Luận án Tiến sĩ: Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay
lượt xem 7
download
Luận án Tiến sĩ "Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay" trình bày các nội dung chính sau: Luận giải, làm rõ một số vấn đề lý luận về nâng cao năng lực thực thi pháp luật và phân tích thực trạng năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp cơ bản nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay
- 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng và không trùng lặp với những công trình đã được công bố. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Đức Độ
- 4 MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 9 1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài 9 1.2. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết 22 Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC THI PHÁP LUẬT CỦA CÁN BỘ, CHIẾN SĨ CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM 29 2.1. Quan niệm về năng lực và nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam 29 2.2. Những nhân tố cơ bản quy định nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam 45 Chương 3 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC THỰC THI PHÁP LUẬT, DỰ BÁO NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC THI PHÁP LUẬT CỦA CÁN BỘ, CHIẾN SĨ CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM HIỆN NAY 73 3.1. Thực trạng năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay 73 3.2. Dự báo những nhân tố tác động và yêu cầu nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam 108 Chương 4 GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC THI PHÁP LUẬT CỦA CÁN BỘ, CHIẾN SĨ CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM HIỆN NAY 124 4.1. Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡ ng nhằm nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam hi ện nay 124 4.2. Phát huy nhân tố chủ quan của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam trong nâng cao năng lực thực thi pháp luật của họ hiện nay 143 4.3. Xây dựng, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay 152 KẾT LUẬN 171
- 5 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 173 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 174 PHỤ LỤC 192
- 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân non trẻ (thành lập vào ngày 28/8/1998), nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng, là lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển. Để hoàn thành trọng trách của mình, lực lượng Cảnh sát biển nói chung, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển nói riêng phải có hệ thống phẩm chất, năng lực toàn diện, chuyên sâu và không ngừng được nâng cao, nhất là năng thực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của hệ thống tổ chức đảng và chỉ huy các cấp, việc nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển luôn được quan tâm và thực hiện có hiệu lực, hiệu quả. Trong thực thi pháp luật trên biển, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển luôn đề cao lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, linh hoạt xử lý những hành vi vi phạm pháp luật, những âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển. Đồng thời, luôn nêu cao tinh thần thượng tôn pháp luật, quán triệt, thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, luật pháp và các điều ước, thỏa thuận quốc tế có liên quan, không để xảy ra xung đột, bất lợi. Trên cơ sở đó, kiên quyết thực hiện bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trên thực tế, giải quyết hài hòa các quan hệ quốc tế, nhất là quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, nhất là năng lực đấu tranh chống gian
- 7 lận thương mại trên biển và các biểu hiện xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển. Hiện nay, tình hình tranh chấp chủ quy ền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quy ết li ệt h ơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trướ c thách thức lớn, tiềm ẩn nguy c ơ xung đột. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn. Trên thực địa, các thế lực thù địch vẫn tiến hành các hoạt động ngăn chặn, chống phá, xâm lấn với nhiều thủ đoạn khác nhau. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối với nướ c ta trong thời gian tới. Bên cạnh đó, sự gia tăng về số lượng, các loại hình và phạm vi hoạt động của các loại tội phạm trên biển cũng ngày càng nghiêm trọng và phức tạp. Đây là thách thức an ninh chúng ta phải đối mặt. Mặt khác, nhiệm vụ xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh và hiện đại, trong đó Cảnh sát biển Việt Nam là một trong những lực lượng được ưu tiên tiến thẳng lên hiện đại, đang đặt ra yêu cầu đối với lực lượng này phải có sự phát triển toàn diện hơn cả về phẩm chất, năng lực đủ sức hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới. Thực tế đó đòi hỏi phải tiếp tục quan tâm một cách toàn diện việc “nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo” [78, tr. 158], như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Vì vậy, nghiên cứu “Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay” là vấn đề có tính cấp thiết cả lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- 8 Mục đích nghiên cứu Luận giải, làm rõ một số vấn đề lý luận về nâng cao năng lực thực thi pháp luật và phân tích thực trạng năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp cơ bản nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án; khái quát giá trị của các công trình đã tổng quan và xác định những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết. Luận giải làm rõ năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam; nhân tố cơ bản quy định nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam. Đánh giá thực trạng năng lực thực thi pháp luật, dự báo những nhân tố tác động và yêu cầu nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay. Đề xuất giải pháp cơ bản nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận án nghiên cứu một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp cơ bản nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam.
