BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM ------------------------------------------------------

LÊ HÙNG PHONG

NGHIÊN CỨU CHỌN TẠO DÒNG BỐ MẸ CHỐNG CHỊU BẠC LÁ, RẦY

NÂU PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN LÚA LAI HAI DÒNG Ở VIỆT NAM

Di truyền và Chọn giống cây trồng 9 62 01 11 Chuyên ngành: Mã số:

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP

Hà Nội - 2018

Công trình được hoàn thành tại:

VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Nguyễn Trí Hoàn 2. TS. Nguyễn Như Hải

Phản biện 1: PGS.TS. NGUYỄN THỊ TRÂM Phản biện 2: PGS.TS NGUYỄN THỊ NGỌC HUỆ Phản biện 3: PGS.TS. NGUYỄN VĂN VIẾT Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở họp tại: Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: 1. Thư viện Quốc gia Việt Nam; 2. Thư viện Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam; 3. Thư viện Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm;ang

5-30.UAN

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, các giống lúa ưu thế lai đã góp phần không

nhỏ trong việc đảm bảo an ninh lương thực, góp phần quan trọng trong việc ổn

định sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong điều kiện nền kinh

tế thế giới có nhiều biến động. Tuy nhiên, việc mở rộng diện tích lúa lai gặp

nhiều khó khăn như: giống nhập nội có giá thành cao và không chủ động được

nguồn giống, lượng hạt giống F1 sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 25 -

30% nhu cầu cho sản xuất, bộ giống được chọn tạo trong nước còn ít, chưa có

nhiều giống chống chịu được sâu bệnh (kháng rầy nâu, bạc lá …) và điều kiện

bất thuận cho sản xuất. Nguồn vật liệu bố, mẹ kháng sâu bệnh cho chọn giống

còn nghèo nàn, ngưỡng bất dục của các dòng mẹ TGMS được chọn tạo trong

nước khá cao và chưa ổn định, sản xuất còn gặp nhiều khó khăn và rủi ro do

thời tiết, sâu bệnh. Bên cạnh đó, diện tích đất trồng lúa ở nước ta đã bị giảm đi

đáng kể do nhu cầu của quá trình Đô thị hoá và Công nghiệp hoá, do tác động

của Biến đổi khí hậu cực đoan gây ra hạn hán ở các tỉnh Miền Trung – Tây

Nguyên, xâm nhập mặn ở các tỉnh ven biển và ĐB Sông Cửu Long… làm cho

sự phát sinh, phát triển của sâu bệnh (như bệnh bạc lá, rầy nâu, vàng lùn, lùn

xoắn lá v.v) diễn ra khó lường, gây khó khăn cho công tác dự tính dự báo và

gây thiệt hại lớn cho sản xuất lúa gạo.

Báo cáo của Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT) các năm 2013, 2014,

2015, 2016 và 2017 cho thấy: Gần đây bệnh bạc lá lúa, đốm sọc vi khuẩn và

rầy nâu, rầy lưng trắng truyền bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá xuất hiện và gây hại

nặng trong cả vụ Đông Xuân và Mùa/Hè Thu tại các tỉnh phía Bắc. Kết quả

thực hiện “Nghiên cứu chọn tạo dòng bố mẹ chống chịu bạc lá, rầy nâu phục

vụ phát triển lúa lai hai dòng ở Việt Nam” sẽ tạo ra các dòng bố mẹ có khả

năng chống chịu tốt, khả năng kết hợp cao làm đa dạng nguồn vật liệu cho

chọn tạo giống lúa lai 2 dòng chống chịu rầy nâu, bạc lá ở nước ta.

2

2. Mục tiêu của đề tài

- Tạo ra 1-2 dòng bố mẹ có khả năng chống chịu bạc lá, 1-2 dòng bố mẹ

có khả năng chống chịu rầy nâu phục vụ công tác chọn tạo giống lúa lai hai

dòng chống chịu rầy nâu, bạc lá ở nước ta.

- Tạo ra 1-2 tổ hợp lai mới, có năng suất cao (7 – 8 tấn/ha), chất lượng

khá, có khả năng chống chịu bạc lá, rầy nâu phục vụ sản xuất.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học

- Kết quả nghiên cứu của đề tài bổ sung cơ sở khoa học và phương pháp

chọn tạo các dòng bố, dòng mẹ TGMS và chọn giống lúa lai hai dòng kháng

rầy nâu, bạc lá trong điều kiện Việt Nam.

- Thông tin về các dòng bố, mẹ mới kháng bạc lá, rầy nâu góp phần cho

các nhà chọn tạo giống lúa lai định hướng trong sử dụng vật liệu để lai tạo,

chọn lọc giống lúa lai hai dòng kháng bệnh bạc lá, rầy nâu.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Xác định được nguồn vật liệu phục vụ cho công tác lai tạo dòng bố, mẹ

lúa lai hai dòng kháng bạc lá, rầy nâu.

- Các dòng TGMS AMS35S-KBL, AMS30S-KBL (kháng bạc lá),

KR95S, KR142S (kháng rầy nâu), dòng bố RP8, RP088, RP3, R1028-KR,

R116R (kháng rầy nâu) có nhiều đặc điểm nông sinh học, đặc điểm tính dục

tốt, khả năng kết hợp chung cao về NS, là nguồn vật liệu tốt để chọn tạo giống

lúa lai kháng bạc lá, rầy nâu.

- Các tổ hợp lai hai dòng kháng bạc lá, rầy nâu có thời gian sinh trưởng

ngắn, năng suất cao góp phần cho khảo nghiệm và mở rộng sản xuất ở nước ta.

4. Những đóng góp mới của đề tài.

- Chọn tạo thành công 02 dòng TGMS (AMS35S-KBL, AMS30S-KBL)

mang gen kháng bạc lá, bất dục ổn định, tỷ lệ thò vòi nhụy cao, thời gian sinh

trưởng ngắn, có giá trị khả năng kết hợp chung cao về năng suất thực thu.

- Chọn tạo được 2 dòng TGMS (KR95S, KR142S) và 05 dòng bố (RP8,

RP088, RP3, R1028-KR, R116R) kháng rầy nây. Các dòng bố mẹ này có thời

gian sinh trưởng ngắn, nhiều đặc điểm nông sinh học tốt, khả năng kết hợp

3

chung cao về năng suất, làm vật liệu tốt cho chọn giống lúa lai 2 dòng kháng

rầy ở Việt Nam.

- Chọn được 3 tổ hợp lúa lai hai dòng có dòng mẹ mang gen kháng bạc

lá, có năng suất thực thu cao hơn đối chứng >10% là AMS35S-KBL/R100,

AMS30S-KBL/R116 và AMS34S-KBL/SR18, kháng bạc lá điểm 3-5. Cải tiến

được khả năng kháng bệnh bạc lá của giống lúa lai hai dòng HYT124 và

HYT116 thông qua chuyển gen kháng bạc lá vào dòng mẹ.

- Chọn được 06 tổ hợp lúa lai hai dòng KR142S/SR3, KR142S/SR14,

KR142S/SR18, KR95S/SR14, KR95S/AIQ6, KR95S/SR3 có thời gian sinh

trưởng ngắn, năng suất cao (8,6 – 9,32 tấn/ha) và kháng rầy nâu.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu

- Các dòng bố, mẹ lúa lai hiện có của Viện Cây lương thực và CTP mà

tác giả đã trực tiếp và tham gia chọn tạo, các dòng bố mẹ tốt thu thập trong

nước và nhập nội.

- Các dòng phân ly BC3 – BC6 từ các tổ hợp lai chuyển gen để chọn

dòng bố mẹ theo hướng kháng bạc lá, rầy nâu.

- Các vật liệu kháng bạc lá đã được xác định nhập nội từ Viện Nghiên

cứu lúa quốc tế (IRRI) như: IRBB5, IRBB7, IRBB21, IRBB4, IRBB57,

IRBB60, IRBB61, IRBB62, IRBB63, IRBB64...

- Các vật liệu kháng rầy nâu đã được xác định: Các dòng kháng rầy nâu

của Viện Di truyền Nông nghiệp như: IS1-2, IS1-3, E2-3, KR 1, KR 8, KR 9

và nguồn vật liệu nhập nội từ IRRI như : Mudgo; ASD7; Rathu Heenati;

ARC 10550; Swarnalata; Chinsaba; T12; Pokkali; Ptb33; TN1 (đc nhiễm).

