BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
(in hoa, Times New Roman, 14) HỌC VIỆN TÀI CHÍNH ----------
NGUYỄN MINH THÀNH
(In hoa, cỡ chữ 14, Times New Roman)
HOÀN THIỆN KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TẠI CÁC ĐƠN VỊ THUỘC TỔNG CÔNG TY ĐIỆN LỰC DẦU KHÍ VIỆT NAM (In hoa, cỡ chữ 16, Times New Roman)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ (In hoa, cỡ chữ 14, Times New Roman)
HÀ NỘI, NĂM 2017 1 (In hoa, cỡ chữ 14, Times New Roman)
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
(in hoa, Times New Roman, 14) HỌC VIỆN TÀI CHÍNH ----------
NGUYỄN MINH THÀNH (In hoa, cỡ chữ 14, Times New Roman)
HOÀN THIỆN KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TẠI CÁC ĐƠN VỊ THUỘC TỔNG CÔNG TY ĐIỆN LỰC DẦU KHÍ VIỆT NAM (In hoa, cỡ chữ 16, Times New Roman)
CHUYÊN NGÀNH: KẾ TOÁN
MÃ SỐ: 62.34.03.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
(In hoa, cỡ chữ 14, Times New Roman)
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS., TS. LƯU ĐỨC TUYÊN 2. TS. VŨ THỊ KIM ANH
HÀ NỘI, NĂM 2017 2 (In hoa, cỡ chữ 14, Times New Roman)
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được bảo
vệ ở bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được
cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận án
i
Nguyễn Minh Thành
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................. I
MỤC LỤC ....................................................................................... II
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ......................................................... V
DANH MỤC CÁC BẢNG .......................................................... VII
DANH MỤC BIỂU ĐỒ .............................................................. VIII
DANH MỤC SƠ ĐỒ ..................................................................... IX
MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................... 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ........................................ 20
1.1 Các quan điểm, khái niệm và bản chất của KTQT ......................... 20 1.1.1 Sự phát triển của các quan điểm về KTQT ........................................... 20 1.1.2 Khái niệm và bản chất của KTQT ........................................................ 24
1.2 Vai trò, đối tượng và phương pháp của KTQT ............................... 26 1.2.1 Vai trò của KTQT ................................................................................. 26 1.2.2 Đối tượng của KTQT ............................................................................ 29 1.2.3 Phương pháp của KTQT ....................................................................... 32
1.3 Nội dung KTQT trong mối quan hệ với các chức năng quản lý của nhà quản trị ......................................................................................... 34 1.3.1 Các chức năng quản lý của nhà quản trị ............................................... 34 1.3.2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định .................................. 37 1.3.2.1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định tác nghiệp ... 37 1.3.2.2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định chiến lược ... 43 1.3.3 Nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát .................................... 48 1.3.3.1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát tác nghiệp ...... 48 1.3.3.2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát chiến lược ...... 49 1.3.4 Nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả ....................... 51 1.3.4.1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả tác
nghiệp ....................................................................................... 51
1.3.4.2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả chiến
ii
lược .......................................................................................... 54 1.3.5 Nội dung KTQT phục vụ chức năng ra quyết định .............................. 58 1.3.5.1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng ra quyết định tác nghiệp 60 1.3.5.2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng ra quyết định chiến lược 62
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến nội dung KTQT doanh nghiệp .......... 62
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TẠI CÁC ĐƠN VỊ THUỘC TỔNG CÔNG TY ĐIỆN LỰC DẦU KHÍ VIỆT NAM ................................................................................................ 70
2.1 Tổng quan về PV-Power và các đơn vị thuộc PV-Power ................ 70 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của PV-Power ................................... 70 2.1.2 Mô hình, cơ cấu tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh điện của PV- Power .................................................................................................... 72 2.1.2.1 Mô hình, cơ cấu tổ chức PV-Power ......................................... 73 2.1.2.2 Hoạt động sản xuất kinh doanh điện của PV-Power ............... 75
2.2 Đặc điểm hoạt động SXKD điện ảnh hưởng tới KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power .................................................................................. 78 2.2.1 Đặc điểm bên trong PV-Power ............................................................. 79 2.2.1.1 Đặc điểm trong giai đoạn đầu tư nhà máy điện ...................... 79 2.2.1.2 Đặc điểm trong giai đoạn vận hành nhà máy điện .................. 79 2.2.2 Đặc điểm bên ngoài PV-Power ............................................................. 85
2.3 Thực trạng KTQT trong mối quan hệ với các chức năng quản lý của nhà quản trị tại các đơn vị thuộc PV-Power .................................... 86 2.3.1 Thực trạng việc thực hiện các chức năng quản lý của nhà quản trị tại PV- Power .................................................................................................... 87 2.3.2 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng hoạch định ............................... 88 2.3.2.1 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng hoạch định tác nghiệp 88 2.3.2.2 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng hoạch định chiến lược 99 2.3.3 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng kiểm soát ................................. 99 2.3.3.1 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng kiểm soát tác nghiệp . 100 2.3.3.2 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng kiểm soát chiến lược . 102 2.3.4 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả .................. 104
2.3.4.1 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả tác
nghiệp ..................................................................................... 104
2.3.4.2 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả chiến
lược ........................................................................................ 106 2.3.5 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng ra quyết định.......................... 107
iii
2.4 Đánh giá thực trạng KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power ........ 107 2.4.1 Những kết quả đạt được ...................................................................... 107 2.4.2 Những hạn chế và nguyên nhân .......................................................... 109 2.4.2.1 Những hạn chế ....................................................................... 109 2.4.2.2 Những nguyên nhân của hạn chế ........................................... 113
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TẠI CÁC ĐƠN VỊ THUỘC TỔNG CÔNG TY ĐIỆN LỰC DẦU KHÍ VIỆT NAM .......................................................................... 117
3.1 Triển vọng ngành điện Việt Nam và định hướng phát triển của PV- Power .................................................................................................. 117 3.1.1 Triển vọng ngành điện Việt Nam ....................................................... 117 3.1.2 Định hướng phát triển của PV-Power ................................................. 120
3.2 Yêu cầu hoàn thiện KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power .......... 121
3.3 Hoàn thiện KTQT trong mối quan hệ với các chức năng quản lý của nhà quản trị tại các đơn vị thuộc PV-Power .................................. 122 3.3.1 Hoàn thiện việc thực hiện các chức năng quản lý của nhà quản trị tại PV- Power .................................................................................................. 123 3.3.2 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng hoạch định ............................. 124
3.3.2.1 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng hoạch định tác nghiệp
................................................................................................ 124
3.3.2.2 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng hoạch định chiến lược
................................................................................................ 138 3.3.3 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng kiểm soát ............................... 139 3.3.3.1 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng kiểm soát tác nghiệp . 139 3.3.3.2 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng kiểm soát chiến lược . 147 3.3.4 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả .................. 149
3.3.4.1 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả tác
nghiệp ..................................................................................... 149
3.3.4.2 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả chiến
lược ........................................................................................ 152 3.3.5 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng ra quyết định ......................... 155
3.3.5.1 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng ra quyết định tác nghiệp
................................................................................................ 155
3.3.5.2 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng ra quyết định chiến lược
................................................................................................ 157
3.4 Lộ trình và điều kiện thực hiện các giải pháp hoàn thiện ............ 157 3.4.1 Lộ trình thực hiện các giải pháp hoàn thiện ....................................... 157 3.4.2 Điều kiện thực hiện các giải pháp hoàn thiện ..................................... 159
KẾT LUẬN .................................................................................. 163
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .............................. XI
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................... XII
iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Phần tiếng Việt BCĐKT Bảng cân đối kế toán BCKQHĐKD Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
BCQT Báo cáo quản trị
BCTC Báo cáo tài chính
CCDC Công cụ dụng cụ
CP Chi phí
CPNCTT CPNVLTT Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
CPSXC Chi phí sản xuất chung
CTCP Công ty cổ phần
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
KTQT Kế toán quản trị
KTTC MTV Kế toán tài chính Một thành viên
NXB Nhà xuất bản
SXKD Sản xuất kinh doanh
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TSCĐ Tài sản cố định
Phần tiếng nước ngoài ABC
ABM
ACCA
BSC
CIMA
CMA
v
CVP Activity Based Cost/Costing Quản trị chi phí dựa trên hoạt động Activity Based Management Hệ thống quản trị dựa trên hoạt động Association of Chartered Certified Accountants Hiệp hội kế toán công chứng Anh Quốc Balanced ScoreCard Thẻ điểm cân bằng Chartered Institute of Management Accountants Hiệp hội kế toán quản trị công chứng Anh Quốc Certified Management Accounting Kế toán quản trị viên hành nghề Cost – Volumn – Profit
Mối quan hệ Chi phí – Khối lượng – Lợi nhuận
EVN
Vietnam Electricity Tập đoàn điện lực Việt Nam
FS
Feasibility Study Báo cáo nghiên cứu khả thi
ICAEW
Institute of Chartered Accountants in England and Wales Viện kế toán công chứng Anh và xứ Wales
IFAC
International Federation of Accountants Liên đoàn kế toán quốc tế
IPP
Independent Power Producer Đơn vị phát điện độc lập
IRR
Internal Rate of Return Tỷ suất sinh lời nội bộ
JIT
NPV
O&M
PPA
PVN
PV-Power
ROI
SVA/EVA
TQM
VACPA
VBC
vi
Just in Time Phương thức sản xuất tối thiểu hóa hàng tồn kho Net Present Value Giá trị hiện tại thuần Operations and Maintenance Chi phí vận hành và bảo dưỡng Power Perchase Agreement Hợp đồng mua bán điện PetroVietnam Tập đoàn dầu khí Việt Nam PetroVietnam Power Corporation Tổng Công ty điện lực dầu khí Việt Nam Return on Investment Lợi nhuận từ khoản đầu tư Sharholder or Economic Value Analysis Phân tích giá trị cổ đông hoặc Phân tích giá trị kinh tế Total Quality Management Hệ thống quản trị chất lượng tổng thể Vietnam Association of Certified Public Accountants Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam Volumn Based Cost/Costing Quản trị chi phí dựa trên khối lượng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng Trang Số hiệu
Bảng tóm tắt nội dung Phiếu khảo sát số 1 16
Bảng TQ.01
Bảng tóm tắt nội dung Phiếu khảo sát số 2 17
Bảng TQ.02
Bảng 1.1 Các chức năng quản lý của nhà quản trị 35
Bảng 1.2 Nội dung KTQT trong mối quan hệ với chức năng quản lý 36
Bảng 1.3 Đặc điểm của các giai đoạn trong vòng đời sản phẩm 47
Bảng 1.4 Các phương pháp đánh giá hiệu quả trung tâm trách nhiệm 52
Bảng 2.1 Khái quát về các nhà máy điện của PV-Power 75
Bảng 2.2 Kế hoạch sản lượng điện và khối lượng nhiên liệu tiêu thụ 96
năm 2015 – Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1
Bảng 2.3 Kế hoạch doanh thu năm 2015 – Nhà máy nhiệt điện Cà 97
Mau 1
Bảng 2.4 Phân tích chênh lệch giá thành tháng 2/2015 – Nhà máy 100
điện Cà Mau 1
Bảng 3.1 Bảng tổng hợp chi phí O&M 124
Bảng 3.2 Dự toán khối lượng nhiên liệu cần mua 130
Bảng 3.3 Dự toán phải trả nhà cung cấp 133
Bảng 3.4 Dự toán phải thu tiền bán điện 134
Bảng 3.5 Dự toán cuốn chiếu chi phí Nhà máy Nhiệt điện Cà Mau 137
1 – giai đoạn từ Quý II/2015 đến hết Quý I/2016
Bảng 3.6 Dự toán linh hoạt chi phí sản xuất nhà máy nhiệt điện Cà 140
Mau – tháng 2/2015
Bảng 3.7 Báo cáo phân tích biến động chi phí sản xuất nhà máy 146
nhiệt điện Cà Mau – tháng 2/2015
Bảng 3.8 Lộ trình áp dụng các giải pháp hoàn thiện nội dung KTQT 158
vii
tại các đơn vị thuộc PV-Power
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 2.1 Biểu đồ cơ cấu thị trường điện Việt Nam 70
Biểu đồ 2.2 Biểu đồ cơ cấu danh mục nhà máy điện của PV- 71
Power
Biểu đồ 2.3 Biểu đồ cơ cấu nhà máy điện của PV-Power theo 77
công suất thiết kế
Biểu đồ 2.4 Biểu đồ sản lượng điện của PV-Power qua các năm 77
Biểu đồ 2.5 Biểu đồ doanh thu thuần của PV-Power qua các năm 78
Biểu đồ 2.6 Biểu đồ thời hạn hợp đồng PPA giữa PV-Power và 82
EVN
Biểu đồ 3.1 So sánh tốc độ tăng trưởng mức độ tiêu thụ điện của 117
Việt Nam với một số quốc gia Đông Nam Á
Biểu đồ 3.2 Dự báo mức tiêu thụ điện của Việt Nam giai đoạn 118
2016 – 2025
Biểu đồ 3.3 Cơ cấu nhu cầu điện của các đơn vị mua buôn điện 118
Việt Nam năm 2015
Biểu đồ 3.4 Sự thay đổi tỷ trọng các nguồn điện Việt Nam giữa 119
2015 với 2025
Biểu đồ 3.5 Biểu đồ hàm tuyến tính mô tả chi phí hỗn hợp O&M 125
viii
Biểu đồ 3.6 Biểu đồ biến động mức nhiên liệu tồn kho 132
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Tên sơ đồ Trang Số hiệu
Sơ đồ mục tiêu và cách thức tiếp cận luận án Sơ đồ 19
TQ01
Sơ đồ 1.1 Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý của nhà quản trị 35
Sơ đồ 1.2 Kỹ thuật quản trị chi phí kiểu truyền thống 45
Sơ đồ 1.3 Kỹ thuật quản trị chi phí mục tiêu (Target Costing) 46
Sơ đồ 1.4 Ảnh hưởng của các quyết định quản trị lên giá trị cổ đông 56
Sơ đồ 1.5 Các cấp quản trị và loại quyết định phải thực hiện 59
(Theo quan điểm của luận án)
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ tổ chức Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam 72
Sơ đồ 2.2 Mối quan hệ giữa các đối tượng tập hợp chi phí và luồng 90
chi phí
Sơ đồ 2.3 Sơ đồ quy trình xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật tại 93
các đơn vị thuộc PV-Power
Sơ đồ 2.4 Sơ đồ quy trình xây dựng định mức chi phí quản lý tại các 95
đơn vị thuộc PV-Power
Sơ đồ 2.5 Sơ đồ quy trình xây dựng dự toán cho các các đơn vị thuộc 99
PV-Power
Sơ đồ 2.6 Sơ đồ quy trình lập báo cáo phân tích chênh lệch ngắn và 102
trung hạn tại các đơn vị thuộc PV-Power
Sơ đồ 2.7 Sơ đồ quy trình đánh giá hiệu quả các trung tâm lợi nhuận 106
của PV-Power
Sơ đồ 3.1 Sơ đồ mối quan hệ giữa các loại dự toán của doanh nghiệp 129
Sơ đồ 3.2 Sơ đồ quy trình lập dự toán kết hợp 136
ix
Sơ đồ 3.3 Phân tích chênh lệch và dự báo hiệu quả dài hạn 148
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới trong bối cảnh thế giới đang có những
thay đổi nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Trong khi đó, nội tại nền kinh tế nước
ta còn nhiều khó khăn, thử thách lớn; lạm phát cao, kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định;
cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư bất hợp lý, kém hiệu quả, chậm điều chỉnh.
Trước bối cảnh đó, Đảng, Nhà nước và Chính phủ luôn xác định “Phát triển
kinh tế nhanh, bền vững gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền
kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh” là những mục
tiêu trọng tâm cần phải đạt được. Trong đó, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà
trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước là một trong các nhiệm
vụ quan trọng cần phải được thực hiện để đạt được các mục tiêu kể trên.
Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PV-Power) là tổng công ty 100%
vốn nhà nước thuộc quản lý của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nên việc tái cơ cấu
PV-Power theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh là nhiệm vụ
chính trị cần phải được tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.
Ngoài ra, quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 có
xét đến năm 2030 đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh điện phải nâng
cao sức cạnh tranh trong bối cảnh thị trường điện sẽ vận hành theo cơ chế thị trường.
PV-Power nếu muốn tồn tại và phát triển bền vững cũng không nằm ngoài quy luật
tất yếu của yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh. Và một trong những giải pháp để PV-
Power nâng cao sức cạnh tranh đó là nâng cao năng lực quản lý doanh nghiệp của
nhà quản trị các cấp tại PV-Power.
Kế toán quản trị được biết tới như là một trong những công cụ quản lý hữu
hiệu nhất cho các nhà quản trị doanh nghiệp nhằm mục đích đưa ra được những
quyết định chính xác và kịp thời. Tuy nhiên, việc vận dụng KTQT tại các doanh
nghiệp nhà nước nói chung và tại PV-Power nói riêng còn nhiều hạn chế, bất cập.
1
Nhiều doanh nghiệp chưa coi trọng vai trò của KTQT. Một số đã áp dụng KTQT
nhưng chưa biết cách khai thác hết tiềm năng của KTQT trong việc hỗ trợ nhà quản
trị thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý của mình. Dẫn tới việc quản lý các doanh
nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, thiếu hiệu quả.
Xuất phát từ các lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện
kế toán quản trị tại các đơn vị thuộc Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam”
cho luận án của mình.
Thông qua đề tài, tác giả mong muốn đưa ra được các giải pháp, kiến nghị
nhằm hoàn thiện kế toán quản trị tại các đơn vị thuộc Tổng công ty Điện lực Dầu
khí Việt Nam, góp phần thực hiện công cuộc tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà
nước. Ngoài ra, tác giả cũng mong muốn hệ thống hóa được các lý luận về KTQT
doanh nghiệp và đưa ra được các nội dung chủ yếu của KTQT tại các doanh nghiệp
sản xuất và kinh doanh điện trong bối cảnh thị trường điện cạnh tranh sẽ được áp
dụng trong tương lai không xa tại Việt Nam.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
Thứ nhất, lịch sử KTQT và những lý luận cơ bản về KTQT được quốc tế và
Việt Nam thừa nhận, trong đó tập trung vào những lý luận về nội dung của KTQT
trong mối quan hệ với các chức năng quản lý của nhà quản trị doanh nghiệp. Nghiên
cứu đối tượng này nhằm tạo ra cơ sở lý luận về KTQT và các nội dung KTQT để
làm nền tảng cho những nghiên cứu khác trong luận án.
Thứ hai, nhân tố ảnh hưởng tới các nội dung KTQT tại doanh nghiệp. Nghiên
cứu đối tượng này nhằm tạo cơ sở lý luận để tìm hiểu các đặc điểm bên trong và
bên ngoài PV-Power có thể ảnh hưởng tới việc áp dụng các nội KTQT tại PV-
Power.
Thứ ba, đặc điểm bên trong và bên ngoài PV-Power cũng như thực trạng
KTQT tại PV-Power, trong đó tập trung vào thực trạng nội dung của KTQT tại PV-
Power. Nghiên cứu về đối tượng này nhằm đánh giá và chỉ ra những kết quả đã đạt
2
được và những điểm còn hạn chế của KTQT tại PV-Power.
3.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn như sau:
Thứ nhất, về giới hạn lĩnh vực hoạt động của PV-Power. Hoạt động của
doanh nghiệp thường bao gồm 03 loại: hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động
tài chính, hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, do PV-Power là doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước nằm trong đề án tái cơ cấu của Chính phủ và sẽ được tái cơ cấu theo hướng
tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của
đề tài được giới hạn trong phạm vi là “Hoạt động sản xuất kinh doanh điện của PV-
Power”. Hoạt động đầu tư nếu được nghiên cứu trong luận án này sẽ được hiểu là
“Hoạt động đầu tư các nhà máy điện của PV-Power” trong tương lai.
Thứ hai, về giới hạn nội dung. Nghiên cứu về KTQT rất đa dạng, không chỉ
đề cập đến nội dung mà còn đề cập đến tổ chức thực hiện, tổ chức bộ máy KTQT
v.v… Tuy nhiên, do thời gian và giới hạn của một luận án tiến sĩ, tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu các “nội dung của KTQT”. Các vấn đề liên quan đến tổ chức thực
hiện và tổ chức bộ máy KTQT nếu được đề cập tới trong luận án này chỉ nhằm để
cung cấp thông tin bổ sung cho việc mô tả toàn diện nhất về thực trạng KTQT tại
PV-Power.
Thứ ba, về giới hạn không gian. Luận án tập trung nghiên cứu các đơn vị có
liên quan trực tiếp tới hoạt động SXKD điện tại PV-Power là: (1) cơ quan Tổng
Công ty PV-Power giữ chức năng quản lý, điều hành tổng thể và (2) 07 đơn vị thuộc
PV-Power trực tiếp tổ chức vận hành các nhà máy điện bao gồm 03 chi nhánh và
04 công ty con (Cụ thể được trình bày trong Chương 2 của luận án).
Thứ tư, về giới hạn thời gian. Luận án chủ yếu nghiên cứu các dữ liệu từ năm
2014 – 2016.
4. Đóng góp của luận án về mặt lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận:
+ Luận án hệ thống hóa, làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận của KTQT,
3
đặc biệt là làm rõ các vấn đề theo tiến trình lịch sử. Từ đó cung cấp
được cái nhìn có hệ thống theo thời gian và giải thích các vấn đề lý
luận hiện nay của KTQT theo sự phát triển của lịch sử.
+ Luận án chỉ ra những đặc điểm ảnh hưởng tới nội dung KTQT tại
doanh nghiệp SXKD điện và cụ thể hóa một số nội dung phù hợp với
loại doanh nghiệp này.
- Về mặt thực tiễn:
+ Luận án đánh giá được thực trạng KTQT tại PV-Power, trong đó tập
trung vào đánh giá các nội dung của KTQT.
+ Trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận án đưa ra những giải pháp để
hoàn thiện KTQT tại PV-Power (trong đó tập trung hoàn thiện các nội
dung KTQT) nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
cho PV-Power.
5. Kết cấu của luận án
Luận án gồm 164 trang. Ngoài phần mở đầu (04 trang) và kết luận (02 trang), luận
án bao gồm các phần chính sau:
- Phần tổng quan vấn đề nghiên cứu: hệ thống và phân tích các nghiên cứu
trước đó trên thế giới cũng như tại Việt Nam liên quan đến đề tài, chỉ ra
những vấn đề còn tồn tại mà luận án sẽ tập trung giải quyết, xác định mục
tiêu đề tài, nội dung và phương pháp nghiên cứu (15 trang).
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về KTQT doanh nghiệp (50 trang).
- Chương 2: Thực trạng KTQT tại các đơn vị thuộc Tổng công ty Điện lực
Dầu khí Việt Nam (47 trang).
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện KTQT tại các đơn vị thuộc Tổng công ty
4
Điện lực Dầu khí Việt Nam (46 trang).
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Mục đích của phần tổng quan này nhằm hệ thống và phân tích các nghiên cứu trước
đó trên thế giới cũng như tại Việt Nam liên quan đến đề tài, chỉ ra những vấn đề còn
tồn tại mà luận án sẽ tập trung giải quyết, xác định câu hỏi nghiên cứu và khung
nghiên cứu.
1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Tác giả tiến hành nghiên cứu tổng quan theo 03 nhóm vấn đề, bao gồm: (1) tổng quan
các vấn đề về lý luận chung của KTQT, (2) tổng quan các vấn đề về nội dung của
KTQT, (3) tổng quan các vấn đề về ứng dụng KTQT trong từng lĩnh vực, ngành
nghề.
Thứ nhất, tổng quan các vấn đề về lý luận chung của KTQT.
Các vấn đề lý luận chung của KTQT được hiểu là những vấn đề liên quan đến
các quan điểm về KTQT, các khái niệm và việc đi tìm đâu là bản chất của KTQT,
vai trò, đối tượng và các phương pháp được sử dụng trong KTQT. Trong lịch sử
nghiên cứu KTQT đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về từng vấn đề cụ thể này.
Có thể điểm ra một số công trình nổi bật như sau:
* Về các quan điểm KTQT. Vấn đề nghiên cứu lịch sử và quá trình phát triển
của KTQT đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học trên thế giới
như: Solomons [94]; Chatfield [40]; Chandler [37]; Parker [83]; Johnson & Kaplan
[65]; Hopwood [60]; Hoskin & Macve [61]; Loft [75]; Okano & Suzuki [81]… Theo
đó, với mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử kinh tế xã hội, KTQT cũng đã có những
sự phát triển tương ứng để cung cấp được thông tin thích hợp đáp ứng nhu cầu của
nhà quản trị trong từng giai đoạn. Vì vậy, theo thời gian, các quan điểm về KTQT
của các nhà khoa học cũng có sự thay đổi tương ứng với sự phát triển khách quan của
KTQT. Các nhà khoa học được kể trên đã có những công trình nghiên cứu về lịch sử
KTQT và đưa ra những quan điểm riêng về KTQT (được trình bày cụ thể trong
5
Chương 1 của luận án).
Không tham vọng có thể đưa ra được một quan điểm chung nhất đại diện cho
tất cả quan điểm của các nhà khoa học trước đây về KTQT, Liên đoàn kế toán quốc
tế (IFAC) trong một nghiên cứu năm 1998 đã khái quát lại lịch sử phát triển của
KTQT thế giới theo 4 giai đoạn và mô tả về KTQT trong từng giai đoạn đó như sau:
- Giai đoạn 1 (Trước 1950) – KTQT xác định chi phí và kiểm soát tài chính
(Cost determination and financial control). Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) cho
rằng KTQT trước những năm 1950 là một công cụ đáp ứng các mục đích cơ bản của
đơn vị. Nội dung chủ yếu của KTQT trong thời gian này nhằm xác định chi phí cho
sản phẩm (các chi phí kết tinh vào sản phẩm phục vụ tính giá thành sản phẩm) và
kiểm soát tài chính của quá trình sản xuất. Đặc điểm của quy trình sản xuất giai đoạn
này là: quy trình sản xuất giản đơn; mức độ tự động hóa chưa cao. Chi phí nguyên
vật liệu và chi phí nhân công có thể xác định và tập hợp đơn giản. Vì vậy, nguyên vật
liệu trực tiếp và nhân công trực tiếp là hai tiêu thức được lựa chọn cho việc phân bổ
chi phí sản xuất chung cho từng sản phẩm. Nội dung kế toán chi phí sản phẩm tập
trung chủ yếu vào lập dự toán và kiểm soát tài chính của quá trình sản xuất chứ chưa
được sử dụng nhiều cho việc ra quyết định. Vì vậy, giai đoạn này, KTQT thường
được đồng nhất với Kế toán chi phí. Các kỹ thuật chủ yếu của KTQT trong giai đoạn
này bao gồm: (i) nhận diện (phân loại) chi phí (cost determination); (ii) xây dựng định
mức chi phí (standard cost); (iii) tập hợp chi phí (tập hợp trực tiếp và phân bổ gián
tiếp – direct cost and allocations of indirect cost); (iv) lập dự toán (budgeting) và kiểm
soát việc thực hiện dự toán (budgeting control); (v) phân tích biến động (variance
analysis); (vi) đo lường hiệu quả dựa trên những thước đo tài chính (performance
evaluation based on financial measures).
- Giai đoạn 2 (1950 - 1965) – KTQT cung cấp thông tin cho lập kế hoạch và
kiểm soát hoạt động (Information for management planning and control). KTQT giai
đoạn này tập trung vào mục tiêu lưu trữ thông tin phục vụ cho mục đích lập kế hoạch,
kiểm soát và ra quyết định. Theo công bố của Liên đoàn kế toán quốc tế, KTQT như
một hoạt động quản trị. Các kỹ thuật như phân tích cho việc ra quyết định và kế toán
6
trách nhiệm được sử dụng. Một số kỹ thuật chủ yếu của KTQT trong thời kỳ này bao
gồm: (i) quản trị chi phí kiểu Kaizen; (ii) kế toán trách nhiệm (responsibility
accounting); (iii) lập dự toán với nhiều phương án (Budgeting with “what if
analysis”); (iv) đo lường hiệu quả dựa trên những thước đo phi tài chính (performance
evaluation based on non-financial measures); (v) Phân tích dòng tiền chiết khấu
(NPV, IRR), (vi) mô hình CVP… Giai đoạn này, KTQT đã có những điểm khác biệt
cơ bản so với kế toán chi phí đơn thuần, KTQT cung cấp thông tin phục vụ ra quyết
định nhiều hơn.
- Giai đoạn 3 (1965 - 1985) – KTQT cắt giảm những lãng phí trong sử dụng
nguồn lực doanh nghiệp (Reduction waste of resources in business processes). Trong
bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu vào những năm 1970 do sự sụt giảm của giá dầu
dẫn tới các công ty không còn khả năng tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường như
các giai đoạn trước, giá cả nhiều mặt hàng suy giảm. Các công ty phải cạnh tranh
nhau bằng cách tiết giảm tối đa các chi phí để có thể duy trì sản xuất trong khoảng
thời gian những năm 1980. Kèm theo đó là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ đã ảnh hưởng không nhỏ tới nhiều khía cạnh của các ngành công nghiệp. Theo
học giả Kader & Luther (2006), việc phát triển công nghệ như sử dụng robot, điều
khiển máy tính đã cải thiện chất lượng sản xuất sản phẩm và giảm thiểu chi phí trong
nhiều trường hợp. Sự gia tăng việc sử dụng máy tính cá nhân đã ảnh hưởng đến nguồn
thông tin và dữ liệu cung cấp cho nhà quản trị [69].
Liên đoàn kế toán quốc tế IFAC công bố một số kỹ thuật quản trị và kỹ thuật
sản xuất mới đáp ứng yêu cầu cạnh tranh toàn cầu. Trong thời kỳ này, cùng với việc
xác định và kiểm soát chi phí thì vấn đề tiết kiệm trong việc sử dụng các nguồn lực
của doanh nghiệp được chú trọng. Trong những năm 1980, một số phương pháp kỹ
thuật sử dụng trong kế toán chi phí và KTQT như: (i) quản trị chi phí dựa trên hoạt
động (ABC), (ii) Quản trị chi phí chất lượng (quality costing); (iii) lập dự toán bắt
đầu từ con số 0; (zero based budgeting); (iv) lập dự toán dựa trên hoạt động (activity
based budgeting)...
- Giai đoạn 4 (1985 - nay) – KTQT tạo ra giá trị tối đa thông qua việc sử dụng
7
hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp (Creation of value through effective
resource use). Trong những năm 1990, theo như IFAC và một số học giả như Kader
& Luther [69], Darius Gliaubicas [44], môi trường kinh doanh toàn cầu có những tiến
bộ nhưng phải đối mặt với tình trạng không chắc chắn, khó dự đoán trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Phát triển mạng toàn cầu dẫn đến sự ra đời của thương mại điện
tử, cùng với sự tiếp tục gia tăng của cạnh tranh toàn cầu. Nội dung chủ yếu của KTQT
giai đoạn này tập trung vào các phương pháp kỹ thuật xem xét việc sử dụng hiệu quả
các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để tạo ra được nhiều giá trị gia tăng nhất. Liên
đoàn kế toán quốc tế IFAC năm 1998 công bố một số kỹ thuật nhằm phân tích lợi
nhuận khách hàng (customer profitability analysis), phân tích giá trị cổ đông
(shareholder value analysis), và việc đổi mới về tổ chức bộ máy quản trị trong giai
đoạn này, cụ thể bao gồm: (i) quản trị chi phí mục tiêu (target costing); (ii) đánh giá
điểm chuẩn (benchmarking); (iii) phân tích chuỗi giá trị; (iv) quản trị chi phí vòng
đời sản phẩm (life-cycle costing); thẻ điểm cân bằng (BSC)…
* Về bản chất của KTQT. Các học giả như: Kaplan, Bouquin, R. Kinney & A.
Raiborn, William N. Lanen và cộng sự, Charles T. Horngren và cộng sự… đều đã
đưa ra những khái niệm về KTQT dựa trên quan điểm nhà quản trị (manager) để từ
đó làm rõ bản chất của KTQT [78], [96]. Tuy nhiên, một số hiệp hội nghề quốc tế
như CIMA đưa ra khái niệm KTQT dựa trên quan điểm chủ sở hữu (owner) dẫn tới
bản chất KTQT cũng có thể được hiểu theo phạm vi rộng hơn (được trình bày cụ thể
trong Chương 1 của luận án).
* Về vai trò, đối tượng và phương pháp của KTQT. Các vấn đề lý luận liên
quan đến vai trò, đối tượng và phương pháp KTQT chủ yếu được các nghiên cứu
trong nước đề cập thông qua các giáo trình của các trường đại học và các luận án.
Hầu hết các tài liệu này đều coi KTQT giữ vai trò cung cấp các thông tin chi tiết về
các đối tượng kế toán mà KTTC không cung cấp được bằng cách sử dụng các phương
pháp truyền thống của kế toán như phương pháp tài khoản, chứng từ, sổ sách… (được
8
trình bày cụ thể trong Chương 1 của luận án).
Thứ hai, tổng quan các vấn đề về nội dung của KTQT.
Thống kê các nghiên cứu về nội dung của KTQT từ trước tới nay, tác giả nhận
thấy có thể phân chia thành 02 nhóm nghiên cứu chính, cụ thể: (i) các nghiên cứu
toàn diện/tổng thể nội dung KTQT và (ii) các nghiên cứu chi tiết từng nội dung
KTQT.
* Về các nghiên cứu toàn diện/tổng thể nội dung KTQT. Trong lịch sử phát
triển của KTQT, nội dung KTQT thường được các nhà nghiên cứu tiếp cận theo từng
nội dung cụ thể, ví dụ như: Kaplan & Johnson nghiên cứu nội dung thẻ điểm cân
bằng hay Porter nghiên cứu về chuỗi giá trị (value chain) v.v… Các nghiên cứu toàn
diện/tổng thể về nội dung KTQT được một số ít nhà nghiên cứu tổng hợp lại dựa trên
kết quả của những nghiên cứu trước đó như Chapman, Hopwood và Shields [38] với
hệ thống sổ tay về các nghiên cứu KTQT gồm 03 cuốn (Handbook of Management
Accounting Research Vol. 1, 2, 3) hay Abdel-Kader (2011) với cuốn Tổng quan các
nghiên cứu KTQT (Review of Management Accounting Research).
Tại Việt Nam, các nghiên cứu toàn diện về KTQT chưa nhiều. Một số luận án
tiến sĩ đề cập tới các nội dung KTQT mang tính toàn diện như: Phạm Văn Dược [21]
là người đầu tiên tại Việt Nam đề cập được những vấn đề tổng quát nội dung cơ bản
của KTQT trong luận án của mình, một số nội dung cụ thể được đưa ra như: (1) xác
định, tập hợp, phân tích chi phí liên quan đến sản phẩm nhằm mục đích chủ yếu để
tính giá thành sản phẩm; (2) lập dự toán sản xuất, kiểm soát chi phí thực tế và phân
tích biến động.
Giai đoạn đầu khi KTQT mới xuất hiện tại Việt Nam còn có Nguyễn Việt [16]
đã đề xuất các nội dung liên quan đến kế hoạch chiến lược sản xuất kinh doanh và kế
hoạch chiến lược tiếp thị sản phẩm trong luận án của mình.
Trong vài năm trở lại đây, các nghiên cứu mang tính toàn diện về KTQT mới
thực sự bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam và được nhiều tác giả nghiên cứu trong luận
án như: Hoàng Văn Tưởng [7]; Ngụy Thu Hiền [9]; Phạm Thị Tuyết Minh [19]; Trần
Thị Nhung [29]; Nguyễn Bích Hương Thảo [10]; Đỗ Thị Thu Hằng [4]. Các tác giả
này đã làm rõ được một số nội dung cơ bản của Kế toán chi phí và KTQT phục vụ 9
quản lý tác nghiệp trong ngắn và trung hạn. Một số tác giả chỉ ra và làm rõ được
những nội dung còn mới trong các nghiên cứu KTQT tại Việt Nam như các vấn đề
liên quan đến mô hình ABC, tính giá thành mục tiêu (Target Costing).
* Về các nghiên cứu chi tiết từng nội dung KTQT. Hầu hết các nghiên cứu
trong giai đoạn trước đây (trước năm 2000) đều chỉ tập trung vào Kế toán chi phí, cụ
thể là: (i) tập hợp và phân bổ chi phí theo mô hình truyền thống (phân bổ chi phí sản
xuất chung theo tiêu thức khối lượng); (ii) tính toán giá thành sản phẩm (giá thành
sản xuất và giá thành toàn bộ/tiêu thụ của sản phẩm). Một số nghiên cứu vẫn đồng
nhất cách hiểu giữa KTQT và kế toán chi phí là một. Một số tác giả nghiên cứu về
nội dung kế toán chi phí hay KTQT chi phí trong giai đoạn này như: Phạm Tiến Bình
[20]; Đoàn Đình Thiêm [2] đã phân loại chi phí chăn nuôi thành định phí và biến phí
theo tiêu thức mối quan hệ với mức độ hoạt động nhằm phục vụ cho việc hạch toán
chi phí và xác định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.
Giai đoạn từ năm 2000 trở lại đây, các nghiên cứu vẫn chủ yếu tập trung vào
nội dung quản trị chi phí nhằm mục tiêu tính giá thành. Tuy nhiên, các nghiên cứu về
nội dung quản trị chi phí đã có sự tăng trưởng mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Các nghiên cứu đã tập trung sâu hơn vào việc nhận diện chi phí, các phương pháp
đánh giá sản phẩm làm dở và phương pháp tính giá thành sản phẩm. Ngoài ra, các
phương pháp xây dựng dự toán chi phí sản xuất cũng được nhiều tác giả nghiên cứu
như: Trần Văn Dung [30]; Hồ Văn Nhàn [6]; Nguyễn Quốc Thắng [14]; Vũ Thị Kim
Anh [31]. Nguyễn Thị Ngọc Lan [15]; Phạm Thị Tuyết Minh [19]; Nguyễn Bích
Hương Thảo [10].
Bên cạnh đó, một số tác giả đã nghiên cứu về mô hình/công cụ quản trị chi phí
hiện đại, ví dụ như: Hoàng Văn Tưởng [7], đã đề cập khái quát về kế toán chi phí dựa
trên hoạt động (ABC – Activity Based Costing); Phạm Hồng Hải [17] đã trình bày
và luận giải những vấn đề cơ sở về ABC/M, sự phát triển các lý thuyết về ABC/M,
các ứng dụng của ABC/M vào thực tiễn và xây dựng phương án ứng dụng ABC/M
vào Việt Nam; Nguyễn Hoàn [11], Nguyễn Bích Hương Thảo [10], Đỗ Thị Thu
10
Hằng [4] đã đề cập tới Kế toán chi phí dựa trên hoạt động (ABC), mô hình quản trị
chi phí mục tiêu (Target Costing), mô hình quản trị chi phí theo vòng đời sản phẩm
(Life-Cycle Costing) và mô hình quản trị chi phí theo kiểu Kaizen (Kaizen Costing).
Nội dung quản trị các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất được Đỗ Thị Thu
Hằng [4] nghiên cứu trong luận án tiến sĩ của mình với việc quản trị các yếu tố như:
nguyên vật liệu, nhân công và tài sản cố định.
Nội dung kiểm soát chi phí của KTQT được Vũ Thị Kim Anh [31] đề cập tới
thông qua việc phân tích biến động (variance) giữa dự toán chi phí và chi phí thực tế.
Việc nghiên cứu mối quan hệ Chi phí – Khối lượng – Lợi nhuận (CVP) cũng
được 1 số tác giả đề cập đến trong các nghiên cứu của mình, như: Hoàng Văn Tưởng
[7]; Nguyễn Hoàn [11]; Vũ Thị Kim Anh [31].
Kế toán trách nhiệm cũng được một số tác giả nghiên cứu như: Hoàng Văn
Tưởng [7]; Nguyễn Hoàn [11]; Vũ Thị Kim Anh [31]; Đỗ Thị Thu Hằng [4].
Ngoài các nghiên cứu về KTQT phổ biến và một số mô hình/công cụ quản trị
chi phí hiện đại như nêu trên thì một số tác giả đã đề cập đến một vài nội dung khác
của KTQT hiện đại như: Phạm Quang [18] đã cho rằng “Quy luật cạnh tranh dẫn đến
mỗi loại sản phẩm, mỗi mặt hàng hoặc một loại hình kinh doanh cụ thể của các doanh
nghiệp đều có tính lịch sử, tức là có quá trình phát sinh, phát triển, suy tàn và diệt
vong – đó chính là “chu kỳ sống hay vòng đời của sản phẩm””. Hay Hoàng Văn
Tưởng [7] nhận định “Nhà quản trị ngày càng phải hiểu hơn các công cụ KTQT,
trong khi các chuyên gia KTQT phải am tường về chiến lược kinh doanh, cơ cấu tổ
chức của doanh nghiệp hay những phương pháp quản lý hiện đại như quản trị chất
lượng toàn diện, hệ thống sản xuất tinh gọn hay hệ thống tồn kho kịp thời…”.
Thứ ba, tổng quan các vấn đề về ứng dụng KTQT trong từng lĩnh vực,
ngành nghề.
Kể từ khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với quốc tế kéo theo tốc độ
phát triển cũng gia tăng, dẫn tới nhiều lĩnh vực ngành nghề cũng có sự tăng trưởng
và mở rộng. Chính vì vậy, các nghiên cứu KTQT trong các lĩnh vực ngành nghề cũng
11
phong phú, đa dạng hơn. Có thể kể đến một số lĩnh vực ngành nghề đã được các tác
giả kể trên nghiên cứu như sau: Ngành xây dựng với nghiên cứu của tác giả Hoàng
Văn Tưởng [7], Đỗ Thị Thu Hằng [4]; Ngành sản xuất kẹo bánh với nghiên cứu của
tác giả: Nguyễn Hoàn [11]; Ngành dịch vụ vận tải với nghiên cứu của các tác giả: Vũ
Thị Kim Anh [31], Ngụy Thu Hiền [9]; Ngành dầu khí với nghiên cứu của tác giả:
Lưu Thị Hằng Nga (2004), Trần Hải Long [28]; Ngành nông nghiệp sản xuất giống
cây trồng với nghiên cứu của tác giả: Nguyễn Quốc Thắng [14]; Ngành sản xuất và
chế biến gỗ với nghiên cứu của tác giả: Phạm Hồng Hải [17]…
2. Đánh giá các kết quả nghiên cứu trước đây
Sau gần 30 năm kể từ khi khái niệm KTQT được đề cập tới lần đầu tại Việt Nam, đã
có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Nhìn chung, các nghiên cứu đã làm rõ
được những lý luận cơ bản của KTQT cũng như giải quyết được bài toán KTQT
trong một số ngành nghề, lĩnh vực hoặc doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên, các nghiên
cứu vẫn còn một số khoảng trống tồn tại chưa được giải quyết như sau:
Thứ nhất, khoảng trống về các vấn đề lý luận chung của KTQT.
* Về các quan điểm KTQT. Các quan điểm của các nhà khoa học mới chỉ miêu
tả về KTQT trong một giai đoạn phát triển, chưa đưa ra được mô tả chung nhất về
KTQT theo tiến trình lịch sử. Nghiên cứu của IFAC (1998) đã đưa ra được những
mô tả về KTQT theo tiến trình lịch sử nhưng chưa làm rõ được nhiệm vụ/chức năng
của KTQT trong mối quan hệ với việc thực hiện các chức năng quản lý của nhà quản
trị [63].
* Về bản chất của KTQT. Chưa có nghiên cứu nào làm rõ sự khác biệt và
thống nhất giữa các khái niệm KTQT được đưa ra dưới quan điểm của nhà quản trị
(manager) với các khái niệm KTQT được đưa ra dưới quan điểm của chủ sở hữu
(owner).
* Về vai trò, đối tượng và phương pháp của KTQT. Các nghiên cứu mới chỉ
đưa ra vai trò, đối tượng và phương pháp của KTQT như những nội dung đã được
thừa nhận mà chưa tiếp cận các vấn đề này theo tiến trình lịch sử của KTQT để có
12
thể có cái nhìn tổng thể và toàn diện về các vấn đề này.
Thứ hai, khoảng trống về nội dung KTQT.
* Về các nghiên cứu toàn diện/tổng thể nội dung KTQT. Việc nghiên cứu toàn
diện các nội dung KTQT mới chỉ được các nghiên cứu tiếp cận theo yếu tố hay các
đối tượng kế toán cụ thể như: nội dung KTQT tiền, hàng tồn kho, nhân công, TSCĐ,
chi phí, giá thành, doanh thu, kết quả hoạt động SXKD v.v… Một số nghiên cứu (đặc
biệt là các luận án tiến sĩ trong nước) hay một vài tài liệu khác có đề cập tới các chức
năng quản lý của nhà quản trị trong doanh nghiệp và đã chỉ ra được mối liên hệ giữa
KTQT nói chung với các chức năng quản lý này. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu toàn
diện nào về các nội dung KTQT trong mối quan hệ với các chức năng quản lý của
nhà quản trị. Theo đó, chưa có nghiên cứu nào có thể làm rõ bản chất, chức năng hay
vai trò quan trọng nhất của KTQT là công cụ hỗ trợ nhà quản trị thực hiện các chức
năng quản lý của mình.
* Về các nghiên cứu chi tiết từng nội dung KTQT. Vì các nghiên cứu trước
đây chưa hệ thống hóa được các nội dung KTQT một cách toàn diện, tổng thể nên
khi triển khai các nghiên cứu ứng dụng cụ thể tại từng đơn vị đã bỏ sót nhiều nội dung
chưa được đề cập. Cụ thể là hầu hết các nghiên cứu chỉ tập trung tìm hiểu các nội
dung KTQT liên quan đến chi phí, KTQT phục vụ quản trị tác nghiệp mà chưa có
nhiều nghiên cứu đề cập tới những nội dung mới hiện nay như các nội dung KTQT
phục vụ quản trị chiến lược hay quản trị phát triển bền vững.
Thứ ba, khoảng trống về ứng dụng KTQT trong từng lĩnh vực, ngành
nghề.
Chưa có nghiên cứu nào xác định được đầy đủ nội dung KTQT phù hợp với
doanh nghiệp SXKD điện và cũng chưa có nghiên cứu nào mang tính ứng dụng đề
xuất các giải pháp hoàn thiện KTQT tại PV-Power.
3. Câu hỏi, mục tiêu, phương pháp và khung nghiên cứu của luận
án
3.1 Câu hỏi nghiên cứu
Dựa trên những nghiên cứu về KTQT trước đây trên thế giới và tại Việt Nam,
13
tác giả đã chỉ ra những tồn tại và khoảng trống về nghiên cứu KTQT cho tới thời
điểm hiện tại. Để giải quyết các tồn tại và lấp đầy các khoảng trống nghiên cứu này,
tác giả xác định câu hỏi nghiên cứu cho luận án như sau:
- Thứ nhất, cần hiểu các vấn đề lý luận chung của KTQT trong tiến trình lịch sử
phát triển của KTQT như thế nào?
- Thứ hai, những nội dung cơ bản của KTQT là gì và mối quan hệ của chúng
với các chức năng quản lý của nhà quản trị như thế nào?
- Thứ ba, với đặc điểm của các đơn vị SXKD điện và đặc điểm ngành điện,
những nội dung nào của KTQT có thể áp dụng phù hợp với các đơn vị SXKD
điện?
- Thứ tư, cần hoàn thiện các nội dung KTQT tại PV-Power như thế nào để đáp
ứng yêu cầu quản lý và phù hợp với định hướng/quy hoạch phát triển ngành
điện của Việt Nam cũng như yêu cầu tái cơ cấu DNNN?
3.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Thứ nhất, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận chung về KTQT theo tiến trình lịch
sử của KTQT (Mục tiêu 1).
- Thứ hai, làm rõ các nội dung của KTQT trong mối quan hệ với các cấp quản
lý và các chức năng quản lý của nhà quản trị (Mục tiêu 2).
- Thứ ba, tìm hiểu các đặc điểm bên trong và bên ngoài ảnh hưởng tới nội dung
KTQT tại doanh nghiệp SXKD điện như PV-Power (Mục tiêu 3).
- Thứ tư, tìm hiểu thực trạng nội dung KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power.
Từ đó có những đánh giá về kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân
của hạn chế (Mục tiêu 4).
- Thứ năm, đề xuất giải pháp hoàn thiện nội dung KTQT tại các đơn vị thuộc
PV-Power theo mối quan hệ với các chức năng quản lý của nhà quản trị các
cấp (Mục tiêu 5).
3.3 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được sử dụng trong nghiên cứu
Tác giả sử dụng triết học Mác – Lênin, cụ thể là sử dụng phép duy vật biện
14
chứng và phép duy vật lịch sử để làm phương pháp luận cho luận án. Phương pháp
luận này là cơ sở, có tác dụng là nền tảng để lựa chọn các phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp luận này cũng là nguyên tắc để tác giả giải quyết các vấn đề đã đặt ra.
Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu. Để đạt được các mục tiêu nghiên
cứu đề ra ở trên, trước tiên, tác giả thu thập các dữ liệu nghiên cứu như sau:
- Thứ nhất, dữ liệu thứ cấp. Các dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn:
sách, báo, tạp chí, luận án… Các nguồn dữ liệu bao gồm cả nguồn dữ liệu trong nước
và nước ngoài.
Nội dung và mục đích sử dụng các dữ liệu thứ cấp cụ thể như sau: (1) dữ liệu
thứ cấp về lịch sử KTQT thế giới, các quan điểm về KTQT, vai trò, đối tượng và
phương pháp của KTQT để phục vụ nghiên cứu đạt được mục tiêu 1; (2) dữ liệu thứ
cấp về các chức năng quản lý của nhà quản trị và các nội dung KTQT được sử dụng
rộng rãi để phục vụ nghiên cứu đạt được mục tiêu 2; (3) dữ liệu thứ cấp về các nhân
tố ảnh hưởng tới KTQT để làm cơ sở lý luận phục vụ nghiên cứu đạt được mục tiêu
3; (4) dữ liệu thứ cấp là các tài liệu, số liệu về thực trạng KTQT thu thập được tại PV-
Power và các đơn vị trực thuộc để phục vụ nghiên cứu đạt được mục tiêu 4; (5) dữ
liệu thứ cấp về triển vọng phát triển kinh tế và ngành điện Việt Nam để làm căn cứ
nghiên cứu đạt được mục tiêu 5.
- Thứ hai, dữ liệu sơ cấp. Để thu thập dữ liệu sơ cấp, tác giả sử dụng 02 phương
pháp là: phương pháp điều tra bằng phiếu khảo sát và phương pháp phỏng vấn.
+ Với phương pháp điều tra bằng phiếu khảo sát. Có 02 loại phiếu khảo sát
được sử dụng trong luận án, bao gồm: (1) phiếu khảo sát về đặc điểm của PV-Power
ảnh hưởng tới nội dung KTQT tại PV-Power (Phiếu khảo sát số 1) để làm căn cứ
thực tế phục vụ nghiên cứu đạt được mục tiêu 3; (2) phiếu khảo sát về thực trạng
KTQT tại PV-Power (Phiếu khảo sát số 2) để kết hợp với các tài liệu, số liệu về thực
trạng KTQT thu thập được ở trên làm căn cứ thực tế phục vụ nghiên cứu đạt được
15
mục tiêu 4.
Với phiếu khảo sát số 1, tác giả gửi phiếu khảo sát cho nhóm các đối tượng
(nhóm “N1”) bao gồm: thành viên Hội đồng thành viên của PV-Power, thành viên
Ban Tổng giám đốc của PV-Power, trưởng và phó các phòng/ban/bộ phận thuộc cơ
quan Tổng Công ty. Đây đều là những đối tượng có nhiều kinh nghiệm trong quản
lý, vận hành các nhà máy điện cũng như có hiểu biết đầy đủ về thị trường điện và
ngành điện Việt Nam. Ngoài ra, các đối tượng được khảo sát đều là những người làm
việc tại cơ quan Tổng Công ty nên họ sẽ là những người có hiểu biết đầy đủ nhất về
đặc điểm SXKD của các nhà máy điện đang được PV-Power vận hành. Số lượng
phiếu được gửi đi và thu về là 28, trong đó: 05 phiếu của các thành viên Hội đồng
thành viên PV-Power, 05 phiếu của các thành viên Ban Tổng giám đốc và 18 phiếu
của trưởng và phó các phòng/ban/bộ phận thuộc cơ quan Tổng Công ty. Nội dung
phiếu điều tra (Phụ lục 01) chủ yếu như sau:
Bảng TQ.01 – Bảng tóm tắt nội dung Phiếu khảo sát số 1
Nội dung Câu hỏi STT
I Thông tin người được khảo sát
II Thông tin đề tài
III Câu hỏi khảo sát
3.1 Nhóm câu hỏi về đặc điểm bên trong PV-Power
3.1.1 Nhóm câu hỏi về đặc điểm trong giai đoạn đầu tư nhà máy 1 - 4
điện
3.1.2 Nhóm câu hỏi về đặc điểm trong giai đoạn vận hành nhà máy 5 - 15
điện
3.2 Nhóm câu hỏi về đặc điểm bên ngoài PV-Power 16 - 17
3.3 Nhóm câu hỏi về sự ảnh hưởng của các đặc điểm đến nhu cầu 18 - 24
thông tin của nhà quản trị tại PV-Power
(Nguồn: Trích từ Phiếu khảo sát số 1)
Với phiếu khảo sát số 2, tác giả gửi phiếu khảo sát cho nhóm các đối tượng
(nhóm “N2”) bao gồm: thành viên Hội đồng thành viên của PV-Power, thành viên
16
Ban Tổng giám đốc của PV-Power, trưởng và phó các phòng/ban/bộ phận thuộc cơ
quan Tổng Công ty, giám đốc các chi nhánh vận hành nhà máy điện, người đại diện
phần vốn tại các công ty con vận hành nhà máy điện, trưởng các phòng/ban/bộ phận
thuộc các chi nhánh và các công ty con vận hành nhà máy điện. Đây là những đối
tượng trực tiếp cung cấp và trực tiếp sử dụng các thông tin KTQT tại PV-Power. Vì
vậy, những đối tượng này có hiểu biết đầy đủ về thực trạng KTQT nói chung và thực
trạng nội dung KTQT nói riêng tại PV-Power. Số lượng phiếu được gửi đi và thu về
là 63, trong đó: 05 phiếu của các thành viên Hội đồng thành viên PV-Power, 05 phiếu
của các thành viên Ban Tổng giám đốc, 18 phiếu của trưởng và phó các phòng/ban/bộ
phận thuộc cơ quan Tổng Công ty, 03 phiếu của các giám đốc chi nhánh, 04 phiếu
của các người đại diện phần vốn tại công ty con, 28 phiếu của trưởng các
phòng/ban/bộ phận thuộc các chi nhánh và công ty con. Nội dung phiếu điều tra (Phụ
lục 03) chủ yếu như sau:
Bảng TQ.02 – Bảng tóm tắt nội dung Phiếu khảo sát số 2
Nội dung Câu hỏi STT
I Thông tin người được khảo sát
II Thông tin đề tài
III Câu hỏi khảo sát
3.1 Nhóm câu hỏi về việc thực hiện các chức năng quản lý của
nhà quản trị tại PV-Power
3.1.1 Nhóm câu hỏi về phân cấp quản lý tại PV-Power 1 - 2
3.1.2 Nhóm câu hỏi về thực hiện các chức năng quản lý tại PV- 3 - 4
Power
3.2 Nhóm câu hỏi về thực trạng KTQT trong mối quan hệ với các
chức năng quản lý của nhà quản trị tại PV-Power
3.2.1 Nhóm câu hỏi về thực trạng KTQT phục vụ nhà quản trị tác 5 - 27
(Nhóm câu hỏi KHÔNG dành cho ông (bà) là thành viên Hội đồng
thành viên Tổng Công ty PV-Power).
