ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------***------

ĐOÀN HỮU DŨNG

SỰ THỂ HIỆN Ý NGHĨA NGỮ PHÁP CÔNG CỤ

TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------***------

ĐOÀN HỮU DŨNG

SỰ THỂ HIỆN Ý NGHĨA NGỮ PHÁP CÔNG CỤ

TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 62 22 02 40

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

GS. TS. VŨ ĐỨC NGHIỆU

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất

kỳ một công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

ĐOÀN HỮU DŨNG

LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, tự đáy lòng mình, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc

nhất đến thầy giáo hƣớng dẫn khoa học, GS-TS VŨ ĐỨC NGHIỆU, ngƣời đã

tận tâm trực tiếp hƣớng dẫn và chỉ bảo cho tôi hoàn thành luận án này bằng

những khích lệ quý báu, sự nghiêm khắc cần thiết và tấm lòng bao dung!

Tôi xin cảm ơn những ngƣời thân yêu trong gia đình đã chia sẻ khó

khăn để tôi có điều kiện chuyên tâm hoàn thành luận án này!

Trong quá trình thực hiện luận án, tôi cũng nhận đƣợc nhiều sự giúp

đỡ từ phía Ban chủ nhiệm và các quý thầy cô trong Khoa Ngôn ngữ học, các

nhà khoa học, tập thể Ban giám hiệu, lãnh đạo và chuyên viên các phòng ban

của Trƣờng ĐHKHXH&NV - ĐHQGHN. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân

thành về những sự giúp đỡ quý báu này!

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Ban chủ nhiệm

và các đồng nghiệp trong Khoa Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam cùng các cơ

quan chức năng của Học viện Khoa học Quân sự đã tạo cơ hội và nhiều điều

kiện thuận lợi cho tôi đƣợc học tập và hoàn thiện luận án này!

Hà Nội, ngày ..... tháng ..... năm 2020

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

ĐOÀN HỮU DŨNG

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG ...................................................................... 4

BẢNG VIẾT TẮT, KÝ HIỆU VÀ QUY ƢỚC TRÍCH DẪN .................................. 5

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 8

1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................... 8

2. Đối tƣợng nghiên cứu ................................................................................................. 9

3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 10

4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 10

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................ 11

6. Ngữ liệu nghiên cứu ................................................................................................. 11

7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án .................................................................. 12

8. Cấu trúc của luận án ................................................................................................ 13

CHƢƠNG 1 : TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN

CỦA LUẬN ÁN .......................................................................................................... 14

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 14

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong ngôn ngữ học .............14

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt ................................ 20

1.1.3. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga................................. 26

1.2. Cơ sở lí luận của luận án ....................................................................................... 34

1.2.1. Phân biệt công cụ - dụng cụ - phƣơng tiện ....................................................... 35

1.2.2. Ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp công cụ .............................................. 41

1.2.3. Ý nghĩa ngữ pháp và vai nghĩa .......................................................................... 45

1.2.4. Phƣơng thức ngữ pháp và phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ . 49

1.2.5. Quan hệ giữa ý nghĩa công cụ và thành phần câu ............................................ 55

TIỂU KẾT ..................................................................................................................... 57

CHƢƠNG 2: CÁC PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý NGHĨA NGỮ PHÁP CÔNG

CỤ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA ......................................................... 59

1

2.1. Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt ............. 59

2.1.1. Phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng hƣ từ ........................................... 59

2.1.1.1. Hƣ từ “bằng”.................................................................................................... 60

2.1.1.2. Hƣ từ “qua, thông qua” ................................................................................... 61

2.1.1.3. Hƣ từ “với” ...................................................................................................... 64

2.1.1.4. Hƣ từ “nhờ (vào)” ........................................................................................... 66

2.1.1.5. Hƣ từ “dựa (vào, theo), căn cứ (vào, theo)” .................................................. 68

2.1.1.6. Hƣ từ “bởi, vì” ................................................................................................. 69

2.1.1.7. Hƣ từ “trên, trong” .......................................................................................... 71

2.1.2. Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ không bằng hƣ từ ........................ 73

2.1.2.1. Sử dụng kết cấu có các vị từ “dùng / lấy ...” .................................................. 73

2.1.2.2. Tiền giả định về “công cụ” của từ .................................................................. 81

2.2. Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Nga .............. 86

2.2.1. Phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các biến tố cách công cụ (cách 5)

........................................................................................................................................ 87

2.2.1.1. Thể hiện ý nghĩa công cụ bằng phụ tố ........................................................... 94

2.2.1.2. Kết hợp phƣơng thức giới từ và phụ tố .......................................................... 98

2.2.2. Phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các phƣơng tiện không thuộc

cách biểu hiện của cách công cụ ................................................................................ 107

2.2.2.1. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện sinh cách (cách 2) 108

2.2.2.2. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện tặng cách (cách 3) 114

2.2.2.3. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện đối cách (cách 4) .. 119

2.2.2.4. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện giới cách (cách 6) . 124

TIỂU KẾT ................................................................................................................... 130

CHƢƠNG 3: Ý NGHĨA CÔNG CỤ VỚI VAI NGHĨA CÔNG CỤ TRONG

TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA .............................................................................. 132

3.1. Sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt .................................................. 133

3.1.1. Dẫn nhập ........................................................................................................... 133

2

3.1.2. Chức năng cú pháp của vai nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt ................... 137

3.1.2.1. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) bổ ngữ ................................................... 137

3.1.2.2. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) chủ ngữ ................................................. 141

3.1.2.3. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) đề ngữ ................................................... 147

3.1.2.4. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) trạng ngữ ............................................... 149

3.2. Sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga ............................................. 152

3.3. So sánh sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga .............. 158

TIỂU KẾT ................................................................................................................... 166

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 167

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN ................................................................................................................... 171

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 172

NGUỒN NGỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ..................................................................... 186

3

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG

Bảng 1.1: Mô hình kết cấu có chỉ tố công cụ .................................................. 38

Bảng 1.2: Mô hình có tiền giả định công cụ 1 ................................................ 38

Bảng 1.3: Mô hình có tiền giả định công cụ 2 ................................................ 38

Bảng 2.1: Kết cấu chỉ công cụ của hành động ................................................ 77

Bảng 2.2: Kết cấu chỉ mục đích của hành động .............................................. 77

Bảng 2.3: Kết cấu kiểm định công cụ hành động ........................................... 77

Bảng 2.4: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng cách công cụ không có giới từ . 95

Bảng 2.5: Sự biến đổi vĩ tố của danh từ ở cách công cụ ................................. 95

Bảng 2.6: Sự biến đổi vĩ tố của tính từ ở cách công cụ .................................. 96

Bảng 2.7: Sự biến đổi đại từ nhân xƣng ở cách công cụ ................................ 96

Bảng 2.8: Sự biến đổi đại từ chỉ định ở cách công cụ .................................... 96

Bảng 2.9: Sự biến đổi đại từ sở hữu ở cách công cụ ....................................... 97

Bảng 2.10: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ с, под ........................ 105

Bảng 2.11: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các cách ngữ pháp khác ....... 107

Bảng 2.12: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ с / из ......................... 112

Bảng 2.13: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ от ............................. 112

Bảng 2.14: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ по .............................. 118

Bảng 2.15: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ благодаря ................ 118

Bảng 2.16: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ через ......................... 122

Bảng 2.17: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ на .............................. 126

Bảng 2.18: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ в ................................ 127

4

BẢNG VIẾT TẮT, KÝ HIỆU VÀ QUY ƢỚC TRÍCH DẪN

A. Viết tắt và ký hiệu

S: Chủ thể hành động (Subject)

P: Vị từ (Predicate)

O: Đối thể (Object)

(I): Yếu tố công cụ (Instrumental)

(+I): Có chỉ tố công cụ

(-I): Không có chỉ tố công cụ

Г: Động từ (Глагол)

Сущ.: Danh từ (Существительный)

Инстр.: Công cụ (Инструмент)

Сущ.инстр.: Danh từ chỉ công cụ (Существительные, обозначающие

инструмент)

Сущ.имен.п./инстр.: Danh từ ở chủ cách (cách 1) chỉ công cụ

(Существительные именительного падежа, обозначающие инструмент)

Сущ.род.п./инстр.: Danh từ ở sinh cách (cách 2) chỉ công cụ

(Существительные родительного падежа, обозначающие инструмент)

Сущ.дат.п./инстр.: Danh từ ở tặng cách (cách 3) chỉ công cụ

(Существительные дательного падежа, обозначающие инструмент)

từ ở đối cách (cách 4) chỉ công cụ Сущ.вин.п./инстр.: Danh

(Существительные винительного падежа, обозначающие инструмент)

Сущ.твор.п./инстр.: Danh từ ở công cụ cách (cách 5) chỉ công cụ

(Существительные творительного падежа, обозначающие инструмент)

Сущ.предл.п./инстр.: Danh từ ở giới cách (cách 6) chỉ công cụ

(Существительные предложного падежа, обозначающие инструмент)

≈: tƣơng đƣơng

: Có nghĩa là

5

B. Viết tắt nguồn trích dẫn

Доктор Живаго: ДЖ

Bác sĩ Zhivago: BSZh

Bƣớc đƣờng cùng của Nguyễn Công Hoan: BĐC-NCH

Chí Phèo của Nam Cao: CP-NC

Dế mèn phiêu lƣu kí: DMPLK

Nguyễn Huy Thiệp - Truyện ngắn chọn lọc: NHT

Số đỏ của Vũ Trọng Phụng: SĐ-VTP

Tắt đèn - Ngô Tất Tố: TĐ-NTT

Tuyển tập Nam Cao: NC

Tuyển tập Anh Đức - tập I và II: AĐ-I và AĐ-II

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan: NCH

Thạch Lam - Truyện ngắn chọn lọc: TL

Tuyển tập Kim Lân: KL

Tuyển tập Ngô Tất Tố - tập IV và V: NTT-IV và NTT-V

Tuyển tập 27 truyện ngắn Vũ Trọng Phụng: VTP

Truyện ngắn miền Nam chọn lọc: TNMN

Truyện ngắn trẻ chọn lọc: TNT

Văn nghệ quân đội - Truyện ngắn đoạt giải nhất: VNQĐ

C. Quy định cách ghi nguồn trích dẫn và xuất xứ các ví dụ

Trong phần TÀI LIỆU THAM KHẢO từ trang 172 đến trang 185,

chúng tôi đánh số liên tục từ số thứ tự 1 đến số 155. Trong quá trình trích dẫn

tài liệu tham khảo, chúng tôi báo cáo nguồn bằng những số thứ tự chỉ tác giả

công trình và sau đó là số trang trong ngoặc vuông.

Trong phần NGUỒN NGỮ LIỆU NGHIÊN CỨU từ trang 186 đến

trang 188, chúng tôi đánh số liên tục từ số thứ tự 156 đến số 182. Trong quá

6

trình trích dẫn ví dụ, chúng tôi báo nguồn bằng tên tác phẩm (viết tắt) rồi đến

số trang trong ngoặc vuông.

Một số ví dụ chúng tôi thiết kế nên phía sau không đƣợc ghi chú

nguồn xuất xứ và một số ví dụ chúng tôi ghi chú nguồn trực tiếp phía sau vì

xuất xứ của chúng không có trong danh mục “TÀI LIỆU THAM KHẢO” và

“NGUỒN NGỮ LIỆU NGHIÊN CỨU”.

7

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong ngôn ngữ, ý nghĩa của một từ, một cụm từ hay một câu đều có

những hình thức thể hiện nhất định. Ý nghĩa ngữ pháp cũng không phải là

ngoại lệ, nó luôn đƣợc thể hiện bằng một hình thức nào đó. Nhiệm vụ quan

trọng của ngữ pháp học chính là nghiên cứu những phƣơng tiện biểu hiện của

các ý nghĩa ngữ pháp đƣợc sử dụng trong các loại hình ngôn ngữ khác nhau

trên thế giới. Ý nghĩa ngữ pháp công cụ là một trong nhiều ý nghĩa ngữ pháp

mang tính phổ quát ở nhiều ngôn ngữ nhƣng chƣa đƣợc nghiên cứu nhiều

trong tiếng Việt và tiếng Nga. Đây chính là lí do quan trọng thôi thúc chúng

tôi khảo sát và miêu tả.

Thực tiễn dạy và học các ngôn ngữ châu Âu, trong đó có tiếng Nga,

của ngƣời Việt có những khó khăn nhất định vì tính chất khác biệt về loại

hình. Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập không biến hình, tiếng Nga là ngôn ngữ

biến hình (hòa kết). Về mặt ngữ pháp, các ý nghĩa ngữ pháp, phƣơng thức

ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp, giữa hai ngôn ngữ có những nét tƣơng đồng và

khác biệt: trong tiếng Việt, các ý nghĩa ngữ pháp đƣợc thể hiện chủ yếu thông

qua hƣ từ hoặc trật tự từ (trong một số trƣờng hợp còn thông qua ngữ điệu);

trong khi đó, các ý nghĩa ngữ pháp trong tiếng Nga đƣợc thể hiện bằng nhiều

phƣơng thức khác nhƣ hƣ từ, phụ tố biến cách, biến đổi căn tố…. Đây là một

vấn đề gây nên những khó khăn nhất định cho ngƣời học. Việc nghiên cứu

vấn đề trên sẽ góp phần khắc phục các khó khăn, nâng cao hiệu quả của của

công tác dạy và học tiếng, công tác phiên biên dịch tài liệu, công tác biên soạn

các loại từ điển.

Thực tiễn dạy và học tiếng Nga cho ngƣời Việt, dạy và học tiếng Việt

cho ngƣời Nga cho thấy: trong hàng loạt vấn đề về ngữ pháp, vấn đề ý nghĩa

công cụ và cách thức (phƣơng thức), vấn đề thể hiện các ý nghĩa đó cần đƣợc

8

quan tâm nghiên cứu vì tính phức tạp của chúng so với các ý nghĩa ngữ pháp

khác. Xuất phát từ mục tiêu nâng cao hiệu quả dạy - học tiếng Việt và tiếng

Nga với tƣ cách là ngoại ngữ, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Sự thể hiện ý

nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga” để giúp ngƣời học

thông hiểu, sử dụng đúng ngữ pháp, đặc biệt là ý nghĩa ngữ pháp công cụ

trong hai ngôn ngữ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu việc sử dụng các phƣơng tiện

ngữ pháp và cách thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong hai ngôn ngữ,

trên cơ sở đó, góp phần nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động giảng dạy

- học tập tiếng Việt và tiếng Nga, hoạt động phiên biên dịch từ tiếng Việt sang

tiếng Nga và ngƣợc lại, cũng nhƣ hoạt động biên soạn các loại từ điển liên

quan đến hai ngôn ngữ.

Những tri thức về ý nghĩa ngữ pháp này trong hai ngôn ngữ Việt và

Nga, các tài liệu giáo khoa dạy tiếng, ngữ pháp phổ thông đều đã đề cập, phân

tích, nhƣng sự so sánh để tìm ra những điểm đồng nhất và/hoặc khác biệt giữa

hai ngôn ngữ thì chƣa có đáng kể. Yêu cầu tìm hiểu về ý nghĩa công cụ trong

tiếng Việt và tiếng Nga vẫn còn đặt ra nhiều, nên nhiệm vụ nghiên cứu vẫn

cần đƣợc tiếp tục.

2. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận án này là:

- Ý nghĩa công cụ và phƣơng thức thể hiện của nó trong tiếng Việt

- Ý nghĩa công cụ và phƣơng thức thể hiện của nó trong tiếng Nga

- Vai nghĩa công cụ trong quan hệ với ý nghĩa công cụ và sự thể hiện

của vai nghĩa này trong tiếng Việt và tiếng Nga

3. Mục đích nghiên cứu

a) Mục đích nghiên cứu

Thực hiện nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm vào mục đích chính là:

9

- Làm rõ một cách có hệ thống ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng

Việt và tiếng Nga, những phƣơng thức ngữ pháp và phƣơng tiện ngữ pháp cụ

thể để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp đó; đồng thời, làm rõ vai trò của ý nghĩa ngữ

pháp công cụ đối với sự thể hiện vai nghĩa công cụ của ý nghĩa ngữ pháp và

phƣơng thức ngữ pháp này trong tiếng Nga.

- Làm rõ những điểm tƣơng đồng và khác biệt về phƣơng tiện thể

hiện, cách thức thể hiện khi hiện thực hóa ý nghĩa công cụ trong hoạt động

ngôn ngữ của tiếng Việt và tiếng Nga.

- Bƣớc đầu đề xuất những ứng dụng kết quả nghiên cứu của luận án

vào thực tiễn giảng dạy, học tập và sử dụng tiếng Việt và tiếng Nga.

b) Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt đƣợc ba mục đích chính này, luận án phải trả lời ba câu hỏi

nghiên cứu:

- Ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga là gì, chúng

đƣợc thể hiện bằng những phƣơng thức và phƣơng tiện nhƣ thế nào?

- Ý nghĩa ngữ pháp công cụ đóng vai trò nhƣ thế nào trong việc thể

hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga?

- Những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa tiếng Việt với tiếng Nga

của các vấn đề nêu trên đây là gì?

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích trên chúng tôi sẽ tập trung giải quyết một số

nhiệm vụ sau:

- Hệ thống hóa các cơ sở lí thuyết về ý nghĩa ngữ pháp, phƣơng thức

ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp có liên quan để xây dựng khung lí thuyết cho

nghiên cứu của luận án.

- Mô tả sự thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt và tiếng

Nga.

10

- Mô tả các phƣơng thức ngữ pháp và phƣơng tiện ngữ pháp cụ thể thể

hiện vai nghĩa công cụ của chúng trong câu tiếng Việt và câu tiếng Nga.

- So sánh để phát hiện những tƣơng đồng và khác biệt của những vấn

đề hữu quan. (Tuy nhiên, những so sánh ấy không thực hiện theo cách thức và

phƣơng pháp của ngôn ngữ học đối chiếu vì luận án này, ngay từ đầu không

đặt vấn đề thực hiện nhiệm vụ đối chiếu ngôn ngữ).

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong luận án này, chúng tôi luôn luôn đi từ thực tế tƣ liệu để mô tả,

sau đó là phân tích, nhận xét và kết luận chứ không xuất phát từ một mô hình

có sẵn hay một chủ kiến từ trƣớc. Có nghĩa là, chúng tôi đi bằng con đƣờng

quy nạp, từ phân tích miêu tả các ngữ liệu để rút ra nhận xét và kết luận. Để

làm đƣợc điều này, chúng tôi thực hiện các phƣơng pháp và thủ pháp làm việc

nhƣ sau:

- Phƣơng pháp mô tả dùng để mô tả các biểu thức ngôn ngữ, sau đó

tiến hành phân tích trên bình diện ngữ pháp lí thuyết nhằm xác định các ý

nghĩa ngữ pháp, phƣơng thức ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp.

- Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng để so sánh các biểu thức ngôn

ngữ hữu quan trong tiếng Nga với tiếng Việt sau khi mô tả.

- Các thủ pháp thay thế, cải biến, lƣợc bỏ trong phân tích ngữ pháp

đƣợc sử dụng để phát hiện các đối lập, các đồng nhất, khác biệt về nội dung

ngữ pháp, hình thức ngữ pháp, phƣơng tiện ngữ pháp ....

6. Ngữ liệu nghiên cứu

Với mục đích tìm hiểu sâu về ý nghĩa công cụ và vai nghĩa công cụ

trong tiếng Việt và tiếng Nga, chúng tôi cố gắng tối đa thu thập và lựa chọn

ngữ liệu sao cho đủ mức bao quát đƣợc vấn đề nghiên cứu nhƣ các từ điển

tiếng Việt, từ điển tiếng Nga, các sách, bài viết, công trình nghiên cứu có liên

quan (xin xem phần Tài liệu tham khảo)

11

Các dẫn liệu ngôn ngữ tiếng Việt, chúng tôi tiến hành khai thác trong

các văn bản tiểu thuyết, truyện ngắn, các tác phẩm văn học của một số tác giả

Việt Nam có uy tín về mặt sử dụng ngôn ngữ nhƣ Nam Cao, Nguyễn Công

Hoan, Anh Đức, Kim Lân, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nguyễn

Huy Thiệp, Thạch Lam, ... (xin xem phần Ngữ liệu nghiên cứu từ 165 đến

182)

Các dẫn liệu ngôn ngữ viết/nói tiếng Nga, chúng tôi khảo chứng chủ

yếu trong tác phẩm văn học Доктор Живаго [182] (Bác sĩ Zhivago), của nhà

văn Nga Boris Pasternak (Борис Паштернак) - ngƣời đƣợc Viện Hàn lâm

Thụy Điển trao tặng giải thƣởng Nobel văn học năm 1959; các ví dụ đƣợc

trích dẫn nguyên văn từ bản dịch của Lê Khánh Trƣờng [181], nhà xuất bản

Phụ nữ ấn hành.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng thu thập ngữ liệu trong một số tác phẩm

văn học khác ở trong nƣớc hoặc chuyển dẫn từ một số công trình của các nhà

nghiên cứu đi trƣớc [1, 3, 29, 74, 75, 113, 115, 124, 141]. Trong từng trƣờng

hợp cụ thể, chúng tôi đều có chỉ dẫn xuất xứ rõ ràng.

7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án

a) Ý nghĩa lí luận

Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về miêu tả, phân

tích ở cấp độ một luận án về ý nghĩa công cụ và mô hình hóa các phƣơng thức

thể hiện ý nghĩa ngữ pháp này trong hai ngôn ngữ Việt – Nga, góp phần làm

rõ thêm việc mô tả ngữ pháp theo hƣớng tiếp cận của ngữ pháp truyền thống

và làm rõ các vấn đề hữu quan dƣới góc nhìn của ngữ pháp chức năng hệ

thống và cú pháp ngữ nghĩa.

b) Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở nghiên cứu sâu hơn phạm vi một đối tƣợng nhƣ vậy, kết

quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp hiểu rõ bản chất ý nghĩa ngữ pháp công

12

cụ, giúp dùng đúng ngữ pháp và vận hành trơn tru ngữ pháp trong các kỹ

năng ngoại ngữ, giúp vận hành đúng ngữ pháp (cụ thể là ý nghĩa ngữ pháp

công cụ) trong dạy – học ngoại ngữ theo đƣờng hƣớng giao tiếp.

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là cơ sở để biên soạn và chỉnh lí

các giáo trình, tài liệu giảng dạy tiếng Việt và tiếng Nga với tƣ cách là một

ngoại ngữ hiện đang đƣợc sử dụng tại các cơ sở đào tạo tiếng Việt cho ngƣời

nƣớc ngoài và đào tạo tiếng Nga cho ngƣời Việt, qua đó nâng cao đƣợc chất

lƣợng giảng dạy và học tập.

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp cho cả ngƣời dạy lẫn ngƣời

học hai ngôn ngữ Việt – Nga, với tƣ cách là những ngoại ngữ, tránh đƣợc các

lỗi về dùng từ, lỗi về đặt câu, lỗi do chuyển di … trong quá trình học tập và

nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có tính ứng dụng rất lớn trong

việc biên soạn các loại từ điển song ngữ Việt - Nga, Nga – Việt, các loại từ

điển tƣờng giải tiếng Việt và tiếng Nga, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của

công tác dịch thuật giữa hai ngôn ngữ Việt – Nga.

8. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình đã công bố có

liên quan đến luận án, Tài liệu tham khảo, Nguồn ngữ liệu nghiên cứu, nội

dung chính của luận án đƣợc cấu trúc thành ba chƣơng nhƣ sau:

Chƣơng I: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận của luận án

Chƣơng II: Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong

tiếng Việt và tiếng Nga

Chƣơng III: Ý nghĩa công cụ với vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt và

tiếng Nga

13

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong ngôn ngữ học

Ý nghĩa về công cụ trong ngôn ngữ nào cũng có. Trong lí luận ngữ

pháp, ý nghĩa ngữ pháp công cụ có vị trí quan trọng, đƣợc nhiều ngƣời quan

tâm nghiên cứu. Trong thực tiễn, ý nghĩa công cụ có thể hiểu là sự thể hiện

công cụ để thực hiện một hành động hay một sự tình nào đó. Nó luôn đƣợc

gắn kết và quy chiếu một phần vào trong hiện thực khách quan chứ không

phải chỉ thuần túy là ngữ pháp. Vì thế, ý nghĩa ngữ pháp công cụ có thể đƣợc

nghiên cứu theo những hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp khá đa dạng.

a. Nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ từ góc độ hình thái học

Nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ và các phƣơng thức thể hiện

của nó vốn gắn liền với những nghiên cứu về hình thái học, gắn liền với khái

niệm cách. Nhƣ vậy, cách là một khái niệm thuộc phạm trù của hình thái học,

còn đƣợc gọi là cách hình thức hay cách ngữ pháp, đƣợc thể hiện rất rõ trong

tiếng latinh và trong tiếng Nga. Trƣớc hết, cách công cụ đƣợc nghiên cứu về

mặt ý nghĩa và phƣơng thức biểu hiện của cách công cụ nằm ở trong phạm trù

cách với tƣ cách là phạm trù ngữ pháp. Cách công cụ là một trong những

phạm trù của danh từ vì thế nó đƣợc nghiên cứu ở góc độ hình thái học, nói

cách khác, đó là cách tiếp cận hình thái học, là cách tiếp cận cổ điển nhất

trong ngôn ngữ học, thể hiện nhiều trong ngôn ngữ học truyền thống.

Trong mỗi ngôn ngữ, ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện bằng ngữ pháp

theo các cách khác nhau: trong các ngôn ngữ không có biến đổi hình thái, ý

nghĩa này chủ yếu đƣợc thể hiện thông qua một số hƣ từ. Ví dụ:

a. Một số hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt:

14

- hƣ từ bằng, ví dụ: ăn bằng đũa, đi làm bằng xe đạp, thái thịt bằng

dao, xúc đất bằng xẻng, ...

- hƣ từ qua, ví dụ: thông báo qua loa phát thanh, làm việc qua zalo,

hội đàm qua phiên dịch, ...

- hƣ từ nhờ, ví dụ: đi học nhờ xe buýt, qua sông nhờ đò, cây vững nhờ

giá đỡ, ...

- hƣ từ dựa vào, ví dụ: sống dựa vào lương hưu, sống dựa vào con cái,

trồng lúa dựa vào nguồn nước, ...

