Trang 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM NGUYỄN THỊ THU HÀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) NGÀNH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ- NGÂN HÀNG MÃ SỐ 60.31.12 Cán bộ hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Tấn Hoàng
Tp.HCM, tháng 12/2006
Trang 2
MỤC LỤC
Mở đầu
PHẦN 1: LÝ THUYẾT ...............................................................................................1
1.1 Giới thiệu chung về Ngân hàng Thương mại Việt Nam .........................................
.......................................................................................................................................1
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển NHTM ..............................................................1
1.1.2 Giới thiệu về NHTM ............................................................................................4
1.1.2.1 Khái niệm ..........................................................................................................4
1.1.2.2 Phân loại ............................................................................................................5
1.1.2.3 Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại...............................................................6
1.2 NHTM Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới ............................................................8
1.2.1 NHTM cùng với nền kinh tế Việt Nam trên bước đường hội nhập .....................8
1.2.2 Sự cần thiết hội nhập WTO của hệ thống NHTM Việt Nam………………..…11
1.2.3 Trình tự các bước chuẩn bị cho sự hội nhập của NHTM………………………12
1.2.4 Các bài học kinh nghiệm của hệ thống ngân hàng các nước khi tham gia hội nhập
tài chính quốc tế………………………………………………………………………15
1.3 Giới thiệu chung về tổ chức thương mại thế giới…………………………………19
1.3.1 Khái quát………………………………………………………………………..19
1.3.2 Các chức năng của WTO……………………………………………………….20
1.3.3 Cơ cấu của WTO………………………………………………………………..20
1.3.4 Những nguyên tắc, luật lệ cơ bản của WTO……………………………………21
1.3.5 Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam……………………………………….26
PHẦN 2: THỰC TRẠNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI……………………….31
2.1 Tình hình hoạt động của các NHTM Việt Nam…………………………………..31
2.2 Sự chuẩn bị của hệ thống NHTM Việt Nam cho sự hội nhập……………………48
2.2.1 Chính phủ phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống NHTMQD nhằm từng bước lành
mạnh hoá tình hình tài chính của các NH này………………………………………..48
2.2.2 Tiến hành cổ phần hoá các ngân hàng quốc doanh……………………………..51
2.2.3 Đối với các NHTMCP………………………………………………………….51
2.2.4 Nâng cao tiềm lực tài chính……………………………………………………52
2.2.5 Từng bước hiện đại hoá dịch vụ cung cấp……………………………………..53
Trang 3
2.2.6 Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và chính sách quản lý hoạt động NH….55
2.3 Cơ hội cho các ngân hàng nội địa khi gia nhập WTO……………………………55
2.4 Những khó khăn và thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam………….61
2.4.1 Gián tiếp………………………………………………………………………..62
2.4.2 Trực tiếp………………………………………………………………………..62
PHẦN 3 : GIẢI PHÁP………………………………………………………………68
3.1 Giải pháp từ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước………………………………..68
3.1.1 Về phía Chính phủ………………………………………………………………68
3.1.2 Về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ……………………………………….68
3.2 Giải pháp từ chính các ngân hàng………………………………………………..70
3.2.1 Tăng cường năng lực tài chính………………………………………………….70
3.2.2 Đa dạng hoá dịch vụ cung cấp, đa dạng hoá đối tượng khách hàng…………….71
3.2.3 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán…………………….71
3.2.4 Xác định khách hàng mục tiêu………………………………………………….72
3.2.5 Nâng cao năng lực quản trị điều hàng…………………………………………..72
3.2.6 Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên bán hàng………………………………73
3.2.7 Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách ngân hàng……………….74
3.2.8 Tăng cường chất lượng hoạt động………………………………………………74
Kết luận
- (cid:9) -
Trang 4
Phần 1: LÝ THUYẾT
1.1 Giới thiệu chung về ngân hàng thương mại Việt Nam
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển NHTM
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát
triển của từng thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng Đất nước.
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong
kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng ngân hàng được
thiết lập và bảo hộ bởi thực dân Pháp thông qua Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng
Đông Dương vừa đóng vai trò là ngân hàng Trung ương trên toàn cõi Đông Dương
(Việt Nam, Lào, Campuchia), vừa là ngân hàng thương mại. Ngân hàng này là công cụ
phục vụ đắc lực chính sách thuộc địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho tư bản Pháp.
Vì thế, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cuộc Cách mạng Tháng 8 lúc bấy giờ
là phải từng bước xây dựng nền tiền tệ và hệ thống ngân hàng độc lập tự chủ. Nhiệm
vụ đó đã trở thành hiện thực khi bước sang năm 1950, công cuộc kháng chiến chống
Pháp ngày một tiến triển mạnh mẽ với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến
trường và mở rộng vùng giải phóng. Sự chuyển biến của cục diện cách mạng cũng đòi
hỏi công tác kinh tế, tài chính phải được củng cố và phát triển theo yêu cầu mới. Trên
cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ II
(tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc
lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam - Ngân hàng của Nhà nước
dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á để thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: Phát
hành giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất,
phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh
xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay
đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Năm 1960, Ngân hàng Quốc Gia
Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phù hợp với hiến
pháp 1946. Những năm sau khi Miền Nam giải phóng 1975, việc tiếp quản Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam cộng hoà và các Ngân hàng tư bản tư nhân dưới chế độ Nguỵ
quyền Sài Gòn đã mở đầu cho quá trình nhất quán hoạt động ngân hàng toàn quốc theo
cơ chế hoạt động ngân hàng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tháng 7 năm
1976, đất nước được thống nhất về phương diện Nhà nước, nước Cộng hoà Xã hội
Trang 5
Chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia ở miền Nam được hợp nhất
vào NHNN Việt Nam, tạo thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất của cả nước.
Hệ thống tổ chức thống nhất của NHNN bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ sở
chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và các ngân
hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước.
Căn cứ vào những biến đổi quan trọng về tình hình và nhiệm vụ cách mạng
cũng như về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quá
trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được chia làm 4 thời kỳ như
sau:
Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được
thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng
trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân
hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng
thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách;Phát triển tín dụng ngân hàng
phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu
tranh tiền tệ với địch.
Thời kỳ 1955 - 1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền
Bắc xây dựng và chiến đấu, vừa ra sức chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam;
mọi hoạt động kinh tế xã hội phải chuyển hướng theo yêu cầu mới. Trong thời kỳ này,
Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau;
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều
kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế.
- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi
phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam.
Thời kỳ 1975 - 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh
giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của
chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả
nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam cộng hoà (ở miền Nam) đã được quốc
hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện
nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới của nước
Trang 6
CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978.
Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như
là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo
nguyên tắc thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng-
chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối
những năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay.
Thời kỳ 1986 đến nay: từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiện quan
trọng, đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng Việt Nam thể hiện
qua một số "cột mốc" có tính đột phá sau đây:
+ Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà
nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang
hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động ngân hàng đã được
hình thành và hoàn thiện dần - Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp
lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và
công ty tài chính ) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng
Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp - Trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu
hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi:
+ Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động kinh
doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi nhiệm vụ của một
Ngân hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền; Là ngân hàng của
các ngân hàng và là Ngân hàng của Nhà nước; NHTW là cơ quan tổ chức việc điều
hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ
yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân
hàng cấp 2.
+ Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh
toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế
tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là quá trình ra
đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp 2 với các loại hình sở hữu khác nhau
gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh
hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác xã tín dụng, QTDND,
công ty tài chính...Trong thời gian này, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đã
Trang 7
được thành lập gồm: 1) Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam; 2) Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam; 3) Ngân hàng Công thương Việt Nam; 4) Ngân hàng ngoại
thương Việt Nam.
+ Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng Việt Nam không
ngừng đổi mới và lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng trách của mình trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước trong thiên niên kỷ mới. Những dấu ấn
dưới đây liên quan trực tiếp và thúc đẩy quá trình đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân
hàng:
Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế (IMF, WB, ADB)
Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động
ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo.
Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998;
Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long (Quyết định số
769/TTg, ngày 18/9/1997).
Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999).
Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại
tài chính và hoạt động của các NHTMCP.
Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng - Bước
cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra.
Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với chuẩn
quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập NH chính sách xã hội trên cơ sở
Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng chính sách với tín dụng
thương mại theo cơ chế thị trường.
1.1.2 Giới thiệu về ngân hàng thương mại:
1.1.2.1 Khái niệm:
Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các
công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm,
rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và
cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên. Như vậy có thể nói rằng
Trang 8
NHTM là một loại định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền
kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền
nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động, tập trung lại, đồng thời sử dụng
vốn đó để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân để phục vụ phát triển kinh tế-
xã hội
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong
nền kinh tế. Sự có mặt của NHTM trong hầu hết các mặt hoạt động của nền kinh tế xã
hộI đã chứng minh rằng ở đâu có một hệ thống NHTM phát triển thì ở đó sẽ có sự phát
triển với tốc độ cao của nền kinh tế
Nghị định của Chính phủ số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa:
“Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện
các mục tiêu kinh tế của nhà nước”
1.1.2.2 Phân loại ngân hàng thương mại:
Căn cứ hình thức sở hữu
- NHTM quốc doanh: là ngân hàng kinh doanh bằng vốn cấp phát của ngân sách nhà
nước
- NHTM cổ phần: là những ngân hàng hoạt động như công ty cổ phần, nguồn vốn
ban đầu do các cổ đông đóng góp
- NHTM liên doanh: có vốn được góp bởi một bên là ngân hàng Việt Nam, một bên
là ngân hàng nước ngoài, có trụ sở đặt tại Việt Nam và hoạt động theo luật pháp
Việt Nam
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo vốn và luật
pháp nước ngoài, được phép mở chi nhánh tại Việt Nam và chi nhánh này hoạt
động theo luật pháp Việt Nam
Dựa vào sản phẩm:
- Ngân hàng bán buôn: số lượng sản phẩm cung cấp cho khách hàng không nhiều
nhưng giá trị từng sản phẩm là rất lớn. Khách hàng chủ yếu của ngân hàng này là
các công ty, xí nghiệp quy mô lớn, các tập đoàn kinh tế
- Ngân hàng bán lẻ: số lượng sản phẩm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng rất
nhiều nhưng giá trị từng sản phẩm không lớn, phần lớn ngân hàng này cho vay để
Trang 9
sản xuất vấn đề tiêu dùng hoặc sản xuất với quy mô nhỏ hộ gia đình. Vì vậy, khách
hàng chủ yếu là cá nhân và các doanh nghiệp vừa, nhỏ
- Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ
Căn cứ lĩnh vực hoạt động:
- Ngân hàng chuyên doanh: hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nào đó như công
nghiệp, nông nghiệp, xuất nhập khẩu… hoặc một vài nghiệp vụ ngân hàng như
ngân hàng cầm cố bất động sản, ngân hàng đầu tư bất động sản… Do nhu cầu
khách hàng ngày càng đa dạng nên loại ngân hàng này đang có xu hướng chuyển
sang kinh doanh tổng hợp để bảo toàn và thu hút khách hàng
- Ngân hàng đa năng, kinh doanh tổng hợp: là loại ngân hàng hoạt động ở mọi lĩnh
vực kinh tế và thực hiện bất kỳ nghiệp vụ nào cho phép của một NHTM
1.1.2.3 Nghiệp vụ NHTM:
(cid:153) Nghiệp vụ nguồn vốn: Là nghiệp vụ hình thành nên các nguồn vốn hoạt động của
ngân hàng
- Vốn điều lệ và các quỹ
+ Vốn điều lệ: là nguồn vốn ban đầu khi ngân hàng mới bắt đầu đi vào hoạt động.
Vốn điều lệ phải đạt mức tối thiểu theo quy định của pháp luật (mỗi loại hình ngân
hàng pháp luật quy định mức riêng). Vốn điều lệ có thể tăng lên nhờ cấp bổ sung hoặc
phát hành cổ phiếu bổ sung, hoặc được kết chuyển từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ
theo quy định của luật pháp mỗi nước
+ Các quỹ của ngân hàng: được hình thành khi ngân hàng đi vào hoạt động, bao gồm
các quỹ trích từ lãi ròng hàng năm của ngân hàng như: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ,
các quỹ dự phòng (tài chính, trợ cấp mất việc làm), quỹ đầu tư phát triển, quỹ khác
(khen thưởng, phúc lợi)…
- Vốn huy động: là nguồn vốn chủ yếu sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của
NHTM. Nguồn vốn huy động gồm có:
+ Tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng
+ Tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức và cá nhân
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
+ Nguồn vốn huy động qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền
gửi…
Trang 10
- Vốn đi vay:
+ Vay ngân hàng nhà nước dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có
giá; cầm cố, tái cầm cố các thương phiếu; vay lại theo hợp đồng tín dụng
+ Vay của các NHTM khác qua thị trường liên ngân hàng, hợp đồng mua lại
+ Vay của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế
- Nguồn vốn khác: vốn tiếp nhận từ ngân sách nhà nước để thực hiện các chương
trình, dự án theo kế hoạch tập trung của nhà nước, vốn chiếm dụng của khách hàng
trong quá trình thực hiện dịch vụ không dùng tiền mặt
(cid:153) Nghiệp vụ sử dụng vốn (nghiệp vụ có):
- Thiết lập dự trữ: các NHTM không sử dụng toàn bộ nguồn vốn cho hoạt động kinh
doanh, phải dành một phần dự trữ thích hợp nhằm đáp ứng những yêu cầu sau:
+ Thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân hàng nhà nước
+ Thực hiện các lệnh rút tiền và thanh toán chuyển khoản của khách hàng
+ Chi trả các khoản tiền gửI đến hạn, chi trả lãi
+ Đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý trong ngày của khách hàng
+ Thực hiện các khoản chi tiêu hàng ngày tại ngân hàng
Dự trữ của ngân hàng có thể tồn tại dưới hình thức tiền mặt, tiền gửi tại ngân hàng
khác và các chứng khoán có tính thanh khoản cao
- Cấp tín dụng: bao gồm cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, chiết khấu thương phiếu
và chứng từ có giá, cho thuê tài chính và bảo lãnh
- Đầu tư: NHTM sử dụng các nguồn vốn ổn định để thực hiện các hình thức đầu tư
nhằm kiếm lời và chia sẻ rủi ro với nghiệp vụ tín dụng, bao gồm:
+ Góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của các công ty, các tổ chức tín dụng khác
+ Mua chứng khoán và các giấy tờ có giá trị để hưởng lợi tức và chênh lệch giá
- Sử dụng vốn cho các mục đích khác như: mua sắm thiết bị, dụng cụ phục vụ cho
hoạt động kinh doanh, xây dựng trụ sở ngân hàng, hệ thống kho bãi và các chi phí
khác
(cid:153) Dịch vụ ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác:
Đây là các dịch vụ mà khi ngân hàng cung cấp cho khách hàng sẽ nhận được các
khoản hoa hồng và lệ phí như:
- Dịch vụ ngân quỹ
- Dịch vụ ủy thác
Trang 11
- Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng
- Nhận quản lý tài sản quý giá theo yêu cầu khách hàng
- Kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ
- Mua bán hộ chứng khoán, phát hành hộ cổ phiếu, trái phiếu cho các công ty
- Tư vấn về tài chính, đầu tư
Các nghiệp vụ trên của ngân hàng thương mại không thể tách rời, độc lập nhau
mà chúng có mối quan hệ tương hỗ với nhau trong quá trình kinh doanh của ngân hàng
1.2 Ngân hàng thương mại Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
1.2.1 Ngân hàng thương mại cùng với nền kinh tế Việt Nam trên bước đường hội
nhập
Những thành tựu và những tiến bộ của khoa học công nghệ trong khoảng 50 -
60 năm trở lại đây của nhân loại đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và
hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá,
xã hội hoá cao độ trên quy mô quốc tế. Ðể thích ứng với xu thế này, tất cả các nước
trên thế giới đều thực hiện điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa nền kinh tế, thậm
chí với ngay cả những nền kinh tế được xem là "đóng cửa" nhất thế giới như
CHDCND Triều Tiên hiện cũng đã có những bước đi mở cửa nền kinh tế (như thành
lập các khu công nghiệp, mậu dịch với Hàn Quốc dọc biên giới).
Cùng với việc mở cửa nền kinh tế, các hàng rào thuế quan được hạ thấp xuống,
các biện pháp phi thuế quan (như cấm, hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu, các biện pháp
quy định số lượng (hạn ngạch) được nới lỏng và đi đến xoá bỏ, đã làm cho việc trao
đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động và công nghệ trên thị trường thế giới diễn ra
sôi động. Các hoạt động kinh tế bao gồm sản xuất và tiêu thụ hàng hoá vượt ra khỏi
biên giới của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và diễn ra trên phạm vi thị trường toàn cầu,
đời sống kinh tế thế giới được quốc tế hoá cao độ. Ðó chính là quá trình toàn cầu hoá
kinh tế.
Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là một phương
thức chủ yếu. Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện ở các biện pháp mở cửa thị trường, tự
do hoá nền kinh tế của một quốc gia hoặc việc tham gia của quốc gia này vào các cam
kết thoả thuận hợp tác kinh tế thương mại song phương (giữa hai nước với nhau), khu
vực (tham gia vào một tổ chức hợp tác giữa các nước trong cùng một khu vực địa lý,
ví dụ như ASEAN, EU, Bắc Mỹ, Nam Á...), đa phương ở phạm vi toàn cầu như tham
Trang 12
gia vào Tổ chức thương mại thế giới - WTO. Mục tiêu bao trùm, lớn nhất và nhất quán
của việc hội nhập kinh tế quốc tế, dù ở cấp độ đơn phương của một quốc gia hay tham
gia các định chế khu vực hay toàn cầu đều hướng tới việc tự do hoá thương mại và đầu
tư ở tầm quốc gia, khu vực và thế giới.
Nắm bắt được xu thế khách quan của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế trên thế giới, Việt Nam đã tiến hành các chính sách đổi mới kinh tế, mở cửa và
cải cách nền kinh tế. Trong quá trình này, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một bộ
phận không thể tách rời của quá trình đổi mới và chủ động hội nhập là một chủ trương
lớn của Việt Nam. Ngày nay, nếu chiếc xe máy đã trở thành một vật dụng thông
thường của mỗi người dân thành thị thì chiếc tivi cũng đã trở thành một vật dụng bình
thường trong mỗi gia đình ở nông thôn Việt Nam. Chúng ta có thể thấy rõ rằng, phần
lớn khối lượng tài sản vật chất, tiện nghi trong mỗi gia đình cũng như mức sống và các
dịch vụ học hành, khám chữa bệnh, văn hoá, thể thao...của người dân chủ yếu được
nâng cao trong khoảng 10 - 15 năm trở lại đây. Ðó chính là những thành tựu mà quá
trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế Việt Nam với thế giới đem lại.
- Tháng 7/1995, Việt Nam được kết nạp làm thành viên của Hiệp hội các nước Ðông
Nam Á (ASEAN) và tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA).
- Năm 1996, Việt Nam trở thành nước tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á- Âu
(ASEM)
- Năm 1997, Việt Nam là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái
Bình Dương (APEC)
- Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với hơn 150 nước trên thế giới. Việt
Nam đã ký kết 87 hiệp định thương mại song phương, trong đó có hiệp định lớn nhất
là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
- Việt Nam đã ký kết hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 48 nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới. Mỗi năm, thu hút hàng tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam.
- Hiện tại, Việt Nam đã đến đích trên con đường trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại Thế giới. Ngày 28/11/2006, Quốc hội đã thông qua Nghị định
thư gia nhập WTO như vậy sau 30 ngày Việt Nam sẽ chính thức trở thành thành viên
WTO. Ngân hàng là một trong những ngành chịu sức ép nhiều nhất như kinh doanh
chứng khoán, ngân hàng, phân phối và hỗ trợ vận tải biển
Trang 13
Cùng với cải cách kinh tế và mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế đang
ngày càng trở thành tiêu điểm và nhân tố ảnh hưởng quan trọng đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và quá trình trình quản lý của các cơ quan nhà
nước. Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành những xung lực cho quá trình đổi
mới và phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính Việt Nam. Hội nhập kinh tế
quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng thể hiện ở sự hội tụ quốc tế tương đồng trên các giác
độ thể chế, chính sách; hoạt động và tư duy, nhận thức.
Trong những năm qua và các năm tới đây ngành Ngân hàng Việt Nam tiếp tục
mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng là “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hoà bình, độc lập và phát triển”, đồng thời “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ
trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong
quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt –
Mỹ, WTO…”. Trong năm 2005, Việt Nam ký kết được 13 chương trình, dự án do WB
và ADB tài trợ với tổng trị giá gần 1,2 tỷ USD và đàm phán thêm 5 dự án nữa với trị
giá 550 triệu USD, nâng tổng số khoản vay từ các tổ chức này lên 108 chương trình,
dự án với tổng trị giá cam kết vốn vay hơn 9 tỷ USD. Tổng số vốn giải ngân của các
chương trình, dự án kể trên trong năm 2005 đạt trên 350 triệu USD. Hầu hết các khoản
vay này dành để đầu tư cho các dự án quốc gia trên các lĩnh vực phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục, môi trường có ý nghĩa quan trọng trong
việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) và phát triển bền vững
(tăng trưởng kinh tế nhanh, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia,…). Ngoài ra, NHNN tiếp nhận dự án hỗ trợ kỹ thuật của Tổ chức CIDA Canada
gần 7 triệu USD để hỗ trợ cho quá trình phát triển NHNN trở thành NHTW hiện đại.
Cách đây 5 năm, thẻ ATM, thẻ tín dụng hay thẻ thanh toán vẫn còn là xa lạ với hầu hết
người dân, nhưng cho đến hiện giờ thẻ ATM được sử dụng rộng rãi, thanh toán lương
cho người lao động bằng chuyển khoản trở nên phổ biến ở các công ty. Đó là một
trong những lợi ích mà hội nhập quốc tế mang lại, mang lại những tiến bộ kỹ thuật
trong lĩnh vực ngân hàng. Ngân hàng thương mại cổ phần ACB được tạp chí The
Trang 14
Asian banker- một tạp chí uy tín trong lĩnh vực tài chính trao tặng danh hiệu “ngân
hàng bán lẻ xuất sắc nhất Việt nam năm 2005” trong tổng cộng 120 ngân hàng và tổ
chức tài chính của 17 quốc gia thuộc khu vực Châu Á- Thái bình dương ứng cử. Phần
nào nói lên được sự trưởng thành và lớn mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới là một dấu mốc lớn trên con đường hội
nhập kinh tế quốc tế của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, mở ra một chân
trời mới với nhiều tiềm năng xen lẫn những thách thức ở phía trước.
1.2.2 Sự cần thiết hội nhập WTO của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền
đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua
việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh
hội nhập ngân hàng, xây dựng hệ thống ngân hàng vững mạnh trở thành kênh dẫn
nhập vốn hàng đầu, là “bà đỡ” tốt nhất cho nền kinh tế đang cần vốn như Việt Nam
đang từng bước chuyển dịch cơ cấu vốn theo định hướng công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, các NHTM không chỉ thực hiện vai trò quan
trọng phân phối lại vốn đầu tư, mà còn là nơi chuyển tải thông tin kinh tế, thậm chí là
nơi xuất phát những thay đổi và những rối loạn về kinh tế vĩ mô. Bằng chứng cụ thể là
hệ thống ngân hàng yếu kém, mở rộng tín dụng quá mức, nợ khó đòi gia tăng là một
trong những nguyên nhân tiềm ẩn thúc đẩy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, và trì
hoãn phục hồi kinh tế. Khi một hệ thống tài chính thiếu lành mạnh thì nguồn vốn FDI,
ODA sẽ bị sút giảm, phân bổ và sử dụng không hiệu quả các nguồn vốn gây tác động
tiêu cực đến kinh tế quốc gia, đó chính là sự lãng phí nguồn vốn, hiệu quả đầu tư thấp,
kéo theo tệ nạn tham nhũng gây rối loạn kinh tế.
