BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Hữu Đức

YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT

VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995 - 2018

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội - 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Hữu Đức

YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT

VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995 - 2018

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử mỹ thuật

Mã số: 9210101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. LÊ ANH VÂN

Hà Nội - 2021

i

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ Yếu tố truyền thống trong nghệ

thuật sắp đặt Việt Nam giai đoan 1995 - 2018 là công trình do tôi nghiên cứu,

thực hiện. Những vấn đề nghiên cứu cùng những ý kiến tham khảo, tư liệu

đều có chú thích nguồn đầy đủ, đúng quy định.

Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung trong luận án.

Hà Nội, ngày tháng năm 2021

Tác giả luận án

Nguyễn Hữu Đức

ii

DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

ĐHMTVN : Đại học Mỹ thuật Việt Nam 1.

2. H : Hình

3. HN : Hà Nội

4. NS : Nghệ sĩ

5. NCS : Nghiên cứu sinh

6. Nxb : Nhà xuất bản

7. NTSĐVN : Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam

8. PV : Phỏng vấn

9. TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh

10. Tr : Trang

11. YTTT : Yếu tố truyền thống

iii

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN..........................................................................................

i

DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT......................................................

ii

MỞ ĐẦU.......................................................................................................

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ

9

LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT VIỆT NAM.......

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.............................................................

9

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước.....................................................

9

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước......................................………...

15

1.1.3. Đánh giá chung......................................................................………..

20

1.2. Cơ sở lý luận...........................................................................................

22

1.2.1. Khái niệm ............................................................................................

22

1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu và luận điểm khoa học......................................

31

1.3. Khái quát về Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam............................................

38

Tiểu kết..........................................................................................................

48

Chương 2: BIỂU HIỆN YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ

50

THUẬT SẮP ĐẶT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995 - 2018..........................

2.1. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua hình thức tác phẩm..........................................

50

2.1.1. Yếu tố truyền thống qua tạo hình, trang trí……………......................

50

2.1.2. Yếu tố truyền thống qua không gian di sản................………...........

65

2.1.3. Yếu tố chất liệu bản địa......................................................………….

72

2.2. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua chủ đề tác phẩm........................................

75

2.2.1. Yếu tố truyền thống qua chủ đề văn hóa, tín ngưỡng..................……

75

2.2.2. Yếu tố truyền thống qua chủ đề ký ức...........................………………...

87

2.2.3. Yếu tố truyền thống qua chủ đề phản biện xã hội………........................

94

Tiểu kết..........................................................................................................

101

Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM

SẮP ĐẶT VIỆT NAM CÓ YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG GIAI ĐOẠN

1995 - 2018....................................................................................................

102

3.1. Đặc điểm nghệ thuật...............................................................................

102

3.1.1. Tính tượng trưng, ước lệ……………………………………………..

102

3.1.2. Tính biểu cảm dân gian………………………………………………

118

3.1.3. Tính xung đột giữa truyền thống với hiện đại.......…………………..

112

3.2. Giá trị nghệ thuật....................................................................................

118

3.2.1. Đa dạng biểu đạt qua hình thức và chủ đề tác phẩm……...................

118

3.2.2. Mở rộng ranh giới thẩm mỹ ……........................................................

121

3.2.3. Định vị Nghệ thuật Sắp đặt……………..............................................

124

3.3. Luận bàn về vai trò, giá trị và xu hướng tiếp cận truyền thống..............

127

Tiểu kết..........................................................................................................

141

KẾT LUẬN....................................................................................................

143

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ..........

146

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................

147

PHỤ LỤC .....................................................................................................

159

iv

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Nghệ thuật Sắp đặt (Installation Art) là một loại hình nghệ thuật

mới của trào lưu Hậu hiện đại, phát triển mạnh ở Mỹ và phương Tây vào

những năm 60, 70 của thế kỷ trước. Cùng với các loại hình nghệ thuật đương

đại như Trình diễn (Peformance), Video Art… Nghệ thuật Sắp đặt thường sử

dụng đồ vật làm sẵn hoặc kết hợp nhiều phương tiện để xây dựng tác phẩm

trong không gian 3 chiều, tạo ra kí hiệu, ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù, phản

ánh xã hội đương đại với thẩm mỹ mới và thái độ hoài nghi, giễu nhại, giải

thiêng, gây sốc... người thưởng thức, tương tác là một phần của tác phẩm.

Nghệ thuật Sắp đặt được tiếp nhận vào Việt Nam từ những năm 1990,

trong bối cảnh toàn cầu hóa, thời kỳ đất nước thực hiện chính sách Đổi mới,

giao lưu và hội nhập quốc tế. Trong quá trình phát triển và tiếp biến, Nghệ

thuật Sắp đặt Việt Nam (NTSĐVN) đã kết hợp linh hoạt giữa yếu tố truyền

thống (YTTT) với hình thức biểu hiện mới. Nói cách khác, YTTT và hiện đại

đã hòa quyện với nhau trong tác phẩm tạo nên đặc điểm, giá trị nghệ thuật

riêng biệt, trở thành một hiện tượng nổi bật trong đời sống văn hóa nghệ thuật

đương đại. Do đó, nghiên cứu hiện tượng nghệ thuật này một cách hệ thống,

toàn diện, chuyên sâu là yêu cầu cần thiết.

1.2. Hệ thống tư liệu và thực tiễn cho thấy, biểu hiện YTTT trong

NTSĐVN giai đoạn này là khá rõ rệt, có thể nhận diện thông qua hình thức và

chủ đề tác phẩm. Trong quá trình phát triển đến nay với sự đóng góp của

YTTT, NTSĐVN giai đoạn này đã đạt được những thành tựu đáng kể qua các

giải thưởng ở trong nước và quốc tế, được đặt ngang hàng với các loại hình

nghệ thuật truyền thống, từng bước khẳng định đặc điểm, giá trị nghệ thuật

riêng biệt, là phương tiện nổi trội trong việc phản chiếu kịp thời những thay

đổi và biến động của xã hôi đương đại, so với các loại hình nghệ thuật truyền

thống vốn có. Tuy nhiên đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một

2

cách hệ thống, chuyên sâu, toàn diện về YTTT trong NTSĐVN giai đoạn này.

Đó là khoảng trống nghiên cứu còn bỏ ngỏ. Đặt vấn đề nghiên cứu YTTT

trong NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018 được xác định là yêu cầu cấp thiết,

nhằm chỉ ra biểu hiện, khẳng định đặc điểm và giá trị nghệ thuật của

NTSĐVN giai đoạn này, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

1.3. Hơn nữa, lịch sử phát triển của NTSĐVN chưa dài, do đó vấn đề lý

thuyết, lý luận về loại hình nghệ thuật này còn nhiều hạn chế, khuyết thiếu,

chưa phổ biến trong các chương trình đào tạo mỹ thuật ở trong nước. Trong

khi đó, thực tiễn sáng tác và thưởng thức loại hình nghệ thuật này đã phát

triển mạnh, đã có những tác giả định danh với loại hình nghệ thuật này, công

chúng hào hứng tương tác, đón nhận. Nói cách khác, vấn đề lý luận ở nước ta

hiện đang tụt hậu so với thực tiễn sáng tác và thưởng thức Nghệ thuật Sắp đặt.

Do vậy, kết quả nghiên cứu YTTT trong NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018

mang tính lý luận, hướng đến bổ sung lý thuyết, thu hẹp khoảng trống giữa lý

luận và thực hành Nghệ thuật Sắp đặt ở trong nước, bổ sung thông tin hệ

thống, chuyên sâu cho cơ sở dữ liệu về NTSĐVN, cung cấp thông tin hữu ích

cho người làm nghiên cứu, sáng tác, công chúng thưởng thức nghệ thuật và

các cơ sở đào tạo nghệ thuật ở trong nước.

Ngoài ra, xuất phát là một giảng viên đại học, NCS muốn nghiên cứu,

tìm hiểu về NTSĐVN giai đoạn này để có thể ứng dụng kết quả nghiên cứu

của luận án vào quá trình sáng tác, giảng dạy và nghiên cứu về Nghệ thuật

Sắp đặt Việt Nam.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu, phân tích YTTT trong các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam tiêu

biểu, để từ đó khẳng định và làm rõ biểu hiện, khẳng định đặc điểm, giá trị

nghệ thuật và xu hướng tiếp cận YTTT của NTSĐVN trong bối cảnh giao lưu

và hội nhập quốc tế.

3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

2.2.1. Phân tích, tổng hợp tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.

Trên cơ sở đó xác định cơ sở lý luận, bao gồm phân tích, tổng hợp các khái

niệm, thuật ngữ và lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án.

2.2.2. Nghiên cứu YTTT biểu hiện qua hình thức và chủ đề của

NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018.

2.2.3. Luận bàn về kết quả nghiên cứu để khẳng định và làm rõ đặc

điểm, giá trị nghệ thuật và xu hướng tiếp cận YTTT của NTSĐVN.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là YTTT biểu hiện qua hình

thức và chủ đề của các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam giai đoạn 1995 - 2018.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi không gian

Luận án tiến hành khảo sát các tác phẩm Sắp đặt việt Nam có YTTT

nổi bật, biểu hiện qua hình thức và chủ đề tác phẩm, do các nghệ sĩ Việt Nam

sáng tác. Tổng số tác phẩm Sắp đặt được lựa chọn sử dụng trong luận án gồm:

69 tác phẩm của 30 tác giả. Trong đó: khu vực miền Bắc là 48 tác phẩm của

19 tác giả; khu vực miền Trung là 10 tác phẩm của 5 tác giả; khu vực miền

Nam là 11 tác phẩm của 6 tác giả.

Phạm vi thời gian

Phạm vi thời gian nghiên cứu là giai đoạn từ 1995 - 2018. Sở dĩ NCS

giới hạn giai đoạn này để nghiên cứu vì quá trình tiếp nhận, phát triển và tiếp

biến, NTSĐVN đã đạt được những thành tựu nổi bật và bộc lộ một số hạn chế

nhất định. Chọn năm 1995 là điểm xuất phát của nghiên cứu vì thời điểm này

đã ghi nhận “triển lãm Sắp đặt Đất qua lửa (1994, 29 Hàng Bài, Hà Nội). Đây

là một tác phẩm Sắp đặt gây tiếng vang, sử dụng đa phương tiện, tượng gốm,

gỗ, giấy bồi, âm thanh... mở đầu xu hướng riêng của Bảo Toàn, giàu yếu tố

4

nghi lễ dân gian, tâm linh và văn hóa truyền thống” [35, tr.16], thu hút sự chú

ý của giới chuyên môn. Chọn năm 2018 là điểm kết thúc nghiên cứu vì nó gắn

liền với sự kiện nghệ thuật đương đại có chủ đề “Di sản” nổi bật, hướng đến

truyền thống: “Dự án nghệ thuật đương đại tại đường hầm nhà Quốc hội”. Đây là dự án có quy mô lớn với 1.500 m2 tác phẩm Sắp đặt, trưng bày suốt

500 m đường hầm vào nhà Quốc hội, lần đầu tiên được Văn phòng Chính phủ

chấp thuận và nguồn kinh phí hoàn toàn từ việc xã hội hóa nghệ thuật, hội tụ

nghệ sĩ của ba miền tham gia.

4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

4.1. Câu hỏi nghiên cứu

Để làm sáng rõ vấn đề nghiên cứu, chỉ ra biểu hiện, đặc điểm, giá trị

nghệ thuật của YTTT trong NTSĐVN và xu hướng tiếp cận truyền thống

trong giai đoan tới, NCS đưa ra 3 câu hỏi nghiên cứu sau:

Câu hỏi 1: Làm thế nào để nhận biết YTTT trong NTSĐVN giai đoạn

1995 - 2018 thông qua hình thức và chủ đề tác phẩm?

Câu hỏi 2: Việc sử dụng các YTTT trong NTSĐVN tạo ra các đặc điểm

và giá trị nghệ thuật nào?

Câu hỏi 3: Xu hướng tiếp cận YTTT trong NTSĐVN trong giai đoạn

tới sẽ như thế nào?

4.2. Giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết 1: NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018 biểu hiện rõ YTTT của

người Việt qua hình thức và chủ đề tác phẩm với các thành tố tạo hình, không

gian, chất liệu bản địa; chủ đề tín ngưỡng, ký ức và phản biện xã hội.

Giả thuyết 2: YTTT trong NTSĐVN tạo ra đặc điểm nghệ thuật riêng

biệt mang tính tượng trưng, ước lệ, tính biểu cảm dân gian và tính xung đột

giữa truyền thống và hiện đại. Đổng thời, NTSĐVN giai đoạn này tạo nên

những giá trị nghệ thuật độc đáo, góp phần làm đa dạng biểu đạt qua hình

thức và chủ đề tác phẩm, mở rộng ranh giới thẩm mỹ và định vị NTSĐVN.

5

Giả thuyết 3: Trở về khai thác truyền thống để tìm sự khác biệt cho

Nghệ thuật Sắp đặt là xu hướng mang tính toàn cầu, tất yếu, không chỉ riêng

đối với NTSĐVN trong bối cảnh giao lưu và hội nhập quốc tế.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu

Trên cơ sở hệ thống các luận điểm khoa học, khái niệm nghiên cứu

nhằm phân tích thành tố truyền thống như tạo hình, trang trí, văn hóa, lịch sử,

chất liệu bản địa biểu hiện trong NTSĐVN. Áp dụng phương pháp này nhằm

hệ thống, chứng minh sự biểu hiện của YTTT trong NTSĐVN, làm tiền đề

cho việc so sánh chỉ ra đặc điểm, giá trị nghệ thuật của NTSĐVN giai đoạn

1995 - 2018.

Luận án thu thập các luận điểm khoa học của mỹ thuật học và các

ngành liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Qua đó phân tích tác phẩm Sắp đặt

giai đoạn này để thấy được đặc điểm, giá trị nghệ thuật nổi bật, tổng hợp

những thành tựu đã đạt được của NTSĐVN. Đồng thời, chỉ ra những hạn chế

của việc sử dụng YTTT trong NTSĐVN. Phương pháp tổng hợp được sử

dụng để nhìn nhận nội dung nghiên cứu một cách khoa học, logic và thuận

tiện trong quá trình theo dõi luận án.

Để triển khai nội dung luận án còn tiếp thu các học thuyết, lý luận, luận

điểm, chắt lọc khía cạnh khoa học từ kho tàng tri thức, kết hợp với phương

pháp luận như đối chiếu, so sánh, liên hệ, quy nạp, diễn dịch, kiểm chứng,

nhận thức, đánh giá, khẳng định đặc điểm, giá trị văn hóa nghệ thuật của

NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018.

5.2. Phương pháp điền dã

Để thực hiện nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu, NCS đã tham dự các

cuộc triển lãm mang tính toàn quốc như: Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc,

Festival Mỹ thuật trẻ, Triển lãm điêu khắc toàn quốc, các sự kiện triển lãm

Nghệ thuật Sắp đặt của nhóm nghệ sĩ và cá nhân để trực tiếp khảo sát, tìm

hiểu, chụp ảnh tư liệu và đo đạc kích thước tác phẩm. Công tác tại môi trường

6

nghiên cứu, đào tạo nghệ thuật ở Hà Nội, NCS có cơ hội tham dự nhiều triển

lãm Nghệ thuật Sắp đặt có quy mô lớn tại các trung tâm văn hóa nghệ thuật

của nước ngoài tại Hà Nội và các gallery của tư nhân. Thậm chí, tại một số

cuộc triển lãm Nghệ thuật Sắp đặt như “Quá khứ trong hiện tại”, “Nhận diện

và kết nối”, “Đối thoại với đình làng”, NCS được chứng kiến quá trình hình

thành tác phẩm, trao đổi ý tưởng với nghệ sĩ. Năm 2017, NCS đã có chuyến

khảo sát, gặp gỡ nghệ sĩ, người làm nghiên cứu, người phụ trách, tổ chức các

hoạt động nghệ thuật đương đại thời kỳ đầu tại Huế và TP. Hồ Chí Minh để

thu thập tài liệu, nắm bắt thông tin hoạt động Nghệ thuật Sắp đặt tại hai trung

tâm nghệ thuật này.

5.3. Phương pháp thống kê, so sánh

Phương pháp so sánh từ góc nhìn YTTT trong NTSĐVN giai đoạn

1995 - 2018, nhìn nhận đặc điểm, nghệ thuật, tư tưởng, văn hoá lịch sử biểu

hiện trong tác phẩm. Xét tổng thể các mối quan hệ giữa YTTT với tổ hợp đồ

vật, giữa tổ hợp đồ vật với không gian, mối xung đột giữa truyền thống với

hiện đại. Áp dụng phương pháp này nhằm diễn giải, tạo điều kiện thuận lợi

trong việc đưa ra những nhận định, chỉ ra những điểm khác biệt, độc đáo của

NTSĐVN trong từng giai đoạn phát triển và sự khác biệt so với hình thức

nghệ thuật truyền thống vốn có. Phương pháp so sánh đặc điểm nghệ thuật

trong luận án này nhằm hạn chế những phỏng đoán trong quá trình nghiên

cứu, luận giải các vấn đề khoa học.

5.4. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia

Để đảm bảo tính khách quan và độ tin cậy của kết quả nghiên cứu,

NCS đã tiến hành phỏng vấn chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về lĩnh vực

nghệ thuật nói chung, nghệ thuật đương đại Việt Nam nói riêng. Đồng thời,

NCS cũng đặt ra hai câu hỏi về NTSĐVN, trao đổi với một số nghệ sĩ nhằm

tìm hiểu những quan điểm, ý kiến từ phía họ. Qua đó, NCS thu thập, tổng hợp

thông tin qua những kiến giải sâu sắc, đa chiều về NTSĐVN từ các chuyên

gia, những bộc lộ kỹ năng nghề nghiệp sinh động, chân thực của chủ thể sáng

7

tạo. Toàn bộ nội dung phỏng vấn chuyên gia và nghệ sĩ được thể hiện trong

phụ lục của luận án.

5.5. Phương pháp tiếp cận liên ngành

Sử dụng, tham khảo những thành tựu trong nghiên cứu của một số

ngành khoa học có mối liên hệ với nghệ thuật thị giác như: Văn hoá, Lịch sử,

Tâm lý học, Văn học, Âm nhạc, Sân khấu… nhằm làm sáng tỏ biểu hiện, đặc

điểm, giá trị nghệ thuật của YTTT trong NTSĐVN giai đoạn này.

Áp dụng phương pháp tiếp cận liên ngành, luận án tiếp cận trên cơ sở

tổng hợp, hệ thống các tư liệu mang tính tri thức của nhiều lĩnh vực có sự

tương tác qua lại từ các ngành khoa học. Qua đó, tạo điều kiện nhìn nhận,

đánh giá các vấn đề nghiên cứu logic và hệ thống, nghiên cứu YTTT biểu

hiện qua hình thức và chủ đề của NTSĐVN giai đoạn này.

6. Những đóng góp mới của luận án

Đề tài luận án là công trình nghiên cứu mới, lý luận chuyên sâu, đánh

giá các vấn đề khoa học về NTSĐVN qua góc nhìn YTTT. Kết quả nghiên

cứu hướng trọng tâm làm sáng tỏ những câu hỏi và luận điểm khoa học đặt ra:

6.1. Xác lập khái niệm, giới thuyết YTTT trong NTSĐVN, qua đó chỉ

ra các YTTT nổi bật, chưa được nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện, biểu hiện

thông qua hình thức và chủ để của NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018. Đặc biệt,

các yếu tố có thể nhận diện như: tạo hình, không gian, chất liệu bản địa trong

tác phẩm sẽ được phân tích, làm sáng rõ để chỉ ra biểu hiện của chúng.

6.2. Luận án chứng minh sự biểu hiện YTTT trong NTSĐVN tạo nên

đặc điểm, giá trị văn hóa nghệ thuật riêng biệt qua hình thức và chủ đề của tác

phẩm. Qua đó chỉ ra ba đặc điểm nghệ thuật nổi bật như: tính tượng trưng,

ước lệ; tính biểu cảm dân gian; tính xung đột giữa truyền thống và hiện đại;

với các giá trị điển hình như: đa dạng biểu hiện qua hình thức và chủ đề tác

phẩm; mở rộng ranh giới thẩm mỹ; định vị NTSĐVN.

6.3. Luận án góp phần hình thành một cơ sở lý luận chuyên sâu về

YTTT trong NTSĐVN. Luận bàn về kết quả nghiên cứu để khẳng định và

8

làm rõ đặc điểm, giá trị văn hóa nghệ thuật và đưa ra nhận đinh về xu hướng

tiếp cận truyền thống của NTSĐVN trong bối cảnh giao lưu hội nhập quốc tế.

Kết quả nghiên cứu mới của luận án bổ sung cơ sở dữ liệu về NTSĐVN.

7. Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu (8 trang), Kết luận (03 trang), Tài liệu tham khảo

(12 trang) và phụ lục (65 trang), nội dung chính được chia làm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát

về Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam giai đoạn 1995 - 2018 (41 trang);

Chương 2: Biểu hiện yếu tố truyền thống trong Nghệ thuật Sắp đặt Việt

Nam giai đoạn 1995 - 2018 (52 trang);

Chương 3: Đặc điểm và giá trị nghệ thuật của các tác phẩm Sắp đặt

Việt Nam có YTTT giai đoạn 1995 - 2018 (41 trang).

9

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ

KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1995 - 2018

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Tìm hiểu kết quả nghiên cứu đã thực hiện và những tư liệu sách báo,

tạp chí, các bài tham luận, bài viết về nghệ thuật giai đoạn 1995 - 2018, cho

thấy phần lớn nội dung của những nghiên cứu tập vào giới thiệu nghệ thuật

đương đại nói chung. Tuy có một số ít công trình nghiên cứu về yếu tố thẩm

mỹ, di sản truyền thống, chủ đề phản ánh trong NTSĐVN. Song, những kết

quả nghiên cứu này chỉ mang tính chất đơn lẻ, trường hợp tác giả hoặc tiếp

cận ở góc độ giáo dục mỹ thuật, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào

nghiên cứu chuyên biệt, hệ thống, toàn diện về YTTT trong NTSĐVN giai

đoạn này. Khảo sát thực tế cho thấy YTTT trong NTSĐVN biểu hiện qua

thành tố truyền thống như tạo hình, trang trí dân gian, không gian di sản, chất

liệu bản địa, mang đậm mỹ cảm, quan niệm triết lý phương Đông, ý nghĩa văn

hóa nghệ thuật của người Việt. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài

có thể phân chia thành hai nhóm.

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Do lịch sử phát triển Nghệ thuật Sắp đặt ở Việt Nam chưa dài nên các

công trình nghiên cứu chuyên biệt về Nghệ thuật Sắp đặt ở trong nước còn

khá hạn chế về số lượng, cũng như vấn đề nghiên cứu. Tuy đã có một số bài

viết về nghệ thuật đương đại nói chung, Nghệ thuật Sắp đặt nói riêng chủ yếu

của các tác giả trong nước được đăng trên các tạp chí chuyên ngành, một số

cuốn sách, kỷ yếu hội thảo về nghệ thuật đương đại đã được xuất bản. Nhìn

chung, những công trình nghiên cứu này cung cấp cho người đọc một cái nhìn

tổng quát chung về một gian đoạn của nghệ thuật đương đại Việt Nam, hoặc

10

giới thiệu một số gương mặt nghệ sĩ đương đại, không đặt trong tâm vào

nghiên cứu YTTT trong NTSĐVN.

Năm 2005, Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện Mỹ thuật tổ chức

Hội thảo khoa học Vấn đề hình thức và chất liệu trong nghệ thuật đương đại,

Đây được xem là một trong những Hội thảo bước đầu tập hợp được đông đảo

đội ngũ nghiên cứu và sáng tác viết bài nghiên cứu về nghệ thuật đương đại,

giới thiệu và đánh giá về giai đoạn đầu phát triển của nghệ thuật đương đại

Việt Nam. Nổi bật là bài tham luận “Tiềm năng của một hình thức nghệ thuật

mới - Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam”, đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học

vừa nêu và Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật của tác giả Kraevskaia Natalia. Nội

dung bài tham luận như một tổng quan về NTSĐVN giai đoạn đầu tiếp nhận

và phát triển với những phân tích, chứng minh cụ thể, lập luận sắc sảo, khoa

học, tham chiếu từ các loại hình nghệ thuật khác như Trình diễn, Sân khấu...

Nhận định về khía cạnh đặc trưng nổi bật và những hạn chế của NTSĐVN,

tác giả cho rằng:

Nhìn chung, Nghệ thuật Sắp đặt ở Việt Nam gây hiệu quả mạnh

về thị giác nhưng vẫn còn xây dựng trên chức năng tham chiếu,

không có nội dung ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Họa sĩ hay

thích chọn một đề tài hoặc chủ đề làm “ý tưởng” để minh họa,

điều đó sẽ biến tác phẩm của họ thành một thứ mô phỏng để

minh họa một tình huống thực hoặc ấn định các sự kiện ngẫu

nhiên hay bình thường [106, tr.62].

Thực tế, chú trọng tới thẩm mỹ về mặt hình thức là cần thiết, nhưng

không vì thế mà xem nhẹ ý nghĩa nội dung của tác phẩm Sắp đặt. Với cái nhìn

khách quan của, tác giả Kraevskaia Natalia, đã thẳng thắn chỉ ra điểm hạn chế

của NTSĐVN qua một số nhận định: “chú ý quá nhiều đến tính Việt Nam

trong các triển lãm Sắp đặt” [106, tr.61]; chưa nắm bắt được tích chất liên

ngành của Nghệ thuật Sắp đặt quốc tế; yếu tố sân khấu và tương tác trong Sắp

11

đặt Việt Nam còn thiếu; chú trọng biểu hiện hơn ý niệm. Tuy không hoàn

toàn đồng tình với nhận định của tác giả, nhưng rõ ràng những hạn chế mà

tham luận đã chỉ ra là cần thiết cho giới sáng tác và nghiên cứu. Qua đó,

người làm Nghệ thuật Sắp đặt tự nhìn nhận, điều chỉnh, phát huy điểm mạnh

và khắc phục những hạn chế để tiến tới biến cái hạn chế thành cái lợi thế

trong tác phẩm Sắp đặt, vừa hiện đại vừa giàu YTTT. Bài tham luận của tác

giả Kraevskaia Natalia tuy không trực tiếp đề cập đến YTTT trong NTSĐVN,

song nhận định của tác giả mang nội hàm về hình thức thẩm mỹ và tinh thần

truyền thống trong NTSĐVN nói chung. Qua đó, tác giả chỉ rõ điểm ưu việt

và những hạn chế trong NTSĐVN thời kỳ đầu tiếp nhận và phát triển.

Cùng có chung quan điềm này, tác giả Bùi Như Hương - Trần Hậu

Tuấn cho rằng: “đa số các installation của Việt Nam mang một tinh thần khác

hẳn, hướng về tình cảm nông thôn, về không gian tín ngưỡng và văn hóa

truyền thống, với một thái độ nghiêm túc, trân trọng, không bỏ qua tính duy

mỹ” [34, tr. 89]. Qua những nhận định của các tác giả ở trong và ngoài nước

về đặc điểm NTSĐVN, NCS có cơ sở tham khảo kết hợp với khảo sát thực

tiễn để từ đó hình thành những câu hỏi nghiên cứu, luận điểm khoa học và

nhận định của riêng mình khi nghiên cứu đề tài.

Năm 2008, Trường ĐHMTVN - Viện Mỹ thuật xuất bản cuốn Nghệ

thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb.

Mỹ thuật, gồm 17 bài tham luận, 6 ý kiến phát biểu tại hội thảo. Các bài tham

luận, các ý kiến phát biểu chủ yếu xoay quanh vấn đề tìm hiểu các loại hình

nghệ thuật mới, xu hướng phát triển tất yếu của các loại hình nghệ thuật này

trong bối cảnh toàn cầu hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc. Không có bài

viết nào đặt trọng tâm vào nghiên cứu YTTT trong NTSĐVN giai đoạn này.

Năm 2011, tác giả Đỗ Kỳ Huy chủ nhiệm chuyên đề Khái quát về tình

hình các hoạt động mỹ thuật mang tính chất cộng đồng tại Huế, tư liệu

Trường Đại học Nghệ thuật Huế. Tư liệu này cung cấp một cái nhìn khái quát

12

về hiện trạng các hoạt động nghệ thuật tại Huế, các mốc sự kiện, tên tác giả,

tác phẩm, địa điểm thực hiện tác phẩm cũng như những phân tích, đánh giá

nội dung, hình thức nghệ thuật trong khoảng thời gian từ 2000 đến 2010. Đặc

biệt là những hoạt động nghệ thuật đương đại tại các kỳ Festiaval tỏ chức ở

Huế. Chuyên đề này giúp cho NCS có được thuận lợi trong việc thống kê hoạt

động nghệ thuật đương đại tại Huế mà NCS không có cơ hội trực tiếp tham

dự. Đồng thời, có được cái nhìn toàn diện, hệ thống một cách chính xác,

khách quan về hoạt động nghệ thuật diễn ra trong giai đoạn khoảng 10 năm

tại khu vực miền Trung, là cơ sở khoa học đáng tin cậy để đề tài có thể tham

khảo, đối chiếu số liệu, mốc sự kiện, tác giả, tác phẩm khi nghiên cứu đề tài.

Năm 2012, tác giả Vũ Huy Thông công bố đề tài nghiên cứu khoa học

cấp cơ sở, Sắp đặt Việt Nam trong mối liên hệ với một số yếu tố thẩm mỹ

truyền thống, Trường DHMTVN. Tiếp cận từ góc độ thẩm mỹ truyền thống

trong nghệ thuật Sắp đặt, công trình nghiên cứu này cung cấp cho người đọc

thấy rõ mối liên hệ thẩm mỹ truyền thống trong một số tác phẩm Sắp đặt ở

Việt Nam. Đề tài cũng tập hợp khá nhiều những định nghĩa, khái niệm về

Nghệ thuật Sắp đặt của các học giả phương Tây, đưa ra những mốc lịch sử

xuất hiện các sự kiện liên quan đến Nghệ thuật Sắp đặt thời kỳ đầu hình thành

ở phương Tây. Phần nghiên cứu NTSĐVN, tác giả đề tài tiến hành phân tích,

so sánh, chứng minh một số tác phẩm Sắp đặt tiêu biểu, qua đó đưa ra kết

luận về mỹ thuật truyền thống Việt Nam gắn liền với hai yếu tố thẩm mỹ:

“tính tượng trưng, ước lệ là đặc trưng thẩm mỹ truyền thống; hài hòa, dung dị

là yêu cầu thẩm mỹ của mỹ thuật truyền thống Việt Nam” [97, tr.98]. Tuy

nhiên, kết quả của công trình nghiên cứu này mới bước đầu chỉ ra có mối liên

hệ giữa yếu tố thẩm mỹ truyền thống với NTSĐVN, chưa đi sâu vào đánh giá

đặc trưng và phân loại từng yếu tố cụ thể tác động tới hình thức và nội dung

trong NTSĐVN. Tóm lại, kết quả nghiên cứu của đề tài này mới dừng lại ở

việc chứng minh có yếu tố thẩm mỹ truyền thống trong NTSĐVN, biểu hiện

13

qua hình thức và đề tài truyền thống. Đây là vấn đề mà NCS có thể tiếp tục

nghiên cứu, làm rõ các đặc điểm, giá trị văn hóa nghệ thuật qua hình hình

thức và chủ đề của NTSĐVN có YTTT giai đoạn 1995 - 2018.

Năm 2013, tác giả Lê Văn Sửu chủ biên cuốn Kết nối nghệ thuật với di

sản, Trường ĐHMTVN, Nxb. Thế Giới. Công trình này gồm bài viết của 6

tác giả ở trong nước và ngoài nước, tiếp cận từ nhiều góc nhìn về vai trò, giá

trị văn hóa nghệ thuật của di sản bản địa trong mối liên hệ với một số loại

hình nghệ thuật mới, nhấn mạnh việc bảo tồn, kế thừa di sản, phát huy sáng

tạo trong đời sống đương đại. Đáng chú ý là bài viết “ Mất đi và tìm lại: lần

theo dấu vết di sản văn hóa tiền hiện đại trong nghệ thuật đương đại Đông

Nam Á” của tác giả người Singapore IoIa Lenzi, nhà nghiên cứu Nghệ thuật

Đông Nam Á. Bài viết cung cấp một bức tranh toàn cảnh sống động về nghệ

thuật đương đại ở Đông Nam Á, trong đó các tác phẩm Sắp đặt của nghệ sĩ

Việt Nam như Vũ Dân Tân, Trương Tân, Nguyễn Minh Thành, Nguyễn Văn

Cường, Bùi Công Khánh được phân tích sâu qua mối liên hệ của di sản bản

địa. Nhìn chung, bài viết này mang tính học thuật cao với nhiều nhận định sắc

sảo của tác giả về tiến trình phát triển của nghệ thuật đương đại Đông Nam Á

với một đặc điểm nổi bật là “nó quan tâm tới văn hóa truyền thống một cách

có phê phán”; đồng thời, bà khẳng định “các nghệ sĩ Đông Nam Á đã tìm lại

được giá trị trong di sản văn hóa bản địa” [87, tr.93]. Đây là một tư liệu quý,

kết nối giữa lý thuyết với thực hành, có nhiều thông tin cập nhật đáng tin cậy

về nghệ thuật Sắp đặt ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, NCS có thể tham

khảo, sử dụng làm luận cứ trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án.

Năm 2013, tác giả Bùi Như Hương - Phạm Trung xuất bản cuốn Nghệ

thuật đương đại Việt Nam 1990 - 2010, Nxb. Tri Thức, Hà Nội. Nghệ thuật

Sắp đặt là một phần nhỏ trong nghiên cứu này. Các phần viết và ảnh tác phẩm

khá phong phú, cung cấp cho người đọc nhiều thông tin cần thiết, các mốc

lịch sử xuất hiện các loại hình nghệ thuật mới, các mốc sự kiện triển lãm nghệ

14

thuật đương đại; Phần lý giải về nguồn gốc, nguyên nhân, lý do hình thành và

phát triển Nghệ thuật Sắp đặt ở phương Tây, liên hệ với hoàn cảnh văn hóa,

lịch sử Việt Nam, các tác giả đưa ra một số nhận định khá thú vị:

Thực tế cho thấy, Việt Nam XHCN có rất nhiều ảo tưởng, nhiều

“huyền thoại”, cũng như các “đại tự sự” dị lạ độc đáo của riêng

mình, có những tâm trạng siêu - hoài nghi, chất vấn của riêng mình,

thậm chí còn nặng nề và hài hước hơn nhiều nơi khác trên thế giới

bởi sự ngây thơ về nhận thức và khoảng cách tụt hậu quá xa so với

họ...Các giá trị truyền thống bị đảo lộn, niềm tin và ý thức hệ ngày

một nhạt nhòa tan vỡ... [35, tr.14].

Nhìn chung, cuốn sách là tư liệu hữu ích phục vụ công tác nghiên cứu,

hệ thống tác giả, tác phẩm theo mốc phát triển lịch sử của các sự kiện, thông

tin chung về hoạt động nghệ thuật đương đại. Tuy nhiên, công trình nghiên

cứu này không đi sâu vào tìm hiểu YTTT trong các loại hình nghệ thuật

đương đại. Hạn chế của cuốn sách này là chưa đưa ra được một định nghĩa về

nghệ thuật đương đại của riêng mình, đồng thời, việc phân loại Nghệ thuật

Sắp đặt thành “Sắp đặt trong nhà” và “Sắp đặt ngoài trời” là chưa thỏa đáng.

Đó cũng là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu mà NCS đặt ra trong nghiên

cứu đề tài luận án.

Năm 2014, tác giả Bùi Thị Thanh Mai công bố đề tài nghiên cứu khoa

học cấp cơ sở Mỹ thuật hậu đổi mới trong mối liên hệ với những vấn đề xã

hội Việt Nam đương đại. Trọng tâm của đề tài đi sâu vào nghiên cứu mối liên

hệ giữa các loại hình nghệ thuật đương đại, sự tác động của bối cảnh chính trị,

kinh tế. Đồng thời, đề tài đã giới thiệu một số chủ đề mà nghệ thuật đương đại

quan tâm phản ánh xã hội như: vấn đề giới tính, nạn ô nhiễm môi trường, đô

thị hóa... Qua đó, đề tài kết luận: “Mỹ thuật hậu đổi mới ở Việt Nam, đã vượt

ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của các đề tài, chủ đề truyền thống của các giai

đoạn trước để phản ánh các vấn đề xã hội Việt nam đương đại...quan tâm đến

15

những vấn đề thời cuộc, ý thức về vai trò của nghệ thuật và thế mạnh của

nghệ thuật đối với xã hội” [62, tr.89]. Như vậy, trong tâm của công trình này

là vấn đề nghiên cứu đề tài, chủ đề phản ánh trong mỹ thuật hậu đổi mới, chứ

không đi sâu vào nghiên cứu YTTT trong các tác phẩm đương đại.

Năm 2018, tác giả Trần Hoàng Ngân công bố đề tài nghiên cứu khoa

học cấp cơ sở Khuynh hướng tiếp cận di sản truyền thống qua một số dự án

nghệ thuật tại Việt Nam từ 2010 đến 2016, Trường ĐHMTVN. Nội dung của đề

tài đi sâu vào nghiên cứu các dự án nghệ thuật tiếp cận di sản truyền thống của

cá nhân và các nhóm nghệ sĩ Việt Nam. Qua đó, đề tài cung cấp cho người đọc

nhiều thông tin bổ ích, hệ thống cũng như những ý nghĩa nổi bật của các dự án

nghệ thuật Việt Nam từ 2010 đến 2016. Đồng thời, tác giả đưa ra nhận định:

“thông qua các tác phẩm nghệ thuật, di sản được tôn vinh và góp phần thu hút sự

quan tâm của công chúng để những giá trị truyền thống của ông cha để lại không

bị mai một, quên lãng. Đây là xu hướng có tính toàn cầu” [71, tr.29].

Ngoài ra, đề tài còn tham khảo các công trình nghiên cứu, bài viết có liên

quan đến luận án, chưa được xuất bản để có cái nhìn tổng quát về NTSĐVN

giai đoạn 1995 - 2018.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước

Trên thế giới đã có nhiều học giả nghiên cứu về nghệ thuật hậu hiện đại,

đương đại nói chung và Nghệ thuật Sắp đặt nói riêng. Trong số đó, có thể kể

đến một số công trình tiêu biểu, được dịch thuật từ nhiều ngôn ngữ khác nhau

như: Caroline Turner chủ biên (1994), Truyền thống và thay đổi, Bùi Như

Hương dịch; Xu Gan (2002), Nghệ thuật Sắp đặt, nhóm tác giả dịch, Trần

Hậu Yên Thế hiệu đính; Xu Gan (2002), Nghệ thuật khái niệm, Hà Thị Tường

Thu dịch; Geng Chu Zhuang (2002), Chủ nghĩa nữ quyền, Hoàng Mai Vân

dịch; Zhang Zhao Hui - Xu Ling (2002), Nghệ thuật truyền thông mới, Hà Thị

Tường Thu dịch; ; Cynthia Freeland (2010), Như Huy dịch, Một đề dẫn về lý

thuyết Nghệ thuật;...

16

Năm 1979, tác giả Jean - Fracois Lyotard xuất bản công trình nghiên

cứu Hoàn cảnh hậu hiện đại (postmorden condition), do Ngân Xuyên dịch,

Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính (2008), Nxb. Tri Thức. Nội dung cuốn sách gồm

235 trang, tập trung nghiên cứu 3 phần cơ bản: Bối cảnh hình thành tâm thức

hậu hiện đại; Sự khủng hoảng của các “đại tự sự”; và việc hợp thức hóa bằng

nghịch biện. Hoàn cảnh hậu hiện đại như cái kết cho những đại tự sự của việc

hợp pháp hệ tư tưởng và loại thải các suy lý về xã hội không có giai cấp, về

sự giải phóng các chủ thể, và việc xây dựng một xã hội hợp lý, đúng đắn và

nhân văn hơn. Việc hợp thức hóa cho tri thức khoa học đã thay đổi cơ bản, tri

thức không còn có thể quay lại cầu viện các “đại tự sự” của hiện đại để thực

chứng, dẫn đến nẩy sinh “tâm thức hậu hiện đại” và “hoàn cảnh hậu hiện đại”.

Lyotard cho rằng: “Nói một cách thật đơn giản, hậu hiện đại là sự hoài nghi

đối với các siêu tự sự. Nó hiển nhiên là kết quả của sự tiến bộ của các khoa

học, nhưng sự tiến bộ này đến lượt nó lại tiền giả định sự hoài nghi đó” [42,

tr.54]. Như vậy, triết học hậu hiện đại thoát thai từ tinh thần của nghệ thuật

hiện đại. Về vấn đề này ông khẳng định: “Triết học hậu hiện đại diễn đạt một

cách suy lý những gì nghệ thuật hiện đại đã thể nghiệm bằng phương tiện

nghệ thuật” [42, tr.17]. Trong phần nghiên cứu “tri thức trong các xã hội tin

học hóa”, Lyotard chỉ rõ nguyên tắc cũ cho rằng sự sở đắc tri thức là không

thể tách rời với sự “đào luyện” tinh thần của bản thân cá nhân, sẽ được thay

thế bằng mối quan hệ giữa người cung cấp và người sử dụng tri thức theo

hình thức giá trị hàng hóa. Qua đó, ông khẳng định: “Tri thức đang và sẽ được

sản xuất ra để đem bán, nó đang và sẽ được tiêu dùng để có thêm giá trị trong

một tiến trình sản xuất mới: trong cả hai trường hợp đều là để trao đổi. Nó

thôi không còn là mục đích riêng đối với chính mình; nó mất đi “giá trị sử

dụng” của mình” [42, tr. 64]. Tóm lại, tính chất hậu hiện đại thể hiện quan

điểm mỹ học hậu hiện đại với những đặc điểm như: Xóa nhòa ranh giới nghệ

thuật với đời sống hằng ngày; đề cao văn hóa đại chúng; phủ định tính nguyên

17

bản và độc quyền sáng tạo của nghệ sĩ, tính chất lai tạp....Thái độ mỹ học của

hậu hiện đại là hoài nghi, giễu nhại, gây sốc, tự do,... coi trọng ý tưởng, sự

tương tác, quá trình thể hiện tác phẩm hơn kết quả cuối cùng; nghệ sĩ chỉ là

người bắt đầu dấy lên một “cuộc chơi”, người tham dự là những người quyết

định và kết thúc hành trình sáng tạo ấy. Nếu nghệ thuật hiện đại là cái che đậy

nỗi “u sầu” duy lý, thì nghệ thuật hậu hiện đại che đậy sự “cách tân” đoạn

tuyệt với tính hiện đại duy lý của thế kỷ ánh sáng. Tuy nhiên, Nghệ thuật Sắp

đặt khi tiếp nhận vào Việt Nam đã phát triển theo nhiều hướng đa dạng, với

các chủ đề phong phú. Công trình nghiên cứu Hoàn cảnh hậu hiện đại là tư

liệu cần thiết để tham khảo khi nghiên cứu Nghệ thuật Sắp đặt.

Năm 1994, tác giả Caroline Turner chủ biên, xuất bản công trình

nghiên cứu Truyền thống và thay đổi, Đại học báo chí Queensland, Bùi Như

Hương dịch, cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng quan về tiến trình lịch

sử phát triển nghệ thuật của khu vực châu Á Thái Bình Dương, trong đó có

giới thiệu tác phẩm của nghệ sĩ Việt Nam. Nội dung cuốn sách cho thấy sự đa

dạng trong việc tiếp cận truyền thống để thiết lập nghệ thuật nghệ thuật đương

đại mang bản sắc, câu chuyện lịch sử dân tộc của mỗi quốc gia, thái độ của

nghệ sĩ trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tác giả Apinan Poshyananda trong bài

viết “Sự phát triển của nghệ thuật đương đại Thái Lan: tính truyền thống lội

ngược”, cho rằng: “Nghệ thuật đương đại Thái Lan đầy nghịch lý và khó

hiểu...Khả năng đồng hóa các phong cách nghệ thuật của văn hóa khác với

của chính mình xuất hiện ở Thái từ quá khứ, thời Ấn Độ hóa, Khơ Me hóa, và

Hán hóa (Sino)... Hướng tới tân - truyền thống Thái, các họa sĩ cố gắng thay

khẩu hiệu “shock of the new” bằng khẩu hiệu “shock of the old” [14, tr.21,25].

Trong khi đó, lịch sử nghệ thuật đương đại Ấn Độ lại là một câu chuyện khác.

Tác giả Geeta Kapur trong bài viết “Lịch sử nghệ thuật đương đại Ấn Độ - Sự

đặt cược vào tính hiện đại”, đã ý thức rất rõ: “Vấn đề bản sắc được coi là điều

hiển nhiên cần có để tạo ra đặc thù văn hóa của một dân tộc” [14, tr.1]. Đặc

18

biệt, các nghệ sĩ Nhật Bản rất chú trọng kế thừa tinh thần dân tộc và ứng dụng

công nghệ để biểu đạt nghệ thuật, nổi bật là triển lãm có tiêu đề như một định

hướng, một tuyên ngôn nghệ thuật: “Lối đi Nhật, phương tiện Tây”, tổ chức

(1989) tại Gallery Nghệ thuật Queensland, Australia.

Năm 1995, tác giả Richard Appignanesi và Chris Gattat xuất bản cuốn

Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại, bản dịch tiếng Việt do Trần Tiễn Cao Đăng

thực hiện, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính (2006), Nxb. Trẻ. Nguồn tài liệu này

giúp cho NCS hiểu rõ bản những tính chất đặc trưng, thái độ mỹ học nổi bật,

cũng như những lý giải về nguyên nhân, hoàn cảnh ra đời, lý do tồn tại và

phát triển loại hình Nghệ thuật Sắp đặt trên thế giới và qua đó có thể liên hệ

với hoàn cảnh lịch sử phát triển của NTSĐVN. Khi xem xét tính chất của

thuật ngữ hậu hiện đại, các tác giả đã đưa ra một loạt câu hỏi để người đọc có

thể chọn lựa khi sử dụng thuật ngữ này như: “Hậu hiện đại là: Kết quả của

chủ nghĩa hiện đại? Hậu quả của chủ nghĩa hiện đại? Con đẻ của chủ nghĩa

hiện đại? Sự phát triển của chủ nghĩa hiện đại? Sự phủ định chủ nghĩa hiện

đại? Sự khước từ chủ nghĩa hiện đại?” [80, tr.4]. Theo NCS, thuật ngữ này

bao hàm sự trộn lẫn, tổng hợp của toàn bộ những sự nghi vấn đã nêu. Tuy

nhiên, phải đến thập kỷ 1970 lý thuyết về Chủ nghĩa hậu hiện đại được xây

dựng trên cơ sở triết học của chủ nghĩa hậu hiện đại từ các học giả nổi tiếng

như: Derrida, Baudrillard, Cixous,...được chấp nhận ở Mỹ, trong đó nổi bật là

lý thuyết hậu hiện đại của học giả người Pháp Jean - Fracois Lyotard.

Năm 2001, tác giả Caroline Turner chủ biên cuốn Art and Social

Change, gồm 28 bài viết của các nghệ sĩ và các học giả từ các nước thuộc khu

vực châu Á - Thái Bình Dương. Nghệ sĩ Đặng Thị Khuê là đại diện của Việt

Nam có bài tham luận, đồng thời, tác phẩm Sắp đặt Một tâm hồn của bà cũng

được in và giới thiệu trong bài viết “Nghệ thuật trong bối cảnh toàn cầu hóa”

của tác giả Jen Weeb. Trong bài viết này, Jen Weeb đã trích dẫn lời phát biểu

của Đặng Thị Khuê về quan điểm sáng tạo và kế thừa truyền thống: “Sự lựa

19

chọn của chúng tôi là chấp nhận một cách có sàng lọc, như một sự cần thiết,

những ảnh hưởng của nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại từ thế giới bên

ngoài, và đồng thời lưu giữ, như một hệ thống bất biến, những truyền thống

nghệ thuật bản địa bằng cốt cách và tinh thần của chúng” [120, tr.7].

Năm 2002, tác giả Xu Gan xuất bản cuốn Nghệ thuật Sắp đặt, công

trình nghiên cứu chuyên biệt về loại hình nghệ thuật mới này, Trần Hậu Yên

Thế - Hà Thị Tường Thu - Phạm Trung Nghĩa dịch, tư liệu Viện Mỹ thuật, Hà

Nội. Cuốn sách đã chỉ ra những vấn đề nổi bật của nghệ thuật đương đại, qua

đó người đọc có thể thấy Nghệ thuật Sắp đặt mô phỏng người đương đại, biểu

hiện tôn giáo của xã hội đương đại hay nói chung chính trị là tiêu điểm của

nghệ thuật đương đại. Nghệ thuật Sắp đặt có khả năng biến cái tầm thường

thành nghệ thuật, đi sâu vào đời sống cộng đồng, có thể trở thành một công cụ

giáo dục đắc lực, và hơn thế nó còn có vai trò là hành vi thương mại trong

thời đại kinh tế hóa toàn cầu. Đồng thời, tác giả Xu Gan nhận định: “Khoa

học công nghệ cao: Kho vũ khí mới của Nghệ thuật Sắp đặt”. Hơn nữa, ông đã

phân chia thành 9 đặc trưng cơ bản của Nghệ thuật Sắp đặt và kết luận: “Đặc

trưng của Nghệ thuật Sắp đặt là tính cởi mở, tính tự do và tính mơ hồ, nên chúng

ta chỉ có thể nhận biết nó, nghiên cứu nó trong sự vận động, phát triển và diễn

biến của nó. Hàm nghĩa và chức năng của nó đồng bộ với xã hội đương đại, thay

đổi từng giờ từng phút” [117, tr.50].

Năm 2004, đồng tác giả Gill Perry - Paul Wood xuất bản công trình

nghiên cứu mang tính lý luận Themes in Contemporary Art, Đại học Yale,

cung cấp cho người đọc nhiều thông tin có giá trị học thuật, từ định nghĩa về

Nghệ thuật Sắp đặt cho tới các chủ đề nghệ thuật đương đại được phân chia

một cách khoa học. Nội dung cuốn sách vô cùng phong phú, các loại hình

nghệ thuật như Sắp đặt, trình diễn, video art, nhiếp ảnh...đều được nghiên cứu

sâu. Đáng chú ý là chương 5, tác giả Kristine Stiles đã đi sâu vào nghiên cứu

ba loại hình nghệ thuật Trình diễn, Sắp đặt và Video art. Qua đó, từng loại

20

hình nghệ thuật lần lượt được định nghĩa, giới thiệu nguồn gốc hình thành, tác

phẩm và tác giả tiêu biểu từng thời kỳ... Đồng thời, trong phần định nghĩa về

Nghệ thuật Sắp đặt, tác giả cũng lưu ý “cần phân biệt giữa Nghệ thuật Sắp đặt

định trường (Site Specific Installtion) và Nghệ thuật Sắp đặt định trường (Non

Site Specific Installation), ở chừng mực nào đó, nó có thể là tác phẩm độc lập

không mang đặc trưng vật lý cụ thể của nơi trưng bày” [122, tr.187]. Tóm lại,

đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về các loại hình nghệ thuật đương

đại, được nhóm học giả quốc tế thực hiện. Do đó, kết quả nghiên cứu của

công trình này là nguồn thông tin có độ tin cậy khoa học cao, là tài liệu tốt

cho luận án có thể tham khảo và sử dụng.

Năm 2010, tác giả Wang Shaoquiang chủ biên, xuất bản cuốn

Installation Art, Nxb. Sandu, dày 232 trang, chủ yếu giới thiệu cho người đọc

tư liệu ảnh phong phú về Nghệ thuật Sắp đặt của các nghệ sĩ quốc tế, châu Á

có hai quốc gia được giới thiệu là Nhật Bản và Australia. Toàn bộ “Album”

ảnh Nghệ thuật Sắp đặt được chú thích đầy đủ tên tác phẩm, tên nghệ sĩ và lời

giới thiệu ngắn gọn về từng tác phẩm.

Ngoài ra, NCS tham khảo các công trình nghiên cứu, nguyên bản tiếng

Anh như: Queensland Art Gallery (1999), Beyond the Future; Melissa Chiu -

Benjamin Genocchio (2010), Contemporary Asian Art; Jean Robertson -

Craig Mc Daniel (2010), Themes of Contemporary Art - Visual Art after 1980;

Jonathan Harris (2011), Globalization and Contemporary Art;...

1.1.3. Đánh giá chung

Sau khi trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu ở ngoài nước, hệ

thống tài liệu cho thấy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về

Nghệ thuật Sắp đặt của các học giả uy tín trên thế giới đã được xuất bản. Do

đó, nguồn tài liệu về này rất phong phú, đa dạng, từ nghiên cứu lý luận cho

đến giới thiệu tác phẩm, nghệ sĩ tiêu biểu trên thế giới, của các tác giả ở

phương Đông và phương Tây thực hiện. Đây là điểm thuận lợi cho NCS có

21

được cái nhìn hệ thống, toàn diện về lịch sử hình thành Nghệ thuật Sắp đặt

trên thế giới và khu vực Đông Nam Á, đặc trưng tư tưởng nghệ thuật, thái độ

thẩm mỹ của nó gắn liền với triết học hậu hiện đại, cũng như những tác phẩm,

nghệ sĩ tiên phong, tiêu biểu. Qua đó, NCS có cơ sở để xây dựng khái niệm về

Nghệ thuật Sắp đặt, liên hệ, so sánh trong quá trình nghiên cứu luận án.

Về tình hình nghiên cứu ở trong nước, do lịch sử phát triển của Nghệ

thuật Sắp đặt ở Việt Nam chưa dài, nên số lượng công trình nghiên cứu của

các tác giả trong nước còn nhiều hạn chế. Tuy đã có một sách, bài viết, đề tài

nghiên cứu ở trong đã xuất bản về Nghệ thuật Sắp đặt liên quan đến di sản,

thẩm mỹ truyền thống, song chưa có đề tài nào nghiên cứu hệ thống, toàn

diện, chuyên sâu về YTTT trong NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018. Thực tiễn

sáng tác NTSĐVN giai đoạn này đã có những thành tựu ở trong nước và quốc

tế, với sự đóng góp phần đáng kể của YTTT, tạo nên đặc điểm riêng biệt về

thị giác và giá trị văn hóa, lịch sử bản địa. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này

vẫn còn những khoảng trống lý luận cùng một số vấn đề nghiên cứu khoa học

còn bỏ ngỏ, đòi hỏi đề tài luận án Yếu tố truyền thống trong Nghệ thuật Sắp

đặt Việt Nam giai đoạn 1995 - 2018 tiếp tục giải quyết và tạo nên kết quả

nghiên cứu mới, chuyên sâu, chuyên biệt.

Quá trình hệ thống các tài liệu nghiên cứu, liên quan đến YTTT và

Nghệ thuật Sắp đặt, NCS đã từng bước nắm bắt được một số vấn đề nhận thức

lý luận có tính chất nền tảng khoa học và phương pháp luận cho việc nghiên

cứu nghệ thuật. Qua đó, hình thành khung lý thuyết phù hợp để tiếp cận vấn

đề nghiên cứu, làm sáng tỏ biểu hiện YTTT trong hình thức và chủ đề tác

phẩm Sắp đặt Việt Nam, đồng thời chỉ rõ đặc điểm, giá trị văn hóa nghệ thuật,

vai trò, vị thế và xu hướng tiếp cận, khai thác di sản trong NTSĐVN trong

giai đoạn tới. Để giải quyết những vấn đề vừa nêu, chỉ sử dụng lý luận Mỹ

thuật học, Sử học mỹ thuật đơn thuần là không đủ, mà đòi hỏi phải thiết lập

một hệ thống lý thuyết đa dạng hơn, trong đó vận dụng lý thuyết Tiếp biến

22

văn hóa, luận điểm của Triết học, Ký hiệu học với phương pháp tiếp cận liên

ngành xuyên suốt đề tài luận án.

1.2. Cơ sở lý luận

Trong phần này, luận án xây dựng các khái niệm, giới thuyết đối tượng

nghiên cứu, lý thuyết áp dụng và luận điểm sử dụng nhằm chỉ ra mục đích,

hiệu quả của lý thuyết áp dụng tiếp cận đối tượng nghiên cứu của luận án.

1.2.1. Khái niệm

Khái niệm yếu tố truyền thống

Cuốn Từ điển Tiếng Việt, (2012), danh từ yếu tố (element) được định

nghĩa là: “Bộ phận cấu thành một sự vật, sự việc, hiện tượng” [73, tr.494].

Như vậy, yếu tố được hiểu đơn giản là một thành phần tạo nên sự vật, hiện

tượng. Tuy nhiên, phụ thuộc vào từng sự vật, hiện tượng, lĩnh vực cụ thể

mà yếu tố hiện diện ở dạng vật chất, hữu hình hoặc tồn tại ở dạng tinh thần,

trừu tượng.

Cụm từ truyền thống có nguồn gốc chữ latin là Traditio (hành vi lưu

truyền), mới chỉ xuất hiện trong từ điển Hán - Việt, (1931), và được dùng phổ

biến từ sau năm 1945. Trước đó, cụm từ “cổ truyền” được sử dụng để biểu đạt

nghĩa tương đương với từ truyền thống dùng phổ biến hiện nay. Trong Cuốn

Từ điển Tiếng Việt, (2012), cụm từ truyền thống được định nghĩa là: “Thói

quen hình thành lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ

này sang thế hệ khác [73, tr.1347].

Cuốn Cơ sỏ lý luận văn học (2013), của tác giả Đỗ Văn Khang, Nxb.

Thông tin và Truyền thông, cho rằng: “truyền thống là hiện tượng nối dài

những thành tựu đã có..., là sự tiếp tục phát huy cái tốt đẹp, cái đặc sắc độc

đáo của quá khứ vào trong hiện tại và trong tương lai” [45, tr.48].

Truyền thống trong Từ vị ngôn ngữ Pháp của Littré được tác giả R.

Aileau trích dẫn trong bài viết “Khái niệm truyền thống”, do Đoàn Văn Chúc

dịch từ tiếng Pháp, đã phân định cụm từ truyền thống với bốn nghĩa chính:

23

1. Sự giao một cái gì đó cho một người nào đó; 2. Sự lưu truyền

những sự kiện lịch sử, những thuyết tôn giáo, những truyền thuyết, từ

thế hệ này sang thế hệ nọ bằng con đường truyền khẩu và không có

bằng cớ chính thức và thành văn; 3. Đặc biệt, trong giáo hội Giatô, sự

lưu truyền từ thế kỷ này sang thế kỷ khác sự hiểu biết những điều

thuộc về đạo và không hề có thánh thư; 4. Tất thảy những gì người ta

biết hoặc làm theo truyền thống, tức là bằng một sự lưu truyền từ thế

hệ này sang thế hệ nọ nhờ lời nói hay làm mẫu [130].

Truyền thống chính là cái đương đại của quá khứ. Do vậy, giá trị văn

hóa, nghệ thuật đương đại ngày nay còn đọng lại chính là truyền thống của

ngày mai. Một tác giả người Ba Lan từng phát biểu đầy tính logic triết học,

đại ý: “Ngày hôm nay là ngày hôm qua ngày hôm qua là ngày mai”.