- hƣ từ với, ví dụ: người diễn viên dạy các con vật làm xiếc với cái roi

trên tay, vào đời với hai bàn tay trắng, …

- hƣ từ bởi, ví dụ: ngôi nhà được bảo vệ bởi hệ thống camera, …

- hƣ từ trên, ví dụ: đi làm trên xe buýt, thái thịt trên thớt, …

b. Một số hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Lào:

- hƣ từ ຋້ວຊ (đuội / bằng), ví dụ: ກີນ຋້ວຊໄມ້ຍູ (kin đuội

mạy thù / ăn bằng đũa), ໄປເຮັ຋ວຽກ຋້ວຊລົ຋ຍີບ (bay hết việc đuội

lốt thíp / đi làm bằng xe đạp), ຉອຊຉີ້ນ຋້ວຊມິ຋ (xoi xịn đuội mít /

thái thịt bằng dao), …

- hƣ từ ຜ່ານ (phàn / qua), ví dụ:

ເຮັ຋ວຽກຜ່ານສື່ສັງຄົມອອນລາຊ Zalo (hết việc phàn xừ xẳng

khôm on lai Zalo / làm việc qua zalo),

ພົບປະເຈລະຈາຜ່ານຜູ້ແປພາສາ (phốp pạ chê lạ cha phàn phụ be /

hội đàm qua phiên dịch), …

- hƣ từ ອີງໃສ່ (ing xày / dựa vào), ví dụ:

຋ຳເນີນຉີວີ຋ອີງໃສ່ເງິນເ຋ືອນ (đăm lông xi vít ing xày ngơn

đươn / sống dựa vào tiền lương hưu), ຉີວີ຋ອີງໃສ່ລູກ (xi vít ing xày

lục / sống dựa vào con cái), …

15

Ngoài ra, ý nghĩa công cụ còn đƣợc thể hiện qua một số thực từ có

nghĩa tiền giả định chỉ công cụ nhƣ ăn đũa, đi nạng, cưa gỗ, đục tường, đẽo

cày, bơm xe, ... trong tiếng Việt; ກີນໄມ້ຍູ (kin mạy thù / ăn đũa),

ໄປລົ຋ຈັກ (pay lốt chắc / đi xe máy), ຌັ຋ຜົມ (tắt phổm / cắt tóc), -

ສ້່າງເຮືອນ (xạng hươn / xây nhà), … trong tiếng Lào.

Ngƣợc lại, trong các ngôn ngữ có biến đổi hình thái (điển hình là các

ngôn ngữ biến hình châu Âu), ý nghĩa công cụ lại đƣợc thể hiện cả bằng

phƣơng thức hƣ từ cả bằng phụ tố, và kết hợp hƣ từ với phụ tố (vì có trƣờng

hợp chỉ cần biến đổi vĩ tố của danh từ sang cách công cụ nhƣng cũng có

trƣờng hợp phải sử dụng kết hợp cả cách thức biến đổi phụ tố với một giới từ

kèm theo để thể hiện ý nghĩa công cụ). Ví dụ:

a. Trong tiếng Nga:

(1) - Розового цвета была подпоясанная семишолковым

кушаком рубашка на Власе Пахомовиче Галузине, когда он бегом,

дробно стуча каблуками сапог и выкидывая ногами направо-налево, ...

[ДЖ: 188]

(2) - Vlat Pakhomovich Galudin cũng mặc áo sơ mi màu hồng, thắt

sát vào người bằng chiếc dây lưng lụa. [BSZh: 277]

(3) - На фронт в штаб дивизии пришел поезд-баня,

оборудованный на средства жертвователей Татьянинским комитетом

помощи раненым. [ДЖ: 69]

(4) - Một chuyến tầu vệ sinh quân y được trang bị bằng tiền quyên

góp của Uỷ ban cứu trợ thương binh do quận chúa Tachiana đứng đầu, đã tới

mặt trận, nơi đặt bản doanh của bộ tham mưu sư đoàn. [BSZh: 96]

b. Trong tiếng Anh:

- go to school by bycicle - đi xe đạp, …

b. Nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ từ góc độ cú pháp học

16

Sau cách tiếp cận hình thái học (nhƣng cũng gần nhƣ là đồng thời) là

cách tiếp cận cú pháp học: nghiên cứu ý nghĩa công cụ với tƣ cách là ý nghĩa

của thành phần câu, trong đó có một số thành phần cơ bản là bổ ngữ công cụ,

trạng ngữ công cụ, chủ ngữ công cụ, đề ngữ (khởi ngữ) công cụ. Tất nhiên,

các thành phần chỉ công cụ này có liên quan đến biểu hiện là hình thái học, ví

dụ nhƣ danh từ cách 5 (cách công cụ) trong tiếng Nga khi làm trạng ngữ công

cụ. Nhƣng khi xét ở góc độ trạng ngữ thì nó trở thành một thành phần câu,

còn hình thái học kia chỉ còn đóng vai trò là phƣơng tiện biểu hiện. Do đó,

những nghiên cứu theo cách tiếp cận này là trên góc độ thành phần câu mà

đặc biệt và điển hình nhất là thành phần trạng ngữ công cụ, và sau này còn có

thêm thành phần chủ ngữ chỉ công cụ, bổ ngữ chỉ công cụ, đề ngữ (khởi ngữ)

công cụ.

c. Nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ từ góc độ ngữ nghĩa học

Cách tiếp cận tiếp theo và cũng đƣợc coi là mới nhất tính đến thời

điểm hiện nay là cách tiếp cận nghĩa học: ý nghĩa công cụ đƣợc tiếp cận trong

nghiên cứu về cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu, hay còn gọi là cấu trúc vị từ -

tham thể và ý nghĩa công cụ của danh từ ở đây đƣợc xem xét ở góc độ chức

năng, đƣợc gắn một vai, gọi là chức năng ngữ nghĩa hay vai nghĩa. Vai nghĩa

xét trong mối quan hệ với phƣơng thức biểu hiện của hình thái học hay cú

pháp học, xét trong mối quan hệ của chức năng cú pháp thì đó là chức năng

của trạng ngữ, của bổ ngữ hay của chủ ngữ, đề ngữ (khởi ngữ).

Khi ngữ nghĩa học và khuynh hƣớng phân tích ngữ nghĩa của câu phát

triển, cùng với sự phát triển của cú pháp ngữ nghĩa, “vai nghĩa công cụ” cùng

với các vai nghĩa khác đƣợc đề xuất và sử dụng một cách rất hữu hiệu. “Vai

nghĩa công cụ” (instrument) đƣợc dùng để chỉ công cụ thực hiện một hành

động nào đó, một sự tình nào đó. Các vai nghĩa công cụ đƣợc đánh dấu một

cách khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau. Các nhà ngôn ngữ học của

17

trƣờng phái chức năng luận thƣờng quy sự đánh dấu vai nghĩa công cụ về ba

phƣơng thức là: dùng trật tự từ, dùng biến tố, dùng giới từ [34: 70]. Nguyễn

Văn Hiệp cho rằng, ngôn ngữ dùng trật tự từ nhƣ một phƣơng tiện để phân

biệt các vai nghĩa chủ yếu là các ngôn ngữ không biến hình (mà tiếng Việt là

tiêu biểu), ngƣợc lại, phƣơng thức dùng biến tố lại chỉ thấy ở các ngôn ngữ có

biến đổi hình thái. Tiếng Nga là ngôn ngữ tiêu biểu cho phƣơng thức dùng

biến tố để đánh dấu các vai nghĩa khác nhau trong câu, theo đó, cách 5 (cách

công cụ) là cách đƣợc dùng để thể hiện vai nghĩa công cụ, ví dụ nhƣ:

(5) - Он вынул тетрадь и стал набрасывать крупным

разборчивым почерком. [ДЖ: 31]

(6) - Cha rút cuốn tập ấy ra và bắt đầu viết bằng nét chữ to dễ đọc.

[BSZh: 39]

Bên cạnh đó, trong tiếng Nga, vai nghĩa công cụ còn đƣợc đánh dấu

bằng cách kết hợp giữa phƣơng thức dùng biến tố và phƣơng thức dùng giới

từ, ví dụ nhƣ:

(7) - Надо будет вдвоем на салазках. [ДЖ: 116]

(8) - Phải hai người mới đẩy nổi một chiếc xe bằng ván trượt. [BSZh: 167]

Phƣơng thức dùng giới từ là phƣơng thức rất phổ biến để đánh dấu vai

nghĩa trong tiếng Việt. Vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt thƣờng đƣợc đánh

dấu bởi giới từ bằng, ví dụ nhƣ:

(9) - Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và dọa nạt. [CP-NC: 42]

(10) - Chị Dậu nhìn ông Cai lệ bằng đôi con mắt đỏ ngầu: [TĐ-NTT: 22]

Nhƣ vậy, trong tiếng Việt và tiếng Nga, ý nghĩa công cụ luôn đƣợc thể

hiện thông qua một số phƣơng tiện phổ biến nhƣ trên. Trong tiếng Việt, hƣ từ

vẫn đƣợc dùng nhƣ một phƣơng tiện đặc trƣng nhất, phổ biến nhất để thể hiện

ý nghĩa công cụ, mặc cho kết hợp phía sau có thể là một danh từ, ví dụ nhƣ:

18

(11) - Con vợ thằng Mới cung kính đệ len bên cạnh cột đình một cái

điếu đàn đựng trong một chiếc bát gỗ đánh đai bằng lạt và cái mồi rơm dài

chừng một sải. [TĐ-NTT: 10]

hoặc có thể là một ngữ đoạn, ví dụ nhƣ:

(12) - Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình theo ý

hắn, hắn bảo thị: ... [CP-NC: 28]

Ngoài ra, trong tiếng Việt, ý nghĩa công cụ còn đƣợc thể hiện bằng kết

cấu chuỗi vị từ, chẳng hạn nhƣ: dùng súng bắn chim, cầm búa đập đá, lấy

xẻng xúc cát, mang dao chặt cây, vác rìu đốn củi, lái xe chở cát, đan giỏ bắt

cá, may túi đựng vàng, cắt vải may áo, …, ví dụ:

(13) - Sự yêu hay ghét cũng như những ý nghĩ của người ta không thể

dùng quyền mà ép buộc. [NC: 49]

Trong tiếng Việt có rất ít trƣờng hợp thể hiện ý nghĩa công cụ mà

không sử dụng một phƣơng tiện ngữ pháp nào. Còn trong tiếng Nga, việc thể

hiện vai nghĩa công cụ chủ yếu thông qua cách công cụ (có thể kết hợp hoặc

không cần kết hợp với giới từ). Ngoài cách công cụ, trong tiếng Nga, ý nghĩa

công cụ còn đƣợc thể hiện bằng các cách ngữ pháp khác với các giới từ khác

nhau, ví dụ nhƣ: стрелять из ружья – bắn súng, начертить отрезок по

линейке – kẻ bằng thước kẻ, ловить рыбу на удочку – câu cá bằng cần câu,

закутаться в одеяло – quấn mình trong chăn, просенять муку через сито

– lọc bột qua rây, разорвать рукав о гвоздь – xé ống tay áo bằng móng tay,

рассматривать инфузорию под микроскопом – quan sát côn trùng dưới

kính hiển vi, пахать поле на тракторе – cày ruộng bằng máy cày, … Tuy

nhiên, số lƣợng giới từ ở các cách khác, không phải là cách công cụ, thể hiện

ý nghĩa công cụ không nhiều, không phổ biến.

Ý nghĩa công cụ trong ngữ pháp là điều kiện, là phƣơng tiện để thực

hiện vai nghĩa công cụ, nhƣng luận án này ƣu tiên nghiên cứu ý nghĩa công cụ

19

về mặt hình thái học, hoặc hình thái – cú pháp, tức là mặt hình thức biểu hiện

của nó; còn vai nghĩa công cụ là vấn đề của phân tích ngữ nghĩa của câu, là

vấn đề có liên quan, tuy sẽ đƣợc đề cập trong chừng mực nhất định khi cần

thiết, nhƣng không phải là nhiệm vụ ƣu tiên của chúng tôi.

Nhƣ vậy, lịch sử nghiên cứu ý nghĩa công cụ, xét theo cách tiếp cận

lịch đại và theo tiến bộ về mặt lí thuyết, khởi nguồn là những nghiên cứu

trong các ngôn ngữ châu Âu, đặc biệt là từ các ngôn ngữ có biến đổi hình thái,

với cách tiếp cận hình thái học, sau đó phát triển sang các loại hình ngôn ngữ

khác. Trong tiếng Nga, ý nghĩa công cụ cũng có xuất phát điểm từ hình thái

học, rồi đến cú pháp học (nghiên cứu thành phần câu) và cuối cùng là cách

tiếp cận nghĩa học (vai nghĩa). Trong tiếng Việt cũng vậy, nhƣng vì hình thái

học không có nên ngƣời ta không xem xét ý nghĩa công cụ dƣới góc độ hình

thái học (với tƣ cách là một phạm trù hình thái học), vì thế các nhà Việt ngữ

học tiến hành nghiên cứu ý nghĩa công cụ dƣới góc độ cú pháp học và nghĩa

học. Dƣới đây là diễn tiến cụ thể.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt

Từ trƣớc đến nay sách ngữ pháp tiếng Việt có đề cập đến vấn đề ý

nghĩa ngữ pháp công cụ. Tuy nhiên, vì tiếng Việt thuộc loại ngôn ngữ không

biến đổi hình thái nên ngƣời ta không đi sâu miêu tả các phƣơng tiện thể hiện

mà chỉ miêu tả ý nghĩa công cụ thông qua việc miêu tả ngữ nghĩa và chức

năng của các hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ nhƣ các hƣ từ bằng, với, qua,

thông qua, dựa vào, dựa theo, căn cứ vào, căn cứ theo, nhờ, nhờ vào, cùng

với, bởi, trên ... Điều này có nghĩa là tiếng Việt không biến đổi hình thái nên

khi dạy ngƣời ta không dạy cách biến đổi hình thái mà ngƣời ta dạy việc sử

dụng các hƣ từ, các từ có thể hiện nét nghĩa chỉ công cụ. Vì thế phƣơng thức

thể hiện ý nghĩa công cụ thƣờng đƣợc tự khái quát hóa trong tâm thức của

ngƣời Việt bản ngữ và ngƣời học tiếng Việt phi bản ngữ một cách chủ quan.

20

Trong khi đó, vì tiếng Nga là ngôn ngữ có biến đổi hình thái nên khi dạy cho

ngƣời học ở góc độ là ngôn ngữ thứ hai, ngƣời ta sẽ dạy các cách thức biến

đổi danh từ, tính từ, đại từ ở các dạng thức khác nhau. Tuy cách tiếp cận trong

dạy học có thể khác nhau nhƣng bản chất của việc truyền đạt kiến thức đều là

muốn cung cấp cho ngƣời bản ngữ và ngƣời phi bản ngữ một cách tiếp cận

chung, đó là: ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện nhƣ thế nào; khi có các dấu hiệu,

phƣơng tiện ngữ pháp chỉ công cụ thì có nghĩa là nó thể hiện ý nghĩa công cụ.

Dƣới đây, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát tình hình nghiên cứu ý nghĩa công

cụ trong tiếng Việt theo các khuynh hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ nhƣ đã trình

bày ở trên.

Những phác họa đầu tiên về ngữ pháp tiếng Việt, có lẽ, đƣợc thể hiện

rõ nhất là trong Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh – phần mở

đầu của cuốn từ điển Việt - Bồ - La do Alexandre de Rhodes biên soạn [155].

Trong bản báo cáo vắn tắt này, những kiến giải về các phạm trù ngữ pháp

trong tiếng Việt nhƣ giống, số, cách của danh từ và thức, thời, thể của động từ

đã ít nhiều đƣợc đề cập. Bên cạnh đó, ý nghĩa công cụ cũng đã đƣợc ông nhắc

đến thông qua giới từ bằng (per) [155: 23]. Việc đƣa ra giới từ bằng trong

chƣơng bảy của bản Báo cáo vắn tắt chỉ mang tính chất liệt kê sự tƣơng

đƣơng 1 – 1 giữa một giới từ tiếng An Nam với một giới từ trong tiếng Bồ

Đào Nha. Sau này, trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Taberd 1838 (Nguyễn

Khắc Xuyên đã dịch sang tiếng Việt và xuất bản năm 1994 [95]) thì ý nghĩa

công cụ trong tiếng Việt thể hiện qua từ bằng đƣợc nói rõ thêm một chút. “Nó

có nghĩa như ex hay per trong tiếng Latinh, nhất là khi đặt trước những danh

từ thuộc vật liệu hay dụng cụ” [95: 48].

Đối với các tác giả trong nƣớc, vấn đề ý nghĩa công cụ trong tiếng

Việt đƣợc Trƣơng Vĩnh Ký – ngƣời sống cùng thời với Ferdinal de Saussure,

nhắc đến với tƣ cách là vai nghĩa công cụ hay cách công cụ. Theo Cao Xuân

21

Hạo [29], Trƣơng Vĩnh Ký đƣợc coi là người đi trước các nhà ngôn ngữ học

trong việc miêu tả các phương tiện diễn đạt ý nghĩa Cách trong một ngôn ngữ

không biến hình xuất phát từ mặt sở biểu và đáng được coi là người đi tiên

phong trong việc xây dựng nền ngữ pháp cách (case grammar), một trong

những thành phần chủ yếu của ngữ pháp chức năng hiện đại [29: 441]. Trong

cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (Grammaire de la langue annamite) xuất bản năm

1883 [37], Trƣơng Vĩnh Ký đã trình bày một cách khá rõ trong phần nói về

Danh từ: đó là cách diễn đạt ý nghĩa “cách” (case meaning) trong ngữ pháp

tiếng Việt. Theo ông, các danh từ của tiếng Việt dùng trong câu có thể ở vào

một trong 8 cách (case / падеж) và cách công cụ (Instrumental) đứng ở vị trí

thứ 7, phƣơng thức diễn đạt là thông qua hƣ từ bằng, ví dụ nhƣ Đánh bằng

roi sắt [37: 440]. Ngoài việc mô tả phƣơng thức sử dụng hƣ từ để thể hiện

cách công cụ nhƣ trên, Trƣơng Vĩnh Ký còn đề cập đến một phƣơng thức nữa

mà ông gọi là “phương tiện khác với phương tiện chủ yếu”, đó là ở đoạn nói

về Công cụ cách, bên cạnh Cột bằng dây, ông còn cho Dùng dây mà cột, Lấy

dây mà cột [29: 441]. Điều này cho thấy rằng, khi dùng khái niệm Cách nói

chung và cách công cụ nói riêng, Trƣơng Vĩnh Ký hiểu nó nhƣ một ý nghĩa

ngữ pháp nhiều hơn là một hình thức ngữ pháp [29: 441]. Cao Xuân Hạo rút

ra kết luận rằng, không những Trương Vĩnh Ký không ―gán‖ mô hình ngữ pháp

tiếng La tinh cho tiếng Việt, mà còn hiểu rõ khả năng và cách thức sử dụng khái

niệm Cách cho những thứ tiếng không biến hình, điều mà gần một thế kỉ sau các

nhà ngữ học phương Tây mới nghĩ đến (Fillmore 1968). [29: 441]

Ý nghĩa ngữ pháp cũng đƣợc nhiều nhà Việt ngữ học đƣơng đại

nghiên cứu và ứng dụng vào giảng dạy cho sinh viên đầu cấp đại học chuyên

ngành ngôn ngữ học nói chung và các chuyên ngành ngoại ngữ nói riêng. Có

thể kể đến một số tác giả tiêu biểu nhƣ: Cao Xuân Hạo [29, 30], Nguyễn Kim

Thản [76, 77, 78, 79], Lê Đình Tƣ và Vũ Ngọc Cân [73], Đỗ Hữu Châu [9,

22

10], Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung [6, 7], Lê Quang Thiêm [86, 87],

Nguyễn Thiện Giáp [22, 25, 26, 28], Mai Ngọc Chừ [12, 13], Vũ Đức Nghiệu

[12, 57], Hoàng Trọng Phiến [61], Bùi Minh Toán [10, 70], Nguyễn Thị Ngân

Hoa [13], Đỗ Việt Hùng [13], Bùi Mạnh Hùng [36], Nguyễn Minh Thuyết

[26], Nguyễn Văn Hiệp [57], Lƣu Vân Lăng [44], ... Nhìn chung, đa số các

nghiên cứu trên đây về ý nghĩa ngữ pháp chỉ dừng lại ở việc mô tả về mặt

ngôn ngữ, xác lập các khái niệm, giới hạn phạm vi và định hƣớng nghiên cứu

của các loại ý nghĩa ngữ pháp, phƣơng thức ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp mà

chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một ý nghĩa hay một phƣơng thức

hay một phạm trù cụ thể nào trong tiếng Việt. Bên cạnh đó, ý nghĩa ngữ pháp,

phƣơng thức ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp còn đƣợc đề cập đến trong một số

luận án, nhƣng chỉ dừng lại ở mức độ tổng hợp, đúc kết các kiến thức sẵn có

mà không có một lí luận mới nào về vấn đề này.

Về nghĩa công cụ, ngữ pháp học truyền thống chỉ nói đến khi xét mặt

ý nghĩa của một phạm trù hình thái học (phạm trù cách trong tiếng Nga chẳng

hạn) hoặc của một phạm trù cú pháp học (thành phần trạng ngữ chỉ công cụ,

thành phần bổ ngữ công cụ, thành phần chủ ngữ công cụ, thành phần đề ngữ

công cụ). Về sau, trên con đƣờng phát triển của ngôn ngữ học, khi ngữ nghĩa

học trở thành một trào lƣu mạnh mẽ, nghĩa công cụ đƣợc xem xét nhƣ một

phạm trù thuộc kết cấu sâu, có tính chất phổ quát. Nhiệm vụ của các nhà ngôn

ngữ học lúc này là xác định các phạm trù ở kết cấu sâu và cố gắng phát hiện

các quy tắc thể hiện kết cấu sâu lên kết cấu bề mặt. Quan niệm mới mẻ này đã

dẫn đến nhiều kết luận thú vị. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu này chỉ chú ý

đến các quy tắc thể hiện các phạm trù ở kết cấu sâu lên kết cấu mặt mà chƣa

chú ý đến mối quan hệ của các phạm trù đó trong diễn đạt. Không hiểu đƣợc

quan hệ diễn đạt của các phạm trù này trong câu thì không thể hiểu đƣợc ý

nghĩa chân chính của câu cùng các hình thức đa dạng của nó. Luận án Câu

23

chủ - vị tiếng Việt của Lê Xuân Thại [75] đi theo hƣớng này khi có một phần

nghiên cứu về nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt. Lê Xuân Thại cho rằng,

trong câu, nghĩa công cụ và nghĩa hoạt động có hai quan hệ về mặt diễn đạt:

một là: công cụ là thành phần thuyết minh, hoạt động là thành phần

đƣợc thuyết minh, hay nói cách khác, công cụ thuyết minh thêm cho hoạt

động [75: 38], ví dụ:

- (14) Vì quên chìa khóa ở cơ quan nên tôi phải phá khóa bằng máy cắt sắt.

 máy cắt sắt thuyết minh về công cụ cho hoạt động phá

hai là: hoạt động là thành phần thuyết minh, công cụ là thành phần

đƣợc thuyết minh, hay nói cách khác, hoạt động thuyết minh cho công cụ [75:

38], ví dụ:

- (15) Vợ tôi mua một bộ nồi nấu cơm.

 nấu cơm làm định ngữ, thuyết minh về công dụng của nồi.

Nhƣ vậy, trong nghiên cứu này, nghĩa công cụ không đƣợc đề cập đến

với tƣ cách là một vai nghĩa trong cấu trúc vị từ - tham thể, cũng không đƣợc

nghiên cứu ở cấp độ khái quát là một ý nghĩa ngữ pháp, mà chỉ đƣợc nghiên

cứu ở khía cạnh vị trí cú pháp (đứng trƣớc hoặc sau động từ, đứng ở vị trí chủ

ngữ hay ở vị trí vị ngữ), tính chất ngữ pháp của thành phần này trong câu

(không xác định rõ ràng rằng đây là thành phần trạng ngữ chỉ công cụ hay chỉ

là phần phụ của từ tổ động từ ... mà chỉ coi đây là thành phần chỉ công cụ).

Tiếp sau đó, theo quan điểm của Ngữ pháp chức năng hệ thống,

Nguyễn Thị Quy trong cuốn Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của nó

(So sánh với tiếng Nga và tiếng Anh) [66] đã mô tả nghĩa công cụ với vai trò

là bổ ngữ trực tiếp của vị từ và so sánh một số cách biểu hiện vai nghĩa công

cụ trong tiếng Việt và ngôn ngữ châu Âu (chủ yếu là so sánh với tiếng Nga và

tiếng Anh). Lê Thị Lan Anh trong công trình nghiên cứu Các vai nghĩa: kẻ

tiếp nhận, kẻ hưởng lợi, kẻ cộng tác, kẻ tổn thất, phương tiện và các chức

24

năng ngữ pháp của chúng trong câu tiếng Việt [1] đã chỉ ra những đặc trƣng

ngữ nghĩa hình thức của vai nghĩa phƣơng tiện trên bình diện nghĩa (nghĩa

miêu tả) và nghiên cứu khả năng hiện thực hóa của vai nghĩa này trong vai trò

các chức năng cú pháp của câu (có chú ý đến vai trò thông báo tƣơng ứng mà

mỗi vai nghĩa đảm nhận khi đƣợc hiện thực hóa trong câu). Tô Minh Thanh

trong công trình Vai nghĩa trong câu trần thuật tiếng Việt và tiếng Anh [80]

đã mô hình hóa các khung tham chiếu vai nghĩa công cụ trong cấu trúc câu Đề

- Thuyết. Mặc dù, những nghiên cứu sâu về vai nghĩa công cụ không đƣợc

triển khai, chỉ dừng lại ở mức độ “điểm danh” nhƣng nó đóng vai trò rất lớn

trong việc xác lập một phạm vi nghiên cứu mang tính chất định hƣớng lớn.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu bàn về nghĩa công cụ ở Việt

Nam chủ yếu ở ba phƣơng diện: thứ nhất, ở cấp độ từ vựng, nghĩa công cụ

đƣợc bàn luận với góc độ là một hƣ từ có chức năng ngữ pháp biểu thị ý nghĩa

công cụ; thứ hai, nghĩa công cụ đƣợc bàn luận với tƣ cách là một vai nghĩa

trong nghiên cứu ngôn ngữ chức năng hệ thống; thứ ba, nghĩa công cụ đƣợc

bàn luận với tính chất là một thành phần câu, ban đầu là thành phần trạng ngữ

chỉ công cụ, sau đó nghiên cứu thêm về thành phần chủ ngữ, bổ ngữ, đề ngữ

có yếu tố công cụ. Trong các công trình nghiên cứu có liên quan đến nghĩa

công cụ, các tác giả hầu nhƣ chƣa kiến giải tƣờng minh về nghĩa công cụ,

chƣa đƣa ra những định nghĩa chính xác về nghĩa công cụ. Vấn đề này đƣợc

bàn luận nhiều hơn cả, có lẽ là, trong luận án của Lê Xuân Thại [75] nhƣng

dung lƣợng dành cho việc luận giải nghĩa công cụ cũng không lớn. Các công

trình nghiên cứu nhƣ đã liệt kê ở trên cũng chƣa miêu tả đƣợc một cách tƣờng

minh các cách thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt, các vai trò cú

pháp của nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt. Khuynh hƣớng mới nhất hiện

nay, theo chủ quan của chúng tôi, nghĩa công cụ đƣợc bàn luận nhiều hơn với

tƣ cách là một vai nghĩa đánh dấu yếu tố công cụ thực hiện hành động trên cơ

25

sở lí luận của ngôn ngữ học chức năng hệ thống. Đến nay, vấn đề này cũng đã

bƣớc đầu đạt đƣợc một số kết quả nhất định. Tuy vậy, dung lƣợng dành cho

nghiên cứu độc lập vai nghĩa công cụ vẫn còn khá khiêm tốn. Vai nghĩa công

cụ chỉ đƣợc đề cập đến với tƣ cách là một trong nhiều vai nghĩa cơ bản, vì các

nhà nghiên cứu có xu hƣớng đi tìm, phát hiện và định danh càng nhiều vai

nghĩa khác nhau càng tốt.