5.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Tại Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ; Từ tháng 4 năm 2012 đến

tháng 4 năm 2018

5.3. Phạm vi giới hạn của đề tài

- Chọn tạo các dòng bố mẹ mang gen kháng bạc lá, rầy nâu qua lai tạo

và chọn lọc từ những vật liệu trung gian.

4

- Chọn lọc và làm thuần các dòng ưu tú có nhiều đặc điểm của một dòng

bố mẹ tốt để phục vụ công tác lai tạo giống.

- Đánh giá khả năng kết hợp trên tính trạng năng suất của các dòng bố,

mẹ được chọn lọc, phục vụ công tác lai tạo, chọn giống lúa lai 2 dòng chống

chịu bạc lá, rầy nâu.

- Lai thử tìm tổ hợp mới.

6. Cấu trúc của luận án.

Luận án chính có 132 trang đánh máy vi tính khổ A4 với 44 bảng số

liệu, 7 hình. Luận án gồm 5 phần; Mở đầu (6 trang), Chương 1: Tổng quan tài

liệu nghiên cứu (40 trang). Chương II. Vật liệu, nội dung và phương pháp

nghiên cứu (17 trang). Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận (67 trang),

Kết luận và đề nghị (2 trang).

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

Luận án đã tham khảo và tổng quan 29 tài liệu tiếng Việt và 81 tài liệu

tiếng Anh. Các nội dung liên quan bao gồm: 1.1. Cơ sở khoa học của đề tài;

1.1.1. Ưu thế lai, cơ sở di truyền và biểu hiện ưu thế lai ở cây lúa; 1.1.2. Hệ

thống bất dục đực trong chọn giống lúa lai hai dòng; 1.2. Cơ sở thực tiễn của

đề tài: 1.2.1. Tình hình nghiên cứu phát triển lúa lai trên thế giới; 1.2.2. Nghiên

cứu về khả năng kết hợp; 1.2.3.Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống lúa lai

trong nước. Với các dẫn liệu thu thập được cho thấy:

* Ưu thế lai (ƯTL): Là một hiện tượng trong đó con lai F1 bắt nguồn từ

các bố mẹ khác nhau, thể hiện tính ưu việt hơn bố mẹ của chúng về sức sống,

năng suất, số lượng và kích thước bông, số hạt trên mỗi bông, số lượng bông

hữu hiệu…Ưu thế lai chỉ được thể hiện trong thế hệ đầu tiên (thế hệ F1),

(Nguyễn Công Tạn và cs, 2002). Ở lúa, con lai giữa hai loài phụ indica và

japonica thể hiện tối đa ưu thế lai và được đánh giá theo thứ tự giảm dần là:

Indica x japonica > indica x javanica > japonica x javanica > indica x indica

> japonica x japonica > javanica x javanica (Yuan L.P, 2006).

5

* Ưu thế lai ở lúa: ƯTL ở lúa được biểu hiện trên các cơ quan sinh

trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực như hệ rễ (Lin and Yuan, 1980).; ở

các tính trạng như, khả năng đẻ nhánh Lin and Yuan, 1980; Chang et al., 1971,

thời gian sinh trưởng (Nguyễn Thị Trâm và cs., 1994, Xu and Wang (1980),

chiều cao cây (Singh S.P. and Singh H.G., 1978), năng suất và các yếu tố cấu

thành năng suất (Virmani et al., 1982); Ở các tính trạng hình thái và tính trạng

sinh hóa (Chao, 1972; Deng, 1988), tính trạng sinh lý như cường độ quang

hợp, cường độ hô hấp, diện tích lá (Murayama et al., 1984, Nguyễn Thị Trâm

(1994), …ƯTL có thể biểu hiện ở tất cả các giai đoạn trong quá trình sinh

trưởng phát triển của cây (Akita et al., 1986), ở khả năng chống chịu sâu bệnh

(Lin and Yuan, 1980) và điều kiện bất thuận (Senadhira and Virmani, 1987).

* Tình hình phát triển lúa lai ở Trung Quốc: Trung Quốc là quốc gia

đầu tiên thành công trong nghiên cứu lúa lai vào năm 1973, quá trình nghiên

cứu phát triển lúa lai ở Trung Quốc chia thành 4 giai đoạn chính: giai đoạn 1

(1964-1975) và giai đoạn 2 (1976-1990) là giai đoạn nghiên cứu chọn tạo dòng

bất dục và hoàn thiện hệ thống lúa lai 3 dòng. Giai đoạn 3 (1990-2000), là giai

đoạn phát triển chiến lược, khởi xướng siêu lúa lai; Giai đoạn 4 (từ 2013-

2020), giai đoạn phát triển mới, giai đoạn phát triển siêu lúa lai đạt 16-19

tấn//ha. Theo Yuan L.P. (2017), năng suất trung bình của giống siêu lúa lai đạt

13,9 – 15,4 tấn/ha tại huyện Longhui tỉnh Hồ Nam năm 2013 và huyện Xupu

tỉnh Hồ Nam năm 2014. Từ năm 1975 đến nay, có hơn 5000 giống lúa lai được

công nhận và mở rộng diện tích gieo trồng trên 500 triệu ha, là nhân tố quan

trọng đảm bảo an ninh lương thực (Zeng et al., 2018).

* Tình hình phát triển lúa lai của các nước khác ngoài Trung Quốc:

Hiện tại, lúa lai đã được giới thiệu và quảng bá đến hơn 40 quốc gia trên thế

giới, trong đó Ấn Độ, Bangladesh, Indonesia, Việt Nam, Philippines và Hoa

Kỳ đã trồng lúa lai rộng rãi. Năm 2012, diện tích trồng lúa lai ngoài Trung quốc đạt 5.2 × 106 ha với năng suất cao hơn 2 tấn/ ha so với năng suất bình

quân của các giống tốt tại địa phương (Yuan, 2014). Các quốc gia trên đều đã

xây dựng được chiến lược nghiên cứu và phát triển lúa lai phù hợp với điều

kiện của đất nước mình cho mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực của quốc gia.

6

* Nghiên cứu chọn tạo giống lúa lai kháng bệnh Bạc lá

Để nâng cao tính kháng bạc lá của các giống lúa lai, nhiều gen kháng

bạc lá (gen kháng trội) như Xa25, Xa21, Xa7, Xa4, Xa23…đã được sử dụng để

chọn tạo các dòng bố mẹ kháng bạc lá. Bằng phương pháp lai trở lại và chọn

lọc có sự trợ giúp của chỉ thị phân tử, các nhà khoa học Trung Quốc đã chọn

tạo ra nhiều dòng bố mẹ lúa lai có khả năng kháng bệnh bạc lá cao.

Năm 2000, Chen et al. (2000) đã chuyển thành công gen Xa21 vào

dòng phục hồi Minghui63. Deng et al. (2006) đã chuyển thành công hai gen

Xa21 và Xa4 vào dòng phục hồi Mianhui 725. He et al.(2007) đã thành công

khi qui tụ hai gen kháng bạc lá Xa21, Xa7 vào dòng phục hồi Minghui63. Viện

nghiên cứu lúa Philippin đã chuyển thành công bằng MAS các gen Xa21, Xa4,

Xa7 vào lúa lai hai dòng TGMS1 (PhilRice Genbank Acc. No. PRT-1), (Chen

et al., 2009). Dindo và cộng sự đã thành công trong việc chuyển gen Xa7 và

Xa21 vào các dòng bố mẹ lai của Mestizo1 và Mestiza 3 để tạo ra các gen

pyramided gồm Xa4/Xa7; Xa4/Xa21; Xa4/Xa7/Xa21 ở các dòng duy trì và

dòng phục hồi của Mestizo1 và Mestiza3, Dindo et al. (2013). Ji và nhóm

nghiên cứu đã chuyển được gen kháng Xa23 từ giống CBB23 vào dòng phục

hồi HN189 có gen Pi1 kháng đạo ôn qua đó chọn được 2 dòng phục hồi mới là

HBH145 và HBH146 có khả năng kháng bạc lá cao hơn HN189, Ji et al.

