng đào tạo.

- Nguồn kinh phí: ngân sách trung ƣơng và các nguồn tài chính hợp pháp

khác.

- Cơ chế tài chính: ngân sách trung ƣơng bố trí trong dự toán ngân sách hàng

năm của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội; quản lý, sử dụng và quyết toán

kinh phí theo quy định hiện hành.

c) Hỗ trợ rủi ro

- Đối tƣợng: ngƣời lao động thuộc đối tƣợng của đề án khi tham gia xuất

khẩu lao động gặp rủi ro.

- Nội dung:

+ Đƣợc hỗ trợ rủi ro theo quy định tại mục 3 khoản 3 Điều 3 Quyết định số

188

144/2007/QĐ-TTg ngày 31 tháng 8 năm 2007 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc

thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nƣớc;

+ Trƣờng họp ngƣời lao động có thời gian làm việc thực tế dƣới 12 tháng

phải về nƣớc thì đƣợc hỗ trợ bằng một lƣợt vé máy bay khi gặp phải một trong các

lý do: (i) vì sức khỏe không phù hợp với yêu cầu công việc, (ii) vì chủ sử dụng lao

động gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh nên ngƣời lao động bị mất việc làm,

(iii) vì chủ sử dụng lao động đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao động.

- Cơ quan chủ trì: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội;

- Cơ quan phối họp: Bộ Tài chính;

- Nguồn kinh phí: Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nƣớc.

- Cơ chế thực hiện: theo cơ chế của Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nƣớc.

2. Chính sách tín dụng ƣu đãi

a) Tín dụng ƣu đãi đối với ngƣời lao động

- Đối tƣợng: ngƣời lao động thuộc huyện nghèo đã đƣợc tuyển chọn, có nhu

cầu vay vốn để đi xuất khẩu lao động.

- Mức vay: theo nhu cầu, tối đa bằng các khoản chi phí ngƣời lao động phải

đóng góp theo từng thị trƣờng.

- Lãi suất:

+ Ngƣời lao động thuộc các hộ nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số đƣợc vay với

lãi suất bằng 50% lãi suất cho vay hiện hành của Ngân hàng Chính sách Xã hội áp

dụng cho đối tƣợng chính sách đi xuất khẩu lao động;

+ Các đối tƣợng còn lại của các huyện nghèo đƣợc vay với lãi suất cho vay

hiện hành của Ngân hàng Chính sách Xã hội áp dụng cho đối tƣợng chính sách đi

xuất khẩu lao động.

- Cơ quan chủ trì: Ngân hàng Chính sách Xã hội.

- Nguồn vốn: Ngân sách nhà nƣớc chuyển sang Ngân hàng Chính sách Xã

hội theo kế hoạch xuất khẩu lao động của các địa phƣơng.

- Cơ chế thực hiện: Ngân hàng Chính sách Xã hội cùng Bộ Lao động -

189

Thƣơng binh và Xã hội quy định mức trần cho vay theo từng thị trƣờng, doanh

nghiệp xuất khẩu lao động tham gia Đề án xác nhận số tiền ngƣời lao động phải

đóng góp khi đi làm việc ở nƣớc ngoài; thời hạn vay vốn tối đa bằng thời gian của

hợp đồng lao động; Ngân hàng Chính sách Xã hội căn cứ xác nhận của doanh

nghiệp và đơn đề nghị vay vốn của ngƣời lao động để quyết định số tiền cho vay,

thời hạn vay và những điều kiện khác theo quy định hiện hành.

b) Tín dụng ƣu đãi đối với cơ sở dạy nghề cho lao động xuất khẩu

- Đối tƣợng: cơ sở dạy nghề, doanh nghiệp xuất khẩu lao động tham gia Đề

án (do Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội lựa chọn).

- Nội dung: Vay vốn để đầu tƣ tăng quy mô phòng học, ký túc xá, trang thiết

bị dạy nghề, phƣơng tiện dạy học phục vụ đào tạo lao động xuất khẩu.

- Mức vay, lãi suất vay, điều kiện, thủ tục vay thực hiện theo cơ chế cho vay

ƣu đãi của Nhà nƣớc theo quy định hiện hành.

