BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TRỊNH THỊ KIM MỸ
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NÔNG SINH HỌC VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT ĐỂ PHÁT TRIỂN HAI DÒNG CHÈ CNS-1.41, CNS-8.31 TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 9620110
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TRỊNH THỊ KIM MỸ
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NÔNG SINH HỌC VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT ĐỂ PHÁT TRIỂN HAI DÒNG CHÈ CNS-1.41, CNS-8.31 TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 9620110
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Nguyễn Hữu La
2. TS. Lê Văn Đức
HÀ NỘI – 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng toàn bộ số liệu và kết quả trong luận án này là
hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố tại bất kỳ một công trình
nghiên cứu nào.
Tác giả luận án
NCS. Trịnh Thị Kim Mỹ
ii
LỜI CẢM ƠN
Công trình nghiên cứu này đã được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt
tình của tập thể thầy hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Hữu La, Phó Viện
trưởng, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. TS Lê
Văn Đức, Phó Cục trưởng, Cục trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn. Từ đáy lòng mình, tôi vô cùng biết ơn sự giúp đỡ quý báu, chân
tình đối với tập thể hướng dẫn khoa học.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo Viện cùng các đồng
nghiệp tại Bộ môn Công nghệ sinh học và bảo vệ thực vật – Viện Khoa học
kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. Tôi vô cùng biết ơn các thầy,
cô, Ban đào tạo sau Đại học, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã giúp
đỡ và cung cấp cho tôi những kiến thưc mới nhất liên quan đến chuyên
ngành nghiên cứu của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành TS. Nguyễn Văn Thiệp,
Trưởng Bộ môn CNSH & BVTV đã cung cấp nguồn vật liệu thí nghiệm là
các giống chè ưu thế lai mới CNS - 1.41 và CNS – 8.31 cũng như đã tận tình
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực nghiệm để có được kết quả
như hiện nay.
Tôi cũng cảm ơn sự giúp đỡ của Công ty cổ phần chè Liên Sơn, Văn
Chấn, Yên Bái, Công ty cổ phần chè Sông Lô, Yên Sơn, Tuyên Quang, các
đơn vị khác tạo điều kiện về địa điểm triển khai các thí nghiệm cho tôi.
Cuối cùng cho phép tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới các thành viên
trong gia đình tôi đã luôn động viên, tiếp sức mạnh và nghị lực để tôi hoàn
thành tốt nhất trong công trình nghiên cứu này.
Tác giả luận án
NCS. Trịnh Thị Kim Mỹ
iii
DANH MỤC VIẾT TẮT
Acid deoxyribo nuleic Amplified fragment length Polymorphism Bachelor Bảo vệ thực vật Chất hòa tan Cộng sự Công thức Cộng tác viên Đối chứng Đường kính Hồ Nam ᵝ - indol - acetic acid Indolezbutyric acid potassium Marker and their application in plant genetics Kiến thiết cơ bản Kim Tuyên Naphthalene acetic acid Năng suất thực thu Nhà xuất bản Organic matter Phase altermative line Pheny boronic acid Plant growth regulators Secondary Surveilance radar Sản xuất kinh doanh Trans - cinamic acid Tiêu chuẩn ngành Tiêu chuẩn Việt Nam Trung Du Thidiazuron Theaflavins Thành phố Tetra phenylboron Thearubigins Random Amplified Polymorphic Restriction fragment Length Polymorphism Epigallocatechin gallate Reactive Oxygen Species Reactive nitrogen species ADN AFLP BA BVTV CHT CS CT CTV ĐC ĐK HN IAA IBA ISSR KTCB KT NAA NSTT NXB OM PAL PBOA PGRs SSR SXKD T-ca TCN TCVN TD TDZ TF TP TPB TR RAPD RFLD EGCG ROS RNS
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. ii LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i DANH MỤC VIẾT TẮT ................................................................................. iii MỤC LỤC ....................................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ iii DANH MỤC HÌNH ......................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1 Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 1 2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 3 2.1 Mục tiêu tổng quát ................................................................................... 3 2.2 Mục tiêu cụ thể ......................................................................................... 3 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................. 3 3.1 Ý nghĩa khoa học ...................................................................................... 3 3.2 Ý nghĩa thực tiễn ...................................................................................... 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 4 4.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 4 4.3. Thời gian nghiên cứu .................................................................................. 4 5. Những đóng góp mới của đề tài. .................................................................... 4
CHƯƠNG I ...................................................................................................... 6 TỔNG QUAN TÀI LIỆU CỦA ĐỀ TÀI ......................................................... 6 1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI .......................................................... 6 1.1.1. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của các dòng, giống chè. .................. 6
1.1.2. Những biện pháp kỹ thuật chủ yếu đối với cây chè ............................. 7
1.2. Tình hình nghiên cứu về chè trên thế giới ............................................ 11
1.2.1. Nghiên cứu về giống chè trên thế giới .................................................. 11
1.2.2. Ứng dụng công nghệ chỉ thị phân tử và nuôi cấy cứu phôi trong chọn
tạo giống chè trên thế giới .............................................................................. 13
1.2.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học của cây chè ................................ 15
1.2.4. Tình hình nghiên cứu kỹ thuật canh tác chè trên thế giới ................ 18
v
1.3. Nghiên cứu về chè ở Việt Nam .............................................................. 37 1.3.1. Nghiên cứu về giống ............................................................................ 37
1.3.2. Tình hình nghiên cứu đặc điểm sinh vật học của cây chè Việt Nam .. 39
1.3.3. Những nghiên cứu về nhân giống vô tính chè ở Việt Nam ................ 42
1.3.4. Nghiên cứu về đặc tính chất lượng nguyên liệu búp chè ................... 44
1.3.5. Nghiên cứu về một số biện pháp kỹ thuật canh tác chè trong giai
đoạn kiến thiết cơ bản ở Việt Nam ................................................................ 45
1.4. Những nhận định về tổng quan của nghiên cứu .................................... 51 CHƯƠNG II ................................................................................................... 53 VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 53
2.1. Vật liệu nghiên cứu ............................................................................. 53 2.1.1. Giống chè .............................................................................................. 53
2.1.2. Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật .......................................................... 54
2.1.3. Thiết bị, dụng cụ thí nghiệm ................................................................ 54
2.2. Nội dung nghiên cứu............................................................................... 55 2.2.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của hai dòng chè mới
CNS-1.41 và CNS-8.31 ................................................................................... 55
2.2.2. Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu phát triển hai dòng 55
2.3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 56 2.3.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của hai dòng chè mới
CNS-1.41 và CNS-8.31. .................................................................................. 56
2.3.2.Phương pháp nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác hai dòng
chè CNS-1.41 và CNS-8.31. ............................................................................ 59
2.4. Phương pháp xử lý số liệu ....................................................................... 65 CHƯƠNG III .................................................................................................. 66 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .............................................. 66 3.1. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của hai dòng chè mới CNS-1.41 và
CNS-8.31. ........................................................................................................ 66 3.1.1. Đặc điểm hình thái hai dòng chè nghiên cứu ...................................... 66
vi
3.1.2. Nghiên cứu sinh trưởng hai dòng chè CNS -1.41 và CNS - 8.31. ....... 75
3.1.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng chè ........ 84
3.1.4. Nghiên cứu chất lượng của hai dòng chè mới .................................... 85
3.1.5. Khả năng sống sót của cây con sau trồng ở điều kiện tự nhiên .......... 93
3.1.6. Đánh giá khả năng nhiễm một số loài sâu hại chủ yếu ....................... 94
3.2. Nghiên cứu một số biện pháp canh tác chủ yếu phát triển 2 dòng chè giai đoạn kiến thiết cơ bản ............................................................................. 96
3.2.1. Nghiên cứu mật độ và phương thức trồng hai dòng chè mới ............. 96
3.2.2. Nghiên cứu kỹ thuật đốn tạo hình hai dòng chè CNS-1.41, CNS-8.31
giai đoạn KTCB ............................................................................................ 108
3.2.3. Nghiên cứu kỹ thuật hái đối với hai dòng chè CNS-1.41, CNS-8.31 113
3.2.4. Nghiên cứu liều lượng phân bón N, P, K cho hai dòng chè CNS – 1.41
và CNS – 8.31 ................................................................................................ 117
3.2.5. Nghiên cứu nhân giống vô tính hai dòng chè CNS- 1.41, CNS........123
3.3. Khảo nghiệm hai dòng chè mới ............................................................ 141 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .......................................................................... 146 1.Kết luận ...................................................................................................... 146 2.Đề nghị ....................................................................................................... 149 CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ .......................................................... 150 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 151 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 151
vii
Bảng 3.1: Đặc điểm hình thái lá các dòng /giống chè ....................................... 66
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.2. Kích thước lá các dòng/giống chè nghiên cứu .................................. 69 Bảng 3.3. Một số đặc điểm búp các dòng/giống chè nghiên cứu ....................... 71 Bảng 3.4. Đặc điểm hom chè giống và sản lượng hom chè của 2 dòng chè CNS- 141 và CNS-831 tuổi 3 tại Phú Hộ ................................................................... 73 Bảng 3.5. Đặc điểm sinh trưởng thân cành của các dòng/giống chè ................. 75
Bảng 3.6. Đặc điểm sinh trưởng các dòng/giống chè ........................................ 79 Bảng 3.7. Đặc điểm sinh trưởng các dòng/giống chè ........................................ 80
Bảng 3.8. Thời gian các đợt sinh trưởng búp của hai dòng chè ........................ 82 Bảng 3.9. Tốc độ tăng trưởng chiều dài búp của hai dòng chè .......................... 83 Bảng 3.10. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các dòng chè....... 84 Bảng 3.11. Thành phần cơ giới búp chè 1 tôm 3 lá của các dòng/giống chè ở Phú Hộ, 2017 .......................................................................................................... 86 Bảng 3.12: Thành phần hóa học chủ yếu trong chè xanh .................................. 88 Bảng 3.13:Thành phần hóa học chủ yếu trong chè đen của các dòng chè ......... 90 Bảng 3.14: Chất lượng cảm quan chè xanh các dòng/giống chè ....................... 91 Bảng 3.15: Chất lượng cảm quan chè đen các dòng/giống chè ở Phú Hộ.......... 93 Bảng 3.16: Tỷ lệ sống của cây sau trồng ở điều kiện tự nhiên ......................... 94 Bảng 3.17. Tình hình một số sâu hại chính trên hai dòng chè ........................... 95 Bảng 3.18. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của dòng chè CNS- 1.41 tuổi 1 ở Phú Hộ ........................................................................................ 97
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của dòng chè CNS- 8.31 tuổi 1 ở Phú Hộ ........................................................................................ 98 Bảng 3.20: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng phát triển hai dòng chè CNS – 1.41, CNS – 8.31 tuổi 3 ...................................................................... 100 Bảng 3.21. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của hai dòng chè mới tuổi 3 ở Phú Hộ, 2018 .................................. 102 Bảng 3.22. Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng của dòng chè CNS- 1.41 tuổi 2 tại Phú Thọ ................................................................................... 108
viii
Bảng 3.23: Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS - 1.41, CNS – 8.31 tuổi 3 tại Phú Thọ ................................................................................ 114 Bảng 3.24: Ảnh hưởng của lượng phân bón đến sinh trưởng và năng suất cho dòng chè CNS-1.41 tuổi 3 tại Phú Thọ, 2018 ................................................. 118 Bảng 3.25. Hiệu quả kinh tế của thí nghiệm bón phân đối với các dòng chè CNS-141 và CNS-831 tuổi 3 tại Phú Hộ, 2018 ............................................... 122 Bảng 3.26. Sản lượng hom giống các dòng chè CNS-141 và CNS-831 .......... 124
Bảng 3.27. Sinh trưởng của cành chè giống của 2 dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31 tuổi 3 tại Phú Hộ .................................................................................. 126 Bảng 3.28. Tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ nảy mầm loại hom hai dòng chè ...................... 128
Bảng 3.29. Sinh trưởng cây chè ươm từ một số loại hom của hai dòng chè tại Phú Hộ, 2018, sau ươm 10 tháng .................................................................... 130 Bảng 3.30. Sinh trưởng cây chè ươm ở một số thời vụ tại Phú Hộ ................. 136 Bảng 3.31. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các năm 2016-2019 hai dòng chè mới tại Phú Hộ, Phú Thọ. ........................................ 141 Bảng 3.32. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các năm 2016- 2019 hai dòng chè mới tại Yên Sơn, Tuyên Quang ........................................ 143 Bảng 3.33. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các năm 2016- 2019 hai dòng chè mới tại Văn Chấn, Yên Bái ............................................... 144
ix
Hình 3.1. Lá chè ............................................................................................... 67
DANH MỤC HÌNH
Hình 3.2. Búp chè ............................................................................................ 72 Hình 3.3. Cành hom chè ................................................................................... 74 Hình 3.4. Vườn hom giống ............................................................................... 74 Hình 3.5. Cây chè con ...................................................................................... 78 Hình 3.6. Phân cành thấp và nhiều, làm cho tán chè nhanh lớn và rộng ............ 78
Hình 3.7. Một số sâu hại chính trên hai dòng chè mới tại Phú Hộ .................... 95 Hình 3.8. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của CT3 tuổi 1 ........... 99
Hình 3.9. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng MĐ3 tuổi 3 .............. 101 Hình 3.10. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất 2 dòng chè ................ 103 Hình 3.11 . Thí nghiệm mật độ trồng.............................................................. 107 Hình 3.12 . Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng dòng ...................... 109 Hình 3.13. Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng dòng ....................... 110 Hình 3.14. Chè 1 năm tuổi đủ tiêu chuẩn đốn ................................................. 112 Hình 3.15. Cây chè phát triển cành, tạo tán mới sau đốn ................................ 113 Hình 3.16. Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS – 1.41….115 Hình 3.17. Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS – 8.31….116 Hình 3.18. Ảnh hưởng liều lượng phân bón đến năng suất hai dòng chè ........ 120 Hình 3.19. Hom chè giống ............................................................................. 125 Hình 3.20. Ảnh hưởng của loại hom đến tỷ lệ xuất vườn của dòng/giống....... 134 Hình 3.21. Ảnh hưởng của thời vụ đến tỷ lệ xuất vườn của dòng/giống ......... 139
Hình 3.22. Thí nghiệm giâm hom ................................................................... 140
1
MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Chè là cây công nghiệp lâu năm, có nhiệm kỳ kinh tế từ 30 - 40 năm
và có thể còn lâu hơn nữa. Cây chè thích hợp với khí hậu, đất đai ở vùng
trung du và miền núi, được trồng ở 34 tỉnh thành trên cả nước, tạo công ăn
việc làm và nguồn lợi đáng kể cho trên 6 triệu lao động ở các vùng chè. Trồng
chè còn có vai trò to lớn trong việc phủ xanh đất trống đồi núi trọc, giảm thiểu
xói mòn. Do ý nghĩa về kinh tế, xã hội và môi trường mà cây chè đã có vị trí
quan trọng trong cơ cấu cây trồng của các tỉnh Trung du miền núi. Cây chè đã
và đang là cây trồng chủ lực ở nhiều tỉnh miền núi phía Bắc.
Được sự quan tâm của nhà nước, nỗ lực của người sản xuất và doanh
nghiệp trong những năm gần đây sản xuất chè phát triển theo hướng thay thế
giống chè mới năng suất cao, chất lượng tốt, đẩy mạnh thâm canh, tăng năng
suất và đa dạng hóa sản phẩm. Tính đến năm 2017 diện tích chè cho thu
hoạch cả nước đạt trên 123.188 ha, sản xuất 260 nghìn tấn chè khô
(FAOSAT, 2019) [70], năm 2018, diện tích chè cả nước là 123,7 ngàn ha, sản
lượng đạt 987,3 ngàn tấn búp chè tươi, chỉ số phát triển sản lượng so với năm
2017 là 101,6% (Niên giám thống kê Việt Nam, 2018) [46]. Mặc dù năng suất
đạt mức năng suất bình quân của thế giới, nhưng giá trị sản xuất chè còn thấp.
Giá bán bình quân chỉ bằng khoảng 60% giá chè của thế giới. Trong đó chưa
có nhiều giống tốt năng suất và chất lượng cao cũng là nguyên nhân quan
trọng, mặc dù trong những năm qua có nhiều giống chè mới được tạo ra bằng
các phương pháp lai hữu tính, nhập nội thuần hóa giống như LDP1, LDP2,
PH8, PH10, Kim Tuyên, Thúy Ngọc, Phúc Vân Tuyên,... (Đ.V. Ngọc và cs,
2009; N.V. Toàn, 2016) [21], [45].
Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ sinh học, trên thế giới các
nhà khoa học đã áp dụng kỹ thuật phân tử và nuôi cấy mô tế bào nâng cao
2
hiệu quả của công tác giống chè (L. T. Nghĩa, 2010) [14]. Trong nước, Viện
Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc và Viện Di truyền
nông nghiệp đã nghiên cứu áp dụng kỹ thuật phân tử và nuôi cấy phôi trong
tạo giống chè mới và đã tạo ra những dòng chè mới có triển vọng (L. T.
Nghĩa, 2010; N.V Thiệp, 2016) [14], [37]. Những nghiên cứu này sử dụng các
chỉ thị phân tử Microsatellite xác định sự khác biệt di truyền của 96 mẫu
giống chè trong quần thể giống khởi đầu nhằm lựa chọn các cặp lai có khoảng
cách di truyền phù hợp có khả năng tạo ra giống mới có ưu thế lai cao. Một số
cặp giống bố mẹ đáp ứng yêu cầu được lựa chọn, trong đó có cặp lai giữa
giống Trung Du và giống Hồ Nam có khoảng cách di truyền 0,589, cặp lai
giữa giống Trung Du và giống Kim Tuyên có khoảng cách di truyền 0,644.
Sau khi lai, tiến hành nuôi cấy phôi F1 và chọn lọc sớm từ giai đoạn in vitro,
kết quả đã chọn ra được hai dòng chè mới CNS - 1.41 và CNS - 8.31 có
những đặc điểm ưu thế lai rõ rệt, thể hiện nhiều tính trội, sinh trưởng khỏe,
phân cành sớm, búp non lâu, sớm cho thu hoạch, năng suất cao, tính chống
chịu và chất lượng tốt (L. T. Nghĩa, 2010; C. T. Huyền, 2012) [14], [10]. Do
những đặc tính ưu tú vượt trội mà hai dòng chè mới CNS - 1.41 và CNS -
8.31 hoàn toàn có thể đáp ứng tốt yêu cầu của sản xuất về nâng cao năng suất
và chất lượng chè. Để phát triển nhanh hai dòng chè này vào sản xuất, cần
thiết phải đánh giá một cách hệ thống về sinh trưởng, năng suất, chất lượng và
xác định biện pháp kỹ thuật phù hợp để phát huy tiềm năng của giống mới, có
cơ sở khoa học và thực tiễn triển khai giống chè mới vào sản xuất đạt hiệu
quả cao. Xuất phát từ những vấn đề trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học và một số biện pháp kỹ thuật để
phát triển hai dòng chè CNS-1.41, CNS-8.31 tại các tỉnh miền núi phía
Bắc”.
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển và một số biện pháp kỹ
thuật nhằm hoàn thiện quy trình và đưa nhanh hai dòng chè CNS-1.41, CNS-
8.31 vảo sản xuất tại vùng miền núi phía Bắc
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được đặc điểm sinh trưởng, phát triển của 2 dòng chè CNS-
1.41 và CNS-8.31.
- Xác định được một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu nhằm phát triển hai
dòng chè mới vào sản xuất.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1 Ý nghĩa khoa học
Đề tài luận án nghiên cứu một cách hệ thống về đặc điểm nông học, sinh
học và biện pháp kỹ thuật phát triển hai dòng chè mới CNS-1.41 và CNS-8.31
được chọn tạo bởi phương pháp ứng dụng kỹ thuật phân tử và kỹ thuật nuôi
cấy phôi trong chọn tạo giống chè ở Việt Nam;
Kết quả nghiên cứu đặc trưng, đặc tính của hai dòng chè CNS-1.41 và
CNS-8.31, bổ sung thêm tư liệu khoa học về khả năng thích ứng của chúng
trong sản xuất chè ở một số tiểu vùng sinh thái khác nhau của vùng miền núi
phía Bắc.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung những tài liệu khoa học
có giá trị lý luận khoa học và giảng dạy cây chè.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đánh giá được đặc điểm sinh trưởng, phát triển chủ yếu cho năng suất,
chất lượng của hai dòng chè CNS-1.41, CNS-8.31 làm cơ sở khoa học cho
việc bố trí cơ cấu giống, định hướng phát triển sản phẩm chè cho vùng trung
du miền núi phía Bắc.
4
Kết quả nghiên cứu làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện quy trình sản xuất
cho hai dòng chè mới CNS-1.41, CNS-8.31 để áp dụng trực tiếp vào sản xuất,
nâng cao hiệu quả của sản xuất chè hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hai dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 được chọn tạo bởi
phương pháp ứng dụng kỹ thuật phân tử và kỹ thuật nuôi cấy phôi đã thụ
phấn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm nông học, đặc điểm sinh trưởng, phát triển, chất
lượng hai dòng chè mới CNS-141 và CNS-831;
- Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu để phát triển hai dòng
chè mới;
- Địa điểm nghiên cứu tại Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía
Bắc (Phú Hộ, Phú Thọ); Công ty Cổ phần chè Sông Lô (Yên Sơn, Tuyên
Quang); Công ty Cổ phần chè Liên Sơn (Văn Chấn, Yên Bái).
4.3. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được tiến hành từ năm 2015 đến năm 2019
5. Những đóng góp mới của đề tài.
Lần đầu tiên cung cấp những dẫn liệu một cách hệ thống về sinh
trưởng, năng suất, chất lượng và kỹ thuật canh tác đối với hai dòng chè mới
CNS-1.41, CNS-8.31 được tạo ra bằng ứng dụng kỹ thuật phân tử và công
nghệ nuôi cấy mô tế bào.
Xác định những đặc điểm nông sinh học chủ yếu hai dòng chè mới CNS-
1.41, CNS-8.31 làm cơ sở khoa học cho việc trồng trọt và chế biến trong sản
xuất: Búp của hai dòng chè dài 9-13 cm, non lâu, hàm lượng xơ thấp thuận lợi
cho áp lực thời gian thu hoạch vẫn đảm bảo chất lượng nguyên liệu cho chế biến
5
ra sa sản phẩm chất lượng tốt; hai dòng chè mới phân cành thấp ở độ cao 2,0-3,6
cm, số cành cấp 1, cấp 2 ở cây chè tuổi 1 nhiều từ 15,9 - 25,7 cành/ cây và 23,6 -
39,0 cành/ cây làm cho cây chè có tán rộng, sớm cho thu hoạch;
Xác định hai dòng chè mới CNS-1.41, CNS-8.31 có khả năng sinh
trưởng và phát triển tốt và đáp ứng yêu cầu của sản xuất chè hiện nay về thay
thế giống chè cũ bằng giống chè mới năng suất cao, chất lượng tốt: Dễ nhân
giống vô tính với hệ số nhân giống cao (vườn chè tuổi 3 có sản lượng hom
2,92-3,66 triệu hom/ha), sản xuất cây giống có tỷ lệ xuất vườn cao 87,9-
88,8%; năm thứ hai đã có thể đưa vào thu hoạch, năng suất đạt 5,22 - 7,36 tấn
búp tươi/ha/năm, 3 năm tuổi năng suất 9,72 - 13,68 tấn/ha/năm; hàm lượng tanin
24,47 - 25,51%, axit amin 2,45-2,56%, catechin 137,12-145,75% phù hợp cho
chế biến cả chè xanh (điểm cảm quan 16,43-17,94 điểm) và chè đen (điểm cảm
quan 17,5-18,6 điểm) chất lượng tốt;
Xác định được một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu để nâng cao năng suất
chất lượng nguyên liệu búp chè hai dòng chè mới CNS-1.41, CNS-8.3: Mật độ
trồng phù hợp từ 1,66 đến 1,85 vạn cây/ha, phương thức trồng hàng kép; đốn
tạo hình lần 1 thân chính 15-20 cm, cành bên 35 cm so với mặt đất làm cho
vườn chè sớm giao tán, tăng mật độ búp, sớm đạt năng suất cao; bón tăng
phân khoáng 40%, năng suất chè cao hơn đối chứng 50,89 - 51,23%, lợi
nhuận tăng 60,78-76,32%;
Xây dựng được một số mô hình trồng hai dòng chè mới có hiệu quả cao
trong sản xuất tại các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang và Yên Bái.
6
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU CỦA ĐỀ TÀI
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của các dòng, giống chè.
Những đặc điểm sinh trưởng, phát triển của cây chè là kết quả phản ánh
tổng hợp giữa các đặc tính của giống với điều kiện ngoại cảnh. Nghiên cứu
đặc điểm sinh trưởng của giống trong từng điều kiện sinh thái cụ thể giúp ta
đánh giá được khả năng thích ứng của giống, từ đó đề ra các biện pháp kỹ
thuật canh tác hợp lý, tạo điều kiện cho cây chè sinh trưởng tốt, cho năng suất
cao. Mỗi một giống chè đều yêu cầu chế độ dinh dưỡng, biện pháp kỹ thuật
canh tác, thu hái búp phù hợp, cùng với công nghệ chế biến từng loại sản
phẩm nâng cao giá trị cây chè. Nghiên cứu về đặc tính sinh trưởng phát triển
của cây chè là cơ sở đề xuất các biện pháp kỹ thuật hợp lý cho mỗi giống chè.
Búp chè được hình thành từ các mầm sinh dưỡng, gồm có tôm và các lá
non. Quá trình sinh trưởng của búp chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bên
ngoài lẫn bên trong, khối lượng búp thay đổi tùy giống. Vườn chè bón nhiều
phân, búp sẽ lớn hơn vườn chè thiếu phân, khối lượng búp chè còn phụ thuộc
vào một số yếu tố kỹ thuật canh tác khác như đốn, hái và điều kiện địa lý nơi
trồng trọt (Đỗ Ngọc Quỹ, 1980) [27].
Bộ rễ thực vật nói chung và cây chè nói riêng là cơ quan dinh dưỡng của
cây dưới đất, nó có nhiệm vụ làm giá đỡ cho cây, giữ chặt cây vào đất, hút
nước và các chất dinh dưỡng cung cấp cho các hoạt động sống của cây. Trong
nhiều trường hợp rễ còn làm chức năng dự trữ, tổng hợp các hợp chất hữu cơ
khác nhau cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây (Nguyễn Đình
Vinh, 2002) [49]. Sự phát triển của bộ rễ và bộ lá có quan hệ chặt chẽ với
nhau và hỗ trợ nhau. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mùa đông khi cành lá
7
ngừng sinh trưởng thì bộ rễ phát triển; mùa xuân khi búp chè sinh trưởng
mạnh, thì bộ rễ phát triển chậm lại và tiếp tục như vậy khi bộ rễ phát triển
chậm thì lá và búp sẽ sinh trưởng nhanh. Quá trình phát triển bộ rễ có 4 – 5
đỉnh cao trong 1 năm, sinh trưởng lúc nhanh lúc chậm, xen kẽ với sự phát
triển của bộ lá, lúc chậm lúc nhanh (Rahman F, Dutta A.K, 1988) [97].
1.1.2. Những biện pháp kỹ thuật chủ yếu đối với cây chè
1.1.2.1. Nhân giống vô tính bằng giâm cành chè
Đối với thực vật nói chung, cây chè nói riêng có khả năng tái sinh từ
các bộ phận của các cơ quan sinh dưỡng như: lá, chồi, thân, rễ. Nếu đưa các
bộ phận của chúng vào môi trường thích hợp nó sẽ phát triển thành rễ, mầm
và hình thành cây con. Phương pháp giâm cành chè là sử dụng một bộ phận
gồm đoạn thân lá (cơ quan dinh dưỡng) để tái sinh ra cây chè mới (Đỗ Ngọc
Quỹ, Nguyễn Văn Niệm, 1979) [25].
1.1.2.2. Mật độ trồng chè
Mật độ trồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Giống, địa hình, phương thức
canh tác thủ công hay cơ giới hóa, mức độ đầu tư phân bón, tưới nước. Vì
vậy, mật độ trồng chè không có mật độ thích hợp nhất, mà chỉ có giới hạn
trên, khi mật độ đạt tới giới hạn đó thì sản lượng sẽ không tăng lên nữa.
+ Xác định mật độ cho từng đối tượng chè nhằm tận dụng tốt không
gian, diện tích đất và cho sản lượng cao nhất.
Những giống chè biến chủng Trung Quốc lá nhỏ, giống chè lai LDP1,
Đại Bạch Trà, Yabukita, Kanayamidori.... khi trồng tập trung quy mô công
nghiệp, có đốn hàng năm nên trồng ở các mật độ khoảng cách sau: Khoảng
cách (m) 1,2 x 0,4 – 0,5, 1,3 x 0,4 – 0,5, 1,4 x 0,4 – 0,5, 1,5 x 0,45 – 0,5
(trồng kép), mật độ 20.833 – 16.667, 19.231 – 15.385, 17.857 – 14.285,
29.690 – 26.666 cây/ha (khoảng cách giữa hai hàng trồng kép là 40 cm) (Đỗ
Ngọc Quỹ, Nguyễn Kim Phong, 1997; Đỗ Ngọc Quỹ, 1980) [26], [27].
8
Những giống chè thuộc biến chủng chè Shan, biến chủng Trung Quốc lá
to, khoảng cách trồng 1,5 x 0,4 – 5, 1,5 x 0,60 – 0,70 (trồng kép), 1,75 x 0,4 –
0,45, 1,75 x 0,5 – 0,6. Mật độ (cây/ha) 14.845 – 13.333, 22.222 – 19.048,
14.286 – 12.698 (áp dụng cơ giới hóa), 11.428 – 9.524.
Căn cứ vào điều kiện sinh trưởng của từng giống mà xác định mật độ
trồng thích hợp. Dạng cây có vòm tán thẳng đứng phù hợp với mật độ trồng
dày hơn những giống chè có dạng tán hình mâm xôi.
Dựa vào phương thức canh tác, xác định mật độ trồng phù hợp: canh
tác thủ công, có thể trồng mật độ cao hơn; khi áp dụng cơ giới hóa nên lựa
chọn khoảng cách hàng phù hợp với đặc tính kỹ thuật của máy. (Đỗ Văn
Ngọc và CS, 2010) [22].
1.1.2.3. Đốn chè
Dựa vào giai đoạn phát dục của cây chè, các vị trí của cành trên cây khác
nhau thì có tuổi phát dục khác nhau, cành phía trên cao thường có tuổi phát
dục lớn nên nhanh ra hoa kết quả, sinh trưởng dinh dưỡng yếu. Vì vậy cần
được đốn để kích thích các mầm bên dưới mọc lên sinh trưởng dinh dưỡng
khỏe hơn, chậm ra hoa hơn.
Đốn chè là một biện pháp kỹ thuật canh tác đặc thù đối với cây chè. Đốn
là cắt bỏ một phần sinh khối (thân, cành, lá) của cây tùy vào mục tiêu tạo tán
và điều kiện sinh trưởng sinh dưỡng của cây chè .
Đốn chè kiến thiết cơ bản (KTCB) làm cho cây chè bộ khung tán rộng,
cành cơ bản to khỏe, phân cành đều, tăng bề mặt hái chè, tăng số lượng búp,
búp mập, làm cơ sở cho tăng năng suất. Tạo cây chè có chiều cao tán hợp lý
cho việc thu hái. Phương pháp đốn giai đoạn đầu, Đỗ Văn Ngọc 1991 [17] đã
đề xuất như sau:
Đốn lần 1 khi nương chè sinh trưởng tốt có 70% cây cao 65 – 70 cm,
đường kính gốc 1,0 cm trở lên thì đốn tạo hình lần 1:
9
+ Đốn lần 1 (chè 2 tuổi) thân chính cách mặt đất 13 – 15 cm, đốn cành
bên cách mặt đất 30 - 35 cm, giữ bộ lá.
+ Đốn lần 2 (3 tuổi) cách mặt đất 30 – 35 cm, giữ bộ lá.
+ Đốn lần 3 (4 tuổi) cách mặt đất 40 – 45 cm, tán bằng hay mâm xôi, tùy
theo đốn máy hoặc đốn tay.
1.1.2.4. Thu hái búp chè
Búp chè là sản phẩm cuối cùng của trồng trọt, đồng thời là nguyên liệu
khởi đầu cho quá trình chế biến. Hái đúng kỹ thuật làm tăng năng suất, chất
lượng sản phẩm và tạo cho cây chè sinh trưởng khoẻ, bền vững. Năng suất
búp chè có quan hệ chặt với số lá trên cây. Với đặc điểm của cây chè mỗi một
búp sinh ra từ 1 nách lá, do vậy nhiều lá mới có nhiều búp, năng suất cao. Cho
nên, việc giữa hái búp và chừa lá có tương quan chặt đến năng suất chè (Đỗ
Văn Ngọc, Nguyễn Thị Ngọc Bình, 2009) [20].
Số lượng búp, khối lượng búp là những chỉ tiêu tương quan chặt với
năng suất, trong đó số lượng búp là yếu tố biến động lớn, phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Khối lượng búp ngoài phụ thuộc vào giống, còn phụ thuộc vào kỹ
thuật hái lá, nếu hái đi nhiều lá thì khối lượng búp lớn, sản lượng tăng, song
tỷ lệ xơ gỗ cao do đó ảnh hưởng không tốt đến chất lượng chè thành phẩm.
Hái non thì hàm lượng tanin, chất hòa tan (CHT) cao nhưng hàm lượng
đường thấp và ngược lại, (Đỗ Văn Ngọc, Trịnh Văn Loan, 2008) [19].
Ngoài ra hái chè liên quan trực tiếp đến sử dụng lao động và khả năng
cơ giới hóa. Hái chè non do số lứa hái nhiều nên tốn công và hiệu quả lao
động thấp. Hái chè già hơn số công hái ít hơn và hiệu quả lao động cao; cùng
với kỹ thuật hái chè khác nhau, việc tạo được mặt tán bằng sẽ là cơ sở tốt cho
kỹ thuật hái chè bằng máy để giữ được sản lượng ổn định, lâu dài.
Để chế biến các loại chè khác nhau yêu cầu về chất lượng nguyên liệu
búp chè cũng khác nhau. Để chế biến chè xanh, chè đen, người ta thường thu
10
hái búp gồm tôm và 2-3 lá non, chế biến chè oolong thì hái búp tôm 3 lá
trưởng thành trên cành chè 5 - 6 lá ... Nếu chất lượng nguyên liệu búp chè tốt
thì chế biến các loại chè sẽ có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị
trường tiêu dùng và ngược lại. Đó là cơ sở khoa học cho sự lựa chọn kỹ thuật
thu hái hợp lý của các dòng chè được tiến hành nghiên cứu để từ đó có thể
nâng cao chất lượng nguyên liệu búp chè phù hợp cho chế biến chè xanh, chè
đen chất lượng cao.
1.1.2.5. Bón phân cho chè
Cây chè có khả năng thích ứng với điều kiện dinh dưỡng rất rộng, nó có
thể sống ở nơi đất màu mỡ song cũng có thể sống ở nơi đất cằn cỗi, nghèo
kiệt dinh dưỡng mà vẫn cho năng suất nhất định. Tuy nhiên, để có nương chè
cho năng suất cao, chất lượng tốt, có nhiệm kỳ kinh tế dài cần phải xây dựng
chế độ bón phân hợp lý cho chè, cung cấp đầy đủ và cân đối phân bón đa
lượng trên nền phân hữu cơ cung cấp chất vi lượng cho đời sống cây chè.
Phân đạm có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định năng suất chè, kích
thích cho mầm và búp phát triển tạo ra năng suất.
Phân lân (P2O5): có hiệu lực nhất định đối với cây chè. Tác dụng của
lân chủ yếu là kích thích bộ rễ phát triển từ đó nâng cao khả năng hấp thu chất
dinh dưỡng, kiến tạo năng suất và nâng cao chất lượng chè thương phẩm.
Phân kali (K2O): Nhu cầu kali của cây chè tương đối cao, kali đóng vai
trò quan trọng trong hoạt tính enzyme, nước tương đối, protein quang hợp và
tổng hợp tinh bột. Kali làm tăng khả năng chống chịu của cây chè, còn cải
thiện chất lượng chè. Do vậy, cần cung cấp đủ kali để đạt năng suất kinh tế tối
ưu và chất lượng mong muốn.
Phân hữu cơ: Có vai trò rất quan trọng, nó không những cung cấp chất
dinh dưỡng trực tiếp cho chè mà còn cải thiện lý tính đất như làm cho đất tơi
xốp, có kết cấu viên, làm tăng khả năng thấm và giữ nước của đất, làm tăng
11
sự hoạt động của các hệ vi sinh vật trong đất, làm tăng các thành phần dinh
dưỡng N, P, K và các nguyên tố vi lượng khác trong đất (Nguyễn Thị Ngọc
Bình, 2007 [2], Nguyễn Văn Chiến, 2008) [3].
Để sản xuất 1000kg chè khô, cây chè đã lấy đi từ đất tổng số 91 kg N,
20,1 kg P2O5 và 40,7 kg K2O, mặt khác cỏ dại không kiểm soát được cũng lấy
đi một lượng lớn chất dinh dưỡng (Willson K.C. & Clifford M.N, 1992)
[119]. Hàng năm chúng ta hái đi từ 5 – 10 tấn búp tươi/ha và đốn đi một
lượng thân lá đáng kể trong đó có N, P, K và các chất khoáng khác, hơn nữa
hàng năm một lượng dinh dưỡng đáng kể trong đất bị rửa trôi, xói mòn. Do
vậy, cần phải bón bổ sung lượng dinh dưỡng để cây chè sinh trưởng tốt, đáp
ứng yêu cầu năng suất, chất lượng cho người sản xuất chè. Trên cơ sở đó, cần
xây dựng chế độ bón phân hợp lý cho cây chè (Đinh Thị Ngọ, 1996) [16].
1.2. Tình hình nghiên cứu về chè trên thế giới
1.2.1. Nghiên cứu về giống chè trên thế giới
Chè là cây lâu năm trồng 1 lần thu hoạch nhiểu lần, nhiệm kỳ kinh tế có
thể tới 40 – 50 năm, đầu tư trồng chè cao hơn nhiều lần so với các cây trồng
ngắn ngày khác, không thể phá đi trồng lại hàng năm được. Do vậy, công tác
giống chè được quan tâm ở tất cả các nước trồng chè.
Tại Ấn Độ
Eden T. (1958) [69] cho rằng, những giống chè ở Trung Quốc, Ấn Độ có
nhiều dạng khác nhau, có khả năng sinh trưởng và cho năng suất khác nhau,
quan sát 200 cây chè trên nương chè, có những cây cho sản lượng cao gấp 3
lần so với năng suất trung bình và gấp tới 20 lần so với cây cho sản lượng
thấp nhất. Do vậy chọn dòng từ những cây chè tốt có ý nghĩa quan trọng trong
việc nâng cao năng suất vườn chè. Bằng phương pháp chọn lọc cá thể tại
Tocklai đã chọn ra các giống TV1, TV23 có sản lượng và chất lượng khá.
12
Tại Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia sản xuất chè hàng đầu thế giới. Nghiên cứu sử
dụng giống chè tốt được các nhà khoa học Trung Quốc quan tâm từ rất sớm.
Ngay từ đời nhà Tống, Trung Quốc đã có 7 giống chè tốt ở Vũ Di Sơn. Các
giống chè Thủy Tiên (1921 – 1850), Đại Bạch Trà (1850), Thiết Quan Âm đã
có từ hơn 200 năm về trước đều là những giống chè chiết cành (Nguyễn Văn
Toàn, Trần Thị Lư, Nguyễn Văn Niệm) (1998) [43].
Hiện nay Trung Quốc chủ yếu chọn giống theo hướng chất lượng rất tốt
cho cả chế biến chè xanh và chè đen như Phúc Vân Tiên (1957 – 1971), Hoa
Nhật Kim, Hùng Đỉnh Bạch, Phú Thọ 10, Long Vân 2000, các giống chè có
chất lượng nổi tiếng như Đại Bạch Trà, Thiết Quan Âm, Long Tỉnh… Đến
nay đã có 134 giống chè quốc gia được đăng ký và hơn 200 giống chè cấp
tỉnh ở Trung Quốc. Những giống chè này phù hợp để chế biến trà xanh, trà
đen, trà ô long, trà trắng, trà vàng và trà xanh đậm tương ứng. Năm 1950
được chia là 4 giai đoạn, giai đoạn chọn giống năng suất cao, giai đoạn chọn
giống chất lượng, giai đoạn chọn giống kháng sâu bệnh và giai đoạn mục tiêu
chọn giống đa dạng (Liang Yueron, ShinYounghwa, Zhang Longji, Wang
Kairon, 2019) [84].
Tại Sri Lanka
Srilanka cũng là quốc gia phát triển mạnh về ngành chè và khởi động
công tác lai chọn tạo giống chè từ rất sớm (1937). Đến nay, hơn 57% diện tích
chè của nước này canh tác bằng các dòng chè nhân giống vô tính, trong đó
khoảng 80% diện tích trồng ba dòng chè phổ biến là TRI-2023, TRI-2025 và
TRI-2026 (Dẫn theo Nguyễn Văn Thiệp, 2016) [37].
Tại Nhật Bản
Nhật bản là nước đầu tiên nhập giống chè từ Trung Quốc, vào thế kỷ 19.
13
Năm 1990 năng suất chè bình quân của cả nước đã đạt 1.725kg chè khô/ha.
Năng suất chè cao là do nhà nước coi trọng đầu tư vào nông nghiệp đặc biệt là
khâu giống tốt và các biện pháp quản lý, chăm sóc vườn cây. Theo Satoshi
Yamagushi, Jitanaka giống chè chủ yếu ở Nhật Bản là giống chè lá nhỏ, phù
hợp cho chế biến chè xanh (Wilson and Cliford, 1992)[119].
Tại Grudia
Trong khoảng thời gian 40-50 năm Bakhơtadze (1940) [130],
Mutopkina (1978) [142], Viện nghiên cứu chè và cây trồng Á nhiệt đới đã
chọn tạo ra nhiều giống chè mới có năng suất cao và chất lượng tốt được chia
thành 3 nhóm như sau:
-Nhóm thứ nhất: gồm các giống lai tạo giữa các cặp lai Ấn Độ - Trung quốc
và Trung Quốc Ấn Độ tạo ra các giống chè Grudia №1 Grudia №2 Grudia
№3 Grudia №4 Grudia №5 Grudia №15 Grudia №16 những giống chè này trồng ở vùng phía tây nam Grudia, ở đó nhiệt độ mùa đông không dưới -80C.
- Nhóm thứ hai: kết hợp với giống chè Trung Quốc lá to, chịu lạnh hơn so với giống chè Ấn Độ, ở đó nhiệt độ mùa đông có thể -150C, có các giống
Grudia №6, Grudia №10, Grudia №11. -Nhóm thứ ba: gồm những giống chịu rét nhất -15 -200C với lớp tuyết phủ
dày 50-70cm, có giống Grudia №7, Grudia №8, Grudia №12.
1.2.2. Ứng dụng công nghệ chỉ thị phân tử và nuôi cấy cứu phôi trong
chọn tạo giống chè trên thế giới
Với việc xác định chè là cây trồng chủ đạo, nhiều quốc gia như Ấn Độ,
Srilanka, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản… đã có sự đầu tư nghiên cứu rất
bài bản về cây chè. Nếu như trước đây, chỉ thị hình thái (đặc điểm dạng thân,
kích thước và hình dạng lá…) và chỉ thị hóa sinh (các isozyme và allozyme)
là công cụ chính để đánh giá, sàng lọc các giống chè thì đến nay, với sự phát
triển của công nghệ sinh học thì chỉ thị phân tử đã được sử dụng như là công
14
cụ thay thế một cách phổ biến và hiệu quả hơn. Nhiều nghiên cứu đa dạng di
truyền cây chè bằng chỉ thị phân tử đã được thực hiện và là cơ sở cho việc
đánh giá nguồn gen, hỗ trợ công tác lai tạo giống chè.
Khi sử dụng chỉ thị RAPD và ISSR để nghiên cứu đa dạng di truyền 37
giống chè ở Đài Loan. Kết quả cho thấy các giống chè bản địa ở Đài Loan có
quan hệ di truyền gần gũi với thứ chè Assam hơn là với thứ chè Sinensis như
nhận định trước đây.
Năm 2002, Kaundun và cs. [81], đánh giá nguồn gen của 6 quần thể chè
Hàn Quốc bằng 50 chỉ thị RAPD phục vụ công tác bảo tồn các giống chè bản
địa, tác giả đã sử dụng các chỉ thị SSR của cây chè hoa Camellia japonica để
nghiên cứu đa dạng di truyền 24 giống chè Assam và Trung Quốc. Đây là
nghiên cứu đầu tiên sử dụng chỉ thị SSR trong nghiên cứu đa dạng di truyền
cây chè.
Năm 2005, Chen và cs. đã công bố kết quả đánh giá nguồn gen 4 quần
thể chè ở Vườn bảo tồn giống chè Trung Quốc bằng chỉ thị RAPD, qua đó
xác định được 20 chỉ thị RAPD có khả năng phân biệt được 15 giống chè
chính đang được trồng phổ biến.
Các nghiên cứu đa dạng di truyền cây chè sử dụng chỉ thị phân tử cung
cấp cho các nhà chọn giống cơ sở di truyền đáng tin cậy để từ đó có thể xác
định được các tổ hợp lai phù hợp, có tiềm năng cho ưu thế lai cao nhất, nhờ
đó cải thiện đáng kể công tác chọn tạo giống chè. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu
quả của công tác chọn tạo giống chè, ngoài việc xác định được tổ hợp lai phù
hợp thì cần nuôi cấy phôi để khắc phục tính không tương hợp dẫn đến làm
chết phôi chè non ở những tổ hợp lai xa và rút ngắn thời gian nhân giống chè.