(2014). Luo và cộng sự đã chuyển thành công 2 gen kháng bệnh bạc lá Xa4 và

Xa21 vào dòng Mianhui 725 (MH725) thu được dòng Wanhui 421(WH421) có

bộ genome giống 96,9% so với dòng MH725 nhưng tính kháng bạc lá cao hơn

so với dòng ban đầu, Luo et al (2016). Ramalingam et al (2017), đã chuyển

thành công ba gen (xa5, xa13 và Xa21) vào dòng duy trì (CO 2B, CO 23B, và

CO 24 B). Kumar và cộng sự đã cải tiến tính kháng của dòng RPHR-1005 khi

chuyển 2 gen kháng bạc lá là Xa21, Xa33 và Pi2 từ dòng DRRH-3 sang dòng

RPHR-1005 và đã chọn được 10 dòng ở thể hệ ICF4 mang cả 3 gen trên có khả

năng phục hồi tốt, Kumar et al. (2016).

Ji et al. (2016), đã qui tụ được 3 gen kháng đạo ôn, bạc lá và rầy nâu

vào dòng phục hồi lúa lai ba dòng, kết quả chọn được dòng HR13 mang cả ba

gen kháng và bốn dòng HR39, HR41, HR42, HR43 mang gen kháng đạo ôn và

7

bạc lá nhưng không có gen kháng rầy nâu. Dòng Zhongzu 14 là thể cho của cả

ba gen kháng đạo ôn, bạc lá và rầy nâu. Xiao et al. (2016), đã chuyển một gen

Xa23 và hai gen kháng rầy nâu (Bph14 và Bph15) vào dòng phục hồi Huazhan

để cải thiện khả năng kháng bạc lá và rầy nâu của giống Tianyouhuazhan. (Ni

et al., 2015), đã cải tạo thành công khả năng kháng đạo ôn, bạc lá của dòng

P/TGMS Guangzhan63S (GZ63S) mà vẫn giữ được đặc điểm của dòng mẹ ban

đầu và con lai F1 khi qui tụ được gen kháng đạo ôn Pi9 và gen kháng bệnh bạc

lá Xa23 vào dòng GZ63S.

* Nghiên cứu chọn tạo giống lúa lai kháng rầy nâu

Báo cáo của Liet al (2011), cho thấy nhóm nghiên cứu đã thành công

trong việc chuyển hai gen kháng Bph14 và Bph15 vào dòng phục hồi Minghui

63 (MH 63) và đã được 2 dòng MH63-15 và MH63-14&15. H. Ji et al. (2013)

đã công bố kết quả cloning gen kháng rầy nâu phổ rộng Bph18.

Ling and Weilin (2016) cho rằng các gen Bph14, Bph26, Bph3 và Bph29

đã được đánh giá là gen kháng rầy nây tốt nhất. Theo Xiao et al. (2016), rầy

nâu là loại sâu hại lúa nặng nhất ở Châu Á. Nhóm tác giả đã chuyển 13 gen và

QTLs (Bph14, QBph3, QBph4, Bph17, Bph15, Bph20, Bph24, Bph6, Bph3,

Bph9, Bph10, Bph18 và Bph21) vào dòng lúa 9311 bằng lai trở lại có hỗ trợ

của chỉ thị phân tử. Tất cả các dòng chứa gen kháng đã làm giảm sự phát sinh

phát triển của rầy nâu ở ngay giai đoạn mạ. Wang et al. (2016) đã tiến hành qui

tụ hai gen kháng Bph14 và Bph15 vào một dòng phục hồi Huahui 938 để cải

thiện khả năng đề kháng rầy nâu của lúa lai. Wang et al. (2017) đã qui tụ gen

Bph6 và Bph9 vào dòng 9311, kết quả là tạo giống lúa lai LuoYang69 có dòng

bố 9311 mang hai gen Bph6 và Bph9 kháng cao với rầy nâu và không thay đổi

so với giống ban đầu.

Theo Fan et al. (2017), đã chọn tạo thành công dòng phục hồi lúa lai có

gen bông to Gn8.1, các gen kháng rầy nâu Bph6 và Bph9 và các gen phục hồi

Rf3, Rf4, Rf5 và Rf6 nhờ chỉ thị phân tử.

* Kết quả nghiên cứu và sản xuất lúa lai trong nước: Theo Báo cáo

của Cục Trồng trọt, Đến nay lúa lai đã được gieo trồng ở hầu hết các vùng

trồng lúa của nước ta, trong đó các tỉnh phía Bắc chiếm diện tích lớn và chủ

8

yếu. Tuy nhiên, vài năm gần đây sản xuất lúa lai tại các tỉnh phía Bắc liên tục

giảm cả về diện tích và sản lượng, giảm cả vụ Xuân và vụ Mùa mà nguyên

nhân chủ yếu được xác định là do nguồn cung cấp hạt giống hạn chế, giá hạt

giống lúa lai cao, bộ giống cho vụ Mùa ít vì nhiễm sâu bệnh. Hiện nay chúng ta

đã làm chủ được qui trình kỹ thuật sản xuất hạt giống F1 và nhân dòng mẹ của

hầu hết các giống lúa lai 3 dòng nhập nội hệ Bắc ưu, Nhị ưu... và các giống lúa

lai 2 dòng chọn tạo trong nước đã được Bộ NN&PTNT công nhận. Giai đoạn

2005 – 2009 sản xuất giống lúa lai có xu hướng giảm, từ 2015 đến nay diện

tích sản xuất hạt giống F1 đã tăng trở lại, mỗi năm SX hơn 2200ha với năng

suất tăng dần 2,1 – 2,7 tấn/ha (Cục Trồng trọt, 2016). Tuy nhiên sản xuất hạt

giống lúa lai tại các tỉnh phía Bắc gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng tiêu cực

của biến đổi khí hậu, dịch bệnh (lùn sọc đen vụ mùa 2017, nhiều diện tích bị

mất trắng ở Nam Định và một số tỉnh phía Bắc) nên năng suất chưa cao. Sản

xuất tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên năng suất cao hơn

nhưng giá thành hạt giống cao và cước phí vận chuyển ra Bắc cũng cao, Doanh

nghiệp lớn chưa thiết tha đầu tư cho sản xuất trong nước, đây là những nguyên

nhân chính hạn chế phát triển sản xuất hạt giống F1 ở nước ta hiện nay.

* Kết quả nghiên cứu về khả năng chống chịu sâu bệnh

Qua lai thử các dòng chuẩn mang gen kháng bạc lá của IRRI với 11 nòi

vi khuẩn ở Viện lúa ĐBSCL, Viện KHKT NN Việt nam và Đại học Nông

nghiệp I Hà Nội cho thấy các dòng IRBB4 (Xa4), IRBB5 (xa5), IRBB7 (Xa7)

và IRBB21 (Xa21) là kháng tốt với các nòi vi khuẩn gây bệnh bạc lá (6 - 9

nòi). Chương trình lai tạo chọn giống nhờ Marker phân tử để lai chuyển các

gen Xa4, xa5, Xa7, Xa21 vào các dòng bố mẹ lúa lai ở các đơn vị nghiên cứu

trên. Vu Thi Thu Hien et al. (2007), đã chuyển gen Xa21 vào dòng mẹ TGMS

103S bằng phương pháp lai lại và trợ giúp của MAS để tạo ra các con lai kháng

bệnh bạc lá của giống lúa Việt Lai 20. Nguyễn Văn Hoan (2005) Chọn tạo

được giống lúa lai Việt Lai 24 mang gen Xa21 kháng bệnh bạc lá. Các thành

tựu trên chính là cơ sở khoa học và thực tiễn để ứng dụng vào thực tiễn nghiên

cứu và phát triển lúa lai hai dòng nói riêng và lúa lai ở Việt Nam nói chung.

9

CHƯƠNG II

VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Vật liệu nghiên cứu

* Vật liệu cho chọn tạo dòng bố mẹ kháng bệnh bạc lá: - Các dòng vật liệu có gen kháng bạc lá nhập nội từ Viện Nghiên cứu

lúa Quốc tế (IRRI) như: IRBB4, IRBB5, IRBB7, IRBB21, IRBB 60,

- 10 quần thể KBL đã backcross ở BC3-BC5 giữa các dòng TGMS với

các dòng bố IRBB4, IRBB5, IRBB7 và IRBB21.