Như vậy hiểu một cách chung nhất, truyền thống thuộc cái đã hình

thành trong quá khứ, được lưu giữ và truyền lại đời sau. Trong đó, mỗi châu

lục, quốc gia, tộc người, dòng họ, gia đình...lại có những truyền thống mang

bản sắc riêng, gắn liền với văn hóa, lịch sử bản địa. Đối với người Việt, khi

nói đến truyền thống là hàm nghĩa về văn hóa vật thể và phi vật thể nói chung,

tinh hoa nghệ thuật nói riêng của cha ông để lại trong suốt chiều dài lịch sử

dân tộc. Do đó, YTTT dân tộc là thành tố làm nên sản phẩm vật chất và tinh

thần do người Việt sáng tạo, kết tinh trí tuệ và tình cảm của dân tộc với giá trị

được kiểm chứng qua thời gian, khẳng định chỗ đứng trong tâm thức cộng

đồng và lưu truyền trong đời sống xã hội.

Khái niệm Nghệ thuật Sắp đặt

“Installation Art” là thuật ngữ được cấu tạo từ hai danh từ tiếng Anh:

Installation có nghĩa là sự lắp vào, gắn vào, đặt vào, ráp vào, dàn dựng...,

trong lĩnh vực máy tính, Installation có nghĩa là sự cài đặt; Art có nghĩa phổ

thông là nghệ thuật. Thuật ngữ này mang tính quốc tế, phổ biến toàn cầu,

dùng để chỉ một loại hình nghệ thuật, manh nha xuất hiện từ thập kỷ 1920 gắn

24

liền với tên tuổi của Marcel Duchamp, phát triển mạnh mẽ ở Mỹ và châu Âu

vào thập kỷ 1960, 1970. Ở Việt Nam, thuật ngữ Installation Art đã được nhiều

nhà nghiên cứu mỹ thuật chuyển ngữ, tác giả Lê Thanh Đức dịch là “Nghệ

thuật dàn dựng”; tác giả mang bút danh K.C, trong bài viết “Marcel Duchamp

và nghệ thuật ý niệm, lắp đặt” đăng trên báo Văn hóa & Thể thao, đã dịch

Installation Art là “Nghệ thuật lắp đặt”; tác giả Phạm Hà Hải dịch là “Xếp

đặt”. Năm 1992, tác giả Nguyễn Quân chuyển ngữ thành “Nghệ thuật Sắp

đặt” như tên gọi dùng phổ biến hiện nay.

Trên thế giới và ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu, nhiều

nhà lý luận đưa ra những khái niệm, định nghĩa về Nghệ thuật Sắp đặt. Nhìn

chung, các khái niệm, định nghĩa đều có điểm thống nhất là chỉ ra đặc trưng

của Nghệ thuật Sắp đặt với việc tổ hợp hiện vật trong không gian, thời gian

thực, tính tương tác. Mỗi khái niệm, định nghĩa lại có những điểm riêng biệt,

dưới đây là một số khái niệm, định nghĩa về Nghệ thuật Sắp đặt.

Tác giả Kaprow phát biểu: “Nghệ thuật Sắp đặt là không gian, sự tham

dự của người xem cũng như sự tương tác giữa tác phẩm và người thưởng

thức. Nghệ thuật Sắp đặt sẽ trở thành làn da thứ hai cho chủ thể xã hội đương

đại, chủ thể này sẽ trao cho tác phẩm một ý nghĩa chỉ khi nó bước chân vào

trong tác phẩm” [97, tr.31].

Tác giả Lawra S.G. Conklin định nghĩa, Xu Gan trích dẫn: “Nghệ thuật

Sắp đặt là thị giác hóa cảm nhận nội tâm của con người, hiển thị dưới dạng

không gian ba chiều trong một thời gian thật và không gian thật” [117, tr.15].

Tác giả Kristine Stiles, trong cuốn Themes in Contemporary Art,

định nghĩa:

Nghệ thuật Sắp đặt dò xét những điểm giao cắt thuộc thị giác, tri

giác và bối cảnh của những vấn đề, đồ vật, không gian và chất

liệu... Sắp đặt có thể cố định hoặc tạm thời, đặt ở bên trong hoặc

không gian bên ngoài, và thường liên kết với những bối cảnh kiến

25

trúc hoặc môi trường tự nhiên. Chúng thường là địa điểm đặc biệt,

hoặc được xác định bởi một vị trí. Nghệ thuật Sắp đặt đòi hỏi người

xem có cái nhìn vượt thoát những đồ vật đơn thuần để tìm hiểu bối

cảnh mà trong đó tác phẩm được tạo dựng, trưng bày và đón

nhận...Nghệ thuật Sắp đặt có thể là một phương tiện có khả năng

giao tiếp chỉ với những người đã am hiểu những ám hiệu của nó

trong một bối cảnh đặc biệt” [122, tr.186].

Trong cuốn Nghệ thuật Sắp đặt, phần Nghệ thuật Sắp đặt là gì, tác giả

Xu Gan nhận xét: “Nghệ thuật Sắp đặt diễn giải định tính không chuẩn xác

những ám thị thần bí, nó thừa nhận nhận thức của con người là tương đối,

những vấn đề bất khả tri không có cách gì thâm nhập mới là tuyệt đối” [117,

tr.2]. Đồng thời, ông đã chỉ ra 9 đặc trưng cơ bản của Nghệ thuật Sắp đặt, và

kết luận rằng: “Đặc trưng của Nghệ thuật Sắp đặt là tính cởi mở, tính tự do và

tính mơ hồ, nên chúng ta chỉ có thể nhận biết nó, nghiên cứu nó trong sự vận

động, phát triển và diễn biến của nó” [117, tr.50].

Tác giả Trần Hậu Yên Thế, trong tham luận “Installation: Nghệ thuật

lắng nghe tiếng nói đồ vật”, viết: Có thể coi mỗi Installtion Art như là một

công án thiền đòi hỏi ta làm quen với sự trầm tư nơi đồ vật... Cái đích nhắm

đến của nghệ sỹ làm Nghệ thuật Installation là tạo nên một không gian ý niệm,

một trường tư tưởng” [106, tr.166,167]. Tác giả tham luận nhấn mạnh đến hai

đặc trưng cơ bản của loại hình nghệ thuật này là tổ hợp đồ vật và không gian

ý niệm mà nghệ sĩ tạo lập trong tác phẩm. Do đó, loại hình nghệ thuật này đòi

hỏi ở công chúng sự chiêm nghiệm cá nhân và nền tảng tri thức rộng lớn.

Nghệ thuật Sắp đặt phá vỡ tất cả ranh giới nghệ thuật truyền thống nên

việc đưa ra khái niệm, định nghĩa về loại hình nghệ thuật này chỉ có tính chất

tương đối. Định nghĩa một cách rành mạch, chính xác đối với loại hình nghệ

thuật là điều vô cùng khó khăn, bởi lẽ đặc trưng của loại hình nghệ thuật này

là thu nạp tất cả từ đồ vật làm sẵn, vật liệu phế thải, công nghệ cho đến các

26

loại hình nghệ thuật khác như Đồ họa, Video Art, ánh sáng, âm thanh...để

kiến tạo tác phẩm. Xugan, tác giả công trình nghiên cứu Nghệ thuật Sắp đặt

từng kết luận: “con người đã từ bỏ ý định định nghĩa nghệ thuật cho thật

chính xác, Nghệ thuật Sắp đặt cũng không ngoại lệ” [117, tr.50].

Tuy nhiên, qua hệ thống tài liệu, nguồn sách, báo tham khảo, trên cơ sở

tạm thời thống nhất một cách thức để làm việc, có thể rút ra khái niệm riêng

về Nghệ thuật Sắp đặt như sau: Nghệ thuật Sắp đặt là loại hình nghệ thuật thị

giác hóa cảm nhận nội tâm của con người với đặc trưng cơ bản là tổ hợp hiện

vật, tổ chức không gian, thời gian thực, nhằm biểu đạt ý niệm, tư tưởng nghệ

thuật. Người tương tác là một phần của tác phẩm. Căn cứ vào đặc trưng

không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa và không gian trưng bày, có thể chia

Nghệ thuật Sắp đặt thành hai loại: định trường và phi định trường.

Khái niệm Nghệ thuật Sắp đặt định trường

Nghệ thuật Sắp đặt định trường (Site Specific Installation Art) là loại

Nghệ thuật Sắp đặt có yếu tố không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa là thành

phần tạo nghĩa cốt lõi cho nội dung tác phẩm. Khi di chuyển tác phẩm ra khỏi

không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa, ý nghĩa của tác phẩm Sắp đặt sẽ thay

đổi. Không gian đặc trưng trong loại Sắp đặt này là không gian di sản - bối

cảnh tạo nghĩa, được hình thành bởi các thành tố như: văn hóa, tôn giáo, tín

ngưỡng, lịch sử, đặc địa, kiến trúc cổ.

Khái niệm Nghệ thuật Sắp đặt phi định trường

Nghệ thuật Sắp đặt phi định trường (Non Site Specific Installation Art)

là loại Nghệ thuật không phụ thuộc vào yếu tố không gian di sản - bối cảnh

tạo nghĩa. Mối quan hệ của tác phẩm Sắp đặt loại này với không gian chỉ

dừng ở không gian trưng bày thông thường. Khi di chuyển tác phẩm Sắp đặt

đến không gian trưng bày thông thường khác, nghĩa của nội dung tác phẩm

Sắp đặt sẽ không thay đổi. Không gian đặc trưng trong loại Sắp đặt này là

không gian trưng bày thực.

27

Xác định khái niệm và giới thuyết YTTT trong NTSĐVN

Đặc thù của lịch sử nghệ thuật Việt Nam, có thể khẳng định rằng: trước

khi có Trường Mỹ thuật Đông Dương, nền nghệ thuật của người Việt được tạo

dựng và phát triển rực rỡ trên cơ sở nền tảng nghệ thuật dân gian, nghề thủ công

truyền thống, gắn liền với những chất liệu bản địa. Vốn cổ truyền thống của

người Việt vì thế mà rất phong phú, đa dạng. Hầu hết các tác phẩm Sắp đặt có

YTTT thường tiếp cận truyền thống bằng cách sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp

các hiện vật mỹ thuật truyền thống (tranh, tượng, họa tiết, phù điêu, kiến trúc cổ);

đồ thủ công truyền thống (guốc, nón, quạt, mã, đồ chơi dân gian); các chất liệu

được mặc định là truyền thống, bản địa (tre, gỗ, rơm rạ, giấy, vải, gốm); không

gian di sản (đình, chùa, đền, miếu, thành quách, kiến trúc cổ). YTTT biểu hiện

qua các chủ đề gắn liền với giá trị tinh thần, tư tưởng dân tộc như tín ngưỡng, ký

ức, phản biện xã hội, khai thác từ các tích cổ, truyền thuyết, sự kiện lịch sử với

đặc điểm mang tính tượng trưng, ước lệ, tính biểu cảm dân gian, tính xung đột

giữa tryền thống với hiện đại. Nói cách khác, tác phẩm Sắp đặt Việt Nam tiếp

cận, khai thác YTTT từ di sản vật thể và phi vật thể để xây dựng hình thức và

chủ đề tác phẩm. Như vậy, YTTT trong NTSĐVN giai đoạn này, được giới

thuyết gồm các thành tố như: tạo hình, trang trí dân gian, không gian di sản,

chất liệu bản địa biểu hiện qua hình thức tác phẩm Sắp đặt Việt Nam; các yếu

tố tín ngưỡng, ký ức, phản biện xã hội biểu hiện qua chủ đề của tác phẩm Sắp

đặt Việt Nam. Các YTTT này có đặc điểm nổi bật mang tính tượng trưng, ước

lệ, tính biểu cảm dân gian, tính xung đột giữa truyền thống với hiện đại, có

giá trị văn hóa nghệ thuật dân tộc tiêu biểu. Các yếu tố khác không thuộc đối

tượng giới thuyết của đề tài sẽ không phải là trọng tâm khảo sát, nghiên cứu.

Qua những khái niệm, luận điểm đã trình bày, luận án có thể đưa ra

khái niệm YTTT trong NTSĐVN như sau: YTTT là thành phần xây dựng tác

phẩm Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam. YTTT thuộc trạng thái tinh thần do

người Việt sáng tạo, lưu truyền trong tâm thức, đời sống cộng đồng, mang đặc

28

điểm và giá trị văn hóa nghệ thuật dân tộc. YTTT được biểu hiện trong

NTSĐVN thông qua sự kết hợp của các yếu tố tạo hình, trang trí, không gian

di sản, chất liệu bản địa, chủ đề tín ngưỡng, ký ức, phản biện xã hội, khơi gợi

sự liên tưởng, tưởng tượng về vẻ đẹp thẩm mỹ và giá trị tinh thần, tư tưởng

dân tộc. Qua đó, tác động đến tư duy, tình cảm của người thưởng thức, làm

cho họ cảm thấy tự hào, nhận biết sâu sắc hơn về những giá trị tinh thần, văn

hóa nghệ thuật truyền thống vốn có trong hình thức biểu hiện mới, hướng tới

cuộc sống nhân văn, giàu tính sáng tạo, có trách nhiệm với bản thân, cộng

đồng và đời sống xã hội đương đại.

Nói ngắn gọn, YTTT là thành tựu mang giá trị vật chất và tinh thần do

người Việt sáng tạo, lưu truyền từ đời này sang đời khác. YTTT là thành phần

kiến tạo tác phẩm. Trong NTSĐVN, Yếu tố truyền thống biểu hiện qua tạo

hình, trang trí, hiện vật thủ công, chất liệu bản địa và chủ đề của tác phẩm,

góp phần chuyển tải thông điệp truyền thống tới người thưởng thức nghệ

thuật qua cách thức biểu hiện mới trong đời sống đương đại.

Một số thuật ngữ chuyên ngành liên quan đến đề tài luận án

Tạo hình (Plastic): “Là sự sáng tạo mọi hình tượng nghệ thuật; theo

nghĩa hẹp, tạo hình là sự sáng tác, sự khắc họa những đặc trưng về hình thể

trong điêu khắc, hội họa, các ngành mỹ thuật ứng dụng và kiến trúc” [69,

tr.129]. Mục giới thiệu thuật ngữ trong cuốn Art Foundamentals - Theory and

Practice, thuật ngữ plastic được định nghĩa là: “1. Sử dụng các yếu tố để tạo

cảm giác về không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều. 2. Các loại hình

nghệ thuật có không gian ba chiều như kiến trúc, điêu khắc, gốm...” [127,

tr.3]. Hiểu một cách đơn giản, tạo hình là sáng tạo và xây dựng hình tượng, ký

hiệu, biểu tượng bằng các yếu tố và ngôn ngữ đặc trưng của từng loại hình

nghệ thuật. Ví dụ: tạo hình trong tranh, tượng; tạo hình sân khấu...

Bố cục (Composition): “Sự sắp xếp kích thước và tương quan của

những đường nét, hình dáng, màu sắc các vật thể trong một tác phẩm” [69,

29

tr.20]. Trong cuốn Art Foundamentals - Theory and Practice, thuật ngữ

composition được định nghĩa là: “sắp xếp hoặc cấu trúc các yếu tố nghệ thuật

theo nguyên tắc tổ chức nhằm tạo nên một tổng thể” [127, tr.46]. Như vậy, bố

cục có nghĩa là sự sắp xếp các yếu tố tạo hình theo một trật tự để biểu hiện ý

tưởng và hiệu quả nghệ thuật theo ý đồ của chủ thể sáng tạo.

Khối (Volume): “Không gian ba chiều chiếm giữ bởi một vật thể hoặc

được giới hạn bởi những bề mặt” [69, tr.82]. Khối được hiểu là vật thể choán

chỗ trong không gian ba chiều, nó có thể là khối đặc hoặc rỗng. Ví dụ: tượng,

công trình kiến trúc, hiện vật trong tác phẩm Sắp đặt. Tương tự, trong cuốn

Art Foundamentals - Theory and Practic, thuật ngữ volume được định nghĩa

là: “khối lượng có thể đo lường, xác định được hoặc vật thể chiếm chỗ trong

không gian ba chiều” [127, tr.4].

Họa tiết (Motif): “Hình vẽ đã được quy thức hóa” [69, tr.75]. Trong

cuộc sống, họa tiết được hiểu là những kiểu hình trang trí đặc trưng, quen

thuộc được sử dụng lặp đi lặp lại. Thuật ngữ motif cũng được hiểu là: “một

đơn vị hoặc hoa văn riêng biệt được thiết kế lặp lại trong toàn bộ bố cục, tạo

nên một đặc điểm nổi trội” [127, tr.46]. Ví dụ: họa tiết trang trí đường kỷ hà,

chim Lạc trên trống đồng Đông Sơn; họa tiết mây, hoa lá trang trí diềm bia...

Trang trí (Decorative): “Nghệ thuật làm đẹp, phục vụ đời sống vật chất

và tinh thần của con người” [69, tr.132]. Thuật ngữ decorative còn được định

nghĩa là: “bổ sung hoặc làm phong phú nhưng quan trọng hơn là trong nghệ

thuật nhấn mạnh bản chất hai chiều của tác phẩm hoặc bất kỳ yếu tố nào của

nó” [127, tr.150]. Trang trí được hiểu là cách thức làm đẹp bề mặt sản phẩm,

hiện vật, không gian trên mặt phẳng hai chiều. Trong nghệ thuật, trang trí đã

trở thành một ngành nghệ thuật độc lập. Ví dụ: trang trí sân khấu, trang trí bìa

sách, trang trí mặt nạ nhân vật Tuồng, Chèo...

Cách điệu (Stylization): “Sự chắt lọc từ những đường nét, hình thể đặc

trưng nhất của một đối tượng có thật” [69, tr.30]. Thuật ngữ cách điệu còn có

30

nghĩa là: “xây dựng thành hình tượng nghệ thuật bằng cách chọn và làm nổi

bật những nét tiêu biểu về tính cách [127, tr.144]. Nói cách khác, hình thể,

đường nét được thể hiện theo ý chủ quan của chủ thể sáng tạo, dựa trên cơ sở

gợi ý từ hiện thực khách quan, tự nhiên. Ví dụ: mây, hoa lá... cách điệu.

Tượng trưng (Symbolized): “Dùng một sự vật cụ thể có hình thức hoặc

tính chất thích hợp để gợi ra sự liên tưởng đến một cái trừu tượng nào đó”

[69, tr.1384]. Trong Từ điển Ngôn ngữ học, thuật ngữ tượng trưng cũng mang

hàm ý tương tự. “Ví dụ: chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình” [73, tr.1384].

Như vậy, có thể hiểu thuật ngữ tượng trưng là một thủ pháp nghệ thuật,

thường sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ, màu sắc có sức gợi liên tưởng đến một

hiện tượng, sự việc, đối tượng khác, giàu giá trị nghệ thuật, văn hóa và có

nghĩa tương đương. Trong nghệ thuật tuồng truyền thống, màu sắc, đường nét

trang điểm trên khuôn mặt diễn viên thể hiện rõ đặc điểm, tính cách của của

nhân vật nóng tính, cương trực hay điềm đạm, nho nhã, chính diện hay phản

diện; chuyển động bước đi hình chữ chi hay đường thẳng thể hiện nhân vật đó

là quan tướng hay quan văn...

Ước lệ (Represented): “Quy ước trong biểu hiện nghệ thuật” [69,

tr.1395]. Thuật ngữ ước lệ có hàm nghĩa tương tự ở Từ điển Tiếng Việt của

Viện Ngôn ngữ học. Như vậy, ước lệ được hiểu theo nghĩa rộng là những quy

ước cảm tính, thậm chí trừu tượng được ngầm thống nhất trong nghệ thuật, và

trong quan niệm của một cộng đồng. Ví dụ, trong nghệ thuật sân khấu chèo,

không gian, thời gian, hành động (phi ngựa) đều mang tính ước lệ cao. Trong

Nghệ thuật Sắp đặt, yếu tố ước lệ cũng được thể hiện rõ rệt qua màu sắc,

không gian (hiện thực - ước lệ).

Dân gian (Folk): Được sáng tạo ra và lưu truyền tự nhiên, rộng rãi [69,

tr. 325]. Tương tự, Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, thuật ngữ dân

gian cũng định nghĩa là: “phạm vi đông đảo dân thường trong xã hội; được

sáng tạo ra và lưu truyền rộng rãi trong dân gian” [73, tr.325]. Trong cuộc

31

sống, dân gian được hiểu là các giá trị vật chất và tinh thần do tập thể sáng

tạo, làm ra và lưu truyền rộng rãi trong cộng đồng. Các sản phẩm dân gian

thường không có tên tác giả cụ thể, không có bản quyền sở hữu của một cá

nhân, mọi người đều có thể tự do sử dụng, sáng tạo theo ý muốn. Ví dụ tranh

Đông Hồ, Hàng Trống, chạm khắc đình làng, cây Nêu, Hội làng, chuyện cổ

tích, ca dao, tục ngữ, dân ca, đồ mã...

1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu và luận điểm khoa học

1.2.2.1. Lý thuyết Tiếp biến văn hóa (Acculturation)

Qua khảo sát thực tiễn, Nghệ thuật Sắp đặt giai đoạn 1995 - 2018 mang

đậm YTTT, các yếu tố này biểu hiện qua tạo hình, trang trí, không gian di sản,

chất liệu bản địa, chủ đề tín ngưỡng, ký ức, phản biện xã hội, mang đặc điểm,

giá trị văn hóa nghệ thuật riêng biệt. YTTT trong NTSĐVN không chỉ mang

lại ấn tượng thị giác mạnh mà còn biểu đạt giá trị nổi bật, tạo nên một sắc thái

riêng biệt, có thể nhận diện qua hình thức và chủ đề của tác phẩm.

Để giải quyết vấn đề nghiên cứu trong luận án, đòi hỏi phải có những

hệ thống lý thuyết làm xương sống nhằm soi chiếu, phân tích, giải mã, so

sánh, đánh giá đối tượng nghiên cứu. Cụ thể, luận án sẽ áp dụng hệ thống lý

thuyết và luận điểm của Tiếp biến văn hóa, Ký hiệu học, vận dụng phương

pháp tiếp cận liên ngành để có thể xem xét đối tượng nghiên cứu từ nhiều góc

nhìn tham chiếu.

Lý thuyết Tiếp biến văn hóa đã được các học giả phương Tây quan

tâm từ đầu thế kỷ XX với các công trình nghiên cứu của nhiều nhà xã hội học,

triết học, nhân học, tâm lý học như William Isaac Thomas, Florian Witold

Znaniecki, Robert Redfield, Ralph Linton, Melville Jean Herskovits, David L.

Sam, John W. Berry... Năm 1938, tác giả người Mỹ Melville Jean Herkovits

đã công bố công trình nghiên cứu Tiếp biến văn hóa - Nghiên cứu về các mối

quan hệ văn hóa (Acculturation - The study of cutural contacs), Nxb.

Augustine, New York. 4. Ngoài ra còn có rất nhiều học giả quốc tế cũng đã

32

công bố công trình nghiên cứu về Tiếp biến văn hóa với ý nghĩa không ngừng

được bổ sung, mở rộng.

Nguyên lý cơ bản của lý thuyết Tiếp biến văn hóa là xem xét kết quả

tiếp xúc văn hóa để phát hiện ra những dấu ấn có được từ sự tác động tương

hỗ của yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh. Bên cạnh đó, nhà nhân học xuất

sắc người Pháp Claude Levi - Strauss (1908 - 2009) đã đưa ra luận điểm về

“tính đa dạng của các nền văn hóa” với sự nhìn nhận tính đa dạng văn hóa

như là di sản chung của nhân loại, cần được bảo vệ, kế thừa và sáng tạo trong

mọi thời đại, được giới khoa học thế giới thừa nhận, trở thành định hướng

toàn cầu.

Ở Việt Nam, những năm gần đây, lý thuyết Tiếp biến văn hóa đã được

nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực giới thiệu. quan tâm và ứng dụng. Năm

2014, tác giả Nguyễn Thừa Hỷ viết bài “Tiếp biến văn hóa Việt Nam dưới

góc nhìn lý thuyết hệ thống”, đăng trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số

9 (82), tác giả cho rằng: Tiếp biến văn hóa là một thuật ngữ, một khái niệm

khoa học được “các nhà dân tộc học phương Tây sử dụng đầu tiên vào khoảng

năm 1880”. Nội dung cơ bản của khái niệm này là “tiếp xúc” và “biến đổi” về

văn hóa, được hiểu là: “một quá trình biến đổi kép về văn hóa và tâm lý xảy

ra do kết quả của sự tiếp xúc giữa hai hoặc nhiều nhóm văn hóa và những cá

nhân thành viên của những nhóm văn hóa đó” [38, tr.93].

Năm 2018, tác giả Nguyễn Văn Kim chủ biên cuốn Tiếp biến và hội

nhập văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung công

trình nghiên cứu này gới thiệu cho người đọc một bức tranh khá đầy đủ về

tiến trình lịch sử về tiếp biến và hội nhập của văn hóa Việt Nam, từ góc nhìn

đa dạng về kinh tế, chính trị, văn hóa cho đến hệ thống thiết chế văn hóa,

chiến lược phát triển văn hóa trong công cuộc hội nhập hiện nay. Đồng thời,

công trình cũng giới thiệu một số kinh nghiệm tiếp biến và hội nhập văn hóa

ở một số quốc gia, qua đó Việt Nam có thể tham khảo, học hỏi. Công trình đã

33

dẫn nhiều cách định nghĩa về thuật ngữ tiếp biến văn hóa, theo tạp chí

International Journal of Intercultural Relation (2005): “Tiếp biến văn hóa là

một quá trình biến đổi kép về văn hóa và tâm lý xảy ra do kết quả của sự tiếp

xúc giữa hai hoặc nhiều nhóm văn hóa và những cá nhân thành viên của hai

nhóm văn hóa đó”; hoặc định nghĩa ngắn gọn trong Từ điển American

Heritage Dictionary (2009): “Tiếp biến văn hóa là sự biến đổi về của một

nhóm người hoặc một cá nhân do kết quả đem lại bởi sự tiếp xúc với một nền

văn hóa khác” [48, tr.46]. Tóm lại, hiểu một cách đơn giản, tiếp biến văn hóa

là chuỗi quan hệ nhân quả, do tiếp xúc, đối thoại dẫn tới tiếp biến giữa hai hay

nhiều nền văn hóa tạo thành.

Cuốn sách này cũng giới thiệu các hình thức tiếp biến văn hóa như:

phản tiếp biến (acculturative opposition); đề kháng văn hóa (cultural

resistance); tiếp biến mềm dẻo (flexible acculturation); tiếp biến hỗn dung văn

hóa (cultural syncrtism); tiếp biến lai tạo văn hóa (hybridization)...

Văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ sản phẩm vật chất và

tinh thần do con người tạo ra nhằm phục vụ cuộc sống con người. Nghệ thuật

nói chung và Nghệ thuật Sắp đặt nói riêng là một bộ phận thuộc văn hóa nhân

loại. Nghệ thuật Sắp đặt là sản phẩm của đời sống, là tấm gương phản chiếu

xã hội đương đại. Khi nghiên cứu đối tượng này, cần xem xét nó trong mối

quan hệ với nhiều nhân tố khác, có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến nghệ

thuật như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, lịch sử, và tâm lý sáng tạo của

nghệ sỹ và nhu cầu của người thưởng thức... Do đó, áp dụng lý thuyết Tiếp

biến văn hóa để xem xét quá trình tiếp xúc, tiếp nhận và biến đổi của

NTSĐVN là yêu cầu cần thiết khi nghiên cứu đề tài này. Nói cách khác, các

tác phẩm Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam có YTTT giai đoạn này sẽ được nhìn

nhận và tiếp cận từ kết quả của quá trình tiếp biến văn hóa, của quá trình tác

động tương hỗ giữa yếu tố nội sinh (YTTT) bản địa và yếu tố ngoại sinh (hình

thức hiện đại) quốc tế.

34

Liên hệ với văn hóa Việt Nam cho thấy, một phần do địa chính trị quan

trọng, nền văn hóa của chúng ta là kết quả của văn hóa bản địa tiếp biến đa

dạng với văn hóa Đông, Tây, là văn hoá hỗn dung, tích hợp trong suốt chiều

dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam là sản phẩm

tiếp biến văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế giao lưu, hội nhập

quốc tế. Tiếp xúc của mỹ thuật hiện đại Việt Nam với thế giới, được tác giả

Thái Bá Vân tổng kết: “1. Cuộc tiếp xúc với nghệ thuật Pháp, qua trường Mỹ

thuật Đông Dương trước đây; 2. Cuộc tiếp xúc với chủ nghĩa hiện thực xã hội

chủ nghĩa, qua Trung Quốc và Liên Xô là chủ yếu; 3. Cuộc tiếp xúc hiện nay,

với một thế giới mở rộng và đổi khác về nhiều ranh giới và tính chất” [111,

tr.65]. Như vậy, Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam thuộc cuộc tiếp xúc thứ ba này,

mang đặc trưng nghệ thuật hậu hiện đại, vượt qua các chuẩn tắc thẩm mỹ

truyền thống với hình thức biểu hiện mới.

Áp dụng lý thuyết Tiếp biến văn hóa là cần thiết nhằm làm sáng tỏ quá

trình từ tiếp nhận, giao lưu, đối thoại cho tới tiếp biến văn hóa nghệ thuật. Chỉ

rõ quá trình biến đổi của NTSĐVN, sự kết hợp giữa YTTT với hiện đại, giữa

quốc tế với địa phương, giữa toàn cầu với dân tộc, phản ánh hơi thở đời sống

đương đại Việt Nam, là yêu cầu thiết thực đối với vấn đề nghiên cứu. Áp

dụng lý thuyết Tiếp biến văn hóa với phương pháp tiếp cận liên ngành, đề tài

sẽ từng bước làm sáng rõ sự tiếp biến của NTSĐVN diễn ra như thế nào bởi

tác động từ bối cảnh chính trị, kinh tế trong nước; hình thức tiếp biến; tác

động của thời đại công nghệ thông tin; xu hướng giao lưu, hội nhập quốc tế...),

làm cơ sở cho bước nghiên cứu tiếp theo.

Hệ thống tư liệu này giúp cho NCS có được một cái nhìn tổng quát về

vấn đề văn hóa nói chung, vấn đề tiếp biến, giao lưu, hội nhập văn hóa ở Việt

Nam nói riêng. Nhóm công trình nghiên cứu kể trên cung cấp lượng thông tin

phong phú, các phương pháp tiếp cận văn hóa học của các học giả quốc tế và

trong nước qua nhiều góc nhìn khác nhau khi vận dụng vào luận án.

35

1.2.2.2. Luận điểm khoa học

Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy ắp các ký hiệu, biểu tượng,

ở bất cứ lĩnh vực nào, từ chữ viết, lời nói, cử chỉ, công thức hóa học, toán học,

cho tới âm nhạc, đèn hiệu giao thông... Nghệ thuật Sắp đặt với khả năng thu

nạp tất cả, phạm vi sử dụng chất liệu là vô hạn để kiến tạo tác phẩm, nên nó

có thể sử dụng đa hệ thống ký hiệu, giàu ý nghĩa, biểu tượng,.. Do đó, khi

khảo sát, nghiên cứu Nghệ thuật Sắp đặt cũng chính là nghiên cứu, mổ xẻ văn

bản, giải mã hệ thống ký hiệu của nó, từ ký hiệu của đồ vật đơn lẻ cho tới tổ

hợp ký hiệu mang thông điệp cốt lõi của tác phẩm.

Ký hiệu học (Semiotic) không phải là vấn đề mới ở phương Tây, nó đã

được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, gắn liền với tên tuổi của

một số học giả như: Ch. Peirce (1839 - 1914), Ch. Morris (1901 - 1979), F.

De Saussure (1857 - 1913). Nổi bật là luận điểm của nhà văn hóa học người

Nga Lotman, lấy văn bản làm trung tâm (textecentrisme) để xem xét hệ thống

ký hiệu. Trong đó, văn bản chí ít được hai lần mã hóa, là tổ chức truyền đạt,

lưu giữ và sáng tạo thông tin, bao giờ cũng có cái biểu đạt (signifiant) và cái

được biểu đạt (signifié), tương tự như quá trình tạo nghĩa của ngôn ngữ. Luận

điểm của Ký hiệu học với cách tiếp cận liên ngành, kết hợp tri thức của nhiều

ngành khoa học khác như: Mỹ học, Văn hóa học, Lịch sử học nhằm làm nổi

bật đặc điểm thẩm mỹ, ký hiệu ẩn dụ mang đậm ý nghĩa văn hóa, lịch sử và

quan niệm tín ngưỡng dân gian của YTTT trong NTSĐVN.

Áp dụng luận điểm của Ký hiệu học vào nghiên cứu nghệ thuật là

phương pháp tiếp cận đối tượng một cách trực tiếp để giải quyết vấn đề “đọc

tác phẩm” - văn bản đã được nghệ sĩ mã hóa qua “ký hiệu biểu hình”, hay nói

như quan điểm của tác giả Trần Lâm Biền là đọc được ý nghĩa “cái mật”

thông qua “cái hiển” và “cái dụng” của nghệ thuật.

Tác phẩm nghệ thuật suy cho cùng là một hình thức giao tiếp, một tập

hợp ký hiệu được nghệ sỹ mã hóa, biểu hiện thông qua một vật chất cụ thể

36

nào đó. Nghệ thuật Sắp đặt với khả năng thu nạp tất cả các loại hình, phương

tiện, đồ vật...để kiến tạo tác phẩm, nên nó thuộc “ký hiệu biểu hình”. Nguyên

lý cơ bản của Ký hiệu học nhằm xem xét, giải mã ý nghĩa tư tưởng nghệ thuật,

ý nghĩa văn hóa, lịch sử theo phương thức đọc văn bản thông qua hệ thống ký

hiệu đã được mã hóa.

Thực tế ở Việt Nam, luận điểm của Ký hiệu học hiện còn khá xa lạ,

chưa được phổ biến rộng rãi và chưa được áp dụng nhiều trong các công trình

nghiên cứu. Tuy nhiên, trên thế giới đã có những học giả nổi tiếng ở Bắc Mỹ

và phương Tây nghiên cứu lý thuyết này từ cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX

như đã liệt kê ở trên. Trong đó có thể kể đến một số công trình của các học

giả quốc tế đã được chuyển ngữ gần đây như: Iu. M. Lotman (2015), Ký hiệu

học văn hóa, do Lã Ngyên, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử dịch; Erika Fischer -

Lichte (1994), Ký hiệu học sân khấu, nguyên bản tiếng Đức do Bùi Khởi

Giang dịch; I. Lotman, Ký hiệu học và mỹ học điện ảnh, nguyên bản tiếng

Pháp do Bạch Bích dịch;...

Những năm gần đây, tài liệu về Ký hiệu học cũng đã được nhiều tác giả

trong nước chuyển ngữ sang tiếng Việt, đồng thời một số công trình nghiên

cứu đã áp dụng luận điểm này vào nghiên cứu đề tài như: Mai Thị Hồng

Tuyết (2016), Hình tượng văn học như là kí hiệu, chuyên luận, Nxb. Khoa

học Xã hội. Gần đây, tác giả Trịnh Bá Đĩnh chủ biên (2018), Từ kí hiệu đến

biểu tượng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, là những tài liệu đáng chú ý.

Trong công trình nghiên cứu Các cấu trúc tinh thần của nghệ thuật,

Nxb. Mỹ thuật, tác giả Vũ Hiệp (2018) đã sử dụng luận điểm của Ký hiệu học

để tiếp cận, phân tích các tác phẩm nghệ thuật. Tác giả đã sử dụng thuật ngữ

Trường ký hiệu, trong đó có Trường thị giác gồm ký hiệu bề mặt của hình

thức tác phẩm; và Trường văn hóa gồm ký hiệu chiều sâu của nội dung tác

phẩm. Thuật ngữ Trường nơi chốn và Trường biểu tượng cũng được tác giả

37

sử dụng để ám chỉ về không gian tinh thần của kiến trúc, không gian biểu

tượng để phân tích, diễn dịch các tác phẩm nghệ thuật.

Ký hiệu học, được tác giả Iu.M.Lotman định nghĩa ngắn gọn trong

cuốn Ký hiệu học văn hóa: “Ký hiệu học là khoa học về ký hiệu và các hệ

thống kí hiệu” [40, tr.39]. Kí hiệu học xem xét văn hóa nói chung và tác phẩm

nghệ thuật nói riêng đều qui đối tượng nghiên cứu vào dạng cấu trúc một văn

bản, mang nhiều lớp ý nghĩa được mã hóa thông qua hệ thống ký hiệu. Nói

cách khác, lý thuyết này giải mã văn hóa hay tác phẩm nghệ thuật theo

phương thức đọc văn bản. Nghiên cứu về kí hiệu học văn hóa, tác giả Iu.M.

Lotman cho rằng: “Theo nghĩa rộng, toàn bộ văn hóa là hiện tượng mang hình

thức của văn bản, giữa văn bản với văn hóa có vô số đường song hành,... Các

ký hiệu tạo thành văn bản, các văn bản tạo thành văn hóa...” [40, tr.57,59].

Nghệ thuật Sắp đặt là sản phẩm của xã hội đương thời, nên hình thức

và chủ đề của nó, toát nên một tinh thần, tư tưởng gắn liền với cuộc sống

đương đại. YTTT trong NTSĐVN có tiềm năng tạo nghĩa độc đáo, bởi ngoài

ý nghĩa về mặt thị giác tạo hình, nó còn mang đậm ý nghĩa văn hóa lịch sử

bản địa. Đó là những vấn đề không thể bỏ qua khi khảo cứu. Trong bài “Con

người và ký hiệu”, Lotman viết: “Các kí hiệu được nghệ sĩ và nhà văn ứng

dụng có những đặc điểm xã hội vô giá. Nghiên cứu xem nghệ thuật kết tụ

trong bản thân thông tin có tầm quan trọng xã hội” [40, tr.70].

Đồng quan điểm với Lotman, tác giả Lichte, trong công trình Ký hiệu

học Sân khấu, cũng đi sâu vào nghiên cứu cái cái biểu đạt (signifiant) và cái

được biểu đạt (signifié), tương tự như quá trình tạo nghĩa của ngôn ngữ: “Mọi

hệ thống thẩm mỹ đều gắn liền với môi trường văn hóa thông qua cái đặc

trưng là chúng đều tạo ra những ký hiệu sản sinh ra từ văn hóa...Ở mỗi nền

văn hóa thì con người cũng như đồ vật xung quanh thường được thể hiện chỉ

trong những bối cảnh và sự tham chiếu” [114, tr.336,337]. Qua đó, có thể

38

thấy đặc trưng của tổ hợp hiện vật trong tác phẩm Sắp đặt cũng có thể được

xem là nghệ thuật sử dụng ký hiệu của ký hiệu.

Tóm lại, bản chất của Nghệ thuật Sắp đặt là tổ hợp những hệ thống ký

hiệu, được mã hóa, nên việc vận dụng luận điểm Ký hiệu học là cần thiết, nó

sẽ là công cụ đắc lực trong quá trình thao tác nghiên cứu, giải mã các lớp ký

hiệu “nén” trong tác phẩm. Vận dụng luận điểm của Ký hiệu học, phương

pháp tiếp cận liên ngành, đối tượng nghiên cứu sẽ được làm sáng tỏ thông qua

việc xem xét mối quan hệ của cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong hình

thức và chủ đề của NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018. Qua đó kết quả đề tài sẽ

chỉ ra biểu hiện, đặc điểm và giá trị văn hóa nghệ thuật của tác phẩm.

1.3. Khái quát về Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam

Trước khi giới thiệu khái quát về NTSĐVN, xin điểm qua đôi nét về sự

hình thành Nghệ thuật Sắp đặt trên thế giới, vì đây là loại hình nghệ thuật mới

có nguồn gốc phương Tây được du nhập vào Việt Nam.

Hình thức Nghệ thuật Sắp đặt đã manh nha xuất hiện ở phương Tây từ

thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX, tuy chưa có tên gọi như ngày nay, phát triển

mạnh từ thập kỷ 60, 70 tại nhiều quốc gia, châu lục trên thế giới. Trong đó,

nước Mỹ được xem là trung tâm, là mảnh đất màu mỡ cho các thể loại nghệ

thuật mới phát triển. Marcel Duchamp được xem là người tạo ra bước ngoặt

lịch sử, làm thay đổi lối tư duy và mở rộng quan niệm thẩm mỹ về nghệ thuật,

thông qua việc sử dụng “vật liệu làm sẵn” (ready made) để kiến tạo tác phẩm.

Ông nhận thấy: “Bất cứ vật làm sẵn nào tự thân nó cũng có thể được trưng

bày như là “nghệ thuật” nếu nó được tách khỏi bối cảnh, công dụng và ý

nghĩa nguyên thủy của nó”. Tư duy mở đường của Marcel Duchamp gắn liền

với cảm thức hậu hiện đại, đã có ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ đến xu hướng

nghệ thuật thế kỳ XX và nó vẫn không ngừng phát triển, phái sinh sang các

loại hình nghệ thuật khác (như Điêu khắc Sắp đặt; Video Sắp đặt; Đồ họa Sắp

đặt…) lan rộng trên phạm vi toàn cầu trong thế kỷ XXI. Lịch sử nghệ thuật

39

thế giới đã ghi nhận các tác phẩm tiêu biểu, xuất hiện cùng thời điểm thậm chí

trước cả Chủ nghĩa Dada (1916 - 1924), đó là Giá đựng chai (1914) và chiếc

Bồn tiểu bằng sứ ký tên R. Mutt (1917) của Marcel Duchamp như những cột

mốc đầu tiên khẳng định loại hình Nghệ thuật Sắp đặt sử dụng đồ vật làm sẵn.

Trong quá trình phát triển của nghệ thuật Trình diễn, Sắp đặt, Video Art trào

lưu Fluxus cũng có đóng góp đáng kể, gắn liền với những cái tên như: Marcel

Duchamp, John Cage, Nam June Paik...

Bên cạnh những nghệ sĩ xuất sắc đã nêu, trào lưu nghệ thuật Fluxus do

nhà thơ người Mỹ George Maciunas sáng lập vào những năm cuối thập kỷ

1950, tiếp nối tinh thần, tư tưởng của chủ nghĩa Vị Lai và Dada, xóa bỏ sự

độc quyền, chuẩn tắc của nghệ thuật hàn lâm, biến những vật dụng hằng ngày

có cơ hội trở thành nhân tố nghệ thuật và bất cứ ai cũng có thể làm nghệ thuật

ở mọi nơi. Nhóm nghệ sĩ của Trào lưu nghệ thuật này từng xuất hiện và triển

lãm tại hàng loạt các nước như: Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Hà Lan, Thụy Điển...,

gây tiếng vang lớn và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tư tưởng nghệ thuật đương

đại, trong đó có Nghệ thuật Sắp đặt trên toàn thế giới.

Tuy nhiên, “năm 1967 Dan Flavin đã sử dụng thuật ngữ Sắp đặt

Installation” ‘[97, tr.25] để ám chỉ những tác phẩm nghệ thuật của mình khi

ông dùng hàng loạt những bóng đèn neon để kiến tạo tác phẩm Sắp đặt. Đến

năm 1979, Lyotard công bố cuốn sách có tiêu đề Hoàn cảnh hậu hiện đại với

hệ thống lý thuyết, công trình nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân hình thành

“tâm thức hậu hiện đại’ cũng như tính chất đặc trưng của nó. Công trình

nghiên cứu lý luận của Lyotard được xem là bệ đỡ diễn giải lý do ra đời, tồn

tại và phát triển của nghệ thuật hậu hiện đại nói chung trên thế giới. Mặc dù,

Nghệ thuật Sắp đặt là sản phẩm nảy sinh từ xã hội hậu công nghiệp, tuy nhiên

đến nay, loại hình nghệ thuật này đã lan tỏa, phát triển ở hầu hết các nước trên

thế giới. Nhiều nghệ sĩ quốc tế đã khẳng định tên tuổi của mình gắn liền với

Nghệ thuật Sắp đặt như: Marcel Duchamp, Dan Flavin, Walter de Maria,

40

Ngải Vị Vị, Từ Băng, Sài Quốc Cường, Lã Thắng Trung, Trương Đại Lực,

Yumiko Ono,... Tựu chung, Nghệ thuật Sắp đặt xuất hiện và phát triển ở

phương Tây được hình thành từ chính bối cảnh kinh tế, nảy sinh từ xã hội hậu

công nghiệp với văn hóa tiêu thụ, bắt nguồn từ hoàn cảnh hậu hiện đại. Do đó,

các tác phẩm Sắp đặt ở phương Tây thường sử dụng sản phẩm công nghiệp,

sản xuất hàng loạt và phản ánh một thái độ thẩm mỹ mới lạ, vượt xa những

chuẩn tắc thẩm mỹ truyền thống. Loại hình nghệ thuật này ở phương Tây

thường mang tư tưởng hoài nghi, giễu nhại, giải thiêng, gây sốc... Tuy nhiên,

khi Nghệ thuật Sắp đặt được du nhập vào Việt Nam, nó đã được tiếp biến -

“Việt Nam hóa” tạo nên đặc điểm, giá trị nghệ thuật riêng biệt thông qua việc

khai thác, kết hợp các YTTT để xây dựng tác phẩm.

Sau khi ra đời tại và phát triển ở phương Tây và Mỹ, Nghệ thuật Sắp

đặt đã có sức lan tỏa mạnh mẽ đến hầu hết các châu lục, quốc gia trên thế

giới. Theo nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng: “Nghệ

thuật Sắp đặt (Installation Art), một loại hình nghệ thuật mới được du nhập

vào Việt Nam từ thập kỷ 1990”.

Vậy nguyên nhân nào khiến cho Nghệ thuật Sắp đặt xuất hiện ở Việt

Nam thập kỷ 1990? Thứ nhất, do nhu cầu nội tại của nghệ sỹ Việt Nam muốn

vươn tới hình thức biểu đạt mới, vượt thoát ra khỏi giới hạn khung toan chật

hẹp, tổ chức không gian qua một số thể nghiệm mang hình thức Sắp đặt, đáp

ứng sự thay đổi của xã hội. Thứ hai, công cuộc Đổi mới của Nhà nước kể từ

Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), đặc biệt sau khi chính phủ

Mỹ dỡ bỏ lệnh Cấm vận (1994), đã tác động tích cực đến đời sống xã hội,

trong đó có lĩnh vực nghệ thuật. Hơn nữa, thời kỳ này thế giới đã chứng kiến

sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, thế giới trở nên phẳng, xóa

nhòa ranh giới địa lý, con người có thể dễ dàng tiếp cận với mạng lưới thông

tin toàn cầu, ảnh hưởng mạnh mẽ cả mặt tích cực lẫn tiêu cực đến mọi mặt

đời sống văn hóa, xã hội và nghệ thuật...Bên cạnh sách báo nghệ thuật nhập

41

ngoại, một số sách được dịch ra tiếng Việt, những dự án do các tổ chức nước

ngoài hợp tác hoặc thực hiện độc lập tại Việt Nam, thì mạng internet cũng

được xem là kênh thông tin có tác động mạnh mẽ đến nhận thức, quan niệm

nghệ thuật và sự tiếp nhận các loại hình nghệ thuật đương đại ở Việt Nam.

Năm 1997, Việt Nam chính thức hòa mạng internet quốc tể cũng là một nhân

tố tích cực, mở ra một cơ hội mới cho việc giao lưu, tiếp nhận tri thức khoa

học, nghệ thuật, góp phần thu ngắn khoảng cách địa lý giữa các quốc gia.

Bối cảnh chính trị, kinh tế và xã hội của Việt Nam như vậy đã không

chỉ thúc đẩy một số thể loại nghệ thuật truyền thống, mà còn là động lực cho

sự tiếp nhận, phát triển các loại hình nghệ thuật đương đại và quá trình hội

nhập vào dòng chảy nghệ thuật thế giới. Nhiều Gallery nghệ thuật của tư nhân

ra đời, nhiều trung tâm Văn hóa Nghệ thuật của nước ngoài hoạt động tại Hà

Nội như Hội đồng Anh, Trung tâm Văn hóa Pháp, Trung tâm Văn hóa Hàn

Quốc, Trung tâm Văn hóa Nhật Bản,Viện Goethe...là những địa chỉ đỡ đầu về

không gian và một phần tài chính cho các loại hình nghệ thuật mới phát triển

thời kỳ đầu. Bên cạnh những nỗ lực sáng tạo của cá nhân nghệ sỹ, thì sự hỗ

trợ về tài chính từ một số quỹ nước ngoài dành cho nghệ thuật như Quỹ Sida

(Thụy Điển), Quỹ Ford (Mỹ), Quỹ CDF (Đan Mạch)... đã góp phần nuôi

dưỡng và thúc đẩy quá trình phát triển các loại hình nghệ thuật mới thời kỳ

đầu ở Việt Nam. Hầu hết các nghệ sĩ thuộc thế hệ tiên phong làm Nghệ thuật

Sắp đặt nhận được sự hỗ trợ tích cực về tài chính và không gian trưng bày tác

phẩm từ các tổ chức Quỹ này.

Một số Gallery, Bảo tàng tư nhân như: Mai Bùi Gallery, Nhà Sàn Đức,

Anh Khánh Studio, Ryllega Gallery (Hà Nội); Art Space Foundation (Huế);

Blue Art Space (Tp. Hồ Chí Minh)..., đã tổ chức nhiều hoạt động nghệ thuật

đương đại. Bên cạnh đó, còn phải kể đến Trung tâm Nghệ thuật đương đại,

tuy hoạt động trong thời gian không dài, đã có tác động không nhỏ đến tiến

trình phát triển nghệ thuật đương đại Việt Nam.

42

Tuy nhiên, triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 2005 vẫn chưa có danh

mục cho các loại hình nghệ thuật mới tham dự: “Trong giấy mời gửi tác phẩm

tham gia Triển lãm, gửi đến các nghệ sĩ đã ghi rõ ban tổ chức không nhận các

tác phẩm Sắp đặt, Video Art hay Trình diễn!” [106, tr.114].

Trong cuộc chạy tiếp sức của quá trình phát triển nghệ thuật đương đại,

không thể không kể vai trò tích cực của Nhà nước, tuy có hơi muộn, gắn liền

với các sự kiện: Festival Mỹ thuật trẻ toàn quốc lần thứ nhất (2007); lần hai

(2011); lần ba (2014), tại Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam; lần bốn (2017),

lần năm (2020) tại Hà Nội. Các triển lãm định kỳ Biennial tại thành phố Hồ

chí Minh...

Ngoài ra, các triển lãm cá nhân tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Trung

tâm Nghệ thuật đương đại, Bảo tàng dân tộc học, Triển lãm 29 Hàng Bài,

Gallery L’Atelier, Tràng An Gallery...Qua đó, NTSĐVN đã có cơ hội phát

triển và đạt được những thành tựu nhất định.

Nghệ thuật Sắp đặt nói riêng, nghệ thuật hậu hiện đại nói chung là kết

quả nảy sinh từ xã hội hậu công nghiệp phương Tây. Vậy xã hội Việt Nam

mới chỉ là xã hội tiền công nghiệp lấy đâu ra cơ sở để nó tồn tại? Xét cho

cùng, nghệ thuật là một bộ phận của văn hóa, một dạng “tri thức” đặc biệt. Nó

là thứ “ngôn ngữ” quốc tế, phi lãnh thổ, không phụ thuộc vào biên giới hay

dân tộc nên có sự cuốn hút kỳ diệu và sức lan tỏa mạnh mẽ. Khi đã là tri thức

và phương tiện thì nó có tính nhân loại và phổ biến. Như vậy, Nghệ thuật Sắp

đặt xuất hiện ở Việt Nam cũng là một dạng tiếp nhận “tri thức” đặc biệt trong

dòng chảy tiếp biến văn hóa, là kết quả tác động tương hỗ giữa yếu tố nội sinh

(truyền thống) và yếu tố ngoại sinh (hiện đại), trong bối cảnh toàn cầu hóa,

giao lưu và hội nhập quốc tế.

Nghệ thuật Sắp đặt được tiếp nhận và phát triển tại Việt Nam do bối

cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị và yêu cầu của xã hội đương đại. Trong đó, có

lý do khách quan và chủ quan.

43

Sự tác động tích cực từ công cuộc Đổi mới, làm bạn với tất cả các

nước; Sự phát triển vượt bậc về công nghệ thông tin, hệ thống mạng internet;

Nguồn tài liệu sách báo về lý thuyết hậu hiện đại, nghệ thuật mới được một số

dịch giả chuyển ngữ; Một số dự án đào tạo, trao đổi văn hóa nghệ thuật giữa

các cơ sở đào tạo nghệ thuật của Việt Nam với các giảng viên quốc tế (tại Hà

Nội, Huế, thành phố Hồ Chí Minh), là những nhân tố khách quan.

Nhu cầu nội tại, hoàn cảnh văn hóa xã hội đã thúc đẩy tâm lý của chủ

thể sáng tạo tìm đến cách thức sáng tạo mới, nhu cầu thưởng thức của công

chúng đòi hỏi nghệ thuật phải bám sát đời sống thực tại, biểu đạt tư tưởng

thẩm mỹ mới, đáp ứng sự thay đổi của xã hội đương đại, là nhân tố chủ quan.

Có thể nói, tích hợp văn hóa nghệ thuật là nhu cầu tất yếu của bất cứ

dân tộc nào trên thế giới. Bối cảnh toàn cầu hóa là tác nhân thúc đẩy, tác động

mạnh mẽ, toàn diện trên mọi lĩnh vực đời sống; sự phát triển vượt bậc của

công nghệ thông tin đã xóa nhòa khoảng cách địa lý, ranh giới quốc gia, biến

ngôi nhà chung thành thế giới phẳng, thông tin cập nhật, không phân biệt

đẳng cấp, chủng tộc. Trong bối cảnh như vậy, để không bị xóa nhòa trước cơn

lốc toàn cầu hóa, NTSĐVN đã nhanh chóng vừa tiếp nhận hình thức mới từ

bên ngoài, vừa kế thừa và phát huy sáng tạo YTTT để xây dựng tác phẩm. Do

đó, ngay từ những thể nghiệm Sắp đặt thời kỳ đầu của các nghệ sĩ Việt Nam,

các hiện vật thủ công, YTTT, chất liệu bản địa đã trở thành cầu nối tích cực

giữa truyền thống với hiện đại, giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh.

Tuy nhiên, sự tiếp nhận và thể nghiệm NTSĐVN thời kỳ đầu hoàn toàn

mang tính tự phát, do cá nhân hoặc một nhóm nghệ sĩ thực hiện. Hệ thống lý

thuyết về loại hình nghệ thuật mới này còn chưa được phổ biến rộng rãi. Tác

giả Đặng Thị Khuê, một trong những nghệ sĩ tiên phong trong thể nghiệm

hình thức Sắp đặt, tâm sự: “tôi đến với Nghệ thuật Sắp đặt từ khi chưa biết

đến tên gọi của nó”; đồng thời tác giả bày tỏ: “với cảm quan và lối tiếp cận

thẩm mỹ Việt Nam, bạn hãy nhìn vào một góc phòng, một ban thờ nơi thờ

44

cúng của mỗi căn nhà Việt Nam, nếu tách riêng ra và ở góc nhìn nghệ thuật:

Nó là một tác phẩm trưng bày và Sắp đặt”.

Quá trình phát triển của NTSĐVN giai đoạn này đã tạo nên hai thế hệ

nghệ sĩ, một số nghệ sĩ đã khẳng định được tên tuổi và phong cách riêng.

Thời kỳ từ năm 2000 trở về trước, thuộc thế hệ nghệ sĩ tiên phong làm

Sắp đặt như: Vũ Dân Tân, Đặng Thị Khuê, Trần Trung Tín, Nguyễn minh

Thành, Trương Tân, Nguyễn Bảo Toàn, Trần Lương, Trần Anh Quân,

Nguyễn Văn Tiến, Trần Hậu Yên Thế, Nguyễn Văn Cường.

Thời kỳ từ sau năm 2000 đến nay, thuộc thế hệ nghệ sĩ thứ hai với số

lượng khá đông đảo, trong đó một số nghệ sĩ được tiếp cận với các khóa học

do chuyên gia, họa sĩ người nước ngoài thỉnh giảng tại các trường đào tạo

nghệ thuật tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, giúp cho các nghệ sĩ có cơ

hội tiếp thu lý thuyết, mở rộng thông tin về nghệ thuật đương đại trên thế giới.

Các nghệ sĩ thuộc thế hệ này như: Lê Trần Hậu Anh, Lưu Chí Hiếu, Nguyễn

Minh Phước, Nguyễn Phương Linh, Oanh Phi Phi, Vương Văn Thạo, Nguyễn

Trí Mạnh, Trần Trọng Vũ, Đinh Công Đạt, Vũ Đức Toàn, Nguyễn Ngọc Lâm,

Khổng Đỗ Tuyền, Lê Ngọc Thanh - Lê Đức Hải, Đinh Khắc Thịnh, Phan Lê

Chung, Phan Thảo Nguyên, Trương Công Tùng, Bùi Công Khánh, Nguyễn

Minh Phương...

Trong quá trình phát triển của NTSĐVN, tiếp cận di sản vật thể và phi

vật thể đã trở thành một xu hướng tiêu biểu, tạo nên ấn tượng thị giác độc đáo

cho hình thức và giàu ý nghĩa văn hóa, lịch sử tín ngưỡng cho chủ đề của tác

phẩm. Tiếp cận di sản để xây dựng tác phẩm Sắp đặt đã trở phổ biến, nhằm

khẳng định dấu ấn văn hóa nghệ thuật riêng biệt của mỗi cộng đồng trong bối

cảnh toàn cầu hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế.

Xin điểm qua sự kiện nghệ thuật mang tính bước ngoặt, giải thưởng mà

NTSĐVN đã đoạt được tại các Triển lãm lớn ở trong nước và quốc tế, nhằm

cung cấp thông tin một cách hệ thống về NTSĐVN trong tiến trình phát triển.

45

Năm 1994, họa sĩ người Đức Veronika có mặt tại Hà Nội và Huế (hỗ

trợ của tổ chức trao đổi hàn lâm Đức), với vai trò thỉnh giảng đã cung cấp

nhiều thông tin cập nhật về nghệ thuật đương đại thế giới, có ảnh hưởng tích

cực tới nhận thức của một số nghệ sĩ làm Sắp đặt thời kỳ đầu.

Năm 2007, Triển lãm Festival Mỹ thuật trẻ, thu hút được số lượng lớn

nghệ sĩ trẻ toàn quốc với số lượng lớn tác phẩm Sắp đặt tham dự. Kinh phí

được xã hội hóa, các loại hình nghệ thuật đương đại trưng bày bình đẳng với

nghệ thuật truyền thống, không xét giải thưởng.

Năm 2011, Triển lãm Festival Mỹ thuật trẻ toàn quốc, tổ chức tại Hà

Nội, Trái đất xanh, (giải nhất) tác giả Lê Trần Hậu Anh.

Năm 2014, Triển lãm Festival Mỹ thuật trẻ toàn quốc, tổ chức tại Hà

Nội, gồm 8 tác phẩm Sắp đặt được chọn trưng bày.

Năm 2017, Triển lãm Festival Mỹ thuật trẻ, tổ chức tại Hà Nội, đã trao

giải cho các tác phẩm Sắp đặt: Hình dung, (giải nhì) tác giả Đoàn Thị Ngọc

Anh; Đơn hàng; (giải nhì) tác giả Đào Văn Tân; Những bà mẹ quê, (giải

khuyến khích) tác giả Phạm Văn Quý.