17
nghiệp trong ngắn và trung hạn tại PV-Power
3.2.2 Nhóm câu hỏi về thực trạng KTQT phục vụ nhà quản trị 28 - 40
(Nhóm câu hỏi CHỈ dành cho ông (bà) là thành viên Hội đồng
thành viên Tổng Công ty PV-Power).
chiến lược trong dài hạn tại PV-Power
(Nguồn: Trích từ Phiếu khảo sát số 2)
+ Với phương pháp phỏng vấn. Tác giả cũng tiến hành phỏng vấn nhóm N1
để làm rõ hơn một số vấn đề thực trạng tại PV-Power, đặc biệt là các vấn đề liên quan
đến việc thực hiện các chức năng quản lý của nhà quản trị và trình độ của nhà quản
trị cũng như nhân viên KTQT tại PV-Power.
Bên cạnh đó, tác giả cũng tham khảo ý kiến một số chuyên gia về KTQT bằng
hình thức phỏng vấn về tính khả thi của các giải pháp trong thực tế. Trên cơ sở đó,
tác giả đưa ra các kiến nghị cũng như các điều kiện để nâng cao tính khả thi của các
giải pháp.
* Phương pháp xử lý dữ liệu. Đối với dữ liệu thứ cấp, sau khi thu thập tiến
hành phân loại, sắp xếp các dữ liệu theo thứ tự ưu tiên về mức độ quan trọng. Đối với
dữ liệu sơ cấp, từ các dữ liệu thu thập được tiến hành phân tích, tổng hợp chọn lọc
các yếu tố cần thiết để tổng hợp thành các số liệu hợp lý có cơ sở khoa học.
Trên cơ sở xử lý ban đầu các dữ liệu thu thập được, tác giả sử dụng phương
pháp định tính làm nền tảng cho các nghiên cứu trong luận án. Quy trình nghiên cứu
được kết hợp giữa diễn giải và quy nạp, tùy từng mục tiêu nghiên cứu cần đạt được.
Một số kỹ thuật cụ thể như kỹ thuật tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh,
phỏng vấn v.v… được tác giả sử dụng linh hoạt trong luận án.
3.4 Khung nghiên cứu
Khung nghiên cứu của luận án được trình bày dưới dạng sơ đồ mục tiêu và
18
cách thức tiếp cận như sau (Sơ đồ trang sau):
Sơ đồ TQ01 – Sơ đồ mục tiêu và cách thức tiếp cận luận án
Mục tiêu 1:
Mục tiêu 2:
Nghiên cứu (i) các nội dung của cơ bản KTQT, (ii) các chức năng lý của quản nhà quản trị.
- Làm rõ các nội dung của KTQT trong mối quan hệ với các cấp quản lý và các chức năng quản lý của nhà quản trị.
Nghiên cứu (i) lịch sử hình thành và phát triển KTQT trên thế giới, (ii) các vấn đề lý luận chung của KTQT.
- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận chung về theo KTQT tiến trình lịch sử của KTQT.
Mục tiêu 3:
Mục tiêu 4:
- Tìm hiểu các đặc điểm bên trong và bên ngoài ảnh hưởng tới nội dung KTQT tại doanh nghiệp SXKD điện như PV-Power.
- Đánh giá thực trạng áp dụng nội dung KTQT tại các đơn vị SXKD điện thuộc PV-Power.
kê, Thống mô tả thực áp trạng nội dụng dung KTQT tại các đơn SXKD vị điện thuộc PV-Power.
Nghiên cứu (i) các nhân tố ảnh hưởng đến KTQT trong DN; (ii) đặc điểm PV-Power và thị trường điện Việt Nam.
Mục tiêu 5:
- Giải pháp hoàn thiện nội dung KTQT tại các đơn
vị SXKD điện thuộc PV-Power.
Nghiên cứu (i) định hướng phát triển kinh tế và quy hoạch ngành điện Việt Nam và (ii) điều kiện thực hiện các giải pháp.
19
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
1.1 Các quan điểm, khái niệm và bản chất của KTQT
Phần “Tổng quan vấn đề nghiên cứu” của luận án đã trình bày, KTQT có lịch sử phát
triển hàng trăm năm (kể từ đầu thế kỷ XIX cho tới ngày nay) và được IFAC (1998)
hệ thống hóa lại trong 04 giai đoạn [63]:
- Giai đoạn 1 (Trước 1950) – Xác định chi phí và kiểm soát tài chính.
- Giai đoạn 2 (1950 - 1965) – Thông tin cho lập kế hoạch và kiểm soát hoạt
động.
- Giai đoạn 3 (1965 - 1985) – Cắt giảm những lãng phí trong sử dụng nguồn lực
doanh nghiệp.
- Giai đoạn 4 (1985 - nay) – Tạo ra giá trị tối đa thông qua việc sử dụng hiệu
quả các nguồn lực của doanh nghiệp.
Tác giả sử dụng 04 giai đoạn trên theo thống kê của IFAC để hệ thống hóa các
vấn đề lý luận chung về KTQT như: các quan điểm, khái niệm, bản chất, vai trò, đối
tượng và phương pháp của KTQT theo tiến trình lịch sử. Qua đó, có thể có cái nhìn
đầy đủ, chặt chẽ và toàn diện hơn về KTQT.
1.1.1 Sự phát triển của các quan điểm về KTQT
Kế toán chi phí (giai đoạn trước năm 1950). Mặc dù trải qua quá trình phát
triển dài nhưng phải đến những năm 1950 của thế kỷ XX mới có những học giả đầu
tiên nghiên cứu, tổng kết và đưa ra mô tả về KTQT. Vì vậy, trong giai đoạn trước
1950, không có quan điểm nào về KTQT được đưa ra. Tuy nhiên, sau này, khi nghiên
cứu về lịch sử KTQT, nhiều học giả trên thế giới cũng đã đưa ra những mô tả về Kế
toán chi phí (được hiểu là KTQT giai đoạn trước năm 1950). Ví dụ như Johnson [67],
Johnson & Kaplan [65], Parker [82]… cho rằng Kế toán chi phí là việc người làm kế
toán sử dụng các tài khoản kế toán để phản ánh chi phí nguyên liệu, chi phí nhân
công; đồng thời họ dùng các kỹ thuật tập hợp và phân bổ các chi phí chung cho các
20
đối tượng tính giá thành. Như vậy, các học giả đưa ra quan điểm về Kế toán chi phí
trong giai đoạn này là công cụ xác định giá thành sản phẩm làm cơ sở cung cấp thông
tin lãi/lỗ cho nhà quản trị.
Nếu chỉ xem xét Kế toán chi phí dưới góc độ này sẽ dễ dẫn tới quan điểm cho
rằng Kế toán chi phí là một nội dung của KTTC. Tuy nhiên, khi nghiên cứu toàn bộ
lịch sử phát triển của KTQT, các học giả kể trên đã tìm thấy mối liên hệ giữa Kế toán
chi phí và KTQT. Theo đó, Kế toán chi phí và KTQT có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Yêu cầu cơ bản của KTQT là sự tồn tại của hệ thống kế toán chi phí nhằm mục
đích cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch, kiểm soát và đưa ra quyết định. Hay
nói cách khác, Kế toán chi phí là nền tảng cơ bản cho KTQT sau này. Chính vì vậy,
Kế toán chi phí sau này vừa được coi là một nội dung của KTTC (khi thông tin về
chi phí được cung cấp ra bên ngoài) đồng thời cũng được coi là nội dung của KTQT
(khi thông tin về chi phí được cung cấp cho các đối tượng bên trong doanh nghiệp).
Kế toán quản trị tác nghiệp 1 (giai đoạn 1950 – 1965). Giai đoạn này ghi
nhận những mô tả về KTQT đầu tiên được đưa ra. Trước tiên phải kể tới học giả
Simon và cộng sự (1954) đã chỉ ra rằng “thông tin KTQT được sử dụng để phục vụ
nhà quản trị thực hiện 03 chức năng: (1) xác định kết quả hoạt động, (2) đánh giá
hiệu quả và (3) giải quyết các vấn đề phát sinh trong điều hành” [92]. Sau đó, học
giả Chatfield [40] đã thống kê về nhu cầu thông tin KTQT của nhà quản trị trong
những năm 1950 và chỉ ra chúng bao gồm “(1) thông tin để tính toán giá thành sản
phẩm, (2) thông tin để đo lường hiệu quả với các mô hình chi phí cận biên”. Năm
1983, học giả Robert Kaplan đã nêu ra quan điểm của mình về kế toán trách nhiệm –
một công cụ phục vụ nhà quản trị để đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức và cá
nhân nhà quản lý, ông cho rằng: “kế toán trách nhiệm xuất hiện lần đầu tại Mỹ vào
những năm 1960 khi mà các công ty của Mỹ phát triển với quy mô toàn cầu và có
nhiều bộ phận hoạt động riêng biệt” [71]. Theo Kaplan, kế toán trách nhiệm giúp
nhà quản trị quản lý, điều hành tốt hơn với các công ty có quy mô lớn.
Như vậy, trong giai đoạn này, các học giả đều cho rằng KTQT đã thực hiện
được vai trò là công cụ hỗ trợ nhà quản trị thực hiện các chức năng quản lý. Tuy
nhiên, cũng theo các học giả nêu trên, thông tin KTQT cung cấp trong giai đoạn này
1 Còn được gọi là Kế toán quản trị truyền thống.
21
mới chỉ đáp ứng được nhu cầu quản lý tác nghiệp ngắn hạn của nhà quản trị.
Cũng trong nghiên cứu năm 1983 của mình, Kaplan đã chỉ ra rằng KTQT tác
nghiệp thiên quá nhiều vào các kỹ thuật tính toán. Và nhà quản trị không thể lúc nào
cũng có thể kiểm soát được sự chính xác của các kỹ thuật tính toán mà người làm
KTQT tác nghiệp thực hiện. Vì vậy, với sự phức tạp trong các kỹ thuật tính toán của
KTQT tác nghiệp có thể dẫn tới nhiều rủi ro cho nhà quản trị khi đưa ra quyết định.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh môi trường kinh doanh ngày càng biến động và phức
tạp, các yếu tố không chắc chắn cũng xuất hiện nhiều hơn khiến cho các phương
pháp/kỹ thuật KTQT tác nghiệp không còn phù hợp bởi chúng tập trung quá nhiều
vào các thông tin tài chính, thông tin định lượng và thông tin quá khứ. Chính vì lý do
này, Kaplan giải thích cho sự ra đời của KTQT chiến lược trong giai đoạn tiếp theo
[71].
Kế toán quản trị chiến lược (giai đoạn 1965 – 1985). Các học giả Hoskin &
Macve (1988) cho rằng trong những năm 1970, các kỹ thuật KTQT chi phí đầu tiên
để hỗ trợ nhà quản trị quản lý chiến lược mới được ra đời [61]. Năm 1987, các học
giả Johnson & Kaplan xác định khái niệm KTQT chiến lược (Strategic Management
Accounting) được xuất hiện lần đầu vào năm 1981 [65]. Lúc này, KTQT chiến lược
nhằm mục đích hỗ trợ nhà quản trị trong việc quản trị các chiến lược của doanh
nghiệp. Năm 1985, học giả Porter nghiên cứu bổ sung thêm các kỹ thuật mới phục vụ
quản trị doanh nghiệp như: (1) mô hình phân tích chuỗi giá trị (value chain) hay (2)
phân tích đối thủ cạnh tranh (competitors’ analysis) [85].
Như vậy, các học giả cho rằng KTQT trong giai đoạn này đã cung cấp thông
tin đáp ứng được nhu cầu quản lý chiến lược trong dài hạn của nhà quản trị. Thông
tin KTQT cung cấp là căn cứ để nhà quản trị đưa ra những quyết định làm gia tăng
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể
đến từ (1) dẫn đầu chi phí thấp (low-cost leader) hoặc/và (2) sự khác biệt từ sản phẩm
(differentiation). Dẫn đầu chi phí thấp là việc doanh nghiệp có chi phí SXKD thấp
hơn so với đối thủ cạnh tranh, dẫn tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sẽ cao
hơn so với các đối thủ nếu sản phẩm có cùng giá bán. Ngoài ra, dẫn đầu chi phí thấp
cũng là cơ sở để doanh nghiệp thiết lập những mức giá bán thấp hơn so với đối thủ
cạnh tranh, qua đó doanh nghiệp có thể chiếm lĩnh thị trường ở một phân khúc sản
phẩm nào đó. Sự khác biệt từ sản phẩm là sự khác biệt từ đặc tính, tính chất sản phẩm
22
của doanh nghiệp mà sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh không có. Sự khác biệt
này tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp khi khách hàng sẽ ưu tiên dùng sản
phẩm của doanh nghiệp mà không quan tâm nhiều lắm tới giá bán sản phẩm của
doanh nghiệp có cao hơn giá bán của các đối thủ cạnh tranh.
Kế toán phát triển bền vững (giai đoạn 1985 – nay). Nhiều học giả và tổ chức nghề nghiệp quan tâm tới Kế toán phát triển bền vững (Sustainability Accounting) 2
như Gray & Collison [53], Elkington [48], Adams và cộng sự [34], Gray và Milne
[54], Henriques và Richardson [59], ICAEW [62], ACCA và FTSE [33], CIMA [41],
IFAC [64]… Họ đều cho rằng các doanh nghiệp nếu muốn tồn tại và phát triển bền
vững thì ngoài việc quan tâm tới lợi nhuận của chủ sở hữu còn phải quan tâm tới lợi
ích cộng đồng, tới lợi ích các bên liên quan của doanh nghiệp; cụ thể ở đây là: môi
trường, xã hội và kinh tế. Và nhà quản trị doanh nghiệp cần phải dành ra một phần
nguồn lực của doanh nghiệp để đầu tư cho vấn đề này. Chính vì vậy, KTQT cần phải
cung cấp được thông tin cho nhà quản trị về kế hoạch sử dụng và thực tế sử dụng
các nguồn lực cho các vấn đề nêu trên nhằm mục tiêu phát triển bền vững.
Tóm lại, có nhiều quan điểm về KTQT và chúng biến đổi theo thời gian cho
phù hợp với nhu cầu thông tin của nhà quản trị trong từng giai đoạn lịch sử. Đầu tiên,
KTQT phải đáp ứng nhu cầu của nhà quản trị trong việc xác định lãi/lỗ của doanh
nghiệp. Tiếp theo đó, KTQT cần phải giúp nhà quản trị thực hiện các hoạt động điều
hành mang tính tác nghiệp ngắn hạn. Khi nền kinh tế có sự cạnh tranh quyết liệt giữa
các doanh nghiệp, KTQT cần phải cung cấp thông tin để nhà quản trị có những quyết
định làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong dài hạn. Và đến gần đây,
khi doanh nghiệp đã có thể tồn tại trong nền kinh tế cạnh tranh thì KTQT cần phải
cung cấp được thông tin cho nhà quản trị để đưa ra những quyết định giúp doanh
nghiệp có thể phát triển bền vững. Mặc dù có nhiều quan điểm về KTQT như vậy
nhưng tựu chung lại, các quan điểm đều cho rằng KTQT là công cụ hỗ trợ nhà quản
trị trong việc thực hiện các chức năng quản lý của mình. Và sự phát triển của KTQT
là sự phát triển mang tính bồi đắp, mở rộng chứ không phải sự phát triển mang tính
2 Được hiểu như là Kế toán môi trường, Kế toán trách nhiệm xã hội.
23
phủ định, xóa bỏ.
1.1.2 Khái niệm và bản chất của KTQT
Dựa trên điểm chung của các quan điểm về KTQT như trên, một vài học giả
và tổ chức đã đưa ra những khái niệm riêng về KTQT.
Có thể kể tên một vài học giả nổi tiếng nước ngoài đã đưa ra khái niệm về
KTQT như: Kaplan, Bouquin, R. Kinney & A. Raiborn (2011), William N. Lanen
và cộng sự (2013), Charles T. Horngren và cộng sự (2014)… [78], [96]. Cũng đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu về KTQT trong và ngoài nước trích dẫn các khái
niệm này. Tác giả không trích dẫn lại mà tổng hợp nội hàm của các khái niệm như
sau: “KTQT là một bộ phận của hệ thống thông tin phục vụ nhà quản trị trong việc
hoạch định, kiểm soát, đo lường hiệu quả và ra quyết định trong quá trình điều hành
tổ chức. Để cung cấp được các thông tin đáp ứng yêu cầu nhà quản trị, KTQT cũng
phải thực hiện quy trình của kế toán là: thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông
tin”.
Các hiệp hội nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán uy tín trên thế giới cũng đưa
ra những khái niệm của mình để mô tả các thuật ngữ chính thức về KTQT như: CIMA 3, ACCA 4, ICAEW 5. Trong đó, ACCA và ICAEW đưa ra khái niệm về KTQT gần
giống với các học giả nêu trên. Còn CIMA đưa ra khái niệm KTQT như sau: “KTQT
là việc vận dụng các nguyên tắc kế toán và quản trị tài chính để tạo lập, bảo vệ, bảo
tồn và gia tăng giá trị cho chủ sở hữu của các tổ chức vì lợi nhuận hoặc tổ chức phi
lợi nhuận hoạt động trong các lĩnh vực công và lĩnh vực tư”. CIMA có cách tiếp cận
khái niệm KTQT khác với các cá nhân, tổ chức khác ở chỗ: CIMA coi KTQT là công
cụ để làm tăng giá trị cho chủ sở hữu (owners). Còn các cá nhân, tổ chức khác coi
KTQT là công cụ phục vụ nhà quản trị (managers) thực hiện các chức năng quản lý
của mình. Theo quan điểm của tác giả, khi sử dụng lý thuyết người đại diện (agency
theory) để giải thích thì khái niệm KTQT của CIMA và khái niệm KTQT của các cá
nhân, tổ chức khác không có sự khác biệt. Bởi CIMA đứng trên góc độ của chủ sở
hữu (owners) để đưa ra khái niệm KTQT, còn các cá nhân, tổ chức khác đứng trên
góc độ của nhà quản trị (managers) để đưa ra khái niệm KTQT. Mà theo lý thuyết
người đại diện (agency theory), mặc dù chủ sở hữu (owners) và nhà quản trị
3 CIMA Official Terminology. 4 ACCA Official Terminology. 5 ICAEW Official Terminology.
24
(managers) có những lợi ích khác nhau nhưng chủ sở hữu (owners) có thể sử dụng
nhiều công cụ để khiến nhà quản trị (managers) phải hành động nhằm đạt được các
lợi ích mà chủ sở hữu (owners) mong muốn. Và KTQT là một trong những công cụ
đó. Nói ngắn gọn, sử dụng lý thuyết người đại diện (agency theory) để giải thích thì
KTQT được coi là: “công cụ phục vụ nhà quản trị (managers) để thực hiện những
chức năng quản lý của mình nhằm đạt được các mục tiêu của chủ sở hữu (owners)”.
Tác giả cũng nhận thấy nhiều luận án trích dẫn các khái niệm về KTQT của
các trường đại học trong nước như: Đại học Kinh tế Quốc dân, Học viện Tài chính,
Đại học Thương mại… Về cơ bản, các trường đại học đều đưa ra các khái niệm
KTQT gần giống với khái niệm của các học giả được kể tên ở trên, cụ thể: các trường
đều coi KTQT là một khoa học và trải qua một quy trình kế toán (thu thập, xử lý,
phân tích và cung cấp thông tin); các trường cũng tiếp cận KTQT từ góc độ của nhà
quản trị (managers) khi cho rằng KTQT là công cụ hỗ trợ nhà quản trị thực hiện các
chức năng quản lý của mình.
Nhìn chung, các khái niệm KTQT được liệt kê ở trên đều đã phản ánh được
điểm chung của các quan điểm về KTQT, đó là: “KTQT là công cụ hỗ trợ nhà quản
trị trong việc thực hiện các chức năng quản lý”. Tuy nhiên, để khái quát lại, tác giả
đưa ra khái niệm riêng về KTQT như sau: “KTQT là một bộ phận của hệ thống
thông tin kế toán, phục vụ nhà quản trị doanh nghiệp thực hiện các chức năng
quản lý của mình nhằm đạt được các mục tiêu mà chủ sở hữu đặt ra”.
Các học giả nghiên cứu lịch sử KTQT đã đưa ra rất nhiều quan điểm, khái
niệm về KTQT. Tuy nhiên, khi tìm hiểu và tổng hợp lại, tác giả nhận thấy giữa các
quan điểm và khái niệm vẫn tồn tại những điểm chung không đổi. Và có thể coi
những điểm chung không đổi đó như là bản chất của KTQT bởi dù được hiểu dưới
quan điểm hay khái niệm nào thì KTQT đều có những biểu hiện như vậy. Theo quan
điểm tác giả, bản chất (những điểm chung không đổi) của KTQT bao gồm bốn điểm
sau:
Thứ nhất, KTQT là công cụ phục vụ nhà quản trị doanh nghiệp thực hiện các
chức năng quản lý của mình, bao gồm: (1) chức năng hoạch định, (2) chức năng tổ
chức và kiểm soát thực hiện (sau đây gọi tắt là “chức năng kiểm soát”), (3) chức năng
đo lường và đánh giá hiệu quả (sau đây gọi tắt là “chức năng đánh giá hiệu quả”) và
(4) chức năng ra quyết định. Ngoại trừ giai đoạn trước năm 1950 mới chỉ coi KTQT
25
là Kế toán chi phí nhằm mục đích cung cấp thông tin lãi/lỗ cho nhà quản trị, trong
các giai đoạn phát triển về sau, KTQT luôn được coi là công cụ hỗ trợ nhà quản trị
thực hiện chức năng quản lý của mình, cụ thể: giai đoạn 1950 – 1965, KTQT là công
cụ hỗ trợ nhà quản trị thực hiện chức năng quản lý tác nghiệp ngắn hạn; giai đoạn
1965 – 1985, KTQT là công cụ hỗ trợ nhà quản trị thực hiện chức năng quản lý chiến
lược dài hạn; giai đoạn 1985 – nay, KTQT là công cụ hỗ trợ nhà quản trị thực hiện
chức năng quản lý phát triển bền vững.
Thứ hai, KTQT mang bản chất của kế toán. KTQT thực hiện quy trình thông
qua các bước: (1) thu thập thông tin đầu vào (dữ liệu – data); (2) xử lý, phân tích
thông tin (dữ liệu – data); (3) cung cấp thông tin đầu ra (information).
Thứ ba, hệ thống thông tin KTQT phù hợp với nhu cầu thông tin của nhà quản
trị trong từng điều kiện lịch sử. Tùy thuộc vào nhu cầu thông tin của nhà quản trị
trong từng giai đoạn mà KTQT cung cấp thông tin đầu ra tương ứng. Các nội dung/kỹ
thuật cụ thể của KTQT phải phát triển và biến đổi để có thể cung cấp được các thông
tin đầu ra này. Đồng thời, thông tin đầu vào được thu thập, vai trò, đối tượng và
phương pháp của KTQT cũng biến đổi phù hợp với từng nội dung/kỹ thuật KTQT
cụ thể.
Thứ tư, sự phát triển của KTQT mang tính bồi đắp. Sự phát triển hay sự thay
đổi các quan điểm về KTQT không đồng nghĩa với sự phủ nhận, loại bỏ. Có nghĩa là
nội dung KTQT mới không phủ nhận, không thay thế nội dung KTQT cũ. Mà ngược
lại, chúng có sự hỗ trợ nhau để cung cấp được nhiều loại thông tin phong phú, đa
dạng hơn cho các nhà quản trị để thực hiện các chức năng quản lý của mình. Trong
một doanh nghiệp, KTQT vừa có thể đóng vai trò là Kế toán chi phí cũng vừa có thể
là KTQT tác nghiệp, KTQT chiến lược và KTQT phát triển bền vững.
1.2 Vai trò, đối tượng và phương pháp của KTQT
1.2.1 Vai trò của KTQT
Lịch sử phát triển KTQT ghi nhận sự thay đổi tích cực của vai trò KTQT và
người làm KTQT trong doanh nghiệp. Giai đoạn trước 1950, nền kinh tế thế giới
chưa có nhiều sự cạnh tranh, hệ thống quản trị trong doanh nghiệp cũng không được
phân cấp đa dạng và chuyên môn hóa sâu như ngày nay. Tác giả Darius Gliaubicas
trong một công bố của mình vào năm 2012 có tựa đề “Nghiên cứu về sự phát triển
26
của KTQT trong bối cảnh có những tác động của yếu tố kinh tế” (Nguyên bản bằng
Tiếng Anh “The research of Management Accounting Evolution in the Context of
Economic Changes”) đã chỉ ra 04 đặc điểm kinh tế ảnh hưởng tới KTQT trong giai
đoạn này, bao gồm: (1) Vị thế của các công ty phương Tây đã kích thích nhu cầu về
sản phẩm, hàng hóa được sản xuất bởi các công ty này trên toàn cầu; (2) Sự cạnh
tranh yếu ớt của các đối thủ trên thị trường; (3) Ít tập trung vào chất lượng; (4) Sản
xuất hàng loạt với quy mô lớn [44]. Những đặc điểm kinh tế trong giai đoạn này đã
ảnh hưởng tới nhu cầu thông tin của nhà quản trị. Theo đó, nhà quản trị có nhu cầu
thông tin tài chính trong giai đoạn đó thông thường chỉ là chủ sở hữu doanh nghiệp.
Các nhà quản trị cấp dưới chỉ tập trung vào việc tổ chức thực hiện các kế hoạch chứ
chưa chú trọng vào các chức năng quản lý khác. Vì vậy, trong giai đoạn đầu tiên,
KTQT chỉ đóng vai trò cung cấp thông tin về chi phí, giá thành sản phẩm để nhà
quản trị cấp cao nhất của doanh nghiệp xác định lãi/lỗ. Lúc này, người làm KTQT
được hiểu như là các nhân viên kế toán chuyên tập hợp chi phí và tính toán giá thành.
Đến giai đoạn 1950 – 1965, nền kinh tế thế giới không có quá nhiều biến động.
Theo Darius Gliaubicas [44], giai đoạn này, KTQT vẫn chỉ tập trung chủ yếu vào quá
trình sản xuất của doanh nghiệp; thông tin KTQT thu thập, phân tích và cung cấp vẫn
mang tính hướng nội (sử dụng những thông tin sẵn có trong nội bộ doanh nghiệp) mà
chưa hướng tới khách hàng và đối thủ cạnh tranh cũng như các yếu tố khác bên ngoài
doanh nghiệp. Tuy nhiên, KTQT giữ vai trò quan trọng hơn trong việc cung cấp
thông tin phục vụ nhà quản trị hoạch định, kiểm soát, đánh giá hiệu quả và ra quyết
định. Mặc dù mới chỉ dừng lại ở mức quản lý tác nghiệp, nhưng giai đoạn 1950 –
1965 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quan điểm về người làm KTQT.
Quan điểm về người làm KTQT không còn bị giới hạn trong phạm vi phòng kế toán,
mà lúc này người làm KTQT có thể là các nhân viên hoặc nhà quản trị cấp tác nghiệp
của các bộ phận khác như: bộ phận kinh tế, kỹ thuật chuyên xây dựng các định mức
kinh tế, kỹ thuật; bộ phận kế hoạch, tổng hợp chuyên xây dựng các dự toán, kế hoạch
và nhiều bộ phận khác…
Những năm 1970, trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu do sự sụt giảm của
giá dầu dẫn tới các công ty không còn khả năng tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường
như các giai đoạn trước, giá cả nhiều mặt hàng suy giảm. Các công ty phải cạnh tranh
nhau bằng cách tiết giảm tối đa các chi phí để có thể duy trì sản xuất trong khoảng
27
thời gian những năm 1980. Kèm theo đó là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ đã ảnh hưởng không nhỏ tới nhiều khía cạnh của các ngành công nghiệp. Theo
học giả Kader & Luther (2006), việc phát triển công nghệ như sử dụng robot, điều
khiển máy tính đã cải thiện chất lượng sản xuất sản phẩm và giảm thiểu chi phí trong
nhiều trường hợp [69]. Sự gia tăng việc sử dụng máy tính cá nhân đã ảnh hưởng đến
nguồn dữ liệu và thông tin cung cấp cho nhà quản trị. Còn theo Darius Gliaubicas
[44] cho rằng giai đoạn này, sự xuất hiện của các công ty đến từ Nhật Bản đã làm gia
tăng sự cạnh tranh trên thị trường đồng thời làm thay đổi thương mại quốc tế. Các
doanh nghiệp tập trung vào việc phát triển thị trường. Cạnh tranh cũng được gia tăng
bởi sự phát triển của khoa học công nghệ. Các doanh nghiệp vừa tìm cách cắt giảm
chi phí đồng thời tìm cách nâng cao chất lượng (để tăng khả năng cạnh tranh). Những
nhân tố kinh tế này đã dẫn tới sự ra đời của KTQT chiến lược, đồng thời một lần nữa
thay đổi vai trò của KTQT cũng như người làm KTQT trong doanh nghiệp. Theo đó
trong giai đoạn 1965 – 1985, KTQT nói chung được nhìn nhận là một nhân tố làm
gia tăng giá trị của doanh nghiệp. KTQT không chỉ được mong đợi để lập kế hoạch
thực thi các nhiệm vụ ngắn hạn mang tính tác nghiệp mà còn được kỳ vọng tham gia
vào việc hoạch định chiến lược dài hạn và tìm kiếm các cơ hội để thực hiện và kiểm
soát chiến lược đó. KTQT giai đoạn này không chỉ giữ vai trò cung cấp thông tin đáp
ứng nhu cầu của nhà quản trị mà còn làm việc bên cạnh các nhà quản trị doanh nghiệp
như một cố vấn, tư vấn và người định hướng hoạt động. Hay nói cách khác, người
làm KTQT có thể tham gia đội ngũ quản trị cấp cao của doanh nghiệp (ICAEW,
2004).
Từ năm 1985 đến nay, cùng với sự phát triển của các lý thuyết thực chứng mới
nổi được sử dụng trong nghiên cứu KTQT như lý thuyết về tính hợp pháp (legitimacy
theory) hay lý thuyết về các bên liên quan (stake-holder theory), nhiều nhà khoa học
đã giải thích cho sự ra đời của Kế toán phát triển bền vững. Sự ra đời của Kế toán
phát triển bền vững cũng đánh dấu một bước tiến mới của vai trò KTQT và người
làm KTQT trong doanh nghiệp. Theo đó, KTQT không chỉ giữ các vai trò như trước
đây mà còn có thêm vai trò cung cấp thông tin không chỉ cho nhà quản trị mà còn
cung cấp thông tin trực tiếp cho chủ sở hữu để nhà quản trị và chủ sở hữu có thể đưa
ra những quyết định giúp cho doanh nghiệp có thể phát triển bền vững. Người làm
KTQT lúc này không chỉ có thể tham gia vào đội ngũ quản trị cấp cao của doanh
28
nghiệp mà còn có thể là một nhà cố vấn, tư vấn cho chủ sở hữu đưa ra các quyết định.
Tóm lại, hiện nay, KTQT ngoài việc giữ các vai trò cơ bản theo quan điểm
truyền thống thì theo quan điểm hiện đại, KTQT tham gia và đóng vai trò nhiều hơn
trong hoạch định, kiểm soát, đánh giá hiệu quả và đưa ra các quyết định chiến lược
để hướng doanh nghiệp tới việc nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.
Tổng hợp lại, KTQT ngày nay có những vai trò cụ thể sau:
Thứ nhất, cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định và lập kế hoạch,
tham gia tích cực với vai trò là một thành phần của đội ngũ quản lý vào quá trình ra
quyết định và lập kế hoạch.
Thứ hai, hỗ trợ nhà quản trị trong việc định hướng và kiểm soát các mặt hoạt
động của doanh nghiệp.
Thứ ba, thúc đẩy các nhà quản trị và nhân viên nhắm vào các mục tiêu của
doanh nghiệp.
Thứ tư, đo lường kết quả của các hoạt động, các đơn vị, các nhà quản trị và
các nhân viên trong tổ chức.
Thứ năm, đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, làm việc cùng các
nhà quản trị để đảm bảo khả năng cạnh tranh lâu dài của doanh nghiệp trong ngành.
Thứ sáu, lập kế hoạch và kiểm soát việc thực hiện các kế hoạch để doanh
nghiệp có thể phát triển bền vững.
1.2.2 Đối tượng của KTQT
Nhìn dưới góc độ lịch sử KTQT, cùng với sự phát triển của các quan điểm,
nội dung hay vai trò của KTQT thì đối tượng của KTQT cũng có sự phát triển theo
hướng mở rộng về phạm vi và đa dạng về nội dung.
Trong các giai đoạn kinh tế chưa có nhiều sự cạnh tranh như giai đoạn trước
1950 và giai đoạn 1950 – 1965, nhà quản trị thường chỉ quan tâm tới các thông tin
định lượng, tài chính, nội bộ bên trong doanh nghiệp. Vì vậy, KTQT trong các giai
đoạn này cũng chỉ tập trung nghiên cứu các đối tượng định lượng, tài chính, nội bộ
bên trong doanh nghiệp. Các đối tượng chủ yếu của KTQT gắn liền với các yếu tố
của BCTC (các đối tượng kế toán nói chung). Vì vậy, cách tiếp cận đối tượng KTQT
theo hướng này được gọi là cách tiếp cận theo quan điểm truyền thống. Theo đó, các
đối tượng của KTQT bao gồm: (1) phản ánh chi tiết các yếu tố sản xuất kinh doanh;
29
(2) phản ánh, tính toán, phân bổ chi phí, giá thành; (3) phản ánh chi tiết doanh thu và
kết quả hoạt động; (4) phản ánh chi tiết công nợ và các khoản phải thu; (5) tài sản và
nguồn vốn nói chung; (6) sự vận động của vốn v.v… Nhìn chung, đối tượng của
KTQT theo quan điểm truyền thống là các đối tượng nằm bên trong doanh nghiệp
(internal), do doanh nghiệp kiểm soát được. Các thông tin KTQT về các đối tượng
này thường có độ tin cậy cao bới chính các tính chất của thông tin mà KTQT cung
cấp: định lượng, tài chính, doanh nghiệp kiểm soát được.
Kể từ khủng hoảng kinh tế thế giới 1970 và sau đó là với sự gia nhập thị trường
một cách mạnh mẽ của các công ty tới từ Nhật Bản, các công ty của Mỹ và Châu Âu
phải đối diện với sự cạnh tranh lớn chưa từng có. Thay vì chỉ quan tâm tới các đối
tượng kế toán bên trong doanh nghiệp, lúc này, đòi hỏi các công ty nếu muốn có sức
cạnh tranh cần phải thay đổi tư duy kinh doanh theo hướng hướng ngoại. Cụ thể là
các công ty đã thay đổi tư duy từ “cung cấp những sản phẩm mình có” sang “cung
cấp những sản phẩm khách hàng cần”. Điều này phát sinh những đối tượng mới đòi
hỏi KTQT phải nghiên cứu để có thể cung cấp được thông tin mà nhà quản trị mong
muốn. Các đối tượng như nhu cầu thị trường, thị hiếu và tâm lý khách hàng bắt đầu
được KTQT quan tâm. Ngoài ra, KTQT cũng không rời xa việc quản trị các nguồn
lực của doanh nghiệp. Trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu các đối tượng bên ngoài
là thị trường và khách hàng với các đối tượng bên trong là nguồn lực của doanh
nghiệp, KTQT có thể xây dựng những chiến lược dài hạn để doanh nghiệp có thể
“cung cấp những sản phẩm khách hàng cần”. Một đối tượng khác mà KTQT cũng
quan tâm nghiên cứu trong giai đoạn 1965 – 1985 là các đối thủ cạnh tranh của doanh
nghiệp. Nghiên cứu các đối thủ này giúp doanh nghiệp có thể xác định chính xác lợi
thế cạnh tranh hay bất lợi cạnh tranh do chênh lệch chi phí (giá thành) giữa doanh
nghiệp với các đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, qua nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh,
doanh nghiệp cũng có thể xác định được tương quan vị trí của doanh nghiệp mình
với các đối thủ trên thị trường, các điểm mạnh của đối thủ cạnh tranh. Để từ đó có
những chiến lược học hỏi hoặc cải tiến quy trình SXKD của doanh nghiệp mình. Các
thông tin KTQT cung cấp trong giai đoạn này có thể bao gồm cả định lượng và định
tính, cả tài chính và phi tài chính. Thông tin KTQT cũng có độ tin cậy thấp hơn thông
tin ở giai đoạn trước bởi thông tin đa phần là các thông tin tương lai, hướng ngoại tới
30
những đối tượng mà doanh nghiệp không kiểm soát được.
Giai đoạn 1985 – nay, các doanh nghiệp ngày càng phải đối mặt với nhiều hơn
các yếu tố không chắc chắn. Theo đó, rủi ro của doanh nghiệp không chỉ tới từ yếu
tố nội tại bên trong doanh nghiệp hay tới từ các yếu tố bên ngoài như khách hàng, đối
thủ cạnh tranh. Lúc này, rủi ro có thể tới từ các bên có liên quan khác của doanh
nghiệp. Nhiều doanh nghiệp hoạt động rất hiệu quả nhưng đã phải đóng cửa vì những
yếu tố chưa từng được coi là đối tượng của kế toán như yếu tố: ô nhiễm môi trường,
an sinh xã hội v.v… Người tiêu dùng nói riêng hay cộng đồng, xã hội nói chung
không chỉ yêu cầu các sản phẩm có chất lượng từ các doanh nghiệp mà còn đòi hỏi
các doanh nghiệp phải tổ chức SXKD có trách nhiệm với môi trường, xã hội và kinh
tế để đảm bảo sự phát triển bền vững không chỉ của doanh nghiệp mà của cả cộng
đồng, xã hội xung quanh. Xuất phát từ yêu cầu đó, Kế toán phát triển bền vững ra
đời. Và các đối tượng nghiên cứu của Kế toán phát triển bên vững lúc này bao gồm
cả các đối tượng bên trong doanh nghiệp như nguồn lực doanh nghiệp và các đối
tượng bên ngoài có liên quan tới doanh nghiệp như môi trường, xã hội, kinh tế.
Nghiên cứu các đối tượng này giúp KTQT có thể xây dựng các phương án, chiến
lược sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp một cách phù hợp để có thể hài hòa lợi
ích của các bên liên quan nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Thông tin
KTQT cung cấp lúc này hướng tới các thông tin định tính, phi tài chính.
Cách tiếp cận trên đây xuất phát từ phạm vi của đối tượng với doanh nghiệp,
theo đó, đối tượng của KTQT được chia thành đối tượng bên trong và đối tượng bên
ngoài doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nhiều hiệp hội nghề nghiệp quốc tế như CIMA, ACCA, ICAEW
không tiếp cận đối tượng KTQT theo phạm vi bên trong hay bên ngoài doanh nghiệp
mà họ tiếp cận theo các hoạt động của doanh nghiệp. Theo đó, họ cho rằng để doanh
nghiệp vận hành, cần một chuỗi các hoạt động và trên cơ sở đó họ đưa ra 02 đối tượng
nghiên cứu chung của KTQT là: (i) các hoạt động của doanh nghiệp và (ii) quá trình
quản trị các hoạt động để nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Ngoài các hiệp
hội nghề nghiệp quốc tế, trong số các trường đại học của Việt Nam, Học viện Tài
chính cũng đề cập tới đối tượng của KTQT theo cách tiếp cận từ các hoạt động. Cách
tiếp cận này là hoàn toàn theo quan điểm hiện đại phù hợp với xu hướng quản trị dựa
trên hoạt động (ABM – Activity Based Management) của các doanh nghiệp, đặc biệt
31
là với các doanh nghiệp có quy mô lớn với nhiều lĩnh vực SXKD.
Thống kê trên cho thấy đối tượng nghiên cứu của KTQT rất phong phú, đa
dạng và tùy vào từng quan điểm của mỗi chủ thể nghiên cứu mà có thể tổng hợp và
phân loại thành nhiều đối tượng khác nhau.
Để phục vụ cho nghiên cứu trong phạm vi luận án này, tác giả phân loại đối
tượng của KTQT bao gồm 02 nhóm chính:
Nhóm thứ nhất – Nhóm các đối tượng bên trong doanh nghiệp. Đây là các
đối tượng mà KTQT có thể thu thập thông tin để nghiên cứu từ ngay bên trong doanh
nghiệp như: tài sản, nguồn vốn, chi phí (bao gồm cả kiểm soát chi phí và tính giá
thành), doanh thu, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (bao gồm cả đo lường và
phân tích hiệu quả), quy trình sản xuất, quy trình kinh doanh, các trung tâm trách
nhiệm, người lao động v.v…
Nhóm thứ hai – Nhóm các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Đây là các đối
tượng mà KTQT cần phải thu thập thông tin nghiên cứu từ bên ngoài doanh nghiệp
như: đối thủ cạnh tranh, khách hàng, cộng đồng xung quanh và các bên có liên quan
khác của doanh nghiệp.
Cũng giống như bản chất về “sự bồi đắp” của KTQT, các đối tượng nghiên
cứu của KTQT cũng mang tính bồi đắp. Sự xuất hiện của một đối tượng nghiên cứu
mới không đồng nghĩa với việc KTQT tại một doanh nghiệp sẽ dừng nghiên cứu về
các đối tượng cũ. Một doanh nghiệp thông thường luôn quan tâm tới nhóm đối tượng
thứ nhất và tùy vào đặc điểm của từng doanh nghiệp mà mức độ quan tâm tới nhóm
đối tượng thứ hai là khác nhau.
1.2.3 Phương pháp của KTQT
Phương pháp KTQT là các phương pháp, kỹ thuật được sử dụng trong KTQT
để thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin mà nhà quản trị có nhu cầu. Do
đó, các phương pháp KTQT cũng có sự thay đổi và phát triển theo thời gian tùy thuộc
vào nhu cầu thông tin của nhà quản trị.
Các phương pháp kế toán truyền thống. Tương ứng với giai đoạn trước 1950
và từ 1950 – 1965, KTQT sử dụng các phương pháp của kế toán nói chung để thực
hiện các công việc của mình. Để thu thập thông tin đầu vào, KTQT sử dụng phương
pháp chứng từ kế toán. Dựa vào hệ thống chứng từ của KTTC để thu thập các thông
32
tin thực hiện (quá khứ) chi tiết theo yêu cầu của KTQT (sử dụng chung nguồn thông
tin đầu vào với KTTC). Để theo dõi các đối tượng kế toán chi tiết, KTQT sử dụng
phương pháp tài khoản kế toán. Căn cứ vào hệ thống tài khoản được ban hành, KTQT
mở thêm các tài khoản chi tiết để theo dõi các đối tượng phù hợp với nhu cầu quản
lý của nhà quản trị. Để xử lý và phân tích thông tin, KTQT sử dụng phương pháp tính
giá và phương pháp tổng hợp, cân đối. Ngoài ra KTQT còn sử dụng các mô hình đại
số để liên kết mối quan hệ giữa các thông tin. Để cung cấp thông tin, KTQT thường
sử dụng các báo cáo tình hình thực hiện và báo cáo phân tích (trình bày dưới dạng
văn bản).
Các phương pháp KTQT theo quan điểm truyền thống phù hợp với những
thông tin định lượng, xuất phát từ nội bộ bên trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, các
phương pháp này có những hạn chế như sau: thông tin đầu vào không đa dạng
(thường chỉ thu thập được thông tin tài chính, định lượng), các kỹ thuật xử lý thông
tin chưa cho ra được nhiều loại thông tin có chất lượng (thường chỉ sử dụng các kỹ
thuật tổng hợp, so sánh và các phương pháp toán học giản đơn), cách thức cung cấp
thông tin đôi khi không phù hợp với khả năng hiểu biết của nhà quản trị (thông tin
thường quá chi tiết và đòi hỏi tỉ mỉ về tính toán). Kaplan (1984) cho rằng các phương
pháp, kỹ thuật KTQT truyền thống quá thiên về tính toán và đôi khi nhà quản trị
không thể xác định được mức độ chính xác của các thông tin trong báo cáo [72].
Các phương pháp hiện đại. Tương ứng với giai đoạn 1965 – 1985 và 1985 –
nay, KTQT vẫn sử dụng các phương pháp theo quan điểm truyền thống nhưng bổ
sung thêm các phương pháp mới nhằm đáp ứng được đầy đủ nhu cầu thông tin của
nhà quản trị trong điều kiện hiện nay. Để thu thập thông tin đầu vào, KTQT sử dụng
phương pháp thống kê (dữ liệu thứ cấp), phương pháp khảo sát, điều tra (dữ liệu sơ
cấp). Sử dụng các phương pháp này, KTQT không chỉ thu thập được thông tin từ bên
trong doanh nghiệp mà còn thu thập được thông tin bên ngoài doanh nghiệp, không
chỉ thu thập được các thông tin định lượng mà còn cả thông tin định tính. Để theo dõi
các đối tượng kế toán chi tiết, KTQT không chỉ sử dụng các tài khoản mà còn sử
dụng các loại thiết bị, phương pháp lưu trữ thông tin khác để có thể theo dõi các đối
tượng thông tin định tính hoặc phi tài chính. Để xử lý và phân tích thông tin, KTQT
sử dụng nhiều phương pháp hiện đại hơn như các phương pháp toán xác suất thống
33
kê, các mô hình sử dụng trong nghiên cứu định lượng để phân tích và dự báo. Để
cung cấp thông tin, KTQT không chỉ sử dụng các báo cáo trình bày dưới dạng văn
bản mà còn trình bày dưới dạng bảng biểu, sơ đồ, đồ thị.
Tóm lại, các phương pháp KTQT cũng có sự phát triển theo thời gian, đảm
bảo phù hợp với sự phát triển chung của KTQT nhằm đáp ứng được các nhu cầu
thông tin ngày càng phong phú, đa dạng của nhà quản trị. Sự phát triển của KTQT
cũng mang tính bồi đắp. Các phương pháp truyền thống phù hợp với các đối tượng
KTQT bên trong doanh nghiệp để cung cấp thông tin cho nhà quản trị thực hiện các
chức năng quản lý tác nghiệp truyền thống. Các phương pháp hiện đại phù hợp với
các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp để cung cấp thông tin cho nhà quản trị thực
hiện các chức năng quản lý chiến lược hiện đại.
1.3 Nội dung KTQT trong mối quan hệ với các chức năng quản lý
của nhà quản trị
1.3.1 Các chức năng quản lý của nhà quản trị
Trong quá trình quản lý doanh nghiệp, nhà quản trị luôn phải đưa ra các quyết
định để điều hành doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu của chủ sở hữu. Các
quyết định được truyền tải tới hệ thống bên dưới để triển khai thực hiện. Nếu nhà
quản trị không đưa ra các quyết định thì hệ thống sẽ không thể vận hành. Vì vậy, ra
quyết định được coi là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của nhà quản trị. Các
quyết định có thể liên quan đến tổng thể doanh nghiệp hoặc từng hoạt động của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, dù ở mức độ tổng thể hay từng hoạt động của doanh nghiệp thì
nhà quản trị vẫn phải thực hiện các chức năng sau để các quyết định được đưa ra có
sự kịp thời, hợp lý và chính xác nhất, đó là các chức năng: chức năng hoạch định;
chức năng năng kiểm soát và chức năng đánh giá hiệu quả. Các quyết định có thể
được đưa ra khi nhà quản trị thực hiện bất kỳ chức năng quản lý nào của mình. Mối
quan hệ giữa các chức năng quản lý của nhà quản trị được thể hiện trong sơ đồ sau
34
đây.
Hoạch định
Quyết định
Đánh giá
Kiểm soát
Sơ đồ 1.1 - Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý của nhà quản trị
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Các chức năng quản lý có thể được phân loại theo yếu tố thời gian hoặc theo
các cấp quản lý, bao gồm ba nhóm: (1) nhóm chức năng quản lý tác nghiệp (ngắn
hạn); (2) nhóm chức năng quản lý chiến thuật (trung hạn) và (3) nhóm chức năng
quản lý chiến lược (dài hạn). Bảng sau trình bày chi tiết các chức năng quản lý của
nhà quản trị:
Bảng 1.1 – Các chức năng quản lý của nhà quản trị
Chức năng
Hoạch định
Kiểm soát
Đánh giá hiệu
Ra quyết định
quả
Thời gian
Tác
nghiệp
Hoạch định tác
Kiểm soát tác
Đánh giá hiệu
Ra quyết định
(Ngắn hạn)
nghiệp
nghiệp
quả tác nghiệp
tác nghiệp
Chiến
thuật
Hoạch
định
Kiểm
soát
Đánh giá hiệu
Ra quyết định
(Trung hạn)
chiến thuật
chiến thuật
quả chiến thuật
chiến thuật
Chiến lược (Dài
Hoạch
định
Kiểm
soát
Đánh giá hiệu
Ra quyết định
hạn)
chiến lược
chiến lược
quả chiến lược
chiến lược
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
KTQT với vai trò là công cụ hỗ trợ nhà quản trị phải cung cấp được đầy đủ
thông tin cho việc thực hiện từng chức năng quản lý của nhà quản trị ở mỗi cấp quản
lý. Tuy nhiên, trên thực tế, nội dung KTQT phục vụ nhà quản trị thực hiện chức năng
tác nghiệp và nội dung KTQT phục vụ nhà quản trị thực hiện chức năng chiến thuật
không có sự khác biệt và thường được gọi là nội dung KTQT truyền thống. Trong
khi đó, nội dung KTQT phục vụ nhà quản trị thực hiện chức năng chiến lược có sự
35
khác biệt tương đối nhiều so với nội dung KTQT truyền thống.
Việc tiếp cận nội dung KTQT theo mối quan hệ với các chức năng quản lý
của nhà quản trị đã được một số nhà nghiên cứu áp dụng, ví dụ như học giả Mike
Tayles (2011) với bài viết mang tính hệ thống hóa các nghiên cứu về KTQT chiến
lược với tên gọi Kế toán quản trị chiến lược (nguyên bản Tiếng Anh: “Strategic
Management Accounting”. Theo đó, Mike Tayles đã phân loại và nhận diện các nội
dung KTQT chiến lược theo các chức năng quản lý của nhà quản trị, cụ thể: (1) Nhóm
chức năng kiểm soát và đo lường hiệu quả (Control and Performance evaluation); (2)
Nhóm chức năng ra quyết định chiến lược (Strategic decision making) [79].
Tiếp tục phát triển vấn đề nhận diện nội dung KTQT theo mối quan hệ với
chức năng quản lý của nhà quản trị, tác giả hệ thống hóa nội dung KTQT phục vụ
nhà quản trị các cấp thành hai nhóm: (1) nhóm các nội dung KTQT phục vụ nhà quản
trị tác nghiệp (bao gồm cả nhà quản trị chiến thuật) và (2) nhóm các nội dung KTQT
phục vụ nhà quản trị chiến lược. Các nội dung KTQT được phân chia theo từng nhóm
căn cứ vào kết quả của từng nội dung đó dùng để làm gì. Ví dụ kết quả của nội dung
lập dự toán (budgeting) là các báo cáo kế hoạch phục vụ nhà quản trị thực hiện chức
năng hoạch định hay kết quả của nội dung kế toán trách nhiệm là các báo cáo đánh
giá việc thực hiện kế hoạch của từng trung tâm trách nhiệm phục vụ nhà quản trị thực
hiện chức năng đánh giá hiệu quả v.v… Theo căn cứ đó, nội dung KTQT được phân
thành 08 nhóm và được trình bày trong Bảng 1.2 của luận án.
Bảng 1.2 – Nội dung KTQT trong mối quan hệ với chức năng quản lý
Chức năng
Hoạch định
Kiểm soát
Đánh giá hiệu
Ra quyết định
quả
Nhà quản trị
Tác nghiệp (bao
Nội
dung
Nội
dung
Nội
dung
Nội
dung
gồm cả Chiến
KTQT phục vụ
KTQT phục vụ
KTQT phục vụ
KTQT phục vụ
thuật)
chức
năng
chức năng kiểm
đánh giá hiệu
ra quyết định
hoạch định tác
soát tác nghiệp
quả tác nghiệp
tác nghiệp
nghiệp
Chiến lược (Dài
Nội
dung
Nội
dung
Nội
dung
Nội
dung
hạn)
KTQT phục vụ
KTQT phục vụ
KTQT phục vụ
KTQT phục vụ
36
chức
năng
chức năng kiểm
đánh giá hiệu
ra quyết định
hoạch
định
soát chiến lược
quả chiến lược
chiến lược
chiến lược
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
1.3.2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định
Trong bất kỳ tổ chức nào, hoạch định luôn là chức năng đầu tiên và quan trọng
mà nhà quản trị cần phải thực hiện. Hoạch định là việc nhà quản trị đưa ra quyết định
về các mục tiêu của tổ chức, về những thay đổi của các mục tiêu này, về các nguồn
lực sử dụng để đạt các mục tiêu đó, và về các chính sách huy động, sử dụng và thanh
lý các nguồn lực đó (Phạm Văn Dược, [22]).
Để nhà quản trị thực hiện chức năng hoạch định, KTQT phải cung cấp được
những thông tin tương lai trình bày trong các kế hoạch, dự toán, dự án. Kế hoạch/dự
toán/dự án có nhiều loại, có những dự toán tác nghiệp ngắn và trung hạn nhưng cũng
có những kế hoạch/dự án chiến lược dài hạn.
1.3.2.1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định tác nghiệp
KTQT phải cung cấp được các dự toán tác nghiệp phục vụ nhà quản trị thực
hiện chức năng hoạch định tác nghiệp. Trong các loại dự toán tác nghiệp, dự toán chi
phí luôn là một trong những nội dung quan trọng nhất và không thể thiếu của KTQT.
Để chuẩn bị cho việc lập được các dự toán chi phí có chất lượng, đảm bảo cung cấp
thông tin chi phí đầy đủ nhất cho nhà quản trị trong việc thực hiện chức năng hoạch
định, trước tiên, KTQT cần phải nhận diện, phân loại các chi phí và xác định được
tác dụng của việc nhận diện, phân loại chi phí đó đối với nhà quản trị.