* Vật liệu cho chọn tạo dòng bố mẹ kháng rầy nâu: - Các dòng vật liệu có gen kháng rầy nâu đã được xác định từ các đơn

vị nghiên cứu như: Các dòng kháng rầy nâu của Viện Di truyền Nông nghiệp

(IS1-2, IS2-3, E2-3, KR 1, KR 8, E-1, E-2, E-3, E-4, E-5, E-6, E-7, E-8);

Nguồn vật liệu nhập nội từ IRRI (Mudgo, ASD7, Rathu heenati, ARC 10550,

Swarnalata, Chinsaba, T12, Pokkali, Ptb33, TN1- đối chứng nhiễm)

- 5 Quần thể kháng rầy nâu ở thế hệ BC2-BC3 của các tổ hợp có bố là

các dòng IS1-2, IS2-3, E-1, E-2, E-3…mang gen kháng rầy nâu với các dòng

mẹ TGMS và các dòng R.

* Vật liệu cho chọn tạo giống lúa lai kháng bệnh bạc lá, rầy nâu:

- Các dòng TGMS: AMS30S (827S), AMS34S, AMS35S, D116S, D161S, D67S,

D64S, D52S, D59S, dòng mẹ TGMS làm đối chứng là T1S-96.

- Các dòng bố mẹ kháng bệnh bạc lá, rầy nâu mới được chọn tạo.

- Các dòng bố trong tập đoàn công tác của Trung tâm NC&PT lúa lai,

các giống lúa thuần có khả năng kháng bạc lá, rầy nâu.

- Giống lúa lai hai dòng đối chứng là TH3-3

2.2. Nội dung nghiên cứu

2.3.1. Lai taọ, chon lọc dòng bố mẹ lúa lai 2 dòng kháng rầy nâu

2.3.2. Lai tạo, chọn lọc dòng bố mẹ lúa lai 2 dòng kháng bạc lá

2.3.3. Lai tạo tổ hợp lúa lai mới theo hướng kháng bệnh bạc lá, rầy nâu

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Đánh giá nguồn vật liệu kháng bạc lá, rầy nâu

- Đánh giá một số đặc điểm nông sinh học của vật liệu nghiên cứu;

10

- Đánh giá nhân tạo tính chống chịu bạc lá, rầy nâu của vật liệu nghiên cứu

mang gen kháng theo phương pháp của IRRI 1996, 1997, 2002

2.3.2. Lai tạo chọn lọc dòng bố mẹ lúa lai chống chịu bạc lá, rầy nâu

2.3.2.1. Lai tạo chọn lọc dòng bố mẹ chống chịu rầy nâu, bạc lá:

2.3.2.2. Kiểm tra sự có mặt của gen kháng ở các dòng bố mẹ chống chịu rầy

nâu, bạc lá

2.3.2.3. Đánh giá khả năng kết hợp của các dòng bố mẹ chống chịu rầy nâu,

bạc lá

2.3.3. Lai tạo các tổ hợp lúa lai theo hướng kháng bệnh bạc lá, rầy nâu

- Sử dụng các dòng TGMS và các dòng bố có ít nhất một bố mẹ kháng

bạc lá, rầy nâu tiến hành lai thử để chọn tạo các tổ hợp lúa lai hai dòng kháng

rầy nâu, bạc lá.

- Gieo hạt giống bố, mẹ làm nhiều đợt, cấy và chăm sóc bình thường.

Khi lúa trỗ, đánh cây bố, mẹ trỗ trùng khớp vào nhà lưới trồng vào chậu vại,

bao cách ly 1 cây bố/1-2 cây mẹ trong 1 chậu, tiến hành rung phấn bằng tay 4-5

ngày liên tục khi dòng bố tung phấn.

- Đánh giá các đặc tính nông sinh học, năng suất của các con lai F1 theo

phương pháp của IRRI, 1997.

- Thí nghiệm so sánh giống áp dụng theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia

về khảo nghiệm giá trị canh tác và sử dụng của giống lúa QCVN 01-55:

2011/BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và PTNT.

2.3.6. Phương pháp phân tích số liệu

Phân tích khả năng kết hợp theo mô hình Kempthorne (1957) và xử lý

số liệu bằng phần mềm Chương trình phân tích phương sai LINE * TESTER

Ver.2.0 năm 1995 và Ver.3.0 năm 1996 của Nguyễn Đình Hiền.

2.3.7. Phương pháp và tiêu chí đánh giá sâu, bệnh hại

Đánh giá đặc điểm nông sinh học, sâu bệnh và năng suất theo phương

pháp của Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI, 1996).

11

CHƯƠNG III

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Kết quả lai tạo, chọn lọc các dòng bố mẹ kháng rầy nâu

3.1.1. Kết quả đánh giá vật liệu phục vụ chọn tạo dòng bố, mẹ kháng rầy

Đề tài đã đánh giá và chọn lọc được một số dòng giống kháng rầy

cùng với những tiêu chuẩn của một dòng bố tốt chúng tôi đã chọn CR203,

IS1.2, E2, E3, E6, E7, Rathu Heenati, Swarnalata, Pokkali làm vật liệu cho gen

kháng trong lai tạo.

3.1.2. Lai tạo, chọn lọc các dòng bố kháng rầy nâu

Với mục tiêu tạo ra các dòng bố có khả năng kháng rầy cho chọn tạo

giống lúa lai, từ năm 2009 - 2012 đã tiến hành lai hữu tính và lai trở lại trên 15

cặp lai (bảng 3.3, tr 68). Quá trình chọn lọc dòng bố kháng rầy được thực hiện

theo sơ đồ Hình 2.1 (trang 53). Qua đánh giá, chọn lọc và làm thuần đến năm

2014 chọn ra được 9 dòng có triển vọng nhất cho các nghiên cứu sâu và cụ thể

hơn là: RP088-51, RP088-148, RP088-48, R253-KR, R1028-KR, RTQ5-KR,

R838-KR, RP3, RP8 có nhiều đặc điểm của dòng bố tốt.

Bảng 3.7. Kết quả đánh giá mức độ kháng rầy nâu

của một số dòng bố mẹ lúa lai năm 2017

Tên dòng, Nguồn gốc Cấp độ Mức độ TT Ghi chú giống lai tạo (điểm) kháng

1 KR95S D116ST/E3-4-1 5 Kháng TB D. mẹ

2 KR142S D52S/Pok6-427 5 Kháng TB D. mẹ

3 D59S-KR D59S/E3 5 Kháng TB D. mẹ

4 RP088-148 TL6/E6-148-1 5 Kháng TB D. bố

5 D116tr-KR D116Str/E3 5 Kháng TB D. mẹ

6 AP9 AP9 7 Nhiễm D. bố

7 P20-5 P20-5 7 Nhiễm D. bố

RP8 Minh khôi D. bố 8 3 Kháng (APIRX14) 63/IS1.2-8

9 5 RP3 R9311/IS1.2-3 Kháng TB D. bố

12

10 R1028-KR R1028/E3-60-2 5 Kháng TB D. bố

11 RP088-48 TL6/E7-48-3 3 Kháng D. bố

12 HYT285* AMS30S/RP3 5 Kháng TB F1

13 HYT116** AMS30S/R116 3 Kháng F1

14 TN1 - 9 Nhiễm nặng ĐC nhiễm

15 Ptb33 - 3 Kháng ĐC kháng

Nguồn: Viện Bảo vệ thực vật, năm 2017; Ghi chú :* Tổ hợp AMS30S/RP3 có

bố kháng rầy RP3; **HYT116 tổ hợp 2 dòng có dòng bố kháng rầy nâu R116

Kết quả đánh giá khả năng kháng rầy qua lây nhiễm nhân tạo cho

thấy: dòng RP8 có khả năng kháng rầy nâu (điểm 3), các dòng chuyển gen còn

lại như: RP088-148, RP088-48, RP3, R1028-KR kháng trung bình (điểm 5).

Kết quả cũng cho thấy các tổ hợp lai có dòng bố kháng rầy đều cho con lai F1

kháng rầy (bảng 3.7), kết quả này phù hợp với nghiên cứu xác định gen kháng

rầy của Bộ môn Công nghệ sinh học, Viện Cây lương thực – CTP. Như vậy, sử

dụng phương pháp lai trở lại có thể chuyển được gen kháng rầy nâu vào dòng

bố và nâng cao được tính kháng của dòng ban đầu, tính kháng được thể hiện

qua cả sự có mặt của gen kháng (bảng 3.6, trang 72) và mức độ kháng của

dòng ngoài thực tế, trong điều kiện nhân tạo (bảng 3.7).

* Đánh giá khả năng kết hợp chung (GCA) của các dòng bố mang gen

kháng rầy nâu.