Năm 2010, Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc, tổ chức tại Hà Nội, đã trao giải

cho các tác phẩm Sắp đặt: Ngóng, (huy chương đồng) tác giả Trần Văn Thức.

Năm 2015, Ban tổ chức Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc đã thành lập Hội

đồng nghệ thuật điêu khắc, Nghệ thuật Sắp đặt; Hội đồng nghệ thuật Hội họa,

Đồ họa, nghệ thuật trình diễn, Video art để bình xét giải thưởng cho từng loại

hình nghệ thuật truyền thống và đương đại. Tác phẩm Sắp đặt: Chuyện quê,

(huy chương đồng) tác giả Kù Kao Khải.

Một số nghệ sĩ năng động, thường xuyên tham dự các hoạt động nghệ

thuật quốc tế, có được giải thưởng, thu hút sự quan tâm của dư luận:

Năm 2003, tác phẩm Sắp đặt Đất và nước của tác giả Vương Văn Thạo

được tặng giải thưởng của Quỹ Văn hóa Việt Nam - Thụy Điển; Tác phẩm

Sắp đặt Hóa thạch sống phổ cổ của tác giả cũng từng lọt vào tốp 10 nghệ sĩ

46

xuất sắc của châu Á do Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia Singapore bình chọn cho

đề cử giải thưởng Asia Pacific Breweries Foundation Signature Art Prize.

Đồng thời, Bảo tàng Mỹ thuật Singapore đã mua lại toàn bộ tác phẩm Sắp đặt

này để trưng bày. Đặc biệt, tác giả Lê Thừa Tiến, nghệ sĩ có nhiều tác phẩm

Sắp đặt từng nhận được giải thưởng quốc tế nổi bật như: năm 1997,1998:

Freeman Asian Award, VSC, Vermont, Hoa Kỳ; năm 2011: Heinrich Boell

Foundation Garant; năm 1997, 2015: Vermont Studio Center Fellowship...

Nhiều tác phẩm Sắp đặt của Việt Nam xuất hiện tại triển lãm Biennale

quốc tế và triển lãm ở châu Âu, châu Á, , Mỹ để lại ấn tượng sâu sắc, lan tỏa

giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống của người Việt đến công chúng quốc

tế. Hầu hết các tác phẩm Sắp đặt tại đường hầm nhà Quốc hội được Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch tuyển chọn trưng bày tại Dubai Expo 2021, các tiểu

Vương Quốc Ả Rập.

Thành tựu của NTSĐVN có YTTT giai đoạn 1995 - 2018 là một trong

những minh chứng tiêu biểu, khẳng định vai trò và giá trị của YTTT trong

nghệ thuật đương đại. Nói như tác giả bài viết “Truyền thống và hiện đại”

đăng trên báo Tia sáng cho rằng: “Phản ứng nhấn mạnh ý thức văn hóa bản

địa là một trả lời nghịch lý nhưng thực tế đối với tiến trình toàn cầu hóa,

không chỉ riêng Việt Nam” [132].

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu mà các tác phẩm Sắp đặt Việt

Nam có YTTT đạt được trong giai đoạn này, nó cũng đã bộc lộ một số hạn

chế nhất định. Theo tác giả Natalia Kraevskaia, viết trong bài “Tiềm năng của

một hình thức nghệ thuật mới Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam”, tạp chí Nghiên

cứu Mỹ thuật số 2 (14), 2005: “cũng như tất cả các loại hình nghệ thuật khác,

thẩm mỹ trong Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam được đánh giá cao hơn là tầm cỡ

khái niệm của nó”. Như vậy, tác giả bài viết này đã chỉ ra điểm hạn chế của

Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam là quá sa đà vào hình thức duy mỹ mà chưa chú

trọng đến lý thuyết và nội dung của tác phẩm. Trong phần đánh giá một số

47

hạn chế của các dự án nghệ thuật tại Việt Nam với khuynh hướng tiếp cận di

sản, tác giả Trần Hoàng Ngân cho rằng: “xét về giá trị nghệ thuật, nhiều tác

phẩm chưa đạt đến độ hoàn thiện như mong đợi, hình thức chưa thực sự xứng

đáng với nội dung và giá trị di sản mà nghệ sĩ mong muốn truyền tải” [71,

tr.63].

Tác giả Vũ Huy Thông trong bài viết “Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam -

Những ảnh hưởng từ thẩm mỹ truyền thống”, đăng trên báo điện tử Mỹ thuật-

Kiến trúc, đã chỉ rõ những hạn chế từ ảnh hưởng thẩm mỹ truyền thống: “tính

tượng trưng trong thẩm mỹ truyền thống phải được nhìn nhận, tiếp thu và phát

triển lên như một hệ thống được mã hóa bằng các tín hiệu khách quan, chứ

không phải dưới hình thức vật chất được tạo ra theo quy ước và nghi thức

khuôn sáo để chuyển tải những định kiến về văn hóa”. Tác giả bài viết này

cho rằng, việc khai thác, kế thừa thẩm mỹ truyền thống của NTSĐVN có

những hạn chế xơ cứng và thụ động, quá lệ thuộc vào chất liệu tự nhiên, chưa

tạo được những tín hiệu, phát huy tính chất khách quan từ chất liệu và hiện

vật để xây dựng tác phẩm. Đồng thời, tác giả nhận định: “chất liệu luôn tiềm

ẩn những giá trị tượng trưng mới trong bàn tay sáng tạo của nghệ sĩ”.

Mọi thay đổi đều cần có thời gian thích nghi. Nghệ thuật Sắp đặt có

nguồn gốc phương Tây, được tiếp nhận vào Việt Nam từ góc nhìn tiếp biến

văn hóa, là kết quả có được từ nhiều nhân tố tích cực như chính trị, kinh tế, xã

hội thời kỳ Đổi mới, sự phát triển của khoa học công nghệ, mạng intenet, bối

cảnh toàn cầu hóa, giao lưu hội nhập quốc tế. Loại hình Nghệ thuật Sắp đặt ở

Việt Nam chính thức được thể chế công nhận kể từ triển lãm Festival Mỹ

thuật trẻ toàn quốc (lần thứ nhất, 2007 tại Hà Nội), công chúng từng bước đón

nhận, tuy chưa có giải thưởng.

Quá trình tiếp nhận, phát triển, NTSĐVN đã đạt được những thành tựu

đáng kể ở cả trong nước và quốc tế. Trong đó, có sự đóng góp quan trọng của

YTTT. NTSĐVN thời kỳ đầu mang tính tự phát, chủ yếu diễn ra tại các Trung

48

tâm của nước ngoài tại Việt Nam, các Gallery của cá nhân. Tuy nhiên,

NTSĐVN cũng bộ lộ không ít hạn chế mà các học giả quốc tế và trong

nước đã chỉ ra như: quá chú trọng tới vẻ đẹp hình thức, thiếu chiều sâu ý

niệm, còn mang tính minh họa, kể lể, thiếu yếu tố sân khấu (thực tế - ước

lệ), thiếu tính tương tác đối với công chúng…Mặc dù vậy, đánh giá về

NTSĐVN thời kỳ đầu, tác giả Nguyễn Quân nhận định trong bài viết “Những

môn mỹ thuật mới” đăng trên Tạp chí nghiên cứu mỹ thuật số 2/2005: “đã tạo

ra điểm nhấn cho đời sống mỹ thuật khá buồn tẻ ở ta, tạo không khí mới và

cách hoạt động mới..tạo ra những giá trị và tâm lý thẩm mỹ mới như những

hạt mầm có sức sống”.

Các sự kiện mỹ thuật có quy mô quốc gia như Triển lãm Festival mỹ

thuật trẻ và Triển lãm mỹ thuật Việt Nam 2020 cho thấy, số lượng tác phẩm

Sắp đặt tham dự giảm đáng kể. Một phần nguyên nhân do các tổ chức Quỹ

văn hóa nghệ thuật của nước ngoài không còn hỗ trợ tài chính cho nghệ sĩ.

Song, nguyên nhân quan trọng là hoạt động thực hành sáng tác và triển lãm

nghệ thuật đương đại đã vận hành theo một cách thức mới: mô hình dự án,

kính phí được xã hội hóa, tổ chức theo chuyên đề, có cá nhân làm giám tuyển

(Dự án nghệ thuật tại đường hầm nhà Quốc hội là ví dụ điển hình). Do đó,

nhìn nhận từ góc độ khách quan NTSĐVN đang có chiều hướng chuyên

nghiệp hơn, bởi sự đào thải tự nhiên và sự tuyển chọn chú trọng chất lượng

nghệ thuật. NTSĐVN đang trở nên hoàn thiện hơn bởi sự thẳng thắn khắc

phục những hạn chế đã nêu, từng bước khẳng định vị thế và giá trị nghệ thuật

độc đáo của mình trong sự hòa quyện giữa truyền thống và hiện đại.

Tiểu kết

Trong chương này, luận án tiến hành hệ thống tài liệu liên nghiên cứu quan

đến đề tài, hệ thống và phân loại các tác phẩm Sắp đặt có YTTT giai đoạn 1995 -

2018, giới thuyết vấn đề nghiên cứu và các khái niệm liên quan để xây dựng khái

niệm YTTT trong các tác phẩm Sắp đặt làm nòng cốt cho quá trình nghiên cứu.

49

Khái quát về NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018, chỉ ra những thành tựu đã

đạt được, những nhân tố tích cực góp phần vào quá trình phát triển chung của

NTSĐVN.

Áp dụng lý thuyết và hệ thống luận điểm khoa học, tri thức của các học giả

thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau làm cơ sở lý luận hướng tới mục đích nghiên cứu,

góp phần chỉ ra YTTT biểu hiện qua hình thức và chủ đề, đặc điểm và giá trị nổi

bật của nó trong NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018.

Phần nghiên cứu ở chương một là tiền đề, là cơ sở lý luận để thực hiện các

nội dung nghiên cứu trọng tâm trong các chương tiếp theo. Qua đó làm nền tảng

cho quá trình nghiên cứu để tìm ra tính mới nhằm giải quyết đầy đủ nội dung

đã đề ra ở mục đích, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học của luận án.

50

Chương 2

BIỂU HIỆN YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG TRONG

NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995 - 2018

2.1. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua hình thức tác phẩm

Nhìn vào mỹ thuật người ta có thể biết được phần nào tình hình lịch sử

văn hóa xã hội từng thời kỳ nhất định. Tương tự, có thể nhận diện vùng văn

hóa thông qua hình thức và nội dung tác phẩm Sắp đặt, bởi lẽ bất cứ hình thức

nghệ thuật nào cũng chứa đựng một ý nghĩa, một thông điệp, một ký hiệu gắn

liền với văn hóa xã hội của chủ thể sáng tạo. Trong phần này, hình thức

NTSĐVN được nhận diện qua yếu tố tạo hình, trang trí truyền thống, không

gian di sản và chất liệu bản địa.

2.1.1. Yếu tố truyền thống qua tạo hình, trang trí

Văn hóa Việt Nam kết tinh từ văn minh lúa nước, nông nghiệp gắn liền

với các nghề thủ công, trong đó nghệ thuật tạo hình truyền thống chủ yếu là

đồ họa, điêu khắc, kiến trúc và trang trí, còn in dấu khá đậm nét trong tư duy

tạo hình, trang trí thủ công từ đồ gốm Phùng Nguyên, trống đồng Đông Sơn,

chạm khắc đình làng, tranh thờ miền núi, kiến trúc gỗ truyền thống cho tới hệ

thống tượng thờ, đồ thờ, vật dụng hằng ngày.

Khai thác lối tạo hình giản lược, trang trí dân gian xuất hiện trong khá

nhiều tác phẩm Sắp đặt Việt Nam giai đoạn này. Nếu một số tác phẩm Sắp đặt

ở miền Bắc và miền Trung thường chú trọng khai thác hình tượng nghệ thuật

với lối tạo hình điêu khắc đình làng, rối nước, đồ mã, trang trí đồ thờ, thì một

số tác phẩm Sắp đặt ở khu vực miền Nam lại đi sâu vào khai thác tạo hình

tượng nhà mồ, họa tiết trang trí của đồng bào Tây Nguyên.

Tác phẩm Sắp đặt sử dụng yếu tố tạo hình, trang trí dân gian gắn liền

với hiện vật thủ công truyền thống nổi bật như: Ngày và đêm, Thông điệp từ

cõi xa, Tri âm. Đại ngàn, Di sản của Đặng Thị Khuê; Rằm tháng bảy, Đồng

đội, Hối tụ...của Nguyễn Bảo Toàn; Một con đường, Những áng mây xưa của

51

Nguyễn Minh Thành; Vạc & Xổm, Qua phố nhớ gì? của Trần Hậu Yên Thế;

Trung thu của Lê Trần Hậu Anh ở miền Bắc; Thuyền hoa, Giấc mơ bướm

vàng, của Đinh Khắc Thịnh; Đối diện, Vòng quay cuộc đời của Phan Lê

Chung; Những con số của Lê Ngọc Thanh - Lê Đức Hải ở miền Trung; Giọt

sương Jrai 1,2,3,4,5 của Phan Thảo Nguyên, Trương Công Tùng, Lạc chốn

của Bùi Công Khánh; các tác phẩm Sắp đặt sử dụng sơn mài như Specula, Ba

Đình dấu cũ, hội nước là đây của Oanh Phi Phi ở khu vực miền Nam.

Nếu nghệ thuật truyền thống Trung Hoa mang vẻ đẹp tinh tế theo

những chuẩn tắc nghiêm ngặt, nghệ thuật truyền thống Nhật Bản thường trau

chuốt đến từng chi tiết, thì nghệ thuật truyền thống Việt Nam lại mang một

dáng vẻ mộc mạc, dung dị, phóng túng, cách điệu cao, tạo nên sự độc đáo

riêng biệt. Đó cũng chính là những phẩm chất đặc trưng của thẩm mỹ truyền

thống Việt Nam cùng với tính ước lệ, ẩn dụ nổi bật trong nghệ thuật dân gian.

Tác giả Bùi Như Hương - Trần Hậu Tuấn cho rằng: “đa số các installation của

Việt Nam mang một tinh thần khác hẳn, hướng về tình cảm nông thôn, về

không gian tín ngưỡng và văn hóa truyền thống, với một thái độ nghiêm túc,

trân trọng, không bỏ qua tính duy mỹ” [34, tr.89]. Đồng quan điểm này, tác

giả Natalia cũng cho rằng: “thẩm mỹ trong NTSĐVN được đánh giá cao hơn

là tầm cỡ khái niệm của nó” [106, tr.67]. Nhìn nhận ở khía cạnh tích cực,

NTSĐVN, đã góp phần tạo nên một ấn tượng thị giác mạnh với vẻ đẹp thẩm

mỹ truyền thống.

Có thể nói, tư duy tạo hình giản lược, quy về những hình khối khái quát,

không quá câu nệ vào chi tiết vụn vặt, gợi chứ không tả, cốt phản ánh được

chân thực mạch cảm xúc bay bổng, ngẫu hứng của người nghệ sĩ dân gian, đã

trở thành hình tượng, biểu tượng độc đáo trong hầu hết vốn mỹ thuật cổ của

dân tộc. Điển hình là những bức điêu khắc đình làng hay tượng thờ Phật giáo

trong chùa, tượng nhà mồ Tây Nguyên. Lối tạo hình giản lược này cũng thấy

rất rõ trong đồ mã, nhìn từ góc độ tạo hình. Những hình nhân, con giống,

52

quần áo, vàng mã...đều phản ánh rõ tư duy tạo hình khối giản lược, khái quát,

mang tới một vẻ đẹp mộc mạc, dung dị, gắn liền với vũ trụ quan, nhân sinh

quan của cư dân nông nghiệp.

Hình tượng, biểu tượng, hiện vật thủ công giàu yếu tố tạo hình và ý

nghĩa văn hoá, phát triển trong dân gian được nhiều nghệ sĩ khai thác khá hiệu

quả. Trong đó, hầu hết các tác phẩm Sắp đặt của tác giả Chu Lượng, sử dụng

hàng nghìn con rối nước để tạo nên hai triển lãm Sắp đặt tại Hà Nội và tại Mỹ

năm 2007. Bản thân những con rối nước, là sản phẩm độc đáo của nền văn

minh lúa nước, được dân gian sáng tạo trở thành những hình tượng ngộ

nghĩnh, hình khối giản lược, gần gũi với đời sống của người nông dân Việt

Nam, gắn liền với nhiều tích trò, phản ánh nhiều góc cạnh tư tưởng, đời sống

tinh thần của cộng đồng nông nghiệp. Các tác phẩm Sắp đặt của tác giả Chu

lượng với số lượng lớn con rối, vừa tạo nên một vẻ đẹp thẩm mỹ dung dị từ

những hình tượng các nhân vật với vẻ mặt biểu cảm, nhiều tâm trạng, màu sắc

vui nhộn, vừa tạo nên một bức tranh về xã hội Việt Nam thu nhỏ, đủ giai tầng,

lứa tuổi. Nổi bật là hình tượng chú Tễu trong tác phẩm Sắp đặt Trở về

(H.3.1.1, tr.181), được dân gian sáng tạo với vẻ đẹp tạo hình khái quát, thể

hiện tinh thần ngộ nghĩnh, tính cách ngây thơ, thân thiện của một đứa trẻ thôn

quê với vai trò kể chuyện, dẫn chuyện hoặc châm biếm những thói hư, tật xấu

của của xã hội. Trong tác phẩm Sắp đặt Ký ức 1 gồm các nhân vật được tạc

hình theo lối điêu khắc đình làng tiêu biểu với nét đẹp thô mộc, gương mặt

biểu cảm vẻ ngộ nghĩnh, hóm hỉnh. Sử dụng hình tượng chú Tễu, thằng Bờm

trong Nghệ thuật Sắp đặt, là lối khai thác ký hiệu ẩn dụ mang sẵn vẻ đẹp thẩm

mỹ, giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống bản địa để phản ánh vấn đề xã hội

đương đại, tạo nên đặc điểm nhận diện văn hóa nghệ thuật và một sắc thái

riêng biệt. Các tác phẩm Sắp đặt của Chu Lượng đã đưa rối nước bản địa

bước từ sân khấu truyền thống sang Nghệ thuật Sắp đặt, tạo cơ hội cho công

53

chúng ở trong nước và quốc tế tiếp cận với những giá trị văn hóa nghệ thuật

của di sản dân tộc trong bối cảnh mới.

Để thiết lập tác phẩm Sắp đặt Ký tự (2013) (H.3.1.3, tr.182) tái hiện lại

không gian của đình làng truyền thống, tác giả Đặng Thị Khuê đã sử dụng trực

tiếp các hiện vật truyền thống như: hạc cưỡi rùa, ba khung lụa đạc họa mặt cắt

kiến trúc đình làng, phủ the mỏng, tấm bạt lớn in hình ảnh ngôi đình làng, các

bản khắc họa tiết trang trí đình làng, các bản rập họa tiết truyền thống. Tổ

hợp hiện vật trong tác phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo cho hình

thức tác phẩm Sắp đặt một vẻ đẹp gần gũi, công chúng dễ dàng cảm nhận về

một không gian đình làng truyền thống và những giá trị văn hóa nghệ thuật

dân tộc. Tiếp cận hiện thực bằng cách nhìn mới từ bên trong, giữa cái nhìn

nội tâm và trực giác, tổ hợp hiện vật trong tác phẩm Ký tự được bố cục theo

lối phân lớp không gian hướng ngang, người xem có thể thâm nhập vào

không gian trưng bày tác phẩm. Thông qua tổ hợp đồ vật truyền thống, cách

thức bố cục tác phẩm, lối tổ chức không gian trưng bày theo quan niệm

truyền thống, Ký tự gợi cho người xem ký ức về không gian tâm linh với

quan niệm bên trong, bên ngoài, ánh sáng mờ, tỏ trong không gian kiến trúc

đình làng cổ. Thông điệp mà Ký tự hướng đến là đánh thức người xem về

những giá trị thẩm mỹ, giá trị lịch sử văn hóa bản địa thông qua việc sử

dụng trực tiếp các hiện vật truyền thống để tôn vinh truyền thống.

Tác phẩm Sắp đặt Ký tự cũng rất chú trọng tới phần tương tác với

công chúng, thu hút được số lượng lớn người tham gia. Công chúng có thể

tự do tương tác, dùng giấy Dó và màu để tạo bản rập các hoạ tiết điêu khắc

cổ từ các phiên bản đổ khuôn. Qua hoạt động này người xem được thay đổi

cách cảm thụ từ thụ động đến chủ động trước một tác phẩm nghệ thuật và di

sản. Ký tự đã đưa người xem từ chỗ thờ ơ, chưa hiểu, chưa yêu thích đến

việc học tiếp cận di sản, tự tay sáng tạo, yêu thích rồi hiểu, trân trọng di sản.

Với tổ hợp các hiện vật mỹ thuật dân gian, mang sẵn khối, màu sắc và hoạ

54

tiết trang trí truyền thống không chỉ tạo cho tác phẩm Sắp đặt Ký tự vẻ đẹp

hình thức mà còn chuyển tải nội dung giàu ý nghĩa văn hoá, lịch sử truyền

thống. Tác phẩm Sắp đặt này đã góp phần đưa Nghệ thuật Sắp đặt có YTTT

đến gần công chúng hơn.

Khai thác ngôn ngữ điêu khắc với hình khối, chiều hướng các nếp gấp,

chất cảm từ nguyên mẫu tượng lăng mộ để xây dựng tác phẩm Sắp đặt Những

Cái túi (2017) (H.3.1.5, tr.183), tác giả Trần Đức Quý muốn đưa ra một cách

nhìn mới về truyền thống trong đáp ứng thay đổi của đời sống đương đại.

Chọn những bức tượng đá cổ của người Việt xưa làm đối tượng để tạo khuôn

cao su, đổ lại hình hài của chúng như nguyên mẫu, rồi lột mở phía trong ra

ngoài, sử dụng chất liệu bê tông tạo thành những hình khối vừa thân quen vừa

dị lạ. Thân quen bởi chính đối tượng mà tác giả chọn là những bức tượng

truyền thống mang vẻ đẹp thẩm mỹ của người xưa. Dị lạ bởi tư duy sáng tạo

phá vỡ ranh giới bên trong và bên ngoài của sự vật, trông nó không còn như

cũ nữa. Các khối bê tông được tạo ra tựa như những chiếc túi vải khổng lồ,

khối dương thành khối âm và ngược lại, gấp nếp tự nhiên, màu xám tạo chất

cảm trầm mặc. Những họa tiết trang trí trên trang phục của của các bức tượng

cũng được khắc họa trung thực. Có thể nói, gói và mở là hai trạng thái tưởng

như hoàn toàn đối lập nhau trong cuộc sống, trong hành động, trong quan

niệm, song ở lĩnh vực sáng tạo, sự đối lập ấy lại có một điểm chung là biểu

hiện ý đồ nghệ thuật và thái độ, quan niệm của nghệ sỹ.

Tác phẩm Sắp đặt Những cái túi gợi cho người xem liên tưởng đến một

phạm trù cơ bản với sự “lột xác” - một nguyên lý phủ định của phủ định trong

quy luật phát triển nói chung. Người xem có thể thỏa sức liên hệ đến những

hiện tượng thường gặp trong cuộc sống như: cây cối thay vỏ; con tôm, cua, rắn

lột xác và phải chăng cơ thể con người cũng đang “lột xác”, bằng một cơ chế

tinh tế hơn, không ngừng đào thải và sản sinh tế bào mới. Vậy truyền thống,

cách biểu hiện nghệ thuật, quan niệm thẩm mỹ, tư duy sáng tạo và thưởng

55

thức... có cần “lột xác” để thay đổi và phát triển phù hợp với cuộc sống đương

đại? Hình tượng cái túi ẩn dụ nạn tham nhũng chăng? Vô số câu hỏi còn để ngỏ

mà tác phẩm Sắp đặt Những cái túi của Trần Đức Quý đã chạm đến và đang

đối thoại, thách thức người xem. Thông qua ngôn ngữ tạo hình và hình tượng

truyền thống, tác phẩm Những cái túi đã khẳng định tính linh hoạt của truyền

thống trong vai trò là thành phần kiến tạo, tuy phần tương tác của tác phẩm này

còn hạn chế. Tác phẩm Sắp đặt Những cái túi đã khai thác, sáng tạo mới trên

cơ sở nền tảng hiện vật truyền thống.

Với cách tiếp cận YTTT từ hình tượng trong tranh thờ làng Sình, tác

giả Phan Lê Chung đã chuyển thể hình tượng nhân vật vẽ trong tranh thành

những pho tượng với không gian ba chiều để kiến tạo tác phẩm Sắp đặt Đối

diện (H.3.1.6, tr.183). Trong đó, các hình khối và các chi tiết được quy về các

diện, mảng khái quát mang vẻ đẹp dung dị, tượng trưng, kết hợp với gương và

hồ nước. Chất liệu composit rất thuận lợi trong việc đổ khuôn tạo hình, độ

bền vững cao, với ưu điểm nổi bật là có thể thấu quang khi thắp điện bên

trong. Tổ hợp hiện vật, lối bố cục đăng đối và ánh sáng đã tạo cho hình thức

và chủ đề của tác phẩm Đối diện một vẻ đẹp lung linh về thị giác, tôn vinh giá

trị nghệ thuật, giá trị lịch sử, văn hoá truyền thống. Sử dụng ngôn ngữ điêu

khắc để hiện thực hóa hình tượng nhân vật trong tranh thờ truyền thống, tác

phẩm Sắp đặt Đối diện đã mang lại một diện mạo khác biệt, một đời sống

nghệ thuật mới cho hình tượng nhân vật, phản ánh cuộc sống đương đại.

Tác phẩm Sắp đặt Tình yêu (2005) là sự kết hợp của ngôn ngữ điêu

khắc với hội họa và những đồ vật thông thường. Những bức tượng được tạo

hình theo phong cách dân gian, kết hợp với tranh vẽ, lồng chim, dây, nến…,

tác giả Nguyễn Thị Châu Giang đã tạo dựng tác phẩm Sắp đặt Tình yêu

(H.3.1.7, tr.184) mang đậm vẻ đẹp tạo hình truyền thống, giàu biểu cảm, trong

hình thức biểu hiện mới. Bản thân những bức tượng đã mang sẵn khối tự

nhiên, vẻ đẹp thô mộc, ngẫu hứng, những bức tranh với hình tượng trong tư

56

thế bị trói buộc, màu đen trắng dung dị. Tổ hợp hiện vật trong tác phẩm Tình

yêu, được sắp xếp đăng đối trong không gian trưng bày, liên kết với nhau từ

lối tạo hình, màu sắc cho tới ánh sáng hắt từ những ngọn nến, tạo cho tác

phẩm một ấn tượng thị giác mạnh, giàu ý nghĩa liên tưởng đến nhiều mặt

trong đời sống đương đại. Tác phẩm Sắp đặt Tình yêu của Nguyễn Thị Châu

Giang là sự kết hợp giữa lối tạo hình tượng giản lược, thô mộc với tổ hợp đồ

vật, gợi không gian linh thiêng, biểu đạt nội tâm sâu sắc.

Cảm xúc bắt nguồn từ những nghi lễ dân gian, tạo hình từ đồ mã, tác

phẩm Sắp đặt Hối tụ (H.3.1.8, tr.185) của tác giả Nguyễn Bảo Toàn đã tạo

dựng một không gian tâm linh với vô số những hình nhân thế mạng ở nhiều tư

thế khác nhau, liên kết thành chuỗi nhịp điệu trên bề mặt tường và sàn nhà

triển lãm. Các khối rỗng nối nhau, trùng điệp tựa như những linh hồn của

đoàn quân năm xưa đang hối hả hành quân ra chiến trường. Sử dụng chất liệu

nan tre bản địa, các hình nhân được tạo hình mang tính giản lược, khái quát

cao, không sa đà vào chi tiết. Màu sắc hình nhân tự nhiên, mộc mạc, được xử

lý hun khói để tránh mốc theo lối dân gian truyền thống. Ưa thích sử dụng các

hiện vật thủ công truyền thống như đồ mã, gốm, tre, ..tạo hình, trang trí theo

lối dân gian trong hầu hết các tác phẩm Sắp đặt của tác giả Nguyễn Bảo Toàn,

tạo nên nét độc đáo mang đậm giá trị văn hoá, tín ngưỡng dân gian, có thể

nhận diện với phong cách riêng biệt của tác giả.

Sống và làm việc thường xuyên tại Tây Nguyên, những pho tượng của

đồng bào nơi đây được tác giả Phan Thảo Nguyên tái hiện trong nhiều Sắp đặt

của mình. Tác giả cùng với các nghệ nhân nhân bản xứ đã thực hiện hàng loạt

những pho tượng, cây nêu theo đúng phong cách tạo hình của tượng Nhà mồ

truyền thống. Tiêu biểu là tác phẩm Sắp đặt Giọt sương Jrai 5 (H.3.1.10,

tr.186) triển lãm tại Philipine năm 2018, tổ hợp tượng và cây nêu truyền thống

của đồng bào Tây Nguyên, được phủ sơn đen, khắc nhiều hoạ tiết trang trí

trên bề mặt, tô sơn màu, tạo dựng một không gian linh thiêng mang giá trị văn

57

hoá, lịch sử dân tộc. Những hiện vật thủ công trong mối quan hệ của tổ hợp

đồ vật đã phát huy tốt hiệu quả thẩm mỹ và ý nghĩa, tạo nên sự đa dạng văn

hoá và sự nhận diện rõ nét. Các tác phẩm Sắp đặt thuộc series Giọt sương Jrai

1.2.3 tổ chức tại Gia Lai và Philipine của Phan Thảo Nguyên hoàn toàn sử

dụng những bức tượng có hình khối giản lược đủ thể loại do chính các nghệ

nhân tại Gia Lai thực hiện, tác giả cùng công chúng tương tác vẽ màu trang trí

bề mặt tượng, tạo nên vẻ đẹp phong phú, sống động. Các tác phẩm Sắp đặt

này mang tính cộng đồng cao, vừa lấy truyền thống làm cốt lõi vừa làm mới

nó bằng màu sắc họa tiết trang trí bề ngoài và nổi bật hơn cả là tạo cho truyền

thống một đời sống mới trong nghệ thuật đương đại. Ý tưởng Sắp đặt của

Phan Thảo Nguyên có thể liên hệ với thông điệp trong Sắp đặt Colure Vase

của Ngải Vị Vị (Trung Quốc), khi ông nhúng những chiếc bình gốm cổ thời

Hán vào thùng màu để làm mới cốt lõi truyền thống.

Ở góc độ gián tiếp, YTTT đã có những ảnh hưởng tích cực đến nhiều

tác phẩm Sắp đặt của các nghệ sĩ Việt Nam. Trong đó, tinh thần thẩm mỹ

truyền thống, tư tưởng và lối tạo hình trong nghệ thuật Phật giáo đã tạo ra ảnh

hưởng rõ rệt. Tiêu biểu là tác phẩm Sắp đặt Những bàn tay (2000, Nguyễn

Ngọc Lâm), Những con mắt nguyên thuỷ (2013, Trần Đức Quý), Chắp tay sen

và nụ cười Phật (2009, Lê Thừa Tiến).

Tác phẩm Sắp đặt Những bàn tay (H.3.1.16, tr.189) gồm 300 bàn tay

được tạo hình giống như bàn tay của tượng Thiên thủ thiên nhãn truyền thống,

bố cục trong hình tròn lan toả, tạo nên vẻ đẹp lung linh, huyền bí với hình

bông hoa sen đang nở mang biểu tượng Phật giáo. Tác phẩm Sắp đặt Những

bàn tay tạo nên một ấn tượng thị giác khó quên, với lối tạo hình và bố cục vừa

thân quen vừa mới lạ.

Tương tự, tác phẩm Sắp đặt Những con mắt nguyên thuỷ (H.3.1.17,

tr.190) sử dụng hình tượng con hươu nhiều đầu với 88 chân, làm từ chất liệu

composit, trên đầu gắn nhiều gương ô tô, xe máy. Tác phẩm Sắp đặt này tuy

58

không sử dụng hoa văn, màu sắc truyền thống, nhưng xét về góc độ thẩm mỹ

tạo hình, quan niệm nghệ thuật, nó chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ gợi ý tạo hình

của tượng Quan âm thiên thủ thiên nhãn (nhiều mắt - nhiều gương; nhiều mặt

- nhiều đầu; nhiều tay - nhiều chân). Tuy nhiên, chất liệu kiến tạo Sắp đặt này

hoàn toàn từ các chất liệu nhân tạo và ý nghĩa cũng khác biệt, mang thông

điệp gắn liền với cuộc sống đương đại, tạo nên hệ thống ký hiệu ẩn dụ về định

kiến xã hội, về những gì con người đã tự đánh mất khi cuộc sống bứt khỏi

môi trường tự nhiên. Tác phẩm này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ lối tạo hình

truyền thống, tạo nên ấn tượng thị giác mạnh, gợi cho người xem nhiều liên

tưởng thú vị.

Bên cạnh yếu tố tạo hình, hoạ tiết trang trí, màu sắc tượng trưng cũng

được nhiều nghệ sĩ khai thác hiệu quả trong Nghệ thuật Sắp đặt. Trong đó,

các hoạ tiết trang trí đình làng, mây cách điệu, hoạ tiết và màu sắc trang trí đồ

thờ xuất hiện khá nhiều trong NTSĐVN giai đoạn này.

Xây dựng tác phẩm Sắp đặt Sông Tô (2018) (H.3.2.1, tr.191), các

YTTT đã được khai thác một cách đa dạng, cùng với sự kết hợp phong phú kỹ

thuật thể hiện và ngôn ngữ nghệ thuật như Điêu khắc, Hội họa, Đồ họa. Để

thực hiện tác phẩm này, tác giả Vũ Xuân Đông đã phải đầu tư khá nhiều thời

gian, công sức và tài chính, bản thân tác giả đã trực tiếp khảo sát thực địa, ký

họa nhiều cổng làng cổ còn lưu giữ và cảnh quan sống động dọc hai bên bờ

sông Tô Lịch. Các họa tiết mây, thuyền rồng được tham khảo từ nhiều nguồn

tài liệu mỹ thuật nghiên cứu vốn cổ. Tác giả cho biết, những tấm vóc sơn mài

và đặc biệt là kỹ thuật gò đồng sử dụng phương pháp đổ xi truyền thống khi

gò, buộc phải tìm đến những làng nghề truyền thống để thực hiện. Với ngôn

ngữ điêu khắc là những khối hình hộp bằng đồng, những họa tiết gò nổi, tạo

nên mảng phù điêu có khối, diện; Với ngôn ngữ hội họa trong tác phẩm, là

những hộp sơn mài, vẽ họa tiết, phong cảnh làng quê, thuyền bè được vẽ và

làm theo phương pháp, quy trình truyền thống; Với ngôn ngữ đồ họa là những

59

nét khắc chìm thể hiện họa tiết sóng nước, các hoa văn, đường nét trang trí bề

mặt tác phẩm. Như vậy, YTTT biểu hiện rõ nét, đa dạng thông qua ngôn ngữ

nghệ thuật và kỹ thuật thể hiện tác phẩm Sắp đặt Sông Tô. Trong đó, nổi bật

là yếu tố trang trí trong tác phẩm này. Nó không chỉ có tác dụng làm đẹp cho

hình thức mà còn tạo ý nghĩa cho nội dung tác phẩm. Giả sử tách riêng hệ

thống đường nét, hoa văn ra khỏi tác phẩm Sắp đặt, nó hoàn toàn có thể là

một bức tranh đồ họa độc lập, sinh động. Tổ hợp hiện vật và các họa tiết, màu

sắc của tác phẩm đã tạo nên một bức tranh sống động của quá khứ trong hiện

tại, vừa mang thông điệp tôn vinh giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống vừa

đánh thức người xem về vấn đề ô nhiễm môi trường của cuộc sống đương đại.

Khả năng tương tác ở tác phẩm Sắp đặt này khá thú vị, các hộp đồng

được thiết kế trục xoay, có thể tạo ra âm thanh đa dạng khi chúng đập vào

tường bởi sự tác động từ phía công chúng. Âm thanh phát ra và chuyển động

xoay của các hộp khi chạm tay vào cũng tạo cho người xem cảm giác tựa như

chạm vào mặt nước vậy. Đặc biệt, khi số lượng lớn người tương tác cùng lúc

tác động, những hộp đồng xoay đập vào tường, phát ra âm thanh sống động,

vui nhộn như một dàn nhạc.

Khai thác ngôn ngữ đồ họa, giàu tính trang trí, vẽ các hoạ tiết điêu khắc

đình làng trên chiếc diều cách cung trong tác phẩm Sắp đặt Chuyện của đình

(H.3.2.3, tr.192) nhằm tái thiết lập một không gian văn hoá đình làng truyền

thống. Trên cánh diều và dải lụa ngũ sắc còn được viết những câu ca dao, tục

ngữ liên quan tới đình làng, kết hợp với thóc. Khai thác đa dạng họa tiết trang

trí dân gian kết hợp với tổ hợp đồ vật, tác phẩm Sắp đặt này ẩn dụ về hình

tượng ngôi đình làng truyền thống, nổi bật giữa trung tâm, xung quanh là

những dải vải ngũ sắc buông thõng, bãi thóc tạo rãnh hình xoáy ốc. Các hình

tượng người, cô tiên đang bay, rùa, hạc, họa tiết trang trí trống đồng, tạo dựng

một không gian thẩm mỹ truyền thống, mang triết lý dân gian, đánh thức

người xem về giá trị thẩm mỹ, giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống và vấn đề

60

ứng xử với di sản dân tộc thông qua hình thức Nghệ thuật Sắp đặt. YTTT với

vai trò là thành phần kiến tạo nổi bật trong tác phẩm Sắp đặt này.

Tác phẩm Sắp đặt Chuyện của đình được bố cục phân lớp hướng dọc,

tạo nên không gian tượng trưng (trời, người, đất) và có thể chuyển động tự

nhiên khi có gió hoặc người xem tác động. Công chúng có thể tự do xoay, đọc,

viết vẽ lên tác phẩm khi tương tác. Tổ hợp trong tác phẩm này là sự kết hợp

giữa những hiện vật thủ công, họa tiết, màu sắc trang trí dân gian và ngôn ngữ

văn học, ca dao truyền thống, tạo dựng một không gian đình làng từ những

YTTT và quan niệm văn hóa, tín ngưỡng đậm triết lý dân gian.

Họa tiết mây cách điệu trang trí đồ thờ, công trình kiến trúc truyền

thống, y phục cung đình, đồ gia dụng... đã trở nên phổ biến tại nhiều nước

châu Á, chịu ảnh hưởng văn hóa, tư tưởng Trung Hoa. Trong vốn mỹ thuật

truyền thống của người Việt, họa tiết mây được sử dụng phổ biến, tuy nhiên

mỗi triều đại lại biểu hiện họa tiết mây theo phong cách riêng. Vốn là nước có

văn hóa gắn liền với văn minh lúa nước, cuộc sống phụ thuộc nhiều vào thiên

nhiên. Do đó, tín ngưỡng bản địa cổ xưa của những cư dân nông nghiệp đã

tôn thờ, sùng bái những hiện tượng thiên nhiên, nhân hóa thành những vị thần

đầy quyền năng. Minh chứng là tín ngưỡng thờ Tứ pháp (Vân, Vũ, Lôi, Điện),

tín ngưỡng bản địa kết hợp với Phật giáo, gắn liền với các vị thần Mây, Mưa,

Sấm, Chớp. Như vậy, trong quan niệm dân gian, mây là một vị thần oai linh,

là tầng trời (đũa bông trong đám tang). Mặt khác, do có khả năng bay cao và

biến đổi hình dạng liện tục nên theo quan niệm dân gian mây khói có thể

mang theo ước nguyện của con người. Hình tượng mây cũng xuất hiện nhiều

trong thơ ca, ẩn dụ các cung bậc tình cảm phong phú của con người, điển hình

là trong Truyện Kiều: “mây trắng, “ngọn mây Tần”, “mây thua nước tóc”.

“Lòng còn gửi áng mây vàng” hay “Đêm thâu đằng đẵng nhặt cài then mây”

(Nguyễn Du); thậm chí ngành công nghệ thông tin thời 4.0 còn sử dụng làm

thuật ngữ: Điện toán đám mây (Cloud computing). Ở góc nhìn mỹ thuật, họa

61

tiết mây chủ yếu được sử dụng để trang trí với nhiều ý nghĩa như làm đẹp bề

mặt đồ vật, liên kết các cấu kiện, thể hiện sự linh thiêng, quyền uy, lãng mạn

hoặc đơn thuần là trang trí khoảng trống trong bố cục nói chung.

Cảm xúc bắt nguồn từ họa tiết mây thời Nguyễn trang trí trên cột biểu

đình Lại Thế, trang trí trên tác phẩm Sắp đặt Những áng mây xưa (H.3.2.6,

tr.193), tác giả Nguyễn Minh Thành đã tạo cho những đồ vật bình thường trở

nên sống động, đẹp đẽ lạ thường. Sử dụng chất liệu sơn mài truyền thống,

toàn bộ bề mặt tác phẩm phủ kín họa tiết mây cách điệu, màu sắc rực rỡ, kết

hợp với những vật dụng phổ biến trong đời sống đương đại, tạo nên sự hòa

quyện giữa truyền thống với hiện đại, giữa xưa và nay, với một giá trị thẩm

mỹ mới.

Thiết lập từ chuỗi phù điêu, giàu tính trang trí, tác phẩm Sắp đặt Hành

trình lịch sử (H.3.2.7, tr.194) của nhóm tác giả Nguyễn Thế Sơn, Vũ Xuân

Đông, Phạm Khắc Quang, sử dụng hoàn toàn những hình tượng trong điêu

khắc đình làng như cô tiên, rồng, phượng, xe ngựa, mây cách điệu để thực

hiện ý tưởng tác phẩm. Các hoạ tiết trang trí được cắt từ những tấm thép với

công nghệ CNC, tạo thành chuỗi phù điêu chạm lộng, treo dọc hai bên tường

hầm nhà Quốc hội. Bề mặt phù điêu được patin tạo chất cảm với vẻ cổ kính từ

màu trầm mặc của rỉ sắt. Sắp đặt Hành trình lịch sử đi sâu vào khai thác hình

tượng, họa tiết truyền thống để làm nổi bật chủ đề về phương tiện giao thông

của giới thần tiên và con người thời xưa. Các phương tiện di chuyển như rồng,

phượng, xe ngựa…, được tạo hình đa dạng, nối tiếp nhau, gắn kết với nhau,

đối thoại với nhau trong mối quan hệ nghệ thuật. Hình của những bức phù

điêu, hoạ tiết trong Sắp đặt đổ bóng vào tường khi được chiếu sáng cũng tạo

nên một không gian ấn tượng thị giác mới lạ, hấp dẫn.

Khả năng tương tác của tác phẩm này tuy không phải là điểm nổi bật,

tuy nhiên người xem cũng có thể tương tác bằng cách xoay tròn những chiếc

bánh xe được thiết kế trục từ các phương tiện, hình tượng trong tổ hợp hiện

62

vật. Sử dụng ngôn ngữ điêu khắc với các phù điêu chạm lộng giàu yếu tố

trang trí truyền thống xây dựng tác phẩm Sắp đặt Hành trình lịch sử, bố cục

trải dài theo hướng ngang, các hình tượng liên kết, đối thoại với nhau để kể về

câu chuyện phương tiện di chuyển của thế giới thần tiên, của con người trong

quá khứ và hiện tại, gợi sự liên tưởng, so sánh thú vị. Đồng thời, nó còn tương

tác với những cổ vật lưu giữ ngay dưới tầng hầm nhà Quốc hội.

Nghi trượng là những khí cụ dùng nghi vệ thời phong kiến như: cờ xí,

lọng quạt, vũ khí của vua quan ngày xưa. Nghi trượng được thờ phổ biến tại

đình, đền, chùa, dinh thự, từ đường, thường được sơn son, thếp vàng lộng lẫy,

uy nghiêm. Vì thế, trong những bức tranh cổ như: Vinh quy bái tổ, Đám cưới

chuột hay điêu khắc đình làng liên quan đến cảnh đám rước vua quan, hình

tượng nghi trượng, giá kiệu thường xuyên xuất hiện. Khai thác mạnh mẽ ngôn

ngữ điêu khắc, tác phẩm Sắp đặt Nghi trượng (H.3.2.9, tr.195) của tác giả

Trần Hậu Yên Thế cũng rất thành công khi sử dụng hoạ tiết chạm lộng phù

điêu đình làng để kiến tạo tác phẩm. Mỗi chiếc nghi trượng được thể hiện,

chạm khắc những hoạ tiết trang trí khác nhau theo lối tạo hình dân gian với

hình tượng ẩn dụ về tên phố như: Hàng Cá, Hàng Gà, Hàng Hành.... Trong đó,

hình tượng người vác lọng được trang trí bằng hình thức phù điêu chạm lộng

trên nghi trượng, ẩn dụ về phố Hàng Lọng. Tác phẩm Sắp đặt này đã sử dụng

trực tiếp hiện vật mỹ thuật kết hợp các YTTT như nghi trượng chạm lộng

hình tượng người cầm lọng, trang trí họa tiết mây, vừa tôn vinh nét đẹp thẩm

mỹ truyền thống vừa tạo lập những gợi ý về nội dung phản ánh, nhằm chuyển

dịch ngôn ngữ (tên phố cổ gắn với chữ Hàng) thành hình tượng ẩn dụ, ký hiệu

đại diện mang đậm dấu ấn văn hóa, thẩm mỹ truyền thống, có tính ứng dụng

cao trong đời sống hằng ngày. Công chúng có thể tự do tương tác, chụp ảnh,

cầm, vác, … những chiếc nghi trượng này theo ý muốn.

Khai thác họa tiết trang trí và kết cấu kiến trúc gỗ truyền thống của

đồng bào dân tộc thiểu số để xây dựng tác phẩm Sắp đặt Âm hưởng đại ngàn

63

(2014) (H.3.2.11, tr.196). Những thanh gỗ được tạo hình giống với những cột

thờ trong nhà truyền thống của người Kore ở Tây Nguyên, trang trí phủ màu đen,

đỏ, bố cục phân chia không gian thành nhiều lớp cao thấp, trước sau. Hình trang

trí được khắc chìm chủ yếu là những nét kỷ hà trên bề mặt thanh gỗ, tái hiện

cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng và các họa tiết hoa, lá, mặt trời được cách

điệu, giản lược. Công chúng có thể tự do thâm nhập vào không gian của tác

phẩm Sắp đặt khi thưởng thức và tương tác. Mỗi lớp không gian mang một quan

niệm văn hóa riêng về triết lý âm dương, tam tài (thiên - địa - nhân), phản ánh

nét đẹp, sắc màu nghệ thuật gắn liền với đời sống tín ngưỡng thường nhật của

người Tây Nguyên.

Kết hợp ngôn ngữ điêu khắc, trang trí thủ công truyền thống để xây

dựng tác phẩm Ngày và đêm (1996) (H.3.2.12, tr.197). Màu sắc trang trí mang

đậm quan niệm dân gian, tác phẩm này được kiến tạo từ tổ hợp đồ vật như

khay sơn mài, cách tay gỗ, bố cục phân lớp không gian hướng dọc. Sử dụng

bảng màu theo quan niệm truyền thống, trang trí ba chiếc khay sơn mài ẩn dụ

về tầng trời phía trên, những cánh tay ẩn dụ về sự có mặt của con người giữa

trời và đất. Trong cõi người, con người thường tự định đoạt lấy mọi hành vi

của mình trước Đất - Trời và bản thể vẹn nguyên. Song ở phần khác, họ phải

trao lại mình cho tự nhiên bởi cái giới hạn nhỏ bé của chính mình. Mỗi người

xem lại tìm thấy một hay nhiều lớp ý nghĩa mở ở từng tác phẩm trong quá

trình thưởng thức, tương tác và suy ngẫm. Liên hệ với tượng Phật Quan Âm

thiên thủ thiên nhãn, có thể thấy tác phẩm Ngày và Đêm chịu sự ảnh hưởng

đáng kể về lối tạo hình. Đặc biệt là tác giả sử dụng những cánh tay gỗ với vẻ

đẹp mộc mạc, mang biểu tượng cô đọng về triết lý âm - dương, về tâm linh và

cuộc sống. Những chiếc khay sơn mài hình tròn màu đỏ, vàng, đen, tạo thành

ký hiệu tượng trưng cho ngày và đêm, cho những tầng trời - nơi trú ngụ của

những vị thần linh, của thế lực siêu nhiên huyền bí. Những cánh tay gỗ treo

phía dưới khay sơn mài theo từng cặp (trái, phải) gợi cho người xem liên

64

tưởng đến ý nghĩa âm - dương mà triết học phương Đông coi là cội nguồn của

sự kết hợp kì diệu hình thành vũ trụ, vạn vật sinh sôi, con người cũng nhờ đó

mà tồn tại theo quy luật sinh, thành, dị, diệt. Biểu đạt thẩm mỹ tạo hình mộc

mạc, dung dị kết hợp với yếu tố trang trí thủ công truyền thống và quan niệm

triết lý dân gian đã tạo cho tác phẩm đặt Ngày và đêm, trở nên ấn tượng độc

đáo và giàu ý nghĩa nhân văn.

Yếu tố trang trí truyền thống cũng biểu hiện rõ nét trong tác phẩm Sắp

đặt Cội nguồn lịch sử dân tộc Việt (2018) (H.3.2.14, tr.198) của tác giả Triệu

Khắc Tiến. Tác phẩm này được xây dựng trên cở sở ngôn ngữ điêu khắc kết

hợp với yếu tố đồ họa trang trí và chất liệu sơn mài truyền thống. Lấy cảm

hứng từ truyền thuyết Âu Cơ, Lạc Long Quân, tác phẩm là câu chuyện lịch sử

được kể bằng chuỗi họa tiết trang trí, thông qua hình thức biểu hiện mới. Mỗi

quả trứng sơn mài được vẽ một họa tiết dân gian truyền thống, từ hình tượng

người, ngựa, chim muông, thú vật cho đến các biểu tượng, họa tiết hoa, lá. Tất

cả các họa tiết trang trí toát nên một hành trình lịch sử mỹ thuât của dân tộc,

các thời kỳ từ thời Đông Sơn cho tới nay. Các hình tượng, họa tiết được chắt

lọc, trích đoạn chủ yếu từ nguồn mỹ thuật cổ như: điêu khắc đình làng, bản

rập, tranh dân gian, tranh thờ miền núi...Tổ hợp hiện vật có họa tiết trang trí

truyền thống, tương tác với nhau, kết hợp với màu sắc sơn mài truyền thống,

được bố cục trong không gian đường hầm Nhà Quốc hội đã tạo nên một ấn

tượng thị giác mạnh, mang đặc điểm nghệ thuật độc đáo, đậm giá trị văn hóa

truyền thống, vừa gần gũi, dễ tiếp nhận, vừa mang tính đương đại. Tuy nhiên,

tính tương tác của tác phẩm Sắp đặt này còn hạn chế.

Như vậy, YTTT biểu hiện rõ nét trong NTSĐVN qua hình thức tác

phẩm. Nó có ảnh hưởng tích cực cả ở cả phương diện tư duy thẩm mỹ và ý

nghĩa tượng trưng, ẩn dụ. Các thành tố này có thể nhận diện qua yếu tố tạo

hình, trang trí, màu sắc dân gian trong hình thức tác phẩm. Bên cạnh đó, yếu

tố không gian di sản cũng trở thành thành tố nổi bật trong NTSĐVN.

65

2.1.2. Yếu tố truyền thống qua không gian di sản

Nếu mục đích của hội họa là biểu hiện không gian ảo ba chiều trên mặt

phẳng hai chiều, điêu khắc là tạo hình khối choán chỗ trong không gian vật lý

ba chiều,...thì Nghệ thuật Sắp đặt là loại hình tổ chức không gian, tổ hợp đồ

vật theo ý đồ, ý niệm, do người nghệ sĩ khởi xướng, qua đó công chúng có thể

tự do thâm nhập vào không gian sắp đặt, tương tác và kết thúc cuộc chơi.

Thông thường, một tác phẩm Sắp đặt có ít nhất là 2 không gian: không gian tổ

hợp đồ vật (không gian tác phẩm) và không gian trưng bày. Trong trường hợp

tác phẩm Sắp đặt tiếm đoạt không di sản - bối cảnh tạo nghĩa, nó sẽ bao gồm

3 không gian: không gian tổ hợp đồ vật, không gian trưng bày và không gian

di sản - bối cảnh tạo nghĩa (mang tính ý niệm).

Việt Nam với bề dày lịch sử, có nhiều di sản văn hóa vật thể và văn hóa

phi vật thể. Các công trình kiến trúc cổ gắn liền với các chế độ quân chủ như

Thành Cổ Loa, Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hoàng thành, Đại nội, chùa Một

Cột, lăng tẩm; các công trình kiến trúc cổ gắn liền với tôn giáo, tín ngưỡng

như đình, chùa, đền, miếu, đạo quán...phủ khắp các tỉnh thành trên cả nước, từ

miền ngược tới miền xuôi, làng xã nào cũng có. Đó là một lợi thế lớn mà

NTSĐVN có thể khai thác bằng cách “tiếm đoạt” không gian di sản - bối cảnh

tạo nghĩa để thực hiện tác phẩm. Bản thân không gian di sản - bối cảnh tạo

nghĩa, đặc biệt là công trình kiến trúc cổ đã mang sẵn vẻ đẹp thời gian, vẻ đẹp

của đường nét, hình khối và nội hàm ý nghĩa lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng

truyền thống. Đây là một tiềm năng với trữ lượng lớn mà NTSĐVN có thể

khai thác, tạo nên một ấn tượng thị giác độc đáo và sự nhận diện giá trị lịch sử,

văn hóa nghệ thuật riêng biệt trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế.

Nghiên cứu mối quan hệ giữa tổ hợp đồ vật với không gian trưng bày

và không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa, có thể phân chia không gian kiến

tạo Sắp đặt thành hai loại: không gian trưng bày tác phẩm Sắp đặt đơn thuần;

và không gian tạo nghĩa cốt lõi cho tác phẩm Sắp đặt (H.3.3.1, tr.199). Qua đó,

66

Nghệ thuật Sắp đặt được phân chia thành hai loại tương ứng, mang đặc trưng

của hai loại không gian đã nêu, đó là: Sắp đặt định trường (Site Specific

Installation); và Sắp đặt phi định trường (Non Site Specific Installation).

Trong luận án này, NCS xin phép tạm thời sử dụng cụm từ Hán - Việt, khi

chưa tìm được cụm từ thuần Việt ngắn gọn thay thế, bản thân tiếng Anh cũng

rất dài và khó nhớ, để gọi tên và tiện theo dõi trong quá trình làm việc.

Vẫn biết chẳng nên có công thức nào cho việc sáng tạo và thưởng thức

nghệ thuật. Nếu có, người ta cũng cần phải quên đi trong quá trình sáng tác và

thưởng thức nghệ thuật. Tuy nhiên, ở góc độ nghiên cứu, việc đưa về công

thức có tính chất qui ước tạm thời trong trường hợp này nhằm làm rõ hơn vấn

đề cần chứng minh và thuận tiện hơn trong quá trình theo dõi. Nếu gọi nghĩa

của tổ hợp đồ vật kiến tạo Sắp đặt là A; không gian vật lý trưng bày tác phẩm

là Zero (không tạo nghĩa cho tác phẩm); không gian di sản - bối cảnh tạo

nghĩa là B, ta có thể tạm qui ước và rút ra công thức sau:

A + Zero + B = AB (Sắp đặt định trường bao hàm tổng nghĩa của

không gian tổ hợp đồ vật, không gian trưng bày và không gian di sản - bối

cảnh tạo nghĩa do tiếm đoạt, 3 trong 1). Khi di chuyển, tách Sắp đặt loại này

đến nơi khác, ý nghĩa sẽ thay đổi; Trường hợp này có thể liên hệ với ví dụ về

không gian cồng chiêng trong văn hóa phi vật thể, chẳng hạn. Khi biểu diễn

cồng chiêng ở không gian núi rừng, thì hiệu quả nghệ thuật và ý nghĩa sẽ khác

hẳn so với khi tách biệt chúng khỏi không gian đó. Thêm một liên hệ nữa, khi

chiếu phim, phông màu trắng đơn thuần chỉ làm nền để hiện thị hình ảnh;

nhưng trong công nghệ truyền thông quảng cáo đương đại, người ta có thể

tiếm đoạt toàn bộ bề mặt của một kiến trúc để chiếu những hình ảnh động, kết

hợp với chuyển động của đồ vật thực (chiếc xe Vespa được treo cao, có thể di

chuyển), các nhân vật trong đoạn phim, lúc được phóng to khi thu nhỏ đột

ngột rồi mất hút vào khung cửa của kiến trúc (chương trình quảng cáo xe

Vespa tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam). Trong trường hợp này, kiến trúc

67

không chỉ mang chức năng làm phông nền đơn thuần, mà đã bị tiếm đoạt để

tạo nghĩa cho hình ảnh theo ý đồ của chủ thể sáng tạo.

A + Zero = A (Sắp đặt phi định trường bao hàm tổng nghĩa của không

gian tổ hợp đồ vật và không gian trưng bày tác phẩm (2 trong 1). Khi di

chuyển, tách Sắp đặt loại này đến trưng bày ở nơi khác, ý nghĩa không thay

đổi. Nói cách khác, Sắp đặt phi định trường gồm mối quan hệ giữa không

gian tác phẩm và không gian trưng bày tác phẩm. Hầu hết các tác phẩm Sắp

đặt ở Việt Nam thuộc Sắp đặt loại này.

Qua những phân tích vừa nêu, có thể chia Sắp đặt thành hai loại cơ bản

với đặc điểm khác biệt về đặc trưng không gian và ý nghĩa qua bảng so sánh

dưới đây:

Sắp đặt định trường (Site Sắp đặt phi định trường

Specific Installtion) (Non Site Specific Installation)

Không gian môi trường cố Không gian môi trường mang

định, là thành tố kiến tạo, tạo nghĩa yếu tố phụ trợ, trưng bày, không tạo

cốt lõi cho tác phẩm nên không thể nghĩa cơ bản cho tác phẩm nên có

thay đổi. Mối quan hệ đặc trưng giữa thể thay đổi. Mối quan hệ đặc trưng

tổ hợp đồ vật với không gian trưng giữa tổ hợp đồ vật với không gian

bày và không gian di sản - bối cảnh trưng bày (2 trong 1).

tạo nghĩa (3 trong 1).

Ý nghĩa hoàn toàn thay đổi nếu Ý nghĩa không thay đổi nếu

di chuyển tác phẩm đến nơi khác. trưng bày tác phẩm ở nơi khác.

Tác phẩm gắn liền với không Tác phẩm mang ý nghĩa độc

gian di sản, môi trường đặc địa, kiến lập, không phụ thuộc bởi không

trúc, bối cảnh gắn liền với tôn giáo, gian di sản - bối cảnh, đặc địa, kiến

tín ngưỡng, lịch sử văn hóa tiêu biểu trúc cổ, nên có thể di chuyển dễ

nên không thể di chuyển. dàng.

Khai thác triệt để các yếu tố Chỉ đơn thuần sử dụng không

68

không gian di sản, thực địa, kiến trúc gian thực để trưng bày tác phẩm.

cổ, không gian ý niệm... để kiến xây

dựng tác phẩm.