Trong luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu nghĩa công cụ với

tƣ cách là một ý nghĩa ngữ pháp trên cơ sở lí luận của ngôn ngữ học truyền

thống. Trƣớc hết, chúng tôi sẽ cố gắng làm rõ hơn, thế nào là nghĩa công cụ.

Tiếp sau đó, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát và chỉ ra tất cả các phƣơng tiện

thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt, khái quát các phƣơng tiện

đó lên thành các phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng

Việt. Trong quá trình triển khai, chúng tôi cũng sẽ luận bàn đến một số vấn đề

có liên quan đến vai nghĩa công cụ dƣới góc nhìn của ngữ pháp chức năng để

so sánh, đối chiếu ở phƣơng diện ngữ nghĩa và phƣơng thức thể hiện. Ở cấp

độ câu, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát và chỉ ra chức năng cú pháp của thành

phần mang nghĩa công cụ ở trong câu. Đây không phải là mục tiêu nghiên cứu

chính của luận án, nhƣng chúng tôi vẫn tiến hành triển khai để có cái nhìn

toàn diện hơn và mang tính chất định hƣớng cho những nghiên cứu tiếp theo.

1.1.3. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga

Phạm trù công cụ từ lâu đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu của nhiều

nhà ngôn ngữ học ở mọi trƣờng phái ngôn ngữ khác nhau. Đây là phạm trù có

tính phổ quát, hiện diện trong nhiều cấu trúc ngôn ngữ, nhiều loại hình ngôn

ngữ trên thế giới; cùng có một chức năng chung là biểu đạt hiện thực khách

quan và thế giới nhận thức của con ngƣời. Trong văn hóa và trong đời sống

hàng ngày của mỗi một dân tộc, con ngƣời luôn luôn cần một công cụ nào đó,

một phƣơng tiện nào đó để tác động và làm thay đổi thế giới vật chất xung

quanh mình. Tầm quan trọng của công cụ trong cuộc sống và hoạt động của

26

con ngƣời đƣợc thể hiện cả trong ngôn ngữ học, bằng chứng là, số lƣợng các

phƣơng tiện ngữ pháp và phƣơng tiện từ vựng đƣợc sử dụng để truyền tải ý

nghĩa chỉ công cụ rất phong phú và đa dạng.

Trong ngôn ngữ học có rất nhiều công trình nghiên cứu gắn liền với

những khía cạnh khác nhau của ý nghĩa công cụ. Những nghiên cứu đầu tiên

về ý nghĩa công cụ trong ngôn ngữ học là những nghiên cứu liên quan đến hệ

thống ngữ pháp cách vì cách đƣợc coi là một phƣơng tiện phổ biến biểu đạt

các ý nghĩa ngữ pháp nói chung và ý nghĩa ngữ pháp công cụ nói riêng.

Chúng ta có thể kể đến những công trình nghiên cứu về cách công cụ tiêu

biểu của I.A. Peshkovskij (И.А. Пешковский 1956), D.S. Stanishev (Д.

Станишев 1958), V.G. Admony (В. Адмони 1963), I.A. Mylnikov (И.А.

Мыльников 1963), R. Mrazek (Р. Мразек 1964), Yu.P. Kostyuchenko (Ю.П.

Костюченко 1977), V.V. Martunov (В.В. Мартунов 1982), V.A.

Beloshapkova và E.V. Muravenko (В.А. Белошапкова, Е.В. Муравенко

1985), R.O. Yacobson (Р.O. Якобсон 1985), A. Wierzbickaja (А.

Вежбицкая 1985), R.A. Kolosovskaja (Р.А. Колосовская 1985), V.P.

Moscovin (В. Московин 1988), G.A. Baiva (Г.А. Байва 1994), O.

Moskalskaja (О. Москальская 1983, 1985), ... Các tác giả này có chung quan

điểm nghiên cứu các hiện tƣợng ngôn ngữ là theo hƣớng tiếp cận nghĩa học từ

vựng. [115]

Đầu tiên, chúng tôi thấy trong công trình nghiên cứu của Yu.P.

Kostyuchenko (Ю.П. Костюченко 1977) bàn về vấn đề cú pháp lịch sử của

cách công cụ trong tiếng Nga so với các ngôn ngữ dòng baltic và gecmang, đã

đề cập một cách sâu sắc về các đặc điểm khác biệt mang tính hệ thống của

ngôn ngữ đƣơng đại so với ngôn ngữ cổ, trong đó có ý nghĩa về cách nói

chung và cách công cụ nói riêng; nguyên nhân của các điểm khác biệt đó. Giá

trị của công trình này là: tác giả đã cố gắng xác định nghĩa của các hiện tƣợng

27

đƣa ra nghiên cứu trong các ngôn ngữ cổ và kiến giải chúng dƣới góc độ

nghĩa - cú pháp.

Tác giả đƣợc cho là đặt nền móng cho sự phân loại hệ thống cách

tiếng Nga là R.O. Yacobson (Р.O. Якобсон 1985). Trong công trình nghiên

cứu “К общему учению о падеже” (Kiến giải chung về cách – Yacobson,

1985), ông đã tiến hành phân loại các cách không phải bằng con đƣờng hình

thái học nhƣ những nhà nghiên cứu trƣớc đó đã làm mà là bằng con đƣờng cú

pháp học; ông phân chia ý nghĩa các cách thành: một ý nghĩa khái quát của

cách (общее падежное значение) và các ý nghĩa bộ phận của cách

(частные падежные значения). Ông cho rằng: “ý nghĩa chung của cách

không phụ thuộc vào chu cảnh, khi đó các ý nghĩa riêng lẻ của cách đƣợc thể

hiện bằng nhiều cấu trúc khác nhau, nhiều hình thức thể hiện khác nhau thông

qua các ý nghĩa từ vựng xung quanh nó” và nó đƣợc gọi là “các biến thể kết

hợp mang một ý nghĩa chung” (―общее значение падежа‖ не зависит ―от

его окружения, тогда как его отдельные частные значения обусловлены

разного рода конструкциями и различными формальными и

лексическими значениями окружающих слов‖ и являются, ―так

сказать, комбинаторными вариантами общего значения‖) [143: 143].

Nhƣ vậy, ý nghĩa chung của cách công cụ có đặc điểm là mang ba loại nghĩa

sau: công cụ tạo tác (творительный фактора), công cụ hạn định

(творительный ограничения) và công cụ hành động (творительный

деятельности). Mặc dù tiêu chí phân loại cách còn chƣa đồng nhất, chƣa mô

tả đƣợc các trƣờng hợp sử dụng cụ thể của cách công cụ, nhƣng có thể khẳng

định, hƣớng tiếp cận này là một đóng gớp có giá trị rõ ràng khi nghiên cứu ý

nghĩa công cụ, cho phép mở ra một cái nhìn mới về cách công cụ từ góc độ

động từ.

28

Nghiên cứu đáng chú ý tiếp theo có thể kể đến là công trình

“Синтаксис русского творительного – Cú pháp cách công cụ tiếng Nga”

của Мразек, xuất bản năm 1964 (Р. Мразек 1964). Trong công trình này, lần

đầu tiên đƣa ra một định nghĩa rõ ràng về nghĩa công cụ nhƣ một hiện tƣợng

ngôn ngữ có tính phổ quát và phân tích nghĩa công cụ theo hƣớng so sánh

luân phiên chức năng của cách công cụ so với các cách khác

(функциоанльная альтернация и конкуренция с другими падежами) [132:

5]). Trong công trình này, ông chia nghĩa công cụ thành hai loại là cách công

cụ không có giới từ (беспредложная творительная форма) và cách công

cụ có giới từ (предложно-творительная форма).

Khái niệm “tính công cụ - инструментальность” còn đƣợc làm sáng

tỏ hơn nữa khi xuất hiện lí thuyết về Cách của Fillmore. Trong công trình

“Дело о падеже (1981)”, ông đƣa ra ý tƣởng về “cách sâu – глубиный

падеж” và định nghĩa Cách là những mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành

tố tham gia vào tình huống ngôn ngữ (падеж – это семантические связи

между участниками ситуации), không phải cách hình thái học nhƣ một số

nghiên cứu truyền thống. Theo Fillmore, Cách sâu có tính phổ quát, có thể

đƣợc biểu đạt ở cấp độ bề mặt bằng nhiều phƣơng tiện khác nhau (nhƣ phụ tố,

biến đổi căn tố, sử dụng hƣ từ, ...) và/hoặc cũng có thể không cần biểu đạt. Về

Cách công cụ, Fillmore cho rằng, đó là “cách của danh từ bất động vật hoặc

sự vật, bao gồm cả danh từ chỉ hành động hoặc trạng thái và đều là bổ ngữ

của động từ với tƣ cách là nguyên nhân tạo ra cách (падеж неодушевленной

силы или предмета, который включен в действие или состояние,

называемое глаголом, в качестве его причины) [143: 405]. Một trong

những điểm chƣa đƣợc trong nghiên cứu của Fillmore là khi xem xét chức

năng của công cụ ông không xét đến vai trò ngữ trị của động từ và ảnh hƣởng

29

tiềm ẩn đối với nghĩa của sự tình và nghĩa của cả câu nói chung. Ông đƣa ra

hai ví dụ:

- (16) Джон открыл дверь. (Jonh mở cửa.)

- (17) Ключ открыл дверь. (Cái chìa khóa mở cửa.)

Trong câu (16) có sự xuất hiện của yếu tố công cụ: Джон là chủ thể,

открыл là động từ, ключом là công cụ. Tuy nhiên, khi phân tích câu (17),

ông lại cho rằng không xuất hiện yếu tố công cụ ở đây, không cho ключ là

công cụ, mà đơn thuần đó chỉ là một chi tiết trong một bộ thiết bị, phù hợp về

mặt hình thức và kích thƣớc. Điều này đã tạo ra nhiều tranh cãi. Nhiều nhà

nghiên cứu ngôn ngữ cho rằng, trong câu (17) có một sự chuyển nghĩa rất lớn

vào sự tình có sự tham gia của ngữ trị là động từ открыть, nhƣ vậy, giữa

tính ngữ trị của động từ thể hiện chức năng công cụ trong cả câu (16) lẫn câu

(17) đều không có gì khác biệt. Mặc dù còn có những điểm tranh cãi trong

nghiên cứu ngôn ngữ, nhƣng ít nhất, những tƣ tƣởng định hƣớng nghiên cứu

của Fillmore là cơ sở để ngày nay chúng ta có nhiều hƣớng nghiên cứu mới.

Một công trình đáng chú ý nữa nghiên cứu về cách và kiến giải sâu

thêm về cách công cụ là “Дело о поверхностном падеже” của A.

Vezhbitskaya (А. Вежбицкая 1985). Trong công trình này, nhà ngôn ngữ học

ngƣời Nga đã nghiên cứu cách nói chung và cách công cụ nói riêng trên ba

bình diện: cú pháp – ngữ nghĩa – hình thái. Bà cho rằng, các cách đều có

nghĩa; mỗi cách lại có một số lƣợng lớn nghĩa mà có thể rõ ràng tách biệt các

nghĩa với nhau (падежи имеют значения; каждый падеж имеет большое

количество значений, которые, однако, могут быть четко отграничены

друг от друга) [118: 309]. Điều này có nghĩa là, mỗi nghĩa của từng cấu trúc

cách (падежная конструкция) có thể và cần phải đƣợc thể hiện trong một

dạng thức chính xác và có thể cải biến đƣợc [118: 310]. Về cách công cụ, bà

cho rằng, chức năng chính của cách công cụ trong tiếng Nga là chỉ ra công cụ

30

của hành động [118: 312], cách công cụ đƣợc hiểu là cách của nhóm từ loại

có liên quan đến công cụ và đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ (творительный

инструмент, трактуемый как ―падеж имееной группы, имеющей

референцию к инструменту, который использован как инструмент”)

[118: 313]. Rất tiếc, A. Wierzbickaja không thành công trong việc chứng

minh tất cả các cách có một ý nghĩa riêng vì để nghiên cứu thực nghiệm cần

bổ sung rất nhiều lí luận khác. Tuy nhiên, rõ ràng là những nghiên cứu trong

công trình này có đóng góp rất đáng kể về mặt khoa học, làm cơ sở cho những

nghiên cứu theo hƣớng mới, những kiến giải về cách làm giàu hơn quan điểm

về nghĩa công cụ trong tiếng Nga.

Các quan điểm về vị trí của công cụ trong hệ thống các phạm trù ngữ

nghĩa đƣợc V.A. Yamsanova (В.А. Ямсанова) trình bày trong công trình

“Công cụ và mối quan hệ chủ thể - khách thể” (Инструментальность и

субъектно-объектные отношения). Trong công trình này, ý nghĩa công cụ

đƣợc đề cập đến nhƣ một phạm trù có vị trí cao hơn là một trong những cách

có một mức độ với các phạm trù chủ thể và khách thể, đƣợc thống nhất một

vài vai công cụ thành phần (dụng cụ, phƣơng thức). Phạm trù này đòi hỏi một

tên gọi rộng hơn là “phạm trù phƣơng tiện”. Mối quan hệ chủ thể - vị thể - đối

thể có vị thế cao hơn trong ngữ pháp chức năng, đƣợc nghiên cứu nhiều trong

các công trình của A.V. Bondarko, và V.A. Yamsanova cũng khẳng định rằng

công cụ đứng riêng một mình trong một loạt các phạm trù ngữ nghĩa – cú

pháp của chủ thể và khách thể. Chính vì thể mà ở đó tác giả đã có một khái

niệm rất chung về phƣơng tiện.

V.A. Yamsanova khẳng định rằng “Không có phương tiện thì không

thể có những mối quan hệ hoạt động thực tế giữa chủ thể và đối thể”

(Реальные деятельностные отношения между субъектом и объектом

невозможны без средства) [150: 167]. Điều đó có nghĩa là bất kì một hành

31

động nào cũng đều đƣợc thực hiện thông qua một công cụ nào đó. Nếu tƣ duy

theo cách này thì chúng tôi có thể ngầm hiểu rằng, trong bất kì một tình

huống hành động nào cũng đều có sự tham gia của một phƣơng tiện để giúp

thực hiện hành động đó. Ngay cả trong ví dụ sau, phƣơng tiện không đƣợc thể

hiện bằng các phƣơng tiện ngôn ngữ đặc trƣng, ví dụ:

- (18) Quả nhiên họ nói có sai đâu! [CP-NC: 2]

(19) - Lý trưởng liệng dùi trống xuống sân đình và quát một cách ra

dáng ra phết: ... [TĐ-NTT: 10]

(20) - Ông quắc mắt nhìn con đàn bà chậm chạp, thét: ... [BĐC-NCH: 134]

Hành động “nói, quát, thét” đƣợc ngầm hiểu là có sử dụng các công

cụ (phƣơng tiện) khác nhau, là cơ quan phát âm (miệng / mồm) và cùng với

cơ quan đó, là giọng / tiếng nói; thậm chí còn có thể là các phƣơng tiện kĩ

thuật khác nhƣ nói chuyện qua điện thoại hay “chat” qua internet.

Nhƣng nghĩa công cụ không phải lúc nào cũng đƣợc biểu đạt một cách

rõ ràng trong mọi ngôn ngữ, nghĩa công cụ có thể bị ẩn nhƣ là những thành

phần phân tách từ những nghĩa từ vựng của chủ thể và vị thể. Theo quan điểm

của V.A. Yamsanova, không phải bất kì tình huống nào trong thực tế cũng

xuất hiện công cụ, tình huống có xuất hiện công cụ trong ngôn ngữ đối với tác

giả không quan trọng, quan trọng là công cụ nào đƣợc sử dụng để thực hiện

hành động này hay hành động kia. Có thể hiểu tình huống có sự tham gia của

công cụ là tình huống đƣợc tạo nên một cách riêng biệt khi biểu đạt thông tin

về phƣơng tiện hoàn thành hành động và có nghĩa trong giao tiếp.

Cũng theo quan điểm của V.A. Yamsanova “Phƣơng tiện đƣợc hiểu

rất rộng, đó là tất cả những gì mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành động

(các vật thể, trong đó bao gồm cả những sự vật, hành động, trạng thái, đặc

tính, lực lƣợng thiên nhiên, vật chất, chất)” (Средство понимается …

широко, как все то, посредством чего субъект осуществляет

32

соотнесенное с целью действие (предметы, в том числе одушевленные,

действия, состояния, свойства, природные силы, материал, вещество))

[150: 168]. Việc định nghĩa rất rộng về tính công cụ không có gì là ngạc

nhiên vì V.A. Yamsanova đã phân loại phƣơng tiện thành các nhóm lớn, đƣợc

sử dụng trong tiếng Nga để thực hiện các quan hệ công cụ.

Ngoài những công trình tiêu biểu nhƣ đã liệt kê ở trên, trong giới Nga

ngữ học cũng phải kể thêm những tác giả khác nhƣ R.Z. Muryasov (Р.З.

Мурясов 1972), V.T. Lƣơng (В.Т. Лыонг 1982), L.V. Varpakhovich (Л.В.

Варпахович 1986), E.V. Muravenko (Е.В. Муравенко 1987, 1988) mà trong

các công trình nghiên cứu đều mở rộng các khái niệm về các phƣơng tiện biểu

đạt tính công cụ, chỉ ra khả năng biểu đạt một ý nghĩa nào đó không chỉ bằng

con đƣờng từ vựng mà còn bằng các phƣơng tiện cú pháp, ...

Tóm lại, ý nghĩa công cụ là cái có thật vì nó phản ánh một thực tế của

hiện thực khách quan và đƣợc coi là một phổ niệm trong mọi ngôn ngữ, chỉ

có điều, cách thể hiện nó không giống nhau: tiếng Nga hay các ngôn ngữ biến

hình thể hiện bằng hình thái, có hẳn một cách để thể hiện nó, và đây là vấn đề

của ngữ pháp cách. Tiếng Việt hay các ngôn ngữ đơn lập thể hiện bằng con

đƣờng từ vựng, chủ yếu là sử dụng các hƣ từ biểu đạt ý nghĩa công cụ kết hợp

với các danh từ hay các ngữ đoạn. Chính vì cách công cụ và ý nghĩa công cụ

là một phổ niệm nhƣng lại đƣợc thể hiện rất khác nhau trong hai ngôn ngữ

Việt – Nga nên tạo nên nhiều thuận lợi và khó khăn trong quá trình dạy và

học hai ngôn ngữ này với tƣ cách là ngôn ngữ thứ hai. Đối với ngƣời bản ngữ,

đó là vấn đề phân tích ngữ pháp nhƣ thế nào; đối với ngƣời học ngôn ngữ thứ

hai thì cần phải nắm đƣợc hiệu năng, cách sử dụng ý nghĩa công cụ, cách thể

hiện ý nghĩa công cụ để nói và viết cho đúng. Điều này góp phần nâng cao

33

chất lƣợng và hiệu quả dạy và học tiếng. Trong quá trình thực tế dạy tiếng

Việt và học tiếng Nga, tôi nhận thấy đây là vấn đề gây nhiều khó khăn cho cả

ngƣời dạy lẫn ngƣời học nên tôi tiến hành nghiên cứu.

1.2. Cơ sở lí luận của luận án

Để triển khai nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ, có nhiều câu hỏi

cần phải đƣợc đặt ra để tìm hiểu sâu hơn, toàn diện hơn vấn đề này: Ý nghĩa

công cụ là gì? Cách công cụ là gì? Phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa

công cụ trong hai ngôn ngữ Việt – Nga là gì? Nó hoạt động ra sao? Ý nghĩa

công cụ có liên quan đến vai nghĩa công cụ trong phân tích ngữ nghĩa của câu

hay không? Những gì là đồng nhất và khác biệt trong nội dung và cách thức

thể hiện ý nghĩa công cụ giữa tiếng Việt và tiếng Nga? Những tƣơng đồng và

dị biệt đó gây nên những khó khăn gì, khắc phục nhƣ thế nào cho cả ngƣời

dạy lẫn ngƣời học? ... Tất cả những câu hỏi trên cần phải đƣợc giải quyết trên

cơ sở một khung lí thuyết nhất quán, xuyên suốt, đồng bộ và toàn diện.

Khi xem xét các mối quan hệ của công cụ với chức năng theo quan

điểm định danh học (onomasiological approach - ономасиологический

подход), chúng tôi áp dụng giả thuyết rằng “có những quy luật mang tính phổ

quát trong việc thực hiện chức năng của các đơn vị ngôn ngữ gắn liền với

việc biểu thị một vùng ý nghĩa ngữ pháp nhất định, bên cạnh đó, cũng có

những kiểu chức năng có tính phổ quát không phụ thuộc vào những biểu hiện

cụ thể về mặt ngôn ngữ của chức năng đó” (“существуют универсальные

закономерности функционирования единиц языка, связанных с

выражением определенной зоны грамматических смыслов, и, более

того, универсальные функциональные типы, не зависящие от их

конкретно-языковой реализации”) [124: 13]. Điều này có thể hiểu là, tất cả

các ngôn ngữ đều có các phƣơng tiện biểu thị ý nghĩa ngữ pháp (công cụ ngữ

pháp) của riêng mình, mặc dù những phƣơng tiện này có thể khác nhau do sự

34

khác biệt về hệ thống ngữ pháp của các loại hình ngôn ngữ. Luận án cũng sẽ

đề cập đến các đặc điểm ngữ nghĩa mang tính chất công cụ: ý nghĩa ngữ pháp

trực tiếp hay gián tiếp biểu đạt ý nghĩa công cụ; ý nghĩa công cụ của một hành

động cụ thể hay chỉ là các nét nghĩa có yếu tố công cụ tiềm ẩn trong các ý

nghĩa khác (ý nghĩa chỉ mục đích, chỉ nguyên nhân, chỉ địa điểm, …). Sau đó

luận án sẽ tìm hiểu ý nghĩa công cụ ở khía cạnh cú pháp, có nghĩa là, xem xét

mối quan hệ giữa nghĩa công cụ và phạm trù cách, cũng nhƣ xem xét nghĩa

công cụ đƣợc phân tích trong các cấu trúc cú pháp cụ thể trong hai ngôn ngữ

nghiên cứu.

Luận án đặt ra nhiệm vụ miêu tả và phân tích hệ thống phƣơng tiện

ngữ pháp trong tiếng Nga đƣợc sử dụng để biểu đạt ý nghĩa công cụ trên cơ

sở đã mô tả xong hệ thống các phƣơng tiện thể hiện ý nghĩa công cụ tƣơng

ứng trong tiếng Việt. Để làm đƣợc việc này, trong chƣơng đầu của luận án,

chúng tôi sẽ minh định các khái niệm đƣợc sử dụng để giải quyết vấn đề

nghiên cứu. Đó là các khái niệm về công cụ, ý nghĩa công cụ, phạm trù ý

nghĩa ngữ pháp công cụ, một số quan hệ ngữ pháp, cách, vai nghĩa, …

1.2.1. Phân biệt công cụ - dụng cụ - phương tiện

Công việc đầu tiên khi tiến hành triển khai nghiên cứu đối với mỗi

một công trình nghiên cứu là phải làm rõ các khái niệm đƣợc đề cập. Với luận

án này, thuật ngữ cần đƣợc làm sáng tỏ trƣớc nhất là “công cụ”. Muốn hiểu rõ

“công cụ là gì” chúng ta sẽ phân biệt khái niệm này với một số khái niệm

khác là “dụng cụ, phương tiện”.

Ngay từ thời cổ đại, dụng cụ đƣợc coi là vật quan trọng nhất dùng để

làm ra những sản phẩm, tạo ra những đồ vật ... phục vụ nhu cầu hàng ngày của

con ngƣời nhƣ dao dùng để săn bắt và chia nhỏ thức ăn, búa dùng để gè, dùi

dùng để đục, giáo hoặc cung dùng để giết con mồi, ... Marshall McLuhan – nhà

triết học ngƣời Canada, từng nói “Chúng ta làm ra dụng cụ, dụng cụ làm ra

35

chúng ta”. Câu này có nghĩa là: dụng cụ dƣờng nhƣ là một vật không thể thiếu

trong xã hội, trong đời sống hàng ngày của mỗi ngƣời; dụng cụ cần chúng ta

tạo ra chúng cũng nhƣ chính chúng ta cần chúng để phục vụ chúng ta.

Công cụ là một phần rất quan trọng trong thực tại đời sống của con

ngƣời. T.A. Zdanova (Т.А. Зданова) đã nhận xét về giá trị của công cụ trong

cuộc sống của con ngƣời nhƣ sau: “Thật khó có thể đánh giá lại vai trò của

công cụ trong việc hình thành nên nền văn minh nhân loại. (…) Trong nhận

thức chung của nhân loại luôn có những hình ảnh đặc trưng, và một trong

những đặc trưng nhất, đó chính là hình ảnh của các loại công cụ” [121: 63]

(“Сложно переоценить роль орудий в формировании цивилизации. В

коллективном сознании людей была создана специальная

концептуальная сфера, особая галерея инструментальных образов”).

Thông thƣờng, bất kì một hành động nào của con ngƣời cũng luôn đòi hỏi cần

phải sử dụng một công cụ nào đó.

Nhƣ vậy có thể hiểu, dụng cụ hay công cụ là những sự vật cụ thể, có

tính vật chất, hiện hữu trƣớc mặt, phục vụ nhu cầu ăn uống, lao động, sản

xuất, giải trí, ... của con ngƣời.

Công cụ trong hiện thực khách quan có nghĩa khái quát hơn dụng cụ.