Bảng 3.9. Khả năng kết hợp chung về năng suất

của các dòng bố kháng rầy nâu mới chọn tạo

Cây thử/ Dòng Giá trị GCA

CT1-AMS35S -0,547 Cây thử

(mẹ) CT2- AMS30S 0,547

8,462 LSD0,01

6,234 LSD0,05

TH29 0,642 Dòng TH12 -1,425 (bố) M415 -4,742

13

M359 -3,492

TH20 -4,325

TR1-565 -10,108

M385 -2,425

RP088-48(KR điểm 3) 4,958

RP3(KR điểm 5) 7,858

R1028-KR(KR điểm5) 6,858

RP8(Kháng rầy điể 5) 3,008

K10-5 (có gen kháng bạc lá) 3,192

8,879 LSD0,01

6,541 LSD0,05

Nhận xét: Bằng phép lai trở lại và chọn lọc cá thể đã chọn được 9

dòng triển vọng có những đặc điểm tốt của dòng bố như tiềm năng năng suất

cao, dạng hình đẹp, khả năng cho phấn nhiều… Trong đó 5 dòng có khả năng

kháng rầy từ kháng - kháng trung bình, đó là các dòng RP8 có khả năng kháng

rầy nâu (điểm 3), các dòng chuyển gen còn lại như RP088-148, RP088-48,

RP3, R1028-KR, kháng trung bình (điểm 5). Các dòng thuần được chuyển gen

kháng rầy có giá trị khả năng kết hợp chung cao, lần lượt là RP3 (7,858),

R1028-KR (6,858), RPO88-48 (4,958) và RP8 (3,008) có ý nghĩa so với các

dòng còn lại ở mức LSD0,05. Các dòng bố không mang gen kháng rầy nhìn

chung có khả năng kết hợp chung thấp về năng suất thực thu (có giá trị âm về

GCA), riêng dòng TH29 có GCA mang giá trị dương 0,642 và K10-5 có giá trị

GCA dương là 3,192, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa.

3.1.3. Kết quả lai tạo, chọn lọc dòng mẹ TGMS kháng rầy nâu

Sau quá trình lai trở lại và chọn lọc cây bất dục, năm 2013 chúng tôi đã

chọn được 30 dòng TGMS có triển vọng từ một số tổ hợp lai chuyển gen kháng

rầy nâu (trang 78). Các dòng TGMS đều có dạng cây gọn, màu sắc lá từ xanh

đến xanh đậm, trỗ không thoát, dạng hạt dài đến thon dài, chỉ có 4 dòng là

KR71-1, KR71-2, KR75-1 và KR31 có dạng hạt trung bình, các dòng TGMS

mới đều bất dục hoàn toàn trong điều kiện vụ Mùa 2013.

14

Kết quả kiểm tra các dòng TGMS được chọn từ KimS / E3 (KR67S)

và D116ST / E3 (KR95S) bởi các dấu phân tử RM6997 đã xác định 5 TGMS

thực vật có gen BphZ từ K67S và 2 TGMS thực vật mang gen BphZ từ KR95S

(bảng 3.13, trang 84). Các ḍòng TGMS mang gen kháng rầy BphZ được chọn

lọc trên nền di truyền của KimS (AMS37S) và trên nền di truyền của D116ST

là vật liệu tốt cho chọn tạo giống lúa lai hai dòng có khả năng kháng rầy nâu.

Các dòng TGMS: D116ST và Kim S có gene kháng rây nâu BphZ có thể kháng

tốt với rầy nâu Biotype 2 và Biotype 3 tại Việt Nam.

Bảng 3.14. Kết quả xác định gen kháng rầy nâu Bph3, Bph6 và Bph9 ở một

số dòng mẹ mới được chọn tạo

TT Tên dòng Bph3 Bph6 Bph9 TT Tên dòng Bph3 Bph6 Bph9

1 Rathuheenati + 1 Rathuheenati +

2 Swanalata + 2 Swanalata +

3 Pokali + 3 Pokali +

4 TN1 - - - 4 TN1 - - -

5 KR82S-1 - - + 11 KR142S-1 - - +

6 KR82S-2 - - + 12 KR142S-2 - - +

7 KR82S-3 - - + 13 KR142S-3 - - +

8 D59S-1 + - - 14 KR95S-1 + - -

9 D59S-1-1 + - - 15 KR95S-2 + - -

10 D59S -3 + - - 16 KR95S-3 + - -

Nguồn: Bộ môn Công nghệ sinh học, Viện Cây lương thực - CTP

Ghi chú: +: Đồng hợp tử kháng -: nhiễm

+/-: Dị hợp tử kháng 0: không lên band

Từ kết quả tổng hợp trong bảng 3.13 và 3.14 đã lựa chọn được 5 dòng

TGMS chứa gen kháng rầy nâu và ký hiệu như sau: KR67S (KimS/E3),

KR95S (D116ST/E3), KR142S (D52S/Pokkali), KR82S (D59S/E2//D59S) và

D59S-1-1, trong đó 3 dòng KR95S (Bph3, BphZ), KR142S (Bph9), D59S-1-1

(Bph3) được lựa chọn cho những nghiên cứu tiếp theo.

15

Từ kết quả xác định sự có mặt của các gen kháng rầy nâu, kết quả

nghiên cứu đặc tính nông sinh học của các dòng TGMS, khả năng bất dục hạt

phấn lựa chọn được 2 dòng mẹ TGMS tốt nhất có gen kháng rầy là dòng

KR95S và dòng KR142S là hai dòng TGMS có tỷ lệ bông trỗ thoát cao, tỷ lệ

thò vòi nhụy cao hơn và bông dài hơn để sử dụng cho các nghiên cứu tiếp theo.

Kết quả nghiên cứu một số đặc điểm nông sinh học của dòng mẹ

KR95S và KR142S trong vụ xuân và vụ mùa 2017 tại Thanh Trì, Hà Nội được

trình bày trong bảng 3.17 (trang 88).

Kết quả nghiên cứu cho thấy: Hai dòng TGMS KR95S và KR142S có

thời gian sinh trưởng thuộc nhóm ngắn ngày, chiều cao cây thuộc nhóm bán

lùn, ấp bẹ trong cả vụ nhân và vụ sản xuất hạt giống F1 (vụ Mùa). Tỷ lệ thò vòi

nhụy của 2 dòng khá cao 75,5 % (KR95S) và 73,6 % (KR142S), dòng KR95S

có vòi nhụy màu tím đen còn KR142S có màu trắng. Cả hai dòng thuộc loại bất dục điển hình (WA), nhiệt độ gây bất dục hoàn toàn là >240C; Khả năng đẻ

nhánh khá, số bông hữu hiệu đạt 7,9 - 9 bông/khóm, số hoa/bông đạt 159 – 142

hoa/bông, dạng hạt của hai dòng là trung bình – dài, số lá/thân chính của

KR95S là 13,5 lá và KR142S là 15 lá, hai dòng TGMS này sẽ là những vật liệu

tốt cho chọn giống lúa lai 2 dòng kháng rầy nâu ở nước ta.

* Đánh giá GCA của các dòng TGMS mang gen kháng rầy nâu

Đánh giá khả năng kết hợp chung của các dòng TGMS để chọn được

dòng mẹ có giá trị kết hợp cao với nhiều dòng bố khác nhau, dòng mẹ được

chọn sẽ có xác suất tạo ra tổ hợp lai có ưu thế lai cao hơn các dòng khác. Kết

quả phân tích khả năng kết hợp chung về năng suất và các yếu tố cấu thành

năng suất của các dòng mẹ tham gia thí nghiệm cho thấy:

- Về năng suất thực thu: Có 2 dòng có giá trị khả năng kết hợp chung

dương là KR95S và D67S, trong đó dòng KR95S là dòng có giá trị dương cao

nhất đạt 2,595 và cao hơn có ý nghĩa so với dòng KR142S và D60S ở mức

LSD0,01 (1.96), hai dòng còn lại (KR142S và D60S) đều có giá trị âm.

- Về tính trạng số bông/khóm: Dòng mẹ có gen kháng rầy KR142S có

giá trị GCA cao nhất (0,29) và có ý nghĩa ở mức LSD0,01 (0,06).