Nhận diện, phân loại chi phí
Chi phí được nhận diện và phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau nhằm
phục vụ các mục đích khác nhau của nhà quản trị. Trong doanh nghiệp, chi phí
thường được KTQT phân loại theo các tiêu thức sau:
Thứ nhất, phân loại chi phí theo mối quan hệ của chi phí với các khoản
mục trên BCTC
Theo cách phân loại này, chi phí của doanh nghiệp bao gồm: (1) chi phí sản
phẩm (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất
chung); (2) chi phí thời kỳ (chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp). Nhận 37
diện và phân loại chi phí theo tiêu thức này giúp cho các dự toán (đặc biệt là các dự
toán tổng hợp như dự toán BCTC – được trình bày chi tiết trong phần “Lập dự toán
tác nghiệp”) sẽ có sự tương đồng với các BCTC do KTTC lập. Từ đó, giúp cho nhà
quản trị có thể đối chiếu, so sánh và kiểm tra giữa các báo cáo với nhau. Bên cạnh
đó, vì KTQT có nhiệm vụ tập hợp chi phí và tính giá thành để cung cấp cho KTTC
lập BCTC nên việc phân loại chi phí theo tiêu thức này là cần thiết và phù hợp với
mọi loại doanh nghiệp hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực SXKD nào.
Thứ hai, phân loại chi phí theo khả năng quy nạp với các đối tượng tập hợp
chi phí
Theo cách phân loại này, chi phí của doanh nghiệp bao gồm: (1) Chi phí trực
tiếp và (2) Chi phí gián tiếp. Thông qua cách phân loại này, KTQT có thể cung cấp
cho nhà quản trị dự toán chi phí theo khả năng quy nạp với các đối tượng tập hợp chi
phí từ đó tư vấn cho các nhà quản trị đưa ra một cơ cấu tổ chức SXKD hợp lý trước
khi đưa ra quyết định tổ chức thực hiện các kế hoạch, dự toán đó. Một cơ cấu tổ chức
SXKD tốt là một cơ cấu mà trong đó đa số các khoản chi phí có thể quy nạp trực tiếp
cho từng đối tượng tập hợp chi phí, từ đó giúp cho việc tập hợp chi phí và tính giá
thành được thuận lợi và chính xác hơn.
Thứ ba, phân loại chi phí theo mối quan hệ với quy trình sản xuất sản phẩm
và quy trình kinh doanh
Theo cách phân loại này, chi phí của doanh nghiệp bao gồm: (1) Chi phí cơ
bản và (2) Chi phí chung. Dự toán chi phí được lập theo cách phân loại này giúp nhà
quản trị xác định được phương hướng tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm.
Vì thông thường, chi phí cơ bản là chi phí liên quan trực tiếp đến quy trình công nghệ
sản xuất, chế tạo sản phẩm nên không thường xuyên có thể cắt bỏ. Còn chi phí chung
là những chi phí có thể cắt bỏ, thậm chí có thể loại trừ các chi phí không cần thiết.
Thứ tư, phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt động
Theo cách phân loại này, chi phí của doanh nghiệp bao gồm: (1) Biến phí; (2)
Định phí; (3) Chi phí hỗn hợp. Phân loại chi phí theo tiêu thức này giúp KTQT dễ
dàng xây dựng các phương án SXKD với dự toán chi phí ở các mức độ hoạt động
khác nhau (dự toán linh hoạt), đồng thời giúp nhà quản trị dễ dàng trong việc kiểm
38
soát và tiết giảm chi phí.
Thứ năm, phân loại chi phí theo thẩm quyền ra quyết định
Theo cách phân loại này, chi phí của doanh nghiệp bao gồm: (1) Chi phí kiểm
soát được và (2) Chi phí không kiểm soát được. Dự toán được lập dựa trên tiêu thức
phân loại chi phí này sẽ giúp nhà quản trị các cấp biết được quyền hạn của mình trong
việc chi tiêu, sử dụng nguồn lực như thế nào, đồng thời làm cơ sở để KTQT lập các
loại dự toán chi phí chi tiết cho từng bộ phận, trung tâm trong doanh nghiệp. Ngoài
ra. phân loại chi phí theo tiêu thức này giúp nhà quản trị có thể xây dựng các cơ chế
phân cấp quản lý trong doanh nghiệp. Đồng thời cũng là một trong các cơ sở cho việc
đánh giá hiệu quả công việc của nhà quản trị từng cấp (kế toán trách nhiệm).
Thứ sáu, các cách phân loại chi phí khác
Ngoài các cách phân loại chi phí như trên, KTQT cũng có thể nhận diện chi
phí thành: (1) Chi phí cơ hội; (2) Chi phí chênh lệch; (3) Chi phí chìm… Nhận diện
chi phí theo tiêu thức này giúp nhà quản trị có thể so sánh và đưa ra quyết định lựa
chọn giữa các phương án đầu tư, SXKD.
Xác định mô hình tập hợp và phân bổ chi phí, tính giá thành kế hoạch
Một trong các nội dung quan trọng nhất của khâu lập dự toán tác nghiệp là
phải xác định được giá thành của sản phẩm dự kiến sản xuất trong kỳ. Điều này, đòi
hỏi KTQT phải xác định được mô hình tập hợp và phân bổ chi phí phù hợp nhất với
doanh nghiệp và với nhu cầu của nhà quản trị trước khi lập các loại dự toán tác nghiệp.
Thông thường, các chi phí trực tiếp phát sinh liên quan đến một đối tượng tập
hợp chi phí được KTQT quy nạp trực tiếp cho đối tượng đó. Các chi phí gián tiếp
(chi phí chung) được phân bổ cho các đối tượng tập hợp chi phí theo những tiêu thức
phù hợp. Hiện nay, KTQT sử dụng hai mô hình phân bổ chi phí gián tiếp là: mô hình
phân bổ chi phí dựa trên khối lượng (VBC) và mô hình phân bổ chi phí dựa trên hoạt
động (ABC).
(i) Thứ nhất, mô hình phân bổ chi phí dựa trên khối lượng (VBC)
Các loại chi phí chung được tập hợp cho các trung tâm phát sinh chi phí. Sau
đó, tất cả các chi phí này được phân bổ cho các đối tượng tập hợp chi phí theo tiêu
thức khối lượng. Phương pháp này đơn giản, dễ thực hiện và phù hợp với các doanh
nghiệp có ít chi phí chung. Trong điều kiện doanh nghiệp có nhiều loại chi phí chung
39
thì phân bổ chi phí chung theo mô hình này sẽ cho ra kết quả kém chính xác. Bởi vì
có nhiều loại chi phí chung sử dụng các tiêu thức phân bổ khác (ngoài tiêu thức khối
lượng) sẽ cho ra kết quả chính xác hơn.
(ii) Thứ hai, mô hình phân bổ chi phí dựa trên hoạt động (ABC)
Để giải quyết hạn chế trên của mô hình VBC, KTQT áp dụng mô hình phân
bổ chi phí dựa trên hoạt động (ABC). Theo mô hình này, KTQT nhận diện quy trình
SXKD của doanh nghiệp thành các hoạt động, trong đó có những hoạt động chung
liên quan đến nhiều đối tượng cần tính giá thành. Chi phí phát sinh để thực hiện hoạt
động chung nào sẽ được tập hợp cho hoạt động chung đó. Cuối cùng, các chi phí liên
quan đến từng hoạt động chung sẽ được phân bổ theo từng tiêu thức phân bổ phù
hợp. Mô hình này cho kết quả giá thành chính xác hơn mô hình VBC nhưng để thực
hiện lại không đơn giản vì KTQT cần phải nhận diện được các hoạt động chung của
doanh nghiệp, đồng thời phải xác định được tiêu thức phân bổ phù hợp nhất cho từng
hoạt động. Bên cạnh đó, công tác theo dõi, kiểm soát và ghi nhận chi phí cho từng
hoạt động cũng rất phức tạp. Chính vì vậy, mô hình ABC chỉ phù hợp với các doanh
nghiệp có quy mô lớn, hoạt động trong nhiều lĩnh vực, sản xuất nhiều loại sản phẩm
và có nhiều loại chi phí chung phát sinh chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi phí của
doanh nghiệp.
KTQT phải xác định lựa chọn mô hình phân bổ chi phí gián tiếp phù hợp với
điều kiện và đặc điểm của doanh nghiệp, từ đó tạo cơ sở cho việc tính toán giá thành
sản phẩm (bao gồm cả giá thành kế hoạch và giá thành thực tế) được chính xác nhất.
Việc tập hợp và phân bổ chi phí không chỉ được thực hiện trong khâu lập dự toán tác
nghiệp mà còn được KTQT thực hiện trong khâu kiểm soát tác nghiệp nhằm mục
tiêu tính toán được giá thành sản xuất thực tế và cung cấp thông tin giá thành cho
KTTC để lập BCTC. Ngoài ra, việc tập hợp và phân bổ chi phí trong khâu kiểm soát
tác nghiệp phải đảm bảo nhất quán với khâu lập dự toán tác nghiệp. Trên cơ sở nhất
quán, KTQT mới có thể tính toán và phân tích được các chênh lệch.
Lập dự toán tác nghiệp
Từ kết quả nhận diện, phân loại chi phí và lựa chọn mô hình tập hợp phân bổ
chi phí như trên, KTQT tiến hành lập các dự toán tác nghiệp. Dự toán tác nghiệp
thường là các kế hoạch/dự toán SXKD trong ngắn và trung hạn. Dự toán SXKD bao
gồm dự toán tổng thể và các dự toán chi tiết. Trong số các dự toán chi tiết thì dự toán
chi phí SXKD là một trong những loại dự toán quan trọng nhất vì nó liên quan đến 40
việc sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Dự toán chi phí SXKD có thể được
lập theo nhiều tiêu thức phân loại chi phí tùy thuộc vào nhu cầu quản lý của nhà quản
trị như: dự toán chi phí SXKD theo mối quan hệ với các khoản mục trên BCTC, dự
toán chi phí SXKD theo yếu tố hay dự toán chi phí SXKD theo mối quan hệ với mức
độ hoạt động… Dự toán chi phí SXKD là một trong những loại dự toán được nhà
quản trị cấp tác nghiệp quan tâm nhất. Để xây dựng loại dự toán này, KTQT cần thiết
phải xây dựng được các định mức chi phí.
(i) Xây dựng định mức chi phí
Tùy vào các loại chi phí được nhận diện và phân loại theo từng tiêu thức phân
loại ở trên mà KTQT xây dựng định mức cho các loại chi phí tương ứng. Tuy nhiên,
trên thực tế KTQT thường xây dựng định mức cho các chi phí cơ bản và định mức
cho các chi phí chung (phân loại chi phí theo mối quan hệ với quy trình sản xuất sản
phẩm và quy trình kinh doanh).
- Định mức chi phí cơ bản (Định mức kinh tế kỹ thuật). Chi phí cơ bản là những
chi phí liên quan trực tiếp đến quy trình công nghệ sản xuất, chế tạo sản phẩm. Các
chi phí này thường phụ thuộc vào các yếu tố liên quan đến thiết kế kỹ thuật của dây
chuyền, máy móc, thiết bị. Vì vậy, định mức chi phí cơ bản còn được gọi là định mức
kinh tế kỹ thuật.
- Định mức chi phí chung (Định mức chi phí quản lý): Chi phí chung là những
chi phí tổ chức, quản lý và phục vụ sản xuất mang tính chất chung như chi phí quản
lý phân xưởng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Các chi phí này thường biến động bởi
nhiều yếu tố chủ quan nên nhà quản trị luôn đặc biệt quan tâm kiểm soát thông qua
các định mức chi phí chung.
(ii) Lập dự toán tác nghiệp (trong ngắn và trung hạn)
- Các loại dự toán. Căn cứ vào các định mức chi phí đã được xây dựng, KTQT
tiến hành lập các dự toán SXKD (bao gồm cả dự toán chi phí và dự toán doanh thu
cũng như các loại dự toán khác). Việc xây dựng dự toán có thể đi từ tổng thể cho tới
chi tiết hoặc ngược lại từ chi tiết cho tới tổng thể. Một dự toán tổng thể thường được
41
cấu thành bởi các dự toán chi tiết sau:
+ Dự toán sản lượng tiêu thụ. KTQT có thể lập dự toán sản lượng tiêu thụ
dựa trên số liệu thống kê sản lượng tiêu thụ trong quá khứ hoặc dựa
trên đơn đặt hàng v.v…
+ Dự toán chi phí sản xuất. Căn cứ vào sản lượng tiêu thụ và định mức
chi phí sản xuất, KTQT xây dựng dự toán chi phí sản xuất.
+ Dự toán hàng tồn kho.
+ Dự toán giá vốn hàng bán.
+ Dự toán chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
+ V.v…
Từ dự toán tổng thể, KTQT có thể xây dựng dự toán BCTC để cung cấp cho
nhà quản trị một bức tranh tổng thể về tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh
doanh và dòng tiền trong tương lai thông qua các:
+ Dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
+ Dự toán bảng cân đối kế toán.
+ Dự toán báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
- Các kỹ thuật lập dự toán. Một số kỹ thuật lập dự toán thường được KTQT sử
dụng là: (1) dự toán gia tăng; (2) dự toán từ số 0; (3) dự toán cuốn chiếu; (4) dự toán
dựa trên hoạt động.
Thứ nhất, kỹ thuật lập dự toán gia tăng. Kỹ thuật lập dự toán gia tăng là một
kỹ thuật dự toán truyền thống, mà các dự toán được căn cứ trên kết quả của năm hiện
hành, công thêm một giá trị phản ánh mức tăng ước tính hay lạm phát ước tính của
năm tới. Kỹ thuật này phù hợp với các doanh nghiệp có hoạt động SXKD diễn ra ổn
định hoặc biến động (tăng trưởng hoặc suy thoái) trong biên độ hẹp. Tuy nhiên, kỹ
thuật này có nguy cơ tiềm ẩn các khoản chi tiêu lãng phí, có thể kéo dài các hoạt động
không hiệu quả trước đây, vì các mức chi phí hiếm khi được xem xét kỹ lưỡng. Do
vậy, để loại trừ những điều không hiệu quả, doanh nghiệp có thể sử dụng các kỹ thuật
lập dự toán khác.
Thứ hai, kỹ thuật lập dự toán từ số 0. Nguyên tắc của kỹ thuật dự toán từ số 0
là dự toán cho từng trung tâm chi phí phải bắt đầu từ số 0. Từng khoản mục chi phí
đều được đánh giá lại toàn bộ trước khi được đưa vào bản dự toán của năm tiếp theo.
Tuy nhiên, trên thực tế, nhà quản trị không phải lập dự toán từ số 0, mà có thể bắt đầu 42
ở các mức hoạt động và chi phí thấp hơn, sau đó điều chỉnh một số khoản mục chi
phí cơ bản cho phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị và thị trường đầu vào. Kỹ
thuật lập dự toán này phù hợp với các doanh nghiệp có hoạt động SXKD biến động
thường xuyên, khó dự báo qua các kỳ (biến động cả yếu tố sản lượng tiêu thụ và yếu
tố giá đầu vào lẫn giá đầu ra).
Thứ ba, kỹ thuật lập dự toán cuốn chiếu. Kỹ thuật lập dự toán cuốn chiếu (còn
được gọi là kỹ thuật lập dự toán liên tục) là các bản dự toán được cập nhật thường
xuyên bằng cách bổ sung thêm một kỳ mới (ví dụ, một tháng hoặc một quý) để thay
thế kỳ vừa mới kết thúc. Bằng cách thu ngắn các kỳ lập dự toán, phương pháp dự
toán cuốn chiếu xây dựng các chỉ tiêu và kế hoạch có tính hiện thực và chắc chắn
hơn, nhất là đối với giá. Thay vì lập dự toán định kỳ hàng năm cho cả năm dự toán,
phương pháp dự toán cuốn chiếu lập dự toán cho từng quý, hoặc thậm chí cho từng
tháng. Mỗi bản dự toán được lập cho 12 tháng sắp tới, sao cho dự toán hiện hành có
thể kéo dài thêm một kỳ khi kỳ hiện hành kết thúc. Do vậy, dự toán lập theo phương
pháp này có tên gọi là dự toán cuốn chiếu. Kỹ thuật này phù hợp với các doanh nghiệp
có biến động giá lớn (kể cả giá đầu vào và giá đầu ra). Bằng cách rút ngắn các kỳ lập
dự toán, KTQT có nhiều hơn cơ hội để cập nhật các thay đổi giá cho dự toán và làm
tăng tính khả khi cho dự toán.
Thứ tư, kỹ thuật lập dự toán dựa trên hoạt động. Nói đơn giản, phương pháp
dự toán dựa trên hoạt động chỉ là việc sử dụng các số liệu chi phí, tính được theo
phương pháp tính chi phí dựa trên hoạt động để làm căn cứ lập dự toán. Nói một cách
đầy đủ thì phương pháp dự toán dựa trên hoạt động, liên quan tới quá trình xác định
các hoạt động giải thích cho các con số tài chính ở từng chức năng, và sử dụng mức
hoạt động để quyết định nguồn lực phải được phân bổ bao nhiêu, hoạt động được
quản lý tốt như thế nào, và giải thích các biến động so với dự toán.
1.3.2.2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định chiến lược
Kế hoạch chiến lược thường là các kế hoạch/dự án SXKD dài hạn. Trong khi
các dự toán tác nghiệp thường rất chi tiết đảm bảo khả năng thành công cao thì các
kế hoạch/dự án chiến lược thường mang tính tổng hợp, khái quát và có khả năng
thành công thấp hơn (các dự báo dài hạn thường thiếu độ tin cậy hơn so với các dự
43
báo trong ngắn và trung hạn).
KTQT phục vụ chức năng quản lý chiến lược cho rằng mục tiêu dài hạn của
nhà quản trị là có được lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Và lợi thế cạnh tranh sẽ có
được nếu doanh nghiệp (1) dẫn đầu trong việc tiết giảm chi phí (low-cost leader)
hoặc/và (2) sản phẩm có sự khác biệt (differentiation) so với đối thủ cạnh tranh. Vì
vậy, khi lập các loại kế hoạch/dự án SXKD dài hạn, KTQT luôn tập trung làm sao để
đưa ra được các mức chi phí tốt nhất, đảm bảo thu được lợi ích kinh tế trong dài hạn
cho doanh nghiệp hoặc giảm thiểu được rủi ro trong trường hợp đối thủ cạnh tranh
nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiện nay, KTQT thường xuyên sử dụng hai kỹ thuật
lập dự toán chi phí SXKD chiến lược bao gồm: lập dự toán theo chi phí mục tiêu
(Target Costing) và lập dự toán theo chi phí vòng đời sản phẩm (Lifecycle Costing).
Lập dự toán theo chi phí mục tiêu (Target Costing)
Lập dự toán theo chi phí mục tiêu (Target Costing) là một phương pháp ước
tính chi phí trước khi tiến hành sản xuất một sản phẩm mới nào đó. Phương pháp này
bắt đầu bằng việc xác định giá bán thị trường cho một sản phẩm mới. Giá bán thị
trường của sản phẩm được điều tiết bởi các quy luật của kinh tế thị trường. Tiếp đó,
doanh nghiệp sẽ xác định mức lợi nhuận kỳ vọng để làm cơ sở xác định chi phí mục
tiêu (target costs) (Zahirul Hoque, [99]).
Điểm nhấn mạnh trong kỹ thuật này là “giá bán quyết định chi phí” 6 chứ không phải “chi phí quyết định giá bán” 7. Lập dự toán theo chi phí mục tiêu được
sử dụng chủ yếu trong suốt giai đoạn phát triển và thiết kế sản phẩm.
Nhìn chung, các chi phí mục tiêu cho biết khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị
trường từ đó doanh nghiệp xác định được mức chi phí mục tiêu mà mình cần hướng
tới để đạt được mức lợi nhuận kỳ vọng (Chi phí mục tiêu càng thấp thì khả năng tiêu
thụ sản phẩm càng cao và ngược lại). Hai sơ đồ sau đây giải thích sự khác biệt giữa
lập dự toán chi phí truyền thống và lập dự toán theo chi phí mục tiêu.
Ken. Crow, DRM Association (1999) 8 đưa ra mô hình về lập dự toán chi phí
6 Trong thị trường cạnh tranh, giá bán được quyết định bởi cung cầu trên thị trường. Doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu tài chính kỳ vọng phải quản trị được chi phí. 7 Trong thị trường độc quyền bán, người bán được phép quyết định giá bán sản phẩm căn cứ trên các chi phí thực tế của mình để đạt được mục tiêu tài chính kỳ vọng. 8 Kenneth Crow là chủ tịch của DRM Associates – một công ty tư vấn và đào tạo quản trị chuyên về phát triển sản phẩm mới. http://www.npd-solutions.com/kcrow.html
44
theo kiểu truyền thống như sau:
Những yêu cầu về sản phẩm (Product Requiments)
Thiết kế sản phẩm (Product Design)
Thiết kế và ước tính chi phí (Design and Cost Estimate)
Phân tích sản xuất hay mua (Make/Buy Analysis)
Ước tính chi phí mua (Supplier Cost Estimates)
Sơ đồ 1.2 – Kỹ thuật quản trị chi phí kiểu truyền thống
Chi phí quá cao (Cost too high)?
Sản xuất (Production)
Cắt giảm chi phí định kỳ (Periodic cost reduction)
45
(Nguồn: Ken. Crow, DRM Association, 1999)
Ken. Crow, DRM Association (1999) cũng đưa ra mô hình lập dự toán theo chi phí
mục tiêu như sơ đồ sau:
Những yêu cầu về sp và nghiên cứu thị trường (Product Requiments and market analysis)
Lợi nhuận kỳ vọng (Target Priceless Profit)
Cân đối giữa chi phí mục tiêu với các yêu cầu sản phẩm (Balance target cost and requirements)
Dự toán chi phí (Cost Projections)
Phân tích sản xuất hay mua (Make/Buy Analysis)
Lựa chọn và tiến hành thiết kế sản phẩm cũng như quy trình sản xuất (Explore product and process design alternatives and design products and process)
Phân tích chi phí và phân tích giá trị
Quản trị chi phí mua hàng (Supplier target costing)
Sản xuất (Production)
Cắt giảm chi phí liên tục (Continuous cost reduction)
Sơ đồ 1.3 – Kỹ thuật quản trị chi phí mục tiêu (Target Costing)
(Nguồn: Ken. Crow, DRM Association, 1999)
Kỹ thuật chi phí mục tiêu không chỉ được sử dụng trong việc sản xuất sản
phẩm hàng loạt mà còn có thể được sử dụng trong việc lập các dự án đầu tư, SXKD
dài hạn.
Lập dự toán theo chi phí vòng đời sản phẩm (Lifecycle Costing)
Kỹ thuật lập dự toán theo chi phí vòng đời sản phẩm không quan tâm nhiều
46
tới các chi phí phát sinh hàng năm mà quan tâm tới các giai đoạn trong cả vòng đời
sản phẩm. Vòng đời sản phẩm gồm 4 giai đoạn: mới nổi (emerging), tăng trưởng
(growth), nở rộ (maturity) và suy thoái (decline).
Điểm quan trọng nhất của kỹ thuật lập dự toán theo chi phí vòng đời sản phẩm
là nhà quản trị phải hiểu rõ được tầm quan trọng của việc nghiên cứu và dự báo vòng
đời sản phẩm, bao gồm: (i) dự báo được doanh thu và từ đó (ii) lập dự toán chi phí
cho từng giai đoạn của vòng đời sản phẩm đảm bảo doanh nghiệp có thể đạt được lợi
nhuận kỳ vọng trong cả vòng đời của sản phẩm.
Bảng 1.3 – Đặc điểm của các giai đoạn trong vòng đời sản phẩm
Giai đoạn
Mới nổi
Tăng trưởng
Nở rộ
Suy thoái
Đặc điểm
Doanh thu
Thấp
Tăng nhanh
Đạt đỉnh
Suy giảm
chóng
Giảm
Giá bán đơn vị
Cao
Thấp
Tiếp tục giảm
Lợi nhuận đơn vị
Tiêu cực
Cao/Tăng
Trung bình
Suy giảm
Khách hàng
Những khách
Những khách
Đa số khách
Những khách
hàng đầu tiên,
hàng sớm chấp
hàng tập trung
hàng lạc hậu
thị hiếu khác lạ
nhận sản phẩm
tại đây
Đối thủ cạnh tranh
Ít
Tăng nhanh
Giảm nhanh
Tiếp tục giảm
(Nguồn: Wilson (1991), Strategic Management Accounting; in Ashton,
Hopper & Scapens (1991), Issues in Management Accounting [96])
Việc hiểu rõ các chi phí trong mỗi giai đoạn của vòng đời sản phẩm rất quan
trọng bởi doanh nghiệp phải đưa ra các quyết định có nên tiếp tục sản xuất và kinh
doanh sản phẩm hay là từ bỏ nó. Các doanh nghiệp cần tập trung vào việc theo dõi,
phân tích chi phí trong mỗi giai đoạn của vòng đời sản phẩm và giám sát hiệu quả
của sản phẩm đó.
Drury (1992) khuyến nghị các doanh nghiệp nên sử dụng kỹ thuật quản trị chi
phí vòng đời sản phẩm trong việc lập kế hoạch và lập dự toán cho những sản phẩm
47
mới của mình, nhưng những việc này hiếm khi được tích hợp vào hệ thống báo cáo
KTQT hiện hành của các doanh nghiệp bởi để lập được kế hoạch và dự toán cho
những sản phẩm mới không phải là việc đơn giản có thể thực hiện thường xuyên [46].
1.3.3 Nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát
Sau khi mục tiêu đã được xác định và kế hoạch đã được phê duyệt, nhà quản
trị phải tổ chức thực hiện và kiểm soát việc thực hiện các kế hoạch đó, bao gồm kiểm
soát thực hiện các kế hoạch tác nghiệp (sau đây gọi tắt là “kiểm soát tác nghiệp”) và
kiểm soát thực hiện các kế hoạch chiến lược (sau đây gọi tắt là “kiểm soát chiến
lược”). Đây là quá trình mà các nhà quản trị đảm bảo các nguồn lực đã được huy
động phải được sử dụng một cách hiệu quả. Nhà quản trị phải truyền đạt các chỉ tiêu
kế hoạch và tổ chức thực hiện tại các bộ phận theo như kế hoạch đã phê duyệt. Chức
năng này yêu cầu các nhà quản trị phải liên kết các bộ phận với nhau, sử dụng nguồn
lực hợp lý nhằm khai thác tối đa các yếu tố của quá trình sản xuất để đạt được các
mục tiêu đã dự định.
Để nhà quản trị thực hiện được chức năng này, KTQT phải thu thập các thông
tin thực hiện các kế hoạch. KTQT phải cung cấp được các báo cáo theo dõi thực tế
và có đối chiếu, so sánh với kế hoạch. Báo cáo đó cũng phải chỉ ra được những chênh
lệch giữa thực tế với kế hoạch và phải phân tích được ảnh hưởng của các yếu tố tới
những chênh lệch. Dựa vào các báo cáo đó, nhà quản trị có thể đưa ra được các quyết
định trong quá trình tổ chức thực hiện và kiểm soát thực hiện.
1.3.3.1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát tác nghiệp
Để phục vụ nhà quản trị tác nghiệp thực hiện chức năng kiểm soát tác nghiệp
của mình, trước hết, KTQT cần phải thực hiện chức năng cơ bản nhất, đó là theo dõi,
ghi nhận và tập hợp thông tin về tình hình thực hiện các dự toán tác nghiệp. Việc theo
dõi, ghi nhận, tập hợp thông tin thực tế bao gồm cả việc tập hợp và phân bổ chi phí
và tính giá thành thực tế để xác định lãi/lỗ đồng thời cung cấp thông tin cho KTTC
lập BCTC như đã nêu tại nội dung lập dự toán tác nghiệp.
Ngoài ra, KTQT cũng phải thu thập thông tin về tình hình thực hiện tất cả các
dự toán tác nghiệp. Sau đó tiến hành so sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch trong
các dự toán và phân tích nguyên nhân tạo ra các chênh lệch (variance analysis).
48
Phân tích chênh lệch ngắn và trung hạn
Việc phân tích chênh lệch nhằm mục đích kịp thời phát hiện những hoạt động
không đúng như dự toán để kiến nghị cho nhà quản trị tác nghiệp những biện pháp
điều chỉnh thích hợp. Quá trình phân tích chênh lệch chính là quá trình cung cấp thông
tin phản hồi, nhằm giúp nhà quản trị kiểm soát hoạt động SXKD, kịp thời chấn chỉnh
những hoạt động chưa tốt hoặc kịp thời điều chỉnh những tiêu chuẩn xa rời thực tế.
Thực chất, chênh lệch chính là khoản biến động giữa kết quả thực tế với kỳ vọng (kế
hoạch). Chênh lệch có thể đến từ những thay đổi về giá hoặc về lượng hoặc cả giá và
lượng. KTQT sử dụng các dự toán linh hoạt (flexible budget) để phân tích ảnh hưởng
của yếu tố giá (khi so sánh số thực tế với số trong dự toán linh hoạt) và ảnh hưởng
của yếu tố lượng (khi so sánh số trong dự toán linh hoạt với số trong dự toán tĩnh –
dự toán gốc ban đầu) tới các biến động.
Chênh lệch của kết quả SXKD thực tế so với kỳ vọng có thể là do biến động
từ doanh thu hoặc chi phí hoặc từ cả doanh thu và chi phí. Vì vậy, khi sử dụng kỹ
thuật phân tích chênh lệch, KTQT cần phải đánh giá được tổng thể cũng như ảnh
hưởng của từng nhân tố tới tổng thể.
1.3.3.2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát chiến lược
Kiểm soát chiến lược là việc nhà quản trị tổ chức thực hiện và kiểm soát các
kế hoạch/dự án dài hạn của doanh nghiệp. Nhà quản trị chiến lược có thể thực hiện
kiểm soát chiến lược với từng dự án dài hạn cụ thể hoặc có thể kiểm soát chiến lược
với cả doanh nghiệp. Với những dự án dài hạn cụ thể, nhà quản trị kiểm soát tình
hình thực hiện theo từng năm và có xét tới yếu tố thời gian của tiền (Phân tích chênh
lệch trong dài hạn). Còn đối với cả doanh nghiệp, nhà quản trị chiến lược luôn hướng
tới các biện pháp tiết giảm chi phí hoặc tạo ra những điểm khác biệt nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong dài hạn (kỹ thuật quản trị chi phí kiểu
Kaizen).
Phân tích chênh lệch dài hạn
Trước khi thực hiện đầu tư các dự án dài hạn, nhà quản trị chiến lược thường
xem xét rất kỹ lưỡng các phương án đầu tư kinh doanh được lập trong các báo cáo
như báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi. Các phương án này
mô tả quá trình đầu tư, SXKD của dự án trong dài hạn (vòng đời của dự án) và có xét
tới yếu tố thời gian của tiền. Nhà quản trị chiến lược cần những thông tin để kiểm
soát tình hình thực hiện dự án, phát hiện ra những chênh lệch giữa thực hiện với kế 49
hoạch trong dự án, tìm hiểu những nguyên nhân tạo ra chênh lệch. Để từ đó có thể
đưa ra các quyết định chiến lược với dự án. Kế toán quản trị phải tiến hành phân tích
chênh lệch dài hạn để cung cấp cho nhà quản trị những thông tin này.
Trong khi chi phí mục tiêu (Target Costing) được nhà quản trị chiến lược sử
dụng khi lập dự án đầu tư, SXKD dài hạn (thực hiện chức năng hoạch định), thì kỹ
thuật phân tích chênh lệch dài hạn (long-term variance analysis) được nhà quản trị
chiến lược sử dụng để kiểm soát việc thực hiện dự án đầu tư, SXKD dài hạn (thực
hiện chức năng kiểm soát).
Quản trị chi phí theo kiểu Kaizen (Kaizen Costing)
Vấn đề về việc không ngừng tìm kiếm biện pháp làm giảm chi phí trong quá
trình sản xuất đã được Henry Ford tìm hiểu từ những năm 1930 của thế kỷ XX. Tuy
nhiên, việc tìm kiếm này chỉ trở nên cấp bách hơn khi các nhà quản trị nhận ra rằng
“giá cả quyết định chi phí chứ không phải chi phí quyết định giá cả” (price-led costing
rather than cost-led pricing) (Mike Tayles, [79]. Trong một nền kinh tế nhiều cạnh
tranh, khi mà giá cả được quyết định bởi thị trường thì các doanh nghiệp muốn có lợi
thế cạnh tranh bắt buộc phải cắt giảm được chi phí so với các đối thủ hoặc tạo ra được
những sự khác biệt ở sản phẩm.
Các công ty của Nhật Bản đã đi đầu trong việc liên tục tìm kiếm các biện pháp
làm giảm chi phí trong quá trình sản xuất. Kỹ thuật tìm kiếm biện pháp giảm chi phí
trong quá trình sản xuất này được gọi là kỹ thuật quản trị chi phí kiểu Kaizen (Kaizen
Costing).
Gần giống với kỹ thuật quản trị chi phí mục tiêu (target costing), tuy nhiên, kỹ
thuật quản trị chi phí kiểu Kaizen không đặt chi phí mục tiêu ở trong giai đoạn thiết
kế và phát triển sản phẩm mà được thực hiện trong suốt giai đoạn sản xuất của vòng
đời sản phẩm. Kỹ thuật quản trị chi phí kiểu Kaizen đặt ra yêu cầu phải liên tục tìm
kiếm những cách thức sản xuất để tiết kiệm chi phí hơn.
Sau này, kỹ thuật quản trị chi phí kiểu Kaizen (Kaizen Costing) được phát triển
thành hệ thống hỗ trợ quản trị chiến lược được gọi là quản trị kiểu Kaizen (Kaizen
Management). Các nội dung cơ bản của hệ thống quản trị kiểu Kaizen (Kaizen
50
Management) bao gồm:
- Quản trị chất lượng tổng thể (TQC/TQM - Total quality cost/Total
quality management).
- Hệ thống sản xuất không có hàng tồn kho (A JIT – Just in time
production system).
- Duy trì năng lực sản xuất tổng thể (TPM – Total Productive
Maintainance).
- Phát triển chính sách (Policy development).
- Hệ thống đôn đốc (A suggestion system).
Kỹ thuật quản trị chi phí kiểu Kaizen liên quan tới tất cả các hoạt động, bộ
phận của doanh nghiệp. Đòi hỏi KTQT cho từng hoạt động hay bộ phận sẽ có những
bước thực hiện nội dung quản trị chi phí kiểu Kaizen khác nhau. Trong phạm vi của
luận án, tác giả chỉ khái quát mà không đi sâu vào từng nội dung cụ thể của kỹ thuật
quản trị chi phí kiểu Kaizen.
1.3.4 Nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả
Sau khi các kế hoạch được thực hiện hoàn tất, nhà quản trị phải tiến hành chức
năng đánh giá hiệu quả, bao gồm đánh giá hiệu quả tác nghiệp và đánh giá hiệu
quả chiến lược. Việc đánh giá hiệu quả nhằm chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế
trong quản lý của nhà quản trị. Thông qua đó phân tích và thu thập thông tin phục vụ
cho quá trình quản lý đầu tư, SXKD tiếp theo.
Để nhà quản trị thực hiện được chức năng này, KTQT phải đánh giá được hiệu
quả của tổng thể cả doanh nghiệp và hiệu quả của từng bộ phận. Hiệu quả cần phải
được đánh giá dưới góc độ tài chính và hoạt động. Hiệu quả cũng cần phải được đánh
giá trong mối tương quan với trung bình ngành hoặc với đối thủ cạnh tranh. Hiệu quả
tài chính trong dài hạn nên được xem xét dưới sự ảnh hưởng bởi yếu tố thời gian của
tiền. Trên cơ sở đó, nhà quản trị có thể đưa ra các quyết định điều chỉnh cho cả tổng
thể doanh nghiệp hoặc từng bộ phận, từng khâu trong quy trình SXKD.
1.3.4.1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả tác nghiệp
Các hoạt động tác nghiệp trong ngắn và trung hạn thường được thể hiện chi
tiết dưới dạng các chỉ tiêu tài chính trong các dự toán tác nghiệp và báo cáo phân tích
chênh lệch tác nghiệp. Trên cơ sở số liệu tài chính chi tiết đó, KTQT có thể đánh giá
51
hiệu quả tài chính một cách cụ thể cho cả tổng thể doanh nghiệp lẫn chi tiết từng bộ
phận. Ngoài việc đánh giá hiệu quả tài chính, KTQT còn có thể đánh giá hiệu quả
hoạt động của từng bộ phận, trung tâm trách nhiệm và từng nhà quản trị trong từng
trung tâm trách nhiệm. Các nội dung này của KTQT giúp nhà quản trị thực hiện chức
năng đánh giá hiệu quả tác nghiệp của mình.
Đánh giá hiệu quả tài chính ngắn và trung hạn
Định kỳ vào cuối mỗi kỳ thực hiện, KTQT không chỉ phân tích chênh lệch
giữa kỳ thực hiện với kỳ kế hoạch mà còn phải phân tích, đánh giá hiệu quả tài chính
của cả doanh nghiệp để cung cấp cho nhà quản trị thông tin về hiệu quả hoạt động
SXKD, hiệu quả hoạt động tài chính… Trên cơ sở đó, nhà quản trị có thông tin làm
căn cứ cho việc điều chỉnh kế hoạch tác nghiệp của kỳ tiếp theo.
Thông thường, KTQT có thể sử dụng các chỉ tiêu tài chính cơ bản hay được
dùng trong phân tích tài chính doanh nghiệp để làm công cụ hỗ trợ cho việc đánh giá
hiệu quả tài chính doanh nghiệp.
Kế toán trách nhiệm
Về mặt lý thuyết, với những công ty có quy mô lớn với nhiều bộ phận hoạt
động trong nhiều ngành nghề sẽ gặp nhiều khó khăn trong quản lý. Vì vậy, cần phải
phân chia chúng thành những bộ phận nhỏ. Những bộ phận này được hiểu như là
những trung tâm trách nhiệm bao gồm: trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung
tâm lợi nhuận, trung tâm đầu tư. Nhà quản trị của mỗi trung tâm sẽ có toàn quyền
quyết định và chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của trung tâm do họ quản lý.
Những hoạt động này bao gồm: (1) hoạt động tiêu hao chi phí đối với trung tâm chi
phí (mảng tạo ra chi phí, nhưng không có doanh thu); (2) hoạt động bán hàng tạo
doanh thu đối với trung tâm doanh thu (tạo ra doanh thu lớn nhất với chi phí tương
đối nhỏ); (3) hoạt động vừa bán hàng vừa tiêu hao chi phí đối với trung tâm lợi nhuận
và (4) hoạt động đầu tư, bán hàng, tiêu hao chi phí đối với trung tâm đầu tư. Từ các
hoạt động mà mỗi trung tâm trách nhiệm được thực hiện theo chức năng của mình,
KTQT xác định các phương pháp/kỹ thuật đánh giá hiệu quả hoạt động của từng loại
trung tâm trách nhiệm như bảng sau:
Bảng 1.4 – Các phương pháp đánh giá hiệu quả trung tâm trách nhiệm
Những kiểu trung tâm trách nhiệm
Phương pháp đánh giá hiệu quả truyền thống
Các trung tâm chi phí
Đối với Chi phí nói chung:
52
Được xếp vào loại trung tâm chi phí là
- Sự chênh lệch phí tổn
các phân xưởng sản xuất, dịch vụ, các
Đối với những bộ phận thu mua và sản xuất:
phòng ban chức năng.
- Sự chênh lệch giá nguyên liệu.
- Sự chênh lệch số lượng nguyên liệu.
- Sự chênh lệch tỷ lệ lao động trực tiếp.
- Sự chênh lệch hiệu quả lao động trực tiếp.
- Sự chênh lệch trong tổng chi phí khả biến.
- Sự chênh lệch trong tổng hiệu quả khả biến.
- Sự chênh lệch tổng chi tiêu cố định.
- Sự chênh lệch trong khối lượng sản xuất.
Đối với bộ phận dịch vụ:
- Sự chênh lệch chi tiêu.
Các trung tâm doanh thu
Doanh thu:
Thường là các chi nhánh tiêu thụ, khu
- Sự chênh lệch doanh thu.
vực tiêu thụ, cửa hàng tiêu thụ với những
- Sự chênh lệch giá bán.
chi phí rất nhỏ liên quan tới tiếp thị, bán
- Sự chênh lệch trong khối lượng bán.
hàng.
Các trung tâm lợi nhuận
Đánh giá tổng thu hay lãi gộp, thu nhập kinh doanh và
thu nhập ròng kết hợp với đánh giá sự chênh lệch
Thường là các công ty phụ thuộc, các chi
doanh thu và chi phí như trình bày ở 02 loại trung tâm
nhánh, một nhà máy hay dây chuyền sản
bên trên.
xuất có các chức năng sản xuất, dịch vụ,
tiếp thị, bán hàng.
Các trung tâm đầu tư
- Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận đặc biệt là chỉ tiêu
lợi nhuận trên vốn đầu tư ROI.
Bao gồm tất cả những chức năng trên
cộng với việc những nhà quản trị có
- Thu nhập thặng dư. Thu nhập này giống như giá
quyền kiểm soát việc sản xuất cái gì, sản
trị kinh tế gia tăng.
xuất như thế nào, vốn đầu tư ra sao.
Nghĩa là nhà quản trị ở trung tâm đầu tư
có quyền tự quản lý nhiều hơn so với
53
những nhà quản trị trong trung tâm lợi
nhuận. Thông thường là Hội đồng quản
trị, các công ty con độc lập.
(Nguồn: Phạm Văn Dược [22], Kế toán quản trị, NXB Lao động)
Đánh giá hiệu quả hoạt động của các trung tâm trách nhiệm, KTQT đồng thời
cũng góp phần đánh giá hiệu quả quản lý của từng nhà quản trị tại các trung tâm đó.
Bởi vì các trung tâm trách nhiệm hoạt động có hiệu quả hay không chủ yếu được
quyết định bởi cách thức điều hành, quản lý của nhà quản trị. Lý luận này được xây
dựng dựa trên giả định: mọi trung tâm trách nhiệm đều đảm bảo đầy đủ điều kiện và
nguồn lực để thực hiện các kế hoạch trong dự toán. Vì vậy, mọi kết quả không hoàn
thành kế hoạch không xuất phát từ nguyên nhân khách quan mà xuất phát từ nguyên
nhân chủ quan của nhà quản trị.
1.3.4.2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả chiến lược
Khi đánh giá hiệu quả tài chính truyền thống thông qua các nội dung như: (1)
đánh giá hiệu quả tài chính ngắn và trung hạn; (2) kế toán trách nhiệm, thông tin
KTQT cung cấp có thể gặp phải một số hạn chế sau:
Thứ nhất, lạm phát hay yếu tố thời gian của tiền có thể là yếu tố khiến cho các
kết quả hoạt động SXKD không thực sự như các chỉ tiêu tài chính ngắn và trung hạn
phản ánh.
Thứ hai, kết quả hoạt động SXKD không có sự so sánh tương quan với các
đối thủ cạnh tranh và với trung bình ngành.
Thư ba, các phương pháp KTTC khác nhau có thể cho ra những kết quả khác
nhau giữa các công ty, thậm chí là ngay trong 1 công ty.
Vì vậy, KTQT phục vụ quản trị chiến lược sử dụng các nội dung sau để khắc
phục những hạn chế kể trên: (1) đánh giá hiệu quả tài chính dài hạn: có xét đến yếu
tố thời gian của tiền hay ảnh hưởng của lạm phát khi tính toán hiệu quả tài chính; (2)
đánh giá điểm chuẩn (Benchmarking): so sánh hiệu quả tài chính và hiệu quả hoạt
động của đơn vị với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường; (3) phân tích giá trị kinh
tế hoặc giá trị cổ đông (SVA/EVA). Cụ thể từng nội dung như sau:
54
Đánh giá hiệu quả tài chính dài hạn
Đánh giá hiệu quả dài hạn là việc KTQT đánh giá hiệu quả tài chính của dự
án dài hạn ở bất thì thời điểm nào trong khoảng thời gian vòng đời của dự án. Việc
đánh giá có xét tới yếu tố thời gian của tiền và các dòng tiền trong tương lai hay quá
khứ đều được chiết khấu về thời điểm đánh giá hiệu quả. Việc đánh giá lần đầu
thường được các doanh nghiệp thực hiện trong giai đoạn nghiên cứu đầu tư dự án
(trong bước lập dự án chiến lược dài hạn). Trong giai đoạn vận hành các dự án dài
hạn, KTQT vẫn cần phải đánh giá lại hiệu quả tài chính của dự án theo từng năm.
Trên cơ sở đó cung cấp thông tin cho nhà quản trị chiến lược để đưa ra những quyết
định chiến lược phù hợp, kịp thời.
Đánh giá điểm chuẩn (Benchmarking)
Đánh giá điểm chuẩn (Benchmarking) là một quy trình được sử dụng bởi các
doanh nghiệp nhằm xác định những vùng trọng tâm là mục tiêu cần hướng tới để cải
thiện, nâng cao. Từ đó doanh nghiệp có thể nâng cao năng suất, sức cạnh tranh và
chất lượng. Đánh giá điểm chuẩn bao gồm so sánh hiệu quả tài chính và hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh hoặc so sánh giữa các bộ
phận trong doanh nghiệp. Việc so sánh với đối thủ cạnh tranh sẽ cho doanh nghiệp
biết về vị trí của mình trên thương trường và xác định được những khu vực/vùng nào
mà họ có thể cải thiện, nâng cao (Murray và Zimmermann, [80]).
Các hoạt động so sánh điểm chuẩn có thể được chia thành 3 nhóm chính: so
sánh điểm chuẩn bên trong (internal benchmarking), so sánh điểm chuẩn bên ngoài
(external benchmarking) và so sánh điểm chuẩn tối ưu (best-practice benchmarking).
So sánh điểm chuẩn bên trong là việc so sánh hiệu quả hoạt động giữa các bộ
phận bên trong doanh nghiệp như bộ phận mua hàng, marketing, nghiên cứu và phát
triển, quản trị v.v…
So sánh điểm chuẩn bên ngoài tập trung vào việc so sánh hiệu quả hoạt giữa
công ty với những đối thủ cạnh tranh có sự tương đồng nhất định.
So sánh điểm chuẩn tối ưu là việc so sánh công ty với những đối thủ cạnh
tranh dẫn đầu. Đối thủ cạnh tranh đó không nhất thiết phải là dẫn đầu trong toàn bộ
mọi khía cạnh mà có thể chỉ đẫn đầu ở một mảng/lĩnh vực nào đó.
Phân tích giá trị kinh tế hoặc giá trị cổ đông (Shareholder or Economic
55
Value Analysis (EVA/SVA)
Phân tích giá trị kinh tế/giá trị của cổ đông giải quyết được những hạn chế của
việc cung cấp thông tin tài chính theo các quy định của KTTC. Phân tích giá trị kinh
tế sử dụng cả các thông tin tài chính và phi tài chính. Ngoài ra, phân tích giá trị kinh
tế còn quan tâm tới giá trị thời gian của tiền. Phân tích giá trị kinh tế coi trọng dòng
tiền và chi phí sử dụng vốn hơn là các yếu tố chi phí và yếu tố doanh thu được ghi
nhận theo các quy định của kế toán tài chính (Mike Tayles, [79]).
SVA là phương pháp được phát triển từ những năm 1980. Phương pháp này
tập trung vào những yếu tố cấu thành nên giá trị kinh tế cho các cổ đông. Các giá trị
kinh tế này được đo lường bằng giá trị cổ phiếu (share price performance) và dòng
tiền (flow of funds). SVA được sử dụng như là một cách thức liên kết các chiến lược
với các quyết định của nhà quản trị nhằm đem lại giá trị cho các cổ đông.
Các quyết định đầu tư, quyết định kinh doanh và quyết định tài chính được
xác định là các yếu tố ảnh hưởng tới giá trị của cổ đông. Sự ảnh hưởng của các yếu
tố tới giá trị cổ đông được thể hiện qua sơ đồ sau.
Quyết định quản trị
Quyết định đầu tư (Investment Decisions)
Quyết định kinh doanh (Business Decisions)
Quyết định tài chính (Financing Decisions)
Vốn lưu động
Doanh thu
Cấu trúc vốn
Đầu tư vốn
Lợi nhuận
C/sách chia cổ tức
M&A
Quản lý chi phí
Thuế suất
Nguồn tạo ra giá (Value trị drivers)
Mở rộng
Định giá bán
Trợ cấp khấu hao
Hiệu quả hoạt
Lãi suất
Ảnh hưởng tới
Chi phí sử dụng vốn
Dòng tiền từ các hoạt động
Giá trị cổ đông
Mục tiêu tối đa hóa
Sơ đồ 1.4 – Ảnh hưởng của các quyết định quản trị lên giá trị cổ đông
(Nguồn: http://www.accountingnotes.net/company-
management/shareholders/shareholder-value-analysis-sva-financial-
56
management/10723)
Bản chất của SVA là lấy giá trị hiện tại thuần của các dòng tiền trong tương
lai trừ đi chi phí sử dụng vốn hợp lý. Cụ thể hơn, tổng giá trị của một doanh nghiệp
được đo lường bởi 03 yếu tố:
- Thứ nhất, giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai (future cash
flows) của tất cả các kỳ kế hoạch (A). Giá trị hiện tại (Present value) là
giá trị của dòng tiền thu hồi từ các kỳ kế hoạch bình thường của doanh
nghiệp.
- Thứ hai, giá trị còn lại của các dòng tiền trong tương lai nằm ngoài các
kỳ kế hoạch (B). Giá trị còn lại (Residual value) là giá trị thu hồi ước
tính từ việc thanh lý TSCĐ sau khi kết thúc thời gian sử dụng hữu ích.
- Thứ ba, chi phí sử dụng vốn bình quân (C). Chi phí sử dụng vốn bình
quân (Weighted average cost of capital – WACC) là chi phí sử dụng
vốn chủ cộng thêm chi phí sử dụng vốn vay.
Tổng giá trị của một doanh nghiệp = [(A) + (B)] / (C). Nếu Tổng giá trị của
một doanh nghiệp lớn hơn 1 có nghĩa doanh nghiệp đó có giá trị lớn hơn so với giá
trị của khoản vốn đã được đầu tư. Như vậy, giá trị gia tăng (giá trị cổ đông) đã được
tạo ra.
Để hiểu được việc tạo ra giá trị trong một doanh nghiệp, nhất thiết phải xác
định và hiểu được giá trị được tạo ra từ đâu, hay nói cách khác là xác định các nguồn
tạo ra giá trị (value drivers). Việc hiểu rõ nguồn tạo ra giá trị và ảnh hưởng của nó
tới dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp giúp nhà quản trị đưa ra các quyết
định có thể tạo ra giá trị cho cổ đông.
Việc phân tích nguồn tạo ra giá trị liên kết các mục tiêu tài chính (financial
targets) và mục tiêu hoạt động (operational targets) với nhau, đồng thời cung cấp một
khung lý thuyết phục vụ việc: (1) Thiết lập các mục tiêu hiệu quả; (2) Giao trách
nhiệm cho từng nhà quản trị; (3) Xem lại hiệu quả tài chính của doanh nghiệp (bao
gồm cả việc so sánh điểm chuẩn với các đối thủ cạnh tranh); (4) Phát triển các kế
hoạch chiến lược.
Sử dụng SVA khuyến khích các nhà quản trị đưa ra các quyết định tạo ra giá
trị cho cổ đông. SVA giúp nhà quản trị tập trung vào các hoạt động có thể tạo ra giá
57
trị dài hạn hơn là việc tập trung vào lợi nhuận trong ngắn hạn.
KTQT có thể vận dụng SVA kết hợp với phân tích chênh lệch dài hạn để
hoạch định chiến lược hoạt động dài hạn, đồng thời dự báo dòng tiền tương lai dựa
trên nguồn tạo ra giá trị có thể là: (1) doanh thu; (2) chi phí; (3) thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp; (4) chính sách chia cổ tức. Trên cơ sở dòng tiền tương lai chiết
khấu về thời điểm phân tích, so sánh với chi phí sử dụng vốn của đơn vị để đánh giá
giá trị cổ đông. Trên cơ sở đó, chủ sở hữu (nhà quản trị cấp cao trong hội đồng quản
trị của các doanh nghiệp) có thể đánh giá được hiệu quả kinh tế dài hạn của khoản
đầu tư và có thể đưa ra quyết định tiếp tục nắm giữ hay thoái vốn đầu tư.
Nhìn chung, SVA là phương pháp có thể được KTQT sử dụng để giúp nhà
quản trị thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý của mình, bao gồm: hoạch định,
kiểm soát, đánh giá hiệu quả và ra quyết định. Ngoài SVA, hiện nay nhiều tập đoàn
kinh tế, tài chính trên thế giới còn sử dụng kỹ thuật Thẻ điểm cân bằng (BSC) của
Kaplan & Norton (1996) như là một công cụ đo lường tổng thể hỗ trợ nhà quản trị
thực hiện các chức năng quản lý chiến lược của mình. BSC đề cập tới bốn khía cạnh
mà doanh nghiệp cần phải đáp ứng được nếu muốn đạt được các mục tiêu chiến lược
tổng thể, bao gồm: (1) khía cạnh hiệu quả tài chính, (2) khía cạnh giá trị khách hàng,
(3) khía cạnh quy trình nội bộ; (4) khía cạnh học tập và phát triển. Trong khi kế toán
trách nhiệm chỉ phù hợp áp dụng trong phạm vi hẹp thì BSC phù hợp với các tập
đoàn kinh tế, tài chính hoạt động trong nhiều lĩnh vực với quy mô toàn cầu (Kaplan
& Norton, [70]). Vì vậy, trong phạm vi của luận án, tác giả chỉ đề cập tới BSC như
là một nội dung của KTQT đang được sử dụng trên thế giới chứ không coi đây là nội
dung cần áp dụng và hoàn thiện tại đơn vị được nghiên cứu.
1.3.5 Nội dung KTQT phục vụ chức năng ra quyết định
Ra quyết định là chức năng quan trọng, xuyên suốt các khâu quản trị doanh
nghiệp, từ khâu lập kế hoạch, kiểm soát thực hiện cho đến đánh giá hiệu quả. Nhà
quản trị ở mọi cấp độ trong đơn vị đều phải ra quyết định.
Tất cả các quyết định đều có nền tảng từ thông tin. Hiểu rộng hơn thì chất
lượng của quyết định trong quản lý, chính là sự phản ánh chất lượng của quá trình xử
lý thông tin kế toán và các thông tin khác. Thông tin sai sẽ dẫn đến quyết định sai.
Như vậy, ngoài việc hiểu quá trình ra quyết định của nhà quản trị, KTQT còn phải
nắm được loại quyết định mà từng cấp quản trị trong đơn vị phải thực hiện, để có thể
58
cung cấp loại thông tin thích hợp.