- 9 Về không gian: Luận án tập trung nghiên đối tượng cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam trực tiếp thực thi pháp luật trên biển. Về thời gian: Các số liệu, tài liệu, khảo sát… được giới hạn từ năm 2008 (từ khi Cảnh sát biển Việt Nam chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng) đến nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật, Nhà nước, quân đội. Cơ sở thực tiễn Tình hình năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay qua các báo cáo sơ kết, tổng kết của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh và các cơ quan, đơn vị Cảnh sát biển Việt Nam; các bộ, ngành có liên quan; các báo cáo sơ kết, tổng kết các số liệu điều tra, khảo sát của tác giả luận án ở các Bộ Tư lệnh vùng Cảnh sát biển Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng một số phương pháp cụ thể như: Phân tích và tổng hợp; diễn dịch và quy nạp; hệ thống và cấu trúc; lôgíc và lịch sử; khái quát hóa, trừu tượng hóa; điều tra xã hội học theo phiếu hỏi, đối tượng, tỷ lệ; phỏng vấn; so sánh, thống kê; phương pháp chuyên gia... 5. Những đóng góp mới của luận án Xây dựng khái niệm năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam.
- 10 Xác định một số nhân tố cơ bản quy định nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam. Giải pháp cơ bản, đồng bộ, khả thi nhằm nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về năng lực thực thi pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam. Về thực tiễn: Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, học t ập và huấn luyện về nội dung có liên quan đến năng lực thực thi pháp luật ở các học viện, nhà trườ ng và các đơn vị trong toàn quân, nhất là các đơn vị của Cảnh sát biển, Quân chủng Hải quân, Bộ đội Biên phòng,… 7. Kết cấu của luận án Kết cấu luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các công trình khoa học đã công bố liên quan đề tài của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 11 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài 1.1.1. Các công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến vị trí, vai trò và yêu cầu thực thi pháp luật bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển, đảo của Tổ quốc Việt Nam Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Chiến lược và Phát triển (2003) , “Chiến lược bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo Việt Nam đến năm 2020” [10], trên cơ sở đánh giá kinh nghiệm quản lý, bảo vệ chủ quyền của những quốc gia mạnh về bi ển nh ư: M ỹ, Canada, Ôxtrâylia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc…, xuất phát từ thực trạng các văn bản pháp luật của Việt Nam về biển, cũng như việc vận dụng Luật Biển quốc tế vào công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, các tác giả đã chỉ rõ: Một trong những yêu cầu cấp thiết nhất đối với Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế biển và bảo vệ vững chắc chủ quyền biển , đảo của Tổ quốc là phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước về biển. Đánh giá về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam về biển , các tác giả khẳng định: “Về cơ bản, trên cơ sở phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, Công ước về Luật Biển 1982, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về biển của Việt Nam bước đầu đã tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho việc tăng cường quản lý nhà nước trên biển. Tuy nhiên, xét tổng thể hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về biển của nước ta còn nhiều bất cập như thiếu tính đồng bộ, việc hệ thống hóa, sửa đổi, bổ sung và hoàn
- 12 thiện chậm, chưa theo kịp tình hình và chưa được tiến hành một cách thường xuyên” [10, tr. 62 63]. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), “ Phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam” [5], đã đề cập đến vị trí, vai trò của biển, đảo đối với phát triền kinh tế Việt Nam. Các tác giả đã đi sâu phân tích và luận giải lý do phải kết hợp phát triển kinh tế biển gắn với qu ốc phòng, an ninh trên biển, đảo Việt Nam. Đồng thời nêu lên định hướ ng và giải pháp kết hợp phát triển kinh tế biển g ắn v ới quốc phòng, an ninh trên biển, đảo Việt Nam đạt hiệu quả thiết thực. Nguyễn Tấn Diễn (2009), “Một số biện pháp tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới” [68] tiếp tục khẳng định tầm quan trọng trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Theo đó, hoạt