16

Bảng 3.18. Khả năng kết hợp chung của các dòng mẹ

về các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất

Chỉ tiêu Số hạt KL Số bông/ NS lý NS thực chắc/ Tỷ lệ lép 1000 khóm thuyết thu bông hạt Dòng

Dòng mẹ

-1,56 -0,625 0,29 -10,25 KR142S

-0,06 0,12 -0,31 2,95 2,29 0,01 D60S

0,50 -4,16 2,00 -2,465 0,495 -3,05 -0,47 D67S

-0,56 3,72 2,595 0,05 -0,03 10,35 -1,83 KR95S

0,15 2,08 1,46 0,05 2,50 0,10 LSD0,05

0,20 2,79 1,96 0,06 3,34 0,13 LSD0,01

Dòng bố

0,06 3,42 1,84 -0,08 8,65 -0,74 SR3

0,12 7,40 -1,24 SR14

0,73 -0,12 10,51 0,43 5,59 0,07 6,65 -0,54 SR18

-0,85 -5,51 -2,79 -0,18 -0,03 -3,35 1,17 AIQ6

0,18 -8,84 -4,71 0,17 -19,35 1,34 SR5

0,17 2,33 1,63 0,05 2,79 0,11 LSD0,05

0,22 3,12 2,19 0,07 3,74 0,14 LSD0,01

- Về số hạt chắc/bông: Dòng mẹ có gen kháng rầy KR95S có giá trị

khả năng kết hợp chung rất cao ở tính trạng này (10,35) và sai khác có ý nghĩa

ở mức LSD0,01 (3,34), dòng D67S có giá trị GCA là 2,9, hai dòng còn lại đều

có giá trị GCA âm.

- Về khối lượng 1000 hạt: 2 dòng mẹ mang gen kháng rầy nâu đều có

giá trị âm (-) ở tính trạng này, trong khi 2 dòng D60S và D67S có giá trị lần

lượt là 0,12 và 0,5, dòng D67S có giá trị cao hơn có ý nghĩa so với hai dòng

TGMS mang gen kháng rầy ở mức LSD0,01 (0,2).

Kết quả phân tích khả năng kết hợp cho thấy dòng TGMS mang gen

kháng rầy KR95S có khả năng kết hợp chung cao nhất ở các tính trạng số hạt

17

chắc/bông (10,35), năng suất lý thuyết (3,72) và năng suất thực thu (2,595) nên

KR95S sẽ có ưu thế hơn trong lai tạo lúa lai kháng rầy năng suất cao. Dòng

KR142S có khả năng kết hợp thâp về năng suất, do vậy muốn tạo con lai kháng

rầy năng suất cao, thì dòng bố phải có GCA cao về năng suất.

3.2. Kết quả lai tạo, chọn lọc dòng mẹ lúa lai 2 dòng kháng bệnh bạc lá

3.2.1. Kết quả đánh giá vật liệu phục vụ chọn tạo dòng mẹ kháng bạc lá

Đánh giá 32 dòng vật liệu đẳng gen (NILs) mang gen kháng bạc lá (trên

nền di truyền của giống lúa IR24) tại Viện Cây lương thực – CTP cho thấy:

Đặc điểm về hình thái của các dòng không có sự sai khác nhiều, các dòng đều

có mầu sắc lá xanh đậm, có dạng hình V-gọn. Trong 32 dòng có gen kháng

bệnh bạc lá vi khuẩn hầu hết đều có râu đầu hạt trong đó dòng IRBB13 có râu

đầu hạt dài nhất (2,5cm). Mầu sắc hạt và dạng hạt của các mẫu dòng có chứa

gen kháng bệnh bạc lá vi khuẩn không có sự sai khác nhiều, gần như các dòng

có mầu sắc hạt từ vàng sáng đến vàng và dạng hạt thon dài.

3.2.2. Kết quả lai chuyển gen kháng bạc lá vào dòng mẹ TGMS

Chạy điện di các tổ hợp với chỉ thị M3 liên kết với gen Xa7.

Kết quả điện di xác định tính đa hình của các dòng bất dục với các mồi,

đã chọn được những mồi có độ đa hình cao với quần thể chọn lọc tương ứng

như Xa4- Npb 181, Xa7-P3 và Xa7-M3.

Kết quả chạy điện di dòng V54 (AMS30S/IRBB7) sử dụng chỉ thị M3

cho thấy V54-1, V54-2, V54-3, V54-4, V54-5 đều mang gen Xa7 giống dòng

bố BB7 (Hình 3.7, trang 100).

Kết quả nghiên cứu cho thấy: hai chỉ thị Npb181 liên kết với gen Xa4 và

M3 liên kết với gen Xa7 cho khoảng đa hình rõ được dùng để xác định dòng

bất dục mang gen kháng bạc lá. Trong đó, sử dụng chỉ thị Nbp181 đã xác định

được 11 cá thể của các dòng V50 (AMS34S/BB60), V31 (AMS35S/BB60) và

dòng BL59 (AMS34S/BB60) mang gen kháng bạc lá Xa4. Sử dụng chỉ thị M3

đã xác định được dòng V54 (AMS30S/IRBB7) có 5 cá thể mang gen Xa7.

Nhận xét: Qua thanh lọc các dòng TGMS thuần được chọn từ các tổ hợp

lai cải tạo các dòng TGMS chúng tôi đã lựa chọn được một số dòng TGMS

tương tự AMS34S chứa gen kháng bạc lá Xa4, dòng TGMS tương tự AMS35S

18

chứa gene Xa4 và dòng TGMS tương tự AMS30S chứa gene Xa7. Các dòng

TGMS xác định có gen kháng bạc lá được cải tạo từ các dòng TGMS

AMS34S, AMS35S và AMS30S là các dòng mẹ TGMS đang được khai thác

làm dòng mẹ của nhiều tổ hợp lai tại Việt Nam. Do vậy trên cơ sở có thêm

gene kháng bạc lá là cơ sở để chọn tạo các tổ hợp lúa lai tốt kháng bệnh bạc lá

ở nước ta. Các dòng TGMS AMS35S-KBL và AMS30S-KBL có nhiệt độ gây bất dục hoàn toàn là ≥ 23,5 0C, độ bất dục ổn định, tỷ lệ thò vòi nhụy cao (70 -

75,8%), góc mở vỏ trấu rộng, thời gian từ gieo đến trỗ 10% trong vụ Mùa 72 -

80 ngày, mức độ nhiễm bạc lá điểm 3-5 trong điều kiện nhân tạo.

Các dòng TGMS AMS35S-KBL và AMS30S-KBL có nhiều đặc điểm

của dòng mẹ tốt (Bảng 3.21) được chọn lọc bằng phương pháp chọn lọc cá thể

các dòng bất dục từ thế hệ BC4F2.

* Đánh giá GCA về năng suất của các dòng TGMS mang gen kháng bạc

lá mới chọn tạo

Bảng 3.23. Giá trị khả năng kết hợp chung của một số dòng TGMS

Dòng và cây thử Giá trị KHKH chung

M415 -1,679 Cây thử (bố) TH29 1,679

3,237 LSD0,01

2,337 LSD0,05

35S 0,474

36S -0,459

37S -0,681

D64S -1,113 Dòng (mẹ) D116ST -2,979

827S 1,967

35S-KBL 0,521

827S-KBL 2,271

5,027 LSD0,01

3,629 LSD0,05

19

Các dòng TGMS được đánh giá khả năng kết hợp chung (GCA) và

khả năng kết hợp riêng (SCA) về năng suất bằng phương pháp Line x Tester và

sử dụng Chương trình phân tích phương sai LINE*TESTER Ver 3.0 của

Nguyễn Đình Hiền (1996). Kết quả đánh giá 8 dòng TGMS là: 35S, 36S, 37S,

D64S, 116 T, 827S, 35S-KBL, 827S-KBL với hai dòng thử là: M415 và TH29

(là hai dòng đã được đánh giá là hai dòng bố có khả năng kết hợp cao và là

dòng bố tốt cho lúa lai 2 dòng) cho thấy: Khả năng kết hợp chung của 35S-

KBL và 827S-KBL có gí trị dương cao hơn các dòng khác ko có ý nghĩa ở mức

LSD0,05 nhưng cao hơn các dòng TGMS ban đầu và tỷ lệ đóng góp vào biến

động chung của Dòng là 22,138 %, của cây thử là 24,567 % và đóng góp của

Dòng * Cây thử là 53,3%.