Khoa học quản lý cho rằng nhà quản trị trong doanh nghiệp được chia thành
ba cấp: cấp chiến lược, cấp chiến thuật và cấp tác nghiệp. Tuy nhiên, như trong phần
“1.3.2.1 Các chức năng quản lý của nhà quản trị”, luận án đã trình bày: không có sự
khác biệt quá lớn giữa cấp chiến thuật và cấp tác nghiệp. Do đó, theo quan điểm của
tác giả, các cấp quản trị và quyết định mà họ phải đưa ra bao gồm hai cấp và được
trình bày theo sơ đồ sau.
Sơ đồ 1.5 - Các cấp quản trị và loại quyết định phải thực hiện
Quyết định chiến lược
(Theo quan điểm của luận án)
Cao Cấp
Quyết định tác nghiệp
Tác nghiệp
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Với các quyết định chiến lược (nhà quản trị cao cấp). KTQT cung cấp loại
thông tin để hỗ trợ nhà quản trị cao cấp xác định các mục tiêu của tổ chức và đánh
giá liệu các mục tiêu trên thực tế có thể đạt được hay không. Thông tin chiến lược
thường có những đặc điểm sau:
Tập hợp từ các nguồn bên trong và bên ngoài. -
Có tính tổng hợp ở mức cao. -
Thích hợp cho dài hạn. -
Liên quan tới toàn bộ tổ chức. -
- Gồm cả thông tin định lượng và thông tin định tính.
- Không thể đảm bảo một sự chắc chắn hoàn toàn vì chỉ có thể ước tính
tương lai dài hạn.
Với các quyết định tác nghiệp (nhà quản trị cơ sở). KTQT cung cấp loại
thông tin hoạt động cho nhà quản trị tác nghiệp để giúp họ: (1) ra quyết định về sử
59
dụng các nguồn lực của tổ chức, và giám sát các nguồn lực đó đã và đang được sử
dụng như thế nào; (2) điều hành thực thi nhiệm vụ được giao ở phân xưởng hay bộ
phận, phòng ban v.v… Thông tin cung cấp cho nhà quản trị tác nghiệp thường được
thực hiện thường xuyên, liên tục trong cả ngắn và trung hạn. Thông tin tác nghiệp có
các đặc điểm sau:
Chủ yếu lấy từ nguồn bên trong nhưng cũng tham khảo từ một số nguồn -
bên ngoài.
Có sự tổng hợp nhưng ở mức thấp; chủ yếu được phân tích rất chi tiết -
căn cứ trên các số liệu thu thập ban đầu.
Thích hợp cho ngắn và trung hạn. -
Mô tả, phân tích các hoạt động hay các bộ phận; gắn liền với từng công -
việc.
Được soạn thảo thường xuyên. -
Gồm cả thông tin định lượng và định tính. -
1.3.5.1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng ra quyết định tác nghiệp
Các kỹ thuật này của KTQT giúp nhà quản trị thực hiện chức năng ra quyết
định tác nghiệp của mình. Trên thực tế, trong quá trình điều hành và quản lý của
mình, nhà quản trị phải liên tục đưa ra những quyết định khác nhau và chủ yếu là các
quyết định ngắn hạn. KTQT sử dụng hai nhóm kỹ thuật sau để hỗ trợ nhà quản trị
đưa ra các quyết định tác nghiệp:
Nhóm quyết định về quy mô/mức độ sản xuất dựa vào các ứng dụng của
mối quan hệ Chi phí – Khối lượng – Lợi nhuận (CVP)
CVP xem xét mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng và giá bán cũng như ảnh
hưởng của chúng tới lợi nhuận trong ngắn hạn. Mối quan hệ CVP bị ảnh hưởng bởi
các hoạt động của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, các hoạt động của doanh nghiệp
ảnh hưởng tới doanh thu, chi phí, lợi nhuận trong ngắn hạn như thế nào được thể hiện
qua CVP. Một số quyết định có thể đưa ra khi ứng dụng mối quan hệ CVP như sau:
Quyết định thay đổi định phí và doanh thu. -
Quyết định thay đổi biến phí và lượng bán. -
Quyết định thay đổi định phí, giá bán và lượng bán. -
60
Quyết định thay đổi định phí, biến phí và lượng bán. -
- Định giá bán cho đơn đặt hàng đặc biệt.
Nhóm quyết định về định giá bán sản phẩm
Giá cả được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vì vậy giá cả cũng thường
có xu hướng biến động theo nhu cầu hàng hóa. Giá ngắn hạn thường có xu hướng
tăng thêm khi chi phí tăng thêm. Tuy nhiên, khi tính bình quân trong một khoảng thời
gian dài thì giá có xu hướng bằng với giá dựa trên giá thành sản xuất toàn bộ với một
mức cộng thêm theo quy định của doanh nghiệp. Nói cách khác, giá của một sản
phẩm được xây dựng dựa trên giá thành sản xuất toàn bộ, cộng thêm một mức theo
quy định của doanh nghiệp, được sử dụng như giá chuẩn để căn cứ vào đó doanh
nghiệp sẽ điều chỉnh tăng hay giảm tùy theo nhu cầu. Một số phương pháp định giá
cụ thể được KTQT nghiên cứu như sau:
- Định giá bán theo phương pháp chi phí sản xuất toàn bộ.
- Định giá bán theo phương pháp chi phí trực tiếp.
- Định giá chuyển nhượng nội bộ (Transfer price) bao gồm: (i) Giá
chuyển nhượng theo chi phí sử dụng; (ii) Giá chuyển nhượng theo giá
thị trường; (iii) Giá chuyển nhượng theo giá thương lượng.
- Định giá theo thời gian lao động và nguyên liệu sử dụng.
- Định giá trong những trường hợp đặc biệt.
Nhóm quyết định ngắn hạn dựa trên các thông tin thích hợp
Tiêu chuẩn về mặt kinh tế của việc chọn quyết định ngắn hạn đơn giản là chọn
hành động/phương án được dự tính là sẽ mang lại thu nhập cao nhất (hoặc có chi phí
thấp nhất) cho doanh nghiệp. Chính vì vậy các thông tin về doanh thu, chi phí của
từng hành động/phương án (bao gồm cả chi phí cơ hội - nếu có) đều được coi là các
thông thích hợp dùng để phân tích cho việc ra quyết định ngắn hạn. Một số thông tin
không được coi là thông tin thích hợp là: thông tin về chi phí chìm, thông tin về các
khoản thu và chi như nhau ở các hành động/phương án. Một số quyết định ngắn hạn
dựa trên phân tích thông tin thích hợp bao gồm:
- Quyết định loại bỏ hoặc tiếp tục kinh doanh một số bộ phận.
- Quyết định nên làm hay nên mua.
- Quyết định nên bán ngay bán thành phầm hay nên tiếp tục sản xuất
61
thành thành phẩm rồi mới bán.
- Quyết định trong điều kiện năng lực sản xuất có giới hạn.
1.3.5.2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng ra quyết định chiến lược
Quyết định tiếp tục hay dừng đầu tư, SXKD một dự án
Như trình bày trong phần kiểm soát và đánh giá hiệu quả chiến lược ở trên, kỹ
thuật phân tích chênh lệch dài hạn và đánh giá hiệu quả dài hạn có thể cung cấp
thông tin về hiệu quả tài chính trong dài hạn để nhà quản trị cao cấp có căn cứ đưa ra
được quyết định tiếp tục hay dừng đầu tư, SXKD một dự án dài hạn nào đó (có thể
là dự án SXKD một loại sản phẩm…).
Quyết định cải tổ một phần hay toàn bộ quy trình sản xuất
Ứng dụng so sánh điểm chuẩn (Benchmarking) trong phần đánh giá hiệu quả
chiến lược có thể cung cấp thông tin cho nhà quản trị cao cấp đưa ra quyết định cải
tổ một phần hay toàn bộ quy trình sản xuất.
Quyết định tiếp tục nắm giữ hay thoái vốn đầu tư
Ứng dụng phân tích SVA cung cấp cho nhà quản trị cấp cao thông tin để có
thể hoạch định và kiểm soát các hoạt động đồng thời đưa ra các quyết định làm sao
đảm bảo tối đa hóa giá trị cho các chủ sở hữu, cổ đông.
Các quyết định chiến lược khác
Ứng dụng Chi phí mục tiêu (Target Costing) giúp nhà quản trị cao cấp đưa ra
quyết định có đầu tư hay không một dự án dài hạn. Hoặc ứng dụng Quản trị chi phí
kiểu Kaizen (Kaizen Costing) giúp nhà quản trị cao cấp đưa ra chiến lược không
ngừng và liên tục tìm cách cắt giảm chi phí nhưng vẫn phải đảm bảo năng lực sản
xuất tối ưu.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến nội dung KTQT doanh nghiệp
Các nhà nghiên cứu lý thuyết tổ chức truyền thống tin rằng có thể xác định được cấu
trúc tối ưu cho tất cả các tổ chức (Taylor [49]; Weber [77]; Fayol [52]). Điển hình là
Frederick Taylor – tác giả của lý thuyết “Quản lý theo khoa học” rất thịnh hành trong
giai đoạn 1890 – 1920. Taylor là học giả theo trường phái chủ nghĩa xã hội không
tưởng – chủ nghĩa phê phán chủ nghĩa tư bản và bảo vệ quyền lợi của giai cấp công
nhân. Kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, Taylor cho rằng để cải
thiện năng suất lao động của công nhân, quá trình làm việc dựa trên kinh nghiệm nên
62
được thay thế bởi cách khai thác chuỗi thao tác chính xác sau khi nghiên cứu cẩn thận
các cá nhân trong quá trình làm việc. Cụ thể là phải phát triển một phương thức chuẩn
cho việc thực thi mỗi công việc. Sau đó, chọn người lao động có khả năng thích hợp
cho từng công việc cụ thể [49]. Tức là theo Taylor, có thể xây dựng được một cấu
trúc chung với các quy trình làm việc cụ thể mà có thể sử dụng cho tất cả các tổ chức.
Tuy nhiên, trong thực tế cơ cấu tổ chức có sự thay đổi đa dạng. Các nhà lý
thuyết đương đại cho rằng không có một cơ cấu tổ chức nào tối ưu cho tất cả các tổ
chức. Hiệu suất của một tổ chức phụ thuộc vào mức độ phù hợp giữa cơ cấu tổ chức
của nó với các biến theo bối cảnh như môi trường, chiến lược, công nghệ, quy mô,
văn hóa… (Chenhall, 2007) [86]. Các lý thuyết về sự phù hợp giữa cơ cấu tổ chức và
các biến theo bối cảnh được gọi chung là lý thuyết về sự phù hợp (contingency
theory).
Theo lý thuyết về sự phù hợp (contingency theory), KTQT được coi là một
thành phần của cơ cấu tổ chức. Thông qua lý thuyết về sự phù hợp, các nghiên cứu
cho rằng một hệ thống KTQT tốt là một hệ thống KTQT phù hợp với các biến theo
bối cảnh của một tổ chức.
Lý thuyết về sự phù hợp nghiên cứu KTQT doanh nghiệp trong mối quan hệ
tương tác với môi trường hoạt động của doanh nghiệp (bao gồm cả môi trường bên
trong và môi trường bên ngoài). Nói cách khác một hệ thống KTQT thích hợp với
doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm doanh nghiệp và môi trường mà doanh nghiệp
đó đang hoạt động. Điều này cho thấy không thể xây dựng một mô hình KTQT khuôn
mẫu áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp mà việc vận dụng KTQT vào doanh nghiệp
phải tùy thuộc vào đặc thù từng ngành, từng lĩnh vực SXKD, đồng thời phải phù hợp
với cơ cấu tổ chức, quy mô doanh nghiệp, trình độ công nghệ sản xuất và chiến lược
tổ chức… trong từng giai đoạn.
Robert Chenhall trong một bài viết có tên “Lý thuyết về sự phù hợp trong
nghiên cứu hệ thống kiểm soát quản trị” vào năm 2007 (Nguyên bản Tiếng Anh:
Theorizing Contingencies in Management Control Systems Research) đã tổng hợp
kết quả của các nghiên cứu trước đó và chỉ ra nhóm 07 nhân tố ảnh hưởng tới nội
dung KTQT trong một doanh nghiệp, bao gồm: (1) Môi trường bên ngoài (the
external enviroment); (2) Công nghệ nói chung (generic concepts of technology); (3)
Công nghệ đương đại (contemporary technology); (4) Cấu trúc của tổ chức
63
(organizational structure); (5) Quy mô (size); (6) Chiến lược phát triển (strategy); (7)
Văn hóa (culture). Cụ thể sự ảnh hưởng của từng nhân tố tới nội dung KTQT như
sau:
Thứ nhất, nhân tố môi trường bên ngoài (the external enviroment). Theo
thống kê của Chenhall, nhân tố môi trường bên ngoài là một trong những nhân tố có
ảnh hưởng mạnh mẽ tới nội dung KTQT và thường được nhiều nhà khoa học trên
thế giới nghiên cứu khi tìm hiểu thực tế nội dung KTQT tại một tổ chức. Theo đó,
các nghiên cứu trước đây đưa ra 03 kết luận. Một là, môi trường bên ngoài càng tồn
tại nhiều yếu tố không chắc chắn thì các nội dung KTQT càng có tính mở và tập
trung nhiều hơn vào các đối tượng bên ngoài. Thực tế lịch sử phát triển của KTQT
đã chứng minh, giai đoạn từ 1965 trở lại đây, thế giới ngày càng xuất hiện nhiều biến
động không dự báo được trước, kèm theo đó là sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường.
Điều này đã dẫn tới sự ra đời của KTQT chiến lược và KTQT phát triển bền vững –
các nội dung KTQT đều hướng tới tính mở và hướng tới các đối tượng bên ngoài như
khách hàng, đối thủ cạnh tranh hay các bên có liên quan khác. Hai là, môi trường bên
ngoài càng khắc nghiệt và khó khăn thì nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch
định và kiểm soát càng hướng tới sự chuẩn tắc và chi tiết. Cụ thể, nếu mức độ cạnh
tranh trên thị trường ngày càng khắc nghiệt và khó khăn thì hệ thống kế toán, hệ thống
sản xuất, và hệ thống kiểm soát thống kê của doanh nghiệp ngày càng có xu hướng
đi vào chi tiết và tinh vi hơn đảm bảo có thể kiểm soát toàn diện các hoạt động của tổ
chức. Điều này dẫn tới các nội dung KTQT cũng sẽ tập trung nhiều vào các vấn đề
mang tính chuẩn tắc, tài chính, định lượng, có thể đo lường, ví dụ như việc lập dự
toán sẽ được coi trọng hơn để nâng cao chất lượng hoạch định và kiểm soát của nhà
quản trị. Ba là, trong điều kiện môi trường bên ngoài không chắc chắn, nếu nhà quản
trị tập trung vào việc kiểm soát tài chính thì KTQT sẽ sử dụng nhiều nội dung để xây
dựng các kịch bản/phương án kinh doanh một cách linh hoạt. Tổ chức rất khó dự báo
được chính xác sản lượng thực hiện hay kết quả hoạt động của kỳ tương lai trong bối
cảnh môi trường bên ngoài có nhiều yếu tố không chắc chắn. Vì vậy, để đảm bảo
kiểm soát được tài chính một cách tốt nhất cũng như để hạn chế tối đa rủi ro tài chính,
KTQT sẽ phải cung cấp các dự toán linh hoạt với nhiều kịch bản khác nhau để nhà
quản trị có thể lường trước được các rủi ro và có thể đưa ra được những quyết định
64
phù hợp, kịp thời.
Như vậy, nhân tố môi trường bên ngoài càng không chắc chắn và tồn tại nhiều
rủi ro thì nội dung KTQT càng có xu hướng hướng ngoại để tìm kiếm và nghiên cứu
các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp cũng như cung cấp thông tin linh hoạt hơn,
mang tính phi chuẩn tắc.
Thứ hai, nhân tố công nghệ nói chung (generic concepts of technology).
Nhân tố công nghệ nói chung được hiểu như: (1) mức độ chuẩn hóa và tự động hóa
của quy trình sản xuất, (2) mức độ không chắc chắn của các mục tiêu/nhiệm vụ mới
mà doanh nghiệp chưa từng thực hiện trước đây, (3) mức độ phụ thuộc lẫn nhau.
Chenhall thống kê được các nghiên cứu trước đây đưa ra 03 kết luận về ảnh hưởng
của nhân tố công nghệ nói chung tới nội dung KTQT tại từng tổ chức. Một là, trường
hợp công nghệ nói chung được hiểu là mức độ chuẩn hóa và tự động hóa của quy
trình sản xuất: Nếu quy trình sản xuất có mức độ công nghệ càng cao thì hệ thống
kiểm soát càng mang tính chuẩn hóa, dẫn tới các nội dung KTQT phục vụ hoạch định
và kiểm soát tác nghiệp sẽ không còn được tập trung giải quyết. Với những doanh
nghiệp có quy trình sản xuất công nghệ cao, các yếu tố đầu vào cũng như định mức
sản xuất và quy trình sản xuất đã được thiết lập sẵn và cố định. Vì vậy, nội dung lập
dự toán tác nghiệp tại các doanh nghiệp này cũng sẽ đơn giản hơn bởi không còn
nhiều những yếu tố biến động cần phải dự báo khi lập các loại dự toán này. Hai là,
trường hợp công nghệ nói chung được hiểu là mức độ không chắc chắn của của
nhiệm vụ/mục tiêu mà doanh nghiệp đang hướng tới: Nếu các nhiệm vụ/mục tiêu mà
doanh nghiệp đang hướng tới áp dụng những công nghệ cao hay nói cách khác là còn
tồn tại sự không chắc chắn về khả năng hoàn thành nhiệm vụ/mục tiêu thì lúc này nội
dung KTQT của doanh nghiệp có xu hướng hướng tới những nội dung phi chuẩn tắc.
Ví dụ như việc xây dựng các chương trình, kế hoạch hay dự toán để đạt được các
nhiệm vụ/mục tiêu không chắc chắn sẽ không tuân theo những nguyên tắc truyền
thống mà cần thiết phải áp dụng những nguyên tắc mới. Cụ thể như trường hợp xây
dựng kế hoạch đầu tư SXKD một sản phẩm mới, KTQT không thể sử dụng nội dung
lập dự toán tác nghiệp truyền thống mà cần phải áp dụng những kỹ thuật lập dự toán
phi truyền thống như kỹ thuật lập dự toán theo chi phí mục tiêu (target costing) hay
kỹ thuật lập dự toán theo vòng đời sản phẩm (lifecycle costing). Việc hoạch định và
kiểm soát đòi hỏi phải được thực hiện ở một tầm bao quát và rộng hơn. Ba là, trường
65
hợp công nghệ nói chung được hiểu là mức độ phụ thuộc lẫn nhau: Nếu mức độ phụ
thuộc lẫn nhau càng cao thì hệ thống kiểm soát càng phi chuẩn tắc, các báo cáo kế
hoạch/dự toán được lập dựa trên những mối liên hệ phi chuẩn tắc cũng nhiều hơn (ví
dụ như việc hoạch định, kiểm soát và đo lường hiệu quả tổng thể dựa trên Thẻ điểm
cân bằng – BSC hay chuỗi giá trị - value chain có thể được áp dụng), các loại dự toán
được lập theo kiểu tác nghiệp truyền thống không còn được sử dụng nhiều.
Như vậy, công nghệ nói chung càng có mức độ tự động hóa cao hoặc thực
hiện những nhiệm vụ/mục tiêu không chắc chắn… thì nội dung KTQT càng có xu
hướng thoát ly khỏi những nguyên tắc mang tính truyền thống và sẽ hướng tới những
nội dung mang tính mở và phi chuẩn tắc.
Thứ ba, nhân tố công nghệ đương đại (contemporary technology).
Chenhall tổng hợp được các kết quả nghiên cứu về sự ảnh hưởng của nhân tố công
nghệ đương đại tới nội dung KTQT như sau. Một là, Hệ thống quản trị chất lượng
tổng thể (TQM – Total Quality Management) có sự liên kết chặt chẽ và ảnh hưởng
trực tiếp tới các nội dung KTQT. Theo đó, nội dung KTQT sẽ có xu hướng cung cấp
được các thông tin kịp thời, linh hoạt và hướng ngoại. Công nghệ đương đại càng
tiên tiến và hiện đại thì nội dung KTQT càng có xu hướng cung cấp thông tin phục
vụ quản trị chiến lược và hướng tới các thông tin phi tài chính. Hai là, sự kết hợp giữa
công nghệ cao với hệ thống đo lường hiệu quả phi tài chính có thể tạo ra hiệu quả lớn
hơn nữa nếu hệ thống đo lường này được sử dụng như là một bộ phận của cơ chế
khen thưởng, khuyến khích. Trong thời đại công nghệ cao hiện nay, sự thành công
của tổ chức không chỉ được đo lường bởi các chỉ tiêu tài chính mà còn có thể được
đo lường bởi các chỉ tiêu phi tài chính. Sử dụng các thước đo phi tài chính để làm cơ
sở xét khen thưởng, khuyến khích là một phương thức mà nhiều tổ chức áp dụng để
nâng cao năng suất lao động, gia tăng hiệu quả của tổ chức. Ba là, mức độ công nghệ
cao của hệ thống sản xuất JIT và FMS khiến cho nội dung KTQT có xu hướng hướng
tới cung cấp thông tin phục vụ kiểm soát phi chuẩn tắc và sử dụng nhiều hơn các
công cụ đo lường phi tài chính. Bốn là, việc xem xét các mối quan hệ trong chuỗi giá
trị không còn đơn thuần chỉ là xem xét các vấn đề tài chính mà còn phải xem xét các
vấn đề phi tài chính, phi chuẩn tắc trong điều kiện áp dụng công nghệ cao trong
SXKD.
Như vậy, doanh nghiệp càng áp dụng công nghệ tiên tiến trong SXKD thì nội
66
dung KTQT càng linh hoạt, mang tính mở, phi chuẩn tắc và phi tài chính.
Thứ tư, cấu trúc của tổ chức (organizational structure). Chenhall tổng hợp
lại các nghiên cứu trước đây và chỉ ra những kết luận về sự ảnh hưởng của cấu trúc
tổ chức (cơ cấu tổ chức doanh nghiệp) tới nội dung KTQT như sau. Một là, các doanh
nghiệp có quy mô rộng với hệ thống công nghệ tinh vi, đa dạng sẽ có cấu trúc tổ chức
theo kiểu phân cấp và nội dung KTQT tập trung vào các nội dung tác nghiệp truyền
thống như: lập các dự toán tác nghiệp v.v… Hai là, những bộ phận có nhiệm vụ ở
mức độ không chắc chắn cao hơn thì nội dung KTQT phục vụ bộ phận đó sẽ có tính
mở hơn. Ví dụ như nhiệm vụ của bộ phận R&D có mức độ không chắc chắn cao hơn
nhiệm vụ của bộ phận Marketing thì bộ phận R&D sẽ được tham gia vào việc lập dự
toán cho sản phẩm mới đang được nghiên cứu và phát triển. Bộ phận Marketing có
thể không được tham gia vào việc lập dự toán cho bộ phận mình mà phải thực hiện
các nhiệm vụ với dự toán do cấp trên giao. Hoặc so sánh giữa bộ phận Marketing với
bộ phận sản xuất thì bộ phận Marketing có mức độ tiếp xúc với môi trường bên ngoài
nhiều hơn vì vậy nội dung KTQT của bộ phận Marketing sẽ có tính mở và phi chuẩn
tắc hơn so với nội dung KTQT của bộ phận sản xuất. Ba là, mức độ phân cấp trong
tổ chức ảnh hưởng tới đặc điểm về quy trình tổ chức lập và tổng hợp các BCQT. Bốn
là, việc tổ chức bộ máy theo các đội, nhóm sẽ ảnh hưởng tới nội dung KTQT phục
vụ chức năng đánh giá hiệu quả. Lúc này đòi hỏi KTQT phải đánh giá hiệu quả được
cho cả đội, nhóm và từng cá nhân trong đội, nhóm để có cơ chế khen thưởng, khuyến
khích phù hợp.
Như vậy, một tổ chức có cơ cấu phức tạp thì các nội dung KTQT liên quan tới
hoạch định, kiểm soát và đánh giá hiệu quả sẽ phức tạp hơn. Nội dung KTQT cho
từng bộ phận/phòng ban cũng phong phú, đa dạng hơn.
Thứ năm, nhân tố quy mô (size). Các kết luận của các nghiên cứu trước đây
về ảnh hưởng của nhân tố quy mô tới nội dung KTQT được Chenhall tổng hợp lại
như sau. Một là, các tổ chức với quy mô càng rộng, hoạt động trong nhiều lĩnh vực
ngành nghề thì càng có xu hướng chuẩn tắc hóa các quy trình, thủ tục và chuyên môn
hóa trong việc thực hiện từng chức năng. Vì vậy, nội dung KTQT cũng sẽ được chuẩn
tắc hóa với các bộ phận/phòng ban trong tổ chức. Hai là, các tổ chức với quy mô
rộng thường có cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ với trách nhiệm được phân
định rõ ràng hơn. Điều này dẫn tới nội dung KTQT phục vụ đánh giá hiệu quả tác
67
nghiệp như kế toán trách nhiệm cũng sẽ được sử dụng nhiều hơn. Ba là, các tổ chức
với quy mô lớn thường có hệ thống ngân sách/dự toán phức tạp với sự tham gia của
nhiều bộ phận, cá nhân.
Như vậy, tổ chức có quy mô càng lớn thì nội dung KTQT càng có xu hướng
được chuẩn tắc hóa, rõ ràng hơn.
Thứ sáu, nhân tố chiến lược phát triển (strategy). Chủ sở hữu là những người
có toàn quyền quyết định mục tiêu phát triển của doanh nghiệp. Căn cứ vào các nguồn
lực sẵn có mà chủ sở hữu doanh nghiệp sẽ đặt ra những mục tiêu phát triển phù hợp.
Vì vậy, mỗi doanh nghiệp sẽ có những mục tiêu phát triển riêng. Những doanh nghiệp
có mục tiêu phát triển dài hạn với quy mô mở rộng, hoạt động trong nhiều lĩnh vực
ngành nghề, tham gia trong một thị trường có nhiều sự cạnh tranh thì KTQT của
những doanh nghiệp đó thường có xu hướng áp dụng những nội dung mới, tiên tiến
đảm bảo có thể cung cấp được những thông tin dài hạn, kiểm soát được hoạt động
trên phạm vi rộng, đo lường được hiệu quả tổng thể và giúp doanh nghiệp nâng cao
sức cạnh tranh. Ngược lại, những doanh nghiệp không có mục tiêu phát triển dài hạn,
hoạt động trong phạm vi hẹp với ít sự cạnh tranh thì nội dung KTQT chỉ cần áp dụng
những nội dung cơ bản, truyền thống, chủ yếu phục vụ mục tiêu quản lý tác nghiệp.
Thứ bảy, nhân tố văn hóa (culture). Chenhall tổng hợp được các nghiên cứu
trước đây và chỉ ra rằng yếu tố văn hóa của từng quốc gia, từng vùng miền có ảnh
hưởng trực tiếp tới việc thiết kế một hệ thống KTQT nói chung và áp dụng các nội
dung KTQT nói riêng.
Tóm lại, các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra 07 nhân tố có thể tác động tới việc
áp dụng nội dung KTQT tại từng tổ chức. Trên thực tế, có thể có nhiều nhân tố cụ
thể khác ảnh hưởng tới việc áp dụng này. Điều này, đòi hỏi các nghiên cứu ứng dụng
về KTQT tại một tổ chức hay một nhóm các tổ chức cần phải xem xét sự ảnh hưởng
của các nhân tố này tới thực trạng KTQT tại đối tượng được nghiên cứu. Nội dung
lý luận của phần này sẽ là nền tảng lý thuyết cho việc nghiên cứu các đặc điểm ảnh
hưởng tới việc áp dụng nội dung KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power trong Chương
68
2 của luận án.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, luận án đã làm rõ được các vấn đề lý luận chung về KTQT theo
tiến trình lịch sử, bao gồm các vấn đề như: sự thay đổi các quan điểm về KTQT, các
khái niệm và bản chất của KTQT, vai trò, đối tượng và phương pháp của KTQT.
Thông qua việc nghiên cứu lý luận chung về KTQT theo tiến trình lịch sử, chương 1
của luận án đã cung cấp được những cái nhìn đa chiều và đầy đủ hơn về nội dung
KTQT trong mối quan hệ với các chức năng quản lý của nhà quản trị. Theo đó, KTQT
được coi là công cụ cung cấp thông tin phục vụ nhà quản trị các cấp của doanh nghiệp
(cấp chiến lược và cấp tác nghiệp) thực hiện các chức năng: hoạch định, kiểm soát,
đánh giá hiệu quả và ra quyết định.
Chương này đã hệ thống hóa được các nội dung KTQT doanh nghiệp trong
mối quan hệ với chức năng quản lý của nhà quản trị. Đồng thời, chương này cũng
tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng tới nội dung KTQT tại doanh nghiệp.
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu của Chương 1 sẽ là cơ sở lý luận cho việc tìm
hiểu thực trạng KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power ở Chương 2 và là căn cứ để
69
đưa ra các giải pháp hoàn thiện trong Chương 3.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TẠI CÁC ĐƠN VỊ THUỘC TỔNG CÔNG TY ĐIỆN LỰC DẦU KHÍ VIỆT NAM
2.1 Tổng quan về PV-Power và các đơn vị thuộc PV-Power
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của PV-Power
Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (Tên viết tắt bằng tiếng Anh: PV-Power)
là Tổng Công ty mẹ - Công ty TNHH một thành viên do Tập Đoàn Dầu khí Việt
Nam (PVN) đầu tư 100% vốn, thành lập theo Quyết định 1468/QĐ-DKVN ngày
17/5/2007 của Hội đồng Thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.
PV-Power là 01 trong 05 Tổng Công ty/Công ty được PVN nắm giữ 100% vốn 9 và đảm nhiệm sứ mệnh thực hiện 01 trong 05 lĩnh vực chính của PVN. Theo
định hướng của PVN, PV-Power thực hiện 02 chức năng cơ bản là (1) đầu tư xây
dựng và phát triển nguồn điện và (2) sản xuất kinh doanh điện năng. Đến thời điểm hiện tại, PV-Power là nhà cung cấp điện năng đứng thứ 2 của Việt Nam 10. Từ
7/10/2015, PV Power được Chính phủ đồng ý vận dụng xếp hạng Tổng Công ty đặc
biệt.
Biểu đồ 2.1 – Biểu đồ cơ cấu thị trường điện Việt Nam
Thị phần điện Việt Nam
23%
EVN
PV-Power
61%
5% 11%
Vinacomin
Dự án BOT và nhà đầu tư khác
9 Ngoài PV-Power, PVN còn nắm giữ 100% vốn tại các Tổng Công ty/Công ty khác, bao gồm: (1) Tổng Công ty Thăm dò & Khai thác Dầu khí (PVEP), (2) Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV GAS), (3) Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PV Oil), (4) Công ty TNHH MTV Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR). 10 Đứng đầu là EVN.
70
(Nguồn: PV-Power)
Sau 10 năm hình thành và phát triển đến nay, PV-Power đã tăng vốn điều lệ từ
7.600 tỷ đồng lên 21.774 tỷ đồng; tăng công suất từ 750 MW lên 4.208 MW; tăng sản
lượng từ 651 triệu kWh lên hơn 21 tỷ kWh (tương đương 12% sản lượng điện cả nước).
Hiện nay, lĩnh vực SXKD điện đóng góp trên 90% tổng doanh thu của PV-Power.
PV-Power là một trong những doanh nghiệp phát điện hàng đầu với danh mục
đa dạng từ nhà máy điện truyền thống đến năng lượng tái tạo. PV-Power được định
hướng chuyển đổi sang danh mục đầu tư ngày càng ổn định và sạch hơn. Theo đó,
tổng công suất hiện tại là 4.208 MW với cơ cấu thủy điện 7%, nhiệt điện than 29%,
nhiệt điện khí 64% sẽ dự kiến được nâng lên thành 10.650 MW vào năm 2026 với
cơ cấu thủy điện 3%, nhiệt điện than 11%, nhiệt điện khí 86%. Biểu đồ sau thể hiện
mức độ thay đổi trong cơ cấu danh mục nhà máy điện của PV-Power năm 2026 so
với năm 2016.
Biểu đồ 2.2 – Biểu đồ cơ cấu danh mục nhà máy điện của PV-Power
NĂM 2016
Thủy điện 3%
NĂM 2026 Nhiệt điện than 11%
Thủy điện 7% Nhiệt điện than 29%
Nhiệt điện khí 64%
Nhiệt điện khí 86%
(Nguồn: PV-Power)
Hiện nay, PV-Power đang trong giai đoạn tái cơ cấu theo hướng cổ phần hóa
nhằm giảm bớt sở hữu của nhà nước tại Tổng Công ty, nâng cao sức cạnh tranh và
mở cửa nền kinh tế. Theo phương án được phê duyệt trong Quyết định số 1759/QĐ-
DKVN ngày 28/7/2015 về cổ phần hóa PV-Power và Quyết định số 2307/QĐ-
DKVN ngày 24/9/2015 phê duyệt kế hoạch tiến độ cổ phần hóa PV-Power, nhà nước
sẽ nắm giữ 75% cổ phần của PV-Power sau khi cổ phần hóa.
PV-Power có tầm nhìn trở thành tập đoàn năng lượng hàng đầu Việt Nam và
trong khu vực. Hướng tới sản xuất nguồn điện chất lượng cao, công nghệ hiện đại,
thân thiện với môi trường là trọng tâm phát triển – Đột phá và tiên phong trong đầu
71
tư các nguồn năng lượng sạch là định hướng mũi nhọn.
2.1.2 Mô hình, cơ cấu tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh điện của PV-Power
Sơ đồ 2.1 – Sơ đồ tổ chức Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam
72
(Nguồn: www.pv-power.vn)
2.1.2.1 Mô hình, cơ cấu tổ chức PV-Power
PV-Power được tổ chức theo mô hình công ty mẹ con, trong đó:
- Công ty mẹ là Tổng Công ty Điện lực Dầu khí hoạt động dưới hình thức công
ty TNHH MTV do Nhà nước nắm giữ 100% vốn. Công ty mẹ có các chức
năng chính là:
+ Quản lý vốn đầu tư tại các đơn vị (bao gồm các công ty con, công ty
liên kết và các khoản đầu tư tài chính dài hạn khác).
+ Đầu tư các dự án điện mới. Tuy nhiên, hiện nay, PV-Power tạm thời
không thực hiện chức năng này mà toàn bộ các dự án điện của Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam sẽ do chính PVN trực tiếp làm chủ đầu tư.
+ Trực tiếp vận hành các nhà máy điện. Hiện nay, Công ty mẹ thành lập
03 chi nhánh là (1) Công ty Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch (chi nhánh
Nhơn Trạch), (2) Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau (chi nhánh Cà
Mau), (3) Công ty Điện lực Dầu khí Hà Tĩnh (chi nhánh Hà Tĩnh) để
vận hành 03 cụm nhà máy nhiệt điện.
+ Cung ứng than. Công ty Nhập khẩu và Phân phối than Điện lực Dầu
khí (chi nhánh) hiện đang thực hiện nhiệm vụ cung cấp than nội địa và
than nhập khẩu cho các nhà máy điện của PV-Power.
- Các công ty con là các công ty do Công ty mẹ nắm giữ trên 50% quyền kiểm
soát. Các công ty con thực hiện các chức năng chính là:
+ Vận hành các nhà máy điện. Hiện nay, PV-Power có 04 công ty con
thực hiện chức năng vận hành nhà máy điện là (1) Công ty Cổ phần
Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2, (2) Công ty Cổ phần Thủy điện Hủa
Na, (3) Công ty Cổ phần Thủy điện Đakđrinh, (4) Công ty Cổ phần
Điện lực Dầu khí Bắc Kạn).
+ Cung ứng dịch vụ. Hiện nay, Công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Điện
lực Dầu khí Việt Nam chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ trong lĩnh
vực điện, bao gồm cài đặt hệ thống, máy móc và thiết bị, kiểm tra kỹ
73
thuật, bảo trì bảo dưỡng và sửa chữa các nhà máy điện.
+ Cung cấp máy, thiết bị. Công ty Cổ phần Máy và Thiết bị Dầu khí đang
chịu trách nhiệm cung cấp máy, thiết bị cho các nhà máy điện của PV-
Power.
- Ngoài các công ty con, PV-Power còn đầu tư vào các công ty liên kết và các
công ty khác dưới dạng các khoản đầu tư tài chính dài hạn. Các công ty này
thực hiện các chức năng chính sau:
+ Vận hành các nhà máy điện (CTCP Thủy điện Nậm Chiến, CTCP
Thủy điện Sông Tranh 3, CTCP Năng lượng Á Châu Thái Bình
Dương, CTCP EVN Quốc tế, CTCP Điện Việt – Lào, CTCP Thủy điện
Sông Vàng, CTCP Đầu tư và Phát triển Điện Tây Bắc, Công ty Cổ
phần Năng lượng Sông Hồng).
+ Cung ứng dịch vụ (CTCP Thủy điện Sơn Trà Sông Đà, CTCP Cơ điện
Dầu Khí, CTCP Phát triển Đô thị Dầu khí).
Về mặt chủ trương tái cơ cấu PV-Power, các khoản đầu tư vào công ty liên
kết và các khoản đầu tư tài chính dài hạn khác sẽ được PV-Power thoái toàn bộ vốn.
Như trong Phần mở đầu của luận án đã trình bày, phạm vi nghiên cứu của luận
án được giới hạn tại các đơn vị thuộc PV-Power có liên quan trực tiếp tới hoạt động
sản xuất và kinh doanh điện. Các đơn vị thuộc PV-Power được hiểu là các đơn vị
do PV-Power chiếm quyền kiểm soát. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu cụ thể của Chương
2 ngoài cơ quan Tổng Công ty PV-Power giữ chức năng quản lý, điều hành tổng thể,
còn lại 07 đơn vị có liên quan trực tiếp tới hoạt động SXKD điện như sau:
(i) 03 chi nhánh của PV-Power vận hành nhà máy điện:
Công ty Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch (Chi nhánh); +
Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau (Chi nhánh); +
Công ty Điện lực Dầu khí Hà Tĩnh (Chi nhánh); +
(ii) 04 công ty con của PV-Power vận hành nhà máy điện:
Công ty Cổ phần Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2; +
Công ty Cổ phần Thủy điện Hủa Na; +
Công ty Cổ phần Thủy điện Đakdrinh; +
74
Công ty Cổ phần Điện lực Dầu khí Bắc Kạn. +
2.1.2.2 Hoạt động sản xuất kinh doanh điện của PV-Power
Hiện nay, 07 đơn vị thuộc PV-Power đang vận hành 08 nhà máy điện (trong đó có 1
cụm gồm 02 nhà máy), cụ thể: (1) cụm Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 & 2, (2) Nhà
máy nhiệt điện Vũng Áng 1, (3) Nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch 1, (4) Nhà máy
nhiệt điện Nhơn Trạch 2, (5) Nhà máy thủy điện Hủa Na, (6) Nhà máy thủy điện
ĐakĐrinh; (7) Nhà máy thủy điện Nậm Cắt.
Thời gian tới, PV-Power sẽ được PVN bàn giao hoặc thuê vận hành một số
nhà máy nhiệt điện mới. Bảng sau trình bày một số thông tin cơ bản về các nhà máy
điện đang được và dự kiến sẽ được PV-Power vận hành.
Bảng 2.1 – Khái quát về các nhà máy điện của PV-Power
Đơn vị vận hành
Thông tin bổ sung
TT
Nhiệt điện Thủy điện
Than Khí
Nhà máy điện
I - Nhà máy điện đang vận hành
1
x
Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau (Chi nhánh)
Nhiệt điện khí Cà Mau 1 & 2
Nhà máy điện khí Cà Mau 1 & 2 thuộc tổ hợp Dự án Cụm Khí - Điện - Đạm Cà Mau, tổng công suất 1.500 MW (mỗi nhà máy 750 MW).
2
x
Công ty Điện lực Dầu khí Hà Tĩnh (Chi nhánh)
Nhiệt điện than Vũng Áng 1
Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 có tổng công suất 1.200 MW. Đây là dự án nhà máy nhiệt điện lớn nhất hiện nay ở khu vực miền Trung.
3
x
Nhà máy điện Nhơn Trạch 1 với công suất 450 MW.
Công ty Điện lực khí Nhơn Dầu Trạch 1 (Chi nhánh)
Nhiệt điện khí Nhơn Trạch 1
4
x
CTCP Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2 (Công ty con)
Nhà máy điện Nhơn Trạch 2 có tổng công suất nhà máy đạt 750 MW.
Nhiệt điện khí Nhơn Trạch 2
5
Thủy điện Hủa Na
x CTCP Thủy điện Hủa Na (Công ty con)
Nhà máy Thủy điện Hủa Na gồm 2 tổ máy với công suất là 180 MW, chiếm gần 40% tổng công suất hệ thống điện của tỉnh Nghệ An.
75
TT
Đơn vị vận hành
Thông tin bổ sung
Nhiệt điện Thủy điện
Than Khí
Nhà máy điện
6
Thủy điện ĐakĐrinh
x CTCP Thủy điện ĐakĐrinh (Công ty con)
Nhà máy Thủy điện ĐakĐrinh có 2 tổ máy với tổng công suất 125 MW.
7
Thủy điện Nậm Cắt
x CTCP Điện lực Dầu khí Bắc Kạn (Công ty con)
Nhà máy Thủy điện Nậm Cắt tuy chỉ có công suất 3.2 MW nhưng Nậm Cắt đã giải quyết tới 1/3 nhu cầu tiêu thụ điện của Bắc Kạn.
II - Nhà máy điện đang triển khai đầu tư xây dựng
8
x
PVN làm chủ đầu tư. PV-Power vận hành.
Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 có 02 tổ máy với tổng công suất 1.200 MW.
Nhiệt điện than Thái Bình 2
9
x
PVN làm chủ đầu tư. PV-Power vận hành.
Nhiệt điện than Sông Hậu 1 có 02 tổ máy với tổng công suất 1.200 MW.
Nhiệt điện than Sông Hậu 1
10 Nhiệt
x
PVN làm chủ đầu tư. PV-Power vận hành.
Nhiệt điện than Long Phú 1 có 02 tổ máy với tổng công suất 1.200 MW.
điện than Long Phú 1
III - Nhà máy điện đang làm thủ tục đầu tư
x
11 Nhiệt
PVN làm chủ đầu tư. PV-Power vận hành.
Hai nhà máy điện Nhơn Trạch 3 và 4 có công suất mỗi nhà máy là 750 MW.
điện khí Nhơn Trạch 3, 4
12 Nhiệt
x
Nhiệt điện khí Kiên Giang 1, 2 có công suất mỗi nhà máy từ 750MW trở lên.
điện khí Kiên Giang 1, 2
PVN đang xem xét báo cáo cấp có thẩm quyền giao PV- Power làm chủ đầu tư.
(Nguồn: PV-Power)
Như vậy, các nhà máy điện đang vận hành của PV-Power gồm hai loại chính
76
là (1) nhiệt điện và (2) thủy điện. Trong đó, nhà máy nhiệt điện thường có công suất
cao hơn nhà máy thủy điện. Trong tổng công suất thiết kế của các nhà máy đang được
PV-Power vận hành, công suất của các nhà máy nhiệt điện chiếm tỷ trọng lớn. Cơ
cấu công suất thiết kế của các nhà máy điện đang được vận hành bởi PV-Power được
thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.3 – Biểu đồ cơ cấu nhà máy điện của PV-Power theo công suất thiết
kế
Công suất (MW), % Thủy điện, 308.2, 7%
Nhiệt điện, 3900, 93%
Thủy điện
Nhiệt điện
(Nguồn: PV-Power)
Theo biểu đồ trên, hiện nay, các nhà máy nhiệt điện đang vận hành chiếm 93%
tổng công suất theo thiết kế tất cả các nhà máy điện của PV-Power.
Với công suất vượt trội như vậy kết hợp với hoạt động SXKD không bị phụ
thuộc bởi yếu tố thời tiết nên các nhà máy nhiệt điện do PV-Power thường cung cấp
được sản lượng điện nhiều hơn nhiều lần so với các nhà máy thủy điện. Sản lượng
điện qua các năm của các nhà máy điện do PV-Power vận hành được thể hiện của
biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.4 – Biểu đồ sản lượng điện của PV-Power qua các năm
10000
8127
8052
7900
7446
8000
5350
5222
4764
4670
6000
3562
3314
3184
2789
2774
4000
690
643
558
525
464
450
2000
354
16
15
15
9
0
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Triệu kWh
Nậm Cắt
ĐakĐrinh
Hủa Na
Vũng Áng 1 Nhơn Trạch 2 Nhơn Trạch 1
Cà Mau 1 & 2
77
(Nguồn: PV-Power)
Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 tới năm 2016 mới phát điện nhưng cũng đã
tham gia đóng góp tương đối nhiều vào tổng sản lượng điện mà PV-Power sản xuất.
Các nhà máy nhiệt điện của PV-Power luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng
điện hàng năm của PV-Power.
Kết quả hoạt động SXKD của PV-Power được đóng góp chủ yếu bởi các nhà
máy nhiệt điện thể hiện qua biểu đồ về doanh thu thuần như sau:
Biểu đồ 2.5 – Biểu đồ doanh thu thuần của PV-Power qua các năm
30000
25000
20000
15000
10000
5000
0
Doanh thu thuần (tỷ VNĐ)
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
(Nguồn: PV-Power)
2.2 Đặc điểm hoạt động SXKD điện ảnh hưởng tới KTQT tại các
đơn vị thuộc PV-Power
Như kết quả nghiên cứu tại nội dung 1.4 của Chương 1 đã trình bày: nội dung KTQT
tại một doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi 07 nhóm nhân tố. Điều này có nghĩa là việc
xây dựng một hệ thống KTQT hiệu quả phải thích hợp với từng doanh nghiệp, với
“môi trường bên trong” và “môi trường bên ngoài” mà doanh nghiệp đó đang hoạt
động. Trong phần này, luận án tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố
hay đặc điểm môi trường bên trong và môi trường bên ngoài tại PV-Power tới khả
năng áp dụng từng nội dung KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power.
Việc tìm hiểu đặc điểm bên trong và bên ngoài PV-Power ảnh hưởng tới nội
dung KTQT tại PV-Power được thực hiện thông qua phương pháp điều tra bằng
phiếu khảo sát. Nội dung của phiếu khảo sát và cách thức thực hiện thu thập thông
tin đã được trình bày trong mục 3.3 “Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu”
78
của phần Tổng quan vấn đề nghiên cứu. Kết quả cuộc khảo sát được trình bày trong
Phụ lục 02 của luận án. Sau đây là khái quát các kết quả chính của cuộc điều tra được
tác giả tổng hợp lại:
2.2.1 Đặc điểm bên trong PV-Power
2.2.1.1 Đặc điểm trong giai đoạn đầu tư nhà máy điện
100% (28/28) đối tượng được khảo sát đều trả lời trong giai đoạn hiện nay
PV-Power tạm thời không thực hiện chức năng đầu tư xây dựng nhà máy điện. Các
nhà máy điện mới thường do PVN trực tiếp thực hiện đầu tư. Sau giai đoạn đầu tư,
các nhà máy sẽ được PVN bàn giao hoặc thuê PV-Power vận hành và khai thác sử
dụng. Vì vậy, PV-Power hiện nay chỉ thực hiện chức năng duy nhất là chức năng vận
hành các nhà máy điện.
Đặc điểm trên đây ảnh hưởng tới nhu cầu thông tin về hoạch định chiến lược
trong thời điểm hiện tại của nhà quản trị chiến lược của PV-Power. Qua đó, ảnh
hưởng tới nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định chiến lược, cụ thể là nội
dung lập dự toán theo chi phí mục tiêu (target costing). Theo đó, KTQT tại PV-Power
sẽ không cần áp dụng nội dung này trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, trong tương
lai, các đối tượng được khảo sát đều cho rằng PV-Power sẽ trực tiếp đầu tư một số
dự án nhà máy điện khi được PVN giao làm chủ đầu tư (ví dụ nhiệt điện khí Kiên
Giang 1, 2). Kết quả khảo sát cũng chỉ ra mức độ rất quan trọng của việc lập dự án
nghiên cứu đầu tư của một nhà máy điện khi mà 28/28 số người được hỏi đồng ý với
nhận định này. Vì vậy, nội dung lập dự án theo chi phí mục tiêu cần phải được KTQT
tại PV-Power áp dụng trong tương lai khi Tổng Công ty thực hiện chức năng đầu tư
xây dựng nhà máy điện.
2.2.1.2 Đặc điểm trong giai đoạn vận hành nhà máy điện
Nhóm đặc điểm về quy trình SXKD và sản phẩm
Hiện nay, các đơn vị thuộc PV-Power vận hành hai loại nhà máy điện, bao
gồm: (1) nhiệt điện (nhiệt điện khí và nhiệt điện than) và (2) thủy điện. Đây là hai loại
nhà máy điện chủ yếu trên thế giới và Việt Nam hiện nay nên quy trình SXKD và
sản phẩm điện của các đơn vị thuộc PV-Power mang những nét đặc trưng cơ bản
giống như các doanh nghiệp SXKD điện thông thường khác:
79
Thứ nhất, về quy trình SXKD điện
Quy trình SXKD điện giản đơn; Sản xuất một loại sản phẩm duy nhất. 100%
đối tượng được khảo sát đều cho rằng quy trình SXKD điện là quy trình giản đơn,
sản phẩm điện chỉ trải qua một công đoạn duy nhất. Đặc điểm này ảnh hưởng tới nội
dung KTQT phục vụ hoạch định và kiểm soát tác nghiệp tại các đơn vị thuộc PV-
Power, cụ thể là KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power phù hợp nhất khi áp dụng
phương pháp tính giá thành giản đơn (bao gồm cả giá thành kế hoạch và giá thành
thực hiện).
Quy trình sản xuất sản phẩm có sự tham gia chủ yếu của máy móc, thiết bị.
Tất cả các đối tượng được khảo sát đều cho rằng quy trình SXKD điện có sự tham
gia chủ yếu của máy móc thiết bị. Đặc điểm này ảnh hưởng tới nội dung KTQT phục
vụ hoạch định tác nghiệp tại PV-Power. Theo đó, việc xây dựng định mức chi phí tại
các đơn vị thuộc PV-Power cần phải tập trung vào các định mức kinh tế kỹ thuật và
định mức chi phí sản xuất.
Quy trình SXKD điện diễn ra thường xuyên, liên tục. Các đối tượng được khảo
sát cho biết hiện nay tất cả các nhà máy điện của PV-Power đều được Cục Điều tiết
huy động phát điện thường xuyên trong năm, không có nhà máy điện nào bị tạm
dừng, ngoại trừ một số trường hợp gặp sự cố gián đoạn nhưng đều được khắc phục
trong thời gian ngắn. Đặc điểm này ảnh hưởng trực tiếp tới thông tin cung cấp cho
nhà quản trị tại PV-Power cần được thực hiện thường xuyên, liên tục để. Thực tế này
đòi hỏi nội dung KTQT phải được tổ chức triển khai để có thể cung cấp được thông
tin thường xuyên, liên tục trong ngắn và trung hạn, bao gồm các thông tin phục vụ:
hoạch định tác nghiệp; kiểm soát và đánh giá hiệu quả tác nghiệp; ra quyết định tác
nghiệp.
Thứ hai, về sản phẩm điện
Sản phẩm sản xuất ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Tất cả các đối tượng được
khảo sát đều cho rằng sản phẩm điện là một sản phẩm đặc biệt, không có sản phẩm
dở dang, không có thành phẩm tồn kho, quá trình sản xuất và quá trình tiêu thụ diễn
ra cùng lúc. Vì vậy, giá thành sản phẩm của các đơn vị thuộc PV-Power được tính
bằng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Các đối tượng được khảo sát cũng cho rằng: Sản phẩm điện không có sự khác
biệt về tính chất, mẫu mã, kiểu cách… với những sản phẩm được tạo ra bởi các doanh
80
nghiệp SXKD điện khác. Do đó, lợi thế cạnh tranh (nếu có) không đến từ sự khác
biệt của sản phẩm (differentiation) mà đến từ việc dẫn đầu chi phí thấp (low-cost
leader). Vì vậy, để nâng cao khả năng cạnh tranh, KTQT của PV-Power phải đặc biệt
quan tâm tới việc tiết giảm chi phí một cách thường xuyên, liên tục thông qua nội
dung quản trị chi phí theo kiểu Kaizen (Kaizen costing).
Hai đặc điểm cơ bản bên trên của sản phẩm điện cũng cho thấy rằng sản phẩm
điện không có vòng đời như các sản phẩm, hàng hóa thông thường khác trên thị
trường. Sản phẩm điện là sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của người tiêu dùng.
Vì vậy, các lý thuyết về lập dự án dài hạn dựa trên vòng đời sản phẩm (lifecycle
costing) không phù hợp áp dụng với các doanh nghiệp SXKD điện như PV-Power.
Thứ ba, về giá bán điện và doanh thu
Theo kết quả khảo sát cũng như theo các thông tin tác giả thu thập được từ các
nguồn thứ cấp khác, nhìn chung, giá bán điện của các đơn vị thuộc PV-Power là giá
ổn định lâu dài. Giá bán điện được quy định trong các hợp đồng mua bán điện dài
Giá hợp đồng
Chi phí biến đổi
Chi phí cố định dự kiến
Chi phí O&M dự kiến
Chi phí vận chuyển
hạn PPA (Power Purchase Agreement) theo công thức sau:
(Nguồn: PV-Power)
Trong đó:
- Phần cố định bao gồm: Chi phí cố định dự kiến (chi phí khấu hao, lãi vay và
nợ) và Chi phí O&M dự kiến (chi phí vận hành và bảo dưỡng bao gồm sửa
chữa lớn và chi phí lao động).
- Phần biến đổi bao gồm: Chi phí biến đổi (chi phí nhiên liệu – điều chỉnh theo
chi phí thực tế) và Chi phí vận chuyển (chi phí vận chuyển và nguyên vật liệu
– điều chỉnh theo chi phí thực tế).
Giá trên là giá biến động theo tỷ lệ với biến phí, được áp dụng với các đơn vị
vận hành nhà máy nhiệt điện. Giá này sẽ ổn định trong dài hạn nếu thị trường nhiên
liệu ổn định lâu dài. Doanh thu của các nhà máy nhiệt điện thuộc PV-Power có thể
81
biến động do ảnh hưởng của yếu tố giá nhiên liệu hoặc/và yếu tố sản lượng điện.
Đối với các đơn vị vận hành nhà máy thủy điện, giá hợp đồng chỉ bao gồm
phần cố định, không bao gồm phần biến đổi. Như vậy, xét về đơn giá, giá bán điện
của các nhà máy thủy điện là cố định. Do đó, sự biến động về doanh thu của các nhà
máy thủy điện thuộc PV-Power chỉ đến từ yếu tố sản lượng điện.
