ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

----------

LÊ THỊ CẨM VÂN

QUY CHIẾU THỜI GIAN TRONG TIẾNG VIỆT

TỪ GÓC NHÌN NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Huế, 2023

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

----------

LÊ THỊ CẨM VÂN

QUY CHIẾU THỜI GIAN TRONG TIẾNG VIỆT

TỪ GÓC NHÌN NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN

Ngành: NGÔN NGỮ HỌC

Mã số: 9229020

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS. TS Nguyễn Văn Hiệp

2. PGS. TS Trương Thị Nhàn

Huế, 2023

LỜI CAM ĐOAN

Huế, ngày 22 tháng 9 năm 2023 Tác giả luận án

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các cứ liệu nêu trong luận án là trung thực. Các trích dẫn dùng trong luận án đều có chú thích nguồn rõ ràng. Các kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kì công trình của tác giả nào khác.

Lê Thị Cẩm Vân

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy cô hướng dẫn, GS. TS. Nguyễn Văn Hiệp và PGS. TS. Trương Thị Nhàn, những người đã chỉ dẫn, dìu dắt và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.

Cảm ơn thầy cô vì lòng trìu mến và niềm mong đợi mà đã trao cho đứa học trò là tôi nhiều tài liệu quý. Tôi sẽ không thể nào hoàn thành luận án nếu không nhận được sự giúp đỡ về tài liệu từ GS. TS. Nguyễn Văn Hiệp – Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, PGS. TS. Trương Thị Nhàn –Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, PGS. TS. Hoàng Dũng – Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, PGS. TS. Trần Văn Phước – Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế, PGS. TS. Trịnh Sâm – Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, TS. Phan Trang – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia Hà Nội, TS. Nguyễn Hoàng Trung – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Cảm ơn PGS. TS. Phạm Hùng Việt – Viện Từ điển học và Bách khoa thư, TS. Lê Lâm Thi – Trường Đại học Ngoại Ngữ, Đại học Huế, TS. Nguyễn Văn Vượng – Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế vì những chỉ dẫn về khối liệu Việt ngữ.

Cảm ơn TS. Nguyễn Thị Bạch Nhạn, PGS. TS. Hoàng Tất Thắng đã gánh vác giúp tôi công việc chuyên môn để tôi có thời gian nghiên cứu. Tôi sẽ không thể hoàn thành luận án đúng thời gian như mong đợi nếu không có sự giúp đỡ nhiệt tâm, trách nhiệm và chân thành này. Đặc biệt tôi muốn gửi lời cảm ơn đến TS. Nguyễn Thị Bạch Nhạn vì những trao đổi chuyên môn với cô đã đưa tôi đến cơ duyên thực hiện luận án này. Tôi cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Hoàng Dũng, người thầy lớn đã trao truyền tri thức, kinh nghiệm nghiên cứu và thắp lên trong tôi lòng yêu Ngôn ngữ học.

Cho tôi gửi lời cảm ơn đến Tổ Ngôn ngữ - Hán Nôm, Khoa Ngữ văn và Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế vì đã luôn tạo điều kiện về mọi mặt để tôi chuyên tâm hoàn thành luận án. Cảm ơn Khoa Ngữ văn và Phòng Đào tạo Sau đại học Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế, Ban Đào tạo và công tác sinh viên Đại học Huế đã hỗ trợ tôi trong suốt quá trình theo học nghiên cứu sinh.

Cảm ơn Thư viện Quốc gia, Cục thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia đã luôn kịp thời hỗ trợ để tôi có được các tài liệu đã công bố liên quan đến đề tài một cách nhanh chóng.

Lòng biết ơn tự thẳm sâu tôi muốn gửi đến gia đình - những người thân yêu đã

luôn đồng hành, ủng hộ và giúp đỡ tôi trong những ngày tôi bận rộn.

Cảm ơn những người bạn quý đã động viên tôi trong suốt nhiều năm dài. Hành trình vạn dặm chỉ mới bắt đầu. Cho tôi được bày tỏ lòng tri ân đến những

ân nhân đã giúp đỡ tôi ở những bước đầu tiên trên con đường vạn dặm ấy.

Huế, ngày 22 tháng 09 năm 2023 Nghiên cứu sinh

MỤC LỤC MỤC LỤC .................................................................................................................. i

DANH MỤC BẢNG ................................................................................................ iv

DANH MỤC HÌNH ...................................................................................................v

DANH MỤC SƠ ĐỒ ............................................................................................... vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÍ HIỆU VÀ QUY ƯỚC TRÌNH BÀY vii

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1

2. Mục đích nghiên cứu ...........................................................................................2

3. Nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................................2

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................2

5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................4

6. Đóng góp của luận án ..........................................................................................5

7. Bố cục của luận án ...............................................................................................5

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ............7

1.1. Dẫn nhập ...........................................................................................................7

1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................7

1.2.1 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở phạm vi ngoài nước .............7

1.2.2 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở phạm vi trong nước ............21

1.3 Cơ sở lý luận ....................................................................................................28

1.3.1 Các vấn đề lý thuyết về thời gian .............................................................28

1.3.2 Các vấn đề lý thuyết về khung quy chiếu .................................................34

1.4 Tiểu kết.……………………………………………………………………...44

1.3.3 Khái niệm khung và phạm trù toả tia trong Ngôn ngữ học tri nhận .........43

Chương 2 CÁC KHUNG QUY CHIẾU THỜI GIAN VÀ SỰ ĐỒ CHIẾU TỪ

CÁC KHUNG QUY CHIẾU KHÔNG GIAN SANG CÁC KHUNG QUY

CHIẾU THỜI GIAN TRONG TIẾNG VIỆT ......................................................49

2.1 Dẫn nhập ..........................................................................................................49

2.2 Dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt .......................................................49

2.2.1 Trục của dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt ..................................50

2.2.2 Hướng của dòng thời gian và sự phân bố quá khứ - tương lai trên dòng thời

gian trong tiếng Việt ..........................................................................................55

i

2.3 Các khung quy chiếu không gian trong tiếng Việt ..........................................58

2.3.1 Khung quy chiếu không gian tuyệt đối trong tiếng Việt ..........................58

2.3.2 Khung quy chiếu không gian nội tại trong tiếng Việt ..............................59

2.3.3 Khung quy chiếu không gian tương đối trong tiếng Việt .........................60

2.3.4 Các trường hợp lưỡng khả .......................................................................63

2.4 Các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt .............................................66

2.4.1 Khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt ..............................66

2.4.2 Khung quy chiếu thời gian nội tại trong tiếng Việt ..................................71

2.4.3 Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt .............................78

2.5 Sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời

gian trong tiếng Việt ..............................................................................................84

2.5.1 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu

tuyệt đối .............................................................................................................84

2.5.2 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu

nội tại .................................................................................................................87

2.5.3 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu

tương đối ............................................................................................................89

2.5.4 Nhận xét về sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy

2.6 Tiểu kết………………………………………………………………………88

chiếu thời gian trong tiếng Việt .............................................................................91

Chương 3 SỰ TRI NHẬN VÀ BIỂU ĐẠT QUY CHIẾU THỜI GIAN QUA

KHÔNG GIAN TRONG TIẾNG VIỆT: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP LÙI,

QUA, SANG, TỚI, ĐẾN ..........................................................................................96

3.1 Dẫn nhập ..........................................................................................................96

3.2 Sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian: nghiên cứu trường

hợp từ lùi................................................................................................................97

3.2.1 Lùi biểu đạt không gian ............................................................................98

3.2.2 Lùi biểu đạt thời gian ............................................................................. 100

3.3 Sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian: nghiên cứu trường

hợp qua, sang ..................................................................................................... 114

3.3.1 Qua, sang biểu đạt không gian .............................................................. 114

3.3.2 Qua, sang biểu đạt thời gian .................................................................. 117

3.4 Sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian: nghiên cứu trường

ii

hợp tới, đến ......................................................................................................... 130

3.4.1 Tới, đến biểu đạt không gian ................................................................. 130

3.4.2 Tới, đến biểu đạt thời gian ..................................................................... 133

3.5 Nhận xét về lùi, sang, qua, tới, đến .............................................................. 144

3.6 Tiểu kết ......................................................................................................... 148

KẾT LUẬN ........................................................................................................... 150

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 154

NGUỒN NGỮ LIỆU ............................................................................................ 160

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

ĐÃ CÔNG BỐ ........................................................................................................ P1

PHỤ LỤC ................................................................................................................ P2

PHỤ LỤC 1 ............................................................................................................. P3

iii

PHỤ LỤC 2 ............................................................................................................. P9

DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1 Các quan niệm khác nhau về hệ thống khung quy chiếu thời gian……….16 Bảng 1.2 Các biến thể của ý niệm thời gian……………………..……………….....29 Bảng 2.1 So sánh các biểu đạt thời gian trong tiếng Việt và tiếng Quan Thoại……………………………………………………………………………….54 Bảng 2.2 Khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt……………………70 Bảng 2.3 Khung quy chiếu thời gian nội tại trong tiếng Việt……….……………..77 Bảng 2.4 Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt …………………..84 Bảng 2.5 Khái quát về sự đồ chiếu khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt……………………………………………………….…..93 Bảng 3.1 So sánh lùi biểu đạt không gian và lùi biểu đạt thời gian……………….102 Bảng 3.2 So sánh qua và sang trong biểu đạt không gian và thời gian……………123 Bảng 3.3 So sánh tới và đến trong biểu đạt không gian và thời gian…...................140

iv

Bảng 3.4 Khả năng biểu đạt thời gian của lùi, sang, qua, tới, đến….……………….145 Bảng 3.5 Khả năng tham gia quy chiếu thời gian của qua, sang, tới, đến………….145 Bảng 3.6 Khả năng tham gia vào kết hợp biểu đạt thời gian trực chỉ của sang, qua, tới, đến…………………………………………………………………………….146

v

DANH MỤC HÌNH Hình 1.1 Kịch cảnh có thể được mô tả theo nhiều khung quy chiếu khác nhau…...35 Hình 1.2 Các khung quy chiếu không gian.………………………………………..40 Hình 1.3 Khung quy chiếu thời gian tuyệt đối…………………………………..…41 Hình 1.4 Khung quy chiếu thời gian nội tại………………………………………..41 Hình 1.5 Khung quy chiếu thời gian tương đối……………………………………42 Hình 2.1 Phối cảnh “con khỉ ở phía sau tảng đá” trong tiếng Việt……...…………..61 Hình 2.2 Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt…………………...82 Hình 2.3 Phối cảnh “con mèo ở trước cái cây” trục trước – sau…….………..…….90 Hình 2.4 Phối cảnh “Quả bóng ở phía trước cái ghế” …….………..…………..…..91 Hình 3.1 Phối cảnh chuyển động lùi trong không gian……………………………..99

vi

DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1 Chuỗi sự tình trong thời gian…………………………………..…………77 Sơ đồ 2.2 Quan hệ thời gian tam tố với G ∈ tương lai, F trước G………………........79 Sơ đồ 2.3 Quan hệ thời gian tam tố với G ∈ tương lai, F sau G………………...........79 Sơ đồ 2.4 Khung quy chiếu thời gian tương đối: biến thể phản chiếu…………….....80 Sơ đồ 2.5 Quan hệ thời gian tam tố với G ∈ quá khứ, F trước G……………….........80 Sơ đồ 2.6 Quan hệ thời gian tam tố với G ∈ quá khứ, F sau G…...…………….........81 Sơ đồ 2.7 Khung quy chiếu thời gian tương đối: biến thể chuyển dịch………...........81 Sơ đồ 2.8 Sự đồ chiếu mô hình quy chiếu từ không gian sang thời gian: sự tình chuyển động……………...……………………..………………………………..…………85 Sơ đồ 2.9 Biểu diễn trên dòng thời gian của sự tình “trong tháng 6”…………...86 Sơ đồ 2.10 Biểu diễn trên dòng thời gian của sự tình “vào lúc 7 giờ”…………...86 Sơ đồ 2.11 Hướng trong khung quy chiếu không gian tuyệt đối………………...86 Sơ đồ 2.12 Hướng trong khung quy chiếu thời gian tuyệt đối………………..........87 Sơ đồ 2.13 Sự đồ chiếu quan hệ trực chỉ trong không gian lên thời gian……………88 Sơ đồ 2.14 Hướng trong khung quy chiếu không gian trực chỉ………………….88 Sơ đồ 2.15 Hướng trong khung quy chiếu thời gian nội tại trực chỉ……………88 Sơ đồ 2.16 Sự đồ chiếu quan hệ chuỗi trong không gian lên thời gian……………..89 Sơ đồ 3.1 Phối cảnh thời gian của sự tình “chiến tranh đã lùi xa”……………….....106 Sơ đồ 3.2 Phối cảnh không gian của sự tình “màu sơn vàng của nửa cầu phía nam cứ lùi dần sau lưng họ”………………....................................................................106 Sơ đồ 3.3 Phối cảnh thời gian “lùi về năm 2019”……………….............................107 Sơ đồ 3.4 Phối cảnh không gian “tàu SE8 được kéo lùi lại đúng vị trí dừng tránh”……………………………………………………………………………...108 Sơ đồ 3.5 Phối cảnh “dịch bệnh kéo nền kinh tế Ấn Độ lùi lại 20 năm”…………108 Sơ đồ 3.6 Phối cảnh một vật bị đẩy lùi trong không gian………….……………..108 Sơ đồ 3.7: Phối cảnh “xung đột liên miên đẩy nền kinh tế đất nước lùi lại hàng chục năm”……………………………………………………………………………....109 Sơ đồ 3.8 Phối cảnh không gian “tàu SE8 được kéo lùi lại đúng vị trí dừng tránh” ở hướng khác………………………………………………………………………..109 Sơ đồ 3.9 Phối cảnh thời gian “trước đó, thời điểm phóng vệ tinh này đã phải lùi lại một ngày”……………………………………………...………………………….110 Sơ đồ 3.10 Phối cảnh lùi một thời điểm về phía tương lai………………………...111 Sơ đồ 3.11 Phối cảnh lùi một sự kiện về phía tương lai…………………………..112 Sơ đồ 3.12 Phối cảnh “Thế kỷ 20 đi qua”…………………………………………126 Sơ đồ 3.13 Phối cảnh “xuân sang”…………………………………...………..….126 Sơ đồ 3.14 Phối cảnh “mùa đông đã tới”……..……………………...………..….142

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÍ HIỆU VÀ QUY ƯỚC TRÌNH BÀY

1. Danh mục các chữ viết tắt Chữ viết tắt O F G PREP f ART T1 T2 V X Chữ viết đầy đủ đối thể Figure (Hình) Ground (Nền) giới từ thực thể tác động mạo từ thời điểm một thời điểm hai Viewpoint of observer (điểm nhìn của người quan sát) gốc của hệ toạ độ

2. Kí hiệu

Ý nghĩa ví dụ bất khả chấp ví dụ thiếu tự nhiên thuộc trùng khác là, giống có không Kí hiệu * ? ∈ ≡ ≠ = + -

3. Quy ước trình bày

Chữ in hoa cỡ nhỏ được dùng khi trình bày một ý niệm theo quy ước của Ngôn

ngữ học tri nhận.

Dấu ‘…’ được sử dụng khi trình bày phần dịch nghĩa ra tiếng Việt các ví dụ

tiếng Anh.

vii

Dấu “…” sử dụng khi trình bày đối tượng phân tích. Chữ in nghiêng được sử dụng cho các ví dụ.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1 Thời gian là vấn đề được đề cập từ rất sớm và là một trong những vấn đề quan trọng trong lịch sử tư duy, lịch sử khoa học của nhân loại. Nó là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như Vật lý, Triết học, Ngôn ngữ học, Tâm lý học, Dân tộc học, Nhân chủng học, Văn hoá học, Văn học, v.v.. Tuy vậy, bản chất của thời gian, những bí ẩn cũng như biểu hiện đa dạng của nó vẫn không ngừng thu hút những nỗ lực khám phá mới. Con người cho đến nay vẫn chưa có một tri kiến toàn vẹn về thời gian.

1.2 Với mỗi cộng đồng dân tộc, thời gian được nhận thức có thể rất khác nhau bên cạnh những cái chung mang tính phổ quát; đặc điểm này được cấu trúc vào ngôn ngữ của họ. Qua ngôn ngữ, chúng ta có thể thấy được cách một cộng đồng nhận thức về thời gian, quy chiếu thời gian, từ đó mà phân biệt cách tri nhận thời gian của họ với các cộng đồng khác. Ở góc độ này, ngôn ngữ là phương tiện hữu hiệu để khám phá bề sâu tư duy, các lí do tự nhiên, xã hội ẩn sau các biểu đạt ngôn ngữ của một dân tộc.

1.3 Trong lịch sử ngôn ngữ học thế giới, vấn đề thời gian đã được tiếp cận từ góc độ nghiên cứu ngữ nghĩa của hệ thống ngữ pháp, với các thành tựu nghiên cứu về thì, thể và tình thái (Tense, Aspect, Modality - TAM), từ hệ thống ẩn dụ cơ sở mang tính phổ niệm (Lý thuyết Ẩn dụ tri nhận hay Ẩn dụ ý niệm – khởi đi từ công trình Metaphors We Live By của Lakoff và Johnson (1980)) và gần đây là xem xét thời gian trong ngôn ngữ và nhận thức của con người theo cách chúng được thể hiện trong giao tiếp độc lập với các ẩn dụ ý niệm chỉ thời gian (Lý thuyết Ý niệm từ vựng và Mô hình tri nhận – khởi đi từ công trình How Words Mean – Lexical Concepts, Cognitive Models, and Meaning Construction của Evans (2009)), từ Lý thuyết khung quy chiếu thời gian. Điều này cho thấy thời gian là đối tượng quan tâm chính của nhiều khuynh hướng nghiên cứu Ngôn ngữ học, trong đó Ngữ học tri nhận tiếp cận vấn đề từ nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau, có thể nói là phong phú và đa diện nhất. Cách tiếp cận của Ngữ học tri nhận ngoài đưa ra các mô hình ngôn ngữ còn giải thích các lý do chức năng và tri nhận bên dưới lớp vỏ ngôn ngữ, nhờ đó tiệm cận đến tiêu chí thoả đáng giải thích.

Ở Việt Nam, vấn đề thời gian đã được tiếp cận từ nhiều khuynh hướng lý thuyết khác nhau. Tuy nhiên việc áp dụng Lý thuyết khung quy chiếu theo quan điểm Tri nhận luận vẫn là vấn đề mới mẻ trong nghiên cứu Việt ngữ.

1

1.4 Từ thực tế đó, luận án hướng đến nghiên cứu vấn đề quy chiếu thời gian trong tiếng Việt theo quan điểm của Ngôn ngữ học tri nhận, tiếp thu cách xử lý vấn đề của Lý thuyết khung quy chiếu thời gian do Bender và các cộng sự của ông đề xuất nhằm giới thiệu lý thuyết này ở Việt Nam và ứng dụng nó vào nghiên cứu một

ngôn ngữ khác biệt về cơ tầng văn hoá và loại hình ngôn ngữ so với đa số các ngôn ngữ đã được nghiên cứu cho đến nay. Việc ứng dụng này nhằm quan sát và phân tích vấn đề trên cứ liệu tiếng Việt, từ đó đối chiếu với các mô tả lý thuyết hiện có để kiểm chứng và bổ sung lý thuyết. Ngoài ra, luận án cũng vận dụng cách xử lý chuyển khung ngữ nghĩa để phân tích sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian trong ngôn ngữ ở bình diện cấu trúc, một vấn đề chưa được chú ý nhiều khi mô tả quy chiếu thời gian thông qua các ẩn dụ không gian theo đường hướng Ngôn ngữ học tri nhận.

Chính vì những lý do trên mà nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Quy chiếu thời

gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận” để thực hiện. 2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu quy chiếu thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri

nhận, luận án nhằm mục đích:

- Vận dụng lý thuyết Khung quy chiếu thời gian vào nghiên cứu trên đối tượng tiếng Việt. Đây là lý thuyết chưa được giới thiệu và ứng dụng vào nghiên cứu tiếng Việt. Vì vậy với việc ứng dụng lý thuyết này, luận án vừa nhằm giới thiệu lý thuyết vừa nhằm kiểm nghiệm giá trị của lý thuyết.

- Làm rõ cách người Việt quy chiếu thời gian theo đường hướng Ngôn ngữ học tri nhận, từ đó đóng góp cách nhìn khác về vấn đề thời gian trong tiếng Việt so với các văn liệu hiện có. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:

1. Tổng thuật lý thuyết về khung quy chiếu thời gian. 2. Miêu tả, phân tích dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt. 3. Phân tích các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt. 4. Phân tích sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu

thời gian trong tiếng Việt.

5. Phân tích sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua một số từ có nghĩa

gốc chỉ không gian trong tiếng Việt. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận án là quy chiếu thời gian trong tiếng Việt.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Luận án giới hạn nghiên cứu quy chiếu thời gian trong tiếng Việt theo cách tiếp cận của Ngữ học tri nhận ở các nội dung sau: dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt; các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt; sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt; sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua một số từ không gian được chuyển nghĩa để chỉ thời gian trong tiếng Việt.

2

Để làm sáng tỏ các nội dung trên, luận án lấy ngữ liệu chủ yếu từ trang https://s.ngonngu.net/corpus/. Ngoài ra còn có ngữ liệu từ nguồn Từ điển Tiếng Việt

(Hoàng Phê, 2009), Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý, 1999), Tuyển tập Văn học dân gian Việt Nam – Tục ngữ (2 tập), Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh & Hoài Chân, 2015), Truyện Kiều (Nguyễn Du, 2015), khối liệu Việt ngữ trên trang https:/sketchengine.eu và một số trang web khác.

Trang https://s.ngonngu.net/corpus/ tập hợp khối liệu Việt ngữ trên các trang báo điện tử uy tín như tuoitre.vn, thanhnien.vn, laodong.vn, zingnews.vn, tienphong.vn, plo.vn, vnexpress.net, v.v.. Nghiên cứu sinh khảo sát 50 trang đầu tiên hiển thị ngữ liệu tiếng Việt có chứa từ khảo sát, mỗi trang gồm 20 ngữ liệu, như vậy với mỗi từ khoá, mẫu sẽ được chọn từ 1000 ngữ liệu. Ngữ liệu hiển thị trên trang ở chế độ “Cũ nhất trước” (các ngữ liệu có thời gian tạo lập từ năm 2000 trở lại đây) mà không phải ở chế độ “Ngẫu nhiên” hoặc “Mới nhất” để có tính ổn định và có thể kiểm chứng; hai chế độ còn lại ngữ liệu có sự biến thiên. Phần phụ lục chỉ trình bày một phần ngữ liệu được khảo sát. Luận án lựa chọn những mẫu có sự khác biệt về ý niệm, ngữ nghĩa, phối cảnh, chức năng quy chiếu, cách kết hợp, đặc điểm từ loại, chức năng cú pháp nhằm có thể khái quát được tính đa dạng và chi tiết của đối tượng đang được phân tích. Những mẫu mà các đặc điểm trên hoàn toàn giống nhau, luận án không đưa vào phần phụ lục.

Trong trình bày, ví dụ không chú thích nguồn là ví dụ lấy từ https://s.ngonngu.net/corpus/; ví dụ lấy từ các nguồn khác sẽ được luận án chú thích nguồn.

3

Để biểu đạt thời gian, tiếng Việt sử dụng nhiều phương tiện khác nhau. Đó có thể là các danh từ như buổi, ngày, tuần, tháng, năm, mùa, dạo, lúc, khi, trước, sau, v.v. và các danh ngữ được tạo ra với trung tâm là các danh từ trên; các phó từ như đã, đang, sẽ, sắp, vừa, mới, rồi, v.v.; các động từ như kéo, đẩy, chuyển, dời, bước, lùi, lui, qua, sang, ra, vào, đến, tới, v.v., các giới từ như trong, ngoài, trước, sau, trên, dưới, lên, xuống, vào, ra, qua, sang, tới, đến; các đại từ như nay, này, đây, đấy, đó, ấy, nọ, kia; các tính từ như nhanh, chóng, chậm, lâu, sớm, muộn, trễ, gấp, v.v.. Trong luận án này, một mặt do phạm vi triển khai của các văn liệu đi trước (nhóm các danh từ, danh ngữ và phó từ có nghĩa gốc chỉ thời gian đã được nghiên cứu), mặt khác do tiếp cận vấn đề từ lý thuyết khung quy chiếu, trong đó có xem xét sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian, nên luận án tập trung chính vào các biểu đạt có nghĩa gốc chỉ không gian. Trong các nhóm có nghĩa gốc chỉ không gian, nhóm tính từ chủ yếu biểu đạt thuộc tính thời gian của đối tượng mà không quy chiếu thời gian. Khả năng tham gia quy chiếu thời gian của nhóm các đại từ rất thú vị; tuy nhiên, do giới hạn dung lượng cho phép và khả năng của người nghiên cứu, trong luận án này, nghiên cứu sinh chưa có điều kiện triển khai phân tích. Trong số các danh từ, động từ, giới từ vốn có nghĩa gốc chỉ không gian, trước, sau, lùi, qua, sang, tới, đến là những từ có tần số biểu đạt thời gian cao nhất (theo khảo sát của chúng tôi trên https://s.ngonngu.net/corpus/), đồng thời chúng phong phú về ngữ nghĩa thời gian, kết hợp ngữ pháp, khả năng quy chiếu nên được luận án lựa chọn phân tích. Để phục

vụ cho việc phân tích dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt, ngoài trước, sau, lùi, qua, sang, tới, đến, luận án còn phân tích thêm lên, xuống, trên, dưới. Vì những lẽ trên, luận án hướng trọng tâm khảo sát trên kho ngữ liệu các từ khoá trước, sau, trên, dưới, lên, xuống, lùi, qua, sang, tới, đến làm cứ liệu nghiên cứu. Các nội dung phân tích trong luận án chủ yếu dựa trên các cứ liệu này. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1 Cách tiếp cận

Luận án tiếp cận vấn đề theo đường hướng của Ngôn ngữ học tri nhận, phối hợp cả phương pháp định tính và phương pháp định lượng, trong đó phương pháp định tính chiếm ưu thế. Hướng định lượng được áp dụng khi cần xác định thiên hướng biểu nghĩa, thiên hướng phối cảnh vận động hoặc khả năng tham gia quy chiếu của một yếu tố nhất định xét trong các khả năng nội tại của nó hoặc trong so sánh nó với yếu tố khác. 5.2 Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp nội quan – phương pháp trung tâm của Ngôn ngữ học tri nhận. Phương pháp này được vận dụng khi phân tích ngữ nghĩa và cấu trúc của các biểu thức ngôn ngữ nhằm vạch rõ đặc điểm của dòng thời gian tinh thần, đặc điểm của các khung quy chiếu thời gian, sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian, đặc điểm tri nhận và biểu đạt thời gian qua không gian ở một số từ có nghĩa gốc chỉ không gian trong tiếng Việt.

Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng còn sử dụng phương pháp miêu tả với các

thủ pháp:

4

- Thủ pháp thống kê: Thủ pháp này được dùng khi xây dựng ngữ liệu cho luận án, khi xác lập đặc điểm ngôn cảnh của yếu tố được sử dụng để quy chiếu thời gian, khi xác định tần số tương đối, thiên hướng sử dụng trong quy chiếu thời gian của một yếu tố ngôn ngữ nào đó, khi phân tích khả năng được dùng vào các trường hợp quy chiếu khác nhau của cùng một vỏ ngôn ngữ, khi phân tích sự thay đổi khung ngữ nghĩa của các biểu đạt không gian được chuyển di sang biểu đạt thời gian. Đặc biệt, thủ pháp này phối hợp với phương pháp nội quan giúp dựng lên bức tranh toàn cảnh các mô hình quy chiếu thời gian, các mô thức đồ chiếu từ phạm trù không gian sang phạm trù thời gian trong tiếng Việt. Nó cho phép đưa ra các nhận định đáng tin cậy và mang tính khách quan trên thực tế dụng ngôn của người Việt. - Thủ pháp phân loại và hệ thống hoá: Thủ pháp này được dùng để khảo sát, phân loại các biểu thức ngôn ngữ chuyển tải hành vi quy chiếu thời gian của người Việt. - Thủ pháp phân tích vị từ - tham tố: Thủ pháp này được dùng để phân tích cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú chứa từ biểu đạt thời gian có cội nguồn từ không gian trong tiếng Việt. - Thủ pháp so sánh khi cần làm rõ sự tương đồng, khác biệt giữa các quan điểm lý thuyết khác nhau về khung quy chiếu thời gian, làm rõ sự tương đồng và khác

biệt ở một số đặc điểm giữa khung quy chiếu thời gian và khung quy chiếu không gian tiếng Việt, làm rõ các yếu tố được chuyển di hoặc không được đồ chiếu giữa quy chiếu không gian và quy chiếu thời gian trong tiếng Việt, làm rõ điểm tương đồng và khác biệt giữa mô hình quy chiếu, hướng của khung quy chiếu giữa tiếng Việt với một ngôn ngữ khác đã được miêu tả. 6. Đóng góp của luận án Về mặt lý luận, luận án giới thiệu lý thuyết Khung quy chiếu thời gian – một lý thuyết chưa từng được giới thiệu và ứng dụng trong nghiên cứu ở Việt Nam. Luận án là công trình đầu tiên phân tích về dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt. Với việc phân tích các khung quy chiếu thời gian cụ thể và các biến thể của chúng, luận án góp thêm cứ liệu ngôn ngữ và bổ sung vào hệ lý thuyết mô hình khung quy chiếu thời gian tương đối khác với các mô hình đã được khẳng định trong các công trình nghiên cứu trước đó. Từ thực tế tiếng Việt, luận án đóng góp vào nguồn văn liệu mô tả sự đồ chiếu các khung quy chiếu không gian lên các khung quy chiếu thời gian những trường hợp và bình diện không được đồ chiếu bên cạnh việc khẳng định lại những biến thể và bình diện được đồ chiếu trên cứ liệu ngôn ngữ mới. Kết quả phân tích sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua phạm trù không gian bổ sung khoảng trống đồ chiếu cấu trúc ngôn ngữ từ không gian sang thời gian, là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định cần được tiếp tục làm rõ khi nghiên cứu sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian. Luận án cũng đồng thời đi vào các trường hợp đồ chiếu cụ thể từ không gian lên thời gian mà sự phân tích khái quát ở cấp độ khung quy chiếu không bao quát hết được. Luận án cũng đã bổ sung các sự tình diễn ra tại thời điểm nói như là trường hợp của khung quy chiếu nội tại trực chỉ, đây là vấn đề chưa được các nhà nghiên cứu đề cập khi miêu tả các khung quy chiếu thời gian trong các ngôn ngữ tự nhiên. Về mặt thực tiễn, các kết quả nghiên cứu của luận án có thể ứng dụng trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy Ngôn ngữ học tri nhận, giảng dạy tiếng Việt nâng cao cho người nước ngoài, xây dựng từ điển và dịch thuật. 7. Bố cục của luận án

Để giải quyết vấn đề được đề tài đặt ra, ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu

tham khảo, Phụ lục, luận án được triển khai thành các chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận Phần tổng quan trình bày tổng lược tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ở phạm vi trong và ngoài nước. Ở phạm vi ngoài nước, luận án trình bày tổng quan về dòng thời gian tinh thần, lý thuyết khung quy chiếu thời gian, sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian. Ở phạm vi trong nước, luận án trình bày tình hình nghiên cứu vấn đề thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận.

5

Phần cơ sở lý luận trình bày các nội dung lý thuyết làm nền tảng để triển khai luận án, bao gồm: a. Các vấn đề lý thuyết về thời gian: các quan niệm về thời gian,

các biến thể của ý niệm thời gian, các thuộc tính của thời gian, phối cảnh Ego chuyển động và Thời gian chuyển động, các mối quan hệ thời gian, mũi tên thời gian, dòng thời gian tinh thần; b. Các vấn đề lý thuyết về khung quy chiếu: khái niệm khung quy chiếu và khung quy chiếu thời gian, lý thuyết Khung quy chiếu không gian của Levinson, lý thuyết Khung quy chiếu thời gian do Bender và cộng sự đề xuất; c. khái niệm khung và phạm trù toả tia.

Chương 2: Các khung quy chiếu thời gian và sự đồ chiếu từ các khung

quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt

Chương 3: Sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian

6

Chương 2 làm rõ đặc điểm của dòng thời gian tinh thần tiếng Việt, đặc điểm của khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt với các biến thể của chúng, xác lập hệ thống khung quy chiếu không gian theo trục ngang làm nền tảng để phân tích sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt, phân tích sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt. trong tiếng Việt: Nghiên cứu trường hợp lùi, qua, sang, tới, đến Chương 3 tập trung phân tích sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua các từ chỉ không gian theo mô thức nghiên cứu trường hợp. Các trường hợp được lựa chọn phân tích là: lùi, sang, qua, tới, đến. Luận án chú trọng vào phân tích sự đồ chiếu cấu trúc tham tố, mô hình quy chiếu, khung quy chiếu, phối cảnh vận động từ không gian sang thời gian với từng ý niệm cụ thể.

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Dẫn nhập

Trong chương này, luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận làm nền tảng cho việc phân tích quy chiếu thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận.

Phần trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu gồm các nội dung: tình hình nghiên cứu tri nhận dòng thời gian tinh thần, tình hình nghiên cứu xác lập lý thuyết khung quy chiếu thời gian, tình hình nghiên cứu sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian, tình hình nghiên cứu vấn đề thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận. Những khái lược văn liệu này là cơ sở cho việc xác lập câu hỏi nghiên cứu cũng như các nội dung phân tích tạo nên đóng góp của luận án.

Phần trình bày các vấn đề lý luận tập trung vào các nội dung: 1. Các vấn đề lý thuyết về thời gian, bao gồm: các biến thể của ý niệm thời gian, các thuộc tính của thời gian, phối cảnh Ego chuyển động và Thời gian chuyển động, các mối quan hệ thời gian, mũi tên thời gian, dòng thời gian tinh thần; 2. Các vấn đề lý thuyết về khung quy chiếu, bao gồm: khái niệm khung quy chiếu và khung quy chiếu thời gian, lý thuyết Khung quy chiếu không gian của Levinson, lý thuyết Khung quy chiếu thời gian do Bender và cộng sự đề xuất; 3. Khái niệm khung và phạm trù toả tia.

1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.2.1 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở phạm vi ngoài nước 1.2.1.1 Tình hình nghiên cứu tri nhận dòng thời gian tinh thần trong các ngôn ngữ tự nhiên

7

Dòng thời gian tinh thần (mental timeline), gọi tắt là dòng thời gian, là nền tảng trên đó xác lập các hệ quy chiếu thời gian. Mọi sự tình thời gian đều được người bản ngữ tri nhận là phân bố trên dòng thời gian tinh thần này. Cho đến nay, dòng thời gian tinh thần được nghiên cứu trên hai cấp độ: cấp độ ngôn ngữ và cấp độ tinh thần, với hai hướng: phân tích cứ liệu ngôn ngữ và phân tích thực nghiệm. Ở cấp độ ngôn ngữ, phổ biến là dòng thời gian được tri nhận theo lối ẩn dụ phân bố theo trục ngang, trục trước – sau, với trước chỉ tương lai, sau chỉ quá khứ hoặc trước chỉ quá khứ sau chỉ tương lai (Ulrich & Maienborn, 2010; Bender & Beller, 2014); ngoài ra, ít phổ biến hơn là dòng thời gian được tri nhận theo phương thẳng đứng, trục trên – dưới với trên chỉ quá khứ, dưới chỉ tương lai, chẳng hạn trong tiếng Quan Thoại (Traugott, 1978; Yu, 2012). Ở cấp độ tinh thần, các phân tích thực nghiệm chỉ ra rằng dòng thời gian được tri nhận phổ biến trong các cộng đồng ngôn ngữ là phân bố theo trục ngang, trục trái – phải với quá khứ ở bên trái, tương lai ở bên phải, hướng của dòng thời gian là từ trái sang phải (Weger & Pratt, 2008); sự tri nhận này được cho là có sự tác động

của lối viết và đọc chữ từ trái qua phải (Fuhrman et al., 2011); theo đó, có sự tương ứng phổ biến trái/sau – phải/trước giữa cấp độ ý niệm và cấp độ ngôn ngữ trong tri nhận thời gian. Với các cộng đồng đọc và viết chữ từ phải sang trái, chẳng hạn người nói tiếng Ả Rập, tiếng Hebrew, dòng thời gian được tri nhận theo lối ngược lại, từ phải sang trái (Fuhrman & Boroditsky, 2010). Sự đồ chiếu ẩn dụ từ không gian lên thời gian do vậy diễn ra ở cấp độ ý niệm, trong thế giới tinh thần hơn là ở cấp độ ngôn ngữ (Ulrich & Maienborn, 2010). Các công trình thực nghiệm cũng khẳng định sự tồn tại của dòng thời gian theo phương thẳng đứng, trục trên – dưới, điển hình là trong tiếng Quan Thoại (Fuhrman et al., 2011).

Dòng thời gian chưa từng được các nhà Việt ngữ học đặt thành đối tượng nghiên cứu. Luận án sẽ làm rõ điều này ở mục 2.2 chương 2 khi đi vào phân tích dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt. 1.2.1.2 Tình hình nghiên cứu xác lập lý thuyết khung quy chiếu thời gian

Lý thuyết về khung quy chiếu thời gian được xác lập bởi các nhà Tri nhận luận trong vòng hai thập niên gần đây. Số lượng ngôn ngữ được miêu tả, phân tích thực tế là chưa nhiều so với toàn bộ các ngôn ngữ hiện có trên thế giới. Cho đến nay lý thuyết về khung quy chiếu thời gian vẫn chưa đi đến sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Từ các công trình được công bố, xét về số lượng khung quy chiếu, chúng tôi nhận thấy có ba trường hợp: 1. Hệ thống khung quy chiếu gồm hai loại; 2. Hệ thống khung quy chiếu gồm ba loại; 3. Hệ thống khung quy chiếu gồm bốn loại. Thực chất, sự khác biệt về số lượng khung quy chiếu giữa các trường hợp xuất phát từ hai nguyên do: 1. khác nhau về các mốc quy chiếu được xác định; 2. có hay không sự chuyển dịch hệ toạ độ (xin xem sự khác biệt này ở bảng 1.1 dưới đây).

Thuộc trường hợp một có các tác giả như Moore (2004, 2006, 2011, 2014), Núñez và Sweetser (2006). Hệ thống khung quy chiếu do các tác giả này xác lập chỉ gồm hai khung quy chiếu. Mỗi khung có mốc quy chiếu riêng.

Moore (2004, 2006) đề xuất hai loại khung quy chiếu thời gian là khung quy chiếu dựa vào Ego (Ego-based frames of reference) và khung quy chiếu dựa vào trường (field-based frames of reference). Khung quy chiếu dựa vào Ego lấy Ego làm mốc quy chiếu, mang tính trực chỉ. Khung quy chiếu này bao gồm hai phối cảnh: phối cảnh Ego chuyển động và phối cảnh Thời gian chuyển động. Ví dụ: (1) Tuesday is approaching (us).

thứ ba là đang đến gần (chúng ta) ‘Thứ ba gần đến rồi.’

(2)

8

June is still ahead (of me). tháng sáu là vẫn ở phía trước (của tôi) ‘Vẫn chưa tới tháng sáu.’

Trong ví dụ (1) trên, thời gian được hình dung là đang chuyển động về phía người quan sát Ego, Ego do vậy là mốc quy chiếu, Ego được hiện thực hoá bằng biểu thức us hoặc được hiểu hàm ẩn. Ngược lại ở ví dụ (2), người quan sát Ego di chuyển về phía trước trong dòng thời gian. Mốc quy chiếu là Ego. “Tháng sáu” được xác định ở phía trước là trong quy chiếu với Ego. Ego được biểu đạt bằng biểu thức me hoặc được hiểu hàm ẩn.

Khung quy chiếu dựa vào trường phản ánh quan hệ thời gian giữa các sự tình trong chuỗi, trong đó có một sự tình được chọn làm mốc quy chiếu. Khung quy chiếu này do vậy không liên quan đến trung tâm trực chỉ, Ego và sự hiện diện chủ quan của nó là tuỳ ý và không quan yếu. Khung quy chiếu dựa vào trường phản chiếu ẩn dụ CHUỖI NHƯ LÀ CÁC VỊ TRÍ TRÊN LỐI ĐI (SEQUENCE AS A POSITION ON THE PATH). Ví dụ:

(3) Summer follows spring.

mùa hè theo sau mùa xuân ‘Sau mùa xuân là mùa hè.’

Trong ví dụ trên, phối cảnh thời gian được sử dụng là Thời gian chuyển động. Sự tình thời gian “spring” (mùa xuân) được chọn làm mốc quy chiếu. Nó kết hợp với sự tình “summer” (mùa hè) tạo thành chuỗi nối tiếp các sự tình trong dòng thời gian. Về sau Moore (2011, 2014) có điều chỉnh thuật ngữ. Hai khung quy chiếu trên được ông gọi tên lần lượt là khung quy chiếu cấu hình lối đi phối cảnh Ego (Ego- perspective path-configured frame of reference) và khung quy chiếu cấu hình lối đi phối cảnh dựa vào trường (Field-perspective path-configured frame of reference). Cách giải thích của Moore (2011, 2014) có mở rộng theo hướng phân tích sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian song về căn bản giống với quan niệm phân loại ban đầu của ông. Moore xây dựng lý thuyết trên cơ sở phân tích cứ liệu tiếng Anh, tiếng Wolof (ở Niger-Congo, vùng Tây Phi), tiếng Nhật và tiếng Aymara (ở Jaqi, Nam Mỹ).

1 Thuật ngữ điểm quy chiếu trong quan niệm của Núñez và Sweetser (2006) giống với thuật ngữ mốc quy chiếu trong quan niệm của Moore (2004, 2006, 2011, 2014). Yu (2012), như luận án sẽ trình bày dưới đây, cũng dùng thuật ngữ điểm quy chiếu.

9

Cũng phân chia khung quy chiếu thời gian thành hai loại là Núñez và Sweetser (2006). Núñez và Sweetser định danh hai khung quy chiếu dưới tên gọi ẩn dụ điểm quy chiếu Ego (Ego-Reference-point metaphor) và ẩn dụ điểm quy chiếu Thời gian (Time-Reference-point metaphor)1. Ẩn dụ điểm quy chiếu Ego lấy Ego làm điểm quy chiếu, với hai phối cảnh là Ego chuyển động và Thời gian chuyển động, như ở trường hợp ví dụ (1) và ví dụ (2) ở trên. Ẩn dụ điểm quy chiếu Thời gian biểu đạt chuỗi các sự tình và sử dụng một trong các sự tình làm điểm quy chiếu, như trường hợp ví dụ (3) ở trên. Như vậy, thực chất quan niệm của Núñez, Sweetser (2006) và

quan niệm của Moore (2004, 2006, 2011, 2014) là giống nhau, chỉ khác biệt ở dán nhãn thuật ngữ. Tuy nhiên, khác với Moore, Núñez và Sweetser không xem xét vấn đề trong tương quan với khung quy chiếu không gian. Phát hiện mang tính đóng góp của họ là các mối quan hệ thời gian ở ẩn dụ điểm quy chiếu Thời gian có tính nội tại (xét trong chuỗi) với sự tình sớm hơn ở “phía trước” sự tình muộn hơn. Ngoài ra Núñez và Sweetser cũng nhấn mạnh rằng sự đối lập giữa mô hình điểm quy chiếu Ego và mô hình điểm quy chiếu Thời gian là cơ bản hơn so với sự phân biệt giữa Ego chuyển động và Thời gian chuyển động, tức cái quan yếu để phân loại khung quy chiếu là điểm quy chiếu chứ không phải là phối cảnh thời gian.

Hai hệ thống phân loại vừa trình bày ở trên đã đề cập đến hai trường hợp phổ biến trong quy chiếu thời gian là trường hợp lấy Ego làm mốc quy chiếu và trường hợp lấy một sự tình thời gian trong chuỗi làm mốc quy chiếu, giới hạn ở các quan hệ thời gian gồm hai thành tố (mốc quy chiếu và sự tình được quy chiếu). Tuy nhiên thực tế quan sát cứ liệu trên nhiều ngôn ngữ cho thấy tồn tại cả các quan hệ thời gian gồm ba thành tố (Kranjec, 2006; Bender et al., 2010; Zinken, 2010; Tenbrink, 2011; Bender & Beller, 2014; Evans, 2009, 2013, 2019). Mặt khác hai hệ thống phân loại này chưa phân biệt giữa mốc quy chiếu với gốc của hệ toạ độ, là sự phân biệt có hiệu lực và quan yếu ở các quan hệ thời gian gồm ba thành tố.

Thuộc trường hợp thứ hai có các tác giả như Kranjec (2006), Zinken (2010), Bender và cộng sự (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014), Tenbrink (2011), Evans (2009, 2013, 2019).

Khác với các tác giả ở trường hợp đầu, các tác giả ở nhóm này xác lập hệ thống khung quy chiếu gồm ba loại. Tuy nhiên có sự khác biệt trong cách họ dán nhãn thuật ngữ, hoặc cùng thuật ngữ nhưng cách xác lập nội hàm và ngoại diên của khái niệm khác nhau.

2 Thuật ngữ bộ khung trong quan niệm của Kranjec (2006) tương đồng với thuật ngữ khung quy chiếu.

10

Kranjec (2006) đề xuất hệ thống ba bộ khung thời gian2 (temporal framework) là bộ khung thời gian ngoại tại, bộ khung thời gian trực chỉ và bộ khung thời gian nội tại. Bộ khung thời gian ngoại tại (extrinsic temporal framework) dựa trên khái niệm “thời gian tự thân” (“time itself”) với cách hiểu thời gian là “một phông nền, hoặc một thứ gì đó chuyển động về phía trước, độc lập với các sự tình cụ thể được nhúng vào trong nó” (time itself is a backdrop, or something understood to move forward, independent of particular events embedded within it” (Kranjec, 2006, tr.450)). Khái niệm thời gian tự thân của Kranjec tương đương với khái niệm thời gian tuyệt đối trong vật lý học. Ví dụ (4) sau được Kranjec (2006) dùng minh họa cho bộ khung thời gian ngoại tại: (4) Time flows on forever. thời gian trôi mãi mãi ‘Thời gian trôi mãi mãi.’

Hai khung quy chiếu kia theo quan niệm của Kranjec (2006) là bộ khung thời gian trực chỉ (deictic temporal framework) và bộ khung thời gian nội tại (intrinsic temporal framework). Khái niệm bộ khung thời gian trực chỉ của Kranjec (2006) tương đương với khung quy chiếu dựa vào Ego của Moore (2004, 2006) và ẩn dụ điểm quy chiếu Ego của Núñez và Sweetser (2006). Bộ khung thời gian nội tại dựa trên cơ sở mối quan hệ sớm hơn/muộn hơn giữa các sự tình trong chuỗi, tương tự với khung quy chiếu dựa vào trường của Moore (2004, 2006) và ẩn dụ điểm quy chiếu Thời gian của Núñez và Sweetser (2006).

Như vậy điểm khác biệt giữa Kranjec (2006) với các tác giả trước đó nằm ở

bộ khung thời gian ngoại tại.

Zinken (2010) phân tích khung quy chiếu thời gian dựa trên nền tảng sự phân biệt triết học giữa sêri A và sêri B. Sêri A xem xét thời gian trong sự chuyển đổi trạng thái liên tục của nó, từ tương lai trở thành hiện tại rồi đi vào quá khứ. Sêri A được ngữ pháp hoá trong nhiều ngôn ngữ dưới phạm trù thì; nó cũng có thể được đánh dấu bằng các hình vị phái sinh từ các động từ chỉ hoạt động di chuyển (motion verbs). Theo quan điểm sêri B, thời gian là tập hợp các mối quan hệ sớm hơn/muộn hơn giữa các sự tình. Hệ thống của Zinken (2010) bao gồm ba khung quy chiếu là khung quy chiếu nội tại, khung quy chiếu tương đối và khung quy chiếu tuyệt đối. Zinken (2010) phân biệt giữa mốc quy chiếu và gốc của hệ toạ độ. Khung quy chiếu nội tại có cấu trúc song tố, thực thể Hình được định vị trong quan hệ với thực thể Nền3. Thực thể Nền đồng thời là gốc của hệ toạ độ. Ego giữ vai trò là thực thể Nền trong quy chiếu. Ví dụ được ông đưa ra cho khung quy chiếu nội tại là:

(5)

I have a fun afternoon in front of me. Tôi có một vui vẻ buổi chiều phía trước tôi ‘Một buổi chiều vui vẻ đang đợi tôi.’

3 Khái niệm Hình và Nền trong phân tích của Zinken (2010) tương ứng với khái niệm đối tượng được quy chiếu và mốc quy chiếu. Luận án sẽ trình bày về Hình và Nền kĩ hơn ở mục 1.3.2.1 Khái niệm khung quy chiếu.

11

Có thể thấy về bản chất ví dụ trên tương tự ví dụ (1) và ví dụ (2). Zinken xác định Hình trong ví dụ (5) là “afternoon”, còn Nền là “me”, tức Ego. Ego vừa là Nền vừa là gốc của hệ toạ độ xác lập khung quy chiếu. Quan hệ thời gian phản ánh trong khung quy chiếu nội tại thuộc về sêri A. Zinken (2010) cũng cho rằng cách xác lập thời gian theo sêri A sẽ không áp dụng được với quan hệ thời gian được phản ánh bằng khung quy chiếu tương đối. Như vậy, khái niệm khung quy chiếu nội tại của Zinken (2010) tương ứng với khung quy chiếu dựa vào Ego của Moore (2004, 2006, 2011, 2014) và ẩn dụ điểm quy chiếu Ego của Núñez và Sweetser (2006).

Kế thừa Levinson (2003/2004), Zinken (2010) xác lập khung quy chiếu thời gian tương đối gồm ba thành tố: Hình (đối tượng được quy chiếu), Nền (mốc quy chiếu), người quan sát, trong đó gốc của hệ toạ độ nằm ở vị trí người quan sát. Ví dụ:

(6)

I’ll get some crisps before the match. tôi sẽ lấy một số khoai tây chiên trước trận đấu ‘Tôi sẽ mua một ít khoai tây chiên trước khi trận đấu bắt đầu.

Trong ví dụ trên, “the match” (trận đấu) là Nền, “getting some crisps” (mua một ít khoai tây chiên) là Hình, người quan sát là “I” (tôi) ở thời điểm hiện tại. Sự tình “getting some crisps” được định vị trong quy chiếu với sự tình Nền “the match”. Cả hai sự tình này được xác định là thuộc về tương lai do được đặt trong quy chiếu với toạ độ gốc là hiện tại của người quan sát. Như vậy khác với khung quy chiếu nội tại, khung quy chiếu tương đối xuất hiện thành tố thứ ba người quan sát trong vai trò gốc của hệ toạ độ.

Zinken (2010) quan niệm khung quy chiếu thời gian tuyệt đối đòi hỏi gốc của hệ toạ độ là một trường bao chứa trong nó các sự tình có quan hệ chuỗi. Trường đó là các phân đoạn thời gian như ngày, tuần, mùa, vòng đời, v.v.. Theo đó ông phân biệt hai trường hợp của sêri B. Một biểu thức như:

(7) Wednesday is after Tuesday.

Thứ Tư là sau thứ Ba ‘Sau thứ Ba là thứ Tư.’

12

được ông xếp vào khung quy chiếu tuyệt đối do chỗ gốc của hệ toạ độ trong trường hợp này là “tuần”, một phân đoạn thời gian được sử dụng như một trường tổng thể cho việc định vị, phân biệt với Nền là “Tuesday”, trong khi một ví dụ như: (8) One day comes after the other. một ngày đến sau ART khác ‘Ngày này nối tiếp ngày khác.’ thuộc về khung quy chiếu nội tại, do chỗ điểm quy chiếu và gốc của hệ toạ độ ở trường hợp này đều là “ngày”, tức ở (8) không có/không thể xác định một phân đoạn thời gian đóng vai trò trường tổng thể bao chứa “one day” và “the other day”. Sự phân loại khung quy chiếu cho các sự tình như ví dụ (8) ở trên cùng các trường hợp quy chiếu trực chỉ khiến khái niệm khung quy chiếu nội tại của Zinken (2010) bao gộp cả hệ thống khung quy chiếu của Moore (2004, 2006, 2011, 2014), Núñez và Sweetser (2006), bộ khung thời gian trực chỉ và bộ khung thời gian nội tại của Kranjec (2006). Về khái niệm khung quy chiếu tuyệt đối của ông, chúng tôi cho

rằng đó thực chất chỉ là một biến thể của quan hệ thời gian chuỗi nối tiếp, do chỗ nó vẫn phản ánh quan hệ sớm hơn/muộn hơn, hướng trước trong khung quy chiếu vẫn chỉ về quá khứ. Mặt khác việc xác định gốc của hệ toạ độ ở (8) là ngày dẫn đến mâu thuẫn với việc xác định gốc của hệ toạ độ là tuần ở (7), trong khi bản chất quan hệ thời gian giữa Hình và Nền ở (7) và (8) là như nhau. Chính việc xác định gốc của hệ toạ độ khác nhau đã dẫn đến cách lý giải và phân loại khác nhau; tuy nhiên, một cách logic, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng, để xác lập quan hệ thời gian giữa “one day” và “the other day”, chúng phải được đặt trong một đơn vị thời gian lớn hơn bao chứa cả hai chứ không thể là ngày, bởi bản thân chúng đã là ngày. Trong trường hợp này chúng tôi cho rằng đó chính là thời gian tự thân (time itself) – yếu tố có vai trò như một phông nền theo quan niệm của Kranjec (2006), sau này là Ma trận thời gian hay trường thời gian tổng thể theo quan niệm của Evans (2009, 2013, 2019).

Tương tự Zinken (2010), Tenbrink (2011) cũng dựa trên hệ thống phân loại khung quy chiếu không gian của Levinson (2003/2004) để xác lập ba khung quy chiếu thời gian là nội tại, tương đối, tuyệt đối. Hệ thống của bà về cơ bản không khác nhiều hệ thống của Zinken (2010), chỉ bổ sung thêm ở chỗ bà xem xét chúng trong tương quan với các tình huống tĩnh và tình huống động và không xác lập một trường thời gian tổng thể (là các phân đoạn thời gian) cho việc định vị ở khung quy chiếu tuyệt đối. Tenbrink (2011) cũng dựa trên sêri A, sêri B, phối cảnh Ego chuyển động và phối cảnh Thời gian chuyển động để phân tích các khung quy chiếu thời gian. Bà coi quan hệ chuỗi (sêri B) là thuộc khung quy chiếu tuyệt đối. Khái niệm khung quy chiếu tuyệt đối của bà do vậy rộng hơn khái niệm khung quy chiếu tuyệt đối của Zinken (2010), tương đồng với khái niệm khung quy chiếu dựa vào trường của Moore (2004, 2006), bộ khung thời gian nội tại của Kranjec (2006) và ẩn dụ điểm quy chiếu Thời gian của Núñez và Sweetser (2006). Các tình huống tĩnh thuộc sê ri A được Tenbrink (2011) xếp vào khung quy chiếu nội tại với Ego là mốc quy chiếu. Tenbrink cho rằng không có sự tồn tại của khung quy chiếu tương đối ở các tình huống tĩnh. Riêng với tình huống động, chúng xuất hiện ở cả ba loại khung quy chiếu. Ví dụ (9) dưới đây:

(9)

I’m going forward in time. tôi là đang đi về phía trước trong thời gian ‘Tôi đang đi vào tương lai.’

được bà cho là biểu đạt một sự tình động, thuộc về khung quy chiếu nội tại.

13

Ví dụ (10) sau được bà xếp vào khung quy chiếu tương đối, với hai cách đọc: cách đọc hướng về tương lai theo phối cảnh Ego chuyển động, theo đó cuộc họp được chuyển sang thứ Sáu và cách đọc hướng về quá khứ theo phối cảnh Thời gian chuyển động, theo đó cuộc họp được chuyển lên thứ Hai. Mặt khác Tenbrink cũng cho rằng với phối cảnh Thời gian chuyển động, ví dụ (10) cũng có thể xếp vào khung quy chiếu

tuyệt đối, theo đó cuộc họp được chuyển sang thời điểm sớm hơn cho dù nó liên hệ như thế nào với hiện tại của Ego.

(10) Next Wednesday’s meeting has been moved forward two days. kế tiếp của thứ Tư cuộc họp đã được di chuyển về phía trước hai ngày ‘Cuộc họp ngày thứ Tư tới đây đã được dời lên trước hai ngày.’ (phối cảnh

Thời gian chuyển động)

‘Cuộc họp ngày thứ Tư tới đây đã phải lùi lại hai ngày.’ (phối cảnh Ego chuyển

động)4 Như vậy xâu chuỗi lại có thể thấy Tenbrink (2011) không phân biệt hai trường hợp của quan hệ thời gian ở sêri B như Zinken (2010). Việc bà khẳng định rằng không có sự tồn tại của khung quy chiếu tương đối ở các tình huống tĩnh theo chúng tôi không phù hợp với tiếng Việt, minh chứng là các ví dụ được luận án dẫn ra khi phân tích về sự tình động, sự tình tĩnh và phối cảnh chuyển động trong khung quy chiếu thời gian tương đối tiếng Việt ở mục 2.4.3.2 và 2.4.3.3 chương 2.

4 Phần chú thích trong ngoặc đơn ứng với mỗi cách dịch là theo phân tích của Tenbrink. Với tiếng Việt, sự phân biệt về phối cảnh có phần chi tiết và khác so với tiếng Anh. Diễn ngữ tới đây biểu đạt sự vận động của thời gian từ tương lai về phía Ego, với đây quy chiếu về hiện tại chủ quan của người quan sát. Diễn ngữ dời lên trước hai ngày biểu đạt phối cách chuyển dịch một thời điểm về phía quá khứ so với mốc quy chiếu (“ngày thứ Tư tới đây”). Trong khi đó diễn ngữ lùi lại hai ngày biểu đạt phối cảnh chuyển dịch một thời điểm về phía tương lai so với mốc quy chiếu.

14

Evans (2009, 2013) đề xuất ba khung quy chiếu thời gian là: khung quy chiếu trực chỉ (deictic frame of reference), khung quy chiếu chuỗi (sequential frame of reference) và khung quy chiếu ngoại tại (extrinsic frame of reference). Quy chiếu trực chỉ được nhận ra thông qua điểm nhìn Thời gian chuyển động và Ego chuyển động. Quy chiếu thời gian trực chỉ mã hoá mối quan hệ tương lai/ hiện tại/ quá khứ, gắn với thì tuyệt đối. Khung quy chiếu chuỗi xác định điểm quy chiếu của một sự tình thông qua một sự tình khác đặt trong chuỗi nối tiếp các sự tình. Quy chiếu chuỗi mã hoá quan hệ sớm hơn/ muộn hơn, thuộc về thì tương đối. Khung quy chiếu ngoại tại quy gán sự vận động cho thời gian. Sự vận động cung cấp một trường ngoại tại (external field) để đặt một hoặc nhiều sự tình vào thời gian. Thời gian được nhận thức như một ma trận cấu tạo nên một sự tình trong đó tất cả các sự tình khác diễn ra. Cách nhận thức này về thời gian cho phép nghiệm thể (human experiencer) đặt các sự tình vào đúng thời điểm mà chúng xuất hiện. Như vậy có thể thấy khung quy chiếu trực chỉ của Evans tương đồng với khung quy chiếu thời gian nội tại của Zinken (2010) và Tenbrink (2011). Khung quy chiếu chuỗi của Evans tương đồng với khung quy chiếu tuyệt đối trường hợp trường là một phân đoạn thời gian trong quan niệm của Zinken (2010) và khung quy chiếu tuyệt đối của Tenbrink (2011). Khung quy chiếu ngoại tại của ông giống với khung quy chiếu ngoại toại của Kranjec (2006). Evans cũng nói rõ là ông kế thừa quan điểm này của Kranjec, chỉ khác là Evans sử dụng

thuật ngữ Ma trận thời gian cho trường thời gian, tức cái mà Kranjec (2006) hình dung như một phông nền – thời gian tự thân (time itself). Điểm khác biệt ở Evans là ông xem xét khung quy chiếu thời gian trong tương quan với khái niệm thì (ngoại trừ khung quy chiếu ngoại tại) và tiến tới xác lập các mô hình cấu trúc tham tố biểu đạt các khung quy chiếu.

Cũng dựa trên hệ thống khung quy chiếu không gian của Levinson (2003/2004) để phân loại khung quy chiếu thời gian như Zinken (2010) và Tenbrink (2011), Bender và cộng sự của ông (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014) đề xuất ba loại khung quy chiếu thời gian là khung quy chiếu thời gian tuyệt đối, khung quy chiếu thời gian nội tại và khung quy chiếu thời gian tương đối. Tuy nhiên quan niệm của Bender và cộng sự có khác. Khung quy chiếu thời gian nội tại của họ bao gộp cả khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tuyệt đối của Zinken (2010) và Tenbrink (2011) và được phân làm hai biến thể: biến thể trực chỉ và biến thể chuỗi nối tiếp. Khung quy chiếu tương đối của họ tương đồng với quan niệm của Zinken (2010) và Tenbrink (2011) nhưng được phân tích cụ thể theo từng biến thể (biến thể phản chiếu và biến thể chuyển dịch). Khung quy chiếu tuyệt đối của họ là sự kế thừa và phát triển quan niệm của Kranjec (2006).

Khác với tất cả các tác giả trên, Yu (2012) xác lập hệ thống gồm bốn khung quy chiếu cho tiếng Quan Thoại là khung thời gian trực chỉ (deictic time frame), khung con người trực chỉ (deictic human frame), khung thời gian xếp chuỗi (sequential time frame) và khung con người xếp chuỗi (sequential human frame). Điểm khác biệt ở Yu là ngoài sự phân biệt điểm quy chiếu Ego và điểm quy chiếu thời gian, ông còn phân biệt hai phạm trù quan yếu khác trong tiếng Quan Thoại là thực thể sở chỉ thời gian (Time Referent) và thực thể sở chỉ con người (Human Referent). Khung thời gian trực chỉ có điểm quy chiếu là Ego, TRƯỚC tương ứng với tương lai. Khung con người trực chỉ cũng có điểm quy chiếu là Ego nhưng TRƯỚC tương ứng với người (đến) sớm hơn. Khung thời gian xếp chuỗi có điểm quy chiếu là thời điểm, TRƯỚC tương ứng với sớm hơn. Khung con người xếp chuỗi có điểm quy chiếu là con người, chuỗi thế hệ được đồ chiếu lên mối quan hệ sớm hơn/muộn hơn, TRƯỚC tương ứng với thế hệ già hơn. Như vậy có thể thấy các khung quy chiếu thời gian mà Yu xác lập chỉ bao gồm các quan hệ song tố, tức chỉ xác lập quan hệ thời gian giữa Hình và Nền. Nếu xét theo điểm quy chiếu và coi thực thể sở chỉ là con người hay thời gian là các biến thể thì thực chất hệ thống của Yu tương đồng với hệ thống của Moore (2004, 2006, 2011, 2014) và hệ thống của Núñez và Sweetser (2006).

15

Trong bảng dưới đây, luận án trình bày hệ thống các quan niệm phân loại khung quy chiếu thời gian trong ngôn ngữ tự nhiên của các tác giả trên. Cách trình bày của luận án chú trọng vào so sánh những tương đồng và khác biệt giữa các quan niệm.

Bảng 1.1 Các quan niệm khác nhau về hệ thống khung quy chiếu thời gian

Mốc quy chiếu Ego

Mốc quy chiếu

Mốc quy chiếu là sự tình trong chuỗi

Mốc quy chiếu nằm trong trường thời gian tổng thể

Tác giả

Moore

Mốc quy chiếu ở Nền, có sự chuyển dịch hệ toạ độ từ người quan sát sang Nền

Núñez và Sweetser Yu

Zinken

Khung quy chiếu dựa vào Ego Ẩn dụ điểm quy chiếu Ego Khung con người trực chỉ Khung quy chiếu nội tại Hệ toạ độ: Hình, Nền

Khung quy chiếu dựa vào trường Ẩn dụ điểm quy chiếu Thời gian Khung thời trực gian chỉ Khung quy chiếu nội tại Khi Nền và gốc toạ độ là một

Khung thời xếp gian chuỗi Khung quy chiếu tuyệt đối Khi Nền và gốc toạ độ khác nhau

Tenbrink Khung

Khung quy chiếu tuyệt đối (tình huống tĩnh, động)

Khung con người xếp chuỗi Khung quy chiếu tương đối Hệ toạ độ: Hình, Nền, Người quan sát Khung quy chiếu tương đối (tình huống động)

quy chiếu nội tại (tình huống tĩnh, động) Kranjec Bộ khung thời gian trực

chỉ

Bộ khung thời gian nội tại

Evans

Khung quy chiếu chuỗi Thì tương đối

Khung quy chiếu trực chỉ Thì tuyệt đối

Khung quy chiếu nội tại

Biến thể trực chỉ

Biến thể chuỗi nối tiếp

Bender và cộng sự

Bộ khung thời gian ngoại tại Khung quy chiếu ngoại tại Khung quy chiếu tuyệt đối

Khung quy chiếu tương đối

16

Bảng trên cho thấy rõ những tương đồng và khác biệt giữa các tác giả trong cách định danh thuật ngữ, cách xác lập ranh giới cũng như đặc điểm của từng loại khung quy chiếu, số lượng khung quy chiếu trong hệ thống. Trong các quan niệm trên, chúng tôi nhận thấy hệ thống bao quát nhất, có khả năng phản ánh quan hệ thời gian đa dạng trong ngôn ngữ tự nhiên nhất là hệ thống do Bender và cộng sự xác lập, đặc biệt ở khung quy chiếu thời gian tương đối. Cùng xây dựng lý thuyết trên nền tảng hệ thống khung quy chiếu không gian của Levinson (2003/2004) nhưng Zinken (2010) và Tenbrink (2011) chỉ xử lý khung quy chiếu tương đối như một trường hợp sử dụng mốc quy chiếu trực chỉ Ego mà chưa phân tích sự chuyển dịch phức tạp hệ toạ độ từ Ego (người quan sát) sang Nền ở các biến thể khác biệt. Điều này được Bender và cộng sự (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014) bổ khuyết khi đi vào phân định các biến thể cụ thể của khung quy chiếu tương đối. Khi soi chiếu vào thực tế tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy lý thuyết của Bender và cộng sự có khả năng giải thích tốt nhất đối tượng nghiên cứu của luận án, không bỏ sót hiện tượng quy chiếu có sự chuyển dịch hệ toạ độ từ người quan sát sang Nền. Chính vì vậy quan niệm này được chọn làm cơ sở lý luận của luận án và sẽ được trình bày kĩ ở mục 1.3.2.3 chương 1. Trong nguồn văn liệu tiếp cận được, chúng tôi nhận thấy vấn đề quy chiếu thời gian cho đến nay chưa thực sự được các nhà Việt ngữ học nghiên cứu với các khung quy chiếu khác nhau. Luận án do vậy là công trình đầu tiên phân tích về vấn đề này trong tiếng Việt. 1.2.1.3 Tình hình nghiên cứu sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian

17

Truyền thống Triết học, Ngôn ngữ học, Tâm lý học tri nhận từ lâu đã nói đến việc con người tư duy và biểu đạt về thời gian thông qua các ẩn dụ không gian (chẳng hạn Clark (1973), Haspelmath (1997), Casasanto et al. (2010), Zinken (2010), Tenbrink (2011), Bender và Beller (2014), Evans (2009, 2013, 2019), v.v.. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trong các ngôn ngữ tự nhiên, tồn tại phong phú lớp từ vựng cũng như các cách biểu đạt thời gian được phái sinh từ phạm trù không gian (Clark, 1973; Lakoff and Johnson, 1980; Haspelmath, 1997; Núñez et al., 2006). Các kết quả thực nghiệm cũng chứng minh rằng kinh nghiệm không gian tác động đến quá trình tiếp nhận, xử lí và tạo sinh thông tin thời gian của con người (Boroditsky, 2000; Boroditsky, 2001; Boroditsky et al., 2002; Gentner et al., 2002; Ulrich & Maienborn, 2010; v.v.). Đây là điều hiển nhiên bởi trải nghiệm không gian được coi là trải nghiệm cơ bản, trải nghiệm gốc của con người (Lee, 2001/2016). Ở phần này, theo hướng tiếp cận và phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi chỉ trình bày khái lược các phân tích về sự đồ chiếu khung quy chiếu không gian lên khung quy chiếu thời gian của các tác giả đi trước làm nền tảng cho việc phân tích sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt. Phần lớn các tác giả nghiên cứu về quy chiếu thời gian và khung quy chiếu thời gian đều có đề cập đến cơ sở không gian trong tri nhận thời gian và xác lập sự

trong ART theo sau tuần ‘Trong các tuần tiếp theo’ b. In the preceding weeks… trong ART trước tuần ‘Trong các tuần trước’

đồ chiếu giữa hai phạm trù (Kranjec, 2006; Bender et al., 2010; Zinken, 2010; Matlock et al., 2011; Tenbrink, 2011; Bender & Beller, 2014; Feist & Duffy, 2020; Sun & Zhang, 2020; v.v.). Một số tác giả đã dựa trên hệ thống khung quy chiếu không gian để xây dựng khung quy chiếu thời gian, chẳng hạn như lý thuyết bộ khung thời gian của Kranjec (2006), hệ thống khung quy chiếu thời gian của Bender và cộng sự (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014), của Zinken (2010), của Tenbrink (2011) như luận án vừa trình bày ở mục 1.2.1.2 ở trên. Vấn đề được đặt ra đối với sự đồ chiếu từ không gian lên thời gian trước hết là ở việc xác lập sự tương ứng các quan hệ thời gian qua hai hệ thống ẩn dụ có cội nguồn từ sự vận động trong không gian: Ego chuyển động và Thời gian chuyển động. Lakoff và Johnson (1980) chỉ ra rằng ở các biểu thức như: (11) a. In the following weeks… có sự ý niệm hoá thời gian như là các đối tượng chuyển động thành chuỗi trong không gian. Cách phối cảnh chuyển động do vậy ảnh hưởng đến cách lý giải về thời gian. Thậm chí Matlock và các cộng sự của bà (Matlock et al., 2011) còn chỉ ra rằng ngay cả các chuyển động trừu tượng, tưởng tượng, tức chuyển động thuộc về không gian tinh thần của con người, như chuyển động trong dãy số, dãy chữ cái, cũng ảnh hưởng đến cách con người giải thích, biểu đạt và tư duy về thời gian.

18

Tất cả các hệ thống phân loại khung quy chiếu thời gian được xác lập cho đến nay đều lấy Ego chuyển động và Thời gian chuyển động làm căn cứ để mô tả các khung quy chiếu thời gian. Núñez và Sweetser (2006) cho rằng ở Ẩn dụ điểm quy chiếu thời gian, THỜI GIAN được tri nhận theo lối ẩn dụ là CÁC VẬT THỂ TRONG CHUỖI SỰ VẬT CHUYỂN ĐỘNG TRONG KHÔNG GIAN. Núñez và Sweetser đối lập giữa mô hình động và mô hình tĩnh trong quy chiếu thời gian có điểm quy chiếu Ego. Các tác giả cho rằng các mô hình động có tính đa văn hoá với TƯƠNG LAI Ở PHÍA TRƯỚC EGO còn QUÁ KHỨ Ở PHÍA SAU EGO. Những nhận định này được cả hai đưa ra trên cơ sở phân tích cứ liệu tiếng Anh, tiếng Guugu Yimithirr (một ngôn ngữ bản địa ở Úc), tiếng Tây Ban Nha. Trong so sánh với các ngôn ngữ này, Núñez và Sweetser (2006) nhận thấy tiếng Aymara có mô hình tĩnh về thời gian, trong đó TƯƠNG LAI Ở PHÍA SAU EGO còn QUÁ KHỨ Ở PHÍA TRƯỚC EGO. Nhận định của Núñez và Sweetser được đưa ra dựa trên nghiên cứu dữ liệu ngôn ngữ và dữ liệu cử chỉ (nghiên cứu thực nghiệm) chỉ thời gian trong ngôn ngữ này. Từ đó họ đi đến khẳng định cần kết hợp cả hai nguồn dữ liệu khi phân tích quy chiếu thời gian trong ngôn ngữ.

Moore (2011, 2014) mô tả khung quy chiếu dựa vào Ego và khung quy chiếu dựa vào trường với nhìn nhận rằng cả hai đều liên quan đến ẩn dụ LỐI ĐI, tức đều liên quan đến chuỗi các vị trí theo một hướng ở miền nguồn KHÔNG GIAN, theo đó ông diễn giải khung quy chiếu phối cảnh Ego là khung quy chiếu trong đó Ego có liên quan đến Hình hoặc Nền, các thực thể trong khung đều cùng nằm trên một lối đi duy nhất, phối cảnh Ego được thực hiện với chuỗi, do chỗ các VỊ TRÍ khác nhau trên lối đi được đồ chiếu lên các THỜI ĐIỂM khác nhau; các KHOẢNG THỜI GIAN trong khung quy chiếu phối cảnh Ego được miêu tả theo lối ẩn dụ là các CHUYỂN ĐỘNG. Khung quy chiếu dựa vào trường không liên quan đến một điểm nhìn đặc quyền. Trong khung quy chiếu này, mối quan hệ giữa Hình và Nền được hiểu theo cấu trúc tri nhận, cấu trúc đó bao gồm tất cả các thực thể thuộc khung quy chiếu. Khung quy chiếu dựa vào trường xác định mối quan hệ giữa Hình - Nền và độc lập với phối cảnh trong đó Hình, Nền được nhận thức. Ông cho rằng các khung quy chiếu thời gian có liên hệ theo lối ẩn dụ với trải nghiệm của con người về sự chuyển động và định vị. Cả hai khung quy chiếu trên được định hình bằng ẩn dụ LỐI ĐI (chính vì vậy Moore (2011) đã điều chỉnh tên gọi của hai khung quy chiếu này so với bản công bố của ông trước đó vào năm 2004 và 2006 là khung quy chiếu cấu hình lối đi phối cảnh Ego và khung quy chiếu cấu hình lối đi phối cảnh dựa vào trường), đều sử dụng đối lập TRƯỚC/SAU theo lối ẩn dụ, trong đó với khung quy chiếu phối cảnh Ego, TRƯỚC đồ chiếu lên TƯƠNG LAI còn SAU đồ chiếu lên QUÁ KHỨ, với khung quy chiếu dựa vào trường, TRƯỚC đồ chiếu lên SỚM HƠN còn SAU đồ chiếu lên MUỘN HƠN. Riêng tiếng Aymara là một trường hợp đặc biệt. Trong ngôn ngữ này, Ego đối diện với quá khứ, quá khứ ở phía trước Ego; các thời điểm sớm hơn, theo lối ẩn dụ, ở phía trước các thời điểm muộn hơn. Những phân tích và quan sát này về sau được Moore phân tích kĩ lưỡng hơn trong chuyên luận The Spatial Language of Time. Metaphor, Metonymy and Frames of Reference xuất bản năm 2014.