động giáo dục pháp luật trong tình hình mới cần có những biện pháp phù hợp mới đem lại kết quả như mong muốn. Trong đó chú ý đến sự phù hợp của đối tượng để nhằm mục đích nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân. Đồng thời, công trình khẳng định tầm quan trọng và ý nghĩa của công tác phổ biến kiến thức pháp luật những năm gần đây đã thu được những kết quả trong việc giúp cán bộ, nhân dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Công tác phổ biến kiến thức pháp luật được thực hiện dưới nhiều hình thức và phát huy được hiệu quả của nó như: Trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn pháp luật, hòa giải cơ sở. Thông qua những hoạt động thực tiễn pháp lý đó, cơ quan chuyên môn đã có điều kiện phổ biến trực tiếp cho các đối tượng cần trợ giúp pháp lý về kiến thức pháp luật. Nguyễn Ngọc Trường (2014), “Về vấn đề biển Đông” [172], đã phân tích làm rõ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
- 13 Trường Sa qua các thời kỳ lịch sử, từ thời kỳ nhà nước phong kiến Việt Nam, thời Pháp thuộc, thời chính quyền Bảo Đại và chính quyền Sài Gòn. Đặc biệt, tác giả đã khẳng định Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực thi chủ quyền biển đảo đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1975 với nhiều văn bản luật quan trọng và thực tế quản lý hành chính trên thực địa của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam làm căn cứ. Tác giả cũng dành phần quan trọng để phân tích tham vọng của các nước lớn (Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ) và ASEAN đối với Biển Đông. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra nhiều dẫn chứng và khẳng định: “Một vấn đề mang tính quy luật của chính sách Trung Quốc đối với Biển Đông, đó là, mỗi khi xuất hiện khoảng trống quyền lực nước lớn tại Đông Nam Á/Biển Đông, Trung Quốc liền nắm lấy cơ hội để mở rộng sự hiện diện của họ” [172, tr. 357]. Tác giả khẳng định trong tất cả các tranh chấp chủ quyền biển, đảo với Việt Nam, không một quốc gia nào có một quá trình lịch sử và xác lập chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lâu dài như Việt Nam. Do đó, cần tiếp tục phát huy luật pháp quốc tế, thế chính nghĩa của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, vị trí địa chiến lược của Việt Nam bên bờ Biển Đông, qua đó tối đa hóa lợi ích quốc gia của nước ta trong vấn đề Biển Đông. Nguyễn Viết Thảo (2017), “Bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong bối cảnh mới” [151] đã đi sâu phân tích và đưa ra nhận định về bối cảnh quốc tế tiếp tục vận động phức tạp, phân tích thực trạng, tình hình diễn biến trên Biển Đông trong thời gian gần đây, nhất là tình hình quan hệ giữa Việt Nam Trung Quốc trên biển và nêu ra những đòi hỏi chiến lược cho Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả nêu lên một số chính sách áp dụng để bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong bối cảnh mới.
- 14 Lý Nam Hải (2020), “Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cho ngư dân biển ở Việt Nam” [88], trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho ngư dân biển trong thời gian qua, tác giả đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho ngư dân biển ở nước ta hiện nay: (1) Xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng xác định công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho ngư dân là nhiệm vụ của tất cả các cấp, các ngành và của toàn xã hội. (2) Đổi mới nội dung và hình thức giáo dục pháp luật cho ngư dân. (3) Xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật vừa hồng, vừa chuyên. (4) Khuyến khích và thúc đẩy các thôn, làng ven biển tích cực xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh các hương ước mới, trong đó cụ thể hóa để thực hiện các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đế đời sống hằng ngày của người dân trong thôn, làng, góp phần nâng cao nhận thức pháp luật cho ngư dân biển. (5) Song song với việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho ngư dân cần có các chương trình phát triển kinh tế vùng biển, tạo sinh kế bền vững cho ngư dân nhưng cũng cần có các hình thức xử lý nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm pháp luật của ngư dân, đặc biệt là các họat động khai thác đánh bắt của ngư dân trên biển. (6) Cần quan tâm hơn nữa việc huy động các nguồn kinh phí phục vụ cho phổ biến, giáo dục pháp luật cho ngư dân từ các nguồn ngân sách nhà nước, nguồn xã hội hóa huy động tức các tổ chức từ thiện, các doanh nghiệp và các đoàn thể xã hội, xây dựng được nguồn kinh phí có tính chất dài hơi, liên tục, đáp ứng được các chương trình, kế hoạch đề ra [88, tr. 19 20]. Nguyễn Mạnh Cường, Lương Thị Kim Dung (2020), “Hoàn thiện chính sách, luật pháp bảo đảm an ninh môi trường biển Việt Nam” [64], đã
