BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

TRỊNH THỊ KIM MỸ

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NÔNG SINH HỌC VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT ĐỂ PHÁT TRIỂN HAI DÒNG CHÈ CNS-1.41, CNS-8.31 TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng

Mã số: 9620110

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP

HÀ NỘI – 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

TRỊNH THỊ KIM MỸ

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NÔNG SINH HỌC VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT ĐỂ PHÁT TRIỂN HAI DÒNG CHÈ CNS-1.41, CNS-8.31 TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng

Mã số: 9620110

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học:

1. TS. Nguyễn Hữu La

2. TS. Lê Văn Đức

HÀ NỘI – 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan rằng toàn bộ số liệu và kết quả trong luận án này là

hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố tại bất kỳ một công trình

nghiên cứu nào.

Tác giả luận án

NCS. Trịnh Thị Kim Mỹ

ii

LỜI CẢM ƠN

Công trình nghiên cứu này đã được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt

tình của tập thể thầy hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Hữu La, Phó Viện

trưởng, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. TS Lê

Văn Đức, Phó Cục trưởng, Cục trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn. Từ đáy lòng mình, tôi vô cùng biết ơn sự giúp đỡ quý báu, chân

tình đối với tập thể hướng dẫn khoa học.

Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo Viện cùng các đồng

nghiệp tại Bộ môn Công nghệ sinh học và bảo vệ thực vật – Viện Khoa học

kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. Tôi vô cùng biết ơn các thầy,

cô, Ban đào tạo sau Đại học, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã giúp

đỡ và cung cấp cho tôi những kiến thưc mới nhất liên quan đến chuyên

ngành nghiên cứu của mình.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành TS. Nguyễn Văn Thiệp,

Trưởng Bộ môn CNSH & BVTV đã cung cấp nguồn vật liệu thí nghiệm là

các giống chè ưu thế lai mới CNS - 1.41 và CNS – 8.31 cũng như đã tận tình

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực nghiệm để có được kết quả

như hiện nay.

Tôi cũng cảm ơn sự giúp đỡ của Công ty cổ phần chè Liên Sơn, Văn

Chấn, Yên Bái, Công ty cổ phần chè Sông Lô, Yên Sơn, Tuyên Quang, các

đơn vị khác tạo điều kiện về địa điểm triển khai các thí nghiệm cho tôi.

Cuối cùng cho phép tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới các thành viên

trong gia đình tôi đã luôn động viên, tiếp sức mạnh và nghị lực để tôi hoàn

thành tốt nhất trong công trình nghiên cứu này.

Tác giả luận án

NCS. Trịnh Thị Kim Mỹ

iii

DANH MỤC VIẾT TẮT

Acid deoxyribo nuleic Amplified fragment length Polymorphism Bachelor Bảo vệ thực vật Chất hòa tan Cộng sự Công thức Cộng tác viên Đối chứng Đường kính Hồ Nam ᵝ - indol - acetic acid Indolezbutyric acid potassium Marker and their application in plant genetics Kiến thiết cơ bản Kim Tuyên Naphthalene acetic acid Năng suất thực thu Nhà xuất bản Organic matter Phase altermative line Pheny boronic acid Plant growth regulators Secondary Surveilance radar Sản xuất kinh doanh Trans - cinamic acid Tiêu chuẩn ngành Tiêu chuẩn Việt Nam Trung Du Thidiazuron Theaflavins Thành phố Tetra phenylboron Thearubigins Random Amplified Polymorphic Restriction fragment Length Polymorphism Epigallocatechin gallate Reactive Oxygen Species Reactive nitrogen species ADN AFLP BA BVTV CHT CS CT CTV ĐC ĐK HN IAA IBA ISSR KTCB KT NAA NSTT NXB OM PAL PBOA PGRs SSR SXKD T-ca TCN TCVN TD TDZ TF TP TPB TR RAPD RFLD EGCG ROS RNS

iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. ii LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i DANH MỤC VIẾT TẮT ................................................................................. iii MỤC LỤC ....................................................................................................... iii

DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ iii DANH MỤC HÌNH ......................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1 Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 1 2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 3 2.1 Mục tiêu tổng quát ................................................................................... 3 2.2 Mục tiêu cụ thể ......................................................................................... 3 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................. 3 3.1 Ý nghĩa khoa học ...................................................................................... 3 3.2 Ý nghĩa thực tiễn ...................................................................................... 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 4 4.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 4 4.3. Thời gian nghiên cứu .................................................................................. 4 5. Những đóng góp mới của đề tài. .................................................................... 4

CHƯƠNG I ...................................................................................................... 6 TỔNG QUAN TÀI LIỆU CỦA ĐỀ TÀI ......................................................... 6 1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI .......................................................... 6 1.1.1. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của các dòng, giống chè. .................. 6

1.1.2. Những biện pháp kỹ thuật chủ yếu đối với cây chè ............................. 7

1.2. Tình hình nghiên cứu về chè trên thế giới ............................................ 11

1.2.1. Nghiên cứu về giống chè trên thế giới .................................................. 11

1.2.2. Ứng dụng công nghệ chỉ thị phân tử và nuôi cấy cứu phôi trong chọn

tạo giống chè trên thế giới .............................................................................. 13

1.2.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học của cây chè ................................ 15

1.2.4. Tình hình nghiên cứu kỹ thuật canh tác chè trên thế giới ................ 18

v

1.3. Nghiên cứu về chè ở Việt Nam .............................................................. 37 1.3.1. Nghiên cứu về giống ............................................................................ 37

1.3.2. Tình hình nghiên cứu đặc điểm sinh vật học của cây chè Việt Nam .. 39

1.3.3. Những nghiên cứu về nhân giống vô tính chè ở Việt Nam ................ 42

1.3.4. Nghiên cứu về đặc tính chất lượng nguyên liệu búp chè ................... 44

1.3.5. Nghiên cứu về một số biện pháp kỹ thuật canh tác chè trong giai

đoạn kiến thiết cơ bản ở Việt Nam ................................................................ 45

1.4. Những nhận định về tổng quan của nghiên cứu .................................... 51 CHƯƠNG II ................................................................................................... 53 VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 53

2.1. Vật liệu nghiên cứu ............................................................................. 53 2.1.1. Giống chè .............................................................................................. 53

2.1.2. Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật .......................................................... 54

2.1.3. Thiết bị, dụng cụ thí nghiệm ................................................................ 54

2.2. Nội dung nghiên cứu............................................................................... 55 2.2.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của hai dòng chè mới

CNS-1.41 và CNS-8.31 ................................................................................... 55

2.2.2. Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu phát triển hai dòng 55

2.3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 56 2.3.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của hai dòng chè mới

CNS-1.41 và CNS-8.31. .................................................................................. 56

2.3.2.Phương pháp nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác hai dòng

chè CNS-1.41 và CNS-8.31. ............................................................................ 59

2.4. Phương pháp xử lý số liệu ....................................................................... 65 CHƯƠNG III .................................................................................................. 66 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .............................................. 66 3.1. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của hai dòng chè mới CNS-1.41 và

CNS-8.31. ........................................................................................................ 66 3.1.1. Đặc điểm hình thái hai dòng chè nghiên cứu ...................................... 66

vi

3.1.2. Nghiên cứu sinh trưởng hai dòng chè CNS -1.41 và CNS - 8.31. ....... 75

3.1.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng chè ........ 84

3.1.4. Nghiên cứu chất lượng của hai dòng chè mới .................................... 85

3.1.5. Khả năng sống sót của cây con sau trồng ở điều kiện tự nhiên .......... 93

3.1.6. Đánh giá khả năng nhiễm một số loài sâu hại chủ yếu ....................... 94

3.2. Nghiên cứu một số biện pháp canh tác chủ yếu phát triển 2 dòng chè giai đoạn kiến thiết cơ bản ............................................................................. 96

3.2.1. Nghiên cứu mật độ và phương thức trồng hai dòng chè mới ............. 96

3.2.2. Nghiên cứu kỹ thuật đốn tạo hình hai dòng chè CNS-1.41, CNS-8.31

giai đoạn KTCB ............................................................................................ 108

3.2.3. Nghiên cứu kỹ thuật hái đối với hai dòng chè CNS-1.41, CNS-8.31 113

3.2.4. Nghiên cứu liều lượng phân bón N, P, K cho hai dòng chè CNS – 1.41

và CNS – 8.31 ................................................................................................ 117

3.2.5. Nghiên cứu nhân giống vô tính hai dòng chè CNS- 1.41, CNS........123

3.3. Khảo nghiệm hai dòng chè mới ............................................................ 141 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .......................................................................... 146 1.Kết luận ...................................................................................................... 146 2.Đề nghị ....................................................................................................... 149 CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ .......................................................... 150 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 151 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 151

vii

Bảng 3.1: Đặc điểm hình thái lá các dòng /giống chè ....................................... 66

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.2. Kích thước lá các dòng/giống chè nghiên cứu .................................. 69 Bảng 3.3. Một số đặc điểm búp các dòng/giống chè nghiên cứu ....................... 71 Bảng 3.4. Đặc điểm hom chè giống và sản lượng hom chè của 2 dòng chè CNS- 141 và CNS-831 tuổi 3 tại Phú Hộ ................................................................... 73 Bảng 3.5. Đặc điểm sinh trưởng thân cành của các dòng/giống chè ................. 75

Bảng 3.6. Đặc điểm sinh trưởng các dòng/giống chè ........................................ 79 Bảng 3.7. Đặc điểm sinh trưởng các dòng/giống chè ........................................ 80

Bảng 3.8. Thời gian các đợt sinh trưởng búp của hai dòng chè ........................ 82 Bảng 3.9. Tốc độ tăng trưởng chiều dài búp của hai dòng chè .......................... 83 Bảng 3.10. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các dòng chè....... 84 Bảng 3.11. Thành phần cơ giới búp chè 1 tôm 3 lá của các dòng/giống chè ở Phú Hộ, 2017 .......................................................................................................... 86 Bảng 3.12: Thành phần hóa học chủ yếu trong chè xanh .................................. 88 Bảng 3.13:Thành phần hóa học chủ yếu trong chè đen của các dòng chè ......... 90 Bảng 3.14: Chất lượng cảm quan chè xanh các dòng/giống chè ....................... 91 Bảng 3.15: Chất lượng cảm quan chè đen các dòng/giống chè ở Phú Hộ.......... 93 Bảng 3.16: Tỷ lệ sống của cây sau trồng ở điều kiện tự nhiên ......................... 94 Bảng 3.17. Tình hình một số sâu hại chính trên hai dòng chè ........................... 95 Bảng 3.18. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của dòng chè CNS- 1.41 tuổi 1 ở Phú Hộ ........................................................................................ 97

Bảng 3.19. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của dòng chè CNS- 8.31 tuổi 1 ở Phú Hộ ........................................................................................ 98 Bảng 3.20: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng phát triển hai dòng chè CNS – 1.41, CNS – 8.31 tuổi 3 ...................................................................... 100 Bảng 3.21. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của hai dòng chè mới tuổi 3 ở Phú Hộ, 2018 .................................. 102 Bảng 3.22. Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng của dòng chè CNS- 1.41 tuổi 2 tại Phú Thọ ................................................................................... 108

viii

Bảng 3.23: Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS - 1.41, CNS – 8.31 tuổi 3 tại Phú Thọ ................................................................................ 114 Bảng 3.24: Ảnh hưởng của lượng phân bón đến sinh trưởng và năng suất cho dòng chè CNS-1.41 tuổi 3 tại Phú Thọ, 2018 ................................................. 118 Bảng 3.25. Hiệu quả kinh tế của thí nghiệm bón phân đối với các dòng chè CNS-141 và CNS-831 tuổi 3 tại Phú Hộ, 2018 ............................................... 122 Bảng 3.26. Sản lượng hom giống các dòng chè CNS-141 và CNS-831 .......... 124

Bảng 3.27. Sinh trưởng của cành chè giống của 2 dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31 tuổi 3 tại Phú Hộ .................................................................................. 126 Bảng 3.28. Tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ nảy mầm loại hom hai dòng chè ...................... 128

Bảng 3.29. Sinh trưởng cây chè ươm từ một số loại hom của hai dòng chè tại Phú Hộ, 2018, sau ươm 10 tháng .................................................................... 130 Bảng 3.30. Sinh trưởng cây chè ươm ở một số thời vụ tại Phú Hộ ................. 136 Bảng 3.31. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các năm 2016-2019 hai dòng chè mới tại Phú Hộ, Phú Thọ. ........................................ 141 Bảng 3.32. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các năm 2016- 2019 hai dòng chè mới tại Yên Sơn, Tuyên Quang ........................................ 143 Bảng 3.33. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các năm 2016- 2019 hai dòng chè mới tại Văn Chấn, Yên Bái ............................................... 144

ix

Hình 3.1. Lá chè ............................................................................................... 67

DANH MỤC HÌNH

Hình 3.2. Búp chè ............................................................................................ 72 Hình 3.3. Cành hom chè ................................................................................... 74 Hình 3.4. Vườn hom giống ............................................................................... 74 Hình 3.5. Cây chè con ...................................................................................... 78 Hình 3.6. Phân cành thấp và nhiều, làm cho tán chè nhanh lớn và rộng ............ 78

Hình 3.7. Một số sâu hại chính trên hai dòng chè mới tại Phú Hộ .................... 95 Hình 3.8. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của CT3 tuổi 1 ........... 99

Hình 3.9. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng MĐ3 tuổi 3 .............. 101 Hình 3.10. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất 2 dòng chè ................ 103 Hình 3.11 . Thí nghiệm mật độ trồng.............................................................. 107 Hình 3.12 . Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng dòng ...................... 109 Hình 3.13. Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng dòng ....................... 110 Hình 3.14. Chè 1 năm tuổi đủ tiêu chuẩn đốn ................................................. 112 Hình 3.15. Cây chè phát triển cành, tạo tán mới sau đốn ................................ 113 Hình 3.16. Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS – 1.41….115 Hình 3.17. Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS – 8.31….116 Hình 3.18. Ảnh hưởng liều lượng phân bón đến năng suất hai dòng chè ........ 120 Hình 3.19. Hom chè giống ............................................................................. 125 Hình 3.20. Ảnh hưởng của loại hom đến tỷ lệ xuất vườn của dòng/giống....... 134 Hình 3.21. Ảnh hưởng của thời vụ đến tỷ lệ xuất vườn của dòng/giống ......... 139

Hình 3.22. Thí nghiệm giâm hom ................................................................... 140

1

MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Chè là cây công nghiệp lâu năm, có nhiệm kỳ kinh tế từ 30 - 40 năm

và có thể còn lâu hơn nữa. Cây chè thích hợp với khí hậu, đất đai ở vùng

trung du và miền núi, được trồng ở 34 tỉnh thành trên cả nước, tạo công ăn

việc làm và nguồn lợi đáng kể cho trên 6 triệu lao động ở các vùng chè. Trồng

chè còn có vai trò to lớn trong việc phủ xanh đất trống đồi núi trọc, giảm thiểu

xói mòn. Do ý nghĩa về kinh tế, xã hội và môi trường mà cây chè đã có vị trí

quan trọng trong cơ cấu cây trồng của các tỉnh Trung du miền núi. Cây chè đã

và đang là cây trồng chủ lực ở nhiều tỉnh miền núi phía Bắc.

Được sự quan tâm của nhà nước, nỗ lực của người sản xuất và doanh

nghiệp trong những năm gần đây sản xuất chè phát triển theo hướng thay thế

giống chè mới năng suất cao, chất lượng tốt, đẩy mạnh thâm canh, tăng năng

suất và đa dạng hóa sản phẩm. Tính đến năm 2017 diện tích chè cho thu

hoạch cả nước đạt trên 123.188 ha, sản xuất 260 nghìn tấn chè khô

(FAOSAT, 2019) [70], năm 2018, diện tích chè cả nước là 123,7 ngàn ha, sản

lượng đạt 987,3 ngàn tấn búp chè tươi, chỉ số phát triển sản lượng so với năm

2017 là 101,6% (Niên giám thống kê Việt Nam, 2018) [46]. Mặc dù năng suất

đạt mức năng suất bình quân của thế giới, nhưng giá trị sản xuất chè còn thấp.

Giá bán bình quân chỉ bằng khoảng 60% giá chè của thế giới. Trong đó chưa

có nhiều giống tốt năng suất và chất lượng cao cũng là nguyên nhân quan

trọng, mặc dù trong những năm qua có nhiều giống chè mới được tạo ra bằng

các phương pháp lai hữu tính, nhập nội thuần hóa giống như LDP1, LDP2,

PH8, PH10, Kim Tuyên, Thúy Ngọc, Phúc Vân Tuyên,... (Đ.V. Ngọc và cs,

2009; N.V. Toàn, 2016) [21], [45].

Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ sinh học, trên thế giới các

nhà khoa học đã áp dụng kỹ thuật phân tử và nuôi cấy mô tế bào nâng cao

2

hiệu quả của công tác giống chè (L. T. Nghĩa, 2010) [14]. Trong nước, Viện

Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc và Viện Di truyền

nông nghiệp đã nghiên cứu áp dụng kỹ thuật phân tử và nuôi cấy phôi trong

tạo giống chè mới và đã tạo ra những dòng chè mới có triển vọng (L. T.

Nghĩa, 2010; N.V Thiệp, 2016) [14], [37]. Những nghiên cứu này sử dụng các

chỉ thị phân tử Microsatellite xác định sự khác biệt di truyền của 96 mẫu

giống chè trong quần thể giống khởi đầu nhằm lựa chọn các cặp lai có khoảng

cách di truyền phù hợp có khả năng tạo ra giống mới có ưu thế lai cao. Một số

cặp giống bố mẹ đáp ứng yêu cầu được lựa chọn, trong đó có cặp lai giữa

giống Trung Du và giống Hồ Nam có khoảng cách di truyền 0,589, cặp lai

giữa giống Trung Du và giống Kim Tuyên có khoảng cách di truyền 0,644.

Sau khi lai, tiến hành nuôi cấy phôi F1 và chọn lọc sớm từ giai đoạn in vitro,

kết quả đã chọn ra được hai dòng chè mới CNS - 1.41 và CNS - 8.31 có

những đặc điểm ưu thế lai rõ rệt, thể hiện nhiều tính trội, sinh trưởng khỏe,

phân cành sớm, búp non lâu, sớm cho thu hoạch, năng suất cao, tính chống

chịu và chất lượng tốt (L. T. Nghĩa, 2010; C. T. Huyền, 2012) [14], [10]. Do

những đặc tính ưu tú vượt trội mà hai dòng chè mới CNS - 1.41 và CNS -

8.31 hoàn toàn có thể đáp ứng tốt yêu cầu của sản xuất về nâng cao năng suất

và chất lượng chè. Để phát triển nhanh hai dòng chè này vào sản xuất, cần

thiết phải đánh giá một cách hệ thống về sinh trưởng, năng suất, chất lượng và

xác định biện pháp kỹ thuật phù hợp để phát huy tiềm năng của giống mới, có

cơ sở khoa học và thực tiễn triển khai giống chè mới vào sản xuất đạt hiệu

quả cao. Xuất phát từ những vấn đề trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài

“Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học và một số biện pháp kỹ thuật để

phát triển hai dòng chè CNS-1.41, CNS-8.31 tại các tỉnh miền núi phía

Bắc”.

3

2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1 Mục tiêu tổng quát

Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển và một số biện pháp kỹ

thuật nhằm hoàn thiện quy trình và đưa nhanh hai dòng chè CNS-1.41, CNS-

8.31 vảo sản xuất tại vùng miền núi phía Bắc

2.2 Mục tiêu cụ thể

- Đánh giá được đặc điểm sinh trưởng, phát triển của 2 dòng chè CNS-

1.41 và CNS-8.31.

- Xác định được một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu nhằm phát triển hai

dòng chè mới vào sản xuất.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

3.1 Ý nghĩa khoa học

Đề tài luận án nghiên cứu một cách hệ thống về đặc điểm nông học, sinh

học và biện pháp kỹ thuật phát triển hai dòng chè mới CNS-1.41 và CNS-8.31

được chọn tạo bởi phương pháp ứng dụng kỹ thuật phân tử và kỹ thuật nuôi

cấy phôi trong chọn tạo giống chè ở Việt Nam;

Kết quả nghiên cứu đặc trưng, đặc tính của hai dòng chè CNS-1.41 và

CNS-8.31, bổ sung thêm tư liệu khoa học về khả năng thích ứng của chúng

trong sản xuất chè ở một số tiểu vùng sinh thái khác nhau của vùng miền núi

phía Bắc.

Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung những tài liệu khoa học

có giá trị lý luận khoa học và giảng dạy cây chè.

3.2 Ý nghĩa thực tiễn

Đánh giá được đặc điểm sinh trưởng, phát triển chủ yếu cho năng suất,

chất lượng của hai dòng chè CNS-1.41, CNS-8.31 làm cơ sở khoa học cho

việc bố trí cơ cấu giống, định hướng phát triển sản phẩm chè cho vùng trung

du miền núi phía Bắc.

4

Kết quả nghiên cứu làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện quy trình sản xuất

cho hai dòng chè mới CNS-1.41, CNS-8.31 để áp dụng trực tiếp vào sản xuất,

nâng cao hiệu quả của sản xuất chè hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu hai dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 được chọn tạo bởi

phương pháp ứng dụng kỹ thuật phân tử và kỹ thuật nuôi cấy phôi đã thụ

phấn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Nghiên cứu đặc điểm nông học, đặc điểm sinh trưởng, phát triển, chất

lượng hai dòng chè mới CNS-141 và CNS-831;

- Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu để phát triển hai dòng

chè mới;

- Địa điểm nghiên cứu tại Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía

Bắc (Phú Hộ, Phú Thọ); Công ty Cổ phần chè Sông Lô (Yên Sơn, Tuyên

Quang); Công ty Cổ phần chè Liên Sơn (Văn Chấn, Yên Bái).

4.3. Thời gian nghiên cứu

Đề tài được tiến hành từ năm 2015 đến năm 2019

5. Những đóng góp mới của đề tài.

Lần đầu tiên cung cấp những dẫn liệu một cách hệ thống về sinh

trưởng, năng suất, chất lượng và kỹ thuật canh tác đối với hai dòng chè mới

CNS-1.41, CNS-8.31 được tạo ra bằng ứng dụng kỹ thuật phân tử và công

nghệ nuôi cấy mô tế bào.

Xác định những đặc điểm nông sinh học chủ yếu hai dòng chè mới CNS-

1.41, CNS-8.31 làm cơ sở khoa học cho việc trồng trọt và chế biến trong sản

xuất: Búp của hai dòng chè dài 9-13 cm, non lâu, hàm lượng xơ thấp thuận lợi

cho áp lực thời gian thu hoạch vẫn đảm bảo chất lượng nguyên liệu cho chế biến

5

ra sa sản phẩm chất lượng tốt; hai dòng chè mới phân cành thấp ở độ cao 2,0-3,6

cm, số cành cấp 1, cấp 2 ở cây chè tuổi 1 nhiều từ 15,9 - 25,7 cành/ cây và 23,6 -

39,0 cành/ cây làm cho cây chè có tán rộng, sớm cho thu hoạch;

Xác định hai dòng chè mới CNS-1.41, CNS-8.31 có khả năng sinh

trưởng và phát triển tốt và đáp ứng yêu cầu của sản xuất chè hiện nay về thay

thế giống chè cũ bằng giống chè mới năng suất cao, chất lượng tốt: Dễ nhân

giống vô tính với hệ số nhân giống cao (vườn chè tuổi 3 có sản lượng hom

2,92-3,66 triệu hom/ha), sản xuất cây giống có tỷ lệ xuất vườn cao 87,9-

88,8%; năm thứ hai đã có thể đưa vào thu hoạch, năng suất đạt 5,22 - 7,36 tấn

búp tươi/ha/năm, 3 năm tuổi năng suất 9,72 - 13,68 tấn/ha/năm; hàm lượng tanin

24,47 - 25,51%, axit amin 2,45-2,56%, catechin 137,12-145,75% phù hợp cho

chế biến cả chè xanh (điểm cảm quan 16,43-17,94 điểm) và chè đen (điểm cảm

quan 17,5-18,6 điểm) chất lượng tốt;

Xác định được một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu để nâng cao năng suất

chất lượng nguyên liệu búp chè hai dòng chè mới CNS-1.41, CNS-8.3: Mật độ

trồng phù hợp từ 1,66 đến 1,85 vạn cây/ha, phương thức trồng hàng kép; đốn

tạo hình lần 1 thân chính 15-20 cm, cành bên 35 cm so với mặt đất làm cho

vườn chè sớm giao tán, tăng mật độ búp, sớm đạt năng suất cao; bón tăng

phân khoáng 40%, năng suất chè cao hơn đối chứng 50,89 - 51,23%, lợi

nhuận tăng 60,78-76,32%;

Xây dựng được một số mô hình trồng hai dòng chè mới có hiệu quả cao

trong sản xuất tại các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang và Yên Bái.

6

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN TÀI LIỆU CỦA ĐỀ TÀI

1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

1.1.1. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của các dòng, giống chè.

Những đặc điểm sinh trưởng, phát triển của cây chè là kết quả phản ánh

tổng hợp giữa các đặc tính của giống với điều kiện ngoại cảnh. Nghiên cứu

đặc điểm sinh trưởng của giống trong từng điều kiện sinh thái cụ thể giúp ta

đánh giá được khả năng thích ứng của giống, từ đó đề ra các biện pháp kỹ

thuật canh tác hợp lý, tạo điều kiện cho cây chè sinh trưởng tốt, cho năng suất

cao. Mỗi một giống chè đều yêu cầu chế độ dinh dưỡng, biện pháp kỹ thuật

canh tác, thu hái búp phù hợp, cùng với công nghệ chế biến từng loại sản

phẩm nâng cao giá trị cây chè. Nghiên cứu về đặc tính sinh trưởng phát triển

của cây chè là cơ sở đề xuất các biện pháp kỹ thuật hợp lý cho mỗi giống chè.

Búp chè được hình thành từ các mầm sinh dưỡng, gồm có tôm và các lá

non. Quá trình sinh trưởng của búp chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bên

ngoài lẫn bên trong, khối lượng búp thay đổi tùy giống. Vườn chè bón nhiều

phân, búp sẽ lớn hơn vườn chè thiếu phân, khối lượng búp chè còn phụ thuộc

vào một số yếu tố kỹ thuật canh tác khác như đốn, hái và điều kiện địa lý nơi

trồng trọt (Đỗ Ngọc Quỹ, 1980) [27].

Bộ rễ thực vật nói chung và cây chè nói riêng là cơ quan dinh dưỡng của

cây dưới đất, nó có nhiệm vụ làm giá đỡ cho cây, giữ chặt cây vào đất, hút

nước và các chất dinh dưỡng cung cấp cho các hoạt động sống của cây. Trong

nhiều trường hợp rễ còn làm chức năng dự trữ, tổng hợp các hợp chất hữu cơ

khác nhau cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây (Nguyễn Đình

Vinh, 2002) [49]. Sự phát triển của bộ rễ và bộ lá có quan hệ chặt chẽ với

nhau và hỗ trợ nhau. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mùa đông khi cành lá

7

ngừng sinh trưởng thì bộ rễ phát triển; mùa xuân khi búp chè sinh trưởng

mạnh, thì bộ rễ phát triển chậm lại và tiếp tục như vậy khi bộ rễ phát triển

chậm thì lá và búp sẽ sinh trưởng nhanh. Quá trình phát triển bộ rễ có 4 – 5

đỉnh cao trong 1 năm, sinh trưởng lúc nhanh lúc chậm, xen kẽ với sự phát

triển của bộ lá, lúc chậm lúc nhanh (Rahman F, Dutta A.K, 1988) [97].

1.1.2. Những biện pháp kỹ thuật chủ yếu đối với cây chè

1.1.2.1. Nhân giống vô tính bằng giâm cành chè

Đối với thực vật nói chung, cây chè nói riêng có khả năng tái sinh từ

các bộ phận của các cơ quan sinh dưỡng như: lá, chồi, thân, rễ. Nếu đưa các

bộ phận của chúng vào môi trường thích hợp nó sẽ phát triển thành rễ, mầm

và hình thành cây con. Phương pháp giâm cành chè là sử dụng một bộ phận

gồm đoạn thân lá (cơ quan dinh dưỡng) để tái sinh ra cây chè mới (Đỗ Ngọc

Quỹ, Nguyễn Văn Niệm, 1979) [25].

1.1.2.2. Mật độ trồng chè

Mật độ trồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Giống, địa hình, phương thức

canh tác thủ công hay cơ giới hóa, mức độ đầu tư phân bón, tưới nước. Vì

vậy, mật độ trồng chè không có mật độ thích hợp nhất, mà chỉ có giới hạn

trên, khi mật độ đạt tới giới hạn đó thì sản lượng sẽ không tăng lên nữa.

+ Xác định mật độ cho từng đối tượng chè nhằm tận dụng tốt không

gian, diện tích đất và cho sản lượng cao nhất.

Những giống chè biến chủng Trung Quốc lá nhỏ, giống chè lai LDP1,

Đại Bạch Trà, Yabukita, Kanayamidori.... khi trồng tập trung quy mô công

nghiệp, có đốn hàng năm nên trồng ở các mật độ khoảng cách sau: Khoảng

cách (m) 1,2 x 0,4 – 0,5, 1,3 x 0,4 – 0,5, 1,4 x 0,4 – 0,5, 1,5 x 0,45 – 0,5

(trồng kép), mật độ 20.833 – 16.667, 19.231 – 15.385, 17.857 – 14.285,

29.690 – 26.666 cây/ha (khoảng cách giữa hai hàng trồng kép là 40 cm) (Đỗ

Ngọc Quỹ, Nguyễn Kim Phong, 1997; Đỗ Ngọc Quỹ, 1980) [26], [27].

8

Những giống chè thuộc biến chủng chè Shan, biến chủng Trung Quốc lá

to, khoảng cách trồng 1,5 x 0,4 – 5, 1,5 x 0,60 – 0,70 (trồng kép), 1,75 x 0,4 –

0,45, 1,75 x 0,5 – 0,6. Mật độ (cây/ha) 14.845 – 13.333, 22.222 – 19.048,

14.286 – 12.698 (áp dụng cơ giới hóa), 11.428 – 9.524.

Căn cứ vào điều kiện sinh trưởng của từng giống mà xác định mật độ

trồng thích hợp. Dạng cây có vòm tán thẳng đứng phù hợp với mật độ trồng

dày hơn những giống chè có dạng tán hình mâm xôi.

Dựa vào phương thức canh tác, xác định mật độ trồng phù hợp: canh

tác thủ công, có thể trồng mật độ cao hơn; khi áp dụng cơ giới hóa nên lựa

chọn khoảng cách hàng phù hợp với đặc tính kỹ thuật của máy. (Đỗ Văn

Ngọc và CS, 2010) [22].

1.1.2.3. Đốn chè

Dựa vào giai đoạn phát dục của cây chè, các vị trí của cành trên cây khác

nhau thì có tuổi phát dục khác nhau, cành phía trên cao thường có tuổi phát

dục lớn nên nhanh ra hoa kết quả, sinh trưởng dinh dưỡng yếu. Vì vậy cần

được đốn để kích thích các mầm bên dưới mọc lên sinh trưởng dinh dưỡng

khỏe hơn, chậm ra hoa hơn.

Đốn chè là một biện pháp kỹ thuật canh tác đặc thù đối với cây chè. Đốn

là cắt bỏ một phần sinh khối (thân, cành, lá) của cây tùy vào mục tiêu tạo tán

và điều kiện sinh trưởng sinh dưỡng của cây chè .

Đốn chè kiến thiết cơ bản (KTCB) làm cho cây chè bộ khung tán rộng,

cành cơ bản to khỏe, phân cành đều, tăng bề mặt hái chè, tăng số lượng búp,

búp mập, làm cơ sở cho tăng năng suất. Tạo cây chè có chiều cao tán hợp lý

cho việc thu hái. Phương pháp đốn giai đoạn đầu, Đỗ Văn Ngọc 1991 [17] đã

đề xuất như sau:

Đốn lần 1 khi nương chè sinh trưởng tốt có 70% cây cao 65 – 70 cm,

đường kính gốc 1,0 cm trở lên thì đốn tạo hình lần 1:

9

+ Đốn lần 1 (chè 2 tuổi) thân chính cách mặt đất 13 – 15 cm, đốn cành

bên cách mặt đất 30 - 35 cm, giữ bộ lá.

+ Đốn lần 2 (3 tuổi) cách mặt đất 30 – 35 cm, giữ bộ lá.

+ Đốn lần 3 (4 tuổi) cách mặt đất 40 – 45 cm, tán bằng hay mâm xôi, tùy

theo đốn máy hoặc đốn tay.

1.1.2.4. Thu hái búp chè

Búp chè là sản phẩm cuối cùng của trồng trọt, đồng thời là nguyên liệu

khởi đầu cho quá trình chế biến. Hái đúng kỹ thuật làm tăng năng suất, chất

lượng sản phẩm và tạo cho cây chè sinh trưởng khoẻ, bền vững. Năng suất

búp chè có quan hệ chặt với số lá trên cây. Với đặc điểm của cây chè mỗi một

búp sinh ra từ 1 nách lá, do vậy nhiều lá mới có nhiều búp, năng suất cao. Cho

nên, việc giữa hái búp và chừa lá có tương quan chặt đến năng suất chè (Đỗ

Văn Ngọc, Nguyễn Thị Ngọc Bình, 2009) [20].

Số lượng búp, khối lượng búp là những chỉ tiêu tương quan chặt với

năng suất, trong đó số lượng búp là yếu tố biến động lớn, phụ thuộc vào nhiều

yếu tố. Khối lượng búp ngoài phụ thuộc vào giống, còn phụ thuộc vào kỹ

thuật hái lá, nếu hái đi nhiều lá thì khối lượng búp lớn, sản lượng tăng, song

tỷ lệ xơ gỗ cao do đó ảnh hưởng không tốt đến chất lượng chè thành phẩm.

Hái non thì hàm lượng tanin, chất hòa tan (CHT) cao nhưng hàm lượng

đường thấp và ngược lại, (Đỗ Văn Ngọc, Trịnh Văn Loan, 2008) [19].

Ngoài ra hái chè liên quan trực tiếp đến sử dụng lao động và khả năng

cơ giới hóa. Hái chè non do số lứa hái nhiều nên tốn công và hiệu quả lao

động thấp. Hái chè già hơn số công hái ít hơn và hiệu quả lao động cao; cùng

với kỹ thuật hái chè khác nhau, việc tạo được mặt tán bằng sẽ là cơ sở tốt cho

kỹ thuật hái chè bằng máy để giữ được sản lượng ổn định, lâu dài.

Để chế biến các loại chè khác nhau yêu cầu về chất lượng nguyên liệu

búp chè cũng khác nhau. Để chế biến chè xanh, chè đen, người ta thường thu

10

hái búp gồm tôm và 2-3 lá non, chế biến chè oolong thì hái búp tôm 3 lá

trưởng thành trên cành chè 5 - 6 lá ... Nếu chất lượng nguyên liệu búp chè tốt

thì chế biến các loại chè sẽ có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị

trường tiêu dùng và ngược lại. Đó là cơ sở khoa học cho sự lựa chọn kỹ thuật

thu hái hợp lý của các dòng chè được tiến hành nghiên cứu để từ đó có thể

nâng cao chất lượng nguyên liệu búp chè phù hợp cho chế biến chè xanh, chè

đen chất lượng cao.

1.1.2.5. Bón phân cho chè

Cây chè có khả năng thích ứng với điều kiện dinh dưỡng rất rộng, nó có

thể sống ở nơi đất màu mỡ song cũng có thể sống ở nơi đất cằn cỗi, nghèo

kiệt dinh dưỡng mà vẫn cho năng suất nhất định. Tuy nhiên, để có nương chè

cho năng suất cao, chất lượng tốt, có nhiệm kỳ kinh tế dài cần phải xây dựng

chế độ bón phân hợp lý cho chè, cung cấp đầy đủ và cân đối phân bón đa

lượng trên nền phân hữu cơ cung cấp chất vi lượng cho đời sống cây chè.

Phân đạm có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định năng suất chè, kích

thích cho mầm và búp phát triển tạo ra năng suất.

Phân lân (P2O5): có hiệu lực nhất định đối với cây chè. Tác dụng của

lân chủ yếu là kích thích bộ rễ phát triển từ đó nâng cao khả năng hấp thu chất

dinh dưỡng, kiến tạo năng suất và nâng cao chất lượng chè thương phẩm.

Phân kali (K2O): Nhu cầu kali của cây chè tương đối cao, kali đóng vai

trò quan trọng trong hoạt tính enzyme, nước tương đối, protein quang hợp và

tổng hợp tinh bột. Kali làm tăng khả năng chống chịu của cây chè, còn cải

thiện chất lượng chè. Do vậy, cần cung cấp đủ kali để đạt năng suất kinh tế tối

ưu và chất lượng mong muốn.

Phân hữu cơ: Có vai trò rất quan trọng, nó không những cung cấp chất

dinh dưỡng trực tiếp cho chè mà còn cải thiện lý tính đất như làm cho đất tơi

xốp, có kết cấu viên, làm tăng khả năng thấm và giữ nước của đất, làm tăng

11

sự hoạt động của các hệ vi sinh vật trong đất, làm tăng các thành phần dinh

dưỡng N, P, K và các nguyên tố vi lượng khác trong đất (Nguyễn Thị Ngọc

Bình, 2007 [2], Nguyễn Văn Chiến, 2008) [3].

Để sản xuất 1000kg chè khô, cây chè đã lấy đi từ đất tổng số 91 kg N,

20,1 kg P2O5 và 40,7 kg K2O, mặt khác cỏ dại không kiểm soát được cũng lấy

đi một lượng lớn chất dinh dưỡng (Willson K.C. & Clifford M.N, 1992)

[119]. Hàng năm chúng ta hái đi từ 5 – 10 tấn búp tươi/ha và đốn đi một

lượng thân lá đáng kể trong đó có N, P, K và các chất khoáng khác, hơn nữa

hàng năm một lượng dinh dưỡng đáng kể trong đất bị rửa trôi, xói mòn. Do

vậy, cần phải bón bổ sung lượng dinh dưỡng để cây chè sinh trưởng tốt, đáp

ứng yêu cầu năng suất, chất lượng cho người sản xuất chè. Trên cơ sở đó, cần

xây dựng chế độ bón phân hợp lý cho cây chè (Đinh Thị Ngọ, 1996) [16].

1.2. Tình hình nghiên cứu về chè trên thế giới

1.2.1. Nghiên cứu về giống chè trên thế giới

Chè là cây lâu năm trồng 1 lần thu hoạch nhiểu lần, nhiệm kỳ kinh tế có

thể tới 40 – 50 năm, đầu tư trồng chè cao hơn nhiều lần so với các cây trồng

ngắn ngày khác, không thể phá đi trồng lại hàng năm được. Do vậy, công tác

giống chè được quan tâm ở tất cả các nước trồng chè.

Tại Ấn Độ

Eden T. (1958) [69] cho rằng, những giống chè ở Trung Quốc, Ấn Độ có

nhiều dạng khác nhau, có khả năng sinh trưởng và cho năng suất khác nhau,

quan sát 200 cây chè trên nương chè, có những cây cho sản lượng cao gấp 3

lần so với năng suất trung bình và gấp tới 20 lần so với cây cho sản lượng

thấp nhất. Do vậy chọn dòng từ những cây chè tốt có ý nghĩa quan trọng trong

việc nâng cao năng suất vườn chè. Bằng phương pháp chọn lọc cá thể tại

Tocklai đã chọn ra các giống TV1, TV23 có sản lượng và chất lượng khá.

12

Tại Trung Quốc

Trung Quốc là quốc gia sản xuất chè hàng đầu thế giới. Nghiên cứu sử

dụng giống chè tốt được các nhà khoa học Trung Quốc quan tâm từ rất sớm.

Ngay từ đời nhà Tống, Trung Quốc đã có 7 giống chè tốt ở Vũ Di Sơn. Các

giống chè Thủy Tiên (1921 – 1850), Đại Bạch Trà (1850), Thiết Quan Âm đã

có từ hơn 200 năm về trước đều là những giống chè chiết cành (Nguyễn Văn

Toàn, Trần Thị Lư, Nguyễn Văn Niệm) (1998) [43].

Hiện nay Trung Quốc chủ yếu chọn giống theo hướng chất lượng rất tốt

cho cả chế biến chè xanh và chè đen như Phúc Vân Tiên (1957 – 1971), Hoa

Nhật Kim, Hùng Đỉnh Bạch, Phú Thọ 10, Long Vân 2000, các giống chè có

chất lượng nổi tiếng như Đại Bạch Trà, Thiết Quan Âm, Long Tỉnh… Đến

nay đã có 134 giống chè quốc gia được đăng ký và hơn 200 giống chè cấp

tỉnh ở Trung Quốc. Những giống chè này phù hợp để chế biến trà xanh, trà

đen, trà ô long, trà trắng, trà vàng và trà xanh đậm tương ứng. Năm 1950

được chia là 4 giai đoạn, giai đoạn chọn giống năng suất cao, giai đoạn chọn

giống chất lượng, giai đoạn chọn giống kháng sâu bệnh và giai đoạn mục tiêu

chọn giống đa dạng (Liang Yueron, ShinYounghwa, Zhang Longji, Wang

Kairon, 2019) [84].

Tại Sri Lanka

Srilanka cũng là quốc gia phát triển mạnh về ngành chè và khởi động

công tác lai chọn tạo giống chè từ rất sớm (1937). Đến nay, hơn 57% diện tích

chè của nước này canh tác bằng các dòng chè nhân giống vô tính, trong đó

khoảng 80% diện tích trồng ba dòng chè phổ biến là TRI-2023, TRI-2025 và

TRI-2026 (Dẫn theo Nguyễn Văn Thiệp, 2016) [37].

Tại Nhật Bản

Nhật bản là nước đầu tiên nhập giống chè từ Trung Quốc, vào thế kỷ 19.

13

Năm 1990 năng suất chè bình quân của cả nước đã đạt 1.725kg chè khô/ha.

Năng suất chè cao là do nhà nước coi trọng đầu tư vào nông nghiệp đặc biệt là

khâu giống tốt và các biện pháp quản lý, chăm sóc vườn cây. Theo Satoshi

Yamagushi, Jitanaka giống chè chủ yếu ở Nhật Bản là giống chè lá nhỏ, phù

hợp cho chế biến chè xanh (Wilson and Cliford, 1992)[119].

Tại Grudia

Trong khoảng thời gian 40-50 năm Bakhơtadze (1940) [130],

Mutopkina (1978) [142], Viện nghiên cứu chè và cây trồng Á nhiệt đới đã

chọn tạo ra nhiều giống chè mới có năng suất cao và chất lượng tốt được chia

thành 3 nhóm như sau:

-Nhóm thứ nhất: gồm các giống lai tạo giữa các cặp lai Ấn Độ - Trung quốc

và Trung Quốc Ấn Độ tạo ra các giống chè Grudia №1 Grudia №2 Grudia

№3 Grudia №4 Grudia №5 Grudia №15 Grudia №16 những giống chè này trồng ở vùng phía tây nam Grudia, ở đó nhiệt độ mùa đông không dưới -80C.

- Nhóm thứ hai: kết hợp với giống chè Trung Quốc lá to, chịu lạnh hơn so với giống chè Ấn Độ, ở đó nhiệt độ mùa đông có thể -150C, có các giống

Grudia №6, Grudia №10, Grudia №11. -Nhóm thứ ba: gồm những giống chịu rét nhất -15 -200C với lớp tuyết phủ

dày 50-70cm, có giống Grudia №7, Grudia №8, Grudia №12.

1.2.2. Ứng dụng công nghệ chỉ thị phân tử và nuôi cấy cứu phôi trong

chọn tạo giống chè trên thế giới

Với việc xác định chè là cây trồng chủ đạo, nhiều quốc gia như Ấn Độ,

Srilanka, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản… đã có sự đầu tư nghiên cứu rất

bài bản về cây chè. Nếu như trước đây, chỉ thị hình thái (đặc điểm dạng thân,

kích thước và hình dạng lá…) và chỉ thị hóa sinh (các isozyme và allozyme)

là công cụ chính để đánh giá, sàng lọc các giống chè thì đến nay, với sự phát

triển của công nghệ sinh học thì chỉ thị phân tử đã được sử dụng như là công

14

cụ thay thế một cách phổ biến và hiệu quả hơn. Nhiều nghiên cứu đa dạng di

truyền cây chè bằng chỉ thị phân tử đã được thực hiện và là cơ sở cho việc

đánh giá nguồn gen, hỗ trợ công tác lai tạo giống chè.

Khi sử dụng chỉ thị RAPD và ISSR để nghiên cứu đa dạng di truyền 37

giống chè ở Đài Loan. Kết quả cho thấy các giống chè bản địa ở Đài Loan có

quan hệ di truyền gần gũi với thứ chè Assam hơn là với thứ chè Sinensis như

nhận định trước đây.

Năm 2002, Kaundun và cs. [81], đánh giá nguồn gen của 6 quần thể chè

Hàn Quốc bằng 50 chỉ thị RAPD phục vụ công tác bảo tồn các giống chè bản

địa, tác giả đã sử dụng các chỉ thị SSR của cây chè hoa Camellia japonica để

nghiên cứu đa dạng di truyền 24 giống chè Assam và Trung Quốc. Đây là

nghiên cứu đầu tiên sử dụng chỉ thị SSR trong nghiên cứu đa dạng di truyền

cây chè.

Năm 2005, Chen và cs. đã công bố kết quả đánh giá nguồn gen 4 quần

thể chè ở Vườn bảo tồn giống chè Trung Quốc bằng chỉ thị RAPD, qua đó

xác định được 20 chỉ thị RAPD có khả năng phân biệt được 15 giống chè

chính đang được trồng phổ biến.