Wu và cs (1981) là người tiên phong trong nghiên cứu nuôi cấy tạo phôi
vô tính (somatic embryogenesis) ở chè, kỹ thuật có rất nhiều ứng dụng hiện
nay như nhân dòng, chuyển gen, sản xuất hạt giống nhân tạo (Mondal và cs,
15
2001), lai tạo khác loài trong chi Camellia (Nadamitsu và cs, 1986). Nuôi cấy
phôi chè phụ thuộc nhiều yếu tố, bao gồm loại mô nuôi cấy (Akula, 1999),
thời gian nuôi cấy lá mầm (Mondal, 2001) và kiểu gen di truyền của giống
chè (Dẫn theo Nguyễn Văn Thiệp và cs, 2012) [36].
Việc áp dụng kỹ thuật nuôi cấy phôi và vi nhân giống đã giúp làm giảm
đáng kể thời gian cũng như nâng cao hiệu quả cho công tác lai tạo giống chè.
Nếu như với phương pháp chọn giống truyền thống, thời gian để gieo hạt tạo
cây chè con có thể mất tới một năm, sau đó mới đánh giá chọn lọc và nhân vô
tính thì thời gian để có được một dòng chè triển vọng là không ít. Với việc áp
dụng công nghệ nuôi cấy phôi in-vitro, quá trình đánh giá cây con sẽ được rút
ngắn đáng kể, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giống chè.
1.2.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học của cây chè
Qủa chè được hình thành chủ yếu nhờ quá trình giao phấn khác hoa. Do
vậy cây chè con được mọc từ hạt có sự phân ly rất lớn về hình thái, khả năng
sinh trưởng phát triển, năng suất, chất lượng.
Các đặc điểm hình thái của cây chè (thân, lá, búp) đặc tính sinh trưởng
của cây chè, thời gian sinh trưởng búp/năm có quan hệ chặt chẽ với khả năng
cho năng suất cao, chất lượng tốt cho chè nguyên liệu. Do vậy nghiên cứu đặc
điểm sinh vật học của cây chè nhằm tuyển chọn giống chè tốt luôn được các
nhà khoa học trên thế giới quan tâm.
Bakhơtadze K.E 1948 [131] nghiên cứu quan hệ giữa lá chè và năng suất
đã đề ra các chỉ tiêu về lá làm căn cứ chọn giống như màu sắc, kích thước lá,
cấu tạo giải phẫu lá. Dạng lá chè có màu vàng là đặc trưng và tương quan có
lợi cho các chỉ tiêu sinh hóa, sự khác nhau về màu sắc lá là do có sự khác
nhau của hàm lượng Chlorophyll, Tanin và một số chỉ tiêu khác. Lá có màu
cà phê sáng đặc trưng có lợi cho các chỉ tiêu sinh lý. Kết quả nghiên cứu trên
16
làm cơ sở định hướng cho các nhà chọn tạo giống chè có thể theo các hướng
khác nhau để tạo ra những giống chè cho sản phẩm phù hợp với thị trường.
Viện sĩ Bakhơtadze K.E 1971 [132] khi nghiên cứu kích thước lá chè và
tuổi cây chè, trong đó những giống chè Ấn Độ thường có kích thước lá lớn
nhất và kích thước lá của những giống chè Nhật Bản thường nhỏ nhất. Khi
nghiên cứu tương quan giữa số búp/tán và năng suất búp của nương chè tác
giả kết luận tương quan giữa số lượng búp và năng suất chè là 0,956 ± 0,064.
Nghiên cứu về quan hệ giữa lá chè với năng suất chất lượng chè, tác giả cho rằng: góc lá tối ưu cho quang hợp của cây chè là 450, lá chè có màu vàng là
đặc trưng có lợi cho các chỉ tiêu sinh hóa búp chè.
Bakhơtadze K.E (1971) [132] khi nghiên cứu về sự sinh trưởng của búp
chè cho rằng: Sự sinh trưởng của búp chè phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, ở
những vùng có mùa Đông rõ rệt, búp chè sẽ ngừng sinh trưởng và cây chè sẽ
được phục hồi vào thời kỳ có nhiệt độ không khí ấm lên. Ngược lại ở những
nước nhiệt đới (quần đảo Gjava) Srilanka hay Nam Ấn Độ do có điều kiện
thời tiết thuận lợi đặc biệt là nhiệt độ ôn hoà, búp chè sinh trưởng liên tục, chè
cho thu hoạch quanh năm vì vậy người ta coi đây là lợi thế của vùng đất này.
Mỗi loại cây trồng khi hình thành mầm để phát triển đòi hỏi phải có tổng
nhiệt độ nhất định (Chen Rong Bing, 1995) [61], khi nghiên cứu trên cây chè
ở Malawi đã kết luận: tổng nhiệt hữu hiệu cần thiết để cho một mầm chè dài
0,2 cm sinh trưởng thành búp chè có thể thu hoạch được (dài 8 – 15 cm) vào khoảng 5000C - 6000C mà theo tác giả có đến 2/3 nhiệt độ này là cung cấp
cho sinh tưởng búp.
Mỗi giai đoạn cây chè sinh trưởng khác nhau sự hình thành và phát triển
của búp chè cũng khác nhau, yếu tố nhiệt độ đóng vai trò quan trọng trong
quá trình hình thành và sinh trưởng của búp chè. Nghiên cứu về vấn đề này
theo tác giả Carr, M.K.V (1972) [57] cho biết, chu kỳ thay thế búp chè (đợt
17
sinh trưởng) có thể căn cứ vào nhiệt độ không khí tối thiểu và nhiệt độ tối đa
để dự đoán một lứa búp mới sinh trưởng, phát triển.
Ảnh hưởng của mùa vụ qua yếu tố nhiệt độ không khí với chu kỳ thay
thế búp ở các vùng địa lý khác nhau đã chứng minh quan điểm trên. Các vùng chè Châu Phi Munaze ở 16005 vĩ độ Nam, độ cao 650m so với mặt nước biển, nhiệt độ không khí có ý nghĩa từ 18 – 240C, độ dài chu kỳ hái búp là 42 ngày
vào mùa sinh trưởng chính, 70 ngày vào những tháng mùa đông lạnh. Trong khi đó ở vùng Chipirga vị trí 20015 vĩ Nam, độ cao 850 m so với mặt nước biển, nhiệt độ hàng năm lạnh hơn Munaze 20C, chu kỳ hái búp dài hơn 15 –
20 ngày. Theo tác giả, khác nhau về mùa vụ dẫn đến sự thay đổi sản lượng
trong năm ở các vùng chè.
Theo tác giả Carr, M.K.V(1972) [57] cho rằng hầu hết các vùng chè có
lượng mưa trung bình 150 mm/tháng sẽ cho sản phẩm liên tục. Tổng lượng
mưa cả năm là 1800 mm cây chè sẽ sinh trưởng phát triển tốt, nếu lượng mưa
trong năm dưới 1500 mm mà không tưới cây chè sinh trưởng, phát triển kém
và không cho năng suất cao.
Nghiên cứu về sinh trưởng trong điều kiện không đốn và có đốn theo tác
giả Djemukhadze (1982) [5] chỉ ra rằng: trong điều kiện để giống hay không
đốn các mầm chè được phân hóa trong vụ Thu, vụ Đông và hình thành búp
vào vụ Xuân. Ở những nương chè đốn thì sự phân hóa mầm chè chủ yếu diễn
ra trong vụ Xuân. Như vậy ở những nương chè có đốn và hái búp thường
xuyên thì sinh trưởng búp chè bắt đầu muộn hơn một số ngày so với nương
chè để giống hay không đốn.
Trong quá trình chọn giống chè theo hướng năng suất cao theo các tác
giả cho rằng, đặc điểm của những cây có sản lượng cao ít nhất phải có mật độ
búp cao (số lượng búp nhiều) và kích thước lá lớn. Vì vậy trong công tác chọn
18
tạo giống để tạo ra được những giống chè có năng suất cao, phải hướng đến
chọn những giống chè có mật độ búp lớn.
Theo Mondal T.K. (2004) [91], Tanton T.W (1981a) [113]: động thái
sinh trưởng của búp chè chậm ở giai đoạn đầu (từ giai đoạn đầu đến khi nảy
mầm và búp dài 2 -3 cm), tăng nhanh giai đoạn sau (tiếp tục đến khi búp dài
10 – 15 cm). Thời gian sinh trưởng cho mỗi lứa hái từ 7 – 21 ngày và phụ
thuộc vào từng giống và điều kiện thời tiết. Nhiệt độ không khí tối thiểu cho chè sinh trưởng, phát triển là 130C – 140C và tối thích là 180C – 300C, những ngày có nhiệt độ tối da vượt quá 350C và tối thiểu thấp hơn 140C làm giảm
sản lượng chè.
+ Theo tác giả Mondal T.K. (2004) [91], mật độ búp và khối lượng búp
là nhân tố quan trọng tạo nên sản lượng chè, cũng chỉ ra mật độ búp đóng góp
tới 89%, còn khối lượng búp đóng góp 11% năng suất chè.
Từ các nghiên cứu trên cho ta thấy mỗi giống chè có những đặc điểm
hình thái thân cành, lá, búp, hoa, quả các tính trạng đặc trưng của chúng có
liên quan mật thiết tới năng suất và chất lượng chè. Các đặc điểm đó giúp các
nhà khoa học chọn ra được những giống chè có năng suất, chất lượng đáp ứng
mục tiêu của sản phẩm, rút ngắn được thời gian chọn tạo các giống chè.
1.2.4. Tình hình nghiên cứu kỹ thuật canh tác chè trên thế giới
+ Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng giâm cành
Để nhân giống chè bằng giâm cành, người ta cắt những cành chè tươi
khoảng một năm tuổi, phát triển tốt và không bị sâu bệnh, ngâm hóa chất diệt
nấm và xử lý với hormon kích thích ra rễ. Sau đó giâm trong vườn ươm để
cành chè ra rễ trong khoảng 45 đến 60 ngày. Sau đó tiếp tục được chăm sóc
trong vườn ươm trong 8 đến 12 tháng để phát triển hoàn chỉnh trước khi đưa
vào sản xuất. Được thử nghiệm đồng thời ở Ấn Độ, Sri Lanka và Indonesia từ
những năm đầu thế kỷ 20 (Keuchenius, 1923), cho đến nay nhân giống bằng
19
phương pháp giâm cành vẫn được áp dụng rất phổ biến (Dẫn theo Lã Tuấn
Nghĩa, 2010) [14].
Nhân giống vô tính có ưu điểm tạo ra sự đồng đều hình thái, giữ được
đặc trưng đặc tính giống, năng suất và chất lượng ổn định, rút ngắn thời kỳ
kiến thiết cơ bản, hệ số nhân giống cao. Thế giới có nhiều biện pháp nhân
giống chè vô tính: Giâm hom, ghép chè, chiết chè, nuôi cấy mô v.v. Trong
đó, giâm hom chè là phương pháp phổ biến và hiệu quả kinh tế nhất.
Năm 1940 K.E. Baxtadze [130] phát triển mở rộng phương pháp giâm
cành chè theo sản xuất công nghiệp. Để giâm cành chè và chăm sóc cây con
trong vườn ươm, đã nghiên cứu lựa chọn túi bầu với kích thước 20 x 15 cm là
phù hợp. Thời vụ giâm hom, trong điều kiện khí hậu ở Grudia có thể vào giữa
tháng 8, sử dụng đất đóng bàu tơi xốp có độ pH vào khoảng 4,5 - 5,5, bón lót
cho mỗi túi bầu 5gam super lân ở 1/3 túi đất. Khi chăm sóc, sử dụng phân
nitrat-amon 2gam/bầu, pha loãng tưới làm 4 lần để lượng đạm tổng số trong
đất đạt 0,06 - 0,07%. Sử dụng hệ thống tưới phun theo chương trình đặt sẵn,
để đảm bảo độ ẩm không khí thấp nhất là 50% và cao không dưới 65% nhiệt độ từ 23 - 29oc là phù hợp. Sau 20 ngày cành giâm ra mô sẹo và sau đó bắt
đầu hệ thống rễ phát triển, cây phát triển tốt. Tỷ lệ cây xuất vườn đạt 90-93%
đối với giống ‘Konkhida’ khi đưa ra trồng sản xuất đạt tỷ lệ sống đến 97%.
Hartmen H J và Kester O E (1988) [75] cho biết có 3 yếu tố chính ảnh
hưởng đến kết quả giâm hom: giống, kỹ thuật xử lý hom và môi trường giâm.
Anon (1986a,g) [52], [53] nghiên cứu ở Kenya cho biết để có hom giống
tốt cần phải chăm sóc vườn cây mẹ chu đáo như chế độ bón phân đặc biệt,
đốn nhiều lần trong năm. Hom giống tốt có chiều dài 3 – 4 cm, nếu ngắn hơn
3 cm phải bỏ bớt 1 lá để đảm bảo độ dài của hom.
20
Chakravartee và cộng sự (1986) [59], cho biết độ pH dưới 5 thì hom ra
rễ tốt nhất, tác giả cũng kết luận túi bầu có kích thước đường kính 8 cm và
chiều cao 28 cm, luống không rộng hơn 1,5 m cho kết quả tốt.
Nghiên cứu lựa chọn kích thước túi bầu, tác giả Denis Bonheure (1990)
[65] kết luận kích thước có đường kính 8 – 10 cm và chiều cao túi 25 – 28
cm, túi dày 60 – 100 micron cho kết quả tốt, đặc biệt túi có đường kính 12 –
15 cm cho phép cây sinh trưởng tốt hơn nhưng chi phí đắt hơn. Với túi có đường kính 8 cm cho số lượng tương đương 100 bầu/m2 (khoảng 600.000
bầu/ha), mặt luống cao 10 – 20 cm, rãnh luống rộng 40 – 60 cm cho kết quả
tốt nhất.
Tác giả Patarava (1987) [95] nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến vườn chè giâm hom cho thấy: nhiệt độ dưới 50C hoặc trên 450C thì hom chè bị chết; nhiệt độ dưới 150C và trên 350C thì hom chè sinh trưởng chậm; nhiệt độ thích hợp cho hom chè sinh trưởng và phát triển tốt là từ 25 – 300C.
Theo tác giả Liang Yueron, ShinYounghwa, Zhang Longji, Wang
Kairon (2019) [85] Các giống chè năng suất cao là mục tiêu chính của nhà
chọn tạo giống chè và nhiều giống chè có tiềm năng năng suất cao đã được đề
xuất trồng ở tất cả các vùng chè chè Trung Quốc, thúc đẩy sự phát triển nhanh
chóng của sản xuất chè. Trong giai đoạn này, giống trà vô tính phổ biến nhất
được nhân giống bằng phương pháp giâm cành là ‘Fudingdabaicha’ có nguồn
gốc từ tỉnh Phúc Kiến và sản lượng chè khô đạt 3.000kg/ha.
Tóm lại, nghiên cứu giâm hom chè để đạt kết quả tốt đã được các tác giả
kết luận cần chú ý về đặc điểm giống, kỹ thuật xử lý hom và môi trường giâm
hom, trong đó đã có khuyến cáo kích thước túi bầu giâm hom cho giống chè
Ấn Độ.
21
+ Nghiên cứu mật độ trồng chè
Mật độ trồng chè hợp lý làm tán chè nhanh phủ kín khoảng đất trống
xung quanh nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu về dinh dưỡng cho cây chè,
thuận lợi chăm sóc và thu hoạch.
Rahman và cộng sự (1988) [97] nghiên cứu xác định mật độ trồng chè ở
Ấn Độ cho thấy có sự tương quan thuận giữa sản lượng và mật độ trồng ở một
giới hạn nhất định, ngược lại khi trồng khoảng cách quá dày lại làm giảm sản
lượng chè. Đối với trồng chè cành, theo Chakravorty và washi R.C. (1981)
[60] cho thấy mật độ thích hợp nhất từ 11.000 – 14.000 cây/ha. Đối với trồng
chè hạt, tác giả Hobman (1985) [76] nghiên cứu tại Úc cho thấy mật độ thích
hợp cao hơn, khoảng 27.500 cây/ha. Mật độ tối thích phụ thuộc vào đất đai,
khí hậu và đặc điểm giống chè. Khi tuổi chè thấp (dưới 5 tuổi) thì sản lượng
có tương quan thuận với mật độ, khi tuổi cao hơn thì không còn tương quan
này, các cây chè cạnh tranh với nhau mạnh nên làm giảm sản lượng.
Chè ở Nhật Bản hầu hết thu hoạch chè bằng máy, các loại máy thu hoạch
được thiết kế để di chuyển ở bề mặt từ 1,5-1,8m (World green tea
Association, 2019) [121]. Hái chè là khâu cần nhiều lao động nhất trong sản
xuất chè, và hiện nay ở nước ta người trồng chè đã sử dụng phổ biến máy hái
để nâng cao năng suất, giải quyết thiếu hụt lao động. Các kết quả nghiên cứu
xác định mật độ trồng chủ yếu phụ thuộc vào giống và việc áp dụng cơ giới
hóa.
+ Kỹ thuật đốn chè:
Nghiên cứu kỹ thuật đốn chè ở Trung Quốc, tác giả Đào Thừa Trân
(1951) dẫn theo Đỗ Ngọc Quỹ (1980) [27] cho biết đối với giống chè Trung
Quốc có kỹ thuật đốn như sau:
Thời kỳ kiến thiết cơ bản (KTCB) đốn lần 1 bắt đầu khi có 75% tổng số
cây có chiều cao trên 27 cm, đốn thân chính cách mặt đất 17 – 20 cm, không
22
đốn cành bên; đốn lần 2 cách mặt đất 33 – 40 cm; đốn lần 3 cách mặt đất 50 –
60 cm; sau lần đốn thứ 3, vào mùa xuân năm sau khi mầm phát triển cao thì
đốn nhẹ 1 lần nữa cách mặt tán 7 – 10 cm.
Thời kỳ sản xuất kinh doanh (SXKD), hàng năm đốn phớt cao hơn vết
đốn cũ từ 2 – 5 cm.
Ở Ấn Độ, theo Barbora, B. C (1996) [55] nghiên cứu và đưa ra khuyến
cáo cho thời gian đốn, độ cao đốn thay đổi tùy thuộc vào từng giống, điều
kiện khí hậu và độ cao từng vùng nhằm tạo độ cao tán chè phù hợp. Kỹ thuật
đốn chè được khuyến cáo khi cây được 50 – 60 cm thì tiến hành đốn thân
chính và cành bên ở cùng độ cao 25 cm so với mặt đất, năm thứ 2 đốn nhẹ,
năm thứ 3 tạo tán bằng ở độ cao 50 cm. Việc áp dụng chu kỳ đốn chè cũng
cần dựa vào tình hình sinh trưởng, điều kiện khí hậu cụ thể cho từng vùng
sinh thái. Đối với những vùng lạnh cây sinh trưởng chậm đốn nhiều sẽ làm
giảm năng suất, có khi phải hoãn đốn sau 1 – 2 năm. Ở mỗi vùng, miền có
điều kiện khí hậu thời tiết, điều kiện sinh thái, tập quán canh tác khác nhau,
người ta đưa ra các quy trình đốn khác nhau cho chè.
Ảnh hưởng của độ cao vùng trồng cũng đã được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu. Theo Eden, T (1958) [69] đã nêu lên mối quan hệ giữa kỹ thuật
đốn chè với độ cao vùng trồng chè, tác giả cho rằng độ cao vùng trồng chè có
tương quan với tích lũy tinh bột vào rễ theo công thức: D = 11,17 + 0,20 E (D
là hàm lượng tinh bột, E là độ cao). Như vậy, độ cao vùng trồng chè càng lớn
thì khi đốn chè làm cho hàm lượng tích lũy tinh bột càng cao. Đây là yếu tố
nguồn để tạo cho cây sinh trưởng khỏe, năng suất búp cao.
Kiểu đốn khác nhau cũng ảnh hưởng đến sinh trưởng của bộ rễ. Kết quả
nghiên cứu cho thấy khi đốn đau có ảnh hưởng đến sự phân bố rễ trong các
tầng và lớp đất, đốn trẻ lại làm giảm hoạt động sinh trưởng của bộ rễ cây chè
so với đốn phớt, trọng lượng rễ giảm 28%, rễ dẫn giảm 36 – 42%, rễ hút giảm
23
22 – 24%, do vậy, xác định kiểu đốn thích hợp từng giai đoạn sinh trưởng cây
chè cần thiết cho từng giống, từng tuổi chè.
Thời tiết khí hậu quyết định đến thời vụ đốn tạo hình cây chè ở thời kỳ
KTCB đã được tác giả Barua. D. N (1989) [56] kết luận thời kỳ khô hạn
không nên đốn chè, đốn chè vào đầu mùa xuân là thích hợp nhất (tháng 1, 2).
Tại Grudia khi cây chè 2 – 3 tuổi, có 2 – 3 thân chính, cành bên phát triển tốt
đốn 2 lần: đốn lần 1 vào vụ xuân ở độ cao 10 – 15 cm, sau khi đốn tăng cường
chế độ chăm sóc cho cây; đốn lần 2 vào vụ xuân năm sau ở độ cao 30 – 35 cm
so với mặt đất; nếu cây chè thấp hơn 30 cm thì để lại năm sau mới đốn. Hoặc
ở Nhật Bản, đốn chè thời kỳ kiến thiết cơ bản thực hiện làm 3 lần: đốn lần 1 ở
độ cao 15 – 20 cm vào vụ xuân khi chè 1 tuổi; đốn lần 2 ở độ cao 20 – 25 cm;
đốn lần 3 tạo tán hình mâm xôi.
Các kết quả nghiên cứu về đốn cho thấy số lần đốn, chiều cao đốn chè
của các nước chủ yếu phụ thuộc vào giống, vùng trồng và áp dụng cơ giới
hóa.
+ Kỹ thuật hái chè
Hái chè không chỉ là một hoạt động thu hoạch sản phẩm đơn thuần mà
còn là một trong những biện pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất và chất
lượng chè. Tùy thuộc vào mục tiêu chế biến sản phẩm mà yêu cầu kỹ thuật
hái khác nhau.
Ở Trung Quốc kỹ thuật hái chè gắn liền với yêu cầu của chế biến sản
phẩm, thường hái kết hợp sửa cành. Do xu hướng sản xuất chè xanh là chủ đạo
vì vậy yêu cầu hái sớm, hái non, hái đều, giữ búp tươi là yếu tố tăng chất
lượng. Nghiên cứu kỹ thuật hái để có chất lượng chè tốt, trạm nghiên cứu cây
trồng á nhiệt đới Quảng Tây cho biết: khi loại búp chè có 3 – 4 lá chiếm trên
90% thì tiến hành bấm búp chè tôm 1 lá non để chế biến chè xanh cao cấp,
phần còn lại lá 2, 3, 4 được phân ra từng loại để chế biến riêng; thời điểm hái
24
buổi sáng vào lúc không còn sương và buổi chiều hái vào lúc 14 – 16 giờ,
tuyệt đối không hái khi trời mưa hoặc có sương mù.
Kỹ thuật hái chè ở vụ đầu tiên rất quan trọng, thực chất là kỹ thuật để lá
chừa hợp lý cho cây chè sinh trưởng tốt. Nghiên cứu kỹ thuật hái vụ 1 ở Ấn Độ,
theo tác giả Anon (1986a) [52] hái vụ 1 khi búp chè đạt độ cao 25 cm tiến hành
hái búp 1 tôm 2 lá và phần chừa lại có độ cao cách mặt tán 15 cm; những lứa sau
tiến hành hái kỹ và tạo tán bằng.
Nghiên cứu chu kỳ hái, tác giả Dumur và Naidu (1985) [67] tiến hành ở
Mauritius nhận thấy rằng chu kỳ hái ngắn cho sản lượng cao nhất, sản lượng và
chất lượng giảm đi khi kéo dài chu kỳ hái 6 – 18 ngày, chu kỳ hái thích hợp từ 7
– 10 ngày, dài nhất không quá 14 ngày.
Phương thức hái chè có thể bằng tay hoặc bằng máy, hái chè bằng tay
chất lượng nguyên liệu chè tốt hơn so với bằng máy, nhưng tốn nhiều công.
Các nước sản xuất chè tiên tiến phần lớn áp dụng thu hái chè bằng máy, phổ
biến hơn cả là Nhật Bản, Trung Quốc, Grudia, Ấn Độ và Sri Lanka. Trong khi
đó các nước Châu Phi chủ yếu thu hái chè bằng tay. Hái chè bằng máy có
những điểm chưa đạt yêu cầu mong muốn, như tỷ lệ lá già và bánh tẻ cao, lẫn
cành chè làm giảm chất lượng chè.
Các nghiên cứu về hái chè của các nước chủ yếu dựa vào mục tiêu chế
biến sản phẩm và hái bằng tay hay bằng máy. Hái chè không chỉ nhằm đạt
mục tiêu chất lượng sản phẩm mà còn là biện pháp kỹ thuật quan trọng duy trì
chỉ số diện tích lá thích hợp cho cây chè, vì thế các giống chè khác nhau cần
có kỹ thuật hái khác nhau để nâng cao năng suất và chất lượng chè đạt hiệu
quả kinh tế cao.
+ Nghiên cứu kỹ thuật bón phân.
Cơ sở khoa học về sử dụng phân bón hợp lý đều có liên quan đến đặc tính
sinh học cây trồng và môi trường bên ngoài. Hệ thống sử dụng phân bón và
25
liều lượng tối ưu của chúng cần xác định nhờ các thí nghiệm đồng ruộng,
phân tích đất, cây theo từng thời kỳ phát triển của cây.
Bơziava (1973) [133] cho rằng sự già cỗi cây chè chính là nó không phù
hợp với sự sinh trưởng của nó, bởi vì điều kiện bên ngoài thay đổi, dẫn đến
quá trình già hóa của cây chè. Giữa các yếu tố bên ngoài của môi trường thì
dinh dưỡng hệ rễ có ảnh hưởng chủ yếu đến cường độ sinh trưởng phát triển
của cây. Nhiều tác giả cho rằng phân bón cho chè có liên quan nhiều đến đất
đai, bởi vì đất là nền tảng chứa đựng các yếu tố dinh dưỡng cho cây trồng.
Quan hệ giữa đất đến năng suất, chất lượng chè rất phức tạp. Chất lượng
chè do nhiều yếu tố quyết định và tác dụng một cách tổng hợp. Điều kiện dinh
dưỡng ảnh hưởng rất nhiều đến năng suất, chất lượng chè, do vậy ngoài việc
sử dụng nguồn dinh dưỡng sẵn có trong đất, thì việc bón phân cho chè là một
biện pháp có hiệu quả.
+ Bón phân hữu cơ
Mặc dù phân khoáng có hiệu quả lớn, nhưng phân hữu cơ cũng rất quan
trọng đối với cây chè. Phân hữu cơ là nguồn giàu chất dinh dưỡng có giá trị
hơn cả đối với cây chè như đạm, lân, kali, magiê các nguyên tố vi lượng...
Ngoài ra tạo cho quá trình hoạt động tích cực các hệ vi sinh vật và làm giàu
mùn trong đất, làm cấu trúc của đất tốt hơn, như hút nước, chế độ nhiệt, làm
giảm độ chua và giảm hiện tượng xói mòn trên đất dốc. Phân hữu cơ thường
sử dụng cho cây chè như than bùn, phân chuồng, phân gia súc, những phế liệu
trong sản xuất nông công nghiệp.
Bón phân hữu cơ làm tăng chất lượng các giống chè. Khi nghiên cứu về
hiệu quả của phân hữu cơ trên cây chè khu vực sản xuất chè Mao Tiêm – Tín
Dương, vườn chè không sử dụng phân bón hợp lý dẫn đến đất bị chai cứng
lại, độ màu mỡ của đất giảm, đặc biệt ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng
chè Mao Tiêm –Tín Dương. Điều đó chứng tỏ rằng sử dùng phân hữu cơ
26
không chỉ có khả năng cải tạo đất mà còn có khả năng nâng cao năng suất và
chất lượng chè. Theo Zhang Wenjin Yang Ruxin và cs (2000) [126] bón phân
hữu cơ kết hợp phân vô cơ có thể thúc đẩy chè sinh trưởng nhanh, làm tăng
năng suất và chất lượng chè. Tỷ lệ bón kết hợp tốt nhất NPK và phân hữu cơ
là 3:1:3:3 hoặc 2:2:2:3. Hiệu quả phân NPK và hữu cơ ở các giai đoạn sinh
trưởng cây chè đều khác nhau, trong đó kali là nguyên tố chủ yếu làm tăng
đường kính của cây chè con, N giữ vai trò tăng năng súât của chè kinh doanh.
Khi sử dụng phân bón chuyên dùng và phân hữu cơ sinh học, Xu fu-le và cs
(2006) [124] nhận xét là có hiệu quả, làm thúc đẩy tăng số lượng chồi nảy
mầm và số lá mới của cây chè, do đó sản lượng chè tăng lên so với sử dụng
45% phân bón phức hợp vô cơ , khi chế biến, cho sản phẩm có chất lượng tốt
hơn.
+ Bón phân vô cơ đạm, lân, kali (NPK).
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của các
nguyên tố dinh dưỡng cho cây chè và kỹ thuật bón phân.
Ở điều kiện bình thường, cây chè lấy tất cả dinh dưỡng cần thiết từ đất
để sinh trưởng phát triển. Canh tác liên tục đã nhanh chóng làm cạn kiệt
nguồn dinh dưỡng khoáng trong đất, mặt khác thu hái chè thường xuyên đã
lấy đi một lượng lớn dinh dưỡng trong đất, việc bổ sung đầy đủ dinh dưỡng
đảm bảo cho cây chè sinh trưởng tốt, cho năng suất cao (Kamau, 2008) [79];
Jie Li. Agron (2005) [77]; Willson & Clifford, 1992) [119].
Ở Trung Quốc, nếu thu hoạch 7,5 tấn búp/ha, cần phải cung cấp N: 37,5
kg, P2O5: 75kg và K2O: 112 - 150 kg. Nghiên cứu vai trò của các nguyên tố
dinh dưỡng tham gia vào quá trình sinh trưởng cây chè đã được các tác giả
Bonheure, D. Và Willson, K. C (1992) [120], công bố 5 nguyên tố chiếm tỷ lệ
lớn: đạm (N) từ 1,69 – 5,95%; lân (P) từ 0,09 – 0,61%; kali (K) từ 0,02 –
2,64%; canxi (Ca) từ 0,06 – 2,42%; magie (Mg) từ 0,07 – 1,40%; các nguyên
27
tố khác chiếm số lượng ít từ 8 – 3.700 ppm và sắp xếp theo thứ tự giảm dần là
lưu huỳnh (S), clo (Cl), nhôm (Al), mangan (Mn), natri (Na), kẽm (Zn), đồng
(Cu), Bo (B) và sắt (Fe).
Jie Li và Agron (2005) [77] khi nghiên cứu về liều lượng phân bón cho
giống chè vô tính Long Tỉnh 43 ở Trung Quốc thấy tăng lượng N với các
bước 0, 150, 300, 600, 900, 1600 kg N/ha, năng suất năm thứ 2 sau bón tăng
tương ứng 5,5%, 10,4%, 10,3%, 19,8% và 22,3%. Tuy nhiên, tăng N lên cao
sẽ không hiệu quả do chi phí cao và lượng N dư thừa sẽ làm ô nhiễm đất.
WANG Lei và cs. (2019) [118] áp dụng phân bón lá sau vụ chè xuân có
thể làm tăng mật độ búp 44,3 – 76,4%. Tối ưu hoá thành phần của lá và búp,
có lợi cho việc hái máy, năng suất hái máy tăng 54,0 - 75,7%, hiệu quả của
việc tăng mức phân bón đạm hữu cơ cao là tốt nhất, phân Kali cao để cải thiện
hàm lượng các hợp chất sinh hoá trong búp trà và chế biến trà xanh chất
lượng tốt hơn. Sử dụng phân bón lá trên trà vụ thu có thể cải thiện năng suất
hái máy nhất.
Phân bón là nền tảng vật chất cơ bản của việc nâng cao năng suất và chất
lượng chè. Bón phân có tác dụng quan trọng đến sinh trưởng, năng suất và
chất lượng chè. Phân đạm nâng cao sản lượng, có hiệu quả nâng cao hàm
lượng caffeine và hàm lượng axit amin. Trong khi phối hợp lân, kali, đã nâng
cao hàm lượng tea polyphenol, caffeine và protein, vừa có khả năng thúc đẩy
nâng cao chất lượng lá chè, cải thiện chất lượng chè. Theo Su kongwu và Li
Jinlan (2005) [111] khi bón phân kali là tăng năng suất từ 8,3- 16,7% so với
không bón, đồng thời cải thiện được chất lượng sản phẩm và tăng khả năng
chống chịu của cây chè đối với điều kiện ngoại cảnh. Theo Zheng - Helin và
cs (2012) [126] nếu bón thiếu hụt phốt pho cho cây chè sẽ gây ảnh hưởng xấu
đến chất lượng chè sản phẩm chè xanh, điểm thử nếm thấp. Kết quả nghiên
28
cứu của Ruan Jianyun, Wu Xun (2003) [101] cho biết, khi bón bổ sung Kali
và Magie cho cây chè sẽ làm tăng khả năng chống chịu sâu hại trên cây chè.
Saharia và Bezbaruah (1984) [105] đưa ra kỹ thuật bón phân chủ yếu
dựa vào sản lượng thu hoạch chè hàng năm: vùng Bắc Ấn Độ bón phân cho
chè con theo tỷ lệ bón NPK là 10:5:10 và mức bón theo cây là 15, 25, 40 và
70 (g/cây) tương đương với các tuổi 1, 2, 3 và 4; còn bón phân cho chè kinh
doanh theo tỷ lệ bón NPK là 10:2:4 hoặc 12:4:8 và mức bón 100 – 200 kg
N/ha tùy thuộc vào đất, tuổi và sản lượng chè; vùng Nam Ấn Độ bón phân
cho chè con theo tỷ lệ bón NPK 1:2:2 và mức bón 90 kg N/ha; còn bón phân
cho chè kinh doanh dựa vào sản lượng để bón, họ chia ra 3 mức sản lượng
dưới 2.000, từ 2.000 – 3.000 và trên 3.000 (kg khô/ha) tương ứng các mức
bón là 10, 5, 4 (kg N/100kg chè), hàng năm có phun sun phát kẽm 11 kg/ha
lên lá.
Nhiều kết quả nghiên cứu ở Nhật Bản, Ấn Độ, Srilanka, Grudia... đều
cho rằng bón đạm không hợp lý, bón quá nhiều hoặc bón đơn độc đều làm
giảm chất lượng chè (đặc biệt là đối với nguyên liệu dùng để chế biến chè
đen).
Bơziava M (1973) [133] cho biết thí nghiệm về phân bón cho chè ở Anaxeuli trên diện tích thí nghiệm 63m2/ô, 4 lần nhắc lại trên nền photpho
(dạng super phôtphat) 120 kg/ha P2 O5 từ năm 1938-1950 bón đều hàng năm,
còn đạm trong dạng Sulphat-amôn phụ thuộc vào năng suất của nương chè.
Bón 50 kg N/ha vào năm 1940, 150kgN/ha vào năm 1941, từ năm 1942-1949
bón 200 kgN/ha, K2O-100 kg/ha. Đối chứng không bón. Từ năm 1950 bón
photpho – 400 kg P2 O5 một lần trong 2 năm, bón kali 200kg/ha một lần
trong 2 năm. N bón hằng năm 300 kg/ha bón 1lần vào tháng 3, liều bón 500
N/ha bón làm 2 lần, 300 kg bón vào tháng 3 và 200 kg bón vào tháng 7. Liều
bón 700 kgN/ha chia làm 3 làn, bón 300 kg vào đầu tháng 3, bón 200 kg bón
29
vào tháng 6 và 200kg bón vào tháng 7 còn phân chuồng bón 80 tấn/ha. Kết
quả thí nghiệm cho thấy bón liều 300 kg N/ha năng suất lên đến 8 tấn/ha, tăng
gấp 7 lần so với không bón. Bón photpho và kali không có đạm,trên nền P:K
hầu như không có hiệu quả, năng suất chỉ khác nhau 1-2% so với đối chứng.
Trong 3 năm đầu của thí nghiệm, bón liều lượng đạm cao, 300 kg, 500 kg,
700 kg N/ha năng suất chỉ tăng 10-16% so với đối chứng. Trong thời gian 4-5
năm thí nghiệm 500 kg N/ha năng suất chỉ tăng 6-7%, bón tăng đạm lên đến
700 kg/ha hầu như không có hiệu quả. Sau 6 năm thí nghiệm bón 500 kg N và
700 kg N/ha, năng suất chè gần như nhau. Tác giả đưa ra kết luận rằng khi
bón nâng cao liều lượng đạm tối ưu từ 300 - 500 kg/ha là có hiệu quả nhất.
Ngoài phân vô cơ cần bón phối hợp phân chuồng, phân magiê và các nguyên
tố vi lượng cung cấp đủ dinh dưỡng cho cây chè cho năng suất cao và chất
lượng tốt nhất.
Những nghiên cứu của Trơkhaidze 1985 [145] cho thấy liều lượng đạm
300 kg/ha thì hàm lượng tanin, caffeine và chất hòa tan trong búp chè đều
cao, có lợi cho chất lượng, song nếu vượt quá giới hạn trên thì chất lượng chè
giảm. Khi bón nhiều đạm hàm lượng protein ở trong lá tăng lên. Mặt khác,
khi bón nhiều đạm hàm lượng alkanoid trong chè tăng lên làm cho chè có vị
đắng Gogia B.T. (1984) [135] Djemukhadze (1954) [137].
Theo tác giả Azizbekian C.B, Domach. V.I (2015) [128], kết quả thử
nghiệm phân bón Nano các dạng khác nhau cho rau ở Viện rau quả Belarus
năm 2015 cho thấy, liều dùng0,1 l/ha (4x 0,25g/ha) phun trên dưa chuột làm
tăng năng suất từ 12,2-15,3% ,đối với cà chua tăng năng suất từ 17,9-23,2%
so với đối chứng (bón NPK) Lợi nhuận mang về từ 290-340 USD/ha cao gấp
25 lần so với chi phí mua phân bón Nano.
Kết quả thử nghiệm phân bón vi lượng Nano đối với cây trồng theo
Azizbekian C.B, Domach. V.I (2015), cho thấy, sự chuyển dịch phần tử bất
30
kỳ nào vào dạng Nano, đều kèm theo sự tăng đáng kể hiệu quả tác dụng của
nó. Những nghiên cứu so sánh hiệu quả của nano-fe với sulphat sắt và nước
lên cây trồng, người ta phun một lần(1ml/cây) với nồng độ như nhau (1mg/l).
Hiệu quả từ xử lý Nano-Fe bắt đầu xuất hiện qua một ngày đêm. Qua 10 ngày
khối lượng rễ tăng lên hầu như gấp 2 lần. Phân tích thành phần khoáng trong
lá và rễ trên máy quang phổ hấp phụ nguyên tử, cho thấy mỗi một cây được
nhận tất cả 1 milimicrogram Fe trong dạng Nano xúc tác có khả năng hút bổ
sung Fe từ đất lớn hơn gấp 100 lần so với phun ban đầu. Khi sử dụng phân
bón vi lượng nano cho các loại cây trồng khác nhau, làm tăng năng suất từ
22,6 -30,5%. Sử dụng phân bón vi lượng nano cho khoai tây gồm Co, Mn,
Cu,Fe, 0,1 l/ha (0,2g tổng số/ha) cho năng suất tăng đến 29% so với đối
chứng, lợi nhuận thu về khoảng 450 USD/ha.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của các mức đạm (N) khác nhau đối với năng
suất và chất lượng chè cũng được nhiều tác giả nghiên cứu. Theo các tác giả
Su Youjian, Liao Wanyou, và CS, (2011) dẫn theo Trần Xuân Hoàng 2016
[9] các mức N khác nhau ảnh hưởng rõ đến năng suất và chất lượng chè, một
tỷ lệ N hợp lý sẽ nâng cao được năng suất và cải thiện được chất lượng. Năng
suất chè sẽ không tăng khi sử dụng tỷ lệ N trên 360 kg/ha. Ở cùng một nền
đất giống nhau, khi sử dụng N đầu tiên năng suất chè tăng, sau đó giảm, giữa
năng suất và N có mối quan hệ parabol. Khi đánh giá về chất lượng cho thấy
mức N thích hợp có thể cải thiện hàm lượng axit amin tự do, caffeine, nước
và chlorophyll trong lá chè, trong khi hàm lượng polyphenol giảm dần.
Nhật Bản, trước đây mức bón phân cho chè cũng tương tự như nhiều
nước trên thế giới. Nhưng ngày nay do áp dụng cơ khí hóa và tự động hóa
trong khâu thu hoạch, vì vậy họ đã khuyến cáo mức bón rất cao, đối với chè
có sản lượng 18 tấn búp/ha mức bón N, P, K là 800, 210 và 360 (kg/ha).
31
Ở Srilanka đã nghiên cứu và sử dụng kẽm sunfat hoặc axit kẽm để phun
lên lá, hoặc bón borat phối hợp với N, P, K cho chè ở những nơi xác định có
hiện tượng thiếu kẽm và bo. Theo Tranturia (1973) cho thấy bón N, P, K phối
hợp với 5 kg Zn và 5 kg B cho 1 ha, làm tăng chất lượng của chè nguyên liệu
(dẫn theo Đỗ Ngọc Quỹ (1997) [26]. Theo nghiên cứu của Lin Xịnjiong và cs
1991 [86]. Bón phân cho cây chè làm thúc đẩy tăng năng suất và cải thiện
chất lượng nguyên liệu búp chè tươi, và cho rằng, hiệu quả bón kali nâng cao
chất lượng rõ hơn đạm và lân. Bón tăng kali trong phân hổn hợp NPK sẽ nâng
cao chất lượng nguyên liệu chè.
Ruan Jianyun và cs (1997) [101] bón bổ sung K, Mg năng suất búp chè
tăng đáng kể từ 9-38%, hàm lượng axit-amin, caphein, polyphenol trong búp
chè đều tăng rõ rệt. Theo S. Jayaganesh và cs 2010 [104] bón Mg trong đất,
hàm lượng axit-amin, catechin tằng lên đáng kể. Nếu phun vi lượng Mg trên
lá thời gian dài thì hàm lượng axit-amin giảm so với đối chứng.
Tóm lại, dựa trên các phân tích ở trên cho thấy nhu cầu bón phân cho
cây chè thì tỷ lệ, liều lượng bón chủ yếu phụ thuộc vào giống, vùng trồng, sản
lượng thu hoạch, mục tiêu chế biến và chế độ canh tác.
+ Đặc tính chất lượng nguyên liệu búp chè
Nguyên liệu chè thu hái cho chế biến chủ yếu gồm búp có tôm và 2-3 lá
non. Thành phần cơ giới búp phụ thuộc vào mùa vụ, giống và kỹ thuật hái:
+ Các giống chè khác nhau có thành phần cơ giới và hình thái nguyên
liệu búp khác nhau. Búp chè non, già, to, nhỏ khác nhau ảnh hưởng rất lớn
đến quá trình chế biến sản phẩm.
Đánh giá chất lượng nguyên liệu tươi nhiều nước sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ
lá già và lá bánh tẻ. Ở Grudia người ta xác định chất lượng nguyên liệu búp
chè bằng máy “ Xinaze” (theo phương pháp bấm bẻ). Nguyên liệu được chia
làm 2 loại, loại 1 có tỷ lệ lá già và bánh tẻ ≤ 3,8%, loại 2 có tỷ lệ lá già và
32
bánh tẻ ≤ 8%. Ở Trung Quốc, Ấn Độ, Srilanca đếm số lá nhiều hay ít, thông
qua đó xác định phần non, già của nguyên liệu (dẫn theo Nguyễn Thị Minh
Phương 2012) [23]. Nếu tỷ lệ lá già và lá bánh tẻ càng cao thì chất lượng
nguyên liệu chè càng giảm. Ngoài ra người ta còn xác định chất lượng nguyên
liệu chè bằng các chỉ số hóa học.
-Thành phần hóa học chủ yếu của nguyên liệu búp chè:
Thành phần hóa học trong búp chè luôn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau, như giống chè, đất đai, kỹ thuật canh tác, điều kiện địa lý, độ cao
nương chè so với mặt biển, thời vụ thu hái, thành phần cơ giới của búp chè...
Trong nguyên liệu búp chè gồm có 2 phần: nước và chất khô. Hàm lượng
nước chiếm phần lớn từ 73-81%, hàm lượng chất khô chiếm từ 19-27% theo
khối lượng nguyên liệu chè. Trong phần chất khô người ta chia làm 2 nhóm:
Nhóm 1: là những chất hòa tan trong nước, chiếm từ 45-50% chất khô,
gồm các chất tanin, catechin, đạm, đường, pectin, caphein, chất khoáng, axit
hữu cơ, axit-amin
Nhóm 2: là các chất đệm, không có giá trị đối với chất lượng của chè,
nhưng đóng vai trò quan trọng đối với quá trình sinh lý cây rồng. Gồm có các
chất chlorophyll “a, b”, các chất nhựa, lignin, protopectin, cellulose,
hemicellulose, protein không tan
Uchida K (2016) [117] cho rằng trong chế biến chè đen, quá trình lên
men làm cho catechin thay đổi mạnh mẽ tạo thành các chất đồng phân và các
polyme. Các polyme trong chè đen được gọi là thearubigin. Thearubigin
chiếm khoảng 10-20% trọng lượng khô của chè đen, có mầu nâu và tan nhiều
trong nước. Còn theaflavin là một trong những sắc tố mầu đỏ tươi của chè đen
và có nhiều hoạt tính sinh học khác nhau.