- 15 nhận diện các hiểm họa an ninh môi trường biển Việt Nam, phân tích cơ chế, chính sách, pháp luật Việt Nam về an ninh môi trường biển và đề xuất một số giải pháp hữu hiệu cho tăng cường bảo đảm an ninh môi trường biển Việt Nam: (1) Hoàn thiện chính sách Chiến lược quốc gia về an ninh môi trường biển Việt Nam. (2) Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo đảm an ninh môi trường biển. (3) Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo đảm an ninh môi trường biển. (4) Phát triển bền vững các hoạt động du lịch, kinh tế ven bờ. Nguyễn Quốc Hương (2021), “Kinh nghiệm huy động nhận lực, tàu thuyền và phương tiện dân sự tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo của thành phố Đà Nẵng” [100], từ diễn tập khu vực phòng thủ: Chuyển lực lượng vũ trang vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu; chuyển địa phương vào trạng thái quốc phòng; tổ chức thực hành tác chiến phòng thủ, bảo vệ địa bàn Thành phố, tác giả đã khái quát rút ra những kinh nghiệm: (1) Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, ban, ngành, đoàn thể và nhân dân về công tác huy động nhân lực, tàu thuyền và phương tiện dân sự tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền các vùng biển của Tổ quốc. (2) Nâng cao chất lượng công tác xây dựng kế hoạch, hướng dẫn thực hiện; phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị và địa phương. (3) Thực hiện tốt công tác tuyển chọn, đăng ký nguồn, tiếp nhận, bàn giao nhân lực, tàu thuyền, phương tiện dân sự theo quy định; nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập lực lượng được huy động. (4) Thực hiện tốt công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài chính cho từng khâu, từng bước trong thực hiện nhiệm vụ. Song An Việt Hà (2021), “Hoạt động thực thi pháp luật trên biển: Quy định luật pháp quốc tế và pháp luật các nước tranh chấp ở Biển Đông” [1], các tác giá đã nghiên cứu vấn đề hoạt động của lực lượng thực
- 16 thi pháp luật trên biển từ góc độ pháp lý; xem xét các quy định của luật pháp quốc tế về hoạt động của lực lượng thực thi pháp luật trên biển; tìm hiểu quy định nội luật của các nước ASEAN tranh chấp Biển Đông; phân tích nội dung Luật Hải cảnh Trung Quốc; đánh giá tính tương thích của các văn bản nội luật với luật pháp quốc tế và hệ lụy đối với khu vực và cộng đồng quốc tế. Nguyễn Bá Diến, Nguyễn Hùng Cường (Đồng chủ biên, 2021), Chính sách, pháp luật trên biển Đông của Trung Quốc Nhìn từ góc độ luật pháp quốc tế [67], dưới góc độ khoa học pháp lý, các tác giả đã phân tích hệ thống chính sách, pháp luật trên Biển Đông của Trung Quốc. Từ đó, Việt Nam và cộng đồng quốc tế nhận rõ thêm mưu đồ của Trung Quốc; đồng thời có giải pháp thích hợp và hiệu quả trong việc “vừa đấu tranh, vừa hợp tác” với Trung Quốc trên Biển Đông, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán; bảo vệ hòa bình, an ninh, phát triển của khu vực và trên thế giới. Các tác giả cũng dành nội dung phân tích lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc, làm rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Trung Quốc. Các công trình khoa học tiêu biểu trên đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Mỗi công trình ở góc độ và cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đưa ra những quan niệm, định nghĩa khác nhau, đánh giá thực trạng, rút kinh nghiệm, đưa ra yêu cầu, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo vệ chủ quyền biển, đảo. 1.1.2. Các công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến năng lực và nâng cao năng lực cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam Lê Quý Trịnh (1997), “Phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ
- 17 trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [166] đã quan niệm năng lực trí tuệ là “khả năng hoạt động của trí tuệ trong việc tìm kiếm, khám phá, tích luỹ tri thức và vận dụng tri thức vào giải quyết những nhiệm vụ cuộc sống đặt ra, bảo đảm cho hoạt động của con người đạt chất lượng và hiệu quả cao” [166, tr. 17]. Tác giả đã chỉ ra cấu trúc cơ bản của năng lực trí tuệ gồm các yếu tố: Tri thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của con người. Tác giả luận giải làm rõ bản chất sự phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ là một quá trình không ngừng vươn lên chiếm lĩnh khoa học, nâng cao trình độ tư duy và khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức lý luận khoa học vào họat động lãnh đạo, chỉ huy phân đội cũng như cuộc sống và trong quan hệ xã hội. Đồng thời, tác giả cũng khái quát, phân tích những vấn đề có tính quy luật phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ là phụ thuộc vào chất lượng giáo dục, đào tạo và khả năng tự đào tạo của sĩ quan trẻ; là sản phẩm của quá trình không ngừng rèn luyện, tự rèn luyện trong hoạt động thực tiễn; chịu sự quy định của tư chất thông minh và các phẩm chất khác trong nhân cách sĩ quan trẻ; trình độ phát triển năng lực của sĩ quan trẻ gắn liền với mối bước phát triển, chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành năng lực trí tuệ của họ. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, những yêu cầu khách quan, tác giả đã đề xuất hệ thống các giải pháp cơ bản phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ hiện nay. Hoàng Ngọc Tú (1999), “Nâng cao năng lực chính trị của người cán bộ, chiến sĩ Binh chủng Tăng thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [173] đã xây dựng khái niệm năng lực chính trị của người sĩ quan cấp phân đội ở Binh chủng Tăng thiết giáp; khái quát một số đặc điểm hình thành phát triển của năng lực chính trị người sĩ quan phân đội Tăng
- 18 thiết giáp. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tác giả công trình đã khái quát được một số mâu thuẫn cơ bản cần giải quyết để nâng cao năng lực chính trị cho người sĩ quan phân đội Tăng thiết giáp trong tình hình hiện nay. Trần Danh Bích (2000), “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới” [8] đã đề cập lý giải nhiều vấn đề về vị trí, vai trò, yêu cầu, cơ cấu, nội dung phải nâng cao về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, vấn đề năng lực tổ chức, hoạt động thực tiễn dưới những phạm vi, góc độ và đối tượng nghiên cứu khác nhau. Những kết quả nghiên cứu đó đã có nhiều đóng góp cả về lý luận và thực tiễn vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại; yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đáp ứng sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong thời kỳ mới. Nguyễn Văn Dũng (2002), “Phát triển năng lực tư duy lý luận của cán bộ chính trị cấp trung đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [69] đã luận giải những biểu hiện cụ thể và đặc điểm cơ bản, vai trò của năng lực tư duy lý luận của người cán bộ chính trị cấp trung đoàn. Theo tác giả, năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các yếu tố thuộc về chủ thể, giúp chủ thể trong quá trình tư duy và phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, đáp ứng yêu cầu, mục đích đề ra. Trên cơ sở sự nhận thức phản ánh hợp quy luật, giúp chủ thể nhận thức đạt đượ c kết quả cao. Năng lực tư duy thuộc về các yếu tố chủ quan mà chủ thể tích luỹ đượ c hoặc các yếu tố thuộc về sự nỗ l ực c ủa ch ủ th ể trong quá trình nhận thức, quá trình hoạt động thực tiễn, giúp chủ thể tư duy đạt đến chân lý. Tổng cục Chính trị (2005), “Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ chủ trì công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị cơ
- 19 sở” [160] đã làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về việc nâng cao bản lĩnh chính trị trong hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ trì về chính trị, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp chủ yếu nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ trì trong hoạt động thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2006), “Bồi dưỡng năng lực công tác đảng, công tác chính trị của đội ngũ chính trị viên ở các đơn vị huấn luyện chiến đấu trong quân đội ta hiện nay” [177] đã đi sâu nghiên cứu năng lực của chính trị viên và đưa ra quan niệm, cấu trúc năng lực tiến hành công tác đảng, công tác chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội ở các đơn vị huấn luyện chiến đấu. Theo nghiên cứu của tác giả, năng lực công tác đảng, công tác chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị này gồm có: tri thức, kỹ năng công tác đảng, công tác chính trị và kỹ xảo. Năng lực đó được hình thành phát