HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ TRỌNG NIN
GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH VIÊN
THÔNG QUA ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG (Qua khảo sát tại Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội,
Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ MỸ HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ TRỌNG NIN
GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH VIÊN
THÔNG QUA ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG (Qua khảo sát tại Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội,
Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: MỸ HỌC
Mã số: 9229007
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS,TS Trần Văn Bính
2. PGS,TS Nguyễn Bình Định
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Những kết luận, kết quả nghiên cứu của luận án chưa từng
được ai công bố ở bất kỳ công trình, luận văn, luận án nào
khác ở trong nước cũng như ở nước ngoài.
Tác giả
Lê Trọng Nin
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ÂNĐC : Âm nhạc đại chúng
CĐ : Cao đẳng
CLB : Câu lạc bộ
CNH : Công nghiệp hóa
ĐH : Đại học
ĐTN : Đoàn Thanh niên
GDTM: Giáo dục thẩm mỹ
HĐH : Hiện đại hóa
HSV : Hội Sinh viên
Nxb : Nhà xuất bản
TCN : Trước Công Nguyên
tr. : Trang
UBND : Ủy ban nhân dân
VHNT: Văn hóa, nghệ thuật
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Trang
Hình 2.1. Mô hình về cơ chế tác động của âm nhạc đại chúng
đối với sự hình thành ý thức thẩm mỹ của sinh viên 50
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu 3.1. Mức độ sử dụng âm nhạc đại chúng trong nhà trường 94
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 3.1. So sánh sự yêu thích của nam, nữ sinh viên các khối học,
khóa học đối với âm nhạc 70
Bảng 3.2. Sự yêu thích của sinh viên đối với các loại nhạc 78
Bảng 3.3. Nhu cầu của sinh viên đối với các đề tài, chủ đề âm nhạc 80
Bảng 3.4. Mức độ quan tâm của sinh viên đối với các yếu tố
trong âm nhạc 83
Bảng 3.5. Mức độ ưa thích của sinh viên đối với các tính chất
của tác phẩm âm nhạc 84
Bảng 3.6. Quan điểm của sinh viên đối với một số nhận định
về âm nhạc 91
Bảng 3.7. Các hoạt động văn nghệ được nhà trường quan tâm,
chú trọng 93
MỤC LỤC
Trang 1
MỞ ĐẦU Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6 1.1. Những nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ và việc sử dụng nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ 6 1.2. Những nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc nói chung và âm nhạc đại chúng nói riêng 19 1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 30 31
* Tiểu kết Chương 1 Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG VÀ GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH VIÊN THÔNG QUA ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG
32 32 2.1. Những vấn đề lý luận về âm nhạc đại chúng 2.2. Những vấn đề lý luận về giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng 56 67
* Tiểu kết Chương 2 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH VIÊN THÔNG QUA ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
69 69 3.1. Vài nét về sinh viên nước ta hiện nay 3.2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta hiện nay 71 3.3. Thực trạng hoạt động giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta hiện nay 78 3.4. Đánh giá chung về những thành tựu và hạn chế trong giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta hiện nay 109 118
* Tiểu kết Chương 3 Chƣơng 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH VIÊN THÔNG QUA ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG Ở NƢỚC TA
120 4.1. Những vấn đề đặt ra trong giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta 120 4.2. Dự báo về những xu hướng vận động trong nhu cầu tiếp nhận thẩm mỹ âm nhạc đại chúng của sinh viên nước ta 126 4.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta
130 146 148
* Tiểu kết Chương 4 KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA
TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
151 152 158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1: MẪU PHIẾU KHẢO SÁT VÀ PHỔ BIẾN KẾT QUẢ PHỤ LỤC 2: GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ VÀ KÝ HIỆU ÂM NHẠC DÙNG TRONG LUẬN ÁN 196
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của
một quốc gia. Mục tiêu phổ quát của giáo dục thẩm mỹ là góp phần phát triển toàn
diện các mặt của đời sống xã hội và con người. Từ việc phát triển mỗi cá nhân mà
phát triển đời sống tinh thần nói chung và thẩm mỹ nói riêng của toàn xã hội. Âm
nhạc đại chúng tham gia vào giáo dục thẩm mỹ với tư cách là nhánh âm nhạc có
“sức hút” rộng lớn đối với đông đảo công chúng, sinh viên, được xem là một hình
thức hấp dẫn và có nhiều lợi thế nhất định. Cái đẹp trong âm nhạc đại chúng sẽ làm
cho con người say mê và hoàn toàn tự nguyện đi theo những định hướng gợi mở
của nó. Tuy nhiên, cho đến nay, các chương trình giáo dục thẩm mỹ nói chung, giáo
dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng nói riêng ở nước ta vẫn
chưa thực sự được quan tâm đúng mức, làm hạn chế kết quả của giáo dục thẩm mỹ.
Phần lớn sinh viên không được trang bị kiến thức cơ bản về thẩm mỹ; hoạt động
tiếp nhận thẩm mỹ do vậy chỉ mang tính chất tự phát, bằng cảm tính bản năng, tạo
khoảng trống cho những sản phẩm âm nhạc phản thẩm mỹ phát triển, xâm hại đến
môi trường văn hóa, đến đời sống thẩm mỹ của công chúng, sinh viên.
Quá trình hội nhập, tăng cường giao lưu văn hóa quốc tế cho thấy, các xu
hướng, trường phái, phong cách âm nhạc của nhiều nước trên thế giới đã du nhập và
có tác động không nhỏ vào âm nhạc ở nước ta. Âm nhạc đại chúng ngày một phát
triển, hấp dẫn người nghe, nhất là giới trẻ bởi tính sôi động, phù hợp với xã hội hiện
đại. Nó chi phối nhu cầu thưởng thức của đông đảo công chúng và chiếm lĩnh thị
trường âm nhạc lớn nhất cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những cái hay, cái tích cực,
cũng đã xuất hiện không ít những cái xấu, cái tiêu cực, ảnh hưởng tới thẩm mỹ âm
nhạc của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. Sự du nhập ngày càng gia tăng
các trào lưu nhạc đại chúng từ bên ngoài vào, khiến cho nhu cầu, thị hiếu và lý
tưởng của sinh viên càng trở nên phức tạp. Điều đáng nói là những sản phẩm âm
nhạc bị nghi án “đạo”, “nhái”; những tác phẩm với suy nghĩ nông cạn, ca từ nhảm
nhí, dung tục lại vẫn nhận được sự chào đón nhiệt tình của đông đảo công chúng,
sinh viên; thậm chí ca sĩ thể hiện những ca khúc đó còn được coi là “thần tượng”,
được hâm mộ. Loại sản phẩm đó được phát tán, lan truyền qua mạng Internet và đã
tác động đến một bộ phận sinh viên, làm hình thành trong bộ phận này kiểu thị hiếu
âm nhạc không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc, không phù hợp với sự
phát triển con người. Đó là chưa kể tới những ảnh hưởng tiêu cực khác đến từ “làn
sóng” âm nhạc nước ngoài, nhất là với âm nhạc đại chúng Hàn Quốc, mà ví dụ điển
2
hình cho sự hâm mộ thái quá, thiếu chọn lọc đó, là hiện tượng một bạn trẻ hôn chiếc
ghế thần tượng đã ngồi sau khi thần tượng của mình đứng lên, hay hiện tượng giữa
mùa hè vẫn mặc áo mùa đông để giống với thần tượng,… Các hiện tượng đó cho
thấy sự thiếu hụt nghiêm trọng trong năng lực tiếp nhận thẩm mỹ của một bộ phận
giới trẻ. Họ đang tỏ ra thiếu một “điểm tựa”, thiếu một hệ tiêu chí thẩm mỹ đúng
đắn để dẫn dắt, lựa chọn hành động giữa một đời sống âm nhạc vẫn còn nhiều ngổn
ngang như ở nước ta hiện nay.
Vì vậy, nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ thông qua âm nhạc đại chúng là
một yêu cầu cần thiết hơn bao giờ hết, góp phần tạo ra sự cân bằng giữa đào tạo
chuyên môn và hình thành ở sinh viên những năng lực cảm thụ, đánh giá thẩm mỹ
và năng lực sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Đó cũng là những lý do mà chúng
tôi lựa chọn đề tài “Giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại
chúng (qua khảo sát tại Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội, Trường Đại học Mỏ
- Địa chất, Học viện Báo chí và Tuyên truyền)” để triển khai thực hiện.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về âm nhạc đại chúng, về
giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng và từ thực trạng giáo
dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta hiện nay, luận
án bàn luận, đề xuất về một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan tình hình nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên
quan đến đề tài.
- Phân tích nhằm chứng minh âm nhạc đại chúng là một phương tiện có
nhiều lợi thế trong giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên, thông qua việc nhận diện cái
đẹp trong âm nhạc đại chúng, cũng như vai trò và cơ chế tác động của nó đối với sự
hình thành ý thức thẩm mỹ của sinh viên.
- Nghiên cứu làm rõ nội dung và các phương thức giáo dục thẩm mỹ cho
sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng; xác định cụ thể các chủ thể tham gia giáo
dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta.
- Khảo sát thực trạng, chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của
những hạn chế trong giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng
ở nước ta hiện nay.
- Bàn luận về những vấn đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các nội dung và phương thức giáo
dục thẩm mỹ thông qua âm nhạc đại chúng cho sinh viên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Nhận diện những giá trị thẩm mỹ của âm nhạc đại chúng
thông qua phạm trù “cái đẹp”. Bên cạnh đó, chúng tôi xem xét âm nhạc đại chúng ở
phương diện ca khúc là chủ yếu, nhất là ở Việt Nam. Mặc dù trong âm nhạc đại
chúng bao gồm cả thanh nhạc và khí nhạc, nhưng nhìn chung, thanh nhạc bao giờ
cũng chiếm tỷ lệ chính, bởi vì tư duy âm nhạc của đại đa số người Việt Nam xưa
nay chủ yếu là nghe “âm nhạc có lời”, với lối âm nhạc đơn bè, đơn tuyến là chính.
Vì thế, tâm lý thích nghe ca khúc chiếm đa số trong thị hiếu thưởng thức âm nhạc
của người Việt Nam.
- Phạm vi không gian: Luận án tiến hành khảo sát thực trạng giáo dục thẩm
mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đây
là nơi thu hút, tập trung nhiều tài năng, tâm huyết và trí tuệ của đội ngũ văn nghệ sĩ,
trí thức nói riêng, cũng như thu hút những nhân tài của các ngành nghề khác nhau
đến từ mọi miền Tổ quốc. Đồng thời, Hà Nội cũng là nơi có nhiều trường đại học lớn
thu hút mỗi năm hàng nghìn sinh viên trong khắp cả nước đến học tập và sinh sống.
Việc lựa chọn 03 trường: Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội; Đại học Mỏ - Địa
chất; Học viện Báo chí và Tuyên truyền để khảo sát được chúng tôi dựa trên các
tiêu chí: Thứ nhất, đại diện cho ba khối ngành đào tạo: Khối ngành nghệ thuật; khối
ngành khoa học tự nhiên; khối ngành khoa học xã hội và truyền thông. Thứ hai, đại
diện cho tính chất của các chương trình đào tạo: 01 trường cao đẳng (chương trình
đào tạo ở mức độ thấp hơn đại học); 01 trường đại học (chương trình đào tạo
thường chuyên về giảng dạy và mang tính nghề nghiệp); 01 học viện (chương trình
đào tạo vừa mang tính chất chuyên môn, vừa thiên về nghiên cứu). Thứ ba, có ít
nhất 01 trường thuộc phạm vi quản lý của Hà Nội để nắm bắt được việc cụ thể hóa
các chủ trương, chính sách giáo dục của địa phương.
- Phạm vi thời gian: Thời gian tiến hành nghiên cứu, từ năm 2015 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn - Cơ sở lý luận của luận án là những nguyên lý mỹ học của Chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thẩm mỹ, về văn hóa và nghệ thuật.
- Cơ sở thực tiễn của luận án là các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam thông qua các văn kiện quan trọng về các vấn đề liên quan đến đề tài; sự
4
vận động của đời sống âm nhạc ở Việt Nam hiện nay và những biến đổi trong thẩm
mỹ âm nhạc của sinh viên; những thực tế từ kết quả khảo sát tại 03 trường đại học,
cao đẳng thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu Bên cạnh phương pháp luận duy vật biện chứng, luận án sử dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu các
văn bản, tài liệu lý luận khác nhau liên quan đến vấn đề giáo dục, thẩm mỹ, giáo
dục thẩm mỹ; các tài liệu về sinh viên; về âm nhạc, âm nhạc đại chúng. Bằng cách
phân tích các văn bản, tài liệu thành từng bộ phận, từng mặt để hiểu các vấn đề một
cách toàn diện; chúng tôi lựa chọn những thông tin quan trọng, phục vụ cho đề tài
nghiên cứu; đồng thời liên kết, sắp xếp các tài liệu, thông tin lý thuyết đã thu thập
được để tạo ra một hệ thống lý luận về giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua
âm nhạc đại chúng.
- Phương pháp liên ngành: Chúng tôi tiếp cận, nghiên cứu về giáo dục thẩm
mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng bằng nhiều cách thức, dựa trên dữ
liệu của các ngành khoa học xã hội và nhân văn như: Triết học, mỹ học, âm nhạc
học, đạo đức học, tâm lý học, văn hóa học, giáo dục học và xã hội học để làm rõ
những vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến đề tài. Từ đó, xác định được rõ hơn
những vấn đề về nội dung và phương thức giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông
qua âm nhạc đại chúng ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Để thu thập thông tin phục vụ đề tài nghiên
cứu, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực tế bằng phương pháp quan sát và phương
pháp điều tra sử dụng bảng hỏi Ankét đối với sinh viên các trường: Cao đẳng Nghệ
thuật Hà Nội, Đại học Mỏ - Địa chất, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, với 930 phiếu
được phát ra và thu về 911 phiếu (đạt 98%). Các số liệu nghiên cứu thực trạng được xử
lý bằng thống kê toán học và phần mềm SPSS. Trên cơ sở kết quả thu được từ cuộc
khảo sát, chúng tôi sẽ có những nhận xét về các thành tựu và hạn chế trong giáo dục
thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp của luận án - Góp phần làm sáng tỏ đặc điểm của âm nhạc đại chúng, các khía cạnh của cái
đẹp trong âm nhạc nói chung, âm nhạc đại chúng nói riêng, cũng như vai trò và cơ chế
tác động của âm nhạc đại chúng đối với sự hình thành ý thức thẩm mỹ của sinh viên.
- Góp phần xác định rõ nội dung, phương thức và các chủ thể tham gia giáo
dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng.
- Góp phần làm rõ thực trạng, những thành tựu và hạn chế trong giáo dục thẩm
5
mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta hiện nay; nhận định về những
vấn đề đặt ra trong giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng.
- Góp phần dự báo về những xu hướng vận động trong nhu cầu tiếp nhận
thẩm mỹ âm nhạc của sinh viên; qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất
lượng giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta.
6. Ý nghĩa của luận án - Về mặt lý luận: Luận án phân tích những giá trị thẩm mỹ của âm nhạc đại
chúng với tư cách là một phương tiện giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên. Từ đó, xác
định rõ nội dung và các phương thức giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm
nhạc đại chúng.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn mỹ học ở các trường đại
học và cao đẳng; đồng thời, có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai muốn
tìm hiểu, nghiên cứu về những vấn đề có liên quan.
Kết quả của luận án cũng có thể được sử dụng như những khuyến nghị đối
với ngành Văn hóa và ngành Giáo dục trong khi xác lập các chương trình giáo dục
thẩm mỹ ở mỗi ngành.
7. Câu hỏi nghiên cứu của luận án (1) Âm nhạc đại chúng là gì? Cái đẹp trong âm nhạc đại chúng được thể hiện
ở những khía cạnh nào?
(2) Âm nhạc đại chúng có vai trò như thế nào đối với sinh viên? Bằng cách nào
mà âm nhạc đại chúng có thể tác động đến sự hình thành ý thức thẩm mỹ của sinh viên?
(3) Giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng bao gồm
những nội dung gì? Phương thức ra sao? Ai là người tham gia giáo dục?
8. Bố cục luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình đã công bố của tác giả
có liên quan đến đề tài luận án, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
luận án gồm 4 chương, 12 mục, với 01 hình vẽ, 01 biểu đồ và 07 bảng biểu.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chương 2: Những vấn đề lý luận cơ bản về âm nhạc đại chúng và giáo dục
thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng
Chương 3: Thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc
đại chúng ở nước ta hiện nay
Chương 4: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ VÀ VIỆC SỬ
DỤNG NGHỆ THUẬT TRONG GIÁO DỤC THẨM MỸ
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc Giáo dục thẩm mỹ (GDTM) và việc sử dụng nghệ thuật trong GDTM không
phải là vấn đề mới. Lĩnh vực này đã được đề cập đến từ xa xưa, gắn liền với những
biểu tượng cụ thể về con người hoàn thiện của các thời đại. Ngay từ buổi bình minh
của lịch sử mỹ học nhân loại, ở phương Đông, Khổng Tử (Kongzi, 551 - 479 TCN)
- nhà sáng lập học thuyết Nho giáo của Trung Quốc cổ đại đã thường khuyên các
môn đồ của mình cần phải tích cực lĩnh hội các loại hình nghệ thuật để không
ngừng bồi bổ tinh thần cho mình. Trong cuốn sách Luận ngữ [60], Khổng Tử đánh
giá rất cao chức năng giáo dục của nghệ thuật, đặc biệt là Thi và Nhạc trong việc
giáo dục đạo đức. Ông chú ý rất nhiều tới mặt nhận thức của nghệ thuật, bởi nghệ
thuật có khả năng mở rộng thêm mọi sự hiểu biết của con người về cuộc sống, để
mang lại cho con người những kiến thức mới. Theo ông, cần phải học Kinh Thi để
làm cho mình hứng khởi tâm trí, nhờ đó mà biết quan sát lấy mình, biết đức hạnh
mình tới đâu. Bên cạnh đó, cần phải biết thưởng thức Kinh Nhạc để mang đến cho
con người cảm xúc của cái tận thiện, tận mỹ (hết sức tốt, hết sức đẹp).
Ở phương Tây, Aristotle (384 - 322 TCN) trong tác phẩm Nghệ thuật thơ ca
[3] được dịch ra tiếng Việt lần đầu vào năm 1964 đã nghiên cứu một cách hệ thống
các vấn đề: Bản chất của cái đẹp, cái bi, cái hài, nghệ thuật,… trong 26 đoạn tạo
thành 26 phần của cuốn Thi pháp. Mặc dù chủ yếu bàn về bi kịch trong thơ ca,
nhưng trong tác phẩm này, Aristotle đã chỉ ra cốt lõi của nghệ thuật là thực hiện mô
phỏng tự nhiên từ đối tượng đến phương thức và mục đích. Nghệ thuật thơ ca thể
hiện sự quan tâm đặc biệt của ông đến vấn đề GDTM trên cơ sở khái quát những
kinh nghiệm thực tiễn nghệ thuật đương thời. Theo ông, hình tượng nghệ thuật phải
đẹp bao nhiêu thì đồng thời cũng phải cao cả và trong sạch về mặt đạo đức bấy
nhiêu. Vì vậy, việc cảm thụ tác phẩm nghệ thuật sẽ làm dấy lên ở con người một loạt
các cảm xúc có khả năng giúp con người được tu thiện về mặt đức hạnh. Còn khi cảm
thụ tác phẩm bi kịch, các cảm xúc do tác phẩm đem lại có tác dụng “tẩy rửa”, “thanh
lọc” (catharsis) tình cảm con người, làm cho con người trở nên cao quý hơn về tâm
hồn. Xuất phát từ quan niệm này, Aristotle đưa ra chủ trương cần phải gắn liền việc
rèn luyện cơ thể với việc GDTM và khẳng định trong việc giáo dục thì cái đẹp phải
đóng vai trò quan trọng nhất. Đây được coi là tác phẩm có tính chất nền móng cho sự
7
phát triển quan điểm thẩm mỹ duy vật sau này.
Thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, nhà triết học Immanuel Kant (1724 - 1804) là
người có những đóng góp đáng kể trong việc nghiên cứu về các vấn đề thẩm mỹ.
Dưới góc độ nghiên cứu về thị hiếu, Kant trong tác phẩm Phê phán năng lực phán
đoán [40] của mình đã coi nghệ thuật và các hoạt động của thị hiếu có ảnh hưởng
tới các quá trình tự giác GDTM. Ông cho rằng con người có ba khả năng tiên thiên:
Năng lực nhận thức (lý tính lý luận), năng lực thực tiễn (lý tính thực tiễn) và năng
lực phán đoán. Phán đoán có năng lực phản tỉnh (phản tư). Ông bắt đầu tác phẩm
Phê phán năng lực phán đoán bằng phần phê phán khả năng phán đoán thẩm mỹ;
trong đó, ông dựa trên các phán đoán của logic hình thức để phân tích các phán
đoán thẩm mỹ (phán đoán về cái đẹp). Theo Kant, khi phán đoán một đối tượng nào
đó đẹp hay không đẹp, ta không có một luận cứ nào trong tay để làm cơ sở kết luận
ngoài cảm giác vui sướng hay không vui sướng. Vì xuất phát từ chủ quan cho nên
phán đoán thẩm mỹ được đưa ra hoàn toàn không dựa trên cơ sở của nhận thức lý
tính mà nó chỉ đơn thuần mang tính chiêm nghiệm. Do đó, Kant khẳng định rằng,
phán đoán thẩm mỹ về bản chất mang tính vô tư, không mục đích, không khái niệm
và sở thích (thị hiếu) thẩm mỹ không dựa trên bất cứ một khái niệm nào mà dựa trên
tình cảm. Mặc dù có những phức tạp trong tư tưởng, nhưng Phê phán năng lực phán
đoán của Kant đã thể hiện một sự nghiên cứu công phu về thẩm mỹ.
Tiếp đến, nhà triết học cổ điển Đức Hegel (1770 - 1831) khẳng định đối tượng
của mỹ học là cái đẹp. Nhưng cái đẹp trong quan niệm của Hegel chủ yếu được nhìn
nhận ở nghệ thuật. Ông cho rằng, nhiệm vụ của nghệ thuật không nhằm mục đích
giáo huấn, tu thiện, thanh khiết hóa tâm hồn mà nhằm bộc lộ chân lý qua các hình
thức cảm tính, qua cách bố trí nghệ thuật. Trong cuốn Mỹ học của mình [26], Hegel
đã nêu lên các quan điểm về nghệ thuật và sự tự sản sinh ra nhân cách văn hóa. Ông
khẳng định, nghệ thuật tồn tại không phải cho một nhóm người bó hẹp; không phải
chỉ cho một số ít người có học vấn cao mà nói chung cho toàn thể nhân dân. Mọi tác
phẩm nghệ thuật đều thuộc về thời đại mình, dân tộc mình, môi trường của mình và
lệ thuộc vào những ý niệm và mục đích lịch sử đặc biệt khác. Lần đầu tiên trong
lịch sử phát triển của mỹ học, Hegel đã coi nghệ thuật là sản phẩm của quá trình vận
động của tinh thần tuyệt đối và đến lượt mình, nghệ thuật trở thành chiếc chìa khóa
mở ra các vấn đề lớn lao của con người.
Vào năm 1793, nhà triết học người Đức Friedrich Schiller (1759 - 1805) đã
đề xuất một cương lĩnh GDTM nổi tiếng với mục tiêu tạo ra cái lợi sẽ gắn với cái
chân, cái thiện, cái mỹ khi viết tác phẩm Những bức thư về giáo dục thẩm mỹ (On
the Aesthetic Education of Man: In a series of letters) [80]. Schiller cho rằng, cần
8
nâng cao trình độ thẩm mỹ của nhân dân để họ có thể hưởng thụ các di sản văn hóa,
tinh thần và nhiệm vụ cơ bản của GDTM là tìm một con đường cải tạo xã hội theo
tinh thần dân chủ tư sản, không kinh qua cách mạng và thị hiếu thẩm mỹ là cái
không bị ràng buộc bởi các mối quan hệ xã hội. Ông kêu gọi phải vận dụng việc
GDTM để khôi phục tính cách hoàn chỉnh, cũng như khẳng định hoàn thiện con
người thông qua việc giáo dục về cái đẹp là cách duy nhất để cứu con người tránh
khỏi các thảm họa xã hội. Tuy nhiên, do dựa trên cơ sở triết học duy tâm và chủ
nghĩa nhân đạo không tưởng, tuyệt đối hóa mặt tinh thần của con người, đối lập
GDTM với thực tiễn cải tạo thế giới, nên lý luận của Schiller chung quy lại cũng chỉ
là một ước mơ đẹp đẽ mà thôi.
Các nhà dân chủ cách mạng Nga (thế kỷ XIX) là những người lần đầu tiên
trong mỹ học trước Mác đã xác lập một cách đúng đắn về vị trí của vấn đề GDTM
đối với sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện con người. Lý luận mỹ học đã trở thành vũ
khí đấu tranh chính trị hữu hiệu, gắn bó mật thiết với phong trào giải phóng con
người. Trong mỹ học của họ, GDTM được đặt ra như là một bộ phận hợp thành của
việc xây dựng bộ mặt tinh thần của những con người mới, như một bộ phận hợp
thành của việc giáo dục mối quan hệ cách mạng đối với hiện thực. Nhà phê bình văn
học người Nga Vissarion Belinsky (1811 - 1848) cho rằng: Cảm xúc thẩm mỹ là đức
tính quan trọng nhất của con người hoàn mỹ, đầy hòa điệu, là cơ sở của đạo đức. Vì
vậy, nghệ thuật phải thực hiện vai trò giáo dục thẩm mỹ [62, tr.250]. Còn nhà toán
học lỗi lạc, đồng thời là nhà duy vật chủ nghĩa người Nga Nikolai Ivanovich
Lobachevsky (1792 - 1856) xác định GDTM là một trong các bộ môn giáo dục quan
trọng nhất. Ông cũng khẳng định một cách dứt khoát rằng, việc giáo dục con người
mới sẽ là vô nghĩa nếu thiếu đi sự thống nhất của văn hóa thẩm mỹ, văn hóa đạo đức
và văn hóa trí tuệ [39, tr.336 - 337]. Trong luận văn nhan đề Quan hệ thẩm mỹ của
nghệ thuật với hiện thực [12], Chernyshevsky (1828 - 1889) đã đưa ra quan điểm cho
rằng nghệ thuật làm cho con người yêu cuộc sống hơn. Nghệ thuật không chỉ là
những sản phẩm tạo ra thế giới của những khoái cảm thẩm mỹ, nó còn là một phương
tiện quan trọng đối với việc nhận thức cuộc sống. Tuy vậy, do ảnh hưởng của chủ
nghĩa nhân bản, các nhà duy vật nói trên vẫn chưa thể phát hiện ra bản chất thật sự
của mối quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực; đồng thời bị hạn chế bởi
những điều kiện xã hội của thời đại, nên tư tưởng về GDTM của các nhà mỹ học duy
vật trước Mác, dù là tiến bộ, rốt cuộc vẫn không thể trở thành một tất yếu xã hội.
Các Mác (Karl Marx, 1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (Friedrich Engels, 1820 -
1895) không để lại một tác phẩm mỹ học nào riêng biệt. Các tư tưởng mỹ học của
các ông đều gắn liền với ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác (Triết học Mác -
9
Lênin, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học) để giải quyết những vấn đề
quan trọng của hoạt động vật chất và tinh thần của xã hội. Theo quan điểm của mỹ
học duy vật biện chứng, GDTM sẽ không thể thực hiện được mục đích của mình nếu
không dựa vào những tiền đề khách quan, vào trình độ của thực tiễn xã hội và những
khuynh hướng vận động của nó. Tiền đề khách quan cho GDTM chính là những
thành tựu kinh tế, xã hội và văn hóa của xã hội hiện thực trong giai đoạn lịch sử đó.
GDTM có mục đích mang tính nhân đạo, bởi vì nó góp phần vào việc giáo dục nhân
cách phát triển hoàn thiện, hài hòa. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, GDTM có cơ sở
thực tiễn hết sức rộng lớn, bao gồm mọi hoạt động sống của con người, là toàn bộ sự
đồng hóa hiện thực nói chung của con người, chứ không bó hẹp chỉ trong phạm vi
của sự đồng hóa hiện thực bằng thẩm mỹ.
Đến thế kỷ XX, khi bàn về khái niệm GDTM, tác giả Morris Weitz (1916 -
1981) trong bài viết Giáo dục thẩm mỹ là gì? (What is Aesthetic Education?) [83]
cho rằng rất khó để có thể định nghĩa chính xác về GDTM. Theo ông, cách để hiểu
GDTM không phải là định nghĩa nó mà là nhắc đến mục tiêu lớn của nó. Đó là việc
nâng cao sự phát triển toàn diện của con người về thẩm mỹ. GDTM như là nỗ lực
mở rộng các tình cảm, cảm xúc, trí tưởng tượng, tri giác và khả năng nhận thức
trong nghệ thuật. Tuy nhiên, khái niệm về GDTM như vậy mới chỉ gắn với nghệ
thuật. Và do đó, khái niệm này theo chúng tôi là chưa thực sự đầy đủ.
Trong công trình Nguyên lý Mỹ học Mác - Lênin của đồng tác giả I.U.A.
Lukin và V.C Skaterosiskov [39], các tác giả đã trình bày những quan niệm tổng
quát nhất về GDTM, về bản chất và nhiệm vụ của GDTM. Trong đó, các tác giả coi
GDTM là một phương tiện quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển nhân
cách của con người. Đồng thời, khẳng định vai trò to lớn của nghệ thuật đối với quá
trình GDTM, có ảnh hưởng nhiều mặt đến sự phát triển lối sống của con người.
Dưới góc độ tâm lý học, tác giả Lý Trạch Hậu trong công trình Bốn bài giảng mỹ
học [25] đã đi sâu vào vấn đề mỹ cảm và chỉ ra quá trình thẩm mỹ, kết cấu thẩm mỹ, các
hình thái thẩm mỹ; đồng thời khẳng định GDTM có vai trò quan trọng trong việc xây
dựng tình cảm thẩm mỹ ở con người. Tác giả cũng đã chỉ ra ba giai đoạn của hoạt động
mỹ cảm: giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn thực hiện và giai đoạn thành quả. Trong các giai
đoạn này, tác giả đã phân tích về đặc điểm, vai trò, vị trí của các thành tố như cảm xúc,
tình cảm, ý thức thẩm mỹ, thái độ thẩm mỹ, tri giác thẩm mỹ… trong việc đạt đến thành
quả của chủ thể thẩm mỹ. Sự phân tích về mỹ cảm của chủ thể thẩm mỹ là cơ sở lý luận
cho việc nghiên cứu cơ chế tác động tâm lý của GDTM thông qua nghệ thuật.
Những năm gần đây, các tác giả nước ngoài đã tập trung nghiên cứu về
GDTM dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Trong số đó có thể kể đến tác giả Olga
10
Denac trong công trình Ý nghĩa và vai trò của giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường
(The Significance and Role of Aesthetic Education in Schooling) [69]. Công trình
này đã nêu ra được các nhiệm vụ của GDTM, trong đó nhấn mạnh một số yêu cầu
cần được phát triển ở giới trẻ, có thể tóm lược như sau: (1) Khả năng cảm nhận chất
lượng trong thẩm mỹ để cho giới trẻ có thể đánh giá cao kỳ quan thiên nhiên, hình
dạng, sắc thái và hình ảnh, họ phải có khả năng nhận thấy chúng trước tiên. Đây là
lý do tại sao sự phát triển của khả năng nhận thức cái đẹp là nhiệm vụ chính của
GDTM. Nếu khả năng nhận biết chất lượng thẩm mỹ không được phát triển, chúng
ta cũng không thể trải nghiệm được chúng. (2) Khả năng trải nghiệm các năng lực
thẩm mỹ - các năng lực thẩm mỹ phải được trải nghiệm và khả năng để trải nghiệm
về mặt thẩm mỹ cũng cần phải được nuôi dưỡng, phát triển. (3) Năng lực sáng tạo -
đó là điều cần thiết để cho phép giới trẻ tham gia vào các hoạt động, nhằm phát
triển khả năng sáng tạo của bản thân. (4) Phán đoán thẩm mỹ hoặc đánh giá chất
lượng, đánh giá thẩm mỹ hoặc đánh giá nhu cầu thẩm mỹ hình thành nên các “tiêu
chuẩn chất lượng”. Để cho vẻ đẹp bộc lộ giá trị thực sự của nó, chúng ta phải làm
quen với đặc thù và ngôn ngữ của nó. Trong suốt quá trình GDTM, giảng viên phải
nắm vững các loại kiến thức khác nhau, khả năng và tiêu chí đánh giá, trong đó sẽ
giúp họ phân biệt: Cái đẹp dựa vào cái không đẹp, giá trị thẩm mỹ của tác phẩm dựa
vào những phản giá trị. Bằng cách này, giới trẻ sẽ có thể phát triển các cơ sở để
đánh giá cái đẹp. Nhìn chung, qua các phần đánh giá, phân tích, tác giả đã chứng
minh được mối quan hệ khăng khít giữa GDTM và giáo dục nghệ thuật, cũng như
vai trò của chúng đối với giới trẻ trong việc hình thành các khả năng nhận thức,
phát triển tình cảm, hoàn thiện nhân cách của chúng và trường học là một môi
trường lý tưởng để thực hiện điều đó. Kết quả của công trình này, nhất là các nhiệm
vụ mà tác giả đặt ra trong GDTM là những vấn đề chúng tôi thực sự quan tâm.
Ở một góc độ tiếp cận khác khi nghiên cứu về quyền con người, tác giả
Thomas Steinforth trong bài tham luận Quyền được giáo dục thẩm mỹ và một cuộc
sống tốt đẹp (The right to aesthetic education and the good life) [82] tại Hội thảo
MANCEPT năm 2014 được tổ chức dưới sự bảo trợ của Trung tâm lý luận chính trị
Manchester (Anh Quốc) đã viện dẫn các điều khoản từ Luật Nhân quyền quốc tế và
Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người được thông qua năm 1948 để khẳng định
quyền giáo dục đã được công nhận và phát triển rộng rãi và được cụ thể hóa bởi một
số văn bản quy phạm quốc tế do Liên hợp quốc xây dựng. Qua đó, tác giả tập trung
vào GDTM để xem xét câu hỏi: Liệu quyền con người trong giáo dục có bao gồm
quyền con người hay quyền cơ bản đối với GDTM? Chúng tôi cho rằng, đây là một
cách tiếp cận khá hấp dẫn khi nghiên cứu về GDTM.
11
Từ các Công ước về Quyền trẻ em (theo Điều 29 và Điều 31), tác giả bàn đến
mục tiêu của GDTM, đó là giáo dục cho trẻ hướng đến sự phát triển về nhân cách, tài
năng, cũng như các khả năng về thể chất và tinh thần của trẻ. Đồng thời, Thomas
Steinforth đã chỉ ra những quan niệm sai lầm về GDTM khi bó hẹp phạm vi của nó
trong việc giáo dục nghệ thuật (mặc dù nghệ thuật rất quan trọng trong GDTM). Theo
ông, cần phải hiểu nội dung của GDTM ở phạm vi rộng lớn hơn, đó là sự phát triển
con người một cách toàn diện. GDTM cho phép đứa trẻ đạt được và phản ánh được
kinh nghiệm thẩm mỹ trong nhận thức. Kinh nghiệm thẩm mỹ không phải là một thứ
xa xỉ, thừa thãi mà nó là một chức năng cơ bản và quan trọng đối với một cuộc sống
tốt đẹp của con người. Kinh nghiệm thẩm mỹ được kích hoạt bởi GDTM. Thomas
Steinforth cho rằng điều này là rất quan trọng, bởi vì chúng là điều kiện cần thiết cho
các mối quan hệ của bản thân và thế giới “không giới hạn”, cho tự do và vì điều đó
mang lại cho trẻ một cuộc sống tốt hơn. Từ quan điểm đó, tác giả đã tiếp tục đi sâu
vào tìm hiểu các đặc trưng chủ yếu của kinh nghiệm thẩm mỹ để chứng minh GDTM
là điều kiện tiên quyết cần thiết để có được kinh nghiệm thẩm mỹ.
Thomas Steinforth đưa ra quan điểm: “Nhạy cảm” (Aisthesis theo tiếng Hy
Lạp) như là sự nhận thức giác quan (sense perception). Kinh nghiệm thẩm mỹ là nền
tảng của sự gợi cảm cơ thể (bodily sensuality). Nhận thức giác quan là bước đầu tiên
và quan trọng của kinh nghiệm thẩm mỹ trong quá trình trải nghiệm và đánh giá thẩm
mỹ. Trong khi đó, GDTM có mục đích nhằm phát triển các năng lực nhận thức, bao
gồm cả các giác quan. Do vậy, GDTM còn có thể hiểu là giáo dục các giác quan.
Kinh nghiệm thẩm mỹ là kinh nghiệm của bản thân. Một kinh nghiệm thẩm mỹ có
thể dẫn đến việc một cá nhân trở nên ý thức về vấn đề nào đó mà bản thân cá nhân
đó đã được trải nghiệm. Như vậy, việc kinh nghiệm thẩm mỹ được kích hoạt và hỗ
trợ bởi GDTM chính là cơ sở cho giáo dục và tự giáo dục. Kinh nghiệm thẩm mỹ có
mối quan hệ chặt chẽ với nghệ thuật. Thực hành và nhận thức nghệ thuật có thể thúc
đẩy kinh nghiệm thẩm mỹ trong thế giới, vì nó làm “sắc nét” các giác quan và cho
phép nhận thức về thế giới bằng một “đôi mắt” khác biệt.
Bài viết cũng đã bàn đến vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia
GDTM. Trước hết là cha mẹ và gia đình - trong giới hạn của nguồn lực và vốn văn
hóa của chính họ, phải có trách nhiệm định hướng thẩm mỹ cho trẻ em và đảm bảo
rằng con cái họ được hưởng các điều kiện giáo dục tốt nhất. Giáo dục mầm non nên
cung cấp không gian và cơ hội cho nhận thức cảm tính, về bản thân, người khác và
thế giới. Giáo dục ở trường một mặt phải chịu trách nhiệm giảng dạy khả năng nhận
thức, hiểu được các biểu tượng thẩm mỹ và tác phẩm nghệ thuật, cũng như khả
năng thể hiện bản thân; mặt khác phải thúc đẩy, lồng ghép các chương trình GDTM
12
vào các môn học khác. Ngoài ra, cần đặc biệt chú ý đến việc GDTM ngoài nhà
trường, thông qua các hoạt động văn hóa, nghệ thuật (VHNT) của các tổ chức văn
hóa. Chúng tôi cho rằng, với cách tiếp cận GDTM ở phạm vi khá rộng, bài viết
không thể đi sâu phân tích từng khía cạnh cụ thể, mà chỉ đưa ra vấn đề mang tính
khái quát. Tuy vậy, kết quả của công trình này đã gợi mở cho chúng tôi nhiều vấn
đề, nhất là về vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia GDTM. Đây là một
trong những nội dung mà luận án quan tâm và sẽ làm rõ trong quá trình triển khai.
Tóm lại, cho đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về mỹ học nói
chung, về GDTM nói riêng của nhiều học giả trên thế giới được xuất bản mà chúng
tôi mới chỉ có thể tiếp cận được một số ít công trình. Điều đó cho thấy, vấn đề
GDTM cũng như việc sử dụng nghệ thuật trong GDTM luôn là “mảnh đất” thu hút
khá nhiều tâm huyết của các nhà nghiên cứu trên thế giới.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc Ở Việt Nam, đã từ lâu môn mỹ học được đưa vào giảng dạy trong các trường
học thuộc khối VHNT và khối khoa học xã hội và nhân văn. Vì vậy, có rất nhiều
cuốn giáo trình mỹ học bàn đến vấn đề GDTM, như: “Mỹ học Mác - Lênin” của Đỗ
Văn Khang [41]; “Mỹ học đại cương” của Lê Ngọc Trà [58]; “Giáo trình Mỹ học
Mác - Lênin” của Vũ Minh Tâm [54]; “Giáo trình Mỹ học Mác - Lênin” của Khoa
Triết học, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [29]; “Giáo
trình Mỹ học Mác - Lênin” của Khoa Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh [28]; “Mỹ học đại cương” của Thế Hùng [33]; “Mỹ học Mác - Lênin cho trình
độ sau đại học ngành văn hóa nghệ thuật” của Đỗ Huy [38],… Vì được dùng để
phục vụ cho công tác giảng dạy, nên những nội dung về đối tượng nghiên cứu của mỹ
học trong các cuốn giáo trình này được trình bày khá chi tiết và cụ thể. Về vấn đề
GDTM, các giáo trình này đều dành riêng một chương để nêu rõ bản chất, nội dung
và các hình thức, biện pháp của GDTM trên cơ sở quan điểm của Mỹ học Mác -
Lênin. Theo đó, bản chất của GDTM được thống nhất là một hệ thống những biện
pháp, cách thức nhằm rèn luyện và hoàn thiện những năng lực thụ cảm, thấu hiếu và
đánh giá đúng các hiện tượng thẩm mỹ trong cuộc sống và trong nghệ thuật, cũng
như năng lực sáng tạo theo những quy luật của cái đẹp. GDTM bao gồm hai nội dung
cơ bản là giáo dục văn hóa nghệ thuật và giáo dục văn hóa thẩm mỹ. Nghệ thuật là
nơi tập trung nhất trong mối quan hệ thẩm mỹ của con người với thực tại; là công cụ,
phương tiện GDTM hữu ích, không thể thiếu. Có thể thấy, các giáo trình này là
những tài liệu lý luận quan trọng nhất của luận án, cung cấp cho chúng tôi những kiến
thức nền tảng về mỹ học nói chung và GDTM nói riêng.
Bên cạnh các cuốn giáo trình kể trên, vấn đề GDTM và việc sử dụng nghệ
13
thuật trong GDTM còn thu hút được khá nhiều tâm huyết của các nhà nghiên cứu, thể
hiện qua nhiều công trình có giá trị, giúp chúng tôi có thêm được nhiều ý kiến xung
quanh mảng đề tài này. Trước hết có thể kể đến công trình “Giáo dục thẩm mỹ và xây
dựng con người mới” của tác giả Lê Anh Trà [57] được xuất bản năm 1982. Trong
công trình này, khi nghiên cứu về việc sử dụng nghệ thuật như là một phương thức
hữu hiệu của GDTM, tác giả đã khẳng định rằng, nghệ thuật đóng một vai trò quan
trọng, bởi nghệ thuật không chỉ gắn liền với cái đẹp mà còn là nơi con người gửi gắm
tâm sự, suy tưởng về cuộc đời. Cái đẹp là một phương diện không thể thiếu được của
nghệ thuật. Do đó, GDTM thông qua nghệ thuật sẽ giúp con người hiểu được cái hay,
cái đẹp của cuộc sống; từ đó sẽ có cách ứng xử tốt hơn với cộng đồng và xã hội.
Kế tiếp là công trình “Mấy vấn đề đạo đức và thẩm mỹ trong thời kỳ quá độ”
[64] do Viện Triết học chủ biên. Công trình gồm 02 phần: Phần I - Hệ thống phạm trù
đạo đức học và việc nghiên cứu đạo đức. Phần II - Giáo dục thẩm mỹ và sự hình thành
con người mới trong thời kỳ quá độ. Ở phần II, công trình đã tập hợp 21 bài nghiên cứu
của nhiều tác giả bàn về vấn đề GDTM mỹ xoay quanh vào 03 nhóm vấn đề chính:
- Nhóm thứ nhất đề cập tới những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận trong
việc giải quyết những nhiệm vụ chung nhất của GDTM. Bài viết “Vài khía cạnh
phương pháp luận của vấn đề: giáo dục thẩm mỹ với sự hình thành con người mới”
của tác giả Tạ Văn Thành [56] cho rằng, GDTM không đặt cho mình một mục tiêu
riêng. Mục tiêu của nó cũng là của toàn bộ hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa, đó là
con người mới xã hội chủ nghĩa. Do đó, những quan điểm của Triết học Mác - Lênin
về con người mới xã hội chủ nghĩa là cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu sâu hơn
về hình thức, phương pháp, phương tiện GDTM, cũng như về vị trí, vai trò của nó
trong sự hình thành con người mới. Đồng tình với đánh giá trên, tác giả Văn Thu Hà
nhấn mạnh thêm về vai trò của Mỹ học Mác - Lênin với bài viết “Vai trò của Mỹ học
Mác - Lênin trong sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ của chúng ta” [23]. Theo tác giả, Mỹ
học Mác - Lênin với hệ thống phạm trù có tính chất khoa học và biện chứng của nó là
cơ sở cần thiết để chủ thể đi sâu vào quan hệ thẩm mỹ của mình với hiện thực, và là
tiền đề đem lại cứu cánh cho chủ thể chi phối quan hệ ấy.
Tác giả Hà Huy Bính tiếp cận nhiệm vụ GDTM từ việc phân tích, làm rõ
quan niệm nhất quán về GDTM. Trong bài viết “Phương pháp tiếp cận giáo dục
thẩm mỹ” của Hà Huy Bính [7], tác giả khẳng định, GDTM là giáo dục những năng
lực thẩm mỹ của con người. Đó là chức năng riêng của một mình GDTM mà thôi.
Từ đó, GDTM có nhiệm vụ: (1) Giáo dục những tư tưởng, những quan điểm thẩm
mỹ, những chuẩn mực thẩm mỹ; (2) Giáo dục những tri thức thẩm mỹ; (3) Giáo dục
những cảm xúc - tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ. Tiếp cận
14
GDTM ở một góc độ khác, tác giả Tương Lai trong bài viết “Phạm trù Người của
triết học mác-xít và mối quan hệ của giáo dục đạo đức và giáo dục thẩm mỹ” [43]
nhiều lần nhấn mạnh rằng, nói đến GDTM mà không xuất phát từ phạm trù Người
của triết học mác-xít thì cũng khó mà xác lập được nội dung của sự giáo dục, nhằm
đạt đến được mục tiêu và tìm ra các biện pháp thích hợp; đồng thời tác giả khẳng
định GDTM có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ với giáo dục đạo đức. Bổ sung cho
những quan điểm trên, Tô Duy Hợp trong bài viết “Logic học và giáo dục thẩm mỹ”
[31] cho rằng, giáo dục con người và nhất là giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa
là một sự nghiệp giáo dục tổng hợp.“Giáo dục thẩm mỹ một mặt, là độc lập, tự trị
như một hệ thống các nguyên tắc, biện pháp giáo dục hoàn chỉnh; song mặt khác, lại
phụ thuộc, bị quy định bởi đường lối giáo dục tổng hợp” [31, tr.191].
Nhìn chung, nhóm này tập trung vào những vấn đề phương pháp luận trong việc
GDTM và xây dựng con người mới; vai trò của Mỹ học Mác - Lênin trong việc định
hướng sự nghiệp GDTM; vai trò của mỹ học kỹ thuật trong việc hình thành tình cảm
thẩm mỹ mới; các nguyên tắc chung nhất của GDTM; đạo đức học, giáo dục học.
- Nhóm thứ hai bàn về bản chất của GDTM và nhiệm vụ của nó trong thời kỳ
quá độ ở nước ta, bao gồm các vấn đề như GDTM và việc định hướng các nhu cầu
thẩm mỹ; GDTM và việc xây dựng những thị hiếu thẩm mỹ mới; GDTM và sự hình
thành các khả năng sáng tạo,... Bài viết “Giáo dục thẩm mỹ và sự hình thành các khả
năng sáng tạo” của Đỗ Huy [35] đã dành phần lớn sự quan tâm vào việc đánh giá vai
trò của quá trình rèn luyện, đào tạo và giáo dục trong việc hình thành các khả năng
sáng tạo của con người. Các khả năng sáng tạo có thể theo hai hướng thể hiện của hai
loại nhu cầu. Các nhu cầu thụ cảm và sản xuất các giá trị thẩm mỹ mà từ đó thúc đẩy
mạnh mẽ các hoạt động lành mạnh bao giờ cũng là mục tiêu khẳng định của GDTM.
Vì thế, đối với việc xây dựng khả năng sáng tạo thì nhu cầu trở thành tiêu điểm
trong việc xây dựng một chủ thể thẩm mỹ phát triển mạnh khỏe và bình thường.
Cũng bàn về nhu cầu thẩm mỹ, tác giả Hồng Mai trong bài viết “Giáo dục thẩm mỹ
và sự định hướng nhu cầu thẩm mỹ” [47] đề cập chủ yếu đến việc định hướng các
nhu cầu thẩm mỹ của con người, bởi nguồn gốc của hoạt động thẩm mỹ nói chung,
của hoạt động nghệ thuật nói riêng chính là nhu cầu thẩm mỹ của con người.
- Nhóm thứ ba bàn về các hình thức và biện pháp GDTM. Các bài viết không
hoàn toàn tập trung vào việc “duy nhất hóa” phương tiện GDTM là nghệ thuật, mà
còn quan tâm tới một hệ thống rộng lớn các phương tiện tác động thẩm mỹ từ cảnh
đẹp tự nhiên đến chủ nghĩa anh hùng truyền thống, các quan hệ tốt đẹp trong gia
đình; việc giao tiếp với người tốt, việc tốt và thưởng thức các giá trị VHNT. Một số
bài viết xoay quanh vấn đề này như: “Từ những ý kiến của Mác suy nghĩ về giáo
15
dục thẩm mỹ trong giai đoạn quá độ của chúng ta” của tác giả Nguyễn Nghĩa
Trọng [59]; “Vai trò của giáo dục thẩm mỹ qua môi trường lao động” của Nguyễn
Ngọc Dũng [15]. Các tác giả đều khẳng định, GDTM gắn liền với toàn bộ hoạt động
đời sống của con người và ở tất cả các quan hệ con người đối với thế giới, nghĩa là
quan hệ xã hội giữa con người với con người và cả quan hệ con người đối với thế
giới tự nhiên; đồng thời cần phải tiến hành GDTM một cách rộng khắp cho tất cả các
đối tượng, từ trẻ em đến người lớn, từ gia đình, nhà trường đến cơ quan; từ hoạt động
nghỉ ngơi, giải trí đến học tập, làm việc, lao động sản xuất.
Tiếp đến là công trình “Giáo dục thẩm mỹ - mấy vấn đề lý luận và thực
tiễn”của tác giả Đỗ Huy [36]. Trong công trình này, tác giả đã đi sâu vào những
nhiệm vụ cấp bách của mỹ học trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta; đồng thời tập trung nghiên cứu về bản chất của GDTM và vai trò của nó trong
việc xây dựng con người mới. Theo tác giả, thành tố quan trọng hàng đầu của mọi
nền văn hóa thẩm mỹ chính là chủ thể thẩm mỹ. Vì vậy, cần phải xây dựng tình cảm
thẩm mỹ, thị hiếu, lý tưởng, ý thức thẩm mỹ, quan điểm mỹ học đúng đắn để nó trở
thành động lực phát triển nền văn hóa thẩm mỹ của chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
quá độ. Để cho mỗi người hiểu được thế nào là đẹp chân chính, để đạt được sự toàn
thiện, toàn mỹ trong cuộc sống của mình, thì hơn lúc nào hết “giáo dục thẩm mỹ phải
trở thành nhiệm vụ quan trọng trong hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa” [36, tr.29].
Dưới góc độ nghiên cứu về hoạt động đánh giá thẩm mỹ, tác giả Vũ Minh
Tâm trong công trình “Hoạt động đánh giá thẩm mỹ và hướng phát triển của nó
trong xã hội hiện nay” [53] đã nêu ra một số luận điểm cơ bản về chủ thể hoạt động
đánh giá thẩm mỹ. Các luận điểm về chủ thể hoạt động đánh giá thẩm mỹ được xem
xét khá phù hợp với sự phát triển của đời sống thẩm mỹ trong xã hội Việt Nam
những năm 90 của thế kỷ XX. Sự phát triển của hoạt động đánh giá thẩm mỹ bao
giờ cũng có quy luật đặc thù của nó. Những quy luật đặc thù của hoạt động đánh giá
thẩm mỹ tồn tại như “chiếc cầu” nối giữa hoạt động thực tiễn - tinh thần của con
người nói chung và hoạt động thẩm mỹ của nó nói riêng. Theo tác giả, khuynh
hướng phát triển chung nhất của hoạt động đánh giá thẩm mỹ là tiến gần đến sự
đánh giá phù hợp với bản chất người, với quy luật của cái đẹp do con người và vì
con người. Quá trình phát triển của hoạt động đánh giá thẩm mỹ trùng khớp với
những “nấc thang” con người tìm kiếm và chiếm hữu lại chính mình, cũng như
không ngừng hoàn thiện mình. Tác giả cũng khẳng định rằng, hoạt động đánh giá
nghệ thuật được xem là hình thức hoạt động đánh giá tập trung nhất, sâu sắc nhất,
đa dạng nhất và cũng phức tạp nhất. Điều đó không chỉ do phẩm chất thẩm mỹ của
đối tượng đánh giá (tác phẩm và hiện tượng nghệ thuật) quy định, mà còn do chính
16
con người - chủ thể đánh giá nghệ thuật xác định. Và như vậy, nó đòi hỏi tính chủ
động, tích cực của chủ thể tiếp nhận và đánh giá nghệ thuật.
Cũng là hướng nghiên cứu đề cập đến việc sử dụng nghệ thuật trong GDTM,
tác giả Lê Quang Vinh trong công trình “Vai trò của văn học trong giáo dục thẩm mỹ
ở nước ta hiện nay” [66] đã đi sâu vào phân tích vai trò của một loại hình nghệ thuật
cụ thể, đó là vai trò của văn học trong GDTM. Trên cơ sở khảo sát cấu trúc của chủ
thể thẩm mỹ, tác giả cũng đã chú ý đề cập đến các hình thức GDTM, cũng như đánh
giá thực trạng GDTM thông qua văn học ở nước ta trong những năm đầu của thời kỳ
đổi mới (công trình khảo sát từ năm 1986 đến năm 1996). Qua đó, khẳng định những
đóng góp tích cực và tiến bộ của loại hình nghệ thuật văn học đối với quá trình
GDTM cho nhân dân, góp phần phê phán những khuynh hướng sai lầm trong đời
sống văn học, thể hiện tập trung ở cả khâu sáng tạo, lý luận phê bình và thưởng thức
văn học. Cùng một hướng nghiên cứu khi đánh giá vai trò của các tác phẩm văn học
trong quá trình GDTM, tác giả Hoàng Văn Cẩn với bài viết “Giáo dục thẩm mỹ cho
trẻ em qua tác phẩm văn học thiếu nhi” [9] cũng đã nhận định: GDTM thông qua các
tác phẩm văn học là sự tác động tích cực, có định hướng đối với mọi người. Với trẻ
em, sự định hướng ấy cần tự nhiên, nhẹ nhàng, sinh động - phù hợp với phương pháp
giáo dục trẻ là “học mà chơi, chơi mà học”. Tuy nhiên, vai trò của văn học trong
GDTM có những ưu thế, hạn chế gì so với việc sử dụng các loại hình nghệ thuật khác
trong GDTM thì chưa thực sự được các tác giả đề cập rõ.
Tập trung nghiên cứu về sức tác động của nghệ thuật, tác giả Đào Duy Thanh
trong công trình “Vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con người”
[55] đã nghiên cứu dưới cả ba dạng đặc thù của hoạt động tinh thần là hoạt động
nhận thức, hoạt động đánh giá và hoạt động sáng tạo của con người. Mặc dù công
trình này không hoàn toàn nghiên cứu về vấn đề GDTM, nhưng lại có giá trị tham
khảo cao cho đề tài của luận án. Bởi, qua các phần phân tích, đánh giá, tác giả đã
góp phần minh chứng được sức mạnh tác động đặc biệt của nghệ thuật đối với đời
sống tinh thần của con người, mà trước hết là sức tác động đến ba dạng đặc thù của
hoạt động tinh thần, đó là: Hoạt động nhận thức, hoạt động đánh giá và hoạt động
sáng tạo của con người. Theo tác giả, đời sống tinh thần xã hội không cần phải biểu
thị tất cả những dấu hiệu mang tính đa dạng phong phú của nó, mà chỉ cần xác định
những dấu hiệu mang tính bản chất của đời sống tinh thần - đó là cái phản ánh, cái
phụ thuộc, cái độc lập tương đối nhưng lại tác động trở lại một cách tích cực đối với
đời sống vật chất của xã hội. Sự phong phú của các hệ thống hình tượng nghệ thuật
không chỉ kích thích năng lực nhận thức của con người, mà nó còn bảo đảm tính
toàn vẹn và tính sinh động của đời sống hiện thực, thông qua sự thống nhất giữa
17
tình cảm và lý trí. Sự thống nhất đó làm cho nghệ thuật có khả năng như một cơ chế
tổng hợp cảm xúc về mọi phương diện tình cảm, gìn giữ những kinh nghiệm của
nguồn năng lượng xã hội và thẩm định những giá trị chân - thiện - mỹ của con
người. Sáng tạo nghệ thuật chính là cái quy định khả năng gợi mở của nghệ thuật để
phát huy mọi khả năng ẩn chứa trong thế giới tinh thần của con người.
Những năm gần đây, vấn đề GDTM và việc sử dụng nghệ thuật trong GDTM
vẫn tiếp tục thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Năm 2016, tác giả
Nguyễn Ngọc Ánh trong công trình “Giáo dục thẩm mỹ thông qua hoạt động văn
hóa nghệ thuật” [2] cho rằng, cái đẹp nảy sinh và phát triển trên nền văn hóa xã hội.
Giáo dục quan điểm thẩm mỹ là một trong những nội dung quan trọng để đào tạo con
người, bồi dưỡng và xây đắp cho con người một giá trị tinh thần có tính đặc thù, đó là
giá trị thẩm mỹ. Giá trị đó là một trong những thành tố không thể thiếu của một nhân
cách phát triển toàn diện, hài hòa và phong phú, tạo ra trong con người trình độ và
năng khiếu, trí tuệ và tình cảm, tư duy và hoạt động sáng tạo một cách tự giác theo
những quy luật khách quan và “theo quy luật của cái đẹp”. GDTM cần đi đôi với bồi
đắp kiến thức giúp cho mỗi con người hiểu biết những giá trị đó. Trên cơ sở khảo sát
thực trạng, tác giả đã chỉ ra những thành tựu quan trọng của quá trình GDTM thông
qua các hoạt động văn hóa nghệ thuật như lĩnh vực âm nhạc, điện ảnh, nhiếp ảnh, các
hoạt động thể thao, các cuộc thi sắc đẹp, trong lĩnh vực biểu diễn người mẫu, thời
trang, trong hoạt động truyền hình thực tế, trong tổ chức các ngày lễ. Từ đó khẳng
định vai trò quan trọng của lĩnh vực văn hóa nghệ thuật đối với quá trình GDTM ở
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong GDTM
thông qua hoạt động văn hóa nghệ thuật chưa được tác giả chỉ rõ trong bài viết.
Năm 2018 có công trình “Nghệ thuật với vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
cho sinh viên ở nước ta hiện nay” của tác giả Đặng Thị Minh Tuấn [61]. Mục đích
của công trình này là làm rõ mối quan hệ giữa nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ; đồng thời chỉ ra vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh
viên. Tác giả cho rằng, bản thân nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, là
sự phản ánh đặc thù của con người với hiện thực thông qua các hình tượng nghệ
thuật. Với các giá trị thẩm mỹ được tạo ra từ các hình tượng, nghệ thuật cố gắng đưa
con người đến một tổng thể toàn mỹ trong cuộc sống, mà hạt nhân của tổng thể toàn
mỹ ấy là thị hiếu thẩm mỹ trong sáng, tinh túy và nhuần nhụy. Thị hiếu thẩm mỹ là
biểu hiện năng lực thẩm mỹ của cá nhân, đồng thời được quy định bởi các yếu tố xã
hội. Vì vậy, thị hiếu thẩm mỹ có mối liên hệ chặt chẽ với nghệ thuật. Trong đó, thị
hiếu thẩm mỹ tạo ra nhu cầu thưởng thức nghệ thuật, cơ chế hoạt động để đánh giá
nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nghệ thuật; ngược lại, nghệ thuật đóng vai trò là
18
nhân tố định hướng tình cảm, tri thức, nhân cách trong thị hiếu thẩm mỹ và là nhân tố
góp phần xây dựng hệ chuẩn giá trị cho thị hiếu thẩm mỹ. Tuy nhiên, những vấn đề
như nội dung, phương thức để GDTM (hay giáo dục thị hiếu thẩm mỹ) cho sinh viên
thông qua nghệ thuật lại chưa được tác giả đề cập đến một cách cụ thể.
Sau cùng, chúng tôi cho rằng, khi nghiên cứu vấn đề GDTM ở Việt Nam,
việc phải nắm chắc các quan điểm, đường lối của Đảng về lĩnh vực này là rất quan
trọng. Một số tài liệu mang tính định hướng đối với lĩnh vực VHNT và những vấn
đề liên quan đến GDTM có thể kể đến như: “Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương (khóa VIII)” [16]; “Tài liệu nghiên cứu, quán triệt Nghị
quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về „Tiếp tục xây dựng và phát triển
văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới‟” của Ban Tuyên giáo Trung ương [4]; cuốn
“Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, văn nghệ - những mốc phát
triển” của Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương [14]; “Văn
kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI)” [20]; “Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII” [22]; “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý
luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016)” [21] của Đảng Cộng sản Việt
Nam,... Nhìn chung, quan điểm của Đảng được trình bày trong các nghị quyết, chỉ
thị, kết luận về VHNT đều gắn bó mật thiết với đời sống kinh tế - xã hội và nội
dung GDTM ở nước ta. Trong đó, Đảng ta luôn nhấn mạnh đến vai trò quan trọng
của VHNT trong quá trình GDTM nhằm xây dựng và phát triển con người toàn
diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Theo quan điểm của Đảng, GDTM phải gắn liền với giáo dục đạo đức, để cái
tốt trở thành cơ sở của cái đẹp; để đức tính cần cù, sáng tạo, tình cảm lạc quan, yêu
đời được phát huy cao độ và không ngừng được bổ sung thêm những nhân tố mới,
trên cơ sở tôn trọng các thành tố riêng của tình cảm thẩm mỹ khi gắn bó với các tình
cảm chính trị, tình cảm đạo đức. Bên cạnh đó, tình cảm thẩm mỹ của con người phải
gắn liền với các nhu cầu thẩm mỹ, các thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ. Vì thế,
GDTM, trước hết là giáo dục các nhu cầu lành mạnh về cái đẹp, để từ đó con người
biết hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo thẩm mỹ đúng đắn và sâu sắc. GDTM cần hướng
vào xây dựng cổ vũ và làm lành mạnh hóa các nhu cầu của nhân dân và xã hội về cái
đẹp trong sáng tạo. Đây là những tài liệu lý luận quan trọng cho luận án.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu của các tác giả kể trên đã trình bày khá cụ
thể một số vấn đề lý luận về GDTM, như: Bản chất, đặc trưng của GDTM; những
nguyên tắc và hình thức GDTM cơ bản. Các tác giả đều cho rằng GDTM là một nội
dung trọng tâm trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở nước ta; đồng thời, khẳng định
thành quả các hoạt động GDTM có mối quan hệ mật thiết với các yếu tố vệ tinh như
19
nghệ thuật. Các tác giả đã đưa ra những đóng góp nhất định và đi sâu nghiên cứu nội
dung lý luận của GDTM, cũng như quan hệ biện chứng giữa GDTM với các hình thức
biểu hiện của đời sống thẩm mỹ. Mặc dù các công trình đều đã xác định rõ nghệ thuật
là một phương tiện GDTM hiệu quả; tuy nhiên, việc định hình các hình thức và
phương thức GDTM thông qua nghệ thuật lại chưa được các tác giả đề cập cụ thể. Đây
là những vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu, làm rõ hơn nữa.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH
VIÊN THÔNG QUA ÂM NHẠC NÓI CHUNG VÀ ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG
NÓI RIÊNG
Việc sử dụng loại hình nghệ thuật âm nhạc trong GDTM cho giới trẻ, học
sinh, sinh viên từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới cũng như trong
nước quan tâm, khai thác ở các khía cạnh, góc độ khác nhau mà ở đó, GDTM và
giáo dục nghệ thuật âm nhạc luôn được đặt trong mối liên hệ khăng khít với nhau.
Đối với mỹ học, phần lớn các tác giả khi nghiên cứu đều tập trung đến việc GDTM
thông qua âm nhạc nói chung, mà không có sự phân biệt rạch ròi giữa các dòng
nhạc khác nhau. Do vậy, trong quá trình tổng quan, chúng tôi sẽ lựa chọn những
công trình có khả năng tham khảo phù hợp với đề tài của luận án.
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc Trước hết đó là công trình Giáo dục âm nhạc cũng như giáo dục thẩm mỹ:
Khái niệm và kỹ năng để thưởng thức âm nhạc (Music Education as Aesthetic
Education: Concepts and Skills for the Appreciation of Music) của tác giả Thomas
W.Goolsby [71]. Theo tác giả, GDTM thông qua giáo dục âm nhạc có sức ảnh hưởng
lớn, được minh chứng trong nhiều tài liệu về giáo dục âm nhạc từ trước đến nay.
Trích dẫn cuốn Cơ sở và nguyên tắc giáo dục âm nhạc (Foundations and
Principles of Music Education) của Charles Leonhard và Robert House, tác giả cho
biết, mục tiêu chính của giáo dục âm nhạc là phát triển khả năng đáp ứng âm nhạc
bẩm sinh của mỗi cá nhân lên mức cao nhất có thể, góp phần nuôi dưỡng và mở
rộng tiềm năng của mỗi cá nhân về kinh nghiệm thẩm mỹ. Do đó, các chương trình
giáo dục âm nhạc nên được xây dựng trên nền tảng GDTM. Các nhà giáo dục âm
nhạc đã bắt đầu đặc biệt quan tâm đến các chương trình của họ từ cái mà nhà triết
học người Mỹ Monroe Beardsley (1915 - 1985) gọi là “quan điểm thẩm mỹ”. Theo
Beardsley: chấp nhận quan điểm thẩm mỹ đối với X là quan tâm đến bất kỳ giá trị
thẩm mỹ nào X có thể sở hữu hoặc có được bằng phương tiện của X. Trên cơ sở đó,
Thomas W.Goolsby cho rằng Beardsley đã mô tả quan điểm thẩm mỹ dưới góc độ
phán đoán: Đánh giá X từ quan điểm thẩm mỹ là ước tính giá trị thẩm mỹ của X
[71, tr.16]. Tất nhiên, điều này đòi hỏi một định nghĩa về giá trị thẩm mỹ. Theo ông,
20
giá trị thẩm mỹ của X là giá trị mà X sở hữu nhờ khả năng cung cấp sự hài lòng
thẩm mỹ khi được trải nghiệm một cách chính xác và trọn vẹn.
Tác giả cũng khẳng định rằng, việc tích lũy kinh nghiệm liên tục với các tác
phẩm âm nhạc sẽ giúp xác định tiêu chuẩn, trình độ của một người, cũng như xác
định khả năng tối đa của một tác phẩm nghệ thuật âm nhạc nhằm tạo ra kinh nghiệm
thẩm mỹ. Rất hiếm khi giá trị thẩm mỹ hoàn chỉnh của một đối tượng nghệ thuật có
thể được hiểu rõ thông qua một trải nghiệm duy nhất, đặc biệt là khi tác phẩm đó có
giá trị thẩm mỹ rất lớn. Ngoài ra, sự hài lòng phi thẩm mỹ (nonaesthetic) và việc
đưa ra một tập hợp các thuật ngữ hỗn hợp được xây dựng, trình bày không đầy đủ
[71, tr.18] thường gây nhầm lẫn cho việc đánh giá đối tượng nghệ thuật. Ông cho
rằng, âm nhạc không giống như nghệ thuật thị giác, nó phụ thuộc vào hiệu suất, vào
sự trình diễn; bên cạnh đó, âm nhạc cũng như các loại hình nghệ thuật thị giác, cũng
dựa vào người sáng tạo và người nghe. Giáo dục âm nhạc cũng như GDTM cuối
cùng sẽ cung cấp cho cá nhân những kỹ năng cần thiết để nhận thức được phẩm
chất khách quan của một tác phẩm nghệ thuật, để đánh giá được giá trị thẩm mỹ của
nó và cuối cùng là tham gia vào quá trình trải nghiệm với một cá tính thẩm mỹ rõ
nét. Tác giả cũng đã đề cập đến việc phải từng bước xây dựng những kỹ năng cơ bản
để sinh viên có thể thưởng thức, đánh giá được “cái đẹp” trong âm nhạc, như: Kỹ
năng nhận thức các yếu tố âm nhạc và mối quan hệ giữa các yếu tố, các bộ phận hợp
thành âm nhạc (cường độ, trường độ và âm sắc của âm thanh; giai điệu, nhịp điệu,
hòa thanh,…). Cuối cùng, tác giả cho rằng, việc đề xuất những kỹ năng cơ bản sẽ
cung cấp một lộ trình trực tiếp trong việc GDTM cho sinh viên hơn là các chương
trình và phương thức giáo dục khác hiện nay đang sử dụng.
Tiếp đến là công trình Giáo dục thẩm mỹ và việc thực hành giảng dạy âm
nhạc (Aesthetic education and the practice of music teaching) của tác giả Charles
Plummeridge [78]. Tác giả tiếp cận vấn đề từ việc đưa ra những tranh luận về việc
coi giáo dục âm nhạc là một hình thức GDTM. Theo Charles, đã có nhiều cuộc thảo
luận về vấn đề này và đều trở nên “mơ hồ” vì vốn dĩ thuật ngữ “giáo dục thẩm mỹ”
cũng được sử dụng theo nhiều cách khác nhau và ở từng bối cảnh khác nhau. Ở
nghĩa rộng, thẩm mỹ không nhất thiết liên quan đến nghệ thuật và được coi là một
chiều hướng của kinh nghiệm trong bất kỳ một phương pháp rèn luyện nào; điều đó
có nghĩa GDTM nằm trong chương trình giảng dạy. Ở nghĩa thông thường, nó ngụ
ý một nền giáo dục trong ngành nghệ thuật, mục đích của nó là sự phát triển tư duy
sáng tạo, phát triển trí thông minh cho trẻ em. Quan điểm thứ ba phát sinh từ ý niệm
về thẩm mỹ như là một triết lý của nghệ thuật; GDTM do đó hình thành liên quan
đến việc nghiên cứu các chủ đề, như ý nghĩa của nghệ thuật, lý luận phê bình nghệ
21
thuật hay giá trị nghệ thuật. Cuộc tranh luận liên quan đến khái niệm về GDTM đã
dẫn đến việc xem xét các vấn đề âm nhạc, triết học và các vấn đề chuyên môn sâu
có tầm quan trọng đối với tất cả các nhà giáo dục âm nhạc. Sau cùng, tác giả nhận
định, GDTM hay giáo dục âm nhạc suy cho cùng là một quá trình mà trẻ em được
đưa đến “thế giới mới” - nơi họ có thể tích lũy được nhiều kinh nghiệm để thay đổi
cuộc sống và phát triển toàn diện nhân cách con người.
Tuy nhiên, những nội dung cụ thể của GDTM hay thậm chí là nội dung của
giáo dục âm nhạc vẫn chưa được tác giả chỉ rõ trong bài viết này, mà ông mới chỉ
tiến hành kiểm tra lại các khái niệm về GDTM với sự tham khảo về việc dạy và học
âm nhạc trong các tổ chức giáo dục. Vì vậy, những vấn đề cụ thể về nội dung và các
phương thức GDTM thông qua âm nhạc đại chúng (ÂNĐC) còn đang bị bỏ trống và
đây cũng là mục đích chính của chúng tôi khi triển khai đề tài này.
Đề cập đến sư phạm ÂNĐC có các công trình Sinh viên với tư cách là người
làm chủ? Những suy nghĩ về sự đổi mới học tập đối với sư phạm âm nhạc đại chúng
(Student as Master? Reflections on a Learning Innovation in Popular Music
Pedagogy) [75] và Sư phạm âm nhạc đại chúng: Học tập đồng đẳng (Popular music
pedagogy: Peer learning in practice) của tác giả Don Lebler [76]. Tác giả cho rằng,
việc đưa ÂNĐC như một lĩnh vực nội dung trong giáo dục âm nhạc là không phổ
biến. Mặc dù nghiên cứu âm nhạc học về ÂNĐC được thiết lập tốt trong giáo dục
đại học chuyên ngành âm nhạc. Tuy nhiên, cách thức, phương pháp giảng dạy lại
không hoàn toàn giống như nội dung được thiết lập dành cho nhạc cổ điển phương
Tây hoặc nhạc Jazz, với những giảng viên là người kiểm soát toàn bộ quá trình và
chương trình giảng dạy - họ sẽ trực tiếp phản hồi và đánh giá. Còn ÂNĐC thì
thường được học tập trong cộng đồng rộng hơn như một hoạt động tự định hướng,
đôi khi bao gồm các tương tác với bạn bè hoặc các hoạt động nhóm, và hiếm khi
dưới sự hướng dẫn của một chuyên gia cố vấn (hoặc giảng viên).