Hiện nay, các hợp đồng PPA ký giữa PV-Power với EVN đều còn thời hạn,
ngắn nhất là hợp đồng của nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch 1 với thời điểm hết hạn
hợp đồng là năm 2020 và lâu nhất là hợp đồng của nhà máy thủy điện Nậm Cắt với
thời điểm hết hạn hợp đồng là năm 2033.
Biểu đồ 2.6 – Biểu đồ thời hạn hợp đồng PPA giữa PV-Power và EVN
Thời hạn hợp đồng PPA (Năm)
Nhơn Trạch 1
Nhơn Trạch 2
Vũng Áng
Cà Mau
Hủa Na
Nâm Cắt
ĐakĐrinh
2015
2017
2019
2021
2023
2025
2027
2029
2031
2033
2035
(Nguồn: PV-Power)
Như vậy, xét trong dài hạn, doanh thu của các đơn vị vận hành nhà máy điện
thuộc PV-Power là tương đối ổn định và có thể dự báo trước với độ tin cậy cao. Tuy
nhiên, trong ngắn và trung hạn, doanh thu của các nhà máy điện cũng có thể biến
động mạnh. Mức độ biến động doanh thu chủ yếu phụ thuộc vào mức độ biến động
của yếu tố giá nhiên liệu, chi phí vận chuyển và nguyên vật liệu của các nhà máy
nhiệt điện (yếu tố giá) cũng như phụ thuộc vào mức độ huy động của Cục Điều tiết
(yếu tố sản lượng).
Đặc điểm này ảnh hưởng tới nội dung KTQT phục vụ ra quyết định tác nghiệp.
82
Theo đó, KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power chưa cần phải áp dụng các kỹ thuật
định giá bán sản phẩm trong thời điểm hiện tại bởi giá bán điện đã được quy định
trong các hợp đồng PPA.
Tuy nhiên, trong điều kiện thị trường phát điện cạnh tranh và đặc biệt là thị
trường bán lẻ điện cạnh tranh, yếu tố giá sẽ do các bên tham gia thị trường quyết định.
Trường hợp, các nhà máy điện của PV-Power gia nhập thị trường, lúc này các nhà
máy sẽ phải cạnh tranh với nhau để phát điện và KTQT của PV-Power sẽ phải cung
cấp được những thông tin về định giá bán sản phẩm kết hợp với các thông tin khác
để nhà quản trị có thể đưa quyết định tối ưu.
Thứ tư, về chi phí
Thường là các chi phí trực tiếp. 100% đối tượng được khảo sát đều trả lời các
chi phí phát sinh liên quan đến một nhà máy điện thường là các chi phí trực tiếp. Mỗi
đơn vị thuộc PV-Power chỉ vận hành một nhà máy điện và chỉ sản xuất một loại sản
phẩm điện duy nhất nên KTQT tại PV-Power chủ yếu chỉ cần sử dụng phương pháp
tập hợp chi phí trực tiếp. Có 2/28 người được hỏi trả lời ngoài những chi phí trực tiếp
còn có chi phí gián tiếp liên quan đến các nhà máy điện. Các chi phí này là chi phí
quản lý phát sinh ở cơ quan Tổng Công ty và sẽ được phân bổ cho 03 chi nhánh trực
thuộc để tính vào giá thành điện tại 03 chi nhánh. Vì chi phí gián tiếp không trọng
yếu nên KTQT tại PV-Power phù hợp áp dụng mô hình VBC trong việc phân bổ chi
phí gián tiếp này.
PV-Power có ba nhà máy thủy điện với chi phí vận hành chủ yếu là định phí
(thủy điện Hủa Na, thủy điện Đađrinh, thủy điện Nậm Cắt). 100% đối tượng được
hỏi cho rằng định phí là loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi phí SXKD
của một nhà máy thủy điện. Đặc điểm này ảnh hưởng tới nội dung KTQT tại ba đơn
vị vận hành nhà máy thủy điện này như sau: (1) nội dung KTQT phục vụ hoạch định
tác nghiệp – không cần phân loại chi phí theo nhiều tiêu thức, cần tập trung lập dự
toán sản lượng; (2) nội dung KTQT phục vụ kiểm soát tác nghiệp – cần tập trung
phân tích nguyên nhân tạo ra chênh lệch (variance analysis) tới từ yếu tố lượng; (3)
nội dung KTQT phục vụ đánh giá hiệu quả tác nghiệp – không cần áp dụng kế toán
trách nhiệm với các trung tâm chi phí.
PV-Power có bốn nhà máy nhiệt điện với chi phí vận hành chủ yếu là biến phí
(nhiệt điện khí Cà Mau 1&2, nhiệt điện khí Nhơn Trạch 1, nhiệt điện khí Nhơn Trạch
83
2, nhiệt điện than Vũng Áng 1). Tất cả đối tượng được hỏi cho rằng biến phí là loại
chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi phí SXKD của một nhà máy nhiệt điện.
Đặc điểm này ảnh hưởng tới nội dung KTQT tại bốn đơn vị vận hành bốn nhà máy
nhiệt điện này như sau: (1) nội dung KTQT phục vụ hoạch định tác nghiệp – cần
phân loại chi phí theo nhiều tiêu thức, cần tập trung lập dự toán chi phí sản xuất; (2)
nội dung KTQT phục vụ kiểm soát tác nghiệp – cần tập trung phân tích nguyên nhân
tạo ra chênh lệch từ cả yếu tố giá và yếu tố lượng; (3) nội dung KTQT phục vụ đánh
giá hiệu quả tác nghiệp – cần áp dụng kế toán trách nhiệm với các trung tâm chi phí,
trung tâm lợi nhuận, trung tâm đầu tư; (5) nội dung KTQT phục vụ ra quyết định tác
nghiệp – cần áp dụng mô hình CVP cũng như vận dụng phân tích thông tin thích hợp
để cung cấp thông tin cho nhà quản trị đưa ra quyết định tối ưu, đặc biệt là với các
nhà máy nhiệt điện tham gia thị trường phát điện cạnh tranh.
Nhóm đặc điểm về các yếu tố khác bên trong doanh nghiệp
Ngoài những đặc điểm chung căn bản liên quan tới quy trình SXKD và sản
phẩm giống như các doanh nghiệp SXKD điện khác, PV-Power còn có những đặc
điểm riêng biệt mang tính tổ chức ảnh hưởng tới nội dung KTQT tại các đơn vị thuộc
PV-Power như sau:
Một là, mục tiêu phát triển doanh nghiệp của chủ sở hữu
PV-Power là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu 100% vốn. Trong quá trình
tái cấu trúc nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng, PV-Power
cũng là một đối tượng bắt buộc phải thực hiện tái cơ cấu. Một trong những mục tiêu
quan trọng nhất của công cuộc tái cấu trúc là nâng cao sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp nhà nước. 28 người được hỏi cũng đều trả lời rằng chiến lược phát triển của
PV-Power trong thời gian tới là hướng tới nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Đặc
điểm này trong mục tiêu phát triển của PV-Power tác động trực tiếp tới nội dung
KTQT phục vụ nhà quản trị chiến lược thực hiện các chức năng quản lý chiến lược
của mình. Theo đó, các nội dung KTQT để nhà quản trị thực hiện các chức năng:
hoạch định chiến lược, kiểm soát chiến lược, đo lường hiệu quả chiến lược và ra
quyết định chiến lược cần phải được xem xét áp dụng tại các đơn vị thuộc PV-Power.
Hai là, trình độ của nhà quản trị doanh nghiệp
Hiện tại, PV-Power vẫn là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Các nhà quản
trị điều hành đa phần là các cán bộ đại diện cho phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp
84
cũng như trực tiếp điều hành doanh nghiệp. Thực tế nền kinh tế đã chứng minh sự
hạn chế của quản lý nhà nước trong điều hành các doanh nghiệp và sự vượt trội của
khu vực tư nhân trong lĩnh vực này. Đặc điểm này của PV-Power ảnh hưởng tới (1)
nhận thực của nhà quản trị về vai trò của KTQT trong doanh nghiệp và (2) nội dung
KTQT được áp dụng trong doanh nghiệp. Điều này dẫn tới sẽ có những nội dung
KTQT là cần thiết áp dụng tại PV-Power nhưng trên thực tế nhà quản trị không biết
tới hoặc không có nhu cầu sử dụng thông tin được cung cấp bởi những nội dung
KTQT này.
Bên cạnh những hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện các chức năng quản
lý, 100% nhà quản trị được khảo sát cũng cho rằng sau khi cổ phần hóa PV-Power,
công tác quản lý sẽ được nâng cao với sự tham gia quản lý của các cổ đông ngoài nhà
nước. Qua đó trực tiếp làm tăng hiệu quả hoạt động của PV-Power.
Bà là, trình độ của người làm KTQT và ứng dụng công nghệ thông tin
Hầu hết người làm KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power làm việc tại phòng
Tài chính – Kế toán với công việc chủ yếu liên quan đến Kế toán chi phí. Người làm
KTQT ở bộ phận khác trong các đơn vị chưa nhận thức đúng vai trò của mình. Người
làm KTQT cũng không được đào tạo, cập nhật thường xuyên về KTQT. Bên cạnh
đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị doanh nghiệp chưa được các
đơn vị thuộc PV-Power quan tâm. Theo kết quả khảo sát, đa số (71,4%) số người
được hỏi cho rằng trình độ của người làm KTQT và mức độ ứng dụng công nghệ
thông tin tại PV-Power đạt mức trung bình. Những đặc điểm trên dẫn tới có những
nội dung KTQT không được triển khai áp dụng tại các đơn vị này.
2.2.2 Đặc điểm bên ngoài PV-Power
Thị trường điện Việt Nam đã tiến những bước đầu trong quá trình đổi mới
bằng cách phát triển và vận hành thị trường phát điện cạnh tranh. Bản chất của thị
trường phát điện cạnh tranh Việt Nam hiện nay là thị trường Nhà nước độc quyền
mua buôn để điều tiết giá điện nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong bối
cảnh nguồn cung điện trong nước hiện nay vẫn chưa đáp ứng được toàn bộ nhu cầu
tiêu thụ điện của toàn xã hội, có thể dẫn tới tình trạng tăng giá bán lẻ điện do cầu vượt
cung. Vì vậy, thị trường phát điện cạnh tranh Việt Nam hiện nay có những đặc điểm
85
cơ bản sau:
Thứ nhất, bắt đầu có sự cạnh tranh giữa các đơn vị phát điện. Tuy nhiên mức
độ cạnh tranh chưa cao do không phải cạnh tranh thị phần và khách hàng. Sản phẩm
sản xuất ra đến đâu được “bao tiêu” hết đến đó.
Thứ hai, sự cạnh tranh chỉ tập trung trong phát triển các nguồn điện mới với
lợi thế cạnh tranh (nếu có) chủ yếu đến từ việc dẫn đầu chi phí thấp (low-cost leader).
Tức là đơn vị nào có chi phí đầu tư (suất đầu tư) nhà máy thấp hơn các đơn vị khác
thì đơn vị đó có lợi thế cạnh tranh và nhà máy điện đó có nhiều khả năng mang lại
hiệu quả cao hơn những nhà máy điện khác. 100% nhà quản trị tại PV-Power được
khảo sát đồng ý với nhận định này. Ngoài ra, 28 nhà quản trị nói trên cũng cho rằng
với những nhà máy điện có suất đầu tư ở mức tương đồng nhau thì lợi thế cạnh tranh
cũng có thể đến từ dẫn đầu chi phí thấp trong quá trình vận hành bằng cách tiết giảm
được chi phí vận hành nhiều hơn đối thủ cạnh tranh.
Thứ ba, giá mua bán điện giữa các đơn vị phát điện và người mua duy nhất
chưa thực sự chịu điều tiết của các quy luật thị trường cạnh tranh. Các đơn vị phát
điện thường chỉ được phép bán điện cho các đơn vị mua buôn theo các quy định về
giá mua bán buôn điện do nhà nước quy định. Vì vậy, các lý thuyết về marketing và
giá trị khách hàng (customer value) hay lợi ích/lợi nhuận khách hàng không thể áp
dụng với các doanh nghiệp sản xuất điện trong thị trường phát điện cạnh tranh. 100%
đối tượng được khảo sát cho rằng thị trường phát điện cạnh tranh chưa thực sự cạnh
tranh vì giá bán điện giữa các đơn vị phát điện với các đơn vị mua buôn điện vẫn chịu
sự điều chỉnh của khung giá do Nhà nước quyết định.
Tóm lại, đặc điểm thị trường phát điện cạnh tranh hiện nay của Việt Nam ảnh
hưởng chủ yếu tới các nội dung KTQT phục vụ quản trị chiến lược của PV-Power,
cụ thể là các nội dung hoạch định, kiểm soát, đo lường hiệu quả và ra quyết định
chiến lược. Theo đó, các nội dung của KTQT phục vụ nhà quản trị thực hiện các chức
năng quản lý chiến lược được đề cập tại mục 1.3 của Chương 1 đều cần thiết áp dụng
tại PV-Power (ngoại trừ nội dung lập dự án theo chi phí vòng đời sản phẩm – lifecycle
costing như được trình bày trong phần đặc điểm sản phẩm điện ở trên).
2.3 Thực trạng KTQT trong mối quan hệ với các chức năng quản
lý của nhà quản trị tại các đơn vị thuộc PV-Power
Để tìm hiểu thực trạng KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power, tác giả thực hiện điều
86
tra khảo sát với các đối tượng và nội dung phiếu khảo sát như được trình bày tại mục
3.3 “Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu” của phần Tổng quan vấn đề
nghiên cứu. Kết quả khảo được trình bày trong Phụ lục 04 của luận án. Sau đây là
khái quát các kết quả chính của cuộc điều tra được tác giả tổng hợp lại:
2.3.1 Thực trạng việc thực hiện các chức năng quản lý của nhà quản trị tại PV-
Power
Tất cả các đối tượng được khảo sát (63/63) đều cho rằng PV-Power và các
đơn vị được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Việt Nam nên cơ cấu tổ
chức và phân cấp nhà quản trị cũng tuân thủ theo các quy định của luật này.
Về phân cấp quản lý tại PV-Power. 100% người được hỏi cho biết tất cả các
đơn vị thuộc PV-Power đều đã ban hành các văn bản phân cấp quản lý như: điều lệ
công ty, quy chế tổ chức hoạt động của các bộ phận quản lý cấp cao và bộ máy giúp
việc bên dưới. Theo hệ thống văn bản này, trên danh nghĩa, các cấp quản lý tại PV-
Power và các đơn vị trực thuộc được phân thành 03 cấp như sau: (1) cấp nhà quản trị
chiến lược (thành viên hội đồng thành viên với các đơn vị là công ty trách nhiệm hữu
hạn và thành viên hội đồng quản trị với các đơn vị là công ty cổ phần); (2) cấp nhà
quản trị chiến thuật (thành viên ban giám đốc, ban điều hành); (3) cấp nhà quản trị
tác nghiệp (trưởng/phó các bộ phận, phòng ban, tổ đội). Tuy nhiên, trên thực tế, theo
kết quả khảo sát đa số đối tượng được khảo sát (88,89%) trả lời không có sự tách
bạch rõ ràng giữa nhà quản trị chiến thuật với nhà quản trị tác nghiệp. Nhiều nhà quản
trị cấp chiến thuật vẫn tham gia và cùng thực hiện nhiệm vụ của nhà quản trị tác
nghiệp. Thực tế này phù hợp với lý luận về sự không rõ ràng giữa nhà quản trị chiến
thuật với nhà quản trị tác nghiệp được trình bày trong chương 1. Vì vậy, theo quan
sát của tác giả, nhà quản trị tại PV-Power và các đơn vị có thể chia thành 02 cấp như
sau: (1) cấp nhà quản trị chiến lược bao gồm các thành viên hội đồng thành viên Tổng
Công ty; (2) cấp nhà quản trị tác nghiệp bao gồm thành viên ban giám đốc Tổng
Công ty, trưởng/phó các phòng/ban/bộ phận cơ quan Tổng Công ty, giám đốc các
chi nhánh, người đại diện phần vốn của PV-Power tại các công ty con, trưởng/phó
các phòng/ban/bộ phận ở các chi nhánh và công ty con.
Về thực hiện các chức năng quản lý của nhà quản trị. Như đã trình bày
trong phần đặc điểm của PV-Power ảnh hưởng tới nội dung KTQT tại PV-Power,
nhà quản trị của PV-Power chủ yếu là cán bộ Nhà nước đại diện phần vốn Nhà nước
87
và tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp. Vì vậy, trong quản lý điều hành còn bị
chi phối bởi yếu tố thể chế, văn hóa… dẫn tới việc thực hiện các chức năng quản lý
còn chưa đầy đủ và chưa đạt hiệu quả cao. Nhà quản trị chiến lược chưa thực hiện
đầy đủ các chức năng quản lý chiến lược của mình. Kết quả khảo sát cho thấy 58/63
nhà quản trị được hỏi trả lời họ chưa thực hiện đầy đủ 04 chức năng quản lý của mình.
Nhà quản trị tác nghiệp chưa thực sự quan tâm và thực hiện hết trách nhiệm với các
chức năng quản lý tác nghiệp của mình. Thực trạng về việc thực hiện các chức năng
quản lý ảnh hưởng trực tiếp tới thực trạng việc áp dụng các nội dung KTQT tại PV-
Power.
2.3.2 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng hoạch định
Từ kết quả khảo sát và qua tìm hiểu thực tế tại 07 đơn vị thuộc PV-Power, tác
giả nhận thấy KTQT của cả 07 đơn vị đều đã cung cấp được thông tin để nhà quản
trị thực hiện chức năng hoạch định của mình. Tuy nhiên, KTQT mới chỉ tập trung
vào cung cấp thông tin phục vụ hoạch định tác nghiệp chứ chưa chú trọng tới chức
năng hoạch định chiến lược. Cụ thể về thực trạng nội dung KTQT gắn với chức năng
hoạch định tại 07 đơn vị thuộc PV-Power như sau:
2.3.2.1 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng hoạch định tác nghiệp
Thực trạng nhận diện và phân loại chi phí
Hiện nay, PV-Power đang có 03 chi nhánh và 04 công ty con vận hành 07 nhà
máy/cụm nhà máy điện. Các đơn vị này là các trung tâm chủ yếu phát sinh chi phí
trong cả Tổng Công ty. 07 đơn vị này phân loại chi phí theo 02 tiêu thức: (1) theo
mối quan hệ của chi phí với các khoản mục trên BCTC; (2) theo mối quan hệ với
mức độ hoạt động.
- Thứ nhất, phân loại chi phí theo mối quan hệ của chi phí với các khoản
mục trên BCTC
Theo cách phân loại này, 100% đối tượng được hỏi (58/58) đều trả lời đơn vị
của họ có phân loại chi phí theo mối quan hệ của chi phí với các khoản mục trên
BCTC, bao gồm các khoản: chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
Chi phí sản phẩm là các loại (1) chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chủ yếu là
nhiên liệu chính như khí, dầu, than và các loại nguyên liệu, vật liệu phụ như dầu mỡ
bôi trơn, hóa chất phục vụ sản xuất, hóa chất phục vụ thử nghiệm, nước công nghiệp,
88
bi rửa bình ngưng, chổi than máy phát… tham gia trực tiếp vào quá trình tạo ra điện
(Phụ lục 05); (2) chi phí nhân công trực tiếp là tiền lương, tiền công, tiền ăn ca, thưởng
mang tính chất lương (thưởng vận hành an toàn, thưởng tiết kiệm vận hành kinh tế)
và các khoản trích theo lương mà PV-Power phải trả cho kỹ sư, công nhân vận hành
trực tiếp các thiết bị, máy móc tạo ra điện (Phụ lục 06); (3) chi phí sản xuất chung là
các loại tiền lương, tiền công, tiền ăn ca, thưởng mang tính chất lương và các khoản
trích theo lương phải trả cho nhân viên và cán bộ quản lý phân xưởng sản xuất điện,
các loại CCDC phục vụ cho phân xưởng sản xuất (phục vụ sản xuất, vận hành và
phục vụ quản lý phân xưởng), khấu hao tổ hợp nhà máy, dây chuyền, sửa chữa TSCĐ
v.v... (Phụ lục 07).
Chi phí thời kỳ là các loại chi phí quản lý doanh nghiệp. Chi phí quản lý doanh
nghiệp là tiền lương và các khoản trích theo lương phải trả cho cán bộ quản lý các
đơn vị vận hành nhà máy điện, chi phí nhiên liệu, vật liệu, CCDC dùng cho văn
phòng, khấu hao TSCĐ dùng cho văn phòng, nhà điều hành, chi phí bằng tiền khác
v.v…
Hiện nay, KTQT tại tất cả các đơn vị thuộc PV-Power đều phân loại chi phí
theo tiêu thức này để thống nhất ghi nhận và theo dõi các khoản chi phí trên cùng một
hệ thống sổ chi tiết với KTTC.
- Thứ hai, phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt động
Theo tìm hiểu, 04 đơn vị vận hành nhà máy nhiệt điện thuộc PV-Power có
phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt động (46/58 nhà quản trị được
hỏi lựa chọn tiêu thức phân loại chi phí này – tương ứng số lượng nhà quản trị cấp
tác nghiệp tại cơ quan Tổng Công ty và tại 04 đơn vị vận hành nhà máy nhiệt điện).
Còn 03 đơn vị vận hành nhà máy thủy điện không phân loại chi phí theo tiêu thức
này (12/58 nhà quản trị được hỏi không lựa chọn tiêu thức phân loại chi phí này –
tương ứng số lượng nhà quản trị cấp tác nghiệp tại 03 đơn vị vận hành nhà máy thủy
điện) . Theo đó, 04 đơn vị vận hành nhà máy nhiệt điện phân loại chi phí thành: (1)
Biến phí và (2) Định phí.
Biến phí là những chi phí biến đổi theo mức độ hoạt động của nhà máy nhiệt
điện như: chi phí nhiên liệu (khí, than); chi phí O&M biến đổi như vật tư tiêu hao,
89
hóa chất, dự phòng mua vật tư thiết bị đột xuất, nước công nghiệp…
Định phí là những chi phí cố định ở bất kỳ mức độ hoạt động nào của nhà
máy nhiệt điện như: phí công suất như khấu hao, lãi vay, bảo hiểm; chi phí O&M cố
định như chi phí bảo trì bảo dưỡng, chi phí vận hành (O) cố định như chi phí lương
cho bộ phận quản lý đơn vị và các chi phí vận hành cố định khác.
Hiện nay, 04 đơn vị vận hành nhà máy nhiệt điện thuộc PV-Power đang lựa
chọn tiêu thức phân loại chi phí này để lập các dự toán cũng như để lập các báo cáo
phân tích chênh lệch trong ngắn và trung hạn.
Thực trạng xác định mô hình tập hợp và phân bổ chi phí, tính giá thành kế
hoạch
Kết quả khảo sát (56/58) chỉ ra rằng các chi phí liên quan đến một nhà máy
điện là chi phí trực tiếp. Mỗi đơn vị thuộc PV-Power chỉ vận hành một nhà máy điện,
mỗi nhà máy chỉ sản xuất một loại sản phẩm duy nhất. Vì vậy, chi phí sản xuất phát
sinh tại các nhà máy điện hay tại mỗi đơn vị vận hành nhà máy điện đều là chi phí
trực tiếp (tương tự như kết quả từ cuộc khảo sát về đặc điểm của PV-Power tại mục
2.2 khi đối tượng được khảo sát bao gồm 28 nhà quản trị làm việc tại cơ quan Tổng
Công ty). Các chi phí này liên quan tới một đối tượng tập hợp chi phí và một đối
tượng tính giá thành. Sơ đồ sau thể hiện mối quan hệ giữa các đối tượng tập hợp chi
phí với các luồng chi phí phát sinh.
Độc lập trong hạch toán chi phí
CƠ QUAN TỔNG CÔNG TY PV-POWER
Phân bổ CP quản lý cơ quan Tổng Công ty
Chi nhánh Nhơn Trạch
Chi nhánh Hà Tĩnh
Chi nhánh Cà Mau
CTCP Thủy điện Hủa Na
CTCP Thủy điện ĐakĐrinh
CTCP Điện lực Dầu khí Bắc Kạn
CTCP Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2
Tập hợp CP sản xuất
Tập hợp CP sản xuất
NĐ Cà Mau 1&2
NĐ Nhơn Trạch 1
NĐ Vũng Áng 1
Thủy điện Hủa Na
Thủy điện ĐakĐrinh
Thủy điện Nậm Cắt
Nhiệt điện Nhơn Trạch 2
Sơ đồ 2.2 - Mối quan hệ giữa các đối tượng tập hợp chi phí và luồng chi phí
90
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Phương pháp tập hợp chi phí. Với chi phí sản phẩm, theo kết quả khảo sát,
100% đối tượng được khảo sát đều cho biết cả 07 đơn vị thuộc PV-Power đều sử
dụng là phương pháp tập hợp trực tiếp. Với chi phí thời kỳ (cụ thể là chi phí quản lý
doanh nghiệp), 04 đơn vị là công ty con sử dụng phương pháp tập hợp trực tiếp. Tức
là chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh tại đơn vị nào tập hợp cho đơn vị đó. Tuy
nhiên, với 03 đơn vị là chi nhánh trực thuộc Tổng Công ty, ngoài các khoản chi phí
quản lý phát sinh trực tiếp tại từng đơn vị cũng được tập hợp trực tiếp thì 03 chi nhánh
này còn phải chịu phân bổ chi phí quản lý của Cơ quan Tổng Công ty. Cơ quan Tổng
Công ty sử dụng mô hình VBC để phân bổ chi phí quản lý cho 03 chi nhánh trực
thuộc.
Đối tượng tập hợp chi phí là từng bộ phận/phòng/ban (trung tâm chi phí)
trong 07 đơn vị thuộc PV-Power trong trường hợp đơn vị muốn tính giá thành sản
xuất. Ngoài ra, mỗi một đơn vị thuộc PV-Power cũng có thể được coi là một trung
tâm chi phí và là một đối tượng tập hợp chi phí trong trường hợp đơn vị muốn tính
giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ.
Đối tượng tính giá thành là sản phẩm điện được sản xuất ra tại từng nhà máy
điện. Sản phẩm điện không có sản phẩm làm dở nên cả 07 đơn vị thuộc PV-Power
đều tính giá thành điện chi phí phát sinh trong kỳ.
Hầu hết các đơn vị đều đang áp dụng mô hình một đối tượng tập hợp chi phí
liên quan đến một đối tượng tính giá thành và mô hình nhiều đối tượng tập hợp chi
phí liên quan đến một đối tượng tính giá thành tùy thuộc vào loại giá thành cần tính
toán.
Thực trạng lập dự toán tác nghiệp
Cả 07 đơn vị thuộc PV-Power đều lập các dự toán tác nghiệp cho tháng, quý
và năm. Cơ sở để lập các dự toán này đều dựa trên các định mức chi phí và dự báo
sản lượng. Cụ thể như sau:
(i) Xây dựng định mức chi phí
Cả 07 đơn vị thuộc PV-Power đều xây dựng định mức chi phí chia thành 02
loại: định mức kinh tế kỹ thuật và định mức quản lý (định mức chi phí quản lý).
- Định mức kinh tế kỹ thuật. Định kỳ hàng năm, các đơn vị xây dựng và phê
duyệt định mức kinh tế kỹ thuật một lần. Với 03 đơn vị là chi nhánh của cơ quan
91
Tổng Công ty, định mức kinh tế kỹ thuật được Hội đồng thành viên của PV-Power
phê duyệt thông qua các quyết định. Với 04 đơn vị là công ty con của PV-Power,
định mức kinh tế kỹ thuật được Hội đồng thành viên PV-Power chấp thuận thông
qua các nghị quyết. Với các đơn vị vận hành nhà máy nhiệt điện, định mức mức kinh
tế kỹ thuật gồm những loại sau: (1) định mức công suất tinh; (2) định mức suất hao
nhiệt; (3) định mức số lần sự cố; (4) định mức phần trăm điện tự dùng; (5) định mức
nhiên liệu khởi động, dừng máy; (6) định mức hóa chất công nghiệp và hóa chất thử
nghiệm cho nhà máy (Phụ lục 08). Với các đơn vị vận hành nhà máy thủy điện, định
mức kinh tế kỹ thuật gồm những loại sau: (1) định mức công suất tinh; (2) định mức
số lần sự cố; (3) định mức độ khả dụng; (4) định mức phần trăm điện tự dùng; (5)
định mức dầu bôi trơn, dầu máy biến áp (Phụ lục 09).
Để xây dựng các loại định mức kinh tế kỹ thuật này, KTQT của các đơn vị
thuộc PV-Power thực hiện như sau:
Bước 1, thu thập thông tin. Bộ phận kỹ thuật của các đơn vị thu thập các thông
tin: (1) thông số kỹ thuật của máy móc thiết bị khi nhập khẩu mà nhà sản xuất đưa ra
trong các tài liệu hướng dẫn đi kèm với thiết bị, tùy vào từng hãng khác nhau mà
thông số kỹ thuật khác nhau từ đó sẽ có những định mức kinh tế kỹ thuật khác nhau
cho từng nhà máy, ví dụ: nhà máy điện Cà Mau sử dụng thiết bị nhập khẩu của Simen,
nhà máy điện Nhơn Trạch sử dụng thiết bị nhập khẩu của Alstom, nhà máy điện
Vũng Áng sử dụng thiết bị nhập khẩu của Toshiba (máy chính) một số thiết bị khác nhập khẩu từ Trung Quốc…; (2) thông tin về hệ số suy giảm công suất 11 do nhà sản
xuất đưa ra – hệ số này càng cao thì công suất của nhà máy càng cao và ngược lại;
(3) thông tin về thực tế vận hành của từng nhà máy trong những năm trước do bộ
phận KTTC cung cấp thông qua hệ thống sổ sách của KTTC, ngoài ra, bộ phận kỹ
thuật cũng sử dụng số liệu về tình hình vận hành nhà máy điện do chính bộ phận kỹ
thuật tổng hợp, thống kê để làm căn cứ xây dựng định mức.
Bước 2, xử lý và phân tích thông tin. Bộ phận kỹ thuật của từng đơn vị căn cứ
vào thông số kỹ thuật của máy móc, thiết bị kết hợp với hệ số suy giảm công suất
theo từng năm của từng nhà máy điện để xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật lý tưởng
11 Hệ số suy giảm công suất là hệ số để phản ánh mức độ công suất của nhà máy sẽ suy giảm theo từng năm phù hợp với bản chất của khấu hao TSCĐ. Sau các đợt tiểu tu, trung tu, đại tu, hệ số suy giảm công suất sẽ tăng tuy nhiên sau đó lại suy giảm theo thời gian.
92
trên lý thuyết. Sau đó, đối chiếu định mức lý tưởng theo lý thuyết với số liệu thực tế
vận hành của từng nhà máy của các kỳ trước để điều chỉnh định mức theo lý thuyết
cho phù hợp với thực tế.
Bước 3, cung cấp thông tin. Bộ phận kỹ thuật của từng đơn vị trình định mức
đã xây dựng cho Ban kỹ thuật của Tổng Công ty xem xét, kiểm tra, đối chiếu. Sau
khi Ban kỹ thuật của Tổng Công ty đồng ý, Tổng Giám đốc Tổng Công ty trình Hội
đồng thành viên phê duyệt (với 03 chi nhánh) và thông qua (với 04 công ty con).
Định mức kinh tế kỹ thuật sau khi được phê duyệt, thông qua sẽ là căn cứ để các đơn
vị xây dựng các kế hoạch/dự toán liên quan trực tiếp tới quá trình sản xuất điện.
Sơ đồ sau đây mô tả quy trình KTQT thực hiện xây dựng định mức kinh tế kỹ
thuật tại một đơn vị thuộc PV-Power.
Sơ đồ 2.3 – Sơ đồ quy trình xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật tại các đơn vị
Hệ số suy giảm công suất Thực tế vận hành
Thông số kỹ thuật
thuộc PV-Power
Thu thập thông tin
Xử lý và phân tích thông tin
Bộ phận kỹ thuật tại từng đơn vị
Ban Kỹ thuật Tổng Công ty PV-Power
Cung cấp thông tin
Tổng Giám đốc Tổng Công ty PV-Power
Hội đồng thành viên Tổng Công ty PV-Power
T
rình
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
- Định mức chi phí quản lý. Định kỳ hàng năm, các đơn vị xây dựng và phê
duyệt định mức chi phí quản lý một lần. Định mức chi phí quản lý được Giám đốc
chi nhánh (đối với 03 chi nhánh) và Người đại diện phần vốn Tổng Công ty tại các
đơn vị (đối với 04 công ty con) xây dựng và ban hành. Với các đơn vị vận hành nhà
93
máy nhiệt điện, định mức mức kinh tế kỹ thuật gồm những loại sau: (1) định mức
văn phòng phẩm; (2) định mức về dầu mỡ bôi trơn; (3) định mức tiêu thụ nhiên liệu
của xe cơ giới… (Phụ lục 10). Với các đơn vị vận hành nhà máy thủy điện, định mức
kinh tế kỹ thuật gồm những loại sau: (1) định mức văn phòng phẩm; (2) định mức
tiêu thụ nhiên liệu của xe cơ giới… (Phụ lục 11). Các loại định mức này được ban
hành trong các quy chế liên quan đến chi tiêu nội bộ của từng đơn vị. Các định mức
chi phí quản lý tại các đơn vị phải tuân thủ các quy định của Nhà nước về quản lý tài
chính, các quy chế tài chính của Tổng Công ty, các quy định của từng đơn vị.
Để xây dựng các loại định mức quản lý này, KTQT của các đơn vị thuộc PV-
Power thực hiện như sau:
Bước 1, thu thập thông tin. Bộ phận Tài chính – Kế toán chủ trì, phối hợp với
các bộ phận khác trong từng đơn vị để thu thập: (1) các quy định của Nhà nước về
quản lý tài chính; (2) quy chế tài chính của Tổng Công ty; (3) thông tin thực hiện về
chi phí quản lý của các kỳ trước để có cơ sở dự báo khối lượng chi phí quản lý có thể
phát sinh kỳ này và (4) dự báo biến động giá trong kỳ kế hoạch.
Bước 2, xử lý và phân tích thông tin. Bộ phận Tài chính – Kế toán của từng
đơn vị thống kê chi phí quản lý bình quân của các kỳ trước kết hợp với dự báo biến
động của yếu tố trượt giá để xây dựng định mức chi phí quản lý cho từng đơn vị.
Định mức chi phí quản lý của các đơn vị thuộc PV-Power được các đơn vị chủ động
xây dựng tuy nhiên phải đảm bảo nằm trong các giới hạn được cho phép bởi các văn
bản có tính pháp lý cao hơn như các quy định về quản lý tài chính của Nhà nước và
các quy chế quản lý tài chính của Tổng Công ty.
Bước 3, cung cấp thông tin. Bộ phận Tài chính – Kế toán trình Giám đốc chi
nhánh (đối với 03 chi nhánh) và Người đại diện phần vốn Tổng Công ty tại các đơn
vị (đối với 04 công ty con) để phê duyệt/thông qua và ban hành định mức chi phí
quản lý cho từng đơn vị. Định mức chi phí quản lý sẽ làm căn cứ để xây dựng các kế
hoạch/dự toán chi phí quản lý cho từng đơn vị vận hành nhà máy điện trong từng kỳ.
Sơ đồ sau đây mô tả quy trình KTQT thực hiện xây dựng định mức chi phí
94
quản lý tại một đơn vị thuộc PV-Power.
Sơ đồ 2.4 – Sơ đồ quy trình xây dựng định mức chi phí quản lý tại các đơn vị
Thông tin thực hiện
các kỳ trước
Quy định của Nhà nước về quản lý tài chính;
Dự báo biến động
Quy chế tài chính của
giá của kỳ tới
Tổng Công ty;
thuộc PV-Power
Thu thập thông tin
Giám đốc chi nhánh hoặc người đại diện phần vốn
Bộ phận Tài chính – Kế toán của từng đơn vị
Cung cấp thông tin
Xử lý và phân tích thông tin
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
(ii) Lập dự toán tác nghiệp (trong ngắn và trung hạn)
- Các loại dự toán. Hiện nay cả 07 đơn vị thuộc PV-Power đều lập dự toán theo
tháng, quý, năm. Các loại dự toán bao gồm cả dự toán chi tiết lẫn dự toán tổng thể,
cụ thể: (1) dự toán chi tiết bao gồm: dự toán sản lượng điện và khối lượng nhiên liệu
tiêu thụ (có tính đến định mức suất hao nhiệt); các loại dự toán chi phí chi tiết như dự
toán biến phí (dự toán chi phí nhiên liệu, dự toán chi phí O&M biến đổi), dự toán
định phí (dự toán phí công suất, dự toán O&M cố định); dự toán doanh thu và (2) dự
toán tổng hợp là dự toán tổng hợp sản xuất, kinh doanh và kết quả hoạt động kinh
doanh.
- Các kỹ thuật lập dự toán. Hiện nay, cả 07 đơn vị thuộc PV-Power đều áp
dụng kỹ thuật lập dự toán gia tăng khi lập các dự toán ngắn và trung hạn. Theo đó,
dự toán được xây dựng dựa trên kết quả thực hiện của năm trước cộng với một tỷ lệ
(%) tăng trưởng nhất định. Cơ sở để 07 đơn vị áp dụng kỹ thuật lập dự toán này vì sự
tăng trưởng ổn định của yếu tố giá và yếu tố lượng. Trong khi các yếu tố giá đầu vào
đều có xu hướng tăng theo tốc độ tăng của lạm phát thì yếu tố sản lượng điện cũng
có xu hướng tăng do nhu cầu điện ngày càng tăng cùng với tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế.
- Trình tự lập dự toán ngắn và trung hạn. Hiện nay, PV-Power thống nhất áp
dụng trình tự lập dự toán từ trên xuống (Imposed/Top Down Approach). Theo đó,
95
Hội đồng thành viên Tổng Công ty là cơ quan cao nhất tổ chức lập và phê duyệt dự
toán/kế hoạch hoạt động SXKD năm của Tổng Công ty và các đơn vị. Trên cơ sở kế
hoạch chung của cả Tổng Công ty, Ban Kinh tế - Kế hoạch của Tổng Công ty phối
hợp với các đơn vị xây dựng dự toán chi tiết tháng, quý, năm đối với từng đơn vị để
tổ chức thực hiện nhằm đạt được kế hoạch chung của cả Tổng Công ty. Cụ thể các
bước lập dự toán ngắn hạn và trung hạn tại 07 đơn vị thuộc PV-Power như sau:
Bước 1, thu thập thông tin. Ban Kinh tế – Kế hoạch của Tổng Công ty chủ trì,
phối hợp với các bộ phận khác trong từng đơn vị để thu thập: (1) thông tin thực hiện
của các kỳ trước thông qua số liệu từ các bộ phận có liên quan, đặc biệt là từ bộ phận
KTTC; (2) dự báo biến động trong kỳ kế hoạch – các dự báo này bao gồm cả dự báo
tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện (yếu tố lượng) thu thập từ EVN và dự báo biến động
của giá cả các yếu tố đầu vào (yếu tố giá) từ các thị trường như thị trường than, dầu
mỏ, khí v.v…; (3) kế hoạch chung của cả Tổng Công ty được Hội đồng thành viên
Tổng Công ty thông qua hàng năm căn cứ vào kế hoạch được PVN giao.
Bước 2, xử lý và phân tích thông tin. Ban Kinh tế - Kế hoạch căn cứ vào các
thông tin thu thập được thực hiện xây dựng dự toán năm (chi tiết theo quý hoặc tháng)
như sau:
+ Lập dự toán sản lượng. Dự toán sản lượng điện được lập căn cứ vào mức
sản lượng điện thực hiện của năm trước cộng thêm tỷ lệ gia tăng do Hội đồng thành
viên giao (tỷ lệ gia tăng thường căn cứ vào tốc độ tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ điện
do EVN căn cứ hàng năm). Từ mức sản lượng điện kế hoạch của từng nhà máy, Ban
Kinh tế - Kế hoạch phối hợp với Ban Kỹ thuật căn cứ vào suất hao nhiệt để xác định
nhiệt lượng tiêu thụ cần thiết cho việc tạo ra sản lượng điện kế hoạch (đối với các nhà
máy nhiệt điện). Từ nhiệt lượng tiêu thụ cần thiết xác định lượng nhiên liệu tiêu thụ.
Ví dụ dự toán sản lượng của Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 như sau:
Bảng 2.2 – Kế hoạch sản lượng điện và khối lượng nhiên liệu tiêu thụ năm
2015 – Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1
Tháng
Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 SHN (BTU/kWh)
Sản lượng điện (MWh)
Nhiệt lượng tiêu thụ (Tr.BTU)
Lượng khí tiêu thụ (SM3)
Lượng dầu tiêu thụ (Tấn)
1 2 3
328.036 239.474 362.758
2.420.432 1.802.149 2.615.687
64.934.450 48.353.869 70.182.091
7.379 7.525 7.211
96
4 5 6 7 8
9 10 11 12 Tổng cộng
359.959 370.505 343.753 271.835 208.572 55.000 358.609 337.688 356.359 366.092 3.958.640
7.169 7.068 6.957 7.288 7.036 6.650 7.175 7.219 7.185 7.196 7.094
2.580.695 2.618.804 2.391.386 1.981.008 1.467.495 365.750 2.573.175 2.437.630 2.560.605 2.634.217 28.449.031
69.243.214 70.265.736 64.163.825 53.152.873 39.374.691 69.041.447 65.404.613 68.704.198 70.679.291 753.500.298
10.250 10.250
(Nguồn: PV-Power)
+ Lập dự toán chi phí SXKD. Căn cứ vào dự toán sản lượng điện và khối
lượng nhiên liệu tiêu thụ ở trên, Ban Kinh tế - Kế hoạch tiếp tục lập dự toán chi phí
SXKD. Dự toán SXKD bao gồm 02 loại chi phí chính là: biến phí và định phí. Đối
với các loại biến phí, Ban Kinh tế - Kế hoạch lấy lượng nhiên liệu tiêu thụ kế hoạch
nhân (x) đơn giá nhiên liệu dự kiến. Đối với các loại định phí, Ban Kinh tế - Kế hoạch
lấy số tương tự của kỳ trước để lập dự toán định phí cho kỳ này. Ví dụ dự toán chi
phí SXKD của Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 trình bày trong Phụ lục 12.
+ Lập dự toán doanh thu. Căn cứ vào dự toán sản lượng điện kế hoạch, Ban
Kinh tế - Kế hoạch lập dự toán doanh thu. Dự toán doanh thu được lập tùy thuộc vào
từng loại nhà máy điện. Đối với nhà máy thủy điện có đơn giá bán điện cố định,
doanh thu của nhà máy thủy điện bằng (=) sản lượng điện kế hoạch nhân (x) đơn giá
bán điện được quy định trong hợp đồng PPA với EVN. Đối với nhà máy nhiệt điện
có đơn giá bán điện biến đổi, doanh thu của nhà máy nhiệt điện bằng (=) sản lượng
điện kế hoạch nhân (x) đơn giá bán điện được xác định theo quy định tại hợp đồng
PPA và giá nhiên liệu đầu vào. Ví dụ dự toán doanh thu của Nhà máy nhiệt điện Cà
Mau 1 như sau:
Bảng 2.3 – Kế hoạch doanh thu năm 2015 – Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Kế hoạch năm 2015
Tổng số
Quý I
Quý II
Quý III Quý IV
TỔNG DOANH THU
Tr VNĐ
6.436.625 1.524.964
1.651.225 1.602.376 1.658.061
1 Doanh thu biến đổi bình quân Tr VNĐ
4.916.167 1.144.849
1.271.110 1.222.261 1.277.946
1.1 Doanh thu nhiên liệu khí
Tr VNĐ
4.677.819 1.139.047
1.264.410 1.003.028 1.271.334
97
-
Sản lượng điện thương mại
Tr.kWh
3.904
930
1.074
839
1.060
- Khối lượng nhiên liệu khí
106BTU
28.730.710 6.995.916
7.765.884 6.160.500 7.808.410
- Đơn giá nhiên liệu khí 12
đ/106BTU
162.816
162.816
162.816
162.816
162.816
1.2 Doanh thu nhiên liệu dầu
Tr VNĐ
214.000
0
0
214.000
0
1.3 Doanh thu O&M biến đổi
Tr VNĐ
24.347
5.802
6.700
5.233
6.612
- Đơn giá O&M biến đổi 13
đ/kWh
6,24
6,24
6,24
6,24
6,24
2 Doanh thu cố định bình quân Tr VNĐ
1.520.459
380.115
380.115
380.115
380.115
2.1 Phí công suất
Tr VNĐ
975.873
243.968
243.968
243.968
243.968
- Cống suất khả dụng
MW
727,20
727,20
727,20
727,20
727,20
- Đơn giá phí công suất 14
đ/kW/th
111.830
111.830
111.830
111.830
111.830
2.2 Doanh thu O&M cố định
Tr VNĐ
544.585
136.146
136.146
136.146
136.146
- Đơn giá O&M cố định 15
đ/kW/th
62.407
62.407
62.407
62.407
62.407
(Nguồn: PV-Power)
+ Lập dự toán tổng hợp kết quả hoạt động SXKD. Từ các loại dự toán chi tiết
nêu trên, Ban Kinh tế - Kế hoạch tổng hợp và lập dự toán kết quả hoạt động SXKD.
Ví dụ dự toán tổng hợp kết quả hoạt động SXKD của Chi nhánh Cà Mau (vận hành
nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 & 2) trình bày trong Phụ lục 13.
Bước 3, cung cấp thông tin. Ban Kinh tế - Kế hoạch trình Tổng Giám đốc
Tổng Công ty để giao dự toán/kế hoạch cho từng đơn vị. Trên cơ sở kế hoạch được
giao, các đơn vị tiếp tục xây dựng các dự toán chi tiết hơn để triển khai thực hiện.
Sơ đồ sau mô tả quy trình xây dựng dự toán/kế hoạch cho các đơn vị thuộc
12 Giá khí tạm tính 7,68 USD/1 triệu BTU tương đương với giá dầu thô 100 USD/thùng. 13 Giá tính theo hợp đồng PPA (tạm tính trượt giá 5%): 0,000216 EUR/kWh. 14 Tính theo hợp đồng PPA: 5,275 USD/kWtháng. 15 Tính theo hợp đồng PPA (tạm tính trượt giá 5%): (1,64116 EUR và 14.303 VNĐ)/kWtháng.
98
PV-Power (trang sau).
Sơ đồ 2.5 – Sơ đồ quy trình xây dựng dự toán cho các các đơn vị thuộc PV-
Hội đồng thành viên Tổng Công ty
HĐTV giao kế hoạch cho TCT
Thực hiện kỳ trước
Dự báo tương lai
Power
Thu thập thông tin
Xử lý và phân tích thông tin
Ban Kinh tế - Kế hoạch
Trình TGĐ phê duyệt giao kế hoạch cho các đơn vị
Cung cấp thông tin
Tổng Giám đốc Tổng Công ty
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
2.3.2.2 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng hoạch định chiến lược
Như đã trình bày trong phần đặc điểm của PV-Power ảnh hưởng tới nội dung
KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power, hiện nay, PV-Power tạm thời không thực hiện
chức năng đầu tư xây dựng nhà máy điện mới. Vì vậy, nhà quản trị cấp cao của PV-
Power không có nhu cầu thông tin để thực hiện chức năng hoạch định chiến lược.
Các hoạt động liên quan đến quản lý chiến lược chỉ chủ yếu tập trung vào chức năng
kiểm soát, đo lường hiệu quả và ra quyết định chiến lược. Do đó, nội dung KTQT
liên quan đến lập kế hoạch/dự án chiến lược, cụ thể là nội dung lập dự toán theo chi
phí mục tiêu chưa cần áp dụng tại PV-Power.
2.3.3 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng kiểm soát
Hiện nay, KTQT của cả 07 đơn vị thuộc PV-Power đều đã cung cấp được
thông tin để nhà quản trị thực hiện chức năng kiểm soát tác nghiệp của mình. Tuy
nhiên, chức năng kiểm soát chiến lược vẫn chưa được nhà quản trị cấp cao quan tâm
thực hiện dẫn tới nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát chiến lược chưa được
thực hiện. Cụ thể về thực trạng nội dung KTQT gắn với chức năng kiểm soát thực
99
hiện tại 07 đơn vị thuộc PV-Power như sau:
2.3.3.1 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng kiểm soát tác nghiệp
Thực trạng phân tích chênh lệch ngắn và trung hạn
Theo kết quả khảo sát, hiện nay, cả 07 đơn vị thuộc PV-Power đều thực hiện
phân tích chênh lệch (variance analysis) trong ngắn và trung hạn. Các báo cáo phân
tích chênh lệch cụ thể như sau: (1) Với kỳ dự toán/kế hoạch năm, các đơn vị đều có
báo cáo phân tích chênh lệch chi phí/giá thành, báo cáo phân tích chênh lệch doanh
thu và kết quả hoạt động; (2) Với kỳ dự toán/kế hoạch tháng và quý, các đơn vị lập
báo cáo phân tích chênh lệch chi phí/giá thành, không lập báo cáo phân tích chênh
lệch doanh thu và kết quả hoạt động. Cụ thể một số báo cáo phân tích chênh lệch tại
các đơn vị thuộc PV-Power như sau:
+ Báo cáo phân tích chênh lệch chi phí/giá thành theo tháng:
Bảng 2.4 – Phân tích chênh lệch giá thành tháng 2/2015 – Nhà máy điện Cà
Mau 1
CHÊNH LỆCH TH/KH
KHOẢN
STT
Đvt
KẾ HOẠCH
THỰC HIỆN
MỤC
Giá trị
Tỷ lệ %
Sản lượng
239.474.015
375.038.300
135.564.285
156,61%
I
điện
Kwh
Tổng chi phí
392.267.229.993
366.892.825.829
-25.374.404.164
93,53%
II
SX điện
Đồng
1
Nhiên liệu
293.418.643.259
284.158.685.536
-9.259.957.723
96,84%
Đồng
1.1 Nhiên liệu Khí
293.418.643.259
284.158.685.536
-9.259.957.723
96,84%
Đồng
2
Phí công suất
Đồng
57.920.258.278
53.219.644.076
-4.700.614.202
91,88%
Đồng
2.1 Khấu hao
48.584.095.118
44.613.837.084
-3.970.258.034
91,83%
Đồng
2.2 Lãi vay
6.834.490.718
6.650.997.816
-183.492.902
97,32%
Bảo hiểm vận
2.501.672.442
1.954.809.176
-546.863.266
78,14%
Đồng
2.3
hành
O&M biến
1.174.200.809
500.872.512
-673.328.297
42,66%
Đồng
3
đổi
O&M cố
37.857.818.823
28.200.965.187
-9.656.853.636
74,49%
4
định
Đồng
Chênh lệch tỷ
1.896.308.824
812.658.518
-1.083.650.306
42,85%
5
giá
Đồng
Đồng/Kwh
978
-660
59,72%
1.638
Giá thành
III
NM
Cent/kwh
4,58
-3,09
59,72%
7,67
100
(Nguồn: PV-Power)
+ Báo cáo phân tích chênh lệch chi phí/giá thành theo quý trình bày tại Phụ
lục 14.
+ Báo cáo phân tích chênh lệch chi phí/giá thành, doanh thu và kết quả hoạt
động theo năm trình bày tại Phụ lục 15.
Cả 07 đơn vị thuộc PV-Power đều chỉ ra được những nguyên nhân tạo ra
chênh lệch trong các báo cáo phân tích chênh lệch. Ví dụ như trong báo cáo phân tích
chi phí/giá thành tháng 2/2015 của Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1, đơn vị lập báo cáo
cũng đã chỉ ra được các nguyên nhân dẫn tới chênh lệch giữa thực hiện với dự toán/kế
hoạch như sau:
“Giá thành sản xuất 1kWh của NMĐ Cà Mau 1 thấp hơn 660 đồng so với kế
hoạch do ảnh hưởng của các yếu tố như sau:
(i) Chi phí nhiên liệu thực tế giảm 3,16% so với kế hoạch là do giá khí
thực tế (5,09 usd/Tr.btu) giảm 33,72% so với kế hoạch (7,68
usd/Tr.btu).
(ii) Chi phí phí công suất thực tế giảm 8,12% so với kế hoạch, nguyên nhân
chủ yếu là do khấu hao (khấu hao thực tế tính bình quân cho 28 ngày,
trong khi kế hoạch tính bình quân cho 30 ngày).
(iii) Chi phí O&M cố định giảm 25,51% so với kế hoạch chủ yếu do tỷ giá
EUR thực tế (24.036 eur/vnd) giảm 12,60% so với kế hoạch (27.500
eur/vnd); phần O cố định : các khoản mục như chi phí nhân công, dịch
vụ mua ngoài đều giảm so với kế hoạch.
(iv) Chi phí O&M biến đổi thấp hơn kế hoạch, nguyên nhân do một số hóa
chất xuất cuối năm 2014 chưa sử dụng hết tiếp tục sử dụng cho 2015.”
(Nguồn: PV-Power).
Để phân tích chênh lệch ngắn và trung hạn phục vụ kiểm soát tác nghiệp,
KTQT của các đơn vị thuộc PV-Power thực hiện như sau:
Bước 1, thu thập thông tin. Bộ phận Kinh tế - Kế hoạch tại 07 đơn vị thu thập
các thông tin sau: (1) thông tin dự toán/kế hoạch đã được phê duyệt; (2) thông tin
101
thực hiện thu thập thông qua hệ thống sổ sách của KTTC.
Bước 2, xử lý và phân tích thông tin. Bộ phận Kinh tế - Kế hoạch tại 07 đơn
vị tiến hành tính toán chênh lệch theo số tuyệt đối và số tương đối với từng chỉ tiêu
kế hoạch được giao, tìm hiểu nguyên nhân tạo ra chênh lệch.
Bước 3, cung cấp thông tin. Bộ phận Kinh tế - Kế hoạch tại 07 đơn vị cung
cấp báo cáo phân tích chênh lệch cho 02 đối tượng: (1) nhà quản trị cơ sở tại đơn vị
(Giám đốc các chi nhánh và Người đại diện phần vốn của PV-Power tại các công ty
con) và (2) Ban Kinh tế - Kế hoạch của Tổng Công ty để tổng hợp lập các báo cáo
phân tích chênh lệch cung cấp cho nhà quản trị của cơ quan Tổng Công ty (Hội đồng
thành viên và Ban Tổng Giám đốc Tổng Công ty).
Sơ đồ sau mô tả quy trình lập báo cáo phân tích chênh lệch ngắn và trung hạn
tại các đơn vị thuộc PV-Power.