Hợp chất catechin lần đầu tiên được nghiên cứu bởi Munder, được công
bố vào năm 1838. Vào đầu thế kỷ 20 các nhà khoa học thế giới đã nghiên cứu
33
catechin rộng rãi trong cây Acacia catechu và nhiều loại cây khác. Chỉ đến
năm 1933, A L Cuốcxanốp đã bắt đầu nghiên cứu thành phần hóa học trong
chè một cách hệ thống, tạo ra cơ sở khoa học của quá trình sản xuất chế biến
chè cho đến ngày nay Xoxialishvili (1989) [144]. Khi nghiên cứu catechin
trong búp chè Roberts, Wood 1951c, 1953, Roberts 1956 đã quan sát và
nghiên cứu thành phần catechin trong búp chè, chỉ ra rằng, khi đun nóng hoặc
hấp búp chè tươi thì dạng (+) catechin được epimer hóa thành dạng (-)
catechin, còn dạng (+) gallocatechin biến thành (-) gallocatechin, thể hiện kết
quả đó trong sắc ký đồ có (± ) catechin và (±) gallocatechin (Zaprometop,
1964) [140]. Về sau các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu sâu thành
phần hóa học trong lá, cuộng, rễ , hoa của cây chè, chỉ ra rằng, trong búp chè
có 7 loại catechin: (-) epicatechin,(±) catechin (-)
epigallocatechin,(±)gallocatechin,(-) epicatechingallat,(-)
gallocatechingallat,và (-) epigallocatechingallat, theo Djemukhadze và cs.
(1957) [135], Zaprometop (1964) [139], trong búp chè, lá càng non thì hàm
lượng catechin càng cao.
Các hợp chất polyphenol trong trà có hàm lượng nhiều và phong phú có
nhiều ích lợi cho sức khỏe, ngăn ngừa được nhiều bệnh nên ngày càng được
nghiên cứu sâu hơn về các tác dụng và cơ chế chữa bệnh của các chất có trong
chè (Clarke K.A et al., 2016 [64]; Chenyu Chu et al., 2017 [62]; Khaizurin
T.A. et al., 2019 [82]; Mani I.P. et al., 2019 [87]; Ruan L. Et al., 2019 [100];
Uchida K. Et al., 2016 [117]; Yumen H. (2017) [125].
Trong búp chè còn có các chất caphein, teobromin, teophylin. Caphein
trong chè được phát hiện vào năm 1821 bởi Munder (Bacutrava, 1958) [134].
- Pectin trong chè gồm có 2 loại: pectin hòa tan và pectin không hòa tan
(protopectin). Trước kia người ta cho rằng, pectin không có tác dụng đối với
chất lượng chè. Chỉ sau này theo nghiên cứu của Egorova và Salishvili
34
(1940) Gogia 1950b (dẫn theo Bacutrava, 1958), [134] tiến hành nghiên cứu
pectin trong lá chè ở Grudia cho rằng, pectin có tác dụng kết dính làm xoăn lá
chè khi vò và tạo vị ngọt cho chè sản phẩm. Trong lá chè càng non thì hàm
lượng pectin hòa tan càng cao. Trong búp chè hàm lượng pectin chiếm từ
2,01-3,08% chất khô.
Trong nghiên cứu chè, thường chú ý đến hàm lượng tanin và chất hòa
tan, là 2 chỉ số quyết định đến chất lượng của chè.
- Chất hòa tan, trong phần hòa tan có chứa nhiều chất dinh dưỡng có giá
trị đối với cơ thể con người. Khi lá chè càng phát triển thì phần hòa tan trong
nước giảm xuống, và ngược lại phần không tan được tăng lên. Những chất
không tan, nằm lại trong bã khi pha chè. Đó là những chất không có giá trị đối
với chất lượng chè như các hợp chất cao phân tử: cellulose, hemicellulose,
protit không tan, các chất màu. Chất hòa tan trong chè thường chiếm cao nhất
đến 50% so với chất khô. Nó bao gồm tất cả các hợp chất tan trong nước, mà
chủ yếu là hàm lượng tanin chiếm từ 25-30% chất khô. Ngoài ra còn có các
chất catechin, caphein, teobromin, teophylin, axi-amin, các loại vitamin,
pectin và các chất muối khoáng... Trong chè chứa hàm lượng chất hòa tan
càng cao, thì chất lượng chè càng tốt và giá trị dinh dưỡng càng cao. Theo
Chen Rong Bing (1995) [61] hàm lượng chất hòa tan trong các giống chè đều
khác nhau. Giống chè Ấn Độ, hàm lượng chất hòa tan chiếm đến 50%, chè
Trung Quốc-45%, chè Nhật Bản-43%, chè Grudia-44%. Trong sản phẩm chè
xanh, chất hòa tan chiếm từ 38-42%, chè đen chiếm 34-36% chất khô. Trong
búp chè, lá càng non thì hàm lượng chất hòa tan càng cao, trong cuộng chè
chứa hàm lượng chất hòa tan cao nhất.
- Hàm lượng tanin, hay còn gọi là chất chát, bao gồm tất cả các chất bị
oxy hoá bởi permanganatkali. Theo Zaprometop (1964) [139], trong hợp chất
tanin bao gồm phenol đơn phân, catechin, axit phenolic, leicoxianigin,
35
antoxian, flavol, flavanol và tanin cao phân tử. Nghiên cứu hợp chất tanin
trong chè được bắt đầu bởi Munder K L vào năm 1838, nhưng chỉ nghiên cứu
tanin trong chè sản phẩm mang tính chất thương mại. Về sau Oparin,
Cuocxanop, Bacutrva, Djemukhadze, Roberts đã nghiên cứu hợp chất tanin
trong búp chè, dưới sự biến đổi của chúng trong quá trình chế biến chè đen đã
chỉ ra rằng, hương vị và màu sắc của chè được hình thành chủ yếu do tác
dụng của tanin và sản phẩm oxy hóa của chúng (Djemukhadze, 1982 [5];
Bacutrava, 1958 [134]). Theo nghiên cứu của Bacutrava( 1958) cho rằng hợp
chất tanin có 2 dạng: dạng hòa tan trong nước và dạng không tan. Điều này có
ý nghĩa lớn trong quá trình hoạt động sinh lý của cây chè và chất lượng sản
phẩm. Hợp chất tanin có khả năng dịch chuyển trong thực vật khi cây thiếu
dinh dưỡng, nó có thể dược sử dụng như một loại nguyên liệu hô hấp. Một
trong những chức năng quan trọng của tanin liên kết là tạo nên sự bền vững
trong tế bào thực vật và tính chống chịu của cây. Hàm lượng tanin trong chè
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như giống chè, độ cao nương chè so
với mặt biển, điều kiện canh tác, thu hái, thời vụ ...
Các biến chủng khác nhau thì hàm lượng tanin và thành phần của chúng
cũng khác nhau. Búp chè thuộc biến chủng Ấn Độ và Trung quốc lá to hàm
lượng tanin đơn phân nhiều hơn so với các giống chè khác. Lá chè càng non
thì hàm lượng tanin càng cao. Trong búp chè tôm 2 lá hàm lượng tanin chiếm
khoảng 25-35% chất khô.
Axit amin trong búp chè không chỉ ở trong thành phần protit mà còn ở
trạng thái tự do, nó có ý nghĩa lớn đối với chất lượng chè sản phẩm. Theo
nghiên cứu thành phần axit amin trong lá chè Grudia, Bacutrava cho rằng,
trong chè có 16 loại axit-amin và một vài amid, trong đó có 7 loại axit-amin
không thay thế đối với cơ thể con người.
36
Liang Yueron và cs. (2019) [85], cho rằng nhu cầu về các sản phẩm chè
ngày càng đa dạng, bao gồm đa dạng hoá các thuộc tính chất lượng cảm quan
và chức năng tốt cho sức khoẻ. Chọn giống chè hiện nay nhằm mục tiêu tăng
hàm lượng EGCG, axit amin bao gồm theamin chức năng. Giống chè có mầu
sắc với hàm lượng anthocyanin cao đã được đưa ra từ giai đoạn đầu thế kỷ
XXI.
Chenyu C., Jia D., Yi M., Yili Q. (2017) [62] cho biết, trà xanh là đồ
uống phổ biến nhất ở Trung Quốc và Nhật Bản. Thành phần hóa học chính
trong trà xanh là Polyphenol, chiếm 30% chất khô của trà xanh. Các
polyphenol trong trà xanh có nhiều catechin như catechin, epicatechin (EC),
epicatechin-3-gallate (ECG), epigallocatechin (ECG), epigallocatechin-3-
gallate (EGCG). EGCG là polyphenol có nhiều nhất trong số các polyphenol
trong trà xanh. phong phú nhất chiếm từ 50 – 80% tổng số trong trà xanh, nó
cũng được coi là đóng góp chính các lợi ích sức khoẻ khác nhau của trà xanh.
Xiong L.G và cộng sự (2018) [122], các mức tối ưu của EGCG đã được
tìm thấy để kéo dài tuổi thọ ở C. Eleganstrong qua con đường trung gian
AMPK/ SIR2.1 / DAF-16, khi kích hoạt SIR2.1 có thể kích hoạt yếu tố phiêm
mã DAF-16, cuối cùng kích hoạt nhiều yếu tố chống oxy hoá.
Ding L; Gao X; Hu J, Yu S (2018) [66], Martin M.A (2017) [88], chiết
xuất trong trà xanh có tác dụng chống lại phản ứng oxy hoá (ROS) và chất
chống oxy hoá (RNS). Gần đây, EGCG cải thiện chức năng bộ nhớ bằng cách
quan sát các mức chống oxy hoá RNS và được sử dụng để chống lão hoá.
Theo Dunaway.S, et al. (2018) [68], UV có thể gây tổn thương da trực
tiếp, thông qua sự hấp thụ năng lượng của các sinh học phân tử, hoặc gián
tiếp, bằng cách tăng sản lượng của ROS. Sản phẩm tự nhiên với hoạt tính
chống oxy hoá, có khả năng tăng cường nội sinh của da và giúp trung hoà
ROS.
37
Đường hòa tan cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng đối với chất
lượng chè. Theo nghiên cứu của Bacutrava (1958) [134] cho rằng, khi tác
dụng lẫn nhau giữa các đường glucose, fructose với phenylalamin và hợp chất
catechin sẽ tạo ra các aldehyd, làm cho chè có mùi hương hoa quả, hoặc mùi
hoa hồng, mùi mật ong. Các loại đường khử đều tham gia vào quá trình tạo
thành chất lượng chè khi chế biến. Hàm lượng đường khử trong búp chè
chiếm khoảng 2-3% chất khô. Theo số liệu phân tích của Djemukhadze
(1982) [5] xác định trong chè nguyên liệu, hàm lượng hợp chất tanin-catechin
càng lớn thì hàm lượng đường hòa tan càng thấp và ngược lại. Nguyên liệu
chè thu hoạch trong đầu vụ, hàm lượng đường khử cao nhất và ở giữa vụ thấp
nhất, sau đó vào cuối vụ lại tăng lên. Điều đó được giải thích rằng bởi vì các
loại đường khử là tiền chất để tổng hợp, hợp chất catechin.
Như vậy thành phần hóa học trong búp chè luôn phụ thuộc vào giống
chè, điều kiện địa lý, kỹ thuật canh tác, đất đai, thời vụ thu hái, độ non già của
nguyên liệu... Đó là những khái niệm cơ bản để phục vụ cho công tác nghiên
cứu giống chè và kỹ thuật canh tác, chế biến sản xuất chè, để tạo nên những
giống chè có năng suất cao, ổn định chất lượng tốt nhất.
1.3. Nghiên cứu về chè ở Việt Nam
1.3.1. Nghiên cứu về giống
1.3.1.1. Tình hình điều tra thu thập về giống
Đến năm 2015 cả nước có 10 giống chè mới chủ lực đã được nghiên cứu,
khảo nghiệm, công nhận và đưa vào phục vụ sản xuất như PH1, TRI 777,
LDP1, LDP1, Phúc Vân Tiên, Kim Tuyên, Ngọc Thúy, PH10, TB14, PH8,
PH9, PH11, PH12, PH14 Nguyễn Văn Toàn (2015) [44].
So với năm 2000 (khoảng 15 % diện tích chè giống mới), cơ cấu giống
chè cả nước đến năm 2015 đã có chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ lệ
các giống chè chất lượng khá và chất lượng cao.
38
Hiện nay, vùng sản xuất giống chè tập trung tại Phú Thọ, Tuyên Quang,
Thái Nguyên, Yên Bái và Lâm Đồng có khoảng 200 ha chè đầu dòng giống
mới đã được thẩm định và công nhận có khả năng cung cấp trên 300 triệu
hom giống, đủ đáp ứng nhu cầu giống cho trồng mới và trồng thay thế hàng
năm của cả nước.
Hiện trạng tập đoàn giống chè ở Việt Nam
Hiện nay Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc,
lưu giữ tập đoàn gồm 202 giống chè có nguồn gốc trong nước và nhập nội.
Gồm 76 giống địa phương và chọn tạo tại Việt Nam chiếm khoảng 39,38%,
117 giống nhập nội chiếm khoảng 60,62%, phân theo hình thái có: thứ Trung
Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var Bohea), 71 giống, thứ Trung Quốc lá to
(Camellia sinensis var Macrophylla) có 42 giống, thứ chè Ấn Độ (Camellia
sinensis var Assamica) 38 giống, chè Shan (Camellia sinensis var Shan) 42
giống (Nguyễn Hữu La, 1998) [12].
Nguyễn Hữu La, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Hoàng Hà (2019) [84]
giống chè mới LCT1, được tạo ra bằng phương pháp lai chéo, cho năng suất
cao, chất lượng nước uống và chống lại một số loài gây hại chính.
Tập đoàn giống chè được thu thập bảo quản năm 2017 – 2018 để khai
thác tăng thêm 71 giống (tăng 58,2% so tổng số giống bảo quản). Các giống
chè này đang là nguồn vật liệu quan trọng phục vụ cho công tác chọn tạo giống
chè mới chất lượng cao ở Việt Nam .
1.3.1.2. Ứng dụng Công nghệ sinh học trong chọn tạo giống chè
Những ứng dụng của chỉ thị phân tử còn rất hạn chế, phần vì các phương
pháp chọn tạo giống chè truyền thống vẫn còn phổ biến, phần vì công nghệ
sinh học chưa được triển khai đến các cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về cây
chè. Cũng tương tự như trên thế giới, do số lượng chỉ thị SSR đặc hiệu cho
39
cây chè chưa có nhiều nên đến nay, ứng dụng công nghệ sinh học trong công
tác giống chè ở nước ta còn rất hạn chế.
Lã Tuấn Nghĩa và cs (2010) [14] đã tiến hành phân tích phân nhóm di
truyền 96 giống/dòng chè bằng chỉ thị phân tử Microsatellite. Dựa trên quan
hệ di truyền đã xác định các cặp bố mẹ có khoảng cách di truyền xa nhau để
lai giống nhằm tạo ra ưu thế lai. Kết quả đã tạo ra được các cây chè F1 từ các
cặp bố mẹ có quan hệ xa nhau về di truyền, thu được 49 cây đầu dòng, tuyển
chọn được 2 giống chè lai triển vọng về năng suất và chất lượng là dòng TKt
– 10 và PBt –25. Mặc dù quy mô các nghiên cứu trên còn hạn chế nhưng kết
quả thu được phù hợp với các nghiên cứu được công bố trước đó và là cơ sở
di truyền ban đầu cho công tác chọn tạo giống chè ở Việt Nam.
Nguyễn Văn Thiệp và cs. (2016) đã sàng lọc và xác định 2 chỉ thị SSR
là CamsinM1 và CamsinM5 liên kết với gen chịu hạn ở cây chè. Ứng dụng
các chỉ thị này vào chọn tạo giống chè, các tác giả đã tạo ra các dòng chè mới
CH-352, CH-711 và CH-651 có khả năng chịu khô hạn trong điều kiện gây
hạn nhân tạo tới 30-45 ngày [37].
Mặc dù còn khá mới mẻ nhưng có thể khẳng định việc áp dụng công
nghệ sinh học trong công tác giống chè là khả thi và và nâng cao hiệu quả
công tác chọn tạo giống chè mới ở nước ta.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu đặc điểm sinh vật học của cây chè Việt Nam
1.3.2.1. Kết quả nghiên cứu về hoa, quả chè
Nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học của các giống chè ở Việt Nam đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm.
Nghiên cứu số lượng nụ, hoa của các giống chè ở Thái Nguyên, tác giả
Lê Tất Khương (1997) [11] cho rằng ở điều kiện sinh trưởng tự nhiên cây chè
ra nhiều nụ hoa hơn so với trong điều kiện có đốn, hái. Các giống chè Ấn Độ
và chè Shan có số nụ hoa ít hơn so với các giống Trung Du, và ra hoa muộn
40
hơn giống Trung du từ 10 - 25 ngày và thời gian quả chín muộn hơn giống
Trung du từ 5 đến 10 ngày.
1.3.2.2. Nghiên cứu về thân, cành chè
Các giống chè đều có những đặc điểm và khả năng phân cành khác
nhau, có giống phân cành thấp (thân bụi, nửa bụi), có giống phân cành cao,
cành thưa hơn (thân gỗ, bán gỗ). Khả năng phân cành của mỗi giống đều có
ảnh hưởng đến chiều cao, độ rộng tán, mật độ cành, mật độ búp của tán chè
và qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng chè.
1.3.2.3. Nghiên cứu về lá chè
Những cây chè có sản lượng cao thường là những cây có màu xanh
đậm, bóng láng, dày. Những giống chè có tỷ lệ chiều dài lá/chiều rộng lá (d/r)
bằng 2,2 sẽ có sản lượng cao hơn những cây có tỷ lệ này nhỏ hơn 2,2. Giống
có dạng lá bầu dục (tỷ lệ d/r nhỏ hơn 2,2) sản lượng cao hơn giống có dạng lá
hình mũi mác. Giống chè Trung Du có diện tích lá nhỏ thường cho năng suất
thấp, búp nhanh mọc xòe.
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc điểm hình thái, điều kiện ngoại
cảnh với năng suất chè, Chu Xuân Ái (1988) [1] cho rằng: Năng suất chè có
mối tương quan thuận chặt với diện tích lá (r = 0,7725), những giống có diện
tích lá lớn cho năng suất cao. Giống có chiều rộng lá lớn (r = 0,7542) có năng
suất cao hơn những giống có chiều dài lá lớn.
Nguyễn Văn Toàn và Trịnh Văn Loan (1994) [41] cho biết về quan hệ giữa diện tích lá chè và sản lượng, trong khoảng diện tích lá 6 cm2 – 36 cm2
thì khi diện tích lá tăng sản lượng chè có xu hướng giảm.
Nghiên cứu hệ số diện tích lá và quan hệ giữa hệ số diện tích lá với
năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất, tác giả Đỗ Văn Ngọc (1991) [17]
cho biết: Hệ số diện tích lá có tương quan thuận với tổng số búp/tán chè (r =
41
0,69 – 0,57) và tương quan thuận với mật độ búp từ tháng 5 đến tháng 12, hệ
số diện tích lá tương quan thuận, chặt với năng suất.
Nghiên cứu hệ số diện tích lá các giống chè, tác giả Đỗ Văn Ngọc còn
cho rằng những giống chè có năng suất cao thường có hệ số diện tích lá 4 – 6.
Theo tác giả Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn Loan (1994) [41] thì đặc
điểm của cây chè có sản lượng cao ít nhất phải có hệ số diện tích lá lớn (tạo ra
số búp nhiều), kích thước lá lớn, khối lượng búp cao). Về thế lá, các giống chè có sản lượng cao thường có góc lá là 40 – 60o.
1.3.2.4. Nghiên cứu về sinh trưởng búp chè
Thời gian hình thành 1 đợt sinh trưởng dài hay ngắn phụ thuộc vào
giống, tuổi cây, điều kiện đất đai, khí hậu và điều kiện canh tác. Nghiên cứu
thời gian các đợt sinh trưởng búp ở các thời vụ trên giống chè Trung du tại
Phú Hộ, Nguyễn Phong Thái cho biết, vụ xuân búp chè có thời gian sinh
trưởng dài nhất (41-42 ngày) và ngắn nhất là vụ hè (28-31 ngày).
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc điểm hình thái, điều kiện ngoại
cảnh với năng suất chè, Chu Xuân Ái (1988) [1] cho rằng: Năng suất chè có
mối tương quan thuận chặt với mật độ búp chè (r = 0,8564), những giống có
mật độ búp cao cho năng suất cao.
Nghiên cứu số đợt sinh trưởng của các giống chè, trong đó có giống chè
Shan (TRI-777) ở điều kiện có đốn hái và điều kiện tự nhiên, tác giả Lê Tất
Khương (1997) [11], cho rằng số lượng đợt sinh trưởng tự nhiên của các
giống biến động từ 3,4 - 3,6 đợt/năm, nhưng trong điều kiện có đốn hái số đợt
sinh trưởng lớn hơn, đạt 5,5 - 6,2 đợt/năm.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa sinh trưởng búp chè với sản lượng, tác giả
Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn Loan (1994) [41] cho biết sản lượng chè do 2
yếu tố số lượng búp trên cây và khối lượng búp quyết định, trong đó tổng số
lượng búp trên cây có tương quan chặt đến sản lượng búp (r = 0,93 ± 0,03), còn
42
yếu tố khối lượng tương quan thuận không chặt với sản lượng. Số búp trên cây
là yếu tố nhạy cảm còn khối lượng búp là yếu tố ổn định và vì thế số búp trên
cây có ý nghĩa lớn hơn đối với sản lượng.
Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái của tập đoàn giống chè tại Phú Hộ
trong thời kỳ KTCB tác giả Nguyễn Hữu La (1998) [12] đã khẳng định chiều
cao cây có tương quan thuận rất chặt với chiều rộng tán chè (r = 0,72 ± 0,09),
nhưng không có tương quan thuận với khối lượng búp và mật độ búp.
Sắc tố trong lá chè được phân loại làm 4 sắc tố: đó là Chlorophyll,
Carotenoid, Phylcobilin và sắc tố của dịch bào Antocyan. Màu sắc lá cấu tạo
sắp xếp các tế bào lục lạp trong lá vì trong tế bào lục lạp ngoài chất diệp lục
còn có chứa thêm 2 chất màu xanh: Xantophill – màu vàng, Caroten màu đỏ
cam. Như vậy hàm lượng Chlorophyll, Caroten trong lá chè sẽ ảnh hưởng đến
sắc tố của lá cũng như chất lượng và sản lượng chè.
Kerkadзe.I.G (1980) [141] nhận xét: Dạng lá có màu vàng là đặc trưng
và tương quan có lợi cho các chỉ tiêu sinh hóa, nó phân biệt với lá có màu sắc
khác ở sự khác nhau của hàm lượng Chlorophyll, Tanin và một số chỉ tiêu
khác. Dạng lá có màu cà phê sáng đặc trưng có lợi cho các chỉ tiêu sinh lý.
1.3.3. Những nghiên cứu về nhân giống vô tính chè ở Việt Nam
Ở Việt Nam nhân giống vô tính đối với cây chè từ lâu đã được nhiều tác
giả nghiên cứu. Theo Đỗ Ngọc Quỹ và Nguyễn Văn Niệm (1979) [25] chè có
thể nhân giống vô tính theo ba hình thức khác nhau: Giâm cành, chiết và
ghép. Khi nghiên cứu về ghép chè. Cả 2 phương pháp: Ghép áp và ghép nêm
đều có kết quả nhất định, tuy nhiên ghép áp đoạn cành cho kết quả tốt hơn,
khả năng phát triển của cành ghép mạnh hơn, tỷ lệ nảy mầm đạt 90,19%, tỉ lệ
ghép sống đạt 87,04%. Thời gian nảy mầm ngắn 25 đến 39 ngày.
Nghiên cứu khả năng nuôi cấy mô của một số giống chè, Nguyễn Văn
Thiệp và Inoue Kazumi (2006) [33] kết luận: Khả năng nẩy chồi của một số
43
giống chè khi nuôi cấy bằng phôi hạt là như nhau trong khi đó nếu nuôi cấy
bằng búp của các giống chè Shan và giống LDP1 có tỷ lệ nẩy chồi thấp hơn.
Các giống Shan và giống LDP1, Shan Chất Tiền, Gruzia 3 có khả năng tạo
thành phôi vô tính, khả năng tạo chồi và rễ mạnh hơn các giống khác.
Nhìn chung các phương pháp nhân giống trên đều có những ưu điểm
nhưng có những vẫn còn những nhược điểm nhất định như: kỹ thuật phức tạp,
không thuận tiện, hệ số nhân giống thấp, hoặc giá thành cây giống cao. Nhân
giống vô tính đối với cây chè bằng phương pháp giâm hom có tính khả thi
hơn vì hệ số nhân giống cao, dễ thực hiện, thời gian cây giống đạt tiêu chuẩn
xuất vườn nhanh, giá thành hạ, việc vận chuyển dễ dàng một khối lượng cây
lớn đến nơi trồng mới.
Khi nghiên cứu thời vụ giâm cành đối với giống chè PH1 các tác giả Đỗ
Ngọc Quỹ và Nguyễn Văn Niệm (1979) [25] đã xác định có hai thời vụ chính:
Vụ Đông xuân từ tháng 12 đến tháng 2 và vụ hè thu từ tháng 6 đến 15 tháng 7
nhưng thời vụ giâm cành tốt nhất với giống chè PH1 là vụ Đông xuân.
Nghiên cứu về kích thước hom các tác giả cho rằng hom chè có kích
thước từ 4-5cm, có một lá nguyên. Vết cắt phía trên cành giâm cách nách lá
mẹ 0,5cm, nếu khoảng cách này dài quá hay ngắn quá đều không tốt.
Nguyễn Văn Thiệp và Nguyễn Văn Tạo (2008) [34] khi nghiên cứu hệ
số nhân giống của giống chè Phúc Vân Tiên và Keo Am Tích đã chỉ rõ: Cành
giống tốt là những cành có số lá thật đồng đều, lá dầy, màu xanh, độ dài lóng
đạt mức độ trung bình, mầm nách phát triển không dài quá 3cm tốt nhất mầm
nách chỉ hình thành ở nách lá thứ 1-3 với độ dài mầm ≤ 1cm.
Nguyễn Văn Toàn và cs (1994) [40], (1998) [42] khi nghiên cứu ảnh
hưởng của kích thước lá đến khả năng giâm cành của các giống đã kết luận:
Diện tích lá chè ảnh hưởng đến khả năng giâm cành, những giống có lá quá
44
lớn ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ sống, hình thành mô sẹo, ra rễ và bật mầm của
hom giâm.
1.3.4. Nghiên cứu về đặc tính chất lượng nguyên liệu búp chè
Khi điều tra chè Shan cổ thụ các tỉnh miền núi phía Bắc, tác giả Đỗ Văn
Ngọc và cộng tác viên (2006) [18] đã kết luận búp chè tôm 3 lá có các chỉ tiêu
biến động lớn: chiều dài 7,9 – 10,5 cm; khối lượng 0,75 – 1,25 g; tỷ lệ tôm
3,8 – 6,6%; tỷ lệ lá 1 + 2 từ 25,0 – 35,4%; tỷ lệ lá 3 từ 25,8 – 44,9%; và tỷ lệ
cuộng từ 24,0 – 35,0%;
Vũ Hữu Hào, Trịnh Văn Loan (1988) [8] đã đánh giá chất lượng nguyên
liệu chè tại các vùng chè Phú Thọ, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang,
Sơn La, Yên Bái và Lâm Đồng, đã công bố: hàm lượng tanin, chất hòa tan
vào đầu và cuối vụ thấp hơn so giữa vụ; hàm lượng catechin tổng số trong
búp chè tôm 2 lá của các giống chè Shan tương tự giống PH1, 1A và có hàm
lượng khá cao (150 – 170 mg/gck).
Katsuyuki Yoshida, Akiko Ogino, Akiko Matsunaga, Le Van Duc,
Nguyen Le Thang and Atsushi Nesumi (2006), phân tích thành phần sinh hóa
búp chè bằng HPLC, đã nhận xét rằng chè Shan và chè Trung du ở vùng phía
Bắc Việt Nam có hàm lượng Caffeine và Catechin cao, hàm lượng amino axit
tự do thấp. Hàm lượng Catechin tổng số ở các mẫu chè Shan thu thập ở
Mường Khương, Lào Cai trung bình là 22,78%, Catechin thành phần như
EGCG trung bình 13,16%, amino acid tổng số 1,53%; giống chè Trung du thu
thập ở Văn Chấn, Yên Bái có hàm lượng Catechin tổng số 20,22%, EGCG là
10,56%, amino acid tổng số 1,04% [80].
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên cho kết quả tương đối thống
nhất về đặc tính chất lượng nguyên liệu của chè Shan ở Việt Nam. Kế thừa
các kết quả nghiên cứu trước đây và phát triển mới theo hướng vừa đánh giá
thành phần nguyên liệu vừa đánh giá sự thích hợp của nguyên liệu với chế
45
biến các loại sản phẩm làm cơ sở khoa học để định hướng sản phẩm cho các
dòng chè mới triển vọng.
1.3.5. Nghiên cứu về một số biện pháp kỹ thuật canh tác chè trong giai đoạn
kiến thiết cơ bản ở Việt Nam
1.3.5.1. Kết quả nghiên cứu về giâm hom chè ở Việt Nam
Theo tác giả Nguyễn Văn Toàn (1994) [40] nghiên cứu về đặc điểm sinh
vật học các biến chủng chè cho thấy: giống chè có lá quá lớn sẽ có ảnh hưởng
xấu đến tỷ lệ sống, sự hình thành mô sẹo và tỷ lệ bật mầm; giống chè mà thân
có tốc độ hoá nâu chậm thì khi giâm có tỷ lệ sống và sự hình thành mô sẹo, ra
rễ kém và ngược lại ở những giống thân hoá nâu nhanh hơn thì cho kết quả
giâm hom tốt hơn.
Như vậy, giống chè khác nhau có những đặc điểm khác nhau về kích
thước lá và đường kính hom, đòi hỏi kích thước túi bầu giâm cũng khác nhau.
Hom chè Shan có đặc điểm lá to, lóng dài, đường kính hom lớn và cây con
khi hình thành có bộ rễ và thân cành phát triển mạnh nên khi giâm cành cần
nghiên cứu kích thước túi bầu hợp lý để cây chè con có chất lượng tốt, đảm
bảo sau trồng cho chất lượng tốt hơn.
1.3.5.2. Kết quả nghiên cứu về mật độ trồng chè ở Việt Nam
- Trong giai đoạn KTCB mật độ trồng khác nhau chưa ảnh hưởng đến
sinh trưởng và phát triển của cây chè con.
- Sau khi đốn, năng suất búp phụ thuộc nhiều vào mật độ trồng: Mật độ
tăng cho năng suất cao.
- Mật độ khác nhau chưa ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu và một
số chỉ tiêu phân tích thành phần sinh hóa cơ bản (tanin và chất hòa tan).
- Nơi đất dốc dưới 15 độ: khoảng cách là 1,4 – 1,5m x 0,4 – 0,5
- Nơi đất dốc trên 15 độ: Khoảng cách là 1,2 – 1,3m x 0,3 – 0,4m
46
Các nghiên cứu về mật độ trồng chè, tác giả Đỗ Ngọc Quỹ (1980) [27]
cho thấy: mật độ trồng chè phụ thuộc vào giống, độ dốc đất trồng, mức độ đầu
tư thâm canh; giống chè thân bụi có mật độ trồng cao hơn giống chè thân gỗ;
nơi đất có độ dốc thấp trồng dày hơn nơi có độ dốc cao; mức thâm canh cao
trồng dày hơn so với không thâm canh v.v.
1.3.5.3. Kết quả nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật đốn chè KTCB
Các nghiên cứu kỹ thuật đốn chè của các tác giả Đỗ Văn Ngọc (1991)
[17], (2006) [18], Đỗ Ngọc Quỹ (1980) [27] cho biết đốn chè phụ thuộc vào
giống, mật độ trồng, phương thức trồng cành hay hạt, kỹ thuật hái bằng máy
hay bằng tay v.v, nhưng chủ yếu phụ thuộc vào giống. Năm 1975, quy trình
đốn chè cho giống Trung du trồng hạt: đốn lần 1 khi cây 2 tuổi, cách mặt đất
12 – 15 cm; đốn lần 2 khi cây 3 tuổi, cách mặt đất 30-35 cm; đốn lần 3 khi
cây 4 tuổi, cách mặt đất 50 – 60 cm. Năm 1980, quy trình kỹ thuật sửa đổi
cho chè trồng bằng cành (giống PH1): đốn lần 1 khi cây 2 tuổi, cách mặt đất
25 cm (cao hơn quy trình cũ 10 cm); đốn lần 2 khi cây 3 tuổi, cách mặt đất 35
cm; đốn lần 3 khi cây 4 tuổi, cách mặt đất 45 cm (thấp hơn quy trình cũ 15
cm). Ở quy trình này mức đốn đã đưa lên cao hơn phù hợp hơn cho chè trồng
cành, lý do chè trồng hạt phân cành cao và cành sinh trưởng yếu do ưu thế
sinh trưởng đỉnh của chè hạt nên đốn KTCB thấp hơn để tạo bộ khung tán
thấp, chắc khỏe, còn chè trồng cành do cành phát triển rất mạnh và ví trí phân
cành thấp nên mức đốn cao hơn. Sau 4 năm trồng, năng suất chè cao hơn so
với đốn theo quy trình 17,9 – 23,2%.
Nghiên cứu cải tiến quy trình đốn KTCB cho giống chè PH1 (1985) đã
thay đổi kỹ thuật đốn lần 1 có chiều cao thân chính và cành bên khác nhau
(chiều cao thân chính 25 cm, nhưng chiều cao cành bên 40 – 45 cm). Cách
đốn này, cây chè có tán rộng hơn, đường kính thân, số cành cấp 1, cấp 2 và hệ
47
số diện tích lá lớn hơn, sau 4 năm năng suất đạt 45 – 47 tạ/ha, cao hơn so với
quy trình đối chứng từ 17,9 – 23,2% (đối chứng 34 – 36,5 tạ/ha).
Như vậy, mỗi giống chè khác nhau có kỹ thuật đốn tạo hình khác nhau,
nên cần thiết nghiên cứu kỹ thuật đốn tạo hình phù hợp.
1.3.5.4. Kết quả nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật hái chè ở Việt Nam
Hái chè phụ thuộc vào mục tiêu sản phẩm của người chế biến chè, phụ
thuộc vào giống: mỗi giống chè có khối lượng búp, thời gian bật búp, thời
gian sinh trưởng búp khác nhau, giống chè Shan có hình dạng búp lớn, lóng
dài cần thiết phái có kỹ thuật hái thích hợp. Việc xác định đúng kỹ thuật hái
chè Shan là một trong những yếu tố chính làm tăng năng suất búp chè.
Các nghiên cứu về hái chè của tác giả Đỗ Văn Ngọc và cs (2009) [20]
cho thấy trên các giống Trung Du, PH1, LDP1 cho biết áp dụng hái chè san
trật có ưu điểm phẩm cấp chè non, số lứa hái nhiều, nhưng do hái chè san trật
mà trên nương chè luôn tồn tại búp chè là thức ăn và duy trì một số lượng sâu
hại liên tục vượt ngưỡng phòng trừ, dẫn đến trong sản xuất phải áp dụng kỹ
thuật phun thuốc định kỳ sau mỗi lứa hái, chính vì vậy mà dư lượng thuốc còn
vượt mức cho phép trong một số mẫu sản phảm. Các công thức hái kỹ (hái
triệt để, và tạo tán chè phẳng với bộ khung tán chừa lại cao thấp tuỳ theo mức
độ sinh trưởng xấu tốt của các nương chè), mặc dù số lứa hái trong năm ít do
thời gian tạo được một lứa hái lâu hơn so với hái san trật, nhưng ưu điểm của biện pháp hái này là búp ra tập trung, mật độ búp/m2/lứa nhiều hơn, đặc biệt
thời gian cách ly thuốc BVTV lâu hơn và dư lượng thuốc trong sản phẩm nhỏ.
Đây là một biện pháp được xem là có hiệu quả và đang được khuyến cáo áp
dụng rộng cho sản xuất.
Kỹ thuật hái khác nhau trên từng giống có ảnh hưởng khác nhau đến sinh
trưởng cây, số ngày cho một lứa và tổng số lứa hái cả năm. Đối với giống chè
PH1 thì công thức hái chừa cách vết đốn 10 cm, sửa tán hai lần vào tháng 4,7
48
cho sản lượng cao nhất, nhưng công thức hái chừa cách vết đốn 15 cm lại cho
phẩm cấp nguyên liệu tốt nhất. Đối với giống LDP1 hái theo công thức hái
chừa cách vết đốn 10 cm, sửa tán hai lần vào tháng 4,7 làm giảm số lứa hái
nhưng năng suất không sai khác so hái san trật.
Nghiên cứu về kỹ thuật hái ảnh hưởng đến rầy xanh và bọ trĩ hại chè,
Nguyễn Văn Thiệp (2000) cho biết hái san trật (hái khi có khoảng 30% số
lượng búp đủ tiêu chuẩn hái) có mật độ rầy xanh, bọ trĩ cao hơn hái theo lứa
(hái khi lứa chè rộ, có khoảng 80% số búp đủ tiêu chuẩn hái) và hái kỹ (hái tất
cả những búp chưa đạt tiêu chuẩn hái trên mặt tán). Mỗi phương pháp hái có
ưu điểm và nhược điểm liên quan đến chất lượng nguyên liệu búp nên tác giả
khuyến cáo khi rầy xanh, bọ trĩ phát sinh thành dịch, có thể áp dụng biện pháp
hái kỹ kết hợp phòng trừ bằng hóa học sẽ đạt hiệu quả tốt [32].
1.3.5.5. Kết quả nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật bón phân cho chè ở Việt Nam
Nhiều công trình nghiên cứu cơ sở bón phân cho chè ở nhiều nước đã chỉ
ra rằng ở hầu hết các nước hiệu quả của việc bón phân cho chè chiếm 50 –
60% tổng hiệu quả của các biện pháp nông học đối với năng suất chè; bón
phân cho chè không những tăng thu nhập trên một diện tích từ năm này đến
năm khác, điểu chỉnh sinh trưởng khi bón phiến diện các yếu tố dinh dưỡng
và để bù đắp những thiếu hụt nào đó từ đất.
- Đối với sinh trưởng của chè nhỏ tuổi, đạm có vai trò hàng đầu, sau đó
đến lân và kali;
- Vai trò của đạm (N) – lân (P): có ảnh hưởng lớn hơn đối với cây chè
nhỏ tuổi, lớn hơn vai trò của tổ hợp N và kali (K). Nghiên cứu trên còn cho
thấy: phân lân có vai trò với sinh trưởng cả về đường kính thân, chiều cao
cây, độ rộng tán của cây con.
- Bón phân cân đối giữa N, P, K cho năng suất cao hơn hẳn so với chỉ
bón đạm và kali hoặc chỉ bón đạm đơn độc. Thời kỳ đầu của giai đoạn kinh
49
doanh sự sinh trưởng của tán chè tiếp tục đòi hỏi đủ phân P, K trên cơ sở bón
đủ đạm. Vì vậy lượng phân bón của cây chè cần được cung cấp N, P, K hợp
lý và thường xuyên. Vì vậy, mỗi giai đoạn cây cần với liều lượng khác nhau
với nguyên tắc từ ít đến nhiều, bón đúng lúc, đúng cách, đúng đối tượng và
kịp thời.
Theo tác giả Lê Văn Đức và cs. (2004) [7], đất trồng chè ở Việt Nam
phần lớn là đất feralit vàng đỏ được phát triển trên đá granit, gnai, phiến thạch
sét và mica. Hiện nay đất trồng chè của Việt Nam rất nghèo chất hữu cơ, đất
chua, hàm lượng các chất dinh dưỡng NPK tổng số và rễ tiêu đều rất nghèo.
Muốn canh tác chè có hiệu quả cần phải thâm canh ngay từ khi bắt đầu trồng
chè, bón phân hữu cơ là yêu cầu không thể thiếu khi thâm canh.
Tác giả Lê Văn Đức (1997) [6] đã nghiên cứu về ảnh hưởng của Mg đến
chất lượng cây chè trên 2 giống PH1 và LDP1, kết quả cho thấy: bón Mg ở các
liều lượng 50kg và 70kg MgSO4/ha làm tăng mật độ búp chè tương ứng
10,5% và 18,9%; tỷ lệ búp mù xoè giảm, trọng lượng và chiều dài búp không
tăng có tác dụng tích cực đến năng suất và chất lượng chè; tăng dung lượng
đốn 25% và 32,8% so với đối chứng; tăng hàm lượng đường khử, axit amin,
do đó ảnh hưởng tốt đến chất lượng chè.
Nghiên cứu bón phân cho giống chè Shan đã được bắt đầu từ những năm
giữa thế kỷ XX. Tác giả người Pháp Guinard (1953), dẫn theo Đỗ Ngọc Quỹ
(1997) [26] đã nghiên cứu bón phân cho giống chè Shan trồng hạt tại trạm
Blao (vùng Tây Nguyên – Việt Nam) đã kiến nghị mức bón N, P, K là 40, 36
và 75 (kg/ha).
Tác giả Phạm Kiến Nghiệp (1984) [15] nghiên cứu mức bón phân đạm
trên 2 giống chè shan TB11 và TB14 ở vùng chè Bảo Lộc – Lâm Đồng đã kết
luận bón đạm đơn độc từ 100 – 400 kg N/ha, năng suất tăng theo lượng bón
50
nhưng hiệu quả sử dụng 1 kg N lại giảm. Cụ thể mức bón 400 kg N/ha hiệu
quả giảm 33% so mức bón 100 kg N/ha.
Khi nghiên cứu tỷ lệ bón phân NPK cho giống chè Shan TRI -777 giai
đoạn đầu chu kỳ kinh doanh, tác giả Đinh Thị Ngọ (1996) [16] đã kết luận: tỷ
lệ bón phối hợp NPK khác nhau cho năng suất khác nhau; tỷ lệ phối hợp có N
chiếm tỷ lệ cao cho năng suất cao hơn, trong đó tỷ lệ phối hợp NPK là 2:2:1
chè cho năng cao và hiệu quả kinh tế, ngoài ra còn nhiều tác giả nghiên cứu
cay phân xanh, vật liệu hữu cơ che phủ cho cây chè để tăng thêm lượng phân
hữu cơ cho đất.
Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu đã trình bày đều khẳng định cần
thiết bón phân đủ và cân đối. Trong đó cho thấy vai trò hàng đầu của N đối
với cây chè, nhưng N có hiệu lực tốt đến năng suất, chất lượng chè chỉ trên cơ
sở bón cân đối với P và K cùng các nguyên tố bán đa lượng và vi lượng khác
như Mg và B. Các kết quả còn cho thấy kỹ thuật bón phân phụ thuộc vào đất
đai, giống chè, tuổi cây, vùng trồng, mức đốn và sản lượng thu hoạch. Tuy
nhiên, kết quả nghiên cứu bón phân cho giống chè mới chưa nhiều, nhất là
các giống chè mới ưu thế lai cần được xác định thành phần phân bón, tỷ lệ
bón và liều lượng bón để khai thác tốt hơn lợi thế sinh trưởng khỏe, năng suất
cao của chhúng.
1.3.5.6. Đặc tính chất lượng nguyên liệu búp chè
Ở Việt Nam thu hái chè chủ yếu bằng tay, năng suất thấp, nhưng chất
lượng nguyên liệu khá hơn so với hái chè bằng máy. Khi hái chè bằng tay tỷ
lệ búp A + B chiếm 50 – 60% trong tổng khối lượng nguyên liệu, hiện nay do
điều kiện đáp ứng nhu cầu lao động, việc hái bằng máy đã ngày càng được áp
dụng rộng rãi ở các cơ sở sản xuất chè.
Chất lượng nguyên liệu thu hái được đánh giá theo độ non hay già và
phân tích qua “bấm bẻ” được quy định theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN
51
1053-86 [39], căn cứ vào hàm lượng lá bánh tẻ và lá già chia ra làm 4 loại
như sau:
Loại 1 (loại A): có từ 0 – 10% lá bánh tẻ, loại 2 (loại B): có từ > 10 -
20% lá bánh tẻ, loại 3 (loại C): có từ > 20 -30% lá bánh tẻ, loại 4 (loại D): có
từ > 30-45% lá bánh tẻ.
Nguyên liệu càng non, tỷ lệ búp (A, B) càng cao, chế biến sẽ cho chè có
thành phẩm tốt và ngược lại. Nhưng trong thực tế sản xuất việc hái nguyên
liệu chè non hay già còn phụ thuộc vào yêu cầu của sản phẩm chè. Để sản
xuất nguyên liệu chè an toàn thì cần hạn chế sử dụng thuốc BVTV và tăng
cường phân bón hữu cơ [38].
Các công trình nghiên cứu thành phần hóa học của búp chè do ảnh
hưởng của giống chè được nhiều tác giả nghiên cứu Đỗ Văn Ngọc, Trịnh Văn
Loan (2008) [19], Đoàn Hùng Tiến, Trịnh Văn Loan (1996) [31], cho thấy
hàm lượng Polyphenol trong các giống chè có nguồn gốc từ Ấn Độ cao hơn
các giống chè có nguồn gốc ở Trung Quốc (PH1, Đại Bạch Trà…).
Trong những tháng dầu vụ và cuối vụ có hàm lượng tanin thấp, tháng
giữa vụ có hàm lượng tanin cao (Đỗ Văn Ngọc, Trịnh Văn Loan 2008) [19].
Đánh giá chất lượng nguyên liệu ở nước ta còn dựa vào phương pháp thử
nếm cảm quan sản phẩm chè xanh, chè đen Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn
Loan (1994) [41].
1.4. Những nhận định về tổng quan của nghiên cứu
Chè là cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, cho thu hoạch ổn định, tiếp
tục mở rộng diện tích các giống có năng suất cao, chất lượng tốt nhằm đa
dạng các mặt hàng chè có chất lượng cao là một hướng đi thích hợp và là đòi
hỏi của sản xuất. Hiện nay, một số giống chè mới được chọn tạo có thể đáp
ứng được yêu cầu thị trường nhưng còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu để
mở rộng ra sản xuất như: kỹ thuật canh tác gồm bón phân, thu hái cho các
52
dòng chè CNS – 1.41, CNS – 8.31; kỹ thuật chế biến… các giống chè nói trên
để sản xuất và chế biến chè xanh, chè đen có chất lượng tốt.