Tác giả lập luận rằng, phương pháp sư phạm âm nhạc thông qua việc tạo ra
một môi trường học tập tự định hướng trong chương trình ÂNĐC liên quan đến các
hoạt động học tập trước kia của sinh viên. Nghiên cứu dựa trên dữ liệu từ các cuộc
điều tra, khảo sát nhằm cung cấp phản hồi trong quá trình thực hiện, bao gồm dữ liệu
khảo sát, phản hồi chính thức và không chính thức của sinh viên. Đa số sinh viên
được khảo sát thường tham gia vào nhiều hoạt động âm nhạc và sử dụng nhiều cách
khác nhau để nâng cao khả năng âm nhạc của mình trước khi bắt đầu tham gia học
tập, nghiên cứu ở các nhạc viện. Tác giả kết luận rằng, những sinh viên này đã được
chuẩn bị tốt cho loại hoạt động học tập đồng đẳng và cung cấp thông tin phản hồi hữu
ích thông qua các cấu trúc do chương trình giáo dục âm nhạc cung cấp.
22
Tuy nhiên, công trình này mới chỉ đề cập đến việc giáo dục thông qua
ÂNĐC với đối tượng là các sinh viên đang hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc. Mặc
dù vậy, qua công trình này, chúng tôi đồng tình với nhận xét của tác giả khi cho
rằng, các thể loại ÂNĐC đương đại hiện vẫn chưa thực sự được coi trọng, đôi khi
vẫn còn xem nhẹ vai trò của chúng trong việc GDTM cho giới trẻ nói chung và sinh
viên nói riêng; trong khi đó các thể loại ÂNĐC ngày càng có sức ảnh hưởng mạnh
mẽ đến người dân. Vì vậy, nếu không có sự định hướng ngay từ trong nhà trường,
rất có thể, thẩm mỹ âm nhạc của sinh viên sẽ trở nên “lệch lạc”, dẫn đến việc sinh
viên dễ dàng hài lòng và tiếp nhận những hiện tượng phi thẩm mỹ trong cuộc sống.
Đây là những nội dung mà chúng tôi quan tâm.
Kế tiếp là công trình Âm nhạc đại chúng và giáo dục âm nhạc nhà trường:
Sở thích và tình trạng khó xử của sinh viên ở Thượng Hải, Trung Quốc (Popular
music and school music education: Chinese students’ preferences and dilemmas in
Shanghai, China) của các tác giả Wing-Wah Law và Wai-Chung Ho [73]. Nghiên cứu
thực nghiệm này khảo sát sự ưa thích các thể loại ÂNĐC đương đại của sinh viên
Trung Quốc trong cuộc sống hằng ngày, nhằm trả lời câu hỏi: Ở mức độ nào và theo
cách nào họ thích học ÂNĐC trong trường học ở Thượng Hải, Trung Quốc. Việc
khảo sát cho thấy sự đa dạng văn hóa và sự tiêu thụ hợp lý ÂNĐC bởi các học sinh,
sinh viên Trung Quốc trong và ngoài nhà trường, cũng như những khó khăn về văn
hóa mà học sinh, sinh viên gặp phải do những sở thích của họ đối với ÂNĐC (của
Trung Quốc và ngoài Trung Quốc) và âm nhạc cổ điển trong chương trình âm nhạc
ở nhà trường. Theo đó, thế giới ÂNĐC của nhiều sinh viên Thượng Hải khá đa dạng.
Các sinh viên thích nghe ÂNĐC của Trung Quốc (theo tiếng phổ thông - Putonghua)
và ÂNĐC Âu - Mỹ (theo tiếng Anh) cũng như những bản nhạc đại chúng đến từ các
nước láng giềng Châu Á, bao gồm Nhật Bản (J-Pop) và Hàn Quốc (K-Pop). Họ cũng
ưa thích một chương trình âm nhạc cởi mở hơn, mở rộng từ nhạc cổ điển Trung Quốc
hoặc nhạc cổ điển phương Tây sang nhạc địa phương của Trung Quốc, cũng như các
thể loại ÂNĐC đến từ các nền văn hóa khác nhau.
Giải thích cho những khó khăn của học sinh, sinh viên Thượng Hải trong quá
trình học tập ÂNĐC (trong môi trường chính thức và không chính thức), các tác giả
cho rằng: Trước hết, đó là sự không liên kết. Các sản phẩm ÂNĐC không được
quảng bá sôi nổi trong môi trường giáo dục âm nhạc chính thức của trường, nhưng
lại được truyền bá rộng rãi bởi ngành công nghiệp âm nhạc (trong môi trường giáo
dục không chính thức của giới truyền thông, Internet và các cơ quan liên quan).
Ngược lại, âm nhạc cổ điển được thúc đẩy mạnh trong giáo dục chính thức, song lại
bị hạn chế trong môi trường giáo dục âm nhạc không chính thức. Trong khi đó, học
23
sinh, sinh viên, những người tự học trong và ngoài nhà trường lại có thể tự chọn
phong cách âm nhạc họ muốn theo đuổi và đôi khi dẫn đến tình trạng, họ bị giằng
xé giữa hai thế giới âm nhạc này. Mặc dù họ muốn có nhiều cơ hội để tiếp xúc và
học các thể loại của ÂNĐC trong trường học, nhưng hầu hết học sinh, sinh viên đã
thừa nhận sự cần thiết phải có sự điều chỉnh để cân bằng việc học tập với cả hai
phong cách âm nhạc này. Thứ hai, nghiên cứu đã cho thấy rằng, sự cần thiết phải
mở rộng phạm vi giáo dục âm nhạc (với việc đa dạng hóa các dòng nhạc) trong
trường học. Trong đó, các tác giả khẳng định rằng, mặc dù có nhiều phong cách và
cách thể hiện khác nhau, nhưng suy cho cùng, âm nhạc cổ điển và các thể loại của
ÂNĐC là hai phần không thể tách rời của truyền thống âm nhạc rộng lớn và thể
hiện phản ứng của mọi người đối với nhu cầu cá nhân và nhu cầu xã hội trong các
bối cảnh khác nhau và ở các giai đoạn khác nhau trong lịch sử văn minh nhân loại.
Như vậy, giáo dục âm nhạc không nên bị độc quyền bởi một vài phong cách
âm nhạc chủ đạo. Thay vào đó, nó phải cởi mở và toàn diện, thúc đẩy cả âm nhạc cổ
điển và các thể loại âm nhạc khác. Cuối cùng, các tác giả cũng cho rằng, việc đưa
các thể loại ÂNĐC vào chương trình học nhạc hơn bao giờ hết cần có sự nỗ lực
phối hợp của tất cả các bên liên quan đến âm nhạc (bao gồm sinh viên, giảng viên,
các nhà hoạch định chính sách, ngành công nghiệp âm nhạc và đặc biệt là chính
phủ) để cân bằng việc lựa chọn, giảng dạy và học hỏi các yếu tố âm nhạc khác nhau
trong một thế giới đa dạng văn hóa.
Trong công trình Giáo dục âm nhạc vì sự đổi mới cùng lúc ở trong và ngoài
lớp học: Một nghiên cứu dựa trên sự tham vấn của các chuyên gia (Music Education
for the Improvement of Coexistence in and beyond the Classroom: A Study Based on
the Consultation of Experts) [67], các tác giả Alberto Cabedo-Mas và Maravillas
Díaz-Gómez đã xem xét các nguyên lý về lý thuyết và các mô hình giáo dục âm
nhạc để thúc đẩy quan hệ giữa các cá nhân và xã hội. Các chuyên gia trong nước và
quốc tế có liên quan về giáo dục, về âm nhạc đã được tham khảo ý kiến. Theo đó,
nghiên cứu này cho thấy, mặc dù mục đích chính của lớp học âm nhạc phải là
khuyến khích phát triển khả năng âm nhạc của học sinh, sinh viên, nhưng nó cũng
có thể là một không gian tối ưu để phát triển các kỹ năng khác như việc học cách
sống và việc sống cùng nhau. Do đó, nghiên cứu này xem giáo dục âm nhạc như là
một sự trợ giúp để đào tạo toàn diện mỗi cá nhân.
Các kết quả nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy hoạt động có sự tham gia
đối thoại giữa giảng viên và học sinh, sinh viên để nâng cao kinh nghiệm âm nhạc
cho họ, đồng thời cần tăng cường việc thực hành âm nhạc theo nhóm, nhằm giúp
nâng cao sự hiểu biết giữa các cá nhân và các nhóm người. Giảng viên dạy nhạc
24
không thể tự đặt cho mình làm “nguồn độc quyền” để xây dựng kiến thức âm nhạc
cho sinh viên, bởi họ không thể là chuyên gia về mọi phong cách âm nhạc. Việc chia
sẻ kinh nghiệm âm nhạc với nhau cũng góp phần tạo ra không gian của sự hiểu biết từ
kiến thức chuyên môn đến việc công nhận các thị hiếu khác nhau của mỗi người.
Giảng viên cần phải kích thích được sự quan tâm của học sinh, sinh viên đối với âm
nhạc và tạo ra ý tưởng âm nhạc riêng của họ.
Khía cạnh mà chúng tôi quan tâm ở công trình này đó là việc tác giả đã coi
giáo dục âm nhạc như là một sự trợ giúp để đào tạo toàn diện mỗi cá nhân, không
chỉ riêng về năng lực âm nhạc mà cả về năng lực thẩm mỹ nói chung. Điều đó có
nghĩa, giáo dục âm nhạc được gắn kết chặt chẽ với GDTM cho sinh viên. Vấn đề
đặt ra là cách thức giáo dục thông qua âm nhạc cho sinh viên như thế nào. Mặc dù
công trình không đề cập nhiều đến GDTM, tuy nhiên, những cách thức mà tác giả đã
chỉ ra cho chúng tôi thấy rằng, một trong những phương tiện, cách thức giáo dục (hay
GDTM) thông qua âm nhạc (trong đó có các sản phẩm ÂNĐC) cho sinh viên có thể
đem đến hiệu quả đó là thông qua việc chia sẻ kinh nghiệm trên Internet, chứ không
hoàn toàn phụ thuộc vào những giáo trình trên các giảng đường. Đây cũng là một
trong những ý tưởng mà chúng tôi sẽ tiếp thu để xác định rõ các phương thức GDTM
cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta hiện nay.
Gần đây (2018) có công trình Giáo dục thẩm mỹ về giảng dạy thanh nhạc
trong giáo dục âm nhạc (Aesthetic Education of Vocal Music Teaching in Music
Education) của tác giả Hao Zhang [84] đã đề cập khá cụ thể đến vấn đề GDTM và
giáo dục âm nhạc. Tác giả cho rằng, giảng viên không chỉ là người truyền đạt kiến
thức âm nhạc cơ bản cho sinh viên, mà còn là người phải thấm nhuần GDTM trong
lớp học để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của sinh viên. Ông khẳng định, giáo dục
âm nhạc là duy nhất và có những đặc trưng mang tính nhân văn mạnh mẽ. Để hiện
thực hóa mục tiêu giáo dục con người, cần phải thâm nhập GDTM trong giảng dạy
âm nhạc. Nhiều giảng viên đã bỏ qua tầm quan trọng của GDTM, khiến sinh viên
không thể đánh giá đầy đủ tính thẩm mỹ của âm nhạc hoặc đạt được sự đồng điệu
về tâm hồn với các nhà soạn nhạc. Trong quá trình giảng dạy, giảng viên nên phát
huy đầy đủ vai trò của GDTM, cho phép sinh viên bước vào thế giới âm nhạc do
các nhà soạn nhạc tạo ra và cảm nhận niềm vui và vẻ đẹp mà âm nhạc mang lại.
Theo tác giả, nội dung trọng tâm của GDTM là “tô điểm, làm đẹp” cho tâm
trí của sinh viên (to beautify students’ minds) và nhận ra sự phát triển đạo đức của
sinh viên. Do đó, trong quá trình GDTM, giảng viên cần giúp sinh viên hình thành
các giá trị chính xác và cho phép họ có một khả năng thẩm mỹ nhất định. Với âm
nhạc, giảng viên có thể cho phép sinh viên phân tích lời bài hát của các tác phẩm
25
âm nhạc, và cũng cho phép sinh viên đánh giá cao vẻ đẹp của giai điệu âm nhạc.
Trong tương tác tình cảm, mối quan hệ thân thiện giữa sinh viên và giảng viên phải
được thiết lập. Từ đó, sinh viên có thể tham gia tích cực hơn trong giáo dục âm nhạc
và tìm hiểu về văn hóa thẩm mỹ. Có thể thấy, mặc dù công trình này không hoàn
toàn đi sâu về những vấn đề mang tính lý luận cơ bản của GDTM như việc định
hình ra khái niệm, nhưng kết quả của công trình này lại thu hút sự quan tâm rất lớn
đối với chúng tôi, bởi qua công trình này, chúng tôi đã có những gợi mở về mặt nội
dung của GDTM thông qua ÂNĐC, đó là việc “tô điểm, làm đẹp” cho tâm trí của
sinh viên, nâng cao khả năng nhận thức, đánh giá về cái đẹp; đồng thời, trau dồi,
nâng cao đạo đức, nâng cao văn hóa thẩm mỹ cho sinh viên.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc Ở trong nước, khía cạnh nghiên cứu về GDTM cho giới trẻ, học sinh, sinh viên
thông qua loại hình âm nhạc không có nhiều. Hầu hết các tác giả chỉ nêu ra vấn đề và
đề cập đến tính cấp thiết phải GDTM, giáo dục nghệ thuật âm nhạc cho công chúng,
giới trẻ ở nước ta, mà chưa đi sâu nghiên cứu những nội dung cụ thể về GDTM thông
qua âm nhạc; đặc biệt cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu trực tiếp
đến ÂNĐC. Tuy nhiên, trong quá trình tổng quan, chúng tôi cũng đã tiếp cận được một
số bài viết mà theo chúng tôi là phù hợp và có thể tham khảo đối với đề tài luận án.
Trước hết là bài viết “Vai trò của âm nhạc trong việc giáo dục nhân cách”
của Lê Vinh Hưng [32]. Tác giả khẳng định rằng, vai trò của âm nhạc đối với quá
trình phát triển nhân cách con người không chỉ thể hiện với tư cách là một phương
tiện tác động từ những giá trị chân - thiện - mỹ từ bên ngoài vào, mà chủ yếu là với tư
cách khơi dậy những tiềm năng giá trị chân - thiện - mỹ từ chính bên trong mỗi thực
thể nhân cách. Điều này chúng tôi cho rằng phù hợp, bởi nhiều nhà khoa học đã
chứng minh rằng, khả năng cảm thụ âm nhạc của từng con người còn xuất hiện trước
cả khi con người hình thành nên ý thức, thậm chí nó đã xuất hiện ngay từ khi còn
nằm trong bụng mẹ. Và do đó, ngay trong từng nhân cách cũng đã có thành tố tri thức
và khả năng thụ cảm âm nhạc.
Về khía cạnh GDTM, tác giả cho rằng, hiện nay đời sống âm nhạc ở nước ta
đang có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đa hướng tới sự phát triển nhân cách của
nhiều lứa tuổi, nhiều tầng lớp xã hội. Thông qua bài viết, tác giả chỉ ra nguyên nhân
của sự phân hóa về trình độ nhận thức, “gu” lựa chọn và thưởng thức các tác phẩm
khác nhau của công chúng; đó là sự tiếp thu âm nhạc với nhiều dạng, nhiều luồng khác
nhau, nhất là trên mạng Internet. Ông cho rằng, không nên đổ lỗi hoàn toàn cho thị hiếu
lệch lạc của đối tượng cảm thụ âm nhạc, mà phải thấy được trách nhiệm của những
người làm công tác âm nhạc, các cơ quan quản lý văn hóa và các phương tiện thông tin
26
đại chúng. Từ đó bằng mọi cách phải nâng cao trình độ sáng tác, biểu diễn của các
nhạc sĩ và nghệ sĩ; cần phải chuyên nghiệp hóa tất cả mọi mặt: từ tổ chức biểu diễn
đến “sản xuất” sản phẩm âm nhạc, từ biên tập báo chí đến biên tập chương trình âm
nhạc trên các phương tiện thông tin đại chúng [32]. Tuy nhiên, bài viết không đề cập
cụ thể đến nội dung và phương thức GDTM thông qua âm nhạc. Đây là những vấn đề
mà chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu trong quá trình thực hiện luận án.
Tiếp đến là bài viết “Nghệ thuật âm nhạc và con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa” của tác giả Phạm Lê Hòa [27]. Kết quả của nghiên cứu này nhìn chung đã
phần nào đánh giá được vai trò của âm nhạc trong việc xây dựng con người Việt
Nam XHCN thông qua việc bám sát vào ba chức năng chính của âm nhạc, đó là:
Chức năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức năng thẩm mỹ. Bên cạnh đó, bài
viết cũng đã tập trung khá kỹ vào việc đánh giá vai trò giáo dục đạo đức của âm
nhạc. Về vấn đề giáo dục âm nhạc, sau khi điểm qua những thành tựu về hoạt động
giáo dục âm nhạc ở Việt Nam thời gian qua, tác giả cũng chỉ ra rằng, hiện vẫn còn
có những tác phẩm âm nhạc không phản ánh được những tình cảm trong sáng, lành
mạnh, mà đi sâu vào những vấn đề tiêu cực của đời sống xã hội. Chúng tôi cũng
đồng tình với ý kiến của tác giả khi đánh giá rằng: Ở nước ta, các nhà lý luận âm
nhạc chuyên nghiệp vẫn chưa thực sự chú ý nhiều đến công tác phê bình âm nhạc
trên các phương tiện thông tin đại chúng và do đó đã bộc lộ một khoảng trống trong
công tác tuyên truyền các giá trị thực sự của âm nhạc.
Đúng như tác giả tự nhận xét, bài viết này chủ yếu đề cập đến những vấn đề
phổ quát mà chưa đi vào cụ thể, đặc biệt đối với việc GDTM cho đối tượng là sinh
viên. Song song với đó, một trong các phương hướng, nhiệm vụ nhằm nâng cao
chất lượng của giáo dục âm nhạc mà tác giả đưa ra có một vấn đề chưa thực sự
được giải quyết triệt để, vẫn còn ở mức độ đặt vấn đề. Theo đó, tác giả chỉ ra rằng,
cần phải GDTM thông qua âm nhạc nhằm hướng người nghe tới những giá trị thực
sự của loại hình nghệ thuật âm nhạc. Tác giả cũng nhận định, đây là một việc làm
khó khăn, phức tạp và đòi hỏi cần phải được nghiên cứu sâu hơn, thường xuyên hơn
để có thể phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước qua các giai đoạn khác nhau.
Đây cũng chính là một chỉ dẫn quan trọng giúp chúng tôi tiếp tục công việc nghiên
cứu về mảng đề tài này ở Việt Nam.
Bàn về thực trạng mất cân đối và thiếu chuyên nghiệp trong âm nhạc ở nước
ta, tác giả Nguyễn Thị Minh Châu trong bài viết “Âm nhạc và những nỗi lo không
của riêng ai” [11] cho rằng, những biến động, bắt đầu từ các cơn sốt “nhạc nhẹ”,
nhạc “tiền chiến”, nhạc “hải ngoại”, rồi đến sự du nhập liên tiếp các thể loại nhạc
Pop, Rock, Blues, Jazz, R&B, Rap, Hip hop,… đã mau chóng lấn lướt các loại hình
27
có bề dày lịch sử, khiến nhạc giao hưởng, thính phòng và nhạc cổ dân tộc rơi vào
tình trạng thất thế trong đời sống âm nhạc. Sự mất cân đối hiện hữu giữa thanh nhạc
và khí nhạc, giữa số lượng ít ỏi nhạc sĩ sáng tác nhạc đàn chuyên nghiệp với con số
khó kiểm soát hết của “đội quân” sáng tác ca khúc quần chúng. “Số lượng tác phẩm
khí nhạc được dàn dựng lại càng nhỏ nhoi so với bạt ngàn ca khúc phổ thông trên
thị trường âm nhạc, trên sân khấu ca nhạc và các phương tiện truyền thông đại
chúng, đặc biệt trên Internet” [11]. Và ngay cả trong lĩnh vực thanh nhạc cũng có
sự chênh lệch rõ rệt. Ca khúc phổ thông không có phần đệm lấn át romance và các
thể loại lớn hơn ca khúc như hợp xướng, thanh xướng kịch (oratorio), nhạc kịch
(opéra),… Tác giả cho rằng, hiện nay các chương trình nhạc nghiêm túc không được
phát sóng vào “giờ vàng”. Sự phát triển tự phát, chạy theo thị hiếu số đông, theo
nguyên tắc “có cung có cầu” đang khiến cho bức tranh âm nhạc thiếu hài hòa, biến
dạng, lệch lạc, méo mó cả về nhận thức. Điều đó dẫn đến phần lớn công chúng ngộ
nhận rằng ca khúc phổ thông là đại diện duy nhất cho nền âm nhạc nước nhà. Thông
qua bài viết, tác giả cũng đề cập đến việc thiếu chuyên nghiệp trong âm nhạc ở
nước ta, không ít tác phẩm nhạc đàn thực chất không thoát khỏi hình thức và cấu
trúc ca khúc; “đạo nhạc”, “đạo beat”, “hát nhép” đang bị lạm dụng, làm méo mó
hình ảnh người nghệ sĩ và hạ thấp tính chuyên nghiệp của nghề biểu diễn.
Ở bài viết này, mặc dù tác giả không đề cập đến việc GDTM, nhưng từ thực
trạng mà tác giả chỉ ra đã gợi mở cho chúng tôi về các phương thức GDTM cho sinh
viên thông qua ÂNĐC; đó là cần thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Đây
là một “kênh” rất quan trọng, có sức lan tỏa mạnh mẽ đến đông đảo công chúng, sinh
viên. Thông qua chương trình âm nhạc trên các phương tiện thông tin đại chúng, sinh
viên có trình độ khác nhau, ở các vùng miền khác nhau đều có cơ hội tiếp cận với tri
thức thẩm mỹ một cách tự nhiên, tự giác theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”.
Trong công trình “Cảm nhận mỹ học âm nhạc” [6], tác giả Thế Bảo cho
rằng, tác giả - tác phẩm - công chúng, đó là cái tam vị tạo nên sự nhất thể cho đời
sống của nghệ thuật. Ba yếu tố này ràng buộc lẫn nhau, chế định lẫn nhau, đặt điều
kiện cho nhau trong suốt chiều dài lịch sử của bất cứ một nền nghệ thuật nào. Nói
cách khác, chúng ngang bằng nhau về vai trò thực tiễn trong sự tạo lập đời sống
nghệ thuật. Trong công trình này, tác giả đề cập đến các chủ đề mỹ học âm nhạc
gây tranh cãi hiện nay. Phần này ngay lập tức thu hút sự quan tâm của chúng tôi ở
khía cạnh đạo đức và âm nhạc.
Tác giả cho rằng, những người thụ hưởng âm nhạc là “trò chơi âm thanh”
hoặc những nhạc sĩ chỉ chú trọng đến kỹ thuật và hình thức âm nhạc thì gần như
không quan tâm đến vấn đề đạo đức. Một số người “âm nhạc vị âm nhạc” ấy cho
28
rằng: bắt âm nhạc phải chăm lo cho cái thiện, cái tốt của nhân loại là “bóp nghẹt”
sáng tạo. Nhưng những chủ trương âm nhạc phải hướng con người đến cái thiện thì
gần như thời đại nào cũng có, lúc thì mang yếu tố giáo dục, lúc thì phải kiểm soát,
định hướng. Ông nhấn mạnh, công chúng khán giả sẽ là những người phán xét chân
lý của nghệ thuật; những tác phẩm vĩ đại sẽ luôn được công nhận và lưu truyền. Âm
nhạc có lời thì nội dung đã được ngôn ngữ bày tỏ. Nhưng âm nhạc không lời thì nội
dung và hình thức khó có thể tách rời và cũng không thể thưởng thức một cách sơ
lược được. Âm nhạc không chỉ ca ngợi, đem lại niềm vui hứng khởi mà nhắc đến
nỗi buồn, cái bi là lời cảnh tỉnh, cảnh báo về những điều con người cần phải suy
ngẫm. Bản thân nhà soạn nhạc dù có muốn chui vào tháp ngà cũng không được, họ
phải sống với dân tộc, với thời đại mình đang sống và những sở thích, những
khuynh hướng mà nhà sáng tác khó có thể bỏ qua. Đôi khi vì cách tân và sáng tạo,
có khi người nghệ sĩ tiến lên một bước và tác động một bước, tác động lại xã hội,
tác động đến nghệ thuật và các trào lưu sau đó.
Kết quả của công trình này đã gợi mở cho chúng tôi đối với việc đi tìm “cái
đẹp” trong ÂNĐC. Đây là một trong những nội dung mà chúng tôi sẽ triển khai
thực hiện, nhằm minh chứng ÂNĐC là một phương tiện GDTM hiệu quả cho sinh
viên, bởi những giá trị thẩm mỹ mà ÂNĐC mang trong nó.
Kế tiếp là bài viết “Đào tạo - Cơ sở và điều kiện cho sáng tạo âm nhạc trong
giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Mỹ Liêm [44]. Tác giả cho rằng, nếu được đào
tạo, được “học nghe nhạc”, chúng ta sẽ có những người biết nghe âm nhạc, biết
đánh giá đúng giá trị nghệ thuật. Trong vấn đề đào tạo người nghe (được cho là điều
kiện, tác nhân quan trọng), tác giả đưa ra “vòng khép kín”: Tác phẩm âm nhạc →
khán giả (người thưởng thức) → người tìm hiểu, yêu thích → người theo học để trở
thành nhạc sĩ sáng tác, nghệ sĩ biểu diễn → tác phẩm âm nhạc… Theo đó, điều quan
trọng là mỗi khâu trong “vòng khép kín” này đều có những tác động mang tính
tương hỗ. Không có người nghe thì không có người biết, tìm hiểu, không có người
học dẫn đến không có người biểu diễn, không tồn tại các thể loại âm nhạc trong đời
sống. Tác giả nhấn mạnh thêm, mục đích của việc đào tạo người nghe chính là để
mang đến một kết quả lớn: “Chức năng giáo dục con người” - mục đích cuối cùng
của VHNT nói chung và cũng là mục đích và chức năng của âm nhạc.
Kết quả của công trình nghiên cứu này giúp chúng tôi trong việc định hình
nội dung GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC. Một trong những nội dung đó là
việc giáo dục, nâng cao trình độ thẩm mỹ cho sinh viên; tạo cơ sở giúp sinh viên có
khả năng đánh giá đúng giá trị nghệ thuật của tác phẩm âm nhạc; góp phần đẩy lùi
các hiện tượng “lệch lạc” về thẩm mỹ âm nhạc ở sinh viên.
29
Tiếp tục tìm hiểu, chúng tôi tiếp cận được với công trình “Giáo dục âm nhạc
với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Hồng
Quân [52]. Trong công trình này, cũng như Philip Tagg trong công trình Phân tích
âm nhạc đại chúng: Lý thuyết, phương pháp và thực hành (Analysing Popular Music:
Theory, Method and Practice) [87], tác giả đã phân loại âm nhạc ở Việt Nam thành ba
“dòng chảy” chính: Âm nhạc “hàn lâm - kinh điển” (chủ yếu là nói đến nhạc cổ điển
phương Tây), ÂNĐC (chủ yếu là nói đến các ca khúc thịnh hành) và âm nhạc dân
gian truyền thống Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đã đánh giá khái quát quá trình
phát triển âm nhạc ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; chỉ rõ những thành tựu của hoạt
động lý luận, phê bình âm nhạc trong những năm qua.
Chúng tôi khá đồng tình với những vấn đề đặt ra trong bài viết, đó là việc
đánh giá về môi trường âm nhạc ở nước ta hiện đang có nhiều diễn biến phức tạp,
ảnh hướng đến sự phát triển tính cách, tâm hồn của nhiều lứa tuổi, nhiều tầng lớp xã
hội. Trong bài viết, tác giả có nêu nhiệm vụ cấp bách đó là phải chú ý đến việc
GDTM âm nhạc cho công chúng. Bởi lẽ, một khi công chúng biết được cái hay, cái
đẹp của âm nhạc đích thực thì họ sẽ tự lựa chọn những dòng nhạc mà mình yêu thích
và tự đào thải những gì kém giá trị ra khỏi “lỗ tai” của mình. Tuy nhiên, bài viết chưa
chỉ rõ cụ thể vai trò của giáo dục âm nhạc trong việc xây dựng tính cách, tâm hồn
con người Việt Nam, mà chỉ dừng lại ở việc điểm qua những phương hướng ở tầm
vĩ mô. Mặc dù vậy, những chỉ dẫn về ÂNĐC như tác giả đã đề cập, bao gồm chủ
yếu là các ca khúc thịnh hành cũng đã gợi mở cho chúng tôi trong quá trình định
hình ra khái niệm về nhánh âm nhạc này.
Năm 2017 có công trình “Vai trò của tình cảm thẩm mỹ đối với hoạt động
âm nhạc” của tác giả Nguyễn Thu Nghĩa và Triệu Thị Linh [45]. Công trình này đã
tập trung nghiên cứu về vai trò quan trọng của tình cảm thẩm mỹ đối với hoạt động
sáng tạo (sáng tác và biểu diễn), thưởng thức và đánh giá âm nhạc. Theo các tác giả,
vai trò đó thể hiện ở chỗ, tình cảm thẩm mỹ là động lực mạnh mẽ thôi thúc các tác
giả sáng tác ra nhiều tác phẩm âm nhạc hay, có giá trị, mang hơi thở cuộc sống và đi
mãi cùng năm tháng. Tình cảm thẩm mỹ giúp các nghệ sĩ biểu diễn hiểu đúng tinh
thần của tác phẩm âm nhạc để chuyển tải đến người nghe; đồng thời giúp khán giả
cảm nhận, lựa chọn được các tác phẩm xứng đáng, từ đó góp phần phát triển năng
lực thẩm mỹ cho con người. Mặc dù góc độ nghiên cứu của công trình này không
hoàn toàn đi sâu nghiên cứu về các phương thức để GDTM thông qua âm nhạc. Tuy
nhiên, kết quả của công trình này đã góp phần củng cố về mặt lý luận đối với tầm
quan trọng của GDTM thông qua âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng; đồng thời,
đã gợi mở thêm cho chúng tôi nhiều vấn đề về trách nhiệm của các chủ thể tham gia
30
giáo dục, định hướng thẩm mỹ cho giới trẻ hiện nay; trong đó trách nhiệm lớn thuộc
về các nhà phê bình, đánh giá âm nhạc. Đây cũng là một trong những nội dung được
chúng tôi quan tâm và sẽ làm rõ thêm trong quá trình hoàn thiện luận án.
Có thể thấy ngay rằng, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu
nào ở trong nước thực sự bàn đến vấn đề GDTM thông qua ÂNĐC cho sinh viên.
Hầu hết những công trình kể trên đều tập trung vào việc đánh giá vai trò của âm
nhạc nói chung trong cuộc sống, cũng như mối quan hệ giữa âm nhạc với việc giáo
dục nhân cách, đạo đức cho giới trẻ và chủ yếu được đề cập trong lĩnh vực giáo dục
âm nhạc. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn không trùng lặp với bất
cứ công trình nghiên cứu nào khác hiện nay.
1.3. NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI VÀ XÁC ĐỊNH NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Về những kết quả nghiên cứu sẽ kế thừa, tiếp tục phát triển Thứ nhất, vấn đề GDTM và việc sử dụng nghệ thuật trong GDTM không phải
là một vấn đề mới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này từ các góc độ
tiếp cận khác nhau. Cho đến nay, hầu hết các công trình nghiên cứu đều đã trình bày
khá cụ thể một số vấn đề lý luận về GDTM, như: Bản chất, đặc trưng của GDTM;
những nguyên tắc và hình thức GDTM cơ bản. Các nhà nghiên cứu trên thế giới và
Việt Nam khá thống nhất trong quan niệm về tầm quan trọng của các loại hình nghệ
thuật đối với việc GDTM, góp phần hình thành và phát triển nhân cách con người.
Các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án là những công trình có giá trị
khoa học cao cả về lý luận và thực tiễn, cung cấp quan niệm của các nhà khoa học
trong và ngoài nước từ lịch sử đến hiện đại về vấn đề GDTM và việc sử dụng nghệ
thuật trong GDTM. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn, đã gợi mở, định hướng để
chúng tôi nghiên cứu, giải quyết các vấn đề trong nội dung chính của luận án.
Thứ hai, về việc sử dụng ÂNĐC trong GDTM cho sinh viên. Qua tổng quan
tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, chúng tôi thấy rằng, có những công trình
đặt vấn đề một cách khái quát, có những công trình đi sâu vào từng khía cạnh cụ
thể, nhưng tựu trung lại đều chưa đề cập trực tiếp đến các nội dung và phương thức
GDTM thông qua ÂNĐC cho đối tượng là sinh viên, đặc biệt là các công trình
nghiên cứu ở trong nước. Đa số các tác giả khi nghiên cứu đều chú trọng đánh giá về
vai trò của âm nhạc nói chung trong việc giáo dục nhân cách, mà chưa đi sâu phân
tích những giá trị thẩm mỹ trong ÂNĐC. Vì vậy, vấn đề GDTM cho sinh viên thông
qua ÂNĐC vẫn còn nhiều nội dung cần được nghiên cứu sâu hơn.
1.3.2. Về những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu Thứ nhất, luận án chú ý làm rõ một số vấn đề lý luận về ÂNĐC, về GDTM
31
cho sinh viên thông qua ÂNĐC; trong đó cần đưa ra được các khái niệm cơ bản
như: GDTM, ÂNĐC và GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC.
Thứ hai, luận án cần chứng minh ÂNĐC là một phương tiện có thể đem lại
hiệu quả trong việc GDTM cho sinh viên. Để làm được điều đó, luận án cần nhận
diện các đặc điểm của ÂNĐC, những khía cạnh khác nhau của cái đẹp trong ÂNĐC;
đồng thời, tìm hiểu về vai trò của ÂNĐC đối với sinh viên, cũng như cơ chế tác
động của ÂNĐC đối với sự hình thành ý thức thẩm mỹ của sinh viên.
Thứ ba, luận án cần làm rõ những nội dung cơ bản và các phương thức chủ
yếu của GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC; đồng thời xác định cụ thể các chủ
thể tham gia GDTM cho sinh viên ở nước ta.
Thứ tư, luận án cần chỉ ra được thực trạng, những thành tựu và hạn chế trong
GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta hiện nay. Qua đó, nhận định về
những vấn đề đặt ra; dự báo về những xu hướng vận động trong nhu cầu tiếp nhận
thẩm mỹ âm nhạc của sinh viên ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, bàn luận, đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC.
Tiểu kết Chƣơng 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, vấn đề GDTM và việc sử dụng
nghệ thuật trong GDTM đã được các học giả nước ngoài nghiên cứu từ rất sớm và
có tính chất đi trước. Các quan điểm về vấn đề này có tính chất đa chiều và có phần
chịu sự tác động của các điều kiện về vị trí địa lý, chính trị, văn hóa, lịch sử mang
yếu tố khu vực, yếu tố vùng và đặc trưng của mỗi quốc gia. Nhìn chung, các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước đều thống nhất trong quan niệm về tầm quan trọng
của các loại hình nghệ thuật đối với việc GDTM, góp phần hình thành và phát triển
nhân cách con người một cách toàn diện. Sự nghiên cứu về GDTM thông qua các
loại hình nghệ thuật ngày càng được quan tâm nhiều hơn trong các giai đoạn về sau.
Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân và mục đích khác nhau, phần lớn các công
trình nghiên cứu này chủ yếu quan tâm đến các vấn đề vĩ mô của đời sống VHNT,
cũng như chủ yếu phân tích mối quan hệ giữa nghệ thuật và GDTM về mặt lý luận
chung và mang tính khái quát cao. Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào trực
tiếp đi vào giải quyết vấn đề GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC. Đây là một
trong những nội dung còn đang bị “bỏ trống” trong nghiên cứu về GDTM ở nước ta,
nhất là khi ÂNĐC ở nước ta đang ngày càng phát triển, có tác động lớn đến ý thức
thẩm mỹ của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt đối với giới trẻ. Đó cũng chính là
những nội dung mà luận án sẽ tập trung xem xét, luận giải và làm sáng tỏ trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn, góp phần bổ sung những điểm khuyết của mảng
đề tài này trong nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay.
32
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG
VÀ GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH VIÊN THÔNG QUA
ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG
2.1.1. Khái niệm âm nhạc và âm nhạc đại chúng
2.1.1.1. Khái niệm âm nhạc Theo “Từ điển Tiếng Việt”, âm nhạc “là nghệ thuật dùng âm thanh làm
phương tiện để diễn đạt tư tưởng và sắc thái tình cảm của con người” [51]. Tuy
nhiên, không phải âm thanh nào cũng được dùng trong âm nhạc, mà chỉ những âm
thanh có tính nhạc được thể hiện qua 04 thuộc tính cơ bản, đó là: Cao độ - Trường
độ - Cường độ - Âm sắc [xem Phụ lục 2]. Từ những âm thanh có tính nhạc đó, con
người phối hợp việc lên xuống, trầm bổng để tạo âm vực rộng, phong phú và cũng
từ đó mà âm nhạc được hình thành và phát triển.
Tác giả Đỗ Văn Khang định nghĩa:
Âm nhạc là nghệ thuật thính giác chuyên sử dụng âm thanh; cụ thể là
nó sử dụng cơ cấu giai điệu, âm điệu, nhịp điệu, âm sắc, cường độ… được
phát ra từ giọng nói con người, gắn liền với ngôn ngữ và lệ thuộc một mức
độ quan trọng vào ngôn ngữ; hoặc phát ra từ những công cụ nhân tạo đặc
thù (gọi là nhạc cụ) - nhạc cụ thực chất phù hợp rất nhiều với những quy
luật âm thanh thuộc giọng người [42, tr.170-171].
Theo đó, một tác phẩm âm nhạc đến với người nghe từ nốt đầu tiên vang lên
đến nốt cuối cùng trong một cấu trúc hoàn thiện để truyền đạt nội dung, ngoài cao
độ, trường độ, cường độ và âm sắc đã nêu trên, còn phải thông qua các yếu tố biểu
hiện khác, đó là: Giai điệu, hòa thanh, tiết tấu, tiết luật, nhịp độ, cách cấu tạo, khúc
thức, âm vực,…Tất cả những yếu tố này cùng song song tồn tại trong một tác phẩm
và có mối quan hệ tương hỗ nhau, không tách rời mà thống nhất vang lên đồng thời.
Do nhu cầu của con người và xã hội nói chung, do sự phát triển của khoa học
và nghệ thuật hiện đại, trên thế giới ngày nay cũng xuất hiện nhiều quan niệm mới.
Sự lý giải mới về âm nhạc có thể được mở rộng, thậm chí vượt lên một số quan
niệm âm nhạc hiện đại. Đối với thế hệ các nhà soạn nhạc hiện đại, giá trị của âm
nhạc không còn nằm trong âm thanh - nghĩa là không phải trong tự thân âm nhạc,
mà nằm trong triết lý của âm nhạc thể hiện. Mối quan tâm lớn nhất của họ không
phải là sáng tác ra những giai điệu có thể làm rung động thính giả qua âm thanh mà
tìm được những kỹ thuật, những phương thức sáng tác giúp họ truyền tải những triết
33
lý về âm nhạc của mình: Âm nhạc có thể là những âm thanh ngẫu nhiên nối tiếp
nhau, có thể là những tổ hợp âm thanh phức tạp trong hệ thống nhạc 12 âm tuyệt đối
(Total Serialism), hay là sự lặp đi lặp lại của một đơn vị âm thanh đơn giản nhất
trong nhạc Tối giản (Minimalism). Nhà soạn nhạc thế kỷ XX John Cage - đại diện cho khuynh hướng âm nhạc Ngẫu nhiên (Aleatoric music) cho rằng, bất kỳ âm thanh nào cũng có thể là âm nhạc; “không có tiếng ồn, chỉ có âm thanh” [86]. Âm
thanh ở đây được hiểu theo một nghĩa rộng, nó bao gồm tất cả các loại tiếng ồn và
hòa âm của tác phẩm chính là sự kết hợp của các tiếng ồn đó.
Như vậy, sự sáng tạo, ý nghĩa và thậm chí cả định nghĩa của âm nhạc đều có
thể thay đổi tùy theo bối cảnh văn hóa và xã hội. Tuy nhiên, dù các quan điểm có
khác nhau ở nhiều khía cạnh tiếp cận, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho
rằng, âm nhạc là nghệ thuật của thính giác và âm nhạc chính là sự sắp đặt có nghệ
thuật của các âm thanh; dùng âm thanh và nhịp điệu để diễn tả tư tưởng và tình
cảm của con người.
Về cơ bản, âm nhạc bao gồm hai lĩnh vực chính, đó là: Thanh nhạc (Vocal
music) và Khí nhạc (Instrumental music). Thanh nhạc là âm nhạc được trình diễn
bằng giọng hát con người, trong đó, nội dung của tác phẩm chủ yếu được phản ánh
trong phần lời ca. Ở thanh nhạc, hai yếu tố nhạc và lời kết hợp với nhau một cách
chặt chẽ, nương tựa vào nhau, góp phần tạo ra hiệu quả nghệ thuật cho nhau. Còn
khí nhạc lại là âm thanh được phát ra từ những công cụ nhân tạo đặc thù (gọi là
nhạc cụ) như: Đàn dây, sáo, kèn, trống,... Đây chính là sự khác biệt đậm nét giữa
các thể loại thanh nhạc và khí nhạc.
2.1.1.2. Khái niệm âm nhạc đại chúng Đã có rất nhiều khái niệm về ÂNĐC (popular music), nhưng cho đến nay,
vẫn chưa có một cách giải thích thống nhất nào cho khái niệm này vì ranh giới của
nó là không thực sự rõ ràng.
Theo từ điển “Collins English Dictionary”, ÂNĐC được định nghĩa là âm
nhạc có sức hấp dẫn rộng rãi và nó được nhấn mạnh bởi giai điệu và tiết tấu [85].
Còn trong cuốn “Từ điển bách khoa về âm nhạc và các nhạc sĩ” (The New Grove
Dictionary of Music and Musicians), ÂNĐC được xác định là âm nhạc có thể tiếp
cận được với khán giả rộng nhất; phù hợp với thị hiếu và sở thích của đông đảo
người dân [72]. Về cơ bản, ÂNĐC được định nghĩa tương ứng với các nghĩa của
“từ khóa” trung tâm là “đại chúng”. Theo đó, ÂNĐC bao gồm những thể loại,
phong cách âm nhạc được nhiều người ưa thích (liked by a lot of people). ÂNĐC
bao gồm các sản phẩm âm nhạc có tính chất đại trà, phổ cập rộng rãi, phù hợp với
trình độ của đại đa số nhân dân chứ không nhắm vào một thiểu số các chuyên gia,
34
những người có hiểu biết sâu về âm nhạc (aimed at ordinary people and not at
experts) và vì thế, ÂNĐC là những loại nhạc dễ nghe.
Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc học như Philip Tagg [87], Stuart Borthwick
và Ron Moy [68], Richard Middleton và Peter Manuel [77] cho rằng, ÂNĐC là
dòng nhạc nằm giữa âm nhạc dân gian truyền thống (traditional folk music) và âm
nhạc cổ điển (classical music) hay còn gọi là nhạc nghệ thuật (art music), nhạc
nghiêm túc (serious music), nhạc có học thức (cultivated music).
Theo các nhà nghiên cứu, khi chúng ta nói đến âm nhạc dân gian truyền
thống là chúng ta nói đến di sản âm nhạc với những thể loại, hình thức âm nhạc
được xuất phát từ việc phục vụ cho cộng đồng nhỏ, những người có nhiều đặc điểm
chung, như cùng nơi sinh sống, cùng vùng miền, lãnh thổ, cùng độ tuổi, cùng tộc
người, có sự gắn bó chặt chẽ với vòng đời người, gắn với cộng đồng, tín ngưỡng
bản địa. Âm nhạc dân gian truyền thống mang đậm phong cách và dấu ấn nghệ
thuật của một dân tộc, trở thành một thành tố của nền văn hóa với những đặc trưng
của truyền thống văn hóa đó. Còn khi chúng ta nói đến âm nhạc cổ điển (phương
Tây) là chúng ta nói đến di sản âm nhạc với những đóng góp to lớn cho nhân loại về
hệ thống ký hiệu âm nhạc chặt chẽ, khoa học, làm cơ sở nền tảng cho sự phát triển
của các dòng nhạc khác trên thế giới hiện nay, cũng như sáng tạo ra các thể loại,
phong cách, phương pháp, hình thức “chuẩn mực” trong sáng tác và biểu diễn. Nhạc
cổ điển (phương Tây) đề cao ký hiệu âm nhạc. Mọi ý đồ của nhà soạn nhạc phải
được dàn nhạc chơi một cách chính xác so với “tổng phổ” mà nhà soạn nhạc viết ra.
Do đó, nhạc cổ điển (phương Tây) tượng trưng cho văn hóa âm nhạc tinh hoa và nó
không hướng đến số đông, bởi không phải ai cũng có thể hiểu được dòng nhạc này.
Với ÂNĐC- Đó là những sản phẩm âm nhạc được đông đảo công chúng yêu thích
vì nó không mang tính kinh điển, dễ tiếp thu, đem lại sự thanh thản, tái tạo sức
khỏe, thu hút giải trí tinh thần. ÂNĐC là những sáng tác thuộc bất cứ thể loại nhạc
nào trong số những thể loại “có sức thu hút rộng rãi” (having wide appeal) [77].
Mặc dù vậy, sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối, bởi ngay cả ở một số
thể loại âm nhạc vẫn còn có sự chồng chéo lên nhau.
Theo nhà nghiên cứu Denisoff, đặc trưng của ÂNĐC nằm ở khía cạnh công
chúng (popular: of or relating to the general public) và theo ông, các sản phẩm âm
nhạc ở mọi thể loại đều có thể trở thành ÂNĐC ở một mức độ nào đó nếu như tất cả
mọi người đều biểu diễn hoặc thưởng thức nó, hỗ trợ cho nó [70, tr.39]. Ở Việt
Nam, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân - Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam cho rằng, đề cập đến
ÂNĐC thì “chủ yếu là nói đến các ca khúc thịnh hành” [52]. Theo đó, ÂNĐC bao
gồm chủ yếu là ca khúc phổ thông (còn gọi là ca khúc quần chúng), là những bái hát
35
rất phổ biến, rất thông dụng, được nhiều người biết đến và ưa chuộng.
Có thể thấy, tuy những quan niệm trên đều có sự khác nhau ở cách tiếp cận
về ÂNĐC, nhưng giữa chúng vẫn tồn tại những điểm tương đồng nhất định, đó là:
Sự phổ biến, dễ nghe, gắn với đông đảo công chúng, được số đông đón nhận và yêu
thích, không mang tính kinh điển, “hàn lâm”, “bác học”. Do đó, kết hợp từ các quan
niệm khác nhau về ÂNĐC đã trình bày ở trên, có thể rút ra kết luận rằng: Âm nhạc
đại chúng là một thuật ngữ chung được dùng để chỉ các loại nhạc dễ nghe, dễ tiếp
thu, phù hợp với thị hiếu âm nhạc của đông đảo công chúng trong một thời kỳ, giai
đoạn nào đó, được biểu hiện cụ thể bằng các sản phẩm âm nhạc được nhiều người
biết đến và yêu thích.
2.1.2. Đặc điểm của âm nhạc đại chúng Trong lịch sử phát triển của âm nhạc trên thế giới, ban đầu người ta đề cập
đến ÂNĐC như một phong cách âm nhạc rất phổ biến của nước Anh, với những nét
giai điệu duyên dáng, nhẹ nhàng và dễ nghe. ÂNĐC của người Anh được phát triển
từ loại nhạc có tính chất ủy mị, đa cảm (sentimental music) ở thế kỷ XIX để trở
thành một trong những phong cách âm nhạc phát triển rực rỡ nhất ở nước Anh nửa
đầu thế kỷ XX với tư cách là những bản nhạc giải trí [74],[81]. Phải đến những năm
60 của thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện của những nhóm nhạc như: The Beatles,
Rolling Stones,… và từ phong trào ca khúc chính trị, ÂNĐC mới thực sự trở thành
một sự kiện âm nhạc nổi bật trên phạm vi toàn cầu.
Ở Việt Nam, thời điểm xuất hiện ÂNĐC đến nay vẫn chưa được thống nhất
trong giới nghiên cứu âm nhạc (thậm chí ngay cả việc sử dụng thuật ngữ ÂNĐC
cũng chưa nhất quán, thiếu chặt chẽ, thậm chí còn có phần xem nhẹ), cho dù những
dấu hiệu của nó đã bắt đầu manh nha từ trước năm 1975. Đến những năm 90 của thế
kỷ XX, khi Internet xuất hiện (19/11/1997), tiến trình toàn cầu hóa không ngừng
được mở rộng, ÂNĐC mới có đầy đủ các điều kiện quan trọng để phát triển mạnh
mẽ ở nước ta.
Điểm khác biệt lớn nhất cho đến ngày nay giữa ÂNĐC và nhạc cổ điển
phương Tây, đó là: Nếu như ở một tác phẩm sáng tác theo phong cách truyền thống
cổ điển, kể cả tư duy giai điệu, cấu trúc, hòa thanh, tiết nhịp đều tùy thuộc vào nội
dung mà tác giả cần biểu đạt, vào hình tượng âm nhạc mà tác giả muốn xây dựng,
thì ở các tác phẩm nhạc đại chúng, tất cả thường lệ thuộc vào một công thức tiết tấu
nào đó của nhạc nhảy quốc tế, có tính chu kỳ, gắn với động tác, chuyển động sân
khấu, thậm chí vũ đạo của ca sĩ và nhạc công. Chẳng hạn như ca khúc nghệ thuật
“Tình ca” (Hoàng Việt), khi được biểu diễn, hát và đệm (phối khí) theo phong cách
nhạc đại chúng, mặc nhiên từ tiết nhịp 2/4 (ở nguyên tác) phải chuyển thành tiết
36
nhịp 6/8 để phù hợp với công thức tiết tấu của điệu Slow Rock. Ngoài ra, số nhịp
của mỗi câu cũng bị thay đổi, các nốt trường ngân sẽ căn cứ vào chu kỳ nhạc điệu
mà thay đổi độ dài, ngắn khác nhau,… Thậm chí, trong thực hành âm nhạc thế giới
cũng đã có không ít những dẫn chứng về sự “làm mới” các chủ đề âm nhạc của
nhạc cổ điển, tạo ra các trào lưu nhạc đại chúng như Symphonic Rock, Opera
Rock,… Có thể nói, tiết tấu đóng vai trò rất quan trọng trong nhạc đại chúng và
nhiều khi là yếu tố quyết định tính thể loại, tạo ra đặc điểm riêng của từng thể loại.
Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng, khi các thể loại ÂNĐC quốc tế được du
nhập vào Việt Nam, các nhạc sĩ nước ta không để tiết tấu làm lu mờ vai trò của giai
điệu, vì “thói quen thưởng thức của công chúng Việt Nam vẫn yêu thích những giai
điệu đẹp, du dương, mà thói quen này có gốc rễ lâu đời trong âm nhạc dân gian -
cổ truyền Việt Nam” [49, tr.717]. Vì thế, phần lớn ca khúc đại chúng Việt Nam có
tuyến giai điệu đẹp, dễ tiếp thu, mượt mà, sử dụng những thủ pháp phát triển giai
điệu thông dụng trong ca khúc tân nhạc truyền thống Việt Nam (như phát triển đi
lên, đi xuống, mô tiến, mô phỏng, nhắc lại có biến đổi,…), phù hợp với thói quen
thưởng thức, thị hiếu thẩm mỹ của người Việt Nam (vốn ưa cái đẹp rõ ràng, giản dị,
có chiều sâu). Chất liệu của ÂNĐC khá đa dạng, có thể khai thác từ âm nhạc truyền
thống hoặc được sáng tác theo kiểu âm nhạc phương Tây, hay đôi khi chúng được
“làm mới” từ những tác phẩm âm nhạc đã có sẵn ở mọi thể loại khác nhau (gọi là
cover) để phù hợp với xu thế, trào lưu âm nhạc đương đại.
Các sản phẩm ÂNĐC thường không đi vào những đề tài lớn, những nội dung
có tính khái quát, triết lý cao mà thường có nội dung đi vào những vấn đề gần gũi,
liên quan mật thiết đến cuộc sống thường nhật, đề cao tính giải trí, không đòi hỏi
phải có đối tượng chọn lọc, có kiến thức, hiểu sâu về âm nhạc. Tình yêu đôi lứa,
khát vọng tuổi trẻ, tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên,
những chuyện giản dị, đời thường được phản ánh thông qua cái “tôi”, với lối cấu
trúc hai đoạn có tái hiện là những nội dung, hình thức khá phổ biến trong ca khúc
đại chúng Việt Nam.
Về thủ pháp phối khí, ÂNĐC thoát ra khỏi quan niệm “thuận, nghịch” cổ
điển truyền thống, thay đổi quan niệm về hợp âm sắp xếp theo quãng 3 truyền
thống, chồng thêm những âm quãng 2, quãng 4, quãng 6 vào hợp âm, không cần
theo quy tắc nốt “thêu”, nốt “lướt” của âm nhạc cổ điển. Nhiều khi các hợp âm này
được sử dụng liên tục như những âm truyền thống khác. Các hợp âm 7, 9 được sử
dụng nhiều. Mặt khác, so với nhạc cổ điển, người phối khí trong ÂNĐC không nhất
thiết phải chính là tác giả bài hát, mà có thể là những nhạc sĩ phối khí riêng biệt.
Một đặc điểm khác của ÂNĐC, đó là việc gắn liền với sự phát triển của công
37
nghệ điện tử, mà ví dụ điển hình là thể loại “Âm nhạc điện tử” (Electronic music) ra
đời vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX. Âm nhạc điện tử là âm nhạc sử dụng
các nhạc cụ điện tử, nhạc cụ kỹ thuật số và công nghệ âm nhạc dựa trên mạch điện.
Ban nhạc đệm cho hát trong ÂNĐC có thể gồm: các nhạc cụ cổ điển phương Tây
(piano, violin, cello, trompette,...), các nhạc cụ điện tử, nhạc cụ dân tộc kết hợp với
nhạc cụ cổ điển hoặc nhạc cụ điện tử, nhạc cụ cổ điển phương Tây kết hợp với nhạc
cụ điện tử,... Các kỹ thuật hát được sử dụng trong Bel Canto của nhạc cổ điển như:
“Cộng hưởng” (Resonance), “Điều chỉnh sắc thái” (Messa Di Voce),… không hoàn
toàn được chú trọng nhiều trong khi hát nhạc đại chúng, thậm chí trong hát cũng có
thể dùng những yếu tố phi âm nhạc (như tiếng hú hét, rú rít,…). Một bộ phận lớn của
ÂNĐC gắn với sự phát triển của công nghệ điện tử nên mọi nhược điểm trong giọng
hát đều có thể được hỗ trợ, chỉnh sửa bằng các thiết bị âm thanh trong phòng thu.
Trong nhạc đại chúng, phong cách diễn xuất cũng là một đặc điểm khác biệt
so với nhạc cổ điển, “bác học” phương Tây. Vì đa số các thể loại của nhạc đại
chúng thường có mô hình tiết tấu, nhịp điệu mang tính chất nhảy múa, hoặc được
khai thác từ chất liệu của một điệu nhảy nào đó, cho nên hầu hết các tiết mục biểu
diễn đều có sự kết hợp với nhảy múa, kể cả nhạc công đôi khi cũng có những động
tác nhún nhảy, lắc lư. Nhạc đại chúng sử dụng nhiều phương tiện hỗ trợ kích thích
thị giác, thính giác và nhu cầu vận động của cơ thể nhằm tạo nên những cảm giác
mạnh, nhiều khi đến mức kỳ quái để gây tò mò. Sự kết hợp các phương tiện biểu
hiện (múa, hình thể, kịch câm, hình ảnh,…) và các thiết bị sân khấu (âm thanh, ánh
sáng, khói màu,…) được vận dụng nhiều trong biểu diễn. Các tiết mục ÂNĐC
thường được gắn với hiệu ứng âm thanh điện tử, hiệu ứng sân khấu (sử dụng nhiều
đèn màu, nhấp nháy hoặc mờ ảo). Trang phục của ca sĩ, nghệ sĩ thuộc dòng nhạc đại
chúng rất phóng khoáng theo ý thích của mình, có thể rất đẹp, lạ mắt, nhưng cũng
có khi rất lập dị, lố lăng. Các nghệ sĩ nhạc đại chúng là những người có thể nâng
cao thẩm mỹ trong cách phục sức, nhưng cũng không ít người hạ thấp thẩm mỹ
trong lĩnh vực này (kiểu ăn mặc luộm thuộm của nhóm The Beatles, mái đầu xù phờ
phạc của nhóm Rolling Stones, hay kiểu ăn mặc hở hang, gợi tình của ca sĩ
Madonna,… nhiều khi trở thành “mốt” của những thanh niên lấy họ làm thần tượng).
Đặc điểm trong thưởng thức âm nhạc cũng tạo nên sự khác biệt giữa nhạc đại
chúng và nhạc cổ điển, “bác học”. Đó là, nhạc cổ điển thường được thưởng thức
trong điều kiện tĩnh tại, nghiêm túc (không nói chuyện, không ăn uống,… trong khi
thưởng thức) tại các địa điểm chuyên dụng cho hòa nhạc (nhà hát, phòng hòa
nhạc,…). Trái lại, nhạc đại chúng có thể được biểu diễn, thưởng thức ở bất kỳ đâu,
miễn là có không gian cho ban nhạc và cho khán giả (hội trường, sân vận động, sân
38
bay, bến cảng, trên nóc nhà, ngoài đường phố,…). Khán giả của nhạc đại chúng có
thể vừa nghe/xem biểu diễn, vừa nhún nhảy, thậm chí là ăn uống (trong các phòng
trà, hộp đêm) khi thưởng thức ÂNĐC. Tất nhiên, những khác biệt ấy, đôi khi cũng
chỉ là tương đối (thực tế, nhiều dàn nhạc giao hưởng vẫn được tổ chức ngoài trời
thay vì biểu diễn tại một nhà hát sang trọng dành riêng cho nhạc cổ điển). Điểm
khác biệt khá rõ giữa nhạc đại chúng và nhạc cổ điển ở phương diện thưởng thức,
đó là: Thông thường, khán giả của nhạc cổ điển biết rõ tác phẩm đang thưởng thức
là của nhạc sĩ nào sáng tác; còn khán giả của nhạc đại chúng chủ yếu là nhớ đến tên
tuổi của ca sĩ, ban nhạc đã biểu diễn hơn là nhạc sĩ đã sáng tác ra tác phẩm.
Trong quá trình toàn cầu hóa, ÂNĐC gắn liền với công nghiệp văn hóa, công
nghiệp giải trí, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông, mạng
Internet, với các đặc trưng cơ bản là tính đa phương tiện, tính tương tác và liên kết.
Tính đa phương tiện của ÂNĐC được thể hiện ở việc các phương tiện truyền thông
đều có thể tham gia vào sản xuất và truyền tải ÂNĐC. Khi ÂNĐC sử dụng đa
phương tiện truyền thông trong sản xuất và truyền tải thì tính tương tác giữa nghệ sĩ
với công chúng, giữa công chúng với tác phẩm ngày càng cao. Tính tương tác giúp
công chúng kết nối với ÂNĐC toàn cầu. Nó mở ra sự dân chủ trong thưởng thức và
sáng tạo nghệ thuật. Tính đa phương tiện và tính tương tác trong ÂNĐC được kết
nối thông qua các siêu liên kết (hyperlink) hoặc liên kết (link). Công chúng có thể
thưởng thức, tìm hiểu thông tin từ tác phẩm này sang tác phẩm khác thông qua các
tham chiếu. Nhờ đó, ÂNĐC mang tính lan truyền với tốc độ nhanh.
Tuy nhiên, vì gắn với công nghiệp văn hóa, sản xuất và tiêu thụ đại trà (mà ở
đó, nguyên tắc thương nghiệp thay thế cho nguyên tắc nghệ thuật), cho nên, ÂNĐC
bị biến thành một sản phẩm thương mại với mục đích doanh thu và lợi nhuận lớn.
Vì thế, ÂNĐC thường xuyên được dùng để khuyến khích người ta tiêu thụ hàng hóa
thông qua quảng cáo. Trong thời đại truyền thông, hình thức nghệ thuật của ÂNĐC
có khuynh hướng chiếm ưu thế hơn nội dung, chất lượng và ý nghĩa nghệ thuật.
Chính điều này là một trong những lý do khiến ÂNĐC mang nhiều “tai tiếng”, cho
dù ý nghĩa, mục đích ra đời của ÂNĐC là vô cùng to lớn và bản chất nghệ thuật của
nó cũng bình đẳng như bao thể loại nghệ thuật chân chính khác, là hướng tới cái đẹp
và giải quyết những nhu cầu về cái đẹp.
2.1.3. Nhận diện cái đẹp trong âm nhạc đại chúng Trước khi đi tìm cái đẹp trong ÂNĐC, chúng ta cần phải làm rõ một điều
rằng, bất kỳ thể loại nhạc nào, từ Pop, Rock, Ballad, Bolero,… cho đến giao hưởng,
thính phòng thì về bản chất của chúng vẫn là nghệ thuật âm nhạc. Nghĩa là chúng
đều sử dụng âm thanh và nhịp điệu để diễn tả tư tưởng và tình cảm của con người.
39
Sự khác nhau giữa chúng là phương thức trình diễn, là cấu trúc, hình thức âm
nhạc,… là những yếu tố thuộc về đặc trưng của từng thể loại. Tất nhiên, với mỗi thể
loại sẽ có những “cái đẹp” khác nhau, và cũng có cả những cái chưa đẹp biểu hiện
qua từng tác phẩm âm nhạc. Điều này phụ thuộc vào tài năng, đạo đức, lương tâm
nghề nghiệp, cũng như trách nhiệm xã hội của người nghệ sĩ. Luận án này không có
tham vọng đi vào từng thể loại cụ thể của âm nhạc, cũng như cái đẹp trong các yếu
tố cấu thành nên âm nhạc (cái đẹp trong cách tiến hành giai điệu, hòa thanh, cái đẹp
trong âm vực của từng loại nhạc cụ khác nhau,…), mà chỉ đi vào các đặc điểm
chung nhất của cái đẹp trong nghệ thuật âm nhạc. Hơn nữa, ÂNĐC ở đây được hiểu
là các sản phẩm âm nhạc được nhiều người biết đến và yêu thích, nó bao gồm nhiều
thể loại âm nhạc khác nhau. Do đó, cái đẹp trong ÂNĐC không nằm ngoài các đặc
điểm cơ bản của cái đẹp trong nghệ thuật âm nhạc nói chung.
Trước hết, cái đẹp trong âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng là sự phản ánh
một cách chân thực những cái đẹp trong cuộc sống. Mặc dù vậy, cái đẹp trong ÂNĐC
hoàn toàn không đồng nhất với cái đẹp trong tự nhiên, cũng như trong các sản phẩm
vật chất do con người sáng tạo ra. So với cái đẹp trong các lĩnh vực khác, cái đẹp
trong âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng là cái đẹp điển hình. Công việc sáng tạo
ra cái đẹp của người nghệ sĩ đã làm biến đổi hoàn toàn giá trị của sự vật, khiến cho
những cái bình thường, quen thuộc khi đi vào tác phẩm âm nhạc cũng trở nên mới
lạ, khác thường, cái bình thường cũng trở nên đẹp, cái vốn đã đẹp lại càng nổi bật
và hấp dẫn hơn; tạo nên một khoảng cách giữa cái đẹp và cuộc sống thường ngày.
Mặc dù tất cả những “phác họa” của âm nhạc không thể nào trực quan, cụ
thể như ở các ngành nghệ thuật tạo hình, vì âm nhạc chỉ có thể tái hiện rõ nét phần
nào những đặc trưng nghe thấy được (chứ không phải trông thấy được) của đối
tượng miêu tả, mà những đặc trưng nghe thấy được này thường chỉ gợi ý, cung cấp
một hình tượng không đầy đủ, với những nét “chấm phá” đặc thù của hình tượng
định mô tả. Tuy nhiên, chính tính trừu tượng cao của nghệ thuật âm nhạc lại là một
trong những thế mạnh riêng. Từ việc tổ chức các âm thanh âm nhạc một cách chặt
chẽ theo một hệ thống khúc thức logic, nhà soạn nhạc có thể phản ánh sự phong phú
của cuộc sống, cũng như đời sống nội tâm của con người bằng cả lối miêu tả trực
tiếp và gián tiếp, dựa vào mối liên tưởng giữa những cảm nhận từ thính giác, thị
giác, với những cảm giác khác (về ánh sáng, về màu sắc, về hình khối,…). Nhờ đó,
âm nhạc có thể “vẽ” ra cả những cái không nghe thấy nhưng có thể hình dung ra
(một ngày rực nắng hay một đêm khuya, ánh bình minh hay ánh chớp, một cảnh sa
mạc hay một rặng núi,…). Đặc biệt, khi thông qua ca từ, các ca khúc có thể miêu tả
(descriptive music) hay mô phỏng (imitative music) một cách sinh động và dễ dàng
40
hơn những sinh hoạt đời thường xảy ra hằng ngày trong cộng đồng xã hội.
Một đặc điểm khác của cái đẹp trong nghệ thuật âm nhạc so với cái đẹp trong
các lĩnh vực khác - đó là tính biểu cảm của cái đẹp trong âm nhạc. Bất cứ một cái
đẹp nào được âm nhạc mô tả và tái hiện thì đều gắn liền với nó là một thái độ, cảm
xúc, tình cảm mà người nghệ sĩ gửi gắm trong đó. Khi nghe kiệt tác Imagine
(Tưởng tượng) của John Lennon và Yoko Ono (sáng tác và phát hành năm 1971),
chúng ta cảm nhận rất rõ được mơ ước của tác giả về một thế giới không có người
giàu, người nghèo, không phân chia giai cấp, ai cũng lao động và ai cũng có cuộc
sống hạnh phúc. Trong cái dịu dàng, êm ả của những giai điệu đẹp đó có cả sự
quyến luyến, vấn vương của lòng người; nó dần thuyết phục, dẫn dắt người nghe tin
theo điều mà tác giả đã tin.
“What a wonderful world” (thế giới/cuộc đời sao đẹp thế) là bài hát của Bob
Thiele và George David Weiss, được ca sĩ da màu Louis Amstrong thu âm và phát
hành đầu tiên vào năm 1967 khi ông đã gần 67 tuổi. Ngay lập tức, nó đứng đầu
bảng xếp hạng đĩa đơn ở Anh và cho đến nay, nó vẫn nằm trong danh sách những
tác phẩm âm nhạc được yêu thích nhất ở thể loại nhạc Jazz. “What a wonderful
world” có giai điệu và ca từ tuyệt hay nhưng cũng rất giản dị, với niềm tin yêu cuộc
sống toát lên từ những hình ảnh và âm thanh gần gũi:
I see trees of green, red roses too
I see them bloom for me and you
And I think to myself what a wonderful world
I see skies of blue and clouds of white
The bright blessed day, the dark sacred night
And I think to myself what a wonderful world
Tạm dịch: Nhìn cành hồng đỏ thắm giữa đám lá non
Những đóa hoa thơm nở cho tôi cho bạn
Tôi bâng khuâng nghe trong tim mình
Ôi cuộc đời sao đẹp thế!
Nhìn màu trời thật xanh và sắc trắng đám mây
Ngày ấm nắng sớm mai, rồi đêm thiêng liêng về
Tôi bâng khuâng nghe trong tim mình
Ôi cuộc đời sao đẹp thế!
Như vậy, ngay cả khi miêu tả những cái đẹp của tự nhiên, người nghệ sĩ cũng
không thể không lồng vào đó tâm hồn, tình cảm của mình. Nói cách khác, ở đây,
nghệ sĩ đã “thổi hồn” mình vào đối tượng, khiến cho cái đẹp trong âm nhạc không
còn vô tư, khách quan, ngẫu nhiên như vẻ đẹp vốn có của nó trong tự nhiên. Điều
41
này lý giải vì sao với cùng một đối tượng phản ánh nhưng các nghệ sĩ khác nhau lại
cho ra đời những cái đẹp không giống nhau. Đó cũng là lý do để xem cái đẹp trong
âm nhạc cũng là một loại thông điệp chứa đựng những thông tin về đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, cái đẹp trong ÂNĐC còn là sự thống nhất giữa hai mặt nội
dung và hình thức. Bất cứ một yếu tố nào của hình thức cũng đều liên quan đến nội
dung, đều biểu hiện một nội dung nào đó. Vì vậy, nếu chỉ thay đổi một yếu tố của
hình thức cũng đủ kéo theo sự thay đổi về nội dung. Không thể có một sản phẩm âm
nhạc đẹp nếu điều muốn nói được trình bày bằng một “nghệ thuật” non nớt, kém
cỏi. Ở đây cần phải nhấn mạnh rằng, cái chính trong nội dung âm nhạc là những xúc
cảm - nó không thể miêu tả lại đầy đủ bằng lời nói được, cũng không thể kể lại một
cách chính xác, cặn kẽ được. Nhưng không phải vì thế mà cho rằng nội dung âm
nhạc không có gốc rễ trong thực tại khách quan. Trong những tình cảm và tâm trạng
của con người đều có phản ánh thế giới xung quanh, nguồn gốc của nó vẫn là cuộc
sống thực tế. Cho nên trong khi biểu hiện cảm xúc, âm nhạc cũng phản ánh thực tại.
Tác phẩm âm nhạc sinh ra từ cuộc sống, nên nó dứt khoát phải biểu hiện một nội
dung nào đó bên cạnh hình thức. Hơn nữa, “nhào nặn” được một tác phẩm âm nhạc
đẹp nhưng không có người thưởng thức, đánh giá nó thì cũng không có ý nghĩa gì;
tức là quá trình sáng tác phải đi đôi với quá trình tiếp nhận. Chính vì vậy, âm nhạc
viết về cái đẹp là để thỏa mãn nhu cầu cảm thụ, thưởng thức, đánh giá cái đẹp của
con người. Tuy nhiên, cái đẹp ở đây không hiểu đơn thuần chỉ là những điều tốt đẹp
lớn lao, mà thay vào đó, nó là một trường đa dạng với những cung bậc khác nhau:
cái bi, cái hài, cái xấu, cái ác, đôi khi cũng là những nốt nhạc đẹp ngân lên từ cung
đàn ấy. Do đó, cái đẹp trong ÂNĐC còn là tổ hợp thống nhất của cái chân và cái
thiện, sự cân xứng, hài hòa giữa nội dung và hình thức.
Mặt khác, âm nhạc là lĩnh vực độc đáo, mỗi tác phẩm đích thực phải là những
tác phẩm được xây dựng từ “ngòi bút” chân chính, mới lạ và sáng tạo, nó nhất thiết
phải là một “phát minh” về hình thức, một “khám phá” về nội dung. Từ cái “tôi”
phong cách độc đáo, người nghệ sĩ mới từng bước khám phá chiều sâu đầy bí ẩn của
tâm hồn con người và cuộc sống theo quy luật của cái đẹp và cũng từ đó, cái đẹp
trong âm nhạc ra đời cũng mang những “dáng hình” không giống nhau. Nhưng tựu
trung, đó đều là vẻ đẹp được tạo ra từ phong cách nghệ sĩ, gây cho người nghe những
khoái cảm thẩm mỹ nhất định. Nói cách khác, cái đẹp trong âm nhạc là cái mang
nhiều dấu ấn của chủ thể sáng tạo, là cái riêng, cái độc đáo. Đó cũng là lý do vì sao
khi cùng viết về một đề tài, ở cùng một thể loại nhưng ở hai nghệ sĩ khác nhau, hai
góc độ sản xuất âm nhạc khác nhau lại sinh ra những giá trị thẩm mỹ khác nhau.