Nó không chỉ đơn thuần là những vật dụng cụ thể dùng để tạo ra một cái gì đó

có ích phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của con ngƣời, nó còn là những

khái niệm trừu tƣợng trong tƣ duy của con ngƣời, ví nhƣ, ngôn ngữ là công cụ

giao tiếp của con ngƣời. Công cụ không chỉ đƣợc hiểu là những dụng cụ lao

động dùng tay, chân, hay bất kì một bộ phận nào khác trên cơ thể con ngƣời;

công cụ còn đƣợc hiểu là những thao tác kĩ thuật, những hành động, suy nghĩ,

trạng thái, tình cảm, cảm xúc, ... của con ngƣời, giúp con ngƣời không chỉ tạo

ra một sản phẩm khác mà còn là một hiệu ứng khác, một kết quả khác, một

thành quả khác, thậm chí đó cũng có thể là một hệ quả không mong muốn

36

khác. Với ý nghĩa này, công cụ dƣờng nhƣ có nội hàm giống với phương tiện.

Tuy nhiên, khái niệm phương tiện có nội dung biểu đạt khái quát lớn hơn nữa,

mang ý nghĩa tổ hợp nhiều hơn nữa. Phƣơng tiện còn có thể hiểu là những

phƣơng pháp, thủ pháp để tạo nên một phƣơng thức có tính khái quát rất lớn

trong nghiên cứu khoa học.

Trong ngôn ngữ học, một vật nào đó đóng vai trò công cụ khi nó đƣợc

chủ thể sử dụng để tiến hành một hoạt động. Ví dụ nhƣ: đôi đũa đƣợc con

người sử dụng để ăn cơm, đôi đũa là công cụ, con ngƣời là chủ thể và ăn cơm

là hoạt động. Công cụ gắn bó hữu cơ với hoạt động và chủ thể của hoạt động.

Công cụ là một phạm trù chức năng. Một vật khi đã tách rời mối liên hệ với

chức năng đó thì không còn là công cụ nữa. Sự phản ánh vai trò công cụ trong

ngôn ngữ tạo nên ý nghĩa công cụ. Nói một cách khác, thành phần mang ý

nghĩa công cụ là thành phần biểu thị sự vật được chủ thể sử dụng để tiến

hành hoạt động [75]. Hơn nữa trong các tình huống ngôn ngữ có yếu tố công

cụ (các tình huống công cụ) thì công cụ có thể không cần đƣợc thể hiện:

chúng có thể bị ẩn hoặc có thể đƣợc mặc định dùng kèm theo hành động. Nếu

nhƣ công cụ có mặt trong một tình huống thực và vắng mặt trong mô tả ngôn

ngữ của tình huống đó, thì nảy sinh một câu hỏi: liệu công cụ có xuất hiện ở

cấp độ ngữ nghĩa không? Xét ví dụ:

- (21) Tôi ăn cháo.

Theo tiêu chí ngôn ngữ, trên bình diện bề mặt cấu trúc câu thì công cụ

không cần phải đƣợc biểu đạt bởi nó là sự thật hiển nhiên trong cuộc sống

(ngƣời Việt Nam thƣờng sẽ chỉ ăn cháo bằng thìa, muôi, muỗng). Tuy nhiên

trong việc mô tả hành động thì yếu tố công cụ đƣợc ngầm hiểu là:

S – P – O – (I)

trong đó: S _ Subject (chủ thể hành động)

P _ Predicate (vị từ)

O _ Object (đối thể)

37

(I) _ Instrumental (yếu tố công cụ)

Bảng 1.1: Mô hình kết cấu có chỉ tố công cụ

Giả định rằng trong tình huống này, ở cấp độ ngữ nghĩa, công cụ chắc

chắn hiện diện vì nếu nhƣ đặt câu hỏi: “Anh ăn cháo bằng gì?”, thì câu trả lời

chắc chắn sẽ là: “bằng thìa (hoặc muôi, muỗng)”.

Điều giả định nhƣ vậy có thể đƣợc biểu diễn bằng sơ đồ 1 nhƣ sau:

Sơ đồ 1:

Hiện thực (+I) – Nghĩa (+I) – Lời nói (-I)

Bảng 1.2: Mô hình có tiền giả định công cụ 1

Sơ đồ 1 sẽ đối lập với sơ đồ 2 dƣới đây. Sơ đồ 2 mô tả sự biểu đạt

công cụ bằng một phƣơng tiện đặc biệt trong lời nói. Xét ví dụ:

- (22) Anh ấy cắt giấy bằng kéo.

Sơ đồ 2:

Hiện thực (+I) – Ngữ nghĩa (+I) – Lời nói (+I)

Bảng 1.3: Mô hình có tiền giả định công cụ 2

(-I) có nghĩa là, trong lời nói, yếu tố công cụ không đƣợc biểu đạt

hoặc không cần phải biểu đạt bằng những dấu hiệu đặc biệt thể hiện đó là

công cụ. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, yếu tố công cụ vẫn có những

chỉ dấu nhất định. Trong các tình huống đó, chúng tôi đặt giả định rằng, nó

luôn đƣợc ngầm hiểu là có yếu tố công cụ, có nghĩa là, đƣợc thể hiện bằng các

phƣơng tiện khác trong tổ hợp ngữ pháp – văn cảnh: thông qua từ vựng hoặc

thông qua văn cảnh. Chúng tôi thấy rằng trong cả hai sơ đồ trên, có hay không

sự xuất hiện của yếu tố công cụ ở cấp độ ngôn ngữ không quan trọng, công cụ

luôn luôn đƣợc biểu đạt ở khía cạnh ngữ nghĩa.

Trong luận án này, chúng tôi khẳng định rằng, việc thể hiện ý nghĩa

công cụ trong nghĩa hàm ẩn của động từ (ví dụ động từ ăn ngầm hiểu là có sử

dụng một dụng cụ ăn uống nào đó) không phải là một phƣơng tiện duy nhất của

38

ngữ pháp trong việc biểu đạt ý nghĩa công cụ. Hơn nữa, công cụ không chỉ nằm

trong tiền giả định của động từ mà nó còn phụ thuộc vào chu cảnh chung.

Trong câu (21) công cụ chắc chắn là thìa (hoặc muôi, muỗm); trong câu Tôi ăn

bún (22), công cụ ở đây có lẽ sẽ là đũa. Trong trƣờng hợp này, công cụ đƣợc

làm sáng tỏ bằng nghĩa của đối thể. Ngoài ra, sự xuất hiện hay không xuất hiện

của yếu tố công cụ còn đƣợc xác định bằng nghĩa của chủ thể hành động, ví dụ:

- (23) Con chó đang ăn cháo (bún).

Con chó thì không thể ăn cháo (bún) bằng thìa, dĩa hay đũa đƣợc,

công cụ mà con chó sử dụng để ăn ở đây là mồm, lưỡi. Trong các trƣờng hợp

này, chúng tôi đang ngầm quy định công cụ ở đây là một vật dụng trong hoạt

động chứ không phải là một bộ phận cơ thể ngƣời. Vấn đề này sẽ đƣợc mô tả

kĩ hơn trong các chƣơng tiếp theo.

Trong ngữ pháp và ngữ pháp học, công cụ đƣợc hiểu là những khái

niệm, những phạm trù, những phƣơng thức trừu tƣợng có tính khái quát hóa;

đƣợc dùng để biểu đạt một ý đồ nào đó phục vụ mục đích giao tiếp của con

ngƣời. Đó có thể là những khái niệm về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; những

phạm trù về âm vị học, về hình thái học, về cú pháp học, về diễn ngôn; những

phƣơng thức ngữ pháp, ... Nội hàm của thuật ngữ “công cụ” trong ngôn ngữ

học có nhiều nét tƣơng đồng với khái niệm “phương tiện”, tuy nhiên, trong

ngôn ngữ học, thuật ngữ “công cụ” đƣợc thống nhất dùng chung trong tiếng

Anh là instrument, tiếng Nga là инструмент, tiếng Pháp là le instrument,

tiếng La tinh là instrumentum, ... ; kí hiệu viết tắt là INST để phân biệt với

một khái niệm công cụ khác là tool – một thuật ngữ chủ yếu dùng trong khoa

học về máy tính (computer), phần mềm (software), ứng dụng (application) –

những sản phẩm của công nghệ hiện đại mới xuất hiện khi máy tính ra đời từ

thế kỷ trƣớc. Luận án này thống nhất dùng chung một thuật ngữ “công cụ

39

(instrument - инструмент)” để tiến hành nghiên cứu phục vụ mục đích

nghiên cứu nhƣ đã trình bày ở trên.

Một thuật ngữ khác nữa cũng cần đƣợc nhắc đến là “chất liệu” hay

“vật liệu”. Các ý nghĩa ngữ pháp chỉ “chất liệu” hay “vật liệu” tạo ra sản

phẩm có thể có phƣơng thức thể hiện giống với ý nghĩa công cụ về mặt hình

thức trong cả hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Nga. Trong tiếng Việt, ý nghĩa

chỉ chất liệu hoặc vật liệu đƣợc thể hiện bằng phƣơng thức hƣ từ (thêm hƣ từ

bằng vào giữa hai danh từ), ví dụ trong các danh ngữ: bàn gỗ, dép nhựa, cốc

giấy, áo lụa, nồi nhôm, ...; chỉ cần thêm hƣ từ bằng vào giữa hai danh từ (bàn

bằng gỗ, dép bằng nhựa, cốc bằng giấy, áo bằng lụa, nồi bằng nhôm, ...) là

chúng ta có thêm một cách thức thể hiện ý nghĩa chỉ vật liệu, chất liệu. Tƣơng

tự nhƣ trong tiếng Nga, các cụm từ (là một tổ hợp của tính từ và danh từ) chỉ

chất liệu, vật liệu có thể đƣợc cải biến bằng phƣơng thức hƣ từ (sử dụng giới

từ из và biến đổi danh từ sang cách hai) chúng ta cũng có một cách biểu đạt

mới về ý nghĩa chỉ vật liệu, chất liệu.

Ví dụ:

- деревянный стол (bàn gỗ) = стол из дерева

- пластиковые сандалии (dép nhựa) = сандалии из пластинки

- бумажный стакан (cốc giấy) = стакан из бумаги

- шелковая рубашка (áo lụa) = рубашка из шелка

- алюминиевая кастрюля (nồi nhôm) = кастроюля из алюминия

Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu, do giới hạn về mặt

dung lƣợng, nên vấn đề này không đƣợc đề cập đến, mà sẽ để lại trong các

công trình nghiên cứu tiếp theo.

Nhƣ vậy, luận án thống nhất dùng thuật ngữ “công cụ” (instrument -

инструмент) để nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong hai ngôn ngữ

Việt và Nga. Các thuật ngữ khác nhƣ dụng cụ, phương tiện, vật liệu, chất liệu

40

sẽ không đƣợc đề cập đến với tƣ cách là một đối tƣợng nghiên cứu của luận

án, hoặc nếu đƣợc đề cập đến thì đó là những đối tƣợng thuộc phạm vi nghiên

cứu khác đƣợc sử dụng để so sánh hoặc diễn giải để làm rõ thêm cho thuật

ngữ “công cụ” nhƣ đã trình bày ở trên.

1.2.2. Ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp công cụ

Muốn hiểu đƣợc ý nghĩa ngữ pháp công cụ thì cần phải hiểu đƣợc

khái niệm ý nghĩa ngữ pháp trƣớc tiên.

Ở góc độ ngữ pháp học, ý nghĩa ngữ pháp là những ý nghĩa khái quát,

thể hiện những đặc điểm ngữ pháp được quy ước chung cho hàng loạt đơn vị

của ngôn ngữ và được thể hiện bằng những phương tiện vật chất nhất định

của ngôn ngữ.

Nhƣ vậy, các ý nghĩa số (số ít, số nhiều) của danh từ, ý nghĩa thời của

động từ (thời hiện tại, quá khứ, tương lai)... ý nghĩa thể của động từ (thể hoàn

thành, chưa hoàn thành,, thể tiếp diễn)... trong các ngôn ngữ nhƣ tiếng Anh,

tiếng Nga ... đều là các ý nghĩa ngữ pháp, vì chúng có tính khái quát và trừu

tƣợng, thể hiện những đặc điểm ngữ pháp đƣợc quy ƣớc chung cho hàng loạt

từ và đƣợc thể hiện bằng những phƣơng tiện vật chất nhất định (các phụ tố

ngữ pháp biến đổi hình thái của từ).

Tuy nhiên, điều quan trọng cần đƣợc đặc biệt chú ý là, ý nghĩa ngữ

pháp phải đƣợc biểu thị một cách có hệ thống, bằng những phƣơng tiện ngữ

pháp nhất định. Nếu có một ý nghĩa nào đó, nhƣng nó lại không đƣợc biểu thị

bằng phƣơng tiện ngữ pháp thì không thể coi đó là ý nghĩa ngữ pháp.

Ta có thể thấy khái niệm ý nghĩa ngữ pháp đƣợc trình bày trong rất

nhiều tài liệu ngôn ngữ học giáo khoa nhƣ: B.N. Golovin (Головин Б.Н.

1983), Kosovskiy V.I. (Косoвский В.И. 1974), Kochergina V.A. (Кочергина

В.А. 1979), Reformatsky A.A. (Реформатский А.А. 1967), Mai Ngọc Chừ,

Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến [12: 245], Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn

41

Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết [26: 216], Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Thị

Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán [13: 263], Đỗ Hữu Châu và Bùi

Minh Toán [10: 75], Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung [7: 8], ....

Khi nói đến ý nghĩa ngữ pháp trong tƣơng quan đối sánh với ý nghĩa

từ vựng của từ, điều mà ai cũng dễ dàng nhận thấy là: ý nghĩa từ vựng là ý

nghĩa của từng từ, còn ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa của từng lớp, từng phạm

trù từ.

“Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp đều là sự phản ánh những kết

quả của nhận thức và tư duy vào ngôn ngữ, nhưng sự phản ánh thành ý nghĩa

ngữ pháp có chức năng để tổ chức câu (và tổ chức những đơn vị giao tiếp nói

chung). So với ý nghĩa từ vựng, thì ý nghĩa ngữ pháp có tính chất đơn thể và

luôn luôn đòi hỏi được diễn đạt bằng những hình thức chung có tính đồng

loạt, do đó nó cũng bộc lộ tính khái quát và trừu tượng cao”. [10: 75]

Thêm vào đó, cũng có thể nói rằng: “sự khác biệt giữa ―ý nghĩa‖ từ

vựng với ―ý nghĩa‖ ngữ pháp không phải trước hết là do kiểu nội dung ý

nghĩa, mà về nguyên tắc là do cách phản ánh trong từ của nó. Phản án theo

lối gọi tên vật, hoạt động, trạng thái, tính chất, quan hệ, là thuộc tính của cái

từ vựng. Phản ánh vật, hoạt động, trạng thái, tính chất, quan hệ theo lối đi

kèm là thuộc tính của cái ngữ pháp”. [7: 8]

Ý nghĩa ngữ pháp công cụ là một loại ý nghĩa ngữ pháp, trong giai

đoạn phát triển của ngữ nghĩa học hiện nay, nội dung “công cụ” đƣợc công

nhận nhƣ một phạm trù ngữ nghĩa. Việc nghiên cứu các phạm trù ngữ nghĩa ở

các dạng khác nhau và trong các giai đoạn khác nhau chiếm dung lƣợng và

thời lƣợng rất lớn của các nhà khoa học ngôn ngữ Nga nhƣ A.M. Peshkovsky

(A.M. Пешковский), A.A. Shakhmatov (А.А. Шахматов), I.I.

Meshchaninov (И.И. Мещанинов), A.V. Bondarko (А.B. Бондарко), A.A.

42

Kholodovich (А.А. Холодович), V.S. Khrakovsky (В.Ш. Храковский). [dẫn

theo 115]

Cấp độ ngữ nghĩa (mặt nội dung, mặt đƣợc biểu đạt) là một cấp độ

phổ quát và không có đáp án chuẩn, nó khác với mặt hình thức (cái biểu đạt).

Ngữ nghĩa của một ngôn ngữ cụ thể có cách mô tả riêng biệt, điều này liên

quan đến các khái niệm từ vựng và ngữ pháp. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu

gần đây có xu hƣớng nghiên cứu và giải thích các hiện tƣợng đó thiên về khái

niệm từ vựng. Các khái niệm ngữ pháp khác với các khái niệm từ vựng ở chỗ

“đó là các vùng tư duy của loài người” (глобальные кластеры смыслов)

[124: 153]. Theo đó, “so với các khái niệm mặt từ vựng, các khái niệm ngữ

pháp mang tính phổ quát giống như khái niệm mang tính đặc thù dân tộc

được thể hiện qua ngôn ngữ. Tư duy của con người được thực hiện nhờ các ý

niệm, trong đó yếu tố bao quát về sự vật - tình cảm và mô tả kinh nghiệm của

con người đều dẫn đến sự hình thành các khái niệm ngữ pháp và là những

khái niệm chung cho nhiều loại hình ngôn ngữ khác nhau”. [124: 153-154]

(“Подобно 18 концептам, связанным преимущественно с лексикой,

грамматические концепты имеют как универсальный, так и

национально-специфический компонент, проводящий языковые

границы». Человеческое мышление осуществляется посредством

концептов, при этом ―общность предметно-чувственного и

ментального опыта человечества приводит к формированию

грамматических концептов, общих для разных языков универсальных

грамматических концептов”). Ý nghĩa ngữ pháp công cụ là một trong

những khái niệm nhƣ thế.

Tính phổ quát của các quan hệ công cụ đƣợc xác lập bằng một vật liệu

ngôn ngữ giống nhau, bằng sự chuyển dịch từ các cấu trúc ngôn ngữ này sang

các cấu trúc ngôn ngữ khác mà nội dung của nó đều mang ý nghĩa chỉ dụng

cụ. Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng, tất cả các ngôn ngữ đều có những

43

phƣơng tiện thể hiện nhất định dùng để biểu đạt vùng tƣ duy gắn với các khái

niệm công cụ hay phƣơng tiện mà nhờ đó các hành động đƣợc thực hiện.

Tính bất biến của phạm trù công cụ đƣợc chúng tôi sử dụng nhƣ một

công cụ phân tích các cách biểu đạt phạm trù này. Ngoài các cách biểu đạt,

trong luận án còn đƣa ra các phƣơng tiện ngữ pháp trong tiếng Việt và tiếng

Nga để giúp chuyển dịch một cách chính xác nghĩa bất biến. Chúng tôi ngầm

hiểu rằng, trong các bản dịch văn học đƣợc trích dẫn làm minh chứng trong

luận án, tính chính xác trong các chi tiết không phải lúc nào cũng là mục tiêu

tối cao, đôi khi chúng tôi cũng cần phải chấp nhận những phƣơng án dịch lƣớt

hoặc quan tâm đến mong muốn của ngƣời dịch muốn đƣợc trình bày hết ý

nhờ sự trợ giúp của các cụm từ cố định (thành ngữ). Tuy nhiên, có thể khẳng

định rằng, số lƣợng những tình huống nhƣ thế sẽ không chiếm dung lƣợng

nhiều trong luận án và sẽ không ảnh hƣởng đáng kể đến kết quả nghiên cứu.

Vì tổng số các phƣơng thức ngữ pháp thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp,

trong đó có ý nghĩa công cụ, trong ngôn ngữ học nói chung không nhiều, nên

cho dù tiếng Việt và tiếng Nga là những ngôn ngữ khác loại hình nhƣng

phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong cả hai ngôn ngữ sẽ có những nét

tƣơng đồng và có cả những nét khác biệt. Với đặc điểm của loại hình ngôn

ngữ đơn lập, tiếng Việt sử dụng phƣơng thức từ hƣ và trật tự từ là chính, ví dụ:

(24) - Còn thị sống bằng những nghề lặt vặt ở làng. [CP-NC: 20]

(25) - Rồi bà, than ôi! trái ngược - bà nhòm qua lỗ khoá xem bên

ngoài động tĩnh ra sao... Thì ra, chăm chú vào quyển sách ảnh, thằng Xuân

cứ ngồi nguyên chỗ.[SĐ-VTP: 35]

(26) - Trong toa, mấy bà tóc hoa râm người Petersburg vẫn tiếp tục

thoa lại phấn, dùng khăn lau mồ hôi tay và trò chuyện với nhau bằng cái

giọng ngực nghe rin rít. [BSZh: 17]

44

(27) - Ðây ông coi, cái văn tự của em bán con bé cháu để lấy tiền nộp

sưu cho nhà em đấy mà. [TĐ-NTT: 48]

Trong khi đó, tiếng Nga, bên cạnh việc sử dụng phƣơng thức biến đổi

hậu tố là chính cũng thƣờng xuyên sử dụng kết hợp cả với giới từ, tức là cũng

thể hiện qua từ hƣ, ví dụ:

(28) - Там все сохранилось: обои кофейного цвета, изразцовая

печь с круглою отдушиной под медной крышкой на цепочке, и опись

инвентаря в черной рамке на стене. [ДЖ: 136]

(29) - Mọi thứ ở đó vẫn còn: giấy bồi tường màu cà phê, cái lò sưởi

bằng sứ có ống thông hơi tròn, đậy bằng một cái mũ đồng, ngoắc với một

đoạn dây xích nhỏ bản kê khai đồ đạc đóng khung đen móc vào

tường.[BSZh: 197]

Nhƣ vậy, điểm chung của hai ngôn ngữ trong cách thức thể hiện ý

nghĩa công cụ là sử dụng từ hƣ với các cặp giới từ tƣơng ứng nhƣ với – c, qua

– через, trên – на, nhờ - благодаря, ... Ngoài ra, mỗi ngôn ngữ lại sở hữu một

số phƣơng thức ngữ pháp đặc trƣng khác. Vấn đề này sẽ đƣợc khảo sát và

miêu tả kĩ hơn ở các chƣơng sau của luận án.

1.2.3. Ý nghĩa ngữ pháp và vai nghĩa

Theo Tô Minh Thanh [77: 27], ngôn ngữ có những quy tắc mà theo đó

nghĩa đƣợc biểu đạt thông qua các kết cấu ngôn ngữ. Nói khác đi, “ngữ pháp

miêu tả sự cụ thể hóa miền nhận thức (congnitive space / познавательное

пространство) thành ra cấu trúc cú pháp (syntatic structures /

синтаксические структуры)” [80: 27]. Để diễn đạt các cách cụ thể hóa này,

các nhà ngôn ngữ học dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: cases (падежи /

cách), semantic relations (семантические отношения / quan hệ ngữ nghĩa),

roles (роли / vai), case-role (падежи-роль) hay semantic role

(семантическая роль / vai nghĩa); hoặc thematic role (тематическая

45

роль), theta-roles (тета-роли) (vai tham tố), nhƣ phái ngữ pháp cải biến

thƣờng gọi. Luận án này chọn “vai nghĩa” (семантическая роль / semantic

role) (cái đƣợc biểu hiện) vì thuật ngữ này đủ ngắn gọn để làm đối tƣợng

phân biệt với ý nghĩa ngữ pháp (cái biểu hiện).

Cho đến nay vẫn chƣa có một khái niệm nhất quán nào dành cho “vai

nghĩa”. Theo W. Wilkins [111: 191-192], vai nghĩa “là thành phần thể hiện về

mặt tinh thần các vật thể và khái niệm”, nghĩa là, đánh đồng vai nghĩa với các

phạm trù của nhận thức. Cùng quan điểm này còn có D.L.F. Nilsen [1973], S.

DeLancey [1982] và R. Jackendoff [1983]. C.J. Fillmore [1968] lại quan niệm

“khái niệm ‗cách‘ bao gồm một tập hợp những khái niệm mang tính phổ niệm

và có lẽ là bẩm sinh; đây là những khái niệm cho thấy các kiểu đánh giá của

con người về những sự việc xảy ra xung quanh họ như là ai tiến hành những

sự việc đó, chúng xảy ra với ai, chúng làm thay đổi cái gì”. Định nghĩa này

của Fillmore nhấn mạnh đến tính phổ quát của vai nghĩa. Bên cạnh đó I.M.

Schlesinger [110: 24] “đề nghị […] coi các vai nghĩa là những kết cấu ngôn

ngữ không nhất thiết phải tồn tại trong miền nhận thức dù có thể được định

nghĩa bằng những khái niệm trong miền nhận thức”, điều này có nghĩa là, ông

đã cho vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ, cụ thể là những kết cấu ngữ

nghĩa chứ không nhất thiết phải là những kết cấu nhận thức. Nhƣ vậy, dù các

khái niệm có khác nhau, cách định nghĩa cũng khác nhau, nhƣng điểm chung

của các nhà ngôn ngữ học trên là đều tập trung nghiên cứu mặt nghĩa của

ngôn ngữ. Theo quan điểm của chúng tôi, vai nghĩa là vai trò, tư cách mà

người, vật (được biểu thị bằng danh ngữ) thể hiện đối với hành động, trạng

thái, sự tình được miêu tả trong câu.

Nhƣ vậy vai nghĩa chính là nhân tố có vai trò quyết định đối với việc

tổ chức nên nghĩa của câu. Đó là vai trò, chức phận mà mỗi danh ngữ thể hiện

trong mối quan hệ với động từ của câu.

46

Ví dụ: trong câu ―gà mổ thóc‖, danh ngữ (do một mình danh từ gà

đảm nhiệm) biểu thị kẻ thực thi hành động mổ, danh ngữ thóc biểu thị đối

tƣợng chịu sự tác động của hành động mổ. Danh ngữ gà là vai tác thể (agent)

của hành động đƣợc biểu thị bằng động từ mổ, danh ngữ thóc thể hiện là vai

bị thể (patient) của hành động đƣợc biểu thị bằng động từ mổ.

Hiện tại, chƣa có sự nhất trí cao giữa các nhà ngôn ngữ trong việc xác

định số lƣợng các vai nghĩa (và cả nội dung miêu tả từng vai nghĩa), nhƣng

những vai nghĩa sau đây thƣờng đƣợc đề cập: Tác thể (agent); Bị thể (patient);

Nghiệm thể (experiencer); Công cụ (instrument); Nguyên nhân (cause); Tiếp

thể (recipient); Đắc lợi thể (benefactive); Định vị thể (locative); Thời gian

(temporal).

Trong số các vai nghĩa nêu trên đây, vai nghĩa công cụ (instrument)

được hiểu là phương tiện để thực hiện hành động do động từ biểu thị.

Vai nghĩa nói chung và vai nghĩa công cụ nói riêng không phải là

thuộc tính cố hữu, bất biến của các danh ngữ. Nó là những vai trò có tính khả

biến và linh động: cùng một danh ngữ có thể có (đảm nhiệm) những vai nghĩa

khác nhau tùy theo từng câu mà chúng tham gia. Ví dụ:

- (30) Tôi ăn một bát phở.

- (31) Bát phở làm cho tôi ấm bụng trước khi bắt đầu công việc.