Sơ đồ 2.6 – Sơ đồ quy trình lập báo cáo phân tích chênh lệch ngắn và trung
Dự toán/kế hoạch kỳ này
Thực hiện kỳ này
hạn tại các đơn vị thuộc PV-Power
Thu thập thông tin
Xử lý và phân tích thông tin cấp cơ sở
Bộ phận Kinh tế - Kế hoạch tại 07 đơn vị
Báo cáo nhà quản trị cơ sở
Cung cấp thông tin
Cho cấp cơ sở
GĐ chi nhánh và Người đại diện phần vốn
Ban Kinh tế - Kế hoạch cơ quan Tổng Công ty
Cung cấp thông tin
Báo cáo nhà quản trị cấp trên
Cho cấp chiến lược
Hội đồng thành viên và Ban TGĐ TCT
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
2.3.3.2 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng kiểm soát chiến lược
Hiện nay, PV-Power đang trong giai đoạn tái cơ cấu doanh nghiệp nhằm nâng
cao hiệu quả, sức cạnh tranh và phát triển bền vững (Quyết định 2174/QĐ-DKVN
102
ngày 09/10/2013 của Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam) [23]. Để đạt
được mục tiêu này của công cuộc tái cơ cấu PV-Power, đòi hỏi KTQT như là một bộ
phận cấu thành của cơ cấu quản lý doanh nghiệp cũng phải đổi mới theo hướng cung
cấp được các thông tin cho nhà quản trị chiến lược, trong đó phải tập trung vào việc
cung cấp thông tin để nhà quản trị thực hiện chức năng kiểm soát chiến lược. Trên
thực tế tìm hiểu tại PV-Power và 07 đơn vị trực thuộc, tác giả có những tổng hợp về
thực trạng nội dung KTQT phục vụ kiểm soát chiến lược tại PV-Power và 07 đơn vị
trực thuộc như sau:
Thực trạng phân tích chênh lệch dài hạn
Mặc dù không thực hiện chức năng đầu tư xây dựng dự án nhưng với vai trò
là đơn vị quản lý, vận hành các dự án điện của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, PV-
Power vẫn cần phải thực hiện chức năng giám sát chiến lược dài hạn để có thể cung
cấp thông tin cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trong việc quản lý chiến lược các dự
án điện. Tuy nhiên, trên thực tế, nhà quản trị các cấp tại PV-Power mới chỉ tập trung
chủ yếu vào quản trị tác nghiệp trong ngắn và trung hạn chứ chưa quan tâm tới quản
trị chiến lược dài hạn nên nội dung KTQT liên quan đến phân tích chênh lệch cũng
chỉ tập trung vào ngắn và trung hạn mà chưa có những báo cáo phân tích chênh lệch
dài hạn theo vòng đời của dự án hay theo các FS đã được phê duyệt. Kết quả khảo
sát chỉ ra rằng cả 05 nhà quản trị chiến lược (các thành viên Hội đồng thành viên của
PV-Power) đều không được KTQT cung cấp thông tin về tình hình vận hành các dự
án điện (bao gồm sản lượng, doanh thu và chi phí) trong mối tương quan so sánh với
phương án SXKD gốc đã được phê duyệt trong các báo cáo nghiên cứu tiền khả thi
và khả thi trước đây.
Thực trạng quản trị chi phí theo kiểu Kaizen (Kaizen Costing)
Trong kế hoạch tái cơ cấu PV-Power được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam phê
duyệt có nội dung “đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và thực hiện
các giải pháp tăng năng suất lao động, giảm chi phí trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh”. Theo đó, vấn đề về việc không ngừng tìm kiếm biện pháp làm giảm chi phí
trong quá trình sản xuất cũng đã được PV-Power và các đơn vị trực thuộc xem xét
tới. Tuy nhiên, vẫn chưa hình thành được một chiến lược tổng thể để thực hiện được
mục tiêu này. Thực tế theo quan sát của tác giả, PV-Power và các đơn vị trực thuộc
chưa hiểu hết được khái niệm quản trị chi phí theo kiểu Kaizen cũng như hệ thống
103
quản trị kiểu Kaizen. Các đơn vị đã thực hiện được một nội dung trong hệ thống quản
trị kiểu Kaizen, đó là: “Duy trì năng lực sản xuất tổng thể (TPM – Total Productive
Maintainance)” thông qua các kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ thường xuyên
(tiểu tu, trung tu) hay các kế hoạch sửa chữa lớn TSCĐ (đại tu). Ngoài các kế hoạch
sửa chữa, bảo dưỡng kể trên, cả 05 thành viên hội đồng thành viên của PV-Power
đều trả lời khi được khảo sát rằng KTQT của PV-Power không cung cấp cho họ báo
cáo đề xuất các phương án tiết giảm chi phí SXKD và quản lý một cách thường
xuyên.
2.3.4 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả
Hiện nay, cả 07 đơn vị thuộc PV-Power đều thực hiện việc đánh giá hiệu quả
định kỳ. Tuy nhiên, việc đánh giá hiệu quả cũng mới chỉ dừng lại ở đánh giá hiệu quả
trong ngắn và trung hạn thông qua việc đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch và
đánh giá hiệu quả hoạt động của từng trung tâm lợi nhuận chứ chưa chú trọng đến
đánh giá hiệu quả tài chính trong cả ngắn, trung và dài hạn. Cụ thể nội dung KTQT
gắn với chức năng đánh giá hiệu quả tại 07 đơn vị thuộc PV-Power như sau:
2.3.4.1 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả tác nghiệp
Thực trạng đánh giá hiệu quả tài chính ngắn và trung hạn
Theo kết quả khảo sát, cả 07 đơn vị thuộc PV-Power đều chưa thực hiện đánh
giá hiệu quả tài chính ngắn và trung hạn. Cụ thể, KTQT của cả 07 đơn vị đều không
tính toán, đánh giá và phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính cơ bản như: nhóm chỉ tiêu
liên quan đến khả năng sinh lời, nhóm chỉ tiêu liên quan đến khả năng thanh toán
v.v…
Thực trạng kế toán trách nhiệm
Hiện nay, tại PV-Power và các đơn vị trực thuộc chưa hình thành rõ khái niệm
về các trung tâm trách nhiệm. Vì vậy, khi KTQT tại PV-Power và các đơn vị thực
hiện đánh giá hiệu quả của từng đơn vị thì vô hình chung người làm KTQT đang thực
hiện một phần của nội dung kế toán trách nhiệm nhưng lại không biết mình đang làm
kế toán trách nhiệm. Theo quan sát của tác giả, PV-Power có thể áp dụng kế toán
trách nhiệm với các trung tâm như: trung tâm chi phí, trung tâm lợi nhuận, trung tâm
đầu tư. Riêng với trung tâm doanh thu thì PV-Power không có bộ phận nào tương
ứng phù hợp với đặc điểm của loại trung tâm này. Với ba loại trung tâm có thể áp
104
dụng kế toán trách nhiệm nhưng trên thực tế, PV-Power mới chỉ áp dụng kế toán
trách nhiệm với các trung tâm lợi nhuận. Cụ thể, PV-Power đang coi 07 đơn vị vận
hành các nhà máy điện là 07 trung tâm lợi nhuận và tiến hành đánh giá hiệu quả của
từng trung tâm bằng việc đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu doanh thu, chi phí,
lãi gộp, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế (như trình bày trong phần phân tích
chênh lệch tác nghiệp ở trên)… Ngoài các nội dung này, trong báo cáo kế toán trách
nhiệm của từng đơn vị còn đánh giá về (1) bối cảnh chung (những thuận lợi, khó
khăn) trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, (2) tình hình thực hiện các nhiệm vụ
khác như: thực hiện định mức kinh tế kỹ thuật, thực hiện quản lý kỹ thuật vận hành,
thực hiện công tác an toàn, môi trường, phòng cháy chữa cháy, bảo hiểm lao động,
thực hiện các hợp đồng kinh tế, tổ chức lao động, tiền lương và đào tạo…). Trên cơ
sở đó, từng đơn vị đưa ra các mục tiêu kế hoạch cho kỳ tiếp theo. Định kỳ hàng tháng,
các trung tâm lợi nhuận đánh giá hiệu quả hoạt động từng trung tâm thông qua đánh
giá việc thực hiện một số chỉ tiêu kế hoạch tài chính cơ bản như doanh thu, chi phí,
lãi gộp, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế. Mỗi 06 tháng và hàng năm, trung
tâm lợi nhuận đánh giá hiệu quả hoạt động thông qua các chỉ tiêu phi tài chính khác
như: quản lý kỹ thuật vận hành, thực hiện công tác an toàn, môi trường, phòng cháy
chữa cháy… (Phụ lục 16).
Để đánh giá hiệu quả hoạt động của các trung tâm lợi nhuận này, KTQT của
PV-Power thực hiện các bước công việc sau:
Bước 1, thu thập thông tin. Bộ phận Tổ chức nhân sự của 07 đơn vị thu thập
thông tin như sau: (1) thông tin phân tích chênh lệch trong ngắn và trung hạn từ
Ban/bộ phận Kinh tế - Kế hoạch (đã được thực hiện tại khâu phục vụ kiểm soát tác
nghiệp ở trên); (2) Quy định đánh giá xếp loại tập thể và cán bộ công nhân viên thuộc
chi nhánh Tổng Công ty (đối với 03 chi nhánh); (3) Quy định đánh giá hoàn thành
nhiệm vụ kế hoạch SXKD hàng năm (đối với 04 công ty con).
Bước 2, xử lý và phân tích thông tin. Bộ phận Tổ chức nhân sự của các đơn vị
đánh giá hiệu quả hoạt động của từng trung tâm lợi nhuận bằng cách: so sánh, đối
chiếu việc thực hiện kế hoạch với các tiêu chí đánh giá trong quy định đánh giá. Bộ
phận Tổ chức nhân sự tại các đơn vị lập các báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch và
đề nghị xếp loại A, B, C đối với tập thể đơn vị (Phụ lục 16).
Bước 3, cung cấp thông tin. Bộ phận Tổ chức nhân sự tại 07 đơn vị trình báo
105
cáo cho giám đốc chi nhánh và người đại diện phần vốn tại các công ty con để phê
duyệt/thông qua. Sau đó Bộ phận Tổ chức nhân sự gửi báo cáo đã được thông qua
cho Ban Tổ chức nhân sự của Tổng Công ty để tổng hợp và lập báo cáo kế toán trách
nhiệm của cả PV-Power, trình Tổng Giám đốc và Hội đồng thành viên Tổng Công
ty. Trên cơ sở kết quả tổng hợp của Ban Tổ chức nhân sự của PV-Power, Hội đồng
thành viên Tổng Công ty báo cáo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Phụ lục 17).
Sơ đồ sau mô tả quy trình đánh giá hiệu quả các trung tâm lợi nhuận của PV-
Power.
Sơ đồ 2.7 – Sơ đồ quy trình đánh giá hiệu quả các trung tâm lợi nhuận của
Số liệu phân tích chênh lệch tại 07 đơn vị
Quy định đánh giá
PV-Power
Thu thập thông tin tại 07 đơn vị
Xử lý và phân tích thông tin
Bộ phận tổ chức nhân sự tại 07 đơn vị
tại 07 đơn vị
Gửi nhà quản trị cơ sở
Cung cấp thông tin
cho cấp cơ sở
GĐ chi nhánh và Người đại diện phần vốn
Số liệu phân tích chênh lệch của cả PV-Power thu thập từ Ban Kinh tế - Kế hoạch
Thu thập, xử lý, phân tích thông tin tại Tổng Công ty
Quy định đánh giá
Ban Tổ chức nhân sự tại Tổng Công ty
Báo cáo nhà quản trị cấp cao
Cung cấp thông tin
Cho cấp chiến lược
Hội đồng thành viên và Ban TGĐ TCT
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
2.3.4.2 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả chiến lược
Như đã trình bày trong phần thực trạng phân tích chênh lệch dài hạn ở trên,
nhà quản trị tại PV-Power chưa quan tâm đến việc thực hiện các chức năng quản lý
mang tính chiến lược. Vì vậy, các nội dung KTQT phục vụ đánh giá hiệu quả chiến
lược như (1) đánh giá hiệu quả tài chính dài hạn hay (2) đánh giá điểm chuẩn
106
(benchmarking) hay (3) phân tích giá trị kinh tế hoặc giá trị cổ đông (Shareholder or
Economic Value Analysis (EVA/SVA)) đều chưa được thực hiện tại PV-Power và
các đơn vị trực thuộc. Cả 05 thành viên Hội đồng thành viên của PV-Power đều trả
lời rằng KTQT không cung cấp cho họ các báo cáo quản trị để đánh giá hiệu quả dài
hạn của các dự án nhà máy điện.
2.3.5 Thực trạng KTQT phục vụ chức năng ra quyết định
Hiện nay, KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power chưa cung cấp được các
thông tin để nhà quản trị các cấp đưa ra quyết định phù hợp, bao gồm cả các quyết
định tác nghiệp như quyết định lựa chọn phương án SXKD điện tối ưu cho một nhà
máy nhiệt điện hay các quyết định chiến lược như quyết định tiếp tục SXKD hay
không, quyết định cải tổ một phần hay toàn bộ quy trình SXKD, quyết định tiếp tục
nắm giữ hay thoái vốn đầu tư v.v… 63 nhà quản trị các cấp bao gồm 05 nhà quản trị
chiến lược và 58 nhà quản trị tác nghiệp đều trả lời rằng thông tin KTQT cung cấp
hiện nay không đáp ứng được nhu cầu ra quyết định của họ.
2.4 Đánh giá thực trạng KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power
2.4.1 Những kết quả đạt được
Sau 10 năm hình thành và phát triển, PV-Power đã đạt được những thành tựu
to lớn và hoàn thành nhiều nhiệm vụ chính trị do các cơ quan quản lý nhà nước giao.
Trong đó đặc biệt phải kể tới nhiệm vụ tham gia đảm bảo an ninh năng lượng quốc
gia, cung cấp điện năng phục vụ phát triển kinh tế, xã hội trên nhiều vùng miền của
đất nước. KTQT có những đóng góp không nhỏ trong những thành tựu mà PV-Power
đã đạt được, cụ thể là KTQT đã giúp nhà quản trị các cấp của PV-Power thực hiện
được một số chức năng quản lý tác nghiệp như: chức năng hoạch định tác nghiệp,
kiểm soát tác nghiệp và đo lường hiệu quả tác nghiệp. Chi tiết như sau:
Thứ nhất, về kết quả của nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định
(i) Về nhận diện và phân loại chi phí
Việc nhận diện và phân loại chi phí đã được thực hiện, đáp ứng được yêu cầu
của việc lập BCTC (phân loại chi phí theo mối quan hệ với các khoản mục trên
BCTC) và lập các dự toán/kế hoạch (phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ
hoạt động).
107
(ii) Về tập hợp chi phí và tính giá thành
Do những đặc thù của quy trình SXKD và đặc thù sản phẩm của ngành điện
mà việc tập hợp chi phí và tính giá thành của các đơn vị SXKD điện tương đối đơn
giản. Các đơn vị thuộc PV-Power chủ yếu sử dụng phương pháp tập hợp trực tiếp để
tập hợp chi phí SXKD, trên cơ sở đó áp dụng phương pháp tính giá thành giản đơn
để tính giá thành sản phẩm điện là phù hợp với lý thuyết và thực tiễn tại các đơn vị.
(iii) Về các loại định mức
PV-Power nói chung và các đơn vị thuộc PV-Power đã xây dựng được hệ
thống định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí quản lý khá đầy đủ, đảm bảo cho
công tác lập dự toán/kế hoạch tác nghiệp trong ngắn và trung hạn được thực hiện.
Thông qua đó, nhà quản trị có thể kiểm soát được phần nào chi phí của quá trình
SXKD, bước đầu thực hiện được mục tiêu tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả SXKD
và sức cạnh tranh cho PV-Power.
(iv) Về các loại dự toán/kế hoạch
PV-Power đã xây dựng được hệ thống dự toán/kế hoạch trong ngắn và trung
hạn tương đối đầy đủ, bao gồm một số loại dự toán chi tiết như dự toán sản lượng,
dự toán chi phí, dự toán doanh thu và dự toán tổng hợp như dự toán kết quả hoạt động
kinh doanh, dự toán một số chỉ tiêu trên BCTC. Các loại dự toán được lập cho các
kỳ tháng, quý, năm. Tùy vào từng kỳ lập dự toán mà loại dự toán chi tiết hay dự toán
tổng hợp được lập. Các loại dự toán/kế hoạch trong ngắn và trung hạn này giúp nhà
quản trị các cấp của PV-Power luôn bám sát được các mục tiêu của tổ chức. Ngoài
ra, các loại dự toán cũng làm căn cứ để nhà quản trị các cấp của PV-Power kiểm soát
được việc tổ chức thực hiện các kế hoạch do cấp mình quản lý, chịu trách nhiệm. Các
loại dự toán cũng làm căn cứ để nhà quản trị cấp chiến lược của PV-Power có thể
đánh giá được hiệu quả hoạt động của nhà quản trị cấp tác nghiệp bên dưới.
Thứ hai, về kết quả của nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát
Để giúp nhà quản trị các cấp của PV-Power thực hiện được chức năng kiểm
soát tác nghiệp trong ngắn và trung hạn của mình, KTQT đã cung cấp được các báo
cáo phân tích chênh lệch theo tháng, quý và năm. Các báo cáo phân tích chênh lệch
đã phần nào đánh giá được tình hình tổ chức thực hiện và kiểm soát thực hiện các kế
hoạch của PV-Power nói chung và từng đơn vị nói riêng. Nội dung này của KTQT
108
giúp nhà quản trị các cấp của PV-Power liên tục bám sát được việc tổ chức thực hiện
các kế hoạch, phát hiện ra những nguyên nhân ảnh hưởng tới chênh lệch giữa thực tế
với kế hoạch để từ đó có những quyết định điều hành kịp thời.
Thứ ba, về kết quả của nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu
quả
Mặc dù chưa thực hiện nội dung đánh giá hiệu quả tài chính một cách thường
xuyên, liên tục cho các đơn vị thuộc PV-Power nhưng KTQT đã thực hiện đánh giá
hiệu quả hoạt động của các đơn vị thông qua các báo cáo kế toán trách nhiệm. Theo
đó, KTQT coi mỗi đơn vị thuộc PV-Power là một trung tâm lợi nhuận và tổ chức
đánh giá hiệu quả hoạt động của từng trung tâm này định kỳ theo tháng và năm. Trên
cơ sở các báo cáo đánh giá hiệu quả hoạt động của KTQT mà nhà quản trị cấp chiến
lược của PV-Power có thể đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng đơn vị
trực thuộc và cá nhân nhà quản trị cấp tác nghiệp. Trên cơ sở đó có thể đưa ra những
quyết định khen thưởng, kỷ luật kịp thời.
2.4.2 Những hạn chế và nguyên nhân
Nhìn chung, PV-Power nói chung và bộ máy quản trị, điều hành PV-Power
cũng như hệ thống KTQT của PV-Power nói riêng đã đạt được những kết quả nhất
định, đáng ghi nhận. Tuy nhiên, những kết quả đạt được này chưa tương xứng với
tiềm năng của một trong những tổ chức SXKD điện lớn nhất cả nước. Qua nghiên
cứu thực trạng KTQT tại PV-Power, tác giả cho rằng năng lực quản trị doanh nghiệp,
trong đó KTQT với vai trò là công cụ hỗ trợ quản trị doanh nghiệp chưa phát huy
được hết vai trò, giá trị của mình. Những mặt chưa đạt được của PV-Power nói chung
và của bộ máy quản trị, điều hành nói riêng xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó
có các nguyên nhân đến từ những hạn chế của KTQT được chỉ ra sau đây.
2.4.2.1 Những hạn chế
Thứ nhất, hạn chế của nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định
Mặc dù đã thực hiện các nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định tác
nghiệp như xây dựng định mức chi phí hay lập dự toán/kế hoạch. Tuy nhiên, các nội
dung này tại 07 đơn vị thuộc PV-Power vẫn còn tồn tại những hạn chế. Cụ thể như
sau:
109
(1) Hạn chế trong nhận diện, phân loại chi phí
Các đơn vị thuộc PV-Power mới chủ yếu nhận diện chi phí theo các khoản
mục để phục vụ lập BCTC. Việc phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt
động chỉ mang tính hình thức, chưa thực sự được sử dụng để lập các báo cáo có giá
trị cung cấp cho nhà quản trị ra quyết định. Cụ thể, phân loại chi phí theo mức độ
hoạt động thành biến phí và định phí có chức năng chủ yếu là để xây dựng các phương
án SXKD để nhà quản trị ra quyết định nhưng các đơn vị thuộc PV-Power mới chỉ
sử dụng tiêu thức phân loại này để lập các loại dự toán, kế hoạch.
Ngoài ra, một số tiêu thức phân loại chi phí khác được sử dụng trong việc so
sánh, lựa chọn các phương án SXKD chưa được 07 đơn vị thuộc PV-Power áp dụng.
(2) Hạn chế trong xây dựng định mức chi phí
Mặc dù đã ban hành nhiều loại định mức kinh tế, kỹ thuật và định mức chi phí
quản lý nhưng các đơn vị vận hành nhà máy nhiệt điện chưa xây dựng và ban hành
định mức chi phí sản xuất cho từng nhà máy, đặc biệt là định mức nhiên liệu sản xuất
(ví dụ như định mức về khối lượng nhiên liệu (khí, dầu, than) được sử dụng để sản
xuất 1kWh hoặc 1kVA hoặc/và định mức tối đa về đơn giá nhiên liệu được phép mua
trong 1 kỳ nhất định). Trong khi đó, nhiên liệu là chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong cơ
cấu chi phí sản xuất của nhà máy nhiệt điện. Nếu không kiểm soát định mức chi phí
nhiên liệu sẽ dẫn tới tình trạng việc kiểm soát chi phí không đạt được hiệu quả tối đa.
Ngoài ra, về mặt lý thuyết, trong các đơn vị vận hành nhà máy nhiệt điện của PV-
Power, bộ phận mua nhiên liệu và bộ phận sản xuất có thể được xem như là những
trung tâm chi phí riêng biệt. Do đó, nếu các đơn vị này không xây dựng định mức về
khối lượng tiêu thụ và định mức giá mua nhiên liệu trong từng thời kỳ thì KTQT sẽ
không thể áp dụng kế toán trách nhiệm đối với từng trung tâm chi phí. Dẫn tới, nhà
quản trị cấp cao tại PV-Power cũng không có thông tin để đánh giá hiệu quả của từng
trung tâm chi phí là bộ phận mua nhiên liệu và bộ phận sản xuất.
Ngoài những vấn đề chung liên quan tới định mức chi phí nêu trên, hiện nay,
nhà máy nhiệt điện Vũng Áng do đơn vị là chi nhánh Hà Tĩnh của PV-Power vận
hành đang có hệ thống máy móc, thiết bị không đồng bộ (máy chính của Toshiba,
một số máy khác nhập của Trung Quốc). Điều này dẫn tới thông số kỹ thuật do nhà
sản xuất cung cấp sẽ không thống nhất gây khó khăn cho PV-Power trong việc xây
dựng định mức kinh tế - kỹ thuật dựa trên những thông số kỹ thuật do nhà sản xuất
110
cung cấp. Vì vậy, PV-Power cần phải thuê chuyên gia tư vấn xây dựng định mức
kinh tế - kỹ thuật có kinh nghiệm để hỗ trợ bộ phận Kinh tế - Kỹ thuật của PV-Power
xây dựng định mức cho nhà máy nhiệt điện Vũng Áng.
(3) Hạn chế trong lập dự toán/kế hoạch ngắn và trung hạn
Vì thiếu định mức chi phí sản xuất dẫn tới chất lượng và độ tin cậy của các dự
toán/kế hoạch ngắn và trung hạn không cao, đặc biệt là các dự toán sản xuất. Ngoài
ra, các loại dự toán/kế hoạch ngắn và trung hạn chưa đa dạng về chủng loại, chủ yếu
là các dự toán hoạt động kinh doanh năm trình bày về các kế hoạch doanh thu, chi
phí tổng hợp của đơn vị. Các đơn vị còn thiếu một số dự toán sản xuất chi tiết, đặc
biệt là dự toán (quản trị) các yếu tố đầu vào đối với các đơn vị vận hành nhà máy
nhiệt điện (chi phí đầu vào lớn).
Ngoài việc chưa đa dạng về chủng loại dự toán, hiện nay, các kỹ thuật lập dự
toán tại 07 đơn vị thuộc PV-Power cũng không được vận dụng một cách linh hoạt.
Các đơn vị đang chủ yếu áp dụng kỹ thuật lập dự toán gia tăng (lấy số thực hiện năm
trước cộng thêm phần trăm tăng trưởng do đơn vị cấp trên/công ty mẹ giao nhiệm
vụ). Việc lập dự toán như vậy hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà quản
trị đơn vị cấp trên/công ty mẹ mà có thể bỏ qua những dự báo của các yếu tố khách
quan có thể ảnh hưởng tới dự toán, kế hoạch trong tương lai (ví dụ như ảnh hưởng
của yếu tố thời tiết tới khả năng SXKD của nhà máy thủy điện hoặc ảnh hưởng của
biến động giá nhiên liệu đầu vào tới hiệu quả của nhà máy nhiệt điện).
Thứ hai, hạn chế của nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát
(4) Hạn chế trong phân tích chênh lệch ngắn và trung hạn
Các đơn vị đã lập các báo cáo phân tích chênh lệch tác nghiệp giữa kỳ thực tế
với kỳ dự toán/kế hoạch gốc phù hợp với các kỳ lập kế hoạch theo tháng, quý và năm.
Tuy nhiên, các báo cáo phân tích này mới chỉ ra mức độ biến động theo số tuyệt đối
và số tương đối của các chỉ tiêu giữa kỳ thực hiện với kỳ dự toán/kế hoạch gốc chứ
chưa phân tích được sự ảnh hưởng từ việc thay đổi của yếu tố sản lượng và yếu tố
đơn giá tới các biến động này. Điều này khiến cho nhà quản trị rất khó để đưa ra
những điều chỉnh cho kỳ dự toán tiếp theo cũng như đưa ra các quyết định điều hành
sản xuất khác.
(5) Hạn chế trong phân tích chênh lệch chiến lược dài hạn
KTQT tại 07 đơn vị thuộc PV-Power chưa thực hiện phân tích chênh lệch
111
chiến lược dài hạn giữa số thực hiện lũy kế hàng năm với số liệu để đánh giá tính khả
thi trên các FS. Hạn chế này khiến cho nhà quản trị chiến lược của PV-Power thiếu
những thông tin để kiểm soát tình hình thực hiện từng dự án nhà máy điện, không thể
phát hiện ra những chênh lệch giữa thực hiện với kế hoạch trong dự án. Từ đó, nhà
quản trị chiến lược của PV-Power không thể đưa ra các quyết định chiến lược với dự
án.
(6) Hạn chế trong xây dựng kế hoạch tổng thể để tiết giảm chi phí
Việc không ngừng tìm cách tiết giảm chi phí tại các đơn vị thuộc PV-Power
đang được thực hiện một cách rời rạc, thiếu hệ thống và chưa có một kế hoạch tổng
thể. Những hoạt động nhằm tiết giảm chi phí đôi khi còn bị chồng chéo, trùng lắp,
khiến cho việc tiết giảm chi phí không những không đạt được mục tiêu mà còn có
thể gây thêm nhiều lãng phí khác trong việc sử dụng các nguồn lực.
Thứ ba, hạn chế của nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu
quả
(7) Hạn chế trong đánh giá hiệu quả tài chính ngắn và trung hạn
Các đơn vị thuộc PV-Power chưa đánh giá hiệu quả tài chính ngắn và trung
hạn thông qua các chỉ tiêu tài chính cơ bản.
(8) Hạn chế trong áp dụng kế toán trách nhiệm
Bên cạnh đó, mặc dù cơ quan Tổng Công ty đã áp dụng kế toán trách nhiệm
trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động theo từng năm đối với từng đơn vị vận hành
nhà máy điện (mỗi đơn vị là một trung tâm lợi nhuận), tuy nhiên, bản thân các đơn
vị vận hành nhà máy điện (đặc biệt là nhiệt điện) chưa đánh giá hiệu quả của từng
trung tâm chi phí do mình quản lý. Điều này dẫn tới việc kiểm soát chi phí của nhà
quản trị chưa đạt được kết quả như kỳ vọng.
(9) Hạn chế trong đánh giá hiệu quả tài chính dài hạn
KTQT của các đơn vị chưa thường xuyên đánh giá lại hiệu quả tài chính dài
hạn tính theo cả vòng đời của dự án. Hạn chế này khiến cho nhà quản trị chiến lược
của PV-Power không có thông tin để đưa ra những quyết định chiến lược liên quan
đến cả dự án nhà máy điện.
(10) Hạn chế trong so sánh hiệu quả hoạt động giữa các đơn vị để tìm ra
112
các vùng trọng tâm cần cải thiện (benchmarking)
Các đơn vị chưa so sánh hiệu quả hoạt động của nhà máy do đơn vị mình vận
hành với các đơn vị khác trong Tổng Công ty. Ngoài ra, PV-Power với tư cách là
đơn vị cấp trên và công ty mẹ cũng mới chỉ lập các báo cáo tổng hợp hiệu quả hoạt
động của các nhà máy điện hàng năm chứ chưa tập trung đi sâu vào phân tích, so
sánh hiệu quả của các nhà máy có cùng đặc điểm với nhau. Để từ đó có thể xác định
được các vùng trọng tâm cần cải thiện, nâng cao.
(11) Hạn chế trong phân tích giá trị kinh tế, giá trị cổ đông (SVA/EVA).
Như đã chỉ ra hạn chế trong phần cung cấp thông tin phục vụ ra quyết định dài
hạn ở trên, việc các đơn vị không kiểm soát và đo lường hiệu quả trong dài hạn (ở
đây không chỉ là những đo lường về tài chính mà đo lường cả về kinh tế, giá trị cổ
đông) sẽ khiến cho nhà quản trị không thể có được cái nhìn tổng thể về hiệu quả của
nhà máy điện trong cả vòng đời của dự án. Điều này dẫn tới việc nhà quản trị cấp
chiến lược của PV-Power không có thông tin để đưa ra các quyết định dài hạn, chiến
lược như tiếp tục vận hành hay bán nhà máy hoặc tiếp tục nắm giữ vốn đầu tư hay
thoái vốn đầu tư?
Thứ tư, hạn chế của nội dung KTQT phục vụ chức năng ra quyết định
(12) Hạn chế trong ra quyết định tác nghiệp
Các đơn vị chưa lập được các báo cáo về các phương án, kịch bản kinh doanh
để nhà quản trị đưa ra các quyết định tác nghiệp phù hợp, kịp thời.
(13) Hạn chế trong ra quyết định chiến lược
KTQT tại PV-Power chưa cung cấp được thông tin để nhà quản trị chiến lược
có thể đưa ra các quyết định mang tính chiến lược như: (1) tiếp tục vận hành hay bán
nhà máy điện; (2) cần cải tiến, cải tổ ở đâu để có thể nâng cao sức cạnh tranh; (3) tiếp
tục nắm giữ vốn hay thoái vốn đầu tư tại các đơn vị.
2.4.2.2 Những nguyên nhân của hạn chế
Nguyên nhân bên ngoài PV-Power
Về phía các cơ quan quản lý nhà nước
Thứ nhất, về phía Chính phủ và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Với vai trò là cơ
quan quản lý nhà nước có trách nhiệm quản lý vốn đầu tư, quản lý người đại diện
phần vốn của nhà nước tại các đơn vị được đầu tư vốn nhà nước, Chính phủ và Tập
113
đoàn Dầu khí Việt Nam chưa quan tâm nhiều tới năng lực và chất lượng quản trị
doanh nghiệp, dẫn tới tình trạng bộ máy quản trị của các DNNN buông lỏng quản lý,
xem nhẹ vai trò tham mưu, cố vấn của các bộ phận giúp việc trong đó có KTQT.
Điều này khiến cho hiệu quả đầu tư vốn của nhà nước tại các DNNN không cao, sức
cạnh tranh của nhiều DNNN yếu, trong đó có PV-Power và các đơn vị thành viên.
Thứ hai, về phía Bộ Công thương và EVN. Việc triển khai đề án quy hoạch
phát triển thị trường điện của Việt Nam còn chưa quyết liệt, chưa khuyến khích vốn
đầu tư của tư nhân tham gia vào lĩnh vực điện, vẫn còn cơ chế bao tiêu sản phẩm, bảo
hộ sản xuất điện của nhà nước. Điều này dẫn tới tâm lý chủ quan đối với các DNNN
sản xuất và kinh doanh điện trong đó có PV-Power.
Thứ ba, về phía Bộ Tài chính. Bộ Tài chính chưa ban hành văn bản pháp lý về
KTQT có đầy đủ về mặt nội dung cũng như có tính chất bắt buộc để các doanh nghiệp
áp dụng (đặc biệt quan trọng đối với các DNNN). Bộ Tài chính chưa khuyến khích
phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ kế toán, trong đó có dịch vụ KTQT để các
doanh nghiệp có thể lựa chọn dịch vụ trong trường hợp nhân sự làm kế toán của
doanh nghiệp chưa đáp ứng được…
Về phía hiệp hội nghề và các cơ sở đào tạo KTQT
Thứ nhất, về phía hiệp hội nghề. Chưa có tổ chức nghề nghiệp cho các KTQT
viên công chứng (CMA) để có thể kết nối, quản lý và tạo cơ hội phát triển nghề
nghiệp cho các thành viên tham gia.
Thứ hai, về phía các cơ sở đào tạo KTQT. Chất lượng đào tạo KTQT tại các
cơ sở đào tạo chưa cao, chưa gắn với thực tiễn. Nguồn nhân lực được đào tạo về
KTQT chưa đáp ứng được các yêu cầu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Nguyên nhân bên trong PV-Power
Thứ nhất, về nhu cầu thông tin KTQT. Các nhà quản trị cấp cao của PV-Power
và các đơn vị thành viên chưa nhận thức được đúng đắn và sâu sắc mức độ cạnh tranh
của nền kinh tế và của thị trường điện trong thời gian tới. Do đó, các nhà quản trị cấp
cao của PV-Power vẫn chưa thấy được sự cần thiết và vai trò của thông tin KTQT.
Thứ hai, về “văn hóa” quản lý DNNN. DNNN từ lâu được biết đến là các đơn
vị “ngại đổi mới”, “chậm cải tiến” bởi tâm lý DNNN là tài sản chung nên các cá nhân
quản lý thường không có ý thức phải luôn tìm cách cải tiến quy trình, kỹ thuật sản
xuất. Từ đó dẫn tới việc buông lỏng quản lý, gây thất thoát, lãng phí, giảm hiệu quả,
114
giảm sức cạnh tranh cho DNNN.
Thứ ba, về người làm KTQT. Nhân sự làm KTQT tại PV-Power đang thiếu cả
về số lượng và chất lượng. Người làm KTQT có thể hiểu và áp dụng các kỹ thuật
KTQT hiện đại tại PV-Power không nhiều. Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ với những
nhân sự cao cấp như người làm KTQT phục vụ mục đích quản trị chiến lược là chưa
rõ ràng dẫn tới tâm lý không muốn cống hiến cho công ty.
Thứ tư, về ứng dụng công nghệ thông tin trong KTQT. PV-Power chưa đầu tư
nhiều cho ứng dụng công nghệ thông tin để phân tích và xử lý kịp thời các thông tin
115
KTQT.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương này, luận án tìm hiểu tổng quan về PV-Power cũng như các đặc điểm
bên trong và bên ngoài của PV-Power để xác định mức độ ảnh hưởng của chúng tới
thực trạng nội dung KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power. Chương này của luận án
cũng đã mô tả được thực trạng nội dung KTQT trong mối quan hệ với các chức năng
quản lý của nhà quản trị tại các đơn vị SXKD điện thuộc PV-Power. Trên cơ sở đó,
đưa ra những đánh giá về các kết quả đã đạt được và những mặt còn hạn chế trong
việc áp dụng từng nội dung KTQT tại các đơn vị SXKD điện thuộc PV-Power, đồng
thời chỉ ra nguyên nhân của các hạn chế.
Kết quả nghiên cứu của chương này khi chỉ ra các hạn chế và nguyên nhân
của hạn chế trong việc áp dụng nội dung KTQT tại các đơn vị SXKD điện thuộc PV-
Power sẽ là cơ sở để luận án đưa ra những giải pháp, đề xuất và kiến nghị hoàn thiện
trong chương tiếp theo. Nhìn chung, Chương 2 của luận án đã đạt được các mục tiêu
116
ban đầu đề ra.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TẠI CÁC ĐƠN VỊ THUỘC TỔNG CÔNG TY ĐIỆN LỰC DẦU KHÍ VIỆT NAM
3.1 Triển vọng ngành điện Việt Nam và định hướng phát triển của
PV-Power
3.1.1 Triển vọng ngành điện Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế đang phát triển. Trong những năm
qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đều đạt mức cao so với các nước trong
khu vực và trên toàn thế giới, dao động từ 5% - 7%/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
thường đi kèm với tốc độ tăng trưởng của các ngành sản xuất cơ bản, trong đó có sản
xuất và kinh doanh điện. Ngành điện của Việt Nam được dự báo tăng trưởng từ 8%
- 10%/năm trong thời gian tới với tầm nhìn đến năm 2025.
So với những quốc gia có những sự tương đồng về quy mô nền kinh tế trong
khối ASEAN như: Indonesia, Philippines, Malaysia, Thailand, Singapore thì Việt
Nam được dự báo có mức tiêu thụ năng lượng điện tăng nhanh nhất từ nay cho tới
năm 2025. Theo dự báo của EVN, tốc độ tăng trưởng hàng năm kép (compounded
annual growth rate – CAGR) về mức độ tiêu thụ điện của Việt Nam giai đoạn từ 2016
– 2025 so với các quốc gia khác trong ASEAN được mô tả qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.1 – So sánh tốc độ tăng trưởng mức độ tiêu thụ điện của Việt Nam
8.00%
với một số quốc gia Đông Nam Á
7.10%
6.90%
7.00%
6.00%
5.30%
4.90%
5.00%
4.00%
3.20%
2.90%
3.00%
2.00%
1.00%
0.00%
Việt Nam
Indonesia
Philippines
Malaysia
Thailand
Singapore
(Nguồn: EVN)
Cụ thể dự báo mức tiêu thụ điện của Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2025
117
để đạt mức CAGR là 7,1% được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.2 – Dự báo mức tiêu thụ điện của Việt Nam giai đoạn 2016 – 2025
TWh
272
256.6
242.1
226.6
211.7
197.8
184.2
171.2
158.7
147
143.4
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
2024
2025
(Nguồn: EVN)
Thực tế nhu cầu điện năm 2015 của cả nước là 143,4 TWh điện với mức độ
tập trung chủ yếu ở khu vực miền Bắc và khu vực miền Nam, cụ thể là Hà Nội và
Tp. Hồ Chí Minh. Hiện nay, Tổng Công ty Điện lực miền Bắc và Tổng Công ty Điện
lực miền Nam vẫn là những đơn vị mua buôn điện lớn nhất cả nước. Biểu đồ sau thể
hiện tỷ lệ nhu cầu điện của 05 đơn vị mua buôn điện Việt Nam.
Biểu đồ 3.3 – Cơ cấu nhu cầu điện của các đơn vị mua buôn điện Việt Nam
năm 2015
NHU CẦU TIÊU THỤ ĐIỆN NĂM 2015: 143,4 TWH
EVN HCM, 14.20%
EVN NPC, 31.50%
EVN Hà Nội, 10%
EVN CPC, 9.60%
EVN SPC, 34.80%
(Nguồn: EVN)
Để đảm bảo cung ứng đủ nhu cầu điện toàn xã hội, ngành điện Việt Nam quy
hoạch và dự báo tổng công suất các nguồn phát điện sẽ tăng từ 38.553 MW trong
118
năm 2015 lên 96.500 MW trong năm 2025. Trong đó, tập trung ưu tiên phát triển các
nguồn điện than, khí và các nguồn điện sạch khác; đồng thời hạn chế sự phát triển
các nguồn điện dầu và thủy điện.
Biểu đồ 3.4 – Sự thay đổi tỷ trọng các nguồn điện Việt Nam giữa 2015 với 2025
Năm 2015, 38.553 MW Năm 2025, 96.500 MW
Khác 6%
Khác 14%
Dầu 3%
Thủy điện 21%
Dầu 0%
Thủy điện 43%
Khí 24%
Khí 16%
Than 49%
Than 24%
Thủy điện
Than
Khí
Dầu
Khác
Thủy điện
Than
Khí
Dầu
Khác
(Nguồn: EVN)
Một số mục tiêu trong quy hoạch phát triển ngành điện giai đoạn 2011 – 2020,
tầm nhìn 2030 16 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như sau [26]:
Thứ nhất, phát triển ngành điện phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Thứ hai, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước cho
phát triển điện, đa dạng hóa các nguồn năng lượng sơ cấp cho sản xuất điện.
Thứ ba, từng bước nâng cao chất lượng điện năng để cung cấp dịch vụ điện
với chất lượng ngày càng cao. Thực hiện giá bán điện theo cơ chế thị trường nhằm
khuyến khích đầu tư phát triển ngành điện.
Thứ tư, từng bước hình thành, phát triển thị trường điện cạnh tranh, đa dạng
hóa phương thức đầu tư và kinh doanh điện. Nhà nước chỉ giữ độc quyền lưới điện
truyền tải để đảm bảo an ninh hệ thống năng lượng quốc gia.
Riêng với “quy hoạch phát triển nguồn điện”, Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra
một số định hướng như sau:
Thứ nhất, phát triển nguồn điện mới đi đôi với đầu tư chiều sâu, đổi mới công
nghệ các nhà máy đang vận hành; đáp ứng tiêu chuẩn môi trường; sử dụng công
16 Quyết định số 1208/QĐ-TTg ngày 21 tháng 07 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 có xét đến năm 2030.
119
nghệ hiện đại đối với các nhà máy điện mới.
Thứ hai, đa dạng hóa các hình thức đầu tư phát triển nguồn điện nhằm tăng
cường cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Như vậy, có thể thấy rằng mặc dù cơ hội và tiềm năng của thị trường điện Việt
Nam rất lớn nhưng đi kèm theo đó là mức độ cạnh tranh sẽ ngày càng gia tăng. Các
nguồn điện mới với công suất lớn, chi phí sản xuất rẻ và thân thiện với môi trường sẽ
là những thách thức rất lớn cho PV-Power trong thời gian tới. Vì vậy, để có thể đảm
bảo nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, làm gia tăng khả năng phát triển bền vững
đòi hỏi PV-Power nói chung và hệ thống quản trị của PV-Power cần phải được cơ
cấu lại theo hướng hoàn thiện hơn, hướng tới các mục tiêu chiến lược dài hạn.
3.1.2 Định hướng phát triển của PV-Power
Đặt trong bối cảnh tái cơ cấu các DNNN cũng như để định hướng PV-Power
có thể phát triển phù hợp với quy hoạch ngành điện, PVN đã ban hành quyết định
phê duyệt phương án tái cơ cấu PV-Power. Theo đó, việc tái cơ cấu PV-Power nhằm
đạt được 02 mục tiêu sau:
Thứ nhất, xây dựng PV-Power trở thành Tổng Công ty mạnh, có năng lực
cạnh tranh ở trong nước và quốc tế, tối ưu hóa việc sử dụng mọi nguồn lực sẵn có, xã
hội hóa, thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ hai, tái cơ cấu để PV Power tiếp tục phát triển mạnh hơn, tập trung vào
lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và phát triển
bền vững, đảm bảo thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển PV-Power.
Để đạt được 02 mục tiêu trên, PVN định hướng cho PV-Power cần tập trung
vào các nội dung sau:
Thứ nhất, về tái cơ cấu lĩnh vực sản xuất kinh doanh. PV-Power phải tập
trung vào ba lĩnh vực SXKD chính, bao gồm: (1) sản xuất, kinh doanh điện năng; (2)
nhập khẩu, kinh doanh và phân phối than đảm bảo nguồn cung cấp than cho các Nhà
máy điện; (3) sửa chữa, bảo trì và bảo dưỡng các Nhà máy điện.
Thứ hai, về tái cơ cấu mô hình tổ chức quản lý. PV-Power phải kiện toàn lại
bộ máy quản lý theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả; nâng cao sức cạnh tranh. Thoái vốn,
hoặc giải thể các đơn vị hoạt động ngoài ba lĩnh vực chính được nêu trên hoặc những
120
đơn vị hoạt động không hiệu quả. Cổ phần hóa công ty mẹ và một số đơn vị mà Nhà
nước không cần nắm giữ 100% vốn. PV-Power không có công ty liên kết; không tổ
chức các công ty con theo mô hình công ty mẹ - con.
Thứ ba, về tái cấu trúc quản trị doanh nghiệp. PV-Power cần tập trung vào
các nội dung sau: (1) Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống quy chế quản lý nội
bộ; (2) sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý, điều hành; (3) hoàn thiện quy chế
về công tác cán bộ, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực; bảo đảm giải quyết chế độ,
quyền lợi đối với người lao động trong quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật; (4) tăng cường công tác kiểm soát nội bộ; (5) đẩy mạnh ứng dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ và thực hiện các giải pháp tăng năng suất lao động, giảm
chi phí trong hoạt động SXKD; (6) tăng cường trách nhiệm, quyền hạn và chỉ đạo
của PV-Power đối với người đại diện vốn của PV-Power tại doanh nghiệp khác; (7)
chỉ thực hiện đầu tư mới vào lĩnh vực kinh doanh chính, có hiệu quả; thoái vốn tại
các đơn vị không thuộc lĩnh vực kinh doanh chính; (8) kiện toàn các tổ chức Đảng,
đoàn thể.
Như vậy, PV-Power đã được định hướng tái cơ cấu một cách căn bản và toàn
diện, trong đó tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống quản trị, kiểm soát nhằm nâng
cao năng suất lao động, giảm chi phí, gia tăng khả năng cạnh tranh và phát triển bền
vững. KTQT tại PV-Power nói chung và các đơn vị thuộc PV-Power nói riêng với
tư cách là công cụ hỗ trợ nhà quản trị thực hiện các chức năng quản lý cũng cần phải
được hoàn thiện theo hướng như trên.
3.2 Yêu cầu hoàn thiện KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power
Để có thể hoàn thiện KTQT đảm bảo đáp ứng được các mục tiêu tái cơ cấu thành
công, nâng cao hiệu quả quản lý, sức cạnh tranh của PV-Power như đã chỉ ra ở trên,
việc hoàn thiện nội dung KTQT cần đáp ứng được những yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện KTQT phải đảm bảo tuân thủ các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế nói chung và với các doanh
nghiệp nhà nước nói riêng. Nền kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng đang
trong giai đoạn tái cấu trúc và tái cơ cấu. PV-Power đang là một doanh nghiệp có sở
hữu 100% vốn Nhà nước nên bắt buộc phải thực hiện tái cơ cấu theo định hướng của
Đảng và Nhà nước. Cụ thể, việc hoàn thiện KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power
121
phải đảm bảo thực hiện được các mục tiêu được PVN nêu ra trong phương án tái cơ
cấu được ban hành kèm theo quyết định 2174/QĐ-DKVN ngày 09/10/2013 và quyết
định sửa đổi, bổ sung phương án tái cơ cấu ban hành số 1735/QĐ-DKVN ban hành
ngày 01/08/2014 [23].
Thứ hai, hoàn thiện KTQT phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm và khả năng
áp dụng của đơn vị. Về mặt lý thuyết, có thể việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện
với một đơn vị là cần thiết tuy nhiên trên thực tế có thể việc thực hiện các giải pháp
có thể gặp một số vướng mắc vì lý do khả năng của đơn vị chưa thể đáp ứng được.
Vì vậy, việc hoàn thiện KTQT phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm và khả năng áp
dụng của đơn vị cũng như phải xét tới yếu tố thời điểm áp dụng các giải pháp hoàn
thiện.
Thứ ba, hoàn thiện KTQT phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm của thị
trường điện Việt Nam. Thị trường điện Việt Nam được quy hoạch phát triển qua 03
cấp độ, bao gồm: (1) Cấp độ 1 – Thị trường phát điện cạnh tranh; (2) Cấp độ 2 – Thị
trường bán buôn điện cạnh tranh; (3) Cấp độ 3 – Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh.
Với mỗi cấp độ, thị trường sẽ có những điều kiện và đặc điểm riêng đòi hỏi các chủ
thể kinh tế tham gia thị trường phải đáp ứng được các điều kiện và phù hợp với các
đặc điểm đó. Từ những điều kiện, đặc điểm của từng cấp độ đó sẽ ảnh hưởng tới tổ
chức hoạt động sản xuất, kinh doanh của từng doanh nghiệp điện, qua đó ảnh hưởng
tới yêu cầu quản trị doanh nghiệp điện và nhu cầu thông tin phục vụ cho quản trị
doanh nghiệp điện. Do đó, việc hoàn thiện KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power
phải đảm bảo tuân thủ và phù hợp với các cấp độ phát triển của thị trường điện.
Thứ tư, hoàn thiện phải đảm bảo tính kinh tế, tiết kiệm. Trường hợp kết quả
nghiên cứu của luận án được ứng dụng tại các đơn vị thuộc PV-Power thì đó cũng sẽ
là một quyết định mà nhà quản trị của PV-Power phải đưa ra. Vì vậy, các giải pháp
hoàn thiện được đưa ra phải đảm bảo tính kinh tế, tiết kiệm và phải đem lại hiệu quả
cho đơn vị.
3.3 Hoàn thiện KTQT trong mối quan hệ với các chức năng quản
lý của nhà quản trị tại các đơn vị thuộc PV-Power
Sau khi làm rõ được các vấn đề như lý luận chung về nội dung KTQT, đánh giá thực
122
trạng áp dụng nội dung KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power, yêu cầu và nguyên
tắc của việc hoàn thiện nội dung KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power, luận án đề
xuất những giải pháp hoàn thiện KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power như sau:
3.3.1 Hoàn thiện việc thực hiện các chức năng quản lý của nhà quản trị tại PV-
Power
KTQT là công cụ hỗ trợ nhà quản trị thực hiện các chức năng quản lý. Vì vậy,
trước khi đưa ra những giải pháp hoàn thiện nội dung KTQT thì bản thân hệ thống
quản trị và nhà quản trị cũng phải được kiện toàn lại. Hiện nay, PV-Power và các đơn
vị thành viên đang trong quá trình tái cơ cấu và nội dung tái cơ cấu bộ máy tổ chức
là một trong những nội dung quan trọng. Để việc tái cơ cấu bộ máy tổ chức đạt được
kết quả như mong muốn, tác giả đề xuất một số vấn đề cần phải giải quyết như sau:
Thứ nhất, về phân cấp quản lý tại PV-Power. Cần phải làm rõ trách nhiệm,
quyền hạn của từng cấp quản lý trong các văn bản như điều lệ hoạt động, quy chế tổ
chức hoạt động của Hội đồng thành viên và bộ máy giúp việc. Cụ thể, cần phải phân
cấp rõ Hội đồng thành viên và Ban Tổng giám đốc của PV-Power là những nhà quản
trị cấp chiến lược. Trưởng phó các phòng ban tại cơ quan Tổng Công ty, giám đốc
các chi nhánh, người đại diện phần vốn tại các đơn vị là nhà quản trị tác nghiệp hoặc
trung gian. Trên cơ sở phân cấp quản lý, xác định trách nhiệm, quyền hạn của từng
cấp quản lý một cách rõ ràng, PV-Power cần tiến hành xây dựng quy chế phối hợp
làm việc giữa các cấp quản lý. Theo đó, từng nhà quản trị tại từng cấp quản lý phải
triển khai các công việc gì và phối hợp với nhau ra sao để thực hiện được các chức
năng quản lý của mình. Cần lưu ý tránh sự chồng chéo trách nhiệm giữa các nhà quản
trị và các cấp quản lý.
Thứ hai, về thực hiện các chức năng quản lý của nhà quản trị. Nhà quản trị
cần phải nâng cao trách nhiệm của mình trong việc thực hiện các chức năng quản lý.
Đây là vấn đề liên quan đến yếu tố thể chế, văn hóa rất khó có thể thay đổi ngay. Tuy
nhiên, trong quá trình tái cơ cấu PV-Power có nội dung cổ phần hóa Tổng Công ty
mẹ và một số đơn vị trực thuộc. Trong tương lai, với sự tham gia góp vốn đầu tư của
các tổ chức, cá nhân ngoài Nhà nước thì cơ cấu nhân sự quản lý các cấp cũng sẽ có
sự thay đổi. Chất lượng nhà quản trị cũng như việc thực hiện các chức năng quản lý
123
cũng sẽ được nâng cao.
3.3.2 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng hoạch định
3.3.2.1 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng hoạch định tác nghiệp
Hoàn thiện nhận diện, phân loại chi phí
Phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt động. Trước mắt, các
đơn vị thuộc PV-Power cần rà soát lại toàn bộ các chi phí phát sinh trong giai đoạn
vận hành. Sau đó, tiến hành tái phân loại các chi phí đó theo tiêu thức mối quan hệ
với mức độ hoạt động. KTQT cần phải xác định rõ đâu là chi phí biến đổi, đâu là chi
phí cố định và đâu là chi phí hỗn hợp. Đặc biệt đối với các chi phí O&M như chi phí
bảo trì bảo dưỡng, chi phí lương và chi phí vận hành khác đang được các đơn vị
thuộc PV-Power xác định là chi phí cố định và tính bình quân khi lập các dự toán/kế
hoạch. Tuy nhiên, về bản chất các chi phí O&M này đều là chi phí hỗn hợp được cấu
thành bởi 02 yếu tố biến phí và định phí. Việc các đơn vị thuộc PV-Power áp dụng
chi phí O&M cố định bình quân như hiện nay sẽ khiến cho các dự toán chi phí được
lập thiếu đi sự chính xác. Vì vậy, để bóc tách được chính xác chi phí O&M nêu trên,
các đơn vị cần xây dựng hàm tuyến tính theo phương pháp cực đại – cực tiểu (High-
Low Method). Thông quua đó, ứng với mỗi mức công suất (sản lượng điện) của kỳ
kế hoạch sẽ xác định được một mức chi phí O&M chính xác hơn.
Cụ thể phương pháp cực đại – cực tiểu như sau:
+ Bước 1: Thống kê số phát sinh của chi phí O&M cố định trong nhiều kỳ
theo bảng sau:
Bảng 3.1 – Bảng tổng hợp chi phí O&M
(Lập cho từng loại chi phí: bảo trì bảo dưỡng, chi phí lương và chi phí vận hành khác)
TT Kỳ tổng hợp số liệu phát sinh Mức sản lượng Chi phí phát sinh
Tháng 1 1
Tháng 2 2
.
.
.
124
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
+ Bước 2: Lựa chọn 02 mức sản lượng điện lớn nhất và nhỏ nhất, đồng thời
xác định chi phí phát sinh tương ứng tại 02 mức đó.