Mục đích trọng tâm nhằm tiếm Mục đích trọng tâm không

đoạt không gian di sản, môi trường nhằm tiếm đoạt không gian môi

thực tại để tạo nghĩa (ý niệm). trường thực tại.

Nguồn: Nguyễn Hữu Đức

Từ vấn đề khái quát nêu trên, khảo sát thực tiễn sáng tác, sẽ thấy rõ

điều này. NTSĐVN giai đoạn này chủ yếu thuộc loại Sắp đặt phi định

trường (gắn liền với không gian trưng bày đơn thuần). Hầu như rất ít tác

phẩm Sắp đặt thuộc loại Sắp đặt định trường, mà chủ yếu thuộc loại Sắp

đặt phi định trường - loại có thể trưng bày ở nhiều nơi khác nhau mà không

làm tổn hại nhiều đến ý nghĩa và thông điệp cốt lõi của tác phẩm. Chẳng

hạn, khi chuyển tác phẩm Sắp đặt Chen lấn, Nấc thang hay bất cứ một Sắp

đặt nào tương tự, không được thiết lập trên cơ sở tiếm đoạt không gian di

sản - bối cảnh tạo nghĩa, đến trưng bày tại một địa điểm thông thường như

Bảo tàng, Gallery khác, ý nghĩa của các tác phẩm Sắp đặt dường như

không thay đổi. Như vậy, các tác phẩm Sắp đặt này vẫn giữ nguyên ý nghĩa

ban đầu, bởi chúng dừng lại ở không gian tổ hợp đồ vật và không gian

trưng bày tác phẩm mà thôi. Tất cả các tác phẩm Sắp đặt phi định trường,

có mối quan hệ chặt chẽ với không gian trưng bày đơn thuần, đều có thể

liên hệ với công thức tạm thời quy ước qua biểu đồ để tiện theo dõi trong

quá trình làm việc: A + Zero = A (H.3.3.1, tr.199).

Tuy nhiên, một số ít tác phẩm Sắp đặt Việt Nam giai đoạn này có thể

liên hệ với Sắp đặt định trường với ba không gian trong một, như: Không gian

nghệ thuật (1997), Ẩn náu (2000), Quảng trường thi ca (2008). Bởi lẽ, các

Sắp đặt này đã tiếm đoạt được không gian tạo nghĩa, mang ký hiệu ẩn dụ

mang nghĩa như: Không gian Văn Miếu Quốc Tử Giám  Không gian tri

69

thức, mở quốc; Không gian Đại Nội (Huế)  Không gian thượng tầng của

triều Nguyễn; Không gian Thư viện Hội đồng Anh  Không gian tri thức;

Không gian kiến trúc Quảng trường 3/ 2  Không gian văn hóa, lịch sử thời

Nguyễn. Toàn bộ những Sắp đặt định trường, có mối quan hệ tương hỗ với

không gian tiếm đoạt, tương ứng với công thức A + Zero + B = AB (H.3.3.1,

tr.199). Vậy không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa (B) được thiết lập như thế

nào? Có thể hiểu một cách đơn giản là: không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa

thuộc không gian tinh thần, là không gian vật lý mở rộng lãnh địa ý niệm.

Trong đó, không gian tinh thần, lãnh địa ý niệm được thiết lập từ các nhân tố

cơ bản như: Văn hóa; Lịch sử, ký ức; Tín ngưỡng, tôn giáo và không gian di

sản - bối cảnh, đặc địa. Dưới đây là một số tác phẩm Sắp đặt có thể liên hệ

với không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa, tuy chưa thật rõ ràng như một số

tác phẩm Sắp đặt định trường ở phương Tây và một số nước châu Á.

Khai thác không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa, tác phẩm Sắp đặt Ẩn

náu (2000) của Đặng Thị Khuê, gồm những đôi bàn chân gỗ, guốc mộc gắn

lên tường thành Đại Nội (kinh thành ở Huế) rêu phong, bên cạnh vết bom đạn

khoan sâu tạo thành hốc (H.3.3.2, tr.200). Tác phẩm Sắp đặt này gợi cho

người xem liên hệ đến quá khứ và hiện tại, ký ức và cuộc sống, những vết

thương và tội ác của chiến tranh mà chính con người vừa là nạn nhân vừa là

thủ phạm, là ý chí kiên cường không chịu khuất phục của một dân tộc bé nhỏ

phải đương đầu trong cuộc chiến không cân sức. Tác phẩm Sắp đặt này thuộc

loại Sắp đặt định trường bởi chính không gian di sản, môi trường thực địa với

bức tường thành rêu phong có vết bom đạn tạo nên bối cảnh, kết hợp với

những bàn chân gỗ đã tạo nên sự cộng hưởng nghệ thuật, và hình thành ý

nghĩa cốt lõi mang giá trị lịch sử, văn hóa nghệ thuật cho tác phẩm.

Tiếm đoạt hoàn toàn kiến trúc và không gian Quảng trường 3 - 2 ở Huế

để thực hiện tác phẩm Sắp đặt Quảng trường thi ca (H.3.3.3, tr.201), tác giả

Đinh Khắc Thịnh đã sử dụng trực tiếp kiến trúc Phương đình ở khu vực giữa

70

sân để làm thành một chiếc đèn kéo quân không lồ với ánh sáng điện và họa

tiết in trên bạt, tạo nên điểm nhấn hấp dẫn. Phần còn lại của tác phẩm này là

200 ngôi sao được làm từ khung gỗ, kính, cát và ánh sáng điện. Trên những

ngôi sao, người xem có thể thỏa sức tương tác, biểu lộ tình cảm, thái độ thông

qua việc vẽ, viết, ký tên, hoặc viết tên các nhà thơ, nhà văn hay người thân mà

mình yêu mến, ngưỡng mộ. Qua đó, tác phẩm Sắp đặt này đã thu hút được

hàng chục nghìn lượt người tham gia, tạo được ấn tượng tích cực trong việc

tiếm đoạt không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa để thực hiện tác phẩm. Tác

phẩm Sắp đặt Quảng trường thi ca được xem là một trong những Sắp đặt có

tính tương tác cao.

Tương tự, tác phẩm Sắp đặt Không gian nghệ thuật (1997) của Nguyễn

Văn Tiến và Trần Anh Quân tại tả vu ở Văn Miếu, Hà Nội, cũng là một trong

số trường hợp có thể liên hệ với Sắp đặt định trường (H.3.3.4, tr.201). Tổ hợp

đồ vật trong Sắp đặt này gồm: những tấm chiếu manh vẽ mũi tên, ký hiệu dị lạ

vắt lên tường; vải xô vẩy màu đỏ băng bó quanh thân cây; bình gốm treo lơ

lửng..., tạo nên một cảm giác u ám, ma thuật, gây sốc. Tác phẩm Sắp đặt này

tiếm đoạt được không gian văn hóa, lịch sử, nên trong dân gian thường gọi tác

giả với biệt danh “Tiến Văn Miếu”. Tác phẩm Sắp đặt này được xem là một

trong những tác phẩm Sắp đặt sớm nhất ở Việt Nam đã tiếm đoạt không gian di

sản - bối cảnh tạo nghĩa. Ở đây, tác giả luận án chỉ liên hệ Sắp đặt này trong sự

phân loại Nghệ thuật Sắp đặt, gắn với đặc trưng không gian di sản - bối cảnh

tạo nghĩa, chứ không có ý định bình luận về nghệ thuật và các khía cạnh khác

của tác phẩm Sắp đặt này. Tuy nhiên, tác phẩm Sắp đặt Không gian nghệ thuật

được nhìn nhận là tác phẩm Sắp đặt táo bạo, gây sốc mạnh và đánh dấu sự xuất

hiện hành vi tiếm đoạt không gian di sản để xây dựng tác phẩm ở Việt Nam.

Mặc dù, hình thức của tác phẩm Sắp đặt này không mấy thiện cảm đối với đại

đa số công chúng, khiến nhiều phản ứng và ý kiến trái chiều, nhưng rõ ràng nó

là tác phẩm có thể liên hệ với Nghệ thuật Sắp đặt định trường trong việc tiếm

71

đoạt không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa, gợi cho người xem, giới sáng tác

và nghiên cứu nghệ thuật nhiều suy ngẫm, bàn luận.

Trong khi đó, có thể dễ dàng đưa ra một số ví dụ về các Sắp đặt định

trường của nghệ sĩ quốc tế thực hiện khá hiệu quả việc “tiếm đoạt” không

gian thực địa, bối cảnh để tạo nghĩa cho tác phẩm như: Điển hình cho loại Sắp

đặt này có thể kể đến Cách đồng sét (1977), của Walter de Maria; Miệng núi

lửa Roden (1979), các Sắp đặt gắn với không gian kiến trúc của James Turrell,

Dan Flavin; Bọc nhà quốc hội Đức (1971 - 1995), Umbrellas USA – Japan

(1984 - 1991), Sắp đặt bọc các kiến trúc, bọc cầu của Christo; Nối dài Vạn Lý

Trường Thành 10.000 mét (1993), của Sài Quốc Cường…Tất cả những những

Sắp đặt này nếu di chuyển đến nơi khác, sẽ làm mất ý nghĩa cốt lõi của tác

phẩm bởi chúng có ba không gian trong một, bao gồm: không gian tổ hợp đồ

vật, không gian trưng bày và không gian tạo nghĩa. Liên hệ với công thức qui

ước tạm thời trong biểu đồ: A + Zero + B = AB (H.3.3.1, tr.199), chúng ta có

thể vận dụng, quy chiếu trong việc “đọc văn bản” của bất kỳ tác phẩm Sắp đặt

nào tương ứng. Cách tiếp cận này cũng chỉ là một trong vô số cách tiếp cận,

có tính chất tham khảo khi thưởng thức và nghiên cứu nghệ thuật mà thôi, bởi

lẽ bất cứ hiện tượng nào cũng sẽ có những trường hợp ngoại lệ, không thể

phân chia hay cắt nghĩa một cách rõ ràng, mạch lạc. Mặc dù vậy, yếu tố

không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa, các hiện vật thủ công truyền thống,

luôn mang sẵn vẻ đẹp thẩm mỹ và ký hiệu ẩn dụ về văn hóa, tâm linh, lịch sử

dân tộc, là một tiềm năng lớn mà Sắp đặt Việt Nam có thể khai thác, tiếm đoạt

không gian bối cảnh để tạo nghĩa cho tác phẩm.

Qua một số tác phẩm Sắp đặt vừa phân tích cho thấy, tổ hợp hiện vật

truyền thống có thể tương tác với không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa để

xây dựng tác phẩm. Yếu tố không gian di sản truyền thống biểu hiện rõ nét

trong NTSĐVN giai đoạn này, thông qua mối quan hệ tương hỗ, tạo hiệu quả

cộng hưởng về thẩm mỹ và ý nghĩa văn hóa, lịch sử. Có thể nhận biết yếu tố

72

này thông qua việc nhận biết 3 không gian trong 1 tác phẩm. Tuy nhiên, việc

khai thác không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa cho NTSĐVN còn nhiều hạn

chế so với tiềm năng di sản hiện có. Hầu hết các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam

thuộc Sắp đặt phi định trường, chủ yếu khai thác không gian tổ hợp đồ vật và

không gian trưng bày đơn thuần. YTTT cũng có thể nhận diện qua chất liệu

bản địa mà các nghệ sĩ ưa thích sử dụng trong tác phẩm.

2.1.3. Yếu tố chất liệu bản địa

Có thể nói, lịch sử nghệ thuật cũng chính là lịch sử chất liệu kiến tạo

nghệ thuật. Trong nghệ thuật giá vẽ, chất liệu thường được giới hạn là những

vật liệu, họa phẩm mà nghệ sĩ thường dùng để sáng tác. Chất liệu không chỉ là

vật chất biểu hiện chất cảm, kỹ thuật, dấu vết tạo hình của chủ thể sáng tạo,

mà hơn thế, trong Nghệ thuật Sắp đặt, phạm vi dùng chất liệu là vô hạn, được

hiểu theo nghĩa mở rộng bao gồm tất cả hiện vật có sẵn, những thành tố phi

vật thể như không gian, thời gian, quan niệm... để xây dựng tác phẩm. Nói

cách khác, mọi thứ đều có thể trở thành “chất liệu”, thậm chí với khả năng đối

thoại liên ngành của Sắp đặt, các lĩnh vực nghệ thuật khác (Điêu khắc, Hội

họa, Đồ họa, Video, Âm nhạc...) cũng có thể trở thành “chất liệu” cho sáng

tác Nghệ thuật Sắp đặt. Chất liệu bản địa ở phần này mang nội hàm vật chất

cụ thể, có thể nhìn thấy, sờ thấy (hiện vật, họa tiết, màu sắc...) và tinh thần

trừu tượng gắn liền với dân tộc (quan niệm, tư tưởng, không gian di sản...),

mang giá trị truyền thống. Đề cập về chất liệu trong Nghệ thuật Sắp đặt, tác

giả Kraevskaia Natalia nhấn mạnh: “Việc phát triển một ngôn ngữ sắp đặt đặc

biệt nhất định gắn liền với việc sử dụng các chất liệu” [106, tr.66]. Vậy yếu tố

chất liệu bản địa trong NTSĐVN giai đoạn này biểu hiện như thế nào?

Trong NTSĐVN giai đoạn này, chất liệu bản địa có thể hiện diện qua

hiện vật cụ thể, có thể nhận biết qua thị giác, một số trường hợp khác chỉ là

chất liệu tinh thần, tư tưởng, quan niệm truyền thống, chỉ có thể cảm thấy,

chiêm nghiệm mà khó nắm bắt một cách rành mạch. Nó được xem như chất

73

xúc tác, hoặc như “chất liệu” tinh thần cổ xưa mà các nghệ sĩ nương theo,

lồng ghép tư tưởng sáng tạo cá tính để tạo ra tác phẩm. Tác giả Kenzo Tange,

bậc thầy của kiến trúc sư Nhật Bản, đã chỉ rõ vai trò đặc tính của truyền thống,

chất liệu bản địa nói chung: “truyền thống như chất xúc tác, cái thúc đẩy một

phản ứng hóa học, nhưng không thể tìm thấy được trong kết quả cuối cùng.

Truyền thống có thể, chắc chắn vậy, tham dự vào công cuộc sáng tạo nhưng

riêng bản thân nó thì không mang tính sáng tạo” [87, tr. 224].

Hầu hết các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam giai đoạn này thường khai thác

trực tiếp các hiện vật, chất liệu bản địa phổ biến để xây dựng tác phẩm, chưa

vượt thoát ra khỏi ý nghĩa mặc định của đồ vật, chất liệu để thiết lập một ý

niệm mới, mang tính đa nghĩa. Chất liệu bản địa là những thứ có sẵn, gắn liền

với môi sinh, thổ nhưỡng (ví dụ Sơn ta, tre nứa, giấy Dó, rơm rạ...), thường có

nguồn gốc tự nhiên, là nguyên vật liệu để sản xuất các mặt hàng thủ công

truyền thống, nó thường mang tính địa phương, vùng miền, dễ hiểu, dễ được

công chúng đón nhận. Một số tác giả đã định danh với phong cách sử dụng

hiện vật thủ công - chất liệu bản địa thuộc thị giác, có thể nhìn thấy, sờ thấy

(đồ mã, gốm, tượng nhà mồ...) như Đặng Thị Khuê, Nguyễn Bảo Toàn,

Nguyễn Minh Thành, Bùi Công Khánh, Phan Thảo Nguyên... Đồ mã, tượng

nhà mồ, gốm sứ trong chiều dài lịch sử dân tộc, “được xem là một kho lưu trữ

thông tin, phổ biến tri thức về đẳng cấp xã hội, về hệ thống kinh tế và về thẩm

mỹ học truyền thống”. Thậm chí, một số nghệ sĩ còn táo bạo sử dụng những

chất liệu thuộc thực phẩm, hết sức bất ngờ như rau muống, bánh đa (Hoàng

Dương Cầm), mì ăn liền (Lê Vũ), cơm (Trần Lương) để thực hiện tác phẩm.

Nhận xét về hiện tượng này, tác giả Kraevskaia Natalia cho rằng: “các họa sĩ

Việt Nam tỏ ra thích lựa chọn những thứ có liên quan đến phong cách sống cổ

truyền...những thứ gắn liền với đời sống nông thôn trong một xã hội nông

nghiệp”, đồng thời bà đánh giá hiệu quả của việc sử dụng chất liệu có phần

đơn giản, dễ dãi, mang cảm tính: “Hiệu quả mong đợi từ việc lựa chọn chất

74

liệu như vậy không để tạo ra một khái niệm mà để tạo ra một thứ thẩm mỹ có

thể nhìn thấy và sờ thấy được [106, tr.67]. Tuy nhiên, những nỗ lực không

ngừng sáng tạo của nghệ sĩ Việt Nam, tiếp cận đa dạng chất liệu bản địa đã

mang lại hiệu quả đích thực.

Khách quan nhìn nhận, một số tác phẩm Sắp đặt Việt Nam giai đoạn

này đã khai thác hiệu quả “chất liệu” vật chất và tinh thần bản địa thông qua

mối liên hệ giữa những giá trị truyền thống, nguyên lý triết học phương Đông

và khái niệm luận phương Tây để xây dựng tác phẩm. Tiêu biểu là các tác

phẩm Sắp đặt Tên tôi là...của tác giả Trần Hậu Yên Thế, Một tâm hồn của tác

giả Đặng Thị Khuê, Chắp tay sen và nụ cười Phật của Lê Thừa Tiến. Những

tác phẩm này đã đi sâu vào khai thác “chất liệu” bản địa nhằm tạo lập ý niệm,

thị giác hóa nội tâm cảm nhận, biểu đạt cái vô hình, trừu tượng của văn hóa

truyền thống trong một bối cảnh mới. Chất liệu bản địa thuộc về khách thể

sáng tạo. Nói như tác giả Trần Hậu Yên Thế: “chất liệu bản địa...là tri thức

truyền thống”. Những chất liệu được định tính là bản địa, truyền thống của

Việt Nam như đã nêu tạo cho các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam giai đoạn này

có được ấn tượng thị giác mạnh, truyền tải hiệu quả thông điệp của tác phẩm,

là cầu nối giữa truyền thống với hiện đại. Những đóng góp của chất liệu bản

địa (vật thể và phi vật thể) góp phần tạo cho hình thức và chủ đề của

NTSĐVN giai đoạn này một diện mạo độc đáo, mang đậm tính dân tộc trong

ngôn ngữ biểu hiện mới.

Xã hội nào thì nghệ thuật đó. Thông qua chất liệu, có thể nhận biết

phần nào nền văn hóa của chủ thể sáng tạo. Đối với các nước công nghiệp

phát triển, xã hội gắn liền với văn hóa tiêu thụ, có thể thấy rõ xu hướng là

phần lớn tác phẩm Sắp đặt của họ được hình thành từ sản phẩm công nghiệp,

chất liệu nhân tạo, khoa học kỹ thuật hiện đại. Minh chứng là các thực hành

nghệ thuật đầu tiên như Bánh xe (1914), Bồn tiểu (1917) của Marcel

Duchamp, đã sử dụng trực tiếp những hiện vật có sẵn (ready made objects)

75

làm đảo lộn giá trị thẩm mỹ, mở ra một triết lý nghệ thuật mới; Chất liệu nhân

tạo cũng thường thấy trong tác phẩm Sắp đặt của Andy Wahol, Dan Flavin,

Walter de Maria,...

NTSĐVN được xây dựng từ chất liệu bản địa đã hiển nhiên có nhiều

lợi thế và tạo ra sự khác biệt. Có thể nhận biết biểu hiện YTTT từ góc nhìn

chất liệu bản địa vật thể và phi vật thể. Bên cạnh những điểm thuận lợi của

chất liệu bản địa như đã phân tích, thì nó cũng có những hạn chế nhất định.

Đề cập vấn đề này, tác giả Vũ Huy Thông cho rằng: “Nghệ thuật Sắp đặt

không chỉ là những minh họa cho ý tưởng, cấu tứ của tác giả bằng thế giới

không gian vật chất có liên hệ trực tiếp và mặc định ...ngôn ngữ mang tính

biểu tượng cho những ám thị tâm lý phổ thông” [135] mà cần vượt thoát khỏi

ranh giới ý nghĩa và định tính vật lý thông thường của chất liệu để thị giác

hóa cảm nhận của nghệ sĩ với ý niệm mới.

2.2. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua chủ đề tác phẩm

Nghệ thuật nhìn từ góc độ Ký hiệu học, tác phẩm được xem như một

văn bản, bao giờ cũng gồm hai phần: Cái biểu đạt (signifiant) và cái được

biểu đạt (signifie’); đồng thời tiếp cận từ góc độ Tiếp biến văn hóa, xem xét

mối quan hệ giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Trong phần này, đề tài sẽ tiến

hành phân tích, chứng minh để chi ra biểu hiện của YTTT qua chủ đề của

NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018.

2.2.1. Yếu tố truyền thống qua chủ đề văn hóa, tín ngưỡng

YTTT xuất hiện trong nhiều chủ đề của NTSĐVN giai đoạn 1995 -

2018, trong đó nổi bật là chủ đề văn hóa, tín ngưỡng. YTTT luôn có vai trò

gắn kết, là nền tảng cho mọi sáng tạo nghệ thuật. Trong lĩnh vực âm nhạc, hầu

hết những bài hát đi cùng năm tháng, đọng lại trong lòng người yêu nhạc, đều

chịu ảnh hưởng tích cực từ các giai điệu, chất liệu dân ca, hò, lý. Kiến trúc

thời cận đại và hiện đại ở Hà Nội, một số công trình đã kết hợp hài hòa giữa

76

truyền thống với hiện đại, mang lại vẻ đẹp độc đáo như: Bảo tàng lịch sử Việt

Nam, Thủy tọa, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam...là những ví dụ có thể liên hệ.

Trong lĩnh vực điện ảnh, yếu tố tạo hình dân gian cũng được các đạo

diễn khai thác khá hiệu quả. Tính truyền thống và hiện đại kết hợp nhuần

nhuyễn, tạo nên nền điện ảnh Việt Nam, như nhận xét của tác giả Ngô

Phương Lan (2005), Tính hiện đại và tính dân tộc trong điện ảnh Việt Nam,

Nxb. Văn hóa - Thông tin, kết luận: “Trong hầu hết các phim thành công, tính

dân tộc có sự giao thoa và kết hợp hài hòa với tính hiện đại” [50, tr.264]. Bàn

về vấn đề phát huy bản sắc truyền thống dân tộc, các tác giả Nguyễn Mạnh

Lân - Trần Duy Hinh - Trần Trung Nhàn (2002), Văn học dân gian và Nghệ

thuật tạo hình điện ảnh, Nxb. Văn học, Hà Nội, nhấn mạnh: “Văn học dân

gian đã và đang giúp cho điện ảnh có một ý nghĩa và phong vị nghệ thuật

riêng rất độc đáo,...tỏa sáng bởi tính hiện đại và bản sắc văn hóa dân tộc của

mỗi quốc gia” [51, tr.250].

Trở lại lĩnh vực nghệ thuật tạo hình, YTTT đã khơi nguồn cảm hứng

sáng tạo, xuất hiện trong nhiều tác phẩm và làm nên tên tuổi của không ít

nghệ sĩ trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Trong nghệ thuật thị giác đương đại,

YTTT đang tiếp tục có những đóng góp đáng kể, là thành phần, chất liệu kiến

tạo cho hình thức và chủ đề của tác phẩm, góp phần tạo nên đặc điểm, giá trị

văn hóa, nghệ thuật của NTSĐVN giai đoạn này. Trong đó, nổi bật là việc

khai thác truyền thống để để biểu đạt văn hóa, tôn vinh giá trị truyền thống và

phản ánh đời sống tín ngưỡng dân gian.

Qua kết cấu và tên tác phẩm Sự gặp gỡ của những nền văn hóa (1998)

(H.4.1.4, tr.206) của Đặng Thị Khuê thể hiện một câu chuyện về một thế giới

đa văn hóa, thông qua ngôn ngữ Sắp đặt. Tác giả phát những chiếc mặt nạ bồi

giấy (đồ mã mang từ Việt Nam sang Mỹ) cho công chúng ở nhiều quốc tịch

khác nhau, yêu cầu họ tô vẽ chân dung lên đó. Sau khi thu lại, tác giả sử dụng

gắn lên trên tấm kính lớn của phòng trưng bày, kết hợp với hệ thống dây sợi,

77

tạo bố cục hình bình hành. Kết quả thật thú vị, cùng một cốt mặt giấy bồi, mỗi

hình tô, vẽ lên đó đều tự nhiên biểu hiện một diện mạo, màu sắc đặc trưng,

khác biệt của từng dân tộc (Mỹ, Trung Quốc, Nhật…). Do đó, tác giả đã lấy

chính kết quả của ý tưởng này đặt tên cho tác phẩm. Bên cạnh đó, bà còn đính

những chiếc mặt nạ chưa vẽ lên tác phẩm, để sẵn màu, bút, công chúng có thể

tiếp tục tương tác, tự tô vẽ trong quá trình tham dự. Thông điệp của tác phẩm

gợi cho người xem liên tưởng tới sự bình đẳng, chung sống hòa bình của các

dân tộc, cũng như sự đa dạng biểu đạt văn hóa, đa sắc màu của các nền văn

hóa, nghệ thuật trong thời đại toàn cầu hóa.

Khai thác hình tượng di sản, hiện vật truyền thống để tôn vinh văn hóa

truyền thống là trọng tâm mà Sắp đặt Di sản (2003), Địa linh (2016) (H.4.1.2,

tr.203) hướng đến, sử dụng những mô hình ngôi nhà truyền thống bằng gốm

đất nung, cắm trên những thanh sắt, xếp thành hàng lô nhô, vươn cao với ý

nghĩa tôn vinh và đầy tự hào. Tương tự, tạo dựng một không gian với hình

thức siêu thực, Sắp đặt Tri âm (2015), cũng hướng tới tôn vinh di sản Ca Trù

văn hóa phi vật thể độc đáo của dân tộc.

Thể hiện một xã hội Việt Nam thu nhỏ, thông qua hình tượng những

con rối nước, tác giả Chu Lượng đã thực hiện tác phẩm Sắp đặt Những gương

mặt cuộc đời (H.4.1.4, tr.204), triển lãm tại Mỹ năm 2007. Trong tác phẩm

Sắp đặt này, tượng rối nước là sản phẩm kết tinh từ nền văn minh lúa nước,

thấm đẫm những giá trị tạo hình dân gian và giá trị văn hóa bản địa, được sử

dụng là thành phần kiến tạo tác phẩm. Đa số những con rối đã trở thành

những biểu tượng đặc trưng, giàu ý nghĩa châm biếm, phản biện như chú Tễu,

thằng Bờm, những gương mặt nông dân chất phát, hiền hậu, được tạo hình

theo lối dân gian, phủ sơn ta truyền thống. Chúng tương tác với nhau trong

mối quan hệ của tổ hợp đồ vật, tạo nên một hình ảnh ẩn dụ về xã hội Việt

Nam đương đại trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Hướng đến các giá trị văn hóa

thông qua họa tiết trang trí và hình tượng cách điệu, kỹ thuật, chất liệu thủ

công bản địa cũng thường xuyên xuất hiện trên hầu hết các tác phẩm Sắp đặt

sử dụng giấy Trúc chỉ của Phan Hải Bằng. Trong Sắp đặt Trúc chỉ lời của

78

sông (2016), bột giấy Trúc chỉ tạo thành những hoa văn trang trí cho toàn bộ

bề mặt tác phẩm, gồm những tấm vải dài treo trên cao, tạo nhịp điệu ẩn dụ về

những dòng sông, kết hợp với nhiều lồng đèn tỏa sáng, có phần chao đèn là

những chiếc mẹt tre truyền thống đặt phía dưới nền (H.4.1.5, tr.205). Hoa tiết

hình thành từ bột giấy được “seo” trên nền vải, kết hợp với ánh sáng điện, tạo

nên thẩm mỹ thị giác vừa lung linh, mới lạ, vừa ấm cúng, gần gũi bởi tính ứng

dụng linh hoạt trên các đồ vật. Nhận xét về nghệ thuật Trúc chỉ, tác giả Phan

Hải Bằng phát biểu: “Trúc chỉ hoàn toàn có thể là tác phẩm nghệ thuật tự thân

mang đậm ngôn ngữ đồ họa, sẵn sàng “đối thoại” với những tín hiệu tạo hình

tiếp tục đặt lên trên nó”; Trúc chỉ có thể kết hợp với các làng nghề thủ công

truyền thống để cho ra đời nghệ phẩm độc đáo”. Trong Sắp đặt Trúc chỉ lời

của sông, Trúc chỉ không chỉ dừng lại ở chất liệu làm nền mà đã trở thành

phương tiện tạo hình nghệ thuật mang giá trị văn hoá truyền thống.

Tạo dựng một không gian Sắp đặt giàu YTTT, tác phẩm Một tâm hồn

(H.4.1.7, tr.206) của Đặng Thị Khuê, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ tinh thần thẩm

mỹ truyền thống, từ chất liệu tự nhiên, màu sắc tượng trưng, cho tới lối tạo

hình mộc mạc theo phong cách dân gian truyền thống. Màu sắc theo quan

niệm ngũ hành trong những dải khăn mang đậm văn hóa, phản ánh quan niệm

thẩm mỹ chịu ảnh hưởng từ triết lý âm dương ngũ hành, hiện diện trên trang

phục hội hè truyền thống của những thôn nữ nơi miền quê và đời sống làng xã

cổ xưa. Những bức mành được bố cục phân lớp không gian, tạo nên cái nhìn

mờ ảo, phản ánh chiều sâu nội tâm đặc trưng của người Việt. Những đôi guốc

mộc, gắn liền với đời sống của người Việt một thời, được tạo hình giản lược,

khúc triết, cách điệu ở phần mũi guốc, tạo nên vẻ đẹp dung dị, ẩn dụ sự có

mặt của con người. Ánh sáng hắt qua mành từ trong ra, tạo một không gian

mờ tỏ, nhiều lớp với cảm nhận vừa cụ thể vừa siêu hình, ẩn dụ một tâm hồn

phương Đông sâu kín, đằm thắm. Tác phẩm Sắp đặt Một tâm hồn đã lấy cái

hữu hình để biểu đạt cái vô hình theo quan niệm truyền thống của phương

Đông. Tổng thể Sắp đặt tạo nên một hệ thống ký hiệu trong mối quan hệ chi

79

phối lẫn nhau nhằm mục đích biểu đạt ý nghĩa văn hóa phản ánh vấn đề “tâm

hồn” trừu tượng từ cách nhìn, lối biểu hiện theo quan niệm dân gian. Nói cách

khác, tác phẩm Sắp đặt Một tâm hồn đã thị giác hóa cảm nhận nội tâm đầy ấn

tượng thông qua tổ hợp hiện vật thủ công truyền thống.

Tương tự, tác phẩm Sắp đặt Dấu ấn (H.4.1.9, tr.207) đã thiết lập được

một không gian văn hóa thông qua tổ hợp đồ vật truyền thống, từ những bức

tranh bản rập cho tới những tấm gỗ khắc mẫu các họa tiết cổ để người xem có

thể tự do tương tác, trải nghiệm thực hiện bản rập. Chú thích tác phẩm Sắp đặt

Dấu ấn, tác giả viết: “Khi người xem thực hành nghệ thuật qua hành vi, sự

khám phá “nội tâm” và “ngoại giới” sẽ xảy ra cùng lúc ở người xem, gợi nên

những suy tư về di sản: phải chăng đó là dấu ấn người xưa để lại, ghi dấu tâm

hồn? Bảo lưu ký ức? Và định vị nhân cách qua nghệ thuật?”. Dấu ấn là Sắp

đặt mang đậm yếu tố thẩm mỹ và văn hóa truyền thống. Qua đó, đánh thức

người xem suy ngẫm và có thể đặt ra nhiều câu hỏi tương tự trong quá trình

tương tác với tác phẩm.

Trong đời sống nông nghiệp, chiếc nón đã trở thành vật dụng quen

thuộc, biểu tượng văn hóa của phụ nữ Việt Nam. Thực hiện tác phẩm Sắp đặt

Dưới giàn Thiên Lý (H.4.1.8, tr.206), tác giả Đinh Khắc Thịnh đã sử dụng số

lượng lớn những chiếc nón bố cục phân lớp không gian hướng dọc, đính

những thanh gương phía dưới tại không gian ngoài trời ở Festival Huế năm

2005. Tác phẩm Sắp đặt này không chỉ mang đến sự thích thú cho người xem

bởi vẻ đẹp tạo hình khối khúc triết của những chiếc nón, vẻ thơ mộng của nó

trong mối quan hệ tổ hợp đồ vật, ánh sáng chuyển động lấp lánh phản chiếu từ

những thanh gương, mà còn có thể dễ dàng nhận diện thông qua thẩm mỹ và

giá trị văn hóa riêng biệt của người Việt. Tác phẩm Sắp đặt Dưới giàn Thiên

Lý vừa chứng minh được sự mở rộng ranh giới của đồ vật thủ công trong nghệ

thuật, vừa tạo ra sự quảng bá về nét đẹp văn hóa trong con mắt bạn bè quốc tế,

80

góp phần giúp cho công chúng biết rõ hơn về làng nghề làm nón ở Huế, tác

động tích cực trở lại sự phát triển của làng nghề làm nón truyền thống.

Bên cạnh một số ký hiệu mang tính quốc tế, mỗi đồ vật lại có ký hiệu

riêng tương ứng với từng nền văn hóa. Nghiên cứu về đặc tính của ký hiệu

sân khấu, học giả Erika Fischer Lichte cho rằng: “Một đồ vật bất kỳ hoạt động

như một ký hiệu trong một nền văn hóa...để biểu thị chính cái ký hiệu mà nó

nhằm diễn tả. Nhờ cái năng lực đặc biệt này..., một đặc tính đặc trưng chung

đối với những ký hiệu thẩm mỹ là ký hiệu của ký hiệu” [114, tr.341]. Như vậy,

hiện vật với tạo hình và trang trí truyền thống đã mang sẵn ký hiệu thẩm mỹ

và ý nghĩa, tín ngưỡng bản địa. Bản thân đồ mã đã mang sẵn ký hiệu tâm linh,

khi kiến tạo Sắp đặt Thông điệp gửi cõi vĩnh hằng (2012) của Đặng Thị Khuê

chẳng hạn (H.4.1.15, tr.210), nó tiếp tục tạo nghĩa cho tác phẩm, làm nên một

nghĩa kép vừa mang ý nghĩa tâm linh giao tế với linh hồn người xấu số trong

trận sóng thần kinh hoàng năm 2011 tại Nhật Bản vừa tạo nên một ký hiệu

thẩm mỹ qua việc tạo dựng không gian nghệ thuật, bố cục màu sắc, hình khối

của lửa và sự tương tác của người xem trực tiếp tham gia hóa vàng theo quan

niệm tín ngưỡng của người phương Đông, tạo nên một cảm nhận thú vị, thực

hư trong trải nghiệm nghệ thuật và niềm tin thông linh vô hình giữa hai cõi.

Tác phẩm Sắp đặt Thông điệp gửi cõi vĩnh hằng không chỉ mang tính thời sự

mà còn cho thấy khả năng biểu đạt của YTTT, hiện vật mỹ thuật, đồ thủ công

truyền thống có tiềm năng biểu đạt nhiều lớp ý nghĩa trong vấn đề phản ánh

đương đai, tạo cho truyền thống một đời sống mới trong biểu hiện nghệ thuật,

mở rộng ranh giới thẩm mỹ và xóa nhòa ranh giới địa lý.

YTTT, hiện vật thủ công truyền thống xuất hiện khá nhiều trong tác

phẩm Sắp đặt của Nguyễn Bảo Toàn, Đặng Thị Khuê, Nguyễn Minh Thành,

Trần Hậu Yên Thế, Đinh Khắc Thịnh, Phan Thảo Nguyên, Phan Lê Chung,...

Một số tác phẩm Sắp đặt sử dụng trực tiếp các hiện vật, màu sắc, họa tiết

truyền thống để xây dựng tác phẩm. Các đặc điểm tạo hình khối giản lược,

81

màu sắc tượng trưng của đồ mã trong tác phẩm Sắp đặt Ký tự, Nguyện cầu,

Thông điệp gửi cõi vĩnh hằng, Một câu chuyện như mọi câu chuyện khác, tạo

dựng một không gian mang ý niệm tâm linh từ chính những hình khối tự thân,

màu sắc của đồ vật, và ý nghĩa của chúng theo quan niệm tín ngưỡng dân gian.

Màu sắc đen, đỏ mang ký hiệu ẩn dụ về triết lý âm dương, tính tượng trưng,

ước lệ. Ký hiệu ẩn dụ thời gian của đêm và ngày thông qua màu sắc trang trí

đĩa sơn mài và những cánh tay thô mộc trong tác phẩm Sắp đặt Ngày và đêm

của Đặng Thị Khuê, đã tạo cho nội dung tác phẩm nhiều ý nghĩa, mang tính

gợi mở chứ không đóng khuôn, mặc định. Qua đó, người xem thỏa sức liên

tưởng đến nhiều vấn đề, quan niệm trong cuộc sống như: triết lý chữ “Duyên”

của Phật giáo; quan niệm tam tài về thân phận con người giữa trời cha và đất

mẹ, về mối giao hòa, đối lập và chi phối lẫn nhau theo quy luật âm dương ngũ

hành.

Xây dựng nội dung biểu đạt tín ngưỡng dân gian truyền thống, tác

phẩm Sắp đặt Cầu mưa (2016) (H.4.1.12, tr.209) đã tạo dựng một không gian

gồm hình tượng con cóc kết hợp với đồ gốm, thẻ tre, rơm, đèn dầu... Các cột

gốm được tạo lập từ nhiều bình gốm xếp chồng lên nhau với hình tượng con

cóc ở đầu cột. Các thẻ tre được tạo hình răng cưa, khắc họa tiết tựa như bùa

chú, cắm xuống đất. Đặc biệt là hình tượng cóc vàng, kích thước lớn, đặt ở

trung tâm không gian tác phẩm, có thể phun mưa và phát ra tiếng âm thanh

khi người tương tác bật công tắc điện. Hành vi bật hay tắt công tắc điện của

người tương tác quyết định trạng thái động hay tĩnh của tác phẩm Sắp đặt

này .Sử dụng tổ hợp hiện vật thủ công, họa tiết truyền thống, khai thác hình

tượng con cóc trong cốt chuyện dân gian, tác giả Nguyễn Bảo Toàn đã tạo

dựng một không gian tín ngưỡng mang đậm văn hóa của nền văn minh lúa

nước.

Tương tự, khai thác chủ đề tín ngưỡng dân gian, tác phẩm Sắp đặt

Nguyện cầu (2007) (H.4.1.13, tr.209) trưng bày tại sân Bảo tàng không gian

82

văn hóa Mường, với khung tre quy mô lớn, gắn nhiều cánh tay gỗ, ở giữa

dựng cây nêu treo đồ mã đủ màu sắc, tạo nên một không gian tâm linh giữa

núi rừng thiên nhiên. Hình tượng cây nêu, đồ mã, những cánh tay Phật, tất cả

toát nên một ý nghĩa tín ngưỡng bản địa của người Việt, một hình thức văn

hóa cổ xưa trong thực hành tín ngưỡng xua đuổi tà ma, cầu may trong mỗi dịp

tiễn năm cũ đón năm mới. Tham gia tương tác với tác phẩm này, công chúng

tự do hóa vàng trên không trung. Hình tượng, màu sắc đồ mã, ánh sáng lửa,

khói là sợi dây quan trọng trong tác phẩm, là phương tiện biểu hiện nghệ thuật

và giao tiếp với thế giới tâm linh, phản ánh tín ngưỡng dân gian của cộng

đồng nông nghiệp trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Khai thác yếu tố thẩm mỹ và văn hóa truyền thống để biểu đạt ý nghĩa

tín ngưỡng, tượng rối nước cũng được tác giả Chu Lượng sử dụng khá thành

công trong tác phẩm Sắp đặt Nhân gian (H.4.1.16,tr.211), mang lại ấn tượng

thị giác và cảm quan về một không gian tâm linh của ngày xá tội vong nhân

truyền thống. Hình tượng một bà cụ với vẻ mặt hiền hậu, trang phục giản dị

đang làm lễ cúng cháo cho những vong hồn cô quả, cơ nhỡ, phản ánh một tín

ngưỡng dân gian bản địa, một nét văn hóa đầy tính nhân văn trong đời sống

cộng đồng văn minh lúa nước. Trong tư tưởng Phật giáo, ngày rằm tháng bảy

là ngày lễ Vu Lan với ý nghĩa trang nghiêm, tôn kính ngày báo hiếu cha mẹ.

Nhìn chung, các tác phẩm Sắp đặt vừa phân tích ở trên đã đem đến một

sức sống mới cho những con rối nước truyền thống, từ sân khấu bước sang

Nghệ thuật Sắp đặt và vươn tới sân chơi quốc tế để lan tỏa những giá trị văn

hóa nghệ thuật và lịch sử truyền thống.

Sử dụng đồ mã, gốm, nến, bùa chú kết hợp với các đồ vật như dép cao

su, rơm rạ, cát sỏi để tạo dựng tác phẩm Sắp đặt Đồng đội với một không gian

tâm linh nhằm tưởng nhớ những chiến binh tử trận. Tổ hợp đồ vật được bố

cục theo chiều dọc, các hình nhân bằng gốm được tạo hình giản lược, treo lơ

lửng, tạo thành nhịp điệu. Cát, sỏi nước tựa như hố bom, ẩn dụ dấu vết khốc

83

liệt của chiến tranh. Các cốt đồ mã là những khối rỗng bám vào hai cột gỗ hai

bên ẩn dụ những linh hồn đồng đội đã ngã xuống. Tác phẩm gợi cho người

xem về một không gian tâm linh, về sự ám ảnh của chiến tranh, về sự tưởng

nhớ tới những con người đã xả thân cứu nước. Tuy nhiên, tác phẩm Sắp đặt

này có phần rườm rà, minh họa và hạn chế ở tính tương tác. Nếu Sắp đặt Rằm

tháng bảy là không gian tưởng nhớ tới những người xấu số trong trận Mỹ ném

bom tại phố Khâm thiên và những cô hồn cơ nhỡ theo quan niệm dân gian; thì

Sắp đặt Đồng đội và Hối tụ là sự tri ân, tưởng niệm đến những người lính đã

“sẵn sàng chết để bảo vệ sự sống”, lúc tuổi mới chớm đôi mươi: “Chưa kịp

yêu một người con gái/ Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai” (Trần Mạnh Hảo).

Đặc biệt, hình tượng những người lính đã hy sinh được tác giả xây dựng

thông qua lối tạo hình dân gian - những hình nhân xếp hàng dài, tạo thành

tuyến nhân vật với nhịp điệu uyển chuyển tựa như đoàn quân ra trận mà linh

hồn họ đã kết tụ, bất tử. Những linh hồn ấy mãi được trân trọng, tưởng nhớ,

mà người đương đại chỉ sợ vô tình làm kinh động đến vong linh họ: “Đò xuôi

Thạnh Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm” (Lê Bá Dương). Tác

phẩm Sắp đặt Rằm tháng bảy, Đồng đội và Hối tụ đã sử dụng hiệu quả yếu tố

truyền thống, đồ thủ công và quan niệm dân gian trong việc tạo lập một

không gian tâm linh, huyền ảo.

Hướng đến không gian tâm linh, tác phẩm Sắp đặt Rằm tháng Bảy

(H.4.2.22, tr.214), Nguyễn Bảo Toàn sử dụng ánh sáng nến kết hợp với “hình

nhân - bùa chú” bằng gốm, tạo dựng một không gian ánh sáng và màu sắc

linh thiêng gắn liền với tín ngưỡng và không khí cầu nguyện của lễ “Xá tội

vong nhân” truyền thống. Đồng thời, những ám ảnh mà ông từng chứng kiến

về cái chết của những người dân vô tội tại phố Khâm Thiên trong đợt ném

bom B52 của giặc Mỹ năm 1972 cũng là lý do thúc đẩy tác phẩm Sắp đặt

Rằm tháng Bảy ra đời. Nguyễn Bảo Toàn cũng rất thành công trong nhiều tác

84

phẩm Sắp đặt sử dụng thẩm mỹ tạo hình, trang trí truyền thống với màu sắc

tượng trưng theo quan niệm dân gian về chủ đề tín ngưỡng và ký ức lịch sử.

Phản ánh vấn đề văn hóa, tín ngưỡng, việc sử dụng những nén nhang,

kết hợp với những bức tranh kiến tạo tác phẩm Sắp đặt Đồng lúa (H.4.1.17,

tr.211) của Nguyễn Minh Thành, tạo ra những ký hiệu kép trong tác phẩm.

Những nén nhang là thứ phổ biến, chất liệu bản địa, không thể thiếu khi thực

hiện nghi lễ tín ngưỡng của người Việt, có tác dụng như một phương tiện

mang ký hiệu “thông linh” truyền thông tin, kết nối lời hảo cầu của con người

trong quá trình giao tế với thần linh. Những nén nhang cắm ngược sử dụng

trong tác phẩm Sắp đặt Đồng lúa tiếp tục tạo ra ký hiệu thẩm mỹ thông qua

màu sắc, hình khối..., ẩn dụ về chiến tranh, về những đau thương mất mát, về

sự hy sinh đổ xương máu và tinh thần kiên cường, bất khuất chống lại ngoại

xâm của một dân tộc nhỏ bé trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong văn

hóa, văn học và nghệ thuật, cây tre được xem là biểu tượng với sức sống

mãnh liệt, mang nhiều phẩm chất cao quý của dân tộc. Hoặc ở khía cạnh khác,

người xem cũng có thể liên tưởng đến mặt trái của cuộc cải cách ruộng đất

năm 1953, với khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, một số người đã bị tố, bị quy

kết oan uổng là thành phần địa chủ, do sở hữu nhiều ruộng đất, khi ông “Đội”

thực hiện nhiệm vụ “xâu chuỗi, bắt rễ” như nhà văn Triệu Bôn đã mô tả sinh

động trong cuốn Những cơn co giật của đất. Từ những hệ thống ký hiệu trong

Sắp đặt, công chúng có thể thỏa sức liên tưởng theo nhận thức, trải nghiệm,

chiêm nghiệm của bản thân mỗi người.

Lấy cảm hứng từ đời sống tín ngưỡng dân gian, với lối tạo hình giản

lược, tác phẩm Sắp đặt Hạt gạo, giọt nước, tiếng chuông ngân (1997)

(H.4.1.18, tr.212), mang đậm giá trị thẩm mỹ và tín ngưỡng bản địa. Xây

dựng tác phẩm Sắp đặt này với những chân dung đại diện cho ba thế hệ, ba

tầng lớp tiêu biểu trong xã hội Việt Nam. Các hình tượng chân dung được tạc

ngay trên thân gỗ, bố cục theo những lớp lang trên dưới một cách đồng hiện,

85

giữ nguyên chất cảm thô mộc của thớ gỗ. Gạo, bát nước, ba chiếc chuông nhỏ

được treo trên những ô khoét sâu vào thân gỗ, là thành phần kiến tạo tác phẩm.

Tác phẩm Sắp đặt này mang vẻ đẹp tạo hình giản lược, dung dị với những vật

dụng đời thường vô cùng gần gũi, phổ biến trong đời sống đã trở nên sống

động, trong một đời sống thẩm mỹ mới. Tác phẩm Sắp đặt Hạt gạo, giọt nước,

tiếng chuông ngân khiến cho người xem liên tưởng đến cội nguồn lịch sử dân

tộc và phần nào nhận thức về sự thiêng liêng từ những thứ hết đỗi thân thuộc

mà chứa đựng cả vật chất và tinh thần thiết yếu, làm nên cuộc sống. Chú thích

tác phẩm này, Đặng Thị Khuê viết: “Giọt nước, hạt gạo, tiếng chuông ngân -

ba thứ đó làm nên đời sống, làm nên sự tồn tại cộng đồng, làm nên sự trường

tồn văn hóa, làm nên văn minh và những giá trị đích thực của chính tâm hồn”.

Đây là phần gợi ý cốt lõi của tác phẩm mà tác giả muốn đưa ra để người xem

cùng chiêm nghiệm, suy ngẫm. Phải chăng, tín ngưỡng dân gian của người

Việt, gợi cho ta liên tưởng ba cột này ẩn dụ ba “cây hương lớn” biểu tượng

của cột thông linh, nối giữa đất với trời, nối giữa ước vọng của con người với

các đấng thần linh, nối tâm tưởng với cõi thiên đàng?

Cảm hứng xuất phát từ tín ngưỡng dân gian, tác phẩm Sắp đặt Vòng

quay cuộc đời (2016) (H.4.1.19, tr.212) của Phan Lê Chung đã sử dụng tổ hợp

các hình nhân thế mạng và quan niệm về màu sắc để biểu đạt ý tưởng. Các

hình nhân thế mạng được phun màu ngũ sắc với quan niệm âm dương ngũ

hành, tương khắc tương sinh và hơn nữa nó tương ứng với năm phương và

gắn liền với mệnh của mỗi người. Những hình nhân thế mạng trong Sắp đặt

Vòng quay cuộc đời chuyển động xoay tròn liên tục nhờ gắn với thiết bị mô

tơ phía dưới. Thông qua hình tượng hình nhân thế mạng và màu sắc cùng với

chuyển động trên trục xoay, thông điệp của tác phẩm hướng về vấn đề tâm

linh, về số phận của những hình nhân luôn đổi thay tùy thuộc vào con người

nơi trần gian (ghi tên ai thì trở thành người đó). Tác phẩm Vòng quay cuộc

đời đã đánh thức người xem nhiều suy ngẫm, trong đó có sự hi sinh thầm lặng

86

và số phận phụ thuộc hoàn toàn vào người khác của các hình nhân thế mạng

mà tín ngưỡng dân gian đã sáng tạo, khi soi chiếu vào cuộc sống đương đại.

Tạo dựng một không gian tín ngưỡng hướng đến Phật giáo, Sắp đặt Om

ma ni pad me hum (2016) của Nguyễn Đức Phương đã sử dụng những đồ vật

mộc mạc như cột gỗ, các bức tranh vẽ bột màu hình ảnh các vị thần linh trên

những tấm gỗ tựa như tranh thờ miền núi (H.4.1.20, tr.213). Đặc biệt, hai

chiếc cổng được dựng lên từ những thanh gỗ mộc, sơn đỏ, tạo thành hai chiếc

cổng với bố cục đăng đối rõ nét. Toàn bộ tác phẩm Sắp đặt toát nên một vẻ

đẹp dung dị, sơ khai, cổ kính với không khí trầm mặc hướng về tín ngưỡng.

“Om ma ni pad me hum” là một câu thần chú trong Phật giáo, đã trở thành

biểu tượng mang hình chữ “Vạn” giàu ý nghĩa cát tường, tốt lành, gắn liền với

quý tướng của Phật. Sắp đặt Om ma ni pad me hum được bố cục đăng đối, gợi

cho người xem liên tưởng tới triết lý “sắc sắc - không không” và giáo lý nhân

văn “tự do, hòa đồng, bác ái” của Phật giáo, hiện thân nơi vẻ đẹp hình thức

dung dị, gần gũi thiên nhiên.

Khai thác yếu tố tạo hình, chất liệu bản địa và bí quyết thủ công truyền

thống, tác phẩm Sắp đặt Chắp tay sen và nụ cười Phật (2009) (H.4.1.14,

tr.210) của tác giả Lê Thừa Tiến, triển lãm tại Casula Powerhouse, Australia,

đã tạo dựng một không gian mang đậm tư tưởng, triết lý Phật giáo. Sử dụng

giấy bồi truyền thống, hình tượng đầu phật cỡ lớn với nụ cười thánh thiện treo

trên hồ nước hình tròn, ba đôi tay chụm lại tạo thành hình tượng bông sen đặt

trên bàn, bố cục phân lớp không gian hướng dọc, kết hợp âm thanh và ánh

sáng, tạo nên một không gian đầy ẩn dụ. Các hình tượng được tạo khối giản

lược, gợi chứ không tả. Công chúng có thể chiêm nghiệm, tĩnh tâm hướng

thiện trong sự thâm nhập không gian và suy xét mối quan hệ của tổ hợp hiện

vật trong tác phẩm. Những vết thương tâm hồn do mê lầm, tai họa bởi chính

con người gây ra hay bởi thiên nhiên phẫn nộ mà con người phải hứng chịu

như được gột rửa, thanh tẩy trong tư tưởng bác ái, độ lượng và nhân văn. Tác

87

phẩm Chắp tay sen và nụ cười Phật thu hút được sự chú ý đông đảo của công

chúng và sự đánh giá cao của giới nghiên cứu ở trong nước và quốc tế.

Sử dụng YTTT trong Sắp đặt để phản ánh truyền thống, dù ở khía cạnh

tôn vinh hay thậm chí phản bác truyền thống, là một lợi thế. Họa sĩ Vũ Đình

Tuấn từng nhận xét: “Phản ánh vấn đề truyền thống, không gì bằng lấy chính

hệ thống ký hiệu của truyền thống để biểu đạt”. Trong khu vực châu Á, một

số nghệ sĩ cũng đã sử dụng YTTT của họ để kiến tạo Sắp đặt mang lại hiệu

quả nghệ thuật và ảnh hưởng tích cực tới nhận thức xã hội. Điển hình là các

Sắp đặt với chủ đề phản ánh đậm nét văn hóa, lịch sử như: Nối dài Vạn Lý

Trường Thành 10.000 mét của Sài Quốc Cường (quốc tịch Mỹ, gốc Trung

Quốc). Trong Sắp đặt này, tác gải đã sử dụng hình tượng con rồng gắn liền

với Vạn Lý Trường Thành, công trình kiến trúc đáng tự hào của người Trung

Quốc. Tương tự, tác phẩm Sắp đặt của nghệ sĩ người Hàn Quốc, làm sống lại

một làng nghề gốm truyền thống, đã bị mai một bằng cách sử dụng chính

những sản phẩm gốm của làng nghề và trưng bày một Sắp đặt quy mô lớn dọc

theo con đường quanh làng, thu hút nhiều khách du lịch ở trong và ngoài

nước biết tới. Nhờ đó, làng nghề gốm cổ lại hồi sinh, được nhiều khách quốc

tế biết đến, nhận thức và đời sống của người dân tại đó được cải thiện rõ rệt.

Như vậy, YTTT trong NTSĐVN giai đoạn này biểu hiện rõ nét thông

qua chủ đề văn hóa, tín ngưỡng, mang lại giá trị nghệ thuật đặc sắc. Xu hướng

khai thác YTTT, lấy cảm hứng từ nghi lễ dân gian, lễ hội, các đồ vật cúng tế...

nhằm tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống và mô phỏng đời sống tâm linh,

tâm lý của con người đương đại, khá phổ biến trong NTSĐVN giai đoạn này.

Đồng thời, cũng có thể nhận biết YTTT qua chủ đề ký ức.

2.2.2. Yếu tố truyền thống qua chủ đề ký ức

Bên cạnh các chủ đề phản ánh văn hóa, tín ngưỡng, môi trường, vấn

nạn xã hội, thì chủ đề ký ức chiến tranh, ký ức lịch sử dân tộc cũng được rất

nhiều nghệ sĩ quan tâm. Lịch sử của Việt Nam gắn liền với công cuộc dựng

88

nước và giữ nước, do đó ký ức chiến tranh ám ảnh nhiều thế hệ, gần nhất là

thế hệ trải qua cuộc hai cuộc trường kỳ kháng chiến ác liệt chống Pháp và

chống Mỹ. Chủ đề phản ánh ký ức chiến tranh, ký ức lịch sử dân tộc trong các

tác phẩm Sắp đặt Việt Nam giai đoạn 1995 - 2018 được thể hiện vô cùng

phong phú. Theo tác giả Nguyễn Thế Sơn: di sản dân tộc bao gồm cả “ký ức

cộng đồng”. YTTT đã góp phần quan trọng trong vai trò tạo thẩm mỹ, kỹ

thuật, thủ pháp xây dựng hình tượng biểu đạt hiệu quả nội dung Sắp đặt. Nổi

bật là Sắp đặt Việt Nam cuộc chiến hóa thạch (1999) của Lê Thừa Tiến, thông

qua những hình nhân được đổ khuôn, bồi giấy với khối hình giản lực, dung dị,

khắc họa hình tượng một thế hệ từng là nạn nhân của chiến tranh, đều bị

thương tật què, cụt, đang ngồi chăm chú trước màn hình phóng to hình ảnh

người mẹ thảm thiết ôm đứa con bé bỏng chết gục trên tay (H.4.2.1, tr.215).

Một cảnh tượng hãi hùng, một sự thật lịch sử đáng lên án. Tiếp cận ở góc nhìn

khác, Sắp đặt Da cam (2004) của Nguyễn Minh Phương là ba tuyến nhân vật

màu đỏ, dị dạng, đang hí hoáy viết và nhoài người phía trước nơi có những đồ

chơi giấy gấp hình con hạc gắn liền với ước mơ tuổi thơ (H.4.2.2, tr.215).

Thông qua 3 tuyến nhân vật trong Sắp đặt, Da cam đã giấy lên một thông điệp

mạnh mẽ tố cáo việc quân đội Mỹ từng sử dụng chất độc màu da cam tại Việt

Nam, mà hệ quả là nhiều thế hệ người Việt vẫn đang phải hứng chịu. Ở khía

cạnh rộng hơn, Sắp đặt Da cam là lời cảnh tỉnh con người về hệ quả phi nhân

đạo, tàn khốc của chiến tranh. Chủ đề ký ức chiến tranh cũng xuất hiện trong

khá nhiều Sắp đặt của Nguyễn Bảo Toàn. Sử dụng chủ yếu đồ mã, đồ gốm,

tạo hình và trang trí dân gian, tạo dựng không gian tâm linh, tưởng nhớ.

Cảm hứng xuất phát từ truyền thuyết dân tộc, tác phẩm Sắp đặt Huyền sử

(2007) (H.4.2.3, tr.216), được xây dựng từ câu chuyện Âu Cơ - Lạc Long

Quân, kể về nguồn gốc con rồng cháu tiên của người Việt, sinh ra từ một bọc

“Đồng bào”. Để thực hiện tác phẩm này tác giả Đinh Khắc Thịnh cùng nhóm

cộng sự đã tạo dựng 100 quả trứng khổng lồ (khoảng 150cm x 130cm/ quả) từ

89

những khối bê tông rỗng, cốt thép, sơn màu trắng, trải dài trên bờ biển Lăng Cô,

Huế. Tổ hợp đồ vật kết hợp kết hợp với không gian bãi biển, minh họa ký ức lịch

sử dân tộc, gợi người xem liên tưởng đến công cuộc chinh phục núi rừng và

biển cả, dựng nước và giữ nước. Tác phẩm Sắp đặt này như một dấu ấn khẳng

định chủ quyền lâu đời của dân tộc trên mảnh đất nằm bên bờ đại dương. Thật

đáng tiếc, cơn bão một năm sau đó đã cuốn phăng toàn bộ Sắp đặt này vào lòng

biển cả, không để lại dấu vết.