3.3. kết quả lai tạo các tổ hợp lúa lai mới kháng bệnh bạc lá, rầy nâu

3.3.1. Lai tạo các tổ hợp lúa lai mới theo hướng kháng rầy nâu

Kết quả đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất (bảng

3.26) để ước lượng được tiềm năng của giống, trên cơ sở đó bố trí mùa vụ,

vùng sản xuất và tác động các biện pháp kỹ thuật phù hợp nhằm phát huy tối đa

ưu thế của từng yếu tố để đóng góp tốt nhất cho năng suất cuối cùng. Đánh giá

số bông hữu hiệu/khóm của các tổ hợp lai trong vụ Xuân 2016 cho thấy: hầu

hết các tổ hợp có trung bình số bông/khóm thuộc nhóm trung bình – khá và dao

động từ 5,0 – 7,0 bông/khóm, duy nhất có tổ hợp số 2 chỉ đạt trung bình 4,8

bông/khóm; Số hạt chắc/ bông khá cao và dao động từ 139 – 209 hạt/bông,

trong đó tổ hợp có số hạt/bông cao nhất là D60S/SR18 (209 hạt), các tổ hợp có

dòng mẹ mang gen kháng rầy có số hạt chắc/bông từ 159 – 204 hạt/bông, đối

chứng TH3-3 có 161 hạt/bông. Tỷ lệ lép của các tổ hợp dao động từ 1,7 –

14,0%, trong đó các tổ hợp có mẹ mang gen kháng rầy có tỷ lệ lép từ 2,4 –

10,6%, đối chứng TH3-3 là 2,1%; Khối lượng 1000 hạt của các tổ hợp dao

động từ 23,4 – 28,9 gam, trong đó các tổ hợp có mẹ mang gen kháng rầy khối

lượng 1000 hạt dao động từ 24,8 – 28,7 gam, đối chứng đạt 23,4 gam. Các tổ

hợp đều có tiềm năng năng suất cao, năng suất lý thuyết của các tổ hợp dao

động từ 9,52 – 13,6 tấn/ha, các tổ hợp có mẹ mang gen kháng rầy dao động từ

9,52 – 12,14 tấ/ha, đối chứng đạt 9,04 tấn/ha; Năng suất thực thu của các tổ

20

hợp đạt 7,67 – 9,76 tấn/ha, các tổ hợp có mẹ mang gen kháng rầy có năng suất

thực thu đạt 7,73 – 9,32 tấn/ha cao hơn hẳn so với TH3-3 (7,06 tấn/ha).

Kết quả theo dõi sâu bệnh (bảng 3.27) cho thấy: Trong vụ Xuân 2016

hầu hết các tổ hợp có mức độ nhiễm đốm sọc vi khuẩn và bệnh bạc lá từ điểm

3-5. Trong 10 tổ hợp có mẹ mang gen kháng rầy nâu nhiễm đốm sọc vi khuẩn

có 2 tổ hợp (số 8,9) nhiễm điểm 3, 5 tổ hợp (số 1, 12, 16, 17, 20) nhiễm điểm

3-5 và 3 tổ hợp (số 4, 5, 13) nhiễm điểm 5; Về bệnh bạc lá có 4 tổ hợp (số 1, 5,

8, 9) nhiễm điểm 3, 4 tổ hợp (số 12, 16, 17, 20) nhiễm điểm 3-5 và 2 tổ hợp

(4,13) nhiễm điểm 5; Khô vằn có 6 tổ hợp (số 1, 4, 8, 9, 17, 20) nhiễm điểm 1-

3 và 4 tổ hợp (số 5, 12, 13, 16) nhiễm điểm 3-5; Các sâu bệnh hại khác như đạo

ôn không xuất hiện, rầy nâu và đục thân nhiễm điểm 1-3 trên tất cả các tổ hợp

tham gia thí nghiệm.

* Đánh giá khả năng kết hợp riêng (SCA) về năng suất của các tổ hợp

lai có dòng mẹ mang gen kháng rầy nâu.

Bảng 3.33. Khả năng kết hợp riêng về năng suất thực thu

của các dòng mẹ tham gia thí nghiệm

Dòng mẹ KR142S D60S D67S KR95S Dòng bố

SR3 -2,16 1,08

SR14 -2,62 0,53

SR18 3,70 -2,85 2,27 -3,75

AIQ6 7,03 -1,55 -2,99

SR5 -3,78 0,65 -4,71 3,01 2,26 1,59 -3,57 4,51 1,33

3,27 LSD0,05

4,38 LSD0,01

Năng suất thực thu: Kết quả phân tích giá trị SCA cho thấy tổ hợp

D67S/SR14 (7,03) có giá trị khả năng kết hợp riêng cao nhất và sai khác có ý

nghĩa ở mức LSD0,01 (4,38) tiếp theo là KR95S/AIQ6 (4,51). KR142S/SR3

(3,7) có giá trị GCA cao có ý nghía ở mức LSD0,05 (3,27), 7 tổ hợp có giá trị

dương nhưng sai khác không có ý nghĩa, các tổ hợp còn lại đêu có giá trị âm.

21

Nhận xét: Qua đánh giá các tổ hợp lai thử có sự tham gia của các dòng

mẹ mang gen kháng rầy trong vụ Xuân 2016, chúng tôi chọn được 9 tổ hợp có

năng suất thực thu từ 85,1 – 93,2 tạ/ha cao hơn đối chứng TH3-3(70,6 tạ/ha)

20% trở lên, trong đó có 6 tổ hợp có dòng mẹ mang gen kháng rầy nâu là:

KR142S/SR3 (89,4 tạ/ha), KR142S/SR14 (86,6 tạ/ha), KR142S/SR18 (86,2

tạ/ha), KR95S/SR14 (93,2 tạ/ha), KR95S/AIQ6 (88,8 tạ/ha) và KR95S/SR3

(86,3 tạ/ha).

3.3.2. Lai tạo các tổ hợp lúa lai mới theo hướng kháng bạc lá

Đánh giá mức độ nhiễm bạc lá của các tổ hợp lai trong điều kiện vụ mùa

bằng lây nhiễm nhân tạo trên đồng ruộng (bảng 3.35 trang 119) cho thấy: Hầu

hết các tổ hợp lai có mẹ chưa chuyển gen kháng bạc lá có mức độ nhiễm từ

điểm 5-7, trong khi đó các tổ hợp lai có mẹ mang gen kháng bạc lá mức độ

nhiễm nhẹ hơn. Dòng mẹ AMS34S-KBL có 2 tổ hợp kháng cao điểm 1-3 (số 7,

9), 2 tổ hợp kháng điểm 3 (số 6, 8) và 1 tổ hợp kháng vừa điểm 3-5 (số 10);

Dòng mẹ AMS35S-KBL có 1 tổ hợp kháng cao điểm 1-3(số 29), 1 tổ hợp

kháng điểm 3(số 27) và 3 tổ hợp kháng vừa điểm 3-5 (số 26, 28, 30); Dòng mẹ

AMS30S-KBL có 3 dòng kháng điểm 3 (số 16, 19, 20) và 2 dòng kháng vừa

điểm 3-5 (số 17, 18), đối chứng kháng trung bình (điểm 5).

Kết quả đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các tổ

hợp lai (bảng 3.36) cho thấy: số bông/m2 của các tổ hợp dao động từ 224 – 315

bông/m2 (Số 24), trong đó có 3 tổ hợp (số 10, 12, 24) có số bông/m2 cao >270

bông.m2, 6 tổ hợp (số 8, 14, 17, 18, 22, 28) đạt 250 – 266 bông/m2.

Số hạt chắc/bông của các tổ hợp có dòng mẹ mang gen kháng bạc lá

AMS34S-KBL biến động từ 121 – 165 hạt/bông, cao hơn các tổ hợp có mẹ

AMS34S (114 – 125 hạt/bông); Các tổ hợp có dòng mẹ AMS30S-KBL có số

hạt chắc/bông biến động từ 114 – 130 hạt thấp hơn so với các tổ hợp của

AMS30S (dao động từ 119 -161 hạt); Các tổ hợp lai của dòng mẹ AMS35S-

KBL có số hạt chắc/bông dao động từ 118 – 150 hạt, cao hơn so với các tổ hợp

lai của AMS35S (98 – 136 hạt). Trong vụ mùa 2016, tỷ lệ lép của các tổ hợp

lai khá cao, biến động từ 10,2 – 23,8% trong đó cao nhất là tổ hợp số 11

22

923,8%) thấp nhất là tổ hợp số 28 (10,2%). Khối lượng 1000 hạt của các tổ hợp

giao động từ 20,8 (số 7) – 28,1 gam (số 30), đối chứng TH3-3 là 23,7g.