Các nghiên cứu đa dạng di truyền cây chè sử dụng chỉ thị phân tử cung

cấp cho các nhà chọn giống cơ sở di truyền đáng tin cậy để từ đó có thể xác

định được các tổ hợp lai phù hợp, có tiềm năng cho ưu thế lai cao nhất, nhờ

đó cải thiện đáng kể công tác chọn tạo giống chè. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu

quả của công tác chọn tạo giống chè, ngoài việc xác định được tổ hợp lai phù

hợp thì cần nuôi cấy phôi để khắc phục tính không tương hợp dẫn đến làm

chết phôi chè non ở những tổ hợp lai xa và rút ngắn thời gian nhân giống chè.

Wu và cs (1981) là người tiên phong trong nghiên cứu nuôi cấy tạo phôi

vô tính (somatic embryogenesis) ở chè, kỹ thuật có rất nhiều ứng dụng hiện

nay như nhân dòng, chuyển gen, sản xuất hạt giống nhân tạo (Mondal và cs,

15

2001), lai tạo khác loài trong chi Camellia (Nadamitsu và cs, 1986). Nuôi cấy

phôi chè phụ thuộc nhiều yếu tố, bao gồm loại mô nuôi cấy (Akula, 1999),

thời gian nuôi cấy lá mầm (Mondal, 2001) và kiểu gen di truyền của giống

chè (Dẫn theo Nguyễn Văn Thiệp và cs, 2012) [36].

Việc áp dụng kỹ thuật nuôi cấy phôi và vi nhân giống đã giúp làm giảm

đáng kể thời gian cũng như nâng cao hiệu quả cho công tác lai tạo giống chè.

Nếu như với phương pháp chọn giống truyền thống, thời gian để gieo hạt tạo

cây chè con có thể mất tới một năm, sau đó mới đánh giá chọn lọc và nhân vô

tính thì thời gian để có được một dòng chè triển vọng là không ít. Với việc áp

dụng công nghệ nuôi cấy phôi in-vitro, quá trình đánh giá cây con sẽ được rút

ngắn đáng kể, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giống chè.

1.2.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học của cây chè

Qủa chè được hình thành chủ yếu nhờ quá trình giao phấn khác hoa. Do

vậy cây chè con được mọc từ hạt có sự phân ly rất lớn về hình thái, khả năng

sinh trưởng phát triển, năng suất, chất lượng.

Các đặc điểm hình thái của cây chè (thân, lá, búp) đặc tính sinh trưởng

của cây chè, thời gian sinh trưởng búp/năm có quan hệ chặt chẽ với khả năng

cho năng suất cao, chất lượng tốt cho chè nguyên liệu. Do vậy nghiên cứu đặc

điểm sinh vật học của cây chè nhằm tuyển chọn giống chè tốt luôn được các

nhà khoa học trên thế giới quan tâm.

Bakhơtadze K.E 1948 [131] nghiên cứu quan hệ giữa lá chè và năng suất

đã đề ra các chỉ tiêu về lá làm căn cứ chọn giống như màu sắc, kích thước lá,

cấu tạo giải phẫu lá. Dạng lá chè có màu vàng là đặc trưng và tương quan có

lợi cho các chỉ tiêu sinh hóa, sự khác nhau về màu sắc lá là do có sự khác

nhau của hàm lượng Chlorophyll, Tanin và một số chỉ tiêu khác. Lá có màu

cà phê sáng đặc trưng có lợi cho các chỉ tiêu sinh lý. Kết quả nghiên cứu trên

16

làm cơ sở định hướng cho các nhà chọn tạo giống chè có thể theo các hướng

khác nhau để tạo ra những giống chè cho sản phẩm phù hợp với thị trường.

Viện sĩ Bakhơtadze K.E 1971 [132] khi nghiên cứu kích thước lá chè và

tuổi cây chè, trong đó những giống chè Ấn Độ thường có kích thước lá lớn

nhất và kích thước lá của những giống chè Nhật Bản thường nhỏ nhất. Khi

nghiên cứu tương quan giữa số búp/tán và năng suất búp của nương chè tác

giả kết luận tương quan giữa số lượng búp và năng suất chè là 0,956 ± 0,064.

Nghiên cứu về quan hệ giữa lá chè với năng suất chất lượng chè, tác giả cho rằng: góc lá tối ưu cho quang hợp của cây chè là 450, lá chè có màu vàng là

đặc trưng có lợi cho các chỉ tiêu sinh hóa búp chè.

Bakhơtadze K.E (1971) [132] khi nghiên cứu về sự sinh trưởng của búp

chè cho rằng: Sự sinh trưởng của búp chè phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, ở

những vùng có mùa Đông rõ rệt, búp chè sẽ ngừng sinh trưởng và cây chè sẽ

được phục hồi vào thời kỳ có nhiệt độ không khí ấm lên. Ngược lại ở những

nước nhiệt đới (quần đảo Gjava) Srilanka hay Nam Ấn Độ do có điều kiện

thời tiết thuận lợi đặc biệt là nhiệt độ ôn hoà, búp chè sinh trưởng liên tục, chè

cho thu hoạch quanh năm vì vậy người ta coi đây là lợi thế của vùng đất này.

Mỗi loại cây trồng khi hình thành mầm để phát triển đòi hỏi phải có tổng

nhiệt độ nhất định (Chen Rong Bing, 1995) [61], khi nghiên cứu trên cây chè

ở Malawi đã kết luận: tổng nhiệt hữu hiệu cần thiết để cho một mầm chè dài

0,2 cm sinh trưởng thành búp chè có thể thu hoạch được (dài 8 – 15 cm) vào khoảng 5000C - 6000C mà theo tác giả có đến 2/3 nhiệt độ này là cung cấp

cho sinh tưởng búp.

Mỗi giai đoạn cây chè sinh trưởng khác nhau sự hình thành và phát triển

của búp chè cũng khác nhau, yếu tố nhiệt độ đóng vai trò quan trọng trong

quá trình hình thành và sinh trưởng của búp chè. Nghiên cứu về vấn đề này

theo tác giả Carr, M.K.V (1972) [57] cho biết, chu kỳ thay thế búp chè (đợt

17

sinh trưởng) có thể căn cứ vào nhiệt độ không khí tối thiểu và nhiệt độ tối đa

để dự đoán một lứa búp mới sinh trưởng, phát triển.

Ảnh hưởng của mùa vụ qua yếu tố nhiệt độ không khí với chu kỳ thay

thế búp ở các vùng địa lý khác nhau đã chứng minh quan điểm trên. Các vùng chè Châu Phi Munaze ở 16005 vĩ độ Nam, độ cao 650m so với mặt nước biển, nhiệt độ không khí có ý nghĩa từ 18 – 240C, độ dài chu kỳ hái búp là 42 ngày

vào mùa sinh trưởng chính, 70 ngày vào những tháng mùa đông lạnh. Trong khi đó ở vùng Chipirga vị trí 20015 vĩ Nam, độ cao 850 m so với mặt nước biển, nhiệt độ hàng năm lạnh hơn Munaze 20C, chu kỳ hái búp dài hơn 15 –

20 ngày. Theo tác giả, khác nhau về mùa vụ dẫn đến sự thay đổi sản lượng

trong năm ở các vùng chè.

Theo tác giả Carr, M.K.V(1972) [57] cho rằng hầu hết các vùng chè có

lượng mưa trung bình 150 mm/tháng sẽ cho sản phẩm liên tục. Tổng lượng

mưa cả năm là 1800 mm cây chè sẽ sinh trưởng phát triển tốt, nếu lượng mưa

trong năm dưới 1500 mm mà không tưới cây chè sinh trưởng, phát triển kém

và không cho năng suất cao.

Nghiên cứu về sinh trưởng trong điều kiện không đốn và có đốn theo tác

giả Djemukhadze (1982) [5] chỉ ra rằng: trong điều kiện để giống hay không

đốn các mầm chè được phân hóa trong vụ Thu, vụ Đông và hình thành búp

vào vụ Xuân. Ở những nương chè đốn thì sự phân hóa mầm chè chủ yếu diễn

ra trong vụ Xuân. Như vậy ở những nương chè có đốn và hái búp thường

xuyên thì sinh trưởng búp chè bắt đầu muộn hơn một số ngày so với nương

chè để giống hay không đốn.

Trong quá trình chọn giống chè theo hướng năng suất cao theo các tác

giả cho rằng, đặc điểm của những cây có sản lượng cao ít nhất phải có mật độ

búp cao (số lượng búp nhiều) và kích thước lá lớn. Vì vậy trong công tác chọn

18

tạo giống để tạo ra được những giống chè có năng suất cao, phải hướng đến

chọn những giống chè có mật độ búp lớn.

Theo Mondal T.K. (2004) [91], Tanton T.W (1981a) [113]: động thái

sinh trưởng của búp chè chậm ở giai đoạn đầu (từ giai đoạn đầu đến khi nảy

mầm và búp dài 2 -3 cm), tăng nhanh giai đoạn sau (tiếp tục đến khi búp dài

10 – 15 cm). Thời gian sinh trưởng cho mỗi lứa hái từ 7 – 21 ngày và phụ

thuộc vào từng giống và điều kiện thời tiết. Nhiệt độ không khí tối thiểu cho chè sinh trưởng, phát triển là 130C – 140C và tối thích là 180C – 300C, những ngày có nhiệt độ tối da vượt quá 350C và tối thiểu thấp hơn 140C làm giảm

sản lượng chè.

+ Theo tác giả Mondal T.K. (2004) [91], mật độ búp và khối lượng búp

là nhân tố quan trọng tạo nên sản lượng chè, cũng chỉ ra mật độ búp đóng góp

tới 89%, còn khối lượng búp đóng góp 11% năng suất chè.

Từ các nghiên cứu trên cho ta thấy mỗi giống chè có những đặc điểm

hình thái thân cành, lá, búp, hoa, quả các tính trạng đặc trưng của chúng có

liên quan mật thiết tới năng suất và chất lượng chè. Các đặc điểm đó giúp các

nhà khoa học chọn ra được những giống chè có năng suất, chất lượng đáp ứng

mục tiêu của sản phẩm, rút ngắn được thời gian chọn tạo các giống chè.

1.2.4. Tình hình nghiên cứu kỹ thuật canh tác chè trên thế giới

+ Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng giâm cành

Để nhân giống chè bằng giâm cành, người ta cắt những cành chè tươi

khoảng một năm tuổi, phát triển tốt và không bị sâu bệnh, ngâm hóa chất diệt

nấm và xử lý với hormon kích thích ra rễ. Sau đó giâm trong vườn ươm để

cành chè ra rễ trong khoảng 45 đến 60 ngày. Sau đó tiếp tục được chăm sóc

trong vườn ươm trong 8 đến 12 tháng để phát triển hoàn chỉnh trước khi đưa

vào sản xuất. Được thử nghiệm đồng thời ở Ấn Độ, Sri Lanka và Indonesia từ

những năm đầu thế kỷ 20 (Keuchenius, 1923), cho đến nay nhân giống bằng

19

phương pháp giâm cành vẫn được áp dụng rất phổ biến (Dẫn theo Lã Tuấn

Nghĩa, 2010) [14].

Nhân giống vô tính có ưu điểm tạo ra sự đồng đều hình thái, giữ được

đặc trưng đặc tính giống, năng suất và chất lượng ổn định, rút ngắn thời kỳ

kiến thiết cơ bản, hệ số nhân giống cao. Thế giới có nhiều biện pháp nhân

giống chè vô tính: Giâm hom, ghép chè, chiết chè, nuôi cấy mô v.v. Trong

đó, giâm hom chè là phương pháp phổ biến và hiệu quả kinh tế nhất.

Năm 1940 K.E. Baxtadze [130] phát triển mở rộng phương pháp giâm

cành chè theo sản xuất công nghiệp. Để giâm cành chè và chăm sóc cây con

trong vườn ươm, đã nghiên cứu lựa chọn túi bầu với kích thước 20 x 15 cm là

phù hợp. Thời vụ giâm hom, trong điều kiện khí hậu ở Grudia có thể vào giữa

tháng 8, sử dụng đất đóng bàu tơi xốp có độ pH vào khoảng 4,5 - 5,5, bón lót

cho mỗi túi bầu 5gam super lân ở 1/3 túi đất. Khi chăm sóc, sử dụng phân

nitrat-amon 2gam/bầu, pha loãng tưới làm 4 lần để lượng đạm tổng số trong

đất đạt 0,06 - 0,07%. Sử dụng hệ thống tưới phun theo chương trình đặt sẵn,

để đảm bảo độ ẩm không khí thấp nhất là 50% và cao không dưới 65% nhiệt độ từ 23 - 29oc là phù hợp. Sau 20 ngày cành giâm ra mô sẹo và sau đó bắt

đầu hệ thống rễ phát triển, cây phát triển tốt. Tỷ lệ cây xuất vườn đạt 90-93%

đối với giống ‘Konkhida’ khi đưa ra trồng sản xuất đạt tỷ lệ sống đến 97%.

Hartmen H J và Kester O E (1988) [75] cho biết có 3 yếu tố chính ảnh

hưởng đến kết quả giâm hom: giống, kỹ thuật xử lý hom và môi trường giâm.

Anon (1986a,g) [52], [53] nghiên cứu ở Kenya cho biết để có hom giống

tốt cần phải chăm sóc vườn cây mẹ chu đáo như chế độ bón phân đặc biệt,

đốn nhiều lần trong năm. Hom giống tốt có chiều dài 3 – 4 cm, nếu ngắn hơn

3 cm phải bỏ bớt 1 lá để đảm bảo độ dài của hom.

20

Chakravartee và cộng sự (1986) [59], cho biết độ pH dưới 5 thì hom ra

rễ tốt nhất, tác giả cũng kết luận túi bầu có kích thước đường kính 8 cm và

chiều cao 28 cm, luống không rộng hơn 1,5 m cho kết quả tốt.

Nghiên cứu lựa chọn kích thước túi bầu, tác giả Denis Bonheure (1990)

[65] kết luận kích thước có đường kính 8 – 10 cm và chiều cao túi 25 – 28

cm, túi dày 60 – 100 micron cho kết quả tốt, đặc biệt túi có đường kính 12 –

15 cm cho phép cây sinh trưởng tốt hơn nhưng chi phí đắt hơn. Với túi có đường kính 8 cm cho số lượng tương đương 100 bầu/m2 (khoảng 600.000

bầu/ha), mặt luống cao 10 – 20 cm, rãnh luống rộng 40 – 60 cm cho kết quả

tốt nhất.

Tác giả Patarava (1987) [95] nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến vườn chè giâm hom cho thấy: nhiệt độ dưới 50C hoặc trên 450C thì hom chè bị chết; nhiệt độ dưới 150C và trên 350C thì hom chè sinh trưởng chậm; nhiệt độ thích hợp cho hom chè sinh trưởng và phát triển tốt là từ 25 – 300C.

Theo tác giả Liang Yueron, ShinYounghwa, Zhang Longji, Wang

Kairon (2019) [85] Các giống chè năng suất cao là mục tiêu chính của nhà

chọn tạo giống chè và nhiều giống chè có tiềm năng năng suất cao đã được đề

xuất trồng ở tất cả các vùng chè chè Trung Quốc, thúc đẩy sự phát triển nhanh

chóng của sản xuất chè. Trong giai đoạn này, giống trà vô tính phổ biến nhất

được nhân giống bằng phương pháp giâm cành là ‘Fudingdabaicha’ có nguồn

gốc từ tỉnh Phúc Kiến và sản lượng chè khô đạt 3.000kg/ha.

Tóm lại, nghiên cứu giâm hom chè để đạt kết quả tốt đã được các tác giả

kết luận cần chú ý về đặc điểm giống, kỹ thuật xử lý hom và môi trường giâm

hom, trong đó đã có khuyến cáo kích thước túi bầu giâm hom cho giống chè

Ấn Độ.

21

+ Nghiên cứu mật độ trồng chè

Mật độ trồng chè hợp lý làm tán chè nhanh phủ kín khoảng đất trống

xung quanh nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu về dinh dưỡng cho cây chè,

thuận lợi chăm sóc và thu hoạch.

Rahman và cộng sự (1988) [97] nghiên cứu xác định mật độ trồng chè ở

Ấn Độ cho thấy có sự tương quan thuận giữa sản lượng và mật độ trồng ở một

giới hạn nhất định, ngược lại khi trồng khoảng cách quá dày lại làm giảm sản

lượng chè. Đối với trồng chè cành, theo Chakravorty và washi R.C. (1981)

[60] cho thấy mật độ thích hợp nhất từ 11.000 – 14.000 cây/ha. Đối với trồng

chè hạt, tác giả Hobman (1985) [76] nghiên cứu tại Úc cho thấy mật độ thích

hợp cao hơn, khoảng 27.500 cây/ha. Mật độ tối thích phụ thuộc vào đất đai,

khí hậu và đặc điểm giống chè. Khi tuổi chè thấp (dưới 5 tuổi) thì sản lượng

có tương quan thuận với mật độ, khi tuổi cao hơn thì không còn tương quan

này, các cây chè cạnh tranh với nhau mạnh nên làm giảm sản lượng.

Chè ở Nhật Bản hầu hết thu hoạch chè bằng máy, các loại máy thu hoạch

được thiết kế để di chuyển ở bề mặt từ 1,5-1,8m (World green tea

Association, 2019) [121]. Hái chè là khâu cần nhiều lao động nhất trong sản

xuất chè, và hiện nay ở nước ta người trồng chè đã sử dụng phổ biến máy hái

để nâng cao năng suất, giải quyết thiếu hụt lao động. Các kết quả nghiên cứu

xác định mật độ trồng chủ yếu phụ thuộc vào giống và việc áp dụng cơ giới

hóa.

+ Kỹ thuật đốn chè:

Nghiên cứu kỹ thuật đốn chè ở Trung Quốc, tác giả Đào Thừa Trân

(1951) dẫn theo Đỗ Ngọc Quỹ (1980) [27] cho biết đối với giống chè Trung

Quốc có kỹ thuật đốn như sau:

Thời kỳ kiến thiết cơ bản (KTCB) đốn lần 1 bắt đầu khi có 75% tổng số

cây có chiều cao trên 27 cm, đốn thân chính cách mặt đất 17 – 20 cm, không

22

đốn cành bên; đốn lần 2 cách mặt đất 33 – 40 cm; đốn lần 3 cách mặt đất 50 –

60 cm; sau lần đốn thứ 3, vào mùa xuân năm sau khi mầm phát triển cao thì

đốn nhẹ 1 lần nữa cách mặt tán 7 – 10 cm.

Thời kỳ sản xuất kinh doanh (SXKD), hàng năm đốn phớt cao hơn vết

đốn cũ từ 2 – 5 cm.

Ở Ấn Độ, theo Barbora, B. C (1996) [55] nghiên cứu và đưa ra khuyến

cáo cho thời gian đốn, độ cao đốn thay đổi tùy thuộc vào từng giống, điều

kiện khí hậu và độ cao từng vùng nhằm tạo độ cao tán chè phù hợp. Kỹ thuật

đốn chè được khuyến cáo khi cây được 50 – 60 cm thì tiến hành đốn thân

chính và cành bên ở cùng độ cao 25 cm so với mặt đất, năm thứ 2 đốn nhẹ,

năm thứ 3 tạo tán bằng ở độ cao 50 cm. Việc áp dụng chu kỳ đốn chè cũng

cần dựa vào tình hình sinh trưởng, điều kiện khí hậu cụ thể cho từng vùng

sinh thái. Đối với những vùng lạnh cây sinh trưởng chậm đốn nhiều sẽ làm

giảm năng suất, có khi phải hoãn đốn sau 1 – 2 năm. Ở mỗi vùng, miền có

điều kiện khí hậu thời tiết, điều kiện sinh thái, tập quán canh tác khác nhau,

người ta đưa ra các quy trình đốn khác nhau cho chè.

Ảnh hưởng của độ cao vùng trồng cũng đã được nhiều tác giả quan tâm

nghiên cứu. Theo Eden, T (1958) [69] đã nêu lên mối quan hệ giữa kỹ thuật

đốn chè với độ cao vùng trồng chè, tác giả cho rằng độ cao vùng trồng chè có

tương quan với tích lũy tinh bột vào rễ theo công thức: D = 11,17 + 0,20 E (D

là hàm lượng tinh bột, E là độ cao). Như vậy, độ cao vùng trồng chè càng lớn

thì khi đốn chè làm cho hàm lượng tích lũy tinh bột càng cao. Đây là yếu tố

nguồn để tạo cho cây sinh trưởng khỏe, năng suất búp cao.

Kiểu đốn khác nhau cũng ảnh hưởng đến sinh trưởng của bộ rễ. Kết quả

nghiên cứu cho thấy khi đốn đau có ảnh hưởng đến sự phân bố rễ trong các

tầng và lớp đất, đốn trẻ lại làm giảm hoạt động sinh trưởng của bộ rễ cây chè

so với đốn phớt, trọng lượng rễ giảm 28%, rễ dẫn giảm 36 – 42%, rễ hút giảm

23

22 – 24%, do vậy, xác định kiểu đốn thích hợp từng giai đoạn sinh trưởng cây

chè cần thiết cho từng giống, từng tuổi chè.

Thời tiết khí hậu quyết định đến thời vụ đốn tạo hình cây chè ở thời kỳ

KTCB đã được tác giả Barua. D. N (1989) [56] kết luận thời kỳ khô hạn

không nên đốn chè, đốn chè vào đầu mùa xuân là thích hợp nhất (tháng 1, 2).

Tại Grudia khi cây chè 2 – 3 tuổi, có 2 – 3 thân chính, cành bên phát triển tốt

đốn 2 lần: đốn lần 1 vào vụ xuân ở độ cao 10 – 15 cm, sau khi đốn tăng cường

chế độ chăm sóc cho cây; đốn lần 2 vào vụ xuân năm sau ở độ cao 30 – 35 cm

so với mặt đất; nếu cây chè thấp hơn 30 cm thì để lại năm sau mới đốn. Hoặc

ở Nhật Bản, đốn chè thời kỳ kiến thiết cơ bản thực hiện làm 3 lần: đốn lần 1 ở

độ cao 15 – 20 cm vào vụ xuân khi chè 1 tuổi; đốn lần 2 ở độ cao 20 – 25 cm;

đốn lần 3 tạo tán hình mâm xôi.

Các kết quả nghiên cứu về đốn cho thấy số lần đốn, chiều cao đốn chè

của các nước chủ yếu phụ thuộc vào giống, vùng trồng và áp dụng cơ giới

hóa.

+ Kỹ thuật hái chè

Hái chè không chỉ là một hoạt động thu hoạch sản phẩm đơn thuần mà

còn là một trong những biện pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất và chất

lượng chè. Tùy thuộc vào mục tiêu chế biến sản phẩm mà yêu cầu kỹ thuật

hái khác nhau.

Ở Trung Quốc kỹ thuật hái chè gắn liền với yêu cầu của chế biến sản

phẩm, thường hái kết hợp sửa cành. Do xu hướng sản xuất chè xanh là chủ đạo

vì vậy yêu cầu hái sớm, hái non, hái đều, giữ búp tươi là yếu tố tăng chất

lượng. Nghiên cứu kỹ thuật hái để có chất lượng chè tốt, trạm nghiên cứu cây

trồng á nhiệt đới Quảng Tây cho biết: khi loại búp chè có 3 – 4 lá chiếm trên

90% thì tiến hành bấm búp chè tôm 1 lá non để chế biến chè xanh cao cấp,

phần còn lại lá 2, 3, 4 được phân ra từng loại để chế biến riêng; thời điểm hái

24

buổi sáng vào lúc không còn sương và buổi chiều hái vào lúc 14 – 16 giờ,

tuyệt đối không hái khi trời mưa hoặc có sương mù.

Kỹ thuật hái chè ở vụ đầu tiên rất quan trọng, thực chất là kỹ thuật để lá

chừa hợp lý cho cây chè sinh trưởng tốt. Nghiên cứu kỹ thuật hái vụ 1 ở Ấn Độ,

theo tác giả Anon (1986a) [52] hái vụ 1 khi búp chè đạt độ cao 25 cm tiến hành

hái búp 1 tôm 2 lá và phần chừa lại có độ cao cách mặt tán 15 cm; những lứa sau

tiến hành hái kỹ và tạo tán bằng.

Nghiên cứu chu kỳ hái, tác giả Dumur và Naidu (1985) [67] tiến hành ở

Mauritius nhận thấy rằng chu kỳ hái ngắn cho sản lượng cao nhất, sản lượng và

chất lượng giảm đi khi kéo dài chu kỳ hái 6 – 18 ngày, chu kỳ hái thích hợp từ 7

– 10 ngày, dài nhất không quá 14 ngày.

Phương thức hái chè có thể bằng tay hoặc bằng máy, hái chè bằng tay

chất lượng nguyên liệu chè tốt hơn so với bằng máy, nhưng tốn nhiều công.

Các nước sản xuất chè tiên tiến phần lớn áp dụng thu hái chè bằng máy, phổ

biến hơn cả là Nhật Bản, Trung Quốc, Grudia, Ấn Độ và Sri Lanka. Trong khi

đó các nước Châu Phi chủ yếu thu hái chè bằng tay. Hái chè bằng máy có

những điểm chưa đạt yêu cầu mong muốn, như tỷ lệ lá già và bánh tẻ cao, lẫn

cành chè làm giảm chất lượng chè.

Các nghiên cứu về hái chè của các nước chủ yếu dựa vào mục tiêu chế

biến sản phẩm và hái bằng tay hay bằng máy. Hái chè không chỉ nhằm đạt

mục tiêu chất lượng sản phẩm mà còn là biện pháp kỹ thuật quan trọng duy trì

chỉ số diện tích lá thích hợp cho cây chè, vì thế các giống chè khác nhau cần

có kỹ thuật hái khác nhau để nâng cao năng suất và chất lượng chè đạt hiệu

quả kinh tế cao.

+ Nghiên cứu kỹ thuật bón phân.

Cơ sở khoa học về sử dụng phân bón hợp lý đều có liên quan đến đặc tính

sinh học cây trồng và môi trường bên ngoài. Hệ thống sử dụng phân bón và

25

liều lượng tối ưu của chúng cần xác định nhờ các thí nghiệm đồng ruộng,

phân tích đất, cây theo từng thời kỳ phát triển của cây.

Bơziava (1973) [133] cho rằng sự già cỗi cây chè chính là nó không phù

hợp với sự sinh trưởng của nó, bởi vì điều kiện bên ngoài thay đổi, dẫn đến

quá trình già hóa của cây chè. Giữa các yếu tố bên ngoài của môi trường thì

dinh dưỡng hệ rễ có ảnh hưởng chủ yếu đến cường độ sinh trưởng phát triển

của cây. Nhiều tác giả cho rằng phân bón cho chè có liên quan nhiều đến đất

đai, bởi vì đất là nền tảng chứa đựng các yếu tố dinh dưỡng cho cây trồng.

Quan hệ giữa đất đến năng suất, chất lượng chè rất phức tạp. Chất lượng

chè do nhiều yếu tố quyết định và tác dụng một cách tổng hợp. Điều kiện dinh

dưỡng ảnh hưởng rất nhiều đến năng suất, chất lượng chè, do vậy ngoài việc

sử dụng nguồn dinh dưỡng sẵn có trong đất, thì việc bón phân cho chè là một

biện pháp có hiệu quả.

+ Bón phân hữu cơ

Mặc dù phân khoáng có hiệu quả lớn, nhưng phân hữu cơ cũng rất quan

trọng đối với cây chè. Phân hữu cơ là nguồn giàu chất dinh dưỡng có giá trị

hơn cả đối với cây chè như đạm, lân, kali, magiê các nguyên tố vi lượng...

Ngoài ra tạo cho quá trình hoạt động tích cực các hệ vi sinh vật và làm giàu

mùn trong đất, làm cấu trúc của đất tốt hơn, như hút nước, chế độ nhiệt, làm

giảm độ chua và giảm hiện tượng xói mòn trên đất dốc. Phân hữu cơ thường

sử dụng cho cây chè như than bùn, phân chuồng, phân gia súc, những phế liệu

trong sản xuất nông công nghiệp.

Bón phân hữu cơ làm tăng chất lượng các giống chè. Khi nghiên cứu về

hiệu quả của phân hữu cơ trên cây chè khu vực sản xuất chè Mao Tiêm – Tín

Dương, vườn chè không sử dụng phân bón hợp lý dẫn đến đất bị chai cứng

lại, độ màu mỡ của đất giảm, đặc biệt ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng

chè Mao Tiêm –Tín Dương. Điều đó chứng tỏ rằng sử dùng phân hữu cơ

26

không chỉ có khả năng cải tạo đất mà còn có khả năng nâng cao năng suất và

chất lượng chè. Theo Zhang Wenjin Yang Ruxin và cs (2000) [126] bón phân

hữu cơ kết hợp phân vô cơ có thể thúc đẩy chè sinh trưởng nhanh, làm tăng

năng suất và chất lượng chè. Tỷ lệ bón kết hợp tốt nhất NPK và phân hữu cơ

là 3:1:3:3 hoặc 2:2:2:3. Hiệu quả phân NPK và hữu cơ ở các giai đoạn sinh

trưởng cây chè đều khác nhau, trong đó kali là nguyên tố chủ yếu làm tăng

đường kính của cây chè con, N giữ vai trò tăng năng súât của chè kinh doanh.

Khi sử dụng phân bón chuyên dùng và phân hữu cơ sinh học, Xu fu-le và cs

(2006) [124] nhận xét là có hiệu quả, làm thúc đẩy tăng số lượng chồi nảy

mầm và số lá mới của cây chè, do đó sản lượng chè tăng lên so với sử dụng

45% phân bón phức hợp vô cơ , khi chế biến, cho sản phẩm có chất lượng tốt

hơn.

+ Bón phân vô cơ đạm, lân, kali (NPK).

Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của các

nguyên tố dinh dưỡng cho cây chè và kỹ thuật bón phân.

Ở điều kiện bình thường, cây chè lấy tất cả dinh dưỡng cần thiết từ đất

để sinh trưởng phát triển. Canh tác liên tục đã nhanh chóng làm cạn kiệt

nguồn dinh dưỡng khoáng trong đất, mặt khác thu hái chè thường xuyên đã

lấy đi một lượng lớn dinh dưỡng trong đất, việc bổ sung đầy đủ dinh dưỡng

đảm bảo cho cây chè sinh trưởng tốt, cho năng suất cao (Kamau, 2008) [79];

Jie Li. Agron (2005) [77]; Willson & Clifford, 1992) [119].

Ở Trung Quốc, nếu thu hoạch 7,5 tấn búp/ha, cần phải cung cấp N: 37,5

kg, P2O5: 75kg và K2O: 112 - 150 kg. Nghiên cứu vai trò của các nguyên tố

dinh dưỡng tham gia vào quá trình sinh trưởng cây chè đã được các tác giả

Bonheure, D. Và Willson, K. C (1992) [120], công bố 5 nguyên tố chiếm tỷ lệ

lớn: đạm (N) từ 1,69 – 5,95%; lân (P) từ 0,09 – 0,61%; kali (K) từ 0,02 –

2,64%; canxi (Ca) từ 0,06 – 2,42%; magie (Mg) từ 0,07 – 1,40%; các nguyên

27

tố khác chiếm số lượng ít từ 8 – 3.700 ppm và sắp xếp theo thứ tự giảm dần là

lưu huỳnh (S), clo (Cl), nhôm (Al), mangan (Mn), natri (Na), kẽm (Zn), đồng

(Cu), Bo (B) và sắt (Fe).

Jie Li và Agron (2005) [77] khi nghiên cứu về liều lượng phân bón cho

giống chè vô tính Long Tỉnh 43 ở Trung Quốc thấy tăng lượng N với các

bước 0, 150, 300, 600, 900, 1600 kg N/ha, năng suất năm thứ 2 sau bón tăng

tương ứng 5,5%, 10,4%, 10,3%, 19,8% và 22,3%. Tuy nhiên, tăng N lên cao

sẽ không hiệu quả do chi phí cao và lượng N dư thừa sẽ làm ô nhiễm đất.

WANG Lei và cs. (2019) [118] áp dụng phân bón lá sau vụ chè xuân có

thể làm tăng mật độ búp 44,3 – 76,4%. Tối ưu hoá thành phần của lá và búp,

có lợi cho việc hái máy, năng suất hái máy tăng 54,0 - 75,7%, hiệu quả của

việc tăng mức phân bón đạm hữu cơ cao là tốt nhất, phân Kali cao để cải thiện

hàm lượng các hợp chất sinh hoá trong búp trà và chế biến trà xanh chất

lượng tốt hơn. Sử dụng phân bón lá trên trà vụ thu có thể cải thiện năng suất

hái máy nhất.

Phân bón là nền tảng vật chất cơ bản của việc nâng cao năng suất và chất

lượng chè. Bón phân có tác dụng quan trọng đến sinh trưởng, năng suất và

chất lượng chè. Phân đạm nâng cao sản lượng, có hiệu quả nâng cao hàm

lượng caffeine và hàm lượng axit amin. Trong khi phối hợp lân, kali, đã nâng

cao hàm lượng tea polyphenol, caffeine và protein, vừa có khả năng thúc đẩy

nâng cao chất lượng lá chè, cải thiện chất lượng chè. Theo Su kongwu và Li

Jinlan (2005) [111] khi bón phân kali là tăng năng suất từ 8,3- 16,7% so với

không bón, đồng thời cải thiện được chất lượng sản phẩm và tăng khả năng

chống chịu của cây chè đối với điều kiện ngoại cảnh. Theo Zheng - Helin và

cs (2012) [126] nếu bón thiếu hụt phốt pho cho cây chè sẽ gây ảnh hưởng xấu

đến chất lượng chè sản phẩm chè xanh, điểm thử nếm thấp. Kết quả nghiên

28

cứu của Ruan Jianyun, Wu Xun (2003) [101] cho biết, khi bón bổ sung Kali

và Magie cho cây chè sẽ làm tăng khả năng chống chịu sâu hại trên cây chè.

Saharia và Bezbaruah (1984) [105] đưa ra kỹ thuật bón phân chủ yếu

dựa vào sản lượng thu hoạch chè hàng năm: vùng Bắc Ấn Độ bón phân cho

chè con theo tỷ lệ bón NPK là 10:5:10 và mức bón theo cây là 15, 25, 40 và

70 (g/cây) tương đương với các tuổi 1, 2, 3 và 4; còn bón phân cho chè kinh

doanh theo tỷ lệ bón NPK là 10:2:4 hoặc 12:4:8 và mức bón 100 – 200 kg

N/ha tùy thuộc vào đất, tuổi và sản lượng chè; vùng Nam Ấn Độ bón phân

cho chè con theo tỷ lệ bón NPK 1:2:2 và mức bón 90 kg N/ha; còn bón phân

cho chè kinh doanh dựa vào sản lượng để bón, họ chia ra 3 mức sản lượng

dưới 2.000, từ 2.000 – 3.000 và trên 3.000 (kg khô/ha) tương ứng các mức

bón là 10, 5, 4 (kg N/100kg chè), hàng năm có phun sun phát kẽm 11 kg/ha

lên lá.

Nhiều kết quả nghiên cứu ở Nhật Bản, Ấn Độ, Srilanka, Grudia... đều

cho rằng bón đạm không hợp lý, bón quá nhiều hoặc bón đơn độc đều làm

giảm chất lượng chè (đặc biệt là đối với nguyên liệu dùng để chế biến chè

đen).

Bơziava M (1973) [133] cho biết thí nghiệm về phân bón cho chè ở Anaxeuli trên diện tích thí nghiệm 63m2/ô, 4 lần nhắc lại trên nền photpho

(dạng super phôtphat) 120 kg/ha P2 O5 từ năm 1938-1950 bón đều hàng năm,

còn đạm trong dạng Sulphat-amôn phụ thuộc vào năng suất của nương chè.

Bón 50 kg N/ha vào năm 1940, 150kgN/ha vào năm 1941, từ năm 1942-1949

bón 200 kgN/ha, K2O-100 kg/ha. Đối chứng không bón. Từ năm 1950 bón

photpho – 400 kg P2 O5 một lần trong 2 năm, bón kali 200kg/ha một lần

trong 2 năm. N bón hằng năm 300 kg/ha bón 1lần vào tháng 3, liều bón 500

N/ha bón làm 2 lần, 300 kg bón vào tháng 3 và 200 kg bón vào tháng 7. Liều

bón 700 kgN/ha chia làm 3 làn, bón 300 kg vào đầu tháng 3, bón 200 kg bón

29

vào tháng 6 và 200kg bón vào tháng 7 còn phân chuồng bón 80 tấn/ha. Kết

quả thí nghiệm cho thấy bón liều 300 kg N/ha năng suất lên đến 8 tấn/ha, tăng

gấp 7 lần so với không bón. Bón photpho và kali không có đạm,trên nền P:K

hầu như không có hiệu quả, năng suất chỉ khác nhau 1-2% so với đối chứng.

Trong 3 năm đầu của thí nghiệm, bón liều lượng đạm cao, 300 kg, 500 kg,

700 kg N/ha năng suất chỉ tăng 10-16% so với đối chứng. Trong thời gian 4-5

năm thí nghiệm 500 kg N/ha năng suất chỉ tăng 6-7%, bón tăng đạm lên đến

700 kg/ha hầu như không có hiệu quả. Sau 6 năm thí nghiệm bón 500 kg N và

700 kg N/ha, năng suất chè gần như nhau. Tác giả đưa ra kết luận rằng khi

bón nâng cao liều lượng đạm tối ưu từ 300 - 500 kg/ha là có hiệu quả nhất.

Ngoài phân vô cơ cần bón phối hợp phân chuồng, phân magiê và các nguyên

tố vi lượng cung cấp đủ dinh dưỡng cho cây chè cho năng suất cao và chất

lượng tốt nhất.

Những nghiên cứu của Trơkhaidze 1985 [145] cho thấy liều lượng đạm

300 kg/ha thì hàm lượng tanin, caffeine và chất hòa tan trong búp chè đều

cao, có lợi cho chất lượng, song nếu vượt quá giới hạn trên thì chất lượng chè

giảm. Khi bón nhiều đạm hàm lượng protein ở trong lá tăng lên. Mặt khác,

khi bón nhiều đạm hàm lượng alkanoid trong chè tăng lên làm cho chè có vị

đắng Gogia B.T. (1984) [135] Djemukhadze (1954) [137].

Theo tác giả Azizbekian C.B, Domach. V.I (2015) [128], kết quả thử

nghiệm phân bón Nano các dạng khác nhau cho rau ở Viện rau quả Belarus

năm 2015 cho thấy, liều dùng0,1 l/ha (4x 0,25g/ha) phun trên dưa chuột làm

tăng năng suất từ 12,2-15,3% ,đối với cà chua tăng năng suất từ 17,9-23,2%

so với đối chứng (bón NPK) Lợi nhuận mang về từ 290-340 USD/ha cao gấp

25 lần so với chi phí mua phân bón Nano.

Kết quả thử nghiệm phân bón vi lượng Nano đối với cây trồng theo

Azizbekian C.B, Domach. V.I (2015), cho thấy, sự chuyển dịch phần tử bất

30

kỳ nào vào dạng Nano, đều kèm theo sự tăng đáng kể hiệu quả tác dụng của

nó. Những nghiên cứu so sánh hiệu quả của nano-fe với sulphat sắt và nước

lên cây trồng, người ta phun một lần(1ml/cây) với nồng độ như nhau (1mg/l).

Hiệu quả từ xử lý Nano-Fe bắt đầu xuất hiện qua một ngày đêm. Qua 10 ngày

khối lượng rễ tăng lên hầu như gấp 2 lần. Phân tích thành phần khoáng trong

lá và rễ trên máy quang phổ hấp phụ nguyên tử, cho thấy mỗi một cây được

nhận tất cả 1 milimicrogram Fe trong dạng Nano xúc tác có khả năng hút bổ

sung Fe từ đất lớn hơn gấp 100 lần so với phun ban đầu. Khi sử dụng phân

bón vi lượng nano cho các loại cây trồng khác nhau, làm tăng năng suất từ

22,6 -30,5%. Sử dụng phân bón vi lượng nano cho khoai tây gồm Co, Mn,

Cu,Fe, 0,1 l/ha (0,2g tổng số/ha) cho năng suất tăng đến 29% so với đối

chứng, lợi nhuận thu về khoảng 450 USD/ha.

Nghiên cứu về ảnh hưởng của các mức đạm (N) khác nhau đối với năng

suất và chất lượng chè cũng được nhiều tác giả nghiên cứu. Theo các tác giả

Su Youjian, Liao Wanyou, và CS, (2011) dẫn theo Trần Xuân Hoàng 2016

[9] các mức N khác nhau ảnh hưởng rõ đến năng suất và chất lượng chè, một

tỷ lệ N hợp lý sẽ nâng cao được năng suất và cải thiện được chất lượng. Năng

suất chè sẽ không tăng khi sử dụng tỷ lệ N trên 360 kg/ha. Ở cùng một nền

đất giống nhau, khi sử dụng N đầu tiên năng suất chè tăng, sau đó giảm, giữa

năng suất và N có mối quan hệ parabol. Khi đánh giá về chất lượng cho thấy

mức N thích hợp có thể cải thiện hàm lượng axit amin tự do, caffeine, nước

và chlorophyll trong lá chè, trong khi hàm lượng polyphenol giảm dần.

Nhật Bản, trước đây mức bón phân cho chè cũng tương tự như nhiều

nước trên thế giới. Nhưng ngày nay do áp dụng cơ khí hóa và tự động hóa

trong khâu thu hoạch, vì vậy họ đã khuyến cáo mức bón rất cao, đối với chè

có sản lượng 18 tấn búp/ha mức bón N, P, K là 800, 210 và 360 (kg/ha).

31

Ở Srilanka đã nghiên cứu và sử dụng kẽm sunfat hoặc axit kẽm để phun

lên lá, hoặc bón borat phối hợp với N, P, K cho chè ở những nơi xác định có

hiện tượng thiếu kẽm và bo. Theo Tranturia (1973) cho thấy bón N, P, K phối

hợp với 5 kg Zn và 5 kg B cho 1 ha, làm tăng chất lượng của chè nguyên liệu

(dẫn theo Đỗ Ngọc Quỹ (1997) [26]. Theo nghiên cứu của Lin Xịnjiong và cs

1991 [86]. Bón phân cho cây chè làm thúc đẩy tăng năng suất và cải thiện

chất lượng nguyên liệu búp chè tươi, và cho rằng, hiệu quả bón kali nâng cao

chất lượng rõ hơn đạm và lân. Bón tăng kali trong phân hổn hợp NPK sẽ nâng

cao chất lượng nguyên liệu chè.

Ruan Jianyun và cs (1997) [101] bón bổ sung K, Mg năng suất búp chè

tăng đáng kể từ 9-38%, hàm lượng axit-amin, caphein, polyphenol trong búp

chè đều tăng rõ rệt. Theo S. Jayaganesh và cs 2010 [104] bón Mg trong đất,

hàm lượng axit-amin, catechin tằng lên đáng kể. Nếu phun vi lượng Mg trên

lá thời gian dài thì hàm lượng axit-amin giảm so với đối chứng.

Tóm lại, dựa trên các phân tích ở trên cho thấy nhu cầu bón phân cho

cây chè thì tỷ lệ, liều lượng bón chủ yếu phụ thuộc vào giống, vùng trồng, sản

lượng thu hoạch, mục tiêu chế biến và chế độ canh tác.

+ Đặc tính chất lượng nguyên liệu búp chè

Nguyên liệu chè thu hái cho chế biến chủ yếu gồm búp có tôm và 2-3 lá

non. Thành phần cơ giới búp phụ thuộc vào mùa vụ, giống và kỹ thuật hái:

+ Các giống chè khác nhau có thành phần cơ giới và hình thái nguyên

liệu búp khác nhau. Búp chè non, già, to, nhỏ khác nhau ảnh hưởng rất lớn

đến quá trình chế biến sản phẩm.

Đánh giá chất lượng nguyên liệu tươi nhiều nước sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ

lá già và lá bánh tẻ. Ở Grudia người ta xác định chất lượng nguyên liệu búp

chè bằng máy “ Xinaze” (theo phương pháp bấm bẻ). Nguyên liệu được chia

làm 2 loại, loại 1 có tỷ lệ lá già và bánh tẻ ≤ 3,8%, loại 2 có tỷ lệ lá già và

32

bánh tẻ ≤ 8%. Ở Trung Quốc, Ấn Độ, Srilanca đếm số lá nhiều hay ít, thông

qua đó xác định phần non, già của nguyên liệu (dẫn theo Nguyễn Thị Minh

Phương 2012) [23]. Nếu tỷ lệ lá già và lá bánh tẻ càng cao thì chất lượng

nguyên liệu chè càng giảm. Ngoài ra người ta còn xác định chất lượng nguyên

liệu chè bằng các chỉ số hóa học.

-Thành phần hóa học chủ yếu của nguyên liệu búp chè:

Thành phần hóa học trong búp chè luôn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác

nhau, như giống chè, đất đai, kỹ thuật canh tác, điều kiện địa lý, độ cao

nương chè so với mặt biển, thời vụ thu hái, thành phần cơ giới của búp chè...

Trong nguyên liệu búp chè gồm có 2 phần: nước và chất khô. Hàm lượng

nước chiếm phần lớn từ 73-81%, hàm lượng chất khô chiếm từ 19-27% theo

khối lượng nguyên liệu chè. Trong phần chất khô người ta chia làm 2 nhóm:

Nhóm 1: là những chất hòa tan trong nước, chiếm từ 45-50% chất khô,

gồm các chất tanin, catechin, đạm, đường, pectin, caphein, chất khoáng, axit

hữu cơ, axit-amin

Nhóm 2: là các chất đệm, không có giá trị đối với chất lượng của chè,

nhưng đóng vai trò quan trọng đối với quá trình sinh lý cây rồng. Gồm có các

chất chlorophyll “a, b”, các chất nhựa, lignin, protopectin, cellulose,

hemicellulose, protein không tan

Uchida K (2016) [117] cho rằng trong chế biến chè đen, quá trình lên

men làm cho catechin thay đổi mạnh mẽ tạo thành các chất đồng phân và các

polyme. Các polyme trong chè đen được gọi là thearubigin. Thearubigin

chiếm khoảng 10-20% trọng lượng khô của chè đen, có mầu nâu và tan nhiều

trong nước. Còn theaflavin là một trong những sắc tố mầu đỏ tươi của chè đen

và có nhiều hoạt tính sinh học khác nhau.