Trước bối cảnh hội nhập tài chính quốc tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn
còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi can thiệp các cơ quan chính quyền, tình trạng tài
chính yếu kém, khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện, công nghệ ngân hàng tụt hậu so
với các nước, nợ khó đòi cao, môi trường kinh tế vĩ mô chưa ổn định đã đặt hệ thống
ngân hàng vào tình thế rủi ro khá cao. Vì vậy lĩnh vực ngân hàng cần nhanh chóng hội
nhập cùng với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới, xây dựng hệ thống ngân hàng
có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn và cung ứng sản
phẩm dịch vụ cho nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. Vào WTO để tạo áp lực
Trang 15
NHTM Việt Nam tự cải cách mình, nâng cao vị thế cạnh tranh. Việt Nam cần phải đưa
ra những cải cách hợp lý về thể chế và pháp lý, công cuộc cải cách này trong xu thế
hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp và không thể hoàn thành trong một sớm một
chiều. Tuy nhiên cái giá phải trả do cải cách chậm trễ và của việc duy trì hệ thống
ngân hàng yếu kém chính là: tăng trưởng chậm, bỏ qua những thời cơ thuận lợi để phát
triển kinh tế và hạn chế khả năng tận dụng được lợi ích từ hội nhập tài chính quốc tế.
1.2.3 Trình tự các bước chuẩn bị cho sự hội nhập của NHTM:
Từ nhận thức được sự cần thiết hội nhập tài chính quốc tế của hệ thống ngân
hàng thương mại, các ngân hàng thay vì ngồi chờ đợi cơn lũ các nhà đầu tư nước ngoài
với tiềm lực tài chính mạnh tràn về để rồi sẽ bị nó cuốn phăng ra khỏi sân chơi rộng
lớn này, thì các ngân hàng này phải chủ động tự thay da đổi thịt để có thể đứng vững
trước cuộc cạnh tranh khốc liệt ngay trên sân nhà
- Các ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường hợp tác để tạo ra sức
mạnh tổng hợp của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhưng vẫn đảm bảo phát huy được
các lợi thế của mỗi ngân hàng
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc xác định đúng năng lực và vị thế
của mình cũng như của các đối tác liên minh chiến lược, các đối thủ cạnh tranh hiện
hữu và tiềm năng có ý nghĩa quan trọng đối với sự thành công trong hoạt động ngân
hàng, “biết người biết ta trăm trận trăm thắng”.
Trước hết, mỗi ngân hàng cần tập trung xây dựng và thực hiện chiến lược, kế
hoạch và chính sách tăng cường năng lực cạnh tranh của mình, đặc biệt là các năng lực
thiết yếu: tài chính, công nghệ, quản trị ngân hàng và nguồn nhân lực chất lượng cao.
Vấn đề không chỉ tạo ra và gia tăng năng lực từng mặt nêu trên mà điều quan trọng
hơn là phải sử dụng hợp lý, có hiệu quả từng yếu tố cũng như kết hợp sử dụng tốt tất
cả các yếu tố này; riêng đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, do có vai trò quyết
định đối với năng lực cạnh tranh của ngân hàng, vì vậy, các ngân hàng cần gia tăng và
sử dụng hợp lý hơn nguồn kinh phí dành để đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhằm đáp
ứng các yêu cầu mới. Cần xuất phát từ tầm nhìn và chiến lược phát triển để xác định
đúng cơ cấu, lựa chọn đúng các đối tượng và lĩnh vực cần tập trung đào tạo ở trong và
ngoài nước nhằm cập nhật và nâng cao kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ ngân hàng hiện
đại cho cán bộ ngân hàng.
Trang 16
Mặt khác, mỗi ngân hàng cần xác định và tìm cách trả lời chính xác các câu hỏi
như: trong từng lĩnh vực và mỗi thị trường cụ thể, có thể và nên lựa chọn sản phẩm và
phân khúc thị trường nào để có thể giành và phát huy ưu thế; Để chuẩn bị các điều
kiện có thể cạnh tranh với các đối thủ là các ngân hàng nước ngoài có nhiều thế mạnh
hơn, các ngân hàng trong nước vừa cần tập dượt cạnh tranh với nhau vừa phải hợp tác
để giải quyết các vấn đề có chung mối quan tâm và lợi ích như hợp tác xây dựng và
khai thác kết cấu hạ tầng kỹ thuật ngành, kể cả trong việc đào tạo nguồn nhân lực, chia
sẻ kinh nghiệm quản trị kinh doanh ngân hàng
- Đổi mới và nâng cao công nghệ
Hiện nay, các ngân hàng thương mại đã thấy sự cấp thiết và đang từng bước cố
gắng hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và coi đây là một trong những trụ cột chính để
nâng cao năng lực cạnh tranh và đảm bảo sự phát triển bền vững. Nhiều hệ thống công
nghệ và phần mềm tiên tiến cần được áp dụng để xử lý các hoạt động nghiệp vụ ngân
hàng hiện đại. Công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý và lưu trữ
hệ thống dữ liệu khổng lồ một các chính xác, nhanh chóng nhằm nâng cao tính hiện
đại của dịch vụ ngân hàng cung cấp
- Xác định tầm nhìn và xây dựng chiến lược phát triển bền vững của mỗi ngân
hàng
Đưa ra mục đích, phương hướng hành động cho một thời gian dài (ít ra là trên
10 năm) được thể hiện những bản sắc riêng có của ngân hàng, đồng thời, phù hợp với
những xu hướng phát triển trong tương lai; Quan điểm và chính sách của ngân hàng
trong việc phục vụ lợi ích của các nhóm khách hàng; Đưa ra các nguyên tắc để có thể
xây dựng cơ chế theo dõi, giám sát, điều chỉnh và đánh giá hiệu quả công việc theo các
phương hướng hành động đã được hoạch định. Một trong những mục tiêu chủ yếu của
chiến lược phát triển của mỗi ngân hàng cần xác định rõ ràng là cải thiện và nâng cao
lên mức độ cần đạt tới về năng lực cạnh tranh của ngân hàng mình trong tương quan so
sánh với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
- Lựa chọn và xây dựng mô hình ngân hàng hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế;
tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm quốc tế, phát huy bản sắc vốn có của mỗi ngân
hàng
Trải nghiệm qua quá trình phát triển hàng trăm năm, ở các nước trên thế giới đã
hình thành nên các mô hình tổ chức hoạt động ngân hàng khác nhau nhưng đã và đang
Trang 17
được hướng tới những chuẩn mực tiên tiến và thông lệ tốt của các ngân hàng hiện đại.
Có thể hiểu ngân hàng hiện đại là những ngân hàng đạt trình độ cao về công nghệ, tổ
chức quản lý và hoạt động ngân hàng nhờ áp dụng các thành tựu mới của khoa học và
công nghệ liên quan. Do tính đa dạng, phức tạp của các sản phẩm dịch vụ và hoạt động
ngân hàng; sự chênh lệch về trình độ và đặc thù phát triển khác nhau của các nước,
không thể có một mô hình chung, duy nhất có thể áp dụng cho mọi ngân hàng trên tất
cả các nước; vì vậy, mỗi ngân hàng cần phải dành nhân lực và thời gian để nghiên cứu
lựa chọn, xây dựng một mô hình tiên tiến, phù hợp với các điều kiện cụ thể của quốc
gia và ngân hàng mình. Trên cơ sở này, khi nghiên cứu tiếp thu kinh nghiệm quốc tế,
không được áp dụng máy móc mô hình của bất kỳ ngân hàng nào mà chủ yếu cần xác
định đúng các yếu tố mang tính phổ biến, bắt buộc và tìm cách áp dụng; bên cạnh đó,
mỗi ngân hàng cần tìm ra và cố gắng phát huy những thế mạnh riêng có và cần được
bổ sung vào những nét chung, mang tính phổ biến để làm cho mô hình tổ chức ngân
hàng thực phong phú, đa dạng, vừa phù hợp với xu hướng chung nhưng vẫn có hàm
chứa các bản sắc riêng và chính điều này mới mang lại năng lực cạnh tranh đích thực
cho mỗi ngân hàng.
- Đổi mới tư duy và cách thức quản lý hoạt động thị trường tài chính - tiền tệ
trong điều kiện mới
Trước những thay đổi trong môi trường kinh doanh ngân hàng khi hội nhập,
việc quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như sự quản trị, điều hành của
mỗi ngân hàng cũng cần có những đổi mới mạnh mẽ và cơ bản: các cơ quan quản lý
nhà nước cần dành cho thị trường nhiều quyền tự do và tạo môi trường thuận lợi trong
khuôn khổ luật pháp được thiết lập, giảm thiểu cách quản lý quá chi tiết, can thiệp sâu;
Qui trình, chất lượng soạn thảo, ban hành các quyết định quản lý về hoạt động ngân
hàng sẽ phải được tuân thủ chặt chẽ, đầy đủ hơn; Tiến hành nghiên cứu sâu đối với
thực tiễn hoạt động và phát triển của các thị trường và các ngân hàng thương mại để
kịp thời có những cơ chế, chính sách quản lý cho phù hợp và không ngừng cải thiện,
hoàn thiện các điều kiện pháp lý cho môi trường kinh doanh ngân hàng rõ ràng, minh
bạch và thuận lợi hơn; Đối với lãnh đạo của các tổ chức tín dụng (nhất là các tổ chức
tín dụng nhà nước), cần tập trung thực hiện các giải pháp nhằm thực sự tạo nên năng
lực đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với các đối thủ khác trên thị trường.
- Thâm nhập và tham gia cạnh tranh trên các thị trường khu vực và quốc tế
Trang 18
Cùng với việc mở cửa nền kinh tế, thu hút các luồng vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý từ nước ngoài, các ngân hàng sẽ phải từng bước thâm nhập, mở rộng sang một
số thị trường lựa chọn ở các nước khu vực và thế giới. Thứ nhất, các ngân hàng cần
bám sát và hỗ trợ tích cực hơn cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất - nhập khẩu
hoặc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đồng thời tìm hiểu luật pháp liên quan ở từng
nước, khu vực để xây dựng chiến lược và cách thức thâm nhập, mở rộng hoạt động
(nếu đã có) cho phù hợp. Các ngân hàng Việt Nam cũng có thể mở văn phòng đại diện,
chuẩn bị để tiến tới mở chi nhánh ở nước ngoài.
1.2.4 Các bài học kinh nghiệm của hệ thống ngân hàng các nước khi tham gia hội
nhập tài chính quốc tế
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hệ thống tài chính– ngân hàng cạnh tranh và mở
cửa là những hệ thống hỗ trợ hiệu quả cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Cạnh
tranh sẽ làm cho hệ thống ngân hàng vững mạnh, hiệu quả và lành mạnh hơn. Do vậy,
các nước đang phát triển nói chung mong muốn hội nhập quốc tế, hội nhập WTO để
phát triển và cải cách hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao khả năng thu hút và phân bổ
các nguồn lực, tạo thuận lợi cho các tổ chức kinh tế có thể tiếp cận các dịch vụ ngân
hàng có chất lượng cao hơn nhưng với chi phí thấp hơn.
Về mặt chính sách nhằm khuyến khích hội nhập WTO, chính phủ các nước
thường thực hiện mở cửa tiếp cận thị trường, đối xử quốc gia, xây dựng môi trường
chính sách trong nước hỗ trợ cho cạnh tranh, từng bước cho phép các ngân hàng nước
ngoài cạnh tranh trong một sân chơi công bằng và tạo thuận lợi cho các tổ chức tín
dụng trong nước thâm nhập thị trường quốc tế, đồng thời chính phủ các nước cũng áp
dụng các tiêu chuẩn thông lệ tốt nhất của quốc tế liên quan đến hoạt động ngân hàng
làm cho thương mại và luân chuyển vốn quốc tế tự do hơn. Mức độ hội nhập đạt được
trên thực tế tuỳ thuộc vào sự phản hồi của các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng
trong nước đối với các cơ hội do sự thay đổi chính sách tạo ra. Hội nhập trong lĩnh vực
ngân hàng được thể hiện thông qua: mức độ sở hữu nước ngoài trong các ngân hàng
trong nước; thị phần dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng nước ngoài; phạm vi áp
dụng các tiêu chuẩn, qui chế và quy định theo thông lệ quốc tế; và phạm vi dịch vụ
ngân hàng cung cấp cho các hội gia đình và doanh nghiệp là người cư trú. Cụ thể:
- Các nước phát triển:
Trang 19
Mở cửa hội nhập ngành ngân hàng diễn ra sau khi các nước đã phát triển một hệ
thống tài chính – ngân hàng ở mức độ nhất định. Các nước phát triển tiến hành hội
nhập quốc tế với các đặc điểm như sau: thị trường vốn tương đối phát triển và thường
được tự do hoá trước khi mở cửa hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng thương mại quốc
doanh thường được tổng công ty hoá trước khi tư nhân hoá. Đối với một số ngân hàng
vẫn thuộc sở hữu nhà nước, chính phủ sẽ thành lập một pháp nhân độc lập thay mặt
chính phủ đóng vai trò cổ đông. Quá trình tư nhân hoá các ngân hàng thuộc sở hữu nhà
nước không cần các đối tác chiến lược vì đa số các ngân hàng ở các nước phát triển đã
có đủ nội lực để hoạt động theo sở hữu tư nhân.
- Một số nước châu Á sau khủng hoảng tài chính:
Ở các nước này, hội nhập nhìn chung mới diễn ra gần đây, phần lớn là do yêu
cầu phải cải cách lại hệ thống ngân hàng đã bị tổn thất nghiêm trọng. Quá trình hội
nhập của các nước này có một số đặc điểm chung: các ngân hàng bị sụp đổ và yếu kém
được sáp nhập và một số bị quốc hữu hoá khi chính phủ phải đứng ra xử lý các khoản
nợ của ngân hàng. Các ngân hàng này được tư nhân hoá ngay khi đã hồi phục thông
qua việc cấp vốn bổ sung và bán danh mục nợ xấu. Các ngân hàng nước ngoài được
mời làm đối tác chiến lược để tiếp quản điều hành các ngân hàng yếu kém. Đồng thời
Chính phủ các nước này cũng mở rộng phạm vi dịch vụ mà các ngân hàng nước ngoài
được phép cung cấp và thực hiện cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực thanh tra, giám sát
an toàn theo hướng làm cho ngân hàng trung ương độc lập hơn. Một số tách riêng vai
trò thanh tra, giám sát và chính sách tiền tệ bằng cách thành lập cơ quan thanh tra
riêng. Ngoài ra, các nước cũng tăng cường và áp dụng nghiêm túc các luật điều chỉnh
về quyền sở hữu của các ngân hàng.
- Một số nước Đông Âu chuyển đổi:
Các nước thuộc Đông Âu cũ nhìn chung đều nhanh chóng hội nhập hệ thống tài
chính của mình. Tại một số nước, quá trình hội nhập được thực hiện thông qua việc áp
dụng một cách dập khuôn toàn bộ hệ thống ngân hàng mới theo nền kinh tế thị trường
thay thế cho hệ thốngngân hàng một cấp trước đây. Ngoài ra, nhiều nước Đông Âu
tăng cường các hoạt động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng với kỳ vọng sớm
đáp ứng được các tiêu chuẩn để ra nhập EU. Các bước hội nhập phổ biến nhất đối với
các nước này là: kiên quyết giảm sở hữu nhà nước trong các ngân hàng; Cho phép
người nước ngoài mua cổ phần chi phối trong các ngân hàng đã từng là ngân hàng
Trang 20
thương mại quốc doanh các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu quan tâm mua lại các ngân
hàng hoạt động yếu kém và không muốn thành lập các ngân hàng mới khó cạnh tranh
với các ngân hàng trong nước. Các nước với các ngân hàng thương mại quốc doanh
được tư nhân hoá sớm đã thu được nhiều lợi ích bao gồm: Các luồng tiết kiệm trong
nước tăng lên, lòng tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng và chính phủ tăng lên,
các chương trình cải cách cơ cấu kinh tế hiệu quả hơn. Ngân hàng nước ngoài hầu như
được quyền tự do tối đa đã đem vào cả ba thứ mà hệ thống ngân hàng trong nước rất
cần đó là nguồn vốn, trình độ quản lý và công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, việc Chính
phủ cho phép nhà đầu tư nước ngoài chiếm quyền sở hữu quá nhiều trong các ngân
hàng không phải là hay khi mà họ chi phối hoạt động của các ngân hàng này. Vào năm
2002, Ba Lan, một trong những nước mà các ngân hàng nước ngoài chiếm thị phần ít
nhất cũng lên đến 60%, trong khi Hungary hay Estonia lên đến 99%.
- Trung Quốc:
Trung Quốc là trường hợp điển hình thực hiện hội nhập quốc tế khu vực ngân
hàng thông qua các cam kết trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Tiến trình hội
nhập quốc tế của Trung Quốc được tiến hành từng bước và được hỗ trợ bằng các
chương trình cải cách nhằm củng cố khu vực ngân hàng và các khu vực tài chính khác,
đồng thời với quá trình cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Phương pháp hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng của Trung Quốc bao gồm tự do hoá các hạn chế
đối với sự tham gia và hoạt động của các ngân hàng nước ngoài thông qua việc cho
phép thành lập “mới” các ngân hàng 100% vốn nước ngoài và cho phép mua các cổ
phần thiểu số mang tính chất đối tác chiến lược trong các ngân hàng thương mại quốc
doanh trung bình hoặc lớn hơn nhưng không được quyền chi phối. Các ngân hàng
thương mại quốc doanh lớn sẽ thu hút các luồng vốn quốc tế thông qua việc phát hành
cổ phiếu lần đầu trên các thị trường quốc tế và có thể bán cho các đối tác chiến lược.
Quá trình cải cách này được tiến hành đồng thời với các biện pháp tăng cường công
tác thanh tra, giám sát (thiết lập một cơ quan thanh tra ngân hàng độc lập) nhằm phát
triển các thị trường vốn, cải thiện các công cụ và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
Khi Trung Quốc bắt đầu vào WTO họ cũng không tránh khỏi những lo sợ tương
tự Việt Nam. Nhưng đến nay, khi hầu hết các cam kết mở cửa đã có hiệu lực, một kết
quả vượt quá kỳ vọng đối với ngành ngân hàng Trung Quốc đã xảy ra. Nhìn vào các
bản tin tài chính tiền tệ thế giới trong một năm trở lại đây sẽ thấy rằng, về góc độ vĩ
Trang 21
mô, một trong những thông tin được nhắc đến nhiều nhất là chính sách điều hành tỷ
giá đồng nhân dân tệ của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc. Còn về góc độ kinh
doanh, thông tin về việc phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu tiên và niêm yết
trên trên thị trường chứng khoán của Ngân hàng Trung Quốc (BOC) và Ngân hàng
Xây dựng Trung Quốc (CCB) đã chiếm hầu hết các mặt báo về kinh tế, tài chính tiền
tệ trong một thời gian dài. Nhờ việc niêm yết cổ phiếu mà hai ngân này đã được định
theo giá trị thị trường và nằm trong nhóm 10 ngân hàng có giá trị thị trường lớn nhất
thế giới. Năm 2006, BOC dự kiến thu lợi nhuận ròng lên tới 32,3 tỷ NDT (4 tỷ USD)
so với mức 27,5 tỷ NDT năm 2005. Tuy vậy, kỷ lục này có thể bị phá bởi kế hoạch
niêm yết sắp tới của Ngân hàng thương mại Công nghiệp Trung Quốc (ICBC), lớn
nhất trong 4 ngân hàng thương mại nước này. Nếu tính theo giá trị thương mại, ngân
hàng này sẽ trở thành một trong 10 ngân hàng hàng đầu thế giới với lợi nhuận kinh
doanh năm 2006 vượt 100 tỷ NDT (12,5 tỷ USD). Hơn thế nữa, trong sáu tháng đầu
năm 2006, BOC nằm trong nhóm năm ngân hàng có giá trị hàng đầu về bảo lãnh phát
hành chứng khoán, một trong những dịch vụ béo bở và mang lại lợi nhuận cao nhất.
Thông tin trên phần nào phản ánh sức mạnh của Ngân hàng Trung ương, cũng như sự
lớn mạnh của hệ thống ngân hàng Trung Quốc.
Trung Quốc là nước có tỷ lệ vay vốn lớn trên thế giới, đang nỗ lực nâng cao
hiệu quả hoạt động của các ngân hàng trong nước trước khi mở cửa hoàn toàn thị
trường tài chính nội địa vào cuối năm nay theo như cam kết khi gia nhập WTO hồi
cuối năm 2001. Các ngân hàng Trung Quốc dự định huy động số vốn khoảng 25 tỷ
USD bằng cách bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư trong năm 2006, trong đó có một đợt
chào bán hơn 10 tỷ USD cổ phiếu của Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC)
lớn nhất nước này.
Các ngân hàng thương mại của nước này có tỷ lệ nợ xấu trung bình giảm xuống
7,73% vào cuối năm 2005. Trong một thập kỷ qua, 4 ngân hàng quốc doanh lớn nhất
Trung Quốc đã nhận hàng tỷ USD tiền hỗ trợ từ Chính phủ để cân đối tình hình tài
chính. Mặc dù tỷ lệ này vẫn cao hơn 1-2% so với các ngân hàng nước ngoài hàng đầu,
nó đã giảm gần 4% so với năm 2004 và cũng là lần đầu tiên giảm xuống dưới 10%.
Trong khi đó, 118 ngân hàng thương mại của Trung Quốc thu nhập hơn 12 tỷ NDT
năm 2005, tăng 38% so với năm 2004. Kể từ năm 1998, Chính phủ Trung Quốc đã
Trang 22
bơm hơn 260 tỷ USD vào các ngân hàng trong nước để giúp giảm tỷ lệ nợ xấu ở các
ngân hàng này từ 17,9% năm 2003 xuống còn 8,9% cuối tháng 4/06.
Để đạt được những thành tựu trên, một phần là ngân hàng Trung quốc đã thu
hút nguồn vốn đầu tư lớn của các tổ chức nước ngoài trên thị trường chứng khoán như
Temasek Holding Pte.Ltd của Singapore, Royal Bank of Scoland Group PLC, Bank of
Tokyo Mitsubishi URJ Ltd. (Nhật Bản), Bank of East Asia Ltd. 19 nhà đầu tư nước
ngoài đã trở thành cổ đông của 16 ngân hàng Trung Quốc với tổng vốn đầu tư lên tới
16,5 tỷ USD (khoảng 15% tổng vốn của các ngân hàng Trung Quốc). 71 ngân hàng
nước ngoài của 20 quốc gia và vùng lãnh thổ đã thành lập 238 chi nhánh kinh doanh
tại Trung Quốc, với tổng giá trị tài sản 84,5 tỷ USD, chiếm khoảng 2% tổng tài sản của
các cơ quan tài chính ở nước này.
Giới đầu tư coi cổ phiếu ngân hàng như một cách thu lợi nhuận từ sự tăng
trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc trong bối cảnh Chính phủ nước này đang
tăng giá trị đồng NDT và sức mua lớn của tầng lớp trung lưu ngày càng đông. Trung
Quốc đang nghiên cứu tất cả các quy định liên quan đến giới hạn tỷ lệ cổ phần của đầu
tư nước ngoài trong các ngân hàng trong nước. Mức trần giới hạn tỷ lệ cổ phần mà một
nhà đầu tư nước ngoài có thể nắm giữ trong một ngân hàng Trung Quốc hiện là 20%
và tổng số cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ không được vượt quá 25%.
1.3 Giới thiệu chung về Tổ chức Thương mại Thế giới WTO:
1.3.1 Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization - WTO)
Tổ chức thương mại thế giới được thành lập ngày 15/4/1994 tại Ma rốc, xuất
phát từ tổ chức Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), chính thức đi
vào hoạt động từ ngày 1/1/1995, hiện có 148 nước thành viên tính đên ngày
31/12/2005. WTO là một hệ thống thương mại đa phương, điều tiết hoạt động thương
mại toàn cầu. WTO với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế
giới, thực hiện những mục tiêu nâng cao mức sống của người dân các thành viên; đảm
bảo việc làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các
nguồn lực của thế giới; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các
nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương. Các nguyên tắc
pháp lý nền tảng của WTO là: Tối huệ quốc (MFN), Đãi ngộ Quốc gia (NT), Mở cửa
thị trường (MA) và Cạnh tranh công bằng. Cụ thể, WTO có 3 mục tiêu sau:
Trang 23
+ Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục vụ
cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường;
+ Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại
đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm cho
các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được hưởng thụ
những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu
phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập
sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới;
+ Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành
viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
1.3.2 WTO thực hiện 5 chức năng sau:
·Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thoả thuận thương mại đa
phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước
thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ
· Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương
trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
· Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc
thực hiện Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương và nhiều bên.
· Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm
thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định của WTO,
Hiệp định thành lập WTO đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại
áp dụng chung đối với tất cả các thành viên.
· Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) trong viêc hoạch định những chính sách
và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu
1.3.3 WTO có một cơ cấu gồm 3 cấp :
- Các cơ quan lãnh đạo chính trị và có quyền ra quyết định (decision-making
power) bao gồm Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan giải quyết tranh
chấp và cơ quan kiểm điểm chính sách thương mại;
- Các cơ quan thừa hành và giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa
phương, bao gồm Hội đồng GATT, Hội đồng GATS, và Hội đồng TRIPS;
Trang 24
- Cuối cùng là Cơ quan thực hiện chức năng hành chính - thư ký là Tổng giám
đốc và Ban thư ký WTO.
1.3.4 Những nguyên tắc, luật lệ cơ bản của WTO
(cid:153) Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN)
Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng Anh là MFN (Most favoured nation), là nguyên
tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO. Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một nước
dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải
dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác. Thông thường nguyên tắc MFN
được quy định trong các hiệp định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN
được áp dụng đa phương đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đồng nghĩa
với nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ dành cho
nhau sự "đối xử ưu đãi nhất". Nguyên tắc MFN trong WTO không có tính chất áp
dụng tuyệt đối (Trường hợp Mỹ không áp dụng MFN đối với Cuba mặc dù Cuba là
thành viên sáng lập GATT và WTO).
Nếu như ngày nay quy chế MFN đồng nghĩa với nguyên tắc bình đẳng thì trong
lịch sử đã chỉ có một nhóm nhỏ các cường quốc phương Tây được hưởng quy chế “Tối
huệ quốc”, thực sự có tính ưu đãi hơn các nước khác được đưa ra trong các hiệp định
thương mại và hàng hải ký với các nước Á-Phi-Mỹ Latinh.
Nếu như nguyên tắc MFN trong GATT 1947 chỉ áp dụng đối với ‘hàng hoá’ thì trong
WTO, nguyên tắc này đã được mở rộng sang thương mại dịch vụ (Điều 2 Hiệp định
GATS), và sỏ hữu trí tuệ (Điều 4 Hiệp định TRIPS).
Mặc dù được coi là "hòn đá tảng “ trong hệ thống thương mại đa phương, Hiệp
định GATT 1947 và WTO vẫn quy định một số ngoại lệ (exception) và miễn trừ
(waiver) quan trọng đối với nguyên tắc MFN. Quy định các nước thành viên trong các
hiệp định thương mại khu vực có thể dành cho nhau sự đối xử ưu đãi hơn mang tính
chất phân biệt đối xử với các nước thứ ba, trái với nguyên tắc MFN. GATT 1947 cũng
có hai miễn trừ về đối xử đặc biệt và ưu đãi hơn với các nước đang phát triển. Miễn trừ
thứ nhất là Quyết định ngày 25-6-1971 của Đại hội đồng GATT về việc thiết lập “Hệ
thống ưu đãi phổ cập" (GSP) chỉ áp dụng cho hàng hoá xuất xứ từ những nước đang
phát triển và chậm phát triển. Trong khuôn khổ GSP, các nước phát triển có thể thiết
lập số mức thuế ưu đãi hoặc miễn thuế quan cho một số nhóm mặt hàng có xuất xứ từ
các nước đang phát triển và chậm phát triển và không có nghĩa vụ phải áp dụng những
Trang 25
mức thuế quan ưu đãi đó cho các nước phát triển theo nguyên tắc MFN. Miễn trừ thứ
hai là Quyết định ngày 26-11-1971 của Đại hội đồng GATT về “Đàm phán thương
mại giữa các nước đang phát triển”, cho phép các nước này có quyền đàm phán, ký kết
những hiệp định thương mại dành cho nhau những ưu đãi hơn về thuế quan và không
có nghĩa vụ phải áp dụng cho hàng hoá đến từ các nước phát triển. Trên cơ sở Quyết
định này, Hiệp định về “Hệ thống ưu đãi thương mại toàn cầu giữa các nước đang phát
triển ” (Global System of Trade Preferences among Developing Countries - GSPT) đã
được ký năm 1989.
Mặc dù được tất cả các nước trong GATT/WTO công nhận là nguyên tắc nền
tảng, nhưng thực tế cho thấy các nước phát triển cũng như đang phát triển không phải
lúc nào cũng tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc MFN và đã có rất nhiều tranh chấp trong
lịch sử của GATT liên quan đến việc áp dụng nguyên tắc này. Thông thường thì vi
phạm của các nước đang phát triển dễ bị phát hiện và bị kiện nhiều hơn vi phạm của
các nước phát triển. Năm 1981, Braxin đã kiện Tây Ban Nha về thuế suất đặc biệt đối
với cà phê chưa rang. Braxin cho rằng Nghị định 1764/79 của Tây Ban Nha quy định
các mức thuế quan khác nhau đối với năm loại cà phê chưa rang khác nhau (cà phê
Arập chưa rang, cà phê Robusta, cà phê Côlômbia, cà phê nhẹ và cà phê khác). Hai
loại cà phê đều được nhập khẩu miễn thuế, ba loại cà phê còn lại chịu mức thuế giá trị
gia tăng là 7%. Sau khi xem xét Nghị định nói trên, Nhóm chuyên gia của GATT đã đi
đến kết luận như sau: “Hiệp định GATT không quy định nghĩa vụ cho các bên ký kết
phải tuân thủ một hệ thống phân loại hàng hoá đặc biệt nào. Tuy nhiên, Điều I.1 của
GATT quy định nghĩa vụ của các Bên ký kết phải dành một sự đối xử như nhau cho
những sản phẩm tương tự...”. Lập luận của Tây Ban Nha biện minh cho sự cần thiết
phải có sự đối xử khác nhau đối với từng loại cà phê khác nhau chủ yếu dựa trên
những yếu tố như địa lý, phương pháp trồng trọt, quá trình thu hoạch hạt và giống.
Những yếu tố này tuy có khác nhau nhưng không đủ để Tây Ban Nha có thể áp dụng
những thuế suất khác nhau đối với từng loại cà phê khác nhau. Đối với tất cả những
người tiêu thụ cà phê trên thế giới thì cà phê chưa rang được bán dưới dạng hạt cho dù
thuộc nhiều loại khác nhau cũng chỉ là một lại sản phẩm cùng loại, có tính năng sử
dụng duy nhất là để uống mà không phân biệt độ caphêin mạnh hay nhẹ. Năm loại cà
phê chưa rang nhập khẩu có tên trong danh mục thuế quan của Tây Ban Nha đều là
những sản phẩm cùng loại. Việc Tây Ban Nha áp dụng mức thuế quan cao hơn đối với
Trang 26
hai loại cà phê là A rập và Robusta, được nhập khẩu từ Braxin mang tính chất phân
biệt đối xử đối với những sản phẩm cùng loại và như vậy trái với quy định của Điều I,
khoản 1 Hiệp định GATT.
(cid:153) Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (National Treatment - NT), quy định tại Điều III
Hiệp định GATT, Điều 17 GATS và Điều 3 TRIPS. Nguyên tắc NT được hiểu là hàng
hóa nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không
kém thuận lợi hơn so với hàng hoá cùng loại trong nước. Trong khuôn khổ WTO,
nguyên tắc NT chỉ áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ, chưa
áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân. Phạm vi áp dụng của nguyên tắc NT đối với
hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ có khác nhau. Đối với hàng hoá và sở hữu trí tuệ,
việc áp dụng nguyên tắc NT là một nghĩa vụ chung (general obligation), có nghĩa là
hàng hoá và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài sau khi đã đóng thuế quan hoặc được
đăng ký bảo vệ hợp pháp được đối xử bình đẳng như hàng hoá và quyền sở hữu trí tuệ
trong nước đối với thuế và lệ phí nội địa, các quy định về mua, bán, phân phối vận
chuyển . Đối với dịch vụ, nguyên tắc này chỉ áp dụng đối với những lĩnh vực, ngành
nghề đã được mỗi nước đưa vào danh mục cam kết cụ thể của mình và mỗi nước có
quyền đàm phán đưa ra những ngoại lệ (exception).
Các nước, về nguyên tắc, không được áp dụng những hạn chế số lượng nhập
khẩu và xuất khẩu, trừ những ngoại lệ được quy định rõ ràng trong các Hiệp định của
WTO, cụ thể, đó là các trường hợp: mất cân đối cán cân thanh toán; nhằm mục đích
bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ trong nước; bảo vệ ngành sản xuất trong nước
chống lại sự gia tăng đột ngột về nhập khẩu hoặc để đối phó với sự khan hiếm một mặt
hàng trên thị trường quốc gia do xuất khẩu quá nhiều; vì lý do sức khoẻ và vệ sinh và
vì lý do an ninh quốc gia.
Một trong những ngoại lệ quan trọng đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là vấn
đề trợ giá cho sản xuất hoặc xuất hay nhập khẩu. Vấn đề này được quy định lần đầu tại
hiệp định GATT 1947 và sau này được điều chỉnh trong thoả thuận vòng Tôkyô 1979
và trong Thoả thuận Vòng đàm phán Uruguay về trợ cấp và thuế đối kháng, viết tắt
theo tiếng Anh là SCM. Thoả thuận SCM có một điểm khác biệt lớn so với GATT
1947 và thoả thuận Tôkyô ở chỗ nó được áp dụng cho cả các nước phát triển và đang
Trang 27
phát triển. Hiệp định mới về trợ giá phân chia các loại trợ giá làm 3 loại : loại "xanh";
loại "vàng" và loại "đỏ” theo nguyên tắc "đèn hiệu giao thông" (traffic lights).
Riêng về vấn đề hạn chế số lượng đối với hàng dệt may được quy định trong
Hiệp định đa sợi (MFA) và hiện nay được thay thế bởi Hiệp định về hàng dệt may của
Vòng đàm phán Uruguay (ATC). Hiệp định ATC đã chấm dứt 30 năm các nước phát
triển phân biệt đối xử đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển. Các nước
phát triển sẽ có một thời gian chuyển tiếp là 10 năm để bãi bỏ chế độ hạn ngạch về số
lượng hiện hành. Điều I của Hiệp định ATC cũng quy định điều khoản cứu xét đặc biệt
đối với một số nhóm nước; ví dụ như các nước cung cấp nhỏ, các nước mới bước vào
thị trường (new entrants), các nước chậm phát triển nhất, các nước đã ký hiệp định
MFA từ 1986 cũng như các nước xuất khẩu bông.
Việc áp dụng quy chế đãi ngộ quốc gia trên thực tế đã gây ra rất nhiều tranh
chấp giữa các bên ký kết GATT/WTO bởi một lý do dễ hiểu là nếu các nước dễ chấp
nhận nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với các nước thứ 3 thì nước nào cũng muốn
dành một sự bảo hộ nhất định đối với sản phẩm nội địa. Mục tiêu chính của nguyên tắc
đãi ngộ quốc gia là tạo ra những điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hoá nhập
khẩu và hàng hoá nội địa cùng loại.
Về vấn đề “doanh nghiệp nhà nước độc quyền thương mại”, Hiệp định không
cấm các bên ký kết thành lập hoặc duy trì những doanh nghiệp nhà nước kiểu như vậy
nhưng phải đảm bảo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia vẫn được áp dụng đối với những
doanh nghiệp này. Trong vụ Mỹ kiện Thái Lan về những hạn chế số lượng và tăng
thuế tiêu thụ đánh vào thuốc lá điếu nhập khẩu, nhóm chuyên gia của GATT đã quyết
định rằng chính phủ Thái Lan có quyền thành lập "Thai Tobacco Monopoly" là công
ty của nhà nước độc quyền trong lĩnh vực nhập khẩu và phân phối thuốc lá ở Thái lan
và có quyền sử dụng công ty này để điều chỉnh giá và hệ thống bán lẻ thuốc lá. Tuy
nhiên, ngược lại,Thái Lan cũng có nghĩa vụ theo đãi ngộ quốc gia không được đối xử
với thuốc lá nhập khẩu kém ưu đãi hơn so với thuốc lá sản xuất trong nước. Vì vậy,
việc Thái lan hạn chế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thuốc lá ngoại và tăng thuế tiêu
thụ nội điạ căn cứ vào tỷ lệ "nội hoá" trong thuốc lá là vi phạm Điều III của GATT về
đãi ngộ quốc gia. Bồi thẩm đoàn của GATT đồng thời cũng bác bỏ lập luận của Thái
lan viện dẫn điều khoản cho phép hạn chế số lượng vì lý do sức khoẻ vì cho rằng mục
tiêu thực sự của chính phủ Thái lan không phải là để hạn chế việc tiêu thụ thuốc lá nói
Trang 28
chung (việc hạn chế nhập khẩu và tăng thuế không áp dụng đối với sợi và giấy để sản
xuất thuốc lá nội địa) mà thực chất là nhằm bảo hộ ngành sản xuất thuốc lá của Thái
lan.
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia cùng với MFN là hai nguyên tắc nền tảng quan
trọng nhất của hệ thương mại đa phương mà ý nghĩa thực sự là bảo đảm việc tuân thủ
một cách nghiêm túc những cam kết về mở cửa thị trường mà tất cả các nước thành
viên đã chấp nhận khi chính thức trở thành thành viên của WTO.
(cid:153) Nguyên tắc mở cửa thị trường
Nguyên tắc "mở cửa thị trường" hay còn gọi một cách hoa mỹ là "tiếp cận" thị
trường (market access) thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư
nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia
đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một
hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa.
Về mặt chính trị, "tiếp cận thị trường" thể hiện nguyên tắc tự do hoá thương mại của
WTO. Về mặt pháp lý, "tiếp cận thị trường" thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc
thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà nước này đã chấp thuận khi đàm
phán gia nhập WTO.
(cid:153) Nguyên tắc cạnh tranh công bằng
Cạnh tranh công bằng (fair competition) thể hiện nguyên tắc "tự do cạnh tranh
trong những điều kiện bình đẳng như nhau” và được công nhận trong án lệ của vụ
Uruguay kiện 15 nước phát triển (1962) về việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác
nhau đối với cùng một mặt hàng nhập khẩu. Do tính chất nghiêm trọng của vụ kiện,
Đại hội đồng GATT đã phải thành lập một nhóm công tác (Working group) để xem xét
vụ này. Nhóm công tác đã cho kết luận rằng, về mặt pháp lý việc áp dụng các mức
thuế nhập khẩu khác nhau đối với cùng một mặt hàng không với các quy định của
GATT, nhưng việc áp đặt các mức thuế khác nhau này đã làm đảo lộn những “điều
kiện cạnh tranh công bằng” mà Uruguay có quyền "mong đợi” từ phía những nước
phát triển và đã gây thiệt hại cho lợi ích thương mại của Uruguay. Trên cơ sở kết luận
của Nhóm công tác, Đại hội đồng GATT đã thông qua khuyến nghị các nước phát
triển có liên quan "đàm phán" với Uruguay để thay đổi các cam kết và nhân nhượng
thuế quan trước đó. Vụ kiện của Uruguay đã tạo ra một tiền lệ mới, nhìn chung có lợi
cho các nước đang phát triển. Từ nay các nước phát triển có thể bị kiện ngay cả khi về
Trang 29
mặt pháp lý không vi phạm bất kỳ điều khoản nào trong hiệp định GATT nếu những
nước này có những hành vi trái với nguyên tắc "cạnh tranh công bằng".
1.3.5 Tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam:
Việt Nam cũng như bất kỳ nước nào khác muốn gia nhập WTO đều phải trải
qua một trình tự nhất định. Thủ tục gia nhập WTO bao gồm các bước (hoặc các giai
đoạn):
- Nộp đơn xin gia nhập;
- Ðàm phán gia nhập;
- Kết nạp.
1/1/1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO. WTO tiếp nhận đơn xin gia
nhập của WTO của Việt Nam và Việt Nam trở thành quan sát viên của tổ chức này.
31/1/1995, Nhóm công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO được Đại hội đồng
WTO thành lập do ông Seung Ho (Hàn Quốc) làm chủ tịch.
Giai đoạn đàm phán bao gồm các bước sau:
- Minh bạch hoá chính sách:
Minh bạch hoá chính sách là việc chính phủ nước xin gia nhập phải thông báo,
mô tả (phác hoạ) bức tranh chung về các cơ chế, chính sách thương mại, kinh tế của
nước mình có liên quan đến các hiệp định của WTO. Việc minh bạch hoá chính sách
được thực hiện thông qua việc Việt Nam gửi bản Bị vong lục về cơ chế ngoại thương
của Việt Nam (9/1996) trình bày về hệ thống chính sách thương mại - kinh tế của Việt
Nam tới Nhóm công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO để Nhóm công tác xem xét.
Trong quá trình Nhóm công tác xem xét, tất cả các nước thành viên WTO đều có thể
yêu cầu trả lời những câu hỏi mà họ quan tâm.
Tính đến nay, Việt Nam đã trả lời khoảng 2.600 nhóm câu hỏi do các thành
viên WTO đưa ra và đã thông báo hàng chục ngàn trang văn bản cho các thành viên
WTO về hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan đến các lĩnh vực thuế, đầu tư,
nông nghiệp, thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Theo quy định của WTO, khi việc xem xét của Nhóm công tác đã có những
bước tiến đáng kể, nước xin gia nhập có thể bắt đầu các cuộc đàm phán.
- Ðàm phán mở cửa thị trường:
Việc đàm phán được thể hiện ở 2 phương diện: đàm phán đa phương và đàm
phán song phương.
Trang 30
Ðàm phán đa phương: về mặt hình thức chính là các cuộc họp giữa Việt Nam
với Nhóm công tác. Các cuộc họp này được tiến hành ở Geneva, trụ sở của WTO. Về
mặt thực chất, đây là các cuộc họp nhằm tổng kết hoá các cam kết của Việt Nam. Tính
đến ngày 26/10/2006, Việt Nam đã tiến hành 14 phiên đàm phán đa phương, là phiên
đàm phán đa phương cuối cùng.
Ðàm phán song phương: là đàm phán giữa Việt Nam (nước xin gia nhập) với
từng thành viên khác nhau của WTO bởi vì mỗi nước thành viên có những lợi ích
thương mại và yêu cầu, toan tính khác nhau. Như đã nói ở trên, về mặt bản chất, khi
gia nhập WTO, Việt Nam có quyền tiếp cận thị trường của tất cả các thành viên WTO,
được hưởng quyền ngang với các thành viên khác của WTO, trong đó bao gồm cả việc
được hưởng những kết quả đàm phán giữa các thành viên khác với nhau, theo nguyên
tắc tối huệ quốc của WTO. Mặc khác, Việt Nam cũng phải đưa ra mức thuế suất thấp
và loại bỏ các hàng rào phi thuế để các thành viên khác tiếp cận được thị trường Việt
Nam. Ðồng thời, Việt Nam phải cam kết tuân thủ các quy định trong các hiệp định của
WTO liên quan đến việc mở cửa thị trường cho các đối tác thương mại. Do vậy, nói
một cách khác, các cuộc đàm phán song phương nhằm xác định các lợi ích mà các
thành viên của WTO có thể thu được từ việc gia nhập của một thành viên mới. Khi các
cuộc đàm phán song phương này kết thúc và Việt Nam trở thành thành viên WTO, các
cam kết qua các cuộc đàm phán sẽ trở thành cam kết áp dụng cho tất cả các thành viên
WTO. Có khoảng 30 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương với Việt Nam. Tính
đến 31/5/2006, Việt Nam đã kết thúc đàm phán với 28 đối tác, trong đó Hoa Kỳ là đối
tác cuối cùng và là đối tác đàm phán quan trọng và cam go nhất.
Khi bước vào giai đoạn đàm phán, nước xin gia nhập cũng bắt đầu đưa ra Bản
chào. Bản chào là danh mục những cam kết về thuế quan, về thương mại dịch vụ, đầu
tư, sở hữu trí tuệ...đáp ứng yêu cầu của các nước thành viên Nhóm công tác. Bản chào
là cơ sở để tiến hành các cuộc đàm phán mở cửa thị trường. Sau một quá trình đàm
phán, các cam kết, các nghĩa vụ trong Bản chào này sẽ được sửa đổi. Cuối cùng, các
cam kết, nghĩa vụ đưa ra trong Bản chào này sẽ trở thành những cam kết chính thức
khi kết thúc đàm phán.
Ðến nay, sau các phiên họp với Nhóm công tác từ 1998 đến 2001, Việt Nam đã
hoàn thành giai đoạn minh bạch hoá chính sách. Bản chào đầu tiên đã được Việt Nam
gửi tới Ban thư ký của WTO vào tháng 12/2001. Tính đến 12/2005, Việt Nam đã đưa
Trang 31
ra Bản chào thứ tư, trong đó Việt Nam đã cam kết mở cửa hầu hết các ngành dịch vụ
(trừ dịch vụ môi trường chưa chào, nhưng không có nghĩa là sẽ không phải mở) và đa
số các phân ngành dịch vụ. Cụ thể Việt Nam đã chào tới 92/155 phân ngành thuộc
10/11 ngành dịch vụ, đó là: dịch vụ kinh doanh; dịch vụ thông tin; dịch vụ tài chính
(cả ngân hàng); dịch vụ phân phối; dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật đồng bộ
có liên quan; dịch vụ văn hoá và giải trí; dịch vụ vận tải; dịch vụ giáo dục. Ngoài ra,
Việt Nam đã chào 99,7% số dòng thuế của biểu thuế 8 số (có tổng số 10.800 dòng
thuế) với mức thuế bình quân 18% (hàng công nghiệp 16%, thuỷ sản 22%, nông
nghiệp 24%) và lộ trình cắt giảm hầu hết các mặt hàng từ 3-5 năm.
- Kết nạp:
Theo thông lệ, khi Nhóm công tác đã kết thúc việc xem xét chế độ ngoại thương
của nước xin gia nhập, đồng thời các cuộc đàm phán đa phương, song phương về mở
cửa thị trường đã kết thúc, Nhóm công tác sẽ dự thảo một Báo cáo gia nhập của nước
xin gia nhập, bao gồm một Nghị định thư gia nhập và các danh mục ghi các cam kết
của nước xin gia nhập (là tổng hợp kết quả của các thoả thuận trong các phiên đàm
phán đa phương và các cam kết trong các phiên đàm phán song phương).
Các văn bản này sẽ được trình lên Ðại hội đồng hoặc Hội nghị bộ trưởng. Tại
cuộc họp của Hội nghị bộ trưởng, nếu 2/ 3 số thành viên của WTO chấp thuận, quyết
định về việc gia nhập sẽ được thông qua. Sau đó, Nghị định thư gia nhập của Việt
Nam sẽ được được Tổng giám đốc WTO và chính phủ Việt Nam ký và Việt Nam trở
thành thành viên của WTO. 30 ngày sau khi chủ tịch nước (hoặc quốc hội) phê chuẩn
nghị định thư, Việt Nam sẽ chính thức trở thành thành viên WTO.
Việt Nam kết thúc việc đàm phán song phương với 28 đối tác, đặc biệt là ký kết
thỏa thuận với đối tác Hoa kỳ ngày 31/5/2006 được xem như Việt Nam đã bước qua
được một chướng ngại vật khó qua trên con đường hội nhập vào Tổ chức thương mại
lớn nhất thế giới WTO, và kết thúc đàm phán đa phương ở phiên đàm phán thứ 14 đã
thông qua toàn bộ các tài liệu gia nhập WTO của Việt Nam. Phiên họp đặc biệt của
Đại Hội đồng WTO được tổ chức vào 7/11 đã thông qua việc kết nạp Việt Nam vào Tổ
chức này. Quốc hội đã phê chuẩn nghị định thư về gia nhập WTO vào 28/11. Như vậy,
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào cuối tháng 12/2006.
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của thời đại, một nền kinh
tế không thể vững mạnh, thậm chí là tụt hậu nếu tách rời khỏi vòng quay vận động của
Trang 32
nền kinh tế toàn cầu vì thế Việt Nam không thể đứng ngoài sự vận động này được.