- Cơ quan thực hiện: Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

- Nguồn vốn: Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

- Cơ chế thực hiện: theo cơ chế vay ƣu đãi đầu tƣ phát triển của Nhà nƣớc

thực hiện qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

3. Các hoạt động

a) Hoạt động truyền thông và nâng cao năng lực, nhận thức về xuất khẩu lao

động

- Mục tiêu: Nâng cao năng lực hoạt động xuất khẩu lao động cho cán bộ địa

phƣơng; nâng cao nhận thức, cập nhật thông tin đến các cấp chính quyền địa

phƣơng và ngƣời dân về cơ chế, chính sách, hiệu quả của xuất khẩu lao động.

- Nội dung:

+ Tập huấn, bồi dƣỡng nghiệp vụ về xuất khẩu lao động cho cán bộ địa

phƣơng, tuyên truyền viên cơ sở;

+ Tổ chức các hoạt động điều tra về nhu cầu tham gia xuất khẩu lao động và

nhu cầu việc làm sau xuất khẩu lao động;

+ Tuyên truyền, thông tin đầy đủ về chính sách, chế độ, về điều kiện tuyển

190

chọn, điều kiện làm việc, sinh hoạt và thu nhập của ngƣời lao động ở các thị trƣờng

trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng ở Trung ƣơng và địa phƣơng; phối hợp với

Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xây dựng chuyên mục

“Thanh niên với việc tham gia xuất khẩu lao động” bằng tiếng Kinh và tiếng dân tộc

phát trên sóng phát thanh, truyền hình Trung ƣơng và địa phƣơng. Tuyên truyền về

những gƣơng lao động tiêu biểu và những điển hình tốt trong tổ chức thực hiện Đề

án; biểu dƣơng, tôn vinh, khen thƣởng các cá nhân, tập thể tiêu biểu trong hoạt động

xuất khẩu lao động trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng và trang Website của

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.

- Cơ quan chủ trì: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.

- Cơ quan phối hợp: Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Quốc phòng, Trung

ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân các tỉnh.

b) Hoạt động tƣ vấn, giới thiệu việc làm sau khi ngƣời lao động về nƣớc

- Mục tiêu: Giúp ngƣời lao động đã hoàn thành hợp đồng lao động về nƣớc

tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm; hƣớng dẫn ngƣời lao động và gia đình họ sử

dụng hiệu quả nguồn thu từ xuất khẩu lao động.

- Nội dung:

+ Xây dựng cơ sở dữ liệu về ngƣời lao động thuộc các huyện nghèo đi làm

việc ở nƣớc ngoài để quản lý và trợ giúp, hỗ trợ ngƣời ngƣời lao động đi làm việc ở

nƣớc ngoài trong quá trình thực hiện Đề án;

+ Tổ chức tƣ vấn và giới thiệu việc làm cho ngƣời lao động phù hợp với

ngành nghề, kinh nghiệm đã học hỏi và tích lũy đƣợc trong thời gian làm việc ở

nƣớc ngoài;

+ Tổ chức tƣ vấn, hƣớng dẫn ngƣời lao động và gia đình họ sử dụng nguồn

thu từ xuất khẩu lao động đầu tƣ phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại; tổ chức các

khóa đào tạo về khởi sự doanh nghiệp.

- Cơ quan chủ trì: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.

- Cơ quan phối họp: Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,

191

Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh có huyện

nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008.

c) Hoạt động giám sát, đánh giá

- Mục tiêu: Bảo đảm thực hiện đúng mục tiêu, chỉ tiêu và đối tƣợng của Đề án.

- Nội dung: giám sát, đánh giá thực hiện các chính sách, hoạt động của Đề án:

+ Các cơ quan đơn vị tham gia Đề án tự giám sát, đánh giá, báo cáo định kỳ

về Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội;

+ Hợp đồng giám sát, đánh giá với các cơ quan tƣ vấn độc lập.

- Cơ quan chủ trì: Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.

- Cơ quan phối họp: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Trung ƣơng

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân các tỉnh có huyện nghèo

theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008.

d) Kinh phí và cơ chế tài chính thực hiện các hoạt động

- Nguồn kinh phí: ngân sách nhà nƣớc.

- Cơ chế tài chính:

+ Các hoạt động tại Trung ƣơng: ngân sách trung ƣơng bố trí trong dự toán

hàng năm của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội; quản lý, sử dụng và quyết

toán kinh phí theo quy định hiện hành;

+ Các hoạt động tại địa phƣơng: ngân sách trung ƣơng hỗ trợ có mục tiêu

cho địa phƣơng trên cơ sở dự toán ngân sách hàng năm của tỉnh; quản lý, sử dụng

và quyết toán kinh phí theo quy định hiện hành.