Hợp chất catechin lần đầu tiên được nghiên cứu bởi Munder, được công

bố vào năm 1838. Vào đầu thế kỷ 20 các nhà khoa học thế giới đã nghiên cứu

33

catechin rộng rãi trong cây Acacia catechu và nhiều loại cây khác. Chỉ đến

năm 1933, A L Cuốcxanốp đã bắt đầu nghiên cứu thành phần hóa học trong

chè một cách hệ thống, tạo ra cơ sở khoa học của quá trình sản xuất chế biến

chè cho đến ngày nay Xoxialishvili (1989) [144]. Khi nghiên cứu catechin

trong búp chè Roberts, Wood 1951c, 1953, Roberts 1956 đã quan sát và

nghiên cứu thành phần catechin trong búp chè, chỉ ra rằng, khi đun nóng hoặc

hấp búp chè tươi thì dạng (+) catechin được epimer hóa thành dạng (-)

catechin, còn dạng (+) gallocatechin biến thành (-) gallocatechin, thể hiện kết

quả đó trong sắc ký đồ có (± ) catechin và (±) gallocatechin (Zaprometop,

1964) [140]. Về sau các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu sâu thành

phần hóa học trong lá, cuộng, rễ , hoa của cây chè, chỉ ra rằng, trong búp chè

có 7 loại catechin: (-) epicatechin,(±) catechin (-)

epigallocatechin,(±)gallocatechin,(-) epicatechingallat,(-)

gallocatechingallat,và (-) epigallocatechingallat, theo Djemukhadze và cs.

(1957) [135], Zaprometop (1964) [139], trong búp chè, lá càng non thì hàm

lượng catechin càng cao.

Các hợp chất polyphenol trong trà có hàm lượng nhiều và phong phú có

nhiều ích lợi cho sức khỏe, ngăn ngừa được nhiều bệnh nên ngày càng được

nghiên cứu sâu hơn về các tác dụng và cơ chế chữa bệnh của các chất có trong

chè (Clarke K.A et al., 2016 [64]; Chenyu Chu et al., 2017 [62]; Khaizurin

T.A. et al., 2019 [82]; Mani I.P. et al., 2019 [87]; Ruan L. Et al., 2019 [100];

Uchida K. Et al., 2016 [117]; Yumen H. (2017) [125].

Trong búp chè còn có các chất caphein, teobromin, teophylin. Caphein

trong chè được phát hiện vào năm 1821 bởi Munder (Bacutrava, 1958) [134].

- Pectin trong chè gồm có 2 loại: pectin hòa tan và pectin không hòa tan

(protopectin). Trước kia người ta cho rằng, pectin không có tác dụng đối với

chất lượng chè. Chỉ sau này theo nghiên cứu của Egorova và Salishvili

34

(1940) Gogia 1950b (dẫn theo Bacutrava, 1958), [134] tiến hành nghiên cứu

pectin trong lá chè ở Grudia cho rằng, pectin có tác dụng kết dính làm xoăn lá

chè khi vò và tạo vị ngọt cho chè sản phẩm. Trong lá chè càng non thì hàm

lượng pectin hòa tan càng cao. Trong búp chè hàm lượng pectin chiếm từ

2,01-3,08% chất khô.

Trong nghiên cứu chè, thường chú ý đến hàm lượng tanin và chất hòa

tan, là 2 chỉ số quyết định đến chất lượng của chè.

- Chất hòa tan, trong phần hòa tan có chứa nhiều chất dinh dưỡng có giá

trị đối với cơ thể con người. Khi lá chè càng phát triển thì phần hòa tan trong

nước giảm xuống, và ngược lại phần không tan được tăng lên. Những chất

không tan, nằm lại trong bã khi pha chè. Đó là những chất không có giá trị đối

với chất lượng chè như các hợp chất cao phân tử: cellulose, hemicellulose,

protit không tan, các chất màu. Chất hòa tan trong chè thường chiếm cao nhất

đến 50% so với chất khô. Nó bao gồm tất cả các hợp chất tan trong nước, mà

chủ yếu là hàm lượng tanin chiếm từ 25-30% chất khô. Ngoài ra còn có các

chất catechin, caphein, teobromin, teophylin, axi-amin, các loại vitamin,

pectin và các chất muối khoáng... Trong chè chứa hàm lượng chất hòa tan

càng cao, thì chất lượng chè càng tốt và giá trị dinh dưỡng càng cao. Theo

Chen Rong Bing (1995) [61] hàm lượng chất hòa tan trong các giống chè đều

khác nhau. Giống chè Ấn Độ, hàm lượng chất hòa tan chiếm đến 50%, chè

Trung Quốc-45%, chè Nhật Bản-43%, chè Grudia-44%. Trong sản phẩm chè

xanh, chất hòa tan chiếm từ 38-42%, chè đen chiếm 34-36% chất khô. Trong

búp chè, lá càng non thì hàm lượng chất hòa tan càng cao, trong cuộng chè

chứa hàm lượng chất hòa tan cao nhất.

- Hàm lượng tanin, hay còn gọi là chất chát, bao gồm tất cả các chất bị

oxy hoá bởi permanganatkali. Theo Zaprometop (1964) [139], trong hợp chất

tanin bao gồm phenol đơn phân, catechin, axit phenolic, leicoxianigin,

35

antoxian, flavol, flavanol và tanin cao phân tử. Nghiên cứu hợp chất tanin

trong chè được bắt đầu bởi Munder K L vào năm 1838, nhưng chỉ nghiên cứu

tanin trong chè sản phẩm mang tính chất thương mại. Về sau Oparin,

Cuocxanop, Bacutrva, Djemukhadze, Roberts đã nghiên cứu hợp chất tanin

trong búp chè, dưới sự biến đổi của chúng trong quá trình chế biến chè đen đã

chỉ ra rằng, hương vị và màu sắc của chè được hình thành chủ yếu do tác

dụng của tanin và sản phẩm oxy hóa của chúng (Djemukhadze, 1982 [5];

Bacutrava, 1958 [134]). Theo nghiên cứu của Bacutrava( 1958) cho rằng hợp

chất tanin có 2 dạng: dạng hòa tan trong nước và dạng không tan. Điều này có

ý nghĩa lớn trong quá trình hoạt động sinh lý của cây chè và chất lượng sản

phẩm. Hợp chất tanin có khả năng dịch chuyển trong thực vật khi cây thiếu

dinh dưỡng, nó có thể dược sử dụng như một loại nguyên liệu hô hấp. Một

trong những chức năng quan trọng của tanin liên kết là tạo nên sự bền vững

trong tế bào thực vật và tính chống chịu của cây. Hàm lượng tanin trong chè

phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như giống chè, độ cao nương chè so

với mặt biển, điều kiện canh tác, thu hái, thời vụ ...

Các biến chủng khác nhau thì hàm lượng tanin và thành phần của chúng

cũng khác nhau. Búp chè thuộc biến chủng Ấn Độ và Trung quốc lá to hàm

lượng tanin đơn phân nhiều hơn so với các giống chè khác. Lá chè càng non

thì hàm lượng tanin càng cao. Trong búp chè tôm 2 lá hàm lượng tanin chiếm

khoảng 25-35% chất khô.

Axit amin trong búp chè không chỉ ở trong thành phần protit mà còn ở

trạng thái tự do, nó có ý nghĩa lớn đối với chất lượng chè sản phẩm. Theo

nghiên cứu thành phần axit amin trong lá chè Grudia, Bacutrava cho rằng,

trong chè có 16 loại axit-amin và một vài amid, trong đó có 7 loại axit-amin

không thay thế đối với cơ thể con người.

36

Liang Yueron và cs. (2019) [85], cho rằng nhu cầu về các sản phẩm chè

ngày càng đa dạng, bao gồm đa dạng hoá các thuộc tính chất lượng cảm quan

và chức năng tốt cho sức khoẻ. Chọn giống chè hiện nay nhằm mục tiêu tăng

hàm lượng EGCG, axit amin bao gồm theamin chức năng. Giống chè có mầu

sắc với hàm lượng anthocyanin cao đã được đưa ra từ giai đoạn đầu thế kỷ

XXI.

Chenyu C., Jia D., Yi M., Yili Q. (2017) [62] cho biết, trà xanh là đồ

uống phổ biến nhất ở Trung Quốc và Nhật Bản. Thành phần hóa học chính

trong trà xanh là Polyphenol, chiếm 30% chất khô của trà xanh. Các

polyphenol trong trà xanh có nhiều catechin như catechin, epicatechin (EC),

epicatechin-3-gallate (ECG), epigallocatechin (ECG), epigallocatechin-3-

gallate (EGCG). EGCG là polyphenol có nhiều nhất trong số các polyphenol

trong trà xanh. phong phú nhất chiếm từ 50 – 80% tổng số trong trà xanh, nó

cũng được coi là đóng góp chính các lợi ích sức khoẻ khác nhau của trà xanh.

Xiong L.G và cộng sự (2018) [122], các mức tối ưu của EGCG đã được

tìm thấy để kéo dài tuổi thọ ở C. Eleganstrong qua con đường trung gian

AMPK/ SIR2.1 / DAF-16, khi kích hoạt SIR2.1 có thể kích hoạt yếu tố phiêm

mã DAF-16, cuối cùng kích hoạt nhiều yếu tố chống oxy hoá.

Ding L; Gao X; Hu J, Yu S (2018) [66], Martin M.A (2017) [88], chiết

xuất trong trà xanh có tác dụng chống lại phản ứng oxy hoá (ROS) và chất

chống oxy hoá (RNS). Gần đây, EGCG cải thiện chức năng bộ nhớ bằng cách

quan sát các mức chống oxy hoá RNS và được sử dụng để chống lão hoá.

Theo Dunaway.S, et al. (2018) [68], UV có thể gây tổn thương da trực

tiếp, thông qua sự hấp thụ năng lượng của các sinh học phân tử, hoặc gián

tiếp, bằng cách tăng sản lượng của ROS. Sản phẩm tự nhiên với hoạt tính

chống oxy hoá, có khả năng tăng cường nội sinh của da và giúp trung hoà

ROS.

37

Đường hòa tan cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng đối với chất

lượng chè. Theo nghiên cứu của Bacutrava (1958) [134] cho rằng, khi tác

dụng lẫn nhau giữa các đường glucose, fructose với phenylalamin và hợp chất

catechin sẽ tạo ra các aldehyd, làm cho chè có mùi hương hoa quả, hoặc mùi

hoa hồng, mùi mật ong. Các loại đường khử đều tham gia vào quá trình tạo

thành chất lượng chè khi chế biến. Hàm lượng đường khử trong búp chè

chiếm khoảng 2-3% chất khô. Theo số liệu phân tích của Djemukhadze

(1982) [5] xác định trong chè nguyên liệu, hàm lượng hợp chất tanin-catechin

càng lớn thì hàm lượng đường hòa tan càng thấp và ngược lại. Nguyên liệu

chè thu hoạch trong đầu vụ, hàm lượng đường khử cao nhất và ở giữa vụ thấp

nhất, sau đó vào cuối vụ lại tăng lên. Điều đó được giải thích rằng bởi vì các

loại đường khử là tiền chất để tổng hợp, hợp chất catechin.

Như vậy thành phần hóa học trong búp chè luôn phụ thuộc vào giống

chè, điều kiện địa lý, kỹ thuật canh tác, đất đai, thời vụ thu hái, độ non già của

nguyên liệu... Đó là những khái niệm cơ bản để phục vụ cho công tác nghiên

cứu giống chè và kỹ thuật canh tác, chế biến sản xuất chè, để tạo nên những

giống chè có năng suất cao, ổn định chất lượng tốt nhất.

1.3. Nghiên cứu về chè ở Việt Nam

1.3.1. Nghiên cứu về giống

1.3.1.1. Tình hình điều tra thu thập về giống

Đến năm 2015 cả nước có 10 giống chè mới chủ lực đã được nghiên cứu,

khảo nghiệm, công nhận và đưa vào phục vụ sản xuất như PH1, TRI 777,

LDP1, LDP1, Phúc Vân Tiên, Kim Tuyên, Ngọc Thúy, PH10, TB14, PH8,

PH9, PH11, PH12, PH14 Nguyễn Văn Toàn (2015) [44].

So với năm 2000 (khoảng 15 % diện tích chè giống mới), cơ cấu giống

chè cả nước đến năm 2015 đã có chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ lệ

các giống chè chất lượng khá và chất lượng cao.

38

Hiện nay, vùng sản xuất giống chè tập trung tại Phú Thọ, Tuyên Quang,

Thái Nguyên, Yên Bái và Lâm Đồng có khoảng 200 ha chè đầu dòng giống

mới đã được thẩm định và công nhận có khả năng cung cấp trên 300 triệu

hom giống, đủ đáp ứng nhu cầu giống cho trồng mới và trồng thay thế hàng

năm của cả nước.

Hiện trạng tập đoàn giống chè ở Việt Nam

Hiện nay Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc,

lưu giữ tập đoàn gồm 202 giống chè có nguồn gốc trong nước và nhập nội.

Gồm 76 giống địa phương và chọn tạo tại Việt Nam chiếm khoảng 39,38%,

117 giống nhập nội chiếm khoảng 60,62%, phân theo hình thái có: thứ Trung

Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var Bohea), 71 giống, thứ Trung Quốc lá to

(Camellia sinensis var Macrophylla) có 42 giống, thứ chè Ấn Độ (Camellia

sinensis var Assamica) 38 giống, chè Shan (Camellia sinensis var Shan) 42

giống (Nguyễn Hữu La, 1998) [12].

Nguyễn Hữu La, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Hoàng Hà (2019) [84]

giống chè mới LCT1, được tạo ra bằng phương pháp lai chéo, cho năng suất

cao, chất lượng nước uống và chống lại một số loài gây hại chính.

Tập đoàn giống chè được thu thập bảo quản năm 2017 – 2018 để khai

thác tăng thêm 71 giống (tăng 58,2% so tổng số giống bảo quản). Các giống

chè này đang là nguồn vật liệu quan trọng phục vụ cho công tác chọn tạo giống

chè mới chất lượng cao ở Việt Nam .

1.3.1.2. Ứng dụng Công nghệ sinh học trong chọn tạo giống chè

Những ứng dụng của chỉ thị phân tử còn rất hạn chế, phần vì các phương

pháp chọn tạo giống chè truyền thống vẫn còn phổ biến, phần vì công nghệ

sinh học chưa được triển khai đến các cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về cây

chè. Cũng tương tự như trên thế giới, do số lượng chỉ thị SSR đặc hiệu cho

39

cây chè chưa có nhiều nên đến nay, ứng dụng công nghệ sinh học trong công

tác giống chè ở nước ta còn rất hạn chế.

Lã Tuấn Nghĩa và cs (2010) [14] đã tiến hành phân tích phân nhóm di

truyền 96 giống/dòng chè bằng chỉ thị phân tử Microsatellite. Dựa trên quan

hệ di truyền đã xác định các cặp bố mẹ có khoảng cách di truyền xa nhau để

lai giống nhằm tạo ra ưu thế lai. Kết quả đã tạo ra được các cây chè F1 từ các

cặp bố mẹ có quan hệ xa nhau về di truyền, thu được 49 cây đầu dòng, tuyển

chọn được 2 giống chè lai triển vọng về năng suất và chất lượng là dòng TKt

– 10 và PBt –25. Mặc dù quy mô các nghiên cứu trên còn hạn chế nhưng kết

quả thu được phù hợp với các nghiên cứu được công bố trước đó và là cơ sở

di truyền ban đầu cho công tác chọn tạo giống chè ở Việt Nam.

Nguyễn Văn Thiệp và cs. (2016) đã sàng lọc và xác định 2 chỉ thị SSR

là CamsinM1 và CamsinM5 liên kết với gen chịu hạn ở cây chè. Ứng dụng

các chỉ thị này vào chọn tạo giống chè, các tác giả đã tạo ra các dòng chè mới

CH-352, CH-711 và CH-651 có khả năng chịu khô hạn trong điều kiện gây

hạn nhân tạo tới 30-45 ngày [37].

Mặc dù còn khá mới mẻ nhưng có thể khẳng định việc áp dụng công

nghệ sinh học trong công tác giống chè là khả thi và và nâng cao hiệu quả

công tác chọn tạo giống chè mới ở nước ta.

1.3.2. Tình hình nghiên cứu đặc điểm sinh vật học của cây chè Việt Nam

1.3.2.1. Kết quả nghiên cứu về hoa, quả chè

Nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học của các giống chè ở Việt Nam đã

được nhiều nhà khoa học quan tâm.

Nghiên cứu số lượng nụ, hoa của các giống chè ở Thái Nguyên, tác giả

Lê Tất Khương (1997) [11] cho rằng ở điều kiện sinh trưởng tự nhiên cây chè

ra nhiều nụ hoa hơn so với trong điều kiện có đốn, hái. Các giống chè Ấn Độ

và chè Shan có số nụ hoa ít hơn so với các giống Trung Du, và ra hoa muộn

40

hơn giống Trung du từ 10 - 25 ngày và thời gian quả chín muộn hơn giống

Trung du từ 5 đến 10 ngày.

1.3.2.2. Nghiên cứu về thân, cành chè

Các giống chè đều có những đặc điểm và khả năng phân cành khác

nhau, có giống phân cành thấp (thân bụi, nửa bụi), có giống phân cành cao,

cành thưa hơn (thân gỗ, bán gỗ). Khả năng phân cành của mỗi giống đều có

ảnh hưởng đến chiều cao, độ rộng tán, mật độ cành, mật độ búp của tán chè

và qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng chè.

1.3.2.3. Nghiên cứu về lá chè

Những cây chè có sản lượng cao thường là những cây có màu xanh

đậm, bóng láng, dày. Những giống chè có tỷ lệ chiều dài lá/chiều rộng lá (d/r)

bằng 2,2 sẽ có sản lượng cao hơn những cây có tỷ lệ này nhỏ hơn 2,2. Giống

có dạng lá bầu dục (tỷ lệ d/r nhỏ hơn 2,2) sản lượng cao hơn giống có dạng lá

hình mũi mác. Giống chè Trung Du có diện tích lá nhỏ thường cho năng suất

thấp, búp nhanh mọc xòe.

Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc điểm hình thái, điều kiện ngoại

cảnh với năng suất chè, Chu Xuân Ái (1988) [1] cho rằng: Năng suất chè có

mối tương quan thuận chặt với diện tích lá (r = 0,7725), những giống có diện

tích lá lớn cho năng suất cao. Giống có chiều rộng lá lớn (r = 0,7542) có năng

suất cao hơn những giống có chiều dài lá lớn.

Nguyễn Văn Toàn và Trịnh Văn Loan (1994) [41] cho biết về quan hệ giữa diện tích lá chè và sản lượng, trong khoảng diện tích lá 6 cm2 – 36 cm2

thì khi diện tích lá tăng sản lượng chè có xu hướng giảm.

Nghiên cứu hệ số diện tích lá và quan hệ giữa hệ số diện tích lá với

năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất, tác giả Đỗ Văn Ngọc (1991) [17]

cho biết: Hệ số diện tích lá có tương quan thuận với tổng số búp/tán chè (r =

41

0,69 – 0,57) và tương quan thuận với mật độ búp từ tháng 5 đến tháng 12, hệ

số diện tích lá tương quan thuận, chặt với năng suất.

Nghiên cứu hệ số diện tích lá các giống chè, tác giả Đỗ Văn Ngọc còn

cho rằng những giống chè có năng suất cao thường có hệ số diện tích lá 4 – 6.

Theo tác giả Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn Loan (1994) [41] thì đặc

điểm của cây chè có sản lượng cao ít nhất phải có hệ số diện tích lá lớn (tạo ra

số búp nhiều), kích thước lá lớn, khối lượng búp cao). Về thế lá, các giống chè có sản lượng cao thường có góc lá là 40 – 60o.

1.3.2.4. Nghiên cứu về sinh trưởng búp chè

Thời gian hình thành 1 đợt sinh trưởng dài hay ngắn phụ thuộc vào

giống, tuổi cây, điều kiện đất đai, khí hậu và điều kiện canh tác. Nghiên cứu

thời gian các đợt sinh trưởng búp ở các thời vụ trên giống chè Trung du tại

Phú Hộ, Nguyễn Phong Thái cho biết, vụ xuân búp chè có thời gian sinh

trưởng dài nhất (41-42 ngày) và ngắn nhất là vụ hè (28-31 ngày).

Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc điểm hình thái, điều kiện ngoại

cảnh với năng suất chè, Chu Xuân Ái (1988) [1] cho rằng: Năng suất chè có

mối tương quan thuận chặt với mật độ búp chè (r = 0,8564), những giống có

mật độ búp cao cho năng suất cao.

Nghiên cứu số đợt sinh trưởng của các giống chè, trong đó có giống chè

Shan (TRI-777) ở điều kiện có đốn hái và điều kiện tự nhiên, tác giả Lê Tất

Khương (1997) [11], cho rằng số lượng đợt sinh trưởng tự nhiên của các

giống biến động từ 3,4 - 3,6 đợt/năm, nhưng trong điều kiện có đốn hái số đợt

sinh trưởng lớn hơn, đạt 5,5 - 6,2 đợt/năm.

Nghiên cứu mối quan hệ giữa sinh trưởng búp chè với sản lượng, tác giả

Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn Loan (1994) [41] cho biết sản lượng chè do 2

yếu tố số lượng búp trên cây và khối lượng búp quyết định, trong đó tổng số

lượng búp trên cây có tương quan chặt đến sản lượng búp (r = 0,93 ± 0,03), còn

42

yếu tố khối lượng tương quan thuận không chặt với sản lượng. Số búp trên cây

là yếu tố nhạy cảm còn khối lượng búp là yếu tố ổn định và vì thế số búp trên

cây có ý nghĩa lớn hơn đối với sản lượng.

Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái của tập đoàn giống chè tại Phú Hộ

trong thời kỳ KTCB tác giả Nguyễn Hữu La (1998) [12] đã khẳng định chiều

cao cây có tương quan thuận rất chặt với chiều rộng tán chè (r = 0,72 ± 0,09),

nhưng không có tương quan thuận với khối lượng búp và mật độ búp.

Sắc tố trong lá chè được phân loại làm 4 sắc tố: đó là Chlorophyll,

Carotenoid, Phylcobilin và sắc tố của dịch bào Antocyan. Màu sắc lá cấu tạo

sắp xếp các tế bào lục lạp trong lá vì trong tế bào lục lạp ngoài chất diệp lục

còn có chứa thêm 2 chất màu xanh: Xantophill – màu vàng, Caroten màu đỏ

cam. Như vậy hàm lượng Chlorophyll, Caroten trong lá chè sẽ ảnh hưởng đến

sắc tố của lá cũng như chất lượng và sản lượng chè.

Kerkadзe.I.G (1980) [141] nhận xét: Dạng lá có màu vàng là đặc trưng

và tương quan có lợi cho các chỉ tiêu sinh hóa, nó phân biệt với lá có màu sắc

khác ở sự khác nhau của hàm lượng Chlorophyll, Tanin và một số chỉ tiêu

khác. Dạng lá có màu cà phê sáng đặc trưng có lợi cho các chỉ tiêu sinh lý.

1.3.3. Những nghiên cứu về nhân giống vô tính chè ở Việt Nam

Ở Việt Nam nhân giống vô tính đối với cây chè từ lâu đã được nhiều tác

giả nghiên cứu. Theo Đỗ Ngọc Quỹ và Nguyễn Văn Niệm (1979) [25] chè có

thể nhân giống vô tính theo ba hình thức khác nhau: Giâm cành, chiết và

ghép. Khi nghiên cứu về ghép chè. Cả 2 phương pháp: Ghép áp và ghép nêm

đều có kết quả nhất định, tuy nhiên ghép áp đoạn cành cho kết quả tốt hơn,

khả năng phát triển của cành ghép mạnh hơn, tỷ lệ nảy mầm đạt 90,19%, tỉ lệ

ghép sống đạt 87,04%. Thời gian nảy mầm ngắn 25 đến 39 ngày.

Nghiên cứu khả năng nuôi cấy mô của một số giống chè, Nguyễn Văn

Thiệp và Inoue Kazumi (2006) [33] kết luận: Khả năng nẩy chồi của một số

43

giống chè khi nuôi cấy bằng phôi hạt là như nhau trong khi đó nếu nuôi cấy

bằng búp của các giống chè Shan và giống LDP1 có tỷ lệ nẩy chồi thấp hơn.

Các giống Shan và giống LDP1, Shan Chất Tiền, Gruzia 3 có khả năng tạo

thành phôi vô tính, khả năng tạo chồi và rễ mạnh hơn các giống khác.

Nhìn chung các phương pháp nhân giống trên đều có những ưu điểm

nhưng có những vẫn còn những nhược điểm nhất định như: kỹ thuật phức tạp,

không thuận tiện, hệ số nhân giống thấp, hoặc giá thành cây giống cao. Nhân

giống vô tính đối với cây chè bằng phương pháp giâm hom có tính khả thi

hơn vì hệ số nhân giống cao, dễ thực hiện, thời gian cây giống đạt tiêu chuẩn

xuất vườn nhanh, giá thành hạ, việc vận chuyển dễ dàng một khối lượng cây

lớn đến nơi trồng mới.

Khi nghiên cứu thời vụ giâm cành đối với giống chè PH1 các tác giả Đỗ

Ngọc Quỹ và Nguyễn Văn Niệm (1979) [25] đã xác định có hai thời vụ chính:

Vụ Đông xuân từ tháng 12 đến tháng 2 và vụ hè thu từ tháng 6 đến 15 tháng 7

nhưng thời vụ giâm cành tốt nhất với giống chè PH1 là vụ Đông xuân.

Nghiên cứu về kích thước hom các tác giả cho rằng hom chè có kích

thước từ 4-5cm, có một lá nguyên. Vết cắt phía trên cành giâm cách nách lá

mẹ 0,5cm, nếu khoảng cách này dài quá hay ngắn quá đều không tốt.

Nguyễn Văn Thiệp và Nguyễn Văn Tạo (2008) [34] khi nghiên cứu hệ

số nhân giống của giống chè Phúc Vân Tiên và Keo Am Tích đã chỉ rõ: Cành

giống tốt là những cành có số lá thật đồng đều, lá dầy, màu xanh, độ dài lóng

đạt mức độ trung bình, mầm nách phát triển không dài quá 3cm tốt nhất mầm

nách chỉ hình thành ở nách lá thứ 1-3 với độ dài mầm ≤ 1cm.

Nguyễn Văn Toàn và cs (1994) [40], (1998) [42] khi nghiên cứu ảnh

hưởng của kích thước lá đến khả năng giâm cành của các giống đã kết luận:

Diện tích lá chè ảnh hưởng đến khả năng giâm cành, những giống có lá quá

44

lớn ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ sống, hình thành mô sẹo, ra rễ và bật mầm của

hom giâm.

1.3.4. Nghiên cứu về đặc tính chất lượng nguyên liệu búp chè

Khi điều tra chè Shan cổ thụ các tỉnh miền núi phía Bắc, tác giả Đỗ Văn

Ngọc và cộng tác viên (2006) [18] đã kết luận búp chè tôm 3 lá có các chỉ tiêu

biến động lớn: chiều dài 7,9 – 10,5 cm; khối lượng 0,75 – 1,25 g; tỷ lệ tôm

3,8 – 6,6%; tỷ lệ lá 1 + 2 từ 25,0 – 35,4%; tỷ lệ lá 3 từ 25,8 – 44,9%; và tỷ lệ

cuộng từ 24,0 – 35,0%;

Vũ Hữu Hào, Trịnh Văn Loan (1988) [8] đã đánh giá chất lượng nguyên

liệu chè tại các vùng chè Phú Thọ, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang,

Sơn La, Yên Bái và Lâm Đồng, đã công bố: hàm lượng tanin, chất hòa tan

vào đầu và cuối vụ thấp hơn so giữa vụ; hàm lượng catechin tổng số trong

búp chè tôm 2 lá của các giống chè Shan tương tự giống PH1, 1A và có hàm

lượng khá cao (150 – 170 mg/gck).

Katsuyuki Yoshida, Akiko Ogino, Akiko Matsunaga, Le Van Duc,

Nguyen Le Thang and Atsushi Nesumi (2006), phân tích thành phần sinh hóa

búp chè bằng HPLC, đã nhận xét rằng chè Shan và chè Trung du ở vùng phía

Bắc Việt Nam có hàm lượng Caffeine và Catechin cao, hàm lượng amino axit

tự do thấp. Hàm lượng Catechin tổng số ở các mẫu chè Shan thu thập ở

Mường Khương, Lào Cai trung bình là 22,78%, Catechin thành phần như

EGCG trung bình 13,16%, amino acid tổng số 1,53%; giống chè Trung du thu

thập ở Văn Chấn, Yên Bái có hàm lượng Catechin tổng số 20,22%, EGCG là

10,56%, amino acid tổng số 1,04% [80].

Như vậy, các công trình nghiên cứu trên cho kết quả tương đối thống

nhất về đặc tính chất lượng nguyên liệu của chè Shan ở Việt Nam. Kế thừa

các kết quả nghiên cứu trước đây và phát triển mới theo hướng vừa đánh giá

thành phần nguyên liệu vừa đánh giá sự thích hợp của nguyên liệu với chế

45

biến các loại sản phẩm làm cơ sở khoa học để định hướng sản phẩm cho các

dòng chè mới triển vọng.

1.3.5. Nghiên cứu về một số biện pháp kỹ thuật canh tác chè trong giai đoạn

kiến thiết cơ bản ở Việt Nam

1.3.5.1. Kết quả nghiên cứu về giâm hom chè ở Việt Nam

Theo tác giả Nguyễn Văn Toàn (1994) [40] nghiên cứu về đặc điểm sinh

vật học các biến chủng chè cho thấy: giống chè có lá quá lớn sẽ có ảnh hưởng

xấu đến tỷ lệ sống, sự hình thành mô sẹo và tỷ lệ bật mầm; giống chè mà thân

có tốc độ hoá nâu chậm thì khi giâm có tỷ lệ sống và sự hình thành mô sẹo, ra

rễ kém và ngược lại ở những giống thân hoá nâu nhanh hơn thì cho kết quả

giâm hom tốt hơn.

Như vậy, giống chè khác nhau có những đặc điểm khác nhau về kích

thước lá và đường kính hom, đòi hỏi kích thước túi bầu giâm cũng khác nhau.

Hom chè Shan có đặc điểm lá to, lóng dài, đường kính hom lớn và cây con

khi hình thành có bộ rễ và thân cành phát triển mạnh nên khi giâm cành cần

nghiên cứu kích thước túi bầu hợp lý để cây chè con có chất lượng tốt, đảm

bảo sau trồng cho chất lượng tốt hơn.

1.3.5.2. Kết quả nghiên cứu về mật độ trồng chè ở Việt Nam

- Trong giai đoạn KTCB mật độ trồng khác nhau chưa ảnh hưởng đến

sinh trưởng và phát triển của cây chè con.

- Sau khi đốn, năng suất búp phụ thuộc nhiều vào mật độ trồng: Mật độ

tăng cho năng suất cao.

- Mật độ khác nhau chưa ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu và một

số chỉ tiêu phân tích thành phần sinh hóa cơ bản (tanin và chất hòa tan).

- Nơi đất dốc dưới 15 độ: khoảng cách là 1,4 – 1,5m x 0,4 – 0,5

- Nơi đất dốc trên 15 độ: Khoảng cách là 1,2 – 1,3m x 0,3 – 0,4m

46

Các nghiên cứu về mật độ trồng chè, tác giả Đỗ Ngọc Quỹ (1980) [27]

cho thấy: mật độ trồng chè phụ thuộc vào giống, độ dốc đất trồng, mức độ đầu

tư thâm canh; giống chè thân bụi có mật độ trồng cao hơn giống chè thân gỗ;

nơi đất có độ dốc thấp trồng dày hơn nơi có độ dốc cao; mức thâm canh cao

trồng dày hơn so với không thâm canh v.v.

1.3.5.3. Kết quả nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật đốn chè KTCB

Các nghiên cứu kỹ thuật đốn chè của các tác giả Đỗ Văn Ngọc (1991)

[17], (2006) [18], Đỗ Ngọc Quỹ (1980) [27] cho biết đốn chè phụ thuộc vào

giống, mật độ trồng, phương thức trồng cành hay hạt, kỹ thuật hái bằng máy

hay bằng tay v.v, nhưng chủ yếu phụ thuộc vào giống. Năm 1975, quy trình

đốn chè cho giống Trung du trồng hạt: đốn lần 1 khi cây 2 tuổi, cách mặt đất

12 – 15 cm; đốn lần 2 khi cây 3 tuổi, cách mặt đất 30-35 cm; đốn lần 3 khi

cây 4 tuổi, cách mặt đất 50 – 60 cm. Năm 1980, quy trình kỹ thuật sửa đổi

cho chè trồng bằng cành (giống PH1): đốn lần 1 khi cây 2 tuổi, cách mặt đất

25 cm (cao hơn quy trình cũ 10 cm); đốn lần 2 khi cây 3 tuổi, cách mặt đất 35

cm; đốn lần 3 khi cây 4 tuổi, cách mặt đất 45 cm (thấp hơn quy trình cũ 15

cm). Ở quy trình này mức đốn đã đưa lên cao hơn phù hợp hơn cho chè trồng

cành, lý do chè trồng hạt phân cành cao và cành sinh trưởng yếu do ưu thế

sinh trưởng đỉnh của chè hạt nên đốn KTCB thấp hơn để tạo bộ khung tán

thấp, chắc khỏe, còn chè trồng cành do cành phát triển rất mạnh và ví trí phân

cành thấp nên mức đốn cao hơn. Sau 4 năm trồng, năng suất chè cao hơn so

với đốn theo quy trình 17,9 – 23,2%.

Nghiên cứu cải tiến quy trình đốn KTCB cho giống chè PH1 (1985) đã

thay đổi kỹ thuật đốn lần 1 có chiều cao thân chính và cành bên khác nhau

(chiều cao thân chính 25 cm, nhưng chiều cao cành bên 40 – 45 cm). Cách

đốn này, cây chè có tán rộng hơn, đường kính thân, số cành cấp 1, cấp 2 và hệ

47

số diện tích lá lớn hơn, sau 4 năm năng suất đạt 45 – 47 tạ/ha, cao hơn so với

quy trình đối chứng từ 17,9 – 23,2% (đối chứng 34 – 36,5 tạ/ha).

Như vậy, mỗi giống chè khác nhau có kỹ thuật đốn tạo hình khác nhau,

nên cần thiết nghiên cứu kỹ thuật đốn tạo hình phù hợp.

1.3.5.4. Kết quả nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật hái chè ở Việt Nam

Hái chè phụ thuộc vào mục tiêu sản phẩm của người chế biến chè, phụ

thuộc vào giống: mỗi giống chè có khối lượng búp, thời gian bật búp, thời

gian sinh trưởng búp khác nhau, giống chè Shan có hình dạng búp lớn, lóng

dài cần thiết phái có kỹ thuật hái thích hợp. Việc xác định đúng kỹ thuật hái

chè Shan là một trong những yếu tố chính làm tăng năng suất búp chè.

Các nghiên cứu về hái chè của tác giả Đỗ Văn Ngọc và cs (2009) [20]

cho thấy trên các giống Trung Du, PH1, LDP1 cho biết áp dụng hái chè san

trật có ưu điểm phẩm cấp chè non, số lứa hái nhiều, nhưng do hái chè san trật

mà trên nương chè luôn tồn tại búp chè là thức ăn và duy trì một số lượng sâu

hại liên tục vượt ngưỡng phòng trừ, dẫn đến trong sản xuất phải áp dụng kỹ

thuật phun thuốc định kỳ sau mỗi lứa hái, chính vì vậy mà dư lượng thuốc còn

vượt mức cho phép trong một số mẫu sản phảm. Các công thức hái kỹ (hái

triệt để, và tạo tán chè phẳng với bộ khung tán chừa lại cao thấp tuỳ theo mức

độ sinh trưởng xấu tốt của các nương chè), mặc dù số lứa hái trong năm ít do

thời gian tạo được một lứa hái lâu hơn so với hái san trật, nhưng ưu điểm của biện pháp hái này là búp ra tập trung, mật độ búp/m2/lứa nhiều hơn, đặc biệt

thời gian cách ly thuốc BVTV lâu hơn và dư lượng thuốc trong sản phẩm nhỏ.

Đây là một biện pháp được xem là có hiệu quả và đang được khuyến cáo áp

dụng rộng cho sản xuất.

Kỹ thuật hái khác nhau trên từng giống có ảnh hưởng khác nhau đến sinh

trưởng cây, số ngày cho một lứa và tổng số lứa hái cả năm. Đối với giống chè

PH1 thì công thức hái chừa cách vết đốn 10 cm, sửa tán hai lần vào tháng 4,7

48

cho sản lượng cao nhất, nhưng công thức hái chừa cách vết đốn 15 cm lại cho

phẩm cấp nguyên liệu tốt nhất. Đối với giống LDP1 hái theo công thức hái

chừa cách vết đốn 10 cm, sửa tán hai lần vào tháng 4,7 làm giảm số lứa hái

nhưng năng suất không sai khác so hái san trật.

Nghiên cứu về kỹ thuật hái ảnh hưởng đến rầy xanh và bọ trĩ hại chè,

Nguyễn Văn Thiệp (2000) cho biết hái san trật (hái khi có khoảng 30% số

lượng búp đủ tiêu chuẩn hái) có mật độ rầy xanh, bọ trĩ cao hơn hái theo lứa

(hái khi lứa chè rộ, có khoảng 80% số búp đủ tiêu chuẩn hái) và hái kỹ (hái tất

cả những búp chưa đạt tiêu chuẩn hái trên mặt tán). Mỗi phương pháp hái có

ưu điểm và nhược điểm liên quan đến chất lượng nguyên liệu búp nên tác giả

khuyến cáo khi rầy xanh, bọ trĩ phát sinh thành dịch, có thể áp dụng biện pháp

hái kỹ kết hợp phòng trừ bằng hóa học sẽ đạt hiệu quả tốt [32].

1.3.5.5. Kết quả nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật bón phân cho chè ở Việt Nam

Nhiều công trình nghiên cứu cơ sở bón phân cho chè ở nhiều nước đã chỉ

ra rằng ở hầu hết các nước hiệu quả của việc bón phân cho chè chiếm 50 –

60% tổng hiệu quả của các biện pháp nông học đối với năng suất chè; bón

phân cho chè không những tăng thu nhập trên một diện tích từ năm này đến

năm khác, điểu chỉnh sinh trưởng khi bón phiến diện các yếu tố dinh dưỡng

và để bù đắp những thiếu hụt nào đó từ đất.

- Đối với sinh trưởng của chè nhỏ tuổi, đạm có vai trò hàng đầu, sau đó

đến lân và kali;

- Vai trò của đạm (N) – lân (P): có ảnh hưởng lớn hơn đối với cây chè

nhỏ tuổi, lớn hơn vai trò của tổ hợp N và kali (K). Nghiên cứu trên còn cho

thấy: phân lân có vai trò với sinh trưởng cả về đường kính thân, chiều cao

cây, độ rộng tán của cây con.

- Bón phân cân đối giữa N, P, K cho năng suất cao hơn hẳn so với chỉ

bón đạm và kali hoặc chỉ bón đạm đơn độc. Thời kỳ đầu của giai đoạn kinh

49

doanh sự sinh trưởng của tán chè tiếp tục đòi hỏi đủ phân P, K trên cơ sở bón

đủ đạm. Vì vậy lượng phân bón của cây chè cần được cung cấp N, P, K hợp

lý và thường xuyên. Vì vậy, mỗi giai đoạn cây cần với liều lượng khác nhau

với nguyên tắc từ ít đến nhiều, bón đúng lúc, đúng cách, đúng đối tượng và

kịp thời.

Theo tác giả Lê Văn Đức và cs. (2004) [7], đất trồng chè ở Việt Nam

phần lớn là đất feralit vàng đỏ được phát triển trên đá granit, gnai, phiến thạch

sét và mica. Hiện nay đất trồng chè của Việt Nam rất nghèo chất hữu cơ, đất

chua, hàm lượng các chất dinh dưỡng NPK tổng số và rễ tiêu đều rất nghèo.

Muốn canh tác chè có hiệu quả cần phải thâm canh ngay từ khi bắt đầu trồng

chè, bón phân hữu cơ là yêu cầu không thể thiếu khi thâm canh.

Tác giả Lê Văn Đức (1997) [6] đã nghiên cứu về ảnh hưởng của Mg đến

chất lượng cây chè trên 2 giống PH1 và LDP1, kết quả cho thấy: bón Mg ở các

liều lượng 50kg và 70kg MgSO4/ha làm tăng mật độ búp chè tương ứng

10,5% và 18,9%; tỷ lệ búp mù xoè giảm, trọng lượng và chiều dài búp không

tăng có tác dụng tích cực đến năng suất và chất lượng chè; tăng dung lượng

đốn 25% và 32,8% so với đối chứng; tăng hàm lượng đường khử, axit amin,

do đó ảnh hưởng tốt đến chất lượng chè.

Nghiên cứu bón phân cho giống chè Shan đã được bắt đầu từ những năm

giữa thế kỷ XX. Tác giả người Pháp Guinard (1953), dẫn theo Đỗ Ngọc Quỹ

(1997) [26] đã nghiên cứu bón phân cho giống chè Shan trồng hạt tại trạm

Blao (vùng Tây Nguyên – Việt Nam) đã kiến nghị mức bón N, P, K là 40, 36

và 75 (kg/ha).

Tác giả Phạm Kiến Nghiệp (1984) [15] nghiên cứu mức bón phân đạm

trên 2 giống chè shan TB11 và TB14 ở vùng chè Bảo Lộc – Lâm Đồng đã kết

luận bón đạm đơn độc từ 100 – 400 kg N/ha, năng suất tăng theo lượng bón

50

nhưng hiệu quả sử dụng 1 kg N lại giảm. Cụ thể mức bón 400 kg N/ha hiệu

quả giảm 33% so mức bón 100 kg N/ha.

Khi nghiên cứu tỷ lệ bón phân NPK cho giống chè Shan TRI -777 giai

đoạn đầu chu kỳ kinh doanh, tác giả Đinh Thị Ngọ (1996) [16] đã kết luận: tỷ

lệ bón phối hợp NPK khác nhau cho năng suất khác nhau; tỷ lệ phối hợp có N

chiếm tỷ lệ cao cho năng suất cao hơn, trong đó tỷ lệ phối hợp NPK là 2:2:1

chè cho năng cao và hiệu quả kinh tế, ngoài ra còn nhiều tác giả nghiên cứu

cay phân xanh, vật liệu hữu cơ che phủ cho cây chè để tăng thêm lượng phân

hữu cơ cho đất.

Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu đã trình bày đều khẳng định cần

thiết bón phân đủ và cân đối. Trong đó cho thấy vai trò hàng đầu của N đối

với cây chè, nhưng N có hiệu lực tốt đến năng suất, chất lượng chè chỉ trên cơ

sở bón cân đối với P và K cùng các nguyên tố bán đa lượng và vi lượng khác

như Mg và B. Các kết quả còn cho thấy kỹ thuật bón phân phụ thuộc vào đất

đai, giống chè, tuổi cây, vùng trồng, mức đốn và sản lượng thu hoạch. Tuy

nhiên, kết quả nghiên cứu bón phân cho giống chè mới chưa nhiều, nhất là

các giống chè mới ưu thế lai cần được xác định thành phần phân bón, tỷ lệ

bón và liều lượng bón để khai thác tốt hơn lợi thế sinh trưởng khỏe, năng suất

cao của chhúng.

1.3.5.6. Đặc tính chất lượng nguyên liệu búp chè

Ở Việt Nam thu hái chè chủ yếu bằng tay, năng suất thấp, nhưng chất

lượng nguyên liệu khá hơn so với hái chè bằng máy. Khi hái chè bằng tay tỷ

lệ búp A + B chiếm 50 – 60% trong tổng khối lượng nguyên liệu, hiện nay do

điều kiện đáp ứng nhu cầu lao động, việc hái bằng máy đã ngày càng được áp

dụng rộng rãi ở các cơ sở sản xuất chè.

Chất lượng nguyên liệu thu hái được đánh giá theo độ non hay già và

phân tích qua “bấm bẻ” được quy định theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN

51

1053-86 [39], căn cứ vào hàm lượng lá bánh tẻ và lá già chia ra làm 4 loại

như sau:

Loại 1 (loại A): có từ 0 – 10% lá bánh tẻ, loại 2 (loại B): có từ > 10 -

20% lá bánh tẻ, loại 3 (loại C): có từ > 20 -30% lá bánh tẻ, loại 4 (loại D): có

từ > 30-45% lá bánh tẻ.

Nguyên liệu càng non, tỷ lệ búp (A, B) càng cao, chế biến sẽ cho chè có

thành phẩm tốt và ngược lại. Nhưng trong thực tế sản xuất việc hái nguyên

liệu chè non hay già còn phụ thuộc vào yêu cầu của sản phẩm chè. Để sản

xuất nguyên liệu chè an toàn thì cần hạn chế sử dụng thuốc BVTV và tăng

cường phân bón hữu cơ [38].

Các công trình nghiên cứu thành phần hóa học của búp chè do ảnh

hưởng của giống chè được nhiều tác giả nghiên cứu Đỗ Văn Ngọc, Trịnh Văn

Loan (2008) [19], Đoàn Hùng Tiến, Trịnh Văn Loan (1996) [31], cho thấy

hàm lượng Polyphenol trong các giống chè có nguồn gốc từ Ấn Độ cao hơn

các giống chè có nguồn gốc ở Trung Quốc (PH1, Đại Bạch Trà…).

Trong những tháng dầu vụ và cuối vụ có hàm lượng tanin thấp, tháng

giữa vụ có hàm lượng tanin cao (Đỗ Văn Ngọc, Trịnh Văn Loan 2008) [19].

Đánh giá chất lượng nguyên liệu ở nước ta còn dựa vào phương pháp thử

nếm cảm quan sản phẩm chè xanh, chè đen Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn

Loan (1994) [41].