Dựa trên các thành tựu kết quả nghiên cứu ở trong nước và trên thế giới
về một số biện pháp kỹ thuật canh tác như giâm hom, mật độ trồng, bón phân,
đốn, thu hái chè, đánh giá chất lượng sản phẩm đã được tiến hành có hệ
thống, đầy đủ và đạt được những thành tựu to lớn, có những bước phát triển
vượt bậc.
53
CHƯƠNG II
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Giống chè
- Dòng chè CNS-1.41: là dòng chè vô tính được chọn lọc từ tổ hợp lai
giữa 2 giống Trung Du và Hồ Nam. Thuộc dạng hình dạng thân bán gỗ, phân
cành sớm và nhiều, dòng chè có đặc điểm nảy mầm sớm từ cuối tháng 2. có
khả năng cho thu hoạch sớm.
- Dòng chè CNS - 8.31: là dòng vô tính chọn lọc từ tổ hợp lai giữa
giống chè Trung Du xanh và Kim Tuyên, có dạng hình cây bán gỗ, góc phân
cành hẹp hơn dòng CNS-1.41.
Hai dòng chè mới được tạo thành nhờ áp dụng công nghệ sinh học vào
lai tạo và chọn lọc giống chè. Đó là sự kết hợp giữa lai hữu tính trên cơ sở sử
dụng chỉ thị phân tử định hướng tạo ưu thế lai và nuôi cấy phôi tạo cây chè
con từ giai đoạn phôi non chưa kết hạt và chọn lọc ngay trong giai đoạn nuôi
cấy in vitro. Các dòng chè mới sớm thể hiện các đặc tính ưu thế lai như sinh
trưởng mạnh, búp non lâu hóa gỗ, năng suất cao. Năm đầu tiên thu hoạch,
năng suất dòng CNS-1.41 đạt 1149,33 kg/ha, dòng CNS-8.31 đạt 1007,51
kg/ha (C.T. Huyền và ctv, 2012) [10].
- Giống chè LDP1, được tạo ra từ cặp lai giữa hai giống PH1 x Đại
bạch trà, công nhận giống mới năm 2002. Cây có dạng thân bán gỗ, lá màu
xanh lục, sinh trưởng rất tốt, năng suất cao. Hiện nay đang được trồng rất phổ
biến trong sản xuất. Năm đầu thu hoạch, năng suất đạt 337,72 kg/ha (C.T.
Huyền và ctv, 2012) [10].
Các dòng/ giống chè sử dụng làm vật liệu nghiên cứu được tạo ra tại
Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, tuổi cây chè ở giai đoạn
nghiên cứu từ 1-5 năm tuổi.
54
2.1.2. Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật
- Phân hữu cơ: hỗn hợp phân gia súc và xác thực vật đã hoai mục.
- Phân bón vô cơ: urea 46% N; supe lân Lâm Thao 16,5% P2O5; KCl
60% K2O.
- Thuốc trừ sâu bệnh trong danh mục được phép sử dụng cho cây chè ở
Việt Nam.
2.1.3. Thiết bị, dụng cụ thí nghiệm
- Thiết bị, dụng cụ thí nghiệm: kính hiển vi soi nổi Olympus quan sát
lá, búp chè; máy đo diệp lục cầm tay SPAD-502Plus; các trang thiết bị phân
tích thành phần sinh hóa như máy quang phổ, máy chuẩn độ, máy ly tâm,…
- Thiết bị thí nghiệm: thước mét, thước dây, thước đo dộ, thước kẹp
palme v.v đo đếm lá, búp chè, thân cành chè, tán chè, …
Đặc điểm đất đai vùng nghiên cứu:
- Đất đai trồng các thí nghiệm nghiên cứu tại Phú Hộ, Phú Thọ, có vị trí địa lý 21027’ vĩ độ Bắc và 105014’ độ kinh Đông, độ cao 25 – 70m so với mặt biển, độ dốc 8 – 100. Đất chè thuộc loại feralit vàng đỏ phát triển trên phiến
thạch mica, tầng đất mịn khá sâu 1 – 3 m, độ pHkcl 4,2 – 4,3, chất hữu cơ
(OM) trung bình (2,10 – 2,79%), hàm lượng N tổng trung bình (0,16 -
0,19%), hàm lượng P tổng tổng số trung bình (< 0,12%), hàm lượng K rất
thấp (<0,15%). Thành phần cơ giới thịt nặng, xuống dưới sâu là sét nhẹ.
- Đất đai trồng các thí nghiệm nghiên cứu tại Yên Sơn, Tuyên Quang có vị trí địa lý 21,53oN và 105,6oE, độ cao các vùng chè từ 50 – 150m so mặt
nước biển. Đất chè thuộc loại đất Feralit vàng đỏ, hàng năm bị rửa trôi và xói
mòn mạnh. Hàm lượng các chất dinh dưỡng khá tốt, nhất là các vùng chè có
hàm lượng chất hữu cơ (OM) khá cao (1 – 2%), hàm lượng N tổng số trung
bình (0,20 – 0,30%), hàm lượng P tổng số khá cao (0,15 – 0,20%), nhưng
55
hàm lượng K hơi thấp (< 0,15%), đặc biệt do rửa trôi mạnh nên đất rất chua
pHKCl từ 4,2 – 4,4.
- Đất đai trồng các thí nghiệm nghiên cứu tại Văn Chấn, Yên Bái có vị trí địa lý 21,34oN và 104,34oE, độ cao các vùng chè từ 450 – 950m so mặt
nước biển. Đất chè thuộc loại đất Feralit vàng xám, hàng năm bị rửa trôi và
xói mòn mạnh. Hàm lượng các chất dinh dưỡng khá tốt, nhất là các vùng chè
có hàm lượng chất hữu cơ (OM) khá cao (1,5 – 2,5%), hàm lượng N tổng số
trung bình (0,25 – 0,35%), hàm lượng P tổng số khá cao (0,15 – 0,25 0%),
nhưng hàm lượng K hơi thấp (< 0,15%), đặc biệt do rửa trôi mạnh nên đất rất
chua pHKCl từ 4,3 – 4,5.
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của hai dòng chè mới
CNS-1.41 và CNS-8.31
2.2.1.1. Đặc điểm hình thái của hai dòng chè
2.2.1.2. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển hai dòng chè mới
2.2.1.3. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất
2.2.1.3. Tình hình sâu bệnh hại chủ yếu trên cây chè
2.2.2. Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu phát triển hai dòng
chè mới
2.2.2.1. Nghiên cứu mật độ và phương thức trồng
2.2.2.2. Nghiên cứu kỹ thuật đốn tạo hình hai dòng chè mới
2.2.2.3. Nghiên cứu kỹ thuật hái hai dòng chè mới
2.2.2.4. Nghiên cứu liều lượng phân bón N,P,K
2.2.2.5. Nghiên cứu khả năng nhân giống của hai dòng chè mới
- Hệ số nhân giống của cây mẹ
- Sinh trưởng cây chè giâm hom trong vườn ươm
2.2.2.6. Khảo nghiệm hai dòng chè mới ở điều kiện sản xuất
56
2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của hai dòng chè mới
CNS-1.41 và CNS-8.31.
2.3.1.1. Bố trí thí nghiệm:
Thí nghiệm 1: So sánh 2 dòng chè chọn lọc tại Phú Hộ. Thí nghiệm
gồm 3 công thức với 2 dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 và giống LDP1 (đối
chứng) trồng năm 2015.
Diện tích ô thí nghiệm 45m2, 3 lần nhắc lại, bố trí theo phương pháp
ngẫu nhiên hoàn toàn.
Kỹ thuật trồng bằng cây giâm cành, khoảng cách hàng 1,5m, khoảng
cách cây 0,5 m. Bón lót 20 tấn phân chuồng + 1 tấn supe lân + 500 kg vôi bột
cho 1ha. Các khâu chăm sóc khác áp dụng theo quy trình trồng và chăm sóc
chè 10TCN 446 – 2001.
2.3.1.2. Chỉ tiêu theo dõi
* Đặc điểm thân cành:
- Dạng thân: Quan sát xác định dạng thân bụi, dạng bán thân gỗ, dạng
thân gỗ;
- Chiều cao cây (cm): Đo thân chính từ mặt đất đỉnh sinh trưởng;
- Rộng tán (cm): Đo chỗ tán rộng nhất, vào tháng 12 trước khi đốn chè;
- Đường kính thân (cm): Đo cách mặt đất 3-5 cm bằng thước kẹp Palme;
- Độ cao phân cành (cm): Đo từ mặt đất đến vị trí phân cành đầu tiên, đo
một lần vào tháng 12 trước khi đốn chè;
- Góc phân cành (0): Đo góc tạo thành giữa thân chính (phía trên) với
cành cấp 1 đầu tiên, đo 1 lần vào tháng 12 trước khi đốn chè;
- Số cành cấp 1, cấp 2 (cành): Đếm số cành cấp 1, cấp 2 từ vết đốn lần
thứ nhất trở xuống;
* Đặc điểm hình thái lá
57
- Chiều dài lá (D) (cm): Đo chiều dài lá từ đầu lá đến gốc lá sát với
cuống lá theo chiều dọc của thân chính, không đo cuống lá;
- Chiều rộng lá (R) (cm): Đo vị trí rộng nhất của phiến lá; - Diện tích lá (cm2): DT lá = (D x R) x 0,7. Trong đó 0,7 là hệ số thực
nghiệm;
- Hệ số dài/rộng: Là tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng lá;
- Thế lá phân theo chỉ tiêu: Thế lá xiên, ngang và thế lá rủ (góc lá);
Phân chia thế lá: Lá có góc nhỏ hơn 450 là thế lá đứng Lá có góc từ 46 – 700 là thế lá xiên Lá có góc lá từ 71 - 1000 là thế lá rủ. (Góc lá (0): Mỗi cây đo 30 lá, dùng thước đo độ đo góc tạo bởi các lá
trên cành với trục chính của cành)
- Màu sắc lá phân loại theo màu xanh đậm, xanh, xanh vàng;
- Mặt lá phân loại theo mức độ: Nhẵn, gồ ghề...
- Hàm lượng diệp lục (SPAD): là trị số phản ánh lượng diệp lục có trong
lá chè được máy SPAD-502Plus xác định khi đo đếm.
* Đặc điểm sinh trưởng
- Thời gian bắt đầu sinh trưởng (ngày): Từ khi có 10% cành nẩy mầm
sau đốn;
- Thời gian kết thúc sinh trưởng (ngày): Khi cành ngừng sinh trưởng
(khi cây chè không hình thành búp);
- Số đợt sinh trưởng tự nhiên (đợt): Cố định cành trên cây chè sinh
trưởng tự nhiên (không thu hái búp) theo dõi các đợt lộc ra trong 1 năm, kể từ
khi cây bắt đầu bật mầm đến khi kết thúc sinh trưởng;
58
- Đợt sinh trưởng trong điều kiện hái búp (đợt): Đếm số vết hái trong
một cành chè ở vị trí giữa và rìa tán, lấy giá trị trung bình. Theo dõi vào tháng
12 trước khi đốn chè;
- Chiều cao cây (cm): Xác định chiều cao cây tính từ mặt đất đến vị trí
cao nhất của tán cây;
- Chiều rộng tán (cm): đo chỗ rộng nhất của tán chè;
- Diện tích lá: Theo công thức tính nhanh D x R x 0,7;
- Chiều dài búp chè: Đo chiều dài từ cuống lá thứ 3 đến đỉnh sinh
trưởng;
- Khối lượng búp 1 tôm + 3 lá: Cân 100gr búp 1 tôm + 3 lá đếm số
búp/100gr búp;
Khối lượng 100 búp
Tính khối lượng búp (g/búp) =
100
- Diện tích tán (m2) : Đo chiều dài tán và chiều rộng tán; - Mật độ búp (búp/m2): Đếm số búp đủ tiêu chuẩn có trong khung
25x25cm (5 điểm theo đường chéo góc);
- Năng suất lý thuyết (tấn/ha): tổng số búp/cây x khối lượng 1 búp x số
cây/ha;
- Năng suất thực thu (tấn/ha): Cân khối lượng /ô ở tất cả các lứa hái
trong năm, quy ra ha;
* Khả năng cung cấp hom và chất lượng hom giống:
- Khả năng sản xuất hom của các giống: Đánh giá số cành trên cây, số
hom trên cành, tổng số hom/ha, tỷ lệ các loại hom;
Năng suất hom (hom/ha) = số lượng hom/ cây x số cây/ha;
- Tỷ lệ hom A, hom B: Đếm tổng số hom thu được/ha, tính tỷ lệ hom A,
hom B. Theo QCVN 01-124:2013/BNNPTNT
59
Hom A: là hom có chiều dài 3,5- 6 cm, đường kính 2,5 mm - 6,0 mm, độ
dài mầm nách ≤ 5 mm và 1 lá nguyên;
Hom B: là hom có chiều dài 3,5- 4 cm, đường kính 2,0- 2,5 mm, độ dài
mầm nách ≥10 mm và 1 lá nguyên;
- Kích thước hom (cm): độ dài và đường kính hom;
- Chiều dài và chiều rộng của lá mẹ (cm);
- Mức độ hóa nâu của hom chè (%).
2.3.2.Phương pháp nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác hai
dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31.
2.3.2.1. Bố trí thí nghiệm
*Thí nghiệm 2: Nghiên cứu mật độ trồng hai dòng chè CNS-1.41 và
CNS-8.31.
Thí nghiệm gồm 3 công thức, mỗi công thức có diện tích 120 m2
khoảng cách giữa các hàng và các cây khác nhau như sau:
Khoảng cách Diện tích Mật độ Công thức trồng (m) (vạn cây/ha)
ô thí nghiệm 15 m x 8 m = 120 m2 1,50 x 0,4 1,66 CT1(đ/c)
10 hàng x 20 cây (hàng đơn) 15 m x 8 m = 120 m2 1,80 x 0,6 1,85 CT2
8 hàng x 13 cây (hàng kép) 15 m x 8 m = 120 m2 1,80 x 0,67 1,66 CT3 8 hàng x 12 cây (hàng kép)
Thí nghiệm gồm 3 lần nhắc lại, được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn
toàn.
*Thí nghiệm 3: Nghiên cứu liều lượng bón phân cho hai dòng chè
CNS-1.41 và CNS-8.31 ở giai đoạn kiến thiết cơ bản.
60
Thí nghiệm gồm 4 công thức, với liều lượng phân khoáng (N, P, K)
tăng dần so với đối chứng. Đối chứng áp dụng liều lượng phân bón theo quy trình 10TCN 446:2001. Diện tích ô thí nghiệm 45m2, 3 lần nhắc lại, được bố
trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn.
Công thức Liều lượng bón phân N:P:K
CT1 (đ/c) 80 kg N + 40 kg P2O5 + 60kg K2O /ha
CT2 88 kg N + 44 kg P2O5 + 64kg K2O /ha (Tăng 10%)
CT3 96 kg N + 48 kg P2O5 + 72 kg K2O /ha (Tăng 20%)
CT4 112 kg N + 56 kg P2O5 + 84 kg K2O /ha (Tăng 40%)
Lượng phân khoáng được bón 3 lần/ năm, số lượng và tỷ lệ các lần bón
như sau: lần 1 (tháng 2) bón 40% N, K và 100% P; lần 2 (tháng 5) bón 30%
N, K; lần 3 (tháng 8) bón 30% N, K.
Chỉ tiêu đánh giá: sinh trưởng và năng suất chè.
* Thí nghiệm 4: Nghiên cứu kỹ thuật đốn tạo hình cho hai dòng chè
CNS-1.41 và CNS-8.31 ở giai đoạn kiến thiết cơ bản.
Thí nghiệm gồm 3 công thức với các chiều cao đốn khác nhau, diện tích ô thí nghiệm 45m2, 3 lần nhắc lại được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên.
CT1 (đ/c) Đốn để lại chiều cao thân chính 15 cm, cành bên 35 cm.
Đốn để lại chiều cao thân chính 20 cm, cành bên 35 cm. CT2
CT3 Đốn để lại chiều cao thân chính 25 cm, cành bên 35 cm.
Đốn tạo hình lần đầu khi đường kính gốc cây chè đạt kích thước ≥ 1cm,
đốn tạo hình lần thứ hai trên vết đốn cũ ở cành bên 10cm.
Đánh giá sinh trưởng và năng suất chè.
* Thí nghiệm 5: Nghiên cứu xác định kỹ thuật hái thích hợp cho hai
dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 ở giai đoạn kiến thiết cơ bản.
61
Thí nghiệm gồm 3 công thức hái với độ cao chừa lại khác nhau, diện tích ô thí nghiệm 45m2, được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ, 3 lần
nhắc lại.
CT1 Hái cách vết đốn 10 cm, các lứa sau hái đến lá cá
Hái cách vết đốn 20 cm, các lứa sau hái đến lá cá CT2
CT3 Hái theo quy trình san trật (đ/c)
* Điều tra sinh trưởng phát triển, năng suất và tình hình sâu bệnh hai
dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 trên các ruộng khảo nghiệm giống chè ở
điều kiện sản xuất tại Phú Thọ, Tuyên Quang và Yên Bái.
Thí nghiệm 6: So sánh khả năng giâm hom của 2 dòng chè chọn lọc tại
Phú Hộ. Thí nghiệm gồm 3 công thức với 2 dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31
chọn lọc và giống LDP1 (đối chứng).
2.3.2.2. Chỉ tiêu theo dõi
* Sinh trưởng, năng suất
- Đường kính thân cây (cm);
- Chiều cao cây (cm);
- Chiều rộng tán (cm);
- Độ cao phân cành (cm);
- Số cành cấp 1, số cành cấp 2;
- Diện tích lá chè;
- Chiều dài búp chè;
- Khối lượng búp 1 tôm + 3 lá; - Diện tích tán (m2); - Mật độ búp (búp/m2);
- Năng suất lý thuyết (tấn/ha);
- Năng suất thực thu (tấn/ha).
Phương pháp đo đếm các chỉ thiêu thực hiện như ở mục 2.3.1.
62
* Đánh giá chất lượng
- Chất lượng chè nguyên liệu:
+ Xác định phẩm cấp chè nguyên liệu theo TCVN 1053 71 [39]:
Nguyên liệu loại 1 (loại A): ≤ 10% bánh tẻ;
Nguyên liệu loại 2 (loại B): Từ 11% - 20% bánh tẻ;
Nguyên liệu loại 3 (loại C): Từ 21% - 30% bánh tẻ;
Nguyên liệu loại 4 (loại D): ≤ 45% bánh tẻ.
+ Tỷ lệ búp mù xòe: Tại mỗi công thức thí nghiệm, cân ngẫu nhiên
100g, đếm số búp mù xòe. Tỷ lệ búp mù xòe tính theo công thức:
Số búp mù xòe
Tỷ lệ búp mù xòe (%) = x 100
Tổng số búp
+ Tỷ lệ búp có tôm (%) = 100% - tỷ lệ búp mù xòe (%)
+ Thành phần cơ giới búp chè: Là tỷ lệ giữa búp, lá 1, lá 2, lá 3 và cuộng
theo khối lượng của 1 búp có tôm và 2 - 3 lá bao gồm: tỷ lệ tôm (%), tỷ lệ lá 1
(%), tỷ lệ lá 2 (%),tỷ lệ lá 2 (%), tỷ lệ cuộng (%), khối lượng 1 búp (g);
- Thành phần sinh hóa búp chè được được phân tích tại phòng phân tích
đất và chất lượng nông sản, Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc.
Các chất được phân tích theo các phương pháp sau:
Xác định hàm lượng tanin theo phương pháp Lewenthal;
Xác định hàm lượng chất hòa tan theo phương pháp Voronxop 1946;
Xác định hàm lượng đường khử theo phương pháp Bertrand;
Xác định hàm lượng polyphenol theo ISO 14502-1;
Xác định hàm lượng Teaflavin và Tearubigin theo Robert 1963;
Xác định catechin tổng số theo Djnjolia 1973;
Xác định chỉ số dầu thơm theo Kharepbava 1960;
Xác định tỷ lệ lá già và bánh tẻ theo TCVN 1053-71;
63
Nguyên liệu phân tích sinh hóa: búp chè 1 tôm 2 lá của hai dòng chè
CNS-1.41. CNS-8.31 được lấy ở cây chè 3 tuổi.
- Phân tích một số chỉ tiêu về đất
Tỷ trọng theo phương pháp Picnomet;
Dung trọng: Theo phương pháp lấy mẫu đất ở thể tự nhiên;
Độ xốp của đất: Được tính từ tỷ trọng và dung trọng; Độ ẩm đất: Xác định theo phương pháp sấy khô ở nhiệt độ 105oC.
- Chất lượng chè thành phẩm: Thử nếm chất lượng chè xanh, chè đen
bằng phương pháp cảm quan và cho điểm của Hội đồng thử nếm tại Viện
Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc theo tiêu chuẩn ngành
10 TCN 745:2006, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chè xanh, chè đen bằng
cảm quan theo TCVN 3218 – 2012.
Chuẩn bị mẫu, lấy búp chè 1 tôm 2-3 lá non để chế biến mẫu sản phẩm
chè xanh và chè đen, sau đó đánh giá cảm quan theo tiêu chuẩn Việt Nam
TCVN 3218-2012.
Đánh giá cảm quan các chỉ tiêu (ngoại hình, màu nước, hương, vị), theo
thang điểm 5, có hệ số quan trọng khác nhau (ngoại hình 1,0, màu nước 0,6,
hương thơm 1,2, vị 1,2); lấy chỉ số trung bình của từng thành viên nhân với hệ
số quan trọng và tính tổng số điểm của mẫu chè, cuối cùng xếp loại:
Loại tốt đạt từ 18,2 – 20 điểm;
Loại khá đạt từ 15,2 – 18,1 điểm;
Loại đạt từ 11,2 – 15,1 điểm;
Loại kém đạt từ 7,2 – 11,1 điểm;
Loại hỏng từ 0 – 7,1 điểm;
*Các chỉ tiêu đánh giá sâu hại chè
- Điều tra mật độ rầy xanh (Empoasca flavescens): Dùng khay có kích
thước 25 x 20 x 5cm đáy khay có tráng một lớp dầu mazut đặt khay dưới tán
64
chè nghiêng 450, dùng tay đập mạnh 3 đập phía trên, đếm số Rầy xanh rơi vào
khay tính bình quân.
Tổng số con đếm được
Mật độ rầy xanh (con/khay) =
Tổng số khay điều tra
- Điều tra mật độ bọ cánh tơ (Physothrips setiventris): Hái búp chè ở ô
thí nghiệm theo 5 điểm chéo góc, mỗi điểm 20 búp cho vào túi PE đem về
phòng thí nghiệm, đếm số bọ cánh tơ trên từng búp, tính theo công thức:
Tổng số bọ cánh tơ đếm được
Mật độ bọ cánh tơ (con/búp) =
Tổng số búp điều tra
- Điều tra bọ xít muỗi (Helopeltis theivora): Điều tra theo 5 điểm chéo
góc, mỗi điểm hái 20 búp, cho vào túi PE đem về phòng đếm số búp có vết do
bọ xít muỗi hại, tính tỷ lệ % búp bị hại theo công thức:
Tổng số búp bị hại
Búp bị hại = x 100
Tổng số búp điều tra
- Điều tra nhện đỏ (Olygonychus cofeae): Hái lá chè bánh tẻ theo 5
điểm chéo góc mỗi điểm 20 cho vào túi PE đem về phòng đếm đếm số nhện
và tính:
Tổng số nhện
Mật độ nhện đỏ =
Tổng số lá điều tra
* Chỉ tiêu theo dõi trong vườn ươm giâm hom
- Tỷ lệ ra rễ của hom giâm: lấy 10 hom theo phương pháp đường chéo
5 điểm, đếm số hom ra rễ, tính tỷ lệ %.
- Tỷ lệ bật mầm, tỷ lệ xuất vườn: theo dõi và tính tỷ lệ %
65
- Chiều cao cây chè giống: đo từ vết cắt của hom giâm đến đỉnh sinh
trưởng của cây.
- Đường kính thân: đo cách vết cắt hom 1cm.
- Trọng lượng thân, lá, rễ (tươi): ngâm toàn bộ bầu trong nước rồi rửa
xạch, hong trong phòng cho ráo nước và tiến hành cân; đối với thân và lá của
cây chè tiến hành cân bằng cân kỹ thuật, số mẫu ≥ 30 cây.
- Tỷ lệ hom sống trong vườn ươm: tính số hom chè sống trong mỗi
công thức tại thời điểm theo dõi. Tính tỷ lệ hom sống theo công thức:
Số hom sống
Tỷ lệ hom sống = --------------------------- x 100 (%)
Tổng số hom theo dõi
- Số lá trên cây: định để cây theo dõi. mõi lần nhắc lại 30 cây. tại thời
điểm theo dõi đến số lá trên cây. số lá trên cây là trung bình cộng số lá trên
cây của các thời điểm theo dõi, đơn vị tính (cái)
- Tỷ lệ cây xuất vườn: tại thời điểm xuất vườn đếm số cây đủ tiêu
chuẩn xuất vườn, đơn vị tính (%).
Tỷ lệ cây xuất vườn tính bằng công thức:
Số cây đạt tiêu chuẩn cây xuất vườn
Tỷ lệ cây xuất vườn = -------------------------------------------- x 100 (%)
Tổng số cây theo dõi
Cây con đủ tiêu chuẩn xuất vườn có thời gian từ sau 8 tháng tuổi, chiều
cao cây từ ≥ 22 cm, có từ 6 đến 8 lá thật, thân hoá nâu trên 50%.
2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu thí nghiệm được tính toán, xử lý bằng phần mềm Excel và
phần mềm xử lý thống kê Srichai Statistics 6.0.
66
CHƯƠNG III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của hai dòng chè mới CNS-1.41 và
CNS-8.31.
3.1.1. Đặc điểm hình thái hai dòng chè nghiên cứu
3.1.1.1. Đặc điểm hình thái lá chè:
Lá chè khác với lá của các cây trồng khác, nó gồm các loại lá: Lá vảy
ốc, lá cá, lá thật. Lá là cơ quan dinh dưỡng mang nhiệm vụ tổng hợp chất hữu
cơ để nuôi cây, đồng thời là đối tượng của việc thu hái sản phẩm. Do vậy lá
chè đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống cây chè và sản xuất ra sản
phẩm. Các dòng chè khác nhau có hình thái lá, kích thước lá và màu sắc cũng
khác nhau. Việc đánh giá, quan sát các tính trạng về búp, lá chè luôn được các
nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm.
Nghiên cứu đặc điểm hình thái của các dòng chè CNS- 1.41, CNS-8.31
được thể hiện ở bảng 3.1.
Bảng 3.1: Đặc điểm hình thái lá các dòng /giống chè
Chỉ tiêu Hình Hình Bề mặt Răng
Mầu sắc lá dạng lá dạng phiến cưa mép Thế lá
Tên dòng chóp lá lá lá
CNS-1.41 Xanh vàng Elip Nhọn Gồ ghề Nông Hướng ra
ngoài
CNS-8.31 Xanh Nhọn Gồ ghề, Nông Hướng lên Elip
hẹp bóng
LDP1 Xanh vàng Elip Nhọn Phẳng, ít Sâu Hướng lên
hẹp gồ ghề (đ/c)
67
B A
C
Hình 3.1. Lá chè
A- lá dòng CNS-1.41; B- lá dòng CNS-831; C- lá giống LDP1
Quan sát đặc điểm hình thái thấy lá của hai dòng chè CNS-1.41 và
CNS-8.31 rất khác nhau, mầu sắc dòng CNS-1.41 lá mầu xanh vàng tương tự
như mầu lá của giống LDP1, lá của dòng CNS-8.31 mầu xanh đậm hơn. Hình
dạng phiến lá, dòng CNS-1.41 bề mặt gồ ghề, mép lá lượn sóng rất rõ để nhận
biết, thế lá nằm ngang; dòng CNS-8.31 bề mặt lá gồ ghề nhưng nông hơn
dòng CNS-1.41, mép lá thẳng, không lượn sóng, thế lá hướng lên. Cả hai
dòng CNS-1.41 và CNS-8.31 có chót lá hơi nhọn và răng cưa ở mép lá nông
68
hơn so với giống LDP1; Giống LDP1 có bề mặt lá hơi phẳng, ít gồ gề, chót lá
nhọn, răng cưa sâu, thế lá hướng lên.
Như ta đã biết đặc điểm hình thái của lá chè có mối tương quan với
năng suất, chất lượng chè, việc sử dụng đặc điểm của lá chè có ích trong việc
chọn giống, nhân giống vô tính hoặc sử dụng làm bố mẹ để tạo ra giống tốt
với thuộc tính cho năng suất cao (Willson K.C. and Cliford M.N., 1992 [119];
Nguyễn Văn Toàn, 1994 [40]; Nguyễn Thị Minh Phương và ctv, 2016 [24].
Quan sát bề mặt lá của các dòng chè cho ta thấy bề mặt lá có dạng nhăn
vừa và nhăn nhiều đây là đặc điểm giúp cho lá chè tăng bề mặt diện tích phiến
lá, lá to tăng khả năng quang hợp, trên cơ sở đó tăng năng suất. Theo tác giả
Nguyễn Văn Toàn (1994) [40] những giống chè có những đặc điểm trên đây
là biểu hiện của giống chè có tiềm năng cho năng suất cao. Mức độ răng cưa
dày hay thưa, nông hay sâu thể hiện đặc trưng mang tính di truyền của các
giống chè.
Màu sắc lá là đặc trưng phản ánh chất lượng của giống chè, các giống
có mầu xanh vàng thường cho chất lượng chè xanh tốt (Nguyễn Thị Minh
Phương và ctv, 2016) [24]. Ngoài tính trạng màu lá, thì tính trạng bề mặt
phiến lá cũng rất quan trọng để tiến hành chọn giống. Lá lồi lõm, màu xanh
vàng nhạt cho chất lượng tốt hơn dạng xanh đậm, nhẵn bóng, độ lồi lõm của
lá biểu hiện sức sinh trưởng mạnh, tế bào xốp nhưng khả năng chống chịu
kém hơn lá phẳng (Nguyễn Văn Niệm và cs, 1988 dẫn theo N.V. Toàn, 1994)
[40]. Willson K.C. and Cliford M.N. (1992) [119] cho biết góc giữa lá và
cành chè có liên quan đến năng suất của cây chè. Những giống chè có góc lá từ 40o - 47o (thế lá hướng lên) thì năng suất thấp hơn những giống có góc lá từ 50o - 70o (thế lá nằm ngang); góc lá > 78o năng suất thấp hơn góc lá 50o - 70o.
Dòng chè CNS-1.41 có thế nằm ngang là một trong các đặc điểm thể hiện
tiềm năng cho năng suất cao.
69
Theo Kerkadze (1980) [141] khi nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến màu
sắc của lá chè khác nhau đã cho rằng: lá chè có màu sắc khác nhau là do sự
khác biệt khá rõ của một số chất bên trong lá như: Catechin, tanin, diệp lục lá
và các chất chiết, trong đó hàm lượng diệp lục trọng lá đóng vai trò quan
trọng đối với hiệu suất quang hợp, tạo cơ sở năng suất cao. Màu sắc lá còn có
ảnh hướng lớn tới chất lượng chè. Tác giả Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn Loan
(1994) [41] cho rằng khi chọn giống mới theo hướng kinh tế có lợi (năng suất
và chất lượng) cần quan tâm đặc biệt đến dạng lá màu xanh, xanh vàng đến
xanh nhạt.
Lá của các giống chè khác nhau không chỉ khác nhau về hình dạng,
mầu sắc mà kích thước của chúng cũng khác nhau. Kết quả nghiên cứu về đặc
điểm kích thước lá trình bày ở bảng 3.2.
Bảng 3.2. Kích thước lá các dòng/giống chè nghiên cứu
Kích thước lá Số đôi Hàm Chỉ tiêu gân lá lượng Tỷ lệ Rộng Diện Dài lá (đôi) diệp lục dài/rộng lá Tên giống (cm) (spad)
CNS– 1.41 8-10 2,29
CNS– 8.31 8-9 2,35
LDP1 (đ/c) 13,7a 10,8b 9,4b (cm) 5,9a 4,6b 4,0b tích lá (cm2) 57,6a 34,9b 26,3c 7-8 2,34 61,4b 76,7a 58,6b
CV (%) 8,2 10,7 6,1 7,4
2,1 1,1 5,4 6,5 LSD0.05
Chiều dài lá của các dòng/giống chè nghiên cứu từ 9,40 cm đến 13,70
cm. Lá của dòng chè CNS – 1.41 dài nhất, đạt 13,70 cm, tiếp đến là lá của
dòng CNS – 8.31 đạt 10,38 cm, tương đương chiều dài lá của giống LDP1 (9,4
cm). Chiều rộng lá của dòng CNS – 1.41 cũng lớn nhất, đạt 5,9 cm, trong khi
70
chiều rộng của dòng CNS-8.31 và LDP1 tương đương nhau (4,6cm và 4,0cm)
(ở mức tin cậy 95%).
Diện tích lá của các dòng/giống dao động từ 26,30 đến 57,6 cm2, trong đó dòng CNS – 1.41 có diện tích lá lớn nhất đạt 57,6 cm2, tiếp theo là dòng CNS – 8.31 đạt 34,90 cm2, giống chè LDP1 có diện tích lá nhỏ nhất (26,3 cm2). Theo Willson K.C. and Cliford M.N. (1992) [119], có mối tương quan
giữa kích thước lá và năng suất, giữa kích thước lá và số lượng lá với năng
suất chè. Những giống chè lá nhỏ thì năng suất thấp hơn giống lá lớn hơn bởi
vì biến động về kích thước lá có liên quan đến sự biến động hình dạng lá và
các đặc tính liên quan khác của lá chè. Qua đó có thể tin tưởng với diện tích lá
lớn hơn của hai dòng chè mới CNS-1.41 và CNS-8.31 sẽ cho năng suất cao.
Bên cạnh chỉ số kích thước lá, chúng tôi đánh giá thêm về các chỉ số
như gân phụ của lá, tỷ lệ dài/ rộng lá và chỉ số diệp lục nhằm phân biệt rõ
ràng giống chè: Lá lá của 2 dòng chè mới có từ 8 – 10 đôi gân lá, nhiều hơn
giống đối chứng LDP1 (có 7-8 đôi gân lá); Tỷ lệ dài lá/ rộng lá biến động từ
2,29 – 2,35, trong đó dài lá/rộng lá của dòng chè CNS - 1.41 là 2,29, của dòng
CNS - 8.31 là 2,35, của giống LDP1 là 2,34. Các đặc điểm thực vật chung này
có thể giúp phân biệt các giống chè mà Wright (1959) sử dụng trong phân loại
(dẫn theo Willson K.C. and Cliford M.N., 1992, [119]).
Hàm lượng diệp lục của lá non các dòng/giống chè cũng biến đổi theo
mẫu quan sát biến động từ 58,6 spad đến 61,4 spad, trong đó hàm lượng diệp
lục của dòng CNS-8.31 cao nhất đạt 61,4 spad, tiếp đến là dòng CNS – 1.41
đạt 76,7 spad tương đương giống LDP1 đạt 58,6 spad. Kết quả này phù hợp
với mầu sắc lá xanh đậm hơn của dòng CNS-8.31 so với dòng CNS-1.41 và
giống LDP1.
71
3.2.1.2. Đặc điểm búp của các dòng chè nghiên cứu
Chiều dài của búp có tương quan chặt với khối lượng búp, hệ số tương
quan r = 0,75 (Nguyễn Văn Toàn, 1994) [40] và có ảnh hưởng rất lớn đến
ngoại hình sản phẩm. Một số đặc điểm kích thước búp các dòng/ giống chè
nghiên cứu trình bày ở bảng 3.3.
Bảng 3.3. Một số đặc điểm búp các dòng/giống chè nghiên cứu (Búp có tôm và 3 lá non)
Chỉ tiêu Chiều dài Khối lượng ĐK
Tên dòng
CNS – 1.41
CNS – 8.31
búp (cm) 9,58a 8,71a 7,10b búp (gr) 1,20a 1,16a 0,81b búp (cm) 0,2a 0,2a 0,2a LDP1 (đ/c)
7,2 7,6 8,9 CV (%)
1,3 0,2 0,05 LSD0.05
Ghi chú: đường kính búp chè được đo trên vết hái 1cm.
Số liệu ở bảng cho thấy kích thước và khối lượng búp của các giống chè
nghiên cứu khác nhau ở độ tin cậy 95%. Trong đó chiều dài búp 1 tôm 3 lá
của hai dòng CNS-1.41 và CNS-8.31 tương đương nhau (9,58 và 8,71 cm) và
lớn hơn chiều dài búp của giống LDP1 (7,1 cm); khối lượng búp 1 tôm 3 lá
của dòng CNS-1.41 và dòng CNS-8.31 cũng tương đương nhau (đạt 1,2 và
1,16 g/ búp) và cao hơn khối lượng búp 1 tôm 3 lá của giống LDP1 (0,81g/
búp); đường kính gốc búp của dòng CNS-1.41, CNS-8.31 và giống LDP1
tương đương nhau, đạt 0,2 cm. Kết quả nghiên cứu phù hợp với chứng minh
của Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn Loan (1994) cho rằng kích thước búp chè
có liên quan chặt chẽ với khối lượng búp, hệ số tương quan r = 0,8 [41]; Ellis
và Grice, 7976; Tanton, 1979 (dẫn theo Willson K.C. and Cliford M.N., 1992,
72
[119]) cũng cho rằng kích thước của búp chè là yếu tố quan trọng quyết định
năng suất và người trồng thường chọn giống có chồi lớn khi chọn vật liệu
nhân giống vô tính. Điều đó khẳng định hai dòng chè CNS - 1.41 và CNS -
8.31 có tiềm năng cho năng suất cao hơn giống đối chứng LDP1.
B A
Hình 3.2. Búp chè
A- búp chè CNS-1.41; B- búp chè CNS-8.31
3.1.1.3. Đặc điểm hom giống các dòng chè nghiên cứu
Ngày nay các giống chè vô tính được trồng phổ biến ở các nước trồng
chè, phương pháp nhân giống vô tính bằng giâm hom cũng phổ biến vì cây
giống giữ được các đặc điểm di truyền của cây mẹ. Mặt khác nương chè trồng
bằng cây giâm hom đồng đều, búp chè sinh trưởng, phát triển tập trung thuận
lợi cho thu hoạch, nâng cao hiệu quả sản xuất (Đ.N. Quỹ, N.V Niệm, 1979;
N.V. Thiệp, N.V. Tạo, 2008; K.C. Willson, M.N. Cliford, 1992) [25], [34],
[119]. Do vậy, đối với cây chè, nhân giống vô tính bằng giâm cành có vai trò
quan trọng trong sản xuất. Một giống chè có hệ số nhân giống cao, khả năng
73
nhân giống vô tính tốt sẽ đảm bảo sự thành công khi phát triển mở rộng trong
sản xuất. Trên cơ sở đó, đề tài luận án tiến hành nghiên cứu các đặc điểm hom
chè nhằm phục vụ nhân giống tốt. Hom chè là một lá và một lóng được cắt từ
cành chè không hái búp trong một thời gian nhất định đủ để trở thành “bánh
tẻ”, kết quả nghiên cứu về đặc điểm hom giống trình bày ở bảng sau:
Bảng 3.4. Đặc điểm hom chè giống và sản lượng hom chè của 2 dòng chè
CNS-141 và CNS-831 tuổi 3 tại Phú Hộ
Đặc điểm hom chè
Khối Hàm Đường Giống Chiều Diện lượng lượng Số hom/ kính hom chè dài hom hom diệp lục cành (cm) (mm tích lá (cm2)
CNS-1.41
CNS-8.31
4,79a 5,15a 3,67b 4,33a 4,52a 3,84b (g/hom) 1,53b 1,85a 1,23c (Spad) 78,21b 89,72a 66,99c 7,80a 6,72b 6,50b 57,56a 34,87b 26,26c LDP1(đ/c)
6,5 CV (%) 3,73 8,55 15,20 9,70 4,4
0,67 0,2 0,26 9,20 0,80 3,9 LSD0.05
Số liệu ở bảng cho thấy chiều dài lóng hom giống của dòng CNS – 1.41
có độ dài 4,79cm, tương đương với độ dài hom dòng CNS – 8.31 (5,15 cm)
và dài hơn lóng hom giống LDP1 (3,67 cm); đường kính lóng hom của hai
dòng chè mới cũng lớn hơn đường kính lóng của giống LDP1; diện tích lá
hom của ba dòng/ giống có khác nhau, theo đó dòng CNS – 1.41 có diện tích lá hom lớn nhất đạt 57,56 cm2, tiếp đến là dòng CNS – 8.31 đạt 34,87 cm2, nhỏ nhất là lá hom của giiongs LDP1 (26,6 cm2); khối lượng hom các dòng/
giống nặng nhẹ khác nhau, dòng CNS-8.31 có khối lượng hom lớn nhất
(1,85g/hom), dòng CNS-1.41 có khối lượng hom nhỏ hơn (1,53 g/hom), nhỏ
74
nhất là hom của giống LDP1 (1,23 g/hom); hàm lượng diệp lục trong lá hom
của dòng CNS-8.31 cao nhất đạt 89,72 spad, tiếp theo là dòng CNS-1.41 đạt
78,21 spad, hàm lượng diệp lục ở lá hom giống LDP1 thấp nhất là 66,99 spad;
về số lượng hom trên một cành, phản ánh năng suất hom của giống chè, cành
chè để giống có nhiều hom thì năng suất hom cao. Dòng CNS – 1.41 đạt 7,8
hom/cành, nhiều hơn dòng CNS – 8.31 và giống LDP1 (đạt 7,72 và 6,5
hom/cành). Những kết quả về kích thước hom, hàm lượng diệp lục trong lá
hom cho thấy hom hai dòng chè mới có khả năng phát triển thành cây chè
mới khỏe mạnh, dòng CNS-1.41 có năng suất hom cao.
B A C
Hình 3.3. Cành hom chè
A - Dòng CNS-1.41; B- Dòng CNS-8.31; C- Giống LDP1
Hình 3.4. Vườn hom giống
75
3.1.2. Nghiên cứu sinh trưởng hai dòng chè CNS -1.41 và CNS - 8.31.
3.1.2.1. Sinh trưởng thân cành giai đoạn kiến thiết cơ bản
Nhằm đánh giá khả năng sinh trưởng các dòng chè mới, chúng tôi đã
tiến hành thí nghiệm trồng so sánh hai dòng chè mới CNS-1.41, CNS-8.31 và
giống LDP1. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án, chúng tôi trình
bày kết quả đánh giá sinh trưởng của các dòng/ giống chè trong giai đoạn chè
kiến thiết cơ bản. Kết quả nghiên cứu ở các bảng sau.
Bảng 3.5. Đặc điểm sinh trưởng thân cành của các dòng/giống chè
1 năm tuổi ở Phú Hộ năm 2016
Độ cao Chỉ tiêu Tỷ lệ Chiều Đ.kính Cành Cành Rộng phân sống cao cây gốc cấp 1 cấp 2 tán cành Tên dòng (%) (cm) (cm) (cành) (cành) (cm)
CNS-1.41
CNS-8.31
91,1a 90,1a 85,5b 120,4a 128,4a 80,7c 1,3a 1,3a 0,9b 25,7a 15,9b 12,3b 39,0a 23,6b 20,4c 59,3a 45,3b 40,3b (cm) 2,0b 3,6a 3,9a LDP1 (đ/c)
CV% 7,0 5,2 4,4 8,5 4,2 13,2 7,0
5,0 11,7 0,1 5,7 2,6 13,0 0,7 LSD0,05
Kết quả nảng 3.5 cho thấy hai dòng chè mới sinh trưởng khoẻ, một năm
sau trồng, tỷ lệ sống khá cao, từ 85,5 – 91,1%, trong đó dòng CNS – 1.41 và
dòng CNS – 8.31 có tỷ lệ sống tương đương nhau, đạt 91,1 và 90,1% và cao
hơn giống đối chứng LDP1 (đạt 85,5%).
Về sinh trưởng chiều cao cây, các dòng/ giống chè có khác biệt nhau.
Dòng CNS-1.41 và CNS-8.31 sinh trưởng mạnh, chiều cao cây tương đương
nhau, đạt 120,4 và 128,4 cm, và cao hơn giống LDP1 (có chiều cao cây đạt
80,7cm).
76
Sinh trưởng chiều ngang thân của các dòng/ giống chè cũng có sự khác
nhau. Các dòng CNS- 1.41 và CNS – 8.31 có đường kính gốc tương tự nhau,
đạt 1,3cm, lớn hơn giống đối chứng LDP1 đạt 0,9cm. Một năm sau trồng, hai
dòng chè mới này có đường kính gốc > 1cm, đủ tiêu chuẩn để đốn tạo hình
lần thứ nhất trong khi giống LDP1 chưa đủ tiêu chuẩn đốn. Đây chính là điều
kiện để hai dòng chè mới sớm cho thu hoạch và có tiềm năng năng suất cao.
Độ cao phân cành của dòng chè CNS- 1.41 khá thấp, trung bình chỉ
cách mặt đất 2cm đã bắt đầu phân cành mới. Dòng chè CNS – 8.31 và LDP1
có độ cao phân cành tương đương nhau (từ 3,6 - 3,9 cm). Chính độ cao phân
cành thấp làm cho cây chè mọc nhiều nhánh, đó là một trong những điều kiện
tạo cho dòng chè CNS – 1.41 sẽ có bộ tán rộng hơn sau này.
Cành cấp 1 có ý nghĩa quyết định hình thành nên bộ khung tán cơ bản
của cây chè, giống chè có nhiều cành cấp 1 sẽ sớm có bộ tán rộng và sớm
phát huy tiềm năng năng suất. Dòng CNS – 1.41 có số cành cấp 1 nhiều nhất
là 25,7 cành. Dòng CNS – 8.31 đạt 15,9 cành tương đương giống đối chứng
LDP1 đạt 12,3 cành.
Sự phát triển cành cấp 2 của các dòng/ giống chè cũng khác nhau rõ rệt.
Dòng CNS- 1.41 có số cành cấp 2 nhiều nhất (39,0 cành), trong khi dòng
CNS- 8.31 đạt 23,6 cành, còn giống LDP1 chỉ có 20,4 cành cấp 2 (ít cành cấp
2 nhất).
Độ cao phân cành, số lượng cành các cấp khác nhau đã tạo ra sự khác
nhau về chiều rộng tán của các dòng/giống chè nghiên cứu. Chiều rộng tán
của các dòng/ giống dao động từ 40,3 cm – 59,3 cm. Trong đó CNS – 1.41 có
tán rộng nhất (59,3 cm), dòng CNS – 8.31 và giống LDP1 có chiều rộng tán
tương đương nhau từ 40,3 - 45,3 cm.
Từ những kết quả về sinh trưởng của hai dòng chè mới và những phân
tích ở trên, rõ ràng là các dòng chè này rất khỏe, đặc biệt mới chỉ một năm
77
tuổi đã đạt đủ độ lớn để có thể đốn tạo hình lần đầu tiên, chính điều khác biệt
này mà có thể đưa các dòng chè mới vào thu hoạch búp ngay ở năm thứ hai
sau trồng. Mặt khác cành bên nhiều, tán lá rộng, sẽ sớm cho năng suất cao.
Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của C.T. Huyền, N.V. Thiệp,
N.Q. Duy (2012) [10]. Khi nghiên cứu sinh trưởng cây chè tuổi 1 ở điều kiện
đồng ruộng nhằm chọn lọc các dòng chè ưu thế lai từ các dòng chè tạo ra từ
nuôi cấy cứu phôi, các tác giả đã khẳng định các dòng chè lai cứu phôi đều có
khả năng thích ứng tốt, sinh trưởng mạnh và năng suất cao vượt trội so với
đối chứng LDP1.
A B
78
C D
Hình 3.5. Cây chè con
A- Cây chè CNS-1.41 6 tháng tuổi; B - Cây chè CNS-8.31 6 tháng tuổi
C- Cây chè CNS-1.41 1 năm; D - Cây chè CNS-8.31 1 năm tuổi
Hình 3.6. Phân cành thấp và nhiều, làm cho tán chè nhanh lớn và rộng
79
Các dòng chè mới sinh trưởng khỏe, ngay ở tuổi 1 đường kính gốc của
hầu hết số cây đã đạt độ lớn trên 1cm và dã được đốn tạo hình lần thứ nhất.
Sinh trưởng của cây chè sau đốn (tuổi 2) đã được đánh giá, kết quả trình bày
ở bảng dưới đây.
Bảng 3.6. Đặc điểm sinh trưởng các dòng/giống chè
Mật độ
Khối
Năng
Chỉ tiêu
Chiều cao
Đ.kính
Rộng tán
lượng búp
suất búp
gốc (cm)
(cm)
cây (cm)
(Tấn/ha)
Tên dòng
Dòng CNS-1.41
2 năm tuổi ở Phú Hộ năm 2017
Dòng CNS-8.31
7,36
LDP1 (đ/c)
5,22
búp (búp/m2) 121,5a 92,5b 84,4c
(g) 0,96a 1,14b 0,84c
5,9
14,4
8,4
6,8
6,1
12,4
CV%
4,4
0,6
19,1
1,2
0,2
1,4
LSD0,05
62,5b 64,4b 69,5a 2,3a 1,9ab 1,3b 120,7a 93,6b 85,2b 3,64
Ghi chú: mật độ búp chỉ tính những búp đủ tiêu chuẩn hái (búp 1 tôm
và có từ 2 lá thật); năng suất búp thực thu từ ô thí nghiệm quy ra ha.
Kết quả cho thấy các chỉ tiêu sinh trưởng của các dòng/ giống nghiên
cứu có sự khác nhau. Về chiều cao cây, giống LDP1 sinh trưởng nhanh đạt
69,5 cm, cao hơn hai dòng CNS – 1.41 (62,5 cm) và CNS – 8.31 (64,4 cm).
Mặc dù, sau khi đốn, hai dòng chè mới sinh trưởng chiều cao chậm hơn
giống LDP1, nhưng đường kính gốc và chiều rộng tán lại hớn hơn giống
LDP1. Dòng CNS-1.41 có đường kính gốc 2,3cm, lớn hơn giống LDP1
(1,3cm), dòng CNS-8.31 có kích thước về đường kính gốc nằm giữa giống
LDP1 và CNS-1.41. Sau 2 năm tuổi, chiều rộng tán của dòng CNS-141 đạt
120,7 cm, lớn hơn CNS-8.31 (93,6 cm) và LDP1 (85,2cm). Sự lớn nhanh của
thân cây, tạo thuận lợi cho các cành bên phát triển làm cho tán lá nhanh lớn,
đó là dấu hiệu của giống cho năng suất cao.
80
Về mật độ búp: dòng CNS-141 có mật độ búp dầy nhất là 121,5 búp/m2, dòng CNS-81 có mật độ búp là 92,5 búp/m2, trong khi giống LDP1 có 84,4 búp/m2. Mặc dù có mật độ búp dầy nhưng hai dòng chè mới có búp
dài hơn, lá lớn hơn nên khối lượng búp lớn hơn giống LDP1.
Do các yếu tố cấu thành năng suất đều lớn hơn giống đối chứng nên
năng suất hai dòng chè mới cao hơn. Ở ruộng thí nghiệm đánh giá sinh
trưởng, năng suất dòng CNS-141 đạt 7,36 tấn/ha/năm; dòng CNS-831 đạt
5,22 tấn/ha/năm; giống LDP1 năng suất đạt 3,64 tấn/ha/năm.
Sinh trưởng của cây chè tiếp tục được đánh giá những năm tiếp theo.
Kết quả đánh giá sinh trưởng, năng suất của năm thứ 3, năm cuối cùng của
thời kỳ kiến thiết cơ bản trình bày ở bảng sau.
Bảng 3.7. Đặc điểm sinh trưởng các dòng/giống chè
3 năm tuổi ở Phú Hộ năm 2018
Chỉ tiêu Cao Rộng Đ/K Mật Khối Độ Năng
cây tán thân độ lượng dài suất
Dòng (cm) (cm) (cm) lóng (tấn/ha) búp
CNS-1.41
CNS- 8.31
76,5a 180,4a 76,6a 167,6a 78,5a 125,7b 5,4a 4,9a 3,6b búp (b/m2) 124,2a 1,02b 1,18a 98,7b 0,91c 94,5b (cm) 5,6b 6,15a 4,0c 13,68a 9,72b 6,59c LDP1(đ/c)
CV (%) 6,06 6,7 10,3 9,09 6,1 12,1 14,92
2,9 23,9 1,01 4,61 0,10 0,54 2,32 LSD0,05
Ghi chú: mật độ búp chỉ tính những búp đủ tiêu chuẩn hái (búp 1 tôm
và có từ 2 lá thật trở lên); năng suất búp thực thu từ ô thí nghiệm quy ra ha..
Tới năm thứ 3, cây chè đã trải qua 2 lần đốn, các lứa chè được hái đều
đặn, do vậy độ cao mặt tán đã ổn định, chiều cao cây của 3 dòng/ giống (chiều
cao đến mặt tán hái búp) dao động từ 76,5 - 78,5 cm. Đường kính thân và
81
chiều rộng tán tiếp tục tăng thêm, trong đó hai dòng chè CNS-1.41 và CNS-
8.31 có đường kính thân tương đương nhau (5,4 và 4,9 cm) và lớn hơn thân
cây của giống LDP1 (3,6cm).
Về mật độ búp, dòng CNS-141 có mật độ búp cao nhất (124,2 búp/m2);
dòng CNS-831 và giống LDP1 có mật độ búp tương đương nhau.
Về độ dài lóng búp của các dòng chè thì dòng CNS – 831 có độ dài
lóng lớn nhất 6,15 cm, tiếp đến là dòng CNS – 1.41 lóng dài 5,6 cm; búp chè
LDP1 có lóng ngắn nhất là 4,0. Độ dài ngắn của lóng làm cho búp của các
dòng/ giống chè có độ dài ngắn khác nhau. Cũng do vậy mà khối lượng búp
chè khác nhau. Cũng tương tự như ở tuổi 2, khối lượng búp dòng CNS-831 >
CNS-141 > giống LDP1.
Về năng suất, ở tuổi 3 năng suất của các dòng/giống chè đã khá cao.
Dòng CNS-141 cao nhất đạt 13,68 tấn/ha/năm; dòng chè CNS-831 đứng thứ
hai đạt 9,72 tấn/ha; giống LDP1 đạt 6,59 tấn/ha.
Như vậy, các dòng chè mới ưu thế lai đã sớm phát huy tiềm năng năng
suất. Áp dụng các giống mới này vào sản xuất sẽ rút ngắn được giai đoạn kiến
thiết cơ bản để sớm có thu nhập cho người sản xuất.
3.1.2.2. Sinh trưởng phát triển búp của hai dòng chè.
Cây chè sinh trưởng, phát triển hầu như quanh năm, tuy nhiên trong tự
nhiên một năm búp chè phát triển theo một số đợt nhất định gọi là đợt sinh
trưởng, trong điều kiện có thu hái búp, đợt sinh trưởng có thể thay đổi
(Nguyễn Văn Toàn, 2016) [45]. Để nắm được thời gian bắt đầu, kết thúc cũng
như thời gian các đợt sinh trưởng các dòng chè mới, chúng tôi đã tiến hành
nghiên cứu các đợt sinh trưởng, kết quả ở bảng sau đây.
82
Bảng 3.8. Thời gian các đợt sinh trưởng búp của hai dòng chè ở Phú Hộ, 2016
Dòng Thời gian các đợt sinh trưởng
CNS-1.41 10/1-8/4 3/5-15/6 21/6-30/7 7/8-18/9 28/9-25/11
CNS-8.31 12/1- 11/4 4/5-17/6 22/6-1/8 8/8-20/9 29/9-27/11
20/1-8/4 5/5- 15/6 23/6- 30/7 9/8 – 18/9 30/9-22/11 LDP1 (đ/c)
Kết quả ở bảng cho thấy các dòng/ giống chè nghiên cứu trải qua 5 đợt
sinh trưởng tự nhiên. Tuy nhiên, thời gian bắt đầu sinh trưởng (nhú mầm) và
kết thúc sinh trưởng (búp mù xòe) của các dòng/giống có sự khác nhau.
Dòng CNS-141 bắt đầu đợt sinh trưởng thứ nhất sớm nhất, từ ngày
10/1 và kết thúc vào ngày 8/4. Dòng CNS-831 bắt đầu sinh trưởng muộn
hơn dòng CNS-141 2 ngày (ngày 12/1), kết thúc muộn hơn 3 ngày (ngày
11/4). Giống LDP1 bắt đầu đợt sinh trưởng đầu tiên vào ngày 20/1 và kết thúc
vào ngày 8/4. Như vậy, dòng chè CNS-141 sinh trưởng sớm, thời gian sinh
trưởng kéo dài, đây là đặc tính nông học tốt vì sinh trưởng sớm sẽ cho thu
hoạch sớm có lợi cho thương mại khi mà đầu vụ, các loại chè khác còn chưa
có búp để thu hoạch. Mặt khác thời gian sinh trưởng dài hơn đồng nghĩa với
búp non lâu, nếu thu hoạch đúng thời gian thì nguyên liệu búp ít xơ, phẩm cấp
chè nguyên liệu tốt hơn. Những phân tích trên đây về dòng chè CNS-141
cũng đúng với dòng chè CNS-831 vì thời gian sinh trưởng dài tương đương
với dòng CNS-141.
Giống chè LDP1 bắt đầu sinh trưởng muộn, thời gian sinh trưởng ngắn,
điều này dễ dẫn đến việc thu hoạch không kịp thời sẽ làm cho búp chè nhanh
hóa gỗ, tỷ lệ xơ cao. Nếu việc thu hoạch chậm trễ, chất lượng nguyên liệu chè
83
giảm nhanh chóng, chè bán thành phẩm sẽ nhiều cuộng làm giảm giá trị
thương mại của chè.
Đợt sinh trưởng thứ 5, hai dòng chè CNS-141 và CNS-831 cũng kết
thúc muộn hơn (25-27 tháng 11) so với giống LDP1 (kết thúc vào ngày 22
tháng 11). Kết thúc đợt sinh trưởng muộn làm tăng cơ hội tận dụng sản phẩm
chè khi mà cuối vụ nguyên liệu trở nên khan hiếm.
Các đợt sinh trưởng khác nhau có tốc độ sinh trưởng khác nhau, đề tài
luận án đã đánh giá tốc độ sinh trưởng của các dòng/ giống chè, kết quả ghi ở
bảng 3.9 dưới đây.
Bảng 3.9. Tốc độ tăng trưởng chiều dài búp của hai dòng chè
(Đơn vị tính: cm/ngày)
Dòng/giống Đợt 1 Đợt 2 Đợt3 Đợt 4 Đợt 5
CNS-1.41
CNS-8.31
0,48a 0,55a 0,34b 1,03a 1,16a 0,67b 1,18a 1,33a 0,80b 1,06ab 1,21a 0,72b 0,72a 0,85a 0,51b LDP1 (đ/c)
CV(%) 11,37 10,24 17,02 17,53 11.20
0,10 0,19 0,37 0,35 0,15 LSD05
Căn cứ vào giá trị sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức xác suất 95%,
các trị số về tốc độ sinh trưởng của các dòng/giống chè nghiên cứu có sự khác
nhau. Tốc độ sinh trưởng của hai dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 tương
đương đương nhau và lớn hơn tốc độ sinh trưởng của giống chè LDP1 ở tất cả
các đợt sinh trưởng trong thời gian nghiên cứu.
Các đợt sinh trưởng thứ nhất và thứ 5 tốc độ sinh trưởng chậm hơn
các đợt thứ 2, 3 và thứ 4. Có kết quả như vậy là do thời tiết đầu năm và cuối
84
năm lạnh, búp chè sinh trưởng chậm. Từ đợt thứ 2 đến đợt thứ 4, thời tiết
nóng ẩm thuận lợi, làm cho búp chè sinh trưởng nhanh hơn.
3.1.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng chè
Chè là cây trồng mà sản phẩm thu hoạch là búp và lá non. Mỗi giống có
mật độ búp, khối lượng búp, số lứa thu hoạch khác nhau và liên quan trực tiếp
đến năng suất của giống. Kết quả theo dõi một số yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất của các giống chè nghiên cứu thu được kết quả ở bảng 3.10.
Bảng 3.10. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các dòng chè (Sau trồng 3 năm tuổi)
Rộng tán (m ) Cao Năng P búp Số lứa Giống chè cây suất Rộng Tán có Mật độ (búp/m2) (g/búp) (lứa)
CNS-1.41 17
CNS-8.31 17
búp 1,50 a 1,32 b 1,21 b LDP1(đ/c) (cm) 76,6a 78,2a 75,6a tán 1,81a 1,62b 1,51b 130,6a 112,8b 102,8b 1,05b 1,21a 0,93c 17 (tấn/ha) 19,42a 17,01b 10,92c
4,82 CV% 3,60 3,90 7,20 5,20 - 5,76
0,12 5,20 0,12 16,70 0,11 - 2,12 LSD0.05
Ghi chú: mật độ búp chỉ tính những búp đủ tiêu chuẩn hái (búp 1 tôm
và có từ 2 lá thật); năng suất lý thuyết quy từ các yếu tố cấu thành năng suất.
Kết quả đánh giá ở bảng 3.10 cho thấy: các dòng/ giống chè sinh
trưởng phát triển mạnh, ở tuổi 3 có chiều cao cây (đến mặt tán chè) trong điều
kiện thu hoạch thường xuyên là tương đương nhau, chiều cao từ 75,6 -
78,2cm.
Về chiều rộng tán, dòng chè CNS – 1.41 lớn nhất, đạt 1,81m và búp
phân bố trong khoảng chiều rộng 1,5m; dòng CNS – 8.31 đạt 1,62 m, búp
phân bố trong khoảng 1,32m; giống LDP1 chỉ đạt 1,51 m, búp phân bố trong
85
khoảng 1,21m. Chiều rộng tán là một trong những chỉ tiêu cấu thành năng
suất quan trọng, chiều rộng tán chè lớn đồng nghĩa với diện tích tán lớn, đó là
tiêu chí để chọn lọc giống chè năng suất cao (Willson K.C. & M.N. Clifford,
1992) [120].
Mật độ búp (những búp đủ tiêu chuẩn hái gồm có tôm và có từ 2 lá thật trở lên) cao nhất là dòng CNS – 1.41 (130,6 búp/m2); dòng CNS – 8.31 mật độ búp đạt (112,8 búp/m2) tương đương với mật độ búp của giống đối chứng LDP1 (102,8 búp/m2) ở độ tin cậy 95%.
Khối lượng búp 1 tôm 3 lá của các dòng/ giống chè có sự khác nhau.
Theo đó, dòng chè CNS – 8.31 có khối lượng búp lớn nhất 1,21 g/búp; thứ hai
là dòng CNS – 1.41, có khối lượng búp 1,05 g/búp; khối lượng búp của giống
đối chứng LDP1 nhỏ nhất (0,93 g/búp). Ở tuổi 3, hái san trật được 17 lứa hái
trong một năm.
Về năng suất, kết quả đánh giá năng suất từ các yếu tố cấu thành năng
suất cho thấy ở tuổi 3, năng suất của các dòng/ giống đạt khá cao. Dòng CNS
- 1.41 đạt năng suất cao nhất 19,42 tấn/ha/năm; dòng CNS – 8.31 năng suất
xếp thứ hai, đạt 17,01 tấn/ha/năm; giống đối chứng LDP1 xếp thứ ba đạt 10,92
tấn/ha/năm. Kết quả về năng suất tính toán từ các yếu tố cấu thành năng suất
của thí nghiệm phù hợp với năng suất thực thu ở bảng 3.9, nghĩa là dòng
CNS-1.41 năng suất cao nhất, dòng CNS-8.31 đứng thứ hai và cao hơn năng
suất của giống chè LDP1. Kết quả đạt được này cũng phù hợp với kết luận
của Willson K.C. & M.N. Clifford, 1992 [119] cho rằng tán chè cùng với mật
độ búp chè lớn là những yếu tố chính cho năng suất chè cao.
3.1.4. Nghiên cứu chất lượng của hai dòng chè mới
3.1.4.1. Thành phần cơ giới của búp chè
Búp chè là nguyên liệu chế biến ra các sản phẩm chè, nghiên cứu thành
phần cơ giới búp để định hướng thu hoạch cho các mục đích sản phẩm khác
86
nhau. Thành phần cơ giới búp chè là một trong những chỉ tiêu chất lượng của
nguyên liệu búp. Búp chè ít cuộng, tỷ lệ tôm và lá một cao có chất lượng
nguyên liệu tốt, tỷ lệ bánh tẻ (xơ) của búp chè thấp là búp chè non; khi chế
biến búp chè có tỷ lệ tôm và lá một cao, hàm lượng xơ thấp, tỷ lệ chè thành
phẩm loại tốt sẽ cao hơn. Phân tích thành phần cơ gới búp của các dòng chè
thu được kết quả ở bảng 3.11:
Bảng 3.11. Thành phần cơ giới búp chè 1 tôm 3 lá của các dòng/giống chè
ở Phú Hộ, 2017
Tôm Lá 1 Lá 2 Lá 3 Cuộng Tỷ lệ xơ Dòng
CNS-1.41
CNS-8.31
(%) 6,09a 6,12a 6,06a (%) (%) (%) 38,78a 10,52a 22,95a 10,01a 21,92a 36,13b 29,37c 9,92a 20,15a (%) 21,66c 25,82b 34,48a (%) 17,86b 16,07bc 19,73a LDP1 (đ/c)
4,06 6,13 5,1 11,9 7,54 9,44 CV%
0,56 0,51 0,94 1,54 2,72 1,84 LSD0.05
Kết quả ở bảng số liệu cho thấy: tỷ lệ tôm của búp chè của các dòng/
giống nghiên cứu tương đương nhau, chiếm từ 6,06 - 6,12% khối lượng của
búp chè.
Tỷ lệ lá 1 và lá 2 của các dòng/ giống cũng tương tự nhau (ở mức xác
suất 95%), theo đó lá 1 chiếm từ 9,92 - 10,52% khối lượng búp, lá 2 chiếm từ
20,15 - 22,95% khối lượng búp.
Lá thứ 3 của búp ở các dòng/ giống có sự khác nhau, trong đó dòng
CNS – 1.41 chiếm 38,78% khối lượng búp, dòng CNS – 8.31 chiếm tỷ lệ ít
hơn (36,13%), giống LDP1 chiếm tỷ lệ ít nhất (29,37%).
Tỷ lệ cuộng của các giống chè rất khác nhau, dòng chè CNS – 1.41 có tỷ
lệ thấp nhất (21,66%); dòng CNS – 8.31 có tỷ lệ cuộng cao hơn dòng CNS-
87
1.41 (25,82%); giống đối chứng LDP1 có tỷ lệ cuộng nhiều nhất, chiếm
34,48% tổng khối lượng búp chè.
Tỷ lệ xơ phản ánh mức độ non mềm của búp chè, xơ ít là búp chè có chất
lượng tốt. Hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31 có tỷ lệ xơ tương đương
nhau, biến động từ 16,07 % đến 17,86% thấp hơn so với đối chứng LDP1 có
tỷ lệ xơ là 19,73%. Từ kết quả này có thể nhận xét rằng búp chè của hai dòng
chè mới non hơn búp chè giống LDP1 có cùng tuổi búp và thời gian thu
hoạch, và chất lượng nguyên liệu búp tốt hơn giống LDP1.
3.1.4.2. Thành phần sinh hóa các dòng chè
Búp chè có nhiều chất có lợi cho sức khỏe con người, chính vì lẽ đó, trà
đã là đồ uống phổ biến nhất trên thế giới từ xưa tới nay. Các chất chính có lợi
trong búp chè như Catechin, axit amin, vitamine,…Do có nhiều ích lợi đối với
sức khỏe, các nhà chọn giống chè luôn tìm cách tạo ra những giống chè mới
có hàm lượng các chất này cao nhất có thể.
Để đánh giá chất lượng về nội chất của chè búp nguyên liệu, đề tài luận
án đã hái mẫu búp chè có tôm và 2 lá non phân tích một số thành phần sinh
hóa chính. Búp chè một tôm hai lá cũng được chế biến thành sản phẩm chè
xanh, chè đen nhằm đánh giá chất lượng bán thành phẩm.
Kết quả phân tích thành phần hóa học chủ yếu trong búp chè tôm 2 lá
được trình bày ở bảng 3.12.
88
Bảng 3.12: Thành phần hóa học chủ yếu trong chè xanh
các dòng/giống chè
HC
Axit Đạm Vitamin thơm Poly Chất Catechin Giống Tanin amin Cafein TS C TS phenol hòa tan TS chè (%) TS (%) (%) (mg/ (ml / TS (%) (mg/g) (%) (%) 100g) 100g
CK)
CNS-1.41 25,51b 42,43a 2,45a 145,75a 2,59ab 4,86a 16,72b 47,07a 17,98b
CNS-8.31 24,47b 43,28a 2,56a 137,12b 2,21b 4,98a 22,04a 49,02a 20,14a
LDP1 (đ/c) 28,72a 42,57a 1,54b 146,93a 2,90a 5,06a 22,90a 42,27b 19,45a
CV% 4,8 5,2 9,3 7,7 5,1 5,4 5,5 6,7 7,2
2,9 5,1 0,5 0,4 0,2 2,5 1,5 3,8 0,9 LSD0.05
Kết quả ở bảng số liệu cho thấy: hàm lượng tanin của hai dòng chè
CNS – 1.41 và CNS – 8.31 dao động từ 24,47 – 28,72%, trong đó dòng có
hàm lượng tanin thấp nhất là dòng CNS - 8.31 đạt 24,47%, còn dòng CNS –
1.41 tương đương đối chứng LDP1 (25,51%).
Chất hòa tan trong búp các dòng/ giống chè tương đương nhau, trong
đó dòng CNS – 8.31 có hàm lượng chất hòa tan là 43,28%, của dòng CNS –
1.41 là 42,43%, ở giống LDP1 là 42,57%.
Hàm lượng axit amin tổng số của hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS –
8.31 dao động từ 2,45 đến 2,56% cao hơn giống đối chứng LDP1 (1,54%).
Hàm lượng catechin tổng số của hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS –
8.31 biến động từ 137,12% đến 145,75%, ở giống LDP1 là 146,93%.
89
Hàm lượng cafein của hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31 từ 2,21
đến 2,59%, thấp hơn cafein ở giống đối chứng LDP1 (2,90%).
Hàm lượng đạm tổng số của hai dòng chè CNS – 1.41 (4,86%) và CNS
– 8.31 đạt (4,98%) thấp hơn so với giống đối chứng LDP1 (5,06%).
Vitamin C của hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31 biến động từ
(16,72 – 22,04 mg/100g) trong đó dòng CNS – 1.41 (16,72 mg/100g), dòng
CNS – 8.31 (22,04 mg/100g) cả hai dòng chè đều có hàm lượng vitmin c thấp
hơn giống đối chứng LDP1 ( 22,90 mg/100g).
Hợp chất thơm của dòng CNS – 1.41 (47,07 (ml KMnO4 0,02N/100g
CK)), dòng CNS – 8.31 có hợp chất thơm tổng số đạt 49,02 (ml KMnO4
0,02N/100g CK)). Cả hai dòng chè đều có hợp chất thơm thấp hơn giống đối
chứng LDP1 (42,27 (ml KMnO4 0,02N/100g CK)).
Polyphenol tổng số của dòng CNS – 8.31 đạt 20,14% cao hơn giống
đối chứng LDP1, dòng CNS – 1.41 có hàm lượng Polyphenol tổng số thấp
hơn giống đối chứng LDP1 (19,45%).
Từ kết quả phân tích thành phần sinh hóa cho phép kết luận, hai dòng
chè mới CNS-1.41 và CNS-8.30 có nội chất tốt, hàm lượng các chất có trong
hai dòng chè mới đáp ứng được yêu cầu về nội chất có thể sản xuất chè xanh
đáp ứng yêu cầu chất lượng cho thương mại sản phẩm.
Chè đen, hiện đang được sản xuất và tiêu dùng chiếm khoảng 70-80%
lượng chè trên thế giới. Để tìm hiểu khả năng cho sản xuất chè đen, đề tài
luận án đã phân tích các chỉ tiêu nội chất cần thiết đối với chè đen. Kết quả
trình bày ở bảng 3.13.
Số liệu ở bảng 3.13 cho thấy hàm lượng tanin của các dòng chè dao
động từ 14,08 - 14,35% tương đương với giống đối chứng LDP1, đáp ứng với
tiêu chuẩn chè đen xuất khẩu. Chất hòa tan là một trong những chỉ tiêu quan
trọng đối với chất lượng chè sản phẩm. Hàm lượng chất hòa tan của các dòng
90
nghiên cứu dao động từ 36,27 - 37,55% cao hơn giống đối chứng LDP1
(34,55 %) từ 1,72 - 3%.
Bảng 3.13:Thành phần hóa học chủ yếu trong chè đen của các dòng chè
(theo % chất khô)
Chỉ tiêu phân tích
Dòng/giống
Axit-
Đường
Tanin CHT
Catechin
TF
TR TF/TR
amin
CNS-1.41
khử 1,53a 1,45a 1,16b
0,75a 18,46a 24b 0,83a 19,21a 23b 0,46b 18,32a 39a
14,08a 36,27ab 0,79b 72,96a 1,25a 74,05a 14,35a 37,55a CNS-8.31 LDP1(đ/c) 14,27a 34,55b 1,29a 73,28a
5,7
6.9
12,3
10,2
CV%
7,3
8,6
5,9
4,7
1,8
2,1
0,3
16,9
0,2
0,1
1,7
1,6
LSD0.05
Hàm lượng axit amin của các dòng chè dao động từ 0,79-1,25% thuộc
loại trung bình. Hàm lượng catechin trong chè đen của các dòng chè dao động
từ 72,96 - 74,05 mg/g chất khô tương đương với giống đối chứng LDP1. Hàm
lượng Teaflavin (TF) và Tearubigin (TR) là 2 chỉ số quan trọng đối với màu
sắc nước pha của chè đen, đặc biệt TF là chất màu vàng, phối hợp với màu
nâu của TR làm cho nước chè đen đỏ tươi trong sáng rõ viền vàng. Hàm
lượng TF càng cao, chất lượng chè đen càng tốt. Hàm lượng TF của 2 dòng
chè nghiên cứu đạt từ 0,75 - 0,83 % đều cao hơn đối chứng. Đây là những
dòng chè được lai tạo hữu tính kết hợp công nghệ sinh học, khi chế biến chè
đen có màu nước rất tốt khá hấp dẫn, thể hiện qua tỷ số TF/TR, nếu tỷ số này
càng thấp thì chất lượng chè đen càng cao.
Theo số liệu ở bảng 3.13: tỷ số TF/TR của 2 dòng chè mới CNS - 1.41
và CNS - 8.31 đạt từ 23 - 24 thấp hơn đối chứng LDP1 (39) đều thuộc loại chè
đen có chất lượng tốt nhất.
91
Nguyên liệu chè của 2 dòng CNS - 1.41 và CNS - 8.31 cũng được chế
biến chè đen theo phương pháp truyền thống (orthodox) và đánh giá cảm quan
thu được kết quả ở bảng 3.13.
3.1.4.3. Đánh giá chất lượng cảm quan các dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31
Chè là một loại đồ uống dùng cho giải khát và thưởng thức hương vị
như một văn hóa nghệ thuật, do vậy bên cạnh yêu cầu chất lượng về các yếu
tố định lượng của các chất, cần thiết phải đánh giá chất lượng thông qua mức
độ cảm giác, vị giác của người tiêu dùng, gọi là chất lượng cảm quan.
Kết quả đánh giá cảm quan chè xanh và chè đen trình bày ở các bảng
3.14 và 3.15 dưới đây.
Bảng 3.14: Chất lượng cảm quan chè xanh các dòng/giống chè
ở Phú Hộ năm 2015-2017
Ngoại hình Màu nước Hương Vị Tổng Xếp Tên dòng Mô Mô Mô điểm loại Mô tả Điểm Điểm Điểm Điểm tả tả tả
Nhỏ Xanh xoăn vàng Chát Thơm non CNS-1.41 4,31 sáng, 4,08 4,04 đậm 4,00 16,43 Khá nhẹ xanh, hơi dịu hơi loãng vụn
Xanh
Thơm Đậm đen,
Xanh nhẹ dịu, nhỏ CNS-8.31 4,51 4,46 4,43 4,54 17,94 Khá sáng đặc có cánh,
trưng hậu thoáng
tuyết
92
Xanh Xoăn vàng LDP1 đều. Thơm Đậm 4,00 sáng, 4,00 4,00 3,76 15,76 Khá (đ/c) màu nhẹ dịu hơi xanh loãng
Kết quả đánh giá cảm quan chè xanh cho thấy: dòng CNS-1.41 có mầu
nước xanh vàng, hương thơm nhẹ, vị chát dịu, tổng điểm đạt 16,43 điểm, xếp
loại khá; dòng CNS-8.31 có ngoại hình xoăn đẹp, mầu nước xanh, hương
thơm dịu, vị đậm, có hậu, tổng số điểm đạt 17,94 điểm, xếp loại khá; giống
đối chứng LDP1 có mầu nước xanh vàng, hương thơm nhẹ, vị đậm, tổng điểm
đạt 15,76 điểm, xếp loại khá. Như vậy, hai dòng chè CNS - 1.41, CNS - 8.31
có chất lượng chè xanh khá. Các dòng chè mới này có năng suất cao, chất
lượng chè xanh cùng xếp loại khá như giống đối chứng LDP1 là giống chè
xanh phổ biến trong sản xuất, do vậy có có triển vọng để phát triển rộng rãi
trong sản xuất chè ở nước ta.
Đối với chè đen thì các chỉ tiêu màu nước hương vị có ý nghĩa quyết
định chất lượng của chè đen. Kết quả đánh giá, màu nước của 2 dòng chè
CNS - 1.41 và CNS - 8.31 và LDP1 đều tốt, có màu đỏ nâu trong sáng, rõ
viền vàng; hương và vị của 2 dòng chè mới đều trội hơn giống đối chứng
LDP1. Tổng số điểm cảm quan của 2 dòng chè nghiên cứu đạt từ 17,5 - 18,60
điểm, đều xếp loại tốt và khá. Trong đó dòng CNS - 8.31 đạt tổng số điểm cao
nhất là 18,60 thuộc loại tốt.
93
Bảng 3.15: Chất lượng cảm quan chè đen các dòng/giống chè ở Phú Hộ
năm 2015-2017
Ngoại hình
Màu nước
Hương
Vị
Tổng
Xếp
Dòng
điểm
loại
Mô tả Điểm Mô tả Điểm Mô tả Điểm Mô tả Điểm
Đỏ
sáng,
Thơm
Chát dịu
Nâu đen
hơi
đặc
CNS-
4,30
4.30
4,40
ngọt, hơi
4,5 17,50 Khá
hơi thô
loãng có
trưng,
1.41
ngái
viền
hơi ngái
vàng
Đỏ nâu
Thơm
Xoăn,
sáng
Chát
đặc
non,
CNS-
nâu
4,70
sánh, có
4,80
trưng,
4,60
đậm, dịu,
4,60 18,60 Tốt
8.31
viền
có hậu
hương
đen,đều
vàng
héo
cánh
Đỏ nâu
sáng,
Xoăn
Thơm
hơi
non,nâu
Chát dịu
Khá
4,50
4,50
đặc trưng
4,30
4,30 17,60
LDP1
loãng,có
đen ,khá
hơi ngái
nhẹ
viền
đều
vàng
Như vậy nguyên liệu chè của 2 dòng chè mới CNS - 1.41 và CNS - 8.31
có thể dùng cho chế biến chè xanh và chè đen có chất lượng khá và tốt.
3.1.5. Khả năng sống sót của cây con sau trồng ở điều kiện tự nhiên
Giống chè có khả năng phát triển trong sản xuất, ngoài yếu tố năng
suất, chất lượng, khả năng nhân giống, còn cần phải có khả năng thích ứng
của cây con sau khi trồng. Nhằm đánh giá khả năng thích ứng của cây chè ở
94
điều kiện đồng ruộng, đề tài luận án đã khảo sát khả năng sống sau trồng của
các cây chè con hai dòng chè mới. Kết quả trình bày ở bảng 3.16.
Bảng 3.16: Tỷ lệ sống của cây sau trồng ở điều kiện tự nhiên
(ĐVT: %)
Chỉ tiêu
CNS-1.41
CNS-8.31
Sau trồng 6 tháng 100a 98,8ab 96,3b Sau trồng 12 tháng 100a 97,4a 90,4b LDP1
CV (%) 14,2 12,7
2,8 5,3 LSD0.05
Kết quả ở bảng số liệu cho thấy cho thấy, cây chè giâm hom của các
dòng chè mới sau khi trồng ra đồng ruộng có tỷ lệ sống khá cao. Sau 6 tháng
trồng tỷ lệ sống của dòng/giống chè biến động từ 96,3% đến 100%, trong đó
dòng CNS – 1.41 có tỷ lệ sống cao nhất đạt 100%, dòng CNS – 8.31 có tỷ lệ
sống tương đương dòng CNS – 1.41 và giống LDP1 đạt 98,8%, tỷ lệ sống
thấp nhất là giống LDP1 đạt 96,3%. Sau trồng 12 tháng thì tỷ lệ sống của cây
cũng có sự thay đổi rõ rệt, hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31 tỷ lệ sống
tương đương nhau, đạt 97,4% đến 100% và cao hơn tỷ lệ sống của giống
LDP1 đạt 90,4%.
3.1.6. Đánh giá khả năng nhiễm một số loài sâu hại chủ yếu
Sâu bệnh hại là một trong những yếu tố sinh thái ảnh hưởng lớn đến
sinh trưởng, phát triển của cây trồng nói chung và cây chè nói riêng. Nếu
giống chè nhiễm sâu bệnh sẽ làm tăng chi phí cho phòng trừ, làm tăng giá
thành sản phẩm, đồng thời sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo sản
95
phẩm an toàn. Đề tài đã tiến hành đánh giá mức độ nhiễm một số sâu hại chủ
yếu, kết quả trình bày ở bảng 3.17.
Bảng 3.17. Tình hình một số sâu hại chính trên hai dòng chè
tại Phú Hộ năm 2015 - 2017
Rầy xanh Nhện đỏ Cánh tơ Bọ xít muỗi Tên dòng
CNS - 1.41
CNS - 8.31
(Con/khay) 1,05c 1,16b 1,28a (Con/lá) 0,74c 0,80b 0,96a (Con/búp) 1,56b 1,68b 1,83a (% búp bị hại) 0,34a 0,44a 0,61a LDP1 (đ/c)
7,0 7,83 8,59 14,85 CV
0,03 0,03 0,13 0,17 LSD0,05
Hình 3.7. Một số sâu hại chính trên hai dòng chè mới tại Phú Hộ
96
Kết quả ở bảng số liệu được biểu diễn bằng biểu đồ hình 3.7 cho thấy
các dòng/ giống chè nghiên cứu đều nhiễm một số loài sâu hại chè chính, tuy
nhiên mật độ và mức độ hại của các loài sâu hại ở các giống chè khác nhau thì
khác nhau. Đối với rầy xanh, mật độ của chúng trên giống LDP1 (1,28 con/
khay) cao hơn ở dòng CNS-8.31 (1,16 con/ khay) và cao hơn ở dòng CNS-
1.41 (1,05 con/ khay);
Nhện đỏ xuất hiện ít nhất trên các dòng CNS – 1.41 (0,74 con/lá), thứ
đến là dòng CNS - 8.31 (0,80 con/lá) và tỷ lệ nhện đỏ xuất hiện nhiều nhất là
giống (đ/c) LDP1 (0,96 con/lá);
Mức độ bọ cánh tơ nhiều nhất là giống đ/c LDP1 (1,83 con/búp), các
dòng CNS-1.41 và CNS - 8.31 có mật độ bọ cánh tơ tương nhau (1,56 và 1,68
con/búp);
Tỷ lệ hại do bọ xít muỗi trên hai dòng CNS – 1.41, dòng CNS – 8.31 và
giống LDP1 tương đương nhau, từ 0,34% đến 0,61%.
Như vậy rầy xanh, nhện đỏ và bọ cánh tơ hại trên giống chè LDP1 nhiều
hơn hai dòng CNS-1.41 và CNS-8.31, bọ xít muỗi hại trên tất cả các dòng/
giống chè như nhau.
3.2. Nghiên cứu một số biện pháp canh tác chủ yếu phát triển 2 dòng
chè giai đoạn kiến thiết cơ bản
3.2.1. Nghiên cứu mật độ và phương thức trồng hai dòng chè mới
Ở nước ta, trồng chè phổ biến trên đất đồi dốc, trồng theo đường bình
độ, khoảng cách giữa các hàng 1,5m, mật độ khoảng 1,5 đến 1,7 vạn cây/ha
đối với cây giống giâm cành [26], [27], [28]. Hiện nay chè được trồng ở nhiều
địa hình khác nhau, cả ở những ruộng bằng phẳng để thuận tiện cho thâm
canh và cơ giới hóa. Phương thức trồng chè cũng đa dạng hơn, hàng chè có
thể cách nhau dưới hoặc trên 1,5m, một số nước trồng hàng kép, có những
vùng trồng hàng đơn hoặc ô vuông... (Willson K.C. & M.N. Clifford, 1992)
97
[119], [121]. Mật độ trồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Giống, địa hình,
phương thức canh tác thủ công hay cơ giới hóa, mật độ đầu tư phân bón, tưới
nước, các điều kiện khí hậu, định hướng kinh doanh dài hay ngắn của vườn
chè. Mật độ trồng chè là số cây chè có trên một đơn vị diện tích được trồng
trên các hàng, cách nhau một khoảng nhất định. Để có thể phát huy được tiềm
năng của giống và xác định kỹ thuật phục vụ sản xuất, đề tài luận án đã
nghiên cứu mật độ và phương thức trồng các dòng chè mới, kết quả trình bày
ở bảng 3.18 sau đây.
Bảng 3.18. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của dòng chè
CNS-1.41 tuổi 1 ở Phú Hộ
Tỷ lệ
Cao cây
Rộng
Chiều cao
ĐK gốc
Cành cấp
Cành cấp
Công
sống
(cm)
tán
PC (cm)
(cm)
1 (cành)
2 (cành)
thức
(%)
(cm)
TN
CT1(đ/c)
CT2
93,46a 92,82a 93,17a
112,66a 118,57a 120,49a
42,91a 45,45a 46,38a
2,12a 1,91a 2,54a
1,22a 1,41a 1,44a
25,84a 23,58a 23,47a
38,42a 36,38a 35,51a
CT3
CV%
9,02
8,90
12,80
7,62
6,84
7,81
11,00
5,20
11,22
6,90
0,72
0,75
3,70
4,26
LSD0,05
Ghi chú:
CT1 (đ/c): 1,5m x 0,4m, trồng 1 hàng đơn, 1,66 vạn cây/ha
CT2: 1,8m x 0,6m, trồng 2 hàng kép, 1,85 vạn cây/ha
CT3: 1,8m x 0,67m, trồng 2 hàng kép, 1,66 vạn cây/ha
Kết quả ở bảng 3.18 cho thấy dòng CNS – 1.41 sau trồng 1 năm, tỷ lệ
sống khá cao và tương đương nhau giữa các công thức mật độ trồng, tỷ lệ
sống từ 92,82 – 93,46 %.
Các chỉ tiêu sinh trưởng như chiều cao cây, chiều rộng tán, chiều cao
phân cành, số cành cấp 1, số cành cấp 2 chưa có sự sai khác giữa các mật độ
98
nghiên cứu. Chiều rộng tán dao động từ 42,91 - 46,38cm; đường kính gốc từ
1,22cm đến 1,44cm; chiều cao phân cành từ 1,91cm - 2,54cm; số cành cấp 1
dao động từ 23,47 đến 23,84cm, cành cấp 2 từ 35,51 cành đến 38,42 cành.
Cành cấp 1 và cành cấp 2 nhiều có nghĩa là có bộ khung tán rộng, diện
tích tán lớn là biểu hiện của giống chè có tiềm năng năng suất cao.
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của dòng chè
CNS-8.31 tuổi 1 ở Phú Hộ
Tỷ lệ
Cao cây
Rộng
Chiều cao
ĐK gốc
Cành cấp
Cành cấp
Công
sống
(cm)
tán
PC (cm)
(cm)
1 (cành)
2 (cành)
thức
(%)
(cm)
TN
CT1(đ/c)
CT2
CT3
91,34a 90,18a 90,52a
126,62a 116,58a 121,42a
40,37a 42,62a 41,64a
2,91a 2,74a 2,83a
1,19a 1,32a 1,27a
20,74a 19,58a 19,72a
25,91a 25,82a 23,60a
CV%
14,4
12,1
12,7
12,0
14,8
11,5
18,7
3,05
15,20
6,20
0,31
0,30
2,30
2,98
LSD0,05
Ghi chú:
CT1 (đ/c): 1,5m x 0,4m, trồng 1 hàng đơn, 1,66 vạn cây/ha
CT2: 1,8m x 0,6m, trồng 2 hàng kép, 1,85 vạn cây/ha
CT3: 1,8m x 0,67m, trồng 2 hàng kép, 1,66 vạn cây/ha
Cũng như dòng CNS-1.41, các chỉ tiêu nghiên cứu trong thí nghiệm
khảo sát mật độ trồng chưa có sự sai khác giữa các công thức sau trồng một
năm. Về tỷ lệ sống đạt khá cao, từ 90,18% đến 91,34 %;
Chiều cao cây giữa các mật độ đạt 116,58 cm - 126,62 cm. Trong đó
CT1 (đ/c) đạt 126,62cm, CT2 (116,58cm), CT3 (121,42cm);
Chiều rộng tán của các mật độ trồng biến động từ 40,37cm đến
42,62cm, trong đó CT1(đ/c) đạt 40,37 cm, CT2 (42,62cm), MĐ3(41,64cm);
99
Chiều cao phân cành giữa các mật độ trồng biến động từ 2,74cm đến
2,91cm. Trong đó ở CT2 (2,74cm), CT3(2,83cm) có chiều cao phân cành
tương đương với CT1(đ/c) đạt 2,91cm;
Đường kính gốc giữa mật độ trồng từ 1,19 cm đến 1,32cm, trong đó
CT1(đ/c) đạt 1,19 cm, CT2 (1,32cm) và CT3 (1,27cm).
Cành cấp 1 đạt từ 19,58 cành đến 25,91 cành, trong đó CT1(đ/c) đạt
20,74 cành, CT2 (19,58 cành) và CT3 (19,72 cành). Cành cấp 2 giữa các mật
độ trồng đạt 23,60 cành đến 25,91 cành, CT1(đ/c) đạt 25,91 cành, CT2 (25,82
cành) và CT3 (23,60 cành). Cành cấp 1 và cành cấp 2 nhiều có nghĩa là có bộ
khung tán rộng, diện tích tán lớn là biểu hiện của giống chè có tiềm năng năng
suất cao.
Hình 3.8. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng của CT3 tuổi 1
Như vậy, ở thí nghiệm khảo sát mật độ trồng, chè là cây trồng lâu năm,
năm đầu tiên, cây chè còn nhỏ chưa giao tán, nên chưa chịu tác động của yếu
tố mật độ. Tuy nhiên khi cây chè lớn hơn có thể giữa các cây chè sẽ tác động
100
lẫn nhau, để tìm hiểu ảnh hưởng này, chúng tôi đã đánh giá các chỉ tiêu sinh
trưởng trong năm cây chè 3 tuổi, kết quả thí nghiệm mật độ sau trồng 3 năm ở
bảng 3.20 dưới đây.
Bảng 3.20: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng phát triển hai
dòng chè CNS – 1.41, CNS – 8.31 tuổi 3
(Sau trồng 3 năm tuổi)
Công thức dòng/giống chè Cao cây (cm) Rộng tán (cm) ĐK gốc (cm)
MĐ2
CNS – 1.41
MĐ3
MĐ1 (đ/c) 81,5a 82,8a 83,9a
143,5b 178,5a 182,0a Cành cấp 1 (cành) 15,3a 16,6a 17,3a Cành cấp 2 (cành) 22,4a 23,3a 25,9a 4,9a 4,9a 5,1a
CV% LSD0,05 MĐ1 (đ/c)
MĐ2
MĐ3
5,4 2,6 75,8b 77,3b 81,9a 10,8 32,5 134,6b 161,4a 168,7a 13,9 4,7 10,7b 15,5a 16,7a 7,2 3,6 18,1b 21,8a 24,3a 7,6 0,75 4,3a 4,1a 4,6a CNS – 8.31
CV% 6,0 12,4 9,1 8,3 8,6
1,8 25,2 2,9 4,0 0,75 LSD0,05
Ghi chú:
CT1 (đ/c): 1,5m x 0,4m, trồng 1 hàng đơn, 1,66 vạn cây/ha
CT2: 1,8m x 0,6m, trồng 2 hàng kép, 1,85 vạn cây/ha
CT3: 1,8m x 0,67m, trồng 2 hàng kép, 1,66 vạn cây/ha
Dòng CNS – 1.41
Các chỉ tiêu sinh trưởng của cây chè ở năm thứ 3 tương tự như nhau ở
cả 3 mức mật độ khác nhau. Chiều cao cây đạt 81,5cm đến 83,9cm. Trong đó
CT1 (đ/c) đạt 81,5cm, CT2 đạt 82,8 cm, CT3 đạt 83,9cm.
101
Chiều rộng tán biến động từ 163,5cm đến 182,0cm, trong đó ở CT1
(đ/c) đạt 163,5 cm, CT2 và CT3 có chiều rộng tán tương đương nhau, đạt
178,5cm đến 182,0 cm.
Đường kính gốc giữa các mật độ đạt từ 4,9cm – 5,1 cm. Trong đó CT1
và CT2 đạt 4,9 cm, CT3 đạt 5,1cm.
Hình 3.9. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng MĐ3 tuổi 3
Cành cấp 1 giữa các mật độ đạt 15,3 cành đến 17,3 cành, CT2 đạt 16,6
cành, CT3 đạt 17,3cm có cành cấp 1 lớn hơn CT1 (đ/c) đạt 15,3 cành.
Cành cấp 2 đạt 24,9 cành đến 25,9 cành, CT2 đạt 23,3 cành, CT3 đạt
25,9 cành, CT1 (đ/c) có số cành cấp 2 thấp nhất đạt 4,9 cành.
Dòng CNS – 8.31
Chiều cao cây giữa các mật độ trồng đạt 75,8cm đến 81,9cm. Trong đó
CT3 có nhiều cao cây lớn nhất đạt 81,9 cm, tiếp đến CT2 đạt 77,3cm có chiều
cao cây tương đương MĐ1 (đ/c) đạt 75,8cm có sự sai khác về mặt thống kê.
Chiều rộng tán biến động từ 134,6cm đến 168,7cm, CT1 (đ/c) đạt 134,6
cm, CT2 và CT3 có chiều rộng tán tương đương nhau, đạt từ 161,4cm đến
168,7 cm.
102
Đường kính gốc ở các mật độ trồng đạt từ 4,3cm đến 4,6cm.
Số cành cấp 1 giữa các mật độ biến động từ 10,7 cành đến 16,7 cành,
CT2 đạt 15,5 cành, CT3 đạt 16,7 cành, hai công thức mật độ CT2 và CT3 có
số cành cấp 1 lớn hơn ở CT1 (đ/c) đạt 10,7.
Cành cấp 2 đạt 18,1 cành đến 24,3 cành, CT2, CT3 có số cành cấp 2
tương đương nhau đạt từ 21,8 cành đến 24,3 cành nhiều hơn CT1 (đ/c) đạt
18,1 cành.
Mật độ trồng có ảnh hưởng như thế nào đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất hai dòng chè mới, khảo sát số liệu thu thập ở bảng sau:
Bảng 3.21. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất của hai dòng chè mới tuổi 3 ở Phú Hộ, 2018
Giống Mật Rộng Mật độ Khối Số lứa Năng NS
chè độ tán búp lượng hái suất lý thực
(búp/m2) (lứa/ trồng hữu búp thuyết thu
(g/búp) năm) (tấn/ha/ (tấn/ha/ hiệu
17 CNS-
năm) 13,75 b 18,53a năm) 9,53 b 13,68a 1.41 17
MĐ1 (đ/c) MĐ2
(m) 1,22 b 1,50 a 1,50 a 112,40 b 124,60 a 115,30 ab 1,08 a 1,05 a 1,05 a 17 17,15 a 12,64 a
MĐ3 CV%
5,93 4,08 1,63 5,92 8,43
LSD0,05
17 CNS-
1,94 13,33 b 15,46a 2,01 7,69 b 9,72a 8.31 17
MĐ1 (đ/c) MĐ2
0,16 1,20 b 1,32 a 1,30 a 9,53 95,66 b 102,5 a 98,86 ab 0,03 1,23 a 1,21 a 1,21 a 17 14,85 a 8,76 ab
MĐ3 CV%
3,25 3,27 1.75 5,11 10,20
LSD0,05 0,08 6,48 0,04 1,48 1,77
Ghi chú:
103
CT1 (đ/c): 1,5m x 0,4m, trồng 1 hàng đơn, 1,66 vạn cây/ha
CT2: 1,8m x 0,6m, trồng 2 hàng kép, 1,85 vạn cây/ha
CT3: 1,8m x 0,67m, trồng 2 hàng kép, 1,66 vạn cây/ha
Hình 3.10. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất 2 dòng chè
Trong kỹ thuật đốn chè, người ta thường đốn những cành trên mặt tán,
giữ lại cành bên là để giữ lại một số lá để cây chè có thể tự dưỡng trong thời
kỳ chưa phát triển bộ tán lá mới, mặt khác cũng để tăng hệ số lá của tán chè
làm cho cây chè khỏe hơn. Những đầu của cành bên ở rìa tán này thường
không ra búp hoặc có búp nhỏ, nhanh mù xòe, mà búp chủ yếu phát triển tập
trung ở phía trong, vùng có búp đó được gọi là mặt tán hữu hiệu, nghĩa là
chiều rộng tán mà ở đó có những búp chè cho thu hoạch. Đối với hai dòng chè
104
mới, năm thứ 3 đã giao tán hoàn toàn (dòng CNS-1.41) hoặc gần giao tán
(dòng CNS-8.31), thể hiện ở chiều rộng tán đạt từ 160 cm đến 180 cm (số liệu
ở các bảng 3.9; 3.12; 3.22). Tuy vậy, chiều rộng tán có búp (hữu hiệu) nhỏ
hơn, bảng số liệu 3.23 cho thấy, ở các mật độ trồng khác nhau có chiều rộng
tán hữu hiệu khác nhau. Theo đó, ở dòng CNS-1.41, hai công thức mật độ
trồng 1,66 vạn và 1,85 vạn cây/ ha nhưng trồng hàng kép thì chiều rộng tán
hữu hiệu cùng đạt 1,5m và lớn hơn công thức mật độ 1,66 vạn cây/ha nhưng
trồng hàng đơn;
Về mật độ búp, các mật độ trồng khác nhau thì khác nhau, ở mức tin
cậy 95% mật độ trồng 166 vạn và 1,85 vạn cây/ha nhưng trồng thành hàng
kép thì mật độ búp tương đương nhau, trong đó công thức trồng mật độ 1,85 cây/ha mật độ đạt 124,6 búp/m2 (mức a), trong khi trồng mật độ 1,66 vạn cây/ha, mật độ búp đạt 115,3 búp/ m2 (mức ab). Mật độ búp thấp nhất ở côn thức trồng mật độ 1,66 vạn cây/ha nhưng trồng hàng đơn là 112,4 búp/ m2
(mức b);
Khối lượng búp ở các mật độ trồng tương đương nhau, đạt 1,05 - 1,08
g/búp. Năm 2018, chè thí nghiệm hái san trật được 17 lứa;
Các yếu tố cấu thành năng suất khác nhau nên năng suất ở các công
thức mật độ và phương thức trồng khác nhau thì khác nhau, theo đó trồng với
mật độ 1,66 vạn và 1,85 vạn cây/ha, trồng hàng kép, cho năng suất lý thuyết
tương đương nhau đạt 18,53 tấn và 17,15 tấn búp tươi/ ha/năm; công thức mật
độ 1,66 vạn cây/ha trồng hàng đơn, năng suất thấp nhất, đạt 13,75 tấn/ha/năm.
Bên cạnh tính toán năng suất dựa trên các yếu tố cấu thành năng suất, búp chè
cũng được thu hái để đánh giá năng suất thực thu, kết quả trồng hàng kép
năng suất tương đương nhau, đạt 13,68 tấn và 12,64 tấn/ha/năm và cao hơn
trồng hàng đơn (đạt 9,53 tấn/ha/năm).
105
Đối với dòng chè CNS-8.31, kết quả thu được ở các công thức mật độ
và phương thức trồng tương tự như kết quả đạt được của dòng CNS-1.41.
Diện tích tán hữu hiệu ở hai công thức mật độ 1,66 vạn và 1,85 vạn cây/ha và
trồng hàng kép tương đương nhau, đạt từ 1,30 - 1,32 m, cao hơn trồng 1,66
vạn cây/ha nhưng trồng hàng đơn;
Về mật độ búp, hai công thức mật độ 1,66 vạn và 1,85 vạn cây/ha và
trồng hàng kép thì tương đương nhau, trong đó trồng 1,85 vạn cây/ha cao nhất (102,5 búp/m2, mức a), trồng 1,66 vạn cây/ha có mật độ búp 98,86 bụp/m2
(mức ab). Công thức trồng mật độ 1,66 vạn cây/ha hàng đơn, mật độ búp thấp nhất, đạt 95,66 búp/m2 (mức b);
Khối lượng búp 1 tôm 3 lá ở các mật độ và phương thức trồng khác
nhau trong thí nghiệm tương đương nhau, từ 1,21 - 1,23g/ búp;
Năng suất lý thuyết của dòng CNS-8.31 ở tuổi 3 ở các mật độ và
phương thức trồng khác nhau thì khác nhau. Theo đó, hai công thức trồng mật
độ 1,66 và 1,85 vạn cây/ha, trồng hàng kép cho năng suất tương nhau 15,46
và 14,85 tấn/ha/năm, trong khi trồng mật độ 1,66 vạn cây/ha, hàng đơn năng
suất thấp nhất, đạt 13,33 tấn/ha. Năng suất thực thu của dòng CNS-8.31 tuổi 3
ở công thức mật độ trồng 1,85 vạn cây/ha, trồng hàng kép cao nhất, đạt 9,72
tấn/ha/năm; công thức 1,66 vạn cây/ha, trồng hàng kép đạt 8,76 tấn búp/ha/
năm; trồng 1,66 vạn cây/ha, hàng đơn cho năng suất thấp nhất (7,69 tấn/ha).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của một số tác
giả cho rằng các yếu tố cấu thành năng suất như khối lượng búp, số lượng búp
trên cây hoặc trên một đơn vị diện tích đóng vai trò quan trọng đối với năng
suất của cây chè; trồng chè với mật độ dầy sớm cho thu hoạch, đạt năng suất
cao ngay ở giai đoạn đầu của thời kỳ kinh doanh. Tanton, 1981a (dẫn theo
Willson K.C. & M.N. Clifford, 1992) cho biết kích thước của búp chè chiếm
11% năng suất còn số lượng búp chiếm 89% năng suất chè, mật độ quần thể
106
búp trên mặt tán chè dầy cùng với búp chè đồng đều cho năng suất cao [119].
Trồng chè với mật độ dầy hơn (1,85 vạn cây/ha so với 1,66 vạn cây/ha) đồng
nghĩa với tăng số lượng búp/ cây (và trên một đơn vị diện tích) do vậy năng
suất chè cao hơn. Tuy nhiên điều này chỉ đúng khi vườn chè chưa giao tán,
khi cây chè giao tán, thành thục, sản lượng sẽ cao nhất và ổn định. Để đạt
năng suất cao nhất và ổn định, tùy thuộc giống chè và điều kiện chăm sóc, đối
với các giống chè trồng bằng cành hiện nay mất khoảng từ 8 đến trên 10 năm.
Giai đoạn chưa giao tán kéo dài sẽ gặp nhiều bất lợi do sự phát triển của cỏ
dại, xói mòn đất … [119]. Do vậy, với mật độ trồng của thí nghiệm, vườn chè
sớm khép tán, cho năng suất cao, giảm công làm cỏ, hạn chế xói mòn, rửa trôi
đất.
Đối với phương thức trồng hàng đơn và hàng kép (hàng đơn: trồng 1
hàng, các hàng cách nhau 1,5m; hàng kép: trồng 2 hàng liền nhau 0,4m, giữa
các hàng lớn cách nhau 1,8m): mặc dù có cùng số lượng cây trên một đơn vị
diện tích nhưng ở hàng đơn hai bên tán cây, các cành được giữ lại để nuôi cây
và mục đích nhanh khép tán, mà các cành bên không được đốn tỉa sẽ ức chế
các mầm nách (Willson K.C. & M.N. Clifford, 1992) [119], do vậy bề mặt
tán hữu hiệu luôn nhỏ hơn tán thực tế. Trong khi đó, trồng hàng kép, chỉ phía
ngoài của một hàng để phát triển cho mục đích khép tán, mặt phía trong các
cành được đốn hái thường xuyên nên các mầm ngủ được kích thích phát triển
và kết quả là mật độ búp nhiều hơn, năng suất cao hơn và nương chè nhanh
khép tán hơn.
Hiện nay, trong quá trình canh tác, người trồng chè thường đốn đi phần
rìa tán, mục đích để loại bỏ sự ức chế phát triển búp ở rìa tán, tạo cho búp
phát triển đồng đều trên mặt hái và thuận tiện chi đi lại chăm sóc. Phương
thức trồng hàng kép lợi dụng được ưu thế sinh trưởng của chồi từ những cành
107
khỏe của cây chè, phương thức trồng này phổ biến ở một số nước trong đó có
Nhật Bản [121].
Hình 3.11 . Thí nghiệm mật độ trồng
108
3.2.2. Nghiên cứu kỹ thuật đốn tạo hình hai dòng chè CNS-1.41, CNS-
8.31 giai đoạn KTCB
Đốn tạo hình cho chè con là một biện pháp kỹ thuật quan trọng, đó là cắt
đi thân chính và các cành bên để làm mất đi ưu thế sinh trưởng đỉnh và kích
thích các mầm ngủ phát triển (Willson & Clifford, 1992), giúp cây chè sớm
có bộ khung tán lớn nhất để đạt năng suất cao và tăng cường sức khỏe cho cây
chè. Một năm sau trồng, tất cả các cây chè con của hai dòng chè mới đều đạt
độ cao trên 1m và đường kính gốc trên 1 cm đủ tiêu chuẩn đốn tạo hình lần
đầu. Kết quả được trình bày ở bảng 3.22.
Bảng 3.22. Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng của dòng chè
CNS-1.41, CNS – 8.31 tuổi 2 tại Phú Thọ
Cao Rộng ĐK Mật độ Khối Năng
Công thức cây gốc tán lượng suất
(cm) (cm)
Đ1
Đ2 CNS – Đ3 (đ/c) búp (búp/m2) (cm) 68,2a 135,5 a 3,25a 129,60a 68,7a 127,0a 3,07a 119,12a 75,6a 120,3b 2,48b 118,05a búp (g) 1,20a 1,28a 1,17a (tấn/ha) 9,82a 9,24a 8,14b 1.41 CV% 9,40 6,91 8,52 11,6 4,7 6,96
15,3 LSD0,05
Đ1
Đ2 CNS – Đ3 (đ/c) 14,40 13,15 0,49 62,2a 116,3a 3,52a 121,09a 71,2a 110,0a 2,95a 109,57b 97,81c 73,4a 103,6a 2,14b 0,3 1,27b 1,32a 1,33a 0,90 7,64a 6,82b 5,42c 8.31 CV% 10,4 8,4 0,78 9,4 6,4 9,3
16,02 17,40 0,92 11,2 0,2 1,32 LSD0,05
Ghi chú: Đ1 – Đốn thân chính 15 cm x cành bên 35 cm Đ2 – Đốn thân chính 20 cm x cành bên 35 cm Đ3 (đ/c) – Đốn thân chính 25 cm x cành bên 35 cm
109
Hình 3.12 . Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng dòng
CNS – 1.41 tuổi 2
Kết quả ở bảng 3.22 và minh họa bằng biểu đồ hình 3.12 đối với dòng
chè CNS-1.41, một năm sau lần đốn đầu tiên cho thấy các chỉ tiêu sinh trưởng
có sự thay đổi. Giữa các công thức đốn, chỉ tiêu chiều cao cây không có sự sai
khác, chiều cao đến mặt tán từ 68,2 cm đến 75,6 cm.
Chiều rộng tán giữa các công thức có sai khác, các ông thức đốn thân
chính 15cm và 20cm, tán rộng 135,5 cm và 127 cm, rộng hơn công thức đối
chứng đốn thân chính cao 20 cm, chiều rộng tán đạt 120,3cm.
Đường kính gốc của các công thức đốn đạt từ 2,48 – 3,25 cm, trong đó
ở Đ1và Đ2 có đường kính gốc tương đương nhau đạt 3,07cm đến 3,25cm,
thấp nhất là Đ3 (đ/c) đạt 2,48 cm.
Mật độ búp/m2 của các công thức đốn tương đương nhau từ (118,05 – 129,60 búp/m2). Trong đó ở Đ1 có mật độ búp đạt (129,60 búp/m2), tiếp đến
110
là Đ2 (119,12 búp/m2) có mật độ búp tương đương Đ3 (đ/c) đạt (118,05 búp/m2).
Về khối lượng búp của các công thức đạt (1,17 đến 1,28g), ở Đ1 và Đ2
có khối lượng búp đạt trên 1,2g tương đương Đ3 (đ/c) khối lượng búp chỉ đạt
1,17g/búp.
Năng suất giữa các công thức biến động từ 8,14 tấn/ha đến 9,82 tấn/ha,
trong đó Đ1 có năng suất đạt 9,82 tấn/ha, Đ2 (9,24 tấn/ha) có năng suất cao
hơn Đ3 đối chứng đạt (8,14 tấn/ha) có sự sai khác.
Hình 3.13. Ảnh hưởng của kỹ thuật đốn đến sinh trưởng dòng
CNS – 8.31 tuổi 2
Đối với dòng chè CNS-8.31, các chỉ tiêu sinh trưởng cũng có sự biến
đổi như được thể hiện ở bảng số liệu 3.24 và biểu đồ hình 3.13. Theo đó,
chiều cao cây giữa các công thức đốn không có sự sai khác, đạt 62,2 cm đến
73,4 cm, Đ3 (đ/c) đạt 73,4 cm có chiều cao cây tương đương với Đ2 đạt 71,2
cm và Đ1 đạt 62,2cm.
111
Chiều rộng tán giữa các công thức đốn đạt từ 103,6 cm đến 116,3 cm,
Đ1 đạt 116,3 cm và Đ2 đạt 110,0cm có chiều rộng tán tương đương Đ3 (đ/c)
đạt 103,6cm không có sự sai khác.
Đường kính gốc của các công thức đốn đạt từ 2,14 cm đến 3,52 cm,
trong đó ở Đ1và Đ2 có đường kính gốc tương đương nhau đạt 2,95 cm đến
3,52cm, có đường kính gốc cao hơn Đ3 (đ/c) đạt 2,14 cm.
Mật độ búp/m2 của các công thức đốn có sự sai khác biến động từ (97,81 búp/m2 đến 121,09 búp/m2). Trong đó ở Đ1 có mật độ búp cao nhất đạt (121,09 búp/m2), tiếp đến là Đ2 (109,57 búp/m2) mật độ búp ít nhất là Đ3 (đ/c) đạt (97,81 búp/m2).
Về khối lượng búp của các công thức đốn đạt (1,27 đến 1,33g), ở Đ2 và
Đ3 (đ/c) có khối lượng búp đạt 1,32g đến 1,33g có khối lượng búp cao hơn
Đ1 1,27g/búp.
Năng suất giữa các công thức đốn khác nhau thì khác nhau, biến động
từ 5,42 tấn/ha đến 7,64 tấn/ha, trong đó công thức đốn thân chính 15 cm có
năng suất cao nhất đạt 7,64 tấn/ha, tiếp đến công thức Đ2 đốn thân chính cao
20 cm (6,82 tấn/ha), công thức đối chứng Đ3 đốn thân chính cao 25 cm có
năng suất thấp nhất đạt (5,42 tấn/ha).
Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với kết luận của L.V. Đức, Đ.T.
Trâm, N.V. Tạo (2004) khi đốn chè kiến thiết cơ bản giống LDP1 và LDP2
[7]. Có kết quả như vậy, theo chúng tôi là do đốn thân chính thấp đã kích
thích những mầm bất định ở dưới thấp phát triển mạnh hơn và nhiều hơn, do
vậy tán rộng hơn dẫn đến nhiều búp hơn và năng suất cao hơn.
112
Hình 3.14. Chè 1 năm tuổi đủ tiêu chuẩn đốn
A - Cây chè con 1 năm tuổi, có đường kính gốc ≥ 1cm đủ tiêu chuẩn
đốn tạo hình lần thứ nhất;
B - Đốn thân chính ở độ cao 15-20 cm so mặt đất, cành bên cắt ở độ
cao 25 cm so mặt đất.
113
Hình 3.15. Cây chè phát triển cành, tạo tán mới sau đốn
3.2.3. Nghiên cứu kỹ thuật hái đối với hai dòng chè CNS-1.41, CNS-8.31
Sản phẩm thương mại của cây chè sản xuất từ những búp non được thu
hái ở các khoảng thời gian khác nhau. Hái chè là hái đi phần đỉnh non, phá vỡ
ức chế sinh trưởng, tạo thuận lợi cho các mầm nách phát triển thành nhiều
búp mới và tăng năng suất. Tuy nhiên, mức độ non, già của búp thu hoạch có
114
ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng chè. Xác định được kỹ thuật hái đối với
hai dòng chè mới đã được thí nghiệm, kết quả ở bảng 3.23.
Bảng 3.23: Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS - 1.41,
CNS – 8.31 tuổi 3 tại Phú Thọ
Năng suất Cao cây Rộng tán KL búp Dòng Công thực thu (cm) (cm) (g/búp) Mật độ búp (búp/m2) thức
H1
H2
74,58 a 180,00a 75,72a 176,44a 78,46a 178,37a CNS – 1.41 H3 (đ/c) (tấn/ha) 12,30 a 10,80 b 10,26b 1,05a 1,14a 0,94b 127,13a 119,48a 123,35a
CV% 10,28 11,81 4,6 5,4 13,9
LSD0,05
H1
H2
1,28 9,25a 8,28 b 7,92b 0,16 1,15a 1,14a 1,04b 14,8 101,30a 102,50a 104,79a 7,70 68,74a 69,10a H3 (đ/c) 70,47a 9,30 153,5 a 147,7 a 151,6 a CNS – 8.31
6,12 3,8 7,2 CV% 8,60 6,72
0,90 0,1 17,0 5,0 8,60 LSD0,05
Ghi chú:
H1 – Hái cách vết đốn 10 cm
H2 – Hái cách vết đốn 20 cm
H3 (đ/c) – Hái theo quy trình san trật
Dòng CNS – 1.41:
Dẫn liệu ở bảng 3.23 cho thấy chiều cao cây của dòng CNS-1.41 ở các
công thức thí nghiệm hái khác nhau không có sự sai khác, chiều cao đến mặt
tán dao động từ 74,58 đến 78,46cm. Trong đó công thức hái cách vết đốn
115
10cm (H1) cao 74,58 cm; hái cách vết đốn 20 cm (H2) cao 75,7cm; hái san
trật (H3) có chiều cao cây 78,46cm.
Hình 3.16. Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS – 1.41
Chiều rộng tán ở các công thức hái cũng tương đương nhau, dao động
từ 176,44cm - 180cm.
Mật độ búp ở các công thức hái không khác nhau ở mức tin cậy 95%,
dao động từ 119,48 búp/m2 đến 127, 13 búp/m2.
Khối lượng búp của các công thức hái khác nhau có sự khác nhau. Hai
công thức hái chừa lại 10 cm và 20cm có khối lượng búp tương đương nhau
(1,05 và 1,14g/ búp) và lớn hơn khối lượng búp ở công thức hái san trật (0,94
g/búp).
116
Năng suất thực thu của các công thức thí nghiệm hái có sự khác nhau.
Năng suất biến động từ 10,26 tấn/ha đến 12,30 tấn búp tươi/ha, trong đó công
thức hái ở độ cao trên 10cm (H1), năng suất cao nhất đạt 12,30 tấn búp
tươi/ha.
Dòng CNS – 8.31:
Hình 3.17. Ảnh hưởng của kỹ thuật hái đến sinh trưởng dòng CNS – 8.31
Tương tự như dòng CNS-1.41, các chỉ tiêu sinh trưởng giữa các công
thức hái của dòng CNS-8.31 ít biến động. Các chỉ tiêu như chiều cao cây,
chiều rộng tán, mật độ búp giữa các công thức tương tự nhau, không sai khác
ở mức tin cậy 95%. Khối lượng búp công thức hái trên vết đốn 10 cm và 20
cm tương đương nhau (1,14 và 1,15 g/búp) và lớn hơn khối lượng búp khi hái
san trật (công thức H3: 1,04 g/búp).
Năng suất thực thu của các công thức hái thí nghiệm hái khác nhau, dao
động từ 7,92 tấn/ha đến 9,25 tấn búp tươi/ha, trong đó công thức hái trên vết
117
đốn 10 cm (H1) có năng suất đạt 9,25 tấn búp tươi/ha, cao hơn hai công thức
hái trên vết đốn 20 cm và hái san trật.
Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Seyd B.S. et al
(2014) khi khảo sát chiều cao hái búp bằng máy đã cho rằng hái ở độ cao thấp
sẽ cho năng suất búp cao hơn [106].
3.2.4. Nghiên cứu liều lượng phân bón N, P, K cho hai dòng chè CNS –
1.41 và CNS – 8.31
Phân bón có vai trò quan trọng trong đời sống cây chè, nó cung cấp các
yếu tố cấu tạo và phát triển búp lá chè cho thu hoạch. Cây chè con đòi hỏi
phát triển nhanh rễ, thân, cành lá. Rễ sớm phát triển để xuống tận sâu hút
được nước, chống được hạn, cành lá phát triển để tạo khung tán. Bón phân là
một phần quan trọng trong sản xuất thâm canh cây chè. Áp dụng phân bón tối
ưu kết hợp với các biện pháp trồng trọt hợp lý sẽ cho năng suất chè cao. Cây
chè thường được trồng độc canh trong một giai đoạn dài, việc bón thêm phân
bón không đủ, nguồn dinh dưỡng sẵn có trong đất sẽ nhanh chóng bị cạn kiệt
do việc thu hái chè thường xuyên đã lấy đi một lượng lớn dinh dưỡng trong
đất, dẫn đến thiếu hụt khoáng chất trong cây chè làm cho năng suất thấp và hệ
sinh thái đất bị suy thoái. Do vậy, bón phân khoáng cho cây chè hợp lý vừa là
bổ sung đầy đủ dinh dưỡng đảm bảo cho cây chè sinh trưởng tốt, cho năng
suất cao vừa có ý nghĩa bảo vệ sức khỏe cho đất trồng chè. Nhằm tìm hiểu
lượng phân khoáng hợp lý cần bón đáp ứng yêu cầu dinh dưỡng đối với các
nguyên tố chính N, P, K của hai dòng chè mới, chúng tôi khảo sát liều lượng
phân bón N, P, K với 4 mức bón tiên tiến khác nhau trên cơ sở quy trình tiêu
chuẩn 10TCN 446:2001 [28]. Kết quả được trình bày ở bảng 3.24.
118
Bảng 3.24: Ảnh hưởng của lượng phân bón đến sinh trưởng và năng suất
cho dòng chè CNS-1.41 tuổi 3 tại Phú Thọ, 2018
KL búp 1 Số lứa Dòng Rộng tán Năng suất Công thức tôm 3 lá hái chè Mật độ búp (búp/m2) (tấn/ha) (cm) (lứa)
17 BP1(đ/c)
- BP2
- 171,8a 176,2a 178,4a BP3 CNS –
1.41 116,34b 125,30a 125,15a 126,02a - (g/búp) 1,09a 1,13a 1,18a 1,21a 9,68c 11,34b 12,76b 14,64a 180,0 BP4
6,2 10,2 6,0 8,3 CV (%)
LSD 0,05
17 BP1(đ/c)
17 BP2
17 BP3 CNS –
8.31 7,4 106,15c 109,31bc 114,72ab 120,0a 17 0,2 0,98a 1,18a 1,19a 1,24a 1,4 7,32c 7,86c 9,66b 11,86a 29,3 146,7a 147,5a 159,2a 163,4a BP4
8,1 10,7 7,5 7,2 CV (%)
6,9 0,2 1,4 22,1 LSD 0,05
Ghi chú:
BP1. Bón N:P:K (80 kg N + 40 kg P2O5 + 60 kg K2O /ha) (Đ/c); BP2. Bón N:P:K (88 kg N + 44 kg P2O5 + 66 kg K2O /ha), tăng 10%; BP3. Bón N:P:K (96 kg N + 48 kg P2O5 + 72 kg K2O /ha), tăng 20%; BP4. Bón N:P:K (112 kg N + 56 kg P2O5 + 84 kg K2O /ha), tăng 40%.
Số liệu tại bảng 3.24 cho thấy, đối với dòng chè CNS – 1.41 có các chỉ
tiêu chiều rộng tán và khối lượng búp tương tự nhau trong phạm vi các liều
lượng phân bón khảo sát. Theo đó, chè tuổi 3 có chiều rộng tán dao động từ
171,8 – 180,0 cm; khối lượng búp 1 tôm 3 lá dao động từ 1,09 - 1,21 g/búp.
119
Mật độ búp ở các liều lượng phân bón có sự khác nhau. Các công thức
bón tăng liều lượng phân bón N, P, K tăng từ 10, 20, 40% có mật độ búp tương đương nhau ở mức tin cậy 95%, đạt từ 125,15 - 126,02 búp/m2. Mật độ
búp ở các công thức này cao hơn ở công thức đối chứng (bón theo quy trình), đạt 116,34 búp/m2.
Lượng phân bón khác nhau đã làm cho năng suất thực thu đạt được của
dòng chè CNS-1.41 khác nhau. Công thức bón tăng lượng phân N, P, K lên
40%, năng suất cao nhất đạt 14,64 tấn búp tươi/ha/năm (tăng 51,23% so đối
chứng); các công thức bón tăng 10%, 20%, năng suất dòng chè CNS-1.41
tương đương nhau, đạt 11,34 và 12,76 tấn búp tươi/ ha/ năm; công thức bón
phân theo quy trình (N:P:K = 80:40:60 kg), năng suất thấp nhất, đạt 9,68
tấn/ha.
Đối với dòng chè CNS-8.31, thí nghiệm về liều lượng bón phân khoáng
đa lượng đạt được kết quả tương tự như đối với dòng CNS-1.41. Điều đó có
nghĩa là các chỉ tiêu chiều rộng tán và khối lượng búp ở các liều lượng phân
bón khác nhau thì tương đương nhau. Theo đó, chiều rộng tán đạt từ 146,7 - 163,4 búp/m2; khối lượng búp đạt từ 0,98 - 1,24 g/búp.
Mật độ búp là chỉ tiêu cấu thành năng suất quan trọng có sự khác nhau
ở các liều lượng N, P, K khác nhau. Công thức liều lượng bón tăng 20% và
40% có mật độ búp tương đương nhau và là cao nhất, đạt 114,72 búp/m2 (mức ab) và 120 búp/m2 (mức a); tiếp theo là công thức bón tăng 10%, mật độ
búp đạt 109,31 búp/m2 (mức bc); công thức bón theo quy trình, mật độ búp
thấp nhất, đạt 106,15 búp/m2 (mức c).
Năng suất thực thu ở các công thức thí nghiệm liều lượng phân bón N,
P, K có sự khác nhau ở mức tin cậy 95%. Theo đó, năng suất cao nhất ở công
thức bón tăng 40%, đạt 11,86 tấn/ha/năm (tăng 50,89% so đối chứng); tiếp
theo công thức bón tăng 20%, năng suất đạt 9,66 tấn/ha/năm; công thức bón
120
tăng 10% và công thức đối chứng có năng suất tương đương nhau, đạt lần
lượt là 7,86 tấn/ha/năm và 7,32 tấn/ha/năm.
Hình 3.18. Ảnh hưởng liều lượng phân bón đến năng suất hai dòng chè
CNS – 1.41, CNS – 8.31 tuổi 3 tại Phú Hộ
Như vậy, trong phạm vi các liều lượng phân bón khảo sát, ở cả hai
dòng chè thấy các chỉ tiêu chiều rộng tán và khối lượng búp tương tự nhau,
tuy nhiên mật độ búp và năng suất búp tươi thu được thì khác nhau. Bón tăng
lượng N, P, K làm năng suất chè tăng. Phản ứng với liều lượng bón phân của
hai dòng chè không giống nhau: với dòng CNS-1.41 khi tăng lượng bón lên
10%, năng suất tăng rõ rệt, như từ 9,68 tấn/ha/năm (mức c) ở công thức đối
chứng lên 11,34 tấn/ha/năm (mức b) ở công thức tăng mức bón 10%. Với
dòng CNS-8.31 khi tăng lượng phân bón lên 10%, năng suất sai khác không
có ý nghĩa (ở mức xác suất 0,05) so với đối chứng, khi tăng lượng bón lên
20% thì năng suất tăng lên rõ rệt. Ở cả hai dòng chè, năng suất cao nhất ở
lượng bón N, P, K tăng 40% (dòng CNS-141 đạt 14,64 tấn/ha, dòng CNS-831
đạt 11,86 tấn/ha). Khi tăng liều lượng phân bón N, P, K lên 40% so với đối
chứng mà năng suất chè vẫn tiếp tục tăng, chúng tôi cho rằng đó là do hai
121
dòng chè CNS-1.41 và CNS-831 sinh trưởng mạnh, năng suất cao nên có nhu
cầu về dinh dưỡng cao.
Kết quả này cũng phù hợp với nhận xét của Jie Li và Agron (2005) khi
nghiên cứu về liều lượng phân bón cho giống chè vô tính Long Tỉnh 43 ở
Trung Quốc thấy tăng lượng N với các bước 0, 150, 300, 600, 900, 1600 kg
N/ha, năng suất năm thứ 2 sau bón tăng tương ứng 5,5%, 10,4%, 10,3%,
19,8% và 22,3%. Tuy nhiên, tăng N lên cao sẽ không hiệu quả do chi phí cao
và lượng N dư thừa sẽ làm ô nhiễm đất [77].
Ở điều kiện bình thường, cây chè lấy tất cả dinh dưỡng cần thiết từ đất
để sinh trưởng phát triển, thu hái búp chè là đã lấy đi dinh dưỡng có từ đất
hoặc bón thêm trong quá trình canh tác. Willson & Clifford, 1992 [119] cho
biết các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, để sản xuất 1 tấn chè khô (tương đương 4 -
5 tấn chè búp tươi) là đã lấy đi 91 kg N; 20,1 kg P2O5 và 47,7 kg K2O. Như
vậy, nếu năng suất đạt 8-10 tấn/ha sẽ lấy đi 182 kg N; 40,2 kg P2O5 và 55,4
kg K2O. Trên cơ sở đó, các tác giả khuyến cáo khi bón phân khoáng, cần bón
lượng nhiều hơn lượng mất đi vì khi bón vào đất sẽ có một lượng bị thất thoát
do tranh chấp của cỏ dại, bị bay hơi hoặc bị rửa trôi sau khi bón.
Đối với hai dòng chè nghiên cứu, năng suất trong thí nghiệm bón phân
đạt từ 9,68 - 14,64 tấn/ha (dòng CNS-1.41) và 7,32 - 11,86 tấn/ha (dòng
CNS-8.31), áp dụng mức bón mà thí nghiệm đặt ra chưa đủ bù đắp lượng dinh
dưỡng đã lấy đi. Để đạt được năng suất như kết quả của thí nghiệm, cây chè
phải sử dụng cả nguồn dinh dưỡng sẵn có trong đất. Đây có thể là lý do mà
tăng lượng phân khoáng lên 40%, năng suất hai dòng chè mới còn tiếp tục
tăng.
Việc áp dụng lượng phân khoáng N, P, K cao hơn quy trình sẽ làm
tăng chi phí vật tư và công lao động, để làm rõ áp dụng kết quả thí nghiệm có
122
hiệu quả kinh tế như thế nào, chúng tôi đã tính các chi phí cần thiết để sản
xuất búp chè, được kết quả ở bảng sau.
Bảng 3.25. Hiệu quả kinh tế của thí nghiệm bón phân đối với các dòng
chè CNS-141 và CNS-831 tuổi 3 tại Phú Hộ, 2018
(Tính cho 01 ha) Đơn vị tính: 1.000 đồng
Dòng chè CNS-1.41 Dòng chè CNS-8.31
BP4 BP1 BP4 BP1 TT Hạng mục (bón tăng (đối (bón tăng (đối
40%) chứng) 40%) chứng)
A Tổng chi (A) =I+II 57.886 41.763 49.761 34.160
I Công lao động 48.838 34.253 40.753 26.690
1 Bón phân 3.019 2.160 3.019 .160
2 Phun thuốc BVTV 3.240 3.240 3.240 3.240
3 Thu hoạch búp 42.579 28.853 34.494 21.290
II Vật tư 9.008 7.470 9.008 7.470
1 Thuốc BVTV 3.640 3.640 3.640 3.640
2 Phân bón 5.408 3.870 5.408 3.870
- Đạm 2.440 1.750 2.440 1.750
- Lân 1.120 800 1.120 800
- Kali 1.848 1.320 1.848 1.320
B Tổng thu (B) 146.400 96.800 118.600 73.200
1 Sản lượng chè tươi (kg) 14.640 9.680 11.860 7.320
C Lợi nhuận (B-A) 88.514 55.037 68.839 39.040
Lợi nhuận tăng (%) 160,78 100 176,32 100
Ghi chú: chè búp tươi giá 10.000đ/kg
123
Số liệu trong bảng so sánh chi phí vật tư và lao động của 2 công thức
thí nghiệm: i) công thức BP1 áp dụng lượng phân bón cho chè 3 tuổi theo
10CTN 446:2001 [28] và ii) công thức BP4 áp dụng lượng phân khoáng tăng
40%. Đối với dòng CNS-1.41, tổng chi phí cho một ha chè 3 tuổi là
57.866.000đ ở công thức BP4, cao hơn tổng chi phí ở công thức BP1
41.763.000đ. Những chi phí này bao gồm phân bón, thuốc trừ sâu, công chăm
sóc và thu hoạch. Tổng thu do bán búp chè ở công thức BP4 đạt 146.400.000đ
so với 96.800.000đ ở công thức BP1; lợi nhuận ở BP4 đạt 88.514.000đ, cao
hơn đối chứng BP1 60,78% (lợi nhuận ở BP1 đạt 55.037.000đ).
Đối với dòng CNS-8.31, tổng chi phí ở BP4 là 49.761.000 đ/ha, ở BP1
là 34.160.000 đ; tổng thu từ búp chè ở BP4 là 118.600.000đ/ha, ở BP1 là
73.200.000 đ/ha; lợi nhuận của BP4 đạt 68.839.000 đ/ha, của BP1 đạt
39.040.000 đ/ha; lợi nhuận ở BP4 cao hơn BP1 76,32%.
Như vậy, đầu tư phân bón cao hơn 40% làm cho chi phí vật tư và lao
động tăng, tuy nhiên đầu tư phân bón làm cho năng suất chè tăng và hiệu quả
kinh tế cao hơn.
3.2.5. Nghiên cứu nhân giống vô tính hai dòng chè CNS- 1.41, CNS – 8.31.
3.2.5.1. Nuôi hom ở vườn cây mẹ và sản lượng hom các dòng chè nghiên cứu.
Đối với cây chè, nhân giống vô tính bằng giâm cành có vai trò quan
trọng trong sản xuất. Một giống chè có hệ số nhân giống cao, khả năng nhân
giống vô tính tốt sẽ đảm bảo sự thành công khi phát triển mở rộng trong sản
xuất. Để có nhiều hom giống, cần nuôi hom trên vườn cây mẹ, trước khi cắt
hom 10 ngày tiến hành bấm ngọn nhằm kích thích cho mầm nách sẵn sàng
hoạt động và để các hom có độ chín sinh lý đồng đều. Đối với nuôi hom chè ở
vùng trung du Bắc bộ thường chọn lứa búp chính trong tháng 8, nuôi hom đến
tháng 12 sẽ thu hoạch. Khi những cành chè chính có 5 – 8 lá thật, tiến hành
hái tỉa những búp sinh trưởng yếu, ở mép tán, cành tăm hương, để lại nuôi
124
hom những cành chè sinh trưởng khỏe, phân bố đều trên mặt tán. Khi cành
chè giống đạt 90 - 100 ngày sẽ tiến hành thu hoạch để lấy hom.
Bảng 3.26. Sản lượng hom giống các dòng chè CNS-141 và CNS-831
tuổi 3 tại Phú Hộ
Tỷ lệ các loại hom (%)
Giống chè
CNS-1.41
CNS-8.31
Số cành hom/ cây 28,26 a 26,17 b 25,76 b Số hom/ cành 7,80a 6,72b 6,50b Sản lượng hom (triệu/ha) 3,66a 2,92b 2,78b Loại A 67,8a 66,5b 63,4c Loại B 32,2b 33,5b 36,6a LDP1(đ/c)
CV (%) 3,44 9,70 7,70 8,40 10,70
1,84 0,80 0,50 0,70 2,10 LSD0.05
Kết quả bảng 3.26 cho thấy: Sau khi tỉa giữ lại những cành đủ tiêu
chuẩn làm hom giống, số cành mang hom giống ở các giống chè nghiên cứu
có sự khác nhau. Dòng chè CNS-1.41 có 28,6 cành mang hom trên một cây là
nhiều nhất; dòng CNS-8.31 và giống LDP1 có số cành mang hom tương
đương nhau, đạt 26,17 và 25,76 cành/ cây.
Về số lượng hom trên một cành, phản ánh năng suất hom của giống
chè, cành chè để giống có nhiều hom thì năng suất hom cao. Dòng CNS –
1.41 đạt 7,8 hom/cành, nhiều hơn dòng CNS – 8.31 và giống LDP1 (đạt 7,72
và 6,5 hom/cành). Sản lượng hom cao nhất là dòng CNS – 1.41 đạt 3,66 triệu
hom/ha; dòng CNS – 8.31 và giống đối chứng LDP1 có sản lượng hom tương
đương nhau (đạt 2,92 và 2,78 triệu hom/ha).
125
A
B
Hình 3.19. Hom chè giống
A. Vườn nuôi hom B. Hom của các dòng/ giống chè
Cành giống tốt là những cành chè có lá thật đồng đều, màu xanh, độ dài
lóng đạt mức độ trung bình, đường kính thân mập, mầm nách phát triển không
126
dài quá 3 cm, tốt nhất mầm nách chỉ hình thành ở nách lá thứ 1 – 3 với độ dài
mầm ≤ 1 cm. Kết quả được trình bày tại bảng 3.27.
Bảng 3.27. Sinh trưởng của cành chè giống của 2 dòng chè CNS – 1.41 và
CNS – 8.31 tuổi 3 tại Phú Hộ
Chỉ tiêu
Số lá thật (lá/cành)
Công thức Chiều dài cành (cm) Đường kính thân (mm)
4,46a CNS-1.41
4,23a CNS-8.31
17,0a 15,0b 12,0c 81,0a 78,0a 66,0b 3,65b Mức độ hoá nâu thân cành chè (cm) 17,4b 15,8b 22,5a Số mầm nách (mầm) 6,43b 5,27c 9,52a LDP1(đ/c)
CV (%) 4,25 5,6 7,9 6.3 6,85
1,4 4,4 0,7 2.6 1,09 LSD0.05
Kết quả bảng 3.27 cho thấy: Cành chè khi thu hoạch ở dòng CNS –
1.41, dòng CNS – 8.31 có số lá trên cành lớn nhất đạt từ 15 – 17 lá/cành, cao
hơn giống đối chứng LDP1 với 12 lá/cành. Chiều dài cành lớn nhất là dòng
CNS- 1.41, CNS – 8.31 đạt từ 78 – 81 cm cao hơn giống đối chứng LDP1
(66cm). Đường kính cành không có sự sai khác giữa các giống. Mức độ hoá
nâu của hai dòng CNS – 1.41, CNS – 8.31 từ 15,8 – 17,4 cm thấp hơn giống
đối chứng (22,5%). Tỷ lệ hoá nâu của cành chè hai dòng CNS – 1.41, CNS-
8.31 từ 20,2 – 21,5%, tỷ lệ hoá nâu thấp hơn giống đối chứng LDP1 đạt
34,1%.
3.2.5.2. Ảnh hưởng loại hom đến khả năng sinh trưởng 2 dòng chè
Để có một cây giống tốt, ngoài các tiêu chuẩn về đặc điểm hình thái,
khả năng sinh trưởng, phát triển, khả năng cho năng suất, chất lượng thì dòng
chè đó phải có khả năng nhân giống vô tính bằng giâm cành.
127
Kết quả nghiên cứu đặc điểm nông sinh học đã xác định được khả năng
sinh trưởng, phát triển và khả năng cho năng suất, chất lượng của dòng chè
triển vọng phục vụ cho chế biến chè xanh, chè đen chất lượng cao. Để mở
rộng diện tích cần một khối lượng lớn cây giống bằng giâm hom. Vì vậy
chúng tôi tiến hành nghiên cứu xác định khả năng giâm cành của các loại hom
giâm trên hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31.
- Ảnh hưởng tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ nảy mầm của các loại hom giâm của hai dòng
chè.
Tỷ lệ ra rễ, nảy mầm của hom chè có ý nghĩa rất quan trọng đến tỷ lệ
xuất vườn của hom chè giâm. Ngoài phụ thuộc vào thời vụ giâm cành, kỹ
thuật chăm sóc (tưới nước, bón phân, điều kiện ánh sáng) thì tỷ lệ ra rễ và này
mầm phụ thuộc rất nhiều vào các loại hom giâm.
Dòng CNS – 1.41:
Kết quả thu được ở bảng 3.28 cho thấy: tỷ lệ nảy mầm sau cắm hom 90
ngày: Các loại hom giâm của dòng CNS – 1.41 loại hom thí nghiệm có tỷ lệ
nảy mầm đạt 89,30 – 100%, hom bánh tẻ (100 %), có tỷ lệ nảy mần tương
đương hom nâu (đ/c) (89,30 %).
128
Bảng 3.28. Tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ nảy mầm loại hom hai dòng chè
CNS-1.41 và CNS-8.31 ở Phú Hộ, 2018
Tên dòng/giống Tỷ lệ nảy mầm (Sau cắm hom
90 ngày) (%)
Hom xanh
Hom bánh tẻ
94,34a 100a 89,30a Tỷ lệ ra rễ (Sau cắm hom 90 ngày) (%) 93,53a 98,42a 87,25a Tỷ lệ ra rễ (Sau cắm hom 120 ngày) (%) 98,62a 100a 97,30a CNS – 1.41
Hom nâu (đ/c) CV (%) 7,1 5,7 4,1
LSD0.05
Hom xanh
Hom bánh tẻ
13,5 95,31a 100,0a 89,54a 11,9 94,55a 99,45a 88,24a 4,7 97,55a 99,80a 91,33a CNS – 8.31
Hom nâu (đ/c) CV (%) 6,94 7,69 5,42
LSD0.05
Hom xanh
Hom bánh tẻ
13,15 95,31a 98,72a 89,54a 14,4 94,55a 97,45a 88,24a 10,41 97,55a 98,80a 91,33a LDP1 (đ/c)
Hom nâu (đ/c) CV (%) 6,63 7,84 5,32
LSD0.05 12,6 14,64 10,20
Tỷ lệ ra rễ sau ươm hom 90 ngày: tỷ lệ ra rễ đạt 87,25 – 100 %, trong
đó hom bánh tẻ (100 %), hom xanh (93,53 %) có tỷ lệ ra rễ tương đương hom
nâu (đ/c) (87,25 %).
So sánh khả năng ra rễ và khả năng nảy mầm của hom chè, chúng tôi
thấy: tỷ lệ ra rễ của loại hom đều tương đương so với tỷ lệ nảy mầm. Qua
129
nghiên cứu này, chúng tôi thấy có rất nhiều hom chè đã nảy mầm trước khi ra
rễ nhờ lượng dự trữ trong lá và thân hom. Để hom chè thực sự phát triển
thành cây con hoàn chỉnh khi cây chè con ra rễ và có bộ rễ phát triển.
Để xác định khả năng ra rễ tối đa của loại chúng tôi tiếp tục theo dõi tỷ
lệ ra rễ sau căm hom 120 ngày: Loại hom giâm tham gia thí nghiệm có tỷ lệ ra
rễ đạt 97,30 – 100%. Hom bánh tẻ (100%), hom xanh (98,62%) tương đương
hom nâu (đ/c) (97,30%).
Dòng CNS – 8.31:
Các loại hom giâm của dòng CNS – 8.31 loại hom thí nghiệm có tỷ lệ
nảy mầm đạt 89,54 – 100 %, hom bánh tẻ (100 %) tương đương hom nâu
(89,54 %).
Tỷ lệ ra rễ sau cắm hom 90 ngày: Loại hom giâm tham gia thí nghiệm
có tỷ lệ ra rễ đạt 88,24 – 99,45 %. Hom bánh tẻ (99,45 %), hom xanh (94,55
%) tương đương hom nâu (đ/c) (88,24%).
Tỷ lệ ra rễ sau căm hom 120 ngày: Loại hom giâm tham gia thí nghiệm
có tỷ lệ ra rễ đạt 91,33 – 99,80 %. Hom bánh tẻ (99,80 %), hom xanh (97,55
%) tương đương (đ/c) (91,33 %).
Tỷ lệ ra rễ sau cắm hom 120 ngày: Loại hom giâm tham gia thí nghiệm
có tỷ lệ ra rễ đạt 91,33 – 99,80 %. Hom bánh tẻ (99,80 %), hom xanh (97,55
%) tương đương hom (đ/c) (91,33 %).
Giống LDP1:
Tỷ lệ nảy mầm sau ươm hom 90 ngày: hom giống LDP1 có tỷ lệ nảy
mầm đạt 89,54 – 98,72%, hom bánh tẻ (98,72%), hom nâu (đ/c) (89,54%).
Tỷ lệ ra rễ sau ươm hom 90 ngày: hom giâm thí nghiệm có tỷ lệ ra rễ
đạt 88,24 – 97,45 %. Hom bánh tẻ (97,45 %), hom xanh (94,55 %) tương
đương (đ/c) (88,24 %).
130
Tỷ lệ ra rễ sau ươm hom 120 ngày: Loại hom tham gia thí nghiệm có tỷ
lệ ra rễ đạt 91,33 – 98,80 %. Hom bánh tẻ (98,80 %), hom xanh (97,55 %)
tương đương hom nâu (đ/c) (91,33 %).
- Ảnh hưởng loại hom đến khả năng sinh trưởng của 2 dòng chè
Bảng 3.29. Sinh trưởng cây chè ươm từ một số loại hom của hai dòng chè
Tỷ lệ
Cao cây
Đ/K gốc
Số lá
KL thân
KL Rễ
Tỷ lệ P
Dòng/giống Công thức
xuất
(cm)
(cm)
(lá)
lá (g/cây)
(g/cây)
thân/Prễ
Hom xanh
Hom bánh tẻ
CNS – 1.41
Hom nâu (đ/c)
32,7b 40,3a 36,3ab
13,2b 16,3a 14,5b
0,3b 0,4a 0,3b
6,9b 10,3a 7,7b
2,2b 3,5a 2,5b
vườn (%) 84,7ab 87,9a 78,5b
4,7b 6,8a 5,2b
CV%
4,7
9,2
5,4
5,8
6,2
7,3
4,8
LSD0,05
Hom xanh
Hom bánh tẻ
CNS– 8.31
Hom nâu (đ/c)
4,4 31,7b 40,2a 35,3b
4,4 (E-02) 1.5 12,2b 14,2a 13,0ab
0,3 0,4 0,3
1,7 6,0c 11,3a 7,9b
0,3 2,3c 5,0a 3,7b
6,4 86,4a 88,8a 80,4b
0,6 3,7c 6,3a 4,3b
CV%
4,9
8,5
5,3
6,6
6,4
5,0
6,4
LSD0,05
Hom xanh
6,4 (E-02) 0,3
Hom bánh tẻ
3,9 25,5b 27,3a 24,5b
0,3 0,3
1,6 12,8a 13,3a 11,1b
0,7 6,7a 6,8a 5,6b
0,5 1,9b 2,3a 1,8b
LDP1 (đ/c)
Hom nâu (đ/c)
3,9 80,5ab 82,5a 76,3b
0,2 4,5a 4,8a 3,8b
CV%
5,6
11,7
4,5
6,1
8,2
7,1
5,1
1,2
7,9 (E-02)
1,2
0,4
0,3
5,7
0,3
LSD0,05
tại Phú Hộ, 2018, sau ươm 10 tháng
Sinh trưởng cây chè là yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh tế của sản
xuất cây giống. Chè sinh trưởng phát triển tốt sẽ cho tỷ lệ cây xuất vườn cao.
Thí nghiệm độ già của các loại hom khác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến
các chỉ tiêu sinh trưởng của cây chè con 10 tháng tuổi thu được kết quả ở
bảng 3.28.
131
Dòng CNS – 1.41:
Các kết quả nghiên cứu được thể hiện ở bảng 3.29 cho thấy. Ảnh hưởng
loại hom đến sinh trưởng cây trong giai đoạn vườn ươm thì chiều cao cây của
dòng CNS - 1.41 biến động (32,7 cm) đến (40,3 cm), trong đó chiều cao cây
của hom bánh tẻ có chiều cao cây cao nhất đạt (40,3 cm) tương đương hom
nâu (đ/c) (36,3 cm), thấp nhất là hom xanh đạt (32,7cm) thấp hơn so với hom
nâu đối chứng.
Đường kính thân giữa loại hom của dòng CNS - 1.41 biến động (0,3 cm) –
(0,4 cm), trong đó đường kính thân hom ở hom bánh tẻ đạt (0,4 cm) cao hơn
hom nâu (đ/c) (0,3 cm) sai khác có ý nghĩa, thứ đến hom xanh (0,3cm) tương
đương hom nâu đối chứng.
Số lá (13,2 lá) đến (16,3 lá), trong đó ở hom bánh tẻ đạt (16,3 lá ) cao hơn
hom nâu (đ/c) (14,5 lá), thấp nhất là hom xanh (13,2 lá) tương đương hom
nâu (đ/c).
Khối lượng thân lá của dòng CNS - 1.41 (6,9 g/cây – 10,3 g/cây), trong đó
khối lượng thân lá ở hom bánh tẻ khối lượng thân lá (10,3 g/cây), cao hơn
hom nâu (đ/c) (7,7 g/cây), thấp nhất là hom xanh (6,9 g/cây) tương đương
hom nâu (đ/c) sai khác ở mức có ý nghĩa α = 0,05.
Khối lượng rễ hom của loại hom biến động từ (2,2 - 3,5 g). Trong đó khối
lượng rễ hom bánh tẻ (3,5 gam), thứ đến là hom nâu (2,5 gam) có khối lượng
rễ tương đương hom xanh (2,2 gam).
Khối lượng thân/khối lượng rễ dòng CNS - 1.41 (4,7) đến (6,8), ở hom
bánh tẻ có khối lượng thân/khối lượng rễ có tỷ lệ cao nhất đạt (6,8), tiếp đến
là hom nâu (đ/c) (5,2) có khối lượng thân/khối lượng rễ tương đương hom
xanh (4,7).
Tỷ lệ xuất vườn là chỉ tiêu kinh tế quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp, có liên quan đến giá thành sản xuất cây giống. Tỷ lệ xuất vườn cao thì
132
giá thành sản xuất cây giống sẽ thấp, đem lại hiệu quả kinh tế cao, tỷ lệ xuất
vườn của loại hom biến động từ (78,5 %) đến (87,9%), trong đó hom bánh tẻ
có tỷ lệ xuất vườn cao nhất đạt 87,9%, tiếp đến là hom xanh đạt 84,7% có tỷ
lệ xuất vườn tương đương hom bánh tẻ, thấp nhất là hom nâu (78,5%).
Như vậy ở hom bánh tẻ cho ta thấy khối lượng thân/khối lượng rễ đều lớn
hơn hom nâu đối chứng sẽ cho cây sinh trưởng, phát triển tốt trong giai đoạn
chè kiến thiết cơ bản. Do đó khi trồng mới cần phải cung cấp phân hữu cơ và
trồng xen cây họ đậu làm cây che bóng trong giai đoạn KTCB là rất cần thiết,
giúp bộ rễ phát triển và sớm ổn định với điều kiện môi trường.
Dòng CNS – 8.31:
Ảnh hưởng loại hom đến sinh trưởng cây trong giai đoạn vườn ươm thì
chiều cao cây của dòng CNS - 8.31 biến động (31,7 cm) đến (40,2 cm), trong
đó chiều cao cây của hom bánh tẻ có chiều cao cây cao nhất đạt (40,2 cm) cao
hơn hom nâu (đ/c) (35,3 cm), thấp nhất là hom xanh đạt (31,7cm) tương
đương so với hom nâu đối chứng.
Đường kính thân giữa loại hom của dòng CNS - 8.31 biến động (0,3 cm) –
(0,4 cm), trong đó đường kính thân hom ở hom bánh tẻ đạt (0,4 cm) cao hơn
hom nâu (đ/c) (0,3 cm) sai khác có ý nghĩa, thứ đến hom xanh (0,3cm) tương
đương hom nâu đối chứng.
Số lá (12,2 lá) đến (14,2 lá), trong đó ở hom bánh tẻ đạt (14,2 lá ) cao hơn
và tương đương hom nâu (đ/c) (13,0 lá), thấp nhất là hom xanh (12,2 lá)
tương đương hom nâu (đ/c).
Khối lượng thân lá biến động (6,0 g/cây – 11,3 g/cây), trong đó khối lượng
thân lá ở hom bánh tẻ khối lượng thân lá (11,3 g/cây), cao hơn hom nâu (đ/c)
(7,9 g/cây), thấp nhất là hom xanh (6,0 g/cây) sai khác ở mức có ý nghĩa α =
0,05.
133
Khối lượng rễ hom của loại hom biến động từ (2,3 - 5,0 g). Trong đó hom
bánh tẻ có khối lượng rễ (5,0 gam), thứ đến là hom nâu (3,7 gam) khối lượng
rễ thấp nhất là hom xanh (2,3 gam).
Khối lượng thân/khối lượng rễ biến động (3,7) đến (6,3), ở hom bánh tẻ có
khối lượng thân/khối lượng rễ có tỷ lệ cao nhất đạt (6,3), tiếp đến là hom nâu
(đ/c) (4,3), hom xanh có tỷ lệ khối lượng thân/khối lượng rễ (3,7).
Tỷ lệ xuất vườn của loại hom biến động từ (80,4 %) đến (88,8%), trong đó
hom bánh tẻ có tỷ lệ xuất vườn cao nhất đạt 88,8%, hom xanh đạt 86,4% có tỷ
lệ xuất vườn cao hơn hom nâu (80,4%).
Như vậy ở hom bánh tẻ cho ta thấy khối lượng thân/khối lượng rễ đều lớn
hơn hom nâu đối chứng sẽ cho cây sinh trưởng, phát triển tốt trong giai đoạn
chè kiến thiết cơ bản. Do đó khi trồng mới cần phải cung cấp phân hữu cơ và
trồng xen cây họ đậu làm cây che bóng trong giai đoạn KTCB là rất cần thiết,
giúp bộ rễ phát triển và sớm ổn định với điều kiện môi trường.
Giống LDP1:
Ảnh hưởng loại hom đến sinh trưởng cây trong giai đoạn vườn ươm thì
chiều cao cây của giống LDP1 biến động (24,5 cm) đến (27,3 cm), trong đó
chiều cao cây của hom bánh tẻ có chiều cao cây cao nhất đạt (27,3 cm) cao
hơn hom nâu (đ/c) (24,5 cm), thấp nhất là hom xanh đạt (25,5cm) tương
đương so với hom nâu đối chứng.
Đường kính thân giữa loại hom (0,3 cm). trong đó đường kính thân hom ở
hom bánh tẻ đạt (0,3 cm) tương đương hom nâu (đ/c) (0,3 cm), hom xanh
(0,3cm) tương đương hom nâu đối chứng không có sự sai khác.
Số lá (11,1 lá) đến (13,3 lá), trong đó ở hom bánh tẻ đạt (13,3 lá ), hom
xanh (12,8 lá) cao hơn hom nâu (đ/c) (11,1 lá)
134
Khối lượng thân lá biến động (5,6 g/cây – 6,8 g/cây), trong đó khối lượng
thân lá ở hom bánh tẻ khối lượng thân lá (6,8 g/cây), hom xanh (6,7 g/cây)
cao hơn hom nâu (đ/c) (5,6 g/cây) sai khác ở mức có ý nghĩa α = 0,05.
Khối lượng rễ hom của loại hom biến động từ (1,8g đến 2,3g). Trong đó
hom bánh tẻ có khối lượng rễ cao nhất (2,3 gam), thứ đến là hom xanh (1,9
gam) khối lượng rễ tương đương là hom nâu (1,8 gam).
Khối lượng thân/khối lượng rễ biến động (3,8) đến (4,8), ở hom bánh tẻ có
khối lượng thân/khối lượng rễ có tỷ lệ cao nhất đạt (4,8), hom xanh có tỷ lệ
khối lượng thân/khối lượng rễ (4,5) cao hơn hom nâu (3,8).
tỷ lệ xuất vườn của loại hom biến động từ (76,3 %) đến (82,5%), trong đó
hom bánh tẻ có tỷ lệ xuất vườn cao nhất đạt 82,5%, hom xanh đạt 80,5% có tỷ
lệ xuất vườn tương đương hom bánh tẻ và hom nâu, thấp nhất là hom nâu
(76,3%).
Hình 3.20. Ảnh hưởng của loại hom đến tỷ lệ xuất vườn của dòng/giống
135
Như vậy ở hom bánh tẻ cho ta thấy khối lượng thân/khối lượng rễ đều lớn
hơn hom nâu đối chứng sẽ cho cây sinh trưởng, phát triển tốt trong giai đoạn
chè kiến thiết cơ bản. Do đó khi trồng mới cần phải cung cấp phân hữu cơ và
trồng xen cây họ đậu làm cây che bóng trong giai đoạn KTCB là rất cần thiết,
giúp bộ rễ phát triển và sớm ổn định với điều kiện môi trường.
3.2.5.3. Kết quả nghiên cứu thời vụ giâm hom của hai dòng chè thí nghiệm.
- Ảnh hưởng thời vụ giâm hom đến sinh trưởng của hai dòng chè thí nghiệm
Cây chè cũng như các loại cây trồng khác giâm cành phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng trong vườn giâm. Mỗi thời vụ sẽ
tương ứng với những điều kiện khác nhau thu kết quả được ở bảng 3.30.
Dòng CNS – 1.41:
Qua số liệu bảng 3.30 cho thấy: Chiều cao cây của dòng CNS - 1.41
biến động từ 27,3cm đến 40,3 cm, trong đó ở giâm tháng 8 – 9 có chiều cao
cây lớn nhất đạt 40,3 cm, tiếp đến là tháng 10 – 11 đạt (36,5 cm), có chiều
cao cây tương đương tháng 6 – 7 đạt (32,6 cm) đều có chiều cao cây lớn hơn
thòi vụ giâm tháng 12 - 1 (đ/c) (27,3 cm) sai khác có ý nghĩa α = 0,05.
Đường kính thân biến động từ (0,2 – 0,4 cm) trong đó đường kính gốc
ở thời vụ giâm tháng 8 - 9 và 10 – 11 đạt (0,4 cm), tiếp đến là thời vụ giâm
tháng 6 – 7 đạt (0,3 cm) cao hơn thời vụ giâm tháng 12 - 1 (đ/c) có đường
kính gốc nhỏ nhất chỉ đạt (0,2 cm) sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê..
Về số lá trên cây của thời vụ giâm đạt 11,2 – 16,3 lá so sánh giữa các
tháng thì thời vụ tháng 6 – 7, tháng 8 – 9 và tháng 10 – 11 có số lá trên cây
tương đương nhau đạt (14,2 lá – 16,3 lá), tháng 12 - 1 (đ/c) có số lá/cây thấp
so với các tháng về mặt thống kê đạt (11,2 lá) .
136
Bảng 3.30. Sinh trưởng cây chè ươm ở một số thời vụ tại Phú Hộ
Thời vụ
Cao cây
Đ/K gốc
Số lá
P thân lá
P Rễ
Tỷ lệ
Tỷ lệ xuất
Dòng/giống
giâm
(cm)
(cm)
(lá)
(g/cây)
(g/cây)
thân/P rễ
vườn (%)
(tháng)
6 - 7
8 - 9
10 -11
CNS – 1.41
32,6b 40,3a 36,5ab 27,3c
0,3b 0,4a 0,4a 0,2c
14,2a 16,3a 15,5a 11,2b
6,9b 10,3a 7,7b 6,3b
2,2b 3,5a 2,4b 2,1b
4,8b 6,8a 5,3ab 5,1b
12 – 1 (đ/c)
90,6 a 98,9 a 97,3a 76,5 b
6,3
3,9
10,9
3,9
10,3
15,4
7,8
CV%
0,2
13,4
LSD0,05
0,2
6 - 7
0,3
8 - 9
0,3
10 -11
CNS – 8.31
4,3 31,6ab 40,3a 35,7ab 27,0b
0,2
2,9 12,8b 14,7a 13,5ab 11,2c
0,6 6,1c 11,4a 8,0b 6,4bc
0,5 2,2c 5,0a 3,7b 1,4d
1,6 3,9b 6,4a 4,3b 5,0ab
12 – 1 (đ/c)
91,3 a 99,6 a 94,5 a 73,4 b
10,9
6,1
15,2
8,5
CV%
14,8
16,3
5,2
14,3
LSD0,05
6 - 7
79,5 b
8 - 9
10 -11
88,3a 83,3ab
LDP1 (đ/c)
9,4 30,8bc 35,4a 32,6ab 28,3c
0,8 0,2b 0,3a 0,3a 0,2b
1,3 11,5b 12,3ab 12,5a 10,3c
1,6 5,9b 9,7a 6,6b 5,3b
0,3 2,2b 3,5a 3,3a 1,3c
1,4 4,1b 6,2a 4,5b 3,3b
12 – 1 (đ/c)
69,5 c
6,5
15,6
3,7
13,3
14,93
15,1
3,2
CV%
4,1
0,08
0,8
1,7
0,8
1,2
5,2
LSD0,05
Về khối lượng thân lá giữa các tháng biến động từ 6,3 g/cây đến 10,3
g/cây, khối lượng thân lá tháng 8 - 9 đạt (10,3 g/cây) có khối lượng thân lá
tương đương tháng 12 – 1 (đ/c) (6,3 g/cây).
Về khối lượng rễ thời vụ giâm tháng 8 – 9 đạt (3,5 g/cây) cao hơn
tháng 12 – 1 (đ/c) (2,1 gam/cây), tiếp đến tháng 10 – 11 có khối lượng thân lá
137
đạt 2,4 g/cây, tháng 6 – 7 (2,2g/cây) có khối lượng thân lá tương đương tháng
12 – 1 (đ/c).
Về tỷ lệ thân/P rễ giữa các tháng biến động 4,8 – 6,8, trong đó ở tháng
8 - 9 đạt 6,8 có tỷ lệ thân tương đương tháng 10 – 11 đạt 5,3 có tỷ lệ khối
lượng thân/khối lượng rễ cao hơn tháng 6 – 7 (4,8) và tháng 12 – 1 (đ/c).
Tỷ lệ xuất vườn cây giống là chỉ tiêu kinh tế quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp, có liên quan đến giá thành sản xuất. Tỷ lệ xuất vườn giữa tháng
8 – 9 (98,9%), tháng 10 – 11 (97,3%), tháng 6 – 7 (90,6%) có tỷ lệ xuất vườn
tương đương nhau cao hơn so với tháng 12 – 1 (đ/c) đạt 76,5% sai khác có ý
nghĩa về mặt thống kê.
Dòng CNS – 8.31:
Về chiều cao cây của dòng CNS - 8.31 biến động từ 27,0cm đến 40,3
cm, trong đó ở giâm tháng 8 – 9 có chiều cao cây lớn nhất đạt 40,3 cm, tháng
10 – 11 đạt (35,7 cm), có chiều cao cây tương đương tháng 6 – 7 đạt (31,6
cm) đều có chiều cao cây lớn hơn thời vụ giâm tháng 12 - 1 (đ/c) (27,0 cm)
sai khác có ý nghĩa α = 0,05.
Đường kính thân biến động từ (0,2 – 0,3cm) trong đó đường kính gốc ở
thời vụ giâm tháng 8 - 9 và 10 – 11 đạt (0,3 cm), tiếp đến là thời vụ giâm
tháng 6 – 7 đạt (0,2 cm) cao hơn thời vụ giâm tháng 12 - 1 (đ/c) có đường
kính gốc nhỏ nhất chỉ đạt (0,2 cm) sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê..
Về số lá trên cây của thời vụ giâm đạt 11,2 – 14,7 lá so sánh giữa các
tháng thì thời vụ tháng 8 – 9 và tháng 10 – 11 có số lá trên cây tương đương
nhau đạt (13,5 lá – 14,7 lá) có số lá trên cây cao hơn tháng 6 – 7, tháng 12 - 1
(đ/c) (11,2 12,8 lá) .
Về khối lượng thân lá giữa các tháng biến động từ 6,1 g/cây đến 11,4
g/cây, khối lượng thân lá tháng 8 - 9 đạt (11,4 g/cây), tiếp đến tháng 10 – 11
(8,0 g/cây) có khối lượng thân lá cao hơn tháng 12 – 1 (đ/c) (6,4 g/cây).
138
Về khối lượng rễ thời vụ giâm tháng 8 – 9 đạt (5,0 g/cây), tiếp đến
tháng 10 – 11 có khối lượng thân lá đạt 3,7 g/cây, tháng 6 – 7 (2,2g/cây) có
khói lượng thân lá cao hơn tháng 12 – 1 (đ/c) (1,4 gam/cây).
Về tỷ lệ thân/P rễ giữa các tháng biến động 3,9 – 6,4, trong đó ở tháng
8 - 9 đạt 6,4 có tỷ lệ thân/rễ cao nhất tháng 6 – 7 (3,9), tháng 10 – 11 (4,3) và
tháng 6 – 7 (đ/c) có khối lượng thân/rễ tương đương tháng 12 – 1 đạt 5,0.
Tỷ lệ xuất vườn giữa tháng 8 – 9 (99,6%), tháng 10 – 11 (94,5%), tháng
6 – 7 (91,3%) có tỷ lệ xuất vườn tương đương nhau cao hơn tháng 12 – 1 (đ/c)
đạt 73,4% sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê.
Giống LDP1:
Về chiều cao cây của giống LDP1 biến động từ 28,3cm đến 35,4 cm,
trong đó ở giâm tháng 8 – 9 có chiều cao cây lớn nhất đạt 35,4 cm, tháng 10
– 11 đạt (32,6 cm), có chiều cao cây tương đương tháng 6 – 7 đạt (30,8 cm)
đều có chiều cao cây lớn hơn thòi vụ giâm tháng 12 - 1 (đ/c) (28,3 cm) sai
khác có ý nghĩa α = 0,05.
Đường kính thân biến động từ (0,2 – 0,3cm) trong đó đường kính gốc ở
thời vụ giâm tháng 8 - 9 và 10 – 11 đạt (0,3 cm) cao hơn tháng 12 – 1 (0,2
cm), tiếp đến là thời vụ giâm tháng 6 – 7 đạt (0,2 cm) có đường kính gốc
tương đương tháng 12 - 1 (đ/c) (0,2 cm) sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê..
Về số lá trên cây giữa thời vụ giâm đạt 10,3 – 12,5 lá so sánh giữa các
tháng thì thời vụ tháng 8 – 9 và tháng 10 – 11 có số lá trên cây tương đương
nhau đạt (12,3 lá – 12,5 lá), tiếp đến tháng 6 – 7 (11,5 lá) có số lá trên cây cao
tháng 12 - 1 (đ/c) (10,3 lá) .
Về khối lượng thân lá giữa các tháng biến động từ 5,3 g/cây đến 9,7
g/cây, tháng 8 – 9 có khối lượng thân lá cao nhất đạt (9,7 g/cây), tiếp đến
tháng 6 – 7 (5,9 g/cây), tháng 10 – 11 (6,6 g/cây) có khối lượng thân lá tương
đương tháng 12 – 1 (đ/c) (5,3 g/cây).
139
Về khối lượng rễ thời vụ giâm biến động từ 1,3 g/cây đến 3,5 g/cây,
tháng 8 – 9 đạt (3,5 g/cây) có khối lượng rễ tương đương tháng 10 – 11 đạt
3,3 g/cây, tiếp đến tháng 6 – 7 (2,2g/cây) tương đương tháng 12 – 1 (đ/c) (1,3
gam/cây).
Về tỷ lệ thân/P rễ giữa các tháng biến động 3,3 – 6,2, trong đó tháng 8
- 9 đạt 6,2 có tỷ lệ thân/rễ cao nhất, tháng 6 – 7 (4,1), tháng 10 – 11 (4,5) có
khối lượng thân/rễ tương đương tháng 12 – 1 đạt 3,3.
Tỷ lệ xuất vườn giữa biến động (69,5%) đến (88,3%), trong đó tháng 8
– 9 có tỷ lệ xuất vườn cao nhất đạt 88,3%, tiếp đến tháng 10 – 11 (83,3%),
tháng 6 – 7 (79,5%) có tỷ lệ xuất vườn cao hơn tháng 12 – 1 (69,5%).
Hình 3.21. Ảnh hưởng của thời vụ đến tỷ lệ xuất vườn của dòng/giống
140
A
B
Hình 3.22. Thí nghiệm giâm hom
A. Hom chè giâm sau 20 ngày B. Cây chè con xuất vườn
141
3.3. Khảo nghiệm hai dòng chè mới Khảo nghiệm hai dòng chè mới ở điều kiện sản xuất
Hai dòng chè mới CNS-1.41 và CNS-8.31 sinh trưởng khỏe, năng suất
cao, để sớm phát triển ra sản xuất, đồng thời với nghiên cứu các đặc điểm
nông sinh học, chúng tôi đã tiến hành trồng khảo nghiệm diện rộng ở điều
kiện sản xuất tại một số địa phương vùng miền núi phía Bắc. Bao gồm Phú
Thọ, Tuyên Quang và Yên Bái, thời gian trồng tháng 1/2015, giống đối chứng
là LDP1. Các vườn chè khảo nghiệm tiến hành đốn tạo hình lần 1 vào tháng
12/2015, đánh giá năng suất từ tuổi 2 (năm 2016) đến tháng 11/2019. Kết quả
đánh giá năng suất chè ở các địa điểm khảo nghiệm trình bày ở các bảng 3.31,
3.32 và 3.33 dưới đây.
Bảng 3.31. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các
năm 2016-2019 hai dòng chè mới tại Phú Hộ, Phú Thọ.
Khối Năng suất qua các năm (tấn/ha) Mật độ lượng Rộng Năm Năm Năm Năm TB % Tên dòng búp tôm tán búp (búp/m2/ 2016 2017 2018 2019 4 tăng (cm) 3 lá lứa) (tuổi 2) (tuổi 3) (tuổi 4) (tuổi 5) năm so đ/c
(g/búp) 1,21a 182,0a 4,62a 1,29a 168,7ab 4,57a 1,06b 163,2b 3,91b 7,93a 12,57a 17,63a 10,68a 172,54 7,76a 10,2b 14,53a 9,26a 149,59 9,43b 6,19b 100 4,89b 6,56c CNS– 1.41 186,60a CNS– 8.31 176,40a LDP1 (đ/c) 150,15b
5,3 13,7 4,7 6,3 9,2 4,0 14,7 6,6 CV%
20,7 0,14 18,3 0,6 1,5 0,8 4,5 1,3 LSD0,05
Bảng số liệu cho thấy dòng CNS – 1.41 có mật độ búp 186,60 búp/m2/lứa có mật độ búp tương đương dòng CNS – 8.31 có mật độ búp 176,5 búp/m2/lứa, giống đối chứng LDP1 có mật độ búp 150,15 búp/m2/lứa.
142
Khối lượng búp tôm 3 lá của hai dòng CNS – 1.41 và CNS – 8.31 1,21
g/búp đến 1,29 g/búp tương đương nhau và lớn hơn khối lượng búp của giống
chè LDP1 1,06 g/búp.
Chiều rộng tán lớn nhất là dòng CNS–1.41 đạt 182 cm (mức a), tiếp đến
là dòng CNS – 8.31 có chiều rộng tán đạt 168,7 cm (mức ab), chiều rộng tán
nhỏ nhất là giống LDP1 đạt 163,2 cm (mức b).
Về năng suất, sau 4 năm đánh giá thấy: Dòng CNS – 1.41 và dòng CNS
– 8.31 sớm cho năng suất cao, ngay ở tuổi 2 đã thu hái búp đạt 4,62 và 4,57
tấn/ha cao hơn giống đối chứng LDP1 đạt 3,91 tấn/ha.
Năm thứ 3 bước vào thời kỳ kinh doanh, dòng CNS – 1.41 và dòng CNS
– 8.31 đã có năng suất cao đạt 7,93 và 7,76 tấn/ha cao hơn giống đối chứng
đạt 4,89 tấn/ha.
Năm thứ 4, năng suất các dòng/giống tiếp tục tăng và có sự khác nhau,
dòng CNS – 1.41 có năng suất đạt cao nhất 12,57 tấn/ha, tiếp đến là dòng
CNS – 8.31 đạt 10,2 tấn/ha, năng suất thấp nhất là giống LDP1 đạt 6,56
tấn/ha.
Năm thứ 5 năng suất của dòng chè CNS – 1.41 đạt 17,63 tấn/ha, tương
đương với năng suất dòng CNS – 8.31 đạt 14,53 tấn/ha, và cao hơn năng suất
của giống LDP1 đạt 9,43 tấn/ha.
Năng suất trung bình 4 năm của dòng CNS – 1.41 có năng suất cao nhất
đạt 10,68 tấn/ha và dòng CNS – 8.31 đạt 9,26 tấn/ha, cao hơn giống đối
chứng LDP1 đạt 6,19 tấn/ha. Năng suất dòng CNS – 1.41 cao hơn đối chứng
72,54%, năng suất dòng CNS – 8.31 cao hơn so với giống đối chứng 49,53%.
143
Bảng 3.32. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các
năm 2016-2019 hai dòng chè mới tại Yên Sơn, Tuyên Quang
Năng suất qua các năm (tấn/ha)
Mật độ Khối Năm Rộng Năm Năm Năm TB % lượng 2017
Tên dòng
tán 2016 2018 2019 4 tăng búp (búp/m2/ búp tôm 3 (tuổi (cm) (tuổi 2) (tuổi 4) (tuổi 5) năm so đ/c lứa) lá (g/búp) 3)
182,6a 4,71a 7,98a 12,26a 16,53a CNS– 1.41 181,60a 1,11a
CNS– 8.31 173,40a LDP1 (đ/c) 154,15b 165,4b 163,8b 10,37a 168,89 4,25a 7,26a 9,64a 14,13a 8,82b 143,65 3,78b 4,82b 6,62b 9,34b 6,14c 100 1,09a 0,93b
3,1 3,5 5,7 7,9 4,7 9,8 6,6 4,3 CV%
12,2 13,7 0,6 1,3 0,9 3,0 0,7 0,1 LSD0,05
Tại Tuyên Quang các dòng/ giống chè nghiên cứu sinh trưởng phát
triển khá tốt. Các dòng CNS – 1.41 và CNS-8.31 có mật độ búp tương đương nhau 181,60 và 173,4 búp/m2/lứa và cao hơn mật độ búp của giống đối chứng LDP1 có mật độ búp 154,15 búp/m2/lứa.
Khối lượng búp tôm 3 lá của hai dòng CNS – 1.41 và CNS – 8.31 (1,09
g/búp đến 1,11 g/búp lớn hơn khối lượng búp cua giống LDP1 0,93 g/búp.
Chiều rộng tán lớn nhất là dòng CNS-1.41 đạt 1,12 m2, dòng CNS – 8.31
và giống LDP1 có chiều rộng tán tương đương nhau, đạt 165,4 và 163,8 cm.
Về năng suất, tương tự như ở Phú Thọ, các dòng/ giống chè khảo nghiệm
sinh trưởng tốt, năm thứ 2 sau trồng đã cho thu hoạch với năng suất khá cao.
Hai dòng CNS-1.41 và CNS-8.31 năng suất tương đương nhau, đạt 4,71 và
4,25 tấn/ha, cao hơn giống đối chứng LDP1 đạt 3,98 tấn/ha.
Các năm tiếp theo, năng suất các dòng/ giống chè tiếp tục tăng theo tuổi
chè, năng suất trung bình 4 năm đánh giá (từ năm 2016 đến 2019) của các
144
giống chè có sự khác nhau ở độ tin cậy 95%. Theo đó, dòng CNS-1.41 có
năng suất trung bình cao nhất, đạt 10,37 tấn/ha, tiếp theo là dòng CNS-8.31
đạt 8,82 tấn/ha, thấp nhất là giống LDP1 đạt 6,8 tấn/ha. Dòng CNS – 1.41 và
CNS – 8.31 cao hơn giống LDP1 lần lượt là 68,89% và 43,65%.
Như vậy, tại Tuyên Quang các dòng chè mới hoàn toàn phù hợp với
điều kiện khí hậu, đất đai và thể hiện được các đặc điểm sinh trưởng mạnh,
năng suất cao, có thể phát triển rộng rãi trong vùng.
Bảng 3.33. Các yếu tố cấu thành năng suất và diễn biến năng suất các
năm 2016-2019 hai dòng chè mới tại Văn Chấn, Yên Bái
Khối Năng suất qua các năm (tấn/ha)
Mật độ lượng Rộn Năm Năm Năm Năm % búp TB Tên dòng g tán 2016 2017 2018 2019 tăng búp (búp/m2/ tôm 3 4 (cm) (tuổi (tuổi (tuổi (tuổi so lứa) lá năm 2) 3) 4) 5) đ/c
CNS– 1,41 161,60a CNS– 8,31 143,40b LDP1 (đ/c) 134,15b (g/búp) 1,32a 180,0a 4,51a 7,78a 11,66a 16,07a 10,00a 166,11 1,12b 167,2b 4,24a 7,36a 9,02b 13,33ab 8,48b 140,86 0,98c 161,3b 3,58b 4,64b 6,82c 9,04b 6,02c 100
5,03 5,7 3,2 3,2 3,5 4,2 13,8 5,5 CV%
16,7 0,1 12,4 0,3 0,5 0,9 4,4 0,9 LSD0,05
Kết quả ở bảng cho thấy các dòng chè mới sinh trưởng phát triển tốt tại
vùng Văn Chấn, Yên Bái. Theo đó, các chỉ tiêu sinh trưởng như chiều rộng
tán, mật độ búp, khối lượng búp cũng sinh trưởng tương đương như ở vùng
Phú Thọ và Tuyên Quang. Dòng CNS-141 có chiều rộng tán đạt 180 cm, cao
hơn chiều rộng tán của dòng CNS-8.31 và giống LDP1 đạt 167,2 và 161,3cm.
145
Khối lượng búp tôm 3 lá của dòng CNS – 1.41 có khối lượng lớn nhất
đạt 1,32 g/búp, tiếp đến là dòng CNS – 8.31 đạt 1,12g/búp có khối lượng búp
lớn hơn giống đ/c LDP1 0,98 g/búp.
Về mật độ búp, dòng CNS-1.41 đạt cao nhất 161,60 búp/m2, dòng
CNS – 8.31 và giống LDP1 có mật độ búp tương đương nhau, đạt lần lượt 143,40 búp/m2 và 134,15 búp/m2.
Về năng suất, năm thứ hai sau trồng, dòng CNS – 1.41 đạt 4,51 tấn/ha,
dòng CNS – 8.31 đạt 4,24 tấn/ha, cao hơn năng suất của giống LDP1 đạt 3,58
tấn/ha. Các năm tiếp theo năng suất chè tiếp tục tăng, năng suất trung bình
của 4 năm đánh giá (2016-2019) khác nhau ở mức tin cậy 95%. Dòng CNS-
1.41 có năng suất trung bình cao nhất đạt 10,0 tấn/ha, tiếp theo dòng CNS-
8.31 đạt 8,48 tấn/ha, thấp nhất là giống LDP1 đạt 6,02 tấn/ha. Tại Yên Bái,
năng suất dòng CNS-1.41 cao hơn giống LDP1 66,11%, dòng CNS-8.31 cao
hơn giống LDP1 40,86%.
Như vậy qua kết quả đánh giá sinh trưởng và năng suất hai dòng chè
mới CNS-1.41 và CNS-8.31 tại các vùng khảo nghiệm Phú Thọ, Tuyên
Quang và Yên Bái thì các dòng chè mới phát huy được các đặc điểm sinh
trưởng phát triển tốt của giống. Dễ trồng, sớm cho thu hoạch, năm thứ hai đã
có thể đưa vào sản xuất kinh doanh, năng suất ổn định luôn cao hơn đối
chứng là giống LDP1 đã được trồng phổ biến ở các vùng khảo nghiệm. Kết
quả khảo nghiệm khẳng định hai dòng chè mới CNS-1.41 và CNS-8.31 phù
hợp với điều kiện sinh thái ở các vùng khảo nghiệm, hoàn toàn có thể phát
triển rộng rãi tại các vùng này và phụ cận.
146
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1.Kết luận
1) Đặc điểm hình thái lá, búp, hom hai dòng chè mới:
- Dòng chè CNS-1.41 có lá trưởng thành mầu xanh vàng, dài 13,7 cm rộng 5,9 cm, diện tích lá 57,6 cm2, bề mặt phiến lá gồ ghề, chót lá nhọn, thế lá
hướng ra ngoài; búp 1 tôm 3 lá dài 9,58 cm, mầu xanh vàng, khối lượng 1,2 g/ búp; lóng hom dài 4,79 cm, đường kính 4,33 mm, diện tích lá hom 57,56 cm2.
- Dòng chè CNS-8.31 có lá mầu xanh đậm, dài 10,8 cm rộng 4,6 cm, diện tích lá 34,9 cm2, bề mặt phiến lá gồ ghề, chót lá nhọn, thế lá hướng lên;
búp 1 tôm 3 lá dài 8,71 cm, khối lượng búp 1,16 g/ búp; lóng hom dài 5,15 cm, đường kính lóng 4,52 mm, diện tích lá hom 34,87 cm2.
2) Đặc điểm sinh trưởng hai dòng chè mới:
- Dòng chè CNS-1.41 một năm tuổi có chiều cao thân cây 120,4 cm,
đường kính gốc 1,3 cm, độ cao phân cành thấp 2,0 cm, số cành cấp 1 và cấp 2
nhiều, đạt 25,7 và 39 cành/ cây; Dòng chè CNS-8.31 có chiều cao thân cây
128,4 cm, đường kính gốc 1,3 cm, độ cao phân cành trung bình 3,6 cm, số
cành cấp 1 và cấp 2 là 15,9 và 23,6 cành/ cây.
Hai dòng CNS-1.41 và CNS-8.31 sinh trưởng khỏe, một năm sau trồng
đã đủ tiêu chuẩn về kích thước cây để đốn tạo hình lần đầu tiên.
- Năm thứ hai, hai dòng chè mới sinh trưởng khỏe và đã cho thu hoạch, dòng CNS-1.41 có tán rộng 120,7 cm, mật độ búp 121,5 búp/m2, năng suất
đạt 7,36 tấn/ha/năm; dòng CNS-8.31 có tán rộng 93,6 cm, mật độ búp 92,5 búp/m2, năng suất đạt 5,22 tấn/ha/năm.
- Chè 3 tuổi dòng CNS-1.41 có tán rộng 180,4 cm, đã giao tán, năng
suất đạt 13,68 tấn búp tươi/ha/năm; dòng CNS-8.31 tán rộng 167,6 cm, năng
suất đạt 9,72 tấn búp tươi/ha/năm; năng suất tiềm năng (năng suất lý thuyết)
147
dòng CNS-1.41 đạt 19,42 tấn búp tươi/ha/năm, dòng CNS-8.31 đạt 17,01 tấn
búp tươi/ha/năm.
- Chất lượng nguyên liệu búp chè: búp của hai dòng chè mới non, tỷ lệ
cuộng và tỷ lệ xơ trung bình các thời vụ thấp. Dòng CNS-1.41 có tỷ lệ
cuộng/búp 21,66%, tỷ lệ xơ 17,86%; dòng CNS-8.31 có tỷ lệ cuộng/búp
25,82%, tỷ lệ xơ 16,07%.
- Thành phần một số hợp chất chủ yếu trong búp hai giống chè mới phù
hợp cho chế biến chè xanh chất lượng tốt, hàm lượng tanin thấp, các chất
catechin và axit amin khá cao: Dòng CNS-1.41 có hàm lượng tanin 25,51%,
chất hòa tan 42,43%, axit amin tổng số 2,45%, vitamin C 16,72 mg/kg chất
khô, polyphenol tổng số 17,98%; dòng CNS-8.31 có hàm lượng tanin
24,47%, chất hòa tan 43,28%, axit amin tổng số 2,56%, vitamin C 22,04
mg/kg chất khô, polyphenol tổng số 20,14%.
- Thành phần các một số hợp chất chủ yếu trong chè đen của hai dòng
chè mới cũng phù hợp cho chế biến chè đen chất lượng cao: Sản phẩm chè
đen của dòng CNS-1.41 có hàm lượng tanin 14,35%, chất hòa tan 37,55%,
catechin 74,05%; sản phẩm chè đen của dòng CNS-8.31 có hàm lượng tanin
14,08%, chất hòa tan 36,27%, catechin 72,96%;
- Chất lượng cảm quan chè xanh: Dòng CNS-1.41 có ngoại hình nhỏ
xoăn, nước mầu xanh vàng, hương thơm nhẹ, vị chát dịu, tổng số điểm đánh
giá 16,43 điểm, xếp loại chất lượng khá; dòng CNS-8.31 có ngoại hình cánh
nhỏ xoăn mầu xanh đen, nước mầu xanh sáng, hương thơm đặc trưng, vị đậm
dịu có hậu, tổng số điểm đánh giá 17,94 điểm, xếp loại chất lượng khá.
- Chất lượng cảm quan chè đen: Dòng CNS-1.41 cánh mầu nâu đen,
nước mầu đỏ sáng, hương thơm đặc trưng, vị chát dịu, tổng điểm 17,5, xếp
loại chất lượng khá; dòng CNS-8.31 có ngoại hình mầu nâu đen, nước mầu đỏ
148
sáng, hương thơm đặc trưng, vị chát dịu có hậu, tổng điểm 18,6, xếp loại chè
đen chất lượng tốt.
3) Về biện pháp kỹ thuật:
- Trồng hai dòng chè mới với mật độ 1,66 vạn cây/ha và 1,85 vạn
cây/ha theo phương thức hàng kép sớm giao tán, mật độ búp cao và năng suất
cao hơn trồng cùng mật độ theo phương thức hàng đơn: Dòng CNS-1.41
trồng mật độ 1,66 vạn cây/ha hàng kép, năng suất tuổi 3 đạt 17,15 tấn/ha,
trồng hàng đơn năng suất đạt 13,15 tấn/ha; dòng CNS-8.31 trồng hàng kép,
năng suất đạt 14,85 tấn/ha, trồng hàng đơn đạt 13,33 tấn/ha.
- Đốn tạo hình lần 1 với thân chính ở độ cao 15-20 cm, cành bên 35 cm
phù hợp đối với hai dòng chè mới.
- Hái ở độ cao trên vết đốn vụ đầu 10 cm đạt năng suất cao, dòng CNS-
1.41 và CNS-8.31 có chiều rộng tán từ 153,5 cm đến 180,00 cm, mật độ búp từ 101,30 đến 127,13 búp/m2; năng suất đạt từ 9,25 đến 12,3 tấn/ha.
- Bón phân cho chè tuổi 3 theo công thức BP4 (112 kg N + 56 kg P2O5
+ 84 kg K2O/ha), năng suất của dòng CNS-1.41 đạt 14,64 tấn/ha, dòng CNS-
8.31 đạt 11,86 tấn/ha; tăng lượng phân bón lên 40% đạt hiệu quả kinh tế cao,
lợi nhuận tăng 60,78% với dòng CNS-1.41, tăng 76,32% với dòng CNS-8.31.
4) Khả năng nhân giống vô tính của 2 dòng chè nghiên cứu:
- Sản lượng hom vườn cây mẹ tuổi 3 đạt 3,66 triệu hom/ha với dòng
CNS-141, đạt 2,92 triệu hom với dòng CNS-831.
- Tỷ lệ xuất vườn sau ươm 10 tháng đạt 87,9% với dòng CNS-141 và
88,8% với dòng CNS-831.
5) Sinh trưởng, năng suất hai dòng chè mới tại các vùng khảo nghiệm
- Tại Phú Thọ: dòng CNS-141 năng suất trung bình 4 năm đạt 10,68
tấn/ha, tăng 72,54% so với giống đối chứng; dòng CNS-831 đạt năng suất
trung bình 9,26 tấn/ha, tăng 49,59% so giống đối chứng.
149
- Tại Tuyên Quang: dòng CNS-141 năng suất trung bình 4 năm đạt
10,37 tấn/ha, tăng 68,89% so với giống đối chứng; dòng CNS-831 đạt năng
suất trung bình 8,82 tấn/ha, tăng 43,65% so giống đối chứng.
- Tại Yên Bái: dòng CNS-141 năng suất trung bình 4 năm đạt 10,0
tấn/ha, tăng 66,11% so với giống đối chứng; dòng CNS-831 đạt năng suất
trung bình 8,48 tấn/ha, tăng 40,86% so giống đối chứng.
- Hai dòng chè mới hoàn toàn phù hợp và có thể phát triển rộng rãi ở
các vùng khảo nghiệm và vùng phụ cận.
2.Đề nghị
Hiện nay, hai dòng chè CNS-1.41 và CNS-8.31 đã được công nhận là
giống mới có tên là CNS 141 và CNS 831, được Bộ NN&PTNT cho phép sản
xuất thử nghiệm ở vùng miền núi phía Bắc. Dựa trên những kết quả nghiên
cứu, chúng tôi có một số đề nghị sau đây.
- Nghiên cứu hoàn thiện kỹ thuật trồng, chăm sóc hai giống chè mới
CNS 141 và CNS 831; đánh giá sâu thêm về phương thức trồng hàng kép có
thể lợi dụng ưu thế sinh trưởng khỏe, tập trung của búp chè ở vùng giữa của
tán chè để tăng năng suất và thuận lợi cho thu hoạch bằng cơ giới; đánh giá về
lượng bón phân khoáng tối ưu để phát huy tiềm năng năng suất hai giống chè
mới và bảo vệ và tăng cường độ phì nhiêu của đất trồng chè;
- Nghiên cứu kỹ thuật chế biến chè xanh chè đen phù hợp với nguyên
liệu của hai giống chè mới CNS 141 và CNS 831, đa dạng sản phẩm chè;
- Phát triển ra sản suất hai giống chè mới ở các vùng tương tự vùng
khảo nghiệm, đánh giá thêm ở các vùng chè khác, góp phần nâng năng suất,
chất lượng nước ta.
150
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Trịnh Thị Kim Mỹ, Nguyễn Hữu La, Nguyễn Văn Thiệp (2016), Nghiên
cứu một số đặc điểm sinh trưởng phát triển của hai dòng chè mới chọn
tạo CNS – 1.41 và CNS – 8.31 ở thời kỳ kiến thiết cơ bản tại Phú Hộ,
Phú Thọ. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn – tháng
12/2016, trang 174-179.
2. Trịnh Thị Kim Mỹ, Nguyễn Văn Thiệp, Lê Văn Đức (2019), Ảnh hưởng
của một số biện pháp kỹ thuật canh tác chủ yếu đến sinh trưởng hai
dòng chè mới CNS – 1.41 và CNS – 8.31 tại Phú Thọ. Tạp chí Khoa
học và công nghệ nông nghiệp Việt Nam 26 - số 6 - 2019.
3. Trịnh Thị Kim Mỹ, Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Hữu La (2019), Khả năng
cung cấp hom chè giống của hai dòng chè CNS – 1.41 và CNS – 8.31
tại Phú Hộ, Phú Thọ. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn số
20 – tháng 10/2019.
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt
1. Chu Xuân Ái (1988), “ Nghiên cứu quan hệ giữa đặc điểm hình thái, điều
kiện ngoại cảnh với năng suất chè”, Tập san Bộ Nông nghiệp và công nghệ
thực phẩm, số 8, 1988.
2. Nguyễn Thị Ngọc Bình, Nguyễn Văn Toàn (2007) Hiệu quả sử dụng
phân lân hữu cơ sinh học Sông gianh trong sản xuất chè an toàn. Tạp chí
khoa học và công nghệ nông nghiệp Việt Nam. Viện khoa học nông nghiệp
Việt Nam số 4 tr.96-100
3. Nguyễn Văn Chiến (2008), Hàm lượng các yếu tố dinh dưỡng, trung vi
lượng trong đất trồng chè và búp chè trên đất phiến thạch sét. Tạp chí khoa
học và công nghệ nông nghiệp Việt Nam số 1.
4. Cục BVTV (1995), phương pháp điều tra phát hiện sâu bệnh hại cây
trồng, Nxb nông nghiệp, Hà Nội.
5. Djemukhadze, 1982, Cây chè miền Bắc Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà
Nội.
6. Lê Văn Đức (1997) Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón, đất đai đến
hoạt động của bộ lá và năng suất chè Trung du Phú thọ. Luận án PTS khoa
học nông nghiệp. Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.
7. Lê Văn Đức, Đỗ Thị Trâm, Nguyễn Văn Tạo (2004) Nghiên cứu kỹ thuật
đốn chè kiến thiết cơ bản giống LDP1 và LDP2, Tạp chí Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, số 46 – tháng 10/2004.
8. Vũ Hữu Hào, Trịnh Văn Loan (1988) Nghiên cứu đặc tính sinh hóa búp
chè ở một số vùng chè chủ yếu. Tuyển tập công trình nghiên cứu cây công
nghiệp, cây ăn quả (1968-1988). NXB nông nghiệp Hà Nội.
9. Trần Xuân Hoàng (2016), Nghiên cứu giải phẫu lá, kỹ thuật phân bón,
thu hái cho giống chè PH8, PH10 để sản xuất nguyên liệu chế biến chè
152
xanh chè oolong tại Phú Hộ. Luận án tiến sỹ nông nghiệp, Viện Khoa học
nông nghiệp Việt Nam.
10. Cao Thị Huyền, Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Quang Duy (2012), Kết
quả nghiên cứu tuyển chọn dòng chè mới năng suất cao từ các dòng chè lai
cứu phôi ở điều kiện Phú Hộ, Phú Thọ. Tạp chí KH&CN nông nghiệp Việt
Nam, số 4 (34), 2012.
11. Lê Tất Khương (1997), Nghiên cứu đặc điểm của một số giống chè mới
trong điều kiện Bắc Thái và những biện pháp kỹ thuật canh tác hợp lý cho
những giống chè có triển vọng. Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Viện Khoa
học Nông nghiệp Việt Nam.
12. Nguyễn Hữu La (1998), “Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái của tập
đoàn giống chè Phú Hộ thời kỳ KTCB nhằm cung cấp vật liệu khởi đầu cho
công tác chọn giống mới”, Tuyển tập các công trình nghiên cứu về chè
(1988- 1997), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 407 – 408.
13. Nguyen Huu La (2016), Bón phân NPK đa yếu tố Văn Điển cho chè ở
Phú Thọ. Hội thảo quốc gia về khoa học cây trồng lần thứ 2, Cần Thơ 11-
12/8/2016, NXB Nông nghiệp, 1097-1101.
14. Lã Tuấn Nghĩa (2010), Báo cáo kết quả khoa học công nghệ đề tài
“Nghiên cứu chọn tạo giống chè, năng suất cao, chất lượng tốt nhờ chỉ thị
phân tử và công nghệ cứu phôi”. Viện khoa học nông nghiệp Việt Nam,
2010.
15. Phạm Kiến Nghiệp (1984) Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất
và chất lượng nguyên liệu chè vùng Bảo lộc –Lâm đồng. Tạp chí khoa học
kỹ thuật nông nghiệp số 10 NXB nông nghiệp Hà Nội.
16. Đinh Thị Ngọ (1996) Nghiên cứu ảnh hưởng của phân xanh, phân
khoáng đến sinh trưởng phát triển, năng suất chất lượng chè trên đất đỏ
153
vàng Phú Hộ Vĩnh Phú. Luận án tiến sỹ khoa học nông nghiệp.Viện KHKT
nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.
17. Đỗ Văn Ngọc (1991), Ảnh hưởng của một số dạng đốn đến sinh trưởng
phát triển, năng suất chất lượng của cây chè trung du tuổi lớn ở Phú Hộ.
Luận án PTS Khoa học Nông nghiệp, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
nghiệp Việt Nam, Hà Nội.
18. Đỗ Văn Ngọc (2006) Nghiên cứu chọn tạo và nhân giống chè. Kết quả
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ giai đoạn 2001-2005. Viện
KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. NXB nông nghiệp Hà Nội.
19. Đỗ Văn Ngọc, Trịnh Văn Loan (2008) Các biến đổi hóa sinh trong quá
trình chế biến và bảo quản chè. NXB nông nghiệp Hà Nội.
20. Đỗ Văn Ngọc, Nguyễn Thị Ngọc Bình (2009) Ảnh hưởng của kỹ thuật
hái đến sinh trưởng, năng suất chất lượng chè PVT, KAT. Kết quả nghiên
cứu khoa học và chuyển giao công nghệ giai đoạn 2006-2009. Viện KHKT
nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. NXB nông nghiệp Hà Nội.
21. Đỗ Văn Ngọc, Nguyễn Hữu La, Nguyễn Thị Minh Phương (2009) Kết
quả nghiên cứu giống chè giai đoạn 2006-2010. Kết quả nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ giai đoạn 2006-2009. NXB nông nghiệp Hà
Nội.
22. Đỗ Văn Ngọc và CS (2010) Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài” Nghiên
cứu chọn tạo giống, xây dựng quy trình quản lý tổng hợp, nhằm phát triến
chè an toàn, phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”
23. Nguyễn Thị Minh Phương (2012), Đánh giá các giống bố mẹ và con lai,
phục vụ công tác chọn tạo giống chè chất lượng cao ở Việt Nam. Luận án
tiến sỹ nông nghiệp.
24. Nguyễn Thị Minh Phương, Phùng Lệ Quyên, Lê Thị Xuyên, Đỗ Thị
Hải Bằng (2016), Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng chè
154
được tạo ra bằng phương pháp đột biến trên giống Kim Tuyên tại Phú Hộ,
Phú Thọ. Hội thảo quốc gia về khoa học cây trồng lần thứ 2, Cần Thơ 11-
12/8/2016, NXB Nông nghiệp, 666-671.
25. Đỗ Ngọc Quỹ, Nguyễn Văn Niệm (1979), Kỹ thuật giâm cành chè, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
26. Đỗ Ngọc Quỹ, Nguyễn Kim Phong (1997), Cây chè Việt nam. NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
27. Đỗ Ngọc Quỹ (1980), Trồng chè, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
28. Quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch chè, 10TCN 446:2001,
Bộ NN & PTNT ban hành, 2001.
29. Nguyễn Văn Tạo (1998) cơ sở khoa học một số biện pháp thâm canh tăng
năng suất chè. Tuyển tập các công trình nghiên cứu về chè (1988-1997).
NXB nông nghiệp Hà Nội.
30. Nguyễn Văn Tạo (2004), Tìm hiểu đặc điểm sinh học cành chè giống PH1
sinh trưởng tự nhiên. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn số
6/2004. Tr 851-853.
31. Đoàn Hùng Tiến, Trịnh Văn Loan (1996) Nghiên cứu đặc tính hóa sinh
và công nghệ chè của 2 dòng lai tạo LDP1, LDP2. Tạp chí hoạt động khoa
học, Phụ trương số 8 năm 1996.
32. Nguyễn Văn Thiệp (2000), Nghiên cứu cơ sở khoa học phòng trừ Rầy
xanh (Empoasca flavescens Fabr.) và Bọ trĩ (physothrip setiventris Bagn.)
hại chè vùng Phú Thọ. Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Viện KHNN VN,
2000.
33. Nguyễn Văn Thiệp, Inoue Kazumi (2006), Kết quả nghiên cứu kỹ thuật
nuôi cấy mô chè. Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
giai đoạn 2001-2005, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, Tr 30-40.
155
34. Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Văn Tạo (2008), hệ số nhân giống từ các
vườn cây mẹ của hai giống chè mới Phúc Vân Tiên, Keo Am Tích trong
điều kiện Phú Hộ, Phú Thọ. Tạp chí nông nghiệp & Phát triển nông thôn,
2/2008. Tr 38-40
35. Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Văn Tạo (2008), Ảnh hưởng của liều lượng
và tỷ lệ phân khoáng bón thúc đến sinh trưởng cây chè giâm cành Phúc
Vân Tiên trong vườn ươm. Tạp chí khoa học đất Việt Nam, 2008.
36. Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Thị Thu Hà, Trịnh Thị Kim Mỹ, Cao Thị
Huyền (2012) Kết quả nghiên cứu tái sinh cây chè (camellia sinensis)
giống Shan chất tiền, từ phôi vô tính, bằng nuôi cấy mô. Tạp chí Khoa học
và công nghệ nông nghiệp Việt Nam, số 4(34) 2012.
37. Nguyễn Văn Thiệp (2016), Nghiên cứu chọn tạo giống chè năng suất,
chất lượng cao và khả năng chịu hạn tốt bằng chỉ thị phân tử. Báo cáo tổng
hợp kết quả khoa học công nghệ đề tài cấp nhà nước, Hà Nội 2016.
38. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 01-124:2013/BNNPTNT Khảo
nghiệm tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định của giống chè.
39. Tiêu chuẩn Quốc gia TCVN 3218-2012, Chè xác định các chỉ tiêu cảm
quan bằng phương pháp cho điểm.và xác định hàm lượng lá bánh tẻ theo
TCVN1053-86.
40. Nguyễn Văn Toàn (1994). Một số đặc điểm sinh trưởng phát triển các
biến chủng chè ở Phú Hộ và ứng dụng vào chọn tạo giống ở thời kỳ chè
con. Luận án PTS Nông nghiệp. Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Toàn, Trịnh Văn Loan (1994), Một số đặc điểm lá chè và ý
nghĩa của nó trong công tác chọn giống. Kết quả nghiên cứu khoa học và
triển khai công nghệ về cây chè (1989-1993). NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Tr 33-46.
156
42. Nguyễn Văn Toàn (1998) Phương pháp nhân giống chè. Tuyển tập các
công trình nghiên cứu về chè 1988-1997. NXB nông nghiệp Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Toàn, Trần Thị Lư, Nguyễn Văn Niệm (1998). Phương
pháp chọn giống chè. Tuyển tập các công trình nghiên cứu về chè 1988-
1997. NXB nông nghiệp Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Toàn, Đỗ Văn Ngọc, Nguyễn Hữu La, Nguyễn Thị Minh
Phương (2015). Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống chè mới giai đoạn
2010-2015. Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ 10
năm (2006-2015).
45. Nguyễn Văn Toàn (2016), Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ của Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. Hội thảo
quốc gia về khoa học cây trồng lần thứ 2, Cần Thơ 11-12/8/2016, NXB
Nông nghiệp, 166-172.
46. Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám thống kê 2018. NXB Thống kê.
47. Trần Đức Trung, Lã Tuấn Nghĩa và cs (2009) Nghiên cứu đa dạng di
truyền bằng chỉ thị phân tử của các giống chè Việt Nam. Tạp chí Nông
nghiệp và phát triển nông thôn.
48. Vũ Ngọc Tú, Nguyễn Văn Toàn, Lê Tất Khương (2018), Nghiên cứu
ảnh hưởng của cây che bóng đến sự biến động của một số sâu hại chủ yếu
trên chè ở Phú Thọ. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam
- Số 12(97)/2018, 81-87.
49. Nguyễn Đình Vinh (2002), Nghiên cứu đặc điểm phân bố của bộ rễ cây
chè ở miền Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sỹ khoa học Nông nghiệp, Trường
Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
Tiếng Anh
50. A Anjaneyulu and H Bhattacharjee (2019), Effect of combined
application of organic and inorganic fertilizers on yield and quality of
157
young
tea (Camellia sinensis (L.) O. Kuntze) interplanted in arecanut.
International Journal of Chemical Studies 2019; 7(1): 2027-2030.
51. Ambachew Zerfu Gebrewold (2018), Review on integrated nutrient
management of tea (Camellia sinensis L.), Food & Agriculture (2018), 4:
1543536, https://doi.org/10.1080/23311932.2018.1543536.
52. Anon (1986a), “The maintenance foliage”, in Tea Growers Handbook,
4th end, Tea Rereach Foundation of Kenya, Kericho, Kenya, pp. 81-82. 53. Anon (1986g), Vegetative propagation, in Tea Growers Handbook, 4th
edn, Tea Rereach Foundation of Kenya, Kericho, Kenya, pp, 50-59.
54. Anil Kumar Singh and Sunil Kumar Pathak (2018), Potassium in tea
(Camellia sinensis (L) O. Kuntze) cultivation from soil to cup quality - A
review. Agricultural Reviews, 39(1) 2018 : 40-47.
55. Barbora, B, C, (1996), Tea varieties for cultivation, The plenters
handbook, Tea research Association, Toklai.
56. Barua D,N (1989), Science and practice in tea culture, Tea Research
Association Calcutta - Jorhat, pp, 118 – 121.
57. Carr M. K.V (1972), The climatic requirements of tea plant, A review,
Experimetal Agricultue, 8, pp. 1-14.
58. Carr M.K.V. (2018), Advances in Tea Agronomy. Cambridge University
Press, United Kingdom, First published 2018, 454p.
59. Chakravartee, J, Hazarika, M, and Gogoi, D, (1986) Effect of soil pH
in callusing and root growth in nurseries, Two and Bub, 33 (1/2), pp, 29.
60. Chakravorty S. K. and washi R. C. (1981), Economic evaluation of
plant density, Two and Bud, 28 (2), pp, 32-34.
158
61. Chen Rong Bing (1995) Study on selection of new long tea strains with
rich aroma and high quality, Procecding of 95 International- quality-
62. Chenyu Chu, Jia Deng, Yi Man, and Yili Qu (2017), Green Tea
human heath symposium Shenghai China.
Extracts Epigallocatechin-3-gallate for Different Treatments. BioMed
Research International, Volume 2017, Article ID 5615647, 9 pages
63. Chia-Chang Wu (2015), Developing Situation of Tea Harvesting
Machines in Taiwan, Engineering, Technology & Applied Science
Research Vol. 5, No. 6, 2015, 871-875
64. Clarke K. A., Dew T.P., Watson R.E.B., Farrar M.D., Osman J.E., A.
Nicolaou, Rhodes L.E., G. Williamson (2016), Green tea catechins and
their metabolites in human skin before and after exposure to ultraviolet
radiation. Journal of Nutritional Biochemistry 27 (2016) 203–210
65. Denis Bonheure (1990), Tea, The Tropical Agriculturalist, Hong Kong.
66. Ding, L.; Gao, X.; Hu, J.; Yu, S. (2018), Epigallocatechin-3-gallate
attenuates anesthesia-induced memory deficit in young mice via
modulation of nitric oxide expression. Mol. Med. Rep. 2018, 18, 4813–
4820.
67. Dumur, D. and Naidu, S. N. (1985), “The effect of plucking round
length on green leaf production in tea”, Technical Bulletin, Ministry
of Agriculture, Fisheries and National Resources, Mauritius, 5, pp. 11-19.
68. Dunaway, S.; Odin, R.; Zhou, L.; Ji, L.; Zhang, Y.; Kadekaro, A.L.
(2018), Natural Antioxidants: Multiple Mechanisms to Protect Skin from
Solar Radiation. Front. Pharmacol. 2018, 9, 392.
69. Eden T, (1958), Tea, Longman, green and co London – New York –
Toronto.
70. FAOSTAT - data, (2019), http://www.fao.org/faostat/en/#data/QC
159
71. Fayaz Ahmad, F.S Hamid, Abdul Waheed, Qamar-uz-Zaman, Sohail
Aslam, Basharat Hussain Shah, Shamsul Islam, Sair Sarwar and Ijaz
Ali (2015), Grow performance of tea (Camellia sinensis L.) cultivars at
nursery stage. J. Agric. Res., 2015, 53(3).
72. Hamdi Zenginbal, Ayhan Haznedar, Elif Zenginbal (2014), Influence
of type cutting, IBA concentration and collection times on rooting of tea
(Camellia sinensis L.). Research in Plant Biology, 4(4): 01-08, 2014.
73. Hamdi Zenginbal, Ayhan Haznedar, Elif Zenginbal (2014), The Effect
of Different Treatments on Semi-Hardwood Cutting Propagated Tea
(Camelia sinensis L.) Clone. International Journal of Scientific and
Research Publications, Volume 4, Issue 6, June 2014.
74. Hamdi Zenginbal, Ayhan Haznedar, Elif Zenginbal (2014), Influence
of type cutting, IBA concentration and collection times on rooting of tea
(Camellia sinensis L.), Research in Plant Biology, 4(4): 01-08, 2014.
75. Hartmen H. J. and Kester O. E. (1988) Plan propagation principles and
practices, Prentice hall international Inc.
76. Hobman F.R. (1985), Effects of plant population and time to plucking
on the production and profitability of tea in Australia, Tropical Agriculture
(Trinidad) 62 (3), pp, 193-198.
77. Jie Li. M.Sc. Agron (2005), The effect of plant mineral nutrition on yield
and quality of green tea (Camellia sinensis L.) under field conditions.
Doctor Thesis, Kiel University, 2005.
78. Kaison Chang (2015), World tea production and trade Current and future
development. FAO Rome, 2015.
79. Kamau D.M., 2008. Productivity and resource use in ageing tea
plantations. PhD thesis Wageningen University, ISBN: 978-90-8504-808-
4.
160
80. Katsuyuki Yoshida, Akiko Ogino, Akiko Matsunaga, Le Van Duc,
Nguyen Le Thang and Atsushi Nesumi (2006), Genetic Diversity of the
Contents of Cafeine, Catechins, and Free Aminoacids in Tea Leaves
Collected from Northern Mountain Areas of Vietnam. Bulletin of the
National Institute of Vegetable and Tea Science, Japan No.5, Mar. 2006.
81. Kaundun S.S Matsumoto S., (2002) Heterologous nuclear and
chloroplast microsatellite amplyfication and variation in tea, camellia
sinensis. Genome, 2002 Dec; 45(6):1041-8.
82. Khaizurin Tajul Arifin, Jo Aan Goon (2019), Effect of Green Tea and Its
Polyphenols On the Lifespan of Model Organisms: A Systematic Review.
Journal of Applied Biological Sciences, 13(1): 46-54, 2019.
83. Kunbo Wang, Fang Liu, Zhonghua Liu, Jianan Huang, Zhongxi Xu,
Yinhua Li, Jinhua Chen, Yushun Gong & Xinghe Yang (2010),
“Analysis of chemical components in Oolong tea in relation to
perceived quality”, International Journal of Food Science & Technology,
45, 913 – 920.
84. La N.H., Toan N.V., Ha N.H. (2019). Results of selection process for
new tea line LCT1 by crossed breeding between Camellia sinensis var. Shan and Camellia sinensis var. Macrophylla. (P21-26; The 2nd Global Forum for
Directors of Tea Research Institutes in China 2019)
85. Liang Yuerong1, ShinYounghwan1, Zhang Longjie2, Wang Kairong2 (2019) “Tea Plant Breeding in China” (P34-35; The 2nd Global Forum for
Directors of Tea Research Institutes)
86. Lin Xinjiong, Guo Zhuan, Zhou Qinghui, Zhang Wenjin (1991),
“Effect of Fertilizing on the Yield and Quality of Oolong Tea”, Journal of
Tea Science-China.
161
87. Mani Iyer Prasanth, Bhagavathi Sundaram Sivamaruthi, Chaiyavat
Chaiyasut and Tewin Tencomnao (2019), A Review of the Role of Green
Tea (Camellia sinensis) in Antiphotoaging, Stress Resistance,
Neuroprotection, and Autophagy. Nutrients 2019, 11, 474.
88. Martin, M.A.; Goya, L.; Ramos, S. (2017), Protective effects of tea, red
wine and cocoa in diabetes. Evidences from human studies. Food Chem.
Toxicol. 2017, 109, 302–314.
89. Mohammed Enamul Hoque (2016), Effect of Indole Butyric Acid on
Raising Plants from Stem Cuttings of Tea (Camellia sinensis L.) in The
Nursery. The Agriculturists 14(2):124-129 (2016).
90. Mohammedsani Zakir (2017), Review on Tea (Camellia sinensis)
Research Achievements, Challenges and Future Prospective Including
Ethiopian Status. International Journal of Forestry and Horticulture (IJFH),
Vol. 3 (4), 2017, PP 27-39.
91. Mondal T.K. (2004), “Bioytechnological improvements of tea”.
http//www.isb.vt.edu/articles/augo403.htm.
92. M.K.V. Carr (2018), Advances in Tea Agronomy. University Printing
House, Cambridge CB2 8BS, United Kingdom, First published 2018, 454p.
93. Mukesh Kumar1 and Veena Chaudhary (2018), Effect of Integrated
Sources of Nutrients on Growth, Flowering, Yield and Soil Quality of
Floricultural Crops: A Review. Int. J. Curr. Microbiology and Applied
Sciences, ISSN: 2319-7706 Vol. 7(3) 2018.
94. Olusegun Olufemi Olubode, Sola Uthman Adekola, Sukurat Modupe
Idowu (2015), Evaluation of Flowering Pattern, Yield and Yield
Determinants of Hybrid Tea Rose in Response to Seasonal Variations and
Applied Organic Manure Rates. American Journal of Plant Sciences, 2015,
6, 464-482.
162
95. Patarava, B, D, (1987) Effect of temperature regime on the growth and
development of tea transplants, Subtropicheskie Kul’tury, (2), pp, 58 -60
96. Roberts G E and Keys A J (1978) Mechamism of photosynthesis in the
tea plant (camellia sinensis L). Journal of experimental Botany, 29, 1403-7
97. Rahman F, Dutta A. K, (1988), “Root growth in tea”. Journal of
plantation crops India 16, pp.31-37.
98. Roghieh Hajiboland (2017), Environmental and nutritional requirements
for tea cultivation. Folia Hort. 29/2 (2017): 199-220.
99. Ronald Kawooya, Venansio Tumwine, Vivian Namutebi, Charles
Mugisa, Racheal Naluugo and Robert Kajobe (2015), Tea research in
the year 2015 in Uganda: An overview. African Journal of Agricultural
Science and Technology (AJAST), Vol. 3, Issue 12, pp. 505-513.
December, 2015.
100. RUAN Li, WEI Kang, WANG Liyuan, CHENG Hao, WU Liyun,
LI Hailin (2019). Characteristics of Free Amino Acids under Spatial
Heterogeneity of Difererent Nitrogen Forms in Tea (Camellia sinensis)
Plants. P117-119; The 2nd Global Forum for Directors of Tea Research
Institutes.
101. RUAN Jian-yun, WU Xun (2003), “Productivity and Quality
Response of Tea to Balanced Nutrient Management Including K and
Mg”, Journal of Tea Science - China, S1, 125 - 129.
102. Ruan Jianyun, Wu Xun, Hardter (1997), “Effects of Potassium and
Magnesium on the Y ield and Quality of Oolong Tea”, Journal of Tea
Science-China, 1997 -01. -.93.
103. Shama V.S. and Satyanarayana N. (1994) Pruning and Harvesting
Practices in Relation to Tea Productivity in South India. Proceedings of the
163
International Seminar on “Intergrated Crop Management in Tea: Towards
Higher Productivity”, Colombo, Sri Lanka, April 26-27, 1994, p99-112.
104. S . Jayaganesh, S. Venkatesan (2010), “Impact of magnesium
sulphate on biochemical and quality constituents of black tea”, American
Journal of Food Technology, 5(1): 31 – 39.
105. Saharia, U.K. and Bezbaruah, H.P. (1984), “Effect of timing of
fertilizer application on flowering and seed-setting of tea seed trees in N.
E. India”, Two and a Bud, 31 (2), pp. 12 -13.
106. Seyed Babak Salvatian, Farshad Soheili-fard, Koorosh Majd
Salimi, 2014. Effect of mechanical plucking height on tea green leaf yield
and its quality. Int J Adv Biol Biom Res., 2 (5): 1582-1592.
107. Shahram Sedaghathoor, Ali Mohammadi Torkashvand, Davood
Hashemabadi and Behzad Kaviani (2009), “Yield and quality response
of tea plant to fertilizers”, African Journal of Agricultural Research, Vol. 4
(6), pp. 568-570, June.
108. S. Mondal and M. Mitra Sarkar (2017), Influence of Plant Growth
Regulators Influence of Plant Growth Regulators on Growth, Flowering
and Yield Characteristics of Hybrid Tea Rose cv. Bugatti during Spring-
Summer Months. Advances in Research, 12(6): 1-7, 2017.
109. Seyed Babak Salvatian, Farshad Soheili-fard, Koorosh Majd
Salimi (2014), Effect of mechanical plucking height on tea green leaf yield
and its quality. Int J Adv Biol Biom Res. 2014; 2(5):1582-1592.
110. S.R.W. Pathiranage, M.A. Wijeratne1 and W.A.J.M. De Costa
(2016), Physiological Aspects Governing Yield Variation Under Manual
and Mechanical Harvesting of Clonal Tea. 6th Sypmosium on Plantation
Crop Research in Sri Lanka, Conference Paper, November 2016.
164
111. Su Kongwu, Li Jinlan (2005), “Analysis of the experimental effect
of applying potash fertilizer on tea garden”, Tea communication, vol.32,
no.4
112. Squier (1979) Weather physiology and seasonality of tea in Mallawi.
Experimental agriculture 16. 126p.
113. Tanton T.W. (1981a), “Growth and yield of the tea bush”.
Experinetal Agriculture, 17, pp. 323-331.
114. Teshome M Endale T Tesfaye S Melaku A (2016), Effects of Various
Rooting Media on Survival and Growth of Tea(Camellia sinensis L.) Stem
Cuttings at Jimma. Journal of Biology, Agriculture and Healthcare, Vol.6,
No.3, 2016.
115. Nguyen Van Thiep, Nguyen Thi Thu Ha and Trinh Thi Kim My
(2015), Eveluating characteristics related to drought tolerence in tea
genetic resources as the basis to select new tea clone with drought
resistance. J. of Agr. Technology 2015 Vol. 11(8): 2239-2248.
116. Tu Vu Ngoc and Toan Nguyen Van (2017), Effects of Microbial
Organic Fertilizer and Mulch to Population
and Bioactivity of Beneficial Microorganisms in Tea Soil in Phu
Tho, Viet Nam. J. of Agr. Technology 2017 Vol. 13(4): 469-484.
117. Uchida K., Ogawa K. and Yanase E. (2016), Structure
Determination of Novel Oxidation Products from Epicatechin:
Thearubigin-Like Molecules. Molecules 21(3), March 2016.
118. WANG Lei, HUANG Tingting, LIU Qiufeng, BAI Xianli, WANG
Zhiping, PANG Yuelan (2019). The Influence of Foliar Fertilization on
Growth and Quality of Tea Leaves and on Machine-Plucking. P65-66; The
2nd Global Forum for Directors of Tea Research Institutes.zz
165
119. Willson K.C. & M.N. Clifford, 1992. Tea: cultivation to
consumption. Chapman & Hall, London, 1992, p. 55-56.
120. Wen-Yan Han, Xin Li, Golam Jalal Ahammed (2018), Stress
Physiology of Tea in the Face of Climate Change. ISBN 978-981-13-2139-
9 ISBN 978-981-13-2140-5 (eBook), Springer Nature Singapore Pte Ltd.
2018, 361p.
121. World green tea Association (2019), Cultivation of Japanese Green
Tea, accessed on May 20th 2019. Availaible from: http://www.o-
cha.net/english/cup/pdf/14.pdf.
Xiong, L.G.; Chen, Y.J.; Tong, J.W.; Gong, Y.S.; Huang, J.A.; 122.
Liu, Z.H. (2018), Epigallocatechin-3-gallate promotes healthy lifespan
through mitohormesis during early-to-mid adulthood in Caenorhabditis
elegans. Redox Biol. 2018, 14, 305–315.
123. Xu Fu-le, Li Dan-nan (2006), “Effect of Bioorganic fertilizer
and special fertilizer application on tea bush”, Acta Agricultural Jiangxi,
18(5): 39 – 41.
124. Ya-Dong SHAO, De-Jian ZHANG, Xian-Chun HU, Qiang-Sheng
WU, Chang-Jun JIANG, Ting-Jun XIA, Xiu-Bing GAO, Kamil KUČA
(2018), Mycorrhiza-induced changes in root growth and nutrient
absorption of tea plants. Plant Soil Environ. Vol. 64, 2018, No. 6: 283–289
125. Yumen Hilal (2017), Morphology, Manufacturing, Types,
Composition and Medicinal Properties of Tea (Camellia sinensis). J Bas
Appl Pl Sci, Vol. 1. Issue. 2. 36000107.
126. Zhang Wenjin, Yang Ruxin, Chen Changsong, Zhang Yinggen
(2000), “Effect of fertilizer on productivity and quality of Tie Guanyin
Oolong tea”, Fujian Journal of Agicultural Science - China, 2000-3.
166
127. Zheng-He Lin, Yi-Ping Qi, Rong-Bing Chen, Fang-Zhou Zhang,
Li-Song Chen (2012), “Effects of phosphorus supply on the quality of
green tea”, Food chemistry, Volume 130, Issue 4, 15 February, Pages
908-914 (Abstract).
Tài liệu tiếng Nga
128. Aзизбekян C.Г Дoмaш B.И (2015). Haноплaнт –новоe
oтечеcтвeнноe микpoyдoбрениe. Hашe ceльcкoe xoзяйcтвo.
Aгроxимия 07.2015.
129. Aзизбekян C.Г Дoмaш B.И (2015). Haноплaнт –новоe
oтечеcтвeнноe микpoyдoбрениe. Hашe ceльcкoe xoзяйcтвo.
Aгроxимия 09. 2015.
130. Баxтaдзe K.E (1940) Meтoд гибpидизaции в сopтoвoдствe чая
Бюллетень ВНИИЧ и СК № 4
131. Бахтадзе К.Е (1948), Биология селекция и семеноводство чайного
растения Москва.
132. Баxтaдзe K.E (1971). Биoлoґичecкиe ocнoвы культуры чайного
pacтeния. Tбилиcи. cmp. 81-85
133. Бзиава M (1973) Yдобpeниe Cyбтропических культур Изд.
“сабчота сакартвело” Тбилси, cmp. 132-166
134. Бокучава М А, (1958), Биохимия чая и чайного производства, Из.
Акадeмии Наук СССР, Москва, cmp. 44-50
135. Гогия В. Т (1984), Биохимия Cyбтропических растений Москва
“Колос” cmp. 14-18
136. Дараселия М К, Воронцов В В, Гвасалия В П, Цанава В
П(1989), Культура чая в СССР, Мецниереба Тбилиси .
cmp. 140-142
167
137. Джемухадзе К М. (1954), Физиология виногpaдa и чая.
Физиология сельскового хозайства растений Т9 cmp.593-613
138. Джемухадзе К.М Шальнева Г.А. Милешка Л Ф (1957)
Биохимия № 22 стр. 888
139. Запрометов М Н (1964) Биохимия катехинов. Изд. наука
Москва cmp 25-30
140. Кварацхелия Т K (1959) Чаеводство. Москва “Колос” cmp.187
141. Кeркадзе И.Г.(1980), Отбор формы чая генетическими маркерами
и значение их селекционое, Субтропические культуры. № 2
cmp.72-75
142. Myтовкина Т. Д (1978), Нoвые перспективные сорта клоны чая.
Cyбтропические культуры № 2-3 cmp. 105-107
143. Рубин Б А, (1970), Физиология виногpaдa и чая. Физиология
сельскохозайства растений Т9 Издательство М.
Университета.cmp.550-560
144. Цоциашвили И. И. Бокучава М.А. (1989), Химия и технология
чая.
М. “Агропромиздат” cmp. 182-185
145. Чхайдзе Г И. Киpия M.Б (1985). Pезультaты изyчeния кopнeвoй
cиcтeмы ceлeкциoнныx copтoв пoпyляций чая. Cyб.культуры № 3
cmp.57-64
168
PHẦN PHỤ LỤC Bảng 1. Một số chỉ tiêu khí hậu thời tiết tại Phú Hộ, Phú Thọ
(Năm 2015 – 2018)
Nhiệt Độ Nhiệt Nhiệt Độ ẩm Tổng độ ẩm Tổng độ tối độ tối lượng tối trung trung giờ nắng Tháng cao thấp mưa thấp bình bình tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng (0.1h) 0.1C 0.1C (0.1mm) % 0.1 %
17,4 22,8 12,9 86,3 46,2 58,9 59,8 1
17,3 23,8 13,2 80,2 49,0 21,5 54,5 2
21,3 26,5 17,1 85,0 54,7 62,5 59,0 3
24,0 30,5 20,2 84,0 71,0 118,3 61,3 4
28,0 33,5 23,1 81,0 179,3 185,8 56,1 5
29,3 35,5 25,1 79,8 169,0 209,1 54,8 6
28,6 34,7 25,2 83,5 163,0 310,5 65,0 7
28,1 33,8 24,9 86,3 150,0 429,3 64,8 8
27,7 33,1 24,3 85,2 149,1 171,3 52,9 9
25,0 30,4 20,9 84,5 107,0 198,0 64,3 10
22,3 28,4 17,8 85,7 107,3 94,7 61,3 11
61,6 19,4 25,4 15,2 82,7 81,4 107,8 12
169
Bảng 2. Một số chỉ tiêu khí hậu thời tiết tại Yên Sơn, Tuyên Quang
(Năm 2016 – 2019)
Nhiệt độ 16,7 16,95 20,6 25,6 27,15 29,7 28,95 27,95 27,45 26,3 22,0 20,0 Độ ẩm 87,0 80,5 84,5 84,0 80,5 77,5 81,5 85,5 84,5 72,5 83,0 85,0 Lượng mưa 45,0 16,5 30,5 141,0 205,5 129,0 325,5 239,5 101,0 82,0 40,0 43,0 Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Bảng 3. Một số chỉ tiêu khí hậu thời tiết tại Văn Chấn, Yên Bái
(Năm 2015 – 2019)
Tháng
Nhiệt độ tối cao tháng 0.1C Nhiệt độ tối thấp tháng 0.1C Độ ẩm trung bình tháng % Độ ẩm tối thấp tháng % Tổng giờ nắng tháng (0.1h) Tổng lượng mưa tháng (0.1mm)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Nhiệt độ trung bình tháng 0.1 17,42 17,3 21,27 24,0 27,97 29,27 28,64 28,14 27,7 24,99 22,29 19,4 22,77 23,85 26,52 30,55 33,55 35,5 34,69 33,79 33,14 30,44 28,42 25,42 12,87 13,24 17,15 20,25 23,1 25,07 25,24 24,87 24,27 20,9 17,8 15,24 86,34 80,17 85,0 84,0 81,0 79,84 83,5 86,34 85,22 84,5 85,67 82,67 58,86 46,2 59,85 21,52 49,0 54,5 62,54 54,7 59,0 118,25 71,0 61,35 185,84 179,35 56,15 209,14 169,0 54,85 310,5 163,0 65,0 64,85 429,27 150,0 52,95 149,115 171,35 198,02 107,0 64,35 94,72 107,3 61,35 107,85 81,4 61,6
170
Bảng 4. Thành phần dinh dưỡng chính có trong đất
ở các địa điểm nghiên cứu
Chỉ tiêu dinh dưỡng chính
Thành phần Cấp hạt
Cát thô Cát Limon Sét
Ký hiệu pH OM N P K (2,0 – mịn (0,02 – (<0,00
(KCL) (%) (%) (%) (%) 0,2mm) (2,0 – 0,002m 2mm)
0,2m m)
m)
Liên Sơn 4,17 3,13 0,140 0,0378 0,140 10,19 15,81 42,0 32,0
(YB)
Tuyên Quang 3,73 1,23 0,084 0,1017 0,015 7,86 15,74 13,6 62,8
Phú Hộ 4,15 2,36 0,140 0,1120 0,140 7,37 14,23 42,2 36,2
Bảng 5: Thành phần hóa học chủ yếu trong chè xanh các dòng/giống chè
HC
Axit Đạm Vitamin thơm Poly Chất Catechin Giống Tanin amin Cafein TS C TS phenol hòa tan TS chè (%) TS (%) (%) (mg/ (ml / TS (%) (mg/g) (%) (%) 100g) 100g
CK)
CNS-1.41 25,51 42,43 2,45 145,75 2,59 4,86 16,72 47,07 17,98
CNS-8.31 24,47 43,28 2,56 137,12 2,21 4,98 22,04 49,02 20,14
146,93 2,90 5,06 22,90 42,27 19,45 LDP1 (đ/c) 28,72 42,57 1,54
171
Bảng 6:Thành phần hóa học chủ yếu trong chè đen của các dòng chè
Chỉ tiêu phân tích
Dòng/giống
Axit-
Đường
Tanin CHT
Catechin
TF
TR TF/TR
amin
khử
CNS-1.41
14,08 36,27
0,79
72,96
1,53
0,75 18,46
24
CNS-8.31
14,35 37,55
1,25
74,05
1,45
0,83 19,21
23
14,27 34,55
1,29
73,28
1,16
0,46 18,32
39
LDP1(đ/c)
Bảng 7: Chất lượng cảm quan chè xanh các dòng/giống chè ở Phú Hộ
năm 2015-2017
Ngoại hình Màu nước Hương Vị
Tên dòng Tổng điểm Xếp loại Mô tả Điểm Điểm Điểm Điểm Mô tả Mô tả Mô tả
CNS-1.41 4,31 4,08 4,04 4,00 16,43 Khá Thơm nhẹ Chát đậm dịu
Xanh vàng sáng, hơi loãng
CNS-8.31 4,51 4,46 4,43 4,54 17,94 Khá Xanh sáng
Thơm nhẹ đặc trưng Đậm dịu, có hậu
Nhỏ xoăn non xanh, hơi vụn Xanh đen, nhỏ cánh, thoáng tuyết
4,00 4,00 4,00 3,76 15,76 Khá LDP1 (đ/c) Thơm nhẹ Đậm dịu
Xoăn đều. màu xanh Xanh vàng sáng, hơi loãng
172
Bảng 8: Chất lượng cảm quan chè đen các dòng/giống chè ở Phú Hộ
năm 2015-2017
Ngoại hình
Màu nước
Hương
Vị
Tổng
Xếp
Dòng
điểm
loại
Mô tả Điểm Mô tả Điểm Mô tả Điểm Mô tả Điểm
Đỏ
sáng,
Thơm
Chát dịu
Nâu đen
hơi
đặc
CNS-
4,30
4.30
4,40
ngọt, hơi
4,5 17,50 Khá
hơi thô
loãng có
trưng,
1.41
ngái
viền
hơi ngái
vàng
Đỏ nâu
Thơm
Xoăn,
sáng
Chát
đặc
non,
CNS-
nâu
4,70
sánh, có
4,80
trưng,
4,60
đậm, dịu,
4,60 18,60 Tốt
8.31
viền
có hậu
hương
đen,đều
vàng
héo
cánh
Đỏ nâu
sáng,
Xoăn
Thơm
hơi
non,nâu
Chát dịu
Khá
4,50
4,50
đặc trưng
4,30
4,30 17,60
LDP1
loãng,
đen ,khá
hơi ngái
nhẹ
có viền
đều
vàng
173
Hình 1. Vườn khảo nghiệm sản xuất tại Phú Hộ, Phú Thọ
174
Hình 2. Vườn khảo nghiệm sản xuất tại Tuyên Quang
175
Hình 3. Vườn khảo nghiệm sản xuất tại Yên Bái
A- Đang trồng B- Vườn chè 5 tuổi