Một tác phẩm âm nhạc chân chính vẫn có thể đẹp ngay cả khi nó nói về cái
42
xấu. Giá trị thẩm mỹ của tác phẩm lúc này được bộc lộ ở phương diện hình thức
nghệ thuật và bộc lộ trong cái đẹp của tâm hồn, tư tưởng của người nghệ sĩ khi họ
xuất phát từ một lý tưởng thẩm mỹ đúng đắn, tiến bộ để phê phán và phủ định cái
xấu, làm cho người ta nhận diện nó rõ hơn, căm ghét và tránh xa nó hơn. Và như
vậy, ngay cả khi âm nhạc trực tiếp phản ánh cái xấu thì đó cũng là một cách gián
tiếp khẳng định cái đẹp. Bởi, cái đẹp bao giờ cũng đứng ở vị trí trung tâm trong
nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng. Như thế có thể khẳng định rằng, âm
nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng chính là một phương tiện có nhiều ưu thế trong
GDTM cho con người.
Đến đây, chúng tôi muốn lưu ý rằng, ÂNĐC là các sản phẩm âm nhạc được
nhiều người biết đến và yêu thích, nhưng không phải bất cứ sản phẩm âm nhạc nào
được nhiều người biết đến và yêu thích cũng đều đẹp. Việc thưởng thức âm nhạc
của công chúng còn tùy thuộc vào “lỗ tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp
của hình thức” [8, tr.176] thì mới có sự cảm thụ được cái ngôn ngữ chung của âm
nhạc, cũng như mới có thể hiểu được cái hay, cái đẹp trong đó. Các Mác cũng đã
từng viết: “Đối với lỗ tai không thính âm nhạc thì âm nhạc hay nhất cũng không có
ý nghĩa gì cả” [8, tr.175].
Đề cập đến vấn đề này để thấy rằng, những sản phẩm ÂNĐC thu hút sự quan
tâm của đông đảo công chúng bao gồm cả những cái đẹp và những cái chưa đẹp.
Chỉ có tài năng, phong cách, lương tâm, trách nhiệm xã hội của người nghệ sĩ mới
có thể “vẽ” lên cái đẹp chân chính thông qua các tác phẩm của họ mà vẫn đảm bảo
có thể chinh phục được đông đảo công chúng, định hướng thẩm mỹ cho họ và trở
thành những sản phẩm ÂNĐC đích thực.
Có thể khái quát rằng, cái đẹp trong nghệ thuật âm nhạc nói chung, ÂNĐC
nói riêng chỉ có ý nghĩa khi nó gắn liền với cái chân và cái thiện, khi đó nó mới thật
sự đẹp theo đúng nghĩa của nó. Một sản phẩm âm nhạc chỉ thật sự chinh phục được
trái tim của công chúng khi nó “chạm khẽ” được vào tâm hồn họ một cách chân
thành nhất. Cho dù khoái cảm thẩm mỹ mà sản phẩm âm nhạc đó đem lại từ hình
thức nghệ thuật, từ sự làm chủ khéo léo của người nghệ sĩ, nhưng nếu nghệ sĩ bàng
quan trước những vấn đề trọng yếu của con người, chỉ theo đuổi cái đẹp đơn thuần
của những “âm thanh” hay những cách tân của hình thức thì chính nó đang tự hủy
diệt đi giá trị đích thực của mình.
2.1.4. Vai trò của âm nhạc đại chúng đối với sinh viên Vai trò của ÂNĐC đối với con người nói chung, sinh viên nói riêng được xác
định một cách gắn bó với khả năng biểu hiện và chức năng của âm nhạc trong đời
sống xã hội. Giống như mọi loại hình nghệ thuật khác, âm nhạc nói chung, ÂNĐC
43
nói riêng cũng mang trong nó các chức năng cơ bản, đó là: chức năng nhận thức,
chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ và chức năng giải trí. Dĩ nhiên, sự tách
bạch các chức năng này của âm nhạc chỉ mang tính tương đối, bởi vì trên thực tế, nó
luôn có sự liên kết chặt chẽ với nhau, nhiều khi hòa vào với nhau làm một. Điểm
khác biệt lớn nhất của âm nhạc so với các loại hình nghệ thuật khác khi phản ánh
cuộc sống nằm ở chính ngôn ngữ đặc trưng riêng của nó, đó là sự sắp xếp một cách
có tổ chức những âm thanh âm nhạc nhằm thể hiện hình tượng nghệ thuật.
Trong lĩnh vực âm nhạc nói riêng, ÂNĐC với tư cách là loại nhạc dễ nghe,
nó bao gồm các tác phẩm được nhiều người biết đến và yêu thích, vì thế, các sản
phẩm ÂNĐC có nhiều lợi thế hơn trong việc tiếp cận đối với mọi đối tượng, đặc
biệt là giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. ÂNĐC là một “món ăn” tinh thần
mà tất cả sinh viên đều ưa thích, là phương tiện có thể giúp cho việc tập hợp, lôi
cuốn, cổ vũ sinh viên một cách dễ dàng, cũng như thu hút được số lượng người
đông đảo cùng tham gia. Chỉ riêng điều đó cũng đã cho thấy ÂNĐC có một vị trí,
vai trò quan trọng như thế nào trong đời sống tinh thần của sinh viên. Tất nhiên, để
ÂNĐC phát huy được vai trò tích cực trong quá trình hoàn thiện nhân cách sinh
viên, ÂNĐC bắt buộc phải thực hiện được chức năng hàng đầu của mình, đó là chức
năng thẩm mỹ. Chức năng thẩm mỹ là điều kiện tiên quyết của một tác phẩm âm
nhạc. Nếu không phản ánh được cái đẹp trong nhận thức và cảm xúc thì đó không
thể được đánh giá là một tác phẩm nghệ thuật đích thực.
Trước hết, ÂNĐC giữ vai trò giải trí cho sinh viên. Giải trí là chức năng nổi
bật nhất của ÂNĐC, bởi nó dễ tiếp thu, dễ nhớ, đề cập đến mọi vấn đề trong đời
sống của công chúng, đi sâu vào tâm tư, tình cảm của con người. Vì vậy, việc
ÂNĐC phát triển mạnh, có ảnh hưởng sâu rộng, lâu bền đối với công chúng, được
sinh viên yêu thích là điều dễ hiểu. Ở đây, giải trí có một ý nghĩa thực sự nghiêm
túc, nó làm cho đầu óc con người nhạy bén, linh hoạt, sắc cạnh trước các biểu hiện
sinh động và phức tạp của đời sống.
Về cơ bản, sinh viên tiếp xúc với âm nhạc là để giải trí, giúp họ giải tỏa
những căng thẳng, nặng nề trong cuộc sống, trong học tập và làm việc. Bởi vì
không phải sinh viên nào cũng được đào tạo chuyên sâu về âm nhạc và mặc dù vẫn
có không ít sinh viên có khả năng sáng tạo nghệ thuật, nhưng vai trò chính của sinh
viên nói chung vẫn là người thưởng thức, “tiêu thụ” những sáng tạo nghệ thuật của
các nghệ sĩ, còn giải trí ở mức độ như thế nào sẽ còn tùy thuộc vào mục đích, tri
thức, sở thích và thị hiếu của mỗi người.
Tuy nhiên, âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng là “thế giới của cái đẹp”,
cho nên, khi sinh viên tìm sự thoải mái, nghỉ ngơi, thư giãn bằng âm nhạc, vô tình
44
họ lại buộc mình phải tư duy, rung cảm với cái đẹp. Nội dung tác phẩm âm nhạc
càng sâu sắc và phong phú bao nhiêu thì nhu cầu giải trí của sinh viên càng được
thỏa mãn đầy đủ bấy nhiêu. Lúc này, việc gia tăng yếu tố giải trí của tác phẩm
không dừng lại ở việc đáp ứng nhu cầu “vui chơi” của sinh viên mà còn làm cho tư
tưởng, nội dung của tác phẩm dễ đi vào “lòng người”, làm tăng khả năng tác động
của nghệ thuật âm nhạc vào tư tưởng, tình cảm, thị hiếu của sinh viên. Tất nhiên,
việc tuyệt đối hóa chức năng giải trí thường dẫn đến sự tước bỏ ý nghĩa xã hội tích
cực của ÂNĐC. Giải trí trong ý nghĩa lành mạnh nhất, có tác dụng phát triển trình
độ và thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên, ngoài việc gắn với chức năng thẩm mỹ, bao
giờ nó cũng thực hiện cả chức năng nhận thức, chức năng giáo dục của mình. Tách
biệt chức năng giải trí, đẩy nó lên như một chức năng cơ bản là hạ thấp vai trò tích
cực của ÂNĐC trong đời sống. Ngược lại, không quan tâm tới khía cạnh giải trí là
bỏ sót một khả năng tác động và tự giới hạn tầm ảnh hưởng của ÂNĐC trong đời
sống thực tiễn.
Thứ hai, ÂNĐC giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển trí tuệ cho sinh viên. Bằng
ngôn ngữ đặc trưng của mình, âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng đã phản ánh,
biểu đạt tư duy của người nghệ sĩ thông qua hình tượng nghệ thuật về các hiện
tượng thẩm mỹ, cũng như các khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội. Thông qua
các tác phẩm âm nhạc, sinh viên không những có thể nhận thức được phần nào tài
hoa, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ về phương diện âm nhạc, mà còn có thể
nhận thức thêm được những tri thức, những điều mà sinh viên thích thú và quan tâm
trong thực tiễn. Khi sinh viên tiếp xúc, thưởng thức các sản phẩm ÂNĐC có nội
dung phản ánh lịch sử của các thời kỳ khác nhau hoặc các nền văn hóa khác nhau,
họ sẽ dần biết được đặc điểm về văn hóa, xã hội, con người của từng vùng, miền
trong nước hay trên thế giới; thậm chí sinh viên còn có thể nắm bắt được các xu
hướng thời trang của các quốc gia khác nhau thông qua việc thưởng thức các sản
phẩm âm nhạc kết hợp với hình ảnh (MV). Hơn nữa, khi sinh viên tham gia vào các
hoạt động âm nhạc, được nghe giai điệu, tiết tấu, hòa âm của một sản phẩm ÂNĐC
mà sinh viên yêu thích, hoặc được mặc các bộ trang phục rực rỡ, được sử dụng các
nhạc cụ khi biểu diễn,… sẽ giúp sinh viên không chỉ nâng cao khả năng cảm thụ âm
nhạc cũng như cảm nhận màu sắc, mà còn giúp cho khả năng quan sát của sinh viên
ngày càng nhạy bén và linh hoạt hơn, nhất là đối với những tiết mục múa - hát tập
thể. Khi đó, đòi hỏi sinh viên vừa phải lắng nghe giai điệu âm nhạc, vừa phải ghi
nhớ vai diễn, đội hình chuyển động cùng lúc. Quá trình luyện tập để biểu diễn các
tiết mục như vậy đã góp phần rất lớn trong việc rèn luyện khả năng tư duy, ghi nhớ
cho sinh viên. Không những vậy, quá trình đó còn giúp sinh viên có thể tự hình
45
dung ra các động tác hình tượng phù hợp với nội dung của tác phẩm. Điều này giúp
cho trí tưởng tượng, óc sáng tạo của sinh viên ngày càng phong phú và tinh tế hơn.
Chính sự tiếp thu không chủ định này lại càng thúc đẩy sinh viên có nhu cầu
mở rộng hiểu biết, đồng thời rèn luyện thói quen văn hóa “lao động trí óc” cho sinh
viên. Đây cũng là lúc mà ÂNĐC thể hiện vai trò của mình trong hoạt động nhận
thức với tính cách là sự tái hiện một cách đặc thù thế giới hiện thực. Nói cách khác,
âm nhạc đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của công chúng, sinh viên, góp phần mở mang
tầm hiểu biết về thế giới, về con người cho họ. Nói về vấn đề này, A.Xokhor cũng
đã từng viết: “Một tác phẩm nghệ thuật còn có thể làm ta ưa thích vì nó đáp ứng
nhu cầu tìm hiểu của chúng ta: nó giới thiệu với chúng ta những con người, những
sự kiện, những đất nước mà ta chưa quen biết…” [48, tr.23].
Thứ ba, ÂNĐC góp phần GDTM cho sinh viên. Với những đặc thù riêng của
mình, ngôn ngữ của âm nhạc vốn là một thế mạnh trong việc “gợi lên” hình tượng
nghệ thuật và làm cho hình tượng nghệ thuật “đi thẳng vào con tim” của người
thưởng thức. Hệ thống ngôn ngữ ấy được “sống dậy” trong âm điệu và nhịp điệu
thông qua biểu diễn của người nghệ sĩ, phản ánh một cách lành mạnh hiện thực
cuộc sống cũng như tâm tư, tình cảm của con người; đồng thời, tạo nên sự đồng
điệu với vốn văn hóa của người thưởng thức âm nhạc, hướng họ vào thế giới nội
tâm, vào lý tưởng, tình cảm trong sáng, vào tâm hồn cao thượng để vươn tới tương
lai tươi đẹp.
So với các loại hình nghệ thuật khác, cái hay, cái đẹp trong âm nhạc nói
chung, ÂNĐC nói riêng mang tính điển hình hóa cao, được biểu hiện ngay trong
khả năng ước lệ đặc trưng mà chỉ mình nó mới có. Chẳng hạn như một bản nhạc
được viết ở “điệu trưởng” thường trong sáng, tươi vui, còn “điệu thứ” lại mềm mại,
man mác buồn; hay như kiểu nối tiếp giai điệu liền bậc, lượn sóng tạo cảm giác
uyển chuyển, trữ tình; trong khi sự xuất hiện nhảy quãng 4, quãng 5 kèm theo các
âm hình tiết tấu kiểu nhịp đi liên tục sẽ lại mang đến cho giai điệu tính hành khúc
mạnh mẽ và hùng tráng. Do đó, khi nhắc đến vai trò của âm nhạc nói chung, ÂNĐC
nói riêng trong GDTM, góp phần hoàn thiện nhân cách con người chính là nhắc đến
sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ của hệ thống âm thanh âm nhạc đã được “nhào nặn”
vào tâm tư, tình cảm của người thưởng thức và qua đó, làm cho người nghe tự điều
chỉnh mình, thúc đẩy chính mình hành động theo cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong
quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên.
Trong GDTM, ÂNĐC là một trong những phương tiện có khả năng đem lại
hiệu quả cao nhằm hình thành ở sinh viên quan hệ thẩm mỹ đúng đắn với hiện thực
và với nghệ thuật. Bởi vì bản thân ÂNĐC là những loại nhạc dễ nghe, dễ tiếp thu và
46
nó có lợi thế lớn là được đông đảo sinh viên biết đến, cũng như được sử dụng, được
nghe thường xuyên hơn so với các loại nhạc khác. Chính vì thế, các sản phẩm
ÂNĐC có nhiều điều kiện hơn để “chạm” tới cảm xúc của sinh viên. Hơn nữa, nội
dung, hình thức của các sản phẩm ÂNĐC thường đơn giản, không cầu kỳ, phức tạp
nhưng vẫn có thể truyền đạt một cách đầy đủ các thông tin, thông điệp đến với sinh
viên. Do đó, việc sử dụng ÂNĐC để tập trung GDTM cho sinh viên là cách làm có
nhiều lợi thế.
Khi tìm đến với các sản phẩm ÂNĐC có chất lượng cả về nội dung và hình
thức, chẳng hạn như thông qua các ca khúc về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về những
người lính “Bộ đội Cụ Hồ”,… sinh viên sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của những hình
tượng đó, để rồi họ có thể đặt ra cho mình một nguyện vọng, một lối sống tích cực
theo những tấm gương mà họ được biết đến qua các sản phẩm âm nhạc mà họ yêu
thích; đồng thời chính cái hay, cái đẹp trong các sản phẩm ÂNĐC đó sẽ có tác động
nhất định trong việc hình thành, củng cố và phát triển sâu sắc các tính cách để đảm
bảo cho một thị hiếu trở thành một thị hiếu thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật lành mạnh.
Điều đó cũng có nghĩa, ÂNĐC góp phần quan trọng đối với quá trình phát triển các
tư duy hình tượng của sinh viên, bởi vì khi tiếp thu được các hình tượng tốt đẹp
trong cuộc sống và trong âm nhạc, tâm hồn của sinh viên sẽ trở nên phong phú,
trong sáng hơn, từ đó thị hiếu thẩm mỹ cũng sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Sức mạnh giáo
dục sâu sắc và lâu bền của âm nhạc chân chính cũng bắt nguồn từ các mẫu lý tưởng
như vậy.
Có thể nói, sự tham gia của ÂNĐC trong GDTM cho sinh viên góp phần
quan trọng trong việc củng cố tình cảm của sinh viên, đồng thời định hướng những
thị hiếu lành mạnh, bồi đắp những lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp và hoàn thiện ý thức
thẩm mỹ đúng đắn cho sinh viên, hướng họ đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thứ tư, ÂNĐC góp phần giáo dục đạo đức cho sinh viên. Vai trò của ÂNĐC
trong giáo dục đạo đức cũng như trong GDTM luôn được hòa quyện với nhau nhằm
mục đích chung là hình thành cho sinh viên tình cảm ghét cái ác, yêu cái thiện, bênh
vực cái chính nghĩa, phản đối cái phi nghĩa, có quan niệm đúng đắn về cái đẹp. Xét
về mặt giáo dục đạo đức, âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng có thể thông qua
cảm xúc tác động đến tình cảm người nghe, khơi gợi ở họ những tình cảm trong
sáng, yêu cuộc sống, đầy tình thương và hành vi cao đẹp, từ đó tự nguyện từ bỏ
những thói hư tật xấu. Còn xét về mặt GDTM, âm nhạc đến với người nghe bằng vẻ
đẹp của bản thân nó, đó là sự hoàn chỉnh về đường nét tiết tấu, sự hài hòa về âm
thanh, màu sắc, đưa con người lại gần vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, đồng thời
khơi gợi ở họ những mối liên tưởng đẹp đẽ khác. Sự tương tác giữa con người với
47
nhau làm nảy sinh các giá trị thẩm mỹ mang tính xã hội, tức là đạo đức. Việc hoàn
thiện những mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên làm nảy sinh các giá trị
thẩm mỹ nghệ thuật. Do đó, thẩm mỹ thực ra bao trùm cả đạo đức lẫn nghệ thuật
nói chung, âm nhạc nói riêng.
ÂNĐC tham gia vào các nội dung giáo dục đạo đức thông qua các sản phẩm
âm nhạc với những nội dung sâu sắc như về tình bạn, tình yêu quê hương đất nước,
về hòa bình các dân tộc trên thế giới,… để hình thành trong sinh viên một nếp sống
theo chuẩn mực trong quan hệ với gia đình, bạn bè, thầy cô, cũng như có những
hành động đúng đắn để gìn giữ hòa bình,… Thông qua các hoạt động âm nhạc, đặc
biệt là các hoạt động mang ý nghĩa xã hội sâu sắc như “đền ơn đáp nghĩa”, “uống
nước nhớ nguồn”, ÂNĐC không những góp phần rèn luyện cho sinh viên tính tập
thể, tính cộng đồng cao, mà còn góp phần giáo dục cho sinh viên sự hiểu biết và
trân trọng các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tạo ra lối sống văn hóa cho sinh
viên, giúp họ vừa có ý thức tự giác, chủ động, vừa nhận thức được những giới hạn
cụ thể trong thái độ và hành vi của mình.
Như thế, âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng tham gia vào giáo dục đạo đức
cho sinh viên không phải bằng cách “cưỡng bức”, nó không răn dạy người ta những
phép tắc ứng xử cụ thể, nhưng lại có khả năng thức tỉnh tình cảm con người ở
những cung bậc hết sức tinh vi và tế nhị thông qua những “tấm gương” lớn. “Tấm
gương” đó phản chiếu cả những hình ảnh đẹp đẽ lẫn những bóng dáng xấu xa, nó
biến cái đẹp trở nên rực rỡ hơn, còn cái xấu, cái ác thì hiện ra một cách tồi tệ hơn để
từ đó, con người nói chung, sinh viên nói riêng biết từ bỏ, đấu tranh chống lại
những cái xấu, cái ác; đồng thời soi mình vào trong “tấm gương” đó để tự điều
chỉnh hành vi, ứng xử của bản thân. Đó chính là quá trình tự giáo dục vô cùng sâu
sắc mà nghệ thuật âm nhạc đem đến cho sinh viên.
Sở dĩ âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng là phương tiện truyền tải thông
điệp đạo đức một cách dễ dàng và có sức lan tỏa rộng rãi là bởi chính những giai
điệu trầm bổng dễ đi vào “lòng người” của âm nhạc đã tạo dựng sự đồng cảm sâu
sắc trong tâm hồn của sinh viên. Các sản phẩm ÂNĐC có khả năng tác động trực
tiếp vào tình cảm của sinh viên trước khi trí tuệ kịp nhận thức hiện tượng văn hóa
âm thanh này.
Thực tế đã có rất nhiều trường hợp có thể chứng minh cho những khả năng
“khác thường” này của nghệ thuật âm nhạc. Với sức sống mãnh liệt cũng như khả
năng truyền cảm mạnh mẽ của mình, các sản phẩm ÂNĐC được sử dụng như là một
vũ khí hữu dụng và đáng tin cậy trong việc kêu gọi, tập hợp, khích lệ, nâng cao tinh
thần yêu nước và sức chiến đấu cho mỗi người dân và các chiến binh khi ra trận.
48
Điều này được thể hiện rõ nét nhất qua lịch sử đấu tranh cách mạng của toàn Đảng,
toàn quân và nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến “thần thánh” ở thế kỷ XX. Các
tác phẩm âm nhạc hừng hực khí thế “tiếng hát át tiếng bom” đã tiếp thêm sức mạnh
tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang
của toàn dân tộc trong công cuộc giải phóng, bảo vệ và dựng xây đất nước. Như
vậy, khi tác động đến con người nói chung, sinh viên nói riêng, ÂNĐC đã “thức
tỉnh” một cách mạnh mẽ trong con người đó tất cả những gì là tốt đẹp, tìm được sự
hưởng ứng trong những khía cạnh ưu tú nhất của tâm hồn người ấy, giúp họ có
niềm tin mãnh liệt vào những giá trị đạo đức tốt đẹp.
Thứ năm, ÂNĐC góp phần phát triển thể chất và các kỹ năng xã hội cho sinh
viên. Khi sinh viên tham gia vào các hoạt động âm nhạc như ca hát, các trò chơi vận
động kết hợp với âm nhạc cũng như chơi các nhạc cụ, họ sẽ có những trải nghiệm
có tính thử thách, giúp hỗ trợ sự phát triển kỹ năng vận động: Từ những cử động
đơn giản đến các động tác đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế, sự phối hợp vận động toàn bộ
cơ thể cũng như phân định thời gian cho các động tác. Các hoạt động này tạo nên sự
kích thích quan trọng đối với thần kinh, các giác quan, giúp sinh viên biết cách kiểm
soát vận động các bộ phận, sự thăng bằng và khả năng nhận thức đối với cơ thể.
Việc vận động theo nhạc giúp sinh viên phát triển cơ bắp và các tố chất như độ bền,
độ linh hoạt, dẻo dai, tính chính xác, sự nhanh nhạy,…
Theo các nhà tâm lý học, vấn đề mấu chốt của việc vận động theo nhạc nằm
ở mối tương quan giữa hoạt động thể chất và hoạt động trí não. Các nghiên cứu đã
chỉ ra rằng sự luân phiên giữa vận động thể lực và vận động trí não có tác động tích
cực đến sức khỏe của con người nói chung và sinh viên nói riêng, nhờ đó cường độ
và chất lượng của hoạt động trí não được nâng cao. Bên cạnh đó, việc tham gia vào
các hoạt động âm nhạc còn giúp sinh viên có điều kiện để rèn luyện sự tự tin, học
cách hoạt động tập thể, xử lý các tình huống và ra quyết định. Đây chính là môi
trường để họ “xã hội hóa” bản thân, thể nghiệm quá trình lớn lên và trưởng thành; là
nơi họ học cách tự điều khiển thế giới riêng của mình, chứ không đơn thuần chỉ để
lấp đầy thời gian rỗi của bản thân.
Ngoài những vai trò kể trên, các nhà khoa học trên thế giới còn cho rằng, âm
nhạc nói chung có khả năng cải thiện ngôn ngữ và trí nhớ, nhằm giúp những người
mất trí có thể phục hồi tư duy, làm “sống lại” ký ức của mình. Hơn nữa, âm nhạc
nói chung, ÂNĐC nói riêng còn là một liệu pháp chữa bệnh làm giảm các cơn đau,
phấn khích, giúp người bệnh phục hồi sức khỏe nhanh hơn. Nhờ tác dụng cải thiện
kỹ năng giao tiếp với cộng đồng, âm nhạc còn được dùng để chữa trị bệnh tự kỷ,
trầm cảm, tâm thần. Ở nhiều nước còn lập ra một chuyên ngành có tên Âm nhạc
49
điều trị học (Music Therapy).
Như vậy có thể khẳng định rằng, âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng chính
là một loại “thần dược” của tâm hồn và sức khỏe của con người. Nó vượt qua những
rào cản ngôn ngữ của bất kỳ quốc gia nào, trở thành thứ ngôn ngữ chung của loài
người. Vì thế, âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng luôn giữ một vai trò quan trọng
trong đời sống tinh thần của con người, là phương tiện để giao tiếp, để giáo dục về
cái đẹp và hơn hết nó là một trong những phương tiện quan trọng góp phần hoàn
thiện nhân cách con người nói chung, sinh viên nói riêng.
2.1.5. Cơ chế tác động của âm nhạc đại chúng đối với sự hình thành ý
thức thẩm mỹ của sinh viên
Không ai có thể phủ nhận rằng, âm nhạc có khả năng tác động đến tâm trạng
con người. Chúng ta nghe nhạc để thư giãn khi bị căng thẳng, để cảm thấy “nhẹ
nhõm” và phấn chấn hơn. Chính vì thế, âm nhạc còn được sử dụng để “thao túng”
cảm xúc của con người. Điều này dễ nhận thấy nhất khi âm nhạc được kết hợp với
điện ảnh, sân khấu (âm nhạc rùng rợn cho những cảnh kinh dị, hay âm nhạc buồn bã
cho những bi cảnh,…). Những trải nghiệm âm nhạc diễn ra trong thực tế rất đa dạng
và phức tạp, phụ thuộc vào vô vàn các yếu tố như địa điểm, hoàn cảnh, tâm trạng sẵn
có của người nghe, ca từ và hình ảnh đi kèm âm nhạc,… Cùng một lúc, các yếu tố
này tác động lên tâm trạng, ý thức của người nghe.
Vấn đề đặt ra là: Tại sao âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng lại có sức tác
động mạnh mẽ, có khi như một công cụ có sức công phá dữ dội, có khi tạo ra những
động lực kích thích sự phát triển và có khi lại như là một nguồn khí chất năng lượng
tạo dựng niềm tin cho hàng triệu con người. Vậy cơ chế tác động của ÂNĐC như thế
nào đối với sự hình thành ý thức thẩm mỹ? Theo “Từ điển tiếng Việt”, “cơ chế: cách
thức theo đó một quá trình thực hiện” [63]. Như vậy, tìm hiểu cơ chế tức là tìm hiểu
các yếu tố; công đoạn và trình tự diễn ra, cũng như mối quan hệ chặt chẽ, quy định
lẫn nhau giữa các yếu tố và công đoạn ấy.
Ý thức thẩm mỹ là một phạm trù thể hiện chủ thể thẩm mỹ một cách bao quát
nhất; là sự phản ánh thực tại một cách toàn vẹn, sinh động, đầy sắc thái tình cảm,
nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức, đánh giá và sáng tạo hiện thực theo quy luật của
cái đẹp. Nó được cấu thành bởi những phạm trù thẩm mỹ khác vốn là những thành tố
quan trọng phụ thuộc và làm nên nó, như cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ và lý
tưởng thẩm mỹ.
Việc mô tả cơ chế tác động của âm nhạc hay ÂNĐC thường rất khó khăn vì
tính phức tạp, đa chiều của nó trong các mối quan hệ. Vì vậy, trong nghiên cứu này,
chúng tôi đã trừu tượng hóa một số yếu tố, cũng như mối quan hệ để có thể nêu ra
50
một mô hình về cơ chế tác động của ÂNĐC [xem Hình 2.1].
Hình 2.1: Mô hình về cơ chế tác động của ÂNĐC đối với
sự hình thành ý thức thẩm mỹ của sinh viên Từ mô hình trên ta thấy, các sản phẩm ÂNĐC là khâu trung gian giữa chủ
thể sáng tạo (đồng sáng tạo) và chủ thể tiếp nhận (công chúng sinh viên). Ở đây, sản
phẩm ÂNĐC là đối tượng chủ yếu của mối quan hệ thẩm mỹ âm nhạc. Mặt khác, đề
cập đến chủ thể đồng sáng tạo là bởi vì, để một sản phẩm âm nhạc đến được với
công chúng sinh viên phải trải qua nhiều khâu, với sự đóng góp, sáng tạo của các
nhóm chủ thể thẩm mỹ khác nhau, như: Chủ thể sáng tạo thẩm mỹ: Nhạc sĩ (tác
giả), là những người sáng tác ra các tác phẩm âm nhạc. Chủ thể biểu hiện thẩm mỹ:
Nghệ sĩ biểu diễn (ca sĩ, ban nhạc, nhóm nhạc), là những người lựa chọn để thể hiện
tác phẩm sao cho phù hợp và hiệu quả, chuyển tải được ý đồ của tác giả đã đưa vào
tác phẩm. Nhóm này chính là người sáng tạo lần thứ hai tác phẩm âm nhạc đó. Chủ
thể thẩm mỹ tổng hợp: Nhạc sĩ hòa âm, phối khí, nhà chỉ huy, dàn dựng, tổ chức,
sản xuất âm nhạc,... Dựa trên tính chất của tác phẩm và giọng hát của ca sĩ (hoặc
biên chế nhạc cụ của ban nhạc), nhóm này là người sáng tạo tiếp theo để sản xuất ra
một sản phẩm âm nhạc phù hợp và hoàn chỉnh nhất. Tất nhiên, sự phân chia này chỉ
có tính tương đối, vì trên thực tế, các nhóm chủ thể này không tồn tại hoàn toàn tách
biệt nhau, mà có sự xâm nhập, chuyển hóa tùy theo từng mối quan hệ cụ thể.
Như vậy, quá trình tiếp nhận ÂNĐC bao gồm ba yếu tố: người sáng tạo - sản
phẩm âm nhạc - người tiếp nhận. Thực chất của quá trình tiếp nhận ÂNĐC chỉ gồm
hai quá trình. (1) Đó là quá trình chiếm lĩnh nghệ thuật âm nhạc về hiện thực và kết
quả là công chúng sinh viên có sản phẩm âm nhạc để thưởng thức. (2) Đó là quá
trình chiếm lĩnh thẩm mỹ về sản phẩm âm nhạc mà kết quả là trong công chúng sinh
viên hình thành ý nghĩa tổng thể của sản phẩm âm nhạc đó. Chủ thể của quá trình
đầu là người sáng tạo, của quá trình sau là người tiếp nhận, thưởng thức. Sự chiếm
51
lĩnh nghệ thuật âm nhạc về hiện thực và chiếm lĩnh thẩm mỹ về sản phẩm âm nhạc
đều được thực hiện qua ba bước: đánh giá, giải thích và mô tả. Về phía người sáng
tạo, mà cụ thể là nhạc sĩ - đòi hỏi phải nhạy cảm với những vấn đề của hiện thực,
phản ánh một cách chân thực những cái đẹp trong cuộc sống; sau đó mới truyền tải
nó theo cá tính sáng tạo của riêng mình. Kết quả của quá trình này là sự ra đời của
một tác phẩm âm nhạc (chưa được công bố đến công chúng). Tiếp nhận ÂNĐC về
phía người thưởng thức (ở đây là sinh viên) bao hàm các khái niệm cảm thụ, đồng
cảm, thưởng thức, lý giải, xem xét sản phẩm âm nhạc đó, giữa sáng tác âm nhạc và
tiếp nhận âm nhạc không tách rời nhau. Công việc sáng tác của nhạc sĩ chỉ là hoàn
thành tác phẩm. Chỉ khi nào tác phẩm được “nhào nặn” để trở thành một sản phẩm
hoàn chỉnh, được người thưởng thức tiếp nhận nó thì mới hoàn tất.
Có thể nói, chủ thể tiếp nhận ÂNĐC là chủ thể thẩm mỹ hưởng thụ và đánh
giá. Đó là những chủ thể tiêu thụ các giá trị nghệ thuật và trên cơ bản là chủ thể thụ
cảm. Vì vậy, quan hệ thẩm mỹ trong cơ chế tác động này là quan hệ tiêu dùng nghệ
thuật. Giá trị của mỗi sản phẩm âm nhạc do mối quan hệ giữa khách quan và chủ
quan quyết định; song bản chất xã hội của nó lại gắn rất chặt với các quá trình thụ
cảm của công chúng. Như thế, ÂNĐC - những sản phẩm âm nhạc được nhiều người
yêu thích chính là được hình thành từ sự vận động mạnh mẽ của cơ chế tiếp nhận
thông qua “cửa ngõ thứ hai - thính giác, xét về mặt thẩm mỹ là cửa ngõ ưu tiên gần
như hoàn toàn giành cho âm nhạc [42, tr.171]. Không những thế, với sự phát triển
mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông “nghe - nhìn” hiện nay, âm nhạc đã đến
với công chúng bằng cả thính giác và thị giác (mắt nhìn, tai nghe), làm cho hiệu quả
của nó tăng thêm gấp bội và ngày càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn.
Khi nghiên cứu cơ chế tác động của ÂNĐC tới sự hình thành ý thức thẩm mỹ
cá nhân, chúng ta cần xem xét mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng trong các điều
kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Vai trò của ý thức cá nhân, nhân sinh quan, thế giới
quan người tiếp nhận có một ý nghĩa rất quan trọng. Sự tự lựa chọn các giá trị nghệ
thuật âm nhạc nào là do bản lĩnh và cơ chế tiếp nhận quyết định. Các sản phẩm
ÂNĐC ở mỗi thời đại đều phản ánh các tâm lý xã hội, các tâm trạng đa dạng. Sinh
viên với tư cách là người tiêu dùng ÂNĐC trong các bối cảnh đó có thể bị ÂNĐC
lôi cuốn vào các vùng ảnh hưởng của nó. Nó có thể tạo cho công chúng sinh viên
một thị hiếu mới, hoặc có thể làm méo mó thị hiếu của họ. Bản lĩnh tiếp nhận có thể
tự thay đổi tính bền vững của thị hiếu, hoặc củng cố tính bền vững đó. Quá trình thụ
cảm âm nhạc là một quá trình biến các năng lượng thẩm mỹ của sản phẩm âm nhạc
thành các sự kiện thẩm mỹ của ý thức. Đó là việc thỏa mãn nhu cầu, hình thành thị
hiếu, cổ vũ lý tưởng. Đây là một quá trình cả tình cảm và lý trí đều tham gia.
52
Vậy bằng con đường nào mà ÂNĐC có thể tác động đến sự hình thành ý thức
thẩm mỹ của sinh viên?
Thứ nhất, tác động bằng khoái cảm thẩm mỹ. Nếu phạm trù trung tâm của
sáng tạo âm nhạc là cảm hứng nghệ thuật, thì phạm trù trung tâm của thụ cảm âm
nhạc là khoái cảm thẩm mỹ. Đó là sự cảm thụ những giá trị thẩm mỹ mang lại cho
con người những khoái cảm tinh thần. Vì vậy, mục tiêu tác động của ÂNĐC phải
tạo được khoái cảm thẩm mỹ cho người được tác động - sinh viên. Để tạo được
khoái cảm thẩm mỹ cho công chúng sinh viên, ÂNĐC cần phải có sự hấp dẫn cả về
nội dung lẫn hình thức. Sự hấp dẫn của mỗi một sản phẩm âm nhạc thực chất không
phải chỉ ở hình thức của nó, mà chủ yếu do nội dung quyết định. Theo quan điểm của
Chủ nghĩa Mác, nội dung và hình thức thống nhất là đặc điểm của một tác phẩm nghệ
thuật có giá trị. Song, trong cái kết cấu của nội dung và hình thức ấy thì vai trò quyết
định là ở nội dung. Nội dung mà “nghèo nàn” thì hình thức trở thành “trống rỗng”.
Chúng ta không thể phủ nhận cái đẹp đem lại khoái cảm đặc biệt, cái khoái
cảm mà kinh nghiệm khác không thể sản sinh, bởi bất cứ kinh nghiệm nào cũng có
tính đặc thù của nó. Có khi khoái cảm cái đẹp được giải thích là sức mạnh của âm
nhạc, và có khi lại là một cái khiến cho tâm hồn, tinh thần có chỗ để “nương tựa”. Ở
đây, yếu tố tâm lý có ý nghĩa hết sức quan trọng tới quá trình tạo ra khoái cảm thẩm
mỹ. Sự phản ánh cái đẹp trong ÂNĐC mở ra cho người thưởng thức, công chúng
sinh viên bằng hàng loạt các trạng thái tâm lý khác nhau, từ đó tác động đến cảm
xúc, tình cảm. Cảm xúc thẩm mỹ chính là “cảm xúc nhân văn mà nền tảng là sự
rung động trước cái đẹp” [33, tr.99]. Từ những rung động ban đầu, dần dần hình
thành một nhận thức thẩm mỹ trong tư duy của con người về một đối tượng cụ thể
quanh ta. Đó có thể là sự thích thú, hân hoan, vui sướng trước cái đẹp; là nỗi xót
thương, đồng cảm trước cái bi; là niềm cảm phục, tôn kính trước cái cao cả (cái trác
tuyệt), cái anh hùng,... Trong âm nhạc, cảm xúc thẩm mỹ vô cùng quan trọng, đó là
bước đầu tiên của tình cảm con người, là cơ sở cho việc phát triển thị hiếu nghệ
thuật. Sự hiện diện của nó là kết quả của một hoạt động có mục đích hết sức “vô tư”
- hoạt động thẩm mỹ, là hoạt động không nhằm đeo đuổi một lợi ích thực dụng vật
chất trực tiếp nào, không bị một áp lực bản năng nào đè nén, dẫn dắt.
Khi đề cập đến cái đẹp trong ÂNĐC, chúng tôi cũng đã khẳng định rằng, cần
phải đặt cái đẹp trong mối quan hệ chặt chẽ với các cung bậc khác nhau. Do đó,
khoái cảm thẩm mỹ do cái đẹp trong ÂNĐC mang đến cho công chúng sinh viên
không đơn thuần là những điều tươi sáng, mà đôi khi nó được ẩn dưới cả những bi
kịch hay có thể gọi là những bi kịch lạc quan. Trong bi kịch lạc quan, một chiến sĩ
cách mạng ngã xuống, thì chính sự hy sinh đó đã thôi thúc trăm ngàn chiến sĩ cách
53
mạng lớp sau đứng lên. Sự hy sinh của những nhân vật anh hùng không chỉ phản
ánh cuộc chiến đấu hào hùng, mãnh liệt trong những giai đoạn lịch sử của đời sống,
mà từ cái đẹp trên mức bình thường này đã cuốn hết hàng vạn người vươn dậy bảo
vệ và làm cho cuộc sống đẹp hơn. Vì thế, cái đẹp trong âm nhạc luôn mang lại
những khoái cảm đặc biệt cho công chúng sinh viên.
Mặt khác, ÂNĐC với lợi thế được đông đảo sinh viên yêu thích nên chắc
chắn chúng có nhiều điều kiện hơn để “chạm” tới cảm xúc của sinh viên. Khi cảm
thụ một sản phẩm âm nhạc mà sinh viên yêu thích, thì họ không chỉ đơn thuần có
cảm xúc thẩm mỹ, mà thông qua tình cảm thẩm mỹ, tình cảm nói chung của con
người như niềm tin và khát vọng, nụ cười và nước mắt, tình yêu và lòng căm thù,
thiện cảm và ác cảm, hạnh phúc và khổ đau, niềm vui và nỗi buồn đều được âm
nhạc kết hợp một cách độc đáo, bổ sung, cân bằng, hạn chế và thanh lọc lẫn nhau để
sinh viên biết sống xứng đáng với chính mình vì một cuộc sống tốt hơn, đẹp hơn.
Đây cũng chính là cơ sở giúp con người nói chung, sinh viên nói riêng hình thành
nên những ý thức thẩm mỹ đúng đắn, kích thích các tình cảm lành mạnh, góp phần
tăng cường ý chí, xóa bỏ nỗi buồn và tạo một nguồn năng lượng mới cho tình cảm.
Nguồn gốc của khoái cảm thẩm mỹ do âm nhạc hay ÂNĐC đem lại cho công
chúng sinh viên là do bản thân đối tượng được phản ánh đem lại. Trong các sản
phẩm ÂNĐC, sinh viên tìm thấy những điều mà họ thích thú, quan tâm, biểu hiện
chân thực cái đẹp trong cuộc sống quanh họ. Để có được khoái cảm thẩm mỹ,
không nhất thiết người nghệ sĩ phải giới thiệu cho công chúng sinh viên một cái gì
đẹp, mà điều quan trọng là sinh viên cảm thấy được trong các sản phẩm âm nhạc mà
họ thưởng thức, và cùng chia sẻ với nghệ sĩ cách hình dung về cái đẹp, cái xấu, cái
lý tưởng thẩm mỹ của người nghệ sĩ thông qua các sản phẩm âm nhạc của họ. Trong
trường hợp này, nguồn gốc của khoái cảm mà ÂNĐC đem lại, đó là sự thống nhất
giữa nội dung hay (có nghĩa là chân thực, sâu sắc, tiên tiến về ý nghĩa tư tưởng và
thẩm mỹ) và hình thức (có nghĩa là sắc nét, thể hiện một cách điêu luyện, hoàn hảo)
tương ứng với nội dung ấy đến mức tối ưu.
Thứ hai, tác động bằng hình tượng thẩm mỹ. Hình tượng thẩm mỹ là hình
thức phản ánh cuộc sống của nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng. Hình tượng
thẩm mỹ chính là những cảm xúc, thị hiếu, tình cảm, lý tưởng thẩm mỹ được “hòa
trộn” lại thành những hình ảnh cảm quan nhằm bộc lộ bản chất xã hội, bản chất con
người. Hình tượng thẩm mỹ là cơ sở để tạo nên hình tượng nghệ thuật. Hình tượng
thẩm mỹ là tấm gương phản ánh đời sống xã hội, hàm chứa cả nội dung lẫn hình
thái, nhưng chủ yếu là hàm chứa nội dung của đời sống bên trong, đem lại những
cảm xúc và nhận thức thẩm mỹ. Hình tượng thẩm mỹ có thể do thiên tạo, nhưng
54
hình tượng nghệ thuật nhất thiết phải là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ.
Như vậy, một sản phẩm ÂNĐC chỉ được coi là thành công khi xây dựng
thành công hình tượng nghệ thuật trong âm nhạc (được biểu hiện thông qua “ngôn
ngữ” là âm thanh). Hình tượng âm nhạc mở ra đầu tiên ở chủ đề âm nhạc (nếu nó là
cơ sở của tác phẩm âm nhạc), sau đó là trong quá trình phát triển các chủ đề âm
nhạc. Trong quá trình phát triển đó, có khi là sự mở rộng biến hóa, bổ sung, có khi là
sự xuất hiện chủ đề mới tạo sự tương phản, xung đột giữa các chủ đề tạo nên hình
tượng sinh động, sâu sắc. Chủ đề trong âm nhạc là ý nhạc cơ bản được trình bày một
cách rõ ràng trong quan hệ giai điệu và cấu trúc, thể hiện ở chất liệu âm nhạc được cá
tính hóa. Chủ đề âm nhạc gắn liền với ngôn ngữ âm nhạc, được thể hiện một cách cụ
thể bằng một giai điệu, một ý nhạc, hoặc có thể là một tiết tấu, vài nốt nhạc, vài hợp
âm mang tính đặc sắc, cô đọng nhất, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ liên tưởng, dễ cảm nhận.
Chủ đề âm nhạc và hình tượng âm nhạc có mối liên hệ gắn bó với nhau nhưng
không đồng nhất với nhau. Nó gắn bó với nhau bởi lẽ, mỗi một chủ đề âm nhạc sẽ
mang lại một hình tượng âm nhạc, nếu như không ngay tức khắc thì cũng sẽ ít nhiều
bộc lộ trong toàn bộ tác phẩm. Nó không đồng nhất ở chỗ: Khái niệm chủ đề âm nhạc
quan hệ đến chất liệu âm nhạc; là ý nhạc cụ thể. Chủ đề âm nhạc thuộc lĩnh vực lý
thuyết, lý luận âm nhạc. Còn hình tượng âm nhạc mang tính chất mở rộng hơn. Nó là
khái niệm thuộc quy tắc thẩm mỹ, hoàn toàn mang tính mỹ học. Đó là trạng thái tâm
hồn, nhận thức lý trí của con người thông qua những phương tiện biểu hiện của ngôn
ngữ âm nhạc mà hình thành. Do đó, hình tượng âm nhạc mang tính ước lệ, tính trừu
tượng và khái quát cao về tư duy, cảm xúc của nhà soạn nhạc. Nó phản ánh cuộc
sống trực tiếp bằng các hình tượng âm thanh và nhịp điệu (tiếng suối róc rách, tiếng rì
rào của gió, mưa, bão, tiếng chim hót, tiếng ngựa hí, tiếng máy móc, tàu hỏa, tiếng
súng, tiếng khóc, cười, ca thán, kêu thét,…); đồng thời, nó phản ánh từng phần tạo sự
liên tưởng qua cảm xúc âm nhạc (những trạng thái tâm lý như nỗi đau khổ, uất ức,
nghẹn ngào, nỗi lo âu, khắc khoải, hoang mang, niềm hạnh phúc, nhớ thương,… hay
những tư duy triết lý của con người như định mệnh, số phận, sóng gió cuộc đời, cái
thiện - cái ác, cái đẹp - cái xấu,… được thể hiện thông qua mối liên hệ của những
cảm xúc về mặt nội tâm trước hình tượng của sự vật, hiện tượng với cảm xúc về mặt
nội tâm của hình tượng đó trong âm nhạc). Chính vì thế, hình tượng âm nhạc nảy sinh
ở mỗi con người và mỗi tác phẩm là khác nhau. Nó không cố định mà rất linh hoạt,
uyển chuyển. Do đó, để nhận thức được hình tượng âm nhạc một cách chân thực và
sâu sắc, chúng ta cần phải kết hợp tính ước lệ của hình tượng âm nhạc với yếu tố liên
tưởng cùng vốn sống, vốn văn hóa âm nhạc của mỗi người.
Để hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm âm nhạc được nổi bật, có sức
55
truyền cảm và thuyết phục mạnh mẽ, thì nghệ thuật phối khí cũng đóng một vai trò
hết sức đáng kể. Chẳng hạn, để diễn tả một khung cảnh đồng quê Việt Nam thì
không gì thể hiện hiệu quả bằng một giai điệu nhẹ nhàng có thang âm ngũ cung,
được thổi lên bởi tiếng sáo trúc quen thuộc. Chính khối âm thanh tổng hợp và âm
sắc của các loại nhạc cụ trong dàn nhạc đó đã tạo ra những hiệu quả đa dạng cho sự
liên tưởng của người nghe. Nếu đặc thù mỗi giai điệu vẽ nên một hình tượng nghệ
thuật nhất định, thì khối âm thanh tổng hợp của dàn nhạc (thông qua phối khí) sẽ
diễn đạt được một nhóm hình tượng âm nhạc hoặc nhiều hình tượng âm nhạc khác
nhau. Bởi vậy, tác phẩm âm nhạc phối cho dàn nhạc có khả năng tạo nên một bức
tranh toàn cảnh của hiện thực sinh động; đồng thời, nêu bật được những nội dung tư
tưởng mang ý nghĩa thời đại. Đối với thể loại âm nhạc có lời (thanh nhạc) lại càng
có điều kiện thuận lợi hơn để người nghe cảm nhận được ý đồ, hình tượng, nội dung
mà nhạc sĩ muốn phản ánh. Cũng chính vì lợi thế này mà ca khúc chiếm một vị trí
rất quan trọng và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng; đặc biệt những ca khúc đại
chúng có giai điệu dễ nghe, dễ hát lại có một lợi thế rất lớn, đáp ứng nhu cầu và thị
hiếu thưởng thức âm nhạc rộng rãi của con người hiện đại ngày nay.
Như vậy, hình tượng thẩm mỹ trong ÂNĐC đem lại cho sinh viên không
những là cảm xúc và nhận thức thẩm mỹ mà nó còn đem lại những nhận thức chung
về cuộc sống bằng tư duy hình tượng, gợi cho công chúng, sinh viên sâu chuỗi
những hình ảnh cụ thể, sinh động về một đối tượng nào đó của đời sống hiện thực.
Hình tượng thẩm mỹ nói chung và hình tượng âm nhạc nói riêng là phương tiện đặc
thù để giao tiếp thẩm mỹ.
Thông qua các phương thức diễn tả bằng hình tượng âm nhạc phù hợp, các
sản phẩm ÂNĐC đem đến cho sinh viên những giai điệu và tiết tấu mới từ cuộc
sống sinh động, muôn màu, muôn vẻ đang diễn ra xung quanh, giúp họ hiểu biết
thêm các vấn đề của xã hội, của con người; góp phần định hướng đúng đắn tình
cảm, củng cố các thị hiếu thẩm mỹ và mở rộng lý tưởng thẩm mỹ cho sinh viên.
Điều này làm cho sinh viên thích thú và có khả năng làm thỏa mãn nhu cầu nhận
thức qua tiếp xúc với âm nhạc của họ. Chính từ những nhu cầu thẩm mỹ mà ý thức
thẩm mỹ mới được nảy sinh. Vì thế, trong phạm vi nhất định của đời sống thẩm mỹ,
dùng hình tượng thẩm mỹ để xác định toàn bộ đặc trưng của sự tác động qua cảm
xúc, thị hiếu, lý tưởng và các hình thức cảm quan bên ngoài để tạo nên nội dung tác
phẩm. Kết quả của quá trình nhận thức thẩm mỹ ở người tiếp nhận (sinh viên) có tác
dụng truyền cảm và giáo dục qua các phẩm chất cao quý của nghệ thuật âm nhạc.
Hình tượng thẩm mỹ trở thành một đặc tính không thể thiếu được trong thị hiếu
cũng như trong tình cảm của chủ thể thẩm mỹ.
56
2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO
SINH VIÊN THÔNG QUA ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG
2.2.1. Khái niệm thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ cho
sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng
2.2.1.1. Khái niệm thẩm mỹ Thẩm mỹ trong tiếng Việt có nghĩa là sự xem xét, đánh giá, thưởng thức về
phương diện cái đẹp; thẩm mỹ là “xét biết cái đẹp” [1, tr.380] (thẩm là đánh giá,
xem xét; mỹ là đẹp). Do vậy, nói đến thẩm mỹ không thể không nói đến khái niệm
cái đẹp. Tuy nhiên, bao đời nay, con người đi tìm cái đẹp nhưng vẫn chưa có một
định nghĩa nào thực sự thỏa mãn với nội hàm rộng lớn của nó. Hầu như tất cả các
nhà mỹ học của nhân loại từ cổ đại đến hiện đại đều cho rằng, cái đẹp là sự hài hòa,
sự cân đối trong cả đời sống vật chất lẫn tinh thần, nhưng để luận giải, tìm một đáp
số thật chính xác là không thể.
Theo quan điểm duy vật, các nhà mỹ học cho rằng, cái đẹp có nguồn gốc từ
đời sống, dấu hiệu của cái đẹp là sự hòa điệu, hòa hợp giữa các sự vật toát ra từ
những phẩm chất vật lý, hóa học của sự vật, hiện tượng. Họ thường nhấn mạnh đến
các khái niệm về kích thước, mức độ, tỷ lệ,... Chẳng hạn, nhà mỹ học ở thời Phục
Hưng người Ý là Alberti (1404 - 1472) viết: “Cái đẹp là sự phù hợp, sự hòa nhịp
như thế nào đó giữa các phần trong cái tổng thể mà chúng tạo thành, sự hòa hợp và
hòa nhịp này phải đáp ứng những số liệu chặt chẽ, đáp ứng sự tổ chức và bài trí mà
sự hài hòa - tức cái nguyên lý tuyệt đối và khởi nguyên của tự nhiên đòi hỏi” [46,
tr.65]. Ngược lại, các nhà mỹ học duy tâm chủ quan thì cho rằng: “Cái đẹp không
phải là phẩm chất tồn tại trong bản thân sự vật, nó tồn tại chủ yếu trong tâm linh
người quan sát nó” [34, tr.306]. Nghĩa là cái đẹp có được là do cái tôi chủ quan
quyết định. Còn các nhà mỹ học duy tâm khách quan mà Hegel (1770 - 1831) là đại
diện tiêu biểu lại cho cái đẹp là phẩm chất đặc biệt của ý niệm tuyệt đối khi nó tìm
được hình thức thể hiện phù hợp nhất. Đối với các nhà mỹ học dân chủ Nga, cái đẹp
đã được kéo trở về với trần thế; cái đẹp được tìm ngay trong chính hiện thực cuộc
sống, trong hoạt động thực tiễn của con người. Nhà mỹ học cách mạng dân chủ Nga
Chernyshevsky (1828 - 1889) từng nói: “Mọi tồn tại được gọi là đẹp là tồn tại
trong đó chúng ta nhìn thấy cuộc sống đúng như quan niệm của mình” [12, tr.22].
Như vậy, cái đẹp còn được định đoạt, bị chi phối bởi quan niệm của thời đại,
mang yếu tố cơ sở xã hội sâu sắc. Có những hiện tượng thẩm mỹ thế hệ trước đây cho
là đẹp, nhưng thế hệ ngày nay lại cho là không đẹp, lạc hậu. “Mốt” là một ví dụ điển
hình. Tuy nhiên, mỗi cá nhân chủ thể là một thế giới, có những quan niệm riêng,
người thích cái này, người ưa cái kia. Do vậy, thích hay không thích là thị hiếu của
57
mỗi cá nhân, tuyệt nhiên không nên xem đó là chân lý và cũng không được đồng nhất
sở thích cá nhân với giá trị thẩm mỹ khách quan của sự vật, hiện tượng. Trên cơ sở kế
thừa và phát triển tất cả các tư tưởng thẩm mỹ của nhân loại từ trước tới nay, Mỹ học
Mác - Lênin đã nhấn mạnh cái đẹp là một trong bốn phạm trù cơ bản của mỹ học, giữ
vị trí trung tâm trong đời sống thẩm mỹ và “cái đẹp ra đời từ lao động, gắn bó chặt
chẽ với cái thật, cái tốt và cái có ích. Cái đẹp dưới góc độ bản thể là những sự vật, hiện
tượng mang tính cân đối, hài hòa, mực thước, tỷ lệ,... biến đổi linh hoạt theo những
điều kiện không gian, thời gian, màu sắc, âm thanh, hài hòa, hợp lý với thị giác, thính
giác. Đẹp trong quy luật hài hòa, trong một chỉnh thể toàn vẹn” [33, tr.57].
Cũng cần nhấn mạnh rằng, trong khoa học mỹ học, các nhà nghiên cứu còn
phân biệt giữa cái đẹp với cái thẩm mỹ. Ở đó, cái đẹp với tư cách là đối tượng của
mỹ học thì nó chỉ là một bộ phận của cái thẩm mỹ chứ không phải là toàn bộ cái
thẩm mỹ. Còn cái thẩm mỹ là một khái niệm khoa học rất rộng, nó bao gồm cả cái
đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài trong cuộc sống, trong tâm hồn và trong nghệ thuật.
Trong mỹ học, người ta thường chia thành cái thẩm mỹ khách quan, cái thẩm mỹ
chủ quan và cái thẩm mỹ trong nghệ thuật. Cái đẹp tuy là một bộ phận hợp thành
của cái thẩm mỹ, nhưng cái đẹp và cái thẩm mỹ đều có một số tố chất chung. Trước
hết, cái đẹp và cái thẩm mỹ đều mang yếu tố tinh thần. Đó là yếu tố thưởng ngoạn,
đánh giá, miêu tả chứ không phải là yếu tố thực dụng để ăn, uống, ngửi, nếm. Cái
đẹp là cái tuy có thể gắn với những đồ đạc thực dụng, nhưng trên hết, nó mang yếu
tố nghe, nhìn, phục vụ cho những lợi ích tinh thần. Bên cạnh đó, cũng như cái thẩm
mỹ, cái đẹp mang yếu tố tình cảm sâu sắc. Cái đẹp đi vào sự thưởng ngoạn, đánh
giá và sáng tạo của con người như những cảm xúc hình thành từ tri giác, biểu tượng,
phán đoán thông qua hai giác quan thẩm mỹ điển hình là tai và mắt. Có thể nói, yếu
tố tình cảm là yếu tố đặc trưng của quan hệ thẩm mỹ, đồng thời là một yếu tố điển
hình của cái đẹp. Cái đẹp gắn liền với các quan hệ thẩm mỹ của một dân tộc, giai
cấp, thời đại nhất định. Không có cái đẹp nào lại không có yếu tố xã hội của nó.
Tóm lại, có thể rút ra kết luận rằng: Thẩm mỹ là sự hiểu biết, đánh giá, xem
xét và thưởng thức của con người xã hội bằng giác quan, tư tưởng, tình cảm về
phương diện cái đẹp đối với mọi tồn tại, sự vật, hiện tượng xuất phát từ cuộc sống
xung quanh; mang tính cân đối, hài hòa, toàn vẹn trong cả đời sống vật chất lẫn
tinh thần. Sự đánh giá, xem xét đó phụ thuộc vào các điều kiện về không gian, thời
gian, thời đại và gắn liền với đặc trưng bản sắc của từng quốc gia, dân tộc.
2.2.1.2. Khái niệm giáo dục thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên
thông qua âm nhạc đại chúng
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt chỉ có trong xã hội loài người.
58
Bản chất của hiện tượng giáo dục là sự truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử -
xã hội của các thế hệ người. Chức năng trọng yếu của giáo dục đối với xã hội là
hình thành và phát triển nhân cách con người. Vì thế, giáo dục là nhu cầu không thể
thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. “Từ điển Tiếng Việt”
của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa:“Giáo dục là hoạt động nhằm tác động có hệ
thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối
tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [63].
Còn theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam” thì giáo dục là “quá trình đào tạo con
người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã
hội, tham gia lao động sản xuất, nó được thực hiện bằng cách tổ chức việc truyền
thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người” [30]. Olivier
Reboul, tác giả quyển sách nổi tiếng “Triết lý giáo dục” (Tiếng Pháp: La philosophie
de l’éducation) cho rằng: “Giáo dục là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những
khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục” [79].
Tựu trung lại, giáo dục được hiểu dưới 2 góc độ. Thứ nhất, giáo dục được
xem như là tập hợp các tác động sư phạm đến người học với tư cách là một đối
tượng đơn nhất. Thứ hai, giáo dục được xem như là một hoạt động xã hội, dạng tái
sản xuất ra lực lượng lao động mới. Giáo dục theo nghĩa hẹp, là một quá trình hoạt
động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của một người (hay một nhóm người) -
gọi là giảng viên - nhằm tác động vào hệ thống nhận thức của người đó, để làm phát
triển trí thông minh, phát triển khả năng nhận thức phù hợp với thế giới khách quan,
và làm phát triển nhận thức của người đó lên; qua đó tạo ra một con người mới, có
những phẩm chất phù hợp với yêu cầu được đặt ra. Theo nghĩa rộng, giáo dục là
nuôi dưỡng, làm cho phát triển hoặc triệt tiêu, giảm cái có sẵn. Chẳng hạn như trí
thông minh căn bản là cái có sẵn, tính thiện là cái có sẵn,... Giáo dục làm tăng
trưởng trí thông minh căn bản, và tính thiện lên. Trong toàn bộ quá trình đó, GDTM
là loại giáo dục có hiệu quả rất lớn đối với sự phát triển toàn diện của con người.
GDTM sẽ tác động và góp phần phát triển hài hòa các mặt thể chất và tinh thần, trí
tuệ và tài năng của con người bên cạnh sự phát triển của tất cả các tri thức khác.
Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, GDTM là một bộ phận tổ thành của
giáo dục; có các nhiệm vụ: (1) Phát triển ở học sinh những tình cảm, thị hiếu, năng
khiếu và lý tưởng thẩm mỹ trong cảm thụ và lĩnh hội cái đẹp trong nghệ thuật và cuộc
sống; (2) Giúp cho học sinh nắm được những quan niệm chuẩn mực thẩm mỹ, hình
thành niềm tin thẩm mỹ, năng lực phán đoán thẩm mỹ và đánh giá thẩm mỹ; (3) Hình
thành ở học sinh những năng lực sáng tạo nghệ thuật, lòng mong muốn và khả năng
đem cái đẹp vào đời sống; học tập, lao động và ứng xử; (4) Xây dựng cho học sinh
59
thái độ phản đối, không ưa thích những cái xấu, phản thẩm mỹ trong cuộc sống, cũng
như trong các tác phẩm nghệ thuật. Các nhiệm vụ GDTM được thực hiện bằng nhiều
phương tiện: thiên nhiên, nghệ thuật, hoạt động dạy - học, hoạt động lao động, trò
chơi, giao lưu, cảnh quan của trường,.. [30, tr.125].
Ở phương diện mỹ học, GDTM được hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình giáo
dục cho con người biết cảm thụ, đánh giá và sáng tạo cái đẹp. Còn theo nghĩa rộng,
GDTM là sự giáo dục và tự giáo dục nhằm phát huy năng lực bản chất người theo
quy luật của cái đẹp. GDTM là một mặt của sự hình thành của con người phát triển
toàn diện và hài hòa. Nó biến văn hóa thẩm mỹ của xã hội thành văn hóa thẩm mỹ
của cá nhân, mà ở đó, văn hóa thẩm mỹ là một thể thống nhất hữu cơ các giá trị
thẩm mỹ và hoạt động sáng tạo thẩm mỹ của con người đang hiện thực hóa những
năng lực thẩm mỹ của họ. GDTM dạy cho người ta biết về thụ cảm và hiểu đúng cái
đẹp không chỉ trong nghệ thuật mà trong bản thân hiện thực. Xây dựng ở mọi người
lao động nhu cầu tập quán cải tạo cuộc sống theo những quy luật của cái đẹp.
GDTM về bản chất là quá trình bồi dưỡng lòng khát khao đưa cái đẹp vào trong
cuộc sống, tạo nên sự hài hoà giữa xã hội - con người - tự nhiên, nhằm nâng cao
năng lực cảm thụ và sáng tạo ở con người, làm cho con người được phát triển một
cách hài hoà trong mọi hoạt động, mọi quan hệ của họ.
Như vậy, chức năng riêng mà chỉ một mình GDTM mới có là giáo dục những
năng lực thẩm mỹ của con người. GDTM chỉ có nhiệm vụ cùng với các loại hình giáo
dục khác bồi dưỡng toàn diện những năng lực bản chất của con người. Một mình
GDTM không thể hình thành con người phát triển toàn diện và hài hòa được. Quan
hệ biện chứng giữa cái thẩm mỹ và cái đạo đức, giữa mỹ và thiện cũng dẫn đến sự
gắn bó thống nhất giữa yêu cầu GDTM với giáo dục đạo đức. Sự thống nhất giữa
GDTM, giáo dục đạo đức và giáo dục trí tuệ là sự thống nhất của ba phương thức
hình thành, bồi dưỡng ba giá trị cơ bản, đó là chân - thiện - mỹ.
Tóm lại, GDTM là quá trình được tổ chức có ý thức hướng tới mục đích khơi
gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người được giáo dục
nhằm hình thành ở họ sự hiểu biết, năng lực thụ cảm, thấu hiểu và đánh giá đúng
các hiện tượng thẩm mỹ trong tự nhiên, trong cuộc sống và trong nghệ thuật, cũng
như các năng lực sáng tạo theo quy luật của cái đẹp.
Trên thực tế, có rất nhiều hình thức GDTM khác nhau, như thông qua lao
động; bằng những tấm gương sáng về đạo đức; bằng hệ thống các quan điểm lý luận
mỹ học tiến bộ, hiện đại; bằng hoặc thông qua nghệ thuật. Vì vậy, GDTM cho sinh
viên thông qua ÂNĐC được hiểu là một hình thức GDTM cho sinh viên, mà ở đó,
ÂNĐC được sử dụng nhằm góp phần giáo dục, hoàn thiện ý thức thẩm mỹ cho các đối
60
tượng đang theo học ở các trường cao đẳng và đại học, giúp họ xác định đúng tình
cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ cũng như nâng cao khả năng cảm
thụ, sáng tạo và đánh giá thẩm mỹ.
2.2.2. Nội dung cơ bản của giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua
âm nhạc đại chúng
GDTM về cơ bản là có định hướng, có kế hoạch, nâng cao trình độ hiểu biết,
trình độ nhận thức, hướng dẫn cá nhân hoạt động theo mục tiêu xác định. Mục đích
chung của GDTM là nhằm nâng cao văn hóa thẩm mỹ trong mọi hoạt động của cá
nhân và xã hội. Văn hóa thẩm mỹ nói lên bản chất quan hệ và trình độ thẩm mỹ, thể
hiện trong mọi hoạt động của con người, biểu hiện trên ba bình diện chính, đó là:
“Tri thức thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ, các hiện tượng thẩm mỹ khách quan và
nghệ thuật” [28, tr.387-388]. Văn hóa thẩm mỹ là trình độ, năng lực của con người
trong cảm thụ, thưởng thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ. Năng lực này thể hiện
con người là chủ thể thẩm mỹ, tức là “chủ thể người xã hội có khả năng hưởng thụ,
sáng tạo và đánh giá thẩm mỹ thông qua các giác quan tay, mắt và tai được rèn
luyện về sự đồng hóa thế giới về mặt thẩm mỹ” [37, tr.140]. Vì thế, GDTM cho sinh
viên cũng chính là quá trình chuyển hóa văn hóa thẩm mỹ của xã hội thành văn hóa
thẩm mỹ của mỗi sinh viên, hình thành ở họ năng lực thẩm mỹ, được biểu hiện ở
khả năng cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ. Nhưng tất cả những hoạt động
thẩm mỹ cơ bản đó lại do ý thức thẩm mỹ quy định. Như vậy, xét theo các thành tố
cơ bản của ý thức thẩm mỹ, GDTM nói chung, GDTM cho sinh viên thông qua
ÂNĐC nói riêng bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, giáo dục tình cảm thẩm mỹ. Tình cảm thẩm mỹ là lĩnh vực tinh tế
của tâm hồn, là sự cảm nhận, sự rung động của con người trước cái đẹp, cái xấu, cái
bi, cái hài, cái cao cả. Tình cảm thẩm mỹ bao gồm cảm giác thẩm mỹ, tri giác thẩm
mỹ (những yếu tố tạo nên xúc giác thẩm mỹ), tình cảm của thị hiếu thẩm mỹ. Cảm
giác thẩm mỹ là “cửa ngõ” đầu tiên để sinh viên cảm nhận thẩm mỹ về thế giới hiện
thực. Xây dựng được tình cảm thẩm mỹ sâu sắc, lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho chủ
thể phân biệt được đúng - sai, đẹp - xấu, tiến bộ - lạc hậu. Tri giác đúng, cảm nhận
đúng sẽ là nền tảng cho xúc cảm và rung cảm đúng đắn, tinh tế. Tình cảm thẩm mỹ
hướng sinh viên tới sự hoàn thiện, phấn đấu cho cuộc sống tốt đẹp trong hiện tại và
tương lai. Mọi hoạt động thưởng thức, đánh giá và sáng tạo của chủ thể thẩm mỹ đều
quan hệ mật thiết với tình cảm thẩm mỹ, vì nó là bộ phận đặc trưng của sự chiếm hữu
tinh thần về thế giới. Cái đẹp chiếm vị trí trung tâm trong quan hệ thẩm mỹ, cho nên
nội dung giáo dục tình cảm thẩm mỹ cũng xoay quanh giáo dục về cái đẹp. Thông
qua cái đẹp trong ÂNĐC, sinh viên biết thưởng thức và cảm nhận những giá trị nổi
61
bật, những điều sâu sắc và đẹp đẽ của cuộc sống được thể hiện trong các sản phẩm
ÂNĐC; qua đó, thôi thúc mỗi cá nhân sinh viên tìm tòi và sáng tạo giá trị thẩm mỹ;
biết đấu tranh cho cái đẹp, cái thiện, bài trừ cái xấu, cái ác. Vì thế, nội dung giáo dục
tình cảm thẩm mỹ phải luôn gắn liền với nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Thứ hai, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ. Thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận quan
trọng của năng lực thẩm mỹ, giúp con người nói chung, sinh viên nói riêng khám
phá, cảm nhận thế giới thẩm mỹ bằng những “mẫn cảm” đặc biệt, giúp chủ thể loại
bỏ cái sai, cái xấu, cái phi lý, cảm nhận cái đúng, cái đẹp, cái hài hòa. Không có thị
hiếu thẩm mỹ đúng, có ý nghĩa đích thực, thì không có cuộc sống đẹp. Mỹ học mác-
xít cho rằng, thị hiếu thẩm mỹ là tiềm năng thường trực, là khát vọng vươn tới của
con người. Nó trở thành động lực quan trọng của phẩm chất văn hóa và là nội dung
sâu sắc của cá tính cao đẹp. Thị hiếu thẩm mỹ vừa mang tính cá nhân và tính xã hội,
là mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và nó phụ thuộc vào những điều kiện lịch
sử xã hội nhất định. Thị hiếu thẩm mỹ mang dấu ấn cá nhân, là sở thích của cá
nhân, nhưng đồng thời nó mang tính xã hội sâu sắc và phụ thuộc vào thị hiếu chung
của xã hội, theo những chuẩn mực của hoạt động đánh giá thẩm mỹ của xã hội. Thị
hiếu thẩm mỹ và thị hiếu nghệ thuật (mà ở đây là âm nhạc) có quan hệ chặt chẽ và
tác động qua lại với nhau trong mọi quá trình phát triển thẩm mỹ. Âm nhạc nói
chung, ÂNĐC nói riêng, nếu xét theo chỉnh thể thì nó bao gồm cả sáng tác, biểu
diễn, phê bình, đánh giá và thưởng thức. Chất lượng của mỗi bộ phận đó đều có ảnh
hưởng đến sự hình thành thị hiếu âm nhạc nói chung; đồng thời thị hiếu âm nhạc
cũng ảnh hưởng đến xu thế, chất lượng sáng tác, biểu diễn và thưởng thức. Nếu thị
hiếu thấp hèn, thiếu lành mạnh thì con người nói chung, sinh viên nói riêng không
thể tìm đến được với những sản phẩm ÂNĐC hay, chứ chưa nói đến việc cảm thụ
các giá trị thẩm mỹ của những sản phẩm âm nhạc đó. Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
chính là giáo dục, định hướng cho sinh viên khả năng cảm thụ, đánh giá và sáng tạo
thẩm mỹ. Vì vậy, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cần phải gắn chặt với tính thời đại, tính
giai cấp và tính dân tộc của văn hóa thẩm mỹ để sinh viên hình thành thị hiếu thẩm
mỹ đúng đắn, phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ của xã hội.
Thứ ba, giáo dục lý tưởng thẩm mỹ. Lý tưởng thẩm mỹ là biểu hiện tập trung
cao nhất của nhu cầu thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ; là một loại
năng lực xác định hướng cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ; nó thể hiện hoài
bão, khát vọng vươn tới cái đẹp chân chính. Thị hiếu thẩm mỹ quy định lý tưởng
thẩm mỹ. Khi lý tưởng thẩm mỹ được hình thành thì nó tác động trở lại với thị hiếu
thẩm mỹ và thôi thúc phát triển nhu cầu thẩm mỹ - Đó là những nhu cầu bậc cao
trong đời sống tinh thần, là nhu cầu được thưởng ngoạn, được tiếp nhận, được sống
62
theo tiêu chí thẩm mỹ và sáng tạo thẩm mỹ, là những mong muốn đưa cái đẹp vào
cuộc sống để hoàn thiện con người. Nhu cầu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ làm tiền
đề cho nhau và cùng phát triển. Lý tưởng thẩm mỹ có mặt trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống, nhưng lĩnh vực hoạt động cơ bản và chủ yếu là ở nghệ thuật. Chỉ ở trong
thế giới nghệ thuật, lý tưởng thẩm mỹ mới được thể hiện một cách đầy đủ, trọn vẹn
nhất, thông qua hệ thống hình tượng nghệ thuật phong phú, đa dạng và sinh động.