Chúng ta cũng đã từng bước tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế trong một thời
gian khá dài ngay sau khi thoát khỏi nền kinh tế kế hoạch tập trung mở cửa thị trường
và đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Việt Nam đã tạo ra được một môi trường
kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết. Nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc
huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. GDP tăng liên tục qua
các thời kỳ 1986-1990 tăng trưởng bình quân 3,9%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo
(1991-1995) đã nâng lên đạt mức tăng bình quân 8,2%. Trong giai đoạn 1996-2000 tốc
độ tăng GDP của Việt Nam là 7,5%, thấp hơn nửa đầu thập niên 1990 do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng GDP của
Việt Nam đã phục hồi, hàng năm đều tăng ở mức năm sau cao hơn năm trước (năm
2001 tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7%, năm 2003 tăng 7,3%, năm 2004 tăng 7,7%, năm
2005 tăng 8,4%). Các quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút
được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường
cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu
ngoại tệ ngày càng lớn như du lịch, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiều hối... , Chính
sách “đa dạng hóa, đa phương hoá” quan hệ quốc tế đã giúp Việt Nam hội nhập ngày
càng sâu rộng hơn với nền kinh tế thế giới và khu vực. Nếu như trước năm 1990, Việt
Nam mới có quan hệ thương mại với 40 nước, thì ngày nay nhờ thực hiện chính sách
đối ngoại rộng mở, làm bạn, hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở bình
đẳng, cùng có lợi, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước trên thế giới, ký
kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương với trên 80 quốc gia, thực
hiện chế độ tối huệ quốc với trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những
nước và khu vực có nguồn vốn lớn, công nghệ cao và thị trường lớn như Mỹ, Nhật
Bản, EU và các nền kinh tế mới công nghiệp hóa ở Đông Á và gần đây nhất là gia
nhập vào Tổ chức thương mại Thế giới (một tổ chức với 150 thành viên các nước ).
Ngành tài chính- ngân hàng luôn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia. Một quốc gia có nền kinh tế phát triển thì chắc hẳn quốc gia
đó phải có một thị trường vốn sôi động, trong đó là một hệ thống ngân hàng hiện đại
với tiềm lực tài chính vững mạnh. Sự mở cửa về lĩnh vực tài chính đã khiến cho dòng
vốn luân chuyển không ngừng giữa các quốc gia. Tuy nhiên, nó cũng có mặt trái khiến
Trang 33
cho nền kinh tế các nước có thể xấu đi nhanh chóng do phản ứng dây chuyền nếu xuất
hiện khủng hoảng. Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt
đầu từ tháng 7/1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung
tâm tiền tệ lớn ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con
Hổ Đông Á". Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh
nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì
nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên
sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các
nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, hội nhập tài chính quốc tế sẽ giúp cho Việt Nam dễ tiếp cận với
luồng vốn khổng lồ chu chuyển giữa các quốc gia, nhất là trong hoàn cảnh Việt Nam
đang trong quá trình hiện đại hoá, công nghiệp hóa rất cần những nguồn vốn này để
xây dựng và phát triển đất nước. Và qua kinh nghiệm một số nước đi trước, chúng ta
có thể thấy rằng, hệ thống ngân hàng khi đồng hành cùng cả nước đi trên con đường
hội nhập sẽ được nhiều hơn mất nếu chúng ta có những chiến lược phát triển cụ thể để
nâng cao vị thế cạnh tranh của mỗi ngân hàng.
Trang 34
Phần 2: THỰC TRẠNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1 Tình hình hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện tại có thể chia làm 3 loại sau:
ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng có
vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện tại, Việt Nam có rất nhiều ngân hàng đang hoạt động: 5 ngân hàng
thương mại nhà nước, 38 ngân hàng thương mại cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, 29
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 45 văn phòng đại diện nước ngoài, 5 công ty tài
chính và 9 công ty cho thuê tài chính. Từ năm 1992, hệ thống ngân hàng nhà nước,
ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã đa
dạng hoá các dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Tuy nhiên, 4 ngân hàng quốc doanh
đóng vai trò nòng cốt là Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng công thương Việt Nam và
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chiếm khoảng 70% thị
trường cho vay và hơn 75% thị trường tiền gửi (năm 2004).
Bảng 2.1: Sơ đồ số lượng các NHTM ở Việt Nam qua các năm
Trang 35
Hình 2.1: sơ đồ thị phần tiền gửi của các ngân hàng quốc doanh
Hình 2.2: sơ đồ thị phần cho vay của các ngân hàng quốc doanh
Tuy nhiên, tổng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại quốc doanh trên là
không đáng kể chỉ khoảng 21 nghìn tỷ VNĐ (1,3 tỷ USD), của mỗi ngân hàng bình
quân là 250-300 triệu USD, thể hiện tiềm lực tài chính chưa thật sự mạnh đã cản trở
sự phát triển của các ngân hàng này. Dư nợ tín dụng hiện tại chỉ bằng 55% GDP,
thấp hơn nhiều so với tỉ lệ trung bình 80% của các nước Đông Nam Á. Tổng giá trị
tài sản của Vietcombank là 8,68 tỷ USD và ROE là 22% (12/2005). Vietcombank là
một trong những ngân hàng lớn và quản lý tốt nhất trong hệ thống ngân hàng quốc
doanh. Lĩnh vực kinh doanh chính là giao dịch ngoại tệ, ngoại thương và cung cấp
các khoản tài chính dài hạn cho dự án lớn của quốc gia. VCB nắm giữ 1/3 thị phần
tín dụng thương mại tại Việt Nam. VCB có hệ thống dịch vụ bán lẻ năng động, cung
cấp dịch vụ thẻ tín dụng, bảo đảm khoản vay nợ. VCB có 126 chi nhánh, 41 chi
nhánh cấp 2 và 47 điểm giao dịch vào cuối năm 2004. Ngoài ra , còn có 1 công ty tài
Trang 36
chính, 1 công ty chứng khoán, 1 công ty cho thuê tài chính, góp vốn vào 2 công ty
bảo hiểm, 7 ngân hàng.
Những ngân hàng thương mại cổ phần đã có thị trường tiền gửi tăng lên 13,2
% năm 2004, thị trường cho vay cũng tăng lên đến 11,6%. Năm 2005, các NHTM cổ
phần chiếm khoảng 16% lựợng cho vay. Năm 1993, có 31 NHCP với vốn điều lệ của
mỗi ngân hàng khoảng 9 triệu USD, tăng lên 51 năm 1997 và sau đó rơi xuống còn
35 ngân hàng năm 2005, sự sụt giảm này chủ yếu bằng con đường hợp nhất những
ngân hàng nhỏ, yếu kém. Trong số đó Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)
là ngân hàng lớn nhất với vốn điều lệ khoảng 2.089 tỷ VNĐ, ngân hàng thương mại
Á Châu (ACB) với vốn điều lệ là 1.100 tỷ đồng. Ngoài ra còn có NHTM cổ phần
Đông Á, Phương Nam, Techcombank, VIBank. Tính đến cuối tháng 5/2006, tổng tài
sản của ACB đạt trên 31.000 tỷ đồng, vốn điều lệ 1.100 tỷ đồng, tổng vốn huy động
26.615 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế trong 5 tháng đầu năm nay là 230 tỷ đồng. Chính
thành tích kinh doanh vượt trội này đã giúp ACB được các chuyên gia tài chính quốc
tế đánh giá cao. ACB chủ trương nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tiếp nhận sự
chuyển giao kỹ thuật từ các ngân hàng nước ngoài nhằm nâng cao nội lực. Việc ACB
lựa chọn Ngân hàng Standard Chartered (Anh) vào tháng 6/2005 làm đối tác chiến
lược cũng không nằm ngoài chủ trương đó. Hầu hết các ngân hàng cổ phần này đều
có vốn điều lệ bình quân 200- 300 tỷ đồng.
Sự thiếu vốn vẫn còn là thách thức lớn của các ngân hàng khi có nợ tồn đọng.
Ngoài ra, sự thiếu sản phẩm hay quản lý rủi ro không tốt cũng là vấn đề cần quan
tâm của các ngân hàng ngày nay
Hình 2.3: Thị phần cho vay của các ngân hàng cổ phần (2003)
Trang 37
Năm 2005, Ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên danh chiếm khoảng14%
hoạt động cho vay. Các ngân hàng lớn như HSBC, Citigroup, Deutsche Bank và
ANZ đều đã có mặt tại Việt Nam.
Nhìn chung các ngân hàng thương mại ở Việt Nam có chung các đặc điểm sau:
1. Sức thâm nhập thị trường còn thấp, chỉ có khoảng gần sáu triệu tài khoản ngân
hàng trên tổng số dân hơn 80 triệu người, 5 triệu trong số đó là tài khoản cá nhân,
chiếm khoảng 6%. Trong thực tế, quy mô thị trường tiềm năng vào khoảng 20 triệu
hay nói cách khác gấp 3 lần mức hiện nay, nếu đem so sánh nó với sự thâm nhập của
internet và mobile là 14% và 12% thì con số này tương đối nhỏ. Lý do để lý giải cho
điều này là rất đơn giản: sự phân phối và cơ sở hạ tầng của dịch vụ ngân hàng còn
quá yếu kém trong tương quan với nền công nghiệp viễn thông đã có phạm vi bao
hàm toàn quốc. Trong khi đó, ngân hàng hầu như không được nhắc đến ở những
thành phố hạng hai và vùng nông thôn với trên 70% số dân. Ngoài ra, còn có những
lý do khác như: trước đây chính phủ khuyến khích một nền kinh tế tiền mặt bằng
cách trả lương cho công nhân viên bằng tiền mặt, mọi người không tin tưởng vào
ngân hàng và ngay bản thân các ngân hàng cũng rất kém trong việc cung cấp những
dịch vụ lẻ cho khách hàng và ngay cả những doanh nghiệp nhỏ cũng được phục vụ
rất kém, các ngân hàng sẵn sàng từ chối cho họ vay những khoản tiền lớn nếu họ
không có tiền ký quỹ để chứng minh khả năng tài chính của mình.
Tuy nhiên, vào thời điểm hiện tại ngành công nghiệp ngân hàng đã và đang
tăng trưởng rất nhanh với tiền gửi và tiền cho vay tăng ở mức cao, gấp đôi mỗi năm.
Một số ngân hàng như Vietcombank, ACB, Sacombank và Techcombank đang cố
gắng thu hút khách hàng tại thị trường bán lẻ.
2. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng vượt xa tốc độ tăng trưởng của GDP
Trang 38
Bảng 2.2: sơ đồ tốc độ tăng trưởng của tiền gửi và cho vay
Việc sử dụng tín dụng ở Việt nam đang thực sự bùng nổ với tốc độ rất nhanh
trong những năm gần đây được thể hiện ở bảng trên, tỷ lệ nợ/tiền gửi tăng hàng năm
từ năm 2000 đến năm 2004: 91%- 93%- 975- 99%- 105%. Tuy nhiên, mức tăng
trưởng liên tục trong nhiều năm đã không làm nhiều tổ chức quốc tế như Quỹ tiền tệ
thế giớI IMF và ngân hàng thế giới WB hoan nghênh. Họ thích mức tăng tưởng tín
dụng ở mức vừa phải hơn là ở mức nóng như hiện nay, những ngân hàng quốc doanh
có sự tăng trưởng tín dụng ở mức trung bình hàng năm vào khoảng 24% trong 5 năm
gần đây.
Theo như một số nhà kinh tế, mức tăng trưởng GDP 7% có thể phục vụ cho
mức tăng trưởng tín dụng vào khoảng 14-20%. Điều này có nghĩa là mức tăng trưởng
tín dụng trên mức đó ở bất kì thời gian nào cũng có hại cho nền kinh tế, sự tăng
trưởng tín dụng có giảm trong năm ngoái xuống còn 15% do ngân hàng trung ương
muốn kiểm soát hoạt động tín dụng bằng công cụ lãi suất. Trong năm nay, dịch vụ
cho vay chỉ tăng khoảng 16% trong cả nước và chỉ 9% ở thành phố HCM.
Trong tương lai, rất có thể tốc độ tăng trưởng của tín dụng sẽ bùng nổ một lần
nữa khi Việt Nam gia nhập WTO, dự đoán rằng tín dụng có thể tăng ở mức 35% mỗi
năm trong vòng 5 năm tới do khách hàng sẽ tiếp cận được nhiều nguồn cung vốn.
Một vài ngân hàng trong nước có tiềm lực mạnh mới có thể đương đầu với sự cạnh
tranh này còn những ngân hàng khác rất có khả năng sẽ gặp rủi ro.
3. Thị phần của ngân hàng quốc doanh quá lớn
Trang 39
2000
Thị phần tiền gửi giữa các loại ngân hàng (%) 2002 79,3 10,1 8,1 1,3 2003 78,1 11,2 7,8 1,5 2001 80,1 9,2 8,8 1,2 2004 75,2 13,2 8,2 1,5 77 11,3 9,2 1,1
NH quốc doanh NH cổ phần NH nước ngoài NH liên doanh
Thị phần cho vay giữa các loại ngân hàng (%)
2003
NH quốc doanh 2000 72 2001 73 2002 73 73 2004 75 2005 68
liên 11 17 13 14 15 12 15 12 13 12 16 16 NH cổ phần NH nước ngoài và doanh
4 ngân hàng quốc doanh chiếm 70% thị trường cho vay trong khi đó trên 40
ngân hàng liên doanh và hàng loạt những ngân hàng có vốn nước ngoài chỉ chiếm
30% còn lại. Trong khi đó ở Mỹ 10 ngân hàng thương mại lớn nhất nắm giữ 49% tài
sản, tăng 20% so với thập niên trước. Điều này sẽ tạo nên sự phân khúc quá lớn trên
thị trường ngân hàng, những ngân hàng ngoài quốc doanh thị phần hoạt động quá ít.
Vì vậy mà Ngân hàng nhà nước sẽ đưa ra những luật lệ củng cố khu vực này. Một
trong những cách trên là đề ra điều kiện thành lập ngân hàng khó khăn hơn trước. Tất
cả các ngân hàng sẽ phải cần có vốn điều lệ là 1.000 tỷ đồng, đối với những ngân
hàng đã thành lập trước thời điểm quy định trên thì cho phép thời gian tăng vốn đến
hết năm 2007, những hiện nay trong những ngân hàng TMCP chỉ có một vài ngân
hàng như Sacombank (hơn 2.089 tỷ đồng), Habubank (1.185 tỷ đồng), ACB (1.100 tỷ
đồng), Phương Nam (1.300 tỷ đồng)… có vốn điều lệ nhiều hơn 1000 tỷ đồng, còn
vốn điều lệ của các ngân hàng khác vẫn còn ở một khoảng cách khá xa, muốn đạt
đến mức 1.000 tỷ chúng cần phải huy động thêm vốn hoặc sáp nhập lại. Ngân hàng
nhà nước đã dự thảo văn bản luật áp dụng vào năm tới theo đó bắt buộc các ngân
hàng phải nâng vốn điều lệ tối thiểu là 300 triệu đôla Mỹ do vậy mà khoảng 50%
ngân hàng TMCP phải đối mặt với việc sáp nhập hoặc bán lại
4. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng
Chính phủ vẫn áp dụng hình thức quản lý chặt lĩnh vực ngân hàng bằng hai
cách. Trực tiếp thông qua hàng loạt những điều luật nhằm kiểm soát hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng và quy định chặt chẽ trong việc cho phép kinh doanh một
loại hình nhất định. Cách gián tiếp thông qua sự can thiệp của hàng loạt cơ quan tổ
Trang 40
chức trong và ngoài nước muốn có tiếng nói trong việc phân phối nguồn tín dụng.
Các ngân hàng quốc doanh thường xuyên than phiền về sự can thiệp vào
những quyết định cho vay và quyền quản lí chung của họ. Những quyết định cho vay
ở các ngân hàng Việt nam vẫn còn dựa nhiều vào các mối quan hệ hơn là dựa vào sự
lưu chuyển tiền tệ của dự án vay vốn. Việc đánh giá đối tượng cho vay thông thường
được lèo lái bằng các mối quan hệ với ngân hàng và dựa vào số tiền kí quỹ đề nghị.
Sự đánh giá theo lưu chuyển tiền tệ của dự án và phân tích định tính chỉ dành cho
những khách hàng tư nhân lớn. Trong số những ngân hàng lớn chỉ có ngân hàng
ACB sử dụng phép phân tích DCF cho hầu hết các khách hàng. Vấn đề một phần là
do sự can thiệp của bên ngoài và một phần là do thiếu sự chỉ đạo chuyên nghiệp, sự
yếu kém của công nghệ thông tin để hỗ trợ cho việc phân tích tín dụng một cách
chuyên nghiệp.
Một vấn đề khác cũng được phơi bày là phần lớn các ngân hàng cho vay rất
nhiều tiền cho một số ít các khách hàng. Tốp 30 công ty nhà nước có thể chiếm hơn
một nửa số tiền cho vay của các ngân hàng quốc doanh. Điều này cũng xảy ra ở các
ngân hàng TMCP.
Việc quản lý các ngân hàng thương mại quốc doanh được các chuyên gia đánh
giá là nhược điểm lớn nhất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay. Việc các
ngân hàng vẫn duy trì các mối quan hệ kinh doanh khăng khít với các doanh nghiệp
nhà nước cho thấy các ngân hàng này vẫn chưa đa dạng hóa được đối tượng khách
hàng cho phù hợp với cơ cấu sở hữu thay đổi trong nền kinh tế. Mặc dù đã đổi kênh
cung cấp tín dụng chỉ định thông qua Quỹ Hỗ trợ phát triển, nhưng ngân hàng quốc
doanh vẫn còn quá phụ thuộc vào các sức ép ngầm trong hoạt động cho vay theo tiêu
chí chính trị, đặc biệt tại các chi nhánh cấp tỉnh. Trong khi đó, việc giải quyết vốn
không sinh lời đang bị trì trệ. Vấn đề sâu xa ở chỗ, việc giải quyết các khoản vay
không thế chấp đòi hỏi phải đưa ra các quyết định liên quan đến tương lai của các
doanh nghiệp nhà nước không có khả năng trả nợ. Trong khi đó, các ngân hàng thương
mại quốc doanh lại không ở vị trí để có thể đưa ra các quyết định đó.
Mặc dù có rất ít tiến bộ trong cải cách cơ cấu ngân hàng, nhưng các ngân hàng
quốc doanh thời gian qua vẫn nhận được những khoản tái cấp vốn hàng chục ngàn tỉ
đồng và điều này tạo nguy cơ tiếp tục sử dụng lãng phí. Vốn bổ sung dường như đã
không giúp các ngân hàng quốc doanh thận trọng hơn trong hoạt động cho vay. Theo
Trang 41
các chuyên gia, Chính phủ cần tạm ngừng các hoạt động tái cấp vốn bổ sung cho ngân
hàng quốc doanh. Thay vào đó, việc cần làm là để các ngân hàng này tái định hướng
hoạt động trên cơ sở lợi nhuận. Các ngân hàng quốc doanh cần được điều hành bởi
một ban giám đốc chuyên nghiệp thay vì một bộ phận của Chính phủ hoặc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, bởi lẽ nếu duy trì như hiện nay tức là tiếp tục duy trì sự xung đột
lợi ích bởi người lãnh đạo ngân hàng vừa là đại diện chủ sở hữu vừa là cơ quan điều
tiết tài chính. Nhưng dường như trên thực tế, còn rất khó để có thể thực hiện ngay các
khuyến cáo trên bởi trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã có công văn đề nghị
bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn (Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam) khẩn trương chấp thuận hợp đồng tín
dụng không phải thẩm định phương án vay, trả nợ đối với dự án thủy điện Sơn La và
dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất.
Tiềm lực tài chính còn hạn chế: 5.
Sự thiếu hụt nghiêm trọng vốn ở những ngân hàng quốc doanh và cả những
ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh. Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu (CAR) của các
ngân hàng bình quân là 4,5% vào cuối năm 2005, trong khi đó ở châu Á- Thái bình
dương là 13,1% và Đông Nam Á là 12,3%. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng tỷ lệ
này ngày càng tăng trong những năm gần đây do sự tăng quy mô vốn. CAR của các
ngân hàng nội địa thấp hơn mức 8% theo tiêu chuẩn quốc tế điều này cũng là cản trở
các ngân hàng Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
Bảng 2.3: CAR của các nước
Trang 42
Dịch vụ cung cấp còn nghèo nàn: 6.
Hoạt động kinh doanh của hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam là tín
dụng, trong khi đó một phần tư thu nhập của các ngân hàng phương Tây là từ phí
dịch vụ. Các ngân hàng quốc doanh nhìn chung chủ yếu phục vụ cho khu vực doanh
nghiệp nhà nước, cung cấp tiền vay cho những ngành kinh tế công cộng, xây dựng
cơ sở hạ tầng, ngành công nghiệp nặng và dự án phát triển nhà đất. Ngược lại, những
ngân hàng TMCP phần lớn phục vụ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) hoặc những
khách hàng tư nhân. Tuy nhiên, việc chỉ dựa vào sự thâm nhập thị trường thấp và
mạng lưới chi nhánh hạn chế nên các ngân hàng chỉ thu hút được một phần các
khách hàng tiềm năng của họ (theo như một cuộc khảo sát gần đây, chỉ khoảng 20%
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố HCM có được sự tiếp cận với nguồn vốn vay).
Tiền cho vay mua ô tô, tiền thế chấp, tiền cho vay sửa nhà là những dịch vụ lẻ chủ
yếu mà các ngân hàng thương mại cung cấp. Nhìn chung, các ngân hàng thương mại
Việt nam cho vay vốn thường dựa trên tài sản thế chấp hơn là dựa trên tính khả thi
của dự án vay vốn như hầu hết các ngân hàng quốc tế, ngân hàng nào làm cuộc trao
đổi nhanh nhất sẽ là kẻ thắng cuộc cuối cùng, điều này rất có thể làm cho họ mất
những khách hàng tiềm năng, ở tầm nhìn xa hơn khi Việt Nam gia nhập WTO, các
ngân hàng sẽ mất đi nguồn lợi nhuận tương lai khi mà những khách hàng này sẽ tìm
đến những ngân hàng nước ngoài với điều kiện cho vay tuy chặt chẽ nhưng thiết thực
khi họ đánh giá khả năng thành công của dự án vay vốn chứ không phải căn cứ vào
tài sản thế chấp hay cầm cố.
Không kiểm soát được các khoản nợ tồn đọng 7.
Những món nợ tồn đọng (NPLs) giảm đều đặn từ 12,7% vào năm 2000 xuống
lần lượt còn 8,5%, 8%,và 4,47% vào các năm 2001, 2002, 2003. Theo công bố của
Ngân hàng Nhà nước thì nợ xấu của hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần tính
đến thời điểm 31/12/2005 trung bình dưới 2%, trong khi tỷ lệ này đối với các ngân
hàng quốc doanh bình quân trên 5,4%. Nhưng theo quan chức một tổ chức phi chính
phủ tại Việt Nam thì tỷ lệ này với ngân hàng quốc doanh trung bình là khoảng 15%.
Sự thiếu minh bạch và nhiễu thông tin khiến chẳng ai biết thực tế số nợ xấu tại các
ngân hàng Việt Nam là bao nhiêu. Việc có hơn một báo cáo thống kê nợ xấu khiến quy
định mới trên đây sẽ còn gặp không ít tranh cãi về việc ngân hàng sẽ bán nợ cho Công
ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) theo tỷ lệ nào.
Trang 43
Bảng 2.4: Nợ tồn đọng năm 2005
Tuy nhiên, trong năm 2005 sự ra đời của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của
Ngân hàng Nhà nước về việc quy định phân loại nợ đã cho ta có những nhận định
khác. Hiện việc phân loại nợ xấu của các tổ chức tín dụng trên cả nước (trừ Ngân hàng
Chính sách xã hội) đều tuân thủ theo quy định này.
Theo đánh giá của một số nhà chuyên môn, những chuẩn mực đặt ra trong quy
định này đã hướng tới sự hòa nhập với chuẩn mực thế giới, tức là yêu cầu cao hơn. Khi
Quyết định 493 ra đời, giới ngân hàng cũng e ngại rằng con số biểu thị tỷ lệ nợ xấu của
họ sẽ bị đẩy lên cao hơn nhiều so với trước đây.
Vậy, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng theo Quyết định 493 không đáng ngại lắm.