Khai thác YTTT để phản ánh ký ức cộng đồng làng xã xưa, sử dụng

những hiện vật, sản phẩm của làng quê truyền thống như đòn gánh, thóc để xây

dựng tác phẩm Sắp đặt Những bà mẹ quê (2017) (H.4.2.4, tr.216). Tác phẩm này

được triển khai theo bố cục tụ tâm nổi bật, ảnh hưởng từ bố cục thường thấy

trong tranh dân gian Ngũ hổ. Ký ức được tái hiện với hình tượng những chiếc

đòn gánh dựng đứng, thành hình tròn trên bãi thóc, ẩn dụ cho hình tượng những

người mẹ quê, một thời gắn bó với vật dụng quen thuộc, một nắng hai sương

trên cánh đồng. Tác giả đã rất tâm huyết và dụng công trong việc sưu tập lại

những chiếc đòn gánh cũ và thuyết phục những bà nông dân tự tay viết những

lời tâm sự, lời ước nguyện và cả những trải lòng với tâm lý từng cam chịu của

người phụ nữ nông thôn trước định kiến xã hội và một số người chồng gia

trưởng, nghiện ngập, vũ phu thời trước.

Thông qua những hiện vật thủ công truyền thống, sự tương tác của những

nhân chứng sống, bố cục chịu ảnh hưởng tích cực từ nghệ thuật thuật dân gian,

tác phẩm Sắp đặt Những bà mẹ quê đã tái hiện sinh động ký ức chân thực của

phụ nữ nông thôn Việt Nam xưa trong đời sống đương đại.

Biểu hiện chủ đề ký ức lịch sử, tác phẩm Sắp đặt Chén và đũa 1945

(H.4.2.5. tr.217) của Lê Đức Hải - Lê Ngọc Thanh sử dụng 1.945 chiếc bát

phủ sơn mài, trong lòng ghi những con số, trên mỗi chiếc bát thếp vàng đặt

một đôi đũa sơn son, trải dài trên diện tích hình chữ nhật của mặt sàn nhà

triển lãm tại Huế năm 2011. Tác phẩm Sắp đặt này kết hợp hai màu truyền

90

thống đỏ - vàng, tương phản mạnh, làm nổi bật thông điệp ám ảnh về nạn đói

làm chết khoảng 2 triệu người dân Việt Nam năm 1945, khi phát xít Nhật bắt

nhân dân ta nhổ lúa trồng đay. Tác phẩm Sắp đặt này thuộc Sắp đặt phi định

trường, được kiến tạo từ một hệ thống ký hiệu của đồ vật và màu sắc. Nếu bát

và đũa thiết lập ký hiệu về đời sống ẩm thực, những con số trong lòng bát, tạo

nên ký hiệu ám chỉ sự kiện lịch sử đau thương, thì màu đỏ và vàng lại tạo nên

ký hiệu về sự ẩn dụ giàu sang vương quyền và no đủ. Tổ hợp đồ vật và hệ

thống ký hệu về màu sắc đối lập được khai thác từ chất liệu truyền thống để

kiến tạo Sắp đặt Chén và đũa 1945, không chỉ nhắc nhớ thế hệ đương đại về

lịch sử đau buồn trong quá khứ của dân tộc mà còn thức tỉnh tính nhân văn và

lối ứng xử hướng thiện trong mỗi con người.

Nếu một số Sắp đặt vừa nêu mang nội dung phản ánh ký ức thông qua

những họa tiết, thẩm mỹ và những đồ vật từ đời sống sinh hoạt, những hình

tượng trong vốn mỹ thuật cổ; thì hầu hết Sắp đặt của tác giả Oanh Phi Phi

được kiến tạo từ chất liệu sơn ta truyền thống, quá trình thực hiện Sắp đặt

cũng chính là quá trình biểu hiện ký ức tiếp cận lịch sử chất liệu sơm mài.

Trong đó, các Sắp đặt tiêu biểu như: Hộp đen, Specula, Palimpsets, là những

thực hành nghệ thuật mở ra một hướng đi mới cho sơn mài truyền thống.

Hộp đen (2005) là tác phẩm Sắp đặt sơn mài đầu tiên của Oanh Phi Phi,

gồm 16 hộp gỗ phủ sơn mài (H.4.2.6, tr.217), trưng bày tại triển lãm “Không

gian triển lãm hộp đen” năm 2008, tại Hà Nội. Lịch sử của sơn mài là sự

chuyển hóa từ chất liệu sơn ta gia dụng với kỹ thuật cổ truyền của nghề thủ

công bản địa, kết hợp với lối biểu đạt khoa học mẫu mực của hội họa Pháp,

tạo ra một chất liệu lai ghép độc đáo, trở thành chất liệu hội họa nhập vào phả

hệ nghệ thuật quốc tế - một chất liệu khác hẳn với hội họa phương Tây và

không còn giống với lịch sử quá khứ của chính nó tại bản địa. Tác phẩm Sắp

đặt Hộp đen là cái nhìn phản chiếu về lịch sử của sơn mài làm phương tiện

biểu đạt, phát triển những ẩn dụ trong quá trình làm việc với sơn ta và chuyển

hóa quá trình này vào trong khuôn khổ ý niệm. Do đó, để giải mã ý nghĩa của

91

tác phẩm Sắp đặt này cần có góc nhìn liên văn bản, diễn giải mối quan hệ của

hệ thống ký hiệu nhằm chỉ ra tính tương thích của chất liệu bản địa trong bối

cảnh đương đại, nó không còn bó hẹp trong chất liệu gia dụng hay hội họa,

mà nó đã trở thành phương tiện biểu hiện tạo nghĩa của nghệ thuật đương đại.

Và hơn thế, sơn mài đã “vượt ra khỏi bản gốc của một chất liệu địa phương,

sơn mài hoàn toàn tương thích cho một quá trình chuyển dịch tiến tới viễn

cảnh toàn cầu hơn” [74, tr.11].

Xuất phát từ ẩn dụ về hóa thạch và ký ức trong quá trình thực hiện sơn

mài, phủ nhiều lớp sơn lên bề mặt gỗ, phủ cát và đành bóng hoàn thiện. Tác

giả quan niệm: “Mỗi công đoạn trong suốt quá trình lao động nhọc nhằn ấy

đều lưu lại dấu tích của những biến đổi và trải nghiệm cá nhân bên trong

người nghệ sĩ lẫn bên ngoài môi trường xung quanh khi tạo hình tác phẩm, ký

ức hay hình ảnh tâm trí cũng được tạo ra từ một quá trình tương tự” [74, tr.5].

Quá trình ấy cũng có thêm vào và bớt đi, chịu ảnh hưởng của không chỉ bản

thân vật thể và sự kiện có thực mà ký ức ấy lưu giữ, mà còn bị biến đổi bởi

yếu tố thời gian và nhận thức, tương tự như công đoạn mài cát của sơn mài.

Bản thân Hộp đen đã ẩn dụ một ký hiệu về sự bí ẩn/ kỳ bí, gợi cho người xem

sự tò mò muốn khám phá điều khuất lấp bên trong. Cảm giác bề mặt trơn

nhẵn và sự trống rỗng như gương, tương phản với cảm nhận từ kết cấu nhiều

tầng lớp ánh lên vẻ lộng lẫy và độ sâu thẳm, gợi cho người xem liên tưởng

đang nhìn xoáy sâu vào các tầng ký ức. Tác phẩm Sắp đặt Hộp đen được bố

tự do hướng ngang, trải dài trên mặt sàn, ánh sáng chiếu mờ, tích hợp một loạt

ký hiệu ẩn dụ ý nghĩa về sự bí ẩn (hộp đen), sự đề kháng của tâm thức dân tộc

hậu thuộc địa. Chất liệu sơn ta mỹ nghệ trở thành sơn mài - một chất liệu hội

họa là kết quả sáng tạo, sự phản kháng thẩm mỹ thực dân từ thế hệ sinh viên

Đông Dương, thể nghiệm của nghệ nhân Đinh Văn Thành, sự “lơ đãng” đáng

quý của vị hiệu trưởng có tâm hồn nghệ sĩ V. Tardieu, và đặc biệt là thẩm

quyền công bố chất liệu sơn mài tại nhiều triển lãm quốc tế thời kỳ ông làm

hiệu trưởng, đã hợp thức hóa chất liệu này trong phả hệ nghệ thuật quốc tế.

92

Tập trung vào chủ đề ký ức và lưu dấu ký ức từ quy trình thực hiện ra tranh

sơn mài, tạo ra một lối đi riêng với những “vùng trải nghiệm”, vượt thoát khỏi

định nghĩa thuần túy của hội họa hay điêu khắc hiện đại, sử dụng chất liệu, kỹ

thuật, tinh thần thẩm mỹ truyền thống làm phương tiện tạo nghĩa kiến tạo

Nghệ thuật Sắp đặt Hộp đen mang nội hàm cả bề dày lịch sử của chất liệu, ký

ức từ quá trình kiến tạo, tự soi chiếu và trải nghiệm cá nhân, qua đó tích hợp

hệ thống ký hiệu, chuyển hóa thành ẩn dụ và ý niệm trong nội dung tác phẩm.

Sắp đặt Specula (2008) của Oanh Phi Phi tiếp tục đưa tranh sơn mài

tiến xa hơn trong hành trình sáng tạo nghệ thuật. Specula là tổ hợp những bức

tranh sơn mài truyền thống với màu sắc trừu tượng (H.4.2.9, tr.219), tạo dựng

không gian ba chiều hình mái vòm của hang động, của cổng làng hay nhà

nguyện, ...tùy thuộc vào sức liên tưởng và những khơi gợi ký ức của công

chúng. Thuật ngữ “Specula” là từ đề cập đến thiết bị y tế sử dụng khi tiến

hành kiểm tra bên trong khoang cơ thể, mang hàm ý suy diễn về một cuộc

“nội soi” tưởng tượng. Người xem có thể thâm nhập vào không gian của Sắp

đặt để trải nghiệm giữa mái vòm bao bọc tranh sơn mài, màu sắc lung linh và

ánh sáng kỳ ảo thay đổi theo từng góc nhìn. Sắp đặt này nhằm tạo dựng một

không gian thưởng thức hội họa trong một cảm giác mới lạ, khám phá vẻ đẹp

kỳ bí, câu chuyện lịch sử kỳ bí từ bên trong bản thể của chất liệu sơn mài bản

địa, thay vì nhìn ngắm bức tranh từ bên ngoài. Tác giả diễn giải: “Cái hang

biểu tượng mà tôi dựng bằng sơn mài này xét cho cùng cũng chính là một cấu

tạo các sắc tố hình thành từ quá trình oxy hóa, cùng với nước, các kim loại

hiếm và chất nhựa nuôi dưỡng từ đất - một kết hợp hoàn toàn tương đồng với

bản chất kết cấu của hang động thật” [74, tr.7]. Nếu hang động hình thành từ

quá trình kết tủa và xói mòn trong tự nhiên, thì tương tự quá trình làm tranh

sơn mài là phủ các lớp sơn rồi mài đi để lộ diện bản thể của nó từ tác động

của nghệ sĩ.

Khai thác vẻ đẹp của cấu trúc nhà gỗ truyền thống kết hợp với chạm

khắc trang trí đương đại, Sắp đặt Lạc chốn (H.4.2.7, tr.218) của Bùi Công

93

Khánh sử dụng tới 30 tấn gỗ mít để tạo dựng một nếp nhà theo lối cổ, có đủ

hệ thống cột, chân tảng, vì kèo, quá giang, trụ, xà, thượng lương với hai mái

dốc, trưng bày tại Sàn Art thành phố Hồ Chí Minh. Nếp nhà trong Sắp đặt này

chỉ là một lát cắt trong kiến trúc nhà ở truyền thống, thường có số gian lẻ như:

3, 5, 7 gian. Gian giữa thường là không gian dành để thờ cúng tổ tiên với ban

thờ, hoành phi, câu đối bày theo bố cục đăng đối hai bên. Bản thân các gian

nhà trong kiến trúc tổng thể cũng tạo thành bố cục đăng đối, thông qua gian

thờ ở chính giữa. Đặc biệt, trên kết cấu vì kèo và những bức thuận được chạm

khắc nhiều bức phù điêu trang trí mang hình ảnh đương đại như: súng, rìu kết

hợp với hoa văn truyền thống. Họa tiết trang trí là những vũ khí, gợi liên

tưởng tới một dân tộc với lịch sử không ngừng chống ngoại xâm. Sắp đặt Lạc

chốn làm tái hiện lại một truyền thống kiến trúc gắn liền với lịch sử dân tộc

với nét đẹp tinh hoa hòa quyện giữa kết cấu truyền thống và những họa tiết

trang trí hiện đại, đánh thức người xem về giá trị truyền thống trong bối cảnh

hội nhập quốc tế, vấn đề xung đột văn hóa và thực trạng đô thị hóa, bê tông

hóa kiến trúc đang diễn ra ồ ạt trong xã hội đương đại.

Tái hiện ký ức lịch sử, tác phẩm Sắp đặt Tên tôi là... (1999) (H.4.2.10,

tr.219) của Trần Hậu Yên Thế triển khai theo lối bố cục phân lớp không gian

hướng ngang, tổ hợp đồ vật như tranh, nón, bát nến được phân bố trên bề mặt

cát trải dài cùng với tranh bày xung quanh phòng triển lãm. Trong Sắp đặt này,

ý tưởng xuất phát từ chính cái tên của tác giả, gợi nhớ đến ký ức thời chiến

tranh về số phận. Thời kỳ mà ước vọng “bình an” của một thế hệ đã trở thành

những cái tên phổ biến đặt cho con cái mình như: Hòa, Bình, Thắng, Lợi, An,

Yên...Vẫn biết trong chiến tranh, việc sinh tử của mỗi người phụ thuộc vào cả

cái ngẫu nhiên và cái định mệnh ứng với từng quẻ tự nhiên, an bài trong Kinh

dịch vậy. Do đó, dễ dàng nhận thấy những hình vẽ người trong tư thế co ro,

ẩn tránh bom đạn dưới hầm xuất hiện khắp trên mặt đất, xen kẽ những chiếc

nón bày thành hàng, những ngọn nến vây quanh, tạo nên một những hào, quẻ

trong Kinh dịch. Ở góc nhìn nghệ thuật thị giác, tùy theo cảm nhận phong phú

94

của người xem, tác phẩm Sắp đặt này có thể liên hệ với nhiều hình tượng, ý

nghĩa: những chiếc nón có thể ẩn dụ mầm sống hay ngôi mộ, đất cát tựa như

lòng đất mẹ từng nuôi dưỡng, chở che cho muôn loài...Nhà thơ Trần Mạnh

Hảo đã cảm nhận sâu sắc khi viết về lòng đất mẹ - về chiếc hầm cá nhân thời

chiến sau cơn mưa: Dày hơn mọi bức tường thành/ Khoét lòng mình để trời

xanh trú nhờ. Loạt tác phẩm Sắp đặt Hóa thạch (H.3.1.15, tr.189) của Vương

Văn Thạo cũng là những ví dụ tiêu biểu. Những hình tượng, biểu tượng, hình

ảnh quen thuộc như cổng làng, xích lô, gánh hàng rong, tiếng rao đêm...những

thứ đang có nguy cơ bị mai một, được hóa thạch, lưu giữ, tái hiện trong đời

sống nghệ thuật đương đại.

Qua những phân tích vừa nêu, có thể nhận biết YTTT trong NTSĐVN

giai đoạn này qua chủ đề ký ức chiến tranh, ký ức lịch sử dân tộc mang ý

nghĩa riêng biệt gắn liền với câu chuyện của dân tộc. Xu hướng khai thác

YTTT thông qua tiếp cận truyền thuyết, ký ức cộng đồng, sự kiện lịch sử và

trải nghiệm cá nhân để xây dựng tác phẩm. Hình thức biểu hiện mới, sử dụng

hiện vật, chất liệu bản địa, kỹ thuật, bí quyết, quan niệm dân gian, triết lý

phương Đông, kể những câu chuyện của dân tộc, tạo cho NTSĐVN giai đoạn

này một ấn tượng thị giác mạnh, ý nghĩa sâu sắc, gợi cho công chúng liên

tưởng đến nhiều sự kiện lịch sử, chiều sâu đa nghĩa của thông điệp nghệ thuật.

YTTT cũng biểu hiện rõ nét trong chủ đề phản biện xã hội.

2.2.3. Yếu tố truyền thống qua chủ đề phản biện xã hội

Có thể nói, chủ đề phản biện xã hội là chủ đề mới, rất hiếm gặp trong

nghệ thuật tạo hình truyền thống. Tuy ít ỏi nhưng khi nó được các nghệ sĩ dân

gian thể hiện với lối ẩn dụ, thì chúng trở nên rất đặc sắc, ấn tượng. Ví dụ như:

tranh Đám cưới chuột (Đông Hồ); phù điêu Đôi chuột chầu cua (bệ đá thờ

vua Đinh). Bên cạnh các chủ đề khác, YTTT biểu hiện rõ nét trong NTSĐVN

qua chủ đề phản biện xã hội đương đại, tạo hiệu quả tích cực tác động đến

nhận thức của cộng đồng. Một xã hội sẽ trở nên trì trệ, bảo thủ nếu không có

sự phản biện xã hội. Nghệ thuật tránh né phản biện xã hội là nghệ thuật tháp

95

ngà, sáo rỗng. Thông qua hình thức, chất liệu dân gian, thủ pháp ẩn dụ, cảm

hứng từ đời sống xã hội đương đại để thể hiện chủ đề, NTSĐVN có YTTT đã

và đang làm tốt vai trò của mình đồng hành cùng sự tiến bộ xã hội.

Nằm ở vị trí địa chính trị quan trọng, Việt Nam có cơ hội tiếp nhận tri

thức từ nhiều nền văn hóa từ Đông sang Tây, đặc biệt là Khổng giáo, Đạo

giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo và tín ngưỡng bản địa, đã tạo cho người Việt

có được tư duy tạo hình dân gian, trang trí thủ công phong phú, một truyền

thống văn hóa nghệ thuật độc đáo. Hình tượng con rùa là một trong bộ tứ linh:

Long, Ly, Quy, Phượng, được dân gian tiếp nhận từ văn hóa Trung Hoa.

Trong bộ tứ linh này, duy chỉ con rùa là có thật, mang triết lý âm dương và

nhiều ý nghĩa cao đẹp theo quan niệm dân gian. Nó đã trở thành biểu tượng,

linh vật phổ biến trong đời sống văn hoá của người Việt xưa và nay.

YTTT trong NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018 không chỉ dừng lại ở việc

tạo thẩm mỹ, mà nó còn tạo ra hệ thống ký hiệu ẩn dụ thông qua các mối quan

hệ tương hỗ của YTTT với tổ hợp đồ vật; mối quan hệ của tổ hợp đồ vật với

không gian. Trong phần này, luận án sẽ tiến hành phân tích, chứng minh

nhằm làm sáng tỏ biểu hiện YTTT qua chủ đề phản biện xã hội.

Qua kết cấu, cách thể hiện và tên tác phẩm Sắp đặt Phượt (2016) của

Nguyễn Mạnh Hùng đã phát huy ý niệm về không gian, thời gian, sự chuyển

động, biểu tượng, gợi mở ý tưởng về những vấn đề nảy sinh trong xã hội Việt

Nam (H.4.3.1, tr.220). Chọn địa điểm đắc địa để trưng bày bên ngoài khuôn

viên đại sứ quán Thụy Điển ở Hà Nội, đã tạo ra một thông điệp mạnh mẽ về

vấn đề phản biện xã hội đương đại, thu hút đông đảo công chúng. Tác phẩm

Sắp đặt Phượt với thông điệp phản biện xã hội mạnh mẽ thông qua mối quan

hệ giữa tổ hợp đồ vật, bốn con rùa di chuyển về bốn hướng, ẩn dụ về sự bất

đồng, những mâu thuẫn xã hội gay gắt không có lợi cho sự phát triển chung

và hiện vật vỏ ô tô phế thải, hoặc người xem cũng có thể liên tưởng đến lợi

ích nhóm hay vấn đề giao thông ở một quốc gia đang phát triển. Tiếp cận từ

góc độ ký hiệu học, tác phẩm Phượt đã thiết lập một hệ thống ký hiệu với sự

96

tham gia của yếu tố tạo hình truyền thống với hình tượng 4 con rùa, được tạo

hình khối giản lược theo quan niệm dân gian kết hợp với yếu tố hiện đại.

Trong đó, nổi bật là hình tượng rùa  Con vật linh, thọ cao; Xe ô tô 

Phương tiện hiện đại; Trong đó, các cặp đối lập, tạo ký hiệu mạnh mẽ như:

Tạo hình rùa  Thủ công, dân gian; Tạo dáng ô tô  Công nghiệp, hiện đại;

Tốc độ di chuyển của rùa  Chậm; Tốc độ di chuyển của ô tô  Nhanh;

Hướng di chuyển của rùa  4 hướng đối lập; Hướng di chuyển của ô tô 

Một hướng. Toàn bộ hệ thống ký hiệu vừa nêu ẩn dụ sự mâu thuẫn cao độ,

bất nhất, giằng xé, kìm hãm lẫn nhau...Qua đó, người tham dự có thể thỏa

sức liên tưởng đến nhiều vấn đề như: giao thông; tốc độ phát triển xã hội; lợi

ích nhóm hay vấn đề thủ cựu, cực đoan và sự cấp tiến, thái quá trong cặp

phạm trù triết học: hai mặt của một vấn đề, mâu thuẫn trong sự thống nhất.

Tác phẩm Phượt đã rất thành công trong việc khai thác, kết hợp yếu tố nội

sinh với yếu tố ngoại sinh với thủ pháp tương phản mạnh mẽ. Bốn con rùa

được tạo hình khối phóng to, đổ khuôn compsite, đặt dưới vỏ xe ô tô, vị trí

thay cho bốn chiếc bánh xe. Hình khối căng đầy của những con rùa và hình

khối sắc nét của chiếc vỏ xe ô tô tạo nên một thẩm mỹ dị lạ, tương phản

mạnh mẽ.

Trong tác phẩm Sắp đặt Chen lấn (H.4.3.2, tr.220) của Nguyễn Ngọc

Lâm cũng vậy, khai thác ngôn ngữ khối của điêu khắc truyền thống ngoài

việc đóng góp vẻ đẹp thẩm mỹ với lối tạo hình giản lược, khúc triết của ngôi

đình làng, nổi bật ở giữa với hình dáng uy nghi, lộng lẫy của sắc vàng truyền

thống. Tiếp cận từ góc nhìn ký hiệu học, có thể thấy: hình tượng ngôi đình

làng  Không gian công cộng, linh hồn của làng; Tạo hình giản lược, khúc

triết  Dân gian; Bố cục theo quan niệm âm dương ngũ hành  Lan tỏa, ảnh

hưởng; Hình tượng những ngôi nhà nhỏ vây quanh  Cuộc sống xô bồ, ngột

ngạt; Màu vàng (thếp vàng lá)  Sang trọng, tôn quý. Các yếu tố tạo nên sự

đối lập đáng kể, góp phần tạo nghĩa như: Ngôi đình cao to >< những ngôi

97

nhà nhỏ bé; Màu sắc lộng lẫy (kim loại vàng) >< Màu sắc mộc mạc, tự nhiên

(những mẩu gỗ phế liệu). Từ hệ thống ký hiệu vừa nêu trong mối quan hệ chi

phối, qua lại lẫn nhau, có thể thấy Sắp đặt Chen lấn nổi lên nhiều ý nghĩa như:

Tôn vinh di sản dân tộc; Vấn đề quy hoạch và quản lý đô thị; Vấn đề giao

thông; Vấn đề ứng xử với di sản truyền thống và giải pháp ưu việt, thái độ của

nghệ sĩ đối với đời sống đương đại của cộng đồng...

Có thể nói, một xã hội muốn phát triển thì không thể thiếu phản biện xã

hội. Nó được xem như một hệ thống cảnh báo giúp cho cuộc sống giảm bớt sự

chủ quan trong hành động, tiệm cận khoa học và chân lý. Những câu thơ của

Tản Đà đến nay vẫn khiến người đọc nhiều suy ngẫm: “Dân hai lăm triệu ai

người lớn/ Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”. Thơ và kịch từ thập kỷ 80 của

Lưu Quang Vũ có sức dự báo và phản tỉnh xã hội sâu sắc đến nay vẫn còn

nguyên giá trị. Về nội dung phản biện xã hội của Nghệ thuật Sắp đặt, Nguyễn

Minh Thành trong tham luận gửi Hội thảo tại Viện Mỹ thuật đã nhìn nhận có

phần nghi vấn: “Nghệ thuật đương đại Việt Nam bắt đầu từ triết lý chung

chung về con người...” [106, tr.157].

Chất vấn về quyền bình đẳng, định kiến cố hữu, tác phẩm Sắp đặt Barie

I (2008) của Đặng Thị Khuê, trưng bày tại triển lãm “Bình đẳng là gì?” thuộc

chương trình Trao đổi Văn hóa - Nghệ thuật giữa Trường Đại học Mỹ thuật

Việt Nam và Học viện Mỹ thuật Umea, Thụy Điển. Tác phẩm gồm một vòng

tròn cắt chữ “Barie” dán ở vị trí trung tâm trên mặt sàn nhà, tỏa ra xung quanh

là 6 chiếc barie làm bằng chất liệu tre bản địa, sơn màu tạo thành khúc đỏ -

trắng hoặc khúc đỏ - vàng nhạt của màu tre mộc (H.4.3.4, tr.221), đính bàn

tay gỗ, đôi bàn chân gỗ đặt hướng về trước, được tạo hình giản lược với vẻ

đẹp, mộc mạc, dung dị. Lối ra vào Triển lãm đặt một chiếc barie nhỏ, chỉ bớt

lại lối đi rất hẹp. Ở Sắp đặt này, tác giả sử dụng ký hiệu ẩn dụ về sự ngăn cản/

dừng lại từ chiếc barrie hay ngưỡng cửa trong kiến trúc cổ, biểu hiện ý nghĩa liên

tưởng đến góc độ tâm lý khá phức tạp (đặc biệt là phụ nữ Việt Nam), họ dường

như còn mang trong ý thức một rào chắn vô hình bởi những định kiến và quan

98

niệm cổ xưa của xã hội về phụ nữ mà chính họ không dám xóa bỏ hoặc bước

qua. Những chiếc barie được xếp hình tròn nên nó có chiều hướng chuyển động

xoay quanh một vị trí trung tâm, trong một quỹ đạo nhất định, ám chỉ một vòng

luẩn quẩn, tù bức của thói quen cố hữu. Người xem có thể tự do tham dự vào

không gian của tác phẩm, tương tác di chuyển những chiếc barie phía trước - do

đó sẽ làm nảy sinh trong họ hàng loạt câu hỏi xoay quanh những vấn đề cốt lõi

của tác phẩm. Sự tổ chức không gian khá hợp lý, người xem có thể dễ dàng thâm

nhập vào không gian của tác phẩm, có khi bị cuốn theo bởi quán tính nhưng rồi

“chợt tỉnh ra” và ngẫm lại những điều vô lý. Điều thú vị ở tác phẩm này là

chiếc barie nhỏ chắn gần hết lối ra vào triển lãm mà dường như không ai để ý

đến, song nó như một thử nghiệm tâm lý đối với tất cả công chúng tham dự.

Đối với một rào cản như thế ở lối đi lại đông người, thường có nhiều tình

huống có thể xảy ra: (1. Người tham dự xoay dọc chiếc barie để lối đi rộng

hơn; 2. Họ đặt chiếc barie lên phía trước rộng hơn; 3. Họ quẳng chiếc barie ra

chỗ khác). Tuy nhiên, kết quả là hầu hết mọi người đã chấp nhận lách qua

một lối hẹp để ra vào triển lãm mà không dám kiên quyết vứt bỏ nó.

Tóm lại, tác phẩm Sắp đặt Barrie I sử dụng chủ yếu là những đồ vật làm

từ chất liệu quen thuộc như tre, gỗ được tạo tác với cách thức giản dị, gần với

cách hiểu thông thường. Bố cục theo quan niệm âm dương ngũ hành kết hợp

với ký hiệu về ý nghĩa văn hóa, lịch sử phía sau những đồ vật quen thuộc ẩn

dụ tâm lý cố hữu cần được giác ngộ. Nó cũng là một thử nghiệm điều tra tâm

lý đối với công chúng khi tham dự. Có thể nói, tác phẩm Sắp đặt Barie I là

một ẩn dụ về cái phi lý, nghộ nghĩnh mà đau xót của thói quen cố hữu cần

được xóa bỏ: Trước khi bước đi ta tự tay mình đặt Barie phía trước. Thông

điệp của Sắp đặt Barie I là lời cảnh tỉnh: Vượt lên thói quen và quán tính để

tự khẳng định mình.

Đề cập đến vấn nạn xã hội, tác phẩm Sắp đặt Nấc thang (2008) tạo ra

một hệ thống ký hiệu ẩn dụ về quyền lực (tiền), ký hiệu ẩn dụ về quyền chức

(ghế), hàm chứa một thông điệp về những vấn nạn xã hội đang tồn tại như

99

chạy chức, chạy quyền, mua bán bằng cấp, những bon chen, cạnh tranh không

lành mạnh để có được “cái ghế” quyền lực bằng mọi giá (H.4.3.6, tr.222). Ánh

sáng hắt lên màu đỏ ký hiệu ẩn dụ về mức độ báo động cao, màu đỏ trong tác

phẩm này không chỉ có tác dụng làm nổi bật chiếc ghế nóng, mà còn gợi cho

người xem liên tưởng đến phần trong sáng của tâm hồn và bản tính “tham, sân,

si” ngự trị trong mỗi con người.

Tiếp thu tinh thần thẩm mỹ hài hòa, dung dị với đặc điểm tạo hình giản

lược, họa tiết trang trí cách điệu cao, màu sắc tượng trưng từ quan niệm dân

gian truyền thống, các nghệ sĩ bản địa đã tạo cho Sắp đặt Việt Nam một sắc

thái độc đáo, riêng biệt. Tác phẩm Sắp đặt Đồng vọng (2007) (H.4.3.5, tr.222),

trưng bày tại Triển lãm “Đàn bà và Nghệ thuật”, Gallery Maison des Arts, Hà

Nội, của Đặng Thị Khuê, gồm những thân gỗ nguyên vỏ, phần đầu tạc những

cách tay thô mộc, đang giơ lên như những rừng tay chới với, cầu cứu. Với

những hình khối chắc nịnh, thô mộc, bố cục phân lớp không gian hướng

ngang, tạo nên thông điệp về sự kêu cứu khẩn thiết của đại ngàn, về nạn phá

rừng do con người là thủ phạm, tạo cho người xem ấn tượng mạnh.

Liên hệ với một số tác phẩm Sắp đặt quốc tế, một số nghệ sỹ cũng sử

dụng những chất liệu, hiện vật truyền thống của họ để xây dựng tác phẩm

phản ánh chủ đề phản biện xã hội mạnh mẽ. Tiêu biểu phải kể đến nghệ sỹ

Ngải Vị Vị (Ai Wei Wei) của Trung Quốc. Trong tác phẩm Sắp đặt Ghế, ông

sử dụng hàng loạt ghế gỗ cổ của Trung Quốc xếp chồng lên nhau, chân ghế

hướng ra xung quanh, tạo được ấn tượng mạnh. Hay như trong tác phẩm khác,

ông sử dụng nhiều bình gốm cổ của Trung Quốc, phủ bên ngoài bằng màu sắc

sặc sỡ, xếp thành hàng dài…Thậm chí, trong thực hành nghệ thuật Đánh rơi

bình cổ đời Hán, có phần cực đoan của mình, Ngải Vị Vị đã tự tay đập vỡ

nhiều chiếc bình gốm cổ quý giá. Qua những tác phẩm của Ngải Vị Vị, người

xem có thể liên hệ với rất nhiều cách hiểu khác nhau, trong đó tác phẩm phát

ra hai thông điệp mấu chốt mà người xem dễ dàng liên hệ đó là: Xóa bỏ

truyền thống để xây dựng cái mới (đập vỡ bình gốm cổ); Xây dựng cái mới

100

trên nền tảng kế thừa truyền thống (bình gốm cổ được nhúng sơn đầy màu sắc,

ghế cổ được xếp chồng lên nhau). Bên cạnh đó, Chủ đề phản biện xã hội

đương đại cũng được một số nghệ sĩ ở châu Á thể hiện rất ấn tượng. Tác

phẩm Sắp đặt Thiên thư (1989) có nghĩa Sách trời của Từ Băng (Trung Quốc)

sử dụng những ký tự trong bộ gốc chữ Hán cổ được ông tạo mới, khắc thành

4000 chữ in lên cuốn sách trục cuộn, khổ lớn. Điều đáng nói ở đây là ngay cả

người Trung Quốc cũng không thể đọc được những chữ in trong sách, khiến

họ vô cùng tức giận. Tuy nhiên, tác giả cuốn sách đã rất thành công trong việc

lấy chính văn hóa truyền thống để phản biện xã hội, thông qua Nghệ thuật Sắp

đặt. Thông điệp của Thiên thư là mọi dân tộc đều bình đẳng khi đứng trước

cuốn Sách trời. Nói như tác giả Nguyễn Thế Sơn: “Ông đã buộc người xem

phải tự nhìn nhận lại vấn đề tính khả tín của văn tự, buộc người xem phải nhìn

tác phẩm của ông bằng con mắt khác - con mắt của tư duy” [81, tr.52]. Tương

tự, trong một tác phẩm Sắp đặt khác, Từ Băng sử dụng hình tượng lồng chim

được ghép từ nhiều chữ điểu cắt từ tấm đồng, tạo nên một vẻ đẹp ấn tượng.

Từ Băng không ngừng khai thác vẻ đẹp kỳ bí của ký tự Hán cổ, với vô số

những chữ điểu (chim) được cắt và ghép thành chữ bird (chim) trong tiếng

Anh để thiết lập tác phẩm Sắp đặt mang tầm quốc tế.

Như vậy, có thể nhận biết YTTT trong chủ đề phản biện xã hội thông qua

sự đối lập giữa truyền thống với hiện đại. NTSĐVN có YTTT đã thể hiện tốt vai

trò chuyển tải thông điệp, là phương tiện nổi trội phản chiếu kịp thời những biến

động trong đời sống đương đại, chủ để phản biện xã hội - vấn đề kiêng kỵ, mà

nghệ thuật truyền thống hiếm khi đề cập, hoặc tránh né. YTTT có khả năng khơi

gợi cho nghệ sĩ lồng ghép tư tưởng, thái độ, cá tính sáng tạo, đáp ứng thay đổi

của xã hội và đòi hỏi xã hội phải cải biến. Tác giả IoIa Lenzi nhận định: “các thể

loại, và kỹ thuật biểu đạt gắn liền với truyền thống đang đi vào đương đại, thì các

chủ đề có nguồn cội từ di sản cổ xưa ... đang theo con những con đường mới lạ

yêu thích sử dụng” [87, tr.108]. Tuy chủ đề rất hiếm gặp trong nghệ thuật

truyền thống, song các yếu tố truyền thống, hình tượng, biểu tượng, hiện vật,

101

chất liệu bản địa, quan niệm dân gian...được các nghệ sĩ sử dụng như một bệ

đỡ tinh thần, đề nương tựa, lồng ghép thái độ, tư tưởng nghệ thuật nhằm biểu

đạt chủ đề này. Họ đang khai thác các YTTT bản địa để tạo ra “một truyền

thống mới” từ truyền thống, đáp ứng sự thay đổi của xã hội đương đại.

Tiểu kết

Nội dung triển khai trong chương hai nhằm chỉ rõ biểu hiện YTTT trong

hình thức và chủ đề của tác phẩm Sắp đặt Việt Nam giai đoạn 1995 - 2018.

YTTT biểu hiện rõ nét thông qua hình thức và chủ đề của tác phẩm như: tạo

hình, trang trí dân gian, không gian di sản, chất liệu bản địa; chủ đề tín ngưỡng,

ký ức và phản biện xã hội. Đó là những biểu hiện nổi bật của YTTT trong

NTSĐVN giai đoạn này.

Chỉ rõ YTTT trong NTSĐVN giai đoạn này đã tạo nên một sự nhận diện

văn hóa nghệ thuật biểu hiện rõ nét qua hình thức và chủ đề tác phẩm.

YTTT không chỉ góp phần tạo cho các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam giai

đoạn này có được một ấn tượng thị giác mạnh, mà còn phản ánh sâu sắc các vấn

đề đương đại qua các chủ đề phong phú, đa dạng.

Nhận định YTTT trong NTSĐVN là phương tiện nghệ thuật nổi trội so

với các loại hình nghệ thuật truyền thống vốn có, phản chiếu kịp thời những thay

đổi, biến động của đời sống đương đại.

Các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT giai đoạn này là cầu nối quan

trọng giữa truyền thống với hiện đại, giữa tính quốc tế với tính dân tộc, đáp

ứng thay đổi của xã hội và đòi hỏi xã hội phải cải biến trong bối cảnh toàn cầu

hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế.

102

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM SẮP ĐẶT

VIỆT NAM CÓ YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG GIAI ĐOẠN 1995 - 2018

3.1. Đặc điểm nghệ thuật

YTTT biểu hiện rõ nét trong các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam giai đoạn

1995 - 2018 là điều không thể phủ nhận. Qua đó, có thể nhận biết những đặc

điểm của NTSĐVN như: tính tượng trưng, ước lệ; tính biểu cảm dân gian;

tính xung đột giữa truyền thống với hiện đại. Những đặc điểm nổi bật này tạo

cho NTSĐVN vẻ đẹp độc đáo và ý nghĩa sâu sắc.

3.1.1. Tính tượng trưng, ước lệ

Các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT biểu hiện rõ rệt màu sắc

tượng trưng và không gian ước lệ. Tuy cùng hướng đến một mục tiêu khám

phá vũ trụ làm cơ sở lý giải cuộc sống và tích lũy tri thức, song phương Đông

và phương Tây đều tìm ra cách tiếp cận riêng biệt. Nếu triết học phương Tây

gắn liền với khoa học thực chứng, đo lường chính xác bằng những con số, thì

minh triết phương Đông lại tìm đến những nguyên lý mang tính ước lệ bằng

cảm quan. Văn hóa người Việt thấm đẫm minh triết phương Đông với triết lý

âm dương và quan niệm ngũ hành (Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) tương ứng với

năm năm hướng (trung tâm, Đông, Tây, Nam, Bắc) với năm màu ký hiệu

(trắng, xanh, đen, đỏ, vàng). Thế giới quan của người Việt được hình thành từ

nền tảng triết lý âm dương và quan niệm ngũ hành, từ việc mệnh của mỗi

người sinh ra đều thuộc một trong năm hành cho đến việc giải thích mọi hiện

tượng tự nhiên và biểu đạt văn hóa nghệ thuật. Do đó, ngũ sắc biểu hiện khá

rõ nét trong đời sống văn hóa tín ngưỡng, chẳng hạn: mâm ngũ quả, cờ hội

làng, cờ đám tang ngũ sắc, ngựa đồ mã năm màu, đồ thờ năm chất liệu trên

ban thờ gia tiên...; trong nghệ thuật dân gian, tranh Ngũ hổ biểu hiện rõ quan

niệm này. Tranh Tam tòa, Tứ phủ của dòng tranh dân gian Hàng Trống cũng

biểu hiện rõ màu sắc tượng trưng. Liên hệ Nghệ thuật Sắp đặt với truyền

103

thống, có thể thấy cách bày biện, bài trí trong đời sống tâm linh, trang trí

trong nghệ thuật truyền thống, có ảnh hưởng tích cực tới hình thức Sắp đặt.

Một số tác phẩm Sắp đặt có YTTT biểu hiện đặc điểm màu sắc tượng

trưng, không gian ước lệ, gắn liền với màu sắc trong lễ hội và nghi lễ tín

ngưỡng truyền thống như các tác phẩm Sắp đặt của Đặng Thị Khuê, Nguyễn

Bảo Toàn, Nguyễn Minh Thành, Đinh Khắc Thịnh,... Trong đó, tác phẩm Sắp

đặt Ngày và đêm (1996) gồm 6 cánh tay gỗ, chia thành 3 bộ, được treo dưới

những chiếc khay sơn mài phủ màu đỏ, vàng, đen, tạo thành ký hiệu tượng

trưng cho ngày và đêm, cho những tầng trời - nơi trú ngụ của những vị thần

linh, của thế lực siêu nhiên huyền bí. Tính tượng trưng, ước lệ còn thể hiện ở

những cánh tay gỗ mộc mạc, ẩn dụ về sự có mặt của con người ở giữa trời và

đất, tạo thành biểu tượng cô đọng về triết lý âm - dương, gắn với quan niệm

tam tài của người phương Đông. Những cánh tay với lối tạo hình mộc mạc

trong tác phẩm vừa gợi cho người xem cùng lúc liên tưởng đến vẻ đẹp linh

thiêng toát ra từ những cánh tay mang biểu tượng cứu độ chúng sinh của

tượng phật Quan Âm thiên thủ thiên nhãn vừa mang vẻ đẹp dung dị, gần gũi

đời thường của cánh tay người thôn nữ rắn rỏi, gắn liền với lao động, với

nắng mưa nơi đồng ruộng. Tương tự, màu sắc tượng trưng và không gian ước

lệ biểu hiện rõ nét trong tác phẩm Sắp đặt Một tâm hồn (1996) (H.4.1.7,

tr.206) với những đôi chân gỗ, guốc mộc, dải thắt lưng ngũ sắc, mành tre

thưa..., tạo cho hình tượng mang tính tự do, siêu thực. Đặc biệt lối bố cục nhiều

lớp, tạo một không gian nửa hư nửa thực, với cảm nhận vừa cụ thể vừa siêu

hình, mang tính ước lệ cao. Tính tượng trưng, ước lệ cũng thể hiện rõ nét

trong Sắp đặt Hồ Xuân Hương (1996), tổ hợp đồ vật như cánh tay, quạt được

bày trên chiếc ghế gỗ, có khả năng chuyển động linh hoạt xoay quanh một

trục cố định. Với ngôn ngữ điêu khắc kết hợp trong tổ hợp đồ vật tạo nên một

ký hiệu ẩn dụ về hình tượng “Bà chúa thơ Nôm” biểu đạt cung bậc tình cảm,

thái độ khá phức tạp của hình tượng: vừa thầm kín, dịu dàng vừa kiêu hãnh,

104

quyết liệt. Những cánh tay tạo hình mộc mạc, dung dị, đặt ngang tầm mặt

người xem, chính giữa là chiếc quạt giấy xòe ra để lộ phần xương quạt nhô

cao, gai góc, tạo cho tác phẩm cảm giác tĩnh mà động.

Tính tượng trưng, ước lệ biểu hiện qua màu sắc và không gian bố cục

của tác phẩm Sắp đặt Chuyện của đình cũng tạo nên một đặc điểm nổi bật.

Các dải lụa màu ngũ sắc thường thấy ở đồ mã, bùa chú trong đời sống tín

ngưỡng truyền thống, được sử dụng kết hợp với hình tượng cánh diều vẽ

trang trí họa tiết điêu khắc đình làng và bãi thóc tạo hình xoáy tròn. Màu ngũ

sắc từ các dải lụa tượng trưng cho ngũ phương, ngũ hành trong quan niệm dân

gian, có tác dụng trừ tà, diệt ma khi làm bùa chú. Các dải lụa ngũ sắc này

không chỉ tạo cho tác phẩm Sắp đặt một ấn tượng thị giác mạnh, mà còn là

nơi công chúng có thể tự do đọc, viết, vẽ khi tương tác với tác phẩm. Cách

diều cong vút tượng trưng cho mái đình cổ kính. Sân thóc vàng óng tượng

trưng cho đời sống của con người đương đại. Tổ hợp đồ vật trong tác phẩm

Sắp đặt Chuyện của đình được bố cục phân lớp không gian hướng dọc, tạo

nên ba lớp không gian ước lệ, ẩn dụ về tầng trời, tầng người và tầng đất, tạo

cho người xem cảm nhận về không gian đình làng, về cuộc sống nơi thôn quê

và những giá trị văn hóa, nghệ thuật của di sản trong cuộc sống đương đại.

Mỗi người xem lại tìm thấy một hay nhiều lớp ý nghĩa mở ở tác phẩm trong

quá trình thưởng thức, tương tác và suy ngẫm.

Tính tượng trưng, ước lệ cũng biểu hiện rõ trong các tác phẩm Sắp đặt

Nguyện cầu (2007) (H.4.1.13, tr.209) của Đặng Thị Khuê, Rằm tháng Bảy,

Một câu chuyện như mọi câu chuyện khác (1997), Một con đường (1999),

Đồng lúa (1999)... đều sử dụng bảng màu tương phản mạnh đỏ, vàng, đen,

trắng thường thấy trong nghi lễ tín ngưỡng, ma chay của người Việt, biểu hiện

tính tượng trưng, ước lệ. Ví dụ tác phẩm Sắp đặt Đồng lúa (1999) của Nguyễn

Minh Thành, kiến tạo từ vô số những chân nhang, nhuộm đỏ, cắm ngược trong

bố cục hình vuông, tạo nên một tác phẩm Sắp đặt vừa mang tính tâm linh vừa

105

mang thẩm mỹ tạo hình truyền thống trong hình thức mới. Trong văn hóa tâm

linh của người Việt, màu đỏ là màu của sự thiêng liêng, màu của sự sống, do đó

trong nhiều nghi lễ cúng tế truyền thống máu động vật được dùng để hiến tế

thần linh và xua đuổi tà ma. Màu đỏ còn có ý nghĩa của sự nhiệt huyết, may

mắn, đấu tranh, hy sinh..., được chọn làm màu quốc kỳ, biểu tượng của một

dân tộc. Tác phẩm Sắp đặt Đồng lúa (H.4.1.17, tr.211), yếu tố màu sắc của

những thẻ hương với ký hiệu ẩn dụ về tâm linh của chính nó để xây dựng tác

phẩm, đồng thời những ký hiệu tâm linh này tiếp tục sản sinh ký hiệu thẩm mỹ

khi được tạo hình nên Sắp đặt trở thành đa nghĩa trong sự ẩn dụ, gợi ý của tác

phẩm mà người xem có thể thỏa sức liên tưởng, suy ngẫm. Nhận xét về Sắp đặt

Đồng lúa của Nguyễn Minh Thành, tác giả Bùi Như Hương cho rằng: “đã tạo

ra một thẩm mỹ mới lạ đột ngột, ...toàn chân nhang màu đỏ, song màu đỏ ở đây

mang nhiều ý nghĩa tượng trưng: màu của cờ, của máu, của lễ hội, niềm vui, và

nhiều ý nghĩa tinh thần khác đối với người Việt” [34, tr.87].

Tính tượng trưng, ước lệ tạo nên đặc điểm nghệ thuật riêng biệt trong

nhóm tác phẩm Sắp đặt, sử dụng chất liệu sơn mài truyền thống như: Chén và

đũa 1945 của Lê Đức Hải - Lê Ngọc Thanh với 1945 chiếc bát phủ sơn mài.

Tác phẩm Sắp đặt này kết hợp hai màu truyền thống đỏ - vàng, tương phản

mạnh, làm nổi bật thông điệp ám ảnh về nạn đói từng làm chết khoảng 2 triệu

người dân Việt Nam năm 1945, khi phát xít Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa

trồng đay. Trong đó, màu sắc tượng trưng, khơi gợi cho người xem nhiều cảm

xúc, suy ngẫm có thể liên tưởng. Tương tự, sử dụng sơn mài truyền thống để

kiến tạo tác phẩm Sắp đặt với màu sắc tượng trưng, ước lệ nổi bật trong nhóm

tác phẩm Sắp đặt của tác giả Oanh Phi Phi như: Palimpsest (2014) tại Fost

Gallerry, Singapore; Specula (2008) tại Nhà triển lãm thành phố Hà Nội; Ba

Đình dấu cũ, hội nước là đây (2018) tại đường hầm lối vào Nhà Quốc hội. Ở

tác phẩm Sắp đặt này, kiến tạo từ đôi câu đối hình lòng máng, bức tranh tấm

chiếu cũ chất liệu sơn mài theo lối cổ, tác giả tiến hành chuyển dịch nội dung

106

ký tự của đôi câu đối truyền thống thành ký hiệu màu sắc, hình ảnh tương ứng,

tạo nên hiệu quả rất độc đáo. Ví dụ chữ thiên được thay bằng màu đỏ (nóng),

hình trăng sao (trên); đối lại với chữ địa là màu xanh (lạnh), hình hoa cỏ

(dưới), chẳng hạn. Màu sắc tượng trưng, không gian ước lệ của tác phẩm Sắp

đặt này còn biểu hiện quan niệm của triết lý âm dương, tam tài (thiên, địa,

nhân) nữa, hình ảnh chiếc chiếu cũ sờn ẩn dụ về sự có mặt của con người ở

giữa trời và đất.

Nhóm tác phẩm Sắp đặt sử dụng màu sắc tượng trưng, không gian ước

lệ truyền thống có thể kể thêm như: Những áng mây xưa (2011) của Nguyễn

Minh Thành; Nấc thang (2008) của Lê Văn Sửu; Chen lấn (2013) của

Nguyễn Ngọc Lâm; Hội tụ ánh sáng (2009) của Đào Anh Khánh; Thuyền hoa

giấy (2008) của Đinh Khắc Thịnh; Giường nội trú (2011) của Lê Đức Hải -

Lê Ngọc Thanh; Trung thu (2007) của Lê Trần Hậu Anh,...

Một số nghệ sỹ quốc tế cũng rất thành công khi sử dụng màu sắc để

xây dựng tác phẩm Sắp đặt. Nếu Sài Quốc Cường được biết đến là một nghệ

sỹ bậc thầy sử dụng thuốc súng và sắc màu pháo hoa truyền thống của Trung

Hoa để làm Sắp đặt, tạo hình rồng biểu tượng quyền lực, thì James Turrell,

Dan Flavin lại nổi tiếng với việc sử dụng ánh sáng màu từ đèn neon để tạo

dựng không gian. Trong Sắp đặt Monument 4 liên quan tới cuộc chiến tranh

Việt Nam, từ ký ức khiếp đảm về cung nỏ mà du kích Việt Nam dùng tiêu

diệt nhiều binh sĩ Mỹ, Dan Flavin đã sử dụng những chiếc đèn neon màu đỏ

như máu nhuốm cả không gian, tạo thành chiếc cung từ góc tường, cao ngang

tầm ngực, một chiếc đèn neon hướng thẳng như mũi tên mắc sẵn trong dây nỏ,

khiến cho người xem có cảm giác sợ hãi khi đứng trước Sắp đặt này.

Như vậy, yếu tố tạo hình, trang trí dân gian với màu sắc tượng trưng

truyền thống trong các tác phẩm Sắp đặt có thể đồng thời biểu đạt nhiều ý

nghĩa phản ánh giá trị thẩm mỹ, nhân sinh quan, vũ trụ quan của người Việt

vốn gắn liền với văn minh lúa nước, mang đậm triết lý âm dương ngũ hành.

107

Đồng thời, các tác phẩm Sắp đặt có YTTT giai đoạn này chịu ảnh

hưởng tích cực từ bố cục đăng đối và bố cục phân lớp không gian. Lối bố cục

truyền thống này thể hiện rất rõ trong trong kiến trúc truyền thống như cổng

tam quan, nghi môn, hoành phi câu đối (đăng đối); trong tranh thờ miền núi,

mặt bằng kiến trúc đình, chùa, nhà ở truyền thống (phân lớp không gian). Nói

về tầm quan trọng của bố cục trong tác phẩm Sắp đặt Việt Nam, tác giả

Natalia Kraevskaia cho rằng: “Năng lực ngữ nghĩa của Nghệ thuật Sắp đặt

được xác định không chỉ bằng chiều sâu tượng trưng của nó mà cả bằng bố

cục” [66, tr.44]. Trong lĩnh vực tạo hình, trang trí, kiến trúc truyền thống của

người Việt, lối bố cục đăng đối xuất hiện khá phổ biến. Những bức tượng tạo

hình tiêu biểu như tượng Phật A Di Đà chủa Phật tích, tượng Thiên thủ thiên

nhãn, Cửu phẩm liên hoa chùa Bút Tháp, tranh Vinh hoa - Phú quý, tứ quý, tố

nữ, cổng Tam quan, nghi môn, kiến trúc đình chùa, đền đài, lăng tẩm, hồ,

tháp, hoành phi, câu đối, ngũ sự; các môn thể thao có tính chất đối kháng và

một số trò chơi dân gian như: ô ăn quan; kéo co... cũng phản ánh rõ tinh thần

và quan niệm của lối bố cục này. Bố cục đăng đối thể hiện trạng thái tĩnh,

trang nghiêm, hài hòa của quy luật âm dương trong quan niệm dân gian. Một

số tác phẩm Sắp đặt Việt Nam thể hiện rõ nét lối bố cục đăng đối như: Ký tự

(2013), Ngày và đêm (1996) của Đặng Thị Khuê; Lạc chốn (2016) của Bùi

Công Khánh; Đối diện (2016) của Phan Lê Chung, Om ma ni pad me hum

(2016) của Nguyễn Đức Phương, Những cái túi (2017) của Trần Đức Quý.

Bố cục phân lớp không gian cũng thấy xuất hiện trong nhiều tác phẩm

Sắp đặt Việt Nam giai đoạn này, tạo nên sự sinh động khác lạ, không gian và

thời gian chỉ còn mang tính ước lệ, phụ thuộc vào ý niệm của chủ thể sáng

tạo. Có khi tất cả đều được hiển thị trên cùng một tác phẩm, phá bỏ trật tự

thông thường, lgich (chặt) khoa học về không gian và thời gian mà tạo lập sự

biểu đạt chủ quan với một logich (lỏng) dân gian. Những biểu hiện của lối bố

cục này có thể thấy rõ qua cách phân lớp không gian trong kiến trúc tín

108

ngưỡng truyền thống; cách bài trí tượng Phật (tam thế); tranh thờ miền núi,

tranh Hàng Trống, điêu khắc đình làng... Bố cục phân lớp không gian, tạo cho

nghệ thuật phong phú về hình thức và nội dung, thiết lập một thẩm mỹ mới lạ,

phá bỏ quan niệm duy lý về không gian và thời gian, gợi mở một hướng sáng

tạo đầy tiềm năng, mà NTSĐVN có thể khai thác.

Điểm mạnh của tác phẩm Sắp đặt có bố cục phân lớp không gian là có

thể hiển thị tối đa tổ hợp đồ vật, song hạn chế của lối bố cục này là chiếm mất

nhiều diện tích bề mặt nơi trưng bày. Một số Sắp đặt có bố cục phân lớp

không gian tiêu biểu như: Ký tự (2013), Âm hưởng đại ngàn (2014) của Đặng

Thị Khuê; Đồng đội, Mùa vàng của Nguyễn Bảo Toàn; Vạc & Xổm, Qua phố

nhớ gì? của Trần Hậu Yên Thế; Hóa thạch của Vương Văn Thạo; Đơn hàng

(2017) của Đào Đình Tân.

Tóm lại, đặc điểm tính tượng trưng, ước lệ trong các tác phẩm Sắp đặt

Việt Nam có YTTT giai đoạn này biểu hiện rõ nét qua hình thức và chủ đề tác

phẩm. Đặc điểm này được nhận biết qua màu sắc, không gian và bố cục tác

phẩm, tạo nên dấu ấn và giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc. Bên cạnh đó,

NTSĐVN giai đoạn này còn mang đặc điểm tính biểu cảm dân gian góp phần

chuyển tải thông điệp hiệu quả.

3.1.2. Tính biểu cảm dân gian

Tính biểu cảm dân gian được hiểu đơn giản là những biểu hiện trạng

thái cảm xúc, chất cảm để lại dấu ấn trên tác phẩm, lưu truyền trong cộng

đồng. Khác với khoa học duy lý, NTSĐVN không biểu hiện bằng công thức,

định lý trừu tượng, mà biểu hiện “ký hiệu biểu hình” nhằm thị giác hóa cảm

nhận, ý niệm, thái độ, ý tưởng tác phẩm thông qua hình tượng nghệ thuật, thủ

pháp dân gian và tiếng nói của hiện vật thủ công, chất liệu bản địa.

Đặc điểm của các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT giai đoạn 1995

- 2018 là tính biểu cảm dân gian với vẻ đẹp mộc mạc, dung dị, toát nên tinh

thần thẩm mỹ dân tộc. Đặc điểm này được hình thành nhờ tổ hợp hiện vật mỹ

109

thuật, đồ thủ công truyền thống, họa tiết, màu sắc dân gian và chất cảm của

chất liệu bản địa xây dựng tác phẩm Sắp đặt. Bản thân những hiện vật truyền

thống của người Việt, được dân gian sáng tạo đã chứa đựng tinh thần thẩm

mỹ, giá trị tư tưởng, văn hóa, lịch sử của cộng đồng văn minh lúa nước. Do

đó, tác phẩm Sắp đặt sử dụng các hiện vật truyền thống thường mang lại cảm

giác gần gũi, dễ tiếp nhận. Đặc biệt, những bức tượng, những con rối nước,

những họa tiết đã trở thành hình tượng, biểu tưởng trong đời sống văn hóa, tín

ngưỡng của dân tộc như chú Tễu, thằng Bờm, tượng nhà mồ Tây Nguyên,

tượng thờ, họa tiết điêu khắc đình làng, họa tiết trang trí trống đồng Đông

Sơn, giàu trạng thái cảm xúc của nghệ sĩ, chất cảm của chất liệu. Những sản

phẩm này được kết tinh từ khiếu nghệ thuật và trí tuệ của dân tộc thuần nông

thời xưa nên thường mang vẻ đẹp mộc mạc, dung dị, phản ánh sâu đậm tư

tưởng, ước vọng của người nông dân. Những hình tượng được dân gian xây

dựng luôn gắn liền với đời sống văn hóa bản địa và những tư tưởng triết lý,

tín ngưỡng, tôn giáo lớn. Ví dụ hình tượng chú Tễu, chất liệu gỗ phủ sơn ta,

trong tác phẩm Sắp đặt Những gương mặt cuộc đời của tác giả Chu Lượng

chẳng hạn. Nhân vật Tễu được dân gian xây dựng thành hình tượng đứa trẻ

với thân hình và vẻ mặt đầy đặn, hồn hậu, da trắng, tóc búi chỏm, miệng cười

tươi biểu cảm sự lạc quan, vui vẻ, hồn nhiên của đứa bé nông thôn xưa. Trang

phục đơn sơ, không cầu kỳ, diêm dúa như trang phục của tầng lớp quý tộc hay

trang phục của nhân vật thần tiên mà để lộ cánh tay trần và phần bụng.

Tuy thân phận là đứa trẻ nông thôn, song trên sân khấu rối nước, Tễu

trở thành hình tượng nổi bật bước ra ngoài thân phận để hóa thân thành nhân

vật trung tâm mang tư tưởng của quần chúng, khi dẫn chuyện, khi thẳng thắn

chế giễu thói hư, tật xấu của tầng lớp quan lại, trọc phú. Các con rối mang

đậm tính biểu cảm dân gian với số lượng lớn trong tác phẩm Sắp đặt Những

gương mặt cuộc đời (H.4.1.4, tr.204) đã tạo nên một bức tranh sinh động về

xã hội xưa, phản ánh sâu sắc tư tưởng nhân văn và vấn đề phản biện xã hội

110

đương đại, tạo nên đặc điểm nhận diện và biểu đạt đa dạng văn hóa trong xu

thế hội nhập quốc tế. Do vậy, các tác phẩm Sắp đặt sử dụng tổ hợp các hiện

vật, họa tiết truyền thống luôn có được lợi thế về tính biểu cảm dân gian mang

vẻ đẹp mộc mạc, dung dị khi xây dựng tác phẩm Sắp đặt. Có thể nói, sử dụng

YTTT để kiến tạo tác phẩm Sắp đặt tựa như việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ để

diễn đạt lời thoại, văn bản, luôn có nhiều lợi thế và khả năng chuyển tải tốt

nhất thông tin, thái độ, tâm trạng cảm xúc…mà chủ thể muốn bộc lộ. Qua đó,

công chúng không chỉ dễ dàng tiếp nhận hình thức biểu hiện mới mà còn cảm

nhận được nhiều giá trị nghệ thuật, văn hóa, lịch sử thông qua tính biểu cảm

dân gian nơi hình tượng nghệ thuật và chất cảm.