+ Bước 3: Xây dựng hàm tuyến tính cho chi phí O&M như sau:
Y = a + b×X
Trong đó:
Y: là tổng chi phí tại một mức sản lượng điện.
b =
Chi phí tại mức sản lượng lớn nhất − Chi phí tại mức sản lượng nhỏ nhất Mức sản lượng lớn nhất − Mức sản lượng nhỏ nhất
b: là biến phí đơn vị, được tính bằng:
a = Chi phí tại mức sản lượng lớn nhất – b × Mức sản lượng lớn nhất
a: là định phí, được tính bằng:
a = Chi phí tại mức sản lượng nhỏ nhất – b × Mức sản lượng nhỏ nhất
hoặc
X: là mức sản lượng điện.
3
2.5
Biểu đồ 3.5 – Biểu đồ hàm tuyến tính mô tả chi phí hỗn hợp O&M
)
2
b
Đ N V ỷ t ( í
Chi phí biến đổi
1.5
h p
i
1
h c g n ổ T
a
0.5
Chi phí cố định ở mọi mức công suất
High
Low
0
0
1
0.5
1.5
2
2.5
Mức sản lượng (tr kWh)
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
Phân loại chi phí theo thẩm quyền ra quyết định. Hiện nay, PV-Power và
các đơn vị thuộc PV-Power mới chỉ áp dụng kế toán trách nhiệm với các trung tâm
lợi nhuận. Tuy nhiên, để có thể đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận phòng
125
ban thuộc các đơn vị một cách chi tiết, cụ thể hơn, KTQT cần phải áp dụng kế toán
trách nhiệm với các trung tâm chi phí thuộc từng đơn vị. Vì vậy, việc phân loại chi
phí theo thẩm quyền ra quyết định cần thiết phải thực hiện ngay. Trên thực tế, trong
quy chế quản lý tài chính của từng đơn vị đã quy định rõ các hạn mức chi phí mà một
hoạt động được phép chi ví dụ như hoạt động đi công tác, hoạt động tiếp khách. Tuy
nhiên, khi xác định các trung tâm chi phí, KTQT của PV-Power cũng cần phải căn
cứ vào quy chế quản lý tài chính để xác định hạn mức của từng loại chi phí mà một
trung tâm chi phí được phép chi tiêu. Trên cơ sở đó mới có thể đánh giá được trách
nhiệm của từng trung tâm chi phí trong từng đơn vị.
Phân loại chi phí khác. Trong tương lai, khi các đơn vị thuộc PV-Power
tham gia thị trường phát điện cạnh tranh và thị trường có mức độ cạnh tranh cao hơn,
KTQT có nhiệm vụ phải xây dựng các phương án kinh doanh khác nhau để nhà quản
trị quyết định lựa chọn. Lúc này, việc nhận diện chi phí theo chi phí chênh lệch cần
phải được KTQT áp dụng.
Chi phí chênh lệch là những khoản chi phí chỉ có ở phương án SXKD này
nhưng không có, hoặc chỉ có một phần ở phương án SXKD khác. Chi phí chênh lệch
có thể được KTQT áp dụng trong việc phân tích lựa chọn phương án sản xuất bao
nhiêu sản lượng điện hoặc sử dụng nhiên liệu dầu hay khí để sản xuất v.v…
Hoàn thiện lập dự toán tác nghiệp
(i) Xây dựng định mức chi phí
Định mức chi phí có rất nhiều tác dụng và một trong những tác dụng quan
trọng nhất là dùng để hoạch định và kiểm soát. Trong hoạch định và kiểm soát, định
mức chi phí được hiểu là những tiêu chuẩn chi phí cho từng hoạt động trong từng
thời kỳ của doanh nghiệp. Mà dựa vào những tiêu chuẩn này kết hợp với các phân
tích chênh lệch, nhà quản trị có thể xác định được hoạt động nào đang không được
thực hiện một cách chuẩn mực, đúng với kế hoạch và kỳ vọng. Từ đó nhà quản trị có
thể đưa ra các quyết định kịp thời để đưa các hoạt động về đúng với tiêu chuẩn của
nó.
Trên thực tế có rất nhiều cách phân loại định mức, tuy nhiên, có thể phân loại
theo nội dung định mức hay mức độ chi tiết của định mức như trình bày trong
Chương 1 của luận án hay định mức cũng có thể phân loại theo khả năng áp dụng
126
định mức trong thực tế. Theo cách phân loại này, định mức chi phí có thể bao gồm:
định mức lý tưởng (ideal standard costing) và định mức thực tế (attainable standard
costing).
Định mức lý tưởng được xây dựng dựa trên điều kiện sản xuất kinh doanh
hoàn hảo do nhà sản xuất đưa ra trong quá trình thử nghiệm chạy thử sản phẩm của
mình. Xét về mặt lý thuyết, định mức này thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh
diễn ra với hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, trên thực tế, định mức này không thể áp
dụng bởi tâm lý người lao động thường lo ngại bởi sức ép luôn luôn phải duy trì chi
phí thấp nhất có thể. Vì vậy, định mức thực tế thường được doanh nghiệp ưu tiên sử
dụng để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh vẫn đạt được hiệu quả nhất định
(không phải hiệu quả lý tưởng) mà không tạo sức ép lên tâm lý người lao động thông
qua cho phép những định mức hao hụt, hư hỏng quá trình SXKD.
Định mức thực tế cho phép người lao động với tay nghề cùng với ý thức trách
nhiệm, nỗ lực bản thân có thể thực hiện được. Hiện nay, PV-Power đang áp dụng
loại định mức thực tế này. Tuy nhiên, quá trình xây dựng định mức thực tế còn nhiều
hạn chế như đã trình bày ở Chương 2 của luận án. Phần này, tác giả đề xuất một số
giải pháp để hoàn thiện nội dung xây dựng định mức chi phí sản xuất tại PV-Power
như sau:
Thứ nhất, hàng năm phải xây dựng định mức thực tế của khối lượng nhiên
liệu tiêu hao để sản xuất một đơn vị sản lượng điện. Việc xây dựng định mức phải
căn cứ vào định mức lý tưởng do nhà sản xuất cung cấp kết hợp với thực tế hoạt động
của các kỳ gần nhất. Tránh trường hợp xây dựng định mức thực tế dựa toàn bộ vào
số liệu thống kê thực tế của các kỳ gần nhất. Vì trong quá trình hoạt động thực tế đó,
PV-Power chưa thể đánh giá được khối lượng nhiên liệu phát sinh trong các kỳ đã
thực sự là khối lượng nhiên liệu hợp lý và đã có thái độ, trách nhiệm với việc tiết
kiệm chi phí của người lao động trong đó hay chưa. Nếu cần thiết, PV-Power nên
thuê các tổ chức độc lập có kinh nghiệm và chuyên môn đứng ra xây dựng định mức
khối lượng nhiên liệu cho từng nhà máy nhiệt điện. Đặc biệt là nhà máy nhiệt điện
Vũng Áng đang có hệ thống máy móc thiết bị nhập khẩu từ nhiều hãng trên thế giới
dẫn tới định mức lý tưởng do các hãng cung cấp có thể có chênh lệch rất lớn so với
thực tế khối lượng nhiên liệu phát sinh.
Thứ hai, nâng cao chất lượng dự báo giá cả nhiên liệu đầu vào để xây dựng
127
định mức đơn giá nhiên liệu hàng tháng. Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu
rộng với thế giới, vì vậy, các thị trường nhiên liệu trong nước cũng chịu ảnh hưởng
của các biến động mang tính quốc tế, chưa kể tới một số loại nhiên liệu vẫn đang phải
nhập khẩu. PV-Power có hệ thống nhà máy nhiệt điện chiếm tới 93% tổng công suất
của toàn Tổng Công ty sử dụng dụng các loại nhiên liệu chính bao gồm: than, khí và
dầu. Trong những năm gần đây, giá cả ba loại nhiên liệu này luôn có những biến
động khó lường đòi hỏi công tác dự báo giá cả nhiên liệu của PV-Power càng phải
được coi trọng nếu như muốn hoạt động lập dự toán/kế hoạch được chính xác và có
tính khả thi cao. Vì vậy, PV-Power cần phải nâng cao chất lượng dự báo giá cả của
các loại nhiên liệu này và phải xây dựng định mức đơn giá nhiên liệu hàng tháng để
làm tiền đề cho áp dụng kỹ thuật lập dự toán/kế hoạch cuốn chiếu trong phần tiếp
theo.
Thứ ba, xem xét xây dựng định mức chi phí nhân công trực tiếp và chi phí
sản xuất chung. Vì đối với các nhà máy điện của PV-Power, chi phí nhân công trực
tiếp và chi phí sản xuất chung (ngoại trừ chi phí khấu hao) chiếm tỷ trọng rất nhỏ,
không mang tính trọng yếu nên việc xây dựng các loại định mức chi phí này có thể
được xây dựng hoàn toàn dựa vào số liệu của các kỳ gần nhất mà không cần phải căn
cứ vào thông số do nhà sản xuất cung cấp.
(ii) Lập dự toán trong ngắn và trung hạn (dự toán tác nghiệp)
- Về các loại dự toán cần lập.
Một doanh nghiệp SXKD thông thường bao gồm các loại dự toán cơ bản có
128
mối quan hệ được mô tả theo sơ đồ sau (trang sau):
Dự toán tiêu thụ
Dự toán sản xuất
Dự toán CPBH & CPQLDN
Dự toán CPSXC
Dự toán CPNVLTT
Dự toán CPNCTT
Dự toán hàng tồn kho
Dự toán GVHB & Doanh thu
Dự toán tiền
Dự toán Bảng CĐKT
Dự toán BCKQHĐKD
Sơ đồ 3.1 – Sơ đồ mối quan hệ giữa các loại dự toán của doanh nghiệp
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Ngoài các loại dự toán cơ bản trên, doanh nghiệp có thể có thêm rất nhiều dự
toán chi tiết khác để phục vụ nhà quản trị trong quá trình quản lý và điều hành doanh
nghiệp.
Về cơ bản các đơn vị thuộc PV-Power đã xây dựng được tương đối đầy đủ
các loại dự toán, tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục đã được trình bày
trong Chương 2 của luận án. Trong phần này, tác giả đề xuất một số giải pháp với
việc lập các loại dự toán của các đơn vị thuộc PV-Power như sau:
Thứ nhất, cần phải lập dự toán tồn kho nhiên liệu trong kỳ. Các đơn vị vận
hành nhà máy nhiệt điện có chi phí nhiên liệu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi phí.
Chi phí nhiên liệu được coi là chi phí vận hành quan trọng nhất của các nhà máy nhiệt
129
điện mà nếu thiếu chi phí này các nhà máy nhiệt điện sẽ không thể hoạt động. Vì vậy,
vấn đề quản trị yếu tố đầu vào, cụ thể là quản trị nhiên liệu tồn kho là một yếu tố sống
còn đối với bất kỳ doanh nghiệp vận hành nhà máy nhiệt điện nào. Các nội dung cụ
thể mà KTQT tại PV-Power cần thực hiện như sau:
+ Dự toán khối lượng nhiên liệu cần mua. Để xác định khối lượng nhiên liệu
cần mua trong kỳ, KTQT sử dụng công thức:
Khối lượng Khối lượng nhiên Khối lượng Khối lượng
nhiên liệu cần = liệu cần sử dụng + nhiên liệu tồn - nhiên liệu
mua trong kỳ trong kỳ cuối kỳ dự kiến tồn đầu kỳ
Biểu mẫu dự toán khối lượng nhiên liệu cần mua như sau:
Bảng 3.2 – Dự toán khối lượng nhiên liệu cần mua
Chỉ tiêu
Quý I Quý II Quý III Quý IV Cả năm
1. Khối lượng nhiên liệu tiêu thụ
2. Khối lượng nhiên liệu tồn cuối kỳ
3. Khối lượng nhiên liệu tồn đầu kỳ
4. Khối lượng nhiên liệu cần mua trong kỳ
(4 = 1 + 2 – 3)
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
+ Kiểm soát nhiên liệu tồn kho (Inventory Level Control). Nếu như số lượng
nhiên liệu tồn kho quá nhiều sẽ gây nên việc ứ đọng vốn cho các đơn vị thuộc PV-
Power, cùng với đó sẽ phát sinh thêm những khoản chi phí cho việc bảo quản, lưu
trữ nhiên liệu (holding cost). Ngược lại, nếu số lượng tồn kho quá thấp sẽ gây mất an
toàn cho kỳ sản xuất tiếp theo trong trường hợp nhiên liệu mua chậm về nhập kho
trong khi quá trình SXKD điện đòi hỏi phải diễn ra thường xuyên liên tục. Vì vậy,
kiểm soát mức tồn kho nhiên liệu thực chất là việc tính toán các mức tồn kho sao cho
chi phí liên quan đến nhiên liệu ở mức thấp nhất mà vẫn đảm bảo cho quá trình SXKD
diễn ra bình thường. KTQT tại PV-Power cần tính toán các mức tồn kho nhiên liệu
như sau:
Mức tồn kho đặt hàng (Reorder level). Là mức tồn kho nhiên liệu mà tại đó
130
các đơn vị thuộc PV-Power nên có yêu cầu đặt hàng mới. Ý nghĩa của mức tồn kho
đặt hàng là với mức tồn kho nhiên liệu này, trong trường hợp nhà máy nhiệt điện hoạt
động hết công suất trong khoảng thời gian tối đa kể từ lúc đặt hàng nhiên liệu cho tới
lúc lô nhiên liệu mới về nhập kho thì khối lượng nhiên liệu cũ còn tồn trong kho vẫn
có thể đáp ứng được nhu cầu của quá trình SXKD. Có nghĩa rằng, nhà máy nhiệt điện
sẽ không phải dừng hoạt động vì thiếu nhiên liệu nếu nhiên liệu được đặt mua tại
Mức tồn kho đặt hàng
Mức độ sử dụng nhiên liệu
Thời gian chờ tối đa
=
×
(Reorder level)
tối đa (Maximum Usage)
(Maximum Lead Time)
mức tồn kho đặt hàng.
Trong đó:
o Mức độ sử dụng nhiên liệu tối đa (Maximum Usage) là tỷ lệ tối đa mà
nhiêu liệu được sử dụng tính trên một đơn vị thời gian.
o Thời gian chờ tối đa (Maximum Lead Time) là khoảng thời gian tối đa
kể từ lúc gửi đơn hàng mua nhiên liệu tới lúc nhiên liệu sẵn sàng được
sử dụng.
Mức tồn kho tối thiểu (Minimum level). Đây là mức tồn kho có ý nghĩa cảnh
báo cho nhà quản trị của PV-Power biết rằng nếu trong thời gian ngắn sắp tới mà
Mức tồn kho tối
Mức tồn kho đặt
[Mức độ sử dụng
Thời gian chờ bình
thiểu (Minimum
=
hàng (Reorder
-
nhiên liệu bình quân
×
quân (Average Lead
level)
level)
(Average Usage)
Time)]
nhiên liệu đặt mua không về thì quá trình SXKD có thể sẽ bị tạm dừng.
Trong đó:
o Mức độ sử dụng nhiên liệu bình quân (Average Usage) là tỷ lệ nhiên
liệu bình quân được sử dụng tính trên một đơn vị thời gian.
o Thời gian chờ bình quân (Average Lead Time) là khoảng thời gian bình
quân kể từ lúc gửi các đơn hàng mua nhiên liệu tới lúc nhiên liệu sẵn
sàng được sử dụng.
Mức tồn kho tối đa (Maximum level). Đây là mức tồn kho cho nhà quản trị
PV-Power biết khối lượng tối đa mà nhiên liệu được phép tồn kho tại một thời điểm.
Nếu nhiên liệu vượt quá mức này có nghĩa PV-Power đang bị đọng vốn trong ngắn
131
hạn.
Mức tồn
Mức tồn kho
[Mức sử dụng
Thời gian chờ
kho tối đa
đặt hàng
Số lượng
nhiên liệu tối
tối thiểu
=
+
-
×
(Maximum
(Reorder
đặt hàng
thiểu (Minimum
(Minimum
level)
level)
Usage)
Lead Time)]
Trong đó:
o Mức sử dụng nhiên liệu tối thiểu (Minimum Usage) là tỷ lệ tối thiểu
mà nhiêu liệu được sử dụng tính trên một đơn vị thời gian.
o Thời gian chờ tối thiểu (Minimum Lead Time) là khoảng thời gian tối
thiểu kể từ lúc gửi đơn hàng mua nhiên liệu tới lúc nhiên liệu sẵn sàng
được sử dụng.
7
Maximum Level
6
Reorder Point
5
4
Biểu đồ 3.6 – Biểu đồ biến động mức nhiên liệu tồn kho
) l e v e L
3
y r o t n e v n I ( o h k n ồ t u ệ
i l
2
i
1
Minimum Level
n ê h n c ứ M
0
Mức tồn kho nhiên liệu (Inventory Level)
Mức tồn kho đặt hàng (Reorder Level)
Mức tồn kho tối đa (Maximum Level)
Mức tồn kho tối thiểu (Minimum Level)
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
+ Kiểm soát khối lượng đặt hàng nhiên liệu (Economic Order Quantity –
EOQ). Giá trị nhiên liệu tồn kho được cấu thành từ 03 nguồn chi phí cơ bản sau: chi
phí mua (purchasing cost), chi phí đặt hàng (ordering cost), chi phí nắm giữ (holding
cost). Trong khi kiểm soát nhiên liệu tồn kho (inventory level control) giúp nhà quản
trị tìm ra các mức khối lượng nhiên liệu tồn kho tối ưu thì kiểm soát khối lượng đặt
hàng (EOQ) giúp nhà quản trị tìm ra khối lượng nhiên liệu cần đặt hàng trong mỗi
đơn hàng đảm bảo tiết kiệm nhất (tổng chi phí đặt hàng và chi phí nắm giữ là thấp
nhất). KTQT của PV-Power có thể xem xét áp dụng công thức sau để tính toán khối
lượng nhiên liệu của mỗi lần mua hàng nhằm đạt được mục tiêu tiết giảm được chi
132
phí nhiên liệu:
EOQ = √ 2 × Co × D Ch
Trong đó:
o EOQ: là khối lượng tối ưu cho mỗi đơn đặt hàng nhiên liệu
o Co: là chi phí đặt hàng cho một chuyến hàng (Ordering Cost)
o D: là nhu cầu nhiên liệu trong một thời kỳ (Demand)
o Ch: là chi phí nắm giữ nhiên liệu trong một thời kỳ (Holding Cost)
Thứ hai, bổ sung các loại dự toán chi tiết khác. Ngoài việc quản trị nhiên
liệu đầu vào mang tính trọng yếu như trên, KTQT của PV-Power có thể xem xét lập
dự toán quản trị các yếu tố đầu vào khác như: vật tư thiết bị tiêu hao thay thế, người
lao động v.v… Bên cạnh đó, do PV-Power có các giao dịch lớn trong kỳ nên việc
quản trị các khoản công nợ cũng cần phải được xem xét áp dụng. Cụ thể:
+ Dự toán các khoản phải trả. Căn cứ vào dự toán nhiên liệu được lập ở trên,
kết hợp với các điều khoản thanh toán trong hợp đồng mua bán nhiên liệu với các
nhà cung cấp, KTQT của PV-Power có thể tiến hành lập dự toán các khoản phải trả
nhà cung cấp nhiên liệu theo mẫu sau (mức độ chi tiết theo quý hay tháng phụ thuộc
vào nhu cầu thông tin của nhà quản trị):
Bảng 3.3 – Dự toán phải trả nhà cung cấp
Chỉ tiêu
Quý I Quý II Quý III Quý IV Cả năm
I. Còn phải trả năm trước
II. Phải trả năm nay
1. Phải trả quý I
2. Phải trả quý II
3. Phải trả quý III
4. Phải trả quý IV
Tổng cộng
133
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
+ Dự toán các khoản phải thu. Căn cứ vào dự toán doanh thu, kết hợp với các
điều khoản thanh toán trong hợp đồng bán điện với các nhà mua buôn điện, KTQT
của PV-Power có thể tiến hành lập dự toán các khoản phải thu tiền bán điện theo mẫu
sau (mức độ chi tiết theo quý hay tháng phụ thuộc vào nhu cầu thông tin của nhà
quản trị):
Bảng 3.4 – Dự toán phải thu tiền bán điện
Chỉ tiêu
Quý I Quý II Quý III Quý IV Cả năm
I. Còn phải trả năm trước
II. Phải trả năm nay
1. Phải trả quý I
2. Phải trả quý II
3. Phải trả quý III
4. Phải trả quý IV
Tổng cộng
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
Ngoài ra, KTQT tại PV-Power có thể lập các loại dự toán chi tiết khác tùy vào
nhu cầu thông tin của nhà quản trị và năng lực của bộ máy KTQT để có thể giúp nhà
quản trị nâng cao chất lượng thực hiện các chức năng quản lý.
Thứ ba, cần bổ sung dự toán tổng hợp. Các đơn vị thuộc PV-Power đã lập
được dự toán tổng hợp trong đó trình bày một số chỉ tiêu của BCKQHĐKD và
BCĐKT. Tuy nhiên, số lượng các chỉ tiêu còn thiếu và chưa được sắp xếp trên dự
toán một cách khoa học theo thông lệ chung về việc trình bày BCKQHĐKD và
BCĐKT. Vì vậy, KTQT cần thiết phải chỉnh sửa lại và bổ sung hệ thống mẫu biểu
báo cáo tổng hợp cho phù hợp và có sự so sánh với BCKQHĐKD và BCĐKT mà
các đơn vị đang áp dụng. Trên cơ sở đó mới có thể cung cấp được các thông tin nhất
quán, đảm bảo có thể dễ dàng đối chiếu so sánh.
- Về trình tự và các kỹ thuật lập dự toán.
KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power cần xem xét áp dụng các nội dung sau
134
của KTQT để cải thiện chất lượng của thông tin trong các dự toán:
Thứ nhất, về trình tự lập dự toán. Hiện nay, PV-Power vẫn đang là doanh
nghiệp do Nhà nước sở hữu 100% vốn nên hoạt động vẫn mang hình thức kế hoạch
hóa tập trung. Theo đó, PVN giao chỉ tiêu kế hoạch hàng năm cho PV-Power. Trên
cơ sở đó, PV-Power xây dựng các dự toán để thực hiện kế hoạch và giao các đơn vị
thực hiện. Hình thức xây dựng dự toán/kế hoạch này được gọi là lập dự toán từ trên
xuống (Imposed/Top to Down Approach). Ưu điểm lớn nhất của trình tự này là tiết
kiệm thời gian và đơn vị cấp trên thường sử dụng kỹ thuật lập dự toán gia tăng bằng
cách lấy số thực hiện kỳ trước nhân với một tỷ lệ thay đổi kỳ vọng trong tương lai.
Tuy nhiên, quy trình lập dự toán này có nhược điểm là không mang tính khuyến
khích người lao động bởi dự toán hoàn toàn là ý chí chỉ đạo của nhà quản trị. Quy
trình lập dự toán này phù hợp với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, nhà quản trị
có năng lực hoạch định tốt, thị trường ít có những biến động bất thường. Tuy nhiên,
trong những điều kiện ngược lại, quy trình lập dự toán này không đem lại hiệu quả
về mặt hoạch định.
Trong tương lai, PV-Power tiến hành cổ phần hóa (Nhà nước vẫn nắm giữ
trên 51% vốn), đối mặt với thị trường điện cạnh tranh hơn, nhà quản trị của PV-Power
sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức hơn nhưng vẫn phải đảm bảo yếu tố kiểm soát
của Nhà nước trong quản lý điều hành. Vì vậy, luận án đề xuất giải pháp hoàn thiện
trong tương lai đối với PV-Power là cần áp dụng quy trình lập dự toán kết hợp để
khuyến khích người lao động làm việc hiệu quả hơn, có nhiều cống hiến hơn cho tổ
chức cũng như để các dự toán được lập ra sát với thực tế và có tính khả thi cao hơn.
Đồng thời, Nhà nước vẫn có thể định hướng PV-Power hoạt động và phát triển theo
lộ trình. Cụ thể quy trình lập dự toán kết hợp như sau:
+ Bước 1: Hội đồng thành viên của PV-Power nhận chỉ tiêu kế hoạch từ PVN,
sau đó tiến hành giao Tổng Giám đốc Tổng Công ty.
+ Bước 2: Tổng Giám đốc Tổng Công ty chỉ đạo các bộ phận chức năng của
Tổng Công ty để xây dựng các dự thảo dự toán/kế hoạch cho từng đơn vị và gửi các
đơn vị để lấy ý kiến.
+ Bước 3: Giám đốc các chi nhánh và Người đại diện phần vốn tại các công
ty con chỉ đạo các bộ phận chức năng của chi nhánh và công ty con đối chiếu giữa
135
dự thảo dự toán/kế hoạch được giao với năng lực của từng đơn vị để điều chỉnh dự
thảo phù hợp. Sau đó, Giám đốc chi nhánh và Người đại diện phần vốn bảo vệ dự
thảo dự toán/kế hoạch điều chỉnh trước Tổng Giám đốc Tổng Công ty.
+ Bước 4: Tổng Giám đốc Tổng Công ty báo cáo Hội đồng thành viên về dự
thảo dự toán/kế hoạch đã được điều chỉnh và ban hành giao cho từng đơn vị.
+ Bước 5: Các đơn vị được giao dự toán/kế hoạch tiếp tục xây dựng các dự
toán chi tiết theo trình tự kết hợp như trên để thực hiện dự toán/kế hoạch được Tổng
Giám đốc Tổng Công ty giao.
Quy trình lập dự toán kết hợp tại PV-Power được thể hiện trong sơ đồ sau:
Hội đồng thành viên Tổng Công ty
Bước 1
Bước 4
Tổng Giám đốc Tổng Công ty
Bước 3
Bước 2
Giám đốc chi nhánh và Người đại diện phần vốn tại các đơn vị
Sơ đồ 3.2 – Sơ đồ quy trình lập dự toán kết hợp
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
Thứ hai, về kỹ thuật lập dự toán. Hiện nay, PV-Power và các đơn vị đang áp
dụng kỹ thuật lập dự toán gia tăng. Tuy nhiên, trong bối cảnh các yếu tố trong nền
kinh tế luôn biến động rất nhanh, đặc biệt là thị trường nhiên liệu phục vụ SXKD của
nhà máy điện như than, dầu, khí thì việc chỉ áp dụng kỹ thuật lập dự toán gia tăng sẽ
không thể lập được các dự toán đáng tin cậy và có tính khả thi. Đòi hỏi lúc này, KTQT
của PV-Power và các đơn vị phải áp dụng thêm cả kỹ thuật lập dự toán cuốn chiếu.
Ví dụ biểu mẫu dự toán cuốn chiếu cho sản lượng điện của Nhà máy Nhiệt điện Cà
136
Mau 1 như sau (trang sau):
Bảng 3.5 – Dự toán cuốn chiếu chi phí Nhà máy Nhiệt điện Cà Mau 1 – giai
đoạn từ Quý II/2015 đến hết Quý I/2016
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Tổng số
Kế hoạch 2015
Kế hoạch
2016
Quý II
Quý III Quý IV
Quý I
A TỔNG CHI PHÍ
1.549.910 1.498.394 1.556.598
I
Chi phí biến đổi bình quân
Tr VNĐ
1.242.027 1.190.510 1.248.715
1
Chi phí nhiên liệu khí
Tr VNĐ
1.235.917
980.425 1.242.685
-
Khối lượng nhiên liệu khí
106BTU
7.590.884 6.021.677 7.632.453
Tr Sm3
-
Đơn giá nhiên liệu khí
đ/106BTU
204,79 162.816
203,67 162.816
161,57 162.816
2
Chi phí nhiên liệu dầu
Tr VNĐ
205.000
-
Khối lượng nhiên liệu dầu
Tấn
10.250
-
Đơn giá nhiên liệu dầu
VNĐ/kg
20.000
3
Chi phí O&M biến đổi
Triệu VNĐ
6.109,62
5.084,73
6.029,55
-
Vật tư tiêu hao
“
3.735.68
3.109,02
3.686,72
-
Hóa chất
“
1474,47
1227,12
1455,14
-
Dự phòng mua VTTB đột xuất
“
143,23
119,20
141,35
-
Nước công nghiệp
“
756,25
II Chi phí cố định bình quân
Tr VNĐ
304.630
629,39 304.630
746,34 304.630
1
Phí công suất
176.985,85 176.985,85 176.985,8
“
5
-
Khấu hao
“
148.188
148.188
148.188
-
Lãi vay
“
20.333
20.333
20.333
-
Bảo hiểm
7.656
7.656
7.656
2 O&M cố định
128.544
128.544
128.544
2.1 Bảo trì bảo dưỡng
108.784
108.784
108.784
-
Phần việc nhà thầu NN
98.062
98.062
98.062
+ Trong hợp đồng
98.062
98.062
98.062
+ Ngoài hợp đồng
-
Phần việc của PVPS
+ Trong Hợp đồng
10.722 10.722
10.722 10.722
10.722 10.722
+ Ngoài Hợp đồng
2.2 O cố định
19.761
19.761
19.761
-
Chi phí lương
9.898
9.898
9.898
-
Chi phí O khác
“ “ “ “ “ “ “ “ “ “ “ “
III Chênh lệch tỷ giá trong thanh
Tr VNĐ
9.863 3.253
9.863 3.253
9.863 3.253
toán
B GIÁ THÀNH SẢN XUẤT
VNĐ/kWh
1.443
1.676
1.468
Uscent/kWh
6,81
7,91
6,93
137
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
3.3.2.2 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng hoạch định chiến lược
Hiện nay, PV-Power không thực hiện chức năng đầu tư xây dựng dự án nhà
máy điện. Tuy nhiên, trong tương lai, không ngoại trừ khả năng PVN sẽ giao PV-
Power làm chủ đầu tư một số nhà máy điện, ví dụ như Nhà máy nhiệt điện Kiên
Giang 1, 2. Khi đó, nhà quản trị chiến lược của PV-Power sẽ phải thực hiện chức
năng hoạch định chiến lược thông qua việc lập dự án đầu tư xây dựng các nhà máy
điện mới. KTQT tại PV-Power sẽ cần thiết phải vận dụng nội dung lập dự án theo
chi phí mục tiêu (Target Costing) để xây dựng được dự án đảm bảo mang lại hiệu
quả kinh tế trong dài hạn và có khả năng cạnh tranh. KTQT tại PV-Power có thể thực
hiện quy trình sau để áp dụng chi phí mục tiêu trong việc lập dự án đầu tư xây dựng
nhà máy điện.
Bước 1, xác định giá bán điện bình quân và doanh thu dự kiến. KTQT của
PV-Power có thể tìm kiếm thông tin về giá bán điện từ các nguồn điện tới các nhà
mua buôn trên thị trường phát điện cạnh tranh hoặc từ chính giá bán điện của các nhà
máy đang do PV-Power vận hành. Trên cơ sở giá bán điện bình quân và dự kiến công
suất của nhà máy điện (nằm trong quy hoạch ngành điện), KTQT dự báo doanh thu
và các dòng tiền vào hàng năm của dự án. Doanh thu và dòng tiền nên được dự báo
thận trọng theo hướng đánh giá giảm.
Bước 2, xác định mức sinh lời kỳ vọng. Mức sinh lời kỳ vọng cần phải được
xem xét một cách dài hạn trong cả vòng đời của dự án. Mức sinh lời kỳ vọng sẽ được
sử dụng là lãi suất chiết khấu của chủ đầu tư khi chiết khấu các dòng tiền trong tương
lai để tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả.
Bước 3, lựa chọn loại hình nhà máy điện và lập dự toán chi phí đầu tư xây
dựng và dự toán chi phí vận hành. KTQT của PV-Power cần lựa chọn loại hình nhà
máy điện dự kiến đầu tư xây dựng (nhiệt điện than, khí hay loại hình khác) để căn cứ
vào đó xây dựng được dự toán chi phí đầu tư xây dựng và chi phí vận hành cũng như
các dòng tiền ra hàng năm của dự án. Việc xây dựng dự toán chi phí đầu tư nên được
dự báo thận trọng theo hướng đánh giá tăng.
Bước 4, chiết khấu dòng tiền theo tỷ lệ chiết khấu của chủ đầu tư. KTQT
của PV-Power sử dụng lãi suất chiết khấu của chủ đầu tư để chiết khấu các dòng tiền
và tính toán NPV, IRR để xác định dự toán chi phí được lập đã đạt được kỳ vọng hay
chưa. Về cơ bản, khi NPV > 0 và IRR > lãi suất chiết khấu của chủ đầu tư thì dự án 138
có hiệu quả. Trường hợp NPV < 0 và IRR < lãi suất chiết khấu của chủ đầu tư thì
KTQT cần xem xét điều chỉnh lại các dự báo chi phí của mình.
3.3.3 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng kiểm soát
3.3.3.1 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng kiểm soát tác nghiệp
Hoàn thiện phân tích chênh lệch ngắn và trung hạn
Hiện nay, KTQT của các đơn vị thuộc PV-Power mới chỉ phân tích chênh
lệch trong ngắn và trung hạn theo cách lấy số liệu thực tế so sánh với số trong dự toán
gốc (fixed budget) để xác định được chênh lệch theo công thức:
∆ = Qa × Pa − Qb × Pb
Trong đó:
o ∆: là tổng chênh lệch
o Qa: là khối lượng thực tế (Actual Quantity)
o Pa: là giá thực tế (Actual Price)
o Qb: là khối lượng dự toán (Budgeted Quantity)
o Pb: là giá dự toán (Budgeted Price)
Theo công thức trên, chênh lệch tính toán được là chênh lệch toàn bộ giữa số
thực hiện với số trong dự toán. Chênh lệch này chưa chỉ ra được ảnh hưởng của từng
biến động khối lượng và biến động giá tới chênh lệch toàn bộ. Qua đó, nhà quản trị
rất khó tìm ra được những khu vực, bộ phận cần phải điều chỉnh.
Để giải quyết vấn đề này, KTQT lập các dự toán linh hoạt (flexible budget) và
tính toán tổng chênh lệch theo công thức:
∆ = ∆P + ∆Q
Trong đó:
o ∆P: là chênh lệch biến động giá
∆P = Qa × Pa − Qa × Pb
o ∆Q: là chênh lệch biến động khối lượng
∆Q = Qa × Pb − Qb × Pb
Lúc này chênh lệch tổng thể sẽ được tính bằng:
139
∆ = (Qa × Pa − Qa × Pb) + (Qa × Pb − Qb × Pb)
Bản chất của công thức này là việc đưa dự toán linh hoạt (Qa×Pb) vào để xác
định được chênh lệch được tạo ra do yếu tố giá và yếu tố lượng là bao nhiêu. Từ đó
nhà quản trị mới có cơ sở thông tin để đưa ra những quyết định điều chỉnh phù hợp.
Để thực hiện phân tích chênh lệch dựa vào dự toán điều chỉnh, KTQT tại PV-
Power cần thực hiện các bước sau:
Bước 1, lập dự toán linh hoạt (flexible budget). Dự toán linh hoạt là loại dự
toán được lập cho một loạt các mức độ hoạt động nhằm cung cấp thông tin về tình
hình chi phí, doanh thu và lợi nhuận đơn vị có thể đạt được theo các phương án kinh
doanh và khả năng có thể xảy ra. Trong phân tích chênh lệch, dự toán linh hoạt chính
là dự toán được lập tại mức công suất thực tế, được tính bằng khối lượng thực tế nhân
(×) đơn giá định mức (Qa×Pb).
Phụ thuộc vào nhu cầu thông tin của nhà quản trị trong việc phân tích chênh
lệch của những loại dự toán gốc nào mà KTQT sẽ lập dự toán linh hoạt cho loại dự
toán gốc đó. Tại PV-Power, KTQT cần lập dự toán linh hoạt cho các loại dự toán gốc
liên quan đến chi phí bởi chi phí có thể biến động do cả thay đổi của yếu tố lượng và
yếu tố giá. Còn với các dự toán doanh thu thì KTQT của PV-Power chỉ cần lập cho
các nhà máy nhiệt điện chứ chưa cần lập dự toán linh hoạt cho các nhà máy thủy
điện. Bởi vì giá bán điện của các nhà máy nhiệt điện có sự biến động trong năm còn
giá bán điện của các nhà máy thủy điện ít có sự biến động. Việc lập dự toán linh hoạt
để phân tích chênh lệch doanh thu đối với các nhà máy thủy điện chỉ cần áp dụng khi
các nhà máy thủy điện điện của PV-Power tham gia thị trường phát điện cạnh tranh
với giá bán điện có những biến động đáng kể trong ngắn và trung hạn.
Tác giả đề xuất một mẫu dự toán linh hoạt áp dụng cho nhà máy nhiệt điện Cà
Mau 1 như sau:
Bảng 3.6 – Dự toán linh hoạt chi phí sản xuất nhà máy nhiệt điện Cà Mau –
tháng 2/2015
STT
ĐVT
DỰ TOÁN LINH HOẠT
KHOẢN MỤC
DỰ TOÁN TĨNH (Dự toán gốc)
ĐƠN GIÁ KẾ HOẠCH
Thành tiền
Thành tiền
Khối lượng thực tế
Khối lượng dự toán
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6) = (4) x (5)
(7)
(8) = (4) x (7)
I
Sản lượng
Kwh
239.474.015
375.038.300
điện
140
II
Tổng chi phí
Đồng
SX điện
1
Nhiên liệu
Đồng
293.418.643.25
425.041.099.77
9
6
1.1 Nhiên liệu Khí
Đồng
162.816
1.802.149
293.418.643.25
2.610.561
425.041.099.77
đ/106 BTU
106 BTU
9
106 BTU
6
2
Phí công suất
Đồng
2.1 Khấu hao
Đồng
2.2 Lãi vay
Đồng
2.3 Bảo hiểm vận
Đồng
hành
3 O&M biến
Đồng
đổi
4 O&M cố
Đồng
định
5
Chênh lệch tỷ
Đồng
giá
III Giá thành
Đồng/Kwh
NM
Cent/kwh
(Nguồn: Tác giả xử lý số liệu thực tế của PV-Power)
Bước 2, tính toán các chênh lệch.
+ Tính toán chênh lệch của chi phí nhiên liệu. Sau khi lập dự toán linh hoạt
cho chi phí nhiên liệu, KTQT tại PV-Power tính toán các chênh lệch nhiên liệu theo
Chi phí nhiên liệu
Chênh lệch toàn bộ
Chi phí nhiên liệu trong
-
=
(∆)
dự toán tĩnh
thực tế
Khối lượng nhiên liệu
Khối lượng nhiên liệu dự
=
thực tế × Đơn giá nhiên
-
toán tĩnh × Đơn giá nhiên
liệu thực tế
liệu dự toán tĩnh
Chi phí nhiên liệu
Chênh lệch bởi yếu
Chi phí nhiên liệu trong
-
=
tố giá (∆P)
dự toán linh hoạt
thực tế
Khối lượng nhiên liệu
Khối lượng nhiên liệu dự
=
thực tế × Đơn giá nhiên
-
toán thực tế × Đơn giá
liệu thực tế
nhiên liệu dự toán tĩnh
141
các công thức sau:
Khối lượng nhiên liệu thực tế × [Đơn giá nhiên liệu thực
=
tế - Đơn giá nhiên liệu dự toán tĩnh]
Nếu (∆P) > 0 là chênh lệch xấu, ngược lại, nếu (∆P) < 0 là yếu tố tốt.
Chênh lệch bởi yếu
Chi phí nhiên liệu trong
Chi phí nhiên liệu trong
-
=
tố lượng (∆Q)
dự toán linh hoạt
dự toán tĩnh
Khối lượng nhiên liệu dự
Khối lượng nhiên liệu dự
=
toán thực tế × Đơn giá
-
toán tĩnh × Đơn giá nhiên
nhiên liệu dự toán tĩnh
liệu dự toán tĩnh
[Khối lượng nhiên liệu dự toán thực tế - Khối lượng
=
nhiên liệu dự toán tĩnh] × Đơn giá nhiên liệu dự toán tĩnh
Nếu (∆Q) > 0 là chênh lệch xấu, ngược lại, nếu (∆Q) < 0 là yếu tố tốt.
Tiếp theo đề xuất trên, tác giả tính toán và phân tích các chênh lệch của chi
phí nhiên liệu trong tháng 2/2015 của nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 như sau:
Căn cứ theo số liệu của chỉ tiêu chi phí nhiên liệu khí trong Bảng 2.6, chương
2, chi phí nhiên liệu khí thực tế phát sinh trong tháng 2 của nhà máy nhiệt điện Cà
Mau 1 là 284.158.685.536 VNĐ. Như vậy, tổng chênh lệch (∆) của chi phí nhiên liệu
là: 284.158.685.536 VNĐ - 293.418.643.259 VNĐ = (9.259.957.723) VNĐ, trong
đó:
Chênh lệch bởi yếu tố giá (∆P) là: 284.158.685.536 VNĐ - 425.041.099.776
VNĐ = (140.882.414.240) VNĐ.
Chênh lệch bởi yếu tố lượng (∆P) là: 425.041.099.776 VNĐ -
293.418.643.259 VNĐ = 131.622.456.517 VNĐ.
Như vậy, có thể thấy rằng do đơn giá nhiên liệu thực tế giảm so với đơn giá
dự toán đã khiến cho chi phí nhiên liệu giảm 140 tỷ VNĐ. Do khối lượng nhiên liệu
khí thực tế sử dụng tăng so với dự toán đã khiến cho chi phí nhiên liệu tăng 131 tỷ
VNĐ.
Kiểm tra lại dữ liệu lịch sử của PV-Power, tác giả nhận thấy, đơn giá nhiên
142
liệu khí sử dụng lập dự toán tháng 02/2015 của nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 là 7,68 USD/106BTU còn trên thực tế ghi nhận là 5,09 USD/106BTU. Như vậy, đơn giá
nhiên liệu khí đã có sự giảm giá mạnh bởi giá dầu trên thế giới tại thời điểm đó giảm
mạnh đã khiến cho chi phí nhiên liệu khí tiết kiệm được 140 tỷ VNĐ.
Ở chiều ngược lại, khối lượng nhiên liệu thực tế sử dụng là 2.610.561 106 BTU, tăng 1,448 lần so với khối lượng nhiên liệu trong dự toán là 1.802.149 106
BTU. Trong khi đó, sản lượng điện thực tế là 375.038.300 kWh, tăng 1,566 lần so
với sản lượng điện trong dự toán là 239.474.015 kWh. Như vậy, tốc độ tăng sản
lượng điện nhanh hơn tốc độ tăng chi phí nhiên liệu.
Tóm lại, có thể thấy rằng hoạt động của nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 trong
tháng 2/2015 là tương đối tốt khi sản lượng điện tăng so với dự toán nhưng khối
lượng nhiên liệu tiêu dùng không tăng nhanh bằng, trong khi đó đơn giá nhiên liệu
đầu vào lại giảm so với dự toán.
+ Tính toán chênh lệch của chi phí nhân công trực tiếp. KTQT cũng áp dụng
phương pháp lập dự toán linh hoạt giống như với chi phí nhiên liệu. Tuy nhiên, với
chi phí nhân công trực tiếp, đơn giá được tính bằng đơn giá giờ công lao động và khối
lượng được tính bằng thời gian lao động. Theo đó, Chi phí nhân công = Thời gian
lao động × Đơn giá tiền lương theo thời gian.
= Chi phí nhân công thực tế
-
Chênh lệch toàn bộ (∆)
Chi phí nhân công trong dự toán tĩnh
-
=
Thời gian lao động dự toán tĩnh × Đơn giá tiền lương dự toán tĩnh
Thời gian lao động thực tế × Đơn giá tiền lương thực tế
Chi phí nhân công
-
=
Chi phí nhân công trong dự toán linh hoạt
Chênh lệch bởi yếu tố giá (∆P)
thực tế
-
=
Thời gian lao động thực tế × Đơn giá tiền lương thực tế
Thời gian lao động thực tế × Đơn giá tiền lương dự toán tĩnh
=
Thời gian lao động thực tế × [Đơn giá tiền lương thực tế - Đơn giá tiền lương dự toán tĩnh]
Nếu (∆P) > 0 là chênh lệch xấu, ngược lại, nếu (∆P) < 0 là yếu tố tốt.
=
-
Chênh lệch bởi yếu tố lượng (∆Q)
Chi phí nhân công trong dự toán linh hoạt
Chi phí nhân công trong dự toán tĩnh
143
Cụ thể các công thức tính toán chênh lệch như sau:
=
-
Thời gian lao động thực tế × Đơn giá tiền lương dự toán tĩnh
Thời gian lao động dự toán tĩnh × Đơn giá tiền lương dự toán tĩnh
=
[Thời gian lao động thực tế - Thời gian lao động dự toán tĩnh] × Đơn giá tiền lương dự toán tĩnh
Nếu (∆Q) > 0 là chênh lệch xấu, ngược lại, nếu (∆Q) < 0 là yếu tố tốt.
+ Tính toán chênh lệch của chi phí sản xuất chung (các loại chi phí khác). Các
loại chi phí khác tại các đơn vị thuộc PV-Power được chia ra thành 02 loại: biến phí
(vật tư tiêu hao, hóa chất, dự phòng mua vật tư thiết bị đột xuất, nước công nghiệp)
và định phí (khấu hao, lãi vay, bảo hiểm, bảo trì bảo dưỡng, định phí vận hành khác).
Đối với biến phí sản xuất chung (biến phí khác), các chênh lệch vẫn được tính
toán theo công thức chung để phản ánh ảnh hưởng của yếu tố lượng (số giờ máy chạy
hoặc số giờ lao động) và yếu tố giá (tỷ lệ phân bổ - VNĐ/giờ máy chạy hoặc giờ lao
=
-
Chênh lệch toàn bộ (∆)
Biến phí sản xuất chung thực tế
Biến phí sản xuất chung trong dự toán tĩnh
=
-
Số giờ thực tế × Tỷ lệ phân bổ thực tế
Số giờ dự toán tĩnh × Tỷ lệ phân bổ dự toán tĩnh
=
-
Chênh lệch bởi yếu tố giá (∆P)
Biến phí sản xuất chung thực tế
Biến phí sản xuất chung trong dự toán linh hoạt
=
-
Số giờ thực tế × Tỷ lệ phân bổ thực tế
Số giờ thực tế × Tỷ lệ phân bổ dự toán tĩnh
=
Số giờ thực tế × [Tỷ lệ phân bổ thực tế - Tỷ lệ phân bổ dự toán tĩnh]
Nếu (∆P) > 0 là chênh lệch xấu, ngược lại, nếu (∆P) < 0 là yếu tố tốt.
=
-
Chênh lệch bởi yếu tố lượng (∆Q)
Biến phí sản xuất chung trong dự toán linh hoạt
Biến phí sản xuất chung trong dự toán tĩnh
=
-
Số giờ thực tế × Tỷ lệ phân bổ dự toán tĩnh
Số giờ dự toán tĩnh × Tỷ lệ phân bổ dự toán tĩnh
=
[Số giờ thực tế - Số giờ dự toán tĩnh] × Tỷ lệ phân bổ dự toán tĩnh
Nếu (∆Q) > 0 là chênh lệch xấu, ngược lại, nếu (∆Q) < 0 là yếu tố tốt.
động) tới tổng chênh lệch. Cụ thể:
Đối với định phí sản xuất chung, KTQT cần đánh giá được mức độ định phí
sản xuất chung phát sinh vượt mức bình thương hay dưới mức bình thường, cụ thể: 144
=
-
Chênh lệch toàn bộ (∆)
Định phí sản xuất chung thực tế
Định phí sản xuất chung trong dự toán tĩnh
=
-
Định phí sản xuất chung trong dự toán linh hoạt
Định phí sản xuất chung trong dự toán tĩnh
Chênh lệch tiêu chuẩn do thay đổi công suất (∆’)
=
-
Số giờ thực tế × Tỷ lệ phân bổ dự toán tĩnh
Số giờ dự toán tĩnh × Tỷ lệ phân bổ dự toán tĩnh
=
[Số giờ thực tế - Số giờ dự toán tĩnh] × Tỷ lệ phân bổ dự toán tĩnh
Nếu (∆) > (∆’), hay nói cách khác nếu định phí sản xuất chung thực tế lớn hơn định phí sản xuất chung trong dự toán linh hoạt có nghĩa rằng định phí sản xuất chung thực tế phát sinh trên mức bình thường, đây là yếu tố xấu. Ngược lại, nếu (∆) < (∆’), hay nói cách khác nêu định phí sản xuất chung thực tế nhỏ hơn định phí sản xuất chung trong dự toán linh hoạt có nghĩa rằng định phí sản xuất chung thực tế phát sinh dưới mức bình thường, đây là yếu tố tốt.
Bước 3, lập báo cáo phân tích chênh lệch dựa vào dự toán linh hoạt. Sau
khi tính toán được các chênh lệch như trên, KTQT tại PV-Power tiến hành lập các
báo cáo phân tích chênh lệch. Luận án đề xuất mẫu báo cáo phân tích chênh lệch chi
phí sản xuất theo ví dụ tại nhà máy nhiệt điện Cà Mau trong tháng 2/2015 như sau
145
(trang sau):
Bảng 3.7 – Báo cáo phân tích biến động chi phí sản xuất nhà máy nhiệt điện Cà Mau – tháng 2/2015
STT
KHOẢN MỤC
ĐVT
ĐƠN GIÁ
DỰ TOÁN TĨNH
DỰ TOÁN LINH HOẠT
THỰC HIỆN
CHÊNH
CHÊNH LỆCH
CHÊNH
KẾ
(Dự toán gốc)
LỆCH TOÀN
BỞI YẾU TỐ
LỆCH BỞI
HOẠCH
BỘ
GIÁ
YẾU TỐ
Khối
Thành tiền
Thành tiền
Khối
(∆)
(∆P)
LƯỢNG
lượng dự
lượng
(∆Q)
toán
thực tế
(5)
(4)
(6) = (4) x (5)
(7)
(8) = (4) x (7)
(9)
(10) = (9) – (6)
(11) = (9) – (8)
(12) = (8) – (6)
(1)
(2)
(3)
239.474.015
375.038.300
I
Sản lượng điện
Kwh
II
Tổng chi phí SX
Đồng
điện
1
Nhiên liệu
Đồng
162.816
1.802.149
293.418.643.259
2.610.561
425.041.099.776 284.158.685.536
(9.259.957.723)
(140.882.414.240) 131.622.456.517
đ/106 BTU
106 BTU
106 BTU
1.1 Nhiên liệu Khí
Đồng
162.816
1.802.149
293.418.643.259
2.610.561
425.041.099.776 284.158.685.536
(9.259.957.723)
(140.882.414.240) 131.622.456.517
đ/106 BTU
106 BTU
106 BTU
2
Phí công suất
Đồng
2.1 Khấu hao
Đồng
2.2 Lãi vay
Đồng
2.3 Bảo hiểm vận hành
Đồng
3 O&M biến đổi
Đồng
4 O&M cố định
Đồng
5
Chênh lệch tỷ giá
Đồng
III Giá thành NM
Đồng/Kwh
Cent/kwh
146
(Nguồn: Tác giả xử lý số liệu thực tế của PV-Power)
3.3.3.2 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng kiểm soát chiến lược
(i) Phân tích chênh lệch dài hạn
Hiệu quả đầu tư dự án nhà máy điện thường được đánh giá trong dài hạn và có xét
tới yếu tố thời gian của tiền. Để kiểm soát được việc dự án có vận hành theo đúng kỳ vọng
khi nghiên cứu đầu tư hay không, nhà quản trị cần các thông tin về tình hình vận hành của
dự án trong dài hạn và có sự đối chiếu, so sánh với số kế hoạch/dự toán trong FS.
Tương tự như kỹ thuật phân tích chênh lệch trong ngắn và trung hạn để phục vụ
chức năng kiểm soát tác nghiệp của nhà quản trị cơ sở như trình bày ở phần trước, KTQT
phục vụ mục đích quản trị chiến lược có thể vận dụng kỹ thuật phân tích chênh lệch trong
dài hạn để phục vụ chức năng kiểm soát chiến lược của nhà quản trị cao cấp.
Để thực hiện kỹ thuật này, định kỳ hàng năm KTQT của các đơn vị thuộc PV-Power
cần thu thập thông tin hoạt động của nhà máy điện từ các báo cáo thực hiện tháng, quý.
Sau đó, tổng hợp thông tin và trình bày trên dạng bảng với kết cấu và nội dung các chỉ tiêu
giống với FS đã được phê duyệt. KTQT cần so sánh số thực hiện đã tổng hợp được với số
trên FS theo từng năm để có thể kiểm soát được việc vận hành nhà máy cũng như phân
tích tìm ra được các nguyên nhân tạo ra chênh lệch trong dài hạn. Nguyên nhân cũng cần
phải được tìm hiểu chi tiết cho yếu tố lượng và yếu tố giá như trong phân tích chênh lệch
ngắn và trung hạn ở trên.
Ngoài ra, KTQT của các đơn vị thuộc PV-Power có thể căn cứ vào kết quả thực
hiện của những năm gần nhất và dự báo biến động của các yếu tố khách quan bên ngoài
để điều chỉnh lại số liệu trong những năm tiếp theo trên FS. Trên cơ sở chiết khấu dòng
tiền của những năm tiếp theo đã được điều chỉnh trên FS và chiết khấu dòng tiền của
những năm đã thực hiện ở trên, KTQT có thể đánh giá được hiệu quả đầu tư dài hạn của
dự án tại thời điểm đánh giá. Trên cơ sở thông tin này, nhà quản trị chiến lược của PV-
Power (Hội đồng thành viên) có thể đưa ra quyết định tiếp tục SXKD hay sẽ bán nhà
máy. Việc phân tích chênh lệch dài hạn có thể giúp nhà quản trị chiến lược của PV-Power
thực hiện chức năng kiểm soát chiến lược, đánh giá hiệu quả chiến lược và ra quyết định
chiến lược.
Tác giả mô phỏng kỹ thuật phân tích chênh lệch dài hạn và dự báo hiệu quả dài hạn
147
của dự án nhà máy điện trong sơ đồ sau.
Sơ đồ 3.3 – Phân tích chênh lệch và dự báo hiệu quả dài hạn
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
(ii) Xây dựng hệ thống tổng thể tiết giảm chi phí (Kaizen Management)
Về mặt lý thuyết, với các doanh nghiệp SXKD sản phẩm hàng hóa thông thường, các
nội dung cơ bản của hệ thống quản trị kiểu Kaizen (Kaizen Management) bao gồm:
- Quản trị chất lượng tổng thể (TQC/TQM - Total quality cost/Total quality
management).
- Hệ thống sản xuất không có hàng tồn kho (JIT – Just in time production
system).
- Duy trì năng lực sản xuất tổng thể (TPM – Total Productive Maintainance).
- Phát triển chính sách (Policy development).
- Hệ thống đôn đốc (A suggestion system).
PV-Power và các đơn vị có thể áp dụng 02 nội dung là: (1) Hệ thống sản xuất JIT
và (2) Duy trì năng lực sản xuất tổng thể. Vì đặc điểm của đơn vị SXKD điện có chi phí
nhiên liệu (hàng tồn kho) và chi phí khấu khao (máy móc thiết bị) lớn nên áp dụng 02 nội
dung này có thể quản trị được hiệu quả chi phí của đơn vị.