1.4. Những nhận định về tổng quan của nghiên cứu

Chè là cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, cho thu hoạch ổn định, tiếp

tục mở rộng diện tích các giống có năng suất cao, chất lượng tốt nhằm đa

dạng các mặt hàng chè có chất lượng cao là một hướng đi thích hợp và là đòi

hỏi của sản xuất. Hiện nay, một số giống chè mới được chọn tạo có thể đáp

ứng được yêu cầu thị trường nhưng còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu để

mở rộng ra sản xuất như: kỹ thuật canh tác gồm bón phân, thu hái cho các

52

dòng chè CNS – 1.41, CNS – 8.31; kỹ thuật chế biến… các giống chè nói trên

để sản xuất và chế biến chè xanh, chè đen có chất lượng tốt.

Dựa trên các thành tựu kết quả nghiên cứu ở trong nước và trên thế giới

về một số biện pháp kỹ thuật canh tác như giâm hom, mật độ trồng, bón phân,

đốn, thu hái chè, đánh giá chất lượng sản phẩm đã được tiến hành có hệ

thống, đầy đủ và đạt được những thành tựu to lớn, có những bước phát triển

vượt bậc.

53

CHƯƠNG II

VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Vật liệu nghiên cứu

2.1.1. Giống chè

- Dòng chè CNS-1.41: là dòng chè vô tính được chọn lọc từ tổ hợp lai

giữa 2 giống Trung Du và Hồ Nam. Thuộc dạng hình dạng thân bán gỗ, phân

cành sớm và nhiều, dòng chè có đặc điểm nảy mầm sớm từ cuối tháng 2. có

khả năng cho thu hoạch sớm.

- Dòng chè CNS - 8.31: là dòng vô tính chọn lọc từ tổ hợp lai giữa

giống chè Trung Du xanh và Kim Tuyên, có dạng hình cây bán gỗ, góc phân

cành hẹp hơn dòng CNS-1.41.

Hai dòng chè mới được tạo thành nhờ áp dụng công nghệ sinh học vào

lai tạo và chọn lọc giống chè. Đó là sự kết hợp giữa lai hữu tính trên cơ sở sử

dụng chỉ thị phân tử định hướng tạo ưu thế lai và nuôi cấy phôi tạo cây chè

con từ giai đoạn phôi non chưa kết hạt và chọn lọc ngay trong giai đoạn nuôi

cấy in vitro. Các dòng chè mới sớm thể hiện các đặc tính ưu thế lai như sinh

trưởng mạnh, búp non lâu hóa gỗ, năng suất cao. Năm đầu tiên thu hoạch,

năng suất dòng CNS-1.41 đạt 1149,33 kg/ha, dòng CNS-8.31 đạt 1007,51

kg/ha (C.T. Huyền và ctv, 2012) [10].

- Giống chè LDP1, được tạo ra từ cặp lai giữa hai giống PH1 x Đại

bạch trà, công nhận giống mới năm 2002. Cây có dạng thân bán gỗ, lá màu

xanh lục, sinh trưởng rất tốt, năng suất cao. Hiện nay đang được trồng rất phổ

biến trong sản xuất. Năm đầu thu hoạch, năng suất đạt 337,72 kg/ha (C.T.

Huyền và ctv, 2012) [10].

Các dòng/ giống chè sử dụng làm vật liệu nghiên cứu được tạo ra tại

Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, tuổi cây chè ở giai đoạn

nghiên cứu từ 1-5 năm tuổi.

54

2.1.2. Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật

- Phân hữu cơ: hỗn hợp phân gia súc và xác thực vật đã hoai mục.

- Phân bón vô cơ: urea 46% N; supe lân Lâm Thao 16,5% P2O5; KCl

60% K2O.

- Thuốc trừ sâu bệnh trong danh mục được phép sử dụng cho cây chè ở

Việt Nam.

2.1.3. Thiết bị, dụng cụ thí nghiệm

- Thiết bị, dụng cụ thí nghiệm: kính hiển vi soi nổi Olympus quan sát

lá, búp chè; máy đo diệp lục cầm tay SPAD-502Plus; các trang thiết bị phân

tích thành phần sinh hóa như máy quang phổ, máy chuẩn độ, máy ly tâm,…

- Thiết bị thí nghiệm: thước mét, thước dây, thước đo dộ, thước kẹp

palme v.v đo đếm lá, búp chè, thân cành chè, tán chè, …

Đặc điểm đất đai vùng nghiên cứu:

- Đất đai trồng các thí nghiệm nghiên cứu tại Phú Hộ, Phú Thọ, có vị trí địa lý 21027’ vĩ độ Bắc và 105014’ độ kinh Đông, độ cao 25 – 70m so với mặt biển, độ dốc 8 – 100. Đất chè thuộc loại feralit vàng đỏ phát triển trên phiến

thạch mica, tầng đất mịn khá sâu 1 – 3 m, độ pHkcl 4,2 – 4,3, chất hữu cơ

(OM) trung bình (2,10 – 2,79%), hàm lượng N tổng trung bình (0,16 -

0,19%), hàm lượng P tổng tổng số trung bình (< 0,12%), hàm lượng K rất

thấp (<0,15%). Thành phần cơ giới thịt nặng, xuống dưới sâu là sét nhẹ.

- Đất đai trồng các thí nghiệm nghiên cứu tại Yên Sơn, Tuyên Quang có vị trí địa lý 21,53oN và 105,6oE, độ cao các vùng chè từ 50 – 150m so mặt

nước biển. Đất chè thuộc loại đất Feralit vàng đỏ, hàng năm bị rửa trôi và xói

mòn mạnh. Hàm lượng các chất dinh dưỡng khá tốt, nhất là các vùng chè có

hàm lượng chất hữu cơ (OM) khá cao (1 – 2%), hàm lượng N tổng số trung

bình (0,20 – 0,30%), hàm lượng P tổng số khá cao (0,15 – 0,20%), nhưng

55

hàm lượng K hơi thấp (< 0,15%), đặc biệt do rửa trôi mạnh nên đất rất chua

pHKCl từ 4,2 – 4,4.

- Đất đai trồng các thí nghiệm nghiên cứu tại Văn Chấn, Yên Bái có vị trí địa lý 21,34oN và 104,34oE, độ cao các vùng chè từ 450 – 950m so mặt

nước biển. Đất chè thuộc loại đất Feralit vàng xám, hàng năm bị rửa trôi và

xói mòn mạnh. Hàm lượng các chất dinh dưỡng khá tốt, nhất là các vùng chè

có hàm lượng chất hữu cơ (OM) khá cao (1,5 – 2,5%), hàm lượng N tổng số

trung bình (0,25 – 0,35%), hàm lượng P tổng số khá cao (0,15 – 0,25 0%),

nhưng hàm lượng K hơi thấp (< 0,15%), đặc biệt do rửa trôi mạnh nên đất rất

chua pHKCl từ 4,3 – 4,5.

2.2. Nội dung nghiên cứu

2.2.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của hai dòng chè mới

CNS-1.41 và CNS-8.31

2.2.1.1. Đặc điểm hình thái của hai dòng chè

2.2.1.2. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển hai dòng chè mới

2.2.1.3. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất

2.2.1.3. Tình hình sâu bệnh hại chủ yếu trên cây chè

2.2.2. Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu phát triển hai dòng

chè mới

2.2.2.1. Nghiên cứu mật độ và phương thức trồng

2.2.2.2. Nghiên cứu kỹ thuật đốn tạo hình hai dòng chè mới

2.2.2.3. Nghiên cứu kỹ thuật hái hai dòng chè mới

2.2.2.4. Nghiên cứu liều lượng phân bón N,P,K

2.2.2.5. Nghiên cứu khả năng nhân giống của hai dòng chè mới

- Hệ số nhân giống của cây mẹ

- Sinh trưởng cây chè giâm hom trong vườn ươm

2.2.2.6. Khảo nghiệm hai dòng chè mới ở điều kiện sản xuất

56

2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của hai dòng chè mới

CNS-1.41 và CNS-8.31.

2.3.1.1. Bố trí thí nghiệm:

Thí nghiệm 1: So sánh 2 dòng chè chọn lọc tại Phú Hộ. Thí nghiệm

gồm 3 công thức với 2 dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 và giống LDP1 (đối

chứng) trồng năm 2015.

Diện tích ô thí nghiệm 45m2, 3 lần nhắc lại, bố trí theo phương pháp

ngẫu nhiên hoàn toàn.

Kỹ thuật trồng bằng cây giâm cành, khoảng cách hàng 1,5m, khoảng

cách cây 0,5 m. Bón lót 20 tấn phân chuồng + 1 tấn supe lân + 500 kg vôi bột

cho 1ha. Các khâu chăm sóc khác áp dụng theo quy trình trồng và chăm sóc

chè 10TCN 446 – 2001.

2.3.1.2. Chỉ tiêu theo dõi

* Đặc điểm thân cành:

- Dạng thân: Quan sát xác định dạng thân bụi, dạng bán thân gỗ, dạng

thân gỗ;

- Chiều cao cây (cm): Đo thân chính từ mặt đất đỉnh sinh trưởng;

- Rộng tán (cm): Đo chỗ tán rộng nhất, vào tháng 12 trước khi đốn chè;

- Đường kính thân (cm): Đo cách mặt đất 3-5 cm bằng thước kẹp Palme;

- Độ cao phân cành (cm): Đo từ mặt đất đến vị trí phân cành đầu tiên, đo

một lần vào tháng 12 trước khi đốn chè;

- Góc phân cành (0): Đo góc tạo thành giữa thân chính (phía trên) với

cành cấp 1 đầu tiên, đo 1 lần vào tháng 12 trước khi đốn chè;

- Số cành cấp 1, cấp 2 (cành): Đếm số cành cấp 1, cấp 2 từ vết đốn lần

thứ nhất trở xuống;

* Đặc điểm hình thái lá

57

- Chiều dài lá (D) (cm): Đo chiều dài lá từ đầu lá đến gốc lá sát với

cuống lá theo chiều dọc của thân chính, không đo cuống lá;

- Chiều rộng lá (R) (cm): Đo vị trí rộng nhất của phiến lá; - Diện tích lá (cm2): DT lá = (D x R) x 0,7. Trong đó 0,7 là hệ số thực

nghiệm;

- Hệ số dài/rộng: Là tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng lá;

- Thế lá phân theo chỉ tiêu: Thế lá xiên, ngang và thế lá rủ (góc lá);

Phân chia thế lá: Lá có góc nhỏ hơn 450 là thế lá đứng Lá có góc từ 46 – 700 là thế lá xiên Lá có góc lá từ 71 - 1000 là thế lá rủ. (Góc lá (0): Mỗi cây đo 30 lá, dùng thước đo độ đo góc tạo bởi các lá

trên cành với trục chính của cành)

- Màu sắc lá phân loại theo màu xanh đậm, xanh, xanh vàng;

- Mặt lá phân loại theo mức độ: Nhẵn, gồ ghề...

- Hàm lượng diệp lục (SPAD): là trị số phản ánh lượng diệp lục có trong

lá chè được máy SPAD-502Plus xác định khi đo đếm.

* Đặc điểm sinh trưởng

- Thời gian bắt đầu sinh trưởng (ngày): Từ khi có 10% cành nẩy mầm

sau đốn;

- Thời gian kết thúc sinh trưởng (ngày): Khi cành ngừng sinh trưởng

(khi cây chè không hình thành búp);

- Số đợt sinh trưởng tự nhiên (đợt): Cố định cành trên cây chè sinh

trưởng tự nhiên (không thu hái búp) theo dõi các đợt lộc ra trong 1 năm, kể từ

khi cây bắt đầu bật mầm đến khi kết thúc sinh trưởng;

58

- Đợt sinh trưởng trong điều kiện hái búp (đợt): Đếm số vết hái trong

một cành chè ở vị trí giữa và rìa tán, lấy giá trị trung bình. Theo dõi vào tháng

12 trước khi đốn chè;

- Chiều cao cây (cm): Xác định chiều cao cây tính từ mặt đất đến vị trí

cao nhất của tán cây;

- Chiều rộng tán (cm): đo chỗ rộng nhất của tán chè;

- Diện tích lá: Theo công thức tính nhanh D x R x 0,7;

- Chiều dài búp chè: Đo chiều dài từ cuống lá thứ 3 đến đỉnh sinh

trưởng;

- Khối lượng búp 1 tôm + 3 lá: Cân 100gr búp 1 tôm + 3 lá đếm số

búp/100gr búp;

Khối lượng 100 búp

Tính khối lượng búp (g/búp) =

100

- Diện tích tán (m2) : Đo chiều dài tán và chiều rộng tán; - Mật độ búp (búp/m2): Đếm số búp đủ tiêu chuẩn có trong khung

25x25cm (5 điểm theo đường chéo góc);

- Năng suất lý thuyết (tấn/ha): tổng số búp/cây x khối lượng 1 búp x số

cây/ha;

- Năng suất thực thu (tấn/ha): Cân khối lượng /ô ở tất cả các lứa hái

trong năm, quy ra ha;

* Khả năng cung cấp hom và chất lượng hom giống:

- Khả năng sản xuất hom của các giống: Đánh giá số cành trên cây, số

hom trên cành, tổng số hom/ha, tỷ lệ các loại hom;

Năng suất hom (hom/ha) = số lượng hom/ cây x số cây/ha;

- Tỷ lệ hom A, hom B: Đếm tổng số hom thu được/ha, tính tỷ lệ hom A,

hom B. Theo QCVN 01-124:2013/BNNPTNT

59

Hom A: là hom có chiều dài 3,5- 6 cm, đường kính 2,5 mm - 6,0 mm, độ

dài mầm nách ≤ 5 mm và 1 lá nguyên;

Hom B: là hom có chiều dài 3,5- 4 cm, đường kính 2,0- 2,5 mm, độ dài

mầm nách ≥10 mm và 1 lá nguyên;

- Kích thước hom (cm): độ dài và đường kính hom;

- Chiều dài và chiều rộng của lá mẹ (cm);

- Mức độ hóa nâu của hom chè (%).

2.3.2.Phương pháp nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác hai

dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31.

2.3.2.1. Bố trí thí nghiệm

*Thí nghiệm 2: Nghiên cứu mật độ trồng hai dòng chè CNS-1.41 và

CNS-8.31.

Thí nghiệm gồm 3 công thức, mỗi công thức có diện tích 120 m2

khoảng cách giữa các hàng và các cây khác nhau như sau:

Khoảng cách Diện tích Mật độ Công thức trồng (m) (vạn cây/ha)

ô thí nghiệm 15 m x 8 m = 120 m2 1,50 x 0,4 1,66 CT1(đ/c)

10 hàng x 20 cây (hàng đơn) 15 m x 8 m = 120 m2 1,80 x 0,6 1,85 CT2

8 hàng x 13 cây (hàng kép) 15 m x 8 m = 120 m2 1,80 x 0,67 1,66 CT3 8 hàng x 12 cây (hàng kép)

Thí nghiệm gồm 3 lần nhắc lại, được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn

toàn.

*Thí nghiệm 3: Nghiên cứu liều lượng bón phân cho hai dòng chè

CNS-1.41 và CNS-8.31 ở giai đoạn kiến thiết cơ bản.

60

Thí nghiệm gồm 4 công thức, với liều lượng phân khoáng (N, P, K)

tăng dần so với đối chứng. Đối chứng áp dụng liều lượng phân bón theo quy trình 10TCN 446:2001. Diện tích ô thí nghiệm 45m2, 3 lần nhắc lại, được bố

trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn.

Công thức Liều lượng bón phân N:P:K

CT1 (đ/c) 80 kg N + 40 kg P2O5 + 60kg K2O /ha

CT2 88 kg N + 44 kg P2O5 + 64kg K2O /ha (Tăng 10%)

CT3 96 kg N + 48 kg P2O5 + 72 kg K2O /ha (Tăng 20%)

CT4 112 kg N + 56 kg P2O5 + 84 kg K2O /ha (Tăng 40%)

Lượng phân khoáng được bón 3 lần/ năm, số lượng và tỷ lệ các lần bón

như sau: lần 1 (tháng 2) bón 40% N, K và 100% P; lần 2 (tháng 5) bón 30%

N, K; lần 3 (tháng 8) bón 30% N, K.

Chỉ tiêu đánh giá: sinh trưởng và năng suất chè.

* Thí nghiệm 4: Nghiên cứu kỹ thuật đốn tạo hình cho hai dòng chè

CNS-1.41 và CNS-8.31 ở giai đoạn kiến thiết cơ bản.

Thí nghiệm gồm 3 công thức với các chiều cao đốn khác nhau, diện tích ô thí nghiệm 45m2, 3 lần nhắc lại được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên.

CT1 (đ/c) Đốn để lại chiều cao thân chính 15 cm, cành bên 35 cm.

Đốn để lại chiều cao thân chính 20 cm, cành bên 35 cm. CT2

CT3 Đốn để lại chiều cao thân chính 25 cm, cành bên 35 cm.

Đốn tạo hình lần đầu khi đường kính gốc cây chè đạt kích thước ≥ 1cm,

đốn tạo hình lần thứ hai trên vết đốn cũ ở cành bên 10cm.

Đánh giá sinh trưởng và năng suất chè.

* Thí nghiệm 5: Nghiên cứu xác định kỹ thuật hái thích hợp cho hai

dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 ở giai đoạn kiến thiết cơ bản.

61

Thí nghiệm gồm 3 công thức hái với độ cao chừa lại khác nhau, diện tích ô thí nghiệm 45m2, được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ, 3 lần

nhắc lại.

CT1 Hái cách vết đốn 10 cm, các lứa sau hái đến lá cá

Hái cách vết đốn 20 cm, các lứa sau hái đến lá cá CT2

CT3 Hái theo quy trình san trật (đ/c)

* Điều tra sinh trưởng phát triển, năng suất và tình hình sâu bệnh hai

dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 trên các ruộng khảo nghiệm giống chè ở

điều kiện sản xuất tại Phú Thọ, Tuyên Quang và Yên Bái.

Thí nghiệm 6: So sánh khả năng giâm hom của 2 dòng chè chọn lọc tại

Phú Hộ. Thí nghiệm gồm 3 công thức với 2 dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31

chọn lọc và giống LDP1 (đối chứng).

2.3.2.2. Chỉ tiêu theo dõi

* Sinh trưởng, năng suất

- Đường kính thân cây (cm);

- Chiều cao cây (cm);

- Chiều rộng tán (cm);

- Độ cao phân cành (cm);

- Số cành cấp 1, số cành cấp 2;

- Diện tích lá chè;

- Chiều dài búp chè;

- Khối lượng búp 1 tôm + 3 lá; - Diện tích tán (m2); - Mật độ búp (búp/m2);

- Năng suất lý thuyết (tấn/ha);

- Năng suất thực thu (tấn/ha).

Phương pháp đo đếm các chỉ thiêu thực hiện như ở mục 2.3.1.

62

* Đánh giá chất lượng

- Chất lượng chè nguyên liệu:

+ Xác định phẩm cấp chè nguyên liệu theo TCVN 1053 71 [39]:

Nguyên liệu loại 1 (loại A): ≤ 10% bánh tẻ;

Nguyên liệu loại 2 (loại B): Từ 11% - 20% bánh tẻ;

Nguyên liệu loại 3 (loại C): Từ 21% - 30% bánh tẻ;

Nguyên liệu loại 4 (loại D): ≤ 45% bánh tẻ.

+ Tỷ lệ búp mù xòe: Tại mỗi công thức thí nghiệm, cân ngẫu nhiên

100g, đếm số búp mù xòe. Tỷ lệ búp mù xòe tính theo công thức:

Số búp mù xòe

Tỷ lệ búp mù xòe (%) = x 100

Tổng số búp

+ Tỷ lệ búp có tôm (%) = 100% - tỷ lệ búp mù xòe (%)

+ Thành phần cơ giới búp chè: Là tỷ lệ giữa búp, lá 1, lá 2, lá 3 và cuộng

theo khối lượng của 1 búp có tôm và 2 - 3 lá bao gồm: tỷ lệ tôm (%), tỷ lệ lá 1

(%), tỷ lệ lá 2 (%),tỷ lệ lá 2 (%), tỷ lệ cuộng (%), khối lượng 1 búp (g);

- Thành phần sinh hóa búp chè được được phân tích tại phòng phân tích

đất và chất lượng nông sản, Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc.

Các chất được phân tích theo các phương pháp sau:

Xác định hàm lượng tanin theo phương pháp Lewenthal;

Xác định hàm lượng chất hòa tan theo phương pháp Voronxop 1946;

Xác định hàm lượng đường khử theo phương pháp Bertrand;

Xác định hàm lượng polyphenol theo ISO 14502-1;

Xác định hàm lượng Teaflavin và Tearubigin theo Robert 1963;

Xác định catechin tổng số theo Djnjolia 1973;

Xác định chỉ số dầu thơm theo Kharepbava 1960;

Xác định tỷ lệ lá già và bánh tẻ theo TCVN 1053-71;

63

Nguyên liệu phân tích sinh hóa: búp chè 1 tôm 2 lá của hai dòng chè

CNS-1.41. CNS-8.31 được lấy ở cây chè 3 tuổi.

- Phân tích một số chỉ tiêu về đất

Tỷ trọng theo phương pháp Picnomet;

Dung trọng: Theo phương pháp lấy mẫu đất ở thể tự nhiên;

Độ xốp của đất: Được tính từ tỷ trọng và dung trọng; Độ ẩm đất: Xác định theo phương pháp sấy khô ở nhiệt độ 105oC.

- Chất lượng chè thành phẩm: Thử nếm chất lượng chè xanh, chè đen

bằng phương pháp cảm quan và cho điểm của Hội đồng thử nếm tại Viện

Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc theo tiêu chuẩn ngành

10 TCN 745:2006, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chè xanh, chè đen bằng

cảm quan theo TCVN 3218 – 2012.

Chuẩn bị mẫu, lấy búp chè 1 tôm 2-3 lá non để chế biến mẫu sản phẩm

chè xanh và chè đen, sau đó đánh giá cảm quan theo tiêu chuẩn Việt Nam

TCVN 3218-2012.

Đánh giá cảm quan các chỉ tiêu (ngoại hình, màu nước, hương, vị), theo

thang điểm 5, có hệ số quan trọng khác nhau (ngoại hình 1,0, màu nước 0,6,

hương thơm 1,2, vị 1,2); lấy chỉ số trung bình của từng thành viên nhân với hệ

số quan trọng và tính tổng số điểm của mẫu chè, cuối cùng xếp loại:

Loại tốt đạt từ 18,2 – 20 điểm;

Loại khá đạt từ 15,2 – 18,1 điểm;

Loại đạt từ 11,2 – 15,1 điểm;

Loại kém đạt từ 7,2 – 11,1 điểm;

Loại hỏng từ 0 – 7,1 điểm;

*Các chỉ tiêu đánh giá sâu hại chè

- Điều tra mật độ rầy xanh (Empoasca flavescens): Dùng khay có kích

thước 25 x 20 x 5cm đáy khay có tráng một lớp dầu mazut đặt khay dưới tán

64

chè nghiêng 450, dùng tay đập mạnh 3 đập phía trên, đếm số Rầy xanh rơi vào

khay tính bình quân.

Tổng số con đếm được

Mật độ rầy xanh (con/khay) =

Tổng số khay điều tra

- Điều tra mật độ bọ cánh tơ (Physothrips setiventris): Hái búp chè ở ô

thí nghiệm theo 5 điểm chéo góc, mỗi điểm 20 búp cho vào túi PE đem về

phòng thí nghiệm, đếm số bọ cánh tơ trên từng búp, tính theo công thức:

Tổng số bọ cánh tơ đếm được

Mật độ bọ cánh tơ (con/búp) =

Tổng số búp điều tra

- Điều tra bọ xít muỗi (Helopeltis theivora): Điều tra theo 5 điểm chéo

góc, mỗi điểm hái 20 búp, cho vào túi PE đem về phòng đếm số búp có vết do

bọ xít muỗi hại, tính tỷ lệ % búp bị hại theo công thức:

Tổng số búp bị hại

Búp bị hại = x 100

Tổng số búp điều tra

- Điều tra nhện đỏ (Olygonychus cofeae): Hái lá chè bánh tẻ theo 5

điểm chéo góc mỗi điểm 20 cho vào túi PE đem về phòng đếm đếm số nhện

và tính:

Tổng số nhện

Mật độ nhện đỏ =

Tổng số lá điều tra

* Chỉ tiêu theo dõi trong vườn ươm giâm hom

- Tỷ lệ ra rễ của hom giâm: lấy 10 hom theo phương pháp đường chéo

5 điểm, đếm số hom ra rễ, tính tỷ lệ %.

- Tỷ lệ bật mầm, tỷ lệ xuất vườn: theo dõi và tính tỷ lệ %

65

- Chiều cao cây chè giống: đo từ vết cắt của hom giâm đến đỉnh sinh

trưởng của cây.

- Đường kính thân: đo cách vết cắt hom 1cm.

- Trọng lượng thân, lá, rễ (tươi): ngâm toàn bộ bầu trong nước rồi rửa

xạch, hong trong phòng cho ráo nước và tiến hành cân; đối với thân và lá của

cây chè tiến hành cân bằng cân kỹ thuật, số mẫu ≥ 30 cây.

- Tỷ lệ hom sống trong vườn ươm: tính số hom chè sống trong mỗi

công thức tại thời điểm theo dõi. Tính tỷ lệ hom sống theo công thức:

Số hom sống

Tỷ lệ hom sống = --------------------------- x 100 (%)

Tổng số hom theo dõi

- Số lá trên cây: định để cây theo dõi. mõi lần nhắc lại 30 cây. tại thời

điểm theo dõi đến số lá trên cây. số lá trên cây là trung bình cộng số lá trên

cây của các thời điểm theo dõi, đơn vị tính (cái)

- Tỷ lệ cây xuất vườn: tại thời điểm xuất vườn đếm số cây đủ tiêu

chuẩn xuất vườn, đơn vị tính (%).

Tỷ lệ cây xuất vườn tính bằng công thức:

Số cây đạt tiêu chuẩn cây xuất vườn

Tỷ lệ cây xuất vườn = -------------------------------------------- x 100 (%)

Tổng số cây theo dõi

Cây con đủ tiêu chuẩn xuất vườn có thời gian từ sau 8 tháng tuổi, chiều

cao cây từ ≥ 22 cm, có từ 6 đến 8 lá thật, thân hoá nâu trên 50%.

2.4. Phương pháp xử lý số liệu

Các số liệu thí nghiệm được tính toán, xử lý bằng phần mềm Excel và

phần mềm xử lý thống kê Srichai Statistics 6.0.

66

CHƯƠNG III

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của hai dòng chè mới CNS-1.41 và

CNS-8.31.

3.1.1. Đặc điểm hình thái hai dòng chè nghiên cứu

3.1.1.1. Đặc điểm hình thái lá chè:

Lá chè khác với lá của các cây trồng khác, nó gồm các loại lá: Lá vảy

ốc, lá cá, lá thật. Lá là cơ quan dinh dưỡng mang nhiệm vụ tổng hợp chất hữu

cơ để nuôi cây, đồng thời là đối tượng của việc thu hái sản phẩm. Do vậy lá

chè đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống cây chè và sản xuất ra sản

phẩm. Các dòng chè khác nhau có hình thái lá, kích thước lá và màu sắc cũng

khác nhau. Việc đánh giá, quan sát các tính trạng về búp, lá chè luôn được các

nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm.

Nghiên cứu đặc điểm hình thái của các dòng chè CNS- 1.41, CNS-8.31

được thể hiện ở bảng 3.1.

Bảng 3.1: Đặc điểm hình thái lá các dòng /giống chè

Chỉ tiêu Hình Hình Bề mặt Răng

Mầu sắc lá dạng lá dạng phiến cưa mép Thế lá

Tên dòng chóp lá lá lá

CNS-1.41 Xanh vàng Elip Nhọn Gồ ghề Nông Hướng ra

ngoài

CNS-8.31 Xanh Nhọn Gồ ghề, Nông Hướng lên Elip

hẹp bóng

LDP1 Xanh vàng Elip Nhọn Phẳng, ít Sâu Hướng lên

hẹp gồ ghề (đ/c)

67

B A

C

Hình 3.1. Lá chè

A- lá dòng CNS-1.41; B- lá dòng CNS-831; C- lá giống LDP1

Quan sát đặc điểm hình thái thấy lá của hai dòng chè CNS-1.41 và

CNS-8.31 rất khác nhau, mầu sắc dòng CNS-1.41 lá mầu xanh vàng tương tự

như mầu lá của giống LDP1, lá của dòng CNS-8.31 mầu xanh đậm hơn. Hình

dạng phiến lá, dòng CNS-1.41 bề mặt gồ ghề, mép lá lượn sóng rất rõ để nhận

biết, thế lá nằm ngang; dòng CNS-8.31 bề mặt lá gồ ghề nhưng nông hơn

dòng CNS-1.41, mép lá thẳng, không lượn sóng, thế lá hướng lên. Cả hai

dòng CNS-1.41 và CNS-8.31 có chót lá hơi nhọn và răng cưa ở mép lá nông

68

hơn so với giống LDP1; Giống LDP1 có bề mặt lá hơi phẳng, ít gồ gề, chót lá

nhọn, răng cưa sâu, thế lá hướng lên.

Như ta đã biết đặc điểm hình thái của lá chè có mối tương quan với

năng suất, chất lượng chè, việc sử dụng đặc điểm của lá chè có ích trong việc

chọn giống, nhân giống vô tính hoặc sử dụng làm bố mẹ để tạo ra giống tốt

với thuộc tính cho năng suất cao (Willson K.C. and Cliford M.N., 1992 [119];

Nguyễn Văn Toàn, 1994 [40]; Nguyễn Thị Minh Phương và ctv, 2016 [24].

Quan sát bề mặt lá của các dòng chè cho ta thấy bề mặt lá có dạng nhăn

vừa và nhăn nhiều đây là đặc điểm giúp cho lá chè tăng bề mặt diện tích phiến

lá, lá to tăng khả năng quang hợp, trên cơ sở đó tăng năng suất. Theo tác giả

Nguyễn Văn Toàn (1994) [40] những giống chè có những đặc điểm trên đây

là biểu hiện của giống chè có tiềm năng cho năng suất cao. Mức độ răng cưa

dày hay thưa, nông hay sâu thể hiện đặc trưng mang tính di truyền của các

giống chè.

Màu sắc lá là đặc trưng phản ánh chất lượng của giống chè, các giống

có mầu xanh vàng thường cho chất lượng chè xanh tốt (Nguyễn Thị Minh

Phương và ctv, 2016) [24]. Ngoài tính trạng màu lá, thì tính trạng bề mặt

phiến lá cũng rất quan trọng để tiến hành chọn giống. Lá lồi lõm, màu xanh

vàng nhạt cho chất lượng tốt hơn dạng xanh đậm, nhẵn bóng, độ lồi lõm của

lá biểu hiện sức sinh trưởng mạnh, tế bào xốp nhưng khả năng chống chịu

kém hơn lá phẳng (Nguyễn Văn Niệm và cs, 1988 dẫn theo N.V. Toàn, 1994)

[40]. Willson K.C. and Cliford M.N. (1992) [119] cho biết góc giữa lá và

cành chè có liên quan đến năng suất của cây chè. Những giống chè có góc lá từ 40o - 47o (thế lá hướng lên) thì năng suất thấp hơn những giống có góc lá từ 50o - 70o (thế lá nằm ngang); góc lá > 78o năng suất thấp hơn góc lá 50o - 70o.

Dòng chè CNS-1.41 có thế nằm ngang là một trong các đặc điểm thể hiện

tiềm năng cho năng suất cao.

69

Theo Kerkadze (1980) [141] khi nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến màu

sắc của lá chè khác nhau đã cho rằng: lá chè có màu sắc khác nhau là do sự

khác biệt khá rõ của một số chất bên trong lá như: Catechin, tanin, diệp lục lá

và các chất chiết, trong đó hàm lượng diệp lục trọng lá đóng vai trò quan

trọng đối với hiệu suất quang hợp, tạo cơ sở năng suất cao. Màu sắc lá còn có

ảnh hướng lớn tới chất lượng chè. Tác giả Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn Loan

(1994) [41] cho rằng khi chọn giống mới theo hướng kinh tế có lợi (năng suất

và chất lượng) cần quan tâm đặc biệt đến dạng lá màu xanh, xanh vàng đến

xanh nhạt.

Lá của các giống chè khác nhau không chỉ khác nhau về hình dạng,

mầu sắc mà kích thước của chúng cũng khác nhau. Kết quả nghiên cứu về đặc

điểm kích thước lá trình bày ở bảng 3.2.

Bảng 3.2. Kích thước lá các dòng/giống chè nghiên cứu

Kích thước lá Số đôi Hàm Chỉ tiêu gân lá lượng Tỷ lệ Rộng Diện Dài lá (đôi) diệp lục dài/rộng lá Tên giống (cm) (spad)

CNS– 1.41 8-10 2,29

CNS– 8.31 8-9 2,35

LDP1 (đ/c) 13,7a 10,8b 9,4b (cm) 5,9a 4,6b 4,0b tích lá (cm2) 57,6a 34,9b 26,3c 7-8 2,34 61,4b 76,7a 58,6b

CV (%) 8,2 10,7 6,1 7,4

2,1 1,1 5,4 6,5 LSD0.05

Chiều dài lá của các dòng/giống chè nghiên cứu từ 9,40 cm đến 13,70

cm. Lá của dòng chè CNS – 1.41 dài nhất, đạt 13,70 cm, tiếp đến là lá của

dòng CNS – 8.31 đạt 10,38 cm, tương đương chiều dài lá của giống LDP1 (9,4

cm). Chiều rộng lá của dòng CNS – 1.41 cũng lớn nhất, đạt 5,9 cm, trong khi

70

chiều rộng của dòng CNS-8.31 và LDP1 tương đương nhau (4,6cm và 4,0cm)

(ở mức tin cậy 95%).

Diện tích lá của các dòng/giống dao động từ 26,30 đến 57,6 cm2, trong đó dòng CNS – 1.41 có diện tích lá lớn nhất đạt 57,6 cm2, tiếp theo là dòng CNS – 8.31 đạt 34,90 cm2, giống chè LDP1 có diện tích lá nhỏ nhất (26,3 cm2). Theo Willson K.C. and Cliford M.N. (1992) [119], có mối tương quan

giữa kích thước lá và năng suất, giữa kích thước lá và số lượng lá với năng

suất chè. Những giống chè lá nhỏ thì năng suất thấp hơn giống lá lớn hơn bởi

vì biến động về kích thước lá có liên quan đến sự biến động hình dạng lá và

các đặc tính liên quan khác của lá chè. Qua đó có thể tin tưởng với diện tích lá

lớn hơn của hai dòng chè mới CNS-1.41 và CNS-8.31 sẽ cho năng suất cao.

Bên cạnh chỉ số kích thước lá, chúng tôi đánh giá thêm về các chỉ số

như gân phụ của lá, tỷ lệ dài/ rộng lá và chỉ số diệp lục nhằm phân biệt rõ

ràng giống chè: Lá lá của 2 dòng chè mới có từ 8 – 10 đôi gân lá, nhiều hơn

giống đối chứng LDP1 (có 7-8 đôi gân lá); Tỷ lệ dài lá/ rộng lá biến động từ

2,29 – 2,35, trong đó dài lá/rộng lá của dòng chè CNS - 1.41 là 2,29, của dòng

CNS - 8.31 là 2,35, của giống LDP1 là 2,34. Các đặc điểm thực vật chung này

có thể giúp phân biệt các giống chè mà Wright (1959) sử dụng trong phân loại

(dẫn theo Willson K.C. and Cliford M.N., 1992, [119]).

Hàm lượng diệp lục của lá non các dòng/giống chè cũng biến đổi theo

mẫu quan sát biến động từ 58,6 spad đến 61,4 spad, trong đó hàm lượng diệp

lục của dòng CNS-8.31 cao nhất đạt 61,4 spad, tiếp đến là dòng CNS – 1.41

đạt 76,7 spad tương đương giống LDP1 đạt 58,6 spad. Kết quả này phù hợp

với mầu sắc lá xanh đậm hơn của dòng CNS-8.31 so với dòng CNS-1.41 và

giống LDP1.

71

3.2.1.2. Đặc điểm búp của các dòng chè nghiên cứu

Chiều dài của búp có tương quan chặt với khối lượng búp, hệ số tương

quan r = 0,75 (Nguyễn Văn Toàn, 1994) [40] và có ảnh hưởng rất lớn đến

ngoại hình sản phẩm. Một số đặc điểm kích thước búp các dòng/ giống chè

nghiên cứu trình bày ở bảng 3.3.

Bảng 3.3. Một số đặc điểm búp các dòng/giống chè nghiên cứu (Búp có tôm và 3 lá non)

Chỉ tiêu Chiều dài Khối lượng ĐK

Tên dòng

CNS – 1.41

CNS – 8.31

búp (cm) 9,58a 8,71a 7,10b búp (gr) 1,20a 1,16a 0,81b búp (cm) 0,2a 0,2a 0,2a LDP1 (đ/c)

7,2 7,6 8,9 CV (%)

1,3 0,2 0,05 LSD0.05

Ghi chú: đường kính búp chè được đo trên vết hái 1cm.

Số liệu ở bảng cho thấy kích thước và khối lượng búp của các giống chè

nghiên cứu khác nhau ở độ tin cậy 95%. Trong đó chiều dài búp 1 tôm 3 lá

của hai dòng CNS-1.41 và CNS-8.31 tương đương nhau (9,58 và 8,71 cm) và

lớn hơn chiều dài búp của giống LDP1 (7,1 cm); khối lượng búp 1 tôm 3 lá

của dòng CNS-1.41 và dòng CNS-8.31 cũng tương đương nhau (đạt 1,2 và

1,16 g/ búp) và cao hơn khối lượng búp 1 tôm 3 lá của giống LDP1 (0,81g/

búp); đường kính gốc búp của dòng CNS-1.41, CNS-8.31 và giống LDP1

tương đương nhau, đạt 0,2 cm. Kết quả nghiên cứu phù hợp với chứng minh

của Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn Loan (1994) cho rằng kích thước búp chè

có liên quan chặt chẽ với khối lượng búp, hệ số tương quan r = 0,8 [41]; Ellis

và Grice, 7976; Tanton, 1979 (dẫn theo Willson K.C. and Cliford M.N., 1992,

72

[119]) cũng cho rằng kích thước của búp chè là yếu tố quan trọng quyết định

năng suất và người trồng thường chọn giống có chồi lớn khi chọn vật liệu

nhân giống vô tính. Điều đó khẳng định hai dòng chè CNS - 1.41 và CNS -

8.31 có tiềm năng cho năng suất cao hơn giống đối chứng LDP1.

B A

Hình 3.2. Búp chè

A- búp chè CNS-1.41; B- búp chè CNS-8.31

3.1.1.3. Đặc điểm hom giống các dòng chè nghiên cứu

Ngày nay các giống chè vô tính được trồng phổ biến ở các nước trồng

chè, phương pháp nhân giống vô tính bằng giâm hom cũng phổ biến vì cây

giống giữ được các đặc điểm di truyền của cây mẹ. Mặt khác nương chè trồng

bằng cây giâm hom đồng đều, búp chè sinh trưởng, phát triển tập trung thuận

lợi cho thu hoạch, nâng cao hiệu quả sản xuất (Đ.N. Quỹ, N.V Niệm, 1979;

N.V. Thiệp, N.V. Tạo, 2008; K.C. Willson, M.N. Cliford, 1992) [25], [34],

[119]. Do vậy, đối với cây chè, nhân giống vô tính bằng giâm cành có vai trò

quan trọng trong sản xuất. Một giống chè có hệ số nhân giống cao, khả năng

73

nhân giống vô tính tốt sẽ đảm bảo sự thành công khi phát triển mở rộng trong

sản xuất. Trên cơ sở đó, đề tài luận án tiến hành nghiên cứu các đặc điểm hom

chè nhằm phục vụ nhân giống tốt. Hom chè là một lá và một lóng được cắt từ

cành chè không hái búp trong một thời gian nhất định đủ để trở thành “bánh

tẻ”, kết quả nghiên cứu về đặc điểm hom giống trình bày ở bảng sau:

Bảng 3.4. Đặc điểm hom chè giống và sản lượng hom chè của 2 dòng chè

CNS-141 và CNS-831 tuổi 3 tại Phú Hộ

Đặc điểm hom chè

Khối Hàm Đường Giống Chiều Diện lượng lượng Số hom/ kính hom chè dài hom hom diệp lục cành (cm) (mm tích lá (cm2)

CNS-1.41

CNS-8.31

4,79a 5,15a 3,67b 4,33a 4,52a 3,84b (g/hom) 1,53b 1,85a 1,23c (Spad) 78,21b 89,72a 66,99c 7,80a 6,72b 6,50b 57,56a 34,87b 26,26c LDP1(đ/c)

6,5 CV (%) 3,73 8,55 15,20 9,70 4,4

0,67 0,2 0,26 9,20 0,80 3,9 LSD0.05

Số liệu ở bảng cho thấy chiều dài lóng hom giống của dòng CNS – 1.41

có độ dài 4,79cm, tương đương với độ dài hom dòng CNS – 8.31 (5,15 cm)

và dài hơn lóng hom giống LDP1 (3,67 cm); đường kính lóng hom của hai

dòng chè mới cũng lớn hơn đường kính lóng của giống LDP1; diện tích lá

hom của ba dòng/ giống có khác nhau, theo đó dòng CNS – 1.41 có diện tích lá hom lớn nhất đạt 57,56 cm2, tiếp đến là dòng CNS – 8.31 đạt 34,87 cm2, nhỏ nhất là lá hom của giiongs LDP1 (26,6 cm2); khối lượng hom các dòng/

giống nặng nhẹ khác nhau, dòng CNS-8.31 có khối lượng hom lớn nhất

(1,85g/hom), dòng CNS-1.41 có khối lượng hom nhỏ hơn (1,53 g/hom), nhỏ

74

nhất là hom của giống LDP1 (1,23 g/hom); hàm lượng diệp lục trong lá hom

của dòng CNS-8.31 cao nhất đạt 89,72 spad, tiếp theo là dòng CNS-1.41 đạt

78,21 spad, hàm lượng diệp lục ở lá hom giống LDP1 thấp nhất là 66,99 spad;

về số lượng hom trên một cành, phản ánh năng suất hom của giống chè, cành

chè để giống có nhiều hom thì năng suất hom cao. Dòng CNS – 1.41 đạt 7,8

hom/cành, nhiều hơn dòng CNS – 8.31 và giống LDP1 (đạt 7,72 và 6,5

hom/cành). Những kết quả về kích thước hom, hàm lượng diệp lục trong lá

hom cho thấy hom hai dòng chè mới có khả năng phát triển thành cây chè

mới khỏe mạnh, dòng CNS-1.41 có năng suất hom cao.

B A C

Hình 3.3. Cành hom chè

A - Dòng CNS-1.41; B- Dòng CNS-8.31; C- Giống LDP1

Hình 3.4. Vườn hom giống

75

3.1.2. Nghiên cứu sinh trưởng hai dòng chè CNS -1.41 và CNS - 8.31.

3.1.2.1. Sinh trưởng thân cành giai đoạn kiến thiết cơ bản

Nhằm đánh giá khả năng sinh trưởng các dòng chè mới, chúng tôi đã

tiến hành thí nghiệm trồng so sánh hai dòng chè mới CNS-1.41, CNS-8.31 và

giống LDP1. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án, chúng tôi trình

bày kết quả đánh giá sinh trưởng của các dòng/ giống chè trong giai đoạn chè

kiến thiết cơ bản. Kết quả nghiên cứu ở các bảng sau.

Bảng 3.5. Đặc điểm sinh trưởng thân cành của các dòng/giống chè

1 năm tuổi ở Phú Hộ năm 2016

Độ cao Chỉ tiêu Tỷ lệ Chiều Đ.kính Cành Cành Rộng phân sống cao cây gốc cấp 1 cấp 2 tán cành Tên dòng (%) (cm) (cm) (cành) (cành) (cm)

CNS-1.41

CNS-8.31

91,1a 90,1a 85,5b 120,4a 128,4a 80,7c 1,3a 1,3a 0,9b 25,7a 15,9b 12,3b 39,0a 23,6b 20,4c 59,3a 45,3b 40,3b (cm) 2,0b 3,6a 3,9a LDP1 (đ/c)

CV% 7,0 5,2 4,4 8,5 4,2 13,2 7,0

5,0 11,7 0,1 5,7 2,6 13,0 0,7 LSD0,05

Kết quả nảng 3.5 cho thấy hai dòng chè mới sinh trưởng khoẻ, một năm

sau trồng, tỷ lệ sống khá cao, từ 85,5 – 91,1%, trong đó dòng CNS – 1.41 và

dòng CNS – 8.31 có tỷ lệ sống tương đương nhau, đạt 91,1 và 90,1% và cao

hơn giống đối chứng LDP1 (đạt 85,5%).

Về sinh trưởng chiều cao cây, các dòng/ giống chè có khác biệt nhau.

Dòng CNS-1.41 và CNS-8.31 sinh trưởng mạnh, chiều cao cây tương đương

nhau, đạt 120,4 và 128,4 cm, và cao hơn giống LDP1 (có chiều cao cây đạt

80,7cm).

76

Sinh trưởng chiều ngang thân của các dòng/ giống chè cũng có sự khác

nhau. Các dòng CNS- 1.41 và CNS – 8.31 có đường kính gốc tương tự nhau,

đạt 1,3cm, lớn hơn giống đối chứng LDP1 đạt 0,9cm. Một năm sau trồng, hai

dòng chè mới này có đường kính gốc > 1cm, đủ tiêu chuẩn để đốn tạo hình

lần thứ nhất trong khi giống LDP1 chưa đủ tiêu chuẩn đốn. Đây chính là điều

kiện để hai dòng chè mới sớm cho thu hoạch và có tiềm năng năng suất cao.

Độ cao phân cành của dòng chè CNS- 1.41 khá thấp, trung bình chỉ

cách mặt đất 2cm đã bắt đầu phân cành mới. Dòng chè CNS – 8.31 và LDP1

có độ cao phân cành tương đương nhau (từ 3,6 - 3,9 cm). Chính độ cao phân

cành thấp làm cho cây chè mọc nhiều nhánh, đó là một trong những điều kiện

tạo cho dòng chè CNS – 1.41 sẽ có bộ tán rộng hơn sau này.