Thông qua các sản phẩm ÂNĐC, lý tưởng thẩm mỹ trực tiếp tác động tới sự hình
thành lý tưởng thẩm mỹ ở người thưởng ngoạn. Những điều cần có, những cái nên có
hóa thân vào những hình tượng vật chất có thực, chúng trở thành sức mạnh vật chất
thu hút, cảm hóa và thuyết phục công chúng ngay từ trong suy nghĩ, niềm tin và hành
động. Khả năng lôi cuốn mạnh mẽ, sâu sắc, có sự thuyết phục của nghệ thuật nói
chung, âm nhạc nói riêng chính là bắt nguồn từ những mẫu lý tưởng đó.
Thứ tư, giáo dục quan điểm thẩm mỹ. Quan điểm thẩm mỹ bộc lộ năng lực
cảm thụ, đánh giá bằng lý trí của con người. Nó là sự kết tinh của tổng hòa các hoạt
động thẩm mỹ của cá nhân và cộng đồng được hình thành theo những chuẩn mực giá
trị xã hội nhất định trong sự thống nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế -
xã hội cụ thể. Lý tưởng thẩm mỹ và thị hiếu thẩm mỹ muốn phát triển đúng hướng
phải dựa trên cơ sở một hệ thống quan điểm (lý thuyết) thẩm mỹ đúng, một thế giới
quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ, một lý tưởng xã hội nhân văn, cao cả.
Giáo dục quan điểm thẩm mỹ cung cấp một cách hệ thống các tri thức lý
luận quan trọng về mỹ học, những tri thức cơ bản về cái đẹp, những giá trị thẩm mỹ
của cái đẹp trong đời sống xã hội và đặc biệt là cái đẹp trong âm nhạc nói chung và
ÂNĐC nói riêng. Nó có tính định hướng sâu sắc nhằm phát triển tư duy lý luận
trong GDTM. Đây là những tri thức đóng vai trò cơ sở khoa học và phương pháp
luận, hướng dẫn người cảm thụ thưởng thức các sản phẩm âm nhạc mà họ yêu thích
ở mức sâu sắc và trọn vẹn hơn.
2.2.3. Các phƣơng thức giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm
nhạc đại chúng
Cần phải nhấn mạnh rằng, quá trình tiếp nhận thẩm mỹ thông qua ÂNĐC của
sinh viên không chỉ đơn thuần diễn ra trong không gian nhà trường, bởi vì phần lớn
sinh viên tiếp xúc với âm nhạc chủ yếu là trong không gian riêng của mình, trong
khoảng thời gian rảnh rỗi của bản thân. Do đó, tác động của môi trường âm nhạc
ngoài xã hội có ảnh hưởng rất lớn đối với ý thức thẩm mỹ của sinh viên. Chính vì
vậy, để GDTM cho sinh viên đạt kết quả tốt, việc lựa chọn các sản phẩm ÂNĐC phản
ánh cái đẹp cần phải được chú trọng thông qua các “kênh” khác nhau. Dưới đây là
một số phương thức giáo dục chủ yếu:
63
Thứ nhất, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Các phương tiện
thông tin đại chúng với những ưu thế đặc biệt của mình là phương tiện góp phần
GDTM có hiệu quả xã hội cao. Các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh,
truyền hình, mạng xã hội,... làm cho mỗi sinh viên trong đời sống sinh hoạt thường
ngày của mình được tiếp cận một cách trực tiếp, cập nhật, phong phú, sinh động và dễ
dàng với các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp của mọi thời đại, mọi quốc gia, dân
tộc. Mỗi một sản phẩm âm nhạc khi được truyền tải qua các phương tiện này sẽ
nhanh chóng vượt qua tất cả hàng rào của không gian, chính kiến và ngôn ngữ để đi
vào trái tim, khối óc của hàng triệu người. Cuộc đời hoạt động sáng tạo của các nghệ
sĩ được các phương tiện thông tin đại chúng giới thiệu giúp sinh viên hiểu rõ hơn tâm
hồn, phong cách nghệ thuật và những đóng góp của các nghệ sĩ đối với nghệ thuật âm
nhạc. Nó giúp cho công chúng biết cảm thụ, yêu đời, yêu con người hơn, từ đó mà
hình thành lòng vị tha, đồng thời có những phút giây giải trí, sảng khoái. Sự hướng
dẫn thẩm mỹ cho sinh viên trong việc thưởng thức các sản phẩm âm nhạc phản ánh
cái đẹp trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng là một cách để bài trừ các thị
hiếu thấp kém; hướng sinh viên vào các hoạt động lành mạnh, gây hứng thú bổ ích
nhằm nhận biết được vẻ đẹp từ cuộc sống qua các sản phẩm âm nhạc đó.
Thông qua các phương tiện “nghe - nhìn” của đài phát thanh, đài truyền hình,
sách, báo in, báo mạng, tạp chí,... sinh viên có thể thấm nhuần những nội dung đề cập
đến cái đẹp trong ÂNĐC, nhất là những bài bình luận, phân tích của các nhà lý luận,
phê bình âm nhạc chuyên nghiệp, bởi “phê bình là con đường rút ngắn khoảng cách
giữa công chúng với tác phẩm, tạo chất keo kết nối giữa các mắt xích người viết -
người diễn - người nghe” [10]. Mặt khác, các phương tiện thông tin đại chúng cũng
góp phần phê phán, nêu rõ các hiện tượng phản thẩm mỹ trong các sản phẩm âm
nhạc đang diễn ra trong cuộc sống. Việc làm này có tác động mạnh tới nhận thức, tư
tưởng, tình cảm của mỗi sinh viên; có khả năng chuyển tải kiến thức và thông điệp
về cái đẹp một cách tự nhiên và dễ đi vào lòng người. Do đó, việc tuyên truyền, phổ
biến các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng, nhất là truyền hình và mạng xã hội, thực sự là những phương tiện GDTM có
hiệu quả cao, được nhiều người ở nhiều lứa tuổi quan tâm, trong đó có sinh viên. Sự
“bùng nổ” của mạng xã hội đã tạo những điều kiện và cơ hội cho sinh viên được giao
lưu, chia sẻ sở thích. Nó góp phần giúp sinh viên nâng cao được tri thức cũng như tìm
hiểu được nhiều hơn những vấn đề mà họ quan tâm ngoài kiến thức trên ghế nhà
trường. Nếu không nắm vững được công cụ hữu ích này, không loại trừ việc sinh
viên sẽ tiếp cận với những thông tin “xấu, độc”, tiếp cận với các sản phẩm âm nhạc
phản thẩm mỹ, dẫn đến nguy cơ làm hủy hoại giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
64
Thứ hai, thông qua việc tổ chức các hoạt động âm nhạc trong nhà trường.
Việc trang bị cho sinh viên các tri thức chung về cái đẹp trong âm nhạc là hết sức
quan trọng; nhưng nếu chỉ được tiếp thu với một vốn liếng nghèo nàn về tác phẩm,
không được thấm nhuần từ sự trải nghiệm bản thân qua sự hòa nhập vào thế giới âm
nhạc của tác phẩm đó thì đấy cũng chỉ là những tri thức sách vở. Không ai bồi
dưỡng, phát triển năng lực thẩm mỹ mà chỉ bằng nghe giảng lý thuyết, nghe trình
bày các quan điểm mỹ học, nghệ thuật. Đó cũng chính là lý do mà các phong trào
văn hóa - văn nghệ luôn được khẳng định là một trong những phong trào có vai trò
quan trọng trong hoạt động của nhà trường, bởi những hoạt động này góp phần
không nhỏ vào việc hoàn thiện mỗi sinh viên.
Thông qua việc tổ chức các sự kiện âm nhạc, sinh viên có điều kiện để rèn
luyện sự tự tin, học cách hoạt động tập thể, từ đó phát huy thêm tinh thần đoàn kết
giữa các sinh viên với nhau. Và cũng chính từ các hoạt động này, bằng việc sử dụng
các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp (đặc biệt là những ca khúc với chủ đề ca ngợi
quê hương đất nước, con người), nhà trường có thể định hướng thường xuyên cho
sinh viên nhằm tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về VHNT; giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giá trị văn hóa,
chuẩn mực đạo đức xã hội, đạo lý làm người; ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân;
lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống văn hóa của người Việt
Nam. Đây là một trong những “kênh” quan trọng nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò của
nghệ thuật âm nhạc trong GDTM cho sinh viên. Quá trình trực tiếp trải nghiệm là
điều kiện cần thiết, thuận lợi để sinh viên có thể rèn luyện khả năng mỹ cảm của các
giác quan cảm thụ, đồng thời không ngừng bồi dưỡng, nâng cao các cảm xúc, thị hiếu
và củng cố vững chắc lý tưởng thẩm mỹ cho sinh viên; nhờ đó làm nhạy bén thêm sự
hiểu biết và rung cảm về cái đẹp trong cuộc sống xung quanh họ.
Thứ ba, thông qua các “kênh” tham gia hoạt động sáng tạo của chính sinh
viên để thành lập các hội, các nhóm âm nhạc. Đây là “kênh” mang yếu tố thực tiễn
cảm thụ tác phẩm âm nhạc và thực tiễn sáng tạo âm nhạc. Việc tham gia tích cực
vào các quá trình sáng tạo âm nhạc sẽ giúp cho sinh viên củng cố một cách vững
chắc, sâu sắc hơn các tri thức thẩm mỹ, tri thức nghệ thuật đã được truyền thụ.
Đồng thời, đây cũng là kênh tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể sinh viên bộc lộ
cảm xúc, thử thách thị hiếu và thể hiện lý tưởng của mình. Khi sinh viên tự mình
đối tượng hóa, khách thể hóa được các cảm xúc, thị hiếu và lý tưởng của mình vào
các sản phẩm âm nhạc, sinh viên đã có cơ hội tốt nhất, thuận tiện nhất để nhìn ngắm
lại mình, soi xét thấu đáo bản thân mình, nhờ đó mà biết được năng lực thẩm mỹ
của mình tới đâu để kịp thời phát huy những chỗ mạnh và bù đắp những chỗ còn
65
yếu, còn thiếu. Hoạt động sáng tạo âm nhạc chính là cách thức có hiệu quả nhất để
sinh viên phát triển toàn diện các năng lực thẩm mỹ của chính mình.
Thông qua các sân chơi này, sinh viên được giao lưu, chia sẻ và thể hiện khả
năng âm nhạc của mình; một mặt giúp sinh viên giải tỏa tinh thần, thêm phần tự tin,
nhanh nhẹn; mặt khác, nâng cao kiến thức và các kỹ năng trong cuộc sống, nhờ đó
phẩm chất, tính cách, năng lực hành động và năng lực xã hội hóa của sinh viên được
nâng cao. Vì vậy, việc định hướng cho sinh viên lựa chọn các sản phẩm âm nhạc
phản ánh cái đẹp trong hoạt động của hội, nhóm, câu lạc bộ (CLB) là rất quan trọng.
Bởi nhìn chung, hoạt động của sinh viên trong các hội, nhóm, CLB là những hoạt
động âm nhạc mang tính văn hóa, xã hội; là cầu nối nghệ thuật giữa những người yêu
âm nhạc trong và ngoài nhà trường. Các hoạt động này đều gắn kết hữu cơ với
chương trình biểu diễn của sinh viên, và do đó, nó cũng góp phần tuyên truyền, phổ
biến cái đẹp trong ÂNĐC đến với đông đảo các tầng lớp nhân dân và sinh viên.
Thứ tư, thông qua thể chế. Thể chế là hệ thống pháp chế gồm: Hiến pháp
(luật “mẹ”, luật căn bản); các bộ luật (luật cơ bản và luật “hành xử”), các quy định,
các quy tắc, chế định…, nhằm hài hòa các quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công
dân, mỗi tổ chức trong một trật tự xã hội, hướng tới sự tổng hòa các lợi ích của cộng
đồng. Nó phản ánh sâu sắc bản chất và chức năng của Nhà nước đương quyền;
trong đó Hiến pháp được coi như “linh hồn” của một chế độ xã hội. Các chính sách,
các quy tắc, quy phạm,…với tư cách là hiện thân của thể chế quốc gia, tất yếu sẽ
đóng vai trò chủ thể quản lý, điều tiết vận hành xã hội theo định hướng mục tiêu.
Thể chế có vai trò quyết định đến sự hình thành và hoạt động của cơ chế, chính sách
cũng như cơ chế điều hành và hành vi ứng xử của con người.
Đối với GDTM thông qua ÂNĐC, thể chế đóng vai trò định hướng, hướng dẫn,
tạo khung pháp lý cho việc tổ chức, vận hành quá trình giáo dục; đồng thời góp phần
hạn chế các sản phẩm âm nhạc phản thẩm mỹ phát triển trong xã hội. Những hạn chế
đó hoàn toàn có thể khắc phục nếu có hệ thống thể chế căn bản và khả thi. Đó là các
quy định, quy tắc về hoạt động VHNT nói chung; là cơ chế, chính sách đầu tư cơ sở vật
chất, kinh phí cho các hoạt động VHNT; hoặc có thể là các chính sách khen thưởng
văn nghệ sĩ; chính sách đào tạo, thu hút, đãi ngộ đối với các tài năng nghệ thuật của đất
nước; cơ chế đặt hàng sáng tác, phổ biến các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp sâu
sắc, cuốn hút tâm hồn, tình cảm của sinh viên.
Có thể nói, việc vận dụng các cách thức, phương tiện để thực hiện hình thức
GDTM cho sinh viên bằng các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp trong thực tế bao
giờ cũng đòi hỏi phải tuân theo nguyên tắc về tính đồng bộ. Nhưng do chỗ đối
tượng của GDTM không phải là một đối tượng đồng nhất, hơn nữa, mỗi một cách
66
thức, phương tiện lại có những đặc điểm riêng; bởi vậy, bên cạnh yêu cầu về tính
đồng bộ, việc vận dụng các hình thức thẩm mỹ còn đòi hỏi phải lưu ý đến tính đặc
thù của đối tượng như lứa tuổi, giới tính, trình độ văn hóa chung,… để có sự lựa
chọn phương tiện, cách thức giáo dục phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Sự
hình thành, phát triển của năng lực thẩm mỹ luôn chịu sự tác động chi phối bởi các
năng lực khác của con người, như năng lực trí tuệ, năng lực đạo đức,… Do vậy,
GDTM cũng không tách biệt mà luôn gắn bó chặt chẽ với giáo dục trí tuệ, giáo dục
đạo đức, giáo dục chính trị - tư tưởng,… là những nội dung giáo dục vừa có tính đặc
thù, vừa là những điều kiện để tiến hành GDTM cho sinh viên.
2.2.4. Các chủ thể tham gia giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua
âm nhạc đại chúng
Công tác GDTM là nhiệm vụ và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của
gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Các cơ quan của Đảng như Ban Tuyên giáo
Trung ương, Ban Tuyên giáo các cấp có trách nhiệm chỉ đạo, định hướng đường lối
cho công tác GDTM đạt hiệu quả. Các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Giáo dục
và Đào tạo; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Thông tin và Truyền thông,… có
trách nhiệm triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước liên quan đến GDTM. Các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh
và truyền hình từ Trung ương đến địa phương có trách nhiệm tuyên truyền, quảng
bá những giá trị thẩm mỹ tốt đẹp trong cuộc sống và trong ÂNĐC đến với sinh viên.
Các tổ chức chính trị - xã hội, chính trị - xã hội - nghề nghiệp (Hội Nhạc sĩ Việt
Nam) có trách nhiệm tập hợp, động viên các tầng lớp nhân dân, đội ngũ văn nghệ sĩ,
trí thức, tích cực tham gia vào công tác GDTM, đẩy mạnh các hoạt động thẩm mỹ
thông qua ÂNĐC, tạo môi trường văn hóa lành mạnh cho sinh viên.
Trong các trường đại học (ĐH) và cao đẳng (CĐ) ở nước ta, các chủ thể
tham gia GDTM cho sinh viên có thể kể đến ba nhóm chính sau:
Thứ nhất, nhóm chủ thể lãnh đạo, quản lý (đảng ủy, ban giám hiệu, ban giám
đốc, phòng đào tạo, phòng công tác sinh viên hoặc phòng công tác chính trị - sinh
viên, ban chủ nhiệm khoa, giáo viên chủ nhiệm lớp). Đây là nhóm chủ thể có vai trò
quan trọng, quyết định trong việc xây dựng chương trình đào tạo và tổ chức triển khai
quá trình GDTM cho sinh viên. Đảng ủy, ban giám hiệu (ban giám đốc), phòng đào
tạo, phòng công tác sinh viên (chính trị - sinh viên), ban chủ nhiệm khoa, giáo viên
chủ nhiệm lớp tuy có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng họ cùng có trách nhiệm vừa
quản lý sinh viên, vừa tiếp nhận và thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mà trực tiếp là các văn bản
quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo về GDTM cho sinh viên. Căn cứ vào yêu cầu cụ
67
thể, nhiệm vụ chuyên môn của từng cơ sở mà ban giám hiệu (ban giám đốc) hoặc ban
chủ nhiệm khoa có thể quyết định hình thức, phương thức triển khai phù hợp để
chuyển tải thông tin, kiến thức về thẩm mỹ cho sinh viên; đồng thời có thể giao cho
các phòng chức năng, tổ chức đoàn thể của trường tổ chức thực hiện trong các hoạt
động ngoại khóa.
Thứ hai, nhóm chủ thể truyền đạt kiến thức (đội ngũ giảng viên, báo cáo
viên, tuyên truyền viên,...). Nhiệm vụ quan trọng của việc GDTM cho sinh viên
thông qua ÂNĐC là ở chỗ giúp sinh viên hình thành, phát triển năng lực thẩm mỹ
dựa trên nền tảng kiến thức thẩm mỹ và các hoạt động thẩm mỹ thông qua ÂNĐC;
giúp họ nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ và tình yêu âm nhạc, nhận thức được sự đa
đạng của thế giới âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng, cũng như mối liên hệ giữa
ÂNĐC với văn hóa, lịch sử, xã hội cùng các loại hình âm nhạc và nghệ thuật khác
nhau; đồng thời biết thưởng thức, cảm nhận và đánh giá đúng đắn cái đẹp trong
cuộc sống, không để cái xấu, cái phản thẩm mỹ dẫn dắt, lôi cuốn. Chính vì vậy, vai
trò của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên - những người trực tiếp
truyền đạt kiến thức đến sinh viên là rất quan trọng.
Thứ ba, nhóm chủ thể hỗ trợ (các tổ chức đoàn thể trong nhà trường như:
Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên,…). Các tổ chức đoàn thể như Đoàn Thanh niên
(ĐTN), Hội Sinh viên (HSV) là nhóm chủ thể có điều kiện thuận lợi nhất để tổ chức
các hoạt động ngoại khóa, các phong trào có tính lan tỏa rộng rãi nhằm hỗ trợ cho
việc nâng cao hiệu quả của công tác GDTM thông qua ÂNĐC. Để các hoạt động
của các tổ chức này thực sự thu hút, tập hợp được đông đảo sinh viên, các hoạt động
đó phải được phối hợp chặt chẽ, phù hợp với điều kiện của từng cơ sở đào tạo và
thực tiễn của cuộc sống, cũng như phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của sinh viên.
Tiểu kết Chƣơng 2
Chương thứ 2 của luận án đã xác định rõ các khái niệm liên quan đến đề tài;
đã tập trung nghiên cứu để có thể nhận diện được các đặc điểm của ÂNĐC, những
khía cạnh khác nhau của cái đẹp trong ÂNĐC, cũng như tìm hiểu về vai trò của
ÂNĐC đối với sinh viên và cơ chế tác động của nó đối với sự hình thành ý thức
thẩm mỹ của sinh viên, qua đó khẳng định ÂNĐC là phương tiện hữu hiệu để
GDTM cho sinh viên. Trên cơ sở đó, luận án làm rõ các vấn đề về nội dung và
phương thức chủ yếu để GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC, đồng thời đã xác
định cụ thể các chủ thể tham gia GDTM cho sinh viên ở nước ta.
GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC không chỉ khuôn hẹp trong việc cung
cấp kiến thức thẩm mỹ cho sinh viên, mà quan trọng hơn là hình thành năng lực
thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ cho họ với biểu hiện tập trung là tình cảm thẩm mỹ, thị
68
hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ và quan điểm thẩm mỹ. GDTM là nhiệm vụ và
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Do
tác động của môi trường âm nhạc ngoài xã hội có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với sự
hình thành ý thức thẩm mỹ của sinh viên, nên để GDTM cho sinh viên thông qua
ÂNĐC đạt kết quả tốt, cần phải chú trọng đến các phương thức cơ bản như: Thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng; thông qua việc tổ chức các hoạt động âm
nhạc trong nhà trường; thông qua các “kênh” tham gia hoạt động sáng tạo của chính
sinh viên để thành lập các hội, các nhóm âm nhạc và thông qua thể chế nhằm tạo
điều kiện để sinh viên ngày càng được tiếp cận với các sản phẩm ÂNĐC phản ánh
cái đẹp; qua đó giúp sinh viên nhận thức được những hiện tượng đẹp hay xấu, cao
cả hay thấp hèn, bi hay hài trong đời sống hằng ngày và trong nghệ thuật âm nhạc
trên cơ sở những chuẩn mực xã hội nhất định.
69
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH VIÊN
THÔNG QUA ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
3.1. VÀI NÉT VỀ SINH VIÊN NƢỚC TA HIỆN NAY Sinh viên là một bộ phận của thanh niên, của các tầng lớp khác nhau trong xã
hội. Họ là nhóm người có vị trí chuyển tiếp, chuẩn bị cho một đội ngũ tri thức có
trình độ và nghề nghiệp tương đối cao cho xã hội. Phần đông sinh viên ở vào độ
tuổi còn trẻ, thường từ 18 đến 25 tuổi, dễ thay đổi, chưa định hình rõ rệt về nhân
cách. Đây cũng là tầng lớp xưa nay vẫn khá nhạy cảm với các vấn đề chính trị - xã
hội, đôi khi cực đoan nếu không được định hướng tốt. Sinh viên là lứa tuổi đạt đến
độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp người giàu nghị lực, ước mơ và
hoài bão, luôn muốn vươn lên khẳng định mình; nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ,
dễ thích nghi với hoàn cảnh; có óc liên tưởng và trí tưởng tượng phong phú, ham
muốn khám phá và sáng tạo cái mới; yêu thích các hoạt động thể thao, nghệ thuật.
Ở sinh viên, tính cộng đồng được thể hiện rất cao; vì vậy, sinh viên luôn là lực
lượng xung phong tích cực, sẵn sàng tham gia một cách vô tư vào các phong trào
tình nguyện, các hoạt động xã hội. Khác với học sinh trung học phổ thông, sinh viên
không chỉ có dự kiến lâu dài về cuộc sống mà còn nỗ lực tìm tòi cách thức đạt tới và
ấn định con đường thực hiện mục tiêu. Thời kỳ này, sinh viên có sự biến đổi mạnh
mẽ về động cơ và thang giá trị xã hội có liên quan đến nghề nghiệp.
Đa số sinh viên nước ta hiện nay đều mong nhanh chóng tự khẳng định mình
và muốn được người khác thừa nhận khả năng. Do đó, họ thường tìm cách để gây
sự chú ý của người khác, thậm chí làm những việc không giống với những người
khác. Ở sinh viên, đôi khi mọi giới hạn, mọi quy luật có thể bị méo mó hoặc bị phá
vỡ. Chính việc chưa định hình hoàn chỉnh về mọi mặt, đặc biệt là ở khía cạnh nhân
cách nên sinh viên cũng dễ tiếp thu những phản giá trị, tạo nên sự lệch lạc trong
phát triển nhân cách của bản thân.
Một trong các nhu cầu VHNT luôn nhận được sự quan tâm cao của sinh
viên, đó là nhu cầu về âm nhạc. Khi được hỏi về mức độ yêu thích đối với các loại
hình nghệ thuật, âm nhạc gần như chiếm tuyệt đối trong các loại hình nghệ thuật,
khi có 92,6% sinh viên trả lời rất thích loại hình nghệ thuật này; 53,8% sinh viên tự
đánh giá rằng, nhu cầu thưởng thức âm nhạc của họ ở mức độ nhiều. Sự yêu thích
âm nhạc một lần nữa được khẳng định khi có đến 98,5% sinh viên cho rằng: “Cuộc
sống sẽ tẻ nhạt nếu không được thưởng thức âm nhạc”. Những nhận định này không
chỉ khẳng định sự yêu thích âm nhạc, tính ưu việt về phương diện nghệ thuật, sức
70
truyền tải nội dung của âm nhạc, mà còn cho thấy mong muốn tiếp xúc với âm nhạc
của sinh viên là rất lớn.
Tiếp tục đi sâu tìm hiểu sự yêu thích âm nhạc của sinh viên ở các phương
diện khác nhau như giới tính, khối học, khóa học, kết quả thu được cho thấy [xem
Bảng 3.1], âm nhạc vẫn luôn là loại hình nghệ thuật mà không một sinh viên nào
không yêu thích. Điều đó đã khẳng định rằng, âm nhạc phù hợp với mọi lứa tuổi,
giới tính, mọi ngành nghề khác nhau.
Bảng 3.1: So sánh sự yêu thích của nam, nữ sinh viên các
khối học, khóa học đối với âm nhạc
Nguồn: Cuộc khảo sát tháng 5 năm 2018 của tác giả luận án
Việc thưởng thức nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng của sinh viên
nước ta hiện nay có sự thay đổi lớn. Họ tiếp cận nhanh với cái mới, biểu hiện trong
việc hưởng ứng các trào lưu, xu hướng hiện đại của ÂNĐC trên thế giới. Điều này
xuất phát từ chính đặc điểm tâm lý của giới trẻ nói chung, đó là dễ rung động trước
cái mới, ưa chuộng cái lạ. Kết quả thu được sau khi chúng tôi điều tra, khảo sát sinh
viên về sự quan tâm, yêu thích của họ đối với các loại nhạc cho thấy, sinh viên
mong muốn được nghe các sản phẩm âm nhạc theo các thể loại, trào lưu nhạc đại
chúng đương đại (như: Pop, Rock, Ballad, R&B,…) với tỷ lệ 96,6%; sau đó là các
thể loại nhạc đại chúng Châu Á (K-Pop, C-Pop, J-Pop,…), chiếm 93,5%. Dân ca
các vùng miền, các dân tộc Việt Nam chiếm tỷ lệ thấp nhất là 1,6%. Từ đó cho thấy,
các thể loại âm nhạc mà sinh viên yêu thích hiện nay có những đặc điểm phù hợp
với nhu cầu thưởng thức âm nhạc của họ.
Đối với sinh viên Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội, họ có lợi thế nhất định là luôn
được tiếp xúc với nghệ thuật, được trực tiếp và thường xuyên tham gia các chương
71
trình biểu diễn mang tính chuyên nghiệp. Đây chính là điều kiện thuận lợi, là điểm
mạnh, nổi trội của “sinh viên nghệ thuật” so với các trường chuyên ngành khác trong
quá trình phát triển năng lực thẩm mỹ của từng cá nhân. Các trường nghệ thuật khi
tuyển chọn sinh viên thường căn cứ vào năng khiếu cũng như khả năng cảm thụ thẩm
mỹ của sinh viên để đánh giá, chọn lựa. Vì thế, sinh viên các trường nghệ thuật có
phần thiên về nội tâm và lãng mạn hơn.
Với sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất, điểm nổi bật so với các trường chuyên
ngành khác, đó là tỷ lệ sinh viên nam chiếm đa số. Tuy nhiên, không vì thế mà các
phong trào VHNT của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất trở nên “mờ nhạt”. Ngược
lại, các hoạt động văn nghệ lại là một trong những thế mạnh truyền thống của nhà
trường với rất nhiều phong trào sôi nổi. Điều này xuất phát từ chính đặc điểm của
sinh viên nói chung, đó là yêu thích các hoạt động nghệ thuật.
Cũng như sinh viên nói chung, sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
được thừa hưởng những thành quả của sự nghiệp đổi mới và những giá trị văn hóa
bền vững của dân tộc Việt Nam. Họ có lợi thế là được học tập, nghiên cứu tại một
trường của Đảng - trung tâm lớn về đào tạo giảng viên lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phóng viên, biên tập viên, cán bộ tuyên truyền, đội ngũ những
người làm công tác tư tưởng văn hóa của đất nước. Vì vậy, nhận thức chính trị, kỹ
năng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền từng bước được nâng
cao theo xu hướng tích cực. Bên cạnh các hoạt động chuyên môn, hoạt động âm
nhạc ở đây luôn thu hút được đông đảo sinh viên trong và ngoài nhà trường, được
mệnh danh là ngôi trường “showbiz thu nhỏ”.
Mặc dù những số liệu thu được từ quá trình khảo sát tại 03 trường ĐH, CĐ
trên địa bàn Hà Nội được đề cập ở trên không thể nào đại diện cho toàn bộ sinh viên
Việt Nam ở các vùng, miền khác nhau trong cả nước. Tuy nhiên, với tỷ lệ thống
nhất khá cao của sinh viên khi đánh giá về nhu cầu âm nhạc của bản thân, đã cho
phép chúng tôi nhận định: Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật mà hầu hết sinh
viên đều yêu thích; trong đó các thể loại ÂNĐC đương đại chiếm ưu thế hơn cả.
3.2. MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN GIÁO DỤC THẨM MỸ
CHO SINH VIÊN THÔNG QUA ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG Ở NƢỚC TA
HIỆN NAY
3.2.1. Ảnh hƣởng từ kinh tế thị trƣờng Bản chất cạnh tranh cao độ của kinh tế thị trường đề cao các phẩm chất linh
hoạt, chính xác và khả năng làm việc độc lập. Do đó, đòi hỏi sự gia tăng trí thông
minh, chất trí tuệ trong mọi lĩnh vực hoạt động sống của từng người lao động. Điều
này có nghĩa là trước kia, cái tốt, cái đẹp là những gì mang giá trị và đem lại giá trị
72
bảo đảm cho sự ổn định cá nhân, gia đình, xã hội thì hôm nay, cái tốt, cái đẹp còn
phải là những gì đem lại hiệu quả kinh tế; cho sự phát triển, sự tiến bộ của con
người, mở ra tầm nhìn vươn tới cái tiến bộ có tính nhân văn cao. Mẫu người lý
tưởng ngày nay không chỉ là những con người hiền lành, tình nghĩa, yêu nước, yêu
lao động chung chung mà còn là những nhà doanh nghiệp, nhà khoa học thông
minh, những văn nghệ sĩ năng động, dám nghĩ, dám làm, vượt lên những hạn chế
truyền thống. Đó là những con người đầy tinh thần và ý chí khám phá, sáng tạo.
Quy luật cạnh tranh của kinh tế thị trường làm cho con người linh hoạt,
nhanh nhạy hơn về thẩm mỹ. Sản phẩm ÂNĐC trong xã hội không chỉ đảm bảo về
mặt chất lượng (nội dung của sản phẩm) mà còn phải có sự phong phú về mặt hình
thức, phải đẹp (chẳng hạn như thiết kế bìa album đĩa nhạc). CNH, HĐH và kinh tế
thị trường cũng mở ra khả năng sáng tạo cho con người và tạo điều kiện để con
người tự do sáng tạo. Nó kích thích con người không ngừng vươn lên để thích ứng
với biến chuyển không ngừng của xã hội. Tính chất toàn cầu hóa của kinh tế thị
trường khiến chúng ta phải giao lưu và hội nhập trên lĩnh vực kinh tế cũng như trên
tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống.
Tuy nhiên, sự cạnh tranh của nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh
không ít những vấn đề phức tạp. Tư tưởng làm giàu bằng mọi giá, coi đồng tiền là
mục đích cuối cùng của cuộc sống đã làm méo mó những chuẩn mực về cái đẹp, cái
tốt, sự cân đối hài hòa trong cuộc sống con người. Tâm lý sùng bái vật chất, sùng
bái nước ngoài ngày càng lan rộng trong xã hội, tạo khoảng cách giữa sống đẹp và
sống thực ngày càng lớn. Kinh tế thị trường làm cho sản phẩm ÂNĐC trở thành
hàng hóa, chịu sự tác động của quy luật cung - cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh. Điều này dẫn đến hệ quả, ngày càng xuất hiện nhiều sản phẩm âm nhạc chạy
theo thị trường mà mất đi tính nghệ thuật, gây ảnh hưởng xấu tới thị hiếu thẩm mỹ,
thị hiếu âm nhạc của một bộ phận giới trẻ.
Dưới sức ép về tăng trưởng kinh tế nên nhiều ngành, nhiều địa phương ít quan
tâm đến phát triển VHNT. Trong khi xây dựng các chương trình, dự án phát triển
kinh tế, quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị, các nhà quản lý
thường tập trung vào mục tiêu lợi ích kinh tế, chưa chú ý tới điều kiện sống, môi
trường lao động, học tập và đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Doanh nghiệp
và thậm chí là một bộ phận nghệ sĩ trẻ có xu hướng chạy theo lợi ích kinh tế, ít quan
tâm đến các giá trị văn hóa và chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng xã hội. Xu hướng
gạt bỏ các giá trị văn hóa và nhân văn ra khỏi hoạt động kinh tế ngày càng thể hiện rõ
nét trong đời sống xã hội. Đó là những khó khăn, thách thức diễn ra trong quá trình
phát triển đất nước, tăng trưởng nhanh nhưng tính ổn định chưa cao; tăng trưởng
73
nhanh nhưng chưa bền vững; tăng trưởng càng cao thì càng xuất hiện nhiều hiện
tượng đi xuống của văn hóa, đặc biệt trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống và
thẩm mỹ. Như vậy, kinh tế thị trường đã tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn,
thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới đối với sự nghiệp giáo dục
nói chung và GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC nói riêng ở nước ta hiện nay.
3.2.2. Ảnh hƣởng từ môi trƣờng văn hóa - xã hội Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó
lường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta vẫn giữ được môi trường ổn định,
hòa bình, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thu hút nhiều nguồn đầu tư nước
ngoài. Các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa - xã hội, y tế
có bước phát triển; an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân
không ngừng được cải thiện. Việc xây dựng gia đình, làng, bản, khu phố, công sở,
trường học, doanh nghiệp văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, từng bước tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại được quan tâm hơn. Phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” và cuộc vận động xây dựng “Gia đình văn hóa”, phong
trào “Sinh viên 5 tốt”,… đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Quyền tự do sáng tạo
của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Sản phẩm VHNT nói chung, ÂNĐC nói riêng ngày
càng đa dạng, tăng đáng kể về số lượng và bước đầu có chuyển biến về chất lượng.
Giáo dục vẫn luôn được xác định là “quốc sách hàng đầu”; tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục và đào tạo theo hướng coi trọng phát
triển phẩm chất, năng lực của người học. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu
trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được quan tâm phát triển. Việc huy động và
sử dụng mọi nguồn lực đầu tư để phát triển giáo dục đạt hiệu quả nhất định.
Tuy vậy, hiện nay mức sống của một bộ phận nhân dân còn thấp, tỷ lệ hộ
nghèo còn cao. Vai trò gia đình trong việc giáo dục con cái bị coi nhẹ với tâm lý
giao phó cho nhà trường và xã hội. Hoàn cảnh vật chất của gia đình lao động có ảnh
hưởng lớn đến con đường giáo dục của con cái họ, từ điều kiện học tập đến chế độ
dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe,… Lối sống thiếu văn hóa, thiếu tôn trọng phong
tục tập quán tốt đẹp của dân tộc có xu hướng ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong
giới trẻ, thanh niên, học sinh, sinh viên, đã góp phần khơi dậy các thị hiếu thực
dụng, tầm thường. Các tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma túy, mại dâm,… len lỏi vào đời
sống của sinh viên, gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với xã hội. Cùng với
đó là cách hành xử “giang hồ”, bạo lực học đường, thậm chí là những vụ giết người,
cướp tài sản, hiếp dâm do lứa tuổi học sinh, sinh viên gây nên cũng xuất hiện với
mức độ gia tăng ngày càng cao và hậu quả ngày càng lớn. Theo báo cáo của Tổng
74
cục Cảnh sát phòng chống tội phạm, từ năm 2013 đến năm 2015, đã xử lý hơn
2.500 vụ phạm pháp hình sự với 42.000 đối tượng; trong đó có hơn 75% là thanh
niên và học sinh, sinh viên. Nghiêm trọng hơn, đối tượng phạm tội ngày càng có xu
hướng trẻ hóa, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng, hành vi bạo lực cũng
ngày càng đa dạng hơn.
Chủ trương phát triển VHNT đi đôi với tăng trưởng kinh tế được thực hiện
chưa đồng bộ. Trang thiết bị, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, hệ thống thiết
chế văn hóa cơ sở còn thiếu, nhiều nơi xuống cấp, chưa phát huy được hiệu quả sử
dụng, “thậm chí có nơi nhà văn hóa bị bỏ hoang” [5]. Nguồn lực dành cho quảng
bá, giới thiệu tác phẩm văn học, nghệ thuật phản ánh cái đẹp còn nhiều hạn chế.
Chế độ đãi ngộ cho văn nghệ sĩ còn thấp; chưa chú trọng công tác đào tạo, kiện toàn
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý về văn học, nghệ thuật.
Ngành Giáo dục mới quan tâm nhiều đến việc truyền đạt kiến thức chuyên
ngành, mà chưa quan tâm đúng mức trong việc trao đổi kinh nghiệm về kỹ năng
sống và định hướng nghề nghiệp; chưa coi trọng GDTM cho giới trẻ, học sinh, sinh
viên. Theo Báo cáo số 247-BC/BTGTW ngày 21/9/2018 của Ban Tuyên giáo Trung
ương, qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW về “Tiếp tục xây dựng và
phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, cho đến nay, Đề án “Xây dựng
chương trình giáo dục thẩm mỹ cho thanh thiếu niên, đặc biệt là học sinh, sinh viên
trong các trường học” do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì vẫn chưa được triển khai
[5]. Số lượng sinh viên tăng nhanh, trong khi cơ sở vật chất, kinh phí đầu tư của
nhiều trường vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu học tập, vui chơi của sinh viên. Mặt
khác, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn tiếp tục tăng cường thực hiện âm
mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng văn học, nghệ thuật như một trong những vũ
khí tinh thần sắc bén để tuyên truyền, phá hoại tư tưởng, làm giảm sút niềm tin, dẫn
đến suy thoái về lý tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hiện nay.
Những thuận lợi, khó khăn từ môi trường văn hóa - xã hội nêu trên có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tiếp cận “cái đẹp” của sinh viên; qua đó, có ảnh hưởng
nhất định đến việc GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta hiện nay.
3.2.3. Ảnh hƣởng từ môi trƣờng Internet Sự phát triển của điện thoại di động và mạng Internet đang có xu hướng chi
phối ngược trở lại thói quen sinh hoạt của bản thân người sử dụng với tư cách
không chỉ là thiết bị liên lạc, mà còn là phương tiện giúp quản lý cuộc sống, trao đổi
kiến thức, thông tin và giải trí. Cùng với chiếc điện thoại di động ngày càng “thông
minh”, mọi người đều có cơ hội để tiếp cận và chia sẻ nhanh chóng các sản phẩm
75
ÂNĐC (không những của các nghệ sĩ trong nước mà đối với cả các nghệ sĩ quốc tế).
Thậm chí, mọi người cũng đều có cơ hội để trở thành các “ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản
xuất âm nhạc”; đặc biệt, đối với những người hoạt động âm nhạc trong “thế giới
ngầm - Underground” và những người theo xu hướng “âm nhạc độc lập - Indie”,
mạng Internet thực sự là “mảnh đất mầu mỡ”. Giờ đây, việc phát hành các sản phẩm
âm nhạc trên mạng Internet là “vũ khí” lợi hại giúp những người làm âm nhạc tiếp
cận nhanh chóng, trực tiếp với công chúng.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số đã kéo theo đó là sự thay đổi về cả
cách thức sản xuất, truyền bá và tiếp nhận, đánh giá âm nhạc. Công chúng sinh viên
trước đây chỉ biết tiếp nhận thông tin một chiều, thì với mạng Internet, họ bắt đầu học
cách “tương tác” tức thời ngay trên mạng Internet. Điều đó có nghĩa là, các phương
tiện truyền thông đại chúng mới đang dần tạo thành thế hệ công chúng mới với những
khác biệt về lối tư duy, mối quan tâm và sở thích. Thay vì tới một buổi biểu diễn hay
căn giờ bật đài phát thanh, TV, chọn kênh phát sóng, giờ đây, chỉ với điện thoại thông
minh hay máy tính bảng, ở bất cứ nơi đâu, khán giả cũng có thể thưởng thức đa dạng
những sản phẩm âm nhạc theo ý muốn, tự do phản biện, bày tỏ quan điểm, ý kiến.
Cùng với mạng Internet, công chúng sinh viên giờ đây góp phần quan trọng trong
việc truyền bá các sản phẩm âm nhạc. Cũng nhờ đó mà không cần tới công nghệ
“lăng-xê”, nhiều ca sĩ, nhạc sĩ mới vẫn có thể được đông đảo công chúng biết tới.
Kết quả từ cuộc khảo sát mà chúng tôi thực hiện cho thấy, có đến 99,2% sinh
viên trả lời thường xuyên thưởng thức âm nhạc trên mạng Internet và thông qua các
phương tiện như máy tính bảng, điện thoại thông minh,… Trong khi đó, sóng phát
thanh hiện nay gần như không thu hút được nhiều sự quan tâm của sinh viên khi chỉ
có 2,6% sinh viên trả lời vẫn thường xuyên nghe. Điều này đã minh chứng cho sự
phát triển và phổ cập rộng rãi của những thiết bị di động nói riêng và mạng Internet
toàn cầu nói chung đối với đời sống của sinh viên hiện nay. Qua đó cũng cho thấy
mạng Internet và các phương tiện truyền thông hiện đại có tác động sâu sắc đến
thẩm mỹ âm nhạc của công chúng sinh viên.
Tuy nhiên, cũng chính sự phát triển của các phương tiện truyền thông hiện
đại đã tạo điều kiện cho sự giao lưu văn hóa được mở rộng trên phạm vi toàn cầu
mà mặt trái của nó là điều kiện để các sản phẩm “lai căng” từ bên ngoài du nhập
vào nền VHNT của nước ta. Đồng thời, sự phát triển đó cũng dẫn đến xuất hiện
ngày càng nhiều các sản phẩm âm nhạc tuy được hòa âm, phối khí “bắt tai”, “hợp
thời”, nhưng lại có đề tài, nội dung tư tưởng xấu, ca từ sáo rỗng, thô tục, “phi văn
hóa”, lũng đoạn trên các trang nghe nhạc trực tuyến và các trang mạng xã hội thời
gian qua một cách khó kiểm soát, làm ảnh hưởng mạnh đến ý thức thẩm mỹ, thị
76
hiếu thẩm mỹ của một bộ phận nhân dân nói chung và sinh viên nói riêng.
Kết quả khảo sát mà chúng tôi thu được cho thấy, có đến 78,5% sinh viên
cho rằng hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều ca khúc có ca từ trái với thuần phong
mỹ tục, phản đạo lý, sáo rỗng, trùng lặp, dung tục, vô nghĩa; nội dung xa rời thực
tiễn và những vấn đề nóng bỏng của đất nước, con người; đồng thời có đến 76,4%
sinh viên cho rằng: Tình trạng “đạo nhạc”, “đạo beat”, vi phạm bản quyền làm suy
thoái đạo đức nghề nghiệp; tình trạng vay mượn cảm xúc, thiếu vốn sống và tri thức
văn hóa dân tộc không thích hợp với tâm hồn và tình cảm của người Việt Nam.
Cũng theo kết quả khảo sát, phần đông sinh viên nhận thấy ảnh hưởng tiêu
cực của văn hóa phẩm độc hại đối với bản thân họ; trong đó 82,7% sinh viên cho
rằng các sản phẩm âm nhạc “phản văn hóa” với ca từ (hình ảnh) dung tục, nhảm nhí
sẽ tác động xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận
sinh viên; 93,5% cho rằng, chúng sẽ góp phần làm hủy hoại, xói mòn nền tảng và
những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc và 61,3% sinh viên nhận định, những sản
phẩm âm nhạc đó làm ảnh hưởng xấu đến thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ hiện nay.
Như vậy, sự xuất hiện tràn lan các sản phẩm âm nhạc “phản thẩm mỹ” trên
môi trường Internet thời gian qua là một trong những yếu tố cản trở lớn đến quá
trình GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta.
3.2.4. Ảnh hƣởng từ quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa Hội nhập quốc tế là một chủ trương lớn, nhất quán, xuyên suốt của Đảng và
Nhà nước ta, được cụ thể hóa phù hợp đối với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Hội nhập quốc tế về văn hóa ngày càng được mở rộng, vừa là thời cơ, đồng
thời cũng đặt ra những thách thức to lớn, nhiều khi hoàn toàn mới mẻ đối với vấn đề
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nó tạo điều
kiện thuận lợi cho các dân tộc hình thành và phát triển những giá trị văn hóa mới;
góp phần nâng cao trình độ tư duy khoa học, thể hiện ở việc phổ biến các giá trị văn
hóa công nghệ, văn hóa thông tin, cùng các hoạt động và loại hình VHNT mới,
phục vụ cho việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Hội nhập quốc tế về
văn hóa tạo điều kiện cho sinh viên tiếp thu văn minh của nhân loại, học tập và ứng
dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ trên thế giới, trở nên tự tin hơn với một
tầm nhìn xa hơn hướng ra thế giới.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, ÂNĐC ở nước ta cũng có nhiều biến đổi,
có tác động không nhỏ đến việc GDTM cho sinh viên. Bên cạnh khuynh hướng tiếp
tục phản ánh các đề tài lịch sử, chiến tranh cách mạng, giải phóng và bảo vệ Tổ
quốc với cảm hứng sử thi và tầm khái quát mới, là sự phát triển mạnh khuynh
hướng quan tâm đến cuộc sống bình dị, nhiều góc cạnh đời thường của con người,
77
làm phong phú hơn và làm sâu sắc thêm chủ nghĩa nhân văn; sự thể hiện trách
nhiệm xã hội và vai trò công dân của nghệ sĩ, ý thức về truyền thống và bản sắc dân
tộc trong các sản phẩm âm nhạc được thể hiện sâu sắc hơn. Tính tự do trong sáng
tạo và thưởng thức âm nhạc ngày càng được mở rộng. Dấu ấn cá nhân và cá tính
trong thưởng thức, đánh giá và sáng tạo ngày càng đậm nét.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa cũng chứa đựng nhiều nguy
cơ phá vỡ hoặc làm băng hoại những giá trị văn hóa truyền thống đã được tích tụ và
tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh ấy, con người dễ bị rơi vào trạng
thái tâm lý bất an về mặt xã hội, mất phương hướng, không tự xác lập được những
nguyên tắc bền vững cho lối sống, đặc biệt là đối với giới trẻ nói chung, sinh viên
nói riêng. Họ dễ bị “lóa mắt” và chạy theo lối sống thực dụng, sùng ngoại, nhạt phai
ý thức dân tộc, lý tưởng cách mạng. Trong xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia đều có
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau thông qua việc phổ biến và tiêu thụ các sản phẩm văn
hóa nói chung, ÂNĐC nói riêng. Các nước phát triển trên thế giới và khu vực đang
trở thành những trung tâm sản xuất, quảng bá các sản phẩm văn hóa; các nước đang
phát triển đang trở thành nước tiêu thụ văn hóa và đứng trước nguy cơ bị “xâm lăng
văn hóa”. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế chung của thế giới. Việc
chưa chú trọng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẽ khiến cho nước ta tụt
hậu hơn so với các quốc gia khác. Mặt khác, công nghiệp văn hóa sẽ dẫn dắt rất
nhiều xu hướng văn hóa đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường trong nước, mang
theo nhiều quan điểm thẩm mỹ mới của thế giới, có tác động nhất định làm thay đổi
đời sống thẩm mỹ của nhân dân.
Thực tế cho thấy, một bộ phận sinh viên đang bị ảnh hưởng bởi lối sống ngoại
lai, buông thả, quay lưng với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Sự
nhầm lẫn giữa cá tính và sự lập dị khiến cho họ luôn muốn thể hiện một cách cực
đoan và kỳ quái bản thân mình. Mặt khác, cuộc sống dư giả về vật chất khiến một bộ
phận sinh viên có lối sống hưởng thụ, ích kỷ, đặt cái riêng trên cái chung, đặt lợi ích
cá nhân trước lợi ích tập thể, chối bỏ trách nhiệm với cộng đồng, sống không có lý
tưởng. Họ dần quên đi những cái đẹp chân chính trong nghệ thuật, trong giá trị đạo
đức truyền thống để tiếp thu cái gọi là “văn hóa ngoại lai”, “thẩm mỹ nước ngoài”
nhằm tạo thành thị hiếu cho bản thân.
Có thể thấy, nguy cơ hòa tan bản sắc dân tộc luôn hiện hữu trong quá trình hội
nhập nếu không có những giải pháp chiến lược giáo dục cần thiết để hạn chế các tác
động đó. Việc đón nhận cái mới từ bên ngoài vào một cách thiếu chọn lọc không chỉ
làm suy thoái lối sống và đạo đức xã hội nói chung và của sinh viên nói riêng, mà còn
tạo ra một nền văn hóa lai căng, thiếu bản sắc.
78
3.3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH
VIÊN THÔNG QUA ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
3.3.1. Thực trạng nội dung giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua
âm nhạc đại chúng trong nhà trƣờng hiện nay
Kết quả khảo sát các văn bản của Đảng, Nhà nước, của ngành Giáo dục và
của các trường ĐH và CĐ ở nước ta cho thấy, các nội dung GDTM thông qua
ÂNĐC hiện vẫn chưa được đưa vào chương trình giảng dạy mang tính hệ thống, mà
chủ yếu được thực hiện lồng ghép với các nội dung giáo dục khác như giáo dục đạo
đức, giáo dục lối sống,… và được thông qua các chương trình biểu diễn âm nhạc
trong nhà trường.
Qua quan sát thực tiễn từ các chương trình biểu diễn âm nhạc tại 03 trường
thuộc phạm vi khảo sát, chúng tôi thấy rằng, hầu hết các tác phẩm âm nhạc được sử
dụng đều là ÂNĐC - đó là những ca khúc quen thuộc, được nhiều sinh viên biết đến
và chủ yếu là những sáng tác của các tác giả Việt Nam được hòa âm, phối khí theo
các thể loại, trào lưu Pop, Rock, Ballad,… Điều này phù hợp với nhu cầu của sinh
viên đối với các thể loại âm nhạc đang được phổ biến ở nước ta [xem Bảng 3.2]:
Bảng 3.2: Sự yêu thích của sinh viên đối với các loại nhạc
Sự yêu thích
của sinh viên TT Các thể loại nhạc
(Tỷ lệ %)
Những sáng tác của các tác giả Việt Nam theo các thể loại,
1. trào lưu Pop, Ballad, Hip hop,…(còn được gọi thông dụng 96,6
là “Nhạc trẻ”)
67,9 2. Âm nhạc đại chúng Âu - Mỹ (US - UK)
93,5 3. Âm nhạc đại chúng Châu Á (K-Pop, C-Pop, J-Pop,...)
Các ca khúc quần chúng về đề tài cách mạng (thường được 45,2 4. gọi là “Nhạc đỏ”)
Các ca khúc lãng mạn Việt Nam trước năm 1945 (thường
được gọi là “Nhạc tiền chiến”) và của các nhạc sĩ thế hệ
5. trước giải phóng ở miền Nam Việt Nam như: Phạm Duy, 36,2
Trịnh Công Sơn, Nguyễn Ánh 9, Ngô Thụy Miên, Từ
Công Phụng,...
Bolero Việt Nam (các ca khúc trữ tình quê hương hay 29,7 6. trước thường được gọi là “Nhạc vàng”, “Nhạc sến”, ra đời
79
ở miền Nam Việt Nam những năm 50, 60 của thế kỷ XX)
1,6 7. Dân ca các vùng miền, các dân tộc Việt Nam
Các thể loại ca nhạc thính phòng, sân khấu truyền thống
3,2 8. Việt Nam: Tuồng, Chèo, Cải lương, Ca Trù, Xẩm, Chầu
Văn, Đờn ca tài tử,…
9,4 9. Hòa tấu nhạc cụ dân tộc (Tranh, Bầu, Sáo, Nhị,…)
Độc tấu nhạc cụ phương Tây (Piano, Guitar, Violin, 26,8 10. Saxophone,…)
Các thể loại nhạc giao hưởng - thính phòng (nhạc cổ điển 11,3 11. không lời)
Hòa tấu “nhạc nhẹ” (các bản hòa tấu nhạc cụ với những
12. nét giai điệu du dương, nhẹ nhàng và êm dịu, mang lại 47,6
cảm giác bình yên và thanh thản)
Nhạc kịch phương Tây (Opera cổ điển, phong cách 9,8 13. Broadway,…)
0,8 14. Thể loại khác: Mashup
Nguồn: Cuộc khảo sát tháng 5 năm 2018 của tác giả luận án
Số liệu Bảng 3.2 cho thấy, đối với sinh viên, yếu tố quyết định đến sự yêu
thích một tác phẩm âm nhạc nào đó, nằm ở chính các thể loại, trào lưu âm nhạc hiện
đại (như Pop, Rock, R&B, Hip hop, EDM,...). Nhu cầu của sinh viên đối với các thể
loại âm nhạc này là rất lớn. Nó gần như chi phối việc lựa chọn tác phẩm để thưởng
thức của sinh viên. Nắm vững đặc điểm này sẽ giúp việc định hướng thẩm mỹ cho
sinh viên đạt hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Để đánh giá một cách khái quát về thực trạng nội dung GDTM cho sinh viên
thông qua ÂNĐC trong nhà trường hiện nay, cùng với việc tham dự các buổi biểu
diễn âm nhạc tại Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội, Đại học Mỏ - Địa chất, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, chúng tôi đã tiến hành thống kê các tác phẩm ÂNĐC
thường được sử dụng tại các ngày lễ lớn, các sự kiện quan trọng trong nhà trường,
như: Lễ khai giảng năm học mới; Chương trình văn nghệ chào đón tân sinh viên;
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11; Kỷ niệm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh; Hội thi “Tiếng hát sinh viên”,… Kết quả cho thấy, các tác phẩm
ÂNĐC viết về tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc (“Bay lên huyền
thoại Việt Nam” - Mai Kiên; “Việt Nam ơi” - Minh Beta; “Rạng rỡ Việt Nam” -
80
Quang Vinh; “Dòng máu Lạc Hồng” - Lê Quang; “Đến với con người Việt Nam
tôi” - Xuân Nghĩa; “Hào khí Việt Nam” - Bảo Phúc,…); về thầy cô và mái trường
(“Những điều thầy chưa kể” - Trần Thanh Sơn; “Cô ơi” - Nguyễn Văn Chung;
“Mong ước kỷ niệm xưa” - Xuân Phương; “Bụi phấn” - Vũ Hoàng, Lê Văn Lộc;
“Nhớ ơn thầy cô” - Nguyễn Ngọc Thiện; “Lá thư gửi thầy” - Đông Nhi,…); về ước
mơ và khát vọng của tuổi trẻ (“Sức sống tuổi trẻ” - Chu Hoàng; “Khát vọng thanh
niên” - Nguyễn Văn Chung; “Vì hôm nay - Vì ngày mai” - Bảo Huy; “Tuổi trẻ Việt
Nam ơi” - Sỹ Luân; “Đường đến ngày vinh quang” - Trần Lập,…) là những đề tài,
chủ đề thường được lựa chọn để biểu diễn tại các sự kiện trong nhà trường. Kết quả
này có sự trùng khớp tương đối rõ rệt so với kết quả khảo sát mà chúng tôi thực
hiện bằng bảng hỏi về nhu cầu của sinh viên đối với các đề tài, chủ đề âm nhạc mà
họ mong muốn được thưởng thức [xem Bảng 3.3]:
Bảng 3.3: Nhu cầu của sinh viên đối với các đề tài, chủ đề âm nhạc
Mức độ mong muốn của sinh viên
(Tỷ lệ %)
STT Đề tài, chủ đề tác phẩm âm nhạc Không Bình Muốn nghe muốn thường nghe
1 Về tình yêu đôi lứa 89,6 10,4 0,0
2 Về mái trường, thầy cô, bạn bè 49,5 46,3 4,2
Về quê hương đất nước, phong 3 50,1 45,2 4,7 cảnh thiên nhiên
4 Về ông bà, cha mẹ 53,3 46,7 0,0
5 Về ước mơ, khát vọng 62,7 37,3 0,0
6 Về những số phận nghiệt ngã 51,7 40,5 7,8
7 Về chiến tranh và hòa bình 38,2 59,4 2,4
Về hình tượng người lính, người 8 32,5 56,1 11,4 chiến sĩ
Nguồn: Cuộc khảo sát tháng 5 năm 2018 của tác giả luận án
Số liệu Bảng 3.3 cho thấy, sinh viên rất mong muốn được nghe các tác phẩm
âm nhạc về đề tài tình yêu đôi lứa (89,6%). Điều này khá phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý của lứa tuổi sinh viên, bởi đây là những loại tình cảm xuất hiện và phát triển
mạnh mẽ, với cường độ cao và được ý thức khá rõ. Nó chi phối, thúc đẩy nhu cầu
muốn thỏa mãn việc thưởng thức các tác phẩm âm nhạc đối với các đề tài, chủ đề về
81
tình yêu của họ. Bên cạnh đó, sinh viên cũng dành nhiều sự quan tâm của mình đối
với các đề tài, chủ đề về ước mơ, khát vọng (62,7%); về ông bà, cha mẹ (53,3%); về
những số phận nghiệt ngã (51,7%); về quê hương đất nước, phong cảnh thiên nhiên
(50,1%). Tìm hiểu sự quan tâm của sinh viên đối với các yếu tố có trong tác phẩm
âm nhạc sẽ giúp việc lựa chọn và sử dụng các tác phẩm ÂNĐC phù hợp với nhu cầu
âm nhạc của họ.
Trên thực tế, việc định hướng, lựa chọn đề tài, chủ đề của các tác phẩm
ÂNĐC trong các trường ĐH và CĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian qua cơ
bản đáp ứng được các nội dung cụ thể của GDTM thông qua ÂNĐC.
3.3.1.1. Về giáo dục tình cảm thẩm mỹ Trong số các nội dung cụ thể của GDTM thông qua ÂNĐC, nội dung giáo
dục tình cảm thẩm mỹ được thể hiện đậm nét nhất thông qua nội dung, ca từ của các
tác phẩm ÂNĐC mà sinh viên được tiếp cận trong nhà trường. Đối với sinh viên,
thông tin có trong nội dung của các tác phẩm âm nhạc là rất quan trọng và chúng có
thể làm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của họ. Điều này được chính sinh viên thừa
nhận khi có đến 98,5% sinh viên quan tâm đến yếu tố nội dung, ca từ của tác phẩm
trong khi thưởng thức âm nhạc.
Nội dung giáo dục tình cảm thẩm mỹ là nội dung xuyên suốt trong quá trình
GDTM thông qua ÂNĐC cho sinh viên, vì bản thân các tác phẩm ÂNĐC được định
hướng lựa chọn để sử dụng trong các trường ĐH, CĐ thời gian qua đều mang trong
nó tình yêu và sự rung động đối với cái đẹp của người nghệ sĩ sáng tạo ra chúng.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, nếu không có tình yêu đối với quê hương, đất
nước thì các nhạc sĩ Việt Nam không thể nào sáng tác được những tác phẩm như:
“Việt Nam quê hương tôi” (Đỗ Nhuận), “Đường chúng ta đi” (Huy Du), “Hà Nội
niềm tin và hy vọng” (Phan Nhân),… Nếu như không có tình yêu, sự kính trọng đối
với Chủ tịch Hồ Chí Minh thì sẽ không có nhiều tác phẩm âm nhạc như: “Lời Bác
dặn trước lúc đi xa” (Trần Hoàn), “Người sống mãi trong lòng miền Nam”
(Nguyễn Đồng Nai), “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” (Trần Kiết Tường),
“Người là niềm tin tất thắng” (Chu Minh), “Nhớ ơn Hồ Chí Minh” (Tô Vũ),… và
nếu như không có tình yêu với nghề, tự hào về công việc của ngành mình đã chọn
thì đã không thể có những tác phẩm như: “Bài ca người giáo viên nhân dân”
(Hoàng Vân); “Những cánh chim địa chất” (Mộng Lân); “Tiếng đàn Bầu”
(Nguyễn Đình Phúc); “Cây đàn ghi ta” (Xuân Hồng),… Những tác phẩm này được
dàn dựng, biểu diễn cho các chương trình văn nghệ của sinh viên trong các trường
ĐH, CĐ đạt hiệu quả rất cao, vừa có tính giáo dục, vừa có tính thẩm mỹ, góp phần
bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ cho sinh viên.
82
3.3.1.2. Về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ Qua quan sát một số buổi luyện tập, sơ duyệt, tổng duyệt chương trình biểu
diễn âm nhạc của sinh viên nhằm phục vụ các sự kiện quan trọng trong nhà trường
dưới sự giám sát của một số cán bộ lãnh đạo phụ trách, cán bộ phòng công tác sinh
viên (chính trị - sinh viên), cán bộ ĐTN, HSV và một số giảng viên, chúng tôi thấy
rằng, hầu hết đội ngũ cán bộ, giảng viên đều có nhận thức đúng đắn về vai trò của âm
nhạc nói chung trong GDTM cho sinh viên. Tuy nhiên, việc thực hiện các nhiệm vụ,
nội dung cụ thể của GDTM thông qua ÂNĐC cho sinh viên là không đều. Nhà
trường mới chỉ chú trọng vào các nội dung phát triển tình cảm thẩm mỹ, lý tưởng
thẩm mỹ mà chưa chú trọng nhiều đến thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên.
Thực tế hiện nay, các chương trình âm nhạc trong nhà trường vẫn còn “rập
khuôn” theo những cách thể hiện cũ. Cho dù những người làm chương trình đã cố
gắng lựa chọn các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp trong các sự kiện để góp phần
GDTM cho sinh viên; tuy nhiên hình thức thể hiện các tác phẩm đó không đủ sức hấp
dẫn đối với sinh viên. Nguyên nhân chính là do những người làm chương trình chưa
“đánh trúng” vào nhu cầu âm nhạc của đông đảo sinh viên; là những mong muốn
được tiếp xúc với các sản phẩm âm nhạc, tham gia các hoạt động âm nhạc để giải trí,
thỏa mãn sự hiểu biết, cũng như hưởng thụ những giá trị nghệ thuật của các sản phẩm
âm nhạc đó mang lại. Nhu cầu đó được thể hiện ở sự yêu thích về thể loại âm nhạc,
về đề tài, chủ đề âm nhạc, cũng như các yếu tố xung quanh một sản phẩm âm nhạc
nào đó mà sinh viên thưởng thức, trong đó nhu cầu đối với các thể loại âm nhạc gần
như chi phối việc lựa chọn tác phẩm để thưởng thức của sinh viên.
Cần phải nhấn mạnh rằng, trên thực tế, không ít sinh viên có khả năng sáng
tạo nghệ thuật, nhưng xét về mặt bằng chung đối với đa số sinh viên, vai trò chính
của họ vẫn là những người “tiêu thụ” các sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy, chúng tôi chủ
yếu tập trung vào nhu cầu âm nhạc của sinh viên với tư cách là người thưởng thức.
Kết quả khảo sát bằng bảng hỏi về mức độ quan tâm của sinh viên đối với
các yếu tố trong âm nhạc cho thấy [xem Bảng 3.4], bên cạnh nội dung, ca từ của tác
phẩm, sinh viên rất quan tâm đến yếu tố về âm thanh, nhạc đệm trong khi thưởng
thức một tác phẩm âm nhạc nào đó (96,7% sinh viên đồng tình). Điều này hoàn toàn
có thể lý giải bởi dù ở thể loại nhạc nào, âm nhạc vẫn luôn là loại hình nghệ thuật
dùng để nghe, được người thưởng thức cảm nhận thông qua hệ thống các âm thanh
trong âm nhạc và nó đến gần với sinh viên hơn khi được diễn đạt cụ thể bằng lời ca.
Mặt khác, sinh viên là những người thích những điều mới lạ, hấp dẫn và họ
thường có xu hướng tìm kiếm những điều này ở phương diện “hình ảnh”. Yếu tố hình
ảnh đã giúp âm nhạc trở nên sinh động hơn bao giờ hết. Nhận định này được hầu hết
83
sinh viên đồng tình khi có đến 76,5% sinh viên cho biết họ thực sự quan tâm đến vũ
đạo, trang phục, ngoại hình của người biểu diễn và 75,8% sinh viên thường để ý đến
diễn xuất của ca sĩ, diễn viên khi thưởng thức âm nhạc [xem Bảng 3.4].
Bảng 3.4: Mức độ quan tâm của sinh viên đối với
các yếu tố trong âm nhạc
Mức độ quan tâm (Tỷ lệ %)
TT Các yếu tố Không Quan tâm Bình thường quan tâm
1 Nội dung, ca từ của tác phẩm 98,5 1,5 0,0
2 Âm thanh, phần nhạc đệm (beat) 96,7 3,3 0,0
Diễn xuất của ca sĩ, diễn viên 75,8 3 20,0 4,2 trong các MV
Vũ đạo, trang phục, ngoại hình 4 76,5 19,7 3,8 của nghệ sĩ
Hiệu ứng sân khấu/MV đẹp và 5 63,6 27,3 9,1 hoành tráng
Tác phẩm của ca sĩ/ban nhạc nổi 35,9 6 49,2 14,9 tiếng
7 57,1 10,4 Tác phẩm của nhạc sĩ nổi tiếng 32,5
Nguồn: Cuộc khảo sát tháng 5 năm 2018 của tác giả luận án
Ngoài ra, cũng ở phương diện hình ảnh, có đến 63,6% sinh viên cho rằng, yếu
tố hiệu ứng sân khấu, sự hoành tráng của các thiết kế sân khấu khiến họ cảm thấy có
hứng thú khi thưởng thức một tiết mục âm nhạc nào đó [xem Bảng 3.4].
Để nắm bắt thêm được nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên, chúng tôi đã
tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi về khía cạnh tính chất âm nhạc mà sinh viên quan
tâm. Kết quả thu được cho thấy [xem Bảng 3.5], hiện nay sinh viên ưa thích và mong
muốn được thưởng thức các tác phẩm âm nhạc có tính chất trẻ trung, ca từ gần gũi
với hiện thực cuộc sống. Tỷ lệ sinh viên nhận xét về tính chất này được phân bố ở
mức độ thích là 63,3% và ở mức độ bình thường là 36,7% và không có sinh viên nào
là không thích.
Như vậy, bên cạnh đề tài, chủ đề, tính chất này có vai trò khá quan trọng đối
với sinh viên trong quá trình lựa chọn để thưởng thức một tác phẩm âm nhạc. Mở
rộng hơn cho nhận định này, có đến 96,3% sinh viên trả lời: Ca khúc có giai điệu và
lời ca đơn giản, dễ hiểu, ngôn ngữ đời thường (nhưng không được quá thô tục) thì dễ
lôi cuốn khán giả trẻ hơn.
84
Bên cạnh đó, tỷ lệ sinh viên bày tỏ sự quan tâm, ưa thích của mình đối với các
tác phẩm âm nhạc có tính chất “mạnh mẽ, ảo diệu, huyền bí, kỳ ảo, hứng phấn, kích
thích” cũng ở mức khá cao, với 52,7%. Việc ưa thích và mong muốn thưởng thức các
tác phẩm âm nhạc mang những tính chất này cho thấy, đây là yếu tố thể hiện cá tính
và phong cách rất mạnh mẽ, ưa thích sự sôi động nhưng cũng không kém phần sâu
lắng của sinh viên, bởi hầu hết những bản nhạc có tính chất này thường thuộc thể loại
nhạc điện tử EDM. Điều này tạo nên sự đa dạng trong cách lựa chọn và thưởng thức
âm nhạc của sinh viên hiện nay [xem Bảng 3.5].
Bảng 3.5: Mức độ ƣa thích của sinh viên đối với các
tính chất của tác phẩm âm nhạc
Mức độ ưa thích của sinh viên
(Tỷ lệ %) TT Tính chất của tác phẩm âm nhạc Bình Không Thích thường thích
Nhẹ nhàng, tình cảm, ca từ giàu chất thơ, 1 34,7 53,2 12,1 mang tính triết lý, sâu lắng
Trẻ trung, ca từ gần gũi với hiện thực 2 63,3 36,7 0,0 cuộc sống.
Mạnh mẽ, ảo diệu, huyền bí, kỳ ảo, hưng 3 52,7 21,9 25,4 phấn, kích thích.
4 Hào hùng, mang tính chất hành khúc 27,5 53,6 18,9
5 Lắt léo, dí dỏm, vui tai 46,5 53,5 0,0
Nguồn: Cuộc khảo sát tháng 5 năm 2018 của tác giả luận án
Nhìn một cách tổng thể kết quả thu được từ cuộc khảo sát, những lựa chọn của
sinh viên khá phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của họ - lứa tuổi năng nổ, ưa thích các
hoạt động sôi nổi, mạnh mẽ, có óc liên tưởng và trí tưởng tượng phong phú, luôn
nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ. Họ lựa chọn dòng nhạc ưa thích của mình và tìm
hiểu nó dựa theo tính cách và sở thích của họ. Nắm bắt được những đặc điểm này sẽ
giúp các trường định hướng, lựa chọn và tổ chức thực hiện nội dung GDTM thông
qua ÂNĐC cho sinh viên đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên, qua quan sát tình hình thực
tiễn tại 03 trường thuộc phạm vi khảo sát, chúng tôi thấy, việc tổ chức các chương
trình ÂNĐC cho sinh viên của nhà trường thời gian qua thường không chú ý nhiều
vào những yếu tố mà sinh viên quan tâm. Việc lựa chọn các sản phẩm ÂNĐC của nhà
85
trường phần lớn tập trung vào nội dung của tác phẩm mà chưa chú trọng hướng dẫn
cho sinh viên về thực hành biểu diễn, về tác phong của người biểu diễn, cũng như
cách lựa chọn trang phục, đạo cụ, sử dụng nhạc nền, âm thanh, ánh sáng, thiết kế sân
khấu hay múa minh họa,… dẫn đến các chương trình biểu diễn ÂNĐC của nhà
trường trong hầu hết các sự kiện đều có chung một “công thức”, dễ gây ra sự nhàm
chán đối với sinh viên.
3.3.1.3. Về giáo dục lý tưởng thẩm mỹ Quá trình khảo sát các tác phẩm ÂNĐC được sử dụng trong nhà trường thời
gian qua cho thấy, nội dung giáo dục lý tưởng thẩm mỹ được thể hiện ở các ca khúc
đại chúng viết về những “cái đẹp” của lịch sử cha ông, của các anh hùng dân tộc,
như: “Lá cờ” (Tạ Quang Thắng), “Dòng máu Lạc Hồng”, “Bản hùng ca chim Lạc”
(Lê Quang), “Rạng rỡ Việt Nam” (Quang Vinh),… hay những ca khúc đại chúng
mang lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp, với tiết tấu hiện đại, ca từ trong sáng, giàu sức lay
động, như: “Tâm hồn của đá” (Trần Lập), “Nếu chỉ còn một ngày để sống” (Hoài
An), “Chào buổi sáng” (MTV), “Xin chào! Xin chào!” (Đức Trí), “Cuộc sống muôn
màu” (Nguyễn Hồng Thuận), “Sống như những đóa hoa” (Tạ Quang Thắng),…
Tuy nhiên, nội dung giáo dục lý tưởng thẩm mỹ được thể hiện rõ nét nhất vẫn
là thông qua việc định hướng của nhà trường khi lựa chọn các ca khúc viết về đề tài
“cách mạng”. Đề tài chủ yếu ở các “ca khúc cách mạng” là tình yêu Tổ quốc như:
“Việt Nam quê hương tôi” (Đỗ Nhuận); “Đất nước” (Phạm Minh Tuấn); “Đường
chúng ta đi” (Huy Du); “Hà Nội niềm tin và hy vọng” (Phan Nhân),… hoặc là những
hình ảnh về cuộc sống trẻ trung của những người trực tiếp cầm súng chiến đấu nơi
tiền tuyến được khắc họa sinh động trong các ca khúc như: “Chiếc gậy Trường
Sơn” (Phạm Tuyên); “Cô gái mở đường” (Xuân Giao); “Trường Sơn Đông, Trường
Sơn Tây” (Hoàng Hiệp),… Bên cạnh đó, các ca khúc cách mạng cũng đề cập tới tình
yêu đôi lứa nhưng được gắn liền với tình yêu đất nước, biểu hiện trong những ca
khúc như: “Tình ca” (Hoàng Việt); “Những ánh sao đêm” (Phan Huỳnh Điểu),…
Việc sử dụng các “ca khúc cách mạng” giống như sử dụng một dòng tài liệu chính
thống cùng với các trang sách, hồi ký nhằm giúp các thế hệ sinh viên tìm hiểu về các
chặng đường lịch sử của đất nước. Chính vì thế, những ca khúc mang đậm hơi thở
một thời như: “Đất nước trọn niềm vui” (Hoàng Hà); “Như có Bác Hồ trong ngày
vui đại thắng” (Phạm Tuyên); “Mùa xuân đầu tiên” (Văn Cao),... vẫn vang lên trong
những sự kiện lớn của nhà trường, bởi vì bản thân các “ca khúc cách mạng” đã mang
trong nó những lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp. Đó cũng là lý do, các “ca khúc cách
mạng” là dòng nhạc chủ yếu để các trường ĐH, CĐ ở nước ta vận dụng trong quá
trình giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho sinh viên hiện nay.