Nhƣ vậy, vai nghĩa là phƣơng cách để thể hiện những nét đặc trƣng

của mối quan hệ về nghĩa giữa danh ngữ với vị từ trong câu. Các vai nghĩa

không phải do các quan hệ ngữ pháp quy định. Chủ ngữ với tác thể, bổ ngữ

với bị thể… là những chuyện độc lập, không phụ thuộc vào nhau. Nếu nhƣ ở

trên chúng ta đã thấy một vai ngữ pháp chủ ngữ có thể ứng với nhiều vai

nghĩa khác nhau, thì dƣới đây lại thấy trƣờng hợp một vai nghĩa đƣợc “biểu

diễn” bằng hơn một vai ngữ pháp. Chẳng hạn: vai công cụ đƣợc biểu diễn

bằng chủ ngữ hoặc bổ ngữ gián tiếp hoặc bổ ngữ trực tiếp. Ví dụ:

47

- (32) Tiền lương làm cho tất cả anh chị em yên tâm.

- (33) Tôi sống chỉ dựa vào tiền lương.

- (34) Cô ấy dùng tiền lương của tôi mua điện thoại mới.

Các vai nghĩa là những phạm trù có tính phổ quát, nhƣng mỗi ngôn

ngữ khác nhau lại có thể biểu diễn chúng bằng những vai cú pháp không hoàn

toàn trùng nhau. Ngƣời bản ngữ của mỗi ngôn ngữ hoặc ngƣời thông thạo

ngôn ngữ đó hoàn toàn biết đƣợc: đối với mỗi vị từ mà họ sử dụng, vai nghĩa

nào sẽ có thể đƣợc biểu diễn bằng vai cú pháp chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ…

Nhƣ vậy, vai nghĩa công cụ có liên quan mật thiết đến ý nghĩa ngữ

pháp công cụ. Mặc dù ý nghĩa ngữ pháp công cụ, về mặt nguyên tắc, biểu

hiện vai nghĩa công cụ, nhƣng trong rất nhiều trƣờng hợp ở nhiều ngôn ngữ,

vai nghĩa công cụ không đƣợc thể hiện bằng các phƣơng thức hay phƣơng

tiện ngữ pháp công cụ, ví dụ nhƣ phƣơng thức hƣ từ, phƣơng tiện giới từ (giới

từ c trong tiếng Nga, giới từ with hay by trong tiếng Anh), phƣơng tiện hƣ từ

(hƣ từ bằng, với,…trong tiếng Việt). Xu hƣớng nghiên cứu câu hiện nay trong

ngôn ngữ học không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu cấu trúc, mà còn tập trung

nghiên cứu về các hoạt động hành chức của câu. Nghĩa là, việc phân tích câu

phải đồng thời đƣợc triển khai trên cả ba bình diện là: ngữ pháp - ngữ nghĩa -

ngữ dụng. Việc nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong câu (đối với tiếng

Việt và tiếng Nga) cũng phải đặt trong mối quan hệ tổng thể là phân tích câu

và ở trên cả ba bình diện này. Trong các chƣơng tiếp theo, ngoài việc mô hình

hóa các phƣơng thức biểu hiện ý nghĩa công cụ, chúng tôi cũng trình bày

thêm những đặc trƣng ngữ nghĩa hình thức của vai nghĩa công cụ trên bình

diện nghĩa (nghĩa miêu tả), mặt khác, đồng thời triển khai nghiên cứu khả

năng hiện thực hóa của vai nghĩa công cụ trong vai trò các chức năng cú pháp

của câu. Tham thể công cụ trong cấu trúc nghĩa sẽ đƣợc lựa chọn và hiện thực

hóa thành các thành phần ngữ pháp khác nhau của câu nhƣ bổ ngữ, trạng ngữ,

48

chủ ngữ, đề ngữ. Sự ngữ pháp hóa cụ thể nhƣ thế nào phụ thuộc vào nhu cầu

giao tiếp, vào vai trò thông báo trong từng hoàn cảnh giao tiếp của tham thể

công cụ.

1.2.4. Phương thức ngữ pháp và phương thức ngữ pháp thể hiện ý

nghĩa công cụ

a. Phương thức ngữ pháp

Bất kì ý nghĩa của một từ, một tổ hợp từ hay một câu nào cũng có

những hình thức thể hiện của nó. Ý nghĩa ngữ pháp cũng vậy, đƣợc thể hiện

bằng những hình thức nhất định. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của

ngữ pháp học là nghiên cứu những phƣơng tiện biểu hiện của các ý nghĩa ngữ

pháp đƣợc sử dụng trong các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Các phƣơng

tiện ấy đƣợc gọi chung lại là phƣơng thức ngữ pháp.

Những phƣơng tiện ngữ pháp (ví dụ -и, -ы, -а để biểu thị ý nghĩa “số

nhiều” của danh từ tiếng Nga) đƣợc sử dụng một cách có hệ thống, để biểu thị

một cách có hệ thống các ý nghĩa ngữ pháp, đƣợc gọi là phƣơng thức ngữ

pháp. Vậy, phƣơng thức ngữ pháp là biện pháp, (cách) sử dụng những phƣơng

tiện ngữ pháp để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp.

Ví dụ, tiếng Nga dùng phƣơng thức phụ tố để thể hiện ý nghĩa số nhiều

- стол (1 cái bàn) - столы (nhiều cái bàn)

- газета (1 tờ báo) - газеты (nhiều tờ báo)

- дом (1 ngôi nhà) - дома (nhiều ngôi nhà)

- тетрадь (1 quyển vở) - тетради (nhiều quyển vở)

Những phƣơng thức ngữ pháp thƣờng gặp trong các ngôn ngữ có thẻ

đƣợc kể ra nhƣ sau:

1- phương thức phụ tố, ví dụ nhƣ: делать-сделать, читать-

прочитать, ... trong tiếng Nga; bơsao-bơrơsao trong tiếng Ê-đê và Ja-rai;

student-students, democracy-democracies, ... trong tiếng Anh

49

2- phương thức luân phiên ngữ âm học hoặc biến tố bên trong, ví dụ

nhƣ foot-feet, tooth-teeth, man-men, ... trong tiếng Anh; брать-взять,

класть-положить, садиться-сесть, ... trong tiếng Nga

3- phương thức thay từ căn, ví dụ nhƣ хороший – лучше, плохой –

хуже, ... trong tiếng Nga

4- phương thức trọng âm, ví dụ nhƣ письмо – письма , окно – о кно,

до м - дома , ...

5- phương thức lặp, ví dụ nhƣ nhà – nhà nhà, ngành – ngành ngành,

người – người người, ... biểu thị số nhiều

6- phương thức từ hư, ví dụ trong tiếng Nga và tiếng Việt, từ hư +

động từ biểu hiện ý nghĩa tƣơng lai: Я буду читать. – Tôi sẽ đọc.

7- phương thức trật tự từ, ví dụ: trong câu ―Anh yêu em‖, anh là chủ

ngữ còn em là bổ ngữ; khi trật tự từ trên bị thay đổi thành ―Em yêu anh‖ thì ý

nghĩa của câu khác đi và quan hệ ngữ pháp giữa từ anh và từ em cũng thay

đổi, từ em sẽ là chủ ngữ còn từ anh sẽ là bổ ngữ

8- phương thức ngữ điệu, ví dụ: lời nói trần thuật có ngữ điệu bình

thƣờng, lời hỏi có ngữ điệu cao ở cuối câu, lời cầu khiến với sắc thái khiến /

ra lệnh có ngữ điệu mạnh và dứt khóat, ...

Các phƣơng thức ngữ pháp trên đây có thể phân thành hai kiểu:

phương thức ngữ pháp bên trong từ (bao gồm phƣơng thức phụ tố, luân phiên

ngữ âm, thay từ căn, trọng âm, lặp) và các phương thức bên ngoài từ (phƣơng

thức sử dụng hƣ từ, trật tự từ, ngữ điệu). Kiểu thứ nhất gọi là tổng hợp tính,

kiểu thứ hai gọi là phân tích tính. Đây cũng chính là cơ sở để các nhà ngôn

ngữ học phân chia các ngôn ngữ trên thế giới thành hai loại là các ngôn ngữ

tổng hợp tính và các ngôn ngữ phân tích tính.

b. Các phương thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng

Việt và tiếng Nga

50

Ý nghĩa công cụ trong ngữ pháp gần nhƣ một phổ niệm ngôn ngữ gặp

trong hầu khắp mọi thứ tiếng. Nhƣng cách biểu hiện ý nghĩa công cụ trong

mỗi ngôn ngữ có thể khác nhau, do đặc điểm loại hình và cấu trúc ngữ pháp

cụ thể của chúng qui định.

Phƣơng thức phụ tố chủ yếu đƣợc sử dụng trong các ngôn ngữ có biến

đổi hình thái, mà tiếng Nga là điển hình. Trong tiếng Nga, hình thức thể hiện

ý nghĩa ngữ pháp công cụ và các quan hệ ngữ pháp là sự hợp dạng của danh

từ sang cách 5 (công cụ cách) mà không cần sử dụng giới từ; đƣợc thể hiện

chủ yếu trong lớp danh từ: Ví dụ:

(35) - Антонина Александровна производила обход торговок,

перекинув через плечо полотенце с таким видом, точно шла на

станционные задворки умыться снегом. [ДЖ: 129]

(36) - Tonia đi vòng một lượt đám phụ nữ bán hàng, chiếc khăn bông

vắt trên vai như thể nàng đi ra sân sau ga rửa mặt bằng tuyết. [BSZh: 186]

(37) - Она поглядела по бокам, удостоверилась, что опасность не

грозит ниоткуда, быстро подошла вплотную к Антонине

Александровне и, откинув попонку со своего товара, прошептала

горячей скороговоркой: ... [ДЖ: 129]

(38) - Bà ta nhìn thấy tấm khăn bông của Tonia thì mắt sáng lên dạn

dĩ. Bà ta nhìn quanh, biết chắc không có gì đe dọa nguy hiểm, bèn nhanh

chóng tiếp cận Tonia và mở món hàng của mình ra, thì thào với Tonia bằng

cái giọng liến thoắng rất hăng hái: ... [BSZh: 187]

Phƣơng thức hƣ từ đƣợc sử dụng rộng rãi ở rất nhiều loại hình ngôn

ngữ, trong đó có cả ngôn ngữ biến hình lẫn ngôn ngữ đơn lập. Trong các ngôn

ngữ có biến đổi hình thái, ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện thông qua các giới từ

(giới từ из, по, c, в, на, о, ... trong tiếng Nga; giới từ by, with trong tiếng Anh;

giới từ mit trong tiếng Đức, giới từ en, à trong tiếng Pháp, ... ):

51

- (39) Учитель пишет с мелом, а студент с ручкой. (Thầy giáo

viết bằng phấn, còn học sinh viết bằng bút)

- (40) Я еду в город Хошимин на поезде. (Tôi vào thành phố Hồ Chí

Minh bằng tàu hỏa.)

- (41) I go to work by bycicle. (Tôi đi làm bằng xe đạp.)

- (42) The streets are lighted by electricity. (Phố xá thắp sáng bằng điện.)

- (43) Je vais au bureau à moto. (Tôi đi làm bằng xe máy.)

- (44) Je vais au cinéma à vélo. (Tôi đi đến rạp chiếu phim bằng xe đạp.)

Trong các ngôn ngữ không biến đổi hình thái, ý nghĩa công cụ chủ yếu

đƣợc thể hiện bằng các hƣ từ nhƣ bằng (ăn bằng đũa, đi làm bằng xe đạp,

thái thịt bằng dao ...), qua (thông báo qua loa, làm việc qua zalo, hội đàm

qua phiên dịch, ...), nhờ (đi học nhờ xe buýt, qua sông nhờ đò, cây vững nhờ

giá đỡ, ...), dựa vào (sống dựa vào lương hưu, sống dựa vào con cái, trồng

lúa dựa vào nguồn nước, ...) ...trong tiếng Việt; hƣ từ đuội (bằng) (kin đuội

mạy thù – ăn bằng đũa, bay hết việc đuội lốt thíp – đi làm bằng xe đạp, xoi

xịn đuội mít - thái thịt bằng dao), phàn (qua) (hết việc phàn xừ xẳng khôm on

lai Zalo – làm việc qua zalo, phốp pạ chê lạ cha phàn phụ be – hội đàm qua

phiên dịch), ing xày (dựa vào) (đăm lông xi vít ing xày ngơn đươn – sống dựa

vào tiền lương hưu, xi vít ing xày lục – sống dựa vào con cái)… trong tiếng

Lào; hoặc thực từ có tiền giả định công cụ trong các động ngữ nhƣ ăn đũa, đi

nạng, bơm xe, bổ củi, cưa gỗ, đục tường, đẽo cày, lướt ván, trèo thang ...

trong tiếng Việt; kin mạy thù (ăn đũa), pay lốt chắc (đi xe máy), tắt phổm (cắt

tóc), xạng hươn (xây nhà), … trong tiếng Lào.

Phương thức trật tự từ biểu đạt ý nghĩa công cụ đƣợc sử dụng chủ yếu

trong ngôn ngữ đơn lập nhƣ tiếng Việt, tiếng Lào, tiếng Khmer, … mà rất

hiếm khi đƣợc sử dụng trong ngôn ngữ có biến đổi hình thái nhƣ tiếng Nga,

tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, … Trong tiếng Nga “trật tự từ trước hết có

52

vai trò về tu từ, chứ không phải về ngữ pháp” [10: 87], trái lại, trong tiếng

Việt, nếu ta thay đổi trật tự sắp xếp của các từ trong một câu thì trƣớc hết là ý

nghĩa ngữ pháp của các từ đó thay đổi; sau đó mới có thể là những chức năng

phong cách học, tu từ học nào đó.

Xét một số ví dụ sau:

- (45) (Cầu thủ số 10) đỡ bóng bằng ngực.

- (46) (Con tôi) cắt giấy bằng kéo.

- (47) (Hắn) giết người bằng dao.

- (48) (Cô ấy) viết báo cáo bằng máy tính bảng.

- (49) (Nó) che miệng bằng tay.

- (50) (Ông ta) tố cáo cấp trên bằng thư nặc danh.

Ý nghĩa công cụ trong các câu trên đƣợc thể hiện bằng phƣơng thức

sử dụng hƣ từ bằng kết hợp với các danh từ biểu đạt ý nghĩa công cụ để thực

hiện các hành động của vị từ. Các hƣ từ đó luôn đứng sau vị từ. Tuy nhiên,

nếu đảo danh từ mang ý nghĩa chỉ công cụ lên trƣớc vị từ và kết hợp với một

thực từ (chủ yếu là hai vị từ dùng và lấy) chúng ta sẽ tạo ra đƣợc một cấu trúc

câu mới vẫn mang ý nghĩa chỉ công cụ mà lại không cần sử dụng đến hƣ từ

bằng. Đó là:

- (45’) (Cầu thủ số 10) lấy ngực đỡ bóng.

- (46’) (Con tôi) dùng kéo cắt giấy.

- (47’) (Hắn) dùng dao giết người.

- (48’) (Cô ấy) sử dụng máy tính bảng viết báo cáo.

- (49’) (Nó) lấy tay che miệng.

- (50’) (Ông ta) dùng thư nặc danh tố cáo cấp trên.

Các câu (45), (46), (47), (48), (49), (50) và (45’), (46’), (47’), (48’),

(49’), (50’) có thể áp dụng để kiểm chứng lẫn nhau trong việc xác định ý

nghĩa công cụ trong câu. Chúng đều có giá trị về nghĩa và ngữ pháp, do đó có

53

thể khẳng định, việc thay đổi trật tự từ (bằng cách đảo vị từ trung tâm ra sau

danh từ chỉ công cụ và không cần sử dụng hƣ từ chỉ công cụ) là một phƣơng

thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt. Có thể, việc đảo này

chỉ áp dụng đƣợc cho nhóm những vị từ động có tiền giả định nét nghĩa đòi

hỏi công cụ mà hai vị từ dùng và lấy (trong tiếng Việt), sạy và au (trong tiếng

Lào); … là điển hình.

Có thể kết luận rằng, ý nghĩa ngữ pháp công cụ là một loại ý nghĩa

ngữ pháp của phạm trù ngữ pháp công cụ, biểu thị cách thức, phương thức,

phương tiện để thực hiện một hành động nào đó nhằm một mục đích nào đó

và được thể hiện chủ yếu bằng phương thức hư từ, phụ tố và trật tự từ.

Ý nghĩa công cụ trong khuôn khổ của phạm trù ngữ pháp có tính chất

công cụ là một phạm trù ngữ pháp của danh từ. Với ý nghĩa công cụ này,

phạm vi liên quan gắn với các phƣơng tiện hình thức nhiều hơn, có nghĩa là

nói đến ý nghĩa công cụ là nói về phƣơng diện biểu hiện, phƣơng diện hình

thức chứ không phải là phƣơng diện nội dung, phƣơng diện nghĩa. Điều này

hoàn toàn khác biệt với các khái niệm vai nghĩa công cụ, trạng ngữ công cụ

mà chúng tôi sẽ trình bày phía dƣới đây, đồng thời, đây cũng chính là đối

tƣợng nghiên cứu của luận án này.

Tóm lại, ý nghĩa ngữ pháp và phƣơng thức ngữ pháp có mối quan hệ

chặt chẽ với nhau: chỉ có thể nói đến ý nghĩa ngữ pháp khi có các phƣơng thức

ngữ pháp, không có một loại ý nghĩa ngữ pháp nào mà không có phƣơng thức

thể hiện nó. Do vậy, có thể khẳng định, dấu hiệu nhận biệt một ý nghĩa ngữ

pháp là nó phải có các phƣơng thức thể hiện. Ý nghĩa ngữ pháp của một ngôn

ngữ này có thể đƣợc thể hiện bằng phƣơng thức này, nhƣng ý nghĩa ngữ pháp

đó trong một ngôn ngữ khác lại đƣợc thể hiện bằng các phƣơng thức khác. Sự

khác biệt về cách thể hiện ý nghĩa ngữ pháp (tức là phƣơng thức ngữ pháp) là

cơ sở quan trọng nhất để phân biệt loại hình ngôn ngữ. Loại hình ngôn ngữ

đƣợc coi là tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ khó khăn trong việc học

54

một ngoại ngữ: ngƣời học ngoại ngữ cùng loại hình với tiếng mẹ đẻ sẽ dễ hơn

so với ngoại ngữ khác loại hình.

1.2.5. Quan hệ giữa ý nghĩa công cụ và thành phần câu

Trong ngữ pháp cổ điển, do xem câu là đơn vị cấu trúc lớn nhất trong

tổ chức ngữ pháp của một ngôn ngữ nên việc nghiên cứu cấu trúc cú pháp của

câu trở thành trung tâm của ngữ pháp học. Các chức năng cú pháp của câu

đƣợc ngƣời ta gọi một cách đơn giản là thành phần câu. Đây là một vấn đề

lớn đƣợc nhiều nhà ngôn ngữ học đi sâu nghiên cứu. Mỗi nhà nghiên cứu đều

có cách kiến giải riêng về thành phần câu trên nhiều khía cạnh: quan niệm,

định nghĩa thành phần câu, tiêu chí xác định thành phần câu, số lƣợng các

thành phần câu, cƣơng vị cú pháp của các thành phần câu, ... Trong khuôn

khổ của luận án này, chúng tôi không có tham vọng giải quyết những vấn đề

này. Để giải quyết vấn đề của luận án, chúng tôi chỉ căn cứ vào một số tiêu

chí để xác định thành phần câu đã đƣợc thống nhất ở các nhà nghiên cứu, trên

cơ sở đó, mô tả một số thành phần câu nhƣ chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, đề

ngữ, là các thành phần câu có mối quan hệ với đối tƣợng khảo sát của luận án

là ý nghĩa ngữ pháp công cụ.

Về tiêu chí xác định thành phần câu, đa số các nhà nghiên cứu đều

thống nhất coi thành phần câu là một phạm trù ngữ pháp, do đó, việc xác định

thành phần câu phải dựa vào cả tiêu chí ngữ nghĩa lẫn tiêu chí hình thức. Tác

giả Bùi Minh Toán trong “Đại cương ngôn ngữ học, tập 2” cho rằng; “Như

thế các thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, ...

cũng đều là các phạm trù ngữ pháp. Mỗi phạm trù này cũng có thể chia ra

thành các phạm trù nhỏ hơn như bổ ngữ thì có bổ ngữ trực tiếp hay gián tiếp.

Điều quan trọng là dù ở mức cao hay thấp, rộng hay hẹp, mỗi phạm trù này

đều là sự thống nhất giữa ý nghĩa ngữ pháp và hình thức ngữ pháp. Từ đó,

điều cần chú ý trong nghiên cứu và học tập ngữ pháp là: việc phân xuất và

xác định các phạm trù ngữ pháp phải được tiến hành trên cơ sở thống nhất

giữa ý nghĩa ngữ pháp và hình thức biểu hiện nó”. [10: 14]

55

Về tiêu chí ngữ nghĩa, đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tiêu chí ngữ nghĩa để xác định thành phần câu là ý nghĩa ngữ pháp khái quát của các thành phần câu. Do đó, có thể khẳng định rằng ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ là một tiêu chí để có thể xác định đƣợc thành phần câu. Trong Việt ngữ học đã có những công trình bƣớc đầu nghiên cứu hoặc có nhắc đến vấn đề này nhƣ thành phần chủ ngữ công cụ (trong nghiên cứu của Lê Xuân Thại [74, 75], Đỗ Hồng Dƣơng [14], ...), trạng ngữ công cụ (trong nghiên cứu của Võ Huỳnh Mai [51, 52], Lakoff George [107],...), bổ ngữ công cụ (Nguyễn Thiện Giáp [22], ...), đề ngữ công cụ (trong nghiên cứu của Diệp Quang Ban [6], ...) Tiêu chí hình thức để nhận diện thành phần câu phức tạp hơn vì có nhiều ý kiến trái chiều. Tuy nhiên, các nhà ngôn ngữ học thƣờng dựa trên cơ sở các đặc điểm của loại hình ngôn ngữ để xác định chỉ dấu hình thức. Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập nên tiêu chí hình thức để xác định các thành phần câu mang ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ thƣờng là trật tự từ và hƣ từ. Tiếng Nga là loại hình ngôn ngữ có biến đổi hình thái nên tiêu chí hình thức để xác định là phụ tố và hƣ từ. Ngoài ra, vị trí của thành phần mang ý nghĩa công cụ so với vị từ trung tâm của câu cũng là một cơ sở để xác định các thành phần cú pháp trong câu. Các chƣơng tiếp theo sẽ cụ thể hóa hơn việc nhận diện các thành phần câu mang ý nghĩa công cụ dựa vào sự phối hợp giữa hai tiêu chí này.

Nhƣ vậy, nhiệm vụ trọng tâm của luận án này là nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ và các phương thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong hai ngôn ngữ Việt và Nga trên bình diện hình thái học. Tuy nhiên, trong hoạt động ngôn ngữ, dƣới góc độ nghiên cứu ngữ nghĩa và cú pháp hiện đại, ý nghĩa công cụ không chỉ đƣợc thể hiện bằng các ý nghĩa ngữ pháp công cụ và phƣơng tiện ngữ pháp tƣơng ứng. Vì thế, trong luận án này, ở một chừng mực nhất định và khi điều kiện cho phép, chúng tôi cũng sẽ đề cập đến những hình thức biểu thị ý nghĩa công cụ “một cách ngữ nghĩa học” và/hoặc “một cách cú pháp học”, bằng các biểu thức ngữ pháp nhƣ danh ngữ và giới ngữ.

56

TIỂU KẾT

Trong chƣơng I chúng tôi đã trình bày khái quát những vấn đề tổng

quan tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga. Bên

cạnh đó, trên cơ sở học tập và kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi

trƣớc, chúng tôi đã cố gắng thống nhất lại và làm rõ thêm các khái niệm và

các lí luận có tính chất tiền đề cho luận án nhƣ: lí thuyết về ý nghĩa ngữ pháp,

phƣơng thức ngữ pháp, mối quan hệ giữa ý nghĩa ngữ pháp và vai nghĩa, sự

thể hiện ý nghĩa ngữ pháp trong câu, mối quan hệ giữa ý nghĩa công cụ và các

thành phần cú pháp trong câu, ...; phân biệt công cụ - dụng cụ - phương tiện

để từ đó sử dụng một thuật ngữ xuyên suốt cho cả luận án là công cụ.

Ý nghĩa công cụ là một phổ niệm. Đây là vấn đề đã đƣợc quan tâm từ

lâu với những mức độ khác nhau, tùy theo quan điểm nghiên cứu và mục đích

nghiên cứu mà tạo ra các công trình nghiên cứu khác nhau. Thực tiễn nghiên

cứu cho thấy việc nhận thức vấn đề nghiên cứu ý nghĩa công cụ của các tác

giả trong nƣớc và nƣớc ngoài không khác nhau nhiều, cách miêu tả khác nhau

không lớn. Điểm mạnh nhất, chung nhất là các tác giả và các công trình

nghiên cứu đều tập trung miêu tả ý nghĩa công cụ ở góc độ hình thái học để

thể hiện các quan hệ cú pháp nên những miêu tả về ý nghĩa công cụ và cách

công cụ trƣớc nay đều đƣợc phân tích và trình bày xuất phát từ quan điểm

hình thái – cú pháp. Đến giai đoạn gần đây, ý nghĩa cách đƣợc vận dụng vào

trong phân tích và giải thích các vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa của câu, tuy

nhiên việc phân tích vai nghĩa công cụ trong câu cũng vẫn đƣợc giải thích

thông qua các biểu hiện hình thái – cú pháp của các ngữ đoạn trong câu. Đây

chính là điểm mới thôi thúc chúng tôi tiến hành nghiên cứu vấn đề này.

Ý nghĩa ngữ pháp nói chung và ý nghĩa ngữ pháp công cụ nói riêng

luôn có các phƣơng tiện ngữ pháp thể hiện. Phƣơng tiện ngữ pháp thể hiện ý

nghĩa ngữ pháp có nhiều, nhƣng khái quát lên thành phƣơng thức ngữ pháp

thì không nhiều. Nhƣ vậy, ý nghĩa ngữ pháp không thể tách rời phƣơng thức

ngữ pháp. Ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga không phải đƣợc thể

57

hiện bằng tất cả các phƣơng thức ngữ pháp thƣờng thấy trong ngôn ngữ. Tuy

khác nhau về loại hình nhƣng giữa tiếng Việt và tiếng Nga lại có những

phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ giống nhau.

Tiếng Việt và tiếng Nga là những ngôn ngữ khác loại hình nên các

phƣơng thức ngữ pháp chủ yếu thể hiện ý nghĩa công cụ trong mỗi ngôn ngữ

cũng khác nhau. Trong tiếng Nga, để biểu đạt tính chất công cụ ngƣời ta sử

dụng phƣơng tiện hình thái học – đó là cách công cụ. Trong các ngôn ngữ

không có biến đổi cách nhƣ tiếng Việt, để thể hiện ý nghĩa công cụ ngƣời ta

sử dụng phƣơng thức hƣ từ và phƣơng thức trật tự từ.