Cành cấp 1 có ý nghĩa quyết định hình thành nên bộ khung tán cơ bản

của cây chè, giống chè có nhiều cành cấp 1 sẽ sớm có bộ tán rộng và sớm

phát huy tiềm năng năng suất. Dòng CNS – 1.41 có số cành cấp 1 nhiều nhất

là 25,7 cành. Dòng CNS – 8.31 đạt 15,9 cành tương đương giống đối chứng

LDP1 đạt 12,3 cành.

Sự phát triển cành cấp 2 của các dòng/ giống chè cũng khác nhau rõ rệt.

Dòng CNS- 1.41 có số cành cấp 2 nhiều nhất (39,0 cành), trong khi dòng

CNS- 8.31 đạt 23,6 cành, còn giống LDP1 chỉ có 20,4 cành cấp 2 (ít cành cấp

2 nhất).

Độ cao phân cành, số lượng cành các cấp khác nhau đã tạo ra sự khác

nhau về chiều rộng tán của các dòng/giống chè nghiên cứu. Chiều rộng tán

của các dòng/ giống dao động từ 40,3 cm – 59,3 cm. Trong đó CNS – 1.41 có

tán rộng nhất (59,3 cm), dòng CNS – 8.31 và giống LDP1 có chiều rộng tán

tương đương nhau từ 40,3 - 45,3 cm.

Từ những kết quả về sinh trưởng của hai dòng chè mới và những phân

tích ở trên, rõ ràng là các dòng chè này rất khỏe, đặc biệt mới chỉ một năm

77

tuổi đã đạt đủ độ lớn để có thể đốn tạo hình lần đầu tiên, chính điều khác biệt

này mà có thể đưa các dòng chè mới vào thu hoạch búp ngay ở năm thứ hai

sau trồng. Mặt khác cành bên nhiều, tán lá rộng, sẽ sớm cho năng suất cao.

Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của C.T. Huyền, N.V. Thiệp,

N.Q. Duy (2012) [10]. Khi nghiên cứu sinh trưởng cây chè tuổi 1 ở điều kiện

đồng ruộng nhằm chọn lọc các dòng chè ưu thế lai từ các dòng chè tạo ra từ

nuôi cấy cứu phôi, các tác giả đã khẳng định các dòng chè lai cứu phôi đều có

khả năng thích ứng tốt, sinh trưởng mạnh và năng suất cao vượt trội so với

đối chứng LDP1.

A B

78

C D

Hình 3.5. Cây chè con

A- Cây chè CNS-1.41 6 tháng tuổi; B - Cây chè CNS-8.31 6 tháng tuổi

C- Cây chè CNS-1.41 1 năm; D - Cây chè CNS-8.31 1 năm tuổi

Hình 3.6. Phân cành thấp và nhiều, làm cho tán chè nhanh lớn và rộng

79

Các dòng chè mới sinh trưởng khỏe, ngay ở tuổi 1 đường kính gốc của

hầu hết số cây đã đạt độ lớn trên 1cm và dã được đốn tạo hình lần thứ nhất.

Sinh trưởng của cây chè sau đốn (tuổi 2) đã được đánh giá, kết quả trình bày

ở bảng dưới đây.

Bảng 3.6. Đặc điểm sinh trưởng các dòng/giống chè

Mật độ

Khối

Năng

Chỉ tiêu

Chiều cao

Đ.kính

Rộng tán

lượng búp

suất búp

gốc (cm)

(cm)

cây (cm)

(Tấn/ha)

Tên dòng

Dòng CNS-1.41

2 năm tuổi ở Phú Hộ năm 2017

Dòng CNS-8.31

7,36

LDP1 (đ/c)

5,22

búp (búp/m2) 121,5a 92,5b 84,4c

(g) 0,96a 1,14b 0,84c

5,9

14,4

8,4

6,8

6,1

12,4

CV%

4,4

0,6

19,1

1,2

0,2

1,4

LSD0,05

62,5b 64,4b 69,5a 2,3a 1,9ab 1,3b 120,7a 93,6b 85,2b 3,64

Ghi chú: mật độ búp chỉ tính những búp đủ tiêu chuẩn hái (búp 1 tôm

và có từ 2 lá thật); năng suất búp thực thu từ ô thí nghiệm quy ra ha.

Kết quả cho thấy các chỉ tiêu sinh trưởng của các dòng/ giống nghiên

cứu có sự khác nhau. Về chiều cao cây, giống LDP1 sinh trưởng nhanh đạt

69,5 cm, cao hơn hai dòng CNS – 1.41 (62,5 cm) và CNS – 8.31 (64,4 cm).

Mặc dù, sau khi đốn, hai dòng chè mới sinh trưởng chiều cao chậm hơn

giống LDP1, nhưng đường kính gốc và chiều rộng tán lại hớn hơn giống

LDP1. Dòng CNS-1.41 có đường kính gốc 2,3cm, lớn hơn giống LDP1

(1,3cm), dòng CNS-8.31 có kích thước về đường kính gốc nằm giữa giống

LDP1 và CNS-1.41. Sau 2 năm tuổi, chiều rộng tán của dòng CNS-141 đạt

120,7 cm, lớn hơn CNS-8.31 (93,6 cm) và LDP1 (85,2cm). Sự lớn nhanh của

thân cây, tạo thuận lợi cho các cành bên phát triển làm cho tán lá nhanh lớn,

đó là dấu hiệu của giống cho năng suất cao.

80

Về mật độ búp: dòng CNS-141 có mật độ búp dầy nhất là 121,5 búp/m2, dòng CNS-81 có mật độ búp là 92,5 búp/m2, trong khi giống LDP1 có 84,4 búp/m2. Mặc dù có mật độ búp dầy nhưng hai dòng chè mới có búp

dài hơn, lá lớn hơn nên khối lượng búp lớn hơn giống LDP1.

Do các yếu tố cấu thành năng suất đều lớn hơn giống đối chứng nên

năng suất hai dòng chè mới cao hơn. Ở ruộng thí nghiệm đánh giá sinh

trưởng, năng suất dòng CNS-141 đạt 7,36 tấn/ha/năm; dòng CNS-831 đạt

5,22 tấn/ha/năm; giống LDP1 năng suất đạt 3,64 tấn/ha/năm.

Sinh trưởng của cây chè tiếp tục được đánh giá những năm tiếp theo.

Kết quả đánh giá sinh trưởng, năng suất của năm thứ 3, năm cuối cùng của

thời kỳ kiến thiết cơ bản trình bày ở bảng sau.

Bảng 3.7. Đặc điểm sinh trưởng các dòng/giống chè

3 năm tuổi ở Phú Hộ năm 2018

Chỉ tiêu Cao Rộng Đ/K Mật Khối Độ Năng

cây tán thân độ lượng dài suất

Dòng (cm) (cm) (cm) lóng (tấn/ha) búp

CNS-1.41

CNS- 8.31

76,5a 180,4a 76,6a 167,6a 78,5a 125,7b 5,4a 4,9a 3,6b búp (b/m2) 124,2a 1,02b 1,18a 98,7b 0,91c 94,5b (cm) 5,6b 6,15a 4,0c 13,68a 9,72b 6,59c LDP1(đ/c)

CV (%) 6,06 6,7 10,3 9,09 6,1 12,1 14,92

2,9 23,9 1,01 4,61 0,10 0,54 2,32 LSD0,05

Ghi chú: mật độ búp chỉ tính những búp đủ tiêu chuẩn hái (búp 1 tôm

và có từ 2 lá thật trở lên); năng suất búp thực thu từ ô thí nghiệm quy ra ha..

Tới năm thứ 3, cây chè đã trải qua 2 lần đốn, các lứa chè được hái đều

đặn, do vậy độ cao mặt tán đã ổn định, chiều cao cây của 3 dòng/ giống (chiều

cao đến mặt tán hái búp) dao động từ 76,5 - 78,5 cm. Đường kính thân và

81

chiều rộng tán tiếp tục tăng thêm, trong đó hai dòng chè CNS-1.41 và CNS-

8.31 có đường kính thân tương đương nhau (5,4 và 4,9 cm) và lớn hơn thân

cây của giống LDP1 (3,6cm).

Về mật độ búp, dòng CNS-141 có mật độ búp cao nhất (124,2 búp/m2);

dòng CNS-831 và giống LDP1 có mật độ búp tương đương nhau.

Về độ dài lóng búp của các dòng chè thì dòng CNS – 831 có độ dài

lóng lớn nhất 6,15 cm, tiếp đến là dòng CNS – 1.41 lóng dài 5,6 cm; búp chè

LDP1 có lóng ngắn nhất là 4,0. Độ dài ngắn của lóng làm cho búp của các

dòng/ giống chè có độ dài ngắn khác nhau. Cũng do vậy mà khối lượng búp

chè khác nhau. Cũng tương tự như ở tuổi 2, khối lượng búp dòng CNS-831 >

CNS-141 > giống LDP1.

Về năng suất, ở tuổi 3 năng suất của các dòng/giống chè đã khá cao.

Dòng CNS-141 cao nhất đạt 13,68 tấn/ha/năm; dòng chè CNS-831 đứng thứ

hai đạt 9,72 tấn/ha; giống LDP1 đạt 6,59 tấn/ha.

Như vậy, các dòng chè mới ưu thế lai đã sớm phát huy tiềm năng năng

suất. Áp dụng các giống mới này vào sản xuất sẽ rút ngắn được giai đoạn kiến

thiết cơ bản để sớm có thu nhập cho người sản xuất.

3.1.2.2. Sinh trưởng phát triển búp của hai dòng chè.

Cây chè sinh trưởng, phát triển hầu như quanh năm, tuy nhiên trong tự

nhiên một năm búp chè phát triển theo một số đợt nhất định gọi là đợt sinh

trưởng, trong điều kiện có thu hái búp, đợt sinh trưởng có thể thay đổi

(Nguyễn Văn Toàn, 2016) [45]. Để nắm được thời gian bắt đầu, kết thúc cũng

như thời gian các đợt sinh trưởng các dòng chè mới, chúng tôi đã tiến hành

nghiên cứu các đợt sinh trưởng, kết quả ở bảng sau đây.

82

Bảng 3.8. Thời gian các đợt sinh trưởng búp của hai dòng chè ở Phú Hộ, 2016

Dòng Thời gian các đợt sinh trưởng

CNS-1.41 10/1-8/4 3/5-15/6 21/6-30/7 7/8-18/9 28/9-25/11

CNS-8.31 12/1- 11/4 4/5-17/6 22/6-1/8 8/8-20/9 29/9-27/11

20/1-8/4 5/5- 15/6 23/6- 30/7 9/8 – 18/9 30/9-22/11 LDP1 (đ/c)

Kết quả ở bảng cho thấy các dòng/ giống chè nghiên cứu trải qua 5 đợt

sinh trưởng tự nhiên. Tuy nhiên, thời gian bắt đầu sinh trưởng (nhú mầm) và

kết thúc sinh trưởng (búp mù xòe) của các dòng/giống có sự khác nhau.

Dòng CNS-141 bắt đầu đợt sinh trưởng thứ nhất sớm nhất, từ ngày

10/1 và kết thúc vào ngày 8/4. Dòng CNS-831 bắt đầu sinh trưởng muộn

hơn dòng CNS-141 2 ngày (ngày 12/1), kết thúc muộn hơn 3 ngày (ngày

11/4). Giống LDP1 bắt đầu đợt sinh trưởng đầu tiên vào ngày 20/1 và kết thúc

vào ngày 8/4. Như vậy, dòng chè CNS-141 sinh trưởng sớm, thời gian sinh

trưởng kéo dài, đây là đặc tính nông học tốt vì sinh trưởng sớm sẽ cho thu

hoạch sớm có lợi cho thương mại khi mà đầu vụ, các loại chè khác còn chưa

có búp để thu hoạch. Mặt khác thời gian sinh trưởng dài hơn đồng nghĩa với

búp non lâu, nếu thu hoạch đúng thời gian thì nguyên liệu búp ít xơ, phẩm cấp

chè nguyên liệu tốt hơn. Những phân tích trên đây về dòng chè CNS-141

cũng đúng với dòng chè CNS-831 vì thời gian sinh trưởng dài tương đương

với dòng CNS-141.

Giống chè LDP1 bắt đầu sinh trưởng muộn, thời gian sinh trưởng ngắn,

điều này dễ dẫn đến việc thu hoạch không kịp thời sẽ làm cho búp chè nhanh

hóa gỗ, tỷ lệ xơ cao. Nếu việc thu hoạch chậm trễ, chất lượng nguyên liệu chè

83

giảm nhanh chóng, chè bán thành phẩm sẽ nhiều cuộng làm giảm giá trị

thương mại của chè.

Đợt sinh trưởng thứ 5, hai dòng chè CNS-141 và CNS-831 cũng kết

thúc muộn hơn (25-27 tháng 11) so với giống LDP1 (kết thúc vào ngày 22

tháng 11). Kết thúc đợt sinh trưởng muộn làm tăng cơ hội tận dụng sản phẩm

chè khi mà cuối vụ nguyên liệu trở nên khan hiếm.

Các đợt sinh trưởng khác nhau có tốc độ sinh trưởng khác nhau, đề tài

luận án đã đánh giá tốc độ sinh trưởng của các dòng/ giống chè, kết quả ghi ở

bảng 3.9 dưới đây.

Bảng 3.9. Tốc độ tăng trưởng chiều dài búp của hai dòng chè

(Đơn vị tính: cm/ngày)

Dòng/giống Đợt 1 Đợt 2 Đợt3 Đợt 4 Đợt 5

CNS-1.41

CNS-8.31

0,48a 0,55a 0,34b 1,03a 1,16a 0,67b 1,18a 1,33a 0,80b 1,06ab 1,21a 0,72b 0,72a 0,85a 0,51b LDP1 (đ/c)

CV(%) 11,37 10,24 17,02 17,53 11.20

0,10 0,19 0,37 0,35 0,15 LSD05

Căn cứ vào giá trị sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức xác suất 95%,

các trị số về tốc độ sinh trưởng của các dòng/giống chè nghiên cứu có sự khác

nhau. Tốc độ sinh trưởng của hai dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 tương

đương đương nhau và lớn hơn tốc độ sinh trưởng của giống chè LDP1 ở tất cả

các đợt sinh trưởng trong thời gian nghiên cứu.

Các đợt sinh trưởng thứ nhất và thứ 5 tốc độ sinh trưởng chậm hơn

các đợt thứ 2, 3 và thứ 4. Có kết quả như vậy là do thời tiết đầu năm và cuối

84

năm lạnh, búp chè sinh trưởng chậm. Từ đợt thứ 2 đến đợt thứ 4, thời tiết

nóng ẩm thuận lợi, làm cho búp chè sinh trưởng nhanh hơn.

3.1.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng chè

Chè là cây trồng mà sản phẩm thu hoạch là búp và lá non. Mỗi giống có

mật độ búp, khối lượng búp, số lứa thu hoạch khác nhau và liên quan trực tiếp

đến năng suất của giống. Kết quả theo dõi một số yếu tố cấu thành năng suất

và năng suất của các giống chè nghiên cứu thu được kết quả ở bảng 3.10.

Bảng 3.10. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các dòng chè (Sau trồng 3 năm tuổi)

Rộng tán (m ) Cao Năng P búp Số lứa Giống chè cây suất Rộng Tán có Mật độ (búp/m2) (g/búp) (lứa)

CNS-1.41 17

CNS-8.31 17

búp 1,50 a 1,32 b 1,21 b LDP1(đ/c) (cm) 76,6a 78,2a 75,6a tán 1,81a 1,62b 1,51b 130,6a 112,8b 102,8b 1,05b 1,21a 0,93c 17 (tấn/ha) 19,42a 17,01b 10,92c

4,82 CV% 3,60 3,90 7,20 5,20 - 5,76

0,12 5,20 0,12 16,70 0,11 - 2,12 LSD0.05

Ghi chú: mật độ búp chỉ tính những búp đủ tiêu chuẩn hái (búp 1 tôm

và có từ 2 lá thật); năng suất lý thuyết quy từ các yếu tố cấu thành năng suất.

Kết quả đánh giá ở bảng 3.10 cho thấy: các dòng/ giống chè sinh

trưởng phát triển mạnh, ở tuổi 3 có chiều cao cây (đến mặt tán chè) trong điều

kiện thu hoạch thường xuyên là tương đương nhau, chiều cao từ 75,6 -

78,2cm.

Về chiều rộng tán, dòng chè CNS – 1.41 lớn nhất, đạt 1,81m và búp

phân bố trong khoảng chiều rộng 1,5m; dòng CNS – 8.31 đạt 1,62 m, búp

phân bố trong khoảng 1,32m; giống LDP1 chỉ đạt 1,51 m, búp phân bố trong

85

khoảng 1,21m. Chiều rộng tán là một trong những chỉ tiêu cấu thành năng

suất quan trọng, chiều rộng tán chè lớn đồng nghĩa với diện tích tán lớn, đó là

tiêu chí để chọn lọc giống chè năng suất cao (Willson K.C. & M.N. Clifford,

1992) [120].

Mật độ búp (những búp đủ tiêu chuẩn hái gồm có tôm và có từ 2 lá thật trở lên) cao nhất là dòng CNS – 1.41 (130,6 búp/m2); dòng CNS – 8.31 mật độ búp đạt (112,8 búp/m2) tương đương với mật độ búp của giống đối chứng LDP1 (102,8 búp/m2) ở độ tin cậy 95%.

Khối lượng búp 1 tôm 3 lá của các dòng/ giống chè có sự khác nhau.

Theo đó, dòng chè CNS – 8.31 có khối lượng búp lớn nhất 1,21 g/búp; thứ hai

là dòng CNS – 1.41, có khối lượng búp 1,05 g/búp; khối lượng búp của giống

đối chứng LDP1 nhỏ nhất (0,93 g/búp). Ở tuổi 3, hái san trật được 17 lứa hái

trong một năm.

Về năng suất, kết quả đánh giá năng suất từ các yếu tố cấu thành năng

suất cho thấy ở tuổi 3, năng suất của các dòng/ giống đạt khá cao. Dòng CNS

- 1.41 đạt năng suất cao nhất 19,42 tấn/ha/năm; dòng CNS – 8.31 năng suất

xếp thứ hai, đạt 17,01 tấn/ha/năm; giống đối chứng LDP1 xếp thứ ba đạt 10,92

tấn/ha/năm. Kết quả về năng suất tính toán từ các yếu tố cấu thành năng suất

của thí nghiệm phù hợp với năng suất thực thu ở bảng 3.9, nghĩa là dòng

CNS-1.41 năng suất cao nhất, dòng CNS-8.31 đứng thứ hai và cao hơn năng

suất của giống chè LDP1. Kết quả đạt được này cũng phù hợp với kết luận

của Willson K.C. & M.N. Clifford, 1992 [119] cho rằng tán chè cùng với mật

độ búp chè lớn là những yếu tố chính cho năng suất chè cao.

3.1.4. Nghiên cứu chất lượng của hai dòng chè mới

3.1.4.1. Thành phần cơ giới của búp chè

Búp chè là nguyên liệu chế biến ra các sản phẩm chè, nghiên cứu thành

phần cơ giới búp để định hướng thu hoạch cho các mục đích sản phẩm khác

86

nhau. Thành phần cơ giới búp chè là một trong những chỉ tiêu chất lượng của

nguyên liệu búp. Búp chè ít cuộng, tỷ lệ tôm và lá một cao có chất lượng

nguyên liệu tốt, tỷ lệ bánh tẻ (xơ) của búp chè thấp là búp chè non; khi chế

biến búp chè có tỷ lệ tôm và lá một cao, hàm lượng xơ thấp, tỷ lệ chè thành

phẩm loại tốt sẽ cao hơn. Phân tích thành phần cơ gới búp của các dòng chè

thu được kết quả ở bảng 3.11:

Bảng 3.11. Thành phần cơ giới búp chè 1 tôm 3 lá của các dòng/giống chè

ở Phú Hộ, 2017

Tôm Lá 1 Lá 2 Lá 3 Cuộng Tỷ lệ xơ Dòng

CNS-1.41

CNS-8.31

(%) 6,09a 6,12a 6,06a (%) (%) (%) 38,78a 10,52a 22,95a 10,01a 21,92a 36,13b 29,37c 9,92a 20,15a (%) 21,66c 25,82b 34,48a (%) 17,86b 16,07bc 19,73a LDP1 (đ/c)

4,06 6,13 5,1 11,9 7,54 9,44 CV%

0,56 0,51 0,94 1,54 2,72 1,84 LSD0.05

Kết quả ở bảng số liệu cho thấy: tỷ lệ tôm của búp chè của các dòng/

giống nghiên cứu tương đương nhau, chiếm từ 6,06 - 6,12% khối lượng của

búp chè.

Tỷ lệ lá 1 và lá 2 của các dòng/ giống cũng tương tự nhau (ở mức xác

suất 95%), theo đó lá 1 chiếm từ 9,92 - 10,52% khối lượng búp, lá 2 chiếm từ

20,15 - 22,95% khối lượng búp.

Lá thứ 3 của búp ở các dòng/ giống có sự khác nhau, trong đó dòng

CNS – 1.41 chiếm 38,78% khối lượng búp, dòng CNS – 8.31 chiếm tỷ lệ ít

hơn (36,13%), giống LDP1 chiếm tỷ lệ ít nhất (29,37%).

Tỷ lệ cuộng của các giống chè rất khác nhau, dòng chè CNS – 1.41 có tỷ

lệ thấp nhất (21,66%); dòng CNS – 8.31 có tỷ lệ cuộng cao hơn dòng CNS-

87

1.41 (25,82%); giống đối chứng LDP1 có tỷ lệ cuộng nhiều nhất, chiếm

34,48% tổng khối lượng búp chè.

Tỷ lệ xơ phản ánh mức độ non mềm của búp chè, xơ ít là búp chè có chất

lượng tốt. Hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31 có tỷ lệ xơ tương đương

nhau, biến động từ 16,07 % đến 17,86% thấp hơn so với đối chứng LDP1 có

tỷ lệ xơ là 19,73%. Từ kết quả này có thể nhận xét rằng búp chè của hai dòng

chè mới non hơn búp chè giống LDP1 có cùng tuổi búp và thời gian thu

hoạch, và chất lượng nguyên liệu búp tốt hơn giống LDP1.

3.1.4.2. Thành phần sinh hóa các dòng chè

Búp chè có nhiều chất có lợi cho sức khỏe con người, chính vì lẽ đó, trà

đã là đồ uống phổ biến nhất trên thế giới từ xưa tới nay. Các chất chính có lợi

trong búp chè như Catechin, axit amin, vitamine,…Do có nhiều ích lợi đối với

sức khỏe, các nhà chọn giống chè luôn tìm cách tạo ra những giống chè mới

có hàm lượng các chất này cao nhất có thể.

Để đánh giá chất lượng về nội chất của chè búp nguyên liệu, đề tài luận

án đã hái mẫu búp chè có tôm và 2 lá non phân tích một số thành phần sinh

hóa chính. Búp chè một tôm hai lá cũng được chế biến thành sản phẩm chè

xanh, chè đen nhằm đánh giá chất lượng bán thành phẩm.

Kết quả phân tích thành phần hóa học chủ yếu trong búp chè tôm 2 lá

được trình bày ở bảng 3.12.

88

Bảng 3.12: Thành phần hóa học chủ yếu trong chè xanh

các dòng/giống chè

HC

Axit Đạm Vitamin thơm Poly Chất Catechin Giống Tanin amin Cafein TS C TS phenol hòa tan TS chè (%) TS (%) (%) (mg/ (ml / TS (%) (mg/g) (%) (%) 100g) 100g

CK)

CNS-1.41 25,51b 42,43a 2,45a 145,75a 2,59ab 4,86a 16,72b 47,07a 17,98b

CNS-8.31 24,47b 43,28a 2,56a 137,12b 2,21b 4,98a 22,04a 49,02a 20,14a

LDP1 (đ/c) 28,72a 42,57a 1,54b 146,93a 2,90a 5,06a 22,90a 42,27b 19,45a

CV% 4,8 5,2 9,3 7,7 5,1 5,4 5,5 6,7 7,2

2,9 5,1 0,5 0,4 0,2 2,5 1,5 3,8 0,9 LSD0.05

Kết quả ở bảng số liệu cho thấy: hàm lượng tanin của hai dòng chè

CNS – 1.41 và CNS – 8.31 dao động từ 24,47 – 28,72%, trong đó dòng có

hàm lượng tanin thấp nhất là dòng CNS - 8.31 đạt 24,47%, còn dòng CNS –

1.41 tương đương đối chứng LDP1 (25,51%).

Chất hòa tan trong búp các dòng/ giống chè tương đương nhau, trong

đó dòng CNS – 8.31 có hàm lượng chất hòa tan là 43,28%, của dòng CNS –

1.41 là 42,43%, ở giống LDP1 là 42,57%.

Hàm lượng axit amin tổng số của hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS –

8.31 dao động từ 2,45 đến 2,56% cao hơn giống đối chứng LDP1 (1,54%).

Hàm lượng catechin tổng số của hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS –

8.31 biến động từ 137,12% đến 145,75%, ở giống LDP1 là 146,93%.

89

Hàm lượng cafein của hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31 từ 2,21

đến 2,59%, thấp hơn cafein ở giống đối chứng LDP1 (2,90%).

Hàm lượng đạm tổng số của hai dòng chè CNS – 1.41 (4,86%) và CNS

– 8.31 đạt (4,98%) thấp hơn so với giống đối chứng LDP1 (5,06%).

Vitamin C của hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31 biến động từ

(16,72 – 22,04 mg/100g) trong đó dòng CNS – 1.41 (16,72 mg/100g), dòng

CNS – 8.31 (22,04 mg/100g) cả hai dòng chè đều có hàm lượng vitmin c thấp

hơn giống đối chứng LDP1 ( 22,90 mg/100g).

Hợp chất thơm của dòng CNS – 1.41 (47,07 (ml KMnO4 0,02N/100g

CK)), dòng CNS – 8.31 có hợp chất thơm tổng số đạt 49,02 (ml KMnO4

0,02N/100g CK)). Cả hai dòng chè đều có hợp chất thơm thấp hơn giống đối

chứng LDP1 (42,27 (ml KMnO4 0,02N/100g CK)).

Polyphenol tổng số của dòng CNS – 8.31 đạt 20,14% cao hơn giống

đối chứng LDP1, dòng CNS – 1.41 có hàm lượng Polyphenol tổng số thấp

hơn giống đối chứng LDP1 (19,45%).

Từ kết quả phân tích thành phần sinh hóa cho phép kết luận, hai dòng

chè mới CNS-1.41 và CNS-8.30 có nội chất tốt, hàm lượng các chất có trong

hai dòng chè mới đáp ứng được yêu cầu về nội chất có thể sản xuất chè xanh

đáp ứng yêu cầu chất lượng cho thương mại sản phẩm.

Chè đen, hiện đang được sản xuất và tiêu dùng chiếm khoảng 70-80%

lượng chè trên thế giới. Để tìm hiểu khả năng cho sản xuất chè đen, đề tài

luận án đã phân tích các chỉ tiêu nội chất cần thiết đối với chè đen. Kết quả

trình bày ở bảng 3.13.

Số liệu ở bảng 3.13 cho thấy hàm lượng tanin của các dòng chè dao

động từ 14,08 - 14,35% tương đương với giống đối chứng LDP1, đáp ứng với

tiêu chuẩn chè đen xuất khẩu. Chất hòa tan là một trong những chỉ tiêu quan

trọng đối với chất lượng chè sản phẩm. Hàm lượng chất hòa tan của các dòng

90

nghiên cứu dao động từ 36,27 - 37,55% cao hơn giống đối chứng LDP1

(34,55 %) từ 1,72 - 3%.

Bảng 3.13:Thành phần hóa học chủ yếu trong chè đen của các dòng chè

(theo % chất khô)

Chỉ tiêu phân tích

Dòng/giống

Axit-

Đường

Tanin CHT

Catechin

TF

TR TF/TR

amin

CNS-1.41

khử 1,53a 1,45a 1,16b

0,75a 18,46a 24b 0,83a 19,21a 23b 0,46b 18,32a 39a

14,08a 36,27ab 0,79b 72,96a 1,25a 74,05a 14,35a 37,55a CNS-8.31 LDP1(đ/c) 14,27a 34,55b 1,29a 73,28a

5,7

6.9

12,3

10,2

CV%

7,3

8,6

5,9

4,7

1,8

2,1

0,3

16,9

0,2

0,1

1,7

1,6

LSD0.05

Hàm lượng axit amin của các dòng chè dao động từ 0,79-1,25% thuộc

loại trung bình. Hàm lượng catechin trong chè đen của các dòng chè dao động

từ 72,96 - 74,05 mg/g chất khô tương đương với giống đối chứng LDP1. Hàm

lượng Teaflavin (TF) và Tearubigin (TR) là 2 chỉ số quan trọng đối với màu

sắc nước pha của chè đen, đặc biệt TF là chất màu vàng, phối hợp với màu

nâu của TR làm cho nước chè đen đỏ tươi trong sáng rõ viền vàng. Hàm

lượng TF càng cao, chất lượng chè đen càng tốt. Hàm lượng TF của 2 dòng

chè nghiên cứu đạt từ 0,75 - 0,83 % đều cao hơn đối chứng. Đây là những

dòng chè được lai tạo hữu tính kết hợp công nghệ sinh học, khi chế biến chè

đen có màu nước rất tốt khá hấp dẫn, thể hiện qua tỷ số TF/TR, nếu tỷ số này

càng thấp thì chất lượng chè đen càng cao.

Theo số liệu ở bảng 3.13: tỷ số TF/TR của 2 dòng chè mới CNS - 1.41

và CNS - 8.31 đạt từ 23 - 24 thấp hơn đối chứng LDP1 (39) đều thuộc loại chè

đen có chất lượng tốt nhất.

91

Nguyên liệu chè của 2 dòng CNS - 1.41 và CNS - 8.31 cũng được chế

biến chè đen theo phương pháp truyền thống (orthodox) và đánh giá cảm quan

thu được kết quả ở bảng 3.13.

3.1.4.3. Đánh giá chất lượng cảm quan các dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31

Chè là một loại đồ uống dùng cho giải khát và thưởng thức hương vị

như một văn hóa nghệ thuật, do vậy bên cạnh yêu cầu chất lượng về các yếu

tố định lượng của các chất, cần thiết phải đánh giá chất lượng thông qua mức

độ cảm giác, vị giác của người tiêu dùng, gọi là chất lượng cảm quan.

Kết quả đánh giá cảm quan chè xanh và chè đen trình bày ở các bảng

3.14 và 3.15 dưới đây.

Bảng 3.14: Chất lượng cảm quan chè xanh các dòng/giống chè

ở Phú Hộ năm 2015-2017

Ngoại hình Màu nước Hương Vị Tổng Xếp Tên dòng Mô Mô Mô điểm loại Mô tả Điểm Điểm Điểm Điểm tả tả tả

Nhỏ Xanh xoăn vàng Chát Thơm non CNS-1.41 4,31 sáng, 4,08 4,04 đậm 4,00 16,43 Khá nhẹ xanh, hơi dịu hơi loãng vụn

Xanh

Thơm Đậm đen,

Xanh nhẹ dịu, nhỏ CNS-8.31 4,51 4,46 4,43 4,54 17,94 Khá sáng đặc có cánh,

trưng hậu thoáng

tuyết

92

Xanh Xoăn vàng LDP1 đều. Thơm Đậm 4,00 sáng, 4,00 4,00 3,76 15,76 Khá (đ/c) màu nhẹ dịu hơi xanh loãng

Kết quả đánh giá cảm quan chè xanh cho thấy: dòng CNS-1.41 có mầu

nước xanh vàng, hương thơm nhẹ, vị chát dịu, tổng điểm đạt 16,43 điểm, xếp

loại khá; dòng CNS-8.31 có ngoại hình xoăn đẹp, mầu nước xanh, hương

thơm dịu, vị đậm, có hậu, tổng số điểm đạt 17,94 điểm, xếp loại khá; giống

đối chứng LDP1 có mầu nước xanh vàng, hương thơm nhẹ, vị đậm, tổng điểm

đạt 15,76 điểm, xếp loại khá. Như vậy, hai dòng chè CNS - 1.41, CNS - 8.31

có chất lượng chè xanh khá. Các dòng chè mới này có năng suất cao, chất

lượng chè xanh cùng xếp loại khá như giống đối chứng LDP1 là giống chè

xanh phổ biến trong sản xuất, do vậy có có triển vọng để phát triển rộng rãi

trong sản xuất chè ở nước ta.

Đối với chè đen thì các chỉ tiêu màu nước hương vị có ý nghĩa quyết

định chất lượng của chè đen. Kết quả đánh giá, màu nước của 2 dòng chè

CNS - 1.41 và CNS - 8.31 và LDP1 đều tốt, có màu đỏ nâu trong sáng, rõ

viền vàng; hương và vị của 2 dòng chè mới đều trội hơn giống đối chứng

LDP1. Tổng số điểm cảm quan của 2 dòng chè nghiên cứu đạt từ 17,5 - 18,60

điểm, đều xếp loại tốt và khá. Trong đó dòng CNS - 8.31 đạt tổng số điểm cao

nhất là 18,60 thuộc loại tốt.

93

Bảng 3.15: Chất lượng cảm quan chè đen các dòng/giống chè ở Phú Hộ

năm 2015-2017

Ngoại hình

Màu nước

Hương

Vị

Tổng

Xếp

Dòng

điểm

loại

Mô tả Điểm Mô tả Điểm Mô tả Điểm Mô tả Điểm

Đỏ

sáng,

Thơm

Chát dịu

Nâu đen

hơi

đặc

CNS-

4,30

4.30

4,40

ngọt, hơi

4,5 17,50 Khá

hơi thô

loãng có

trưng,

1.41

ngái

viền

hơi ngái

vàng

Đỏ nâu

Thơm

Xoăn,

sáng

Chát

đặc

non,

CNS-

nâu

4,70

sánh, có

4,80

trưng,

4,60

đậm, dịu,

4,60 18,60 Tốt

8.31

viền

có hậu

hương

đen,đều

vàng

héo

cánh

Đỏ nâu

sáng,

Xoăn

Thơm

hơi

non,nâu

Chát dịu

Khá

4,50

4,50

đặc trưng

4,30

4,30 17,60

LDP1

loãng,có

đen ,khá

hơi ngái

nhẹ

viền

đều

vàng

Như vậy nguyên liệu chè của 2 dòng chè mới CNS - 1.41 và CNS - 8.31

có thể dùng cho chế biến chè xanh và chè đen có chất lượng khá và tốt.

3.1.5. Khả năng sống sót của cây con sau trồng ở điều kiện tự nhiên

Giống chè có khả năng phát triển trong sản xuất, ngoài yếu tố năng

suất, chất lượng, khả năng nhân giống, còn cần phải có khả năng thích ứng

của cây con sau khi trồng. Nhằm đánh giá khả năng thích ứng của cây chè ở

94

điều kiện đồng ruộng, đề tài luận án đã khảo sát khả năng sống sau trồng của

các cây chè con hai dòng chè mới. Kết quả trình bày ở bảng 3.16.

Bảng 3.16: Tỷ lệ sống của cây sau trồng ở điều kiện tự nhiên

(ĐVT: %)

Chỉ tiêu

CNS-1.41

CNS-8.31

Sau trồng 6 tháng 100a 98,8ab 96,3b Sau trồng 12 tháng 100a 97,4a 90,4b LDP1

CV (%) 14,2 12,7

2,8 5,3 LSD0.05

Kết quả ở bảng số liệu cho thấy cho thấy, cây chè giâm hom của các

dòng chè mới sau khi trồng ra đồng ruộng có tỷ lệ sống khá cao. Sau 6 tháng

trồng tỷ lệ sống của dòng/giống chè biến động từ 96,3% đến 100%, trong đó

dòng CNS – 1.41 có tỷ lệ sống cao nhất đạt 100%, dòng CNS – 8.31 có tỷ lệ

sống tương đương dòng CNS – 1.41 và giống LDP1 đạt 98,8%, tỷ lệ sống

thấp nhất là giống LDP1 đạt 96,3%. Sau trồng 12 tháng thì tỷ lệ sống của cây

cũng có sự thay đổi rõ rệt, hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31 tỷ lệ sống

tương đương nhau, đạt 97,4% đến 100% và cao hơn tỷ lệ sống của giống

LDP1 đạt 90,4%.

3.1.6. Đánh giá khả năng nhiễm một số loài sâu hại chủ yếu

Sâu bệnh hại là một trong những yếu tố sinh thái ảnh hưởng lớn đến

sinh trưởng, phát triển của cây trồng nói chung và cây chè nói riêng. Nếu

giống chè nhiễm sâu bệnh sẽ làm tăng chi phí cho phòng trừ, làm tăng giá

thành sản phẩm, đồng thời sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo sản

95

phẩm an toàn. Đề tài đã tiến hành đánh giá mức độ nhiễm một số sâu hại chủ

yếu, kết quả trình bày ở bảng 3.17.

Bảng 3.17. Tình hình một số sâu hại chính trên hai dòng chè

tại Phú Hộ năm 2015 - 2017

Rầy xanh Nhện đỏ Cánh tơ Bọ xít muỗi Tên dòng

CNS - 1.41

CNS - 8.31

(Con/khay) 1,05c 1,16b 1,28a (Con/lá) 0,74c 0,80b 0,96a (Con/búp) 1,56b 1,68b 1,83a (% búp bị hại) 0,34a 0,44a 0,61a LDP1 (đ/c)

7,0 7,83 8,59 14,85 CV

0,03 0,03 0,13 0,17 LSD0,05

Hình 3.7. Một số sâu hại chính trên hai dòng chè mới tại Phú Hộ

96

Kết quả ở bảng số liệu được biểu diễn bằng biểu đồ hình 3.7 cho thấy

các dòng/ giống chè nghiên cứu đều nhiễm một số loài sâu hại chè chính, tuy

nhiên mật độ và mức độ hại của các loài sâu hại ở các giống chè khác nhau thì

khác nhau. Đối với rầy xanh, mật độ của chúng trên giống LDP1 (1,28 con/

khay) cao hơn ở dòng CNS-8.31 (1,16 con/ khay) và cao hơn ở dòng CNS-

1.41 (1,05 con/ khay);

Nhện đỏ xuất hiện ít nhất trên các dòng CNS – 1.41 (0,74 con/lá), thứ

đến là dòng CNS - 8.31 (0,80 con/lá) và tỷ lệ nhện đỏ xuất hiện nhiều nhất là

giống (đ/c) LDP1 (0,96 con/lá);

Mức độ bọ cánh tơ nhiều nhất là giống đ/c LDP1 (1,83 con/búp), các

dòng CNS-1.41 và CNS - 8.31 có mật độ bọ cánh tơ tương nhau (1,56 và 1,68

con/búp);

Tỷ lệ hại do bọ xít muỗi trên hai dòng CNS – 1.41, dòng CNS – 8.31 và

giống LDP1 tương đương nhau, từ 0,34% đến 0,61%.

Như vậy rầy xanh, nhện đỏ và bọ cánh tơ hại trên giống chè LDP1 nhiều

hơn hai dòng CNS-1.41 và CNS-8.31, bọ xít muỗi hại trên tất cả các dòng/

giống chè như nhau.

3.2. Nghiên cứu một số biện pháp canh tác chủ yếu phát triển 2 dòng

chè giai đoạn kiến thiết cơ bản

3.2.1. Nghiên cứu mật độ và phương thức trồng hai dòng chè mới

Ở nước ta, trồng chè phổ biến trên đất đồi dốc, trồng theo đường bình

độ, khoảng cách giữa các hàng 1,5m, mật độ khoảng 1,5 đến 1,7 vạn cây/ha

đối với cây giống giâm cành [26], [27], [28]. Hiện nay chè được trồng ở nhiều

địa hình khác nhau, cả ở những ruộng bằng phẳng để thuận tiện cho thâm

canh và cơ giới hóa. Phương thức trồng chè cũng đa dạng hơn, hàng chè có

thể cách nhau dưới hoặc trên 1,5m, một số nước trồng hàng kép, có những

vùng trồng hàng đơn hoặc ô vuông... (Willson K.C. & M.N. Clifford, 1992)

97

[119], [121]. Mật độ trồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Giống, địa hình,

phương thức canh tác thủ công hay cơ giới hóa, mật độ đầu tư phân bón, tưới

nước, các điều kiện khí hậu, định hướng kinh doanh dài hay ngắn của vườn

chè. Mật độ trồng chè là số cây chè có trên một đơn vị diện tích được trồng

trên các hàng, cách nhau một khoảng nhất định. Để có thể phát huy được tiềm

năng của giống và xác định kỹ thuật phục vụ sản xuất, đề tài luận án đã

nghiên cứu mật độ và phương thức trồng các dòng chè mới, kết quả trình bày

ở bảng 3.18 sau đây.

Bảng 3.18. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của dòng chè

CNS-1.41 tuổi 1 ở Phú Hộ

Tỷ lệ

Cao cây

Rộng

Chiều cao

ĐK gốc

Cành cấp

Cành cấp

Công

sống

(cm)

tán

PC (cm)

(cm)

1 (cành)

2 (cành)

thức

(%)

(cm)

TN

CT1(đ/c)

CT2

93,46a 92,82a 93,17a

112,66a 118,57a 120,49a

42,91a 45,45a 46,38a

2,12a 1,91a 2,54a

1,22a 1,41a 1,44a

25,84a 23,58a 23,47a

38,42a 36,38a 35,51a

CT3

CV%

9,02

8,90

12,80

7,62

6,84

7,81

11,00

5,20

11,22

6,90

0,72

0,75

3,70

4,26

LSD0,05

Ghi chú:

CT1 (đ/c): 1,5m x 0,4m, trồng 1 hàng đơn, 1,66 vạn cây/ha

CT2: 1,8m x 0,6m, trồng 2 hàng kép, 1,85 vạn cây/ha

CT3: 1,8m x 0,67m, trồng 2 hàng kép, 1,66 vạn cây/ha

Kết quả ở bảng 3.18 cho thấy dòng CNS – 1.41 sau trồng 1 năm, tỷ lệ

sống khá cao và tương đương nhau giữa các công thức mật độ trồng, tỷ lệ

sống từ 92,82 – 93,46 %.

Các chỉ tiêu sinh trưởng như chiều cao cây, chiều rộng tán, chiều cao

phân cành, số cành cấp 1, số cành cấp 2 chưa có sự sai khác giữa các mật độ

98

nghiên cứu. Chiều rộng tán dao động từ 42,91 - 46,38cm; đường kính gốc từ

1,22cm đến 1,44cm; chiều cao phân cành từ 1,91cm - 2,54cm; số cành cấp 1

dao động từ 23,47 đến 23,84cm, cành cấp 2 từ 35,51 cành đến 38,42 cành.

Cành cấp 1 và cành cấp 2 nhiều có nghĩa là có bộ khung tán rộng, diện

tích tán lớn là biểu hiện của giống chè có tiềm năng năng suất cao.

Bảng 3.19. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của dòng chè

CNS-8.31 tuổi 1 ở Phú Hộ

Tỷ lệ

Cao cây

Rộng

Chiều cao

ĐK gốc

Cành cấp

Cành cấp

Công

sống

(cm)

tán

PC (cm)

(cm)

1 (cành)

2 (cành)

thức

(%)

(cm)

TN

CT1(đ/c)

CT2

CT3

91,34a 90,18a 90,52a

126,62a 116,58a 121,42a

40,37a 42,62a 41,64a

2,91a 2,74a 2,83a

1,19a 1,32a 1,27a

20,74a 19,58a 19,72a

25,91a 25,82a 23,60a

CV%

14,4

12,1

12,7

12,0

14,8

11,5

18,7

3,05

15,20

6,20

0,31

0,30

2,30

2,98

LSD0,05

Ghi chú:

CT1 (đ/c): 1,5m x 0,4m, trồng 1 hàng đơn, 1,66 vạn cây/ha

CT2: 1,8m x 0,6m, trồng 2 hàng kép, 1,85 vạn cây/ha

CT3: 1,8m x 0,67m, trồng 2 hàng kép, 1,66 vạn cây/ha

Cũng như dòng CNS-1.41, các chỉ tiêu nghiên cứu trong thí nghiệm

khảo sát mật độ trồng chưa có sự sai khác giữa các công thức sau trồng một

năm. Về tỷ lệ sống đạt khá cao, từ 90,18% đến 91,34 %;

Chiều cao cây giữa các mật độ đạt 116,58 cm - 126,62 cm. Trong đó

CT1 (đ/c) đạt 126,62cm, CT2 (116,58cm), CT3 (121,42cm);

Chiều rộng tán của các mật độ trồng biến động từ 40,37cm đến

42,62cm, trong đó CT1(đ/c) đạt 40,37 cm, CT2 (42,62cm), MĐ3(41,64cm);

99

Chiều cao phân cành giữa các mật độ trồng biến động từ 2,74cm đến

2,91cm. Trong đó ở CT2 (2,74cm), CT3(2,83cm) có chiều cao phân cành

tương đương với CT1(đ/c) đạt 2,91cm;

Đường kính gốc giữa mật độ trồng từ 1,19 cm đến 1,32cm, trong đó

CT1(đ/c) đạt 1,19 cm, CT2 (1,32cm) và CT3 (1,27cm).

Cành cấp 1 đạt từ 19,58 cành đến 25,91 cành, trong đó CT1(đ/c) đạt

20,74 cành, CT2 (19,58 cành) và CT3 (19,72 cành). Cành cấp 2 giữa các mật

độ trồng đạt 23,60 cành đến 25,91 cành, CT1(đ/c) đạt 25,91 cành, CT2 (25,82

cành) và CT3 (23,60 cành). Cành cấp 1 và cành cấp 2 nhiều có nghĩa là có bộ

khung tán rộng, diện tích tán lớn là biểu hiện của giống chè có tiềm năng năng

suất cao.