Zinken (2010) xuất phát từ sự phân loại các khung quy chiếu không gian của Levinson (2003/2004) để phân tích sự đồ chiếu từ không gian lên thời gian, xác lập các khung quy chiếu thời gian trong ngôn ngữ. Ông phân tích tính phổ niệm và sự đa dạng của việc nhận thức thời gian qua không gian, ở sự đồ chiếu phía trước, phía sau trong không gian lên tương lai, quá khứ trong thời gian, từ đó đi đến khẳng định rằng nhân tố văn hoá tham gia vào quá trình đồ chiếu và quyết định phía trước sẽ đồ chiếu lên tương lai hay quá khứ, cũng vậy với phía sau.

19

Hệ thống khung quy chiếu thời gian của Tenbrink (2011) cũng là kết quả của sự kế thừa và mở rộng hệ thống khung quy chiếu không gian của Levinson (2003/2004) ở phạm trù không gian và đồ chiếu chúng lên phạm trù thời gian, đặt trong tương quan với các sự tình động và sự tình tĩnh. Tenbrink đã đồ chiếu sêri A, sêri B trong không gian lên phối cảnh thời gian, từ đó mô tả thời gian là có tính bất đối xứng tự thân (inbuilt asymmetry). Thuộc tính này theo bà có thể được nhận thức theo hai cách đối lập: là một vector đi từ quá khứ tới tương lai hoặc là một vector dựa

trên quan hệ trước/sau trong chuỗi với mũi tên hướng về thời gian sớm hơn. Theo cách một, sự tình thuộc về khung quy chiếu nội tại; theo cách hai, sự tình thuộc về khung quy chiếu tuyệt đối. Các tình huống động trong cách giải thích của Tenbrink (2011) không chỉ xác định một khung quy chiếu. Ví dụ (9) I’m going forward in time ở trên biểu đạt một sự tình động được xếp vào quan hệ song tố, thuộc khung quy chiếu nội tại trong khi sự tình động ở ví dụ (10) Next Wednesday’s meeting has been moved forward two days được xếp vào quan hệ tam tố và thuộc khung quy chiếu tương đối.

Trong hệ thống khung quy chiếu thời gian trong tiếng Quan Thoại do Yu (2012) xác lập, sự đồ chiếu từ không gian lên thời gian biểu hiện ở việc xác định hướng TRƯỚC, SAU đối với từng khung quy chiếu. Bản thân khung quy chiếu thời gian xếp chuỗi và khung quy chiếu con người xếp chuỗi là một sự đồ chiếu rõ rệt vị trí các thực thể trong không gian sang vị trí các thời điểm, sự tình trong thời gian.

Như vậy có thể thấy trong quá trình xác lập hệ thống phân loại các khung quy chiếu thời gian, đa phần các nhà nghiên cứu đều xem xét mối quan hệ giữa không gian và thời gian, sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian. Trong lịch sử nghiên cứu mối quan hệ tri nhận giữa không gian và thời gian, chỉ duy nhất tác giả Evans bảo vệ quan điểm rằng sự tri nhận thời gian về bản chất là độc lập với tri nhận về không gian (Evans, 2009, 2013, 2019). Tuy nhiên điều này không phủ nhận cái thực tế rằng một ngôn ngữ nào đó có thể sử dụng từ chỉ không gian để biểu đạt thời gian. Các quan điểm lý thuyết khác nhau này đã được ứng dụng để nghiên cứu khung quy chiếu thời gian trong nhiều ngôn ngữ riêng lẻ khác nhau và cả xuyên ngôn.

Từ những lược thuật trên có thể thấy, mặc dù có lịch sử chưa lâu nhưng nghiên cứu về khung quy chiếu thời gian là mảng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và có nhiều quan điểm song song tồn tại. Các quan điểm này có những điểm gặp gỡ và khác biệt nhau nhất định. Để đi đến kết quả phân loại các khung quy chiếu thời gian, phần lớn họ đều xem xét mối quan hệ giữa không gian và thời gian. Việc xuất phát từ các mô hình phân loại khung quy chiếu không gian khác nhau đã dẫn đến kết quả phân loại khung quy chiếu thời gian khác nhau. Khi xem xét các khung quy chiếu thời gian, một trong các vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu đặt ra là việc đồ chiếu hướng từ khung quy chiếu không gian lên khung quy chiếu thời gian và chú ý đến mô hình phổ quát mang tính đa văn hoá cũng như những trường hợp dị biệt (chẳng hạn tiếng Aymara). Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành để khảo nghiệm tính hiện thực tâm lý của khung quy chiếu, dòng thời gian tinh thần, bổ sung vững chắc cho các phân tích trên cứ liệu ngôn ngữ.

20

Hướng nghiên cứu từ lý thuyết khung quy chiếu thời gian này cho đến nay hầu như vẫn chưa được thực hiện trên cứ liệu tiếng Việt. Những thành tựu của các nhà nghiên cứu với cách tiếp cận cụ thể của họ như vừa được trình bày ở trên là những gợi dẫn để chúng tôi nghiên cứu quy chiếu thời gian trong tiếng Việt, đặc biệt là

hướng vào xác lập các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt, phân tích sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian trong ngôn ngữ này. 1.2.2 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở phạm vi trong nước

Ở Việt Nam, cho đến nay, vấn đề thời gian chủ yếu được nghiên cứu từ bình diện ngữ nghĩa ngữ pháp, ngữ nghĩa từ vựng hoặc từ cấu trúc ý niệm gắn với các khuynh hướng, lý thuyết là Cấu trúc luận, Chức năng luận, Lý thuyết trường nghĩa, Lý thuyết Ngữ học tạo sinh, Ngữ pháp tri nhận, Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm.

Trước khi đi vào tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận, luận án trình bày vắn tắt bức tranh nghiên cứu thời gian trong tiếng Việt từ các cách tiếp cận khác để có cái nhìn bao quát hơn về vấn đề nghiên cứu. 1.2.2.1 Các công trình nghiên cứu thời gian trong tiếng Việt từ bình diện ngữ nghĩa ngữ pháp, ngữ nghĩa từ vựng

Chủ yếu các công trình nghiên cứu thời gian trong tiếng Việt đi vào phân tích vấn đề thì, thể, với hai xu hướng: 1. khẳng định tiếng Việt có phạm trù thì, thể với tư cách là phạm trù ngữ pháp; 2. cho rằng tiếng Việt không có phạm trù thì, chỉ có phạm trù thể.

Đi theo xu hướng thứ nhất, đầu tiên phải kể đến A. de Rhodes (1651), kế đó là Trương Vĩnh Ký (1883), cả hai ông đều không phân biệt thì và thể. Các nhà nghiên cứu thuộc xu hướng này về sau có thể kể đến Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê (1963), Lê Cận, Phan Thiều (1983), Đinh Văn Đức (1986), Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1992), Nguyễn Minh Thuyết (1998), Panfilov (2002), Trần Kim Phượng (2008), v.v.. Họ đều cho rằng tiếng Việt có phạm trù ngữ pháp thì, phương tiện ngữ pháp biểu đạt ý nghĩa thì quá khứ, thì hiện tại, thì tương lai tương ứng là đã, đang, sẽ. Các tác giả trên chủ yếu tiếp cận vấn đề thì, thể trong tiếng Việt từ cách nhìn truyền thống của Ngữ học cấu trúc. Gần đây, các tác giả Trinh (2005), Phan (2013) tiếp cận vấn đề từ lý thuyết Ngữ học tạo sinh và cho rằng trong tiếng Việt có thì cú pháp, tồn tại sự phóng chiếu Thì Ngữ (Tense Phrase) trong tiếng Việt.

Đi theo xu hướng thứ hai có các nhà nghiên cứu như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1936), Hoàng Tuệ (1962), Nguyễn Kim Thản (1977), Nguyễn Đức Dân (1996), Cao Xuân Hạo (1998, 2000, 2003), Huỳnh Văn Thông (2000), Phan Thị Minh Thuý (2003), v.v.. Các tác giả này cho rằng tiếng Việt không có phương tiện ngữ pháp biểu đạt ý nghĩa thì. Các từ vẫn được coi là chỉ tố thì, thể theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thuộc xu hướng thứ nhất được các tác giả này khẳng định chỉ là chỉ tố biểu đạt ý nghĩa thể. Theo họ, để biểu đạt ý nghĩa thời gian, tiếng Việt sử dụng phương tiện từ vựng.

21

Gần đây nhất, Nguyễn Văn Hiệp (2018) cho rằng cho dù cuộc tranh luận tiếng Việt có THÌ với tư cách là một phạm trù ngữ pháp hay không có kết quả như thế nào đi chăng nữa, tiếng Việt vẫn có những phương tiện để biểu thị những ý nghĩa về THÌ

với tư cách là một loại ý nghĩa ngữ pháp. Nguyễn Văn Hiệp là người đầu tiên tiếp cận vấn đề thì, thể, tình thái trong tiếng Việt theo quan điểm của Ngữ pháp tri nhận. Ngoài cách tiếp cận từ các lý thuyết về thì, thể, thời gian trong tiếng Việt còn được nghiên cứu từ cách tiếp cận phân tích nghĩa tố của từ. Tiêu biểu cho cách tiếp cận này là công trình Về các nhóm từ có nghĩa thời gian trong tiếng Việt của Đào Thản (1979). Trong công trình này, ông xác lập ba thành tố nghĩa cơ bản của từ có nghĩa thời gian trong tiếng Việt là thành tố về thời đoạn, thành tố về thời điểm, thành tố về thì. Chúng là căn cứ để ông phân chia từ vựng có ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt thành các nhóm: nhóm những đơn vị từ vựng thuộc danh từ (thế kỉ, dạo, sáng, nay, nãy, v.v.), nhóm các động từ (chờ, đợi, giục, hoãn, khất, v.v.), nhóm các tính từ (nhanh - chậm, trễ - gấp, già - trẻ, cũ - mới, v.v.), nhóm các phó từ (đã, đang, sẽ, sắp, v.v.). Bằng cách đối lập nghĩa tố ở từng cặp từ đồng nghĩa, gần nghĩa, tác giả đã chỉ ra sự khác biệt tinh tế giữa chúng.

Về sau, với công trình Cứ liệu từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt về mối quan hệ không gian – thời gian (Đào Thản, 1983), tác giả đi đến nhận định rằng: con đường phái sinh chỉ có một chiều từ không gian sang thời gian; các đơn vị từ vựng biểu thị thời gian phần nhiều đều có thể tìm thấy sự tương ứng hoặc mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị từ vựng biểu thị không gian; cứ liệu từ vựng thời gian phái sinh từ hoặc dùng chung với không gian trong tiếng Việt khá phong phú, đa dạng, phù hợp với đặc trưng phổ quát của ngôn ngữ; nó cho thấy người nói tiếng Việt không lẫn lộn hay đối lập máy móc hoặc tách rời không gian với thời gian.

22

Từ góc độ trường ngữ nghĩa từ vựng, trong công trình Trường từ vựng – ngữ nghĩa các từ ngữ biểu thị thời gian của tiếng Việt (so sánh với tiếng Đức), Lê Thị Lệ Thanh (2001) nghiên cứu chuyên sâu các danh từ, danh ngữ biểu đạt các chiết đoạn thời gian chỉ năm, tháng, tuần, ngày, buổi, chiết đoạn thời gian nhỏ hơn buổi về cấu trúc nghĩa, số lượng, chức năng định danh, đặc điểm kết hợp, khả năng phân đoạn thành các chiết đoạn nhỏ hơn, vai trò định vị các hành động và sự kiện theo các miền thời gian, thực tế sử dụng chúng trong văn bản trong sự đối chiếu với các đơn vị biểu thị các chiết đoạn thời gian tương đương trong tiếng Đức, qua đó đi đến nhận định: tiếng Việt phong phú về số lượng các đơn vị từ vựng biểu thị các chiết đoạn thời gian; chúng có khả năng kết hợp với nhau và với các đơn vị từ vựng khác cao; độ dao động về nghĩa của chúng rộng; chúng được sử dụng nhiều trong việc định vị sự kiện và hành động trên trục thời gian với điểm mốc là một sự kiện khác; người Việt có xu hướng cảm nhận thời gian nghiêng về cảm tính, dựa vào cảm nhận chủ quan; các từ vựng biểu thị chiết đoạn thời gian phản ánh kinh nghiệm sống, phong tục, tập quán, nếp sinh hoạt gắn liền với điều kiện địa lý của người Việt. Tuy nhiên, do tác giả chỉ mô tả các đơn vị cơ bản, giới hạn ở các danh từ, danh ngữ có nét nghĩa thời gian hiện, không đưa vào các yếu tố có sự chuyển di ngữ nghĩa để chỉ thời gian nên các nhận định chỉ mới chỉ ra được phạm vi kinh nghiệm sống, phong tục tập quán, nếp sinh hoạt gắn với việc nhận thức thời gian của người Việt một cách khá hạn chế.

Vấn đề định vị sự kiện, hành động trên dòng thời gian trong tiếng Việt, ngoài sử dụng phương tiện là các danh từ, danh ngữ biểu đạt các chiết đoạn thời gian như Lê Thị Lệ Thanh đã nghiên cứu còn có nhiều phương tiện khác, như các động từ, liên từ, giới từ, đại từ, các ngữ đoạn giới từ làm trạng ngữ, quan hệ ngữ nghĩa giữa các mệnh đề, các câu, v.v.. Mặt khác, khi xem xét khả năng định vị của các yếu tố được nghiên cứu, mặc dù vận dụng bộ khái niệm của Reichenbach (1947/2004) song trong quá trình mô tả, tác giả chưa chú trọng đúng mức vai trò của thời điểm phát ngôn S cũng như mối quan hệ giữa thời điểm của sự tình E trong tương quan với thời điểm phát ngôn và thời điểm quy chiếu R (chủ yếu tác giả xem xét tương quan định vị giữa E và R). Mặc dù vậy, công trình của Lê Thị Lệ Thanh vẫn là gợi dẫn rất hữu ích để luận án đi vào phân tích các trường hợp chuyển di ngữ nghĩa từ không gian sang thời gian trong tiếng Việt và đặt sự chú trọng đúng mức đến các mốc quy chiếu cũng như tương quan giữa các yếu tố tham gia vào khung quy chiếu. 1.2.2.2 Các công trình nghiên cứu thời gian trong tiếng Việt từ bình diện cấu trúc ý niệm Song song và khác với các cách tiếp cận vừa trình bày, các nhà Việt ngữ học theo đường hướng Tri nhận luận chủ yếu xem xét vấn đề thời gian trong tiếng Việt từ Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm (ngoại trừ công trình nghiên cứu về thì của Nguyễn Văn Hiệp (2018) vừa kể trên). Việc nghiên cứu thời gian từ Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm có liên quan mật thiết với việc phân tích các khung quy chiếu thời gian, do chỗ cả hai cách tiếp cận đều thuộc Ngữ học tri nhận, đều xem xét cách tri nhận thời gian của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định và hướng đến các phổ niệm trong tri nhận thời gian của con người. Nói đúng hơn, chúng bổ sung cho nhau để đưa ra một bức tranh rộng lớn và đầy đủ hơn về cách con người tri nhận về thời gian. Trong luận án này, cùng với việc xác lập các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt là việc phân tích sự đồ chiếu từ không gian lên thời gian, phân tích sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian. Do đó, việc khái lược lịch sử các công trình áp dụng Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm để xử lý vấn đề thời gian trong tiếng Việt, nhất là các công trình có xem xét đến sự tri nhận thời gian thông qua không gian trong tiếng Việt là nền tảng văn liệu cho việc triển khai vấn đề nghiên cứu.

23

a. Từ thập kỉ đầu của thế kỉ XXI, một số nhà nghiên cứu Việt ngữ đã bắt đầu ứng dụng Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm vào nghiên cứu vấn đề thời gian. Trần Văn Cơ trong công trình Ngôn ngữ học Tri nhận (Ghi chép và suy nghĩ), khi trình bày các vấn đề lý thuyết căn bản của Ngôn ngữ học tri nhận đã điểm qua vấn đề tri nhận thời gian. Ông đưa ra các biểu thức để chứng minh thời gian được tri giác như những vật có thật trong thế giới khách quan, chẳng hạn thời gian là một vật biết bay, thời gian giống một sợi cao su, thời gian được cảm nhận như con người (Trần Văn Cơ, 2005, tr.156-157). Đáng chú ý, trong phân tích của mình, Trần Văn Cơ đã bắt đầu xem xét việc tính đếm thời gian bằng không gian, về bản chất là một cách tri nhận thời gian bằng con đường ẩn dụ nhưng được ông định danh là sự tri nhận bốn chiều về thế giới

(Trần Văn Cơ, 2005, tr.161). Những phác thảo của Trần Văn Cơ chưa cho thấy cách người Việt tri nhận, ý niệm hoá thời gian đầy đủ nhưng có vai trò của sự gợi dẫn.

Cũng xem xét cách người Việt tri nhận thời gian, Nguyễn Đức Dân (2009) khẳng định người Việt có sự phân biệt sự tình ở hiện tại, tương lai và quá khứ, phân biệt thời gian gần và thời gian xa; người Việt cũng nhận thức về tính chu kì, tính liên tiếp, tính tức thì của sự tình; người Việt không đo đạc, ước lượng chính xác thời gian; người Việt phân biệt nhiều trạng thái thời gian quá khứ hơn trạng thái thời gian hiện tại và trạng thái thời gian tương lai; quan hệ thời gian trong tri nhận của người Việt đặc trưng bằng khoảng cách gần – xa hữu hướng. Trong công trình này, ông cũng đi đến phân biệt thời điểm nói, thời điểm nhìn. Thời điểm nói theo ông là thời điểm tạo ra phát ngôn. Thời điểm nhìn, trong quan niệm của ông theo chúng tôi nhận thấy là thời điểm của sự tình. Ông cũng khẳng định người Việt dùng trước đây để chỉ quá khứ, sau này, sau đây để chỉ tương lai.

Vấn đề phân tích về tri nhận thời gian trong tiếng Việt, theo quan sát của chúng tôi, được thực hiện công phu nhất trong công trình Định vị thời gian trong tiếng Việt dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận (so sánh với tiếng Anh) của Nguyễn Văn Hán (2011). Trong công trình này, Nguyễn Văn Hán đã vận dụng Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm để tìm hiểu các ẩn dụ ý niệm thời gian trong tiếng Việt. Tác giả xác định các cách thức định vị thời gian trong tiếng Việt sau: định vị thời gian theo mức độ chuyển dịch gần – xa với ẩn dụ THỜI GIAN ĐANG CHUYỂN ĐỘNG và ẩn dụ NGƯỜI QUAN SÁT ĐANG DI CHUYỂN; định vị trước – sau/ tới - lúc này trong thời gian với ẩn dụ THỜI GIAN ĐANG CHUYỂN ĐỘNG; định vị thời gian trong chuỗi sự kiện không có chủ thể (người quan sát) tham gia; định vị thời gian TRÊN – DƯỚI theo chiều đứng của chủ thể; định vị thời gian qua từ vựng có ý nghĩa thời gian. Nguyễn Văn Hán cũng xem xét ẩn dụ thời gian trong thơ ca (đối chiếu thơ ca tiếng Việt và thơ ca tiếng Anh), tập trung ở ẩn dụ ý niệm THỜI GIAN LÀ CON NGƯỜI với các ẩn dụ cơ sở THỜI GIAN LÀ KẺ CẮP, THỜI GIAN LÀ KẺ RƯỢT ĐUỔI, THỜI GIAN LÀ BẠN ĐỒNG HÀNH, THỜI GIAN LÀ KẺ HỦY DIỆT. Tác giả đã đưa ra các biểu thức trong tiếng Việt minh hoạ cho các ẩn dụ ý niệm về thời gian đã được các nhà ngữ học tri nhận xác lập và cho thấy các ẩn dụ ý niệm về thời gian này tồn tại cả trong tiếng Việt và tiếng Anh, sự khác biệt nằm ở các diễn ngữ cụ thể, ở ngoại vi của ý niệm, và đó là cái tạo nên đặc thù văn hoá dân tộc trong tri nhận thời gian.

24

Giới hạn phân tích cách biểu đạt trước/sau trong tri nhận thời gian của người Việt theo các mô hình Thời gian chuyển động, Người quan sát chuyển động, quan hệ không gian nội tại của thực thể thời gian, Trần Văn Minh (2015) đã chỉ ra rằng “Điểm tham chiếu khác nhau sẽ cho ra các cách biểu đạt khác nhau về mặt ngôn ngữ, đôi khi là trái ngược”, vì vậy trước trong (13) Hôm trước tôi gặp anh chỉ quá khứ, nhưng trước trong (14) Những dự định vẫn đang còn ở phía trước chỉ tương lai. Thuật ngữ điểm tham chiếu trong quan niệm của Trần Văn Minh tương ứng với thuật ngữ thời điểm nói mà Nguyễn Đức Dân (2009) sử dụng, tức mốc quy chiếu. Tác giả cũng

khẳng định thêm rằng không phải khi nào điểm tham chiếu cũng là người quan sát mà có thể là một “thực thể” thời gian, theo đó thời điểm sớm hơn ở trước thời điểm muộn hơn. Các phân tích của Trần Văn Minh đã quan tâm đến mốc quy chiếu (điểm tham chiếu theo thuật ngữ của tác giả), tuy nhiên thực tế sử dụng tiếng Việt cho thấy mốc quy chiếu không phải khi nào cũng là thời điểm nói, mặt khác không phải mốc quy chiếu quy định cách biểu đạt (chính xác là ý nghĩa của biểu đạt), bằng cứ là ví dụ (13) và (14) được tác giả dẫn ra đều có mốc quy chiếu là hiện tại của người quan sát nhưng từ trước trong hai trường hợp lại biểu nghĩa thời gian trái ngược nhau.

Những quan sát của Nguyễn Văn Minh về điểm tham chiếu thực tế đã được Đỗ Hữu Châu đề cập trước đó khi ông phân biệt chỉ xuất thời gian chủ quan với mốc định vị là người nói5 tại thời điểm nói và chỉ xuất thời gian khách quan với mốc định vị là một thời điểm trong diễn tiến của sự kiện khách quan (Đỗ Hữu Châu, 2010, tr.81-85). Tuy nhiên Đỗ Hữu Châu không đi sâu vào phân tích chỉ xuất thời gian, những trình bày của ông chỉ mang tính giới thiệu khái quát ban đầu.

Cũng ứng dụng Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm, Trần Thị Lan Anh (2019) khảo sát và mô tả ẩn dụ ý niệm THỜI GIAN LÀ CON NGƯỜI trong tập Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ, trong đó tác giả cho thấy có sự đồ chiếu từ miền nguồn CON NGƯỜI (bộ phận cơ thể, hành động, trạng thái, tính cách, quan hệ, con người nói chung) sang miền đích THỜI GIAN, theo đó thời gian cũng có hình dáng, tính cách, hoạt động, trạng thái, sự đánh giá, cách hành xử, do vậy rất hiện hữu, sống động. Bài viết của Trần Thị Lan Anh nghiên cứu một ẩn dụ ý niệm thời gian cụ thể trong ngôn ngữ văn học như một trường hợp vận dụng của ngôn ngữ dân tộc.

Từ các công trình được công bố, trong diện tham khảo của chúng tôi, có thể thấy rằng các nhà Việt ngữ học đã bước đầu xác lập sự tồn tại của các ẩn dụ ý niệm về thời gian trong tiếng Việt với tư cách là các ẩn dụ phổ niệm trong các ngôn ngữ tự nhiên.

5 Trong luận án này, người viết sử dụng thuật ngữ người quan sát thay vì thuật ngữ người nói. Nguyên do của sự lựa chọn này được trình bày ở mục 1.3.2.1 Khái niệm khung quy chiếu.

25

b. Khi xem xét các ẩn dụ ý niệm chỉ thời gian trong tiếng Việt, các nhà nghiên cứu cũng đồng thời đề cập đến sự ý niệm hoá thời gian thông qua phạm trù không gian, tương ứng với ẩn dụ TIME AS SPACE (THỜI GIAN LÀ KHÔNG GIAN). Trong bài báo Sự tri nhận và biểu đạt thời gian trong tiếng Việt qua các ẩn dụ không gian, từ giả thiết sự tri nhận thời gian dựa trên sự tri nhận không gian, tác giả Nguyễn Hoà (2007) mô tả sự ý niệm hoá thời gian như là không gian trên nhiều mặt. Cụ thể, về chiều, thời gian có sự tương ứng với không gian: 3 chiều (trong hang – trong năm 1999), 2 chiều (trên bàn – vào chủ nhật), 1 chiều (dọc theo phố - theo năm tháng), 0 chiều (ở nhà ga – lúc 7 giờ). Về hướng của dòng thời gian, ông miêu tả rằng phía trước chỉ quá khứ (như trong cách nói tuần trước), phía sau chỉ tương lai (như trong cách nói tháng sau) và điều này có vẻ ngược lại với cách nói những khó khăn phía trước với phía trước chỉ tương lai. Các từ trước, sau trước khi chỉ thời gian, chúng có

ý nghĩa chỉ quan hệ không gian. Về hình dạng, dòng thời gian chỉ có hình tròn (các chu kì thời gian lặp lại) trong khi không gian có nhiều hình dạng khác nhau. Về vị trí của các thời điểm đối với người quan sát (Ego), cả quy chiếu không gian lẫn quy chiếu thời gian đều dùng Ego làm điểm quy chiếu. Với thời gian, hiện tại trùng với thời điểm, vị trí của Ego. Trong quan hệ với Ego, phía trước chỉ quá khứ, phía sau chỉ tương lai. Về chuỗi các đơn vị thời gian, ông cho rằng các sự kiện thời gian sắp xếp thành chuỗi tương tự như chuỗi các sự vật trong không gian. Với người Việt, Nguyễn Hoà nhận định thời gian cũng được tri nhận như một vật thể đang vận động từ tương lai về hiện tại và vào quá khứ, Ego trong mô hình này là điểm quy chiếu tĩnh. Mặt khác người Việt cũng tri nhận thời gian như một không gian tĩnh. Ở mô hình này, Ego vận động từ trái qua phải, tức từ quá khứ đến hiện tại rồi đi vào tương lai. Ở mô hình thứ ba, khi điểm quy chiếu là một sự kiện thời gian thì một sự kiện thời gian nào đó được hiểu là trước hay sau một sự kiện thời gian khác. Tương tự không gian, sự định vị trong thời gian cũng có thể được xác định theo quan hệ Hình/Nền. Thời gian cũng được tri nhận là có ranh giới rõ ràng (trường hợp một điểm trong trục thời gian) hoặc như một khối không thể phân tách, tương tự như thực thể trong không gian. Từ việc đưa ra các biểu thức không gian chỉ thời gian trong tiếng Việt, tác giả khẳng định việc chuyển di các ý niệm từ không gian sang thời gian là một hiện tượng ngôn ngữ phổ quát.

Những mô tả của Nguyễn Hoà (2007) xác lập cho chúng tôi nền tảng rằng có sự chuyển di ý niệm từ không gian sang thời gian trong tiếng Việt. Ông cũng đã bước đầu đề cập đến hướng quy chiếu dù rằng chưa phân định rõ các trường hợp quy chiếu khác nhau cũng như chưa đặt ra vấn đề cái gì được chọn làm mốc quy chiếu. Cũng chính vì điều này mà ông chưa phân định các trường hợp khác nhau trong đó trước/sau ứng với các thời đoạn/thời điểm khác nhau chứ không phải khi nào trong quan hệ với Ego, phía trước cũng chỉ quá khứ, còn phía sau chỉ tương lai. Tuy nhiên, đó lại là gợi ý để luận án phát triển thêm và xây dựng các luận điểm cần phân tích về khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt.

Cũng xem xét tương quan ý niệm giữa phạm trù không gian và phạm trù thời gian, Nguyễn Đức Dân (2009) cho rằng trong không gian một chiều, quan hệ không gian đặc trưng bằng khoảng cách gần xa vô hướng nhưng với thời gian thì là hữu hướng. Trục không gian TRƯỚC - ĐÂY - SAU tương ứng với trục thời gian QUÁ KHỨ - HIỆN TẠI - TƯƠNG LAI. Thời điểm nhìn trong thời gian theo ông tương ứng điểm nhìn trong không gian. Như vậy tác giả Nguyễn Đức Dân chỉ mới đề cập một trường hợp đồ chiếu từ không gian sang thời gian với TRƯỚC đồ chiếu lên QUÁ KHỨ, SAU đồ chiếu lên TƯƠNG LAI.

26

Quan điểm của Nguyễn Đức Dân được nhà nghiên cứu Hữu Đạt khẳng định một lần nữa trên cứ liệu thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt (Hữu Đạt, 2011, tr.16, tr.111- 112). Tuy nhiên cả hai tác giả đều chưa đi đến lý giải vì sao trước chỉ quá khứ, sau chỉ tương lai và có phải khi nào cũng vậy không.

Nguyễn Văn Hán (2011) khi mô tả các ẩn dụ ý niệm chỉ thời gian cũng khẳng định vai trò của không gian trong tri nhận thời gian. Cụ thể, khi viết về ẩn dụ ĐỊNH HƯỚNG THỜI GIAN trong tiếng Việt, Nguyễn Văn Hán cho rằng “tư duy về thời gian của con người gắn chặt với tư duy về sự chuyển động của không gian, trong đó vai trò của người quan sát là rất quan trọng (Nguyễn Văn Hán, 2011, tr.100). Tác giả cũng đồng thời khẳng định “Không có người quan sát thì sẽ không có việc định vị không gian trước - sau, sẽ không có hiện tại, quá khứ hoặc tương lai” (Nguyễn Văn Hán, 2011, tr.100-101). Tuy nhiên nhận định này theo chúng tôi đúng nhưng chưa đủ. Do chỗ không phải khi nào sự định vị không gian và thời gian cũng dựa vào người quan sát, theo đó sự định vị trước – sau trong không gian, quá khứ - tương lai trong thời gian không phải khi nào cũng lấy người quan sát làm mốc quy chiếu (luận án sẽ phân tích điều này ở mục 2.3 chương 2). Đây là chỗ Nguyễn Văn Hán gặp gỡ với tác giả Nguyễn Hoà (2007), tức cũng chưa xác định đầy đủ các điểm mốc được sử dụng trong quy chiếu thời gian. Ba trong các ánh xạ6 (mapping) được tác giả này xác lập giữa miền nguồn không gian và miền đích thời gian là: vị trí của người quan sát  hiện tại, không gian phía trước người quan sát  tương lai, không gian phía sau người quan sát  quá khứ. Tuy nhiên đây chỉ là một trong các trường hợp đồ chiếu từ không gian lên thời gian, như luận án sẽ làm rõ khi phân tích sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian, đặc biệt là ở sự đồ chiếu trục bất đối xứng và hướng.

6 Thuật ngữ ánh xạ mà Nguyễn Văn Hán sử dụng tương đương với thuật ngữ đồ chiếu mà nghiên cứu sinh sử dụng trong luận án.

27

Nguyễn Văn Hán (2011) cũng đã xác lập các ánh xạ từ không gian thực sang thời gian thực ở trường hợp quan hệ chuỗi như sau: Vật thể 1 ở sau Vật thể 2  Thời gian 2 ở tương lai trong mối quan hệ với Thời gian 1; Vật thể 2 ở trước Vật thể 1  Thời gian 2 ở quá khứ trong mối quan hệ Với thời gian 1; Nếu Vật thể 1 ở trước Vật thể 2 và Vật thể 2 ở trước Vật thể 3 thì Vật thể 1 ở trước Vật thể 3  Nếu Thời gian 1 ở quá khứ trong mối quan hệ với Thời gian 2 và Thời gian 2 ở quá khứ trong mối quan hệ với Thời gian 3 thì Thời gian 1 ở quá khứ trong mối quan hệ với Thời gian 3; Nếu Vật thể 1 ở sau Vật thể 2 và Vật thể 2 ở sau Vật thể 3 thì Vật thể 1 ở sau Vật thể 3  Nếu Thời gian 1 ở tương lai trong mối quan hệ với Thời gian 2 và Thời gian 2 ở tương lai trong mối quan hệ với Thời gian 3 thì Thời gian 1 ở tương lai trong mối quan hệ với Thời gian 3. Từ các ánh xạ này, có thể rút ra được trong mô tả của Nguyễn Văn Hán, phía trước được ánh xạ sang thời gian quá khứ còn phía sau được ánh xạ sang thời gian tương lai. Như vậy các ánh xạ này đưa ra một thực tế khác với kết luận về 3 ánh xạ ở trên. Trong luận án của mình, Nguyễn Văn Hán chưa chú ý đến điều này, do vậy chưa đi đến lý giải căn nguyên của sự khác biệt giữa hai trường hợp trên. Đây cũng là điều chúng ta có thể nhận thấy ở tác giả Nguyễn Hoà (2007) khi ông cho rằng có vẻ mâu thuẫn khi phía trước vừa chỉ tương lai vừa chỉ quá khứ (cũng vậy với phía sau). Hai tác giả này đều xem xét vấn đề từ ẩn dụ ý niệm, từ chỗ này luận án rút

ra rằng sẽ không thể thoả đáng giải thích nếu chỉ xuất phát từ ẩn dụ ý niệm. Việc ứng dụng Lý thuyết Khung quy chiếu thời gian sẽ giúp làm sáng tỏ và đi đến căn nguyên khác biệt của những thực tế tưởng chừng mâu thuẫn ở trên.

Kết nối kết quả nghiên cứu của Lê Thị Lệ Thanh (2001), Nguyễn Hoà (2007), Nguyễn Văn Hán (2011), chúng tôi nhận thấy: việc nhận thức rõ tầm quan trọng của mốc quy chiếu, xem xét mối quan hệ giữa các thành tố tham gia vào hoạt động quy chiếu, tách bạch chúng thành các trường hợp cụ thể sẽ giúp bổ khuyết những khoảng trống trong nghiên cứu quy chiếu, định vị thời gian trong tiếng Việt.

Như vậy có thể thấy các nghiên cứu về thời gian trên cứ liệu tiếng Việt từ lý thuyết Ngôn ngữ học tri nhận chủ yếu hướng đến miêu tả các ẩn dụ ý niệm và biểu thức ẩn dụ chỉ thời gian hoặc bước đầu nghiên cứu về thì, thể theo cách tiếp cận của Ngữ pháp tri nhận. Vấn đề khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu cả về mặt lý thuyết lẫn thực nghiệm. Theo đó, cũng chưa có công trình nào nghiên cứu về sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian, phân tích sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian trong tiếng Việt. Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về ẩn dụ không gian chỉ thời gian song nghiên cứu các trường hợp cụ thể các từ ngữ không gian được dùng để quy chiếu thời gian thì chưa từng có tiền lệ, đặc biệt là ở sự đồ chiếu mô hình cấu trúc và phối cảnh của chúng. Do vậy đây là khoảng trống để luận án bổ khuyết. Kết quả nghiên cứu của các nhà Việt ngữ học đi trước vừa dẫn trên là căn nền đồng thời là gợi dẫn để chúng tôi tiếp tục đi sâu phân tích “Quy chiếu thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận”.

1.3 Cơ sở lý luận

1.3.1 Các vấn đề lý thuyết về thời gian 1.3.1.1 Các biến thể của ý niệm thời gian Theo Galton (2011), có ba biến thể của ý niệm thời gian là thời gian tuyến

tính, thời gian tuần hoàn và thời gian toả tia.

Ý niệm thời gian tuyến tính tương thích với trải nghiệm của con người về sự trôi qua của thời gian và tiến trình không thể đảo ngược của các sự kiện. Hệ quả là con người hình dung thời gian có tính định hướng. Tính định hướng của thời gian được phản chiếu ở các miêu tả theo sơ đồ hướng về phía tương lai, chẳng hạn như ở cách chúng ta cấu trúc sự kiện khi thuật lại tiến trình lịch sử hoặc đơn giản là kể lại một câu chuyện theo diễn tiến của nó. Các nhà khoa học tri nhận có khuynh hướng coi thời gian tuyến tính là ý niệm thời gian cơ bản và phổ biến trong suy nghĩ của con người và ý niệm hoá sự biểu đạt của nó bằng dòng thời gian tinh thần.

28

Ý niệm thời gian tuần hoàn gắn với hình dung về một vòng tròn khép kín. Nó tương thích với trải nghiệm của con người về các thời đoạn định kỳ cấu trúc nên cuộc sống như thời gian của một ngày, các ngày trong tuần, các mùa trong năm, các dịp lễ, tết, các chu kì trong vòng đời của thực vật và động vật. Con người chú ý đến sự lặp

lại có tính định kì của nó. Đây là kiểu thời gian gắn với nhịp điệu của cuộc sống, theo đó là nhịp điệu của vạn vật, vũ trụ trong hình dung của con người, nhất là người phương Đông. Ở Việt Nam, cách tính thời gian tuần hoàn theo 12 con giáp là biểu hiện của ý niệm này.

Thời gian toả tia (hay thời gian lấy Ego làm trung tâm) phản chiếu sự hiện tồn của ký ức và sự dự đoán về tương lai của con người. Khi tư duy và nói năng, con người có xu hướng phản ánh các sự kiện gần với chủ thể ở hiện tại tạo nên thế đối xứng giữa quá khứ và tương lai. Về bản chất, thời gian toả tia cũng gắn với thuộc tính định hướng nhưng có sự bất đối xứng giữa quá khứ và tương lai với tâm điểm là hiện tại, nên có hai trục toả tia từ trung tâm. Các ý niệm thời gian này đều gắn với các khung quy chiếu thời gian cụ thể. Trong tiếng Việt, cách nói (khẩu ngữ) ngày mai, ngày kia, ngày kìa; hôm qua, hôm kia, hôm kìa… là biểu hiện của ý niệm này.

Dưới đây là bảng tóm lược quan niệm của Galton về các ý niệm thời gian được

Bender và Beller (2014) khái quát:

Bảng 1.2 Các biến thể của ý niệm thời gian

Tuần hoàn

Toả tia

Tuyến tính

- mức độ rõ ràng, chính xác

- trải qua thời gian, tiến trình không thể đảo ngược của sự kiện

- các thời đoạn định kỳ và các sự của kí ức và của các dự đoán kiện lặp lại theo về tương lai giảm dần khi chu kỳ

khoảng cách tăng dần

Lược đồ  Nền tảng trải nghiệm

1.3.1.2 Các thuộc tính của thời gian

Theo phân tích của Galton (2011), thời gian có 4 thuộc tính là: tính mở rộng (extension), tính tuyến tính (linearity), tính định hướng (directionality) và tính thời khắc (transience). Tính mở rộng cho biết thời gian có thể được phân chia thành các phần, chẳng hạn các khoảnh khắc, các khúc đoạn khác nhau; tính tuyến tính cho phép suy ra rằng với ba khoảnh khắc bất kì, sẽ có một khoảnh khắc (khúc đoạn thời gian) ở giữa hai khoảnh khắc khác; tính định hướng cho phép suy lý về tính bất đối xứng giữa quá khứ và tương lai trong thời gian; tính khoảnh khắc nhấn mạnh về tính chất thoáng qua, phút chốc của mỗi khoảnh khắc thời gian. Bốn thuộc tính này cấu thành một chuỗi liên đới với tính mở rộng là nền tảng của tính tuyến tính, tính tuyến tính là nền tảng của tính định hướng, tính định hướng là nền tảng của tính khoảnh khắc.

29

Các thuộc tính này của thời gian, theo Galton (2011), được chia sẻ với không gian ở những mức độ khác nhau. Điều này tạo nền tảng tri nhận cho sự đồ chiếu giữa hai phạm trù, trong đó không gian được coi là phạm trù nguồn, do chỗ nó mang tính cụ thể và con người có cơ quan cảm giác để tri giác không gian.

Khi thời gian được đồ chiếu theo lối ẩn dụ lên không gian, thuộc tính mở rộng dẫn đến việc mô tả sự tình là không gian đang được chiếm dụng hoặc là “ở giữa” một cái gì đó. Tính tuyến tính tạo nên các ẩn dụ ngôn ngữ về thời đoạn. Tính định hướng cho phép đồ chiếu các trục không gian bất đối xứng lên thời gian, như trường hợp các ẩn dụ Ego chuyển động hoặc Thời gian chuyển động, v.v.. Các ẩn dụ này liên quan đến sự chuyển động nên chúng có thêm tính thời khắc.

Các thuộc tính này có liên quan mật thiết đến các phân tích về khung quy chiếu thời gian cũng như sự đồ chiếu từ không gian lên thời gian trong tiếng Việt, đặc biệt là trong việc xác định TRƯỚC/SAU với mỗi khung quy chiếu. 1.3.1.3 Phối cảnh thời gian

Trong truyền thống nghiên cứu thời gian từ đường hướng Ngôn ngữ học tri nhận, hai cách phối cảnh thời gian được nói đến là phối cảnh Ego chuyển động và phối cảnh Thời gian chuyển động. Hai cách phối cảnh này đã được nhiều nhà nghiên cứu phân tích trong các công trình theo đường hướng Tri nhận luận trước đó như Fillmore (1971), Clark (1973), Talmy (2000), Núñez và Sweetser (2006), Bender et al. (2010).

Thuật ngữ Ego vốn nghĩa là Cái tôi. Trong quy chiếu, với cả không gian và thời gian, dù là sự tình tĩnh hay động, chúng ta đều hình dung có một người quan sát chứng kiến sự tình, dù người quan sát này tham gia vào quá trình quy chiếu hay không. Ở luận án này, người viết giữ nguyên dạng thức Ego với cách hiểu đó là chủ thể quan sát trong quy chiếu không gian hoặc thời gian, chủ thể này có thể được tri nhận là vận động hoặc đứng yên. Trong các văn liệu nghiên cứu theo đường hướng Tri nhận luận tiếng Việt, Ego được giữ nguyên hoặc dịch là người quan sát (Nguyễn Hoà, 2007), Cái tôi (Nguyễn Văn Hiệp, 2018).

Sự phân biệt giữa hai cách phối cảnh Ego chuyển động và Thời gian chuyển động thực tế được đặt ra từ rất sớm trong truyền thống triết học. Người đầu tiên là Smart (1949) (dẫn theo Evans, 2013). Ông cho rằng thời gian được ý niệm hoá và từ vựng hoá thông qua sự vận động trong không gian và đi đến mô tả hai ẩn dụ ý niệm chỉ thời gian trong đó thời gian được nhận thức thông qua sự vận động về phía người quan sát hoặc là người quan sát vận động về phía tương lai. Về sau, Clark (1973) đã mô hình hoá sự phân biệt giữa hai ẩn dụ ý niệm này và mở đường cho việc nghiên cứu về quy chiếu thời gian trong Ngôn ngữ học. Sự phân biệt giữa mô hình Ego chuyển động và Thời gian chuyển động từ phạm trù không gian sang phạm trù thời gian được Lakoff và Johnson (1980, 1993) coi là sự đảo ngược hình – nền của ẩn dụ ý niệm THỜI GIAN TRÔI LÀ SỰ VẬN ĐỘNG (TRONG KHÔNG GIAN). Talmy (2000) gọi hai phối cảnh này là hình ảnh trong gương của nhau hay là sự đảo ngược vai trò Hình/Nền của hai yếu tố trong kịch cảnh.

30

Một cách khái quát có thể hiểu Ego chuyển động và Thời gian chuyển động là hai cách phối cảnh khác biệt nhưng bổ sung cho nhau của cùng một kịch cảnh. Chúng là hai hệ thống ẩn dụ trong đó mỗi hệ thống đem lại một cách đọc riêng biệt. Với Ego

chuyển động, người quan sát di chuyển tiến tới các sự tình trong tương lai rồi bỏ chúng lại phía sau, thời gian được coi là tĩnh trạng, như ở ví dụ sau: (15) a. We are approaching Tuesday.

chúng ta là đang đến gần thứ Ba’ ‘Sắp đến thứ Ba rồi.’ b. Sắp đến Tết rồi. Ngược lại, với điểm nhìn Thời gian chuyển động, người quan sát đứng yên còn thời gian chuyển động về phía Ego, các sự tình thuộc tương lai tiến đến Ego và đi vào quá khứ, như ở ví dụ sau:

(16) a. Tuesday is approaching (us). thứ Ba là đang đến gần (chúng ta) ‘Sắp đến thứ Ba rồi.’ b. Tết sắp đến rồi.

Phối cảnh Ego chuyển động và phối cảnh Thời gian chuyển động có thể gắn với kịch cảnh trực chỉ hoặc phi trực chỉ. Với kịch cảnh trực chỉ, Ego là điểm quy chiếu, như ở ví dụ (15) và ví dụ (16) dẫn trên. Ở các ví dụ này, Tuesday hay Tết được hình dung là ở phía trước Ego, Ego đang tiến đến chúng (ví dụ 15) hoặc các sự tình thời gian tương lai đang tiến về phía Ego (ví dụ 16); điều này được xác lập là trong quy chiếu với người quan sát, do vậy nó mang tính trực chỉ. Với kịch cảnh phi trực chỉ, Ego không tham gia vào quá trình quy chiếu, như trong ví dụ sau: (17) Monday comes before Tuesday (ví dụ dẫn theo Bender & Beller, 2014)

thứ Hai đến trước thứ Ba ‘Trước thứ Ba là thứ Hai.’

Ở (17), các sự tình nối tiếp nhau thành một chuỗi, trong đó Monday được xác định là diễn ra trước Tuesday nhờ quy chiếu với Tuesday, tức trong quan hệ thời gian này, có một sự tình được chọn làm mốc quy chiếu chứ không phải điểm quy chiếu Ego như các ví dụ (15) và (16). Sự vận động của các sự tình được hình dung theo lối ẩn dụ. Nhận thức của chúng ta về chúng trên dòng thời gian được kích hoạt dựa vào vị trí của chúng trong chuỗi, trong đó sự tình sớm hơn “ở phía trước” sự tình muộn hơn. Về bản chất, đây là một trường hợp của phối cảnh Thời gian chuyển động, trong đó thời gian vẫn vận động từ tương lai, về hiện tại, đi qua Ego và vào quá khứ cho dù Ego không tham gia vào quy chiếu.

31

Kịch cảnh phi trực chỉ trên được Moore (2004, 2006) xem là sự ý niệm hoá thời gian theo chuỗi nối tiếp, thời gian được ý niệm hoá không phải từ điểm nhìn cái tôi trung tâm (egocentric perspective-point) mà bản chất là chuỗi nối tiếp.

Việc xác lập hai cách phối cảnh thời gian như trên cho thấy vấn đề điểm nhìn trong quá trình ý niệm hoá thời gian đã được đặt ra từ rất sớm. Chúng là cơ sở để mô tả sự quy gán vận động từ không gian sang thời gian, phân tích các biến thể của các khung quy chiếu thời gian trong ngôn ngữ tự nhiên cũng như sự chuyển di ý niệm từ không gian sang thời gian trong một ngôn ngữ cụ thể hoặc đặt trong địa hạt xuyên ngôn. 1.3.1.4 Các mối quan hệ thời gian

Evans (2013, 2019) cho rằng mỗi khung quy chiếu thời gian làm phát sinh một mối quan hệ thời gian khác biệt. Có ba loại quan hệ thời gian được xác lập là quan hệ tương lai/quá khứ, quan hệ sớm hơn/muộn hơn và Ma trận thời gian.

Người đầu tiên nhận thức về quan hệ thời gian khi nghiên cứu các khung quy chiếu thời gian là Moore (2004, 2006). Moore cho rằng sự khác biệt giữa ví dụ (15), (16) và ví dụ (17) ở trên là ví dụ (15), (16) chỉ quan hệ tương lai/quá khứ. Điều này gắn với trải nghiệm có thực về mặt hiện tượng học của con người về một thực tại sẽ đến. Trong khi đó (17) chỉ quan hệ sớm hơn/muộn hơn. Quan hệ này có nền tảng là chuỗi nối tiếp các sự tình.

Moore cũng nhận thấy rằng hai quan hệ thời gian nói trên có điểm quy chiếu khác nhau. Ở ví dụ (15), (16), điểm quy chiếu là Ego – thực thể trải nghiệm ở hiện tại, tức sự tình được định vị trong quy chiếu với “bây giờ”. “Tuesday”, “Tết” được ý niệm hoá do chúng được đặt ở tương lai so với Ego. Ngược lại, ở (17), điểm quy chiếu không phải Ego mà là một sự tình: sự tình “Tuesday” giúp đặt sự tình “Monday” vào thời gian.

Ngoài hai quan hệ trên, Evans (2009, 2013, 2019) đề xuất loại quan hệ thứ ba là Ma trận thời gian (the Matrix conception of time). Trong quan hệ này, thời gian cấu thành nên cái sự tình bao chứa sự khởi đầu và kết thúc của tất cả mọi tồn tại khác, tức thời gian được hình dung như một trường tổng thể hay sự tình tổng thể. Thời gian được hình dung như vậy Evans gọi là Ma trận thời gian.

Khác với hai loại quan hệ trước, quan hệ Ma trận không dựa trên nền tảng các trải nghiệm có thực về mặt hiện tượng học mà liên quan đến sự trôi đi vĩnh viễn, vô tận của thời gian. Nó xuất phát từ sự ý niệm hoá về thời đoạn, độc lập với thứ vật chất cấu thành nên thời gian. Nói cách khác, quan hệ Ma trận nảy sinh từ phiên bản cụ thể hoá của thời đoạn (duration), được nhận thức là độc lập với các sự tình và là phạm trù có sẵn cho sự phản ánh mang tính chủ quan của con người. 1.3.1.5 Mũi tên thời gian

7 Trong Vật lý học, khái niệm mũi tên thời gian được dùng để phân biệt quá khứ với hiện tại và dùng để xác định hướng của thời gian. Có ba mũi tên thời gian khác nhau: một là mũi tên nhiệt động học chỉ hướng của thời gian theo đó tình trạng vô trật tự tăng lên; hai là mũi tên tâm lý học chỉ hướng thời gian trôi trong cảm nhận chúng ta – hướng trước, theo đó chúng ta chỉ nhớ quá khứ mà không biết về tương lai; ba là mũi tên vũ

32

Trong Ngôn ngữ học, mũi tên thời gian7 (the arrow of time) là cách nói mang tính ẩn dụ để chỉ tính bất đối xứng giữa quá khứ và tương lai của thời gian, theo đó

thời gian được hình dung là vận động từ quá khứ đến tương lai mà không có chiều ngược lại. Mũi tên thời gian do vậy luôn chỉ về tương lai. 1.3.1.6 Dòng thời gian tinh thần

Khái niệm dòng thời gian tinh thần (mental timeline), gọi tắt là dòng thời gian, được dùng để chỉ nhận thức mang tính không gian hoá của con người về thực thể thời gian với tư cách là một phạm trù trừu tượng (Ulrich & Maienborn, 2010). Dòng thời gian trải dài trên một trục không gian, chỉ có một hướng và kéo dài đến vô tận (Bender & Beller, 2014). Nó tồn tại như một trường tổng thể độc lập với vai trò của người quan sát. Dòng thời gian có thể được tri nhận là động hoặc tĩnh, trên đó người bản ngữ xác định thời điểm, thời đoạn, phối cảnh thời gian, xác lập quan hệ thời gian giữa các sự tình. Trong các ngôn ngữ tự nhiên, dòng thời gian được ý niệm hoá theo lối ẩn dụ là các thực thể trong không gian, chẳng hạn THỜI GIAN LÀ CON ĐƯỜNG, THỜI GIAN LÀ DÒNG CHẢY. Các ví dụ sau trong tiếng Anh là sự biểu đạt ngôn ngữ học của các ẩn dụ ý niệm này.

(18) a. Time flows on forever. (lấy lại ví dụ (4))

Thời gian trôi mãi mãi ‘Thời gian không ngừng trôi.’ b. Summer follows spring. Mùa hè theo sau mùa xuân’ ‘Sau mùa xuân là mùa hè.’

Ở (18a), thông qua cách dùng động từ flow (có nghĩa là trôi, chảy), chúng ta biết được người bản ngữ coi thời gian là dòng chảy vô tận (tức có ẩn dụ ý niệm THỜI GIAN LÀ DÒNG CHẢY). Ở (18b), với động từ follow (có nghĩa là đi theo sau một đối tượng đang chuyển động về phía trước), người bản ngữ cho thấy họ hình dung thời gian như con đường, mùa hè (summer) và mùa xuân (spring) là các thực thể chuyển động nối tiếp nhau trên con đường đó.

trụ học chỉ hướng của thời gian theo đó vũ trụ nở ra chứ không co lại. Cả ba mũi tên này chỉ cùng một hướng. Các mũi tên nhiệt động học và tâm lý học của thời gian không đảo hướng cả trong lỗ đen lẫn khi vũ trụ co lại. (Hawking, 2017, tr.209-219). Như vậy khái niệm mũi tên thời gian trong Ngôn ngữ học được hiểu hẹp hơn, chỉ tương ứng với mũi tên tâm lý học của Vật lý học.

33

Khái niệm dòng thời gian tinh thần này tương đồng với cách hiểu về “thời gian tự thân” (“time itself”) trong bộ khung thời gian ngoại tại của Kranjec (2006), khái niệm Ma trận thời gian hay trường thời gian tổng thể trong quan niệm của Evans (2009, 2013, 2019). Nó cũng tương đồng với khái niệm thời gian tuyệt đối trong vật lý học Newton và quan niệm về thời gian trong triết học (cả biện chứng lẫn siêu hình). Các ngôn ngữ khác nhau có thể khác nhau về số lượng dòng thời gian tinh thần, hướng của dòng thời gian, theo đó là khác nhau về sự phân bố quá khứ - tương

lai trên dòng thời gian. Trước khi đi vào phân tích các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt, luận án sẽ xác lập các đặc điểm của dòng thời gian tinh thần trong ngôn ngữ này. Các hệ quy chiếu thời gian gắn với các khung quy chiếu thời gian cụ thể trong tiếng Việt đều được xác lập trên dòng thời gian này. 1.3.2 Các vấn đề lý thuyết về khung quy chiếu 1.3.2.1 Khái niệm khung quy chiếu

Thuật ngữ khung quy chiếu (frame of reference) bắt nguồn từ lý thuyết về tri giác của trường phái Gestalt từ những năm 20 của thế kỉ XX, theo đó khung quy chiếu được hiểu “là đơn vị hoặc tổ hợp các đơn vị được dùng để xác định một hệ toạ độ nhờ đó có thể đo tính các thuộc tính nhất định của đối tượng” (dẫn theo Levinson, 2003/2004, tr.24).

Định nghĩa trên đã đề cập đến yếu tố căn cốt là hệ toạ độ và yếu tố giúp xác định hệ toạ độ, tuy nhiên vẫn chưa chỉ rõ yếu tố nào tham gia vào xác định hệ toạ độ. Với một khung quy chiếu, rốt cục hệ toạ độ hay yếu tố giúp xác lập hệ toạ độ mới giữ vai trò then chốt? Đã có lúc người ta cho rằng cái có vai trò quyết định là các thành tố tham gia vào quy chiếu, chẳng hạn như Brewer và Pears (dẫn theo Levinson, 2003/2004), tuy nhiên, ngược lại cũng có quan niệm khẳng định rằng “sự phân biệt giữa các khung quy chiếu nằm ở sự khác nhau về hệ toạ độ được xác định chứ không phải ở các yếu tố tham gia vào khung quy chiếu”, chẳng hạn như Levinson (2003/2004, tr.24). Xem xét lịch sử nghiên cứu khung quy chiếu, khung quy chiếu không gian và khung quy chiếu thời gian, chúng tôi nhận thấy nhận định của Levinson là thuyết phục. Dù hệ thống phân loại của các tác giả có khác nhau thì cái để phân biệt các khung quy chiếu chính là hệ toạ độ được xác lập. Điều đó bộc lộ rõ khi cùng một kịch cảnh nhưng có hai cách giải thích khác nhau, tương ứng với hai hệ toạ độ khác nhau. Ví dụ, với kịch cảnh được minh hoạ ở hình sau, biểu thức miêu tả nó có thể là:

(19) The ball is in front of the car.

ART bóng là trước ART xe hơi ‘Quả bóng ở phía trước chiếc xe.’

hoặc: (20) The ball is to the left of the car.

ART bóng là PREP ART bên trái PREP của ART xe hơi ‘Quả bóng ở bên trái chiếc xe.’

34

trong khi vị trí của quả bóng không hề thay đổi. Cái thay đổi ở đây là hệ toạ độ được xác lập để quy chiếu quả bóng. Ở (19), hệ toạ độ được xác lập gồm hai yếu tố là chiếc xe và quả bóng, trong đó quả bóng được định vị theo hướng nội tại của chiếc xe.

Trong khi ở (20), hệ toạ độ được xác lập gồm ba yếu tố: quả bóng, chiếc xe và người quan sát, phía trái của ô tô được xác định theo phía trái của người quan sát. Như vậy không phải bản thân từng yếu tố có vai trò quyết định mà là quan hệ được xác lập giữa chúng, tức hệ toạ độ mới có vai trò quyết định, theo đó sự thay đổi hệ toạ độ đồng nghĩa với sự thay đổi khung quy chiếu.

Hình 1.1 Kịch cảnh có thể được mô tả theo nhiều khung quy chiếu khác nhau (Levinson, 2003/2004, tr.25)

Talmy (2000) đưa ra định nghĩa về khung quy chiếu như sau: khung quy chiếu là hệ toạ độ được dùng để thiết lập sự định vị của một Hình trên một Nền từ một phối cảnh nhất định. Đây là định nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu ứng dụng cho cả nghiên cứu không gian và thời gian (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014). Talmy xác lập các thành tố của một khung quy chiếu như sau:

- Hình F (Figure): đối tượng được định vị - Nền8 G (Ground): trong quy chiếu, nhờ G mà F được định vị - Gốc X của hệ toạ độ - Điểm nhìn V của người quan sát (Viewpoint of observer). Như trong ví dụ (19) ở trên thì F là quả bóng, G là chiếc xe, V là người quan sát, Gốc X của hệ toạ độ trùng với vị trí của chiếc xe (X ≡ G). Trong trường hợp này, vị trí của người quan sát không quan yếu đối với việc quy chiếu, do hệ toạ độ chỉ được xác lập giữa F và G. Với ví dụ (20) thì phối cảnh có thêm sự tham gia của người quan sát với điểm nhìn V. Lúc này vai trò của V là quan yếu; hệ toạ độ được xác lập gồm F, G và V.

8 Hình còn được gọi là vật được quy chiếu (R – referent), Nền còn được gọi là điểm/mốc quy chiếu (RF – reference point). Thuật ngữ tương ứng với Figure và Ground trong lý thuyết của Langacker (1987) là Trajector và Landmark.

35

Hệ thống các thành tố này của Talmy (2000) về cơ bản được Levinson (2003/2004) kế thừa trong mô tả các khung quy chiếu không gian. Tuy nhiên Levinson có phân biệt thêm hệ toạ độ sơ cấp và hệ toạ độ thứ cấp, là sự phân biệt mà chúng tôi thấy là cần thiết và quan trọng để mô tả thuyết phục các khung quy chiếu khác nhau.

Các tham số cơ bản để phân tích khung quy chiếu theo quan niệm của Levinson

gồm:

- F (Figure) = Hình: đối tượng được quy chiếu - G (Ground) = Nền: trong quy chiếu, nhờ G mà F được định vị - V (Viewpoint of observer) = điểm nhìn của người quan sát9 (Điểm nhìn này

có thể quan yếu hoặc không quan yếu tuỳ từng khung quy chiếu.)

- X = gốc của hệ toạ độ X1 = gốc của hệ toạ độ sơ cấp X2 = gốc của hệ toạ độ thứ cấp.

(Levinson, 2003/2004, tr.39)

Hệ toạ độ sơ cấp theo quan niệm của Levinson được xác lập ở các quan hệ quy chiếu song tố, giữa hai tham số F và G, G có thể trùng V hoặc không (ở ví dụ (19) trên, G ≡ V nhưng ở ví dụ (17) Monday comes before Tuesday thì G khác V). Hệ toạ độ thứ cấp được xác lập ở các quan hệ quy chiếu tam tố, trong đó có sự chuyển dịch hệ toạ độ từ V sang G (như ở ví dụ (20)).

Khái niệm khung quy chiếu đi liền với khái niệm chiến lược quy chiếu. Mỗi khung quy chiếu gắn với một chiến lược quy chiếu nhất định. Theo Lý Toàn Thắng (2005), trong quy chiếu, nếu F được định vị trong quy chiếu với G, điểm gốc của hệ toạ độ cơ sở ở G thì chiến lược quy chiếu được sử dụng sẽ là chiến lược quy chiếu trực tiếp; ngược lại, sẽ là chiến lược quy chiếu gián tiếp nếu có sự chuyển di hệ toạ độ cơ sở từ V sang G trong quá trình quy chiếu. Chiến lược quy chiếu, theo Evans (2009, 2013), là cách tiếp cận duy nhất để thiết lập một quy chiếu thời gian.

9 Trong xác lập của Talmy (2000) và Levinson (2003/2004), điểm nhìn của người quan sát là một thành tố có thể tham gia vào hệ toạ độ. Thành tố này trong phân tích của Đỗ Hữu Châu (2010), Đặng Kim Hoa (2017), Lý Toàn Thắng (2005) là điểm nhìn của người nói. Tuy nhiên, giữa chúng có sự phân biệt. Theo phân tích của Hoàng Dũng trong trao đổi giữa ông với nghiên cứu sinh, với ngữ liệu “Ông có thấy con chó ở ngoài vườn (1) không? Hôm trước có anh chàng đi ngoài đường, thấy con chó đang chạy chơi trong vườn (2), mê quá, vào gạ mua đấy!”, từ đầu chí cuối chỉ một người nói và con chó không thay đổi vị trí nhưng khi thì trong, khi thì ngoài. Như vậy, nếu chỉ căn cứ vào điểm nhìn của người nói sẽ không thể giải thích được cứ liệu. Cái yếu tố liên quan thiết yếu đến quy chiếu không phải là điểm nhìn của người nói, mà là điểm nhìn của người quan sát. Có sự thay đổi người quan sát trong hai trường hợp trên: ở (1) người quan sát cũng là người nói, nhưng ở (2) người quan sát là anh chàng ngoài đường, phân biệt với người nói. Theo phân biệt của Susumu Kuno (1987) thì góc nhìn nhập cảm (empathy perspective) hay góc ngắm camera (camera angle), tức điểm nhìn của người quan sát, trong hai trường hợp trên là khác nhau, đưa đến hai cách biểu đạt quan hệ không gian khác nhau. Trong luận án này, nghiên cứu sinh sử dụng thuật ngữ người quan sát trên tinh thần phân biệt như vậy.

36

Để phân tích các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt, luận án sử dụng khái niệm khung quy chiếu của Talmy (2000) và hệ thống các tham số tham gia vào khung quy chiếu của Levinson (2003/2004) làm cơ sở lý luận. 1.3.2.2 Lý thuyết khung quy chiếu không gian của Levinson Ở lĩnh vực không gian, việc nghiên cứu các khung quy chiếu được thực hiện chủ yếu từ những năm 70 của thế kỉ XX, ở cả phạm vi nội ngôn và xuyên ngôn

(Bender & Beller, 2014). Cho đến nay, tồn tại nhiều quan niệm phân loại khác nhau đối với khung quy chiếu không gian. Có thể nói đến các quan niệm10 sau:

1. Sự phân biệt giữa khung quy chiếu không gian tuyệt đối và khung quy chiếu không gian tương đối theo quan điểm Triết học, Khoa học não bộ và Ngôn ngữ học; 2. Sự phân biệt giữa khung quy chiếu lấy Ego làm trung tâm (egocentric) và khung quy chiếu tha trung tâm (allocentric) (tức trung tâm không phải là Ego) của Tâm lý học hành vi và Khoa học não bộ;

3. Sự phân biệt giữa khung quy chiếu có trung tâm là người quan sát và khung quy chiếu có trung tâm là đối tượng khác người quan sát của Lý thuyết Thị giác (Vision theory);

4. Sự phân biệt giữa khung quy chiếu có định hướng (orientation-bound) và khung quy chiếu không định hướng (orientation-free) của Lý thuyết Tri giác trực quan;

5. Sự phân biệt giữa khung quy chiếu trực chỉ và khung quy chiếu nội tại trong

Ngôn ngữ học;

6. Sự phân biệt giữa khung quy chiếu lấy người quan sát làm trung tâm (viewer-centred), khung quy chiếu lấy đối tượng (phân biệt với người quan sát) làm trung tâm (object-centred) và khung quy chiếu lấy môi trường không gian tổng thể làm trung tâm (environment-centred) của Ngôn ngữ học tâm lý;

7. Sự phân biệt giữa khung quy chiếu tuyệt đối, khung quy chiếu nội tại và

khung quy chiếu tương đối của Ngôn ngữ học tri nhận.

(Levinson, 2003/2004)

Trong bảy quan niệm trên, quan niệm cuối cùng là của nhà ngữ học Levinson (2003/2004), được ông xây dựng trên cơ sở phân tích những giới hạn của sáu quan niệm trước cùng kết quả quan sát dữ liệu xuyên ngôn. Đây là quan niệm duy nhất theo đường hướng của Ngôn ngữ học tri nhận11, cũng là hướng triển khai của luận án, vì vậy chúng tôi lựa chọn quan niệm của Levinson làm cơ sở lý thuyết cho việc triển khai đề tài.

10 Để biết thêm chi tiết về các quan niệm này, xin xem chương 2 cuốn Space in Language and Cognition – Explorations in Cognitive Diversity của Stephen C. Levinson (2003/2004). 11 Xin cảm ơn Phó giáo sư Hoàng Dũng vì đã phát hiện và góp ý ở điểm này cho luận án.

37

Cái khác biệt ở Levinson so với văn liệu trước đó trong nghiên cứu khung quy chiếu không gian là ông đã chuyển trọng tâm chú ý vào vai trò của hệ toạ độ trong quy chiếu không gian thay vì chú trọng vào vai trò của các thành tố tham gia vào khung quy chiếu. Levinson hướng trọng tâm phân tích vào các khung quy chiếu xét trong mặt phẳng ngang. Ông đưa ra hệ thống gồm ba loại khung quy chiếu không gian là khung quy chiếu nội tại, khung quy chiếu tương đối và khung quy chiếu tuyệt đối. Hệ thống này của ông đã được Bender và cộng sự (Bender et al., 2010, Bender & Beller, 2014), Tenbrink (2011), Zinken (2010) dựa vào để xây dựng lý thuyết khung quy chiếu thời gian.

Khung quy chiếu tuyệt đối thể hiện quan hệ song tố giữa F và G. Khung quy chiếu tuyệt đối thực hiện sự định hướng từ một trường tổng thể nằm bên ngoài F và G trong đó F được xác định theo hướng cố định phát xuất từ G. Gốc X của hệ toạ độ thường ở trung tâm của G12. G có thể là bất cứ đối tượng nào, là Ego hoặc một trung tâm trực chỉ nào khác. Sự đánh giá về hướng đối với trường tổng thể mang tính quy ước văn hoá, có thể là dựa vào các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc hoặc dựa vào hướng gió, chòm sao, sườn núi, dòng chảy của sông ngòi, đặc trưng của đường bờ biển, trục biển – đất liền (với trường hợp ở đảo). Trong khung quy chiếu này, vị trí của người quan sát lẫn hướng nội tại của nền G đều không quan yếu với việc định vị. Hình 1.2a dưới đây minh hoạ về khung quy chiếu này.

12 Theo Levinson (2003/2004, tr.332), ngoại lệ duy nhất là trường hợp các vectơ thẳng hàng hoặc các chuyển động. Chúng cho phép xác định hướng mà không cần viện đến sự có mặt của các địa điểm hay mốc quy chiếu nào, tức không cần đến G.

38

Khung quy chiếu nội tại thể hiện quan hệ song tố giữa hai tham số F và G. Gốc X của hệ toạ độ ở trung tâm của G. Khung quy chiếu thực hiện sự định hướng từ thực thể Nền G. G được nhận thức trực tiếp và được coi là có sự định hướng nội tại. Nói cách khác, có thể xác định và định danh các bộ phận, các mặt khác nhau của G và lấy đó làm cơ sở để xác lập vùng tìm kiếm. Vị trí của người quan sát trong trường hợp này là không quan yếu, ngay cả khi V không trùng với G. Minh hoạ cho khung quy chiếu này được thể hiện ở hình 1.2b dưới đây. Khung quy chiếu tương đối thể hiện quan hệ tam tố giữa ba tham số F, G và V. Khung quy chiếu này thực hiện sự định hướng từ điểm nhìn V của người quan sát. V khác G. F được xác định trong quy chiếu với G. Hệ toạ độ cơ sở với điểm gốc X1 thuộc V được chuyển di sang G – hệ toạ độ thứ cấp (với điểm gốc X2). Bản thân người quan sát có sự định hướng nội tại (trái, phải, trước, sau). Các trục định hướng này được chuyển di sang G theo ba cách tạo ra ba biến thể của khung quy chiếu tương đối: biến thể luân chuyển (rotation), biến thể phản chiếu (reflection), biến thể chuyển dịch (translation). Biến thể luân chuyển xuất hiện khi hệ toạ độ ở V được nhấc sang G và quay 180° (Hình 1.2c). Biến thể phản chiếu được tạo lập bằng cách lật ngược trục trước – sau của người quan sát rồi đồ chiếu sang G (Hình 1.2d). Biến thể chuyển dịch là kết quả của việc chuyển dịch nguyên bản hệ toạ độ của V sang G (Hình 1.2e). Biến thể phản chiếu và biến thể luân chuyển chỉ phân biệt trong không gian hai chiều. Trong không gian một chiều, chúng nhập lại và được xử lý là biến thể phản chiếu. Sự đồ chiếu hệ toạ độ thứ cấp từ V sang G cho phép suy ra rằng sự đồ chiếu này có nguồn gốc là sự mở rộng của khung quy chiếu nội tại. Nói cách khác khung quy chiếu nội tại là cơ bản và nền tảng hơn trong mô tả không gian trong ngôn ngữ tự nhiên. Theo Levinson, các ngôn ngữ chỉ sử dụng ba khung quy chiếu nói trên nhưng không phải mọi ngôn ngữ đều sử dụng đầy đủ cả ba. Có ngôn ngữ chỉ sử dụng một khung quy chiếu (tuyệt đối hoặc nội tại), có ngôn ngữ sử dụng hai (nội tại và tương

39

đối hoặc nội tại và tuyệt đối), có ngôn ngữ sử dụng ba (Levinson, 2003/2004, tr.53, tr.93). Mặc dù không đi vào phân tích các khung quy chiếu không gian xét theo trục dọc, Levinson vẫn có điểm qua rằng trong tiếng Anh, các khung quy chiếu không gian khác nhau có xu hướng đồng nhất với nhau do chỗ các hướng đối lập trong khung quy chiếu nội tại, điểm nhìn của khung quy chiếu tương đối và trường trọng lực thẳng hàng với nhau. Hình 1.2. dưới đây minh hoạ quan niệm các khung quy chiếu không gian của Levinson, chúng tôi dẫn theo Bender và cộng sự (Bender et al., 2010). Ở các hình 1.2c, 1.2d, 1.2e, chúng tôi có bổ sung chỉ dẫn các hướng cụ thể ở hệ toạ độ thứ cấp so với hình minh hoạ các khung quy chiếu không gian của Levinson của Bender và cộng sự của ông. Trong bản gốc (Bender et al., 2010), các tác giả chỉ xác định phía trước, theo chúng tôi như vậy chưa đủ để người đọc có thể định vị được phía phải, phía trái trong mỗi trường hợp và do vậy không thể nào phân biệt được sự khác nhau giữa biến thể luân chuyển và biến thể phản chiếu trong khi sự khác biệt bản chất giữa hai biến thể này là cách xác định trái, phải. Với trường hợp biến thể luân chuyển, chúng tôi nhận thấy Bender và cộng sự chưa tổng thuật chính xác mô tả của Levinson khi lấy ví dụ minh hoạ cho trường hợp 1c là The cat is to the right of the car (“Con mèo ở bên phải chiếc xe”) (Bender et al., 2010, tr.287). Chiểu theo mô tả của Levinson thì với hình minh hoạ trên, con mèo phải được định vị là ở bên trái chiếc xe. Chính vì vậy chúng tôi đã điều chỉnh lại ví dụ. Mặt khác các tác giả cũng không chỉ rõ tên là biến thể luân chuyển (rotation) mà chỉ định danh là khung quy chiếu tương đối, dạng cơ bản. Ở bài báo xuất bản năm 2014 (Bender & Beller, 2014, tr.348), khi tổng thuật quan niệm của Levinson, Bender và cộng sự không dẫn ví dụ cho trường hợp này.