Ý nghĩa ngữ pháp công cụ và vai nghĩa công cụ có mối quan hệ biện

chứng với nhau: ý nghĩa ngữ pháp công cụ mang tính hình thức còn vai nghĩa

công cụ là nội dung ngữ nghĩa. Việc nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ

không thể tách rời hoàn toàn với nghiên cứu vai nghĩa công cụ, tuy nhiên, đối

tƣợng nghiên cứu chính của luận án vẫn là mặt hình thức biểu hiện của ý

nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga.

Ý nghĩa ngữ pháp công cụ, xét ở bậc câu, có chức năng là một thành

phần cú pháp của câu. Ngoài những biểu hiện về mặt hình thái học, ý nghĩa

công cụ còn đƣợc thể hiện ra bằng các ngữ đoạn trong câu, đó có thể là các

danh ngữ hay giới ngữ. Các ngữ đoạn đó có thể đóng vai trò chủ ngữ, bổ ngữ,

trạng ngữ, đề ngữ. Trong câu, các thành phần mang ý nghĩa công cụ này đều

có các chỉ dấu đặc trƣng theo các đặc điểm loại hình của ngôn ngữ Việt hay

ngôn ngữ Nga. Các chỉ dấu này sẽ đƣợc mô tả kĩ hơn trong các chƣơng tiếp theo.

Về mặt phƣơng pháp nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp mô

tả ngôn ngữ học là chính. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sẽ sử dụng thêm

phƣơng pháp so sánh để làm nổi bật những điểm giống và khác trong cách

thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga. Tuy nhiên,

những so sánh ấy không thực hiện theo cách thức và phƣơng pháp của ngôn

ngữ học đối chiếu vì luận án này, ngay từ đầu không đặt vấn đề thực hiện

nhiệm vụ đối chiếu ngôn ngữ.

58

CHƢƠNG 2

CÁC PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý NGHĨA NGỮ PHÁP CÔNG CỤ

TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA

Các phạm trù ngữ pháp giống, cách, ngôi, thời, thức, dạng vốn đƣợc

phát hiện và nghiên cứu trên ngữ liệu các ngôn ngữ Ấn – Âu; còn tiếng Việt –

một ngôn ngữ khác hẳn các ngôn ngữ Ấn – Âu về nguồn gốc cũng nhƣ loại

hình, không có các phạm trù ấy. Chính vì vậy, theo cách hiểu về ý nghĩa công

cụ đã trình bày ở trên, chúng tôi sẽ tìm hiểu, khảo sát, nhận diện ý “nghĩa ngữ

pháp công cụ” trong tiếng Việt và tiếng Nga là gì và đƣợc thể hiện bằng

những phƣơng thức, phƣơng tiện nào.

Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, trong hoạt động ngôn

ngữ, từ không biến đổi hình thái. Hình thái của từ tự nó không chỉ ra mối

quan hệ giữa các từ ở trong câu, không chỉ ra chức năng cú pháp của các từ.

Qua hình thái, tất cả các từ dƣờng nhƣ không có quan hệ với nhau, chúng

thƣờng đứng ở trong câu tƣơng tự nhƣ đứng biệt lập một mình. Quan hệ ngữ

pháp và ý nghĩa ngữ pháp của tiếng Việt đƣợc biểu thị chủ yếu bằng phƣơng

thức sử dụng hƣ từ và một vài phƣơng thức từ vựng khác đƣợc ngữ pháp hóa

với những mức độ khác nhau. Ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt cũng không

phải là trƣờng hợp ngoại lệ.

2.1. Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong

tiếng Việt

2.1.1. Phương thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng hư từ

“Hư từ là một lớp từ làm phương tiện biểu hiện các quan hệ ngữ pháp

– ngữ nghĩa khác nhau giữa các thực từ” [62: 7]. Hƣ từ không có ý nghĩa từ

vựng, nó chỉ có tác dụng gắn kết các đơn vị tham gia cấu tạo câu với các quan

hệ ngữ nghĩa – ngữ pháp khác nhau. Trong tiếng Việt, để thể hiện ý nghĩa ngữ

pháp công cụ, ngƣời ta thƣờng sử dụng các hƣ từ bằng, với, cùng, nhờ, nhờ

59

vào, qua, bởi, dựa vào, thông qua, …, trong đó, hƣ từ bằng đƣợc sử dụng với

tần suất cao nhất, là dấu hiệu hình thức đáng tin cậy nhất của ý nghĩa ngữ

pháp công cụ.

2.1.1.1. Hư từ “bằng”

Trong “Cách dùng hư từ tiếng Việt”, Hoàng Trọng Phiến đã liệt kê 10

trƣờng hợp sử dụng đối với hƣ từ bằng, ví dụ nhƣ: biểu hiện ý nghĩa chất liệu

trong danh ngữ; biểu hiện ý nghĩa phƣơng tiện của hành động, di chuyển; biểu

hiện ý nghĩa cách thức; biểu hiện ý nghĩa so sánh; ... [62: 25 - 28]. Tuy nhiên,

chúng tôi thấy cần phải làm rõ hơn, nổi bật hơn biểu hiện ý nghĩa công cụ của

hành động đối với hƣ từ bằng.

Xét các ví dụ sau:

- (52) Dế Choắt trả lời tôi bằng một giọng rất buồn rầu: ... [DMPLK: 5]

- (53) Thằng Dần lần thần đứng bên cạnh mẹ hau háu nhìn những tia

sữa bằng hai con mắt tiếc rẻ ngậm ngùi. [TĐ-NTT: 46]

- (54) Và tức khắc nó vặn vẹo mình và rít lên một tiếng ngắn và to;

đứa em tưởng anh đá hụt trả thù cho anh bằng một cái đá mạnh vào sườn

con vật. [NC: 20]

- (55) Con Tớp cũng lăn lộn theo đến gần, nhưng chân bị trói không

đi được vậy mà nó mặc kệ, nó cố lê bằng bụng để được đến gần chỗ la liếm

cho thỏa dục tình, rồi nó rít lên mấy tiếng đắc thắng! [NCH: 15]

- (56) Bằng một giọng cũng thản nhiên như thế, Samdeviatov trả lời

[BSZh: 219]

- (57) Ấy đó, đổi lại bao nhiêu điều thiện xưa kia ông trời cay nghiệt

nay đều trả bà bằng hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm chờ cực kỳ

khổ sở. [VTP: 24]

Trên bình diện nghĩa, hƣ từ bằng là một chỉ dấu đảm bảo cho ý nghĩa

công cụ đƣợc trọn vẹn khi diễn đạt đƣợc các yếu tố công cụ (một giọng rất

buồn rầu, hai con mắt tiếc rẻ ngậm ngùi, một cái đá mạnh vào sườn con vật,

60

bụng, giọng, hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm chờ cực kỳ khổ sở ),

chủ thể ( Dế Choắt, Thằng Dần, đứa em, Con Tớp, Hai Xuân, Samdeviatov,

ông trời) và hoạt động (trả lời, nhìn, trả thù, lê, trả lời, trả). Chủ thể hoạt

động ở đây có thể hiện hữu hoặc không hiện hữu trong cấu trúc câu chủ động,

câu bị động, cấu trúc câu vô nhân xƣng; có thể là một cá nhân cụ thể, một

thực thể trừu tƣợng hoặc một sự vật tĩnh, một khái niệm, một hành động.

Công cụ ở đây có thể là một sự vật cụ thể, có thể là một khái niệm trừu tƣợng,

có thể là một bộ phận cơ thể ngƣời; đƣợc thể hiện ra với tƣ cách là một danh

từ hoặc ngữ danh từ. Về mặt chức năng trong câu, các thành phần mang ý

nghĩa công cụ có thể ở các vị trí khác nhau và đƣợc hiện thực hóa thành các

thành phần ngữ pháp khác nhau nhƣ bổ ngữ, chủ ngữ, trạng ngữ. Thông

thƣờng, khi đóng vai trò là bổ ngữ trong câu, thành phần mang nghĩa công cụ

có vị trí tƣơng đối ổn định – vị trí sau vị từ nhƣ trong (51), (52), (53), (54),

(55), (57). Với vai trò là trạng ngữ, thành phần mang nghĩa công cụ có thể

đứng ở đầu câu nhƣ (56) hoặc cuối câu nhƣ (51), (52), (53), (57). Có thể nói

rằng, ý nghĩa ngữ pháp công cụ thể hiện qua việc sử dụng hƣ từ bằng là một

phƣơng thức đặc trƣng nhất về mặt hình thức, rõ nghĩa nhất về mặt nội dung

biểu hiện và cũng đƣợc sử dụng với tần số cao nhất. Ý nghĩa công cụ thể hiện

qua các hƣ tƣ khác có thể đƣợc kiểm định ngƣợc thông qua hƣ từ bằng.

2.1.1.2. Hư từ “qua, thông qua”

Xét các ví dụ sau:

- (58) Với chúng tôi, đại vương hay là cái gì thì cũng chẳng bận tâm, qua

câu chuyện tôi chỉ có nhận xét tính lão cũng hệt bọn đồ cóc đã dốt lại còn hay

khoe chữ, còn cái tính khoác lác của ếch thì một tấc đến trời, hơn Cóc nhiều.

[DMPLK: 37]

- (59) Khói đậm đà như vị mật, thấm qua lưỡi để pha vào với máu, lan đi

từng thớ thịt, làm da thịt đê mê. [NC: 96]

61

- (60) Thì ra ai muốn chiếm được cái gì, cũng phải qua một kỳ thi.

[NCH: 17]

- (61) Giọng lơi là của bác cai ... và nó vụt nhớ đến cô Viên, một hôm xưa

... cái cảnh nó đã nhìn trộm thấy qua cái “lỗ ống nhòm” của Lộc! [NC: 332]

- (62) Qua những lá thư từ Sibiri gửi về, Lara được biết khá rõ về

chồng. [BSZh: 95]

- (63) Cô thứ hai mặc áo sơ mi lụa đen, chắc chắn bị bệnh đau ngực,

và hầu như lúc nào cũng áp chiếc khăn tay vào miệng và mũi, nói và thở đều

qua chiếc khăn. [BSZh: 248]

- (64) Khối liên minh ấy giữa dân nghèo thành thị và nông thôn chỉ có

thể thực hiện được thông qua các Xô viết. [BSZh: 273]

- (65) Về chiến công và cái chết anh dũng của cô ấy, mình cũng chỉ

biết như tất cả mọi người, qua báo chí và lệnh của trung đoàn. [BSZh: 432]

Qua là “kết từ biểu thị sự vật, sự việc sắp nêu ra là môi giới, phương

tiện của hoạt động được nói đến” [60: 768], còn thông qua là “nhờ vào, dựa

vào làm trung gian để thực hiện một công việc nào đó, trong khi không thể

trực tiếp” [60: 919]. Cả qua và thông qua, xét về bản chất, đều là những thực

từ. Tuy nhiên, khi bị chuyển hóa thành hƣ từ, cả hai đều có điểm chung là

tham gia kiến tạo quan hệ ngữ pháp giữa vị từ với danh từ (hoặc danh ngữ),

tạo ra một quan hệ về ngữ nghĩa, cụ thể là nghĩa chỉ công cụ thực hiện một

hành động hoặc đảm bảo cho một hành động nào đó có thể hoàn thành, có thể

thực hiện đƣợc. Tuy mức độ sử dụng với ý nghĩa chỉ công cụ không đƣợc cao

nhƣng hƣ từ qua và thông qua cũng có những nghĩa biểu hiện, cách thức thể

hiện, vị trí trong câu, chức năng trong câu... tƣơng tự nhƣ hƣ từ bằng đã đƣợc

mô tả ở phần trên. Để kiểm tra tính chính xác trong cách thức sử dụng hƣ từ

qua và thông qua thể hiện ý nghĩa công cụ, chúng tôi sử dụng thủ pháp thay

thế trong ngôn ngữ học.

62

- (58’) Với chúng tôi, đại vương hay là cái gì thì cũng chẳng bận tâm, bằng

câu chuyện tôi chỉ có nhận xét tính lão cũng hệt bọn đồ cóc đã dốt lại còn hay khoe

chữ, còn cái tính khoác lác của ếch thì một tấc đến trời, hơn Cóc nhiều. (-)

- (59’) Khói đậm đà như vị mật, thấm bằng lưỡi để pha vào với máu, lan

đi từng thớ thịt, làm da thịt đê mê. (+)

- (60’) Thì ra ai muốn chiếm được cái gì, cũng phải bằng một kỳ thi. (-)

- (61’) Giọng lơi là của bác cai ... và nó vụt nhớ đến cô Viên, một hôm

xưa ... cái cảnh nó đã nhìn trộm thấy bằng cái “lỗ ống nhòm” của Lộc! (+)

- (62’) Bằng những lá thư từ Sibiri gửi về, Lara được biết khá rõ về

chồng. (+)

- (63’) Cô thứ hai mặc áo sơ mi lụa đen, chắc chắn bị bệnh đau ngực,

và hầu như lúc nào cũng áp chiếc khăn tay vào miệng và mũi, nói và thở đều

bằng chiếc khăn. (+)

- (64’) Khối liên minh ấy giữa dân nghèo thành thị và nông thôn chỉ

có thể thực hiện được bằng các Xô viết. (+)

- (65’) Về chiến công và cái chết anh dũng của cô ấy, mình cũng chỉ

biết như tất cả mọi người, bằng báo chí và lệnh của trung đoàn. (+)

Trong các bối cảnh khác nhau không phải lúc nào hƣ từ bằng cũng có

thể thay thế đƣợc cho hƣ từ qua và thông qua vì về mặt nội dung biểu đạt thì

ý nghĩa công cụ có thể bị mất ít, mất nhiều nhƣng về hình thức biểu đạt thì có

nhiều trƣờng hợp không thể thay thế cho nhau đƣợc nhƣ trong (58’) và (60’),

thậm chí (65’) cũng chỉ là tạm chấp nhận đƣợc. Tuy nhiên, nếu chúng ta sử

dụng hƣ từ nhờ (cũng là một trong những hƣ từ đƣợc dùng để chỉ ý nghĩa

công cụ trong tiếng Việt, đƣợc chúng tôi khảo sát phía dƣới) để thay thế trong

các trƣờng hợp này thì vẫn đảm bảo giữ đƣợc các nét nghĩa.

- (58’’) Với chúng tôi, đại vương hay là cái gì thì cũng chẳng bận

tâm, nhờ câu chuyện tôi chỉ có nhận xét tính lão cũng hệt bọn đồ cóc đã dốt

63

lại còn hay khoe chữ, còn cái tính khoác lác của ếch thì một tấc đến trời, hơn

Cóc nhiều. (+)

- (60’’) Thì ra ai muốn chiếm được cái gì, cũng phải nhờ một kỳ thi. (+)

- (65’’) Về chiến công và cái chết anh dũng của cô ấy, mình cũng chỉ

biết như tất cả mọi người, nhờ báo chí và lệnh của trung đoàn. (+)

Nhƣ vậy, trong nhiều trƣờng hợp nó qua và thông qua không hoàn

toàn đồng nhất và thay thế đƣợc bằng hƣ từ bằng, tuy nhiên nó cũng có những

nét nghĩa chỉ công cụ giống nhƣ một số hƣ từ chỉ công cụ khác trong tiếng

Việt nên có thể coi qua và thông qua là một phƣơng tiện chỉ dấu khác thể hiện

ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt.

2.1.1.3. Hư từ “với”

- (66) Chưa nghe hết câu tôi đã hếch răng, xì một hơi rõ dài rồi, với

điệu bộ khinh khỉnh, tôi mắng: ... [DMPLK: 6]

- (67) Buổi tối, vẫn được lên giàn mồng tơi, nhưng phải nằm trong

lồng không cho ai nghênh ngáo ngoài trời như mọi khi - dù là nghênh ngáo

với sợi chỉ buộc vào bẹn. [DMPLK: 17]

- (68) Nó cứ việc ăn cơm nhạt hoặc chan với cái thứ mắm tép mặn

hơn cá muối, mà cả nhà phải ăn quanh năm, suốt tháng. [NC: 181]

- (69) Thằng Cún tập tênh với cái gậy, mồm ngồm ngoàm mẩu bánh

Tây bố thí. [NCH: 93]

- (70) Phải, với thịt giang mà Mai làm được món ăn ngon, thì thuyền

quyên ấy mới sánh được vai anh hùng này. [NCH: 119]

- (71) Thoạt đầu, với hai bàn tay không, giữa trời băng giá, bọn mình

phải bẻ cành cây làm lều. [BSZh: 433]

- (72) Cái diện mạo hàng ngày, bình thường ấy của nàng với mái tóc

xõa, tay áo xắn cao và gấu váy vén lên, gần như có sức quyến rũ, lôi cuốn

khiến chàng còn nể sợ hơn cả khi giả sử chàng bắt gặp nàng chuẩn bị đi dự

64

vũ hội, với bộ áo dài hở cổ hở vai, với đôi giày cao gót khiến nàng cao lên

hơn, và với cái váy rộng lòe xòe quét đất. [BSZh: 349]

Hƣ từ với cũng đƣợc biến đổi từ thực từ. Nó “biểu thị điều sắp nêu ra

là điều kiện hay phương thức của hoạt động được nói đến” [60: 1089]. Hƣ từ

với “làm chức năng trạng ngữ chỉ phương thức, mức độ của hành động,

tương đương với bằng” [62: 287]. Trên thực tế, hƣ từ với thƣờng đƣợc dùng

với nghĩa liên hợp giữa hai chủ thể, sự vật, hiện tƣợng có quan hệ qua lại,

cùng hành động chung, tuy nhiên, ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt thể hiện

qua hƣ từ với cũng đƣợc sử dụng khá phổ biến nhƣ các ví dụ đã dẫn ở trên.

Dùng hƣ từ bằng thay thế kiểm định, chúng tôi thu đƣợc các kết quả là:

- (66’) Chưa nghe hết câu tôi đã hếch răng, xì một hơi rõ dài rồi,

bằng điệu bộ khinh khỉnh, tôi mắng: ... (+)

- (67’) Buổi tối, vẫn được lên giàn mồng tơi, nhưng phải nằm trong

lồng không cho ai nghênh ngáo ngoài trời như mọi khi - dù là nghênh ngáo

bằng sợi chỉ buộc vào bẹn. (-)

- (68’) Nó cứ việc ăn cơm nhạt hoặc chan bằng cái thứ mắm tép mặn

hơn cá muối, mà cả nhà phải ăn quanh năm, suốt tháng. (+)

- (69’) Thằng Cún tập tênh bằng cái gậy, mồm ngồm ngoàm mẩu

bánh Tây bố thí. (+)

- (70’) Phải, bằng thịt giang mà Mai làm được món ăn ngon, thì

thuyền quyên ấy mới sánh được vai anh hùng này. (-)

- (71’) Thoạt đầu, bằng hai bàn tay không, giữa trời băng giá, bọn

mình phải bẻ cành cây làm lều. (+)

- (72’) Cái diện mạo hàng ngày, bình thường ấy của nàng với mái tóc

xoã, tay áo xắn cao và gấu váy vén lên, gần như có sức quyến rũ, lôi cuốn

khiến chàng còn nể sợ hơn cả khi giả sử chàng bắt gặp nàng chuẩn bị đi dự

vũ hội, bằng bộ áo dài hở cổ hở vai, bằng đôi giày cao gót khiến nàng cao

lên hơn, và bằng cái váy rộng lòe xòe quét đất. (-)

65

Nhƣ vậy, trong nhiều trƣờng hợp, hƣ từ với và hƣ từ bằng có thể đƣợc

dùng để thay thế cho nhau trong việc thể hiện ý nghĩa công cụ nhƣ (66’),

(68’), (69’), (71’). Trong các trƣờng hợp còn lại, nếu thay thế hƣ từ với bằng

một số hƣ từ có nghĩa chỉ công cụ khác thì vẫn bảo toàn đƣợc ý nghĩa công cụ

hành động trong câu, ví dụ nhƣ:

- (67”) Buổi tối, vẫn được lên giàn mồng tơi, nhưng phải nằm trong

lồng không cho ai nghênh ngáo ngoài trời như mọi khi - dù là nghênh ngáo

trong sợi chỉ buộc vào bẹn.(+)

- (70”) Phải, nhờ thịt giang mà Mai làm được món ăn ngon, thì

thuyền quyên ấy mới sánh được vai anh hùng này. (+)

- (72”) Cái diện mạo hàng ngày, bình thường ấy của nàng với mái tóc

xoã, tay áo xắn cao và gấu váy vén lên, gần như có sức quyến rũ, lôi cuốn

khiến chàng còn nể sợ hơn cả khi giả sử chàng bắt gặp nàng chuẩn bị đi dự

vũ hội, trong bộ áo dài hở cổ hở vai, trên đôi giày cao gót khiến nàng cao lên

hơn, và bằng cái váy rộng lòe xòe quét đất. (+)

Thông qua thủ pháp thay thế, nghĩa trong câu đảm bảo không thay đổi

nên có thể kết luận rằng hƣ từ với cũng là một phƣơng tiện chỉ dấu thể hiện ý

nghĩa công cụ trong tiếng Việt.

2.1.1.4. Hư từ “nhờ (vào)”

- (73) Chỉ nói một cái nhờ nó mà Điền đọc nổi văn thơ, và nhờ văn

thơ mà hiểu được cái đẹp của gió, của giăng. [NC: 86]

- (74) Vì nhờ có đôi giầy cao gót, bà hãy còn đủ cả đằng trước lẫn

đằng sau. [NCH: 21]

- (75) Nhờ có quan đám ma thêm vẻ long trọng. [NCH: 157]

- (76) Cộng thêm dân làng huyện, báo mình nhờ cái tin vặt này, phải

tăng lên vài trăm độc giả. [VTP: 42]

- (77) ... thì thằng anh nhìn thấy cái bộ răng vàng nằm dưới gậm

giường nhờ ánh sáng đèn chiếu ra lóng lánh. [VTP: 71]

66

- (78) Nhờ sức che chở của chiếc nón rách, chị chỉ bước rảo một thôi

thì tới cổng. [TĐ-NTT: 25]

- (79) Nhờ có chậu nước lạnh của chị Dậu rửa mặt cho chồng và

chậu nước đái của bà con hàng xóm đổ vào miệng, xoa vào đầu, mặt anh

ta, máu lại xuôi xuống dần dần, cho nên anh ấy lại tỉnh. [TĐ: 78]

Hƣ từ nhờ (vào) biểu thị nghĩa công cụ mang tính chất là “nguyên

nhân dẫn đến những kết quả tốt đẹp, khả quan” [60: 701]. Hƣ từ nhờ (vào)

mang ý nghĩa chỉ nguyên nhân nhiều hơn là nghĩa chỉ công cụ, tuy nhiên,

trong tiếng Việt, ý nghĩa công cụ thể hiện qua hƣ từ nhờ (vào) vẫn đƣợc sử

dụng với tƣ cách là một phƣơng tiện ngữ pháp thể hiện một quan hệ về nghĩa

trong câu. Nhờ thƣờng đứng ở đầu phần câu chỉ nguyên nhân mang đến một

kết quả thuận lợi, may mắn. Nhờ còn có thể kết hợp với một số hƣ từ khác

nhƣ: nhờ có, nhờ bởi, nhờ do, nhờ ở, nhờ tại. Tiến hành kiểm định thay thế,

chúng tôi có:

- (73’) Chỉ nói một cái nhờ nó mà Điền đọc nổi văn thơ, và qua văn

thơ mà hiểu được cái đẹp của gió, của giăng. (+)

- (74’) Vì với đôi giầy cao gót, bà hãy còn đủ cả đằng trước lẫn đằng

sau. (+)

- (75’) Dựa vào quan đám ma thêm vẻ long trọng. (+)

- (76’) Cộng thêm dân làng huyện, báo mình với cái tin vặt này, phải

tăng lên vài trăm độc giả. (+)

- (77’) ... thì thằng anh nhìn thấy cái bộ răng vàng nằm dưới gậm

giường qua ánh sáng đèn chiếu ra lóng lánh. (+)

- (78’) Với sức che chở của chiếc nón rách, chị chỉ bước rảo một thôi

thì tới cổng. (+)

- (79’) Với chậu nước lạnh của chị Dậu rửa mặt cho chồng và chậu

nước đái của bà con hàng xóm đổ vào miệng, xoa vào đầu, mặt anh ta, máu

lại xuôi xuống dần dần, cho nên anh ấy lại tỉnh. (+)

67

Các cách diễn đạt trên có thể chấp nhận đƣợc trong tiếng Việt, vì vậy,

có thể kết luận rằng, hƣ từ nhờ (vào) có cách sử dụng và ý nghĩa tƣơng tự nhƣ

hƣ từ với, qua trong việc thể hiện ý nghĩa công cụ. Tất nhiên, không phải

trong trƣờng hợp nào các hƣ từ này cũng có thể thay thế đƣợc cho nhau,

nhƣng cũng có thể coi hƣ từ nhờ (vào) là một phƣơng tiện chỉ dấu thể hiện ý

nghĩa công cụ trong tiếng Việt.

2.1.1.5. Hư từ “dựa (vào, theo), căn cứ (vào, theo)”

- (80) Vợ ngụy binh, chị nào được chồng khéo xoay thì sống dựa vào

chồng, chị nào phải chồng vụng xoay thì vừa sống dựa vào chồng vừa sống

dựa vào các thứ Tây trắng, Tây đen hay ngụy binh không phải là chồng.

[NC: 766]

- (81) Anh nói chuyện đây là dựa vào khoa học chứ không nói hồ đồ,

vu vơ gì. [VTP: 80]

- (82) Một nửa tỉnh này phải sống dựa vào tôi. [BSZh: 223]

Ý nghĩa công cụ thông qua hƣ từ dựa vào mang tính chất là căn cứ, là

cơ sở, là chỗ dựa, là điểm tựa để thực hiện hay hoàn thành một hành động nào

đó. Nói cách khác, dựa vào có nghĩa là “nhờ vào ai hoặc nhờ vào cái gì để có

được sức mạnh, để hoạt động có hiệu lực” [60: 262]. Dựa vào cũng có xuất

phát điểm là một thực từ, đƣợc chuyển hóa thành hƣ từ. Ý nghĩa công cụ ở

đây thƣờng là một cá nhân hay tổ chức, một sức mạnh vô hình có khả năng

làm thay đổi trạng thái của một sự vật, sự việc hay hiện tƣợng trong thế giới

khách quan. Trong nhiều trƣờng hợp, hƣ từ dựa vào có thể đƣợc thay thế bằng

hƣ từ dựa theo hoặc căn cứ vào, căn cứ theo:

- (81”) Anh nói chuyện đây là căn cứ vào (căn cứ theo) khoa học chứ

không nói hồ đồ, vu vơ gì.