Thậm chí một số ngân hàng quốc doanh hiện đang có được một tỷ lệ lý tưởng. Nợ xấu
của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đang ở mức khoảng 2,9 –
3,0% tổng dư nợ, cao hơn tiêu chí phân loại cũ là 0,6%. Và nếu so với mặt bằng chung
cách đây khoảng 5 năm thì đó là một tỷ lệ quá lý tưởng (so với 12 – 13%). Tỷ lệ nợ
xấu của các ngân hàng quốc doanh còn lại có mức chênh lệch đáng kể: Ngân hàng
Công thương (Incombank) ở vào khoảng 6% tổng dư nợ, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển (BIDV) ở khoảng 9% tổng dư nợ, của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (Agribank) ở mức khoảng 2,6%, thấp hơn cả Vietcombank.
Với các ngân hàng thương mại cổ phần, tỷ lệ trên còn thấp hơn rất nhiều. Theo
báo cáo của một số ngân hàng cổ phần, tỷ lệ nợ xấu chỉ xoay quanh mức 1%.
Như vậy, theo Quyết định 493, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam được
xác định bằng những con số rõ ràng.
Để xử lý nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước chọn cách trước hết là tái cấp vốn, hỗ trợ
nguồn tài chính cho các ngân hàng trích lập đủ dự phòng để có thể bù đắp những tổn
Trang 44
thất có thể xảy ra khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Sau đó cho
chuyển nhượng các khoản nợ xấu cho tổ chức xử lý nợ. Đa phần các khoản nợ xấu với
doanh nghiệp Nhà nước sẽ được phép bán cho DATC hoặc các đơn vị đủ năng lực tài
chính giải quyết. Tuy nhiên, mối quan hệ mua bán nợ giữa DATC với các tổ chức tín
dụng, giữa DATC với các tổ chức kinh tế và cá nhân hiện chưa được điều chỉnh, hầu
hết thiếu quy định pháp lý, thậm chí chồng chéo và mâu thuẫn. Các quy định áp dụng
cho DATC hầu như không tạo quyền ưu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận và khai thác
thông tin đánh giá khoản nợ nên đã gây ra không ít khó khăn trong việc mua và xử lý
nợ. Các nước khác trong khu vực thường không đặt vấn đề bảo toàn vốn và có lợi
nhuận làm nguyên tắc hoạt động chính cho tổ chức xử lý nợ. Thay vào đó họ chỉ yêu
cầu các tổ chức xử lý nợ của mình phải tối đa hóa giá trị thu hồi để giảm thiểu gánh
nặng ngân sách mà Chính phủ phải bỏ ra để hỗ trợ cho chương trình xử lý nợ tồn đọng.
Còn Việt Nam hiện nay lại yêu cầu tổ chức xử lý nợ quốc gia là DATC phải hoạt động
vừa nhằm lành mạnh hóa tài chính thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, vừa
theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Và thế là đương nhiên để bảo toàn vốn theo yêu cầu
của cơ chế quản lý tài chính áp dụng cho doanh nghiệp nhà nước thì DATC buộc phải
cân nhắc lựa chọn những khoản nợ ít gặp rủi ro mất vốn nhất. Yêu cầu trên đã tạo ra sự
mâu thuẫn trong mục đích hoạt động của DATC. Vì thế, các thỏa thuận mua bán nợ
với ngân hàng thương mại, nơi hơn 60% khoản nợ xấu là của doanh nghiệp Nhà nước,
sẽ không dễ gì đạt được.
Nợ tồn đọng được chia làm 3 nhóm xử lý sau:
+ Đối với nợ tồn đọng có tài sản bảo đảm (nợ tồn đọng nhóm 1): Tự bán công
khai trên thị trường; Bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Bán cho Công ty
mua bán nợ của Nhà nước (khi được thành lập).
+Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng để thu
hồi nợ (nợ tồn đọng nhóm 2): NHTM nhà nước tập hợp báo cáo đề nghị xử lý theo
hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước; NHTM cổ phần tự xử lý theo qui định hiện
hành.
+ Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ còn tồn tại,
đang hoạt động (nợ tồn đọng nhóm 3): Bán lại nợ để thu hồi vốn theo quy chế mua bán
nợ thông thường; Chuyển nợ thành vốn góp vào doanh nghiệp và được chuyển nhượng
phần vốn góp này; NHTM nhà nước được đánh giá lại khoản nợ tồn đọng của doanh
Trang 45
nghiệp nhà nước để xác định giá trị thực còn của khoản nợ và xử lý theo hướng dẫn
của Nhà nước
8. Quản lý yếu kém
Trong thời gian qua, Nhà nước đã có những thay đổi về chính sách giúp cho hệ
thống ngân hàng VN tiến gần hơn đến điều kiện đủ cho thành công của tự do hóa tài
chính. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng VN còn yếu kém về mặt quản lý
Vấn đề điều hành, quản lý hoạt động ngân hàng từ NHNN đến các NHTM
chiếm vị trí quan trọng trong việc quyết định hoạt động hiệu quả và tính lành mạnh
của hệ thống, nhất là đối với NHTM trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường và
chấp nhận cơ chế kinh doanh bình đẳng. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, kiểm soát nội
bộ chưa được chú ý đúng mức ở các NHTM, trong một số ngân hàng, bộ phận kiểm
soát nội bộ tồn tại mang tính hình thức, không phát hiện được những sai sót của bộ
phận điều hành hoặc nếu có phát hiện ra thì cũng không xử lý được. Đây là vấn đề mà
hệ thống ngân hàng VN cần có biện pháp khắc phục vì nó liên quan mật thiết đến hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng, nhất là trong vấn đề quản lý lãi suất của hoạt động tín
dụng.
9. Tính cạnh tranh thấp
Hiện nay, NHTM quốc doanh vẫn chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống ngân
hàng mà khách hàng của khu vực này chủ yếu vẫn là các DNNN, điều này khiến cho
việc cải cách hoạt động của các NHTMQD sang kinh doanh trên cơ sở thương mại
thực sự và tạo môi trường kinh doanh bình đẳng trong lĩnh vực ngân hàng gặp khó
khăn. Sự bảo trợ công khai hay ngấm ngầm của Nhà nước đối với các DNNN trong
việc vay vốn ngân hàng vẫn còn tồn tại đồng nghĩa với việc phát huy tác dụng của các
qui luật kinh tế thị trường trong lĩnh vực này bị cản trở, dẫn đến tính cạnh tranh trong
khu vực NHTM quốc doanh còn thấp.
Quy trình thủ tục là yếu tố rất quan trọng để thu hút khách hàng gửi tiền, mua
các loại giấy tờ có giá do các NHTM phát hành. Bởi vì nó liên quan đến thời gian giao
dịch và cảm nhận của khách hàng về chất lượng phục vụ của ngân hàng. Các NHTM,
TCTD đã có cố gắng rất nhiều để cải tiến quy trình, đưa ra dịch vụ giao dịch một cửa,
đơn giản hóa thủ tục gửi tiền tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá… nhưng quy trình và
thủ tục vẫn còn chưa được chuẩn hóa và có sự thay đổi giữa các chi nhánh, giữa các
NHTM. Quy trình hiện nay được thiết kế theo sự tiện lợi của ngân hàng hơn là của
Trang 46
khách hàng. Một số quy trình được sự hỗ trợ của công nghệ cho phép rút ngắn, giảm
thiểu thủ tục không cần thiết, nhưng lại vướng mắc phải các qui định không được phép
làm giao dịch khác chi nhánh, thay đổi thông tin khách hàng.
10. Rủi ro do yếu tố con người:
Xu hướng tự do hoá và toàn cầu hoá kinh tế khiến hoạt động kinh doanh của
ngành NH của Việt Nam càng trở nên phức tạp, dẫn tới có nhiều rủi ro hoạt động.
Trong những năm qua, các NHTM Việt Nam đã phải gánh chịu những tổn thất không
nhỏ do rủi ro hoạt động, mà nguyên nhân của các rủi ro này chủ yếu là do yếu tố con
người gây ra. Trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng chưa đồng đều, chất lượng
nguồn nhân lực ở hầu hết các NH thương mại nhà nước còn yếu kém so với đòi hỏi
của thời kỳ mới. Lãnh đạo quản trị NH theo cảm tính, không chuyên nghiệp, mang
tính kinh nghiệm. Cán bộ tín dụng thiếu khả năng, kỹ năng dự báo kinh tế, thị trường,
phân tích tình hình tài chính, phi tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, do tác động
của quá trình cạnh tranh, rất nhiều cán bộ giỏi của NH thương mại nhà nước đã được
các NH cổ phần, NH có vốn đầu tư nước ngoài chiêu mộ, đặc biệt ở hai thành phố lớn
Hà Nội và TP.HCM. Ngoài ra, đạo đức nghề nghiệp cần phải xem xét lại khi mà hàng
loạt các vụ án kinh tế được phanh phui trong thời gian qua làm thiệt hại cho nền kinh
tế đều có sự tiếp sức của cán bộ tín dụng
Một trong những ví dụ điển hình của các tổn thất này là trường hợp của NH
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, theo kết luận của Thanh tra NH Nhà
nước tại Sở Quản lý và kinh doanh vốn ngoại tệ đã kết luận chỉ trong 10 tháng cuối
năm 2004, đơn vị này đã kinh doanh ngoại tệ thua lỗ lên tới 499 tỷ đồng. Một trong
những nguyên nhân gây ra tình trạng này là do cán bộ đã không tuân thủ quy trình
nghiệp vụ. Thực tế hoạt động của các NHTM cho thấy tình trạng cán bộ vi phạm các
quy trình nghiệp vụ ngày càng trở nên phổ biến. Đây là một trong những nguyên nhân
gây ra các tổn thất cho các NH.
Trong hệ thống ngân hàng Việt nam nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin
của các ngân hàng cũng rất khác nhau kể cả về số lượng và chất lượng cán bộ, kỹ sư.
việc tuyển dụng và đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ sư tin học chuyên nghiệp cho ngân hàng
là một vấn đề khó khăn
11. Quản trị rủi ro còn kém:
Trang 47
- Lãi suất cho vay không được xác định khoa học dựa trên chi phí vốn, mức độ rủi
ro và mức lợi nhuận hợp lý của NH.
Các NH không định giá khoản vay trên cơ sở đảm bảo lãi cho vay đủ bù đắp chi phí
biên của vốn, chi phí quản lý khoản vay, phần bù rủi ro và lợi nhuận hợp lý cho NH.
Việc định giá khoản vay được thực hiện một cách cảm tính hoặc cứng nhắc dựa
vào mức lãi suất thông báo áp dụng chung cho tất cả mọi khách hàng; việc lượng hoá
độ rủi ro của khách hàng, dự án vẫn rất khó khăn ở VN khi các NH không có phần
mềm và đầy đủ thông tin để định giá. Các thông số của thị trường dùng trong đo lường
(như hệ số bêta, xếp hạng tín dụng …) chưa có cơ quan chuyên nghiệp để xác định.
Thêm vào đó, một số NH vì cạnh tranh đã thậm chí cho vay khách hàng dưới mức giá
vốn cộng chi phí và phần bù rủi ro ngay cả khi đã tham gia vào các thoả thuận về lãi
suất. Việc các NH cùng bằng mọi cách đổ vốn vào cùng một doanh nghiệp, một dự án
mà không có phần bù rủi ro, ngoài kết quả thu hẹp lợi nhuận của NH còn đồng thời
làm cho tính rủi ro của dự án cao hơn do sự dễ dãi của NH.
- Trích lập dự phòng rủi ro trên cơ sở nợ quá hạn chứ không phải trên mức rủi
ro tín dụng: theo quy định hiện nay, các NH thương mại trích lập dự phòng rủi ro tín
dụng trên cơ sở nợ quá hạn. Điều này là không hợp lý vì có những khoản vay mặc dù
chưa tới hạn nhưng đã tiềm ẩn khả năng mất vốn rất cao, cần được dự phòng rủi ro
song lại không được trích lập.
- Lạm dụng tài sản thế chấp: kinh tế tăng trưởng cao trong vài năm trở lại đây
cùng với giá bất động sản bị đẩy lên cao ở hầu hết các thành phố lớn đã làm nảy sinh
tư tưởng dựa dẫm thái quá vào tài sản thế chấp. Số lượng các khoản vay để mua bất
động sản (nhà, đất) cũng tăng. Tuy nhiên sẽ rất nguy hiểm nếu cán bộ tín dụng quên đi
rằng khoản vay cần được trả bằng dòng tiền tạo ra bởi dự án sản xuất kinh doanh chứ
không phải bằng tiền bán tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp chỉ là sự đảm bảo cuối
cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến mà thôi.
12. Công nghệ áp dụng trong ngân hàng chưa đồng bộ, hạn chế:
Tuy đã có bước phát triển tiến bộ về công nghệ ứng dụng, một số NHTM có
khả năng tài chính và sự lựa chọn đầu tư đúng hướng, nên đã có những hệ cơ sở dữ
liệu, phần mềm ứng dụng hoạt động rất hiệu quả, nhưng nhìn chung, vấn đề công nghệ
vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc như: sự phát triển chưa đồng đều về công
nghệ giữa các ngân hàng; tính đồng bộ của công nghệ còn thấp; hiệu quả chương trình
Trang 48
phần mềm chưa đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động quản lý, hoạt động kinh
doanh ngân hàng; một số ngân hàng vẫn sử dụng các phần mềm cũ, xử lý chậm và
quản trị dữ liệu không cao, không phù hợp với yêu cầu phát triển hiện nay. Hạn chế rất
nhiều đến sự phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng, nhất là hoạt động dịch vụ
thanh toán. Từ đó tất yếu là hạn chế việc thu hút tiền gửi.
Bên cạnh đó, sự phối hợp liên kết trong phát triển công nghệ còn hạn chế, mang
tính manh mún, mạnh ai nấy làm, thiếu tính đồng bộ, chính vì thế, hiệu quả mang lại
nhìn từ góc độ vĩ mô chưa cao, lãng phí tài nguyên, hạn chế hiệu quả vốn đầu tư, mà
điển hình là hệ thống máy ATM, mỗi ngân hàng tự phát triển, sử dụng thẻ riêng, vừa
tốn kém, vừa không mang lại tiện ích cao cho khách hàng sử dụng.
Hiện nay, các NHTM, TCTD đang tích cực hiện đại hóa các nghiệp vụ ngân
hàng với sự trợ giúp của công nghệ thông tin, nhằm cung cấp nhiều dịch vụ tiện lợi
cho khách hàng. Tuy nhiên, so với cả nước thì vẫn ở trình độ trung bình. Cơ sở vật
chất và trang thiết bị còn hạn chế, nên ảnh hưởng đến mở rộng thị phần kinh doanh.
Hệ thống ATM quá ít về số lượng máy, mới chủ yếu được đặt tại trụ sở của chi nhánh
ngân hàng. Các chi nhánh ở các huyện ngoại thành có chưa đáng kể.
Hệ thống máy chủ chưa đủ mạnh để mở rộng và phát tiển rộng rãi các sản phẩm
phẩm dịch vụ, các máy PC tại chi nhánh vẫn đang sử loại có cấu hình thấp, không đủ
mạnh để chạy các chương trình ứng dụng hiện đại.
Tóm lại, những ngân hàng thương mại nội địa vẫn nằm trong tình trạng quy mô
nhỏ, năng lực tài chính chưa cao, mức độ rủi ro cao, chất lượng tín dụng thấp...
13. Là động lực thúc đầy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Là một cấu thành của thị trường tài chính, sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ
kém bền vững nếu thiếu sự gắn kết với hệ thống ngân hàng. Từ kinh nghiệm của nhiều
nước đã cho thấy rằng, “nếu thị trường chứng khoán là một cạnh cắt của thị trường tài
chính, thì các ngân hàng vừa là nền móng vừa là xi măng”. Như vậy có thể thấy hệ
thống ngân hàng và thị trường chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, kết hợp
và tác động với nhau cùng phát triển. Vai trò của hệ thống ngân hàng trong sự phát
triển thị trường chứng khoán được thể hiện trên một số phương diện chủ yếu sau:
- Thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán như hai bình thông nhau trong sự
luân chuyển vốn, lãi suất ngân hàng tăng hoặc giảm sẽ ảnh hưởng đến giá chứng
Trang 49
khoán giảm hoặc tăng, cũng như ảnh hưởng đến dòng luân chuyển vốn (capital flow):
vốn được chuyển từ TTCK sang thị trường tiền tệ hoặc ngược lại.
Tuy nhiên, về tổng thể mức độ tác động qua lại giữa thị trường tiền tệ và thị
trường chứng khoán ở Việt nam còn chưa rõ nét do thị trường tiền tệ vẫn đang còn ở
mức thấp và quy mô của TTCK còn khá nhỏ (tổng giá trị vốn hoá thị trường của cổ
phiếu chiếm khoảng 0,83% tổng vốn huy động và khoảng 0,80% tổng vốn cho vay của
hệ thống ngân hàng). Năm 2004, mặc dù giá trị giao dịch trái phiếu tăng cao nhưng
tổng giá trị tham gia trái phiếu của các NHTM (bao gồm cả bảo lãnh và đấu thầu)
chiếm 1,28% tổng vốn huy động và 1,23% tổng vốn cho vay của hệ thống ngân hàng
nên tác động của TTCK đến hoạt động ngân hàng còn rất hạn chế.
Bảng 2.5 : Mối quan hệ giữa VN-Index và lãi suất huy động năm 2004
DiÔn biÕn chØ sè VN-Index vμ l·i suÊt huy ®éng 12 th¸ng n¨m 2004
§iÓm
300
250
200
150
100
50
0
PhÇn tr¨m (%) 7,75 7,70 7,65 7,60 7,55 7,50 7,45 7,40 7,35 7,30 7,25 7,20
r a
r a
r a
y a
y a
l u J - 1
n a J - 5
n u J - 9
t c O - 6
b e F - 4
c e D - 3
M - 9
v o N - 1
l u J - 1 2
g u A - 5
n a J - 5 1
y a M - 6
n u J - 1 2
p e S - 4 1
p e S - 4 2
t c O - 0 2
b e F - 6 1
b e F - 6 2
r p A - 2 1
r p A - 2 2
c e D - 5 1
c e D - 7 2
M - 9 1
M - 1 3
v o N - 1 1
v o N - 3 2
g u A - 0 3
M - 8 1
M - 8 2
g u A - 8 1 LS
VN-Index
Qua biểu đồ trên đây về diễn biến chỉ số giá chứng khoán VN-Index và lãi suất
ngân hàng trong năm 2004 cũng như những năm trước đây cho thấy việc tăng hoặc
giảm lãi suất ngân hàng chưa thực sự tác động đến chỉ số giá chứng khoán.Tuy nhiên,
trong tương lai, khi thị trường tiền tệ và TTCK phát triển, tác động qua lại giữa thị
trường tiền tệ và thị trường chứng khoán, thị trường vốn nói chung sẽ chặt chẽ hơn.
- NHTM đã tham gia phần lớn vào các lĩnh vực của thị trường chứng khoán như
các NHTM đã thành lập công ty chứng khoán, tham gia làm ngân hàng chỉ định thanh
toán, ngân hàng lưu ký, tham gia góp vốn thành lập công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán, thực hiện vai trò ngân hàng giám sát.... đến nay trong số 18 công ty chứng
khoán thì có 9 công ty chứng khoán thuộc các ngân hàng thương mại như Ngân hàng
Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng
Nông nghiệp & phát triển nông thôn, Ngân hàng Á châu, Ngân hàng Quân đội, Ngân
Trang 50
hàng Đông Á, Ngân hàng An Bình và Sacombank. NHTMCP Sài Gòn Thương tín
(Sacombank) đã thực hiện góp vốn với Công ty Dragon để thành lập Công ty liên
doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán (VFM). việc thực hiện vai trò ngân hàng giám
sát: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) là NHTM đầu tiên triển khai
dịch vụ giám sát quỹ đầu tư chứng khoán, cụ thể là Quỹ VF1
- Ngoài ra, thực hiện chủ trương cổ phần hóa theo tinh thần Nghị quyết TW lần
thứ 9 về thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp có quy mô lớn gồm các tổng công ty
Nhà nước và các NHTM Nhà nước, trong lĩnh vực ngân hàng, Chính phủ đã lựa chọn
Ngân hàng Ngoại thương Việt nam và Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu
Long thực hiện cổ phần hóa. Thực hiện chủ trương nêu trên của Chính phủ, Ngân hàng
Ngoại thương đã triển khai xây dựng đề án cổ phần hóa, trình Ngân hàng Nhà nước để
trình Thủ tướng Chính phủ. Việc cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương đang thu hút
sự quan tâm rất lớn của công chúng trong và ngoài nước, đặc biệt đối với các nhà đầu
tư nước ngoài.
Tuy nhiên, quá trình cổ phần hoá các NHTM Nhà nước sẽ thuận lợi hơn trong
việc đấu thầu công khai cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nếu thị trường chứng
khoán ở Việt Nam phát triển ở quy mô lớn hơn. Tuy nhiên, do quy mô hoạt động của
thị trường chứng khoán còn nhỏ so với quy mô của các NHTM Nhà nước nên nếu việc
cổ phần hoá các ngân hàng này chỉ gắn với thị trường chứng khoán trong nước chắc
chắn sẽ gặp những khó khăn về nguồn vốn đầu tư.
2.2 Sự chuẩn bị của hệ thống ngân hàng Việt Nam cho sự hội nhập WTO: Nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động lành mạnh, an toàn,
có hiệu quả và hình thành các ngân hàng thương mại lớn, có uy tín và khả năng cạnh
tranh ở thị trường trong nước và ngoài nước để thực hiện tốt việc hội nhập với khu vực
và quốc tế thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện nhiều cải cách
đối với các ngân hàng thương mại.
2.2.1 Chính phủ phê duyệt đề án cơ cấu lại Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh nhằm từng bước làm lành mạnh tình hình tài chính của các ngân hàng này
Với vai trò là lực lượng nòng cốt trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam,
các NHTM quốc doanh đã thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy không thể thiếu của các
thành phần kinh tế, có những đóng góp lớn lao trong thúc đẩy nền kinh tế quốc dân
phát triển với tốc độ cao và toàn diện. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, hoạt động
của các NHTM quốc doanh đã bộc lộ một số yếu điểm, nhất là về mặt tài chính (vốn tự
có thấp, nợ tồn đọng vẫn còn lớn, quản lý rủi ro còn lỏng lẻo…), làm suy giảm nghiêm
Trang 51
trọng vai trò chủ đạo và khả năng hội nhập của các ngân hàng này trong toàn hệ thống
NHTM. Chính phủ đã tiến hành cơ cấu khu vực ngân hàng này với 2 phần trọng tâm
của đề án cơ cấu lại ngân hàng thương mại nhà nước gồm: cơ cấu lại tài chính và cơ
cấu lại nghiệp vụ và cấu trúc tổ chức; sau 3 năm tích cực triển khai, về cơ bản các
ngân hàng thương mại nhà nước đã hoàn thành phần cơ cấu lại tài chính. Đến nay vốn
tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước đã được tăng lên 3,5 lần so với thời
điểm 31/12/2000, nâng tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản có từ 3,5% lên 5%. Ngân hàng Nhà
nước cũng đang phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thiện dự thảo
Đề án tăng vốn tự có cho các ngân hàng thương mại bằng đồng thời nhiều phương
thức như phát hành trái phiếu đặc biệt, trích lợi nhuận, thuế vốn để lại và cổ phần hoá
v.v... Song song với các nỗ lực cơ cấu tài chính, việc cơ cấu lại nghiệp vụ và cấu trúc
tổ chức của các ngân hàng thương mại nhà nước trong 3 năm qua cũng đã, đang và sẽ
tiến triển theo phương châm đổi mới gắn với hội nhập và phù hợp với tập quán quốc
tế. Những thành tựu ban đầu có thể ghi nhận như sau:
Thứ nhất, cơ cấu lại mô hình tổ chức ở tất cả các ngân hàng thương mại nhà
nước đã từng bước làm rõ và tăng cường mối quan hệ giữa bộ phận quản lý và bộ phận
điều hành theo hướng nâng cao hiệu lực quản lý của Hội đồng quản trị nhất là quản lý
chiến lược kinh doanh và quản trị rủi ro, nâng cao năng lực điều hành của Tổng Giám
đốc và các Phó Tổng giám đốc. Đến nay bộ máy, tổ chức của các ngân hàng thương
mại nhà nước đã được kiện toàn hơn. Cụ thể là mô hình tổ chức được cơ cấu lại, phân
định các phòng ban theo đối tượng khách hàng, kết hợp theo sản phẩm dịch vụ; phân
cấp quản lý theo mô hình khối, nâng cao hiệu quả quản lý và tăng cường kỹ năng quản
trị rủi ro, tăng cường chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng mạng lưới
và phát triển sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ mới và đã từng bước tiến hành
xây dựng chiến lược đào tạo và sử dụng cán bộ với sự giúp đỡ kỹ thuật của Ngân hàng
Thế giới.