KQC tương đối: c) Biến thể luân chuyển

b) KQC nội tại

a) KQC tuyệt đối

Sau

Phải

Trái

Bắc

Trước

Trái

Trước

Tây

Sau

Trước

Đông

Trái

Phải

Phải

Nam

Sau

Qh (F, G), X thuộc trường tổng thể

Qh (F, G), X trùng G

Qh (V, F, G), X trùng V

“The cat is in front of the car.”

“The cat is to the left of the car.”

“The cat is east of the car.”

KQC tương đối e) Biến thể chuyển dịch

KQC tương đối d) Biến thể phản chiếu

Trước

Sau

Trái

Trái

Phải

Phải

Trước

Sau

Trước

Trước

Chú thích: KQC: khung quy chiếu Qh: quan hệ F: hình G: nền V: điểm nhìn của người quan sát X: gốc của hệ toạ độ X1: gốc của hệ toạ độ cơ sở X2: gốc của hệ toạ độ thứ cấp

Qh (V, F, G), X trùng V, X2 trùng G

Qh (V, F, G), X trùng V, X2 trùng G

“The cat is in behind the car.”

“The cat is in front of the car.”

Hình 1.2 Các khung quy chiếu không gian (dẫn theo Bender et al., 2010; chúng tôi bổ sung)

Ở góc nhìn liên ngành, khung quy chiếu không gian được phân biệt ở ba cấp độ: tri giác, ý niệm, ngôn ngữ; trong đó các khung quy chiếu ngôn ngữ phản chiếu các khung quy chiếu của hai cấp độ còn lại.

Lý thuyết khung quy chiếu không gian của Levinson (2003/2004) là cơ sở lý thuyết để chúng tôi phân tích, xác lập các khung quy chiếu không gian trên trục ngang trong tiếng Việt làm nền tảng cho việc phân tích sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian trong ngôn ngữ này. Lý thuyết này cũng được Bender và cộng sự kế thừa để phân tích các khung quy chiếu ở phạm trù thời gian như chúng tôi sẽ trình bày ở phần tiếp theo đây. 1.3.2.3 Lý thuyết khung quy chiếu thời gian của Bender và cộng sự

40

Bender cùng các cộng sự của ông đã phát triển lý thuyết về khung quy chiếu thời gian trên cơ sở thành tựu lý thuyết về khung quy chiếu không gian được Levinson (2003/2004) đặt ra trước đó. Các khung quy chiếu thời gian được các tác giả này xác

lập là: khung quy chiếu thời gian tuyệt đối, khung quy chiếu thời gian nội tại, khung quy chiếu thời gian tương đối13.

Quá khứ

Khung quy chiếu thời gian tuyệt đối là khung quy chiếu mà việc định hướng được xác lập dựa trên một trường tổng thể (superordinate field) nằm ở bên ngoài Hình F, Nền G và cả người quan sát. Với thời gian, tính bất đối xứng, tức thuộc tính vận động có hướng của nó có thể sử dụng để xác định hướng của trường: TRƯỚC tương ứng với phía mũi tên thời gian chỉ tới, tức tương lai. Các sự tình “ở phía trước” các sự tình khác hay “chuyển động về phía trước” sẽ thuộc về tương lai. Hình 1.3 dưới đây minh hoạ cho khung quy chiếu này.

G

F Tương lai

quan hệ nhị phân (F, G) “trước” = tương lai “vận động về phía trước” = hướng về tương lai

Hình 1.3 Khung quy chiếu thời gian tuyệt đối

Khung quy chiếu thời gian nội tại thực hiện sự định hướng dựa vào Nền G. TRƯỚC là khoảng thời gian bắt đầu của sự tình G. Các sự tình “ở phía trước” sự tình khác hoặc “vận động về phía trước” so với vị trí ban đầu của chúng sẽ thuộc về quá khứ. Điều này tương thích ngay cả khi G trùng với hiện tại của chủ thể quan sát. Hình 1.4 dưới đây minh hoạ cho khung quy chiếu này.

G

Quá khứ F Tương lai

quan hệ nhị phân (F, G) “trước” = thời điểm bắt đầu của G “vận động về phía trước” = hướng về quá khứ Hình 1.4 Khung quy chiếu thời gian nội tại

13 Về tên gọi của các khung quy chiếu, Bender và cộng sự kế thừa hệ thống thuật ngữ của Levinson (2003/2004). Sự kế thừa này chúng ta cũng thấy ở hệ thống khung quy chiếu của Zinken (2010), Tenbrink (2011). Có thể thấy đối lập giữa absolute (tuyệt đối) và relative (tương đối) là đối lập lưỡng cực, nên sự hiện diện của yếu tố thứ ba, intrinsic (nội tại), khiến chúng ta có thể đi đến suy nghĩ rằng hệ thống tên gọi này chưa thật chặt chẽ về mặt logic. Tuy nhiên điều này không ảnh hưởng đến sự phân biệt nội hàm thuật ngữ. Vì vậy luận án vẫn sử dụng tên gọi các khung quy chiếu thời gian như Bender và cộng sự của ông (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014) xác lập khi chuyển dịch sang thuật ngữ tương đương trong tiếng Việt. *Xin cảm ơn Phó giáo sư Hoàng Dũng vì đã chỉ dẫn cho nghiên cứu sinh lưu ý ở điểm này.

41

Khung quy chiếu tương đối thiết lập quan hệ thời gian giữa ba thành tố Hình F, Nền G và người quan sát V. F được định vị trong quy chiếu với G theo điểm nhìn chủ quan của V. Khung quy chiếu thời gian tương đối có hai biến thể là biến thể phản chiếu (reflection variant) và biến thể chuyển dịch (translation variant). Ở biến thể phản chiếu, hệ toạ độ cơ sở khởi nguồn từ V được phản chiếu sang G, vì vậy TRƯỚC

được xác định là khoảng thời gian giữa G và V (Hình 1.5a). Ở biến thể chuyển dịch, hệ toạ độ cơ sở được chuyển dịch sang G nên TRƯỚC là khoảng thời gian từ G về phía F (Hình 1.5b), lúc này SAU ở giữa G và V.

a) Biến thể phản chiếu của khung quy chiếu thời gian tương đối F F Tương lai G G Quá khứ

V

(hiện tại)

quan hệ tam phân (F, G, V) “trước” = giữa G và V “vận động về phía trước” = hướng tương lai trong quá khứ; hướng quá khứ của tương lai

Quá khứ F F Tương lai

b) Biến thể chuyển dịch của khung quy chiếu thời gian tương đối quan hệ tam phân (F, G, V)

G

G

V (hiện tại)

quan hệ tam phân (F, G, V) “trước” = phía bên kia của G, giữa G và F “vận động về phía trước” = hướng quá khứ của quá khứ; hướng tương lai của tương lai

Hình 1.5 Khung quy chiếu thời gian tương đối

Như vậy có thể thấy, chỉ với khung quy chiếu thời gian tương đối, điểm nhìn V mới có vai trò quan yếu. Với hai khung quy chiếu còn lại, sự định vị được xác lập chỉ dựa vào Nền G.

42

Phối cảnh Ego chuyển động trực chỉ hướng về tương lai theo chiều mũi tên thời gian nên tương ứng với khung quy chiếu tuyệt đối; phối cảnh Thời gian chuyển động trực chỉ hướng về quá khứ hay về thời điểm bắt đầu của sự tình nên tương ứng với khung quy chiếu nội tại, lúc này thời điểm bắt đầu của sự tình diễn ra trước thời điểm kết thúc của nó; các biến thể của khung quy chiếu tương đối không tuân theo bất kì phối cảnh chuyển động nào. Các hình từ 1.3 đến 1.5 được chúng tôi dẫn theo Bender và cộng sự (Bender et al., 2010). Trong các hình trên, đường màu xám biểu thị dòng thời gian đi từ quá khứ đến tương lai. F biểu thị cho Hình, là yếu tố được định vị. G biểu thị sự tình được chọn làm Nền, còn V là điểm nhìn của người quan sát. Với ngôn cảnh thời gian, V là hiện tại của người quan sát. Lý thuyết khung quy chiếu thời gian của Bender và các cộng sự của ông có những khác biệt về thuật ngữ, nội hàm thuật ngữ và cách giải thích ngữ liệu so với các lý thuyết khung quy chiếu thời gian khác. Các nhà ngữ học này đã nỗ lực đưa ra

bảng phân loại các khung quy chiếu khả hữu để khám phá sự đa dạng trong quy chiếu thời gian của các ngôn ngữ tự nhiên trên thế giới. Hệ thống phân loại của họ có khả năng bao quát tốt hơn so với các quan niệm phân loại khung quy chiếu thời gian khác được xác lập trong truyền thống nghiên cứu khung quy chiếu thời gian của Ngữ học tri nhận, ngoại trừ cách tiếp cận khác biệt, hướng đến kết cấu cấu trúc – tham tố ước định ở cấp độ câu được dùng để mã hoá các khung quy chiếu thời gian của Evans (2009, 2013, 2019).

Trong các loại khung quy chiếu nói trên, khung quy chiếu thời gian tương đối là đóng góp của Bender và cộng sự vào lịch sử nghiên cứu khung quy chiếu thời gian theo đường hướng ngữ học tri nhận. Khung quy chiếu này không tồn tại trong hệ thống phân loại khung quy chiếu thời gian của Moore (2004, 2006, 2011, 2014) hoặc chỉ được thừa nhận với các sự tình thời gian động trong lý thuyết của Tenbrink (2011). Một số tác giả có nói đến loại khung quy chiếu thời gian này thì phần mô tả và phân loại của họ chưa bao quát được nhiều trường hợp bằng Bender và các cộng sự của ông. Chẳng hạn Zinken (2010) xác định khung quy chiếu thời gian tương đối với TRƯỚC thuộc về tương lai của Ego và là quá khứ của G, tức là khoảng thời gian giữa Ego và G; như vậy khung quy chiếu thời gian tương đối của Zinken tương ứng với biến thể phản chiếu với hướng vận động về phía trước là quá khứ của tương lai, tức hướng từ G đến V với G thuộc tương lai trong khung quy chiếu thời gian tương đối của Bender và cộng sự (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014); Kranjec (2006) và Tenbrink (2011) đưa ra hai trường hợp của khung quy chiếu thời gian tương đối là trường hợp xác định TRƯỚC hướng về phía tương lai theo phối cảnh Ego chuyển động và trường hợp TRƯỚC hướng về phía quá khứ hay các thời điểm trước đó theo phối cảnh Thời gian chuyển động, tức chúng tương ứng với biến thể chuyển dịch trong quan điểm của Bender và cộng sự (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014). Trong lý thuyết của mình, Bender và cộng sự cho rằng khung quy chiếu thời gian tương đối nếu xuất hiện thì là một trong hai biến thể nói trên. Tuy nhiên cứ liệu tiếng Việt cho thấy, khung quy chiếu tương đối trong ngôn ngữ này không phải là trường hợp biến thể phản chiếu hay biến thể chuyển dịch mà là sự phối kết của cả hai biến thể trên. Luận án sẽ trình bày thực tế này ở mục 2.3.3 chương 2. Những khái lược về lý thuyết khung quy chiếu thời gian của Bender và cộng sự vừa được trình bày ở trên là cơ sở lý thuyết để luận án đi vào phân tích các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt. 1.3.3 Khái niệm khung và phạm trù toả tia trong Ngôn ngữ học tri nhận 1.3.3.1 Khái niệm khung

43

Một trong các thuật ngữ quan trọng được xác lập trong khung lý thuyết Ngôn ngữ học tri nhận là khái niệm khung. Khung được hiểu là tri thức nền cần thiết để hiểu nghĩa của từ một cách tường tận (Lee, 2001/2016, tr. 24). Chẳng hạn, chúng ta không thể hiểu từ ba (bố) mà không đặt nó trong khung quan hệ thân tộc hoặc từ cạnh huyền mà không đặt nó trong khung lớn hơn là tam giác vuông. Như vậy sẽ có những

từ khác nghĩa nhau cùng chia sẻ một khung chung. Chẳng hạn các từ ba, chú, bác, mẹ, v.v. cùng thuộc khung quan hệ thân tộc. Khái niệm khung do vậy không phải là định nghĩa được đưa ra trong từ điển.

Biên độ của khung khá biến động và không nhất thiết phải vạch một ranh giới rõ ràng giữa các yếu tố cấu thành khung với các yếu tố bên ngoài. Tính chi tiết của khung phụ thuộc vào lựa chọn chủ quan của người nói. Chẳng hạn, khi giải thích từ wicket cho một người không biết gì về môn cricket (môn thể thao phổ biến ở các nước Nam Á, như Ấn Độ), việc nêu chi tiết đến đâu là tuỳ đánh giá chủ quan của người nói về các cơ sở tri thức quan yếu giúp người nghe hiểu được vấn đề, theo đó người nói có thể dừng lại để giải thích về người chạy trên sân (fielders), người giữ gôn (wicketkeepers) hay chạy đà là gì, v.v.. Về nguyên tắc mọi tri thức của người nói về thế giới đều có tiềm năng trở thành khung của một từ nhất định.

Khung là khái niệm có tính đa chiều kích, vừa mang chiều kích ý niệm vừa mang chiều kích văn hoá. Phương diện ý niệm giúp xác định nghĩa của từ trong sự đối lập với các từ khác trong cùng một khung. Ví dụ, nghĩa của từ mẹ được xác định là trong sự đối lập với các từ như ba, cô, dì, em, v.v.. Phương diện văn hoá của khung gắn với các ý nghĩa liên hội phức tạp làm nền cho việc hiểu nghĩa của từ. Một từ có thể thuộc về những khung khác nhau, chẳng hạn từ mẹ vừa thuộc khung huyết thống vừa thuộc khung xã hội. Trong cách nói Cô ấy là mẹ Nam, khung huyết thống đang được kích hoạt, nhưng trong cách nói Cô ấy chưa sẵn sàng để làm mẹ, khung xã hội đang hoạt động, bởi lẽ cái người nói muốn đề cập ở đây là năng lực làm mẹ, năng lực tâm lý – xã hội chứ không phải là sự phát triển sinh học.

Khái niệm khung liên hệ mật thiết với khái niệm đưa ra cận cảnh. Chẳng hạn từ cạnh huyền chỉ rõ một yếu tố của tam giác vuông, chính xác là cạnh đối diện với góc vuông, tức nó đưa ra cận cảnh một yếu tố trong một khung lớn hơn là tam giác vuông. Như vậy, cách hiểu nghĩa của từ chính là công cụ giúp người nói truy cập những phần cụ thể nào đó trong cơ sở tri thức của họ.

Khái niệm khung gắn bó chặt chẽ với hiện tượng biến đổi ngôn ngữ. “Khi những khung mới xuất hiện, những từ đang tồn tại thường được chuyển vào miền mới, do đó mà có những biến đổi nào đó về nghĩa” (Lee, 2016, tr. 27). Như vậy, nghĩa là một hiện tượng tác hợp. Theo đó cách hiểu một từ chủ yếu phụ thuộc vào cái khung liên quan đến từ mà từ đó kết hợp cùng chứ không phải chỉ trong bản thân nó. Đây chính là cơ sở để luận án xem xét sự phát triển nghĩa của các yếu tố vốn thuộc miền không gian được chuyển di để chỉ thời gian trong tiếng Việt.

44

Khái niệm khung có ý nghĩa quan trọng đối với việc hiểu các thuật ngữ “nghĩa” và “khái niệm”. Thuật ngữ khái niệm định hình rằng khái niệm của từ về cơ bản là giống nhau giữa những người nói khác nhau. Tuy nhiên, sự xuất hiện của khái niệm khung đã làm thay đổi cách nhìn nhận này. Từ từ chỗ được coi là cái biểu thị khái niệm đã chuyển thành công cụ kích hoạt ở người nghe những miền nào đó trong cơ sở tri thức của họ, với những miền khác nhau được kích hoạt ở những mức độ khác

nhau trong những ngữ cảnh sử dụng khác nhau, do vậy không hoàn toàn giống nhau giữa các cá nhân. Cách tiếp cận này đối với nghĩa đã đưa vào một yếu tố thường bị đẩy ra vùng ngoại vi là nghĩa liên hội – vốn là yếu tố có vai trò quan trọng trong quá trình dụng ngôn, mặt khác nó cho phép sự viện dẫn các yếu tố văn hoá trong giao tiếp, nơi trải nghiệm cá nhân trong một nền văn hoá cụ thể được chú ý.

Khi một từ có sự thay đổi về khung, nghĩa là đã diễn ra quá trình toả tia, trong đó từ có sự mở rộng mạng lưới ngữ nghĩa. Quan sát các từ ngữ không gian được chuyển nghĩa để chỉ thời gian trong tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy đây là quá trình đưa đến kết quả một yếu tố vốn thuộc khung khác gia nhập vào khung thời gian.

Như vậy trong luận án này có hai khái niệm khung cần được phân biệt: một là khung ngữ nghĩa tri nhận (như được trình bày ở tiểu mục này) và hai là khung với tư cách là hệ toạ độ được dùng để thiết lập sự định vị trong không gian và thời gian.

Dưới đây chúng tôi trình bày các vấn đề lý thuyết căn bản về phạm trù toả tia làm nền tảng cho việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu hữu quan ở bình diện ngữ nghĩa. 1.3.3.2 Phạm trù toả tia

Lee (2001/2016) cho rằng toả tia là loại cấu trúc phạm trù phổ biến nhất. Nó đối lập với quan điểm truyền thống từ thời Aristotle về bản chất của các phạm trù. Các mạng lưới toả tia được cấu thành xung quanh nghĩa trung tâm hay nghĩa cốt lõi, thường được coi là điển mẫu; nghĩa cốt lõi được đặt trong miền không gian vật lý. Quan điểm truyền thống cho rằng mỗi thành viên của một phạm trù đều chia sẻ một tập hợp các đặc tính cần và đủ để định nghĩa phạm trù. Do vậy thực thể nào sở hữu các đặc tính cần thiết để định nghĩa phạm trù mới có tư cách thành viên trong khi thực thể nào thiếu một hoặc vài đặc tính sẽ bị loại ra. Ngược lại, mô hình điển mẫu cho rằng tư cách thành viên trong phạm trù là hiện tượng có tính thang độ: một số thành viên trong phạm trù mang tính trung tâm hơn những thành viên khác.

14 Thuật ngữ hiện tượng nghiệm xuất được Nguyễn Văn Hiệp dịch từ thuật ngữ emergent phenomenon, hiểu đơn giản là hiện tượng mới nổi lên. Ngôn ngữ học tri nhận cho rằng nghĩa là kết quả của sự tương tác, mang tính nghiệm xuất. Ví dụ trong tiếng Việt, “V+ được” có nghĩa là “có khả năng V” (như bơi được nghĩa là có thể bơi, tức rớt xuống nước không chết; ăn được là có thể ăn, tức ăn không chết), nhưng khi nói Bún bò quán này ăn được, thì tính nghiệm xuất thể hiện ở chỗ, ăn được xuất hiện ý nghĩa ăn ngon thay cho ý nghĩa có thể ăn. Ý nghĩa này không phải tự nhiên mà nổi trội lên so với nghĩa vốn có. Bún bò vốn là món ăn của người Việt, nên xét ở khung món ăn nói chung, tất nhiên là nó ăn được, tức ăn mà không chết. Tuy nhiên khi kết hợp với khung quán ăn, chuyện ăn mà không chết trở thành tiền giả định; vấn đề được

45

Quá trình toả tia liên đới chặt chẽ với quá trình biến đổi ngôn ngữ. Nó cho thấy cách mà các ý niệm cụ thể và các vùng ý niệm liên quan với nhau trong tư duy của người nói thuộc một ngôn ngữ cụ thể. Từ các cấu trúc phạm trù toả tia, chúng ta có thể nhận diện được các mối quan hệ tri nhận tự nhiên. Điều này hiện diện rõ khi chúng tôi quan sát các yếu tố chỉ không gian được chuyển nghĩa để chỉ thời gian trong tiếng Việt: tồn tại xu hướng toả tia từ các yếu tố thuộc phạm trù không gian sang phạm trù thời gian trong tiếng Việt; quá trình toả tia ngữ nghĩa vẫn lưu giữ sự liên hệ ngữ nghĩa với nghĩa cốt lõi, quá trình này cho thấy nghĩa là một hiện tượng nghiệm xuất14.

Với thuộc tính của thực thể, căn nguyên của sự toả tia thuộc tính là “đặc tính của một thuộc tính sẽ có xu hướng biến thiên theo bản chất của thực thể gắn với nó” (Lee, 2001/2016, tr. 90). Đây chính là cơ sở giải thích bình diện ngữ nghĩa của các biểu thức ẩn dụ không gian chỉ thời gian. Chẳng hạn, khi đi với thực thể không gian, nhanh chỉ tốc độ chuyển động vật lý của đối tượng này, nhưng khi đi với thực thể thời gian, nó lại chỉ tốc độc vận động của thời gian trong cảm nhận chủ quan của người trải nghiệm. Nghĩa là sự thay đổi thực thể mang trạng thái đã đưa đến sự thay đổi cấu trúc nghĩa của từ, chuyển từ một phạm trù vật lý cụ thể sang một phạm trù trừu tượng thuộc thế giới tinh thần.

Lee (2001/2016) cũng cho rằng thường có những mô hình chùm đặc tính tương ứng trong các miền khác nhau. Đó là những mô hình cung cấp nhiều chiều kích cho động cơ thúc đẩy các cấu trúc toả tia. Sự tương liên giữa hai miền ý niệm là cơ sở cho sự chuyển vị từ miền này sang miền khác của từ. Quan sát các yếu tố được chuyển nghĩa để chỉ thời gian trong tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy tồn tại những tương ứng như vậy giữa các miền khác với miền thời gian, chẳng hạn giữa miền không gian và miền thời gian, giữa miền của cải và miền thời gian, v.v.. Thực tế này cũng bao hàm khả năng rằng sẽ có những ô trống chuyển di, tức chúng ta không tìm được lí do giải thích vì sao chẳng hạn tiếng Việt có lùi thời gian tổ chức hội nghị nhưng không có *tiến thời gian tổ chức hội nghị. Điều này cho thấy rõ ngôn ngữ không tuân thủ các quy tắc bất di bất dịch vận hành trong các ngành khoa học chính xác, nó chịu sự chi phối của các mô thức văn hoá và những vận hành của lịch sử - xã hội.

Tương tự thuộc tính, bản chất của quá trình (biểu đạt bằng động từ/vị từ hành động, quá trình) là ngả về toả tia, do chỗ quá trình cũng tương tác với nhiều loại thực thể.

Khái niệm khung và phạm trù toả tia cho thấy, về bản chất, nghĩa là hiện tượng tác hợp. Cách hiểu nghĩa một từ phụ thuộc vào khung liên quan đến từ mà từ đó kết hợp cùng chứ không phải ở bản thân nó. Cách hiểu này là hệ quả trực tiếp của các mô hình văn hoá.

đặt lên hàng đầu lúc này là món ăn ở đó như thế nào. Mối quan tâm này in dấu lên nghĩa của ăn được, đưa đến cách lí giải nghĩa mới. Như vậy đã có sự điều chỉnh tinh tế về khung dẫn đến sự xuất hiện của một nghĩa khác trong diễn giải và tiếp nhận. Cách tiếp cận về nghĩa của Ngôn ngữ học tri nhận như vậy khác với các cách tiếp cận cho nghĩa là một cái gì đó ổn định, có thể đóng gói, được chuyển tải bằng từ hoặc câu. * Nghiên cứu sinh xin cảm ơn Giáo sư Nguyễn Văn Hiệp vì nội dung trao đổi và giải thích của ông về tính nghiệm xuất của nghĩa trên cứ liệu tiếng Việt.

46

Cách tiếp cận phân tích thành tố trước đây đối với nghĩa của từ đã loại bỏ các tri thức văn hoá gắn kết với từ, chính vì vậy mà không thể giải thích tường tận cho những khác biệt về nghĩa của từ xuất hiện do sự kết hợp của nó với từ khác. Khái niệm khung của Ngôn ngữ học tri nhận khắc phục được những hạn chế này, mở ra cơ hội giải thích cho các quá trình kết hợp ý niệm và sự đồ chiếu của chúng lên bình diện ngôn ngữ. Nó ủng hộ cho quan điểm Tri nhận luận rằng ngay cả đơn vị cơ bản

như từ cũng không phải là một thực thể hữu hạn do sự biến thiên vô hạn trong sự trải nghiệm của con người cũng như khả năng vô hạn trong việc đồ chiếu ý niệm của họ.

1.4 Tiểu kết Trong chương này, luận án đã trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến quy chiếu thời gian theo đường hướng Ngôn ngữ học tri nhận cùng các vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho việc triển khai đề tài.

Phần tổng quan đã khái lược các kết quả nghiên cứu về dòng thời gian tinh thần theo con đường thực nghiệm lẫn phân tích ngôn ngữ; các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng tồn tại dòng thời gian theo trục dọc và trục ngang trong các ngôn ngữ tự nhiên và trong tri nhận về thời gian của các tộc người trên thế giới, trong đó phổ biến là dòng thời gian theo trục ngang. Luận án cũng khái lược tám quan niệm khác nhau trong xác lập và phân loại các khung quy chiếu thời gian trong ngôn ngữ tự nhiên và đi đến kết luận quan niệm của Bender và cộng sự có khả năng phản ánh tốt nhất, bao quát nhất các quan hệ thời gian đa dạng trong ngôn ngữ. Bên cạnh đó, những khái lược văn liệu về sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian cho phép đi đến nhận định về tính phổ biến của sự tri nhận thời gian qua không gian của con người ở các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau cũng như con đường thuận lợi để nghiên cứu thời gian – một phạm trù trừu tượng – là soi chiếu qua phạm trù không gian. Luận án cũng đã khái quát các kết quả nghiên cứu thời gian theo đường hướng Tri nhận luận của Việt ngữ học, từ đó đi đến nhận định: các nghiên cứu chủ yếu hướng đến miêu tả các ẩn dụ ý niệm và biểu thức ẩn dụ chỉ thời gian, mới bước đầu có công trình nghiên cứu vấn đề thì, thể, tình thái theo lý thuyết Ngữ pháp tri nhận, chưa có có công trình nào nghiên cứu từ lý thuyết Khung quy chiếu thời gian. Kết quả tổng quan cho phép xác lập các vấn đề luận án có thể triển khai trên nền tảng các thành tựu nghiên cứu đã có.

47

Phần cơ sở lý luận trình bày các vấn đề lý thuyết chung về thời gian, khung quy chiếu, khái niệm khung và phạm trù toả tia. Trong lý thuyết chung về thời gian, luận án đã trình bày các quan niệm khác nhau về thời gian và đi đến nhận định: thời gian là có thực, tồn tại khách quan; nhận thức của con người về thời gian mang tính kinh nghiệm; thời gian vô hình, con người nhận thức thời gian thông qua không gian và các đối tượng cụ thể, hữu hình; nhận thức của tộc người về thời gian mang tính chủ quan, tương đối, nhận thức này được phản ánh vào ngôn ngữ. Luận án cũng đã khái lược về: ba biến thể của ý niệm thời gian, bao gồm thời gian tuyến tính, thời gian tuần hoàn và thời gian toả tia; bốn thuộc tính của thời gian là tính mở rộng, tính tuyến tính, tính định hướng, tính thời khắc; hai phối cảnh thời gian là Ego chuyển động và Thời gian chuyển động; ba mối quan hệ thời gian là: quan hệ tương lai/quá khứ, quan hệ sớm hơn/muộn hơn, quan hệ Ma trận thời gian; mũi tên thời gian trong Vật lý học và Ngôn ngữ học; dòng thời gian tinh thần trong ngôn ngữ và trong tri nhận của con người. Nội dung lý thuyết khung quy chiếu bao quát các nội dung: khái niệm khung

48

quy chiếu và khung quy chiếu thời gian, lý thuyết Khung quy chiếu không gian của Levinson, lý thuyết Khung quy chiếu thời gian do Bender và cộng sự đề xuất. Luận án cũng trình bày khái niệm khung và phạm trù toả tia làm cơ sở để phân tích sự chuyển di phạm trù và toả tia ngữ nghĩa của các từ chỉ thời gian vốn gốc chỉ không gian trong tiếng Việt. Cơ sở lý luận được trình bày ở chương này là nền tảng lý thuyết để luận án đi vào phân tích các khung quy chiếu thời gian, sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian, tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua phạm trù không gian trong tiếng Việt ở chương 2 và chương 3.

Chương 2 CÁC KHUNG QUY CHIẾU THỜI GIAN VÀ SỰ ĐỒ CHIẾU TỪ CÁC KHUNG QUY CHIẾU KHÔNG GIAN SANG CÁC KHUNG QUY CHIẾU THỜI GIAN TRONG TIẾNG VIỆT

2.1 Dẫn nhập

Trong chương này, trước khi đi vào phân tích cách khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt, luận án tập trung phân tích dòng thời gian tinh thần trong ngôn ngữ này. Đây được coi là sự xác lập trường tổng thể trên đó các hệ quy chiếu thuộc các khung quy chiếu khác nhau phân bố. Luận án chỉ xem xét dòng thời gian trên cứ liệu ngôn ngữ, từ đó rút ra đặc điểm của dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt.

Cũng trong chương này, luận án phân tích các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt với các biến thể của chúng ở các bình diện: hệ quy chiếu, sự tình động/sự tình tĩnh, phối cảnh chuyển động; từ đó khái quát lên đặc điểm của từng khung quy chiếu.

Luận án cũng đồng thời xác lập hệ thống khung quy chiếu không gian theo trục ngang trong tiếng Việt dựa trên hệ thống lý thuyết của Levinson (2003/2004). Đây là bước tạo nền tảng cho việc phân tích sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt. Lý do của việc phân tích các khung quy chiếu không gian theo trục ngang là dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt phân bố theo trục ngang (như sẽ được trình bày ở mục 2.2 dưới đây).

Trong số các văn liệu phân tích về khung quy chiếu không gian trong tiếng Việt cho đến nay, chưa có công trình nào phân tích theo quan điểm của Levinson15. Hơn nữa, lý thuyết khung quy chiếu của Bender và cộng sự - lý thuyết được luận án ứng dụng để phân tích trên thực tế tiếng Việt - được xây dựng trên cơ sở kế thừa và áp dụng lý thuyết này. Chính vì vậy, việc phân tích các khung quy chiếu không gian theo lý thuyết của Levinson là bước trung gian cần thiết để ở phần cuối chương 2 luận án đi vào phân tích sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt.

2.2 Dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt

15 Về các quan điểm khác nhau trong phân tích quy chiếu không gian trong tiếng Việt và tính khả dụng của việc ứng dụng lý thuyết khung quy chiếu không gian của Levinson vào thực tế tiếng Việt, chúng tôi đã phân tích và công bố trong bài báo Các khung quy chiếu không gian trong tiếng Việt (Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, 2(82), 2023, tr79-86).

49

Ở mục này, luận án hướng đến trả lời các câu hỏi: có mấy dòng thời gian trong tư duy thời gian của người Việt, đó là những dòng thời gian nào, hướng của dòng thời gian là hướng nào, quá khứ - tương lai được phân bố như thế nào trên dòng thời gian. Để trả lời các câu hỏi này, trên cơ sở cứ liệu ngôn ngữ, luận án sẽ phân tích dòng thời

gian tinh thần trong tiếng Việt ở các đặc điểm: trục, hướng, sự phân bố quá khứ, tương lai trên dòng thời gian. 2.2.1 Trục của dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt 2.2.1.1 Trục của dòng thời gian trong tiếng Việt xét từ các biểu đạt trục ngang

Xét các ví dụ sau trong tiếng Việt: thời gian trôi, thời gian trôi qua cứ dài đằng đẵng, v.v.

(21) (22) những năm tháng dài dằng dặc, trong một thời gian ngắn, suốt một thời gian dài, rút ngắn thời gian điều trị, kéo dài thời gian triển khai dự án, v.v.

Có thể thấy, các ví dụ ở (21) biểu đạt thời gian với tư cách là thực thể chuyển dịch, các ví dụ ở (22) biểu đạt thời đoạn. Cả (21) và (22) đều không sử dụng các yếu tố chỉ hướng như trước, sau, trái, phải, trên, dưới, tuy nhiên các từ ngữ trôi, dài, ngắn, dài dằng dặc, dài đẵng đẵng, rút ngắn, kéo dài cho biết rằng đối tượng mang đặc điểm do chúng biểu hiện phân bố theo trục ngang (theo trục dọc tiếng Việt sẽ dùng các diễn ngữ như chảy xuống, đổ xuống, cao, thấp). Thời gian trừu tượng được người Việt định danh theo lối ẩn dụ là dòng thời gian; theo kết hợp ngữ nghĩa, ngữ pháp của thời gian với các yếu tố khác ở các ví dụ (21) và (22) thì dòng thời gian này là phân bố theo trục ngang. Thêm nữa, sẽ là bất khả chấp nếu thời gian kết hợp với các yếu tố biểu thị trục dọc trong tiếng Việt, ví dụ: (23) *thời gian cao, *thời gian thấp.

Để biểu đạt một thời khoảng hoặc một sự tình thời gian theo lối ẩn dụ, tiếng

Việt sử dụng phổ biến các từ như sang, ra, qua, đến, tới, ví dụ:

(24) sang năm, sang tháng, ra năm, ra giêng, qua tháng, sắp đến Tết rồi, v.v. (25) xuân vừa sang, hè đã đến, thu sắp qua, mùa đông đang tới, mùa thu đã qua, v.v.

50

Đây đều là các động từ chỉ sự chuyển động theo trục ngang trong không gian. Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu chứa chúng đòi hỏi hai diễn tố: chủ thể chuyển động và lối đi/đích. Ngay cả khi tham tố bắt buộc được hiện thực hoá là vai đích thì chúng vẫn cho phép suy luận rằng sự tình chuyển động hữu quan diễn ra trên con đường (lối đi) nối điểm xuất phát với đích đến. Khi chuyển nghĩa sang chỉ thời gian, cấu trúc nghĩa này được bảo lưu. Chính vì vậy chúng ta thấy ở (24) người quan sát (Ego) chuyển động từ một thời điểm này sang một thời điểm khác, tương tự như đối tượng chuyển động từ một địa điểm này sang một địa điểm khác trong không gian. Ở (25), các mùa được xử lý là các thực thể chuyển động từ tương lai về hiện tại, vào quá khứ. Các chuyển động này diễn ra trong thời gian, do vậy thời gian đóng vai trò của lối đi, con đường. Việc sử dụng các động từ chuyển động đang xét để biểu nghĩa thời gian do vậy phản ánh cái thực tế là tiếng Việt ý niệm hoá dòng thời gian theo trục ngang và THỜI GIAN LÀ CON ĐƯỜNG/LỐI ĐI trên đó phân bố các thời khoảng, thời điểm.

Sang, qua, đến, tới khi đi vào các kết cấu từ… sang, từ… đến, từ… tới, từ… qua biểu đạt khoảng cách giữa hai địa điểm trên trục ngang trong không gian. Khi chuyển sang biểu đạt thời khoảng, các kết cấu này cũng chuyển tải nhận thức dòng thời gian theo trục ngang trong tiếng Việt. Trong tiếng Việt, chúng ta còn bắt gặp các biểu đạt thời điểm như: (26) đầu năm, giữa năm, cuối năm, năm cùng tháng tận, đầu tháng, giữa tháng, cuối tháng, đầu ngày, giữa ban ngày ban mặt, cuối ngày, v.v.. Các biểu đạt này, thoạt nhìn, có vẻ không mang thông tin gì về dòng thời gian. Tuy nhiên, nếu đặt chúng cạnh nhau và so sánh với các biểu đạt quy chiếu không gian như: (27) đầu làng, giữa làng, cuối làng, cuối bãi, đầu thôn, cuối xóm, đầu sông, cuối sông, đầu đường, giữa khúc cua, cuối ngõ, v.v., sẽ thấy trong hệ thống chuyển di phạm trù từ không gian sang thời gian, chúng biểu đạt các thời điểm phân bố theo trục ngang, do chỗ các định vị không gian vừa dẫn đều được nhận thức là phân bố trên mặt phẳng ngang.

Để biểu đạt hai trục ngang trước – sau (sagittal axis), trái – phải (lateral axis) trong không gian, tiếng Việt có các từ trước, sau, trái, phải. Tuy nhiên không có bất kì trường hợp nào các từ trái, phải được sử dụng để biểu đạt thời gian trong tiếng Việt. Ngược lại, các từ trước, sau được sử dụng rất phổ biến. Ví dụ: (28) năm trước, năm sau, hôm trước, hôm sau, ngày trước, ngày sau, mai sau, thời trước, kì trước, bữa trước, v.v.. Những cách diễn đạt này là dụ dẫn (vehicle) cho ẩn dụ ý niệm CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH, theo đó ĐIỂM CUỐI CỦA CUỘC HÀNH TRÌNH là ĐIỂM CUỐI CỦA ĐỜI NGƯỜI.

Thực tế này cùng những phân tích ở trên cho thấy, ở cấp độ ngôn ngữ, tiếng Việt ý niệm hoá dòng thời gian theo trục ngang, trục trước - sau và ngôn ngữ này phong phú các biểu đạt dòng thời gian theo trục ngang. 2.2.1.2. Trục của dòng thời gian trong tiếng Việt xét từ các biểu đạt trục dọc

Để trả lời câu hỏi tiếng Việt có biểu đạt ý niệm dòng thời gian theo trục dọc hay không, trong phần này, luận án xem xét ý nghĩa thời gian của các từ chỉ trục dọc trong tiếng Việt và so sánh một số biểu đạt thời gian trong tiếng Việt với tiếng Quan Thoại - một ngôn ngữ được khẳng định là có tư duy thời gian theo trục dọc - để làm rõ trục của dòng thời gian trong tiếng Việt.

51

Các từ chỉ trục dọc không gian trong tiếng Việt là trên, dưới, lên, xuống, cao, thấp. Ngữ liệu khảo sát cho thấy không có bất kì diễn ngữ nào có chứa cao, thấp được chuyển khung để biểu đạt thời gian trong ngôn ngữ này. Các từ trên, dưới, lên, xuống có tham gia biểu đạt thời gian nhưng chỉ với ý nghĩa thời lượng. Chúng có thể chỉ sự tăng, đạt đến một thời lượng như ở ví dụ (29a) hoặc giảm về thời lượng như ở ví dụ (29b): (29) a. Đối với khách hàng đã và đang sử dụng dịch vụ VietinBank eFAST, khi giới thiệu khách hàng mới đăng ký eFAST tài chính sẽ được miễn phí chuyển khoản VND trong và ngoài hệ thống VietinBank lên tới 24 tháng.

b. Vị cựu bộ trưởng bị buộc tội hỗ trợ kẻ thù chiến tranh nhưng đã nhận tội để

được giảm án xuống còn 11 năm tù.

Hoặc chỉ tình trạng vượt quá (như ở ví dụ (30a, b)), tình trạng chưa đạt đến

(như ở ví dụ (30c)) một thời lượng được lấy làm chuẩn: (30) a. Theo Quyết định của Bộ Giao thông, khi máy bay chậm trên 20 phút thì cứ 15 phút hãng hàng không phải thông báo, xin lỗi hành khách. Nếu chậm trên 2h, phải phục vụ nước uống, trên 3h phục vụ đồ ăn, trên 6h phục vụ chỗ nghỉ, trên 12h phải đổi chuyến cho hành khách.

b. Có hiệu lực từ 8/10, Thông tư 113 của Bộ Quốc phòng quy định chế độ nghỉ của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng là (…) 30 ngày (từ đủ 25 năm phục vụ trở lên).

c. Trên đường chạy chung kết 200 mét hôm qua, Bolt chưa thể đạt ước nguyện

trở thành người đầu tiên đạt thành tích dưới 19 giây.

Như vậy trên, dưới, lên, xuống trong các cách dùng trên không biểu đạt thời điểm, định vị thời khoảng, do vậy mà không thể suy ý về dòng thời gian từ biểu thức chứa chúng.

Khi muốn biểu đạt một thời điểm được chuyển dịch về quá khứ, một sự tình

diễn ra sớm hơn so với dự kiến, kế hoạch ban đầu, người Việt có thể nói: (31) Cuộc họp được dời lên trước hai ngày.

Ví dụ (31) có sử dụng từ chỉ trục dọc lên, tuy nhiên lên trong trường hợp này không biểu đạt trục dọc, do chỗ đi cùng với nó là trước. Trong kết hợp lên trước, trước là yếu tố chỉ đích đến, lên là yếu tố biểu đạt hướng. Vì đích đến này nằm trên trục ngang (trục trước – sau là trục ngang) nên “lên trước” là lên theo phương ngang. Cả kết hợp lên trước do vậy là biểu đạt sự dịch chuyển theo phương ngang trên dòng thời gian. Từ đó có thể khẳng định rằng mặc dù gốc là yếu tố biểu đạt trục dọc nhưng trong cách dùng này lên lại biểu đạt trục ngang.

52

Từ lên biểu nghĩa thời gian ở trường hợp này theo chúng tôi được phái sinh từ từ lên biểu đạt cách định hướng không gian tưởng tượng trên trục ngang của người Việt, như trong cách nói (32) Ngồi lên phía đầu giường, lên đầu hàng (trong đối lập với xuống cuối hàng). Lý Toàn Thắng cho đây là hệ quả của hiện tượng “lập úp” 90 độ của trục định hướng theo phương thẳng đứng xuống phương nằm ngang trong tiếng Việt (Lý Toàn Thắng, 2005, tr.98-99). Theo đó từ lên ở trường hợp này là chỉ tố của trục ngang chứ không phải là chỉ tố của trục dọc. Như vậy ở phạm trù không gian tồn tại từ lên biểu đạt trục ngang và nó là gốc của từ lên biểu đạt dòng thời gian theo trục ngang trong tiếng Việt.

Ở chiều ngược lại, để phản ánh một thời điểm được dịch chuyển về phía tương

lai, người Việt có thể nói: (33) Theo Ban tổ chức, do ảnh hưởng kéo dài của dịch COVID-19, lễ trao giải thưởng Cánh diều năm 2021 phải lùi lại đến giữa năm 2022.

Hoàn toàn không có chỉ tố trục dọc trong mô thức biểu đạt ý nghĩa thời gian này. Ngay cả sau, vốn đối lập với trước, cũng không được người Việt sử dụng ở đây. Mặc dù vậy, sự hiện diện của lùi, một từ mà cấu trúc nghĩa của nó đã bao hàm nét nghĩa chỉ sự dịch chuyển ra sau một thời điểm (vốn chỉ sự dịch chuyển về phía sau của người quan sát), trong trường hợp này là về phía tương lai, đã đủ để đảm trách vai trò đánh dấu sự biểu đạt dòng thời gian theo trục ngang trong cách nói chuyển dịch thời điểm của người Việt.

Tiếng Việt có kết hợp trên dưới để biểu thị ý nghĩa ước chừng, chẳng hạn trên dưới năm ngày. Tuy nhiên, tầm tác động của trên dưới trong ví dụ này là lên yếu tố biểu nghĩa số lượng (năm) chứ không phải lên yếu tố chỉ đơn vị thời gian, mặt khác ý nghĩa của cả kết hợp là ý nghĩa thời lượng, do vậy trên dưới không biểu đạt gì về dòng thời gian.

Những phân tích trên cho thấy các từ chỉ trục dọc dưới, lên, xuống, cao, thấp trong tiếng Việt không biểu đạt dòng thời gian, riêng trên có biểu đạt dòng thời gian nhưng là chỉ tố của dòng thời gian theo trục ngang.

Các văn bản truyện Nôm của người Việt cũng còn ghi lại kết hợp biểu đạt thời

(Nguyễn Du)

Trong tiếng Việt, tồn tại các kết hợp: thượng tuần, trung tuần, hạ tuần để biểu đạt và quy chiếu về các phân đoạn thời gian trong một tháng, trong đó thượng ‘trên’ chỉ thời gian đầu tháng, hạ ‘dưới’ chỉ thời gian cuối tháng; thượng nguyên, trung nguyên, hạ nguyên để biểu đạt và quy chiếu về các ngày rằm tháng giêng, tháng bảy, tháng mười trong năm với thượng ‘trên’ chỉ đầu năm và hạ ‘dưới’ chỉ cuối năm. Thực tế này khiến chúng ta có thể khẳng định về sự tồn tại dòng thời gian theo trục dọc trong tiếng Việt. Tuy nhiên thượng, hạ ngoài cách dùng này không còn kết hợp với bất kì danh từ chỉ đơn vị thời gian nào khác để tạo thành hệ thống các đơn vị định danh, quy chiếu thời gian như trong tiếng Quan Thoại (xin xem bảng 2.1 dưới đây), mặt khác ở hiện tại, gần như chúng không mấy khi được sử dụng, ngoại trừ trong ngôn ngữ văn chương và khi nói về thiên văn, nông lịch, lễ hội truyền thống. gian sự việc theo trục dọc là gót đầu: (34) a. Gót đầu mọi nỗi định ninh b. Ướm tình mới hỏi lân la gót đầu

53

(Nhị độ mai – Kho tàng truyện Nôm khuyết danh Việt Nam)

Trong đó đầu chỉ phần đầu của sự việc, diễn ra sớm hơn hay diễn ra trước, gót chỉ phần sau của sự việc, diện ra muộn hơn hay diễn ra sau. Tuy nhiên cách nói này hiện nay không còn được sử dụng, nó đã trở thành cách nói cổ của người Việt.

Như vậy tư duy dòng thời gian theo trục dọc16 trong tiếng Việt rất mờ nhạt và

hãn hữu, còn tư duy dòng thời gian theo trục ngang là nổi trội và chủ đạo.

Khẳng định này được củng cố hơn nếu chúng ta so sánh các biểu đạt thời gian trục dọc trong tiếng Quan Thoại với các biểu đạt thời gian tương đương trong tiếng Việt.

Tiếng Quan Thoại có các kết hợp biểu đạt thời điểm, thời khoảng có chứa từ chỉ trục dọc: quá khứ và các thời điểm sớm hơn được biểu đạt bằng 上 shàng ‘trên/lên’, tương lai và các thời điểm muộn hơn được biểu đạt bằng 下 xià ‘dưới/xuống’; chính vì vậy ngôn ngữ này được coi là có dòng thời gian theo trục dọc (Yu, 2012; Sun & Zhang, 2020). Tuy nhiên, khi đối chiếu các kết hợp này với yếu tố tương đương trong tiếng Việt, chúng ta sẽ thấy sự khác biệt về tư duy dòng thời gian giữa hai ngôn ngữ. Quan sát bảng dưới đây sẽ thấy điều đó:

Bảng 2.1 So sánh các biểu đạt thời gian trong tiếng Việt và tiếng Quan Thoại

Tiếng Việt năm trước

năm sau tuần sau

Tiếng Quan Thoại 上 年度 shàng niándù trên năm 下 年度 xià niándù dưới năm

năm trước nữa tuần trước nữa 上 上 年度

năm sau nữa shàng shàng niándù trên trên năm tuần sau nữa 下 下 年度

xià xià niándù dưới dưới năm

Tiếng Quan Thoại Tiếng Việt tuần trước 上 星期 shàng xīngqī trên tuần 下 星期 xià xīngqī dưới tuần 上 上 星期 shàng shàng xīngqī trên trên tuần 下 下 星期 xià xià xīngqī dưới dưới tuần Ghi chú: Nghĩa đối dịch tiếng Việt của các từ trong tiếng Quan Thoại được đặt dưới cách viết bính âm (pinyin).

16 Nghiên cứu sinh xin cảm ơn Phó giáo sư Hoàng Dũng vì đã phát hiện và góp ý ở điểm này cho luận án.

54

Trong bảng trên, các biểu đạt thời gian trong tiếng Quan Thoại có cùng quy tắc cấu tạo: chúng đều là các kết hợp gồm yếu tố chỉ trục dọc được dùng theo lối ẩn dụ và yếu tố chỉ đơn vị thời gian; trong khi đó, với tiếng Việt là yếu tố chỉ đơn vị thời gian và yếu tố chỉ trục ngang. Ngoài đơn vị tuần và năm, các đơn vị tháng, học kì,

v.v. trong tiếng Quan Thoại cũng có cách cấu tạo tương tự. Như vậy tương ứng với yếu tố biểu nghĩa trục dọc trong tiếng Quan Thoại là yếu tố biểu nghĩa trục ngang trong tiếng Việt. Điều này có nghĩa là có sự khác biệt trong tư duy về dòng thời gian giữa hai ngôn ngữ: tương ứng dòng thời gian trục dọc trong tiếng Quan Thoại là dòng thời gian trục ngang trong tiếng Việt.

Những phân tích ở trên cho phép kết luận rằng dòng thời gian chủ đạo trong tiếng Việt phân bố theo trục ngang, trục trước – sau; dòng thời gian theo trục dọc rất mờ nhạt, hiện chỉ tồn tại trong các biểu đạt có phạm vi sử dụng hạn chế hoặc đã trở thành cách nói cổ của người Việt. 2.2.2 Hướng của dòng thời gian và sự phân bố quá khứ - tương lai trên dòng thời gian trong tiếng Việt

* Dòng thời gian phân bố theo trục ngang Các nghiên cứu trên cứ liệu ngôn ngữ chỉ ra rằng theo trục trước - sau, dòng thời gian có thể hướng từ sau ra trước (ví dụ như trong tiếng Anh, tiếng Thuỵ Điển) hoặc hướng từ trước ra sau (như trong tiếng Đức, tiếng Hebrew, tiếng Ai Cập, tiếng Quan Thoại) (Bender & Beller, 2014).

Với tiếng Việt, chúng ta xét các ví dụ sau:

(35) a. Chúng tôi phải chạy đua với thời gian, với “tử thần” để giành lại sự sống cho cháu.

b. Khác với thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, hai thành phố có nhịp sống sôi động, hiện đại, Hội An là nơi đưa du khách đi ngược dòng thời gian, trở về với quá khứ.

Ở ví dụ (35a), chúng tôi là chủ thể của hành động chạy đua với thời gian. Khi chạy, hướng vận động của chủ thể là hướng về phía trước. Trong logic đó, thời gian – đối tượng cùng chạy đua – hẳn nhiên là đang tiến về phía trước, cùng chiều với chúng tôi. Như vậy thời gian trừu tượng trong tri nhận của người Việt là vận động về phía trước. Ở ví dụ (35b), chủ thể du khách không vận động cùng chiều với thời gian. So sánh với cách nói đi ngược dòng người, ta sẽ thấy dòng người đang vận động về phía trước, chủ thể đi ngược dòng người là đang vận động về phía sau của dòng người, như vậy đi ngược dòng thời gian cũng là vận động về phía sau của dòng thời gian. Ví dụ (34b) cũng cho biết rằng các sự tình ở phía ngược lại hướng chuyển động của dòng thời gian thuộc về quá khứ, như vậy sau tương ứng với quá khứ, trước tương ứng với tương lai.

55

Với các ví dụ (35), hướng của dòng thời gian được hiểu hàm ẩn. Hướng của dòng thời gian trong tiếng Việt cũng có thể được biểu đạt hiển ngôn như trong ví dụ sau:

(36) a. Đặc biệt, chị là người phụ nữ bản lĩnh, nghị lực, (…), luôn hướng về tương lai phía trước.

b. Con nên bỏ lại quá khứ phía sau để nhìn về tương lai (…). Sự hiện diện của các từ trước, sau ở các ví dụ (36) cho thấy tiếng Việt đồ chiếu tương lai lên phía trước người quan sát, quá khứ lên phía sau người quan sát. Khác với ví dụ (35), nơi thời gian được tri nhận như một trường tổng thể trên đó các sự tình diễn ra, ở (36), người quan sát là trung tâm trực chỉ để phân định tương lai và quá khứ trên dòng thời gian. Dòng thời gian do vậy được tri nhận là dòng thời gian trực chỉ.

Trong dòng thời gian thời gian trực chỉ, các thời điểm, thời khoảng được biểu đạt bởi (37) năm tới, tháng tới, tuần tới, v.v. sẽ ở phía trước người quan sát, các thời điểm, thời khoảng được biểu đạt bởi (38) năm qua, tuần qua, những ngày tháng qua, quá khứ đã qua, v.v.. sẽ ở phía sau người quan sát. Các biểu đạt ở (37), (38) đều gắn với phối cảnh thời gian chuyển động, người quan sát đứng yên, hướng về phía tương lai. Với (37), các thời điểm, thời khoảng vận động từ tương lai về phía người quan sát. Với (38), thời điểm, thời khoảng đã vượt qua người quan sát, đi vào quá khứ. Ở phạm trù không gian, qua, tới vốn không mang nét nghĩa chỉ hướng, tuy nhiên khi chuyển khung và trở thành phương tiện biểu đạt thời gian, chúng ta có thể xác định hướng đồ chiếu cho chúng: qua tương ứng với sau, tới tương ứng với trước. Sự chuyển đổi này, theo chúng tôi, có nguyên do là không gian được người Việt tri nhận nghiệm thân có 3 trục (trên – dưới, trái – phải, trước – sau) trong khi thời gian chỉ có một trục (trước – sau) với trước chỉ tương lai, sau chỉ quá khứ, qua biểu nghĩa quá khứ nên tương ứng với trước, tới biểu nghĩa tương lai nên tương ứng với sau.

Trên dòng thời gian trực chỉ, người Việt cũng định danh và định vị các thời

điểm, thời khoảng ở tương lai và quá khứ bằng các kết hợp như: (39) a. Hôm trước, tuần trước, tháng trước, năm trước, ngày trước, v.v..

56

b. Hôm sau, tuần sau, tháng sau, năm sau, ngày sau, v.v.. So sánh với (36), chúng ta thấy trước, sau ở ví dụ này (cũng như ở ví dụ (28) và ở bảng so sánh tiếng Việt và tiếng Quan Thoại) biểu đạt nghĩa thời gian ngược lại: trước chỉ quá khứ, sau chỉ tương lai. Điều này có nghĩa là trước trong tiếng Việt vừa có thể biểu nghĩa quá khứ vừa có thể biểu nghĩa tương lai, ngược lại, sau vừa có thể biểu nghĩa tương lai vừa có thể biểu nghĩa quá khứ. Cách sử dụng của các từ trước, sau với nghĩa thời gian như ở ví dụ (39) luôn đi với sự tình thời gian tĩnh. Chúng gắn với mốc quy chiếu trực chỉ (ở đây là hiện tại chủ quan của người quan sát, biểu đạt qua các kết hợp như hôm nay, tuần này, tháng này, năm này, ngày nay, v.v.). Sự phân bố của chúng trên dòng thời gian không làm thay đổi hướng của dòng thời gian trong tiếng Việt như được xác định qua phân tích các ví dụ (35), (36), (37), (38). Vì người

Việt cũng tri nhận người quan sát vận động ngược chiều với hướng của dòng thời gian (như ở ví dụ 35b), tức phía trước của người quan sát hướng về quá khứ, giống như hình ảnh người quan sát ở (39). Mặt khác sự tồn tại của dòng thời gian là độc lập với vai trò của người quan sát (ví dụ (35) chứng minh điều này), dù người quan sát có được tri nhận như một trung tâm trực chỉ hay không; nó cũng độc lập với thời điểm và thời khoảng phân bố trên nó (tương tự như các thực thể không gian độc lập với con đường, lối đi mà chúng hiện diện hoặc chuyển động trên đó) dù thời điểm và thời khoảng có được tri nhận là vận động hay không (ví dụ (37), (38), (39)).

Điểm khác giữa (36) và (39) là: ở (39), người Việt tri nhận giống người Aymara17: quá khứ ở phía trước vì đó là những gì họ đã thấy, đã biết, đã trải qua; tương lai ở phía sau vì đó là những gì họ chưa biết, chưa thấy, tương tự việc con người không thể nhìn thấy những gì ở phía sau lưng mình; người quan sát ở (39) do vậy là người chứng kiến; trong khi ở (36), con người xuất hiện với tư cách là thực thể vận động trong dòng thời gian.

17 Theo phân tích của Moore, người quan sát (Ego) trong tiếng Aymara đối diện với quá khứ, quá khứ ở phía trước Ego; các thời điểm sớm hơn, theo lối ẩn dụ, ở phía trước các thời điểm muộn hơn (Moore, K.E., 2011).

57

* Dòng thời gian phân bố theo trục dọc Xét các kết hợp thượng tuần, hạ tuần chúng ta thấy đặt trong chuỗi, thượng tuần đến sớm hơn so với hạ tuần. Nếu quy chiếu thời gian của sự tình, sự tình ở thượng tuần sẽ thuộc về quá khứ so với hạ tuần. Như vậy, các biểu đạt này cho thấy đã có sự đồ chiếu trục trên - dưới trong không gian lên trục quá khứ - tương lai trong thời gian với trên chỉ quá khứ, dưới chỉ tương lai. Thực tế này tương đồng với tiếng Quan Thoại. Các biểu đạt vừa xét trong tiếng Việt đều có cội nguồn từ tiếng Hán. Những phân tích về trục, hướng và sự phân bố quá khứ - tương lai trên dòng thời gian ở trên cho phép chúng ta kết luận rằng: dòng thời gian tinh thần chủ đạo trong tiếng Việt phân bố theo phương ngang, trục trước – sau với trước chỉ tương lai, sau chỉ quá khứ. Dòng thời gian tinh thần theo trục dọc trong tiếng Việt rất mờ nhạt, chỉ còn tồn tại hạn chế trong ngôn ngữ viết ở phạm vi hẹp hoặc đã trở thành cách nói cổ của người Việt; dòng thời gian này phân bố theo trục trên – dưới với trên chỉ quá khứ, dưới chỉ tương lai. Các từ chỉ trục trái – phải, trên – dưới không dùng để biểu đạt dòng thời gian trong tiếng Việt, ngoại trừ từ trên; tuy nhiên trên không biểu đạt dòng thời gian tinh thần theo trục dọc mà là theo trục ngang. Các phối cảnh chuyển động trên dòng thời gian thực tế đa dạng hơn so với những gì đã được các văn liệu xác lập. Dòng thời gian tinh thần là “sân khấu” trên đó người Việt phân bố các hệ toạ độ để thực hiện quy chiếu tất cả các sự tình thời gian mà họ muốn.

2.3 Các khung quy chiếu không gian trong tiếng Việt

Phần này của luận án trình bày về các khung quy chiếu không gian theo trục ngang trong tiếng Việt trên cơ sở nền tảng lý thuyết do Levinson (2003/2004) xác lập. Đây là quan điểm lý thuyết chưa được ứng dụng vào nghiên cứu quy chiếu không gian trong tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu sẽ là tiền đề để phân tích sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt. Do dòng thời gian trong tiếng Việt được tri nhận là phân bố theo trục ngang nên ở phần này, luận án chỉ phân tích các khung quy chiếu không gian theo trục ngang. 2.3.1 Khung quy chiếu không gian tuyệt đối trong tiếng Việt

Cứ liệu cho thấy rằng tồn tại một số cách xác định hướng với khung quy chiếu không gian tuyệt đối trong tiếng Việt. Theo trục ngang, phổ biến là cách xác định hướng quy chiếu theo các phương địa lý (Đông, Tây, Nam, Bắc). Ngoài tri nhận trục Nam – Bắc theo chiều thẳng đứng (Lý Toàn Thắng, 2005), người Việt cũng tri nhận trục Nam – Bắc theo chiều ngang và điều này phù ứng với khung quy chiếu tuyệt đối theo phương ngang trong tư duy của họ. Theo lí giải của Nguyễn Tài Cẩn (2000/2003), với trục Nam – Bắc, khi nói đi đến một địa điểm khác vùng, người Việt bao giờ cũng dùng vào/ra, nhưng khi chỉ các địa điểm trong cùng một vùng thì vào/ra chủ yếu được dùng ở Trung Bộ hoặc những nơi gần hai đầu của Trung Bộ, còn các vùng khác hầu như chỉ dùng sang, qua, lên, xuống. Từ đó có thể suy ra được nếu nhìn tổng thể toàn Việt Nam, người Việt sẽ hình dung Nam – Bắc theo trục ngang. Trong nội vùng, Nam – Bắc có thể được tri nhận theo trục dọc mà cũng có thể được tri nhận theo trục ngang vì ngoài lên/xuống, người địa phương cũng dùng sang/qua. Thực tế này cho phép đi đến nhận định rằng tồn tại một hệ la bàn Đông, Tây, Nam, Bắc theo trục ngang trong tư duy người Việt. Theo đó các diễn ngữ như (40) Phía Tây thành phố là núi, Phía Nam thành phố là các khu công nghiệp miêu tả về phân bố không gian ở địa bàn thành phố Huế là biểu đạt ngôn ngữ của khung quy chiếu tuyệt đối theo trục ngang. F và G trong ví dụ trên là núi/các khu công nghiệp và thành phố. Các diễn ngữ được in đậm chỉ đến các phương chính tắc có tính cố định trong không gian dù người quan sát đứng ở vị trí nào, quay mặt về hướng nào và chọn bất kì đối tượng nào làm nền. Mặt khác, trục định hướng của khung quy chiếu sẽ thay đổi khi vị trí của G thay đổi. Vì vậy khi G là thành phố thì biểu thức như ở (40) nhưng khi G là khu công nghiệp chúng ta sẽ có (41) Phía Bắc các khu công nghiệp là thành phố. Trong tiếng Việt, khung quy chiếu tuyệt đối với các phương như vậy chủ yếu được sử dụng khi muốn định vị vị trí địa lý của đối tượng.

58

Ngoài cách xác định hướng theo các phương địa lý, tuỳ đặc điểm từng vùng miền, người Việt còn có thể xác lập các hướng cố định khác như trục biển – đất liền (vào bờ, vào đất liền – ra biển, ra đảo), núi rừng – đồng bằng/biển, dòng chảy của sông. Tuy nhiên chỉ trường hợp đầu thuộc khung quy chiếu tuyệt đối theo trục ngang. Với hai trường hợp sau, mặc dù các đối tượng đều nằm trên bề mặt trái đất, tức thuộc trục ngang, nhưng người Việt lại đặt sự chú ý vào thuộc tính cao hơn lẫn nhau trên

mặt phẳng ngang của chúng để lựa chọn từ chỉ hướng, kết quả trong tiếng Việt có các kết hợp như lên nguồn/rừng – xuống biển, ngược nguồn/ngàn – về xuôi, thượng nguồn - hạ nguồn, ngược dòng – xuôi dòng. Như vậy, về mặt tri nhận, đây là trường hợp của khung quy chiếu tuyệt đối theo trục dọc.

Khung quy chiếu này trong tiếng Việt có một biến thể đặc biệt là trường hợp các sự tình chuyển động. Sự tình chuyển động cho phép xác định hướng mà không cần viện đến sự có mặt của mốc quy chiếu nào. Các biểu thức in đậm trong các ví dụ sau:

(42) a. Khi mùa đông lạnh giá sắp đến, những con chim bay về phương Nam để tránh rét. b. Lúc đó, mình cứ đi theo hướng mặt trời lặn để tìm đường về. c. Đến quốc đảo Palau, bạn sẽ có dịp trải nghiệm cảm giác bơi lội, đắm mình trong làn nước trong xanh, thoả sức vui đùa và ngắm nhìn hàng triệu con sứa vàng mềm mại di chuyển theo hướng mặt trời mọc. không quy chiếu đến bất cứ địa điểm nguồn và đích nào. Phương Nam, hướng mặt trời lặn, hướng mặt trời mọc ở đây rõ ràng chỉ hướng di chuyển chứ không chỉ địa điểm. Với các tình huống này, vị trí của Hình ở hai thời điểm khác nhau được dùng để xác lập hướng chuyển động.

Như vậy có thể rút ra được khung quy chiếu không gian tuyệt đối trong tiếng Việt thể hiện quan hệ song tố giữa F và G, thực hiện sự định hướng từ một trường tổng thể nằm bên ngoài F và G trong đó F được xác định theo hướng cố định phát xuất từ G. 2.3.2 Khung quy chiếu không gian nội tại trong tiếng Việt

Để xác lập hướng nội tại của G, chúng tôi nhận thấy người Việt sử dụng ba cách để phân định các bộ phận, các mặt khác nhau của Nền: a. sử dụng hướng của trọng lực, theo đó vật thể Nền cung cấp các bề mặt “trên”, “dưới”, “mặt bên”, ví dụ: (43) Cuốn sách đặt trên bàn/ Ngòi bút rơi dưới bàn/ Nó đứng cạnh bàn cô giáo; b. sử dụng cấu trúc hình học nội tại của G, chẳng hạn như “trái, phải, trước, sau, trên, dưới” ở cơ thể người: (44) Quyển sách ở ngay trước mặt cậu ấy/ ngay sau lưng cậu ấy/ bên tay phải cậy ấy/ bên tay trái cậu ấy; c. sử dụng các tiêu chí chức năng, hướng chính tắc, hướng chuyển động của vật thể, như mặt trước, mặt sau của tivi, phía trước, phía sau của ngôi nhà, phía trước, phía sau của ô tô: (45) cây mai trước nhà/sau nhà, Bình hoa ở phía trước ti vi/sau ti vi, Nó đứng trước đầu xe/sau đuôi xe. Ngoại trừ trường hợp đầu, với hai trường hợp sau, các sự vật đều có tính bất đối xứng tự thân nên bản thân chúng có sự định hướng nội tại.

59

Các ví dụ ở (43), (44), (45) đều biểu đạt quan hệ không gian song tố giữa F và G, trong đó hướng quy chiếu được xác định dựa trên hướng nội tại của G. Hai yếu tố này với mỗi ví dụ trên lần lượt là: (43) cuốn sách/ngòi bút/nó – bàn (cô giáo); (44)

quyển sách – cậu; (45) cây mai – nhà, bình hoa – ti vi, nó – đầu xe/đuôi xe. Do vậy chúng đều là các trường hợp của khung quy chiếu nội tại.

Trong các biểu thức vừa dẫn ở ví dụ từ (43) đến (45), G ở trường hợp Nó đứng trước đầu xe/sau đuôi xe khác với các biểu thức còn lại ở chỗ nó là không gian phóng chiếu từ một bộ phận của vật thể. Đây là kết quả của quá trình chuyển di và phát triển nghĩa từ bộ phận cơ thể động vật => bộ phận của vật thể (mũi thuyền, đuôi thuyền, chân ghế, đầu xe, đuôi xe, v.v…) => miền tìm kiếm được phóng chiếu từ các bộ phận của vật thể. Cách dùng mở rộng để chỉ không gian này phản ánh quá trình chuyển tiếp từ cách sử dụng chỉ không gian theo hình học topo18 (nơi Hình ở trong một bộ phận của Nền) sang hệ toạ độ nội tại (trong đó Hình được luận suy là thuộc miền tìm kiếm được phóng chiếu từ một bộ phận của Nền). Một biểu thức như (46) Nó ngồi trước mũi thuyền sẽ thuộc miêu tả topo trong đó F nó được định vị ở trong không gian Nền mũi thuyền còn (47) Trước mũi thuyền nhấp nhô mấy ngọn lục bình là biểu thức của khung quy chiếu nội tại với F mấy ngọn lục bình được định vị trong không gian phóng chiếu từ G mũi thuyền. Như vậy, khi F được định vị dựa vào Nền, chúng tôi phân biệt hai trường hợp: quy chiếu topo và quy chiếu nội tại. Sự phân biệt này chúng tôi chưa thấy trong các văn liệu nghiên cứu tiếng Việt trước đây.

Từ những phân tích ở trên có thể rút ra được khung quy chiếu không gian nội tại trong tiếng Việt thể hiện quan hệ song tố giữa F và G. Hướng quy chiếu của khung được xác định dựa vào hướng nội tại của G. Vị trí của người quan sát không quan yếu. 2.3.3 Khung quy chiếu không gian tương đối trong tiếng Việt

Khi bản thân hệ thống nội tại của vật thể không giúp xác định hướng thì người Việt sẽ sử dụng khung quy chiếu tương đối, tức dùng người quan sát để xác định hướng của nền. Xét ví dụ sau: (48) Trong quá trình săn bắn, Chầu phát hiện có một đàn khỉ và một vật trông giống khỉ đang khuất phía sau tảng đá lớn, cách Chầu khoảng 30 m.

18 Khái niệm topo (topology) được mượn từ toán học. Trong Ngôn ngữ học tri nhận, thuật ngữ topo được dùng với nghĩa mở rộng, chỉ sự định vị không gian trong trường hợp Hình trùng hoặc được bao chứa trong Nền (Levinson, 2003/2004, tr.67).

60

Với người Việt, tảng đá là đối tượng không tồn tại sự bất đối xứng nội tại xét theo trục ngang, nên việc xác định trước/sau không dựa vào cấu trúc nội tại của nó. Đối tượng giúp xác lập hướng quy chiếu trong trường hợp này chỉ có thể là người quan sát. Ở ví dụ trên “một đàn khỉ và một vật trong giống khỉ” là F, tảng đá là G, phía sau được xác định là phía từ tảng đá ra xa, ngược lại với phía từ tảng đá đến người quan sát. Nếu F không ở phía sau mà là bên phải tảng đá thì phối cảnh các phía trái, phải, trước, sau trong hình dung của người Việt sẽ như hình sau. Tức đây là

trường hợp của biến thể phản chiếu. Có thể minh hoạ quan hệ không gian ở (48) qua hình sau:

Hình 2.1 Phối cảnh “con khỉ ở phía sau tảng đá” trong tiếng Việt Các hướng mà Levinson (2003/2004) đề cập với khung quy chiếu tương đối

chỉ gồm trái, phải, trước, sau mà không bao hàm kiểu định vị như ở các ví dụ sau: (49) Nam ở ngoài sân. (ví dụ dẫn theo Lý Toàn Thắng (2005)) (50) Trong nhà đèn điện sáng trưng. (51) Ngoài đường xe cộ tấp nập.

Quan hệ không gian được phản ánh ở các ví dụ trên đều là quan hệ tam tố. F – G ở các ví dụ này lần lượt là: Nam – sân, đèn điện – nhà, xe cộ - đường. Nhân tố thứ ba tham gia vào quan hệ không gian ở (49) theo Lý Toàn Thắng (2005) là nhà, với Đặng Kim Hoa (2017) là người nói19 ẩn ngôn. Chúng tôi đồng thuận với Lý Toàn Thắng rằng yếu tố giúp xác định hướng quy chiếu trong trường hợp này, mở rộng ra cho các ví dụ (50), (51) và cả ví dụ (52), (53) dưới đây, chính là không gian nhà. (52) Chim vẫn hót sau vườn nhà tôi.20 (53) Mẹ đã về trước ngõ.

19 Ở chú thích 8 trang 35, luận án đã lí giải lí do vì sao thuật ngữ người quan sát là quan yếu và chính xác hơn so với thuật ngữ người nói. 20 Lời bài hát Giọt nắng bên thềm – tác giả Thanh Tùng.

61

Có thể thấy, với (49), ngữ cảnh là người nói ở trong nhà, người quan sát và người nói là một, “ngoài” trong trường hợp này được xác định là trong quy chiếu với không gian mà người quan sát đang hiện diện (nhà). Nếu đặt một ngữ cảnh khác: người mẹ hỏi Nam ơi, con ở đâu?, người con trả lời Con ở ngoài sân ạ., sẽ thấy trong trường hợp này, F (Nam) và G (sân) không thay đổi so với (49), nhưng người nói đã thay đổi, không còn là người mẹ nữa, vị trí của người nói cũng thay đổi, không phải

ở trong nhà mà ở không gian sân. Mặc dù vậy, từ biểu đạt quan hệ không gian không thay đổi, vẫn là ngoài. Như vậy người nói không phải là yếu tố quy định việc lựa chọn và sử dụng từ chỉ quan hệ không gian. Chỉ có thể giải thích cho việc sử dụng từ ngoài trong trường hợp này là góc ngắm camera không thay đổi: người con đặt góc ngắm ở vị trí người mẹ - người đang ở trong nhà - dù cậu ấy là người nói.

Vì hình dung nhà như một không gian kín và hẹp, đối lập với sân là không gian mở, kết nối với không gian rộng lớn bên ngoài, nên từ biểu đạt quan hệ không gian được lựa chọn là ngoài. Nếu hình dung nhà như một vật thể có cấu trúc định hướng nội tại, với cửa ra vào là hướng trước, người con có thể nói Con ở trước sân ạ. Dù nói ngoài sân hay trước sân thì điều kiện phải là nơi người mẹ hiện diện và nơi người con hiện diện được tri nhận là trên cùng một mặt phẳng ngang. Nếu người mẹ ở trong nhà nhưng trên tầng cao thì người con sẽ nói Con ở dưới sân ạ. Như vậy việc giữ nguyên hoặc thay đổi từ biểu đạt quan hệ không gian trong các trường hợp vừa phân tích đều do không gian nơi người quan sát hiện diện quyết định.

Tương tự như vậy, ở (50), điểm nhìn của người quan sát là ở bên ngoài nhà; ở (51), điểm nhìn của người quan sát là ở bên trong nhà, hay ít nhất cũng trong khuôn viên vườn nhà – nơi được hình dung như một không gian khép kín.

Không gian nơi người quan sát hiện diện ở các ví dụ từ (49) đến (51) đều

không được hiển ngôn mà chỉ được hiểu hàm ẩn.

Với ví dụ (52), (53), có sự khác biệt một chút so với các ví dụ (49) – (51). Lí do là quy chiếu không gian trong trường hợp này có nền tảng văn hoá từ cấu trúc nhà ở của người Việt. Nhà truyền thống của người Việt (ở đồng bằng) thường có vườn bao quanh, ngõ ở phía trước; nói Chim vẫn hót sau vườn thực chất là vườn ở sau cái nhà còn con chim (F) ở trong vườn, nói Mẹ đã về trước ngõ là ngõ ở trước nhà, còn mẹ đang ở trong không gian ngõ. Như vậy nhà chính là nhân tố giúp xác định hướng quy chiếu. Nhân tố này không hề liên quan đến người quan sát; dù người quan sát đứng ở đâu, trong quy chiếu với nhà, người Việt vẫn nói sau vườn, trước ngõ. Tương tự như các ví dụ (49) – (51), nhà ở (52), (53) được hiểu hàm ẩn.