Khai thác tính biểu cảm dân gian từ tượng nhà mồ Tây Nguyên truyền

thống khá hiệu quả, phần lớn các tác phẩm Sắp đặt của tác giả Phan Thảo

Nguyên sử dụng tổ hợp tượng dân gian được tạo hình hết sức mộc mạc, giản

dị với những hình khối giản lược, khái quát. Các nhân vật trong hệ thống

tượng nhà mồ Tây Nguyên chủ yếu được các nghệ nhân tạc từ chiếc rìu

truyền thống nên hình tượng thường được tạo hình khái quát cao, không chú

trọng tới chi tiết mà thể hiện các diện, mảng lớn. Song các nhân vật tượng nhà

mồ Tây Nguyên thường toát nên vẻ đẹp mộc mạc, đặc biệt vẻ mặt được các

nghệ nhân thể hiện hết sức phong phú, biểu cảm tinh thần, đa dạng trạng thái

cảm xúc của từng nhân vật rất ấn tượng.

Bên cạnh một số tượng miêu tả những hoạt động phổ biên trong cuộc

sống, tượng mang tính phồn thực, thì tượng chống cằm với vẻ mặt buồn rầu

thường dành cho người cao tuổi qua đời, tượng đôi trẻ con vui vẻ ôm nhau nô

đùa dành cho đứa trẻ không may lìa đời. Những bức tượng này không chỉ cho

thấy độ tuổi của người nằm dưới mộ mà về mặt nghệ thuật, chúng có tính

biểu cảm rất cao thông qua lối tạo hình mộc mạc, giản lược, cử chỉ, dáng điệu

phong phú của từng nhân vật tượng với màu sắc tự nhiên, thô mộc của chất

liệu gỗ hoặc nhuộm màu tương phản mạnh như: đen, trắng, đỏ.

111

Cụm tác phẩm Sắp đặt Giọt sương Jrai tác giả Phan Thảo Nguyên đã

kết hợp vẻ đẹp mộc mạc, dung dị của tượng nhà mồ Tây Nguyên với những

hoa văn trang trí màu sắc rực rỡ của đồng bào vùng cao, tạo nên vẻ đẹp thị

giác mạnh. Tổ hợp tượng truyền thống giàu tính biểu cảm dân gian trong tác

phẩm Sắp đặt Giọt sương Jrai được tác giả không chỉ làm mới trên cốt tượng

truyền thống mà còn được bố cục ở một không gian mới, một hình thức nghệ

thuật mới, tạo nên sự độc đáo, riêng biệt, thu hút sự chú ý, tương tác của cộng

đồng bản địa và công chúng quốc tế.

Tính biểu cảm dân gian còn được thể hiện qua màu sắc gắn liền với

màu sắc của lễ hội, tín ngưỡng và triết lý âm dương ngũ hành. Màu sắc của đồ

mã thể hiện rõ quan niệm này. Màu sắc trong các tác phẩm Sắp đặt như Một

tâm hồn, Chuyện của đình, Những áng mây xưa, Nhiệt đới...đều hướng đến

tính biểu cảm dân gian với vẻ đẹp mộc mạc, dung dị của chất liệu tự nhiên và

đồ thủ công truyền thống. Nếu màu sắc của những dải khăn trong tác phẩm

Sắp đặt Một tâm hồn, Nhiệt đới ẩn dụ về tâm hồn kín đáo, sâu lắng của phụ

nữ Việt Nam với màu sắc gợi liên tưởng đến ký ức hội hè; thì màu sắc trong

tác phẩm Sắp đặt Chuyện của đình, Những áng mây xưa lại gợi nhớ tới giá trị

của di sản và màu sắc gắn liền với đời sống văn hóa tín ngưỡng của cộng

đồng xưa và nay. Màu sắc trong các tác phẩm Sắp đặt sử dụng đồ mã như Vạc

& Xổm, Thông điệp gửi cõi xa, Vòng quay cuộc đời, Tên tôi là… cũng biểu

cảm tính dân gian với vẻ đẹp mộc mạc, dung dị của đồ mã và quan niệm âm

dương ngũ hành trong đời sống văn hóa tín ngưỡng dân gian truyền thống.

Nhận xét về đặc điểm của NTSĐVN, tác giả Natalia Krevkaia cho rằng: “có

những họa sĩ đã tạo được mối liên hệ giữa những giá trị truyền thống, nguyên

lý triết học phương Đông và khái niệm luận phương Tây” [66, tr.42].

Như vậy, các tác phẩm Sắp đặt có YTTT đã tạo nên đặc điểm nổi bật

với tính biểu cảm dân gian mang vẻ đẹp mộc mạc, dung dị trong hình thức

biểu hiện mới. Tính biểu cảm dân gian được thể hiện thông qua lối tạo hình

112

nhân vật, đồ vật thủ công và màu sắc gắn liền với quan niệm âm dương ngũ

hành. Tính biểu cảm dân gian là hiệu quả tổng hợp từ quan niệm, kỹ thuật tạo

hình, màu sắc dân gian cho đến chất liệu bản địa sử dụng để xây dựng tác

phẩm. Tính biểu cảm dân gian đã tạo cho tác phẩm Sắp đặt Việt Nam vẻ đẹp

riêng biệt và đặc điểm, giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc, dung dị, chuyển tải

hiệu quả thông điệp, dễ tiếp nhận, gợi nhiều liên tưởng.

Nhìn chung, NTSĐVN giai đoạn này đã tạo nên đặc điểm nổi bật về

tính biểu cảm dân gian. Đặc điểm này biểu hiện phong phú trong các chủ đề

của tác phẩm, từ việc khai thác hiện vật truyền thống để tôn vinh truyền thống

cho đến chủ đề ký ức lịch sử, trở thành một dấu ấn trong quan niệm sáng tác.

Họa sĩ Vũ Đình Tuấn từng phát biểu, đại ý: “Không gì bằng lấy chính truyền

thống để nói về truyền thống”. Tuy nhiên, việc sử dụng các hiện vật thủ công

truyền thống và các chất liệu bản địa mang sẵn tính biểu cảm dân gian để xây

dựng tác phẩm Sắp đặt, là một thách thức đối với bản lĩnh của nghệ sĩ, tránh

lệ thuộc, ỉ lại, minh họa một cách dễ dãi, thiếu chiều sâu ý tưởng, là điều cần

khắc phục như tác giả Natalia Krevskaia đã chỉ rõ: “Nghệ thuật Sắp đặt Việt

Nam lại chỉ tự giới hạn trong khuôn khổ những đồ vật quen thuộc trong bối

cảnh dễ hiểu và theo một trật tự nhất định” [66, tr.45]. Sử dụng trực tiếp hiện

vật truyền thống, chất liệu bản địa hay khai thác tích chuyện cổ, họa tiết, màu

sắc, ca dao, tục ngữ với tính biểu cảm đa dạng để xây dựng tác phẩm tôn vinh

truyền thống, tái hiện ký ức về lịch sử, chiến tranh đã trở thành đặc điểm nổi

bật của NTSĐVN giai đoạn này. Tính biểu cảm dân gian đã tạo nên một điểm

nhấn trong NTSĐVN. Bên cạnh đó, chất vấn về mối quan hệ giữa truyền

thống và hiện đại, giữa quốc tế và dân tộc, toàn cầu và địa phương cũng tạo

nên một đặc điểm mang tính xung đột trong tác phẩm.

3.1.3. Tính xung đột giữa truyền thống với hiện đại

Bối cảnh toàn cầu hóa, giao lưu hội nhập quốc tế, đời sống văn hóa,

kinh tế xã hội đã có nhiều thay đổi tích cực, đồng thời cũng nảy sinh nhiều

113

vấn đề mới của đời sống đương đại, trong đó có vấn đề xung đột giữa truyền

thống và hiện đại, đối lập giữa thế giới và địa phương, toàn cầu và dân tộc.

Tác giả IoIa Lenzi nhận định: “các tác phẩm thể hiện sư cọ xát khi châu Á

chạm trán với hiện đại và vấn đề xung đột giữa truyền thống với hiện đại vẫn

còn liên quan đến ngày hôm nay” [87, tr.93]. Đây cũng là vấn đề được nhiều

nghệ sĩ làm Nghệ thuật Sắp đặt quan tâm, phản ánh qua tác phẩm, tạo nên đặc

điểm nổi bật, ấn tượng thị giác mạnh, đa nghĩa. Qua khảo sát thực tiễn có thể

nhận thấy, tính xung đột trong các phẩm Sắp đặt có YTTT giai đoạn này chủ

yếu được hình thành từ mối quan hệ đối lập giữa tổ hợp đồ vật; mối quan đối

lập giữa đồ vật với bối cảnh; mối quan hệ đối lập giữa quan niệm cũ - mới.

Các mối mối quan hệ đối lập này tạo nên tính xung đột trong hình thức và chủ

đề tác phẩm, biểu hiện thông qua thủ pháp, tạo hình, bố cục, bối cảnh, quan

niệm văn hóa, tín ngưỡng...

Mối quan hệ đối lập giữa tổ hợp đồ vật tạo nên tính xung đột: bên cạnh

đặc điểm tính tượng trưng, ước lệ, tính biểu cảm dân gian, thì tính xung đột

trong các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT giai đoạn này cũng là một đặc

điểm nổi bật. Các tác phẩm thuộc loại này đã không chỉ tạo nên đặc điểm

riêng biệt mà còn cho thấy hiệu quả của YTTT trong NTSĐVN khi là thành

phần kiến tạo tác phẩm, kịp thời phản chiếu những vấn đề đương đại. Điển

hình cho mối xung đột, đối lập giữa tổ hợp đồ vật là tác phẩm sắp đặt Phượt

của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng. Sử dụng thủ pháp đối lập, chiếc vỏ xe măng

ca phế liệu được đặt chồng lên bốn con rùa, tạo nên sự “xung đột” với bố cục

mới lạ. Tác phẩm Sắp đặt này gợi cho người xem sự liên hệ phong phú với

những xung đột, những vấn đề nổi cộm trong đời sống đương đại. Mối xung

đột, đối lập giữa tổ hợp đồ vật thông qua hình tượng truyền thống, biểu tượng

linh thiêng của văn hóa phương Đông (rùa) được làm thủ công với sản phẩm

công nghiệp sản xuất hàng loạt (vỏ xe ô tô), phương tiện giao thông phổ biến

trên thế giới được sử dụng trong tác phẩm Sắp đặt Phượt, là ví dụ điển hình.

114

Mối quan hệ đối lập giữa đồ vật với bối cảnh tạo nên tính xung đột: tổ

hợp hiện vật truyền thống trong tác phẩm Sắp đặt Vạc & Xổm của Trần Hậu

Yên Thế với những hình nhân thế mạng (tín ngưỡng, thủ công, chất liệu bản

địa) tương tác với bối cảnh hiện đại để tạo nghĩa cho tác phẩm. Những hình

nhân thế mạng, đồ mã truyền thống, đối lập, tương phản mạnh mẽ với không

gian hiện đại, thiết bị công nghệ tân tiến (máy vi tính, điều hòa, camera) của

không gian bối cảnh tại Thư viện Hội Đồng Anh ở Hà Nội. Sử dụng YTTT

tương tác với bối cảnh, thiết bị hiện đại, Sắp đặt Vạc & xổm (H.4.1.21, tr.213)

của Trần Hậu Yên Thế đã thiết lập được ý nghĩa từ chính sự mâu thuẫn, đối

lập này. Bản thân cốt đồ mã mang sẵn ký hiệu văn hóa “tâm linh” phổ biến

trong nghi lễ truyền thống, là thành phần kiến tạo Sắp đặt này, những hình

nhân trống rỗng, ngơ ngác trước màn hình máy tính, hình thành ký hiệu thứ

hai ẩn dụ về sự tâm lý tín ngưỡng của người Việt, ngơ ngác bàng hoàng trước

tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa. Ký hiệu thẩm mỹ trong Sắp đặt này cũng

gợi cho người xem về một thông điệp của sự đề kháng văn hóa trước cơn lốc

toàn cầu hóa, một sân chơi của thế giới phẳng. Tác phẩm Sắp đặt Vạc & Xổm

đập vào thị giác người xem là sự hỗn độn đến lạc lõng, không ăn nhập của

những hình nhân tre đan trống rỗng: Thằng thì ngồi chồm hỗm, thằng thì ngồi

vắt vẻo trên chiếc ghế hiện đại, tệ hơn, vài thằng còn “ngồi tót sỗ sàng” trên

giá sách đầy ắp tri thức của nhân loại, trên đầu người xem. “Xổm” cho tới

“Vạc” đi, tàn lụi đi. Một cá nhân trống rỗng văn hóa, trí tuệ ắt sẽ dẫn đến

hành vi ứng xử sai lệch. Một xã hội trống rỗng thì nguy hại khôn lường... Tác

phẩm Sắp đặt Vạc & Xổm là những gợi ý mở, tùy thuộc vào khả năng cảm

nhận mà người xem có thể suy ngẫm, đặt ra nhiều câu hỏi khi thưởng thức.

Nhấn mạnh đến mối quan hệ của tổ hợp hiện vật với bối cảnh, tác giả Natalia

Krevskaia viết: “ý tưởng coi Sắp đặt...gắn liền với một địa điểm ở đó giá trị, ý

nghĩa của một vật thể bị gạt bỏ, trọng tâm sự chú ý nhằm vào mối quan hệ và

sự tương tác giữa các đồ vật với bối cảnh của chúng để tạo nên một tổng thể”

115

[66, tr.40]. Mối quan hệ giữa tổ hợp đồ vật, hình tượng với bối cảnh đương

đại cũng thể hiện rõ trong cụm tác phẩm Sắp đặt Ngóng 1, 2, 3 (2010)

(H.4.1.11, tr.208), của tác giả Trần Văn Thức, tại Trung tâm Văn hóa Pháp

L’épace, Hà Nội. Những bức tượng được tạo hình cực thực, miêu tả những bà

mẹ áo nâu, khăn mỏ quạ tiêu biểu cho tầng lớp lao động của nông thôn xưa,

người ngồi trên sập cổ, người đang trên giường buông màn, người đang cúi

bám vào cửa kính với vẻ lạc lõng nhìn ra phố Tràng tiền tấp nập người xe. Sử

dụng ngôn ngữ điêu khắc kết hợp với hiện vật truyền thống và khai thác

không gian bối cảnh, tác phẩm Ngóng đã tạo dựng một không gian đối lập

giữa truyền thống với hiện đại, giữa thế hệ cũ và mới, giữa phương Đông và

phương Tây, giữa dân tộc và toàn cầu, gợi cho người xem nhiều liên tưởng

trong tính xung đột mạnh mẽ. Tác phẩm Sắp Du cư trong thành phố (2011)

của Nguyễn Hồng Phương có tính xung đột thông qua mối quan hệ giữa tổ

hợp đồ vật với bối cảnh, tạo ấn tượng mạnh. Tổ hợp hiện vật kết hợp với

không gian bối cảnh đã tạo nên ký hiệu ẩn dụ, ám chỉ về các vấn đề xã hội

trong đời sống đương đại, về tầng lớp nghèo khó, nhà cửa, đất đai. Tổ hợp

hiện vật được đặt trong khuôn viên với nhiều tòa nhà hiện đại ở Trường Đại

học Mỹ thuật Việt Nam, tạo nên sự tương phản mạnh mẽ. Những chiếc ghế

sofa màu sắc sặc sỡ, ẩn dụ về sự hiện diện của văn hóa phương Tây và cuộc

sống khá giả của tầng lớp xã hội đương đại, đối lập là hình ảnh túp lều xập xệ,

tạm bợ của tầng lớp ngư dân nghèo khổ. Tác phẩm này gợi cho người xem

liên tưởng tới các vấn đề xã hội, dấy lên trong họ vô số câu hỏi đại loại như:

Thân phận người dân xóm chài? Khoảng cách giàu nghèo? Vấn đề bình đẳng?

Chất lượng cuộc sống ?.. Tác phẩm không phải là câu trả lời mà đã khơi gợi

cho người xem nhiều nghi vấn, suy ngẫm. Đánh giá về tác phẩm Sắp đặt Du

cư trong thành phố, họa sĩ Lê Anh Vân cho rằng: “xã hội đang chạy đua kinh

tế, không ít người thờ ơ hoặc bàng quan trước vấn đề của cuộc sống. Du cư

116

trong thành phố gắn liền với thực tại, mang đậm tính xã hội, nên nó có thái độ

thức tỉnh xã hội một cách mạnh mẽ”.

Mối quan hệ đối lập giữa quan niệm cũ - mới tạo nên tính xung đột:

Bối cảnh toàn cầu hóa đã thúc đẩy xã hội phát triển tiến bộ về nhiều lĩnh vực,

tạo nên sự thay đổi nhận thức, vị trí của người dân trong xã hội, nhiều giá trị

văn hóa thay đổi, hình thành một lối sống mới trong thế hệ trẻ ở Việt Nam.

Trong khi, thế hệ cao tuổi dường như vẫn giữ nguyên quan niệm cũ, những

thói quen đã hình thành lâu đời gắn liền với đời sống nông nghiệp lạc hậu.

Đặc biệt, những định kiến trong xã hội thời xưa đã hằn sâu trong tâm thức của

thế hệ cao tuổi, những chuyển biến xã hội diễn ra nhanh chóng khiến cho diễn

biến tâm lý đôi khi không theo kịp, trở nên mâu thuẫn, xung đột. Vấn đề mới

nảy sinh trong xã hội của người Việt đã được một số nghệ sĩ khai thác, tạo

cho tác phẩm Sắp đặt có họ có tính xung đột mạnh mẽ, thông qua hình thức

và chủ đề tác phẩm nhằm “thị giác hóa” cái thuộc về trừu tượng, vô hình.

Điển hình cho mối quan hệ đối lập giữa góc khuất tâm lý, quan niệm cũ - mới

là các tác phẩm Sắp đặt Barrie 1 của Đặng Thị Khuê, Những bà mẹ quê của

Phạm Văn Quý, Trên bờ sông Hồng (2001) của Trần Lương. Nhìn chung, các

tác phẩm này đã phản ánh sâu sắc những khía cạnh quan niệm, tư tưởng diễn

biến ngay trong tâm lý con người, thân phận và giữa những định kiến xưa cũ

đối với phụ nữ nông thôn thời xưa và những tư duy cởi mở, tư tưởng bình

đẳng của xã hội thời nay mà họ từng nếm trải. Nếu tác phẩm Sắp đặt Barrie I

là sự mâu thuẫn giằng xé trong tâm lý phụ nữ với định kiến xưa cũ trở thành

rào cản vô hình mà chính người phụ nữ không dám vứt bỏ hoặc bước qua; thì

tác phẩm Sắp đặt Những bà mẹ quê lại đề cập đến sự cam chịu của những

người phụ nữ nơi thôn quê, từng là nạn nhân của sự gia trưởng, bạo hành, của

quan niệm trọng nam khinh nữ thời xưa và những thay đổi tiến bộ thời nay.

Tác phẩm Sắp đặt Những bà mẹ quê đã tăng được sức nặng đáng kể cho ý

tưởng, chủ đề của tác phẩm với nhưng dòng chữ viết tay do chính chủ nhân

117

của những chiếc đòn gánh ghi lại tâm tư, mơ ước và những câu chuyện trái

ngang chưa từng được kể. Tác phẩm Bên bờ Sông Hồng lại phản ánh sự đối

lập của chất lượng sống, vấn đề xã hội giữa những giai tầng trong đời sống

đương đại, khoảng cách đối lập giàu nghèo ngày càng có chiều hướng gia

tăng. Nhận xét về tác phẩm Sắp đặt này tác giả Kraevskaia Natalia cho rằng:

“vấn đề xã hội được đề cập gián tiếp...bản thân việc lựa chọn địa điểm cũng

nói đến những vấn đề của người nghèo, những người dân không nhà, cư trú

bất hợp pháp trong khu ổ chuột của thành phố lớn” [106, tr.61]. Trong tác

phẩm Sắp đặt Fortress temple (2015) (H.4.3.3, tr.221) của tác giả Bùi Công

Khánh, sử dụng ngôn ngữ hội họa và điêu khắc với chất liệu bản địa, những

chiếc bình gốm Bát Tràng cỡ lớn được vẽ dưới men hình tượng kiến trúc cổ

kính như chùa, tháp, Ngọ môn cùng với những phương tiện, vũ khí tối tân

như máy bay, xe tăng, tàu chiến xe kẽ giữa phong cảnh hữu tình, theo lối ẩn

dụ và siêu thực. Những hình ảnh đối lập như đã nêu, tạo ra sự xung đột mạnh

mẽ, từ cách thức tạo hình cho đến bối cảnh mà nghệ sĩ tạo dựng. Những câu

chuyện đằng sau tranh vẽ trên gốm đã tích hợp những giá trị và điển lệ cổ

xưa, phản ánh vấn đề mang tính thời sự của dân tộc. Bình luận về tác phẩm

này, tác giả Trần Hoàng Ngân cho rằng: “Những chiếc bình hoa của Bùi Công

Khánh có thể tạm gọi là di sản của tương lai. Ở đó, những giá trị truyền thống

không bị lãng quên mà được thời đại hóa để tiếp tục tồn tại” [71, tr.34].

Như vậy, các tác phẩm Sắp đặt có YTTT giai đoạn này mang đặc điểm

nổi bật là tính xung đột giữa truyền thống và hiện đại trong hình thức và chủ

đề tác phẩm. Mối quan hệ giữa tác phẩm Sắp đặt và sự phản biện xã hội nảy

sinh từ đời sống cộng đồng, bối cảnh địa phương. Tính xung đột trong tác

phẩm Sắp đặt được hình thành chủ yếu từ các mối quan hệ như: mối quan hệ

đối lập giữa tổ hợp đồ vật; mối quan hệ đối lập giữa đồ vật với bối cảnh; mối

quan hệ đối lập giữa quan niệm cũ - mới. Các mối quan hệ này trong tác

phẩm được biểu hiện thông qua thủ pháp, tạo hình, bố cục, bối cảnh, quan

118

niệm nảy sinh mâu thuẫn trong đời sống đương đại, tạo nên ấn tượng thị giác

mạnh, đa nghĩa và đặc điểm nghệ thuật riêng biệt.

3.2. Giá trị nghệ thuật

Có thể nói, tác phẩm nghệ thuật sẽ thực sự trở nên có giá trị khi nó kết

hợp nhuần nhuyễn giữa kỹ thuật hiện đại với ý tưởng cá tính và tinh hoa

truyền thống vùng miền. NTSĐVN giai đoạn này đã khẳng định được giá trị

nghệ thuật độc đáo của mình trong sự hòa quyện giữa YTTT với cách biểu đạt

hiện đại qua hình thức và chủ đề tác phẩm.

3.2.1. Đa dạng biểu đạt qua hình thức và chủ đề tác phẩm

YTTT trong NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018 đã góp phần làm đa dạng

biểu đạt giá trị văn hóa nghệ thuật qua hình thức và chủ đề tác phẩm. Đó là

kết quả của sự hòa quyện giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh, giữa

truyền thống với hiện đại. Tác giả Vũ Khiêu cho rằng: “truyền thống phải

chứng minh lý do tồn tại ở chỗ nó thích hợp với hiện đại, góp phần thúc đẩy

sự phát triển của xã hội hiện đại. Hiện đại là sự nối tiếp của truyền thống

trong thời kỳ mới, là điều kiện và cơ sở để bảo tồn và đổi mới truyền thống”

[47, tr.1]. YTTT là nhân tố hợp lý được kế thừa làm tiền đề cho sự kết hợp,

phát triển cái mới đáp ứng thay đổi của xã hội.

Qua những phân tích các tác phẩm Sắp đặt ở chương 2 cho thấy, biểu

hiện của YTTT trong NTSĐVN giai đoạn này đã tạo cho tác phẩm những đặc

điểm và giá trị nghệ thuật riêng biệt, góp phần làm đa dạng biểu đạt qua hình

thức và chủ đề tác phẩm.

YTTT biểu đạt qua hình thức sử dụng trực tiếp hiện vật thủ công, chất

liệu bản địa. Cách thức khai thác này được thấy khá phổ biến trong các tác

phẩm Sắp đặt của Việt Nam giai đoạn 1995 - 2018. Điểm ưu việt của cách

thức này là phát huy được những thứ sẵn có, hàm chứa trong nó giá trị văn

hóa, lịch sử gắn liền với tư duy, tâm thức của người Việt. Hình khối tự thân

của hiện vật, màu sắc, chất liệu bản địa với vẻ đẹp tạo hình, trang trí dân

119

gian... là những lợi thế lớn khi khai thác những yếu tố này để xây dựng tác

phẩm, góp phần làm đa dạng biểu đạt giá trị văn hóa nghệ thuật cho hình thức

và chủ đề tác phẩm. Một số tác phẩm Sắp đặt tiêu biểu cho cách thức biểu đạt

này như: Ký tự, Những gương mặt cuộc đời, Thuyền hoa giấy, Thông điệp gửi

cõi vĩnh hằng, Nghi trượng, Giọt sương Jrai...

YTTT biểu đạt qua hình thức sử dụng họa tiết, màu sắc truyền thống.

Cách thức khai thác này cũng khá phổ biến, được nhiều nghệ sĩ sử dụng khi

xây dựng tác phẩm Sắp đặt giai đoạn này. Các họa tiết dân gian trang trí đình

làng, trang trí kiến trúc truyền thống của dân tộc thiểu số, họa tiết trong các

tranh dân gian, vốn cổ truyền thống, màu sắc theo quan niệm âm dương ngũ

hành...thường xuất hiện với vai trò làm đẹp cho hình thức và thể hiện ý tưởng,

chủ đề của tác phẩm. Cách thức này có thế mạnh là dễ gây ấn tượng thị giác

với vẻ đẹp gần gũi, thân quen nên công chúng dễ tiếp nhận. Một số tác phẩm

Sắp đặt tiêu biểu cho cách thức tiếp cận này như: Chuyện của Đình, Hành

trình lịch sử, Những áng mây xưa,...

YTTT biểu đạt qua hình thức “tiếm đoạt” không gian di sản. Cách thức

khai thác, “tiếm đoạt” không gian di sản nhằm tạo nghĩa cho tác phẩm cũng

xuất hiện trong một số tác phẩm Sắp đặt của nghệ sĩ Việt Nam giai đoạn này.

Bản thân di sản đã mang sẵn vẻ đẹp cổ kính với không gian hàm chứa nhiều

giá trị như: tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa, lịch sử,... nên khi tác phẩm tiếm

đoạt được không gian này, tác phẩm sẽ trở nên đa nghĩa hơn, giàu ý niệm hơn.

Tác phẩm Sắp đặt Không gian nghệ thuật (1997) của tác giả Nguyễn Văn

Tiến - Trần Anh Quân được xem là tác phẩm tiên phong cho cách thức khai

thác không gian di sản ở Việt Nam. Ngoài ra, có thể kể đến một số tác phẩm

khác như: Ẩn náu, Quảng trường thi ca... Mặc dù, số lượng di sản ở Việt Nam

vô cùng phong phú, một tiềm năng lớn mà các nghệ sĩ có thể khai thác để xây

dựng tác phẩm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy số lượng tác phẩm Sắp đặt khai

thác không gian di sản ở Việt Nam giai đoạn này vẫn còn rất khiêm tốn.

120

YTTT biểu đạt qua khai thác nội dung, chủ đề văn hóa tín ngưỡng

truyền thống, truyền thuyết, câu chuyện gắn liền với lịch sử dân tộc Việt. Bên

cạnh việc khai thác các yếu tố tạo hình, trang trí, không gian di sản, chất liệu

bản địa để xây dựng tác phẩm Sắp đặt giai đoạn này, một số tác phẩm đã đi

sâu vào khai thác nội dung, chủ đề truyền thống, những câu chuyện găn liền

với lịch sử dân tộc, tạo cho nội dung tác phẩm phong phú, đa dạng. Cách thức

khai thác này được nhiều nghệ sĩ ưa thích, tạo thành hướng sáng tạo riêng.

Một số nghệ sĩ đã định danh với hướng sáng tạo này như: Đặng Thị Khuê,

Nguyễn Bảo Toàn, Trần Hậu Yên Thế, Phan Thảo Nguyên. Nội dung tác

phẩm Sắp đặt được hình thành từ việc khai thác chủ đề truyền thống nên có

nhiều thuận lợi trong việc chuyển tải thông điệp nghệ thuật tới công chúng, họ

nhận thấy sự gần gũi, dễ cảm nhận bởi chủ đề, câu chuyện biểu đạt trong tác

phẩm gắn liền với đời sống dân gian, tâm thức của cộng đồng. Đưa ra quan

điểm về sử dụng YTTT để xây dựng tác phẩm Sắp đặt, nghệ sĩ Đinh Khắc

Thịnh cho rằng: “tôi tìm thấy sự thoả mái trong lòng và thấy công chúng dễ

dàng đón nhận trong một hình thức mới”.

YTTT biểu đạt qua hình thức học tập tinh thần nghệ thuật từ vốn cổ

truyền thống để xây dựng tác phẩm Sắp đặt. Cách thức biểu đạt này là sự kết

hợp giữa lối tiếp cận trực tiếp và gián tiếp, “sử dụng nghệ thuật như một biểu

trưng, một môi trường để tương tác, qua đó biến đổi, lồng ghép, in dấu những

quan điểm cá nhân về con người, về xã hội đương đại” [87, tr.223]. Cách thức

biểu đạt này đỏi hỏi năng lực sáng tạo, tri thức, trải nghiệm cuộc sống trên

nhiều phương diện của cá nhân nghệ sĩ. Đây là cách thức mà hầu hết các loại

hình nghệ thuật đều ít nhiều hướng tới. Từ lĩnh vực điện ảnh, sân khấu, âm

nhạc, văn học cho tới lĩnh vực tạo hình đều quan tâm, chịu ảnh hưởng từ tinh

thần nghệ thuật truyền thống. Trong Nghệ thuật Sắp đặt, bên cạnh những cách

thức khai thác trực tiếp YTTT như đã nêu trên, một số tác phẩm chịu ảnh

hưởng gián tiếp thông qua việc học tập, sáng tạo theo gợi ý từ vốn cổ truyền

121

thống. Cách thức này có thể nhận thấy trên nhiều phương diện, từ kỹ thuật,

thủ pháp nghệ thuật, lối bố cục,...cho đến tinh thần thẩm mỹ, tổ chức không

gian nghệ thuật. Điểm nổi bật của cách thức này là tạo ra tác phẩm mang đậm

dấu ấn cá tính của chủ thể sáng tạo, mà vẫn phảng phất mối quan hệ với tinh

thần truyền thống. Một số tác phẩm Sắp đặt tiêu biểu như: Tên tôi là..., Những

bàn tay, Những con mắt nguyên thủy, Đối diện, Specula. Ngày và đêm, Một

tâm hồn...

Tóm lại, YTTT trong NTSĐVN giai đoạn này đã góp phần làm đa dạng

biểu đạt giá trị văn hóa nghệ thuật qua hình thức và chủ đề tác phẩm. Trong

đó, cách thức biểu đạt YTTT nổi bật trong NTSĐVN như: trực tiếp sử dụng

hiện vật, di sản, họa tiết, màu sắc, không gian như là thứ sẵn có để biểu đạt

trong tác phẩm; sử dụng gián tiếp, học tập từ truyền thống, coi truyền thống,

di sản như là một kinh nghiệm cổ xưa, một mạch nguồn khơi gợi sáng tạo để

biểu đạt tác phẩm mang dấu ấn cá tính, riêng biệt; kết hợp lối khai thác trực

tiếp và gián tiếp nhằm biến đổi, lồng ghép thái độ, cảm xúc cá nhân để biểu

đạt tác phẩm. Tuy nhiên, cách thức biểu đạt nào cũng có ưu điểm và hạn chế

nhất định. Sử dụng trực tiếp hiện vật, họa tiết truyền thống, chất liệu bản địa

có sẵn dễ tạo cho nghệ sĩ tâm lý ỉ lại, thiếu cá tính sáng tạo, dễ bị trùng lặp ý

tưởng. Ngược lại, cách biểu hiện thông qua tiếp cận trực tiếp cộng gián tiếp,

học tập tinh thần truyền thống để xây dựng tác phẩm, sẽ tạo được dấu ấn cá

nhân, đòi hỏi nỗ lực rất lớn, trải nghiệm, chiêm nghiệm đa diện từ cuộc sống

xã hội. Bên cạnh việc YTTT góp phần đa dạng biểu đạt qua hình thức và chủ

đề tác phẩm, thì nó còn góp phần mở rộng ranh giới thẩm mỹ.

3.2.2. Mở rộng ranh giới thẩm mỹ

Giá trị nghệ thuật của tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT giai đoạn

này, không chỉ dừng lại ở thẩm mỹ truyền thống, mà hơn thế nó đã khẳng

định được lý do tồn tại của nó trong đời sống đương đại, mở rộng ranh giới

thẩm mỹ. Các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT trong giai đoạn này đã

122

thiết lập một thẩm mỹ mới, thoát khỏi thẩm mỹ khoa học, duy lý phương Tây

để mở rộng ranh giới thẩm mỹ “thị giác hóa cảm nhận nội tâm của con người”

[117, tr.15] hay như nhận định của tác giả Đặng Thị Khuê: “thẩm mỹ ngày

nay ngày càng quan tâm đến cái không nhìn thấy được và nhấn mạnh đến sự

giao cảm và chiêm nghiệm ở người xem, nguyên tắc ấy rất phù hợp tự nhiên

với lối diễn đạt mang tính tượng trưng ẩn dụ vốn rất phổ biến trong truyền

thống thẩm mỹ Việt Nam”, trả lời phỏng vấn trong Triển lãm “Bình Đẳng là

gì?” năm 2008, Trường ĐHMTVN, Nxb. Mỹ thuật.

Là một trong loại hình nghệ thuật đương đại có nguồn gốc phương Tây

được tiếp nhận vào Việt Nam, NTSĐVN giai đoạn này không ngừng mở rộng

ranh giới thẩm mỹ thông qua sự kết hợp YTTT sẵn có với cách thức biểu đạt

mới. Đặc trưng của Nghệ thuật mang tính cởi mở, tự do nên mọi thứ đều có

thể trở thành thành phần, chất liệu xây dựng tác phẩm. Nghệ sĩ có quyền

quyết định bất cứ hiện vật nào, vô giới hạn, kể cả đồ phế liệu, rác thải trở

thành nghệ thuật. Ranh giới thẩm mỹ không còn đóng khung trong bề mặt

tranh, tượng, trang trí kiến trúc truyền thống theo quan niệm dân gian hay

những chuẩn tắc, công thức nghiêm ngặt của thẩm mỹ khoa học duy lý, mà

mở rộng lãnh địa “tiếng nói của những đồ vật” với khái niệm mơ hồ, đa

nghĩa, “có những họa sĩ đã tạo được mối liên hệ giữa những giá trị truyền

thống, nguyên lý triết học phương Đông và khái niệm luận phương Tây”

[106, tr.62]. Cái đẹp thị giác không còn là hạng mục ưu tiên như thường thấy

trong các loại hình nghệ thuật truyền thống, mà ý tưởng, ý niệm được đặc biệt

chú trọng. Nó xóa nhòa ranh giới của nhiều loại hình, loại thể, khái niệm nghệ

thuật cũng vì thế mà trở nên mờ nhạt, khó có thể phân định rành mạch. YTTT

với tư cách là yếu tố nội sinh đã được nhiều nghệ sĩ khai thác để xây dựng tác

phẩm Sắp đặt. NTSĐVN giai đoạn này đã chứng kiến rất nhiều tác phẩm

được kiến tạo từ sự kết hợp, pha trộn ngôn ngữ của Điêu khắc, Đồ họa, Kiến

trúc, cũng như các yếu tố trang trí, hiện vật thủ công, không gian di sản, chất

123

liệu bản địa...tạo nên một thẩm mỹ mới lạ mang tính ý niệm, siêu hình, trừu

tượng. Những hiện vật thông thường mang chức năng gia dụng, tín ngưỡng

trong cuộc sống hoặc gắn liền với lĩnh vực sân khấu, trang trí kiến trúc...đã

thoát khỏi ranh giới vốn có để trở thành “chất liệu” xây dựng tác phẩm Sắp

đặt, với chức năng và thông điệp mới trong đời sống nghệ thuật đương đại.

Một số tác phẩm Sắp đặt tiêu biểu sử dụng trực tiếp các hiện vật thủ công,

ngôn ngữ nghệ thuật truyền thống như: Ký tự, Ký ức 1, Những gương mặt

cuộc đời, Đồng lúa, Vạc và Xổm, Forttress temple...

Sáng tạo nghệ thuật là tìm đến giá trị thẩm mỹ, giá trị nhân văn trong sự

biểu hiện khác biệt. Mỗi dân tộc đều gắn liền với nền văn hóa và truyền thống

khác nhau. NTSĐVN giai đoạn này đã trở về truyền thống dân tộc để khai

thác và mở rộng ranh giới thẩm mỹ vừa mang sắc thái bản địa (nội sinh) vừa

chứa đựng đặc trưng thẩm mỹ phương Đông và cả những phẩm chất mới

được bổ sung, tiếp nhận từ bên ngoài (ngoại sinh) trong bối cảnh giao lưu hội

nhập quốc tế. Bên cạnh giá trị thẩm mỹ của hình khối, lối bố cục, không gian,

màu sắc truyền thống, góp phần tạo nên vẻ đẹp cho hình thức NTSĐVN, thì

bản thân YTTT hàm chứa sẵn trong nó ý nghĩa lịch sử, văn hóa bản địa. Yếu

tố tạo hình, trang trí truyền thống vốn chỉ xuất hiện phổ biến trong các loại

hình nghệ thuật như Đồ họa, Điêu khắc, Kiến trúc và gắn liền với đồ thủ công

phục vụ tín ngưỡng, đồ gia dụng trong đời sống cộng đồng, đã trở thành thành

phần, chất liệu kiến tạo Nghệ thuật Sắp đặt. Điều này cho thấy rõ giá trị của

YTTT góp phần mở rộng ranh giới thẩm mỹ qua hình thức và chủ đề tác

phẩm. Hầu hết các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT giai đoạn 1995 -

2018 khẳng định rõ giá trị mở rộng ranh giới thẩm mỹ trong sự kết hợp hòa

quyện giữa truyền thống với hiện đại. Đồng thời khẳng định lý do tồn tại của

truyền thống trong đời sống đương đại, nói như học giả Thomas Morus (1478

-1535), tác giả cuốn tiểu thuyết giả tưởng Utopia, cho rằng: “truyền thống

không phải là gìn giữ đống tro tàn, mà là chuyển tiếp ngọn lửa” [132].

124

Tuy nhiên, các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT, quá chú trọng

đến hình thức “duy mỹ”, “mang tính minh họa” cho ý tưởng, chủ đề như tác

giả Kraevskaia Natalia đã chỉ ra, là những hạn chế cần khắc phục, hoàn thiện

trong quá trình phát triển của NTSĐVN giai đoạn tiếp theo.

Tóm lại, YTTT đã trở thành nhân tố quan trọng kiến tạo NTSĐVN giai

đoạn 1995 - 2018, góp phần mở rộng ranh giới thẩm mỹ, hướng tới thẩm mỹ

thị giác hóa cảm nhận nội tâm của con người, quan tâm đến cái vô hình với sự

giao cảm và chiêm nghiệm ở người xem. Quá trình phát triển của NTSĐVN

giai đoạn này, YTTT hòa quyện với hiện đại đã không chỉ làm đa dạng biểu

đạt, mở rộng ranh giới thẩm mỹ mà còn góp phần định vị NTSĐVN trong đời

sống xã hội và dòng chảy nghệ thuật đương đại đầy biến động.

3.2.3. Định vị Nghệ thuật Sắp đặt

Định vị Nghệ thuật Sắp đặt trong trường hợp này được hiểu là xác định

vị trí của NTSĐVN trong đời sống xã hội của người Việt và vị trí cuả nó

trong lịch sử nghệ thuật đương đại.

Đối với lịch sử nghệ thuật đương đại, các tác phẩm Nghệ thuật Sắp đặt

có YTTT đã khẳng định được vị trí của mình, từng bước được thể chế chính

thức công nhận. Hầu hết trong các cuộc Triển lớn mang tính chất quốc gia

như Festival Mỹ thuật trẻ, Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam...trong các cuộc

Festival tổ chức tại Huế, Triển lãm Biennale tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh,

đều có sự tham gia của các tác phẩm Sắp đặt. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ

của loại hình Nghệ thuật Sắp đặt, cách thức quản lý, cách thức tổ chức nghệ

thuật cũng từng bước thay đổi phù hợp, đồng hành với sự phát triển của thực

tiễn. Cụ thể là, các Triển lãm Festival Mỹ thuật trẻ, Triển lãm Mỹ thuật Việt

Nam từ năm 2010 đã chính thức có hạng mục giải thưởng cho tác phẩm Sắp

đặt. Điều thay đổi đáng ghi nhận trong cách thức tổ chức (2015) là đã thành

lập Hội đồng Nghệ thuật Sắp đặt để bình xét giải thưởng cho loại hình nghệ

thuật này, thay vì chỉ có Hội đồng bình chọn chung như trước đó. Như vậy,

125

Nghệ thuật Sắp đặt từ chỗ phát triển tự phát giai đoạn đầu, đã từng bước được

thể chế công nhận, khẳng định vị trí của nó ngang bằng các loại hình nghệ

thuật truyền thống vốn có. Hơn nữa, đội ngũ nghệ sĩ làm Sắp đặt cũng từng

bước chuyên nghiệp hơn, khẳng định được phong cách, hướng đi riêng như

Đặng Thị Khuê, Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn Minh Thành, Trần Hậu Yên Thế,

Lê Thừa Tiến, Đinh Khắc Thịnh, Bùi Công Khánh, Oanh Phi Phi, Phan Thảo

Nguyên, ... đóng góp vào thành công chung của NTSĐVN trong lịch sử nghệ

thuật đương đại.

Đối với đời sống xã hội đương đại, các tác phẩm Sắp đặt có YTTT đã

và đang từng có chỗ đứng trong lòng công chúng. Hơn nữa, các tác phẩm Sắp

đặt có YTTT đã khẳng định là phương tiện nghệ thuật nổi trội trong việc phản

chiếu những thay đổi, biến động của xã hội đương đại, so với các loại hình

nghệ thuật truyền thống vốn có. Các tác phẩm này đã đưa nghệ thuật đến gần

công chúng hơn, lan tỏa giá trị truyền thống thông qua cách thức biểu hiện

mới, vẫy gọi sự tương tác của công chúng tham gia một cách tự do, bình đẳng.

Các tác phẩm Sắp đặt có YTTT trở thành một kênh giải trí bình dân, người

tham dự có thể tiếp nhận thông tin, tri thức qua hình thức và chủ đề tác phẩm

một cách tự nhiên, tự nguyện trong quá trình tham dự “cuộc chơi”. Nhận định

về khía cạnh này, tác giả Trần Hoàng Ngân cho rằng: “thông qua các tác phẩm

nghệ thuật, di sản được tôn vinh và góp phần thu hút sự quan tâm của công

chúng để những giá trị truyền thống của ông cha để lại không bị mai một, quên

lãng” [71, tr.29]. Hơn nữa, các tác phẩm Sắp đặt có YTTT tạo cho công chúng

“dễ tiếp nhận” (nói như nghệ sĩ Đinh Khắc Thịnh) qua cách thức biểu hiện mới.

Qua đó, công chúng từ chỗ yêu nghệ thuật, yêu di sản truyền thống, hiểu nó đến

chỗ trân trọng, ứng xử phù hợp với nghệ thuật và di sản trong đời sống đương

đại, mà họ đang là chủ thể sống.

Có thể khẳng định rằng, các tác phẩm Sắp đặt có YTTT với sự phát triển

và những thành tựu đạt được, được thể chế chính thức công nhận, công chúng

126

ủng hộ, đã định vị Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam trong lịch sử nghệ thuật đương

đại và đời sống xã hội. YTTT được xem là cây cầu kết nối với hiện đại, là sự hòa

quyện giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh nhằm biểu đạt giá trị truyền

thống trong cách thức biểu hiện mới. Tác giả Vũ Khiêu khẳng định: “hiện đại

không bao giờ cắt đứt với truyền thống”, có chung quan điểm này, tác giả

Nguyễn Quân khẳng định: “Nghệ sĩ, nghệ thuật luôn đối thoại, sống với

truyền thống bản địa như ai cũng sống với quá khứ và quê hương”, truyền

thống là vốn tinh thần, một lợi thế lớn, sẵn có đối với sáng tạo nghệ thuật

đương đại, thông qua nghệ thuật Sắp đặt, YTTT tiếp tục được kế thừa, tồn tại

và phát triển, tạo lập một vị thế mới cho NTSĐVN, đáp ứng những thay đổi

của bối cảnh văn hóa xã hội đầy ồn ào, biến động.

Như vậy, bên cạnh giá trị góp phần đa dạng biểu hiện, mở rộng ranh

giới thẩm mỹ, các tác phẩm Sắp đặt có YTTT giai đoạn này còn góp phần

định vị Nghệ thuật Sắp đặt trong nghệ thuật đương đại Việt Nam và hội nhập

vào dòng chảy nghệ thuật quốc tế. Các tác phẩm Sắp đặt có YTTT khẳng định

thành tựu, vai trò và vị thế của nó bình đẳng với các loại hình nghệ thuật

truyền thống. YTTT trong tác phẩm Sắp đặt không chỉ tạo nên vẻ đẹp cho

hình thức mà còn chuyển tải hiệu quả thông điệp qua chủ đề của tác phẩm,

phản ánh kịp thời, cập nhật, trực diện đời sống đương đại mà các loại hình

nghệ thuật truyền thống trước đây khó có thể thực hiện. Đánh giá về điểm nổi

trội của Nghệ thuật Sắp đặt, tác giả IoIa Lenzi cho rằng: “NTSĐ tiến hành đối

thoại với người xem cả về hình thức lẫn ý tưởng do nó có thể lắp ghép dễ

dàng các ký hiệu khác nhau nên nó trở thành diễn đàn để vạch trần phê phán

các mâu thuẫn nảy sinh từ người dân trong các cảnh huống đối nghịch” [87,

tr.100]. Các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT giai đoạn này đã tạo nên

đặc điểm, giá trị văn hóa nghệ thuật, khẳng định vị thế và sự khác biệt so với

Nghệ thuật Sắp đặt ở khu vực và thế giới.

3.3. Luận bàn về vai trò, giá trị và xu hướng tiếp cận truyền thống

Cách tiếp cận di sản trong NTSĐVN

127

Có thể nhận thấy YTTT như một mạch ngầm chảy suốt chiều dài lịch

sử dân tộc, có đào thải và tiếp nhận, tích hợp và tiếp biến trong quá trình tồn

tại, phát triển. YTTT được thiết lập từ cuộc sống của cộng đồng, tạo nên di

sản vật thể và phi vật thể, từ tranh, tượng, kiến trúc, vật dụng cụ thể cho tới

sản phẩm tinh thần, văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc. Do vậy, YTTT là dấu

vết lịch sử văn hóa, thẩm mỹ, tinh thần và tư tưởng của dân tộc, không chỉ

biểu hiện khả năng sáng tạo, mà còn thể hiện nhân sinh quan, vũ trụ quan và

thái độ của con người trước cuộc sống. Lịch sử nhân loại, suy cho cùng là lịch

sử của sự sáng tạo có kế thừa, lĩnh vực khoa học và nghệ thuật cũng không

nằm ngoài quy luật này. Cách tiếp cận truyền thống để xây dựng các tác phẩm

Sắp đặt Việt Nam giai đoạn 1995 - 2018, có thể khái quát trong hai dạng sau:

Tiếp cận di sản vật thể; Tiếp cận di sản phi vật thể.

Tiếp cận di sản vật thể: khai thác, sử dụng trực tiếp hiện vật, họa tiết,

màu sắc truyền thống, không gian kiến trúc cổ để xây dựng tác phẩm Sắp đặt.

Cách tiếp cận này khá phổ biến trong các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có

YTTT giai đoạn này. Nổi bật là các tác phẩm Sắp đặt như: Ký tự, Trở về,

Những gương mặt cuộc đời, Giọt sương Jrai, Vòng quay cuộc đời, Đồng đội,

Hối tụ, Phượt. Tuy nhiên, cách tiếp cận nào cũng có những thuận lợi và hạn

chế nhất định. Đối với các tác phẩm Sắp đặt sử dụng trực tiếp các hiện vật

truyền thống thì mặt thuận lợi dễ dàng nhận thấy là hiện vật có sẵn dễ dàng

tìm kiếm, chất liệu rẻ tiền; các hiện vật, đồ thủ công, họa tiết, màu sắc đã

mang sẵn ký hiệu, giá trị văn hóa nghệ thuật, giá trị lịch sử, tín ngưỡng truyền

thống. Do đó, khi sử dụng các hiện vật truyền thống để xây dựng tác phẩm

Sắp đặt không chỉ tạo cho công chúng cảm thấy gần gũi, dễ tiếp nhận mà còn

giúp cho công chúng hiểu hơn về những giá trị nghệ thuật, tư tưởng văn hóa,

lịch sử, tín ngưỡng truyền thống thông qua biểu hiện mới trong Nghệ thuật

Sắp đặt. Từ việc mở rộng hiểu biết về truyền thống, công chúng sẽ cảm thấy

yêu thích, trân trọng di sản hơn. Cách tiếp cận di sản vật thể, khai thác, sử

128

dụng trực tiếp hiện vật truyền thống để tạo dựng tác phẩm Sắp đặt, tạo cơ hội

cho truyền thống khẳng định vai trò mới của nó trong đời sống đương đại.

Song, cách tiếp cận di sản vật thể, khai thác, sử dụng hiện vật, họa tiết,

màu sắc truyền thống, kiến trúc cổ để xây dựng tác phẩm Sắp đặt cũng có

những hạn chế, thách thức lớn đối với người sáng tác. Hiện vật truyền thống

có sẵn, dễ khiến cho nghệ sĩ nảy sinh tâm lý ỉ lại, thiếu sáng tạo. Đồng thời,

sử dụng những hiện vật truyền thống có sẵn cũng dễ dẫn đến việc trùng lặp

hình thức thể hiện và ý tưởng nghệ thuật. Hơn nữa, hiện vật truyền thống có

sẵn, đồ thủ công dân gian thường được làm từ những vật liệu tự nhiên, có độ

bền vững kém, đặc biệt khi phải thực hiện ở ngoài trời hoặc trong điều kiện

không khí ẩm thấp, cũng là thách thức đối với nghệ sĩ.

Tiếp cận di sản phi vật thể: khai thác tinh thần thẩm mỹ, lối bố cục, tư

tưởng văn hóa tín ngưỡng, tích chuyện cổ, ca dao, tục ngữ, triết lý dân gian từ

gợi ý truyền thống để xây tạo dựng tác phẩm Sắp đặt. Cách tiếp cận này đòi

hỏi nhiều khả năng sáng tạo từ phía nghệ sĩ, YTTT chỉ là những gợi ý, khơi

nguồn sáng tạo. Các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT giai đoạn này khai

thác khá hiệu quả các tích chuyện cổ, truyền thuyết lịch sử hoặc chịu ảnh

hưởng gián tiếp từ những gợi ý của văn hóa, tín ngưỡng, nghệ thuật truyền

thống. Bên cạnh đó, một số tác phẩm Sắp đặt điển hình, chịu ảnh hưởng tích

cực từ gợi ý truyền thống như: Những bàn tay, Những con mắt nguyên thủy.

Các tác phẩm Sắp đặt này chịu ảnh hưởng gián tiếp từ gợi ý tạo hình và tư

tưởng nghệ thuật của bức tượng Thiên thủ thiên nhãn truyền thống.

Một số tác phẩm Sắp đặt chịu ảnh hưởng của lối bố cục phân lớp không

gian trong kiến trúc truyền thống và quan niệm triết lý âm dương, tam tài

trong dân gian, tạo cho các tác phẩm có hình thức phong phú, nội dung sâu

sắc. Điển hình là các tác phẩm Sắp đặt như: Một tâm hồn, Chuyện của đình,

Ngày và đêm, Đất và nước, Ký tự. Các tác phẩm Sắp đặt này đã mang lại một

ấn tượng thị giác mạnh, biểu đạt hiệu quả những thứ thuộc về tinh thần, trừu

129

tượng và triết lý nhân sinh quan, vũ trụ quan của người phương Đông. Không

gian tác phẩm mang tính ý niệm gắn liền với triết lý âm dương ngũ hành

mang ký hiệu ẩn dụ thông qua cách thức phân chia, bố cục không gian trong

tác phẩm Sắp đặt.

Một số tác phẩm Sắp đặt tiếp cận di sản phi vật thể thông qua việc khai

thác, gợi ý từ tích chuyện cổ, truyền thuyết lịch sử, văn hóa tín ngưỡng để xây

dựng tác phẩm. Các tác phẩm tiêu biểu cho loại này có thể kể đến như:

Chuyện của chàng Rít, Huyền sử, Rằm tháng bảy, Nhân gian, Nguyện cầu,

Cầu mưa, Việt Nam cuộc chiến tranh hóa thạch, Chén và đũa 1945.

Các tác phẩm Sắp đặt này đã khai thác những yếu tố văn hóa tín

ngưỡng, sự kiện lịch sử, làm nổi bật chủ đề truyền thống mang đậm tinh thần

gắn liền với câu chuyện của dân tộc và những quan niệm tín ngưỡng sâu đậm

trong đời sống tín ngưỡng dân gian của cộng đồng.

Nhìn chung, cách tiếp cận di sản phi vật thể để xây dựng tác phẩm Sắp

đặt được khai thác khá phổ biến và hiệu quả. Cách tiếp cận này đòi hỏi khả

năng sáng tạo cao từ phía chủ thể sáng tạo. Cũng vì thế mà cách tiếp cận này

phát huy tốt nhất năng lực sáng tạo của nghệ sĩ trong quá trình hình thành ý

tưởng, xây dựng tác phẩm, tổ chức không gian, bắt nguồn từ gợi ý từ tinh thần

truyền thống. Nói cách khác, lối tiếp cận này đòi hỏi nghệ sĩ tạo ra hình thức

biểu hiện hoàn toàn mới từ gợi ý của chủ đề truyền thống.

Ngoài ra, cũng có một số tác phẩm Sắp đặt kết hợp kết hợp cách tiếp

cận di sản vật thể và không gian di sản để thực hiện tác phẩm. Tuy nhiên, số

lượng tác phẩm Sắp đặt loại này không nhiều và chưa thật nổi bật. Song,

khách quan mà nói, đây là một tiềm năng lớn với vô số di sản văn hóa, lịch

sử, không gian kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng phân bố khắp ba miền mà Nghệ

thuật Sắp đặt Việt Nam có thể tiếp cận, khai thác. Một số tác phẩm Sắp đặt

Việt Nam đã kết hợp cách tiếp cận này, có thể kể đến như: Không gian nghệ

thuật, Ẩn náu, Quảng trường thi ca. Nhìn chung, các tác phẩm Sắp đặt này đã

130

khai thác kiến trúc cổ và “tiếm đoạt” được không gian di sản - bối cảnh tạo

nghĩa cho tác phẩm, bước đầu khai mở một hướng tiếp cận đầy tiềm năng.

Cách tiếp cận này, đòi hỏi ở người nghệ sĩ khả năng tổ chức không gian

tốt, vốn kiến thức phong phú về văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng gắn liền với

không gian kiến trúc, bối cảnh muốn tiếm đoạt để xây dựng tác phẩm.

Bên cạnh hai xu hướng tiếp cận di sản nêu trên, các nghệ sĩ Việt Nam

đã chú trọng khai thác chất liệu bản địa truyền thống để xây dựng tác phẩm,

tạo nên một thẩm mỹ dung dị, độc đáo. Trong lĩnh vực nghệ thuật, chất liệu

được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả phần vật chất và phần tinh thần. Ví dụ

chất liệu (vật chất, lý tính) sơn dầu, sơn mài trong hội họa; chất liệu (tinh

thần, trừu tượng) dân ca, dân gian trong âm nhạc, chẳng hạn. Đối với Nghệ

thuật Sắp đặt, chất liệu cũng mang thông điệp cho tác phẩm. Chất liệu cũng

phản ánh khá rõ sự phát triển và đời sống văn hóa nghệ thuật, tín ngưỡng,

kinh tế, xã hội. Đối với các nước công nghiệp phát triển ở phương Tây, Mỹ

thì đa số là chất liệu nhân tạo, sản phẩm công nghiệp được sử dụng để xây

dựng tác phẩm Sắp đặt. Ngược lại, Việt Nam là đất nước nông nghiệp gắn

liền với các ngành nghề thủ công, nhiều sản phẩm truyền thống được làm từ

chất liệu bản địa, tự nhiên. Tuy cùng sử dụng chất liệu truyền thống để xây

dựng tác phẩm, song mỗi tác phẩm lại có một cách tiếp cận, khai thác biểu

hiện khác nhau, tạo nên sự phong phú, đa dạng biểu hiện. Từ việc sử dụng

nguyên mẫu hiện vật truyền thống, chất liệu bản địa như trong các tác phẩm

Sắp đặt Trở về, ký ức 1, Những gương mặt cuộc đời, Một tâm hồn, Đồng lúa,

Rằm tháng bảy; sử dụng truyền thống trên cơ sở gợi ý, tạo hình biến dạng tiêu

biểu như các tác phẩm Sắp đặt Những cái túi, Đối diện, Những con mắt

nguyên thủy; khai thác hoa văn, màu sắc trang trí truyền thống như: Chuyện

của đình, Hành trình lịch sử, Vòng quay cuộc đời, Những áng mây xưa, Sông

Tô; khai thác các tích cổ, ký ức, truyền thuyết lịch sử, văn hóa của dân tộc

làm chủ đề sáng tác như: Chuyện của chàng Rít; Huyền sử, Những con số

131

1945,... Chất liệu bản địa trong NTSĐVN, tác giả Trần Hậu Yên Thế (trong

phần phỏng vấn chuyên gia) cho rằng: “Khi vượt ra ngoài khuôn khổ của của

hội họa, nghệ thuật Sắp đặt đã khám phá ra nhiều chất liệu mới, là kết quả của

việc khai thác các tri thức truyền thống (Traditional Knowledge)”.

Qua phỏng vấn chuyên gia nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam, trao đổi với

nghệ sĩ làm Sắp đặt, có thể nhận thấy ý kiến đa chiều về vấn đề tiếp cận, khai

thác YTTT để xây dựng tác phẩm Sắp đặt. Mỗi nghệ sĩ làm Sắp đặt đều có lý

do riêng, tìm thấy thuận lợi riêng khi khai thác YTTT để thực hiện tác phẩm.