Tách hoạt động cho vay chính sách và hoạt động cho vay thương mại. Thành
lập ngân hàng chính sách xã hội nhằm tập trung thực hiện tốt hơn các chính sách kinh
tế xã hội của Đảng, Nhà nước tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại nhà nước
thực sự chuyển sang kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, an toàn và hiệu quả.
Thứ hai là cơ cấu lại phương thức quản trị kinh doanh như quản trị rủi ro, kiểm
toán nội bộ, quản lý tài sản nợ- tài sản có, quản lý tín dụng, quản lý vốn, xây dựng hệ
Trang 52
thống thông tin quản lý, hiện đại hoá công nghệ thanh toán. Tuy nhiên, đây cũng là
những vấn đề mới và phức tạp chúng ta còn thiếu nhiều kinh nghiệm nên ngành ngân
hàng đã yêu cầu sự trợ giúp kỹ thuật của các tổ chức tài chính và các công ty tư vấn
quốc tế. Theo đó, ba trong số các phương thức quản trị ngân hàng hiện đại trên gồm
quản lý tài sản nợ – tài sản có, kiểm toán nội bộ, hệ thống thông tin quản lý đã và đang
được các ngân hàng thương mại nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần
tiên phong triển khai áp dụng trước với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới.
Về xây dựng chiến lược kinh doanh, đến nay các ngân hàng thương mại nhà
nước đã hoàn thành việc xây dựng chiến lược kinh doanh nhằm vào các dịch vụ cơ sở,
cắt giảm chi phí hoạt động, ngừng đầu tư vào các loại hoạt động không mang lại hiệu
quả, đồng thời mở rộng, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Về quản lý tín dụng, các ngân hàng đã ban hành quy trình quản lý tín dụng, sổ
tay tín dụng theo thông lệ quốc tế và triển khai thực hiện xuống từng chi nhánh vào
năm 2004. Quản lý tín dụng theo hướng kinh doanh tín dụng theo nguyên tắc thương
mại và thị trường nhằm mục đích hướng tới khách hàng đáp ứng các nhu cầu thực tế
của khách hàng với chất lượng dịch vụ cao. Đồng thời bảo đảm quản lý tín dụng một
cách an toàn dựa trên các quy định và nguyên tắc về hoạt động tín dụng theo chuẩn
mực quốc tế.
Về quản lý rủi ro, các ngân hàng thương mại nhà nước đã thành lập Uỷ ban
quản lý rủi ro; xây dựng các định chế về quản lý rủi ro nhằm hạn chế các rủi ro trong
hoạt động ngân hàng như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt
động, rủi ro tỷ giá.
Về quản lý vốn, cơ cấu lại nghiệp vụ quản lý vốn đã từng bước phục vụ tốt mục
tiêu chiến lược kinh doanh với cơ cấu vốn tối ưu đồng thời giảm chi phí huy động,
giảm thiểu rủi ro, tăng năng lực tài chính. Đến nay các ngân hàng thương mại nhà
nước đã thành lập Ban quản lý tài sản nợ – tài sản có trực thuộc Ban điều hành và xây
dựng xong quy chế hoạt động cho Ban này.
Về phát triển công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
đặc biệt là công nghệ thanh toán, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá dịch vụ ngân
hàng, hiện đại hoá hệ thống thông tin quản lý trên cơ sở kinh nghiệm quản lý quốc tế
về ngân hàng. Nhờ đó trong 3 năm qua tỷ trọng tiền mặt trong tổng thanh toán toàn
Trang 53
ngành đã giảm đáng kể từ 30% xuống 23%; nhiều tiện ích ngân hàng mới đã xuất hiện
như: homebanking, Phonebanking, tiền điện tử.
Về hệ thống kế toán, kiểm toán, các ngân hàng đang chuyển đổi hệ thống kế
toán Việt Nam sang hệ thống kế toán quốc tế, làm cho hệ thống kế toán phù hợp với
chuẩn mực quốc tế. Tiến hành kiểm toán độc lập do các công ty kiểm toán quốc tế
thực hiện đối với tất cả các ngân hàng thương mại nhà nước, kịp thời khắc phục các
nhược điểm thiếu sót được rút ra từ kiểm toán, đánh giá đúng thực trạng tài chính ngân
hàng hơn. Đồng thời xây dựng các thiết chế an toàn cho hoạt động ngân hàng phù hợp
với chuẩn mực quốc tế. Hiện nay các ngân hàng thương mại đang thực hiện Dự án
hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán. Ngân hàng Nhà nước đã trình Thủ
tướng Chính phủ cho phép thực hiện thí điểm mô hình kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội
đồng quản trị tại Ngân hàng Ngoại thương, sau đó rút kinh nghiệm triển khai đối với
các ngân hàng thương mại nhà nước khác.
Xây dựng chiến lược đào tạo và sử dụng cán bộ qua đào tạo là vấn đề đã được
các ngân hàng đặc biệt quan tâm và coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển
trong suốt những năm qua. Yêu cầu của công việc quản lý nhân lực và đào tạo là xây
dựng đội ngũ cán bộ quản lý và viên chức ngân hàng có đủ đạo đức và kỹ năng cần
thiết để thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới. Các ngân hàng thương mại
nhà nước đang rà soát lại, bổ sung sửa đổi các quy chế về tuyển dụng, bố trí và thuyên
chuyển viên chức theo yêu cầu, quản lý mới phù hợp với cơ chế thị trường nhằm nâng
cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhân sự, tiền lương của các ngân hàng. Đồng
thời các ngân hàng cũng đang xây dựng hệ thống khuyến khích vật chất và tinh thần
đối với các chi nhánh, các đơn vị trực thuộc, các cá nhân người lao động phù hợp với
yêu cầu kinh doanh, cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận.
Như vậy, sau 3 năm triển khai đề án cơ cấu lại các ngân hàng thương mại nhà
nước, hầu hết các nội dung trong bản đề án đã được đưa vào triển khai hoạt động trong
thực tiễn. Tuy nhiên những thành tựu đạt được mới chỉ mang tính khởi đầu và định
hình một hướng đi mới trong sự nghiệp đổi mới theo chiều sâu của ngành. Việc còn
phải làm là rất lớn, không chỉ tiếp tục cơ cấu lại tài chính, nghiệp vụ và cấu trúc mới
mà bao gồm cả quá trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước v.v... Dù
sao, với những bước khởi đầu trong gian nan song từ thực tiễn đổi mới, ngành ngân
hàng đã nhận thức được khá rõ ràng những thuận lợi, những thách thức và cả những
Trang 54
phương án giải các bài toán hóc búa... Chúng ta tin vào tiến trình đổi mới chiều sâu
của các ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng, của ngành ngân hàng Việt Nam nói
chung sẽ phát triển đúng hướng và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế
thị trường, mở cửa và hội nhập của đất nước.
2.2.2 Tiến hành cổ phần hoá các ngân hàng quốc doanh Hiện nay, 2 trong số 5 ngân hàng thương mại quốc doanh được Chính phủ đồng
ý cho thí điểm thực hiện cổ phần hoá là ngân hàng ngoại thương Việt Nam (VCB) và
Ngân hàng phát triển nhà và đồng bằng sông Cửu Long (MHB). Đề án cổ phần hoá
của Vietcombank đã được xây dựng và hoàn thiện, đang lựa chọn tư vấn nước ngoài.
Ngân hàng phát triển nhà và đồng bằng sông Cửu Long đang chờ phê duyệt phương
án cổ phần hoá. Tiếp theo đó là ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (2007), ngân
hàng công thương (2008) và ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ( 2008-
2009)
2.2.3 Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Thông qua việc chấn chỉnh, củng cố và sắp xếp các ngân hàng thương mại cổ
phần đã đưa số lượng các ngân hàng thương mại cổ phần từ 51 ngân hàng xuống còn
38 ngân hàng. Các ngân hàng thương mại cổ phần đã đáp ứng đủ vốn pháp định theo
qui định và đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trên 8%. Xử lý được trên 70% nợ tồn đọng
có dư nợ đến 31/12/2000. Vì vậy, đến nay hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần
có tỷ lệ nợ xấu theo tiêu chuẩn Việt Nam dưới 5%. Giai đoạn 1998-2000, các ngân
hàng thương mại cổ phần được đánh giá là có rủi ro tín dụng cao nhất trong hệ thống,
nhưng sau một thời gian thực hiện xử lý các ngân hàng (NH) yếu kém, sáp nhập, tăng
vốn đối với các NH khác thì dường như hệ thống NH thương mại cổ phần đã bắt kịp
với sự phát triển của kinh tế thị trường, trở nên có sức cạnh tranh hơn các NH thương
mại nhà nước; với năng lực ngày càng tăng, tỷ suất sinh lời càng cao và năng động
hơn NH thương mại nhà nước trong việc đưa ra những sản phẩm dịch vụ mới, hiện
đại, phù hợp và được người dân ưa chuộng hơn. Các NHTM cổ phần đã có nhận thức
tốt hơn và bắt đầu tăng tốc để hội nhập, tăng vốn tự có, mạng lưới chi nhánh được mở
rộng, an toàn hoạt động được coi trọng
2.2.4 Nâng cao tiềm lực tài chính Các ngân hàng nội địa quốc doanh hay ngoài quốc doanh đều ý thức được tầm
quan trọng về tiềm lực tài chính trong cuộc cạnh tranh nên đã đua nhau tăng vốn bằng
cách phát hành trái phiếu và cổ phiếu. Vietcombank phát hành trái phiếu vào 12/2005
Trang 55
nhằm tăng vốn điều lệ thêm hơn 1.300 tỷ đồng với thời hạn là 7 năm và lãi suất là 6%
và hiện nay là trái phiếu đầu tiên đã được niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh. BIDV huy động 2.200 tỷ vào đầu năm 2006; -
Agribank phát hành trái phiếu huy động 3.000 tỷ từ tháng 10/2006; ACB vừa phát
hành 1.650 tỷ trái phiếu chuyển đổi. Cổ phiếu của Sacombank là cổ phiếu ngân hàng
đầu tiên được niêm yết vào tháng 7/2006, đây là một trong những cổ phiếu blue- chip
được các nhà đầu tư quan tâm, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài hiện đang sở hữu
khoảng 30%, do biến động về giá cổ phiếu STB theo hướng bất lợi trong tháng 7- 8
vừa qua nên Sacombank tạm hoãn việc phát hành thêm khoảng 200 tỷ đồng. Ngoài ra,
Sacombank còn hợp tác với ANZ Banking group trong việc cung cấp dịch vụ thẻ tín
dụng và nắm giữ 51% cổ phiếu của Công ty quản lý quỹ Vietfund, là công ty đang
quản lý quỹ đầu tư VF1 cũng đang được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Sacombank là một ngân hàng cổ phần mạnh với tiềm lực tài chính đáng nể trong hệ
thống ngân hàng cổ phần với giá trị tài sản ròng là 18,9 nghìn tỷ đồng, CAR= 15%,
NPL dưới 1%.
2.2.5 Từng bước hiện đại hoá dịch vụ cung cấp
Theo xu hướng chung của thế giới, Việt Nam dần quan tâm đến việc cung cấp
các dịch vụ cho khách hàng song song cùng với thế mạnh tín dụng của mình. Hiện tại
đã có:
- 8 NH đã có hệ thống kế toán tập trung tài khoản kết nối online.
- 55 NH và 215 chi nhánh tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên NH.
- 15 ngân hàng đã có máy ATM
- 17 ngân hàng đã phát hành thẻ nội địa
- 5 ngân hàng đã phát hành thẻ quốc tế
- 42 ngân hàng tham gia thanh toán quốc tế
- Máy ATM: gần 3000 máy và dự kiến giai đoạn từ năm 2006-2010 lắp thêm khoảng
6.325 máy. Khách hàng sử dụng máy ATM tăng đáng kể, do vậy việc lắp đặt thêm
máy ATM đang được thực hiện tích cực. Đi đôi với tăng cường số lượng máy ATM
việc xây dựng trung tâm chuyển mạch để kết nối các máy ATM và các thiết bị đầu
cuối của các ngân hàng lại với nhau cũng đang khẩn trương triển khai.
- Số lượng thẻ thanh toán: Thẻ phát hành nội địa tính đến hết năm 2005 có hơn
2 triệu chiếc; ước tính từ 2006 đến 2010 sẽ phát hành thêm 12 triệu chiếc. Thẻ quốc tế
Trang 56
đã phát hành hơn 100 nghìn thẻ; ước tính từ 2006 đến 2010 phát hành thêm 2 triệu thẻ.
Qua số liệu thống kê cho thấy mức độ tăng trưởng thẻ trong nước nhanh hơn thẻ quốc
tế. Từ cuối năm 2004 đến đầu năm 2005 số lượng phát hành thẻ trong nước tăng đột
biến. Đối tượng dùng thẻ chủ yếu là sinh viên và công nhân làm việc tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất. Tương ứng với việc phát hành và sử dụng thẻ thanh toán trong
ngân hàng giá trị giao dịch bằng thẻ cũng tăng lên đáng kể. Theo số liệu thống kê số
tiền giao dịch bằng thẻ đang tăng lên. Cụ thể, thẻ nội địa: Tổng số thanh toán tính đến
30.4.2005 đạt 11.480 tỷ đồng. Trong đó thanh toán bằng tiền mặt chủ yếu rút từ máy
ATM là 10.459 tỷ đồng; chuyển khoản 972 tỷ đồng; các dịch vụ khác 49 tỷ đồng.
Tổng doanh số thanh toán quốc tế đạt 1.597 tỷ đồng; trong đó tiền mặt là 1.527 tỷ
đồng, chuyển khoản 72 tỷ đồng, không có các dịch vụ khác. Qua số liệu thống kê cho
thấy doanh số thanh toán bằng thẻ tương đối lớn, chủ yếu thanh toán trong nước.
Thanh toán nước ngoài và chuyển khoản còn rất hạn chế.
- Thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng trưởng rất nhanh, nếu năm 2002 khi hệ
thống mới đưa vào hoạt động, mỗi ngày hệ thống chỉ giao dịch khoảng từ 2.000 đến
4.000. Nhưng đến nay đã tăng lên gấp bội, bình quân 10.000-18.000 giao dịch /ngày.
Đặc biệt so với thiết kế hệ thống đã chịu tải tăng gấp 7 lần. Thiết kế ban đầu dự kiến
chỉ có 7 ngân hàng thương mại tham gia, nay đã lên tới 54 ngân hàng; dự kiến 100 -
150 chi nhánh được kết nối nay đã có tới 215 chi nhánh đã kết nối. Một số Thành phố
hệ thống đã quá tải như TP.HCM và Hà Nội.
Nhờ sự hiện đại hoá hệ thống ngân hàng mà
(1) Phương thức giao dịch của ngân hàng cũng đã thay đổi căn bản, nhiều dịch vụ
khách hàng quan hệ với ngân hàng thông qua các máy tự động, khách hàng quan hệ
giao dịch với ngân hàng theo phương thức một cửa rất thuận tiện và nhanh chóng.
(2) Đơn giản hoá các thao tác nghiệp vụ, nhờ ứng dụng công nghệ hiện đại mà ngân
hàng đã thực hiện được phong cách làm việc văn minh.
(3) Đảm bảo, nhanh chóng, an toàn, chính xác trong các giao dịch.
(4) Cập nhật thông tin quản lý điều hành và hoạt động kinh doanh nhạy bén chính xác
mà công tác quản lý ngân hàng tốt hơn, kinh doanh hiệu quả cao hơn rất nhiều so với
trước đây.
(5) Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ ngân hàng. Ứng dụng công nghệ mới bắt buộc
phải từng bước nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng.
Trang 57
(6) Góp phần đổi mới kinh tế đất nước. Nhờ hiện đại hoá ngân hàng, đặc biệt là hiện
đại hoá hệ thống thanh toán mà giải quyết một cách căn bản tình trạng ứ đọng vốn,
không còn tình trạng vốn trôi nổi trên đường đi do thanh toán ách tắc trước đây. Chấm
dứt tình trạng khan hiếm tiền mặt giả tạo thời kỳ những năm 80 đầu những năm 90 do
ách tắc trong thanh toán. Vòng quay vốn trong toàn xã hội tăng lên, góp phần cho việc
sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các tổ
chức, cá nhân kinh doanh khác. Tất cả những tiện ích trên đã giúp ngân hàng tăng vị
thế cạnh tranh của mình trước những đối thủ nước ngoài hơn hẳn về tiềm lực tài chính
và về kinh nghiệm khi hệ thống ngân hàng Việt Nam gia nhập WTO.
2.2.6 Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và chính sách quản lý hoạt động ngân hàng Trong năm vừa qua, ngân hàng nhà nước đã ban hành mới và sửa đổi hàng loạt
quy định liên quan đến hoạt động và giám sát ngân hàng thương mại. Các văn bản
pháp luật được điều chỉnh nổi bật là
- Quy định về công bố thông tin tài chính và hoạt động của các tổ chức tín dụng
- Quy định về các nghiệp vụ mới, đặc biệt là các nghiệp vụ đã cam kết trong Hiệp
định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ (BTA)
- Quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi
ro theo hướng tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế
- Dự thảo mới quy định về tổ chức và hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài theo hướng tuân thủ các cam kết của Việt Nam về mở cửa khu vực tài chính
ngân hàng của nước ta trong BTA và chuẩn bị cho việc gia nhập WTO.
2.3 Cơ hội cho các ngân hàng nội địa khi gia nhập WTO Hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế thời đại và diễn ra mạnh mẽ trên
nhiều lĩnh vực, biểu hiện xu hướng tất yếu khách quan của nền kinh tế. Để bắt nhịp với
xu thế đó, Việt Nam đã chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế: gia nhập
khối ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), ký kết hiệp định
thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ và đang trong tiến trình đàm phán để gia nhập vào Tổ
chức thương mại thế giới (WTO), và tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế quốc tế cũng
như các hiệp định thúc đẩy quan hệ thương mại song phương khác. Có thể nói, Ngân
hàng là một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và phải mở cửa gần như hoàn toàn
theo các cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hệ thống ngân hàng Việt
Nam được xếp vào diện các ngành chủ chốt, cần được tái cơ cầu nhằm nâng cao năng
Trang 58
lực cạnh tranh. Trong bối cảnh chung đó của cả nền kinh tế, các ngân hàng thương mại
Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức như thế nào, tận dụng cơ hội ra sao và
biến thách thức thành cơ hội để không phải thua thiệt trên “sân nhà”. Điều này đòi hỏi
hệ thống NHTM phải chủ động phân tích những điểm mạnh những điểm yếu của mình
để đưa ra chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn của sự phát triển phù
hợp với xu thế trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích quốc gia và doanh nghiệp.
Hội nhập quốc tế thành công sẽ đem lại cho VN nhiều cơ hội như mở rộng thị
trường, tận dụng những kinh nghiệm quản lý, kế thừa những thành tựu khoa học của
các nước đi trước, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật công
nghệ, nâng vị trí của VN trên trường quốc tế. Trong đó, việc thực hiện Hiệp định
Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) là bước khởi đầu và có tầm quan trọng đặc
biệt đối với Việt Nam nói chung và Ngành Ngân hàng nói riêng.
Trong lĩnh vực ngân hàng, Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết trong Hiệp
định. Theo đó, phía Việt Nam đã tạo môi trường thuận lợi và thông thoáng cho các Tổ
chức tín dụng Hoa Kỳ, từ điều kiện cấp phép đến mức độ và phạm vi hoạt động tại
Việt Nam….
Do nhận thức được vấn đề này, NHNN đã kịp thời xây dựng và ban hành hoặc
trình các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện
các cam kết trong lĩnh vực ngân hàng, nghị định cho phép các TCTD nước ngoài thành
lập công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài; quy định về hoạt động tái chiết
khấu, swap, forward cho các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam; quy
định về tổ chức hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh,
ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện TCTD nước ngoài…
Qua 5 năm thực hiện, Hiệp định đã có những tác động tích cực đến công tác
hoạch định chính sách, tổ chức hoạt động, công tác cán bộ và cách thức làm việc của
NHNN, cụ thể:
a) Đối với việc hoạch định chính sách và xây dựng văn bản pháp luật
Đã có những chuyển biến và thay đổi cơ bản trong việc hoạch định chính sách
và xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nhằm tuân thủ các cam kết trong Hiệp định
cũng như những cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nhiều văn bản quy phạm
pháp luật mới được ban hành như đã nêu trên nhằm thay thế, bổ sung và sửa đổi các
quy định cũ cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trang 59
b) Về cơ cấu tổ chức và hoạt động
NHNN đang xây dựng đề án đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động theo hướng
xây dựng một NHTW hiện đại. Để thực hiện Hiệp định, Thống đốc đã giao cho các
đơn vị chức năng thuộc NHNN thực hiện những phần việc liên quan trực tiếp đến việc
thực hiện Hiệp định. Cơ cấu lại hệ thống các ngân hàng thương mại.
c) Về công tác cán bộ
Công tác cán bộ đã có những chuyển biến tích cực, từ khâu tuyển dụng đến đào
tạo, từng bước hình thành đội ngũ chuyên gia cho ngân hàng nhằm đáp ứng tốt các yêu
cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập. Tuy nhiên, việc đào tạo chuyên sâu về các
lĩnh vực như luật pháp quốc tế, về hội nhập kinh tế quốc tế, về quản lý và hoạt động
của một NHTW hiện đại, cũng như trình độ ngoại ngữ vẫn còn hạn chế.
d) Hỗ trợ các tổ chức tín dụng ( TCTD)
Nhờ việc xây dựng và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật như trình bày
ở phần trên đã từng bước tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các TCTD theo
hướng:
Tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng, môi trường kinh doanh bình đẳng và ổn
định cho các TCTD, giảm dần sự phân biệt đối xử giữa các TCTD trong nước và nước
ngoài, giữa các loại hình TCTD trong nước; Tạo điều kiện trao đổi thông tin giữa các
TCTD và giữa TCTD với NHNN. Giảm dần sự can thiệp hành chính vào hoạt động
của TCTD theo hướng NHNN chỉ quản lý vĩ mô và các TCTD được phát huy quyền tự
chủ và tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp luật
Việc thực hiện xoá bỏ dần những rào cản đã cam kết trong BTA, ngành ngân
hàng đã có được các yếu tố thúc đẩy hoàn thiện chính mình trên con đường phát triển
như đã đề cập ở trên. Tương tự, khi gia nhập WTO ngân hàng nội địa cũng phải có
những cam kết mở cửa thị trường như cho phép ngân hàng 100% vốn nước ngoài vào
Việt Nam… chắc chắn sẽ tạo những chuyển biến mới trong hoạt động ngân hàng. Do
đó hệ thống ngân hàng VN thông qua hội nhập Tổ chức thương mại thế giới sẽ nắm
bắt được các cơ hội sau:
- Đối với Ngân hàng Nhà nước: hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội nâng cao năng lực
và hiệu quả điều hành và thực thi chính sách tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ,
lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường. Hội nhập cũng là cơ hội để NHNN tăng
cường phối hợp với các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi thông
Trang 60
tin và ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động của thị trường tài chính quốc tế và
đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hệ thống NHTM và thị trường
tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và
hiệu quả của chính sách tiền tệ. Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài
chính trong nước, khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc
tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng loại bỏ các hình thức bảo
hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTM trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại,
trông chờ vào sự hỗ trợ của NHNN và Chính phủ và nâng cao năng lực hoạt động của
các cơ quan quản lý tài chính.
- Gia nhập WTO tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống
ngân hàng Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng,
tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong
hệ thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với hội nhập quốc
tế.
- Gia nhập WTO mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong
hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi
ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NHTM Việt Nam trong các giao dịch
quốc tế. Đồng thời, các ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ,
kinh nghiệm quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để
theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài.