triển trong quá trình đào tạo ở các học viện, nhà trường quân đội và được tiếp tục phát triển, hoàn thiện trong hoạt động thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị; là kết quả của công tác bồi dưỡng cán bộ ở đơn vị, đồng thời là kết quả của quá trình tự học tập, tự bồi dưỡng, rèn luyện của bản thân mỗi chính trị viên. Nguyễn Văn Hữu (2007), “Nâng cao năng lực giáo dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam” [101] đã giới thiệu những vấn đề lý luận, thực tiễn về năng lực giáo dục chính trị và nâng cao năng lực giáo dục lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong đó, tác giả nhấn mạnh sự cần thiết nâng cao năng lực của người cán bộ chính trị trong việc giáo dục lý luận chính trị ở đơn vị cơ sở trước yêu cầu xây dựng Quân đội thời kỳ mới, đồng thời chỉ ra phương hướng và giải pháp
- 20 cơ bản nâng cao năng lực giáo dục đội ngũ cán bộ chính trị ở cơ sở hiện nay. Nguyễn Tiến Quốc (2011), “ Nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [141] đã đi sâu phân tích chỉ ra những phẩm chất, năng lực cần có của chính uỷ, chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam và các yêu cầu về năng lực của chính uỷ, chính trị viên. Theo tác giả, ngoài năng lực cốt lõi về công tác đảng, công tác chính trị, người chính ủy, chính trị viên còn phải có năng lực chỉ huy, quản lý đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Tác giả đã đưa ra quan niệm về nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên với việc chỉ ra chủ thể, nội dung, phương thức nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên. Đồng thời, tác giả cũng đi sâu đánh giá thực trạng, khái quát một số kinh nghiệm và đề xuất giải pháp nâng cao phẩm chất, năng lực cho đội ngũ chính uỷ, chính trị viên hiện nay. Vũ Quang Tạo (2012), “ Nâng cao năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ một đòi hỏi cấp bách hiện nay ” [147] đã tập trung luận giải những vấn đề cơ bản về năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ hiện nay. Khi đề cập đến năng lực thực tiễn của người cán bộ, tác giả cho rằng đó là tổng thể những thuộc tính hợp thành khả năng giúp người cán bộ hoạt động thực tiễn có hiệu quả theo yêu cầu nhiệm vụ, chức trách của mình. Trong đó tác giả nhấn mạnh năng lực thực tiễn của người cán bộ được thể hiện ở việc xác định mục đích của hoạt động; sử dụng có hiệu quả các lực lượng, phương tiện; phát hiện, giải quyết các mâu thuẫn; kiểm tra đánh giá kết quả, tình cảm gắn bó. Những yếu tố này có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau và tác động đến việc nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của người cán bộ. Tác giả đề xuất các giải pháp khả thi nhằm nâng cao năng lực
- 21 thực tiễn của đội ngũ cán bộ: thông qua việc bảo đảm cơ chế chính sách; giáo dục và đào tạo; phát huy vai trò nhân tố chủ quan của người cán bộ. Nguyễn Văn Huy (2013), “Nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [97] cho rằng: Năng lực không phải là những thuộc tính đơn lẻ mà là tổng thể các thuộc tính hợp thành khả năng nhận thức và hoạt động của chu thể trên những nhiệm vụ xác định nhằm đạt hiệu quả cao. Năng lực tồn tại dưới dạng tiềm năng và bộc lộ qua những hoạt động cụ thể. Năng lực luôn mang tính cụ thể, xác định của một chủ thể (một cộng đồng, một tổ chức hay một con người). Có hai loại năng lực cơ bản: Năng lực nhận thức và năng lực thực tiễn. Trong đó “năng lực thực tiễn là tổng thể những yếu tố hợp thành khả năng họat động vật chất có hiệu quả của chủ thể, trên những nhiệm vụ xác định; đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định” [97, tr. 23]. Nguyễn Văn Tương (2014), “Nâng cao bản lĩnh chính trị của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam trong thời kỳ mới” [174] đã làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý, lịch sử bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia của Việt Nam; kinh nghiệm của một số nước trong bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia; đánh giá thực trạng bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia của Việt Nam. Đặc biệt, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về bản lĩnh chính trị và nâng cao bản lĩnh chính trị; đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao bản lĩnh chính trị của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam trong thời kỳ mới. Nguyễn Văn Quyền (2016), Phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [143], đã quan niệm: “Năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay là tổng hợp những yếu tố