Hình 3.8. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của CT3 tuổi 1

Như vậy, ở thí nghiệm khảo sát mật độ trồng, chè là cây trồng lâu năm,

năm đầu tiên, cây chè còn nhỏ chưa giao tán, nên chưa chịu tác động của yếu

tố mật độ. Tuy nhiên khi cây chè lớn hơn có thể giữa các cây chè sẽ tác động

100

lẫn nhau, để tìm hiểu ảnh hưởng này, chúng tôi đã đánh giá các chỉ tiêu sinh

trưởng trong năm cây chè 3 tuổi, kết quả thí nghiệm mật độ sau trồng 3 năm ở

bảng 3.20 dưới đây.

Bảng 3.20: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng phát triển hai

dòng chè CNS – 1.41, CNS – 8.31 tuổi 3

(Sau trồng 3 năm tuổi)

Công thức dòng/giống chè Cao cây (cm) Rộng tán (cm) ĐK gốc (cm)

MĐ2

CNS – 1.41

MĐ3

MĐ1 (đ/c) 81,5a 82,8a 83,9a

143,5b 178,5a 182,0a Cành cấp 1 (cành) 15,3a 16,6a 17,3a Cành cấp 2 (cành) 22,4a 23,3a 25,9a 4,9a 4,9a 5,1a

CV% LSD0,05 MĐ1 (đ/c)

MĐ2

MĐ3

5,4 2,6 75,8b 77,3b 81,9a 10,8 32,5 134,6b 161,4a 168,7a 13,9 4,7 10,7b 15,5a 16,7a 7,2 3,6 18,1b 21,8a 24,3a 7,6 0,75 4,3a 4,1a 4,6a CNS – 8.31

CV% 6,0 12,4 9,1 8,3 8,6

1,8 25,2 2,9 4,0 0,75 LSD0,05

Ghi chú:

CT1 (đ/c): 1,5m x 0,4m, trồng 1 hàng đơn, 1,66 vạn cây/ha

CT2: 1,8m x 0,6m, trồng 2 hàng kép, 1,85 vạn cây/ha

CT3: 1,8m x 0,67m, trồng 2 hàng kép, 1,66 vạn cây/ha

Dòng CNS – 1.41

Các chỉ tiêu sinh trưởng của cây chè ở năm thứ 3 tương tự như nhau ở

cả 3 mức mật độ khác nhau. Chiều cao cây đạt 81,5cm đến 83,9cm. Trong đó

CT1 (đ/c) đạt 81,5cm, CT2 đạt 82,8 cm, CT3 đạt 83,9cm.

101

Chiều rộng tán biến động từ 163,5cm đến 182,0cm, trong đó ở CT1

(đ/c) đạt 163,5 cm, CT2 và CT3 có chiều rộng tán tương đương nhau, đạt

178,5cm đến 182,0 cm.

Đường kính gốc giữa các mật độ đạt từ 4,9cm – 5,1 cm. Trong đó CT1

và CT2 đạt 4,9 cm, CT3 đạt 5,1cm.

Hình 3.9. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng MĐ3 tuổi 3

Cành cấp 1 giữa các mật độ đạt 15,3 cành đến 17,3 cành, CT2 đạt 16,6

cành, CT3 đạt 17,3cm có cành cấp 1 lớn hơn CT1 (đ/c) đạt 15,3 cành.

Cành cấp 2 đạt 24,9 cành đến 25,9 cành, CT2 đạt 23,3 cành, CT3 đạt

25,9 cành, CT1 (đ/c) có số cành cấp 2 thấp nhất đạt 4,9 cành.

Dòng CNS – 8.31

Chiều cao cây giữa các mật độ trồng đạt 75,8cm đến 81,9cm. Trong đó

CT3 có nhiều cao cây lớn nhất đạt 81,9 cm, tiếp đến CT2 đạt 77,3cm có chiều

cao cây tương đương MĐ1 (đ/c) đạt 75,8cm có sự sai khác về mặt thống kê.

Chiều rộng tán biến động từ 134,6cm đến 168,7cm, CT1 (đ/c) đạt 134,6

cm, CT2 và CT3 có chiều rộng tán tương đương nhau, đạt từ 161,4cm đến

168,7 cm.

102

Đường kính gốc ở các mật độ trồng đạt từ 4,3cm đến 4,6cm.

Số cành cấp 1 giữa các mật độ biến động từ 10,7 cành đến 16,7 cành,

CT2 đạt 15,5 cành, CT3 đạt 16,7 cành, hai công thức mật độ CT2 và CT3 có

số cành cấp 1 lớn hơn ở CT1 (đ/c) đạt 10,7.

Cành cấp 2 đạt 18,1 cành đến 24,3 cành, CT2, CT3 có số cành cấp 2

tương đương nhau đạt từ 21,8 cành đến 24,3 cành nhiều hơn CT1 (đ/c) đạt

18,1 cành.

Mật độ trồng có ảnh hưởng như thế nào đến các yếu tố cấu thành năng

suất và năng suất hai dòng chè mới, khảo sát số liệu thu thập ở bảng sau:

Bảng 3.21. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến các yếu tố cấu thành năng

suất và năng suất của hai dòng chè mới tuổi 3 ở Phú Hộ, 2018

Giống Mật Rộng Mật độ Khối Số lứa Năng NS

chè độ tán búp lượng hái suất lý thực

(búp/m2) (lứa/ trồng hữu búp thuyết thu

(g/búp) năm) (tấn/ha/ (tấn/ha/ hiệu

17 CNS-

năm) 13,75 b 18,53a năm) 9,53 b 13,68a 1.41 17

MĐ1 (đ/c) MĐ2

(m) 1,22 b 1,50 a 1,50 a 112,40 b 124,60 a 115,30 ab 1,08 a 1,05 a 1,05 a 17 17,15 a 12,64 a

MĐ3 CV%

5,93 4,08 1,63 5,92 8,43

LSD0,05

17 CNS-

1,94 13,33 b 15,46a 2,01 7,69 b 9,72a 8.31 17

MĐ1 (đ/c) MĐ2

0,16 1,20 b 1,32 a 1,30 a 9,53 95,66 b 102,5 a 98,86 ab 0,03 1,23 a 1,21 a 1,21 a 17 14,85 a 8,76 ab

MĐ3 CV%

3,25 3,27 1.75 5,11 10,20

LSD0,05 0,08 6,48 0,04 1,48 1,77

Ghi chú:

103

CT1 (đ/c): 1,5m x 0,4m, trồng 1 hàng đơn, 1,66 vạn cây/ha

CT2: 1,8m x 0,6m, trồng 2 hàng kép, 1,85 vạn cây/ha

CT3: 1,8m x 0,67m, trồng 2 hàng kép, 1,66 vạn cây/ha

Hình 3.10. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất 2 dòng chè

Trong kỹ thuật đốn chè, người ta thường đốn những cành trên mặt tán,

giữ lại cành bên là để giữ lại một số lá để cây chè có thể tự dưỡng trong thời

kỳ chưa phát triển bộ tán lá mới, mặt khác cũng để tăng hệ số lá của tán chè

làm cho cây chè khỏe hơn. Những đầu của cành bên ở rìa tán này thường

không ra búp hoặc có búp nhỏ, nhanh mù xòe, mà búp chủ yếu phát triển tập

trung ở phía trong, vùng có búp đó được gọi là mặt tán hữu hiệu, nghĩa là

chiều rộng tán mà ở đó có những búp chè cho thu hoạch. Đối với hai dòng chè

104

mới, năm thứ 3 đã giao tán hoàn toàn (dòng CNS-1.41) hoặc gần giao tán

(dòng CNS-8.31), thể hiện ở chiều rộng tán đạt từ 160 cm đến 180 cm (số liệu

ở các bảng 3.9; 3.12; 3.22). Tuy vậy, chiều rộng tán có búp (hữu hiệu) nhỏ

hơn, bảng số liệu 3.23 cho thấy, ở các mật độ trồng khác nhau có chiều rộng

tán hữu hiệu khác nhau. Theo đó, ở dòng CNS-1.41, hai công thức mật độ

trồng 1,66 vạn và 1,85 vạn cây/ ha nhưng trồng hàng kép thì chiều rộng tán

hữu hiệu cùng đạt 1,5m và lớn hơn công thức mật độ 1,66 vạn cây/ha nhưng

trồng hàng đơn;

Về mật độ búp, các mật độ trồng khác nhau thì khác nhau, ở mức tin

cậy 95% mật độ trồng 166 vạn và 1,85 vạn cây/ha nhưng trồng thành hàng

kép thì mật độ búp tương đương nhau, trong đó công thức trồng mật độ 1,85 cây/ha mật độ đạt 124,6 búp/m2 (mức a), trong khi trồng mật độ 1,66 vạn cây/ha, mật độ búp đạt 115,3 búp/ m2 (mức ab). Mật độ búp thấp nhất ở côn thức trồng mật độ 1,66 vạn cây/ha nhưng trồng hàng đơn là 112,4 búp/ m2

(mức b);

Khối lượng búp ở các mật độ trồng tương đương nhau, đạt 1,05 - 1,08

g/búp. Năm 2018, chè thí nghiệm hái san trật được 17 lứa;

Các yếu tố cấu thành năng suất khác nhau nên năng suất ở các công

thức mật độ và phương thức trồng khác nhau thì khác nhau, theo đó trồng với

mật độ 1,66 vạn và 1,85 vạn cây/ha, trồng hàng kép, cho năng suất lý thuyết

tương đương nhau đạt 18,53 tấn và 17,15 tấn búp tươi/ ha/năm; công thức mật

độ 1,66 vạn cây/ha trồng hàng đơn, năng suất thấp nhất, đạt 13,75 tấn/ha/năm.

Bên cạnh tính toán năng suất dựa trên các yếu tố cấu thành năng suất, búp chè

cũng được thu hái để đánh giá năng suất thực thu, kết quả trồng hàng kép

năng suất tương đương nhau, đạt 13,68 tấn và 12,64 tấn/ha/năm và cao hơn

trồng hàng đơn (đạt 9,53 tấn/ha/năm).

105

Đối với dòng chè CNS-8.31, kết quả thu được ở các công thức mật độ

và phương thức trồng tương tự như kết quả đạt được của dòng CNS-1.41.

Diện tích tán hữu hiệu ở hai công thức mật độ 1,66 vạn và 1,85 vạn cây/ha và

trồng hàng kép tương đương nhau, đạt từ 1,30 - 1,32 m, cao hơn trồng 1,66

vạn cây/ha nhưng trồng hàng đơn;

Về mật độ búp, hai công thức mật độ 1,66 vạn và 1,85 vạn cây/ha và

trồng hàng kép thì tương đương nhau, trong đó trồng 1,85 vạn cây/ha cao nhất (102,5 búp/m2, mức a), trồng 1,66 vạn cây/ha có mật độ búp 98,86 bụp/m2

(mức ab). Công thức trồng mật độ 1,66 vạn cây/ha hàng đơn, mật độ búp thấp nhất, đạt 95,66 búp/m2 (mức b);

Khối lượng búp 1 tôm 3 lá ở các mật độ và phương thức trồng khác

nhau trong thí nghiệm tương đương nhau, từ 1,21 - 1,23g/ búp;

Năng suất lý thuyết của dòng CNS-8.31 ở tuổi 3 ở các mật độ và

phương thức trồng khác nhau thì khác nhau. Theo đó, hai công thức trồng mật

độ 1,66 và 1,85 vạn cây/ha, trồng hàng kép cho năng suất tương nhau 15,46

và 14,85 tấn/ha/năm, trong khi trồng mật độ 1,66 vạn cây/ha, hàng đơn năng

suất thấp nhất, đạt 13,33 tấn/ha. Năng suất thực thu của dòng CNS-8.31 tuổi 3

ở công thức mật độ trồng 1,85 vạn cây/ha, trồng hàng kép cao nhất, đạt 9,72

tấn/ha/năm; công thức 1,66 vạn cây/ha, trồng hàng kép đạt 8,76 tấn búp/ha/

năm; trồng 1,66 vạn cây/ha, hàng đơn cho năng suất thấp nhất (7,69 tấn/ha).

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của một số tác

giả cho rằng các yếu tố cấu thành năng suất như khối lượng búp, số lượng búp

trên cây hoặc trên một đơn vị diện tích đóng vai trò quan trọng đối với năng

suất của cây chè; trồng chè với mật độ dầy sớm cho thu hoạch, đạt năng suất

cao ngay ở giai đoạn đầu của thời kỳ kinh doanh. Tanton, 1981a (dẫn theo

Willson K.C. & M.N. Clifford, 1992) cho biết kích thước của búp chè chiếm

11% năng suất còn số lượng búp chiếm 89% năng suất chè, mật độ quần thể

106

búp trên mặt tán chè dầy cùng với búp chè đồng đều cho năng suất cao [119].

Trồng chè với mật độ dầy hơn (1,85 vạn cây/ha so với 1,66 vạn cây/ha) đồng

nghĩa với tăng số lượng búp/ cây (và trên một đơn vị diện tích) do vậy năng

suất chè cao hơn. Tuy nhiên điều này chỉ đúng khi vườn chè chưa giao tán,

khi cây chè giao tán, thành thục, sản lượng sẽ cao nhất và ổn định. Để đạt

năng suất cao nhất và ổn định, tùy thuộc giống chè và điều kiện chăm sóc, đối

với các giống chè trồng bằng cành hiện nay mất khoảng từ 8 đến trên 10 năm.

Giai đoạn chưa giao tán kéo dài sẽ gặp nhiều bất lợi do sự phát triển của cỏ

dại, xói mòn đất … [119]. Do vậy, với mật độ trồng của thí nghiệm, vườn chè

sớm khép tán, cho năng suất cao, giảm công làm cỏ, hạn chế xói mòn, rửa trôi

đất.

Đối với phương thức trồng hàng đơn và hàng kép (hàng đơn: trồng 1

hàng, các hàng cách nhau 1,5m; hàng kép: trồng 2 hàng liền nhau 0,4m, giữa

các hàng lớn cách nhau 1,8m): mặc dù có cùng số lượng cây trên một đơn vị

diện tích nhưng ở hàng đơn hai bên tán cây, các cành được giữ lại để nuôi cây

và mục đích nhanh khép tán, mà các cành bên không được đốn tỉa sẽ ức chế

các mầm nách (Willson K.C. & M.N. Clifford, 1992) [119], do vậy bề mặt

tán hữu hiệu luôn nhỏ hơn tán thực tế. Trong khi đó, trồng hàng kép, chỉ phía

ngoài của một hàng để phát triển cho mục đích khép tán, mặt phía trong các

cành được đốn hái thường xuyên nên các mầm ngủ được kích thích phát triển

và kết quả là mật độ búp nhiều hơn, năng suất cao hơn và nương chè nhanh

khép tán hơn.

Hiện nay, trong quá trình canh tác, người trồng chè thường đốn đi phần

rìa tán, mục đích để loại bỏ sự ức chế phát triển búp ở rìa tán, tạo cho búp

phát triển đồng đều trên mặt hái và thuận tiện chi đi lại chăm sóc. Phương

thức trồng hàng kép lợi dụng được ưu thế sinh trưởng của chồi từ những cành

107

khỏe của cây chè, phương thức trồng này phổ biến ở một số nước trong đó có

Nhật Bản [121].

Hình 3.11 . Thí nghiệm mật độ trồng

108

3.2.2. Nghiên cứu kỹ thuật đốn tạo hình hai dòng chè CNS-1.41, CNS-

8.31 giai đoạn KTCB

Đốn tạo hình cho chè con là một biện pháp kỹ thuật quan trọng, đó là cắt

đi thân chính và các cành bên để làm mất đi ưu thế sinh trưởng đỉnh và kích

thích các mầm ngủ phát triển (Willson & Clifford, 1992), giúp cây chè sớm

có bộ khung tán lớn nhất để đạt năng suất cao và tăng cường sức khỏe cho cây

chè. Một năm sau trồng, tất cả các cây chè con của hai dòng chè mới đều đạt

độ cao trên 1m và đường kính gốc trên 1 cm đủ tiêu chuẩn đốn tạo hình lần

đầu. Kết quả được trình bày ở bảng 3.22.

Bảng 3.22. Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng của dòng chè

CNS-1.41, CNS – 8.31 tuổi 2 tại Phú Thọ

Cao Rộng ĐK Mật độ Khối Năng

Công thức cây gốc tán lượng suất

(cm) (cm)

Đ1

Đ2 CNS – Đ3 (đ/c) búp (búp/m2) (cm) 68,2a 135,5 a 3,25a 129,60a 68,7a 127,0a 3,07a 119,12a 75,6a 120,3b 2,48b 118,05a búp (g) 1,20a 1,28a 1,17a (tấn/ha) 9,82a 9,24a 8,14b 1.41 CV% 9,40 6,91 8,52 11,6 4,7 6,96

15,3 LSD0,05

Đ1

Đ2 CNS – Đ3 (đ/c) 14,40 13,15 0,49 62,2a 116,3a 3,52a 121,09a 71,2a 110,0a 2,95a 109,57b 97,81c 73,4a 103,6a 2,14b 0,3 1,27b 1,32a 1,33a 0,90 7,64a 6,82b 5,42c 8.31 CV% 10,4 8,4 0,78 9,4 6,4 9,3

16,02 17,40 0,92 11,2 0,2 1,32 LSD0,05

Ghi chú: Đ1 – Đốn thân chính 15 cm x cành bên 35 cm Đ2 – Đốn thân chính 20 cm x cành bên 35 cm Đ3 (đ/c) – Đốn thân chính 25 cm x cành bên 35 cm

109

Hình 3.12 . Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng dòng

CNS – 1.41 tuổi 2

Kết quả ở bảng 3.22 và minh họa bằng biểu đồ hình 3.12 đối với dòng

chè CNS-1.41, một năm sau lần đốn đầu tiên cho thấy các chỉ tiêu sinh trưởng

có sự thay đổi. Giữa các công thức đốn, chỉ tiêu chiều cao cây không có sự sai

khác, chiều cao đến mặt tán từ 68,2 cm đến 75,6 cm.

Chiều rộng tán giữa các công thức có sai khác, các ông thức đốn thân

chính 15cm và 20cm, tán rộng 135,5 cm và 127 cm, rộng hơn công thức đối

chứng đốn thân chính cao 20 cm, chiều rộng tán đạt 120,3cm.

Đường kính gốc của các công thức đốn đạt từ 2,48 – 3,25 cm, trong đó

ở Đ1và Đ2 có đường kính gốc tương đương nhau đạt 3,07cm đến 3,25cm,

thấp nhất là Đ3 (đ/c) đạt 2,48 cm.

Mật độ búp/m2 của các công thức đốn tương đương nhau từ (118,05 – 129,60 búp/m2). Trong đó ở Đ1 có mật độ búp đạt (129,60 búp/m2), tiếp đến

110

là Đ2 (119,12 búp/m2) có mật độ búp tương đương Đ3 (đ/c) đạt (118,05 búp/m2).

Về khối lượng búp của các công thức đạt (1,17 đến 1,28g), ở Đ1 và Đ2

có khối lượng búp đạt trên 1,2g tương đương Đ3 (đ/c) khối lượng búp chỉ đạt

1,17g/búp.

Năng suất giữa các công thức biến động từ 8,14 tấn/ha đến 9,82 tấn/ha,

trong đó Đ1 có năng suất đạt 9,82 tấn/ha, Đ2 (9,24 tấn/ha) có năng suất cao

hơn Đ3 đối chứng đạt (8,14 tấn/ha) có sự sai khác.

Hình 3.13. Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng dòng

CNS – 8.31 tuổi 2

Đối với dòng chè CNS-8.31, các chỉ tiêu sinh trưởng cũng có sự biến

đổi như được thể hiện ở bảng số liệu 3.24 và biểu đồ hình 3.13. Theo đó,

chiều cao cây giữa các công thức đốn không có sự sai khác, đạt 62,2 cm đến

73,4 cm, Đ3 (đ/c) đạt 73,4 cm có chiều cao cây tương đương với Đ2 đạt 71,2

cm và Đ1 đạt 62,2cm.

111

Chiều rộng tán giữa các công thức đốn đạt từ 103,6 cm đến 116,3 cm,

Đ1 đạt 116,3 cm và Đ2 đạt 110,0cm có chiều rộng tán tương đương Đ3 (đ/c)

đạt 103,6cm không có sự sai khác.

Đường kính gốc của các công thức đốn đạt từ 2,14 cm đến 3,52 cm,

trong đó ở Đ1và Đ2 có đường kính gốc tương đương nhau đạt 2,95 cm đến

3,52cm, có đường kính gốc cao hơn Đ3 (đ/c) đạt 2,14 cm.

Mật độ búp/m2 của các công thức đốn có sự sai khác biến động từ (97,81 búp/m2 đến 121,09 búp/m2). Trong đó ở Đ1 có mật độ búp cao nhất đạt (121,09 búp/m2), tiếp đến là Đ2 (109,57 búp/m2) mật độ búp ít nhất là Đ3 (đ/c) đạt (97,81 búp/m2).

Về khối lượng búp của các công thức đốn đạt (1,27 đến 1,33g), ở Đ2 và

Đ3 (đ/c) có khối lượng búp đạt 1,32g đến 1,33g có khối lượng búp cao hơn

Đ1 1,27g/búp.

Năng suất giữa các công thức đốn khác nhau thì khác nhau, biến động

từ 5,42 tấn/ha đến 7,64 tấn/ha, trong đó công thức đốn thân chính 15 cm có

năng suất cao nhất đạt 7,64 tấn/ha, tiếp đến công thức Đ2 đốn thân chính cao

20 cm (6,82 tấn/ha), công thức đối chứng Đ3 đốn thân chính cao 25 cm có

năng suất thấp nhất đạt (5,42 tấn/ha).

Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với kết luận của L.V. Đức, Đ.T.

Trâm, N.V. Tạo (2004) khi đốn chè kiến thiết cơ bản giống LDP1 và LDP2

[7]. Có kết quả như vậy, theo chúng tôi là do đốn thân chính thấp đã kích

thích những mầm bất định ở dưới thấp phát triển mạnh hơn và nhiều hơn, do

vậy tán rộng hơn dẫn đến nhiều búp hơn và năng suất cao hơn.

112

Hình 3.14. Chè 1 năm tuổi đủ tiêu chuẩn đốn

A - Cây chè con 1 năm tuổi, có đường kính gốc ≥ 1cm đủ tiêu chuẩn

đốn tạo hình lần thứ nhất;

B - Đốn thân chính ở độ cao 15-20 cm so mặt đất, cành bên cắt ở độ

cao 25 cm so mặt đất.

113

Hình 3.15. Cây chè phát triển cành, tạo tán mới sau đốn

3.2.3. Nghiên cứu kỹ thuật hái đối với hai dòng chè CNS-1.41, CNS-8.31

Sản phẩm thương mại của cây chè sản xuất từ những búp non được thu

hái ở các khoảng thời gian khác nhau. Hái chè là hái đi phần đỉnh non, phá vỡ

ức chế sinh trưởng, tạo thuận lợi cho các mầm nách phát triển thành nhiều

búp mới và tăng năng suất. Tuy nhiên, mức độ non, già của búp thu hoạch có

114

ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng chè. Xác định được kỹ thuật hái đối với

hai dòng chè mới đã được thí nghiệm, kết quả ở bảng 3.23.

Bảng 3.23: Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS - 1.41,

CNS – 8.31 tuổi 3 tại Phú Thọ

Năng suất Cao cây Rộng tán KL búp Dòng Công thực thu (cm) (cm) (g/búp) Mật độ búp (búp/m2) thức

H1

H2

74,58 a 180,00a 75,72a 176,44a 78,46a 178,37a CNS – 1.41 H3 (đ/c) (tấn/ha) 12,30 a 10,80 b 10,26b 1,05a 1,14a 0,94b 127,13a 119,48a 123,35a

CV% 10,28 11,81 4,6 5,4 13,9

LSD0,05

H1

H2

1,28 9,25a 8,28 b 7,92b 0,16 1,15a 1,14a 1,04b 14,8 101,30a 102,50a 104,79a 7,70 68,74a 69,10a H3 (đ/c) 70,47a 9,30 153,5 a 147,7 a 151,6 a CNS – 8.31

6,12 3,8 7,2 CV% 8,60 6,72

0,90 0,1 17,0 5,0 8,60 LSD0,05

Ghi chú:

H1 – Hái cách vết đốn 10 cm

H2 – Hái cách vết đốn 20 cm

H3 (đ/c) – Hái theo quy trình san trật

Dòng CNS – 1.41:

Dẫn liệu ở bảng 3.23 cho thấy chiều cao cây của dòng CNS-1.41 ở các

công thức thí nghiệm hái khác nhau không có sự sai khác, chiều cao đến mặt

tán dao động từ 74,58 đến 78,46cm. Trong đó công thức hái cách vết đốn

115

10cm (H1) cao 74,58 cm; hái cách vết đốn 20 cm (H2) cao 75,7cm; hái san

trật (H3) có chiều cao cây 78,46cm.

Hình 3.16. Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS – 1.41

Chiều rộng tán ở các công thức hái cũng tương đương nhau, dao động

từ 176,44cm - 180cm.

Mật độ búp ở các công thức hái không khác nhau ở mức tin cậy 95%,

dao động từ 119,48 búp/m2 đến 127, 13 búp/m2.

Khối lượng búp của các công thức hái khác nhau có sự khác nhau. Hai

công thức hái chừa lại 10 cm và 20cm có khối lượng búp tương đương nhau

(1,05 và 1,14g/ búp) và lớn hơn khối lượng búp ở công thức hái san trật (0,94

g/búp).

116

Năng suất thực thu của các công thức thí nghiệm hái có sự khác nhau.

Năng suất biến động từ 10,26 tấn/ha đến 12,30 tấn búp tươi/ha, trong đó công

thức hái ở độ cao trên 10cm (H1), năng suất cao nhất đạt 12,30 tấn búp

tươi/ha.

Dòng CNS – 8.31:

Hình 3.17. Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS – 8.31

Tương tự như dòng CNS-1.41, các chỉ tiêu sinh trưởng giữa các công

thức hái của dòng CNS-8.31 ít biến động. Các chỉ tiêu như chiều cao cây,

chiều rộng tán, mật độ búp giữa các công thức tương tự nhau, không sai khác

ở mức tin cậy 95%. Khối lượng búp công thức hái trên vết đốn 10 cm và 20

cm tương đương nhau (1,14 và 1,15 g/búp) và lớn hơn khối lượng búp khi hái

san trật (công thức H3: 1,04 g/búp).

Năng suất thực thu của các công thức hái thí nghiệm hái khác nhau, dao

động từ 7,92 tấn/ha đến 9,25 tấn búp tươi/ha, trong đó công thức hái trên vết

117

đốn 10 cm (H1) có năng suất đạt 9,25 tấn búp tươi/ha, cao hơn hai công thức

hái trên vết đốn 20 cm và hái san trật.

Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Seyd B.S. et al

(2014) khi khảo sát chiều cao hái búp bằng máy đã cho rằng hái ở độ cao thấp

sẽ cho năng suất búp cao hơn [106].

3.2.4. Nghiên cứu liều lượng phân bón N, P, K cho hai dòng chè CNS –

1.41 và CNS – 8.31

Phân bón có vai trò quan trọng trong đời sống cây chè, nó cung cấp các

yếu tố cấu tạo và phát triển búp lá chè cho thu hoạch. Cây chè con đòi hỏi

phát triển nhanh rễ, thân, cành lá. Rễ sớm phát triển để xuống tận sâu hút

được nước, chống được hạn, cành lá phát triển để tạo khung tán. Bón phân là

một phần quan trọng trong sản xuất thâm canh cây chè. Áp dụng phân bón tối

ưu kết hợp với các biện pháp trồng trọt hợp lý sẽ cho năng suất chè cao. Cây

chè thường được trồng độc canh trong một giai đoạn dài, việc bón thêm phân

bón không đủ, nguồn dinh dưỡng sẵn có trong đất sẽ nhanh chóng bị cạn kiệt

do việc thu hái chè thường xuyên đã lấy đi một lượng lớn dinh dưỡng trong

đất, dẫn đến thiếu hụt khoáng chất trong cây chè làm cho năng suất thấp và hệ

sinh thái đất bị suy thoái. Do vậy, bón phân khoáng cho cây chè hợp lý vừa là

bổ sung đầy đủ dinh dưỡng đảm bảo cho cây chè sinh trưởng tốt, cho năng

suất cao vừa có ý nghĩa bảo vệ sức khỏe cho đất trồng chè. Nhằm tìm hiểu

lượng phân khoáng hợp lý cần bón đáp ứng yêu cầu dinh dưỡng đối với các

nguyên tố chính N, P, K của hai dòng chè mới, chúng tôi khảo sát liều lượng

phân bón N, P, K với 4 mức bón tiên tiến khác nhau trên cơ sở quy trình tiêu

chuẩn 10TCN 446:2001 [28]. Kết quả được trình bày ở bảng 3.24.

118

Bảng 3.24: Ảnh hưởng của lượng phân bón đến sinh trưởng và năng suất

cho dòng chè CNS-1.41 tuổi 3 tại Phú Thọ, 2018

KL búp 1 Số lứa Dòng Rộng tán Năng suất Công thức tôm 3 lá hái chè Mật độ búp (búp/m2) (tấn/ha) (cm) (lứa)

17 BP1(đ/c)

- BP2

- 171,8a 176,2a 178,4a BP3 CNS –

1.41 116,34b 125,30a 125,15a 126,02a - (g/búp) 1,09a 1,13a 1,18a 1,21a 9,68c 11,34b 12,76b 14,64a 180,0 BP4

6,2 10,2 6,0 8,3 CV (%)

LSD 0,05

17 BP1(đ/c)

17 BP2

17 BP3 CNS –

8.31 7,4 106,15c 109,31bc 114,72ab 120,0a 17 0,2 0,98a 1,18a 1,19a 1,24a 1,4 7,32c 7,86c 9,66b 11,86a 29,3 146,7a 147,5a 159,2a 163,4a BP4

8,1 10,7 7,5 7,2 CV (%)

6,9 0,2 1,4 22,1 LSD 0,05

Ghi chú:

BP1. Bón N:P:K (80 kg N + 40 kg P2O5 + 60 kg K2O /ha) (Đ/c); BP2. Bón N:P:K (88 kg N + 44 kg P2O5 + 66 kg K2O /ha), tăng 10%; BP3. Bón N:P:K (96 kg N + 48 kg P2O5 + 72 kg K2O /ha), tăng 20%; BP4. Bón N:P:K (112 kg N + 56 kg P2O5 + 84 kg K2O /ha), tăng 40%.

Số liệu tại bảng 3.24 cho thấy, đối với dòng chè CNS – 1.41 có các chỉ

tiêu chiều rộng tán và khối lượng búp tương tự nhau trong phạm vi các liều

lượng phân bón khảo sát. Theo đó, chè tuổi 3 có chiều rộng tán dao động từ

171,8 – 180,0 cm; khối lượng búp 1 tôm 3 lá dao động từ 1,09 - 1,21 g/búp.

119

Mật độ búp ở các liều lượng phân bón có sự khác nhau. Các công thức

bón tăng liều lượng phân bón N, P, K tăng từ 10, 20, 40% có mật độ búp tương đương nhau ở mức tin cậy 95%, đạt từ 125,15 - 126,02 búp/m2. Mật độ

búp ở các công thức này cao hơn ở công thức đối chứng (bón theo quy trình), đạt 116,34 búp/m2.

Lượng phân bón khác nhau đã làm cho năng suất thực thu đạt được của

dòng chè CNS-1.41 khác nhau. Công thức bón tăng lượng phân N, P, K lên

40%, năng suất cao nhất đạt 14,64 tấn búp tươi/ha/năm (tăng 51,23% so đối

chứng); các công thức bón tăng 10%, 20%, năng suất dòng chè CNS-1.41

tương đương nhau, đạt 11,34 và 12,76 tấn búp tươi/ ha/ năm; công thức bón

phân theo quy trình (N:P:K = 80:40:60 kg), năng suất thấp nhất, đạt 9,68

tấn/ha.

Đối với dòng chè CNS-8.31, thí nghiệm về liều lượng bón phân khoáng

đa lượng đạt được kết quả tương tự như đối với dòng CNS-1.41. Điều đó có

nghĩa là các chỉ tiêu chiều rộng tán và khối lượng búp ở các liều lượng phân

bón khác nhau thì tương đương nhau. Theo đó, chiều rộng tán đạt từ 146,7 - 163,4 búp/m2; khối lượng búp đạt từ 0,98 - 1,24 g/búp.

Mật độ búp là chỉ tiêu cấu thành năng suất quan trọng có sự khác nhau

ở các liều lượng N, P, K khác nhau. Công thức liều lượng bón tăng 20% và

40% có mật độ búp tương đương nhau và là cao nhất, đạt 114,72 búp/m2 (mức ab) và 120 búp/m2 (mức a); tiếp theo là công thức bón tăng 10%, mật độ

búp đạt 109,31 búp/m2 (mức bc); công thức bón theo quy trình, mật độ búp

thấp nhất, đạt 106,15 búp/m2 (mức c).

Năng suất thực thu ở các công thức thí nghiệm liều lượng phân bón N,

P, K có sự khác nhau ở mức tin cậy 95%. Theo đó, năng suất cao nhất ở công

thức bón tăng 40%, đạt 11,86 tấn/ha/năm (tăng 50,89% so đối chứng); tiếp

theo công thức bón tăng 20%, năng suất đạt 9,66 tấn/ha/năm; công thức bón

120

tăng 10% và công thức đối chứng có năng suất tương đương nhau, đạt lần

lượt là 7,86 tấn/ha/năm và 7,32 tấn/ha/năm.

Hình 3.18. Ảnh hưởng liều lượng phân bón đến năng suất hai dòng chè

CNS – 1.41, CNS – 8.31 tuổi 3 tại Phú Hộ

Như vậy, trong phạm vi các liều lượng phân bón khảo sát, ở cả hai

dòng chè thấy các chỉ tiêu chiều rộng tán và khối lượng búp tương tự nhau,

tuy nhiên mật độ búp và năng suất búp tươi thu được thì khác nhau. Bón tăng

lượng N, P, K làm năng suất chè tăng. Phản ứng với liều lượng bón phân của

hai dòng chè không giống nhau: với dòng CNS-1.41 khi tăng lượng bón lên

10%, năng suất tăng rõ rệt, như từ 9,68 tấn/ha/năm (mức c) ở công thức đối

chứng lên 11,34 tấn/ha/năm (mức b) ở công thức tăng mức bón 10%. Với

dòng CNS-8.31 khi tăng lượng phân bón lên 10%, năng suất sai khác không

có ý nghĩa (ở mức xác suất 0,05) so với đối chứng, khi tăng lượng bón lên

20% thì năng suất tăng lên rõ rệt. Ở cả hai dòng chè, năng suất cao nhất ở

lượng bón N, P, K tăng 40% (dòng CNS-141 đạt 14,64 tấn/ha, dòng CNS-831

đạt 11,86 tấn/ha). Khi tăng liều lượng phân bón N, P, K lên 40% so với đối

chứng mà năng suất chè vẫn tiếp tục tăng, chúng tôi cho rằng đó là do hai

121

dòng chè CNS-1.41 và CNS-831 sinh trưởng mạnh, năng suất cao nên có nhu

cầu về dinh dưỡng cao.

Kết quả này cũng phù hợp với nhận xét của Jie Li và Agron (2005) khi

nghiên cứu về liều lượng phân bón cho giống chè vô tính Long Tỉnh 43 ở

Trung Quốc thấy tăng lượng N với các bước 0, 150, 300, 600, 900, 1600 kg

N/ha, năng suất năm thứ 2 sau bón tăng tương ứng 5,5%, 10,4%, 10,3%,

19,8% và 22,3%. Tuy nhiên, tăng N lên cao sẽ không hiệu quả do chi phí cao

và lượng N dư thừa sẽ làm ô nhiễm đất [77].

Ở điều kiện bình thường, cây chè lấy tất cả dinh dưỡng cần thiết từ đất

để sinh trưởng phát triển, thu hái búp chè là đã lấy đi dinh dưỡng có từ đất

hoặc bón thêm trong quá trình canh tác. Willson & Clifford, 1992 [119] cho

biết các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, để sản xuất 1 tấn chè khô (tương đương 4 -

5 tấn chè búp tươi) là đã lấy đi 91 kg N; 20,1 kg P2O5 và 47,7 kg K2O. Như

vậy, nếu năng suất đạt 8-10 tấn/ha sẽ lấy đi 182 kg N; 40,2 kg P2O5 và 55,4

kg K2O. Trên cơ sở đó, các tác giả khuyến cáo khi bón phân khoáng, cần bón

lượng nhiều hơn lượng mất đi vì khi bón vào đất sẽ có một lượng bị thất thoát

do tranh chấp của cỏ dại, bị bay hơi hoặc bị rửa trôi sau khi bón.

Đối với hai dòng chè nghiên cứu, năng suất trong thí nghiệm bón phân

đạt từ 9,68 - 14,64 tấn/ha (dòng CNS-1.41) và 7,32 - 11,86 tấn/ha (dòng

CNS-8.31), áp dụng mức bón mà thí nghiệm đặt ra chưa đủ bù đắp lượng dinh

dưỡng đã lấy đi. Để đạt được năng suất như kết quả của thí nghiệm, cây chè

phải sử dụng cả nguồn dinh dưỡng sẵn có trong đất. Đây có thể là lý do mà

tăng lượng phân khoáng lên 40%, năng suất hai dòng chè mới còn tiếp tục

tăng.

Việc áp dụng lượng phân khoáng N, P, K cao hơn quy trình sẽ làm

tăng chi phí vật tư và công lao động, để làm rõ áp dụng kết quả thí nghiệm có

122

hiệu quả kinh tế như thế nào, chúng tôi đã tính các chi phí cần thiết để sản

xuất búp chè, được kết quả ở bảng sau.

Bảng 3.25. Hiệu quả kinh tế của thí nghiệm bón phân đối với các dòng

chè CNS-141 và CNS-831 tuổi 3 tại Phú Hộ, 2018

(Tính cho 01 ha) Đơn vị tính: 1.000 đồng

Dòng chè CNS-1.41 Dòng chè CNS-8.31

BP4 BP1 BP4 BP1 TT Hạng mục (bón tăng (đối (bón tăng (đối

40%) chứng) 40%) chứng)

A Tổng chi (A) =I+II 57.886 41.763 49.761 34.160

I Công lao động 48.838 34.253 40.753 26.690

1 Bón phân 3.019 2.160 3.019 .160

2 Phun thuốc BVTV 3.240 3.240 3.240 3.240

3 Thu hoạch búp 42.579 28.853 34.494 21.290

II Vật tư 9.008 7.470 9.008 7.470

1 Thuốc BVTV 3.640 3.640 3.640 3.640

2 Phân bón 5.408 3.870 5.408 3.870

- Đạm 2.440 1.750 2.440 1.750

- Lân 1.120 800 1.120 800

- Kali 1.848 1.320 1.848 1.320

B Tổng thu (B) 146.400 96.800 118.600 73.200

1 Sản lượng chè tươi (kg) 14.640 9.680 11.860 7.320

C Lợi nhuận (B-A) 88.514 55.037 68.839 39.040

Lợi nhuận tăng (%) 160,78 100 176,32 100

Ghi chú: chè búp tươi giá 10.000đ/kg

123

Số liệu trong bảng so sánh chi phí vật tư và lao động của 2 công thức

thí nghiệm: i) công thức BP1 áp dụng lượng phân bón cho chè 3 tuổi theo

10CTN 446:2001 [28] và ii) công thức BP4 áp dụng lượng phân khoáng tăng

40%. Đối với dòng CNS-1.41, tổng chi phí cho một ha chè 3 tuổi là

57.866.000đ ở công thức BP4, cao hơn tổng chi phí ở công thức BP1

41.763.000đ. Những chi phí này bao gồm phân bón, thuốc trừ sâu, công chăm

sóc và thu hoạch. Tổng thu do bán búp chè ở công thức BP4 đạt 146.400.000đ

so với 96.800.000đ ở công thức BP1; lợi nhuận ở BP4 đạt 88.514.000đ, cao

hơn đối chứng BP1 60,78% (lợi nhuận ở BP1 đạt 55.037.000đ).

Đối với dòng CNS-8.31, tổng chi phí ở BP4 là 49.761.000 đ/ha, ở BP1

là 34.160.000 đ; tổng thu từ búp chè ở BP4 là 118.600.000đ/ha, ở BP1 là

73.200.000 đ/ha; lợi nhuận của BP4 đạt 68.839.000 đ/ha, của BP1 đạt

39.040.000 đ/ha; lợi nhuận ở BP4 cao hơn BP1 76,32%.

Như vậy, đầu tư phân bón cao hơn 40% làm cho chi phí vật tư và lao

động tăng, tuy nhiên đầu tư phân bón làm cho năng suất chè tăng và hiệu quả

kinh tế cao hơn.

3.2.5. Nghiên cứu nhân giống vô tính hai dòng chè CNS- 1.41, CNS – 8.31.

3.2.5.1. Nuôi hom ở vườn cây mẹ và sản lượng hom các dòng chè nghiên cứu.

Đối với cây chè, nhân giống vô tính bằng giâm cành có vai trò quan

trọng trong sản xuất. Một giống chè có hệ số nhân giống cao, khả năng nhân

giống vô tính tốt sẽ đảm bảo sự thành công khi phát triển mở rộng trong sản

xuất. Để có nhiều hom giống, cần nuôi hom trên vườn cây mẹ, trước khi cắt

hom 10 ngày tiến hành bấm ngọn nhằm kích thích cho mầm nách sẵn sàng

hoạt động và để các hom có độ chín sinh lý đồng đều. Đối với nuôi hom chè ở

vùng trung du Bắc bộ thường chọn lứa búp chính trong tháng 8, nuôi hom đến

tháng 12 sẽ thu hoạch. Khi những cành chè chính có 5 – 8 lá thật, tiến hành

hái tỉa những búp sinh trưởng yếu, ở mép tán, cành tăm hương, để lại nuôi

124

hom những cành chè sinh trưởng khỏe, phân bố đều trên mặt tán. Khi cành

chè giống đạt 90 - 100 ngày sẽ tiến hành thu hoạch để lấy hom.

Bảng 3.26. Sản lượng hom giống các dòng chè CNS-141 và CNS-831

tuổi 3 tại Phú Hộ

Tỷ lệ các loại hom (%)

Giống chè

CNS-1.41

CNS-8.31

Số cành hom/ cây 28,26 a 26,17 b 25,76 b Số hom/ cành 7,80a 6,72b 6,50b Sản lượng hom (triệu/ha) 3,66a 2,92b 2,78b Loại A 67,8a 66,5b 63,4c Loại B 32,2b 33,5b 36,6a LDP1(đ/c)

CV (%) 3,44 9,70 7,70 8,40 10,70

1,84 0,80 0,50 0,70 2,10 LSD0.05

Kết quả bảng 3.26 cho thấy: Sau khi tỉa giữ lại những cành đủ tiêu

chuẩn làm hom giống, số cành mang hom giống ở các giống chè nghiên cứu

có sự khác nhau. Dòng chè CNS-1.41 có 28,6 cành mang hom trên một cây là

nhiều nhất; dòng CNS-8.31 và giống LDP1 có số cành mang hom tương

đương nhau, đạt 26,17 và 25,76 cành/ cây.

Về số lượng hom trên một cành, phản ánh năng suất hom của giống

chè, cành chè để giống có nhiều hom thì năng suất hom cao. Dòng CNS –

1.41 đạt 7,8 hom/cành, nhiều hơn dòng CNS – 8.31 và giống LDP1 (đạt 7,72

và 6,5 hom/cành). Sản lượng hom cao nhất là dòng CNS – 1.41 đạt 3,66 triệu

hom/ha; dòng CNS – 8.31 và giống đối chứng LDP1 có sản lượng hom tương

đương nhau (đạt 2,92 và 2,78 triệu hom/ha).

125

A

B

Hình 3.19. Hom chè giống

A. Vườn nuôi hom B. Hom của các dòng/ giống chè

Cành giống tốt là những cành chè có lá thật đồng đều, màu xanh, độ dài

lóng đạt mức độ trung bình, đường kính thân mập, mầm nách phát triển không

126

dài quá 3 cm, tốt nhất mầm nách chỉ hình thành ở nách lá thứ 1 – 3 với độ dài

mầm ≤ 1 cm. Kết quả được trình bày tại bảng 3.27.

Bảng 3.27. Sinh trưởng của cành chè giống của 2 dòng chè CNS – 1.41 và

CNS – 8.31 tuổi 3 tại Phú Hộ

Chỉ tiêu

Số lá thật (lá/cành)

Công thức Chiều dài cành (cm) Đường kính thân (mm)

4,46a CNS-1.41

4,23a CNS-8.31

17,0a 15,0b 12,0c 81,0a 78,0a 66,0b 3,65b Mức độ hoá nâu thân cành chè (cm) 17,4b 15,8b 22,5a Số mầm nách (mầm) 6,43b 5,27c 9,52a LDP1(đ/c)

CV (%) 4,25 5,6 7,9 6.3 6,85

1,4 4,4 0,7 2.6 1,09 LSD0.05

Kết quả bảng 3.27 cho thấy: Cành chè khi thu hoạch ở dòng CNS –

1.41, dòng CNS – 8.31 có số lá trên cành lớn nhất đạt từ 15 – 17 lá/cành, cao

hơn giống đối chứng LDP1 với 12 lá/cành. Chiều dài cành lớn nhất là dòng

CNS- 1.41, CNS – 8.31 đạt từ 78 – 81 cm cao hơn giống đối chứng LDP1

(66cm). Đường kính cành không có sự sai khác giữa các giống. Mức độ hoá

nâu của hai dòng CNS – 1.41, CNS – 8.31 từ 15,8 – 17,4 cm thấp hơn giống

đối chứng (22,5%). Tỷ lệ hoá nâu của cành chè hai dòng CNS – 1.41, CNS-

8.31 từ 20,2 – 21,5%, tỷ lệ hoá nâu thấp hơn giống đối chứng LDP1 đạt

34,1%.

3.2.5.2. Ảnh hưởng loại hom đến khả năng sinh trưởng 2 dòng chè

Để có một cây giống tốt, ngoài các tiêu chuẩn về đặc điểm hình thái,

khả năng sinh trưởng, phát triển, khả năng cho năng suất, chất lượng thì dòng

chè đó phải có khả năng nhân giống vô tính bằng giâm cành.