Sử dụng thủ pháp thay thế bằng cách sử dụng hƣ từ mang ý nghĩa

công cụ nhờ hoặc nhờ vào nhƣ đã chứng minh ở trên, chúng tôi thu đƣợc các

kết quả nhƣ sau:

68

- (80’) Vợ ngụy binh, chị nào được chồng khéo xoay thì sống nhờ vào

chồng, chị nào phải chồng vụng xoay thì vừa sống nhờ vào chồng vừa sống nhờ

vào các thứ Tây trắng, Tây đen hay ngụy binh không phải là chồng. (+)

- (81’) Anh nói chuyện đây là nhờ vào khoa học chứ không nói hồ đồ,

vu vơ gì. (+)

- (82’) Một nửa tỉnh này phải sống nhờ vào tôi. (+)

Nhƣ vậy, dựa vào, dựa theo, căn cứ vào, căn cứ theo cũng là những

phƣơng tiện chỉ dấu thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt.

2.1.1.6. Hư từ “bởi, vì”

- (83) Bởi có mưa, đất lầy nhuyễn ra, dễ đào bới, mới được cái ăn.

[DMPLK: 34]

- (84) Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo

cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười. [NC:26]

- (85) Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một tay “đàn bà”. [CP-

NC: 41]

- (86) Và sáng hôm sau, khi đồng hồ đánh năm giờ, người ta cũng giở

mắt ra bởi thói quen, nhưng không thèm dậy vội. [NC: 152]

- (87) ... hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến

bởi lòng tự ái. [NC: 407]

- (88) Điền biết gã nhận ra mình bởi cái mũ cà tàng và cái áo the

sờn, nên cứng cỏi nói bằng tiếng Pháp. [NC: 442]

- (89) Ai cũng như nấy, khuỷu tay gô vào chấn song bởi một sợi dây

thừng kếch xù. [TĐ-NTT: 38]

- (90) Hắn không chết vì dao, vì mác, hắn không chết rũ tù, hắn không

chết trên máy chém như những người tin quả báo thầm mong đợi. [NC: 258]

- (91) Toàn bộ phần trên ngôi nhà được bao quanh bởi các cột đỡ

hình phụ nữ trong thần thoại, to gấp rưỡi người thật. [BSZh: 252]

69

Bởi, vì là kết từ “biểu thị điều sắp nêu ra là người hoặc vật gây ra

trạng thái đã nói đến” [60: 83]. Ý nghĩa công cụ ở đây mang tính nguyên

nhân tạo nên hành động, sự việc. Ý nghĩa công cụ mờ hơn ý nghĩa nguyên

nhân, tuy nhiên, với các danh từ mưa, cái cười, một tay ―đàn bà‖, thói quen,

lòng tự ái, cái mũ cà tàng và cái áo the sờn, một sợi dây thừng kếch xù, dao,

mác, các cột đỡ hình phụ nữ trong thần thoại chúng ta không thể không kết

luận rằng, hƣ từ bởi là một trong những phƣơng tiện tạo lập ý nghĩa công cụ

trong tiếng Việt. Để kiểm chứng, chúng tôi vẫn tiếp tục sử dụng thủ pháp thay

thế với hƣ từ bằng, nhờ, qua:

- (83’) Nhờ có mưa, đất lầy nhuyễn ra, dễ đào bới, mới được cái ăn. (+)

- (84’) Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo

cụ hơn người cũng chỉ bằng cái cười. (+)

- (85’) Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bằng một tay “đàn bà”. (+)

- (86’) Và sáng hôm sau, khi đồng hồ đánh năm giờ, người ta cũng giở

mắt ra nhờ thói quen, nhưng không thèm dậy vội. (+)

- (87’) ... hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến

bằng lòng tự ái. (+)

- (88’) Điền biết gã nhận ra mình nhờ (qua) cái mũ cà tàng và cái áo

the sờn, nên cứng cỏi nói bằng tiếng Pháp. (+)

- (89’) Ai cũng như nấy, khuỷu tay gô vào chấn song bằng một sợi dây

thừng kếch xù. (+)

- (90’) Hắn không chết bằng dao, bằng mác, hắn không chết rũ tù,

hắn không chết trên máy chém như những người tin quả báo thầm mong đợi. (+)

- (91’) Toàn bộ phần trên ngôi nhà được bao quanh bằng các cột đỡ

hình phụ nữ trong thần thoại, to gấp rưỡi người thật. (+)

Sự thay thế đƣợc lẫn nhau giữa các hƣ từ bằng, nhờ, qua và bởi, vì

trong các tình huống trên, có vẻ nhƣ, chiếm tỉ lệ tƣơng đối lớn. Điều này là cơ

70

sở để có thể đƣa ra nhận định rằng hƣ từ bởi cũng là một phƣơng tiện ngữ

pháp quan trọng góp phần làm phong phú thêm cho phƣơng thức ngữ pháp sử

dụng hƣ từ để biểu đạt một ý nghĩa ngữ pháp trong tiếng Việt, ở đây là ý

nghĩa công cụ. Một điểm đáng quan tâm nữa là hƣ từ bởi, vì thƣờng đƣợc sử

dụng làm phƣơng tiện thể hiện ý nghĩa công cụ trong các kết cấu bị động, ít

khi dùng trong các kết cấu chủ động.

2.1.1.7. Hư từ “trên, trong”

- (92) Chuồn chuồn ớt rực rỡ trong bộ áo quần đỏ chót giữa ngày hè

chói lọi, đi đằng xa đã thấy. [DMPLK: 41]

- (93) Hắn không chết vì dao, vì mác, hắn không chết rũ tù, hắn không

chết trên máy chém như những người tin quả báo thầm mong đợi. [NC: 258]

- (94) Những bà áo màu sặc sỡ tung tảy trên những gót chân thoăn

thoắt, những tiếng nói như chim líu ríu ... phải, người ta vui vẻ lắm. [NC: 400]

- (95) Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. [NC: 407]

- (96) Con Pú mải mốt cầm dao đi chặt lá chuối về che lán. Em vẫn

địu trên lưng. [NC: 685]

- (97) Nay mai những cái họ mang nặng trên vai sẽ nổ tung. [NC: 743]

- (98) Lão cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu. [NC: 205]

Thông thƣờng, hƣ từ trên, trong mang ý nghĩa chỉ địa điểm hoặc

phƣơng hƣớng nhiều hơn. Tuy nhiên, khi trên, trong kết hợp với các danh từ

mang tính chất công cụ, đặc biệt là đối với các phƣơng tiện đi lại, phƣơng tiện

vận chuyển, phƣơng tiện nâng đỡ, phƣơng tiện mang xách vác thì ý nghĩa

công cụ hiện lên rất rõ. Chúng tôi thay hƣ từ bằng, qua, nhờ, với để kiểm định

và thu đƣợc các kết quả sau:

- (92’) Chuồn chuồn ớt rực rỡ với (nhờ) bộ áo quần đỏ chót giữa

ngày hè chói lọi, đi đằng xa đã thấy. (+)

71

- (93’) Hắn không chết vì dao, vì mác, hắn không chết rũ tù, hắn

không chết bằng máy chém như những người tin quả báo thầm mong đợi. (+)

- (94’) Những bà áo màu sặc sỡ tung tảy nhờ những gót chân thoăn

thoắt, những tiếng nói như chim líu ríu ... phải, người ta vui vẻ lắm. (+)

- (95’) Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác bằng (nhờ) đôi vai

mình. (+)

- (96’) Con Pú mải mốt cầm dao đi chặt lá chuối về che lán. Em vẫn

địu bằng lưng. (+)

- (97’) Nay mai những cái họ mang nặng bằng vai sẽ nổ tung. (+)

- (98’) Lão cho nó ăn cơm với một cái bát như một nhà giàu. (+)

Nhờ có lưng, bộ áo quần đỏ chót, máy chém, những gót chân thoăn

thoắt, đôi vai, lưng, vai, một cái bát mà các chủ thể hành động mới có thể

đội, chết, tung tảy, giúp, cõng, địu, mang, cho ăn đƣợc. Nên chúng tôi có thể

kết luận rằng, hƣ từ trên, trong cũng đƣợc coi là một phƣơng tiện thể hiện ý

nghĩa chỉ công cụ trong tiếng Việt.

Nhƣ vậy, thông qua các ví dụ trên, cùng với thủ pháp thay thế trong

ngôn ngữ học, chúng tôi thấy, một số hƣ từ đƣợc liệt kê có biểu thị ý nghĩa

chỉ công cụ, làm dấu cho các quan hệ ngữ pháp của các thực từ ở trong câu.

Tùy vào sự sắp xếp trật tự trƣớc sau theo bản chất hình tuyến của ngôn ngữ,

tùy thuộc vào từng vai trò thông báo trong từng hoàn cảnh giao tiếp mà các

ngữ đoạn chỉ công cụ có thể đƣợc ngữ pháp hóa thành các thành phần ngữ

pháp khác nhau trong câu nhƣ chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ. Xét về mặt nghĩa

học, các hƣ từ này giúp làm nổi rõ nghĩa công cụ trong câu, phân biệt với các

cấu trúc câu khác về ý nghĩa ngữ pháp công cụ và các quan hệ ngữ pháp.

Trong mối quan hệ với vị từ, công cụ có thể là những thực thể đƣợc chủ thể

sử dụng để thực hiện một hành động nào đó; công cụ có thể là chính con

ngƣời hoặc các bộ phận cơ thể ngƣời; công cụ có thể là những sản phẩm tinh

72

thần do chính con ngƣời tạo ra; công cụ có thể là những khái niệm phi vật thể

mang tính trừu tƣợng, là sản phẩm của các hoạt động, tính cách, phẩm chất

của chính bản thân con ngƣời trong hiện thực khách quan.

Chúng ta cũng có thể bắt gặp phƣơng thức sử dụng hƣ từ để thể hiện ý

nghĩa công cụ trong tiếng Nga. Tƣơng tự nhƣ tiếng Việt, trong tiếng Nga, các

hƣ từ (giới từ) thể hiện ý nghĩa công cụ không chỉ xuất hiện ở cách công cụ

mà còn xuất hiện ở tất cả các cách ngữ pháp còn lại. Điều này sẽ đƣợc chúng

tôi minh chứng rõ hơn ở phần sau chƣơng này. Qua đây, chúng tôi muốn

khẳng định một điều rằng, mặc dù tiếng Việt và tiếng Nga là hai ngôn ngữ ở

hai loại hình khác nhau, nhƣng đều có điểm chung là dùng các hƣ từ để thể

hiện ý nghĩa công cụ, nghĩa của các hƣ từ cũng khá giống nhau. Đây là điểm

thuận lợi giúp cho ngƣời học và nghiên cứu hai ngôn ngữ Việt - Nga sử dụng

dễ dàng hơn trong việc thực hành giao tiếp hay trong công tác phiên biên dịch

hai ngôn ngữ này.

2.1.2. Các phương thức thể hiện ý nghĩa công cụ không bằng hư từ

2.1.2.1. Sử dụng kết cấu có các vị từ “dùng / lấy / ...”

Một trong những đặc điểm bản chất của tín hiệu ngôn ngữ là tính hình

tuyến, nghĩa là các tín hiệu ngôn ngữ không thể đồng thời xuất hiện, mà phải

lần lượt kế tiếp nhau trong chuỗi lời nói [10: 87]. Điều này có nghĩa là: trật tự

sắp xếp các tín hiệu cũng có vai trò là một phƣơng tiện biểu hiện, và để biểu

hiện ý nghĩa công cụ, trật tự sắp xếp các từ trong câu cũng đƣợc sử dụng với

tƣ cách là một phƣơng thức ngữ pháp. Trong tiếng Việt, khi thể hiện ý nghĩa

công cụ mà thiếu vắng các hƣ từ nhƣ đã liệt kê ở phần trên, ngƣời ta còn sử

dụng một phƣơng thức khác nữa, đó là sử dụng một số thực từ kết hợp với

việc sắp xếp trật tự trƣớc sau một cách chặt chẽ giữa các thành tố trong cụm

từ đó. Trong số các kết cấu đó thì dùng / lấy + công cụ + hành động đã đƣợc

một số nhà Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu.

73

Nguyễn Thị Quy trong Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của

nó cho rằng kết cấu trên khá thông dụng trong tiếng Việt và các ngôn ngữ đơn

lập mà ít xuất hiện trong các ngôn ngữ châu Âu. Thậm chí, để nâng cao vai

trò của kết cấu này, có nhiều ngƣời còn kết luận rằng, cách biểu hiện vai

nghĩa công cụ bằng bổ ngữ với giới từ bằng, với ... là một hiện tượng ngữ

pháp mới có trong tiếng Việt từ phần tư đầu thế kỷ XX, có lẽ do ảnh hưởng

của tiếng Pháp, chứ trước kia vai nghĩa này chỉ được biểu hiện bằng kết cấu

dùng / lấy + công cụ + hành động. [66: 182]. Kết luận trên không hoàn toàn

chính xác vì trong các ngôn ngữ châu Âu, ví dụ nhƣ tiếng Nga và tiếng Anh

vẫn có những kết cấu giống nhƣ trên và đƣợc sử dụng phổ biến:

Tiếng Nga: пользоваться чем, чтобы делать что

- (99) Пользуюсь мотоциклом, чтобы переводить своего сына в

школу. (Tôi sử dụng xe máy để đưa cậu con trai đến trường.)

- (100) Пользуюсь мобильным телефоном, чтобы скачать email.

(Tôi sử dụng điện thoại di động để tải thư.)

Tiếng Anh: to use sth to do sth

- (101) I use the car to take my son to school. (Tôi sử dụng xe máy để

đưa cậu con trai đến trường.)

- (102) I use my phone to access my mail box. (Tôi sử dụng điện thoại

di động để tải thư.)

Quay trở lại với kết cấu tiếng Việt, vì có tham thể phƣơng tiện nên

Nguyễn Thị Quy đã thừa nhận dùng, lấy là những động từ đã được hư hóa

dùng để dẫn nhập vai nghĩa phương tiện [3: 26]. Quan điểm này vấp phải sự

phản đối của Nguyễn Văn Lộc và Lê Thị Lan Anh, khi cho rằng, nên coi

dùng, lấy vẫn là các vị từ tác động, còn thực thể xuất hiện ngay sau nó là đối

thể. [3: 26]. Trƣớc đó, kết cấu này đã từng đƣợc Trƣơng Vĩnh Ký đề cập đến

trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (Grammarie de la langue annamite) xuất bản

74

năm 1883, trang 76 khi ông đƣa thêm ví dụ để kiến giải về công cụ cách trong

tiếng Việt: dùng dây mà cột, lấy dây mà cột. Điểm chung của các nhà Việt

ngữ học này là phân tích kết cấu trên dƣới luận điểm của ngữ pháp chức năng

khi bàn luận về vấn đề vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt. Xét trên bình diện

nghĩa, các kết cấu này không khác gì kết cấu dùng bổ ngữ chỉ công cụ với các

hƣ từ nhƣ đã liệt kê ở phần trên. Tuy nhiên, nếu xét ý nghĩa chung của cả câu

với tất cả các bình diện của nó với tính chất là một hành động giao tiếp thì

trong những ngữ đoạn kiểu nhƣ dùng dao thái thịt, lấy ngực đỡ bóng, ...

chúng ta có thể cho rằng ở đây có một hành động duy nhất, hoặc cũng có thể

cho rằng có hai hành động nhƣng cùng chung một tác dụng. Nhƣ vậy, nghĩa

tác dụng sẽ mang tính trung tâm, nghĩa công cụ chỉ mang tính chất ngoại vi.

Nó khác với kiểu kết cấu dùng dao để thái thịt, lấy ngực để đỡ bóng (tương

đương với các ví dụ 45‘, 46‘, 47‘, 48‘, 49‘, 50‘) – những kết cấu có một hành

động kèm theo một mục đích, tức là một kết cấu chính phụ.

Bên cạnh đó, tác giả Lâm Quang Đông nghiên cứu vị từ dùng / lấy

dƣới góc độ của kết cấu vị từ chuỗi (Serial Verb Construction, viết tắt là

SVC). Tác giả cho rằng, trong kết cấu mô hình cấu trúc nghĩa biểu hiện của

câu, vị từ dùng / lấy đóng vai trò chủ đạo, chi phối các vị từ khác vì có chung

tham tố, luôn xuất hiện đầu tiên sát với chủ ngữ nhất, chịu gánh nặng ngữ

pháp lớn nhất và có tác dụng làm tăng ngữ trị của vị từ [18: 2]. Đây cũng là

quan điểm đã đƣợc Nguyễn Tài Cẩn (2004), Nguyễn Kim Thản (1997) và

Diệp Quang Ban (2005) đề cập đến. Hai vị từ này là những ngoại động từ,

luôn đòi hỏi một tham thể công cụ để bổ nghĩa, luôn chi phối các vị từ đi sau

nó trong chuỗi vị từ mà vị từ đi sau đảm nhiệm vai công cụ. Tham thể công

cụ trong kết cấu này cũng có thể kết hợp thêm tham thể thứ hai (tân ngữ thứ

hai), chẳng hạn:

- (103) Anh dùng giấy chung viết thư riêng, ăn bớt của công, không

liêm khiết ... anh em nghĩ thế nào, nói tất, không nể nang, che đậy. [NC: 781]

75

Đó là những nghiên cứu dựa trên những luận điểm về vai nghĩa và

chức năng của vai nghĩa trong câu trên bình diện ngữ pháp chức năng hệ

thống, còn trong luận án này, chúng tôi nghiên cứu kết cấu trên với tƣ cách là

một hình thức ngữ pháp để chỉ dấu về một loại ý nghĩa ngữ pháp, đó là ý

nghĩa công cụ. Xét các ví dụ sau:

- (104) Nghĩ vậy, nhưng cô cứ đi. Không phải đi cho nó thỏa dục

vọng, mà là để mắng nó là đồ xỏ lá, đồ khốn nạn, miệng nói kính phục người

Việt Nam, nhưng chính là khinh miệt người Việt Nam, dùng tiền, dùng thủ

đoạn cám dỗ cô, lừa đảo cô, làm hại đời cô. [NCH: 178]

- (105) Cô mắng nó thế thật, mà còn dùng nhiều lời đáo để hơn nữa

chửi rủa nó, đặng trút hết nỗi căm thù của cô đối với con quỷ dâm dục ấy.

[NCH: 178]

- (106) Người ta chỉ lợi dụng sự rời rạc bắt nạt anh em mình. [BĐC-

NCH: 210]

- (107) Anh lấy cái thừng làm một cái tròng chắc chắn, dùng hết sức

tàn còn lại trèo lên ghế, hai chân khẳng khiu run lẩy bẩy. [NC: 14]

- (108) Ăn xong, tôi lấy giẻ lau sạch đi, giải một tờ nhật trình lên làm

bàn viết. [NC: 17]

- (109) Con Pú mải mốt cầm dao đi chặt lá chuối về che lán. Em vẫn

địu ở trên lưng. [NC: 685]

- (110) Ai cũng đem tiền đến nhờ đẻ, đến nỗi không lúc nào được

nghỉ cả. [NCH: 200]

- (111) ... rồi mới chống tay vào đầu gối đứng lên, sau khi đã nhìn cái

mẹt của bà hàng với vẻ luyến tiếc ... [NC: 172]

- (112) Họ lại xách ống, dao và que nứa, hì hục đi đúc dế, mải tìm

cuộc chơi khác. [DMPLK: 17]

- (113) Họ xiên dao xiên nứa xuống chặn lối sau lưng tôi. [DMPLK: 10]

76

- (114) Bọn trẻ đổ nước định lùa tôi ra. [DMPLK: 9]

Trong các ví dụ trên, ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện bằng phƣơng tiện

zero, tức là vắng mặt các hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ. Tuy nhiên, kết cấu

có dùng, lấy, sử dụng, lợi dụng, đem, xách, xiên, cầm, chống, đổ, giải với bổ

ngữ (mang ý nghĩa công cụ) đặt trƣớc một vị từ khác (vị từ hành động) là một

kết cấu thƣờng xuyên đƣợc sử dụng trong tiếng Việt để thể hiện ý nghĩa công

cụ vì nó đảm bảo có mặt cả ba yếu tố là công cụ hành động, chủ thể hành

động và hành động. Có thể khái quát hóa đƣợc nhƣ sau:

dùng (A) Chủ thể + + công cụ + hành động lấy ...

Bảng 2.1: Kết cấu chỉ công cụ của hành động

Chúng tôi có thể kết luận và khái quát hóa đƣợc nhƣ trên là vì kết cấu

này thiếu vắng (không có mặt) một nhân tố: hƣ từ để. Nếu trong kết cấu trên

xuất hiện hƣ từ để, nghĩa là trở thành kết cấu:

dùng

(B) Chủ thể + lấy + công cụ + để + hành động

...

Bảng 2.2: Kết cấu chỉ mục đích của hành động

thì (B) sẽ mang ý nghĩa mục đích nhiều hơn là ý nghĩa công cụ. Để

chứng minh cho nhận định trên, chúng tôi sử dụng thủ pháp cải biến, thủ pháp

lƣợc và thủ pháp chêm trong ngôn ngữ học để kiểm định các ví dụ trên: đảo vị

từ hành động lên trƣớc công cụ, bỏ các động từ dùng / lấy / sử dụng / lợi dụng

/ đem / mang / xách / cầm ..., đồng thời thêm hƣ từ bằng vào sau các ngữ vị từ

hành động, tức là:

(A’) Chủ thể + hành động + bằng + công cụ

Bảng 2.3: Kết cấu kiểm định công cụ hành động

77

Trƣờng hợp (A’) thay thế cho (A), chúng tôi có các kết quả sau:

- (104’) ... nhưng chính là khinh miệt người Việt Nam, cám dỗ cô, lừa

đảo cô, làm hại đời cô bằng tiền, bằng thủ đoạn.(+)

- (105’) Cô mắng nó thế thật, mà còn chửi rủa nó bằng nhiều lời đáo

để hơn nữa, đặng trút hết nỗi căm thù của cô đối với con quỷ dâm dục ấy. (+)

- (106’) Người ta chỉ bắt nạt anh em mình bằng sự rời rạc. (+)

- (107’) Anh làm một cái tròng chắc chắn bằng thừng, trèo lên ghế

bằng sức tàn còn lại, hai chân khẳng khiu run lẩy bẩy. (+)

- (108’) Ăn xong, tôi lau sạch đi bằng giẻ, làm bàn viết bằng một tờ

nhật trình. (+)

- (109’) Con Pú mải mốt đi chặt lá chuối bằng dao về che lán. Em

vẫn địu ở trên lưng. (+)

- (110’) Ai cũng đến nhờ đẻ bằng tiền, đến nỗi không lúc nào được

nghỉ cả. (+)

- (111’) ... rồi mới chống vào đầu gối bằng tay đứng lên, sau khi đã

nhìn cái mẹt của bà hàng với vẻ luyến tiếc ... (+)

- (112’) Họ lại hì hục đi đúc dế bằng ống, dao và que nứa, mải tìm

cuộc chơi khác. (+)

- (113’) Họ chặn lối sau lưng tôi bằng dao bằng nứa. (+)

- (114’) Bọn trẻ định lùa tôi ra bằng nước. (+)

Trƣờng hợp (A’) thay thế cho (B), chúng tôi có các kết quả sau:

- (104”) ... nhưng chính là khinh miệt người Việt Nam, cám dỗ cô, lừa

đảo cô, làm hại đời cô bằng để tiền, bằng để thủ đoạn. (-)

- (105”) Cô mắng nó thế thật, mà còn chửi rủa nó bằng để nhiều lời

đáo để hơn nữa, đặng trút hết nỗi căm thù của cô đối với con quỷ dâm dục

ấy. (-)

- (106”) Người ta chỉ bắt nạt anh em mình bằng để sự rời rạc. (-)

78

- (107”) Anh làm một cái tròng chắc chắn bằng để thừng, trèo lên

ghế bằng để sức tàn còn lại, hai chân khẳng khiu run lẩy bẩy. (-)

- (108”) Ăn xong, tôi lau sạch đi bằng để giẻ, làm bàn viết bằng để

một tờ nhật trình. (-)

- (109”) Con Pú mải mốt đi chặt lá chuối bằng để dao về che lán. Em

vẫn địu ở trên lưng. (-)

- (110”) Ai cũng đến nhờ đẻ bằng để tiền, đến nỗi không lúc nào được

nghỉ cả. (-)

- (111”) ... rồi mới chống vào đầu gối bằng để tay đứng lên, sau khi

đã nhìn cái mẹt của bà hàng với vẻ luyến tiếc ... (-)

- (112”) Họ lại hì hục đi đúc dế bằng để ống, dao và que nứa, mải

tìm cuộc chơi khác. (-)

- (113”) Họ chặn lối sau lưng tôi bằng để dao bằng nứa. (-)

- (114”) Bọn trẻ định lùa tôi ra bằng để nước. (-)

(A’) hoàn toàn có thể thay thế đƣợc cho (A), trong khi (A’) là kết cấu

mang ý nghĩa chỉ công cụ nên (A) cũng là kết cấu mang ý nghĩa chỉ công cụ.

(A’) không thay thế đƣợc cho (B) vì không thể tồn tại song song hai

hƣ từ bằng và để trong cùng một đơn vị ngôn ngữ cho dù bằng đứng trƣớc

hoặc đứng sau để, nghĩa là không thể tồn tại cùng một lúc hai ý nghĩa công cụ

và ý nghĩa mục đích trong một đơn vị ngôn ngữ. Tất cả các ví dụ từ (113”)

đến (123”) hoặc chỉ có ý nghĩa công cụ hoặc chỉ có ý nghĩa mục đích.

Trong tiếng Việt, kết cấu (A) đƣợc áp dụng khá phổ biến, trật tự trƣớc

sau giữa các thành tố trong kết cấu này khá chặt chẽ. Chỉ cần thay đổi vị trí

của một số thành tố thì (A) hoặc sẽ trở thành một kết cấu mang ý nghĩa khác

hoặc sẽ trở thành một kết cấu vô nghĩa. Các động từ tƣơng tự nhƣ dùng / lấy /

sử dụng / lợi dụng / mang / đem / cầm / xách ... trong tiếng Việt rất ít. Với một

kết cấu chặt chẽ về trật tự tuyến tính nhƣ (A), chúng tôi có thể kết luận rằng,

79

trong tiếng Việt, trật tự từ cũng là một phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa

công cụ.