Từ các phân tích trên, luận án khái quát và định danh nhân tố thứ ba ở kiểu quan hệ không gian được phản ánh trong các ví dụ từ (49) đến (53) là không gian hàm ẩn. Các từ ngoài, trong, trước, sau trong các ví dụ này chính là yếu tố đánh dấu đưa đến suy luận về sự tồn tại của không gian hàm ẩn quy định hướng quy chiếu. Ngoài đường, ngoài sân hàm ẩn không gian trong nhà, trong nhà hàm ẩn không gian bên ngoài (nhà), sau vườn, trước ngõ hàm ẩn không gian nhà.

62

Khác với các biến thể tương đối được Levinson (2003/2004) xác lập, ở các trường hợp này: F nằm trong không gian của G chứ không phải là một đối tượng tách biệt với G; bản thân G là một không gian chứ không phải một vật thể; không có sự chuyển dịch hệ toạ độ từ V sang G mà chỉ là vị trí của F trong G được nhìn từ điểm nhìn bên ngoài G; hướng quy chiếu được thiết lập từ không gian hàm ẩn chứ không phải là phóng chiếu từ G trên nền tảng phản chiếu hệ tọa độ từ V sang G (như ở ví dụ

(48)); việc lựa chọn biểu thức ngôn ngữ biểu đạt hướng quy chiếu bị quy định bởi không gian hàm ẩn. Các ví dụ (49) - (53) có F ở trong G nhưng không thể quy chúng vào quy chiếu topo do chỗ F không chỉ được định vị dựa vào G mà còn có sự tham gia của không gian hàm ẩn, hơn nữa quan hệ topo không bao hàm sự đối lập trong/ngoài, trước/sau và hướng quy chiếu trong khi quan hệ quy chiếu ở đây bao gồm cả các yếu tố này. Như vậy những trường hợp này đảm bảo quan hệ tam tố để thuộc về khung quy chiếu tương đối nhưng lại đi ra khỏi các biến thể mà Levinson (2003/2004) mô tả. Chúng tôi gọi đây là biến thể hàm ẩn với cách hiểu nó là biến thể của khung quy chiếu tương đối, biểu thị quan hệ tam tố giữa một Hình được định vị trong một Nền, hướng của khung quy chiếu được xác lập từ không gian hàm ẩn. Hiện tượng này trong tiếng Việt bổ sung vào sự đa dạng xuyên ngôn của khung quy chiếu không gian tương đối trong ngôn ngữ. 2.3.4 Các trường hợp lưỡng khả Ở phần này luận án phân tích một số trường hợp lưỡng khả trong đó một biểu thức có thể có hai cách đọc, một yếu tố chỉ hướng có thể xuất hiện ở hai khung quy chiếu khác nhau.

a. Chúng tôi nhận thấy tiếng Việt không có sự đánh dấu để phân biệt giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối ở các trường hợp một tình huống có thể được nhìn nhận theo nhiều phối cảnh khác nhau. Ví dụ:

(54) Nó ở bên phải cái ghế.

21 Nguồn: http://www.vietlex.com/kho-ngu-lieu. Ngày truy cập: 15/11/2021.

63

Có thể hình dung hai phối cảnh cho biểu thức trên như sau: 1. Bên phải được xác định dựa vào cái ghế. Nếu là ghế có tay vịn và lưng tựa thì bản thân nó có định hướng nội tại, theo hướng mà con người thường ngồi trong ghế. Việc xác định hướng này được lưu giữ trong không gian tinh thần của người bản ngữ và trở thành thuộc tính nội tại của chiếc ghế. Khung quy chiếu trong trường hợp này do vậy là khung quy chiếu nội tại; 2. Bên phải được xác định dựa vào người quan sát. Trường hợp ghế không có tay vịn và lưng tựa hoặc người quan sát không quan tâm đến đặc điểm này của cái ghế thì việc xác định bên phải sẽ dựa vào người quan sát, khi đó bên phải cái ghế sẽ là bên phải của người quan sát. Nếu người quan sát đứng đối diện với ghế, từ điểm nhìn của người quan sát, phía trước cái ghế sẽ là khoảng không gian giữa cái ghế và anh ta. Như vậy khung quy chiếu trong trường hợp này là khung quy chiếu tương đối, biến thể phản chiếu. Nếu người quan sát đứng theo hướng ngược lại, việc xác định hướng sẽ thuộc trường hợp khung quy chiếu tương đối, biến thể chuyển dịch. Tình hình cũng tương tự với các ví dụ: (55) a. Rồi nhà bên trái đốt pháo, nhà bên phải đốt pháo, (…)21

b. Gian bên phải đựng chum, vại, vò , lọ.22 Các trường hợp có thể giải thích theo hai cách phối cảnh như vậy chỉ diễn ra khi G là thực thể có cấu trúc định hướng nội tại. Tuy nhiên tính lưỡng khả này sẽ bị triệt tiêu nếu người nói (cũng là người quan sát) kết hợp sử dụng ngôn ngữ cử chỉ.

Các phân tích ở ví dụ (48) và ví dụ (54) cho thấy với khung quy chiếu tương đối, tiếng Việt chỉ có biến thể phản chiếu và biến thể chuyển dịch mà không có biến thể luân chuyển như trong tiếng Anh theo mô tả của Levinson (2003/2004).

b. Khung quy chiếu tương đối được cho là phát triển lên từ khung quy chiếu nội tại (Levinson, 2003/2004), theo đó các phương tiện biểu đạt hướng được dùng cho cả hai khung quy chiếu. Nhận định này cũng đúng với tiếng Việt. Quan sát sự hành chức của các từ trái, phải, trước, sau ở các ví dụ (44), (45), (47), (48), (52), (53), (54), (55) có thể thấy điều đó. Thực tế này theo chúng tôi là kết quả của quá trình toả tia ngữ nghĩa của từ từ chỉ hướng nội tại của vật thể sang chỉ hướng của vật thể thiếu đi sự xác định hướng tự thân (như cái cây, tảng đá, v.v…); căn nguyên của sự biến chuyển này là sự thay đổi trong tri nhận về không gian của người bản ngữ.

c. Trong tiếng Việt tồn tại trường hợp giao thoa giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối khi G là đối tượng không có sự định hướng nội tại nhưng F lại có và F là con người. Xét ví dụ:

(56) Ta một mình trước biển chiều nay23.

Ví dụ này được Đặng Kim Hoa (2017) xếp vào chiến lược quy chiếu ngược24. Chúng tôi lí giải khác với quan niệm của bà. Ở ví dụ này, có thể thấy, bản thân biển không có sự định hướng nội tại, nên phía trước trong trước biển được xác định không phải dựa vào “biển” mà dựa vào “ta”, chủ thể ngôi 1; “ta” quay mặt về phía biển. Điều này ngược lại với các trường hợp định vị dựa vào G khác trong tiếng Việt. Theo lý thuyết khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối, chỉ có G hoặc V giúp xác định hướng, như vậy “ta” phải đóng vai trò của V. Nhưng “ta” lại cũng được định vị là trước biển, nên “ta” đồng thời là F (biển là G). Soi chiếu với các biến thể tương đối được xác lập trong tiếng Việt ở mục 2.4.3, có thể xếp (56) là một trường hợp đặc biệt của biến thể phản chiếu với F trùng với V.

22 Nguồn: http://www.vietlex.com/kho-ngu-lieu. Ngày truy cập: 15/11/2021. 23 Trích từ bài thơ Biển khát, tác giả Nguyễn Hoàng. 24 Chiến lược quy chiếu ngược theo quan niệm của Đặng Kim Hoa đặc tả quan hệ nhị tố giữa vật cần định vị (tức Hình) và vật định vị (tức Nền) nhưng yếu tố đảm nhiệm vai trò mốc quy chiếu là vật cần định vị. Việc quy chiếu do vậy dựa vào cả hai đối tượng là vật nền và vật cần định vị. Với ví dụ (56) ở trên, Đặng Kim Hoa xác định biểu thức trước biển là một quy chiếu ngược và mối quan hệ không gian thực sự ở đây là biển ở trước ta. (Đặng Kim Hoa, 2017)

64

Tuy nhiên, nếu thay “ta” bằng “cô ấy”, một chủ thể ngôi 3, thành (57) Cô ấy một mình trước biển chiều nay, sự thể lại khác. Lúc này, “cô ấy” là đối tượng

được định vị - F, biển là G, hướng quy chiếu được xác định dựa vào “cô ấy”. Ở đây có sự tham gia của V nhưng V lại không quan yếu do chỗ nếu “cô ấy” đứng quay lưng lại với “biển” thì diễn ngữ trở thành bất khả chấp.

Mặt khác, chúng tôi nhận thấy trong tiếng Việt, với G không có cấu trúc định hướng nội tại, như là các vật thể tự nhiên chứa nước (biển, sông, ao, hồ, v.v.), cánh đồng, con đường, sự định hướng chỉ diễn ra với phía trước, các phía trái, phải, sau thì không. Như vậy con đường để thiết lập mô hình xác định hướng quy chiếu ở ví dụ cải biến này là đối sánh với biến thể của khung quy chiếu tương đối. Điều này tương thích với quy luật được xác định trên nhiều cứ liệu các ngôn ngữ tự nhiên là khung quy chiếu tương đối phát triển lên từ khung quy chiếu nội tại, hơn nữa bản thân con người có cấu trúc định hướng nội tại. Từ đó chúng tôi cho rằng, với F là cô ấy, đã có sự phản chiếu hướng từ Hình sang Nền mặc dù không tồn tại sự xác định các hướng còn lại. Tình hình cũng tương tự nếu thay “cô ấy” bằng một chủ thể ngôi 2. Suy ngược trở lại với (56) có thể đi đến nhận định thực chất ở (56) là sự phản chiếu hướng từ F sang G. Như vậy với các ví dụ vừa phân tích, khung quy chiếu chi phối là khung quy chiếu nội tại. Đây là trường hợp mà Levinson chưa đề cập đến trong lý thuyết của mình. Từ đó có thể bổ sung vào lý thuyết khung quy chiếu nội tại trường hợp hướng quy chiếu được xác định dựa vào F, xuất hiện khi Nền là đối tượng không có cấu trúc định hướng nội tại, F là con người. Đây là điểm cho thấy sự giao thoa giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối trong tiếng Việt.

Ở (56) và (57), góc ngắm camera đều được đặt ở đối tượng được định vị F. Nếu thay đổi tình huống ở (56) thành: một người phụ nữ đang đứng trước biển ngắm đoàn thuyền đánh cá thì có tiếng chồng kêu lớn: “Em đang ở đâu?”. Chị quay lại, vừa nhớn nhác tìm vừa hét trả lời: (58) “Đang đứng trước biển đây này!”. Ở tình huống này, người phụ nữ quay lưng lại với biển (ngược lại với trường hợp (56)) nhưng vẫn được mô tả là trước biển. Với (56), (57), F quay lưng lại với biển là bất khả chấp nhưng với (58) lại không. Vì sao vậy? Lí do là ở tình huống này, góc ngắm camera được đặt ở vị trí của người chồng25. Quy chiếu không gian ở trường hợp này có sự tham gia của ba tham số F (người vợ), G (biển), V (điểm nhìn của người chồng) và có sự phản chiếu hướng từ V sang G nên thuộc biến thể phản chiếu của khung quy chiếu tương đối.

25 Xin cảm ơn Phó giáo sư Hoàng Dũng vì đã phát hiện và góp ý ở điểm này cho luận án.

65

Những phân tích trên cho thấy tiếng Việt sử dụng cả ba khung quy chiếu không gian theo hệ thống của Levinson. Với khung quy chiếu tuyệt đối, ngoài sử dụng các phương địa lí, người Việt còn dùng các hướng cố định trục biển – đất liền, núi rừng – đồng bằng/biển, dòng chảy của sông, trong đó chỉ có trục biển – đất liền được tri nhận theo trục ngang. Với khung quy chiếu nội tại, người Việt có ba cách để xác định hướng của Nền: sử dụng hướng của trọng lực, sử dụng cấu trúc hình học nội tại của G, sử dụng tiêu chí chức năng, hướng chính tắc, hướng chuyển động của vật thể;

ngoài biến thể như mô tả của Levinson, tiếng Việt có thêm biến thể trong đó nền là đối tượng không có cấu trúc định hướng nội tại, F là con người, hướng quy chiếu được xác định dựa vào F, biến thể này cho thấy dấu ấn chuyển tiếp giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối. Khung quy chiếu tương đối trong tiếng Việt chỉ tồn tại biến thể phản chiếu, biến thể chuyển dịch theo hệ thống phân loại của Levinson, tuy nhiên tiếng Việt có thêm biến thể hàm ẩn biểu thị quan hệ giữa một Hình được định vị trong một Nền, hướng của khung quy chiếu được xác lập từ không gian hàm ẩn. Ngoài ra tiếng Việt còn có các trường hợp lưỡng khả: tiếng Việt không đánh dấu phân biệt giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối ở các trường hợp một tình huống có thể được nhìn nhận theo nhiều phối cảnh, các phương tiện biểu đạt hướng vừa có thể dùng cho khung quy chiếu nội tại vừa có thể dùng cho khung quy chiếu tương đối, tiếng Việt có sự giao thoa giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối ở thuộc tính phản chiếu hướng. Những phân tích trên của chúng tôi góp thêm cứ liệu xuyên ngôn và bổ sung lí thuyết về khung quy chiếu không gian trong ngôn ngữ tự nhiên. Kết quả phân tích này là nền tảng để chúng tôi phân tích sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian lên khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt.

2.4 Các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt

Ở phần này, luận án đi vào phân tích các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt. Với mỗi khung quy chiếu và biến thể của chúng, luận án phân tích các nội dung sau: hệ quy chiếu, sự tình động/sự tình tĩnh, phối cảnh chuyển động. Kết quả phân tích của luận án sẽ bổ sung vào tính phổ niệm và tính đa dạng của khung quy chiếu thời gian trong ngôn ngữ tự nhiên. 2.4.1 Khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt 2.4.1.1 Hệ quy chiếu trong khung quy chiếu thời gian tuyệt đối Ở mục 2.2 luận án đã xác định rằng dòng thời gian trong tiếng Việt phân bố theo trục ngang, trục trước – sau với trước chỉ tương lai, sau chỉ quá khứ. Các sự tình ở phía trước trong dòng thời gian sẽ thuộc về tương lai, các sự tình ở phía sau trong dòng thời gian sẽ thuộc về quá khứ.

Gốc của hệ quy chiếu trong khung quy chiếu thời gian tuyệt đối, theo xác lập của Bender và cộng sự (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014) nằm trên dòng thời gian tinh thần này, hướng của khung quy chiếu là hướng của mũi tên thời gian. Trong tiếng Việt, hướng của mũi tên thời gian trùng với hướng của dòng thời gian.

Các ví dụ sau trong tiếng Việt tương thích với mô tả này:

(59) a. Thời gian trôi.

66

b. Thời gian không ngừng trôi. c. Thời gian trôi mãi mãi. d. Thời gian trôi đi mãi.

Trong các ví dụ này, thời gian được người Việt tri nhận là đang vận động. Chúng ta không thể xác định được thời gian trôi từ đâu, nói cách khác không có vị trí cụ thể của gốc toạ độ X. Hệ quy chiếu như vậy được đặt trong trường thời gian tổng thể. Với sự tình thời gian được phản ánh ở đây, không có tham số Nền G được phản ánh. Sự tình F “thời gian” không ngừng vận động về phía tương lai. Vị trí ban đầu của F do vậy sẽ thuộc về quá khứ, vị trí F sẽ vận động tới sẽ thuộc về tương lai. Người quan sát không tham gia vào hệ quy chiếu. Như vậy cả G và V đều không quan yếu trong hệ toạ độ. Theo xác lập dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt, có thể suy ra F đang vận động về phía trước. Các biểu đạt thời gian ở (59) do vậy đều phản ánh khung quy chiếu tuyệt đối. Theo quan sát của chúng tôi, đây là trường hợp khái quát nhất của khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt.

Tư duy thời gian ở ví dụ (59) giống với tư duy thời gian của người Anh trong

cách nói:

(60) Time flows on forever. (Lấy lại ví dụ 4)

thời gian trôi mãi mãi ‘Thời gian trôi mãi mãi.’ Phổ biến hơn trong tiếng Việt là hệ quy chiếu tuyệt đối với Nền G trùng với người quan sát, dòng thời gian khi đó là dòng thời gian trực chỉ, như trong các ví dụ sau: (61) a. Phía trước là tương lai tươi sáng.

b. Bỏ lại sau lưng bao tháng năm cuộc đời tăm tối.26 Ở ví dụ (61a), sự tình F là ‘tương lai tươi sáng’, F được xác định là ở phía trước, thuộc về tương lai; ở ví dụ (61b), sự tình F là ‘bao tháng năm cuộc đời tăm tối’, F được xác định là ở phía sau, thuộc về quá khứ. Với (61b), diễn ngữ sau lưng cho phép xác định rõ phía sau là phía sau của Ego. Với (61a), chúng ta không biết đó là phía trước của dòng thời gian hay phía trước của Ego. Tuy nhiên đối chiếu với các ví dụ khác như:

(62) a.Trước mắt, Chính phủ sẽ trích 8.000 tỷ đồng từ trái phiếu để xây dựng nhà ở cho sinh viên ngay trong năm nay.

b. Con nên bỏ lại quá khứ phía sau để nhìn về tương lai (…).

26Nguồn: Khối liệu Việt ngữ tại https://app.sketchengine.eu (Truy cập ngày 20 tháng 6 2020).

67

(lấy lại ví dụ 36b)

sẽ thấy đó là phía trước của Ego. Sự hiện diện của các từ mắt, nhìn ở các ví dụ (62) cho biết phía trước được xác định là trong quy chiếu với Ego. Hệ quy chiếu được xác lập giữa F và G trở thành hệ quy chiếu được xác lập giữa F và Ego vì G trùng với Ego. Các sự tình ở phía trước G/ Ego thuộc về tương lai, các sự tình ở phía sau G/ Ego thuộc về quá khứ.

Điều mà chúng ta dễ dàng nhận ra trong các ví dụ (61), (62) là phía trước của Ego trùng với phía trước của dòng thời gian. Khác với (60), nơi vai trò của G và V (Ego) không quan yếu trong hệ toạ độ, ở (61), (62), gốc X của hệ toạ độ trùng với G, G trùng với hiện tại chủ quan của người quan sát, G trở thành nhân tố xác định hướng. Trong phân tích của mình, Bender chưa đề cập đến trường hợp này, tuy nhiên có thể thấy các trường hợp vừa dẫn đều thuộc khung quy chiếu tuyệt đối do chỗ hệ toạ độ được xác lập gồm hai tham số F và G, các sự tình ở phía trước G thuộc về tương lai, hướng của khung quy chiếu cùng hướng với mũi tên thời gian với TRƯỚC chỉ TƯƠNG LAI, SAU chỉ QUÁ KHỨ.

Các phân tích ở (61), (62) cho thấy rằng, trong tri nhận thời gian tuyệt đối, người Việt hình dung tương lai ở phía trước Ego. Sự tri nhận này là phổ biến và thống nhất.

Hướng của khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt thường được hiện thực hoá bằng các từ định hướng trước, sau, như trong các ví dụ (61), (62) ở trên. Tuy nhiên nó cũng có thể được hiểu hàm ẩn, như ở ví dụ (59) hoặc như trong các ví dụ sau: (63) a. quay trở lại một thời kì trong quá khứ

b. Chúng tôi cần có nghị lực để vượt qua quá khứ đau đớn này. c. chạy trốn quá khứ Ở ví dụ (63), sự tình thời gian được đề cập là “quá khứ”. Quá khứ này được tham chiếu với hiện tại của Ego. Không có từ chỉ hướng được sử dụng. Tuy nhiên, sự hiện diện của các từ ngữ quay trở lại, vượt qua, chạy trốn cho phép suy ra quá khứ được tri nhận là ở phía sau người quan sát, tức ở phía sau trên dòng thời gian.

68

Những quan sát trên ngữ liệu khảo sát cho thấy rằng hệ quy chiếu tuyệt đối trong tiếng Việt chỉ phân biệt hai nhóm sự tình: các sự tình ở tương lai (như ở ví dụ 61a, 62a, 62b) và các sự tình ở quá khứ (như ở ví dụ 62b, 63). Các sự tình được nhúng vào dòng thời gian và xác định vị trí của chúng trên dòng thời gian có thể trong quy chiếu với Ego hoặc không. Khi quy chiếu với Ego, quy chiếu có tính trực chỉ. Khi không quy chiếu với Ego, gốc của hệ toạ độ được xác định dựa vào dòng thời gian hay trường thời gian tổng thể, tức hệ quy chiếu có tính chất tha trung tâm, phi trực chỉ. Trường thời gian này là kết quả của sự ý niệm hoá về thời đoạn được nhận thức như là một sự tình không bao giờ kết thúc trong đó tất cả sự tình khác xuất hiện. Quy

chiếu như vậy được thiết lập theo chiến lược quy chiếu trực tiếp dựa vào trường thời gian.

Các sự tình được phản ánh trong khung quy chiếu thời gian tuyệt đối có thể là

Tóm lại, trong tiếng Việt, điều kiện cần và đủ để xếp một biểu thức đang xét vào biểu đạt của khung quy chiếu tuyệt đối là hệ quy chiếu được phản ánh chỉ gồm hai thành tố F và G, sự tình F ở trước sự tình G sẽ thuộc về tương lai. 2.4.1.2 Sự tình động/sự tình tĩnh trong khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt sự tình tĩnh hoặc sự tình động. Là sự tình tĩnh khi động từ đi với ngữ đoạn biểu thị thời trong câu không mang nét nghĩa +động, thời gian được tri nhận và một thực thể tĩnh tại, như trong ví dụ sau: (64) Tương lai đang ở phía trước. (Hoặc ví dụ (61) ở trên)

Hoặc ngữ đoạn biểu thị thời gian đảm nhiệm vai trò trạng ngữ trong câu, thời

gian là phông nền trên đó diễn ra sự tình khác, như trong ví dụ sau:

(65) Trước mắt, hãy cứ đợi xem đã27. (Hoặc ví dụ (62a) ở trên)

Với phối cảnh Người quan sát di chuyển, xét các ví dụ:

Là sự tình động khi động từ trong câu mang nét nghĩa +động, như các ví dụ (59), (61b), (62b), (63). Trong các ví dụ này, động từ trong câu chỉ sự vận động của thời gian hoặc của người quan sát trong thời gian. Ở (59), trôi chỉ sự vận động của thời gian, ở các trường hợp còn lại, quay trở lại, vượt qua, chạy trốn chỉ sự vận động của người quan sát trong dòng thời gian. Theo quan sát của chúng tôi, chủ yếu các sự tình thuộc khung quy chiếu tuyệt đối là sự tình động. 2.4.1.3. Phối cảnh chuyển động với khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt Phối cảnh chuyển động chỉ diễn ra với các câu biểu đạt sự tình động. Có hai phối cảnh đi với khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt là Thời gian chuyển động và Người quan sát di chuyển. Với phối cảnh Thời gian chuyển động, dòng thời gian chuyển động về phía tương lai (phía trước) và đó là chuyển động được người Việt tri nhận là có thực với thời gian, như trong ví dụ (59) ở trên. (66) a. Bỏ lại sau lưng bao tháng năm cuộc đời tăm tối.28

27 Nguồn: Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê, 2009, tr.1307) 28Nguồn: Khối liệu Việt ngữ tại https://app.sketchengine.eu (Truy cập ngày 20 tháng 6 2020).

69

b. Mong rằng, với ý nghĩa và giá trị nhân văn sâu sắc, chương trình sẽ tiếp tục được lan toả và nhận được sự đồng thuận ủng hộ của các cấp, các ngành để mang

yêu thương đến với các em có hoàn cảnh khó khăn, trở thành điểm tựa vững chắc để các em mạnh mẽ vượt qua hoàn cảnh khó khăn, bước tiếp trên con đường tương lai phía trước.

Ego trong (66a) và trong mệnh đề ‘bước tiếp trên con đường tương lai phía trước’ được tri nhận là ở trong dòng thời gian và vận động về phía tương lai. Các kết hợp bỏ lại, bước tiếp cho thấy ở (66), Ego được hình dung là vận động về phía trước. Như vậy, phối cảnh chuyển động ở khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt dù là phối cảnh nào thì cũng chỉ có một hướng duy nhất là chuyển động về phía trước, tức phía tương lai. Chuyển động ở các sự tình thuộc khung quy chiếu này do vậy gắn với ý niệm thời gian tuyến tính.

Từ những phân tích về khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt ở

trên, có thể rút ra bảng khái quát về khung quy chiếu này như sau:

Bảng 2.2 Khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt KHUNG QUY CHIẾU THỜI GIAN TUYỆT ĐỐI

Hệ toạ độ Hướng Quan hệ thời gian Chiến lược quy chiếu

Trực chỉ/Phi trực chỉ F, G TRƯỚC: tương lai Tương lai/quá khứ Trực tiếp, dựa vào trường X ≠ G: phi trực chỉ X ≡ G ≡ V: trực chỉ

Như vậy, khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt mô tả quan hệ thời gian song tố giữa hai sự tình trong đó sự tình F ở trước sự tình G. Hướng của khung là hướng của dòng thời gian, cũng là hướng của mũi tên thời gian. Trục TƯƠNG LAI/QUÁ KHỨ được tri nhận theo con đường ẩn dụ, tương ứng với trục TRƯỚC/SAU. Sự tình được phản ánh có thể động hoặc tĩnh. Với sự tình động, phối cảnh có thể là Ego chuyển động hoặc Thời gian chuyển động, sự chuyển động này luôn cùng hướng với sự vận động của dòng thời gian. Quy chiếu thời gian với khung quy chiếu tuyệt đối có thể trực chỉ (trường hợp X trùng với G trùng với Ego (V)) hoặc phi trực chỉ (trường hợp X khác G).

70

Mô hình khung quy chiếu thời gian này trong tiếng Việt như vậy tương ứng với lối tri nhận được tìm thấy trong tiếng Anh (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014), tiếng Wolof (Moore, 2011, 2014), nhưng khác với tiếng Aymara nơi trục TRƯỚC/SAU được đồ chiếu lên trục QUÁ KHỨ/TƯƠNG LAI (Núñez và Sweetser, 2006; Moore, 2011, 2014), và tiếng Quan Thoại nơi trục QUÁ KHỨ/TƯƠNG LAI được đồ chiếu lên trục TRÊN/DƯỚI (Yu, 2012).

2.4.2 Khung quy chiếu thời gian nội tại trong tiếng Việt

Khung quy chiếu thời gian nội tại trong tiếng Việt gồm hai biến thể: biến thể trực chỉ và biến thể chuỗi nối tiếp, tương ứng với hai kiểu quan hệ thời gian là quan hệ thời gian trực chỉ và quan hệ thời gian sớm hơn/muộn hơn. Dưới đây luận án đi vào phân tích các biến thể này. 2.4.2.1 Khung quy chiếu nội tại trực chỉ

Xét ví dụ sau trong tiếng Việt:

b. Trong màu áo xanh thanh niên Việt Nam, Linh rất háo hức và thấy mình

a. Hệ quy chiếu trong khung quy chiếu nội tại trực chỉ Một quan hệ thời gian được coi là trực chỉ khi gốc X của hệ toạ độ ở vị trí của G, G trùng với hiện tại chủ quan của người quan sát, F được định vị trong quy chiếu với G. (67) a. Milan từng rất thành công với thủ môn người Brazil khác là Dida những năm đầu thập niên trước. chững chạc hẳn lên. Tuần sau, cô sẽ cùng gia đình trở lại Đức.

Nền trong cả hai ví dụ trên đều là thời điểm phát ngôn. Hiện tại của Ego đóng vai trò của G. Trong quy chiếu với Nền G, F ở (67a) “Milan rất thành công với thủ môn người Brazil Dida” được xác định ở trước G, một thời điểm thuộc quá khứ (thập niên trước); còn ở (67b), F “Linh cùng gia đình trở lại Đức” được xác định ở sau G, một thời điểm chưa xác định trong tương lai (tuần sau). Các từ trước và sau được sử dụng theo lối ẩn dụ chỉ thời điểm thuộc quá khứ và tương lai.

Như vậy hệ quy chiếu thời gian ở các ví (67) được xác lập giữa hai sự tình F và G và mang tính trực chỉ. Cũng là trực chỉ nhưng ở (67), phía trước Ego là quá khứ, phía sau Ego là tương lai, còn ở (61), (62), (64), (65), phía trước Ego là tương lai, phía sau Ego là quá khứ. Nghĩa là có sự trái ngược về hướng quy chiếu giữa hai hệ toạ độ. Điều này có nghĩa là khung quy chiếu tác động ở hai trường hợp này là khác nhau.

Hướng quy chiếu ở (67) được xác định trong quy chiếu với G, tách biệt và ngược lại với hướng của dòng thời gian. (67) là biểu đạt ngôn ngữ của khung quy chiếu nội tại trực chỉ.

71

Ví dụ (67) cho thấy ý niệm QUÁ KHỨ/TƯƠNG LAI trong khung quy chiếu nội tại trực chỉ tiếng Việt được tri nhận thông qua ý niệm TRƯỚC/SAU thuộc phạm trù không gian. Sự đồ chiếu này được biểu đạt rõ nhất ở cách sử dụng từ trước, sau. Hai từ này thường kết hợp với danh từ/danh ngữ chỉ đơn vị thời gian tạo nên ngữ danh từ biểu đạt thời gian trực chỉ như (68) hôm trước, hôm sau, tuần trước, tuần sau, tháng trước, tháng sau, quý trước, quý sau, năm trước, năm sau, thế kỉ trước, thế kỉ sau, thế hệ trước, thế hệ sau, đời trước, đời sau, v.v. hoặc như ở ví dụ (67) dẫn trên. Ngoài ra, để biểu đạt một thời điểm trực chỉ bất định, tiếng Việt có các kết hợp (69) trước

kia, trước đây, sau này, trong đó trước kia, trước đây chỉ khúc đoạn thời gian tính từ thời điểm nói về quá khứ, sau này chỉ khúc đoạn thời gian tính từ thời điểm nói về tương lai. Sự khác biệt giữa trước kia và trước đây nằm ở chỗ, kia trong trước kia quy chiếu về thời gian quá khứ xa còn đây trong trước đây quy chiếu về thời điểm nói. Các sự tình được định vị bằng các biểu đạt ở (57), (68), (69) đều là các trường hợp của khung quy chiếu nội tại trực chỉ.

Trong phân tích của mình, Bender và cộng sự (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014) không đề cập trường hợp thời gian của sự tình cần định vị trùng với thời điểm nói, như trong ví dụ sau: (70) Hội nghị đang diễn ra tại Bangkok, Thái Lan.

Trong ví dụ này, thời điểm diễn ra hội nghị ở hiện tại, đó cũng là hiện tại chủ quan của người quan sát, đồng thời là gốc của hệ toạ độ. Trên dòng thời gian, các yếu tố tham gia vào hệ quy chiếu trùng nhau tại một vị trí. Nên đây là trường hợp đặc biệt của khung quy chiếu nội tại trực chỉ. Việc bổ sung trường hợp này vào khung quy chiếu nội tại trực chỉ sẽ mở rộng khả năng bao quát của lý thuyết này đối với các sự kiện ngôn ngữ được sử dụng.

Tính trực chỉ của các sự tình thời gian ở biến thể này tương ứng với các mô tả của thì tuyệt đối. Đó là lý do vì sao Evans (2009, 2013, 2019) gọi tên các trường hợp này là biến thể trực chỉ và xem xét chúng trong tương quan với thì tuyệt đối. Tuy nhiên phân loại như Evans sẽ không phân biệt các ví dụ (61), (62) với các ví dụ (67), (48), (69) do chỗ không khu biệt hướng của khung quy chiếu, trong khi như đã chỉ ra, TRƯỚC trong biến thể nội tại trực chỉ đồ chiếu lên quá khứ trong khi TRƯỚC khung quy chiếu thời gian tuyệt đối đồ chiếu lên tương lai. Sự phân biệt này về mặt tri nhận được phản ánh vào ngôn ngữ đưa đến sự biểu nghĩa thời gian khác nhau của từ trước và từ sau trong tiếng Việt.

Khái quát lại, luận án đi đến nhận định: hệ quy chiếu trong khung quy chiếu thời gian nội tại trực chỉ tiếng Việt gồm hai thành tố F và G, trong đó G trùng với hiện tại chủ quan của người quan sát, F được định vị trong quy chiếu với G; hướng của khung quy chiếu ngược lại với hướng của hệ quy chiếu tuyệt đối với TRƯỚC chỉ QUÁ KHỨ, SAU chỉ TƯƠNG LAI. Hệ quy chiếu này bao gồm cả trường hợp F trùng với G, khi đó F diễn ra ở thời điểm nói. Lúc này tất cả các tham số F, G, V, X trùng nhau tại một điểm trên dòng thời gian. Hệ toạ độ trong khung quy chiếu thời gian nội tại trực chỉ có tính chất dĩ nhân vi trung, tức nó là trải nghiệm của người quan sát ở hiện tại. Chiến lược quy chiếu ở biến thể này do vậy là chiến lược quy chiếu trực tiếp dựa vào nghiệm thể.

b. Sự tình động/ sự tình tĩnh trong khung quy chiếu nội tại trực chỉ Các sự tình thời gian được phản ánh trong khung quy chiếu nội tại trực chỉ có

72

thể là sự tình tĩnh hoặc sự tình động.

Là sự tình tĩnh khi ngữ đoạn biểu thị thời gian đảm nhiệm vai trò trạng ngữ trong câu, thời gian là phông nền trên đó diễn ra sự tình khác, như trong các ví dụ sau: (71) a. Hôm qua, chính phủ Anh công bố thiết lập mối quan hệ chính thức lần đầu tiên với CHDCND Triều Tiên tại Anh.

b. Tôi và đồng đội hạ quyết tâm giúp tuyển Việt Nam giành quyền thăng hạng

lên nhóm II mùa giải năm sau.

Là sự tình động khi động từ trong câu mang nét nghĩa +động, đó vốn là động từ được chuyển nghĩa sang chỉ sự vận động trong thời gian, như trong các ví dụ sau:

(72) a. Hàng loạt chương trình quảng bá hình ảnh, thương hiệu cho các ngành hàng trọng điểm như nông sản, thực phẩm chế biến, dệt may, da giày, gỗ và các sản phẩm phẩm từ gỗ, thuỷ sản… trong năm 2020 đều phải huỷ hoặc dời lịch tổ chức sang các năm sau.

b. Nội chiến, xung đột liên miên đẩy nền kinh tế đất nước lùi lại hàng chục

năm.

Trong các ví dụ trên, động từ trong câu chỉ sự vận động của đối thể trên dòng thời gian về phía tương lai (ví dụ 72a) hoặc về phía quá khứ (ví dụ 72b) so với thời điểm nói. Sự tình thời gian trong câu vì vậy là sự tình động.

c. Phối cảnh chuyển động với khung quy chiếu thời gian nội tại trực chỉ Do tính chất trực chỉ, chuyển động ở các sự tình thuộc khung quy chiếu này có tính định hướng, gắn với ý niệm thời gian toả tia. Đó có thể là vận động của F từ hiện tại về phía tương lai hoặc là từ hiện tại về phía quá khứ. Ego trong các trường hợp này đều ở trạng thái tĩnh.

Sự vận động này gắn với sự thay đổi thời điểm, thời khoảng diễn ra sự tình, như ở ví dụ (72a) trên. Ở (72a), lịch tổ chức các chương trình quảng bá được dịch chuyển từ “năm 2020” (hiện tại chủ quan của người quan sát) sang “các năm sau” (thuộc về tương lai). Theo quan sát của chúng tôi, vận động thay đổi thời điểm chỉ diễn ra ở nửa trục tương lai, theo đó một sự tình được dịch chuyển từ thời điểm hiện tại sang một thời điểm trong tương lai.

73

Ở hướng quá khứ, phối cảnh chuyển động mang tính tinh thần, tức nó chỉ là chuyển động giả định trong không gian tinh thần của người bản ngữ, như ở ví dụ (72b) dẫn trên. Ở ví dụ này, “nền kinh tế” là đối tượng chuyển động về phía quá khứ so với thời điểm nói. Theo quan sát của chúng tôi, sự chuyển động này luôn mang tính ẩn dụ, chỉ sự trở lại với giai đoạn phát triển thấp hơn trước đó trong dòng thời gian của đối tượng.

2.4.2.2 Khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp

Xét các ví dụ sau trong tiếng Việt:

a. Hệ quy chiếu trong khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp Khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp mã hoá quan hệ thời gian sớm hơn/ muộn hơn. Quan hệ thời gian sớm hơn/ muộn hơn được xác lập giữa hai hoặc hơn hai sự tình diễn ra ở hai thời điểm hoặc thời đoạn khác nhau trong dòng thời gian trong đó một sự tình được chọn làm mốc quy chiếu. Mốc quy chiếu đó chính là gốc của hệ toạ độ. (73) a. Theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng sau khi ăn hỏi xong cũng đem cau trầu biếu hàng xóm.29 b. Trước đánh nhau, sau nhận họ.

(Tục ngữ)

Trong ví dụ (73a), sự tình “đem cau trầu biếu hàng xóm” được quy chiếu với sự tình “ăn hỏi” nên nó là F còn sự tình “ăn hỏi” là G. Sự tình “đem cau trầu biếu hàng xóm” diễn ra sau sự tình “ăn hỏi”, nó thuộc về tương lai của sự tình “ăn hỏi”. Ở chiều ngược lại, sự tình ‘ăn hỏi’ diễn ra trước sự tình ‘đem cau trầu biếu hàng xóm’, nó ở quá khứ so với sự tình ‘đem cau trầu biếu hàng xóm’. Quan hệ thời gian giữa hai sự tình ở (73a) hoàn toàn giống với quan hệ thời gian được phản ánh ở (73b), giữa hai sự tình ‘đánh nhau’ và ‘nhận họ’.

Quan hệ thời gian được phản ánh (73) không liên quan đến hiện tại chủ quan của người quan sát mà chỉ trong quan hệ nội tại giữa hai sự tình. Thời điểm/sự tình muộn hơn được biểu đạt là ở sau thời điểm/ sự tình sớm hơn; ngược lại thời điểm/sự tình sớm hơn được biểu đạt là ở trước thời điểm/ sự tình muộn hơn. Ví dụ (73) cho thấy, trong dạng quan hệ thời gian này, QUÁ KHỨ/TƯƠNG LAI được đồ chiếu lên trục TRƯỚC/SAU, quan hệ thời gian được mã hoá là quan hệ sớm hơn/muộn hơn và trật tự giữa hai sự tình là nhân tố ấn định hướng của chuỗi – hướng về quá khứ. Kiểu quan hệ thời gian ở (73) thuộc về khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp. Ở biến thể này, gốc của hệ toạ độ trùng với G nhưng khác V.

29 Nguồn: http://www.vietlex.com/kho-ngu-lieu. Ngày truy cập: 15/11/2020.

74

Như vậy yếu tố xác lập tư cách nội tại của quan hệ thời gian trong chuỗi các sự tình là nó vẫn đảm bảo quan hệ song tố giữa F và G, hướng TRƯỚC của khung quy chiếu chỉ về quá khứ. Biến thể này khác với khung quy chiếu nội tại trực chỉ ở chỗ G là một sự tình trong chuỗi; vị trí của Ego, hướng nội tại của Ego không quan yếu trong quy chiếu. Theo quan sát của chúng tôi, khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp trong tiếng Việt có thể được đánh dấu bằng các từ trước, sau biểu đạt quan hệ chuỗi, như ở ví dụ (73) hoặc như trong ví dụ sau:

(74) Năm trước được cau, năm sau được lúa. (Tục ngữ)

Trong ví dụ này, quan hệ chuỗi nối tiếp được biểu đạt bằng danh ngữ cấu thành từ danh từ chỉ đơn vị thời gian năm kết hợp với trước/sau. Ở một cách dùng khác, các danh ngữ này có thể là phương tiện biểu đạt quan hệ trực chỉ, như trong hệ thống năm trước – năm nay – năm sau. Tuy nhiên, ở ví dụ này, năm trước – năm sau xác lập quan hệ thời gian phi trực chỉ; chúng chỉ biểu đạt hai thời điểm nối tiếp nhau trong dòng thời gian mà thôi. Như vậy cùng một biểu thức ngôn ngữ nhưng thuộc về biểu đạt của biến thể nào còn tuỳ thuộc vào quan hệ thời gian được xác lập giữa các yếu tố tham gia vào khung quy chiếu.

Ngoài phương tiện ngôn ngữ trước, sau, quan hệ chuỗi nối tiếp trong tiếng Việt còn có thể được nhận ra thông qua trật tự tuyến tính giữa các sự tình (sự tình diễn ra trước được nói trước, sự tình diễn ra sau được thể hiện sau), như trong ví dụ sau:

(75) Đi cho hết cánh đồng Dền, qua cầu Sa Lộc vào đền vua ta. (Tục ngữ)

Hoặc thông qua mối quan hệ nhân quả giữa các sự tình, ví dụ:

(76) Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. (Tục ngữ)

Cũng có thể là quan hệ điều kiện – kết quả, chẳng hạn:

(77) Con khóc mẹ mới cho bú. (Tục ngữ)

Trong quan hệ nhân quả và quan hệ điều kiện – kết quả, sự tình chỉ nguyên nhân, điều kiện (như “đời cha ăn mặn” và “con khóc” ở hai ví dụ trên) luôn diễn ra trước sự tình kết quả (“đời con khát nước”, “mẹ cho bú”), nó thuộc về quá khứ so với sự tình kết quả.

Quan hệ chuỗi nối tiếp cũng có thể được nhận ra thông qua liên từ rồi, như

trong ví dụ sau: (78) Quan trẩy rồi thợ ngôi cũng tếch. (Tục ngữ)

75

Tóm lại, khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp trong tiếng Việt gồm hai thành tố là F và G. Hệ quy chiếu này mã hoá quan hệ sớm hơn/muộn hơn giữa hai sự tình trên dòng thời gian, một trong hai sự tình được chọn làm mốc quy chiếu. Vai trò của V là không quan yếu. Vì V không quan yếu nên biến thể nội tại chuỗi nối tiếp có hệ toạ độ tha trung tâm. Tuy nhiên, khác với khung quy chiếu tuyệt đối, đây là trường hợp mà việc quy chiếu diễn ra giữa các sự tình trong một chuỗi tiếp nối trong đó một

sự tình được chọn làm Nền. Chiến lược quy chiếu ở biến thể này do vậy thuộc loại trực tiếp dựa vào G.

b. Sự tình động/ sự tình tĩnh trong khung quy chiếu thời gian nội tại chuỗi

nối tiếp

Khác với khung quy chiếu tuyệt đối và khung quy chiếu nội tại trực chỉ, sự tình thời gian trong khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp tiếng Việt là sự tình tĩnh. Khi đó ngữ đoạn biểu đạt thời gian giữ vai trò trạng ngữ hoặc khung đề trong câu như ở ví dụ (73), (74) hoặc có trước, sau làm định ngữ, bổ ngữ cho danh từ, động từ trong các vế câu biểu đạt sự tình nối tiếp trong thời gian như ở ví dụ sau: (79) a. Chê chồng trước đánh đau, gặp chồng sau mau đánh.

b. Anh em khinh trước, làng nước khinh sau. c. Để đau chạy thuốc thà rằng lo trước thì hơn.

(Tục ngữ)

Cái được người Việt chú ý trong nhận thức về thời gian ở quan hệ chuỗi là vị trí của hai sự tình tại hai thời điểm, thời đoạn khác nhau trên dòng thời gian, vị trí này khác với Ego. Chính vì vậy, khi sao phỏng kịch cảnh chuỗi thực thể chuyển động trong không gian sang chuỗi sự tình trong thời gian, thuộc tính động bị triệt tiêu. Có thể thấy điều này khi so sánh ngữ nghĩa không gian và ngữ nghĩa thời gian của cùng một vỏ ngôn ngữ. Xét ví dụ sau: (80) Tướng Tiến đi trước, đoàn quân đi sau.

Với kết hợp đi trước, đi sau, ví dụ (80) phản ánh kịch cảnh chuỗi các thực thể chuyển động trong không gian. Tham gia vào chuỗi có “Tướng Tiến” và “đoàn quân”. Cả hai đều chuyển động, trong đó chủ thể “Tướng Tiến” chuyển động ở phía trước của chuỗi (đi trước), “đoàn quân” chuyển động ở phía sau của chuỗi (đi sau); hướng của chuỗi là hướng chuyển động của các thực thể. Sự tình không gian được phản ánh như vậy là sự tình động, các thực thể phân bố theo chuỗi nối tiếp.

Cũng kết hợp đi trước, nhưng ở khung thời gian, câu chuyện sẽ khác đi. Xét

ví dụ sau: (81) Các anh đưa vợ tôi đi trước giúp. Tôi chỉ đi nếu đưa được con me cùng.

76

Bản thân hoạt động “đi” là mang tính +động. Tuy nhiên ở bình diện thời gian của sự tình, cái được chú ý là thời điểm của “vợ tôi đi” và “tôi đi”. Vì là thời điểm, mang tính thời khắc, điểm tính nên quan hệ giữa hai sự tình là tĩnh tại, không biến dịch trên dòng thời gian, trong đó “vợ tôi đi” diễn ra trước, “tôi đi” (nếu xảy ra) diễn ra sau. Trong khi ở khung không gian, như ở ví dụ (80) trên, phần không gian phía trước hoặc phía sau của chuỗi biến động liên tục theo sự di chuyển của các thực thể

cấu thành nên chuỗi. Nói cách khác, ở bình diện thời gian, quan hệ chuỗi là quan hệ tĩnh.

Hoặc như trong ví dụ (75) ở trên, ở đây luận án nhắc lại để tiện phân tích:

(Lấy lại ví dụ 75)

(82) Đi cho hết cánh đồng Dền, qua cầu Sa Lộc vào đền vua ta. (Tục ngữ) Trong ví dụ này, có 3 sự tình được biểu đạt lần lượt bằng các động từ chỉ hoạt động di chuyển đi, qua, vào; tức các sự tình được phản ánh đều là sự tình động. Ba sự tình này nối tiếp nhau trong dòng thời gian, mỗi sự tình chiếm giữ một thời khoảng. Nếu gọi các sự tình “đi hết cánh đồng Dền”, “qua cầu Sa Lộc”, “vào đền vua ta” lần lượt là Sự tình 1, Sự tình 2, Sự tình 3, có thể minh hoạ quan hệ thời gian giữa các sự tình này qua sơ đồ sau:

Sự tình 1 Sự tình 2 Sự tình 3

Sơ đồ 2.1 Chuỗi sự tình trong thời gian

Các sự tình đang xét lần lượt chiếm các khúc đoạn trên dòng thời gian, hết sự tình này đến sự tình khác, ranh giới kết thúc của sự tình này là điểm khởi đầu của sự tình khác và không có sự biến dịch ranh giới. Nói cách khác, các thời khoảng là ổn định và tĩnh tại.

Chính vì sự triệt tiêu thuộc tính động khi chuyển di sang thời gian của hệ quy chiếu không gian mà với khung quy chiếu thời gian nội tại chuỗi nối tiếp, không có phối cảnh chuyển động giữa các sự tình.

Từ các phân tích về biến thể trực chỉ và biến thể chuỗi nối tiếp, có thể khái

quát về đặc điểm khung quy chiếu thời gian nội tại trong tiếng Việt như bảng sau:

Bảng 2.3 Khung quy chiếu thời gian nội tại trong tiếng Việt KHUNG QUY CHIẾU THỜI GIAN NỘI TẠI

F, G TRƯỚC: quá khứ, SAU: tương lai Quá khứ/tương lai Trực tiếp: dựa vào Ego

Hệ toạ độ Hướng Quan hệ thời gian Chiến lược quy chiếu

chỉ/Phi

Biến thể trực chỉ Biến thể chuỗi nối tiếp Trực tiếp: dựa vào G; G ≠ Ego Biến thể trực chỉ Trực chỉ Biến thể chuỗi nối tiếp Phi trực chỉ

77

Trực trực chỉ

Những phân tích ở trên cho phép đi đến kết luận rằng, trong tiếng Việt, với trường hợp khung quy chiếu nội tại, quan hệ thời gian được xác định có thể cần hoặc không cần đến Ego trong vai trò Nền G, gốc X của hệ toạ độ ở vị trí của G, hướng TRƯỚC trong khung quy chiếu chỉ về quá khứ. Với biến thể trực chỉ, G trùng với hiện tại chủ quan của người quan sát, TRƯỚC là khoảng thời gian tính từ thời điểm nói trở về quá khứ, SAU là khoảng thời gian tính từ thời điểm nói về phía tương lai. Với biến thể chuỗi nối tiếp, G khác với Ego, quan hệ thời gian được phản ánh là quan hệ sớm hơn/muộn hơn (quan hệ chuỗi) và chỉ liên quan đến sự tình F và G mà độc lập với vị trí của người quan sát; lúc này quan hệ quá khứ/tương lai cũng được phản chiếu lêu trục TRƯỚC/SAU.

Với các quan hệ thời gian gồm ba tham số F, G và V, người Việt phân biệt hai

Khung quy chiếu thời gian nội tại trong tiếng Việt như vậy gắn với biến thể ý niệm thời gian tuyến tính (biến thể chuỗi nối tiếp) và thời gian toả tia (biến thể trực chỉ). Quan hệ thời gian giữa hai sự tình F và G cho thấy tính mở rộng (biến thể trực chỉ với việc định vị các thời điểm cụ thể trong quy chiếu với Ego), tính tuyến tính (biến thể chuỗi nối tiếp khi có hơn hai sự tình trong chuỗi, như ví dụ (57), (57) ở trên), tính định hướng (tính bất đối xứng giữa quá khứ và tương lai thông qua điểm quy chiếu Ego ở biến thể trực chỉ) của thời gian. Hướng của khung quy chiếu nội tại trong tiếng Việt ngược lại với hướng của khung quy chiếu tuyệt đối, theo đó các từ trước, sau trong tiếng Việt biểu đạt các thời đoạn trái ngược nhau giữa hai khung quy chiếu. 2.4.3 Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt 2.4.3.1 Hệ quy chiếu trong khung quy chiếu thời gian tương đối trường hợp: một là Nền G ở tương lai, hai là Nền G ở quá khứ. a. Hệ quy chiếu tương đối với Nền G ở tương lai Xét ví dụ sau trong tiếng Việt:

(83) Bây giờ, tôi sẽ kể cho anh nghe một điều cuối cùng trước khi tôi ngừng cuộc trò chuyện này để đưa người vợ thân yêu của tôi đi ăn sáng.30

30 Nguồn: Khối liệu Việt ngữ tại https:/sketchengine.eu. Ngày truy cập: 16/04/2021.

78

Trong ví dụ trên, thời điểm nói, tức V, là hiện tại của người quan sát, cũng là hiện tại của chủ thể phát ngôn (được hiển ngôn bằng biểu thức bây giờ). So với thời điểm này thì sự tình 1 “kể cho anh nghe một điều cuối cùng” thuộc về tương lai, ngay sau khi người nói nói câu này. Biểu thức trước khi cho biết sự tình 2 “tôi ngừng cuộc trò chuyện này để đưa người vợ thân yêu của tôi đi ăn sáng” diễn ra sau sự tình 1 và sự tình 1 được định vị là diễn ra trước nó. Điều này có nghĩa là sự tình 2 giữ vai trò Nền G hay điểm quy chiếu cho sự tình 1- sự tình F. Sự tình 1 do vậy chỉ có thể diễn ra trong khoảng thời gian sau thời điểm V và trước thời điểm G. TRƯỚC trong trường hợp này do đó là khoảng thời gian nằm giữa V và G với G là một thời điểm tương

lai. Như vậy ở trường hợp này có sự xác lập quan hệ thời gian giữa ba thành tố V, G và F. Soi chiếu với lý thuyết khung quy chiếu thời gian của Bender và các cộng sự của ông (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014) thì đây là trường hợp của biến thể phản chiếu.

Có thể sơ đồ hoá quan hệ thời gian giữa các tham tố F, G, V trong câu trên

như sau:

V F G

hiện tại trước Sơ đồ 2.2 Quan hệ thời gian tam tố với G ∈ tương lai, F trước G Xét một ví dụ khác:

(84) (Tuy vậy pháp luật hiện nay chưa quy định rõ hình thức từ chức.) Sau khi có Nghị quyết T.Ư 8, khóa XII, QH, Chính phủ sẽ cụ thể hóa ở những văn bản quy phạm pháp luật.31 Tại thời điểm câu nói trên được tạo lập (tức hiện tại chủ quan V của người quan sát), Nghị quyết T.Ư 8, khóa XII chưa được ban hành. Do vậy việc ban hành nghị quyết này diễn ra sau thời điểm nói, tức thuộc về tương lai. Trong quy chiếu với thời điểm ban hành nghị quyết, sự tình “Chính phủ cụ thể hoá (hình thức từ chức) ở các văn bản quy phạm pháp luật” diễn ra sau. Như vậy quan hệ thời gian hữu quan là quan hệ 3 thành tố. Xét tương quan giữa hai sự tình, thời điểm ban hành nghị quyết được dùng để định vị sự tình “Chính phủ cụ thể hoá (hình thức từ chức) ở các văn bản quy phạm pháp luật” nên có vai trò là G, sự tình được định vị kia là F. SAU trong trường hợp này do vậy được xác định là trong khoảng thời gian từ G về phía tương lai và không trùng với G.

Có thể sơ đồ hoá quan hệ thời gian giữa các tham tố F, G, V ở ví dụ (84) như

sau:

hiện tại V G F

31 Nguồn: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/lam-ro-nhung-han-che-bat-cap-trong-phat-trien-kinh-te- giao-duc-bao-dam-an-sinh-xa-hoi-339791/. Ngày truy cập: 16/04/2021.

79

sau Sơ đồ 2.3 Quan hệ thời gian tam tố với G ∈ tương lai, F sau G

Kết hợp cả hai trường hợp (83) và (84) chúng ta rút ra được mô thức quy chiếu thời gian với hệ toạ độ gồm ba tham số trong tiếng Việt khi G ở tương lai là: hệ toạ độ gồm ba tham số: F, G, V; G thuộc tương lai; TRƯỚC là khoảng giữa G và V, SAU là khoảng từ G về phía tương lai. Khi G được định vị ở một thời điểm thuộc tương lai, quan hệ thời gian tam phân này trong tiếng Việt thuộc biến thể phản chiếu.

Sơ đồ tổng quát cho mô thức quy chiếu thời gian tương đối biến thể phản chiếu

trước

trong tiếng Việt là như sau:

sau V F G

sau

trước

hiện tại

X1 X2 Sơ đồ 2.4 Khung quy chiếu thời gian tương đối: biến thể phản chiếu

b. Hệ quy chiếu tương đối với Nền G ở quá khứ Xét ví dụ sau trong tiếng Việt:

(85) Câu chuyện làm cho người ta nhớ lại Vạn Lý Trường Thành, xưa nay ai cũng nói do Tần Thuỷ Hoàng xây dựng trước Thiên Chúa giáng sinh,…32

Trong ví dụ trên, điểm nhìn V là thời điểm nói hay hiện tại của người quan sát. sự kiện Tần Thuỷ Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành được định vị về mặt thời gian trong quy chiếu với thời điểm Thiên Chúa giáng sinh, nên nó là F, sự tình còn lại giữ vai trò là G. Trong trường hợp này, F được biểu đạt là trước G. Cả F và G chúng ta đều biết là đã thuộc về quá khứ. Nền G như vậy là một thời điểm trong quá khứ. TRƯỚC được hiểu là khoảng thời gian từ ‘Thiên Chúa giáng sinh’ về phía quá khứ, hay TRƯỚC thuộc về quá khứ của G. Như vậy ở trường hợp này có sự xác lập quan hệ thời gian giữa ba thành tố V, G và F. Soi chiếu với lý thuyết khung quy chiếu thời gian của Bender và các cộng sự của ông (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014) thì đây là trường hợp của biến thể chuyển dịch.

hiện tại

F G V

32 Nguồn: Khối liệu Việt ngữ tại https:/sketchengine.eu. Ngày truy cập: 16/04/2021.

80

Có thể sơ đồ hoá quan hệ thời gian giữa các tham tố F, G, V ở ví dụ (85) như sau: trước Sơ đồ 2.5 Quan hệ thời gian tam tố với G ∈ quá khứ, F trước G

Xét một ví dụ khác:

(86) Lại nhớ sau khi ra trường, Triệu về phụ trách kỹ thuật ở Lữ xe Quân khu 3, …33

Ở ví dụ (86), V là thời điểm nói, cũng là hiện tại chủ quan của người tạo lập phát ngôn. Hai sự tình “ra trường” và “Triệu về phụ trách kỹ thuật ở Lữ xe Quân khu 3” trong quy chiếu với V đều thuộc quá khứ của V (biểu thức lại nhớ cho thấy các sự kiện này đều đã diễn ra trong quá khứ và được nhân vật – người quan sát – hồi tưởng lại). Xét tương quan giữa hai sự tình thì “ra trường” là Nền G trên đó sự tình thứ hai – F – được định vị. Như vậy quan hệ thời gian ở đây cũng là quan hệ tam phân. SAU trong trường hợp này là thời đoạn được hạn định giữa G và V, nó thuộc quá khứ của Ego đồng thời lại là tương lai của G.

Có thể sơ đồ hoá quan hệ thời gian giữa các tham tố F, G, V ở ví dụ (86) như

sau:

hiện tại

G F V

sau Sơ đồ 2.6 Quan hệ thời gian tam tố với G ∈ quá khứ, F sau G Kết hợp cả hai trường hợp (85) và (86) chúng ta rút ra được mô thức quy chiếu thời gian với hệ toạ độ gồm ba tham số trong tiếng Việt khi G ở quá khứ là: hệ toạ độ gồm ba tham số: F, G, V; G thuộc quá khứ; TRƯỚC là khoảng từ G về phía quá khứ, SAU là khoảng từ G về V. Khi G được định vị ở một thời điểm thuộc quá khứ, quan hệ thời gian tam phân này trong tiếng Việt thuộc biến thể chuyển dịch.

Sơ đồ tổng quát cho mô thức quy chiếu thời gian tam tố với biến thể chuyển

sau

trước

dịch trong tiếng Việt là như sau:

sau

trước

hiện tại F V

33 Nguồn: Khối liệu Việt ngữ tại https:/sketchengine.eu. Ngày truy cập: 16/04/2021.

81

G Sơ đồ 2.7 Khung quy chiếu thời gian tương đối: biến thể chuyển dịch Từ đó có thể thấy khung quy chiếu thời gian tương đối ứng dụng trong trường hợp G là thời điểm thuộc quá khứ khác với mô tả về biến thể phản chiếu của Bender và cộng sự (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014). Thực tế, khi G xuất hiện trong quá khứ, khung quy chiếu tương đối được ứng dụng cho các biểu thức thời gian là trường hợp của biến thể chuyển dịch.

Như vậy, ngược lại với trường hợp G là một thời điểm trong tương lai, khi G được định vị trong quá khứ, sự phối hợp của V, G và F trong tiếng Việt lại không phải là trường hợp của biến thể phản chiếu như mô tả của Bender và cộng sự.

Với cả hai biến thể trong khung quy chiếu thời gian tương đối tiếng Việt, quan hệ thời gian đều được xác lập giữa ba tham số F, G và V trong đó có sự chuyển dịch hệ toạ độ từ V sang G: khi G là một thời điểm ở quá khứ, hệ toạ độ từ V được nhấc sang G và giữ nguyên nên hướng trước của G cùng chiều với hướng trước của V; khi G là một thời điểm ở tương lai, hệ toạ độ ở V được phản chiếu sang G nên hướng trước của G ngược chiều với hướng trước của V. Chiến lược quy chiếu ở khung quy chiếu này do vậy là chiến lược quy chiếu gián tiếp.

Từ các phân tích về các trường hợp quy chiếu thời gian tam tố trong tiếng Việt ở trên, có thể rút ra mô hình khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt như sau:

Tương lai

F

F

G

G

V

Trước Sau Trước Sau

Quá khứ (hiện tại)

Hình 2.2 Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt

Như vậy, hai biến thể của khung quy chiếu thời gian tương đối do Bender và các cộng sự của ông đề xuất (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014) chưa bao quát được trường hợp tiếng Việt. Cứ liệu tiếng Việt cho thấy nếu G là một thời điểm thuộc tương lai thì TRƯỚC được ấn định là quá khứ của G nhưng đồng thời là tương lai của V còn SAU thuộc về tương lai của G; nếu G là một thời điểm thuộc quá khứ thì TRƯỚC được ấn định là quá khứ của G còn SAU là tương lai của G nhưng đồng thời là quá khứ của V.

Những phân tích trên cho phép đi đến kết luận về một mô hình của khung quy chiếu thời gian tương đối cho tiếng Việt khác với các mô hình đã được các nhà nghiên cứu đề xuất trước đó. Mô hình này là sự bổ sung cho việc mô tả các khung quy chiếu thời gian trong các ngôn ngữ tự nhiên trên thế giới. 2.4.3.2 Sự tình động/ sự tình tĩnh trong khung quy chiếu thời gian tương đối

82

Các sự tình thời gian được phản ánh trong khung quy chiếu tương đối tiếng Việt có thể là sự tình tĩnh hoặc sự tình động. Là sự tình tĩnh như ở các ví dụ từ (65) đến (68) hoặc như trong ví dụ sau: (87) Bà Kamala Harris sẽ từ chức Thượng nghị sỹ bang California trong ngày 18/1 (theo giờ Mỹ), hai ngày trước khi bà chính thức tuyên thệ nhậm chức Phó Tổng thống Mỹ.

Trong ví dụ trên, ví trị của V – thời điểm nói, hiện tại chủ quan của người quan sát, F - ‘Bà Kamala Harris sẽ từ chức Thượng nghị sỹ bang California’, G – ‘bà chính thức tuyên thệ nhậm chức Phó Tổng thống Mỹ’ là các thời điểm trên dòng thời gian. Quan hệ thời gian được phản ánh ở đây là quan hệ giữa các thời điểm. Hoàn toàn không có sự vận động trong thời gian của Ego, thời gian hay một sự tình nào khác. Sự tình thời gian được phản ánh do vậy là sự tình tĩnh. Thực tế cũng tương tự như vậy với các ví dụ từ (83) đến (86).

Sự tình thời gian trong khung quy chiếu tương đối là sự tình động khi: - Trong câu có động từ biểu đạt sự vận động của F trên dòng thời gian, như

trong ví dụ sau: (88) Trước đó, thời điểm phóng vệ tinh này đã phải lùi lại một ngày do có gió mạnh.

- Trong câu có động từ biểu đạt sự dịch chuyển điểm nhìn của Ego trên dòng

thời gian, như trong ví dụ sau: (89) Lùi lại trước đó vài ngày, Tuấn Mạnh vẫn rất háo hức hướng đến mùa giải mới, anh thậm chí còn khoe đôi giày Mizuno vừa được tặng với sự phấn khởi sẽ chơi thành công cùng Khánh Hoà. 2.4.3.3 Phối cảnh chuyển động trong khung quy chiếu thời gian tương đối

Phối cảnh chuyển động chỉ diễn ra với các câu biểu đạt sự tình động. Có hai phối cảnh đi với khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt

là sự tình được quy chiếu (F) chuyển động và Người quan sát di chuyển.

- Phối cảnh F chuyển động Trong ví dụ (88) trên, “trước đó” quy chiếu về một thời điểm ở quá khứ của V, nên G là một thời điểm thuộc quá khứ. Quan hệ thời gian tam phân trong trường hợp này được xác lập giữa F - sự tình ‘lùi thời điểm phóng vệ tinh’, G và V - thời điểm nói, hiện tại chủ quan của người quan sát. G và V đều ở trạng thái tĩnh. Chỉ có sự dịch chuyển thời điểm phóng vệ tinh khiến sự tình hữu quan trở thành sự tình động. Việc lùi thời điểm phóng vệ tinh không làm thay đổi quan hệ thời gian tam phân. Tính chất động của sự tình thời gian đang xét như vậy do thành tố F quy định.

83

- Phối cảnh V chuyển động Với ví dụ (89), G là một thời điểm thuộc quá khứ, biểu đạt bằng đó, “trước đó” quy chiếu về một thời điểm ở quá khứ của G, đồng thời là quá khứ của V. Quan hệ thời gian tam phân trong trường hợp này được xác lập giữa F - sự tình “Tuấn Mạnh háo hức hướng đến mùa giải mới”, “anh khoe đôi giày Mizuno vừa được tặng”, G và V - thời điểm nói, hiện tại chủ quan của người quan sát. G và F đều ở trạng thái tĩnh. V có sự dịch chuyển trên dòng thời gian. V là nhân tố khiến sự tình thời gian ở (89)

mang tính động. Chính xác thì sự dịch chuyển của V ở (89) chỉ diễn ra trong không gian tinh thần, gắn với sự dịch chuyển điểm nhìn trên dòng thời gian ngược về quá khứ. Sự dịch chuyển này không làm thay đổi quan hệ tam phân của khung quy chiếu thời gian tương đối.

Như vậy, trong hệ quy chiếu tương đối tiếng Việt, nếu là sự tình động thì chỉ

một tham tố vận động, đó là F hoặc V, còn bản thân G không vận động.

Trong bảng dưới đây, luận án khái quát các đặc điểm của khung quy chiếu thời

gian tương đối trong tiếng Việt:

Bảng 2.4 Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt

KHUNG QUY CHIẾU THỜI GIAN TƯƠNG ĐỐI

Hệ toạ độ

F, G, V

Biến thể phản chiếu G ở tương lai

TRƯỚC: giữa V và G, SAU: từ G về phía tương lai

Hướng

Biến thể chuyển dịch G ở quá khứ

Quan hệ thời gian Chiến lược quy chiếu

TRƯỚC: từ G về phía quá khứ; SAU: giữa G và V Ma trận thời gian Gián tiếp: chuyển hệ toạ độ từ V sang G Phi trực chỉ

Trực chỉ/Phi trực chỉ

2.5 Sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt Ở mục này, luận án phân tích sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian

sang các khung quy chiếu thời gian ở các bình diện: sự đồ chiếu hệ quy chiếu,

2.5.1 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu tuyệt đối 2.5.1.1 Sự đồ chiếu hệ quy chiếu

Những thiết lập về khung quy chiếu không gian tuyệt đối, dòng thời gian tinh thần và khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt cho thấy, người Việt tri nhận thời gian qua không gian ở trường hợp này ở mức độ khái quát rất cao.

84

Cái lưu giữ lại khi chuyển di sang khung thời gian là hệ quy chiếu song tố gồm F và G, hướng của khung quy chiếu là hướng của trường tổng thể. Trong không gian, tính nghiệm thân ở khung quy chiếu tuyệt đối bị triệt tiêu, do chỗ hướng quy chiếu được xác định theo hướng cố định phát xuất từ G (các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc theo la bàn, trên, dưới theo trọng lực, các trục biển – đất liền, hướng gió, dòng chảy của sông, v.v.). Tuy nhiên trong thời gian, tính nghiệm thân vẫn rõ do chỗ trong đa số trường hợp, G trùng với V (Ego), phía trước của Ego là phía trước của dòng thời gian. Nguyên nhân của sự khác biệt này là dòng thời gian được tri nhận là dòng tuyến tính phân bố theo trục trước – sau.

Trong khi đó, với sự tình chuyển động, sự đồ chiếu từ không gian lên thời gian

ở khung quy chiếu tuyệt đối rõ hơn. Xem xét hai ví dụ sau: (90) a. Thuyền trôi theo dòng. b. Thời gian trôi đi mãi. Sự chuyển động của thuyền từ vị trí 1 sang vị trí 2 ở (90a) giúp xác định hướng chuyển động mà không cần đến yếu tố mốc quy chiếu và người quan sát (điều này cũng tương tự như ở ví dụ (42)). Sự chuyển động của thời gian từ thời điểm 1 sang thời điểm 2 ở (90b) theo kịch cảnh không gian của (90a) giúp xác định hướng chuyển động của thời gian mà không cần đến G và V. Như vậy có sự đồ chiếu nguyên bản một sự tình chuyển động trong không gian lên một sự tình chuyển động trong thời gian. Có thể hình dung sự đồ chiếu này qua sơ đồ sau:

Thuyền F F Vị trí 1 Vị trí 2 Thời gian F F tương lai sau T1 T2 trước

Sơ đồ 2.8 Sự đồ chiếu mô hình quy chiếu từ không gian sang thời gian: sự tình chuyển động

Trong sơ đồ trên, mũi tên ngắn nét liền chỉ hướng chuyển động, đường thẳng biểu thị tuyến đường di chuyển của thuyền, mũi tên dài biểu thị dòng thời gian, mũi tên nét đứt biểu thị sự đồ chiếu. T1 là thời điểm 1, T2 là thời điểm 2.

Như vậy với các tình huống động, vị trí của Hình ở hai địa điểm hoặc thời

điểm khác nhau được dùng để xác lập hệ quy chiếu. 2.5.1.2 Sự đồ chiếu trường tổng thể

Như đã phân tích khi xác lập trục và hướng của dòng thời gian trong tiếng Việt, không gian nghiệm thân trong nhận thức của người Việt có ba trục, nhưng chỉ trục trước – sau được đồ chiếu lên dòng thời gian. Biểu hiện trong ngôn ngữ của sự tri nhận này rõ nhất là ở cách dùng các từ trước, sau chỉ thời gian.

85

Do thời gian được tri nhận là dòng tuyến tính một chiều trong không gian nên không tồn tại thuộc tính ba chiều, hai chiều ở phạm trù thời gian. Điều này được chứng minh bằng thực tế sử dụng ngôn ngữ. Các giới từ không gian như trong, vào (cho không gian ba chiều) khi chuyển sang khung thời gian không còn bảo lưu số lượng “chiều” (ba chiều) như ở khung ngữ nghĩa nguồn. Một biểu thức như (91) a. trong năm 2021 hoặc b. trong tháng 6 chỉ gợi ra một thời đoạn có giới hạn trên dòng thời gian, và do vậy thời gian vẫn nằm trong hình dung là một dòng

kéo dài trong không gian, tức chỉ có một chiều. Điều này càng được củng cố thêm với cách nói (92) dọc theo năm tháng. Giới từ vào vốn dùng với không gian ba chiều nhưng khi diễn giải về thời gian, nó cùng với biểu thức đi sau chỉ một thời điểm, ví dụ: (93) vào chủ nhật, vào lúc 7 giờ.

Có thể sơ đồ hoá sự tình thời gian được biểu đạt bằng (91), (93) như sau: trong tháng 6 tháng 5 tháng 7

Sơ đồ 2.9 Biểu diễn trên dòng thời gian của sự tình ‘trong tháng 6’

vào lúc 7h

6h 8h

Sơ đồ 2.10 Biểu diễn trên dòng thời gian của sự tình ‘vào lúc 7 giờ’

Những ví dụ vừa dẫn cho thấy rõ rằng trong tiếng Việt, thời gian chỉ được

đồ chiếu lên không gian một chiều.

Chính vì thời gian chỉ được đồ chiếu lên không gian một chiều nên thời gian không có nhiều cách phản ánh cùng một tình huống theo các chiều khác nhau như không gian. Lý Toàn Thắng (2005) phát hiện rằng có thể biểu đạt theo hai cách khác nhau cho cùng một kịch cảnh Hình – Nền trong không gian, ví dụ (94) a. Ba lô trên lưng/ b. Ba lô sau lưng; c. Huân chương trên ngực/ d. Huân chương trước ngực (Ví dụ dẫn theo Lý Toàn Thắng (2005, tr.126). Sở dĩ như vậy là do ở (94a) và (94c), lưng, ngực được hình dung như một mặt phẳng. Quy chiếu ở đây do vậy là quy chiếu topo. Trong khi ở (94b) và (94d), lẽ thường vận hành cách tri giác là mặt ở trước còn lưng ở sau. Quy chiếu ở đây là quy chiếu nội tại. Như vậy có hai trục bất đối xứng khác nhau được xác lập. Ở (94a), (94c) là trục TRÊN/DƯỚI. Ở (94b), (94d) là trục TRƯỚC/SAU. Điều này diễn ra là do không gian được hình dung theo nhiều chiều, chia cắt thành nhiều mặt phẳng khác nhau. Khả năng này bị triệt tiêu ở thời gian do chỗ thời gian chỉ được hình dung có một chiều duy nhất. 2.5.1.3 Sự đồ chiếu các trục bất đối xứng và hướng Từ các phân tích về hướng trong khung quy chiếu không gian tuyệt đối theo

trục ngang trong tiếng Việt, có thể sơ đồ hoá các hướng đó như sau:

Trên Tây G Bắc vào F đất liền ra biển

Nam Đông

Dưới

86

Sơ đồ 2.11 Hướng trong khung quy chiếu không gian tuyệt đối

Các hướng này không được đồ chiếu lên hệ quy chiếu thời gian tuyệt đối, do chỗ dòng thời gian trong tiếng Việt được tri nhận theo trục trước – sau, như được biểu diễn trong sơ đồ sau:

quá khứ tương lai sau G F trước

Sơ đồ 2.12 Hướng trong khung quy chiếu thời gian tuyệt đối Như vậy sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không tuyệt đối sang khung quy chiếu thời gian tuyết đối trong tiếng Việt chỉ bảo lưu các tham số tham gia vào hệ toạ độ, cách xác định hướng của khung dựa vào trường tổng thể. Còn trường tổng thể, trục và hướng quy chiếu thì không được đồ chiếu. 2.5.2 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu nội tại 2.5.2.1 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu nội tại trực chỉ

a. Sự đồ chiếu hệ quy chiếu Với khung quy chiếu nội tại, tiếng Việt có hai biến thể của khung quy chiếu không gian nhưng không có sự đồ chiếu lên thời gian trường hợp quy chiếu nội tại có hướng quy chiếu được xác định dựa vào F, xuất hiện khi Nền là đối tượng không có cấu trúc định hướng nội tại còn F là con người. Sở dĩ như vậy là vì trong quy chiếu thời gian nội tại trực chỉ, G ở hiện tại chủ quan của người quan sát, người quan sát vốn là đối tượng có cấu trúc định hướng nội tại.