86
Trong quá trình khảo sát tại các trường ĐH và CĐ trên địa bàn thành phố Hà
Nội, mặc dù không hoàn toàn là một buổi phỏng vấn, nhưng chúng tôi cũng đã có
dịp được ngồi trò chuyện với một số cán bộ ĐTN để lắng nghe họ chia sẻ cảm nghĩ
của mình về dòng “nhạc cách mạng”. Qua đó, chúng tôi thấy, dù một bộ phận khá
lớn sinh viên (54,8%) ít ưa chuộng dòng nhạc này vì lý do thị trường âm nhạc hiện
nay quá sôi động, với nhiều trào lưu ÂNĐC mới xuất hiện, có sức hút mạnh mẽ đối
với nhiều bạn trẻ; tuy nhiên điều đó không đồng nghĩa, “nhạc cách mạng” hoàn toàn
“biến mất” trong lòng người yêu nhạc.
Bạn Tú Anh, Bí thư ĐTN Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội chia sẻ rằng,
nhạc cách mạng là dòng nhạc bạn rất yêu thích: “Mỗi một dòng nhạc đều có những
nhóm người hâm mộ riêng của nó. Nét giai điệu đẹp, ca từ trong sáng, giàu chất
nhân văn, sâu sắc và ý nghĩa chính là sức hút lớn của các ca khúc cách mạng đối với
công chúng nghe nhạc”. Cùng ý kiến, bạn Trần Thị Thu Trang, Phó Bí thư ĐTN
Trường Đại học Mỏ - Địa chất cho biết: “Em không thường xuyên nghe dòng nhạc
này, nhưng quả thực, không ai có thể phủ nhận được sức truyền tải mạnh mẽ của
các ca khúc cách mạng về tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và thật khó có
một thể loại âm nhạc nào có thể làm tốt điều đó hơn dòng nhạc này”.
Kết quả khảo sát cho thấy, trung bình 01 chương trình biểu diễn âm nhạc tại
các sự kiện trong nhà trường thường có từ 05 đến 06 tiết mục ca hát (đối với các
chương trình mang tính chất khai mạc, khoảng 20-25 phút). Căn cứ vào mục đích
của từng sự kiện, các tiết mục sẽ sử dụng ca khúc có nội dung phù hợp với chương
trình, song nhất định phải có từ 02 đến 03 tiết mục sử dụng các “ca khúc cách
mạng” được lựa chọn để biểu diễn, góp phần định hướng lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp
cho sinh viên. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cũng cho thấy [xem Bảng 3.3], hiện nay
sinh viên chưa thực sự quan tâm đến các đề tài, chủ đề về chiến tranh, hình tượng
người lính, người chiến sĩ khi tỷ lệ muốn nghe chỉ đạt 32,5% và không muốn nghe
là 11,4%. Đây là vấn đề đáng lưu ý trong quá trình GDTM thông qua ÂNĐC, bởi vì
những tác phẩm viết về đề tài, chủ đề này lại góp phần rất quan trọng trong việc
giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho sinh viên. Mặc dù vậy, tỷ lệ sinh viên quan tâm đến
các đề tài, chủ đề về chiến tranh, hình tượng người lính, người chiến sĩ ở mức độ
bình thường vẫn khá cao, với 56,1%. Mức độ này cho thấy, nhà trường cần phải đổi
mới các phương pháp sử dụng những tác phẩm âm nhạc thuộc đề tài, chủ đề này để
tạo ra sự hấp dẫn hơn nữa đối với sinh viên.
3.3.1.4. Về giáo dục quan điểm thẩm mỹ Kết quả khảo sát chương trình khung giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và
Đào tạo cho thấy, các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có tính
87
chất bắt buộc như: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa
xã hội khoa học, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài
ra, căn cứ vào từng khối ngành cụ thể, các môn học được thiết kế có thể có thêm
môn: Văn hóa học và Lịch sử Văn hóa Việt Nam, Cơ sở văn hóa Việt Nam,…
Riêng với khối ngành nghệ thuật, đa số sinh viên đều được tiếp cận với môn Mỹ
học Mác - Lênin, Nghệ thuật học,… Đây là các môn học giúp sinh viên tiếp cận
được với những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối
quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung
quanh; tạo cơ sở nền tảng cho việc phát triển quan điểm thẩm mỹ cá nhân.
Các cơ sở đào tạo hiện nay thường chỉ tập trung đến việc bồi dưỡng những
kiến thức chuyên ngành, mà chưa chú ý đến việc giáo dục trình độ nhận thức về
thẩm mỹ; thậm chí là “hy sinh” thời lượng của các môn học như mỹ học (nếu có)
cho các môn khác, hoặc khi có kế hoạch tinh giản nội dung các môn học thì những
môn này sẽ bị cho lên danh sách đầu tiên. Hơn nữa, môn Mỹ học Mác - Lênin hiện
nay cũng chưa phải là một môn học bắt buộc trong các trường ĐH, CĐ, nhất là đối
với các trường thuộc khối khoa học tự nhiên (chỉ bắt buộc học môn Triết học). Điều
này xuất phát từ việc chưa nhận thức đúng về khoa học mỹ học đối với việc phát
triển con người toàn diện. Trong khi đó, mỹ học có quan hệ khá mật thiết với các
khoa học khác, đặc biệt là triết học. Nó nhận thế giới quan, phương pháp luận từ
triết học và dựa trên cơ sở chung là cùng nghiên cứu một đối tượng căn bản, đó
chính là con người với các khía cạnh tinh tế và phức tạp của nó. Những nhận định
của mỹ học giúp cho triết học xây dựng “bức tranh” tổng thể bằng các quy luật về
cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, mỹ học liên quan đến tất cả các lĩnh vực,
không chỉ riêng với các ngành nghệ thuật mà còn bao gồm cả khoa học xã hội, nhân
văn và khoa học tự nhiên. Hệ thống lý luận này cung cấp cho con người những tri
thức cần thiết về thẩm mỹ để xây dựng quan điểm thẩm mỹ cho bản thân mỗi người.
Theo kết quả khảo sát, có đến 50,2% sinh viên trả lời không được học môn
mỹ học. Đây thực sự là một bất cập cho mục tiêu giáo dục toàn diện cho sinh viên
hiện nay. Điều đó có nghĩa, phần lớn sinh viên ở nước ta chưa được trang bị kiến
thức đầy đủ về thẩm mỹ. Mặc dù vậy, trên thực tế, các nội dung giáo dục quan điểm
thẩm mỹ vẫn được nhà trường triển khai thực hiện thông qua việc tuyên truyền các
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển
nền VHNT Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; tạo nền tảng cơ sở cho
việc hình thành các quan điểm thẩm mỹ đúng đắn cho sinh viên. Điều này cũng được
chính sinh viên thừa nhận khi chúng tôi tiến hành khảo sát tại các trường ĐH, CĐ
trên địa bàn Hà Nội. Theo đó, có 53,6% sinh viên cho rằng, các chương trình, sự kiện
88
âm nhạc do nhà trường tổ chức thực sự mang tính GDTM cho sinh viên; 51,5% sinh
viên cho biết, các hoạt động này có ý nghĩa trong việc định hướng cho sinh viên khi
lựa chọn các sản phẩm âm nhạc để thưởng thức và biểu diễn - đó phải là những tác
phẩm ÂNĐC có nội dung tư tưởng tốt.
3.3.2. Thực trạng phƣơng thức giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông
qua âm nhạc đại chúng
3.3.2.1. Thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc
đại chúng trên các phương tiện thông tin đại chúng
Từ đầu thế kỷ XX, các thể loại âm nhạc trên thế giới như Pop, Rock, Blues,
R&B/Soul,… đã “ồ ạt” xâm nhập vào Việt Nam, hằng ngày, hằng giờ được xuất hiện
trên các phương tiện truyền thông đại chúng, được biểu diễn tại các kỳ liên hoan âm
nhạc, các sàn diễn, phòng trà,… Bên cạnh đó, chúng còn xuất hiện ở rất nhiều các
cuộc thi âm nhạc và chương trình truyền hình thực tế (gameshow) có phạm vi toàn
quốc như: “Giọng hát Việt - The Voice”, “Thần tượng âm nhạc Việt Nam - Vietnam
Idol”,… Điều đó cho thấy sự phong phú, đa dạng về thể loại ÂNĐC ở nước ta; đồng
thời cho thấy quá trình giao lưu và tiếp biến các giá trị văn hóa giữa các quốc gia, dân
tộc, giữa các cộng đồng văn hóa trên khắp hành tinh ngày càng gia tăng mạnh mẽ.
Trong bối cảnh đó, việc xác định một hệ thống quan điểm thẩm mỹ rõ ràng làm
định hướng trong việc GDTM cho giới trẻ nói chung, sinh viên nói riêng ngày càng
được chú ý hơn. Chính vì lẽ đó, nhiều chương trình âm nhạc trên các phương tiện
thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình đã chú trọng sử dụng các sản phẩm
ÂNĐC phản ánh cái đẹp để tập trung GDTM cho giới trẻ và bước đầu cũng đã thu
được những kết quả tích cực, góp phần “mở rộng” những thị hiếu cao đẹp cho sinh
viên. Mấy năm trở lại đây có chương trình “Điều còn mãi”, “Giai điệu tự hào” được
công chúng trong và ngoài nước có những phản hồi tích cực. Nguyên Bộ Trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận khi còn đương chức đã trả lời phỏng vấn trên
Vietnamnet.vn (ngày 03/9/2013) rằng: “Điều Còn Mãi không chỉ có ý nghĩa giáo dục
về mặt thẩm mỹ âm nhạc cho các thế hệ sau này mà còn góp phần nuôi dưỡng tình yêu
quê hương đất nước, yêu con người cho mỗi người dân Việt Nam” [65].
Những ca khúc với giai điệu thâm trầm, lắng đọng nhưng truyền tải những
thông điệp lớn lao về truyền thống tốt đẹp của dân tộc như đạo lý “uống nước nhớ
nguồn”, tinh thần đoàn kết “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại thành hòn
núi cao”,… đã đem lại sự thích thú đặc biệt trong lòng đông đảo khán giả Việt Nam,
góp phần làm tăng hiệu quả GDTM cho sinh viên hướng tới cái hay, cái đẹp, thừa
nhận những giá trị thẩm mỹ trong cuộc sống. Bên cạnh đó, thông qua các chương
trình như “Thế kỷ âm nhạc”, “Trò chơi âm nhạc”, công chúng sinh viên không những
89
được “bổ túc” thêm về kiến thức âm nhạc (từ các dòng nhạc, tác giả, tác phẩm ở
nhiều thời kỳ khác nhau, nhiều dân tộc - quốc gia khác nhau), mà còn giúp sinh viên
thuộc và hát tương đối “đúng nhạc” một số ca khúc đại chúng; từ đó góp phần nâng
cao cảm thụ âm nhạc cho công chúng sinh viên.
Đáng chú ý, bên cạnh sự đánh giá của ban giám khảo, hội đồng nghệ thuật
thì trong hầu hết các cuộc thi âm nhạc luôn có giải thưởng cho các thí sinh hoặc sản
phẩm âm nhạc có phiếu bình chọn cao nhất từ khán giả. Hình thức bình chọn rất
phong phú và đa dạng; khán giả có thể nhắn tin trực tiếp từ điện thoại, hoặc được
“đo đếm” bằng lượt view (lượt xem và nghe), lượt like (yêu thích). Cách tiếp cận
này có tác dụng GDTM rộng rãi đến nhiều đối tượng khán thính giả khác nhau; từ
người trẻ cho đến người lớn tuổi, ai ai cũng được thể hiện quan điểm thẩm mỹ của
mình về những đối tượng thẩm mỹ mà bản thân được tiếp cận. Sau đó, họ đối chiếu
kết quả với những nhận định, đánh giá của hội đồng nghệ thuật và tự rút ra những
kinh nghiệm thẩm mỹ cho bản thân mỗi người. Nhà biên kịch Phan Huyền Thư -
người chịu trách nhiệm về nội dung của Chương trình “Giai điệu tự hào” cho biết
trên trang tin Hanoimoi.com.vn (ngày 16/01/2014): “Những người làm chương
trình hy vọng “Giai điệu tự hào” sẽ dần đẩy những chuẩn mực về thẩm mỹ nghe
nhạc gần với nhau hơn, chinh phục được nhiều khán giả ở mọi tầng lớp, vùng miền
để các thế hệ có thể đối thoại với nhau” [24].
Việc phổ biến những sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp trên các phương tiện
thông tin đại chúng thời gian qua, nhất là những bản nhạc theo phong cách cổ điển
phương Tây, những ca khúc “Nhạc đỏ”, “Nhạc tiền chiến”, được dàn dựng, hòa âm,
phối khí, “làm mới” theo các thể loại hiện đại như Pop, Rock, Ballad,… đã góp phần
bồi dưỡng lý tưởng thẩm mỹ và đạo đức cách mạng tốt đẹp cho sinh viên. Điều này
cũng được chính sinh viên thừa nhận. Theo kết quả khảo sát mà chúng tôi thu được,
có 61,3% sinh viên cho rằng, cách làm này tạo điều kiện để các tác phẩm âm nhạc cổ
điển, những tác phẩm “đi cùng năm tháng” với lý tưởng cao đẹp được đến gần hơn
với công chúng, nhất là đối với công chúng trẻ hiện nay. 52,5% nhận xét rằng: Sau
khi nghe những sản phẩm âm nhạc được “làm mới”, những tác phẩm “nguyên bản”
được tìm đến để nghe nhiều hơn trước và đây cũng là cách khiến công chúng biết đến
những tác phẩm “kinh điển” mà trước đó họ chưa bao giờ nghe, hoặc ít nghe.
Các cơ quan thông tấn, báo chí bước đầu cũng đã có những thay đổi cách
nhìn nhận về vai trò của ÂNĐC trong việc GDTM cho thế hệ trẻ nói chung, sinh
viên nói riêng; từ đó mở rộng các chuyên trang, chuyên mục, xây dựng được một số
chương trình âm nhạc nhằm giới thiệu, quảng bá các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái
đẹp đến với đông đảo sinh viên, góp phần giáo dục cho sinh viên các nhu cầu lành
90
mạnh về cái đẹp nói chung, cái đẹp trong ÂNĐC nói riêng. Đặc biệt, nhằm giúp
sinh viên có thêm tư liệu, phục vụ cho việc lựa chọn các sản phẩm ÂNĐC phản ánh
cái đẹp để sử dụng trong nhiều mục đích khác nhau, các trang mạng nghe nhạc trực
tuyến (như ZingMP3, NhacCuaTui, Chiasenhac, YouTube,…) đã xây dựng được
nhiều tuyển tập ca khúc đại chúng theo các chủ đề khác nhau, chẳng hạn như những
ca khúc hay về Đảng, ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh; những ca
khúc hay về gia đình, thầy cô, bạn bè, mái trường,… Việc xây dựng các tuyển tập
ca khúc như vậy đã góp phần tăng cường hoạt động giáo dục truyền thống cách
mạng, lịch sử vẻ vang của dân tộc cho sinh viên, góp phần định hướng, giáo dục
thẩm mỹ âm nhạc đúng đắn cho họ.
Các sách, báo, tạp chí về văn hóa - nghệ thuật, các bản ghi âm, ghi hình về
ÂNĐC với đủ thể loại, đa dạng về đề tài xuất bản ngày càng nhiều và được phát
hành rộng rãi, đặc biệt trên môi trường mạng Internet, tạo ra một đời sống âm nhạc
sôi động cho các tầng lớp nhân dân; bổ sung nhiều nguồn tư liệu để các chủ thể giáo
dục có thể sử dụng vào công tác GDTM cho sinh viên, giúp họ hướng tới cái hay,
cái đẹp trong cuộc sống.
Qua khảo sát tại một số trường ĐH và CĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội,
chúng tôi thấy rằng, nhà trường cũng đã tận dụng các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái
đẹp đang được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để đưa
vào sử dụng (xen kẽ) trong các chương trình phát thanh của nhà trường. Đặc biệt,
trên các trang mạng xã hội của nhà trường (tiêu biểu như Facebook, Zalo), việc
đăng tải các sản phẩm ÂNĐC có nội dung, ý nghĩa tốt đẹp, kèm theo các nội dung
bình luận, giới thiệu về tác giả, tác phẩm được chú trọng thực hiện, nhận được sự
quan tâm của đông đảo sinh viên (thể hiện qua hàng trăm “lượt like”, chia sẻ và
tương tác với mỗi bài viết được đăng tải). Điều đó cho thấy, nhận thức của nhà
trường và sinh viên về vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với việc
truyền tải “cái đẹp” trong ÂNĐC, góp phần GDTM cho sinh viên là thực sự quan
trọng; nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sinh viên thường có xu hướng thử
nghiệm nhiều khả năng, nhiều lựa chọn khi tiếp nhận thông tin, tri thức mới từ các
sản phẩm ÂNĐC thông qua kết nối Internet. Tỷ lệ 99,2% sinh viên trả lời thường
xuyên thưởng thức âm nhạc trên mạng Internet cho thấy, các phương tiện truyền
thông kỹ thuật số đã mở ra nhiều cơ hội cho sinh viên được tiếp cận với các quan
điểm thẩm mỹ âm nhạc khác nhau. Điều đó đã giúp sinh viên có được những nhận
định nghiêm túc và khá xác đáng về tình hình ÂNĐC Việt Nam (V-Pop) hiện nay.
Theo kết quả thu được qua khảo sát bằng bảng hỏi, sinh viên hiện nay có cái
nhìn lạc quan, tích cực về V-Pop khi có đến 91,6% sinh viên đánh giá rằng: V-Pop
91
luôn luôn sôi động, đáp ứng kịp thời nhịp sống mới của thời kỳ hội nhập quốc tế. V-
Pop hiện nay phát triển mạnh bởi có sự hỗ trợ của công nghệ “lăng-xê, quảng cáo”
trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt trên các trang mạng xã hội.
88,3% sinh viên đồng tình với nhận định: Cùng với sự phát triển của khoa học, công
nghệ và cách làm việc năng động, chuyên nghiệp của các ê-kíp sản xuất âm nhạc,
nhiều sản phẩm chất lượng đã ra đời. Một số nghệ sĩ đã bước đầu có tầm ảnh hưởng
trong khu vực và thế giới. Những suy nghĩ tích cực này được khẳng định thêm khi
có đến 67,5% sinh viên không hoàn toàn đồng ý với nhận định: Nhạc đại chúng V-
Pop đang bị khủng hoảng, lộn xộn, nhạt nhẽo và thiếu chất lượng.
Phần lớn sinh viên cũng đồng tình với một số hạn chế được đưa ra của V-
Pop hiện nay. Theo đó, 86,6% sinh viên cho rằng: V-Pop chú trọng quá nhiều tới
hình ảnh ca sĩ, dẫn đến việc thưởng thức âm nhạc giờ đây chủ yếu là để “ngắm” mà
ít quan tâm đến giọng ca của ca sĩ; nội dung, ý nghĩa của các tác phẩm. 82,7% sinh
viên nhận xét: Phần lớn các ca khúc ra đời chỉ “hot” trong một khoảng thời gian
ngắn, sau đó dễ bị lãng quên. 78,5% sinh viên cho rằng: Nội dung của một số ca
khúc xa rời thực tiễn và những vấn đề nóng bỏng của đất nước, con người.
Khi được hỏi: Liệu có phải do các ca khúc chủ yếu nhằm vào mục đích
thương mại, “câu khách”, “câu like” nên những người hoạt động âm nhạc mới ít chú
ý tới ca từ đẹp, những ca từ có ý nghĩa sâu sắc? thì chỉ có 46,3 sinh viên đồng tình
với nhận định này. Điều đó cho thấy, đa số sinh viên đều khẳng định: V-Pop hiện
nay không thiếu những ca khúc có giai điệu đẹp, lời ca trong sáng, có nội dung, ý
nghĩa giáo dục sâu sắc. Nhận định này tiếp tục được khẳng định khi có 83% sinh
viên không hoàn toàn đồng ý với nhận xét: Ca khúc có giai điệu đẹp, lời ca trong
sáng, giàu chất thơ văn, có nội dung ý nghĩa sâu sắc giờ đây chỉ có số ít. 56,3% sinh
viên không đồng ý rằng: Những ca khúc có lời ca “bất cần đời”, đề cao yếu tố vật
chất mới là những ca khúc được giới trẻ yêu thích. Có 68,4% sinh viên không hoàn
toàn đồng ý khi cho rằng: Nghe ca khúc thấy vui tai, thích là được, không quan
trọng về ca từ, nội dung [xem Bảng 3.6].
Bảng 3.6: Quan điểm của sinh viên đối với một số nhận định về âm nhạc
Quan điểm của sinh viên
(Tỷ lệ %) Ý kiến TT Không hoàn Không Đồng ý toàn đồng ý đồng ý
Cuộc sống sẽ tẻ nhạt nếu không được 98,5 1,5 0,0 1 thưởng thức âm nhạc
92
Ca khúc có giai điệu đẹp, lời ca trong
2 sáng, giàu chất thơ văn, có nội dung ý 4,8 83,0 12,2
nghĩa sâu sắc giờ đây chỉ có số ít
Ca khúc có giai điệu và lời ca đơn giản,
dễ hiểu, ngôn ngữ đời thường (nhưng 96,3 1,3 2,4 3 không được quá thô tục) thì dễ lôi cuốn
khán giả trẻ hơn.
Những ca khúc có lời ca “bất cần đời”, 0,0 4 đề cao yếu tố vật chất mới là những ca 43,7 56,3
khúc được giới trẻ yêu thích.
Nghe ca khúc thấy vui tai, thích là được, 5 2,2 68,4 29,4 không quan trọng về ca từ, nội dung.
Nhạc đại chúng V-Pop đang bị khủng
6 hoảng, lộn xộn, nhạt nhẽo, thiếu chất 22,4 67,5 10,1
lượng.
Nguồn: Cuộc khảo sát tháng 5 năm 2018 của tác giả luận án
Những ý kiến phản hồi của sinh viên cho thấy, trình độ thưởng thức âm nhạc
của một bộ phận sinh viên hiện nay đã có phần được nâng cao. Phần lớn họ vẫn
luôn có những suy nghĩ tích cực đối với những đóng góp của các nhà hoạt động âm
nhạc cho sự phát triển của V-Pop.
3.3.2.2. Thực trạng vận dụng âm nhạc đại chúng trong giáo dục thẩm mỹ
cho sinh viên thông qua việc tổ chức các hoạt động âm nhạc tại nhà trường
Thời gian qua, các trường ĐH và CĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có sự
quan tâm nhất định đối với việc sử dụng âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng trong
quá trình GDTM cho sinh viên. ÂNĐC được vận dụng với nhiều cách thức, phương
pháp tổ chức khác nhau; trong đó, việc tổ chức các chương trình biểu diễn âm nhạc
tại nhà trường đã trở thành hoạt động thường xuyên. Hằng năm, các trường đều tổ
chức các sự kiện âm nhạc cho sinh viên để qua đó góp phần làm phong phú đời
sống tinh thần cũng như hình thành những tư tưởng tốt, tình cảm đẹp cho sinh viên.
Nhiều chương trình âm nhạc có giá trị nghệ thuật, chất lượng chuyên môn và ý
nghĩa giáo dục tốt, tạo sự lan tỏa rộng khắp trong cộng đồng (như các chương trình
“Khát vọng trẻ”, “Hành trình bài ca sinh viên”).
Kết quả khảo sát cho thấy, các trường thường rất chú trọng vào tổ chức các
hoạt động âm nhạc mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện quan trọng của nhà trường.
Bên cạnh đó, việc tổ chức các cuộc thi giọng hát hay sinh viên, hội diễn văn nghệ
93
có quy mô lớn trong phạm vi toàn trường, cũng như việc tổ chức các hoạt động giao
lưu văn nghệ với các đơn vị bên ngoài là những nội dung luôn được các trường
quan tâm, đẩy mạnh [xem Bảng 3.7].
Bảng 3.7: Các hoạt động văn nghệ đƣợc nhà trƣờng quan tâm, chú trọng
Tỷ lệ % TT Các hoạt động văn nghệ Quan tâm Không quan tâm
Thành lập câu lạc bộ âm nhạc, đội 1. 96,3 3,7 văn nghệ của trường
Tổ chức các hoạt động văn nghệ 2. 98,4 1,6 mừng các ngày lễ lớn
Tổ chức cuộc thi giọng hát hay 3. 89,5 10,5 sinh viên, hội diễn văn nghệ
Tổ chức giao lưu văn nghệ với các 4. 67,8 32,2 đơn vị khác
Nguồn: Cuộc khảo sát tháng 5 năm 2018 của tác giả luận án
Số liệu Bảng 3.7 đã chứng minh, các trường ĐH, CĐ đều nhận thức rõ vai
trò của âm nhạc đối với đời sống tinh thần của sinh viên; đồng thời cũng minh
chứng cho sự quan tâm, chú trọng của nhà trường đối với việc phát triển các phong
trào VHNT, tạo môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú để tất cả sinh viên đều
được rèn luyện và phát triển.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy rằng, ÂNĐC ngày càng được sử dụng nhiều
trong các chương trình biểu diễn âm nhạc của nhà trường. Để làm rõ hơn cho nhận
định này, chúng tôi đã tiến hành điều tra bằng bảng hỏi đối với sinh viên về mức độ
sử dụng ÂNĐC trong nhà trường hiện nay [xem Biểu 3.1].
Kết quả thu được cho thấy, mặc dù tính chất của mỗi trường là khác nhau,
nhưng ÂNĐC vẫn luôn là dòng nhạc chủ lưu trong các hoạt động GDTM cho sinh
viên của nhà trường, nhất là đối với các trường thuộc khối ngành khoa học tự nhiên;
khối ngành khoa học xã hội và nhân văn. Tỷ lệ 92,8% sinh viên ĐH Mỏ - Địa chất
và 89,4% sinh viên HV Báo chí và Tuyên truyền trả lời ÂNĐC thường xuyên được sử dụng trong nhà trường hiện nay đã cho thấy rõ điều đó [xem Biểu 3.1].
Đối với các trường đào tạo chuyên về nghệ thuật như CĐ Nghệ thuật Hà Nội,
sinh viên có nhiều điều kiện hơn để tiếp cận và biểu diễn các loại nhạc khác nhau
(nhạc cổ điển, thính phòng, nhạc truyền thống dân tộc). Đó cũng là lý do, tỷ lệ sinh
viên của Trường CĐ Nghệ thuật Hà Nội đánh giá về mức độ sử dụng ÂNĐC trong
nhà trường thấp hơn các trường khác. Mặc dù vậy, với kết quả 50,2% sinh viên CĐ
94
Nghệ thuật Hà Nội đồng thuận về vấn đề này đã cho thấy rõ, ÂNĐC là dòng nhạc
phù hợp để các trường ĐH và CĐ ở nước ta có thể vận dụng vào các hoạt động
GDTM cho sinh viên [xem Biểu 3.1].
100
80
60
ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG
92.8
89.4
40
50.2
20
0
ĐH Mỏ - Địa chất HV Báo chí và Tuyên
CĐ Nghệ thuật Hà Nội
truyền
Biểu 3.1: Mức độ sử dụng âm nhạc đại chúng trong nhà trƣờng
Nguồn: Cuộc khảo sát tháng 5 năm 2018 của tác giả luận án
Việc lựa chọn các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp, những tác phẩm âm
nhạc phù hợp với nội dung giáo dục cần truyền tải đến với sinh viên của các trường
ĐH và CĐ thời gian qua cho thấy, nhận thức của nhà trường về việc phát huy vai
trò vai trò của âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng trong quá trình bồi dưỡng tình
cảm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ cho sinh viên đã được nâng cao. Quá trình tổ chức
các chương trình biểu diễn âm nhạc, cũng như các hoạt động tổ chức hội thi, hội
diễn, liên hoan nghệ thuật trong nhà trường tạo cơ hội thuận lợi để sinh viên được
giao lưu, chia sẻ và thể hiện khả năng âm nhạc của mình. Quá trình đó giúp sinh
viên giải tỏa tinh thần sau những giờ học các môn chuyên ngành, thêm phần tự tin;
mặt khác, tạo điều kiện để họ được nghiên cứu, nâng cao kiến thức về âm nhạc và
các kỹ năng trong cuộc sống, nhất là việc hình thành nên các quan điểm thẩm mỹ
đúng đắn. Nhờ đó, phẩm chất, tính cách, năng lực hành động và năng lực xã hội hóa
của sinh viên được nâng cao; tạo nền tảng cơ sở cho việc hình thành các chuẩn mực
thẩm mỹ của bản thân trong thưởng thức, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật.
Theo kết quả khảo sát, 53,6% sinh viên cho rằng, việc tổ chức các hoạt động
âm nhạc trong nhà trường hiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc GDTM cho họ,
giúp sinh viên nhận thức, cảm nhận đúng đắn hơn “cái đẹp” trong cuộc sống và
trong nghệ thuật âm nhạc. Tuy nhiên, có 56,7% sinh viên cho biết, mặc dù nhà
trường rất quan tâm đến việc sử dụng ÂNĐC trong các hoạt động GDTM cho sinh
viên, song vì nhiều lý do khác nhau, hiệu quả của các hoạt động GDTM thông qua
ÂNĐC tại nhà trường còn chưa được như mong muốn.
95
3.3.2.3. Thực trạng các hoạt động giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông
qua âm nhạc đại chúng trong các câu lạc bộ, các hội, các nhóm âm nhạc
Hiện nay, hoạt động âm nhạc của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội
diễn ra hết sức sôi động với nhiều nội dung và hình thức phong phú, đa dạng. Ngoài
các hoạt động học tập và thực hành biểu diễn của sinh viên ngành âm nhạc tại các
nhạc viện, học viện, đại học, cao đẳng nghệ thuật, hầu hết các hoạt động âm nhạc
của sinh viên thường diễn ra trong các CLB, các phong trào, hội thi, hội diễn, giao
lưu văn nghệ, cũng như ở các trung tâm đào tạo nghệ thuật (hướng tới đối tượng
không chuyên hoặc bán chuyên nghiệp) trong và ngoài nhà trường.
Theo kết quả khảo sát, đa số sinh viên (96,3%) cho biết, nhà trường rất quan
tâm, tạo điều kiện cho sinh viên thành lập các CLB, các hội, các nhóm âm nhạc. Tại
mỗi trường đều có ít nhất 01 CLB âm nhạc hoạt động thường xuyên dưới nhiều
hình thức tổ chức khác nhau.
Qua khảo sát tại các CLB âm nhạc trong nhà trường, chúng tôi thấy rằng, các
CLB thường gồm có 04 ban chính: Ban Chuyên môn, Ban Truyền thông, Ban Tổ
chức và Ban Đối ngoại.
- Ban Chuyên môn là thành phần chủ chốt trong các chương trình biểu diễn
ca nhạc lớn nhỏ, các hoạt động giao lưu, du ca, sinh hoạt, hỗ trợ trong lớp học đàn,
hướng dẫn và chia sẻ về đàn, hát,…
- Ban Truyền thông trung bình gồm có 5 đội: Đội ảnh - Đội viết - Đội thiết
kế - Đội quản lý mạng - Đội sản xuất.
- Ban Tổ chức phụ trách hậu cần, kỹ thuật, đảm nhiệm vai trò dẫn chương
trình (MC) trong các sự kiện.
- Ban Đối ngoại phụ trách việc xin tài trợ, bảo trợ cho các chương trình, duy
trì mối quan hệ tốt với các tổ chức trong và ngoài trường; đồng thời chịu trách
nhiệm thành lập các đội lễ tân trong các chương trình.
Các hoạt động âm nhạc của sinh viên ở các CLB thường diễn ra theo 04 hoạt
động cơ bản:
- Các hoạt động nội bộ, là hoạt động quan trọng và thường xuyên nhất, thông
qua các buổi sinh hoạt hằng tuần, các buổi dã ngoại (từ 1-2 lần/năm), hay đơn giản
là tổ chức sinh nhật tập thể cho các thành viên có cùng một sinh nhật trong tháng.
- Các hoạt động giao lưu với các CLB khác nhau (trong và ngoài trường).
Quy mô các hoạt động này tùy thuộc vào kế hoạch riêng của CLB.
- Các hoạt động biểu diễn tại các tụ điểm ca nhạc.
- Các hoạt động “du ca”. Họ thường tập trung ở những sự kiện lớn, nơi đông
người qua lại để thể hiện tinh thần cộng đồng, phục vụ cộng đồng.
96
Mọi hoạt động của các CLB đều phải được xây dựng theo kế hoạch và báo cáo
thường xuyên với ban giám hiệu (ban giám đốc) nhà trường. Đây là “kênh” thông tin
quan trọng giúp nhà trường kịp thời định hướng các hoạt động GDTM cho sinh viên.
Kết quả khảo sát một số văn bản kế hoạch, báo cáo của các CLB âm nhạc cho
thấy, hoạt động GDTM thông qua ÂNĐC được thể hiện ở ngay mục tiêu mà các CLB
cần phải hướng đến. Theo đó, CLB âm nhạc phải là nơi có những hoạt động phong
phú, phù hợp với nhu cầu, lợi ích của sinh viên, tạo môi trường cho các sinh viên có
khả năng và năng khiếu được bộc lộ, phát triển. Mặt khác, CLB âm nhạc do ĐTN,
HSV lập ra phải tạo điều kiện cho sinh viên giao tiếp, ứng xử, vui chơi giải trí lành
mạnh, bày tỏ quan điểm, tâm tư nguyện vọng, đồng thời hỗ trợ giải quyết các vấn đề
khó khăn, vướng mắc trong học tập, công tác và trong cuộc sống. Việc lựa chọn các
tác phẩm âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng trong hoạt động của CLB cần đúng
nguyên tắc: Có tính thẩm mỹ cao, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội; phù hợp
với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam. Thông qua các hoạt động
để tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, thẩm
mỹ, giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống của dân tộc cho sinh viên.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, việc định hướng thẩm mỹ
cho sinh viên thông qua ÂNĐC tại các CLB, các hội, nhóm âm nhạc còn “mờ nhạt”,
chưa đạt hiệu quả như mục tiêu đề ra, nhất là các hoạt động ngoài giờ. Điều này
được chính sinh viên thừa nhận khi chúng tôi tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi về
vấn đề này. Kết quả, chỉ có 3,8% sinh viên đánh giá các hoạt động định hướng thẩm
mỹ thông qua ÂNĐC ở mức độ tốt; 52,4% sinh viên đánh giá ở mức độ bình thường
và 43,8% sinh viên cho rằng, việc định hướng thẩm mỹ cho sinh viên thông qua
ÂNĐC còn chưa tốt. Mặc dù vậy, hoạt động của các CLB âm nhạc trong các trường
ĐH và CĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian qua thực sự đã mang lại cho
sinh viên những không gian văn hóa âm nhạc sống động, thể hiện được sự năng
động và nhiệt huyết của tuổi trẻ.
Báo cáo số 14/BC-CĐNT, ngày 28/02/2018 của Trường Cao đẳng Nghệ thuật
Hà Nội về việc “Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính
trị (khóa X) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ
mới” cho biết: Nhà trường đã triển khai thực hiện rất hiệu quả Đề án các nhóm ca -
múa - nhạc, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để các CLB, các hội, nhóm âm nhạc của
sinh viên được tham gia biểu diễn tại sân khấu ngoài nhà trường, phục vụ nhân dân
Thủ đô và khách du lịch (liên tiếp từ năm 2015 đến nay). Với lợi thế là sinh viên của
trường nghệ thuật, các CLB, các hội, nhóm âm nhạc của Trường Cao đẳng Nghệ
thuật Hà Nội thường xuyên được tham gia vào các kỳ thi “Tài năng trẻ”; liên hoan
97
ban nhóm biểu diễn nghệ thuật; hoạt động hòa tấu, biểu diễn; tham gia các kỳ thi
concour; liên hoan âm nhạc Việt Nam và quốc tế; liên hoan VHNT học sinh - sinh
viên; cuộc thi “Tài năng trẻ học sinh - sinh viên các trường văn hóa, nghệ thuật, thể
thao và du lịch” (do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức),… [50]. Đây đều là
những cơ hội tốt để sinh viên được cọ xát, trau dồi khả năng chuyên môn và nâng
cao bản lĩnh sân khấu. Các hoạt động này đã trở thành động lực để sinh viên nhà
trường hăng say học tập, rèn luyện, thực hành biểu diễn ngay trong thời gian theo
học tại Trường.
Theo Báo cáo Tổng kết năm 2015, 2016 của Đội Văn nghệ xung kích (trực
thuộc Ban Phong trào) của Đoàn Học viện Báo chí và Tuyên truyền, để phát huy
tinh thần đoàn kết, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, góp phần giáo dục lý tưởng thẩm
mỹ cao đẹp cho sinh viên, Ban Lãnh đạo Đội Văn nghệ đã xây dựng kế hoạch, lựa
chọn các tác phẩm âm nhạc cũng như hình thức thể hiện để tham gia các kỳ liên
hoan, các cuộc thi văn nghệ dành cho sinh viên, tiêu biểu như: Liên hoan các nhóm
tuyên truyền ca khúc cách mạng với chủ đề “Bài ca dựng nước” do ĐTN Cộng sản
Hồ Chí Minh Khối các cơ quan Trung ương tổ chức. Bên cạnh đó, Đội Văn nghệ
xung kích Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã dàn dựng và tổ chức được nhiều
chương trình âm nhạc với quy mô lớn trong thời gian qua, như: Welcome to AJC,
Quà tặng tháng Giêng, Mãi mãi niềm tin theo Đảng, 20-11, Phút cuối, Tìm kiếm tài
năng sinh viên - AJC‟ star, Speak Up,… Thông qua các “sân chơi” này, Đội Văn
nghệ xung kích đã góp phần tuyên truyền thực hiện các phong trào thi đua yêu
nước; các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nhất là việc “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”, thu hút được đông đảo sinh viên cùng tham gia và đã đạt được nhiều thành
tích đáng khích lệ.
Báo cáo Tổng kết năm 2017 của CLB Truyền thông Đại học Mỏ - Địa chất
(HUMG Media) cho biết: Các hoạt động của CLB đã thúc đẩy công tác truyền
thông của nhà trường trên các mặt: Chính trị, giáo dục, văn hóa - thể thao và các sự
kiện nổi bật của Trường; đã thực hiện các bản tin “blog radio”, bản tin “clip” dành
cho sinh viên trong Trường; kết nối tổ chức các sự kiện qua mạng xã hội Unews
(Mạng xã hội trả nhuận bút),… Ban Chủ nhiệm CLB cũng đã có những kế hoạch cụ
thể cho từng giai đoạn. Theo Báo cáo, năm học 2017 - 2018, CLB đẩy mạnh dự án
làm phim, bản tin ngắn dưới hình thức “video clip”, sản xuất các sản phẩm âm nhạc
kết hợp với hình ảnh (MV); phối hợp với Phòng Công tác chính trị - truyền thông,
các CLB sinh viên, ĐTN, HSV để quảng bá hình ảnh Nhà trường tới đông đảo sinh
viên, góp phần thu hút sinh viên tham gia vào các hoạt động phong trào của Trường.
98
Các hoạt động này đã tạo điều kiện để sinh viên được giao lưu, chia sẻ và thể hiện
khả năng âm nhạc của mình; giúp sinh viên giải tỏa tinh thần, thêm phần tự tin,
nhanh nhẹn; đồng thời, nâng cao kiến thức và các kỹ năng trong cuộc sống cũng
như nâng cao năng lực cảm thụ, thưởng thức và sáng tạo thẩm mỹ cho sinh viên.
Qua khảo sát một số sản phẩm MV được chia sẻ trên các trang mạng xã hội
(Facebook, YouTube) của CLB Truyền thông Đại học Mỏ - Địa chất, CLB Guitar Đại
học Mỏ - Địa chất, Đội Văn nghệ xung kích Học viện Báo chí và Tuyên truyền; các
ban, nhóm nhạc trong Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội, chúng tôi thấy, các tác
phẩm ÂNĐC được sử dụng trong đó đều là những tác phẩm có nội dung tốt, phù hợp
với tuổi trẻ (“Cảm ơn nhé tình yêu” - Mạnh Quân; “Chuông gió” - Võ Thiện Thanh;
“Tôi tìm thấy tôi” - Hồ Hoài Anh; “Những trái tim Việt Nam” - Phương Uyên,…).
3.3.2.4. Thực trạng thể chế về giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua
âm nhạc đại chúng
Mặc dù cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta chưa ban hành một văn bản riêng
biệt nào về công tác GDTM cho sinh viên. Nhưng, những vấn đề về GDTM cho sinh
viên đã được đề cập đến khá nhiều trong các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng
qua các kỳ đại hội. Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ IV (1976), khi nêu những đặc trưng
nổi bật, các tiêu chuẩn chủ yếu của con người mới Việt Nam, Đảng đã khẳng định,
“con người mới là con người có tư tưởng đúng, tình cảm đẹp” [17, tr.140]. Như vậy,
toàn bộ tiêu chuẩn về con người mới ngay từ Đại hội Đảng lần thứ IV đề ra đã nêu rõ
tính tất yếu phải xây dựng các tình cảm mới, trong đó có việc giáo dục, bồi dưỡng
tình cảm thẩm mỹ của nhân dân, đặc biệt là các thế hệ thanh niên, mà đi đầu là sinh
viên, bởi họ chính là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước.
Tại Thông báo số 219-TB/TW, ngày 10/02/2009 [18], Ban Bí thư đã giao
nhiệm vụ cụ thể cho Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì xây dựng Đề án “Xây dựng
chương trình giáo dục thẩm mỹ cho thanh thiếu niên, đặc biệt là học sinh, sinh viên
trong các trường học” nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày
16/6/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật
trong thời kỳ mới”. Tiếp đó, Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 27/7/2010 của Ban Bí thư
(khóa X) về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại
đạo đức xã hội” cũng nêu rất rõ nhiệm vụ của ngành Giáo dục, đó là “cần đẩy mạnh
việc giáo dục đạo đức, lối sống, thẩm mỹ, ứng xử văn hóa và kỹ năng sống cho thanh
thiếu niên, học sinh, sinh viên; bằng nhiều biện pháp kiên quyết bài trừ các sản phẩm
văn hóa độc hại xâm nhập vào nhà trường và thế hệ trẻ” [19].
Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về
“Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”,
99
ngày 09/6/2014, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số
33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước” và cũng xác định, một trong những nhiệm vụ cấp
bách của chúng ta hiện nay là phải “tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng
lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai
trò của văn học - nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người.
Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng
đồng” [20, tr.50]. Có thể thấy, trong công tác GDTM, Đảng rất chú trọng đến việc sử
dụng các loại hình nghệ thuật (bao gồm cả ÂNĐC) để góp phần nâng cao năng lực
thẩm mỹ cho sinh viên.
Các quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng về những vấn đề liên quan đến
GDTM thông qua ÂNĐC đã tạo cơ sở quan trọng và cần thiết để các cấp, các ngành,
địa phương, các trường ĐH và CĐ triển khai thực hiện nhiệm vụ; trong đó, quan
điểm của Đảng về việc “khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi
phong cách sáng tác” [16] đã được thể chế hóa thành pháp luật ở nước ta. Điều 40
Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công
nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”.
Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về công tác giáo dục cho sinh viên,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP, ngày 02/11/2005 về “Đổi
mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020”; Nghị
quyết số 35/NQ-CP, ngày 04/6/2019 về “Tăng cường huy động các nguồn lực của xã
hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2025”. Thủ tướng
Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 69/QĐ-TTg, ngày 15/01/2019 phê duyệt
Đề án “Nâng cao chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2019 - 2025”; Chỉ thị số
31/CT-TTg, ngày 04/12/2019 về “Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh, sinh viên”,… Trong đó, Thủ tướng yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng cường
giáo dục đạo đức, lối sống, thẩm mỹ cho học sinh, sinh viên thông qua các hoạt động
giáo dục, đào tạo và trải nghiệm, nhất là thông qua các hoạt động VHNT; rà soát đổi
mới nội dung, phương pháp giảng dạy môn học giáo dục đạo đức, các môn học chính
khóa và các hoạt động giáo dục khác có liên quan như GDTM. Trên cơ sở đó, Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có Quyết định số 60/2007/QĐ-BGDĐT,
ngày 16/10/2007 ban hành “Quy chế đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh, sinh
viên các cơ sở giáo dục đại học và các trường trung cấp chuyên nghiệp hệ chính
quy”; Thông tư số 10/2016/TT-BGDĐT, ngày 05/4/2016 về “Quy chế công tác sinh
viên đối với sinh viên hệ chính quy”. Đây là các quyết định quan trọng, góp phần
định hướng hoạt động giáo dục cho sinh viên trong các trường ĐH và CĐ ở nước ta.
100
Quá trình khảo sát các văn bản quản lý của Nhà nước cho thấy, hiện nay,
chúng ta vẫn chưa có một văn bản nào quy định cụ thể về việc GDTM nói chung,
GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC nói riêng. Tuy nhiên, qua quan sát từ thực
tiễn tại một số trường ĐH và CĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội, chúng tôi thấy rằng,
những năm gần đây, các hoạt động GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC trong nhà
trường chủ yếu được vận dụng từ những quy định của Thông tư số 26/2017/TT-
BGDĐT, ngày 18/10/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc “Quy định tổ chức
hoạt động văn hóa của học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục”. Nội dung của
Thông tư số 26/2017/TT-BGDĐT đóng vai trò hướng dẫn, tạo khung pháp lý cho
việc tổ chức, vận hành quá trình GDTM thông qua ÂNĐC trong nhà trường hiện nay,
với mục tiêu góp phần điều chỉnh những hành vi ứng xử lệch lạc, thiếu chuẩn mực
văn hóa của mọi thành viên trong nhà trường; ngăn chặn các hành vi bạo lực, các tệ
nạn xã hội, các hành vi trái với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam.
Trước đó, việc tổ chức các hoạt động GDTM thông qua nghệ thuật nói chung,
ÂNĐC nói riêng được các trường vận dụng linh hoạt từ những quy định của Thông tư
số 18-VHTT-GDĐT/TTLB, ngày 15/3/1994 của Liên Bộ Văn hóa Thông tin - Giáo
dục và Đào tạo về việc “Phối hợp đẩy mạnh các hoạt động văn hoá nghệ thuật, thông
tin trong trường học” và Thông tư số 16/2013/TT-BLĐTBXH, ngày 28/8/2013 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội “Quy định về tổ chức hoạt động văn hóa, văn
nghệ cho học sinh, sinh viên trong các cơ sở dạy nghề”.
Căn cứ Thông tư số 26/2017/TT-BGDĐT, những nguyên tắc được nhà trường
vận dụng khi tổ chức các hoạt động GDTM thông qua ÂNĐC cho sinh bao gồm:
- Đúng chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Bảo đảm tính thẩm mỹ, phù hợp với giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức xã
hội; tôn trọng đặc trưng, sắc thái văn hóa các dân tộc vùng miền, thuần phong mỹ tục,
truyền thống văn hóa Việt Nam.
- Bảo đảm đúng các chức năng của văn hóa, phù hợp với độ tuổi, tâm sinh lý
của sinh viên, thực hiện hài hòa với các hoạt động khác trong nhà trường.
- Tăng cường công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa; khuyến khích các tổ
chức, cá nhân tham gia tổ chức hoạt động văn hóa cho sinh viên.
- Tổ chức lồng ghép các hoạt động văn hóa gắn với các sự kiện, ngày hội, ngày
lễ, ngày truyền thống của cơ sở giáo dục, địa phương nơi sinh viên sinh sống.
Việc lựa chọn các sản phẩm ÂNĐC trong các chương trình biểu diễn âm
nhạc, trong các sự kiện, ngày hội, ngày lễ, ngày truyền thống của các trường ĐH và
CĐ ở nước ta thời gian qua đều bám sát vào những nguyên tắc trên, đảm bảo theo
đúng định hướng mục tiêu của Đảng và Nhà nước về GDTM cho sinh viên.
101
3.3.3. Thực trạng hoạt động của các chủ thể tham gia giáo dục thẩm mỹ
cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng
3.3.3.1. Hoạt động của các nhóm chủ thể trong nhà trường đối với việc
giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng
Hoạt động của nhóm chủ thể lãnh đạo, quản lý trong nhà trường
Trên cơ sở các văn bản của Đảng và Nhà nước, mà trực tiếp và thường xuyên
là các văn bản quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ban giám hiệu (ban giám đốc)
và các bộ phận chức năng của nhà trường đã tiến hành rà soát, bổ sung các quy định
nhằm đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên thông qua việc tổ chức các hoạt động
VHNT. Quyết định số 1070/QĐ-MĐC, ngày 17/8/2017 của Hiệu trưởng Trường Đại
học Mỏ - Địa chất “Quy định đánh giá kết quả rèn luyện đối với sinh viên hệ chính
quy” cho biết: Việc tổ chức các hoạt động giáo dục thông qua nghệ thuật nói chung
góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp. Vì vậy, quá trình đánh giá kết quả rèn
luyện của sinh viên phải được coi là việc làm thường xuyên.
Khảo sát các văn bản chỉ đạo của đảng ủy cho thấy, hằng tháng, đảng ủy các
trường đều ban hành Nghị quyết nhằm xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ trọng
tâm của tháng tiếp theo; trong đó, công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, tạo môi trường văn hóa thẩm mỹ lành mạnh thông qua
việc tổ chức các hoạt động VHNT cho sinh viên luôn được nhà trường quan tâm, đề
cập đến. Nhìn chung, hệ thống văn bản của nhà trường được quán triệt, phổ biến rộng
rãi đến sinh viên thông qua việc tổ chức “Tuần sinh hoạt công dân - học sinh, sinh
viên”, phát hành cuốn “Sổ tay sinh viên” và công khai trên các trang thông tin điện tử
của nhà trường.
Đảng ủy, ban giám hiệu (ban giám đốc) và các bộ phận chức năng của nhà
trường đã từng bước đổi mới hình thức, phương pháp GDTM thông qua việc tổ
chức các hoạt động âm nhạc cho sinh viên. Thực tiễn cho thấy, việc tổ chức các hoạt
động GDTM thông qua ÂNĐC được các trường triển khai thực hiện bằng các hình
thức chủ yếu sau:
- Phổ biến các sản phẩm ÂNĐC có nội dung giáo dục tốt trên các phương
tiện thông tin, truyền thông đại chúng trong nhà trường.
- Tổ chức các chương trình biểu diễn, giao lưu âm nhạc cho sinh viên.
- Tổ chức các CLB, đội văn nghệ cho sinh viên.
- Tổ chức các hội thi (liên hoan), hội diễn văn hóa, văn nghệ cho sinh viên
với quy mô và cấp độ khác nhau.
Phòng công tác sinh viên (chính trị - sinh viên) chịu trách nhiệm tham mưu
102
cho đảng ủy, ban giám hiệu (ban giám đốc) về tình hình tư tưởng của sinh viên;
quản lý các hoạt động GDTM thông qua VHNT trong nhà trường. Căn cứ kết quả
tham gia các hoạt động VHNT của sinh viên, các trường đều có hình thức khen
thưởng kịp thời đối với tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc tham gia
tổ chức các hoạt động VHNT.
Qua quan sát tình hình thực tiễn tại các trường ĐH và CĐ trên địa bàn thành
phố Hà Nội thời gian qua, chúng tôi nhận thấy, để duy trì và phát huy hiệu quả hoạt
động của các CLB, đội văn nghệ xung kích, hầu hết các trường đều xây dựng kế
hoạch hoạt động các mô hình CLB theo sở thích và theo “sự kiện trường học”.
Thông qua việc tổ chức cho sinh viên tham gia nhiều chương trình biểu diễn âm
nhạc, như: Chương trình văn nghệ chào đón tân sinh viên; Ngày Nhà giáo Việt Nam
20/11; Kỷ niệm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội thi
“Tiếng hát sinh viên”; Ngày thành lập trường,… nhà trường chú trọng lựa chọn các
tác phẩm âm nhạc có nội dung giáo dục phù hợp để lồng ghép việc tuyên
truyền thực hiện các phong trào thi đua yêu nước; các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các nội dung tuyên truyền về phát huy lối
sống đẹp cho sinh viên, phòng chống tệ nạn xã hội trong học đường,… đến với
đông đảo sinh viên. ÂNĐC ngày càng được sử dụng nhiều trong các chương trình
biểu diễn âm nhạc của nhà trường. Điều này cũng được chính sinh viên thừa nhận
khi có đến 76,5% sinh viên nhận xét: ÂNĐC được sử dụng nhiều trong nhà trường
hiện nay. Việc lựa chọn các sản phẩm ÂNĐC để tập trung GDTM cho sinh viên
trong các trường ĐH và CĐ ở nước ta thời gian qua cơ bản đáp ứng được các nội
dung giáo dục tình cảm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ và quan điểm thẩm mỹ.
Theo Báo cáo số 14/BC-CĐNT, ngày 28/02/2018 của Trường Cao đẳng
Nghệ thuật Hà Nội về việc “Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW
của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật
trong thời kỳ mới”, các tác phẩm âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng được sử
dụng trong các chương trình biểu diễn đều phải báo cáo và có sự phê duyệt của Ban
Giám hiệu nhà trường, đảm bảo sự cân đối giữa nội dung tư tưởng chính trị và hiệu
quả về mặt nghệ thuật [50].
Hoạt động của nhóm chủ thể truyền đạt kiến thức trong nhà trường
Quá trình khảo sát tại một số trường ĐH, CĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội
cho thấy, những năm gần đây, công tác giáo dục nói chung, GDTM cho sinh viên
nói riêng ở các trường bước đầu cũng có những chuyển biến tích cực. Các nội dung
giáo dục tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, quan điểm thẩm
mỹ được lồng ghép trong nhiều môn học. Thông qua các bộ môn khoa học Mác -
103
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiều giảng viên đã chú trọng thiết kế các nội dung
nhằm bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho sinh viên; giới thiệu
những đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam; mối quan hệ giữa văn hóa với
việc phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và cộng đồng; các chủ trương, đường lối
văn hóa - văn nghệ của Đảng, chính sách phát triển văn hóa của Nhà nước. Qua đó,
giúp sinh viên từng bước ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân trong việc
rèn luyện, nâng cao lý tưởng cách mạng, lý tưởng thẩm mỹ, hình thành những tư
tưởng đúng, tình cảm đẹp trong mỗi người.
Về GDTM thông qua ÂNĐC, ngoài các trường nghệ thuật như Trường Cao
đẳng Nghệ thuật Hà Nội là có đội ngũ giảng viên âm nhạc, hầu hết các trường ĐH
và CĐ đều phối hợp với các nghệ sĩ từ các đơn vị nghệ thuật, hoặc các nghệ sĩ hoạt
động tự do trong việc dàn dựng các tiết mục âm nhạc cho sinh viên.
Quan sát quá trình dàn dựng các tiết mục âm nhạc tại các trường ĐH, CĐ,
chúng tôi thấy, các nghệ sĩ không chỉ hướng dẫn sinh viên cách hát, mà thông qua
nội dung tác phẩm, định hướng cho sinh viên hiểu được cái hay, cái đẹp trong từng
tác phẩm, làm nổi bật những thông điệp có ý nghĩa của các sản phẩm ÂNĐC mà
sinh viên được tiếp cận. Đây là cách làm thiết thực góp phần truyền bá các quan
điểm thẩm mỹ đúng đắn đến với sinh viên.
Đối với từng sự kiện cụ thể, các nghệ sĩ phối hợp với phòng công tác sinh
viên (chính trị - sinh viên), giáo viên chủ nhiệm xây dựng, lựa chọn những tác phẩm
phù hợp với mục đích giáo dục cho sinh viên. Thực tiễn hoạt động của các trường
cho thấy, để góp phần GDTM cho nhóm đối tượng là sinh viên Trường Đại học Mỏ
- Địa chất, giảng viên của trường đã lựa chọn tác phẩm “Những cánh chim địa
chất” (Mộng Lân) và phối hợp với nghệ sĩ dàn dựng cho sinh viên biểu diễn trong
chương trình Lễ kỷ niệm 52 năm Ngày thành lập Trường Đại học Mỏ - Địa chất, 36
năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (được tổ chức sáng ngày 15/11/2018). Các tác phẩm
“Cây đàn ghi ta” (Xuân Hồng), “Bay qua Biển Đông” (Lê Việt Khánh); “Lá cờ”
(Tạ Quang Thắng), “Hãy đến với con người Việt Nam” (Xuân Nghĩa),… được
giảng viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền lựa chọn để biểu diễn tại chương trình
“Hội báo toàn quốc 2018”,… Những tác phẩm nhạc đại chúng như vậy một mặt
giúp sinh viên nâng cao được năng lực cảm thụ thẩm mỹ, mặt khác, góp phần bồi
dưỡng lòng yêu nước, nâng cao tinh thần dân tộc cho sinh viên.
Hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường
Những năm qua, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường đã luôn bám sát vào
sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của đảng ủy, ban giám hiệu (ban giám đốc) và các
bộ phận chức năng của nhà trường trong nhiệm vụ giáo dục nói chung, GDTM cho
104
sinh viên thông qua ÂNĐC nói riêng. Nhận thức của các tổ chức ĐTN, HSV về việc
sử dụng nghệ thuật âm nhạc trong các hoạt động mang tính giáo dục được nâng cao.
Phần lớn sinh viên đều rất sẵn sàng tham gia các hoạt động do ĐTN, HSV nhà
trường tổ chức. Điều này được phản ánh rõ nét khi có đến 59,8% sinh viên trả lời
“luôn sẵn sàng” tham gia.
Kết quả khảo sát các văn bản báo cáo (năm 2016, 2017, 2018) của ĐTN
Trường CĐ Nghệ thuật Hà Nội, ĐH Mỏ - Địa chất, HV Báo chí và Tuyên truyền
cho thấy, các tổ chức ĐTN trong nhà trường đã tập trung đẩy mạnh việc vận động,
tập hợp đông đảo sinh viên tham gia vào các hoạt động VHNT, nhằm đưa quá trình
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trở thành nhu cầu tự thân của sinh viên.
ĐTN các trường đã phối hợp với các đơn vị chức năng trong nhà trường để
triển khai nhiều hoạt động thiết thực, nhằm cụ thể hóa các nội dung được nêu trong
Chương trình hành động của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về thực hiện
Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư (khóa XI) về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống
văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015 - 2030”; Đề án “Tăng cường giáo dục lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh thiếu nhi, giai đoạn 2018 - 2022”;
Kết luận của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đoàn lần thứ ba khóa XI về
“Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng cho đoàn viên, thanh niên”. Các hoạt
động GDTM, mà trọng tâm là giáo dục, nâng cao tình cảm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm
mỹ được thực hiện lồng ghép với các nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho đoàn
viên, sinh viên với nhiều hình thức khác nhau, như: Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu
lịch sử, văn hóa; thi “clip” (các đoạn video ngắn) về các chủ đề thể hiện tình yêu
quê hương, đất nước, ca ngợi tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam; tổ chức cho
đoàn viên, sinh viên tham quan các khu di tích lịch sử thông qua các hoạt động
“Hành trình về địa chỉ đỏ”, “Hành trình theo bước chân người anh hùng”, hoạt
động “Đến với bảo tàng, đến với các địa danh lịch sử”; vận động sinh viên tích cực
tham gia Liên hoan các nhóm tuyên truyền ca khúc cách mạng; khuyến khích sinh
viên thuộc và hát các ca khúc cách mạng nhằm khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần
dân tộc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền Tổ quốc trong thế hệ trẻ.
Theo Báo cáo tổng kết công tác Đoàn, Hội và phong trào thanh niên, sinh
viên trường học (năm học 2017 - 2018), ĐTN các trường đã tổ chức nhiều hoạt
động có ý nghĩa, gắn với Cuộc vận động “Xây dựng hình mẫu thanh niên Việt Nam
thời kỳ mới”. HSV các trường đã triển khai trong sinh viên Cuộc vận động “Sống
đẹp” nhằm nâng cao năng lực và giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên, hướng sinh
viên tới những giá trị cao đẹp, đích thực của cuộc sống, bài trừ các tệ nạn xấu xâm
105
nhập vào học đường.
Quan sát thực tiễn một số hoạt động của ĐTN, HSV các trường, chúng tôi
thấy, nhận thức của cán bộ ĐTN, HSV nhà trường trong việc lựa chọn các sản phẩm
ÂNĐC phản ánh cái đẹp nhằm bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ cho
sinh viên có nhiều biểu hiện tích cực, thể hiện rõ nét thông qua nội dung của các
chương trình, sự kiện do ĐTN, HSV tổ chức trong thời gian qua. Một số chương
trình nghệ thuật đạt được hiệu quả nhất định về GDTM. Tiêu biểu có thể kể đến
Chương trình nghệ thuật “Mãi mãi niềm tin theo Đảng” do ĐTN Học viện Báo chí
và Tuyên truyền thực hiện. Bằng ngôn ngữ của âm nhạc và hình thể, Chương trình
nghệ thuật “Mãi mãi niềm tin theo Đảng” mang đến cho sinh viên âm hưởng hào
hùng, tinh thần bất khuất của các thế hệ cha ông trong quá trình đấu tranh và bảo vệ
Tổ quốc; qua đó đã góp phần nuôi dưỡng tình cảm thẩm mỹ, nhân lên niềm tự hào và
tin tưởng của thế hệ trẻ vào Đảng, Nhà nước và Bác Hồ kính yêu.
Để định hướng các quan điểm thẩm mỹ cho sinh viên, các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường thời gian qua đã quan tâm, chú trọng nhiều đến công tác cung cấp
thông tin, nắm bắt tình hình tư tưởng và dư luận xã hội trong sinh viên. Đặc biệt,
ĐTN, HSV các trường đã bước đầu tận dụng được “sức mạnh” của mạng Internet
nói chung, các trang thông tin điện tử của nhà trường và trang mạng xã hội nói riêng
để tổ chức các cuộc thăm dò dư luận trong sinh viên. Trên cơ sở đó, đội ngũ cán bộ
ĐTN, HSV có thể nắm bắt được những tâm tư, tình cảm mà sinh viên phản ánh,
những vấn đề liên quan thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên trong các hoạt động văn
nghệ. Việc làm này giúp cán bộ ĐTN, HSV kịp thời tham mưu, đề xuất với đảng
ủy, ban giám hiệu (ban giám đốc) và các đơn vị chức năng trong nhà trường giải
quyết những khó khăn, vướng mắc của sinh viên, tạo ra “cầu nối” giữa nhà trường
với sinh viên. Thông qua các trang mạng xã hội, đội ngũ cán bộ ĐTN, HSV cũng đã
bước đầu chú trọng việc tuyên truyền, chia sẻ các bài viết thể hiện quan điểm,
đường lối văn hóa - văn nghệ của Đảng và Nhà nước đến với đông đảo sinh viên.
Qua khảo sát tại một số trang mạng xã hội (Facebook) của Trường CĐ Nghệ
thuật Hà Nội, HV Báo chí và Tuyên truyền, ĐH Mỏ - Địa chất, chúng tôi thấy, HSV
các trường thường đăng tải các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp, thể hiện niềm tự
hào dân tộc, sức sống của tuổi trẻ, trong đó một số sản phẩm ÂNĐC được đăng tải
có kết hợp với trình chiếu hình ảnh (slideshow) nhằm thể hiện các hoạt động “đền
ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” của sinh viên. Việc làm này đã góp phần lan
tỏa những hoạt động ý nghĩa, nhân văn và nhận được chia sẻ, tương tác tích cực của
đông đảo sinh viên. Tuy nhiên, đa số sinh viên (52,4%) cho rằng, vai trò của các tổ
chức ĐTN, HSV trong việc định hướng thẩm mỹ thông qua các hoạt động âm nhạc
106
cho sinh viên hiện nay chưa thực sự tốt, vẫn còn ở mức độ trung bình.
3.3.3.2. Hoạt động của các cơ quan có liên quan đối với nhiệm vụ giáo dục
thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng
Thời gian qua, Ban Tuyên giáo Trung ương với vai trò là cơ quan tham mưu,
giúp việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp và thường xuyên là Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, đã chủ trì, phối hợp nghiên cứu, hướng dẫn các cấp, các
ngành, địa phương cụ thể hóa nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về công tác
giáo dục thế hệ trẻ nói chung, GDTM cho sinh viên thông qua các loại hình nghệ
thuật, bao gồm cả ÂNĐC nói riêng.
Ngay sau khi Bộ Chính trị (khóa X) ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về
“Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, Ban Tuyên
giáo Trung ương đã đề xuất 09 đề án và tham mưu Ban Bí thư ban hành Thông báo
số 219-TB/TW ngày 10/2/2009 [18] về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 23-
NQ/TW; trong đó giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì Đề án “Xây dựng
chương trình giáo dục thẩm mỹ cho thanh thiếu niên, đặc biệt là học sinh, sinh viên
trong các trường học”.
Kết quả khảo sát hệ thống văn bản của Ban Tuyên giáo Trung ương cho thấy,
để định hướng các quan điểm thẩm mỹ đúng đắn cho các tầng lớp nhân dân, trong
đó có sinh viên, hằng năm, Ban Tuyên giáo Trung ương đều ban hành văn bản chỉ
đạo, hướng dẫn việc tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, tạo cơ sở cần thiết để
các cấp, các ngành, địa phương và các cơ sở giáo dục - đào tạo triển khai thực hiện.
Trong đó, Ban Tuyên giáo Trung ương thường xuyên chỉ đạo các cơ quan thông
tấn, báo chí từ Trung ương đến địa phương tuyên truyền, nâng cao nhận thức về ý
nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của các loại hình nghệ thuật trong việc xây dựng và
hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam; chỉ đạo, định hướng đội ngũ văn nghệ sĩ
không ngừng sáng tạo và quảng bá nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật
cao. Đối với các nhạc sĩ Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương khuyến khích, vận
động các nhạc sĩ mở rộng phạm vi đề tài sáng tác, chú trọng hơn vào việc sáng tác
các ca khúc đại chúng dành cho tuổi trẻ, học sinh, sinh viên; làm cơ sở, phương tiện
trong việc GDTM cho sinh viên.
Bên cạnh đó, Ban Tuyên giáo Trung ương thường xuyên đề nghị Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp chặt chẽ với các cơ
quan liên quan tăng cường kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày
27/7/2010 của Ban Bí thư (khóa X) về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn
hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”, đặc biệt trong các trường ĐH, CĐ ở nước
ta. Trong các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động văn hóa - văn nghệ, Ban Tuyên
107
giáo Trung ương đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông; Đài Truyền hình Việt
Nam; Đài Tiếng nói Việt Nam chú trọng mở các chuyên trang, chuyên mục liên
quan đến việc GDTM thông qua âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng đối với thế hệ
trẻ, học sinh, sinh viên; trong đó Ban Tuyên giáo Trung ương luôn yêu cầu tăng
cường công tác kiểm tra, biên tập kỹ lưỡng nội dung tin, bài, các chương trình nghệ
thuật, phim ảnh, giao lưu văn hóa,… tránh xảy ra các sai sót, ảnh hưởng đến thị hiếu
thẩm mỹ của nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên.
Để hạn chế các sản phẩm ÂNĐC thiếu chất lượng được phổ biến rộng rãi
trong xã hội, góp phần quan trọng đối với công tác GDTM cho sinh viên thông qua
ÂNĐC, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã ban hành nhiều văn bản (như văn
bản số 1089/NTBD-QLBD) yêu cầu các cơ quan quản lý ngành văn hóa các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương áp dụng đúng, đầy đủ các điều khoản quy định tại
Nghị định số 79/2012/NĐ-CP, Nghị định số 15/2016/NĐ-CP, Thông tư số 01/2016/TT-
BVHTTDL “quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp
và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu”,
để quản lý, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực hiện, nhằm bảo đảm thống nhất và
thực thi có hiệu quả quy định pháp luật. Trong đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
kiên quyết yêu cầu cơ quan quản lý ngành văn hóa các cấp ngăn chặn, từ chối cấp
giấy phép cho các chương trình, tác phẩm nghệ thuật thiếu tính giáo dục, thiếu định
hướng về đạo đức, thẩm mỹ, lối sống cho sinh viên.
Nhằm triển khai cụ thể các hoạt động GDTM cho sinh viên thông qua
ÂNĐC, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức được một số hoạt động thiết thực,
tiêu biểu như việc định kỳ tổ chức Hội thi “Tiếng hát sinh viên” toàn quốc, 02
năm/lần (từ năm 1992 đến nay), tạo “sân chơi” lành mạnh, bổ ích cho sinh viên ở tất
cả các trường ĐH, CĐ trên toàn quốc tham gia. Thông qua những “sân chơi” như
vậy, sinh viên từ nhiều trường ĐH, CĐ khác nhau có điều kiện để giao lưu, học hỏi
kinh nghiệm; phát huy được tính chủ động, sáng tạo của sinh viên. Việc lựa chọn
các ca khúc đại chúng để tham dự Hội thi được căn cứ vào chủ đề mà Bộ Giáo dục
và Đào tạo ấn định theo từng đợt. Kết quả khảo sát văn bản kế hoạch của Hội thi
cho thấy, các sản phẩm ÂNĐC chủ yếu xoay quanh các chủ đề: Ca ngợi tình yêu
đối với quê hương, đất nước; ca ngợi Đảng, Bác Hồ; các ca khúc đại chúng thể hiện
ước mơ, tình cảm, trách nhiệm của tuổi trẻ, sinh viên đối với công cuộc đổi mới của
ngành Giáo dục và của đất nước,… với các thể loại: ca, múa, nhạc.
Theo Báo cáo số 187-BC/TWĐTN-TNTH, ngày 29/8/2019 của Trung ương
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về “Tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên
108
trường học năm học 2018 - 2019”, các cấp bộ Đoàn đã chú trọng lựa chọn nhiều ca
khúc đại chúng có nội dung giáo dục tốt để sử dụng trong các hoạt động “phong
trào hành động cách mạng”, như: Phong trào “Thanh niên tình nguyện”; “Tuổi trẻ
sáng tạo”; “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”,… và trong các hoạt động “chương
trình đồng hành cùng sinh viên”, như: Chương trình “Đồng hành với thanh niên
trong khởi nghiệp, lập nghiệp”; Chương trình “Đồng hành với thanh niên rèn luyện
và phát triển kỹ năng trong cuộc sống, nâng cao thể chất, đời sống văn hóa tinh
thần”,… Báo cáo số 187-BC/TWĐTN-TNTH cũng cho biết, các tác phẩm âm nhạc
nói chung, ÂNĐC nói riêng tham gia vào các hoạt động này bằng nhiều phương
thức khác nhau, song chủ yếu vẫn là thông qua việc tổ chức các hội thi ca - múa -
nhạc cho sinh viên, tiêu biểu như: Chương trình “Tuổi xanh tôi hát” của Thành đoàn
TP. Hồ Chí Minh; Liên hoan âm nhạc học sinh, sinh viên “My Music - Tỏa sáng
đam mê” của Thành đoàn Đà Nẵng; Hội thi “Hát về quê hương Thanh Hóa” năm
2019 của Tỉnh đoàn Thanh Hóa; Chương trình nhạc hội “EDM Sắc hồng 18 -
Student Ben Tre” của Tỉnh đoàn Bến Tre;… Cũng theo Báo cáo của Trung ương
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, trong năm học 2018 - 2019, có 10.417 hội thi, hội diễn,
liên hoan văn hóa, văn nghệ được tổ chức trong phạm vi cả nước, thu hút được đông
đảo sinh viên tham gia, hưởng ứng.
Các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp như Hội Nhạc sĩ Việt Nam, hội
âm nhạc ở các địa phương đã có nhiều bài viết chuyên sâu, nhận định về tình hình
âm nhạc ở nước ta hiện nay, cũng như những tác động của nghệ thuật âm nhạc nói
chung, ÂNĐC nói riêng đối với đời sống tinh thần của giới trẻ, học sinh, sinh viên.