- Gia nhập WTO giúp các NHTM Việt Nam tiếp cận và chuyên môn hoá các
nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước
ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam buộc các NHTM trong nước
phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài
sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu
quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới
mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở VN. Hơn nữa, việc mở cửa thị
trường cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam cũng sẽ là một cơ hội tốt để các ngân hàng
mở rộng kinh doanh. Các NHTM sẽ có nhiều cơ hội kinh doanh hơn, có nhiều khách
hàng hơn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
- Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức
tài chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính –
Trang 61
ngân hàng, các NHTM trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn,
đào tạo thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ chức tài
chính quốc tế. Vì thế, các ngân hàng cần tăng cường hợp tác để chuyển giao công
nghệ, phát triển sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tiên tiến, khai thác thị trường. Trong
quá trình hội nhập, việc mở rộng quan hệ đại lý quốc tế của các ngân hàng trong nước
sẽ tạo điều kiện phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, góp
phần thúc đẩy quan hệ hợp tác đầu tư và chuyển giao công nghệ.
- Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính
quốc tế một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp
phần nâng cao chất lượng và loại hình hoạt động. Các ngân hàng trong nước sẽ phản
ứng, điều chỉnh và hoạt động một cách linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong
nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro
- Gia nhập WTO là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các ngân hàng trong nước
phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại,
đồng thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ quản trị
điều hành và phát triển dịch vụ ngân hàng. Từng bước phân chia lại thị phần giữa các
nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng hơn, thị phần của NHTM quốc doanh có thể
giảm và nhường chỗ cho các nhóm ngân hàng khác, nhất là tại các thành phố và khu
đô thị lớn. Tuỳ theo thế mạnh của mỗi ngân hàng, sẽ xuất hiện những ngân hàng hoạt
động theo hướng chuyên môn hóa như ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân
hàng đầu tư, đồng thời hình thành một số ngân hàng qui mô lớn, có tiềm lực tài chính
và kinh doanh hiệu quả.
- Kinh doanh theo nguyên tắc thị trường cũng buộc các tổ chức tài chính phải có
cơ chế quản lý và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và đào tạo
nguồn nhân lực nhằm thu hút lao động có trình độ, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt
động và sức cạnh tranh trên thị trường tài chính.
- Đứng về phía người tiêu dùng họ có cơ hội lựa chọn nhiều hơn để có thể tìm
thấy cho mình một ngân hàng chất lượng, tin cậy, phục vụ nhanh chóng, dịch vụ
phong phú khi mà Việt Nam mở cửa hoàn toàn chào đón cuộc đổ bộ của các ngân
hàng nước ngoài
Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam còn tồn tại những bất cập khiến
cho các ngân hàng này sẽ phải đương đầu với những khó khăn khi hội nhập:
Trang 62
- Thứ nhất, hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường còn chưa đầy đủ,
chưa đồng bộ nhất quán,…và một trong những thách thức lớn trong tiến trình hội
nhập. Hội nhập quốc tế làm tăng giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong
khi đó cơ chế quản lý và hệ thống thông tin tỷ giá, giá cả của ngân hàng còn rất sơ
khai, không phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa có hiệu quả và hiệu lực để đảm bảo
việc tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật về ngân hàng và sự an toàn của hệ thống ngân
hàng.
- Thứ hai, quy mô về vốn của các ngân hàng thương mại VN còn nhỏ, quy mô về
tín dụng chưa cao, trình độ công nghệ, trình độ quản lý của các NHTMVN còn thấp.
Nhóm NHTM nhà nước tuy chiếm gần 70% tổng nguồn vốn huy động và gần 80% thị
phần tín dụng nhưng chỉ có tổng số vốn tự có chưa tới 1 tỷ USD, từng NHTM trong
nhóm các NHTM nhà nước đạt tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản chưa tới 5% (thông lệ
tối thiểu của ngân hàng quốc tế đạt tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản là 8%). Khối NHTM cổ
phần với 38 ngân hàng chỉ chiếm 11% tổng nguồn vốn huy động và 10% thị phần tín
dụng. Nhóm chi nhánh các ngân hàng nước ngoài và liên doanh (33 ngân hàng) có
tiềm lực khá mạnh với 30% vốn chủ sở hữu trong hệ thống NHTM đang hoạt động tại
VN nhưng nhìn chung họ có ưu thế hơn các NHTMVN về công nghệ, loại hình dịch
vụ, chiến lược khách hàng, hiệu quả hoạt động và chất lượng tài sản.
- Thứ ba, dịch vụ ngân hàng của các NHTMVN, còn đơn điệu, nghèo nàn, tính
tiện ích chưa cao, chưa tạo thuận lợi và bình đẳng cho khách hàng thuộc các thành
phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ khách hàng. Tín dụng vẫn là hoạt
động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho các ngân hàng, các nghiệp vụ như môi giới,
thanh toán dịch vụ qua ngân hàng, môi giới kinh doanh, tư vấn dự án chưa phát triển.
Cho vay theo chỉ định của Nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tín dụng của
NHTMVN. Việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những
chuyển biến tích cực nhưng còn nhiều vướng mắc. Hầu hết các chủ trang trại và các
công ty tư nhân khó tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng và vẫn phải huy động vốn
bằng các hình thức khác. Bên cạnh đó, một số loại hình nghiệp vụ mới chưa được thực
hiện tại VN hoặc chưa có quy định điều chỉnh nhưng đã được cam kết tại hiệp định
cho phép các ngân hàng nước ngoài được thực hiện, sẽ buộc NHNNVN phải khẩn
trương nghiên cứu và sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các
nghiệp vụ mới.
Trang 63
- Thứ tư, đội ngũ lao động của các NHTMVN khá đông nhưng trình độ chuyên
môn nghiệp vụ chưa đáp ứng các yêu cầu trong quá trình hội nhập. Không có hệ thống
khuyến kích hợp lý để thu hút nhân tài và áp dụng công nghệ hiện đại. Cơ cấu tổ chức
trong nội bộ nhiều NHTM còn lạc hậu, không phù hợp với chuẩn mực quản lý hiện đại
đã được áp dụng phổ biến nhiều năm nay ở các nước.
- Thứ năm, phần lớn các NHTM thiếu chiến lược kinh doanh hiệu quả và bền
vững. Hoạt động kiểm tra kiểm toán nội bộ cón yếu, thiếu tính độc lập hệ thống thông
tin báo cáo tài chính, kế toán và thông tin quản lý còn chưa đạt tới chuẩn mực và thông
lệ quốc tế. Đặc biệt là các NHTM Nhà nước là tình trạng nợ xấu khá phổ biến, mặc dù
đã cố gắng khắc phục nhưng hiện nay tỷ nợ nợ xấu khoảng 5,4%. Ngoài ra, tỷ lệ an
toàn vốn của các ngân hàng mặc dù đã được nâng lên từ 3,5% lên 5% nhưng vẫn chưa
đạt tới các tiêu chuẩn quốc tế.
2.4 Những khó khăn và thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam Với việc gia nhập WTO chúng ta phải chấp nhận mở cửa hơn nữa các thị
trường tài chính, dịch vụ ngân hàng. Các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tín dụng
dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc xâm nhập thị trường
Việt Nam. Và như vậy, sức ép cạnh tranh đối với các ngân hàng nội địa cũng tăng lên.
Một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho biết rào cản huy động tiền gửi và
mở chi nhánh (hiện ngân hàng nước ngoài muốn mở thêm chi nhánh phải có tối thiểu
15 triệu Đôla Mỹ vốn pháp định), đang áp dụng cho họ, sẽ được gỡ bỏ sớm hơn khi
Việt Nam gia nhập WTO. Khi đó việc thiết lập mạng lưới trong nước của ngân hàng
nước ngoài chắc chắn sẽ dễ dàng hơn.
Có lẽ vì thế ngân hàng nước ngoài mong chờ Việt Nam gia nhập WTO còn hơn
ngân hàng trong nước. Tổng giám đốc một ngân hàng nước ngoài ở Tp.HCM dự báo
sau khi Việt Nam vào WTO, tấm bản đồ ngân hàng Việt Nam sẽ có những thay đổi
căn bản. Khoảng 50% các ngân hàng nhỏ sẽ biến mất do bị các ngân hàng lớn mua lại
hoặc sáp nhập với các ngân hàng lớn do sức ép cạnh tranh. Chính sự sáp nhập, mua lại
hay cổ phần hóa sẽ giúp cho việc ra đời những tập đoàn tài chính tầm cỡ nhằm đáp
ứng nhu cầu nền kinh tế. Như vậy, chưa chắc là các ngân hàng nước ngoài mua ngân
hàng trong nước, mà có thể là các ngân hàng nội địa sẽ sáp nhập, mua lại lẫn nhau.
Bức tranh toàn cảnh về sở hữu ngân hàng sẽ có những thay đổi căn bản với việc
các tổ chức tài chính nước ngoài sẽ có thể từng bước nắm giữ cổ phần của các ngân
hàng Việt Nam. Những ngân hàng yếu kém, quy mô nhỏ sẽ phải sáp nhập. Đặc biệt,
Trang 64
việc xuất hiện các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ làm thay đổi mạnh cơ cấu thị
phần tiền tệ.
Trước mắt, chúng ta sẽ gỡ bỏ dần các hạn chế về tỷ lệ tham gia cổ phần của các
định chế tài chính nước ngoài theo những cam kết quốc tế. Sau đó, cần nới lỏng các
quy định về việc khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các
ngân hàng nước ngoài...
Khó khăn và thách thức đối với lĩnh vực dịch vụ ngân hàng Việt Nam khi gia
nhập WTO thể hiện ở hai khía cạnh chủ yếu: gián tiếp và trực tiếp.
2.4.1. Gián tiếp Gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa thị trường, mở cửa thương mại
hàng hoá, đầu tư...Quá trình cắt giảm thuế, mở cửa thị trường và thực thi các cam kết
về đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia sẽ làm cho các doanh nghiệp, nhất là các tổng
công ty nhà nước kinh doanh về phân bón, sắt thép, đường, giấy....chịu tác động rất
mạnh. Hiện đây cũng là những khách hàng lớn của các ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn
trong dư nợ tín dụng của các ngân hàng. Vì vậy, khi các khách hàng này gặp khó khăn,
thua lỗ, phá sản sẽ kéo theo sự thua lỗ, phá sản của các ngân hàng.
2.4.2. Trực tiếp Thách thức trực tiếp đối với các ngân hàng Việt Nam thể hiện ở những khía
cạnh:
- Việc mở cửa thị trường theo các quy định của WTO làm tăng số lượng các ngân
hàng nước ngoài hoạt động ở thị trường nội địa và tạo ra áp lực cạnh tranh trực tiếp về
số lượng đối thủ trên thị trường. Ðặc biệt, sự cạnh tranh của các đối thủ nước ngoài sẽ
khác với các đối thủ trong nước ở chỗ: tiềm lực tài chính của các ngân hàng nước
ngoài mạnh (vốn lớn), trình độ quản trị kinh doanh ngân hàng bài bản và cao hơn hẳn,
trình độ công nghệ về dịch vụ tiên tiến hơn nhiều.
Hiện nay ở Việt Nam có 4 ngân hàng liên doanh và 29 chi nhánh ngân hàng
nước ngoài. Theo lộ trình cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
ngay từ năm 2006 trở đi, Việt Nam bắt đầu phải gỡ bỏ dần các hạn chế về tỷ lệ tham
gia cổ phần của các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ; theo lộ trình cam kết trong Hiệp
định khung về hợp tác thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN (AFAS), đến năm
2008 Việt Nam sẽ phải dỡ bỏ các hạn chế về tỷ lệ tham gia vốn, bỏ các khống chế về
giá trị giao dịch, dịch vụ của các ngân hàng ASEAN. Ðến năm 2010, các ngân hàng
Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ ở Việt Nam, tức là các
Trang 65
ngân hàng Mỹ được đối xử tương tự như các ngân hàng trong nước. Ðồng thời, từ năm
2006 trở đi, Việt Nam cũng bắt đầu thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường theo
các cam kết khi gia nhập WTO đối với các thành viên WTO. Nói cách khác, chỉ trong
vòng 5 năm tới, số lượng ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam sẽ tăng lên
nhanh chóng. Việc xuất hiện các ngân hàng nước ngoài sẽ làm thay đổi mạnh bức
tranh thị phần thị trường tiền tệ.
- Khi hội nhập, mở cửa thị trường, thực thi các cam kết trong khuôn khổ WTO,
các ngân hàng Việt Nam gặp nhiều bất lợi do những yếu kém của bản thân các ngân
hàng: năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam thấp do khả năng tài chính yếu
kém, chất lượng và hiệu quả kinh doanh kém, trình độ quản trị chưa chuyên nghiệp,
công nghệ lạc hậu, chủng loại dịch vụ, sản phẩm nghèo nàn, trình độ và chất lượng
nguồn nhân lực còn bất cập so với yêu cầu.
Về quy mô, hiện nay các ngân hàng lớn nhất Việt Nam (là Ngân hàng đầu tư và
phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng ngoại thương,
Ngân hàng công thương) có vốn tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình của
khu vực và một ngân hàng nhỏ ở các nước tiên tiến. Mức vốn điều lệ trung bình của
các ngân hàng Việt Nam này tính đến năm 2005 đạt khoảng 5.000 tỷ đồng, hay khoảng
300 triệu USD. Quy mô của các ngân hàng cổ phần tư nhân lớn nhất Việt Nam vào
khoảng 1.800 tỷ đồng hay gần 118 triệu USD.
Về năng lực tài chính và chất lượng tài sản của các ngân hàng trong nước, hiện
nợ xấu của các ngân hàng quốc doanh trong nước giảm từ 14,9% xuống còn từ 2,9 -
7,8%; nợ xấu của các ngân hàng cổ phần giảm từ 20% xuống còn 2,5% - 4,5%. Hệ số
an toàn vốn tối thiểu mới đạt 4 - 5% so với chuẩn quốc tế là 8%. Tỷ lệ sinh lời bình
quân trên vốn tự có đạt khoảng 6% so với mức 13-15% của các ngân hàng các nước
trong khu vực.
Về sản phẩm, dịch vụ, các ngân hàng trong nước hiện chủ yếu vẫn trong tình
trạng "độc canh" dịch vụ tín dụng trong khi tỷ trọng dịch vụ phi tín dụng ở các ngân
hàng nước ngoài thường chiếm đến 40-50%. Các dịch vụ ngân hàng hiện đại như ngân
hàng điện tử, môi giới kinh doanh, đầu tư...chưa phát triển hoặc thậm chí mới sơ khai.
Trong khi đó, các ngân hàng nước ngoài có ưu thế mạnh về các dịch vụ như giao dịch
thanh toán và chuyển tiền, dịch vụ tư vấn, môi giới kinh doanh tiền tệ, phát triển doanh
nghiệp...
Trang 66
Dự báo trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng phục vụ công ty (tức dịch vụ tín dụng
của ngân hàng với các doanh nghiệp), các ngân hàng nước ngoài sẽ cạnh tranh chủ yếu
ở khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân chứ không phải là
khu vực các DNNN. Nguyên nhân là về lâu dài, số lượng các DNNN ngày càng giảm
đi do cổ phần hoá, trong khi số lượng các doanh nghiệp, công ty tư nhân ngày càng
phát triển. Hơn nữa, các DNNN, nhất là các tổng công ty thường được ưu đãi trong
vay vốn ngân hàng, hoạt động lâu trong môi trường bao cấp nên không có sức cạnh
tranh, dễ phát sinh nợ đọng, nợ xấu.
Các dịch vụ ngân hàng phục vụ cá nhân, dịch vụ ngân hàng bán lẻ cũng sẽ là
lĩnh vực cạnh tranh khốc liệt vì trong tương lai, đây là những lĩnh vực rất phát triển,
đồng thời cũng là các lĩnh vực mà các ngân hàng nước ngoài cũng có nhiều kinh
nghiệm hơn, nhiều loại hình sản phẩm hơn, trình độ công nghệ tiên tiến hơn trong khi
lại là lĩnh vực yếu của các ngân hàng nội địa (vốn hoạt động tín dụng, cho vay là chủ
yếu), chẳng hạn như dịch vụ banking home; thẻ ATM... Khi các ràng buộc về việc
nhận tiền gửi VND, phát hành thẻ tín dụng, đặt máy rút tiền tự động (ATM) được nới
lỏng, dỡ bỏ sẽ tạo áp lực cạnh tranh rõ rệt, mạnh mẽ, khi đó thị phần của các ngân
hàng trong nước sẽ bị thu hẹp dần. Số liệu khảo sát do Chương trình phát triển Liên
hợp quốc (UNDP) Việt Nam phối hợp với Bộ kế hoạch và đầu tư tiến hành và công bố
hồi tháng 8/2005 cho hay, 42% doanh nghiệp và 50% người dân được hỏi cho biết, khi
mở cửa thị trường tài chính, họ sẽ lựa chọn vay tiền tại các ngân hàng nước ngoài chứ
không phải là ngân hàng nội địa. Ngay cả dịch vụ gửi tiền tiết kiệm vốn là "đặc sản"
và là dịch vụ chủ yếu của các ngân hàng nội địa hiện nay thì kết quả khảo sát cũng cho
hay, 50% doanh nghiệp và 62% người dân được hỏi cho rằng họ sẽ lựa chọn ngân
hàng nước ngoài để gửi tiền tiết kiệm.
Về công nghệ, trình độ công nghệ ngân hàng trong nước còn thấp, hệ thống
thanh toán nội bộ yếu, hệ thống kế toán còn thiếu minh bạch, chưa xác định được
chính xác tình trạng chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh doanh. Hệ thống quản lý tập
trung, hệ thống quản lý rủi ro, thanh tra, giám sát theo chuẩn mực quốc tế chưa được
thiết lập. Thanh toán với khách hàng và thanh toán liên ngân hàng thường kéo dài, thủ
tục rườm rà, phiền hà khiến người dân, doanh nghiệp thường sử dụng tiền mặt để
thanh toán. Thủ tục gửi, rút tiền còn phiền toái, chậm chạp.
Trang 67
Về chất lượng nguồn nhân lực, đội ngũ lao động ngành ngân hàng đông về
lượng nhưng trình độ chuyên môn nghiệp vụ thấp, nhất là cán bộ quản lý
- Các NHTM trong nước ngày càng chịu áp lực trong việc giữ và mở rộng thị
phần của mình ngay trên lãnh thổ VN. Hiện nay, các NHTM phải chịu áp lực cạnh
tranh gay gắt không chỉ bởi các NHTM nước ngoài mà còn phải chịu áp lực cạnh tranh
với các tổ chức tài chính trung gian khác và các định chế tài chính khác như thị trường
chứng khoán, cho thuê tài chính, bảo hiểm,.. Ngoài ra, việc phải loại bỏ dần những hạn
chế đối với NHTM nước ngoài có nghĩa là các NHTM nước ngoài sẽ từng bước tham
gia đầy đủ vào mọi lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại VN.
- Cạnh tranh trong việc huy động vốn ngày càng gay gắt. Thực hiện hội nhập đòi
hỏi chúng ta phải thực hiện lộ trình cởi bỏ những hạn chế đối với các ngân hàng nước
ngoài trong việc huy động vốn. Năm 2004, Ngân hàng Nhà nước VN (SBV) đã điều
chỉnh tỷ lệ huy động tiền gửi VND đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động
ở VN từ 25% lên 50%. VN cũng đang cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính –
ngân hàng theo lộ trình nới lỏng dần và tiến tới xoá bỏ các hạn chế đối với hoạt động
ngân hàng. Giai đoạn từ 2001 đến 2010, các ngân hàng Mỹ sẽ được thành lập các ngân
hàng liên doanh với số vốn từ 30% - 49%, tới năm 2010 được thành lập ngân hàng với
vốn 100% của Mỹ. Hội nhập ngân hàng đòi hỏi các NHTMVN phải nhanh chóng tăng
quy mô, đầu tư công nghệ, cải tiến trình độ quản lý. Công nghệ hiện đại và trình độ
quản lý cũng như tiềm lực tài chính dồi dào của những ngân hàng nước ngoài sẽ là
những ưu thế cơ bản tạo ra sức ép cạnh tranh trong ngành ngân hàng và buộc các ngân
hàng VN phải tăng thêm vốn, và đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương pháp quản trị, hiện
đại hoá hệ thống thanh toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.
- Cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng cũng ngày càng quyết liệt.
Ngày nay, ngoài những nghiệp vụ truyền thống như tín dụng và đầu tư thì dịch vụ
ngân hàng cũng tạo nên sắc thái mới cho ngân hàng trong chiến lược cạnh tranh vào
tạo thị phần cho mình. Do đó, các NHTM cũng phải chịu áp lực tạo nên phong cách
văn hoá cho ngân hàng mình, tạo nên phong cách phục vụ riêng thể hiện nét đặc thù
của mình mới hy vọng tạo thế đứng vững chắc trên thị trường.
- Cạnh tranh trong việc sử dụng lao động ngày càng gay gắt. Mọi sự thành công
của một doanh nghiệp đều xuất phát từ yếu tố con người. Hiện nay, chế độ đãi ngộ cho
lao động đặc biệt là lao động có trình độ cao ở các NHTM chưa đủ sức thuyết phục để
Trang 68
lôi kéo những lao động có trình độ chuyên môn cao. Hiện tượng chảy máu chất xám là
căn bệnh nan y không chỉ đối với ngành tài chính – ngân hàng mà đối với tất cả các
ngành kinh tế ở VN.
- Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh
về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ
trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về mở chi
nhánh và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng khách hàng và
tiền gửi được phép huy động, khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng, trong khi các tổ
chức tài chính Việt Nam còn nhiều yếu kém. Mở cửa thị trường tài chính trong nước
làm tăng rủi ro do những tác động từ bên ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi
suất giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế giảm dần. Hệ thống ngân hàng
Việt Nam cũng phải đối mặt với các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ
khủng hoảng. Trong trường hợp đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống
ngân hàng phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây lên.
Vì thế, các NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách
hàng và hệ thống kênh phân phối, nhất là sau năm 2010, khi những hạn chế nêu trên và
sự phân biệt đối xử bị loại bỏ căn bản. Sau thời gian đó, qui mô hoạt động và khả năng
tiếp cận thị trường, các nhóm khách hàng, chủng loại dịch vụ do các ngân hàng nước
ngoài cung cấp sẽ tăng lên. Đáng chú ý, rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam
có thể tăng lên do các ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài
chính trong nước thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh; một
số tổ chức tài chính trong nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức
cạnh tranh kém và không có khả năng kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt động
ngân hàng quốc tế.
Tuy nhiên, NHTM Việt Nam có những điểm mạnh riêng do đó sẽ phần nào hạn
chế được những khó khăn sẽ gặp phải khi Việt Nam gia nhập WTO
- Thứ nhất, Việt Nam có chế độ chính trị ổn định và được đánh giá là điểm đến
an toàn cho các nhà đầu tư. Trong điều kiện thế giới hiện nay diễn ra các xung đột sắc
tộc, tôn giáo, khủng bố,…thì sự ổn định về hệ thống chính trị là thế mạnh trong việc
đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước.
- Thứ hai, Đảng và Chính phủ luôn quan tâm đến việc lành mạnh hoá hệ thống tài
chính và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước với chức năng là cơ
Trang 69
quan đại diện của Chính phủ đã phối hợp với các bộ ngành trong việc nghiên cứu ký
kết và xúc tiến được nhiều chương trình hỗ trợ tài chính từ các tổ chức quốc tế. Quan
hệ song phương và đa phương giữa Ngân hàng Nhà nước với các cơ quan, tổ chức của
nhiều nước và vùng lãnh thổ được phát triển tích cực. Ngân hàng Nhà nước đã tích cực
tham gia các hoạt động nhằm đẩy mạnh sự hợp tác về tài chính – ngân hàng với các tổ
chức tài chính đa phương như ASEAN, APEC và WTO.
- Thứ ba, NHTM có số lượng khách hàng truyền thống đa dạng, với số lượng
nhiều và được phục vụ bởi hệ thống rộng khắp ở 64 tỉnh thành. Mạng lưới phục vụ
được trải dài từ Bắc đến Nam, từ miền xuôi lên miền ngược đầy là lợi thế rất lớn đối
với hệ thống NHTM khi cung ứng sản phẩm dịch vụ của mình cho khách hàng.
- Thứ tư, người VN xưa nay có truyền thống hiếu học, cần cù, thông minh, chịu
khó. Do đó, đây là yếu tố thuận lợi trong việc tiếp thu công nghệ mới của khu vực và
thế giới. Ngoài ra, chi phí lao động ở VN rất thấp so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới.