Năng suất lý thuyết của các tổ hợp dao động từ 64,6 (số 17) – 10,08

tấn/ha (số 28- AMS35S-KBL/R100), năng suất thực thu cao nhất đạt 7,21

tấn/ha (số 28- AMS35S-KBL/R100) trong khi tổ hợp số 23 (AMS35S/R100)

thực chất là HYT 124 có năng suất đạt 6,78 tấn/ha, tổ hợp có năng suất thấp

nhất đạt 5,21 tấn/ha (số 17- AMS30S-KBL/RP3), đối chứng đạt 5,95 tấn/ha;

Tổ hợp số 15 (AMS30S/R116) thực chất là HYT 116 có NS thực thu đạt 6,73

tấn/ha, tổ hợp số 20 (AMS30S-KBL/R116) đạt 6,94 tấn/ha, cao thứ 2 và 3

trong thí nghiệm.

* Đánh giá khả năng kết hợp riêng (SCA) về năng suất thực thu của các

dòng TGMS.

Bảng 3.42. Khả năng kết hợp riêng về năng suất thực thu

của các dòng mẹ tham gia thí nghiệm

D. Mẹ AMS34S- AMS30S- AMS35S- AMS34S AMS30S AMS35S D. Bố KBL KBL KBL

2,43 3,97 -0,81 -2,11 SR14

2,48 1,37 -0,78 -4,83 1,12 5,74 -3,56 RP3

-5,42 -5,62 -4,98 0,48 4,50 R100

-3,36 0,93 4,37 -6,53 -2,51 SR18

-2,47 5,97 -1,13 4,97 7,07 -6,91 9,40 -2,21 -1,51 R116

2,37 LSD0,05

3,16 LSD0,01

Qua lai tạo và đánh giá các tổ hợp lai theo hướng kháng bạc lá trong vụ

Mùa 2016 chúng tôi chọn được 4 tổ hợp có năng suất thực thu cao hơn đối

chứng >10% (có năng suất > 6,5 tấn/ha) là AMS35S-KBL/R100, AMS30S-

KBL/R116, AMS34S-KBL/SR18 và AMS30S/SR18, trong đó tổ hợp có năng

suất cao nhất là AMS35S-KBL/R100 (gọi là HYT 124-KBL) đạt 7,21 tấn/ha,

kháng bạc lá điểm 3-5; Tổ hợp thứ hai là AMS30S-KBL/R116 (gọi là HYT

23

116 – KBL) có năng suất thực thu đạt 6,94 tấn/ha, kháng bạc lá điểm 3, đối

chứng đạt 5,95 tấn/ha, kháng bạc lá điểm 5.

3 tổ hợp có giá trị SCA về năng suất thực cao là: AMS35S-KBL/R100

(HYT124-KBL) cho giá trị SCA cao nhất là 9,4, tổ hợp AMS30S-KBL/R116

(HYT116-KBL) là 7,07 và AMS34S-KBL/SR18 đạt giá trị SCA là 5,97.

Qua đánh giá cũng cho thấy các tổ hợp lúa lai hai dọng HYT124-KBL

và HYT116 – KBL có đặc điểm tương tự giống ban đầu tuy nhiên khả năng

kháng bạc lá được cải tiến rõ rệt. (bảng 3.43, 3.44 trang 128, 130)

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận.

1. Chọn tạo được 2 dòng TGMS mang gen kháng rầy Bph3 ở dạng đồng

hợp tử là: KR95S (D116ST/E3) mang gen kháng rầy Bph3, BphZ và KR142S

(D52S/Pokkali) mang gen kháng rầy Bph9. Các dòng TGMS này có thời gian

sinh trưởng ngắn trong vụ Mùa, độ bất dục ổn định và bất dục hoàn toàn ở nhiệt độ > 24,0 0C, tỷ lệ thò vòi nhụy cao (>70%). Dòng TGMS KR95S có khả

năng kết hợp chung cao nhất ở các tính trạng số hạt chắc/bông, năng suất lý

thuyết và năng suất thực thu, đây là những vật liệu tốt cho chọn giống lúa lai 2

dòng kháng rầy ở nước ta.

2. Chọn được 5 dòng bố có khả năng kháng rầy từ kháng trung bình đến

kháng cao, có nhiều đặc điểm tốt như tiềm năng năng suất cao, dạng hình đẹp,

khả năng cho phấn nhiều, đó là các dòng RP8 (Minh khôi 63/IS1.2-8), RP088-

48 kháng rầy nâu điểm 3; RP3(R9311/IS1.2-3) chứa gene Bph3 có khả năng

kháng rầy nâu (điểm 5), R1028-KR kháng trung bình (điểm 5) và bằng chỉ thị

phân tử sàng lọc được dòng R có gen kháng rầy nâu Bph6 là R116. Các dòng

thuần được chuyển gen kháng rầy có giá trị khả năng kết hợp chung cao, lần

lượt là RP3, R1028-KR, RPO88-48 và RP8.

3. Chọn được 2 dòng TGMS mang gen kháng bạc lá là: AMS35S-KBL

(có gen Xa4) và dòng AMS30S-KBL (có gen Xa7), hai dòng này có nhiệt độ gây bất dục hoàn toàn là ≥ 23,5 0C, độ bất dục ổn định, tỷ lệ thò vòi nhụy cao

(70 - 75,8%), mức độ nhiễm bạc lá điểm 3-5 trong điều kiện nhân tạo. Dòng

24

AMS30S-KBL và AMS35S-KBL, có giá trị khả năng kết hợp chung cao về

năng suất thực thu, ngoài ra dòng AMS35S-KBL còn có giá trị khả năng kết

hợp riêng cao hơn các dòng tham gia thí nghiệm về năng suất thực thu.

4. Chọn tạo được 3 tổ hợp lai F1 có dòng mẹ mang gen kháng bạc lá và

kháng bạc lá điểm 3-5, có năng suất thực thu cao hơn đối chứng >10% là:

AMS35S-KBL/R100, AMS30S-KBL/R116, và AMS34S-KBL/SR18, trong đó

AMS35S-KBL/R100 (gọi là HYT 124-KBL) có năng suất cao nhất (đạt 72,1

tạ/ha). Tổ hợp thứ hai là AMS30S-KBL/R116 (gọi là HYT 116 – KBL) có

năng suất thực thu đạt 69,4 tạ/ha, kháng bạc lá điểm 3, đối chứng đạt 59,5

tạ/ha, kháng bạc lá điểm 5.

5. Chọn tạo được 6 tổ hợp lai F1 có dòng mẹ mang gen kháng rầy nâu,

có năng suất thực thu từ 86,2 – 93,2 tạ/ha cao hơn đối chứng TH3-3(70,6 tạ/ha)

20% trở lên là: KR142S/SR3 (89,4 tạ/ha), KR142S/SR14 (86,6 tạ/ha),

KR142S/SR18 (86,2 tạ/ha), KR95S/SR14 (93,2 tạ/ha), KR95S/AIQ6 (88,8

tạ/ha) và KR95S/SR3 (86,3 tạ/ha).

6. Bằng phương pháp lai trở lại (backross) kết hợp chọn lọc truyền thống

và chọn lọc nhờ chỉ thị phân tử đã chuyển được các gen kháng rầy nâu, bạc lá

vào dòng bố mẹ lúa lai ở Việt Nam. Con lai F1 của các dòng bố mẹ này có tính

kháng cao hơn mà vẫn giữ được cơ bản các đặc điểm của giống ban đầu.

2. Đề nghị:

- Tiếp tục hoàn thiện và ứng dụng qui trình chọn tạo dòng bố mẹ

kháng rầy nâu, bạc lá bằng phương pháp lai trở lại (backross), kết hợp chọn lọc

truyền thống và chọn lọc nhờ chỉ thị phân tử để chuyển các gen kháng rầy nâu,

bạc lá vào dòng bố mẹ lúa lai ở Việt Nam.

- Tiếp tục làm thuần và sử dụng các dòng bố mẹ được chọn tạo trong

lai tạo chọn giống lúa lai kháng bạc lá, rầy nâu,

- Tiếp tục khảo nghiệm, nghiên cứu kỹ thuật sản xuất hạt lai, nhân

dòng mẹ các tổ hợp triển vọng đã được lựa chọn để phục vụ sản xuất.