Thứ nhất, xây dựng hệ thống sản xuất JIT. Mục tiêu của JIT là sản xuất được
những sản phẩm với chất lượng và số lượng đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và cung
cấp trong khoảng thời gian được xác định trước. Vận dụng JIT vào đơn vị SXKD điện đòi
hỏi KTQT phải giải quyết được bài toán liên tục tìm cách tiết giảm chi phí cho hàng tồn
kho thông qua một số mục tiêu cụ thể sau:
- Tối thiểu hóa chi phí mua nhiên liệu (khí, than, dầu), cụ thể: thường xuyên
liên tục tìm kiếm các nhà cung cấp nhiên liệu có mức giá cạnh tranh trên thị
148
trường để ký hợp đồng.
- Tối thiểu hóa chi phí lưu kho nhiên liệu (khí, than, dầu), cụ thể: căn cứ vào
kế hoạch SXKD điện, lập kế hoạch mua và dự trữ nhiên liệu cho phù hợp,
đảm bảo duy trì hoạt động liên tục nhưng không làm tăng chi phí lưu kho
nhiên liệu.
- Tối thiểu hóa chi phí vận chuyển nhiên liệu trong nội bộ, cụ thể: xây dựng
phương án vận chuyển nhiên liệu từ kho nhiên liệu tới các khu vực sản xuất
đảm bảo tiết kiệm chi phí vận chuyển nhất.
Các nội dung trong JIT bao gồm các nội dung quản trị nhiên liệu tồn kho (Inventory
Level Control) đã được đề xuất trong phần giải pháp lập dự toán ngắn và trung hạn ở trên.
Tuy nhiên, PV-Power cần phải xây dựng thành một chiến lược tổng thể và yêu cầu KTQT
của các đơn vị vận hành nhà máy nhiệt điện thực hiện nội dung này một cách định kỳ và
liên tục.
Thứ hai, duy trì năng lực sản xuất tổng thể (TPM). Duy trì năng lực sản xuất tổng
thể (TPM) tập trung vào nâng cao chất lượng máy móc, thiết bị. TPM tập trung vào việc
tìm kiếm phương thức sử dụng máy móc, thiết bị để có thể đem lại hiệu quả tối đa thông
qua hệ thống sửa chữa, bảo dưỡng nhằm kéo dài tuổi thọ của máy móc, thiết bị. Vận dụng
TPM vào đơn vị SXKD điện đòi hỏi KTQT phải giải quyết được bài toán liên tục tìm cách
tiết giảm chi phí liên quan đến máy móc, thiết bị để hạn chế tối đa số lần xảy ra sự cố (giảm
định mức số lần sự cố cho phép của các nhà máy điện), cụ thể thông qua các mục tiêu sau:
Lập kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, thiết bị định kỳ theo đúng -
hướng dẫn của nhà sản xuất.
Lập kế hoạch mua sắm các thiết bị, vật tư thay thế thường sử dụng để đảm -
bảo nếu có những sự cố xảy ra bởi nguyên nhân từ các thiết bị, vật tư đó thì
có thể khắc phục kịp thời, đảm bảo cho hoạt động SXKD diễn ra liên tục.
3.3.4 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả
3.3.4.1 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả tác nghiệp
(i) Đánh giá hiệu quả tài chính ngắn và trung hạn
Ngoài việc đo lường hiệu quả tài chính thông qua các số liệu tuyệt đối phản ánh
doanh thu, chi phí, lợi nhuận…, KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power cần phải thực hiện
đánh giá hiệu quả tài chính thông qua các chỉ tiêu tài chính tương đối định kỳ hàng năm.
149
Thông qua đó nhà quản trị có thể đánh giá được hiệu quả tài chính trong ngắn và trung hạn
của đơn vị và có cơ sở để đưa ra các quyết định điều chỉnh dự toán/kế hoạch tác nghiệp
cho kỳ tiếp theo. Một số chỉ tiêu mà KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power có thể sử dụng
để đánh giá hiệu quả tài chính trong ngắn và trung hạn như:
Thứ nhất, nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời và công suất.
ROI =
Lợi nhuận Vốn đầu tư bình quân
+ Chỉ tiêu khả năng sinh lời trên vốn đầu tư (ROI – Return on investment):
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Có rất nhiều cách tính để phản ánh chỉ tiêu này, tuy nhiên, KTQT thường sử dụng lợi nhuận
trước lãi vay và thuế (PBIT – Profit before interest and tax) để tính toán.
ROE =
Thu nhập ròng Vốn chủ sở hữu bình quân
+ Chỉ tiêu khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE – Return on equity):
Thu nhập ròng (net income) là khoản thu nhập trước khi được chi trả cho cổ đông
phổ thông và sau khi đã thanh toán cho cổ đông ưu đãi. Vốn chủ sở hữu (shareholder’s
equity) không bao gồm vốn góp của cổ đông ưu đãi. Chỉ tiêu này cho biết mức thu nhập
trong một năm mà công ty đem lại cho các cổ đông phổ thông là bao nhiêu. Trong một số
trường hợp trong năm có sự biến động về vốn chủ sở hữu của cổ đông (tăng hoặc giảm
vốn) thì KTQT nên tính toán vốn chủ sở hữu theo phương pháp bình quân.
Khả năng sinh lời trên doanh thu (ROS) =
Lợi nhuận Doanh thu
+ Chỉ tiêu khả năng sinh lời trên doanh thu (Profit margin/ROS – Return on Sales):
Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu tăng thêm thì có bao nhiêu đồng lợi
nhuận trong đó.
Năng suất lao động =
Sản lượng điện (hoặc Doanh thu) Số lượng lao động
Hiệu quả sử dụng nhiên liệu =
Khối lượng nhiên liệu tiêu thụ Sản lượng điện tạo ra
+ Chỉ tiêu đo lường năng suất (Productivity):
Thứ hai, nhóm chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính, tài sản (dựa trên BCĐKT).
Vòng quay tài sản =
Doanh thu Vốn đầu tư
+ Chỉ tiêu vòng quay tài sản (Asset turnover):
150
+ Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành (Current ratio):
Khả năng thanh toán hiện hành =
Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán hiện hành =
Tài sản lưu động − Hàng tồn kho Nợ ngắn hạn
+ Chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thời (Quick ratio):
(ii) Kế toán trách nhiệm
PV – Power và các đơn vị cần hoàn thiện kế toán trách nhiệm tại từng đơn vị theo
các bước như sau:
Bước 1, nhận diện trung tâm trách nhiệm. Như đã trình bày tại Chương 2 của luận
án về thực trạng kế toán trách nhiệm tại các đơn vị thuộc PV-Power, các trung tâm trách
nhiệm có thể nhận diện bao gồm: trung tâm chi phí, trung tâm lợi nhuận, trung tâm đầu tư.
+ Về trung tâm chi phí. Trung tâm chi phí là tất cả các bộ phận, phòng ban thuộc cơ
quan Tổng Công ty và các đơn vị. Có những trung tâm chi phí phát sinh chi phí lớn như
bộ phận mua nhiên liệu hay bộ phận sản xuất. Cũng có những trung tâm chi phí phát sinh
chi phí nhỏ như các phòng ban thuộc khối quản lý như phòng tài chính – kế toán, phòng
hành chính – nhân sự v.v… Trong ngắn hạn, các đơn vị thuộc PV-Power cần tập trung
đánh giá hiệu quả hoạt động của các trung tâm phát sinh chi phí lớn. Trong tương lai, PV-
Power có thể xem xét hoàn thiện hệ thống đánh giá nội bộ hiện có của mình theo hướng
chi tiết cho các bộ phận, phòng ban và cá nhân bằng cách áp dụng hệ thống chi tiêu đo
lường hiệu quả KPI (Key Performance Indicator).
+ Về trung tâm lợi nhuận. Có thể coi mỗi đơn vị vận hành nhà máy điện là một
trung tâm. Thực tế cho thấy, PV-Power và các đơn vị đã đánh giá hiệu quả hoạt động của
các trung tâm này bằng cách phân tích chênh lệch của các chỉ tiêu như doanh thu, chi phí,
lợi nhuận trong các báo cáo phân tích chênh lệch ngắn và trung hạn.
+ Về trung tâm đầu tư. Có thể coi mỗi một đơn vị vận hành nhà máy điện là một
trung tâm đầu tư. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chức năng quyết định đầu tư tại mỗi đơn vị
là rất mờ nhạt. Hầu hết mọi quyết định liên quan đến đầu tư đều do cơ quan Tổng Công ty
quyết định. Vì vậy, áp dụng các chỉ tiêu đo lường mức sinh lời như ROI sẽ không thể đánh
giá khách quan được trách nhiệm của nhà quản trị tại các đơn vị. Trong tương lai, khi các
đơn vị được phân quyền thực hiện chức năng đầu tư rõ ràng hơn thì KTQT tại PV-Power
có thể xem xét áp dụng kế toán trách nhiệm với các trung tâm đầu tư.
Bước 2, xác định các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả hoạt động của từng loại trung
151
tâm.
+ Về trung tâm chi phí. Cơ sở để đánh giá hiệu quả hoạt động của từng trung tâm
chi phí là phân tích chênh lệch các chi phí. Trong đó cần phân tích rõ ảnh hưởng của các
nguyên nhân tới chênh lệch. Tiếp tục ví dụ trong phần phân tích chênh lệch chi phí nhiên
liệu của nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 ở trên, có thể thấy tổng chênh lệch của chi phí nhiên
liệu là giảm 9 tỷ VNĐ so với dự toán, trong đó: do giá đầu vào nhiên liệu giảm nên chi phí
nhiên liệu giảm 140 tỷ VNĐ so với dự toán; do khối lượng nhiên liệu tăng nên chi phí
nhiên liệu tăng 131 tỷ VNĐ. Như vậy, có thể đánh giá bộ phận mua hàng đã hoạt động
hiệu quả và có trách nhiệm trong kỳ khi mua được nhiên liệu với giá thấp hơn dự toán.
Còn bộ phận sản xuất mặc dù tiêu dùng khối lượng nhiên liệu nhiều hơn dự toán (tăng gấp
1,566 lần) nhưng lại tạo ra sản lượng điện với tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ tiêu dùng nhiên
liệu (1,488), đóng góp làm tăng doanh thu nhờ yếu tố lượng. Do đó, cũng có thể đánh giá
bộ phận sản xuất đã hoàn thành nhiệm vụ và hoạt động hiệu quả.
+ Về trung tâm lợi nhuận. Việc phân tích chênh lệch các chỉ tiêu như doanh thu, chi
phí, lợi nhuận cũng phải chỉ rõ ảnh hưởng của yếu tố lượng và yếu tố giá tới chênh lệch lợi
nhuận. Các chỉ tiêu lợi nhuận cũng cần phải được xem xét lựa chọn phù hợp, ví dụ: trường
hợp nhà quản trị của trung tâm lợi nhuận được quyền quyết định vốn vay và sử dụng vốn
vay thì chỉ tiêu lợi nhuận phù hợp để đánh gía trách nhiệm của trung tâm lợi nhuận là chỉ
tiêu lợi nhuận trước thuế (EBT – Earning before tax); trường hợp nhà quản trị của trung
tâm lợi nhuận không được quyền quyết định vốn vay và sử dụng vốn vay thì chỉ tiêu lợi
nhuận phù hợp là chỉ tiêu lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT – Earning before interest
and tax) v.v…
+ Về trung tâm đầu tư. Áp dụng các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời trong nội
dung đánh giá hiệu quả tài chính ngắn và trung hạn ở trên.
3.3.4.2 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả chiến lược
(i) Đánh giá hiệu quả tài chính dài hạn
Như đã đề xuất trong phần phân tích chênh lệch dài hạn ở trên, KTQT tại PV-Power
cần phải đánh giá lại hiệu quả tài chính trong cả vòng đời của dự án điện theo từng năm.
Kết thúc mỗi năm, KTQT cần thu thập số liệu thực hiện của năm đó kết hợp với số thống
kê của những năm trước và dự báo điều chỉnh của các năm trong tương lai trên cơ sở FS
đã được phê duyệt để chiết khấu các dòng tiền về thời điểm đánh giá. Từ đó, nhà quản trị
chiến lược mới có thông tin đáng tin cậy để đưa ra những quyết định chiến lược cho từng
152
dự án nhà máy điện.
(ii) So sánh điểm chuẩn (Benchmarking)
Việc áp dụng nội dung so sánh điểm chuẩn tại các đơn vị thuộc PV-Power có thể
thực hiện theo lộ trình như sau:
Giai đoạn 1 – So sánh điểm chuẩn bên trong. So sánh điểm chuẩn bên trong là
việc so sánh hiệu quả hoạt động giữa các bộ phận bên trong doanh nghiệp. Đối với PV-
Power, có thể coi mỗi đơn vị vận hành nhà máy điện là một bộ phận. PV-Power tiến hành
so sánh hiệu quả hoạt động của các nhà máy điện với nhau để tìm ra nhà máy nào hoạt
động hiệu quả nhất và điều chỉnh hoạt động của những nhà máy còn lại theo phương thức
hoạt động của nhà máy có hiệu quả cao nhất. Để phù hợp hơn, PV-Power nên phân các
nhà máy thành các nhóm để thực hiện so sánh, ví dụ: (1) nhóm nhà máy nhiệt điện than
bao gồm Vũng Áng 1, Thái Bình 2, Sông Hậu 1, Long Phú 1; (2) nhóm nhà máy nhiệt điện
khí bao gồm Cà Mau 1&2, Nhơn Trạch 1, Nhơn Trạch 2, Nhơn Trạch 3&4, Kiên Giang
1&2; (3) nhóm nhà máy thủy điện bao gồm Hủa Na, ĐakĐrinh, Nậm Cắt. Việc so sánh
nên tập trung vào quy trình sản xuất và tổ chức quản lý nhằm mục tiêu tiết giảm chi phí
sản xuất và chi phí quản lý cho toàn bộ hệ thống các đơn vị thuộc PV-Power. Việc so sánh
điểm chuẩn bên trong có thể thực hiện ngay tại thời điểm này.
Giai đoạn 2 – So sánh điểm chuẩn bên ngoài. So sánh điểm chuẩn bên ngoài tập
trung vào việc so sánh hiệu quả hoạt giữa công ty với những đối thủ cạnh tranh có sự tương
đồng nhất định. PV-Power có thể áp dụng so sánh điểm chuẩn bên ngoài với những đơn
vị SXKD điện khác để so sánh hiệu quả hoạt động. Các đối thủ cạnh tranh cần có sự tương
đồng nhất định như: loại nhà máy điện (nhiệt điện than, khí hay thủy điện); công suất của
nhà máy… So sánh điểm chuẩn bên ngoài có thể được xem xét thực hiện khi các nhà máy
điện của PV-Power tham gia thị trường phát điện cạnh tranh. Kèm theo đó là mức độ công
khai, minh bạch thông tin trên thị trường cũng cần phải được nâng cao thì KTQT tại PV-
Power và các đơn vị mới có thể áp dụng nội dung này.
Giai đoạn 3 – So sánh điểm chuẩn tối ưu. So sánh điểm chuẩn tối ưu là việc so
sánh công ty với những đối thủ cạnh tranh dẫn đầu. Đối thủ cạnh tranh đó không nhất thiết
phải là dẫn đầu trong toàn bộ mọi khía cạnh mà có thể chỉ dẫn đầu ở một mảng/lĩnh vực
nào đó. Khi thị trường điện Việt Nam phát triển đến cấp độ 3 – thị trường bán lẻ điện cạnh
tranh, lúc đó sẽ có rất nhiều doanh nghiệp khác vận hành những nguồn điện mới hiện đại
hơn, tiết kiệm chi phí hơn so với các nguồn điện mà PV-Power đang vận hành. Việc so
153
sánh hiệu quả giữa các nguồn điện của PV-Power với các nguồn điện hiện đại đó sẽ giúp
nhà quản trị chiến lược của PV-Power có những định hướng phát triển trong tương lai phù
hợp hơn với xu thế phát triển của thị trường điện. Việc xem xét đầu tư những nguồn điện
mới có công nghệ tiên tiến, hiện đại tương đồng với những nguồn điện của các doanh
nghiệp dẫn đầu ngành sẽ được xem xét tới trong tương lai.
(iii) Phân tích giá trị kinh tế, giá trị cổ đông (SVA/EVA)
Trong khi phân tích chênh lệch và đánh giá hiệu quả dài hạn chỉ tập trung vào các
thông tin tài chính và sử dụng các dòng tiền được ghi nhận theo các quy định ghi nhận
doanh thu và chi phí của KTTC (sử dụng số liệu doanh thu và chi phí trên BCTC để chạy
dòng tiền) và theo quan điểm của dự án thì phân tích giá trị kinh tế, giá trị cổ đông cung
cấp thông tin tài chính và cả phi tài chính dựa trên các dòng tiền ra và vào theo quan điểm
của chủ sở hữu.
Giá trị kinh tế được đo lường bằng giá trị cổ phiếu (share price performance) và
dòng tiền (flow of funds). Theo đó, chủ sở hữu đầu tư vào cổ phiếu không chỉ kỳ vọng thu
được lợi ích từ các dòng tiền trực tiếp liên quan đến doanh nghiệp phát hành cổ phiếu đó
(cổ tức) mà còn kỳ vọng thu được lợi ích từ giá cả giao dịch của cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán.
Nội dung này phù hợp áp dụng tại PV-Power khi cơ quan Tổng Công ty cổ phần
hóa thành công. Khi đó, KTQT tại PV-Power cần thực hiện các công việc sau để cung cấp
thông tin về giá trị cổ đông cho các chủ sở hữu (đặc biệt đối với chủ sở hữu nắm quyền chi
phối là Nhà nước), cụ thể:
Thứ nhất, dự báo dòng tiền từ cổ tức. Dựa trên các dòng tiền đã được điều chỉnh
từ FS gốc đã được thực hiện ở nội dung phân tích chênh lệch dài hạn, KTQT tiếp tục dự
báo các chính sách thuế, dự báo khả năng thanh toán, dự báo chính sách chi trả cổ tức để
có thể đưa ra dự báo về dòng tiền từ cổ tức hàng năm mà chủ sở hữu có thể nhận được từ
dự án. Trên cơ sở đó chiết khấu về thời điểm đánh giá để xác định được giá trị từ cổ tức cổ
phiếu có thể đem lại cho cổ đông.
Thứ hai, dự báo giá cả cổ phiếu. Ngoài yếu tố cung cầu trên thị trường thì giá cả
cổ phiếu luôn có những biến động theo những thông tin về tình hình hoạt động của doanh
nghiệp. Do đó, KTQT của PV-Power có thể căn cứ vào những dự báo (ước thực hiện) về
kết quả kinh doanh trong một kỳ để dự báo giá cả cổ phiếu trong tương lai gần cho cổ
đông. Qua đó, cổ đông có thể có những chiến lược mua bán cổ phiếu hiệu quả hơn. Bên
154
cạnh đó, KTQT có thể xây dựng những kế hoạch, chiến lược trong dài hạn nhằm nâng cao
hiệu quả, sức cạnh tranh của PV-Power qua đó cổ đông không chỉ có cơ hội nhận được cổ
tức cao hơn mà còn có thể kỳ vọng vào giá cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai.
3.3.5 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng ra quyết định
3.3.5.1 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng ra quyết định tác nghiệp
(i) Lập các phương án SXKD dựa vào mô hình CVP
Các đơn vị vận hành này máy nhiệt điện thuộc PV-Power có chi phí biến đổi chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi phí và giá bán điện có thể biến động trong ngắn và trung hạn
phụ thuộc vào yếu tố giá nhiên liệu và chi phí vận chuyển. Vì vậy, KTQT tại các đơn vị
này cần phải lập được các phương án SXKD điện khác nhau để nhà quản trị có thể đưa ra
quyết định lựa chọn phương án tối ưu. Cụ thể, KTQT tại các đơn vị cần vận dụng mô hình
chi phí – khối lượng – lợi nhuận (CVP) để lập các phương án SXKD liên quan đến thay
đổi biến phí và giá bán. Cụ thể:
Thứ nhất, ứng dụng mô hình CVP để xác định sản lượng hòa vốn. Mỗi một nhà
máy nhiệt điện có cơ cấu chi phí khác nhau, giá bán điện vì thế cũng khác nhau. Dẫn tới
mỗi một nhà máy điện có điểm hòa vốn khác nhau. Để thuận tiện cho việc xây dựng dự
toán/kế hoạch và đưa ra những phương án SXKD khác nhau để nhà quản trị lựa chọn,
KTQT tại PV-Power cần xác định sản lượng hòa vốn cho từng nhà máy nhiệt điện theo
Sản lượng hòa vốn =
Tổng định phí Lợi nhuận góp đơn vị
công thức:
Trong đó:
o Sản lượng hòa vốn là điểm sản lượng mà tại đó Tổng doanh thu dự kiến
của một nhà máy = Tổng chi phí dự kiến của một nhà máy.
o Lãi trên biến phí 17 đơn vị = Giá bán đơn vị - Biến phí đơn vị.
Sản lượng hòa vốn tỷ lệ nghịch với lãi trên biến phí đơn vị. Mức sản lượng hòa vốn
càng thấp đồng nghĩa với việc đơn vị vận hành nhà máy nhiệt điện càng có nhiều cơ hội
gia tăng lợi nhuận bằng việc tiêu thụ được nhiều sản lượng điện hơn. Vì vậy, mục tiêu của
17 Còn được gọi là số dư đảm phí hay lợi nhuận góp.
155
các đơn vị thuộc PV-Power là bằng cách nào phải làm tăng lãi trên biến phí đơn vị.
Lãi trên biến phí là một số tuyệt đối được xác định bằng (=) Giá bán đơn vị trừ (-)
Biến phí đơn vị. Nếu xét về mặt lý thuyết của KTQT về quản trị chiến lược thì giá bán
được xác định theo quy luật cung cầu của thị trường. Do đó, việc tiết giảm được biến phí
đơn vị sẽ làm tăng lãi trên biến phí, qua đó giảm sản lượng hòa vốn và tăng lợi nhuận cho
đơn vị. Tuy nhiên, thực tế hiện nay việc xác định giá bán điện không theo quy luật thị
trường mà được xác định phụ thuộc vào chi phí sản xuất của từng nhà máy điện (như đã
trình bày trong phần đặc điểm giá bán điện của PV-Power tại Chương 2 của luận án). Tùy
vào từng hợp đồng mua bán điện với từng nhà máy điện mà giá bán điện được xác định
khác nhau tuy nhiên thông thường là dựa vào một tỷ lệ nhất định nhân với các loại biến
phí. Do đó, hiện nay, giá bán điện của các nhà máy nhiệt điện thuộc PV-Power biến động
tỷ lệ thuận với biến phí đơn vị của nhà máy đó. Vì vậy, để lãi trên biến phí tăng, thông
thường chi phí biến đổi sẽ phải tăng tương ứng. Điều này đi ngược lại với những lý thuyết
của KTQT. Số liệu thực tế trong tháng 2/2015 của nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 đã chỉ rõ
vấn đề này. Theo đó, nhờ giá dầu thế giới giảm khiến cho giá nhiên liệu khí cũng giảm
theo. Dẫn tới chi phí nhiên liệu và giá thành điện trong tháng 2/2015 của nhà máy nhiệt
điện Cà Mau 1 giảm mạnh so với kế hoạch (giá thành giảm 59,72%). Đồng thời, sản lượng
điện trong tháng 2/2015 của nhiệt điện Cà Mau 1 tăng 56,61% so với kế hoạch. Tuy nhiên,
lợi nhuận không biến động đáng kể so với kế hoạch bởi giá bán điện bị giảm cùng chiều
với chi phí nhiên liệu khiến cho lãi trên biến phí thực tế giảm so với kế hoạch. Nhà máy
nhiệt điện Cà Mau 1 phải tăng sản lượng điện bởi thực tế sản lượng hòa vốn đã tăng mạnh
so với dự toán. Nếu sản xuất không bằng hoặc thấp hơn sản lượng hòa vốn thực tế thì kết
quả SXKD tháng 2/2015 của nhiệt điện Cà Mau 1 sẽ bị lỗ.
Vì vậy, việc dự báo được giá nhiên liệu, qua đó dự báo giá bán điện và sản lượng
hòa vốn có ý nghĩa vô cùng quan trọng tới chức năng năng hoạch định trong ngắn và trung
hạn của nhà quản trị.
Thứ hai, ứng dụng CVP để xây dựng các phương án SXKD có sự thay đổi về
biến phí và doanh thu. Trong tương lai, khi thị trường điện Việt Nam thực sự đạt được
mức độ cạnh tranh cao trong khâu phát điện, việc áp dụng CVP để xác định sản lượng hòa
vốn và để xây dựng các phương án SXKD sẽ càng quan trọng và thực sự cần thiết. KTQT
156
tại các đơn vị thuộc PV-Power cần áp dụng CVP để xây dựng các dự toán linh hoạt hay
các báo cáo phân tích độ nhạy với nhiều kịch bản kinh doanh trong trường hợp thay đổi
biến phí, sản lượng để nhà quản trị có thể lựa chọn và đưa ra quyết định tối ưu nhất.
(ii) Định giá bán sản phẩm
Trong tương lai, khi mức độ cạnh tranh của thị trường phát điện Việt Nam gia tăng,
KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power cũng cần ứng dụng các nội dung định giá bán sản
phẩm và kết hợp với mô hình CVP để xây dựng được các phương án SXKD có chất lượng,
sát với thực tế và có mức độ khả thi cao hơn.
3.3.5.2 Hoàn thiện KTQT phục vụ chức năng ra quyết định chiến lược
Việc thực hiện các nội dung KTQT phục vụ nhà quản trị chiến lược thực hiện các
chức năng như kiểm soát, đo lường hiệu quả như kiến nghị ở trên có thể giúp nhà quản trị
chiến lược đưa ra những quyết định chiến lược, cụ thể:
Thứ nhất, sử dụng nội dung phân tích chênh lệch dài hạn và đánh giá hiệu quả tài
chính dài hạn có thể đưa ra quyết định tiếp tục vận hành hay bán nhà máy điện.
Thứ hai, sử dụng nội dung so sánh điểm chuẩn (benchmarking) có thể giúp nhà
quản trị chiến lược đưa ra quyết định cải tiến, cải tổ ở bộ phận hoặc khâu nào trong quy
trình hoạt động để có thể nâng cao sức cạnh tranh.
Thứ ba, sử dụng nội dung phân tích giá trị cổ đông (SVA) có thể giúp nhà quản trị
chiến lược đưa ra quyết định tiếp tục nắm giữ vốn hay thoái vốn đầu tư tại các đơn vị.
3.4 Lộ trình và điều kiện thực hiện các giải pháp hoàn thiện
3.4.1 Lộ trình thực hiện các giải pháp hoàn thiện
Tác giả tổng hợp lại các giải pháp và đề xuất lộ trình thực hiện đối với PV-Power
và các đơn vị như sau:
Thứ nhất, các giải pháp tức thời. Là các giải pháp có thể áp dụng ngay tại PV-
Power và các đơn vị mà không cần phải đầu tư chi phí quá lớn cũng như cần quá trình
chuẩn bị lâu dài.
Thứ hai, các giải pháp tương lai. Là các giải pháp có thể áp dụng trong tương lai
phù hợp với mức độ cạnh tranh của thị trường phát điện Việt Nam (cụ thể là khi cơ chế
xác định giá bán điện được thay đổi) cũng như phù hợp với các đặc điểm khác bên trong
157
và bên ngoài PV-Power.
Có những nội dung KTQT không những chỉ cần hoàn thiện tại thời điểm hiện tại
mà còn cần tiếp thục hoàn thiện trong tương lai.
Bảng 3.8 – Lộ trình áp dụng các giải pháp hoàn thiện nội dung KTQT tại các đơn
vị thuộc PV-Power
TT
Tương lai
Giải pháp
I
Hoàn thiện nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định
1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định tác nghiệp 1.1 Nhận diện, phân loại chi phí 1.2 Xây dựng định mức chi phí 1.3 Lập dự toán tác nghiệp (trong ngắn và trung hạn) 2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định chiến lược
II
Hoàn thiện nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát
1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát tác nghiệp 1.1 Phân tích chênh lệch ngắn và trung hạn 2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát chiến lược 2.1 Phân tích chênh lệch dài hạn 2.2 Xây dựng hệ thống tổng thể tiết giảm chi phí (Kaizen Management) III Hoàn thiện nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả
1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả tác nghiệp 1.1 Đánh giá hiệu quả tài chính ngắn và trung hạn 1.2 Kế toán trách nhiệm 2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả chiến lược 2.1 Đánh giá hiệu quả tài chính dài hạn 2.2 So sánh điểm chuẩn (Benchmarking) 2.2 Phân tích giá trị kinh tế, giá trị cổ đông (SVA/EVA)
IV Hoàn thiện nội dung KTQT phục vụ chức năng ra quyết định
1 Nội dung KTQT phục vụ chức năng ra quyết định tác nghiệp 1.1 Lập các phương án SXKD dựa vào mô hình CVP 1.2 Định giá bán sản phẩm 2 Nội dung KTQT phục vụ chức năng ra quyết định chiến lược 2.1 Quyết định tiếp tục vận hành hay bán nhà máy điện 2.2 Quyết định cải tiến, cải tổ ở bộ phận hoặc khâu nào trong quy trình
Tức thời x x x x x x x x x x x x x x
x x x x x x x x x x x
hoạt động
2.3 Quyết định tiếp tục nắm giữ vốn hay thoái vốn đầu tư tại các đơn vị
x
158
(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
3.4.2 Điều kiện thực hiện các giải pháp hoàn thiện
Từ những nguyên nhân của các hạn chế được chỉ ra trong chương 2 của luận án, tác
giả đưa ra các kiến nghị cũng như điều kiện để có thể thực hiện các giải pháp ở trên như
sau:
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước
- Thứ nhất, về phía Chính phủ và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Chính phủ cần phải
tiếp tục cái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước theo định hướng của Đảng nhằm
nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Chính phủ cũng cần đẩy mạnh tạo
môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi nhằm thu hút vốn đầu tư vào các lĩnh
vực, ngành nghề quan trọng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam cần thực hiện tái cơ cấu PV-Power theo đúng phương án
tái cơ cấu Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015 đã được
phê duyệt theo Quyết định 2174/QĐ-DKVN ngày 09/10/2013 [23] và Quyết định
1735/QĐ-DKVN nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của PV-Power [24], cải thiện
năng lực quản lý và hiệu quả hoạt động.
- Thứ hai, về phía Bộ Công thương và EVN. Bộ Công thương và EVN phải: (i) Tiếp
tục vận hành thị trường phát điện cạnh tranh tốt hơn nữa, thu hút nhiều hơn các đơn
vị phát điện độc lập IPP tham gia thị trường nhằm gia tăng thêm nhiều nguồn cung
điện giá rẻ; (ii) Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để đưa vào vận hành thị
trường bán buôn điện cạnh tranh và thị trường bán lẻ điện cạnh tranh theo đúng lộ
trình đã được định ra trong Quyết định 26/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt lộ trình,
các điều kiện hình thành và phát triển các cấp độ thị trường điện lực tại Việt Nam
[25] và theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt theo Quyết định 1208/2011/QĐ-
TTg về việc phê duyệt quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 – 2020
có xét đến năm 2030.
- Thứ ba, về phía Bộ Tài chính. Bộ Tài chính cần : (i) Ban hành văn bản hướng dẫn
KTQT trong từng lĩnh vực hoạt động theo quy định của Luật Kế toán 2015 để các
doanh nghiệp có thể tham khảo vận dụng. Riêng đối với các doanh nghiệp có sử
dụng vốn của nhà nước cần bắt buộc vận dụng nhằm nâng cao năng lực quản lý,
tránh thất thoát, lãng phí vốn đầu tư của nhà nước; (ii) Khuyến khích phát triển hoạt
động kinh doanh dịch vụ kế toán, trong đó có dịch vụ KTQT để các doanh nghiệp
159
có thể lựa chọn dịch vụ trong trường hợp nhân sự làm kế toán của doanh nghiệp
chưa đáp ứng được; (iii) Tổ chức các chương trình đào tạo và cấp chứng chỉ cho
các KTQT viên công chứng/hành nghề (Certified Management Accountant –
CMA).
Về phía Hiệp hội nghề và các cơ sở đào tạo KTQT
- Hiệp hội nghề nên thành lập tổ chức nghề nghiệp cho các KTQT viên công chứng
(CMA) giống như Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam – VACPA hiện nay để
có thể kết nối, quản lý và tạo cơ hội phát triển nghề nghiệp cho các thành viên tham
gia.
- Các cơ sở đào tạo cần nâng cao chất lượng đào tạo KTQT theo hướng tiếp cận với
những nội dung/kỹ thuật KTQT mới, hiện đại trên thế giới; kết hợp với những nội
dung/kỹ thuật KTQT truyền thống để tạo ra một nền tảng lý luận vững chắc cho
KTQT đảm bảo đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của doanh nghiệp trong bối cảnh
hội nhập sâu rộng với kinh tế quốc tế.
Đối với Tổng công ty Điện lực Dầu khí và các đơn vị thành viên
- Thứ nhất, về nhu cầu thông tin KTQT. Các nhà quản trị cấp cao của PV-Power và
các đơn vị thành viên phải nhận thức được đúng đắn và sâu sắc các định hướng phát
triển kinh tế xã hội nói chung và quy hoạch phát triển ngành điện nói riêng để có
thể hiểu được mức độ cạnh tranh của nền kinh tế và của thị trường điện trong thời
gian tới sẽ mạnh mẽ như thế nào. Để từ đó, các nhà quản trị cấp cao của PV-Power
mới hiểu được sự cần thiết và vai trò của thông tin KTQT cung cấp và có những
hành động để hoàn thiện KTQT tại PV-Power và các đơn vị thành viên.
- Thứ hai, về cải tiến quy trình, kỹ thuật sản xuất. PV-Power và các đơn vị thành viên
phải liên tục tìm kiếm những quy trình, kỹ thuật sản xuất mới hoặc nghiên cứu áp
dụng công nghệ mới trong sản xuất. Từ đó hoàn thiện các cơ chế quản lý kinh tế,
tài chính, sản xuất kinh doanh nhằm không ngừng nâng cao năng lực sản xuất, tiết
giảm chi phí.
- Thứ ba, về quản trị nhân sự. PV-Power và các đơn vị thành viên cần có những cơ
chế mới trong quản lý nhân sự theo hướng khuyến khích người lao động nỗ lực
tham gia sản xuất, công hiến hết sức cho công ty.
- Thứ tư, về người làm KTQT. PV-Power cần tổ chức đào tạo cho các nhân viên,
160
người làm KTQT để nâng cao trình độ. PV-Power cũng có thể thuê các tổ chức tư
vấn có uy tín về xây dựng quy trình thực hiện KTQT với từng giai đoạn phát triển
của công ty trong từng thị trường điện.
Thứ năm, về ứng dụng công nghệ thông tin trong KTQT. PV-Power cần tổ chức -
161
ứng dụng công nghệ thông tin để phân tích và xử lý kịp thời các thông tin.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong chương này, luận án đã đề xuất được các giải pháp hoàn thiện những hạn chế còn
tồn tại trong thực trạng áp dụng các nội dung KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power. Các
giải pháp được luận án đưa ra đảm bảo phù hợp với triển vọng phát triển ngành điện Việt
Nam và định hướng phát triển của PV-Power. Các giải pháp hoàn thiện được đưa ra dựa
trên các nội dung cơ bản của KTQT bao gồm: (1) nội dung KTQT phục vụ chức năng
hoạch định; (2) nội dung KTQT phục vụ chức năng kiểm soát; (3) nội dung KTQT phục
vụ chức năng đánh giá hiệu quả; (4) nội dung KTQT phục vụ chức năng ra quyết định.
Để thực hiện các giải pháp trên, chương này cũng đã chỉ rõ lộ trình và các điều kiện
để thực hiện được các giải pháp từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội nghề
và cơ sở đào tạo KTQT và từ phía PV-Power cũng như các đơn vị thành viên. Nhìn chung,
162
chương 3 của luận án đã đạt được các mục tiêu ban đầu đề ra.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh phải đối mặt với những khó khăn, thách thức của quá trình hội nhập quốc
tế, Đảng và Nhà nước luôn có những định hướng, chỉ đạo kịp thời, đúng đắn trên mọi
phương diện, mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Tái cơ cấu kinh tế nói chung và
các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh được đặt ra như một nhu cầu cấp bách và tất yếu trong giai đoạn này. PV-Power
là một tổng công ty do Nhà nước nắm giữ 100% vốn, đóng vai trò vô cùng quan trọng
trong nền kinh tế với nhiệm vụ cung cấp trên 10% tổng sản lượng điện cho cả nước. Vì
vậy, PV-Power là một trong những doanh nghiệp Nhà nước nhận được nhiều sự quan tâm
và tạo điều kiện nhất trong quá trình tái cơ cấu. Một trong những nội dung quan trọng của
tái cơ cấu PV-Power là hoàn thiện bộ máy quản lý, năng lực quản trị. Kế toán quản trị được
coi như là một trong những bộ phận cấu thành của hệ thống quản trị tại PV-Power và các
đơn vị thành viên. Thực tế này đòi hỏi Kế toán quản trị tại PV-Power và các đơn vị thành
viên cũng phải được hoàn thiện theo hướng nâng cao chất lượng và phạm vi thông tin cung
cấp. Qua đó, nhà quản trị các cấp tại PV-Power và các đơn vị thành viên có thể sử dụng
các thông tin đó trong việc thực hiện các chức năng quản lý của mình nhằm đạt được các
mục tiêu của công cuộc tái cơ cấu doanh nghiệp. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Hoàn
thiện kế toán quản trị tại các đơn vị thuộc Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam” để
nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp góp phần thực hiện công cuộc tái cơ cấu doanh
nghiệp tại PV-Power.
Theo các mục tiêu đề ra ban đầu, luận án đã đạt được những kết quả sau đây:
Thứ nhất, hệ thống hóa và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận chung về KTQT theo tiến
trình lịch sử của KTQT bao gồm các vấn đề: sự thay đổi các quan điểm về KTQT, các khái
niệm và bản chất của KTQT, vai trò, đối tượng và phương pháp của KTQT.
Thứ hai, làm rõ các nội dung của KTQT trong mối quan hệ với các cấp quản lý và
các chức năng quản lý của nhà quản trị. Theo đó, các nội dung KTQT bao gồm 04 nhóm
cơ bản là: nội dung KTQT phục vụ chức năng hoạch định, nội dung KTQT phục vụ chức
năng kiểm soát, nội dung KTQT phục vụ chức năng đánh giá hiệu quả và nội dung KTQT
163
phục vụ chức năng ra quyết định.
Thứ ba, tìm hiểu các đặc điểm bên trong và bên ngoài ảnh hưởng tới nội dung
KTQT tại doanh nghiệp SXKD điện như PV-Power. Từ đó, xác định rõ những nội dung
KTQT cụ thể cần thiết và phù hợp áp dụng tại PV-Power.
Thứ tư, qua phân tích đặc điểm bên trong các đơn vị thuộc PV-Power và đặc điểm
thị trường điện Việt Nam để tìm hiểu rõ hơn thực trạng nội dung KTQT đang được áp
dụng tại các đơn vị thuộc PV-Power. Đồng thời có những đánh giá về kết quả đạt được,
những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc áp dụng từng nội dung KTQT tại
các đơn vị thuộc PV-Power.
Thứ năm, trên cơ sở các luận cứ khoa học và tìm hiểu thực trạng, luận án đề xuất
các giải pháp hoàn thiện những hạn chế còn tồn tại đảm bảo phù hợp với triển vọng phát
triển ngành điện Việt Nam và định hướng phát triển của PV-Power. Các giải pháp tập trung
hoàn thiện nội dung KTQT tại các đơn vị thuộc PV-Power theo 04 nhóm nội dung cơ bản
được nêu trên. Đồng thời, luận án cũng đã chỉ rõ lộ trình và các điều kiện để thực hiện được
các giải pháp từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội nghề và cơ sở đào tạo
KTQT và từ phía PV-Power cũng như các đơn vị thành viên.
Tác giả hy vọng kết quả luận án sẽ có những đóng góp cho sự phát triển về mặt lý
luận KTQT nói chung và lý luận KTQT tại các đơn vị SXKD điện nói riêng. Bên cạnh đó,
tác giả cũng hi vọng kết quả nghiên cứu tại chương 3 của luận án sẽ được áp dụng trên
thực tiễn tại PV-Power và qua đó góp phần hoàn thành nhiệm vụ tái cơ cấu PV-Power như
164
đã được đề ra.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Minh Thành (2013), Bất cập khi vận dụng nguyên tắc giá gốc để
hạch toán, theo dõi các khoản đầu tư cổ phiếu và lập BCTC, Tạp chí
nghiên cứu Tài chính Kế toán số 12.2013.
2. Nguyễn Minh Thành (2014), Bàn về hành lang pháp lý trong hoạt động
ủy thác xuất nhập khẩu, Tạp chí nghiên cứu Tài chính Kế toán số 02.2014.
3. Nguyễn Minh Thành (2017), Bàn về lịch sử kế toán quản trị thế giới và xu
hướng của kế toán quản trị Việt Nam trong thời gian tới, Tạp chí nghiên
cứu Tài chính Kế toán số 05.2017.
4. Nguyễn Minh Thành (2017), Người làm kế toán quản trị - từ nhân viên kế
toán chi phi cho tới thành viên trong bộ máy quản lý, Tạp chí nghiên cứu
Tài chính Kế toán số 06.2017.
5. Nguyễn Minh Thành (2017), Yếu tố ảnh hưởng đến kế toán quản trị tại
các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh điện, Tạp chí Tài chính số
08.2017.
6. Nguyễn Minh Thành (2017), Kinh nghiệm thiết kế chương trình, nội dung
đào tạo kế toán quản trị của các hiệp hội nghề nghiệp và các trường đại
học trên thế giới, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Khoa Kế toán – Học viện Tài
chính năm 2017.
7. Nguyễn Minh Thành (2017), Các lý thuyết về kinh tế, xã hội thường được
sử dụng trong nghiên cứu kế toán, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Khoa Kế
toán – Học viện Tài chính năm 2017.
8. Nguyễn Minh Thành (2017), Tổng quan sự thay đổi các quan điểm về kế
toán quản trị và sự phát triển các nội dung/kỹ thuật của kế toán quản trị,
xi
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Khoa Kế toán – Học viện Tài chính năm 2017.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Ban chấp hành Trung ương khóa XII (2016), Nghị quyết số 05-NQ/TW về
một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh
tranh của nền kinh tế, Nghị quyết Hội nghị.
2. Đoàn Đình Thiêm (1995), Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm chăn nuôi trong doanh nghiệp nhà nước, Luận án Tiến sĩ.
3. Đoàn Xuân Tiên (2009), Giáo trình kế toán quản trị, NXB Tài chính.
4. Đỗ Thị Thu Hằng (2016), Hoàn thiện KTQT trong các tổng công ty ngành
xây dựng thuộc Bộ Quốc Phòng, Luận án Tiến sĩ.
5. Giang Thị Xuyến (2002), Tổ chức KTQT và phân tích kinh doanh trong
doanh nghiệp Nhà nước, Luận án Tiến sĩ.
6. Hồ Văn Nhàn (2010), Tổ chức công tác KTQT chi phí và giá thành dịch
vụ vận chuyển hành khách trong các doanh nghiệp taxi, Luận án Tiến sĩ.
7. Hoàng Văn Tưởng (2010), Tổ chức KTQT với việc tăng cường quản lý
hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp xây lắp Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ.
8. Ngô Thế Chi & Phạm Văn Đăng (2013), Kế toán Việt Nam – Quá trình
hình thành và phát triển, NXB Tài chính.
9. Ngụy Thu Hiền (2013), Xây dựng mô hình KTQT trong các công ty cổ
phần chuyển phát nhanh thuộc tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ.
10. Nguyễn Bích Hương Thảo (2016), Tổ chức hệ thống KTQT trong các
doanh nghiệp chế biến thủy sản, Luận án Tiến sĩ.
11. Nguyễn Hoàn (2012), Tổ chức KTQT chi phí trong các doanh nghiệp sản
xuất bánh kẹo của Việt Nam, Luận án Tiến sĩ.
12. Nguyễn Hữu Khoa (2012), Thị trường điện: Định hình hiện trạng ngành
xii
điện Việt Nam (Kỳ 2).
13. Nguyễn Ngọc Quang (2014), Giáo trình kế toán quản trị, NXB Đại học
Kinh tế quốc dân.
14. Nguyễn Quốc Thắng (2011), Tổ chức KTQT chi phí, giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp thuộc ngành giống cây trồng Việt Nam, Luận án Tiến sĩ.
15. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2013), Tổ chức KTQT chi phí vận tải hàng hóa
trong các công ty vận tải đường bộ Việt Nam, Luận án Tiến sĩ.
16. Nguyễn Việt (1995), Vấn đề hoàn thiện hệ thống kế toán Việt Nam, Luận
án Tiến sĩ.
17. Phạm Hồng Hải (2012), Nghiên cứu quản trị chi phí kinh doanh theo quá
trình hoạt động trong các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ.
18. Phạm Quang (2002), Phương hướng xây dựng hệ thống báo cáo KTQT và
tổ chức vận dụng vào các doanh nghiệp Việt Nam, Luận án Tiến sĩ.
19. Phạm Thị Tuyết Minh (2015), Tổ chức KTQT trong các doanh nghiệp
thuộc Tổng công ty công nghiệp ô tô Việt Nam, Luận án Tiến sĩ.
20. Phạm Tiến Bình (1996), Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản
phẩm cây lâu năm ở các doanh nghiệp nông nghiệp trong điều kiện hiện
nay, Luận án Tiến sĩ.
21. Phạm Văn Dược (1997), Phương hướng xây dựng nội dung và tổ chức vận
dụng KTQT vào các doanh nghiệp Việt Nam, Luận án Tiến sĩ.
22. Phạm Văn Dược (2011), Giáo tình Kế toán quản trị, NXB Lao động.
23. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (2013), Quyết định 2174/QĐ-DKVN ngày
09/10/2013, Quyết định.
24. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (2014), Quyết định 1735/QĐ-DKVN ngày
01/08/2014, Quyết định.
25. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định 26/2006/QĐ-TTg ngày
26/01/2006, Quyết định.
26. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1208/QĐ-TTg phê duyệt quy
hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 có xét đến năm
xiii
2030, Quyết định.
27. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 929/QĐ – TTg phê duyệt “Tái
cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công
ty nhà nước giai đoạn 2011 – 2015”, Quyết định.
28. Trần Hải Long (2011), Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các
doanh nghiệp thuộc tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, Luận án Tiến sĩ.
29. Trần Thị Nhung (2016), Hoàn thiện hệ thống thông tin KTQT tại các
doanh nghiệp chè trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Luận án Tiến sĩ.
30. Trần Văn Dung (2002), Tổ chức KTQT và giá thành trong doanh nghiệp
sản xuất ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ.
31. Vũ Thị Kim Anh (2012), Hoàn thiện KTQT chi phí vận tải tại các doanh
nghiệp vận tải đường sắt Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế, Luận án Tiến sĩ.
Tài liệu tiếng nước ngoài
32. Anandarajan & Christopher (1986), A mision approach to customer
profitability analysis, International Journal of Physical Distribution and
Material Management, vol. 17, no. 7.
33. ACCA and FTSE (2007), Improving Climate Change Reporting, ACCA:
London.
34. Adams et al (2004), Triple Bottom Line: A Review of the Literature, in A.
Henriques and Richardson (ed.), The Triple Bottom Line: Does It All Add
Up?, Earthscan: London, 17-25.
35. Bjoornenak and Olson (1999), Unbundling management accounting
innovations, Management Accounting Reasearch, 10(4).
36. Bromwich (1990), The case for strategic management accounting the role
of accounting information for strategy in competitive markets.
Accounting, Organizations and Society, vol. 15.
37. Chandler (1977), The Visible Hand: The Managerial Revolution in
American Business. Cambridge: Havard University Press.
38. Chapman Hopwood and Shields (2007), Handbook of Management
xiv
Accounting Research Vol.1, 2, 3, Elsevier.
39. Charles T. Horngren, Srikant M. Datar, Madhav V. Rajan (2014), Cost
Accounting.
40. Chatfield (1977), A History of Accounting Thought. Huntington: Krieger
Publishing.
41. CIMA (2010), Accounting for Climate Change: How Management
Accountants Can Help Organizations Mitigate and Adapt to Climate
Change, CIMA: London.
42. CIMA (2015), Fundametal of Management Accounting.
43. Codling (1996), Best Practice Benchmarking – An International
Perspective.
44. Darius Gliaubicas (2012), The research of Management Accounting
Evolution in the Context of Economic Changes, Economics and
Management: 17 (1).
45. Digman (1999), Strategic Management: Concepts, Processes, Decisions.
46. Drury (1992), Cost and Management Accounting, 3rd edn.
47. Drury (2004), Management and Cost Accounting, 6th edn. London,
Thomson Learning.
48. Elkington (2004), Enter the Triple Bottom Line, in A. Henriques and
Richardson (ed.), The Triple Bottom Line: Does It All Up?, Earthscan:
London, 1-16.
49. Frederick W. Taylor (1911), The Principles of Sicientific Management.
50. Flavel & William (1996), Strategic Management: A Practical Approach.
London: Prentice-Hall International.
51. Francis (1994), Step by Step Competitive Strategy. London: Routledge.
52. Fayol, H. (1949), General and Industrial Management. (trans. C Storrs).
London: Pitman.
53. Gray & Collison (2001), The Professional Accountancy Bodies and the
Provision of Education and Training in Relation to Environmental Issues,
xv
ICAS: Edinburgh.
54. Gray & Milne (2004), Towards Reporting on the Triple Bottom Line:
Mirages, Methods and Myths, in A. Henriques and Richardson (ed.), The
Triple Bottom Line: Does It All Add Up?, Earthscan: London, 17-25.
55. Guilding & Pike (1994), Brand Valuation: A model and empirical Study
of Organizational implications, Accounting and Business Research.
56. Guilding, Cravens & Tayles (2000), An international comparison of
strategic management accounting practices, Management Accounting
Research.
57. Hansen and Mowen (1997), Management Accounting, 4th edn.
58. Heagy (1991), Determining optimal quality costs by considering cost of
lost sales, Journal of Cost Management for the Manufacturing Industry.
59. Henriques & Richardson (eds) (2004), The Triple Bottom Line: Does It All
Add Up?, Earthscan: London.
60. Hopwood (1987), The Archaelogy of Accounting System. Accounting,
Organizations and Society, 12, 207 – 234.
61. Hoskin & Macve (1988), Cost Accounting and the Genesis of
Managerialism: The Springfiled Armory Episode. Proceedings of the
Second Interdisciplinary Perspective on Accounting Conference.
Manchester: University of Manchester.
62. ICAEW (2004), Sustainability and The Role of Accountants, ICAEW:
London.
63. IFAC (1998), International Management Accounting Practice Statement:
Management Accounting Concepts.
64. IFAC (2009), Sustainablity Framework, IFAC: New York.
65. Johnson & Kaplan (1987), Relevance Lost: The Rise and Fall of
Management Accounting. Boston: Havard Business School Press.
66. Johnson & Kaplan (1991), Relevance Lost: The Rise and Fall. Journal of
Management Accounting Research Vol. 1, Fall.
67. Johnson (1981), Toward A New Understanding of Nineteenth Century
xvi
Cost Accounting. The Acccounting Review, Vol.56, No.3.
68. Johnson (1992), Relevance Regained: From Top-Down Control to
Bottom-Up Empowerment. The Free Press, New York: NY.
69. Kader & Luther (2006), IFAC’s Conception of the Evolution of
Management Accounting: A Research Note, Advances in Management
Accounting, Vol. 15, pp. 229-247.
70. Kaplan & Norton (1996), The Balanced Scorecard: Translating Strategy
into Action.
71. Kaplan (1983), Measuring manufacturing performance: A new challenge
for managerial accounting research.
72. Kaplan (1984), The Evolution of Management Accounting, The
Accounting Review.
73. Kotler, Leong & Tan (1999), Marketing Management – An Asian
Perspective. Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall International.
74. Lele & Sheth (1987), The Customer is Key. Chichester: John Wiley &
Sons.
75. Loft (1995), The History of Management: Relevance Found. London &
New York: Prentice Hall.
76. Maurice Clark (1923), Studies in The Economics of Overhead Costs.
Unversity of Chicago Press.
77. Max Weber (1946), Essays in Sociology.
78. Michael R. Kinney & Cecily A. Raiborn (2011), Cost Accounting:
Foundations and Evolutions.
79. Mike Tayles (2011), Strategic Management Accounting, Edited by Abdel-
Kader in “Review of Management Accounting Research”, p22.
80. Murray and Zimmermann (1997), Can benchmarking give you a
competitive edge?, Management accounting (UK) 79(2): 46.
81. Okano & Suzuki (2007), A History of Japanese Management Accounting.
Handbook of Management Accounting Research, 2, 1119-1137.
82. Parker (1969), Management Accounting: A Historical Perspective.
xvii
London: Macmillan and Co. Ltd.
83. Parker (1980), History of Accounting for Decisions. Deddlington.
84. Porter (1980), Competitive Strategy: Techniques for Analysing Industries
and Competitors, New York: Free Press.
85. Porter (1985), Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior
Performance, New York: Free Press.
86. Robert Chenhall (2007), Theorising Contingencies in Management
Control Systems Research, Handbook of Management Accounting
Research, Vol.1.
87. Roslender and Hart (2003), In search of strategic management
accounting: Theoretical and field study perspectives, Management
Accounting Research, 14(3).
88. Shank (1989) Strategic Cost Management: New Wine or just New bottles?,
Journal of Management Accounting Research.
89. Shank (1996), Analysing technology investment-from NPV to Strategic
Cost Management (SCM), Management Accounting Research, 7(2).
90. Shank (2007), Strategic Cost Management: Upsizing, downsizing and
right (?) sizing.
91. Simmonds (1981), Strategic Management Accounting, Management
Accounting (UK), 59 (4).
92. Simmonds (1982), Strategic Management Accounting for Pricing: A case
example, Accounting and Business Research, 47.
93. Simon et al (1954), Centralization vs Decentralization in organizing the
controller’s department.
94. Solomons (1954), Costing Techniques – Their Effect on Management
Practice and Policy. Cost Accountant.
95. Tayles, Bramley, Adshed & Farr (2002), Dealing with the management of
intellectual capital: The potential role of strategic management
accounting, Accounting Auditing and Accountability Journal, 15(2).
96. William Lanen, Shannon Anderson, Michael Maher (2013),
xviii
Fundamentals of Cost Accounting.
97. Wilson (1991), Strategic Management Accounting; in Ashton, Hopper &
Scapens (1991), Issues in Management Accounting.
98. Wilson (1994), Competitor Analysis, Management Accounting (UK), vol.
72, no. 4.
99. Zahirul Hoque (2006), Strategic Management Accounting, Second
xix
Edition.