Với biến thể còn lại, sự đồ chiếu diễn ra rõ nét: khung quy chiếu thời gian nội tại trực chỉ bảo lưu quan hệ giữa F và G khi chuyển di giữa hai phạm trù, hướng của khung quy chiếu được xác định theo hướng nội tại của G. Điểm khác giữa hệ quy chiếu không gian và hệ quy chiếu thời gian trong trường hợp này là V không quan yếu với hệ toạ độ không gian nhưng lại quan yếu với hệ toạ độ thời gian. Sự đồ chiếu hệ quy chiếu có thể thấy rõ qua so sánh các ví dụ sau: (95) a. Nó đứng trước đầu xe. b. Con mèo ở phía sau đuôi xe. (96) tháng trước – tháng này – tháng sau Có thể hình dung sự sao phỏng mô hình quan hệ giữa các yếu tố tham gia vào

87

hệ quy chiếu ở ví dụ (95) so với các ví dụ (96) qua sơ đồ sau:

sau

trước Xe Con mèo

G

trước

Đồ chiếu

sau G Sự tình 2

Sự tình 1

(tháng trước) (tháng này) (tháng sau)

quá khứ Hiện tại của V tương lai

Sơ đồ 2.13 Sự đồ chiếu quan hệ trực chỉ trong không gian lên thời gian

Trong sơ đồ trên, mũi tên chỉ hướng quy chiếu, mũi tên chỉ sự đồ

chiếu.

Nếu G trong khung quy chiếu không gian nội tại là con người, sự đồ chiếu

theo trục ngang sang thời gian là sự sao phỏng tuyệt đối. b. Sự đồ chiếu các trục bất đối xứng và hướng Quy chiếu nội tại trực chỉ trong không gian có thể diễn ở một trong ba trục trái - phải, trước - sau, trên – dưới, nhưng với thời gian, sự đồ chiếu chỉ diễn ra với trục trước - sau. Hướng nội tại của G ở không gian được đồ chiếu lên hướng nội tại của G ở thời gian với TRƯỚC chỉ QUÁ KHỨ, SAU chỉ TƯƠNG LAI.

Trên

Trái

Sau G Trước Phải

Dưới

Sơ đồ 2.14 Hướng trong khung quy chiếu không gian trực chỉ

Quá khứ Tương lai

Trước Sau F G

Sơ đồ 2.15 Hướng trong khung quy chiếu thời gian nội tại trực chỉ

88

Như vậy sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không nội tại trực chỉ sang khung quy chiếu thời gian nội tại trực chỉ trong tiếng Việt bảo lưu hệ toạ độ và cách xác định hướng của khung theo trục trước – sau.

2.5.2.2 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp

Trong hệ lý thuyết của mình, Levinson không đề cập đến khung quy chiếu với quan hệ chuỗi giữa các thực thể trong không gian. Tuy nhiên khi ứng dụng hệ lý thuyết này để phân tích quy chiếu thời gian, Bender và cộng sự (Bender et al., 2010; Bender & Beller, 2014) có bổ sung trường hợp này và xếp vào khung quy chiếu nội tại.

Trong tri nhận không gian của người Việt, quan hệ chuỗi tồn tại giữa hai thực thể vận động cùng hướng, hướng chuyển động của thực thể là yếu tố giúp xác định hướng của hệ quy chiếu, như trong ví dụ sau:

(97) a. Xe con chạy trước xe buýt. Ví dụ trên có hai cách hiểu: một là xe buýt có cấu trúc định hướng nội tại, hướng trước được xác định theo hướng nội tại của xe buýt, hệ quy chiếu lúc này thuộc biến thể nội tại trực chỉ. Hai là hướng của hệ quy chiếu được xác định theo hướng chuyển động của hai xe, hệ quy chiếu lúc này là biến thể chuỗi nối tiếp.

Chuỗi thực thể vận động trong không gian này được sao phỏng sang chuỗi các sự tình trong thời gian. Đối chiếu hệ quy chiếu không gian chuỗi tiếp nối ở (97) và hệ quy chiếu thời gian ở các ví dụ từ (55) đến (61) có thể thấy điều đó. Gọi các sự tình sớm hơn ở các ví dụ từ (55) đến (61) là sự tình 1, các sự tình muộn hơn là sự tình 2, ta có sơ đồ biểu thị sự đồ chiếu hệ quy chiếu chuỗi nỗi tiếp trong không gian lên thời gian như sau:

Xe con (trước) Xe buýt (sau)

Đồ chiếu

Sự tình 1 (trước) Sự tình 2 (sau)

Sơ đồ 2.16 Sự đồ chiếu quan hệ chuỗi trong không gian lên thời gian

Trong sơ đồ trên, mũi tên chỉ hướng quy chiếu, mũi tên chỉ sự đồ chiếu. Trong không gian, trật tự trước sau của hai thực thể có thể ngược lại, tuy nhiên trong thời gian, trật tự sự tình và hướng trong tri nhận của người Việt chỉ có một. Như vậy trong rất nhiều khả năng phân bố chuỗi trong không gian, chỉ một khả năng phân bố chuỗi là được đồ chiếu sang thời gian. Điều này cũng đúng với cả khung quy chiếu nội tại trực chỉ. 2.5.3 Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian với trường hợp khung quy chiếu tương đối

89

Khung quy chiếu không gian tương đối trong tiếng Việt có các biến thể là biến thể chuyển dịch, biến thể phản chiếu và biến thể hàm ẩn, tuy nhiên chỉ hai biến thể

đầu được đồ chiếu sang thời gian. Với biến thể thứ ba – biến thể biểu thị quan hệ giữa một Hình được định vị trong một Nền, hướng của khung quy chiếu được xác lập từ không gian hàm ẩn, chúng tôi không tìm thấy mô hình tương ứng ở phạm trù thời gian.

Được đồ chiếu sang thời gian là hệ toạ độ không gian gồm ba tham số F, G và

V trong đó G không trùng với V, gốc X của hệ toạ độ ở V được chuyển di sang G.

Tương tự khung quy chiếu nội tại trực chỉ, sự đồ chiếu ở khung quy chiếu này diễn ra trên hai trục toả tia tính từ vị trí của người quan sát, tuy nhiên điểm khác là có sự chuyển dịch hệ toạ độ từ V sang G theo các phương thức khác nhau. Với nửa trục toả tia hướng quá khứ, phạm trù thời gian bảo lưu sự chuyển dịch hệ toạ độ từ V sang G của biến thể chuyển dịch trong không gian; với nửa trục toả tia hướng tương lai, phạm trù thời gian bảo lưu sự phản chiếu hệ toạ độ từ V sang G của biến thể phản chiếu trong không gian. 2.5.3.1 Sự đồ chiếu biến thể phản chiếu từ không gian sang thời gian trong tiếng Việt Ở biến thể phản chiếu, có sự phản chiếu hướng từ người quan sát sang Nền G. Trong không gian, sự phản chiếu này diễn ra khi Nền G không có cấu trúc định hướng nội tại. Lấy ví dụ: (98) Con mèo ở trước cái cây.

sau

trước

sau

trước

Nếu chỉ xét trục trước – sau, quan hệ không gian và hướng quy chiếu giữa các thành tố sẽ là như hình 2.3 sau (về sự phân bố đầy đủ các hướng trước, sau, trái, phải với biến thể này, xin xem lại hình 2.1):

F V (=X1) G (=X2)

Hình 2.3 Phối cảnh “con mèo ở trước cái cây” trục trước – sau

Ở hình 2.3, hướng trước của cái cây được xác định theo sự phản chiếu hướng

trước

từ người quan sát do bản thân cái cây không có cấu trúc định hướng nội tại.

sau V F G

trước

sau

Nếu so sánh với sơ đồ biến thể phản chiếu ở phạm trù thời gian, ta sẽ thấy sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian bảo lưu hệ toạ độ lẫn phương thức phản chiếu hướng: hiện tại

90

X1 X2 (Nhắc lại sơ đồ 2.4)

Điểm khác biệt là khi chuyển di sang thời gian, các hướng trái, phải trong không gian bị triệt tiêu do người Việt chỉ tri nhận dòng thời gian theo trục trước – sau. Sự đồ chiếu vì vậy chỉ diễn ra trên trục trước – sau. Mặt khác, hệ quy chiếu xác lập giữa người quan sát, con mèo và cái cây có thể phân bố bất kì hướng nào trên mặt phẳng ngang trong không gian trong khi với hệ quy chiếu thời gian thì chỉ có một khả năng phân bố như sơ đồ trên. 2.5.3.2 Sự đồ chiếu biến thể chuyển dịch từ không gian sang thời gian trong tiếng Việt Ở biến thể chuyển dịch, có sự chuyển dịch hệ toạ độ từ người quan sát sang

trước

Nền G. Lấy ví dụ (99) Quả bóng ở phía trước cái ghế với phối cảnh như sau:

V (=X1) G (=X2) F

sau

trước

trước Hình 2.4 Phối cảnh “Quả bóng ở phía trước cái ghế” Trong hình trên, có sự chuyển dịch hệ toạ độ từ người quan sát sang cái ghế. Phía trước của cái ghế do vậy cùng hướng với phía trước của người quan sát, ở chiều ngược lại, sự chuyển dịch hướng là tương tự. Tri nhận không gian này được người Việt đồ chiếu sang khung thời gian. So sánh hình 2.4 với sơ đồ biến thể chuyển dịch ở phạm trù thời gian ta sẽ thấy điều đó.

sau

trước

hiện tại F V

(Nhắc lại sơ đồ 2.7)

91

G Trong sự đồ chiếu này, hướng trái, phải trong không gian cũng bị triệt tiêu. Hình phối cảnh không gian 2.4 cho thấy có thể xoay chiều hệ toạ độ sang hướng khác nhưng điều này thì bất khả với thời gian. Phân bố hệ quy chiếu tương đối biến thể chuyển dịch ở phạm trù thời gian được tri nhận chỉ có một khả năng phân bố như sơ đồ trên. 2.5.4 Nhận xét về sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt Sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian được cho là có tính phổ niệm và có sự biến thiên giữa các ngôn ngữ khác nhau. Các phân tích về sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian ở cả ba khung quy chiếu cho thấy: trong tiếng Việt có sự đồ chiếu giữa hai phạm trù, không gian là miền ý niệm cơ bản trong nhận thức và quy chiếu thời gian của người Việt. Việc một số biến thể khung quy chiếu

92

không gian không được đồ chiếu sang thời gian cho thấy rằng không phải mọi yếu tố, mọi quan hệ ở khung quy chiếu không gian đều đồ chiếu sang thời gian. Ở chiều ngược lại, việc thời gian trong tiếng Việt còn được tri nhận qua các phạm trù khác như tiền bạc (Nguyễn Văn Hán, 2011), con người (Nguyễn Văn Hán, 2011; Trần Thị Lan Anh, 2019), động vật (Lê Thị Cẩm Vân, 2014), được quy chiếu thông qua các từ ngữ biểu đạt thời gian (Lê Thị Lệ Thanh, 2001; Nguyễn Văn Hán, 2011), các phương tiện ngữ pháp, các quy tắc về trật tự ngữ dụng (như luận án có khẳng định ở mục 2.4.2.2 Khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp về trật tự tuyến tính, quan hệ nhân quả, quan hệ điều kiện – kết quả giữa các sự tình) cho phép suy ra rằng không phải mọi yếu tố, mọi quan hệ ở khung quy chiếu thời gian đều là được đồ chiếu và biểu đạt qua phạm trù không gian. Sự đồ chiếu các khung quy chiếu từ không gian lên thời gian trong tiếng Việt bao gồm sự đồ chiếu về trường tổng thể, hệ quy chiếu (số lượng thành tố tham gia vào khung quy chiếu, vai trò của từng thành tố, sự phân bố các thành tố), chiến lược quy chiếu và phương thức chuyển dịch hệ toạ độ (với khung quy chiếu tương đối). Không gian có ba trục nghiệm thân là trước – sau, trên – dưới, trái – phải nhưng chỉ trục trước - sau được đồ chiếu sang thời gian. Trục trước - sau trong không gian gồm hai hướng là trước và sau. Hai hướng này được hiện thực hoá trong tiếng Việt qua cặp từ chỉ hướng trước/sau. Những phân tích về hướng của các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt cho thấy rằng ý niệm TRƯỚC, SAU của phạm trù không gian được đồ chiếu sang phạm trù thời gian trong tiếng Việt, mặt khác TRƯỚC có thể đồ chiếu sang quá khứ hoặc tương lai tuỳ vào khung quy chiếu nào đang được áp dụng và không hề mâu thuẫn khi TRƯỚC vừa có thể được ấn định thuộc quá khứ vừa có thể được ấn định thuộc tương lai. Với khung quy chiếu tuyệt đối, TRƯỚC được ấn định thuộc tương lai; với khung quy chiếu nội tại, TRƯỚC được ấn định thuộc quá khứ; với khung quy chiếu tương đối, nếu G là một thời điểm thuộc tương lai, TRƯỚC được ấn định là quá khứ của G nhưng đồng thời là tương lai của V, tức TRƯỚC thuộc tương lai, nếu G là một thời điểm thuộc quá khứ, TRƯỚC được ấn định là quá khứ của G, nghĩa là TRƯỚC thuộc quá khứ. Như vậy sự ánh xạ từ không gian sang thời gian không đơn thuần TRƯỚC chỉ tương lai hay chỉ quá khứ như Nguyễn Văn Hán (2011), Trần Văn Minh (2015) khẳng định mà còn là chỉ khúc đoạn nào của tương lai hoặc quá khứ (trường hợp khung quy chiếu tương đối). Cũng không phải chỉ trong quan hệ chuỗi, phía trước mới ánh xạ sang quá khứ (như khẳng định của Nguyễn Văn Hán, 2011); điều này diễn ra với cả trường hợp trực chỉ với mốc quy chiếu là hiện tại chủ quan của người quan sát và quy chiếu thời gian tam tố với biến thể chuyển dịch. Sự hiện thực hoá trong ngôn ngữ của TRƯỚC đưa đến thực tế là từ trước trong tiếng Việt biểu đạt nhiều ý nghĩa thời gian khác nhau mà thoạt nhìn tưởng chừng mâu thuẫn. Việc lý giải sự đồ chiếu khác nhau của TRƯỚC từ phạm trù không gian sang phạm trù thời gian từ lý thuyết khung quy chiếu với việc xác định rõ ràng các yếu tố tham gia vào quan hệ thời gian được phản ánh do vậy giúp lý giải căn nguyên khác biệt của

các cách dùng khác nhau của từ trước (và tương tự như vậy với từ sau) trong tiếng Việt, bổ khuyết cho các quan niệm trước đó về từ trước trong tiếng Việt.

Với khung quy chiếu thời gian tuyệt đối, có thể thấy, phía trước được xác định theo hướng của dòng thời gian, tức trước chỉ về tương lai. Điều này khiến chúng ta có thể nghĩ rằng việc định hướng hoàn toàn chỉ dựa vào trường thời gian. Tuy nhiên nếu so sánh với nhận thức thời gian của người Aymara, nơi tương lai trong khung quy chiếu tuyệt đối được xác định ở phía sau, với ý niệm rằng tương lai là cái người ta chưa biết, tương tự việc người ta không nhìn thấy sau lưng mình (Núñez và Sweetser, 2006; Moore, 2011, 2014) thì lại thấy nguyên lý dĩ ngã vi trung vẫn chi phối nhận thức về thời gian ở trường hợp này, chỉ có điều với tiếng Việt, phía trước của người quan sát cùng hướng với dòng thời gian. Trong khi đó, ở khung quy chiếu không gian tuyệt đối, việc định hướng, định vị dựa vào các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trục biển – đất liền tách biệt hoàn toàn vai trò của người quan sát.

Từ các phân tích về sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các

khung quy chiếu thời gian sang tiếng Việt, luận án rút ra bảng khái quát sau:

Bảng 2.5 Khái quát về sự đồ chiếu khung quy chiếu không gian

sang khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt

Khung quy chiếu

Khung quy chiếu tuyệt đối

Chiến lược quy chiếu + +

- +

CÁC PHƯƠNG DIỆN ĐỒ CHIẾU Hướng Hệ quy chiếu quy chiếu + + -

Nội tại

Trực chỉ G không có cấu trúc định hướng nội tại, F là con người

+ + +

+ + +

+ + + -

Chuỗi nối tiếp Biến thể chuyển dịch Biến thể phản chiếu Biến thể hàm ẩn

Khung quy chiếu nội tại

Khung quy chiếu tương đối Trong bảng trên, dấu + có nghĩa là có sự đồ chiếu khung quy chiếu hoặc phương diện đang xét từ không gian sang thời gian, dấu – có nghĩa là không có sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian. 2.6 Tiểu kết

93

Trong chương này, luận án đã phân tích về: a. Dòng thời gian: Kết quả phân tích cho thấy, dòng thời gian chủ đạo trong tiếng Việt phân bố theo trục ngang, trục trước – sau, trước tương ứng với tương lai,

sau tương ứng với quá khứ; dòng thời gian còn lại phân bố theo trục dọc, trục trên – dưới, trên tương ứng với quá khứ, dưới tương ứng với tương lai, dòng thời gian này chỉ còn được biểu đạt với số lượng biểu thức ít ỏi, có phạm vi sử dụng hạn chế hoặc đã trở thành cách nói cổ của người Việt.

b. Các khung quy chiếu không gian trong tiếng Việt: Tiếng Việt tồn tại cả ba khung quy chiếu không gian. Với khung quy chiếu tuyệt đối, theo trục ngang, hướng quy chiếu được xác định theo các phương địa lí, trục biển – đất liền. Với khung quy chiếu nội tại, ngoài biến thể như mô tả của Levinson, tiếng Việt có thêm biến thể trong đó nền là đối tượng không có cấu trúc định hướng nội tại, F là con người, hướng quy chiếu được xác định dựa vào F, biến thể này cho thấy sự chuyển tiếp giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối. Với khung quy chiếu tương đối, tiếng Việt chỉ tồn tại biến thể phản chiếu và biến thể chuyển dịch theo hệ thống phân loại của Levinson, tuy nhiên tiếng Việt có thêm biến thể hàm ẩn biểu thị quan hệ giữa một Hình được định vị trong một Nền, hướng của khung quy chiếu được xác lập từ không gian hàm ẩn. Ngoài ra tiếng Việt còn có các trường hợp lưỡng khả: tiếng Việt không đánh dấu phân biệt giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối ở các trường hợp một tình huống có thể được nhìn nhận theo nhiều phối cảnh, các phương tiện biểu đạt hướng vừa có thể dùng cho khung quy chiếu nội tại vừa có thể dùng cho khung quy chiếu tương đối, tiếng Việt có sự giao thoa giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối ở thuộc tính phản chiếu hướng. Những phân tích này của luận án góp phần làm phong phú thêm bức tranh mô tả khung quy chiếu không gian trong ngôn ngữ tự nhiên.

c. Các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt: Tiếng Việt tồn tại cả ba loại khung quy chiếu, trong đó khung quy chiếu thời gian tuyệt đối và khung quy chiếu thời gian nội tại tương ứng với mô hình do Bender và cộng sự đưa ra. Khung quy chiếu thời gian nội tại có hai biến thể tương ứng với hai kiểu quan hệ thời gian là biến thể trực chỉ và biến thể chuỗi nối tiếp. Riêng với khung quy chiếu tương đối, mô hình trong tiếng Việt khác với các mô hình đã được các nhà nghiên cứu đề xuất trước đó: khi G là một thời điểm thuộc tương lai, biến thể tìm thấy là biến thể phản chiếu; khi G là một thời điểm thuộc quá khứ, biến thể trong tiếng Việt là biến thể chuyển dịch; phối kết cả hai trường hợp chúng ta có một mô hình mới chưa được phân tích trong các văn liệu về khung quy chiếu thời gian trong ngôn ngữ tự nhiên cho đến nay. Điều này có nghĩa là, cần mở rộng lý thuyết về khung quy chiếu thời gian để có thể bao quát được nhiều hơn các trường hợp ngôn ngữ cụ thể.

94

d. Sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian sang các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt: Những phân tích của luận án góp phần chỉ ra rằng không gian là một trong những miền nguồn quan trọng trong tri nhận thời gian của người Việt và tồn tại sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian trong tiếng Việt. Trong quá trình đồ chiếu, cái được bảo lưu xuyên phạm trù là mô thức của các khung quy chiếu,

95

bao gồm số lượng thành tố tham gia vào khung quy chiếu, vai trò của từng thành tố, sự phân bố các thành tố và chiến lược quy chiếu. Tuy vậy, do bản chất nội tại của thời gian và sự tri nhận của người bản ngữ mà không phải mọi nguyên tắc nhận thức và biểu đạt không gian đều được chuyển di sang phạm trù thời gian. Không gian nghiệm thân có ba trục nhưng chỉ trục TRƯỚC/SAU là được đồ chiếu lên thời gian, áp dụng cho cả ba khung quy chiếu, và vì vậy mà thời gian không có nhiều cách phản ánh cùng một tình huống như không gian. Khung quy chiếu không gian nội tại có hai biến thể nhưng biến thể có hướng quy chiếu được xác định dựa vào F, xuất hiện khi Nền là đối tượng không có cấu trúc định hướng nội tại và F là con người không được đồ chiếu sang thời gian. Khung quy chiếu không gian tương đối gồm ba biến thể nhưng chỉ biến thể chuyển dịch và biến thể phản chiếu được đồ chiếu sang thời gian. Khung quy chiếu không gian tuyệt đối tách biệt hoàn toàn vai trò của người quan sát tuy nhiên với thời gian, nguyên lý dĩ ngã vi trung vẫn có vai trò chi phối. Những phân tích của chúng tôi cũng cho thấy TRƯỚC có thể đồ chiếu sang quá khứ hoặc tương lai tuỳ vào khung quy chiếu và không hề mâu thuẫn khi TRƯỚC vừa có thể được ấn định thuộc quá khứ vừa có thể được ấn định thuộc tương lai. Trên cơ sở kết quả phân tích của chương 2 và cơ sở lí luận ở chương 1, trong chương 3, luận án sẽ đi vào nghiên cứu các trường hợp cụ thể trong đó các từ vốn thuộc về phạm trù không gian được chuyển khung sang chỉ thời gian.

Chương 3 SỰ TRI NHẬN VÀ BIỂU ĐẠT QUY CHIẾU THỜI GIAN QUA KHÔNG GIAN TRONG TIẾNG VIỆT: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP LÙI, QUA, SANG, TỚI, ĐẾN

3.1 Dẫn nhập

Mối quan hệ giữa không gian và thời gian được biểu đạt như thế nào trong ngôn ngữ, các biểu đạt đó có liên quan gì với nhau không? Các câu hỏi này đã tạo nên không ít cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu Ngữ dụng học, Ngôn ngữ học tâm lý, Khoa học tri nhận trong một thời gian dài. Chúng liên quan đến hai bình diện nền tảng của mối quan tâm khoa học cơ bản. Một mặt, sự phản chiếu ý niệm thời gian được tri nhận qua không gian vào ngôn ngữ nhấn mạnh sự tri nhận của con người về các phạm trù phổ biến không gian và thời gian. Mặt khác, khái niệm khung quy chiếu cho thấy sự khác nhau căn bản giữa cái thế giới bên ngoài có thể quan sát được một cách trực tiếp, được biểu đạt trong ngôn ngữ và tập hợp các biểu thức ngôn ngữ khả dĩ dùng để biểu đạt cái thế giới ấy. Sự khác biệt này được cảm nhận rõ hơn ở các khái niệm thời gian so với các khái niệm không gian, có lẽ đó là lí do vì sao ngôn ngữ thường dùng các khái niệm có sẵn (chẳng hạn các khái niệm không gian) theo lối ẩn dụ để thể hiện các mối quan hệ thời gian trừu tượng hơn.

Khi xem xét sự tri nhận của con người được biểu đạt trong ngôn ngữ, Lakoff (1990) nhận ra rằng các khía cạnh của sự trải nghiệm và tri nhận có quan hệ mật thiết và được biểu đạt trong cấu trúc và chức năng của ngôn ngữ. Ulrich & Maienborn (2010) cho rằng các từ loại khác nhau gợi lên các kiểu quy chiếu thời gian khác nhau. Moore cũng khẳng định “các ẩn dụ chuyển động chỉ thời gian cần được phân tích là sự đồ chiếu xuyên khung” (motion metaphors of time need to be analyzed as mappings across frames” (Moore, 2006, tr.232). Sinha (2014) nhấn mạnh cần có thêm các nghiên cứu về đồ chiếu cấu trúc từ không gian lên thời gian. Đây cũng là điều mà Evans (2013) đặt ra khi muốn mô tả các ý niệm từ vựng thời gian. Khi phân tích về các ý niệm không gian trong tiếng Việt, Lý Toàn Thắng cũng đã khẳng định mối tương quan giữa ý niệm không gian với cấu trúc nghĩa biểu hiện, tầm quan trọng của cấu trúc nghĩa biểu hiện trong phân tích sự tri nhận không gian ở những ý niệm cụ thể (Lý Toàn Thắng, 2005). Những nhận định này của các nhà nghiên cứu là gợi dẫn để chương này của luận án tập trung vào phân tích sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua phạm trù không gian trong tiếng Việt.

96

Luận án sẽ phân tích sự đồ chiếu cấu trúc tham tố sự tình không gian sang sự tình thời gian ở một số động từ chỉ hoạt động di chuyển và các giới từ phái sinh từ chúng, trên cơ sở đó đi đến phân tích quy chiếu thời gian, sự đồ chiếu phối cảnh từ không gian lên thời gian với từng trường hợp cụ thể. Sự đồ chiếu cấu trúc tham tố là vấn đề chưa được nghiên cứu nhiều khi phân tích sự đồ chiếu từ không gian lên thời

gian trong ngôn ngữ tự nhiên, mặt khác việc phân tích đồ chiếu không gian lên thời gian chủ yếu được thực hiện ở bình diện khái quát, chưa đi vào các trường hợp cụ thể, trong khi thực tế ngôn ngữ cho thấy chúng trình hiện một bức tranh sống động và phức tạp hơn nhiều. Do một số động từ (thuộc lớp vị từ rộng hơn) chỉ hoạt động di chuyển trong tiếng Việt được chuyển từ loại thành giới từ, nên để thuận tiện cho việc phân tích, luận án tiếp cận theo từ, và sẽ chỉ rõ tư cách từ loại của từ khi cần phân biệt.

Trong tiếng Việt, các động từ cùng giới từ phái sinh từ chúng được chuyển khung từ không gian sang thời gian khá phong phú, chẳng hạn: qua, sang, tới, đến, ra, vào, lên, xuống, các động từ không gian toả tia sang thời gian như lùi, lui, tiến, về, đi, trôi, dời, chuyển, v.v.. Tuy nhiên, qua quan sát khối liệu Việt ngữ liên quan đến các từ vừa dẫn trên https://s.ngonngu.net/corpus/, chúng tôi nhận thấy lùi, qua, sang, tới, đến có ý nghĩa thời gian, cấu trúc nghĩa biểu hiện, phối cảnh và quy chiếu thời gian, sự đồ chiếu từ không gian sang thời gian phong phú, phức tạp hơn so với các trường hợp còn lại. Mặt khác, qua và sang, tới và đến là những cặp từ mà sự giống nhau giữa chúng khá lớn; luận án muốn đi đến chỉ ra những điểm tương đồng cùng những dị biệt tinh tế trong biểu nghĩa không gian, thời gian làm nên vị thế của chúng trong hệ thống. Cùng với giới hạn dung lượng cho phép, luận án chọn các từ lùi, qua, sang, tới, đến để nghiên cứu trường hợp. Quá trình nghiên cứu cho thấy sự đồ chiếu xuyên khung từ không gian sang thời gian trong tiếng Việt có cơ sở là những thúc đẩy về mặt trải nghiệm và tri nhận của người bản ngữ đối với phạm trù mà họ cảm nhận được bằng các giác quan, từ đó hình thành các mô thức ngôn ngữ, thậm chí tư duy về thời gian còn tách khỏi ý niệm cơ sở ban đầu. 3.2 Sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian: nghiên cứu trường hợp lùi

Trong tiếng Việt, lùi được xem là đồng nghĩa với lui (Hoàng Phê, 2010, tr.732). Cả lùi và lui đều được dùng để biểu đạt ý nghĩa không gian và thời gian. Trong 1000 ngữ liệu có sử dụng từ lùi được khảo sát từ https://s.ngonngu.net/corpus/, có 342 ngữ liệu lùi biểu đạt thời gian (chiếm 34.2%), trong khi đó, với lui, trên 1000 ngữ liệu khảo sát, chỉ có 20 ngữ liệu lui biểu đạt thời gian (chiếm 2%). Con số này cho thấy, lui không phải là từ biểu đạt thời gian có nguồn gốc từ không gian tiêu biểu trong tiếng Việt; mặt khác, so với lùi, lui rất ít được sử dụng để biểu đạt thời gian. Những trường hợp sử dụng để biểu đạt thời gian của lui đều giống với lùi, do

97

vậy chúng có thể thay thế cho nhau. Ví dụ: (100) a. Qua nhiều năm thực hiện chỉ thị của Nhà nước về cấm đốt pháo, hình ảnh của pháo và tiếng pháo đã lui vào quá khứ, không còn là “nét đặc trưng” của ngày Tết vì những tác hại to lớn của nó.

a’. Thế nhưng, hầu hết các nhà văn "già" viết tác phẩm cho tuổi mới lớn để kể

lại một thời đã xa, một không gian và thời gian đã lùi vào quá khứ. b. Vì thế, cuộc gặp hai bên tối thứ bảy phải lui lại vài ngày. b’. Riêng việc khoan mở cửa hầm phía nam dự kiến sẽ lùi lại đến tháng 6. So sánh (100a) và (100a’), (100b) và (100b’) có thể thấy: lùi hoàn toàn thay thế được cho lui và ngược lại. Ở (100a) và (100a’), lùi và lui đều biểu đạt sự chuyển dịch của chủ thể về phía quá khứ. Ở (100b) và (100b’), lùi và lui biểu đạt sự chuyển dịch của đối tượng về phía tương lai.

Vì lui và lùi là các biến thể ngữ âm, biến thể lui không được người Việt sử dụng nhiều trong biểu đạt thời gian34, nếu có được sử dụng thì giống với lùi, trong khi khả năng biểu đạt thời gian của lùi phong phú, phức tạp và có số lần xuất hiện cao hơn nhiều nên ở mục này, luận án chỉ tập trung phân tích khả năng biểu đạt không gian và thời gian của lùi35 mặc dù tiếng Việt tồn tại thực tế ngôn ngữ như trên.

Cả trong biểu đạt không gian và thời gian, lùi đều có tư cách từ loại là động từ.

3.2.1 Lùi biểu đạt không gian

Ở khung không gian, lùi có nghĩa gốc là “chuyển động về phía sau trong khi không thay đổi hướng ban đầu” (Nguyễn Như Ý, 1999, tr.1062). Ý nghĩa này được diễn giải theo một cách khác là “di chuyển ngược lại về phía sau trong khi vẫn giữ nguyên tư thế như đang tiến về phía trước” (Hoàng Phê, 2010, tr.732). Lùi mang tính lưỡng khả, tức có thể là động từ nội động hoặc động từ ngoại động. Với mỗi tư cách động từ, lùi quy định một cấu trúc nghĩa biểu hiện khác nhau. - Lùi nội động từ: chủ thể hữu tri hoặc vô tri chuyển động về phía sau trong khi không thay đổi hướng nội tại ban đầu. Khái niệm hướng nội tại được hiểu là cấu trúc định hướng nội tại của vật thể trong không gian, xác định theo hướng chuyển động hoặc chức năng của vật thể, như hướng trước, sau ở ti vi, xe ô tô, nhà, con người, v.v.. Ví dụ: (101) a. lùi xuống ba bước (Ví dụ dẫn theo (Nguyễn Như Ý, 1999, tr.1062))

b. Chiếc ô tô lùi lại. Tham tố bắt buộc (diễn tố) đối với sự tình được biểu đạt bằng lùi trong trường

34 Cả trong biểu đạt không gian, lui cũng rất hạn chế. Nhìn chung lui chỉ kết hợp với các động từ chỉ hoạt động của con người để biểu đạt sự chuyển động trong không gian của chủ thể, ví dụ bước lui, nhìn lui, ngoái lui, ngã lui ra sau, ngó lui. 35 Trái nghĩa với lùi, lui là tiến. Trong 1000 ngữ liệu có sử dụng từ tiến được khảo sát từ https://s.ngonngu.net/corpus/, chỉ 12 ngữ liệu tiến biểu đạt thời gian (chiếm 1.2%). Như vậy tiến không phải là từ biểu đạt thời gian có nguồn gốc từ không gian tiêu biểu trong tiếng Việt. Trong luận án này, nghiên cứu sinh mới chỉ nghiên cứu các trường hợp tương đồng nhau về khả năng biểu đạt thời gian mà chưa có điều kiện nghiên cứu các cặp từ đối lập trong biểu nghĩa và quy chiếu thời gian.

98

hợp này là vai hành thể (ví dụ 101a) hoặc động thể (ví dụ 101b).

- Lùi ngoại động từ: chủ thể tác động khiến đối tượng chịu tác động chuyển

động về phía sau trong khi không thay đổi hướng nội tại ban đầu. (102) lùi xe vào ngõ (Ví dụ dẫn theo (Nguyễn Như Ý, 1999, tr.1062)) Tham tố bắt buộc đối với sự tình được biểu đạt bằng lùi trong trường hợp này gồm 2 diễn tố: tác thể và đối thể. Tác thể có thể hiển ngôn hoặc hàm ẩn. Trong ví dụ (102) ở trên, tác thể (con người) hàm ẩn, đối thể là ‘xe’.

Khi đứng sau các động từ như bước, đẩy, kéo, v.v., lùi cùng động từ phía trước tạo nên chuỗi động từ biểu đạt sự tình chuyển động trong không gian như trường hợp lùi là động từ, ví dụ: (103) a. Giữ chân thẳng, từ từ di chuyển hai tay về phía trước, người hạ thấp dần, đồng thời bước lùi về phía sau.

b. Bất ngờ xe taxi chạy lùi rất nhanh về phía sau khiến nhiều người hốt hoảng. c. Đến 3 giờ sáng nay, tàu SE8 mới được kéo lùi lại đúng vị trí dừng tránh. Ví dụ (103a) có cấu trúc nghĩa biểu hiện chỉ gồm vai hành thể (con người, hàm ẩn). Ví dụ (103b) có cấu trúc nghĩa biểu hiện chỉ gồm vai động thể. Ví dụ (103c) có cấu trúc nghĩa biểu hiện gồm hai diễn tố: tác thể/lực (hàm ẩn) (do chủ thể của hành động “kéo” có thể là con người hoặc vật thực hiện quá trình chuyển tác), đối thể (tàu SE8). 3.2.1.3 Phối cảnh không gian với “lùi”

Kịch cảnh với chuyển động lùi hoặc theo hướng lùi trong không gian là một thực thể di chuyển từ một vị trí này sang một vị trí khác theo hướng ngược lại với hướng chuyển động ban đầu, cấu trúc hướng nội tại (nếu có) của thực thể không thay đổi. Dưới đây là hình minh hoạ phối cảnh chuyển động lùi trong không gian:

Vị trí A

Vị trí B

Hình 3.1 Phối cảnh chuyển động lùi trong không gian

99

Trong hình trên, vị trí A là vị trí ban đầu của vật thể, vị trí B là vị trí của vật thể sau khi chuyển động lùi (tự thân hoặc chịu tác động), mũi tên nét liền chỉ hướng chuyển động ban đầu, mũi tên nét đứt chỉ hướng chuyển động lùi. Vật thể không thay

đổi hướng nội tại (nếu có) so với ban đầu. Vật thể chuyển động trên mặt phẳng ngang trong không gian. 3.2.2 Lùi biểu đạt thời gian Lùi biểu đạt sự chuyển dịch thời gian từ thời điểm này sang thời điểm khác. Nó có thể là động từ nội động hoặc động từ ngoại động. Đa số trường hợp lùi xuất hiện với tư cách động từ ngoại động.

Với tư cách động từ nội động, lùi biểu đạt thời gian chỉ đòi hỏi một diễn tố là

động thể. Ví dụ: (104) Chiến tranh đã lùi xa, hơn 40 năm (…).

Trong ví dụ trên, chiến tranh biểu đạt vai động thể. Vai động thể cũng có thể là thời gian, như trong ví dụ sau:

(105) Bao năm tháng đã lùi xa rồi, làng chẳng còn ai mắc bệnh ngẩn ngơ, (…).

Như vậy, cấu trúc tham tố của lùi là động từ nội động ở khung không gian được chuyển di sang khung thời gian. Yếu tố đưa đến sự chuyển khung của lùi là vai động thể ở khung mới không còn là con người hoặc thực thể không gian mà là một sự việc xảy ra trong thời gian (như ‘chiến tranh’ ở ví dụ (104)) hoặc bản thân thời gian (như ở ví dụ (105)).

Với tư cách động từ ngoại động, lùi biểu đạt thời gian đòi hỏi hai diễn tố là

tác thể và đối thể. Ví dụ: (106) Nga lùi thời gian phá huỷ trạm Mir.

Vai tác thể trong trường hợp này chỉ con người hoặc tổ chức, nhóm, chính thể, quốc gia, v.v., tức các biểu đạt hoán dụ chỉ con người. Trong ví dụ trên, Nga là biểu đạt hoán dụ chỉ những người có vai trò quyết định đối với việc xác định thời gian phá huỷ trạm không gian Mir.

100

Vai tác thể có thể hiện diện trên bề mặt câu, như trong ví dụ trên. Khi đó vai đối thể do một danh ngữ biểu đạt thời gian đảm nhiệm. Vai tác thể cũng có thể ẩn đi, tuy nhiên chúng ta vẫn ý thức về sự tồn tại của nó, như trong ví dụ sau: (107) Các giải thể thao cũng phải hoãn, huỷ, hoặc lùi sang năm sau như Euro, Copa America, hay Olympic. Với trường hợp này, vai đối thể biểu thị đối tượng được/bị chuyển dịch trong dòng thời gian (như “các giải thể thao” trong ví dụ trên), vai thời gian trở thành chu tố trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu (như “năm sau” trong ví dụ trên). Trường

hợp câu không có chu tố thời gian, vai đối thể biểu thị các sự việc, sự kiện, khi đó bản thân kết cấu vị ngữ biểu đạt ý nghĩa thời gian, như ở ví dụ sau: (108) Các công sở trở nên vắng bóng người khiến nhiều việc cấp bách cũng đành phải lùi lại. Như vậy, cấu trúc tham tố của lùi là động từ ngoại động ở khung không gian được chuyển di sang khung thời gian. Sự chuyển khung diễn ra là do có sự thay đổi ở vai đối thể: vai đối thể không còn biểu đạt thực thể không gian mà chỉ thực thể thời gian (thời điểm hoặc thời khoảng) hoặc vai đối thể chỉ sự việc diễn ra trong thời gian. Lùi cũng có thể kết hợp sau động từ khác tạo nên chuỗi động từ biểu đạt sự chuyển dịch thời gian từ một thời điểm này sang một thời điểm khác. Theo khảo sát của chúng tôi, lùi chỉ kết hợp với các động từ đẩy, kéo. Ví dụ: (109) a. Nội chiến, xung đột liên miên đẩy nền kinh tế đất nước lùi lại hàng chục năm.

b. Thời tiết xấu đẩy lùi ngày bay của Discovery (10/8). c. Các chuyên gia kinh tế dự báo, dịch bệnh có thể kéo nền kinh tế Ấn Độ lùi lại

20 năm.

Ở khung không gian, lùi kết hợp được phía sau với động từ bước, nhưng ở

khung thời gian, không có kết hợp bước lùi biểu đạt thời gian.

Ở khả năng kết hợp này của lùi, lùi là động từ ngoại động. Nó cũng đòi hỏi hai tham tố để lấp đầy các vai nghĩa bắt buộc. Tuy nhiên, khác với khi lùi là động từ trung tâm của vị ngữ như ở các ví dụ từ (104) đến (108), ở vị trí cú pháp này, vai tác thể trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của lùi được thay bằng vai lực, cụ thể là tác nhân gây nên một hệ quả ở đối tượng, như ‘nội chiến’, ‘thời tiết xấu’, ‘dịch bệnh’ trong ví dụ (109) trên. Vai đối thể có thể là thời gian (như ở ví dụ 109b), cũng có thể là đối tượng khác nhưng đó không phải là thực thể không gian (như ‘nền kinh tế đất nước’, ‘nền kinh tế Ấn Độ’ ở ví dụ 109a, c). Nếu đối thể không chỉ thời gian thì trong câu có chu tố thời gian hiện diện (như ở ví dụ 109a, c).

So sánh với lùi biểu thị không gian, chúng ta thấy lùi chỉ thời gian xuất hiện với cấu trúc nghĩa biểu hiện phức tạp và nhiều biến thể hơn. Hiện thực ngôn ngữ này minh chứng rằng, trong trường hợp này, người Việt tri nhận thời gian phức tạp và chi tiết hơn so với tri nhận không gian, dù không gian với thuộc tính cụ thể là nền tảng kinh nghiệm để tri nhận thời gian.

Có thể khái quát sự tương đồng và khác biệt giữa lùi biểu đạt không gian và

101

lùi biểu đạt thời gian trong tiếng Việt như bảng sau:

Bảng 3.1 So sánh lùi biểu đạt không gian và lùi biểu đạt thời gian

LÙI

KHÔNG GIAN Ý nghĩa THỜI GIAN Ý nghĩa

Từ loại

Vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu Động thể

Nội động từ

Chuyển động trong thời gian về quá khứ hoặc tương lai Chuyển động trong không gian ngược lại với hướng trước

Động từ Vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu Hành thể/ Động thể Tác (hiển thể ngôn/hàm ẩn) – (đối thể đối tượng bị chuyển vị trong không gian), ± chu tố không gian Ngoại động từ

- Tác thể (hiển ngôn/hàm ẩn) – (đối thể đối tượng bị chuyển thời trong vị gian), chu tố thời gian - Lực – đối thể (đối tượng bị chuyển vị trong gian/thời thời gian), ± chu tố thời gian

3.2.2.3 Quy chiếu và phối cảnh thời gian với “lùi”

Các ví dụ từ (104) đến (109) cho thấy là sự chuyển dịch thời gian có thể về hướng tương lai hoặc quá khứ. Theo kết quả khảo sát, sự chuyển dịch thời gian trong câu có lùi thường là về phía tương lai. Trong 1000 ngữ liệu có sử dụng từ lùi được khảo sát từ https://s.ngonngu.net/corpus/, có 342 ngữ liệu lùi biểu đạt thời gian (chiếm 34.2%), trong đó có 278 trường hợp lùi biểu đạt sự chuyển dịch thời gian về phía tương lai (chiếm 81.3%), 64 trường hợp lùi biểu đạt sự chuyển dịch thời gian về phía quá khứ (chiếm 18.8%). Bản thân lùi không quy định hướng chuyển dịch thời gian. Đây là điểm khác biệt với lùi biểu đạt không gian (lùi biểu đạt không gian bao gồm hướng vận động của thực thể). Bản thân lùi không quy định hướng chuyển dịch thời gian. Đây là điểm khác biệt với lùi biểu đạt không gian (lùi biểu đạt không gian bao gồm hướng vận động của thực thể).

Việc xác định hướng lùi trong thời gian do các yếu tố khác đảm nhiệm. Đó có

thể là danh từ/danh ngữ biểu đạt thời gian, giới từ chỉ hướng hoặc tính từ xa.

102

- Danh từ/danh ngữ ngữ biểu đạt thời gian:

Hướng lùi về quá khứ được biểu đạt bằng danh từ/danh ngữ biểu thị thời gian

quá khứ, thường là các từ ngữ quá khứ, lịch sử, thuở xưa, dĩ vãng, kí ức. Ví dụ: (110) Quá khứ cũng dần lùi xa, thân nhân các gia đình gác lại nỗi đau chăm chỉ làm ăn để xây dựng cuộc sống.

Ở hướng tương lai sẽ là các danh từ/danh ngữ ngữ biểu nghĩa thời hạn, thời điểm tiến hành sự kiện, chẳng hạn: thời hạn, thời điểm, thời gian (với nghĩa thời điểm, thời khoảng), ngày hoàn thành, ngày khai mạc, v.v. hoặc một thời điểm, thời khoảng ở tương lai so với thời điểm mốc, chẳng hạn ngày mai, chuyến sau, năm sau, năm 2021 (so với mốc hiện tại là năm 2020), v.v.. Các danh từ/danh ngữ vừa liệt kê trên (ngoại trừ ngày mai, năm sau) khi đứng một mình sẽ có tính trung hoà, tức chúng không cấu trúc ý nghĩa quá khứ hoặc tương lai bên trong bản thân chúng, ý nghĩa này chỉ xuất hiện khi chúng kết hợp sau lùi với vai đối thể hoặc với các giới từ như tới, đến, lại, sang, cả kết hợp giới từ + danh từ/danh ngữ là chu tố thời gian trong câu. Ví dụ: (111) a. Thời hạn triển khai đặt ra lúc đó là năm 2015 nhưng sau đó bị lùi lại tới năm 2019.

b. Vì quyết định này của ông Kagame, nước chủ nhà đã phải lùi ngày khai

mạc hội nghị hai ngày, đến thứ năm tuần này.

c. Một số người thì buồn bã quay ra vì đã hết vé đi chuyến tàu này, đành

phải lùi lại chuyến sau.

d. Các giải thể thao cũng phải hoãn, huỷ, hoặc lùi sang năm sau như Euro,

Copa America, hay Olympic.

- Giới từ chỉ hướng: Tiếng Việt có các kết hợp lùi + giới từ chỉ hướng mang

tính ổn định chuyên biểu thị hoặc hướng quá khứ hoặc tương lai.

+ Hướng tương lai: các giới từ chuyên kết hợp sau lùi để chỉ hướng chuyển dịch thời gian về phía tương lai là sang, đến, tới, như ở ví dụ (111) hoặc như trong ví dụ sau:

(112) a. Theo đại diện Quỹ Vifotec, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, giải thưởng năm 2020 phải lùi thời gian tổ chức sang 2021.

b. Vì vậy Tito có thể lùi thời gian đi du lịch vũ trụ đến tháng 10 tới, cũng trên

một con tàu Soyuz.

c. Các biện pháp này lẽ ra được tuyên bố hôm qua, nhưng sau đó Chính phủ

quyết định lùi tới ngày mai.

103

+ Hướng quá khứ: các giới từ chuyên kết hợp sau lùi để chỉ hướng chuyển dịch thời gian về phía quá khứ là về, vào. Sau về, vào là danh từ/danh ngữ biểu đạt

thời điểm, thời khoảng mang ý nghĩa quá khứ tự thân (như quá khứ, lịch sử, dĩ vãng, kí ức) hoặc do quy chiếu với thời điểm phát ngôn. Ví dụ: (113) a. Lùi về năm 2019, khi Đen Vâu ra MV Hai triệu năm cũng là lúc học sinh cấp 3 bước vào kỳ thi THPT quốc gia.

b. Thế nhưng, hầu hết các nhà văn "già" viết tác phẩm cho tuổi mới lớn để kể

lại một thời đã xa, một không gian và thời gian đã lùi vào quá khứ.

Ở ví dụ (113a), năm 2019 đã thuộc về quá khứ so với thời điểm phát ngôn, nên nó biểu đạt thời điểm quá khứ, lùi về năm 2019 do vậy là lùi theo hướng quá khứ. Ở ví dụ (113b), danh ngữ quá khứ xác định hướng lùi là hướng quá khứ.

Ngoài các giới từ vừa dẫn trên, trong tiếng Việt còn có lại trong kết hợp lùi lại. Kết hợp này vừa được dùng theo hướng tương lai vừa được dùng theo hướng quá khứ, như trong các ví dụ sau: (114) a. Trước đó, thời điểm phóng vệ tinh này đã phải lùi lại một ngày do có gió mạnh. => hướng tương lai

b. Còn lùi lại thời gian xa hơn nữa, anh cho biết, từ thời còn là học sinh một trường THPT khu vực miền núi của tỉnh Ninh Bình (THPT Nho Quan B), anh đã yêu thích Vật lý. => hướng quá khứ

Tuy nhiên chủ yếu lùi lại được dùng trong diễn tả dịch chuyển thời điểm về hướng tương lai. Theo kết quả khảo sát trên 200 cứ liệu hiển thị ngẫu nhiên có lùi lại biểu thị thời gian, chỉ 01 cứ liệu trong đó lùi lại được dùng để biểu đạt chuyển dịch thời gian về quá khứ. Khi biểu thị hướng tương lai, trong câu có thể có thêm giới từ tới, đến, như ở ví dụ (111a) hoặc như trong ví dụ sau: (115) Riêng việc khoan mở cửa hầm phía nam dự kiến sẽ lùi lại đến tháng 6.

Các ngữ liệu có lùi lại chỉ hướng quá khứ cho thấy trong câu hoặc có ngữ đoạn chỉ thời gian quá khứ (như trước đó trong ví dụ (114a)), hoặc có sử dụng động từ kéo/đẩy như trong ví dụ sau: (116) Các chuyên gia kinh tế dự báo, dịch bệnh có thể kéo nền kinh tế Ấn Độ lùi lại 20 năm.

Ví dụ (116) cho thấy là hướng dịch chuyển thời gian được bảo toàn ngay cả

104

với tình thái phi thực hữu (biểu đạt bằng có thể).

- Tính từ: xa Hướng quá khứ còn được phản ánh bằng kết hợp lùi xa, thường là quá khứ xa so với hiện tại (như ở ví dụ (104), (105), (110)). Xa vốn là một tính từ chỉ khoảng cách không gian được chuyển khung để chỉ khoảng cách thời gian. Chủ thể có thể là bản thân thời gian như trong ví dụ dưới đây: (117) Thời gian càng lùi xa, nhìn lại cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của C.Mác chúng ta càng thấy rõ, Ông không chỉ là nhà tư tưởng vĩ đại, đã giải đáp được các vấn đề mà loài người tiên tiến nêu lên, (…). hoặc là một sự kiện, hiện tượng, ví dụ: (118) a. Chiến tranh đã lùi xa, hơn 40 năm (…). (Lấy lại ví dụ 104)

b. Hào quang quá khứ đã lùi xa, nhường lại cho cựu vận động viên sinh năm

1969 những khó khăn của cuộc sống hiện tại.

a. Quy chiếu và phối cảnh thời gian với “lùi”: hướng quá khứ Quy chiếu thời gian trong những câu/tiểu cú sử dụng lùi để biểu đạt sự chuyển dịch thời gian về phía quá khứ đều có Nền G là hiện tại chủ quan của người quan sát, tức thời điểm nói, như trong các ví dụ (104), (105), (109a, c), (110), (113), (114b), (116), (117), (118) ở trên. Sự tình F đều ở quá khứ so với G. Bản thân từ lùi cho biết F ở phía sau của Ego, cũng là phía sau trên dòng thời gian. Như vậy khung quy chiếu trường hợp này là khung quy chiếu tuyệt đối phân bố trên dòng thời gian trực chỉ.

Có ba phối cảnh đi với các sự tình thời gian quá khứ biểu đạt bởi lùi. - Một là Ego vận động trong dòng thời gian về phía tương lai, theo đó một

thời điểm/thời khoảng ở quá khứ sẽ xa dần Ego.

Phối cảnh này hiện diện ở các ví dụ (105) bao năm tháng đã lùi xa rồi, (110) quá khứ cũng dần lùi xa, (113b) thời gian đã lùi vào quá khứ, (117) thời gian càng lùi xa, (118a) chiến tranh đã lùi xa, (118b) hào quang quá khứ đã lùi xa.

105

Với các ngữ liệu vừa dẫn, thoạt nhìn, có thể tưởng “năm tháng”, “quá khứ”, “thời gian”, “chiến tranh”, “hào quang quá khứ” là các đối tượng chuyển động trên dòng thời gian về phía quá khứ, càng lúc càng xa so với Ego. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng không phải các yếu tố vừa được liệt kê mà Ego mới thực là chủ thể vận động. Khi Ego chuyển động về phía trước trong dòng thời gian, các đối tượng quy chiếu với Ego càng lúc càng cách xa Ego. Chúng đều là các sự tình tĩnh phân bố ở một thời điểm hoặc một thời khoảng quá khứ trên dòng thời gian. Có thể vẽ sơ đồ minh họa cho một trong các sự tình thời gian trên như sau:

Sự tình: chiến tranh đã lùi xa. chiến tranh Ego1 Ego 2 F G1 G2 tăng dần khoảng cách thời gian Sơ đồ 3.1 Phối cảnh thời gian của sự tình “chiến tranh đã lùi xa” Trong sơ đồ trên, mũi tên trên đó phân bố sự tình chiến tranh (F), các vị trí của Ego trong quá trình vận động (G1, G2) biểu thị dòng thời gian; mũi tên ngắn biểu thị hướng di chuyển của Ego trong dòng thời gian. Mũi tên nét đứt biểu thị khoảng cách thời gian giữa F và G, mũi tên càng dài thì khoảng cách F và G càng tăng, F càng ở quá khứ xa so với G.

Phối cảnh thời gian này theo chúng tôi là có cội nguồn từ phối cảnh không gian Ego chuyển động hướng về phía trước, xa dần một vật thể/địa điểm đứng yên như trong ví dụ sau: (119) Ba người đi qua cầu từ phía nam sông Bến Hải. Họ vẫn giữ phong thái ung dung, bình thản. Một bước, hai bước, rồi nhiều bước, màu sơn vàng của nửa cầu phía nam cứ lùi dần sau lưng họ.

Nếu vẽ sơ đồ cho phối cảnh không gian này, chúng ta sẽ thấy rõ sơ đồ 3.1 là

sự đồ chiếu của sơ đồ 3.2 dưới đây: màu sơn vàng của nửa cầu phía Nam

F G1 G2

tăng dần khoảng cách không gian

Sơ đồ 3.2 Phối cảnh không gian của sự tình “màu sơn vàng của nửa cầu phía nam cứ lùi dần sau lưng họ” Trong sơ đồ trên, đoạn thẳng dài nhất thể hiện chiếc cầu, nửa bên trái của nó là nửa cầu phía Nam (F), trên nửa còn lại biểu thị các vị trí khác nhau của Ego (G1, G2) trong quá trình chuyển động sang phía bên kia cầu, mũi tên nét liền biểu thị hướng di chuyển của Ego. Mũi tên nét đứt biểu thị khoảng cách không gian giữa F và G, mũi tên càng dài thì khoảng cách F và G càng tăng, F càng lùi xa so với G.

106

Với phối cảnh không gian ở ví dụ (119), chúng ta hình dung rất rõ F “màu sơn vàng của nửa cầu phía Nam” không chuyển động, chỉ “họ” mới chuyển động. Điều này không rõ ràng như vậy với một phối cảnh thời gian, vì tính trừu tượng và vô hình

của nó. Sự đồ chiếu phối cảnh không gian lên phối cảnh thời gian trong trường hợp này sẽ giúp việc xác định yếu tố chuyển động trong quan hệ thời gian ở các ví dụ (104), (110), (113b), (117), (118) một cách có căn cứ.

G2 G1

- Hai là Ego chuyển dịch điểm nhìn từ hiện tại về phía quá khứ Phối cảnh thời gian này hiện diện ở các ví dụ (113) và (114b). Ở các ví dụ này, Ego có sự dịch chuyển điểm nhìn từ thời điểm hiện tại sang một thời điểm trong quá khứ. Trong các ví dụ trên, thời điểm quá khứ chính là “năm 2019”, “thời là học sinh một trường THPT khu vực miền núi của tỉnh Ninh Bình”. Các sự tình F “Đen Vâu ra MV Hai triệu năm”, “học sinh cấp 3 bước vào kỳ thi THPT quốc gia”, “anh đã yêu thích Vật lý” được phản ánh ở điểm nhìn quá khứ này (G2). Cả F và G2 được đặt trong tương quan quy chiếu với G1 – hiện tại chủ quan của người quan sát. Như vậy sự dịch chuyển điểm nhìn của Ego về một thời điểm quá khứ chỉ là trong không gian tinh thần. Các sự tình được phản ánh ở (113), (114b) do vậy đều là các sự tình trực chỉ. Có thể hình dung phối cảnh thời gian đang xét qua sơ đồ sau: F Ego điểm nhìn quá khứ điểm nhìn hiện tại

Sơ đồ 3.3 Phối cảnh thời gian “lùi về năm 2019” Trong sơ đồ trên, mũi tên nét đứt thể hiện sự vận động điểm nhìn của Ego từ

hiện tại về quá khứ (năm 2019).

Ở phối cảnh này, sự vận động chỉ diễn ra đối với điểm nhìn của Ego chứ không

phải bản thân Ego được thể hiện rõ hơn với động từ nhìn như trong ví dụ sau: (120) Nhìn lùi lại một chút về quá khứ, ngay cả Thierry Henry hay ngôi sao đang nổi đình nổi đám tại Man United là Anthony Martial cũng không thể có được khởi đầu ấn tượng như Ousmane Dembele!

Phối cảnh thời gian này về bản chất là sự đồ chiếu phối cảnh không gian ở hình 3.1. Tuy nhiên mức độ trừu tượng của nó cao hơn so với vận động ở phối cảnh sơ đồ 3.1.

107

- Ba là đối thể chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía quá khứ Phối cảnh này hiện diện ở những những câu/tiểu cú mà cấu trúc tham tố gồm vai động thể (tác thể nguyên nhân) và vai đối thể. Dưới tác động của động thể, đối thể chuyển dịch trong dòng thời gian về phía quá khứ, như trong các ví dụ (121) dưới đây (lấy lại ví dụ (109)). Ở các ví dụ này, Ego ở trạng thái tĩnh, còn nền kinh tế vận động ngược chiều với hướng của dòng thời gian. Bản thân nền kinh tế không có cấu trúc định hướng nội tại, do vậy hướng lùi được xác định là do sự phóng chiếu hình

ảnh chuyển động lùi trong dòng thời gian của Ego lên đối tượng. Sự chuyển động này mang tính ẩn dụ, chỉ sự trở lại với giai đoạn phát triển thấp hơn trước đó trong dòng thời gian của đối tượng. (121) a. Nội chiến, xung đột liên miên đẩy nền kinh tế đất nước lùi lại hàng chục năm.

b. Các chuyên gia kinh tế dự báo, dịch bệnh có thể kéo nền kinh tế Ấn Độ lùi lại

20 năm.

SE8

SE8

Nếu so với ví dụ (103b) Đến 3 giờ sáng nay, tàu SE8 mới được kéo lùi lại đúng vị trí dừng tránh., ta sẽ thấy một sự đồ chiếu nguyên dạng cấu trúc tham tố lẫn phối cảnh từ không gian lên thời gian trong tư duy người Việt.

f B A

Sơ đồ 3.4 Phối cảnh không gian “tàu SE8 được kéo lùi lại đúng vị trí dừng tránh”

Nền KT

Nền KT

SE8

SE8

Trong sơ đồ trên, A là vị trí ban đầu khi tàu chưa bị kéo, B là vị trí tàu sau khi bị kéo, L là lực kéo36, mũi tên biểu thị chiều hướng của lực kéo. Kết quả của phối cảnh này là tàu di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác dưới tác động của lực kéo.

f T2 T1 quá khứ hiện tại Sơ đồ 3.5: Phối cảnh “dịch bệnh kéo nền kinh tế Ấn Độ lùi lại 20 năm” Trong sơ đồ trên, T1 là thời điểm hiện tại, T2 là thời điểm 20 năm trước so với hiện tại. F chính là ‘nền kinh tế’ (KT trong hình trên là viết tắt của kinh tế). Mũi tên biểu thị hướng vận động trong dòng thời gian của nền kinh tế. Dưới tác động của dịch bệnh, nền kinh tế bị lùi lại thời điểm phát triển cách thời điểm nói 20 năm. Nếu một vật bị đẩy lùi trong không gian phối cảnh có thể là: f A B

36 Từ đây trở về sau, f viết tắt cho yếu tố tác động làm đối tượng chuyển dịch trong không gian và thời gian.

108

Sơ đồ 3.6 Phối cảnh một vật bị đẩy lùi trong không gian

Trong sơ đồ trên, các yếu tố tham gia kịch cảnh tương tự sơ đồ 3.4, mũi tên nét liền biểu thị lực đẩy, mũi tên nét đứt biểu thị hướng vận động của vật thể khi chịu lực đẩy. Phối cảnh này hoàn toàn được sao phỏng sang kịch cảnh thời gian ở ví dụ (121a). Có thể minh hoạ phối cảnh thời gian cho ví dụ (121a) như sau:

Nền KT

Nền KT

f

T2 T1 quá khứ hiện tại

Sơ đồ 3.7 Phối cảnh “xung đột liên miên đẩy nền kinh tế đất nước lùi lại hàng chục năm” Trong sơ đồ trên, mũi tên nét liền thể hiện lực tác động của tình trạng xung đột lên nền kinh tế, mũi tên nét đứt thể hiện hướng vận động về quá khứ trên dòng thời gian của nền kinh tế.

SE8

SE8

Điểm khác biệt duy nhất giữa phối cảnh không gian và phối cảnh thời gian trong các trường hợp vừa phân tích là lực kéo ở phạm trù thời gian chỉ có thể phân bố theo một hướng duy nhất như sơ đồ 3.5, 3.7 ở trên, trong khi ở phạm trù không gian, chỉ cần là mặt phẳng ngang, hướng của lực kéo là bất kì hướng nào, miễn là giữ nguyên hệ toạ độ không gian ban đầu. Chẳng hạn phối cảnh không gian ở sơ đồ 3.4 có thể phân bố lại như sau:

f A B

Sơ đồ 3.8 Phối cảnh không gian “tàu SE8 được kéo lùi lại đúng vị trí dừng tránh” ở hướng khác

109

Ta thấy phối cảnh “tàu SE8 được kéo lùi lại đúng vị trí dừng tránh” được dựng cảnh theo một hướng khác, tuy nhiên hệ toạ độ xác lập giữa vị trí ban đầu và vị trí sau khi chuyển dịch của tàu không thay đổi. Sự khác biệt này là hệ quả của việc người Việt tri nhận thời gian là một dòng tuyến tính phân bố theo trục ngang trong không gian, trục trước - sau, phía trước tương ứng với tương lai, trong khi không gian được tri nhận nhiều chiều, nhiều hướng khác nhau.

b. Quy chiếu và phối cảnh thời gian với “lùi”: hướng tương lai Khác với hướng quá khứ, quy chiếu trong những câu/tiểu cú sử dụng lùi để biểu đạt sự chuyển dịch thời gian về phía tương lai có Nền G có thể là ở hiện tại, quá khứ hoặc tương lai.

Khi Nền G là hiện tại chủ quan của người quan sát, thời điểm sau chuyển dịch thời gian sẽ ở tương lai. Khung quy chiếu có hiệu lực trong trường hợp này là khung quy chiếu tuyệt đối. Ví dụ: (122) Nga lùi thời gian phá huỷ trạm Mir. (lấy lại ví dụ (106))

Thời điểm sau khi lùi thời gian trong hai ví dụ trên đều ở tương lai. Khi G là một thời điểm ở quá khứ, khung quy chiếu hiện diện lại là khung

Trong ví dụ trên, thời điểm phá huỷ trạm Mir sẽ diễn ra ở tương lai nhưng không xác định cụ thể là thời điểm nào. Thời điểm này cũng có thể được xác định cụ thể, như trong ví dụ sau: (123) Theo đại diện Quỹ Vifotec, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, giải thưởng năm 2020 phải lùi thời gian tổ chức sang 2021. (lấy lại ví dụ 112) quy chiếu tương đối, như trong ví dụ sau: (124) a. Trước đó, thời điểm phóng vệ tinh này đã phải lùi lại một ngày do có gió mạnh. (lấy lại ví dụ 114) Theo nguồn ngữ liệu, sự kiện phóng vệ tinh diễn ra trước một ngày so với thời điểm phát ngôn. “Trước đó” là quy chiếu với thời điểm phóng này, do vậy Nền G trong trường hợp này là một thời điểm ở quá khứ. Hệ quy chiếu có sự tham gia của 3 thành tố V (thời điểm phát ngôn), G (trước thời điểm phát ngôn) và F (sự tình lùi thời điểm phóng vệ tinh) nên khung quy chiếu hiện diện là khung quy chiếu tương đối, biến thể chuyển dịch.

Lịch phóng được lùi một ngày là so với G nên trên dòng thời gian, lịch phóng ban đầu ở phía quá khứ so với G; G chính là thời điểm phóng vệ tinh thực, tức thời điểm sau khi dịch chuyển. Có thể minh hoạ phối cảnh thời gian ở ví dụ (124) qua sơ đồ sau: F1 G V F2

110

Sơ đồ 3.9 Phối cảnh thời gian “trước đó, thời điểm phóng vệ tinh này đã phải lùi lại một ngày”

Trong sơ đồ trên, F1 là thời điểm phóng vệ tinh theo kế hoạch ban đầu, F2 là thời điểm phóng vệ tinh sau khi lùi một ngày so với kế hoạch ban đầu, cũng chính là thời điểm diễn ra sự kiện phóng vệ tinh thực.

Nền G trong phối cảnh lùi thời gian về phía tương lai cũng có thể là một thời

điểm trong trong tương lai, như trong ví dụ sau: (125) Hôm qua (1/4), ông Tony Blair đã ra tuyên bố cuộc bầu cử toàn quốc, theo kế hoạch là vào ngày 3/5, sẽ được lùi lại hơn 1 tháng.

Câu trên phản ánh hai sự tình thời gian: một sự tình ở bậc câu (ông Tony Blair tuyên bố lùi cuộc bầu cử toàn quốc), một sự tình ở bậc tiểu cú (cuộc bầu cử toàn quốc, theo kế hoạch là vào ngày 3/5, sẽ được lùi lại hơn 1 tháng). Mỗi sự tình đi với một hệ toạ độ, gắn với một kịch cảnh và một khung quy chiếu khác nhau. Với sự tình thời gian ở bậc câu: hệ toạ độ được xác lập gồm F (ông Tony Blair tuyên bố lùi cuộc bầu cử toàn quốc) được định vị ở quá khứ (hôm qua), G – hiện tại: thời điểm phát ngôn, khung quy chiếu do vậy là khung quy chiếu nội tại trực chỉ. Với sự tình thời gian ở bậc tiểu cú: hệ toạ độ được xác lập gồm V - hiện tại, G - một thời điểm ở tương lai (ngày 3/5), F (thời điểm bầu cử sau khi thay đổi kế hoạch). Như vậy ở đây phối cảnh lùi thời gian có G là một thời điểm trong tương lai. Khung quy chiếu trong trường hợp này là khung quy chiếu tương đối biến thể phản chiếu.

Dù G ở vị trí nào trên dòng thời gian thì cái nhất quán trong tất cả các trường hợp vừa phân tích ở trên là có sự chuyển dịch thời gian sang một thời điểm ở tương lai so với thời điểm mốc (G). Trong phần lớn trường hợp, G là hiện tại chủ quan của người quan sát, trùng với thời điểm phát ngôn.

Với hướng lùi về phía tương lai, có hai phối cảnh: một là thời điểm chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai, hai là đối thể (sự kiện) chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai.

T2T 1

T1T 1

Phối cảnh thời điểm chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai: Với phối cảnh này, thời gian được ứng xử như cách con người ứng xử với một vật thể có thể làm cho chuyển động, như ở các ví dụ (106), (109b), (112a, b), (114a). Lúc này, trên dòng thời gian, một thời điểm được nhấc sang một thời điểm khác trong tương lai. Có thể hình dung điều này qua sơ đồ sau:

f

111

Sơ đồ 3.10 Phối cảnh lùi một thời điểm về phía tương lai

Như đã phân tích ở mục 3.1.2 rằng, vai tác thể tác động làm chuyển dịch thời điểm trong trường hợp này là con người, thời gian là đối tượng chịu tác động. Phối cảnh hiện diện là Thời gian chuyển động về phía tương lai. Hướng nhìn của Ego lúc này là hướng trước. Trong hình trên, mũi tên nét liền thể hiện hướng tác động của hành thể lên thời điểm, mũi tên nét đứt thể hiện hướng chuyển động của thời điểm trên dòng thời gian. Thời điểm chuyển động cùng chiều với hướng của dòng thời gian, tuy nhiên tiếng Việt lại sử dụng lùi (vốn có nghĩa chuyển động về phía sau mà không thay đổi hướng trước nội tại của vật thể) để mô tả. Như vậy ở đây đã có sự phản chiếu hướng từ Ego sang T1.

Phối cảnh thời gian này hoàn toàn tương đồng với phối cảnh không gian khi

một vật thể bị tác động di chuyển vị trí như ở sơ đồ 3.8.

Phối cảnh đối thể chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai: Trong phối cảnh này, một sự kiện (đối thể) thay đổi thời điểm diễn ra dưới tác động của hành thể, đối thể chuyển dịch trong dòng thời gian về phía tương lai, như trong các ví dụ dưới đây. Ở các ví dụ này, Ego ở trạng thái tĩnh, còn đối thể, vốn là các sự kiện, chuyển động cùng chiều với hướng của dòng thời gian. Do đó việc biểu đạt hướng bằng từ lùi ở đây cũng cho thấy sự phản chiếu hướng từ Ego sang đối thể. (126) a. Các giải thể thao cũng phải hoãn, huỷ, hoặc lùi sang năm sau như Euro, Copa America, hay Olympic. (lấy lại ví dụ 111)

b. Các công sở trở nên vắng bóng người khiến nhiều việc cấp bách cũng đành

phải lùi lại. (lấy lại ví dụ 112)

c. Tuy nhiên, dự định công khai kết quả điều tra cuối tuần này sẽ không thể

thành hiện thực, vì việc điều tra phải lùi tới tận ngày mai.

Trong các ví dụ trên, “các giải thể thao”, “nhiều việc cấp bách”, “việc điều tra” bị lùi thời điểm tiến hành. Chúng là các đối thể trong sự tình hành động do lùi biểu thị. Có thể hình dung phối cảnh chuyển động của các sự tình này qua sơ đồ sau:

O

O

T2

f

T1

Sơ đồ 3.11 Phối cảnh lùi một sự kiện về phía tương lai

Trong sơ đồ trên, O viết tắt cho đối thể, là các sự kiện bị lùi thời điểm thực

hiện từ T1 sang T2.

112

Các phân tích về phối cảnh chuyển động lùi trên dòng thời gian về phía tương lai của thời điểm và sự kiện cho thấy điểm nhìn được đặt ở Ego và có sự phản chiếu hướng từ Ego sang thời điểm, sự kiện. Logic này là bình thường với lùi lại, tuy nhiên

tiếng Việt cũng diễn đạt lùi tới (ví dụ 126c), lùi đến, lùi lại đến, lùi lại tới với các kịch cảnh thời gian tương tự, như trong các ví dụ sau: (127) a. Tuy nhiên, nhiều phụ huynh mong muốn lùi lệnh cấm đến ngày khai giảng năm học mới (5/9).

b. Riêng việc khoan mở cửa hầm phía nam dự kiến sẽ lùi lại đến tháng 6. c. Thời hạn triển khai đặt ra lúc đó là năm 2015 nhưng sau đó bị lùi lại tới

năm 2019.

Cách kết hợp này không tạo nên cảm giác bất thường hay mâu thuẫn trong nhận thức của người Việt: tại sao đã lùi còn tới và đến. Lí do tri nhận ở các biểu đạt này theo chúng tôi phức tạp hơn so với các giải thích thường gặp về phối cảnh. Một mặt, trong tương quan với Ego, thời điểm và sự kiện chuyển động lùi so với hướng nhìn của Ego theo phương thức phản chiếu hướng: đây là lí do của việc sử dụng từ lùi để biểu đạt nội dung sự tình. Mặt khác, trong tương quan với dòng thời gian, thời điểm và sự kiện chuyển động tiến tới theo hướng của dòng thời gian về phía tương lai: đây là nguyên do của việc sử dụng từ chỉ hướng tới, đến; ở đây có thêm sự đồ chiếu vai đích ở kịch cảnh chuyển động trong không gian sang thời gian (ví dụ trong lùi xe đến sát mép tường, mép tường là đích của hoạt động lùi xe), trong thời gian, đó là thời điểm đích. Như vậy ở đây có sự phối kết của đến hai phối cảnh.

Trong các kết hợp lùi + giới từ biểu đạt sự chuyển dịch thời điểm hoặc chuyển dịch sự kiện trên dòng thời gian về phía tương lai, lùi sang chỉ sự chuyển dịch các phân đoạn nối tiếp trên dòng thời gian của cùng đơn vị thời gian, chẳng hạn lùi từ ngày này sang ngày khác, từ tuần này sang tuần sau, tháng đang xét sang tháng nào đó trong tương lai, năm hiện tại → sang năm, v.v.. Chính vì vậy, lùi sang ngoài biểu đạt khung quy chiếu tuyệt đối còn có thể là biểu đạt của khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp, như trong ví dụ sau: (128) Cụ thể, Khoản 4 Điều 6 có nêu: “Định kỳ ngày 10/1, ngày 10/7 hàng năm (trường hợp trùng vào ngày nghỉ, ngày nghỉ lễ theo quy định thì lùi sang ngày làm việc tiếp theo), Bộ Tài chính thông báo khoản premium trong nước và chi phí đưa xăng dầu từ nhà máy lọc dầu trong nước về đến cảng để Bộ Công thương áp dụng, tính toán giả cơ sở”.