Nhìn chung, họ tìm thấy ở YTTT vẻ đẹp dung dị, chất liệu gần gũi, thân thiện,

giàu ý nghĩa bản địa, dễ hiểu, dễ cảm nhận, tạo được ấn tượng thị giác và

thông điệp nghệ thuật trong hình thức biểu hiện mới dễ được công chúng đón

nhận. Câu hỏi đặt ra ở đây là: Tại sao “chất liệu” truyền thống xuất hiện nhiều

trong NTSĐVN giai đoạn này? Câu trả lời có thể là một biến số, tùy thuộc

vào từng trường hợp, từng nghệ sĩ cụ thể. Tuy nhiên, có thể nhìn nhận hiện

tượng này ở góc độ tâm lý học. Trong đó, khách thể sáng tạo và tâm lý của

chủ thể sáng tạo là những nhân tố quan trọng chi phối hiện tượng này. Trong

NTSĐVN có YTTT giai đoạn này, thì các hiện vật thủ công - chất liệu bản

địa, các yếu tố thẩm mỹ thị giác bắt nguồn từ truyền thống ...đều thuộc khách

thể sáng tạo. Nói cách khác, hiện vật thủ công - chất liệu bản địa, di sản

truyền thống là “chất liệu”, khách thể sáng tạo sẵn mà nghệ sĩ Việt Nam ưa

dùng để xây dựng tác phẩm sắp đặt. Ngoài ra, bối cảnh xã hội cũng được xem

là nhân tố khách thể sáng tạo. Xã hội văn hóa nông nghiệp của người Việt đã

sản sinh ra nhiều sản phẩm thủ công - chất liệu bản địa, nhiều di sản vật thể

và phi vật thể, trải suốt chiều dài lịch sử dân tộc, và phân bố khắp mọi vùng

miền. Mật độ dày đặc của di sản, sự phổ biến của đồ thủ công - chất liệu bản

địa mang đậm văn hóa, tri thức truyền thống, vì thế đã tự nhiên ảnh hưởng tới

tâm lý của chủ thể sáng tạo.

132

Vậy, hiên tượng nghệ sĩ Việt Nam ưa thích sử dụng hiện vật thủ công -

chất liệu bản địa để xây dựng tác phẩm Sắp đặt là do chủ định hay vô thức?

Nhìn từ góc độ phân tâm học, theo quan điểm của Sigmund Frued, hữu thức

là kết quả của quá trình bắt nguồn từ vô thức qua trung gian tiềm thức hay còn

gọi là tiền ý thức (dấp dính giữa vô thức và hữu thức). Trong mỗi con người,

vô thức thuộc bản năng tự nhiên luôn chiếm phần nhiều, nó được hình thành

từ nguồn gốc “di truyền bản năng bẩm sinh... còn có sự tác động từ bên ngoài

xã hội”. Như vây, bên cạnh cấu tạo sinh học mang tính di truyền của dân tộc,

ngoại giới là tác nhân chi phối tới nhân sinh quan của nghệ sĩ Việt Nam, hình

thành tâm lý sáng tạo của họ gắn liền với môi trường văn hóa bản địa phong

phú nơi họ sinh sống, trải nghiệm. Nhà tâm lý hoc Gustuve Le Bon cũng từng

chỉ ra rằng: “mỗi dân tộc đều có một cấu tạo tinh thần cố định như tính chất

giải phẫu học của nó”, nó được xem như một thứ gien di truyền, ẩn sâu trong

huyết thống của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc. Ông cũng chỉ rõ “vô thức tập thể”

hình thành nên tâm lý đám đông, nghệ thuật của một dân tộc, chỉ là “mạng

lưới hữu hình trong tâm hồn vô hình của nó”. Nhận xét về hướng đi mới trong

nghệ thuật biểu đạt thị giác đương đại, đặc biệt trong nghệ thuật Sắp đặt, lấy

truyền thống làm “chất liệu”, nguồn lực sáng tác, tác giả IoIa Lenzi lý giải:

“chính các hoạt động cá nhân, trải khắp trên nền văn hóa cổ xưa và địa

phương tính của Đông Nam Á được du nhập vào nghệ thuật đương đại bằng

các con đường khác nhau và là nguồn lực bên cạnh các nguồn lực khác phục

vụ đổi mới hoạt động sáng tạo” [87, tr.95]. Như vậy, có thể khẳng định bối

cảnh văn hóa xã hội, nguồn gốc dân tộc là nhân tố quan trọng hình thành tâm

lý sáng tạo của nghệ sĩ Việt Nam, ưa thích sử dụng “nguồn lực sẵn có” để xây

dựng tác phẩm Sắp đặt, mang đậm giá trị truyền thống bản địa.

Bên cạnh những quan điểm đồng thuận khi nhìn nhận về truyền thống,

thì cũng có những ý kiến đa chiều, thậm chí trái chiều đáng quan tâm, bàn

luận. Xuất phát từ quan điểm cá nhân, có ý kiến của chuyên gia cho rằng:

133

“Nghệ thuật Sắp đặt đương đại Việt Nam, thì chẳng có gì liên quan đến

YTTT cả. Có chăng chỉ là ít vật liệu… Bản thân các nghệ sĩ làm Sắp đặt

đương đại muốn cắt đứt với tất cả thói quen cũ, không muốn liên quan gì đến

quá khứ…”. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tiễn cho thấy, số lượng lớn tác

phẩm Sắp đặt Việt Nam giai đoạn này có YTTT biểu hiện qua hình thức và

chủ đề tác phẩm. Song, khách quan mà nhìn nhận, cũng có một số ít nghệ sĩ

không quan tâm đến truyền thống, thậm chí họ muốn đoạn tuyệt với truyền

thống như ý kiến của chuyên gia đã đề cập. Trong sáng tác nghệ thuật nói

chung, tiếp cận, khai thác YTTT để xây dựng tác phẩm cũng chỉ là một trong

muôn vàn sự lựa chọn của nghệ sĩ. YTTT trở nên có giá trị hay trở thành gánh

nặng đối với sáng tạo nghệ thuật đương đại, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào

tài năng, bản lĩnh… của nghệ sĩ. YTTT chỉ là khách thể sáng tạo, nên nó vừa

là tiềm năng sẵn có vừa là thách thức với chủ thể sáng tạo. Việc NTSĐVN cắt

đứt với truyền thống, quá khứ là điều không thể, bởi hầu hết nghệ sĩ Việt Nam

được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất giàu văn hóa truyền thống, tinh thần

truyền thống ẩn chứa trong tiềm thức, trong tâm hồn và đời sống của mỗi con

người. Khẳng định vấn đề này, ý kiến của tác giả Nguyễn Quân cho rằng:

“Không thể “cắt đứt” với nó được! Nghệ sĩ, nghệ thuật luôn đối thoại,

sống với truyền thống bản địa như ai cũng sống với quá khứ và quê hương”.

Tác động tích cực đến nhận thức xã hội

Các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT giai đoạn 1995 - 2018 đã tạo

nên những đặc điểm nghệ thuật độc đáo, ấn tượng thị giác mạnh, phản ánh đa

dạng biểu hiện lịch sử, văn hóa tín ngưỡng trong đời sống đương đại, tác động

tích cực tới nhận thức xã hội. Với đặc trưng tự do, cởi mở của Nghệ thuật Sắp

đặt, các nghệ sĩ Việt Nam giai đoạn này đã nhanh chóng tạo ra các tác phẩm

nhằm đáp ứng kịp thời quá trình thay đổi của xã hội, đồng thời ở chiều ngược

lại, nó góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, nói như tác giả IoIa Lenzi: “tác phẩm

của họ đòi hỏi xã hội phải biến cải” [87, tr.94].

134

Đối với người thưởng thức, các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT

giai đoạn này tác động trực tiếp tới thói quen thưởng thức nghệ thuật, chuyển

từ lối thưởng thức thụ động đối với nghệ thuật truyền thống sang thưởng thức

chủ động, tự do tương tác khi thưởng thức Nghệ thuật Sắp đặt; tác động tích

cực tới năng lực tiếp nhận thông điệp, giá trị thẩm mỹ mới của tác phẩm

thông qua sự biểu hiện vẻ đẹp gần gũi và các giá trị văn hóa nghệ thuật của

YTTT. Đồng thời, các tác phẩm Sắp đặt có YTTT còn tác động đến nhận thức

của công chúng về những giá trị truyền thống thông qua hình thức biểu hiện

mới, từ đó lan tỏa tình yêu, sự trân trọng và lối ứng xử phù hợp đối với di sản

trong đời sống đương đại. Qua đó, hình thành tự nhiên ý thức bảo tồn, lưu

giữ, kế thừa, khơi gợi sáng tạo truyền thống mà họ đang là chủ thể sở hữu.

Các tác phẩm Sắp đặt có YTTT đã đưa nghệ thuật đến gần công chúng hơn,

trở thành “diễn đàn” tự do để công chúng có thể công khai bày tỏ thái độ,

quan điểm của mình hay chất vấn xã hội đương đại.

Đối với chủ thể sáng tạo, các tác phẩm Sắp đặt có YTTT tác động tích

cực trở lại đối với nghệ sĩ, khơi gợi nguồn sáng tạo từ nền tảng truyền thống.

Nó tác động trực tiếp đến quá trình sáng tạo, xây dựng tác phẩm Sắp đặt, sử

dụng trực tiếp hoặc gián tiếp các hiện vật truyền thống và những gợi ý từ

truyền thống. Đồng thời, tác động đến tư duy sáng tạo và trách nhiệm của

người nghệ sĩ về vai trò và giá trị của truyền thống bởi khả năng chuyển tải

nhanh tín hiệu, thông điệp và sự nhận diện độc đáo của nó, sự kế thừa sáng

tạo truyền thống trong xã hội đương đại. Nhận định chung về nghệ thuật

đương đại ở Đông Nam Á, tác giả IoIa Lenzi cho rằng: “trong vòng mấy thập

kỷ qua các nghệ sĩ Đông Nam Á đã tìm lại được giá trị trong di sản văn hóa

bản địa, khi họ có những hướng đi táo bạo” [87, tr.93].

Đối với sự phát triển ngành nghề thủ công truyền thống, các tác phẩm

Sắp đặt có YTTT thúc đẩy, tác động trở lại đối với sự phát triển của một số

ngành nghề thủ công truyền thống. Một mặt, thông qua việc trực tiếp tiêu thụ

135

hiện vật, đồ thủ công để xây dựng tác phẩm; mặt khác tác phẩm Sắp đặt có

YTTT như một kênh thông tin tôn vinh truyền thống, quảng bá ấn tượng tới

công chúng ở trong nước và quốc tế. Qua đó, nhiều sản phẩm truyền thống

được biết đến rộng rãi hơn, một số ngành nghề truyền thống đang có nguy cơ

mai một được phục hồi, phát triển trở lại. Ví dụ điển hình là làng Thanh Tiên

chuyên làm hoa giấy thủ công (để thờ cúng), đã phát triển trở lại và được

nhiều du khách ở trong nước và quốc tế biết đến thông qua dự án nghệ thuật,

trưng bày các tác phẩm Sắp đặt sử dụng trực tiếp thuyền gỗ, hoa giấy ngay

trên sông Hương, gần làng. Công chúng có thể trực tiếp xem người dân ở đây

làm hoa giấy, gặp gỡ họ để trò chuyện, trao đổi về nghề thủ công truyền thống

này trong suốt thời gian diễn ra Festival, Huế.

Truyền thống là bệ đỡ cho sáng tạo nghệ thuật

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế hội nhập quốc tế mạnh mẽ,

Nghệ thuật Sắp đặt đã trở thành ngôn ngữ nghệ thuật phổ biến, việc trở về

truyền thống để khai thác xây dựng tác phẩm đã trở thành một xu hướng nổi

bật đối với một số nghệ sĩ và quốc gia ở châu Á. Nhận xét về hiện tượng này,

tác giả IoIa Lenzi viết: “ngay khi mới xuất hiện, nghệ thuật đương đại Đông

Nam Á đã có một đặc điểm nổi bật là nó quan tâm tới văn hóa truyền thống

một cách có phê phán” [87, tr.93].

Ở Việt Nam, cách thức trở về truyền thống để khai thác vẻ đẹp thẩm

mỹ, giá trị văn hóa nghệ thuật, lịch sử, tín ngưỡng từ di sản vật thể và di sản

phi vật thể đã trở thành một xu hướng rõ rệt. Hầu hết các tác phẩm Sắp đặt

của tác giả Đặng Thị Khuê, Chu Lượng, Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn Minh

Thành, Phan Thảo Nguyên cho thấy rõ xu hướng, ý thức trở về truyền thống

nhằm tìm kiếm sự khác biệt và đa dạng biểu đạt trong sáng tác Nghệ thuật

Sắp đặt của họ, thời kỳ giao lưu, hội nhập quốc tế. Bộc bạch về nguyên cớ sử

dụng đồ mã, hiện vật mỹ thuật, đồ thủ công mang thẩm mỹ truyền thống trong

Sắp đặt của mình, tác giả Đặng Thị Khuê tâm sự: “Tôi đến với Nghệ thuật

Sắp đặt từ khi chưa biết đến tên gọi của nó...Có sở thích sử dụng nhiều chất

136

liệu, nhiều hình thức và thể loại cùng lúc trong một tác phẩm..., ảnh hưởng từ

nghệ thuật bản địa”. Tác giả Chu Lượng thì tràn đầy lòng tự hào, tự tin và hảo

sảng, khẳng định: “Con đường trở về gần nhất, hạnh phúc nhất, say đắm nhất,

chính là sự đơn sơ, thuần khiết Cội nguồn” [58, tr.43].

Có thể khẳng định YTTT trong NTSĐVN đã đóng góp đáng kể vào sự

thành công của Nghệ thuật Sắp đặt, cả hình thức thẩm mỹ lẫn nội dung ý

nghĩa. YTTT luôn mang sẵn trong mình những giá trị tinh thần và ký hiệu ẩn

dụ về ý nghĩa gắn liền với văn hóa, quan niệm và lịch sử dân tộc, đã được thời

gian sàng lọc một cách khách quan. Do đó, việc sử dụng YTTT, ở chừng mực

nào đó là sử dụng những kinh nghiệm, chiêm nghiệm cổ xưa làm bệ đỡ để

nghệ sĩ có thể nương vào đó mà sáng tạo. Đó là một lợi thế. Tuy nhiên, để kết

hợp được YTTT với hiện đại, đòi hỏi người sử dụng YTTT phải có sự thấu

hiểu về nó nhằm đạt được hiệu quả nghệ thuật mong muốn. Bàn về truyền

thống và hiện đại, nói như tác giả Vũ Khiêu khẳng định: “hiện đại không bao

giờ cắt đứt với truyền thống”, truyền thống là vốn tinh thần, một lợi thế lớn,

sẵn có đối với sáng tạo nghệ thuật đương đại, nhờ nghệ thuật đương đại mà

truyền thống tiếp tục tồn tại và phát triển. Nhìn nhận ở khía cạnh tích cực,

truyền thống luôn là nền tảng, là bệ đỡ, khơi gợi nguồn sáng tạo cho hiện tại

và tương lai, nhưng ngược lại nó cũng có thể trở thành gánh nặng nếu như

chủ thể sáng tạo không đủ khả năng và bản lĩnh vượt thoát khỏi nó, quá lệ

thuộc vào nó, mà mất đi cá tính sáng tạo. Vấn đề này đã được tác giả

Kraevskaia Natalia nhận định:

Nhìn chung, Nghệ thuật Sắp đặt ở Việt Nam gây hiệu quả mạnh

về thị giác nhưng vẫn còn xây dựng trên chức năng tham chiếu,

không có nội dung ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Họa sĩ hay

thích chọn một đề tài hoặc chủ đề làm “ý tưởng” để minh họa,

điều đó sẽ biến tác phẩm của họ thành một thứ mô phỏng để

137

minh họa một tình huống thực hoặc ấn định các sự kiện ngẫu

nhiên hay bình thường [106, tr.62].

Tuy nhiên, đây chỉ là một quan điểm cá nhân, nếu nhìn nhận ở khía

cạnh mà thẩm mỹ tạo hình, trang trí tạo nghĩa trong chủ đề tác phẩm Sắp đặt,

thì “điểm yếu” - thiên nhiều về trang trí này lại đồng thời là điểm mạnh, tạo

nên một sắc thái riêng biệt của NTSĐVN.

Khai thác, sử dụng YTTT trong Nghệ thuật Sắp đặt, không chỉ làm giàu

truyền thống, tạo ra một hướng đi mở cho nghệ thuật phản ánh cuộc sống

đương đại, mà còn tạo ra những ký hiệu độc đáo, góp phần nhận diện văn hóa

nghệ thuật trong bối cảnh giao lưu hội nhập quốc tế. Hơn nữa, YTTT khi sử

dụng hiệu quả còn góp phần tích cực tác động trở lại sự phát triển xã hội. Nó

có thể góp phần làm cải biến xã hội, nâng cao nhận thức về việc ứng xử phù

hợp với di sản, đồng thời nó có thể thúc đẩy các ngành nghề thủ công truyền

thống phát triển. Tuy nhiên, lấy truyền thống làm bệ đỡ để xây dựng tác phẩm

cũng có những mặt hạn chế nhất định. Đây cũng chính là thách thức đối với

bản lĩnh nghệ sĩ và vốn trải nghiệm cuộc sống của người thưởng thức. Truyền

thống có trở thành bệ đỡ, ký hiệu nhận diện hay trở thành gánh nặng, sự kìm

hãm, hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng của chủ thể sáng tạo.

Liên hệ với Nghệ thuật Sắp đặt trong khu vực châu Á cho thấy, trở về

truyền thống để tìm sự khác biệt cho Nghệ thuật Sắp đặt đã trở thành xu

hướng mang tính quốc tế, gắn liền với mệnh đề: “tư duy toàn cầu, hành động

địa phương”. Thậm chí, truyền thống trở thành bệ đỡ nền tảng, phương châm

gắn liền với chiến lược phát triển nghệ thuật của một số nước. Điển hình là

Học viện thể nghiệm nghệ thuật đương đại CAFA của Trung Quốc, đã có chủ

trương khai thác truyền thống làm bệ đỡ cho những thể nghiệm nghệ thuật

mới, “lấy nền tảng bối cảnh văn hóa nghệ thuật đương đại đa nguyên trên toàn

cảnh quốc tế đồng thời lấy bề dày truyền thống thâm hậu của Trung Quốc làm

bệ đỡ khoa thể nghệ thuật thử nghiệm” [81, tr.54]. Các tác phẩm của một số

nghệ sĩ Trung Quốc cũng khai thác rất tốt các YTTT, tiêu biểu như tác phẩm

138

Sắp đặt Thiên Thư, Điểu, Quỷ gõ tường của Từ Băng (Xu Bing); Hạt hướng

dương, Ghế, Đập vỡ bình cổ thời Hán, Colour của Ngải Vị Vị (Ai Wei Wei);

Nối dài Vạn lý trường thành 10.000 m của Sài Quốc Cường (Cai Go Qiang).

Các tác phẩm Sắp đặt này đã rất thành công trong việc khai thác YTTT của

họ, tiếp cận di sản vật thể như đồ thủ công, đồ gốm sứ, nghệ thuật cắt giấy,

kiến trúc truyền thống, ký tự cổ; đồng thời tiếp cận di sản phi vật thể như biểu

tượng rồng truyền thống, ký ức lịch sử dân tộc, không gian di sản - bối cảnh

tạo nghĩa để xây dựng tác phẩm, thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế.

Truyền thống cũng được các nghệ sĩ Nhật Bản chú trọng khai thác

nhằm tạo ra sự khác biệt với tên triển lãm nghệ thuật đương đại, đã trở thành

phương châm sáng tác. Nghệ sĩ tại một số quốc gia ở châu Á như Thái Lan,

Indonesia, Philippines… cũng có xu hướng trở về truyền thống để tìm đến sự

biểu hiện và những giá trị khác biệt khi xây dựng tác phẩm Sắp đặt của

họ.Trong khu vực châu Á, Việt Nam và Trung Quốc không chỉ gần địa lý mà

còn có văn hóa tương đồng, chịu sự chi phối mạnh mẽ của tư tưởng Nho giáo.

Nhiều tác phẩm Sắp đặt của các nghệ sĩ Trung Quốc lấy hình tượng, biểu

tượng truyền thống của họ để thể hiện tác phẩm. Các hình tượng, biểu tượng

như rồng, phượng, Vạn Lý Trường Thành, Hán tự...đem lại sự độc đáo, riêng

biệt, ẩn dụ nhiều ý nghĩa văn hóa, lịch sử. Đặc biệt là chủ đề phản biện xã hội

đã được một số nghệ sĩ thể hiện vô cùng ấn tượng, làm nên tên tuổi nghệ sĩ và

đưa Nghệ thuật Sắp đặt của họ có vị thế đáng kể trong phả hệ nghệ thuật

đương đại thế giới. Trong đó, tiêu biểu là các tác phẩm Sắp đặt Sách trời,

Điểu, Quỷ gõ tường, Phượng hoàng của tác giả Từ Băng (Xu Bing); Đánh rơi

chiếc bình cổ thời Hán, Colours, Hạt hướng dương, Ghế của tác giả Ngải Vị

Vị (Ai Wei Wei); Nối dài Vạn Lý Trường Thành 10.000 m của tác giả Sài

Quốc Cường (Cai Guo Qiang); Tiểu hồng nhan của tác giả Lã Thắng Trung

(Li Sheng Zhong)... Có thể thấy, các tác phẩm Sắp đặt của Việt Nam và của

Trung Quốc có một số điểm tương đồng đó là đều chú trọng khai thác các

139

YTTT với lối ẩn dụ để thể hiện tác phẩm. Việc khai thác các YTTT gắn liền

với hình tượng nghệ thuật, văn hóa lịch sử bản địa đã tạo nên những đặc điểm

rõ rệt, vừa thể hiện được sự nhận diện vùng văn hóa chung ở phương Đông

vừa mang những giá trị riêng biệt của từng quốc gia. Nếu các tác phẩm Sắp

đặt có YTTT của Việt Nam đi sâu vào khai thác hình tượng dân gian trong

điêu khắc đình làng, điêu khắc nhà mồ Tây Nguyên, đồ mã, đồ thủ công, họa

tiết truyền thống để tạo dựng tác phẩm, thì các tác phẩm Sắp đặt có YTTT của

Trung Quốc khai thác triệt để các hình tượng rồng, phượng, nghệ thuật trổ

giấy, Hán tự để biểu đạt tác phẩm, tạo nên vẻ đẹp độc đáo và sự nhận diện

văn hóa nghệ thuật rõ nét. Trở về truyền thống bản địa là một xu hướng tất

yếu, các tác phẩm Sắp đặt có YTTT của một số nghệ sĩ Trung Quốc cũng

thường mang vẻ đẹp tạo hình và trang trí rất độc đáo. Di sản và các hiện vật

thủ công truyền thống như bình gốm cổ, ghế cổ, Hán tự, nghệ thuật cắt giấy

dân gian, nghệ thuật pháo hoa truyền thống đã góp phần đáng kể trong thành

tựu của NTSĐ Trung Quốc. YTTT đã trở thành chất liệu giàu vẻ đẹp thẩm mỹ

và ý nghĩa, là thành phần kiến tạo tác phẩm Sắp đặt biểu đạt phong phú các

chủ đề phản ánh xã hội đương đại, thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế.

Đồng thời khách quan mà nhìn nhận, cả lĩnh vực nghiên cứu và sáng

tác nghệ thuật đương đại ở Việt Nam còn nhiều hạn chế về lý thuyết và khái

niệm. Tác giả Kraevskaia Natalia đã đưa ra nhận định, đáng lưu ý đối với các

nghệ sĩ Việt Nam làm Sắp đặt: “Nhìn chung, việc chú ý quá nhiều đến “tính

Việt Nam” trong các triển lãm Sắp đặt...đã có hại cho luồng quan điểm và

những quan tâm về mặt khái niệm” [106, tr.61].

Nếu Nhật Bản đã khá thành công trong hướng phát triển nghệ thuật

đương đại, tư duy kết hợp truyền thống với hiện đại qua mệnh đề: “Phương

tiện Tây, lối đi Nhật”. Tương tự như vậy, Việt Nam cũng có thể tạo ra một

hướng đi: “Phương tiện Tây, lối đi Việt Nam” để tạo nên một sự khác biệt

trong dòng chảy chung của nghệ thuật thời đại toàn cầu hóa, hội nhập sâu

140

rộng như hiện nay. Việt Nam với bề dày văn hóa lịch sử, vốn nghệ thuật của

cha ông để lại là một tiềm năng lớn mà các nghệ sĩ đương đại có thể vận dụng

như một bệ đỡ, một sự gợi ý, hay chí ít là một tinh thần truyền thống kết hợp

với các hình thức hiện đại. Qua đó, có thể xác lập một hướng đi, một sự nhận

diện, một sự sáng tạo giàu tính kế thừa có ý thức. Thiết nghĩ, để làm được

việc này, cần có sự chung tay, đồng lòng từ nhiều phía, từ nỗ lực của chủ thể

sáng tạo, người thưởng thức, nhà quản lý nghệ thuật, hệ thống thể chế, giáo

dục thẩm mỹ, và thúc đẩy mạnh mẽ việc xã hội hóa nghệ thuật. Có như thế,

nghệ thuật đương đại nói chung và Nghệ thuật Sắp đặt nói riêng mới có cơ

hội phát triển. Các làng nghề thủ công được phục hồi, sẽ tạo điều kiện tốt cho

nghệ thuật nói chung phát triển. Nói cách khác, nghệ thuật sử dụng sản phẩm

thủ công truyền thống kiến tạo tác phẩm, làm thúc đẩy việc phát triển của

nghề thủ công. Ví dụ ở Hàn Quốc, tám nghệ sĩ nổi tiếng đã thực hiện trưng

bày những tác phẩm Sắp đặt đồ gốm trải dài khắp một làng nghề làm gốm cổ

Gurim, trước đó đã bị lãng quên, trở nên sôi động và nhiều người biết đến,

làm sống dậy làng nghề gốm ở đó. Một số nghệ sĩ Trung Quốc như Ngải Vị

Vị, Sài Quốc Cường...là những nghệ sĩ luôn có ý thức sử dụng YTTT của

Trung Hoa (bình gốm cổ, ghế cổ, pháo hoa, hạt hướng dương, tạo hình con

rồng bằng thuốc súng...) để thực hiện Sắp đặt, đạt được ấn tượng mạnh, thu

hút được sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Ở Việt Nam, nghệ sĩ Đinh Khắc

Thịnh, cũng có một Sắp đặt gồm nhiều thuyền nan chở hoa giấy, trưng bày tại

khu vực đồi Vọng Cảnh (gần sông Hương) và ở hào Thành Đại Nội (Huế)

nhằm quảng bá, làm vực dậy làng nghề làm hoa giấy Thanh Tiên, nhân dịp

Festival Huế, thu hút được nhiều khách tham quan trong nước và quốc tế. Đó

cũng là những ví dụ cần quan tâm, tham khảo. Khi hỏi về lý do sử dụng

YTTT để kiến tạo tác phẩm Sắp đặt, mỗi nghệ sĩ có một suy nghĩ riêng, theo

một cách tự nhiên hoặc có ý thức. Mặc dù vậy, có một điểm chung là, họ đều

141

hướng đến khai thác giá trị thẩm mỹ, ý nghĩa của chúng, sử dụng chúng như

“chất liệu” để lồng ghép thái độ, ý tưởng nghệ thuật.

Như vậy, mỗi quốc gia có chiến lược phát triển nghệ thuật riêng, mỗi

nghệ sĩ có cách thức khác nhau trong việc xây dựng tác phẩm. Song, có một

điểm chung nổi bật là xu hướng trở về truyền thống để biểu đạt sự nhận diện

dân tộc của mình trong xu thế giao lưu hội nhập quốc tế. Trên tinh thần ấy, có

thể đưa ra mệnh đề “Phương tiện Tây, lối đi Việt Nam” như một gợi ý mở

trong việc tiếp cận, khai thác di sản vật thể và phi vật thể - một tiềm năng lớn

cho sự phát triển NTSĐVN. Dù trực tiếp hay gián tiếp, truyền thống luôn là

bệ đỡ cho sáng tạo nghệ thuật, tác giả IoIa Lenzi khẳng định: “Cách tiếp liên

ngành, đa giác quan, chiến lược thu hút người xem, chất liệu, các gợi ý thị

giác khác dựa trên ý tưởng xuất phát từ di sản địa phương - ngay cả khi đã bị

chỉnh sửa - đã cung cấp một nền móng chung, vững chãi vào những thời điểm

xáo trộn văn hóa” [87, tr.97]. Việc áp dụng vốn cổ truyền thống vào sáng tác

nghệ thuật thị giác, NTSĐVN giai đoạn này đã trở nên phổ biến, tạo ra nhiều

tác phẩm có giá trị cao, hòa quyện giữa yếu tố nội sinh mang đậm hồn cốt dân

tộc và yếu tố ngoại sinh mang hơi thở thời đại.

Tiểu kết

Nội dung chương ba khẳng định YTTT trong NTSĐVN giai đoạn 1995 -

2018, tạo nên đặc điểm và giá trị nghệ thuật độc đáo. Các đặc điểm nghệ thuật

nổi bật như: tính tượng trưng, ước lệ; tính biểu cảm dân gian; tính xung đột giữa

truyền thống và hiện đại đã tạo cho NTSĐVN hình thức ấn tượng, chủ đề sâu

sắc, phản ánh sinh động những câu chuyện của dân tộc.

Chỉ rõ YTTT hòa quyện với hiện đại trong NTSĐVN, góp phần làm đa

dạng biểu hiện qua hình thức và chủ đề tác phẩm, mở rộng ranh giới thẩm mỹ,

định vị NTSĐVN trong đời sống xã hội và lịch sử nghệ thuật đương đại, đáp

ứng sự chuyển biến xã hội, đồng thời đòi hỏi xã hội phải cải biến.

142

Nhận định YTTT là nền tảng cho sáng tạo nghệ thuật, là cầu nối giữa

truyền thống với hiện đại. Xu hướng tiếp cận di sản để tìm sự khác biệt trong

NTSĐVN là sự lựa chọn tất yếu trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế. Di

sản truyền thống là một tiềm năng lớn có thể khai thác trong quá trình phát triển

NTSĐVN giai đoạn tới.

143

KẾT LUẬN

Nhận định, đánh giá tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có YTTT giai đoạn

1995 - 2018 có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Để đánh giá sâu sắc một giai

đoạn phát triển cần có những nhìn nhận tổng quát, mang tính liên ngành. Trên

tinh thần đó, luận án YTTT trong NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018 nghiên

cứu một cách hệ thống về YTTT, nhằm chỉ ra biểu hiện, đặc điểm, giá trị văn

hóa nghệ thuật của YTTT trong tác phẩm. Qua đó chứng minh vai trò đóng

góp của nó trong thành tựu của chung nghệ thuật đương đại Việt Nam, mở ra

một hướng mới, chuyên sâu về YTTT trong NTSĐVN giai đoạn này. Quá

trình nghiên cứu đề tài luận án rút ra một số kết luận sau:

1. Luận án đã xác lập cơ sở lý thuyết, lý luận và xây dựng khái niệm để

nghiên cứu YTTT trong tác phẩm Sắp đặt Việt Nam giai đoạn 1995 - 2018.

Giới thiệu khái quát về NTSĐVN, chỉ ra những nhân tố tích cực thúc đẩy sự

phát triển của các tác phẩm Sắp đặt có YTTT giai đoạn này. Là kết quả đánh

giá khách quan một quá trình phát triển của NTSĐVN thông qua nghiên cứu

hình thức và chủ đề tác phẩm. Việc sử dụng lý thuyết Tiếp biến văn hóa và

các luận điểm của Triết học, Ký hiệu học, Mỹ học, phương pháp tiếp cận liên

ngành làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu là cần thiết để tìm ra tính mới,

giải quyết đầy đủ nội dung đã đề ra ở mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên

cứu và giả thuyết khoa học của luận án.

2. Luận án đã chỉ ra biểu hiện của YTTT thông qua hình thức và chủ đề

của NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018, phản ánh sâu sắc đời sống xã hội. Quá

trình tiếp biến và phát triển các tác phẩm Nghệ thuật Sắp đặt có YTTT đã

khẳng định được giá trị, vị thế và là phương tiện nghệ thuật sắc bén, nổi trội

so với các loại hình nghệ thuật vốn có, phản chiếu kịp thời sự thay đổi,

chuyển biến của đời sống xã hội đương đại. Các nghệ sĩ đã thực hành một

cách làm mới: “truyền thống làm ngôn ngữ, nghệ thuật làm tiếng nói”. Ở hình

thức và chủ đề phản ánh nào, YTTT cũng đã phát huy tốt vai trò của nó, tạo ra

144

biểu hiện tín hiệu thẩm mỹ cho hình thức và biểu đạt ý nghĩa cho chủ đề tác

phẩm. Như vậy, nghiên cứu biểu hiện YTTT qua hình thức và chủ đề của

NTSĐVN một cách chuyên biệt đã tạo nên tính mới cho luận án, mở ra hướng

tiếp cận chuyên sâu về YTTT trong NTSĐVN giai đoạn này.

3. Luận án đã chỉ ra tính ưu việt của YTTT và tiềm năng dồi dào có

trong di sản vật thể và phi vật thể mà NTSĐVN có thể tiếp cận, khai thác để

xây dựng tác phẩm. Bên cạnh việc sử dung trực tiếp hiện vật thủ công, tạo

hình, trang trí dân gian, chất liệu bản địa là thành phần kiến tạo tác phẩm Sắp

đặt, thì việc khai thác không gian di sản - bối cảnh tạo nghĩa cho tác phẩm là

một hướng đi mở cho NTSĐVN. Đó là những đóng góp mới cho việc nghiên

cứu YTTT trong NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018.

4. Luận án đã chỉ ra YTTT trong NTSĐVN góp phần tạo nên đặc điểm

nghệ thuật nổi bật, thông qua không gian, màu sắc, bố cục mang tính tượng

trưng, ước lệ; qua tạo hình nhân vật, hiện vật thủ công mang tính biểu cảm

dân gian; qua tính xung đột giữa truyền thống với hiện đại. YTTT phát huy

tốt hiệu quả nhờ vào khả năng tự thân mang sẵn ký hiệu thẩm mỹ và giá trị

văn hóa, lịch sử truyền thống; mối quan hệ của tổ hợp đồ vật trong tác phẩm

Sắp đặt; mối quan hệ của tổ hợp đồ vật với không gian di sản - bối cảnh tạo

nghĩa. NTSĐVN có YTTT góp phần chuyển tải đa dạng thông điệp, tư tưởng

nghệ thuật một cách vừa dung dị, dễ hiểu vừa sâu sắc, đáp ứng sự chuyển biến

của xã hội, đồng thời đòi hỏi xã hội phải biến cải.

5. Luận án chỉ rõ giá trị nghệ thuật của tác phẩm Sắp đặt Việt Nam có

YTTT giai đoạn 1995 - 2018, tạo nên một sắc thái riêng biệt, phản ánh xác

thực cuộc sống đương đại, theo cách biểu hiện mới. Trong đó, các giá trị nổi

bật như: góp phần làm đa dạng biểu hiện hình thức và chủ đề tác phẩm; mở

rộng ranh giới thẩm mỹ; định vị NTSĐVN trong đời sống xã hội và lịch sử

nghệ thuật đương đại. Đồng thời, nhận định truyền thống là bệ đỡ nền tảng

145

cho NTSĐVN trên hành trình tìm kiếm sự khác biệt. Xu hướng tiếp cận di sản

của Nghệ thuật Sắp đặt mang tính toàn cầu, tất yếu.

YTTT trong NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018 có quan hệ tương hỗ với

hình thức biểu hiện mới: YTTT góp phần tạo cho tác phẩm giá trị độc đáo,

ngược lại, hình thức biểu hiện mới của NTSĐ tạo cho truyền thống trở nên đa

dạng hơn, tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong xã hội đương đại.

Qua những kết quả nghiên cứu của luận án, cung cấp một số thông tin

mới, chuyên sâu, toàn diện về YTTT trong NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018,

bổ sung thông tin vào nguồn tư liệu nghệ thuật đương đại Việt Nam, gợi ý

cho giới sáng tác, nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu về truyền thống, là tài liệu

giảng dạy cho các cơ sở đào tạo nghệ thuật.

NCS rất tán thành với quan điểm của một học giả nước ngoài về sự lựa

chọn kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, đại ý: “Trong thời đại toàn cầu

hóa, mỗi dân tộc, mỗi cá nhân cần có hai thái độ, một thái độ luôn giữ gìn bản

sắc truyền thống, một thái độ không ngừng tiếp nhận tinh hoa từ bên ngoài”.

Trên tinh thần ấy, NCS đưa ra mệnh đề: “Phương tiện Tây, lối đi Việt Nam”

như một gợi ý mở, một sự lựa chọn cho tiến trình phát triển NTSĐVN trong

bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế.

146

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Hữu Đức (2016), “Ba xu hướng sử dụng chất liệu trong Nghệ thuật

Sắp đặt Việt Nam”, Kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu khoa học của NCS

2016, Nxb. Thế Giới, tr. 218 - 235.

2. Nguyễn Hữu Đức (2017), “Nghiên cứu phân loại Nghệ thuật Sắp đặt Việt

Nam”, Tạp chí Nghiên cứu mỹ thuật, số 02, tr. 68 - 77.

3. Nguyễn Hữu Đức (2018), “Ánh sáng trong thực hành nghệ thuật”, Tạp chí

Văn hóa học, số 01, tr. 85 - 90.

147

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngô Trần Ái chủ tịch Hội đồng biên dịch - biên soạn (2014), Từ điển bách A

khoa Britannica, tập 1,2, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

2. Lê Trần Hậu Anh (2016), Mỹ thuật Việt Nam - Những biến đổi trong thời a

đại công nghệ thông tin, Luận án tiến sỹ nghệ thuật, Viện Văn hóa

Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, Hà Nội.

3. Giang Nguyệt Ánh (2012), Yếu tố tạo hình của đồ mã trong nghi lễ thờ tứ A

phủ ở đồng bằng Bắc bộ, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở,

Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.

4. Boris Grogs, “Lại bàn về chủ nghĩa ý niệm trong thời đại số hóa toàn B

cầu”, Phạm Long dịch (2012), Tạp chí Nghiên cứu mỹ thuật, số 02

(42), tr.83 - 89.

5. Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hóa Việt Nam - Mấy vấn đề lý luận và thực B

tiễn, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

6. Trần Lâm Biền (1993), Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình

truyền thống Việt, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.

7. Trần Lâm Biền chủ biên (2001), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống B

của người Việt, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

8. Trần Lâm Biền (2013), Con đường tiếp cận lịch sử, Nxb. Văn hóa Thông B

tin, Hà Nội.

9. Trần Lâm Biền (2014), Đình làng Việt châu thổ Bắc bộ, Nxb. Thế giới, Hà B

Nội.

10. Bộ Văn hóa - Thông tin, Vụ Mỹ thuật (2001), Triển lãm Mỹ thuật toàn B

quốc 1996 - 2000, Nxb. In tại Công ty in và Văn hóa phẩm, Hà

Nội.

11. Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội Mỹ thuật Việt Nam (2005), Triển lãm Mỹ B

thuật toàn quốc 2001 - 2005, In tại Công ty In và Văn hóa phẩm,

148

Hà Nội.

12. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển B

lãm; Hội Mỹ thuật Việt Nam (2015), Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam

2015, Nxb. Mỹ thuật.

13. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm B

(2017), Festival Mỹ thuật trẻ 2017, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.

14. Caroline Turner chủ biên (1994), Truyền thống và thay đổi, Bùi Như C

Hương dịch, Đại học Tổng hợp Báo chí Queensland, Autralia, tư

liệu Viện Mỹ thuật.

15. Nguyễn Đỗ Cung (1993), Bàn về Mỹ thuật Việt Nam, tư liệu Viện Mỹ C

thuật.

16. Cynthia Freeland (2010), Một đề dẫn về lý thuyết nghệ thuật, Nguyễn

Như Huy dịch, Nxb. Tri Thức.

17. Đoàn Minh Châu (2011), Cấu trúc lễ hội đương đại, Nxb. Văn hóa - C

Thông tin, Hà Nội.

18. Nguyễn Du Chi (2001), Trên đường tìm về cái đẹp của cha ông, Nxb. C

Mỹ thuật, Hà Nội.

19. Nguyễn Từ Chi (2013), Văn hóa tộc người Việt Nam, Nxb. Thời đại, Hà C

Nội.

20. David Galenson, “Những cuộc cách mạng ý niệm trong nghệ thuật thế kỷ

20”, Phạm Long dịch (2013), Tạp chí Nghiên cứu mỹ thuật, số 03

(47), tr.88 - 96.

21. Denis Diderot (2013), Từ mỹ học đến các loại hình nghệ thuật, Phùng D

Văn Tửu dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

22. Trần Duy (2002), Cảm luận nghệ thuật, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội. D

23. Vũ Cao Đàm (2014), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb. Đ

Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

24. Tôn Đại (2005), Kiến trúc hậu hiện đại, Nxb. Xây dựng, Hà Nội.

149

25. Trịnh Bá Đĩnh chủ biên (2018), Từ kí hiệu đến biểu tượng, Nxb. Đại học Đ

Quốc gia Hà Nội.

26. Lê Thanh Đức (1996), Nghệ thuật Mô đéc và Hậu Mô đéc, Nxb. Mỹ Đ

thuật, Hà Nội.

27. Geng Chu Zhuang (2002), Chủ nghĩa nữ quyền, Hoàng Mai Vân dịch, tư G

liệu Viện Mỹ thuật, Hà Nội.

28. Phạm Hà Hải (1997), Tìm hiểu nghệ thuật xếp đặt, luận văn Trường Đại H

học Mỹ thuật Hà Nội.

29. Lý Trạch Hậu (1999), Bốn bài giảng mỹ học, Trần Đình Sử, Lê Tẩm H

dịch, Nxb. Đại học Qốc gia Hà Nội.

30. Vũ Hiệp (2018), Các cấu trúc tinh thần của nghệ thuật, Nxb. Mỹ thuật, H

Hà Nội.

31. Đặng Thái Hoàng (2005), “Nghệ thuật Sắp đặt”, Tạp chí Mỹ thuật, số H

130 (78), tr. 19 - 21.

32. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Toàn cầu hóa với văn H

hóa, tư liệu chuyên đề.

33. Lý Tùng Hiếu (2019), Văn hóa Việt Nam tiếp cận hệ thống - liên ngành, H

Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.

34. Bùi Như Hương - Trần Hậu Tuấn (2001), Hội họa mới Việt Nam thập kỷ H

90, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.

35. Bùi Như Hương - Phạm Trung (2013), Nghệ thuật đương đại Việt Nam H

1990 - 2010, Nxb. Tri Thức, Hà Nội.

36. Đỗ Huy (2002), Cơ sở triết học của Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Nxb. H

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

37. Đỗ Kỳ Huy (2011), Khái quát về tình hình các hoạt động mỹ thuật mang H

tính chất cộng đồng tại Huế, Chuyên đề nghiên cứu khoa học, tư

liệu Trường Đại học Nghệ thuật Huế.

38. Nguyễn Thừa Hỷ (2014), “Tiếp biến văn hóa Việt Nam dưới góc nhìn lý H

150

thuyết hệ thống”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (82).

39. Immanuel Kant (2007), Phê phán lý tính thực hành, Bùi Văn Nam Sơn I

dịch và chú giải, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

40. IU.M. Lotman (2015), Ký hiệu học văn hóa, Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, I

Trần Đình Sử dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

41. Jean Chevalier - Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa

thế giới, Trường viết văn Nguyễn Du, Nxb. Đà Nẵng.

42. Jean - Francois Lyotard (2008), Hoàn cảnh Hậu hiện đại, Ngân Xuyên J

dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội.

43. Kandinsky (2014), Về cái tinh thần trong nghệ thuật, Phạm Long dịch, K

Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.

44. K.G. Paustovsky (2016), Bông hồng vàng và bình minh mưa, Kim Ân, K

Mộng Quỳnh dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội.

45. Đỗ Văn Khang (2013), Cơ sở lý luận văn học, Nxb. Thông tin và K

Truyền thông, Hà Nội.

46. Đặng Quý Khoa (2002), “Một vài suy nghĩ về Nghệ thuật Sắp đặt”, Đặc

san Nghiên cứu mỹ thuật, số 1, tr. 25 - 26.

47. Vũ Khiêu (2010), “Bàn về văn hóa truyền thống”, Tạp chí Văn Hiến, K

Việt Nam, số 9 (159), tr. 7.

48. Nguyễn Văn Kim chủ biên (2018), Tiếp biến và hội nhập văn hóa ở Việt K

Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

49. Đặng Phong Lan (2002), “Mỹ thuật truyền thống, nguồn kế thừa cho L

sáng tạo mỹ thuật”, Đặc san Nghiên cứu mỹ thuật, số 1, tr.49 - 51.

50. Ngô Phương Lan (2005), Tính hiện đại và tính dân tộc trong điện ảnh L

Việt Nam, Viện Văn hóa - Thông tin, Nxb Văn hóa - Thông tin.

51. Nguyễn Mạnh Lân - Trần Duy Hinh - Trần Trung Nhàn (2002), Văn học L

dân gian và Nghệ thuật tạo hình điện ảnh, Nxb. Văn học, Hà Nội.

52. L.X. Vwgotxki (1981), Tâm lý học nghệ thuật, Hoài Lam dịch, Nxb. L

151

Khoa học xã hội.

53. Leonard Shlain (2010), Nghệ thuật và Vật lý - một cái nhìn tương đồng L

về không gian, thời gian, Trần Mạnh Hà - Phạm Văn Thiều dịch,

Nxb. Tri Thức, Hà Nội.

54. Phan Huy Lê (2015), Di sản văn hóa Việt Nam dưới góc nhìn lịch sử, L

Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

55. Đinh Gia Lê (2016), Tìm hiểu nghệ thuật đương đại Việt Nam, Nxb.

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

56. Nguyễn Loan (2008), “De-le-te”, Đặc san Nghiên cứu mỹ thuật, số 04

(28), tr. 69 - 71.

57. Mai Loan (2014), “Nhìn lại ba kỳ Festival mỹ thuật trẻ toàn quốc”, Tạp L

chí Nghiên cứu mỹ thuật, số 04 (04), tr.39 - 44.

58. Chu Lượng (2009), Mặt nước hồn người, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội. L

59. Marc Jimenez, 2016, 50 câu hỏi mỹ học đương đại, Phạm Diệu Hương M

dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

60. M. Cagan (2004), Hình thái học nghệ thuật, Phan Ngọc dịch, Nxb. Hội M

Nhà văn Hà Nội.

61. Bùi Thị Thanh Mai (2010), Giáo dục mỹ thuật thông qua di sản, Đề tài M

nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Mỹ thuật Việt

Nam, Hà Nội.

62. Bùi Thị Thanh Mai (2014), Mỹ thuật hậu đổi mới trong mối liên hệ với M

những vấn đề xã hội Việt Nam đương đại, Đề tài nghiên cứu khoa

học cấp cơ sở, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.

63. Bùi Thị Thanh Mai (2014), “Nghiên cứu xác định thời gian và đặc điểm M

mỹ thuật hậu đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu mỹ thuật, số 04 (04),

tr. 6 - 19.

64. Thùy Minh (2008), “Đi tìm định nghĩa contemporary”, Tạp chí Nghiên M

cứu mỹ thuật, số 03 (27), tr. 80 - 84.

152

65. Natalia Kraevskaia (2005), Từ hoài cổ hướng sang miền đất mới, Nxb. N

Kim Đồng, Hà Nội.

66. Natalia Kraevskaia (2005), “Tiềm năng của một hình thức nghệ thuật N

mới Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam”, Đặc san Nghiên cứu mỹ thuật,

số 2 (14), tr.38- 46.

67. Nicolas De Oliveira, Nicola Oxley & Nicheal Petry (2003), “Nghệ thuật N

Sắp đặt”, Nguyễn Thị Loan dịch, Đặc san Nghiên cứu mỹ thuật, số

2(6), tr. 86 - 98.

68. Nguyễn Đức Nùng chủ biên (1977), Mỹ thuật thời Trần, Nxb. Văn hóa, N

Hà Nội.

69. Đặng Thị Bích Ngân chủ biên (2012), Từ điển Mỹ thuật phổ thông, Nxb. N

Mỹ thuật, Hà Nội.

70. Trần Hoàng Ngân (2013), “Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam với sự phản N

ánh các đề tài xã hội (2000 - 2012)”, Tạp chí Nghiên cứu mỹ thuật,

số 04 (48), tr. 48 - 57.

71. Trần Hoàng Ngân (2018), Khuynh hướng tiếp cận di sản truyền thống N

qua một số dự án nghệ thuật Việt Nam từ 2010 đến 2016, Đề tài

nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Mỹ thuật Việt

Nam.

72. Lã Nguyên (2018), Phê bình ký hiệu học - Đọc văn bản như là hành Ng

trình tái thiết ngôn ngữ, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.

73. Hoàng Phê chủ biên (2012), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb. P

Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

74. Oanh Phi Phi (2014), “Tranh sơn mài Việt - một cách tiếp cận hiện đại”, P

tham luận Hội thảo Quốc tế về “Mỹ thuật Việt Nam: những tiếp

cận mới” tại Paris, Pháp.

75. Nguyễn Nghĩa Phương (2012), “Nghệ thuật tranh in đương đại và một số P

tín hiệu thực hành đồ họa mở ở VN”, Đặc san Nghiên cứu Mỹ

153

thuật, số 1(41), tr. 35 - 41.

76. Nguyễn Quân - Phan Cẩm Thượng (1991), Mỹ thuật ở làng, Nxb. Mỹ Q

thuật, Hà Nội.

77. Nguyễn Quân (2004), Con mắt nhìn cái đẹp, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội. Q

78. Nguyễn Quân (2010), Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nxb. Tri Thức, Hà Q

Nội.

79. Nguyễn Quân (2011), “Nghệ thuật đương đại với cộng đồng”, Đặc san Q

Nghiên cứu mỹ thuật, số 3 (39), tr. 30 - 33.

80. Richard Appignanesi - Chris Gattat (2006), Nhập môn chủ nghĩa Hậu R

hiện đại, Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

81. Nguyễn Thế Sơn (2013), “Vị trí của truyền thống và di sản trong các S

thực hành nghệ thuật thử nghiệm tại Học viện nghệ thuật Cafa”,

Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh số 8 (14), tr. 50-55.

82. Lê Văn Sửu (2010), “Mối quan hệ giữa các loại hình nghệ thuật”, Đặc

san Nghiên cứu Mỹ thuật, số 01 (33), tr.51 - 57.

83. Lê Văn Sửu (2010), “Sự chuyển đổi sáng tác nghệ thuật trong thời kỳ S

hậu hiện đại”, Đặc san Nghiên cứu Mỹ thuật, số 01 (45), tr. 4 - 11.

84. Lê Văn Sửu (2012), “Lý thuyết và thực hành Nghệ thuật trong thời kỳ

Hậu hiện đại”, Đặc san Nghiên cứu mỹ thuật, số 3+4 (43+44), tr.

16 - 24.

85. Lê Văn Sửu (2013), “Thưởng thức Nghệ thuật Sau Đổi mới ở Việt

Nam”, Đặc san Nghiên cứu Mỹ thuật, số 02 (46), tr.04 -13.

86. Lê Văn Sửu (2013), “Thưởng thức Nghệ thuật Hậu hiện đại”, Tạp chí S

Nghiên cứu Mỹ thuật, số 01 (45), tr. 54 - 61.

87. Lê Văn Sửu chủ biên (2013), Kết nối nghệ thuật và di sản, Trường Đại S

học Mỹ thuật Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

88. Văn Tân chủ biên (1977), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. T

89. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long (2013), Chùa Việt Nam, T

154

Nxb. Thế Giới, Hà Nội.

90. Chu Quang Tiềm (1991), Tâm lý văn nghệ, Khổng Đức, Đinh Tấn Dung T

dịch, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

91. Phạm Văn Tuyến (2015), Cảm hứng nghệ thuật trong sáng tác Hội họa, T

Luận án tiến sỹ nghệ thuật, Viện Văn hóa - Nghệ thuật Quốc gia

Việt Nam.

92. Mai Thị Hồng Tuyết (2016), Hình tượng văn học như là kí hiệu, Nxb. T

Khoa học xã hội, Hà Nội.

93. Lê Văn Thao chủ biên (2012), Đồ án trang trí mỹ thuật ở hai đền vua Th

Đinh - vua Lê (Hoa Lư - Ninh Bình), Nxb. Thế Giới, Hà Nội.

94. Bùi Quang Thắng (2017), Hành trình vào văn hóa học, Nxb Thế Giới, Th

Hà Nội.

95. Trần Hậu Yên Thế (2004), “Một Liang Shuo ở Busan Biennale 2004”, Th

Đặc san Nghiên cứu mỹ thuật, số 3(11), Tr. 93 - 94.

96. Vũ Huy Thông (2011), “Một cách tiếp cận với Nghệ thuật Sắp đặt qua triển

lãm Hợp thể”, Đặc san Nghiên cứu mỹ thuật, số 01 (37, tr.34 - 37.

97. Vũ Huy Thông (2012), Nghệ thuật Sắp đặt trong mối liên hệ với một số Th

yếu tố thẩm mỹ truyền thống, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ

sở, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.

98. Vũ Huy Thông (2014), “Chất liệu phế thải trong Nghệ thuật Sắp đặt nhìn Th

từ “Nặng bồng nhẹ tếch” và “Chúc sức khỏe”, Tạp chí Nghiên cứu

mỹ thuật, số 01(01), tr.40 - 44.

99. Nguyễn Hương Thuỷ tuyển soạn (2008), Người Việt phẩm chất và thói

hư - tật xấu, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội.

100. Phan Cẩm Thượng (2008), Nghệ thuật ngày thường, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.

101. Phan Cẩm Thượng (2011), Văn minh vật chất của người Việt, Nxb. Tri Th

Thức, Hà Nội.

102. Phan Cẩm Thượng - Lê Quốc Việt - Cung Khắc Lược (2011), Đồ họa Th

155

cổ Việt Nam, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.

103. Đào Mai Trang chủ biên (2010), 12 Nghệ sỹ đương đại Việt Nam, Nxb. Thế Tr

Giới, Hà Nội.

104. Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện Mỹ thuật (2000), Mỹ thuật Tr

Việt Nam thế kỷ 20, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Mỹ thuật, Hà

Nội.

105. Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - Viện Mỹ thuật (2000), Bản rập

họa tiết Mỹ thuật cổ Việt Nam, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.

106. Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - Viện Mỹ thuật (2005), Vấn đề

hình thức và chất liệu trong nghệ thuật đương đại, Kỷ yếu hội thảo

khoa học, tư liệu Viện Mỹ thuật.

107. Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện Mỹ thuật (2007), 20 năm Mỹ Tr

thuật Việt Nam thời kỳ Đổi mới 1986 - 2006, Kỷ yếu hội thảo khoa

học, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.

108. Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - Viện Mỹ thuật (2008), Nghệ thuật Tr

Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, Kỷ yếu hội thảo khoa học,

Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.

109. Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - Học viện Mỹ thuật, Đại học

Umea (2008), Bình đẳng là gì?, Catalogue triển lãm, Nxb. Mỹ

thuật, Hà Nội.

110. Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam (2011), Qua phố nhớ gì? Ký ức Tr

thành phố - Ký ức di sản, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.

111. Thái Bá Vân (1995), Tiếp xúc với nghệ thuật, Tư liệu Viện Mỹ thuật. V

112. Thái Bá Vân (2002), “Đi tìm phương Đông”, Đặc san Nghiên cứu mỹ

thuật, số 5/2002, tr.78-89.

113. Vi Tường Vi (2013), “Yếu tố tương tác trong Nghệ thuật Sắp đặt và V

trình diễn Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21”, Tạp chí nghiên

cứu mỹ thuật, số 03 (47), tr. 30 - 41.

156

114. Viện Nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh Việt Nam, I. Lotman - E.F.Lichte V

(1997), Ký hiệu học nghệ thuật sân khấu, điện ảnh, Bùi Khởi

Giang, Bạch Bích dịch.

115. Nguyễn Việt, “Mỹ thuật Đông Sơn đỉnh cao của Mỹ thuật tiền sử Việt V

Nam”, Đặc san Nghiên cứu Mỹ thuật, số 1/2010, Trường Đại học

Mỹ thuật Việt Nam.

116. Trần Quốc Vượng (2014), Văn hóa Việt Nam, Nxb. Thời Đại, Hà Nội. V

117. Xu Gan (2002), Nghệ thuật Sắp đặt, Trần Hậu Yên Thế - Hà Thị Tường X

Thu - Phạm Trung Nghĩa dịch, tư liệu Viện Mỹ thuật, Hà Nội.

118. Zhang Zhao Hui - Xu Ling (202), Nghệ thuật truyền thông mới, Hà Thị Z

Tường Thu dịch, tư liệu Viện Mỹ thuật, Hà Nội.

Tài liệu tiếng Anh

119. Bradford Edwards (1998), “Stepping out front” (Bước lên phía trước), B

Asian Art News, No. 5, October/11, P.66

120. Caroline Turner chủ biên (2001), Art and Social Change (Nghệ thuật và C

thay đổi xã hội), The Autralian National University, Autralia.

121. Chris Meigh - Andrews (2006), A History of Video Art (Lịch sử nghệ C

thuật video), first Published by Berg, New York, USA.

122. Gill Perry - Paul Wood chủ biên (2004), Themes in Contemporary Art G

(Các chủ đề trong nghệ thuật đương đại), Yale University Press in

association with The Open University.

123. Jonathan Harris (2011), Globalization and Contemporary Art (Toàn cầu J

hóa và nghệ thuật đương đại), A John Willey & Sons Ltd,

Publication, United Kingdom.

124. Jean Robertson - Craig Mc Daniel (2010), Themes of Contemporary J

Art - Visual Art after 1980 (Các chủ đề nghệ thuật thị giác đương

đại sau thập kỷ 1980), Published by Oxford University Press, New

York.

157

125. Melissa Chiu - Benjamin Genocchio (2010), Contemporary Asian Art M

(Nghệ thuật đương đại châu Á), Thames & Hudson Ltd, London.

126. Michael Rush (2005), New Media in Art (Phương tiện truyền thông mới M

trong nghệ thuật), Thames & Hudson Ltd, London.

127. Micheal Ryan (2009), Art Fundeamentals- Theory and Practice (Những

nền tảng nghệ thuật - Lý thuyết và thực hành), Published by

McGraw- Hill, New York.

128. Queensland Art Gallery (1999), Beyond the Future - The third Asia Q

Pacific Triennal of Contemporary Art (Tương lai xa - triển lãm

nghệ thuật đương đại châu Á Thái Bình Dương định kỳ 3 năm),

Publisher Queensland Art Gallery - South Bank - South Brisbane,

Autralia.

129. Wang Shaoqiang chief editor (2010), Installation Art (Nghệ thuật Sắp W

đặt), Sandu Publishing, China.

Nguồn Internet

130. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/llvhh-

nhung-van-de-chung/2317-r-aileau-khai-niem-truyen-thong.html.

R. leau, “Khái niệm truyền thống”, Đoàn Văn Chúc dịch, ngày bài

viết được đưa lên internet 07/11/2012, ngày truy cập 27/6/2015.

131. https://vietnamnet.vn/vn/giai-tri/chiec-binh-21-ti-bi-dap-vo-ngay-tai-

trien-lam-162136.html.