127

Kết quả nghiên cứu đặc điểm nông sinh học đã xác định được khả năng

sinh trưởng, phát triển và khả năng cho năng suất, chất lượng của dòng chè

triển vọng phục vụ cho chế biến chè xanh, chè đen chất lượng cao. Để mở

rộng diện tích cần một khối lượng lớn cây giống bằng giâm hom. Vì vậy

chúng tôi tiến hành nghiên cứu xác định khả năng giâm cành của các loại hom

giâm trên hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31.

- Ảnh hưởng tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ nảy mầm của các loại hom giâm của hai dòng

chè.

Tỷ lệ ra rễ, nảy mầm của hom chè có ý nghĩa rất quan trọng đến tỷ lệ

xuất vườn của hom chè giâm. Ngoài phụ thuộc vào thời vụ giâm cành, kỹ

thuật chăm sóc (tưới nước, bón phân, điều kiện ánh sáng) thì tỷ lệ ra rễ và này

mầm phụ thuộc rất nhiều vào các loại hom giâm.

Dòng CNS – 1.41:

Kết quả thu được ở bảng 3.28 cho thấy: tỷ lệ nảy mầm sau cắm hom 90

ngày: Các loại hom giâm của dòng CNS – 1.41 loại hom thí nghiệm có tỷ lệ

nảy mầm đạt 89,30 – 100%, hom bánh tẻ (100 %), có tỷ lệ nảy mần tương

đương hom nâu (đ/c) (89,30 %).

128

Bảng 3.28. Tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ nảy mầm loại hom hai dòng chè

CNS-1.41 và CNS-8.31 ở Phú Hộ, 2018

Tên dòng/giống Tỷ lệ nảy mầm (Sau cắm hom

90 ngày) (%)

Hom xanh

Hom bánh tẻ

94,34a 100a 89,30a Tỷ lệ ra rễ (Sau cắm hom 90 ngày) (%) 93,53a 98,42a 87,25a Tỷ lệ ra rễ (Sau cắm hom 120 ngày) (%) 98,62a 100a 97,30a CNS – 1.41

Hom nâu (đ/c) CV (%) 7,1 5,7 4,1

LSD0.05

Hom xanh

Hom bánh tẻ

13,5 95,31a 100,0a 89,54a 11,9 94,55a 99,45a 88,24a 4,7 97,55a 99,80a 91,33a CNS – 8.31

Hom nâu (đ/c) CV (%) 6,94 7,69 5,42

LSD0.05

Hom xanh

Hom bánh tẻ

13,15 95,31a 98,72a 89,54a 14,4 94,55a 97,45a 88,24a 10,41 97,55a 98,80a 91,33a LDP1 (đ/c)

Hom nâu (đ/c) CV (%) 6,63 7,84 5,32

LSD0.05 12,6 14,64 10,20

Tỷ lệ ra rễ sau ươm hom 90 ngày: tỷ lệ ra rễ đạt 87,25 – 100 %, trong

đó hom bánh tẻ (100 %), hom xanh (93,53 %) có tỷ lệ ra rễ tương đương hom

nâu (đ/c) (87,25 %).

So sánh khả năng ra rễ và khả năng nảy mầm của hom chè, chúng tôi

thấy: tỷ lệ ra rễ của loại hom đều tương đương so với tỷ lệ nảy mầm. Qua

129

nghiên cứu này, chúng tôi thấy có rất nhiều hom chè đã nảy mầm trước khi ra

rễ nhờ lượng dự trữ trong lá và thân hom. Để hom chè thực sự phát triển

thành cây con hoàn chỉnh khi cây chè con ra rễ và có bộ rễ phát triển.

Để xác định khả năng ra rễ tối đa của loại chúng tôi tiếp tục theo dõi tỷ

lệ ra rễ sau căm hom 120 ngày: Loại hom giâm tham gia thí nghiệm có tỷ lệ ra

rễ đạt 97,30 – 100%. Hom bánh tẻ (100%), hom xanh (98,62%) tương đương

hom nâu (đ/c) (97,30%).

Dòng CNS – 8.31:

Các loại hom giâm của dòng CNS – 8.31 loại hom thí nghiệm có tỷ lệ

nảy mầm đạt 89,54 – 100 %, hom bánh tẻ (100 %) tương đương hom nâu

(89,54 %).

Tỷ lệ ra rễ sau cắm hom 90 ngày: Loại hom giâm tham gia thí nghiệm

có tỷ lệ ra rễ đạt 88,24 – 99,45 %. Hom bánh tẻ (99,45 %), hom xanh (94,55

%) tương đương hom nâu (đ/c) (88,24%).

Tỷ lệ ra rễ sau căm hom 120 ngày: Loại hom giâm tham gia thí nghiệm

có tỷ lệ ra rễ đạt 91,33 – 99,80 %. Hom bánh tẻ (99,80 %), hom xanh (97,55

%) tương đương (đ/c) (91,33 %).

Tỷ lệ ra rễ sau cắm hom 120 ngày: Loại hom giâm tham gia thí nghiệm

có tỷ lệ ra rễ đạt 91,33 – 99,80 %. Hom bánh tẻ (99,80 %), hom xanh (97,55

%) tương đương hom (đ/c) (91,33 %).

Giống LDP1:

Tỷ lệ nảy mầm sau ươm hom 90 ngày: hom giống LDP1 có tỷ lệ nảy

mầm đạt 89,54 – 98,72%, hom bánh tẻ (98,72%), hom nâu (đ/c) (89,54%).

Tỷ lệ ra rễ sau ươm hom 90 ngày: hom giâm thí nghiệm có tỷ lệ ra rễ

đạt 88,24 – 97,45 %. Hom bánh tẻ (97,45 %), hom xanh (94,55 %) tương

đương (đ/c) (88,24 %).

130

Tỷ lệ ra rễ sau ươm hom 120 ngày: Loại hom tham gia thí nghiệm có tỷ

lệ ra rễ đạt 91,33 – 98,80 %. Hom bánh tẻ (98,80 %), hom xanh (97,55 %)

tương đương hom nâu (đ/c) (91,33 %).

- Ảnh hưởng loại hom đến khả năng sinh trưởng của 2 dòng chè

Bảng 3.29. Sinh trưởng cây chè ươm từ một số loại hom của hai dòng chè

Tỷ lệ

Cao cây

Đ/K gốc

Số lá

KL thân

KL Rễ

Tỷ lệ P

Dòng/giống Công thức

xuất

(cm)

(cm)

(lá)

lá (g/cây)

(g/cây)

thân/Prễ

Hom xanh

Hom bánh tẻ

CNS – 1.41

Hom nâu (đ/c)

32,7b 40,3a 36,3ab

13,2b 16,3a 14,5b

0,3b 0,4a 0,3b

6,9b 10,3a 7,7b

2,2b 3,5a 2,5b

vườn (%) 84,7ab 87,9a 78,5b

4,7b 6,8a 5,2b

CV%

4,7

9,2

5,4

5,8

6,2

7,3

4,8

LSD0,05

Hom xanh

Hom bánh tẻ

CNS– 8.31

Hom nâu (đ/c)

4,4 31,7b 40,2a 35,3b

4,4 (E-02) 1.5 12,2b 14,2a 13,0ab

0,3 0,4 0,3

1,7 6,0c 11,3a 7,9b

0,3 2,3c 5,0a 3,7b

6,4 86,4a 88,8a 80,4b

0,6 3,7c 6,3a 4,3b

CV%

4,9

8,5

5,3

6,6

6,4

5,0

6,4

LSD0,05

Hom xanh

6,4 (E-02) 0,3

Hom bánh tẻ

3,9 25,5b 27,3a 24,5b

0,3 0,3

1,6 12,8a 13,3a 11,1b

0,7 6,7a 6,8a 5,6b

0,5 1,9b 2,3a 1,8b

LDP1 (đ/c)

Hom nâu (đ/c)

3,9 80,5ab 82,5a 76,3b

0,2 4,5a 4,8a 3,8b

CV%

5,6

11,7

4,5

6,1

8,2

7,1

5,1

1,2

7,9 (E-02)

1,2

0,4

0,3

5,7

0,3

LSD0,05

tại Phú Hộ, 2018, sau ươm 10 tháng

Sinh trưởng cây chè là yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh tế của sản

xuất cây giống. Chè sinh trưởng phát triển tốt sẽ cho tỷ lệ cây xuất vườn cao.

Thí nghiệm độ già của các loại hom khác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến

các chỉ tiêu sinh trưởng của cây chè con 10 tháng tuổi thu được kết quả ở

bảng 3.28.

131

Dòng CNS – 1.41:

Các kết quả nghiên cứu được thể hiện ở bảng 3.29 cho thấy. Ảnh hưởng

loại hom đến sinh trưởng cây trong giai đoạn vườn ươm thì chiều cao cây của

dòng CNS - 1.41 biến động (32,7 cm) đến (40,3 cm), trong đó chiều cao cây

của hom bánh tẻ có chiều cao cây cao nhất đạt (40,3 cm) tương đương hom

nâu (đ/c) (36,3 cm), thấp nhất là hom xanh đạt (32,7cm) thấp hơn so với hom

nâu đối chứng.

Đường kính thân giữa loại hom của dòng CNS - 1.41 biến động (0,3 cm) –

(0,4 cm), trong đó đường kính thân hom ở hom bánh tẻ đạt (0,4 cm) cao hơn

hom nâu (đ/c) (0,3 cm) sai khác có ý nghĩa, thứ đến hom xanh (0,3cm) tương

đương hom nâu đối chứng.

Số lá (13,2 lá) đến (16,3 lá), trong đó ở hom bánh tẻ đạt (16,3 lá ) cao hơn

hom nâu (đ/c) (14,5 lá), thấp nhất là hom xanh (13,2 lá) tương đương hom

nâu (đ/c).

Khối lượng thân lá của dòng CNS - 1.41 (6,9 g/cây – 10,3 g/cây), trong đó

khối lượng thân lá ở hom bánh tẻ khối lượng thân lá (10,3 g/cây), cao hơn

hom nâu (đ/c) (7,7 g/cây), thấp nhất là hom xanh (6,9 g/cây) tương đương

hom nâu (đ/c) sai khác ở mức có ý nghĩa α = 0,05.

Khối lượng rễ hom của loại hom biến động từ (2,2 - 3,5 g). Trong đó khối

lượng rễ hom bánh tẻ (3,5 gam), thứ đến là hom nâu (2,5 gam) có khối lượng

rễ tương đương hom xanh (2,2 gam).

Khối lượng thân/khối lượng rễ dòng CNS - 1.41 (4,7) đến (6,8), ở hom

bánh tẻ có khối lượng thân/khối lượng rễ có tỷ lệ cao nhất đạt (6,8), tiếp đến

là hom nâu (đ/c) (5,2) có khối lượng thân/khối lượng rễ tương đương hom

xanh (4,7).

Tỷ lệ xuất vườn là chỉ tiêu kinh tế quan trọng trong sản xuất nông

nghiệp, có liên quan đến giá thành sản xuất cây giống. Tỷ lệ xuất vườn cao thì

132

giá thành sản xuất cây giống sẽ thấp, đem lại hiệu quả kinh tế cao, tỷ lệ xuất

vườn của loại hom biến động từ (78,5 %) đến (87,9%), trong đó hom bánh tẻ

có tỷ lệ xuất vườn cao nhất đạt 87,9%, tiếp đến là hom xanh đạt 84,7% có tỷ

lệ xuất vườn tương đương hom bánh tẻ, thấp nhất là hom nâu (78,5%).

Như vậy ở hom bánh tẻ cho ta thấy khối lượng thân/khối lượng rễ đều lớn

hơn hom nâu đối chứng sẽ cho cây sinh trưởng, phát triển tốt trong giai đoạn

chè kiến thiết cơ bản. Do đó khi trồng mới cần phải cung cấp phân hữu cơ và

trồng xen cây họ đậu làm cây che bóng trong giai đoạn KTCB là rất cần thiết,

giúp bộ rễ phát triển và sớm ổn định với điều kiện môi trường.

Dòng CNS – 8.31:

Ảnh hưởng loại hom đến sinh trưởng cây trong giai đoạn vườn ươm thì

chiều cao cây của dòng CNS - 8.31 biến động (31,7 cm) đến (40,2 cm), trong

đó chiều cao cây của hom bánh tẻ có chiều cao cây cao nhất đạt (40,2 cm) cao

hơn hom nâu (đ/c) (35,3 cm), thấp nhất là hom xanh đạt (31,7cm) tương

đương so với hom nâu đối chứng.

Đường kính thân giữa loại hom của dòng CNS - 8.31 biến động (0,3 cm) –

(0,4 cm), trong đó đường kính thân hom ở hom bánh tẻ đạt (0,4 cm) cao hơn

hom nâu (đ/c) (0,3 cm) sai khác có ý nghĩa, thứ đến hom xanh (0,3cm) tương

đương hom nâu đối chứng.

Số lá (12,2 lá) đến (14,2 lá), trong đó ở hom bánh tẻ đạt (14,2 lá ) cao hơn

và tương đương hom nâu (đ/c) (13,0 lá), thấp nhất là hom xanh (12,2 lá)

tương đương hom nâu (đ/c).

Khối lượng thân lá biến động (6,0 g/cây – 11,3 g/cây), trong đó khối lượng

thân lá ở hom bánh tẻ khối lượng thân lá (11,3 g/cây), cao hơn hom nâu (đ/c)

(7,9 g/cây), thấp nhất là hom xanh (6,0 g/cây) sai khác ở mức có ý nghĩa α =

0,05.

133

Khối lượng rễ hom của loại hom biến động từ (2,3 - 5,0 g). Trong đó hom

bánh tẻ có khối lượng rễ (5,0 gam), thứ đến là hom nâu (3,7 gam) khối lượng

rễ thấp nhất là hom xanh (2,3 gam).

Khối lượng thân/khối lượng rễ biến động (3,7) đến (6,3), ở hom bánh tẻ có

khối lượng thân/khối lượng rễ có tỷ lệ cao nhất đạt (6,3), tiếp đến là hom nâu

(đ/c) (4,3), hom xanh có tỷ lệ khối lượng thân/khối lượng rễ (3,7).

Tỷ lệ xuất vườn của loại hom biến động từ (80,4 %) đến (88,8%), trong đó

hom bánh tẻ có tỷ lệ xuất vườn cao nhất đạt 88,8%, hom xanh đạt 86,4% có tỷ

lệ xuất vườn cao hơn hom nâu (80,4%).

Như vậy ở hom bánh tẻ cho ta thấy khối lượng thân/khối lượng rễ đều lớn

hơn hom nâu đối chứng sẽ cho cây sinh trưởng, phát triển tốt trong giai đoạn

chè kiến thiết cơ bản. Do đó khi trồng mới cần phải cung cấp phân hữu cơ và

trồng xen cây họ đậu làm cây che bóng trong giai đoạn KTCB là rất cần thiết,

giúp bộ rễ phát triển và sớm ổn định với điều kiện môi trường.

Giống LDP1:

Ảnh hưởng loại hom đến sinh trưởng cây trong giai đoạn vườn ươm thì

chiều cao cây của giống LDP1 biến động (24,5 cm) đến (27,3 cm), trong đó

chiều cao cây của hom bánh tẻ có chiều cao cây cao nhất đạt (27,3 cm) cao

hơn hom nâu (đ/c) (24,5 cm), thấp nhất là hom xanh đạt (25,5cm) tương

đương so với hom nâu đối chứng.

Đường kính thân giữa loại hom (0,3 cm). trong đó đường kính thân hom ở

hom bánh tẻ đạt (0,3 cm) tương đương hom nâu (đ/c) (0,3 cm), hom xanh

(0,3cm) tương đương hom nâu đối chứng không có sự sai khác.

Số lá (11,1 lá) đến (13,3 lá), trong đó ở hom bánh tẻ đạt (13,3 lá ), hom

xanh (12,8 lá) cao hơn hom nâu (đ/c) (11,1 lá)

134

Khối lượng thân lá biến động (5,6 g/cây – 6,8 g/cây), trong đó khối lượng

thân lá ở hom bánh tẻ khối lượng thân lá (6,8 g/cây), hom xanh (6,7 g/cây)

cao hơn hom nâu (đ/c) (5,6 g/cây) sai khác ở mức có ý nghĩa α = 0,05.

Khối lượng rễ hom của loại hom biến động từ (1,8g đến 2,3g). Trong đó

hom bánh tẻ có khối lượng rễ cao nhất (2,3 gam), thứ đến là hom xanh (1,9

gam) khối lượng rễ tương đương là hom nâu (1,8 gam).

Khối lượng thân/khối lượng rễ biến động (3,8) đến (4,8), ở hom bánh tẻ có

khối lượng thân/khối lượng rễ có tỷ lệ cao nhất đạt (4,8), hom xanh có tỷ lệ

khối lượng thân/khối lượng rễ (4,5) cao hơn hom nâu (3,8).

tỷ lệ xuất vườn của loại hom biến động từ (76,3 %) đến (82,5%), trong đó

hom bánh tẻ có tỷ lệ xuất vườn cao nhất đạt 82,5%, hom xanh đạt 80,5% có tỷ

lệ xuất vườn tương đương hom bánh tẻ và hom nâu, thấp nhất là hom nâu

(76,3%).

Hình 3.20. Ảnh hưởng của loại hom đến tỷ lệ xuất vườn của dòng/giống

135

Như vậy ở hom bánh tẻ cho ta thấy khối lượng thân/khối lượng rễ đều lớn

hơn hom nâu đối chứng sẽ cho cây sinh trưởng, phát triển tốt trong giai đoạn

chè kiến thiết cơ bản. Do đó khi trồng mới cần phải cung cấp phân hữu cơ và

trồng xen cây họ đậu làm cây che bóng trong giai đoạn KTCB là rất cần thiết,

giúp bộ rễ phát triển và sớm ổn định với điều kiện môi trường.

3.2.5.3. Kết quả nghiên cứu thời vụ giâm hom của hai dòng chè thí nghiệm.

- Ảnh hưởng thời vụ giâm hom đến sinh trưởng của hai dòng chè thí nghiệm

Cây chè cũng như các loại cây trồng khác giâm cành phụ thuộc vào

nhiều yếu tố như: nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng trong vườn giâm. Mỗi thời vụ sẽ

tương ứng với những điều kiện khác nhau thu kết quả được ở bảng 3.30.

Dòng CNS – 1.41:

Qua số liệu bảng 3.30 cho thấy: Chiều cao cây của dòng CNS - 1.41

biến động từ 27,3cm đến 40,3 cm, trong đó ở giâm tháng 8 – 9 có chiều cao

cây lớn nhất đạt 40,3 cm, tiếp đến là tháng 10 – 11 đạt (36,5 cm), có chiều

cao cây tương đương tháng 6 – 7 đạt (32,6 cm) đều có chiều cao cây lớn hơn

thòi vụ giâm tháng 12 - 1 (đ/c) (27,3 cm) sai khác có ý nghĩa α = 0,05.

Đường kính thân biến động từ (0,2 – 0,4 cm) trong đó đường kính gốc

ở thời vụ giâm tháng 8 - 9 và 10 – 11 đạt (0,4 cm), tiếp đến là thời vụ giâm

tháng 6 – 7 đạt (0,3 cm) cao hơn thời vụ giâm tháng 12 - 1 (đ/c) có đường

kính gốc nhỏ nhất chỉ đạt (0,2 cm) sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê..

Về số lá trên cây của thời vụ giâm đạt 11,2 – 16,3 lá so sánh giữa các

tháng thì thời vụ tháng 6 – 7, tháng 8 – 9 và tháng 10 – 11 có số lá trên cây

tương đương nhau đạt (14,2 lá – 16,3 lá), tháng 12 - 1 (đ/c) có số lá/cây thấp

so với các tháng về mặt thống kê đạt (11,2 lá) .

136

Bảng 3.30. Sinh trưởng cây chè ươm ở một số thời vụ tại Phú Hộ

Thời vụ

Cao cây

Đ/K gốc

Số lá

P thân lá

P Rễ

Tỷ lệ

Tỷ lệ xuất

Dòng/giống

giâm

(cm)

(cm)

(lá)

(g/cây)

(g/cây)

thân/P rễ

vườn (%)

(tháng)

6 - 7

8 - 9

10 -11

CNS – 1.41

32,6b 40,3a 36,5ab 27,3c

0,3b 0,4a 0,4a 0,2c

14,2a 16,3a 15,5a 11,2b

6,9b 10,3a 7,7b 6,3b

2,2b 3,5a 2,4b 2,1b

4,8b 6,8a 5,3ab 5,1b

12 – 1 (đ/c)

90,6 a 98,9 a 97,3a 76,5 b

6,3

3,9

10,9

3,9

10,3

15,4

7,8

CV%

0,2

13,4

LSD0,05

0,2

6 - 7

0,3

8 - 9

0,3

10 -11

CNS – 8.31

4,3 31,6ab 40,3a 35,7ab 27,0b

0,2

2,9 12,8b 14,7a 13,5ab 11,2c

0,6 6,1c 11,4a 8,0b 6,4bc

0,5 2,2c 5,0a 3,7b 1,4d

1,6 3,9b 6,4a 4,3b 5,0ab

12 – 1 (đ/c)

91,3 a 99,6 a 94,5 a 73,4 b

10,9

6,1

15,2

8,5

CV%

14,8

16,3

5,2

14,3

LSD0,05

6 - 7

79,5 b

8 - 9

10 -11

88,3a 83,3ab

LDP1 (đ/c)

9,4 30,8bc 35,4a 32,6ab 28,3c

0,8 0,2b 0,3a 0,3a 0,2b

1,3 11,5b 12,3ab 12,5a 10,3c

1,6 5,9b 9,7a 6,6b 5,3b

0,3 2,2b 3,5a 3,3a 1,3c

1,4 4,1b 6,2a 4,5b 3,3b

12 – 1 (đ/c)

69,5 c

6,5

15,6

3,7

13,3

14,93

15,1

3,2

CV%

4,1

0,08

0,8

1,7

0,8

1,2

5,2

LSD0,05

Về khối lượng thân lá giữa các tháng biến động từ 6,3 g/cây đến 10,3

g/cây, khối lượng thân lá tháng 8 - 9 đạt (10,3 g/cây) có khối lượng thân lá

tương đương tháng 12 – 1 (đ/c) (6,3 g/cây).

Về khối lượng rễ thời vụ giâm tháng 8 – 9 đạt (3,5 g/cây) cao hơn

tháng 12 – 1 (đ/c) (2,1 gam/cây), tiếp đến tháng 10 – 11 có khối lượng thân lá

137

đạt 2,4 g/cây, tháng 6 – 7 (2,2g/cây) có khối lượng thân lá tương đương tháng

12 – 1 (đ/c).

Về tỷ lệ thân/P rễ giữa các tháng biến động 4,8 – 6,8, trong đó ở tháng

8 - 9 đạt 6,8 có tỷ lệ thân tương đương tháng 10 – 11 đạt 5,3 có tỷ lệ khối

lượng thân/khối lượng rễ cao hơn tháng 6 – 7 (4,8) và tháng 12 – 1 (đ/c).

Tỷ lệ xuất vườn cây giống là chỉ tiêu kinh tế quan trọng trong sản xuất

nông nghiệp, có liên quan đến giá thành sản xuất. Tỷ lệ xuất vườn giữa tháng

8 – 9 (98,9%), tháng 10 – 11 (97,3%), tháng 6 – 7 (90,6%) có tỷ lệ xuất vườn

tương đương nhau cao hơn so với tháng 12 – 1 (đ/c) đạt 76,5% sai khác có ý

nghĩa về mặt thống kê.

Dòng CNS – 8.31:

Về chiều cao cây của dòng CNS - 8.31 biến động từ 27,0cm đến 40,3

cm, trong đó ở giâm tháng 8 – 9 có chiều cao cây lớn nhất đạt 40,3 cm, tháng

10 – 11 đạt (35,7 cm), có chiều cao cây tương đương tháng 6 – 7 đạt (31,6

cm) đều có chiều cao cây lớn hơn thời vụ giâm tháng 12 - 1 (đ/c) (27,0 cm)

sai khác có ý nghĩa α = 0,05.

Đường kính thân biến động từ (0,2 – 0,3cm) trong đó đường kính gốc ở

thời vụ giâm tháng 8 - 9 và 10 – 11 đạt (0,3 cm), tiếp đến là thời vụ giâm

tháng 6 – 7 đạt (0,2 cm) cao hơn thời vụ giâm tháng 12 - 1 (đ/c) có đường

kính gốc nhỏ nhất chỉ đạt (0,2 cm) sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê..

Về số lá trên cây của thời vụ giâm đạt 11,2 – 14,7 lá so sánh giữa các

tháng thì thời vụ tháng 8 – 9 và tháng 10 – 11 có số lá trên cây tương đương

nhau đạt (13,5 lá – 14,7 lá) có số lá trên cây cao hơn tháng 6 – 7, tháng 12 - 1

(đ/c) (11,2 12,8 lá) .

Về khối lượng thân lá giữa các tháng biến động từ 6,1 g/cây đến 11,4

g/cây, khối lượng thân lá tháng 8 - 9 đạt (11,4 g/cây), tiếp đến tháng 10 – 11

(8,0 g/cây) có khối lượng thân lá cao hơn tháng 12 – 1 (đ/c) (6,4 g/cây).

138

Về khối lượng rễ thời vụ giâm tháng 8 – 9 đạt (5,0 g/cây), tiếp đến

tháng 10 – 11 có khối lượng thân lá đạt 3,7 g/cây, tháng 6 – 7 (2,2g/cây) có

khói lượng thân lá cao hơn tháng 12 – 1 (đ/c) (1,4 gam/cây).

Về tỷ lệ thân/P rễ giữa các tháng biến động 3,9 – 6,4, trong đó ở tháng

8 - 9 đạt 6,4 có tỷ lệ thân/rễ cao nhất tháng 6 – 7 (3,9), tháng 10 – 11 (4,3) và

tháng 6 – 7 (đ/c) có khối lượng thân/rễ tương đương tháng 12 – 1 đạt 5,0.

Tỷ lệ xuất vườn giữa tháng 8 – 9 (99,6%), tháng 10 – 11 (94,5%), tháng

6 – 7 (91,3%) có tỷ lệ xuất vườn tương đương nhau cao hơn tháng 12 – 1 (đ/c)

đạt 73,4% sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê.

Giống LDP1:

Về chiều cao cây của giống LDP1 biến động từ 28,3cm đến 35,4 cm,

trong đó ở giâm tháng 8 – 9 có chiều cao cây lớn nhất đạt 35,4 cm, tháng 10

– 11 đạt (32,6 cm), có chiều cao cây tương đương tháng 6 – 7 đạt (30,8 cm)

đều có chiều cao cây lớn hơn thòi vụ giâm tháng 12 - 1 (đ/c) (28,3 cm) sai

khác có ý nghĩa α = 0,05.

Đường kính thân biến động từ (0,2 – 0,3cm) trong đó đường kính gốc ở

thời vụ giâm tháng 8 - 9 và 10 – 11 đạt (0,3 cm) cao hơn tháng 12 – 1 (0,2

cm), tiếp đến là thời vụ giâm tháng 6 – 7 đạt (0,2 cm) có đường kính gốc

tương đương tháng 12 - 1 (đ/c) (0,2 cm) sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê..

Về số lá trên cây giữa thời vụ giâm đạt 10,3 – 12,5 lá so sánh giữa các

tháng thì thời vụ tháng 8 – 9 và tháng 10 – 11 có số lá trên cây tương đương

nhau đạt (12,3 lá – 12,5 lá), tiếp đến tháng 6 – 7 (11,5 lá) có số lá trên cây cao

tháng 12 - 1 (đ/c) (10,3 lá) .

Về khối lượng thân lá giữa các tháng biến động từ 5,3 g/cây đến 9,7

g/cây, tháng 8 – 9 có khối lượng thân lá cao nhất đạt (9,7 g/cây), tiếp đến

tháng 6 – 7 (5,9 g/cây), tháng 10 – 11 (6,6 g/cây) có khối lượng thân lá tương

đương tháng 12 – 1 (đ/c) (5,3 g/cây).

139

Về khối lượng rễ thời vụ giâm biến động từ 1,3 g/cây đến 3,5 g/cây,

tháng 8 – 9 đạt (3,5 g/cây) có khối lượng rễ tương đương tháng 10 – 11 đạt

3,3 g/cây, tiếp đến tháng 6 – 7 (2,2g/cây) tương đương tháng 12 – 1 (đ/c) (1,3

gam/cây).

Về tỷ lệ thân/P rễ giữa các tháng biến động 3,3 – 6,2, trong đó tháng 8

- 9 đạt 6,2 có tỷ lệ thân/rễ cao nhất, tháng 6 – 7 (4,1), tháng 10 – 11 (4,5) có

khối lượng thân/rễ tương đương tháng 12 – 1 đạt 3,3.

Tỷ lệ xuất vườn giữa biến động (69,5%) đến (88,3%), trong đó tháng 8

– 9 có tỷ lệ xuất vườn cao nhất đạt 88,3%, tiếp đến tháng 10 – 11 (83,3%),

tháng 6 – 7 (79,5%) có tỷ lệ xuất vườn cao hơn tháng 12 – 1 (69,5%).

Hình 3.21. Ảnh hưởng của thời vụ đến tỷ lệ xuất vườn của dòng/giống

140

A

B

Hình 3.22. Thí nghiệm giâm hom

A. Hom chè giâm sau 20 ngày B. Cây chè con xuất vườn

141

3.3. Khảo nghiệm hai dòng chè mới Khảo nghiệm hai dòng chè mới ở điều kiện sản xuất

Hai dòng chè mới CNS-1.41 và CNS-8.31 sinh trưởng khỏe, năng suất

cao, để sớm phát triển ra sản xuất, đồng thời với nghiên cứu các đặc điểm

nông sinh học, chúng tôi đã tiến hành trồng khảo nghiệm diện rộng ở điều

kiện sản xuất tại một số địa phương vùng miền núi phía Bắc. Bao gồm Phú

Thọ, Tuyên Quang và Yên Bái, thời gian trồng tháng 1/2015, giống đối chứng

là LDP1. Các vườn chè khảo nghiệm tiến hành đốn tạo hình lần 1 vào tháng

12/2015, đánh giá năng suất từ tuổi 2 (năm 2016) đến tháng 11/2019. Kết quả

đánh giá năng suất chè ở các địa điểm khảo nghiệm trình bày ở các bảng 3.31,

3.32 và 3.33 dưới đây.

Bảng 3.31. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các

năm 2016-2019 hai dòng chè mới tại Phú Hộ, Phú Thọ.

Khối Năng suất qua các năm (tấn/ha) Mật độ lượng Rộng Năm Năm Năm Năm TB % Tên dòng búp tôm tán búp (búp/m2/ 2016 2017 2018 2019 4 tăng (cm) 3 lá lứa) (tuổi 2) (tuổi 3) (tuổi 4) (tuổi 5) năm so đ/c

(g/búp) 1,21a 182,0a 4,62a 1,29a 168,7ab 4,57a 1,06b 163,2b 3,91b 7,93a 12,57a 17,63a 10,68a 172,54 7,76a 10,2b 14,53a 9,26a 149,59 9,43b 6,19b 100 4,89b 6,56c CNS– 1.41 186,60a CNS– 8.31 176,40a LDP1 (đ/c) 150,15b

5,3 13,7 4,7 6,3 9,2 4,0 14,7 6,6 CV%

20,7 0,14 18,3 0,6 1,5 0,8 4,5 1,3 LSD0,05

Bảng số liệu cho thấy dòng CNS – 1.41 có mật độ búp 186,60 búp/m2/lứa có mật độ búp tương đương dòng CNS – 8.31 có mật độ búp 176,5 búp/m2/lứa, giống đối chứng LDP1 có mật độ búp 150,15 búp/m2/lứa.

142

Khối lượng búp tôm 3 lá của hai dòng CNS – 1.41 và CNS – 8.31 1,21

g/búp đến 1,29 g/búp tương đương nhau và lớn hơn khối lượng búp của giống

chè LDP1 1,06 g/búp.

Chiều rộng tán lớn nhất là dòng CNS–1.41 đạt 182 cm (mức a), tiếp đến

là dòng CNS – 8.31 có chiều rộng tán đạt 168,7 cm (mức ab), chiều rộng tán

nhỏ nhất là giống LDP1 đạt 163,2 cm (mức b).

Về năng suất, sau 4 năm đánh giá thấy: Dòng CNS – 1.41 và dòng CNS

– 8.31 sớm cho năng suất cao, ngay ở tuổi 2 đã thu hái búp đạt 4,62 và 4,57

tấn/ha cao hơn giống đối chứng LDP1 đạt 3,91 tấn/ha.

Năm thứ 3 bước vào thời kỳ kinh doanh, dòng CNS – 1.41 và dòng CNS

– 8.31 đã có năng suất cao đạt 7,93 và 7,76 tấn/ha cao hơn giống đối chứng

đạt 4,89 tấn/ha.

Năm thứ 4, năng suất các dòng/giống tiếp tục tăng và có sự khác nhau,

dòng CNS – 1.41 có năng suất đạt cao nhất 12,57 tấn/ha, tiếp đến là dòng

CNS – 8.31 đạt 10,2 tấn/ha, năng suất thấp nhất là giống LDP1 đạt 6,56

tấn/ha.

Năm thứ 5 năng suất của dòng chè CNS – 1.41 đạt 17,63 tấn/ha, tương

đương với năng suất dòng CNS – 8.31 đạt 14,53 tấn/ha, và cao hơn năng suất

của giống LDP1 đạt 9,43 tấn/ha.

Năng suất trung bình 4 năm của dòng CNS – 1.41 có năng suất cao nhất

đạt 10,68 tấn/ha và dòng CNS – 8.31 đạt 9,26 tấn/ha, cao hơn giống đối

chứng LDP1 đạt 6,19 tấn/ha. Năng suất dòng CNS – 1.41 cao hơn đối chứng

72,54%, năng suất dòng CNS – 8.31 cao hơn so với giống đối chứng 49,53%.

143

Bảng 3.32. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các

năm 2016-2019 hai dòng chè mới tại Yên Sơn, Tuyên Quang

Năng suất qua các năm (tấn/ha)

Mật độ Khối Năm Rộng Năm Năm Năm TB % lượng 2017

Tên dòng

tán 2016 2018 2019 4 tăng búp (búp/m2/ búp tôm 3 (tuổi (cm) (tuổi 2) (tuổi 4) (tuổi 5) năm so đ/c lứa) lá (g/búp) 3)

182,6a 4,71a 7,98a 12,26a 16,53a CNS– 1.41 181,60a 1,11a

CNS– 8.31 173,40a LDP1 (đ/c) 154,15b 165,4b 163,8b 10,37a 168,89 4,25a 7,26a 9,64a 14,13a 8,82b 143,65 3,78b 4,82b 6,62b 9,34b 6,14c 100 1,09a 0,93b

3,1 3,5 5,7 7,9 4,7 9,8 6,6 4,3 CV%

12,2 13,7 0,6 1,3 0,9 3,0 0,7 0,1 LSD0,05

Tại Tuyên Quang các dòng/ giống chè nghiên cứu sinh trưởng phát

triển khá tốt. Các dòng CNS – 1.41 và CNS-8.31 có mật độ búp tương đương nhau 181,60 và 173,4 búp/m2/lứa và cao hơn mật độ búp của giống đối chứng LDP1 có mật độ búp 154,15 búp/m2/lứa.

Khối lượng búp tôm 3 lá của hai dòng CNS – 1.41 và CNS – 8.31 (1,09

g/búp đến 1,11 g/búp lớn hơn khối lượng búp cua giống LDP1 0,93 g/búp.

Chiều rộng tán lớn nhất là dòng CNS-1.41 đạt 1,12 m2, dòng CNS – 8.31

và giống LDP1 có chiều rộng tán tương đương nhau, đạt 165,4 và 163,8 cm.

Về năng suất, tương tự như ở Phú Thọ, các dòng/ giống chè khảo nghiệm

sinh trưởng tốt, năm thứ 2 sau trồng đã cho thu hoạch với năng suất khá cao.

Hai dòng CNS-1.41 và CNS-8.31 năng suất tương đương nhau, đạt 4,71 và

4,25 tấn/ha, cao hơn giống đối chứng LDP1 đạt 3,98 tấn/ha.

Các năm tiếp theo, năng suất các dòng/ giống chè tiếp tục tăng theo tuổi

chè, năng suất trung bình 4 năm đánh giá (từ năm 2016 đến 2019) của các

144

giống chè có sự khác nhau ở độ tin cậy 95%. Theo đó, dòng CNS-1.41 có

năng suất trung bình cao nhất, đạt 10,37 tấn/ha, tiếp theo là dòng CNS-8.31

đạt 8,82 tấn/ha, thấp nhất là giống LDP1 đạt 6,8 tấn/ha. Dòng CNS – 1.41 và

CNS – 8.31 cao hơn giống LDP1 lần lượt là 68,89% và 43,65%.

Như vậy, tại Tuyên Quang các dòng chè mới hoàn toàn phù hợp với

điều kiện khí hậu, đất đai và thể hiện được các đặc điểm sinh trưởng mạnh,

năng suất cao, có thể phát triển rộng rãi trong vùng.

Bảng 3.33. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các

năm 2016-2019 hai dòng chè mới tại Văn Chấn, Yên Bái

Khối Năng suất qua các năm (tấn/ha)

Mật độ lượng Rộn Năm Năm Năm Năm % búp TB Tên dòng g tán 2016 2017 2018 2019 tăng búp (búp/m2/ tôm 3 4 (cm) (tuổi (tuổi (tuổi (tuổi so lứa) lá năm 2) 3) 4) 5) đ/c

CNS– 1,41 161,60a CNS– 8,31 143,40b LDP1 (đ/c) 134,15b (g/búp) 1,32a 180,0a 4,51a 7,78a 11,66a 16,07a 10,00a 166,11 1,12b 167,2b 4,24a 7,36a 9,02b 13,33ab 8,48b 140,86 0,98c 161,3b 3,58b 4,64b 6,82c 9,04b 6,02c 100

5,03 5,7 3,2 3,2 3,5 4,2 13,8 5,5 CV%

16,7 0,1 12,4 0,3 0,5 0,9 4,4 0,9 LSD0,05

Kết quả ở bảng cho thấy các dòng chè mới sinh trưởng phát triển tốt tại

vùng Văn Chấn, Yên Bái. Theo đó, các chỉ tiêu sinh trưởng như chiều rộng

tán, mật độ búp, khối lượng búp cũng sinh trưởng tương đương như ở vùng

Phú Thọ và Tuyên Quang. Dòng CNS-141 có chiều rộng tán đạt 180 cm, cao

hơn chiều rộng tán của dòng CNS-8.31 và giống LDP1 đạt 167,2 và 161,3cm.

145

Khối lượng búp tôm 3 lá của dòng CNS – 1.41 có khối lượng lớn nhất

đạt 1,32 g/búp, tiếp đến là dòng CNS – 8.31 đạt 1,12g/búp có khối lượng búp

lớn hơn giống đ/c LDP1 0,98 g/búp.

Về mật độ búp, dòng CNS-1.41 đạt cao nhất 161,60 búp/m2, dòng

CNS – 8.31 và giống LDP1 có mật độ búp tương đương nhau, đạt lần lượt 143,40 búp/m2 và 134,15 búp/m2.

Về năng suất, năm thứ hai sau trồng, dòng CNS – 1.41 đạt 4,51 tấn/ha,

dòng CNS – 8.31 đạt 4,24 tấn/ha, cao hơn năng suất của giống LDP1 đạt 3,58

tấn/ha. Các năm tiếp theo năng suất chè tiếp tục tăng, năng suất trung bình

của 4 năm đánh giá (2016-2019) khác nhau ở mức tin cậy 95%. Dòng CNS-

1.41 có năng suất trung bình cao nhất đạt 10,0 tấn/ha, tiếp theo dòng CNS-

8.31 đạt 8,48 tấn/ha, thấp nhất là giống LDP1 đạt 6,02 tấn/ha. Tại Yên Bái,

năng suất dòng CNS-1.41 cao hơn giống LDP1 66,11%, dòng CNS-8.31 cao

hơn giống LDP1 40,86%.

Như vậy qua kết quả đánh giá sinh trưởng và năng suất hai dòng chè

mới CNS-1.41 và CNS-8.31 tại các vùng khảo nghiệm Phú Thọ, Tuyên

Quang và Yên Bái thì các dòng chè mới phát huy được các đặc điểm sinh

trưởng phát triển tốt của giống. Dễ trồng, sớm cho thu hoạch, năm thứ hai đã

có thể đưa vào sản xuất kinh doanh, năng suất ổn định luôn cao hơn đối

chứng là giống LDP1 đã được trồng phổ biến ở các vùng khảo nghiệm. Kết

quả khảo nghiệm khẳng định hai dòng chè mới CNS-1.41 và CNS-8.31 phù

hợp với điều kiện sinh thái ở các vùng khảo nghiệm, hoàn toàn có thể phát

triển rộng rãi tại các vùng này và phụ cận.

146

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1.Kết luận

1) Đặc điểm hình thái lá, búp, hom hai dòng chè mới:

- Dòng chè CNS-1.41 có lá trưởng thành mầu xanh vàng, dài 13,7 cm rộng 5,9 cm, diện tích lá 57,6 cm2, bề mặt phiến lá gồ ghề, chót lá nhọn, thế lá

hướng ra ngoài; búp 1 tôm 3 lá dài 9,58 cm, mầu xanh vàng, khối lượng 1,2 g/ búp; lóng hom dài 4,79 cm, đường kính 4,33 mm, diện tích lá hom 57,56 cm2.

- Dòng chè CNS-8.31 có lá mầu xanh đậm, dài 10,8 cm rộng 4,6 cm, diện tích lá 34,9 cm2, bề mặt phiến lá gồ ghề, chót lá nhọn, thế lá hướng lên;

búp 1 tôm 3 lá dài 8,71 cm, khối lượng búp 1,16 g/ búp; lóng hom dài 5,15 cm, đường kính lóng 4,52 mm, diện tích lá hom 34,87 cm2.

2) Đặc điểm sinh trưởng hai dòng chè mới:

- Dòng chè CNS-1.41 một năm tuổi có chiều cao thân cây 120,4 cm,

đường kính gốc 1,3 cm, độ cao phân cành thấp 2,0 cm, số cành cấp 1 và cấp 2

nhiều, đạt 25,7 và 39 cành/ cây; Dòng chè CNS-8.31 có chiều cao thân cây

128,4 cm, đường kính gốc 1,3 cm, độ cao phân cành trung bình 3,6 cm, số

cành cấp 1 và cấp 2 là 15,9 và 23,6 cành/ cây.

Hai dòng CNS-1.41 và CNS-8.31 sinh trưởng khỏe, một năm sau trồng

đã đủ tiêu chuẩn về kích thước cây để đốn tạo hình lần đầu tiên.

- Năm thứ hai, hai dòng chè mới sinh trưởng khỏe và đã cho thu hoạch, dòng CNS-1.41 có tán rộng 120,7 cm, mật độ búp 121,5 búp/m2, năng suất

đạt 7,36 tấn/ha/năm; dòng CNS-8.31 có tán rộng 93,6 cm, mật độ búp 92,5 búp/m2, năng suất đạt 5,22 tấn/ha/năm.

- Chè 3 tuổi dòng CNS-1.41 có tán rộng 180,4 cm, đã giao tán, năng

suất đạt 13,68 tấn búp tươi/ha/năm; dòng CNS-8.31 tán rộng 167,6 cm, năng

suất đạt 9,72 tấn búp tươi/ha/năm; năng suất tiềm năng (năng suất lý thuyết)

147

dòng CNS-1.41 đạt 19,42 tấn búp tươi/ha/năm, dòng CNS-8.31 đạt 17,01 tấn

búp tươi/ha/năm.

- Chất lượng nguyên liệu búp chè: búp của hai dòng chè mới non, tỷ lệ

cuộng và tỷ lệ xơ trung bình các thời vụ thấp. Dòng CNS-1.41 có tỷ lệ

cuộng/búp 21,66%, tỷ lệ xơ 17,86%; dòng CNS-8.31 có tỷ lệ cuộng/búp

25,82%, tỷ lệ xơ 16,07%.

- Thành phần một số hợp chất chủ yếu trong búp hai giống chè mới phù

hợp cho chế biến chè xanh chất lượng tốt, hàm lượng tanin thấp, các chất

catechin và axit amin khá cao: Dòng CNS-1.41 có hàm lượng tanin 25,51%,

chất hòa tan 42,43%, axit amin tổng số 2,45%, vitamin C 16,72 mg/kg chất

khô, polyphenol tổng số 17,98%; dòng CNS-8.31 có hàm lượng tanin

24,47%, chất hòa tan 43,28%, axit amin tổng số 2,56%, vitamin C 22,04

mg/kg chất khô, polyphenol tổng số 20,14%.

- Thành phần các một số hợp chất chủ yếu trong chè đen của hai dòng

chè mới cũng phù hợp cho chế biến chè đen chất lượng cao: Sản phẩm chè

đen của dòng CNS-1.41 có hàm lượng tanin 14,35%, chất hòa tan 37,55%,

catechin 74,05%; sản phẩm chè đen của dòng CNS-8.31 có hàm lượng tanin

14,08%, chất hòa tan 36,27%, catechin 72,96%;

- Chất lượng cảm quan chè xanh: Dòng CNS-1.41 có ngoại hình nhỏ

xoăn, nước mầu xanh vàng, hương thơm nhẹ, vị chát dịu, tổng số điểm đánh

giá 16,43 điểm, xếp loại chất lượng khá; dòng CNS-8.31 có ngoại hình cánh

nhỏ xoăn mầu xanh đen, nước mầu xanh sáng, hương thơm đặc trưng, vị đậm

dịu có hậu, tổng số điểm đánh giá 17,94 điểm, xếp loại chất lượng khá.