113

Trong ví dụ trên, lùi sang biểu đạt sự chuyển động trên dòng thời gian từ ngày trước sang ngày làm việc tiếp theo, ngày trước không quy chiếu tới một ngày cụ thể nào cả, quan hệ thời gian ở đây do vậy là chuỗi nối tiếp giữa một thời điểm sớm hơn và một thời điểm muộn hơn. Khung quy chiếu hiện diện do vậy là khung quy chiếu nội tại chuỗi nối tiếp.

Những phân tích về lùi ở khung không gian và khung thời gian cho phép chúng

ta đi đến nhận định là:

a. Có sự chuyển khung từ không gian sang thời gian ở từ lùi trong tiếng Việt,

với cả tư cách động từ lẫn giới từ.

b. Trong quá trình toả tia ngữ nghĩa, từ lùi phản ánh sự đồ chiếu các kịch cảnh không gian sang các kịch cảnh thời gian. Phối cảnh thời gian do lùi biểu thị có thể thuộc về khung quy chiếu tuyệt đối hoặc khung quy chiếu tương đối.

c. Ở hướng quá khứ, các phối cảnh được nhận thấy là: 1. Ego vận động trong dòng thời gian về phía tương lai, theo đó một thời điểm/thời khoảng ở quá khứ sẽ xa dần Ego; 2. Ego chuyển dịch điểm nhìn từ hiện tại về phía quá khứ; 3. Đối thể chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía quá khứ. Ở hướng tương lai, có hai phối cảnh: 1. thời điểm chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai; 2. đối thể (sự kiện) chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai.

3.3 Sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian: nghiên cứu trường hợp qua, sang Qua và sang có nhiều điểm tương đồng trong biểu đạt không gian, thời gian và sự tri nhận về không gian, thời gian của người Việt. Tuy vậy giữa chúng có những điểm khác biệt khá lớn. 3.3.1 Qua, sang biểu đạt không gian 3.3.1.1 “Qua”, “sang” là động từ

Qua, sang biểu đạt sự chuyển động trong không gian luôn là động từ nội động.

Theo định nghĩa từ điển, qua có nghĩa chỉ sự chuyển động sang phía bên kia, ví dụ: qua sông, hoặc đến một địa điểm, ví dụ: qua làng bên (Nguyễn Như Ý, 1999, tr.1355). Còn sang biểu đạt sự vận động đến một chỗ khác, gần với nơi xuất phát, ví dụ: sang nhà hàng xóm, sang sông (Nguyễn Như Ý, 1999, tr.1427). Nhìn vào các ví dụ có thể thấy, ở nghĩa không gian, qua và sang có nghĩa giống nhau. Có thể rút ra rằng: qua, sang biểu đạt sự chuyển động trên mặt phẳng ngang đến một địa điểm khác trong không gian hoặc chuyển động sang phía bên kia một không gian có giới hạn biên ở hai bên; sự vận động này không bao hàm hướng chuyển động. Đối tượng chuyển động có thể là hành thể, ví dụ: (129) a. Mẹ tôi qua làng bên.

b. Chờ em chừng dập miếng giầu em sang. (Nguyễn Bính – Hoài Thanh, Hoài Chân, 2015)

114

hoặc là động thể, ví dụ: (130) a. Thuyền qua sông. b. Ngoài mép nước, có chiếc mủng của ai còn chưa sang sông

Sau đây là một số ví dụ với giới từ qua:

Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu có qua, sang biểu thị nội dung sự tình đòi hỏi hai diễn tố: vai hành thể/động thể và vai đích/lối đi. Ở ví dụ (129a), vai hành thể là “mẹ tôi”, “làng bên” là đích. Ở ví dụ (129b), hành thể là “em”, vai đích hàm ẩn; đặt trong ngữ cảnh bài thơ, có thể suy ra được đích là nhà chàng trai. Ví dụ (130a) có vai động thể là “thuyền”, còn “sông” là lối đi. Với ví dụ (130b), “chiếc mủng của ai” là động thể, còn “sông” là lối đi. Như vậy qua, sang hoàn toàn giống nhau ở cấu trúc nghĩa biểu hiện mà chúng là động từ biểu đạt nội dung sự tình. 3.3.1.2 “Qua”, “sang” là giới từ Khi đi sau một động từ chỉ hoạt động di chuyển trong không gian và đứng trước một danh ngữ biểu đạt thực thể không gian, qua, sang có tư cách từ loại là giới từ. (131) a. Đoàn người vượt qua núi.

b. Bên cạnh đó, Masiyiwa cũng khích lệ người châu Phi khởi nghiệp tại chính quê hương của mình mà không phải “băng qua sa mạc Sahara” để tới phương Tây lập nghiệp.

c. Giảm xóc của xe được cải thiện đáng kể so với phiên bản trước, xe

lướt qua các ổ gà hay đoạn đường gồ ghề êm ái hơn hẳn.

d. Hầu như tất cả các đường ống dẫn dầu Nga xuất khẩu sang châu Âu đều

Với giới từ sang, cấu trúc nghĩa biểu hiện có sự khác biệt vai nghĩa so với qua.

đi qua Ukraina. Trong các ví dụ trên, qua đi sau các động từ chỉ hoạt động di chuyển vượt, băng, lướt, đi làm bổ ngữ. Trong câu/tiểu cú có động từ chỉ hoạt động di chuyển + qua, cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu cũng đòi hỏi hai diễn tố. Diễn tố đứng trước kết cấu vị ngữ có thể là hành thể (như “đoàn người’ ở ví dụ (131a), “người châu Phi” ở ví dụ (131b)) hoặc động thể (như “xe” ở ví dụ (131c), “các đường ống dẫn dầu Nga xuất khẩu sang châu Âu” ở ví dụ (131d)). Vai nghĩa còn lại luôn là lối đi (lần lượt với các ví dụ ở (131) là “núi”, “sa mạc Sahara”, “những ổ gà hay đoạn đường gồ ghề”, “Ukraina”). Khi qua là giới từ chỉ hướng chuyển động, không có vai đích trong cấu trúc nghĩa biểu hiện như khi qua là động từ. Xét các ví dụ sau: (132) a. Hiện tại, Phan Đăng Hoàng đang chuẩn bị hành trang để tháng 9/2018 sẽ lên đường bay sang Milan chuẩn bị những thủ tục cần thiết để nhập học vào đầu tháng 10.

115

b. Quân Đồng minh tổ chức phản công chiếm lại đường băng nhưng phải đối mặt với các oanh tạc cơ Stuka của Đức, khiến họ phải rút lui sang sườn đông đảo Crete.

c. Tủ quần áo bị chuyển sang một khu đất trống ven đường. d. Trong suốt đêm 15 và rạng sáng 16/4, gần 400 lính cứu hoả đã nỗ lực khống chế đám cháy, ngăn không cho lửa lan sang hai tháp chuông được xây theo kiến trúc Gothic ở mặt phía tây Nhà thờ Đức Bà.

Trong các ví dụ trên, sang đi sau các động từ chỉ hoạt động di chuyển bay, rút lui, chuyển, lan làm bổ ngữ. Có thể thấy, sang cũng đi vào câu/tiểu cú có cấu trúc nghĩa biểu hiện gồm hai diễn tố. Diễn tố đứng trước kết cấu động từ + sang có thể là hành thể (như “Phan Đăng Hoàng” ở ví dụ (132a), “họ” ở ví dụ (132b)) hoặc động thể (như “tủ quần áo” ở ví dụ (132c), “lửa” ở ví dụ (132d)). Ở điểm này, sang giống với qua. Tuy nhiên, vai nghĩa còn lại đi sau kết cấu động từ + sang luôn là vai đích (lần lượt với các ví dụ ở (132) là “Milan”, “sườn đông đảo Crete”, “một khu đất trống ven đường”, “hai tháp chuông được xây theo kiến trúc Gothic ở mặt phía tây Nhà thờ Đức Bà”), chứ không phải là vai lối đi như với qua. Khi sang là giới từ, không có vai lối đi trong cấu trúc nghĩa biểu hiện như khi sang là động từ.

116

Như vậy, khi biểu đạt nghĩa không gian, qua và sang nhìn chung giống nhau; sự khác biệt nằm ở vai nghĩa đi sau kết cấu ngữ vị từ trong cấu trúc nghĩa biểu hiện mà giới từ qua và giới từ sang tham gia vào: với qua luôn là vai lối đi trong khi với sang luôn là vai đích. 3.3.1.3 Phối cảnh không gian với “qua”, “sang” Kịch cảnh chuyển động do qua, sang biểu đạt là thực thể chuyển động trên mặt phẳng ngang. Nếu trong câu có vai lối đi, lối đi này được tri nhận là một không gian có giới hạn biên ở hai bên, thực thể chuyển động từ biên bên này sang biên bên kia, như ở ví dụ (130), hoặc như trong qua sân, qua/sang đường. Riêng với qua, ngay cả khi lối đi có độ cao trong không gian, như dải phân cách trên đường, thậm chí là núi như ở ví dụ (131a), thì ý niệm vận động trên mặt phẳng ngang vẫn là yếu tố nổi trội trong tri nhận kịch cảnh. Đây là đặc điểm không có với sang. Hệ quả là, có những kết hợp từ ngữ có với qua mà không có với sang. Ở điểm này, chúng tôi nhận thấy rằng phổ kết hợp của qua rộng hơn so với sang. Khi vai đích hiện diện trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu, như ở ví dụ (129), thì không có sự tri nhận về giới hạn biên của không gian, thay vào đó, kịch cảnh thay đổi: thực thể chuyển động từ một địa điểm này đến một địa điểm khác hoặc từ một không gian này sang một không gian khác, chẳng hạn từ làng tôi qua làng bên ở ví dụ (129a), từ nhà em sang nhà anh ở ví dụ (129b). Tính chất vận động trên mặt phẳng ngang vẫn là yếu tố quan trọng trong tri nhận kịch cảnh. Ở phạm trù không gian, qua còn biểu đạt phối cảnh một thực thể chuyển động vượt qua một thực thể khác. Nếu cả hai thực thể cùng chuyển động, chúng có thể chuyển động cùng chiều hoặc ngược chiều. Ví dụ:

Đây là phối cảnh không có với sang. Vì thế sẽ là bất thường trong tiếng Việt

b. *Chiếc xe chạy vụt sang. c. *Tôi đi ngang sang nhà anh ấy nhưng không ghé vào.

Nói cách khác, ở trường hợp này, sang và qua không thể thay thế cho nhau.

Còn sang biểu ý “tiếp đến thời gian kế liền sau thời gian hiện tại”, ví dụ: sang

Qua, sang chỉ thời gian có thể là động từ hoặc giới từ.

a. Qua, sang là động từ biểu đạt nội dung sự tình, chỉ sự vận động của thời

- Nếu chủ thể vận động là thời gian, cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú

(133) a. Cô ấy đi qua mà tôi không nhận ra. b. Chiếc xe chạy vụt qua. c. Tôi đi ngang qua nhà anh ấy nhưng không ghé vào. Ở ví dụ (133a, b), “tôi” có thể di chuyển hoặc không. Nếu “tôi” di chuyển, kịch cảnh sẽ là hai thực thể cùng chuyển động. “Tôi” có thể chuyển động cùng chiều hoặc ngược chiều với “cô ấy” và “chiếc xe”. Khi chuyển động ngược chiều, “cô ấy” và “chiếc xe” vận động từ phía trước “tôi”, qua “tôi” và ra phía sau “tôi”. Ở ví dụ (133c), thực thể “tôi” chuyển động còn thực thể “nhà anh ấy” đứng yên. khi dùng sang để diễn đạt những nội dung ý nghĩa như ở (133): (134) a. *Cô ấy đi sang mà tôi không nhận ra. 3.3.2 Qua, sang biểu đạt thời gian Khi chuyển sang khung thời gian, theo Đại từ điển tiếng Việt, qua biểu ý: 1. đã thuộc về quá khứ, ví dụ: nhiều năm qua, mọi việc đã qua; 2. sang một quãng thời gian, quãng đời mới, ví dụ: qua năm mới, con sẽ cố gắng hơn (Nguyễn Như Ý, 1999, tr.1355). tháng sẽ tổ chức (Nguyễn Như Ý, 1999, tr.1427). Như vậy, có thể thấy ở nghĩa thứ 2, qua giống với sang, do vậy chúng có thể thay thế nhau ở cách dùng này. Điểm khác nhau là qua còn có thể biểu thị ý nghĩa quá khứ trong khi sang chỉ biểu thị ý nghĩa tương lai. 3.3.2.1 “Qua”, “sang” là động từ gian hoặc chủ thể phi thời gian. chỉ đòi hỏi diễn tố động thể. Ví dụ: (135) a. Thế nhưng đã hết tháng 10, rồi tháng 11 lại qua...

117

b. Khi năm Rồng qua đi nhường chỗ cho năm Rắn, các đền chùa của đất nước Mặt trời mọc đồng loạt đổ 108 tiếng chuông, tiễn đưa 108 điều không lành tượng trưng của năm cũ.

c. Tết đến xuân sang, người người lại đổ về làng hoa Nhật Tân (Tây Hồ, Hà Nội) để tìm đào phai, đào bích, nhưng nhiều khách sành chơi, lại về đây để săn lùng những gốc nhất chi mai đẹp, quý giá được người dân làng âm thầm trồng, lưu giữ bao đời nay.

- Nếu chủ thể vận động không phải là thời gian, có sự phân hoá trong cấu trúc

Với qua, câu/tiểu cú đòi hỏi hai tham tố bắt buộc: hành thể/ động thể và lối đi.

Trong các ví dụ trên, “tháng 11”, “năm Rồng” và “xuân” giữ vai động thể. Với sang, chủ thể vận động thường là các mùa trong năm: sang biểu đạt sự vận động của chủ thể từ một vị trí tương lai trên dòng thời gian sang vị trí hiện tại, hiện tại đó bao chứa cả Ego. Các danh ngữ biểu đạt chủ thể chuyển động kết hợp được với sang do vậy hạn chế hơn so với qua. nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú mà sang/qua biểu đạt nội dung sự tình. Ví dụ: (136) a. 10 tỉnh, thành phố đã qua 26 ngày không ghi nhận trường hợp mắc mới COVID-19 trong cộng đồng gồm Hoà Bình, Điện Biên, Hà Giang, Bình Dương, Hưng Yên, Bắc Giang, Gia Lai, Bắc Ninh, Quảng Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh.

b. Thế nhưng qua năm 2020, Emma Watson đã lấy lại được phong độ khi nhan

sắc ngày càng lên hạng.

c. Bỗng giọng chùng lại, má tiếp: "Giờ má còn khoẻ thì gói, qua thế hệ má, tụi

bây chắc không làm nữa".

Ở ví dụ (136a), “10 tỉnh, thành phố” là động thể. Ở (136b), trong tương quan giữa hai vế câu, có thể suy ra vai hành thể (tỉnh lược) là “Emma Watson”. Ở (136c), vai hành thể hàm ẩn là con người nói chung, bao gồm trong đó cả những người thế hệ má lẫn những người trẻ thế hệ “tụi bây”. Các danh ngữ 26 ngày, năm 2020, thế hệ má là các thời khoảng mà chủ thể đi qua. Nó đóng vai trò tương tự lối đi trong không gian. Ví dụ (133c) cho thấy người Việt tri nhận thế hệ như một thời khoảng trên dòng thời gian.

Với sang, cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú đòi hỏi hai tham tố bắt buộc:

Như vậy các sự tình biểu đạt bằng qua chỉ sự chuyển động của thời gian hoặc chủ thể phi thời gian về phía quá khứ (như ở các ví dụ (135a, b), (136a) hoặc về phía tương lai (như ở các ví dụ (136b, c)). hành thể/động thể và đích. Ví dụ: (137) a. Cô từng là Hoa khôi Áo dài nữ sinh Việt Nam 2013. Sang năm 2014, Khánh Vân tiếp tục dự thi Miss Ngôi sao và đạt danh hiệu Á hậu 2 và đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019.

b. Sang đến tuần thứ hai, bộ phim đã bị cắt số rạp xuống còn 40, chỉ thu được

118

thêm 4.000 USD trong ba ngày cuối tuần.

Ở ví dụ (137a), “cô” – “Khánh Vân” là hành thể, đích thời gian là “năm 2014”.

Ở ví dụ (137b), “bộ phim” giữ vai động thể, vai đích là “tuần thứ hai”. Với chủ thể phi thời gian, sang biểu đạt sự vận động của chủ thể từ một thời đoạn hiện tại sang một thời đoạn tương lai, các thời đoạn nối tiếp nhau trên dòng thời gian. Các thời đoạn được định danh bằng các danh từ chỉ đơn vị thời gian như ngày, tuần, tháng, năm, mùa, thập niên, thế kỉ, thiên niên kỉ, cũng có thể bằng các danh từ chỉ các đơn vị được tính theo năm như tuổi, thế hệ, đời hoặc các danh từ chỉ đơn vị cấu thành một thực thể diễn tiến trên dòng thời gian như tập (phim), hiệp (thi đấu), giai đoạn, v.v..

Như vậy, khi chuyển khung sang thời gian, qua, sang vẫn giữ tư cách động từ nội động. Cả hai đều đi vào cấu trúc tham tố chỉ đòi hỏi diễn tố động thể, là cấu trúc không có khi chúng biểu đạt sự chuyển động trong không gian. Mặt khác, qua, sang phân hoá về cấu trúc nghĩa biểu hiện khi qua chỉ có thể đi vào cấu trúc tham tố hành thể/động thể và lối đi, còn sang chỉ có thể đi vào cấu trúc tham tố hành thể/động thể và đích. Đó đều là những cấu trúc được bảo lưu từ phạm trù không gian. Sự chuyển khung sang thời gian của qua triệt tiêu cấu trúc hành thể - đích, còn sự chuyển khung sang thời gian của sang triệt tiêu cấu trúc hành thể/động thể - lối đi; đây là hai cấu trúc mà ở phạm trù không gian, sang và qua đều có thể đi vào.

b. Qua, sang kết hợp phía trước với danh từ chỉ đơn vị thời gian tạo nên

Ví dụ: (138) sang tuần, sang tháng, sang năm, qua tuần, qua tháng, qua năm,

Từ đó có thể thấy vừa có sự biến đổi vừa có sự bảo lưu cấu trúc tham tố của qua và sang ở khung thời gian so với khung không gian. Sự chuyển khung diễn ra là do: 1. sự thay đổi ở vai động thể: vai động thể không biểu đạt thực thể không gian mà biểu đạt thực thể thời gian; 2. sự thay đổi ở vai lối đi/đích: lối đi không còn là thực thể không gian mà là một thời khoảng trong thời gian, đích không còn là một nơi chốn trong không gian mà là một thời khoảng trong thời gian. các ngữ định danh thời gian trực chỉ qua ngày. Các danh từ chỉ đơn vị thời gian kết hợp hạn chế với qua, sang trong kết cấu này. Chỉ các danh từ ngày, tuần, tháng, năm mới có thể kết hợp cùng qua tạo nên các ngữ định danh trực chỉ; với sang, khả năng kết hợp để tạo nên ngữ định danh trực chỉ này chỉ diễn ra với tuần, tháng, năm. Các ngữ định danh trực chỉ đang xét đều biểu thị các thời khoảng ở tương lai. Chúng ứng xử ngữ pháp như các danh ngữ hoặc giới ngữ chỉ thời gian. Ví dụ: (139) a. Đêm tôi vẫn hay nằm mơ sang năm sẽ được tăng lương.

b. Các cửa tiệm áo cưới dọc đường Hồ Văn Huê, quận Phú Nhuận vẫn trong

tình trạng đóng cửa, chờ sang tuần mới bắt đầu hoạt động.

119

c. Theo như kế hoạch, sang tháng sẽ ăn hỏi và đám cưới được tổ chức sau đó một tuần. d. Qua tuần chúng tôi sẽ họp với các cơ quan chức năng để bàn hướng xử lý.

e. Nếu để qua ngày, trà sẽ bị thiu. f. Nếu bán chạy thì qua tháng sẽ làm thêm một chuyến xe nữa. g. Rừng cây khuyến học ở thôn Thạch Nội qua năm sẽ khai thác lứa thứ hai.

Ở vị trí của sang năm, qua năm, sang tuần, qua tuần, sang tháng, qua tháng, qua ngày37 trong các ví dụ trên, hoàn toàn có thể thay bằng các danh ngữ năm sau, tuần sau, tháng sau, ngày mai/hôm sau, tức sang năm, qua năm và năm sau, sang tháng, qua tháng, và tháng sau, sang tuần, qua tuần và tuần sau, qua ngày và ngày mai, hôm sau là những yếu tố cùng hệ đối vị, nói cách khác sang năm, qua năm, sang tuần, qua tuần, sang tháng, qua tháng, qua ngày được xử lý như các danh ngữ. Điều này không làm thay đổi đặc điểm từ loại của qua và sang.

c. Qua là động từ làm định ngữ hạn định trong danh ngữ chỉ thời gian Đây là khả năng cú pháp chỉ có với qua mà không có với sang. Với trường hợp này, qua đứng sau các danh từ/danh ngữ chỉ đơn vị thời gian, ví dụ: (140) năm qua, tháng qua, tuần qua, hôm qua, tháng 12 vừa qua, năm 2020 vừa qua, v.v.; hoặc đứng sau các danh từ/danh ngữ biểu đạt thời khoảng, các danh ngữ có thể bao gộp trong cấu trúc ngữ giới từ hoặc không, ví dụ: (141) thời gian vừa qua, đợt mưa bão dồn dập vừa qua, trong suốt 8 năm qua, trong vòng 3 tháng qua, v.v.. Các danh ngữ có qua làm định ngữ đều biểu đạt các thời điểm, thời khoảng đã thuộc về quá khứ.

Trật tự ngữ pháp của qua trong các kết hợp đang xét ngược lại với qua, sang trong các kết hợp sang tuần, qua tuần, sang năm, qua năm, v.v.. Đi cùng với sự khác biệt ngữ pháp này là sự đối lập về ngữ nghĩa: năm qua, tuần qua chỉ thời điểm, thời khoảng quá khứ; sang tuần, qua tuần, sang năm, qua năm, v.v.. chỉ thời khoảng tương lai so với hiện tại của người quan sát.

d. Vừa qua: khi không đi sau danh từ/danh ngữ để bổ sung ý nghĩa hạn định, kết hợp vừa qua có đặc điểm của một quán ngữ biểu đạt thời gian. Quán ngữ này có vai trò trạng ngữ trong câu, tương tự các danh ngữ, giới ngữ chỉ thời gian ở (141) và cũng quy chiếu về quá khứ. Ví dụ: (142) Vừa qua, Công an phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội tạm giữ và phạt anh Vũ Viết Ngọc 6,5 triệu đồng (…).

37 Qua ngày (1) này khác với qua ngày (2) trong cách nói sống qua ngày đoạn tháng. Qua ngày (1) quy chiếu thời gian trực chỉ, thời khoảng được nói đến ở tương lai so với hiện tại của người quan sát. Qua ngày (2) chỉ sự vận động trong thời gian của chủ thể mà không quy chiếu thời gian.

120

Với sự hiện diện của vừa qua, sự tình “Công an phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội tạm giữ và phạt anh Vũ Viết Ngọc 6,5 triệu đồng” được xác định là thuộc về quá khứ gần so với thời điểm nói.

Có sự phân hoá giữa sang và qua khi tham gia vào các cấu trúc nghĩa biểu

- Qua có khả năng tham gia vào hai cấu trúc tham tố. + Một là cấu trúc tham tố chỉ đòi hỏi vai động thể, vai động thể đó do danh

Khả năng xuất hiện sau phó từ vừa tạo nên kết hợp cố định biểu đạt thời gian chỉ có với qua mà không có với sang. Đây là một điểm phân biệt nữa giữa qua và sang trong tiếng Việt. 3.3.2.2 “Qua”, “sang” là giới từ Khi là giới từ biểu thị ý nghĩa thời gian, qua thường đứng sau các động từ như trải, trôi, đi, vượt, v.v.. Ngoại trừ trải, các động từ còn lại có nghĩa gốc chỉ hoạt động di chuyển trong không gian. Kết hợp trải qua chỉ sự vận động mang tính kinh nghiệm trong thời gian của chủ thể. Trong khi đó sang thường đứng sau các động từ như bước, lùi, chuyển, lấn, dời, v.v.. hiện ở tư cách từ loại này: ngữ biểu đạt thời gian đảm nhiệm, ví dụ: (143) a. Hơn 10 tháng trôi qua, bốn cô giáo ở trường mẫu giáo Hoa Mai vẫn chưa được nhận lương, đời sống của những giáo viên này trở nên khó khăn. b. Thế kỷ 20 đi qua đánh dấu những bước tiến vĩ đại trên nhiều lĩnh vực, đặc

c. Đã 3 mùa giải trôi qua kể từ khi tiền đạo người Bồ Đào Nha đến nước Ý,

b. Anh nói: "Tôi nghĩ rằng có rất nhiều người muốn trải qua giây phút khó

c. Bờ Biển Ngà, một xứ sở từng yên bình, đã trải qua hơn một năm hỗn loạn,

38 Ở cách dùng này, danh ngữ bổ nghĩa cho giới từ qua (chu tố) đã được ẩn đi; chúng ta hiểu rằng thời gian đã chuyển động qua Ego hoặc một điểm mốc nào đó tuỳ trường hợp. Với ví dụ (143a, b), đó là Ego; với (143c), đó là mốc quy chiếu “khi tiền đạo người Bồ Đào Nha đến nước Ý”.

121

biệt là khoa học kỹ thuật và y học. "Lão bà" không thể tiến sâu ở đấu trường danh giá bậc nhất châu Âu. Trong các ví dụ trên, 10 tháng, thế kỉ 20, 3 mùa giải đều là các danh ngữ biểu đạt thời gian giữ vai động thể; qua là giới từ38 làm bổ ngữ chỉ hướng cho các động từ trôi, đi. + Hai là cấu trúc tham tố đòi hỏi hai diễn tố là hành thể/động thể và lối đi, vai hành thể/ động thể là chủ thể phi thời gian, vai lối đi là các thời khoảng, như trong các ví dụ sau: (144) a. Trải qua hơn 130 năm là đất quân sự thuộc nhiều chế độ, khu đất Mang Cá đứng trước cơ hội lịch sử được giao về cho Di tích Huế quản lý, phát huy giá trị. khăn này. kể từ khi cựu lãnh đạo độc tài, Tướng Robert Guei, đảo chính năm 1999.

Khi qua là giới từ, với câu có tình thái thực hữu, các sự tình biểu đạt bằng

- Sang chỉ tham gia vào cấu trúc nghĩa biểu hiện hành thể/động thể và đích,

Ở (144a, c), động thể là “khu đất Mang Cá”, “bờ biển Ngà”, đấy đều là các chủ thể không phải con người. Ở (144b), hành thể là con người (“nhiều người”). Các biểu đạt thời gian hơn 130 năm, giây phút khó khăn này, hơn một năm hỗn loạn chỉ thời khoảng trên đó chủ thể chuyển động. Như vậy, trong khung thời gian, khi qua là giới từ chỉ hướng, cấu trúc tham tố của câu/ tiểu cú giống với khi qua là động từ. Qua là giới từ thời gian bảo lưu cấu trúc tham tố hành thể/động thể - lối đi của qua là giới từ không gian trong đó vai lối đi do danh ngữ biểu đạt thời khoảng đảm nhiệm. Nhưng sự phát triển nghĩa của qua giới từ thời gian kéo theo sự thay đổi cấu trúc tham tố so với qua giới từ không gian, đó là câu/tiểu cú có nó có thêm cấu trúc tham tố với một diễn tố duy nhất là động thể, động thể này do danh ngữ thời gian đảm nhiệm. động từ + qua đã thuộc về quá khứ. vai đích luôn do các danh ngữ chỉ thời khoảng biểu đạt. Ví dụ: (145) a. Chiến sự tại Ukraine đã bước sang ngày thứ 50.

b. Năm nay, Đại tướng Võ Nguyên Giáp bước sang tuổi 101. c. Trong trường hợp AFF Cup 2020 lùi sang năm sau, VFF cùng HLV Park Hang Seo sẽ có điều chỉnh kế hoạch chuẩn bị của tuyển Việt Nam cho chiến dịch vòng loại World Cup 2022.

Ở (145a, c), “Chiến sự tại Ukraine”, “AFF Cup 2020” đều không phải là con người, nên vai nghĩa trong câu là vai động thể. Ở (145b), chủ thể hành động là con người – “Đại tướng Võ Nguyên Giáp” nên vai nghĩa là vai hành thể. Các biểu đạt thời gian ngày thứ 50, tuổi 101, năm sau biểu thị vai đích. Như vậy, trong khung thời gian, khi sang là giới từ, không có cấu trúc tham tố chỉ gồm một diễn tố như khi sang là động từ. Sang là giới từ chỉ hướng thời gian bảo lưu cấu trúc tham tố hành thể/động thể - đích của sang là giới từ chỉ hướng không gian trong đó vai đích do danh ngữ biểu đạt thời khoảng đảm nhiệm. Sang giới từ chỉ thời gian bảo lưu cấu trúc nghĩa biểu hiện của sang giới từ chỉ không gian và do vậy khác với qua giới từ chỉ thời gian ở chỗ nó không đi vào cấu trúc tham tố với một diễn tố duy nhất là động thể.

Từ những phân tích trên có thể thấy, trong so sánh với qua, một từ mà thoạt nhìn có vẻ có khả năng thay thế cho sang khi biểu đạt không gian lẫn thời gian, sang vẫn khác với qua ở nhiều đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp và tri nhận. Có thể thấy điều này rõ hơn qua bảng 3.2 dưới đây.

122

Nhìn vào bảng 3.2 có thể thấy, khi là động từ biểu đạt sự chuyển động trong không gian, sang và qua giống nhau về ngữ nghĩa lẫn cấu trúc tham tố mà chúng tham gia vào. Khi toả tia sang khung thời gian, sự phân hoá giữa chúng trở nên rõ

ràng, ngoại trừ sự giống nhau ở khả năng tham gia vào cấu trúc tham tố một diễn tố (động thể). Ở tư cách từ loại giới từ, sự phân hoá giữa sang và qua diễn ra ngay từ ở phạm trù không gian: mặc dù ý nghĩa giống nhau nhưng cấu trúc tham tố mà giới từ sang tham gia vào đã khác với cấu trúc tham tố mà giới từ qua có thể xuất hiện; ở phạm trù thời gian, chúng hoàn toàn khác biệt. Những khác biệt này giữa sang và qua là lí do để cả hai cùng tồn tại trong hệ thống dù giữa chúng có những điểm tương đồng nhất định.

Bảng 3.2 So sánh qua và sang trong biểu đạt không gian và thời gian

KHÔNG GIAN

Ý nghĩa Ý nghĩa

Từ loại

Vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu

Qua THỜI GIAN nghĩa Vai cấu trong trúc nghĩa biểu hiện của câu - Động thể thể/ - Hành động thể và lối đi

- Chuyển động trong thời gian về quá khứ (chủ yếu) hoặc tương lai - Thời điểm/thời khoảng quá khứ

Chuyển động trong không gian trên mặt phẳng ngang Động từ nội động - Hành thể và đích - Hành thể/ động thể và lối đi - Động thể - Hành thể/ động thể và đích Sang

Qua Hành thể/ động thể và lối đi

Giới từ

thể/ thể và Sang Hành động đích - Động thể thể/ - Hành động thể và lối đi - Hành thể/ động thể và đích

123

Hướng chuyển động trong không gian trên mặt phẳng ngang - Chuyển động trong thời gian về phía lai tương (chủ yếu) hoặc từ tương lai về hiện tại. - Thời điểm/thời khoảng tương lai Hướng chuyển thời trong động gian về phía quá khứ chuyển Hướng động thời trong gian về phía tương lai

d. Trong 6 tuần qua, người ta đã đưa 11 con rùa caretta đến Bệnh viện Rùa

124

3.3.2.3 Quy chiếu và phối cảnh thời gian với “qua”, “sang” a. Quy chiếu thời gian với qua, sang - Quy chiếu thời gian với qua: Không phải khi nào từ qua cũng được dùng trong quy chiếu thời gian. Trong 1000 ngữ liệu có sử dụng từ qua được khảo sát từ https://s.ngonngu.net/corpus/, có 551 ngữ liệu qua biểu đạt thời gian (chiếm 55.1%), trong đó có 391 trường hợp qua tham gia quy chiếu thời gian (chiếm 71%), 160 trường hợp qua không tham gia quy chiếu thời gian (chiếm 29%). Trong các vai trò ngữ pháp của qua ở khung thời gian, chỉ khi làm định ngữ trong danh ngữ chỉ thời điểm, thời khoảng, khi đứng trước các danh từ chỉ đơn vị thời gian để tạo nên các ngữ định danh thời gian trực chỉ và khi xuất hiện trong quán ngữ vừa qua, qua mới tham gia vào quy chiếu. Xét các ví dụ sau: (146) a. Hôm qua, chính phủ Anh công bố thiết lập mối quan hệ chính thức lần đầu tiên với CHDCND Triều Tiên tại Anh. b. Do làm ẩu, không đóng cọc giữ và cót chắn bảo vệ theo đúng quy định nên ngày 14/12 vừa qua, triều cường phá vỡ đê quai, nước biển tràn vào gây ngập mặn cả làng. c. Trong thời gian qua, các cơ quan thông tin đại chúng đã phản ánh tại một số ngân hàng ở các tỉnh miền Trung có tình trạng không giải ngân hết nguồn vốn vay khắc phục hậu quả lũ lụt. ở Marathon. e. Qua tuần chúng tôi sẽ họp với các cơ quan chức năng để bàn hướng xử lý. Với các ví dụ (146a, b, c, d), hôm qua, ngày 14/12 vừa qua biểu đạt thời điểm, trong thời gian qua, trong 6 tuần qua biểu đạt thời khoảng. Các ngữ đoạn vừa dẫn đều quy chiếu về thời điểm, thời khoảng trong quá khứ. Chúng cho biết các sự tình F (“chính phủ Anh công bố thiết lập mối quan hệ chính thức lần đầu tiên với CHDCND Triều Tiên tại Anh”, “triều cường phá vỡ đê quai, nước biển tràn vào gây ngập mặn cả làng”, “các cơ quan thông tin đại chúng đã phản ánh tại một số ngân hàng ở các tỉnh miền Trung có tình trạng không giải ngân hết nguồn vốn vay khắc phục hậu quả lũ lụt”, “người ta đã đưa 11 con rùa caretta đến Bệnh viện Rùa ở Marathon”) đều được phản ánh trong quy chiếu với điểm nhìn hiện tại chủ quan V của người quan sát, cũng là gốc của hệ toạ độ. Nền G do vậy ở thời điểm hiện tại, trùng với V. Hệ toạ độ trực chỉ được xác lập giữa G và F. Trước khi đi qua G, F vốn ở tương lai, vận động về hiện tại và đi vào quá khứ. Chiểu theo phân bố trên dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt, các sự tình thời gian trực chỉ do qua định vị ở nửa trục quá khứ, tức nửa trục phía sau của dòng thời gian trực chỉ. Khung quy chiếu hiện diện trong trường hợp này do vậy là khung quy chiếu tuyệt đối.

125

Điểm khác biệt giữa (146a, b) và (146c, d) là: (146a, b) quy chiếu về một thời điểm trong quá khứ, còn (146c, d) quy chiếu về một thời khoảng trong quá khứ. Thời khoảng có thể được xác định chính xác (như ở ví dụ (146d)) hoặc chỉ mang tính ước chừng (như ở ví dụ (146c)). Với ví dụ (146e), qua tuần biểu đạt thời khoảng ở tương lai. Đặt trong khung cảnh huống này, sự tình F “chúng tôi họp với các cơ quan chức năng để bàn hướng xử lý” thuộc về tương lai. Tương tự các ví dụ (146a, b, c, d), G trong trường hợp này trùng cũng với hiện tại chủ quan của người quan sát, tức G V. Hệ toạ độ do vậy mang tính trực chỉ. F vận động từ G về phía tương lai. Nó phân bố ở nửa trục phía trước trên dòng thời gian. (146e) do vậy là một biểu đạt của khung quy chiếu tuyệt đối trong tiếng Việt. Khi là động từ biểu đạt nội dung sự tình và khi là giới từ bổ nghĩa cho một động từ khác, qua biểu đạt hoặc tham gia biểu đạt sự chuyển động của chủ thể trên dòng thời gian mà không quy chiếu thời gian. Ở các ví dụ (135), (136), (143), (144), qua đều không quy chiếu thời gian. - Quy chiếu thời gian với sang: Tương tự như qua, sang có thể tham gia quy chiếu hoặc không. Trong 1000 ngữ liệu có sử dụng từ sang được khảo sát từ https://s.ngonngu.net/corpus/, có 76 ngữ liệu sang biểu đạt thời gian (chiếm 7.6%), trong đó có 3 trường hợp sang tham gia quy chiếu thời gian (chiếm 3.9%), 73 trường hợp còn lại sang không có chức năng quy chiếu (chiếm 96.1%). Như vậy so với qua, sang ít xuất hiện trong chức năng biểu đạt lẫn quy chiếu thời gian hơn. Chỉ khi đứng trước các danh từ chỉ đơn vị thời gian để tạo nên các ngữ định danh thời gian trực chỉ, sang mới có chức năng quy chiếu. Lúc này, khung quy chiếu hiện diện là khung quy chiếu tuyệt đối. Khác với qua, sự tình thời gian do sang định vị luôn ở tương lai. Ví dụ: (147) Năm nay thi không đậu thì sang năm ôn thi tiếp chứ có sao đâu. Trong ví dụ trên, sự tình “ôn thi tiếp” thuộc về thời khoảng “sang năm”, một thời khoảng ở tương lai trong quy chiếu với thời điểm nói ở hiện tại. Như vậy hệ quy chiếu ở đây chỉ xác lập giữa tham tố G và F, G trùng với V. Trong quy chiếu với người quan sát, F thuộc về tương lai, tức ở phía trước trên dòng thời gian. Phối kết quy chiếu trực chỉ do qua và sang biểu đạt, chúng ta sẽ thấy chúng ghép thành bức tranh hoàn chỉnh của khung quy chiếu thời gian tuyệt đối với các sự tình do qua định vị ở nửa trục quá khứ, các sự tình trực chỉ do sang định vị ở nửa trục tương lai. Dòng thời gian trong trường hợp này là dòng thời gian trực chỉ. Ngoài tư cách ngữ pháp trong mô thức vừa phân tích, ở các tư cách ngữ pháp còn lại (biểu đạt nội dung sự tình, làm trung tâm ngữ vị từ làm vị ngữ; giới từ chỉ hướng làm bổ ngữ cho các động từ khác), sang chỉ biểu đạt sự chuyển động của thực

thể trên dòng thời gian. Sang ở các ví dụ (137), (145) đều không quy chiếu thời gian, yếu tố quy chiếu thời gian là danh ngữ biểu đạt vai đích.

b. Phối cảnh thời gian với qua, sang Có hai phối cảnh chuyển động do qua và sang biểu đạt. Một là Thời gian chuyển động và hai là Ego hoặc một thực thể nào đó chuyển động trong dòng thời gian.

Thế kỉ 20

* Phối cảnh Thời gian chuyển động: mặc dầu đều biểu đạt sự chuyển động

Thế kỉ 20 Ego

của thời gian, giữa sang và qua vẫn có sự khác biệt tinh tế. - Với sự tình do qua biểu đạt, thời gian vận động qua Ego vào quá khứ, Ego đứng yên. Chủ thể thời gian là các thời khoảng. Xét lại các ví dụ ở (137). Trong các ví dụ này, “10 tháng”, “3 mùa giải”, “thế kỉ 20” là các thời khoảng vận động ngược chiều với dòng thời gian đi qua Ego vào quá khứ. Với “10 tháng”, “3 mùa giải”, lần lượt từng tháng, từng mùa giải đi qua Ego cho đến khi đạt số lượng được đề cập. Với “thế kỉ 20”, có thể xem như chỉ một đơn vị thời gian vận động qua Ego. Lấy trường hợp ‘thế kỉ 20’ để minh hoạ, có thể sơ đồ hoá phối cảnh này như sau: Sơ đồ 3.12 Phối cảnh “Thế kỷ 20 đi qua”

126

Trước khi trở thành thời gian quá khứ, thế kỉ 20 ở hiện tại chủ quan của Ego. Sau đó nó vận động xa dần Ego về phía quá khứ. Các thế kỉ ở tương lai sẽ lần lượt nối tiếp nó đi qua hiện tại, vào quá khứ. Sự vận động này của thời gian là sự vận động của các sự tình thời gian cụ thể, với tư cách là các thời điểm hoặc phân đoạn được nhận thức và phân chia ranh giới. Nó phân biệt với sự vận động của dòng thời gian tinh thần với tư cách là một trường tổng thể trên đó phân bố các thời điểm, thời đoạn. Với các danh ngữ biểu đạt thời gian có qua, ý nghĩa chuyển động của qua mờ nhạt hơn. Với hôm qua, tuần qua, tháng qua, năm qua, chúng ta thấy nét nghĩa trực chỉ của qua nổi trội hơn so với nét nghĩa chuyển động. Tuy nhiên ở các danh ngữ hoặc giới ngữ có cấu trúc mở rộng phức tạp hơn như suốt mấy tháng qua, cuối năm 2020 vừa qua, những năm vừa qua, giữa tháng 12 vừa qua, nét nghĩa chuyển động của qua hiện lên rõ nét hơn, đặc biệt với sự đánh dấu của phó từ vừa. Điều này có nghĩa là với các danh ngữ và giới ngữ biểu đạt thời điểm, thời khoảng trực chỉ này, phối cảnh thời gian chuyển động vẫn hiện diện, dù có mờ nhạt hơn, do kịch cảnh chuyển động đã được đẩy vào hậu cảnh, một kết cấu vị ngữ được mã hoá thành một kết cấu danh ngữ, nhưng không vì thế mà nó bị triệt tiêu. - Với sự tình do sang biểu đạt, người Việt chỉ tri nhận chuyển động với thực thể thời gian là mùa, các thực thể thời gian khác không xuất hiện trong phối cảnh chuyển động được biểu đạt bằng sang. Các mùa chuyển động từ tương lai về

mùa xuân

mùa xuân

hiện tại, do vậy khi nói xuân sang nghĩa là hiện tại đang là mùa xuân. Có thể minh hoạ phối cảnh này bằng sơ đồ sau: Ego hiện tại

Sơ đồ 3.13 Phối cảnh “xuân sang”

Ego trong phối cảnh này tĩnh tại. Mùa chuyển động từ tương lai về hiện tại,

bao chứa Ego. Phối cảnh thời gian chuyển động do qua biểu đạt như vậy là sự đồ chiếu kịch cảnh không gian một người hoặc một vật vận động ngược chiều đi qua người quan sát, người quan sát đứng yên. Sự đồ chiếu kịch cảnh với sang là một người hoặc một vật vận động từ phía trước đến vị trí của người quan sát, người quan sát đứng yên.

- Phối cảnh Ego hoặc một thực thể nào đó chuyển động trong dòng thời

+ Ego chuyển động trên dòng thời gian về phía tương lai, thời gian tĩnh

Xét các ví dụ sau:

b. Qua năm mới, con sẽ cố gắng hơn. (ví dụ dẫn theo Nguyễn Như Ý, 1999,

c. Sang tuần, chúng tôi sẽ triển khai quy trình tiếp theo sau khi kết luận về sai

127

gian về phía tương lai. tại. (148) a. Thế nhưng qua năm 2020, Emma Watson đã lấy lại được phong độ khi nhan sắc ngày càng lên hạng. tr..1355) phạm của lãnh đạo huyện Krông Pắk (…). Trong các ví dụ trên, qua biểu đạt sự chuyển động của Ego trên dòng thời gian. Chủ thể này lần lượt với từng ví dụ là “Emma Watson” và “con”. Với (148a), “Emma Watson” vận động từ một thời khoảng quá khứ (năm 2019) sang thời khoảng muộn hơn (năm 2020). Một phần năm 2020 đã thuộc về quá khứ, và thời khoảng năm 2020 kéo dài từ quá khứ (do đã biểu đạt) sang hiện tại đến tương lai (do ngày càng biểu đạt). Bản thân qua không tham gia quy chiếu thời gian, nó chỉ cho thấy chủ thể vận động trong dòng thời gian. Yếu tố mang trách nhiệm quy chiếu thuộc về ngữ định danh năm 2020, phó từ đã và kết hợp ngày càng. Với ví dụ (148b), chủ thể “con” vận động từ năm cũ sang năm mới. Sự tình “con sẽ cố gắng hơn” thuộc về tương lai, sau thời điểm nói. Qua trong trường hợp này cũng chỉ biểu đạt sự vận động của chủ thể mà không tham gia quy chiếu, yếu tố giữ vai trò quy chiếu là “năm mới”. Với ví dụ (148c), ngữ đoạn sang tuần cho biết chủ thể “chúng tôi” đang vận động trong dòng thời gian từ tuần này sang tuần sau, nó quy định sự tình được phản ánh mang tính

trực chỉ. Trong quy chiếu với G – hiện tại chủ quan của người quan sát, sự tình “chúng tôi triển khai quy trình tiếp theo”, “chúng tôi kết luận về sai phạm của lãnh đạo huyện Krông Pắk” thuộc về tương lai. Sang trong trường hợp này tham gia vào quy chiếu. Các phân tích về ví dụ (148) cho thấy rằng thực chất chủ thể chỉ vận động trong một thời khoảng nhất định trên dòng thời gian. Thời khoảng đó được ấn định bởi danh ngữ biểu đạt thời gian đi sau qua. Thời khoảng này thường được biểu đạt bằng danh ngữ có yếu tố chỉ đơn vị thời gian (chẳng hạn năm, tháng, tuần, ngày), cũng có thể được biểu đạt bằng đơn vị tuổi hoặc thế hệ/đời, do người Việt tri nhận tuổi và thế hệ/đời theo đơn vị năm (tuổi: 1 năm; 1 thế hệ/1 đời: vài chục năm), ví dụ: (149) a. Dù chỉ mới bước qua tuổi 25, Hạ đã vượt nhiều trở ngại, từng bước xây dựng nên thương hiệu thời trang Remmus, trở thành một trong những nhà bán hàng trẻ tuổi thành công chỉ sau thời gian ngắn đưa gian hàng lên sàn Lazada.

b. Bỗng giọng chùng lại, má tiếp: “Giờ má còn khoẻ thì gói, qua thế hệ má,

tụi bây chắc không làm nữa”.

c. Ronaldo sắp bước sang tuổi 38, nhưng hiệu suất ghi bàn của tiền đạo này

- Thực thể không phải Ego vận động trong dòng thời gian về phía tương

128

vẫn rất tốt. Các ví dụ (149) cho thấy là người Việt cũng tri nhận tuổi và thế hệ như một thời khoảng trên dòng thời gian. Điều này tương tự với tiếng Quan Thoại. Ở (149a, b), chủ thể vận động qua “tuổi 25” và qua ‘”hế hệ má” tương tự như vận động qua “năm 2020” và “năm mới”. Với (149a), ‘Ronaldo’ đang ở thời khoảng hiện tại (tuổi 37) và đang vận động vào thời khoảng tương lai (tuổi 38). Yếu tố được đưa ra cận cảnh là việc Ronaldo bước vào thời khoảng tuổi 38, thời khoảng hiện tại được đẩy vào hậu cảnh. Kết hợp bước sang không quy chiếu thời gian. Trong tất cả các trường hợp, sự vận động luôn đi về hướng tương lai. Quy tắc này được đảm bảo cả trong tình thái phi thực hữu, ví dụ: (150) Anh nói: “Tôi nghĩ rằng có rất nhiều người muốn trải qua giây phút khó khăn này”. Động từ nghĩ cho biết sự tình “rất nhiều người muốn trải qua giây phút khó khăn này” chỉ ở trong không gian tinh thần của nhân vật “anh”, nó là một phán đoán của anh mà thôi. Tuy vậy các yếu tố tình thái này không làm thay đổi kịch cảnh Ego trải qua giây phút khó khăn là đi về phía tương lai. lai, thời gian tĩnh tại. Ví dụ: (151) a. Bờ Biển Ngà, một xứ sở từng yên bình, đã trải qua hơn một năm hỗn loạn, kể từ khi cựu lãnh đạo độc tài, Tướng Robert Guei đảo chính năm 1999.

b. Công việc điều tra sẽ kéo dài vài tháng, qua cả thời hạn bầu cử. c. Phim đã dời lịch chiếu từ tháng 11 sang ngày 24.2 để có thời gian thực hiện thêm một số cảnh quay nhằm giúp cho tình tiết phim hấp dẫn, kịch tính hơn và có giá trị nhân văn hơn.

d. Thủ tướng Áo Sebastian Kurz hôm nay (24/1) cho biết, Liên minh châu Âu sẵn sàng lùi thời điểm Anh rời Liên minh châu Âu (gọi tắt là Brexit) sang tháng 5 tới.

e. Chiến sự tại Ukraine đã bước sang ngày thứ 50. Trong các ví dụ trên, “bờ Biển Ngà”, “công việc điều tra”, “lịch chiếu”, “thời điểm Anh rời Liên minh châu Âu”, “Chiến sự tại Ukraine” là các thực thể vận động trong dòng thời gian về phía tương lai. Chúng đều không phải là Ego nhưng được tri nhận vận động tương tự Ego. Sự vận động của chúng cũng trong một thời khoảng trên dòng thời gian, với (151a) là “hơn một năm”, với (151b) là “vài tháng”, qua mốc “thời hạn bầu cử”. Cùng vận động về phía tương lai nhưng sự tình vận động (ở 151a) đã thuộc về quá khứ (do đã biểu thị) trong khi sự tình vận động ở (151b) thuộc về tương lai (do sẽ biểu thị).

Ở (151c), động thể chuyển động trong thời khoảng từ tháng 11 năm hiện tại đến ngày 24 – 2 năm sau. Ở (151d), động thể chuyển dịch trên dòng thời gian từ thời điểm nói đến tháng 5. Ở (151e), động thể vận động từ quá khứ sang hiện tại (hiện tại là ngày thứ 50). Cùng vận động về phía tương lai nhưng sự tình vận động ở (151c) trải dài từ quá khứ đến tương lai, sự tình vận động ở (151d) thuộc về tương lai, sự tình vận động ở (151e) đi từ quá khứ đến hiện tại. Như vậy với cả hai phối cảnh chuyển động trong thời gian vừa phân tích, không có sự đồ chiếu kịch cảnh thực thể chuyển động từ biên bên này sang biên bên kia của một không gian, cũng không có sự đồ chiếu kịch cảnh thực thể chuyển động từ một địa điểm này đến một địa điểm khác hoặc từ một không gian này sang một không gian khác trên mặt phẳng ngang.

Những phân tích về qua và sang ở khung không gian và khung thời gian cho

phép chúng ta đi đến nhận định là:

a. Có sự chuyển khung từ không gian sang thời gian ở từ qua và từ sang trong tiếng Việt, với cả tư cách động từ lẫn giới từ. Trong quá trình toả tia ngữ nghĩa, qua và sang phản ánh sự bảo lưu lẫn biến đổi trong đồ chiếu các kịch cảnh không gian sang các kịch cảnh thời gian, biểu hiện ngôn ngữ học của hiện thực này là sự bảo lưu và biến đổi cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú mà sang, qua tham gia vào.

129

b. Không phải mọi trường hợp qua, sang đều tham gia quy chiếu thời gian. Chỉ khi làm định ngữ trong danh ngữ hoặc giới ngữ biểu đạt thời gian, khi đứng trước các danh từ chỉ đơn vị thời gian tạo nên danh ngữ thời gian trực chỉ và trong quán ngữ vừa qua, qua mới có chức năng quy chiếu. Khi đó khung quy chiếu hiện diện là khung quy chiếu tuyệt đối, F ở quá khứ hoặc tương lai. Còn sang chỉ quy chiếu thời gian khi nó đứng trước các danh từ tuần, tháng, năm tạo nên danh ngữ thời gian trực chỉ. Khung quy chiếu hiện diện cũng là khung quy chiếu tuyệt đối với F ở tương lai.

c. Phối cảnh vận động do qua, sang biểu thị có thể hướng tương lai hoặc hướng quá khứ. Ở hướng tương lai, Ego hoặc một thực thể phi thời gian nào đó là chủ thể vận động. Ở hướng quá khứ, thời gian là chủ thể vận động; với sang, chủ thể vận động chỉ bao gồm các mùa: mùa vận động từ tương lai về hiện tại của Ego; với qua: chủ thể vận động phong phú hơn so với sang.

d. Qua và sang có những điểm giống nhau nhất định về ngữ nghĩa, ngữ pháp, tri nhận song điểm khác nhau nhiều hơn, nhất là khi chúng toả tia sang khung thời gian. Nhìn chung, qua phong phú, đa dạng hơn so với sang về khả năng kết hợp cú pháp, biểu đạt ngữ nghĩa thời gian, biểu đạt phối cảnh tri nhận, tham gia quy chiếu thời gian.

3.4 Sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian: nghiên cứu trường hợp tới, đến

Tới và đến là hai từ có nhiều điểm giống nhau trong biểu đạt không gian, thời gian và chuyển tải sự tri nhận về không gian, thời gian của người Việt. Sự giống nhau này khiến cho trong phần lớn cách dùng, chúng ta có thể thay tới bằng đến hoặc ngược lại. Tuy nhiên giữa chúng vẫn có những điểm khác nhau nhất định, đó là lý do để cặp từ này cùng tồn tại trong tiếng Việt mà không phải là triệt tiêu một trong hai theo quy tắc tiết kiệm của ngôn ngữ. Trong so sánh với sang và qua, cặp từ này có điểm giống nhau nhiều hơn. 3.4.1 Tới, đến biểu đạt không gian 3.4.1.1 “Tới”, “đến” là động từ

Từ định nghĩa trong Đại từ điển tiếng Việt, có thể khái quát rằng khi biểu nghĩa không gian với tư cách động từ, tới, đến có nghĩa chỉ sự chuyển động đến một địa điểm, ví dụ: tới nhà máy, đến nhà bạn chơi (Nguyễn Như Ý, 1999, tr.623, 1676). Tới, đến biểu đạt sự chuyển động trong không gian chỉ xuất hiện với tư cách động từ nội động. Đối tượng chuyển động có thể là hành thể hoặc động thể. Ví dụ: (152) a. mời bạn tới nhà

(ví dụ dẫn theo Hoàng Phê (2009, tr. 1261))

b. Tôi đến nhà bạn chơi. (ví dụ phỏng theo Nguyễn Như Ý (1999, tr.623)) c. Phi thuyền tới trạm vào lúc 22h28 theo giờ miền đông nước Mỹ, nghĩa là

chỉ sau 5 giờ 45 phút sau khi bay lên từ sân bay vũ trụ Baikonur ở Kazakhstan. d. Ô tô đến bến.

(ví dụ dẫn theo Nguyễn Như Ý (1999, tr.623))

130

Ở ví dụ (152a, b), chủ thể thực hiện hành động “tới”, “đến” lần lượt là bạn, tôi – con người – nên vai nghĩa là vai hành thể. Ở ví dụ (152c, d), chủ thể chuyển động là “phi thuyền”, “ô tô” – các đối tượng vô tri – nên vai nghĩa là vai động thể.

Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú có tới, đến biểu đạt nội dung sự tình như vậy đòi hỏi hai diễn tố: vai hành thể hoặc vai động thể và vai đích. Vai đích ở các ví dụ (152) lần lượt do nhà, nhà bạn, trạm, bến biểu đạt. Tới, đến có thể thay thế nhau trong cách dùng này. 3.4.1.2 “Tới”, “đến” là giới từ Khi đi sau động từ chỉ hoạt động di chuyển trong không gian, tới, đến có tư cách từ loại giới từ. Khi là giới từ, tới, đến có sự phân hoá: 1. tới, đến biểu thị ý nghĩa đến được đích của hoạt động (Nguyễn Như Ý, 1999, tr.624, 1676; Hoàng Phê, 2009, tr.1261), lúc này sau tới, đến là danh ngữ biểu đạt địa điểm; 2. tới biểu thị hướng của hoạt động di chuyển thẳng về phía trước (Nguyễn Như Ý, 1999, tr.624, Hoàng Phê, 2009, tr.1261), sau tới không có danh ngữ biểu đạt địa điểm, đến không có ý nghĩa này.

a. Tới, đến biểu thị ý nghĩa đến được đích của hoạt động Với ý nghĩa này, tới, đến tham gia vào câu/ tiểu cú mà cấu trúc nghĩa biểu hiện

b. Mênh mông lả ơi, thuyền về tới bến mơ rồi (Phạm Duy) c. Người bán báo rong sau đó tức tốc chạy đến các ngã ba, ngã tư để bán sản

gồm hai tham tố bắt buộc là hành thể/ động thể và đích. Ví dụ: (153) a. Trưa 8/12, đội tuyển quần vợt Việt Nam về tới thành phố Hồ Chí Minh sau kỳ SEA Games 30 thành công ngoài mong đợi.

phẩm nóng hổi. nước lớn làm rơi bánh lái.

d. Theo các thuyền viên, tàu vào đến vùng cửa biển Nhật Lệ thì gặp luồng

Ở (153a, c), chủ thể hành động (đội tuyển quần vợt Việt Nam, người bán báo rong) vai hành thể. Ở (153b, d), chủ thể quá trình (thuyền, tàu) vai động thể. Các biểu đạt thành phố Hồ Chí Minh, bến mơ, các ngã ba, ngã tư, vùng cửa biển Nhật Lệ biểu thị vai đích.

Theo Nguyễn Vân Phổ, ở phạm trù không gian, tới, đến khi là giới từ, chúng

b. Tới biểu thị hướng của hoạt động di chuyển thẳng về phía trước Với ý nghĩa này, cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú chỉ đòi hỏi một tham

biểu thị đích không kèm hướng xác định (Nguyễn Vân Phổ, 2018, tr.514). tố bắt buộc, là vai động thể hoặc vai hành thể. Ví dụ: (154) bước tới một bước

(ví dụ dẫn theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê, 2009, tr. 1261))

131

Trong ví dụ trên, tới bổ nghĩa chỉ hướng cho động từ chỉ hoạt động di chuyển bước. Chủ thể của hành động “bước” trong vai hành thể được hiểu hàm ẩn. Tuy nhiên hoàn toàn có thể hiển ngôn vai nghĩa này. Ví dụ:

(155) Cô ấy bước tới một bước.

Tương tự cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú có tới là động từ, vai nghĩa chủ thể hành động trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú có tới là giới từ cũng có thể là động thể. Ví dụ: (156) Khoảng 11h ngày 20/5/1968, có tiếng máy bay gầm rú. Một chiếc lao tới, bay rà rà dọc theo đường 21 tìm kiếm xe của bộ đội nguỵ trang hai bên đường.

Trong ví dụ trên, danh ngữ một chiếc biểu đạt vai động thể. Với tới giới từ biểu đạt hướng chuyển động, cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu

chỉ đòi hỏi một diễn tố là vai hành thể hoặc vai động thể.

Tới giới từ biểu đạt hướng di chuyển thẳng về phía trước khi nó kết hợp với các động từ chỉ hoạt động di chuyển không có hướng, chẳng hạn đi, bay, nhảy, chạy, lượn, lăn, v.v. và cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú không đòi hỏi vai đích. So sánh:

(157) a. đi tới đi lui

Trường hợp này của tới không có với đến. Do vậy sẽ là bất khả chấp trong

b. *bước đến một bước

132

b. đi tới trường Trong cả hai ví dụ trên, tới đều đi sau động từ chuyển động vô hướng đi, tuy nhiên ở (157a), sau tới không có ngữ đoạn biểu thị tham tố bắt buộc chỉ đích như ở (157b). Sự hiện diện của tham tố này trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu cho thấy sự khác biệt bản chất về ngữ nghĩa, ngữ pháp giữa tới ở (157a) và tới ở (157b). tiếng Việt khi nói, chẳng hạn: (158) a. *đi đến đi lui 3.4.1.3 Phối cảnh không gian với “tới”, “đến” Tương ứng với sự phân hoá về ý nghĩa, biểu hiện ra bằng cấu trúc nghĩa biểu hiện, là sự phân hoá về phối cảnh không gian giữa ý niệm TỚI và ý niệm ĐẾN. Có hai trường hợp: a. TỚI, ĐẾN có cùng phối cảnh không gian; b. Phối cảnh không gian khả hữu với TỚI mà không có với ĐẾN. a. TỚI, ĐẾN có cùng phối cảnh không gian Điều này diễn ra với cấu trúc nghĩa biểu hiện gồm vai hành thể/động thể và vai đích. Khi đó, kịch cảnh sẽ là thực thể di chuyển từ một địa điểm/không gian nguồn đến một địa điểm/không gian đích. Yếu tố quan yếu được đưa ra cận cảnh trong kịch cảnh là đích chứ không phải nguồn. Do vậy trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu,

b. Tôi đến/tới nhà cô chơi.

133

vai nghĩa bắt buộc là vai đích chứ không phải vai nguồn, dù các kịch cảnh chuyển động này đều tiền giả định một nơi xuất phát. Nếu chỉ xét như vậy, kịch cảnh của ý niệm TỚI, ĐẾN sẽ không phân biệt với kịch cảnh của ý niệm QUA, SANG. Tuy nhiên, điểm phân biệt giữa kịch cảnh với ý niệm TỚI, ĐẾN và kịch cảnh với ý niệm QUA, SANG là: 1. khoảng cách không gian giữa NGUỒN và ĐÍCH ở QUA, SANG phải là gần hoặc kế cận, yêu cầu này không được đặt ra với TỚI, ĐẾN; 2. với TỚI, ĐẾN, kịch cảnh cấu trúc trong nó cả hướng di chuyển của chủ thể - hướng trước, trong khi kịch cảnh chuyển động với QUA, SANG không bao chứa đặc điểm này. So sánh: (159) a. Tôi sang/qua nhà cô chơi. Ví dụ (159a) không cho chúng ta hình dung về hướng di chuyển của chủ thể mà chỉ đặt trọng tâm vào vận động trên mặt phẳng ngang giữa hai địa điểm gần/kế cận trong không gian của “tôi”. Ví dụ (159b) ngoài cho thấy sự vận động trên mặt phẳng ngang còn bao hàm hướng chuyển động về phía trước trên tuyến đường nối NGUỒN và ĐÍCH của chủ thể: “tôi” di chuyển về phía trước trên đường đến nhà cô. b. Phối cảnh không gian khả dĩ với TỚI mà không có với ĐẾN Phối cảnh không gian tương ứng với cấu trúc nghĩa biểu hiện chỉ gồm vai hành thể hoặc động thể, tức phối cảnh trong đó thực thể chuyển động trên mặt phẳng ngang hướng về phía trước, hướng trước chính là hướng chuyển động, chỉ có với ý niệm TỚI mà không có với ý niệm ĐẾN trong tiếng Việt, cũng vậy không có với ý niệm QUA và ý niệm SANG. Phối cảnh này hiện diện ở các ví dụ (154), (155), (156), (157a). Với (154), (155), con người có cấu trúc định hướng nội tại, “bước tới” do vậy là bước về phía trước. Ở (156), phía trước được xác định theo hướng chuyển động của vật thể, nên “lao tới” chính là lao về phía trước. Như vậy, trong so sánh với ý niệm QUA và ý niệm SANG, không có kịch cảnh thực thể chuyển động từ bên này sang bên kia một không gian có vai trò là lối đi ở ý niệm TỚI và ý niệm ĐẾN. Ngược lại, kịch cảnh chuyển động với TỚI, ĐẾN bao gồm trong nó cả hướng chuyển động – là một thực tế tri nhận không có với QUA, SANG. 3.4.2 Tới, đến biểu đạt thời gian Khi chuyển sang khung thời gian, tới biểu đạt hai ý nghĩa: 1. đến thời khoảng, thời điểm cụ thể nào đó, ví dụ: tới mùa xuân sang năm, Chuyện đó tới bây giờ tôi mới hiểu; 2. tiếp liền sau cái hiện tại, ví dụ: tuần tới sẽ đi, thời gian tới, việc này sẽ bàn ở buổi họp tới (Hoàng Phê, 2009, tr. 1261; Nguyễn Như Ý, 1999, tr.1427). Như vậy, với nghĩa thứ hai, tới luôn quy chiếu về tương lai. Với nghĩa thứ nhất, tới có thể đánh dấu một điểm giới hạn ở tương lai (như “mùa xuân sang năm” trong tới mùa xuân sang năm) hoặc phi tương lai (như “bây giờ” trong Chuyện đó tới bây giờ tôi mới hiểu) nhưng luôn phản ánh sự chuyển động của chủ thể về phía tương lai.

(Nguyễn Bính – Thivien.net)

134

Trong biểu nghĩa thời gian, đến có cùng có ý nghĩa đầu với tới, do vậy hoàn toàn có thể thay tới bằng đến cho các ví dụ đã dẫn, tức chúng ta sẽ có các biểu đạt tương đồng là đến mùa xuân sang năm và Chuyện đó đến bây giờ tôi mới hiểu. Nhưng ý nghĩa thứ hai của tới thì không có với đến; không tồn tại các kết hợp *tuần đến, *thời gian đến hoặc *buổi họp đến để diễn tả một sự tình thời gian tiếp liền sau thời gian hiện tại trong tiếng Việt. Ở khung thời gian, tới và đến có một nội dung ngữ nghĩa quan trọng là biểu đạt sự chuyển động của thực thể, thực thể đó có thể là thời gian hoặc phi thời gian. Đây là cái cho thấy rõ sự chuyển khung từ không gian sang thời gian ở các từ hữu quan. Ví dụ: (160) a. mùa thu tới b. mùa xuân đã đến c. đến tuổi trưởng thành Từ điển tiếng Việt, Đại từ điển tiếng Việt giải thích đến trong cách dùng này có nghĩa là bắt đầu vào một thời điểm nào đó, dùng để nói về một khoảng thời gian hoặc một hiện tượng, sự việc (Hoàng Phê, 2009, tr.396; Nguyễn Như Ý, 2011, tr.623) và không đề cập đến cách dùng này của tới. Tuy nhiên có thể thấy là tới và đến giống nhau và có khả năng thay thế cho nhau ở các ví dụ (161). Ở điểm này, có lẽ hợp lý hơn là cho rằng tới, đến biểu đạt sự vận động của thực thể. Tính chất bắt đầu một thời khoảng hoặc sự bắt đầu của một hiện tượng, sự việc thực chất không phải do tới/đến biểu đạt. So sánh: (161) a. Mùa thu sắp đến. b. Mùa thu đã đến. c. Xuân đang đến trên khắp nẻo đường. d. Xuân đến, hoa mơ, hoa mận nở. Ở (161a), từ sắp đánh dấu tình thái phi thực hữu của sự tình ‘mùa thu đến’, nghĩa là mặc dù có sự hiện diện của đến, vẫn chưa có sự bắt đầu của sự tình thời gian “mùa thu”. Ở (161b), phó từ đã cho biết mùa xuân đã hiện diện từ trước thời điểm nói và hiện vẫn đang là mùa xuân (thể hoàn thành). Ở (161c), phó từ đang cho biết xuân vẫn trên hành trình tiến đến chỗ của Ego nhưng nó đã hiện hữu ở khắp các nẻo đường, nên nghĩa của đến không phải là biểu đạt sự bắt đầu của mùa xuân. Ở (161d), sự tình mùa xuân là khung nền thời gian của sự tình “hoa mơ hoa mận nở”, do vậy về mặt logic, nó phải có trước, đến trước sự tình “hoa mơ, hoa mận nở”, mà “hoa mơ, hoa mận nở” đã là một thực tại hiện hữu tại thời điểm nói nên sự tình thời gian “xuân” không thể ở thời điểm bắt đầu, nói cách khác nó đã qua thời điểm bắt đầu. Sự khác nhau giữa (161d) với các trường hợp còn lại là: ở (161d) không có sự hiện diện của

Ở khung thời gian, về mặt từ loại, tới, đến cũng có thể là động từ hoặc giới từ.

b. Chưa cần tới mùa xuân, những ngày này các vườn mận trên bản Pa Phách

c. Là một người nghiện trà sen, cứ đến mùa hoa, anh Hữu Phước (Long Biên,

- Tới biểu đạt sự vận động của thời gian từ tương lai về hiện tại. Ví dụ:

các phó từ thời gian. Tuy không có phó từ thời gian nhưng người Việt nào cũng hiểu “xuân đến” là xuân đã hiện diện chứ không phải bắt đầu. Như vậy ý nghĩa thể là ý nghĩa không nhất thiết phải được biểu đạt bằng phương tiện ngữ pháp trong tiếng Việt. Có thể coi đây là trường hợp không đánh dấu trong tiếng Việt. Những phân tích trên cho thấy rằng từ đến, và cũng vậy với từ tới, không biểu đạt ý nghĩa sự bắt đầu của một thời khoảng hoặc một hiện tượng, sự việc tại một thời điểm nhất định. 3.4.2.1 “Tới”, “đến” là động từ a. Tới, đến là động từ biểu đạt nội dung sự tình: có hai trường hợp: - Tới, đến biểu đạt sự vận động của chủ thể phi thời gian về phía tương lai. Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu luôn đòi hỏi hai diễn tố: vai hành thể/ động thể và vai đích. Ví dụ: (162) a. Anh kể, cứ gần tới giao thừa là ra khỏi nhà, tụ tập cùng đám bạn. (Mộc Châu) đã bắt đầu bừng tỉnh, điểm xuyết sắc hoa trắng tinh khôi. Hà Nội) đều đặt mua nửa cân về uống. d. Hoa đến thì thì hoa phải nở. Ở (162a, d), chủ thể chuyển động là con người, biểu đạt bằng các danh ngữ anh, anh Hữu Phước, nên vai nghĩa là vai hành thể. Ở (162b, d), chủ thể chuyển động là các sự vật không phải con người (“các vườn mận trên bản Pa Phách”, “hoa”), nên vai nghĩa là vai động thể. Các chủ thể vừa dẫn đều vận động đến một đích thời gian, lần lượt với các ví dụ trên là “giao thừa”, “mùa xuân”, “mùa hoa”, “thì”. Vai đích như vậy luôn do một danh ngữ biểu đạt thời điểm, thời khoảng đảm nhiệm. (163) a. Mùa đông đã tới, các nhóm cứu trợ cũng hy vọng lực lượng đa quốc gia do Anh chỉ huy sẽ giúp họ phân phát đồ nhân đạo và bảo đảm an ninh trong các đợt vận chuyển hàng tới miền xa.

b. Ông Putin cũng nhấn mạnh rằng “thời điểm đã tới”, cần phải có một đội ngũ mới thực thi các kế hoạch đã bàn thảo gần hai năm qua về vấn đề cắt giảm nguồn cung cấp cho quốc phòng, nhưng vẫn duy trì được sức mạnh quân sự.

c. Thực hiện phương châm "Đánh chắc, tiến chắc", ta chủ trương tiêu diệt 3 trung tâm đề kháng Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo và thời khắc lịch sử đã đến, 17h ngày 13-3-1954, Him Lam được chọn là mục tiêu mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ.

135

d. Hoa mận vừa tàn thì mùa xuân đến. (Nguyễn Kiên)

Trong các ví dụ trên, chủ thể thời gian lần lượt được biểu đạt bằng các danh ngữ mùa đông, thời điểm, thời khắc lịch sử, mùa xuân. Các chủ thể này chuyển động từ tương lai về hiện tại của Ego. Ego tĩnh trạng. Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú chỉ đòi hỏi diễn tố động thể. Theo ngữ liệu khảo sát, chủ thể thời gian trong vai động thể thường là mùa (như ở ví dụ (163a, d)) hoặc một thời điểm quan trọng, có tính chất bước ngoặt (như ở ví dụ (163b, c)).

Đây là chức năng cho thấy sự phân hoá giữa tới và đến trên nhiều bình diện. Ở chức năng này, tới thường kết hợp phía sau: - các danh từ chỉ đơn vị thời gian (tuần, tháng, năm, thứ, v.v.), ví dụ: năm tới,

- các danh ngữ chỉ thời khoảng, ví dụ: đầu năm tới, đầu tuần tới, thời gian tới,

136

Như vậy, khi toả tia sang thời gian, tới, đến bảo lưu tư cách động từ nội động. Tuy nhiên cấu trúc nghĩa biểu hiện thì không có sự giống nhau hoàn toàn giữa khung không gian và khung thời gian: 1. tới, đến có thể đi vào cấu trúc nghĩa biểu hiện một diễn tố, là cấu trúc không có với tới, đến biểu đạt sự tình chuyển động trong không gian; 2. tới, đến biểu đạt nội dung sự tình trong cấu trúc nghĩa biểu hiện hai diễn tố hành thể/động thể và đích – là cấu trúc được toả tia từ không gian. Yếu tố quy định sự chuyển khung là: 1. sự thay đổi vai động thể ở cấu trúc một diễn tố: vai động thể biểu đạt thực thể thời gian thay vì biểu đạt thực thể không gian; 2. sự thay đổi vai đích ở cấu trúc hai diễn tố: đích là một thời khoảng, thời điểm chứ không còn là một nơi chốn. Đặc điểm này của tới, đến như vậy giống với sang mà khác với qua trong biểu nghĩa thời gian (qua chỉ đi với cấu trúc hành thể/động thể và lối đi). Khi toả tia sang phạm trù thời gian, trong tư cách động từ biểu đạt nội dung sự tình, tới và đến giống nhau về từ loại, chức năng cú pháp, ngữ nghĩa từ vựng lẫn ngữ nghĩa ngữ pháp. b. Động từ tới, đến xét trong chức năng làm định ngữ hạn định của danh ngữ chỉ thời gian tuần tới, tháng tới, chủ nhật tới; mùa giải tới, v.v.. Trong kiểu kết hợp này, tới có vai trò chỉ xuất. Các danh ngữ được tạo thành đều biểu đạt thời gian trực chỉ. Chúng có thể đi vào các giới ngữ chỉ thời gian với trong hoặc vào làm trung tâm ngữ, ví dụ: trong thời gian tới, trong vòng sáu tháng tới, trong vài ngày tới, trong 24h tới, trong vòng 3 tuần tới, trong cuộc bầu cử sắp tới, trong vài thập kỉ tới, trong dịp Tết nguyên đán sắp tới, trong nhiệm kì tới, trong năm tới, vào tháng sáu và đầu tháng bảy tới, vào mùa xuân tới, vào 19/12 tới, vào tháng hai tới, v.v.. Trong khi đó đến không có khả năng hành chức như vậy. Tiếng Việt không tồn tại các kết hợp như *năm đến, *tháng đến, *đầu năm đến, *trong vòng sáu tháng đến để biểu đạt thời gian trực chỉ. Đây là điểm khác biệt quan trọng giữa tới và đến trong chức năng biểu đạt thời gian, là lí do cho sự tồn tại song hành của hai từ này ở phạm trù thời gian tiếng Việt khi sự tương đồng giữa chúng là rất lớn.