Nhận biết được thách thức để giúp cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
biết trước được những khó khăn đang chờ đợi phía trước, từ đó tự hoàn thiện mình để
đương đầu với thách thức, dùng thế mạnh của mình để biến thách thức thành cơ hội.
Tóm lại, hội nhập WTO- một tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh là con
đường tất yếu của sự phát triển hợp tác thương mại thế giới. Chính phủ Việt Nam luôn
muốn gia nhập tổ chức này càng sớm càng tốt được thể hiện qua nỗ lực tham gia hàng
chục phiên đàm phán đa phương và song phương. Hệ thống ngân hàng Việt Nam tuy
còn tồn tại những yếu kém và bất cập về tiềm lực tài chính, công nghệ và phương thức
quản lý so với những đối thủ nước ngoài, đặt ra những thách thức lớn cho ngành ngân
hàng khi hội nhập nhưng điều này không hẳn làm cho các ngân hàng nội địa phải lo sợ
khi mà các ngân hàng này nhận được sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước trong
việc xác định được những điểm yếu của ngành ngân hàng trong nước và đã đề ra
những cải cách thiết thực. Vấn đề là mỗi ngân hàng tự nhận biết được những điểm yếu
của mình và khẩn trương khắc phục đồng thời phát huy được điểm mạnh để biến
những thách thức thành cơ hội bởi vì mỗi ngân hàng đều có những thế mạnh của riêng
mình. Các NHTM trong nước cần phải liên kết lại, trao đổi những kinh nghiệm quản
lý, kinh doanh nhằm phát huy sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc.
Trang 70
PHẦN 3: GIẢI PHÁP
Nhằm có thể đương đầu với thách thức và biến những thách thức thành cơ hội
cho bản thân của mỗi ngân hàng trong quá trình hội nhập thì các ngân hàng nội địa
phải chủ động nâng cao vị thế cạnh tranh của mình, đồng thời phải tận dụng được
những chính sách chuẩn bị hội nhập của nhà nước. Nâng cao năng lực tài chính và chất
lượng tín dụng của các ngân hàng để tiếp cận theo các tiêu chuẩn quốc tế chính là bài
toán được Ngân hàng Nhà nước đặt ra trong Đề án phát triển ngành ngân hàng đến
năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
3.1 Giải pháp từ phía Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
3.1.1 Về phía Chính phủ
- Trước hết cần cải cách Doanh nghiệp nhà nước, tạo ra sân chơi bình đẳng hơn cho
các doanh nghiệp. Việc bảo hộ cho khu vực Doanh nghiệp nhà nước là nguyên nhân
chính gây ra nợ khó đòi, nợ quá hạn, nợ xấu tại các NHTM quốc doanh cao. Chính vì
vậy, nếu không kiên quyết đẩy mạnh tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước thì
việc cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và các NHTM nói riêng
sẽ khó thực hiện.
- Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ ban hành Luật
Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, đưa luật này trở thành công cụ để Chính phủ kiểm
soát hoạt động cạnh tranh.
- Thứ ba, thống nhất quan điểm, xác định rõ và cụ thể về lộ trình mở cửa tài chính.
Tự do hoá tài chính phải được thực hiện sau cùng, sau khi đã thực hiện cải cách cơ cấu
và tự do hoá thương mại. Nếu có được lộ trình hội nhập tài chính thích hợp sẽ đảm bảo
hệ thống tài chính hội nhập hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh mà không bị vướng vào
các dạng khủng hoảng tài chính - ngân hàng khác nhau.
- Thứ tư, khẩn trương hoàn thiện hoạt động của thị trường tiền tệ và hoàn thiện hoạt
động của thị trường chứng khoán, xác định cụ thể lộ trình mở cửa thị trường tài chính -
ngân hàng.
3.1.2 Về phía Ngân hàng nhà nước Việt Nam
- Năng cao năng lực quản lý điều hành. Từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức, quy
định lại chức năng nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước nhằm năng cao hiệu quả điều
hành vĩ mô, nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và trong
việc quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài chính.
Trang 71
- Phối hợp cùng Bộ Tài chính tham gia xây dựng và phát triển đa dạng thị trường
vốn, tạo điều kiện san sẻ bớt gánh nặng cung cấp vốn hiện nay mà các NHTM đang
phải gánh vác.
- NHNN cần nhanh chóng xin phép Chính phủ để đẩy nhanh thực hiện cổ phần hóa
các NHTM nhà nước, tạo điều kiện cho các ngân hàng này hoạt động an toàn và hiệu
quả hơn.
- Nâng cao năng lực hoạch định chính sách và xây dựng các văn bản pháp quy để
tạo ra một hành lang pháp lý đồng bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế, các nguyên tắc
của Hiệp định và của WTO, từng bước tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho các
doanh nghiệp và tổ chức tài chính.
- Nghiên cứu xây dựng khung pháp lý cho các mô hình TCTD mới, các tổ chức có
hoạt động mang tính chất hỗ trợ cho hoạt động của các TCTD như công ty xếp hạng
tín dụng nhằm phát triển hệ thống các TCTD;
- Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường và nâng
cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TCTD;
- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về các nghiệp vụ và dịch vụ ngân
hàng mới. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách và các văn bản pháp
quy phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng,
trước hết là những hiệp định đã ký kết
- Nâng cao năng lực thanh tra giám sát đối với các hoạt động ngân hàng và hỗ trợ
các NHTM trong nước nâng cao năng lực quản lý, thực hiện nghiêm túc các quy định
an toàn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, giữ vững thị phần trong nước và từng
bước vươn ra thị trường nước ngoài. Đồng thời, phối hợp với các cơ quan giám sát
ngân hàng các nước trong việc thực hiện thanh tra giám sát hoạt động của các TCTD
nước ngoài tại Việt Nam để bảo vệ cho lợi ích của khách hàng trong nước.
- Phát triển một số ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ phải theo mô hình tập đoàn
kinh tế đa năng ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư, môi giới và kinh doanh chứng khoán,
quản lý tài sản... trên cơ sở lựa chọn một số ngân hàng thương mại có quy mô lớn, đầu
tư công nghệ hiện đại, đặc biệt các ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay đóng vai
trò chủ yếu trong hệ thống về quy mô (chiếm 70 - 75% thị phần) và thế mạnh mạng
lưới rộng khắp, mối quan hệ khách hàng truyền thống mật thiết, đặc biệt có uy tín cao.
Trang 72
3.2 Giải pháp từ chính các ngân hàng
3.2.1 Tăng cường năng lực tài chính
- Năng lực tài chính của các NHTM nước ta nhìn chung chưa cao, tất cả các chỉ số
đều còn là thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, để nâng cao năng lực tài chính,
các ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng vốn điều lệ và
xử lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả
năng cạnh tranh và chống rủi ro.
- Đối với các NHTM nhà nước, cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành
trái phiếu, xử lý hết nợ tồn đọng để bổ sung thêm vốn, nhằm nâng vốn tự có ngân hàng
thương mại nhà nước lên theo tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo nâng chỉ số vốn tự có trên
tổng tài sản có rủi ro từ mức khoảng 3%-4% hiện nay, lên trên 8% trong thời gian tới.
- Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá một số ngân hàng thương mại nhà nước, tạo điều
kiện để các ngân hàng phát hành trái phiếu dài hạn nhằm thúc đẩy thị trường vốn. Tiến
trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và lành mạnh hóa tài chính đòi hỏi phải thực hiện
nhiều giải pháp đồng bộ, các giải pháp lớn cần tiến hành như : xử lý nợ đọng, tăng vốn
điều lệ....của hệ thống ngân hàng rất cần sự trợ giúp của Chính phủ và các cơ quan
chức năng, tuy nhiên, để hệ thống ngân hàng có thể giữ được sự phát triển ổn định, đủ
sức cạnh tranh trong môi trường mở cửa, ngăn ngừa sự phát sinh nợ xấu thì bản thân
hệ thống ngân hàng cần có những nỗ lực hơn, nhất là các NHTMQD - những ngân
hàng vốn chiếm ưu thế về thị phần và lượng vốn trong hệ thống ngân hàng VN.
Để thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước có thể cho phép
các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của NHTMQD với lượng cổ phần tối đa
không được vượt quá một tỷ lệ qui định, nhằm tránh tình trạng bị thâu tóm bởi các tập
đoàn tư bản nước ngoài do chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc điều hành
cũng như tổ chức hoạt động của một NHTM hiện đại. Bán cổ phần cho các nhà đầu tư
nước ngoài, phát triển về vốn hoạt động ngân hàng, chúng ta có thể thuê các tổ chức
tài chính quốc tế thực hiện việc cấu trúc lại hoạt động NHTM theo tiêu chuẩn của
NHTM quốc tế hiện đại. Có như vậy, NHTM của VN mới trở thành một NHTM hiện
đại đích thực, có khả năng cạnh tranh và vươn ra thị trường quốc tế.
- Đối với các NHTM cổ phần, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất,
phát hành bổ sung trái phiếu, cổ phiếu; đối với những NHTM hoạt động quá yếu kém,
Trang 73
không thể tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì
có thể thu hồi giấy phép hoạt động.
- Riêng đối với các ngân hàng thương mại cổ phần cần chủ động chọn thời điểm và
hình thức tăng vốn trên cơ sở minh bạch thông tin hoạt động và kết quả kinh doanh,
nâng cao chất lượng dịch vụ và an toàn trong kinh doanh để đẩy nhanh tiến độ tham
gia niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, có thể cạnh tranh với các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài khi mở cửa dịch vụ ngân hàng.
3.2.2 Đa dạng hoá dịch vụ cung cấp, đa dạng hoá đối tượng khách hàng
Để đứng vững trên bước đường hội nhập, các ngân hàng nội địa không nên lấy
chỉ tiêu tăng trưởng huy động vốn tiết kiệm làm thước đo mà phải thay đổi mục tiêu
hoạt động, từ cung ứng tín dụng sang cung cấp các loại dịch vụ. Thị trường tài chính -
ngân hàng nhiều tỉnh vẫn còn nhỏ lẻ, nếu các ngân hàng đi sớm trong việc mở rộng
mạng lưới nhằm tạo tiện ích cho người sử dụng sản phẩm ngân hàng thì sẽ tạo được
thế cạnh tranh tốt.
Việc này nhằm thay đổi phong cách phục vụ của ngân hàng theo hướng tham
gia nhiều hơn vào cuộc sống của người dân, đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng và sinh
hoạt, tích lũy, học tập, đầu tư của cá nhân. Chẳng hạn với mạng lưới rộng khắp xuống
các phường xã, ngân hàng sẽ thuận tiện trong phát triển dịch vụ chuyển tiền nhanh, thu
hút kiều hối và đáp ứng tốt các giao dịch của doanh nghiệp… Thông qua đó, các ngân
hàng cũng sẽ huy động được nguồn vốn giá rẻ phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, giữ được vai trò của mình trong thị trường tài chính tiền
tệ có nhiều cạnh tranh trong thời gian tới.
3.2.3 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán
- Đẩy mạnh liên doanh, liên kết và hợp tác với các tổ chức trong nước và nước ngoài
về kinh doanh, nghiên cứu và phát triển dịch vụ ngân hàng để nhanh chóng tiếp cận
công nghệ mới, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
- Tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế để hiện đại hóa
công nghệ và mở rộng dịch vụ ngân hàng.
- Đẩy mạnh việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến phù hợp với trình độ phát
triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, phát triển
hệ thống giao dịch trực tuyến và từng bước mở rộng mô hình giao dịch một cửa. Phát
Trang 74
triển mạng diện rộng và hệ thống công nghệ thông tin với các giải pháp kỹ thuật và
phương tiện truyền thông thích hợp.
- Hoàn thiện và chuẩn hóa quy trình tác nghiệp và quản lý nghiệp vụ ngân hàng, nhất
là những nghiệp vụ ngân hàng cơ bản theo hướng tự động hóa, ưu tiên các nghiệp vụ
thanh toán, tín dụng, kế toán, quản lý rủi ro và hệ thống thông tin quản lý.
- Phát triển hệ thống thanh toán điện tử và hiện đại hóa hệ thống thanh toán điện tử
liên ngân hàng trên phạm vi toàn quốc nhằm hình thành hệ thống thanh toán quốc gia
thống nhất và an toàn, tiến tới tự động hóa hoàn toàn hệ thống thanh toán ngân hàng,
ví dụ như phát hành một loại thẻ ATM dùng chung cho tất cả các ngân hàng nội địa
tạo tiện lợi cho người sử dụng và tiết kiệm chi phí cho ngân hàng.
3.2.4 Xác định khách hàng mục tiêu, xây dựng chiến lược khách hàng và tăng
cường phát triển mạng lưới
- Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó
với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách
hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao
dịch ngân hàng. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng
phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng,
thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng.
- Ngoài ra, các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên
việc tạo ra sự khác biệt là hết sức quan trọng. Về chiến lược thu hút tiền gửi, cần xây
dựng một hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng thói quen sử
dụng tài khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo
thuận lợi tối đa cho khách hàng.
- Bên cạnh đó, để đẩy mạnh tín dụng cần tạo được quy trình cung cấp linh hoạt sản
phẩm của ngân hàng, đặc biệt đối với khách hàng tiềm năng có thể đưa ra điều kiện
cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên.
3.2.5 Nâng cao năng lực quản trị điều hành
- Cần cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới. Đồng thời,
xây dựng chuẩn hoá và văn bản hoá toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt động chủ
yếu của NHTM, thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp.
- Phải hoàn thiện bộ máy giám sát rủi ro hoạt động của NH trên cơ sơ hình thành
một bộ phận độc lập không tham gia vào quá trình tạo ra rủi ro, có chức năng quản lý,
Trang 75
giám sát rủi ro cho các NH; nhận diện và phát hiện rủi ro; phân tích và đánh giá các
mức độ rủi ro trên cơ sơ các chỉ tiêu, tiêu thức được xây dựng đồng thời đề ra các biện
pháp phòng ngừa, ngăn chặn giảm thiểu rủi ro.
- Các NH phải xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản chế độ quy
chế quy trình nghiệp vụ, cụ thể: Ban hành đầy đủ các quy chế quy trình nghiệp vụ trên
nguyên tắc tuân thủ các quy định của Nhà nước, của NHNN Việt Nam; Kịp thời
hướng dẫn các văn bản chế độ có liên quan để áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống
NH. Đồng thời, hệ thống văn bản chế độ, quy chế, quy trình... phải được tổ chức
nghiên cứu, tập huấn và quán triệt để đảm bảo mọi cán bộ phải nắm vững và thực thi
đầy đủ, chính xác
- Cần phải có có các giải pháp để đối phó với các yếu tố từ bên ngoài như sự thay
đổi về cơ chế, chính sách của Nhà nước, sức ép từ việc thực hiện các cam kết theo
thông lệ, các diễn biến phức tạp của xu thế thị trường, tác động tiêu cực của các thông
tin truyền thống bất cân xứng... Để hạn chế tối đa rủi ro hoạt động do nhưng tác động
tiêu cực từ bên ngoài các NH cần thực hiện các biện pháp cơ bản sau: tuân thủ nội
dung các văn bản quy phạm pháp luật; phải thường xuyên cập nhật thông tin liên quan
từ bên ngoài; hình thành bộ phận định kỳ đưa ra các báo cáo phân tích, đánh giá tổng
quan về nền kinh tế thế giới và trong nước, xu hướng phát triển và tác động của nó đến
hoạt động NH. Từ đó có những tham mưu kịp thời trong xây dựng, điều chỉnh chính
sách và định hướng chiến lược phù hợp
3.2.6 Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng
- Cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng
hiện đại. Hơn nữa, cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế,
nhất là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc
tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế,
cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới.
- Chú trọng và tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực, cải tiến quy trình sử
dụng và bổ nhiệm cán bộ, xây dựng một đội ngũ cán bộ giỏi về luật pháp tài chính–
ngân hàng quốc tế, tinh thông về ngoại ngữ và có đủ năng lực tư vấn về cơ chế chính
sách nhằm bảo vệ thị trường trong nước và giải quyết những vướng mắc trong trường
hợp có tranh chấp quốc tế về lĩnh vực ngân hàng.
Trang 76
- Hiện đại hoá ngân hàng để nâng cao khả năng cạnh tranh là rất yếu tố rất cần thiết.
Một trong những cách nâng cao trình độ công nghệ thông tin của ngân hàng là cử cán
bộ bộ phận IT đi đào tạo tại các nước có công nghệ tiên tiến nhằm xây dựng phần
mềm quản lý phù hợp và hiện đại
- Nâng cao trình độ ngoại ngữ và trình độ chuyên môn của các nhân viên ngân hàng
bằng việc tham gia các khoá học đào tạo chuyên ngành ngắn và dài hạn
- Có chính sách thu hút nhân tài thoả đáng, tránh tình trạng chảy máu chất xám
3.2.7 Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách về ngân hàng
- Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và đối xử bình đẳng hơn giữa các loại hình
TCTD;
- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường, tách
bạch hoàn toàn tín dụng chính sách ra khỏi các NHTM, nâng cao quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiệm của các NHTM trong hoạt động kinh doanh tiền tệ;
- Hoàn thiện các qui định về quản lý ngoại hối, các quy định về tiếp cận thị trường
dịch vụ ngân hàng trong nước theo lộ trình tự do hoá thương mại dịch vụ tài chính và
mở cửa thị trường tài chính của các cam kết song phương và đa phương, đặc biệt là
cam kết trong WTO/GATS;
- Cải cách hệ thống kế toán ngân hàng phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế.
Hoàn thiện các cơ chế, chính sách và quy định về thanh toán bằng tiền mặt và không
dùng tiền mặt nhằm mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt;
- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định về các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng
mới (quản lý tiền mặt, quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ uỷ thác, các sản phẩm
phái sinh…).
3.2.8 Tăng cường chất lượng hoạt động
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy từ hội sở chính đến các chi nhánh theo hướng khẩn
trương quy hoạch, sắp xếp lại đi đôi với tiếp tục mở rộng hợp lý mạng lưới chi nhánh,
điểm giao dịch và các kênh phân phối khác, chú trọng đa dạng hóa các kênh phân phối
từ xa và các kênh phân phối điện tử, tự động. Phát triển các cơ sở chấp nhận thẻ và các
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng.
- Phát triển các kênh phân phối nước ngoài dưới hình thức hiện diện thương mại của
các NHTM Việt Nam ở nước ngoài, nhất là tại những nước và vùng lãnh thổ có tiềm
Trang 77
năng phát triển với Việt Nam để từng bước thâm nhập và cạnh tranh cung cấp dịch vụ
ngân hàng trên thị trường quốc tế.
- Thúc đẩy thị trường tài chính, tạo nên mối liên kết hữu cơ giữa các phân đoạn và
loại hình thị trường tài chính, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng phát triển
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước trước tình hình bất ổn về giá
nguyên liệu thô trên thị trường thế giới và áp lực lạm phát trong nước. Trong đó, cần
coi trọng phát triển thị trường chứng khoán theo hướng xây dựng môi trường pháp lý
thông thoáng hơn về kinh doanh chứng khoán, có khả năng huy động trực tiếp nguồn
vốn từ công chúng cho phát triển doanh nghiệp, qua đó giảm áp lực lên vốn ngân hàng
và vốn ngân sách nhà nước, góp phần giảm lãi suất cho vay đang có xu hướng tăng cao
hiện nay. Đây là tiền đề quan trọng để kết nối thị trường chứng khoán Việt Nam với
các thị trường chứng khoán khu vực, nó cũng có tác dụng hỗ trợ phát triển thị trường
trái phiếu trong nước để sớm tham gia thị trường trái phiếu quốc tế và khu vực.
Để nâng cao vị thế cạnh tranh của ngành ngân hàng, ngoài việc đòi hỏi các ngân
hàng trong nước nỗ lực hoàn thiện mình thì bên cạnh đó cũng cần có sự hỗ trợ, giúp
sức của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước. Chính phủ cần tạo cho doanh nghiệp sân
chơi bình đẳng, tránh bảo hộ doanh nghiệp nhà nước gây thói quen ỷ lại, dựa dẫm dễ
dẫn đến bị đánh bật khỏi cuộc chạy đua. Ngoài ra, xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đồng bộ, thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế giúp các doanh nghiệp
không phải bỡ ngỡ khi gia nhập sân chơi lớn. Với vai trò là nhà quản lý nhà nước trực
tiếp đến các ngân hàng thương mại, ngân hàng nhà nước cần phát huy vị thế của mình
hơn nữa trong việc đề xuất những biện pháp cải cách thiết thực nhất lên Chính phủ và
hỗ trợ các ngân hàng thương mại vững bước trên con đường hội nhập. Nhân vật chính
trong cuộc cải cách này là các NHTM, tự bản thân vận động nhận biết điểm yếu hay
mặt mạnh của mình để thực hiện các giải pháp xử lý nhằm nâng cao tiềm lực tài chính,
trình độ quản lý, áp dụng công nghệ hiện đại, nghiên cứu thị trường, đối xử khách
hàng bình đẳng… tận dụng những cơ hội để xoá mờ những khó khăn. Giải pháp đề ra
thì dễ nhưng để thực hiện một cách triệt để mới là việc làm khó khăn, thách thức ban
đầu cho các NHTM khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.
Trang 78
Kết luận: Ngành ngân hàng cũng nhận thức được rằng thách thức trong quá trình hội
nhập là rất lớn và ngày càng phức tạp nhưng nếu đẩy nhanh quá trình này sẽ giúp
ngành ngân hàng tận dụng được cơ hội để phát triển, qua đó nâng cao vị thế, sức cạnh
tranh của hệ thống ngân hàng và của các doanh nghiệp Việt Nam trên chính trường
quốc tế. Do đó, nhiệm vụ phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế trong những năm tới là
rất nặng nề. Đặc biệt, năm 2006 là năm quan trọng đối với Việt Nam, là năm đầu tiên
thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010, đồng thời là năm cần có nhiều nỗ lực mạnh mẽ
hơn nữa trong hội nhập kinh tế quốc tế bởi vì Việt Nam gia nhập WTO. Do vậy, ngành
ngân hàng cần phải tập trung phấn đấu hoàn thành tốt các kế hoạch và mục tiêu của
chính sách tiền tệ, triển khai tích cực và có hiệu quả các đề án cải cách và đổi mới hệ
thống ngân hàng Việt Nam, tiếp tục hoàn thiện và thực thi mạnh mẽ Chiến lược phát
triển và hội nhập quốc tế của ngành, theo đó hoạt động hội nhập quốc tế của ngành
ngân hàng cần được triển khai một cách thực chất và sâu rộng hơn trên cơ sở nắm
vững và vận dụng sáng tạo chính sách đối ngoại và các Nghị quyết về hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng và Chính phủ nhằm đem lại lợi ích tối đa cho sự nghiệp phát triển
kinh tế của đất nước và của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Trang 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quản trị ngân hàng thương mại- tác giả Tiến sĩ Trần Huy Hoàng- nhà xuất bản
thống kê 2003
2. Tạp chí Thời báo kinh tế Việt Nam
3. Tạp chí Kinh tế Sài gòn
4. Bernard Hoekman, Aaditya Mattoo, Philip English: Development, Trade, and the
WTO – A handbook. The World Bank, 2002.
5. Banking report- Vinacapital
6. Các website tham khảo:
- http://www.mpi.gov.vn (Bộ Kế hoạch & Đầu tư Việt Nam).
- http://www.mofa.gov.vn (Bộ Ngoại giao Việt Nam).
- http://www.mot.gov.vn (Bộ Thương mại Việt Nam).
- http://www.vietnam-ustrade.org (Vietnam Trade Office in the US).
- http://www.apecsec.org.sg (APEC – Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương).
- http://www.aseansec.org (ASEAN – Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á).
- http://www.imf.org (IMF – Quỹ tiền tệ quốc tế).
- http://www.oecd.org (OECD – Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế).
- http://www.unctad.org (UNCTAD – Diễn đàn của Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển).
- http://www.worldbank.org (World Bank – Ngân hàng thế giới).
- http://www.adb.org (ADB – Ngân hàng phát triển Châu Á).
- http://www.wto.org (WTO – Tổ chức thương mại thế giới).
- http://www.vneconomy.com.vn
- http://www.vnexpress.net