IV. KINH PHÍ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

Tổng kinh phí thực hiện Đề án là 4.715 tỷ đồng, trong đó phần vốn hỗ trợ

ngƣời lao động là 1.542 tỷ đồng, vốn tín dụng ƣu đãi là 3.173 tỷ đồng.

V. THỜI GIAN THỰC HIỆN: Từ năm 2009 đến năm 2020

- Giai đoạn 2009 - 2010: thực hiện thí điểm các chính sách, hoạt động của đề

án; sơ kết rút kinh nghiệm và hoàn thiện chính sách, mô hình, quy trình, cơ chế vận

hành chính sách hỗ trợ ngƣời lao động các huyện nghèo tham gia xuất khẩu lao động.

192

- Giai đoạn 2011 - 2015: điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện để thực hiện đầy

đủ các chính sách, hoạt động của đề án; mở rộng quy mô, tăng đối tƣợng lao động

các huyện nghèo tham gia xuất khẩu lao động.

- Giai đoạn 2016 - 2020: nâng cao chất lƣợng lao động, tăng tỷ trọng lao

động các huyện nghèo đi làm việc ở các thị trƣờng có thu nhập cao.

VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội có trách nhiệm:

- Là cơ quan thƣờng trực Đề án, Bộ trƣởng Bộ Lao động - Thƣơng binh và

Xã hội quyết định thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án, hƣớng dẫn thành lập và

chỉ đạo nghiệp vụ các Tiểu Ban Chỉ đạo thực hiện Đe án cấp huyện.

- Chủ trì, điều phối thực hiện các chính sách, hoạt động của Đề án; xây dựng

kế hoạch hàng năm thực hiện Đề án, bao gồm: kế hoạch về nhiệm vụ, mục tiêu, nhu

cầu kinh phí và đề xuất các giải pháp thực hiện gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài

chính để tổng hợp báo cáo Chính phủ đƣa vào kế hoạch và dự toán ngân sách nhà

nƣớc; phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hƣớng dẫn thực hiện các chính sách,

hoạt động của Đề án.

- Xây dựng tiêu chí và tổ chức lựa chọn các doanh nghiệp xuất khẩu lao

động, các cơ sở sự nghiệp theo tiêu chí để tham gia Đề án; lựa chọn những hợp

đồng và những thị trƣờng phù hợp, có điều kiện làm việc và thu nhập tốt, ổn định để

đƣa lao động đến làm việc; thẩm định, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các hợp

đồng theo Đề án; giải quyết kịp thời những khó khăn, vƣớng mắc và rủi ro cho

ngƣời lao động.

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài chính và các cơ quan

liên quan kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện Đề án.

2. Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ có trách nhiệm:

- Bố trí kinh phí thực hiện Đề án từ năm 2009 theo quy định của Luật Ngân

sách nhà nƣớc.

- Phối họp với Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội hƣớng dẫn cơ chế quản

lý tài chính, đầu tƣ đối với các chính sách, hoạt động trong Đề án; tổ chức thẩm

193

định giá các hợp đồng đặt hàng dịch vụ công; phối hợp kiểm tra, giám sát thực hiện

Đề án.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm:

Nghiên cứu xây dựng chƣơng trình, tài liệu bổ túc kiến thức văn hóa phù hợp

với đặc thù của ngƣời nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số. Chỉ đạo các cơ quan giáo dục

địa phƣơng tổ chức các khóa bổ túc văn hóa cho ngƣời lao động để tham gia xuất

khẩu lao động.

4. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm:

Hƣớng dẫn các cơ chế, chính sách liên quan; xây dựng kế hoạch và chỉ đạo

thực hiện các nội dung của Đề án theo chức năng và thẩm quyền.

5. Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách Xã hội có trách

nhiệm:

Thực hiện chính sách tín dụng ƣu đãi đối với các cơ sở dạy nghề tham gia

thực hiện Đe án; thực hiện các chính sách hỗ trợ và chính sách tín dụng ƣu đãi của

Đề án đối với ngƣời lao động theo đúng trình tự và quy định hiện hành.

Phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện Đề án

tại địa phƣơng.

6. Ủy ban nhân dân các tỉnh có huyện nghèo theo Nghị quyết số

30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 có trách nhiệm

- Thành lập và chỉ đạo hoạt động của Tiểu Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án hỗ

trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động cấp huyện.

- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện tại địa phƣơng trên cơ sở Đề án đã

đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt và các văn bản hƣớng dẫn của các Bộ, ngành;

thực hiện chế độ báo cáo định kỳ với Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.

- Nghiên cứu, ban hành và thực hiện các chính sách, cơ chế hỗ trợ bổ sung của

địa phƣơng cho ngƣời lao động.

194

7. Đề nghị Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, các tổ

chức chính trị - xã hội chỉ đạo các cấp cơ sở phối hợp với các Ban, ngành liên quan

triển khai thực hiện Đề án ở địa phƣơng.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

Điều 3. Các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trƣởng cơ quan

thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh có huyện nghèo theo Nghị

quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 chịu trách nhiệm thi hành

Quyết định này.

KT. THỦ TƢỚNG PHÓ THỦ TƢỚNG

Nguyễn Sinh Hùng

Nơi nhận: - Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng; - Thủ tƣớng, các Phó Thủ tƣớng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; - VP BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; - Văn phòng Trung ƣơng và các Ban của Đảng; - Văn phòng Chủ tịch nƣớc; - Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Tòa án nhân dân tối cao; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - Kiểm toán Nhà nƣớc; - Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia; - Ngân hàng Chính sách Xã hội; - Ngân hàng Phát triển Việt Nam; - UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Cơ quan Trung ƣơng của các đoàn thể; - VPCP: BTCN, các PCN, cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lƣu Văn thƣ, KGVX (5b).

195

Phụ lục 4

Quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng dân số của Việt Nam

theo khu vực thành thị - nông thôn, 2005-2015

2005 2009 2013 2014 2015

Tốc độ tăng (%/năm) Giai đoạn 2015 so 2005-2015 với 2014

90,73 86,03 82,39 89,72 91,70 1,07 1,08

22,33 60,06 29,03 60,68 29,26 61,47

32,36 67,64 27,10 72,90 32,25 67,75 5,32 -0,95 3,31 0,13

1. Quy mô (triệu người) 30,82 25,59 Thành thị Nông thôn 60,89 60,44 2. Cơ cấu (%) 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 33,60 29,70 Thành thị Nông thôn 66,40 70,30 Nguồn: - TCTK, Niên giám thông kê qua các năm 2005-2015 - Bộ LĐTBXH, Điều tra Việc Ỉàm-Thất nghiệp qua các năm 2005-2006 - TCTK, Điều tra Lao động-Việc làm qua các năm 2007-2015

Tháp tuổi của dân số Tháp tuổi của dân số

Việt Nam năm 2006 Việt Nam năm 2015

4,000

2,000

0

2,000

4,000

4,000

2,000

0

2,000

4,000

80+ 75-79 70-74 65-69 60-64 55-59 50-54 45-49 40-44 35-39 30-34 25-29 20-24 15-19 10-14 5-9 0-4

80+ 75-79 70-74 65-69 60-64 55-59 50-54 45-49 40-44 35-39 30-34 25-29 20-24 15-19 10-14 5-9 0-4

4,000

2,000

0

2,000

4,000

4,000

2,000

0

2,000

4,000

Nữ

Nam

Nữ

Nam

Đơn vị: nghìn người Đơn vị: nghìn người

Nguồn: - TCTK, Niên giám thống kê qua các năm 2006-2015 - TCTK, Tổng điều tra dân số 2009vàĐiều tra biến động dân số hằng năm

196

Phụ lục 5

Việc làm trực tiếp và việc làm gián tiếp trong 10 DN FDI

Tên doanh Việc làm Việc làm Trực tiếp/ TT Lĩnh vực hoạt động nghiệp trực tiếp gián tiếp Gián tiếp

1 VNC SX, KD ô tô 574 1540 1/2,68

2 American Thức ăn gia súc 130 3010 1/23

Feed

Everton SX& chế biến NS 400 4236 1/10,6 3

Coca cola Nƣớc giải khát 1500 18030 1/12 4

Shell KD dầu nhờn 39 2306 1/59,1 5

Comado

6 Haiha- KD bánh kẹo 115 3580 1/31

katobuki

7 Samsung Điện tử 323 3210 1/9,9

Vina

8 Sony Điện tử 600 4820 1/8

Vietnam

9 Visintex SXlụa tơ tăm 321 1209 1/3,7

10 Vinataxi Vận tải taxi 686 1350 1/1,97

TS 10 4688 43286 1/9,23

Nguồn: Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài

vàoViệt Nam- Nhà xuất bản Thông kê- Hà Nội, 2015.

197