Tuy nhiên, quá trình khảo sát các tạp chí, trang tin điện tử và hoạt động của các hội
cho thấy, các nhà lý luận, phê bình âm nhạc ở nước ta hiện nay vẫn chưa thực sự
chú trọng đến việc định hướng thẩm mỹ thông qua ÂNĐC cho sinh viên, nhất là
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Quan sát tình hình thực tiễn, chúng tôi thấy rằng, các nhà lý luận, phê bình
âm nhạc trên các phương tiện thông tin đại chúng đa phần đều là “tay ngang”,
không được đào tạo đúng chuyên môn, thậm chí họ cũng không hề được đào tạo về
âm nhạc, về báo chí, thiếu vốn kiến thức nền tảng của “nghề”, dẫn đến việc cảm
nhận âm nhạc theo hướng chủ quan, trình độ thẩm định âm nhạc chưa đủ để nhận
định, đánh giá. Điều đáng nói, đội ngũ phê bình âm nhạc “tay ngang” này lại đang
là một lực lượng hùng hậu trong việc bình luận liên quan đến âm nhạc trên hệ thống
thông tin đại chúng ở nước ta, từ việc quảng bá các sản phẩm ÂNĐC đến cả những
chuyện giật gân, những vụ bê bối (scandal) trong đời tư nghệ sĩ,… Thực trạng đó đã
tạo nên những hiệu ứng không tốt trong đời sống âm nhạc, làm ảnh hưởng nhất định
109
đến thị hiếu thẩm mỹ của công chúng, sinh viên. Sự cổ xúy quá đà của đội ngũ “tay
ngang” này đối với các chương trình âm nhạc Bolero là một ví dụ điển hình, đã
khiến cho một bộ phận lớn khán giả (trong đó có sinh viên) lầm tưởng rằng, Bolero
là dòng nhạc chủ lưu ở Việt Nam.
3.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ
TRONG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH VIÊN THÔNG QUA ÂM
NHẠC ĐẠI CHÚNG Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Thực trạng hoạt động GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta thời
gian qua đã cho thấy rõ những thành tựu và hạn chế, cũng như các nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế trong quá trình GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC, thể
hiện trên một số nội dung chủ yếu sau:
3.4.1. Những thành tựu đạt đƣợc trong giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên
thông qua âm nhạc đại chúng ở nƣớc ta
Thứ nhất, tình cảm thẩm mỹ của sinh viên ngày càng được nâng cao thông
qua việc tổ chức các hoạt động âm nhạc cho sinh viên.
Thời gian qua, các chủ thể tham gia GDTM thường xuyên sử dụng các sản
phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp để giáo dục cho sinh viên có tình yêu đối với cái
đẹp, cái nhân văn; khâm phục, ngưỡng mộ trước cái cao cả, cái anh hùng; xót xa
trước cái bi, căm ghét và xa lánh trước cái xấu. Các hoạt động giáo dục này chủ yếu
được triển khai thông qua các chương trình biểu diễn âm nhạc.
Với lợi thế được đông đảo công chúng yêu thích và được sử dụng thường
xuyên hơn so với các loại nhạc khác, các sản phẩm ÂNĐC có nhiều điều kiện để
“chạm” tới cảm xúc của sinh viên. Vì thế, việc định hướng, lựa chọn đề tài, chủ đề
của các tác phẩm ÂNĐC mà sinh viên yêu thích trong các trường ĐH và CĐ thời
gian qua đã góp phần làm “chất xúc tác” để đưa “cái đẹp” đến gần hơn với sinh
viên. Thực trạng GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC cho thấy, mặc dù âm nhạc
có rất nhiều thể loại khác nhau và trong mỗi thể loại lại có thể được chia thành các
nhánh “thể loại con” của chúng, song ÂNĐC vẫn luôn là dòng nhạc phù hợp để các
trường ĐH và CĐ ở nước ta có thể vận dụng vào các hoạt động GDTM cho sinh
viên. Điều này đã được minh chứng khi có đến 76,5% sinh viên cho rằng, ÂNĐC
ngày càng được sử dụng nhiều trong nhà trường. Điều đó góp phần khẳng định, các
chủ thể tham gia GDTM đã có nhận thức đúng đắn về việc sử dụng ÂNĐC trong
GDTM cho sinh viên; qua đó, phát huy tốt vai trò của các sản phẩm ÂNĐC phản
ánh cái đẹp, tạo ra không gian đa dạng cho sinh viên trau dồi nhân cách, nâng cao
tri thức thẩm mỹ và làm phong phú thêm tình cảm thẩm mỹ của họ.
Việc tổ chức các hoạt động sinh hoạt âm nhạc trong khuôn viên của nhà
110
trường cũng như tổ chức và duy trì các CLB, đội văn nghệ xung kích đã tạo điều
kiện cho sinh viên được sống trong không gian của nghệ thuật âm nhạc; được tiếp
cận nhiều hơn với các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp trên cơ sở định hướng của
các nhóm chủ thể lãnh đạo, từ đó có tác động tích cực đến tình cảm, nhận thức của
sinh viên. Các hoạt động tổ chức hội thi, hội diễn, liên hoan nghệ thuật trong và
ngoài nhà trường cũng đã tạo điều kiện cho sinh viên được giao lưu, chia sẻ và thể
hiện khả năng âm nhạc của mình; giúp sinh viên không những được giải tỏa tinh thần,
thêm phần tự tin, mà còn nâng cao kiến thức về âm nhạc và các kỹ năng khác trong
cuộc sống. Nhờ đó, phẩm chất, tính cách, năng lực hành động và năng lực xã hội hóa
của sinh viên được nâng cao, tạo nền tảng cơ sở cho việc hình thành các chuẩn mực
thẩm mỹ của bản thân trong việc thưởng thức nghệ thuật.
Những nhận định này được khẳng định khi đa số sinh viên hiện nay (53,6%)
cho rằng, việc tổ chức các hoạt động âm nhạc cho sinh viên có ý nghĩa rất quan trọng
đối với quá trình GDTM cho họ. Thông qua các hoạt động âm nhạc, dưới sự định
hướng của các nhóm chủ thể lãnh đạo, sinh viên được tiếp cận với nhiều tác phẩm
ÂNĐC mà sinh viên yêu thích, góp phần trau dồi văn hóa cảm quan, bồi dưỡng và
làm phong phú năng lực cảm xúc của họ. Đồng thời, việc tổ chức các hoạt động âm
nhạc giúp sinh viên nhận thức, cảm nhận đúng đắn hơn “cái đẹp” trong cuộc sống
nói chung, âm nhạc nói riêng.
Thứ hai, thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên ngày càng phong phú hơn thông qua
việc chú trọng đổi mới và đa dạng hóa các phương thức GDTM.
Nhìn từ góc độ chủ thể sáng tạo, nền âm nhạc của chúng ta đã có một đội
ngũ nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc khá đông đảo và đầy tài năng. Họ vẫn miệt mài
lao động nghệ thuật, tiếp cận những tinh hoa và cái mới trong xu hướng âm nhạc để
luôn mang đến cho khán giả những sản phẩm âm nhạc chất lượng nhất. Nhìn từ phía
các sản phẩm ÂNĐC, chúng ta có những tác phẩm mà nội dung của chúng đã trực
tiếp đi sâu vào việc giải quyết những vấn đề của đời sống hiện thực; góp phần định
hướng những giá trị mới về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,… trong đó, các ca
khúc về đề tài cách mạng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong ÂNĐC của
chúng ta; chúng kích thích nhiều nhu cầu tìm hiểu, nhận thức về hiện thực đất nước.
Ở đó, các tác phẩm âm nhạc đã xây dựng thành công hình tượng con người cộng
đồng, con người sử thi cao cả và vĩ đại. Họ đã chiến đấu hết mình vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất non sông, họ sống vì lý tưởng “quyết tử để Tổ quốc
quyết sinh”. Và cũng ở đó, cái đẹp được thể hiện rất đậm nét, chúng bồi dưỡng hiệu
quả việc phát triển nhu cầu thẩm mỹ mới cho các tầng lớp nhân dân và sinh viên.
Ngày nay, tính nhân văn trong các tác phẩm âm nhạc được thể hiện ở chỗ,
111
chúng kế thừa tinh thần nhân đạo chủ nghĩa trong chuẩn mực nhân văn truyền
thống, nhưng có sự bổ sung, nâng cao với những ý nghĩa, nội dung mới của thời đại.
Tính nhân văn không chỉ thể hiện ở những cái ta, mà còn đặc biệt chú ý tới cái tôi -
con người cá nhân với những đặc điểm về cá tính, lợi ích, nguyện vọng, cũng như
quyền mưu cầu hạnh phúc của bản thân mỗi người. Song, cái tôi đó không hoàn
toàn tách rời khỏi cộng đồng và xã hội của họ. Vì thế, chuẩn mực nhân văn trong
các sản phẩm ÂNĐC hiện nay thường chú ý tới con người với tính cách là con
người hiện thực, con người với tính chất đa diện, phong phú và nhu cầu nhiều mặt
trong đời sống cá nhân và xã hội của nó. Tính nhân văn ở đây không chỉ hướng tới
cái đẹp của con người với tư cách là động lực của lịch sử mà còn hướng tới cái đẹp
của con người với tư cách là mục tiêu của sự phát triển, tiến bộ xã hội.
Giờ đây, công chúng sinh viên đòi hỏi được thưởng thức các sản phẩm âm
nhạc phản ánh chân thực nhiều khía cạnh khác nhau, có vui có buồn trong con
người và trong cuộc sống. Điều đó cho thấy, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng sinh
viên đã và đang được chuyển đổi mạnh mẽ. Với các nhạc sĩ - cũng là cảm hứng
sáng tác viết về đề tài quê hương, đất nước, về chiến tranh và hòa bình nhưng từ thị
hiếu thẩm mỹ mới đã đem lại cho âm nhạc Việt Nam một diện mạo mới. Và cũng
chính thị hiếu thẩm mỹ mới của lực lượng sáng tác đã “thấm” vào đông đảo công
chúng sinh viên để tạo ra một thị hiếu thẩm mỹ mới phù hợp hơn với xã hội hiện
đại. Đó là dấu hiệu của sự nhận thức mới về hiện thực.
Quá trình vận dụng các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp ở mọi thể loại, đề
tài, nội dung, phương thức biểu hiện trong việc GDTM cho sinh viên ở nước ta thời
gian qua một mặt đã góp phần giúp sinh viên hiểu biết thêm các vấn đề của xã hội,
của con người trong xã hội hiện đại; mặt khác, giúp sinh viên tiếp cận được với
nhiều phong cách ÂNĐC khác nhau, tạo nên sự đa dạng trong thị hiếu thẩm mỹ của
sinh viên. Điều này làm cho sinh viên thích thú và có khả năng làm thỏa mãn nhu
cầu nhận thức qua tiếp xúc với âm nhạc của họ. Nhu cầu này thể hiện rõ nét trong
hoạt động sáng tạo của chính sinh viên ở các CLB, các hội, các nhóm âm nhạc,
thậm chí trong cả thời gian rỗi của sinh viên và ngày càng giữ vai trò quan trọng
trong giáo dục và tự giáo dục.
Việc chú trọng đổi mới và đa dạng hóa các phương thức GDTM thông qua
ÂNĐC, nhất là việc tạo ra những “sân chơi” trên các phương tiện thông tin đại
chúng ở nước ta những năm gần đây đã thực sự trở thành một hình thức giải trí hấp
dẫn, một phương tiện giáo dục hiệu quả đối với công chúng nói chung và sinh viên
nói riêng. Nó trở thành các “diễn đàn” để sinh viên được bày tỏ thái độ, sự hiểu biết
của mình trước người khác, tạo nên môi trường GDTM trực tiếp cho sinh viên, đem
112
lại những tác động không nhỏ trong định hướng các hoạt động đánh giá thẩm mỹ
cho sinh viên hiện nay. Điều đó cho thấy, các chủ thể tham gia GDTM cho sinh
viên thông qua ÂNĐC đã có sự thay đổi tích cực trong nhận thức về vai trò của các
phương tiện thông tin đại chúng đối với việc truyền tải “cái đẹp” trong ÂNĐC, góp
phần định hướng thẩm mỹ cho sinh viên, giáo dục cho họ các nhu cầu lành mạnh về
cái đẹp nói chung, cái đẹp trong ÂNĐC nói riêng.
Thứ ba, việc chú trọng lựa chọn và phổ biến rộng rãi những sản phẩm
ÂNĐC phản ánh cái đẹp, nhất là các “ca khúc cách mạng” ở nước ta thời gian qua
đã góp phần bồi dưỡng lý tưởng thẩm mỹ, hình thành đạo đức tốt đẹp cho sinh viên.
Nhắc đến GDTM thông qua ÂNĐC để xây dựng và phát triển lý tưởng thẩm
mỹ, người ta thường lấy các tác phẩm “âm nhạc cách mạng” bất hủ để phân tích.
Điều này có phần đúng bởi trên thực tế, mặc dù hiện nay nhiều kênh thông tin giải
trí, đa dạng, đa sắc màu, đa thể loại âm nhạc xuất hiện, thế nhưng dòng “âm nhạc
cách mạng” vẫn luôn có sức lan tỏa với đông đảo công chúng Việt Nam.
Các “ca khúc cách mạng” không chỉ đơn thuần là âm nhạc mà nó còn ghi lại
dấu ấn của cả một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc bằng loại hình nghệ thuật
âm nhạc độc đáo, bằng những ca từ đơn giản, những âm hưởng và giai điệu có sức
lan tỏa và truyền cảm lớn. Nói cách khác, “ca khúc cách mạng” là “cuốn sách lịch
sử” bằng âm thanh, là những “thước phim tài liệu” về tinh thần bất khuất theo những
trận đánh, những chiến thắng oai hùng, vĩ đại mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân
Việt Nam đã viết lên. Những tác phẩm đó là những tác phẩm “chính kịch”, thể hiện lý
tưởng thẩm mỹ cao đẹp của những người đấu tranh cho cuộc sống mới.
Đối với sinh viên - họ đang ở lứa tuổi trẻ, đang trong quá trình định hình và
phát triển về mọi mặt, được đánh dấu bằng những khát vọng hiểu biết, những hoài
bão lớn lao. Đây là lứa tuổi mà cả thế giới quan và nhân sinh quan đang hoàn thiện;
lứa tuổi có lý trí, có tình cảm phong phú, đang đi tìm lý tưởng. Họ luôn có nhu cầu
tiếp thu, “bắt chước” và thường muốn tìm một hình mẫu lý tưởng để noi theo. Khi
có hình mẫu lý tưởng, sinh viên sẽ cố gắng phấn đấu để được như “hình mẫu” của
mình, nó có giá trị to lớn kích thích sự cố gắng phấn đấu của họ vì một lý tưởng để
hướng tới. Chính vì thế, việc lựa chọn và phổ biến rộng rãi các sản phẩm ÂNĐC
phản ánh cái đẹp, nhất là các “ca khúc cách mạng” trên các phương tiện thông tin
đại chúng, trong các hội thi, hội diễn văn nghệ, các chương trình biểu diễn âm nhạc
trong và ngoài nhà trường ở nước ta thời gian qua đã góp phần lan tỏa những lý
tưởng thẩm mỹ cao đẹp của các thế hệ cha ông đến với đông đảo sinh viên. Đặc biệt
những năm gần đây, các chủ thể tham gia GDTM đã chú trọng lựa chọn và phổ biến
các “ca khúc cách mạng” được dàn dựng, hòa âm, phối khí, “làm mới” theo các thể
113
loại âm nhạc hiện đại, nhằm tạo điều kiện để những tác phẩm “đi cùng năm tháng”,
với lý tưởng trong sáng được đến gần hơn với công chúng, qua đó góp phần bồi
dưỡng lý tưởng thẩm mỹ, hình thành đạo đức tốt đẹp cho sinh viên. Điều này cũng
được đại đa số sinh viên (61,3%) thừa nhận.
Thứ tư, việc thực hiện quyền tự do sáng tạo đã kích thích các hoạt động sáng
tạo thẩm mỹ, tạo nên sự đa dạng về quan điểm thẩm mỹ của sinh viên.
Bằng việc khẳng định quyền tự do sáng tạo trong luật và các văn kiện của
Đảng, công tác GDTM đã có cơ sở để tiến hành và hoàn thành chức năng giáo dục
của mình. Kết quả của nó cho thấy, chưa bao giờ tự do sáng tạo có những biểu hiện
tích cực như hiện nay. Từ nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ,… đến những người không
làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật; từ người lớn tuổi đến giới trẻ, học sinh, sinh viên
đều có quyền tự do sáng tạo nghệ thuật để thể hiện tài năng của mình. Các cuộc thi
sáng tác âm nhạc được tổ chức thường xuyên với nhiều cấp bậc, nhiều hình thức.
Điển hình là gần đây, cuộc thi sáng tác ca khúc về sinh viên Việt Nam được Trung
ương Hội Sinh viên Việt Nam tổ chức với mong muốn thúc đẩy phong trào tạo ra các
tác phẩm khơi dậy nhiệt huyết, khát vọng, hoài bão lớn của sinh viên và đã thu hút
được sự quan tâm của đông đảo tác giả, bao gồm cả thành phần là sinh viên tham gia.
Nhờ có tự do sáng tạo, âm nhạc ở nước ta mới có thể phát triển đa dạng và
phong phú đến như thế. Đặc biệt, nhờ có các phương tiện truyền thông đại chúng và
sự trợ giúp của “công nghệ số” hiện đại, tự do sáng tạo đã đạt tới mức độ gần như
không có giới hạn cả về nội dung lẫn hình thức. Nó góp phần kích thích nhiều sinh
viên (nhất là những sinh viên đang theo học nghệ thuật và đang hoạt động trong các
CLB âm nhạc, các đội văn nghệ xung kích) tham gia vào hoạt động sáng tạo âm
nhạc và cũng đã có một số sinh viên đạt được những thành tựu đáng khích lệ thời
gian qua. Đa số sinh viên thể hiện cái tôi của họ bằng những ý tưởng độc đáo và thú
vị và họ cố gắng tận dụng mọi cơ hội để biến chúng thành hiện thực. Họ mạnh dạn
sáng tạo khi tham gia các hoạt động “sản xuất âm nhạc” theo xu hướng “âm nhạc
độc lập” (Indie) trong tất cả các khâu từ sáng tác, hòa âm, phối khí, sản xuất, quảng
bá và phát hành (thường thông qua các website chia sẻ nhạc trực tuyến như
Soundcloud, YouTube,… và tổ chức các chương trình biểu diễn tại nhiều địa điểm
công cộng nhỏ lẻ như đường phố, quán cafe, quán bar…) để khẳng định “gu” thẩm
mỹ cá nhân và cá tính của bản thân.
Có thể khẳng định rằng, nhờ có các quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà
nước trong việc phát huy quyền tự do sáng tạo nghệ thuật cho nhân dân, đã mở ra
nhiều cơ hội cho đội ngũ văn nghệ sĩ và các tầng lớp nhân dân (trong đó có sinh
viên) được tiếp cận với nền văn hóa âm nhạc đa dạng của thế giới; là cơ hội để
114
quảng bá các giá trị văn hóa âm nhạc của Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Quá
trình đó không những đem đến cho nền âm nhạc ở nước ta sự đa dạng về thể loại
âm nhạc, mà còn có thể bắt kịp với xu thế âm nhạc đang thịnh hành trên toàn cầu.
Các thể chế liên quan đến GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta
đóng vai trò định hướng, hướng dẫn, tạo khung pháp lý cho việc tổ chức, vận hành quá
trình GDTM; đồng thời góp phần hạn chế các sản phẩm âm nhạc phản thẩm mỹ phát
triển trong xã hội. Việc khẳng định quyền tự do sáng tạo ở nước ta những năm qua đã
góp phần kích thích các hoạt động sáng tạo thẩm mỹ của sinh viên, tạo nên những
xu hướng sáng tạo mới trong thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên nước ta. Đây cũng
chính là một trong những lý do khiến cảm hứng sáng tạo của sinh viên càng có dịp
được thăng hoa khi hằng ngày, hằng giờ họ được tiếp cận với cái hay, cái đẹp, cái tiên
tiến của nền âm nhạc toàn cầu.
Thực trạng GDTM thông qua ÂNĐC ở nước ta thời gian qua cho thấy, có
không ít các CLB, các hội, nhóm âm nhạc và từng cá nhân sinh viên đã đạt được những
thành tích đáng khích lệ trong việc sáng tạo ra các sản phẩm âm nhạc; thậm chí họ còn
tự dàn dựng và tổ chức được nhiều chương trình âm nhạc với quy mô lớn, thu hút được
đông đảo sự quan tâm của công chúng trong và ngoài nhà trường.
3.4.2. Những hạn chế, bất cập trong giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên
thông qua âm nhạc đại chúng ở nƣớc ta hiện nay
Thứ nhất, sự chỉ đạo, định hướng của các nhóm chủ thể lãnh đạo trong nhà
trường đối với quá trình GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC nhiều khi còn
chung chung, chưa sát tình hình thực tiễn.
Thời gian qua, đảng ủy, ban giám hiệu (ban giám đốc) và các bộ phận chức
năng của nhà trường đã căn cứ vào các văn bản của Đảng và Nhà nước, các quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ
trong các cơ sở giáo dục để triển khai các hoạt động âm nhạc mang tính giáo dục
cho sinh viên. Đây là các quy định chung, không dành riêng cho việc GDTM thông
qua ÂNĐC. Trong khi đó, các nội dung GDTM thông qua ÂNĐC hiện vẫn chưa
được ngành Giáo dục đưa vào chương trình giảng dạy mang tính hệ thống, mà chủ
yếu được thực hiện lồng ghép với các nội dung giáo dục khác như giáo dục chính
trị, giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống,… Vì vậy, việc chỉ đạo, định hướng của
nhóm chủ thể lãnh đạo trong nhà trường đối với các nội dung GDTM thông qua
ÂNĐC còn chưa được cụ thể; đôi khi có sự lẫn lộn giữa nội dung GDTM với các
nội dung giáo dục khác.
Kết quả khảo sát cho thấy, mặc dù có sự hiện diện của các nội dung giáo dục
tình cảm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, quan điểm thẩm mỹ trong
115
quá trình tổ chức các hoạt động âm nhạc cho sinh viên. Tuy nhiên, các nội dung
giáo dục này chủ yếu tác động đến sinh viên từ bản thân các tác phẩm ÂNĐC được
lựa chọn để biểu diễn (thông qua đề tài, chủ đề, nội dung, ca từ của tác phẩm), mà
chưa sự định hướng cụ thể của nhà trường trong việc giới thiệu, tuyên truyền, giải
thích về ÂNĐC. Điều này làm cho nhiều sinh viên chưa phân biệt, đánh giá được
đúng - sai, hay - dở, những yếu tố tiêu cực, độc hại tiềm ẩn trong nhiều sản phẩm
ÂNĐC đang được phổ biến trong xã hội.
Mặt khác, trong lãnh đạo, chỉ đạo, các trường chưa có sự phân công nhiệm
vụ cụ thể, rõ ràng cho các thành phần trực tiếp tham gia tổ chức, quản lý việc
GDTM nói chung, GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC nói riêng. Khảo sát thực
trạng cho thấy, hiện nay Phòng công tác sinh viên (chính trị - sinh viên) trong các
trường ĐH và CĐ chưa hoàn toàn được phân công chịu trách nhiệm xây dựng các
chương trình, kế hoạch GDTM cho sinh viên. ĐTN, HSV là những tổ chức đoàn thể
gắn bó trực tiếp nhất với sinh viên, tuy nhiên cũng chưa được các chủ thể lãnh đạo
giao nhiệm vụ cụ thể, thường xuyên trong các hoạt động GDTM.
Thứ hai, trong quá trình tổ chức các hoạt động GDTM cho sinh viên thông
qua ÂNĐC, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường chưa chú ý nhiều đến nhu cầu,
thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên, dẫn đến có một số hoạt động chỉ mang tính “công
thức”, “hình thức”, chưa đem lại hiệu quả thực sự trong công tác GDTM.
Thực trạng GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC tại các trường ĐH và CĐ
ở nước ta thời gian qua cho thấy, mặc dù hầu hết các chương trình biểu diễn âm
nhạc đều có sự định hướng của nhà trường trong việc lựa chọn các tác phẩm ÂNĐC
phản ánh cái đẹp để qua đó, góp phần lan tỏa các giá trị thẩm mỹ tốt đẹp đến với
đông đảo công chúng sinh viên. Tuy nhiên, trên thực tế, hình thức thể hiện các tác
phẩm đó tại một số hoạt động âm nhạc do ĐTN, HSV tổ chức mới chỉ dừng lại ở
mức độ “đến hẹn lại lên”, chưa thực sự hấp dẫn đối với sinh viên, chỉ mang tính
“công thức”, “rập khuôn”, thiếu tính sáng tạo, thậm chí gây nhàm chán đối với
người thưởng thức, dẫn đến hiệu quả GDTM chưa cao.
Trong khi hiện nay, giới trẻ nói chung, sinh viên nói riêng có quá nhiều sự
lựa chọn trong việc thưởng thức ÂNĐC, từ cách lựa chọn về thể loại, đề tài, chủ đề
âm nhạc đến cả các yếu tố xung quanh một sản phẩm ÂNĐC như các yếu tố về
“hình ảnh” (diễn xuất, ngoại hình, trang phục, hiệu ứng sân khấu,…), thì phần lớn
các hoạt động của ĐTN, HSV trong nhà trường lại chưa thực sự chú ý đến các yếu
tố đó. Cách thức tổ chức các hoạt động của ĐTN, HSV hiện nay còn mang nặng
tính “hình thức”, “màu mè”, chưa đủ sức thuyết phục, cũng như chưa có sự kết nối
với những hoạt động mới mẻ của giới trẻ thông qua các trang mạng xã hội một cách
116
sâu rộng hơn, tươi trẻ hơn để có thể nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của sinh viên,
xem xem có thể đáp ứng được gì cho họ và nên định hướng cho họ những gì. Điều
này được phản ánh rõ nét trong kết quả khảo sát mà chúng tôi thu được khi có
56,7% sinh viên đồng tình cho rằng, hiệu quả của các phong trào hiện nay chưa tốt.
Bên cạnh đó, có những trường hợp, cán bộ phong trào, đội ngũ làm công tác
tổ chức hoạt động văn nghệ, các hạt nhân văn nghệ nòng cốt của trường còn hạn chế
về năng lực tổ chức, chưa phát huy tốt vai trò tập hợp, dẫn dắt sinh viên, chưa nhận
thức đúng, đầy đủ về việc GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC. Do đó, mặc dù
đa số sinh viên (59,8%) đều sẵn sàng tham gia các hoạt động do ĐTN, HSV nhà
trường tổ chức, tuy nhiên, một số hoạt động của ĐTN, HSV thời gian qua đã không
tạo hứng thú, không đáp ứng đúng nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên, nên khó
thu hút được đông đảo sinh viên hưởng ứng.
Thứ ba, các hoạt động GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC chưa có sự kết
nối, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan trong việc hướng dẫn cho sinh
viên về cách tiếp cận, lựa chọn thưởng thức ÂNĐC trên các phương tiện thông tin
đại chúng sao cho phù hợp, đúng hướng.
Thực trạng vận dụng ÂNĐC trong GDTM cho sinh viên trên các phương tiện
thông tin đại chúng ở nước ta những năm qua cho thấy, mặc dù các nhà sản xuất
chương trình âm nhạc trên sóng phát thanh, truyền hình, trên các trang mạng xã hội
đã cố gắng quảng bá những tác phẩm ÂNĐC hay, có chất lượng, nhưng việc xây
dựng các nội dung để định hướng thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
vẫn chưa được quan tâm một cách đầy đủ. Một số nhà sản xuất có phần xem nhẹ
yếu tố nội dung, dẫn đến việc đã có không ít các game show (trò chơi trên truyền hình)
sử dụng những hình ảnh và ngôn ngữ phản cảm, không phù hợp với thuần phong
mỹ tục và gây ảnh hưởng xấu tới thẩm mỹ của công chúng, sinh viên. Một số trang
mạng xã hội đang có khuynh hướng sa đà vào những biểu hiện thẩm mỹ lệch lạc
trong đời sống riêng tư của các nghệ sĩ (để làm đề tài “câu khách”) nhiều hơn là
quảng bá cái hay, cái đẹp trong các sản phẩm ÂNĐC. Không khó để có thể bắt gặp
những thông tin về đời sống riêng tư, những câu chuyện giật gân, những vụ bê bối
(scandal) của nghệ sĩ trên các trang báo, tạp chí hiện nay.
Trong khi đó, vai trò, sự phối hợp của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, các
tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, các trường ĐH và CĐ về lĩnh vực này còn
chưa được chặt chẽ. Công tác quản lý nhà nước đối với việc kiểm duyệt, thanh tra,
kiểm tra, nhằm ngăn chặn các sản phẩm âm nhạc có tác động xấu đến ý thức thẩm
mỹ của sinh viên chưa được thường xuyên. Sự phối hợp giữa các cơ quan truyền
thông với đội ngũ lý luận, phê bình âm nhạc chuyên nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa
117
phát huy được vai trò, trách nhiệm của mình đối với việc định hướng thẩm mỹ cho
công chúng, sinh viên. Các nhà lý luận, phê bình âm nhạc chuyên nghiệp chưa thực
sự chú ý đến công tác phê bình trên các phương tiện thông tin đại chúng để góp
phần định hướng các giá trị thực sự của ÂNĐC đến với sinh viên. Ngược lại, các cơ
quan truyền thông chưa tạo điều kiện thuận lợi để Hội Nhạc sĩ Việt Nam, đội ngũ
các nhà lý luận, phê bình âm nhạc chuyên nghiệp phát huy được vai trò tư vấn, phản
biện xã hội của mình đối với các cơ quan quản lý.
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập Thứ nhất, mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo
dục nói chung, GDTM cho sinh viên nói riêng. Tuy nhiên, nhận thức của một số cấp
ủy, chính quyền, đoàn thể, nhất là của ngành Giáo dục về vai trò của GDTM cho
sinh viên còn chưa được đầy đủ. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có được một
chương trình GDTM riêng biệt dành cho sinh viên tại các trường ĐH và CĐ. Đây là
một trong những nguyên nhân dẫn đến các hoạt động của nhóm chủ thể lãnh đạo
trong nhà trường có nhiều lúng túng, chưa sát thực tiễn, khiến phần lớn sinh viên ở
nước ta không được GDTM theo đúng nghĩa, mà chủ yếu được lồng ghép với các
nội dung giáo dục khác có liên quan.
Thứ hai, ÂNĐC ngày càng phát triển, phù hợp với xu thế của âm nhạc toàn
cầu, dễ dàng tiếp cận với giới trẻ nói chung, sinh viên nói riêng. Song, những
nghiên cứu về ÂNĐC ở nước ta còn quá ít và sơ sài. Thậm chí, đối với ngay cả các
trường nghệ thuật, các trường chuyên về âm nhạc, ÂNĐC cũng không được đưa
vào các chương trình giảng dạy mang tính hệ thống, mà chủ yếu là được sử dụng để
tham gia vào các chương trình biểu diễn âm nhạc. Điều đó cho thấy, dường như
ÂNĐC ở nước ta đang bị “bỏ trống trận địa”, chưa được đặt ở đúng vị trí, chưa
nhận thức rõ tầm quan trọng của ÂNĐC trong GDTM cho sinh viên.
Mặt khác, các trường ĐH và CĐ ở nước ta chưa có cơ chế, biện pháp phù
hợp để có thể động viên, tập hợp, khai thác được những cá nhân, nhóm người có
khả năng làm tốt việc GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC tại nhà trường. Đây
chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển “lệch lạc” về
thẩm mỹ đối với các sản phẩm ÂNĐC của một bộ phận không nhỏ sinh viên ở nước
ta. Nhu cầu thưởng thức cái đẹp của giới trẻ bị chi phối bởi tâm lý đám đông. Sinh
viên tiếp cận với các sản phẩm ÂNĐC không phải bản thân họ cảm nhận được cái
đẹp của các tác phẩm đó, mà bởi do bạn bè, những người xung quanh hoặc chịu tác
động của dư luận, truyền thông xã hội. Điều này cũng lý giải cho các hiện tượng,
nhiều ca khúc đại chúng có ca từ sáo rỗng, nhưng vẫn được đông đảo sinh viên
nghe (xem) và hát theo.
118
Thứ ba, công tác quản lý của Nhà nước còn lỏng lẻo trên lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa. Đội ngũ cán bộ làm công tác VHNT còn thiếu; trình độ, năng lực tham
mưu, quản lý có nơi, có chỗ còn hạn chế. Một bộ phận văn nghệ sĩ có biểu hiện suy
thoái về lập trường tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng, cơ hội chủ nghĩa, chỉ tập
trung chạy theo thị hiếu tầm thường, thiếu lành mạnh của một bộ phận công chúng.
Sự quản lý lỏng lẻo trong lĩnh vực VHNT là nguyên nhân dẫn đến ngày càng xuất
hiện nhiều sản phẩm âm nhạc phản thẩm mỹ trong xã hội, làm giảm hiệu quả của
công tác GDTM cho sinh viên. Chúng xâm nhập, tấn công vào các trường học - nơi
nuôi dưỡng đạo đức, lý tưởng, nhân cách, hoài bão, ước mơ, trí tuệ cho sinh viên,
làm ô nhiễm môi trường văn hóa, giáo dục hiện nay.
Thứ tư, các chủ thể tham gia GDTM chưa đặt hết tâm huyết của mình đối với
việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong tình hình
mới. Một số đài phát thanh - truyền hình chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của
ÂNĐC đối với việc GDTM cho giới trẻ; có biểu hiện chạy theo “lợi nhuận” kinh tế
mà coi nhẹ các giá trị chân - thiện - mỹ. Đây là nguyên nhân dẫn đến nhiều chương
trình trên sóng phát thanh, truyền hình sử dụng các sản phẩm ÂNĐC có nội dung
không mang tính giáo dục xuất hiện ngày càng nhiều.
Thứ năm, bản thân sinh viên ngày nay có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển. Tuy nhiên, năng lực thẩm mỹ của một bộ phận sinh viên hiện nay còn nhiều
hạn chế, họ chưa hiểu được hết ý nghĩa và giá trị của cuộc sống. Vì vậy, một số sinh
viên có suy nghĩ nông cạn, thái độ tự mãn, ích kỷ, hẹp hòi, thường hay ỷ lại vào
người khác. Khi gặp khó khăn, thất bại trong cuộc đời, một số tỏ ra bi quan, chán nản
và phản ứng lại xã hội bằng cách quay lưng với tất cả, coi thường các giá trị văn hóa
truyền thống. Một số khác do năng lực thẩm mỹ thấp nên họ không tạo được cho
mình giá trị về mặt thẩm mỹ, không có được “gu thẩm mỹ” riêng, dễ dàng bị lôi kéo,
chạy theo các trào lưu, xu hướng không lành mạnh, dễ dàng tiếp nhận các sản phẩm
âm nhạc “độc hại”, phản thẩm mỹ trong xã hội. Đó là một thực tế, là nguyên nhân
khiến cho công tác GDTM trong các trường ĐH, CĐ gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
Tiểu kết Chƣơng 3
Trên cơ sở nghiên cứu những nhân tố chính có ảnh hưởng đến GDTM cho
sinh viên thông qua ÂNĐC, Chương thứ 3 của luận án đã tập trung làm rõ thực
trạng hoạt động GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta hiện nay trên các
phương diện: Thực trạng nội dung GDTM, thực trạng phương thức GDTM và thực
trạng hoạt động của các chủ thể tham gia GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC.
Qua đó, đã có những đánh giá chung về những thành tựu, cũng như những hạn chế,
bất cập trong GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta hiện nay. Theo đó,
119
việc sử dụng các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp để tập trung GDTM cho sinh
viên ở nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Kết quả của quá trình đó
đã góp phần hình thành và phát triển tình cảm thẩm mỹ, tri thức thẩm mỹ cho sinh
viên; đồng thời góp phần nâng cao nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ và định
hướng hoạt động đánh giá thẩm mỹ cho sinh viên. Không những vậy, quá trình đó
còn góp phần bồi dưỡng lý tưởng thẩm mỹ, hình thành nên những đạo đức tốt đẹp
cho sinh viên, cũng như góp phần kích thích các hoạt động sáng tạo thẩm mỹ, tạo
nên sự đa dạng về quan điểm thẩm mỹ của sinh viên nước ta.
Bên cạnh đó, GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC hiện nay vẫn còn tồn
tại một số bất cập, hạn chế: Sự chỉ đạo, định hướng của các nhóm chủ thể lãnh đạo
trong nhà trường đối với quá trình GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC nhiều khi
còn chung chung, chưa sát tình hình thực tiễn. Mặt khác, trong quá trình tổ chức các
hoạt động GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC, các tổ chức đoàn thể trong nhà
trường chưa chú ý nhiều đến nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên, dẫn đến có
một số hoạt động chỉ mang tính “công thức”, “hình thức”, chưa đem lại hiệu quả
thực sự trong công tác GDTM. Bên cạnh đó, các hoạt động GDTM cho sinh viên
thông qua ÂNĐC hiện nay còn chưa có sự kết nối, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan có liên quan trong việc hướng dẫn cho sinh viên về cách tiếp cận, lựa chọn
thưởng thức ÂNĐC trên các phương tiện thông tin đại chúng sao cho phù hợp, đúng
hướng, góp phần định hướng các giá trị thực sự của ÂNĐC đến với sinh viên.
120
Chƣơng 4
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH VIÊN
THÔNG QUA ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG Ở NƢỚC TA
4.1. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO
SINH VIÊN THÔNG QUA ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG Ở NƢỚC TA
Thứ nhất, xét từ các nhân tố có ảnh hưởng lớn đến GDTM cho sinh viên
thông qua ÂNĐC ở nước ta hiện nay, chúng tôi thấy nổi lên một vấn đề rất cơ bản
nhưng vô cùng quan trọng, đó là việc xuất hiện những mâu thuẫn của mối quan hệ
giữa phát triển VHNT với tăng trưởng kinh tế ở mức độ ngày càng gay gắt trong đời
sống xã hội. Đây là một trong những mối quan hệ rất cơ bản, phản ánh trình độ và
chất lượng của sự phát triển bền vững đất nước. Vì thế, việc xuất hiện những mâu
thuẫn trong mối quan hệ này đương nhiên cũng sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình
GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta, khi mà hiện nay những sản phẩm
ÂNĐC phản ánh cái đẹp - công cụ để tập trung GDTM cho sinh viên - đang ngày
càng thưa thớt, vắng bóng và nhường chỗ cho những sản phẩm âm nhạc mang tính
giải trí thuần túy nhằm đáp ứng yếu tố thị trường đang từng ngày, từng giờ xuất
hiện tràn lan và khó kiểm soát.
Chúng ta đều biết rằng, vật chất và tinh thần là hai mặt của đời sống xã hội
nói chung và đời sống mỗi con người nói riêng, nên, nếu coi kinh tế là nền tảng vật
chất của xã hội, đáp ứng nhu cầu vật chất, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, nghệ thuật là bộ phận đặc biệt tinh tế của văn hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu tinh
thần của con người và xã hội. Không thể phát triển ổn định và bền vững nếu chỉ chú
trọng tăng trưởng kinh tế mà bỏ quên, thậm chí hy sinh các giá trị VHNT chân
chính. Sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc là một quá trình nội sinh và có sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa phát triển VHNT và kinh tế; trong đó văn hóa bao trùm
tất cả các phương diện của hoạt động xã hội, không chỉ chi phối, tác động mà còn
có khả năng quy định sự phát triển của xã hội.
Cũng như sự tồn tại của giáo dục, văn hóa xuất hiện từ khi có loài người, có
xã hội. Văn hóa tồn tại khách quan và tác động vào con người sống trong nó. Nếu
môi trường tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, thì văn hóa là cái nôi
thứ hai giúp con người trở thành “người” theo đúng nghĩa, hoàn thiện con người,
hướng con người khát vọng vươn tới chân - thiện - mỹ. Do đó, một quốc gia nếu chỉ
coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì không những môi trường xã hội bị
hủy hoại, xung đột ngày càng gay gắt, sự suy thoái về đạo đức, lối sống, văn hóa
121
ngày càng tăng mà có thể, gần nhất là mục tiêu kinh tế cũng khó đạt được. Với ý
nghĩa đó, khả năng phát triển ổn định và bền vững của một dân tộc không chỉ dựa
vào nền tảng vật chất, mà còn cần phải dựa vào nền tảng tinh thần.
Đối với sinh viên, văn hóa tạo nên giá trị đạo đức và có vai trò điều chỉnh
hành vi. Khi được giáo dục trong một môi trường văn hóa và thấm nhuần hệ giá trị
văn hóa, sinh viên không những hình thành được những hành vi chuẩn mực mà
quan trọng hơn là ẩn chứa trong tiềm thức họ là niềm tin nội tâm sâu sắc vào những
điều tốt đẹp, từ đó, khao khát cuộc sống hướng thiện và sống có lý tưởng hơn. Xuất
phát từ thực tế, chúng ta không thể phủ nhận một vấn đề là, hiện đang có sự mâu
thuẫn lớn giữa một bên là nhu cầu hoạt động VHNT ngày càng cao của sinh viên
với một bên là điều kiện kinh tế đầu tư cho văn hóa còn hết sức ngặt nghèo; nguồn
lực dành cho quảng bá, giới thiệu tác phẩm văn học, nghệ thuật còn nhiều hạn chế.
Sự mâu thuẫn này dẫn đến một khoảng cách ngày càng rộng giữa cung và cầu, tạo
sự bế tắc, không giải quyết được trong việc đáp ứng nhu cầu vật chất và nhu cầu
tinh thần của sinh viên. Sự thiếu thốn đó nếu không được bù đắp kịp thời sẽ không
thể tạo nên những chuẩn mực định hướng rõ ràng, sẽ khiến nhu cầu này phát triển tự
phát, lệch lạc, đặc biệt là trong hoạt động VHNT.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Quá trình xây dựng và phát triển kinh tế đất nước,
chúng ta đã nỗ lực tìm kiếm nhiều cơ hội, đạt được những thành tựu to lớn về khoa
học, kỹ thuật và công nghệ cùng nhiều lĩnh vực quan trọng khác. Nhưng chúng ta
chưa lường hết được mức độ “cám dỗ” quá lớn của kinh tế thị trường đối với con
người để “điều hòa” nó. Điều đó đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới bộ mặt văn
hóa - xã hội, để lại những hậu quả khôn lường cho giáo dục nước nhà: Thực trạng
bạo lực học đường đến mức báo động, đạo đức nhà giáo thì xuống cấp nghiêm
trọng, tình trạng thiếu công bằng, gian lận trong thi cử, chuyện mua bán các kết quả
học tập không còn quá xa lạ, nhiều sinh viên sa vào các tệ nạn xã hội với mức độ
nghiêm trọng ngày càng cao,… Tất cả những điều đó đã gây ra những hệ lụy đáng
tiếc cho xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng giáo dục nói chung, GDTM
cho sinh viên nói riêng.
Mặt khác, lâu nay giáo dục của chúng ta coi trọng “dạy chữ” mà lơ là việc
“dạy người”; coi trọng số lượng hơn là chất lượng. Để tạo ra được một sản phẩm
lao động cho xã hội, quả thực là cần đến kiến thức và kỹ năng của sinh viên đã được
đào tạo. Tuy nhiên, vì chạy đua theo sản phẩm, theo số lượng mà chúng ta chưa
quan tâm đến phương thức tạo ra sản phẩm đó một cách đầy đủ. Xã hội cần phải
nhìn nhận lại, đánh giá lại giá trị sản phẩm đó gồm cả cách thức mà người đó lao
122
động có chân chính không, có vì mục tiêu con người không. Nói cách khác là cách
thức lao động để tạo ra sản phẩm đó có văn hóa hay không. Một nhà sản xuất âm
nhạc không thể kiếm lợi nhuận bằng mọi cách mà bất chấp đạo lý; một nhà trường
không được coi kinh tế làm mục tiêu hàng đầu; và một người nhạc sĩ lại càng không
thể tạo ra tác phẩm âm nhạc cho xã hội một cách phi văn hóa, phản thẩm mỹ.
Đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn nhận lại vấn đề để có những giải pháp giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển VHNT với tăng trưởng kinh tế. Đây là
một vấn đề rất phức tạp, nhưng nếu làm được và làm tốt nhiệm vụ này thì cũng có
nghĩa là chúng ta đã làm được một việc thiết thực; không những góp phần nâng cao
chất lượng GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC mà suy rộng ra còn góp phần
đưa đất nước ta phát triển toàn diện, đồng bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và
môi trường; hướng tới mục tiêu của phát triển toàn diện, hướng tới con người và vì
con người.
Thứ hai, xét từ thực trạng GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta
hiện nay, nhất là từ những hạn chế, bất cập đang tồn tại, chúng tôi cho rằng, vấn đề
lối sống của sinh viên như thế nào và làm thế nào để xây dựng lối sống đẹp và có
ích cho sinh viên đang là những câu hỏi cần giải đáp. Mặc dù chỉ nhìn nhận từ góc
độ văn hóa tinh thần, chúng ta vẫn không khỏi cảm thấy một mối âu lo khi hiện
đang có tình trạng lệch lạc thị hiếu, sai lệch trong năng lực cảm thụ thẩm mỹ cũng
như sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng,
tạo ra những đảo lộn lớn về chuẩn mực giá trị đạo đức và thẩm mỹ trong họ. Mặt
khác, với bối cảnh hiện nay, đặt vấn đề xây dựng lối sống có văn hóa cho sinh viên
như thế nào, tạo ra một hệ thống chuẩn mực thẩm mỹ như thế nào để có thể thu hút,
hướng dẫn sinh viên hình thành và phát triển quan niệm về cái đẹp, hướng tới hoàn
thiện nhân cách văn hóa cho họ thông qua các sản phẩm ÂNĐC là vấn đề cần thiết.
GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC xét đến cùng là phải giúp sinh viên
có nhận thức đúng đắn về cái đẹp trong cuộc sống và nghệ thuật, bao gồm cả những
điều đối lập với cái đẹp (cái xấu, cái ác). Đó là việc bồi dưỡng cho mỗi người một
hệ thống những quan điểm, quan niệm có tính chất hoàn thiện về cái đẹp. Qua đó,
người được giáo dục biết phân biệt đâu là cái đẹp, đâu là cái chưa đẹp, bản thân biết
làm sao để cái đẹp được nhân rộng, làm sao để hạn chế cái xấu, cái ác,… Nghĩa là,
người đó biết khen đúng cái đẹp, biết phê bình đúng cái chưa đẹp, có quan điểm
riêng về cái đẹp, không để trào lưu, số đông lôi cuốn, dẫn dắt một cách tùy tiện.
Thông qua các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp, cần giáo dục cho sinh viên biết
tôn trọng các nền văn hóa, các giá trị khác nhau của xã hội đa dạng, không cảm thấy
kỳ thị với các biểu hiện văn hóa khác nhau, không tự ti với bản sắc văn hóa thuộc
123
nhóm thiểu số, không tự đại với một nền văn hóa có nhiều sản phẩm đại diện.
Tuy vậy, nếu nhìn vào thực tế, chúng ta không thể phủ nhận một vấn đề là,
các chủ thể tham gia GDTM cho sinh viên ở nước ta hiện nay chưa thực sự phát huy
được hết vai trò và trách nhiệm của mình trong nhiệm vụ GDTM cho sinh viên, mà
có lẽ trước tiên phải nhắc đến trách nhiệm của nhạc sĩ với vai trò là chủ thể sáng tạo
thẩm mỹ. Nếu coi các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp là “công cụ” quan trọng
để tập trung GDTM cho sinh viên thì thực tiễn đã chứng minh cái “công cụ” đó còn
đang quá yếu và thiếu ở nước ta để có thể đưa sinh viên vào hệ thống định hướng
tinh thần xã hội, tạo điều kiện bộc lộ những xu hướng phát triển xã hội tiến bộ.
Sáng tạo âm nhạc là một quá trình lao động đặc biệt của người nhạc sĩ. Đó là
quá trình chuyển hóa cái đẹp trong cuộc sống thành cái đẹp trong hình tượng âm
nhạc, là sự phản ánh, tái hiện cái đẹp bằng ngôn ngữ của âm nhạc. Nhạc sĩ sáng tạo
ra tác phẩm là để thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình, giúp cho con người hiểu
được những quan hệ có ý nghĩa muôn màu, muôn vẻ của bản thân và thế giới xung
quanh. Vì vậy, với vai trò là chủ thể sáng tạo, nhạc sĩ phải là những người có các
phẩm chất đặc biệt, được biểu hiện qua năng lực tưởng tượng sáng tạo phong phú
với một tâm hồn dễ xúc động và nhạy cảm, quan sát cuộc sống một cách tinh tế và
được biểu hiện một cách mạnh mẽ nhất, độc đáo nhất thông qua cá tính sáng tạo và
phong cách của người nghệ sĩ. Tất cả những phẩm chất đó tạo nên tài năng nghệ
thuật ở người nhạc sĩ. Trong đó, cảm hứng sáng tạo là nhân tố chủ đạo tự nhiên của
toàn bộ quá trình sáng tạo âm nhạc, giúp nhạc sĩ tạo nên những tác phẩm âm nhạc
có giá trị thẩm mỹ sâu sắc, mà ở đó là sự gửi gắm những tâm tư, tình cảm, ước mơ,
khát vọng, lý tưởng thẩm mỹ; thậm chí là cá tính, cách nhìn nhận và lý giải của các
nhạc sĩ về hiện thực. Lúc này, chính người nhạc sĩ đã dùng hình tượng âm nhạc để
đưa đến cho người thưởng thức những cảm nhận về hiện thực, qua đó, tác động đến
tình cảm và nhận thức của họ, thôi thúc họ đứng về phía cái đẹp để lên án cái xấu.
Đứng trước những hạn chế, bất cập còn tồn tại, người nhạc sĩ hơn bao giờ hết
phải tự đặt ra cho mình trách nhiệm sáng tạo ra những tác phẩm âm nhạc không
những có nội dung tốt, hình thức đẹp, có giá trị định hướng thẩm mỹ cao, mà còn
phải phù hợp “hơi thở” thời đại mà sinh viên đang sinh sống, học tập và lao động -
Đó phải là những tác phẩm đấu tranh, phấn đấu cho cái đẹp và vì cái đẹp, những tác
phẩm có khả năng tác động mạnh tới tư tưởng, tình cảm của sinh viên. Chỉ khi đó,
nhiệm vụ GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC mới có cơ sở cho sự hình thành
những thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, hướng tới một lý tưởng thẩm mỹ trong sáng.
Bên cạnh đó cũng cần phải đặt ra trách nhiệm của nhà trường, các nhà giáo
dục, cũng như tất cả các tổ chức, cá nhân làm công tác VHNT với vai trò là chủ thể
124
định hướng thẩm mỹ cho sinh viên thông qua ÂNĐC.
Chúng ta biết rằng, ÂNĐC là các sản phẩm âm nhạc được nhiều người biết
đến và yêu thích, nhưng không phải bất cứ sản phẩm âm nhạc nào được nhiều người
yêu thích cũng đều đẹp; chúng vẫn có thể chưa đẹp, chưa tốt, thậm chí là xấu độc.
Vì vậy, để cái đẹp trong ÂNĐC được nhân rộng đến đông đảo sinh viên, vai trò,
trách nhiệm của chủ thể định hướng thẩm mỹ là rất quan trọng. Nhiệm vụ của các
chủ thể định hướng là thông qua việc đánh giá các sản phẩm ÂNĐC mà sinh viên
thích nghe (cả về nội dung lẫn phương thức biểu hiện), để chỉ ra một cách chính xác
những giá trị và phản giá trị của chúng. Việc đánh giá này không những giúp người
cảm thụ là sinh viên có được những nhận thức đúng đắn khi lựa chọn các sản phẩm
âm nhạc để thưởng thức, khơi gợi cho họ cảm nhận dễ hơn, trọn vẹn hơn cái đẹp
trong âm nhạc; mà còn khích lệ cái hay, nhắc nhở, cảnh báo những cái chưa hay
trong sáng tạo nghệ thuật của các chủ thể sáng tạo; đồng thời góp phần dự báo, định
hướng về sự vận động và phát triển của âm nhạc, cũng như định hướng chung cho
những chuẩn mực mới của hoạt động đánh giá tiếp nhận, từ đó, giúp các nhà quản
lý có những quyết sách phù hợp với sự phát triển chung của nền âm nhạc quốc gia.
Vì vậy, hơn bao giờ hết, nhà trường phải là tổ chức có “hàm lượng” văn hóa
cao nhất; là nơi hội tụ, kết tinh văn hóa để đào tạo ra những chuẩn mực văn hóa cho
xã hội. Trách nhiệm của nhà trường lúc này không chỉ đơn thuần là tổ chức các hoạt
động, sự kiện âm nhạc nhằm tạo ra không gian thẩm mỹ cho sinh viên, lựa chọn các
tác phẩm âm nhạc phản ánh cái đẹp để giới thiệu đến đông đảo sinh viên, mà còn
phải là nơi cung cấp, bồi dưỡng các tri thức thẩm mỹ cho họ, để sinh viên có cơ sở
nhằm giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa sở thích cá nhân với các chuẩn mực thẩm
mỹ xã hội và phù hợp với các điều kiện hiện có của lịch sử dân tộc. Giảng viên phải
là người đóng vai trò khơi dậy mạnh mẽ ở sinh viên nhu cầu nhận thức, nhu cầu
chiếm lĩnh tri thức thẩm mỹ sâu rộng, rèn luyện cảm xúc thẩm mỹ bền vững và
hành vi thẩm mỹ chuẩn mực. Gia đình phải có trách nhiệm tạo môi trường thuận lợi
cho việc phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ của con em
mình; người lớn tuổi có trách nhiệm giáo dục, nêu gương, cùng nhà trường nâng
cao chất lượng, hiệu quả giáo dục; kịp thời uốn nắn khi con em mình tiếp xúc với
những sản phẩm âm nhạc không lành mạnh.
Các nhà nghiên cứu mỹ học cần nghiên cứu một cách toàn diện về mặt lý
luận để xây dựng nên một hệ thống tiêu chuẩn đánh giá phù hợp với bản chất phản
ánh của âm nhạc trên cơ sở hệ giá trị chân - thiện - mỹ. Các nhà lý luận và phê bình
âm nhạc cần vạch rõ đúng - sai, tốt - xấu, chất lượng nghệ thuật của các tác phẩm
âm nhạc, phải làm sao để phê bình âm nhạc thực sự trở thành “con đường rút ngắn
125
khoảng cách giữa công chúng với tác phẩm, tạo chất keo kết nối giữa các mắt xích
người viết - người diễn - người nghe” [10]. Các nhà hoạch định chính sách, các nhà
quản lý VHNT cần tạo lập đường lối, chính sách phù hợp với lý tưởng thẩm mỹ của
chủ nghĩa nhân văn; phù hợp với mục tiêu “xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” theo đúng quan
điểm, đường lối của Đảng ta.
Thứ ba, hiện nay, trước những biến đổi ngày càng đa dạng của đời sống xã
hội, những thành tựu đạt được trong việc phát huy vai trò của ÂNĐC đối với
GDTM cho sinh viên còn chưa tương xứng với tầm quan trọng của nó, chưa đủ sức
tác động đối với các lĩnh vực của đời sống thẩm mỹ, đặc biệt là hoạt động GDTM.
Thị hiếu thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ của sinh viên khá phức tạp, có một số biểu
hiện thiếu lành mạnh, làm giảm tính hiệu quả, vai trò của ÂNĐC trong hoạt động
GDTM. Tính phức tạp trong nhận thức, thưởng thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ
của giới trẻ tạo nên những khó khăn, thách thức lớn cho việc GDTM nói chung.
Trong khi đó, có những quan điểm đang định hình, đang biến đổi, làm cho cuộc đấu
tranh giữa cái xấu với cái đẹp, giữa cái cũ với cái mới, cái lạc hậu với cái tiến bộ
ngày một gay gắt; việc nhận thức giá trị chân - thiện - mỹ càng đòi hỏi cao hơn.
Dù được xác định là nhân tố quan trọng, cấu thành nội dung GDTM, nhưng
các quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát huy sức mạnh của các loại hình nghệ thuật
nói chung, ÂNĐC nói riêng chưa được các cấp, các ngành quán triệt, nhận thức đầy
đủ, nên việc triển khai thực hiện còn chưa thực sự nghiêm túc ở một số nơi. Vai trò
của ÂNĐC phải thể hiện được vị trí của mình trong hoạt động GDTM; thông qua
đó, khẳng định giá trị của mình và góp phần đem lại hiệu quả cho hoạt động
GDTM. Song cho đến nay, ÂNĐC vẫn còn là một “mảnh đất màu mỡ”, góp phần
để cho các “lệch chuẩn” trong xã hội nảy sinh và phát triển. Các chính sách về thẩm
mỹ, nghệ thuật chỉ là một bộ phận nhỏ trong thể chế văn hóa. Nhưng ngay cả đến
việc xây dựng “bộ phận nhỏ đó” vẫn còn quá chậm và chưa hoàn thiện. Nghị quyết
số 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng và
phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” được ban hành và đi vào cuộc sống
đến nay đã hơn 10 năm, nhưng Đề án “Xây dựng chương trình giáo dục thẩm mỹ cho
thanh thiếu niên, đặc biệt là học sinh, sinh viên trong các trường học” mà Ban Bí thư
Trung ương Đảng yêu cầu ngành Giáo dục triển khai thực hiện vẫn chưa được định
hình. Mặt khác, trong thực tiễn thực hiện các nội dung GDTM thông qua ÂNĐC
vẫn còn tồn tại tình trạng “gượng ép”, thiếu tính thực tiễn, làm giảm chất lượng và
giá trị thực của nghệ thuật âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng.
Bên cạnh đó, lực lượng tuyên truyền, giáo dục ở các vị trí quan trọng, nhất là
126
đội ngũ cán bộ làm công tác VHNT, công tác giáo dục và đào tạo còn hạn chế về
trình độ thẩm mỹ. Việc Mỹ học Mác - Lênin không phải là một môn học bắt buộc,
nhất là ở một số trường ĐH và CĐ thuộc khối ngành khoa học tự nhiên, đã tạo ra
“khoảng trống” trong việc tiếp cận các vấn đề thẩm mỹ, nghệ thuật của một bộ phận
rất lớn sinh viên nước ta hiện nay, gây những khó khăn nhất định cho việc phát huy
vai trò của GDTM. Điển hình chúng ta thấy khá nhiều sinh viên học rất giỏi các
môn khoa học lý thuyết nhưng có quan điểm thẩm mỹ cũng như thị hiếu thẩm mỹ,
lý tưởng thẩm mỹ khá đơn giản, thậm chí “lệch chuẩn” so với bạn bè đồng trang
lứa. Thực trạng GDTM thông qua ÂNĐC ở nước ta thời gian qua đã cho chúng ta
thấy rõ, cả GDTM và ÂNĐC đều chưa được các nhà quản lý giáo dục quan tâm, “để
mắt” tới. Trong khi đó, vai trò to lớn của GDTM, của ÂNĐC đối với quá trình hình
thành đời sống tình cảm con người nói chung, sinh viên nói riêng, bồi đắp tâm hồn
cao đẹp cho mỗi người là những điều không thể phủ nhận. Đây là một vấn đề lớn
cần phải được đặt ra trong mục tiêu giáo dục toàn diện cho sinh viên hiện nay.
4.2. DỰ BÁO VỀ NHỮNG XU HƢỚNG VẬN ĐỘNG TRONG NHU
CẦU TIẾP NHẬN THẨM MỸ ÂM NHẠC ĐẠI CHÚNG CỦA SINH VIÊN
NƢỚC TA
Trong những năm tới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công
nghệ, xu hướng hội nhập quốc tế sẽ ngày càng được mở rộng, tạo nhiều cơ hội cho
các tầng lớp nhân dân được tiếp cận với nền văn hóa đa dạng của thế giới; đồng thời
là cơ hội để quảng bá các giá trị VHNT nói chung, âm nhạc nói riêng của Việt Nam
đến với bạn bè quốc tế. Bối cảnh đó tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách
thức đan xen. Dưới tác động trực tiếp của quá trình hội nhập quốc tế, sự thâm nhập
ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc của các xu hướng, trào lưu ÂNĐC nước ngoài, đời
sống âm nhạc trong nước cũng sẽ có những biến đổi phức tạp, có khả năng xảy ra
cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng, trường phái với quan niệm nghệ thuật khác
nhau. Sự phát triển của khoa học, công nghệ cũng sẽ đặt ra nhiều thách thức đối với
lĩnh vực ÂNĐC khi có thể tạo ra những thay đổi về cách thức giao tiếp trên không
gian mạng Internet, dẫn đến tính bản địa, tính dân tộc của văn hóa âm nhạc có nguy
cơ bị phai nhạt rất lớn. Trong khi đó, “gu” âm nhạc và nhu cầu tiếp nhận thẩm mỹ
ÂNĐC của giới trẻ nói chung, sinh viên nói riêng nước ta ngày càng cao và đa dạng.
Thực tế hiện nay, có khá nhiều thể loại âm nhạc mới ra đời dựa theo nhu cầu,
thị hiếu của công chúng; những bản nhạc cũ được làm mới lại, “bắt tai” hơn, độc đáo
hơn, dễ tiếp cận với đông đảo công chúng hơn. Thị trường ÂNĐC ở nước ta đã xuất
hiện nhiều hiện tượng của giới âm nhạc “Indie” - những nghệ sĩ tự sản xuất âm nhạc
một cách độc lập, vừa có thể biểu diễn một mình (solo), vừa có thể sản xuất theo
127
từng nhóm nhạc. Cùng với đó là sự xuất hiện của những “cái tên” trong giới âm nhạc
“Underground” - những người hoạt động âm nhạc trong “thế giới ngầm”, họ tự do
khám phá, sáng tạo các phong cách âm nhạc khác nhau mà không quan tâm nhiều
đến “showbiz”. Đặc biệt, thông qua kết nối Internet và các trang mạng xã hội, dưới
sự “trợ giúp” của công nghệ kỹ thuật số (các phần mềm), mọi người dân đều có cơ
hội để trở thành các “nhà sản xuất” trong lĩnh vực nghệ thuật nói chung, âm nhạc
nói riêng. Chính vì thế, đã xuất hiện nhiều sản phẩm nghệ thuật do các tổ chức, cá
nhân không phải là nghệ sĩ chuyên nghiệp sản xuất và phổ biến rộng rãi trên các
trang mạng xã hội, như nhóm 1977 Vlog với những “clip” hài hước, những thước
phim mang màu sắc xưa cũ được lấy cảm hứng từ những tác phẩm văn học kinh
điển, hay như sự xuất hiện của các ca khúc “hiện tượng mạng” như ca khúc “Bạc
phận” do 02 bạn trẻ Jack và K-ICM thể hiện, thu hút đến 255.103.203 lượt xem
tính từ ngày ra mắt (16/4/2019) đến thời điểm 09/12/2019 (theo thống kê của trang
mạng xã hội YouTube),… Những hoạt động này có tác động sâu sắc và trực tiếp
đến thẩm mỹ của đông đảo công chúng, sinh viên (tốt có, xấu có), tạo ra các trào
lưu “tự biên, tự diễn” trong lĩnh vực nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng.
Trên một bình diện chung khi nhìn vào sự phát triển của ÂNĐC ở Việt Nam
những năm qua, có thể chia làm ba khuynh hướng chính: (1) Các sản phẩm âm nhạc
vừa có chất lượng nghệ thuật, có tính định hướng tư tưởng tốt, vừa có thể tham gia
vào cơ chế thị trường. (2) Các sản phẩm âm nhạc đạt được định hướng về tư tưởng và
những chuẩn mực nghệ thuật, nhưng vẫn bị công chúng lạnh nhạt bởi ít chú ý tới yếu
tố thị trường. (3) Các sản phẩm âm nhạc mang tính giải trí thuần túy, chỉ lưu tâm tới
yếu tố thị trường nhưng lại ít có tính định hướng tư tưởng và nghệ thuật.
Những nhu cầu cơ bản trong tiếp nhận thẩm mỹ ÂNĐC của sinh viên trong
bối cảnh đó cũng sẽ bộc lộ ra các xu hướng với những tính chất khác nhau, đan xen
và bổ sung cho nhau.
Đó có thể là những xu hướng bộc lộ ham mê và tiềm năng tiếp cận với
những thể loại ÂNĐC mới, hiện đại, có tính trào lưu của dân tộc và quốc tế.
Sự tiếp cận đa dạng của sinh viên với các sản phẩm ÂNĐC mang tính trào
lưu thời thượng ở trong và ngoài nước thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng như truyền hình và các trang mạng xã hội thời gian qua là một ví dụ điển
hình. Điều đáng chú ý là sự tiếp cận này vẫn được quy chiếu bởi nền tảng văn hóa
truyền thống dân tộc. Dù các tác phẩm ÂNĐC viết về đề tài lịch sử, về chiến tranh
hay về cuộc sống đương đại, các “nhạc sĩ” vẫn dựa trên nền tảng mỹ học truyền
thống để thể hiện những vấn đề của dân tộc, nhân sinh, góp phần đẩy lùi cái xấu, cái
ác, cái lạc hậu, thấp hèn, vì sự tiến bộ và phát triển của xã hội, trong đó con người
128
luôn giữ ở vị trí trung tâm.
Một điểm dễ nhận thấy trong xu hướng “hiện đại hóa” là việc tiếp thu các thể
loại ÂNĐC khác nhau trong khu vực và thế giới của giới trẻ Việt Nam. Những sản
phẩm ÂNĐC của Hàn Quốc (K-Pop), Nhật Bản (J-Pop), Trung Quốc (C-Pop),… và
các sản phẩm ÂNĐC của Âu - Mỹ (US-UK) với tiếng Anh thông dụng đã được đón
nhận không chỉ bởi những giai điệu hay mà còn bởi sự hiện đại, mang màu sắc tươi
trẻ. Có thể thấy những sản phẩm ÂNĐC của nước ngoài được giới trẻ, sinh viên đón
nhận không hề chuyển tải những vấn đề cao siêu, to lớn hoặc quá sâu sắc, triết lý,
mà đó chỉ đơn giản là những ca khúc rất “đời thường”. Dẫn chứng điển hình cho
điều này chính là sự lan tỏa của thể loại Hip hop - vốn bị xem nhẹ như một thứ
“nghệ thuật đường phố”, nhưng nó vẫn có những vị trí nhất định đối với giới trẻ nói
chung, sinh viên nước ta nói riêng.
Đó có thể là xu hướng học đòi, bắt chước, lai căng, vọng ngoại, chạy
theo thời thượng, coi thường và đánh mất bản sắc, đặc trưng dân tộc.
Xu hướng này ít nhiều cũng đã được biểu hiện trong thị trường âm nhạc ở
nước ta. Đó là những sáng tác “giật gân”, ca từ nhạt nhẽo, nội dung vô bổ, “tây ta
lẫn lộn”. Bản sắc dân tộc trong các sản phẩm âm nhạc thuộc xu hướng này không
những không có mà còn bị “biến chất” bởi sự học đòi, bắt chước, lai căng, coi
thường nền tảng văn hóa truyền thống của dân tộc. Trên thực tế, không khó để có
thể bắt gặp những ca khúc mặc dù được hòa âm, phối khí và thu âm, biểu diễn một
cách rất trau chuốt, “thời thượng”, “bắt tai”, dễ dàng gây ấn tượng mạnh với công
chúng, sinh viên, nhưng lại có những tư tưởng, ca từ sáo rỗng, phản cảm, thô thiển
và tục tĩu, như: “Làn da nâu” (Nhật Đăng), “Oh my chuối” (Andy Trần), “Kiếp xì
ke” (Hồ Minh Duy), “Kẻ cá độ” (Hồ Minh Duy),…
Mặc dù vậy, có không ít các bạn trẻ, sinh viên trong quá trình tiếp nhận âm
nhạc lại hoàn toàn không chú trọng đến tính “nghệ thuật”, mà chỉ mang tính giải trí
đơn thuần, họ nghe/xem thấy “vui tai, vui mắt” là được. Dưới góc độ những người
làm nghệ thuật nghiêm túc, đây không phải là hướng đi tốt vì nó không mang lại giá
trị của sản phẩm, nhưng nó lại mang hiệu ứng khá lớn đối với giới trẻ nói chung, có
tác động mạnh đến thẩm mỹ ÂNĐC của sinh viên. Những sản phẩm âm nhạc thuộc
xu hướng này vô hình trung sẽ làm ảnh hưởng xấu tới suy nghĩ, lối sống và hành
động của họ. Vì thế, chúng không bao giờ có tác dụng tích cực đối với việc giáo dục
nhân cách con người nói chung, sinh viên nói riêng.
Đó có thể xu hướng bộc lộ khả năng điều hòa các giá trị mới và cũ, tốt và
chưa tốt trong thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng.
Xu hướng này cũng đang bộc lộ khá nhiều trong thực tiễn đời sống âm nhạc
129
của sinh viên hiện nay và dường như đang tỏ rõ sự năng động của nó. Các nghệ sĩ
đang tìm cho mình những phong cách âm nhạc có xu hướng mới (như sử dụng chất
liệu dân gian nhưng lại mang phong cách hiện đại, mới mẻ). Không chỉ được trau
chuốt về câu từ, phong cách và lối thể hiện, những sản phẩm ÂNĐC thuộc xu
hướng này còn được đầu tư rất kỹ lưỡng về hình ảnh. Đây là điều tất yếu khi mỗi
nghệ sĩ muốn khẳng định được bản thân, nhất là khi âm nhạc Việt Nam đang dần
vươn ra thế giới, mỗi người nghệ sĩ phải tạo được “cái riêng” của dân tộc, của cá
nhân để trình diễn và sáng tạo ra các sản phẩm mới. Trong bối cảnh đó, nếu nghệ sĩ
không tự tạo cho mình điều riêng biệt thì sẽ không được công chúng để ý đến.
Chúng ta có thể nhận thấy xu hướng này khi nhìn vào những “cú hích” của
thị trường ÂNĐC trong năm 2019 vừa qua. Đó là sự “lên ngôi” của những sản
phẩm ÂNĐC tìm về với chất liệu dân gian, khai thác cảm hứng từ nhiều tác phẩm
văn học nổi tiếng của các tác giả Việt Nam như: “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài);
“Chí Phèo”, “Lão Hạc” (Nam Cao); “Vợ nhặt” (Kim Lân); “Tắt đèn” (Ngô Tất
Tố); “Số đỏ”, “Cơm thầy cơm cô” (Vũ Trọng Phụng),… để đưa vào các MV (sản
phẩm âm nhạc kết hợp với hình ảnh). Những sản phẩm âm nhạc đó đã mang “luồng
gió mới” cho âm nhạc trong nước, gây được “tiếng vang” lớn và thậm chí tạo thành
trào lưu trong giới trẻ, dễ dàng tiếp cận với thị hiếu của sinh viên. Có thể kể đến một
số cái tên gần đây như: “Để Mị nói cho mà nghe” (do ca sĩ Hoàng Thuỳ Linh thể
hiện), “Hết thương cạn nhớ” (do ca sĩ trẻ Đức Phúc thể hiện),… đều có sử dụng
chất liệu dân gian, văn học trong ca khúc, trong hòa âm, phối khí và trong cả yếu tố
hình ảnh (trang phục, bối cảnh,…).
Điều đáng nói là các nhân vật văn học khi vào âm nhạc lại được khán giả rất
quan tâm, đặc biệt là các khán giả trẻ. Theo số liệu thống kê của trang mạng xã hội
YouTube (tính đến ngày 09/12/2019), sản phẩm MV “Hết thương cạn nhớ” đã đạt
42.267.460 lượt xem kể từ khi ra mắt (29/9/2019). Tương tự, MV “Để Mị nói cho
mà nghe” đã thu hút được 87.547.893 lượt xem từ sau khi ra mắt (19/6/2019).
Không chỉ vậy, “Để Mị nói cho mà nghe” cũng là MV đầu tiên trong lịch sử của
Giải thưởng Làn Sóng Xanh chiến thắng toàn bộ các hạng mục được đề cử trong
năm 2019 vừa qua (Ca khúc của năm, Bài hát hiện tượng, Hòa âm phối khí, MV của
năm, Nữ ca sĩ của năm, Sự kết hợp xuất sắc và Ca sĩ đột phá). Điều đó đã cho thấy
sức hút chưa hề giảm của những sản phẩm ÂNĐC dựa trên chất liệu truyền thống
này. Do đó, xu hướng này nếu được phát triển đúng hướng sẽ đáp ứng tốt nhu cầu
tiếp nhận thẩm mỹ ÂNĐC của sinh viên.