Linh Anh - theo Daily mail, “Chiếc bình 21 tỉ bị đập vỡ ngay tại

triển lãm”, ngày bài viết được đưa lên internet 19/02/2014; ngày

132. https://tiasang.com.vn/-van-hoa/truyen-thong-va-hien-dai-3046.

truy cập 05/7/2019.

Tạp chí Tia sáng, “Truyền thống và hiện đại”, ngày bài viết được

đưa lên internet 16/9/2009; ngày truy cập 01/5/2019.

158

133. http://tienvanmieu.com/vi/doi-dieu- ve-nghe-thuat-sap-dat-installation/

Nguyên Hưng, “Đôi điều về Nghệ thuật Sắp đặt (installation)”,

ngày bài viết được đưa lên internet 14/12/2015; ngày truy cập

01/5/2019

134. http://www.unesco.org.convention2005.

Văn phòng Unesco tại Việt Nam, Công ước về bảo vệ và phát huy

sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa, ngày tài liệu được đưa lên

internet 30/10/2005; ngày truy cập 01/3/2019.

135. http://vhnt.org.vn/tin-tuc/my-thuat-kien-truc/28314/nghe-thuat-sap-dat-

viet-nam.

Tường Vi, “Bảo tàng Mỹ thuật Huế phối hợp với nghệ sĩ

Yumiko Ono tổ chức Triển lãm Sắp đặt đương đại về kiến trúc

Nhật Bản trên nền chất liệu lụa truyền thống của Việt Nam với chủ

đề Chất hữu cơ”, ngày đưa tin ảnh lên internet 17/01/2020; ngày

truy cập 01/3/2021.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

159

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT

VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995 - 2018

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử mỹ thuật

Mã số: 9210101

PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội – 2021

160

MỤC LỤC PHỤ LỤC SƠ ĐỒ VÀ ẢNH MINH HOẠ

Phụ lục 1: Phỏng vấn chuyên gia và trao đổi với nghệ sĩ............................161

Phụ lục 2: Danh mục tác phẩm Sắp đặt sử dụng trong luận án...................173

Phụ lục 3:Ảnh minh họa biểu hiện yếu tố truyền thống qua hình thức.....181

3.1. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua tạo hình……………………...........181

3.2. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua trang trí…………………................191

3.3. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua không gian di sản............................199

Phụ lục 4:Ảnh minh họa biểu hiện yếu tố truyền thống qua chủ đề...........203

4.1. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua chủ đề văn hóa, tín ngưỡng............205

4.2. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua chủ đề ký ức...........………………215

4.3. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua chủ đề phản biện xã hội…….........220

Phụ lục 5:Ảnh minh họa thể nghiệm Sắp đặt Việt Nam trước năm 1995...223

161

PHỤ LỤC 1

PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA VÀ TRAO ĐỔI VỚI NGHỆ SĨ

Phỏng vấn chuyên gia

PV1: Cuộc phỏng vấn giữa NCS với nhà nghiên cứu Mỹ thuật Phan

Cẩm Thượng (PCT):

Nhà nghiên cứu Mỹ thuật Phan Cẩm Thượng sinh năm 1957 tại Hà Nội.

Năm 1983, ông tốt nghiệp khóa I, ngành Lý luận, lịch sử Mỹ thuật, trường

Đại học Mỹ thuật Hà Nội. Hiện sinh sống và làm việc tại Hà Nội. Ông từng

tham gia giảng dạy lịch sử mỹ thuật tại nhiều trường đại học ở trong nước, đã

xuất bản nhiều công trình nghiên cứu về Mỹ thuật Việt Nam và sáng tác nhiều

thể loại tranh như: khắc gỗ, giấy Dó, Sơn mài…Từng tham gia nhiều Hội

đồng nghệ thuật quốc gia.

Cuộc phỏng vấn này được thực hiện ngày 06 tháng 4 năm 2021. Sau

đây là nội dung cuộc phỏng vấn:

NCS: Xin ông cho biết NTSĐVN có mối liên hệ nào với YTTT không?

PCT: Nếu nói về Nghệ thuật Sắp đặt đương đại Việt Nam, thì chẳng có

gì liên quan đến yếu tố truyền thống cả. Có chăng chỉ là ít vật liệu (địa

phương- rơm, tre, nứa, giấy, gỗ…) rẻ tiền, sẵn có được nghệ sĩ sử dụng.

NCS: Vậy, nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng này?

PCT: Bản thân các nghệ sĩ làm Sắp đặt đương đại muốn cắt đứt với tất

cả thói quen cũ, không muốn liên quan gì đến quá khứ thất bại (xã hội) và

nhàm chán. Nghệ thuật và văn hóa truyền thống không có gì hấp dẫn họ nữa.

NCS: Theo ông, xu hướng phát triển của NTSĐVN trong giai đoạn tới

sẽ như thế nào?

PCT: Xét về yếu tố, cá nhân, hầu hết các nghệ sĩ đương đại Việt Nam

rất lơ mơ về văn hóa nghệ thuật truyền thống. Nên có thể nói, họ đã làm cái

162

khác, cái mới, muốn hòa nhập với nghệ thuật thế giới nói chung, hơn là muốn

làm cái gì có tính bản sắc dân tộc riêng biệt.

NCS: Trân trọng cảm ơn ông đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn

này, chúc ông luôn dồi dào sức khỏe!

PV2:Cuộc phỏng vấn giữa NCS với nhà nghiên cứu Mỹ thuật

Nguyễn Quân (NQ):

Nhà nghiên cứu Mỹ thuật Nguyễn Quân sinh năm 1948 tại Phú Thọ.

Năm 1971 tốt nghiệp Đại học Merseburg, Đức. Ông từng công tác tại phủ

Thủ tướng, Đại học ngoại ngữ, Đại học Mỹ thuật Hà Nội, Hội Mỹ thuật Việt

Nam, Tạp chí Mỹ thuật, là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về Mỹ

thuật Việt Nam và sáng tác nhiều tranh, tượng…

Cuộc phỏng vấn này được thực hiện ngày 08 tháng 4 năm 2021. Sau

đây là nội dung cuộc phỏng vấn:

NCS:Có ý kiến cho rằng Nghệ thuật Sắp đặt cắt đứt với truyền thống,

truyền thống chỉ là gánh nặng cho nghệ thuật đương đại. Quan điểm của ông

như thế nào về vấn đề này?

NQ: Truyền thống bản địa (châu lục, dân tộc, tôn giáo, vùng miền, địa

phương...) tồn tại trong nghệ thuật truyền thống tinh hoa và trong các sản

phẩm văn hóa đại chúng đời thường và lễ hội...luôn được nghệ thuật, nghệ

sĩ đương đại mọi thời tiếp nhận, phủ nhận hay tiếp biến...là một tất yếu.

Không thể “cắt đứt” với nó được! Nghệ sĩ, nghệ thuật luôn đối thoại, sống với

truyền thống bản địa như ai cũng sống với quá khứ và quê hương. Tự nó

không có lợi, có hại, tạo thành công hay thất bại cho nghệ thuật đương đại.

Yếu tố vật chất, đồ vật, nghi lễ, tập tục, biểu tượng... vô can với thành bại, tạo

ra hay phá hủy bản sắc của nghệ thuật Việt Nam nói chung hay

installation Việt Nam nói riêng. Nghệ thuật Nghiêm dùng giấy Dó vẽ con

giống tạo nên kiệt tác Việt Nam. Người khác bất tài nông cạn có thể biến giấy

163

ấy, con ấy thành ra rơm rác, rởm, không Việt Nam tý nào. Hai luận điểm

ngược nhau về yếu tố truyền thống nêu trên đều sai vì câu hỏi sai!

NCS: Trong một số tác phẩm Sắp đặt giai đoạn trước và loạt tranh sơn

dầu sáng tác gần đây của ông có sử dụng khá nhiều YTTT, hiện vật thủ công,

tranh dân gian…để xây dựng tác phẩm. Vậy ông tìm thấy điều gì ở sự kết hợp

này? Liên hệ với NTSĐVN, khai thác yếu tố truyền thống (vật thể và phi vật

thể), chất liệu bản địa để xây dựng tác phẩm Sắp đặt, theo ông sẽ có những

lợi thế nào đáng kể?

NQ: Tôi vẽ rất nhiều “yếu tố truyền thống” trong tranh từ thập kỷ 1970

đến nay. Tôi đã dùng hàng ngàn con lợn đất Đồng Xuân, hàng trăm cái quạt

giấy làng Truồi, thớt gỗ me Gò Vấp, đá rải đường, dao phát và cái liềm Nam

Bộ, cây tre ngà, mảnh đồ sứ, đũa tre gỗ...để làm một số tác phẩm Sắp đặt. Sau

tôi có dùng nhiều tranh cúng mã Làng Sình ,Chợ lớn... xé dán vào tranh

sơn dầu… Tôi thấy nếu các thứ đó tự nhiên cần thiết cho bức tranh cụ thể thì

tranh đẹp = thành công. Nếu nó không thực là một sự cần thiết mà gắn ghép

vào, dựa dẫm vào thì bức tranh cụ thể đó xấu = thất bại. Như thế, tại

tôi chứ các “YTTT” không liên quan tới chất lượng tác phẩm. Do đó, phát

huy sử dụng hay cắt đứt hủy bỏ các “YTTT” không có công tội gì với Nghệ

thuật Sắp đặt và nghệ thuật nói chung, mọi nơi cũng như Việt Nam. Có thể là

tại hiện tình cụ thể của nghệ thuật ta 1990 > 2020 là có một làn sóng lạm phát

“YTTT” nên người ta mới phải bàn tới hiện tượng này chăng?

NCS: Theo ông NTSĐVN giai đoạn 1995 - 2018, có thành tựu nào nổi

bật không?

NQ: Nhìn chung, các tác phẩm Sắp đặt Việt Nam chưa thành công lắm,

chưa có tác giả làm Sắp đặt mà ta nhớ được tên nên không thể nêu

ý gì về “Nghệ thuật Sắp đặt Việt Nam”. Mà nó có vẻ cũng đang tàn dần hoặc

tan biến vào các dự án nghệ thuật thực địa cộng đồng và du lịch ?!

164

NCS: Nhận định của ông như thế nào về vai trò, vị thế của YTTT trong

nghệ thuật đương đại nói chung, NTSĐVN nói riêng trong bối cảnh toàn cầu

hóa, giao lưu, hội nhập quốc tế?

NQ: Vì contemporary art (nghệ thuật đương đại) muốn tác phẩm có

tính địa phương và vì Nghệ thuật Sắp đặt dùng nhiều đồ vật có sẵn trên một

địa hình cụ thể nên khắp thế giới các nghệ sĩ làm Sắp đặt ưa dùng các yếu tố,

vật phẩm truyền thống, địa phương. Các nghệ sĩ Việt cũng vậy từ bu gà, gạo

thóc, tre pheo, hàng mã, guốc gỗ, lụa, vải, chày cối, gùi, thổ cẩm…, đến bàn

ghế, tượng Phật, tượng Mẫu, rối nước, xiêm áo, ngai thờ cung đình, dao, búa,

liềm, rơm rạ…vv.

NCS:Cảm ơn ông đã tham gia cuộc phỏng vấn, chúc ông luôn tràn đầy

năng lượng sáng tạo!

PV3:Cuộc phỏng vấn giữa NCS với nhà nghiên cứu Mỹ thuật Trần

Hậu Yên Thế (THYT):

Nhà nghiên cứu Trần Hậu Yên Thế, sinh năm 1970, tốt nghiệp Đại học

Mỹ thuật Hà Nội năm 1995, chuyên ngành Hội họa, tốt nghiệp Cao học Học

viện Mỹ thuật TW Bắc Kinh chuyên ngành Sơn dầu năm 2004, bảo vệ luận án

Tiến sĩ tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam năm 2016. Ông là tác giả của

một số công trình về nghệ thuật trang trí cổ truyền Việt Nam và sáng tác

nhiều tác phẩm mang tính ý niệm.

Cuộc phỏng vấn này được thực hiện ngày 11 tháng 4 năm 2021. Sau

đây là nội dung cuộc phỏng vấn:

NCS:Theo ông, hiện vật thủ công truyền thống và chất liệu bản địa có

vai trò như thế nào trong kiến tạo tác phẩm Sắp đặt ở Việt Nam?

THYT:Trong những điểm đặc sắc của Nghệ thuật Sắp đặt của các

nước châu Á là sử dụng các hiện vật thủ công truyền thống, chất liệu bản địa

để sáng tạo tác phẩm. Đó chính là khả năng khai thác tri thức truyền thống

của các nghệ sĩ Đương đại. Như chúng ta đã biết, các chất liệu như sơn dầu là

165

chất liệu đặc trưng của hội họa, phương Tây đã đóng góp vô vàn tác phẩm mỹ

thuật cho nhân loại. Bản thân chất liệu này cũng phản ánh văn hóa và phương

thức tư duy của phương Tây.

Trong nghệ thuật tạo hình truyền thống, chất liệu thể hiện tương đối ít,

chúng ta có thể đếm trên đầu ngón tay được như: màu nước, mực tàu, màu bột,

sơn dầu, phấn màu, màu sáp... trong nghệ thuật hội hoạ; là thạch cao, đất sét,

đá, gỗ, đồng, nhôm, bạc, vàng, thép không gỉ… trong nghệ thuật điêu khắc.

Khi vượt ra ngoài khuôn khổ của của hội họa, Nghệ thuật Sắp đặt đã khám

phá ra nhiều chất liệu mới, là kết quả của việc khai thác các tri thức truyền

thống (Traditional Knowledge).

NCS:Vậy, ông có thể nói rõ hơn nội hàm của “tri thức truyền thống”?

THYT:Việc các nghệ sĩ châu Á dựa trên những tri thức truyền thống

để kiến tạo tác phẩm đã mang đến tính chất địa phương riêng có cho tác phẩm.

Vì những tri thức truyền thống được trao truyền qua nhiều thế hệ, là dạng kiến

thức cụ thể về một địa điểm, môi trường tự nhiên nhất định nào đó, nên nó dễ

gợi nên nghĩa cảnh địa phương, gợi ý về nơi chốn của tác phẩm. Theo báo cáo

của Nhóm Nghiên cứu của Hội đồng Khoa học Quốc tế (ICSU) về Khoa học

và Tri thức Truyền thống mô tả kiến thức truyền thống là:

"một khối kiến thức, bí quyết, thực hành và cách thể hiện tích

lũy được duy trì và phát triển bởi các dân tộc có lịch sử tương tác

mở rộng với môi trường tự nhiên. Những cách hiểu, cách diễn giải

và ý nghĩa phức tạp này là một phần và mảnh đất của một phức hợp

văn hóa bao gồm ngôn ngữ, hệ thống đặt tên và phân loại, thực

hành sử dụng tài nguyên, nghi lễ, tâm linh và thế giới quan”.

Quá trình hình thành tri thức truyền thống liên quan đến một tộc người

cụ thể, mảnh đất cụ thể, nên rất tự nhiên, nó phản ánh lịch sử văn hóa của tộc

người đó. Trong quá khứ, tất cả những sáng tạo nghệ thuật đều gắn bó mật

thiết với tri thức truyền thống. Ví dụ như những pho tượng Mẫu được làm

166

bằng công nghệ tượng đất hay tượng gỗ phủ sơn, niềm tin tâm linh đã trộn lẫn

vàng son, bùn đất, sơn then để tạo dựng nên hình hài pho tượng. Có những

hành vi nghi lễ liên quan đến những điều cấm kị, những niềm tin thiêng liêng

được một nhóm cộng đồng thừa nhận nó. Ví dụ như phép yểm tâm khi làm

tượng thờ. Ví dụ như những chiếc lông gà trên ban thờ các gia đình người

H`mong.

NCS:Vấn đề khai thác chất liệu bản địa, “tri thức truyền thống” của

các nghệ sĩ làm Nghệ thuật Sắp đặt ở châu Á như thế nào?

THYT:Dựa vào tri thức truyền thống để tạo nên sự khác biệt trong

nghệ thuật là kế sách thường được các nghệ sĩ châu Á thực hiện rất thành

công. Katsura Funakoshi là nghệ sĩ đã sử dụng cách thức tạo tượng truyền

thống điêu khắc gỗ của Nhật Bản để sáng tạo các pho tượng bán thân.

Montien Boonma (1953 - 2000), người có tác phẩm giải quyết vấn đề bất ổn

trong quá trình chuyển đổi, quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng ở Thái

Lan. Tác phẩm của ông luôn mang hơi thở của văn hóa Thái Lan, của Phật

giáo Thái Lan, những chất liệu quen thuộc của người Thái.

Đây cũng là một thao tác rất được các nghệ sĩ đương đại Trung Hoa ưa

thích sử dụng. Năm 1999 một nghệ sỹ người Mỹ gốc Hoa Cai Guojiang (Sài

Quốc Cường) đã đạt được huy chương vàng trong liên hoan nghệ thuật

thường niên ở Venice. Cai Guojiang trình diễn cho mọi người xem cảnh các

nghệ sỹ nặn lại quần thể tượng Thu thuế, một tác phẩm điêu khắc hoành tráng

thời Cách mạng văn hoá (1965). Quần thể này là một tác phẩm kinh điển của

nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa, gồm 114 nhân vật, 108 đạo cụ. Thay vì

cho người xem được thưởng lãm một tác phẩm hoàn chỉnh, Cai cho khán giả

được thấy lại một quá trình xây dựng tác phẩm. Ý tưởng này của Cai bắt

nguồn từ hành vi xem nặn tò he trong nghệ thuật dân gian. Cai Guojiang cũng

là nghệ sĩ đã rất thành công khi sử dụng thuốc súng để tạo tác phẩm. Không

chỉ có CaiGuojiang, có rất nhiều nghệ sĩ đã vận dụng những tri thức truyền

167

thống để kiến tạo tác phẩm. Có thể kể ra những nghệ sĩ có tầm ảnh hưởng thế

giới như: Ai Weiwei (Ngải Ngụy Ngụy), Xu Bing (Từ Băng), Lu Shengzhong

(Lã Thắng Trung)…

NCS:Trân trọng cảm ơn ông, chúc ông có nhiều phát hiện mới!

PV4:Cuộc phỏng vấn giữa NCS với nhà nghiên cứu Mỹ thuật Vũ

Huy Thông (VHT):

Nhà nghiên cứu Mỹ thuật Vũ Huy Thông, sinh năm 1974, tại Nam

Định. Tốt nghiệp Thạc sĩ Mỹ thuật, ngành Lý luận và lịch sử Mỹ thuật tại

Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. Hiện công tác tại Viện Mỹ thuật, tham

gia sáng tác tranh, là tác giả của nhiều bài viết, tham luận, đề tài nghiên cứu

Mỹ thuật Việt Nam.

Cuộc phỏng vấn này được thực hiện ngày 15 tháng 4 năm 2021. Sau

đây là nội dung cuộc phỏng vấn:

NCS: Là nhà nghiên cứu mỹ thuật, có cơ hội theo dõi thường xuyên

các hoạt động mỹ thuật đương đại ở Việt Nam, xin ông cho biết nhận xét

chung về hoạt động Nghệ thuật Sắp đặt ở Việt Nam 10 năm trở lại đây so với

giai đoạn trước đó?

VHT: NTSĐVN 10 năm trở lại đây có xu hướng chững lại so với

khoảng thời gian từ 1995 tới 2010. Gần đây, Nghệ thuật Sắp đặt có những

hình thức đơn giản hơn (ví dụ các tác phẩm đồ họa được trình bày theo hướng

Sắp đặt, tuy nhiên đó thường là các sáng tạo về hình thức trưng bày chứ

không có nội hàm về ý nghĩa, nội dung tư tưởng...). Các triển lãm quy mô lớn

tầm quốc gia (Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc; các kỳ Festival Mỹ thuật trẻ)

ngày càng ít sự tham gia của Nghệ thuật Sắp đặt, nếu có thì chúng thường khá

“hiền lành”, không có những tác phẩm cầu kỳ về hình thức hoặc có nội dung

có gây sự chú ý đặc biệt; Cá biệt có một số tác phẩm đáng chú ý: ví dụ The

Vacan Chair (cái ghế trống, Hà Nội 2015) của nghệ sĩ Bàng Nhất Linh hoặc

168

Mơ một giấc mơ tương lai của Nguyễn Trần Ưu Đàm tại Viện Goethe Hà Nội

2017...

NCS: Theo ông, các tác phẩm Sắp đặt sử dụng hiện vật thủ công

truyền thống, chất liệu bản địa để xây dựng tác phẩm có những thuận lợi và

hạn chế nào đáng lưu ý?

VHT:Thuận lợi: có thể dễ hơn cho người xem Việt Nam tiếp cận tác

phẩm (vì thân thuộc với đời sống văn hóa, ký ức thị giác...)

Hạn chế: dễ khiến nghệ sĩ bị khuôn định trong câu chuyện ý tưởng và

chất liệu khi đề cập tới chủ đề truyền thống; dễ bị lặp lại các định kiến về văn

hóa và ý nghĩa văn hóa.

NCS: Theo ông, NTSĐVN có mối liên hệ nào nổi bật với truyền thống

không?

VHT:Mối liên hệ với truyền thống nên được hiểu rộng về nội hàm, nội

dung tác phẩm, đương nhiên khi nghệ sĩ muốn đề cập với các vấn đề, câu

chuyện ở Việt Nam, của người Việt Nam thì trong đó đã có sẵn các yếu tố

truyền thống rồi (có thể hoàn toàn vô hình); vậy nên không thể nói về một

mối liên hệ nổi bật nào đó theo nghĩa về sử dụng hay thao tác với chất liệu.

NCS: Vậy tính xung đột thể hiện trong chủ đề củaNTSĐVN, được ông

nhìn nhận như thế nào?

VHT:Nghệ thuật Sắp đặt là loại hình nghệ thuật mới ở Việt Nam.

Trong xã hội đương đại, nghệ sĩ tìm thấy sự tương phản mạnh mẽ các vấn đề

xung đột văn hóa, quan niệm giữa phương Đông và phương Tây, giữa truyền

thống và hiện đại... Vấn đề này được thể hiện trong NTSĐVN cũng là lẽ tự

nhiên, là sự phản chiếu chân thực đời sống đương đại trước những thay đổi,

biến động xã hội.

NCS: Trong bối cảnh toàn cầu hóa, giao lưu hội nhập quốc tế, theo

ông truyền thống có trở thành bệ đỡ cho sáng tạo nghệ thuật đương đại

không? Nhận định của ông về xu hướng phát triển NTSĐVN như thế nào?

169

VHT:Truyền thống (hiểu theo nghĩa rộng nhất) luôn là thành phần sẵn

có của nghệ sĩ Việt, nó có là bệ đỡ hay không tùy thuộc vào mỗi nghệ sĩ, cách

thức họ tư duy và thực hành nghệ thuật.

Xu hướng NTSĐVN sẽ theo những xu hướng chung, lớn của quốc tế.

NCS:Xin cảm ơn ông, chúc ông thành công trong cuộc sống!

Trao đổi vớinghệ sĩ

Thực hiện mục trao đổi này, NCS đã gặp gỡ 13 nghệ sĩ làm Sắp đặt ở

Việt Nam để tìm hiểu những thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu, qua

hai câu hỏi: Tại sao ông/ bà lựa chọn sử dụng hiện vật thủ công, yếu tố truyền

thốngtrong sáng tác Sắp đặt của mình? Khi sử dụng các yếu tố này để xây

dựng tác phẩmSắp đặt, ông/ bà có thấy chúng bộc lộ hạn chế nào không?

Dưới đây là ý kiến của các nghệ sĩ:

NS. Lê Văn Sửu:Theo tôi, việc sử dụng YTTT thường phụ thuộc vào

nội dung tác phẩm nghệ thuật, điểm ưu việt của chúng là chuyển tải thông

điệp nhanh nhất, tạo sự nhận diện vùng văn hoá, nhận diện văn hoá dân tộc.

Việc sử dụng YTTT có hạn chế hay không hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng

của cá nhân nghệ sĩ.

NS. Nguyễn Nghĩa Phương: Tôitìm thấy sự gần gũi của vẻ đẹp thị

giác và bởi chúng mang tín hiệu tinh thần truyền thống, tạo cho Sắp đặt một

sắc thái riêng biệt. Tôi cho rằng YTTT không có hạn chế khách quan nào cả.

NS. Nguyễn Thế Sơn: Vì tôi muốn đưa truyền thống đến gần cộng

đồng hơn, muốn nó trở nên sinh động, hiện diện trong đời sống đương đại.

Truyền thống được xem như một chất liệu để biểu đạt tư tưởng của người

nghệ sĩ. Xác định truyền thống chỉ là chất liệu nên nó không có hạn chế. Hạn

chế hay không là do người sử dụng nó.

NS. Oanh Phi Phi: Thường xuyên sử dụng tranh sơn mài, sơn ta

truyền thống để xây dựng tác phẩm Sắp đặt, tôi thấy chúng rất độc đáo, hiệu

quả trong khả năng biểu đạt ký ức. Tôi muốn sử dụng tranh sơn mài, sơn ta

170

truyền thống như một chất liệu của Nghệ thuật Sắp đặt. Tôi không thấy nó có

hạn chế, mà chỉ thấy như một thách thức khi sử dụng.

NS. Đặng Thị Khuê: Truyền thống có giá trị nhận diện và kết nối, tôi

tình cờ bắt gặp cái đương đại trong truyền thống. Tôi thích tự tay làm ra tác

phẩm, bởi lẽ ở đó tôi được thực hành bí quyết nghề nghiệp trên cơ sở tiếp thu

tinh thần truyền thống. Hạn chế ư? Hạn chế chỉ xuất hiện khi tôi không làm

chủ được nó.

NS. Nguyễn Minh Thành: Tôi sử dụng yếu tố truyền thống trong các

tác phẩm Sắp đặt của mình một cách tự nhiên bởi tôi cảm thấy gần gũi, phù

hợp với sở trường của mình. Yếu tố truyền thống không có hạn chế khách

quan, nhưng nó sẽ là gánh nặng nếu nghệ sĩ trở thành nô lệ của nó.

NS. Chu Lượng: Tôi thích sử dụng trực tiếp những con rối nước

truyền thống làm Sắp đặt, bởi chúng mang tinh thần dân tộc sâu sắc của một

nền văn minh lúa nước. Chúng nổi bật trong việc phản ánh vấn đề đương đại,

câu chuyện lịch sử của dân tộc. Sử dụng đồ thủ công được làm từ vật liệu tự

nhiên, không bền vững nên rất khó thi công với quy mô lớn và khó tồn tại

trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, ngoài trời.

NS. Đinh Khắc Thịnh: Đơn giản là khi sử dụng yếu tố truyền thống

trong các tác phẩm Sắp đặt của mình, tôi tìm thấy sự thoả mái trong lòng và

thấy công chúng dễ dàng đón nhận trong một hình thức mới. Tôi chưa gặp

phải khó khăn nào khi sử dụng chúng.

NS. Vương Văn Thạo: Tôi tìm đến những hình ảnh, biểu tượng truyền

thống khi xây dựng tác phẩm nhằm tái hiện lại ký ức với thông điệp về sự bảo

tồn, bảo lưu những giá trị truyền thống đang có nguy cơ mai một trong đời

sống đương đại.

NS. Vũ Xuân Đông: Tôi muốn sử dụng YTTT trong tác phẩm Sắp đặt

của mình, làm tái hiện lại những hình ảnh quá khứ trong bối cảnh hiện tại

nhằm tôn vinh nét đẹp nghệ thuật của di sản và phản ánh những vấn nạn của

171

xã hội đương đại. Sử dụng YTTT để xây dựng tác phẩm Sắp đặt, hạn chế nằm

ở vấn đề xử lý chất liệu truyền thống đòi hỏi kỹ thuật, bí quyết dân gian,

không phải ai cũng thực hiện được. Để thực hiện tác phẩm của mình, bản thân

tôi phải tìm đến các nghệ nhân, làng nghề truyền thống.

NS. Lê Trần Hậu Anh: Sử dụng yếu tố truyền thống trong tác phẩm,

tôi muốn làm sống lại cái đã bị mai một hoặc có nguy cơ biến mất. Hiện nay,

rất hiếm nghệ nhân còn làm nghề thủ công nên việc sử dụng những hiện vật

thủ công truyền thống làm tác phẩm cũng thực sự là một thách thức. Tôi đã

phải tìm đến nghệ nhân ở phố Hàng Buồm, khó khăn lắm mới đặt được

những chiếc đèn ông sao, đèn kéo quân…để thực hiện Sắp đặt Trung thu

chẳng hạn.

NS. Vũ Đình Tuấn: Tôi thấy, không gì bằng lấy chính ký hiệu truyền

thống để biểu đạt truyền thống và đương đại. Hình tượng, họa tiết, màu sắc,

ca dao trong vốn cổ truyền thống đều mang đậm quan niệm dân gian, giàu ý

nghĩa văn hóa và triết lý phương Đông. Tôi không thấy bất cứ hạn chế nào khi

sử dụng truyền thống xây dựng tác phẩm, mà chỉ thấy mình còn nhiều hạn chế

về hiểu biết truyền thống.

NS. Nguyễn Ngọc Lâm: Nghệ thuật Sắp đặt được du nhập từ phương

Tây vào châu Á nên để tạo cho tác phẩm sự khác biệt, các nghệ sĩ châu Á,

trong đó có Việt Nam đã tìm đến YTTT, nó vừa gần gũi vừa huyền bí. Bản

thân tôi tìm thấy ở truyền thống có nhiều lợi thế bởi bản thân chúng đã chứa

đựng sẵn các giá trị thẩm mỹ, văn hóa dân tộc. Tôi cho rằng, hạn chế nằm

trong khả năng của người sử dụng truyền thống. Nó dễ khiến cho nghệ sĩ tính

ỉ lại, thiếu sáng tạo và dễ bị trùng lặp ý tưởng thể hiện tác phẩm.

Nhìn chung, qua ý kiến trao đổi, mỗi nghệ sĩ đều tìm thấy những lý do

riêng khi sử dụng YTTT, hiện vật thủ công, để xây dựng tác phẩm. Hầu hết

các nghệ sĩ đều nhất trí rằng: hạn chế của việc sử dụng YTTT trong Sắp đặt

Việt Nam, phụ thuộc vào tính chủ quan, tài năng, bản lĩnh...của nghệ sĩ.Vẫn

172

biết, vấn đề nào cũng có hai mặt: ưu việt và hạn chế. Tuy nhiên, trong trường

hợp sử dụng YTTT thì những hạn chế thuộc về vấn đề chủ quan của chủ thể

sáng tạo. YTTT với vai trò là khách thể sáng tạo trong Sắp đặt nên bản thân

nó không mang sẵn sự hạn chế hay ưu việt, mà nó trở nên ưu việt hay hạn chế

hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ, có sử dụng

YTTT đúng nơi, đúng chỗ, phù hợp hay không trong tác phẩm. Việc sử dụng

YTTT, hiện vật thủ công, không gian di sản, chất liệu bản địa để xây dựng tác

phẩm là một lợi thế đối với NTSĐVN. Song, việc sử dụng nó một cách hiệu

quả, vừa phát huy được sự kế thừa tinh thần truyền thống vừa khẳng định

được dấu ấn sáng tạo cá nhân trong sự kết hợp với hình thức biểu hiện mới, là

một thách thức không nhỏ đối với chủ thể sáng tạo.

173

PHỤ LỤC 2

DANH MỤC TÁC PHẨM SẮP ĐẶT SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

Khu vực miền Bắc

Năm

Tên tác

Chất

Kích

Nguồn

Ký hiệu/

Stt

Tên tác giả

sáng

phẩm

liệu

thước

ảnh

Trang

tác

1

Lê Trần Hậu

Trung thu

2007

Tổng

6 m x

Lê Trần

Anh

hợp

6 m x

Hậu Anh

H.4.1.6,

4,5 m

2 Vũ Xuân Đông

Sông Tô

2017 Đồng,

12,5 m

Nguyễn

tr.205

sơn mài

x 1,8 m

Thế Sơn

H.3.2.1,

x 0,10 m

3 Nguyễn Mạnh

Phượt

2016 Compos

2 m x

Nguyễn

tr.191

Hùng

ite, sắt

2 m x

Hữu Đức

H.4.3.1,

2,2 m

4 Đặng Thị Khuê

Sự liên hệ 1

1984 Đồ mã,

1 m x

Đặng Thị

tr.220

sợi, màu

0,8 m x

Khuê

H.5.2,

0,3 m

Xạ ảnh tinh

1988 Vải, tre,

1,2 m x

Đặng Thị

tr.224

thần

bầu khô

0,8 m x

Khuê

H.5.3,

0,6 m

Một tâm hồn

1996 Tre, gỗ,

2,4 m x

Đặng Thị

tr.224

vải lụa

2,9 m x

Khuê

H.4.1.7,

0,8 m

Ngày và đêm

1996

Tổng

2 m x 1

Đặng Thị

tr.206

hợp

m x 3,5

Khuê

H.3.2.12

m

1997

Tổng

2 m x 1

Đặng Thị

, tr.197

hợp

m x 2 m

Khuê

Hạt gạo, H.4.1.18

, tr.212 giọt nước,

tiếng chuông

174

Sự gặp gỡ

1998 Đồ mã,

1,8 m x

Đặng Thị

ngân

của

những

sợi, màu

1,8 m x

Khuê

H.4.1.1,

nền văn hoá

0,12 m

Ẩn náu

2000

Guốc

10 m x

Đặng Thị

tr.203

mộc

100 m x

Khuê

H.3.3.2,

1 m

Nguyện cầu

2007

Tổng

3 m x 3

Nguyễn

tr.200

hợp

m x 7 m

Hữu Đức

H.4.1.13

Đồng vọng

2007

Tổng

3 m x 3

Nguyễn

, tr.209

hợp

m x 1 m

Hữu Đức

H.4.3.5,

2008

Tổng

7 m x 7

Nguyễn

tr.222

hợp

m x 1 m

Hữu Đức

Barrie 1 H.4.3.4,

Thông

điệp

2012 Đồ mã

100 m x

Đặng Thị

tr.221

gửi cõi vĩnh

100 m x

Khuê

H.4.1.15

hằng

1,2 m

Ký tự

2013 Gỗ, vải,

10 m x

Nguyễn

, tr.210

sắt, bạt

8 m x

Hữu Đức

H.3.1.3,

4,3 m

Dấu ấn

2014

Giấy

10 m x

Nguyễn

tr.182

dó, gỗ,

10 m x

Hữu Đức

H.4.1.9,

màu in

4,5 m

Âm

hưởng

2014

Tổng

7 m x 7

Đặng Thị

tr.207

đại ngàn

hợp

m x 3,5

Khuê

H.3.2.11

m

Địa linh

2016

Tổng

4 m x 4

Nguyễn

, tr.196

hợp

m x 1 m

Hữu Đức

H.4.1.2,

Di sản

2016

Tổng

10 m x

Nguyễn

tr.203

hợp

0,5 m x

Hữu Đức

H.4.1.3,

2 m

tr.204

5

Chu Lượng

Trở về

2007 Gỗ, tre,

0,80 m

Chu

175

sơn ta

x 0,2m x

Lượng

H.3.1.1,

0,2 m

Ký ức 1

2007 Gỗ, sơn

1,5 m x

Chu

tr.181

ta

0,8m x

Lượng

H.3.1.2,

0,2 m

Những gương

2007 Gỗ, sơn

3 m x

Chu

tr.181

mặt cuộc đời

ta

4 m x

Lượng

H.4.1.4,t

0,2 m

Nhân gian

2007 Gỗ, sơn

100 m x

Chu

r.204

ta, tre,

100 m x

Lượng

H.4.1.16

đèn dầu

0,8 m

6 Nguyễn Ngọc

Những

bàn

2000

Thạch

6 m x

Veronika H.3.1.16

Lâm

tay

cao, nến

6 m x

,tr.211

0,15 m

Chen lấn

2013 Gỗ, sơn

3 m x

Nguyễn

, tr.189

3 m x

Hữu Đức

thếp

H.4.3.2,

vàng

0,3 m

7 Nguyễn

Đức

Om ma ni

2016 Gỗ, bột

5 m x

Nguyễn

tr.220

Phương

pad me hum

màu

5 m x

Hữu Đức

H.4.1.20

4,3 m

8

Phạm Văn Quý Những bà mẹ

2017

3 m x

Nguyễn

Tre,

, tr.213

thóc

3 m x

Hữu Đức

quê

H.4.2.4,

1,6 m

9

Trần Đức Quý

Những

con

2013

Tổng

8 m x

Nguyễn

tr.216

mắt

nguyên

hợp

0,5 m x

Hữu Đức

H.3.1.17

thủy

2,5 m

Những cái túi 2017

Tổng

10 m x

Nguyễn

, tr.190

hợp

4 m x

Hữu Đức

H.3.1.5,

0,5 n

tr.183

10 Nguyễn

Thế

Hành

trình

2017

Sắt cắt

164 m x

Nguyễn

176

Sơn, Vũ Xuân

lịch sử

laze

2 m x

Thế Sơn

H.3.2.7,

Đông,

Phạm.

0,05 m

Khắc Quang

11 Lê Văn Sửu

Nấc thang

2008

Tổng

0,8 m x

Lê Văn

tr.194

hợp

0,8 m x

Sửu

H.4.3.6,

2 m

12 Nguyễn

Bảo

Rằm

tháng

1999

Gốm,

4,5 m x

Viện Mỹ

tr.222

Toàn

bảy

đồ mã

5 m x

thuật

H.4.2.22

5 m

Đồng Đội

2000

Tổng

3 m x

Viện Mỹ

, tr.214

hợp

3 m x

thuật

H.4.2.23

3 m

Hối tụ

2004 Đồ mã

10 m x

Viện Mỹ

, tr.214

3 m x

thuật

H.3.1.8,

3 m

Cầu mưa

2016

Tổng

30 m x

Nguyễn

tr.185

hợp

30 m x

Hữu Đức

H.4.1.12

1,5 m

13 Vũ Đình Tuấn

Chuyện của

2013 Gỗ, tre,

2 m x

Vũ Đình

, tr.209

đình

vải, thóc

2 m x

Tuấn

H.3.2.3,

4,5 m

14 Nguyễn

Văn

Không gian

1997

Tổng

100 m x

Internet H.3.3.4,

Tiến, Trần Anh.

nghệ thuật

hợp

50 m x

tr.192

Quân

5 m

15 Triệu

Khánh

Cội

nguồn

2017 Gỗ, sơn

7 m x

Nguyễn

tr.201

Tiến

dân tộc Việt

mài

1,8 m x

Thế Sơn

H.3.2.14

0,2 m

16 Trần Hậu Yên

Tên tôi là...

1999

Tổng

10 m x

Trần Hậu

, tr.198

hợp

10 m x 4

Yên Thế

Thế

H.4.2.10

, tr.219

m

Vạc & Xổm

2005 Đồ mã,

300 m x

Trần Hậu

177

cốt tre,

300 m x

Yên Thế

H.4.1.21

màu

5m

Nghi trượng

2010 Gỗ, bạt

2,3 m x

Trần Hậu

, tr.213

100 m x

Yên Thế

H.3.2.9,

5 m

17 Nguyễn Minh

Đồng lúa

1999

Tranh,

7 m x

Viện Mỹ

tr.195

Thành

tre, màu

7 m x

thuật

H.4.1.17

2m

Những

áng

2011

Tổng

3 m x

Internet H.3.2.6,

mây xưa

hợp

2 m x

, tr.211

0,8 m

18 Vương

Văn

Làng

trong

2009

Thạch

10 m x

Vương

tr.193

Thạo

phố

cao, sơn

3 m x

Văn Thạo

H.3.1.15

1,5 m

19 Trần Văn Thức Ngóng 1

2010

Tổng

0,6 m x

Trần Văn

, tr.189

hợp

0,7 m

Thức

H.4.1.11

x 0,6 m

Ngóng 2

2010

Tổng

0,6 m x

Trần Văn

, tr.208

hợp

0,7 m

Thức

H.4.1.11

x 0,6 m

Ngóng 3

2010

Tổng

0,6 m x

Trần Văn

, tr.208

hợp

0,7 m

Thức

H.4.1.11

x 0,6 m

, tr.208

Tổng số tác phẩm Sắp đặt ở khu vực miền Bắc, sử dụng trong luận án: 47

Tổng số nghệ sĩ ở khu vực miền Bắc, được khảo sát trong luận án: 19

178

Khu vực miền Trung:

Stt

Tên tác giả

Tên tác phẩm

Chất liệu

Kích thước

Nguồn ảnh

Ký hiệu/ Trang

1 Phan Hải Bằng Trúc chỉ

lời

Năm sáng tác 2016

của sông

Tổng hợp

H.4.1.5, tr.205

2 Phan Lê Chung Đối diện

2016 Sắt, tre,

màu

Nguyễn Hữu Đức Phan Lê Chung

H.3.1.6, tr.183

2016 Sắt, tre,

quay

3 Lê Thừa Tiến

1999

150 m x 10 m x 4,5 m 1,6 m x 1 m x 1,8 m 3 m x 3 m x 3,5 m 6 m x 6 m x 2,5 m

H.4.1.19, tr.212 H.4.2.1, tr.215

2009

màu Thạch cao, giấy, gỗ Tổng hợp

10 m x 1 m x 1,5 m

Phan Lê Chung Viện Mỹ thuật Lê Thừa Tiến

H.4.1.14,t r.210

2011

4 Lê

Vòng cuộc đời Việt Nam cuộc chiến hóa thạch Chắp tay sen và cười nụ Phật Chén và đũa 1945

Ngọc - Lê

10 m x 10 m x 0,2 m

Lê Ngọc Thanh

H.4.2.5. tr.217

Thanh Đức Hải

Khắc

Huyền sử

2007

5 Đinh Thịnh

H.4.2.3, tr.216

Gỗ, gốm, sơn mài Sắt, xi măng, sơn

giàn

2005 Nón lá,

H.4.1.8, tr.206

Dưới Thiên Lý

tre, gương 2008 Gỗ, hoa

hoa

300 m x 500 m x 1,1 m 150 m x 4,5 m x 2,5 m 3 m x 100 m x 0,6 m

H.3.2.13, tr.197

giấy

Thuyền giấy

2008

H.3.3.3, tr.201

Quảng trường thi ca

Đinh Khắc Thịnh Đinh Khắc Thịnh Đinh Khắc Thịnh Đinh Khắc Thịnh

300m x 300 m x 7 m

Gỗ, kính, bạt, cát, đèn điện

Tổng số tác phẩm Sắp đặt ở khu vực miền Trung, sử dụng trong luận án: 10 Tổng số nghệ sĩ ở khu vực miền Trung, được khảo sát trong luận án: 05

179

Khu vực miền Nam:

Năm

Tên tác

Chất

Kích

Nguồn

Ký hiệu/

Stt

Tên tác giả

sáng

phẩm

liệu

thước

ảnh

Trang

tác

1 Nguyễn

Thị

Tình Yêu

2005

Tổng

3,5 m x 3

Viện

Châu Giang

hợp

m x 3m

Mỹ

H.3.1.7,

thuật

2

Bùi

Công

Lạc chốn

2016

Gỗ

5 m x 2,5

Trần

tr.184

Khánh

m x 3,5 m

Hoàng

H.4.2.7,

Ngân

Đền

pháo

2018

Gốm

5 m x 0,5

Trần

tr.218

m x 1,6 m

Hoàng

đài

H.4.3.3,

Ngân

(Fortress

temple)

3 Oanh Phi Phi

Hộp

đen

2005 Sơn mài

1,9 m x

Oanh

tr.221

(Black box)

(16 hộp)

1,6 m x 0,4

Phi Phi

H.4.2.6,

m

Specula

2008

Tranh

7,2 m x

Oanh

tr.217

sơn mài,

2,7 m x 3,9

Phi Phi

H.4.2.9,

kính, sắt

m

4 Nguyễn Minh

Da Cam

2004

Tổng

100 m x 3

Viện

tr.219

Phương

hợp

m x 0,5 m

Mỹ

H.4.2.2,

thuật

5

Phan

Thảo

Giọt sương

2016

Gỗ,

5 m x

Phan

tr.215

Nguyên

Jrai 1

màu

5 m x

Thảo

H.3.1.14

2m

Nguyên

Giọt sương

2016

Gỗ,

500 m x

Phan

, tr.188

Jrai 2

màu

500 m x

Thảo

H.3.1.13

5m

Nguyên

Giọt sương

2017

Gỗ,

2 m x

Phan

, tr.188

Jrai 3

giấy,

2 m x

Thảo

H.3.1.12

màu

1,2 m

Nguyên

, tr.187

Giọt sương

2018

10 m x 10

Phan

Gỗ,

180

Jrai 4

m x

Thảo

màu

H.3.1.11

5 m

Nguyên

Giọt sương

2018

10 m x 10

Phan

Gỗ,

, tr.187

Jrai 5

m x

Thảo

màu

H.3.1.10

5 m

Nguyên

6

Trần Trung Tín

Tượng đài

1989

Tổng

1,5 m x

Nguyễn

, tr.186

chống Phát

hợp

0,5m x 0,5

Trịnh

H.5.1,

xít

m

Thái

tr. 223

Tổng số tác phẩm Sắp đặt của khu vực miền Nam sử dụng trong luận án: 12

Tổng số nghệ sĩ ở khu vực miền Nam, được khảo sát trong luận án: 06

181

PHỤ LỤC 3 ẢNH MINH HỌA BIỂU HIỆN YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG QUA HÌNH THỨC TÁC PHẨM SẮP ĐẶT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995 - 2018

3.1. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua tạo hình

H.3.1.1. Chu Lượng (Hà Nội), Trở về (2007), triển lãm tại Mỹ

Nguồn: Chu Lượng.

H.3.1.2. Chu Lượng (Hà Nội). Ký ức 1 (2007), triển lãm tại Mỹ

Nguồn: Chu Lượng

182

H.3.1.3. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Ký tự (2013), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Đặng Thị Khuê

H.3.1.4. Đặng Thị Khuê, Ký tự (trích đoạn H.3.1.3).

Nguồn: Đặng Thị Khuê

183

H.3.1.5. Trần Đức Quý (Hà Nội), Những cái túi (2017), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Nguyễn Hữu Đức

H.3.1.6. Phan Lê Chung (Huế), Đối diện (2016), triển lãm tại Huế

Nguồn: Phan Lê Chung

184

H.3.1.7. Nguyễn Thị Châu Giang (Tp. HCM). Tình Yêu (2005),

triển lãm tại Hà Nội. Nguồn: Viện Mỹ thuật.

185

H.3.1.8. Nguyễn Bảo Toàn (Hà Nội), Hối tụ (2004), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Viện Mỹ thuật

H.3.1.9. Sắp đặt Hối tụ (Trích đoạn H.3.1.8)

Nguồn: Viện Mỹ thuật

186

H.3.1.10. Phan Thảo Nguyên (Tp. HCM), Giọt sương Jrai 5 (2018),

triển lãm tại Philipine. Nguồn: Phan Thảo Nguyên.

187

H.3.1.11. Phan Thảo Nguyên (Tp. HCM), Giọt sương Jrai 4 (2018),

triển lãm tại Philipine. Nguồn: Phan Thảo Nguyên.

H.3.1.12. Phan Thảo Nguyên (Tp. HCM), Giọt sương Jrai 3 (2017),

triển lãm tại Gia Lai. Nguồn: Phan Thảo Nguyên.

188

H.3.1.13. Phan Thảo Nguyên (Tp. HCM), Giọt sương Jrai 2 (2016),

triển lãm tại Gia Lai. Nguồn: Phan Thảo Nguyên.

H.3.1.14. Phan Thảo Nguyên (Tp. HCM), Giọt sương 1 (2016) ,

triển lãm tại Gia Lai. Nguồn: Phan Thảo Nguyên.

189

H.3.1.15. Vương Văn Thạo (Hà Nội), Làng trong phố (2009),

triển lãm tại Hà Nội. Nguồn: Vương Văn Thạo.

H.3.1.16. Nguyễn Ngọc Lâm (Hà Nội), Những bàn tay (2000),

triển lãm tại Hà Nội. Nguồn: Veronika.

190

H.3.1.17. Trần Đức Quý (Hà Nội), Những con mắt nguyên thủy (2013),

triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Nguyễn Hữu Đức.

191

3.2. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua trang trí

H.3.2.1. Vũ Xuân Đông (Hà Nội), Sông Tô (2018),

triển lãm tại đường hầm nhà Quốc hội, Hà Nội.

Nguồn: Nguyễn Thế Sơn

H.3.2.2 Vũ Xuân Đông, Sông Tô (trích đoạn H.3.2.1)

Nguồn: Nguyễn Thế Sơn.

192

H.3.2.3. Vũ Đình Tuấn (Hà Nội), Chuyện của Đình (2013),

triển lãm tại Hà Nội. Nguồn: Vũ Đình Tuấn.

H.3.2.4. Chuyện của đình (trích đoạn H.3.2.3)

Nguồn: Vũ Đình Tuấn.

193

H.3.2.5. Chuyện của đình (trích đoạn H.3.2.3)

Nguồn: Vũ Đình Tuấn

H.3.2.6. Nguyễn Minh Thành (Hà Nội), Những áng mây xưa (2011),

triển lãm tại Huế. Nguồn: Internet.

194

H.3.2.7. Nguyễn Thế Sơn, Vũ Xuân Đông, Phạm Khắc Quang (Hà Nội),

Hành trình lịch sử (2017), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Nguyễn Thế Sơn.

H.3.2.8. Nguyễn Thế Sơn, Vũ Xuân Đông, Phạm Khắc Quang,

Hành trình lịch sử (trích đoạn H.3.2.7).

Nguồn: Nguyễn Thế Sơn.

195

H.3.2.9. Trần Hậu Yên Thế (Hà Nội), Nghi trượng (2010),

triển lãm tại Hà Nội. Nguồn: Trần Hậu Yên Thế.

H.3.2.10. Sắp đặt Nghi trượng (Trích đoạn H.3.2.9).

Nguồn: Trần Hậu Yên Thế.

196

H.3.2.11. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Âm hưởng đại ngàn (2014),

triển lãm tại Hà Nội. Nguồn: Nguyễn Hữu Đức.

H.3.2.12. Sắp đặt Âm hưởng đại ngàn (trích đoạn H.3.2.11)

Nguồn: Nguyễn Hữu Đức.

197

H.3.2.12. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Ngày và đêm (1996), triển lãm tại Huế.

Nguồn: Đặng Thị Khuê.

H.3.2.13. Đinh Khắc Thịnh (Huế), Thuyền hoa giấy (2008),

triển lãm tại Festival Huế.

Nguồn: Định Khắc Thịnh

198

H.3.2.14. Triệu Khánh Tiến (Hà Nội), Cội nguồn dân tộc Việt (2017),

triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Nguyễn Thế Sơn.

H.3.2.15. Triệu Khánh Tiến, Cội nguồn dân tộc Việt (trích đoạn H.3.2.14).

Nguồn: Nguyễn Thế Sơn.

199

3.3. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua không gian di sản

H.3.3.1. Biểu đồ minh hoạ mối quan hệ giữa tổ hợp đồ vật

trong Sắp đặt với không di sản gian - bối cảnh tạo nghĩa.

Nguồn: Nguyễn Hữu Đức

200

H.3.3.2. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Ẩn náu (2000). Sắp đặt tiếm đoạt “không

gian di sản, ký ức lịch sử”, kiến trúc thành Đại nội, Huế.

Nguồn: Đặng Thị Khuê.

201

H.3.3.3. Đinh Khắc Thịnh (Huế), Quảng trường thi ca (2008),

Sắp đặt tiếm đoạt không gian di sản - kiến trúc Quảng trường 3/2, Huế.

Nguồn: Đinh Khắc Thịnh.

H.3.3.4. Nguyễn Văn Tiến - Trần Anh Quân (Hà Nội), Không gian nghệ thuật

(1995), Sắp đặt tiếm đoạt không gian di sản

“không gian văn hóa, lịch sử Văn Miếu”. Nguồn: Internet.

202

H.3.3.5. Sắp đặt Không gian nghệ thuật (trích đoạn H.3.3.4.).

Nguồn: Internet

203

PHỤ LỤC 4 ẢNH MINH HOẠ BIỂU HIỆN YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG QUA CHỦ ĐỀ TÁC PHẨM SẮP ĐẶT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995 - 2018

4.1. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua chủ đề văn hóa, tín ngưỡng

H.4.1.1. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Sự gặp gỡ của những nền văn hóa (1998),

triển lãm tại Mỹ. Nguồn: Đặng Thị Khuê.

H.4.1.2. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Địa linh (2016), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Đặng Thị Khuê.

204

H.4.1.3. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Di sản (2016), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Đặng Thị Khuê.

H.4.1.4. Chu Lượng (Hà Nội), Những gương mặt cuộc đời (2007),

triển lãm tại Mỹ. Nguồn: Chu Lượng.

205

H.4.1.5. Phan Hải Bằng (Huế), Trúc chỉ lời của sông (2016),

triển lãm tại Hà Nội. Nguồn: Nguyễn Hữu Đức.

H.4.1.6. Lê Trần Hậu Anh (Hà Nội), Trung thu (2007), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Lê Trần Hậu Anh.

206

H.4.1.7. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Một tâm Hồn (1996), triển lãm tại Huế.

Nguồn: Đặng Thị Khuê.

H.4.1.8. Đinh Khắc Thịnh (Huế), Dưới giàn Thiên Lý (2005),

sắp đặt tại Festival làng nghề tại Huế. Nguồn: Định Khắc Thịnh.

207

H.4.1.9. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Dấu ấn (2014), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Nguyễn Hữu Đức.

H.4.1.10. Sắp đặt Dấu ấn (trích đoạn H.4.1.9).

Nguồn: Nguyễn Hữu Đức.

208

H.4.1.11. Trần Văn Thức (Hà Nội), cụm tác phẩm Ngóng 1,2,3 (2010), triển lãm tại L’espace Hà Nội. Nguồn: Trần Văn Thức.

209

H.4.1.12. Nguyễn Bảo Toàn (Hà Nội), Cầu Mưa (2016), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Nguyễn Hữu Đức.

H.4.1.13. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Nguyện cầu (2007), triển lãm tại Hòa Bình. Nguồn: Nguyễn Hữu Đức.

210

H.4.1.14. Lê Thừa Tiến (Huế), Chắp tay sen và nụ cười Phật (2009), triển lãm tại Astralia. Nguồn: Lê Thừa Tiến.

H.4.1.15. Đặng Thị Khuê (Hà Nội). Thông điệp gửi cõi vĩnh hằng (2012),

triển lãm tại Italia.

Nguồn: Đặng Thị Khuê.

211

H.4.1.16. Chu Lượng (Hà Nội). Nhân gian (2007), triển lãm tại Mỹ.

Nguồn: Chu Lượng.

H.4.1.17. Nguyễn Minh Thành (Hà Nội), Đồng lúa (1999),

triển lãm tại Berlin, Đức. Nguồn: Viện Mỹ thuật.

212

H.4.1.18. Đặng Thị Khuê (Hà Nội). Giọt nước, hạt gạo,

tiếng chuông ngân (1997), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Đặng Thị Khuê.

H.4.1.19. Phan Lê Chung (Huế), Vòng quay cuộc đời (2016),

triển lãm tại Huế. Nguồn: Phan Lê Chung.

213

H.4.1.20. Nguyễn Đức Phương (Hà Nội), Om mani pad me hum (2016),

triển lãm tại Hà Nội. Nguồn: Nguyễn Hữu Đức.

H.4.1.21. Trần Hậu Yên Thế (Hà Nội), Vạc & Xổm (2005), trưng bày

tại Thư viện Hội đồng Anh, Hà Nội.

Nguồn: Trần Hậu Yên Thế.

214

H.4.2.22. Nguyễn Bảo Toàn (Hà Nội), Rằm tháng bảy (1999),

triển lãm tại Hà Nội. Nguồn: Viện Mỹ thuật.

H.4.2.23. Nguyễn Bảo Toàn (Hà Nội), Đồng đội (2000), triểm lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Viện Mỹ thuật.

215

4.2. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua chủ đề ký ức

H.4.2.1. Lê Thừa Tiến (Huế), Việt Nam cuộc chiến hóa thạch (1999),

triển lãm tại Huế. Nguồn: Viện Mỹ thuật.

H.4.2.2. Nguyễn Minh Phương (Tp. HCM), Da cam (2004),

triển lãm tại Hà Nội. Nguồn: Viện Mỹ thuật.

216

H.4.2.3. Đinh Khắc Thịnh (Huế), Huyền sử (2007),

triển lãm cá nhân tại bãi biển Lăng Cô.

Nguồn: Định Khắc Thịnh.

H.4.2.4. Phạm Văn Quý (Nam Định), Những Bà mẹ quê (2017),

triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Nguyễn Hữu Đức

217

H.4.2.5. Lê Ngọc Thanh - Lê Đức Hải (Huế), Chén và đũa 1945 (2011),

triển tại Huế. Nguồn: Lê Ngọc Thanh

H.4.2.6. Oanh Phi Phi (Tp. HCM), Black box (2005), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Oanh Phi Phi.

218

H.3.12. Bùi Công Khánh (2016), Lạc chốn. Sắp đặt.

Nguồn: Trần Hoàng Ngân

H.4.2.7. Bùi Công Khánh (TP. HCM), Lạc chốn (2016),

triển lãm tại TP. Hồ Chí Minh.

Nguồn: Trần Hoàng Ngân.

H.4.2.8. Sắp đặt Lạc chốn (Trích đoạn H.4.2.7).

Nguồn: Trần Hoàng Ngân.

219

H.4.2.9. Oanh Phi Phi (Tp.HCM), Specula (2008), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Oanh Phi Phi.

H.4.2.10. Trần Hậu Yên Thế (Hà Nội), Tên tôi là... (1999),

triển lãm tại Hà Nội. Nguồn: Viện Mỹ thuật.

220

4.3. Biểu hiện yếu tố truyền thống qua chủ đề phản biện xã hội

H.4.3.1. Nguyễn Mạnh Hùng (Hà Nội), Phượt (2016), triển lãm bên ngoài

Đại sứ quán Thụy Điển tại Hà Nội.

Nguồn: Nguyễn Hữu Đức.

H.4.3.2. Nguyễn Ngọc Lâm (Hà Nội), Chen lấn (2013), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Nguyễn Hữu Đức.

221

H.4.3.3. Bùi Công Khánh (Tp. HCM), Fortress temple (2015), triển lãm

tại Hồng Kông. Nguồn: Trần Hoàng Ngân.

H.4.3.4. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Barrie1 (2008), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Đặng Thị Khuê.

222

H.4.3.5. Đặng Thị Khuê (Hà Nội). Đồng vọng (2007), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Đặng Thị Khuê.

H.4.3.6. Lê Văn Sửu (Hà Nội), Nấc thang (2008), triển lãm tại Hà Nội.

Nguồn: Internet.

223

PHỤ LỤC 5 ẢNH MINH HOẠ THỂ NGHIỆM NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1995

H.5.1. Trần Trung Tín (Tp. HCM), Tượng đài chống Phát xít (1989),

triển lãm tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguồn: Nguyễn Trịnh Thái.

224

H.5.2. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Sự liên hệ I (1984),

thể nghiệm Sắp đặt tại Hà Nội.

Nguồn: Đặng Thị Khuê.

H.5.3. Đặng Thị Khuê (Hà Nội), Xạ ảnh tinh thần (1988),

thể nghiệm Sắp đặt tại Hà Nội. Nguồn: Đặng Thị Khuê.