Cũng nằm trong cấu trúc danh ngữ chỉ thời gian trực chỉ, nhưng ở cách kết

- Đến kết hợp với sắp, sắp đến làm định ngữ hạn định trong danh ngữ biểu đạt

c. Sắp tới đây, với những cải tiến về kỹ thuật, các bậc cha mẹ có thể xem mặt

Các danh ngữ có tới, đến làm định ngữ vừa xét ở trên đều biểu đạt các thời

hợp khác, sự khác biệt giữa tới và đến ít hơn: - Tới kết hợp với sắp và/hoặc đây, cả sắp tới, tới đây, sắp tới đây làm định ngữ hạn định trong danh ngữ biểu đạt thời khoảng. Ví dụ: vụ mùa sắp tới, ngày 5 tháng 1 tới đây, chuyến đi sắp tới đây, v.v.. thời khoảng. Ví dụ: (164) Tôi sẽ tập trung tối đa để có kết quả tốt nhất ở kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia sắp đến. Như vậy, tới và đến đều có thể kết hợp sau phó từ sắp để tạo nên thành tố làm định ngữ hạn định trong danh ngữ thời gian. Trong số các phó từ chỉ thời gian trong tiếng Việt, chỉ duy nhất phó từ sắp đi vào kết hợp này với tới và đến. Ở kết cấu danh ngữ đang xét, phạm vi kết hợp của tới rộng hơn và linh hoạt hơn so với đến: ngoài sắp, tới còn có thể kết hợp với đại từ chỉ định đây để biểu đạt ý nghĩa trực chỉ. điểm, thời khoảng ở tương lai. c. sắp tới, tới đây, sắp tới đây, tới nay, đến nay, sắp đến Các kết hợp sắp tới, tới đây, sắp tới đây, tới nay, đến nay, sắp đến khi xuất hiện trong câu ở chức năng trạng ngữ có đặc điểm của quán ngữ chỉ thời gian. Trong đó, sắp tới, tới đây, sắp tới đây, sắp đến luôn biểu nghĩa thời gian tương lai. Ví dụ: (165) a. Sắp tới, chúng tôi sẽ cho người theo dõi và có biện pháp đối phó. b. Vì thế, tới đây, hoạt động của Hội phải hướng mạnh vào việc sinh viên nghiên cứu khoa học và tập sự nghiên cứu khoa học, đồng thời họ phải là lực lượng xung kích, nòng cốt trong việc chuyển giao khoa học công nghệ. đứa con tương lai giống mình hay giống… ai khác.

d. Sắp đến, ngành Giáo dục tỉnh Khánh Hoà mở rộng dạy học ngày 2 buổi,

ăn, nghỉ trưa tại trường cho học sinh các trường Tiểu học trong toàn tỉnh.

137

Trong các ví dụ trên, sắp tới, tới đây, sắp tới đây, sắp đến đánh dấu các sự tình được phản ánh bằng nồng cốt câu diễn ra sau thời điểm nói. Ngoại trừ (165a), ý nghĩa thời gian trong các ví dụ còn lại chỉ được biểu đạt bằng phương tiện từ vựng. Các quán ngữ còn lại - tới nay, đến nay - biểu nghĩa hiện tại. Hiện tại trong trường hợp này đóng vai trò là giới hạn của thời khoảng: các kết hợp hữu quan cho biết đã có một sự tình được xét trong khoảng thời gian không xác định kéo dài từ quá khứ đến hiện tại. Ví dụ:

b. Đến nay, người ta vẫn chưa rõ tại sao loài cá voi lại cố gắng bơi vào bờ để

(166) a. Tới nay X5 đã bán được một lượng xe rất lớn dù các tín đồ lâu năm của BMW không hẳn đã yêu thích dòng xe này. mắc cạn. Ở ví dụ (166a), sự tình “bán xe X5” đã diễn ra từ trước thời điểm hiện tại. Lượng xe rất lớn đó do vậy là được tính từ khi bắt đầu bán cho tới nay, tức từ một thời điểm trong quá khứ đến thời điểm nói. Ở (166b), sự tình “người ta chưa rõ tại sao loài cá voi lại cố gắng bơi vào bờ để mắc cạn” đã tồn tại từ trước cho đến thời điểm nói. Ở cả hai ví dụ, thời khoảng đều không được xác định chính xác. Trong các kết hợp đang xét, tới nay và đến nay không xuất hiện trong chức năng làm định ngữ hạn định của danh ngữ thời gian trực chỉ song lại có thể xuất hiện ở chức năng trạng ngữ. Như vậy ở chức năng trạng ngữ, các kết hợp hữu quan có sự giống nhau về ngữ nghĩa và chức năng cú pháp với các danh ngữ và giới ngữ biểu đạt thời gian trong tiếng Việt tuy rằng ngữ nghĩa thời gian của chúng hạn chế hơn. Mặc dù vậy, tư cách từ loại của tới và đến không vì thế mà thay đổi, lý do là chúng vẫn bảo toàn khả năng kết hợp với phó từ (sắp) như một động từ điển hình. Nếu so sánh thêm với qua trong kết hợp vừa qua, có thể thấy tính hệ thống của các diễn ngữ thời gian khá đặc biệt này trong tiếng Việt. 3.4.2.2 “Tới”, “đến” là giới từ

Có thể chỉ ra một số cấu trúc như sau: - Cấu trúc nghĩa biểu hiện chỉ gồm vai động thể, ví dụ:

b. Xuất hiện tại Hải Dương từ thế kỉ 12, bánh gai nhanh chóng nổi tiếng khắp

c. Cứ thế cô khóc, trò gào đến khi các bé dịu cơn đau mới thôi.

138

Khi là giới từ, tới, đến đánh dấu đích đến trên dòng thời gian. Khi chuyển di sang phạm trù thời gian, tới và đến cũng đánh dấu vai đích. Vai đích trong trường hợp này cần được hiểu theo nghĩa rộng. Đó là vị trí giới hạn nơi một quá trình chuyển động trên dòng thời gian chấm dứt. Khi đánh dấu vai đích, tới, đến đứng trước một danh ngữ biểu nghĩa thời gian, cả kết hợp tạo nên một ngữ giới từ biểu nghĩa thời gian. Danh ngữ chỉ thời gian biểu đạt chu tố. Khi đó cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú tuỳ thuộc vào động từ biểu đạt nội dung sự tình trong câu, nhưng luôn hiện diện vai nghĩa thời gian được đánh dấu bởi tới/đến. (167) a. Phiên toà luận tội tổng thống đã bước sang tuần thứ hai, và có thể kéo dài tới giữa tháng Giêng. xa gần và tồn tại đến ngày nay.

- Cấu trúc nghĩa biểu hiện gồm vai hành thể, vai đối thể, ví dụ:

b. Tính đến nay, nhà tôi đã làm trà đặc sản được 20 năm, ướp trà sen, trà

Ở (167a), “phiên toà luận tội tổng thống” giữ vai động thể, “giữa tháng giêng” là đích. Ở (167b), bánh gai biểu thị vai động thể, ngày nay biểu thị vai đích. Ở (167c), “cô”, “trò” là hành thể, “khi các bé dịu cơn đau mới thôi” là đích. Vai đích trong các ví dụ trên đều là chu tố. (168) a. Thompson đã chấp nhận chức bộ trưởng, nhưng đề nghị lui việc thông báo chỉ định ông tới sau Giáng sinh để ông có thể cùng gia đình đi nghỉ và về nhà chuẩn bị từ chức thống đốc. nhài được 5 năm. Trong ví dụ (168a) ở trên, xét ở phạm vi lui việc thông báo chỉ định ông tới sau Giáng Sinh, có thể thấy chủ thể của hành động “lui” hàm ẩn nhưng chúng ta vẫn hiểu là cá nhân, tổ chức có thẩm quyền ra thông báo, do vậy đó là vai lực, “việc thông báo chỉ định ông” (giữ chức bộ trưởng) là đối thể, “sau Giáng sinh” là đích; vai đích ở ví dụ này cũng là một chu tố trong câu. Ở (168b), chủ thể của hành động “làm”, “ướp” là “nhà tôi” – vai tác thể; “trà đặc sản”, “trà sen, trà nhài” là đối tượng chịu tác động – vai đối thể; tính đến nay biểu đạt vai đích, là chu tố trong câu. Chủ thể của hành động “tính” trong ví dụ này cũng là “nhà tôi” – vai hành thể.

Sự khác biệt về chức năng cú pháp giữa giới ngữ thời gian ở (167), (168a) và giới ngữ thời gian ở (168b) là giới ngữ ở (167), (168a) làm bổ ngữ cho động từ hoặc kết cấu động từ trong khi ở (168b), nó làm trạng ngữ. Đây là kiểu kết cấu trạng ngữ không điển hình trong tiếng Việt, tương tự như trường hợp vừa qua, sắp tới, sắp đến, tới đây, sắp tới đây, đến nay. Có thể khái quát kiểu kết cấu này như sau: tính đến/tới + danh ngữ chỉ thời gian. Cùng kiểu kết cấu như vậy là cho tới + danh ngữ chỉ thời gian, chẳng hạn cho tới bây giờ, cho tới lúc này, cho tới khi cô ấy nói ra, v.v..

Ngoài ra, giới từ thời gian tới, đến còn xuất hiện trong kết cấu từ… tới…, từ… đến… với từ đánh dấu thời điểm nguồn, xuất phát điểm của thời khoảng, tới, đến đánh dấu thời điểm đích, điểm kết thúc của thời khoảng. Cả kết hợp biểu đạt chu tố thời gian trong câu/tiểu cú. Ví dụ:

139

( 169) Ngày 20/12, Cơ quan khí tượng Liên Hợp Quốc thông báo hiện tượng El Nino sẽ không quay trở lại từ nay tới cuối năm 2001. Như vậy, với tư cách giới từ, trong khung thời gian, tới, đến vẫn đánh dấu vai đích, tuy nhiên vai đích lúc này chỉ làm chu tố mà không làm diễn tố như ở khung không gian. Khi chuyển khung, tới, đến không còn khả năng biểu nghĩa chỉ hướng. Vì làm chu tố nên giới ngữ có tới, đến có thể đi vào nhiều cấu trúc nghĩa biểu hiện

khác nhau, đa dạng hơn so với ở phạm trù không gian; nó có thể làm bổ ngữ của động từ, kết cấu động từ biểu đạt nội dung sự tình trong câu/tiểu cú, cũng có thể làm trạng ngữ trong câu.

Có thể khái quát sự tương đồng và khác biệt giữa tới, đến biểu đạt không gian

và tới, đến biểu đạt thời gian trong tiếng Việt như bảng sau:

Bảng 3.3 So sánh tới và đến trong biểu đạt không gian và thời gian

TỚI, ĐẾN

KHÔNG GIAN THỜI GIAN

Ý nghĩa Ý nghĩa

Từ loại

nghĩa Vai trong cấu trúc biểu nghĩa hiện của câu

thể/ thể và

Tới

Động từ nội động Chuyển động về phía trước đến một địa điểm - Hành thể/ động thể và đích Đến nghĩa Vai trong cấu trúc biểu nghĩa hiện của câu - Hành động đích - Động thể

thể/

thể/ thể và

Tới

thể/ thể và Giới từ

- Chủ thể phi thời gian chuyển động về phía tương lai đến một thời điểm, thời khoảng - Thời gian vận động từ tương lai về hiện tại Đánh dấu đích đến trên dòng thời gian

- Hướng chuyển động thẳng về phía trước - Đến được đích của hoạt động Đến được đích của hoạt động Đến thể/ thể và

- Hành động đích (chu tố) - Tác thể, đối thể và đích (chu tố) - Lực, đối thể và đích (chu tố) - v.v.. - Hành động thể - Hành động đích - Hành động đích

140

Nhìn vào bảng trên có thể thấy, ở khung không gian, tới và đến giống nhau, dù là với tư cách động từ hay tư cách giới từ. Ở khung thời gian, với tư cách động từ, tới và đến có sự phân hoá. Về bình diện ngữ nghĩa từ vựng, tới và đến giống nhau ở khả năng biểu nghĩa “đến được đích của hoạt động”, nhưng khác nhau là tới biểu đạt hướng chuyển động thẳng về phía trước của chủ thể trong khi đến thì không; theo đó tới đi vào hai cấu trúc nghĩa biểu hiện với tham tố bắt buộc là: a. hành thể/động thể, b. Hành thể/động thể - đích trong khi đến chỉ có một cấu trúc nghĩa biểu hiện với hai

tham tố bắt buộc là hành thể/động thể - đích. Với tư cách giới từ, tới và đến giống nhau trong biểu nghĩa thời gian lẫn khả năng đánh dấu đích trong cấu trúc nghĩa biểu hiện, vai đích do tới, đến đánh dấu luôn là chu tố trong câu.

b. NASA đã lên kế hoạch thực hiện 2 sứ mệnh tiếp theo trong thập kỷ tới nhằm

c. Trung tâm hứa hẹn trở thành điểm đến mua sắm, vui chơi và ẩm thực hàng

d. Sắp tới, chúng tôi sẽ cho người theo dõi và có biện pháp đối phó.

Trong khi đó, đến có chức năng quy chiếu thời gian khi nó xuất hiện trong kết

141

3.4.2.3 Quy chiếu và phối cảnh thời gian với “tới”, “đến” a. Quy chiếu thời gian với tới, đến Tới, đến có thể tham gia quy chiếu thời gian hoặc không. Với tới, trong 1000 ngữ liệu có sử dụng từ tới được khảo sát từ https://s.ngonngu.net/corpus/, có 316 ngữ liệu tới biểu đạt thời gian (chiếm 32%), trong đó có 240 trường hợp tới tham gia quy chiếu thời gian (chiếm 75.9%), 76 trường hợp còn lại tới không có chức năng quy chiếu (chiếm 24.1%). Trong khi đó với đến, có 359/1000 ngữ liệu khảo sát đến biểu đạt thời gian, chiếm 35.9%, trong đó 99 trường hợp đến quy chiếu thời gian (chiếm 27.6%), 260 trường hợp còn lại đến không quy chiếu thời gian (chiếm 72.4%). Tới có chức năng quy chiếu thời gian khi nó làm định ngữ trong danh ngữ biểu đạt thời điểm, thời khoảng hoặc trong kết hợp sắp tới. Các kết hợp đang xét đều biểu đạt thời gian trực chỉ, gốc G của hệ toạ độ ở vị trí của Ego, sự tình F thuộc về tương lai. Ví dụ: (170) a. Theo dự định, chủ nhật tới, các quan chức an ninh của Israel, Palestine và Mỹ sẽ gặp nhau để thảo luận phương cách hạn chế bạo lực trong khu vực. đưa các mẫu vật về Trái đất. ngày cho người dân, đặc biệt trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới. Với sự hiện diện của tới, các biểu đạt chủ nhật tới, trong thập kỉ tới, trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới, sắp tới đều biểu thị các thời điểm, thời khoảng ở tương lai, theo đó các sự tình được phản ánh trong câu, lần lượt với các ví dụ trên là “các quan chức an ninh của Israel, Palestine và Mỹ sẽ gặp nhau để thảo luận phương cách hạn chế bạo lực trong khu vực”, “NASA thực hiện hai sứ mệnh tiếp theo”, “trung tâm trở thành điểm đến mua sắm, vui chơi và ẩm thực cho người dân”, “chúng tôi cho người theo dõi và có biện pháp đối phó” đều được định vị trong tương lai so với hiện tại chủ quan của người quan sát. hợp sắp đến. Kết hợp này cũng biểu đạt thời gian trực chỉ, G trùng với V. Hệ quy chiếu hiện diện trong các ví dụ trên chỉ xác lập giữa tham tố G và F, F ở tương lai của G. G trùng với V. F ở phía trước trong dòng thời gian. Khung quy chiếu hiện diện do vậy là khung quy chiếu tuyệt đối.

Ngoài tư cách ngữ pháp trong mô thức vừa phân tích, ở các tư cách ngữ pháp khác (động từ làm trung tâm ngữ vị từ làm vị ngữ, biểu đạt nội dung sự tình; giới từ), tới không quy chiếu thời gian. Yếu tố xác lập quy chiếu thời gian trong trường hợp này là danh ngữ đứng sau tới, như ở các ví dụ (162), (163), (166), (167).

mùa đông

mùa đông

b. Phối cảnh thời gian với tới, đến Có hai phối cảnh thời gian biểu đạt bằng tới, đến. Một là Thời gian chuyển động và hai là Ego hoặc một thực thể nào đó chuyển động trong dòng thời gian. Với phối cảnh đầu, thời gian được tri nhận là vận động từ tương lai về phía Ego. Trong các ví dụ ở (164), các thực thể thời gian được biểu đạt bằng các diễn ngữ mùa xuân, mùa đông, thời điểm, ngày định mệnh đều vận động trong dòng thời gian từ tương lai về hiện tại. Lấy (164a) làm ví dụ. Biểu đạt mùa đông đã tới cho phép suy ý hiện tại (của Ego) đang là mùa đông. Có thể minh hoạ phối cảnh này bằng sơ đồ sau:

Ego hiện tại

Sơ đồ 3.14 Phối cảnh “mùa đông đã tới”

142

Trong phối cảnh này, Ego tĩnh tại. Nếu so với phối cảnh “xuân sang” ở sơ đồ 3.13, chúng ta sẽ thấy chúng hoàn toàn giống nhau. Vậy lí do để tồn tại xuân sang bên cạnh mùa đông đã tới hoặc thu đến là gì? Chúng tôi cho rằng phối cảnh ‘xuân sang’ không đòi hỏi cái điều là người quan sát đối diện với thời gian, hướng trước của người quan sát quay về tương lai như ở phối cảnh ‘mùa đông đã tới’, ‘thu đến’. Kịch cảnh này là sự sao phỏng của kịch cảnh không gian một đối thể đang chuyển động tới/đến trước người quan sát: Với các danh ngữ biểu đạt thời gian có tới làm định ngữ, chẳng hạn tuần tới, tháng tới, năm tới, thời gian tới, ý nghĩa chuyển động của tới bị mờ đi, tính chất trực chỉ trở nên nổi trội hơn. Tuy nhiên trong một cấu trúc mở rộng, chẳng hạn trong cuộc bầu cử sắp tới, trong dịp Tết nguyên đán sắp tới, vụ mùa sắp tới, ngày 5 tháng 1 tới đây, v.v., với sự hiện diện của phó từ sắp hoặc đại từ chỉ định đây, ý nghĩa chuyển động của tới hiện lên rõ nét hơn. Cấu trúc mở rộng này cũng có với đến, chẳng hạn sắp đến trong diễn ngữ kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia sắp đến, trong đó đến cũng biểu đạt sự chuyển động của tương lai về hiện tại chủ quan của người quan sát. Thực tế này cho phép đi đến nhận định là với các danh ngữ, giới ngữ biểu đạt thời gian trực chỉ có tới, đến làm thành tố phụ biểu nghĩa tương lai, phối cảnh thời gian chuyển động vẫn hiện diện, tuy mờ nhạt hơn, do kịch cảnh chuyển động đã bị đẩy lùi vào hậu cảnh.

Trong danh ngữ ngày 5 tháng 1 tới đây vừa được dẫn trên, đây chỉ xuất vị trí hiện tại chủ quan của người quan sát, mặt khác, danh ngữ vừa dẫn biểu nghĩa tương lai, nên phối cảnh hiện diện là thời gian vận động từ tương lai về phía Ego. Theo đó, có thể suy ra rằng, các quán ngữ tới đây, sắp tới đây, sắp tới biểu đạt sự vận động của thời gian về phía Ego.

Với phối cảnh thứ hai, chủ thể vận động trong dòng thời gian về phía tương

b. Dù sắp đến ngày sinh con, Trần Khải Lâm vẫn rong ruổi khắp nơi.

lai. Có hai trường hợp: - Ego chuyển động về phía tương lai, thời gian tĩnh tại. Sự vận động này có thể là vận động từ vị trí hiện tại của Ego trên dòng thời gian đi vào tương lai, như trong ví dụ sau: (171) a. Gật đầu cười tươi và ngó bâng quơ ra cửa sổ, bà nội rớm nước mắt rồi nói thầm trong miệng: “Đã tới tết đâu, ra giêng e còn lâu lắm”. Trong ví dụ (171a) ở trên, chủ thể con người sẽ vận động từ thời điểm nói đến “Tết”, thậm chí là “ra giêng”, “Tết” hay “ra giêng” đều tĩnh tại. Ở ví dụ (171b), nhân vật “Trần Khải Lâm” sẽ vận động từ hiện tại đến thời điểm “ngày sinh con”, một thời điểm ở tương lai. Như vậy các sự tình thời gian được phản ánh đều phân bố trên nửa trục tương lai của dòng thời gian trực chỉ.

Ego cũng có thể vận động từ một mốc thời gian trong quá khứ đến hiện tại; sự vận động của Ego được phản ánh do vậy chỉ phân bố trên nửa trục quá khứ, hướng vận động vẫn là về phía tương lai, cùng chiều với dòng thời gian; như trong ví dụ sau:

b. H’Khuyn bảo không phải không có lúc mệt mỏi, muốn đi, muốn đổi công

- Thực thể không phải Ego vận động trong dòng thời gian về phía tương

143

(172) a. Sau khi chia tay, siêu mẫu đình đám Kate Moss đã suy sụp trong một thời gian dài và cho tới tận bây giờ cô vẫn khẳng định Johnny Depp là người duy nhất khiến cô cảm thấy tin tưởng. việc, nhưng nghĩ kỹ lại thì vẫn không đành, thế là gắn bó đến giờ. Ngữ liệu (172a) cho thấy sự tình “chia tay” đã diễn ra trong quá khứ. Kate Moss đã trải qua khoảng thời gian từ chia tay cho đến bây giờ, nói cách khác, cô ấy là chủ thể vận động trong thời gian từ một thời điểm quá khứ (sau khi chia tay) đến hiện tại. Ngữ liệu (172b) cho biết H’Khuyn đã gắn bó với công việc của mình từ trong quá khứ cho đến hiện tại, nói cách khác, thời khoảng gắn bó chính là thời khoảng mà chủ thể đã vận động trong dòng thời gian. lai, thời gian tĩnh tại. Ví dụ: (173) a. Chưa cần tới mùa xuân, những ngày này các vườn mận trên bản Pa Phách (Mộc Châu) đã bắt đầu bừng tỉnh, điểm xuyết sắc hoa trắng tinh khôi.

b. Hoa đến thì thì hoa phải nở.

Trong ví dụ (173a), “các vườn mận trên bản Pa Phách” là chủ thể vận động về phía “mùa xuân”, “mùa xuân” được tri nhận là ở phía trước, thuộc về tương lai. Ở ví dụ (173b), hoa là đối tượng vận động trong dòng thời gian đến thời điểm được định danh là thì. Tương tự như ví dụ (173a), “thì” là thời điểm ở tương lai so với vị trí hiện tại của “hoa” trên dòng thời gian, vì lẽ chuyển động do đến biểu đạt là chuyển động hướng trước, mặt khác, theo phân tích về dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt, tương lai phân bố ở phía trước.

Những phân tích về tới và đến ở khung không gian và khung thời gian cho

phép chúng ta đi đến nhận định là:

a. Có sự chuyển khung từ không gian sang thời gian ở từ tới, đến trong tiếng Việt, với cả tư cách động từ lẫn giới từ. Trong quá trình toả tia ngữ nghĩa, tới, đến phản ánh sự bảo lưu lẫn biến đổi trong đồ chiếu các kịch cảnh không gian sang các kịch cảnh thời gian, biểu hiện ngôn ngữ học của hiện thực này là sự bảo lưu và biến đổi cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu/tiểu cú mà tới, đến tham gia vào.

b. Đa số trường hợp tới tham gia vào quy chiếu thời gian. Khi làm định ngữ trong ngữ danh từ hoặc trong kết hợp sắp tới, tới đây, sắp tới đây, tới có chức năng quy chiếu. Khả năng tham gia quy chiếu thời gian của đến ít hơn, chỉ khi đến xuất hiện trong kết hợp sắp đến, đến nay, tính đến nay làm trạng ngữ trong câu hoặc cả kết hợp làm định ngữ trong danh ngữ biểu nghĩa thời gian, đến mới có chức năng quy chiếu. Khi đó khung quy chiếu hiện diện là khung quy chiếu tuyệt đối, F ở tương lai, hệ quy chiếu xác lập trên dòng thời gian trực chỉ.

c. Phối cảnh vận động do tới, đến biểu thị hướng về phía tương lai nếu Ego hoặc một thực thể phi thời gian nào đó là chủ thể vận động. Khi thực thể vận động là thời gian, hướng vận động sẽ là từ tương lai về hiện tại của Ego.

d. Tới và đến có nhiều điểm giống nhau về ngữ nghĩa, ngữ pháp, tri nhận, tuy nhiên chúng khác nhau ở khả năng tham gia vào cấu tạo biểu thức quy chiếu trực chỉ: đến tuyệt nhiên không xuất hiện với tư cách yếu tố chỉ xuất thời gian trong khi tới thì có; tới có khả năng kết hợp rộng hơn với danh từ, danh ngữ biểu đạt thời gian, với phó từ sắp và đại từ chỉ định nay, đây để tạo nên biểu thức thời gian trực chỉ, khả năng kết hợp để tạo nên biểu thức thời gian trực chỉ của đến hẹp hơn, chỉ với phó từ sắp và đại từ nay.

144

3.5 Nhận xét về lùi, sang, qua, tới, đến Các từ mà luận án chọn nghiên cứu trường hợp khác nhau về khả năng biểu đạt thời gian cũng như khả năng quy chiếu thời gian. Bảng dưới đây tổng hợp kết quả khảo sát về khả năng biểu đạt thời gian của các từ hữu quan trên kho ngữ liệu Việt ngữ https://s.ngonngu.net/corpus/. Mỗi từ được khảo sát trên 1000 ngữ liệu.

Bảng 3.4 Khả năng biểu đạt thời gian của lùi, sang, qua, tới, đến

TỔNG

BIỂU ĐẠT THỜI GIAN KHÔNG BIỂU ĐẠT THỜI GIAN TỪ

Số lượng Tỉ lệ %

Số lượng Tỉ lệ % Số lượng 34.2 55.1 7.6 31.6 35.9 342 551 76 316 359 658 449 924 684 641 Tỉ lệ % 65.8 44.9 92.4 68.4 64.1 1000 1000 1000 1000 1000 100 100 100 100 100 Lùi Qua Sang Tới Đến

Nhìn vào bảng trên có thể thấy, các từ hữu quan không chỉ biểu đạt thời gian mà còn biểu đạt các phạm trù khác. Trong số năm từ đang xét, qua là từ có khả năng biểu đạt thời gian cao nhất, tiếp đến là đến, lùi và tới, thấp nhất là sang. Lùi, tới, đến tương tự nhau về khả năng biểu đạt thời gian. Xét trong từng cặp từ, qua có số lần biểu đạt thời gian vượt trội so với sang; đây là con số phản sánh rõ nét qua được người Việt sử dụng để biểu đạt thời gian thường xuyên và phổ biến hơn so với sang, nó cũng tương ứng với việc qua có kết hợp ngữ pháp đa dạng hơn, biểu nghĩa thời gian phong phú hơn và chuyển tải tri nhận thời gian phức tạp hơn so với sang. Với cặp tới và đến, số lần xuất hiện của chúng không chênh nhau nhiều; điều đó cho thấy mức độ thường xuyên mà tới và đến được người Việt sử dụng để biểu đạt thời gian là gần như nhau; đây là hệ quả của việc tới và đến có nhiều điểm giống nhau về ngữ nghĩa, ngữ pháp, tri nhận trong biểu đạt thời gian. Trong năm từ đang xét, lùi chỉ biểu đạt sự chuyển động của thời gian hoặc chủ thể phi thời gian mà không tham gia quy chiếu. Bốn từ còn lại có thể được sử dụng để quy chiếu hoặc không. Bảng dưới đây khái quát khả năng tham gia quy chiếu thời gian của qua, sang, tới, đến.

Bảng 3.5 Khả năng tham gia quy chiếu thời gian của qua, sang, tới, đến

KHÔNG QUY CHIẾU THỜI GIAN TỪ Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %

145

TỔNG SỐ LẦN ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ BIỂU ĐẠT THỜI GIAN TRÊN 1000 NGỮ LIỆU 551 76 316 359 QUY CHIẾU THỜI GIAN Số lượng 391 3 240 99 71 3.9 75.9 27.6 Qua Sang Tới Đến 160 73 76 260 29 96.1 24.1 72.4

Bảng trên cho chúng ta thấy rằng tới là từ được sử dụng để quy chiếu thời gian nhiều nhất trong bốn từ đang xét (75.9%), tiếp đến là qua (71%), sau đó là đến (27.6%), ít nhất là sang (3.9%). Xét trong cùng cặp, trong khi qua tham gia quy chiếu với tỉ lệ rất cao thì sang lại rất ít tham gia quy chiếu, tỉ số tham gia quy chiếu giữa hai từ là 18 : 1; tới tham gia quy chiếu nhiều hơn hẳn so với qua, tỉ số số tham gia quy chiếu giữa tới và đến là 2.4 : 1. Những con số này cho thấy mặc dù có những điểm giống nhau trong biểu đạt thời gian giữa các từ qua và sang, tới và đến, chúng vẫn khác nhau rất nhiều về khả năng biểu đạt cũng như khả năng quy chiếu thời gian. Xét về khả năng biểu đạt thời gian trực chỉ, trong số năm từ đang xét, lùi không biểu đạt thời gian trực chỉ. Bốn từ còn lại đều có thể đi vào các kết hợp biểu đạt thời gian trực chỉ. Bảng dưới đây khái quát khả năng tham gia vào kết hợp biểu đạt thời gian trực chỉ của sang, qua, tới, đến.

Bảng 3.6 Khả năng tham gia vào kết hợp biểu đạt thời gian trực chỉ của sang, qua, tới, đến

TỪ YẾU TỐ KẾT HỢP

Sang + Qua + Tới + Đến -

Danh từ chỉ đơn vị thời gian39 Danh ngữ biểu đạt thời gian

Phó từ

Đại từ Sắp Vừa Nay Đây - - - - - + - + - - + + - + + + + - + -

39 Trong luận án Prepositions derived from path verbs in Vietnamese (Các giới từ phái sinh từ động từ chỉ hoạt động di chuyển có hướng trong tiếng Việt), Nguyen Hoang Phuong mô tả rằng các từ chỉ mùa (xuân, hạ/hè, thu, đông) đều có thể kết hợp với bốn từ trên; ngày, tuần, tháng, năm kết hợp được với qua, tới nhưng kết hợp hạn chế, có điều kiện với đến; tuần, tháng không kết hợp với sang; ngày, năm kết hợp hạn chế, có điều kiện với sang; các từ chỉ buổi trong ngày đều kết hợp được với qua; chiều kết hợp được với sang trong khi sáng, trưa, tối, đêm thì không; chiều, tối, đêm kết hợp được với đến, tới trong khi sáng, trưa thì không (Nguyen, 2017, tr.126-129). Quan sát và mô tả của Nguyen Hoang Phuong (2017) không giới hạn ở các biểu thức biểu đạt thời gian trực chỉ như luận án đang thực hiện.

146

Nhìn vào bảng trên có thể thấy, tới có khả năng kết hợp rộng nhất, sang có khả năng kết hợp hạn chế nhất. Các từ hữu quan khác nhau trong khả năng kết hợp với danh từ chỉ đơn vị thời gian, danh ngữ biểu đạt thời gian, phó từ và đại từ chỉ định để tạo nên các biểu đạt thời gian trực chỉ. Bên cạnh chỉ ra những điểm giống nhau giữa chúng, bảng trên cũng đồng thời cho thấy sự khác biệt của các từ đang xét trong hệ thống các từ không gian chỉ thời gian; sự khác biệt này tạo nên giá trị và vị thế của chúng, cũng là lí do để chúng tồn tại khi các yếu tố trong cặp qua – sang, tới – đến giống nhau ở nhiều điểm trên cả bình diện ngữ nghĩa, ngữ pháp và tri nhận.

Trong tiếng Việt tồn tại các biểu đạt thời gian trực chỉ thành hệ thống như: - tuần trước – tuần này – tuần sau, tháng trước – tháng này – tháng sau, năm trước – năm nay – năm sau, quý trước – quý này – quý sau, v.v.. Với các biểu đạt này, sự tình thời gian được tri nhận như những điểm tĩnh tại trên dòng thời gian và được quy chiếu với Ego, khung quy chiếu hiện diện là khung quy chiếu nội tại biến thể trực chỉ. - tuần qua – tuần này – tuần tới, tháng vừa qua – tháng này – tháng tới, năm qua – năm nay – năm tới, quý vừa qua – quý này – quý tới, v.v.. Có thể thấy các biểu đạt này quy chiếu về các thời khoảng giống với các biểu đạt vừa liệt kê ở trên, nghĩa là hiệu lực quy chiếu của chúng giống nhau. Các sự tình thời gian do chúng biểu đạt cũng được đặt trong quy chiếu với Ego. Điểm khác biệt là ở các ví dụ này, phối cảnh là phối cảnh Thời gian chuyển động, khung quy chiếu hiện diện là khung quy chiếu tuyệt đối. Riêng với đơn vị thời gian “năm”, tiếng Việt có kết hợp năm ngoái. Chỉ duy nhất năm mới kết hợp với ngoái để tạo nên biểu đạt thời gian trực chỉ, còn các yếu tố biểu đạt đơn vị thời gian khác thì không. Trong chuỗi định danh các năm liền kề nhau từ quá khứ đến tương lai, chúng ta có năm ngoái biểu đạt thời gian quá khứ, năm nay biểu đạt thời gian hiện tại, sang năm biểu đạt thời gian tương lai. Với năm ngoái, chúng ta có thể hình dung Ego đang nhìn về phía trước; để nhìn về một thời điểm, thời khoảng trong quá khứ, Ego phải “ngoái đầu” nhìn lại. Như vậy “năm ngoái” ở phía sau Ego, cũng là ở nửa trục phía sau trên dòng thời gian, khung quy chiếu hiện diện do đó là khung quy chiếu tuyệt đối. Còn với sang năm, sự tình thời gian do nó biểu đạt gắn với phối cảnh Ego chuyển động, thuộc về tương lai, ở phía trước Ego; khung quy chiếu đi với nó như đã phân tích ở mục 3.4.2.3 là khung quy chiếu tuyệt đối. Như vậy, để chỉ năm tiếng Việt có 3 hệ thống: năm trước – năm nay – năm sau, năm qua – năm nay – năm tới, năm ngoái – năm nay – sang năm. Mỗi hệ thống như vậy đều có những đặc điểm ngữ nghĩa, tri nhận khác với các hệ thống còn lại dù về chức năng quy chiếu và mốc quy chiếu chúng giống nhau. Sự khác biệt đó là lí do để cùng lúc tiếng Việt tồn tại ba hệ thống định danh về “năm” như vậy.

147

Với các từ sang và qua, khi toả tia ngữ nghĩa sang khung thời gian, chúng vẫn bảo lưu thuộc tính gần, kế cận trong cấu trúc kịch cảnh không gian. Chính vì vậy sang, qua chỉ đi vào các chuỗi thời gian kế cận và cùng đơn vị: người Việt nói từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, từ tháng giêng qua tháng hai, từ năm này sang năm nọ, từ tuần này sang tuần kia, từ tôi phút trước sang tôi phút này, từ thu sang đông. Khi nói như vậy, người Việt hình dung ngày này - ngày khác, tháng này - tháng khác, tháng giêng - tháng hai, năm này - năm nọ, tuần này - tuần kia, phút trước - phút này là một chuỗi các thời khoảng kế cận, liên tiếp nhau. Cũng chính vì đặc điểm này mà trong tiếng Việt, sẽ là thiếu tự nhiên khi nói ?từ xuân sang thu, ?từ hè qua đông, trừ phi khoảng thời gian thời gian đó gắn với hoạt động văn hoá, đặc điểm thời tiết hoặc đặc điểm sinh học của đối tượng được phản ánh. Ví dụ:

(174) a. Mặc dù vòng đời của bồ công anh kéo dài từ xuân sang thu, lá trở nên đắng hơn vào mùa thu, và dùng để tẩy giun tốt hơn.

b. Đà Lạt chuyển mình trong màu áo mới qua mỗi mùa, sắc hoa rực rỡ thay

đổi liên tục từ xuân sang đông.

c. Đặc biệt, tại thời điểm chuyển mùa như từ đông sang hè hay mùa mưa sang mùa khô, tỉ lệ người mắc bệnh tai mũi họng càng tăng cao, đặc biệt đối với trẻ nhỏ, người cao tuổi.

d. Tháng 11 này, du khách đến New Zealand sẽ như bước qua cánh cửa thần

kỳ, trải nghiệm chuyến du hành vượt thời gian từ thu sang xuân ảo diệu. Dữ liệu trên kho ngữ liệu giúp khẳng định thêm đặc điểm phản ánh các khoảng thời gian kế cận của sang. Sang biểu đạt sự chuyển dịch các mùa kế cận: từ xuân sang hè (54 mẫu), từ hè sang thu (39 mẫu), từ thu sang đông (49 mẫu), từ đông sang xuân (41 mẫu); trong khi đó, sang không hoặc hiếm khi biểu đạt sự chuyển dịch cách mùa hoặc trật tự thời gian ngược lại với trật tự mùa thông thường xuân – hạ – thu – đông: từ hè sang xuân (0 mẫu), từ thu sang xuân (2 mẫu), từ thu sang hè (0 mẫu), từ đông sang thu (0 mẫu), từ xuân sang đông (1 mẫu). Riêng từ hè sang đông có 6 mẫu, từ đông sang hè có 19 mẫu; lí do cho thực tế ngôn ngữ này là sự phân chia hai mùa khí hậu ở Việt Nam – mùa mưa và mùa khô/mùa nắng – mà đặc điểm khí hậu của hai mùa này giống với mùa đông và mùa hè trong bảng phân chia bốn mùa.

3.6 Tiểu kết

Trong chương này, luận án đã phân tích sự tri nhận và biểu đạt thời gian qua không gian với các trường hợp từ lùi, sang, qua, tới, đến. Kết quả phân tích cho thấy: Có sự chuyển khung của các từ hữu quan từ phạm trù không gian sang phạm trù thời gian. Trong quá trình toả tia ngữ nghĩa, chúng đa phần bảo lưu các cấu trúc nghĩa biểu hiện ở phạm trù không gian, bên cạnh đó chúng cũng có thể mất đi cấu trúc diễn tố vốn có ở phạm trù không gian hoặc có thêm cấu trúc nghĩa biểu hiện vốn không có ở khung nguồn. Điều này diễn ra với các từ đang xét ở cả tư cách động từ lẫn giới từ khi chúng thực hiện chuyển khung.

Sự chuyển khung diễn ra là do sự thay đổi vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện: vai động thể, vai đích, vai lối đi, vai đối thể không chỉ thực thể không gian mà chỉ thực thể thời gian; hoặc vai động thể, vai đối thể chỉ sự kiện, hiện tượng chuyển động trong thời gian thay cho thực thể không gian.

Những mô tả về lùi, sang, qua, tới, đến cho thấy, việc lý giải ngữ nghĩa, ngữ pháp, tri nhận của từ theo lý thuyết khung giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về từ so với định nghĩa trong từ điển.

148

Bản chất trừu tượng của phạm trù thời gian và sự toả tia ngữ nghĩa của các từ không gian sang khung thời gian đưa đến nhu cầu mở rộng lý thuyết về ý nghĩa của vai đích, vai lối đi, vai động thể, vai đối thể trong cấu trúc nghĩa biểu hiện. Các vai

nghĩa này thông thường được mô tả thuộc về phạm trù không gian (Nguyễn Vân Phổ, 2018; Cao Xuân Hạo, 2005), tuy nhiên thực tế cho thấy nó cũng là một vai nghĩa hiện hữu ở phạm trù thời gian khi thời gian được tri nhận theo lối ẩn dụ là các chuyển động trong không gian.

Khi tham gia vào biểu thức biểu đạt thời gian trực chỉ, sự tình thời gian do sang, qua, tới, đến quy chiếu thuộc khung quy chiếu tuyệt đối dòng thời gian trực chỉ. Trong đó các sự tình do sang, tới, đến quy chiếu thuộc nửa trục tương lai (ngoại trừ trường hợp tới nay, đến nay), các sự tình do qua quy chiếu thuộc nửa trục quá khứ. Lùi không tham gia cấu tạo biểu thức biểu đạt thời gian trực chỉ.

149

Về phối cảnh thời gian, ở hướng quá khứ, lùi biểu đạt 3 phối cảnh: Ego vận động trong dòng thời gian về phía tương lai, theo đó một thời điểm/thời khoảng ở quá khứ sẽ xa dần Ego; Ego chuyển dịch điểm nhìn từ hiện tại về phía quá khứ; đối thể chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía quá khứ. Ở hướng tương lai, lùi biểu đạt hai phối cảnh: một là thời điểm chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai, hai là đối thể (sự kiện) chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai. Với sang, có hai phối cảnh: Thời gian (mùa) chuyển động từ tương lai về hiện tại; Ego hoặc một thực thể nào đó chuyển động trong dòng thời gian về phía tương lai, thời gian tĩnh tại. Với qua, phối cảnh được nhận thấy gồm: Thời gian vận động qua Ego vào quá khứ, Ego đứng yên; Ego hoặc một thực thể nào đó chuyển động trong dòng thời gian về phía tương lai, thời gian tĩnh tại. Với tới, đến, phối cảnh thời gian gồm: Thời gian (mùa) chuyển động từ tương lai về hiện tại, thời gian đối diện với Ego; Ego hoặc một thực thể nào đó chuyển động trong dòng thời gian về phía tương lai, thời gian tĩnh tại. Như vậy, về mặt phối cảnh, có sự giống nhau giữa qua, sang, tới, đến khi đều cùng biểu đạt Ego hoặc một thực thể nào đó chuyển động trong dòng thời gian về phía tương lai. Ở phối cảnh còn lại, giữa chúng có sự phân biệt.

KẾT LUẬN

Luận án “Quy chiếu thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri

nhận” đã triển khai các nội dung sau:

1. Ở chương 1, luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, bao gồm tình hình nghiên cứu về dòng thời gian tinh thần trên cứu liệu ngôn ngữ và cứ liệu thực nghiệm, lý thuyết khung quy chiếu thời gian, sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian sang khung quy chiếu thời gian, lịch sử tiếp cận vấn đề thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận.

Chương 1 cũng trình bày các vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho việc triển khai luận án, bao gồm: các quan niệm về thời gian, các biến thể của ý niệm thời gian, các thuộc tính của thời gian, phối cảnh Ego chuyển động và Thời gian chuyển động, các mối quan hệ thời gian, mũi tên thời gian, dòng thời gian tinh thần, khái niệm khung quy chiếu và khung quy chiếu thời gian, lý thuyết khung quy chiếu không gian của Levinson, lý thuyết khung quy chiếu thời gian do Bender và cộng sự đề xuất, khái niệm khung và phạm trù toả tia.

Nội dung tổng quan và các vấn đề lý thuyết này là cơ sở để chúng tôi triển

khai các nội dung phân tích ở chương 2 và chương 3 của luận án.

2. Trong chương 2, trên nền tảng lý thuyết được xác lập ở chương 1, luận án

đi đến các kết quả nghiên cứu sau:

2.1. Xác lập dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt. Luận án đã chỉ ra rằng dòng thời gian tinh thần chủ đạo trong tiếng Việt phân bố theo phương ngang, trục trước – sau với trước chỉ tương lai, sau chỉ quá khứ; dòng thời gian theo trục dọc trong tiếng Việt rất mờ nhạt, được biểu đạt bởi số lượng diễn ngữ hạn chế, phạm vi sử dụng hẹp hoặc đã bị đẩy vào từ cổ, dòng thời gian này phân bố trục trên - dưới với trên chỉ quá khứ, dưới chỉ tương lai. Các từ chỉ trục trái - phải, trên - dưới không dùng để biểu đạt dòng thời gian trong tiếng Việt. Các phối cảnh chuyển động trên dòng thời gian thực tế đa dạng hơn so với những gì đã được các văn liệu xác lập.

150

2.2. Để làm rõ sự đồ chiếu từ các khung quy chiếu không gian lên các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt, luận án đã phân tích các khung quy chiếu không gian theo trục ngang trong tiếng Việt làm cơ sở và đi đến kết luận là: tiếng Việt tồn tại cả ba khung quy chiếu không gian. Với khung quy chiếu tuyệt đối, ngoài sử dụng các phương địa lí, người Việt còn dùng các hướng cố định trục biển – đất liền, núi rừng – đồng bằng/biển, dòng chảy của sông, trong đó chỉ có trục biển – đất liền được tri nhận theo trục ngang. Với khung quy chiếu nội tại, ngoài biến thể như mô tả của Levinson, tiếng Việt có thêm biến thể trong đó nền là đối tượng không có cấu trúc định hướng nội tại, F là con người, hướng quy chiếu được xác định dựa vào F, biến thể này cho thấy sự chuyển tiếp giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối. Với khung quy chiếu tương đối, tiếng Việt chỉ tồn tại biến thể phản chiếu, biến thể chuyển dịch mà không có biến thể luân chuyển theo hệ thống phân loại của Levinson, tuy nhiên tiếng Việt có thêm biến thể hàm ẩn biểu thị quan hệ giữa một

Hình được định vị trong một Nền, hướng của khung quy chiếu được xác lập từ không gian hàm ẩn. Ngoài ra tiếng Việt còn có các trường hợp lưỡng khả: tiếng Việt không đánh dấu phân biệt giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối ở các trường hợp một tình huống có thể được nhìn nhận theo nhiều phối cảnh, các phương tiện biểu đạt hướng vừa có thể dùng cho khung quy chiếu nội tại vừa có thể dùng cho khung quy chiếu tương đối, tiếng Việt có sự giao thoa giữa khung quy chiếu nội tại và khung quy chiếu tương đối ở thuộc tính phản chiếu hướng. Những phân tích này của chúng tôi góp phần làm phong phú thêm bức tranh mô tả khung quy chiếu không gian trong ngôn ngữ tự nhiên.

2.3. Luận án cũng đã phân tích các khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt về hệ toạ độ, sự tình động/sự tình tĩnh, phối cảnh chuyển động và rút ra kết luận như sau:

a. Khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt mô tả quan hệ thời gian song tố giữa hai sự tình trong đó sự tình F ở trước sự tình G. Hướng của khung là hướng của dòng thời gian. Trục TƯƠNG LAI/QUÁ KHỨ được tri nhận theo con đường ẩn dụ, tương ứng với trục TRƯỚC/SAU. Sự tình được phản ánh có thể động hoặc tĩnh. Với sự tình động, phối cảnh có thể là Ego chuyển động hoặc Thời gian chuyển động, sự chuyển động này luôn cùng hướng với sự vận động của dòng thời gian. Quy chiếu thời gian với khung quy chiếu tuyệt đối có thể trực chỉ hoặc phi trực chỉ.

b. Khung quy chiếu thời gian nội tại có hai biến thể tương ứng với hai kiểu quan hệ thời gian là biến thể trực chỉ và biến thể chuỗi nối tiếp. Với biến thể trực chỉ, Nền là thời điểm phát ngôn, hiện tại của Ego đóng vai trò của G, quan hệ thời gian được phản ánh là quan hệ thời gian song tố giữa F và G với TRƯỚC chỉ QUÁ KHỨ, SAU chỉ TƯƠNG LAI. Sự tình thời gian đi với biến thể trực chỉ có thể là sự tình động hoặc tĩnh. Phối cảnh chuyển động là vận động của F từ hiện tại về phía tương lai, hoặc từ hiện tại về phía quá khứ, Ego ở trạng thái tĩnh. Với biến thể chuỗi nối tiếp, G khác với Ego, quan hệ thời gian được phản ánh là quan hệ sớm hơn/muộn hơn (quan hệ chuỗi) và chỉ liên quan đến sự tình F và sự tình G mà độc lập với vị trí của người quan sát; lúc này quan hệ quá khứ/tương lai cũng được phản chiếu lêu trục TRƯỚC/SAU. Sự tình thời gian đi với biến thể chuỗi nối tiếp chỉ bao gồm các sự tình tĩnh, do vậy không có phối cảnh chuyển động với biến thể khung quy chiếu nội tại này.

Với khung quy chiếu nội tại trong tiếng Việt, quan hệ thời gian được xác định có thể cần hoặc không cần đến Ego trong vai trò Nền G, gốc X của hệ toạ độ ở vị trí của G, hướng TRƯỚC trong khung quy chiếu chỉ về quá khứ. Hướng của khung quy chiếu nội tại ngược lại với hướng của khung quy chiếu tuyệt đối.

151

c. Khung quy chiếu thời gian tương đối tiếng Việt cung cấp một thực tế khác với những gì được xác lập về mặt lý thuyết cho đến nay: khi G là một thời điểm thuộc tương lai, biến thể tìm thấy là biến thể phản chiếu; khi G là một thời điểm thuộc quá khứ, biến thể trong tiếng Việt là biến thể chuyển dịch; phối kết cả hai trường hợp

chúng ta có một mô hình mới chưa từng được phân tích trong các văn liệu về khung quy chiếu thời gian trong ngôn ngữ tự nhiên.

Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt có thể đi với sự tình động hoặc sự tình tĩnh. Với các sự tình động, có hai phối cảnh: hoặc là sự tình được quy chiếu F chuyển động, hoặc là Người quan sát di chuyển, bản thân G không vận động.

Những phân tích về khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt đưa đến yêu cầu mới: cần mở rộng lý thuyết về khung quy chiếu thời gian để có thể bao quát được nhiều hơn các trường hợp ngôn ngữ cụ thể. Kết quả nghiên cứu của luận án do vậy không những giúp kiểm chứng lý thuyết mà còn giúp bổ sung lý thuyết khung quy chiếu thời gian theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận.

2.4. Từ kết quả phân tích về khung quy chiếu không gian và khung quy chiếu thời gian trong tiếng Việt, luận án đi đến chỉ ra sự đồ chiếu khung quy chiếu giữa hai phạm trù. Kết luận của luận án là: có sự đồ chiếu mô thức của các khung quy chiếu giữa hai phạm trù, tuy vậy, không phải mọi nguyên tắc nhận thức và biểu đạt không gian đều được chuyển di sang phạm trù thời gian. Không gian có ba trục nhưng chỉ trục TRƯỚC/SAU là được đồ chiếu lên thời gian. TRƯỚC có thể đồ chiếu sang quá khứ hoặc tương lai tuỳ vào khung quy chiếu. và không hề mâu thuẫn khi TRƯỚC vừa có thể được ấn định thuộc quá khứ vừa có thể được ấn định thuộc tương lai.

Sự đồ chiếu từ khung quy chiếu không gian tuyệt đối sang khung quy chiếu thời gian tuyệt đối trong tiếng Việt chỉ bảo lưu các tham số tham gia vào hệ toạ độ, cách xác định hướng dựa vào trường tổng thể. Còn trường tổng thể, trục và hướng quy chiếu thì không được đồ chiếu.

Khung quy chiếu không gian nội tại có hai biến thể nhưng chỉ biến thể phù ứng với mô tả của Levinson, tức biến thể thể hiện quan hệ song tố giữa F và G, hướng quy chiếu của khung được xác định dựa vào hướng nội tại của G, vị trí của người quan sát không quan yếu được đồ chiếu lên thời gian; còn biến thể có hướng quy chiếu được xác định dựa vào F, xuất hiện khi Nền là đối tượng không có cấu trúc định hướng nội tại và F là con người không được đồ chiếu sang thời gian. Sự đồ chiếu bảo lưu hệ toạ độ và cách xác định hướng của khung theo trục TRƯỚC/SAU. Với biến thể khung quy chiếu thời gian nội tại chuỗi nối, chuỗi thực thể vận động trong không gian được đồ chiếu sang chuỗi các sự tình trong thời gian.

152

Với khung quy chiếu tương đối, chỉ biến thể chuyển dịch và biến thể phản chiếu được đồ chiếu sang phạm trù thời gian còn biến thể hàm ẩn thì không. Với nửa trục toả tia hướng quá khứ, phạm trù thời gian bảo lưu sự chuyển dịch hệ toạ độ từ V sang G của biến thể chuyển dịch trong không gian; với nửa trục toả tia hướng tương lai, phạm trù thời gian bảo lưu sự phản chiếu hệ toạ độ từ V sang G của biến thể phản chiếu trong không gian. Sự đồ chiếu cũng chỉ diễn ra trên trục TRƯỚC/SAU.

3. Chương 3 của luận án phân tích về sự tri nhận và biểu đạt quy chiếu thời gian qua không gian với các từ lùi, qua, sang, tới, đến. Luận án đi từ việc xác lập đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa, cấu trúc tham tố, phối cảnh chuyển động của từ hữu quan ở phạm trù không gian để phân tích sự toả tia và đồ chiếu của nó sang phạm trù thời gian. Kết quả phân tích cho thấy:

Có sự chuyển khung của các từ hữu quan từ phạm trù không gian sang phạm trù thời gian. Trong quá trình toả tia ngữ nghĩa, chúng chủ yếu bảo lưu các cấu trúc nghĩa biểu hiện ở phạm trù không gian, ngoài ra còn có sự triệt tiêu hoặc xuất hiện thêm cấu trúc nghĩa biểu hiện so với khung nguồn. Sự chuyển khung diễn ra là do sự thay đổi vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện: vai động thể, vai đích, vai lối đi, vai đối thể không chỉ thực thể không gian mà chỉ thực thể thời gian; vai động thể, vai đối thể không chỉ thực thể không gian mà chỉ sự kiện, hiện tượng chuyển động trong thời gian.

Trong 5 trường hợp nghiên cứu, lùi là từ duy nhất không tham gia cấu tạo biểu đạt thời gian trực chỉ. Các từ còn lại biểu đạt sự tình thời gian thuộc khung quy chiếu tuyệt đối. Trong đó các sự tình do sang, tới, đến quy chiếu thuộc nửa trục tương lai (ngoại trừ trường hợp tới nay, đến nay), các sự tình do qua quy chiếu thuộc nửa trục quá khứ.

Về phối cảnh thời gian, phối cảnh thời gian biểu đạt bằng lùi là đa dạng và phức tạp nhất. Ở hướng quá khứ, lùi biểu đạt 3 phối cảnh: Ego vận động trong dòng thời gian về phía tương lai, theo đó một thời điểm/thời khoảng ở quá khứ sẽ xa dần Ego; Ego chuyển dịch điểm nhìn từ hiện tại về phía quá khứ; đối thể chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía quá khứ. Ở hướng tương lai, lùi biểu đạt hai phối cảnh: thời điểm chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai; đối thể chuyển động lùi trong dòng thời gian về phía tương lai. Với các từ còn lại, phối cảnh thời gian do chúng biểu đạt có nhiều điểm giống nhau, nhất là ở phối cảnh Ego hoặc một thực thể phi thời gian nào đó chuyển động về phía tương lai; sự phân biệt về phối cảnh giữa sang, qua và tới, đến chủ yếu nằm ở phối cảnh Thời gian chuyển động; trong đó với qua, Thời gian vận động qua Ego vào quá khứ; với sang, Thời gian chuyển động từ tương lai về hiện tại; với tới, đến, Thời gian chuyển động từ tương lai về hiện tại, thời gian đối diện với Ego.

153

Với những nội dung đã được trình bày, luận án vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngõ. Các vấn đề như quy chiếu thời gian của nhóm đại từ chỉ định, sự tri nhận và biểu đạt ý niệm THỜI GIAN TUẦN HOÀN trong tiếng Việt, phân tích trường hợp theo cặp từ trái nghĩa (ví dụ: lùi - tiến, ra - vào, trong - ngoài, v.v.); phân tích các kết hợp biểu đạt thời gian gồm một yếu tố chỉ thời gian và một yếu tố chỉ không gian, phân tích quy chiếu thời gian giữa các vế câu và giữa các câu trong văn bản là những mảng lớn nghiên cứu sinh mong muốn được tiếp tục triển khai trong những công trình khác. Nghiên cứu sinh mong nhận được sự góp ý của các nhà nghiên cứu, những người quan tâm để luận án được bổ khuyết và hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt

1. Cao Xuân Hạo (2003). Tiếng Việt. Mấy Vấn đề Ngữ âm, Ngữ pháp, Ngữ nghĩa. Đà Nẵng: Nxb Giáo dục.

2. Cao Xuân Hạo (2000). Ý nghĩa hoàn tất trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, 5, 9 – 15.

3. Cao Xuân Hạo (1998). Về ý nghĩa thì và thể trong tiếng Việt”. Ngôn ngữ, 5, 1-31. 4. Cao Xuân Hạo (chủ biên, 2005). Ngữ pháp chức năng tiếng Việt Quyển 2 – Ngữ đoạn và Từ loại. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Giáo dục.

5. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1992). Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

6. Đào Thản (1983). Cứ liệu từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt về mối quan hệ không gian – thời gian. Ngôn ngữ, 3, 1 - 7.

7. Đào Thản (1979). Về các nhóm từ có ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, 1, 40 - 45.

8. Đặng Kim Hoa (2017). Chiến lược quy chiếu trong định vị không gian – So sánh phương thức quy chiếu không gian Pháp – Việt. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế Ngôn ngữ học Việt Nam 30 năm đổi mới và phát triển (tr.90-97). Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.

9. Đinh Văn Đức (1986). Ngữ pháp tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

10. Đỗ Hữu Châu (2010). Đại cương Ngôn ngữ học Tập hai - Ngữ dụng học. Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam. 11. Hawking, S. (2017). Lược sử thời gian (Cao Chi, Phan Văn Thiều dịch). Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ. (Bản gốc xuất bản năm 2005)

12. Hoàng Tuệ (1962). Giáo trình Việt ngữ, tập 1. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

13. Huỳnh Văn Thông (2000), “Mấy nhận xét về vị từ tình thái và ý nghĩa THỂ trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 8.

14. Hữu Đạt (2011). Tri nhận không gian, thời gian trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

15. Lee, D. (2016), Dẫn luận Ngôn ngữ học tri nhận (Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Hoàng An dịch). Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. (Bản gốc xuất bản năm 2001)

154

16. Lê Cận & Phan Thiều (1983). Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, tập 1 và 2. Nxb Giáo dục.

17. Lê Thị Cẩm Vân (2014). Sự tri nhận và biểu đạt không – thời gian qua phạm trù động vật trong tiếng Việt. Kỉ yếu hội thảo khoa học Cán bộ trẻ các trường ĐHSP toàn quốc. Hải Phòng: Nxb Đại học Sư phạm.

18. Lê Thị Lệ Thanh (2001). Trường từ vựng - ngữ nghĩa các từ ngữ biểu thị thời gian của tiếng Việt (trong sự so sánh với tiếng Đức). Luận án tiến sĩ, Viện ngôn ngữ học, Hà Nội.

19. Lý Toàn Thắng (2005). Ngôn ngữ học tri nhận Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.

20. Nguyễn Đức Dân (2009). Tri nhận thời gian trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, 12, 1 – 15.

21. Nguyễn Đức Dân (1996). Biểu hiện và nhận diện thời gian trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, 3, 5-13.

22. Nguyễn Hoà (2007). Sự tri nhận và biểu đạt thời gian trong tiếng Việt qua các ẩn dụ không gian. Ngôn ngữ, 7, 1 - 8.

23. Nguyễn Kim Thản (1977). Động từ tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.

24. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (1998). Thành phần câu tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia.

25. Nguyễn Tài Cẩn (2000/2003). Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

26. Nguyễn Thiện Giáp (2015). Phương pháp luận và Phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ. Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam.

27. Nguyễn Văn Hán (2011). Định vị thời gian trong tiếng Việt dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận (so sánh với tiếng Anh) (Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh).

28. Nguyễn Văn Hiệp (2018). Bước đầu xem xét vấn đề thì của câu theo ngữ pháp tri nhận: chiều kích thời gian của sự tình. Ngôn ngữ, 5, 30-40.

29. Nguyễn Vân Phổ (2018). Ngữ pháp tiếng Việt: Ngữ đoạn và từ loại. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

30. Panfilov, V. X. (2008). Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt (Nguyễn Thủy Minh dịch từ nguyên bản tiếng Nga). Hà Nội: Nxb Giáo dục.

31. Phan Thị Minh Thuý (2003). Cách diễn đạt thời gian trong tiếng Việt (so sánh với tiếng Nga). Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

155

32. Trần Kim Phượng (2008). Ngữ pháp tiếng Việt - Những vấn đề về thời và thể. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

33. Trần Thị Lan Anh (2019). Ẩn dụ ý niệm THỜI GIAN LÀ CON NGƯỜI trong tập Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ. Tạp chí Khoa học – Khoa học Xã hội Trường Đại học Tây Bắc, 15, 42 – 47.

34. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ & Phạm Duy Khiêm (1936/2007). Việt Nam văn phạm. Nxb Thanh Niên. 35. Trần Văn Cơ (2007). Ngôn ngữ học tri nhận (Ghi chép và suy nghĩ). Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.

36. Trần Văn Minh (2015). “Cách biểu đạt “trước/sau” trong tri nhận thời gian của tiếng Việt”. Ngôn ngữ và đời sống, 10 (240), 125 – 128.

37. Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê (1963). Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam. Huế: Đại học Huế.

II. Tiếng Anh

38. Bender, A., & Beller, S. (2014). Mapping spatial frames of reference onto time: a review of theoretical accounts and empirical findings. Cognition, 132: 342–382. DOI: 10.1016/j.cognition.2014.03.016

39. Bender, A., Beller, S., & Bennardo, G. (2010). Temporal frames of reference: Conceptual analysis and empirical evidence from German, English, Mandarin Chinese and Tongan. Journal of Cognition and Culture, 10(3-4), 283– 307. https://doi.org/10.1163/156853710X531195

40. Clark, H. H. (1973). Space, time, semantics, and the child. In T. E. Moore (Ed.), Cognitive development and the acquisition of language (pp. 27–63). New York: Academic Press.

41. Evans, V. (2019). Cognitive Linguistics: a Complete Guide. Endinburgh University Press.

42. Evans, V. (2013). Language and Time A Cognitive Linguistics Approach. Cambridge University Press.

43. Evans, V. (2009). How Words Mean: Lexical Concepts, Cognitive Models and Meaning Construction. Oxford University Press.

44. Feist & Duffy (2020). On the Path of Time: temporal motion in typological perspective. Language and Cognition, 71-24. doi:10.1017/langcog.2020.7

156

45. Fillmore, C. (1971). Lectures on deixis. Stanford, CA: CSLI Publications. 46. Fuhrman O., Boroditsky, L. (2010) Cross-cultural differences in mental representations of time: evidence from an implicit nonlinguistic task. Cognitive Science, 34(8):1430–1451. https://doi.org/10.1111/j.1551-6709.2010.01105.x

Science, 35(7): time 3D. in

47. Fuhrman, O., McCormick, K., Chen, E., Jiang, H., Shu, D., Mao, S., Boroditsky, L., (2011). How linguistic and cultural forces shape conceptions of time: English and Mandarin 1305–1328. Cognitive https://doi.org/10.1111/j.1551-6709.2011.01193.x

48. Galton, A. (2011). Time flies but space does not: Limits to the spatialisation of time. Jounal of Pragmatics, 43, 695-703.

49. Kranjec, A. (2006). Extending Spatial Frames of Reference to Temporal Concepts. In K. Forbus, D. Gentner & T. Regier (Eds.), Proceedings of the twenty- sixth annual conference of the Cognitive Science Society (pp. 447-452). Mahwah, NJ: Lawrence Erlbaum.

thought (pp. 202–251). and

50. Lakoff, G. (1993). The contemporary theory of metaphor. In A. Ortony Cambridge University (Ed.), Metaphor Press. https://doi.org/10.1017/CBO9781139173865.013

51. Lakoff, G., & Johnson, M. (1980). Metaphors We Live By. Chicago: University of Chicago Press.

52. Levinson, S. C. (2003/2004). Space in Language and Cognition: Explorations in Cognitive Diversity. Cambridge: Cambridge University Press.

54. Monica Gonzalez-Marquez, Seana Coulson, Irene Mittelberg, Michael Spivey (Ed., 2007). Methods in Cognitive Linguistics. John Benjamins Publishing Company Press.

53. Matlock., T., Srinivasan., M., Holmes., K.J., & Ramscar, M. (2011). Even Abstract Motion Influences the Understanding of Time. Metaphor and Symbol, 26, 260-271. Psychology Press. doi: 10.1080/10926488.2011.609065

55. Moore, K. E. (2014). The Spatial Language of Time. Metaphor, Metonymy and Frames of Reference. Amsterdam, Philadelphia: John Benjamins Publishing Company.

56. Moore, K. E. (2011). Ego-perspective and field-based frames of reference: Temporal meanings of FRONT in Japanese, Wolof, and Aymara. Journal of Pragmatics, 43(3): 759-776. DOI: 10.1016/j.pragma.2010.07.003

57. Moore, K. E. (2006). Space to time mappings and temporal concepts. Cognitive Linguistics, 17, 199–244.

157

58. Moore, K. E. (2004). Ego-perspective and field-based frames of reference in space to time metaphors. In M. Achard & S. Kemmer (Eds.), Language, culture, and mind (pp. 151–165). Stanford, CA: CSLI Publications.

59. Nguyen, Hoang Phuong (2017). Prepositions derived from path verbs in Vietnamese. Doctoral dissertation, School of Languages and Cultures, University of Queensland.

60. Núñez, R. E., & Cooperrider, K. (2013). The tangle of space and time in human cognition. Trends in Cognitive Sciences, 17, 220–229.

61. Núñez, R. E., & Sweetser, E. (2006). With the future behind them. Convergent evidence from Aymara language and gesture in the crosslinguistic comparison of spatial construals of time. Cognitive Science, 30, 401–450.

62. Núñez, R. E., Motz, B. A., & Teuscher, U. (2006). Time after time: The psychological reality of the Ego- and Time-Reference-Point distinction in metaphorical construals of time. Metaphor and Symbol, 21, 133–146.

63. Phan, Tr. (2013). Syntax of Vietnamese Aspect. Doctoral dissertation, University of Sheffield. 64. Reichenbach, H. “The tenses of verbs”. In: Davis, S. & Gillon, B. (eds.) (2004). Semantics: A Reader, pp. 526-533. Oxford: Oxford University Press. Reprinted from Elements of Symbolic Logic 1947, pp. 287–98, New York: The Macmillan Company.

65. Sinha, C. 2014. “Living in the model: the cognitive ecology of time—a comparative study.” In Model-Based Reasoning in Science and Technology: Theoretical and Cognitive Issues. Studies in Applied Philosophy, Epistemology and Rational Ethics 8. L. Magnani, Ed.: 55–74. Heidelberg: Springer.

66. Sun, J. & Zhang, Q. (2020). How do Mandarin speakers conceptualize time? Beyond the horizontal and vertical dimentions. Cognitive Processing. Springer Press. https://doi.org/10.1007/s10339-020-00987-3

(1987). Functional Syntax: Anaphora, Discourse, and

67. Susumu Kuno Empathy. Chicago: University of Chicago Press.

68. Talmy, L. (2000). Toward a cognitive semantics (Vol. 1): Conceptual structuring systems. Cambrigde: MIT Press.

69. Tenbrink, T. (2011). Reference frames of space and time in language. Journal of Pragmatics, 43(3): 704 – 722. DOI: 10.1016/j.pragma.2010.06.020

70. Traugott EC (1978). On the expression of spatio-temporal relations in language. In Greenberg JH, Ferguson CA, Moravcsik EA (eds), Universals of human language (pp.369-400). Stanford: Stanford University Press.

158

71. Trinh, T. (2005). Aspect of Clause Structure in Vietnamese. Master’s thesis, Humboldt University.

Pages Issue 117, 2,

72. Ulrich, R. & Maienborn, L. (2010). Left–right coding of past and future in language: The mental timeline during sentence processing. Journal of Cognition, Volume 126-138. https://doi.org/10.1016/j.cognition.2010.08.001

73. Weger, U. W. & Pratt, J. (2008). Time flies like an arow: Space-time compatibility effects suggest the use of a mental timeline. Psychonomic Bulletin & Review, 15 (2): 426-430.

159

74. Yu, N. (2012). The metaphorical orientation of time in Chinese. Journal of Pragmatics, 44, 1335–1354. 75. Zinken, J. (2010). Temporal frames of reference. In P. Chilton & V. Evans (Eds.), Language, cognition, and space: advances in cognitive linguistics (pp.479-498). London: Equinox Publishing Ltd..

NGUỒN NGỮ LIỆU

1. Hoài Thanh, Hoài Chân (2015). Thi Nhân Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn học. 2. Hoàng Phê (chủ biên, 2009). Từ điển tiếng Việt. Đà Nẵng: Trung tâm Từ điển học và

Bách Khoa thư - NXB Đà Nẵng.

3. Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1999). Đại từ điển tiếng Việt. Hà Nội: NXB Văn hoá thông

tin.

4. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2002). Tổng tập văn học dân

gian người Việt, Tục ngữ. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

5. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2002). Tổng tập văn học dân

gian người Việt, Tập 2, Tục ngữ. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

6. Nguyễn Du (2015). Truyện Kiều. Hà Nội: NXB Trẻ. 7. Kho tàng truyện Nôm khuyết danh Việt Nam (2000). Tp. Hồ Chính Minh: NXB Văn

học.

8. https://app.sketchengine.eu: trang web lấy khối liệu Việt ngữ 9. https://s.ngonngu.net/corpus/: trang web lấy khối liệu Việt ngữ 10. https://www.thivien.net/Nguyễn-B%C3%ADnh/Gái-xuân/poem-

160

gnM9TKwIPfeS4We_9EOygA

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ

1. Lê Thị Cẩm Vân (2023). “Dòng thời gian tinh thần trong tiếng Việt”. Tạp chí Ngôn

ngữ và Đời sống, số 6 (341), ISSN 0868 – 3409, tr.44-50.

P1

2. Lê Thị Cẩm Vân (2023). Các khung quy chiếu không gian trong tiếng Việt. Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 2 (82), tr.79-86. 3. Lê Thị Cẩm Vân, Trương Thị Nhàn (2022). Sự đồ chiếu từ không gian lên thời gian trong tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 2 (322), tr.14 - 22. 4. Lê Thị Cẩm Vân (2021). Khung quy chiếu thời gian tương đối trong tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 11A (318), tr.22 - 27. 5. Le Thi Cam Van, Truong Thi Nhan (2021). Temporal uses of trước and sau: An analysis of temporal frames of reference in Vietnamese. Hue University Journal of Science: Social Sciences and Humanities, Vol. 130 No. 6D. 6. Lê Thị Cẩm Vân (2020). Bàn thêm về đặc điểm ngữ pháp của từ rồi trong tiếng Việt. Tạp chí Khoa học và Công nghệ (ISSN 2354-0850), Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, Tập 15 số 3, tr.147-155. 7. Lê Thị Cẩm Vân (2019). Đã, rồi, đã… rồi và sự biểu đạt ý nghĩa thể trong tiếng Việt. Kỉ yếu hội thảo ngôn ngữ học toàn quốc Ngôn ngữ Việt Nam trong bối cảnh giao lưu, hội nhập và phát triển. Hà Nội: Nxb Dân Trí.