- Chất lượng cảm quan chè đen: Dòng CNS-1.41 cánh mầu nâu đen,

nước mầu đỏ sáng, hương thơm đặc trưng, vị chát dịu, tổng điểm 17,5, xếp

loại chất lượng khá; dòng CNS-8.31 có ngoại hình mầu nâu đen, nước mầu đỏ

148

sáng, hương thơm đặc trưng, vị chát dịu có hậu, tổng điểm 18,6, xếp loại chè

đen chất lượng tốt.

3) Về biện pháp kỹ thuật:

- Trồng hai dòng chè mới với mật độ 1,66 vạn cây/ha và 1,85 vạn

cây/ha theo phương thức hàng kép sớm giao tán, mật độ búp cao và năng suất

cao hơn trồng cùng mật độ theo phương thức hàng đơn: Dòng CNS-1.41

trồng mật độ 1,66 vạn cây/ha hàng kép, năng suất tuổi 3 đạt 17,15 tấn/ha,

trồng hàng đơn năng suất đạt 13,15 tấn/ha; dòng CNS-8.31 trồng hàng kép,

năng suất đạt 14,85 tấn/ha, trồng hàng đơn đạt 13,33 tấn/ha.

- Đốn tạo hình lần 1 với thân chính ở độ cao 15-20 cm, cành bên 35 cm

phù hợp đối với hai dòng chè mới.

- Hái ở độ cao trên vết đốn vụ đầu 10 cm đạt năng suất cao, dòng CNS-

1.41 và CNS-8.31 có chiều rộng tán từ 153,5 cm đến 180,00 cm, mật độ búp từ 101,30 đến 127,13 búp/m2; năng suất đạt từ 9,25 đến 12,3 tấn/ha.

- Bón phân cho chè tuổi 3 theo công thức BP4 (112 kg N + 56 kg P2O5

+ 84 kg K2O/ha), năng suất của dòng CNS-1.41 đạt 14,64 tấn/ha, dòng CNS-

8.31 đạt 11,86 tấn/ha; tăng lượng phân bón lên 40% đạt hiệu quả kinh tế cao,

lợi nhuận tăng 60,78% với dòng CNS-1.41, tăng 76,32% với dòng CNS-8.31.

4) Khả năng nhân giống vô tính của 2 dòng chè nghiên cứu:

- Sản lượng hom vườn cây mẹ tuổi 3 đạt 3,66 triệu hom/ha với dòng

CNS-141, đạt 2,92 triệu hom với dòng CNS-831.

- Tỷ lệ xuất vườn sau ươm 10 tháng đạt 87,9% với dòng CNS-141 và

88,8% với dòng CNS-831.

5) Sinh trưởng, năng suất hai dòng chè mới tại các vùng khảo nghiệm

- Tại Phú Thọ: dòng CNS-141 năng suất trung bình 4 năm đạt 10,68

tấn/ha, tăng 72,54% so với giống đối chứng; dòng CNS-831 đạt năng suất

trung bình 9,26 tấn/ha, tăng 49,59% so giống đối chứng.

149

- Tại Tuyên Quang: dòng CNS-141 năng suất trung bình 4 năm đạt

10,37 tấn/ha, tăng 68,89% so với giống đối chứng; dòng CNS-831 đạt năng

suất trung bình 8,82 tấn/ha, tăng 43,65% so giống đối chứng.

- Tại Yên Bái: dòng CNS-141 năng suất trung bình 4 năm đạt 10,0

tấn/ha, tăng 66,11% so với giống đối chứng; dòng CNS-831 đạt năng suất

trung bình 8,48 tấn/ha, tăng 40,86% so giống đối chứng.

- Hai dòng chè mới hoàn toàn phù hợp và có thể phát triển rộng rãi ở

các vùng khảo nghiệm và vùng phụ cận.

2.Đề nghị

Hiện nay, hai dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 đã được công nhận là

giống mới có tên là CNS 141 và CNS 831, được Bộ NN&PTNT cho phép sản

xuất thử nghiệm ở vùng miền núi phía Bắc. Dựa trên những kết quả nghiên

cứu, chúng tôi có một số đề nghị sau đây.

- Nghiên cứu hoàn thiện kỹ thuật trồng, chăm sóc hai giống chè mới

CNS 141 và CNS 831; đánh giá sâu thêm về phương thức trồng hàng kép có

thể lợi dụng ưu thế sinh trưởng khỏe, tập trung của búp chè ở vùng giữa của

tán chè để tăng năng suất và thuận lợi cho thu hoạch bằng cơ giới; đánh giá về

lượng bón phân khoáng tối ưu để phát huy tiềm năng năng suất hai giống chè

mới và bảo vệ và tăng cường độ phì nhiêu của đất trồng chè;

- Nghiên cứu kỹ thuật chế biến chè xanh chè đen phù hợp với nguyên

liệu của hai giống chè mới CNS 141 và CNS 831, đa dạng sản phẩm chè;

- Phát triển ra sản suất hai giống chè mới ở các vùng tương tự vùng

khảo nghiệm, đánh giá thêm ở các vùng chè khác, góp phần nâng năng suất,

chất lượng nước ta.

150

CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

1. Trịnh Thị Kim Mỹ, Nguyễn Hữu La, Nguyễn Văn Thiệp (2016), Nghiên

cứu một số đặc điểm sinh trưởng phát triển của hai dòng chè mới chọn

tạo CNS – 1.41 và CNS – 8.31 ở thời kỳ kiến thiết cơ bản tại Phú Hộ,

Phú Thọ. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn – tháng

12/2016, trang 174-179.

2. Trịnh Thị Kim Mỹ, Nguyễn Văn Thiệp, Lê Văn Đức (2019), Ảnh hưởng

của một số biện pháp kỹ thuật canh tác chủ yếu đến sinh trưởng hai

dòng chè mới CNS – 1.41 và CNS – 8.31 tại Phú Thọ. Tạp chí Khoa

học và công nghệ nông nghiệp Việt Nam 26 - số 6 - 2019.

3. Trịnh Thị Kim Mỹ, Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Hữu La (2019), Khả năng

cung cấp hom chè giống của hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31

tại Phú Hộ, Phú Thọ. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn số

20 – tháng 10/2019.

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng việt

1. Chu Xuân Ái (1988), “ Nghiên cứu quan hệ giữa đặc điểm hình thái, điều

kiện ngoại cảnh với năng suất chè”, Tập san Bộ Nông nghiệp và công nghệ

thực phẩm, số 8, 1988.

2. Nguyễn Thị Ngọc Bình, Nguyễn Văn Toàn (2007) Hiệu quả sử dụng

phân lân hữu cơ sinh học Sông gianh trong sản xuất chè an toàn. Tạp chí

khoa học và công nghệ nông nghiệp Việt Nam. Viện khoa học nông nghiệp

Việt Nam số 4 tr.96-100

3. Nguyễn Văn Chiến (2008), Hàm lượng các yếu tố dinh dưỡng, trung vi

lượng trong đất trồng chè và búp chè trên đất phiến thạch sét. Tạp chí khoa

học và công nghệ nông nghiệp Việt Nam số 1.

4. Cục BVTV (1995), phương pháp điều tra phát hiện sâu bệnh hại cây

trồng, Nxb nông nghiệp, Hà Nội.

5. Djemukhadze, 1982, Cây chè miền Bắc Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà

Nội.

6. Lê Văn Đức (1997) Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón, đất đai đến

hoạt động của bộ lá và năng suất chè Trung du Phú thọ. Luận án PTS khoa

học nông nghiệp. Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

7. Lê Văn Đức, Đỗ Thị Trâm, Nguyễn Văn Tạo (2004) Nghiên cứu kỹ thuật

đốn chè kiến thiết cơ bản giống LDP1 và LDP2, Tạp chí Nông nghiệp và

phát triển nông thôn, số 46 – tháng 10/2004.

8. Vũ Hữu Hào, Trịnh Văn Loan (1988) Nghiên cứu đặc tính sinh hóa búp

chè ở một số vùng chè chủ yếu. Tuyển tập công trình nghiên cứu cây công

nghiệp, cây ăn quả (1968-1988). NXB nông nghiệp Hà Nội.

9. Trần Xuân Hoàng (2016), Nghiên cứu giải phẫu lá, kỹ thuật phân bón,

thu hái cho giống chè PH8, PH10 để sản xuất nguyên liệu chế biến chè

152

xanh chè oolong tại Phú Hộ. Luận án tiến sỹ nông nghiệp, Viện Khoa học

nông nghiệp Việt Nam.

10. Cao Thị Huyền, Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Quang Duy (2012), Kết

quả nghiên cứu tuyển chọn dòng chè mới năng suất cao từ các dòng chè lai

cứu phôi ở điều kiện Phú Hộ, Phú Thọ. Tạp chí KH&CN nông nghiệp Việt

Nam, số 4 (34), 2012.

11. Lê Tất Khương (1997), Nghiên cứu đặc điểm của một số giống chè mới

trong điều kiện Bắc Thái và những biện pháp kỹ thuật canh tác hợp lý cho

những giống chè có triển vọng. Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Viện Khoa

học Nông nghiệp Việt Nam.

12. Nguyễn Hữu La (1998), “Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái của tập

đoàn giống chè Phú Hộ thời kỳ KTCB nhằm cung cấp vật liệu khởi đầu cho

công tác chọn giống mới”, Tuyển tập các công trình nghiên cứu về chè

(1988- 1997), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 407 – 408.

13. Nguyen Huu La (2016), Bón phân NPK đa yếu tố Văn Điển cho chè ở

Phú Thọ. Hội thảo quốc gia về khoa học cây trồng lần thứ 2, Cần Thơ 11-

12/8/2016, NXB Nông nghiệp, 1097-1101.

14. Lã Tuấn Nghĩa (2010), Báo cáo kết quả khoa học công nghệ đề tài

“Nghiên cứu chọn tạo giống chè, năng suất cao, chất lượng tốt nhờ chỉ thị

phân tử và công nghệ cứu phôi”. Viện khoa học nông nghiệp Việt Nam,

2010.

15. Phạm Kiến Nghiệp (1984) Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất

và chất lượng nguyên liệu chè vùng Bảo lộc –Lâm đồng. Tạp chí khoa học

kỹ thuật nông nghiệp số 10 NXB nông nghiệp Hà Nội.

16. Đinh Thị Ngọ (1996) Nghiên cứu ảnh hưởng của phân xanh, phân

khoáng đến sinh trưởng phát triển, năng suất chất lượng chè trên đất đỏ

153

vàng Phú Hộ Vĩnh Phú. Luận án tiến sỹ khoa học nông nghiệp.Viện KHKT

nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

17. Đỗ Văn Ngọc (1991), Ảnh hưởng của một số dạng đốn đến sinh trưởng

phát triển, năng suất chất lượng của cây chè trung du tuổi lớn ở Phú Hộ.

Luận án PTS Khoa học Nông nghiệp, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông

nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

18. Đỗ Văn Ngọc (2006) Nghiên cứu chọn tạo và nhân giống chè. Kết quả

nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ giai đoạn 2001-2005. Viện

KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. NXB nông nghiệp Hà Nội.

19. Đỗ Văn Ngọc, Trịnh Văn Loan (2008) Các biến đổi hóa sinh trong quá

trình chế biến và bảo quản chè. NXB nông nghiệp Hà Nội.

20. Đỗ Văn Ngọc, Nguyễn Thị Ngọc Bình (2009) Ảnh hưởng của kỹ thuật

hái đến sinh trưởng, năng suất chất lượng chè PVT, KAT. Kết quả nghiên

cứu khoa học và chuyển giao công nghệ giai đoạn 2006-2009. Viện KHKT

nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. NXB nông nghiệp Hà Nội.

21. Đỗ Văn Ngọc, Nguyễn Hữu La, Nguyễn Thị Minh Phương (2009) Kết

quả nghiên cứu giống chè giai đoạn 2006-2010. Kết quả nghiên cứu khoa

học và chuyển giao công nghệ giai đoạn 2006-2009. NXB nông nghiệp Hà

Nội.

22. Đỗ Văn Ngọc và CS (2010) Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài” Nghiên

cứu chọn tạo giống, xây dựng quy trình quản lý tổng hợp, nhằm phát triến

chè an toàn, phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”

23. Nguyễn Thị Minh Phương (2012), Đánh giá các giống bố mẹ và con lai,

phục vụ công tác chọn tạo giống chè chất lượng cao ở Việt Nam. Luận án

tiến sỹ nông nghiệp.

24. Nguyễn Thị Minh Phương, Phùng Lệ Quyên, Lê Thị Xuyên, Đỗ Thị

Hải Bằng (2016), Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng chè

154

được tạo ra bằng phương pháp đột biến trên giống Kim Tuyên tại Phú Hộ,

Phú Thọ. Hội thảo quốc gia về khoa học cây trồng lần thứ 2, Cần Thơ 11-

12/8/2016, NXB Nông nghiệp, 666-671.

25. Đỗ Ngọc Quỹ, Nguyễn Văn Niệm (1979), Kỹ thuật giâm cành chè, NXB

Nông nghiệp, Hà Nội.

26. Đỗ Ngọc Quỹ, Nguyễn Kim Phong (1997), Cây chè Việt nam. NXB

Nông nghiệp, Hà Nội.

27. Đỗ Ngọc Quỹ (1980), Trồng chè, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

28. Quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch chè, 10TCN 446:2001,

Bộ NN & PTNT ban hành, 2001.

29. Nguyễn Văn Tạo (1998) cơ sở khoa học một số biện pháp thâm canh tăng

năng suất chè. Tuyển tập các công trình nghiên cứu về chè (1988-1997).

NXB nông nghiệp Hà Nội.

30. Nguyễn Văn Tạo (2004), Tìm hiểu đặc điểm sinh học cành chè giống PH1

sinh trưởng tự nhiên. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn số

6/2004. Tr 851-853.

31. Đoàn Hùng Tiến, Trịnh Văn Loan (1996) Nghiên cứu đặc tính hóa sinh

và công nghệ chè của 2 dòng lai tạo LDP1, LDP2. Tạp chí hoạt động khoa

học, Phụ trương số 8 năm 1996.

32. Nguyễn Văn Thiệp (2000), Nghiên cứu cơ sở khoa học phòng trừ Rầy

xanh (Empoasca flavescens Fabr.) và Bọ trĩ (physothrip setiventris Bagn.)

hại chè vùng Phú Thọ. Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Viện KHNN VN,

2000.

33. Nguyễn Văn Thiệp, Inoue Kazumi (2006), Kết quả nghiên cứu kỹ thuật

nuôi cấy mô chè. Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ

giai đoạn 2001-2005, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, Tr 30-40.

155

34. Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Văn Tạo (2008), hệ số nhân giống từ các

vườn cây mẹ của hai giống chè mới Phúc Vân Tiên, Keo Am Tích trong

điều kiện Phú Hộ, Phú Thọ. Tạp chí nông nghiệp & Phát triển nông thôn,

2/2008. Tr 38-40

35. Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Văn Tạo (2008), Ảnh hưởng của liều lượng

và tỷ lệ phân khoáng bón thúc đến sinh trưởng cây chè giâm cành Phúc

Vân Tiên trong vườn ươm. Tạp chí khoa học đất Việt Nam, 2008.

36. Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Thị Thu Hà, Trịnh Thị Kim Mỹ, Cao Thị

Huyền (2012) Kết quả nghiên cứu tái sinh cây chè (camellia sinensis)

giống Shan chất tiền, từ phôi vô tính, bằng nuôi cấy mô. Tạp chí Khoa học

và công nghệ nông nghiệp Việt Nam, số 4(34) 2012.

37. Nguyễn Văn Thiệp (2016), Nghiên cứu chọn tạo giống chè năng suất,

chất lượng cao và khả năng chịu hạn tốt bằng chỉ thị phân tử. Báo cáo tổng

hợp kết quả khoa học công nghệ đề tài cấp nhà nước, Hà Nội 2016.

38. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 01-124:2013/BNNPTNT Khảo

nghiệm tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định của giống chè.

39. Tiêu chuẩn Quốc gia TCVN 3218-2012, Chè xác định các chỉ tiêu cảm

quan bằng phương pháp cho điểm.và xác định hàm lượng lá bánh tẻ theo

TCVN1053-86.

40. Nguyễn Văn Toàn (1994). Một số đặc điểm sinh trưởng phát triển các

biến chủng chè ở Phú Hộ và ứng dụng vào chọn tạo giống ở thời kỳ chè

con. Luận án PTS Nông nghiệp. Hà Nội.

41. Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn Loan (1994), Một số đặc điểm lá chè và ý

nghĩa của nó trong công tác chọn giống. Kết quả nghiên cứu khoa học và

triển khai công nghệ về cây chè (1989-1993). NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

Tr 33-46.

156

42. Nguyễn Văn Toàn (1998) Phương pháp nhân giống chè. Tuyển tập các

công trình nghiên cứu về chè 1988-1997. NXB nông nghiệp Hà Nội.

43. Nguyễn Văn Toàn, Trần Thị Lư, Nguyễn Văn Niệm (1998). Phương

pháp chọn giống chè. Tuyển tập các công trình nghiên cứu về chè 1988-

1997. NXB nông nghiệp Hà Nội.

44. Nguyễn Văn Toàn, Đỗ Văn Ngọc, Nguyễn Hữu La, Nguyễn Thị Minh

Phương (2015). Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống chè mới giai đoạn

2010-2015. Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ 10

năm (2006-2015).

45. Nguyễn Văn Toàn (2016), Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao

công nghệ của Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. Hội thảo

quốc gia về khoa học cây trồng lần thứ 2, Cần Thơ 11-12/8/2016, NXB

Nông nghiệp, 166-172.

46. Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám thống kê 2018. NXB Thống kê.

47. Trần Đức Trung, Lã Tuấn Nghĩa và cs (2009) Nghiên cứu đa dạng di

truyền bằng chỉ thị phân tử của các giống chè Việt Nam. Tạp chí Nông

nghiệp và phát triển nông thôn.

48. Vũ Ngọc Tú, Nguyễn Văn Toàn, Lê Tất Khương (2018), Nghiên cứu

ảnh hưởng của cây che bóng đến sự biến động của một số sâu hại chủ yếu

trên chè ở Phú Thọ. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam

- Số 12(97)/2018, 81-87.

49. Nguyễn Đình Vinh (2002), Nghiên cứu đặc điểm phân bố của bộ rễ cây

chè ở miền Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sỹ khoa học Nông nghiệp, Trường

Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.

Tiếng Anh

50. A Anjaneyulu and H Bhattacharjee (2019), Effect of combined

application of organic and inorganic fertilizers on yield and quality of

157

young

tea (Camellia sinensis (L.) O. Kuntze) interplanted in arecanut.

International Journal of Chemical Studies 2019; 7(1): 2027-2030.

51. Ambachew Zerfu Gebrewold (2018), Review on integrated nutrient

management of tea (Camellia sinensis L.), Food & Agriculture (2018), 4:

1543536, https://doi.org/10.1080/23311932.2018.1543536.

52. Anon (1986a), “The maintenance foliage”, in Tea Growers Handbook,

4th end, Tea Rereach Foundation of Kenya, Kericho, Kenya, pp. 81-82. 53. Anon (1986g), Vegetative propagation, in Tea Growers Handbook, 4th

edn, Tea Rereach Foundation of Kenya, Kericho, Kenya, pp, 50-59.

54. Anil Kumar Singh and Sunil Kumar Pathak (2018), Potassium in tea

(Camellia sinensis (L) O. Kuntze) cultivation from soil to cup quality - A

review. Agricultural Reviews, 39(1) 2018 : 40-47.

55. Barbora, B, C, (1996), Tea varieties for cultivation, The plenters

handbook, Tea research Association, Toklai.

56. Barua D,N (1989), Science and practice in tea culture, Tea Research

Association Calcutta - Jorhat, pp, 118 – 121.

57. Carr M. K.V (1972), The climatic requirements of tea plant, A review,

Experimetal Agricultue, 8, pp. 1-14.

58. Carr M.K.V. (2018), Advances in Tea Agronomy. Cambridge University

Press, United Kingdom, First published 2018, 454p.

59. Chakravartee, J, Hazarika, M, and Gogoi, D, (1986) Effect of soil pH

in callusing and root growth in nurseries, Two and Bub, 33 (1/2), pp, 29.

60. Chakravorty S. K. and washi R. C. (1981), Economic evaluation of

plant density, Two and Bud, 28 (2), pp, 32-34.

158

61. Chen Rong Bing (1995) Study on selection of new long tea strains with

rich aroma and high quality, Procecding of 95 International- quality-

62. Chenyu Chu, Jia Deng, Yi Man, and Yili Qu (2017), Green Tea

human heath symposium Shenghai China.

Extracts Epigallocatechin-3-gallate for Different Treatments. BioMed

Research International, Volume 2017, Article ID 5615647, 9 pages

63. Chia-Chang Wu (2015), Developing Situation of Tea Harvesting

Machines in Taiwan, Engineering, Technology & Applied Science

Research Vol. 5, No. 6, 2015, 871-875

64. Clarke K. A., Dew T.P., Watson R.E.B., Farrar M.D., Osman J.E., A.

Nicolaou, Rhodes L.E., G. Williamson (2016), Green tea catechins and

their metabolites in human skin before and after exposure to ultraviolet

radiation. Journal of Nutritional Biochemistry 27 (2016) 203–210

65. Denis Bonheure (1990), Tea, The Tropical Agriculturalist, Hong Kong.

66. Ding, L.; Gao, X.; Hu, J.; Yu, S. (2018), Epigallocatechin-3-gallate

attenuates anesthesia-induced memory deficit in young mice via

modulation of nitric oxide expression. Mol. Med. Rep. 2018, 18, 4813–

4820.

67. Dumur, D. and Naidu, S. N. (1985), “The effect of plucking round

length on green leaf production in tea”, Technical Bulletin, Ministry

of Agriculture, Fisheries and National Resources, Mauritius, 5, pp. 11-19.

68. Dunaway, S.; Odin, R.; Zhou, L.; Ji, L.; Zhang, Y.; Kadekaro, A.L.

(2018), Natural Antioxidants: Multiple Mechanisms to Protect Skin from

Solar Radiation. Front. Pharmacol. 2018, 9, 392.

69. Eden T, (1958), Tea, Longman, green and co London – New York –

Toronto.

70. FAOSTAT - data, (2019), http://www.fao.org/faostat/en/#data/QC

159

71. Fayaz Ahmad, F.S Hamid, Abdul Waheed, Qamar-uz-Zaman, Sohail

Aslam, Basharat Hussain Shah, Shamsul Islam, Sair Sarwar and Ijaz

Ali (2015), Grow performance of tea (Camellia sinensis L.) cultivars at

nursery stage. J. Agric. Res., 2015, 53(3).

72. Hamdi Zenginbal, Ayhan Haznedar, Elif Zenginbal (2014), Influence

of type cutting, IBA concentration and collection times on rooting of tea

(Camellia sinensis L.). Research in Plant Biology, 4(4): 01-08, 2014.

73. Hamdi Zenginbal, Ayhan Haznedar, Elif Zenginbal (2014), The Effect

of Different Treatments on Semi-Hardwood Cutting Propagated Tea

(Camelia sinensis L.) Clone. International Journal of Scientific and

Research Publications, Volume 4, Issue 6, June 2014.

74. Hamdi Zenginbal, Ayhan Haznedar, Elif Zenginbal (2014), Influence

of type cutting, IBA concentration and collection times on rooting of tea

(Camellia sinensis L.), Research in Plant Biology, 4(4): 01-08, 2014.

75. Hartmen H. J. and Kester O. E. (1988) Plan propagation principles and

practices, Prentice hall international Inc.

76. Hobman F.R. (1985), Effects of plant population and time to plucking

on the production and profitability of tea in Australia, Tropical Agriculture

(Trinidad) 62 (3), pp, 193-198.

77. Jie Li. M.Sc. Agron (2005), The effect of plant mineral nutrition on yield

and quality of green tea (Camellia sinensis L.) under field conditions.

Doctor Thesis, Kiel University, 2005.

78. Kaison Chang (2015), World tea production and trade Current and future

development. FAO Rome, 2015.

79. Kamau D.M., 2008. Productivity and resource use in ageing tea

plantations. PhD thesis Wageningen University, ISBN: 978-90-8504-808-

4.

160

80. Katsuyuki Yoshida, Akiko Ogino, Akiko Matsunaga, Le Van Duc,

Nguyen Le Thang and Atsushi Nesumi (2006), Genetic Diversity of the

Contents of Cafeine, Catechins, and Free Aminoacids in Tea Leaves

Collected from Northern Mountain Areas of Vietnam. Bulletin of the

National Institute of Vegetable and Tea Science, Japan No.5, Mar. 2006.

81. Kaundun S.S Matsumoto S., (2002) Heterologous nuclear and

chloroplast microsatellite amplyfication and variation in tea, camellia

sinensis. Genome, 2002 Dec; 45(6):1041-8.

82. Khaizurin Tajul Arifin, Jo Aan Goon (2019), Effect of Green Tea and Its

Polyphenols On the Lifespan of Model Organisms: A Systematic Review.

Journal of Applied Biological Sciences, 13(1): 46-54, 2019.

83. Kunbo Wang, Fang Liu, Zhonghua Liu, Jianan Huang, Zhongxi Xu,

Yinhua Li, Jinhua Chen, Yushun Gong & Xinghe Yang (2010),

“Analysis of chemical components in Oolong tea in relation to

perceived quality”, International Journal of Food Science & Technology,

45, 913 – 920.

84. La N.H., Toan N.V., Ha N.H. (2019). Results of selection process for

new tea line LCT1 by crossed breeding between Camellia sinensis var. Shan and Camellia sinensis var. Macrophylla. (P21-26; The 2nd Global Forum for

Directors of Tea Research Institutes in China 2019)

85. Liang Yuerong1, ShinYounghwan1, Zhang Longjie2, Wang Kairong2 (2019) “Tea Plant Breeding in China” (P34-35; The 2nd Global Forum for

Directors of Tea Research Institutes)

86. Lin Xinjiong, Guo Zhuan, Zhou Qinghui, Zhang Wenjin (1991),

“Effect of Fertilizing on the Yield and Quality of Oolong Tea”, Journal of

Tea Science-China.

161

87. Mani Iyer Prasanth, Bhagavathi Sundaram Sivamaruthi, Chaiyavat

Chaiyasut and Tewin Tencomnao (2019), A Review of the Role of Green

Tea (Camellia sinensis) in Antiphotoaging, Stress Resistance,

Neuroprotection, and Autophagy. Nutrients 2019, 11, 474.

88. Martin, M.A.; Goya, L.; Ramos, S. (2017), Protective effects of tea, red

wine and cocoa in diabetes. Evidences from human studies. Food Chem.

Toxicol. 2017, 109, 302–314.

89. Mohammed Enamul Hoque (2016), Effect of Indole Butyric Acid on

Raising Plants from Stem Cuttings of Tea (Camellia sinensis L.) in The

Nursery. The Agriculturists 14(2):124-129 (2016).

90. Mohammedsani Zakir (2017), Review on Tea (Camellia sinensis)

Research Achievements, Challenges and Future Prospective Including

Ethiopian Status. International Journal of Forestry and Horticulture (IJFH),

Vol. 3 (4), 2017, PP 27-39.

91. Mondal T.K. (2004), “Bioytechnological improvements of tea”.

http//www.isb.vt.edu/articles/augo403.htm.

92. M.K.V. Carr (2018), Advances in Tea Agronomy. University Printing

House, Cambridge CB2 8BS, United Kingdom, First published 2018, 454p.

93. Mukesh Kumar1 and Veena Chaudhary (2018), Effect of Integrated

Sources of Nutrients on Growth, Flowering, Yield and Soil Quality of

Floricultural Crops: A Review. Int. J. Curr. Microbiology and Applied

Sciences, ISSN: 2319-7706 Vol. 7(3) 2018.

94. Olusegun Olufemi Olubode, Sola Uthman Adekola, Sukurat Modupe

Idowu (2015), Evaluation of Flowering Pattern, Yield and Yield

Determinants of Hybrid Tea Rose in Response to Seasonal Variations and

Applied Organic Manure Rates. American Journal of Plant Sciences, 2015,

6, 464-482.

162

95. Patarava, B, D, (1987) Effect of temperature regime on the growth and

development of tea transplants, Subtropicheskie Kul’tury, (2), pp, 58 -60

96. Roberts G E and Keys A J (1978) Mechamism of photosynthesis in the

tea plant (camellia sinensis L). Journal of experimental Botany, 29, 1403-7

97. Rahman F, Dutta A. K, (1988), “Root growth in tea”. Journal of

plantation crops India 16, pp.31-37.

98. Roghieh Hajiboland (2017), Environmental and nutritional requirements

for tea cultivation. Folia Hort. 29/2 (2017): 199-220.

99. Ronald Kawooya, Venansio Tumwine, Vivian Namutebi, Charles

Mugisa, Racheal Naluugo and Robert Kajobe (2015), Tea research in

the year 2015 in Uganda: An overview. African Journal of Agricultural

Science and Technology (AJAST), Vol. 3, Issue 12, pp. 505-513.

December, 2015.

100. RUAN Li, WEI Kang, WANG Liyuan, CHENG Hao, WU Liyun,

LI Hailin (2019). Characteristics of Free Amino Acids under Spatial

Heterogeneity of Difererent Nitrogen Forms in Tea (Camellia sinensis)

Plants. P117-119; The 2nd Global Forum for Directors of Tea Research

Institutes.

101. RUAN Jian-yun, WU Xun (2003), “Productivity and Quality

Response of Tea to Balanced Nutrient Management Including K and

Mg”, Journal of Tea Science - China, S1, 125 - 129.

102. Ruan Jianyun, Wu Xun, Hardter (1997), “Effects of Potassium and

Magnesium on the Y ield and Quality of Oolong Tea”, Journal of Tea

Science-China, 1997 -01. -.93.

103. Shama V.S. and Satyanarayana N. (1994) Pruning and Harvesting

Practices in Relation to Tea Productivity in South India. Proceedings of the

163

International Seminar on “Intergrated Crop Management in Tea: Towards

Higher Productivity”, Colombo, Sri Lanka, April 26-27, 1994, p99-112.

104. S . Jayaganesh, S. Venkatesan (2010), “Impact of magnesium

sulphate on biochemical and quality constituents of black tea”, American

Journal of Food Technology, 5(1): 31 – 39.

105. Saharia, U.K. and Bezbaruah, H.P. (1984), “Effect of timing of

fertilizer application on flowering and seed-setting of tea seed trees in N.

E. India”, Two and a Bud, 31 (2), pp. 12 -13.

106. Seyed Babak Salvatian, Farshad Soheili-fard, Koorosh Majd

Salimi, 2014. Effect of mechanical plucking height on tea green leaf yield

and its quality. Int J Adv Biol Biom Res., 2 (5): 1582-1592.

107. Shahram Sedaghathoor, Ali Mohammadi Torkashvand, Davood

Hashemabadi and Behzad Kaviani (2009), “Yield and quality response

of tea plant to fertilizers”, African Journal of Agricultural Research, Vol. 4

(6), pp. 568-570, June.

108. S. Mondal and M. Mitra Sarkar (2017), Influence of Plant Growth

Regulators Influence of Plant Growth Regulators on Growth, Flowering

and Yield Characteristics of Hybrid Tea Rose cv. Bugatti during Spring-

Summer Months. Advances in Research, 12(6): 1-7, 2017.

109. Seyed Babak Salvatian, Farshad Soheili-fard, Koorosh Majd

Salimi (2014), Effect of mechanical plucking height on tea green leaf yield

and its quality. Int J Adv Biol Biom Res. 2014; 2(5):1582-1592.

110. S.R.W. Pathiranage, M.A. Wijeratne1 and W.A.J.M. De Costa

(2016), Physiological Aspects Governing Yield Variation Under Manual

and Mechanical Harvesting of Clonal Tea. 6th Sypmosium on Plantation

Crop Research in Sri Lanka, Conference Paper, November 2016.

164

111. Su Kongwu, Li Jinlan (2005), “Analysis of the experimental effect

of applying potash fertilizer on tea garden”, Tea communication, vol.32,

no.4

112. Squier (1979) Weather physiology and seasonality of tea in Mallawi.

Experimental agriculture 16. 126p.

113. Tanton T.W. (1981a), “Growth and yield of the tea bush”.

Experinetal Agriculture, 17, pp. 323-331.

114. Teshome M Endale T Tesfaye S Melaku A (2016), Effects of Various

Rooting Media on Survival and Growth of Tea(Camellia sinensis L.) Stem

Cuttings at Jimma. Journal of Biology, Agriculture and Healthcare, Vol.6,

No.3, 2016.

115. Nguyen Van Thiep, Nguyen Thi Thu Ha and Trinh Thi Kim My

(2015), Eveluating characteristics related to drought tolerence in tea

genetic resources as the basis to select new tea clone with drought

resistance. J. of Agr. Technology 2015 Vol. 11(8): 2239-2248.

116. Tu Vu Ngoc and Toan Nguyen Van (2017), Effects of Microbial

Organic Fertilizer and Mulch to Population

and Bioactivity of Beneficial Microorganisms in Tea Soil in Phu

Tho, Viet Nam. J. of Agr. Technology 2017 Vol. 13(4): 469-484.

117. Uchida K., Ogawa K. and Yanase E. (2016), Structure

Determination of Novel Oxidation Products from Epicatechin:

Thearubigin-Like Molecules. Molecules 21(3), March 2016.

118. WANG Lei, HUANG Tingting, LIU Qiufeng, BAI Xianli, WANG

Zhiping, PANG Yuelan (2019). The Influence of Foliar Fertilization on

Growth and Quality of Tea Leaves and on Machine-Plucking. P65-66; The

2nd Global Forum for Directors of Tea Research Institutes.zz

165

119. Willson K.C. & M.N. Clifford, 1992. Tea: cultivation to

consumption. Chapman & Hall, London, 1992, p. 55-56.

120. Wen-Yan Han, Xin Li, Golam Jalal Ahammed (2018), Stress

Physiology of Tea in the Face of Climate Change. ISBN 978-981-13-2139-

9 ISBN 978-981-13-2140-5 (eBook), Springer Nature Singapore Pte Ltd.

2018, 361p.

121. World green tea Association (2019), Cultivation of Japanese Green

Tea, accessed on May 20th 2019. Availaible from: http://www.o-

cha.net/english/cup/pdf/14.pdf.

Xiong, L.G.; Chen, Y.J.; Tong, J.W.; Gong, Y.S.; Huang, J.A.; 122.

Liu, Z.H. (2018), Epigallocatechin-3-gallate promotes healthy lifespan

through mitohormesis during early-to-mid adulthood in Caenorhabditis

elegans. Redox Biol. 2018, 14, 305–315.

123. Xu Fu-le, Li Dan-nan (2006), “Effect of Bioorganic fertilizer

and special fertilizer application on tea bush”, Acta Agricultural Jiangxi,

18(5): 39 – 41.

124. Ya-Dong SHAO, De-Jian ZHANG, Xian-Chun HU, Qiang-Sheng

WU, Chang-Jun JIANG, Ting-Jun XIA, Xiu-Bing GAO, Kamil KUČA

(2018), Mycorrhiza-induced changes in root growth and nutrient

absorption of tea plants. Plant Soil Environ. Vol. 64, 2018, No. 6: 283–289

125. Yumen Hilal (2017), Morphology, Manufacturing, Types,

Composition and Medicinal Properties of Tea (Camellia sinensis). J Bas

Appl Pl Sci, Vol. 1. Issue. 2. 36000107.

126. Zhang Wenjin, Yang Ruxin, Chen Changsong, Zhang Yinggen

(2000), “Effect of fertilizer on productivity and quality of Tie Guanyin

Oolong tea”, Fujian Journal of Agicultural Science - China, 2000-3.

166

127. Zheng-He Lin, Yi-Ping Qi, Rong-Bing Chen, Fang-Zhou Zhang,

Li-Song Chen (2012), “Effects of phosphorus supply on the quality of

green tea”, Food chemistry, Volume 130, Issue 4, 15 February, Pages

908-914 (Abstract).

Tài liệu tiếng Nga

128. Aзизбekян C.Г Дoмaш B.И (2015). Haноплaнт –новоe

oтечеcтвeнноe микpoyдoбрениe. Hашe ceльcкoe xoзяйcтвo.

Aгроxимия 07.2015.

129. Aзизбekян C.Г Дoмaш B.И (2015). Haноплaнт –новоe

oтечеcтвeнноe микpoyдoбрениe. Hашe ceльcкoe xoзяйcтвo.

Aгроxимия 09. 2015.

130. Баxтaдзe K.E (1940) Meтoд гибpидизaции в сopтoвoдствe чая

Бюллетень ВНИИЧ и СК № 4

131. Бахтадзе К.Е (1948), Биология селекция и семеноводство чайного

растения Москва.

132. Баxтaдзe K.E (1971). Биoлoґичecкиe ocнoвы культуры чайного

pacтeния. Tбилиcи. cmp. 81-85

133. Бзиава M (1973) Yдобpeниe Cyбтропических культур Изд.

“сабчота сакартвело” Тбилси, cmp. 132-166

134. Бокучава М А, (1958), Биохимия чая и чайного производства, Из.

Акадeмии Наук СССР, Москва, cmp. 44-50

135. Гогия В. Т (1984), Биохимия Cyбтропических растений Москва

“Колос” cmp. 14-18

136. Дараселия М К, Воронцов В В, Гвасалия В П, Цанава В

П(1989), Культура чая в СССР, Мецниереба Тбилиси .

cmp. 140-142

167

137. Джемухадзе К М. (1954), Физиология виногpaдa и чая.

Физиология сельскового хозайства растений Т9 cmp.593-613

138. Джемухадзе К.М Шальнева Г.А. Милешка Л Ф (1957)

Биохимия № 22 стр. 888

139. Запрометов М Н (1964) Биохимия катехинов. Изд. наука

Москва cmp 25-30

140. Кварацхелия Т K (1959) Чаеводство. Москва “Колос” cmp.187

141. Кeркадзе И.Г.(1980), Отбор формы чая генетическими маркерами

и значение их селекционое, Субтропические культуры. № 2

cmp.72-75

142. Myтовкина Т. Д (1978), Нoвые перспективные сорта клоны чая.

Cyбтропические культуры № 2-3 cmp. 105-107

143. Рубин Б А, (1970), Физиология виногpaдa и чая. Физиология

сельскохозайства растений Т9 Издательство М.

Университета.cmp.550-560

144. Цоциашвили И. И. Бокучава М.А. (1989), Химия и технология

чая.

М. “Агропромиздат” cmp. 182-185

145. Чхайдзе Г И. Киpия M.Б (1985). Pезультaты изyчeния кopнeвoй

cиcтeмы ceлeкциoнныx copтoв пoпyляций чая. Cyб.культуры № 3

cmp.57-64

168

PHẦN PHỤ LỤC Bảng 1. Một số chỉ tiêu khí hậu thời tiết tại Phú Hộ, Phú Thọ

(Năm 2015 – 2018)

Nhiệt Độ Nhiệt Nhiệt Độ ẩm Tổng độ ẩm Tổng độ tối độ tối lượng tối trung trung giờ nắng Tháng cao thấp mưa thấp bình bình tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng (0.1h) 0.1C 0.1C (0.1mm) % 0.1 %

17,4 22,8 12,9 86,3 46,2 58,9 59,8 1

17,3 23,8 13,2 80,2 49,0 21,5 54,5 2

21,3 26,5 17,1 85,0 54,7 62,5 59,0 3

24,0 30,5 20,2 84,0 71,0 118,3 61,3 4

28,0 33,5 23,1 81,0 179,3 185,8 56,1 5

29,3 35,5 25,1 79,8 169,0 209,1 54,8 6

28,6 34,7 25,2 83,5 163,0 310,5 65,0 7

28,1 33,8 24,9 86,3 150,0 429,3 64,8 8

27,7 33,1 24,3 85,2 149,1 171,3 52,9 9

25,0 30,4 20,9 84,5 107,0 198,0 64,3 10

22,3 28,4 17,8 85,7 107,3 94,7 61,3 11

61,6 19,4 25,4 15,2 82,7 81,4 107,8 12

169

Bảng 2. Một số chỉ tiêu khí hậu thời tiết tại Yên Sơn, Tuyên Quang

(Năm 2016 – 2019)

Nhiệt độ 16,7 16,95 20,6 25,6 27,15 29,7 28,95 27,95 27,45 26,3 22,0 20,0 Độ ẩm 87,0 80,5 84,5 84,0 80,5 77,5 81,5 85,5 84,5 72,5 83,0 85,0 Lượng mưa 45,0 16,5 30,5 141,0 205,5 129,0 325,5 239,5 101,0 82,0 40,0 43,0 Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Bảng 3. Một số chỉ tiêu khí hậu thời tiết tại Văn Chấn, Yên Bái

(Năm 2015 – 2019)

Tháng

Nhiệt độ tối cao tháng 0.1C Nhiệt độ tối thấp tháng 0.1C Độ ẩm trung bình tháng % Độ ẩm tối thấp tháng % Tổng giờ nắng tháng (0.1h) Tổng lượng mưa tháng (0.1mm)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Nhiệt độ trung bình tháng 0.1 17,42 17,3 21,27 24,0 27,97 29,27 28,64 28,14 27,7 24,99 22,29 19,4 22,77 23,85 26,52 30,55 33,55 35,5 34,69 33,79 33,14 30,44 28,42 25,42 12,87 13,24 17,15 20,25 23,1 25,07 25,24 24,87 24,27 20,9 17,8 15,24 86,34 80,17 85,0 84,0 81,0 79,84 83,5 86,34 85,22 84,5 85,67 82,67 58,86 46,2 59,85 21,52 49,0 54,5 62,54 54,7 59,0 118,25 71,0 61,35 185,84 179,35 56,15 209,14 169,0 54,85 310,5 163,0 65,0 64,85 429,27 150,0 52,95 149,115 171,35 198,02 107,0 64,35 94,72 107,3 61,35 107,85 81,4 61,6

170

Bảng 4. Thành phần dinh dưỡng chính có trong đất

ở các địa điểm nghiên cứu

Chỉ tiêu dinh dưỡng chính

Thành phần Cấp hạt

Cát thô Cát Limon Sét

Ký hiệu pH OM N P K (2,0 – mịn (0,02 – (<0,00

(KCL) (%) (%) (%) (%) 0,2mm) (2,0 – 0,002m 2mm)

0,2m m)

m)

Liên Sơn 4,17 3,13 0,140 0,0378 0,140 10,19 15,81 42,0 32,0

(YB)

Tuyên Quang 3,73 1,23 0,084 0,1017 0,015 7,86 15,74 13,6 62,8

Phú Hộ 4,15 2,36 0,140 0,1120 0,140 7,37 14,23 42,2 36,2

Bảng 5: Thành phần hóa học chủ yếu trong chè xanh các dòng/giống chè

HC

Axit Đạm Vitamin thơm Poly Chất Catechin Giống Tanin amin Cafein TS C TS phenol hòa tan TS chè (%) TS (%) (%) (mg/ (ml / TS (%) (mg/g) (%) (%) 100g) 100g

CK)

CNS-1.41 25,51 42,43 2,45 145,75 2,59 4,86 16,72 47,07 17,98

CNS-8.31 24,47 43,28 2,56 137,12 2,21 4,98 22,04 49,02 20,14

146,93 2,90 5,06 22,90 42,27 19,45 LDP1 (đ/c) 28,72 42,57 1,54

171

Bảng 6:Thành phần hóa học chủ yếu trong chè đen của các dòng chè

Chỉ tiêu phân tích

Dòng/giống

Axit-

Đường

Tanin CHT

Catechin

TF

TR TF/TR

amin

khử

CNS-1.41

14,08 36,27

0,79

72,96

1,53

0,75 18,46

24

CNS-8.31

14,35 37,55

1,25

74,05

1,45

0,83 19,21

23

14,27 34,55

1,29

73,28

1,16

0,46 18,32

39

LDP1(đ/c)

Bảng 7: Chất lượng cảm quan chè xanh các dòng/giống chè ở Phú Hộ

năm 2015-2017

Ngoại hình Màu nước Hương Vị

Tên dòng Tổng điểm Xếp loại Mô tả Điểm Điểm Điểm Điểm Mô tả Mô tả Mô tả

CNS-1.41 4,31 4,08 4,04 4,00 16,43 Khá Thơm nhẹ Chát đậm dịu

Xanh vàng sáng, hơi loãng

CNS-8.31 4,51 4,46 4,43 4,54 17,94 Khá Xanh sáng

Thơm nhẹ đặc trưng Đậm dịu, có hậu

Nhỏ xoăn non xanh, hơi vụn Xanh đen, nhỏ cánh, thoáng tuyết

4,00 4,00 4,00 3,76 15,76 Khá LDP1 (đ/c) Thơm nhẹ Đậm dịu

Xoăn đều. màu xanh Xanh vàng sáng, hơi loãng

172

Bảng 8: Chất lượng cảm quan chè đen các dòng/giống chè ở Phú Hộ

năm 2015-2017

Ngoại hình

Màu nước

Hương

Vị

Tổng

Xếp

Dòng

điểm

loại

Mô tả Điểm Mô tả Điểm Mô tả Điểm Mô tả Điểm

Đỏ

sáng,

Thơm

Chát dịu

Nâu đen

hơi

đặc

CNS-

4,30

4.30

4,40

ngọt, hơi

4,5 17,50 Khá

hơi thô

loãng có

trưng,

1.41

ngái

viền

hơi ngái

vàng

Đỏ nâu

Thơm

Xoăn,

sáng

Chát

đặc

non,

CNS-

nâu

4,70

sánh, có

4,80

trưng,

4,60

đậm, dịu,

4,60 18,60 Tốt

8.31

viền

có hậu

hương

đen,đều

vàng

héo

cánh

Đỏ nâu

sáng,

Xoăn

Thơm

hơi

non,nâu

Chát dịu

Khá

4,50

4,50

đặc trưng

4,30

4,30 17,60

LDP1

loãng,

đen ,khá

hơi ngái

nhẹ

có viền

đều

vàng

173

Hình 1. Vườn khảo nghiệm sản xuất tại Phú Hộ, Phú Thọ

174

Hình 2. Vườn khảo nghiệm sản xuất tại Tuyên Quang

175

Hình 3. Vườn khảo nghiệm sản xuất tại Yên Bái

A- Đang trồng B- Vườn chè 5 tuổi