Tất nhiên, theo xu hướng nào, bộc lộ sự đam mê kiểu nào còn tùy thuộc một
phần vào nhu cầu, thị hiếu, sở thích, thẩm mỹ của từng đối tượng sinh viên. Sự kết
130
hợp hài hòa các chân giá trị dân tộc và quốc tế, truyền thống và hiện đại, giá trị tiên
tiến và bản sắc dân tộc trong mọi vấn đề; đặc biệt trong sáng tạo, hưởng thụ, trong
giáo dục và tự giáo dục thông qua các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp sẽ tránh
được những biểu hiện cực đoan có thể xuất hiện, nhất là trong giới sinh viên đầy
năng động và giàu ý chí vươn lên ở nước ta hiện nay.
4.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO SINH VIÊN THÔNG QUA ÂM
NHẠC ĐẠI CHÚNG Ở NƢỚC TA
Như trên chúng tôi đã trình bày, cái tồn đọng lớn nhất của các sản phẩm
ÂNĐC hiện nay với tư cách là phương tiện GDTM cho sinh viên khi bước vào kinh
tế thị trường, đó là sự thiếu hụt cả về chuyên môn lẫn tư tưởng. Vì thế trong những
năm qua, còn nhiều sản phẩm âm nhạc theo kiểu “mì ăn liền” đã không thể giúp ích
gì trong nhiệm vụ GDTM cho sinh viên; số còn lại tuy đã hướng mạnh vào việc
giáo dục cái đúng, cái tốt, cái đẹp, xây dựng những tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ lành
mạnh, song nhìn chung, chưa đủ sức tấn công, đẩy lùi lối sống “phi nhân tính” đang
có nguy cơ phát triển lan rộng. Một bộ phận văn nghệ sĩ có biểu hiện xa rời “thiên
chức” sáng tạo và trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ, chạy theo nhu cầu của
thị trường và thị hiếu thiếu lành mạnh của một bộ phận công chúng. Đội ngũ cán bộ
làm công tác VHNT còn thiếu; trình độ, năng lực tham mưu, quản lý về VHNT có
nơi, có chỗ còn hạn chế. Công tác lý luận, phê bình âm nhạc ít phát triển, tính chiến
đấu kém, khen chê chưa chính xác.
Tình hình đó cho thấy, toàn bộ việc hình thành các khía cạnh thẩm mỹ của
sinh viên không thể bó hẹp trong phạm vi nhà trường. Cũng chính vì thế, đặt vấn đề
về việc “thẩm mỹ hóa” môi trường, xây dựng một “lối sống mới” theo quy luật của
cái đẹp ngày càng có giá trị cao với ý nghĩa thiết thực, góp phần khơi gợi, nuôi dưỡng
và làm giàu thêm những cảm xúc, tình cảm trong sáng, những thị hiếu lành mạnh và
lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp. Nói cách khác, để nâng cao chất lượng GDTM cho sinh
viên thông qua ÂNĐC, thì hơn bao giờ hết, sinh viên phải được sống trong môi
trường có tính thẩm mỹ cao. Khi những sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp càng
được phổ biến rộng, thì thị hiếu thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật của người dân nói
chung, sinh viên nói riêng càng được nâng cao; quan điểm thẩm mỹ đúng đắn sẽ
phổ quát rộng rãi toàn bộ đời sống thẩm mỹ; những quan điểm phản thẩm mỹ, thiếu
lành mạnh sẽ bị đẩy lùi và không còn điều kiện phát triển. Đó là một trong những
giải pháp tốt nhất để GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta hiện nay. Để
làm được điều đó, trong nhận thức của các cấp, các ngành và toàn dân, GDTM cần
phải là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong giáo dục ở nước ta hiện nay.
131
Trước những yêu cầu đặt ra trong nhiệm vụ GDTM cho sinh viên, cũng như
để khắc phục những hạn chế đang tồn tại, góp phần nâng cao chất lượng GDTM cho
sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta, ngay tại nhà trường - nơi sinh viên đang theo
học cần có những giải pháp tạo điều kiện cho sinh viên có vốn kiến thức chắc chắn
về thẩm mỹ, giúp họ biết cách lựa chọn các sản phẩm ÂNĐC lành mạnh, có chất
lượng để thưởng thức; đồng thời hiểu được cái hay, cái đẹp, cũng như nhận ra
những cái chưa hay, chưa đẹp của các sản phẩm ÂNĐC đang được phổ biến trong
xã hội hiện nay. Trên cơ sở đó, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp chủ yếu sau:
4.3.1. Tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các phƣơng thức giáo dục thẩm mỹ
cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng trong nhà trƣờng
Để đổi mới và nâng cao chất lượng của việc sử dụng các sản phẩm ÂNĐC
phản ánh cái đẹp trong GDTM cho sinh viên, các trường cần thử nghiệm và triển khai
nhiều dạng hoạt động GDTM. Mỗi dạng hoạt động cần quan tâm xây dựng kế hoạch
chi tiết, phù hợp với từng bối cảnh cụ thể, như: Nội dung chính của hoạt động nhằm
giáo dục cái gì? Tổ chức chương trình như thế nào? Khi nào nên thực hiện? Địa điểm
thực hiện ở đâu sẽ phù hợp?... Từ đó, các trường có thể thiết kế các dạng chương
trình GDTM thông qua ÂNĐC cho sinh viên bằng các phương thức khác nhau và
giao nhiệm vụ triển khai thực hiện các chương trình đó cho các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường, mà nòng cốt là các tổ chức ĐTN, HSV của nhà trường.
Dưới đây là một số dạng thức hoạt động GDTM cho sinh viên thông qua
ÂNĐC có thể áp dụng để triển khai:
Thứ nhất, tăng cường cho sinh viên tham gia thưởng thức các chương trình
biểu diễn ÂNĐC có chất lượng nghệ thuật cao.
Nhà trường nên phối hợp với các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp để tổ chức
các buổi biểu diễn ÂNĐC có chất lượng nghệ thuật cao (miễn phí hoặc liên kết, kêu
gọi nhà tài trợ giúp sinh viên có thể mua được vé với giá ưu đãi). Trong đó, cần chú
ý đến việc thường xuyên đưa các sản phẩm ÂNĐC có nội dung thể hiện những vấn
đề của dân tộc, thời đại, những tác phẩm mà qua đó, góp phần đẩy lùi cái xấu, cái ác
trong xã hội. Bên cạnh các chủ đề ca ngợi quê hương đất nước, con người Việt Nam,
cần mở rộng các chủ đề phản ánh tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, trách nhiệm của
tuổi trẻ đối với bản thân, gia đình, nhà trường, quê hương và đất nước, đáp ứng nhu
cầu, thị hiếu âm nhạc lành mạnh của sinh viên. Ưu tiên sử dụng các sản phẩm ÂNĐC
kết hợp với âm nhạc truyền thống của dân tộc trong các chương trình, nhằm giới
thiệu đến đông đảo sinh viên những nét âm nhạc đặc sắc và sự đa dạng trong VHNT
Việt Nam, khơi dậy những cảm xúc trong sáng, lành mạnh, vừa mang tính dân tộc,
vừa mang “hơi thở” thời đại.
132
Ngoài ra, nhà trường có thể kết hợp tổ chức cho sinh viên tham quan các nhà
hát trước và sau khi tham gia thưởng thức các tiết mục biểu diễn âm nhạc. Lợi ích
của hoạt động này nhằm đem lại nhiều trải nghiệm độc đáo cho sinh viên; không
những giúp sinh viên có những giây phút thoải mái, thư giãn sau những giờ học tập
trên giảng đường, mà còn giúp họ thêm hiểu về hoạt động của các nghệ sĩ, chuyên
viên kỹ thuật và nhà quản lý trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn; đồng thời hiểu hơn
về giá trị, nét đặc thù của các nhà hát, nhất là với các nhà hát có giá trị lịch sử, văn
hóa và kiến trúc.
Thứ hai, thường xuyên tổ chức các buổi biểu diễn, các cuộc thi âm nhạc cho
sinh viên.
Lợi thế của các chương trình này là thông qua các hoạt động biểu diễn, các
cuộc thi âm nhạc, nhà trường có thể lồng ghép các nội dung cần giáo dục đến với
đông đảo sinh viên mà vẫn có thể cuốn hút sự hào hứng tham gia của sinh viên. Nhà
trường cần xây dựng các hướng dẫn cụ thể về nội dung của các buổi biểu diễn, các
cuộc thi âm nhạc sao cho phù hợp với chủ đề đã được định hướng trước; không để
sinh viên sử dụng các ca khúc đại chúng có nội dung thiếu lành mạnh, không phù
hợp với nội dung GDTM, gây ảnh hưởng xấu đến ý thức thẩm mỹ của sinh viên.
Trong xây dựng nội dung chương trình, cần chú ý đến kết cấu tổng thể, có sự
dẫn dắt, giải thích cặn kẽ về các tác phẩm ÂNĐC được sử dụng. Chú trọng xây
dựng các chương trình biểu diễn có sự tham gia của các khách mời là những nghệ sĩ
đến từ các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp, các chuyên gia về âm nhạc, nhất là các
nhà lý luận, phê bình âm nhạc để có sự giao lưu, tương tác trong chương trình.
Các chương trình cần phải được kiểm duyệt chặt chẽ trong tất cả các khâu: từ
việc hoàn thiện về mặt thực hành biểu diễn, tác phong của người biểu diễn cho đến
cả trang phục, đạo cụ, thiết kế sân khấu, múa minh họa,… để buổi biểu diễn đạt
hiệu quả nhất có thể. Theo đó, trang phục biểu diễn phải phù hợp với tiết mục, hạn
chế việc lạm dụng nhiều đạo cụ gây phản cảm. Múa minh họa cũng cần phù hợp với
nội dung, tiết tấu và giai điệu bài hát. Nhà trường cần tuyên truyền, nâng cao nhận
thức cho sinh viên hiểu được rằng, các màn múa minh họa là một phần quan trọng
của tiết mục biểu diễn âm nhạc, có ảnh hưởng nhất định đến thẩm mỹ của sinh viên;
vì thế, không được coi đó là yếu tố phụ, dẫn đến sự chuẩn bị qua loa, hời hợt trong
việc dàn dựng và biểu diễn các tiết mục múa minh họa.
Sự cảm thụ tích cực của sinh viên với âm nhạc không chỉ dừng ở việc để cho
họ hát lại những bài hát được người hướng dẫn truyền thụ (hoặc hát theo các nghệ sĩ
thông qua các sản phẩm âm nhạc được phát hành), mà quan trọng hơn cả, đó là
những tri thức, kỹ năng âm nhạc ở sinh viên sẽ được hình thành và tồn tại lâu bền
133
khi họ được rèn luyện thường xuyên và được tham gia biểu diễn. Tất cả các hình
thức biểu diễn tác phẩm âm nhạc (được định hướng từ chính nhà trường) như: Đồng
ca, đơn ca, hát kết hợp với múa, hát kết hợp trò chơi, vận động theo nhạc,… đều có
thể tạo cho sinh viên những hứng thú nhất định, nhất là khi sinh viên được trực tiếp
hóa thân vào nhân vật, vào khung cảnh để thể hiện những cái đẹp trong âm nhạc.
Chính quá trình được tìm hiểu, luyện tập để biểu diễn các tiết mục âm nhạc đã hình
thành trong sinh viên thái độ đúng đắn về cái đẹp mà các tác phẩm âm nhạc đó
mang lại. Đặc biệt, trong các cuộc thi âm nhạc, với những thông tin phản hồi từ ban
giám khảo, sinh viên có thể nhận ra thế mạnh và những phần họ thể hiện tốt nhất
trong màn trình diễn của mình, cũng như nhận thấy những thiếu sót cần khắc phục
trong kỹ năng biểu diễn. Quá trình nhận phản hồi từ các chuyên gia âm nhạc với
những ý kiến đa dạng sẽ giúp sinh viên tiến bộ hơn và cũng từ đó mà hình thành
nên những kinh nghiệm thẩm mỹ đúng đắn cho bản thân, góp phần nâng cao thẩm
mỹ âm nhạc cho mỗi người.
Thứ ba, tổ chức cho sinh viên tham gia các buổi nói chuyện chuyên đề, tìm
hiểu về lịch sử, văn hóa âm nhạc của đất nước và các nền văn minh âm nhạc khác
trên thế giới.
Buổi nói chuyện và giao lưu có thể được tiến hành với sự tham gia của các
nghệ sĩ, chuyên gia âm nhạc, các nhà nghiên cứu lý luận, phê bình âm nhạc và cả
các chuyên gia về mỹ học, nghệ thuật học. Thông qua các sản phẩm ÂNĐC, các
chuyên gia sẽ tiến hành kết hợp giữa phương pháp thuyết trình và sử dụng tình
huống, đặt câu hỏi để đưa sinh viên vào một hoàn cảnh thực tế, qua đó sinh viên
phải phân tích, đánh giá và đưa ra quyết định của mình về những cái hay, cái đẹp
cũng như cái chưa hay, chưa đẹp trong các sản phẩm ÂNĐC mà họ được nghe.
Chương trình này không những có thể hỗ trợ, bồi dưỡng cho sinh viên các tri
thức chung về lý luận và lịch sử nghệ thuật âm nhạc cũng như các tri thức cơ bản về
thẩm mỹ âm nhạc, mà còn giúp họ phát triển các kỹ năng “mềm” quan trọng khác
như thuyết trình, thảo luận và trao đổi, cũng như kỹ năng phân tích và làm việc nhóm.
Mặt khác, thông qua những giờ học này, người hướng dẫn cũng có điều kiện để phát
hiện ra các sinh viên có năng khiếu nghệ thuật, có năng lực cảm thụ âm nhạc tốt, từ
đó giúp nhà trường bổ sung lực lượng cho đội văn nghệ xung kích, hay thậm chí là
định hướng nghề nghiệp để họ có thể phát huy hết khả năng của bản thân.
Trong các buổi nói chuyện chuyên đề về âm nhạc, không nhất thiết chỉ chú
trọng xây dựng các nội dung riêng biệt về ÂNĐC, mà có thể mở rộng ra các chuyên
đề về các dòng nhạc khác nhau, như âm nhạc cổ điển hay âm nhạc truyền thống dân
tộc. Việc đa dạng hóa nội dung chủ đề nói chuyện như thế sẽ góp phần định hướng
134
cho sinh viên không những hiểu sâu sắc hơn vai trò của ÂNĐC trong GDTM, mà
còn giúp sinh viên thường xuyên được tiếp cận với cả âm nhạc dân tộc và âm nhạc
cổ điển; giúp họ hiểu được giá trị thẩm mỹ của từng dòng nhạc khác nhau, làm
phong phú thêm các quan điểm thẩm mỹ; đồng thời, khắc phục những nhận thức
cứng nhắc, không phù hợp với xu thế phát triển, phủ nhận những yếu tố tích cực của
các quan điểm thẩm mỹ khác nhau.
Thứ tư, chú trọng thành lập các CLB dạy cảm thụ âm nhạc cho sinh viên.
Các trường cần quan tâm, đầu tư kinh phí cho việc nâng cao chất lượng hoạt
động của các CLB, các hội, nhóm âm nhạc trong nhà trường, nhất là việc thành lập
các CLB dạy cảm thụ âm nhạc ngoài giờ cho sinh viên. Việc tổ chức các CLB dạy
cảm thụ âm nhạc là rất cần thiết, bởi vì không phải sinh viên nào cũng có năng
khiếu để có thể dạy cho họ biết chơi nhạc cụ, biết cách hát,… Trong khi đó, quá
trình cảm thụ âm nhạc không hoàn toàn đòi hỏi sinh viên phải có năng khiếu, vì
mục đích của việc dạy cảm thụ âm nhạc là để sinh viên nâng cao được khả năng
nhận thức tinh tế và có chiều sâu hơn trong quá trình thưởng thức một tác phẩm âm
nhạc nào đó, chứ không phải việc dạy họ biết cách chơi nhạc cụ, biết xướng âm thế
nào cho đúng nốt nhạc,…
Việc sử dụng ÂNĐC trong quá trình dạy cảm thụ âm nhạc cho sinh viên sẽ
góp phần giúp họ nâng cao được quan điểm thẩm mỹ, thể hiện qua việc sinh viên
đưa ra ý kiến cá nhân khi được nghe một sản phẩm ÂNĐC mà họ yêu thích trong mỗi
tiết học cảm thụ âm nhạc, làm tăng khả năng đánh giá thẩm mỹ của sinh viên. Đồng
thời, chính vì âm nhạc là loại hình nghệ thuật sử dụng âm thanh để diễn tả tâm tư,
tình cảm của con người, nên khi sinh viên đến với cảm thụ âm nhạc, họ sẽ được rèn
luyện cách biểu lộ mọi cung bậc của cảm xúc, tình cảm (khi vui, khi buồn, khi háo
hức, khi bất ngờ,…) một cách linh hoạt nhất thông qua tính chất của các giai điệu âm
nhạc, nhất là khi họ được tiếp cận với những sản phẩm ÂNĐC mà họ yêu thích.
Khi tổ chức các CLB dạy cảm thụ âm nhạc, nhà trường cần phải nhận thức
rõ, việc tổ chức các hoạt động giáo dục này không phải nhằm mục đích để cho sinh
viên học được bao nhiêu kiến thức lý luận về âm nhạc, mà quan trọng hơn là để sinh
viên có được những kỹ năng cơ bản nhằm thích nghi được với mọi môi trường âm
nhạc, trong đó, việc sử dụng ÂNĐC như là một phương tiện để sinh viên được học
cách tiếp cận có chọn lựa, hiểu thế nào là thẩm mỹ âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói
riêng, qua đó, thể hiện được các nét đẹp trong hành vi của mỗi sinh viên.
Thứ năm, đẩy mạnh các hoạt động thông tin, truyền thông của nhà trường.
Lãnh đạo các trường cần thường xuyên chỉ đạo và quản lý chặt chẽ nội dung
các trang tin điện tử, trang mạng xã hội và các hoạt động trong thư viện của nhà
135
trường, tạo sự “chuyên nghiệp hóa” về từng mảng thông tin.
Trong lĩnh vực âm nhạc, nhà trường cần phải giao nhiệm vụ cụ thể cho các
cán bộ có chuyên môn phụ trách, nắm bắt kịp thời những vấn đề đang tồn tại trong
nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên đối với các sản phẩm ÂNĐC
được phổ biến trong xã hội để có những hoạt động GDTM phù hợp.
Chú ý công tác biên tập trên các trang tin điện tử, các trang mạng xã hội của
nhà trường, tránh đăng tải những sản phẩm ÂNĐC chạy theo thị hiếu tầm thường
của một bộ phận sinh viên, nhất là những bài viết xoáy sâu vào đời tư nghệ sĩ để
kiếm lời, những bài viết cổ xúy cho lối sống thiếu lành mạnh của một bộ phận nghệ
sĩ nhạc đại chúng, thậm chí là cả những hình ảnh của các nghệ sĩ có “gu” thời trang
không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc, không đem lại giá trị giáo dục,
tiềm ẩn những mối nguy về sự phát triển lệch lạc trong thị hiếu thẩm mỹ của sinh
viên. Thay vào đó, cần có những chuyên trang, chuyên mục đăng tải các chuyên đề
về âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng mang tính dài hơi, có hệ thống, từ những
vấn đề đơn giản đến phức tạp, tạo ra sự hấp dẫn trong các bài viết, nhằm hướng dẫn,
định hướng thẩm mỹ cho sinh viên trước những biểu hiện của cái đẹp và cái chưa
đẹp trong các sản phẩm ÂNĐC đang được phổ biến hiện nay. Bên cạnh đó, các
phương tiện thông tin của nhà trường cần tập trung phê phán, phân tích, tìm nguyên
nhân của những cá nhân, tập thể có những biểu hiện không lành mạnh xảy ra trong
cuộc sống hằng ngày.
Trong các thư viện của nhà trường, cần tăng cường phát triển “vốn” tài liệu,
đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của sinh viên, như đầu tư các loại sách báo về âm nhạc
nói chung, ÂNĐC nói riêng để sinh viên có điều kiện tìm hiểu thêm về chuyên
ngành này, hoặc có chính sách đặt mua dài hạn nhiều loại sách, báo, đĩa hình, tranh
ảnh, tạp chí VHNT nói chung, âm nhạc nói riêng, nhất là các sách nghiên cứu về
mỹ học và các ấn phẩm liên quan đến việc GDTM cho sinh viên thông qua nghệ
thuật nói chung, âm nhạc nói riêng. Việc đầu tư các “vốn” tài liệu này cần có sự
tham khảo ý kiến chuyên môn của các chuyên gia mỹ học, âm nhạc học để có
những ấn phẩm thực sự phù hợp. Mặt khác, các trường nên tận dụng các phương
tiện thông tin của nhà trường để đăng tải các danh mục sách, tạp chí,… về âm nhạc
mà thư viện trường đang lưu trữ, nhằm thu hút sinh viên tìm đọc và mua sách.
Nhà trường cũng cần tăng cường bồi dưỡng và phát huy tốt vai trò của các
cán bộ lãnh đạo, đội ngũ biên tập trong lĩnh vực văn nghệ để nâng cao chất lượng
hiệu quả của công tác thông tin, truyền thông; trong đó chú trọng việc phối hợp chặt
chẽ giữa nhà trường với các nhà lý luận, phê bình âm nhạc để đẩy mạnh các hoạt
động định hướng thẩm mỹ cho sinh viên thông qua ÂNĐC. Cần lưu ý, các nội dung
136
GDTM thông qua ÂNĐC trên hệ thống thông tin, truyền thông của nhà trường
không thể mang tính giáo khoa, “hàn lâm” mà nên được thông tin dưới nhiều hình
thức sáng tạo, sinh động, cuốn hút sinh viên. Đó có thể là những hình thức phóng
sự, hoặc sân khấu hóa các trò chơi giải trí,… là những hình thức cần được phát huy,
nhằm đa dạng hóa các phương thức GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC.
4.3.2. Nâng cao vai trò của các tổ chức đoàn thể trong nhà trƣờng đối
với nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng
GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng và
là trách nhiệm chung của toàn xã hội, nhưng trước hết phải đề cập đến vai trò quan
trọng của nhà trường. Ở đó, các tổ chức đoàn thể như ĐTN, HSV với tư cách là tổ
chức chính trị - xã hội, đại diện cho đông đảo đoàn viên, sinh viên giữ trọng trách
vô cùng lớn đối với công việc quan trọng này. Tuy nhiên, thời gian qua, không ít
nơi, vai trò của tổ chức ĐTN, HSV trong nhà trường còn nhiều hạn chế, phạm vi
ảnh hưởng không đáng kể. Vì vậy, để nhiệm vụ GDTM cho sinh viên thông qua
ÂNĐC đạt được nhiều kết quả tích cực hơn, cần phải quyết tâm nâng cao vai trò của
các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, mà nòng cốt là các tổ chức ĐTN, HSV.
Theo đó, nhà trường và các tổ chức ĐTN, HSV trong nhà trường cần quan
tâm, chú trọng một số nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, phát động và duy trì các chương trình hành động, cuộc vận động
theo hướng tập trung, đáp ứng các nội dung cụ thể của GDTM cho sinh viên thông
qua ÂNĐC, phù hợp với khả năng, nguyện vọng chính đáng của sinh viên.
Ngay từ đầu năm học, các tổ chức ĐTN, HSV cần bám sát chương trình công
tác Đoàn, Hội và phong trào thanh niên trường học của Đoàn cấp trên; đồng thời
căn cứ tình hình thực tiễn của từng trường để xây dựng chương trình hoạt động một
cách cụ thể, rõ ràng đối với sinh viên trong nhà trường. Kế hoạch xây dựng cần phải
mang “màu sắc” của lứa tuổi sinh viên; có dự tính thời gian thực hiện chi tiết để vừa
thuận lợi khi dự trù kinh phí, vừa có công tác chuẩn bị chu đáo, tạo tâm trạng háo
hức, chờ đón của sinh viên.
ĐTN, HSV nhà trường cần tiếp tục đẩy mạnh các phong trào âm nhạc trong
đoàn viên sinh viên, gắn với các sự kiện quan trọng của đất nước, của ngành Giáo dục
và của nhà trường; tăng cường tổ chức các hoạt động giao lưu ca nhạc với ĐTN, HSV
các đơn vị trong và ngoài nhà trường để thu hút đông đảo sinh viên tham gia, góp
phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho họ, tạo sự gắn kết tập thể giữa các sinh
viên với nhau. Thường xuyên phát động các phong trào sinh viên thiết thực, ý nghĩa,
nhằm khích lệ, bồi dưỡng và phát huy tình cảm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp
trong sinh viên. Xây dựng các phong trào dựa trên truyền thống quý báu của dân tộc
137
Việt Nam, được sinh viên đón nhận đầy tự hào như một đặc trưng của giới trẻ, đó
chính là lòng yêu nước, tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”,... coi
đó như động lực, “sợi chỉ đỏ” để kết nối tất cả sinh viên trong nhà trường. Đồng thời,
cần tăng cường tổ chức nhiều diễn đàn chính trị - văn hóa - xã hội, các cuộc gặp gỡ,
đối thoại giữa sinh viên với lãnh đạo, để sinh viên trao đổi thông tin, trình bày chính
kiến, từ đó nâng cao quan điểm thẩm mỹ cho đoàn viên, sinh viên.
Cán bộ lãnh đạo của ĐTN cần nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp để thể
hiện rõ hơn nữa vai trò nòng cốt chính trị của ĐTN nhà trường, tăng tính đoàn kết,
tính liên hiệp của các tổ chức thành viên; phối hợp chặt chẽ với cấp ủy đảng, lãnh
đạo nhà trường để đẩy mạnh các hoạt động GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC.
Thứ hai, có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ âm nhạc của cán bộ Đoàn
Thanh niên, Hội Sinh viên và cán bộ chuyên trách về văn nghệ trong nhà trường.
Các cán bộ ĐTN, HSV, cán bộ chuyên trách lĩnh vực văn nghệ trong nhà
trường cần phải được tạo điều kiện để đi học nâng cao vốn kiến thức về VHNT và
nhất là nghiệp vụ về âm nhạc bên cạnh việc rèn luyện khả năng làm việc độc lập
cũng như học tập kỹ năng làm việc theo nhóm. Điều này rất quan trọng nếu muốn
phát huy được vai trò của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường đối với các hoạt
động GDTM thông qua ÂNĐC, bởi vì khi xây dựng một chương trình âm nhạc, các
cán bộ chuyên trách sẽ phải xác định được đối tượng, mục đích, nội dung cần
GDTM mà chương trình sẽ hướng tới. Do đó, nếu không có sự nỗ lực trau dồi kiến
thức bằng những hình thức học nghiệp vụ, học hỏi các chuyên gia trong lĩnh vực âm
nhạc thì các chương trình âm nhạc được tổ chức sẽ khó đạt hiệu quả cao. Thực tế
hiện nay, các chương trình âm nhạc do ĐTN, HSV nhà trường tổ chức đều “rập
khuôn” theo những hình thức thể hiện cũ, chưa có nhiều sự đổi mới trong cách tổ
chức. Điều này được phản ánh rõ nét trong quá trình phân tích thực trạng hoạt động
GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC.
Trong quá trình khảo sát sinh viên, nếu phát hiện những biểu hiện lệch lạc
trong thị hiếu thì cán bộ ĐTN, HSV cần xây dựng chương trình tuyên truyền, phổ
biến các kiến thức về âm nhạc nói chung, ÂNĐC nói riêng, cập nhật những thông
tin chính xác, có sự hướng dẫn, giới thiệu cặn kẽ về ÂNĐC để bồi dưỡng, nâng cao
thẩm mỹ ÂNĐC cho sinh viên.
Nhà trường cũng cần rà soát, bổ sung cơ chế, chính sách phù hợp để tạo động
lực, động viên, tập hợp, khai thác được những cá nhân, nhóm người có khả năng
làm tốt việc GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC tại nhà trường.
Thứ ba, tăng cường công tác chỉ đạo, định hướng của cấp ủy, chính quyền
nhà trường đối với các tổ chức đoàn thể trong việc lựa chọn, lồng ghép các sản
138
phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp vào các hoạt động ngoại khóa của sinh viên.
Đảng ủy, ban giám hiệu (ban giám đốc) nhà trường cần tăng cường công tác
lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức ĐTN, HSV chú trọng hơn nữa việc lựa chọn, lồng ghép
các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp vào các hoạt động ngoại khóa của sinh viên,
đặc biệt là các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, tình nguyện
vì cộng đồng, bảo vệ môi trường và các hoạt động xã hội khác của sinh viên.
Các hoạt động này cần được thiết kế phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ
thể và gắn kết hữu cơ với chương trình biểu diễn, nhằm tạo ra những liên tưởng
phong phú, giúp người tham gia nảy sinh mối quan tâm, kích thích sự tìm hiểu
những thông điệp, ý nghĩa cao đẹp mà các tác phẩm ÂNĐC mang lại. Bên cạnh các
chủ đề ca ngợi quê hương đất nước, con người Việt Nam, cần mở rộng các chủ đề
phản ánh tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, trách nhiệm của tuổi trẻ đối với bản thân,
gia đình, nhà trường, quê hương và đất nước; đáp ứng nhu cầu, thị hiếu âm nhạc lành
mạnh của sinh viên.
Những hoạt động có ý nghĩa xã hội như thế này nếu được kết hợp với những
sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp sẽ có sức truyền cảm hứng rất lớn. Chúng ta có
thể thấy rõ điều đó qua các chương trình như “Mang âm nhạc đến bệnh viện”, “Áo
ấm cho em”, “Những tấm lòng cao cả”,… được tổ chức thời gian qua. Các chương
trình này đã góp phần đem “lời ca, tiếng hát” để đổi lấy nụ cười, niềm hạnh phúc
cho những “mảnh đời” kém may mắn, qua đó tạo nên sự lan tỏa “tình người” ấm áp
rộng khắp trong cộng đồng. Đây cũng chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta,
biểu hiện cho tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, rất cần được
tiếp tục phát huy. Việc chú trọng lồng ghép các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp
thông qua các hoạt động ngoại khóa của sinh viên không những giúp họ nâng cao
được thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, có được những nhận thức đúng đắn khi
lựa chọn các sản phẩm âm nhạc, mà còn góp phần đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối
sống văn hóa cho sinh viên.
Thứ tư, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường cần chú trọng khai thác, sử
dụng có hiệu quả các phương tiện truyền thông hiện đại, nhất là trên môi trường
mạng Internet đối với quá trình GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC.
ĐTN, HSV nhà trường cần tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động “Mỗi ngày một
tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp” trong đoàn viên, hội viên, sinh viên; duy trì
hiệu quả các “fanpage” (tập hợp nhóm cộng đồng có chung sở thích nào đó trên các
trang mạng xã hội), “website” của các các cấp bộ đoàn về tuyên truyền, giới thiệu các
tin tốt, câu chuyện đẹp, góp phần lan tỏa những giá trị tốt đẹp, những tấm gương tiêu
biểu trong cuộc sống đến với đông đảo sinh viên.
139
Những hoạt động này nên tích hợp các sản phẩm ÂNĐC có nội dung giáo dục
phù hợp ở trong đó; ưu tiên các hình thức sử dụng ÂNĐC kết hợp với hình ảnh trình
chiếu minh họa (slideshow) để mang lại hiệu quả nhất định đối với quá trình GDTM
cho sinh viên. Thông qua các sản phẩm như vậy, ĐTN, HSV tập trung tuyên truyền,
giáo dục sinh viên sống có lý tưởng cách mạng, hành động theo quy luật của cái đẹp,
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong sinh viên về các nội
dung cụ thể của GDTM, giúp họ từng bước hoàn thiện ý thức thẩm mỹ.
ĐTN, HSV phải tạo được các diễn đàn trao đổi, đối thoại với sinh viên về các
vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội; thường xuyên nắm bắt, dự báo nhu cầu, thị hiếu của
sinh viên để có kịp thời định hướng thẩm mỹ đúng đắn cho họ. Trên cơ sở nắm bắt
tình hình sinh viên, cán bộ lãnh đạo ĐTN, HSV cần có những biện pháp cụ thể như
phối hợp với các chuyên gia về âm nhạc để viết bài, tổ chức các buổi sinh hoạt
chuyên đề nhằm tăng cường định hướng cho sinh viên hiểu được cái hay, cái đẹp
trong các sản phẩm ÂNĐC; đồng thời, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, các
biểu hiện lệch lạc trong quá trình thưởng thức ÂNĐC của đoàn viên, sinh viên.
4.3.3. Thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lĩnh vực lý luận, phê bình âm
nhạc, góp phần điều chỉnh, định hƣớng thẩm mỹ cho công chúng, sinh viên
Lý luận, phê bình âm nhạc không trực tiếp tham gia vào đời sống âm nhạc
như các nhạc sĩ sáng tác hay nghệ sĩ biểu diễn, nhưng luôn có vai trò quan trọng
trong việc điều chỉnh, định hướng, làm cho hoạt động âm nhạc ngày càng hoàn
thiện hơn. Sự lạc hậu, yếu kém từ hoạt động lý luận, phê bình âm nhạc có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển nền âm nhạc của mỗi một quốc gia, dân tộc.
Nhìn một cách tổng thể, vị trí của lý luận, phê bình âm nhạc không chỉ được
đặt riêng trong mối quan hệ với sáng tác, mà còn được thể hiện ở cả mối quan hệ
với nghệ sĩ biểu diễn, với công chúng khán giả và các nhà lãnh đạo, quản lý VHNT.
Với nhạc sĩ sáng tác và nghệ sĩ biểu diễn, phê bình âm nhạc sẽ giúp họ phát hiện,
khích lệ cái hay, đồng thời nhắc nhở, cảnh báo những cái chưa hay trong sáng tạo
nghệ thuật. Với công chúng, những dẫn giải của các nhà lý luận, phê bình âm nhạc
chuyên nghiệp sẽ khơi gợi cho người nghe cảm nhận dễ hơn, trọn vẹn hơn cái hay,
cái đẹp trong nghệ thuật âm nhạc. Còn đối với các nhà lãnh đạo, quản lý, đội ngũ
phê bình sẽ góp phần dự đoán các xu hướng phát triển của ÂNĐC trên cơ sở chuyên
môn; từ đó, tham mưu giúp các nhà quản lý có những quyết sách phù hợp với sự
phát triển chung của nền âm nhạc quốc gia.
Để góp phần phát huy vai trò của ÂNĐC trong GDTM cho sinh viên, một
trong những giải pháp được đưa ra, đó là phải thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của
lĩnh vực lý luận, phê bình trong đời sống âm nhạc ở nước ta; tạo môi trường, điều
140
kiện thuận lợi để đội ngũ phê bình âm nhạc phát huy mọi năng lực, năng khiếu, tư
chất và sở trường; trong đó tập trung nâng cao hơn nữa ý thức nghề nghiệp của các
“cây bút” phê bình âm nhạc. Cần phá bỏ vị trí “độc quyền” của các cơ sở đào tạo
chuyên ngành Âm nhạc học trên cả nước. Bộ Giáo dục và Đào tạo nên xem xét,
nghiên cứu, khôi phục lại các mã ngành đào tạo lý luận, phê bình nghệ thuật; gắn đào
tạo các chuyên ngành nghệ thuật với GDTM. Đồng thời, tạo bước đột phá trong
công tác phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ lý luận, phê bình âm nhạc;
đổi mới hệ thống chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy theo hướng toàn
diện, hiện đại; xây dựng đội ngũ lý luận, phê bình có khả năng thích ứng với từng
thể loại âm nhạc khác nhau. Mặt khác, cần chú trọng sử dụng các “cây bút” phê
bình âm nhạc được đào tạo bài bản ở các cơ quan báo chí, các nhà xuất bản, hoặc
các tờ báo, tạp chí có chuyên trang, chuyên mục văn nghệ và nhất là ở các trang tin
âm nhạc điện tử. Tập hợp lực lượng, tạo diễn đàn riêng cho các “cây bút” lý luận,
phê bình âm nhạc công bố kết quả nghiên cứu, trao đổi học thuật cũng như tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn hoạt động nghề nghiệp.
Thời gian tới, Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương
cần phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan triển khai xây dựng “Chương trình
dịch thuật quốc gia về lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật” để làm căn cứ cho việc
tiếp thu, vận dụng và phát triển lý luận về văn học, nghệ thuật. Sớm có đề án rà soát
tổng thể, điều chỉnh chương trình, sách giáo khoa về văn học, nghệ thuật theo
hướng không chỉ dạy học sinh, sinh viên kiến thức, nội dung tác phẩm được tuyển
chọn, mà quan trọng hơn, phải định hướng được cho họ biết phân biệt cái hay, cái
đẹp trong nghệ thuật, biết thưởng thức các giá trị văn học, nghệ thuật nói chung, âm
nhạc nói riêng. Tổ chức các hội thảo, tọa đàm về các chủ đề nổi bật, các vấn đề
được xã hội quan tâm trong đời sống âm nhạc để các nhà phê bình, văn nghệ sĩ có
uy tín tham gia; qua đó, định hướng thẩm mỹ cho công chúng, sinh viên.
Các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, mà cụ thể là Hội Nhạc sĩ Việt Nam,
hội âm nhạc ở các địa phương cần khẳng định được vai trò tư vấn cho các cơ quan
quản lý về VHNT trong các hoạt động âm nhạc, cũng như vai trò định hướng trong
thưởng thức âm nhạc của công chúng, sinh viên. Trong đó, cần đẩy mạnh hoạt động
của các Tiểu ban Lý luận, phê bình âm nhạc; phát huy năng lực, trách nhiệm của đội
ngũ những người làm công tác lý luận, phê bình, nhằm khắc phục những hiện tượng
“báo chí hóa”, “quảng cáo hóa”, “thương mại hóa” phê bình âm nhạc hiện nay, góp
phần định hướng, nâng cao năng lực cảm thụ nghệ thuật cho công chúng, sinh viên.
Có thể nói, giải pháp thúc đẩy sự phát triển của hoạt động lý luận, phê bình
âm nhạc trong nhiệm vụ GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC là một trong những
141
giải pháp hữu hiệu, bởi tính ưu việt của lĩnh vực này đem lại là rất lớn, có tác dụng
đẩy lùi các hiện tượng “lệch chuẩn”, thiếu thẩm mỹ trong đời sống âm nhạc của
công chúng khán giả nói chung và sinh viên nói riêng ở nước ta hiện nay.
4.3.4. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý của Nhà nƣớc
đối với giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng, tạo môi
trƣờng văn hóa thẩm mỹ lành mạnh cho sinh viên
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, bên cạnh những mặt thuận lợi, sự
xâm nhập ngày càng nhiều các sản phẩm âm nhạc phản thẩm mỹ trong xã hội đang
trở thành mối đe dọa, thách thức đối với nền VHNT chân chính của dân tộc, tác
động rất xấu đến môi trường văn hóa thẩm mỹ, đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm
lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là sinh viên, làm huỷ hoại, xói mòn nền
tảng và những giá trị thẩm mỹ tốt đẹp của dân tộc. Đây là một mối nguy hại lớn đối
với đời sống tinh thần xã hội, được Đảng và Nhà nước ta xác định rõ trong nhiều
năm qua.
Nhằm ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) đã
ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 27/7/2010 về “Chống sự xâm nhập của các sản
phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội” [19]. Trong đó, Ban Bí thư yêu
cầu cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể ở các cấp phải thực sự
quan tâm, có kế hoạch tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống, thẩm mỹ phù hợp với từng đối tượng trong xã hội, đặc biệt là thế hệ
trẻ nói chung, sinh viên nói riêng; nâng cao năng lực và trình độ nhận biết, đánh giá
cho sinh viên để bài trừ, tẩy chay các sản phẩm văn hoá độc hại. Ngành Giáo dục và
ĐTN cần đẩy mạnh việc GDTM cho sinh viên bằng nhiều biện pháp để kiên quyết bài
trừ các sản phẩm văn hoá độc hại xâm nhập vào nhà trường và thế hệ trẻ, tạo bước
chuyển mạnh mẽ trong xây dựng môi trường văn hóa thẩm mỹ lành mạnh.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý của Nhà nước đối với
GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC, thời gian tới, cấp ủy đảng, chính quyền các
cấp cần thực hiện tốt một số nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về vai trò của GDTM thông
qua ÂNĐC cho sinh viên.
Ban Tuyên giáo Trung ương cần chỉ đạo, hướng dẫn các cấp ủy đảng, chính
quyền trong việc quán triệt, tuyên truyền và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả
các nội dung được nêu trong các văn bản chỉ đạo, định hướng của Đảng về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, về công tác giáo dục cho sinh
viên, trọng tâm là: Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị
(khóa X) về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ
142
mới”; Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước”; Chỉ thị 42-CT/TW, ngày 24/3/2015 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai
đoạn 2015 - 2030”, gắn với việc thực hiện có hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Đối với nhiệm vụ GDTM thông qua ÂNĐC, trên cơ sở các văn bản hướng
dẫn, tuyên truyền của Ban Tuyên giáo Trung ương, các cấp ủy đảng, chính quyền
cần đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức hơn nữa về vị trí, vai trò của ÂNĐC trong
GDTM cho sinh viên. Cần phải hiểu rằng, ÂNĐC về bản chất vẫn luôn mang trong
nó chức năng thẩm mỹ của nghệ thuật âm nhạc nói chung; thậm chí để GDTM đạt
được sự lan tỏa rộng khắp thì với tính chất “đại chúng” vốn có của mình, các thể
loại của ÂNĐC hoàn toàn phù hợp và dễ tiếp cận nhất đối với sinh viên. Những kết
quả thu được từ cuộc khảo sát của chúng tôi đã cho thấy rõ điều này:
96,6% sinh viên mong muốn được nghe các sản phẩm âm nhạc theo các
thể loại, trào lưu Pop, Rock, Ballad, R&B, Hip hop,…
93,5% sinh viên thích nghe các thể loại ÂNĐC Châu Á (K-Pop,…) 67,9% sinh viên thích nghe các thể loại ÂNĐC Âu - Mỹ (US-UK) 91,6% sinh viên đánh giá rằng V-Pop luôn sôi động, đáp ứng kịp thời nhịp
sống mới của thời kỳ hội nhập quốc tế.
Trên thực tế, nhiều sản phẩm ÂNĐC mang thông điệp, ý nghĩa về cuộc sống
của giới trẻ nước ta đã tạo được sức lan tỏa rộng khắp trong và ngoài nước. Điển
hình như: Ca khúc “Ghen Cô Vy” (phiên bản mới từ ca khúc Ghen của Khắc Hưng,
được Viện Sức khỏe, Nghề nghiệp và Môi trường thuộc Bộ Y tế đặt hàng) do các
bạn trẻ Khắc Hưng, Min và Erik thể hiện cùng vũ điệu “rửa tay” của biên đạo, vũ
công Quang Đăng đang “gây sốt” trên các trang mạng xã hội vừa qua, thậm chí còn
xuất hiện trong Chương trình Last Week Tonight (phát sóng trên kênh HBO) hay
được Tạp chí âm nhạc Billboard của Mỹ dành nhiều lời khen ngợi đối với một ca
khúc tuyên truyền, hưởng ứng cho cuộc chiến chống dịch COVID-19 là một minh
chứng rõ nét cho sức tác động mạnh mẽ của ÂNĐC.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC, trước
hết cần phải đổi mới tư duy từ những nhà hoạch định chính sách giáo dục, những
nhà quản lý giáo dục, những người trực tiếp làm công tác giáo dục - đào tạo cho tới
toàn bộ xã hội để họ nhận thức đầy đủ giá trị của ÂNĐC trong quá trình bồi dưỡng,
phát triển tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ và quan điểm
143
thẩm mỹ cho sinh viên. Từ đó, các nhà hoạch định mới có cơ sở vững chắc để xây
dựng nên những cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn phù hợp trong công tác giáo dục và
đào tạo; những nhà quản lý mới có cơ sở để xây dựng nên các chương trình GDTM
thông qua ÂNĐC hợp lý cho các đối tượng sinh viên.
Thứ hai, rà soát, điều chỉnh, bổ sung các văn bản quản lý về hoạt động
VHNT nói chung, về GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC nói riêng, phù hợp với
yêu cầu của tình hình thực tiễn.
Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của đời sống xã hội, đổi mới tư duy
về GDTM thông qua ÂNĐC là một tất yếu. Cùng với đổi mới mục tiêu, tất yếu phải
đổi mới nội dung, chương trình đào tạo nhằm thể chế hóa mục tiêu đào tạo. Chương
trình GDTM thông qua ÂNĐC phải giúp cho sinh viên có vốn kiến thức chắc chắn
về thẩm mỹ, giúp họ biết cách lựa chọn các sản phẩm ÂNĐC có chất lượng để
thưởng thức; đồng thời hiểu được cái hay, cái đẹp, cũng như nhận ra những cái chưa
hay, chưa đẹp của các sản phẩm ÂNĐC đó.
Thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo bên cạnh việc nghiên cứu, tham mưu
Chính phủ ban hành các chính sách riêng về GDTM cho sinh viên, cần phải xây
dựng một chương trình GDTM có tính hệ thống, nhằm cung cấp kiến thức nền tảng
về mỹ học, tạo cơ sở khoa học cho mọi hoạt động thẩm mỹ của sinh viên. Trước
mắt, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm hoàn thành Đề án “Xây dựng chương trình
giáo dục thẩm mỹ cho thanh thiếu niên, đặc biệt là học sinh, sinh viên trong các
trường học” nhằm triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008
của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật
trong thời kỳ mới”. Cần lưu ý, trong quá trình xây dựng các chương trình GDTM
cho sinh viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo phải linh hoạt, mềm dẻo; không nên quy
định các trường phải tuân theo chương trình khung một cách cứng nhắc, mà hãy để
các trường chủ động biên soạn chương trình trên cơ sở chương trình chuẩn của Bộ
thiết kế. Việc làm này sẽ tạo điều kiện cho các trường ĐH, CĐ có những chương
trình đặc thù mang thế mạnh riêng, bởi khi đó, các trường sẽ dựa vào nhu cầu thực
tế của xã hội và trình độ của từng đối tượng sinh viên.
Để ngăn chặn, đẩy lùi sự xâm nhập của các sản phẩm âm nhạc phi văn hóa,
phản thẩm mỹ lan truyền trong xã hội, tạo môi trường văn hóa thẩm mỹ lành mạnh
cho sinh viên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phối hợp chặt chẽ với các
ngành liên quan xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định mới về nghệ thuật
biểu diễn trên cơ sở rà soát, nghiên cứu những hạn chế, chưa theo kịp với tình hình
thực tế của Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 và Nghị định số
15/2016/NĐ-CP ngày 15/3/2016 quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời
144
trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca
múa nhạc, sân khấu.
Ngoài ra, các cấp chính quyền cần chú trọng rà soát các chính sách nhằm
động viên, khuyến khích văn nghệ sĩ không ngừng sáng tạo và quảng bá nhiều sản
phẩm ÂNĐC có giá trị GDTM cho sinh viên. Cụ thể như các chính sách về cơ chế
đặt hàng sản xuất, phổ biến các sản phẩm ÂNĐC có giá trị nội dung tư tưởng và
nghệ thuật cao, nhất là các sáng tác lấy sinh viên làm đối tượng; hay như các quy
định về chế độ làm việc đối với giảng viên, giáo viên nghệ thuật,.... Trên cơ sở đó,
Bộ Tài chính cần sớm có Thông tư quy định về đấu thầu, đặt hàng, cung cấp dịch vụ
sự nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.
Đây là căn cứ quan trọng để đội ngũ văn nghệ sĩ có điều kiện thuận lợi trong hoạt
động sáng tác của mình, nhằm tạo ra nhiều tác phẩm ÂNĐC có giá trị.
Các cơ quan chức năng như Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần rà soát, nghiên cứu những
điểm chưa phù hợp về cơ chế, chính sách đối với đội ngũ văn nghệ sĩ, những người
làm công tác VHNT, từ đó tham mưu Chính phủ ban hành các văn bản quy định
riêng về chế độ làm việc đối với giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục đại học và
giáo dục nghề nghiệp trong lĩnh vực nghệ thuật cũng như cơ chế, chính sách đặc thù
dành cho văn nghệ sĩ. Mặt khác, cần quan tâm, chú trọng đến các chính sách khen
thưởng, động viên, nhất là chính sách đào tạo, thu hút, đãi ngộ đối với các tài năng
nghệ thuật để họ yên tâm gắn bó lâu dài với sự nghiệp mà mình đã chọn.
Thứ ba, tăng cường công tác quản lý đối với các hoạt động VHNT trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
Phát huy tích cực hơn nữa vai trò của hệ thống thông tin đại chúng trong việc
tuyên truyền, quảng bá các giá trị VHNT của Việt Nam; tăng thời lượng phát sóng
trên các đài phát thanh, truyền hình đối với các chương trình VHNT, giải trí có sử
dụng các sản phẩm ÂNĐC mang tính giáo dục cao, phù hợp với các đối tượng khác
nhau. Đồng thời cần tận dụng tối đa ưu thế của mạng Internet và các thành tựu của
khoa học công nghệ, đặc biệt là mạng xã hội, nhằm phổ biến rộng rãi các sản phẩm
âm nhạc có giá trị nhân văn cao cả đến với sinh viên, tạo điều kiện cho họ có cơ hội
được tiếp cận nhiều hơn với các sản phẩm ÂNĐC có chất lượng, có giá trị thẩm mỹ
và giá trị tư tưởng cao.
Các cơ quan quản lý nhà nước cần chú trọng quản lý chặt chẽ các hoạt động
biểu diễn VHNT; kiểm duyệt kỹ lưỡng các chương trình phát sóng trên các phương
tiện thông tin đại chúng, nhất là trên môi trường Internet và các trang mạng xã hội.
Có biện pháp trao đổi, nhắc nhở với các tác giả, nghệ sĩ trẻ và các đơn vị quản lý
145
“website” âm nhạc, trên tinh thần nâng cao ý thức trách nhiệm công dân, gỡ bỏ các
sản phẩm âm nhạc có nội dung, hình ảnh phản cảm, trái với thuần phong mỹ tục;
đồng thời, sử dụng những biện pháp kỹ thuật chặn lọc các mạng xã hội có hệ thống
ở nước ngoài, sử dụng tên miền quốc tế đối với các sản phẩm âm nhạc mang tính
chất tuyên truyền, cổ xúy cho lối sống không lành mạnh. Ngoài ra, những chương
trình âm nhạc (kể cả các chương trình khác có sử dụng các sản phẩm âm nhạc trong
đó) khi phát sóng trên các đài phát thanh, truyền hình cần chú ý đến chất lượng tư
tưởng và nghệ thuật sao cho phù hợp với yêu cầu GDTM; không phát sóng những
chương trình có sử dụng những sản phẩm âm nhạc không lành mạnh.
Các cơ quan thông tấn, báo chí cần tuyên truyền mạnh mẽ những thành tựu đạt
được trong lĩnh vực VHNT; quảng bá mạnh mẽ các tác phẩm lý luận, phê bình âm
nhạc có tác dụng định hướng, nâng cao thẩm mỹ ÂNĐC cho công chúng, sinh viên,
cũng như lên án những hoạt động phi văn hóa, phản nghệ thuật; không phát, đăng các
tin, bài phụ họa cho các khuynh hướng sáng tác và biểu diễn kém chất lượng, góp
phần đấu tranh chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại
đạo đức xã hội, coi nhẹ văn hóa truyền thống dân tộc. Bộ Thông tin và Truyền thông
cần chỉ đạo các cơ quan báo chí của Trung ương và địa phương coi trọng hơn nữa
quy trình duyệt nội dung tin, bài; đẩy mạnh tuyên truyền, định hướng các hoạt động
VHNT đảm bảo có chất lượng cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước, các ban ngành ở Trung ương và
địa phương cần đẩy mạnh công tác phối hợp với các hội VHNT trong thẩm định,
đánh giá các tác phẩm, chương trình nghệ thuật nói chung, ÂNĐC nói riêng. Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch cần chủ động phối hợp với Bộ Công an và ngành chức năng
liên quan xử lý triệt để, nghiêm minh tình trạng vi phạm bản quyền tác giả trong lĩnh
vực nghệ thuật. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm
trong lĩnh vực dịch vụ văn hóa, gắn với trách nhiệm cá nhân và tổ chức khi để xảy ra
sai phạm. Bộ Thông tin và Truyền thông cần phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch và các cơ quan liên quan kiểm tra, chấn chỉnh tình trạng “thương mại hóa”
hoạt động báo chí trên lĩnh vực VHNT; khắc phục tình trạng một bộ phận báo chí,
xuất bản hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, làm ảnh hưởng đến nhận thức, tư
tưởng của thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng; xử lý nghiêm minh các biểu
hiện sai trái, đi ngược lại với đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước.
Các hoạt động VHNT thường diễn ra rất phức tạp, không chỉ ở phạm vi rộng
lớn mà còn ở tính tự phát trong quá trình phát triển. Do đó, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quá trình xây dựng hệ thống GDTM thông qua ÂNĐC không thể thiếu vai trò
của Nhà nước trong việc định hướng, điều chỉnh một cách chủ động, sáng tạo và có
146
ý thức các hoạt động VHNT. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý
của Nhà nước đối với lĩnh vực VHNT là một trong những giải pháp quan trọng
nhằm phát huy cao nhất vai trò, sứ mệnh chân - thiện - mỹ của VHNT nói chung,
ÂNĐC nói riêng đối với quá trình GDTM cho sinh viên.
Tiểu kết Chƣơng 4
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, xu hướng hội
nhập quốc tế sẽ ngày càng được mở rộng, tạo nhiều cơ hội cho các tầng lớp nhân
dân tiếp cận với nền văn hóa đa dạng của thế giới; đồng thời là cơ hội để quảng bá
các giá trị VHNT nói chung, âm nhạc nói riêng của Việt Nam đến với bạn bè quốc
tế. Bối cảnh đó tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Dưới
những tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ từ kinh tế thị trường, từ môi trường văn hóa -
xã hội, đặc biệt từ môi trường Internet và quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa đã
và đang đặt ra nhiều vấn đề trong nhiệm vụ GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC
ở nước ta hiện nay. Đó là việc xuất hiện những mâu thuẫn của mối quan hệ giữa
phát triển VHNT với tăng trưởng kinh tế ở mức độ ngày càng gay gắt trong đời
sống, gây ra những hệ lụy đáng tiếc cho xã hội và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất
lượng giáo dục nói chung, GDTM cho sinh viên nói riêng. Mặt khác, nhìn từ thực
trạng GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta thời gian qua cũng đã đặt ra
vấn đề về vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia GDTM cho sinh viên, mà
có lẽ trước tiên phải nhắc đến trách nhiệm của các nhạc sĩ với vai trò là chủ thể sáng
tạo thẩm mỹ. Nếu coi các sản phẩm ÂNĐC phản ánh cái đẹp là “công cụ” quan
trọng để tập trung GDTM cho sinh viên thì thực tiễn đã chứng minh cái “công cụ”
đó còn đang quá yếu và thiếu ở nước ta để có thể đưa sinh viên vào hệ thống định
hướng tinh thần xã hội, tạo điều kiện bộc lộ những xu hướng phát triển xã hội tiến
bộ. Bên cạnh đó, cũng cần phải đặt ra trách nhiệm của gia đình, nhà trường, các nhà
giáo dục, cũng như tất cả các tổ chức, cá nhân làm công tác VHNT với vai trò là
chủ thể định hướng thẩm mỹ cho sinh viên thông qua ÂNĐC, góp phần “nhân rộng”
cái đẹp trong ÂNĐC đến với đông đảo công chúng, sinh viên.
Thực trạng đó cho thấy, toàn bộ việc hình thành các khía cạnh thẩm mỹ của
con người nói chung, sinh viên nói riêng không thể bó hẹp trong phạm vi nhà
trường. Nói cách khác, muốn nâng cao chất lượng GDTM cho sinh viên thông qua
ÂNĐC, thì hơn bao giờ hết, sinh viên phải được sống trong môi trường có tính thẩm
mỹ cao. Để làm được điều đó, trong nhận thức của các cấp, các ngành và toàn dân,
GDTM cần phải là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục
hiện nay. Trước những yêu cầu đặt ra trong nhiệm vụ GDTM cho sinh viên, cũng
như để khắc phục những hạn chế, bất cập đang tồn tại, góp phần nâng cao chất
147
lượng GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC ở nước ta, giải pháp được chúng tôi
đưa ra bao gồm nhiều nhiệm vụ cụ thể, thể hiện ở một số nhóm giải pháp chủ yếu
sau: (1) Tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các phương thức GDTM cho sinh viên thông
qua ÂNĐC trong nhà trường; (2) Nâng cao vai trò của các tổ chức đoàn thể trong
nhà trường đối với nhiệm vụ GDTM cho sinh viên thông qua ÂNĐC; (3) Thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển của lĩnh vực lý luận, phê bình âm nhạc, góp phần điều chỉnh,
định hướng thẩm mỹ cho công chúng, sinh viên; (4) Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, công tác quản lý của Nhà nước đối với GDTM cho sinh viên thông qua
ÂNĐC, tạo môi trường văn hóa thẩm mỹ lành mạnh cho sinh viên.
148
KẾT LUẬN
1. Âm nhạc đại chúng là một thuật ngữ chung được dùng để chỉ các loại nhạc
dễ nghe, dễ tiếp thu, phù hợp với thị hiếu âm nhạc của đông đảo công chúng trong
một thời kỳ, giai đoạn nào đó, được biểu hiện cụ thể bằng các sản phẩm âm nhạc
được nhiều người biết đến và yêu thích.
Cái đẹp trong âm nhạc đại chúng được thể hiện ở tính điển hình, tính biểu
cảm trong ngôn ngữ âm nhạc; nó gắn liền với cái chân và cái thiện, có sự thống
nhất, cân xứng, hài hòa giữa nội dung và hình thức. Cái đẹp trong âm nhạc nói
chung, âm nhạc đại chúng nói riêng là cái mang nhiều dấu ấn của chủ thể sáng tạo,
vì thế nó phụ thuộc trực tiếp vào chính người nghệ sĩ sáng tạo ra chúng. Chỉ có tài
năng, phong cách, lương tâm, trách nhiệm xã hội của người nghệ sĩ mới có thể “vẽ”
lên cái đẹp chân chính thông qua các tác phẩm của họ mà vẫn đảm bảo có thể chinh
phục được đông đảo công chúng, định hướng thẩm mỹ cho họ và trở thành những
sản phẩm âm nhạc đại chúng đích thực.
2. Vai trò của âm nhạc đại chúng đối với sinh viên được xác định một cách
gắn bó với khả năng biểu hiện và chức năng của nghệ thuật âm nhạc. Những khả
năng tác động khác nhau của âm nhạc đại chúng đối với con người nói chung, sinh
viên nói riêng đã quyết định vai trò của nó không chỉ trong lĩnh vực giải trí mà còn
thúc đẩy sự phát triển trí tuệ, góp phần giáo dục thẩm mỹ, giáo dục đạo đức và sự
phát triển thể chất cũng như các kỹ năng xã hội cho sinh viên. Vì thế, âm nhạc nói
chung, âm nhạc đại chúng nói riêng luôn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống
tinh thần của sinh viên, là phương tiện để giao tiếp, để giáo dục về cái đẹp và hơn
hết, nó là một phương tiện quan trọng góp phần hoàn thiện nhân cách sinh viên.
Nhờ mối liên hệ chặt chẽ giữa âm nhạc và cảm xúc, các sản phẩm âm nhạc
đại chúng mới có sức tác động mạnh mẽ đến ý thức của công chúng, sinh viên. Các
sản phẩm âm nhạc đại chúng là khâu trung gian giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể
tiếp nhận, nó là đối tượng chủ yếu của mối quan hệ thẩm mỹ âm nhạc. Mục tiêu tác
động của âm nhạc đại chúng là phải tạo được khoái cảm thẩm mỹ cho người được
tác động. Để làm được điều đó, các sản phẩm âm nhạc đại chúng cần phải có sự hấp
dẫn cả về nội dung lẫn hình thức, nghĩa là nó phải đẹp. Sự phản ánh cái đẹp trong
âm nhạc đại chúng mở ra cho sinh viên bằng hàng loạt các trạng thái tâm lý khác
nhau, từ đó tác động đến cảm xúc, tình cảm và dần hình thành nên nhận thức thẩm
mỹ trong tư duy của sinh viên về một đối tượng cụ thể quanh họ. Thông qua hình
tượng âm nhạc, các sản phẩm âm nhạc đại chúng đem đến cho sinh viên những giai
điệu và tiết tấu từ cuộc sống sinh động đang diễn ra xung quanh, giúp họ hiểu biết
149
thêm các vấn đề của xã hội, của con người; góp phần định hướng đúng đắn tình
cảm, củng cố các thị hiếu thẩm mỹ và mở rộng lý tưởng thẩm mỹ cho sinh viên.
Đây cũng chính là cơ sở giúp con người nói chung, sinh viên nói riêng hình thành
nên những ý thức thẩm mỹ đúng đắn. Từ đó cho thấy, âm nhạc đại chúng - những
sản phẩm âm nhạc được nhiều người biết đến và yêu thích chính là một phương tiện
có nhiều ưu thế trong giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên.
3. Nội dung cơ bản của giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại
chúng là giáo dục tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ và quan
điểm thẩm mỹ; trong đó giáo dục về cái đẹp là hạt nhân chủ yếu của giáo dục thẩm mỹ.
Do tác động của môi trường âm nhạc ngoài xã hội có tầm ảnh hưởng rất lớn
đối với sự hình thành ý thức thẩm mỹ của sinh viên, nên để giáo dục thẩm mỹ cho
sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng đạt kết quả tốt, cần phải chú trọng đến các
phương thức cơ bản như: Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng; thông qua
việc tổ chức các hoạt động âm nhạc trong nhà trường; thông qua các “kênh” tham gia
hoạt động sáng tạo của chính sinh viên để thành lập các hội, các nhóm âm nhạc và
thông qua thể chế nhằm tạo điều kiện để sinh viên ngày càng được tiếp cận với các
sản phẩm âm nhạc đại chúng phản ánh cái đẹp; qua đó giúp sinh viên nhận thức được
những hiện tượng đẹp hay xấu, cao cả hay thấp hèn, bi hay hài trong đời sống hằng
ngày và trong nghệ thuật âm nhạc trên cơ sở những chuẩn mực xã hội nhất định.
Giáo dục thẩm mỹ là nhiệm vụ và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của
gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Bên cạnh các cơ quan của Đảng và Nhà nước,
các chủ thể tham gia giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng
trong các trường đại học và cao đẳng ở nước ta cơ bản được chia thành ba nhóm:
(1) Nhóm chủ thể lãnh đạo, quản lý (đảng ủy, ban giám hiệu, ban giám đốc, phòng
đào tạo, phòng công tác sinh viên hoặc phòng công tác chính trị - sinh viên, ban chủ
nhiệm khoa, giáo viên chủ nhiệm lớp); (2) Nhóm chủ thể truyền đạt kiến thức (đội
ngũ giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên,...); (3) Nhóm chủ thể hỗ trợ (các tổ
chức đoàn thể trong nhà trường như: Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên,…).
4. Thành tựu trong giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại
chúng ở nước ta hiện nay đã góp phần hình thành và phát triển tình cảm thẩm mỹ,
tri thức thẩm mỹ cho sinh viên; đồng thời góp phần nâng cao nhu cầu thẩm mỹ, thị
hiếu thẩm mỹ của sinh viên. Không những vậy, quá trình đó còn góp phần bồi
dưỡng lý tưởng thẩm mỹ, hình thành nên những đạo đức tốt đẹp cho sinh viên, cũng
như góp phần kích thích các hoạt động sáng tạo thẩm mỹ của sinh viên ở nước ta.
Tuy nhiên, giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở
nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập: Sự chỉ đạo, định hướng của
150
các nhóm chủ thể lãnh đạo trong nhà trường đối với quá trình giáo dục thẩm mỹ cho
sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng nhiều khi còn chung chung, chưa sát tình hình
thực tiễn; các tổ chức đoàn thể trong nhà trường chưa chú ý nhiều đến nhu cầu, thị
hiếu thẩm mỹ của sinh viên, dẫn đến có một số hoạt động chỉ mang tính “công thức”,
“hình thức”, chưa đem lại hiệu quả thực sự trong công tác giáo dục thẩm mỹ; các hoạt
động giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng chưa có sự kết
nối, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan trong việc hướng dẫn cho sinh
viên về cách tiếp cận, lựa chọn thưởng thức âm nhạc đại chúng trên các phương tiện
thông tin đại chúng sao cho phù hợp, đúng hướng.
5. Những ảnh hưởng mạnh mẽ từ kinh tế thị trường, từ môi trường văn hóa -
xã hội, đặc biệt từ môi trường Internet và quá trình hội nhập quốc tế đã và đang đặt
ra nhiều vấn đề trong nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc
đại chúng ở nước ta hiện nay. Đó là việc xuất hiện những mâu thuẫn của mối quan
hệ giữa phát triển văn hóa, nghệ thuật với tăng trưởng kinh tế ở mức độ ngày càng
gay gắt trong đời sống, gây ra những hệ lụy đáng tiếc cho xã hội và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng giáo dục nói chung, giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên
nói riêng. Những hạn chế, bất cập trong giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua
âm nhạc đại chúng ở nước ta thời gian qua cũng đã đặt ra vấn đề về vai trò và trách
nhiệm của các chủ thể tham gia giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên, mà có lẽ trước tiên
phải nhắc đến trách nhiệm của các nhạc sĩ với vai trò là chủ thể sáng tạo thẩm mỹ;
đồng thời, đặt ra trách nhiệm của nhà trường, các nhà giáo dục, cũng như tất cả các
tổ chức, cá nhân làm công tác văn hóa, nghệ thuật với vai trò là chủ thể định hướng
thẩm mỹ cho sinh viên.
Trên cơ sở phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong nhiệm vụ giáo
dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng, luận án dự báo về những
xu hướng vận động trong nhu cầu tiếp nhận thẩm mỹ âm nhạc đại chúng của sinh
viên. Qua đó, bàn luận về một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng ở nước ta. Những nhóm giải
pháp mà luận án đề xuất có tính thiết thực và gợi mở, xuất phát từ tầm quan trọng của
công tác giáo dục thẩm mỹ cũng như vai trò của cái đẹp trong âm nhạc đại chúng với
tư cách là phương tiện giáo dục thẩm mỹ nhằm góp phần xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ.
Luận án hy vọng với những kết quả đạt được sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích
cho giới nghiên cứu mỹ học, giới sáng tác, lý luận và phê bình âm nhạc, cũng như
trong công tác giáo dục thẩm mỹ và công tác lãnh đạo, quản lý về lĩnh vực văn hóa,
nghệ thuật ở nước ta hiện nay./.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Lê Trọng Nin (2015), “Về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho giới trẻ hiện
nay”, Tạp chí Văn hóa học, số 4 (20), tr.12-15.
2. Lê Trọng Nin (2017), “Về âm nhạc đại chúng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Văn hóa học, số 5 (33), tr.78-82.
3. Lê Trọng Nin (2018), “Vai trò của âm nhạc trong giáo dục thẩm mỹ”, Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, số 404, tr.68-71.
4. Lê Trọng Nin (2018), “Lý luận, phê bình âm nhạc góp phần định hướng
thẩm mỹ cho công chúng”, Tạp chí Tuyên giáo, số 12, tr.54-57.
5. Lê Trọng Nin (2019), “Cơ chế giáo dục thẩm mỹ thông qua âm nhạc đại
chúng cho sinh viên”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 415, tr.50-53.
6. Lê Trọng Nin (2019), “Giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm
nhạc đại chúng ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Văn hóa học, số 2 (42), tr.39-50.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt 1. Đào Duy Anh (1932), Hán Việt từ điển (giản yếu), Tiếng Dân, Huế.
2. Nguyễn Ngọc Ánh (2016), "Giáo dục thẩm mỹ thông qua hoạt động văn hóa
nghệ thuật", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. số 1 (98), tr. 31-39.
3. Aristotle (1964), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa - Nghệ thuật, Hà Nội.
4. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Tài liệu nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết số
23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về "Tiếp tục xây dựng và phát triển
văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Tuyên giáo Trung ương (2018), Báo cáo số 247-BC/BTGTW Tổng kết 10
năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp
tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, Hà Nội.
6. Thế Bảo (2013), Cảm nhận mỹ học âm nhạc, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
7. Hà Huy Bính (1983), Phương pháp tiếp cận giáo dục thẩm mỹ, In trong cuốn
"Mấy vấn đề đạo đức và thẩm mỹ trong thời kỳ quá độ", Viện Triết học, Hà
Nội, tr.128-136.
8. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), "Toàn tập", Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
9. Hoàng Văn Cẩn (2005), "Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em qua tác phẩm văn học
thiếu nhi", Tạp chí Khoa học Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Số
5, tr. 39-43.
10. Nguyễn Thị Minh Châu (2005), Nhà phê bình âm nhạc, anh là ai?, truy cập
ngày 09/8/2017, tại trang web http://www.hoinhacsi.vn/nha-phe-binh-am-
nhac-anh-la-ai.
11. Nguyễn Thị Minh Châu (2013), Âm nhạc và những nỗi lo không của riêng ai, In
trong cuốn sách "Văn học, nghệ thuật Việt Nam hôm nay - mấy vấn đề trong
sự phát triển", Đinh Xuân Dũng (chủ biên), Hội đồng Lý luận, phê bình văn
học, nghệ thuật Trung ương, Hà Nội, tr.162-170.
12. Chernyshevsky (1962), Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật với hiện thực, Nxb
Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
13. V.A.Va-kh'ra-mê-ép (Vũ Tự Lân dịch) (1993), Lý thuyết âm nhạc cơ bản, Nxb
Âm nhạc, Hà Nội.
14. Đinh Xuân Dũng, chủ biên (2011), Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
văn hóa, văn nghệ những mốc phát triển, Hội đồng Lý luận, phê bình văn
học, nghệ thuật Trung ương, Hà Nội.
15. Nguyễn Ngọc Dũng (1983), Vai trò của giáo dục thẩm mỹ qua môi trường lao
153
động, In trong cuốn "Mấy vấn đề đạo đức và thẩm mỹ trong thời kỳ quá độ",
Viện Triết học, Hà Nội, tr.206-212.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), "Văn kiện Đảng toàn tập", tập 37 (1976), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Thông báo số 219-TB/TW của Ban Bí thư
(khóa X) về một số đề án triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của
Bộ Chính trị về văn học, nghệ thuật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Chỉ thị số 46-CT/TW của Ban Bí thư về chống
sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã
hội, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương (khóa XI), Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
23. Văn Thu Hà (1983), Vai trò của Mỹ học Mác - Lênin trong sự nghiệp giáo dục
thẩm mỹ của chúng ta, In trong cuốn "Mấy vấn đề đạo đức và thẩm mỹ trong
thời kỳ quá độ", Viện Triết học, Hà Nội, tr.195-205.
24. Hanoimoi (2014), Ra mắt chương trình “Giai điệu tự hào”, truy cập ngày
10/8/2017, tại trang https://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-hoa/658738/ra-
mat-chuong-trinh-giai-dieu-tu-hao.
25. Lý Trạch Hậu (Trần Đình Sử và Lê Tẩm dịch) (2002), Bốn bài giảng Mỹ học,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
26. Hegel (1999), Mỹ học, Nxb Văn học, Hà Nội.
27. Phạm Lê Hòa (2011), Nghệ thuật âm nhạc và con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
Đại học Sư phạm nghệ thuật Trung ương, Hà Nội, truy cập ngày 10/9/2016, tại
spnttw.edu.vn/Pages/ArticleDetail.aspx?siteid=1&sitepageid=131&articleid=1402.
28. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Khoa Triết học) (2003), Giáo trình
Mỹ học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Phân viện Hà Nội - Khoa Triết học)
(2001), Giáo trình Mỹ học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Hội đồng Quốc gia (2002), "Từ điển bách khoa Việt Nam", tập 2, Nxb Từ điển
bách khoa, Hà Nội.
154
31. Tô Duy Hợp (1983), Logic học và giáo dục thẩm mỹ, In trong cuốn "Mấy vấn
đề đạo đức và thẩm mỹ trong thời kỳ quá độ", Viện Triết học, Hà Nội,
tr.188-194.
32. Lê Vinh Hưng (2009), Vai trò của âm nhạc trong việc giáo dục nhân cách, Đại
học Sư phạm nghệ thuật Trung ương, Hà Nội, truy cập ngày 10/10/2017, tại
http://www.spnttw.edu.vn/articledetail.aspx?articleid=502&sitepageid=650.