- 22 tri thức, kỹ xảo, kỹ năng và phương pháp giáo dục chính trị, tạo thành khả năng tổ chức và tiến hành giáo dục chính trị đạt hiệu quả cao, được tập trung ở việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục chính trị theo cương vị, chức trách được giao” [143, tr. 34]. Dưới góc độ triết học, tác giả chỉ ra những vấn đề có tính quy luật trong phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam: Phụ thuộc và chất lượng đào tạo ở nhà trường và bồi dưỡng ở đơn vị; phụ thuộc vào môi trường hoạt động ở đơn vị cơ sở; và phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của họ. Trần Hậu Tân (2016), “Kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [148], dưới góc độ triết học, tác giả cho rằng: Năng lực của con người là do hai yếu tố tạo thành là yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội. Yếu tố tự nhiên thuộc về bẩn sinh, gen di truyền… là tiền đề không thể thiếu trong sự hình thành, phát triển năng lực; yếu tố xã hội là kết quả của quá trình giáo dục, đào tạo, rèn luyện và tự giáo dục, tự rèn luyện của mỗi người mang tính quyết định đến sự hình thành, phát triển năng lực. Tác giả quan niệm: “Năng lực là tổng hòa khả năng của chủ thể trong những điều kiện nhất định, được biểu hiện ra trong hoạt động, giúp chủ thể nhận thức và giải quyết có hiệu quả công việc trong những lĩnh vực cụ thể” [148, tr. 29]. Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự Bộ quốc phòng (2016), Kết hợp giáo dục, rèn luyện đạo đức và kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam [178], đã tập trung làm rõ bản chất kết hợp giáo dục, rèn luyện đạo đức và kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở làm rõ quan niệm về giáo dục, rèn luyện đạo đức và kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam, các tác giả đưa ra quan niệm về mối quan hệ giữa kết hợp giáo dục, rèn luyện đạo đức và kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam là
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nâng cao năng lực cạnh tranh của khách sạn Việt Nam trong thời gian tới
0 p | 751 | 156
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành viễn thông Việt Nam
0 p | 515 | 90
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của tỉnh Hải Dương
0 p | 654 | 84
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Quản lý tài chính góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế Việt Nam
183 p | 193 | 70
-
Luận án Tiến sĩ: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán Việt Nam
152 p | 415 | 41
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các khách sạn Việt Nam trong thời gian tới
0 p | 188 | 36
-
Luận án Tiến sĩ: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội trong tiến trình hội nhập quốc tế
0 p | 158 | 35
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản lý nhà nước nhằm nâng cao thị phần vận tải của đội tàu biển Việt Nam
0 p | 185 | 35
-
Luận án Tiến sĩ: Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế trên thị trường Việt Nam
185 p | 117 | 27
-
Luận án Tiến sĩ: Nâng cao năng lực điều hành của Giám đốc doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập quốc tế - Nghiên cứu điển hình trong ngành Điện Việt Nam
188 p | 70 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Đánh giá năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN
248 p | 34 | 10
-
Luận án Tiến sĩ: Nâng cao dung lượng của hệ thống thông tin vô tuyến có nhận thức dựa trên OFDM
128 p | 53 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Kiến trúc: Giải pháp thiết kế tích hợp vỏ bao che nhằm nâng cao hiệu quả năng lượng cho văn phòng cao tầng tại khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam
232 p | 11 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Nâng cao hiệu năng các phương pháp phân loại đối tượng trong ảnh
27 p | 24 | 4
-
Luận án Tiến sĩ: Nâng cao tính năng kinh tế-kỹ thuật và giảm mức độ phát thải ô nhiễm của động cơ xe gắn máy chạy bằng LPG và ethanol
184 p | 41 | 4
-
Luận án Tiến sĩ: Xác định quan hệ tố chất sức mạnh với kỹ thuật nhảy phát bóng, nhảy chuyền bóng trong bóng chuyền
150 p | 42 | 3
-
Luận án Tiến sĩ: Nâng cao chất lượng giảng viên các trường cao đẳng nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội
217 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn