VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ MINH CÔNG

NGHIỆN INTERNET VÀ TỰ ĐÁNH GIÁ BẢN THÂN

CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

C u T ọc c u

Mã số: 62 31 04 01

LUẬN ÁN TIẾN S TÂ HỌC

N ƣời ƣớng dẫn: GS.TS. Trần Thị i Đức

HÀ NỘI - 2016

i

ỜI CA ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, dữ

liệu nghiên cứu trong luận án là trung thực và chƣa từng công bố trong bất kỳ công

trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả luận án

ii

Lê Minh Công

ỜI CẢ ƠN

Hoàn thành chƣơng trình tiến sĩ luôn là ƣớc mơ lớn và khát vọng của cuộc

đời tôi. Trải qua 4 năm học tập và nghiên cứu, dƣới sự hƣớng dẫn, giúp đỡ của

nhiều ngƣời, đến hôm nay tôi dƣờng nhƣ đã gần hoàn thành ƣớc mơ đó của cuộc

đời mình. Để có đƣợc thành quả nhƣ ngày hôm nay, tôi xin đặc biệt gửi lời cảm ơn

chân thành đến những ngƣời đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.

Với tình cảm chân thành và sự kính trọng, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến GS.

TS Trần Thị Minh Đức, giáo sƣ hƣớng dẫn luận án của tôi. Trong suốt thời gian

qua, Cô đã tận tình hƣớng dẫn, dành thời gian làm việc cùng tôi khi tôi ra Hà Nội

hoặc Cô vào Sài Gòn, cũng nhƣ sẵn sàng trao đổi, giúp đỡ khi tôi cần sự trợ giúp.

Tôi còn học tập đƣợc ở Cô những phẩm chất và kỹ năng quý giá của một nhà khoa

học, một giảng viên và một nhà thực hành. Cô còn là một “chỗ dựa xã hội” cho tôi

trong cuộc sống. Sự chân thành, tình cảm, thấu hiểu, ấm áp, luôn tin tƣởng và lạc

quan là những gì tôi nhận đƣợc từ Cô khi chia sẻ những khó khăn của mình.

Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến GS. TS Vũ Dũng, PGS. TS Nguyễn Thị Mai

Lan, những ngƣời đã tạo cho tôi động lực đầu tiên khi bắt đầu vào nghiên cứu.

Những nhận xét, ý kiến và khích lệ của quý Thầy Cô khi tôi mới bắt đầu trình đề

cƣơng nghiên cứu, đến những bài giảng của quý Thầy Cô đã giúp tôi rất nhiều khi

tìm ra con đƣờng đi của mình. Quý Thầy Cô cũng là ngƣời giúp đỡ tôi rất nhiều khi

trong suốt quá trình tôi học tập, nghiên cứu tại Học viện. Tôi đã thực sự coi Khoa

Tâm lý học, Học viện Khoa học Xã hội là gia đình của mình.

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS Nguyễn Văn Thọ, PGS. TS Trần Thị Lệ

Thu, những ngƣời Thầy rất quan trọng trong cuộc sống của tôi. Thầy, Cô là chỗ dựa

tinh thần cũng nhƣ luôn hỗ trợ tôi hết mình khi tôi gặp bất cứ khó khăn nào. Đƣợc

làm việc với Thầy, Cô trong những năm qua giúp tôi rất nhiều trong định hƣớng giá

trị, rèn luyện các kỹ năng nghiên cứu và thực hành.

Tôi xin chân thành cảm ơn đến các đồng nghiệp yêu quý của tôi tại Khoa

Tâm lý học, Trƣờng Đại học KHXH& NV, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh,

iii

nhất là TS Ngô Xuân Điệp, trƣởng khoa, luôn hỗ trợ, giúp đỡ, khích lệ và đồng cảm

với tôi trong suốt những năm qua, nhất là khi tôi có khó khăn trong cuộc sống, công

việc và nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn sự cộng tác, giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám

hiệu, Thầy Cô giáo và các em học sinh tại Trƣờng THCS Tam Hiệp, THCS Song

Ngữ Lạc Hồng (Biên Hòa, Đồng Nai) và THCS Phú Lâm (Tân Phú, Đồng Nai)

trong suốt quá trình thu thập số liệu và thực nghiệm của đề tài.

Lời cảm ơn đặc biệt cuối cùng, tôi xin dành cho những ngƣời thân trong gia

đình của tôi: Mẹ tôi, ngƣời mà cuộc đời bà đã tạo cảm hứng và giá trị để tôi theo

đuổi, và vợ tôi, ngƣời luôn ủng hộ và chia sẻ với tôi trong suốt những năm qua. Gia

đình là chỗ dựa cả về tinh thần và vật chất, luôn sát cánh và tạo mọi điều kiện thuận

lợi để tôi có thể theo đuổi ƣớc mơ học tập của mình. Nếu không có sự hỗ trợ của họ,

tôi khó có thể hoàn thành luận án này.

Trong điều kiện thời gian nghiên cứu chƣa nhiều, kinh nghiệm nghiên cứu

khoa học còn hạn chế nên luận án của tôi vẫn có những thiếu sót, kính mong quý

Thầy Cô giáo và quý đồng nghiệp đóng góp ý kiến, giúp tôi hoàn thiện luận án này

tốt hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 01 tháng 05 năm 2016

iv

NCS Lê Minh Công

MỤC LỤC

Lời cam đoan ............................................................................................................... i

Mục lục ...................................................................................................................... iii

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt .......................................................................... vi

Danh mục các bảng ................................................................................................. vii

Danh mục các biểu đồ ............................................................................................. viii

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................... 7

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................ 7

1.2. Một số vấn đề lý luận về nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học sinh trung học cơ sở ......................................................................................................... 34

Chƣơng 2. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................. 53

2.1. Địa bàn và khách thể nghiên cứu ...................................................................... 53

2.2. Tổ chức nghiên cứu ............................................................................................ 56

2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................... 63

CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN .......................................... 76

3.1. Nghiện internet của học sinh trung học cơ sở ................................................... 76

3.2. Các biểu hiện tâm lý của học sinh trung học cơ sở ........................................ 101

3.3. Tự đánh giá của học sinh trung học cơ sở ...................................................... 106

3.4. Mối quan hệ giữa nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học sinh trung học cơ sở ................................................................................................................ 114

3.5. Các yếu tố ảnh hƣởng tới tình trạng nghiện internet của học sinh trung học cơ sở ............................................................................................................................ 125

3.6. Tham vấn trƣờng hợp nghiện internet theo liệu pháp nhận thức - hành vi ..... 129

3.7. Đề xuất biện pháp giảm tình trạng nghiện internet và nâng cao tự đánh giá bản thân của học sinh trung học cơ sở ........................................................................... 139

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 144

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊNQUAN ĐẾN LUẬN ÁN ......... 150

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 151

v

PHỤ LỤC .................................................................................................................... 1

DANH ỤC CÁC K HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Tiế A Tiế Việt

American Psychiatric Association Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ. APA

Cognitive behavioral therapy Trị liệu tâm lý nhận thức hành vi CBT

Sổ tay chẩn đoán và thống kê các DSM Diagnostic and Statistical Manual

of Mental Disorders rối loạn tâm thần.

Điểm trung bình ĐTB Mean

Standard Deviation Độ lệch chuẩn Đ C

International Classification of Bảng phân loại các bệnh tật quốc tế ICD

Diseases

Internet Addiction Nghiện Internet IA

Internet Addiction Test Trắc nghiệm nghiện Internet IAT

Self – esteem Tự đánh giá bản thân TĐG

Junior high school students Trung học sơ cở THCS

Nhà xuất bản NXB

vi

Tổ chức Y tế thế giới. WHO World Health Organization

DANH ỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Tổng quan một số nghiên cứu tại Hoa Kỳ về mức độ của nghiện Internet ..... 8

Bảng 1.2. Các mức độ nghiện internet của học sinh THCS ...................................... 45

Bảng 2.1. Phân bố mẫu nghiên cứu tỷ lệ thịnh hành nghiện internet ...................... 55

Bảng 2.2. Khách thể nghiên thực trạng nghiện internet và mối quan hệ giữa nghiện

internet và tự đánh giá bản thân của học sinh THCS tại Đồng Nai .......................... 56

Bảng 3.1. Nhu cầu sử dụng internet của học sinh ..................................................... 77

Bảng 3.2. Ảnh hƣởng của nghiện internet đến sức khỏe của học sinh………….80

Bảng 3.3. Ảnh hƣởng của nghiện internet tới quan hệ xã hội và thành tích học tập

của học sinh ............................................................................................................... 97

Bảng 3.4. Ảnh hƣởng của nghiện internet tới an ninh cá nhân ................................. 99

và sử dụng chất của học sinh ..................................................................................... 99

Bảng 3.5. Khác biệt mức độ nghiện internet theo các nhân tố ảnh hƣởng ............. 100

Bảng 3.6. Biểu hiện nhận thức của học sinh ........................................................... 102

Bảng 3.7. Biểu hiện cảm xúc của học sinh ............................................................. 103

Bảng 3.8. Biểu hiện về hành vi của học sinh .......................................................... 105

Bảng 3.9. Các mặt biểu hiện cái Tôi của học sinh .................................................. 106

Bảng 3.10. Tự đánh giá về thể chất của học sinh nghiện internet .......................... 108

Bảng 3.11. Tự đánh giá về cảm xúc của học sinh nghiện internet.......................... 109

Bảng 3.12. Tự đánh giá về gia đình của học sinh nghiện internet .......................... 110

Bảng 3.13. Tự đánh giá về học đƣờng của học sinh nghiện internet ...................... 112

Bảng 3.14. Tự đánh giá về xã hội của học sinh nghiện internet ............................. 113

Bảng 3.15. Tự đánh giá về tƣơng lai của học sinh nghiện internet ......................... 114

Bảng 3.16. So sánh về điểm trung bình giữa các mặt biểu hiện cái Tôi với các mức

độ nghiện internet .................................................................................................... 118

Bảng 3.17. Tƣơng quan giữa các ứng dụng của nghiện Internet và các khía cạnh của

tự đánh giá bản thân ................................................................................................ 121

Bảng 3.18. Các nhân tố khách quan ảnh hƣởng tới nghiện internet của học sinh .. 126

vii

Bảng 3.19. Các yếu tố chủ quan ảnh hƣởng tới internet của học sinh .................... 128

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Các hình thức sử dụng internet ở học sinh ........................................... 78

Biều đồ 3.2. Kinh phí chi trả trung bình một tháng cho các dịch vụ Internet ........... 79

Biểu đồ 3.3. Tuổi bắt đầu sử dụng internet của học sinh .......................................... 80

Biểu đồ 3.4. Địa điểm thƣờng sử dụng internet của học sinh ................................... 82

Biểu đồ 3.5. Thời gian sử dụng internet trung bình một ngày của học sinh ............. 84

Biểu đồ 3.6. Thời điểm sử dụng internet trong ngày của học sinh ........................... 85

Biểu đồ 3.7. Phƣơng tiện truy cập internet của học sinh .......................................... 86

Biểu đồ 3.8. Nguồn hiểu biết sử dụng Internet ở học sinh ........................................ 87

Biểu đồ 3.9. Mức độ nghiện internet của học sinh ................................................... 88

Biểu đồ 3.10. Mức độ nghiện internet của học sinh theo giới tính ........................... 89

Biểu đồ 3.11. Mức độ nghiện internet của học sinh theo khối lớp ........................... 90

Biểu đồ 3.12. Mức độ nghiện internet của học sinh theo điều kiện kinh tế gia đình

và tình trạng quan hệ của bố mẹ................................................................................ 92

Biểu đồ 3.13. Mức độ nghiện internet của học sinh theo địa bàn cƣ trúvà loại hình

trƣờng ........................................................................................................................ 93

Biểu đồ 3.14. Tƣơng quan giữa tự đánh giá bản thân và các mức độ nghiện internet

................................................................................... Error! Bookmark not defined.

Biểu đồ 3.15. Tƣơng quan giữa nghiện Internet và các mặt biểu hiện cái Tôi . Error!

Bookmark not defined.

Biều đồ 3.16. Tƣơng quan giữa tự đánh giá bản thân và các ứng dụng mà học sinh

nghiện internet sử dụng ........................................................................................... 120

Bảng 3.17. Tƣơng quan chung giữa hậu quả của nghiện Internet và tự đánh giá bản

thân của học sinh………………………………………………………………..122

Biểu đồ 3.18. Tƣơng quan giữa tự đánh giá bản thân và các yếu tố gây hậu quả của

nghiện Internet ở học sinh ....................................................................................... 123

Biểu đồ 3.19. Tƣơng quan giữa yếu tố hậu quả do nghiện internet và các mặt biểu

viii

hiện của tự đánh giá bản thân .................................................................................. 124

Ở ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Internet đang ngày càng trở thành phƣơng tiện hữu ích cho đời sống con

ngƣời bởi những ứng dụng mang tính cách mạng của nó. Chính vì thế, số lƣợng

ngƣời sử dụng internet ngày càng tăng nhanh và hiếm có một một lĩnh vực hoạt

động nào mà không có ứng dụng từ internet [108]. Đồng thời với sự phát triển

nhanh chóng của các dịch vụ internet, các báo cáo về ảnh hƣởng tiêu cực của

internet, nhất là những hậu quả của nghiện internet cũng tăng nhanh trong thời gian

gần đây. Báo cáo tổng quan của Griffiths (2008) cho thấy, tại Hoa Kỳ có khoảng 5 –

19,8% ngƣời nghiện internet [71]. Báo cáo của Regina, Hechanova và Jennifer

Czincz (2009) cho thấy, Trung Quốc có khoảng 8% ngƣời nghiện internet, Đài Loan

là 5% và Hàn Quốc là 6% ngƣời nghiện internet, và nhóm nghiện internet chủ yếu

là thanh thiếu niên [113].

Các báo cáo nghiên cứu cũng cho thấy, nghiện internet thƣờng có những ảnh

hƣởng tiêu cực đối với cuộc sống của ngƣời nghiện nhƣ sức khỏe tâm thần (Young,

2004; Ju - Yu Yen và cs, 2007; Young Sik Lee và cs, 2008; Chih - Hung Ko, 2008;

Aykut Ceyhan và cs, 2008 [13][104] [105]; mối quan hệ xã hội (Young, 1996;

Quittner, 1997; Ngô Anh Đức, 2008; Trần Thị Minh Đức, 2013) [8] [92] [108]; vấn

đề học hành (Brady, 1996; Murphey, 1996; Young; 1996; Barber, 1997; Trần Hữu

Luyến, 2014) [27] [113]; quấy rối tình dục trên mạng (Garlick, 2004; Mitchell,

2007; Wolak, Finkelhor, 2008) và bắt nạt trên mạng (Raskauskas, Stoltx, 2007;

Kowalski, Limber, 2007; Slonje, Smith, 2008) [50].

Tự đánh giá bản thân (self-esteem), hiểu một cách ngắn gọn là những gì mà

bản thân một ngƣời nghĩ về mình, nói cách khác đó là điều mà một ngƣời tự đánh

giá về bản thân mình nhƣ thế nào theo quan điểm của chính mình (Burger, 2006)

[dẫn theo 20]. Theo Maslow (2004), nếu không đƣợc thỏa mãn hay bị thiếu hụt nhu

cầu tự đánh giá bản thân, con ngƣời thƣờng có cảm giác tự ti, yếu đuối và bất lực

1

[22]. Ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở (THCS) tự đánh giá bản thân đang đƣợc

hình thành và phát triển một cách mạnh mẽ. Các em thƣờng tự đánh giá bản thân

mình theo các khía cạnh về Thể chất, Gia đình, Xã hội, Học đƣờng, Cảm xúc,

Tƣơng lai và tự đánh giá thƣờng ảnh hƣởng đến nhiều vấn đề khó khăn cảm xúc,

vấn đề hành vi, sự cô đơn (Junghyun Kim, Robert LaRose, Wei Peng, 2009), sự gắn

bó, nhân cách hƣớng ngoại (Bibi Eshrat Zamani, Yasamin Abedini, Ali

Kheradmand, 2011), trầm cảm, cô đơn, tính nhút nhát (Silvia Casale, Giulia

Fioravanti, 2011) [113].

Trong các yếu tố tâm lý có mối liên hệ với nghiện internet ở lứa tuổi học sinh

THCS, tự đánh giá bản thân là một nhân tố đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm

(Greenberg, Lewis&Dodd, 1999; Ellison, Steinfield & Lampe, 2007; Steinfield,

Ellison & Lampe, 2008) [113].

Đồng Nai là một tỉnh công nghiệp, là trung tâm kinh tế lớn của cả phía

Nam.Những đặc điểm về phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa, ứng xử trong gia

đình đã tạo ra nhiều vấn đề ở giới trẻ. Các vấn đề về bạo lực học đƣờng, tệ nạn xã

hội, lạm dụng tình dục, các vấn đề rối nhiễu tâm lý và nghiện internet đang ngày

càng gia tăng cao [11] [41]. Trong quá trình làm thực hành tham vấn tâm lý với các

đối tƣợng là học sinh THCS nghiện internet, chúng tôi nhận thấy có mối quan hệ

mật thiết giữa tình trạng nghiện internet và tự đánh giá bản thân ở các em. Hiện nay,

những nghiên cứu về mối quan hệ này còn khá ít ỏi và mới chỉ dừng lại ở việc kiểm

định mối tƣơng quan giữa hai nhân tố này, mà chƣa phân tích thực trạng hay các

khía cạnh của tự đánh giá với các mức độ của nghiện internet. Chính vì thế, việc đi

sâu vào phân tích tƣơng quan giữa các mức độ của nghiện internet với các khía cạnh

của tự đánh giá bản thân, thực trạng tự đánh giá của thanh thiếu niên nghiện internet

ở học sinh THCS là vô cùng cần thiết để phân loại, xây dựng các biện pháp nhằm

giảm nghiện internet ở các em.

Xuất phát từ các lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiện Internet và tự

đánh giá bản thân của học sinh trung học cơ sở” làm đề tài luận án nghiên cứu

2

sinh của mình.

2. Mục đíc i cứuvà n iệ vụ i cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực trạng của nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học sinh THCS, luận án sử dụng tham vấn bằng liệu pháp Nhận thức-

Hành vi nhằm giảm tình trạng nghiện internet và nâng cao tự đánh giá bản thân cho

các em.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu nghiện internet và tự đánh giá bản thân ở

học sinh THCS.

Làm rõ thực trạng mức độ, biểu hiện của nghiện internet và tự đánh giá bản

thân của học sinh THCS nghiện internet.

Phân tích mối tƣơng quan giữa các mức độ nghiện internet và các khía cạnh

tự đánh giá bản thân của học sinh THCS nghiện.

Đề xuất thử áp dụng biện pháp nâng cao tự đánh giá bản thân và giảm tình

trạng nghiện internet ở học sinh THCS.

3. Đối tƣợ v p ạ vi i cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Mức độ, biểu hiện và mối quan hệ giữa nghiện internet và tự đánh giá bản

thân của học sinh THCS nghiện internet.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Giới hạn phạm vi nghiên cứu sàng lọc là học sinh đang theo học từ lớp 6 đến

lớp 9 tại các trƣờng THCS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, trong đó THCS Tam Hiệp là

368 em, THCS Phú Lâm 472 em và THCS Song ngữ Lạc Hồng 214 em.

Đề tài giới hạn nội dung nghiên cứu ở 3 mức độ nghiện internet (nhẹ, vừa và

nặng) đánh giá theo các tiêu chí: giới tính, khối lớp, kết quả học tập, điều kiện kinh

tế gia đình, tình trạng hôn nhân của cha mẹ, địa bàn sinh sống, đặc điểm trƣờng theo

học.

Đề tài chỉ phân tích một số biểu hiện tâm lý về nhận thức, cảm xúc và hành

vi của học sinh THCS nghiện internet. Đồng thời, phân tích một số yếu tố khách

3

quan và chủ quan ảnh hƣởng đến tình trạng nghiện internet của học sinh THCS,

cũng nhƣ những yếu tố bị ảnh hƣởng bởi tình trạng nghiện internet ở các em. Đề tài

không nghiên cứu các yếu tố ảnh hƣởng tới mối quan hệ giữa nghiện internet và tự

đánh giá bản thân của học sinh (vì trên thực tế không thấy có báo cáo nghiên cứu

nào về các yếu tố ảnh hƣởng đến mối liên hệ này).

Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những học sinh THCS nghiện internet (163

em) tự đánh giá bản thân theo khía cạnh nhƣ Thể chất, Cảm xúc, Gia đình, Học

đƣờng, Xã hội và Tƣơng lai mà không nghiên cứu đại trà tất cả các học sinh đƣợc

sàng lọc (1054 em). Về mặt lý luận, đề tài không tập trung phân tích sâu về cấu trúc

của tự đánh giá bản thân, mà chỉ phân tích các mặt biểu hiện của chúng (đã đƣợc

các tác giả trên thế giới và Việt Nam áp dụng và khảng định từ nghiên cứu thực tế)

trên học sinh THCS nghiện internet ở Đồng Nai.

4. P ƣơ p áp uậ v p ƣơ p áp i cứu cụ thể

4.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Nghiên cứu đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở một số nguyên tắc phƣơng pháp

luận trong tâm lý học sau:

Nguyên tắc hoạt động – nhân cách: Nghiên cứu học sinh THCS nghiện

internet và tự đánh giá bản thân của học sinh nghiện internet không tách rời các hoạt

động học tập, giao tiếp và các đặc điểm nhân cách của các em ở lứa tuổi THCS. Các

kết quả khảo sát về mức độ nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học sinh sẽ

đƣợc phân tích, nhận xét trên cơ sở lứa tuổi (khối lớp), kết quả học tập, địa bàn sinh

sống,… của chính nhóm học sinh này.

Nguyên tắc hệ thống: Nghiên cứu mức độ nghiện internet và tự đánh giá bản

thân, cũng nhƣ mối quan hệ giữa nghiện internet với tự đánh giá bản thân của các

em đƣợc xem xét trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các yếu tố từ chính cá

nhân học sinh, gia đình, trƣờng học và cộng đồng dân cƣ ở Đồng Nai.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, trong nghiên cứu này, đề tài sử

4

dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ sau: Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu,

điều tra bằng bảng hỏi, trắc nghiệm nghiện internet, phỏng vấn sâu, lấy ý kiến

chuyên gia, tham vấn tâm lý và phân tích dữ liệu qua phần mềm SPSS 11.5.

5. Đó óp ới của luận án

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ học sinh THCS tại Đồng Nai nghiện

internet ở mức khá cao. Tuy nhiên,học sinh chủ yếu nghiện internet ở mức độ nhẹ

và vừa, rất ít em nghiện internet ở mức nặng, nghiện internet chỉ có sự khác biệt có

ý nghĩa thống kê theo tiêu chí giới tính, không có sự khác biệt có ý nghĩa theo các

tiêu chí khối lớp, thành tích học tập, địa bàn sinh sống, tình trạng kinh tế gia đình,

tình trạng hôn nhân của cha mẹ, đặc điểm của trƣờng học sinh theo học.

Kết quả của luận án cũng cho thấy, học sinh THCS nghiện internet có các

biểu hiện tiêu cực về nhận thức, cảm xúc và hành vi. Tình trạng nghiện internet ảnh

hƣởng đến sức khỏe, quan hệ xã hội, thành tích học tập, an toàn cá nhân và sử dụng

chất của học sinh, tuy nhiên mức độ ảnh hƣởng không quá nghiêm trọng.

Luận án cho thấy, có các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hƣởng tới tình

trạng nghiện internet ở học sinh, bao gồm các yếu tố về đặc điểm tâm lý lứa tuổi

học sinh THCS, sự căng thẳng, bị bạn bè cô lập, thiếu sân chơi, có nhiều thời gian

rảnh, bị cha mẹ mắng chửi. Tuy vậy, các yếu tố ảnh hƣởng này không nhiều, chỉ ở

mức trung bình tới tình trạng nghiện internet ở các em.

Các khía cạnh tự đánh giá bản thân của học sinh THCS nghiện internet ở

mức độ thấp. Đồng thời, tự đánh giá bản thân chỉ có tƣơng quan với nghiện internet

mức độ nặng theo các khía cạnh gia đình và cảm xúc, không có tƣơng quan có ý

nghĩa giữa nghiện internet mức độ nhẹ và vừa với tự đánh giá bản thân theo các

khía cạnh xã hội, học đƣờng, thể chất, tƣơng lai.

Tham vấn tâm lý bằng liệu pháp Nhận thức – hành vi có hiệu quả tích cực

giúp giảm nghiện internet và tự đánh giá bản thân, đồng thời cần phải có sự hỗ trợ

của nhiều nguồn lực khác nhau. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu này có tính chất

gợi ý, tham khảo và là cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Về mặt lý luận

Kết quả nghiên cứu lý luận đã khái quát hóa đƣợc các xu hƣớng nghiên cứu

5

về nghiện internet, tự đánh giá bản thân, và mối quan hệ giữa nghiện internet và tự

đánh giá bản thân của học sinh THCS. Làm sáng tỏ các vấn đề: khái niệm và biểu

hiện của nghiện internet, khái niệm tự đánh giá bản thân, khái niệm nghiện internet

và tự đánh giá bản thân của học sinh THCS, mối quan hệ giữa nghiện internet và tự

đánh giá bản thân của học sinh THCS.

6.2. Về mặt thực tiễn

Kết quả nghiên cứu về mặt thực tiễn của luận án đóng góp vào các lĩnh vực

nghiên cứu về sự thịnh hành nghiện internet, các biểu hiện về nghiện internet ở học

sinh THCS cũng nhƣ việc ảnh hƣởng của tình trạng nghiện internet đến sức khỏe, học

tập, quan hệ xã hội, an toàn cá nhân và sử dụng chất ở các em. Đồng thời, kết quả

nghiên cứu về mặt thực tiễn của luận án cũng cho thấy, mối tƣơng quan giữa nghiện

internet ở mức độ nặng với các khía cạnh tự đánh giá về cảm xúc và gia đình.

Nghiên cứu đề xuất 04 giải pháp nhằm nâng cao tự đánh giá và giảm nghiện

internet của học sinh. Đồng thời bƣớc đầu thử nghiệm giải pháp can thiệp bằng hình

thức tham vấn tâm lý theo tiếp cận Nhận thức – Hành vi cho 2 học sinh có kết quả

tự đánh giá thấp và nghiện internet. Kết quả tham vấn cho thấy, để giảm tình trạng

nghiện internet của học sinh THCS nghiện internet cần phải nâng cao tự đánh giá

của các em, đồng thời cần phải có sự hỗ trợ của nhiều nguồn lực khác nhau.

Các đóng góp này của luận án giúp bổ sung vào cơ sở lý luận của chủ đề,

đồng thời mở ra các hƣớng nghiên cứu tiếp theo, nhất là trong bối cảnh Việt Nam.

Đóng góp của luận án cũng giúp cho các nhà thực hành trong lĩnh vực tâm thần học,

tâm lý lâm sàng và tâm lý trƣờng học có cơ sở thực chứng trong thực hành công

việc của mình.

7. Cơ cấu của luận án

Cấu trúc của luận án gồm: Phần mở đầu; Chƣơng 1. Tổng quan tình hình

nghiên cứu về nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học sinh THCS;Chƣơng

2.Tổ chức và phƣơng pháp nghiên cứu; Chƣơng 3. Kết quả nghiên cứu thực tiễn

nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học sinh THCS tại Đồng Nai; Kết luận

6

và Phụ lục.

C ƣơ 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NGHIỆN INTERNET VÀ TỰ

ĐÁNH GIÁ BẢN THÂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NGHIỆN INTERNET VÀ

TỰ ĐÁNH GIÁ BẢN THÂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1.1. N i cứu ở ƣớc o i

1.1.1.1. Nghiên cứu về nghiện internet

Nghiện internet đƣợc nghiên cứu lần đầu tiên năm 1996 bởi Kimberly S

Young (Giám đốc Trung tâm phục hồi nghiện Internet Hoa Kỳ) trên 600 trƣờng

hợp sử dụng internet quá mức và biểu lộ dấu hiện của nghiện internet, đƣợc đánh

giá trên bảng câu hỏi phỏng theo bảng câu hỏi của DSM-IV về nghiện đánh bạc.

Những nghiên cứu sau đó của bà đã khám phá nhiều hƣớng khác nhau của

nghiện internet, đƣa ra khái niệm nghiện internet, giải thích sự khác nhau giữa

nghiện internet và sử dụng internet thông thƣờng, mức độ, biểu hiện, hậu quả của

nghiện internet và các chƣơng trình can thiệp nghiện internet [107].

Nhiều nghiên cứu của các tác giả khác gần đây nhƣ Young (1996), David

(1999), Griffths (1998), Davis (1999), Cao&Su (2006), Whang, Lee, Chang (2006)

đã chỉ ra mức độ và tỷ lệ thịnh hành của nghiện internet, các nguyên nhân của

nghiện internet, hay các yếu tố liên quan.

- Nghiên cứu về thực trạng mức độ và nhu cầu ứng dụng nghiện internet ở

thanh thiếu niên

Nghiên cứu về tỷ lệ thịnh hành hay mức độ nghiện internet ở thanh thiếu

niên đang là một chủ đề rất đƣợc quan tâm và nhiều tranh cãi. Nghiên cứu đầu tiên

là của Young (1996) cho thấy có một tỷ lệ không nhỏ thanh thiếu niên tại Hoa Kỳ

lạm dụng internet[1]. Nghiên cứu khác của David Greenfield (1999) cũng tại Hoa

Kỳ cho thấy, có khoảng 5,7% ngƣời đủ tiêu chuẩn nghiện internet. Hiện nay, tại

Hoa Kỳ có khá nhiều nghiên cứu khác nhau về mức độ nghiện internet của thanh

thiếu niên, tuy nhiên, các nghiên cứu này cho thấy một kết quả đa dạng và không có

sự đồng nhất (có thể xem bảng 1.1) [45]. Theo chúng tôi, các kết quả nghiên cứu về

7

mức độ và tỷ lệ nghiện internet đƣa ra còn quá khác nhau có thể do số lƣợng mẫu

nghiên cứu và độ tuổi là khác nhau và đặc biệt các tiêu chí đƣa ra để đánh giá

nghiện cũng rất khác nhau (Vì thực tế tiêu chuẩn đánh giá nghiện đƣợc chỉ ra theo

tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng, trong khi các nghiên cứu trên mẫu lớn lại phải định

lƣợng cụ thể để đo đạc). Vì vậy sự khác nhau trong các kết quả nghiên cứu này là

điều tự nhiên.

Bả 1.1. Tổ qua ột số i cứu tại Hoa Kỳ về ức độ của iệ

Internet

Tỷ ệ K ác t ể Độ tuổi Số ƣợ Tác iả Nă

Không rõ 33 16 333 Greenfield 1999 5.6

Morahan; Martin; Sinh viên 20.7 277 2000 8.1 Schumacher

Anderson 2001 8.8 Sinh viên 1 078

DiNicola 2004 7 Sinh viên 731

Yuen_Lavin 2004 15.9 Sinh viên 283

Fortson và cộng sự 2007 26.3 Sinh viên 20.4 411

Zhang và cộng sự 2008 4 Sinh viên 22 171

Gentile 2009 19.8 Học sinh 8-18 1 178

Nghiên cứu tại Phần Lan trên cộng đồng thanh thiếu niên từ 12 - 18 tuổi cho

Saville và cộng sự 2010 5 Sinh viên 276

thấy có khoảng 4,7% nữ và 4,6% nam hội tụ đủ tiêu chuẩn của nghiện internet.

Nghiên cứu cũng cho thấy nghiện tình dục trực tuyến là nhiều nhất và có dấu hiệu

nặng nề hơn cả, theo nghiên cứu có khoảng 9% thanh thiếu niên rơi vào tình trạng

nghiện hành vi tình dục trực tuyến (Cooper, 2002) [1].

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, nghiên cứu của Aysegul Yolga Tahiroglu và cộng sự trên

cỡ mẫu là 3975 thanh thiếu niên và cho thấy có 7,6% trong số họ sử dụng trên 12

tiếng mỗi tuần [113].

Tại Hy Lạp, Konstantinos E. Siomos và cộng sự nghiên cứu 2200 học sinh từ

12 - 18 tuổi ở Thessaly cho thấy, có khoảng 70,8% thanh thiếu niên có truy cập

internet, hầu hết sử dụng internet để chơi trò chơi trực tuyến (khoảng 50,9%), tìm

kiếm thông tin (46,8%). Nghiên cứu cũng cho thấy có khoảng 8,2% thanh thiếu niên

8

đƣợc đánh giá là nghiện internet, trong đó nam là chủ yếu [80].

Có thể nói các nghiên cứu về chủ đề nghiện internet tại các nƣớc Châu Âu

cho thấy: đây là Châu lục phát triển các nghiên cứu về chủ đề này cùng với Hoa Kỳ.

Các vấn đề tập trung nghiên cứu bao gồm sự thịnh hành của nghiện internet, nghiên

cứu về yếu tố nguyên nhân và hậu quả của nghiện internet. Một bức tranh khá rõ

ràng từ các nghiên cứu chỉ ra rằng, tình trạng nghiện internet chủ yếu tập trung vào

lứa tuổi thanh thiếu niên. Đây là lứa tuổi rất nhạy cảm và có thể rơi vào các vấn đề

của hành vi xã hội, nhất là các vấn đề nhƣ nghiện internet. Mặc dù là Châu lục có sự

phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội khá ổn định nhƣng tỷ lệ thanh thiếu niên

nghiện internet là khá cao.

Tại châu Á, báo cáo nghiện internet nhƣ là một vấn đề sức khỏe cộng đồng

nghiêm trọng. Ở Trung Quốc, nghiên cứu của F. Cao và L. Su (2006) trên học sinh

từ 12 - 18 tuổi tại Thƣợng Hải cho thấy có khoảng 2,4% học sinh đủ tiêu chuẩn

nghiện internet. Hầu hết các dữ liệu gần đây về nghiện internet tại Trung Quốc (Cui,

Zhao, Wu & Xu, 2006, Tao; 2008; Tsai&Lin,2001; Yang&Tung, 2007) cho thấy có

khoảng từ 9,72% đến 11,06% thanh thiếu niên có dấu hiệu nghiện internet [1] [113].

Tại Đài Loan, nghiên cứu của Yang (2001) cho thấy có khoảng 10% nghiện

internet [113]. Một nghiên cứu khác cũng vào năm 2001 bởi nhóm tác giả Bai, Lin,

Chen trên cỡ mẫu là 100 nhà thực hành lâm sàng trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần

tham vấn trị liệu cho 251 thân chủ đã nhận định rằng khoảng 38 thân chủ (chiếm

khoảng 15%) hội đủ tiêu chuẩn của rối loạn nghiện internet [1].

Tại Hàn Quốc, nghiên cứu của nhóm Whang, Lee và Chang (2003) cho thấy

có khoảng 3,5% đủ tiêu chuẩn nghiện internet và chỉ có khoảng 18,4% đƣợc coi là

sử dụng internet có hiệu quả [78]. Nghiên cứu của nhóm Jang, Wang, Choi (2008)

trên cỡ mẫu là 912 học sinh từ lớp 7 đến lớp 12 (tuổi trung bình là 13,9 tuổi) tại 4

trƣờng ở Seoul (Hàn Quốc) cho thấy khoảng 3,7% học sinh cấp 2 và 5,1% học sinh

cấp 3 nghiện internet [113].

Tại Singapo, nghiên cứu của Subramaniam Mythily, Shijia Qiu và Munidasa

Winslow (2008) trên tổng cộng 2735 thanh thiếu niên, trong đó có 49,4% nam và

50,6% là nữ, tuổi trung bình là 13,9 tuổi. Kết quả cho thấy khoảng 17,1% thanh

thiếu niên báo cáo là đã sử dụng internet hơn 5 giờ mỗi ngày, và tất cả trong số họ

9

có những dấu hiệu của lạm dụng internet [96].

Tổng quan các nghiên cứu về mức độ nghiện internet ở cộng đồng châu Á

cho thấy rằng đây là Châu lục mới nổi và điều này dẫn tới nhiều tình trạng hành vi

xã hội ở thanh thiếu niên, đặc biệt là nghiện internet. Thực trạng phát triển mạnh mẽ

về kinh tế, xã hội và hòa nhập nhiều nền văn hóa làm cho các quốc gia này nảy sinh

nhiều vấn đề. Toàn bộ các kết quả nghiên cứu về nghiện internet trên là cơ sở để đề

tài đánh giá mức độ nghiện internet ở học sinh THCS tại tỉnh Đồng Nai.

Ngoài việc nghiên cứu về mức độ nghiện internet, nhiều tác giả cũng nghiên

cứu về nhu cầu các ứng dụng mà ngƣời nghiện thƣờng sử dụng khi trực tuyến. Đa

phần các tác giả cho rằng, ngƣời nghiện sử dụng đa dạng các ứng dụng trên internet

nhƣ lƣớt website, đánh bạc, trò chơi trực tuyến, mua sắm, xem phim tình dục, quan

hệ trên mạng (Young, 1998; David Greenfield, 1999), tình dục trực tuyến (Cooper,

2002), chơi trò chơi, tiếp đến là tìm kiếm thông tin (Aysegul Yolga Tahiroglu, 2004),

chơi trò chơi trực tuyến, tìm kiếm thông tin, mạng xã hội (Konstantinos E. Siomos,

2002). Các nghiên cứu này chủ yếu trên nhóm đối tƣợng là thanh thiếu niên [113].

- Nghiên cứu về các công cụ đo mức độ nghiện internet

Hiệp hội Tâm thần Mỹ (2013) đã chính thức đƣa “Tiêu chuẩn chẩn đoán lâm

sàng nghiện trò chơi trực tuyến” của vào phần 3 trong “Hƣớng dẫn Chẩn đoán và

thống kê các rối loạn tâm thần DSM-V”, và xác định đây là một vấn đề sức khỏe

tâm thần mới của xã hội hiện đại.

Trƣớc đó, nhiều tác giả khác nhau cũng đã cố gắng xây dựng các bộ công cụ

nhƣ trắc nghiệm hay các tiêu chuẩn chẩn đoán để sử dụng đo mức độ nghiện

internet của cá nhân. Sue Fisher (1994) đƣa ra 9 chiều kích của nghiện: 1/ Sự tiến

triển và mối bận tâm, 2/ sự dung nạp, 3/ hội chứng cai và mất kiểm soát, 4/ tránh

thoát, 5/sự săn đuổi, 6/ nói dối và lừa gạt, 7/ hành vi phạm pháp, 8/ phá vỡ mối quan

hệ gia đình/ nhà trƣờng, 9/ mất mát tài chính cần phải cứu trợ. Dựa trên 9 chiều

kích này, tác giả xây dựng một bảng tiêu chuẩn về hành vi nghiện internet với 9 tiêu

chuẩn và nếu cá nhân nào xác nhận có ít nhất 4 trên 9 tiêu chuẩn trên có thể coi là

nghiện internet [68].

Ivan Goldberg (1996) cho rằng nghiện internet là một khuôn mẫu không

thích ứng của sử dụng internet, dẫn tới những sự sút kém có ý nghĩa lâm sàng hay

10

những khó khăn tâm lý và đƣợc biểu thị bởi ít nhất ba (hay nhiều hơn) 6 triệu chứng

và xuất hiện liên tục trong khoảng thời gian 12 tháng trƣớc đó. Sáu triệu chứng bao

gồm: 1/Sự gia tăng thời gian sử dụng internet, 2/có hội chứng cai, 3/trạng thái thèm

muốn sử dụng internet, 4/nỗ lực không thành công của việc giảm sút sự thèm muốn,

5/ luôn dành nhiều thời gian sử dụng internet, 6/giảm sút chất lƣợng học tập hay

quan hệ xã hội [70].

Kimberly S. Young (1996) xây dựng bảng tiêu chuẩn bệnh lý về nghiện

internet của Young bao gồm 8 câu hỏi (8 vấn đề) đƣợc thay đổi từ tiêu chuẩn đánh

bạc bệnh lý có trong DSM-IV: 1/ Bận tâm cùng với Internet (nghĩ về thời gian sử

dụng online trƣớc đây hay nghĩ về hoạt động online kế tiếp); 2/ Sự cần thiết phải sử

dụng Internet với mức độ ngày càng tăng cả về thời gian và mức độ thỏa mãn đạt

đƣợc; 3/ Thƣờng xuyên lặp đi lặp lại những thất bại cho sự cố gắng kiểm soát, cắt

giảm hoặc đột ngột dừng sử dụng Internet; 4/ Sự bồn chồn, buồn chán, mệt mỏi, dễ

nổi cáu khi cố gắng cắt hoặc dừng sử dụng Internet; 5/ Sử dụng Internet lâu hơn

nhiều so với thời gian dự định; 6/Sử dụng Internet có gây nguy hại hay rủi ro cao

cho cuộc sống (nhƣ mất các quan hệ xã hội; mất việc làm; ảnh hƣởng đến học tập;

mất cơ hội sự nghiệp, công việc); 7/ Nói dối gia đình hay những ngƣời khác về việc

vi phạm hoặc bị lôi cuốn bởi Internet; và 8/Sử dụng Internet nhƣ là cách thoát khỏi

những vấn đề của cuộc sống hay làm khuây khỏa những cảm xúc khó khăn (cảm

giác không thể tự lo liệu, tội lỗi, lo âu, trầm cảm). Nếu cá nhân nào trả lời “có” 5

hoặc hơn trong 8 câu trên thì có thể coi là một trƣờng hợp nghiện internet [109].

Nghiên cứu của Tsai và Lin (2001), Yang và Tung (2007), Mei Sung Li

(2008), Wang Yu Long và cộng sự (2008), Lin và cộng sự (2009) đã sử dụng bảng

hỏi 8 câu của Young đã đƣợc Beard hiệu đính để đƣa ra tiêu chuẩn “5 trong 8”,

ngƣời nghiện internet phải có 5 trong 8 biểu hiện đƣợc đƣa ra. Đồng thời, qua

nghiên cứu thực tế, các tác giả cũng cho rằng trong 8 tiêu chuẩn mà Young đƣa ra,

thì có 5 tiêu chuẩn là bắt buộc, 3 tiêu chuẩn còn lại (chỉ cần xuất hiện một trong 3

tiêu chuẩn đó) thì mới đƣợc chẩn đoán là nghiện internet [1] [102].

Có thể nói, tại nhiều nƣớc châu Á, các công cụ đo đƣợc sử dụng chủ yếu là

mƣợn của nƣớc ngoài, và trong đó chủ yếu là mƣợn tiêu chuẩn chẩn đoán của

Young về bệnh nghiện cờ bạc, sau đó tiến hành hiệu đính để sử dụng. Chính vì thế,

11

luận án nàysử dụng bảng tiêu chuẩn 8 câu hỏi và trắc nghiệm nghiện internet của

Young (1996) để đo mức độ nghiện internet của học sinh trung học cơ sở. Bản tiêu

chuẩn đã đƣợc thích nghi trong một nghiên cứu trƣớc đó mà chúng tôi đã thực hiện

trên nhóm đối tƣợng thanh thiếu niên tại Đồng Nai [40].

- Nghiên cứu về hậu quả của nghiện internet ở học sinh

Hậu quả khó khăn về mặt cơ thể. Học sinh THCS nghiện internet thƣờng kéo

dài nhiều giờ ngồi trƣớc máy vi tính, vì vậy mắt họ thƣờng bị khô và nhức, đau lƣng

và nguy cơ tăng cao của các bệnh về cột sống. Ngoài ra, việc sử dụng internet quá

mức dẫn tới các rối loạn về nhịp tim, huyết áp,... Ngƣời sử dụng internet cũng

thƣờng phải sử dụng cổ tay để điều khiển bàn phím, chuột,.. với cƣờng độ cao vì

vậy các khớp cổ tay họ thƣờng bị đau nhức (hội chứng đƣờng ống cổ tay)[113].

Hậu quả khó khăn trong giấc ngủ. Học sinh THCS nghiện internet thƣờng sử

dụng nhiều thời gian để truy cập internet, thậm chí các em thức khuya để truy cập.

Điều này dẫn tới những tổn hại về giấc ngủ của các em [108].

Hậu quả ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội. Nghiên cứu củaYoung

(1996) nhận thấy rằng có khoảng 53% học sinh nghiện internet có vấn đề thực sự

nghiêm trọng trong các mối quan hệ thực tế nhƣ quan hệ tình cảm, những mối quan

hệ giữa cha mẹ - con cái, và những mối quan hệ thân thiết [108].

Hậu quả giảm sút chất lượng và thành tích học tập. Trong một cuộc khảo sát

tại Hoa Kỳ cho thấy, có đến 86% giáo viên, ngƣời công tác thƣ viện trả lời rằng sử

dụng internet quá mức và không đúng mục đích làm học sinh không cải thiện đƣợc

việc học tập (Barber, 1997). Nhiều tác giả cho rằng những thông tin trên internet quá

lộn xộn và không liên quan nhiều đến chƣơng trình giảng dạy ở trƣờng và sách giáo

khoa nên không thể giúp sinh viên có đƣợc những kết quả tốt hơn trong học tập

[100]. Young (1996) nhận thấy rằng 58% học sinh báo cáo có sự suy sụp về thói quen

học tập, có sự rớt hạng, bỏ học nhiều môn,... do sử dụng internet quá nhiều [113].

Hậu quả liên quan đến hành vi tình dục không tích cực. Quấy rối tình dục

trên mạng là một vấn đề mới trong xã hội ngày nay, nhất là đối với học sinh và

thanh thiếu niên. Tại Anh, nhiều báo cáo cũng cho thấy việc quấy rối tình dục trên

mạng thƣờng dẫn tới quấy rối tình dục ở đời sống thực. Nghiên cứu tại Australia

cho thấy có khoảng 7% thanh thiếu niên sử dụng internet bị quấy rối tình dục

12

(Garlick, 2004; Mitchell, 2007; Wolak, Finkelhor, 2008). Gạ gẫm và gợi tình trên

mạng chƣa có những nghiên cứu cụ thể nhƣng đây thực sự là một vấn đề tiềm tàng

nguy hiểm cho nhiều thanh thiếu niên. Tại Australia, các nghiên cứu đƣa ra con số

khoảng 43-48% thanh thiếu niên sử dụng internet liên quan đến gợi tình và gạ gẫm

tình dục trên mạng [50].

Hậu quả về việc bị bắt nạt trên mạng và hành vi gây hấn. Một số nhà nghiên

cứu (Yen và cs, 2007; Chil - Hung Ko và cs, 2009), cho thấy nghiện internet và

hành vi gây hấn có rất nhiều mối quan hệ ở lứa tuổi thanh thiếu niên, nhất là lứa

tuổi học sinh trung học phổ thông [104]. Ko và cs (2009) cho rằng đánh bạc trực

tuyến, xem phim tình dục, tán gẫu, trò chơi trực tuyến là những yếu tố gây nên các

hành vi gây hấn nhiều nhất [73].

Bắt nạt trên mạng là một vấn đề đang nổi lên trong lĩnh vực an toàn mạng

cho giới trẻ. Tại Hoa Kỳ và Châu Âu, các báo cáo cho thấy có sự gia tăng độ tuổi về

tình trạng bắt nạt qua mạng từ 8% ở độ tuổi lên 7, 23% ở độ tuổi 10-11, và khoảng

50% ở độ tuổi thanh thiếu niên (Raskauskas, Stoltx, 2007; Kowalski, Limber, 2007;

Slonje, Smith, 2008,...). Tại Autralia các nghiên cứu cũng cho thấy có khoảng dƣới

10% thanh thiếu niên trong độ tuổi bị bắt nạt trên mạng (Cross, Shaw, Hearn,

Epstein, Monks, Lester, 2009). Các nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác nhau giữa

độ tuổi và giới tính so với hành vi bắt nạt trên mạng. Việt Nam cũng đã có sự ghi

nhận những trƣờng hợp bạo lực học đƣờng liên quan đến mạng internet [50].

Hậu quả về tự phơi bày hình ảnh không thích hợp trên mạng.Nghiên cứu tại

Autralia cho thấy có khoảng 84% nam và 60% nữ cho rằng đã tình cờ phơi bày hình

ảnh bản thân trên mạng. Nghiên cứu cũng cho thấy là khoảng 38% nam và 2% nữ

thanh thiếu niên đã chủ động phơi bày hình ảnh khỏa thân của họ trên mạng (Rimm,

1995; Mehta, 2001; Mehta & Plaza, 1997; Doran, 2008; Eselman, 2009) [50]. Theo

Ngô Anh Đức và cs đó là một cách làm thay đổi nhận dạng và hành vi tình dục ở

lứa tuổi thanh thiếu niên. Điều đó dẫn tới khó khăn trong nhận diện giới và tình dục

sau này của các em. Bên cạnh đó, đôi khi có thể dẫn tới sự gạ gẫm hay lôi kéo tình

dục trong đời sống thực [92].

Một nội dung nữa mà thanh thiếu niên hay phơi bày hình ảnh bản thân trên

mạng là liên quan đến truyền thông bạo lực (các video đánh nhau), tự gây hại hay tự

13

tử,... Nghiên cứu tại Châu Âu cho thấy có khoảng 15-90% thanh thiếu niên phơi bày

những nội dung bạo lực trên mạng. Tƣơng tự tại Hoa Kỳ khoảng 25% thanh thiếu

niên xem các trang mạng bạo lực [1] [50] [1113].

Ảnh hưởng về việc sử dụng chất.Nghiên cứu của Chih - Hung Ko và cs

(2008) đối với học sinh trung học phổ thông cho thấy có khoảng 18,3% nghiện

internet và 13,5% trong số đó sử dụng rƣợu gây nguy hiểm. Tác giả cho thấy rằng,

các lý thuyết nguyên nhân sử dụng rƣợu gây hại cũng có thể dùng để lý giải cho

việc nghiện internet [69]. Nghiên cứu của Ju-Yu- Yen và cs (2007) đối với sinh viên

đại học cho thấy có khoảng 12,3% nghiện Internet và 6,6% sử dụng rƣợu gây nguy

hiểm, và cả hai yếu tố nghiện này có mối liên quan đến nhau [74].

Một số vấn đề sức khỏe tâm thần kèm theo (tăng động giảm chú ý (ADHD),

trầm cảm, lo âu xã hội, ám ảnh cưỡng chế).Nghiên cứu của Ju - Yu Yen và cs tại

Đài Loan cho thấy rằng nghiện internet có mối quan hệ cao với triệu chứng ADHD

và trầm cảm, lo âu xã hội và hành vi gây hấn [104] [105]. Các nghiên cứu khác về

mối quan hệ giữa trầm cảm và nghiện internet cho thấy có sự gia tăng mức độ trầm

cảm khi ngƣời bệnh nghiện internet và ngƣợc lại (Young, 1998, 2004; Young Sik

Lee và cs, 2008; A. Aykut Ceyhan và cs, 2008; A. Aykut Ceyhan và cs, 2009). Sự

rút lui khỏi các quan hệ cuộc sống có ý nghĩa là hậu quả của sử dụng internet mang

tính bệnh lý. Điều đó làm gia tăng mức độ cách li xã hội, sau đó thời gian sử dụng

máy tính quá mức có thể làm gia tăng trầm cảm hơn. Tính tự định hƣớng và tinh

thần hợp tác kém là đặc trƣng nhân cách có quan hệ với trầm cảm, và những vấn đề

đó thƣờng dẫn tới sử dụng internet bệnh lý (Ju- Yu Yen, 2007) [49] [61]

[68][106][108].

Tổng quan nghiên cứu về chủ đề này cho thấy, ngƣời nghiện internet có các

hậu quả đa dạng nhƣ vấn đề sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, giấc ngủ, giảm

sút chất lƣợng quan hệ xã hội, thành tích học tập , vấn đề an toàn cá nhân (bắt nạt,

phơi này hình ảnh không tích hợp, quấy rối, gợi tình và gạ gẫm tình dục trên mạng),

vấn đề sử dụng chất. Đây là những cơ sở để chúng tôi xây dựng thang khảo sát về

các yếu tố ảnh hƣởng (hậu quả) của nghiện internet ở học sinh THCS.

- Nghiên cứu vấn đề can thiệp nghiện internet

Những nghiên cứu về can thiệp nghiện internet còn là vấn đề rất mới mẻ.

14

Young (1999) cho rằng, sử dụng Internet có lợi trong kinh doanh và nhiều công

việc khác, do đó, những hình thức ngƣng sử dụng internet không phải là những can

thiệp thực tế khi họ bắt phải cấm sử dụng internet. Việc tập trung can thiệp nên cần

có sự điều độ và sử dụng có kiểm soát, Young cũng chia sẻ quan điểm cho rằng cần

xây dựng phác đồ can thiệp nghiện internet kết hợp cả hóa dƣợc trị liệu lẫn liệu

pháp tâm lý.

Giống nhƣ các tình trạng nghiện nói chung, ngƣời nghiện internet thƣờng lẩn

tránh các vấn đề khó khăn trong cuộc sống thực tế. Trị liệu cho một ngƣời nghiện

ngoài việc hạn chế hoặc tiến đến ngừng hẳn việc việc sử dụng internet đòi hỏi phải

thiết lập mục tiêu giúp họ tự tin để đƣơng đầu với các khó khăn trong thực tế.

Tiếp cận ngƣời nghiện internet trên góc độ ảnh hƣởng của việc lạm dụng

internet quá mức đến sức khỏe cá nhân họ (đặc biệt các vấn đề sức khỏe tâm thần

nhƣ trầm cảm, lo âu, rối loạn nhân cách chống đối xả hội,...) hiện đã có nhiều tác

giả xây dựng nhóm các phƣơng thức trị liệu từ việc dùng thuốc (thuốc chống trầm

cảm nhóm SSRI hoặc naltrexone), cho đến liệu pháp nhận thức – hành vi (Orzack,

1999 ; Hall& Parsons, 2001 ; Yu& Zhao, 2004) [113]. Ngoài ra, việc xây dựng

những chƣơng trình can thiệp bằng hỗ trợ nhóm và áp dụng liệu pháp gia đình

(Young, 1998,2009; Beard, 2008; Liddle, Dakof, Turner, Henderson, Greenbaum,

2008) là những việc làm rất thiết yếu trong việc giúp ngƣời nghiện phục hồi và gia

tăng khả năng hội nhập trở lại vào đời sống thực tế. Bên cạnh đó, một số nhà thực

hành lâm sàng (Shannon Chrismore, Betzelberger, Lybby Bier & Camacho, 2009)

đã đề nghị đƣa chƣơng trình phục hồi 12 bƣớc cho chƣơng trình phục hồi nghiện

internet [113; tr135-205]. Việc đơn thuần cách ly hoặc ngăn cản ngƣời nghiện tiếp

xúc trở lại với tác nhân và hoàn cảnh gây nghiện thƣờng không đủ hiệu quả để ngăn

ngừa sự tái nghiện.

Trong luận án này, sử dụng can thiệp cho học sinh THCS nghiện internet

bằng liệu pháp tâm lý nhận thức – hành vi. Chúng tôi cho rằng, đây là liệu pháp

ngắn, phù hợp với bối cảnh Việt Nam và phù hợp với vấn đề nghiện internet ở lứa

tuổi học sinh.

1.1.1.2. Nghiên cứu về tự đánh giá bản thân

Tự đánh giá bản thân là một vấn đề rất quan trọng của đời sống tâm lý con

15

ngƣời nên nhận đƣợc sự quan tâm từ khá lâu của nhiều nhà nghiên cứu khác nhau.

Có thể nói, W. James (1890), Cooley (1902) và Mead (1934) là những nhà

tâm lý học đầu tiên cung cấp khái niệm và định hƣớng cho việc nghiên cứu về tự

đánh giá. Quan tâm đến nguồn gốc, mức độ của tự đánh giá, tuy nhiên, họ vẫn còn

bị hạn chế do chƣa chỉ ra đƣợc những nhân tố ảnh hƣởng tới sự tự đánh giá [17].

Trong những năm gần đây, đánh giá bản thân là một đề tài đã và đang đƣợc

quan tâm nghiên cứu nhiều trên thế giới. Theo Bolognini (1998), thống kê cho

thấy, trong vòng hơn 10 năm cuối của thế kỷ XX đã có hơn 20.000 công trình

nghiên cứu về tự đánh giá bản thân. Còn theo đánh giá của Hiệp hội Xã hội học và

Tâm lý học Mỹ, trong hơn 30 năm qua đã có hàng nghìn bài báo, đầu sách viết về

tự đánh giá bản thân và con số này vẫn không ngừng gia tăng (Owens, Stryker và

Goodman, 2001) [20].

- Nghiên cứu về các tiêu chí đo của tự đánh giá bản thân

Các nhà nghiên cứu đã đƣa ra một số tiêu chí xem xét về tự đánh giá bản

thân. Đó là: Tính phù hợp; tính phân biệt và tính khái quát; độ cao - thấp của và tính

bền vững.

Tính phù hợp: Tự đánh giá là hình ảnh về những đặc điểm, phẩm chất, năng

lực, thái độ… của bản thân trong các tình huống của hiện thực khách quan. Tính

phù hợp của tự đánh giá diễn tả sự tự đánh giá đúng, khách quan, chính xác những

hiện tƣợng đƣợc đánh giá. Cụ thể là cá nhân phải đánh giá đúng mức độ của các

hiện tƣợng tâm lý có ở bản thân [20].

Sự đánh giá bên ngoài và tự đánh giá phải dựa vào một hệ thống mức độ

đánh giá phù hợp với tiêu chuẩn xã hội và cả hai sự đánh giá đó, về mặt nội dung

cùng phải dựa vào hoàn cảnh, tình huống của hiện tƣợng đƣợc đánh giá.

Tính phân biệt và tính khái quát: Một số tác giả nghiên cứu về tính phân biệt

và tính khái quát của tự đánh giả bản thân ở các lứa tuổi khác nhau cho thấy: Ở học

sinh THCS, tự đánh giá đã thể hiện cả hai xu hƣớng, cả phân biệt lẫn khái quát

(Safin, 1975) [20]. Và cùng với sự phát triển của nhân cách, trẻ có khả năng tự đánh

giá về nhiều mặt hơn, mức độ độc lập tăng dần lên (Boivin, 1992) [22].

Nhìn chung, giữa tính phân biệt và tính khái quát của tự đánh giá luôn có sự

thống nhất chặt chẽ với nhau. Đối với mỗi cá nhân, trong các lĩnh vực hoạt động

16

khác nhau, mức độ biểu hiện của các phẩm chất, năng lực… của cá nhân có sự khác

nhau. Nói cách khác, cá nhân có sự tự đánh giá bản thân trong các dạng hoạt động

khác nhau. Khi đó, tự đánh giá có tính phân biệt.

Từ sự đánh giá, nhận xét từng mặt về bản thân trong các dạng hoạt động

khác nhau, cá nhân có sự đánh giá chung về những phẩm chất, năng lực, những

thuộc tính… nhân cách của bản thân. Khi đó, tự đánh giá có tính khái quát.

Độ cao, thấp: Khi nói tới độ cao, thấp của tự đánh giá có nghĩa là đề cập đến

tiêu chuẩn đánh giá ở mỗi ngƣời. Tiêu chuẩn ấy đƣợc xây dựng trên các chuẩn mực,

quy tắc xã hội của tập thể. Nói cách khác, một tiêu chuẩn đánh giá đƣợc xã hội thừa

nhận thông qua lăng kính chủ quan của mỗi ngƣời; cá nhân tiếp nhận nó, đối chiếu

mình với nó để nhận biết đƣợc những biểu hiện riêng của mình vào vị trí nào đó

trong hệ thống các chuẩn mực định sẵn. Thông qua đó, ta biết đƣợc độ cao, thấp của

tự đánh giá [20] [22].

Tính bền vững: Tính bền vững của tự đánh giá đƣợc xác định trong mối liên

hệ với những yêu cầu khác nhau và những khoảng thời gian khác nhau, nó liên quan

tới một số đặc điểm tâm lý cá nhân: Tính bền vững của tự đánh giá phụ thuộc vào

tính bền vững của sự tự khẳng định trong nhân cách và tính bền vững về mặt xã hội

của nhóm có liên quan (Dissler, 1976) [20] [22].

- Nghiên cứu về ảnh hưởng của tự đánh giá tới sự phát triển nhân cách

Theo Iarosevski & Petroski (1990), tự đánh giá đóng vai trò là tác nhân điều

chỉnh hành vi và hoạt động của con ngƣời. Ngoài ra, hai ông còn cho rằng mối liên

hệ giữa con ngƣời với thế giới xung quanh, sự phê phán, yêu cầu đối với bản thân

và mối quan hệ thành công cũng nhƣ thất bại đều phụ thuộc vào sự tự đánh giá [22].

Burns (1979) và Covington (1992) cho rằng ngƣời tự đánh giá bản thân cao

thƣờng cƣ xử, hành động có tính cộng đồng hơn, có trách nhiệm hơn, đạt đƣợc

những thành công cao hơn, có xúc cảm xã hội cao hơn và hạnh phúc hơn [18] [19].

Ngƣợc lại, những ngƣời đánh giá bản thân thấp phải đối mặt với một loạt những vấn

đề xã hội và tâm lý bởi vì ngƣời ta cho rằng họ là những ngƣời dễ bị ảnh hƣởng, dễ

chịu tác động, nhạy cảm với những ảnh hƣởng tiêu cực từ môi trƣờng xã hội cũng

nhƣ tâm lý mà họ sống (Mecca, 1989; Owens và Stryker, 2001) [dẫn theo 18].

Cũng có những chứng cứ cho thấy mọi ngƣời muốn chứng tỏ cái tôi của

17

mình (Swann, Stein-Seroussi và Gisler, 1992), nên khi một ngƣời nào đó cảm thấy

“mọi thứ thật tồi tệ”, ngƣời ta sẽ có khuynh hƣớng làm những điều không tốt (Heise

& Smith-Lovin, 1981) [18].

- Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới tự đánh giá bản thân

Qua những nghiên cứu cho thấy nổi lên hai yếu tố ảnh hƣởng tới tự đánh giá

bản thân, đó là: Những yếu tố xã hội bên ngoài và những yếu tố tự nhiên bên trong.

Xem xét ảnh hƣởng của đánh giá xã hội tới tự đánh giá bản thân, Ananhiep

(1980) cho rằng, chính trong quá trình giao tiếp mà con ngƣời hiểu đƣợc ngƣời khác

và nhận biết đƣợc thái độ của ngƣời khác về mình [20]. Ngoài ra, theo Adler

(1927), Mead (1934), (Rogers (1951), Hoge, Smith và Hanson (1990) sự đánh giá,

chấp nhận của những ngƣời xung quanh cũng là yếu tố vô cùng quan trọng ảnh

hƣởng tới sự đánh giá của chúng ta về bản thân [22].

Mối quan hệ liên nhân cách với bố mẹ và những ngƣời thân trong gia đình

cũng không nằm ngoài mối liên hệ ảnh hƣởng tới tự đánh giá bản thân của cá nhân.

Sự quan tâm, chăm sóc và đánh giá của gia đình ít nhiều làm cho cá nhân thấy mình

có giá trị hoặc ít giá trị hơn (Adler, 1927; Rubinstein, 1974; Rosenberg, 1979;

Bowlby, 1982). Những trải nghiệm trong gia đình cũng là yếu tố đƣợc Wallerstein

và Kelly (1980), Felson và Zielinski (1989) đánh giá là yếu tố có ảnh hƣởng tới tự

đánh giá bản thân [22].

Đặc điểm của nhóm xã hội mà cá nhân tham gia, năng lực của những ngƣời

trong nhóm cũng nhƣ vị trí của cá nhân trong nhóm là yếu tố cũng cần phải tính đến

khi muốn làm tăng tính tích cực hay tiêu cực của quá trình tự đánh giá (Mendelson

và White, 1985; Kail, 1998) [20].

Sự chấp nhận, sự đánh giá, mối quan hệ liên nhân cách, vị trí của cá nhân

trong nhóm xã hội, năng lực nhận thức của cá nhân, sự thống nhất giữa cái Tôi và

các lĩnh vực mà cá nhân quan tâm đều có sự ảnh hƣởng nhất định đến tự tự đánh giá

bản thân (James, 1890; Coopersmith,1967; Rosenberg, 1979; Harter, 1984-1990;

Tessers, 1988; McKay và Fanning, 2000) [20].

Xem xét ảnh hƣởng của yếu tố tự nhiên bên trong tới tự đánh giá bản thân,

Steinberg (1993) cho rằng, thời điểm dậy thì (dậy thì sớm hay muộn), với những

đặc điểm sinh lý, là một nhân tố ảnh hƣởng tới tự đánh giá bản thân [20]. Theo

18

Higgins (1991), Showers (1992), Steinberg (1993), tính thống nhất giữa “cái tôi

thực tế” và “cái tôi lý tƣởng” cao thì sẽ có tự đánh giá bản thân cao [20]. Tình trạng

sức khỏe của cá nhân cũng đƣợc coi nhƣ nguồn gốc của tự đánh giá bản thân

(Adler, 1927; Mendelsson, 1985; Schultz, 1992) [20]. Thực tế là, nếu nhƣ chúng ta

luôn cảm thấy lo hãi, bất an hoặc cảm thấy ốm yếu thì khó có thể luôn có sự đánh

giá tích cực về bản thân.

1.1.1.3. Mối quan hệ giữa nghiện internet và tự đánh giá bản thân

Tự đánh giá bản thân là một đặc điểm tâm lý rất quan trọng (nhất là trong giai

đoạn học sinh THCS) có liên quan đến nhiều yếu tố về cảm xúc và hành vi của cá

nhân, trong đó có mối liên hệ với các hành vi xã hội nhƣ nghiện internet. Nghiên cứu

về mối quan hệ giữa tự đánh giá bản thân và nghiện internet ở thanh thiếu niên là một

chủ đề mới mẻ và còn hạn chế. Tuy nhiên, các nghiên cứu của Greenberg,

Lewis&Dodd (1999), Miller (1990), Richter, Brown & Mott (1991) đều cho thấy tồn

tại mối quan hệ mạnh mẽ giữa hai yếu tố này [113]. Trong một số nghiên cứu của

Griffiths (2000; 2008) đã chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa nghiện internet với các

đặc điểm nhân cách, tự đánh giá bản thân và các rối loạn tâm thần [71].

Davis (2001) đã cho rằng có những nhân tố xa và nhân tố gần có quan hệ

với việc sử dụng internet. Những nhân tố xa có quan hệ với việc sử dụng internet

là các rối loạn tâm thần cơ bản, bao gồm trầm cảm, lo âu xã hội, và các rối loạn

tâm thần khác. Các nhân tố gần đề cập đến sự nhận thức không phù hợp, đó là việc

cá nhân đánh giá tiêu cực về bản thân và thế giới [61]. Tự đánh giá đã đƣợc

nghiên cứu nhƣ một nhân tố nổi bật có liên quan với sử dụng Internet (Jackson,

Eye, Fitzgererald & Zhao, 2010) và sử dụng internet bệnh lý (Kim& Davis, 2009)

[113]. Trong một vài nghiên cứu khác (Ellison, Steinfield & Lampe, 2007;

Steinfield, Ellison & Lampe, 2008), thanh thiếu niên tự đánh giá thấp có xu hƣớng

trải qua nhiều thời gian hơn trên mạng xã hội so với ngƣời tự đánh giá bản thân

cao [66] [113].

Tổng quan các nghiên cứu về mối quan hệ giữa nghiện internet và tự đánh

giá bản thân có thể đƣợc khái quát thành 3 hƣớng nghiên cứu cơ bản sau:

- Hướng thứ nhất nghiên cứu ảnh hưởng qua lại giữa nghiện internet và tự

19

đánh giá bản thân.

Các báo cáo nghiên cứu theo hƣớng này cho rằng, nghiện internet có mối

quan hệ với tự đánh giá thấp bản thân. Nghiên cứu của Lily Mehrnaz, Alireza

(2008) trên đối tƣợng là học sinh cho thấy, những học sinh nghiện internet cô đơn

hơn và tự đánh giá bản thân thấp, kỹ năng xã hội kém hơn so với học sinh sử dụng

internet ở mức vừa phải. Tuy nhiên, nghiên cứu không đi vào phân tích sâu hơn các

yếu tố nhƣ sự cô đơn, kỹ năng xã hội kém, và tự đánh giá thấp bản thân có phải là

yếu tố dẫn tới nghiện internet hay không [86].

Nghiên cứu của Tuncay Ayas và Mehmet Baris Horzum (2010) tại Trabzon,

Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy, trầm cảm, sự cô đơn và tự đánh giá bản thân thấp có mối

quan hệ với nghiện internet ở thanh thiếu niên. Tuy nhiên, kiểm định t – test cho

thấy, trầm cảm và cô đơn nhƣ là yếu tố có thể dẫn tới nghiện internet, tự đánh giá

bản thân thấp không phải là yếu tố báo trƣớc của nghiện Internet [113].

Một nghiên cứu khác của Fioravanti và cộng sự (2012) tại Italy trên thanh

thiếu niên cho thấy, tự đánh giá bản thân thấp có mối quan hệ với nghiện internet,

thanh thiếu niên nghiện internet có tự đánh giá thấp chủ yếu sử dụng ứng dụng

mạng xã hội và tán gẫu. Có sự khác biệt về mức tự đánh giá bản thân giữa nam và

nữ thanh thiếu niên nghiện internet [1].

Laura Widyanto, Mark D.Griffiths (2008, 2011) cho rằng tự đánh giá bản

thân thấp có một mối quan hệ tiêu cực và mạnh với sử dụng internet bệnh lý.

Ngoài ra, những ngƣời sử dụng internet bệnh lý thƣờng truy cập vào các diễn đàn,

trò chơi trực tuyến và tán gẫu khi trực tuyến [81] [82]. Tuy nhiên, kết quả nghiên

cứu đã không kiểm định mối quan hệ nhân quả cũng nhƣ kiểm định mối quan hệ

giữa tự đánh giá bản thân thấp và các ứng dụng truy cập này của internet.

Nghiên cứu của Eun Joo Kim và cộng sự (2008) trên nhóm đối tƣợng là

thanh thiếu niên cho thấy rằng, hành vi gây hấn, nhân cách tự yêu mình (ái kỉ) và

vấn đề tự đánh giá thấp bản thân có quan hệ với nghiện trò chơi trực tuyến và ngƣợc

lại. Nghiện trò chơi trực tuyến thƣờng làm giảm đi các mối quan hệ liên nhân cách

nhƣ gia đình và bạn bè. Việc sử dụng trò chơi trực tuyến nhiều có liên hệ với những

khó khăn tâm lý cá nhân và stress trong cuộc sống. Những vấn đề nhƣ hành vi gây

hấn, nhân cách tự yêu mình, tự đánh giá thấp bản thân, quan hệ liên nhân cách, và

20

nghề nghiệp là những yếu tố báo trƣớc nghiện internet [66].

Tổng quan các báo cáo nghiên cứu này cho thấy: 1) Có mối quan hệ có ý

nghĩa giữa tự đánh giá thấp bản thân và nghiện internet; 2) Ngoài yếu tố tự đánh giá

bản thân thấp, còn có các yếu tố khác bao gồm cả vấn đề hành vi xã hội và cảm xúc

nhƣ sự cô đơn, thiếu các kỹ năng xã hội, trầm cảm cũng có mối quan hệ với nghiện

internet; 3) Có một báo cáo nghiên cứu tìm thấy nghiện internet chỉ có mối quan hệ

với nữ giới có tự đánh giá thấp, không tìm thấy mối quan hệ với nam giới có tự

đánh giá thấp. Có sự khác biệt về giới tính về tự đánh giá bản thân thấp của thanh

thiếu niên nghiện internet; 4) Thanh thiếu niên tự đánh giá thấp bản thân thƣờng

nghiện các ứng dụng liên quan đến quan hệ/ tƣơng tác trực tuyến (mạng xã hội, tán

gẫu, diễn đàn) và trò chơi trực tuyến; 5) Các báo cáo nghiên cứu chủ yếu trên đối

tƣợng là thanh thiếu niên, không thấy có báo cáo trên ngƣời trƣởng thành. Mô hình

thống kê của các nghiên cứu này chƣa chỉ ra đƣợc mối quan hệ nhân quả giữa các

yếu tố, đồng thời chƣa đi vào phân tích sâu mối quan hệ giữa các yếu tố này.

- Hướng thứ hai là các nghiên cứu về tự đánh giá thấp bản thân có thể dẫn tới

nghiện internet, hay nghiện internet có nguy cơ từ tự đánh giá bản thân thấp.

Có khá nhiều nghiên cứu theo chủ đề này cho thấy, tự đánh giá thực sự nhƣ

một yếu tố nguy cơ có thể thúc đẩy tình trạng nghiện internet ở thanh thiếu niên. Có

2 chủ đề nghiên cứu theo hƣớng này: 1) Nghiên cứu trực tiếp về mối quan hệ nhân

quả giữa tự đánh giá thấp bản thân và nghiện internet; 2) Tự đánh giá bản thân thấp

có thể dẫn tới một vấn đề hành vi xã hội hay vấn đề nội tâm của cá nhân, và từ vấn

đề này có thể dẫn tới nghiện internet.

Các tác giả theo hƣớng thứ nhất nhƣ Shotton (1991) cho rằng cá nhân tự

đánh giá thấp bản thân có xu hƣớng nghiện internet cao hơn so với cá nhân tự đánh

giả bản thân cao. Greenberg, Lewis và Dold (1999), Murali và George (2007),

Young (1999) cho rằng sự đánh giá thấp bản thân là nguyên nhân thúc đẩy việc sử

dụng internet quá mức [113].

Nghiên cứu của Junghyun Kim, Paul M. Haridakis (2009) trên sinh viên tại

Hoa Kỳ cho thấy rằng, khả năng tự kiểm soát kém và tự đánh giá bản thân thấp có

thể là những yếu tố gây nghiện internet. Nghiên cứu khác của Morahan – Martin,

Schumcher (2009) trên sinh viện tại Anh cũng cho thấy tự đánh giá thấp bản thân là

21

nhân tố báo trƣớc của nghiện internet [78]. Katia Niemz, Mark Griffiths, Phil

Banyard (2005) cho rằng những cá nhân sử dụng internet bệnh lý có điểm số tự

đánh giá bản thân thấp hơn so với nhóm ngƣời không nghiện. Nghiên cứu cũng cho

thấy rằng tự đánh giá bản thân và một số yếu tố xã hội khác nhƣ là biến số tiềm tàng

của nghiện internet [77].

Cũng một nghiên cứu khác của Bahadir Bozoglan, Veysel Demirer, Ismail

Sahin (2013) trên đối tƣợng là sinh viên tại Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy, tự đánh giá bản

thân thấp, cô đơn, trầm cảm nhƣ là những yếu tố báo trƣớc của tình trạng nghiện

internet. Phân tích hồi quy sâu hơn chỉ ra rằng tự đánh giá bản thân không có mối

quan hệ với những dấu hiệu của nghiện internet nhƣ việc sử dụng cƣỡng chế, hội

chứng cai,và sức chịu đựng/ sự gia tăng. Tuy nhiên tự đánh giá bản thân lại có mối

quan hệ có ý nghĩa với vấn đề quản lý thời gian, những vấn đề quan hệ xã hội (liên

nhân cách) và sức khỏe [113].

Các tác giả theo hƣớng thứ hai nhƣ Caplan (2003); Kubey, Lavin và

Barrows (2001); Young và Rogers (1998) cho rằng tự đánh giá bản thân kém, rối

loạn lo âu có quan hệ với nghiện internet. Các tác giả cho rằng cá nhân có điểm số

cảm giác tìm kiếm cảm xúc cao thƣờng có khả năng cao sử dụng một vài hành vi

internet. Trong đó, nếu cá nhân tự điều chỉnh bản thân kém, có thể làm tăng cảm

giác tìm kiếm cảm xúc và làm yếu dần đi khả năng tự kiểm soát bản thân, nhất là

trƣớc các hành vi internet và điều này dẫn tới khả năng tự đánh giá bản thân kém ở

cá nhân. Chính vì thế mà tự đánh giá bản thân kém có mối quan hệ mạnh mẽ với sử

dụng internet bệnh lý và với các hậu quả tiêu cực tiềm tàng khác [113].

Ellison và cs (2007) cho rằng tự đánh giá bản thân có thể là yếu tố tác động

điều tiết giữa việc sử dụng mạng xã hội và những lợi ích xã hội. Thanh thiếu niên có

tự đánh giá bản thân thấp thƣờng tìm kiếm các lợi ích xã hội từ việc sử dụng mạng

xã hội hơn là với những thanh thiếu niên có tự đánh giá bản thân cao hơn. Nhƣ vậy,

những cá nhân tự đánh giá bản thân thấp cũng có nghĩa họ có nhu cầu cao trong

việc tìm kiếm các nguồn lợi hay mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, họ không có khả

năng để tìm đến các nguồn lợi hay quan hệ xã hội thực sự bởi tính tự đánh giá bản

thân thấp, vì thế họ tìm đến internet, đặc biệt là mạng xã hội nhƣ một cách tìm kiếm

22

các nguồn lợi hay quan hệ xã hội [1] [113].

Dẫn theo các nghiên cứu của Kim và Pau (2009), Baumeister (1993) và

Swann (1996) thấy rằng những cá nhân tự đánh giá bản thân thấp thƣờng có những

suy nghĩ tiêu cực về bản thân và thƣờng nghi ngờ về lòng tự tin bản thân. Vì thế, để

trốn thoát khỏi những vấn trên và stress, cá nhân có khuynh hƣớng sử dụng các chất

gây nghiện (Craig, 1995; Hirschman, 1992; Marlatt, Bear, Donovan, Kivlahan,

1988) [66] [107]. Trong bối cảnh của hành vi sử dụng internet, Armstrong, Phillip

và Saling (2000) khám phá ra rằng tự đánh giá bản thân kém là dấu hiệu báo trƣớc

mạnh mẽ của việc nghiện internet. Ngoài ra, Peele (1985) đề nghị rằng một trong

những lý do mà cá nhân có thể trở nên nghiện sử dụng truyền thông là do yếu tố tự

đánh giá bản thân [107] [113].

Zhang, Yang, Hao, Huang, Zhang, Sun (2012) trên đối tƣợng là học sinh cấp

1 và cấp 2 tại Đài Loancho thấy, việc lạm dụng chất kích thích ở thanh thiếu niên có

thể là dấu hiệu báo trƣớc trực tiếp sự tự đánh giá thấp bản thân và điều này có thể

dẫn tới rối loạn nghiện internet. Không tìm thấy dấu hiệu trực tiếp tác động về mối

quan hệ nghiện internet và tự đánh giá thấp bản thân, tuy nhiên, nhóm nghiên cứu

cho rằng tự đánh giá bản thân thấp có thể là yếu tố gián tiếp dẫn tới nghiện internet.

Nghiên cứu tìm thấy tự đánh giá bản thân thấp là nguyên nhân gián tiếp dẫn tới

22.5% trƣờng hợp nghiện internet và có tiền sử lạm dụng chất [115].

Nghiên cứu của Ho-Kyung Kim, Keith E. Davis (2009) tại Hàn Quốc cho

rằng tự đánh giá bản thân thấp đƣợc xem xét nhƣ việc tự loại bỏ, ruồng rẫy, không

quan tâm đến những vấn đề có ý nghĩa của bản thân (Leary, Mac Donald, 2003,

2005); đồng thời, mức độ của tự đánh giá có thể là dấu hiệu báo trƣớc của sử dụng

internet bệnh lý (Armstrong, Phillips and Saling, 2000; Ko, Yen, Chan, Chen and

Yen, 2007; Young, Rogers, 1998). Nhóm nghiên cứu cũng cho rằng, tự đánh giá bản

thân kém là đặc trƣng cho thấy cá nhân có lo âu xã hội, trầm cảm, cô đơn (Leary,

Mac Donald, 2003; La Rose cà cs, 2003; Stinson cà cs, 2008; Tangney và cs, 2004).

Đồng thời, nhóm cá nhân cô đơn, trầm cảm thƣờng có khả năng nghiện internet cao

hơn, các chức năng chủ yếu khi sử dụng internet là tán gẫu, thƣ điện tử, và tƣơng

tác trực tuyến,... (Caplan, 2003; Kubey, Lavin and Barrows, 2001; Young and

23

Rogers, 1998) [75].

Tác giả Chih – Hung Ko và cộng sự (2003) tiến hành tìm hiểu những nhân tố

tiền tố của nghiện internet ở thanh thiếu niên. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy

tính dễ bị kích thích và việc bị quá phụ thuộc vào phần thƣởng, tự đánh giá bản thân

kém, quan hệ gia đình không tốt là dấu hiệu báo trƣớc của nghiện internet. Trong

khi đó, tính cách ít thù địch, và ít có lo âu là dấu hiệu báo trƣớc của việc giảm

nghiện internet sau 1 năm nghiên cứu. Cảm giác tìm kiếm cái mới cũng là những

tiền tố báo trƣớc là có thể dẫn tối lạm dụng chất. Trong báo cáo nghiên cứu của

nhóm nghiên cứu cũng cho thấy cảm giác tìm kiếm cái mới cao cũng là tiền tố của

việc nghiện internet ở thanh thiếu niên [73] [74].

Meerker, Van den Eijnden, Franken, Garretsen (2010) cho rằng, tự đánh

giá bản thân thấp là nguyên nhân dẫn tới sự thiếu tự tin vào bản thân, nhân cách

nghiện, sự mất kiểm soát, và sự suy giảm. Đây là những yếu tố nguy cơ cao của

nghiện internet và vì thế có thể thấy tự đánh giá bản thân thấp là yếu tố nguyên

nhân của nghiện internet thông qua các yếu tố trung gian ở trên [113].

Nghiên cứu của Emre Senol – Durak & Mithat Durak (2011) trên thanh

thiếu niên tại Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy những ảnh hƣởng tiêu cực từ cuộc sống, sự

không hài lòng cuộc sống và tự đánh giá bản thân thấp có mối quan hệ có ý

nghĩa và tiêu cực với nhận thức về trực tuyến (bao gồm cô đơn/ trầm cảm, giảm

kiểm soát xung động, giải trí, sự thoải mái xã hội). Các yếu tố nhận thức tiêu cực

về trực tuyến có thể là nguy cơ dẫn tới nghiện internet. Chính vì thế, tự đánh giá

thấp bản thân, các ảnh hƣởng tiêu cực, sự không hài lòng về cuộc sống nhƣ là

các yếu tố báo trƣớc của tình trạng nghiện internet ở ngƣời sử dụng [62].

Tổng quan các nghiên cứu theo hƣớng này cho thấy: 1) Có hai chủ đề nghiên

cứu nổi bật. Một là, tự đánh giá bản thân thấp là yếu tố nguy cơ trực tiếp của tình

trạng nghiện internet của thanh thiếu niên. Hai là, tự đánh giá thấp bản thân nhƣ là

yếu tố trung gian hay là yếu tố tiền tố có thể dẫn tới một yếu tố trung gian dẫn tới

nguy cơ nghiện internet ở thanh thiếu niên. Các yếu tố tiền tố đó có thể là các nhân

tố xa nhƣ các rối loạn tâm thần (trầm cảm, lo âu xã hội, nghiện chất), các yếu tố gần

là các vấn đề tâm lý cá nhân và các vấn đề liên nhân cách (cô đơn, cảm giác tìm

kiếm cao, xung đột nội tâm, nhân cách nghiện, khả năng kiểm soát kém, niềm tin

24

cốt lõi sai lệch và quan hệ gia đình không tích cực); 2) Tự đánh giá thấp bản thân

thƣờng dẫn tới nghiện các chức năng liên quan đến tƣơng tác hay quan hệ trên

Internet (tán gẫu, thƣ điện tử, mạng xã hội).

- Hướng thứ ba là nghiên cứu về các khía cạnh tự đánh giá có quan hệ với

nghiện internet ở thanh thiếu niên.

Các báo cáo nghiên cứu hầu hết cho thấy có mối quan hệ thuận giữa tự

đánh giá thấp bản thân và tình trạng nghiện internet, nghĩa là cá nhân nào có tự

đánh giá bản thân thấp thƣờng có khả năng cao nghiện internet và ngƣợc lại. Tuy

nhiên, cũng có một vài báo cáo nghiên cứu cho thấy, nhiều cá nhân có điểm tổng

tự đánh giá cao vẫn có thể nghiện internet. Tuy nhiên, có các khía cạnh của tự

đánh giá bản thân thấp lại có liên hệ dƣơng tính với tình trạng nghiện internet

nhƣng cũng có loại tự đánh giá liên hệ theo chiều ngƣợc lại- âm tính. Sau đây là

kết quả của một số nghiên cứu.

Tiếp cận theo nguồn gốc của tự đánh giá và nghiện internet, nghiên cứu của

Stefan Stieger and Christoph Burger (2010) cho thấy cá nhân nghiện internet ở mức

độ cao có liên hệ mật thiết với tự đánh giá bên trong (Implicit self – esteem) cao, và

có mức độ của tự đánh giá bản thân bên ngoài (Explicit self – esteem) thấp. Đồng

thời ngƣời nghiện internet trải qua nhiều thời gian trên internet vì mục đích cá nhân

hơn so với ngƣời không nghiện internet. Điều này phù hợp với nhiều nghiên cứu

trƣớc đó cho thấy rằng vai trò của tự đánh giá bản thân đối với các rối loạn tâm thần

khác. Nhiều nghiên cứu trƣớc đó đã cho thấy mối quan hệ của tự đánh giá bên trong

cao với các rối loạn tâm thần, nhƣ trầm cảm hay ám ảnh sợ. Điều này đƣợc lý giải

nhƣ là cách để cá nhân phòng vệ với những đe dọa, giúp cho cá nhân ngăn ngừa với

những trải nghiệm cảm xúc tiêu cực, nhƣ là trải nghiệm lo âu. Việc phòng vệ này có

thể dẫn tới phản tác dụng, những hậu quả không mong muốn bởi sự không thống

nhất giữa hai hệ thống tự đánh giá có thể là nguyên nhân của stress, sự lo lắng, tính

không kiên định, và hầu hết các hậu quả này đều lập lại. Cũng trong nghiên cứu

này, tác giả đã chia tự đánh giá bản thân thành 3 nhóm đánh giá bản thân: 1/ an toàn

(secure self-esteem); 2/ đánh giá bản thân xấu đi (damaged-self-esteem) và 3/ đánh

giá bản thân phòng vệ (defensive-self-esteem) và cách thức đánh giá bản thân của

những cá nhân thuộc mỗi nhóm tự đánh giá bản thân nêu trên có đặc điểm nhân

25

cách và hành vi đặc thù tƣơng tự [99] [100].

Betül Aydm, Serkan Volkan Sari (2011) cho rằng tự đánh giá bản thân có vai

trò quan trọng trong vấn đề nghiện internet ở thanh thiếu niên. Nghiên cứu của họ

cho thấy, tự đánh giá tổng quát (general self-esteem), tự đánh giá xã hội (social self-

esteem), tự đánh giá gia đình (home-family self-esteem) và điểm tổng của tự đánh

giá bản thân (total self – esteem) có mối quan hệ có ý nghĩa và tiêu cực với nghiện

internet. Tự đánh giá về trƣờng học/ thành tích (School – academic self – esteem)

không tìm thấy có quan hệ với nghiện internet ở thanh thiếu niên. Hơn thế, tự đánh

giá xã hội và tự đánh giá gia đình là dấu hiệu báo trƣớc của tình trạng nghiện

internet ở thanh thiếu niên [53].

Beatrix Koroncrai (2013) và cộng sự cho rằng, có mối quan hệ giữa sự

không hài lòng về vẻ bề ngoài của cơ thể (tự đánh giá thấp về cơ thể) có thể làm cho

cá nhân tránh xa những tiếp xúc với ngƣời khác trong mối quan hệ xã hội và gia

tăng sử dụng internet. Các tác giả cho rằng, sự không hài lòng về vẻ bề ngoài của cơ

thể có vai trò trực tiếp ảnh hƣởng tới tình trạng trầm cảm, lo âu và tự đánh giá bản

thân. Kết quả nghiên cứu của họ cho thấy, sự hài lòng về vẻ bề ngoài của cơ thể có

ảnh hƣởng âm tính đến đến việc sử dụng internet bệnh lý ở cả hai giới. Tuy nhiên,

sự không hài lòng về vẻ bề ngoài của cơ thể có ảnh hƣởng dƣơng tính/ tác động tiêu

cực đến lo âu, tự đánh giá bản thân, trầm cảm và chính các yếu tố này dẫn tới việc

sử dụng internet bệnh lý ở cá nhân. Các tác giả cho rằng, sự không hài lòng về vẻ bề

ngoài của cơ thể dƣờng nhƣ có vai trò quan trọng trong việc đẩy cá nhân vào việc

sử dụng internet bệnh lý thông qua các yếu tố nhƣ tự đánh giá bản thân, trầm cảm,

lo âu [54] [55].

Tổng quan các nghiên cứu theo hƣớng này cho thấy: 1) Nghiện internet ở

thanh thiếu niên có nguồn gốc từ tự đánh giá bên trong của cá nhân là chủ yếu. 2)

Các khía cạnh tự đánh giá bản thân thấp có mối quan hệ với nghiện internet bao

gồm: tự đánh giá về cơ thể, tự đánh giá tổng quát, tự đánh giá xã hội, tự đánh giá về

gia đình. 3) Tự đánh giá thấp bản thân có thể là nguyên nhân dẫn tới các vấn đề

khác nhƣ vấn đề sức khỏe tâm thần, khó khăn nội tâm và điều này là nguy cơ dẫn

26

tới tình trạng nghiện Internet ở thanh thiếu niên.

1.1.1.4. Biểu hiện và mức độ biểu hiện mối quan hệ giữa nghiện internet và tự đánh giá bản thân

- Biểu hiện của nghiện internet và mối quan hệ với tự đánh giá bản thân

Khi nghiên cứu về chủ đề này cho thấy có hai xu hƣớng: 1) Các biểu hiện của nghiện internet trong mối quan hệ với tự đánh giá bản thân; 2) Các biểu hiện

của tự đánh giá bản thân trong mối quan hệ với nghiện internet.

Theo xu hƣớng nghiên cứu thứ nhất, một số nhà nghiên cứu cho rằng, trong

mối quan hệ với tự đánh giá thấp bản thân, cá nhân có xu hƣớng sử dụng nhiều thời gian trên mạng xã hội (Ellison, Steinfield & Lampe, 2007; Steinfield, Ellison &

Lampe, 2008) [66] [113], sử dụng ứng dụng mạng xã hội để tán gẫu (Fioravanti và cộng sự, 2012) [1], thƣờng truy cập vào các diễn đàn, trò chơi trực tuyến (Laura

Widyanto, Mark D.Griffiths, 2008, 2011) [81] [82]. Một số nghiên cứu khác thì cho

rằng, tự đánh giá thấp bản thân thƣờng có xu hƣớng nghiện trò chơi trực tuyến và

ngƣợc lại (của Eun Joo Kim và cs, 2008) [66]. Nghiên cứu của Bahadir Bozoglan,

Veysel Demirer, Ismail Sahin (2013) trên đối tƣợng là sinh viên tại Thổ Nhĩ Kỳ cho

thấy, tự đánh giá bản thân có mối quan hệ có ý nghĩa với vấn đề quản lý thời gian,

những vấn đề quan hệ xã hội (liên nhân cách) và sức khỏe khi trực tuyến. Ellison và

cs (2007) cho rằng thanh thiếu niên có tự đánh giá bản thân thấp thƣờng tìm kiếm

các lợi ích xã hội từ việc sử dụng mạng xã hội hơn là với những thanh thiếu niên có

tự đánh giá bản thân cao hơn [113]. Một số nghiên cứu khác thì cho rằng, cá nhân

cô đơn, trầm cảm thƣờng có khả năng nghiện internet cao hơn, các chức năng chủ

yếu khi sử dụng internet là tán gẫu, thƣ điện tử, và tƣơng tác trực tuyến,...(Caplan,

2003; Kubey, Lavin and Barrows, 2001; Young and Rogers, 1998) [75].

Các nghiên cứu này cho thấy, cá nhân tự đánh giá thấp bản thân thƣờng có

biểu hiện nghiện internet ở các ứng dụng là sử dụng mạng xã hội, trò chơi trực

tuyến, tán gẫu và thƣ điện tử. Các ứng dụng này chủ yếu là các ứng dụng mang tính quan hệ xã hội trên mạng (Ellison và cs, 2007).

Theo xu hƣớng nghiên cứu thứ hai, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, các biểu hiện tự đánh giá bản thân của cá nhân khi nghiện internet thƣờng là đánh giá thấp về bản thân (Ellison, Steinfield & Lampe, 2007; Steinfield, Ellison & Lampe, 2008; Laura Widyanto, Mark D.Griffiths, 2008, 2011) [66] [113], cô đơn, kỹ năng xã hội

27

kém, trầm cảm (Lily Mehrnaz, Alireza, 2008; Tuncay Ayas và Mehmet Baris Horzum, 2010) [86] [113], có nhận thức không phù hợp, hay là việc cá nhân đánh

giá tiêu cực về bản thân và thế giới (Davis, 2001) [61], có hành vi gây hấn, nhân

cách tự yêu mình (ái kỉ), giảm các mối quan hệ liên nhân cách nhƣ gia đình và bạn

bè, những khó khăn tâm lý cá nhân và stress trong cuộc sống (Eun Joo Kim và cộng sự, 2008) [66].

Một số nhà nghiên cứu thì đi tìm kiếm biểu hiện của tự đánh giá bằng các

khía cạnh tự đánh giá có liên quan đến nghiện internet. Nghiên cứu của Betül Aydm,

Serkan Volkan Sari (2011) cho thấy, tự đánh giá tổng quát (general self-esteem), tự

đánh giá xã hội (social self-esteem), tự đánh giá gia đình (home-family self-esteem) và điểm tổng của tự đánh giá bản thân (total self – esteem) có mối quan hệ có ý

nghĩa và tiêu cực với nghiện internet. Tự đánh giá về trƣờng học/ thành tích (School

– academic self – esteem) không tìm thấy có quan hệ với nghiện internet ở thanh thiếu niên [53].Beatrix Koroncrai (2013) và cộng sự cho rằng, có mối quan hệ giữa

tự đánh giá thấp về cơ thể với nghiện internet.

Ngoài việc nghiên cứu các biểu hiện trực tiếp của tự đánh giá bản thân khi cá

nhân nghiện internet, nhiều nhà nghiên cứu còn xem xét các yếu tố trung gian.

Caplan (2003); Kubey, Lavin và Barrows (2001); Young và Rogers (1998) cho rằng

cá nhân có điểm số cảm giác tìm kiếm cảm xúc cao thƣờng có khả năng cao sử

dụng một vài hành vi internet. Trong đó, nếu cá nhân tự điều chỉnh bản thân kém,

có thể làm tăng cảm giác tìm kiếm cảm xúc và làm yếu dần đi khả năng tự kiểm

soát bản thân, nhất là trƣớc các hành vi internet và điều này dẫn tới khả năng tự

đánh giá bản thân kém ở cá nhân. Chính vì thế mà tự đánh giá bản thân kém có mối

quan hệ mạnh mẽ với sử dụng internet bệnh lý và với các hậu quả tiêu cực tiềm tàng

khác [113].Kim và Pau (2009), Baumeister (1993) và Swann (1996) thì cho rằng

những cá nhân tự đánh giá bản thân thấp thƣờng có những suy nghĩ tiêu cực về bản

thân và thƣờng nghi ngờ về lòng tự tin bản thân. Vì thế, để trốn thoát khỏi những

vấn trên và stress, cá nhân có khuynh hƣớng sử dụng internet đến mức nghiện. Nhiều nghiên cứu khác thì cho rằng, việc lạm dụng chất kích thích ở thanh thiếu niên có thể là dấu hiệu báo trƣớc trực tiếp sự tự đánh giá thấp bản thân và điều này có thể dẫn tới rối loạn nghiện internet (Zhang, Yang, Hao, Huang, Zhang, Sun, 2012) [115].

Nhóm tác giả Meerker, Van den Eijnden, Franken, Garretsen (2010) cho

rằng, tự đánh giá bản thân thấp là nguyên nhân dẫn tới sự thiếu tự tin vào bản thân,

28

nhân cách nghiện, sự mất kiểm soát, và sự suy giảm. Đây là những yếu tố nguy cơ

cao của nghiện internet và vì thế có thể thấy tự đánh giá bản thân thấp là yếu tố

nguyên nhân của nghiện internet thông qua các yếu tố trung gian ở trên [113].

- Mức độ nghiện internet và tự đánh giá bản thân Nghiên cứu về mức độ biểu hiện giữa nghiện internet và tự đánh giá bản thân

còn là một chủ đề rất mới mẻ, chúng tôi ghi nhận có rất ít nghiên cứu về vấn đề này. Có

một vài nghiên cứu cho thấy, tự đánh giá bản thân thấp có một mối quan hệ tiêu cực và

mạnh với sử dụng internet bệnh lý (Laura Widyanto, Mark D.Griffiths, 2008, 2011;

Caplan, 2003; Kubey, Lavin và Barrows, 2001; Young và Rogers, 1998) [81] [82] [113], là dấu hiệu báo trƣớc mạnh mẽ của việc nghiện internet (Armstrong, Phillip và

Saling, 2000), là nguyên nhân gián tiếp dẫn tới 22.5% trƣờng hợp nghiện internet

(Zhang, Yang, Hao, Huang, Zhang, Sun, 2012) [115]. Một số nghiên cứu khác thì cho rằng, cá nhân nghiện internet ở mức độ cao có liên hệ mật thiết với tự đánh giá bên

trong (Implicit self – esteem) cao, và có mức độ của tự đánh giá bản thân bên ngoài

(Explicit self – esteem) thấp (Stefan Stieger and Christoph Burger, 2010).

Xem xét các nghiên cứu chủ đề này cho thấy, mức độ mối quan hệ giữa tự

đánh giá bản thân và nghiện internet không quá cao. Đồng thời, nghiện internet có

quan hệ với tự đánh giá bên ngoài thấp và bên trong cao của cá nhân.

1.1.2. N i cứu ở Việt Na

1.1.2.1. Nghiên cứu về nghiện internet

Viện xã hội học Việt Nam (2010) công bố nghiên cứu về kết quả khảo sát xã

hội học về trò chơi trực tuyến. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong số những ngƣời

đƣợc hỏi có 64,1% ngƣời cho rằng “game online là bƣớc phát triển tất yếu của xã

hội khi có internet”. Một điều đáng nói là đối tƣợng chơi game online chiếm tỷ lệ

cao nhất là có trình độ cao đẳng, đại học trở lên (30,1%), tiếp đến là chƣa hoàn

thành trung học phổ thông (18,0%), chƣa hoàn thành trung học cơ sở (17,1%).Từ

các kết quả phân tích định lƣợng và định tính, nhóm nghiên cứu cho rằng tỷ lệ

ngƣời có dấu hiệu “nghiện” game online theo tiêu chí của Tổ chức Y tế Thế giới

không cao, chỉ 5,2%, và 69,3% không có các biểu hiện nào của tiêu chuẩn nghiện.

Bên cạnh đó, các cách lý giải khác nhau về nguyên nhân của thực trạng này cũng

cho thấy bản thân các nhà cung cấp dịch vụ game online cũng nhƣ các trò chơi

29

game online không phải là nguyên nhân duy nhất mà bên cạnh đó còn xuất phát từ

sự quan tâm, quản lý chƣa đứng mức của gia đình, nhà trƣờng và do thiếu những kỹ

năng sống cần thiết của ngƣời chơi [1].

Nghiên cứu của Trần Thị Minh Đức và cộng sự (2013) đối với 4468 thanh

thiếu niên tại Việt Nam có tuổi từ 11 đến 30 cho thấy, có đến 63,7% thanh thiếu niên

sử dụng game bạo lực khi truy cập internet. Đồng thời, việc sử dụng game bạo lực

ảnh hƣởng rất lớn đến đời sống tâm lý và mối quan hệ xã hội của ngƣời chơi [9].

Một số báo cáo nghiên cứu khác (Nguyễn Thị Hậu, Hồ Thị Luyến, 2009; Lê

Minh Công, 2009; Nguyễn Minh Tiến, 2009) cho rằng nghiện internet ở thanh thiếu

niên tại Việt Nam thực sự không là vấn đề nổi bật nhƣ nhiều phƣơng tiện truyền

thông và xã hội cảnh báo. Tuy nhiên, đa phần các tác giả này đều chƣa phân tích

mức độ, biểu hiện của nghiện internet ở thanh thiếu niên tại Việt Nam mà chỉ dựa

trên các tài liệu thứ cấp để đƣa ra các nhận định chung [13].

Tổng quan nghiên cứu về mức độ và biểu hiện nghiện internet ở Việt Nam

còn khá hạn chế. Các tác giả mới chỉ đi vào tìm hiểu mức độ của nghiện internet và

nêu lên một bức tranh chung về thực trạng nghiện internet chứ chƣa đi sâu vào các

biểu hiện của nghiện. Một số nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các ứng

dụng của internet là nghiện trò chơi trực tuyến hay mạng xã hội chứ chƣa nghiên

cứu tổng thể về nghiện internet.

1.1.2.2. Nghiên cứu về tự đánh giá bản thân

Nghiên cứu về tự đánh giá bản thân ở Việt Nam còn khá mới mẻ và mới

đƣợc quan tâm nghiên cứu vào những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Trong

những năm gần đây, việc nghiên cứu vấn đề tự đánh giá bản thân đƣợc quan tâm

nhiều hơn. Tuy nhiên, số lƣợng các công trình nghiên cứu vẫn còn hạn chế. Hầu hết

các tác giả mới chỉ tập trung xác định nội hàm khái niệm tự đánh giá, những yếu tố

ảnh hƣởng tới tự đánh giá bản thân và vai trò của tự đánh giá bản thân đối với sự

phát triển nhân cách; cũng nhƣ mới chỉ tập trung nghiên cứu ở lứa tuổi học sinh và

ở khía cạnh giáo dục nhƣ việc đánh giá mối quan hệ giữa khả năng tự đánh giá với

thái độ, động cơ học tập…

Tác giả Vũ Thị Nho (1998b) cho rằng tự đánh giá có bản chất là sự tự nhận

xét, đánh giá về chính mình và tự đánh giá có tính toàn diện. Điều này có nghĩa tự

30

đánh giá bao hàm cả những yếu tố về diện mạo, thể chất cũng nhƣ những đặc điểm,

những phẩm chất tâm lý nhân cách. Tự đánh giá là điều kiện bên trong của tự giáo

dục, tự ý thức, tự hoàn thiện nhân cách [32].

Nguyễn Thị Hoa (1999) đã khẳng định: Tất cả mọi ngƣời đều có nhu cầu

muốn tự đánh giá và đƣợc đánh giá hình ảnh cái tôi. Tác giả cho rằng, nhìn chung,

con ngƣời thích những nhận xét thống nhất với nhận xét của họ về bản thân hơn là

những nhận xét trái ngƣợc. Những ngƣời tự đánh giá tốt thƣờng tìm cách để ngƣời

khác cũng đánh giá tốt về họ [20].

Văn Thị Kim Cúc và cs (2003a) cho thấy: Ở những đứa trẻ có bố mẹ ly hôn,

tồn tại nhiều dạng và nhiều mức độ tổn thƣơng tâm lý khác nhau. Các tổn thƣơng

tâm lý ảnh hƣởng tiêu cực tới tự đánh giá bản thân của trẻ [20]. Một nghiên cứu

khác năm 2004, tác giả cho rằng những biểu tƣợng trẻ có đƣợc về gia đình mình, về

ngƣời bố, ngƣời mẹ có mối tƣơng quan rất chặt chẽ tới hình ảnh mà trẻ có về bản

thân mình. Sự hình thành biểu tƣợng về gia đình nói chung, về giá trị của ngƣời cha,

ngƣời mẹ nói riêng không có con đƣờng nào khác ngoài những gì trẻ nhìn thấy,

nghe thấy, cảm thấy thông qua những hoạt động của gia đình, của ngƣời bố và

ngƣời mẹ [20].

Đỗ Ngọc Khanh (2004b) cho rằng: Tự đánh giá bản thân có một vai trò quan

trọng trong việc phát triển nhân cách. Tự đánh giá giúp cho trẻ có đƣợc các mối

quan hệ liên nhân cách tốt đẹp, làm giảm mức độ lo lắng, trầm cảm. Những ngƣời

tự đánh giá cao dễ dàng ứng phó với các khó khăn trong cuộc sống. Tự đánh giá

thấp có thể làm tổn hại đến các mối quan hệ liên nhân cách, gây trầm cảm, lo lắng,

dễ dẫn đến sử dụng chất gây nghiện…[18] [19]. Nghiên cứu khác năm 2005, tác giả

cho rằng, học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội có mức độ tự đánh giá tổng thể ở mức

trung bình. Sự tự đánh giá về học tập, đạo đức, xã hội của học sinh trung học cơ sở

ở Hà Nội đạt mức trung bình cao. Sự tự đánh giá về mặt thể chất ở mức trung bình;

trong đó các em học sinh đánh giá sức khoẻ tích cực hơn đánh giá về hình dáng của

bản thân. Sự tự đánh giá về mặt cảm xúc đạt mức trung bình thấp. Các em có sự tự

đánh giá về cảm xúc có liên quan đến khía cạnh học tập; trong khi đó cảm xúc tích

cực thƣờng liên quan đến quan hệ xã hội [20].

Trịnh Thị Linh (2014) cho rằng, gia đình có tầm quan trọng trong việc tự

31

đánh giá bản thân của trẻ lứa tuổi THCS. Dù cho xã hội có nhiều biến đổi và mối

quan hệ của trẻ đã trở nên đa dạng hơn rất nhiều so với trẻ em các thời kỳ trƣớc thì

trẻ vị thành niên Việt Nam hiện nay vẫn luôn coi trọng các mối quan hệ gia đình.

Điều này chi phối mạnh mẽ tới tự đánh giá bản thân của các em [25].

Nguyễn Thị Anh Thƣ, Nguyễn Thị Mùi (2014) trong nghiên cứu của mình đã

chỉ ra tự đánh giá về cái Tôi học đƣờng của các em học sinh THCS trong mẫu

nghiên cứu tại Ninh Bình và Hà Nội ở mức độ thấp. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ

ra, tự đánh giá về cái Tôi học đƣờng có sự khác biệt giữa yếu tố trƣờng học, và yếu

tố khối lớp (khối lớp 6 và khối lớp 9), nhƣng lại có tƣơng đồng về mặt giới tính.

Nghiên cứu của nhóm tác giả cũng cho thấy, kết quả học tập không ảnh hƣởng đến

tự đánh giá cái Tôi học đƣờng của học sinh [37].

Nghiên cứu của Hoàng Mộc Lan, Trịnh Thị Linh (2015) về ngƣời già cho

thấy, đa số ngƣời cao tuổi tự đánh giá về sức khỏe bản thân không tốt, trong đó

những ngƣời có các bệnh thông thƣờng của tuổi già chiếm tỷ lệ cao trong đánh giá

thấp sức khỏe bản thân, còn những ngƣời khỏe mạnh và rất yếu chiếm tỷ lệ thấp [23].

Tóm lại, trong những năm gần đây, vấn đề tự đánh giá đã thu hút đƣợc sự

quan tâm chú ý của những nhà tâm lý học, đặc biệt là nghiên cứu khả năng tự đánh

giá của học sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu về tự đánh giá tƣơng quan hay ảnh hƣởng

đến các vấn đề hành vi xã hội của học sinh còn khá ít.

1.1.2.3. Mối quan hệ giữa nghiện internet và tự đánh giá bản thân

Nghiên cứu về nghiện internet nói chung, mối tƣơng quan giữa nghiện

internet và tự đánh giá bản thân nói riêng tại Việt Nam còn là một chủ đề mới mẻ.

Nghiên cứu của Trần Thị Minh Đức và cộng sự (2013) cho thấy, thanh thiếu niên sử

dụng trò chơi bạo lực với thời lƣợng nhiều, trò chơi bạo lực, trò chơi tham gia đóng

vai có sự tự đánh giá bản thân thấp. Có mối tƣơng quan có ý nghĩa giữa tự đánh giá

bản thân và việc chơi trò chơi trực tuyến của thanh thiếu niên [8].

Bùi Thị Hồng Thái (2014) cho rằng, sinh viên sử dụng mạng xã hội có xu

hƣớng đánh giá cao hơn khía cạnh tích cực của bản thân đối với gia đình (70,7%) và

xã hội (60,4%). Sự khác biệt là không đáng kể trong đánh giá khía cạnh tích cực và

tiêu cực đối với vấn đề học đƣờng. Sinh viên nữ có xu hƣớng đánh giá cao bản thân

ở khía cạnh gia đình và xã hội so với sinh viên nam. Sinh viên ở thành phố Hồ Chí

32

Minh và Hà Nội tự đánh giá bản thân cao hơn cả, trong khi sinh viên ở Huế có mức

tự đánh giá bản thân thấp nhất. Những sinh viên thƣờng sử dụng mạng xã hội từ 1

giờ đến dƣới 3 giờ/ ngày tự đánh giá cao nhất về cái tôi gia đình và cái tôi học

đƣờng. Sinh viên sử dụng mạng xã hội trên 5 giờ/ ngày cũng đánh giá cao vấn đề

học đƣờng. Sinh viên càng có nhiều bạn trên mạng xã hội (từ 300 bạn trở lên) và

càng thƣờng xuyên trao đổi với nhiều bạn (từ trên 100 bạn) càng có xu hƣớng tự

đánh giá cao bản thân. Tác giả cũng cho rằng, mạng xã hội là một trong những nhu

cầu tất yếu cho quá trình tự khảng định bản thân để trƣởng thành của thanh thiếu

niên. Tuy nhiên, cách thức sử dụng mạng (thời gian –địa điểm sử dụng, lƣợng bạn

có trên mạng) là điều cần quan tâm trong việc định hƣớng cho sinh viên về sự tự

đánh giá bản thân đối với vấn đề gia đình, trƣờng học và xã hội của họ [36].

Nghiên cứu của Trần Hữu Luyến, Bùi Thị Hồng Thái (2015) cho thấy sinh

viên sử dụng mạng xã hội có xu hƣớng đánh giá bản thân theo hƣớng chuẩn mực và

tích cực. Kết quả cũng cho thấy sử dụng mạng xã hội bảo mật thông tin ở mức độ

trung bình và cao là những ngƣời tự đánh giá bản thân tích cực nhất [27].

Xem xét các nghiên cứu về chủ đề này ở Việt Nam cho thấy chƣa có một báo

cáo đi phân tích sâu về thực trạng tự đánh giá của học sinh nghiện internet, đồng thời

chƣa phân tích mối quan hệ giữa các mức độ nghiện internet và các khía cạnh của tự

đánh giá bản thân. Một vài báo cáo chỉ tập trung phân tích mối quan hệ giữa các ứng

dụng của internet nhƣ mạng xã hội và trò trò chơi trực tuyến với nghiện internet.

1.1.2.4. Biểu hiện và mức độ biểu hiện mối quan hệ giữa nghiện internet và tự

đánh giá bản thân

Nghiên cứu về mối tƣơng quan giữa nghiện internet và tự đánh giá bản thân

tại Việt Nam còn khá mới mẻ. Chính vì thế, để tìm hiểu biểu hiện và mức độ biểu hiện mối quan hệ giữa hai yếu tố này quả thật rất khó khăn. Một vài nghiên cứu cho thấy, sinh viên sử dụng mạng xã hội có xu hƣớng đánh giá cao hơn khía cạnh tích cực của bản thân đối với gia đình (70,7%) và xã hội (60,4%), nữ sinh viên có xu hƣớng đánh giá cao bản thân ở khía cạnh gia đình và xã hội so với sinh viên nam (Bùi Thị Hồng Thái, 2014) [36], sinh viên sử dụng mạng xã hội có xu hƣớng đánh

giá bản thân theo hƣớng chuẩn mực và tích cực, sử dụng mạng xã hội bảo mật thông tin ở mức độ trung bình và cao là những ngƣời tự đánh giá bản thân tích cực nhất

33

(Trần Hữu Luyến, Bùi Thị Hồng Thái, 2015) [27].

Xem xét các nghiên cứu về chủ đề này ở Việt Nam cho thấy chƣa có một

báo cáo đi phân tích sâu về thực trạng tự đánh giá của học sinh nghiện internet,

đồng thời chƣa phân tích mối quan hệ giữa các mức độ nghiện internet và các khía cạnh của tự đánh giá bản thân. Một vài báo cáo chỉ tập trung phân tích mối quan

hệ giữa các ứng dụng của internet nhƣ mạng xã hội và trò trò chơi trực tuyến của

nghiện internet mà thôi.

1.2. ỘT SỐ VẤN ĐỀ UẬN VỀ NGHIỆN INTERNET VÀ TỰ ĐÁNH

GIÁ BẢN THÂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.2.1. N iệ i ter et

Trƣớc khi tìm hiểu và xây dựng khái niệm nghiện internet, luận án xem xét

hai khái niệm nền tảng là internet và nghiện.

1.2.1.1. Internet

Từ góc độ công nghệ thông tin, internet là một hệ thống thông tin toàn cầu

có thể đƣợc truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính đƣợc liên kết với nhau.

Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching)

dựa trên một giao thức liên mạng đã đƣợc chuẩn hóa (giao thức IP). Hệ thống này

bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện

nghiên cứu và các trƣờng đại học, của ngƣời dùng cá nhân, và các chính phủ trên

toàn cầu [49][116].

Có thể nói, internet là một công cụ truyền thông tin, có tính năng hoạt động

đa dạng, không biên giới với nhiều tiện ích và có thể gây tác hại cho ngƣời sử dụng.

Ngoài ra, internet là một phƣơng thức tƣơng tác hoàn toàn mới giữa con ngƣời với

con ngƣời, nó có thể giúp chúng ta tƣơng tác với nhau khi chúng ta ở rất xa mà lại

hoàn toàn không tốn kém kinh phí. Đồng thời có thể giúp con ngƣời mở rộng mối

quan hệ xã hội vƣợt ra khỏi khu vực địa lý hay quốc gia [116].

1.2.1.2. Nghiện

Trong tiếng Anh, thuật ngữ “Abuse” hay “Addict” diễn tả hành vi nghiện,

nghĩa là ta sử dụng cái gì đó quá mức cho phép của một con ngƣời bình thƣờng.

Quan điểm truyền thống về nghiện cho rằng, nghiện thƣờng đƣợc gắn với

việc lạm dụng các chất nhƣ thuốc, ma tuý hoặc rƣợu, gây nên những biến đổi nhất

34

định trong hệ thống sinh học của con ngƣời cũng nhƣ các chức năng xã hội của họ

(Morse, Flavin, 1992; Torres, Horowitz, 1999). Tuy nhiên, gần đây nhiều nhà

nghiên cứu cho rằng, nghiện không chỉ hạn chế đối với các chất mà còn bao gồm

các hoạt động hoặc hành vi (Marlatt, Baer, Donovan, Kivlahan,1988; Morse, Flavin,

1992). Một số hành vi gây nghiện đƣợc các tác giả nghiên cứu nhƣ: Đánh bài quá

mức (Griffiths, 1990), chơi trò chơi quá mức (Keeprs, 1990), ăn quá mức (Leisuire

và Bloome, 1993), thể dục quá mức (Morgan, 1997), quan hệ tình dục quá mức

(Peele và Brody, 1975), xem tivi quá mức (Winn, 1983) [13]. Các hoạt động này là

một phần tự nhiên và là nhu cầu của cuộc sống con ngƣời, không có bất kì tác động

nào tiêu cực. Nhƣng một khi cá nhân không thể kiểm soát hoặc không ngừng hoạt

động, dù trải qua những hậu quả xấu do hoạt động đem lại, ngƣời đó đƣợc gọi là

ngƣời nghiện hành vi hay nói cách khác là có hành vi nghiện.

Xét trên bình diện sức khỏe tâm thần, Nguyễn Khắc Viện (1992) cho rằng, để

giảm đau, giải sầu hoặc gây phấn chấn hào hứng thoát vào cảnh mơ mộng, cá nhân

vẫn dùng nhiều chất, trong đó thuốc đƣợc đƣa vào cơ thể nhiều nhất. Việc sử dụng

thƣờng xuyên khiến cơ thể chịu đƣợc những liều cao, rồi đâm ra nghiện. Thiếu

thuốc cơ thể sinh ra những triệu chứng sinh lý nhƣ uể oải, huyết áp hạ, chân tay run,

có khi lên cơn giật,… Những triệu chứng tâm lý kèm theo nhƣ đứng ngồi không

yên, nhớ thuốc, gây nên hiện tƣợng “lệ thuộc vào thuốc” (dependance). Thông

thƣờng những ngƣời nghiện có biểu hiện ốm yếu, bạc nhƣợc, họ dễ sinh ra trộm

cƣớp, vì bị thôi thúc phải tìm cho ra tiền mua thuốc, đôi khi việc “nhớ thuốc” dẫn

đến sự bất chấp mọi kỷ cƣơng, pháp luật. Biểu hiện dễ nhận thấy ở ngƣời nghiện là

sự bi quan, mất phƣơng hƣớng, mất niềm tin vào cuộc sống, vào mọi ngƣời [46].

Tổ chức Y tế thế giới (1992) cho rằng, trạng thái nghiện thể hiện một nhóm

những hiện tƣợng sinh lý, tập tính và nhận thức ở một ngƣời nào đó có thói quen sử

dụng một chất hay hành vi, với ƣu tiên cao hơn nhiều so với các thói quen trƣớc kia.

Các đặc điểm trung tâm là giảm khả năng làm chủ việc sử dụng chất hay hành vi, có

một ý muốn hay thèm muốn mạnh mẽ đƣợc sử dụng chất hay hành vi nào đó và ƣu

tiên cao cho việc sử dụng chất hay hành vi so với các hoạt động khác, độ dung nạp

với chất hay hành vi đó tăng, và xuất hiện các triệu chứng cai [44].

Trên bình diện tâm lý học, Vũ Dũng (2009) cho rằng nghiện là trạng thái tâm

35

lý bất bình thƣờng của con ngƣời, xảy ra sau khi bị tiêm nhiễm một cách không chủ

định một chất nào đó, hoặc sử dụng nhiều lần một sự vật, hiện tƣợng nào đó kèm

theo sự biến đổi quá trình tâm - sinh lý của cơ thể và biểu hiện ra ngoài thông qua

hành vi, cách ứng xử và quan hệ của họ với những ngƣời xung quanh. Tác giả cũng

cho rằng, thông thƣờng nghiện đƣợc biểu hiện ở nhiều mức độ: 1/ Mức độ nhẹ:

hành vi và cách ứng xử của ngƣời nghiện rất khó phân biệt so với ngƣời bình

thƣờng; 2/ Mức độ trung bình: hành vi và trạng thái bất bình thƣờng thỉnh thoảng lại

xuất hiện, nhƣng ngƣời nghiện vẫn còn ý thức đƣợc hành vi, cách ứng xử của mình;

3/ Mức độ nặng: hành vi và cách ứng xử của ngƣời nghiện hoàn toàn hoặc gần nhƣ

mất khả năng kiểm soát ý thức [6].

Dựa trên phân tích các quan điểm khác nhau về nghiện, luận án cho rằng:

Nghiệnlà trạng thái tâm lý đòi hỏi thường xuyên phải sử dụng cái gây nghiện một

cách quá mức với độ dung nạp ngày càng gia tăng, dẫn đến việc mất kiểm soát bản

thân, để lại hậu quả tiêu cực về nhận thức, cảm xúc và hành vi và xuất hiện các

triệu chứng của hội chứng cai.

Từ cách nhìn này, luận án cho rằng nghiện có các đặc điểm biểu hiện nhƣ sau:

- Tính bền vững: Khi bàn đến nghiện là một trạng thái về tâm lý và đòi hỏi

thƣờng xuyên phải sử dụng cái gây nghiện, khi cá nhân đạt tới trạng thái nghiện sẽ

dẫn tới phải phụ thuộc vào cái gây nghiện ấy.

- Tính chu kỳ:Khi ngƣời nghiện sử dụng cái gây nghiện theo một định kỳ

nhất định, khó cƣỡng lại đƣợc mong muốn sử dụng. Cứ theo một khoảng thời gian

nhất định, khi chất dẫn truyền hƣng phấn trên hệ thần kinh trung ƣơng không còn,

ngƣời nghiện sẽ rơi vào trạng thái thèm muốn sử dụng và phải sử dụng bằng đƣợc

mới đạt đƣợc sự thỏa mãn. Điều này cứ lặp đi lặp lại với ngƣời nghiện, thậm chí

ngƣời nghiện ở mức nặng thì cƣờng độ lặp lại cái gây nghiện càng nhiều hơn.

- Tính thái quá: Khi đạt tới trạng thái nghiện, cái gây nghiện sẽ chi phối toàn

bộ cuộc sống của ngƣời nghiện. Đồng thời, những ngƣời nghiện mất kiểm soát với

cái gây nghiện, thƣờng bị cƣỡng chế phải sử dụng và phải gia tăng liều lƣợng mới

có thể đạt tới sự thỏa mãn cần thiết phải sử dụng. Đó chính là tính thái quá của hành

36

vi nghiện.

- Tính tiêu cực: Nói đến nghiện là nói đến những hậu quả tiêu cực của ngƣời

nghiện. Các hậu quả thƣờng là đa dạng và ảnh hƣởng đến tất cả mọi hoạt động trong

cuộc sống của cá nhân: sức khỏe, đời sống tâm lý và xã hội.

- Hội chứng cai:Bao gồm các triệu chứng cai, xuất hiện khi việc dùng cái

gây nghiện đã quen bị ngừng lại, các triệu chứng cai biểu hiện run, kích động, ảo

giác và có thể có các cơn co giật; trong khi nghiện các chất kích thích tâm thần thì

triệu chứng cai lại biểu hiện nhƣ ngủ lịm và chậm chạp là điển hình. Hội chứng cai

thƣờng kèm các triệu chứng tâm lý nhƣ lo âu, trầm cảm và rối loạn giấc ngủ. Ngƣời

nghiện thƣờng phải sử dụng trở lại cái gây nghiện đó đó hay một cái khác có liên

quan để tránh hay làm nhẹ hội chứng cai.

Liên hệ với luận án, chúng tôi sử dụng các đặc điểm biểu hiện của nghiện

nhƣ tính thái quá, tính chu kỳ, tính tiêu cực và biểu hiện của hội chứng cai để xếp

loại học sinh có bị nghiện hay không. Với những học sinh đƣợc coi là nghiện, chúng

tôi sử dụng điểm trắc nghiệm của Young để xác định mức độ nghiện ở học sinh

THCS: Mức nhẹ, mức vừa và mức nặng.

1.2.1.3. Nghiện internet

- Khái niệm nghiện internet

Hiện có một số tác giả sử dụng các thuật ngữ khác nhau để chỉ một nội hàm

chung, tƣơng đồng là nghiện internet. Các tác giả nhƣ Scherer (1997), Chen và cộng

sự (2001), Lin và Tsai (2002), Whang và cộng sự (2003) sử dụng thuật ngữ lệ thuộc

vào Internet (Internet dependency) khi nói về ngƣời nghiện internet. Trong khi đó

Greenfield (1999) lại sử dụng thuật ngữ sử dụng internet một cách cƣỡng bức

(Compulsive Internet use), còn Morahan-Martin and Schumacher (2000), David

(2001) sử dụng thuật ngữ sử dụng internet một cách bệnh lý (Pathological Internet

use), Young (1998), Bai và cộng sự (2001), Pratarelli & Browne (2002), Nalwa &

Anand (2003), Chak & Leung (2004), Nichols & Nicki (2004), Simkova & Cincera

(2004) thì sử dụng thuật ngữ nghiện internet (internet addiction) để chỉ những ngƣời

nghiện internet [dẫn theo 1].

Mặc dù sử dụng các thuật ngữ khác nhau nhƣng các tácgiả đều bàn đến một

37

nội hàm của tình trạng nghiện internet, vì thế, trong nghiên cứu này, chúng tôi sử

dụng đồng nhất thuật ngữ nghiện internet. Khái niệm nghiện internet hiện nay vẫn

còn nhiều tranh cãi:

Nhóm tác giả đầu tiên không đồng ý quan điểm cho rằng có tình trạng nghiện

internet. Theo Richard K. Nongard (2009) không có khái niệm nghiện internet, vì

những hành vi và những cảm xúc không thể gọi là nghiện [94]. Một số tác giả khác

cũng cho rằng thuật ngữ nghiện (addiction) chỉ nên đƣợc đƣa vào những trƣờng hợp

liên quan đến dùng ma túy, thuốc phiện (Rachlin, 1990; Walker, 1989).

Cùng hƣớng quan điểm này Levy (1996) cho rằng, internet có nhiều lợi ích

và là sự tiến bộ về ứng dụng kỹ thuật trong xã hội hiện đại và không phải là thiết bị

ứng dụng bị chỉ trích nhƣ “nghiện” (theo nghĩa xấu của khái niệm). Mốt số báo cáo

nghiên cứu cũng cho thấy những ích lợi về mặt tâm lý và tinh thần của internet

mang lại cho cuộc sống của ngƣời sử dụng (Rheingold, 1993; Turkle, 1995) [dẫn

theo 71]. Vì vậy, sử dụng khái niệm nghiện internet là không phù hợp với quan

niệm truyền thống về nghiện và chất gây nghiện.

Trái ngƣợc với quan niệm trên, nhiều nhà nghiên cứu nhƣ Young (1996),

Griffiths (2007), Block (2008) vẫn kiên trì cho rằng việc sử dụng internet quá mức

cũng giống nhƣ chơi cờ bạc quá mức và không khác gì nhiều so với nghiện rƣợu

hay ma túy. Các phạm vi trên đều có chung giới hạn của các thành phần trung tâm

của tình trạng nghiện [57] [71] [108] [109].

Luận án đồng nhất với các quan điểm cho rằng, internet thực sự là một ứng

dụng gây nghiện, chỉ có khác đây là một vấn đề nghiện hành vi chứ không phải

nghiện chất. Nhƣ vậy, khái niệm nghiện internet trong luận án này đƣợc xem là:

Trạng thái tâm lý đòi hỏi thường xuyên được sử dụng internet một cách quá mức

dưới bất cứ hình thức nào, độ dung nạp ngày càng gia tăng, dẫn đến tình trạng bản

thân mất dần khả năng kiểm soát việc sử dụng internet, gây nên những hậu quả tiêu

cực về nhận thức, cảm xúc và hành vi trong cuộc sống của cá nhân, xuất hiện các

triệu chứng của hội chứng cai khi giảm hoặc cắt sử dụng internet một cách đột ngột.

- Biểu hiện của nghiện internet

Griffiths (1996) đã dựa trên các tiêu chuẩn có trong DSM-IV (Bản thống kê

và chẩn đoán các rối loạn tâm thần lần thứ 4) của Hội Tâm thần học Hoa Kỳ cho

38

rằng nghiện internet có 6 biểu hiện nhƣ sau:

Luôn suy nghĩ, bận tâm về việc sử dụng internet: Internet trở thành mối

bận tâm quan trọng trong cuộc sống của ngƣời nghiện, nó ảnh hƣởng đến suy

nghĩvà làm sai lệch nhận thức. Trong nhiều trƣờng hợp, mặc dù không thực sự

sử dụng internet nhƣng cá nhân vẫn nghĩ về thời gian lên mạng kế tiếp mà cá

nhân sẽ thực hiện.

Thay đổi cảm xúc: Cá nhân có những trải nghiệm về cảm xúc tiêu cực (nhƣ

buồn chán, lo âu,...) khi sử dụng internet quá mức.

Gia tăng sử dụng internet:Cá nhân tăng dần thời gian sử dụng internet, và

luôn đạt đƣợc những cảm xúc nhƣ cũ khi sử dụng internet.

Triệu chứng cai (hội chứng cai): Có những cảm giác khó chịu nhƣ cảm giác

run, buồn rầu, hay cáu gắt,…và chúng gây ảnh hƣởng đến cơ thể khi bị gián đoạn

hoặc đột ngột giảm sử dụng internet.

Xung đột: Có những xung đột cá nhân liên quan giữa việc sử dụng internet

và suy nghĩ về chúng, hoặc những xung đột liên quan giữa việc sử dụng internet với

các hành vi khác, hoặc những xung đột xảy ra trong chính bản thân cá nhân (mâu

thuẫn nội tâm hay cảm giác chủ quan về việc mất kiểm soát). Đó là sự lo lắng do cá

nhân trải qua quá nhiều thời gian trên mạng.

Sự tái phát:Hành vi sử dụng internet sau một thời gian dài kiêng khem và

kiểm soát lại lặp đi lặp lại mà không dễ bỏ đƣợc [71].

Dựa trên phân tích nghiên cứu của Griffiths (1996), Young (1996) và nhiều

tác giả khác về biểu hiện của nghiện internet, luận án cho rằng, một cá nhân nghiện

internet có các biểu hiện tâm lý nhƣ sau:

Biểu hiện về mặt nhận thức:

Người nghiện luôn bận tâm, suy nghĩ về việc sử dụng internet: Internet trở

thành hoạt động hầu nhƣ rất quan trọng trong cuộc sống con ngƣời, nó ảnh hƣởng

đến suy nghĩ (mối bận tâm quá nhiều và sự sai lệch nhận thức). Trong nhiều trƣờng

hợp, mặc dù không thực sự sử dụng internet nhƣng cá nhân vẫn nghĩ về thời gian

lên mạng kế tiếp mà anh ta sẽ thực hiện.

Người nghiện internet luôn có xung đột về nội tâm: Cá nhân xung đột giữa

việc sử dụng internet và suy nghĩ về chúng (xung đột cá nhân), liên quan giữa việc

39

sử dụng internet với các hành vi khác (công việc, việc học tập, cuộc sống xã hội, sở

thích và quan tâm riêng) hay trong chính bản thân cá nhân (mâu thuẫn nội tâm hay

cảm giác chủ quan về việc mất kiểm soát). Đó là sự lo lắng do cá nhân trải qua quá

nhiều thời gian trên mạng.

Biểu hiện về mặt cảm xúc:

Ngƣời nghiện có sự thay đổi cảm xúc theo hƣớng tiêu cực nhƣ buồn chán, lo

âu, căng thẳng, bồn chồn khi sử dụng Internet quá mức.

Có những biểu hiện của triệu chứng cai (hội chứng cai): Có những cảm giác

khó chịu và ảnh hƣởng đến cơ thể khi bị gián đoạn hoặc đột ngột giảm sử dụng

Internet (cảm giác run, buồn rầu, hay cáu gắt,...).

Luôn cócảm giác thèm muốn sử dụng internet để đạt đƣợc sự thỏa mãn cảm

xúc cá nhân.

Biểu hiện về mặt hành vi:

Gia tăng hành vi sử dụng internet: Đây là một quá trình tăng dần thời gian

sử dụng internet, và luôn đạt đƣợc những cảm xúc nhƣ cũ khi sử dụng internet mặc

dù có sự thay đổi những tác động.

Các biểu hiện khác: thay đổi bất thƣờng trong sinh hoạt nhƣ thức khuya,

đêm ít ngủ, dậy muộn, ngủ ngày nhiều…Có hậu quả về hành vi xã hội nhƣ nói dối,

ăn cắp vặt, giảm sút chất lƣợng học tập hay công việc,…Thích ở một mình, ít hoặc

ngại tiếp xúc với mọi ngƣời (kể cả ngƣời thân trong gia đình), bỏ bê thực hiện nghĩa

vụ lao động, học tập hoặc xã hội.

Sự tái phát: Lặp đi lặp lại những hành vi có nguy cơ cao của việc sử dụng

internet quá mức sau một thời gian cá nhân kiêng khem và kiểm soát.

Tất cả những điều này dẫn tới những hậu quả về việc giảm sút chất lƣợng

hay thành tích công việc, học tập, quan hệ liên nhân cách của ngƣời nghiện.

Các biểu hiện tâm lý trên ở ngƣời nghiện là cơ sở để luận án nghiên cứu các

biểu hiện về tâm lý của học sinh THCS nghiện internet.

1.2.2. N iệ i ter et của ọc si tru ọc cơ sở

1.2.2.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh trung học cơ sở

Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở bao gồm những em có độ tuổi từ 11 đến 15

tuổi. Đó là những em đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 ở trƣờng trung học cơ sở.

40

Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên và có một vị trí đặc biệt trong thời kỳ

phát triển của trẻ em. Vị trí đặc biệt này đƣợc phản ánh bằng những tên gọi khác

nhau của nó: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị”,...

Đây là thời kỳ chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trƣởng thành (Dƣơng Diệu Hoa, Đỗ

Thị Hạnh Phúc, 2009) [12].

Sự khác biệt về tâm lý – xã hội ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở so với các

em ở lứa tuổi khác là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối về các mặt trí tuệ, đạo

đức. Sự xuất hiện những yếu tố mới của sự trƣởng thành do kết quả của sự biến đổi

cơ thể, của sự tự ý thức, của các kiểu quan hệ với ngƣời lớn, với bạn bè, của hoạt

động học tập, hoạt động xã hội (Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng,

2008) [16].

Một số đặc điểm của học sinh trung học cơ sở cần nhắc tới đó là

Đặc điểm phát triển nhận thức, trí tuệ của học sinh trung học cơ sởphát triển

cao hơn các lứa tuổi trƣớc. Học sinh THCS có khả năng phân tích, tổng hợp phức

tạp hơn khi tri giác các sự vật, hiện tƣợng. Khối lƣợng tri giác tăng lên, tri giác trở

nên có kế hoạch, có trình tự và hoàn thiện hơn.Sự phát triển chú ý của học sinh

THCS diễn ra rất phức tạp. Một mặt, chú ý có chủ định bền vững đƣợc hình thành.

Mặt khác, sự phong phú của những ấn tƣợng, sự rung động tích cực và xung động

mạnh mẽ của lứa tuổi này thƣờng dẫn đến sự chú ý không bền vững. Hoạt động tƣ

duy của học sinh THCS cũng có những biến đổi cơ bản. Sự thay đổi mối quan hệ

giữa tƣ duy hình tƣợng cụ thể sang tƣ duy trừu tƣợng, khái quát mà sự chiếm ƣu thế

của tƣ duy trừu tƣợng là đặc điểm cơ bản về hoạt động tƣ duy của lứa tuổi học sinh

THCS. Tuy nhiên, những thành phần hình tƣợng- cụ thể của tƣ duy bộ phận không

giảm xuống, không mất đi mà vẫn tồn tại và phát triển. Nó vẫn giữ một vai trò quan

trọng trong cấu trúc tƣ duy (Phan Trọng Ngọ, Nguyễn Đức Hƣởng, 2003) [28].

Ở học sinh THCS, sự hình thành kiểu quan hệ mới đƣợc thể hiện rõ trong

hoạt động giao tiếp của các em. Học sinh THCS có nhu cầu mở rộng quan hệ với

ngƣời lớn và mong muốn ngƣời lớn quan hệ với nó một cách bình đẳng nhƣ ngƣời

lớn, không muốn ngƣời lớn coi nó nhƣ trẻ con nhƣ trƣớc đây nữa [12].

Sự giao tiếp của học sinh THCS với bạn bè cùng lứa tuổi là hoạt động nổi

trội ở lứa tuổi này. Mối quan hệ này khá phức tạp và đa dạng hơn nhiều so với học

41

sinh tiểu học. Sự giao tiếp giữa các em đã vƣợt ra ngoài phạm vi học tập, phạm vi

nhà trƣờng, mà còn mở rộng trong những hứng thú mới, những việc làm mới,

những quan hệ mới trong đời sống của các em. Học sinh THCS coi quan hệ bạn bè

cùng lứa tuổi là quan hệ riêng của cá nhân. Các em cho rằng các em có quyền hành

động độc lập trong quan hệ này và bảo vệ quyền đó của mình.

Trong quan hệ tình bạn của lứa tuổi này, trò chuyện giữ một vị trí có ý nghĩa

đối với các em. Trong chuyện trò, các em đã kể cho nhau về mọi mặt sinh hoạt, đời

sống và suy nghĩ của mình. Vì thế, mà các em yêu cầu rất cao đối với bạn bè. Các

em hiểu đã là bạn bè của nhau thì phải cởi mở, hiểu nhau, tế nhị, vị tha, đồng cảm

và giữ bí mật cho nhau [16].

Một đặc điểm nội bật ở lứa tuổi này là tính dễ xúc động, dễ bị kích động, vui

buồn chuyển hóa dể dàng, tình cảm còn mang tính bồng bột. Đặc điểm này là do

ảnh hƣởng của sự phát dục và sự thay đổi một số cơ quan nội tạng gây nên. Nhiều

khi còn do hoạt động thần kinh không cân bằng, thƣờng quá trình hƣng phấn mạnh

hơn quá trình ức chế, mà khiến các em không tự kiềm chế nổi.

Tính dễ kích động của các em đôi khi dẫn đến những xúc động rất mạnh mẽ

nhƣ vui quá trớn, buồn ủ rũ, lúc thì quá hăng say, lúc thì quá chán nản [16].

Tóm lại, ở lứa tuổi học sinh THCS tình cảm đã đƣợc hình thành và phát triển

phong phú, sâu sắc hơn lứa tuổi học sinh tiểu học. Tình cảm mang tính bồng bột, sôi

nổi dần dần giảm đi, nhƣờng chỗ cho tình cảm có ý thức. Đây là lứa tuổi đang phát

triển mạnh mẽ tình cảm đạo đức, tình cảm bạn bè, đồng chí và tập thể.

1.2.2.2.Khái niệm nghiện internet của học sinh trung học cơ sở

Kế thừa các khái niệm nhƣ nghiện, nghiện internet và học sinh trung học cơ

sở, khái niệm nghiện internet của học sinh trung học cơ sở trong luận án này là:

Trạng thái tâm lý đòi hỏi thường xuyên được sử dụng internet một cách quá mức

dưới bất cứ hình thức nào, độ dung nạp ngày càng gia tăng, dẫn đến tình trạng bản

thân mất dần khả năng kiểm soát việc sử dụng internet của học sinh trung học cơ

sở, gây nên những hậu quả tiêu cực về nhận thức, cảm xúc và hành vi trong cuộc

sống của học sinh, xuất hiện các triệu chứng của hội chứng cai khi các em giảm

42

hoặc cắt sử dụng internet một cách đột ngột.

1.2.3. Các ti u c í đá iá, biểu iệ t , ức độ iệ i ter et của ọc

si Tru ọc cơ sở

1.2.3.1. Tiêu chí đánh giá nghiện internet ở học sinh Trung học cơ sở

Hiện nay, có khá nhiều tiêu chí, hay tiêu chuẩn để đánh giá nghiện internet ở

cá nhân. Có tiêu chí mô tả vấn đề nghiện internet (Ivan Goldberg, 1996; Kimberly

S. Young, 1996; Beard, K., & Wolf, E., 2001;Shapira, N., Lessig, M., Goldsmith, T.,

Szabo, S., Lazoritz, M., Gold, M., & Stein, D., 2003; Jerald J. Block, 2008; Chih-

Hung Ko, Ju-Yu Yen, Sue-Huei Chen, Ming-Jen Yang, Huang-Chi Lin, Cheng-Fang

Yen, 2009) [57] [65] [70] [71] [95][109], có tiêu chí chỉ mô tả tình trạng nghiện trò

chơi trực tuyến (Sue Fisher, 1994; Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ, 2013) [14] [68].

Tuy nhiên, chỉ có bản tiêu chí của Sue Fisher (1994) là mô tả các biểu hiện nghiện

trò chơi trực tuyến ở lứa tuổi thanh thiếu niên, các bản tiêu chí khác mô tả tiêu chí/

triệu chứng của nghiện internet dành cho tất cả các đối tƣợng.

Luận án xác định các tiêu chí nghiện internet của học sinh THCS nhƣ sau:

Sử dụng internet một cách thái quá (tính thái quá).

- Học sinhliên tục suy nghĩ về hành động trực tuyến, internet trở thành mối

bận tâm và suy nghĩ hàng ngày của các em.

- Học sinhcó nhu cầu gia tăng sử dụng internet với thời lƣợng ngày càng nhiều.

- Các em đã có cố gắng kiểm soát việc sử dụng internet của mình nhƣng

không thành công.

Lặp đi lặp lại việc sử dụng internet (tính chu kỳ):

- Các em sử dụng internet lặp đi lặp lại hàng ngày mà không thể kiểm soát.

- Mặc dù có thể kiểm soát việc sử dụng internet nhƣng các em vẫn có nguy

cơ cao lặp lại nghiện các ứng dụng internet trƣớc đó.

Internet là một ứng dụng độc hại cho cá nhân (tính độc hại): Các ứng dụng

có thể gây nghiện cho học sinh trung học cơ sở bao gồm: Trò chơi trực tuyến, mạng

xã hội, phim ngƣời lớn (phim sex).

Sử dụng internet dẫn tới những tiêu cực cho cuộc sống cá nhân (tính tiêu cực)

- Giảm dần và mất đi sự quan tâm đến những sở thích và các trò giải trí trƣớc

43

đó mà chỉ còn hứng thú với các hoạt động trên internet.

- Tiếp tục sử dụng internet quá mức mặc dù biết về những khó khăn tâm lý

và sức khỏe phát sinh từ việc sử dụng internet.

- Sử dụng internet để thoát hay giảm những cảm xúc tiêu cực từ cuộc sống

(cảm giác cô đơn, tội lỗi, lo âu, căng thẳng).

- Nói dối gia đình và ngƣời khác khi truy cập internet (nói dối về thời gian,

về ứng dụng, về mối quan hệ trên internet,..).

- Có những nguy hại hay mất đi mối quan hệ có ý nghĩa trong cuộc sống, ảnh

hƣởng tiêu cực công việc, thành tích học tập bởi vì sử dụng internet.

Hội chứng cai: Khi các emcắt hoặc giảm đột ngột sử dụng internet sẽ xuất

hiện các triệu chứng đƣợc mô tả nhƣ khó chịu, cáu gắt, lo âu, buồn chán, nhƣng

không có các dấu hiệu về cơ thể.

Nếu học sinh sử dụng internet một cách liên tục hoặc định kỳ dẫn tới sự suy

giảm, hoặc gây ra các khó khăn về tâm lý trong vòng 12 tháng liên tục, thể hiện qua

các tiêu chí cụ thể ở trên thì đƣợc coi là nghiện internet.

1.2.3.2. Các biểu hiện tâm lý của học sinh THCS nghiện internet

Kế thừa các nghiên cứu về biểu hiện của nghiện internet đã đƣợc xây dựng, luận

án xác định biểu hiện tâm lý nghiện internet của học sinh trung học cơ sở bao gồm:

- Biểu hiện về mặt nhận thức

+ Luôn suy nghĩ một cách bận tâm về việc sử dụng internet: Các em liên tục suy

nghĩ đến các hoạt động trên internet ngay cả khi không truy cập.

+ Luôn có xung đột về nội tâm: Các em nhận thấy rằng việc nghiện internet gây

nên những tiêu cực nhƣng lại không kiểm soát đƣợc, điều này làm cho các em cảm

thấy áy náy, mâu thuẫn.

- Biểu hiện về mặt cảm xúc

+ Thay đổi cảm xúc theo hƣớng tiêu cực nhƣ buồn chán, lo âu, căng thẳng, bồn

chồn khi sử dụng internet quá mức.

+ Có những cảm giác khó chịu và ảnh hƣởng đến cơ thể khi bị gián đoạn hoặc

đột ngột giảm sử dụng internet (cảm giác run, buồn rầu, hay cáu gắt,...).

+ Luôn cócảm giác thèm muốn sử dụng internet để đạt đƣợc sự thỏa mãn cảm

xúc cá nhân.

+ Lo lắng về việc thời gian trải qua trên mạng quá nhiều nhƣng không kiểm soát đƣợc.

44

- Biểu hiện về mặt hành vi

+ Gia tăng sử dụng internet: Các em có một quá trình tăng dần thời gian sử

dụng internet, và luôn đạt đƣợc những cảm xúc nhƣ cũ khi sử dụng internet mặc dù

có sự thay đổi những tác động.

+ Các biểu hiện khác: thay đổi bất thƣờng trong sinh hoạt nhƣ thức khuya, đêm

ít ngủ, dậy muộn, ngủ ngày nhiều…Có hậu quả về hành vi xã hội nhƣ nói dối, ăn

cắp vặt, giảm sút chất lƣợng học tập hay công việc,…Thích ở một mình, ít hoặc

ngại tiếp xúc với mọi ngƣời (kể cả ngƣời thân trong gia đình), bỏ bê thực hiện nghĩa

vụ lao động, học tập hoặc xã hội.

+ Sự tái phát: Các em lặp đi lặp lại những hành vi có nguy cơ cao của việc sử

dụng internet quá mức sau một thời gian cá nhân kiêng khem và kiểm soát.

Tất cả những điều này dẫn tới những hậu quả về việc giảm sút chất lƣợng

hay thành tích trong học tập, ảnh hƣởng tới quan hệ liên nhân cách, đến sức khỏe

của các em.

1.2.3.3. Tiêu chí đánh giá các mức độ nghiện internet của học sinh trung học cơ sở

Dựa trên tiêu chí nghiện internet của học sinh THCS và sử dụng bảng trắc

nghiệm của Young, luận án xác định ba mức độ nghiện internet của học sinh THCS

là nặng, vừa và nhẹ.

Bả 1.2. Các ức độ iệ i ter et của ọc si THCS

Các tiêu chí Các ức độ

đá iá ức ẹ ức vừa ức ặ

1. Tính thái + Bắt đầu bận + Bận tâm nhiều hơn + Học sinhliên tục suy

quá tâm đến internet. đến internet. nghĩ về hành động trực

+ Gia tăng dần + Gia tăng nhiều hơn tuyến, internet trở thành

thời gian sử dụng thời gian sử dụng mối bận tâm và suy nghĩ

hàng internet ngày nhƣng chƣa nhiều

internet hàng ngày. + Đã có sự cố gắng cắt giảm sử dụng internet thành không nhƣng công. hàng ngày của các em. + Học sinhcó nhu cầu gia tăng sử dụng internet với thời lƣợng ngày càng nhiều. + Các em đã có cố gắng

kiểm soát việc sử dụng

internet của mình nhƣng

45

không thành công.

2. Tính chu + Lặp lại việc sử + Lặp lại việc sử dụng + Các em sử dụng

kỳ dụng internet internet hàng ngày với internet lặp đi lặp lại

thời lƣợng nhiều hơn.

hàng ngày nhƣ một thói quen. hàng ngày mà không thể kiểm soát.

+ Mặc dù có thể kiểm

soát việc sử dụng internet

nhƣng các em vẫn có

lặp

nguy cơ cao lại nghiện các ứng dụng

internet trƣớc đó.

Sử

3. Tính tiêu cực + dụng internet để thoát + Sử dụng internet để thoát khỏi cảm xúc tiêu + Có các tiêu chí nhƣ ở mức vừa nhƣng nặng hơn.

khỏi cảm xúc tiêu cực từ cuộc sống + Thƣờng xuyên nói dối

cực từ cuộc sống + Mất và giảm nhiều sự cha mẹ, thầy cô giáo về

+ Giảm dần sự quan tâm đến các hành hành vi sử dụng internet.

quan tâm đến các vi giải trí khác hàng + Biết rõ những nguy hại

hành vi giải trí khác hàng ngày. ngày. + Sử dụng internet gây của việc sử dụng internet nhƣng không thể kiểm

nên những khó khăn về soát.

tâm lý và sức khỏe + Có hành vi xã hội tiêu

nhƣng chƣa thực sự cực bị ảnh hƣởng từ

nghiêm trọng. internet: chống đối, ăn

+ Có những nguy hại hay cắp, thậm chí nguy hiểm

mất đi mối quan hệ có ý hơn là cƣớp giật,…

nghĩa trong cuộc sống, + Mất kiểm soát ý thức

cá nhân với hành vi internet.

ảnh hƣởng tiêu cực đến cuộc sống nhƣng chƣa nghiêm trọng.

Hội

4. chứng cai + Các triệu chứng của hội chứng cai + Các triệu chứng của hội chứng cai đã rõ ràng + Các triệu chứng của hội chứng cai rất rõ ràng.

chƣa rõ ràng. hơn.

Điểm trắc 30 -49 điểm 50 – 79 điểm Trên 80 điểm

46

nghiệm

1.2.4. Tự đá iá bả t của ọc si tru ọc cơ sở

1.2.4.1. Khái niệm tự đánh giá của học sinh trung học cơ sở

Theo Từ điển Cambridge tự đánh giá bản thân (self-esteem) có nghĩa là:

“Lòng tin, sự tin tƣởng vào năng lực và giá trị của bản thân mình” (Cambridge

Dicstionnary, 2006).

Tự đánh giá bản thân là một chủ đề khá đƣợc quan tâm trong tâm lý học,

nhiều nhà nghiên cứu đã đƣa ra khái niệm tự đánh giá bản thân (đặc biệt ở phƣơng

Tây) nhƣng nhìn chung, các quan niệm này vẫn chƣa có sự thống nhất. W. James

(1890), Cooley (1902) và Mead (1934) là những tác giả đầu tiên đề cập đến khái

niệm đánh giá bản thân [20] [22].

William James cho rằng: Tự đánh giá bản thân là kết quả của mối liên hệ

giữa những thành công đã đạt đƣợc và những tham vọng cá nhân muốn vƣơn tới

trong những lĩnh vực mà cá nhân cho là quan trọng trong cuộc sống. Ở một nghĩa

khác, tự đánh giá bản thân là mối liên hệ giữa cái mà chúng ta làm (cái tôi hiện

thực) với cái mà chúng ta muốn làm, muốn trở thành (cái tôi lý tƣởng) (James,

1890) [22].

Theo Cooley (1902), ngƣời khác chính là gƣơng soi mà trong đó chúng ta có

thể nhận ra bản thân mình. Những phán xét của ngƣời khác về bản thân chúng ta sẽ

đƣợc nội tâm hóa và tạo ra những quan niệm của chúng ta về bản thân. Mead (1934)

thì cho rằng: Sự tự đánh giá bản thân chính là những phán xét của ngƣời khác đƣợc

nội tâm hóa [32].

Một số tác giả sau này nhƣ Rotter (1966) cho rằng tự đánh giá bản thân nhƣ

là niềm tin của cá nhân, hay Levcovic (1973) cho rằng: Tự đánh giá bản thân là giai

đoạn phát triển cao của tự ý thức. Nó bao gồm không chỉ sự nhận thức về bản thân

mà cả sự đánh giá đúng sức lực và thái độ phê phán đối với bản thân [dẫn theo 22],

còn theo Paloxova (1973), tự đánh giá bản thân đƣợc hiểu theo 2 nghĩa. Thứ nhất,

đó là biểu tƣợng của con ngƣời về chính mình đã đƣợc hình thành một cách bền

vững. Thứ hai, đó là quá trình cá nhân đánh giá mình trên biểu tƣợng nhân cách về

mình đƣợc nảy sinh, kiểm tra và cải biên. Lepkina (1976), thì cho tự đánh giá bản

thân là thái độ của con ngƣời đối với những năng lực, những khả năng, những phẩm

47

chất nhân cách cũng nhƣ đối với toàn bộ bộ mặt bên ngoài của mình. Franz (1979),

nhà Tâm lý học ngƣời Đức - một ngƣời nghiên cứu rất nhiều về tự đánh giá đã đƣa

ra kết luận: Tự đánh giá bản thân là một dạng đặc biệt của hoạt động tự nhận thức.

Đó là nhận thức của cá nhân về mức độ biểu hiện, của các hiện tƣợng tâm lý, của

phƣơng thức, thái độ đang tồn tại ở bản thân [22].

Tóm lại, các quan điểm của các nhà nghiên cứu tuy khác nhau (ngƣời thì

nhấn mạnh mặt thái độ, ngƣời thì nhấn mạnh mặt nhận thức, ngƣời thì nhấn mạnh

mặt quan hệ… trong khái niệm tự đánh giá bản thân) nhƣng họ đều thống nhất ở

một điểm: họ đều coi tự đánh giá bản thân có bản chất là sự tự nhận xét, đánh giá về

chính bản thân mình; Tự đánh giá bản thân là một giai đoạn phát triển cao của tự ý

thức. Bên cạnh đó, các tác giả cũng có đề cập đến tính toàn diện trong tự đánh giá

bản thân (nghĩa là tự đánh giá bản thân bao hàm cả yếu tố bên ngoài và những phẩm

chất tâm lý nhân cách bên trong). Họ cùng đi đến thống nhất rằng, đối tƣợng của tự

đánh giả bản thân chính là bản thân chủ thể, là những biểu hiện của thế giới nội tâm

ở mỗi con ngƣời.

Ở lứa tuổi học sinh THCS đã bắt đầu xuất hiện sự quan tâm đến bản thân,

đến những phẩm chất nhân cách của mình. Ở các em đã xuất hiện nhu cầu tự đánh

giá, nhu cầu so sánh mình với ngƣời khác. Các em đã bắt đầu xem xét mình, vạch

cho mình một nhân cách tƣơng lai, muốn hiểu biết mặt mạnh, mặt yếu trong nhân

cách của mình. Sự bắt đầu hình thành và phát triển tự ý thức đã gây nhiều ấn tƣợng

sâu sắc đến toàn bộ đời sống tâm lý của lứa tuổi này, đến hoạt động học tập, đến sự

hình thành mối quan hệ qua lại với mọi ngƣời.

Sự tự ý thức của lứa tuổi này đƣợc bắt đầu từ sự tự nhận thức hành vi của

mình. Lúc đầu các em tự nhận thức những hành vi riêng lẻ, sau đó là toàn bộ hành

vi của mình. Cuối cùng các em nhận thức về những phẩm chất đạo đức, tính cách và

khả năng của mình.

Đặc điểm quan trọng về tự ý thức của lứa tuổi này là sự mâu thuẫn giữa nhu

cầu tìm hiểu bản thân với kỹ năng chƣa đầy đủ để phân tích đúng đắn sự biểu lộ của

nhân cách. Trên cơ sở đó nảy sinh những xung đột do mâu thuẫn giữa mức độ kỳ

vọng của các em đối với địa vị thực tế của chúng trong tập thể, mâu thuẫn giữa thái

độ của các em với bản thân, đối với những phẩm chất nhân cách của mình và thái

48

độ của các em đối với ngƣời lớn, đối với bạn bè cùng lứa tuổi [12].

Dựa trên các khái niệm nền tảng về tự đánh giá bản thân và đặc điểm tự ý thức

của học sinh THCS, luận án xác định rằng: Tự đánh giá bản thân của học sinh THCS

là một hoạt động nhận thức bậc cao của các em, thể hiện trình độ phát triển cao của

tự ý thức. Trong đó đối tượng nhận thức của học sinh chính là bản thân mình. Tự

đánh giá bản thân là quá trình các em đánh giá tổng thể về giá trị của mình.

1.2.4.2. Các mặt biểu hiện của tự đánh giá bản thân ở học sinh trung học cơ sở

Các tác giả nhƣ Nathalie Oubrayrie và Claire Mottay (1994);Florence Soldes

Ader, Gwenaelly Levéque (1998), trên cơ sở các nghiên cứu của Coopersmith

(1959, 1967) và Rosenberg (1965), dựa trên khung lý thuyết đa chiều đã xây dựng

thang tự đánh giá bản thân (ETES) với 5 mặt biểu hiện của cái Tôi: cái Tôi xúc

cảm, cái Tôi xã hội, cái Tôi học đƣờng, cái Tôi cơ thể, và cái Tôi tƣơng lai. Sau đó,

Đặng Hoàng Minh (2006) trên cơ sở nghiên cứu và phát triển thang đo tự đánh giá

bản thân ETES đã bổ xung thêm cái Tôi về gia đình [26].

Dựa trên những nghiên cứu của các tác giả, luận án xác định các mặt biểu

hiện của tự đánh giá bản thân ở lứa tuổi học sinh THCS thể hiện qua các yếu tố cái

Tôi nhƣ sau:

- Cái Tôi thể chất (sự ý thức của cá nhân về cơ thể của mình cũng nhƣ những

mong muốn liên quan tới các năng lực thuộc cơ thể…);

- Cái Tôi cảm xúc (nhận thức về những trạng thái xúc cảm của bản thân và

cách thức biểu hiện những cảm xúc nhƣ cảm giác lo hãi, tức giận, căng thẳng, khả

năng kìm nén cảm xúc, khả năng hài hƣớc...);

- Cái Tôi gia đình (các mối quan hệ liên nhân cách giữa cá nhân và ngƣời

khác nhƣ bố mẹ, những ngƣời thân trong gia đình... cũng nhƣ về cảm giác đƣợc

thừa nhận, đƣợc quan tâm hay không đƣợc thừa nhận, không đƣợc quan tâm trong

gia đình, vị trí của cá nhân trong gia đình…);

- Cái Tôi học đƣờng (nhận thức về khả năng học tập của bản thân, về năng

lực làm việc nhóm; thái độ đối với học tập, mục đích học tập; cảm giác đƣợc thừa

nhận hay không đƣợc thừa nhận trong hoạt động học tập; sự hài lòng hay không hài

49

lòng về kết quả học tập của bản thân…);

- Cái Tôi xã hội (nhận thức của cá nhân về vị trí, vai trò của mình trong

nhóm/ xã hội, cảm giác đƣợc thừa nhận hay không đƣợc thừa nhận trên phƣơng

diện xã hội…);

- Cái Tôi tƣơng lai (xây dựng hình ảnh bản thân trong tƣơng lai về công việc,

về sức khoẻ, cuộc sống gia đình, sự thành công hay thất bại trong cuộc sống...).

Đây là các khía cạnh tự đánh giá đƣợc chúng tôi sử dụng để phân tích thực

trạng tự đánh giá bản thân của học sinh THCS nghiện internet và mối tƣơng quan

của tự đánh giá với nghiện internet.

1.2.5. Các ếu tố ả ƣở tới nghiệ i ter et của ọc si tru ọc cơ sở

Có nhiều nghiên cứu cố gắng tìm hiểu các yếu tố ảnh hƣởng tới tình trạng

nghiện internet, mặc dù số lƣợng của các nghiên cứu này còn tƣơng đối hạn chế.

Davis (2001) cho rằng nguyên nhân của sử dụng internet bệnh lý là từ nhận thức sai

lệch bởi những khó khăn trong cuộc sống của cá nhân. Caplan (2003) lại cho rằng

xu hƣớng bị ép buộc tƣơng tác với xã hội thông qua trung gian máy tính của mỗi cá

nhân cho thấy sự tăng dần về “vấn đề” của họ. Caplan đƣa ra ba yếu tố vừa là

nguyên nhân vừa là hệ quả của tình trạng nghiện internet ở các cá nhân. Điều này có

ảnh hƣởng tới cái tôi gia đình, học đƣờng và xã hội: 1/ Khi xem xét nguyên nhân

của nghiện internet cần tìm hiểu với những vấn đề khác nhau nhƣ trầm cảm, cô

đơn,... Những ngƣời bị trầm cảm, cô đơn thƣờng có nhận thức tiêu cực về năng lực

xã hội của mình. Vì thế, họ tham gia vào internet; 2/ Cá nhân thích tƣơng tác qua

trung gian máy tính hơn là tƣơng tác mặt đối mặt, bởi hình thức này cho thấy có ít

đe dọa hơn và họ nhận thấy bản thân mình có năng lực hơn trong lúc online; 3/ Ƣa

thích hơn trong tƣơng tác máy tính dẫn tới việc sử dụng quá mức và cƣỡng ép. Và

làm cho “vấn đề” của họ trở nên tệ hơn và gây ra một vấn đề mới tại trƣờng học,

công việc và ở nhà [61].

Tao (2005) cho rằng “hệ thống đánh giá duy nhất” dành cho sự xuất sắc

trong học tập đã dẫn tới việc nhiều trẻ em việc tìm kiếm “sự đền bù về mặt tinh

thần” thông qua hành vi trực tuyến. Hơn thế, bởi vì sự lôi kéo của hành vi trực

tuyến, trẻ em tìm kiếm phần thƣởng dành cho sự nhận dạng bản thân, sự tự tin, và

liên kết xã hội [113].

50

Các nghiên cứu của Krant và cs (1997), Young &Rogers (1997), Morahan -

Martin & Schumacher (2003), Caplan & High (2007), Ngô Anh Đức và cộng sự

(2006) cho rằng, những ý nghĩ của thanh thiếu niên cũng nhƣ trẻ em sử dụng

internet nhƣ là yếu tố trung gian để đền bù hoặc đối đầu với những thiếu hụt về sự

tự tin bản thân, nhân dạng, và quan hệ. Ngƣời nghiện thƣờng có những mối quan hệ

khó khăn trong thực tế, vì thế họ che dấu bản thân mình (nặc danh) trên mạng để kết

nối với những ngƣời khác sẽ không bị đe dọa đến họ. Khi trực tuyến họ có thể tạo

nên một liên kết xã hội mới của mối quan hệ, họ có thể trở thành một ngƣời mới để

che dấu những khó khăn cơ thể, giao tiếp,...Ngoài ra, sự cô đơn, trầm cảm ở cuộc

sống thực có liên quan đến nghiện internet. Điều đó cho thấy rằng, khi cá nhân cô

đơn, trầm cảm thƣờng tìm đến internet nhƣ một lối thoát tâm lý [92][113].

Tại Trung Quốc, có một yếu tố văn hóa mà nhiều ngƣời đƣa ra để lý giải vấn

đề nghiện ở học sinh. Hệ thống giáo dục Trung Quốc tạo thành nhân tố hoàn cảnh

chủ yếu dẫn tới hành vi nghiện internet ở thanh thiếu niên (Tao, 2005; Tao và cs,

2007). Cha mẹ ở Trung Quốc đều muốn con họ có tƣơng lai sáng lạn hơn, việc vào

Đại học nhƣ một “chỉ số vàng” cho thành công cá nhân, điều này tạo nên sức ép cho

trẻ là phải học tập thật nhiều, chính vì thế mà trẻ thƣờng rất căng thẳng ở trƣờng và

lối thoát của họ là sử dụng internet ( Lin&Yan, 2001; Lin 2002) [113]. Lối giải thích

này phần nào đúng với xã hội Việt Nam hiện nay, và trong thực hành lâm sàng, tôi

cũng đã tiếp cận với những nguyên nhân tƣơng tự của học sinh nghiện internet.

Trong các nghiên cứu về nguyên nhân gây nghiện của internet, có lẽ Young

(1997) đã đƣa ra một hệ thống những nguyên nhân tƣơng đối đầy đủ về vấn đề này.

Young cho rằng nguyên nhân dẫn tới nghiện internet chính là bản thân các chƣơng

trình ứng dụng trên internet có những yếu tố gây nghiện. Ngoài ra sự hỗ trợ giao lƣu

giữa những cá nhân với nhau trên internet, nhất là những cá nhân có sự khó khăn

giao tiếp trong đời sống thực cũng là mối quan hệ dẫn tới nghiện internet. Internet

cũng tạo cho ngƣời chơi một tính cách mà họ ít đƣợc trải nghiệm qua cuộc sống

thực, là phƣơng tiện để ngƣời sử dụng giải thoát những tính cách bị trói buộc, giúp

51

cho ngƣời tham gia đƣợc công nhận sức mạnh của mình [107].

Tiểu kết c ƣơ 1

Nghiện internet đang là một chủ đề quan tâm nghiên cứu ở nhiều quốc gia và

ở tất cả các châu lục trên thế giới. Các nghiên cứu đều cho thấy mức độ nghiện

internet trong cộng đồng là khá cao và chủ yếu là ở lứa tuổi thanh thiếu niên.

Nghiện internet của học sinh THCS đƣợc hiểu là trạng thái tâm lý đòi hỏi

thƣờng xuyên đƣợc sử dụng internet một cách quá mức dƣới bất cứ hình thức nào,

độ dung nạp ngày càng gia tăng, dẫn đến tình trạng bản thân mất dần khả năng kiểm

soát việc sử dụng internet, gây nên những hậu quả tiêu cực về nhận thức, cảm xúc

và hành vi trong cuộc sống của cá nhân, xuất hiện các triệu chứng của hội chứng

cai khi giảm hoặc cắt sử dụng internet một cách đột ngột. Nghiện internet có các

đặc điểm nhƣ tính thái quá, tính bền vững, tính chu kỳ, tính độc hại, tính tiêu cực và

hội chứng cai. Nghiện internet có ba mức độ: nhẹ, vừa, nặng và biểu hiện tiêu cực ở

nhận thức, cảm xúc, hành vi của ngƣời nghiện. Internet có các ảnh hƣởng tiêu cực

đến vấn đề sức khỏe, quan hệ xã hội, thành tích học tập và vấn đề an ninh cá nhân,

sử dụng chất kích thích.

Tự đánh giá bản thân của học sinh THCS là một hoạt động nhận thức đặc

biệt của các em, là trình độ phát triển cao của tự ý thức, trong đó đối tƣợng nhận

thức chính là bản thân các em. Tự đánh giá bản thân là quá trình mà các em tự đánh

giá tổng thể về giá trị bản thân mình. Các mặt biểu hiện của tự đánh giá bản thân ở

học sinh THCS đƣợc thể hiện qua các yếu tố cái Tôi: Cái tôi gia đình, cái tôi xã hội,

cái tôi thể chất, cái tôi học đƣờng, cái tôi cảm xúc, cái tôi tƣơng lai.

Nghiện internet và tự đánh giá bản thân là hai nhân tố có mối quan hệ với

nhau. Thanh thiếu niên tự đánh giá thấp bản thân thƣờng nghiện các ứng dụng

tƣơng tác trực tuyến (mạng xã hội, tán gẫu, diễn đàn) và trò chơi trực tuyến. Các

khía cạnh tự đánh giá bản thân thấp có mối quan hệ với nghiện internet bao gồm: tự

đánh giá về cơ thể, tự đánh giá tổng quát, tự đánh giá xã hội, tự đánh giá về gia

đình. Đồng thời tự đánh giá thấp bản thân có thể là nguyên nhân dẫn tới các vấn đề

khác nhƣ vấn đề sức khỏe tâm thần, khó khăn nội tâm, vấn đề cảm xúc và điều này

52

là nguy cơ dẫn tới tình trạng nghiện Internet ở thanh thiếu niên.

C ƣơ 2

TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu tiến hành khảo sát trên khách thể là học sinh THCS tại tỉnh Đồng

Nai. Trƣớc khi nói về các giai đoạn tổ chức và các phƣơng pháp nghiên cứu, chúng

tôi xin trình bày một số đặc điểm cơ bản về địa bàn và khách thể nghiên cứu, các

đặc điểm này có liên quan đến tình trạng nghiện internet.

2.1. ĐỊA BÀN VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

2.1.1. Địa b i cứu

Đồng Nai là tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận,

phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh, Phía Bắc

giáp tỉnh Lâm Đồng và Bình Dƣơng. Đồng Nai có vị trí hết sức quan trọng, là cửa

ngõ phía đông Thành phố Hồ Chí Minh và là một trung tâm kinh tế lớn của cả phía

Nam, nối Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên với toàn bộ vùng Đông Nam Bộ [40].

Theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu thì văn hóa Đồng Nai là sự hòa

nhập đan xen, chồng chất, kết tinh bởi nhiều dòng văn hóa, nhiều nền văn hóa thích

ứng với điều kiện của vùng đất mới [41]. Về mặt kinh tế, nằm trong vùng kinh tế

trọng điểm phía Nam, là một tỉnh cửa ngõ đi vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ - vùng

kinh tế phát triển và năng động nhất cả nƣớc [41]. Ngoài ra, Đồng Nai còn là nơi

hội tụ của nhiều tôn giáo lớn. Những đặc điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn

giáo đã ảnh hƣởng lớn đến đời sống thanh thiếu niên ở Đồng Nai.

Ba trƣờng THCS đƣợc lựa chọn khảo sát là Trƣờng THCS Song ngữ Lạc

Hồng, Tam Hiệp và Bình Sơn. Trong đó, Trƣờng THCS Bình Sơn là một trƣờng

nằm trên địa bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, đây là địa bàn thuộc vùng nông

thôn bán sơn, gần giáp với tỉnh Lâm Đồng. Đặc điểm học sinh của vùng này là học

sinh nông thôn, theo đạo, ít có sự giám sát và quản lý của cha mẹ.

Trƣờng THCS Song Ngữ Lạc Hồng là một trƣờng nằm trên địa bàn phƣơng

Bửu Long của Thành phố Biên Hòa. Đặc điểm học sinh của trƣờng là học lực và

hạnh kiểm kém, có sự giám sát chặt của nhà trƣờng nhƣng ít đƣợc quan tâm, chăm

53

sóc từ cha mẹ.

Trƣờng THCS Tam Hiệp là trƣờng nằm trên địa bàn phƣờng Tam Hiệp,

thuộc Thành phố Biên Hòa, đây là một trƣờng công lập. Đặc điểm học sinh ở

trƣờng này là các em đa số con gia đình làm công nhân hoặc buôn bán. Các em

sống ở khu vực có nhiều tiệm internet nhƣng lại ít bị sự giám sát của nhà trƣờng

cũng nhƣ gia đình.

Các đặc điểm về văn hóa – xã hội hay kinh tế gia đình của học sinh cũng là

nhân tố quan trọng ảnh hƣởng đến tình trạng nghiện internet của các em.

2.1.2. K ác t ể i cứu

Khách thể nghiên cứu là học sinh THCS ở Đồng Nai, đƣợc phân ra 3 giai

đoạn nghiên cứu. Mỗi giai đoạn nghiên cứu có một nhóm khách thể khác nhau.

2.1.2.1. Giai đoạn 1

Giai đoạn nghiên cứu mức độ nghiện internet của học sinh THCS tại Đồng

Nai.

Cỡ mẫu: Đề tài sử dụng công thức tính cỡ mẫu:

Z²1-α . p.q

N = (p.d) 2

Trong đó:

N: Cỡ mẫu

Z: Hệ số giới hạn tin cậy.

p: Tỉ lệ ƣớc đoán của quần thể (Nghiên cứu trƣớc đó của Lê Minh Công

(2011) trên học sinh THCS tại Biên Hoà là 12% (0,12)).

q = 1- p

d: Độ chính xác mong muốn (hay sai số NC:15%. Độ chính xác 85%).

Từ công thức trên, chúng tôi xác định cỡ mẫu nghiên cứu của đề tài là.

1,96². 0,12.0,88 N = (0,12.1,15) 2 = 1251

Phƣơng pháp chọn mẫu: Sử dụng phƣơng pháp chọn mẫu phân tầng.

Đề tài tiến hành khảo sát trên 1260 mẫu học sinh THCS theo phƣơng pháp

chọn mẫu phân tầng. Sau khi thu phiếu khảo sát về chỉ có 1054 đủ tiêu chuẩn đƣa

54

vào phân tích.

Bả 2.1. P bố ẫu i cứu tỷ ệ t ị iệ i ter et ở ọc si

THCS tại Đồ Nai

Đặc điể ẫu

Nữ

Nam

Tổ số

Số

Tầ 1.

Số lƣợng

Số lƣợng

lƣợng (N=1054)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tầ 2. Trƣờ

Tầ 3. ớp

Địa P ƣơ

6

43.43

56.57

56

43

99

9.39

7

58.68

41.32

50

71

121

11.48

8

43.52

56.48

61

47

108

10.25

Nông Thôn (HuyệnTân

Công lập (THCS

Phú)

Phú Lâm)

9

47.92

52.08

75

69

144

13.66

472

44.78

Dân Lập

6

41.46

58.54

24

17

41

3.89

7

40.74

59.26

48

33

81

7.69

(THCS Song Ngữ

8

42.22

57.78

26

19

45

4.27

Lạc Hồng)

9

19

40.43

28

59.57

47

4.46

214

20.30

6

47.57

52.43

54

49

103

9.77

7

43.82

56.18

50

39

89

8.44

Công lập (THCS

Thành Thị

8

52.22

47.78

43

47

90

8.54

Tam Hiệp)

(TP. Biên Hòa)

9

55.81

44.19

38

48

86

8.16

Tổ số

368

34.91

501

553

1054

100

2.1.2.2. Giai đoạn 2

Nghiên cứu thực trạng mức độ, biểu hiện của nghiện internet, tự đánh giá của

học sinh THCS nghiện internet và tƣơng quan giữa nghiện internet và tự đánh giá

bản thân ở học sinh THCS tại Đồng Nai.

Trong giai đoạn nghiên cứu này, đề tài chỉ nghiên cứu trên khách thể học

sinh THCS đã đƣợc xác định trạng nghiện Internet đã nghiên cứu trong giai đoạn

1.Tổng số mẫu khách thể nghiên cứu là 163 trƣờng hợp đƣợc mô tả tại bảng 2.2.

Ngoài ra, đề tài cũng tiến hành phỏng vấn sâu 5 trƣờng hợp học sinh THCS

55

nghiện internet.

Bả 2.2. K ác t ể i t ực trạ iệ i ter et v ối qua ệ iữa

iệ i ter et v tự đá iá bả t của ọc si THCS tại Đồ Nai

Tổ số

K ối ớp

Trƣờ

Số ƣợ (N=1054)

Nam

Nữ

Số ƣợ

Tỷ ệ (t eo ớp / tổ số của ớp)

6

99

6

2

8

8.08

Công lập (THCS Phú

7

121

7

7

14

11.57

Lâm)

8

108

9

5

14

12.96

9

14

144

11

25

17.36

Dân Lập

6

41

6

1

7

14.63

(THCS Song Ngữ

7

81

8

12

20

24.69

Lạc Hồng)

8

45

7

4

11

24.44

9

47

10

2

12

25.53

Công lập

6

103

6

7

13

12.62

7

89

8

3

11

12.36

(THCSTam Hiệp)

8

90

5

4

9

10

9

86

10

9

19

22.09

1054

163

2.1.2.3. Giai đoạn 3

Đây là giai đoạn thử áp dụng tham vấn tâm lý với học sinh THCS nghiện

internet. Nghiên cứu đã lựa chọn và tiến hành tham vấn tâm lý trên 2 học sinh đủ

tiêu chuẩn nghiện internet và tự đánh giá thấp bản thân. Cả hai khách thể phải đƣợc

gia đình đồng ý tham gia chƣơng trình tham vấn.

2.2. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU

2.2.1. Giai đoạ 1 N i cứu uậ ( từ 11.2012 đến tháng 10.2013)

2.2.1.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của giai đoạn này là xây dựng cơ sở lý luận cho toàn

56

bộ quá trình nghiên cứu của luận án và từ khung lý luận, xác lập quan điểm chủ đạo

của luận án trong việc nghiên cứu nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học

sinh THCS.

2.2.1.2. Nội dung nghiên cứu

- Phân tích, đánh giá các công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về các

vấn đề liên quan đến nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học sinh THCS, từ

đó chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong các công trình nghiên cứu này để tiếp tục

tiến hành nghiên cứu.

- Xác định quan điểm tiếp cận nghiên cứu nghiện internet và tự đánh giá bản

thân của học sinh THCS.

- Xác định các khái niệm công cụ về hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ

bản liên quan dến đề tài nhƣ: internet, nghiện, nghiện internet, biểu hiện của nghiện

internet, đặc điểm tâm lý của học sinh THCS, nghiện internet của học sinh THCS,

tiêu chí đánh giá và mức độ nghiện internet của học sinh THCS, tự đánh giá bản

thân của học sinh THCS.

- Nghiên cứu mối tƣơng quan giữa nghiện internet và tự đánh giá bản thân

của học sinh THCS.

2.2.1.3. Phương pháp tiến hành

- Để xây dựng cơ sở lý luận của luận án, đề tài đã sử dụng các phƣơng pháp

nghiên cứu nhƣ phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và khái niệm hóa… các tài liệu đã

đƣợc đăng tải ở các sách báo, tạp chí và hệ thống thông tin toàn cầu trên internet… bàn

về vấn đề liên quan đến nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học sinh THCS.

Bên cạnh đó, đề tài cũng đã xin ý kiến của các chuyên gia về các vấn đề lý luận.

2.2.2. Giai đoạ 2 T iết kế cô cụ điều tra (từ t á 10 – 12.2031)

2.2.2.1. Mục đích:

Xây dựng những nội dung chính của bảng hỏi sao cho phù hợp với mục đích

nghiên cứu, trong đó nội dung chính là làm rõ nội dung nghiên cứu thực trạng.

2.2.2.3. Phương pháp tiến hành

Việc khai thác thông tin làm cơ sở để xây dựng bảng hỏi đƣợc tác giả sử

dụng từ 4 nguồn tƣ liệu gồm: (1) Kết quả tổng quan tài liệu từ các nghiên cứu trên

thế giới và ở Việt Nam về vấn đề nghiện internet và tự đánh giá bản thân. (2) Tổng

57

hợp ý kiến đánh giá từ các chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý học và tâm thần học.

Phƣơng pháp chuyên gia sẽ giúp tác giả xác định đƣợc đúng hƣớng đi của chuyên

ngành tâm lý học hơn. (3) Luận án có sử dụng 1 trắc nghiệm và 1 thang đo trong

nghiên cứu tâm lý về vấn đề nghiện internet và tự đánh giá bản thân. (4) Những

cuộc phỏng vấn, trò chuyện giữa tác giả luận án với học sinh THCS nghiện internet,

phụ huynh của các em sẽ giúp tác giả khoanh vùng chính xác hơn nội dung nghiên

cứu của mình.

2.2.2.4. Nội dung bảng hỏi

Từ nguồn tài liệu đã tổng hợp, tác giả tiến hành xây dựng bảng hỏi dành cho

học sinh THCS nghiện internet tự điền. Nội dung của bảng hỏi đƣợc xây dựng theo

mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, cụ thể gồm các phần nhƣ sau:

P ầ 1 Để sàng lọc mức độ nghiện internet và tìm hiểu biểu hiện tâm lý của

học sinh THCS nghiện internet, luận án sử dụng trắc nghiệm đánh giá mức độ

nghiện internet của Young (1996).

Trắc nghiệm của Young đánh giá nghiện internet (Internet Addiction Test –

IAT), trắc nghiệm này đƣợc nhiều nhà nghiên cứu cả ở châu Âu và châu Á sử dụng.

Trắc nghiệm đƣợc chuyển hóa Việt ngữ bởi tác giả nghiên cứu và đƣợc đánh

giá độc lập bởi hai bác sĩ tâm thần có uy tín, kinh nghiệm trong lĩnh vực điều trị

nghiện là PGS. TS Nguyễn Văn Thọ và BS Nguyễn Minh Tiến (2012). Trong

nghiên cứu trƣớc (Nguyễn Văn Thọ, Lê Minh Công, 2015), độ tin cậy của trắc

nghiệm khá cao với Cronbach’alpha bằng 0,83 và trong nghiên cứu này độ tin cậy

(Cronbach’alpha) bằng 0,76.

Trắc nghiệm bao gồm 20 item, mỗi item có 5 mức độ trả lời theo thứ tự : 0 –

Không thích hợp; 1 – Hiếm khi; 2 – Thỉnh thoảng; 3 – Thƣờng; 4 – Thƣờng xuyên

hơn; 5 – Luôn luôn.

Cách tích điểm của trắc nghiệm theo thứ tự tăng dần và theo số của câu trả

lời, 0 – 0 điểm; 1 – 1 điểm; 2 – 2 điểm; 3 – 3 điểm; 4 – 4 điểm; 5 – 5 điểm.

Cách phân loại tình trạng nghiện internet đƣợc xác định nhƣ sau:Cộng dồn

điểm của tất cả các câu trên bộ trắc nghiệm, nghiệm thể nào có số điểm thuộc

khoảng nào thì ở mức độ nghiện đó:0 – 30 điểm, Sử dụng Internet ở mức bình

thƣờng; 31– 49 điểm: Nghiện Internet nhẹ; 50 – 79 điểm: Nghiện Internet ở mức

58

vừa phải;79 – 100 điểm: Nghiện Internet ở mức nặng.

P ầ 2:Các thông tin liên quan: 1) thực trạng sử dụng internet (tuổi bắt đầu

sử dụng, thời gian sử dụng trung bình một ngày, thời điểm sử dụng trong ngày, các

ứng dụng truy cập, địa điểm, phƣơng tiện truy cập, kinh phí chi trả); 2) Nhu cầu sử

dụng internet; 3) Hậu quả của việc sử dụng internet; 4) Các yếu tố ảnh hƣởng của

tình trạng nghiện internet.

P ầ 3 Để tìm hiểu thực trạng tự đánh giá bản thân của học sinh THCS

nghiện internet và mối quan hệ giữa nghiện internet và tự đánh giá bản thân, luận án

sử dụng thang đo tự đánh giá bản thân E.T.E.S - V

Thang đo E.T.E.S -V bao gồm 82 mệnh đề (item). Thang đo này do Florence

Soldes Ader, Gwenaelly Levéque, Nathalie Oubrayrie và Claire Mottay ở Khoa

Tâm lý học, trƣờng Đại học Toulouse xây dựng, đƣợc Đặng Hoàng Minh nghiên

cứu trên một cỡ mẫu nhỏ trên khách thể Việt Nam. Thang đo trong luận án này đã

đƣợc Trần Thị Minh Đức và cộng sự (2013) thích nghi hóa và Việt hóa trên cỡ mẫu

hơn 4600 ngƣời [8]. Độ tin cậy của thang đo đƣợc đề tài kiểm định

(Cronbach’Alpha) bằng 0,88. Thang đo bao gồm 82 mệnh đề và đƣợc nhóm thành 6

yếu tố thể hiện 6 loại cái Tôi: 1) Cái Tôi thể chất: Hình ảnh về cơ thể, ngoại hình

của cá nhân; 2) Cái Tôi xã hội: những mối liên hệ của cá nhân với ngƣời khác và

cảm giác đƣợc ngƣời khác thừa nhận; 3) Cái Tôi cảm xúc: khả năng làm chủ cảm

xúc và kiểm soát những xung động của cá nhân; 4) Cái Tôi học đƣờng: biểu đƣợng

của cá nhân về hành vi và khả năng của bản thân trong môi trƣờng học đƣờng; 5)

Cái Tôi gia đình: Biểu tƣợng của cá nhân về gia đình, về vị trí của bản thân trong

gia đình. Mỗi mệnh đề của thang đo có 5 phƣơng án trả lời từ: Hoàn toàn không

đồng ý đến Hoàn toàn đồng ý. Tuy nhiên, phiên bản Việt Nam mà Trần Thị Minh

Đức sử dụng đã rút xuống còn 4 phƣơng án trả lời: 1-Hoàn toàn không đồng ý, 2-

Hơi đồng ý, 3- Khá đồng ý, 4-Hoàn toàn đồng ý.

Cụ thể, mỗi phƣơng diện bao gồm các mệnh đề nhƣ sau:

Cái Tôi thể chất: bao gồm các mệnh đề khẳng định (5, 18, 25, 40, 44, 77) và

các mệnh đề phủ định (11, 31, 37, 55, 63, 70).

Cái Tôi xã hội: bao gồm các mệnh đề khẳng định (3, 16, 20, 29, 38, 53, 67,

59

72) và các mệnh đề phủ định (9, 43, 47, 61, 76, 79).

Cái Tôi cảm xúc: bao gồm các mệnh đề khẳng định (8, 21, 28, 41, 46, 59) và

các mệnh đề phủ định (2, 14, 24, 34, 54, 66, 73).

Cái Tôi học đường: bao gồm các mệnh đề khẳng định (3,32, 36, 56, 64, 81)

và các mệnh đề phủ định (4, 17, 27, 39, 50, 69).

Cái Tôi gia đình: bao gồm các mệnh đề khẳng định (1, 7,12, 26, 30, 52, 65,

68, 75, 78, 82) và các mệnh đề phủ định (15, 22, 35, 42, 48, 57, 60, 71).

Cái Tôi tương lai: bao gồm các mệnh đề khẳng định (10, 49, 51, 62, 74, 80)

và các mệnh đề phủ định (6, 19, 23, 33, 45, 58).

Ngƣời trả lời phải chỉ ra điểm đồng ý hoặc không đồng ý với các mệnh đề

đƣợc đƣa ra. Trong số 82 mệnh đề, có 39 mệnh đề phủ định, mỗi khi các mệnh đề

phủ định này đƣợc đảo ngƣợc, những câu trả lời của ngƣời tham gia đƣợc cộng

thêm để xác định tổng số điểm đánh giá bản thân.

P ầ 4:Tìm hiểu một số thông tin cá nhân về khách thể, bao gồm những

thông tin: giới tính, lớp, thành tích học tập, tình trạng kinh tế gia đình, tình trạng

hôn nhân gia đình.

2.2.3. Giai đoạ 3 Điều tra t ử (từ t á 12.2013 đế t á 1.2014).

2.2.3.1. Mục đích

Xác định độ tin cậy và độ giá trị của bảng hỏi để từ đó tiến hành chỉnh sửa

những tiểu thang đo chƣa đạt yêu cầu.

2.2.3.2. Phương pháp tiến hành

Phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi cá nhân đã đƣợc hình thành ở giai đoạn 2

2.2.3.3. Khách thể: 30 khách thể Trƣờng THCS Song Ngữ Lạc Hồng, TP.

Biên Hòa.

2.2.3.4. Kết quả xử lý số liệu

Kết quả xử lý bảng hỏi điều tra thử giúp tác giả nhận thấy một số điểm hạn

chế của bảng hỏi lần 1, cụ thể gồm những điểm chính sau đây:

Bảng hỏi quá dài gây khó khăn cho học sinh THCS nghiện internet, chính vì

thế cần phải loại bỏ những biến không cần thiết.

Thời gian thực hiện hoàn thành bảng hỏi lâu, điều này gây khó khăn cho

khách thể khi trả lời. Vì thế, tác giả cân nhắc phải làm việc kỹ với hiệu trƣởng nhà

60

trƣờng khi thực tế khảo sát.

Bảng trắc nghiệm sử dụng sàng lọc không đƣợc toàn bộ các em trả lời chính

xác, điều này gây khó khăn cho việc đánh giá chính xác mức độ nghiện internet.

Chính vì thế, tác giả bổ sung thêm bảng tiêu chuẩn để phỏng vấn lâm sàng với

những đối tƣợng trẻ đã qua sàng lọc.

Sau khi đã rút kinh nghiệm và tính toán lại độ tin cậy của các thang đo trong

toàn bảng hỏi, chúng tôi tiến hành điều tra chính thức.

2.2.4. Giai đoạ 4 Điều tra c í t ức (Từ t á 2 đế t á 5.2014).

2.2.4.1. Mục đích

Phân tích thực trạng nghiện internet, thực trạng tự đánh giá bản thân của học

sinh THCS nghiện internet và mối quan hệ giữa hai yếu tố này ở học sinh THCS tại

Đồng Nai.

2.2.4.2. Nguyên tắc điều tra

Khách thể tham gia điều tra trên tinh thần tự nguyện, độc lập theo các suy

nghĩ và đánh giá, tránh trao đổi hoặc nhờ ngƣời khác điền giúp. Trong quá trình

điều tra, điều tra viên luôn sẵn sàng để giải thích những nội dung mà khách thể cảm

thấy khó hiểu.

2.2.5. Giai đoạ 5 Đề xuất biệ p áp v t ử iệ t a vấ t bằ iệu

p áp ậ t ức – hành vi (Từ t á 6.2014 đế t á 11.2014).

2.2.5.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng nghiện internet internet, mối

quan hệ giữa nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học sinh THCS tại Đồng

Nai, nghiên cứu đề xuất các biện pháp giảm tình trạng nghiện internet và nâng cao

tự đánh giá bản thân của học sinh THCS. Đồng thời, đề tài tiến hành tham vấn tâm

lý đối với học sinh THCS nghiện internet và đánh giá thấp bản thân, qua đó xác

định tính hiệu quả của biện pháp này.

2.2.5.2. Nội dung nghiên cứu

Đề xuất các biện pháp giảm tình trạng nghiện internet cho học sinh THCS tại

61

Đồng Nai.

Tiến hành tham vấn tâm lý bằng liệu pháp nhận thức – hành vi cho 02 học

sinh THCS nghiện internet.

2.2.5.3. Phương pháp tiến hành

Để triển khai các nội dung nghiên cứu trong giai đoạn này, các phƣơng pháp

nghiên cứu sau đã đƣợc sử dụng: Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu, can thiệp trị liệu

tâm lý, phƣơng pháp chuyên gia, phƣơng pháp phỏng vấn sâu, quan sát, nghiên cứu

trƣờng hợp và phân tích dữ liệu.

2.2.6. Giai đoạ 6 P tíc kết quả i cứu (từ tháng 6.2014 đến tháng

4.2015).

2.2.6.1. Mục đích: Xử lý số liệu và sắp xếp kết quả xử lý theo bố cục đề cƣơng báo

cáo đã đề ra.

2.2.6.2. Nội dung:Dựa vào kết quả nghiên cứu lý luận, mục đích và nội dung của

chƣơng 3 (kết quả nghiên cứu thực tiễn) đƣợc chia làm 7 phần chính nhƣ sau:

Phần 1. Nghiện internet của học sinh THCS tại Đồng Nai: Thực trạng sử dụng

internet của học sinh nghiện internet; Mức độ nghiện internet của học sinh THCS

tại Đồng Nai; Các yếu tố ảnh hƣởng (hậu quả) của nghiện internet đến học sinh

Phần 2. Các biểu hiện tâm lý của học sinh THCS nghiện internet tại Đồng Nai, bao

gồm biểu hiện về nhận thức, cảm xúc và hành vi.

Phần 3. Tự đánh giá chung và tự đánh giá theo 6 mặt biểu hiện của cái Tôi: tự đánh

giá về thể chất, cảm xúc, gia đình, học đƣờng, xã hội và tƣơng lai của học sinh

THCS nghiện internet tại Đồng Nai.

Phần 4. Mối quan hệ giữa tự đánh giá bản thân và nghiện internet của học sinh

THCS tại Đồng Nai: Các mức độ của nghiện internet và các mặt biểu hiện cái tôi

của tự đánh giá; tƣơng quan giữa các vấn đề thực trạng, hậu quả, biểu hiện tâm lý

của nghiện internet và tự đánh giá bản thân.

Phần 5. Các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hƣởng đến nghiện internet của học

sinh THCS tại Đồng Nai.

Phần 6. Thử nghiệm tham vấn tâm lý trƣờng hợp học sinh THCS nghiện internet và

62

tự đánh giá bản thân thấp theo liệu pháp nhận thức hành vi.

Phần 7. Đề xuất hệ thống các giải pháp giảm tình trạng nghiện internet và nâng cao

tự đánh giá bản thân của học sinh THCS.

Trên thực tế, các giai đoạn tổ chức nghiên cứu không tách rời nhau, tùy vào

điều kiện/ hoàn cảnh của quá trình khảo sát mà đôi khi là nối tiếp hoặc lồng ghép

với nhau

2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.3.1. P ƣơ p áp i cứu t i iệu

2.3.1.1. Mục đích

Nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài, xác lập cơ sở để xây dựng bảng hỏi

điều tra và tìm hiểu một số biện pháp can thiệp nghiện internet.

2.3.1.2. Nội dung nghiên cứu.

- Tổng quan về tự đánh giá bản thân, mức độ và biểu hiện của nghiện internet,

mối quan hệ giữa nghiện internet với tự đánh giá bản thân ở học sinh THCS, từ đó

chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong các công trình nghiên cứu này để tiếp tục tiến

hành nghiên cứu.

- Xác định quan điểm tiếp cận nghiên cứu nghiện internet và tự đánh giá bản

thân của học sinh THCS.

- Xây dựng một số khái niệm công cụ của tài nhƣ: internet, nghiện, nghiện

internet, biểu hiện của nghiện internet, đặc điểm tâm lý của học sinh THCS, nghiện

internet của học sinh THCS, tiêu chí đánh giá và mức độ nghiện internet của học

sinh THCS, tự đánh giá bản thân của học sinh THCS.

2.3.1.3. Cách thức tiến hành

Thu thập, lựa chọn các tài liệu trong và ngoài nƣớc liên quan đến vấn đề

nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học sinh THCS; phân tích, tổng hợp và

đánh giá tổng quát các nghiên cứu về vấn đề này, từ đó xây dựng cơ sở lý luận, thiết

kế công cụ nghiên cứu và lấy tƣ liệu sử dụng trong quá trình phân tích, lý giải, đánh

giá kết quả thu đƣợc từ thực tiễn cũng nhƣ xây dựng các biện pháp can thiệp tâm lý

63

với tình trạng nghiện internet cho học sinh THCS.

2.3.2. P ƣơ p áp c u ia

2.3.2.1. Mục đích sử dụng

Lấy ý kiến của các nhà chuyên môn có kinh nghiệm trong lĩnh vực tâm thần

học, đặc biệt là lĩnh vực nghiện internet và các chuyên gia về thống kê toán học.

2.3.2.2. Nội dung

Xin ý kiến trực tiếp các chuyên gia về từng vấn đề: Định hƣớng lựa chọn

quan điểm nghiên cứu; xác định tiêu chuẩn đánh giá nghiện, nghiện internet, các

kỹ thuật sử lý thống kê và các công cụ sử lý số liệu; những khái niệm công cụ

của luận án; các công cụ nghiên cứu; các biện pháp can thiệp dành cho học sinh

THCS nghiện internet.

2.3.2.3. Cách tiến hành

Có hai cách để đề tài triển khai phƣơng pháp chuyên gia:

- Trực tiếp gặp chuyên gia để xin ý kiến về từng vấn đề mà đề tài đã xác định.

Ngƣời nghiên cứu ghi chép, ghi băng ý kiến chuyên gia, sau đó rải băng và phân

tích các khía cạnh, quan điểm và nội dung chuyên môn mà chuyên gia đã thảo luận

và cho ý kiến.

- Tổ chức thảo luận nhóm chuyên gia: Nhà nghiên cứu tổ chức một cuộc thảo

luận nhóm chuyên gia để thảo luận một số nội dung nghiên cứu. Cuộc thảo luận

đƣợc ghi biên bản, sau đó nhà nghiên cứu phân tích xem xét lại từng ý kiến bổ sung

cho đề tài.

2.3.3. P ƣơ p áp điều tra bằ bả ỏi

2.3.3.1. Mục đích sử dụng

Phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi là phƣơng pháp chính của đề tài, đƣợc

sử dụng với mục đích tìm hiểu các vấn đề: Các biểu hiện thực trạng của học sinh

THCS nghiện internet; các yếu tố ảnh hƣởn (hậu quả) của nghiện internet; một số

yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hƣởng đến tình trạng nghiện internet của học

sinh THCS.

2.3.3.2. Nội dung

64

Các nội dung đƣợc khảo sát bao gồm:

- Biểu hiện thực trạng về thời gian sử dụng trung bình một ngày, nhu cầu sử

dụng, thời điểm thƣờng sử dụng internt trong ngày, tuổi bắt đầu sử dụng internet,

nguồn biết đến sử dụng internet, địa điểm sử dụng, phƣơng tiện sử dụng, kinh phí

chi trả của học sinh THCS nghiện internet.

Các nghiên cứu trƣớc đó của Young (1196, 1998, 2008), Griffiths (2008),

Trần Thị Minh Đức (2013) đã đi tìm hiểu về các biểu hiện của nghiện internet

nhƣng với các lứa tuổi đa dạng khác nhau. Chính vì thế, trong nghiên cứ u này

sử dụng các câu hỏi phù hợp với lứa tuổi thiếu niên cả về nội dung lẫn cách đặt

câu hỏi.

- Biểu hiện thực trạng về nhu cầu sử dụng các ứng dụng khi tham gia trực tuyến.

Có nhiều nghiên cứu về chủ đề này trƣớc đây nhƣ của Davis, Caplan (2006),

Taoran (2009). Tuy nhiên, trong nghiên cứu này dựa vào những kết quả nghiên cứu

trƣớc đó của Young và cs (2008) về các biểu hiện nhu cầu sử dụng các ứng dụng khi

tham gia trực tuyến của thanh thiếu niên nghiện internet để thiết kế bảng hỏi. Bảng

hỏi cũng sử dụng từ ngữ và nội dung dễ hiểu vì đây là đối tƣợng học sinh THCS.

- Các yếu tố ảnh hƣởng về sức khỏe, quan hệ xã hội, thành tích học tập, an ninh

cá nhân, và sử dụng chất.

Để tìm hiểu biểu hiện của tình trạng nghiện internet là một chủ đề rộng lớn,

do đó trong nghiên cứu này, đề tài chỉ tìm hiểu một số yếu tố về sức khỏe, chủ yếu

là sức khỏe tinh thần, quan hệ xã hội và thành tích học tập, vấn đề liên quan đến an

toàn mạng và sử dụng chất. Đây là các chủ đề liên quan trực tiếp đến đặc điểm tâm

lý lứa tuổi học sinh THCS.

-Các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hƣởng đến tình trạng nghiện

internet của học sinh THCS tại Đồng Nai bao gồm sự buồn chán, áp lực, căng

thẳng, có nhiều thời gian rảnh rỗi, quan hệ không tích cực với bố mẹ, mối quan hệ

gia đình bất hòa, bị bạn bè tẩy chay và do a dua với bạn bè.

2.3.3.3. Cách tiến hành

Mỗi khách thể tham gia trả lời bảng hỏi một cách độc lập, theo những suy

65

nghĩ của riêng từng ngƣời, tránh sự trao đổi với nhau. Trƣớc khi tiến hành điều tra,

điều tra viên hƣớng dẫn làm từng câu cụ thể. Với những mệnh đề mà khách thể

chƣa hiểu, điều tra viên có thể giải thích giúp họ sáng tỏ. Trong quá trình khảo sát,

điều tra viên sẽ quan sát, nhắc nhở khách thể điền đầy đủ những thông tin vào bảng

hỏi. Thời gian của mỗi lần trả lời bảng hỏi là 45 phút.

2.3.4. P ƣơ p áp trắc iệ (Test) t

2.3.4.1. Mục đích sử dụng

Nhằm sàng lọc tỷ lệ thịnh hành, mức độ nghiện internet, một số biểu hiện về

tâm lý của nghiện internet. Mức độ tự đánh giá của học sinh THCS nghiện internet

và mối quan hệ giữa nghiện internet và tự đánh giá ở học sinh THCS.

2.3.4.2. Nội dung

Có hai bản trắc nghiệm tâm lý đƣợc sử dụng trong nghiên cứu này, mỗi trắc

nghiệm có các nội dung khác nhau.

+ Trắc nghiệm nghiện internet của Yong (1996) gồm 20 mệnh đề, chứa đựng các

nội dung chủ yếu về các biểu hiện của nghiện internet: Luôn bận tâm, suy nghĩ về

việc sử dụng internet; Thay đổi cảm xúc theo chiều hƣớng tiêu cực; Gia tăng thời

gian sử dụng internet; Cảm nhận một cảm giác khoái cảm khi cuốn hút vào các hoạt

động internet; Các triệu chứng cai (hội chứng cai); Giảm sút chất lƣợng và thành

tích trong công việc và học tập; Biệt lập với gia đình và bạn bè; Cảm thấy tội lỗi

hoặc phòng thủ về việc sử dụng internet của mình.

Đây là các nội dung chính để chúng tôi phân tích các biểu hiện tâm lý của

học sinh THCS nghiện internet.

+ Thang đo mức độ và các khía cạnh tự đánh giá bản thân E.T.E.S –V.

Thang đo bao gồm 82 mệnh đề, trong đó có các mệnh đề khảng định và các mệnh

đề phủ định. Nội dung của thang đo là đánh giá tổng thể tự đánh giá bản thân và

đánh giá tự đánh giá bản thân theo các khía cạnh cái Tôi: Thể chất, xã hội, cảm xúc,

học đƣờng, gia đình, tƣơng lai.

Đây là các nội dung chính để đề tài phân tích thực trạng tự đánh giá bản thân

của học sinh THCS nghiện internet tại Đồng Nai. Đồng thời sử dụng thang đo để

66

phân tích tƣơng quan giữa hai nhân tố nghiện internet và tự đánh giá bản thân.

2.3.4.3. Cách thức tiến hành.

Sau khi xác định nhóm khách thể nghiên cứu ở các địa điểm khác nhau, nhà

nghiên cứu trực tiếp tiến hành đánh giá trắc nghiệm trên khách thể. Vì là một nghiên

cứu cộng đồng, do đó đề tài không thể có điều kiện tiến hành làm trắc nghiệm theo

dạng cá nhân mà triển khai trắc nghiệm theo dạng nhóm.

2.3.5. P ƣơ p áp p ỏ vấ s u

Với phƣơng pháp phỏng vấn sâu, đề tài thực hiện trên hai nhóm khách thể

chính: 1) Nhóm khách thể phỏng vấn sâu để mô tả mức độ, biểu hiện của nghiện

internet và mối quan hệ giữa nghiện internet với tự đánh giá bản thân; 2) Nhóm

khách thể phỏng vấn sâu (phỏng vấn lâm sàng) để đánh giá chính xác tình trạng

nghiện internet ở các em.

a. Với ó k ác t ể t ứ ất

- Mục đích sử dụng

Phƣơng pháp phỏng vấn sâu nhằm thu thập, bổ sung, kiểm tra và làm rõ hơn

những thông tin đã thu thập đƣợc từ khảo sát thực tiễn trên diện rộng và đồng thời

tìm hiểu sự thay đổi về mức độ nghiện internet và khả năng nâng cao tự đánh giá

bản thân của học sinh THCS sau quá trình tham vấn tâm lý.

Phƣơng pháp phỏng vấn sâu còn đƣợc sử dụng để tiếp nhận nguồn xây dựng

bảng khảo sát.

- Nội dung phỏng vấn

Nội dung phỏng vấn sâu với học sinh THCS bao gồm các phần: Các biểu

hiện khó khăn về tâm lý khi nghiện internet; các yếu tố ảnh hƣởng của nghiện

internet nhƣ sức khỏe, quan hệ xã hội, thành tích học tập, nhu cầu khi tham gia

internet, sử dụng chất, tự đánh giá bản thân.

Nội dung phỏng vấn sâu sau quá trình điều trị tâm lý đƣợc xây dựng để tìm

hiểu sự thay đổi về mức độ nghiện internet của học sinh THCS sau thời gian can

thiệp, bao gồm những vấn đề cơ bản nhƣ diễn biến sự thay đổi của quá trình can

thiệp, suy nghĩ của thiếu niên, tự đánh giá bản thân sau các lần can thiệp,…

67

- Cách thức tiến hành

Khác với việc trả lời bảng hỏi với đa số là những câu hỏi đóng, khách thể

không thể trả lời câu hỏi theo ý muốn chủ quan, trong phỏng vấn trực tiếp với

những câu hỏi mở, khách thể đƣợc trả lời khá tự do. Trong quá trình phỏng vấn,

chúng tôi đƣa ra những câu hỏi mở, những tình huống khác nhau để khách thể có

thể trả lời trực tiếp hoặc hồi tƣởng lại những trải nghiệm khi rơi vào tình huống

tƣơng tự.

b.Với ó k ác t ể t ứ ai

- Mục đích sử dụng

Sau khi nghiên cứu sử dụng bảng trắc nghiệm nghiện internet của Young để

sàng lọc một lần những học sinh có điểm số nghiện internet. Đề tài sử dụng phƣơng

pháp phỏng vấn sâu để phỏng vấn/đánh giá lâm sàng một lần nữa để xác định chắc

chắn về tình trạng nghiện internet của các em.

- Nội dung

Nghiên cứu sử dụng các tiêu chí và các mức độ nghiện internet ở học sinh

THCS đã đƣợc đề tài xây dựng ở phần cơ sở lý luận để phỏng vấn sâu. Nội dung

chủ yếu xác định tình trạng nghiện internet của học sinh THCS, mức độ nghiện

internet của các em. Ngoài các nội dung trên còn phỏng vấn về quá trình sử dụng

internet, thời gian xuất hiện các biểu hiện,… để làm cơ sở xác định tình trạng

nghiện internet của học sinh.

-Cách thức tiến hành

Sử dụng bảng tiêu chí, các mức độ tiến hành phỏng vấn lâm sàng (phỏng vấn

sâu) với các trƣờng hợp đã đƣợc sàng lọc bởi trắc nghiệm của Young.

2.3.6. P ƣơ p áp t a vấ t

2.3.6.1. Mục đích

Nhằm đánh giá hiệu quả của biện pháp tác động tham vấn tâm lý giảm

nghiện internet và nâng cao tự đánh giá của học sinh THCS nghiện internet.

2.3.6.2. Cơ sở khoa học của tiếp cận liệu pháp tham vấn tâm lý

a. Dựa vào lý luận trong việc điều trị nghiện internet

Nghiên cứu chỉ sử dụng liệu pháp tham vấn tâm lý nhận thức hành vi

68

(Behaviour cognitive therapy – CBT) đối với nhóm khách thể nghiện internet và tự

đánh giá bản thân thấp.Liệu pháp này đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu sử dụng và báo

cáo có hiệu quả (Young, 1999, Orzack, 1999; Hall & Parsons, 2001; Yu & Zhao,

2004).

b. Cụ thể chương trình tham vấn tâm lý theo liệu pháp nhận thức – hành vi

Tiếp cận này quan niệm rằng con ngƣời không phải là sinh vật thụ động bị

kiểm soát chặt chẽ của môi trƣờng. Các cách thức con ngƣời xuất phát từ sự hiểu

biết và nhận thức của họ. Nếu sự nhận thức dựa trên các quan điểm hay niềm tin phi

lý nó thƣờng gây ra các hỗn loạn cảm xúc và các ứng xử không thích ứng. Có thể

diễn giải quan điểm của tiếp cận nhận thức – hành vi nhƣ sau: Suy nghĩ, cảm xúc và

hành vi liên quan mật thiết với nhau. Suy nghĩ, nhận thức quyết định sự biểu hiện

của cảm xúc và hành vi. Những rối loạn cảm xúc có thể xuất hiện do những suy

nghĩ lệch lạc, tiêu cực. Nếu thay đổi những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực sẽ giúp cá

nhân cải thiện những rối loạn cảm xúc của mình [9].

Luấn án sử dụng chƣơng trình liệu pháp nhận thức – hành vi (structured

cognitive – behaviour therapy program) đƣợc thiết kế dành riêng cho đối tƣợng

nghiện internet ngoại trú của các tác giả Abreu, Góes và Young (2008) [113] và đã

đƣợc tác giả ứng dụng trên 3 năm với đối tƣợng này. Cấu trúc bao gồm 18 tuần can

thiệp, mỗi tuần 1 buổi với khách thể. Tuy nhiên, vì kế hoạch làm việc một số tuần

liền kề trùng chủ đề, do vậy, trong nghiên cứu này rút gọn chƣơng trình chỉ còn 13

buổi can thiệp với khách thể nghiên cứu. Cụ thể chƣơng trình xem phụ lục số 6.

2.3.7. P ƣơ p áp xử số iệu bằ t ố k toá ọc

2.3.7.1. Mục đích sử dụng

Nhằm xử lý, phân tích các dữ liệu thu thập đƣợc từ các phƣơng pháp nghiên

cứu trên để từ đó rút ra các kết luận nghiên cứu về mặt thực tiễn của đề tài.

2.3.7.2. Các phương pháp phân tích dữ liệu

Những bảng hỏi nào bị bỏ sót nhiều sẽ bị loại bỏ trong quá trình xử lý số

liệu. Trong giai đoạn khảo sát sàng lọc mức độ nghiện internet ở học sinh THCS, đề

tài đã khảo sát bằng trắc nghiệm của Young trên 1260 học sinh, tuy nhiên chỉ có

1054 học sinh điền đầy đủ bản trắc nghiệm, những học sinh nào đủ điểm nghiện

internet ở bảng trắc nghiệm sẽ đƣợc chúng tôi tiến hành phỏng vấn lâm sàng trở lại

69

và cuối cùng sàng lọc đƣợc 163 học sinh nghiện internet.

Sau đó, đề tài sử dụng bảng khảo sát tự điền và thang tự đánh giá bản thân

tiến hành khảo sát trên 163 học sinh nghiện internet. Dữ liệu dùng để phân tích báo

cáo trong luận án chỉ bao gồm 163 phiếu mà đã đƣợc đề tài khảo sát trên nhóm đối

tƣợng học sinh nghiện. Số liệu thu đƣợc sau khảo sát thực tế đƣợc xử lý bằng

chƣơng trình SPSS dùng trong môi trƣờng Window phiên bản 11.5.

a. Phương pháp phân tích dữ liệu định tính

Phƣơng pháp định tính đƣợc sử dụng để xử lý, phân tích dữ liệu thu thập

đƣợc từ kết quả phỏng vấn sâu. Những thông tin thu thập đƣợc trong quá trình

phỏng vấn sâu đƣợc trình bày dƣới dạng mô tả và phân tích.

b. Phương pháp phân tích dữ liệu định lượng

Tạo các biế số

- Biến số các biểu hiện tâm lý của thiếu niên nghiện internet.

Đề tài dựa vào bảng trắc nghiệm của Young (1996) để tạo các biến này. Biến

về các biểu hiện tâm lý bao gồm 20 item từ bảng trắc nghiệm, mỗi item có 6

phƣơng án trả lời, tƣơng ứng với nó là 6 mức điểm: Hoàn toàn không = 0 điểm;

Hiếm khi = 1 điểm; Thỉnh thoảng = 2 điểm; Thƣờng = 3 điểm; Thƣờng xuyên hơn =

4 điểm; Luôn luôn = 5 điểm.Tuy nhiên, mức 0 điểm là mức không bao giờ/ hoàn

toàn không nên không đƣợc tính để xem xét các mức điểm trung bình.

Mức độ biểu hiện tâm lý của học sinh THCS nghiện internet đƣợc thể hiện

qua điểm trung bình (ĐTB) của từng mệnh đề và ĐTB của mỗi nhân tố.

Đề tài sử dụng công thức tính chung điểm trung bình (ĐTB) ở các mức nhƣ sau:

Mức I: Từ 1 < ĐTB (Mức I) < ĐTB (toàn thang) – 1SD: Hiếm khi

Mức II: Từ ĐTB (toàn thang) - 1 < ĐTB (Mức II) < ĐTB (toàn thang) + 1SD:

Thỉnh thoảng

Mức III: ĐTB (toàn thang) + 1SD < ĐTB (Mức III) < ĐTB (toàn thang) + 2SD:

Thƣờng

Mức IV: ĐTB (toàn thang) + 2SD < ĐTB (Mức IV) < ĐTB (toàn thang) + 3SD:

Thƣờng xuyên hơn.

Mức V: ĐTB (Mức V) > ĐTB (toàn thang) + 3SD : Luôn luôn.

Dựa vào tính toán cho thấy điểm trung bình của toàn thang đo là 3,52 và độ

70

lệch chuẩn là 0,69.

Tuy nhiên, trong thực tế điều tra, kết quả nghiên cứu cho thấy không có học

sinh nào có kết quả điều tra nằm ở mức 1 hoặc ở mức 5. Vì vậy, kết quả nghiên cứu

thực tế này chỉ có 3 mức:

+ ức I: Điểm trung bình dƣới 2,82, tƣơng đƣơng với nghiện internet ở mức

nhẹ.Các biểu hiện khó khăn về tâm lý về nhận thức, cảm xúc và hành vi của học

sinh THCS nghiện internet khá thấp. Học sinh thỉnh thoảng, hay rất ít các biểu hiện

khó khăn tâm lý.

+ ức II: Điểm trung bình từ 2,82 đến dƣới 4,22, tƣơng đƣơng với nghiện

internet ở mức nghiện vừa. Các biểu hiện khó khăn tâm lý về nhận thức, cảm xúc và

hành vi của học sinh THCS nghiện internet ở mức thƣờng xuyên xuất hiện.

+ ức III: Điểm trung bình trên 4,22, tƣơng đƣơng với nghiện internet mức

nặng. Các biểu hiện khó khăn tâm lý về nhận thức, cảm xúc và hành vi rất thƣờng

xuyên xuất hiện ở học sinh THCS nghiện internet.

Dựa vào các biểu hiện khó khăn tâm lý của học sinh THCS nghiện internet

trong phần cơ sở lý luận, đề tài phân tích thực trạng các biểu hiện tâm lý về nhận

thức, cảm xúc, hành vi của các em thông qua 3 mức độ ở trên.

- Các biến số thực trạng sử dụng internet của học sinh THCS nghiện

internet:Các biến này bao gồm các câu hỏi đóng, khách thể chỉ lựa chọn 1 phƣơng

án hoặc một vài phƣơng án đƣợc thiết kế sẵn. Khi nhập biến chỉ nhập các phƣơng

án trả lời có hoặc không. Sử lý số liệu bằng cách tính tỷ lệ phần trăm để xem mức

độ biểu hiện của học sinh THCS nghiện internet.

- Biến số các yếu tố nhu cầu sử dụng internet của học sinh THCS nghiện

internet bao gồm một bảng khảo sát đƣợc thiết kế theo 4 mức độ likert: không bao

giờ - thỉnh thoảng – thƣờng xuyên – rất thƣờng xuyên, mỗi mức trả lời tƣơng đƣơng

với số điểm tăng dần từ 1 – 2 – 3 -4.

Các mức độ nhu cầu sử dụng internet của học sinh đƣợc đánh giá dựa trên

điểm số trung bình của từng mệnh đề và của toàn thang đo. Dựa vào tính toán cho

thấy, điểm trung bình của tiểu thang đo nhu cầu là 3,07, độ lệch chuẩn là 0,76. Sử

71

dụng công thức tính điểm trung bình các mức ở trên cho thấy:

Mức I: Điểm trung bình dƣới 0,28, tƣơng đƣơng với nhu cầu sử dụng

internet ở mức rất nhẹ. Các em dƣờng nhƣ ít có nhu cầu sử dụng internet, và sử

dụng internet ở mức rất thấp.

Mức II: Điểm trung bình từ 2,28 đến dƣới 3,80, tƣơng đƣơng với nhu cầu sử

dụng internet ở mức vừa phải, các em thỉnh thoảng xuất hiện nhu cầu sử dụng

internet chứ không quá trầm trọng.

Mức III: Điểm trung bình từ 3,80 đến dƣới 4,90, tƣơng đƣơng với nhu cầu sử

dụng internet ở mức nặng, các em thƣờng xuyên có nhu cầu sử dụng internet và khá trẩm

trọng.

Mức IV: Điểm trung bình trên 4,90, tƣơng đƣơng với nhu cầu sử dụng

internet ở mức rất nặng, các em lúc nào cũng có nhu cầu sử dụng internet và ở mức

độ rất trầm trọng.

- Biến số ảnh hƣởng của nghiện internet về sức khỏe, quan hệ xã hội, thành

tích học tập, an ninh cá nhân, và sử dụng chất của tình trạng nghiện internet bao

gồm 31 item, mổi item có 4 phƣơng án trả lời, mỗi phƣơng án trả lời tƣơng đƣơng

với số điểm: Không bao giờ = 1 điểm; Thỉnh thoảng/ Đôi khi = 2 điểm; Thƣờng

xuyên = 3 điểm; Rất thƣờng xuyên = 4 điểm.

Các mức độ về ảnh hƣởng của nghiện internet đến học sinh THCS đƣợc đánh

giá dựa trên điểm số trung bình của từng mệnh đề.

+ ức I, thấp: ĐTB từ 1 đến 1,38, tƣơng ứng với tình trạng nghiện internet

ảnh hƣởng rất thấp và rất ít đến các vấn đề về sức khỏe, quan hệ xã hội, thành tích

học tập, an ninh cá nhân, và sử dụng chất của học sinh.

+ ức II, trung bình: ĐTB từ 1,38 đến 3,42, tƣơng ứng với việc nghiện internet

ảnh hƣởng trung bình, có ảnh hƣởng nhƣng không quá nặng nềvề sức khỏe, quan hệ xã

hội, thành tích học tập, an ninh cá nhân, và sử dụng chất của học sinh.

+ ức III, cao: ĐTB từ 3,42 đến 4,44, tƣơng ứng với tình trạng nghiện

internet ảnh hƣởng nhiều đến vấn đề về sức khỏe, quan hệ xã hội, thành tích học

tập, an ninh cá nhân, và sử dụng chất của học sinh.

+ ức IV, rất cao: ĐTB trên 4,44, tƣơng ứng với tình trạng nghiện internet

ảnh hƣởng rất trầm trọng đến vấn đề sức khỏe, quan hệ xã hội, thành tích học tập,

72

an ninh cá nhân, và sử dụng chất của học sinh THCS nghiện internet.

- Biến số các yếu tố ảnh hƣởng đến tình trạng nghiện internet bao gồm 10

item/ mệnh đề, mổi item có 4 phƣơng án trả lời, mỗi phƣơng án trả lời tƣơng đƣơng

với số điểm: Không bao giờ = 1 điểm; Thỉnh thoảng/ Đôi khi = 2 điểm; Thƣờng

xuyên = 3 điểm; Rất thƣờng xuyên = 4 điểm.

Biến số các mức độ về yếu tố ảnh hƣởng tới tình trạng nghiện internet của

học sinh THCS đƣợc đánh giá dựa trên điểm số trung bình của từng mệnh đề của

nhân tố.

+ ức I, thấp (từ 1 đến dƣới 2,41 điểm), tƣơng đƣơng với việc ảnh hƣởng

của các nhân tố đến tình trạng nghiện internet của học sinh THCS ở mức thấp, và

dƣờng nhƣ không có ảnh hƣởng đến tình trạng nghiện internet ở các em.

+ ức II, trung bình (từ 2,41 đến dƣới 3,77 điểm), tƣơng đƣơng với việc ảnh

hƣởng của các nhân tố đến tình trạng nghiện internet của học sinh THCS ở mức

trung bình, và dƣờng nhƣ có ảnh hƣởng không nhiều đến tình trạng nghiện internet

ở các em.

+ ức III, cao (từ 3,77 đến dƣới 4,45 điểm), tƣơng đƣơng với việc ảnh

hƣởng của các nhân tố đến tình trạng nghiện internet của học sinh THCS ở mức

cao, và dƣờng nhƣ có ảnh hƣởng nhiều đến tình trạng nghiện internet ở các em.

+ ức IV, rất cao (trên 4,45 điểm), tƣơng đƣơng với việc ảnh hƣởng của các

nhân tố đến tình trạng nghiện internet của học sinh THCS ở mức rất cao, và dƣờng

nhƣ có ảnh hƣởng rất nhiều đến tình trạng nghiện internet ở các em.

- Biến số tự đánh giá bản thân.

Đề tài sử dụng thang đo E.T.E.S – V bao gồm 82 item, mỗi item đại diện cho

một mức điểm: Hoàn toàn không đồng ý = 1 điểm; Hơi đồng ý = 2 điểm; Đồng ý =

3 điểm; Hoàn toàn đồng ý = 4 điểm. Đây là thang sử dụng để đánh giá các khía

cạnh của tự đánh giá bản thân, so với các mức độ nghiện internet của học sinh.

Để đánh giá thực trạng tự đánh giá bản thân của học sinh THCS nghiện

internet một cách khách quan, luận án quy ƣớc điểm về các mức độ tự đánh giá

bản thân nhƣ sau: Rất cao (4 điểm) - Cao (3 điểm) – Trung bình (2 điểm) - Thấp

73

(1 điểm).

Tính toán thống kê cho thấy, điểm trung bình của toàn thang đo tự đánh giá

bản thân là 2,39 và độ lệch chuẩn là 1,02. Sử dụng công thức tính các mức độ tự

đánh giá ở trên, cho thấy :

+ ức I thấp (từ 1 đến dƣới 1,37 điểm), tƣơng ứng với việc học sinh THCS

nghiện internet đánh giá thấp bản thân, học sinh không hoàn toàn đồng ý với những

mệnh đề tích cực và không đồng ý với các mệnh đề tiêu cực.

+ ức II trung bình (từ 1,37 đến dƣới 3,41) điểm), tƣơng ứng với việc học

sinh THCS nghiện internet đánh giá trung bình về bản thân, học sinh không đa phần

đồng ý với những mệnh đề tích cực và không đồng ý với các mệnh đề tiêu cực.

+ ức III cao (từ 3,41 đến dƣới 4,43 điểm), tƣơng đƣơng với việc học sinh

THCS nghiện internet đánh giá cao về bản thân, các em hầu nhƣ đồng ý với các

mệnh đề tích cực và không đồng ý với các mệnh đề tiêu cực.

+ ức IV: Rất cao (trên 4,43 điểm), tƣơng đƣơng với việc học sinh THCS

nghiện internet đánh giá rất cao về bản thân, các em hoàn toàn đồng ý với các mệnh

đề tích cực và không đồng ý với các mệnh đề tiêu cực.

Các t ô số t ố k sử dụ tro p tíc dữ iệu

- Đánh giá độ tin cậy của thang đo.

Để kiểm tra độ tin cậy của công cụ đo lƣờng, chúng tôi sử dụng mô hình

Cronbach’s Coefficient alpha và tính tƣơng quan điểm của từng item với điểm của

tổng các item còn lại của phép đo (Corrected item – total correclation). Phƣơng

pháp này thích hợp cho việc xác định độ tin cậy của các loại trắc nghiệm có các

item nhiều mức độ đƣợc tính theo điểm số.

- Phân tích sử dụng thống kê mô tả: Trong phần này chúng tôi sử dụng các

chỉ số sau: Bảng tần suất; Điểm trung bình; Độ lệch chuẩn

- Kiểm định giả thuyết về hai trung bình tổng thể.

Trong phần này, chúng tôi sử dụng kiểm định giả thuyết về trị trung bình của

hai tổng thể - trƣờng hợp mẫu độc lập (Independent – samples T –test) và phân tích

phƣơng sai một yếu tố (One –Way ANOVA). Với mức ý nghĩa p < 0,05 thì sự khác

biệt giữa hai tổng thể có ý nghĩa thống kê.

- Phân tích sử dụng thống kê suy luận: Chúng tôi sử dụng các thông số:Phân

74

tích tƣơng quan nhị biến, phân tích hồi quy tuyến tính đơn, phân tích Chi –Square.

Tiểu kết c ƣơ 2

Để tiến hành nghiên cứu thực tiễn nghiện internet và tự đánh giá bản thân

của học sinh THCS nghiện internet, luận án đã tiến hành khảo sát tại 3 trƣờng

THCS ở Đồng Nai đại diện cho các vùng văn hóa và đặc điểm trƣờng, luận án cũng

tiến hành khảo sát sàng lọc trên 1054 học sinh THCS và khảo sát thực trạng nghiện

internet và tự đánh giá bản thân của các em trên 163 trƣờng hợp.

Để giải quyết đƣợc nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn, luận án tổ chức thực hiện

qua 6 giai đoạn: Nghiên cứu lý luận; Thiết kế công cụ điều tra; Khảo sát thử; Điều

tra chính thức; Đề xuất biện pháp và thực nghiệm; Phân tích kết quả nghiên cứu.

Nghiên cứu sử dụng đa dạng các phƣơng pháp từ nghiên cứu lý luận đến

nghiên cứu thực tiễn nhƣ: nghiên cứu tài liệu, điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn

sâu, phƣơng pháp chuyên gia, thực nghiệm bằng phƣơng pháp tham vấn cá nhân.

Các kết quả thu đƣợc từ nghiên cứu đƣợc xử lý và phân tích theo nhiều phƣơng

pháp khác nhau cho phép thu đƣợc những kết quả và kết luận đáng tin cậy và dựa

trên các quan điểm khách quan. Cuối cùng, luận án mô tả kết quả nghiên cứu bằng

việc xây dựng hai chân dung điển hình nhằm minh họa sống động những biểu hiện

nghiện internet ở học sinh THCS. Bên cạnh đó, việc xây dựng chân dung điển hình

nhằm bổ sung cho kết quả nghiên cứu lý luận cũng nhƣ nghiên cứu thực tiễn, đồng

thời hỗ trợ nhằm giảm nghiện internet và nâng cao tự đánh giá bản thân của học

75

sinh THCS.

CHƢƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN NGHIỆN INTERNET VÀ TỰ ĐÁNH

GIÁ BẢN THÂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI ĐỒNG NAI

3.1. NGHIỆN INTERNET CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI ĐỒNG NAI

3.1.1. T ực trạ sử dụ i ter et của ọc si THCS iệ i ter et Trƣớc khi phân tích mức độ, các yếu tố ảnh hƣởng của nghiện internet và

mối quan hệ giữa nghiện internet và tự đánh giá bản thân ở học sinh THCS tại Đồng

Nai. Luận án phân tích một bức tranh chung nhất về thực trạng nghiện internet ở các

em. Các nội dung chính đƣợc trình bày bao gồm thực trạng về nhu cầu, hình thức,

kinh phí, tuổi bắt đầu sử dụng, thời gian sử dụng, nguồn biết đến internet, …

3.1.1.1. Nhu cầu, hình thức và kinh phí chi trả cho việc sử dụng internet của học

sinh nghiện internet

- Nhu cầu sử dụng internet của học sinh

Học sinh THCS sử dụng internet nhằm thỏa mãn các nhu cầu muốn mở rộng

quan hệ xã hội, mâu thuẫn với cha mẹ, muốn khảng định mình, giải tỏa những căng

thẳng từ học tập và cuộc sống. Kết quả nghiên cứu đƣợc thể hiện ở bảng 3.1 cho

thấy, học sinh THCS nghiện internet ở Đồng Nai có điểm trung bình chung về nhu

cầu sử dụng internet là 3,04, độ lệch chuẩn là 0,76, tƣơng đƣơng với nhu cầu sử

dụng internet ở mức vừa phải. Nhƣ vậy, việc sử dụng internet là một nhu cầu thực

sự ở các em, các em mong muốn đƣợc sử dụng internet để thỏa mãn nhu cầu cá

nhân, nhƣng cũng không quá trầm trọng đến mức thƣờng xuyên phải sử dụng

chúng. Điều này cũng phù hợp với tỷ lệ nghiện internet trong nghiên cứu này khi

các em nghiện ở mức độ nặng rất ít, đa số ở mức nhẹ và trung bình.

Xem xét từng khía cạnh của nhu cầu cho thấy, các nhu cầu để sử dụng

internet có mức độ cao, đƣợc nhiều em lựa chọn bao gồm việc “khảng định được

bản thân trước bạn”, “trải nghiệm mạo hiểm và kích thích sự khám phá”, “đáp ứng

76

nhanh các hình ảnh, phim khiêu dâm”. Điều này cho thấy rằng, ở lứa tuổi học sinh

THCS nhu cầu đƣợc khảng định, thể hiện bản thân, nhu cầu đƣợc trải nghiệm và

khám phá, nhu cầu tìm kiếm các hình ảnh thông tin về tình dục là rất quan trọng.

Chính vì thế, với những ứng dụng đáp ứng đƣợc các nhu cầu đó một cách thuật tiện,

internet đã thỏa mãn các nhu cầu ấy của các em một cách nhanh chóng và điều này

dẫn tới tình trạng nghiện internet ở các em.

Bảng 3.1. Nhu cầu sử dụng internet của học sinh

N u cầu

Điểm trung bình 3,02 Độ lệch chuẩn 0,73

2,79 0,71

10.1. Đƣợc giao lƣu, học hỏi, mở rộng tri thức, hiểu biết xã hội 10.2. Thỏa mãn nhu cầu kết bạn, mở rộng quan hệ mà ngoài đời thực không làm được 10.3. Giải tỏa cô đơn, cô lập của bạn bè 10.4. Khảng định được mình trước bạn 10.5. Thoát đƣợc cảm giác buồn chán trong cuộc sống. 10.6. Trải nghiệm mạo hiểm và kích thích sự khảm phá. 10.7. Tạo dựng và thể hiện những hình ảnh bản thân 10.8. Giải tỏa những căng thẳng. 10.9.Tăng cƣờng cập nhật thông tin 10.10. Giúp giải trí như xem phi, ca nhạc,… 10.11. Đáp ứng nhanh các hình ảnh, phim khiêu dâm 10.12. Có thể kiếm đƣợc tiền

TBC: 3,07 3,25 3,01 3,27 2,87 2,93 3,06 2,91 3,17 3,05 3,04 0,76 0,66 0,69 0,51 0,73 0,92 0,79 0,88 0,85 0,79 0,76

Các mệnh đề có điểm trung bình chung thấp hơn nhƣ “Thỏa mãn nhu cầu kết

bạn, mở rộng quan hệ mà ngoài đời thực không làm được”, “Tạo dựng và thể hiện

những hình ảnh bản than”, “Giải tỏa những căng thẳng”, “Giúp giải trí như xem

phi, ca nhạc,…” cho thấy rằng học sinh THCS có ít sự căng thẳng, có mối quan hệ

bạn bè ở cuộc sống thực khá tốt, các em tự đánh giá về bản than mình tích cực và có

nhiều hình thức giải trí ở cuộc sống thực hơn. Chính vì thế, các em ít có nhu cầu sử

dụng internet để mở rộng quan hệ bạn bè, để xây dựng hình ảnh bản thân hay giải

tỏa căng thẳng cũng nhƣ giải trí.

Kết quả của luận án này cho thấy, nhu cầu sử dụng internet của học sinh

THCS nghiện internet chủ yếu là do các đặc điểm về tâm lý cá nhân các em chứ

77

không phải do các yếu tố thúc đẩy từ phía khách quan. Chính vì thế, khi xây dựng

các chƣơng trình phòng ngừa nghiện internet ở lứa tuổi các em cần phải xem xét

đến yếu tố này.

- Các hình thức truy cập internet của học sinh

Young (1997) đã giải thích rằng nghiện internet là một phạm vi rộng bao

gồm các trạng thái hành vi khác nhau và những vấn đề về mất kiểm soát hành vi. Bà

cho rằng có 5 biểu hiện hình thức truy cập nghiện internet của cá nhân:tình dục trực

tuyến (trang website khiêu dâm), quan hệ trực tuyến (chat, hẹn hò), sự cƣỡng bách

Net (đánh bạc trực tuyến, mua sắm hay buôn bán trực tuyến), quá tải thông tin

(thƣờng xuyên truy cập để lƣớt Website hay tìm kiếm dữ liệu một cách cƣỡng bách

và bị thôi thúc mà không cƣỡng lại đƣợc), ám ảnh trò chơi máy tính. Một số báo cáo

khác cho thấy, thanh thiếu niên thƣờng nghiện các chức năng của internet nhƣ trò

chơi trực tuyến, mạng xã hội, phim khiêu dâm, quan hệ/hẹn hò, chat hay tán

gẫu,…(Young, 1998; Lê Minh Công, Nguyễn Văn Thọ, 2014; Trần Thị Minh Đức,

2013; Davis, 2003). Ở lứa tuổi học sinh THCS, các em có nhu cầu mở rộng quan hệ

xã hội, phát triển cao ý thức cá nhân, phát triển tính dục nhanh, do vậy các ứng

dụng dễ gây nghiện hơn cả bao gồm trò chơi trực tuyến, chat, phim ngƣời lớn và

mạng xã hội.

Biểu đồ 3.1. Các hình thức sử dụng internet ở học sinh

Kết quả nghiên cứu đƣợc thể hiện tại biều đồ 3.1 cho thấy, đa số học sinh

THCS nghiện Internet sử dụng chức năng mạng xã hội (79,8%), trò chơi trực tuyến

78

– game online (76,1%), giải trí nhƣ xem phim, ca nhạc, xem hài (74,8%), chát, tán

gẫu (54%) và tìm kiếm tài liệu học tập (52,1%). Các ứng dụng đƣợc sử dụng ở mức

thấp nhƣ lƣớt website để đọc và tìm kiếm tin tức, thƣ điện tử (27%), rất ít học sinh

sử dụng các ứng dụng nhƣ viết bogs hoặc nhật ký trực tiếp. Tuy nhiên, điều đáng

nói là có đến 16,6% học sinh THCS nghiện Internet thƣờng xuyên truy cập và xem

các phim ngƣời lớn – phim sex. Tuy nhiên, kiểm định Pearson cho thấy, chỉ duy

nhất có ứng dụng chat hay tán gẫu mới có mối quan hệ thuận với tình trạng nghiện

internet mức độ nhẹ và nặng ở học sinh THCS (r = -0,164, p = 0,037 và r = 0,210, p

= 0,007). Theo đó, học sinh THCS có nhu cầu mở rộng quan hệ và giao lƣu và

internet là một kênh quan trọng để thực hiện nhu cầu này. Các ứng dụng liên quan

đến giao lƣu, mở rộng quan hệ xã hội, và giải trí là những ứng dụng dễ gây nghiện

nhất ở lứa tuổi học sinh THCS.

Phỏng vấn sâu Hoàng Bảo K, một cô bé học sinh lớp 9, trƣờng Song Ngữ

Lạc Hồng, TP. Biên Hòa, Đồng Nai: “Ở nhà buồn lắm, ba mẹ thì đi làm suốt từ

sáng đến tối, khi đến lớp thì em ít có bạn bè vì bạn bè thường xa lánh em, bọn nó

trêu em là chẳng giống ai, em chỉ có một người bạn ở lớp thôi. Em thường sử dụng

Internet một ngày khoảng 10 tiếng, bất kể ở đâu, vì em sử dụng trên điện thoại hoặc

Ipad, và thường là em chơi Facebook, em chat suốt với các bạn trên FB mà em

quen trên mạng, rồi thì xem tất có những gì trên đó. Một ngày em không vào FB thì

em có cảm giác như không thể chịu nổi”.

- Kinh phí chi trả cho dịch vụ internet hàng tháng của học sinh

79

Biều đồ 3.2. Kinh phí chi trả trung bình một tháng cho các dịch vụ Internet

Ngoài các yếu tố nhƣ địa điểm và phƣơng tiện truy cập internet thì kinh phí

chi trả cho dịch vụ Internet (bao gồm phí thuê bao, phí chi trả cho dịch vụ thuê máy,

phí mua đồ trong trò chơi trên Internet,…) cũng là một yếu tố quan trọng liên quan

đến tình trạng nghiện internet của học sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu về mối liên quan

giữa kinh phí sử dụng và vấn đề nghiện internet ở học sinh chƣa đƣợc quan tâm

nghiên cứu.

Kết quả khảo sát từ biểu đồ 3.2 cho thấy, việc sử dụng internet thƣờng xuyên

tại nhà cộng với việc sử dụng thƣờng xuyên các ứng dụng nhƣ là mạng xã hội và trò

chơi trực tuyến miễn phí giúp cho việc sử dụng kinh phí chi trả cho các dịch vụ

internet hàng tháng của học sinh THCS rất thấp, đa phần là dƣới 300,000 đồng

(63,8%), có đến 17,8% sử dụng hàng tháng từ 300,000 đ – 500,000 đ, 13,5% sử

dụng kinh phí hàng tháng từ 500,000 đ – 1000,000 đ và có 4,3% các em học sinh

THCS nghiện internet sử dụng kinh phí lên đến 1000,000 – 1,500,000 đồng một

tháng, 0,6% các em sử dụng trên 1,500,000 đ – 2,000,000 đồng/ tháng. Mặc dù, các

em còn đang ở lứa tuổi THCS, không có điều kiện làm ra tiền/ kinh tế mà đã sử

dụng với lƣợng tiền khá nhiều cho dịch vụ internet. Kết quả kiểm định Pearson

cho thấy mức chi trả cho kinh phí hàng tháng cho dịch vụ Internet có tƣơng quan

thuận với mức độ nghiện Internet nhẹ và nặng, tƣơng quan mạnh với mức nặng.

Điều này cho thấy, việc sử dụng kinh phí nhiều hàng tháng cho dịch vụ Internet

cũng là yếu tố xem xét tình trạng nghiện internet ở lứa tuổi học sinh THCS.

- Tuổi bắt đầu sử dụng internet của học sinh

Biểu đồ 3.3. Tuổi bắt đầu sử dụng internet của học sinh

Trong quá trình thực hành và theo quan sát, chúng tôi thấy rằng, tuổi bắt đầu

80

sử dụng internet ngày càng nhỏ đi, thậm chí ở tuổi cuối mẫu giáo nhiều em đã bắt

đầu sử dụng internet. Tuy nhiên, thƣờng tuổi bắt đầu sử dụng internet của học sinh

nghiện internet là vào khoảng tiểu học hay bắt đầu vào THCS.

Kết quả từ nghiên cứu đƣợc trình bày tại biểu đồ 3.3 cho thấy, tuổi bắt đầu

sử dụng internet của học sinh THCS nghiện internet đa số bắt đầu khi đang học tiểu

học (chiếm 47,9%), và tuổi THCS (chiếm 41,1%). Tuy nhiên, cũng có không ít học

sinh THCS nghiện internet bắt đầu sử dụng internet khi chƣa đến tuổi đi học tiểu

học (11%). Kết quả kiểm định ANOVA cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa thống

kê giữa các độ tuổi bắt đầu sử dụng internet của học sinh THCS nghiện internet ở

mức nhẹ và vừa (p = 0,056 và p =0,018), không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê

ở mức nặng (p = 0,518). Đề tài cũng sử dụng phép kiểm Pearson cho thấy, tuổi bắt

đầu sử dụng internet có tƣơng quan nghịch với mức độ nghiện internet nhẹ (r = -

0,154; p = 0,049) và tƣơng quan thuận với mức nghiện internet vừa (r = 0,166; p =

0,035) , không có tƣơng quan với mức độ nghiện Internet nặng (r = -0,026; p =

0,744). Tuy nhiên, mức tƣơng quan là khá thấp (r <0,7).

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng học sinh THCS nghiện internet có tuổi bắt

đầu sử dụng internet là ở lứa tuổi tiểu học hoặc THCS. Chỉ có sự khác biệt có ý

nghĩa về lứa tuổi sử dụng internet ở các em nghiện internet mức nhẹ và vừa, theo

đó, biểu hiện này chỉ có thể xem xét ở học sinh THCS nghiện internet nhẹ và vừa,

không thể xem xét ở mức nặng.

3.1.1.2. Thời gian, địa điểm và phương tiện truy cập internet của học sinh nghiện

internet

Các báo cáo nghiên cứu trƣớc đó nhƣ của Trần Thị Minh Đức (2013), Trần

Hữu Luyến (2015), Nguyễn Văn Thọ (2015) cho thấy rằng, học sinh ngày càng

dành nhiều thời gian sử dụng internet, sử dụng ở nhiều địa điểm cũng nhƣ nhiều

phƣơng tiện khác nhau. Luận án khảo sát thực trạng của các yếu tố trên ở học sinh

THCS nghiện internet tại Đồng Nai.

- Địa điểm sử dụng internet của học sinh

Địa điểm nghiên cứu cũng là một vấn đề biểu hiện mà nhiều nghiên cứu

81

trƣớc đó quan tâm. Một số tác giả (Cui, Zhao, Wu & Xu, 2006; Yang, 2001;

Whang, Lee và Chang, 2003) cho rằng thanh thiếu niên thƣờng truy cập internet từ

các tiệm cho thuê máy tính. Một số tác giả khác (Viện Xã hội học Việt Nam, 2010;

Trần Thị Minh Đức, 2013) thì cho rằng cá nhân nghiện thƣờng truy cập internet từ

các máy tính để bàn ở cơ quan hoặc trƣờng học, hoặc ở nhà. Trong xã hội hiện đại

ngày nay, không những là ngƣời lớn mà còn cả ở lứa tuổi thiếu niên thƣờng sử dụng

đa dạng các phƣơng tiện, chính vì thế là đa dạng các địa điểm khác nhau. Quan sát

ban đầu cho thấy ở lứa tuổi thiếu niên, các em thƣờng sử dụng internet ở các tiệm

Internet cho thuê.

Biểu đồ 3.4. Địa điểm thường sử dụng internet của học sinh

Kết quả từ biểu đồ 3.4 cho thấy: Đa số học sinh THCS nghiện internet

thƣờng sử dụng internet tại nhà (39%), và ở tiệm internet (24%), rất ít các em sử

dụng internet ở các địa điểm khác nhƣ ở trƣờng (12%), nhà ngƣời quen (11%), nhà

bạn bè (7%). Điều này cho thấy, việc gia đình quản lý lỏng lẻo sử dụng internet tại

nhà cũng nhƣ việc hiện nay có quá nhiều tiệm Internet có thể dẫn tới tình trạng

nghiện Internet cao ở học sinh THCS. Nhiều phụ huynh quan niệm là trẻ ở nhà vào

internet còn hơn là đi chơi bời rồi nhiễm thói hƣ tật xấu, nhiều phụ huynh mua điện

thoại thông minh đắt tiền cho trẻ để trẻ truy cập internet ở mọi lúc, mọi nơi.

Phỏng vấn H.O, học sinh Trƣờng THCS Tam Hiệp: “Em ở nhà sử dụng

internet thoải mái vì bố cấm đi chơi nhưng cho em sử dụng internet ở nhà. Bố mẹ

cho rằng em đi chơi thì sẽ hư còn ở nhà vào máy tính là để học hành”.

Phân tích kiểm định Pearson cũng cho thấy không có mối tƣơng quan thuận

82

giữa địa điểm sử dụng và tình trạng nghiện Internet ở học sinh THCS tại Đồng Nai.

Điều này chỉ ra rằng địa điểm sử dụng không phải là yếu tố nguy cơ dẫn tới nghiện

internet ở học sinh THCS.

- Thời gian truy sử dụng internet trung bình một ngày của học sinh

Một số nhà nghiên cứu cho rằng thời gian sử dụng internet khoảng trên 5 giờ

một ngày có thể coi là một trƣờng hợp nghiện (Nguyễn Văn Thọ, 2009), một số nhà

nghiên cứu khác thì lại cho rằng, thời gian sử dụng trung bình một ngày không phải

là yếu tố quyết định cá nhân có nghiện internet hay không (Young, 1996; Griffths,

1997; Caplan, 2008). Nghiên cứu của Brenner (1997) cho rằng, cá nhân sử dụng

internet trung bình 19 tiếng một tuần có thể gây nên những ảnh hƣởng tiêu cực. Có

rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề thời gian sử dụng trung bình một ngày của

ngƣời nghiện internet. Cá nhân tôi cho rằng, thời gian sử dụng không phải là yếu tố

quyết định đến tình trạng nghiện internet bởi có thể cá nhân sử dụng liên tục nhiều

giờ trên internet với mục đích công việc và học tập. Internet là một hành vi xã hội

mang lại lợi ích chứ không phải là một chất gây nghiện nên độ dung nạp không phải

là yếu tố quyết định. Tuy nhiên, cá nhân sử dụng liên tục nhiều giờ liền với mục

đích không chính đáng và không có kế hoạch thì lại là một biểu hiện khó khăn.

Nghiên cứu này đi vào tìm hiểu biểu hiện về thời gian sử dụng internet trung bình

một ngày của học sinh THCS nghiện internet nhƣ thế nào.

Kết quả nghiên cứu từ biểu đồ 3.5 cho thấy, học sinh THCS nghiện internet

thƣờng sử dụng internet trung bình một ngày từ 1 – 3 giờ chiếm 53,4%, sử dụng từ

3 – 5 giờ và trên 5 giờ có tỷ lệ bằng nhau là 18,4% và 18,4%, dƣới 1 giờ chiếm

9,8%. Điều này cho thấy, học sinh THCS nghiện internet đa số sử dụng internet

trung bình một ngày trong khoảng thời gian từ 1 – 3 giờ. Kiểm định ANOVA cho

thấy, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian trung bình sử dụng

internet một ngày ở các mức độ nhẹ và vừa (Nghiện internet mức nhẹ (F = 1,97; p =

0,12); Nghiện internet mức vừa (F = 1,78; p = 0,15), tuy nhiên có sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê về thời gian trung bình sử dụng Internet một ngày ở mức độ nghiện

internet nặng (F = 2,36; p = 0,073*). Đồng thời, kết quả kiểm định Pearson Chi-

Square cũng cho thấy, không có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa mức độ

83

nghiện Internet và thời gian sử dụng Internet trung bình một ngày (t= 12,37, p =

0,54). Tuy nhiên, mức tƣơng quan này gần với mức tƣơng quan có ý nghĩa nên

cũng cần phải xem lại. Kết quả nghiên cứu này cho thấy, biểu hiện về thời gian

trung bình sử dụng internet không phải là yếu tố quan trọng để có thể xem xét tình

trạng nghiện internet ở mức vừa và nhẹ, tuy nhiên, cần phải xem xét nghiện internet

ở mức nặng.

Biểu đồ 3.5. Thời gian sử dụng internet trung bình một ngày của học sinh

- Thời điểm sử dụng internet trong ngày của học sinh

Nhiều báo cáo nghiên cứu (Young, 1997; Archana Preet Anand, 2003) cho

thấy, học sinh thƣờng thức rất khuya để sử dụng Internet và hệ quả là ảnh hƣởng

đến chất lƣợng học tập, thậm chí các em có thể lên mạng đến 2 hoặc 3 giờ sáng.

Báo cáo của Đại học Texas (Hoa Kỳ) cũng cho thấy, đa số sinh viên thi rớt là do lên

mạng quá khuya với các ứng dụng không phải để học tập mà chủ yếu là tán gẫu,

xem phim hay trò chơi trực tuyến. Vậy thì, trong bối cảnh của học sinh THCS tại

Việt Nam, trƣờng hợp ở Đồng Nai, các em học sinh nghiện internet có lên mạng quá

khuya hay không.

Kết quả khảo sát trên 163 học sinh THCS nghiện internet cho thấy đa số học

sinh THCS nghiện internet sử dụng internet ở thời điểm từ 18h00 – 24h00 (chiếm

56,4%) và từ 12h00 – 13h30 (chiếm 45,5%), có 36,5% học sinh THCS nghiện

internet sử dụng internet ở thời điểm 13h30 – 18h00 và 30,7% học sinh THCS

nghiện Internet sử dụng ở thời điểm 18hh00 – 12h00, rất ít học sinh THCS nghiện

Internet sử dụng Internet ở thời điểm 24h00 – 6h00 (chiếm 8,6%). Theo đó, học

84

sinh THCS nghiện internet chủ yếu sử dụng ở thời điểm buổi tối sau khi ăn cơm

chiều đến lúc đi ngủ và giữa trƣa cũng nhƣ buổi chiều, rất ít học sinh sử dụng

Biểu đồ 3.6. Thời điểm sử dụng internet trong ngày của học sinh

internet vào đêm khuya.

Kết quả kiểm định t – test cho thấy, chỉ có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở

học sinh THCS nghiện internet mức độ nặng tại thời điểm 18h00 – 24h00 (t =

32,63; p = 0,00 < 0,05). Kiểm định Pearson cũng cho thấy, chỉ có ở khoảng thời gian

từ 18h – 24h00 mới có tƣơng quan thuận với mức nghiện internet nặng ở học sinh

THCS (r = 0,200; p = 0,011). Điều này cho thấy, ở các thời điểm khác nhƣ buổi sáng,

buổi trƣa, chiều hay đêm không phải là các thời điểm có liên quan đến tình trạng

nghiện internet của học sinh THCS, mà thời gian các em nghiện internet ở mức nặng

thƣờng sử dụng nhiều nhất lại là thời gian buổi tối (từ 18h – 24h00). Ở lứa tuổi

THCS, các em bị kiểm soát bởi nhà trƣờng và gia đình rất nhiều, do đó, có lẽ thời

gian buổi tối là thời gian mà các em thƣờng sử dụng nhiều, nhƣng chủ yếu là các em

sử dụng internet ở mức nghiện nặng mới có biểu hiện về thời điểm sử dụng này.

- Phương tiện truy cập internet của học sinh

Tại thời điểm Young (1996) công bố nghiên cứu đầu tiên về nghiện internet,

phƣơng tiện truy cập duy nhất lúc đó là máy tính để bàn. Tuy nhiên, sau 20 năm,

công nghệ ngày càng phát triển nhanh và mới mẻ, hiện đại. Ngày nay, không những

giới văn phòng mới sử dụng máy tính với chức năng internet, mà bất cứ ai cũng có

85

thể truy cập internet hàng ngày bởi đa dạng các phƣơng tiện và song wifi phủ khắp.

Phƣơng tiện sử dụng để kết nối internet cũng rất đa dạng nhƣ máy tính để bàn, Ipad,

điện thoại di động, máy tính xách tay,….

Biểu đồ 3.7. Phương tiện truy cập internet của học sinh

Kết quả nghiên cứu từ biểu đồ 3.7 cho thấy, đa số học sinh THCS nghiện

internet thƣờng truy cập bằng máy tính để bàn (67,5%), điện thoại di động (55,8%),

một số khác sử dụng phƣơng tiện là máy tính cá nhân (41,1%0), hay máy tính bảng

(33,7%). Theo đó, học sinh THCS nghiện internet sử dụng rất đa dạng các phƣơng

tiện khác nhau, nhƣng đƣợc sử dụng nhiều hơn cả vẫn là máy tính để bàn và điện

thoại di động. Điều này cho thấy, ngay ở lứa tuổi học sinh THCS, học sinh đã biết

và có điều kiện sử dụng đa dạng các phƣơng tiện khác nhau, kể cả các phƣơng tiện

rất hiện đại nhƣ máy điện thoại thông minh (SMAT PHONE), hay máy tính bảng,

máy tính cá nhân. Theo quan sát của chúng tôi, đa số học sinh đã có điện thoại riêng

với chức năng nối mạng, đây có thể coi là nguy cơ cao của việc dẫn tới nghiện

Internet ở các em. Kết quả kiểm định Pearson cho thấy, chỉ duy nhất ở mức độ

nghiện internet nhẹ có tƣơng quan thuận với phƣơng tiện sử dụng Internet là điện

thoại di động.Tất cả các phƣơng tiện khác không có mối quan hệ có ý nghĩa với các

mức độ nghiện internet ở học sinh. Điều này chỉ ra rằng, dƣờng nhƣ phƣơng tiện sử

dụng để truy cập internet không có nhiều mối quan hệ với tình trạng nghiện internet,

và chỉ duy nhất việc sử dụng điện thoại di động có thể đƣợc xem xét nhƣ là yếu tố

86

có quan hệ tới tình trạng nghiện internet mức độ nhẹ ở học sinh THCS.

- Nguồn hiểu biết sử dụng internet của học sinh

Biểu đồ 3.8. Nguồn hiểu biết sử dụng Internet ở học sinh

Biểu đồ 3.8 cho thấy, đa số học sinh THCS nghiện internet biết đến việc sử

dụng internet từ ban đầu là do tự bản thân tìm hiểu (38%), do bạn bè giới thiếu

(28,8%) và do ngƣời thân hƣớng dẫn là 23,3%). Các nguồn khác để biết đến sử

dụng Internet là rất ít nhƣ biết đến internet là do sử dụng Internet trên lớp học vi

tính (8%), do quảng cáo (1,2%) và do chủ tiệm Internet giới thiệu (0,6%). Tuy

nhiên, kiểm định ANOVA cho thấy, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa

các nguồn dẫn đến sử dụng Internet ở cả ba mức độ nghiện Internet của học sinh

THCS (Mức nhẹ: F = 0,664, p =0,651; Mức vừa: F = 0,880, p = 0,496; Mức nặng: F

= 0,347, t = 0,883). Kết quả này chỉ ra rằng học sinh THCS nghiện internet chủ yếu

là do tự tìm hiểu, do bạn giới thiệu hay ngƣời thân hƣớng dẫn.

3.1.2. Các mức độ iệ i ter et của ọc si

Mức độ của tình trạng nghiện internet đã đƣợc công bố ở đa dạng các báo cáo

nghiên cứu khác nhau trên thế giới. Xem xét các báo cáo này chúng tôi thấy rằng mức

độ nghiện internet còn là một chủ đề nghiên cứu chƣa đƣợc thống nhất và rất phong

phú. Tỷ lệ nghiện Internet có thể chỉ 1 -5% nhƣng ở một số báo cáo nghiên cứu khác,

mức độ này lên đến gần 40% và điều này cho thấy chƣa có một báo cáo kết quả chính

xác nhất cho tình trạng nghiện internet nói chung. Đồng thời, do là một khái niệm còn

khá mới mẻ nên công cụ để nghiên cứu xác định tỷ lệ còn là một vấn đề gây nhiều

tranh cãi (xem thêm phần tổng quan). Đây cũng là yếu tố dẫn tới các kết quả nghiên

87

cứu đa dạng và rất khác nhau. Hơn thế, nghiện internet là một vấn đề hành vi và

thƣờng xuất hiện ở lứa tuổi thanh thiếu niên; do đó việc xem xét các khía cạnh văn

hóa, xã hội khi nghiên cứu tỷ lệ của tình trạng này là cần thiết.

Trong nghiên cứu này, đề tài đã cố gắng giảm thiểu tối đa các yếu tố còn hạn

chế về vấn đề nghiên cứu nghiện internet bởi việc sử dụng liên tục một bảng trắc

nghiệm đƣợc chuẩn hóa và bảng tiêu chí đƣợc xây dựng một cách kỹ lƣỡng, tính

toán cỡ mẫu nghiêm túc. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ nghiện internet ở học

sinh THCS tại Đồng Nai trên toàn mẫu nghiên cứu là 15,46% (163/ 1054 học sinh

THCS). Trong đó, các mức độ nghiện internet là: mức độ nhẹ là 48,5%, mức độ vừa

là 46,6%, mức độ nặng là 4,9% (biểu đồ 3.9).

Kết quả nghiên cứu này cho thấy mức độ nghiện internet của học sinh THCS

tại Đồng Nai là cao hơn so với một số rối loạn tâm thần khác ở cùng địa phƣơng

(Nguyễn Văn Thọ, 2000). Xét trong phạm vi nghiện internet thì mức độ nghiện

internet ở học sinh THCS cũng là khá cao so với một số nghiên cứu khác nhƣ của

Whang, Lee, Chang (2003); Jang, Wang, Choi (2008); Cao, Su Jang (2006). Kết

quả nghiên cứu cũng cho thấy học sinh THCS nghiện internet mức nặng là rất thấp

(chiếm tỷ lệ 4,9% trên tổng số 163 em), học sinh THCS nghiện internet mức vừa và

nhẹ chiếm tỷ lệ rất cao (mức nhẹ là 48,5%, mức vừa là 46,6%). Nhƣ vậy, nghiện

internet ở học sinh THCS tại Đồng Nai có mức độ khá cao và các em nghiện

internet chủ yếu ở mức nhẹ và vừa.

Biểu đồ 3.9. Mức độ nghiện internet của học sinh

Ngoài việc nghiên cứu tỷ lệ và mức độ nghiện internet ở học sinh THCS tại

88

Đồng Nai, nghiên cứu cũng khảo sát mức độ nghiện internet theo các biến số về

giới tính, khối lớp, thành tích học tập, điều kiện kinh tế gia đình, tình trạng hôn

nhân của bố mẹ, địa bàn cƣ trú, loại hình đào tạo (khối trƣờng dân lập và công lập).

Chúng tôi cho rằng đây là các biến phụ thuộc có liên quan đến tình trạng nghiện

internet của học sinh THCS. Dựa trên khảo sát số lƣợng 163 học sinh nghiện

internet, đề tài phân tích cụ thể các biến phụ thuộc.

Biểu đồ 3.10. Mức độ nghiện internet của học sinh theo giới tính

Xét từ khía cạnh giới tính, kết quả nghiên cứu từ biểu đồ 3.2 cho thấy, tỷ lệ

nghiện internet ở nam học sinh THCS nhiều hơn ở nữ học sinh, cụ thể có 95/163

nam học sinh THCS (chiếm 58,3%) và 68/163 nữ học sinh THCS (chiếm 41,7%)

nghiện Internet. Nghiên cứu sử dụng phép kiểm định t – test cho thấy, ở học sinh

THCS nghiện internet mức nhẹ và vừa không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p

=0,202 > 0,05 và p = 0,29 > 0,05), tuy nhiên học sinh THCS nghiện internet ở mức

độ nặng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ học sinh (p = 0,015 <

0,05) (xem phần phụ lục).

Nghiên cứu này khá phù hợp với nhiều báo cáo nghiên cứu trƣớc đó khi cho

thấy, nam giới thƣờng có xu hƣớng có những vấn đề hành vi xã hội hơn nữ giới,

trong đó có tình trạng nghiện internet (Lily, Mehrnaz, Alireza, 2008; Deguo, Sheng,

Minjie, Chongguang, 2012; Blessing Mbatha, 2012). Tôi cho rằng, với đặc điểm

phát triển nhân cách và văn hóa, nam giới thƣờng có xu hƣớng phát triển các hoạt

động xã hội hơn là nữ giới, và điều này dẫn tới việc các em thƣờng có những vấn đề

89

hành vi ngoại hóa nhƣ chống đối xã hội, vấn đề của hành vi thích ứng. Kết quả

phỏng vấn sâu với chị Hoàng Oanh, phụ huynh của em K. O, 14 tuổi, học ở Trƣờng

THCS Tam Hiệp: “Tôi cho rằng con trai thường nghịch ngợm, chơi bời và khó bảo,

các cháu rất dễ mắc vào các thói hư tật xấu và chính vì thế thì con trai cũng nghiện

internet nhiều hơn con gái”.

Biểu đồ 3.11. Mức độ nghiện internet của học sinh theo khối lớp, thành tích học tập

So sánh về về khối lớp của học sinh THCS nghiện internet, kết quả nghiên

cứu tại biểu đồ 3.3 cho thấy, có sự khác nhau về tỷ lệ nghiện internet giữa các khối

lớp, cụ thể có 27/163 học sinh lớp 6 (chiếm tỷ lệ 16,6%), 46/163 học sinh lớp 7

(chiếm tỷ lệ 28,2%), 30/163 học sinh lớp 8 (chiếm tỷ lệ 18,2%) và 60/163 học sinh

lớp 9 (chiếm tỷ lệ 36,8%) nghiện internet. Kết quả kiểm định ANOVA cho thấy

không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ nghiện Internet giữa các khối lớp

ở cả ba mức độ nghiện Internet (p = 0,17 > 0,05; p = 0,62 > 0,05; p = 0,148> 0,05)

(xem phần phụ lục). Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nghiện internet ở học sinh

THCS tăng lên theo khối lớp từ lớp 6 đến lớp 9.

Theo quan sát của chúng tôi, khi còn ở cấp tiểu học, các em thƣờng phải học

một buổi ở trƣờng và một buổi đƣợc cha mẹ gửi ở nhà cô giáo, và đƣợc giám sát bởi

cô giáo. Nhƣng sang cấp 2, các em thƣờng chỉ học 1 buổi, còn một buổi các em ở

nhà một mình và đây chính là cơ hội để các em dễ dàng sử dụng internet. Điều lý

giải nữa là ở học sinh lớp 9, các em đã trƣởng thành hơn, lúc này các em đã phát

triển rất mạnh mẽ về các đặc điểm tính cách, chính vì thế, các em luôn muốn khảng

90

định mình và các em đã có nhiều cơ hội để làm việc đó và internet cũng chính là

một trong những phƣơng tiện để các em thỏa mãn nhu cầu phát triển cái Tôi, mối

quan hệ xã hội.

Xét theo khía cạnh thành tích học tập của học sinh THCS nghiện internet, kết

quả khảo sát cho thấy có sự khác nhau về tỷ lệ nghiện internet giữa các em có thành

tích học tập khác nhau. Học sinh đạt thành tích học tập xuất sắc trong năm học có

6/163 em (chiếm 3,7%), học sinh đạt loại giỏi có 54/163 em (chiếm tỷ lệ 33,1%),

học sinh đạt loại khá chiếm 64/163 em (chiếm tỷ lệ 39,3%), học sinh đạt loại trung

bình là 36/163 em (chiếm tỷ lệ 22,1%), và học sinh loại yếu là 3/163 em (chiếm

1,8%). Kết quả cho thấy, đa số học sinh THCS nghiện internet có học lực ở mức

giỏi và khá, trung bình. Kết quả kiểm định ANOVA cho thấy không có sự khác biệt

có ý nghĩa thống kê giữa các em có thành tích học tập khác nhau ở mức nghiện

internet nhẹ và nặng, nhƣng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức vừa (p =

0,048 < 0,05).

Chƣa thấy có báo cáo nghiên cứu nào phân tích về thành tích học tập của học

sinh nghiện internet, tuy vậy, nhiều tác giả cho rằng, nghiện internet có thể dẫn tới

những hậu quả tiêu cực về thành tích học tập (Barber, 1997; Young,1996; Brady,

1996; Murphey, 1996). Nhƣng trong nghiên cứu này là đa số các em học sinh

THCS nghiện internet lại có thành tích học tập khá, và giỏi. Nhƣ vậy, có thể nói

rằng,học sinh THCS ở Đồng Nai bị nghiện internet không thực sự ảnh hƣởng đến

thành tích học tập của các em, kết quả này cũng đƣợc đề tài kiểm định Chi – square

và cho thấy không có tƣơng quan có ý nghĩa giữa các mức độ nghiện internet và

thành tích học tập của học sinh THCS. Tuy nhiên, nghiên cứu này chƣa đƣợc thực

hiện bởi mô hình thống kê nhân quả, do đó chƣa phải là cơ sở để có thể kết luận

91

chính xác điều này.

Biểu đồ 3.12. Mức độ nghiện internet của học sinh theo điều kiện kinh tế gia đình

và tình trạng quan hệ của bố mẹ

Tình trạng kinh tế gia đình của học sinh cũng có thể là một trong những nhân

tố ảnh hƣởng đến sự khác biệt mức độ nghiện internet ở các em. Kết quả khảo sát

của đề tài cho thấy, học sinh THCS nghiện internet có điều kiện kinh tế gia đình

giầu có là 12/163 học sinh (chiếm 7,4%), có điều kiện kinh tế gia đình khá là 89/163

(chiếm 54,6%), có điều kiện kinh tế gia đình trung bình là 56/163 (chiếm 34,4%),

có điều kiện kinh tế gia đình nghèo là 6 học sinh (chiếm 3,7%). Theo đó, đa số các

em nghiện internet có điều kiện kinh tế gia đình là khá và trung bình, rất ít em học

sinh THCS nghiện internet có điều kiện kinh tế giầu có hay nghèo khó.

Đề tài sử dụng phep kiểm định ANOVA cho thấy, không có sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê về tình trạng kinh tế gia đình của học sinh THCS nghiện internet ở cả

3 mức độ. Tuy nhiên, các mức độ nghiện Internet nhẹ và nghiện internet có chỉ số gần

với mức có ý nghĩa là 0,05 (p =0,079 và p = 0,089), điều này cho thấy cần phải kiểm

định lại sự khác biệt về điều kiện kinh tế gia đình ở học sinh có các mức độ nghiện

Internet này. Kết quả này cho thấy, điều kiện kinh tế gia đình không phải là yếu tố

ảnh hƣởng đến mức độ nghiện internet ở học sinh THCS (xem phần phụ lục).

Tình trạng hôn nhân của cha mẹ cũng có thể ảnh hƣởng đến các mức độ

nghiện internet của học sinh THCS. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, đa số cha

mẹ của các em có tình trạng quan hệ là sống cùng nhau (138 trƣờng hợp chiếm

92

84,7%), li dị (15 trƣờng hợp, chiếm 9,2%), bố hoặc mẹ mất (10 trƣờng hợp, chiếm

6,1%). Kết quả kiểm định ANOVA cho thấy, không có sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê về quan hệ hôn nhân của bố mẹ kể cả ở 3 mức độ nghiện internet ở các

học sinh THCS (sống cùng nhau, li dị, bố hoặc mẹ mất). Theo đó, tình trạng quan

hệ của cha mẹ không thực sự là yếu tố ảnh hƣởng đến mức độ nghiện internet ở con

cái của họ. Tuy nhiên, tôi lại cho rằng, chất lƣợng mối quan hệ liên nhân cách thì lại

có ảnh hƣởng rất lớn đến sự phát triển tâm lý của con cái. Mặc dù bố mẹ có li dị hay

không li dị, nhƣng bố mẹ vẫn thống nhất đƣợc với nhau về cách giáo dục và chăm

sóc con cái thì con cái sẽ phát triển tốt.

Biểu đồ 3.13. Mức độ nghiện internet của học sinh theo địa bàn cư trú

và loại hình trường

Điều kiện về kinh tế - xã hội có ảnh hƣởng nhất định đến mức độ nghiện

internet ở học sinh THCS. Theo nhiều nghiên cứu thì học sinh THCS tại thành thị

nghiện internet nhiều hơn là học sinh THCS tại nông thôn. Kết quả nghiên cứu của

đề cho thấy, tỷ lệ học sinh THCS nghiện internet ở thành thị cao hơn ở nông thôn,

cụ thể ở thành thị là 102/163 học sinh (chiếm 62,6%), và nông thôn là 61/163 học

sinh (chiếm 37,4%). Tuy nhiên, kiểm định t – test cho thấy, không có sự khác biệt

có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ nghiện internet ở cả ba mức độ giữa thành thị và nông

thôn. Theo đó, địa bàn sinh sống không phải là nhân tố ảnh hƣởng đến mức độ

nghiện internet của học sinh THCS. Lý giải hiện tƣợng này là bởi mẫu khảo sát từ

vùng nông thôn thấp hơn so với mẫu khảo sát tại thành thị, hơn thế thiết kế nghiên

cứu này chƣa thật sự đi sâu vào phân tích biến số về địa bàn nhƣ đặc điểm về kinh

93

tế, văn hóa, xã hội là các yếu tố ảnh hƣởng. Đồng thời ở lứa tuổi học sinh THCS các

em vẫn phải chịu sự quản lý rất nghiêm ngặt của cha mẹ, chính vì thế các em ít có

cơ hội sử dụng internet hơn lứa tuổi THPT hay Đại học, càng ở vùng thành thị thì

cha mẹ càng lo sợ và quản lý con cái nhiều hơn.

Chƣa có nghiên cứu nào trƣớc đó phân tích sự khác nhau về tỷ lệ nghiện

internet giữa đặc điểm của khối trƣờng (dân lập và công lập). Kết quả nghiên cứu

của đề tài cho thấy, tỷ lệ nghiện internet ở học sinh THCS khối công lập cao hơn so

với khối dân lập. Cụ thể, học sinh THCS nghiện internet ở khối công lập là 113/163

học sinh (chiếm 69,3%), ở khối dân lập là 50/163 học sinh (chiếm 30,7%). Kiểm

định t- test cho thấy, chỉ có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê học sinh THCS nghiện

Internet ở mức độ nặng giữa 2 khối trƣờng (dân lập/công lập) (p = 0,00 < 0,05),

không có sự khác biệt thống kê ở 2 mức độ còn lại là nhẹ và vừa. Theo đó, ở mức

độ nghiện internet nặng, học sinh khối trƣờng công lập sẽ nghiện internet cao hơn

so với khối trƣờng dân lập. Kết quả này là khá bất ngờ vì nhiều ngƣời nghĩ rằng học

sinh dân lập thƣờng không ngoan, học kém, lƣời và có nhiều hành vi xã hội hơn.

Thực tế, quan sát cũng cho thấy học sinh ở trƣờng dân lập có rất nhiều vấn đề hành

vi nhƣ đánh nhau, nói dối, trốn học, và có cả sử dụng Internet nhƣng tỷ lệ là không

nhiều so với toàn trƣờng. Điều đặc biệt là ở khối THCS, các trƣờng dân lập thƣờng

nhận các em bán trú cả ngày, nhiều trƣờng còn nhận nội trú, vì thế các em chịu sự

giám sát, quản lý của nhà trƣờng nhiều hơn, ít có cơ hội sử dụng internet hoặc các

phƣơng tiện có chức năng internet nhƣ điện thoại. Ngƣợc lại, các em học sinh ở

khối trƣờng công lập thì thƣờng chỉ học một ngày, một ngày các em về ở nhà một

mình tự ôn bài, hoặc tự đi xe đạp đến nhà giáo viên học thêm. Đây là cơ hội để các

em rất dễ vào sử dụng ở các quán internet và điều này là nguy cơ gây nghiện ở các

em cao hơn.

Phỏng vấn em Minh T, nữ 14 tuổi, học sinh Trƣờng THCS dân lập Song Ngữ

Lạc Hồng: “Cháu làm gì mà có thời gian sử dụng internet, có chăng chỉ được ngày

chủ nhật khi được nghỉ. Hàng ngày cháu phải dậy sớm, xe của nhà trường đến tận

94

nhà đón đi học, cháu ở trường suốt cả ngày, tối cũng học thêm ở trường đến 8 giờ

tối mới về. Mà ở trường thì quản sinh và giáo viên chủ nhiệm quản suốt, cháu đâu

có cơ hội sử dụng internet được chứ”.

Phỏng vấn em Anh T, 14 tuổi, học sinh Trƣờng THCS Tam Hiệp: “Cháu chỉ

học buổi sáng, buổi trưa về nhà tự ăn cơm, ngủ trưa xong đạp xe đến nhà cô giáo

học bài, sau đó ăn nhẹ cái gì đó rồi lại đi học thêm tiếp, hôm nào không học thêm

thì về nhà hoặc đi chơi với bạn. Nói chung, bố mẹ cháu đi làm suốt, tối mới về nên

cháu được tự do. […]. Cháu thường vào tiệm Internet gần trường chơi game vào

chiều tối hoặc trưa”.

3.1.3. Ả ƣởng của nghiện internet tới sức khỏe và cuộc sống của học sinh

Luận án sẽ lần lƣợt trình bày kết quả nghiên cứu về các yếu tố ảnh hƣởng

của nghiện internet đối với học sinh THCS theo ý kiến của các em.

3.1.3.1. Ảnh hưởng của nghiện internet tới sức khỏe của học sinh

Bảng 3.2. Ảnh hưởng của nghiện internet tới sức khỏe của học sinh

ệ đề

Đau ở đầu Đau ở vùng lưng/ cổ Đau ở vùng cổ tay Mỏi và đau mắt Khó khăn khi bắt đầu vào giấc ngủ Giấc ngủ rất chập chờn, không đủ giấc Thức khuya và dậy rất sớm Khó ngủ Mệt mỏi khi thức dậy Bực bội, cáu gắt vô cớ Hồi hộp, lo lắng, bồn chồn Tâm trạng buồn chán, bi quan Ăn không ngon Mệt mỏi Khó tập trung chú ý Thu mình, ngại tiếp xúc với ngƣời khác Mất/ giảm hứng thú

ĐTB 1,85 2,04 1,73 2,19 1,69 1,79 1,97 1,61 2,14 1,90 1,82 1,65 1,43 1,91 2,19 1,71 1,70 1,84

Đ C 0,66 0,78 0,74 0,78 0,86 1,88 1,00 0,84 0,91 0,97 0,87 0,84 0,74 0,81 1,89 0,88 0,90 0,50

ĐTBC

Ảnh hƣởng về mặt sức khỏe của nghiện internet đã đƣợc khá nhiều nhà

95

nghiên cứu quan tâm, tuy nhiên tập trung chủ yếu vào vấn đề sức khỏe tâm thần nhƣ

các rối loạn về cảm xúc, khí sắc (Chih - Hung Ko, 2008; Ju-Yu- Yen và cs, 2007),

vấn đề hành vi xã hội (Yen và cs, 2007; Chil - Hung Ko và cs, 2009; Young, 2004;

Ju - Yu Yen và cs, 2007; Young Sik Lee và cs, 2008; A. Aykut Ceyhan và cs, 2008;

A. Aykut Ceyhan và cs, 2009). Luận án khảo sát xem sau một thời gian sử dụng

internet thì các em học sinh THCS có bị ảnh hƣởng nhƣ thế nào về mặt sức khỏe,

các mệnh đề của biến số này đƣợc xây dựng dựa trên các nghiên cứu trƣớc đó. Kết

quả phân tích mô tả thống kê đƣợc thể hiện ở bảng 3.2 ở trên.

Điểm trung bình chung của nhân tố sức khỏe là 1,84 và điểm lệch chuẩn là

0,50, theo đó biểu hiện về sức khỏe của học sinh THCS nghiện internet ở Đồng Nai

ở mức II, đồng nghĩa với việc các biểu hiện thi thoảng hay rất ít khi xuất hiện ở các

em.Kết quả này cho thấy, tình trạng nghiện internet rất ít ảnh hƣởng đến tình trạng

sức khỏe của các em. Phân tích điểm trung bình và độ lệch chuẩn của tất cả các

mệnh đề trong nhân tố này đều ở mức II, có mốt số mệnh đề có điểm trung bình cao

gần với mức III và một số điểm trung bình thấp gần với mức I. Các biểu hiện nhƣ

“đau ở vùng lưng/cổ”, “mỏi và đau mắt”, “mệt mỏi khi thức dậy”, “khó tập trung

chú ý” có điểm trung bình trên 2,0, chủ yếu là các biểu hiện của phản ứng stress khi

các em trải qua nhiều thời gian trên internet. Một số mệnh đề có điểm gần với điểm

trung bình của mức I nhƣ “Khó khăn khi bắt đầu vào giấc ngủ”; “Khó ngủ”; “Tâm

trạng buồn chán, bi quan”, thậm chí có biểu hiện ở mức I “Ăn không ngon”, là các

biểu hiện về giấc ngủ và tâm trạng, ăn uống. Kết quả kiểm định Pearson cũng cho

thấy, dƣờng nhƣ biểu hiện về sức khỏe không có mối tƣơng quan có ý nghĩa với các

mức độ nghiện internet. Chỉ có nghiện internet ở mức vừa giá trị gần với giá trị có ý

nghĩa thống kê (p = 0,051), tuy nhiên vẫn không có ý nghĩa tƣơng quan. Điều này

cho thấy, trong nghiên cứu này, theo ý kiến của học sinh THCS thì nghiện internet

ảnh hƣởng rất ít đến sức khỏe của các em, đồng nghĩa với việc các em có rất ít các

biểu hiện về sức khỏe, cả thể chất và tinh thần.

Phỏng vấn H. O, học sinh Trƣờng THCS Tam Hiệp: “Sử dụng internet nhiều

làm em đau lung, mỏi mắt và hơi mệt. Tuy nhiên, em ăn ngủ vẫn rất bình thường,

96

không sao cả”.

3.3.1.2. Ảnh hưởng của nghiện internet tới quan hệ xã hội và thành tích học tập

của học sinh

Ở lứa tuổi học sinh THCS, nhu cầu mở rộng quan hệ xã hội, áp lực với học

tập và thành tích học tập là những vấn đề rất quan trọng. Chính vì thế, việc học sinh

nghiện internet có thể có các biểu hiện về tình trạng khó khăn trong quan hệ xã hội

và làm giảm sút thành tích học tập ở các em. Nhiều nghiên cứu trƣớc đó cũng chỉ ra

rằng, nghiện internet có thể là nguyên nhân dẫn tới tình trạng giảm sút hoặc mất các

mối quan hệ xã hội của ngƣời nghiện (Young, 1996; Quittner, 1997), hay ảnh

hƣởng đến thành tích học tập của học sinh (Barber, 1997; Yong, 1996; Brady, 1996;

Murphey, 1996). Nghiên cứu này bƣớc đầu tìm hiểu về việc giảm sút mối quan hệ

xã hội và thành tích học tập của học sinh THCS nghiện internet.

Bảng 3.3. Ảnh hưởng của nghiện internet tới quan hệ xã hội và thành tích học

tập của học sinh

ệ đề

ĐTB 1.82 1,78

Đ C 0,92

2,06 1,87 1,80

1,00 0,91 0,93

1. Các ối qua ệ xã ội Ít gặp gỡ bạn bè hơn Giảm thời gian tham gia các hoạt động thực tế (đi chơi cùng bạn bè, tập thể dục, đọc sách, sinh hoạt đoàn hội, ...). Ít nói chuyện với anh chị em/ bạn bè/ bố mẹ Không muốn giao tiếp với ngƣời khác Mất dần các mối quan hệ thực tế và gia tăng mối quan hệ trên mạng 2. Vấ đề ọc tập Thành tích học tập/ công việc của bị giảm sút Giảm hứng thú với các môn học/ công việc Không còn nhiều thời gian dành suy nghĩ về các môn học

1,61 1.98 1,98 1,99 1,97 1,87

0,80 0,82 0,86 0,83 0,57

ĐTBC

Bảng 3.3 cho thấy, điểm trung bình của toàn nhân tố là 1,87 và độ lệch chuẩn

là 0,57, theo đó nhân tố quan hệ xã hội và học tập có biểu hiện ở mức II, tƣơng ứng

với các biểu hiện khó khăn trong quan hệ xã hội, giảm sút chất lƣợng và thành tích

học tập thi thoảng xuất hiện, hay rất ít khi có các biểu hiện trên ở học sinh THCS

nghiện internet. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn của mệnh đề “Giảm thời gian

97

tham gia các hoạt động thực tế như đi chơi cùng bạn bè, tập thể dục, đọc sách, sinh

hoạt đoàn hội” cao hơn 2,0 cho thấy các em giảm dần các hoạt động thực tế trong

cuộc sống để tăng dần thời gian sử dụng các ứng dụng của internet. Tuy nhiên, điểm

trung bình của mệnh đề “Mất dần các mối quan hệ thực tế và gia tăng mối quan hệ

trên mạng” thấp rất gần với mức I cho thấy mặc dù các em ít tham gia các hoạt

động thực tế nhưng không thực sự mất đi các mối quan hệ xã hội”.

Kết quả chạy tƣơng quan Pearson cũng cho thấy, không có mối tƣơng quan

có ý nghĩa nào giữa nhân tố quan hệ xã hội, thành tích học tập và nghiện internet

của học sinh THCS (p > 0,05).Điều này cho thấy, học sinh THCS nghiện internet bị

ảnh hƣởng rất ít đến mối quan hệ xã hội và thành tích học tập. Chỉ có biểu hiện

giảm thời gian tham gia các hoạt động thực tế là có điểm trung bình gần tiệm cần

với điểm trung bình toàn thang đo.

Phỏng vấn H. O, học sinh Trƣờng THCS Tam Hiệp: “Tất nhiên là chơi game

nhiều thì sẽ ít đi chơi với bạn bè, ít tập thể dục hay ngại tham gia các hoạt động

đoàn hội, nhưng em vẫn chơi với rất nhiều bạn ở trường lớp, vẫn nói chuyện với bố

mẹ thường xuyên mà”.Kết quả nghiên cứu này không phù hợp với nhiều nghiên cứu

trƣớc đó (Young, 1996; Quittner, 1997; Barber, 1997; Yong, 1996; Brady, 1996;

Murphey, 1996). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chƣa phù hợp này đƣợc lý giải là

bởi các nghiên cứu trƣớc đó tập trung vào đối tƣợng rộng lớn hơn là thanh thiếu

niên mà chủ yếu là sinh viên, còn trong nghiên cứu này chỉ tập trung vào học sinh

THCS. Với bối cảnh Việt Nam, nhất là ở Đồng Nai thì học sinh THCS thƣờng chịu

sự giám sát và quản lý rất chặt chẽ của gia đình, vì thế, ảnh hƣởng gây ra từ việc

nghiện internet ở các em là hạn chế.

3.1.3.3. Ảnh hưởng của nghiện internet tới an ninh cá nhân và lạm dụng chất

của học sinh

Ảnh hƣởng về vấn đề an ninh, an toàn cá nhân liên quan đến internet bao

gồm quấy rối, gợi tình và gạ gẫm tình dục trên mạng, bắt nạt trên mạng, tự phơi bày

hình ảnh không thích hợp trên mạng (bao gồm phơi bày hình ảnh khỏa thân, hình

ảnh bạo lực trên mạng Internet), sử dụng chất gây nghiện và có các hành vi bạo lực,

98

hành vi chống đối xã hội mà có liên quan đến internet. Nhiều tác giả trƣớc đó đã

công bố các báo cáo nghiên cứu cho thấy xu hƣớng ngày càng tăng của tình trạng

biểu hiện này (Garlick, 2004; Mitchell, 2007; Wolak, Finkelhor, 2008; Raskauskas,

Stoltx, 2007; Kowalski, Limber, 2007; Slonje, Smith, 2008; Cross, Shaw, Hearn,

Epstein, Monks, Lester, 2009; Rimm, 1995; Mehta, 2001; Mehta & Plaza, 1997;

Doran, 2008; Eselman, 2009). Trong nghiên cứu này cũng mô tả các ảnh hƣởng về

an ninh cá nhân và sử dụng chất kích thích của học sinh THCS thông qua ý kiến của

các em.

Bảng 3.4. Ảnh hưởng của nghiện internet tới an ninh cá nhân

và sử dụng chất của học sinh

ĐTB 1.43 1.56 1.29

Đ C 2,51 0,73

1.41

0,73

1.44 1.17

0,80

1.25

0,64

Các ệ đề 1. Vấ đề a i cá của ọc si Nhận đƣợc lời đe dọa từ một ngƣời nào đó qua Internet Bị làm dụng tình dục bởi các bạn quen trên Internet Nhận đƣợc lời mắng chửi của những ngƣời quen trên Internet qua các tin nhắn (qua email, tin nhắn,...) Có hành vi đánh nhau/ gây hấn liên quan đến những mối quan hệ trên Internet 2. Vấ đề ạ dụ c ất của ọc si Sử dụng thuốc lá/ rƣợu/ cafe hay một chất kích thích khác kể từ khi sử dụng Internet Sử dụng ma túy/ bồ đà/ đá/ hay một chất kích thích tƣơng tự kể từ khi sử dụng Internet

ĐTBC

1.09 1.34

0,39 0,46

Kết quả khảo sát từ bảng 3.4 cho thấy, điểm trung bình của nhân tố là 1,34

và độ lệch chuẩn là 0,46, theo đó điểm trung bình của nhân tố ở mức I, tƣơng ứng

với các biểu hiện về an ninh cá nhân và sử dụng chất ở học sinh không bao giờ hay

rất ít khi xuất hiện ở các em, thậm chí các biểu hiện về vấn đề sử dụng chất kích

thích thấp hơn rất nhiều so với điểm trung bình của thang và tiệm cận với 1. Duy

nhật có một mệnh đề “Nhận đƣợc lời đe dọa tự một ngƣời nào đó trên internet) có

điểm trung bình ở mức II, tƣơng đƣờng với các ảnh hƣởng đó thi thoảng mới xuất

hiển ở học sinh. Phỏng vấn sâu cho thấy, các em đa phần chỉ cung cấp các thông tin

99

nhƣ họ tên, năm sinh, hay đƣa các hình ảnh vui tƣơi lên mạng xã hội mà thôi.

Em Kiều C, 15 tuổi, học sinh Trƣờng THCS Lạc Hồng: “Em thấy bạn nào

giờ cũng chơi facebook cả, và thậm chí nhiều bạn chơi các mạng xã hội khác như

Zingme, Viber,… Tất cả các trang mạng xã hội này đều yêu cầu phải cung cấp tên

tuổi, năm sinh, thậm chí nhiều trang phải có số điện thoại mới truy cập được. Bản

thân em cũng chơi facebook và hàng ngày em vẫn post hình của em lên mạng khoe

với mọi người”.

Phỏng vấn H. O, học sinh Trƣờng THCS Tam Hiệp: “Bọn em chẳng dại gì

mà post mấy cái hình nhạy cảm trên mạng đâu, mà làm gì có để post chứ ạ. Bọn

em cũng không được phép sử dụng chất kích thích đâu, với lại bọn em cũng biết

sử dụng chất kích thích là rất nguy hại mà. Chơi internet thì được chứ không nên

như thế”.

Kết quả phân tích mô tả cho thấy, nghiện internet ở học sinh THCS có rất ít

các biểu hiện về vấn đề an ninh cá nhân, không có các ảnh hƣởng về vấn đề sử dụng

chất kích thích.

Ngoài việc phân tích thống kê mô tả về ảnh hƣởng tới vấn đề sức khỏe, mối

quan hệ xã hội và thành tích học tập, vấn đề an ninh cá nhân và sử dụng chất. Đề tài

cũng sử dụng phép kiểm định ANOVA để so sánh điểm trung bình giữa các mức độ

nghiện internet của học sinh THCS theo các mặt biểu hiện ở trên. Kết quả tại bảng

3.5 cho thấy, không có sự khác biệt giữa các mức độ nghiện internet theo các ảnh

hƣởng về sức khỏe và quan hệ xã hội cũng nhƣ thành tích học tập, an ninh cá nhân

và sử dụng chất kích thích.

Bảng 3.5. Khác biệt mức độ nghiện internet theo các nhân tố ảnh hưởng

Nhân tố biểu hiện ả ƣởng

ANOVA

Hậu quả về sức khỏe Hậu quả về quan hệ xã hội và thành tích học tập Vấn đề an ninh cá nhân và sử dụng chất

F 1,96 0,96 1,186

P 0,144 0,50 0,278

100

Ghi chú: *: p< 0,05; **: p < 0,01 (có ý nghĩa thống kê)

3.2. CÁC BIỂU HIỆN TÂ CỦA HỌC SINH THCS NGHIỆN

INTERNET TẠI ĐỒNG NAI

Nhƣ kết quả phân tích thống kê mô tả đã cho thấy Điểm trung bình của toàn

thang đo về các biểu hiện tâm lý của học sinh THCS nghiện internet là 3,52 và độ

lệch chuẩn là 0,69. Về mức độ nghiện internet chung của học sinh THCS tại Đồng

Nai cho thấy kết quả này tƣơng đƣơng với nghiện internet mức vừa. Để tìm hiểu sâu

hơn về biểu hiện tâm lý theo các biến số cụ thể về nhận thức, cảm xúc, hành vi của

các em có dấu hiện nghiện internet, luận án sử dụng thống kê mô tả, phân tích điểm

trung bình, tỷ lệ phần trăm của các các mệnh đề.

3.2.1. Biểu hiện về nhận thức của học sinh

Biểu hiện về mặt nhận thức của học sinh THCS nghiện internet thể hiện ở

việc các em luôn bận tâm, suy nghĩ về việc sử dụng internet, đến các hoạt động trên

internet ngay cả khi không truy cập. Các em luôn có xung đột về nội tâm khi nhận

thấy rằng việc nghiện internet gây nên những tiêu cực nhƣng lại không kiểm soát

đƣợc, điều này làm cho các em cảm thấy áy náy, mâu thuẫn. Các em lo lắng về việc

thời gian trải qua lên mạng quá nhiều. Kết quả phân tích thống kê từng mệnh đề

biểu hiện nhận thức của học sinh THCS nghiện internet thể hiện ở bảng 3.6.

Điểm trung bình chung của toàn tiểu thang đo về biểu hiện nhận thức của

học sinh THCS nghiện internet là 3,45, tƣơng đƣơng với nghiện internet ở mức

nghiện vừa. Các biểu hiện khó khăn tâm lý về nhận thức của học sinh THCS nghiện

internet ở mức thƣờng xuyên xuất hiện. Khi xem xét cụ thể từng mệnh đề cho thấy,

mệnh đề“Nhận thấy luôn sử dụng internet lâu hơn dự định” (ĐTB =4,23) là mệnh

đề có điểm trung bình ở mức tƣơng đƣơng với nghiện internet nặng, rất thƣờng

xuyên xuất hiện ở học sinh THCS nghiện internet. Điều này cho thấy, học sinh

THCS nghiện internet thƣờng mất kiểm soát về thời gian khi sử dụng internet.

Ngoài ra, xem xét các mệnh đề khác nhƣ “Tự nhủ "chỉ cần vài phút" khi đang trực

tuyến” “Nhận thấy dự tính được việc sử dụng internet của bản thân”, “Phòng thủ,

dấu giếm người khác khi họ hỏi về việc sử dụng internet” cũng cho thấy điểm trung

101

bình ở mức thƣờng xuyên xuất hiện. Các mệnh đề này thể hiện mất kiểm soát về

việc sử dụng internet, có kế hoạch khi sử dụng internet và nói dối ngƣời khác về

hành vi sử dụng internet của mình.

Bảng 3.6. Biểu hiện nhận thức của học sinh

Các biế số

HTK HK TT

T

TX LL ĐTB Đ C

thấy

luôn sử dụng

1,8

3,7

25,8 28,2

19

21,5

4,23

1,25

44,8

11,7

11

17,8

4,9

9,8

2,56

1,73

25,8

18,4 13,5 12,3

8,6

21,5

3,23

1,89

12,9

19,6 19,6 25,2

8

14,7

3,40

1,57

Nhận internet lâu hơn dự định Phải kiểm tra email thƣờng xuyên trƣớc khi làm việc khác Phòng thủ, dấu giếm người khác khi họ hỏi về việc sử dụng internet Nhận thấy dự tính được việc sử dụng internetvcủa bản thân Tự nhủ "chỉ cần vài phút" khi đang trực tuyến

ĐCBC

12,3

14,7 18,4 11,7 18,4 24,5

3,82 3,45

1,74

HTK: Hoàn toàn không

T: Thường

ĐTB: Điểm trung bình

HK: Hiểm khi

TX: Thường xuyên

ĐLC: Độ lệch chuẩn

TT: Thỉnh thoảng

LL: Luôn luôn

ĐTBC: Điểm trung bình chung

Ghi chú:

Kết quả phân tích thống kê mô tả cho thấy, biểu hiện tâm lý về yếu tố nhận

thức của học sinh THCS nghiện tập trung vào việc mất kiểm soát về thời gian, mất

kiểm soát về hoạt động khi truy cập internet, chủ động nói dối ngƣời khác về việc

sử dụng internet của mình.

3.2.2. Biểu hiện cảm xúc của học sinh

Biểu hiện về mặt cảm xúc của học sinh THCS thể hiện ở việc các em có

những thay đổi cảm xúc theo hƣớng tiêu cực nhƣ buồn chán, lo âu, căng thẳng, bồn

chồn khi sử dụng internet quá mức.Có những cảm giác khó chịu và ảnh hƣởng đến

cơ thể khi bị gián đoạn hoặc đột ngột giảm sử dụng internet (cảm giác run, buồn

rầu, hay cáu gắt,...).Luôn có cảm giác thèm muốn sử dụng internet để đạt đƣợc sự

thỏa mãn cảm xúc cá nhân.

Bảng 3.7. cho thấy, điểm trung bình chung của toàn bộ tiểu thang đo biểu

102

hiện về cảm xúc của học sinh THCS nghiện internet ở Đồng Nai là 3,82,tƣơng

đƣơng với nghiện internet ở mức nghiện vừa. Các biểu hiện khó khăn tâm lý về cảm

xúc của học sinh THCS nghiện internet ở mức thƣờng xuyên xuất hiện.

Bảng 3.7. Biểu hiện cảm xúc của học sinh

HTK HK

TT

T

TXH LL ĐTB Đ C

22,7

12,9

19,6

22,1

9,2

13,5

3,23

1,68

19,6

12,9

23,9

15,3

12,3

16

3,36

1,70

11,7

11,7

22,1

14,1

12,3

28,2

3,88

1,73

12,9

14,1

15,3

20,2

12,9

24,5

3,80

1,72

7,4

9,8

17,2

17,8

12,3

35,6

4,25

1,65

Các biế số Thấy phấn khích khi truy cập internet hơn là đi ra ngoài Trốn thoát lo âu trong cuộc sống bằng những suy nghĩ dễ chịu về internet Cáu kỉnh, kêu la, bực bội vì ai đó làm phiền khi đang trực tuyến Cảm thấy lo lắng khi bị cắt internet, hay tƣởng tƣợng về việc phải cắt internet Cảm thấy chán nản, buồn rầu hay căng thẳng khi không vào mạng và cảm thấy vui vẻ trở lại khi vào mạng Lo sợ cuộc sống không có internet sẽ chán nản, trống rỗng và không có niềm vui 8

8,6

14,7

16

12,9

39,9

4,37

1,68

ĐTBC:

3,82

Xem xét từng mệnh đề cho thấy, các mệnh đề: Cảm thấy chán nản, buồn rầu

hay căng thẳng khi không vào mạng và cảm thấy vui vẻ trở lại khi vào mạng (ĐTB

= 4,25),Lo sợ cuộc sống không có internet sẽ chán nản, trống rỗng và không có

niềm vui(ĐTB = 4,37) là hai mệnh đề có điểm trung bình ở mức III,tƣơng đƣơng

với nghiện internet mức nặng, các biểu hiện này rất thƣờng xuyên xuất hiện ở học

sinh THCS nghiện internet. Hai mệnh đề này thể hiện cảm xúc tiêu cực nhƣ chán

nản, buồn rầu, căng thẳng, lo lắng, trống rỗng, mất hứng thú và vui vẻ khi không

đƣợc truy cập internet. Điều này cho thấy, tình trạng nghiện internet ảnh hƣởng khá

nghiêm trọng đến vấn đề cảm xúc của học sinh, nhất là vấn đề lo âu, buồn chán.

Ngoài ra, khi xem xét các mệnh đề khác nhƣ: Thấy phấn khích khi truy cập

internet hơn là đi ra ngoài; Trốn thoát lo âu trong cuộc sống bằng những suy nghĩ

103

dễ chịu về internet; Cáu kỉnh, kêu la, bực bội vì ai đó làm phiền khi đang trực

tuyến; Cảm thấy lo lắng khi bị cắt internet, hay tưởng tượng về việc phải cắt

internet đều có điểm trung bình khá cao. Kết quả này cho thấy, học sinh nghiện

internet có cảm xúc lệ thuộc và luôn coi internet nhƣ một hành động nổi bật trong

cuộc sống hàng ngày và nếu các em không đƣợc sử dụng internet thì dẫn tới những

cảm xúc tiêu cực. Đây là các biểu hiện về cảm xúc của triệu chứng cai mà Griffths

(1997) đã mô tả đối với tình trạng nghiện internet.

Nhƣ vậy, biểu hiện về cảm xúc của học sinh THCS ở mức thƣờng xuyên

xuất hiện. Trong đó, chỉ các biểu hiện chủ yếu bao gồm lo lắng, buồn chán, mất

hứng thú, trống rỗng khi không có internet. Đồng thời có các biểu hiện cảm xúc của

triệu chứng cai nhƣ cáu kỉnh, bực bội, lo âu khi bị cắt hoặc ngừng sử dụng internet.

3.2.3. Biểu hiện hành vi của học sinh

Biểu hiện về mặt hành vi của học sinh THCS nghiện internet thể hiện ở việc

các em có một quá trình tăng dần thời gian sử dụng internet, và luôn đạt đƣợc

những cảm xúc nhƣ cũ khi sử dụng internet mặc dù có sự thay đổi những tác động.

Các em thay đổi bất thƣờng trong sinh hoạt nhƣ thức khuya, đêm ít ngủ, dậy muộn,

ngủ ngày nhiều, thích ở một mình, ít hoặc ngại tiếp xúc với mọi ngƣời (kể cả ngƣời

thân trong gia đình), bỏ bê thực hiện nghĩa vụ lao động, học tập hoặc xã hội. Các

em lặp đi lặp lại những hành vi có nguy cơ cao của việc sử dụng internet quá mức

sau một thời gian cá nhân kiêng khem và kiểm soát.

Phân tích từ bảng 3.8 cho thấy điểm trung bình chung của toàn tiểu thang đo

biểu hiện về hành vi của học sinh THCS nghiện internet tại Đồng Nai là 3,37, tƣơng

đƣơng với nghiện internet ở mức nghiện vừa. Các biểu hiện khó khăn tâm lý hành

vi của học sinh THCS nghiện internet ở mức thƣờng xuyên xuất hiện.

Xem xét từng mệnh đề của khía cạnh biểu hiện hành vi cho thấy toàn bộ các

mệnh đề đều có điểm trung bình trong khoảng dƣới 4,22, tƣơng đƣơng với nghiện

internet ở mức nghiện vừa. Có một số mệnh đề có điểm trung bình khá cao nhƣ:

Sao lãng việc gia đình để dành thời gian lên mạng; Thiết lập các mối quan hệ mới

các thành viên trên mạng; Người thân than phiền về việc sử dụng internet; Kết quả

104

học tập tồi tệ vì sử dụng mạng; Cố gắng giảm bớt thời gian vào mạng nhưng thất

bại; Che dấu thời gian lên mạng; Dành nhiều thời gian lên mạng hơn là đi ra

ngoài. Kết quả nghiên cứu này cho thấy, các biểu hiện về hành vi của học sinh

nghiện internet thƣờng là việc các em dành nhiều thời gian lên mạng mà giảm dần

thực hiện các công việc thực tế, thiết lập các mối quan hệ trên mạng nhiều hơn là

tham gia các hoạt động cùng bạn bè, giảm sút chất lƣợng công việc gia đình hay

thành tích học tập, nói dối việc sử dụng internet và thƣờng bị ngƣời thân than phiền

về việc sử dụng internet.

Bảng 3.8. Biểu hiện về hành vi của học sinh

Các biế số

HTK HK TT

T

TX LL ĐTB Đ C

Sao lãng việc gia đình để dành thời gian lên mạng

16,6

16

35

17,2 9,8

5,5 3,38 1,37

Thiết lập các mối quan hệ mới các thành viên trên mạng

15,3

16,6 19,6 23,9 12,3 12,3 3,38 1,58

11,7

12,3 29,3 17,8 13,5 24,5 3,82 1,69

18,4

20,2 24,5 15,3 9,8 11,7 3,12 1,59

Người thân than phiền về việc sử dụng internet Kết quả học tập tồi tệ vì sử dụng mạng Công việc kém hiệu quả vì sử dụng internet Thức khuya để vào mạng

26,4 31,3

21,5 22,1 17,8 6,1 6,1 2,74 1,48 17,2 14,1 17,8 7,4 12,3 2,90 1,73

16

Cố gắng giảm bớt thời gian vào mạng nhưng thất bại Che dấu thời gian lên mạng

11 10,4

11 21,5 11,7 28,8 3,98 1,70 17,2 17,2 20,2 12,9 22,1 3,74 1,66

Dành nhiều thời gian lên mạng hơn là đi ra ngoài

17,8 17,8

15,3 19,6 3,60 1,70

ĐCBC

13,5

3,37

16

Nhƣ vậy, về biểu hiện hành vi, học sinh THCS nghiện internet có biểu hiện

khá tiêu cực ở mức độ rất thƣờng xuyên. Các biểu hiện tiêu cực bao gồm việc giảm

sút các hoạt động thực tế, giảm sút các mối quan hệ xã hội, giảm sút thành tích học

tập và công việc, bị ngƣời thân than phiền và thƣờng nói dối về hành vi sử dụng

internet của mình.

Tóm lại, học sinh THCS nghiện internet có các biểu hiện tiêu cực về nhận

thức, cảm xúc và hành vi ở mức thƣờng xuyên xuất hiện. Các biểu hiện chủ yếu bao

105

gồm: Mất kiểm soát việc sử dụng internet (Nhận thức); Lo âu, chán nản, trống rống,

mất niềm vui, có hội chứng cai nhƣ cáu gắt, cáu kỉnh, kêu la khi bị ngắt sử dụng

internet (cảm xúc); giảm sút chất lƣợng quan hệ xã hội, thành tích học tập, công

việc (hành vi).

3.3. TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ NGHIỆN

INTERNET TẠI ĐỒNG NAI

3.3.1. Tự đá iá chung về 6 mặt biểu hiện cái tôi ở học sinh

Tự đánh giá bản thân là một hoạt động nhận thức đặc biệt của con ngƣời, là

trình độ phát triển cao của tự ý thức, trong đó đối tƣợng nhận thức chính là bản thân

mình. Tự đánh giá bản thân là quá trình chủ thể tự đánh giá tổng thể về giá trị bản

thân mình. Trong nhiều nghiên cứu trƣớc đó (Greenberg, Lewis&Dodd, 1999;

Griffiths, 2000, 2008; Davis, 2001; Jackson, Eye, Zhao, 2010) cho thấy, thanh thiếu

niên nghiện internet thƣờng đánh giá thấp bản thân.

Bảng 3.9. Các mặt biểu hiện cái Tôi của học sinh

STT Các mặt biểu hiện cái Tôi 1 2 3 4 5 6

Thể chất Cảm xúc Gia đình Học đƣờng Xã hội Tƣơng lai Tổng chung

ĐTB 2,43 2,36 2,33 2,31 2,42 2,52 2,40

Đ C 1,19 0,98 1,02 0,96 0,97 1,01 1,02

Kết quả phân tích thống kê mô tả tại bảng 3.9 cho thấy, điểm chung bình của

toàn thang đo tự đánh giá bản thân là 2,40 và độ lệch chuẩn của toàn thang là 1,02,

tƣơng đƣơng với mức hơi đồng ý. Theo đó, tự đánh giá bản thân của học sinh

THCS nghiện internet ở Đồng Nai ở mức trung bình, các em đánh giá, nhìn nhận

bản thân mình một cách bình thƣờng.

Xem xét từng mặt biểu hiện của cái Tôi cho thấy, điểm trung bình của từng

mặt biểu hiện dao động từ 2,31 đến 2,52. Điều đó cho thấy, học sinh THCS nghiện

internet ở Đồng Nai tự đánh giá về các giá trị bản thân trong mối quan hệ với gia

đình, xã hội, học đƣờng là bình thƣờng, đồng thời các em cũng đánh giá, nhìn nhận

106

về cơ thể, cảm xúc và tƣơng lai của bản thân ở mức trung bình. Học sinh THCS

nghiện internet ở Đồng Nai tự đánh bình thƣờng về bản thân, không cao cũng

không thấp.

So sánh điểm trung bình chung của 6 mặt biểu hiện cái Tôi (thể chất, cảm

xúc, gia đình, học đƣờng, xã hội và tƣơng lai), kết quả cho thấy: học sinh đánh giá

bản thân ở khía cạnh tƣơng lai ở mức độ cao nhất (ĐTB = 2,52). Trong khi đó, các

khía cạnh khác ở mức độ trung bình (Thể chất, ĐTB = 2,43; xã hội, ĐTB = 2,42;

cảm xúc, ĐTB = 2,36; học đƣờng, ĐTB = 2,31; gia đình, ĐTB =2,33). Kết quả này

chỉ ra rằng, học sinh THCS nghiện internet có xu hƣớng coi trọng việc xây dựng

hình ảnh bản thân trong tƣơng lai của mình về công việc, về sức khoẻ, về cuộc sống

gia đình, về sự thành công hay thất bại trong cuộc sống... mà đánh giá bản thân ở

hiện tại về khía cạnh thể chất, xã hội, cảm xúc, gia đình, học đƣờng là trung bình.

3.3.2. Các mặt biểu hiện cái Tôi của học sinh THCS nghiện internet

Qua phân tích tổng quan cho thấy, tự đánh giá bản thân của học sinh THCS

thể hiện ở 6 khía cạnh cái Tôi: Thể chất, xúc cảm, gia đình, học đƣờng, xã hội và

tƣơng lai. Luận sẽ phân tích thực trạng của các khía cạnh cái Tôi, hay các khía cạnh

của tự đánh giá bản thân của học sinh THCS nghiện internet ở Đồng Nai.

3.3.2.1. Tự đánh giá về thể chất

Tự đánh giá về thể chất đƣợc cấu thành bởi những nhận xét của cá nhân về

khía cạnh cơ thể nhƣ ý thức hay tự đánh giá về ngoại hình, vóc dàng, hành vi ứng

sử, … cũng nhƣ nhận thức của cá nhân về những mong muốn liên quan đến năng

lực của cơ thể. Điểm trung bình của từng item (mệnh đề) cấu thành nên tự đánh giá

về thể chất đƣợc trình bày ở bảng 3.10.

Số liệu trình bày ở bảng 3.10 cho thấy, điểm trung bình của toàn bộ mệnh đề

về khía cạnh tự đánh giá cơ thể là 2,43 và độ lệch chuẩn là 1,19, ở mức trung bình.

Điều này cho thấy học sinh THCS nghiện internet ở Đồng Nai đánh giá bình thƣờng

về cơ thể của mình. Các em không đánh giá quá cao, và cũng không đánh giá quá

107

thấp về cơ thể bản thân.

Bảng 3.10. Tự đánh giá về thể chất của học sinh nghiện internet

ĐTB Đ C

2,29

0,89

Các ệ đề tự đá iá t ể c ất Nói chung, mọi người đều nhận thấy khuôn mặt và vóc dáng của tôi khá dễ coi Tôi thấy mình thật vụng về, không biết phải làm gì với đôi bàn tay của mình cả Tôi tự hào về cơ thể của tôi Tôi cảm thấy cơ thể của mình khỏe mạnh Tôi không quan tâm đến cơ thể của mình Tôi thấy mình quá xấu xí. Tôi cảm thấy rất cần thiết phải ăn mặc sạch sẽ, chỉn chu Tôi có đủ sức khỏe để chơi thể thao Tôi cảm thấy khó chịu khi ai đó cứ nhìn tôi chằm chằm Tôi thƣờng có xu hƣớng quá lo lắng về sức khỏe của mình Tôi hài lòng lắm về gƣơng mặt và cơ thể Tôi nghĩ rằng cơ thể tôi phát triển bình thường

ĐTBC

2,28 2,36 2,64 2,01 2,03 2,84 2,66 2,53 2,58 2,30 2,69 2,43

1,03 0,94 1,02 1,01 1,04 1,01 1,04 0,98 3,27 1,04 0,97 1,19

Xem xét từng mệnh đề cho thấy, học sinh THCS nghiện internet ở Đồng Nai

đánh giá cao nhất ở các mệnh đề: “Tôi có đủ sức khỏe để chơi thể thao” (ĐTB =

2,66), “Tôi nghĩ rằng cơ thể tôi phát triển bình thường” (ĐTB = 2,69), “Tôi cảm

thấy rất cần thiết phải ăn mặc sạch sẽ, chỉn chu” (ĐTB =2,84), “Tôi cảm thấy cơ

thể của mình khỏe mạnh” (ĐTB = 2,64). Đây là những mệnh đề thể hiện cái nhìn

tích cực của cá nhân về cơ thể của mình. Trong khi đó, những mệnh đề thể hiện cái

nhìn tiêu cực về cơ thể có điểm số thấp hơn: “Tôi cảm thấy khó chịu khi ai đó cứ

nhìn tôi chằm chằm” (ĐTB = 2,53); “Tôi thường có xu hướng quá lo lắng về sức

khỏe của mình” (ĐTB = 2,58),… Điều này cho thấy, học sinh THCS nghiện internet

nhìn nhận về cơ thể của bản thân tích cực hơn là tiêu cực.

Một số nghiên cứu trƣớc đó cho rằng cá nhân đánh giá thấp về cơ thể, hay

ngoại hình của mình thƣờng có nguy cơ nghiện các ứng dụng trò chơi trực tuyến,

mạng xã hội bởi các ứng dụng này giúp cho tƣơng tác ẩn danh và có thể che dấu

khiếm khuyết về cơ thể (Young, 1996; Greenberg, Lewis và Dold, 1999, Murali và

George,2007). Tuy nhiên, trong nghiên cứu này lại chỉ ra rằng, học sinh THCS đánh

108

giá trung bình về bản thân.

3.3.2.2. Tự đánh giá về xúc cảm

Cái Tôi cảm xúc hay tự đánh giá về cảm xúc là các cảm nhận, nhìn nhận của

cá nhân về về những trạng thái xúc cảm của bản thân và cách thức biểu hiện những

cảm xúc nhƣ cảm giác lo hãi, tức giận, căng thẳng, khả năng kìm nén cảm xúc, khả

năng hài hƣớc... Cá nhân có thể nhìn nhận tích cực hay tiêu cực về cảm xúc của bản

thân mình.

Bảng 3.11. Tự đánh giá về cảm xúc của học sinh nghiện internet

Các ệ đề tự đá iá cả xúc

Tôi thƣờng xuyên cáu giận. Ngay cả khi tôi muốn khóc thì tôi vẫn biêt cách kìm nén nước mắt. Tôi thƣờng xuyên căng thẳng bực mình Tôi không cảm thấy sợ khi phải làm một việc gì khó khăn. Tôi thƣờng xuyên lo lắng Tôi khá là can đảm Tôi dễ phật ý nếu ngƣời khác không đồng tình với tôi. Tôi biết cách làm cho mọi việc trở nên hài hước, khi bị chỉ trích tôi Khi có người làm phiền tôi, tôi biết cách giữ bình tĩnh Tôi dễ dàng khóc khi thấy ngƣời khác khóc. Nói chung, tôi là một người luôn nhìn mọi thứ theo cách tích cực Tôi luôn cảm thấy buồn Tôi sợ và khóc khi ngƣời ta la mắng tôi.

ĐTBC

ĐTB 2,21 2,59 2,30 2,40 2,38 2,44 2,21 2,34 2,65 2,12 2,53 2,34 2,20 2,36

Đ C 0,93 1,04 0,99 0,97 0,93 0,92 0,97 1,02 0,96 1,02 0,93 1,07 1,05 0,98

Kết quả phân tích thống kê ở bảng 3.11 cho thấy, điểm trung bình của toàn

tiểu thang đo tự đánh giá cảm xúc là 2,36, tƣơng đƣơng mức trung bình. Điều này

cho thấy, học sinh THCS nghiện internet đánh giá về những trạng thái xúc cảm của

bản thân và cách thức biểu hiện những cảm xúc nhƣ cảm giác lo hãi, tức giận, căng

thẳng, khả năng kìm nén cảm xúc, khả năng hài hƣớc... là khá bình thƣởng, không

cao cũng không thấp. Đồng thời, ở khía cạnh tự đánh giá tích cực về cảm xúc của cá

nhân, học sinh THCS nghiện internet đánh giá cao các mệnh đề: Khi có người làm

phiền tôi, tôi biết cách giữ bình tĩnh (ĐTB = 2,65), Ngay cả khi tôi muốn khóc thì

tôi vẫn biêt cách kìm nén nước mắt (ĐTB = 2,59), Nói chung, tôi là một người luôn

109

nhìn mọi thứ theo cách tích cực (ĐTB = 2,53). Các khía cạnh tự đánh giá tiêu cực

về cảm xúc của cá nhân, các mệnh đề có điểm trung bình cao: Tôi luôn cảm thấy

buồn (ĐTB = 2,34), Tôi thường xuyên lo lắng (ĐTB = 2,38).

Nhìn chung, các mệnh đề tích cực có điểm trung bình cao hơn so với các

mệnh đề tiêu cực. Kết quả nghiên cứu cho thấy, học sinh THCS nghiện internet

đánh giá tích cực bản thân về khía cạnh cảm xúc hơn so với tiêu cực.

3.3.2.3. Tự đánh giá về gia đình

Tự đánh giá về gia đình đƣợc cấu thành bởi những nhận xét của cá nhân về khía

cạnh gia đình nhƣ đánh giá mình có vị trí quan trọng hay chỉ là ngƣời vô giá trị trong

gia đình, cá nhân có cảm xúc hài lòng về gia đình hay mong muốn đƣợc sống trong gia

đình khác, cá nhân cảm nhận gia đình yêu thƣơng hay không thừa nhận mình, cá nhân

cảm nhận gia đình có thể nâng đỡ mình hay gia đình chú tâm vào những thành viên

khác hoặc sự chấp nhận ngƣời thân đã đúng khi than phiền về mình.

Bảng 3.12. Tự đánh giá về gia đình của học sinh nghiện internet

Các ệ đề tự đá iá ia đì

ĐTB 2,45

Đ C 0,95

2,53 2,39 2,31 2,57 2,49 2,66 1,87 1,98

1,00 1,06 1,03 0,97 1,05 1,08 0,94 1,02

2,24 2,93 2,06 1,82 2,45 2,36 1,57

1,06 1,01 1,06 1,01 1,00 1,06 0,92

Tôi có một vị trí rất quan trọng trong gia đình. Tôi nghĩ rằng tổ tiên của tôi là những người rất có uy tín trong xã hội Nhìn chung, khi tôi nói chuyện với bố mẹ thì họ đều hiểu tôi. Tôi thƣờng xuyên nghĩ mình là gánh nặng cho gia đình. Tôi thƣờng xuyên bị chê trách trong khi tôi không đáng bị nhƣ thế. Trong gia đình, tôi luôn thấy rất dễ chịu Trong gia đình tôi được chấp nhận Mọi ngƣời trong gia đình không quan tâm đến tôi Tôi thƣờng cảm thấy mình là ngƣời thừa trong gia đình Tôi nhận thấy rằng mọi ngƣời trong gia đình tôi thích những ngƣời khác hơn tôi. Tôi hài lòng về gia đình tôi Tôi tin là gia đình tôi sẽ tốt hơn nếu không có tôi. Gia đình tôi luôn nghĩ tôi là đồ bỏ đi. Khi bố mẹ la mắng tôi, nói chung tôi nghĩ rằng họ có lý. Gia đình tôi rất tự hào về tôi Tôi thích ở trong một gia đình khác hơn. Tôi tin tưởng gia đình tôi có thể giúp tôi giải quyết một vấn đề nào đó Gia đình rất yêu thương tôi Có vẻ như tôi là người được yêu thương nhất trong gia đình.

2,66 2,59 2,43 2,33

0,99 1,04 1,09 1,02

ĐTBC

110

Số liệu phân tích ở bảng 3.12 cho thấy điểm trung bình của toàn bộ tiểu

thang đo tự đánh giá bản thân ở khía cạnh gia đình là 2,33, tƣơng đƣơng với mức

trung bình. Điều này cho thấy, học sinh THCS nghiện internet ở Đồng Nai về vị trí

của bản thântrong gia đình, cảm xúc cá nhân với gia đình, cảm nhận tình yêu

thƣơng của gia đình ở mức trung bình. Đồng thời, trong việc nhìn nhận về gia đình,

học sinh THCS nghiện internet đánh giá cao nhất các mệnh đề: Gia đình rất yêu

thương tôi (ĐTB = 2,59), Tôi hài lòng về gia đình tôi (ĐTB =2,93). Đây làcác mệnh

đề thể hiện cái nhìn tích cực của cá nhân về vị trí của mình trong gia đình. Trong

khi đó, những mệnh đề thể hiện cái nhìn tiêu cực về vị trí của mỉnh trong gia đình

nhƣ: Tôi thường xuyên bị chê trách trong khi tôi không đáng bị như thế (ĐTB =

2,57), Tôi nhận thấy rằng mọi người trong gia đình tôi thích những người khác hơn

tôi (ĐTB = 2,24) đạt điểm trung bình thấp hơn. Đồng thời, xem xét toàn bộ các

mệnh đề này có điểm trung bình chung ở khía cạnh tích cực cao hơn so với khía

cạnh tiêu cực. Kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng, học sinh THCS nghiện internet

nhìn nhận về bản thân mình về khía cạnh gia đình tích cực hơn tiêu cực.

3.3.2.4. Tự đánh giá về học đường

Cái tôi học đƣờng hay tự đánh giá về học đƣờng đƣợc cấu thành từ những

nhận định của học sinh về việc học tập và thành tích học tập của bản thân. Đó là

thái độ của học sinh với việc học nhƣ cảm giác chán nản ở trƣờng, sự chăm chỉ, là

khả năng học tập của học sinh liên quan đến việc sắp xếp việc học, sự ghi nhớ nội

dung môn học, việc hiểu bài, sự can đảm nói ra những gì mình không hiểu. Đó cũng

là sự nhìn nhận của học sinh về kết quả học tập của mình nhƣ chán nản hay tự hào

về điểm số hay những đánh giá của giáo viên và bạn bè về bản thân.

Bảng 3.13 cho thấy, điểm trung bình chung của toàn tiểu thang đo tự đánh

giá về khía cạnh học đƣờng là 2,31, ở mức trung bình. Nhƣ vậy, học sinh THCS

nghiện internet ở Đồng Nai đánh giá về việc học tập và thành tích học tập của bản

thân ở mức trung bình. Đồng thời, ở khía cạnh tích cực trong nhận xét, đánh giá về

vấn đề học đƣờng, học sinh THCS nghiện internet đánh giá cao nhất các mệnh đề:

Khi tôi nói chuyện với bạn bè, nhìn chung họ thường đồng ý với tôi (ĐTB = 2,40),

111

Ở trường tôi thích được mọi người hỏi han (ĐTB = 2,32). Trong khi đó ở khía cạnh

tiêu cực, học sinh THCS nghiện internet đánh giá cao các mệnh đề: Kết quả học tập

kém ở trường dễ dàng làm tôi chán nản (ĐTB = 2,54), Tôi không thành công trong

học tập vì tôi không chăm chỉ (ĐTB = 2,48). Từ việc phân tích các mệnh đề có điểm

trung bình cao này và xem xét toàn bộ các mệnh đề tự đánh giá về học đƣờng của

học sinh THCS nghiện internet cho thấy, các em lựa chọn các mệnh đề tiêu cực hơn

là các mệnh đề tích cực. Kết quả chỉ ra rằng học sinh THCS nghiện internet đánh

giá tiêu cực về bản thân ở khía cạnh xã hội hơn là tích cực.

Bảng 3.13. Tự đánh giá về học đường của học sinh nghiện internet

Các ệ đề tự đá iá ọc đƣờ Khi tôi nói chuyện với bạn bè, nhìn chung họ thường đồng ý với tôi Tôi dễ dàng chán nản trong lớp học Tôi thấy khó khăn trong việc tổ chức việc học ở trƣờng Tôi không thành công trong học tập vì tôi không chăm chỉ Ỏ lớp , tôi hiểu bài rất nhanh. Ở trường tôi thích được mọi người hỏi han Kết quả học tập kém ở trƣờng dễ dàng làm tôi chán nản. Ở trƣờng, tôi không dám nói những gì tôi không hiểu Tôi ghi nhớ rất tốt những gì mà tôi đã học Ở trường, những nguời khác luôn muốn ở bên cạnh tôi. Tôi rất ít cố gắng để làm việc tốt hơn. Tôi tự hào vể kết quả học tập ở trường của tôi.

ĐTBC

ĐTB 2,40 2,21 2,20 2,48 2,27 2,32 2,54 2,36 2,31 2,11 2,20 2,31 2,31

Đ C 0,82 0,98 0,97 1,04 0,92 1,05 1,07 0,97 0,95 0,88 0,89 1,02 0,96

3.3.2.5. Tự đánh giá về xã hội

Tự đánh giá về xã hội thể hiện đánh giá của cá nhân về vị trí của mình trong

mối quan hệ với ngƣời ngoài. Trong nghiên cứu này, tự đánh giá về xã hội của học

sinh THCS nghiện internet là cách mà các em nhìn nhận bản thân mình trong mối

quan hệ với các nhóm bạn trên mạng, biểu hiện ở việc học sinh có cảm nhận thấy

mình thuộc về nhóm bạn, gần gũi với bạn bè, chú ý đến những gì ngƣời trong nhóm

nói về mình, có cùng quan điểm với bạn bè, gây đƣợc thiện cảm với bạn bè, hay học

sinh cảm thấy cô đơn ngay cả khi đang ở cùng các bạn và dễ chịu khi ở một mình,

xa cách với bạn bè, có những quan điểm trái ngƣợc với họ và không có khả năng

112

làm cho mọi ngƣời yêu mình.

Số liệu trình bày ở bảng 3.14 cho thấy, điểm trung bình của toàn tiểu thang

đo về khía cạnh tự đánh giá xã hội là 2,42, tƣơng đƣơng với mức trung bình. Điều

này cho thấy, học sinh THCS nhìn nhận tổng thể về bản thân mình trong mối quan

hệ với các nhóm bạn trên mạng, với bạn bè của mình ở mức bình thƣờng. Đồng

thời, ở khía cạnh nhìn nhận về cái Tôi xã hội của mình một cách tích cực, học sinh

THCS nghiện internet đánh giá cao nhất ở các mệnh đề: “Tôi luôn chú ý tới những

gì người khác nói về tôi, dù điều đó là hay hay dở” (ĐTB = 2,64), “Tôi thích làm

cho người khác cười.”(ĐTB = 2,99), “Tôi luôn rất gần gũi các bạn tôi” (ĐTB =

2,61). Trong khi cái Tôi khía cạnh tiêu cực, học sinh đánh giá cao nhất các mệnh

đề: “Tôi cảm thấy rất dễ chịu nhất là khi ở một mình” (ĐTB = 2,66) và “Những

người khác nghĩ rằng tôi có các ý tưởng khác với mọi người” (ĐTB = 2,37).

Bảng 3.14. Tự đánh giá về xã hội của học sinh nghiện internet

Các ệ đề tự đá iá xã ội

Đ C

Khi tôi nói chuyện với bạn bè, nhìn chung họ thường đồng ý với tôi Những ngƣời khác nghĩ rằng tôi có các ý tƣởng khác với mọi ngƣời Tôi luôn rất gần gũi các bạn tôi. Tôi thích làm cho người khác cười. Tôi luôn chú ý tới những gì người khác nói về tôi, dù là hay hoặc dở Tôi thích làm mọi thứ theo nhóm. Những ngƣời khác chán nản về tôi Tôi luôn tranh cãi với ngƣời khác Tôi tin là những người khác rất quý mến tôi Tôi cảm thấy rất dễ chịu nhất là khi ở một mình Trong nhóm tôi thích được mọi người nhận xét và khen ngợi tôi. Có vẻ như những người khác nghe và làm theo những gì tôi nói. Trong nhóm, tôi chờ ngƣời khác quyết định và hành động trƣớc. Ở trong nhóm, tôi cảm thấy cô đơn

ĐTB 2,40 2,37 2,61 2,99 2,64 2,44 2,20 2,33 2,41 2,66 2,48 1,97 2,29 2,08

0,82 0,96 0,87 0,97 1,02 1,01 0,95 0,99 0,90 1,09 1,06 0,92 0,97 1,06

ĐTBC

2,42

0,97

Nhìn tổng thể kết quả bảng trên cho thấy, các mệnh đề tích cực đƣợc đánh

giá cao hơn so với mệnh đề tiêu cực. Điều này chỉ ra rằng, học sinh THCS nghiện

113

internet đánh giá tích cực về xã hội hơn so với tiêu cực.

3.3.2.6. Tự đánh giá về tương lai

Cái Tôi tƣơng lai hay tự đánh giá về tƣơng lai là cá nhân xây dựng hình ảnh

bản thân trong tƣơng lai về công việc, về sức khoẻ, cuộc sống gia đình, sự thành

công hay thất bại trong cuộc sống...của bản thân mình.

Bảng 3.15. Tự đánh giá về tương lai của học sinh nghiện internet

ĐTB Đ C

2,13

1,08

Các ệ đề tự đá iá về tƣơ ai Sau này, nếu tôi không thành công trong cuộc sống gia đình, điều đó có nghĩa là tôi đã thất bại trong cuộc sống. Tôi sẽ cố gắng hết khả năng của mình để sau này làm được những việc lớn Điều duy nhất đáng kể trong cuộc đời tôi đó là có một công việc tốt Tôi né tránh nghĩ về những cái mà tôi sẽ làm sau này Tôi sẽ bất hạnh nếu nhƣ sau này tôi không có nhiều bạn bè ở bên cạnh. Ƣớc gì tôi vẫn cứ là trẻ con hoặc thiếu niên Tôi nghĩ rằng tôi sẽ thành công trong cuộc sống. Tôi nghĩ rằng, trong tương lai các con tôi sẽ tự hào về tôi. Tôi nghĩ rằng sau này nếu tôi ốm thì tôi sẽ không thể làm gì đƣợc nữa. Tôi nghĩ tôi sẽ luôn là một người bạn tốt. Tôi nghĩ là tôi luôn có khả năng để có được một công việc. Sau này tôi nghĩ tôi sẽ rất khoẻ mạnh.

ĐTBC

2,93 2,75 2,14 2,63 2,68 2,55 2,51 2,05 2,72 2,58 2,55 2,52

0,97 1,01 1,02 1,04 1,06 0,96 1,03 1,04 0,88 0,95 1,03 1,01

Số liệu từ bảng 3.15 cho thấy, điểm trung bình chung của toàn mệnh đề tự

đánh giá bản thân về khía cạnh tƣơng lai là 2,52 điểm, tƣơng đƣơng với mức cao.

Nhƣ vậy, học sinh THCS nghiện internet xây dựng hình ảnh bản thân trong tƣơng

lai về công việc, về sức khoẻ, cuộc sống gia đình, sự thành công hay thất bại trong

cuộc sống...của bản thân mình là khá cao. Các mệnh đề đƣợc học sinh THCS

nghiện internet lựa chọn có điểm trung bình cao nhất là: Tôi sẽ cố gắng hết khả

năng của mình để sau này làm được những việc lớn (ĐTB = 2,93); Tôi nghĩ tôi sẽ

luôn là một người bạn tốt (ĐTB = 2,72). Đây là các mệnh đề thể hiện cái nhìn tích

cực của cá nhân về tƣơng lai của bản thân. Trong khi đó, các mệnh đề thể hiện cái

nhìn tiêu cực của bản thân về tƣơng lai có điểm trung bình cao là: Điều duy nhất

đáng kể trong cuộc đời tôi đó là có một công việc tốt (ĐTB = 2,75), Ước gì tôi vẫn

cứ là trẻ con hoặc thiếu niên (ĐTB = 2,68). Nhìn một cách tổng thể, các mệnh đề

114

khía cạnh tích cực có điểm trung bình cao hơn so với các mệnh đề tiêu cực. Điều

này cho thấy, học sinh THCS nghiện internet đánh giá về bản thân ở khía cạnh

tƣơng lai tích cực hơn tiêu cực.

3.4. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGHIỆN INTERNET VÀ TỰ ĐÁNH GIÁ BẢN

THÂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI ĐỒNG NAI

3.4.1. Mối quan hệ giữa các mức độ nghiện internet và các khía cạnh tự đá

giá bản thân

Nhiều nghiên cứu trƣớc đó cho thấy, nghiện internet và tự đánh giá bản thân

có mối tƣơng quan thuận với nhau (Greenberg, Lewis&Dodd, 1999; Miller, 1990;

Richter, Brown & Mott, 1991; Kim& Davis, 2009; Ellison, Steinfield & Lampe,

2007; Steinfield, Ellison & Lampe, 2008), mối tƣơng quan này khá mạnh. Điều này

cho thấy, tự đánh giá bản thân có thể là yếu tố báo trƣớc mạnh mẽ của tình trạng

Nghiện internet mức độ nhẹ

r = 0,046 p = 0,564

r = -0,9606** p = 0,000

nghiện Internet hoặc ngƣợc lại.

r = -0,22** p = 0,05

Tự đánh giá bản thân

Nghiện internet mức độ vừa

r = - 0,212** p = 0,007

r= 0,162 p= 0,038*

Nghiện internet mức độ năng

r= 0,116 p= 0,141

Ghi chú: * p<0,05 (Có ý nghĩa về mặt thống kê)

Biểu đồ 3.14. Tương quan giữa tự đánh giá bản thân và các mức độ nghiện internet

Phân tích Pearson tại biểu đồ 3.14 cho thấy, không có sự tƣơng quan giữa

nghiện Internet mức độ nhẹ và vừa với tự đánh giá bản thân, đồng thời có tƣơng

quan thuận giữa tự đánh giá bản thân và nghiện internet mức độ nặng, nghĩa là tự

đánh giá bản thân thấp sẽ dẫn tới nghiện internet nặng ở mức thấp và ngƣợc lại, tuy

nhiên, mối tƣơng quan khá yếu (r <0,7). Kết quả này chỉ ra rằng chỉ có nghiện

115

Internet mức độ nặng mới có thể là nguy cơ của tự đánh giá bản thân thấp và ngƣợc

lại. Các nghiên cứu trƣớc đó chỉ chỉ ra mối tƣơng quan giữa nghiện Internet và tự

đánh giá bản thân chứ chƣa đi vào phân tích mối tƣơng quan giữa các mức độ

nghiện Internet với các khía cạnh của tự đánh giá bản thân. Trong nghiên cứu này,

chúng tôi đã đi vào phân tích đƣợc điều này.

Kết quả phân tích hồi quy đơn biến cũng cho thấy tự đánh giá bản thân là

yếu tố dự báo cho mức độ nghiện internet nặng một cách có ý nghĩa khi p < 0.05. Giá trị R2 cho thấy mức độ dự báo của của yếu tố này là khá thấp (R2 = 0.17), điều

này có nghĩa là tự đánh giá bản thân có thể dự báo 17% cho mức độ nghiện internet

nặng.

Biểu đồ 3.14 cũng cho thấy, các mức độ của tự đánh giá có mối tƣơng quan

nghịch với nhau. Tuy nhiên, chỉ có nghiện internet mức độ nghiện internet mức độ

nhẹ và vừa có mối tƣơng quan mạnh (r >0,7), còn nghiện internet mức độ nặng có

mối tƣơng quan rất yếu với mức nhẹ và vừa.

Một số nghiên cứu trƣớc đó cho thấy, nghiện Internet có tƣơng quan với tự

đánh giá bên trong cao và tự đánh giá bên ngoài thấp (Stefan Stieger and Christoph

Burger, 2010), tự đánh giá tổng quát, tự đánh giá xã hội, tự đánh giá gia đình, và

điểm tổng của tự đánh giá bản thân (Betül Aydm, Serkan Volkan Sari, 2011), tự

đánh giá về cơ thể và xã hội (Beatrix Koroncrai, 2013). Nhƣ vậy, các khía cạnh của

tự đánh giá bản thân có mối tƣơng quan với nghiện internet. Chính vì thế, ngoài

việc kiểm định tƣơng quan giữa tự đánh giá bản thân và các mức độ của nghiện

Internet, luận án còn kiểm định mối tƣơng quan giữa nghiện Internet và các khía

cạnh của tự đánh giá bản thân.

Kết quả nghiên cứu tại biểu đồ 3.15 cho thấy, có mối tƣơng quan nghịch giữa

mức độ nghiện internet với tự đánh giá gia đình (r = - 0,176, p = 0,024) và tự đánh

giá cảm xúc (r = - 0,157, p = 0,046). Theo đó, mức độ nghiện internet càng nặng thì

tự đánh giá gia đình và tự đánh giá cảm xúc càng thấp, tuy nhiên mối tƣơng quan

này là khá yếu (r < 0,3). Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của của

116

Stefan Stieger and Christoph Burger (2010) về khía cạnh tự đánh giá gia đình có

tƣơng quan với nghiện Internet, nhƣng không phù hợp ở khía cạnh tự đánh giá cảm

xúc có tƣơng quan với nghiện Internet.

r= - 0.176* p = 0,024

TĐG Xã hội

r= - 0.082 p = 0,292

TĐG Gia đình

r = - 0,022 p = 0,778

r= - 0,141 p = 0,072

TĐG Thể chất TĐG Tƣơng lai

r= - 0,177 p = 0,136

r= - 0,157* p = 0,046

Nghiện Internet của học sinh THCS

TĐG Cảm xúc TĐG Học đƣờng Ghi chú: * p<0,05 (Có ý nghĩa thống kê)

Biểu đồ 3.15. Tương quan giữa nghiện Internet và các mặt biểu hiện cái Tôi

Phỏng vấn học sinh T. H, nữ, 15 tuổi (lớp 9) “em sống trong gia đình có bố

là phó giám đốc ngân hàng, mẹ là giám đốc tài chính của công ty nước ngoài, hàng

ngày bố mẹ đi làm từ sáng sớm đến 7, 8 giờ tối. Bố mẹ dường như không quan tâm

gì đến em cả, ở trong nhà, em được đánh giá là ù lì, chậm chạp, nhất là gia đình

bên nội em thường có tư tưởng trọng nam khinh nữ nên rất coi thường em. Càng

ngày em càng chán và chỉ có Internet mới làm em vui vẻ”.

Học sinh B. K, nam, 14 tuổi, trƣờng THCS Tam Hiệp: “gần đây em luôn

cảm thấy chán nản, bi quan, hay nóng giận vô cớ, hay căng thẳng, em thường

cãi nhau với bố mẹ và em suốt ngày. Chỉ có ở một mình trên Internet mới làm em

thoải mái”.

Kết quả nghiên cứu này cho thấy, tự đánh giá bản thân về gia đình và tự đánh

giá về cảm xúc kém là yếu tố nguy cơ dẫn tới tình trạng nghiện Internet của học

sinh THCS và ngƣợc lại.

Kết quả phân tích ANOVA từ bảng 3.16 cho thấy, có mối liên hệ có ý nghĩa

117

thống kê giữa mức độ nghiện Internet với tự đánh giá gia đình (p = 0,048) và có

tƣơng quan nhẹ với tự đánh giá về cảm xúc (p = 0,066), kết quả phân tích này phù

hợp với kết quả nghiên cứu từ biểu đồ 3.15. Theo đó, những thiếu niên có mức độ

nghiện Internet ở mức nhẹ tự đánh giá gia đình cao hơn cả với ĐTB = 2,78, tiếp đó

là các thiếu niên nghiện internet ở mức vừa với ĐTB = 2,68. Cuối cùng, các thiếu

niên nghiện internet ở mức nặng tự đánh giá cái tôi gia đình thấp nhất với ĐTB =

2,35. Đồng thời, thiếu niên nghiện Internet mức độ nhẹ đánh giá về cảm xúc cao

nhất (ĐTB = 2,6894), sau đó đến thiếu niên nghiện Internet mức độ nặng (ĐTB =

2,6154) và cuối cùng là thiếu niên nghiện Internet mức vừa (ĐTB = 2,5668).

Bảng 3.16. So sánh về điểm trung bình giữa các mặt biểu hiện cái Tôi với các

mức độ nghiện internet

Các k ía cạ tự đá iá

Giá trị F-Test ANOVA

Tự đánh giá về Thể chất

Tự đánh giá về Cảm xúc

Tự đánh giá về Gia đình

Tự đánh giá về Học đƣờng

Tự đánh giá về Xã hội

Các ức độ iệ internet Nghiện Internet nhẹ Nghiện Internet vừa Nghiện Internet nặng Tổng Nghiện Internet nhẹ Nghiện Internet vừa Nghiện Internet nặng Tổng Nghiện Internet nhẹ Nghiện Internet vừa Nghiện Internet nặng Tổng Nghiện Internet nhẹ Nghiện Internet vừa Nghiện Internet nặng Tổng Nghiện Internet nhẹ Nghiện Internet vừa Nghiện Internet nặng Tổng Nghiện Internet nhẹ Nghiện Internet vừa Nghiện Internet nặng Tổng

ĐTB 2,67 2,66 2,61 2,66 2,68 2,56 2,61 2,62 2,78 2,67 2,34 2,71 2,53 2,48 2,35 2,50 2,59 2,56 2,45 2,57 2,65 2,60 2,44 2,62

Đ C 0,36 0,42 0,30 0,38 0,31 0,32 0,40 0,32 0,50 0,49 0,50 0,50 0,31 0,36 0,41 0,34 0,31 0,33 0,33 0,32 0,31 0,29 0,33 0,30

F(2,160) = 0.075, p = 0.928 F(2,160) = 2.762, p = 0.066* F(2,160) = 3.105, p = 0.048* F(2,160) = 1.241, p = 0.292 F(2,160) = 0.702, p = 0.497 F(2,160) = 1.928, p = 0.149

Tự đánh giá về Tƣơng lai Ghi chú: * p< 0,05 (có ý nghĩa thống kê)

118

Kết quả nghiên cứu tương quan giữa nghiện Internet và tự đánh giá bản thân

của học sinh THCS cho thấy: 1) Các mức độ nghiện internet ở học sinh THCS có

tương quan thuận với nhau, nhưng chỉ có mối tương quan giữa mức nhẹ và vừa là

mạnh còn tương quan giữa các mức độ khác khá yếu; 2) Tự đánh giá bản thân của

học sinh có mối tương quan thuận với nghiện Internet ở mức độ nặng; 3) Nghiện

Internet chỉ có tương quan với các khía cạnh tự đánh giá gia đình và tự đánh giá

cảm xúc của học sinh THCS. Các mức độ tương quan là khá yếu.

3.4.2. Tƣơ qua iữa các vấ đề t ực trạ iệ i ter et v tự đá iá

bả t của ọc si

3.4.2.1. Tự đánh giá bản thân với thời gian sử dụng trung bình một ngày

Kết quả kiểm định mối quan hệ giữa tự đánh giá bản thân và thời gian sử

dụng mạng trung bình một ngày của học sinh THCS nghiện Internet cho thấy không

có mối tƣơng quan giữa tự đánh giá bản thân và thời gian sử dụng Internet trung

bình một ngày của học sinh (r = 0,058, p = 0,462). Theo đó, tự đánh giá bản thân

kém không phải là yếu tố nguy cơ của tình trạng thời gian lên mạng nhiều của học

sinh THCS và ngƣợc lại.

3.4.2.2. Tự đánh giá bản thân với thời điểm sử dụng trong ngày

Kết quả kiểm định tƣơng quan giữa tự đánh giá bản thân và thời điểm sử

dụng Internet trong ngày của học sinh THCS nghiện Internet cũng cho thấy không

có mối tƣơng quan giữa tự đánh giá bản thân và tất cả các thời điểm sử dụng

Internet trong ngày (p> 0,05), chỉ có tại thời điểm từ 24h00 – 6h00 gần sát tƣơng

quan với tự đánh giá bản thân với mức ý nghĩa (p= 0,054). Theo đó, tự đánh giá bản

thân không phải là nhân tố báo trƣớc của thời điểm sử dụng internet của học sinh

THCS nghiện internet và ngƣợc lại. Tuy nhiên, tại thời điểm đêm khuya đến sáng

cần phải xem xét lại vì có thể có mối tƣơng quan giữa hai yếu tố này.

3.4.2.3. Tự đánh giá bản thân với việc sử dụng các ứng dụng của internet

Một số nhà nghiên cứu cho rằng tự đánh giá bản thân thấp có thể dẫn tới lo

âu xã hội, trầm cảm, cô đơn và các đặc trƣng tâm lý này là nguy cơ dẫn tới tình

119

trạng nghiện Internet của học sinh (Leary, Mac Donald, 2003; La Rose et al, 2003;

Stinson et al 2008; Tangney et al, 2004), các chức năng chủ yếu nghiện Internet là

tán gẫu, thƣ điện tử, và tƣơng tác trực tuyến,...(Caplan, 2003; Kubey, Lavin and

Barrows, 2001; Young and Rogers, 1998). Ở lứa tuổi học sinh THCS, các em

nghiện internet thƣờng sử dụng các ứng dụng liên quan đến chức năng tƣơng tác và

mở rộng mối quan hệ xã hội, trò chơi trực tuyến.

Ghi chú: * p< 0,05; ** p < 0,01 (có ý nghĩa thống kê)

Biều đồ 3.16. Tương quan giữa tự đánh giá bản thân và các ứng dụng mà học sinh

nghiện internet sử dụng

Kết quả kiểm định tại biểu đồ 3.16 cho thấy tự đánh giá bản thân có tƣơng

quan với các ứng dụng lƣớt website để đọc tin tức (p = 0,001), tìm kiếm tài liệu cho

học tập (p =0,000), sử dụng mạng xã hội (p = 0,048), xem các trang phim ngƣời lớn

(p = 0,002). Theo đó, học sinh THCS tự đánh giá bản thân thấp thƣờng có nguy cơ

nghiện các ứng dụng quá tải thông tin (lƣớt web để đọc tin tức), tìm kiếm tài liệu,

mạng xã hội và phim ngƣời lớn.

Các nghiên cứu của Emre Senol – Durak & Mithat Durak (2011) cũng cho

rằng tự đánh giá cảm xúc tƣơng quan với nghiện các ứng dụng quan hệ liên nhân

cách trên mạng, hay nghiên cứu của Trần Hữu Luyến, Bùi Thị Hồng Thái (2015) về

tƣơng quan giữa tự đánh giá bản thân và mạng xã hội, nghiên cứu của Chih – Hung

120

Ko và cộng sự (2003) về mối tƣơng quan thuận giữa tự đánh giá về gia đình và

nghiện Internet. Điều này cho thấy rằng, việc nghiện các ứng dụng riêng lẻ có thể

có tƣơng quan với các khía cạnh của tự đánh giá bản thân. Vì thế, đề tài tiến hành

kiểm định tƣơng quan giữa các ứng dụng sử dụng trên với các khía cạnh của tự

đánh giá bản thân.

Bảng 3.17. Tương quan giữa các ứng dụng của nghiện Internet và các khía cạnh

của tự đánh giá bản thân

ƣớt Web để đọc ti tức

Xem trang web ƣời ớ (trang sex)

Các k ía cạ của tự đá iá bả t Tự đá iá T ể c ất

Tự đá iá cả xúc Tự đá iá Gia đì Tự đá iá ọc đƣờ

r = -0,279(**) p = 0,00 r = -0,246(**) p = 0,002 r = -0,134 p = 0,089 r = -0,096 p = 0,223 r = -0,266(**) p = 0,001 r = -0,254(**) p = 0,01

Tì kiế t i iệu ọc tập ạ xã ội r = -0,161(*) p = 0,040 r = -0,074 p = 0,346 r = - 0,067 p =0,398 r = - 0,099 p = 0,209 r = -0,161(*) p = 0,041 r = -0,182(*) p = 0,020

r = -0,089 p = 0,257 r = -0,242(**) p = 0,002 r = -0,185(*) p =0,018 r = -0,229(**) p = 0,003 r = -0,177(*) p = 0,024 r = -0,200(*) p = 0,010

r = -0,139 p = 0,077 r = -0,196(*) p = 0,012 r = - 0,179(*) p = 0,022 r = - 0,200(*) p = 0,011 r = -0,215(**) p = 0,006 Tự đá iá Xã ội r = -0,270(**) Tự đá iá Tƣơ p = 0,000 lai Ghi chú: * p< 0,05; ** p < 0,01 (Có ý nghĩa thống kê)

Kết quả kiểm định tại bảng 3.17 cho thấy, ứng dụng lƣớt website để đọc tin

tức có tƣơng quan thuận với các khía cạnh tự đánh giá: Gia đình, xã hội, học đƣờng,

cảm xúc và tƣơng lai. Theo đó, học sinh tự đánh giá bản thân thấp về bản thân mình

trong mối quan hệ với gia đình, trong xã hội, ở môi trƣờng học đƣờng và có nhận

thức tiêu cực về các cảm xúc bản thân thƣờng nghiện ứng dụng lƣớt website để đọc

tin tức (quá tải thông tin) và ngƣợc lại. Điều bất ngờ là ứng dụng tìm kiếm thông

tin, tài liệu lại có tƣơng quan thuận với các khía cạnh của tự đánh giá : Xã hội, thể

chất, cảm xúc và tƣơng lai. Học sinh nghiện ứng dụng tìm kiếm tài liệu có tự đánh

giá về bản thân mình trong mối quan hệ xã hội, đánh giá về cơ thể của bản thân,

luôn có nhận thức cảm xúc tiêu cực bản thân và đánh giá về tƣơng lai của mình rất

thấp và ngƣợc lại. Ứng dụng mạng xã hội có tƣơng quan thuận với tự đánh giá xã

121

hội, thể chất và tƣơng lai. Ứng dụng xem phim website ngƣời lớn có tƣơng quan

thuận với các khía cạnh tự đánh giá: Gia đình, xã hội, học đƣờng, cảm xúc và tƣơng

lai. Theo đó, học sinh THCS có cái Tôi về gia đình thấp thƣờng nghiện các ứng

dụng lƣớt website để đọc tin tức và xem các trang phim sex, học sinh THCS có cái

Tôi về xã hội thấp thƣờng nghiện cả 4 ứng dụng trên: quá tải thông tin, tìm kiếm tài

liệu học tập, mạng xã hội và xem phim khiêu dâm. Học sinh THCS có cái Tôi về

thể chất thấp thƣờng nghiện ứng dụng tìm kiếm tài liệu và mạng xã hội. Học sinh

THCS có cái Tôi về học đƣờng thấp thƣờng nghiện các ứng dụng quá tải thông tin

và xem phim khiêu dâm, cái Tôi về cảm xúc thấp thƣờng nghiện các ứng dụng quá

tải thông tin, tìm kiếm tài liệu học tập và xem phim khiêu dâm, cái Tôi về tƣơng lai

thấp thƣờng nghiện cả 4 ứng dụng trên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở lứa tuổi học

sinh THCS cái Tôi về xã hội, và cái Tôi về tƣơng lai có ảnh hƣởng rất lớn đến vấn

đề hành vi của các em, trong đó có vấn đề nghiện Internet.

r = 0,317** p = 0,000

3.4.2.4.Hậu quả của nghiện internet với tự đánh giá bản thân

Hậu quả của nghiện internet Tự đánh giá bản thân

Ghi chú: * p< 0,05; ** p <0,01 (Có ý nghĩa thống kê)

Bảng 3.17. Tương quan chung giữa hậu quả của nghiện Internet và tự đánh giá bản

thân của học sinh

Nghiên cứu của Ayas, Balta, Horzum (2008), Tuncay Ayas và Mehmet Baris

(2010) khi cho rằng tự đánh giá bản thân thấp thƣờng dẫn tới nghiện internet với

các hậu quả nhƣ cô đơn, trầm cảm, lo âu. Eun Joo Kim (2008) cho rằng, tự đánh giá

bản thân thấp dẫn tới nghiện internet với các hậu quả nhƣ mối quan hệ xã hội kém

tích cực, stress, hành vi gây hấn, nhân cách tự yêu mình, kiểm soát bản thân kém, và

nghề nghiệp. Nghiên cứu của Bahadir Bozoglan, Veysel Demirer, Ismail Sahin

(2013) cho thấy tự đánh giá bản thân thấp có tƣơng quan với vấn đề quản lý thời

gian, những vấn đề quan hệ xã hội (liên nhân cách) và sức khỏe, với stress, sử dụng

122

các chất gây nghiện, lo âu xã hội, trầm cảm, cô đơn. Điều này đặt ra câu hỏi, ở học

sinh THCS tại Đồng Nai, có tƣơng quan giữa tự đánh giá bản thân và các yếu tố ảnh

hƣởng của nghiện internet hay không.

Kết quả kiểm định cho thấy, tự đánh giá bản thân có tƣơng quan thuận với

các yếu tố ảnh hƣởng của nghiện internet ở mức mạnh (r = 0,317**> 0,3), theo đó

tự đánh giá bản thân thấp thƣờng dẫn tới những biểu hiện tiêu cực của nghiện

internet và ngƣợc lại. Đồng thời, đề tài cũng kiểm định tƣơng quan giữa các khía

cảnh của tự đánh giá bản thân và các yếu tố ảnh hƣởng về sức khỏe, quan hệ xã hội,

thành tích học tập và an ninh cá nhân, sử dụng chất.

Ghi chú: * p< 0,05; ** p <0,01

Biểu đồ 3.18. Tương quan giữa tự đánh giá bản thân và các yếu tố gây hậu quả của

nghiện Internet ở học sinh

Kết quả nghiên cứu tại biểu đồ 3.18 cho thấy có tƣơng quan thuận giữa tự

đánh giá bản thân và ảnh hƣởng về sức khỏe và an ninh cá nhân, sử dụng chất của

học sinh THCS nghiện Internet. Theo đó, học sinh THCS có cái Tôi hay tự đánh giá

bản thân thấp thƣờng dẫn tới các hậu quả về sức khỏe, nhất là sức khỏe về tinh thần

và hậu quả về an ninh cá nhân, sử dụng chất liên quan đến nghiện Internet.

Kết quả tại biểu đồ 3.19 cũng cho thấy, các yếu tố hậu quả của nghiện

123

Internet có tƣơng quan với các khía cạnh tự đánh giá: Gia đình, xã hội, học đƣờng,

cảm xúc, tƣơng lai, chỉ riêng tự đánh giá thể chất không có mối tƣơng quan với hậu

quả của nghiện Internet. Theo đó, học sinh có cái Tôi về gia đình, xã hội, học

đƣờng, cảm xúc và tƣơng lai thấp thƣờng dẫn tới những hậu quả về sức khỏe, quan

hệ xã hội, thành tích học tập, an ninh cá nhân, sử dụng chất.

Kết quả phân tích thống kê cho thấy, các khía cạnh tự đánh giá bản thân về cảm xúc, xã hội, gia đình, học đƣờng và tƣơng lai có mối tƣơng quan ý nghĩa với các yếu tố ảnh hƣởng là vấn đề sức khỏe và an ninh cá nhân, sử dụng chất của học sinh THCS nghiện internet. Theo đó, học sinh THCS tự đánh giá thấp về bản thân về cảm xúc cá nhân, về mối quan hệ hay cảm nhận về bản thân trong gia đình, xã hội, về các hoạt động học tập, nhận thức, và đánh giá thấp về tƣơng lai của bản thân thƣờng có thể dẫn tới những hậu quả tiêu cực nhƣ vấn đề sức khỏe (cả tinh thần và thể chất), vấn đề an ninh cá nhân và sử dụng chất, và ngƣợc lại.

r= 0,253 p = 0,001**

r= - 0.264 p = 0,000**

TĐG Gia đình TĐG Xã hội

r = 0,124 p = 0,117

TĐG Thể chất TĐG Tương lai

r= 0,313 p = 0,000**

Yếu tố hậu quả của nghiện Internet

r= - 0,272 p = 0,000*

r= 0,261 p = 0,001**

(chung)

TĐG Cảm xúc TĐG học đường

Ghi chú: *p< 0,05; ** p <0,01 (Có ý nghĩa thống kê)

Biểu đồ 3.19. Tương quan giữa yếu tố hậu quả do nghiện internet và các mặt biểu

hiện của tự đánh giá bản thân

3.4.3. Tƣơ qua iữa biểu iệ về t của ọc si

Nghiên cứu sử dụng phép kiểm định Pearson để kiểm định mối tƣơng quan

giữa tự đánh giá bản thân và các biểu hiện tâm lý của học sinh THCS nghiện

internet. Kết quả kiểm định cho thấy tự đánh giá bản thân không có tƣơng quan với

các biểu hiện của nghiện internet của học sinh THCS tại Đồng Nai (p >0,05). Điều

đó chỉ ra rằng, mặc dù nghiện internet mức độ nặng có tƣơng quan với cái tự đánh

124

giá về gia đình và cái tự đánh giá về cảm xúc. Nhƣng tự đánh giá bản thân không có

mối quan hệ với những biểu hiện về tâm lý của cá nhân ngƣời nghiện (biểu hiện về

nhận thức, cảm xúc, và hành vi).

3.5. CÁC YẾU ẢNH HƢỞNG TỚI TÌNH TRẠNG NGHIỆN INTERNET CỦA

HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI ĐỒNG NAI

Có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hƣởng tới tình trạng nghiện internet của học

sinh THCS. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, nhận thức tiêu cực về cuộc sống là

nguyên nhân thúc đẩy ảnh hƣởng đến tình trạng nghiện internet (Davis, 2001;

Caplan, 2003), hay các khó khăn của cuộc sống cá nhân (Krant và cs, 1997; Young

&Rogers, 1997), ứng dụng trên internet thuật tiện, muốn khảng định bản thân, muốn

mở rộng quan hệ xã hội (Young, 1996),…

Trong nghiên cứu này, chúng tôi xác định 2 yếu tố ảnh hƣởng đến tình trạng

nghiện internet của học sinh THCS, đó là các yếu tố về phía chủ thể và các yếu tố

về phía khách quan. Các yếu tố chủ quan bao gồm việc các em mong muốn đƣợc

giao lƣu, học hỏi, mở rộng tri thức, hiểu biết xã hội, giải tỏa sự cô đơn,“cô lập” của

bạn bè, có nhiều thời gian rảnh rỗi, quên đi những khó khăn, thất bại trong cuộc

sống, …Các yếu tố khách quan bao gồm nguyên nhân từ phía các tiện ích của

internet và nguyên nhân từ việc các em không có một môi trƣờng xã hội tích cực.

Từ phân tích thống kê mô tả cho thấy, điểm trung bình chung của toàn thang

đo các yếu tố nguyên nhân/ ảnh hƣởng tới nghiện internet của học sinh THCS tại

Đồng Nai là 3,09, độ lệch chuẩn là 0,68, tƣơng đƣơng II,với việc ảnh hƣởng của các

yếu tố chủ quan, khách quan đến tình trạng nghiện internet của học sinh THCS ở

trung bình, và dƣờng nhƣ có ảnh hƣởng không nhiều đến tình trạng nghiện internet

ở các em. Kết quả nghiên cứu này cho thấy, với lứa tuổi học sinh THCS, nhất là

trong bối cảnh ở Đồng Nai, không có nhiều các yếu tố khách quan nhƣ việc thiếu

sân chơi, có nhiều thời gian rảnh rỗi, bị cô lập bởi bạn bè hay các yếu tố chủ quan

nhƣ khó khăn về cảm xúc, nhận thức tiêu cực ảnh hƣởng nhiều đến vấn đề nghiện

internet ở các em. Chúng tôi cho rằng, với đặc điểm là giai đoạn học sinh THCS,

125

các em bị kiểm soát bởi cha mẹ và nhà trƣờng khá nhiều nên việc có thời gian rảnh

rỗi là không nhiều, điều đó cũng cho thấy các em ít bị ảnh hƣởng bởi các yếu tố bên

ngoài khi không có thời gian và điều kiện để tiếp xúc.

Ngoài việc phân tích chung yếu tố ảnh hƣởng đến tình trạng nghiện internet

của học sinh THCS tại Đồng Nai, luận án cũng đi phân tích sâu từng yếu tố có ảnh

hƣởng nhƣ thế nào đến tình trạng nghiện internet ở các em. Đồng thời phân tích

tƣơng quan và hồi quy xem mức độ ảnh hƣởng của các yếu tố nhƣ thế nào lên tình

trạng nghiện internet.

3.5.1. Các yếu tố khách quan ả ƣởng tới nghiện internet của học sinh

Bảng 3. 18. Các nhân tố khách quan ảnh hưởng tới nghiện internet của học sinh

Các ếu tố

TT 1 2 3 4

ĐTB Đ C 0,68 3,07 0,49 3,25 0,65 3,04 0,51 3,37

5 6

2,93 3,25

0,91 0,65

Không có nhiều bạn trong lớp hay ở nhà Bị bạn bè cô lập Bạn bè rủ rê Sử dụng internet rất thuật tiện Gia đình thƣờng xảy ra mâu thuẫn căng thẳng (cãi nhau, đánh nhau) Bố mẹ hay chửi mắng Không có sân chơi lành mạnh trong cuộc sống thực (thể thao, xem phim, các hoạt động ngoại khóa) Áp lực trong việc học tập

7 8

ĐTBC

3,22 3,23 3,17

0,67 0,67 0,65

Kết quả phân tích thống kê mô tả tại bảng 3.18 cho thấy, điểm trung bình

chung của thang đo về yếu tố khách quan ảnh hƣởng tới tình trạng nghiện internet là

3,17 và độ lệch chuẩn là 0,65. Điểm trung bình này tƣơng đƣơng với điểm trung

bình ở mức 2, ở mức trung bình, các yếu tố đƣợc học sinh lựa chọn thỉnh thoảng

xuất hiện ở các em chứ không phải ở mức độ thƣờng xuyên. Điều này cho thấy, yếu

tố khách quan không phải là yếu tố ảnh hƣởng thƣờng xuyên và ảnh hƣởng nhiều

đến tình trạng nghiện internet ở học sinh THCS tại Đồng Nai. Trong các yếu tố

khách quan thì yếu tố “sử dụng internet rất thuật tiện” (ĐTB = 3,37), “Bị bạn bè

cô lập” và “Bố mẹ hay chửi mắng” (ĐTB = 3,25) có điểm trung bình cao hơn,

nghĩa là đƣợc các em lựa chọn ở mức thƣờng xuyên và rất thƣờng xuyên nhiều hơn.

Điều này chứng tỏ, việc internet đƣợc sử dụng thuật tiện hay vấn đề bị cô lập bởi

126

bạn bè ở trƣờng và vấn đề bị bố mẹ hay mắng chửi là những yếu tố quan trọng có

thể dẫn tới tình trạng nghiện internet ở học sinh THCS tại Đồng Nai. Trong khi đó

yếu tố “gia đình thƣờng xảy ra mâu thuẫn nhƣ cãi nhau hay mắng chửi nhau” (ĐTB

= 2,93, ĐLC = 0,91) đƣợc ít các em lựa chọn ở mức thƣờng xuyên và rất thƣờng

xuyên. Điều này cho thấy, đây là yếu tố ít có nguy cơ ảnh hƣởng đến tình trạng

nghiện internet của học sinh lứa tuổi THCS.

Qua quan sát, chúng tôi cũng nhận thấy rằng, việc đa phần các em có sử

dụng điện thoại thông minh, hoặc việc truy cập internet rất dễ dàng bằng máy tính ở

tiệm internet (đã đƣợc phân tích ở phần thực trạng) là những yếu tố thúc đẩy mạnh

mẽ của tình trạng nghiện. Hơn thế, ngày nay, internet càng phát triển mạnh mẽ với

các giao thức rất thông minh và đa dạng, dễ tiếp cận, thuận tiện để tìm kiếm thông

tin, các nội dung mà ngƣời sử dụng tìm kiếm là điều kiện để có thể là nguy cơ của

tình trạng nghiện. Phỏng vấn H.O cho rằng: “Em có một điện thoại màn hình cảm

ứng và có 3G (kết nối internet) nên lúc nào cũng có thể truy cập được, kể cả lúc

đang trong lớp, trước khi đi ngủ, đi xe buýt,… Vì thế em sử dụng internet bất kể lúc

nào […]. Internet rất thuật tiện vì truy cập hay tìm nội dung gì cũng có, cứ bí cái gì

là em lại tra trên google, bọn em có câu “dân ta phải biết sử ta, nếu mà không biết

thì tra google””.

Lứa tuổi học sinh THCS thì mối quan hệ với bạn bè là cực kỳ quan trọng,

chính vì thế, nhiều học sinh đã lựa chọn phƣơng án thƣờng xuyên và rất thƣờng

xuyên yếu tố bị bạn bè cô lập nhƣ là một yếu tố nguy cơ nghiện internet. Phỏng vấn

H. O cho rằng: “Ở lớp em rất buồn, bạn bè ít khi chơi với em vì cho rằng em dị biệt,

em chỉ có mỗi cô bạn mà toàn lợi dụng em. Vì thế, sử dụng internet rất thú vị vì quen biết nhiều người, không bị người ta đánh giá và được nói chuyện thỏa thích”. Mối quan hệ với bố mẹ cũng là vấn đề quan trọng trong lứa tuổi học sinh THCS, nhiều em cho rằng bị bố mẹ chửi mắng là yếu tố thƣờng xuyên ảnh hƣởng

tới tình trạng nghiện internet của các em. Tuy nhiên, các em cũng không lựa chọn nhiều yếu tố mâu thuẫn (cải nhau, đánh nhau) trong gia đình nhƣ yếu tố ảnh hƣởng đến tình trạng nghiện internet. Điều đó chứng tỏ các em quan tâm nhiều đến mối tƣơng tác của mình với bố mẹ hơn là quan tâm đến các mối quan hệ khác trong gia

đình, hay bầu không khí trong gia đình. Em M. Q cho rằng: “Em sợ nhất là bố mẹ

127

suốt ngày chửi mắng em là đồ ngu, đồ lười, vụng chẳng biết là gì, học thì dốt. Em

thấy chản nản quá, nhiều khi mẹ còn nói mày là đứa chẳng ra gì, cứ lười thế thì

chẳng có tương lai gì cả. Em thấy nản quá, vì vậy em thích sử dụng internet vì được

mọi người quan tâm, chai sẻ, lắng nghe”.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố khách quan ảnh hƣởng rất ít đến tình

trạng nghiện internet của học sinh THCS tại Đồng Nai. Trong đó, các yếu tố đƣợc

các em cho rằng thƣờng xuyên ảnh hƣởng hơn đến tình trạng nghiện internet là yếu

tố thuận lợi sử dụng và tìm kiếm thông tin của internet (yếu tố từ chính internet), bị

bạn bè cô lập và bị bố mẹ mắng chửi.

3.5.2. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng tới tình trạng nghiện internet của học sinh

Các yếu tố chủ quan ảnh hƣởng đến tình trạng nghiện internet của học sinh

THCS bao gồm các yếu tố về cá nhân các em. Đó là do đặc điểm tâm lý của lứa tuổi

muốn mở rộng quan hệ xã hội, giải tỏa những căng thẳng, áp lực từ cuộc sống, do

các em có nhiều thời gian rảnh rỗi, do các em thất bại trong học tập, …

Kết quả phân tích thống kê mô tả tại bảng 3.19

Bảng 3.19.Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng tới internet của học sinh

TT

Các ếu tố

1 Luôn buồn chán 2 Hay bị căng thẳng 3 Có nhiều thời gian rảnh nhƣng không biết làm gì 4 Hòa cùng trào lƣu của giới trẻ 5 Thất bại trong học tập

ĐTBC

ĐTB 2.71 3.03 3.14 3.08 2.86 2,96

Đ C 0.78 0.70 0.70 0.72 0.72 0,72

Kết quả phân tích tại bảng 3.19 cho thấy, điểm trung bình chung của toàn

thang đo về yếu tố chủ quan là 2,96 và độ lệch chuẩn là 0,72, tƣơng đƣơng với mức

II, các yếu tố chủ quan ảnh hƣởng ở mức thỉnh thoảng, trung bình đến tình trạng

nghiện internet của học sinh THCS tại Đồng Nai. Điều này cho thấy, các yếu tố chủ quan không ảnh hƣởng nhiều đến tình trạng nghiện internet ở các em. Xem xét với các yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan có điểm trung bình chung thấp hơn. Điều này cho thấy, mức ảnh hƣởng của yếu tố chủ quan không thƣờng xuyên bằng yếu tố khách quan. Chúng tôi cho rằng, ở lứa tuổi học sinh THCS các em bị ảnh hƣởng

128

nhiều bởi các yếu tố bên ngoài nhƣ mối quan hệ bạn bè, cha mẹ, áp lực học tập,… hơn là các yếu tố cá nhân nhƣ cảm xúc và nhận thức tiêu cực của bản thân.

Xem xét theo từng mệnh đề của yếu tố chủ quan cho thấy, các mệnh đề

“Không có sân chơi lành mạnh ngoài thực tế”, “Hòa cùng trào lưu của giới trẻ”,

“Hay bị căng thẳng” có điểm trung bình cao hơn so với các mệnh đề khác. Điều

này cho thấy, học sinh THCS tại Đồng Nai có nguy cơ nghiện internet bởi các em ít

có sân chơi lành mạnh ngoài thực tế nhƣ hoạt động ngoại khóa, thể thao,… Đồng

thời, các em dễ bị ảnh hƣởng bởi các nhóm bạn rủ rê, lôi kéo, các em dễ a dua sử

dụng internet nhƣ một mốt thời thƣợng, đây là đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi này.

Ngoài ra, các em hay bị căng thẳng, stress và điều này là nguy cơ của nghiện

internet.

Phỏng vấn M. A (nữ, 13 tuổi): “Em có biết chơi cái gì đâu, suốt ngày học

hành căng thẳng, chẳng có gì để giải trí cả nên sử dụng internet là bình thường. Em

thấy giờ đứa nào chẳng sử dụng internet, đứa nào chẳng facebook, đứa nào chẳng

chat chit,…”.

Tóm lại, các yếu tố chủ quan và khách quan ít ảnh hƣởng đến tình trạng

nghiện internet của học sinh THCS tại Đồng Nai. Các yếu tố cụ thể thƣờng xuất

hiện nhiều ở các em bao gồm: sự thuận tiện của internet, hay bị ba mẹ mắng chửi, bị

bạn bè cô lập, a dua theo trào lƣu, không có sân chơi lành mạnh và hay bị stress.

3.6. THAM VẤN TRƢỜNG HỢP NGHIỆN INTERNET THEO LIỆU PHÁP

TÂM LÝ THỨC-HÀNH VI

Trong khuôn khổ của luận án, nghiên cứu đã tiến thành tham vấn tâm lý theo

tiếp cận nhận thức – hành vi cho 02 trƣờng hợp học sinh THCS nghiện internet và

có tự đánh giá thấp bản thân nhằm xác định tính khả thi của biện pháp này. Kế

hoạch tham vấn đã đƣợc xây dựng trong chƣơng 2, kết quả đƣợc trình bày theo

dạng trƣờng hợp cụ thể.

3.6.1. Trƣờng hợp 1

Em N.T.N, giới Nữ, sinh năm 2001 (hiện 13 tuổi), học sinh lớp 7, trƣờng

THCS Tam Hiệp, Tp Biên Hoà, Đồng Nai, có bố là bác sĩ, giảng viên trƣờng Cao

đẳng y tế Đồng Nai, mẹ làm nghề buôn bán nhỏ, có một chị gái 26 tuổi là nhân viên

129

ngân hàng, anh trai là sinh viên của Trƣờng Đại học Bách khoa, cả hai anh chị đều

chƣa kết hôn. Gia đình không theo tôn giáo nào, có điều kiện kinh tế gia đình khá

ổn định, gia đình sống khá hạnh phúc.

- Phần chẩn đoán

Lý do đến tham vấn tâm lý.

Thân chủ đƣợc bố mẹ đƣa đến tham vấn tâm lý với các vấn đề sử dụng

internet quá mức, hay bỏ học, tụ tập đánh nhau, ăn mặc nhƣ con trai và rất ngỗ

nghịch. Thân chủ hay cãi lời cha mẹ, sống bất cần, về nhà thì không nói chuyện với

ai, chỉ ở một mình trong phòng nghe nhạc và sử dụng internet. Cách ngày đƣa đến

tham vấn (24/7/2014) khoảng 1 tháng, thân chủ đã có biểu hiện bỏ nhà đi bụi gần 1

tuần, sau đó tự về nhà nhƣng vẫn không nói chuyện với bố mẹ.

Những yếu tố văn hoá của thân chủ và gia đình

Gia đình thân chủ là một gia đình nề nếp, bố thân chủ là một bác sĩ, mẹ thân

chủ làm nghề buôn bán nhỏ tại nhà, chị gái hiện đang làm trong một ngân hàng lớn,

anh trai cũng đang là sinh viên của một trƣờng ĐH có tiếng tại Tp HCM. Điều kiện

kinh tế gia đình khá giả.

Khi làm việc với bố mẹ thân chủ, cả hai đều rất ngạc nhiên về sự thay đổi

của con gái mình. Hai ngƣời cho rằng, gia đình họ rất căn bản, cha mẹ, con cái yêu

thƣơng nhau, gƣơng mẫu.

Từ nhỏ thân chủ là một cô bé ngoan, lễ phép, học giỏi và đƣợc mọi ngƣời

trong gia đình rất cƣng chiều. Mẹ thân chủ cũng cho rằng thân chủ là cô bé sinh ra

ngoài ý muốn chứ không phải do mong muốn của hai vợ chồng.Sau này, cha mẹ

thân chủ cũng hay nhắc lại sự kiện này và đó là cơ sở để thân chủ luôn tin rằng

mình là con không mong muốn của cha mẹ, cha mẹ không coi trọng mình, không

yêu thương mình. Tiếp xúc ban đầu cho thấy thân chủ rất ngang tàng, lầm lỳ, ít nói,

tiếp xúc buổi đầu tiên với thân chủ là rất khó khăn. Qua cách chia sẻ của thân chủ cho

thấy, em cảm nhận là bố mẹ chẳng quan tâm gì đến em cả, luôn quá xa lạ, nghiêm

khắc, em cho rằng mình chẳng có vị trí gì trong gia đình cả. Trong gia đình, chị gái và

anh trai quá thành công, học giỏi, mọi ngƣời thƣờng nói tốt về hai ngƣời đó, còn thân

chủ thì luôn đƣợc lôi ra để so sánh với hai anh chị.

Nhận định ban đầu của nhà tham vấn về gia đình của thân chủ: đây là gia

130

đình khá nề nếp, gia giáo, có điều kiện kinh tế tốt, tuy nhiên các đặc điểm về cách

giáo dục hay sự kỳ vọng của cha mẹ, nhất là ngƣời cha dành cho con gái đã vô tình

tạo nên áp lực lớn đến thân chủ và làm cho thân chủ đánh giá bản thân mình rất

thấp, nhất là về gia đình, cảm xúc và tƣơng lai.

Bệnh sử

Thân chủ bắt đầu làm quen máy tính khi học lớp 6. Lúc đầu do chị gái dạy

em cách chơi một số trò chơi trên máy tính, rồi mở rộng chức năng sang sử dụng

Internet với các hình thức chat, trò chơi trực tuyến, đọc tin tức,... Dần dần, thân chủ

chủ động sử dụng internet ở nhà, ra tiệm. Lúc đầu, thân chủ chủ yếu tham gia các

forum, chat,… sau đó đƣợc mấy ngƣời bạn giới thiệu nên thân chủ tham gia vào trò

chơi trực tuyến (game Audition) và càng ngày càng cảm thấy cuốn hút bởi trò chơi.

Ngoài, chơi trò chơi trực tuyến thì trang mạng xã hội là facebook cũng là ứng dụng

mà hàng ngày thân chủ sử dụng. Hiện nay, mỗi ngày thân chủ dành khoảng 2 giờ

vào mạng Internet tại nhà, sau đó khoảng 4 giờ sử dụng Internet tại các điểm truy

cập và tham gia trò chơi trực tuyến (thời gian này là thời gian buổi sáng không phải

đến trƣờng hay thời gian thân chủ bỏ học để vào tiệm Internet). Trong thời gian chơi

game trực tuyến và tham gia forum, thân chủ làm quen và tham gia vào một diễn

đàn trực tuyến với các cô gái khoảng 15 – 20. Họ tự cho mình là những ngƣời đồng

giới nữ ( lessbian) và coi đó là mốt của thiếu nữ thời nay. Chính vì thế gần đây thân

chủ thƣờng xuyên bỏ nhà, bỏ học đi chơi với nhóm bạn đó trên mạng, đầu tóc thì

cắt ngắn và xƣng hô anh em nhƣ những cặp tình nhân. Gia đình thân chủ rất lo lắng

và không biết thân chủ đã có quan hệ đồng giới chƣa.

Cho đến gần 1 năm nay, thân chủ dƣờng nhƣ đắm mình trong mạng internet

với việc tham gia vào các trò chơi trực tuyến và mạng xã hội, các diễn đàn tán gẫu.

Em xa lánh dần gia đình, ít nói chuyện với mọi ngƣời, không tham gia các hoạt

động chung của gia đình, hay cáu gắt, bực dọc vô cớ, buồn chán, học kém và bỏ

học, bỏ nhà đi bụi.

Biểu hiện tâm lý

Thân chủ lầm lỳ, ít nói, tỏ ra bất hợp tác và khó khăn trong giao tiếp, hay ngó

131

lơ đi chỗ khác. Thân chủ cắt tóc ngắn, mặc quần jean, áo thun đến phòng tâm lý.

Cảm xúc buồn chán, mệt mỏi, hay cáu gắt, thƣờng tự nhận mình là đồng giới.

Thƣờng bỏ học sử dụng Internet tại tiệm công cộng. Nói dối gia đình về hành vi sử

dụng Internet của mình và nói dối gia đình xin tiền học thêm để lấy sử dụng Internet

và đi chơi với bạn bè.

Thăm khám và chẩn đoán

Qua thăm khám cho thấy thân chủ không có các biểu hiện của rối loạn cảm

xúc và khí sắc kèm theo mà đƣợc xác định là một trƣờng hợp rối loạn hành vi

chống đối xã hội. Nhà tham vấn nghi ngờ thân chủ có những vấn đề nổi bật nhƣ sử

dụng internet quá mức và tự đánh giá bản thân quá thấp, nguyên nhân chủ yếu là do

nhận thức sai lệch về những vấn đề của cuộc sống. Vì thế, nhà tham vấn sử dụng

các công cụ để đánh giá chính xác tình trạng của thân chủ:

Chẩn đoán tình trạng nghiện internet:

Trắc nghiệm nghiện internet của Young (IAT – Young, 1996): cho điểm là 73,

đủ điểm nghiện internet ở mức vừa phải.

Sử dụng bảng tiêu chuẩn chẩn đoán của Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ

(APA, 2013) cho thấy, thân chủ đủ 6 tiêu chuẩn, do đó xác định là một trƣờng hợp

nghiện internet.

Kết luận về tình trạng này, nhà tham vấn cho rằng thân chủ là một trường

hợp nghiện internet mức độ vừa.

Tự đánh giá bản thân của thân chủ.

Qua thăm khám và hỏi chuyện, nhà tham vấn nhận thấy thân chủ tự đánh giá

thấp bản thân mình, và đây là một vấn đề tâm lý có liên quan và có thể là ảnh hƣởng

đến tình trạng nghiện internet của thân chủ. Vì thế, nhà tham vấn đã sử dụng thang

đánh đo tự đánh giá E.T.E.S – V của Đại học Toulouse II, kết quả cho thấy, điểm

trung bình chung của toàn thang đo tự đánh giá của thân chủ là 1,63 , tƣơng ứng với

mức thấp. Xem xét thêm các khía cạnh của tự đánh giá cho thấy: Tự đánh giá thể

chất có điểm trung bình là 2,00, ở mức trung bình, tự đánh giá học đƣờng có điểm

trung bình là 1,75, ở mức trung bình, tự đánh giá xã hội có điểm trung bình 2,00, ở

mức cao, tự đánh giá cảm xúc co điểm trung bình 1,30, ở mức thấp, tự đánh giá về

132

gia đình có điểm trung bình là 1,34, ở mức thấp, và tự đánh giá về tƣơng lai có điểm

trung bình là 1,40, ở mức thấp. Như vậy, thân chủ đánh giá thấp bản thân nói chung

và từng khía cạnh: cảm xúc, gia đình và tương lai.

Tìm hiểu nguyên nhân tâm lý

Thân chủ đang ở giai đoạn phát triển tuổi dậy thì, đây là giai đoạn rất quan

trọng đối với sự phát triển tâm lý và nhân cách. Ở giai đoạn này, thiếu niên bắt đầu

phát triển tự ý thức một cách mạnh mẽ, muốn tự khảng định bản thân và bộc lộ bản

thân với mọi ngƣời. Đồng thời thanh thiếu niên có nhu cầu mở rộng mối quan hệ

rộng rãi, cùng với đó là sự phát triển tính dục rõ rệt.

Gia đình thân chủ là một gia đình nề nếp, ngăn nắp và nhƣ thân chủ chia sẻ

thì hơi “phong kiến”. Điều đó chính là một “vết rạn nứt” hay là nguyên nhân để phá

vỡ ranh giới của mối quan hệ. Chính vì thế mà thân chủ muốn thoát ra khỏi những

rào cản mà gia đình đã tạo lập nhiều năm qua.

Có hai vấn đề cốt lõi mà nhà tham vấn quan tâm nhƣ động lực tâm lý dẫn tới

những khó khăn của thân chủ. (1) Đó là việc thân chủ không phải là đứa con mong

muốn của bố mẹ. Mặc dù không bộc lộ điều này nhƣng thỉnh thoảng bố mẹ thân chủ

vẫn trêu đùa thân chủ hay nói chuyện vui với bạn bè, ngƣời thân. Điều này gây tổn

thƣơng cho thây chủ, nhất là giai đoạn khủng hoảng tuổi dậy thì. (2) Thân chủ tự

đánh giá về bản thân trong mối quan hệ gia đình là rất thấp. Đây cũng là giả thuyết

về niềm tin cốt lõi sai lệc, và là nguồn gốc của tình trạng hành vi ở thân chủ.

Thân chủ hoàn toàn không đƣợc trang bị các kỹ năng tâm lý – xã hội cần

thiết. Cha mẹ thân chủ chỉ suy nghĩ rằng ngoan ngoãn, học giỏi là “tiêu chuẩn vàng”

để đánh giá sự phát triển hay thành công. Kỹ năng sử dụng Internet hiệu quả, hiểu

biết về giới tính không có,... dần đẩy thân chủ vào tình trạng trên.

Phân tích các yếu tố tâm lý trên, nhà tham vấn tâm lý nhận định rằng chính

yếu tố có nhận thức sai lệch về vấn đề sự quan tâm, vị trí và vai trò của mình trong

gia đình chính là cốt lõi để dẫn tới các vấn đề cảm xúc, hành vi xã hội và mối quan

hệ của thân chủ mà tình trạng nghiện internet chỉ là một. Vì thế, chiến lƣợc can

thiệp chính là làm cho thân chủ thay đổi nhận thức và niềm tin sai lệch để từ đó có

thể thay đổi cảm xúc tiêu cực và hành vi chống đối của thân chủ.

- Can thiệp

133

Xác định nguồn lực

Nhà tham vấn xác định rằng gia đình chính là nguồn lực rất lớn trong chƣơng

trình can thiệp. Tuy nhiên, do thiết kế nghiên cứu không sử dụng liệu pháp tâm lý

gia đình (family therapy) vì thế nhà tham vấn chỉ khai thác và sử dụng các công cụ

của gia đình nhƣ một nguồn lực gián tiếp. Cụ thể, chúng tôi trao đổi với gia đình để

cùng thay đổi nhận thức của mọi ngƣời, từ đó tác động vào nhận thức của thân chủ.

Đặc điểm tâm lý giai đoạn này rất dễ thay đổi, vì vậy đây là một nguồn lực

rất quan trọng. Đồng thời xác định những khó khăn tâm lý của thân chủ là nhất thời

và xuất hiện trong giai đoạn dậy thì, thời gian xuất hiện mới và gần, do đó việc cải

thiện vấn đề sẽ rất tốt.

Chiến lược trị liệu

Mục tiêu trị liệu: Chúng tôi xác định 2 mục tiêu chính

Với thân chủ: Thân chủ thay đổi nhận thức sai lệch về vấn đề liên quan đến

vị trí của bản thân trong gia đình, sự quan tâm, tình yêu thƣơng của gia đình dành

cho em. Tự đó thay đổi cảm xúc và dẫn tới thay đổi hành vi theo hƣớng tích cực.

Với gia đình thân chủ: Cần cải thiện những khó khăn trong mối quan hệ, thay

đổi nhận thức để gia đình lành mạnh hơn.

Hướng trị liệu: Theo thiết kế nghiên cứu và để đảm bảo cho tính khách quan

của chƣơng trình, chúng tôi chỉ sử dụng liệu pháp Nhận thức hành vi. Thiết kế

nghiên cứu đƣợc trình bày ở phần tổ chức thực hiện nghiên cứu.

- Kết quả: Sau chƣơng trình tham vấn, khi đánh giá lại vấn đề của thân chủ cho thấy

các kết quả sau:

+ Test IAT Young: 29 điểm (dƣới ngƣỡng là 30 điểm).

+ Thang đo tự đánh giá:

Điểm trung bình cụ thể các khía cạnh:Thể chất: 2,52; Xã hội: 3,00; Cảm xúc:

2,97; Gia đình: 2,78; Học đƣờng: 2,67; Tƣơng lai: 3,12.

Điểm trung bình của toàn thang đo tự đánh giá: 2,84.

Kết quả này cho thấy, thân chủ đã không còn dấu hiệu của nghiện internet,

đồng thời tự đánh giá bản thân ở mức cao, các tiểu thang đo ở tất cả các khía cạnh

tự đánh giá cũng có điểm số trung bình ở mức cao.

3.6.2. Trƣờ ợp 2

Em N.P.T.V, Nam giới, sinh năm 2000 (14 tuổi), hiện đang là học sinh lớp 8

134

của trƣờng THCS Song Ngữ Lạc Hồng, Tp Biên Hoà, Đồng Nai. Em có bố 42 tuổi,

hiện đang thất nghiệp, mẹ 32 tuổi, làm nghề buôn bán nhỏ. Em có một em gái nuôi

3 tuổi, gia đình theo đạo công giáo.

- Phần chẩn đoán

Lý do đến khám: Mẹ thân chủ đƣa thân chủ đến phòng tham vấn với biểu

hiện hay mệt mỏi, căng thẳng, cáu gắt vô cớ, trốn học, lƣời vận động. Mẹ thân chủ

cho rằng, các biểu hiện này là khá lâu và càng ngày càng gia tăng. Chính bản thân

bà cũng nhận định “Chắc có lẽ gia đình chẳng ra sao nên nó mới thế”. Bà cho

rằng, mình chỉ có mỗi đứa con và là hy vọng cuối cùng của bản thân nên chỉ mong

con tốt lên. Cuộc đời của bà đã chán lắm rồi!

Làm việc với thân chủ cho thấy, thân chủ không tỏ ra có đồng ý hay không

với quyết định của mẹ đƣa mình đi tham vấn tâm lý. Nhƣng thân chủ cho rằng mình

chẳng có vấn đề gì để phải điều trị cả, nhƣng vì mẹ bắt đi nên phải đi.

Suốt buổi thăm khám đầu tiên, thân chủ rất ít nói, chỉ ngồi nghe mẹ nói

chuyện với nhà tham vấn. Thỉnh thoảng có trả lời khi nhà tham vấn hỏi đến vấn đề

hay tình trạng của mình.

Những yếu tố văn hoá của thân chủ và gia đình

Thân chủ sinh ra trong gia đình thiên chúa giáo, ba thất nghiệp, mẹ làm buôn

bán nhỏ. Mẹ thân chủ chia sẻ lấy bố thân chủ khi còn rất trẻ, lúc đó chƣa tốt nghiệp

THPT, bố thân chủ lúc đó đang là công nhân tại một công ty xây dựng. Gia đình mẹ

thân chủ rất phản đối nhƣng mẹ thân chủ nhất quyết lấy bố thân chủ. Lý giải cho

chuyện hôn nhân của mình, mẹ thân chủ cho rằng lúc đó mình chƣa có hiểu biết

nhiều, cũng chẳng biết có yêu bố thân chủ không, nhƣng chỉ biết lúc đó muốn thoát

khỏi sự khó khăn, muốn thoát khỏi sự kềm chế của gia đình.

Lấy nhau về một thời gian thì mẹ thân chủ sinh thân chủ. Thời gian đầu mẹ

thân chủ ở nhà nội trợ còn bố thân chủ đi làm công nhân nuôi cả gia đình. Tình

trạng gia đình rất khó khăn.

Cách khoảng 5 năm trƣớc thì công ty của bố thân chủ phá sản, bố thân chủ

thất nghiệp ở nhà chạy xe ôm. Thời gian đầu cũng tu chí làm ăn, nhƣng càng ngày

bố thân chủ càng rƣợu chè, cờ bạc. Đến cách gần 4 năm trƣớc thì bỏ việc ở nhà,

không làm gì cả. Mẹ thân chủ cho rằng, bố thân chủ có vấn đề về sức khoẻ tâm thần

135

do sử dụng rƣợu quá mức.

Cùng thời điểm bố thân chủ thất nghiệp thì gia đình nhà mẹ thân chủ định cƣ

tại Hoa Kỳ. Các cậu thân chủ cho mẹ mƣợn tiền mở tiệm tạp hoá, cuộc sống của gia

đình cũng dần khá hơn.

Bố mẹ thân chủ bất hoà từ khá lâu, trƣớc thời gian bố thân chủ thất nghiệp.

Cũng khoảng 6 năm, mẹ thân chủ cho rằng hai vợ chồng không có quan hệ tình dục

và ít có sợi dây ràng buộc tình cảm. Bố thân chủ hay nhậu nhẹt, cờ bạc, đánh mắng

vợ con. Cuộc sống gia đình thân chủ rất khó khăn.

Cách đây 3 năm, mẹ thân chủ nhận nuôi 1 em gái. Lý giải cho chuyện này

mẹ thân chủ cho rằng muốn có thêm con gái nhƣng sợ bố thân chủ rƣợu chè, có con

sẽ rất khó khăn. Việc ly dị của bố mẹ đã đặt ra nhiều lần nhƣng không thành bởi gia

đình theo công giáo, đó là điều cấm kỵ.

Bệnh sử

Các biểu hiện của thân chủ nhƣ hay buồn chán, cáu gắt vô cớ, mệt mỏi và

thờ ơ với mới hoạt động xã hội đã xuất hiện khoảng 6 tháng nay. Cách đây 3 tháng,

thân chủ có một lần bỏ học và sau đó thì cƣờng độ bỏ học để đi chơi với bạn nhiều

hơn. Đó chính là lý do mà mẹ thân chủ muốn đƣa thân chủ đi tham vấn tâm lý.

Khai thác sâu hơn cho thấy, thân chủ sử dụng Internet quá mức, hiện nay

thƣờng sử dụng 5 hoặc hơn 5 giờ/ ngày. Thời gian đầu, thân chủ sử dụng Internet

theo sự rủ rê của bạn bè hàng xóm, các chức năng sử dụng Internet lúc đầu chỉ là

chat, trò chơi trực tuyến. Dần dần thân chủ chủ động sử dụng Internet với các chức

năng mở rộng hơn nhƣ chat, website khiêu dâm, trò chơi trực tuyến. Đồng thời, thân

chủ có những biểu hiện khó khăn về cảm xúc và hành vi giai đoạn thanh thiếu niên

nhƣ hay bực bội, cáu gắt, tỏ ra mệt mỏi, chán nản, trốn học nhiều lần, ăn trộm tiền

của mẹ. Khai thác sâu hơn cho thấy thân chủ có hành vi thủ dâm quá nhiều từ cách

đây hơn 1 năm. Thời gian gần đây, một ngày thân chủ thƣờng thủ dâm đến 2 lần.

Xem xét bệnh sử của thân chủ có thể thấy mấy vấn đề nổi bật: có vấn đề khó

khăn về cảm xúc và khí sắc, có vấn đề lạm dụng internet, có vấn đề thủ dâm. Đây là

ba vấn đề cần xem xét, nhƣng nhà tham vấn cho rằng hai vấn đề đầu tiên là quan

136

trọng nhất vì vấn đề sau chỉ là hệ quả của hai vấn đề trƣớc mà thôi.

Thăm khám và chẩn đoán

Với những vấn đề đƣợc xác định ở phần bệnh sử, nhà tham vấn sử dụng các

công cụ để đánh giá tình trạng của thân chủ:

Đánh giá tình trạng khó khăn về cảm xúc và khí sắc: Sử dụng trắc nghiệm

đánh giá trầm cảm của Beck, kết quả cho thấy thân chủ đạt ở mức 15 điểm, chƣa đủ

để chẩn đoán rối loạn trầm cảm.

Đánh giá tình trạng nghiện internet của thân chủ: Sử dụng trắc nghiệm

nghiện internet của Young. Kết quả cho thấy test IAT có điểm số 77, đồng thời

thông qua bảng tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện Internet, thân chủ được xác định là

một tình trạng nghiện Internet. Vấn đề về rối loạn cảm xúc chƣa đƣợc ghi nhận nhƣ

một chẩn đoán.

Đồng thời, nhà tham vấn sử dụng công cụ là thang đo tự đánh giá E.T.E.S –

V của Đại học Toulouse II, kết quả cho thấy, điểm trung bình chung của toàn thang

đo tự đánh giá của thân chủ là 1,55, tƣơng ứng với mức thấp. Xem xét thêm các

khía cạnh của tự đánh giá cho thấy: Tự đánh giá thể chất có điểm trung bình là 1,56,

ở mức thấp, tự đánh giá học đƣờng có điểm trung bình là 1,62, ở mức thấp, tự đánh

giá xã hội có điểm trung bình 2,00, ở mức cao, tự đánh giá cảm xúc có điểm trung

bình 1,35, ở mức thấp, tự đánh giá về gia đình có điểm trung bình là 1,23, ở mức

thấp, và tự đánh giá về tƣơng lai có điểm trung bình là 1,51, ở mức thấp. Như vậy,

thân chủ đánh giá thấp bản thân nói chung ở tất cả các khía cạnh, trừ khía cạnh xã

hội ở mức trung bình.

Tìm hiểu nguyên nhân tâm lý

Sự phát triển và đặc trƣng tâm sinh lý ở giai đoạn dậy thì là nguyên nhân

khách quan cho tình trạng nghiện Internet ở thân chủ. Vấn đề ở đây là sự tò mò về

giới tính cộng với đặc trƣng phát dục dẫn tới những hấp dẩn vào môi trƣờng

Internet rất phong phú về hình ảnh và trang website khiêu dâm. Đồng thời khi sử

dụng Internet nhƣ là cách để thân chủ mở rộng mối quan hệ mà thân chủ rất nhút

nhát và không có trong cuộc sống thực.

Cuộc sống gia đình thân chủ rất khó khăn, thân chủ thƣờng bị bố bạo hành.

Bất hoà trong cuộc sống gia đình làm thân chủ chán nản, ít chia sẻ với ngƣời khác,

điều đó có thể hiểu tại sao thân chủ thu rút vào thế giới Internet nhƣ một cách chia

137

sẻ và bộc lộ bản thân. Khai thác sâu hơn cho thấy, thân chủ tự đánh giá về cảm xúc

bản thân rất tiêu cực, luôn cho rằng mình rất bi quan, chán nản, luôn buồn chán và

chẳng thiết gì cả. Áp lực trong mối quan hệ gia đình cũng là tình trạng căng thẳng

của thân chủ.

Ở ngoài cuộc sống thực, thân chủ là một cậu bé yếu đuối, lầm lỳ, ít nói, ngại

giao tiếp. Khi vào thế giới ảo, điều đó nhƣ đƣợc cởi trói và thân chủ dễ dàng thể

hiện mình nhƣ một ngƣời mạnh mẽ, năng động,... Điều này cho thấy, thân chủ có

yếu tố nội tâm khó khăn, tính cách bị dồn nén, ít đƣợc bộc lộ.

- Can thiệp

Xác định nguồn lực

Xác định ngƣời mẹ nhƣ một nguồn lực rất lớn cho chƣơng trình can thiệp.

Do đó nhà tham vấn đã nhiều lần làm việc với mẹ thân chủ để cùng giúp thân chủ

cải thiện tình trạng của thân chủ. Đồng thời, cho rằng bố thân chủ cũng còn có

nhiều yếu tố có thể tác động, vì thế nhà tham vấn cũng đã hẹn lịch và làm việc với

bố thân chủ nhiều lần. Sự tác động có thay đổi rõ rệt, bố thân chủ đã dành thời gian

cho gia đình hơn, tự động cai rƣợu và phụ giúp gia đình trong việc đi lấy hàng về

bán, đƣa đón con cái đi học,...

Đặc điểm tâm lý giai đoạn này rất dễ thay đổi, vì vậy đây là một nguồn lực rất

quan trọng. Vấn đề tự đánh giá kém bản thân trong cảm xúc, mối quan hệ gia đình.

Nhất là luôn tự ti, suy nghĩ sai lệch về định hƣớng giá trị của cuộc sống làm cho thân

chủ rơi vào những khó khăn, cả về cảm xúc và hành vi. Chính vì thế, việc xác định rõ

đƣợc tình trạng của thân chủ là cơ sở xây dựng chiến lƣợc tham vấn tích cực.

Chiến lược trị liệu

Mục tiêu trị liệu: Cũng nhƣ trƣờng hợp trên, nhà tham vấn cho rằng chƣơng

trình can thiệp cần xác định 2 mục tiêu:

Mục tiêu ngắn: Cải thiện tình trạng của thân chủ về vấn đề nghiện Internet,

khó khăn cảm xúc, học tập, thói quen thủ dâm.

Mục tiêu dài hạn:Giúp thân chủ nhận thức rõ bản thân trong định hƣớng phát

triển lâu dài. Đồng thời, tái cấu trúc mối quan hệ trong gia đình thân chủ. Việc này

là cực kỳ khó và quả thật trong chƣơng trình can thiệp nhà tham vấn không thành

138

công với mục tiêu này.

Hướng trị liệu: Theo thiết kế nghiên cứu và để đảm bảo cho tính khách quan

của chƣơng trình, nhà tham vấn chỉ sử dụng Liệu pháp Nhận thức hành vi. Thiết kế

nghiên cứu đƣợc trình bày ở phần tổ chức thực hiện nghiên cứu.

- Kết quả: Sau thời gian can thiệp bằng CBT, nhà tham vấn đánh giá thân chủ

không còn tình trạng nghiện Internet theo bảng tiêu chuẩn chẩn đoán và tình trạng

tự đánh giá bản thân đƣợc nâng cao. Các chỉ số đƣợc đánh giá bao gồm:

+ Điểm số thông qua test IAT chỉ còn ở mức 27 (dƣới ngƣỡng thấp nhất là

30). Các tiêu chuẩn chẩn đoán còn 2 tiêu chuẩn nhƣng cũng mờ nhạt không xác

định chính xác.

+ Đánh giá tự đánh giá bản thân:

Điểm trung bình cụ thể các khía cạnh: Thể chất: 2,55; Xã hội: 3,20; Cảm

xúc: 2,87; Gia đình: 2,88; Học đƣờng: 2,63; Tƣơng lai: 3,05.

Điểm trung bình của toàn thang đo tự đánh giá: 2,86.

Kết quả này cho thấy, thân chủ đã không còn dấu hiệu của nghiện internet,

đồng thời tự đánh giá bản thân ở mức cao, các tiểu thang đo ở tất cả các khía cạnh

tự đánh giá cũng có điểm số trung bình ở mức cao.

3.7. ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP GIẢM TÌNH TRẠNG NGHIỆN INTERNET VÀ

NÂNG CAO TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA HỌC SINH THCS

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và mức độ, biểu hiện internet, mối quan hệ

giữa nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học sinh THCS tại Đồng Nai,

nghiên cứu đề xuất các biện pháp giảm tình trạng nghiện internet và nâng cao tự

đánh giá bản thân của học sinh THCS. Các biện pháp này chủ yếu tập trung vào

chƣơng trình phòng ngừa, chƣơng trình can thiệp khá ít vì chúng tôi cho rằng việc

nâng cao tự đánh giá từ đó phòng ngừa tình trạng nghiện internet là rất quan trọng.

3.7.1. Nâng cao ý thức trách nhiệm của gia đình trong phát huy tự đánh giá bản

thân và giảm nghiện internet ở học sinh THCS

 Mục đích tác động

Việc nâng cao vai trò của gia đình, đặc biệt là giúp gia đình có định hƣớng

giá trị, cha mẹ rèn luyện các kỹ năng giáo dục con cái giúp gia đình có đời sống tâm

lý tích cực, từ đó giúp trẻ tự đánh giá bản thân tích cực, phòng ngừa với tình trạng

nghiện internet nói riêng và các vấn đề hành vi khác nói chung.

139

 Nội dung tác động

Các nội dung đề xuất có thể bao gồm:

- Xây dựng cuộc hôn nhân bền vững (dành cho cha mẹ để có đời sống hôn

nhân hạnh phúc), điều này là rất quan trọng, vì chúng tôi cho rằng quan hệ cha mẹ

con cái là cái gốc cơ bản của một gia đình lành mạnh, nếu mối quan hệ này trục trặc

thì thƣờng dẫn tới những khó khăn cho các thành viên khác, nhất là con cái.

- Các phƣơng pháp giáo dục con cái và mối quan hệ cha mẹ - con cái tích

cực. Chúng tôi đã triển khai chƣơng trình “Hiểu để yêu thƣơng con” đã mang lại

hiệu quả rất tích cực và giúp cho trẻ phát triển rất lành mạnh.

- Hiểu thế nào là internet, nghiện internet để từ đó giúp con cái sử dụng

internet lành mạnh.

 Phương pháp tác động

Chúng tôi đề xuất các biện pháp:

- Tổ chức các khóa tập huấn, hay hội thảo dành cho cha mẹ có con trong tuổi

học sinh THCS trở xuống.

- Sử dụng các phƣơng tiện truyền thông để có thể truyền tải nội dung này bao

gồm báo chí, đài truyền hình, phát thanh, sách, tờ rơi,...

3.7.2. Rèn luyện các kỹ năng tâm lý xã hội giúp học sinh nâng cao lòng tự trọng và

có kỹ năng ứng phó với nghiện Internet.

 Mục đích của tác động

Việc giúp các em có kỹ năng tâm lý xã hội tích cực rất quan trọng trong việc

nâng cao lòng tự trọng và phòng ngừa tình trạng nghiện internet ở thiếu niên.

 Nội dung tác động.

Những nghiên cứu về kỹ năng sống thƣờng thống nhất ở việc nêu ra những kỹ

năng có tính cốt lõi nhƣ sau: Kỹ năng đƣa ra quyết định (decision making); Kỹ năng

giải quyết vấn đề (problem solving); Kỹ năng giao tiếp hiệu quả (effective

communication); Kỹ năng tạo dựng quan hệ liên nhân (interpersonal relationship

skills); Kỹ năng tự nhận thức (self-awareness); Khả năng cảm thông chia sẻ (Ability

to empathise); Kỹ năng chống đỡ cảm xúc (coping with emotions); Khả năng đối phó

những căng thẳng (coping with stressors); Đây chính là các nội dung cần tác động

vào thiếu niên để nâng cao lòng tự trọng và phòng ngừa nghiện internet ở các em.

 Phương pháp tác động

140

- Tổ chức các khóa tập huấn cho học sinh.

- Tổ chức các câu lạc bộ Kỹ năng sống trong trƣờng học, điều này giúp các

em rèn luyện các kỹ năng một cách thƣờng xuyên và hiệu quả.

- Giúp bố mẹ có hiểu biết và ý thức trách nhiệm về việc rèn luyện kỹ năng

tâm lý xã hội cho con cái của họ thông qua các buổi sinh hoạt tại nhà, phƣơng pháp

giáo dục con cái của họ. Hỗ trợ cha mẹ bằng các hội thảo, hay tài liệu phát tay là

các hình thức phù hợp.

- Sử dụng chính internet trong việc xây dựng các trang mạng xã hội rèn

luyện các kỹ năng sống cho lứa tuổi học sinh.

3.7.3. Nâng cao khả năng nhận biết sớm các dấu hiệu nghiện Internet, đồng thời

huấn luyện các kỹ năng phòng ngừa nghiện Internet ở học sinh THCS.

 Mục đích tác động

Việc giúp phòng ngừa với đa số thiếu niên sử dụng internet, nhất là nhóm

nghiện nhẹ và vừa là cực kỳ cần thiết. Để làm đƣợc điều này thì cần cung cấp cho

cả cha mẹ, các em, giáo viên những dấu hiệu nhận biết sớm và huấn luyện chính các

em, cha mẹ phƣơng pháp phòng ngừa nghiện internet.

 Nội dung tác động

Nội dung tác động bao gồm hai vấn đề lớn:

- Các dấu hiệu, biểu hiện, hậu quả và các khó khăn tâm lý hay cuộc sống của

cá nhân nghiện internet, nhất là lứa tuổi thiếu niên.

- Các kỹ năng sử dụng internet lành mạnh, tập trung vào việc làm thế nào để

sử dụng internet an toàn cho cá nhân thông qua việc sử dụng các ứng dụng nào, thời

gian sử dụng internet một ngày, việc cung cấp tài khoản, thông tin cá nhân trên

internet ra sao,...

 Phương pháp tác động

Với phụ huynh, việc triển khai các buổi hội thảo, tập huấn hay sách loại nhỏ,

các bài báo và tờ rơi là cần thiết và phù hợp.

Với giáo viên và học sinh, cần phải đƣa nội dung này vào chƣơng trình tích

hợp để huấn luyện trong các câu lạc bộ hay các buổi sinh hoạt ngoại khóa tại nhà

trƣờng. Cũng có thể thiết kế các tờ rơi ở trƣờng, tổ chức các buổi nói chuyện

141

chuyên đề dành cho các em và giáo viên.

3.7.4. Tổ chức tham vấn tâm lý trợ giúp học sinh nâng cao lòng tự trọng và giảm

nghiện Internet ở các em.

 Mục đích tác động

Tham vấn hay trị liệu tâm lý là biện pháp tác động can thiệp khi mà thiếu

niên có vấn đề khó khăn, và khi đã có những biểu hiện của nghiện internet. Liệu

pháp tâm lý giúp thiếu niên nâng cao lòng tự trọng và giảm mức độ nghiện internet.

 Nội dung tác động

Tùy vào cách tiếp cận tham vấn mà có nội dung tác động phù hợp. Mục đích

của tham vấn là không phải tác động bên ngoài làm cho cá nhân thay đổi mà giúp

cho cá nhân tự nhận thức vấn đề có nguồn lực để thay đổi tích cực. Tuy nhiên, nội

dung chính và là mục đích của tham vấn – trị liệu tâm lý là tập trung nâng cao lòng

tự trong của thiếu niên và từ đó giảm nghiện internet ở các em.

 Phương pháp tác động

Có nhiều tiếp cận tham vấn – trị liệu tâm lý khác nhau nhƣ tiếp cận phân

tâm, tiếp cận nhận thức – hành vi, tiếp cận trị liệu gia đình, tiếp cận trị liệu nhân vân

hiện sinh (nhƣ Thân chủ trọng tâm hay Gestatl,…), trị liệu chiết trung. Tuy nhiên,

xem xét lại các nghiên cứu cho thấy các tiếp cận có hiệu quả và đã ứng dụng mạnh

mẽ trong trị liệu cho thân chủ nghiện internet bao gồm: Nhận thức – hành vi, Trị

142

liệu gia đình và Trị liệu nhóm.

Tiểu kết c ƣơ 3

Nghiên cứu thực tiễn tại chƣơng 3 đã giải quyết đƣợc câu hỏi nghiên cứu và

mục tiêu nghiên cứu đã đƣợc đề tài đặt ra. Kết quả nghiên cứu cho thấy một bức

tranh chung về thực trạng sử dụng internet của học sinh THCS nghiện internet tại

Đồng Nai. Đa số các em bắt đầu sử dụng internet khi ở lứa tuổi tiểu học, sử dụng

internet chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu về tâm lý lứa tuổi các em, thời gian trung bình

sử dụng một ngày khoảng 1 -3 giờ, sử dụng internet vào buổi tối, thƣờng giải trí,

vào mạng xã hội và trò chơi trực tuyến khi truy cập, thƣờng sử dụng máy tính để

bàn và điện thoại di động khi truy cập. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, nghiện

internet của học sinh THCS tại Đồng Nai có mức độ khá cao và các em nghiện

internet chủ yếu ở mức nhẹ và vừa. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ

nghiện internet theo các biến số: giới tính (chỉ ở nghiện internet mức độ nặng);

thành tích học tập (chỉ ở nghiện internet mức độ vừa); khối trƣờng dân lập/ công lập

(nghiện internet mức độ nặng). Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, tình trạng nghiện

internet ảnh hƣởng không nhiều đến sức khỏe, quan hệ xã hội và thành tích học tập,

an ninh cá nhân và lạm dụng chất ở học sinh. Các biểu hiện về nhận thức, cảm xúc

và hành vi chủ yếu là việc mất kiểm soát sử dụng internet, cảm xúc tiêu cực, suy

giảm mối quan hệ xã hội, các biểu hiện này xuất hiện ở mức thƣờng xuyên. Có các

nhân tố chủ quan và khách quan là nguy cơ của tình trạng nghiện internet ở học sinh

THCS. Các nhân tố chủ quan bao gồm những vấn đề tâm lý và quan hệ xã hội liên

quan trực tiếp đến trẻ, những nhân tố khách quan bao gồm các yếu tố nhƣ bạn bè,

tiện ích của internet và thiếu sân chơi lành mạnh.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, tự đánh giá bản thân của học sinh THCS

nghiện internet về tổng thể và ở các khía cạnh: thể chất, gia đình, cảm xúc, xã hội,

học đƣờng, tƣơng lai ở mức thấp. Đồng thời, chỉ có tƣơng quan giữa tự đánh giá bản

thân với nghiện internet mức độ nặng ở học sinh THCS, nghiện internet chỉ có tƣơng

quan với các khía cạnh tự đánh giá gia đình và cảm xúc. Có rất ít mối tƣơng quan có

ý nghĩa giữa tự đánh giá bản thân với các biểu hiện khác của nghiện internet.

Nghiên cứu cũng cho thấy, sử dụng biện pháp tham vấn tâm lý theo tiếp cận

nhận thức – hành vi có thể cải thiện tình trạng nghiện internet và nâng cao tự đánh

143

giá bản thân của học sinh THCS.

KẾT UẬN

1. KẾT UẬN

Qua quá trình nghiên cứu nghiện internet và tự đánh giá bản thân của học

sinh THCS ở Đồng Nai, đề tài rút ra một số kết luận nhƣ sau:

1.1. Về mặt lý luận.

Định nghĩa nghiện internet. Tổng quan các nghiên cứu trên thế giới và Việt

Nam cho thấy mức độ nghiện internet ngày càng gia tăng nhƣng vẫn chƣa có sự

thống nhất cao trong việc nghiên cứu về chủ đề này. Các tranh luận chủ yếu xoay

quanh vấn đề khái niệm nghiện internet, tiêu chí đánh giá nghiện internet, nguyên

nhân nghiện internet, ảnh hƣởng của nghiện internet và điều đó dẫn đến sƣ đa dạng

nghiên cứu về mức độ nghiện internet.

Nghiện internet của học sinh THCS là khái niệm chỉ hành vi bị cƣỡng bức sử

dụng internet dƣới bất kỳ hình thức nào ở các em mà hành vi đó vƣợt quá mức độ

bình thƣờng về thời gian sử dụng, dẫn đến tình trạng bản thân mất dần khả năng

kiểm soát khi sử dụng, gây nên những ảnh hƣởng tiêu cực về nhận thức, cảm xúc và

hành vi của các em. Nghiện internet có thể dẫn tới những ảnh hƣởng tiêu cực về sức

khỏe, quan hệ xã hội, thành tích học tập, vấn đề an ninh cá nhân và sử dụng chất.

Đồng thời, cũng có nhiều yếu tố nguyên nhân ảnh hƣởng tới tình trạng nghiện

internet nhƣ vấn đề nhận thức sai lệch của cá nhân, yếu tố hoàn cảnh cuộc sống, áp

lực từ phía bạn bè, gia đình và nhà trƣờng.

Định nghĩa tự đánh giá bản thân. Tự đánh giá bản thân ở học sinh THCS là

một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng, một hoạt động nhận thức đặc biệt,

trình độ phát triển cao của tự ý thức, trong đó đối tƣợng nhận thức chính là bản thân

học sinh. Tự đánh giá bản thân còn là quá trình mà các em tự đánh giá tổng thể về

giá trị bản thân mình. Các khía cạnh của tự đánh giá bản thân ở học sinh THCS

đƣợc thể hiện ở các mặt biểu hiện của cái tôi, bao gồm: Thể chất, cảm xúc, gia đình,

học đƣờng, xã hội, cảm xúc và tƣơng lai.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, tự đánh giá thấp có thể là nguyên nhân sâu xa

của những vấn đề về cảm xúc, và hành vi xã hội của cá nhân, đặc biệt là ở lứa tuổi

thanh thiếu niên. Trong bối cảnh nghiện internet, có nhiều báo cáo nghiên cứu chỉ ra

144

có sự tƣơng quan rất mạnh giữa hai yếu tố này. Đa phần các nghiên cứu xoay quanh

chủ đề tự đánh giá dẫn tới tình trạng nghiện internet hay ngƣợc lại và câu trả lời là

hai yếu tố này có thể ảnh hƣởng qua lại lẫn nhau, tuy nhiên, tự đánh giá thấp bản

thân có thể là yếu tố báo trƣớc mạnh mẽ của nghiện internet.

1.2. Về thực tiễn.

1.2.1. Thực trạng sử dụng, mức độ, biểu hiện và ả ƣởng của nghiện internet

ở học sinh THCS tại Đồng Nai

Về thực trạng sử dụng internet của học sinh THCS nghiện internet ở Đồng

Nai. Kết quả của luận án cho thấy, tuổi bắt đầu sử dụng internet của học sinh THCS

chủ yếu ở lứa tuổi tiểu học và các em biết đến internet chủ yếu do các em tự tìm

hiểu hay bạn bè giới thiệu chứ ít có sự định hƣớng của thầy cô, cha mẹ. Các em có

nhu cầu sử dụng internet là do các đặc điểm tâm lý lứa tuổi nhƣ muốn khảng định

bản thân trƣớc bạn bè, muốn thỏa mãn nhu cầu đƣợc khám phá và tò mò các hình

ảnh về giới tính, tình dục, vì thế, các em thƣờng truy cập các ứng dụng nhƣ trò chơi

trực tuyến, giải trí, tán gẫu và mạng xã hội. Mặc dù sử dụng internet trung bình một

ngày với thời gian khá nhiều (chủ yếu là 1- 3 giờ một ngày) nhƣng kinh phí để chi

trả cho các dịch vụ internet hàng tháng của các em là khá ít (đa phần là dƣới

300,000 đồng một tháng). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, đa phần các em sử

dụng internet tại nhà và tại tiệm internet, đồng thời, các em chủ yếu sử dụng bằng

điện thoại di động, máy tính để bàn và máy tính xách tay và thời gian truy cập

internet thƣờng là vào buổi tối.

Về mức độ nghiện internet ở học sinh THCS tại Đồng Nai. Kết quả nghiên

cứu cho thấy, mức độ nghiện internet ở học sinh THCS tại Đồng Nai là 15,46%, kết

quả này là phù hợp với một số báo cáo nghiên cứu tại Châu Á, nhƣng lại khá cao so

với một số báo cáo nghiên cứu tại Việt Nam và cũng khá cao so với một số vấn đề

sức khỏe tâm thần khác tại cùng địa phƣơng. Tuy nhiên, nghiện internet ở học sinh

THCS tại Đồng Nai chủ yếu là mức nhẹ (48,5%), vừa (46,6%) và có khá ít học sinh

nghiện internet ở mức nặng (4,9%). Kết quả nghiên cứu này là khá phù hợp với một

vấn đề sức khỏe tâm thần cộng đồng.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, nam học sinh nghiện internet nhiều hơn

nữ, học sinh nghiện internet chủ yếu là ở khối lớp 7 và lớp 9, có thành tích học tập ở

mức khá, giỏi và trung bình, có điều kiện kinh tế gia đình ở mức khá và trung bình,

145

có bố mẹ sống cùng nhau, đồng thời, các em chủ yếu sống ở thành thị và học ở

trƣờng công lập. Tuy nhiên, kiểm định t - test và kiểm định ANOVA cho thấy, chỉ có

sự khác biệt có ý nghĩa về giới tính ở mức độ nghiện internet nặng, khác biệt về

thành tích học tập ở mức vừa, khối lớp ở mức độ nặng. Kết quả này cho thấy, các

yếu tố trên có rất ít hoặc không ảnh hƣởng nhiều đến tình trạng nghiện internet của

học sinh THCS tại Đồng Nai.

Ảnh hưởng của nghiện internet tới sức khỏe và cuộc sống. Kết quả nghiên

cứu cho thấy, nghiện internet có ảnh hƣởng rất ít đến tình trạng sức khỏe của học

sinh, và chủ yếu là ảnh hƣởng đến vấn đề stress của các em với các biểu hiện nhƣ

đau nhức cơ thế, mệt mỏi và khó tập trung. Đồng thời, nghiện internet cũng ảnh

hƣởng rất ít đến mối quan hệ xã hội của học sinh và dƣờng nhƣ không có ảnh

hƣởng nhiều đến thành tích học tập của các em. Ngoài ra, nghiện internet cũng ảnh

hƣởng rất ít đến vấn đề an ninh cá nhân mà dƣờng nhƣ không ảnh hƣởng đến tình

trạng lạm dụng chất ở học sinh THCS tại Đồng Nai.

Biểu hiện tâm lý của học sinh THCS nghiện internet. Các em có biểu hiện về

tâm lý tiêu cực về nhận thức, cảm xúc và hành vi ở mức vừa phải, các biểu hiện này

thỉnh thoảng hoặc đôi khi thƣờng xuyên xuất hiện ở các em. Biểu hiện về nhận thức

của học sinh chủ yếu là vấn đề mất kiểm soát về thời gian và hoạt động khi truy cập

internet, nói dối gia đình và ngƣời thân về hành vi internet của cá nhân. Các biểu

hiện về cảm xúc chủ yếu là các biểu hiện của hội chứng cai nhƣ lo lắng, buồn chán,

mất hứng thú, trống rỗng khi không có internet và vui vẻ trở lại khi đƣợc sử dụng

internet. Các biểu hiện về hành vi khá tiêu cực ở mức độ rất thƣờng xuyên, bao gồm

việc giảm sút các hoạt động thực tế, giảm sút các mối quan hệ xã hội, giảm sút

thành tích học tập và công việc, bị ngƣời thân than phiền và thƣờng nói dối về hành

vi sử dụng internet của mình.

1.2.2. Thực trạng tự đá iá của học sinh THCS nghiện internet tại Đồng Nai

Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy, tự đánh giá bản thân của học sinh

THCS nghiện internet về tổng thể và ở các khía cạnh: thể chất, cảm xúc, gia đình,

học đƣờng, xã hội và tƣơng lai ở mức thấp. Đồng thời, các khía cạnh tự đánh giá

của học sinh THCS nghiện internet tại Đồng Nai có tƣơng quan thuận với nhau và

146

có mức độ tƣơng quan mạnh.

1.2.3. Tƣơ qua iữa iệ i ter et v tự đá iá bả t của ọc sinh

THCS ở Đồ Nai

Nghiện internet mức độ nặng có tƣơng quan thuận với các khía cạnh tự đánh

giá về gia đình và tự đánh giá về cảm xúc, không có tƣơng quan với tự đánh giá về

thể chất, xã hội, học đƣờng, tƣơng lai. Tuy nhiên, mức độ tƣơng quan khá yếu giữa

hai yếu tố.

Tự đánh giá bản thân của học sinh THCS nghiện internet không có mối

tƣơng quan với các biểu hiện tâm lý (nhận thức, cảm xúc và hành vi) của học sinh.

Đồng thời, chúng cũng không có tƣơng quan với các yếu tố thực trạng sự dụng khác

nhƣ về thời gian sử dụng trung bình, thời điểm sử dụng internet trong ngày. Trong

khi đó, chúng có tƣơng quan nghịch với các ứng dụng của internet nhƣ: Lƣớt

website để đọc tin tức (quá tải thông tin),tìm kiếm tài liệu, mạng xã hội và phim

khiêu dâm. Tuy nhiên, mức độ tƣơng quan là khá yếu giữa các yếu tố trên.

Các khía cạnh của tự đánh giá về cảm xúc, gia đình và tƣơng lai có mối

tƣơng quan thuận với các yếu tố ảnh hƣởng của nghiện internet (hậu quả). Các khía

cạnh của tự đánh giá về xã hội và học đƣờng có mối tƣơng quan nghịch với các yếu

tố hậu quả của nghiện internet. Tuy nhiên, mức độ tƣơng quan giữa các yếu tố này

là khá yếu. Trong khi đó, tự đánh giá về thể chất lại không có tƣơng quan với

nghiện internet ở học sinh THCS tại Đồng Nai.

1.2.4. Các yếu tố ả ƣở đến nghiện internet ở học sinh THCS tại Đồng Nai

Các yếu tố chủ quan và khách quan ít ảnh hƣởng đến tình trạng nghiện

internet của học sinh THCS tại Đồng Nai. Các yếu tố ảnh hƣởng thƣờng xuất hiện

nhiều ở các em bao gồm: sự thuận tiện của internet, hay bị ba mẹ mắng chửi, bị bạn

bè cô lập, a dua theo trào lƣu, không có sân chơi lành mạnh và hay bị stress.

1.2.5. T a vấ trƣờ ợp iệ i ter et t eo tiếp cậ ậ t ức vi.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tế, đề tài đề xuất 04 giải pháp nâng

cao tự đánh giá và giảm tình trạng nghiện internet ở học sinh THCS. Trong 04

nhóm giải pháp trên tập trung nhiều các nhóm giải pháp phòng ngừa vì chúng tôi

cho rằng đây là điều rất quan trọng để nâng cao tự đánh giá của học sinh. Mô hình

gia đình – xã hội – nhà trƣờng đƣợc quan tâm để xây dựng các giải pháp này.

Trong 4 giải pháp thì giải pháp tham vấn tâm lý theo tiếp cận nhận thức hành

147

vi đƣợc đề tài thử nghiệm trên 02 trƣờng hợp học sinh THCS nghiện internet và tự

đánh giá thấp bản thân. Kết quả cho thấy việc tham vấn tâm lý theo tiếp cận nhận

thức hành vi có hiệu quả trong việc nâng tự đánh giá bản thân và giảm nghiện

internet ở học sinh THCS.

2. KIẾN NGHỊ

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài đƣa ra những kiến

nghị sau:

2.1. Đối với các cơ qua quả ƣớc

Ngành thông tin truyền thông cần có các văn bản pháp quy quy định rõ ràng

và chế tài đủ mạnh đối với các tiệm Internet công cộng, đặc biệt là về độ tuổi đƣợc

truy cập, phần mềm kiểm soát chơi trò chơi trực tuyến trên ngày, địa điểm của tiệm

Internet công cộng,...

Các ngành khác nhƣ giáo dục đào tạo, báo chí, đoàn thanh niên,... cần truyền

thông nâng cao nhận thức của thanh thiếu niên, ngƣời dân về những ảnh hƣởng tiêu

cực của Internet đối với cuộc sống, đặc biệt là vấn đề nghiện Internet. Đồng thời,

cùng nhau xây dựng và huấn luyện các kỹ năng sử dụng Internet một cách hiệu quả.

Cần tổ chức nhiều sân chơi lành mạnh hơn nữa cho thanh thiếu niên, nhất là

thanh thiếu niên thành thị. Khi đã có các sân chơi trong cuộc sống thực một cách

lành mạnh sẽ là cơ hội để các em thoát ra khỏi thế giới ảo và là cơ hội để các em có

nhiều trải nghiệm cuộc sống hơn, phòng ngừa nghiện Internet ở các em.

2.2. Đối với trƣờ THCS

Nhà trƣờng cần xác định rõ mục tiêu của giáo dục là phát triển toàn diện con

ngƣời chứ không chỉ tập trung vào vấn đề phát triển trí lực. Trên cơ sở đó cần

nghiên cứu giảm tải nội dung học tập sao cho tinh gọn và mang tính khoa học, giáo

dục cao. Đồng thời đẩy mạnh các hoạt động giáo dục kỹ năng tâm lý – xã hội, tạo ra

một môi trƣờng giáo dục thân thiện, lành mạnh. Hƣớng tới việc giáo dục phát triển

lành mạnh cái Tôi của mỗi học sinh và giáo dục học sinh có tính tự chủ cao phù hợp

với nền tảng xã hội, văn hoá của dân tộc.

Mô hình tâm lý trƣờng học có hiệu quả mạnh mẽ trong việc phòng ngừa, can

thiệp học sinh có vấn đề. Do đó, chúng tôi cho rằng cần triển khai mạnh mẽ mô

hình này trong nhà trƣờng sẽ giúp các em học sinh phát triển một cách lành mạnh

148

về sức khỏe tâm thần nói chung và vấn đề nghiện internet nói riêng.

2.3. Đối với ia đì

Các bậc phụ huynh hãy tạo nên một gia đình hài hoà và ổn định. Cần quan

tâm đến đời sống tâm lý và sự phát triển của các em, từ đó có thể là chỗ dựa cho các

em khi có vấn đề khó khăn. Đồng thời giáo dục gia đình cũng cần quan tâm đến

phát triển tính tự chủ của con em, giúp các em phát triển lành mạnh, tránh áp đạt và

đặt các em vào các tình huống gây áp lực. Các bậc phụ huynh cũng cần có những

hiểu biết về Internet và vấn đề nghiện Internet để cùng trải nghiệm với các em

những hữu ích từ Internet mang lại, đồng thời chia sẻ để giúp các em phòng ngừa

tình trạng nghiện Internet.

2.4. Đối với các t ực t a vấ – trị iệu t

Đánh giá và can thiệp với tình trạng nghiện Internet là một vấn đề còn mới

mẻ và rất khó khăn. Trong thực hành lâm sàng, việc sử dụng đa trị liệu cả hoá dƣợc

và tâm lý liệu pháp với ê kíp gồm chuyên gia sức khoẻ tâm thần và tâm lý lâm sàng

là cực kỳ cần thiết. Tuy nhiên, việc xác định chiến lƣợc can thiệp phải dựa trên cơ

sở đánh giá chính xác, khoa học và tính đặc thù của mỗi cá nhân. Việc triển khai các

chƣơng trình huấn luyện kỹ năng sống để cai nghiện Internet- game online nhƣ một

số trung tâm vừa qua tại Việt Nam là không có cơ sở.

Cần có một trung tâm chuyên biệt tại Việt nam để đánh giá, can thiệp, hỗ

trợ, phòng ngừa và nghiên cứu sâu hơn về nghiện Internet ở thanh thiếu niên và các

149

đối tƣợng khác nữa.

DANH ỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC IÊN

QUAN ĐẾN UẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ

1. Lê Minh Công (2013),Thực trạng nghiện Internet ở học sinh THCS tại TP.

Biên Hoà, Đồng Nai,Tạp chí y tế công cộng. 6.2013 (số 28).

2. Lê Minh Công (2013),Nghiện Internet và tự đánh giá của học sinh THCS

qua hai trường hợp lâm sàng, Tạp chí Tâm lý học, số 8 (8/2013).

3. Lê Minh Công (2014),Xác định tỷ lệ và một số biểu hiện tâm lý của thanh

thiếu niên nghiện Internet theo trắc nghiệm của Young. Tạp chí Tâm lý hoc,

150

số 2 (2/2014).

TÀI IỆU THA KHẢO

T i iệu tiế Việt

[1] Lê Minh Công (2011), Một số vấn đề lý luận và thực hành lâm sàng về nghiện

Internet, Tạp chí Tâm lý học, số tháng 6/2011, Viện Tâm lý học.

[2] Lê Minh Công, Phƣơng Liên (2010), Nghiện online: những điều cha mẹ cần

biết, NXB Trẻ TP.Hồ Chí Minh.

[3] Lê Minh Công (2009), Nghiện Internet ở thanh thiếu niên, báo cáo qua ba

trường hợp lâm sàng, Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Nhu cầu, định hƣớng và đào

tạo tâm lý học đƣờng Việt Nam, Viện Tâm lý học Việt Nam.

[4] Lê Minh Công (2010), Mối quan hệ giữa trầm cảm và nghiện internet thông

qua hai trường hợp lâm sàng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “ Nghiên cứu, giảng

dạy và ứng dụng Tâm lý học, Giáo dục học vào thực tiễn trong thời kỳ hội

nhập, NXB Đại học Sƣ phạm Hà Nội.

[5] Lê Minh Công (2010), Phối hợp điều trị tâm lý cho một trường hợp nghiện

game online, Tạp chí Tâm lý học Vol 2, Viện Tâm lý học.

[6] Vũ Dũng (Chủ biên) (2000), Từ điển Tâm lý học, NXB KHXH Việt Nam.

[7] Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2010), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng

Nai lần thứ IX, NXB Tổng hợp Đồng Nai.

[8] Trần Thị Minh Đức (2013), Game bạo lực với thanh thiếu niên, phân tích từ

góc độ tâm lý xã hội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

[9] Trần Thị Minh Đức (2011), Giáo trình tham vấn tâm lý, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội

[10] Nguyễn Thị Bích Hà, Hoàng Thị Xuân Dung, Trịnh Thị Quỳnh (2006), Tác

động của game online tới thanh thiếu niên, Đề tài cấp Đại học Quốc Gia Hà

Nội.

[11] Phạm Thị Hải, Nguyễn Văn Cầu, Nguyễn Minh Thức (2014), Xây dựng mô

hình hoạt động tâm lý trường học tại Đồng Nai, Đề tài khoa học cấp tỉnh

151

Đồng Nai, 2012 – 2014.

[12] Dƣơng Diệu Hoa, Đỗ Thị Hạnh Phúc (2009), Tâm lý học phát triển, NXB Đại

học Sƣ phạm Hà Nội.

[13] Hội khoa học Tâm lý - giáo dục Đồng Nai (2009), Kỷ yếu hội thảo khoa học

“Nghiện Internet – game online: thực trạng và giải pháp”, Đồng Nai.

[14] Hội tâm thần học Hoa Kỳ (1992, 2013), Bảng tiêu chuẩn chẩn đoán các rối

loạn tâm thần và hành vi lần thứ 4 và 5 (DSM – IV, DSM-V).

[15] Đào Lan Hƣơng (1999), Nghiên cứu sự tự đánh giá thái độ học tập môn toán

của sinh viên Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, Luận án Tiến sĩ tâm lý, Viện Tâm lý

học Việt Nam.

[16] Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2008), Tâm lý học lứa tuổi

và tâm lý học sư phạm, NXB Thế giới, Hà Nội.

[17] Đỗ Ngọc Khanh (2004a), Về khái niệm “Tự đánh giá bản thân”, Tâm lý học,

Số 6, 6/2004, tr.41-45.

[18] Đỗ Ngọc Khanh (2004b), Ảnh hưởng của sự tự đánh giá bản thân đến sự phát

triển nhân cách, Tâm lý học, Số 9, 9/2004, tr.26-29.

[19] Đỗ Ngọc Khanh (2004c), Cái Tôi, Tâm lý học, Số 10, 10/2004, tr.35-37.

[20] Đỗ Ngọc Khanh (2005), Tự đánh giá của học sinh THCS ở Hà Nội, Tâm lý

học, Số 7, 7/2005, tr.30-36.

[21] Vũ Khiêu (2002) “Cái Tôi” - Một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu,

Tâm lý học, số 1, 1/2002, tr 2-5.

[22] Lê Ngọc Lan (1982), Nghiên cứu mối quan hệ giữa khả năng tự đánh giá phù

hợp của học sinh đối với thái độ học tập và động cơ hoc tập, Luận án Phó tiến

sĩ tâm lý.

[23] Hoàng Mộc Lan, Trịnh Thị Linh (2015), Tự đánh giá về sức khỏe và tự chăm

sóc sức khỏe của người cao tuổi, Tạp chí Tâm lý học xã hội, số 2, 2 – 2015.

[24] Nguyễn Ngọc Lanh (Chủ biên), Từ điển Bách khoa Y học Phổ thông, NXB

Khoa học và Kĩ thuật Hà Nội, 2004.

[25] Trịnh Thị Linh (2014), Tự đánh giá bản thân – cái Tôi gia đình –nhìn từ góc

152

độ tâm lý học xã hội, Tạp chí Tâm lý học, số 10 (187), 10 – 2014.

[26] Trinh Thi Linh, Nguyen Thi Anh Thu, Nguyen Dieu Huong (2014), Self-

Esteem Scale of the Vietnam Minors: Cross-Cultural Adaptation of ETES,

Psychology, 2014, 5, 1568-1574.

[27] Trần Hữu Luyến, Bùi Thị Hồng Thái (2015), Bảo mật thông tin trên mạng xã

hội và tự đánh giá bản thân của sinh viên, Tạp chí Tâm lý học, Vol 2 (2.2015).

[28] Phan Trọng Ngọ, Nguyễn Đức Hƣởng (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý

người, NXB Đại học sƣ phạm Hà Nội.

[29] Nguyễn Thị Nguyệt (2010), Văn hóa – văn vật Đồng Nai, NXB Đồng Nai.

[30] Vũ Thị Nho (1997), Một số đặc điểm tự đánh giá của của học sinh cuối bậc

tiểu học, Đề tài cấp Bộ.

[31] Vũ Thị Nho (1998a), Trình độ học lực và khả năng tự đánh giá phù hợp, ổn

định của học sinh cuối bậc tiểu học, Nghiên cứu giáo dục, 8/1998, tr 27-28.

[32] Vũ Thị Nho (1998b), Tự đánh giá, Tâm lý học, số 3, 6/1998, tr 58-60.

[33] Vũ Thị Nho (1999), Tâm lý học phát triển, NXB ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[34] Lê Đức Phúc (1999), Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài: “Sự phát triển ý thức

bản ngã”, Trong khuôn khổ dự án điều tra, khảo sát về trẻ em tiểu học 1997-

1999 do Vụ Tiểu học, Bộ GD&ĐT thực hiện.

[35] Lê Thị Minh Tâm (2013), Tiếp cận trị liệu nhận thức hành vi: Phối hợp giữa

các lý thuyết và thực hành, NXB Thời đại, TP Hồ Chí Minh.

[36] Bùi Thị Hồng Thái (2014), Tự đánh giá bản thân của sinh viên sử dụng mạng

xã hội, Tạp chí Tâm lý học, số 10 (187), 10 – 2014.

[37] Nguyễn Thị Anh Thƣ, Nguyễn Thị Mùi (2014), Tự đánh giá về “cái Tôi học

đường” của học sinh trung học cơ sở, Tạp chí Tâm lý học, số 12 (189), 12 – 2014.

[38] Lã Thu Thuỷ (1999), “Cái Tôi” dưới góc nhìn của tâm lý học xã hội, Tâm lý

học, số 6, 12/1999, tr 59 - 61.

[39] Lã Thu Thuỷ (2001), Quan niệm của sinh viên về khái niệm “Cái Tôi” trong

bối cảnh tính cá nhân và tính cộng đồng, Tâm lý học, số 6, 09/2001, tr 29-35.

[40] Nguyễn Văn Thọ, Lê Minh Công (2015), Nghiện Internet, lý luận và thực tiễn

153

(sách chuyên khảo), NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

[41] Nguyễn Văn Thọ (2000), Xây dựng mô hình chăm sóc sức khỏe tâm lý – tâm

thần trong trường học tại tỉnh Đồng Nai, Đề tài khoa học cấp tỉnh Đồng Nai,

1998 -2000.

[42] Huỳnh Văn Tới (1998), Bản sắc dân tộc và văn hoá Đồng Nai, NXB Đồng Nai.

[43] Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Phan Xuân Biên (2005), Văn hóa Đồng Nai

(sơ thảo), NXB Đồng Nai

[44] Tổ chức y tế thế giới (WHO) (1992), Tiêu chuẩn chẩn đoán các rối loạn tâm

thần và hành vi (ICD-10), Gernever, Thụy Sỹ.

[45] Trƣờng Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (2013), Kỷ

yếu khoa học “Nghiện Internet, những thách thức mới của xã hội hiện đại”,

NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[46] Nguyễn Khắc Viện (2001), Từ điển Tâm lý, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

[47] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển

học, 2005.

[48] Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Lũy, Đinh Văn Vang (2007), Giáo trình

Tâm lý học đại cương, NXB Đại học sƣ phạm Hà Nội.

T i iệu tiế A

[49] Angres, Bettinardi – Angres (2008), The disease of addiction: origins,

treatment, and recovery, Dis Mon 54 (10): 696 – 721.

[50] Amichai Yair, Hamburger (2005), The Social Net: human behavior in

cyberspace, Oxford University Press.

[51] Armenian Medical Network (2008), Internet Addiction: Recognition and

Interventions, Archives of Psychiatric Nursing, www.Health.am.

[52] AydmBetül, Serkan Volkan San (2011), Internet addiction among adolescents:

The role of self-esteem, Procedia - Social and Behavioral Sciences, Volume 15,

2011, Pages 3500–3505

[53] Aydin B and Sari S. V. (2011), Internet addiction among adolescents: the role

154

of self-esteem, Social and Behavioral Sciences,Vol 15, 3500–3505.

[54] BeatrixKoronczai, Gyöngyi Kökönyei, Róbert Urbán, Bernadette

Kun, Orsolya Pápa, Katalin Nagygyörg, Mark D. Griffiths, and Zsolt

Demetrovics (2013), The mediating effect of self-esteem, depression and

anxiety between satisfaction with body appearance and problematic internet

use, CyberPsychology and Behavior, 2013, 377–383.

[55] Beatrix Koroncrai, Urbán Róbert, Kun Bernadatte, Pápa Orsolya, Katalin,

Griffiths, and Demetrovics Zsolt (2013), The mediating effect of self-esteem,

depression and anxiety between satisfaction with body appearance and

problematic internet use, The American Journal of Drug and Alcohol Abuse

39(4), 259-265.

[56] Bibi Eshrat Zamani, Yasamin Abedini, Ali Kheradmand (2011), Internet

Addiction Based on Personality Characteristics of Kerman High School

Students in 2010, Addict & Health 2011; 3(3-4): 85-91.

[57] Block Jerald J. (2008), Issues for DSM - V: Internet addiction; Am J

Psychiatry 165:306-307.

[58] Blessing Mbatha (2012), Prevalence of Internet addiction disorder in selected

government departments in South Africa, International Journal of Arts and

Commerce, Vol. 1 No. 4 September 2012.

[59] Charmaine D. Caldwell, Teddi J. Cunningham (2010), Internet addiction and

students: Implications for school counselor, Retrieved from

http://counselingoutfitters.com

[60] Celik Gonca G., Mehtap Uzel, Neslihan Ozcan, và cs (2008), Internet Use

Among Turkish Adolescents, CYBERPSYCHOLOGY & BEHAVIOR; Vol 11,

Number 5.

[61] Davis R.A. (2001), A cognitive-behavioral model of pathological Internet use,

Computers in Human Behavior 17, 187±195

[62] Durak, E. and Durak, M. (2011), The mediator roles of life satisfaction and

155

self-Esteem between the affective components of psychological well-Being and

the cognitive symptoms of problematic internet use, Social Indicators Research

103, 23-32.

[63] Dèttore Fioravanti and Casale (2012), Adolescent internet addiction: Testing

the association between Self-Esteem, the perception of internet attributes, and

preference for online social interactions, CyberPsychology & Behavior 15(6),

318-323.

[64] Deguo JIANG, Sheng ZHU, Minjie YE, Chongguang LIN (2012), Cross-

sectional survey of prevalence and personality characteristics of college

students with internet addiction in Wenzhou, China, Shanghai Archives of

Psychiatry, 2012, Vol.24, No.2

[65] Encyclopedia of mental Disorders (2000), Internet addiction Disorder,

www.Move To Learn.com.au (cập nhật ngày 3/7/2014).

[66] Eun Joo Kim, Kee Namkoong, Taeyun Ku, Se Joo Kim (2008), The

relationship between online game addiction and aggression, self-control and

narcissistic personality traits, European Psychiatry 23 (2008) 212-218.

[67] Eric B. Weiser (2001), The Functions of Internet Use and Their Social and

Psychological Consequences, CyberPsychology & Behavior. December 2001,

4(6): 723-743

[68] Fisher Sue (1994), Identifying Video game addiction in children and

adolescents, Addictive Behavors. Vol 19. No5. 545 – 553.

[69] Ghassemzadeh, Shahraray, Moradi (2008), Prevalence of internet addiction

and comparison of internet addicts and no – addictis in Iranian High Schools,

CyberPsychology and Behavior, Volime 11, Number 6, 2008.

[70] Goldberg Ivan (1998), Internet Addiction Disorder (IAD) - Diagnostic

Criteria, John Suler's The Psychology of Cyberspace, (v2.0).

[71] Griffiths Mark (2008), Internet and Video - game Addiction Adolescent

Addiction, Epidemiology Assessment and treatment.

[72] Hechanova Regina and Jennifer Czinca, Internet addiction in Asia: Reality or

156

Myth?, http://www.idrc.ca (truy cập ngày 03/11/2015).

[73] Hung Chih Ko, Ju-Yu Yen, Shu-Chun Liua, và cs (2009), The Associations

Between Aggressive Behaviors and Internet Addiction and Online Activities in

Adolescents, Journal of Adolescent Health 44, 598–605.

[74] Hung Chih Ko, M., Ju-Yu Yen ,Cheng–Fang Yen, và cs (2008), The

Association between Internet Addiction and Problematic Alcohol Use in

Adolescents: The Problem Behavior Model, CYBERPSYCHOLOGY &

BEHAVIOR Volume 11, Number 5.

[75] Ho-Kyung Kim, Keith E. Davis (2009), Toward a comprehensive theory of

pronlematic internet use: evaluating the role of self-esteem, anxiety, flow, and

the self-rated importance of internet activities, Computers in Human Bihavior

25 (2009) 490 – 500.

[76] Hye Jung Kwon (2011), Toward the Prevention of Adolescent Internet

Addiction, John Wiley & Sons, Inc., Hoboken, new Jersey, Canada.

[77] Katie Niemz, Mark Griffiths, Phil Banyard (2005), Prevalence of Pathological

Internet use among University student and correlations with self – esteem, the

General health questionnaire (GHQ), and disinhibition,

CYBERPSYCHOLOGY & BEHAVIOR Volume 8, Number 6, 2005.

[78] Kim Junghyun, Paul M. Haridakis (2009), The role of internet user

characteristics and motives in explaining. JOURNAL OF COMPUTER –

MEDIATED COMMUNICATION 12 (2009), 988 – 1015.

[79] Kim Jong-Un (2008), The Effect of a R/T Group Counseling Program on The

Internet Addiction Level and Self-Esteem of Internet Addiction University

Students, International Journal of Reality Therapy Vol 27.

[80] Konstantinos E. Siomos ,Evaggelia D. Dafoul., Dimitrios A. Braimiotis, et al

(2008), Internet Addiction among Greek Adolescent Students;

CYBERPSYCHOLOGY & BEHAVIOR,Volume 11, Number 6.

[81] Laura Widyanto, Mark D. Griffiths (2011), An Empirical Study of

Problematic Internet Use and Self-Esteem. International Journal of Cyber

157

Behavior, Psychology and Learning, 1(1), 13-24, January-March 2011

[82] Laura Widyanto & Mark Griffiths (2006), „Internet Addiction‟: A Critical

Review, Int J Ment Health Addict 4: 31–51.

[83] Lee Young Sik, Doug Hyun Han, Kevin C. Yang, et al (2008), Depression like

characteristics of 5HTTLPR polymorphism and temperament in excessive

Internet users, Journal of Affective Disorders 109, 165–169.

[84] Long Janet, Guo-Ming Chen (2007), The Impact of Internet Usage on

Adolescent Self-Identity Development, China Media Research, 3(1).Lin and

Tsai (2002), Sensation seeking and internet dependence of Taiwanese high

school adolescents, Comput. Human Behav. 18(4): 411–426.

[85] Lily, Mehrnaz, Alireza (2008), Prevalence of internet addiction and

comparison of internet addicts and non-addicts in Iranian high schools, Cyber

Psychology and Behavior. 2008 December;11 (6): 731-733.

[86] Martha Shaw and Donald W. Black (2008), Internet addiction: Definition,

Assessment, Epidemiology and Clinical Management; CNS Drugs 22(5): 353-365.

[87] Marlatt GA, Baer JS, Donovan DM, Kivlahan DR (1988), Addictive

behaviors: etiology and treatment, Annu Rev Psychol 39: 223–52.

[88] Morse RM, Flavin DK (1992), The definition of alcoholism, the Joint

Committee of the National Council on Alcoholism and Drug Dependence and

the American Society of Addiction Medicine to Study the Definition and

Criteria for the Diagnosis of Alcoholism,JAMA 268 (8): 1012–4.

[89] Mossbarber (2008), Is "Internet addiction" addressed in the classroom? A survey

of psychology textbooks, Computers in Human Behavior 24(2), 468-474.

[90] Moody (2001), Internet use and its relationship to loneliness.

CyberPsychology & Behavior 4(3), 393-401.

[91] Ngô Đức Anh, Michael W. Ross, Eric A. Ratliff (2008), Internet influences on

sexual practices among young people in Ha Noi, Vietnam; Culture, Health &

Sexuality, Vulume 10 Supplement S 201-213.

[92] Peris (2002), Online chat rooms: virtual spaces of interaction for socially

158

oriented people, CyberPsychology & Behavior 5 (4), 43-51.

[93] Richard Nongard (2009), “Internet Addiction”, PeachTree Professional

Education, Inc., www.Fastceus.com (cập nhật ngày 3/7/2014)

[94] Shapira, Lessig, Goldsmith, Szabo, và cs(2003), Problematic Internet use:

Proposed classification and diagnostic criteria; Depression and Anxiety 17,

207–216.Subramaniam Mythily, Shijia Qiu, Munidasa Winslow (2008),

Prevalence and Correlates of Excessive Internet Use among Youth in

Singapore, Annals Academy of Medicine Vol. 37 No. 1

[95] Soo Kyung Park, Jae Yop Kim, and Choon Bum Cho (2009), Prevalence of

Internet addiction and correlations with family factors among south Korean

adolescents; Family Therapy, Volume 36, Number 3.

[96] Silvia Casale, Giulia Fioravanti (2011), Psychosocial correlates of internetuse

among Italian students, INTERNATIONAL JOURNAL OF PSYCHOLOGY,

2011, 46 (4), 288–298

[97] Stieger, Stefan and Burger, Christoph (2010), Implicit and explicit self-esteem

in the context of internet addiction. CyberPsychology, Behavior and Social

Networking 13(6), 681-688.

[98] Steinfield, N. B. Ellison, C. Lampe (2008), Social capital, self-esteem, and use

of online social network sites: A longitudinal analisis, Journal of Applied

Developmantal Psychology 29 (2008) 434 – 445.

[99] Torres G, Horowitz JM (1999), Drugs of abuse and brain gene

expression. Psychosom Med 61 (5): 630–50.

[100] Tsai, and Lin (2001), Analysis of attitudes toward computer networks and

Internet addiction of Taiwanese adolescents. CyberPsychology & Behavior

4(3), 373–376.

[101] Tsai, and Lin (2003), Internet addiction of adolescents in Taiwan: An interview

study, CyberPsychology & Behavior 6(6), 649–652.

[102] Yen Ju - Yu và cs (2007), The comrbid psychiatric symptoms of Internet

addiction: attention deficit and Hyperactivity Disoder (ADHD), Depression,

159

Social Phobia and Hostility; Joumal of Adolescent Health 41, 93 - 98.

[103] Yen Ju-Yu, Chih-Hung Ko, Cheng-Fang Yen et al (2008), Psychiatric

symptoms in adolescents with Internet addiction: Comparison with substance

use; Psychiatry and Clinical Neurosciences 62: 9–16.

[104] Young Kimberly and Robert C. Rodgers (1998), The Relationship Between

Depression and Internet Addiction; CyberPsychology & Behavior, 1(1).

[105] Young Kimberly (1997), “What makes the internet addictive: Potential

explanations for pathological internet use”, paper presented at the 105th

annual conference of APA, August 15,1997, Chicago,IL.

[106] Young Kimberly (2004), Internet Addiction: A New Clinical Phenomenon and

Its Consequences; American Behavioral Scientist, 48; 402

[107] Young Kimberly (2002), Internet Addiction: Symptoms, Evaluation, And

Treatment; Innovations in Clinical Practice (Volume 17)

[108] Young Kimberly (2007), Cognitive Behavior Therapy with Internet Addicts:

Treatment Outcomes and Implications; CYBERPSYCHOLOGY &

BEHAVIOR, Volume 10, Number 5.

[109] Young Kimberly (2009), Understanding online gaming addiction and

treatment issues for adolescents, The American Journal of Family Therapy.

[110] Young Kimberly (2010), A therapist‟s guide to assess and treat internet

addiction, Netaddiction.fusionxhost.com/article/practitioners (truy cập ngày

11/3/2014).

[111] Young Kimberly, Cristiano Nabuco de Abreu (4/2010), Internet addiction: A

Handbook and guide to Evaluation and Treatment; John Wiley & Sons, Inc.

[112] Jacobson (2001), Presence revisited: imagination, competence, and activity in

text-based virtual worlds. CyberPsychology & Behavior 4(4), 653-673.

[113] Zhang, Yang, Hao, Huang, Zhang, Sun (2012), Relationship of childhood

physical abuse and internet addiction disoder in adolescence: the mediating role

of self-esteem. Zhonghua Liu Xing Bing Zue Za Zhi, 2012 Jan; 33 (1): 50 – 3.

[114] http://vi.wikipedia.org/wiki/Internet, cập nhật ngày 08/02/2015).

160

[115] http://vi.wikipedia.org/wiki/Nghi%E1%BB%87n (cập nhật ngày 24/4/2015)

PHỤ ỤC

1

PHỤ LỤC 1

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

KHOA TÂM LÝ HỌC

Với mục đích nghiên cứu thực trạng sử dụng Internet của thiếu niên (hoc sinh THCS)

tại Đồng Nai. Chúng tôi rất mong sự giúp đỡ của bạn bằng cách bạn đọc kỹ từng câu một ở

các bảng dƣới đây và đánh dấu X vào một mức độ phù hợp với bản thân bạn nhất ở mỗi câu.

Đây là một bảng khảo sát trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu sinh tiến sĩ, không

đánh giá về đạo đức hay thành tích học tập/ công việc của bạn. Bảng khảo sát không ghi

tên bạn và chúng tôi cam kết giữ bí mật thông tin mà bạn cung cấp. Rất mong sự nhiệt tình

giúp đỡ của bạn.

BẢNG KHẢO SÁT

PHẦN I: Xin bạ vui ò đá dấu X vào ô thích hợp ở bảng những câu hỏi dƣới đ

0 = Không thích hợp 1 = Hiếm khi 2 = Thỉnh thoảng

3 = Thƣờng 4 = Thƣờng xuyên hơn 5 = Luôn luôn

CÂU HỎI

TRẢ LỜI ( THEO THỨ BẬC) 5

4

2

1

3

0

ST T 1

2

3

4

5

6

7

8

Bạn có thƣờng nhận thấy rằng mình ở trên mạng lâu hơn dự định? Bạn có thƣờng xuyên sao lãng việc chăm sóc gia đình để dành nhiều thời gian lên mạng? Bạn có thƣờng thích sự kích thích, sôi nổi của mạng internet hơn là thân mật với các thành viên trong gia đình không? Bạn có thƣờng xuyên thiết lập các mối quan hệ mới với những thành viên trên mạng không? Những ngƣời thân của bạn có thƣờng than phiền về thời gian mà bạn dành cho việc lên mạng không? Điểm số hay việc học ở trƣờng của bạn có thƣờng trở nên tồi tệ chỉ vì thời lƣợng mà bạn dành cho việc lên mạng không? Bạn có thƣờng xuyên phải kiểm tra e-mail trƣớc khi làm việc khác nào đó mà bạn cần thiết phải làm không? Công việc hay năng suất lao động của bạn có thƣờng biểu hiện kém hiệu quả chỉ vì mạng Internet?

2

9

Bạn có thƣờng trở nên giữ thế phòng thủ hoặc giấu giếm khi có bất cứ ai hỏi bạn làm gì trên mạng khổng?

10 Bạn có thƣờng ngăn chặn những suy nghĩ lo âu về cuộc sống của mình bằng những suy nghĩ dễ chịu về mạng Internet?

11 Bạn có thƣờng thấy mình dự đoán ( hành động/ thời gian) đƣợc khi bạn sẽ lại lên mạng không? 12 Bạn có thƣờng lo sợ rằng cuộc sống mà không có mạng Internet sẽ chán nản, trổng trải và không có niềm vui không?

13 Bạn có thƣờng cáu kỉnh, kêu la, hoặc bực mình nếu có ai đó làm phiền bạn trong khi bạn đang trực tuyến trên mạng không?

14 Bạn có thƣờng mất ngủ vì thức khuya để trực

tuyến trên mạng không?

15 Bạn có thƣờng cảm thấy lo lắng khi mạng Internet bị mất, hoặc tƣởng tƣợng về việc phải cắt sử dụng mạng Internet không?

16 Bạn có thƣờng thấy mình tự nhủ rằng "chỉ cần

thêm vài phút" khi bạn đang trực tuyến không?

17 Bạn có thƣờng cố gắng giảm bớt lƣợng thời gian mà bạn dành để lên mạng và sau đó thất bại không?

18 Bạn có thƣờng xuyên cố che giấu số lƣợng thời

gian bạn đã ở trên mạng không?

19 Bạn có thƣờng chọn dành nhiều thời gian để lên mạng hơn là đi ra ngoài với ngƣời khác không? 20 Bạn có thƣờng cảm thấy chán nản, buồn rầu, hay căng thẳng khi bạn không trực tuyến, và điều đó hết đi khi bạn đang quay lại trực tuyến không?

PHẦN II: Xin bạ vui ò đọc kỹ v đá dấu X vào các câu sau: 1. Bạn bắt đầu sử dụng Internet từ khi là:  Lứa tuổi trƣớc cấp 1  Học sinh cấp 1  Học sinh cấp 2 2. Xin bạn cho biết thời gian trung bình một ngày bạn sử dụng Internet?  Dƣới 1 giờ  Từ 1 – 3 giờ  Từ 3 – 5 giờ  Trên 5 giờ 3. Bạ t ƣờng truy cập Internet vào thời gian nào trong ngày? (có thể lựa chọn nhiều phương án trả lời)  Từ 6h00’ – 12h00’ (buổi sáng)  Từ 12h00’ – 1h30’ (buổi trƣa)  Từ 13h30’ – 18h00’ (buổi chiều)  Từ 18h00’ – 24h00’ (buổi tối)

3

 Do ngƣời thân hƣớng dẫn Do Quảng cáo

 Từ 24h00’ – 6h00’ ( buổi đêm) 4. Từ đ u bạn biết đến Internet và sử dụng Internet?  Do bạn bè giới thiệu Do bản thân tự tìm hiểu  Do trên lớp học tin học  Cửa tiệm Internet giới thiệu bắt buộc sử dụng Internet  Lý do khác ....... 5. Khi truy cập Internet, bạ t ƣờng sử dụng các ứng dụ o sau đ ? (có thể lựa chọn nhiều phương án trả lời)  Thƣ điện tử (email)  Chát/Tán gẫu  Lƣớt Website để đọc tin tức  Chơi trò chơi trực tuyến (game online)  Tìm kiếm tài liệu cho học tập/ nghiên cứu  Vào các trang mạng xã hội (facebook, Zing Me,...)  Xem các trang phim ngƣời lớn  Giải trí (nghe nhạc, xem phim, xem hài thƣ giãn,...)  Viết Blogs hoặc nhật ký trực tuyến. 6. Bạ t ƣờng truy cập Internet ở đ u?(có thể lựa chọn nhiều phương án trả lời)?

 Ở nhà  Ở Trƣờng  Tại tiệm Internet

 Ở nhà ngƣời quen  Ở nhà bạn bè  Địa điểm khác...

7. Bạ t ƣờng truy cập Internet bằ p ƣơ tiện nào? (có thể lựa chọn nhiều phương án trả lời)?  Máy tính để bàn  Điện thoại đi động  Máy tính xách tay cá nhân (Laptop)  Máy tính bảng (I pad, Ipot,...)  Phƣơng tiện khác,..... 8. Kinh phí chi trả cho việc truy cập Internet trong một tháng là bao nhiêu (bao gồm cả kinh phí thuê bao, mua card, mua các vật dụng trong trò chơi trực tuyến,... )  Dƣới 300.000 đ  Từ 301.000 đ - 500.000 đ  Từ 501.000 – 1.000.000 đ  Từ 1.001.000 – 1.500.000 đ  Từ 1.501.000 – 2.000.000 đ  Từ 2.001.000 – 5.000.000 đ  Trên 5.001.000 đ 9. Bạn có tham gia các hoạt động gặp gỡ, iao ƣu ở ngoài cùng với nhữ ƣời bạn quen trên mạng không? Nếu có, hãy lựa chọn các hoạt động mà bạ đã t a ia ?(Được lựa chọn nhiều phương án trả lời)  Hoạt động từ thiện  Gặp gỡ bạn bè  Các hoạt động quảng bá  Cuộc thi tài năng/ năng khiếu

4

 Không có tham gia  Hoạt động khác, Xin ghi rõ :................ 10. Điều gì khiến bạn có nhu cầu sử dụng Internet? (Đánh dấu X những mục phù hợp với bạn)

Thỉnh thoảng

T ƣờng xuyên

Rất t ƣờng xuyên

Không bao giờ

10.1. Đƣợc giao lƣu, học hỏi, mở rộng tri thức, hiểu biết xã hội 10.2. Thỏa mãn nhu cầu kết bạn, mở rộng quan hệ mà ngoài đời thực không làm đƣợc 10.3. Giải tỏa cô đơn, cô lập của bạn bè 10.4. Khảng định đƣợc mình trƣớc bạn 10.5. Thoát đƣợc cảm giác buồn chán trong cuộc sống. 10.6. Trải nghiệm mạo hiểm và kích thích sự khảm phá. 10.7. Tạo dựng và thể hiện những hình ảnh bản thân 10.8. Giải tỏa những căng thẳng. 10.9.Tăng cƣờng cập nhật thông tin 10.10. Giúp giải trí nhƣ xem phi, ca nhạc,… 10.11. Đáp ứng nhanh các hình ảnh, phim khiêu dâm 10.12. Có thể kiếm đƣợc tiền

Câu 11. Việc sử dụng internet ả ƣở ƣ t ế o đến bạn ?

ST T

Việc sử dụng Internet làm cho bạn cảm thấy:

Không bao giờ

Thỉnh thoảng

T ƣờng xuyên

Rất t ƣờng xuyên

Đau ở đầu Đau ở vùng lƣng/ cổ Đau ở vùng cổ tay

1 2 3 4 Mỏi và đau mắt 5 6

Khó khăn khi bắt đầu vào giấc ngủ Giấc ngủ của tôi rất chập chờn, không đủ giấc. Thức khuya và dậy rất sớm Khó ngủ

7 8 9 Mệt mỏi khi thức dậy 10 Bực bội, cáu gắt vô cớ từ khi sử dụng

Internet

5

11 Hồi hộp, lo lắng, bồn chồn 12 Tâm trạng buồn chán, bi quan 13 Ăn không ngon 14 Mệt mỏi 15 Khó tập trung chú ý 16 Thu mình, ngại tiếp xúc với ngƣời khác 17 Mất/ giảm hứng thú trong các công việc,

sự kiện trƣớc đây Việc sử dụng Internet làm cho bạn: Ít gặp gỡ bạn bè hơn

20

18 19 Giảm thời gian tham gia các hoạt động thực tế (đi chơi cùng bạn bè, tập thể dục, đọc sách, sinh hoạt đoàn hội, ...) và dành thời gian truy cập Internet Ít nói chuyện với anh chị em/ bạn bè/ bố mẹ hơn

21 Không muốn giao tiếp với ngƣời khác,

muốn ở một mình hay truy cập Internet

22 Mất dần các mối quan hệ thực tế và gia tăng mối quan hệ trên mạng Internet 23 Thành tích học tập/ công việc của bị

giảm sút

24 Giảm hứng thú với các môn học/ công

việc

25 Không còn nhiều thời gian để suy nghĩ

về các môn học Sau một thời gian sử dụng Internet, bạ đã từng:

26 Đã từng nhận đƣợc lời đe dọa từ một ngƣời nào đó biết tôi qua Internet 27 Đã từng bị làm dụng tình dục bởi các

bạn quen trên Internet

28 Đã từng nhận đƣợc lời mắng chửi của những ngƣời quen trên Internet qua các tin nhắn (qua email, tin nhắn,...)

30

31

29 Có hành vi đánh nhau/ gây hấn liên quan đến những mối quan hệ trên Internet Sử dụng thuốc lá/ rƣợu/ caphe hay một chất kích thích khác kể từ khi sử dụng Internet Sử dụng ma túy/ bồ đà/ đá/ hay một chất kích thích tƣơng tự kể từ khi sử dụng Internet

6

12. Yếu tố nào là lý do bạn sử dụng internet? (Đá dấu X những mục phù hợp với bạn)

TT

Không bao giờ

Thỉnh thoảng

T ƣờng xuyên

Rất t ƣờng xuyên

1 2 3 4 5

6 7 8 9

Bị bạn bè cô lập Bị bạn bè cô lập Căng thẳng do mâu thuẫn từ phía gia đình Bố mẹ hay chửi mắng Buồn chán do thiếu sân chơi lành mạnh ngoài cuộc sống thực Căng thẳng do việc học tập gây nên Thiếu sự quan tâm, giám sát của bố mẹ Hay bị căng thẳng Có nhiều thời gian rảnh nhƣng không biết làm gì Thất bại trong học tập

10

PHẦN III.

Dƣới đây là một chuỗi thông tin. Bạn hãy đọc kỹ từng câu. Với mỗi câu bạn hãy

lựa chọn một phƣơng án trả lời phù hợp nhất với bạn và khoanh tròn vào phƣơng án trả lời

đó. Bạn sẽ có 5 phƣơng án trả lời kí hiệu bằng 5 số:

1- Ho to k ô đồng ý

2- Hơi đồng ý

3- Bì t ƣờng

4- Đồng ý

5- Ho to đồng ý.

Bạn hãy cố gắng trả lời tất cả các câu.!

n à o t

n à o t

h n ì B

(Thông tin)

n à o H

n à o H

g n ô h k

ý g n ồ đ

ý g n ồ Đ

g n ờ ƣ t

ý g n i ồ ơ đ H

ý g n ồ đ

1 1

2 2

3 3

4 4

5 5

1

2

3

4

5

1

2

3

4

5

1

2

3

4

5

1- Tôi có một vị trí rất quan trọng trong gia đình. 2- Tôi thƣờng xuyên cáu giận. 3- Khi tôi nói chuyện với bạn bè, nhìn chung họ thƣờng đồng ý với tôi 4- Tôi dễ dàng chán nản trong lớp học 5-. Nói chung, mọi ngƣời đều nhận thấy khuôn mặt và vóc dáng của tôi khá dễ coi 6- Sau này, nếu tôi không thành công trong cuộc sống gia đình,

1

2

3

4

5

7

1

2

3

4

5

1

2

3

4

5

1

2

3

4

5

1

2

3

4

5

1

2

3

4

5

1

2

3

4

5

1 1 1 1 1 1

2 2 2 2 2 2

3 3 3 3 3 3

4 4 4 4 4 4

5 5 5 5 5 5

1

2

3

4

5

1 1

2 2

3 3

4 4

5 5

1

2

3

4

5

1 1 1 1 1 1

2 2 2 2 2 2

3 3 3 3 3 3

4 4 4 4 4 4

5 5 5 5 5 5

1

2

3

4

5

1 1 1

2 2 2

3 3 3

4 4 4

5 5 5

1

2

3

4

5

điều đó có nghĩa là tôi đã thất bại trong cuộc sống. 7- Tôi nghĩ rằng tổ tiên của tôi là những ngƣời rất có uy tín trong xã hội 8- Ngay cả khi tôi muốn khóc thì tôi vẫn biêt cách kìm nén nƣớc mắt. 9- Những ngƣời khác nghĩ rằng tôi có các ý tƣởng khác với mọi ngƣời 10- Tôi sẽ cố gắng hết khả năng của mình để sau này làm đƣợc những việc lớn) 11- Tôi thấy mình thật vụng về và không biết phải làm gì với đôi bàn tay của mình cả 12- Nhìn chung, khi tôi nói chuyện với bố mẹ thì họ đều hiểu tôi. 13- Tôi tin rằng giáo viên hài lòng về tôi 14- Tôi thƣờng xuyên căng thẳng bực mình 15- Tôi thƣờng xuyên nghĩ mình là gánh nặng cho gia đình. 16- Tôi luôn rất gần gũi các bạn tôi. 17. Tôi thấy khó khăn trong việc tổ chức việc học ở trƣờng 18- Tôi tự hào về cơ thể của tôi 19- Điều duy nhất đáng kể trong cuộc đời tôi đó là có một công việc tốt 20- Tôi thích làm cho ngƣời khác cƣời. 21- Tôi khôngcảm thấy sợ khi phải làm một việc gì khó khăn. 22- Tôi thƣờng xuyên bị chê trách trong khi tôi không đáng bị nhƣ thế. 23- Tôi né tránh nghĩ về những cái mà tôi sẽ làm sau này 24- Tôi thƣờng xuyên lo lắng 25- Tôi cảm thấy cơ thể của mình khỏe mạnh 26- Trong gia đình, tôi luôn thấy rất dễ chịu 27- Tôi không thành công trong học tập vì tôi không chăm chỉ 28- Tôi khá là can đảm 29- Tôi luôn chú ý tới những gì ngƣời khác nói về tôi, dù điều đó là hay hay dở 30- Trong gia đình tôi đƣợc chấp nhận 31- Tôi không quan tâm đến cơ thể của mình 32- Ỏ lớp , tôi hiểu bài rất nhanh. 33- Tôi sẽ bất hạnh nếu nhƣ sau này tôi không có nhiều bạn bè ở bên cạnh. 34- Tôi dễ phật ý nếu ngƣời khác không đồng tình với tôi. 35- Mọi ngƣời trong gia đình không quan tâm đến tôi 36- Ở trƣờng tôi thích đƣợc mọi ngƣời hỏi han 37- Tôi thấy mình quá xấu xí. 38- Tôi thích làm mọi thứ theo nhóm. 39- Kết quả học tập kém ở trƣờng dễ dàng làm tôi chán nản. 40- Tôi cảm thấy rất cần thiết phải ăn mặc sạch sẽ, chỉn chu 41- Tôi biết cách làm cho mọi việc trở nên hài hƣớc, khi ngƣời

1 1 1 1 1 1 1 1

2 2 2 2 2 2 2 2

3 3 3 3 3 3 3 3

4 4 4 4 4 4 4 4

5 5 5 5 5 5 5 5

8

1 1 1 1 1 1

2 2 2 2 2 2

3 3 3 3 3 3

4 4 4 4 4 4

5 5 5 5 5 5

1

2

3

4

5

1 1 1 1 1 1 1 1 1

2 2 2 2 2 2 2 2 2

3 3 3 3 3 3 3 3 3

4 4 4 4 4 4 4 4 4

5 5 5 5 5 5 5 5 5

1

2

3

4

5

1

2

3

4

5

1 1 1 1 1 1 1

2 2 2 2 2 2 2

3 3 3 3 3 3 3

4 4 4 4 4 4 4

5 5 5 5 5 5 5

1

2

3

4

5

1 1 1

2 2 2

3 3 3

4 4 4

5 5 5

1

2

3

4

5

1 1

2 2

3 3

4 4

5 5

1

2

3

4

5

1

2

3

4

5

ta chỉ trích tôi 42- Tôi thƣờng cảm thấy mình là ngƣời thừa trong gia đình 43- Những ngƣời khác chán nản về tôi 44- Tôi có đủ sức khỏe để chơi thể thao 45 -Ƣớc gì tôi vẫn cứ là trẻ con hoặc thiếu niên 46- Khi có ngƣời làm phiền tôi, tôi biết cách giữ bình tĩnh 47- Tôi luôn tranh cãi với ngƣời khác 48- Tôi nhận thấy rằng mọi ngƣời trong gia đình tôi thích những ngƣời khác hơn tôi. 49- Tôi nghĩ rằng tôi sẽ thành công trong cuộc sống. 50- Ở trƣờng, tôi không dám nói những gì tôi không hiểu 51- Tôi nghĩ rằng, trong tƣơng lai các con tôi sẽ tự hào về tôi. 52- Tôi hài lòng về gia đình tôi 53- Tôi tin là những ngƣời khác rất quý mến tôi 54- Tôi dễ dàng khóc khi thấy ngƣời khác khóc. 55- Tôi cảm thấy khó chịu khi ai đó cứ nhìn tôi chằm chằm 56- Tôi ghi nhớ rất tốt những gì mà tôi đã học 57- Tôi tin là gia đình tôi sẽ tốt hơn nếu không có tôi. 58- Tôi nghĩ rằng sau này nếu tôi ốm thì tôi sẽ không thể làm gì đƣợc nữa. 59- Nói chung, tôi là một ngƣời luôn nhìn mọi thứ theo cách tích cực 60- Gia đình tôi luôn nghĩ tôi là đồ bỏ đi. 61- Tôi cảm thấy rất dễ chịu nhất là khi ở một mình 62- Tôi nghĩ tôi sẽ luôn là một ngƣời bạn tốt. 63-. Tôi thƣờng có xu hƣớng quá lo lắng về sức khỏe của mình 64- Ở trƣờng, những nguời khác luôn muốn ở bên cạnh tôi. 65- Khi bố mẹ la mắng tôi, nói chung tôi nghĩ rằng họ có lý. 66- Tôi luôn cảm thấy buồn 67- Trong nhóm tôi thích đƣợc mọi ngƣời nhận xét và khen ngợi tôi. 68- Gia đình tôi rất tự hào về tôi 69- Tôi rất ít cố gắng để làm việc tốt hơn. 70- Tôi hài lòng lắm về gƣơng mặt và cơ thể 71- Tôi thích ở trong một gia đình khác hơn. 72- Có vẻ nhƣ những ngƣời khác nghe và làm theo những gì tôi nói. 73- Tôi sợ và khóc khi ngƣời ta la mắng tôi. 74- Tôi nghĩ là tôi luôn có khả năng để có đƣợc một công việc. 75- Tôi tin tƣởng gia đình tôi có thể giúp tôi giải quyết một vấn đề nào đó 76- Trong nhóm, tôi chờ ngƣời khác quyết định và hành động trƣớc. 77- Tôi nghĩ rằng cơ thể tôi phát triển bình thƣờng 78- Gia đình rất yêu thƣơng tôi 79- Ở trong nhóm, tôi cảm thấy cô đơn

1 1 1

2 2 2

3 3 3

4 4 4

5 5 5

9

80- Sau này tôi nghĩ tôi sẽ rất khoẻ mạnh.

1 1 1

2 2 2

3 3 3

4 4 4

5 5 5

81- Tôi tự hào vể kết quả học tập ở trƣờng của tôi. 82- Có vẻ nhƣ tôi là ngƣời đƣợc yêu thƣơng nhất trong gia đình.

PHẦN IV. Thông tin cá nhân.

1. Năm sinh: ........................

2. Giới tính:  Nam  Nữ

3. Nghề nghiệp:  Học sinh  Sinh viên  Đi làm  Không làm cả

4. Thành tích học tập trong năm vừa qua:

 Suất xắc  Giỏi  Khá  Trung bình  Yếu

5. Địa phƣơng:  Nông thôn  Thành thị  Miền núi

Xin chân thành cám ơn!

10

PHỤ LỤC 2

BẢNG PHỎNG VẤN SÂU

( Dựa trên tài liệu: A Therapist‟s Guide to Assess and Treat Internet Addiction By Dr.

Kimberly S. Young , Directer of Recovery Internet addiction Center - USA)

I. THÔNG TIN CHUNG.

1. Họ và tên:......................................... 2. Năm sinh:...................................

3. Giới tính:.............................................. 4. Nghề nghiệp:..........................

5. Điện thoại:........................................... 6. Email:....................................

Địa chỉ:. .........................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

II. NỘI DUNG.

1. Bạn bắt đầu sử dụng internet từ khi nào?

......................................................................................................................................................

2. Bạn dành bao nhiêu giờ trong một tuần để sử dụng inernet mà không có mục đích rõ

ràng? ..............................................................................................................................................

3. Xin đánh dấu vào mỗi loại hình mà bạn hay truy cập khi sử dụng trên internet.

Loại hình truy cập

Giờ/ tuần

Tại sao bạn thích về loại hình này?

Trang website cụ thể truy cập

Email Tán gẫu Trò chơi trực tuyến Tìm kiếm tin tức Mua bán trực tuyến Nghề môi giới trực tuyến Cờ bạc trực tuyến Các trang webisite dành cho ngƣời lớn Khác

4. Xin hãy mô tả những vấn đề xảy ra trƣớc khi bạn bắt đầu sử dụng internet ( VD: mâu

thuẫn/ đánh nhau với bạn bè; cảm xúc chán nản; căng thẳng trong công việc; xa sút về học

tập). ...............................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

11

4a. Tiếp theo, xin hãy mô tả về cảm xúc của bạn mỗi lần bạn truy cập Internet(VD: tán gẫu

làm tôi quên những mâu thuẫn trong quan hệ với bạn bè, truy cập Internet làm tôi cảm thấy

ít chán nản, ít căng thẳng trong công việc, giết một ngƣời khác trong trò chơi trực tuyến

làm tôi cảm thấy thích thú hơn). ...................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

4b. Tiếp theo, mô tả ngắn gọn về những hậu quả bởi việc truy cập internet khi sử dụng thói

quen này (tôi mất dần các mối quan hệ bạn bè, căng thẳng trong mối quan hệ với cha mẹ,

cảm xúc chán nản của tôi trở lại khi tôi thoát khỏi máy tính, công việc của tôi có nhiều rắc

rối, tôi không tiếp tục đƣợc việc học,...).

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

Sự thèm khát và hội chứng cai:

1. Bạn cảm thấy bận tâm về việc sử dụng internet?

.....................................................................................................................

2. Bạn đã cố gắng nhƣ thế nào để kiểm soát, cắt, hay dừng việc sử dụng máy tính?

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

3. Bạn thƣờng suy nghĩ gì về việc sẽ truy cập internet?

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

4. Bạn thƣờng nói gì về việc sẽ truy cập internet ( với mọi ngƣời)?

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

5. Bạn thƣờng có kế hoạch nhƣ thế nào để sử dụng internet?

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

12

......................................................................................................................................................

6. Bạn thƣờng làm nhƣ thế nào để kiêng, hay nói khác đi là có trách nhiệm hay bổn phận

về việc sử dung internet hợp lý?

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

7. Xin hãnh đánh dấu Có hay Không vào mỗi cảm xúc bạn trải qua khi bạn không thể truy

cập Internet hay là bị cấm đoán sử dụng internet?

Cảm xúc

Không

Lo âu Trầm cảm Những thay đổi cảm xúc Dễ cáu gắt Mất ngủ Cơn hoang mang/ hoảng hốt Luôn bồn chồn Khác

8. Bạn đã từng bao giờ có việc sử dụng internet để thoát khỏi cảm xúc:

Cảm xúc

Không

Tình trạng không thể tự lo liệu Tội lỗi Trầm cảm Cô đơn Sự hối tiếc Cơn giận dữ Sự tuyệt vọng Khác

9. Ngày đầu tiên và cuối cùng bạn cố gắng kiểm soát, cắt, hay dừng việc sử dụng Internet

là ngày nào? .................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

10. Thời gian dài nhất mà bạn đã kiêng sử dụng internet? ...........................................................

H động che dấu và việc làm cho suy yếu:

1. Bạn đã từng thành thật công nhận về thói quen sử dụng internet của bạn cùng ai chƣa ?

Có Không

Nếu có, xin hãy nói rõ: ……………………………………………………...

13

2. Bạn có bao giờ tạo nên một nhân vật mới ( hƣ cấu về bản thân) khi trực tuyến?

Có Không

Nếu có, hãy mô tả: .......................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

3. Bạn đã từng phát triển nhiều nhân dạng ( nhân vật) khi trực tuyến?

Có Không

Hãy nói về họ: ..............................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

6. Liệt kê những hành động trực tuyến mà bạn đã che dấu khi trực tuyến : ................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

7. Đã có những mối quan hệ nào trong cuộc sống của bạn bị trục trặc khi bạn sử dụng

Internet quá mức?

Có Không

Nếu có, xin hãy nói rõ đó là mối quan hệ với ai và họ có ảnh hƣởng nhƣ thế nào với bạn?

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

9. Sử dụng internet có làm khó khăn cho học tập hay thành tích học tập của bạn?

Có Không

Nếu có, xin hãy nói rõ hơn?

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

11. Xin hãy mô tả những vấn đề khác mà việc sử dụng internet đã tác động vào cuộc sống

của bạn?

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

Điều trị trƣớc.

1. Bạn đã từng tham vấn điều trị trƣớc đây với tình trạng nghiện internet chƣa?

Có Không

14

2. Nếu có, xin hãy mô tả khi nào và mức độ hiệu quả:

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

3. Bạn đã từng tham gia nhóm ủng hộ việc điều trị nghiện internet?

Có Không

4. Nếu có, xin hãy mô tả khi nào và mức độ hiệu quả:

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

5. Bạn đã điều trị bằng thuốc nào/ bác sĩ nào hiện nay?

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

.......... ngày .......... tháng .......năm ..........

N ƣời phỏng vấn

15

PHỤ LỤC 3

HỒ SƠ TÂ

(Dùng cho nghiên cứu)

1, PHẦN HÀNH CHÍNH.

Họ và tên (in hoa): …………………………................Nam/Nữ:……. Học lớp:…….....

Ngày sinh: ……………...Nơi sinh:………………………………………………….......

Con thứ: ………Nam/Nữ…….Tuổi con:…………………………………………………..

Họ tên bố:…………………………………………Tuổi:………Nghề nghiệp:……………

Họ tên mẹ:………………………………………Tuổi:………Nghề nghiệp:……………

Tôn giáo:……………………………………………………………………………………

Đ/C gia đình:……………………………………………SĐT:…………………………….

Tình trạng kinh tế gia đình:……………………………………………………………....

………………………………………………………………………………………………

Tính chất gia đình (các thế hệ, số ngƣời, cách nuôi dạy):……………………………….

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

2, HỒ SƠ TÂ .

2.1. DO ĐẾN KHÁM:

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

BỆNH SỬ: (tình trạng trƣớc khi khám bệnh, các biểu hiện ban đầu, sự tiến triển của bệnh,

quá trình điều trị và tình trạng hiện nay).

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

TIẾP XÚC BAN ĐẦU:

Ngày khám lần đầu:……………………………Ngƣời đƣa đến khám:………………...

Ấn tƣợng tiếp xúc ban đầu (bề ngoài ăn mặc, nét mặt, cử chỉ, nói năng…):

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

16

2.2. TIỀN SỬ

1.

Bản thân:

+ Thời kỳ bào thai:…………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

+ Tiền sử sản khoa:…………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

+ Nuôi dƣỡng và phát triển tâm vận động trƣớc 6 tuổi:…………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

+ Sau 6 tuổi: (khả năng thích nghi, hứng thú học tập, công việc, …):…………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

2. Tiền sử bệnh trong gia đình:………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

1.5.

KHÁM TÂM LÝ

+ Quan sát thái độ chung, dáng điệu, khí sắc:…………………………………………….

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

+ Các kiểu ứng xử (chú ý cử chỉ phi ngôn ngữ): …………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

+ Quan hệ với ngƣời thân: …………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

+ Quan hệ với khám: ………………………………………………...............................

………………………………………………………………………………………………

Hành vi: …………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

Xu hƣớng tính cách: ………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

17

CÁC MỐI QUAN HỆ CHÍNH

Quan hệ với các thành viên trong gia đình: ………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

Quan hệ với bạn bè: ……………………………………………………………………....

………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………

Các mối quan hệ khác:

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

Các sự cố đã xảy ra có liên quan:………………………………………………………....

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

CÁC TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ

Sự hợp tác làm test:…………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………

Test trí tuệ:………………………………………………………………………….......

………………………………………………………………………………………………

Test đánh giá hành vi:……………………………………………………………………..

………………………………………………………………………………………………

Test nhân cách:……………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

Khác:………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

2.9. THĂ TẬN NHÀ

Nhận xét chung: …………………………………………………………………………..

Nề nếp, truyền thống, sinh hoạt gia đình:…………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

Khu phố:……………………………………………………………………………………

18

Thái độ, tâm tƣ của ngƣời thân:……………………………………………………….......

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

2.10.TỔNG KẾT CHẨN ĐOÁN

+ Tình trạng chính :………………………………………………………………………...

.......................................................................................................................................

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

+ Tình trạng kèm theo (nếu có):……………………………………………………….....

..................…………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………

22.11. HƢỚNG TRỊ LIỆU

Tính toàn diện:…………………………………………………………………………....

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

Tính chiến lƣợc (linh hoạt có trọng tâm):………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

3, TỔNG KẾT HỒ SƠ

3.1.Kết thúc điều trị ngày:………………………………………………………………

3.2. Kết quả điều trị:……………………………………………………………………

..................................................................................................................................................

..........................................................................................................................

3.3.Hƣớng điều trị và các kết quả tiếp theo:………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

Ngày ……… tháng ………. năm……..

Nhà trị liệu

(Chữ ký và ghi rõ họ tên)

19

PHỤ LỤC 4

Độ tin cậy và giá trị của bảng hỏi

R E L I A B I L I T Y A N A L Y S I S - S C A L E (A L P H A)

Reliability Coefficients

N of Cases = 163.0 N of Items = 20

Alpha = .7600

Item-total Statistics

Scale Scale Corrected

Mean Variance Item- Alpha

if Item if Item Total if Item

Deleted Deleted Correlation Deleted

C2.1 66.2515 192.7944 .3130 .7667

C2.2 67.4417 181.7420 .3188 .7510

C2.3 67.2577 172.5258 .4574 .7403

C2.4 67.1043 180.1187 .3039 .7517

C2.5 66.6564 182.9800 .3111 .7585

C2.6 67.3558 181.8973 .3570 .7549

C2.7 67.9264 185.4760 .3486 .7633

C2.8 67.7423 184.7110 .3126 .7576

C2.9 67.2454 172.5073 .3899 .7450

C2.10 67.1288 176.4463 .3575 .7478

C2.11 67.0859 184.0049 .3112 .7580

C2.12 66.1166 177.4863 .3392 .7491

C2.13 66.6012 175.7227 .3651 .7471

C2.14 67.5890 174.8732 .3833 .7457

C2.15 66.6871 173.0064 .4303 .7421

C2.16 66.6564 173.0788 .4223 .7427

C2.17 66.5031 182.8071 .3128 .7585

C2.18 66.7423 174.8715 .4058 .7442

C2.19 66.8773 173.8614 .4158 .7433

C2.20 66.2393 171.7264 .4851 .7383

1. Bảng hỏi về biểu hiện tâm lý của nghiện internet

****** Method 1 (space saver) will be used for this analysis ******

_

R E L I A B I L I T Y A N A L Y S I S - S C A L E (A L P H A)

2. Bảng khảo sát các yếu tố hậu quả/ ả ƣởng của nghiện internet

20

Item-total Statistics

Scale Scale Corrected

Mean Variance Item- Alpha

if Item if Item Total if Item

Deleted Deleted Correlation Deleted

C14.1 52.3681 151.5797 .3723 .8726

C14.2 52.1718 150.4394 .3680 .8725

C14.3 52.4847 151.2266 .3487 .8729

C14.4 52.0245 148.7772 .4563 .8708

C14.5 52.5276 147.9421 .4473 .8708

C14.6 52.5460 145.9284 .5492 .8685

C14.7 52.2454 149.0135 .3300 .8737

C14.8 52.6074 146.9436 .5115 .8694

C14.9 52.0798 146.7158 .4768 .8700

C14.10 52.3129 143.1793 .6020 .8667

C14.11 52.3926 148.9807 .3950 .8720

C14.12 52.5644 149.0005 .4075 .8717

C14.13 52.7853 148.2314 .5196 .8697

C14.14 52.3006 147.1992 .5196 .8693

C14.15 52.0245 141.5179 .3898 .8839

C14.16 52.5031 145.7454 .5448 .8685

C14.17 52.5153 145.7945 .5263 .8689

C14.18 52.4356 147.1733 .4496 .8707

C14.19 52.1595 146.7275 .4303 .8711

C14.20 52.3497 145.8214 .5189 .8690

C14.21 52.4172 145.1953 .5365 .8685

C14.22 52.6074 147.5856 .5045 .8697

C14.23 52.2393 151.9362 .3730 .8745

C14.24 52.2270 149.0654 .3945 .8720

C14.25 52.2454 150.9518 .3178 .8736

C14.26 53.0491 154.1457 .3065 .8739

C14.27 52.9202 152.8146 .3639 .8745

C14.28 52.8037 152.3810 .3893 .8741

C14.29 52.7730 152.3000 .3603 .8748

C14.30 52.7975 151.0760 .3632 .8727

C14.31 52.9632 153.5418 .3605 .8745

21

Reliability Coefficients

N of Cases = 163.0 N of Items = 31

Alpha = .8754

****** Method 1 (space saver) will be used for this analysis ******

_

R E L I A B I L I T Y A N A L Y S I S - S C A L E (A L P H A)

Item-total Statistics

Scale Scale Corrected

Mean Variance Item- Alpha

if Item if Item Total if Item

Deleted Deleted Correlation Deleted

C15.1.1 37.1104 6.5309 .3195 .7412

C15.1.2 36.9325 7.2115 .3152 .7968

C15.1.3 37.1411 6.6898 .3880 .7573

C15.1.4 36.8098 6.7722 .3423 .7423

C15.1.5 37.2577 6.7974 .3464 .7379

C15.1.6 36.9325 6.6806 .3908 .7560

C15.1.7 36.9632 6.8135 .3437 .7776

C15.1.8 36.9571 6.6463 .3915 .7551

C15.1.9 37.4724 6.9174 .3266 .7160

C15.1.10 37.1534 7.0072 .3226 .7093

C15.1.11 37.0491 6.3186 .3720 .7135

C15.1.12 37.1043 6.8224 .3185 .7905

C15.1.13 37.3252 6.4554 .3199 .7391

Reliability Coefficients

N of Cases = 163.0 N of Items = 13

2. Bảng khảo sát các yếu tố ả ƣởng tới tình trạng nghiện internet

22

Alpha = .6844

****** Method 1 (space saver) will be used for this analysis ******

_

R E L I A B I L I T Y A N A L Y S I S - S C A L E (A L P H A)

Item-total Statistics

Scale Scale Corrected

Mean Variance Item- Alpha

if Item if Item Total if Item

Deleted Deleted Correlation Deleted

C16.1 193.2025 684.0390 .3108 .7797

C16.2 193.4417 685.6308 .3839 .7799

C16.3 193.2515 691.6092 .3879 .7808

C16.4 193.4479 694.6439 .3923 .7818

C16.5 193.3620 689.8373 .3094 .7806

C16.6 193.5276 683.6211 .3753 .7800

C16.7 193.1288 688.0389 .3161 .7806

C16.8 193.0675 687.3102 .3200 .7806

C16.9 193.2822 684.6236 .3947 .7798

C16.10 192.7239 686.0653 .3637 .7801

C16.11 193.3804 689.1137 .3886 .7809

C16.12 193.2638 687.9362 .3047 .7807

C16.13 193.6810 689.0457 .3494 .7803

C16.14 193.3558 687.8479 .3233 .7805

C16.15 193.3436 683.6714 .3898 .7798

C16.16 193.0429 684.7697 .3266 .7796

C16.17 193.4540 692.1013 .3442 .7813

C16.18 193.2945 690.1967 .3899 .7808

C16.19 192.9018 677.7310 .4104 .6786

C16.20 192.6626 676.5212 .4537 .7782

C16.21 193.2577 680.3036 .3804 .7790

4. Thang tự đá iá bản thân

23

C16.22 193.0859 682.7827 .3272 .7795

C16.23 193.5153 687.5106 .3221 .7805

C16.24 193.2761 686.9912 .3570 .7802

C16.25 193.0184 674.2651 .4751 .8779

C16.26 193.1656 690.8798 .3524 .8813

C16.27 193.1718 679.4641 .3645 .8790

C16.28 193.2147 677.9968 .4516 .8784

C16.29 193.0184 684.2157 .3847 .8799

C16.30 193.0000 675.0494 .4312 .8783

C16.31 193.6503 695.2782 .3771 .8820

C16.32 193.3865 678.0040 .4480 .8784

C16.33 193.0307 679.2398 .3693 .8790

C16.34 193.4417 686.6555 .3509 .8802

C16.35 193.7914 690.4254 .3841 .8809

C16.36 193.3374 678.6817 .3759 .8789

C16.37 193.6258 695.0258 .3777 .8820

C16.38 193.2209 685.0003 .3712 .8800

C16.39 193.1166 687.0542 .3182 .8806

C16.40 192.8160 685.6696 .3587 .8801

C16.41 193.3190 669.1075 .5735 .8769

C16.42 193.6810 685.8606 .3515 .8802

C16.43 193.4540 689.7679 .3949 .8808

C16.44 193.0000 683.9630 .3809 .8799

C16.45 192.9755 683.4191 .3849 .8799

C16.46 193.0061 680.0185 .3890 .8789

C16.47 193.3252 682.8874 .3203 .8795

C16.48 193.4172 683.5286 .3827 .8799

C16.49 193.1104 680.9383 .3685 .8791

C16.50 193.2945 689.3202 .3997 .8807

C16.51 193.1472 676.9782 .4187 .8785

C16.52 192.7239 679.9418 .3703 .8790

C16.53 193.2454 685.4703 .3993 .8798

C16.54 193.5337 684.3492 .3803 .8799

C16.55 193.1288 693.7549 .3096 .8816

C15.56 193.3436 683.3504 .3265 .8795

C16.57 193.6012 686.6980 .3275 .8805

C16.58 193.6074 688.6597 .3964 .8808

C16.59 193.1288 686.1006 .3774 .8800

C16.60 193.8405 697.7028 .3316 .8824

24

C16.61 193.0000 684.8642 .3528 .8802

C16.62 192.9325 680.8781 .4098 .8788

C16.63 193.0736 662.0316 .3647 .8902

C16.64 193.5460 683.7432 .3443 .8794

C16.65 193.2025 682.1872 .3313 .8794

C16.66 193.3129 677.5373 .3907 .8787

C16.67 193.1718 678.8962 .3704 .8790

C16.68 193.2945 685.4806 .3473 .8803

C16.69 193.4601 691.8919 .3653 .8810

C16.70 193.3558 686.6133 .3338 .8804

C16.71 194.0859 693.8938 .3174 .8814

C16.72 193.6871 690.9817 .3774 .8809

C16.73 193.4601 683.0401 .3952 .8798

C16.74 193.0798 675.0615 .4957 .8779

C16.75 193.0000 678.4321 .4070 .8787

C16.76 193.3681 686.0982 .3619 .8801

C16.77 192.9693 684.6842 .2904 .8798

C16.78 193.0675 681.7670 .3229 .8795

C16.79 193.5767 685.7024 .3446 .8803

C16.80 193.1104 676.8272 .4220 .8785

C16.81 193.3497 677.1918 .4174 .8785

C16.82 193.2270 688.1642 .3935 .8809

_

R E L I A B I L I T Y A N A L Y S I S - S C A L E (A L P H A)

Reliability Coefficients

N of Cases = 163.0 N of Items = 82

Alpha = .8813

25

PHỤ LỤC 5

Kiể định khác biệt về mức độ nghiện internet giữa các biến số

Giá trị kiể đị T/ ANOVA ức ĩa của p Các ti u c í kiể đị

t = 1,65 F = 1,67 F = 1,72 F = 2,30 F = 1,54 t = 0,057 t =0,68 t = 1,13 F = 0,58 F = 2,45 F = 2,21 F = 0,78 t = 0,111 t = 0,92 t = 6,08 F = 1,81 F = 0,37 F=0,30 F = 0,75 t= 2,26 t = 16,71 0,202 0,17 0,147 0,079 0,21 0,811 0,41 0,29 0,62 0,048* 0,089 0,46 0,73 0,33 0,015* 0,148 0,82 0,82 0,47 0,135 0,00** Nghiện Internet mức nhẹ Giới tính Khối lớp Kết quả học tập Điều kiện kinh tế gia đình Tình trạng hôn nhân của bố mẹ Địa bàn (Nông thôn/ Thành thị) Trƣờng (Dân lập/ Công lập) Nghiện Internet mức vừa Giới tính Khối lớp Kết quả ọc tập Điều kiện kinh tế gia đình Tình trạng hôn nhân của bố mẹ Địa bàn (Nông thôn/ Thành thị) Trƣờng (Dân lập/ Công lập) Nghiện Internet mức nặng Giới tí Khối lớp Kết quả học tập Điều kiện kinh tế gia đình Tình trạng hôn nhân của bố mẹ Địa bàn (Nông thôn/ Thành thị) Trƣờ (D ập/ Cô ập)

26

PHỤ LỤC 6. Sơ đồ cấu trúc iệu p áp ậ t ức vi d c o ca t iệp

ọc si THCS iệ i ter et

C ủ đề tác độ

Các buổi (1 buổi/ tuầ ) 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12 Trò chuyện, làm quen, hỏi chuyện lâm sàng. Áp dụng chƣơng trình đánh giá bởi những công cụ (trắc nghiệm nghiện internet của Young, thang đo tự đánh giá, bảng tiêu chuẩn) Ghi hồ sơ tâm lý. Thống nhất bản thỏa thuận tham gia chƣơng trình can thiệp của ngƣời bảo trợ thân chủ. Hoàn thiện về hồ sơ tâm lý. Thống nhất chƣơng trình làm việc và cam kết chƣơng trình cùng khách thể. Cùng phân tích những những tích cực của internet đối với cá nhân khách thể trong thời gian qua. Thảo luận và phân tích cùng khách thể chủ đề: Tại sao họ lại thích truy cập vào các trang mạng mà họ hay truy cập?. Hay là phân tích những nguyên nhân dẫn tới việc thích hay lạm dụng internet, đặc biệt nhất mạnh và làm rõ yếu tố tác động là tự đánh giá bản thân của khách thể. Cùng thân chủ phân tích hậu quả hay những khó khăn mà thân chủ/ khách thể gặp phải khi thƣờng xuyên truy cập các trang mạng. Cùng thân chủ phân tích các trang mạng mà thân chủ hay truy cập, đồng thời phân tích các trải nghiệm cảm xúc hay nhận thức của thân chủ khi thân chủ truy cập trang mạng đó. Cùng thân chủ chia sẻ những động cơ, hay điều gì làm thân chủ không thể kiểm soát đƣợc việc sử dụng internet của mình. Cùng phân tích những khó khăn trong cuộc sống thực mà thân chủ đang trải qua. Cùng thân chủ phân tích những thiếu hụt về cảm xúc, nội tâm và đặc biệt tự đánh giá của thân chủ. Cùng thân chủ tìm hiểu những vấn đề khó khăn nổi bật trong cuộc sống mà thân chủ đang trải qua. Cùng thân chủ lựa chọn một tiến trình hành vi đối nghịch với hành vi sử dụng internet quá mức. Nhƣ đi chơi cùng mọi ngƣời, tập thể dục, … Mỗi hành vi đối nghịch này phải đƣợc thân chủ thực hành hàng ngày ở nhà. Cùng trao đổi với gia đình, và thân chủ về những kết quả đã đạt đƣợc. Thông báo với gia đình về việc chuẩn bị kết thúc chƣơng trình tham vấn.

27

13

Cùng gia đình và thân chủ thảo luận các bài tập và hoạt động hỗ trợ tiếp theo. Đánh giá bằng các bản trắc nghiệm và thang đo từ ngày đầu sử dụng để lƣợng giá vấn đề của thân chủ. Kết thúc chƣơng trình làm việc với thân chủ.

( Nguồn: Structured Cognitive –behavior Psychotherapy Model for the Treatment of

Internet Addiction; A Handbook anf Guide to Evaluation and treatment Internet

addiction; K. .S Young, Cristiano Nabuco de Abreu; 2010)

28