33. Thế Hùng (2006), Mỹ học đại cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
34. Hutcheson, Hume và Smith (1973), Mỹ học, Nxb Đại học, Moska.
35. Đỗ Huy (1983), Giáo dục thẩm mỹ và sự hình thành các khả năng sáng tạo, In
trong cuốn "Mấy vấn đề đạo đức và thẩm mỹ trong thời kỳ quá độ", Viện
Triết học, Hà Nội, tr.145-157.
36. Đỗ Huy (1987), Giáo dục thẩm mỹ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Thông tin lý luận, Hà Nội.
37. Đỗ Huy (1996), Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
38. Đỗ Huy (2006), Mỹ học Mác - Lênin cho trình độ sau đại học ngành văn hoá
nghệ thuật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. I.U.A. Lukin và V.C Skaterosiskov (Hoài Lam dịch), chủ biên (1984), Nguyên
lý Mỹ học Mác - Lênin, Nxb Sách Giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội.
40. Immanuel Kant (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải) (2006), Phê phán năng
lực phán đoán, Nxb Tri thức, Hà Nội.
41. Đỗ Văn Khang (1985), Mỹ học Mác - Lênin, Nxb Đại học, Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
42. Đỗ Văn Khang (2001), Nghệ thuật học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
43. Tương Lai (1983), Phạm trù Người của triết học mác-xít và mối quan hệ của
giáo dục đạo đức và giáo dục thẩm mỹ, In trong cuốn "Mấy vấn đề đạo đức
và thẩm mỹ trong thời kỳ quá độ", Viện Triết học, Hà Nội, tr.169-179.
44. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2014), Đào tạo - Cơ sở và điều kiện cho sáng tạo âm
nhạc trong giai đoạn hiện nay, In trong cuốn "Phấn đấu sáng tạo nhiều tác
phẩm văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng nghệ thuật cao" của Hội đồng Lý
luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia - sự
thật, Hà Nội, tr.375-383.
45. Nguyễn Thu Nghĩa và Triệu Thị Linh (2017), "Vai trò của tình cảm thẩm mỹ đối
với hoạt động âm nhạc ", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. Số 10, tr. 81-86.
46. M.Ovsannikov (1978), Lịch sử tư tưởng thẩm mỹ, Nxb Đại học, Moska.
47. Hồng Mai (1983), Giáo dục thẩm mỹ và sự định hướng nhu cầu thẩm mỹ, In
155
trong cuốn "Mấy vấn đề đạo đức và thẩm mỹ trong thời kỳ quá độ", Viện
Triết học, Hà Nội, tr.158-169.
48. A. Xôkhor (Vũ Tự Lân dịch nguyên bản tiếng Nga) (1978), Vai trò giáo dục của
âm nhạc, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 108 trang.
49. Tú Ngọc, chủ biên (2000), Âm nhạc mới Việt Nam - Tiến trình và thành tựu,
Viện Âm nhạc, Hà Nội.
50. Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội (2018), Báo cáo số 14/BC-CĐNT ngày
28/02/2018 về "Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ
Chính trị (khóa X)", Hà Nội.
51. Hoàng Phê, chủ biên (1988), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Đỗ Hồng Quân (2015), Giáo dục âm nhạc với việc xây dựng nhân cách con
người Việt Nam, In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Văn học, nghệ thuật
với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam", Hội đồng Lý luận, phê
bình văn học, nghệ thuật Trung ương, Hà Nội.
53. Vũ Minh Tâm (1993), Hoạt động đánh giá thẩm mỹ và hướng phát triển của nó
trong xã hội hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Trung
tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội.
54. Vũ Minh Tâm (1995), Mỹ học Mác - Lênin, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
55. Đào Duy Thanh (1999), Vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con
người, Luận án Tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Trung tâm Khoa học xã hội
và nhân văn quốc gia, Hà Nội.
56. Tạ Văn Thành (1983), Vài khía cạnh phương pháp luận của vấn đề: giáo dục
thẩm mỹ với sự hình thành con người mới, In trong cuốn "Mấy vấn đề đạo
đức và thẩm mỹ trong thời kỳ quá độ", Viện Triết học, Hà Nội, tr.118-128.
57. Lê Anh Trà (1982), Giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới Việt Nam,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
58. Lê Ngọc Trà, chủ biên (1994), Mỹ học đại cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
59. Nguyễn Nghĩa Trọng (1983), Từ những ý kiến của Mác suy nghĩ về giáo dục
thẩm mỹ trong giai đoạn quá độ của chúng ta, In trong cuốn "Mấy vấn đề đạo
đức và thẩm mỹ trong thời kỳ quá độ", Viện Triết học, Hà Nội, tr.137-145.
60. Khổng Tử (Lê Phục Thiện dịch) (2002), Luận ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
61. Đặng Thị Minh Tuấn (2018), Nghệ thuật với vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
cho sinh viên ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện Khoa
học xã hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
62. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ) (1961), Nguyên lý Mỹ học Mác - Lênin,
Phần I, Nxb Sự thật, Hà Nội.
156
63. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
64. Viện Triết học, chủ biên (1983), Mấy vấn đề đạo đức và thẩm mỹ trong thời kỳ
quá độ, Hà Nội.
65. Vietnamnet (2013), "Điều Còn Mãi" giáo dục thẩm mỹ về âm nhạc cho người
Việt, truy cập ngày 09/8/2017, tại trang web https://vietnamnet.vn/vn/giai-
tri/dieu-con-mai-giao-duc-tham-my-ve-am-nhac-cho-nguoi-viet-
138571.html.
66. Lê Quang Vinh (1996), Vai trò của văn học trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta
hiện nay, Luận án Tiến sĩ mỹ học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
Tiếng Anh
67. Alberto Cabedo-Mas and Maravillas Díaz-Gómez (2016), "Music education
for the improvement of coexistence in and beyond the classroom: A study
based on the consultation of experts ", Teachers and Teaching: Theory and
Practice. 22 (3), tr. 368-386.
68. Stuart Borthwick và Ron Moy (2004), Popular Music Genres: An Introduction,
Edinburgh University Press, Edinburgh, England.
69. Olga Denac (2014), "The Significance and Role of Aesthetic Education in
Schooling", Creative Education. Vol.5, No.19, tr. 1714-1719.
70. Denisoff (1975), Solid Gold: The Popular Record Industry, Transaction Books,
USA.
71. Thomas W. Goolsby (1984), "Music Education as Aesthetic Education:
Concepts and Skills for the Appreciation of Music", The Journal of Aesthetic
Education, University of Illinois Press, USA. Vol.18, No.4, tr. 15-33.
72. George Grove (1995), The New Grove Dictionary of Music and Musicians,
Stanley Sadie, chủ biên, Macmillan Reference Ltd, USA.
73. Wing-Wah Law and Wai-Chung Ho (2015), "Popular music and school music
education: Chinese students’ preferences and dilemmas in Shanghai, China",
International Journal of Music Education. 33 (3), tr. 304-324.
74. Andrew Lamb (2002), "British light music: Sound good, feel good",
Gramophone November 2002, Retrieved 13 September 2011.(pp.34-38).
75. Don Lebler (2007), "Student as Master? Reflections on a Learning Innovation in
Popular Music Pedagogy", International Journal of Music Education. 25, tr.
205-221.
76. Don Lebler (2008), "Popular music pedagogy: Peer learning in practice", Music
157
Education Research 10 (2), tr. 193-213.
77. Richard Middleton and Peter Manuel (2001), Popular music, Grove Music
Online, Oxford Index, truy cập ngày 11-11-2016, tại trang web
https://dx.doi.org/10.1093/gmo/9781561592630.article.43179.
78. Charles Plummeridge (1999), "Aesthetic education and the practice of music
teaching", British Journal of Music Education. No.16 (2), tr. 115-122.
79. Olivier Reboul (1989), La philosophie de l'éducation (Bilingual), PUF, Paris.
80. Friedrich Schiller (2004 - first published 1794), On the Aesthetic Education of
Man: In a series of letters, Dover Publications, USA.
81. Geofrey Self (2001), Light Music in Britain Since 1870: A Survey, Ashgate, USA.
82. Thomas Steinforth (2014), The right to aesthetic education and the good life,
MANCEPT workshops in Political Theory, Manchester Centre for Political
Theory, UK.
83. Morris Weitz (1972), What Is Aesthetic Education?, Educational Theatre Journal,
chủ biên, The Johns Hopkins University Press, Maryland, USA, tr. 1-4.
84. Hao Zhang (2018), Aesthetic Education of Vocal Music Teaching in Music
Education, Conference: 2018 8th International Conference on Social science
and Education Research (SSER 2018), Advances in Social Science,
Education and Humanities Research, Vol. 238, pp.16-19.
85. Collins English Dictionary, truy cập ngày 28/11/2016, tại trang web
www.collinsdictionary.com.
86. Allen Kozinn (1992), John Cage, 79, a Minimalist Enchanted With Sound, Dies, truy
cập ngày-11-11-2016, tại trang web http://www.nytimes.com/1992/08/13/us/john-
cage-79-a-minimalist-enchanted-with-sound-dies.html.
87. Philip Tagg (1982), Analysing Popular Music: Theory, Method and Practice,
Vol. Popular Music 2, Cambridge University Press, Cambridge, England.
158
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: MỸ HỌC
HÀ NỘI, 2020
159
PHỤ LỤC 1
MẪU PHIẾU KHẢO SÁT VÀ PHỔ BIẾN KẾT QUẢ
-----
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN DÀNH CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
***
Các bạn sinh viên thân mến!
Để giúp chúng tôi tìm hiểu về quá trình giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên
thông qua âm nhạc đại chúng, bạn hãy vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây với các
đáp án phù hợp với suy nghĩ của bạn. Những thông tin và những ý kiến đóng góp
của bạn sẽ là cơ sở rất quan trọng giúp chúng tôi tổng kết thực tiễn, từ đó nghiên
cứu để tìm ra những giải pháp phù hợp, đạt hiệu quả thiết thực cho việc giáo dục
thẩm mỹ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của bạn!
Thông tin cá nhân
Đảng Giới tính Nam Thành phần
viên
Đoàn Nữ
viên
Dân tộc Kinh Bạn có là cán bộ Đoàn, Có
Hội không? Thiểu số Không
Gia đình bạn Nông thôn Bạn là sinh viên năm thứ mấy?
sống ở đâu? ……………….
Thành thị Bạn bao nhiêu tuổi? ……………………
***
Câu 1: Mức độ yêu thích của bạn nhƣ thế nào đối với các loại hình nghệ thuật dƣới đây? (Xin trả lời lần lượt từ trên xuống dưới bằng cách đánh dấu X vào các mức độ phù hợp với suy nghĩ của bạn)
Mức độ yêu thích
TT Loại hình nghệ thuật Rất Bình Không Thích thích thường thích
1 Âm nhạc
160
2 Văn học, thơ ca
3 Hội họa
4 Kiến trúc, điêu khắc
5 Kịch
6 Múa
7 Điện ảnh
Câu 2: Bạn thích và thƣờng nghe loại nhạc nào? (Chọn một hoặc nhiều đáp án
đúng với bạn bằng cách đánh dấu X vào các ô bên cạnh)
1. Những sáng tác của các tác giả 8. Các thể loại ca nhạc thính phòng, Việt Nam theo các thể loại, trào sân khấu truyền thống Việt Nam: lưu Pop, Ballad, R&B, Hip Tuồng, Chèo, Cải lương, Ca Trù, hop,… (còn được gọi thông dụng Xẩm, Chầu Văn, Đờn ca tài tử… là “Nhạc trẻ”)
2. Âm nhạc đại chúng Âu - Mỹ 9. Hòa tấu nhạc cụ dân tộc (Tranh,
Bầu, Sáo, Nhị…) (US-UK)
3. Âm nhạc đại chúng Châu Á (K- 10. Độc tấu nhạc cụ phương Tây
Pop, C-Pop, J-Pop,…) (Piano, Guitar, Violin,Saxophone,...)
4. Các ca khúc quần chúng về đề
tài cách mạng Việt Nam (thường 11. Các thể loại nhạc giao hưởng - thính phòng (nhạc cổ điển không lời)
được gọi là “Nhạc đỏ”)
5. Các ca khúc lãng mạn Việt
Nam trước 1945 (thường gọi là 12. Hòa tấu “nhạc nhẹ” (các bản hòa tấu nhạc cụ với những nét giai
“Nhạc tiền chiến”) và của các điệu du dương, nhẹ nhàng và êm dịu,
nhạc sĩ thế hệ trước giải phóng ở mang lại cảm giác bình yên và thanh
miền Nam Việt Nam như: Phạm thản)
Duy, Trịnh Công Sơn, Nguyễn
Ánh 9, Ngô Thụy Miên, Từ Công
Phụng…
6. Bolero Việt Nam (các ca khúc
trữ tình quê hương hay trước 13. Nhạc kịch phương Tây (Opera cổ điển; phong cách Broadway,…)
thường được gọi là “Nhạc vàng”,
“Nhạc sến”, ra đời ở miền Nam
Việt Nam những năm 50, 60 của
161
thế kỷ XX)
7. Dân ca các vùng miền, các dân
tộc Việt Nam 14. Thể loại khác (xin ghi rõ)……. ……………………………………..
Câu 3: Bạn thƣờng thƣởng thức âm nhạc từ những nguồn nào dƣới đây? (Chọn
một hoặc nhiều đáp án đúng với bạn bằng cách đánh dấu X vào các ô bên cạnh)
1. Qua sóng truyền hình 4. Trên mạng Internet (thông qua máy
tính, điện thoại,...)
2. Qua sóng phát thanh 5. Nghe trực tiếp từ nghệ sĩ tại các tụ
điểm, sân khấu ca nhạc
3. Từ các bản lưu giữ âm 6. Nghe trực tiếp tại các buổi giao lưu,
thanh (băng, đĩa, usb...) sinh hoạt cộng đồng
Câu 4: Khi thƣởng thức âm nhạc, mức độ quan tâm của bạn nhƣ thế nào đối với những yếu tố sau? (Xin trả lời lần lượt từ trên xuống dưới theo các mức độ
đúng với suy nghĩ của bạn)
Mức độ quan tâm
TT Các yếu tố Không Quan tâm Bình thường quan tâm
1 Nội dung, ca từ của tác phẩm
2 Âm thanh, phần nhạc đệm (beat)
Diễn xuất của ca sĩ, diễn viên 3 trong các MV ca nhạc
Vũ đạo, trang phục, ngoại hình 4 của nghệ sĩ
Hiệu ứng sân khấu/MV ca nhạc 5 đẹp và hoành tráng
Tác phẩm của ca sĩ/ban nhạc nổi 6 tiếng
7 Tác phẩm của nhạc sĩ nổi tiếng
Câu 5: Bạn có thích nghe những bản nhạc theo phong cách cổ điển phƣơng Tây,
những ca khúc “Nhạc đỏ”, “Nhạc tiền chiến”, đƣợc dàn dựng, hòa âm, phối khí, “làm mới” theo các thể loại hiện đại nhƣ Pop, Rock, Ballad,… không? (Chọn một
162
đáp án đúng nhất với bạn bằng cách đánh dấu X vào ô bên cạnh)
1. Có 2. Không
Câu 6: Bạn nhận xét thế nào khi “làm mới” các tác phẩm âm nhạc cổ điển, các ca khúc “Nhạc đỏ”, “Nhạc tiền chiến” theo các thể loại, trào lƣu hiện đại? (Xin
trả lời lần lượt từ trên xuống dưới bằng cách đánh dấu X vào các đáp án phù hợp
với suy nghĩ của bạn)
1. Cách làm này tạo điều kiện để các tác phẩm âm nhạc cổ điển, những
tác phẩm mang tính “bác học”, “đi cùng năm tháng” đến gần hơn với
công chúng, nhất là đối với công chúng trẻ hiện nay.
2. Sau khi nghe những sản phẩm âm nhạc được “làm mới”, những tác
phẩm “nguyên bản” được tìm đến để nghe nhiều hơn trước. Và do
đó, đây cũng là cách khiến công chúng biết đến những tác phẩm
“kinh điển” mà trước đó họ chưa bao giờ nghe hoặc ít nghe.
3 Nên tôn trọng những quy chuẩn của âm nhạc truyền thống. Vì,
những tác phẩm đó được sáng tác trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, ca từ, giai điệu đã mang theo tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩa hào
hùng của giai đoạn lịch sử đó rồi. Tôi không đồng tình với cách làm
này. Cách làm này làm mất đi chất riêng của từng dòng nhạc.
4. Nếu vẫn giữ được tinh thần chính của tác phẩm và sự “phá cách”
không quá đà. Tôi hoàn toàn ủng hộ cách làm này.
5. Việc “làm mới” sẽ khiến giới trẻ tiếp thu một cách thụ động âm nhạc
theo xu hướng nghe mà không hiểu được ý nghĩa, không cảm được
hồn của tác phẩm.
6. Ý kiến khác (xin ghi rõ):……………........................................
...............................................................................................
Câu 7: Bạn thích thƣởng thức âm nhạc có tính chất nhƣ thế nào? (Xin trả lời lần lượt
từ trên xuống dưới bằng cách đánh dấu X vào các mức độ phù hợp với suy nghĩ của bạn)
Mức độ ưa thích
TT Tính chất của tác phẩm âm nhạc Bình Không Thích thường thích
Nhẹ nhàng, tình cảm, ca từ giàu chất thơ, 1 mang tính triết lý, sâu lắng
2 Trẻ trung, ca từ gần gũi với hiện thực
163
cuộc sống.
Mạnh mẽ, ảo diệu, huyền bí, kỳ ảo, hưng 3 phấn, kích thích.
4 Hào hùng, mang tính chất hành khúc
5 Lắt léo, dí dỏm, vui tai
Câu 8: Bạn hãy đánh giá nhu cầu thƣởng thức âm nhạc của mình? (Chọn một
đáp án đúng nhất với bạn bằng cách đánh dấu X vào ô bên cạnh)
1. Nhu cầu ở mức 2. Nhu cầu ở mức độ bình 3. Nhu cầu ở mức
độ nhiều thường độ ít
Câu 9: Bạn muốn thỏa mãn nhu cầu âm nhạc của mình ở các đề tài âm nhạc? (Xin trả lời lần lượt từ trên xuống dưới bằng cách đánh dấu X vào các mức độ phù
hợp với suy nghĩ của bạn)
Mức độ mong muốn Đề tài, chủ đề có trong TT Bình Không tác phẩm âm nhạc Muốn nghe thường muốn nghe
1 Về tình yêu đôi lứa
2 Về mái trường, thầy cô, bạn bè
Về quê hương đất nước, phong 3 cảnh thiên nhiên
4 Về ông bà, cha mẹ
5 Về ước mơ, khát vọng
6 Về những số phận nghiệt ngã
7 Về chiến tranh và hòa bình
Về hình tượng người lính, người 8 chiến sĩ
Các vấn đề khác mà bạn đang quan tâm (Xin ghi rõ): 9 …………………………...
Câu 10: Trƣờng bạn thƣờng chú trọng vào các hoạt động nào dƣới đây? (Được
chọn nhiều đáp án đúng với bạn bằng cách đánh dấu X vào ô bên cạnh)
1. Thành lập câu lạc bộ âm nhạc, 3. Tổ chức cuộc thi giọng hát
đội văn nghệ của trường hay sinh viên, hội diễn văn
164
nghệ
2. Tổ chức các hoạt động văn 4. Tổ chức giao lưu văn nghệ
nghệ mừng các ngày lễ lớn với các đơn vị khác
Câu 11: Bạn đánh giá thế nào về vai trò của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên
trong việc định hƣớng thẩm mỹ các hoạt động văn hóa, văn nghệ cho sinh viên hiện nay? (Chọn một đáp án phù hợp với suy nghĩ của bạn)
1. Tốt 2. Bình thường 3. Chưa tốt
Câu 12: Bạn đánh giá nhƣ thế nào về những vấn đề dƣới đây của tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong các hoạt động thời gian qua? (Xin trả lời lần
lượt từ trên xuống dưới bằng cách đánh dấu X vào các mức độ phù hợp với suy
nghĩ của bạn)
Mức độ TT Nội dung đánh giá Tốt Bình thường Chưa tốt
1 Khâu tổ chức
2 Ý thức của đoàn viên, thanh niên
3 Hiệu quả của các phong trào
4 Năng lực của cán bộ đoàn
Ý kiến khác (Xin ghi 5 rõ)…………………………………………………………..
Câu 13: Bạn hãy nhận xét về mức độ quan tâm của trƣờng bạn đối với các nội dung của môn mỹ học? (Chọn một đáp án phù hợp với suy nghĩ của bạn)
1.Thường xuyên 2.Bình thường 3. Rất ít 4. Không được học
Câu 14: Bản thân bạn có sẵn sàng tham gia các hoạt động âm nhạc do Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên nhà trƣờng tổ chức? (Chọn một đáp án phù hợp với
suy nghĩ của bạn)
1. Luôn sẵn sàng 2. Bình thường 3. Không hứng thú
Câu 15: Bạn đánh giá thế nào về âm nhạc đại chúng Việt Nam (V-Pop)? (Được
chọn nhiều đáp án phù hợp với suy nghĩ của bạn bằng cách đánh dấu X vào ô bên
cạnh)
165
1. Chú trọng quá nhiều tới hình ảnh ca sĩ, dẫn đến việc thưởng thức âm
nhạc giờ đây chủ yếu là để “ngắm” mà ít quan tâm đến giọng ca của
ca sĩ; nội dung, ý nghĩa của các tác phẩm.
2. Phần lớn các ca khúc ra đời chỉ “hot” trong một khoảng thời gian
ngắn, sau đó dễ bị lãng quên
3 Ca khúc chủ yếu nhằm vào mục đích thương mại, “câu khách”, “câu
like”, ít chú ý tới ca từ đẹp, có ý nghĩa sâu sắc.
4. Xuất hiện ngày càng nhiều ca khúc với lời ca trái với thuần phong
mỹ tục, phản đạo lý, sáo rỗng, trùng lặp, dung tục, vô nghĩa… Nội
dung một số ca khúc xa rời thực tiễn và những vấn đề nóng bỏng
của đất nước, con người.
5. V-pop luôn luôn sôi động, đáp ứng kịp thời nhịp sống mới của thời
kỳ hội nhập quốc tế. V-pop phát triển mạnh bởi có sự hỗ trợ của
công nghệ “lăng-xê, quảng cáo” trên các phương tiện thông tin đại
chúng và các trang mạng xã hội.
6. Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và cách làm việc
năng động, chuyên nghiệp của các ê-kíp, nhiều sản phẩm âm nhạc
chất lượng đã ra đời. Một số nhạc sĩ, ca sĩ đã bước đầu có tầm ảnh
hưởng trong khu vực và thế giới.
7. Tình trạng “đạo nhạc”, “đạo beat”, vi phạm bản quyền làm suy thoái
đạo đức nghề nghiệp, tình trạng vay mượn cảm xúc, thiếu vốn sống
và tri thức văn hóa dân tộc không thích hợp với tâm hồn và tình cảm
của người Việt Nam.
8. Ý kiến khác (xin ghi rõ):…………………………………………
Câu 16. Ý kiến của bạn về một số nhận định sau nhƣ thế nào? (Xin trả lời lần
lượt từ trên xuống dưới bằng cách đánh dấu X vào các nhận định phù hợp với suy
nghĩ của bạn)
Không hoàn Không Ý kiến Đồng ý TT toàn đồng ý đồng ý
Cuộc sống sẽ tẻ nhạt nếu không được 1 thưởng thức âm nhạc
Ca khúc có giai điệu đẹp, lời ca trong
2 sáng, giàu chất thơ văn, có nội dung ý
nghĩa sâu sắc giờ đây chỉ có số ít
166
Ca khúc có giai điệu và lời ca đơn giản,
dễ hiểu, ngôn ngữ đời thường (nhưng 3 không được quá thô tục) thì dễ lôi cuốn
khán giả trẻ hơn.
Âm nhạc đại chúng (ca khúc theo
4 phong cách “Nhạc nhẹ”) được sử dụng
nhiều trong nhà trường hiện nay
Những ca khúc có lời ca “bất cần đời”,
5 đề cao yếu tố vật chất mới là những ca
khúc được giới trẻ yêu thích.
Nghe ca khúc thấy vui tai, thích là
6 được, không quan trọng về ca từ, nội
dung.
Nhạc đại chúng V-Pop đang bị khủng
7 hoảng, lộn xộn, nhạt nhẽo, thiếu chất
lượng.
Câu 17: Các sản phẩm âm nhạc “phản văn hóa” với ca từ (hình ảnh) dung tục, nhảm nhí có những ảnh hƣởng tiêu cực nào dƣới đây? (Được chọn nhiều đáp án
phù hợp với suy nghĩ của bạn bằng cách đánh dấu X vào ô bên cạnh)
Có tác động xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, 1 hành vi của một bộ phận sinh viên
Làm hủy hoại, xói mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt 2 đẹp của dân tộc
Làm gia tăng lối sống thực dụng 3
Ảnh hưởng xấu đến thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ hiện nay 4
Ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội 5
Câu 18: Bạn đánh giá nhƣ thế nào về các chƣơng trình, sự kiện âm nhạc do nhà trƣờng tổ chức ? (Được chọn nhiều đáp án phù hợp với suy nghĩ của bạn
bằng cách đánh dấu X vào ô bên cạnh)
Đáp ứng được nhu cầu thưởng thức và sáng tạo âm nhạc của 1 sinh viên
Mang tính giáo dục thẩm mỹ, giáo dục đạo đức và lối sống 2
167
cho sinh viên
Chỉ mang tính chất giải trí, không có ý nghĩa giáo dục lắm 3
Có ý nghĩa định hướng cho sinh viên trong việc lựa chọn các 4 sản phẩm âm nhạc có nội dung tư tưởng tốt
Chưa chú ý đến các phong cách âm nhạc mà sinh viên yêu 5 thích hiện nay
Chúc bạn luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công
Trân trọng cảm ơn!
--------------
168
XỬ LÝ SỐ LIỆU VÀ PHỔ BIẾN KẾT QUẢ
***
Để thu thập thông tin phục vụ đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành khảo
sát thực tế bằng phương pháp điều tra sử dụng bảng hỏi Ankét đối với sinh viên các
trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội, Đại học Mỏ - Địa chất, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, với 930 phiếu được phát ra và thu về 911 phiếu (đạt 98%).
Thông tin cá nhân
Giới tính
Valid
Frequency Percent Percent Cumulative Percent
Valid Nam 532 58.4 58.4 58.4
Nữ 379 41.6 41.6 100.0
Total 911 100.0 100.0
Dân tộc
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid kinh 877 96.3 96.3 96.3
Thiểu sô 34 3.7 3.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Thành phần
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Đảng viên 12 1.3 1.3 1.3
Đoàn viên 899 98.7 98.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Là cán bộ Đoàn, Hội
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid có 11 1.2 1.2 1.2
169
Không 900 98.8 98.8 100.0
Total 911 100.0 100.0
Bạn là sinh viên năm
Valid
Frequency Percent Percent Cumulative Percent
27.3 27.3 249 Valid 1 27.3
38.2 38.2 348 2 65.5
23.6 23.6 215 3 89.1
10.9 10.9 99 4 100.0
911 Total 100.0 100.0
Gia đình sống ở
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Thành thị 443 48.6 48.6 48.6
Nông thoon 468 51.4 51.4 100.0
Total 911 100.0 100.0
Tuổi đã chia
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid 18-20 311 34.2 34.2 34.2
21-22 449 49.3 49.3 83.5
>23 150 16.5 16.5 100.0
Total 911 100.0 100.0
Tuổi
Valid
Frequency Percent Percent Cumulative Percent
16 1.8 1.8 1.8 18 Valid
124 13.6 11.7 15.4 19
171 18.8 20.2 34.2 20
170
28.3 28.3 258 21 62.5
21 21 191 22 83.5
12.6 12.6 115 23 96.1
3.9 3.9 36 24 100.0
100.0 100.0 911 Total
Câu 1: Mức độ yêu thích của bạn nhƣ thế nào đối với các loại hình nghệ thuật
Âm nhạc
Valid
Frequency Percent Percent Cumulative Percent
Valid Rất thích 844 92.6 92.6 92.6
Thích 52 5.7 5.7 98.3
Bình 15 1.7 1.7 100.0 thường
Không 0 0.0 0.0 100.0 thích
Total 911 100.0 100.0
Văn học, thơ ca
Valid
Frequency Percent Percent Cumulative Percent
Valid Rất thích 1.3 12 1.3 1.3
Thích 28.9 263 28.9 30.2
Bình thường 52.8 481 52.8 83.0
Không thích 17.0 155 17.0 100.0
Total 911 100.0 100.0
Hội họa
Valid
Frequency Percent Percent Cumulative Percent
Valid Rất thích 85 9.3 9.3 9.3
171
42.8 Thích 305 33.5 33.5
91.3 Bình thường 442 48.5 48.5
100.0 Không thích 79 8.7 8.7
Total 911 100.0 100.0
Kiến trúc, điêu khắc
Valid
Frequency Percent Percent Cumulative Percent
1.1 Valid Rất thích 10 1.1 1.1
26.7 Thích 233 25.6 25.6
85.1 Bình thường 532 58.4 58.4
100.0 Không thích 136 14.9 14.9
Total 911 100.0 100.0
Kịch
Valid
Frequency Percent Percent Cumulative Percent
2.7 Valid Rất thích 25 2.7 2.7
29.2 Thích 241 26.5 26.5
Bình 83.5 495 54.3 54.3 thường
Không 100.0 150 16.5 16.5 thích
Total 911 100.0 100.0
Múa
Valid
Frequency Percent Percent Cumulative Percent
Valid Rất thích 87 9.6 9.6 9.6
Thích 298 32.7 32.7 42.3
172
Bình thường 430 47.2 47.2 89.5
Không thích 96 10.5 10.5 100.0
Total 911 100.0 100.0
Điện ảnh
Valid
Frequency Percent Percent Cumulative Percent
88.6 Valid Rất thích 807 88.6 88.6
97.8 Thích 84 9.2 9.2
100.0 Bình thường 20 2.2 2.2
100.0 Không thích 0 0.0 0.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 2: Bạn thích nghe loại nhạc nào
Những sáng tác của các tác giả Việt Nam theo các thể loại, trào lƣu
Pop, Ballad, Hip hop,…(còn đƣợc gọi thông dụng là “Nhạc trẻ”)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 880 96.6 96.6 96.6
Không 31 3.4 3.4 100.0
Total 911 100.0 100.0
Âm nhạc đại chúng Âu - Mỹ (US - UK)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 619 67.9 67.9 67.9
Không 292 32.1 32.1 100.0
Total 911 100.0 100.0
173
Âm nhạc đại chúng Châu Á (K-Pop, C-Pop, J-Pop,…)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 852 93.5 93.5 93.5
Không 59 6.5 6.5 100.0
Total 911 100.0 100.0
Các ca khúc phổ thông đại chúng về đề tài cách mạng Việt Nam
(thƣờng đƣợc gọi là “Nhạc đỏ”)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 412 45.2 45.2 45.2
Không 499 54.8 54.8 100.0
Total 911 100.0 100.0
Các ca khúc lãng mạn Việt Nam trƣớc 1945 (thƣờng gọi là “Nhạc tiền chiến”)
và của các nhạc sĩ thế hệ trƣớc giải phóng ở miền Nam Việt Nam nhƣ: Phạm
Duy, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Ánh 9, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng…
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 330 36.2 36.2 36.2
Không 581 63.8 63.8 100.0
Total 911 100.0 100.0
Bolero Việt Nam (các ca khúc trữ tình quê hƣơng hay trƣớc thƣờng đƣợc gọi
là “Nhạc vàng”, “Nhạc sến”, ra đời ở miền Nam Việt Nam những năm 50, 60
của thế kỷ XX)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 271 29.7 29.7 29.7
174
Không 640 70.3 70.3 100.0
Total 911 100.0 100.0
Dân ca các vùng miền, các dân tộc Việt Nam
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 15 1.6 1.6 1.6
Không 896 98.4 98.4 100.0
Total 911 100.0 100.0
Các thể loại ca nhạc thính phòng, sân khấu truyền thống Việt Nam: Tuồng,
Chèo, Cải lƣơng, Ca Trù, Xẩm, Chầu Văn, Đờn ca tài tử…
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 29 3.2 3.2 3.2
Không 882 96.8 96.8 100.0
Total 911 100.0 100.0
Hòa tấu nhạc cụ dân tộc (Tranh, Bầu, Sáo, Nhị…)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 86 9.4 9.4 9.4
Không 825 90.6 90.6 100.0
Total 911 100.0 100.0
Độc tấu nhạc cụ phƣơng Tây (Piano, Guitar, Violin, Saxophone,...)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 244 26.8 26.8 26.8
175
Không 667 73.2 73.2 100.0
Total 911 100.0 100.0
Các thể loại nhạc giao hƣởng - thính phòng (nhạc cổ điển không lời)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 103 11.3 11.3 11.3
Không 808 88.7 88.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Hòa tấu “nhạc nhẹ” (các bản hòa tấu nhạc cụ với những nét giai điệu du
dƣơng, nhẹ nhàng và êm dịu, mang lại cảm giác bình yên và thanh thản)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 434 47.6 47.6 47.6
Không 477 52.4 52.4 100.0
Total 911 100.0 100.0
Nhạc kịch phƣơng Tây (Opera cổ điển; phong cách Broadway,…)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 89 9.8 9.8 9.8
Không 822 90.2 90.2 100.0
Total 911 100.0 100.0
Thể loại khác (xin ghi rõ)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có (mashup) 7 0.8 0.8 0.8
176
Không 904 99.2 99.2 100.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 3: Bạn thƣờng thƣởng thức âm nhạc từ những nguồn nào
Qua sóng truyền hình
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 521 57.2 57.2 57.2
Không 390 42.8 42.8 100.0
Total 911 100.0 100.0
Qua sóng phát thanh
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 24 2.6 2.6 2.6
Không 887 97.4 97.4 100.0
Total 911 100.0 100.0
Từ các bản lƣu giữ âm thanh (băng, đĩa, usb...)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 391 42.9 42.9 42.9
Không 520 57.1 57.1 100.0
Total 911 100.0 100.0
Trên mạng Internet (máy tính, điện thoại,...)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 904 99.2 99.2 99.2
177
Không 7 0.8 0.8 100.0
Total 911 100.0 100.0
Nghe trực tiếp từ nghệ sĩ tại các tụ điểm, sân khấu ca nhạc
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 326 35.8 35.8 35.8
Không 585 64.2 64.2 100.0
Total 911 100.0 100.0
Nghe trực tiếp tại các buổi giao lƣu, sinh hoạt cộng đồng
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 349 38.3 38.3 38.3
Không 562 61.7 61.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 4: Khi thƣởng thức âm nhạc, mức độ quan tâm của bạn nhƣ thế nào đối
với những yếu tố sau
Nội dung, ca từ của tác phẩm
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Quan tâm 897 98.5 98.5 98.5
Bình thường 14 1.5 1.5 100.0
Không quan 0 0.0 0.0 100.0 tâm
Total 911 100.0 100.0
178
Âm thanh, phần nhạc đệm (beat)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Quan tâm 881 96.7 96.7 96.7
Bình thường 30 3.3 3.3 100.0
Không quan 0 0.0 0.0 100.0 tâm
Total 911 100.0 100.0
Diễn xuất của ca sĩ, diễn viên trong các MV ca nhạc
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Quan tâm 691 75.8 75.8 75.8
Bình thường 182 20.0 20.0 95.8
Không quan 38 4.2 4.2 100.0 tâm
Total 911 100.0 100.0
Vũ đạo, trang phục, ngoại hình của nghệ sĩ
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Quan tâm 697 76.5 76.5 76.5
Bình thường 179 19.7 19.7 96.2
Không quan 35 3.8 3.8 100.0 tâm
Total 911 100.0 100.0
Hiệu ứng sân khấu/MV ca nhạc đẹp và hoành tráng
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
179
63.6 Valid Quan tâm 579 63.6 63.6
90.9 Bình thường 249 27.3 27.3
Không quan 100.0 83 9.1 9.1 tâm
Total 911 100.0 100.0
Tác phẩm của ca sĩ/ban nhạc nổi tiếng
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
35.9 Valid Quan tâm 327 35.9 35.9
85.1 Bình thường 448 49.2 49.2
Không quan 100.0 136 14.9 14.9 tâm
Total 911 100.0 100.0
Tác phẩm của nhạc sĩ nổi tiếng
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
32.5 Valid Quan tâm 296 32.5 32.5
89.6 Bình thường 520 57.1 57.1
Không quan 100.0 95 10.4 10.4 tâm
Total 911 100.0 100.0
Câu 5: Bạn có thích nghe những bản nhạc theo phong cách cổ điển phƣơng
Tây, những ca khúc “Nhạc đỏ”, “Nhạc tiền chiến”, đƣợc dàn dựng, hòa âm,
phối khí, “làm mới” theo các thể loại, trào lƣu hiện đại nhƣ Pop, Rock,
Ballad,…
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Thích 700 76.8 76.8 76.8
180
Không thích 211 23.2 23.2 100.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 6: Bạn nhận xét thế nào khi “làm mới” các tác phẩm âm nhạc cổ điển, các
ca khúc “Nhạc đỏ”, “Nhạc tiền chiến” theo các thể loại, trào lƣu hiện đại.
Cách làm này tạo điều kiện để các tác phẩm âm nhạc cổ điển, những tác phẩm
mang tính “bác học”, “đi cùng năm tháng” đến gần hơn với công chúng, nhất
là đối với công chúng trẻ hiện nay.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 558 61.3 61.3 61.3
Không 353 38.7 38.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Sau khi nghe những sản phẩm âm nhạc đƣợc “làm mới”, những tác phẩm
“nguyên bản” đƣợc tìm đến để nghe nhiều hơn trƣớc. Và do đó, đây cũng là
cách khiến công chúng biết đến những tác phẩm “kinh điển” mà trƣớc đó họ
chƣa bao giờ nghe, hoặc ít nghe.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 478 52.5 52.5 52.5
Không 433 47.5 47.5 100.0
Total 911 100.0 100.0
Nên tôn trọng những quy chuẩn của âm nhạc truyền thống. Vì, những tác
phẩm đó đƣợc sáng tác trong một giai đoạn lịch sử nhất định, ca từ, giai điệu
đã mang theo tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩa hào hùng của giai đoạn lịch sử đó
rồi. Tôi không đồng tình với cách làm này. Cách làm này làm mất đi chất riêng
của từng dòng nhạc.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 422 46.3 46.3 46.3
181
Không 489 53.7 53.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Nếu vẫn giữ đƣợc tinh thần chính của tác phẩm và sự “phá cách” không quá
đà. Tôi hoàn toàn ủng hộ cách làm này.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 427 46.9 46.9 46.9
Không 484 53.1 53.1 100.0
Total 911 100.0 100.0
Việc “làm mới” sẽ khiến giới trẻ tiếp thu một cách thụ động âm nhạc theo xu
hƣớng nghe mà không hiểu đƣợc ý nghĩa, không cảm đƣợc hồn của tác phẩm.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 87 9.5 9.5 9.5
Không 824 90.5 90.5 100.0
Total 911 100.0 100.0
Ý kiến khác (xin ghi rõ):………………………………………………….
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 0.0 0.0 0.0 0.0
Không 911 100.0 100.0 100.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 7: Bạn thích thƣởng thức âm nhạc có tính chất nhƣ thế nào
Nhẹ nhàng, tình cảm, ca từ giàu chất thơ, mang tính triết lý, sâu lắng
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Thích 316 34.7 34.7 34.7
Bình thường 485 53.2 53.2 87.9
182
Không thích 110 12.1 12.1 100.0
Total 911 100.0 100.0
Trẻ trung, ca từ gần gũi với hiện thực cuộc sống.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Thích 63.3 63.3 63.3 577
Bình thường 36.7 36.7 100.0 334
Không thích 0.0 0.0 0
Total 100.0 100.0 911
Mạnh mẽ, ảo diệu, huyền bí, kỳ ảo, hƣng phấn, kích thích.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Thích 52.7 52.7 52.7 480
Bình thường 21.9 21.9 74.6 200
Không thích 25.4 25.4 100.0 231
Total 100.0 100.0 911
Hào hùng, mang tính chất hành khúc
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Thích 251 27.5 27.5 27.5
Bình thường 488 53.6 53.6 81.1
Không thích 172 18.9 18.9 100.0
Total 911 100.0 100.0
Lắt léo, dí dỏm, vui tai
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Thích 424 46.5 46.5 46.5
Bình thường 487 53.5 53.5 100.0
Không thích 0 0.0 0.0
183
Total 911 100.0 100.0
Câu 8: Nhu cầu thƣởng thức âm nhạc
Frequenc Valid Cumulative
y Percent Percent Percent
Valid Mức độ nhiều 53.8 53.8 53.8 490
Mức độ bình thường 31.6 31.6 85.4 288
Mức độ ít 14.6 14.6 100.0 133
Total 100.0 100.0 911
Câu 9: Thỏa mãn nhu cầu âm nhạc của sinh viên ở các đề tài âm nhạc
Về tình yêu đôi lứa
Frequenc Valid Cumulative
y Percent Percent Percent
Valid Muốn nghe 89.6 89.6 89.6 816
Bình thường 10.4 10.4 100.0 95
Không muốn nghe 0.0 0.0 100.0 0
Total 100.0 100.0 911
Về mái trƣờng, thầy cô, bạn bè
Frequenc Valid Cumulative
y Percent Percent Percent
Valid Muốn nghe 49.5 49.5 49.5 451
Bình thường 46.3 46.3 95.8 422
Không muốn nghe 4.2 4.2 100.0 38
Total 100.0 100.0 911
Về quê hƣơng đất nƣớc, phong cảnh thiên nhiên
Frequenc Valid Cumulative
y Percent Percent Percent
Valid Muốn nghe 456 50.1 50.1 50.1
Bình thường 412 45.2 45.2 95.3
184
Không muốn nghe 43 4.7 4.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Về ông bà, cha mẹ
Frequenc Valid Cumulative
y Percent Percent Percent
Valid Muốn nghe 53.3 53.3 53.3 486
Bình thường 46.7 46.7 100.0 425
Không muốn nghe 0.0 0.0 100.0 0
Total 100.0 100.0 911
Về ƣớc mơ, khát vọng
Frequenc Valid Cumulative
y Percent Percent Percent
Valid Muốn nghe 62.7 62.7 62.7 571
Bình thường 37.3 37.3 100.0 340
Không muốn nghe 0.0 0.0 100.0 0
Total 100.0 100.0 911
Về những số phận nghiệt ngã
Frequenc Valid Cumulative
y Percent Percent Percent
Valid Muốn nghe 51.7 51.7 51.7 471
Bình thường 40.5 40.5 92.2 369
Không muốn nghe 7.8 7.8 100.0 71
Total 100.0 100.0 911
Về chiến tranh và hòa bình
Frequenc Valid Cumulative
y Percent Percent Percent
Valid Muốn nghe 348 38.2 38.2 38.2
Bình thường 541 59.4 59.4 97.6
Không muốn nghe 22 2.4 2.4 100.0
185
Total 911 100.0 100.0
Về hình tƣợng ngƣời lính, ngƣời chiến sĩ
Frequenc Valid Cumulative
y Percent Percent Percent
Valid Muốn nghe 32.5 32.5 32.5 296
Bình thường 56.1 56.1 88.6 511
Không muốn nghe 11.4 11.4 100.0 104
Total 100.0 100.0 911
Các vấn đề khác mà bạn đang quan tâm
Frequenc Valid Cumulative
y Percent Percent Percent
Valid Muốn nghe 0.0 0.0 0.0 0
Bình thường 0.0 0.0 0.0 0
Không muốn nghe 0.0 0.0 0.0 0
Không có ý kiến khác 100.0 100.0 100.0 911
Total 100.0 100.0 911
Câu 10: Trƣờng bạn thƣờng chú trọng vào các hoạt động nào
Thành lập câu lạc bộ âm nhạc, đội văn nghệ của trƣờng
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 877 96.3 96.3 96.3
Không 34 3.7 3.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Tổ chức các hoạt động văn nghệ mừng các ngày lễ lớn
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
896 98.4 98.4 98.4 Valid Có
15 1.6 1.6 100.0 Không
Total 911 100.0 100.0
186
Tổ chức cuộc thi giọng hát hay sinh viên, hội diễn văn nghệ
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 815 89.5 89.5 89.5
Không 96 10.5 10.5 100.0
Total 911 100.0 100.0
Tổ chức giao lƣu văn nghệ với các đơn vị khác
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 618 67.8 67.8 67.8
Không 293 32.2 32.2 100.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 11: Bạn đánh giá thế nào về vai trò của Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp
Thanh niên, Hội Sinh viên trong việc định hƣớng thẩm mỹ các hoạt động văn
hóa, văn nghệ cho sinh viên hiện nay
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Tốt 35 3.8 3.8 3.8
Bình thường 477 52.4 52.4 56.2
Chưa tốt 399 43.8 43.8 100.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 12: Bạn đánh giá nhƣ thế nào về những vấn đề dƣới đây của tổ chức Đoàn
Thanh niên, Hội Sinh viên trong các hoạt động thời gian qua
Khâu tổ chức
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Tốt 48 5.3 5.3 5.3
Bình thường 424 46.5 46.5 51.8
Chưa tốt 439 48.2 48.2 100.0
187
Total 911 100.0 100.0
Ý thức của đoàn viên, thanh niên
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Tốt 88 9.7 9.7 9.7
Bình thường 378 41.5 41.5 51.2
Chưa tốt 445 48.8 48.8 100.0
Total 911 100.0 100.0
Hiệu quả của các phong trào
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Tốt 68 7.5 7.5 7.5
Bình thường 326 35.8 35.8 43.3
Chưa tốt 517 56.7 56.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Năng lực của cán bộ đoàn
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Tốt 42 4.6 4.6 4.6
Bình thường 487 53.5 53.5 58.1
Chưa tốt 382 41.9 41.9 100.0
Total 911 100.0 100.0
Ý kiến khác
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Tốt 0 0.0 0.0 0.0
Bình thường 0 0.0 0.0 0.0
Chưa tốt 0 0.0 0.0 0.0
Không có ý 911 100.0 100.0 100.0
188
kiến
Total 911 100.0 100.0
Câu 13: Bạn hãy nhận xét về mức độ quan tâm của trƣờng bạn đối với các nội
dung của môn mỹ học?
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Thường xuyên 7 0.8 0.8 0.8
Bình thường 54 5.9 5.9 6.7
Rất ít 393 43.1 43.1 49.8
Không được học 457 50.2 50.2 100.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 14: Bản thân bạn có sẵn sàng tham gia các hoạt động âm nhạc do Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên nhà trƣờng tổ chức? (Chọn một đáp án phù hợp với
suy nghĩ của bạn)
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Luôn sẵn sàng 545 59.8 59.8 59.8
Bình thường 323 35.5 35.5 95.3
Không hứng thú 43 4.7 4.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 15: Bạn đánh giá thế nào về âm nhạc đại chúng Việt Nam (V-Pop)
Chú trọng quá nhiều tới hình ảnh ca sĩ, dẫn đến việc thƣởng thức âm nhạc giờ
đây chủ yếu là để “ngắm” mà ít quan tâm đến giọng ca của ca sĩ; nội dung, ý
nghĩa của các tác phẩm.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 789 86.6 86.6 86.6
Không 122 13.4 13.4 100.0
Total 911 100.0 100.0
189
Phần lớn các ca khúc ra đời chỉ “hot” trong một khoảng thời gian ngắn, sau đó
dễ bị lãng quên
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 753 82.7 82.7 82.7
Không 158 17.3 17.3 100.0
Total 911 100.0 100.0
Ca khúc chủ yếu nhằm vào mục đích thƣơng mại, “câu khách”, “câu like”, ít
chú ý tới ca từ đẹp, có ý nghĩa sâu sắc.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 422 46.3 46.3 46.3
Không 489 53.7 53.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Xuất hiện ngày càng nhiều ca khúc với lời ca trái với thuần phong mỹ tục,
phản đạo lý, sáo rỗng, trùng lặp, dung tục, vô nghĩa… Nội dung một số ca khúc
xa rời thực tiễn và những vấn đề nóng bỏng của đất nƣớc, con ngƣời.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 715 78.5 78.5 78.5
Không 196 21.5 21.5 100.0
Total 911 100.0 100.0
V-pop luôn luôn sôi động, đáp ứng kịp thời nhịp sống mới của thời kỳ hội nhập
quốc tế. V-pop phát triển mạnh bởi có sự hỗ trợ của công nghệ “lăng-xê, quảng
cáo” trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng và các trang mạng xã hội.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
834 91.6 91.6 91.6 Valid Có
77 8.4 8.4 100.0 Không
911 100.0 100.0 Total
190
Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và cách làm việc năng động,
chuyên nghiệp của các ê-kíp, nhiều sản phẩm âm nhạc chất lƣợng đã ra đời.
Một số nhạc sĩ, ca sĩ đã bƣớc đầu có tầm ảnh hƣởng trong khu vực và thế giới.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 804 88.3 88.3 88.3
Không 107 11.7 11.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Tình trạng “đạo nhạc”, “đạo beat”, vi phạm bản quyền làm suy thoái đạo đức
nghề nghiệp; tình trạng vay mƣợn cảm xúc, thiếu vốn sống và tri thức văn hóa
dân tộc không thích hợp với tâm hồn và tình cảm của ngƣời Việt Nam.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 696 76.4 76.4 76.4
Không 215 23.6 23.6 100.0
Total 911 100.0 100.0
Ý kiến khác
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 0.0 0.0 0.0 0.0
Không 911 100.0 100.0 100.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 16. Ý kiến của bạn về một số nhận định sau
Cuộc sống sẽ tẻ nhạt nếu không đƣợc thƣởng thức âm nhạc
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Đồng ý 897 98.5 98.5 98.5
Không hoàn 14 1.5 1.5 100.0 toàn đồng ý
191
Không đồng ý 0 0.0 0.0 100.0
Total 911 100.0 100.0
Ca khúc có giai điệu đẹp, lời ca trong sáng, giàu chất thơ văn, có nội dung ý
nghĩa sâu sắc giờ đây chỉ có số ít
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Đồng ý 44 4.8 4.8 4.8
Không hoàn 756 83.0 83.0 87.8 toàn đồng ý
Không đồng ý 111 12.2 12.2 100.0
Total 911 100.0 100.0
Ca khúc có giai điệu và lời ca đơn giản, dễ hiểu, ngôn ngữ đời thƣờng (nhƣng
không đƣợc quá thô tục) thì dễ lôi cuốn khán giả trẻ hơn.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Đồng ý 877 96.3 96.3 96.3
Không hoàn 12 1.3 1.3 97.6 toàn đồng ý
Không đồng ý 22 2.4 2.4 100.0
Total 911 100.0 100.0
Âm nhạc đại chúng (ca khúc theo phong cách “Nhạc nhẹ”) đƣợc sử dụng nhiều
trong nhà trƣờng hiện nay
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Đồng ý 697 76.5 76.5 76.5
Không hoàn 102 11.2 11.2 87.7 toàn đồng ý
Không đồng ý 112 12.3 12.3 100.0
Total 911 100.0 100.0
192
Trƣờng Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Đồng ý 162 50.2 50.2 50.2
Không hoàn 83 25.7 25.7 75.9 toàn đồng ý
Không đồng ý 78 24.1 24.1 100.0
Total 323 100.0 100.0
Đại học Mỏ - Địa chất
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Đồng ý 256 92.8 92.8 92.8
Không hoàn 2 0.7 0.7 93.5 toàn đồng ý
Không đồng ý 18 6.5 6.5 100.0
Total 276 100.0 100.0
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Đồng ý 279 89.4 89.4 89.4
Không hoàn 2 0.6 0.6 90.0 toàn đồng ý
Không đồng ý 31 10.0 10.0 100.0
Total 312 100.0 100.0
Những ca khúc có lời ca “bất cần đời”, đề cao yếu tố vật chất mới là những ca
khúc đƣợc giới trẻ yêu thích.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Đồng ý 0 0.0 0.0 0.0
Không hoàn 398 43.7 43.7 43.7
193
toàn đồng ý
Không đồng ý 513 56.3 56.3 100.0
Total 911 100.0 100.0
Nghe ca khúc thấy vui tai, thích là đƣợc, không quan trọng về ca từ, nội dung.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Đồng ý 20 2.2 2.2 2.2
Không hoàn 623 68.4 68.4 70.6 toàn đồng ý
Không đồng ý 268 29.4 29.4 100.0
Total 911 100.0 100.0
Nhạc đại chúng V-Pop đang bị khủng hoảng, lộn xộn, nhạt nhẽo, thiếu chất lƣợng.
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Đồng ý 204 22.4 22.4 22.4
Không hoàn 615 67.5 67.5 89.9 toàn đồng ý
Không đồng ý 92 10.1 10.1 100.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 17. Các sản phẩm âm nhạc “phản văn hóa” với ca từ (hình ảnh) dung tục,
nhảm nhí có những ảnh hƣởng tiêu cực nào?
Có tác động xấu đến tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ
phận sinh viên
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
753 82.7 82.7 82.7 Valid Có
158 17.3 17.3 100.0 Không
911 100.0 100.0 Total
194
Làm hủy hoại, xói mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 852 93.5 93.5 93.5
Không 59 6.5 6.5 100.0
Total 911 100.0 100.0
Làm gia tăng lối sống thực dụng
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 521 57.2 57.2 57.2
Không 390 42.8 42.8 100.0
Total 911 100.0 100.0
Ảnh hƣởng xấu đến thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ hiện nay
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 558 61.3 61.3 61.3
Không 353 38.7 38.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Ảnh hƣởng trực tiếp đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 349 38.3 38.3 38.3
Không 562 61.7 61.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
Câu 18. Bạn đánh giá nhƣ thế nào về các chƣơng trình, sự kiện âm nhạc do
nhà trƣờng tổ chức
Đáp ứng đƣợc nhu cầu thƣởng thức và sáng tạo âm nhạc của sinh viên
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
195
464 Valid Có 50.9 50.9 50.9
447 Không 49.1 49.1 100.0
911 Total 100.0 100.0
Mang tính giáo dục thẩm mỹ, giáo dục đạo đức và lối sống cho sinh viên
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 488 53.6 53.6 53.6
Không 423 46.4 46.4 100.0
Total 911 100.0 100.0
Chỉ mang tính chất giải trí, không có ý nghĩa giáo dục lắm
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 226 24.8 24.8 24.8
Không 685 75.2 75.2 100.0
Total 911 100.0 100.0
Có ý nghĩa định hƣớng cho sinh viên trong việc lựa chọn
các sản phẩm âm nhạc có nội dung tƣ tƣởng tốt
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 469 51.5 51.5 51.5
Không 442 48.5 48.5 100.0
Total 911 100.0 100.0
Chƣa chú ý đến các phong cách âm nhạc mà sinh viên yêu thích hiện nay
Valid Cumulative
Frequency Percent Percent Percent
Valid Có 713 78.3 78.3 78.3
Không 198 21.7 21.7 100.0
Total 911 100.0 100.0
196
PHỤ LỤC 2
GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ VÀ KÝ HIỆU
ÂM NHẠC DÙNG TRONG LUẬN ÁN
I. Các thuật ngữ về các yếu tố, các phƣơng tiện biểu hiện của âm nhạc Âm sắc: Mặc dù âm thanh có giống nhau về cao độ, về trường độ, về cường
độ nhưng vẫn có những tính chất riêng biệt của nó. Tính chất riêng của âm thanh
được gọi là âm sắc. Để xác định đặc điểm của âm sắc, người ta sử dụng những cụm
danh từ thuộc các lĩnh vực cảm giác khác nhau, chẳng hạn như: Âm thanh mềm
mại, âm thanh gay gắt, âm thanh đậm đặc, âm thanh lanh lảnh, âm thanh du
dương,... Mỗi loại nhạc cụ hoặc mỗi giọng người đều có âm sắc riêng biệt. Trong
quá trình phát triển của lịch sử âm nhạc, vai trò của âm sắc ngày càng được quan
tâm, trở thành tiêu biểu cho những yếu tố tạo hình. Âm sắc có liên quan chặt chẽ
với âm vực của giai điệu. Mỗi giai điệu, nếu được tiến hành ở những âm vực khác
nhau (thấp, trung bình, cao) sẽ có mức độ căng thẳng, sáng tối khác nhau, để miêu
tả hình tượng âm nhạc, và cũng sẽ phù hợp với âm sắc, âm vực của từng nhạc cụ.
Cao độ: Về mặt vật lý, cao độ là mức độ cao thấp, trầm bổng của âm thanh.
Độ cao của âm thanh phụ thuộc vào tần số (tốc độ) dao động của vật thể rung. Dao
động càng nhiều, càng nhanh, âm thanh càng cao và ngược lại. Hệ thống âm thanh
dùng làm cơ sở cho hoạt động âm nhạc hiện nay là một loại âm thanh có những mối
tương quan nhất định với nhau về độ cao. Sự sắp xếp các âm của hệ thống dựa theo
độ cao gọi là hàng âm, còn mỗi âm thanh khác là một bậc của hàng âm đó. Hàng âm
hoàn chỉnh của hệ thống âm nhạc gồm 88 âm thanh khác nhau. Dao động của các âm
đó từ những âm thấp nhất đến những âm cao nhất nằm trong giới hạn từ 16 đến 4176
lần trong một giây. Đó là những âm thanh có độ cao mà tai người có thể phân biệt
được. Các bậc cơ bản của hàng âm trong hệ thống âm nhạc hiện nay có 07 tên gọi độc
lập: DO - RE - MI - FA - SOL - LA - SI (TI). 07 bậc cơ bản này có thể thăng (#) hoặc
giáng (b) nên tính tổng cộng có tới 12 bậc trong hàng âm ở một quãng tám.
Cƣờng độ: Là mức độ mạnh nhẹ của âm thanh. Độ mạnh của âm thanh phụ
thuộc vào sức mạnh của những dao động, tức là phụ thuộc vào quy mô dao động của
vật thể - nguồn âm thanh. Không gian trong đó diễn ra các dao động gọi là biên độ dao
động. Biên độ (quy mô) dao động càng rộng, âm thanh càng to và ngược lại [13, tr.8].
197
Trong âm nhạc, cường độ liên quan đến hướng chuyển động của giai điệu.
Khi giai điệu lên cao dần thì màu sắc âm thanh thường sáng hơn và cường độ cũng
lớn dần. Trái lại, khi giai điệu đi xuống, cường độ cũng giảm dần. Người ta thường
dùng các thuật ngữ hoặc ký hiệu chuyên ngành để thể hiện cường độ được sử dụng
trong tác phẩm (việc sử dụng cường độ chính xác và không máy móc sẽ góp phần
làm cho nội dung của tác phẩm thể hiện đầy đủ hơn), ví dụ như: Pianissimo (pp) có
nghĩa là rất nhẹ; piano (p) với ý nghĩa là nhẹ; mezzo-forte (mf) là mạnh vừa; forte
(f) là mạnh; fortissimo (ff) là rất mạnh. Hoặc các thuật ngữ và ký hiệu để báo hiệu
thay đổi cường độ trong tác phẩm như: Crescendo (Cresc.) có nghĩa là mạnh dần
lên; decrescendo (decresc.) là nhẹ dần,…
Hòa thanh: Là sự kết hợp các âm thanh với nhau theo những quy luật nhất
định. Mỗi chuỗi các âm thanh đó được sắp xếp lại với nhau một cách tinh tế, nhằm
tạo nên cơ sở của giai điệu. Sự hòa hợp cùng một lúc các âm thanh đó là cơ sở của
hòa thanh. Ba khía cạnh quan trọng nhất của hòa thanh là: (a) Bổ sung và làm rõ
cho giai điệu, (b) Tạo màu sắc, (c) Công năng. Chẳng hạn, hòa thanh của một phần
nào đó trong tác phẩm thay đổi thường xuyên sẽ làm cho giai điệu trở nên căng
thẳng, không ổn định. Ngược lại, nếu hòa thanh ít thay đổi, giai điệu thường có tính
dàn trải, êm ả. Do đó, bản thân một giai điệu nào đó có thể thay đổi do sự thay đổi
trong lối tiến hành hòa thanh.
Nhịp độ: Là tốc độ của sự chuyển động. Thường được chia thành ba nhóm
cơ bản: Chậm, vừa và nhanh. Nhịp độ có ảnh hưởng nhất định đến đặc tính của tác
phẩm âm nhạc. Nhịp độ liên quan đến hình tượng và thể loại của tác phẩm âm nhạc.
Nhịp độ nhanh làm cho âm nhạc sinh động và linh hoạt, ngược lại, nhịp độ chậm
tạo sự bình ổn, thư thái hơn.
Tiết luật: Là sự luân phiên giữa phách mạnh và phách nhẹ. Phách mạnh là
điểm tựa, có chức năng dẫn dắt, còn phách nhẹ giữ chức năng phụ thuộc. Trừ
trường hợp đặc biệt, khi thay đổi chức năng, tạo thành đảo phách. Giữa nhịp này và
nhịp khác cách nhau bằng vạch nhịp. Có hai dạng chính của tiết luật: Tiết luật
nghiêm khắc (vị trí trọng tâm không thay đổi trong các nhịp) và tiết luật tự do (vị trí
trọng âm thay đổi, gây nên hiện tượng đảo phách). Tiết tấu và tiết luật là hai mặt
của một quá trình phức tạp về tổ chức thời gian trong hình thức âm nhạc liên quan chặt chẽ, không thể tách rời.
Tiết tấu: Là tương quan trường độ của các âm thanh nối tiếp nhau. Trong âm
nhạc, người ta sử dụng các loại trường độ cơ bản (chia chẵn, là những nốt tròn,
trắng, đen, móc đơn,...) và tự do (những trường độ được tạo nên do sự phân chia
ước lệ các loại trường độ cơ bản thành những phần bằng nhau với bất cứ một số
198
lượng nào: Chùm hai, chùm ba, chùm bốn, chùm năm, chùm sáu, chùm bảy). Tiết
tấu giữ vai trò quan trọng trong tính tạo hình của tác phẩm, thông qua tiết tấu, ta có
thể hiểu được hình tượng của chủ đề âm nhạc. Nếu tước bỏ phần giai điệu, trong
chừng mực nhất định, tiết tấu có thể tạo cho người nghe cảm nhận được âm hình đó
thể hiện các sắc thái tình cảm vui vẻ, hội hè, nhảy múa, hoặc thôi thúc, hiệu lệnh,
chiến trận hay u buồn, thương tiếc, than thở,...
Trƣờng độ: Là mức độ dài ngắn của âm thanh. Độ dài ngắn của âm thanh
không làm thay đổi tính chất vật lý, nhưng đứng trên quan điểm âm nhạc mà xem
xét thì nó lại có ý nghĩa quan trọng bậc nhất, vì nó có liên quan đến việc biểu hiện
tính chất, nội dung của âm nhạc. Trong âm nhạc, độ dài của âm thanh được quy
định bằng các nốt nhạc với những hình dạng khác nhau, ví dụ như:
Nốt tròn: w Nốt trắng: h Nốt đen: q Nốt móc đơn: É Nốt móc kép: s
Trong nhiều trường hợp, những nốt nhạc đã có vẫn không đủ đáp ứng những
yêu cầu thể hiện độ dài của âm thanh, người ta phải bổ sung bằng nhiều hình thức
với nhiều ký hiệu tăng thêm độ dài (dấu nối, dấu chấm dôi, dấu lặng,…).
II. Các thuật ngữ về các thể loại âm nhạc Nhạc Avant-garde: là khái niệm để chỉ thể loại âm nhạc được coi là đi trước
thời đại (theo đúng nguyên gốc tiếng Pháp), trong đó bao gồm một hoặc vài yếu tố
mới, hoặc khám phá những pha trộn và phong cách mới lạ. Ngày nay, khái niệm
này được dùng để chỉ cho bất cứ sự cách tân âm nhạc nào thời kỳ hậu 1945 mà không
theo phong cách thể nghiệm, hoặc đôi lúc cũng áp dụng với thể loại thể nghiệm
nhưng lại loại bỏ yếu tố giọng (giọng là độ cao dựa vào để sắp xếp điệu thức).
Nhạc Blues: có nguồn gốc từ những điệu hát của miền Tây (Châu Phi); được
các nô lệ da đen mang sang Bắc Mỹ, đặc biệt là vùng châu thổ sông Mississippi tại
miền Nam (Hoa Kỳ). Tại vùng đất mới, điệu nhạc thô sơ này được phát triển thêm
với các nhạc khí mới và trở nên rất phổ thông trong các cộng đồng nô lệ người Mỹ
gốc Phi khi họ tụ tập với mục đích làm việc, gặt hái, tín ngưỡng hay tiêu khiển. Dần
dần nhạc Blues cũng được ưa chuộng bởi giới trẻ da trắng ở Hoa Kỳ. Motif blues, dùng
phổ biến trong nhạc Jazz, Blues và Rock&Roll, được đặc trưng bởi các gam tiến, trong
đó blues 12 thanh là phổ biến nhất. Các nốt nhạc blues, với mục đích biểu cảm, được
hát hoặc chơi ngang hoặc chuyển dần (từ cung thứ 3 đến cung trưởng thứ 3) trong
giọng tương ứng. Đây cũng là một phần đặc trưng quan trọng của loại nhạc này.
Nhạc Country (Nhạc đồng quê) gắn liền với một nền văn hóa cao bồi ở Hoa
Kỳ, được ra đời dựa trên nhạc thượng du miền Nam, chịu nhiều ảnh hưởng từ
những hệ thống nhạc khác như Blues, Jazz với các nét giai điệu trầm buồn, du
199
dương. Dòng nhạc này không cần nhiều nhạc cụ, đôi khi chỉ là một cây guitar;
người ta vẫn say sưa hát. Nội dung đơn giản, thường là những triết lý nhỏ về cuộc
sống của những người lao động. Hay đơn giản là sự cô đơn hay những niềm tin và
các mối quan hệ trong gia đình.
Nhạc Easy listening: là dòng nhạc không mang tiết tấu dồn dập, khẩn
trương, được trình diễn bởi dàn nhạc hòa tấu có nhiều loại nhạc cụ như: đàn phím,
đàn dây,... Dòng nhạc với âm thanh nhẹ nhàng này thường được sử dụng làm nhạc
nền trong những không gian yên tĩnh như là một hình thức nhạc thính phòng.
Nhạc EDM được viết tắt từ Electronic Dance Music - nghĩa là âm nhạc được
tạo ra từ các thiết bị điện tử. Đây là thể loại nhạc có tiết tấu mạnh, kế thừa từ nhạc
Disco những năm 1970 và một chút cảm hứng từ Pop. EDM được cho là có nguồn
gốc từ Mỹ, được phát triển mạnh mẽ qua các lễ hội nhạc nhảy (Dance Festival) và
các câu lạc bộ (hộp đêm). Chính vì vậy, hầu hết mọi người đều quen gọi EDM bằng
cái tên chung là Dance music.
Nhạc Hip hop là một thể loại âm nhạc và trào lưu văn hóa xuất hiện từ thập
niên 1970 tại Bronx (New York, Hòa Kỳ). Nền văn hóa này xuất thân và phát triển
ở những khu ghetto (thường là những nơi ở tập trung của những người nghèo, người
da màu, nơi thường gắn liền với nhiều tệ nạn xã hội và băng đảng). Văn hóa Hip
hop được miêu tả như một hoạt động được hình thành bởi nhiều phương tiện truyền
đạt khác nhau như: Vũ điệu/múa (Breakdancing), phác họa (Graffiti), nhạc trộn
(Djing), hoạt náo viên (MCing) và hát nói (Rapping).
Nhạc Jazz: là một thể loại âm nhạc bắt nguồn từ cộng đồng người Châu Phi
ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Jazz nổi lên ở nhiều nơi trên nước
Mỹ với phong cách âm nhạc độc lập phổ biến vào thời đó. Dòng nhạc Jazz là sự pha
trộn giữa nhạc Blues và hòa âm trong Nhạc cổ điển, sự trộn lẫn phức tạp trong tiết
tấu của âm nhạc Châu Phi và với một xu hướng thiên về biểu diễn có tính ứng tác -
ứng tấu ngẫu nhiên.
Nhạc Pop: bắt đầu từ thập niên 1950. Trong làng nhạc đại chúng thì nhạc
Pop thường được phân biệt với các thể loại khác nhờ một số đặc điểm về phong
cách nghệ thuật, những giai điệu đơn giản dễ nghe, cùng với một số đoạn trong bài
hát được lặp đi lặp lại. Nội dung thường nói tới tình yêu, cảm xúc và một số chủ đề
khác. Nhạc Pop là một thể loại nhạc rất đa dạng về phân loại. Thường thì nhạc Pop
được phân loại theo thể loại và theo quốc gia hoặc vùng lãnh thổ.
Nhạc R&B/Soul (R&B là viết tắt của Rymthm and Blues), bắt đầu xuất hiện
vào cuối những năm 1950, là sự kết hợp của 3 dòng nhạc chính là Jazz, nhạc phúc
âm (Gospel Music) và Blues. Những đặc điểm quan trọng của nhạc R&B/Soul là
200
tiết tấu lôi cuốn, những phách nhấn mạnh bằng tiếng vỗ tay, sự ứng tác bằng những
chuyển động của cơ thể. Những đặc tính khác như sự pha lẫn giữa cấu trúc “hỏi -
đáp” (call and response) giữa người hát solo và phần bè, đặc biệt hơn chính là âm
thanh căng khỏe của giọng hát. Thể loại này cũng sử dụng thêm các yếu tố như
ngẫu hứng (improvisation), cách hát luyến láy và các âm thanh bổ trợ khác.
Nhạc Rock: được bắt nguồn từ cách gọi ngắn gọn của cụm từ “Rock and
Roll” vào những năm 1950 ở Mỹ, rồi sau đó phát triển thành rất nhiều thể loại con
khác nhau từ những năm 60 của thế kỷ XX đến nay, đặc biệt ở Anh và Hoa Kỳ.
Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nhạc Blues và Nhạc đồng quê, Rock thường được tập
trung ở việc sử dụng guitar điện, cùng với đó là guitar bass và trống. Đặc biệt, các
sáng tác rock thường sử dụng nhịp 4/4 với cấu trúc phổ thông “phát triển - điệp
khúc” (verse - chorus), song các thể loại con của Rock lại vô cùng đa dạng và các
đặc điểm chung để định nghĩa trở nên rất khó xác định.
III. Các thuật ngữ khác Cover: Trong âm nhạc, thuật ngữ cover được dùng để chỉ một màn biểu diễn
mới hoặc bản thu âm mới của một bản thu âm trước đó đã có sẵn. Thường thì các
bản cover được người ta biểu diễn lại dựa trên một tác phẩm nổi tiếng hoặc một tác
phẩm đã được phát hành thương mại.
Hit: Được dùng để chỉ những tác phẩm âm nhạc (chủ yếu là ca khúc) được
nghe/xem nhiều nhất.
Liveshow: Chương trình biểu diễn ca nhạc sống động, trực tiếp và có quy mô lớn.
Mashup: Ghép các tác phẩm âm nhạc khác nhau để trở thành một sản phẩm
âm nhạc mới hoàn chỉnh.
MV (Music Video): Một dạng phim ngắn hợp nhất nhạc và hình ảnh.
Nhạc Indie (Independent music - Âm nhạc độc lập): Xuất hiện vào những
năm 80 và 90 của thế kỷ XX, Indie là một nét nghệ thuật gắn liền với khẩu hiệu
“DIY” (Do it yourself); là nơi các nghệ sĩ, nhóm nhạc vô danh, tự do thể hiện cá
tính âm nhạc riêng và làm những điều mình thích, không bị giới hạn hay đóng
khung trong một khung mẫu nào cả. Các nghệ sĩ Indie phải tự thân vận động trong
tất cả các khâu từ sáng tác, hòa âm, phối khí, sản xuất, quảng bá và phát hành
(thường thông qua các website chia sẻ nhạc trực tuyến như Soundcloud,
YouTube,… và tổ chức các chương trình biểu diễn tại nhiều địa điểm công cộng
nhỏ lẻ như đường phố, quán cafe, quán bar…).
Nhạc Underground: Âm nhạc “phi chính thống”. Có thể coi Underground là
một lý tưởng âm nhạc của “thế giới ngầm” mà ở đó, những người hoạt động theo con
đường này hầu như không quan tâm đến danh vọng, khán giả, showbiz. Thứ duy nhất
201
quan trọng là khám phá và làm mới âm nhạc. Đối lập với Underground là Mainstream
(hay Overground) - âm nhạc được phát hành qua các “kênh” chính thống.
Showbiz: Nền công nghiệp giải trí.