PHỤ LỤC

P2

PHỤ LỤC 1 BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN (VIỆT – ANH)

TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH

ẩn dụ ẩn dụ điểm quy chiếu ẩn dụ điểm quy chiếu Ego ẩn dụ điểm quy chiếu thời gian ẩn dụ lối đi ẩn dụ về thời gian qua không gian bất đối xứng (tính) tính bất đối xứng tự thân biến thể biến thể chuyển dịch biến thể luân chuyển biến thể phản chiếu biểu thức ẩn dụ biểu thức ngôn ngữ bộ khung thời gian ngoại tại bộ khung thời gian nội tại bộ khung thời gian trực chỉ cấu trúc Hình – Nền cấu hình cấu trúc song tố cấu trúc tham tố cấu trúc tri nhận chu tố chiều thẳng đứng chuỗi chuyển di chuyển động chuyển động hư cấu CHUYỂN ĐỘNG THEO THỨ TỰ metaphor reference-point metaphor Ego-Reference-point metaphor Time-Reference-Point metaphor path metaphor spatiotemporal metaphor asymmatric inbuilt asymmetry variant translation variant rotation variant reflection variant metaphorical expression linguistic expression extrinsic temporal framework intrinsic temporal framework deictic temporal framework Figure – Ground structure configuration binary structure argument structure cognitive structure Satellite vertical dimension sequence transfer motion fictive motion ORDERED MOTION

P3

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 cộng đồng ngôn ngữ diễn tố dòng thời gian dòng thời gian tinh thần điểm nhìn điểm nhìn cái tôi trung tâm linguistic community Actant the flow of time, timeline mental timeline viewpoint, perspective point egocentric perspective-point

36 điểm nhìn của người quan sát điểm nhìn chủ quan 37 điểm nhìn đặc quyền 38 điểm nhìn Ego chuyển động 39 điểm nhìn nghiệm thân 40 điểm nhìn ngoại tại 41 điểm nhìn Thời gian chuyển động 42 điểm quy chiếu 43 điểm quy chiếu cơ sở 44 điểm quy chiếu Ego 45 điểm quy chiếu thời gian 46 đồ chiếu 47 đồ chiếu ẩn dụ 48 (sự) đối xứng, cân đối 49 giải thích/diễn giải 50 góc ngắm của camera 51 góc nhìn nhập cảm 52 gốc của hệ toạ độ quy chiếu 53 hệ quy chiếu 54 hệ thống ẩn dụ 55 system, metaphor

56 57 58 59 60 61 62 63 64 viewpoint of observer subjective viewpoint prerogative view Ego-moving viewpoint embedded viewpoint external viewpoint Time-moving viewpoint reference point primary reference point Ego reference point time-referent mapping metaphorical mapping symmetry construe camera angle empathy perspective origo reference system metaphoric system coordinate system primary coordinate system secondary coordinate system emergent phenomenon Figure dimension, orientation gaze direction, looking direction intrinsic orientation AWAYWARD dimension/direction

P4

65 66 67 68 69 70 71 hệ toạ độ hệ toạ độ sơ cấp hệ toạ độ thứ cấp hiện tượng nghiệm xuất Hình hướng hướng nhìn hướng nội tại (ý niệm) HƯỚNG RA XA (điểm nhìn của người quan sát) hướng trái – phải khoảng thời gian khối liệu không gian ba chiều không gian hai chiều khung quy chiếu Khung left – right orientation temporal interval corpus three-dimensional space two-dimensional space frame of reference frame

72

73 of frame khung quy chiếu cấu hình lối đi phối cảnh Ego khung quy chiếu có định hướng

74 75 76 77 78 79 80 81 ego-perspective path-configured frame of reference orientation-bound reference deictic human frame sequential human frame egocentric frame of reference Ego-based frame of reference field-based frame of reference orientation-free frame of reference spatial frame of reference object-centred frame of reference

82 83

84

85 86 khung con người trực chỉ khung con người xếp chuỗi khung quy chiếu dĩ nhân vi trung khung quy chiếu dựa vào Ego khung quy chiếu dựa vào trường khung quy chiếu không định hướng khung quy chiếu không gian khung quy chiếu lấy đối tượng làm trung tâm (phân biệt với khung quy chiếu lấy người quan sát làm trung tâm) khung quy chiếu lấy Ego làm trung tâm egocentric frame of reference environment-centred frame of khung quy chiếu lấy môi trường không reference gian tổng thể làm trung tâm viewer-centred frame of reference khung quy chiếu lấy người quan sát làm trung tâm khung quy chiếu nội tại khung quy chiếu phối cảnh Ego

87 88 89

90 khung quy chiếu tha trung tâm khung quy chiếu thời gian khung quy chiếu thời gian cấu hình lối đi khung quy chiếu thời gian nội tại

91 khung quy chiếu thời gian trực chỉ

92 93 94 khung quy chiếu tương đối khung quy chiếu tuyệt đối khung quy chiếu thời gian tương đối

95 khung quy chiếu thời gian tuyệt đối

P5

intrinsic frame of reference Ego-perspective frame of reference allocentric frame of reference temporal frame of reference path-configured temporal frames of reference intrinsic temporal frame of reference deictic temporal frame of reference relative frame of reference absolute frame of reference relative temporal frame of reference absolute temporal frame of reference deictic time frame sequential time frame 96 97 khung thời gian trực chỉ khung thời gian xếp chuỗi

khung ý niệm kịch cảnh

lưỡng khả, lưỡng nghĩa lưỡng phân

P6

98 99 100 kinh nghiệm 101 102 103 Lý thuyết Ẩn dụ ý niệm 104 Ma trận thời gian 105 miền/lĩnh vực không gian 106 miền/lĩnh vực thời gian 107 miền đích 108 mặt phẳng 109 miền nguồn 110 mô hình động 111 mô hình khung thời gian 112 mô hình tĩnh 113 mô thức 114 mốc quy chiếu 115 mốc quy chiếu thời gian 116 mũi tên thời gian 117 neo kết 118 Nền 119 nghiệm thể 120 ngoại tại 121 người quan sát 122 nội tại 123 nửa trục 124 phản chiếu 125 phân đoạn thời gian (hệ/cách) phân loại 126 127 phi trực chỉ 128 phóng chiếu 129 phối cảnh 130 phối cảnh bổ sung 131 phối cảnh Ego chuyển động 132 phối cảnh quan sát 133 phối cảnh thời gian 134 phối cảnh Thời gian chuyển động 135 phối trộn ý niệm 136 quan hệ động conceptual frame scene experience ambiguous bipartite Conceptual Metaphor Theory Matrix conception of time domain of space domain of time target domain plane source domain dynamic model temporal framework models static model pattern reference point temporal reference point the arrow of time anchore Ground human experiencer external, extrinsic observer intrinsic half-axe Reflect duration taxonomy non-deictic project perspective complementary perspective Moving Ego perspective survey perspective temporal perspective Moving Time perspective conceptual blending dynamic relation

SAU

dynamic spatial relation binary relation anterior – posterior relation ternary relation temporal relation static relation empirical observation reference sequential reference spatial reference deictic reference cultural convention BEHIND

sau sê ri A sê ri B song tố sự tình động sự tình tĩnh sự tình xảy ra sau sự tình xảy ra trước sự tương ứng tha trung tâm thì tuyệt đối thì tương đối (các) thời điểm thời đoạn

137 quan hệ động trong không gian 138 quan hệ song tố 139 quan hệ sớm hơn – muộn hơn 140 quan hệ tam tố 141 quan hệ thời gian 142 quan hệ tĩnh 143 quan sát thực nghiệm 144 quy chiếu 145 quy chiếu chuỗi 146 quy chiếu không gian 147 quy chiếu trực chỉ 148 quy ước văn hoá 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 Thời gian chuyển động 165 porterior A-series B-series Binary dynamic event static event posterior event, later event anterior event, earlier event correspondence allocentric absolute tense relative tense time(s) duration Moving Time Ego-free Moving Time

Ego-centered Moving Time 166

TIME AS SPACE

(ẩn dụ) Thời gian Chuyển động không lấy Ego làm trung tâm (ẩn dụ) Thời gian Chuyển động lấy Ego làm trung tâm

P7

167 THỜI GIAN LÀ KHÔNG GIAN 168 169 170 171 172 173 thời gian toả tia thời gian tuần hoàn thời gian tuyến tính thực thể sở chỉ thời gian thực thể sở chỉ con người thực thể xác định về giới hạn radial time cyclical time linear time Time Referent Human Referent bounded entity

tình huống động tình huống tĩnh tính bất đối xứng tính định hướng tính mở rộng tính thời khắc tính tuyến tính toả tia

trật tự tuyến tính trục dọc trục ngang trục ngang trái – phải trục ngang sau – trước trục trước-sau (sự/tính) trung hoà về trực chỉ trung tâm trực chỉ trực chỉ trước

dynamic situation stationary situation asymmetry directionality extension transience linearity Radiate Ego linear order vertical axis horizontal axis, lateral axis lateral axis sagittal axis front-back axis deictic neutrality deictic center, egocentric deictic, indexical anterior FRONT

trường ngoại tại trường thời gian trường tổng thể từ chỉ xuất

P8

external field temporal field superordinate field demonstrative goal mover actor role agent reference object referent objectification life circle sequencing cross-linguistic concept 174 175 176 177 178 179 180 181 182 Tôi 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 TRƯỚC 194 195 196 197 198 vai đích 199 vai động thể 200 vai hành thể 201 vai nghĩa 202 vai tác thể 203 vật quy chiếu 204 vật sở chỉ 205 vật thể hoá 206 vòng đời 207 xếp chuỗi 208 xuyên ngôn 209 ý niệm

PHỤ LỤC 2 NGỮ LIỆU TỪ https://s.ngonngu.net/corpus/ LÙI

STT Ngữ liệu

Lùi biểu đạt sự chuyển dịch thời gian theo hướng quá khứ

1

2

3

4 5

6

7

8

9

10

11

12

13

P9

Chiến tranh lạnh đã lùi xa nhưng tại các điểm nóng trên thế giới, nhiều quốc gia vẫn tiến hành hoạt động tình báo, gián điệp để thu thập tin tức, bí mật công nghệ... của nước khác nhằm giành ưu thế về quân sự, kinh tế. Tôi nghĩ, với cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, 35 năm cũng là một khoảng lùi lịch sử đủ để đánh giá, nhìn nhận lại. Cố vấn về chính sách ngoại giao của Tổng thống Putin, Sergei Prikhodko, phát biểu: “Đây là bước giật lùi trở về thời Chiến tranh Lạnh”. Chiến tranh đã lùi xa, hơn 40 năm (…). Lùi về năm 2019, khi Đen Vâu ra MV Hai triệu năm cũng là lúc học sinh cấp 3 bước vào kỳ thi THPT quốc gia. Lùi lại trước đó vài ngày, Tuấn Mạnh vẫn rất háo hức hướng đến mùa giải mới, anh thậm chí còn khoe đôi giày Mizuno vừa được tặng với sự phấn khởi sẽ chơi thành công cùng Khánh Hoà. Các chuyên gia kinh tế dự báo, dịch bệnh có thể kéo nền kinh tế Ấn Độ lùi lại 20 năm. Thời gian càng lùi xa, nhìn lại cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của C.Mác chúng ta càng thấy rõ, Ông không chỉ là nhà tư tưởng vĩ đại, đã giải đáp được các vấn đề mà loài người tiên tiến nêu lên, mà còn là vị lãnh tụ thiên tài, một người bạn, một người đồng chí chân thành, chung thuỷ, một mẫu mực về đạo đức cách mạng hết sức cao đẹp, luôn lấy đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của nhân loại làm lẽ sống, lý tưởng và sứ mệnh của cả cuộc đời. Nếu toàn bộ vệ tinh biến mất không có cảnh báo trước, thế giới sẽ trở nên hỗn loạn và nền văn minh toàn cầu thụt lùi nhiều thập kỷ. Thế nhưng, những câu chuyện mù chữ, đông con ở “làng điểm chỉ” đang dần lùi vào ký ức. Đòn tấn công vào Saudi Arabia đã phát đi một cảnh báo nóng hổi rằng, thời đại ưu thế trên không của Mỹ ở Vịnh Ba Tư cũng như khả năng độc quyền về tấn công chính xác và nhanh của Mỹ đã lùi vào dĩ vãng. Thế nhưng, hầu hết các nhà văn "già" viết tác phẩm cho tuổi mới lớn để kể lại một thời đã xa, một không gian và thời gian đã lùi vào quá khứ. Bài viết cho rằng ý nghĩa của đại lễ nhằm thúc đẩy niềm tự hào dân tộc và Việt Nam mong muốn chứng minh cho thế giới thấy chiến tranh tàn khốc đã lùi vào lịch sử.

14

15

16

17 18

19

20

21 22

23

24 25

26

27

28

29

30

P10

Tưởng chừng cái nghề ụ ốc lác đã lùi về quá khứ do những năm gần đây ốc bươu vàng sinh sôi nảy nở quá nhanh, thế nhưng ở vùng đầu nguồn An Phú (An Giang) hiện vẫn còn trên dưới chục hộ theo đuổi nghề này mỗi khi nước lũ tràn về… Hay lùi về quá khứ xa hơn nữa, năm 2001, Chính phủ cũng ban hành Quyết định 80 để quy định việc sắp xếp lại và xử lý nhà đất do Nhà nước trực tiếp quản lý riêng trên địa bàn TP.HCM. Và khi mà mọi chuyện đã lùi về quá khứ, đôi bên đã cùng nhau ngồi lại vì “lợi ích quốc gia”. Nhân loại suýt lùi về thế kỷ 18. Từ đây, vị trí của người kể chuyện được hoán đổi, thời gian tiếp tục lùi về năm 1932, khi chiến trận vẫn còn nổ ra ở Zubrowka, khách sạn Grand Budapest đang ở thời kỳ đỉnh cao và cậu bé Zero Moustafa vừa đến nhận việc với vị trí là một lobby boy. Dẫu từng trải qua thời kỳ huy hoàng, sở hữu những tác phẩm được bao người biết đến song khi đến tuổi xế chiều, nhiều nghệ sĩ chẳng thể sống nổi bằng nghệ thuật bởi tuổi trẻ lùi xa, danh tiếng cũng sụt giảm theo năm tháng. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng trong tâm trí của nguyên thuyền trưởng tàu không số Vũ Tấn Ích vẫn luôn đau đáu nhớ về những năm tháng cùng đồng đội vào sinh ra tử. Người chết đã chết rồi, quá khứ cũng lùi xa rồi. Hào quang quá khứ đã lùi xa, nhường lại cho cựu VĐV sinh năm 1969 những khó khăn của cuộc sống hiện tại. Cuộc chiến lùi xa mấy chục năm, nhưng người viết và người dựng thổi vào vở diễn màu sắc xã hội hiện đại với những toan tính bon chen. Cuộc sống thuở xưa ấy lùi xa vào quá khứ thật nhanh như một giấc ngủ trưa. Thời gian đã lùi xa 45 năm nhưng những ký ức về một thời hào hùng và đau thương ấy vẫn luôn soi rọi vào cuộc sống hôm nay, để chúng ta thêm kính yêu và biết ơn cha anh đã xả thân vì nước, để sống và cống hiến nhiều hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay. Quá khứ cũng dần lùi xa, thân nhân các gia đình gác lại nỗi đau chăm chỉ làm ăn để xây dựng cuộc sống. Quá khứ tàn khốc đã lùi xa, tuy nhiên viễn cảnh của một cuộc huynh đệ tương tàn vẫn hiển hiện. 40 năm sau, câu chuyện về “Hòn ngọc Viễn Đông” dường như đã lùi xa dần vào dĩ vãng. Bao năm tháng đã lùi xa rồi, làng chẳng còn ai mắc bệnh ngẩn ngơ, và loại cỏ toả ánh sáng xanh kia chỉ còn trong truyền thuyết. Lùi lại tháng 5/2014, Bộ Ngoại giao Philippines đã công bố hình ảnh của những hòn đảo trước và sau khi Trung Quốc xây dựng mở rộng.

31

32

33

34 35

36

37

38

39 40

41

42

43

44

45 46

Còn lùi lại thời gian xa hơn nữa, anh cho biết, từ thời còn là học sinh một trường THPT khu vực miền núi của tỉnh Ninh Bình (THPT Nho Quan B), anh đã yêu thích Vật lý. Số liệu này đã đẩy lùi thời gian hình thành xã hội phát triển đầu tiên tại Tân Thế giới về quá khứ gần 800 năm. Nhìn lùi lại một chút về quá khứ, ngay cả Thierry Henry hay ngôi sao đang nổi đình nổi đám tại Man United là Anthony Martial cũng không thể có được khởi đầu ấn tượng như Ousmane Dembele! Dòng smartphone một thời danh tiếng này đang lùi sâu vào dĩ vãng. Bao năm tháng đã lùi xa rồi, làng chẳng còn ai mắc bệnh ngẩn ngơ, và loại cỏ toả ánh sáng xanh kia chỉ còn trong truyền thuyết. Lùi lại tháng 5/2014, Bộ Ngoại giao Philippines đã công bố hình ảnh của những hòn đảo trước và sau khi Trung Quốc xây dựng mở rộng. Văn bản được đăng vào ngày 11/09/2014 Còn lùi lại thời gian xa hơn nữa, anh cho biết, từ thời còn là học sinh một trường THPT khu vực miền núi của tỉnh Ninh Bình (THPT Nho Quan B), anh đã yêu thích Vật lý. Ngành du lịch cả thế giới vừa trải qua một cơn địa chấn chưa từng có vì đại dịch Covid-19. Chỉ tính riêng thiệt hại của du lịch Việt Nam trong 2 năm qua đã đẩy ngành kinh tế năng động, phát triển mạnh mẽ bậc nhất trước đây lùi lại hàng chục năm. Những chiếc gối bằng bông gòn đã lùi dần vào dĩ vãng. Chiến tranh đã lùi dần vào quá khứ nhưng nghĩa tình đồng đội vẫn còn vẹn nguyên như thuở ban đầu. Simson, mẫu xe côn tay Đức từng làm mưa làm gió thị trường hai bánh Việt đã lùi dần về quá khứ. Ngày nay, sau gần nửa thế kỷ phục vụ, MiG-21 đang lùi dần vào quá khứ, nhường chỗ cho các chiến đấu cơ hiện đại hơn. Theo báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu chính sách xã hội Taub, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Israel năm 2020 có thể sụt giảm tới 4,5-5% do COVID-19, khiến nền kinh tế nước này thụt lùi khoảng 6 năm. Ông cảnh báo Ấn Độ, quốc gia ghi nhận 536 ca nhiễm và 10 ca tử vong do Covid-19, có nguy cơ thụt lùi 21 năm nếu không thực hiện nghiêm lệnh phong toả. Nội chiến, xung đột liên miên đẩy nền kinh tế đất nước lùi lại hàng chục năm. Các chuyên gia kinh tế dự báo, dịch bệnh có thể kéo nền kinh tế Ấn Độ lùi lại 20 năm.

Lùi biểu đạt sự chuyển dịch thời gian theo hướng tương lai

47

P11

Trên báo Lao Động số 249 ra ngày 14/12/2000 có bài viết “Có nên cho lùi thời hạn thực hiện?” đặt vấn đề Bộ GTVT có nên cho lùi thời hạn thực hiện Quyết định 890/QĐ-BGTVT về việc ngừng hoạt động của các xe chở khách liên tỉnh có thời hạn sử dụng trên 20 năm và loại xe cải tạo để chở khách có thời hạn sử dụng trên 17 năm.

48

49

50

51

52 53

54 55

56

57

58

59

60

61

62

63

64

P12

Trong điều kiện phức tạp do có những hành động khủng bố nhằm vào lãnh đạo trường, để việc tổ chức HĐQT trường được an toàn, phù hợp với pháp luật và tránh những phức tạp không cần thiết, đề nghị cho phép lùi thời hạn tổ chức HĐQT mới đến sau Đại hội Đảng toàn quốc. Quyết định này của nhà cựu độc tài, sau khi Guzman tuyên bố hoãn buổi thẩm vấn hôm thứ ba và lùi việc kiểm tra sức khoẻ sang ngày thứ tư, sẽ tránh cho ông khỏi bị bắt vì coi thường toà án (Pinochet đã không tới kiểm tra theo lệnh hôm chủ nhật). Theo hợp đồng, lẽ ra cuối tháng 12/2000 phải thực hiện xong dự án, nhưng đến nay chủ đầu tư đang xin lùi ngày hoàn thành đến 30/4. Vì quyết định này của ông Kagame, nước chủ nhà đã phải lùi ngày khai mạc hội nghị hai ngày, đến thứ năm tuần này. Nga lùi thời gian phá huỷ trạm Mir. Chiều hôm qua, gió mạnh trên vùng trời Florida (Mỹ) đã buộc tàu con thoi Atlantis phải lượn thêm một vòng quanh trái đất, lùi thời điểm hạ cánh cho đến khi thời tiết thuận lợi hơn. Lùi hạn phá dỡ nhà xây trái phép của Chủ tịch phường Bách Khoa Hôm qua, Đội Quản lý trật tự đô thị quận ra thông báo sẽ tiến hành tháo dỡ ngôi nhà vào ngày 23/2. Như vậy, sẽ lùi 3 ngày so với thời hạn mà TP yêu cầu trước đó. Thạc sĩ Đỗ Thành Tích, Công ty Sản phẩm chống thấm Fosta Hưng Thành: Nên lùi giờ học muộn hơn hiện nay. Vì vậy Tito có thể lùi thời gian đi du lịch vũ trụ đến tháng 10 tới, cũng trên một con tàu Soyuz. Đầu năm 2000, Apple đã vạch kế hoạch công bố rộng rãi sản phẩm OS X vào giữa năm, nhưng đã phải lùi thời gian lại cho đến tận tháng 1 năm nay. Tuy nhiên, nhiều phụ huynh mong muốn lùi lệnh cấm đến ngày khai giảng năm học mới (5/9). Hôm qua (1/4), ông Tony Blair đã ra tuyên bố cuộc bầu cử toàn quốc, theo kế hoạch là vào ngày 3/5, sẽ được lùi lại hơn 1 tháng. Các biện pháp này lẽ ra được tuyên bố hôm qua, nhưng sau đó Chính phủ quyết định lùi tới ngày mai. NASA đã thể hiện thái độ bất bình, cho rằng Nga sắp xếp việc này sau lưng các thành viên khác của ISS và đang dùng áp lực với Matxcơva nhằm lùi chuyến đi của Tito đến tháng 10, để ông có thể tập luyện chu đáo hơn. Trong khi đó, cuộc thảo luận nhằm quyết định xem Tito có trở thành khách du lịch vũ trụ đầu tiên hay không sẽ bị lùi lại cho đến cuối tuần này. Theo kế hoạch, nhóm sẽ trở về trái đất vào ngày 30/4 (lùi lại 2 ngày so với dự kiến).

65

66 67

68

69

70

71 72

73

74

Hai bên cũng vừa có những hành động giảm nhẹ căng thẳng vào tuần trước khi ông Trump lùi lại hai tuần một số khoản thuế lên 250 tỷ USD hàng Trung Quốc lẽ ra sẽ có hiệu lực từ ngày 1/10, còn Trung Quốc hoãn thuế đối với một số hàng Mỹ như thuốc điều trị ung thư, thức ăn cho gia súc. Hà Nội chốt lùi lịch thi vào lớp 10 sang ngày 12-13.6, rút ngắn thời gian thi. Theo đại diện Quỹ Vifotec, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, giải thưởng năm 2020 phải lùi thời gian tổ chức sang 2021. Đối với các tuyến bay khác, VNA cho biết, trong ngày 17/7, do ảnh hưởng của cơ bão Rammasun (cơn bão số 2) đã có tổng cộng có 22 chuyến bay của VNA đi và đến Hà Nội buộc phải lùi thời gian khởi hành từ 35 phút đến 1h35’ phút so với kế hoạch làm 3.000 hành khách bị ảnh hưởng. DN chúng tôi hoang mang hết rồi”, bà Chi nói và cho biết thêm, rất may là sau khi gửi thư kêu cứu, đề nghị xin lùi thời gian áp dụng, ngay hôm sau bà nhận được tin nhắn của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT cho biết đang xử lý. Theo kế hoạch ban đầu, phần thi diễn ra vào 9h30. Tuy nhiên, chương trình lùi giờ khoảng 30 phút. Riêng việc khoan mở cửa hầm phía nam dự kiến sẽ lùi lại đến tháng 6. Tuy nhiên, dự định công khai kết quả điều tra cuối tuần này sẽ không thể thành hiện thực, vì việc điều tra phải lùi tới tận ngày mai. Trước đó, thời điểm phóng vệ tinh này đã phải lùi lại một ngày do có gió mạnh. Như vậy, trong ba dự luật được xem xét ngày hôm qua, có Luật Phòng cháy, chữa cháy được thông qua (nhưng cũng là lùi lại từ tuần trước), Luật Di sản văn hoá được biểu quyết thông qua tên luật, lời nói đầu và một số điều, Dự luật Sửa đổi một số điều Bộ luật Tố tụng Hình sự bị đình lại do số phiếu tán thành không quá bán.

75 Một số người thì buồn bã quay ra vì đã hết vé đi chuyến tàu này, đành

phải lùi lại chuyến sau.

76 Một độc giả của VnExpress đã rất bất bình khi nhà ga không thông báo

77

78

79

chuyện lùi giờ chạy tàu. Các công sở trở nên vắng bóng người khiến nhiều việc cấp bách cũng đành phải lùi lại. Trong trường hợp thời tiết xấu kéo dài, khiến Helios không bay được cho tới cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9, NASA sẽ phải lùi thử nghiệm đến mùa hè năm sau. Theo tính toán của Tổng Liên đoàn, nếu mức tăng thấp như trên thì lộ trình lương tối thiểu đáp ứng mức sống tối thiểu theo Điều 91 Bộ luật Lao động phải lùi lại sau năm 2018.

80 Một nguồn thạo tin cho biết chính phủ của Tổng thống Moon Jae-in đã bày tỏ

P13

ý định lùi thời điểm tiến hành tập trận.

81

82 83

84

85

86

87

88

P14

89 Việc học trực tuyến đối với học sinh tiểu học, nhất là đối với lớp 1, lớp 2 gặp khó khăn hơn do các em còn nhỏ, chưa có điều kiện để làm quen với phương thức học tập này, do đó có một số tỉnh lùi thời gian học đối với cấp tiểu học. Dự kiến, Bộ GD&ĐT sẽ lùi thời điểm kết thúc năm học. Tuy nhiên, bà Hoa cũng cho hay, thực tế thời gian từ ngày 16/12 đến 22/12 là hơi gấp, Sở sẽ xin Bộ Nội vụ điều chỉnh, lùi thời gian thi nhưng vẫn phải xong trước ngày 31/12. Các giải thể thao cũng phải hoãn, huỷ, hoặc lùi sang năm sau như Euro, Copa America, hay Olympic. Trao đổi với Zing.vn, ông cho biết dự án ban đầu dự kiến khởi động dịp Apec nhưng đã lùi lịch đến cuối năm nay. Với Lào, giải VĐQG nước này (Lao League) sẽ lùi ngày thi đấu vòng 2 tới tận tháng 5. Cụ thể, Khoản 4 Điều 6 có nêu: “Định kỳ ngày 10/1, ngày 10/7 hàng năm (trường hợp trùng vào ngày nghỉ, ngày nghỉ lễ theo quy định thì lùi sang ngày làm việc tiếp theo), Bộ Tài chính thông báo khoản premium trong nước và chi phí đưa xăng dầu từ nhà máy lọc dầu trong nước về đến cảng để Bộ Công thương áp dụng, tính toán giả cơ sở”. Thời hạn triển khai đặt ra lúc đó là năm 2015 nhưng sau đó bị lùi lại tới năm 2019. Thời tiết xấu đẩy lùi ngày bay của Discovery (10/8).

QUA

STT Ngữ liệu

Qua quy chiếu thời gian

1 2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

P15

14 Qua là động từ Trẻ em nội thành Huế đã quen với mưa lũ dầm dề hơn cả tháng qua. Suốt mấy tháng qua từ dịch Covid-19 đến bão lũ liên tiếp khiến mẹ con bà mất thu nhập hoàn toàn. “Trận lũ này lên nhanh quá. Cháu nó mới sấy cái máy bị hư ướt đợt lũ trước vừa lắp vào lại hôm qua, thì hôm nay lũ dâng lên lại”, bà Gái kể. Bộ LĐTBXH đề nghị tiếp tục duy trì thời điểm điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng trùng với thời điểm bắt đầu của năm tài chính như thời gian vừa qua. Ngôi nhà số 125 Trúc Bạch được xác định là nơi bệnh nhân N.H.N. đã cư trú từ ngày 2 đến ngày 5/3 vừa qua. Liên quan di dân Kinh thành Huế, cuối năm 2020 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã đồng ý để UBND tỉnh TT-Huế tiếp tục triển khai thực hiện giai đoạn 2 Đề án di dời dân cư, giải phóng mặt bằng di tích Kinh thành Huế và trùng tu, tôn tạo một số di tích xuống cấp nghiêm trọng từ nguồn vốn hỗ trợ của ngân sách Trung ương là 2.060 tỷ đồng. Trước mắt, bằng nguồn này sẽ có 100 tỷ đồng được cấp ngay nhằm phục vụ sửa chữa điện Thái Hoà bị hư hại nghiêm trọng sau đợt mưa bão dồn dập vừa qua. Vừa qua, Công an phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội tạm giữ và phạt anh Vũ Viết Ngọc 6,5 triệu đồng vì đã có hành vi mang một con dao tông (lưỡi dao bằng dài gần nửa mét, rộng hơn 5 cm). Thưa Bộ trưởng ngày hôm qua giải trình trước Quốc hội, Bộ trưởng cho biết là đã thanh tra 137 cơ sở sản xuất công nghiệp có nguồn xả thải lớn, xin cho biết kết quả sơ bộ? Hôm qua, chính phủ Anh công bố thiết lập mối quan hệ chính thức lần đầu tiên với CHDCND Triều Tiên tại Anh. Trong gần 30 năm qua, khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã được khai quật nhiều lần. Trong một báo cáo tại hội nghị Liên đoàn Địa lý Mỹ tuần qua tại San Francisco, các nhà khoa học cho biết "tầng ozone trên Bắc Cực đã mất tới 70% khí ozone". Trong thời gian qua, các cơ quan thông tin đại chúng đã phản ánh tại một số ngân hàng ở các tỉnh miền Trung có tình trạng không giải ngân hết nguồn vốn vay khắc phục hậu quả lũ lụt. Nói chuyện với ông chính là con người đã phải chèo chống với những vấn đề đó trong suốt tám năm qua, Tổng thống Bill Clinton. Đây là lần thứ ba liên tiếp mạng Vinaphone bị sự cố trong vòng 3 tháng qua.

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24 25 26 27 28 Theo đánh giá của Vajpayee, xung đột giữa quân chính phủ với các nhóm du kích ly khai và với binh lính Pakistan đã giảm đáng kể trong thời gian ngừng bắn vừa qua. Anh tâm sự đã nhiều năm qua anh như bị trói buộc trong cơ thể của mình và đã phải đắn đo rất nhiều trước khi quyết định phẫu thuật. Do làm ẩu, không đóng cọc giữ và cót chắn bảo vệ theo đúng quy định nên ngày 14/12 vừa qua, triều cường phá vỡ đê quai, nước biển tràn vào gây ngập mặn cả làng. Do tình hình xung đột xảy ra trong mấy tháng qua tại khu Bờ Tây, thị trường xuất khẩu của Jordan giảm đáng kể. Bị ảnh hưởng bởi lạm phát và những yếu tố khách quan đó, một vài năm qua, lương của quân nhân nước này đã bị cắt giảm. Trong 6 tuần qua, người ta đã đưa 11 con rùa caretta đến Bệnh viện Rùa ở Marathon. Phong trào đã nhận trách nhiệm về một số vụ tấn công tại khu vực này trong những năm vừa qua. Tiến sĩ sinh hoá người Nhật, Karry Mullis, đã nhận giải thưởng Nobel hoá học năm 1993 nhờ phát minh ra phương pháp PCR. Đây là một trong những thành tựu nổi bật nhất thập kỷ qua. Thành công của Hội nghị các nhà tài trợ họp tại Hà Nội giữa tháng 12 vừa qua với cam kết dành cho Việt Nam 2,4 tỷ USD viện trợ ODA là đỉnh cao của những cố gắng tranh thủ nguồn tài trợ từ bên ngoài phục vụ nhu cầu phát triển trong nước, đồng thời thể hiện sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế về công cuộc đổi mới của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên đại sứ quán này bị đóng cửa trong vòng một thập kỷ qua. Qua tuần chúng tôi sẽ họp với các cơ quan chức năng để bàn hướng xử lý. Nếu để qua ngày, trà sẽ bị thiu. Nếu bán chạy thì qua tháng sẽ làm thêm một chuyến xe nữa. Rừng cây khuyến học ở thôn Thạch Nội qua năm sẽ khai thác lứa thứ hai.

Qua không quy chiếu thời gian

29

30

P16

Qua là động từ Theo điều tra ban đầu, khoảng 20h ngày 23/2, tên Sang cùng chị T.N.N. (SN 1987, trú tại huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) đến thuê phòng trọ nghỉ qua đêm ở xã Đạo Thạnh, TP Mỹ Tho. Năm 2019, hình ảnh mặt mộc của nữ diễn viên Harry Potter gây thất vọng vì làn da xỉn màu và đầy những nếp nhăn. Thay vì diện trang phục thanh lịch, gọn gàng, cô lại xuất hiện với bộ dạng nhợt nhạt và không được chỉn chu. Thế nhưng qua năm 2020, Emma Watson đã lấy lại được phong độ khi nhan sắc ngày càng lên hạng.

31

32

33 34

35

36

37

38

39

40

41

42

43

44

P17

10 tỉnh, thành phố đã qua 26 ngày không ghi nhận trường hợp mắc mới COVID-19 trong cộng đồng gồm Hoà Bình, Điện Biên, Hà Giang, Bình Dương, Hưng Yên, Bắc Giang, Gia Lai, Bắc Ninh, Quảng Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Dương Ngọc Sơn - Phó Tổng thanh tra nhà nước, ngày 21/9 đã hứa: “Cố gắng trong tháng 10/2000, sẽ có kết luận cuối cùng”. Thế nhưng đã hết tháng 10, rồi tháng 11 lại qua... Công việc điều tra sẽ kéo dài vài tháng, qua cả thời hạn bầu cử. Bộ Giao thông Vận tải vừa có chỉ thị yêu cầu các cơ quan quản lý, đơn vị kinh doanh vận tải, tổ chức tốt việc phục vụ hành khách đi lại trong ngày Tết, không để hành khách phải chờ đợi qua giao thừa ở bến xe, bến tàu, nhà ga. Thế kỷ 20 đi qua đánh dấu những bước tiến vĩ đại trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là khoa học kỹ thuật và y học. Khi năm Rồng qua đi nhường chỗ cho năm Rắn, các đền chùa của đất nước Mặt trời mọc đồng loạt đổ 108 tiếng chuông, tiễn đưa 108 điều không lành tượng trưng của năm cũ. Qua là giới từ Trải qua hơn 130 năm là đất quân sự thuộc nhiều chế độ, khu đất Mang Cá đứng trước cơ hội lịch sử được giao về cho Di tích Huế quản lý, phát huy giá trị. Đã 3 mùa giải trôi qua kể từ khi tiền đạo người Bồ Đào Nha đến nước Ý, "Lão bà" không thể tiến sâu ở đấu trường danh giá bậc nhất châu Âu. Để thời gian trôi qua ý nghĩa, tôi đọc sách, báo, xem tin tức, xem phim, nói chuyện với mẹ và chị… Hơn 10 tháng trôi qua, bốn cô giáo ở trường mẫu giáo Hoa Mai vẫn chưa được nhận lương, đời sống của những giáo viên này trở nên khó khăn. Anh nói: "Tôi nghĩ rằng có rất nhiều người muốn trải qua giây phút khó khăn này. Anh thợ mộc người Mỹ Ed Trick, một trong những người tham dự cú nhảy xuyên qua hai thiên niên kỷ từ ngọn tháp Petronas ở Malaysia cao nhất thế giới, phấn khích thốt lên: "Năm mới thật tuyệt vời!". Bờ Biển Ngà, một xứ sở từng yên bình, đã trải qua hơn một năm hỗn loạn, kể từ khi cựu lãnh đạo độc tài, Tướng Robert Guei đảo chính năm 1999. Đã hơn 3 năm trôi qua kể từ ngày khởi công công trình thuỷ lợi Hồ Truồi, mà việc đền bù, giải toả vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, dẫn đến khiếu kiện kéo dài.

SANG

STT Ngữ liệu

Sang quy chiếu thời gian

1

2

3 4

5

6

7

8

9 Sang là động từ Hy vọng sang năm chương trình sẽ được tổ chức để con CN có thêm sân chơi" - chị Son cho biết. Chúng tôi yêu nhau suốt mấy năm trời. Thế mà chỉ vì chút giận nhau (lúc đó đột nhiên em muốn cưới, còn tôi chưa sẵn sàng nên tôi hẹn em đến sang năm), em đòi chia tay với tôi. "Năm nay thi không đậu thì sang năm ôn thi tiếp chứ có sao đâu". Xu hướng tóc tết của sang năm sẽ được giới thiệu trong đoạn clip dưới đây, sẽ là rất độc đáo và hút mắt khi được tung tăng ra đường với kiểu tóc này, tuy nhiên, bạn sẽ hơi tốn thời gian một chút và bất tiện nhất là không thể đội mũ bảo hiểm. “Đêm tôi vẫn hay nằm mơ sang năm sẽ được tăng lương. Có tăng lương mới kích thích mình lao động mà người lao động thì còn khó khăn lắm, cần tăng lương cho họ” - ông Đương nói. "Sang tuần, chúng tôi sẽ triển khai quy trình tiếp theo sau khi kết luận về sai phạm của lãnh đạo huyện Krông Pắk; xem xét, xử lý kỷ luật theo các mức độ. Quan điểm của chúng tôi là xử lý nghiêm sai phạm" - ông Lĩnh thông tin. “Các cầu thủ, HLV không được hành nghề thì chắc chắn chịu tác động tiêu cực. Họ bị hẫng một thời gian dài tới tận mùa giải sang năm thì liệu phong độ, cảm giác bóng, thể lực có đảm bảo được không? Các cửa tiệm áo cưới dọc đường Hồ Văn Huê, quận Phú Nhuận vẫn trong tình trạng đóng cửa, chờ sang tuần mới bắt đầu hoạt động. Theo như kế hoạch, sang tháng sẽ ăn hỏi và đám cưới được tổ chức sau đó một tuần.

Sang không quy chiếu thời gian

10

11 12

13

14

P18

Sang là động từ Khi được nửa chặng đường, nhóm nghiên cứu sẽ gối tiếp giai đoạn 2 thêm bốn tháng, sau đó sang giai đoạn 3 kéo dài sáu tháng trên nhóm mẫu 10.000 – 30.000 tình nguyện viên. Sang hiệp 2, các cầu thủ nữ Thái Lan xuống sức nên bị thủng lưới ba lần. Sang set 2, Berdych đã tạo nên một thế trận khá cân bằng với Djokovic sau 4 game đấu. Sang đến tuần thứ hai, bộ phim đã bị cắt số rạp xuống còn 40, chỉ thu được thêm 4.000 USD trong ba ngày cuối tuần. "Nếu trong tháng 4 và tháng 5, số tiền tôi phải thanh toán là khoảng 1 triệu đồng, thì sang tới tháng 6, con số này vọt lên 4,5 triệu đồng với 1.526kWh, trong khi mức sử dụng điện không tăng đột biến", anh Ph nói.

15

16 17

18

19

20

21

22

23 24

25

26

27

28 29

P19

Trong năm 2019, đã có 36 tuyến hoàn thành việc này, 68 tuyến trợ giá khác chưa kịp tổ chức đấu thầu, sang đến hết quý 1/2020 việc đấu thầu mới xong. Sang tập 8, nhân vật Mr. Nobody bí ẩn sẽ trở nên quan trọng. Tuy nhiên, sang tháng 12-2019, Hà Nội đã tái đàn được 300.000 con heo, bằng một nửa so với 600.000 con bị tiêu huỷ do dịch. Cô từng là Hoa khôi Áo dài nữ sinh Việt Nam 2013. Sang năm 2014, Khánh Vân tiếp tục dự thi Miss Ngôi sao và đạt danh hiệu Á hậu 2 và đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019. Bệnh viện cũng chuẩn bị tất cả phần cơm cho người bệnh ở lại điều trị, để họ có thể yên tâm hơn, ấm lòng hơn dù phải xa nhà trong dịp xuân mới sang. Kể lại quá trình bị lạc, Nhân cho biết ngày đầu do còn lương khô và bật lửa nên luôn giữ được bình tĩnh. Đến lúc trời tối thì điện thoại hết pin nên anh không thể cầu cứu ai được. Sang ngày sau, khi đồ ăn cạn kiệt, anh phải hái lá rừng để nhai cho đỡ đói và khát, cầm cự lấy sức. Với kết quả bán hàng này và sang tháng 12 - tháng bắt đầu cho mùa mua sắm cuối năm, VAMA dự báo thị trường năm nay sẽ kết thúc với khoảng 102.000 xe, tăng 9% so với dự báo từ tháng 10/2012./. Thời gian của Ego: tháng 11 Tết đến xuân sang, người người lại đổ về làng hoa Nhật Tân (Tây Hồ, Hà Nội) để tìm đào phai, đào bích, nhưng nhiều khách sành chơi, lại về đây để săn lùng những gốc nhất chi mai đẹp, quý giá được người dân làng âm thầm trồng, lưu giữ bao đời nay. Sang là giới từ Quan hệ Việt Nam-Singapore đang bước sang giai đoạn phát triển mới. Xét đến việc không ít bom tấn dự kiến ra mắt trong 2020 đã bị lùi lịch chiếu sang 2021, Liên minh Công lý trên màn ảnh chắc chắn bị đem ra so sánh với các tựa phim mới, trong khi đã mang "tiếng xấu" suốt ba năm qua. Hiện, các cuộc đàm phán cấp cao giữa hai miền Triều Tiên đã bước sang ngày thứ ba liên tiếp, song hiện chưa có thông tin nào cho thấy cuộc đàm phán đã thu được tiến triển./. Tiến sĩ Rebecca Robbins làm việc tại Trường Y Harvard (Mỹ) cho biết, chỉ cần thay đổi một giờ trong giấc ngủ (sớm hơn hoặc muộn hơn) thì chúng ta đang gửi tín hiệu đến não rằng chúng ta đang cố gắng chuyển sang một múi giờ mới, khiến ta khó ngủ vào đêm hôm sau. Ngày 16/7 vừa qua, cậu về tới Mỹ khi vừa bước sang tuổi 17, trở thành người trẻ nhất đi vòng quanh thế giới bằng thuyền buồm. Bước sang hiệp 2, MU nhanh chóng phải nhận bàn thua do sai lầm của Evra. Thế giới đang chuẩn bị bước sang thập niên thứ 3 của thế kỷ 21 với những chuyển biến sâu sắc, mau lẹ và khó lường.

30

31

32

33

34

35

36

37

38 39

40 41 42

43

44

45

P20

Ronaldo sắp bước sang tuổi 38, nhưng hiệu suất ghi bàn của tiền đạo này vẫn rất tốt. Anh là chân sút tốt nhất của MU ở mùa giải 2021/2022 nên nếu có chữ ký của CR7 thì đây là phương án không tồi với Barca. Bộ phim được chờ đợi “Avatar 2” của đạo diễn James Cameron tiếp tục phải lùi thời điểm khởi chiếu từ năm 2020 sang 2021, theo đó bom tấn này sẽ ra rạp vào ngày 17/12/2021. Ngoài ra, bộ phim “The New Mutants” thuộc loạt phim “X-Men” sẽ được lùi ngày ra mắt từ 2/8/2019 sang 3/4/2020. Vì thế khi chương trình học kỳ 1 đã hoàn thành, thường là các nơi đã chủ động lấn sang thời gian của học kỳ 2, nhất là các lớp cuối cấp lớp 9 và lớp 12. Thủ tướng Áo Sebastian Kurz hôm nay (24/1) cho biết, Liên minh châu Âu sẵn sàng lùi thời điểm Anh rời Liên minh châu Âu (gọi tắt là Brexit) sang tháng 5 tới Nếu bạn đang ở độ tuổi 20, cơ hội mang thai của bạn nếu thường xuyên có quan hệ tình dục không bảo vệ là 25%, khi bạn bước sang độ tuổi 35, con số này là 15%, khi bạn 40 tuổi, bạn chỉ còn khoảng 10% tỉ lệ thụ thai thành công. Và khi bạn ngoài 42 tuổi, tỉ lệ này còn giảm xuống dưới 1%. Bước sang năm 2017, Tăng Phúc cùng người bạn thân là nhà văn trẻ Hamlet Trương đăng ký thử sức chương trình “Nhạc hội song ca” và trở thành cặp đôi được bình chọn cao, đứng top 3. Cụ đã để lại cho con cháu mãi mãi về sau này, một lịch sử vẻ vang, truyền từ đời này, sang đời khác. Bước sang ván đấu thứ 2, lối chơi của FL đã được cải thiện. Theo Thủ hiến Daniel Andrews của bang Victoria, từ ngày 1/11 tới bang này sẽ bước sang giai đoạn tiếp theo của lộ trình dỡ bỏ các hạn chế xã hội áp dụng để phòng dịch COVID-19. Bước sang phiên chiều, thị trường bắt đầu lao dốc mạnh hơn. Năm nay, Đại tướng Võ Nguyên Giáp bước sang tuổi 101. Vậy là cuộc chiến quy mô lớn nhất với đại dịch COVID-19 mà chiến trường trọng tâm là TPHCM và các tỉnh thành phía Nam đã bước sang tháng thứ 4. Phim đã dời lịch chiếu từ tháng 11 sang ngày 24.2 để có thời gian thực hiện thêm một số cảnh quay nhằm giúp cho tình tiết phim hấp dẫn, kịch tính hơn và có giá trị nhân văn hơn. Ngày 5/4, đài khí tượng thuỷ văn khu vực nam bộ cho biết, trong 2 ngày qua, nam bộ có lúc trời nhiều mây là do ảnh hưởng của không khí lạnh ở phía bắc, chưa phải là dấu hiệu của thời kỳ chuyển mùa (từ mùa khô sang mùa mưa). Chia sẻ niềm vui được đón những công dân đầu tiên chào đời vào thời khắc chuyển giao năm 2021 sang năm 2022, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Danh Cường cho biết là bác sỹ sản khoa, ông đỡ đẻ, mổ đẻ rất nhiều.

46

47

48

49

50

51 52

53

54

55

56

57

58

P21

Tuy nhiên được đích thân đỡ đẻ, mổ đẻ cho 2 sản phụ, đón 2 em bé trong khoảnh khắc vừa bước sang năm mới càng đặc biệt hơn, nhất là trong bối cảnh dịch COVID-19 kéo dài suốt 2 năm qua. Được đón nhiều cháu bé chào đời vào thời khắc chuyển giao năm cũ sang năm mới, nhìn nụ cười, niềm vui hạnh phúc của sản phụ và gia đình khi đón đứa trẻ vừa sinh ra khoẻ mạnh, hồng hào, chúng tôi cũng vui thêm vì mình vừa góp phần mang đến hạnh phúc cho các gia đình, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương chia sẻ./. Biểu tình phản đối tăng thuế xăng dầu ở Pháp đã kéo sang ngày thứ 8, leo thang bạo lực làm tê liệt đường xá Paris, buộc cảnh sát chống bạo động phải giải tán bằng biện pháp vũ lực. Riêng trong tháng 10, số ngoại tệ được mua vào từ các ngân hàng là 150 triệu USD, tương đương khoảng 3.430 tỉ đồng theo tỉ giá cùng thời điểm vào tháng 10. Bước sang tháng 11, Kho bạc Nhà nước chào mua thêm 250 triệu USD, tương đương 5.660 tỉ đồng tính theo tỉ giá cùng thời điểm. TP Hồ Chí Minh đã bước sang tuần thứ hai trong đợt thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ. Chiến sự tại Ukraine đã bước sang ngày thứ 50. Trong khi đó, thông báo chính thức của chính phủ Ukraine trong ngày 19-2 cho biết có tổng cộng 25 người thiệt mạng và 241 người nhập viện khi cuộc xung đột kéo dài sang ngày 19-2. Black Panther: Wakanda Forever ban đầu được ấn định phát hành vào ngày 8.7.2022 nhưng sau đó lại dời sang 11.11.2022. Trong khi đó, Nhóm các bộ trưởng tài chính Eurozone (Eurogroup) tuyên bố lùi cuộc họp thảo luận về tình hình Hy Lạp chậm lại một ngày sang 25/6 do cuộc đàm phán giữa Hy Lạp là nhóm chủ nợ chưa có kết quả cụ thể. Cuộc họp diễn ra vào ngày 24/06/2015 Trong trường hợp AFF Cup 2020 lùi sang năm sau, VFF cùng HLV Park Hang Seo sẽ có điều chỉnh kế hoạch chuẩn bị của tuyển Việt Nam cho chiến dịch vòng loại World Cup 2022 Người xưa cho rằng đây là thời điểm khởi đầu cho một năm mới bởi trời đất giao hoà, mùa nắng chuyển sang mùa mưa, cây cối đâm chồi nảy lộc. Đêm giao thừa ngày 13/4, người dân đến chùa nghe các nhà sư tụng kinh, ban phước lành trong thời khắc chuyển sang năm mới. Bước sang thế hệ thứ 2, Ascend Mate vẫn giữ nguyên kích thước màn hình 6,1 inch nhưng bổ sung thêm kết nối 4G.

TỚI

STT Ngữ liệu

Tới quy chiếu thời gian

1

2

3

4

5

6

7

8 9

10 11

12

13

14

P22

Tới là động từ Tôi nghĩ vai trò của mình trong thời gian tới là làm ít phim lại, giúp đỡ các nhà làm phim trẻ và kết hợp, chia sẻ kinh nghiệm với họ. Ngoài ra, các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi dự kiến cũng sẽ được tăng cường theo gói này và một phần kinh phí dành cho các cơ quan y tế để thành lập 100 phòng khám dã chiến, mỗi phòng khám có năng lực xử lý 75 bệnh nhân mỗi ngày, duy trì trong vòng 6 tháng tới. Sao Mộc và sao Kim sẽ còn xuất hiện cùng nhau vào tháng 6 và đầu tháng 7 tới. Trang web chính thức của LĐBĐ châu Á (AFC) đã đánh giá cao màn chạy đà của tuyển VN trước vòng chung kết Asian Cup 2019 khai diễn vào ngày 5.1 tới đây tại UAE. Tuy vẫn chưa đạt được 100% về thể lực nhưng họ cũng đã thể hiện những mặt tích cực để chuẩn bị cho những thử thách rất lớn sắp tới. Vị trí của Debuchy ở mùa giải tới sẽ nhận không ít áp lực từ cầu thủ trẻ Hector Bellerin. Phiên làm việc kết thúc sớm để các công tố viên đồng thời là nghị sĩ Hạ viện biểu quyết ngân sách năm tới. Chúng tôi hy vọng chuyến đi sẽ được thực hiện vào mùa xuân tới Theo kế hoạch, vào thứ Ba tuần tới, đảng Likud sẽ tổ chức bầu ra ứng cử viên của đảng này để tham gia vào cuộc bầu cử thủ tướng. Thế hệ thứ hai sẽ đuợc thử nghiệm đầu năm tới. Chiều 12/12, Ban Tư Tưởng - Văn hoá TP Hồ Chí Minh tổ chức họp báo về Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần VII - sẽ khai mạc vào 19/12 tới. Sắp tới đây, với những cải tiến về kỹ thuật, các bậc cha mẹ có thể xem mặt đứa con tương lai có giống mình hay giống… ai khác. Theo nội dung Nghi Quyết, trong 10 năm tới, gắn với chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, thành phố sẽ phát triển kinh tế - khoa học công nghệ - văn hoá - xã hội - toàn diện, bền vững; bảo đảm xây dựng về cơ bản nền tảng vật chất - kỹ thuật và xã hội của thủ đô giàu đẹp, văn minh, thanh lịch, hiện đại, đậm đà bản sắc ngàn năm văn hiến; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phấn đấu trở thành một trung tâm có uy tín ở khu vực, xứng đáng với danh hiệu “Thủ đô Anh hùng”. Việc kiểm tra các tế bào của 86 Squared sẽ được thực hiện vào tháng tới nhằm quyết định xem nó có thể kháng bệnh hay không.

15

16

17 18

19

20

21

22

23 24

25

26

27

28

29

P23

30 Vì lý do cơ quan lập pháp Israel không thông qua việc giải tán Quốc hội, đảng Likud đối lập đã hoãn việc bầu cử ứng cử viên chính của đảng tham gia cuộc bầu cử Thủ tướng dự định sẽ diễn ra vào tháng hai tới. Tại đại hội, trong những ngày tới, các đại biểu cũng sẽ nghe báo cáo về tiêu chuẩn, cơ cấu, số lượng, thủ tục ứng cử, đề cử BCH Đảng bộ thành phố khoá 7; tiến hành bỏ phiếu biểu quyết một số vấn đề quan trọng của báo cáo chính trị, bỏ phiếu bầu BCH Đảng bộ khoá 7. Đại hội Đảng bộ TP khoá 7 cũng sẽ bầu đoàn ĐB đi dự Đại hội 9 của Đảng. Sắp tới, chúng tôi sẽ cho người theo dõi và có biện pháp đối phó. Ông khẳng định, trong những ngày tới, chính phủ mới sẽ được thành lập ở Serbia với nhiệm vụ xây dựng một nhà nước với các thể chế dân chủ và kinh tế theo định hướng thị trường. NASA đã lên kế hoạch thực hiện 2 sứ mệnh tiếp theo trong thập kỷ tới nhằm đưa các mẫu vật về Trái đất. Tổng Giám đốc cũng bày tỏ mong muốn, trong năm tới, Liên chi hội tích cực hoạt động nghiệp vụ hơn nữa, nhằm nâng cao chất lượng các chương trình, tác phẩm báo chí trên mọi phương tiện truyền thông của toàn Đài. Dự báo trong 24h tới, áp thấp nhiệt đới di chuyển chủ yếu theo hướng Bắc, mỗi giờ đi được khoảng 5 km. Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn TW, hiện tượng nắng nóng vẫn có chiều hướng kéo dài trong vài ngày tới. Cơ quan này sẽ đưa ra báo cáo về phiên điều trần trên vào đầu tuần tới. Trung tâm hứa hẹn trở thành điểm đến mua sắm, vui chơi và ẩm thực hàng ngày cho người dân, đặc biệt trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới. Nếu chúng ta không tích cực phòng ngừa, dịch chân tay miệng có nguy cơ bùng phát vào mùa hè tới. Về đề nghị của một số công nhân Việt Nam đòi trở về nước, Toà án yêu cầu đối với 35 người muốn trở về Việt Nam, phía Công ty Daewoosa phải có trách nhiệm thanh toán chi phí đi lại trong vòng 3 tuần tới. Cơ quan chống tham nhũng của Thái Lan ngày hôm qua đã tuyên bố Thaksin Shinawatra, ứng cử viên hàng đầu trong cuộc bầu cử sắp tới, phạm tội che giấu tài sản trong thời gian ông này làm Phó Thủ tướng hồi năm 1997. Tại bang Alaska (Mỹ), sông băng Columbia gần Valdez đang thu hẹp nhanh đến mức các nhà khoa học cho rằng những con tàu du lịch có thể mở đường đi trên mặt của nó trong vài thập kỷ tới. Theo dự định, chủ nhật tới, các quan chức an ninh của Israel, Palestine và Mỹ sẽ gặp nhau để thảo luận phương cách hạn chế bạo lực trong khu vực. Theo dự kiến, sẽ có khoảng 5 triệu người đến đây trong thứ ba tới.

31

32

33

34

35

Vì thế, tới đây, hoạt động của Hội phải hướng mạnh vào việc sinh viên nghiên cứu khoa học và tập sự nghiên cứu khoa học, đồng thời học phải là lực lượng xung kích, nòng cốt trong việc chuyển giao khoa học công nghệ. Nhiều nhà khoa học cho rằng mặt trời của chúng ta sẽ có số phận tương tự như tinh vân này trong hàng tỷ năm tới. Ông kêu gọi các bên tham chiến tại nước này ngừng ngay chiến sự để người dân có thể trở về chuẩn bị cho vụ mùa sắp tới. 6 tháng mùa khô sắp tới, các đơn vị phải hoàn thành công việc rải đá tráng nhựa mặt đường, hệ thống cấp nước, nhanh chóng xây dựng các trạm trộn bê tông, trạm nghiền đá... Liên minh theo đường lối bảo thủ này e ngại đảng Một Dân tộc có thể phân tán số phiếu của cử tri và làm mờ hy vọng lần thứ ba liên tiếp đắc cử Thủ tướng của ông John Howard trong cuộc bầu cử toàn quốc diễn ra vào mùa thu tới.

Tới không quy chiếu thời gian

36

37

38 39

41

42

Tới là động từ 2 tuần nữa mới tới giao thừa, nhưng không khí “xuân về” ở các địa phương có thể cảm nhận được trên từng nét mặt. Gật đầu cười tươi và ngó bâng quơ ra cửa sổ, bà nội rớm nước mắt rồi nói thầm trong miệng: “Đã tới tết đâu, ra giêng e còn lâu lắm”. Anh kể, cứ gần tới giao thừa là ra khỏi nhà, tụ tập cùng đám bạn. Chưa cần tới mùa xuân, những ngày này các vườn mận trên bản Pa Phách (Mộc Châu) đã bắt đầu bừng tỉnh, điểm xuyết sắc hoa trắng tinh khôi. 40 Mùa lũ đã tới, mực nước sông đang lên cao, tài sản và tính mạng của hàng trăm nghìn dân đang trông chờ vào sự bền vững của hệ thống đê kè, vậy mà một đoạn dài xung yếu trong số đó đang đứng trước nguy cơ bị đe doạ bởi... chuột. Ông Putin cũng nhấn mạnh rằng “thời điểm đã tới”, cần phải có một đội ngũ mới thực thi các kế hoạch đã bàn thảo gần 2 năm qua về vấn đề cắt giảm nguồn cung cấp cho quốc phòng, nhưng vẫn duy trì được sức mạnh quân sự. Rốt cục hôm nay, ngày định mệnh cũng đã tới cho các chính trị gia nước Anh, sau 30 ngày vận động tranh cử.

44

45

43 Mùa đông đã tới, các nhóm cứu trợ cũng hy vọng lực lượng đa quốc gia do Anh chỉ huy sẽ giúp họ phân phát đồ nhân đạo và bảo đảm an ninh trong các đợt vận chuyển hàng tới miền xa. Các công viên ở Tokyo rộn ràng với vô vàn bữa tiệc khi hoa anh đào nở rộ và mùa xuân tới. Trong hai tháng 1 và 2 năm 2022, hơn 100 báo cáo ghi nhận ở Vương quốc Anh cho thấy nhiều bầy chim én đã "từ chối" di cư, thay vào đó vẫn ở cố định một nơi chờ mùa xuân tới.

P24

46 Mùa xuân tới, hoa nở rực rỡ khắp mọi ngóc ngách của thị trấn

47

Cô hy vọng trong chuyến đi sắp tới đây sẽ có nhiều thời gian để lưu lại và thưởng thức nhiều nét văn hoá ẩm thực độc đáo hơn.

48 Một tinh thể zircon ít nhất 4,3 tỷ năm tuổi vừa được các nhà khoa học phát

49

50

51

52

53

54

55

56 57

58

59

60

61 62

63

64

P25

hiện, trở thành mẫu vật rắn già nhất được biết tới nay. Tới nay, Ukraine đã nhận gần 1.500 tấn đạn dược do 17 chuyến bay đưa tới, ông Reznikov thông báo trên Twitter. Hoạ sĩ Đặng Huy Quyển cho biết: Tới nay, anh đã vẽ khoảng 700 bức tranh sơn dầu nên không thiếu tranh để bày. Tới nay X5 đã bán được một lượng xe rất lớn dù các tín đồ lâu năm của BMW không hẳn đã yêu thích dòng xe này. Tới là giới từ Ông nói: “một loạt thay đổi đó khiến chúng tôi lo ngại rằng tới khi được phép điều tra tài liệu của ngân hàng, chúng ta sẽ không thể tìm ra sự thật”. Phiên toà luận tội tổng thống đã bước sang tuần thứ hai, và có thể kéo dài tới giữa tháng Giêng. Ngày 20/12, Cơ quan khí tượng Liên Hợp Quốc thông báo hiện tượng El Nino sẽ không quay trở lại từ nay tới cuối năm 2001. Thompson đã chấp nhận chức bộ trưởng, nhưng đề nghị lui việc thông báo chỉ định ông tới sau Giáng Sinh để ông có thể cùng gia đình đi nghỉ và về nhà chuẩn bị từ chức thống đốc. Theo đó học sinh sẽ học tập trung tại trường từ thứ hai tới thứ sáu hàng tuần. Cho tới thời điểm hiện tại, các nạn nhân có máy tính bị nhiễm mã độc WannaCry đã trả cho các hacker phát tán nó ít nhất 28.500 USD tiền chuộc nhằm lấy lại dữ liệu bị khoá của mình. Chân dài người Israel, Bar Refaeli là mối quan hệ “nghiêm túc” và lâu dài thứ 2 hai trong cuộc đời của Leonardo tính tới thời điểm hiện tại. Sau khi chia tay, siêu mẫu đình đám Kate Moss đã suy sụp trong một thời gian dài và cho tới tận bây giờ cô vẫn khẳng định Johnny Depp là người duy nhất khiến cô cảm thấy tin tưởng. Cả hai nạn nhân đều khẳng định trong cuộc sống cũng như trong công việc làm ăn từ trước tới nay chưa bao giờ xích mích, mâu thuẫn với ai. Nó sẽ được trưng bày ở đây tới 28/8. Cho tới lúc này thì vẫn chưa có nhu cầu sơ tán công dân ngay lập tức vì các đường bay đến và đi Ukraine vẫn hoạt động, biên giới trên bộ giữa Ukraine với các đồng minh Tây Âu của Mỹ vẫn mở. Lãnh đạo NH Nhà nước TP.HCM cho biết tới thời điểm hiện nay tiền kim loại vẫn còn giá trị lưu thông. Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện tiếp tục tham mưu UBND huyện tập trung và ưu tiên các nguồn lực thực hiện Đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2021-2025; đẩy nhanh tiến độ xây dựng và đưa vào hoạt động trường

65

66

67

68

69

70

P26

liên cấp chất lượng cao; phấn đấu tới cuối năm 2021 có thêm 6 trường học đạt chuẩn quốc gia. Tới ngày 30/9, anh T. xuất hiện triệu chứng ho, đau họng và được lấy mẫu xét nghiệm cho kết quả dương tính với SARS-CoV-2. Giải trình vấn đề này, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho rằng, cơ chế đặc thù về tiền lương và thu nhập một số cơ quan thì xin được tiếp tục phân bổ cho tới hết 1/7/2022 là thời điểm thực hiện cải cách tiền lương. Từ đầu năm, Quốc hội Nga đã phê chuẩn và cho tới nay vẫn ủng hộ hiệp ước START II . Dĩ nhiên người Mỹ của mình ăn Tết theo dương lịch. Khởi đầu từ Noel cho tới ngày đầu tháng giêng năm mới. Ông đau khổ: “Với 56 tuổi đời, cái tuổi đã xế chiều vậy mà cho tới giờ tôi vẫn bị nỗi oan nhục trong suốt 400 ngày qua theo đuổi...” Sau khi Vladimir Putin lên làm Tổng thống (31/12/1999), Borodin thôi giữ chức cố vấn và được cử làm Thư ký điều hành Liên minh Nga - Belarus, một chức vụ ông vẫn giữ cho tới bây giờ, bất chấp lệnh bắt quốc tế của toà án Thuỵ Sĩ tháng 1/2000.

ĐẾN

STT Ngữ liệu

Đến quy chiếu thời gian

1

2

Đến là động từ Tôi sẽ tập trung tối đa để có kết quả tốt nhất ở kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia sắp đến. Sắp đến, ngành Giáo dục tỉnh Khánh Hoà mở rộng dạy học ngày 2 buổi, ăn, nghỉ trưa tại trường cho học sinh các trường Tiểu học trong toàn tỉnh. Đến không quy chiếu thời gian

3

4 5

6

7 8

9

10

11

12 13

P27

Đến là động từ Là một người nghiện trà sen, cứ đến mùa hoa, anh Hữu Phước (Long Biên, Hà Nội) đều đặt mua nửa cân về uống. Hoa đến thì thì hoa phải nở. Khi kỳ nghỉ hè đang đến gần, nền kinh tế sẽ tiếp tục mở cửa, nhu cầu thực phẩm và đồ uống tăng đột biến do thời tiết nóng bức, cùng với các sự kiện thể thao lớn sẽ làm trầm trọng thêm vấn đề. Tuy nhiên, sau 2 lần phỏng vấn, Phạm Huy không được cấp visa, dù ngày thi đã đến gần. Sẽ đến một thời khắc mà cơ thể bạn nói rằng phải dừng lại. Theo Tổng cục Thuế, hiện nay chưa hết thời hạn nộp giấy đề nghị gia hạn và chưa đến thời điểm kê khai, nộp thuế của một số kỳ tính thuế thuộc diện được gia hạn (tháng 6, 7, 8 và quý II-2021) nên số liệu về đối tượng thụ hưởng và số tiền được gia hạn sẽ liên tục được cập nhật trong thời gian tới. Thời xưa, dân ta làm nông nghiệp nhỏ lẻ phụ thuộc mưa nắng tự nhiên, nên ra giêng ngày rộng tháng dài vì mùa màng chưa đến, lại còn chờ mưa xuống đầy đồng, thế nên hội hè được mở chơi vui. Thực hiện phương châm "Đánh chắc, tiến chắc", ta chủ trương tiêu diệt 3 trung tâm đề kháng Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo và thời khắc lịch sử đã đến, 17h ngày 13-3-1954, Him Lam được chọn là mục tiêu mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ. Thời khắc lịch sử đã đến, 2 nhà lãnh đạo Mỹ và Triều Tiên đã chính thức bắt tay, đánh dấu lần đầu tiên một vị tổng thống đương nhiệm của Mỹ gặp gỡ nhà lãnh đạo của Triều Tiên. Dù sắp đến ngày sinh con, Trần Khải Lâm vẫn rong ruổi khắp nơi. Sắp đến một cái tết mới, lòng tôi thổn thức nhớ quê hương khôn tả, ký ức trong tôi từ trong tiềm thức như chợt quay về với không khí ngày xuân nơi quê hương. Đến là giới từ

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25 26

27

P28

Hội Nhà báo Việt Nam cho biết tính đến ngày 31-3, ở Việt Nam chỉ có duy nhất một trường hợp phóng viên có kết quả dương tính với COVID-19 là nhà báo N.T.H. thuộc biên chế của báo Vietnam News (Thông tấn xã Việt Nam). Hiện hầu hết địa phương đã điều chỉnh lịch nghỉ học của học sinh đến hết tháng 2, đi học trở lại vào đầu tháng 3 theo kiến nghị của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo ngày 14/2. Riêng TP HCM ngày 20/2 gửi văn bản tới Phó thủ tướng Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo kiến nghị cho học sinh cả nước nghỉ học hết tháng 3, học kỳ II từ tháng 4 đến tháng 7, kỳ thi THPT quốc gia diễn ra cuối tháng 7, chậm hơn một tháng so với năm 2019. Tính đến nay, nhà tôi đã làm trà đặc sản được 20 năm, ướp trà sen, trà nhài được 5 năm. H’Khuyn bảo không phải không có lúc mệt mỏi, muốn đi, muốn đổi công việc, nhưng nghĩ kỹ lại thì vẫn không đành, thế là gắn bó đến giờ. Có lần, do không phản ứng kịp, mình bị cậu học trò lớn tuổi trong lớp cắn vào ngón tay rất sâu, không ngừng chảy máu, vết thương còn để lại sẹo đến giờ, H’Khuyn kể. Gần gũi với nhau từ sáng đến tối nên con tôi và nhiều em ở đây đều xem cô H’Khuyn như người mẹ thứ hai của mình Được xây dựng vào năm 1679, Thư viện Tu viện Strahov đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Séc và là nơi lưu giữ hàng nghìn cuốn sách được xuất bản từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18. Ông chống chọi với bệnh tật cho đến phút cuối cùng. Sau khi báo chí phản ánh, Bộ VH-TT-DL đã kiến nghị xử lý, ngày 26.3, ông Son xin tự tháo dỡ công trình trước ngày 30.4 và được chính quyền địa phương đồng ý, nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành. Cuộc thi được triển khai rộng rãi đến các quận, huyện, thị xã; các trường phổ thông, đại học và các nhóm nhảy trong cộng đồng và nhận đăng ký từ nay đến hết ngày 15-10 tại Trung tâm Văn hoá thành phố, số 7 Phùng Hưng, Hà Đông, Hà Nội. Sau khi phân phối hàng lậu, Huy cùng các bị cáo thu lợi 221 tỷ. Đến khi đường dây bị phanh phui, Công ty Nhật Cường còn 947 sản phẩm (trị giá 7,7 tỷ) chưa bán ra thị trường. Đến gần 11 giờ trưa cùng ngày, đám cháy mới được dập tắt hoàn toàn. Trong 12 đến 24 giờ tiếp theo, bão di chuyển theo hướng Tây, mỗi giờ đi được 20 - 25km, đi vào biển Đông. Cô kế toán ở công ty anh C. sau đó đã được ghép thận tại Huế, tìm lại được sức khoẻ, cô cống hiến tốt hơn cho đơn vị từ ấy đến nay, điều này càng khiến anh C. có thêm động lực cho quyết định của mình.

28

29

30

31

32 33

34

35

36

37

38

39

40

41 42

43

44

P29

Nhiều người nghĩ đành phó mặc cho số phận, bà sống được đến lúc nào hay lúc ấy. Gặp được nhau đã khó, cuộc đời ngắn ngủi lại còn bỏ lỡ nhau thì đến bao giờ mới có hạnh phúc? Thế nhưng, cả hai đều công nhận rằng, nhờ những kỷ niệm thú vị ấy mà anh và Thuỳ Trang vẫn duy trì được tình bạn tốt đẹp đến tận bây giờ. Công việc cứ cuốn lấy từ sáng đến khuya nên tranh thủ giờ cơm trưa, nhân viên y tế gọi điện thoại về nhà. Casemiro vừa gia hạn hợp đồng với Real đến hè 2023 vài tháng trước. Dù U20 Việt Nam bị thua và bị loại khỏi giải nhưng các khán giả vẫn cổ vũ hết mình đến phút cuối cùng. Trước đó, trong tháng Tư vừa qua, Sở Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã thông báo điều chỉnh phân luồng giao thông trên đường Tôn Đức Thắng phục vụ thi công dự án xây dựng cầu Thủ Thiêm 2 (nhịp dầm băng nút giao Tôn Đức Thắng-Nguyễn Hữu Cảnh-Lê Thánh Tôn) từ ngày 25/4 vừa qua đến ngày 20/7 tới. Ông Hải khẳng định, đến thời điểm hiện tại, nhà máy thuỷ điện Plei Kần chưa được cơ quan chức năng cho phép tích nước. Và đến hôm qua, ban tổ chức vẫn chưa nhận được bất kỳ tin tức nào từ Venus cho thấy cô sẽ dự giải. Đây là lô hàng có số lượng lớn nhất từ trước đến nay, gồm xe du lịch Kia, xe bus và sơmi rơmoóc được sản xuất tại các nhà máy thuộc KCN THACO Chu Lai. Từ đầu mùa đến giờ, trung bình mỗi chủ hàng bán lê rừng cũng tiêu thụ được khoảng từ 10-15 xe hàng, tương đương vài trăm gốc trên mỗi gian hàng. Tại buổi kiểm tra, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng nêu rõ: Đến giờ phút này, các công tác chuẩn bị đã được thực hiện rất tốt, các đơn vị, lực lượng đã thực hiện tốt các công việc được giao, các bước tiến hành được thực hiện chặt chẽ, chu đáo, được rút kinh nghiệm từ các kỳ Đại hội trước. Hàng nghìn phương tiện, nhiều nhất là xe tải và xe khách đã phải nằm đường kéo dài gần 3 km từ đêm đến sáng 9/1. Cá chuồn có quanh năm, rộ nhất là vào mùa hè từ tháng 4 đến tháng 8. Qua quá trình xác minh, sàng lọc và truy vết đối tượng, đến sáng ngày 18-9, Công an huyện Quế Sơn xác định L.V.T là người thực hiện vụ trộm tại nhà bà T. Quan điểm của mình khác với những năm trước, nếu có tiền thì cho đúng địa chỉ, không nhất thiết phải "nuôi béo" những kẻ chăn dắt người già, đàn bà, trẻ em từ sáng đến tận khuya. Gửi người phụ nữ ăn xin đầy “tự trọng” ấy: Nếu chẳng may cô đọc được những dòng này của cháu, thì cô hãy biết rằng mẹ cháu ở quê bán mỗi tờ vé

45

46

47

48

49

50

P30

số lời có 1.000 đồng; chở từng quả mít, trái bơ, quả đu đủ ra chợ xa lắc xa lơ bán cũng chỉ lời 500 đồng/ký... để rồi cuối tháng vuốt thẳng từng tờ giấy 1.000 ấy, gom lại mà nuôi anh em cháu ăn học đến bây giờ. Cho đến giờ, cô vẫn thích thú với sự chú ý của công chúng dành cho màn khêu gợi táo bạo của cô ở Bản năng gốc. Xuất hiện tại Hải Dương từ thế kỷ 12, bánh gai nhanh chóng nổi tiếng khắp xa gần và tồn tại đến ngày nay. Tính đến thời điểm này, Việt Nam đã có 12 di sản được UNESCO vinh danh là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới, bao gồm: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ, Ca trù, Hội Gióng, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Đờn ca tài tử, Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh, Nghi lễ và trò chơi kéo co, Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, Hát Xoan và Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ. Theo đó, tính đến thời điểm hiện tại, các hãng xe trên chưa có ghi nhận về bất cứ thiệt hại thực tế nào từ việc sử dụng các sản phẩm có sử dụng sản phẩm của Tập đoàn Kobe Steel. Có một lần chúng tôi mất 15 ngày không tìm được gì, nhưng đến ngày cuối cùng, chúng tôi phát hiện ba thi thể. Ngoài vụ ngô, chúng mình chỉ có ít rau màu vừa là thức ăn cho con người vừa là thức ăn cho vật nuôi, nhưng đã mất vì đến khi tuyết tan rau màu cũng sẽ bị cháy hết...