Ngoài ra, trong cuốn Các vai nghĩa trong câu trần thuật tiếng Việt và

tiếng Anh của Tô Minh Thanh (từ trang 73 – 75) cũng đƣa ra các mô hình

tƣơng đối chặt chẽ về vai nghĩa công cụ (phƣơng tiện) trong tiếng Việt. Thành

phần mang ý nghĩa công cụ thƣờng đƣợc đặt ở đầu câu theo các khung tham

chiếu mà tác giả đƣa ra. Chúng tôi xin đƣợc trích dẫn các mô hình này với

tính chất làm ví dụ cho phƣơng thức trật tự từ mà không tiến hành phân tích

vì các khung tham chiếu này liên quan đến vấn đề vai nghĩa (mặt nội dung)

nhiều hơn là vấn đề hình thức tổ chức ngôn ngữ. Chúng tôi chỉ muốn qua đây

để khẳng định thêm rằng, dù xét ở góc độ nội dung hay hình thức, theo quan

điểm ngữ pháp truyền thống hay ngữ pháp chức năng hệ thống, thì việc thay

đổi vị trí của các từ hay các thành phần trong câu tiếng Việt đều có thể làm

thay đổi nghĩa của cả câu hoặc cả phát ngôn, nên phƣơng thức trật tự từ cũng

đƣợc coi là phƣơng thức ngữ pháp phổ biến để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp

trong tiếng Việt, trong đó có ý nghĩa công cụ.

a. Công cụ / phương tiện (+ thì) + quá trình vật chất + đối thể :

tham tố + chu cảnh tuỳ chọn

Ví dụ:

- Con dao này thì chỉ thái thịt thôi, con dao kia mới chặt xương.

- Chìa khóa ấy thì không mở được cửa sau đâu.

b. công cụ / phương tiện (+ thì) + đối thể: tham tố + quá trình vật

chất + chu cảnh bắt buộc + chu cảnh tuỳ chọn

Ví dụ:

- Dao thế kia thì xương nào cũng chặt được cả.

- Chìa khóa ấy thì két nào mà chẳng mở được.

80

c. công cụ / phương tiện + được / bị + quá trình vật chất + chu cảnh

bắt buộc chỉ mục đích + chu cảnh tuỳ chọn

Ví dụ:

- Con dao kia chỉ được dùng để mà thái thịt thôi.

- Anh bị lợi dụng chỉ để làm một thứ tay sai mà thôi.

d. công cụ / phương tiện (+ thì) + chu cảnh bắt buộc chỉ mục đích +

chu cảnh tuỳ chọn

Ví dụ:

- Con dao này thì để mà chặt, con dao kia thì chỉ để thái thôi.

- Anh thì chỉ để làm một thứ tay sai mà thôi.

e. công cụ / phương tiện làm khung đề (+ thì) + quá trình bất kỳ +

chu cảnh tuỳ chọn

Ví dụ:

- Bằng tay không thì làm thế nào được.

- Với số tiền đó thì họ không thể mua nhà nổi.

Trong các ngôn ngữ biến hình nhƣ tiếng Nga, việc xác định vị từ chủ

đạo, chi phối trong kết cấu đa động từ tƣơng đối dễ dàng qua hình thái đƣợc

chia hay không đƣợc chia của chúng; vị từ bị hƣ hóa hay ngữ pháp hóa tƣơng

đối khó xác định nên trật tự tuyến tính trƣớc sau của các vị từ và tham thể

không quá chặt chẽ, không thể khái quát hóa thành một phƣơng thức ngữ

pháp để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp, trong đó có ý nghĩa công cụ. Đây là điểm

khác biệt lớn giữa hai ngôn ngữ Việt - Nga ở trên nhiều phƣơng diện, trong

đó có vấn đề về phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ.

2.1.2.2. Tiền giả định về “công cụ” của từ

Đỗ Hữu Châu cho rằng: Tiền giả định là những hiểu biết được xem là

bất tất phải bàn cãi, bởi đã được các bên giao tiếp mặc nhiên thừa nhận và

dựa vào chúng để tạo nên ý nghĩa tường minh trong phát ngôn của mình [10:

81

325]. Ý nghĩa công cụ là một nét nghĩa đặc hữu trong cấu trúc nghĩa biểu

niệm của rất nhiều thực từ, là nét nghĩa xuất hiện do chức năng của từ quy

định điều kiện sử dụng từ đƣợc hiện thực hóa và trở thành tiền giả định từ

vựng của phát ngôn. Vì nghĩa công cụ là sự phản ánh phạm trù công cụ trong

hiện thực khách quan cho nên có thể lấy từ hiện thực khách quan để giải thích

những hiện tƣợng có liên quan đến nghĩa công cụ trong ngôn ngữ. V.A.

Yamsanova khẳng định rằng “Các hoạt động thực tế giữa chủ thể và đối thể

không thể thiếu một phƣơng tiện” (Реальные деятельностные отношения

между субъектом и объектом невозможны без средства) [152: 167].

Điều đó có nghĩa là bất kì một hành động nào cũng đều đƣợc thực hiện thông

qua một công cụ nào đó. Nếu tƣ duy theo cách này thì chúng tôi có thể ngầm

hiểu rằng, trong bất kì một tình huống hành động nào cũng đều có sự tham gia

của một công cụ để giúp thực hiện hành động đó. Ngay cả trong ví dụ sau,

công cụ không đƣợc thể hiện bằng các phƣơng tiện ngôn ngữ đặc trƣng:

- (115) Tôi đã nói dối Nga rằng tôi phải về Sài Gòn có việc cần. [NC: 19]

- (116) Ngẫm ra thì tôi chỉ nói lấy sướng miệng thôi. [DMPLK: 5]

- (117) Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn

chửi. [CP-NC: 3]

- (118) Cả nó về được ăn no đủ - vì là người kiếm ra tiền - anh nó

chẳng phải tay vừa, nếu để thiếu cơm thì nó sẽ thấy ngay anh nó mắng bố,

gắt mẹ, chửi nồi, chửi rê, chửi đôi guốc đang đi mà đứt quai, chửi xó nhà

lắm muỗi vo vo ... [VTP: 4]

- (119) Bà trùm ghé miệng vào tai anh nói thầm. Mùi quết trầu lại rõ

hơn tiếng nói. Song, Pha cũng hiểu là bà muốn dặn gì rồi. [BĐC-NCH: 10]

Hành động “nói, mắng, chửi, dặn, gắt” ngầm hiểu có sự sử dụng các

công cụ khác nhau, đó là giọng nói (theo nghĩa cơ học – đó là hệ thống cấu

âm), âm thanh (hiểu theo nghĩa của từ đó là tai), ngôn ngữ nhƣ là mã – những

82

từ, những câu cụ thể. Ngoài ra, trong thời đại công nghệ hiện nay, các công cụ

để thực hiện hành động nói còn có thể là các phƣơng tiện kĩ thuật khác nhƣ

nói qua điện thoại hay “chat” qua internet. Tƣơng tự, hành động “vo vo, quết

trầu” sẽ không thể thực hiện đƣợc nếu không nhờ có một phƣơng tiện là

“cánh, dụng cụ quết trầu”.

Cũng theo quan điểm của V.A. Yamsanova “Phương tiện được hiểu

rất rộng, đó là tất cả những gì mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành động

(các vật thể, trong đó bao gồm cả những sự vật, hành động, trạng thái, đặc

tính, lực lượng thiên nhiên, vật chất, chất)” (Средство понимается …

широко, как все то, посредством чего субъект осуществляет

соотнесенное с целью действие (предметы, в том числе одушевленные,

действия, состояния, свойства, природные силы, материал, вещество))

[150]. Tính công cụ đƣợc hiểu rất rộng vì V.A. Yamsanova đã phân loại

phƣơng tiện thành các nhóm lớn, đƣợc sử dụng trong ngôn ngữ để thực hiện

các quan hệ công cụ.

Nhƣng nghĩa công cụ không phải lúc nào cũng đƣợc biểu đạt một cách

rõ ràng trong mọi ngôn ngữ, nghĩa công cụ có thể bị ẩn nhƣ là những thành

phần phân tách từ những nghĩa từ vựng của chủ thể và vị thể. Theo quan điểm

của V.A. Yamsanova, không phải bất kì tình huống nào trong thực tế cũng

xuất hiện công cụ, tình huống có xuất hiện công cụ trong ngôn ngữ có thể có

hoặc không nhƣng quan trọng là công cụ nào đƣợc sử dụng để thực hiện hành

động này hay hành động kia. Có thể hiểu tình huống có sự tham gia của công

cụ là tình huống đƣợc tạo nên một cách riêng biệt khi biểu đạt thông tin về

phƣơng tiện hoàn thành hành động và có nghĩa trong giao tiếp.

Chẳng hạn, ngƣời ta thƣờng nhận thấy rằng, thành phần mang ý nghĩa

công cụ thƣờng là những từ chỉ vật vô sinh; thành phần mang ý nghĩa chủ thể

sử dụng công cụ thƣờng là các từ chỉ vật hữu sinh. Trong hiện thực khách

83

quan tồn tại một dạng hoạt động bắt buộc phải kết hợp với thành phần chỉ

công cụ (dùng, lấy, sử dụng, cầm, đem, xách, mang, vác …), một dạng hoạt

động không thể kết hợp với thành phần chỉ công cụ (các động từ chỉ trạng

thái, cảm xúc: khóc, cười, buồn, vui, yêu, ghét, giận, thương, …), một dạng

hoạt động không cần kết hợp với thành phần chỉ công cụ nhƣng mặc nhiên

trong tƣ duy của ngƣời sử dụng ngôn ngữ đó đều có thể ngầm hiểu có yếu tố

chỉ công cụ trong đó, hay nói cách khác, đó là các động từ luôn chứa nét

nghĩa tiền giả định chỉ công cụ (cưa, đục, đẽo, thái, băm, chặt, viết, bào, ủi,

là,…). Trong tiếng Việt, tiếng Nga hay trong nhiều ngôn ngữ khác, nhóm

động từ này tƣơng đối lớn, thƣờng chỉ các hoạt động trong sinh hoạt hàng

ngày và trong lao động sản xuất của con ngƣời và động vật. Công cụ tiềm ẩn

ở đây tồn tại ở hai dạng: công cụ có thể là một sự vật, một dụng cụ (theo đúng

nghĩa) thực hiện một hành động nào đó nhƣ quấn (bằng khăn), đè (bằng đá),

cưa (bằng cưa), cắt (bằng kéo), thái (bằng dao), băm (bằng dao), chặt (bằng

rìu), viết (bằng bút), …; công cụ có thể là một bộ phận cơ thể ngƣời hoặc con

vật thực hiện hành động nhƣ nhìn (bằng mắt), nghe (bằng tai), ngửi (bằng

mũi), cầm (bằng tay), nắm (bằng tay), dìu (bằng tay), dắt (bằng tay), đá

(bằng chân), … Trong hiện thực khách quan, con ngƣời thƣờng quấn cái gì đó

bằng khăn hoặc một vật khác có đặc tính mềm và dài; đè cái gì đó bằng một

vật thể cứng và nặng; nhìn bằng mắt, nghe bằng tai, ngửi bằng mũi, … Hiện

thực khách quan phản ánh vào ngôn ngữ tuỳ luôn thuộc vào nhận thức, tƣ

duy, văn hóa, thói quen, truyền thống, phong tục,… của ngƣời bản ngữ. Mối

quan hệ giữa vật thể / bộ phận cơ thể với hoạt động trong tƣ duy ngôn ngữ

của con ngƣời nói chung luôn có điểm chung. Do vậy, trong câu, dù ở vị trí

nào, các vị từ mang nét nghĩa chỉ công cụ có thể cần hoặc không cần đƣợc đề

cập nhƣng mặc định ngƣời nghe đều hiểu loại công cụ đó là gì, vai trò và

chức năng của nó là gì theo nghĩa của vị từ.

84

Nguyễn Thị Quy khi phân loại các vị từ hành động tiếng Việt, đã xếp

nhóm từ vựng này là các vị từ [+tác động], có đặc trƣng riêng về nghĩa và /

hoặc về thái độ ngữ pháp. Những vị từ này luôn tiền giả định đối tƣợng bị tác

động bởi chủ thể thông qua một công cụ nào đó, trong đó, có cả những trƣờng

hợp công cụ tác động đó là một phần (một bộ phận) của chủ thể tác động. Tuy

nhiên, những vị từ bao hàm cả công cụ trong nghĩa của nó có những điều kiện

hạn định cách dùng với những bổ ngữ chỉ công cụ. Tác giả đã đƣa ra các ví dụ

nhƣ sau để minh chứng:

- (120) đá bóng bằng bàn chân

- (121) đá bóng bằng tay

- (122) đá bóng bằng mu bàn chân

- (123) đá bóng bằng đầu gối

- (124) cƣa gỗ bằng một cái cƣa

- (125) cƣa gỗ bằng một cái cƣa cùn

- (126) cƣa gỗ bằng dao nhíp

- (127) dùng chân tát vào mặt nó

- (128) tát vào mặt nó bằng bàn tay

- (129) tát vào mặt nó bằng bàn tay trái

- (130) giơ tay tát vào mặt nó

[Dẫn theo 66: 116]

Ngữ đoạn (120), (124), (128) phạm lỗi “trùng ngữ”; ngữ đoạn (121),

(127) phạm lỗi “mâu thuẫn”; ngữ đoạn (122), (125), (129) tránh đƣợc lỗi

“trùng ngữ” nhờ chi tiết “mu”, “cùn”, “bàn tay trái”; ngữ đoạn (123) đáng ngờ

vì đối với những ngƣời nghe quan niệm rằng hành động “đá” phải đƣợc thực

hiện bằng bàn chân, chứ không phải bằng bất kỳ bộ phận nào thuộc về chân;

ngữ đoạn (130) đƣợc mọi ngƣời chấp nhận vì cảm thụ nhƣ gồm hai hành động

liên đới (kiểu nhƣ vị từ chuỗi theo phân tích của Lâm Quang Đông [18]).

85

Nhƣ vậy, ý nghĩa từ vựng chỉ công cụ là nghĩa đặc biệt của một lớp từ

(thƣờng là thực từ), một trƣờng từ vựng mang nét nghĩa hàm ẩn chỉ công cụ.

Cho dù công cụ có đƣợc thể hiện hay không đƣợc thể hiện bằng ngôn ngữ,

ngƣời thông báo và ngƣời tiếp nhận thông tin vẫn hoàn toàn có thể ngầm hiểu

với nhau về cách thức, phƣơng thức, phƣơng tiện thực hiện hành động đó.

2.2. Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga

Quan niệm coi ý nghĩa công cụ là một phổ niệm trong ngôn ngữ là

“đối tƣợng ƣu tiên trong nghiên cứu các phƣơng thức ngữ pháp và có tác

động đến tất cả các phƣơng thức ngữ pháp thể hiện nội dung trong ngôn ngữ”

[102: 168] đƣợc xuất phát từ đƣờng hƣớng nghiên cứu ngữ pháp chức năng.

Ý nghĩa công cụ, xét về mặt logic, cho phép chúng ta có thể xem xét mối

quan hệ giữa nội dung cho trƣớc với hình thức thể hiện chúng. Trong tiếng

Nga, các phƣơng tiện biểu đạt nghĩa công cụ đƣợc ngữ pháp hóa bằng cách

công cụ (cách 5) nên cách công cụ đƣợc cho là trung tâm biểu đạt ý nghĩa ngữ

pháp công cụ. Vì vậy, có thể nói rằng, trong tiếng Nga, ý nghĩa ngữ pháp

công cụ mang tính chất của phạm trù hình thái học. Việc mô tả các phƣơng

tiện hình thức biểu đạt tính công cụ thể hiện trong các công trình nghiên cứu

của X.A. Lutina (X.A. Лутина), V.A. Yamsanova В.А. (Ямсанова), A.V.

Kobtseva (А. Кобцев). Các phƣơng tiện ấy bao gồm các kết hợp với giới từ

“с помощью”, “посредством”, “путем”, “методом” (bằng cách, với sự trợ

giúp của, nhờ sự giúp đỡ của, bằng con đƣờng, bằng phƣơng pháp, …) mà

thành phần phụ đi sau là những câu phức phụ thuộc đi kèm một thành phần

mang tính chất liên từ thứ hai là “тем самым” (để biểu đạt phƣơng thức),

.v.v. Bên cạnh đó, trong tiếng Nga, ý nghĩa công cụ còn đƣợc nhận thấy ở

nhiều giới từ khác ở các cách khác nhƣ из, с, от, по, о, через, сквозь, с, под,

в, на, ... Nhƣ vậy, nhiệm vụ tiếp theo đây là khảo sát, mô tả, kiểm định các

phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga. Trong quá

86

trình miêu tả, chúng tôi sẽ có những liên hệ với tiếng Việt để chỉ ra sự tƣơng

đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ khác nhau về loại hình này. Phƣơng thức

thứ nhất là sử dụng cách công cụ (cách 5) và phƣơng thức thứ hai là không sử

dụng cách công cụ.

2.2.1. Phương thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các biến tố cách

công cụ (cách 5)

Thuật ngữ “cách” có thể đƣợc kiến giải theo hai cách hiểu sau: thứ

nhất, theo cách hiểu truyền thống, đó là các biến đổi về mặt hình thức của

danh từ (hoặc đại từ nhân xƣng) trong các ngôn ngữ có biến đổi cách; thứ hai,

thuật ngữ này sản sinh ra trong lí thuyết về ngữ pháp vai, đó là các quan hệ về

ngữ pháp giữa các thành phần trong câu. Chính các quan hệ về cách giữa các

nhóm từ loại thƣờng xuyên gọi là cách. Trong các tài liệu ngôn ngữ học bằng

tiếng Anh, thuật ngữ “quan hệ cách” (grammatical relations / грамматические

отношения) thƣờng gắn với khái niệm “cách” [Blake (2001), Butt (2006)].

Những tài liệu nhƣ vậy có thể thấy trong các sách của Petra Campe “Cách, vai

nghĩa, và các quan hệ ngữ pháp” (Case, Semantic Roles, and Grammatical

Relations: a Comprehensive Bibliography) [98], trong đó diễn giải rằng: tất cả

các thuật ngữ đều thuộc về một lĩnh vực nghiên cứu này hay lĩnh vực nghiên

cứu khác của ngôn ngữ học. Chính ý nghĩa chỉ phƣơng tiện (công cụ) cũng

đƣợc kiến giải nhƣ một ý nghĩa của cách.

Phạm trù tƣ duy về công cụ thể hiện trong tiếng Nga bằng nhiều

phƣơng tiện khác nhau, trong số đó, cách chiếm một vị trí hàng đầu, cách 5

(cách công cụ) giữ vị trí trung tâm. Sự quan trọng của hệ thống biến đổi trong

đa số các ngôn ngữ Xlavo là điều không bàn cãi. Có rất nhiều nhà khoa học

ngôn ngữ Nga nghiên cứu về đề tài này. Trong số đó có thể kể đến nhƣ A.A.

Shakhmatov (А.А. Шахматов), A.M. Peshkovsky (А.М. Пешковский), R.O.

Yacobson (Р.О. Якобсон), X.D. Catsnelson (С.Д. Кэтснельсон), A.A.

87

Potebnya (А.А. Потебня), L.V. Sherbuy (Л.В. Шербай), ... những ngƣời đã

nghiên cứu rất nhiều về phạm trù cách và ý nghĩa của nó trong tiếng Nga.

Trong các nghiên cứu hiện nay, cách đƣợc coi là một phạm trù tạo ra một hệ

thống phức tạp và có tính phân loại trong mối quan hệ chức năng, bao gồm

nhiều chức năng không đồng nhất cả về hình thức lẫn nội dung. [115: 56].

X.D. Catsnelson cho rằng, cấu trúc hình thức của cách đƣợc thể hiện ở một

loạt các cách biến đổi danh từ có thể có nhiều dạng phức tạp phụ thuộc vào số

lƣợng của cách, các quan hệ về mặt hình thức – nguồn gốc và một số nguyên

nhân khác. Những gì liên quan đến chức năng của cách thì đó “đƣợc ngầm

hiểu về mặt hình thức (ví dụ nhƣ sự kết hợp có mặt ở dạng cách không chỉ

xảy ra trong danh từ mà còn trong các kết hợp với các từ loại khác: tính từ,

tính động từ, đại từ) và về mặt nội dung là các cách biến đổi khác nhau. <…>

Tất cả chức năng cú pháp của từ loại trong câu về nguyên tắc có thể đƣợc

biến đổi nhờ cách” [120: 56]. Khi liệt kê các chức năng cơ bản của cách, X.D.

Catsnelson đề cập đến chức năng chủ thể - khách thể, chức năng của trạng từ,

chức năng thuộc tính, chức năng phƣơng thức biểu cảm, chức năng của các

tiền tố và hậu tố. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày một vài định nghĩa về cách để

chứng minh rằng các quan hệ chỉ công cụ, về bản chất, có chức năng phạm trù

cách.

Trong Từ điển bách khoa toàn thƣ về ngôn ngữ học do V.N. Iartseva

(В.Н. Ярцева) chủ biên có đƣa ra định nghĩa về khái niệm “cách” nhƣ sau:

“Cách là một phạm trù ngữ pháp của danh từ biểu đạt các quan hệ cú pháp

của nó với các từ trong một mệnh đề hoặc với cả mệnh đề nói chung, mà cũng

có thể là bất kì một thành tố ngữ pháp riêng biệt nào đó (cách cụ thể)” [158].

(―Падеж — грамматическая категория имени, выражающая его

синтаксические отношения к другим словам высказывания или к

высказыванию в целом, а также всякая отдельная граммема этой

88

категории (конкретный П.)‖) Về chức năng của cách, từ điển này cũng đƣa

ra thông tin nhƣ sau: “Chức năng ngữ nghĩa cơ bản của cách là biểu đạt mối

quan hệ tƣ duy về một sự vật (là một danh từ) với các sự vật và hiện tƣợng

khác bằng một từ có khả năng chi phối” [158].

Định nghĩa của Barry Blake trong “Từ điển bách khoa về ngôn ngữ và

ngôn ngữ học” là: “Cách là một hệ thống các chỉ dấu của danh từ, ứng với

kiểu quan hệ của danh từ với từ chính chi phối nó. Theo cách hiểu truyền

thống, thuật ngữ này có nghĩa là sự đánh dấu bằng biến tố mà thông thƣờng là

đánh dấu mối quan hệ của danh từ với động từ ở cấp độ câu, danh từ với giới

từ, hậu tố hoặc với danh từ khác ở cấp độ ngữ đoạn” (“Падеж — это по

существу система маркирования зависимых существительных в

соответствии с типом отношений, который они несут по отношению

к управляющим словам. Традиционно данный термин означает

флективную маркировку; как правило, падеж маркирует отношение

существительного к глаголу на уровне предложения и

существительного к предлогу, послелогу или другому существительному

на уровне фразы”) [99: 212].

Cách tiếp cận phân chia cách theo các đặc tính hình thái và cú pháp

đƣợc thể hiện ngắn gọn và súc tích trong định nghĩa của V.V. Gurevich (В.В.

Гуревич): “Theo quan điểm hình thức, cách là một phạm trù hình thái học (nó

đƣợc biểu đạt bằng các dạng thức của danh từ), trong khi về mặt nội dung,

cách lại là một phạm trù cú pháp học bởi vì cách diễn đạt mối quan hệ giữa

danh từ với những từ khác liên quan đến nó về mặt cú pháp (khác với các

phạm trù hình thái học thuần túy ở mỗi từ, ví dụ nhƣ phạm trù số hoặc giống

của danh từ” (С точки зрения формы падеж – категория

морфологическая (она выражается формами существительного),

тогда как по содержанию это категория синтаксическая, поскольку

89

падеж служит для обозначения отношений между существительным и

синтаксически связанным с ним другим словом (в отличие от таких

чисто морфологических, замкнутых на самом слове категорий, как

число или род у существительного)) [dẫn theo 115: 26].

Khi nói về ý nghĩa của các cách, I.G. Miloslavski (I.G.

Милославский) cho rằng “Với tƣ cách là một phạm trù hình thái học, cách

gắn liền với sự biểu đạt mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tƣợng” (“падеж

как морфологическая категория связан с выражением отношений

между предметами и явлениями”) [dẫn theo 115: 79].

Nhƣ vậy, ở cả ba định nghĩa trên, chúng ta đều thấy, một trong những

dấu hiệu nhận biết chung về cách, đó là sự biến đổi hình thái, tức là mặt hình

thức của từ. Tiếng Nga thuộc loại hình ngôn ngữ hòa kết. Trong hoạt động

ngôn ngữ, từ có biến đổi hình thái, tức là từ nọ đòi hỏi từ kia ở sự hợp dạng.

Điều này có nghĩa rằng, ở đây, ý nghĩa ngữ pháp của từ, các quan hệ ngữ

pháp của từ đƣợc thể hiện ngay trong bản thân từ. Trong tiếng Nga, một ý

nghĩa ngữ pháp có thể đƣợc thể hiện bằng nhiều phụ tố, ví dụ nhƣ: ý nghĩa

ngữ pháp chỉ địa điểm, chỉ thời gian có thể đƣợc thể hiện ở sinh cách (cách 2),

tặng cách (cách 3), đối cách (cách 4), công cụ cách (cách 5), giới cách (cách

6); ý nghĩa ngữ pháp chỉ mục đích đƣợc thể hiện ở cách 4 và cách 5; ý nghĩa

ngữ pháp chỉ nguyên nhân đƣợc thể hiện ở cách 2 và cách 3; .v.v. Ngƣợc lại,

nhiều ý nghĩa ngữ pháp có thể đƣợc biểu diễn đồng thời bằng một phụ tố, ví

dụ nhƣ: phụ tố -е ở cách 6 có thể đƣợc sử dụng để biểu đạt ý nghĩa ngữ pháp

chỉ địa điểm, phƣơng tiện, phƣơng thức, thời gian, ... Tức là ở đây, sự tƣơng

ứng giữa phụ tố với ý nghĩa ngữ pháp không phải là một đối một một cách

chặt chẽ. Tƣơng tự nhƣ vậy, trong tiếng Nga, để thể hiện ý nghĩa công cụ,

ngƣời ta có hẳn một cách, gọi là cách công cụ (cách 5), để biểu đạt. Tuy

nhiên, cách công cụ không chỉ biểu đạt mỗi ý nghĩa công cụ mà còn có thể

biểu đạt nhiều ý nghĩa ngữ pháp khác nhƣ sau:

90

a) Đầu tiên, cách công cụ, theo nhƣ đúng tên gọi, đƣợc dùng để biểu

đạt công cụ hoặc phƣơng tiện, nhờ đó hành động đƣợc thực hiện. Ví dụ:

- (131) В нем по-прежнему пудрились, обтирали платком ладони

и разговаривали грудными скрипучими голосами седеющие дамы из

Петербурга, поголовно превращенные в жгучих цыганок соединением

паровозной гари с жирною косметикой. [ДЖ: 15]

- (132) Trong toa, mấy bà tóc hoa râm người Petersburg vẫn tiếp tục

thoa lại phấn, dùng khăn lau mồ hôi tay và trò chuyện với nhau bằng cái

giọng ngực nghe rin rít. [BSZh: 17]

- (133) Оттягивался обед, чье-то желание помыть горячей

водой голову, какие-то другие намерения. [ДЖ: 112]

- (134) Bữa trưa sẽ phải ăn muộn, ai định gội đầu bằng nước nóng

hoặc mọi dự định khác đều bị huỷ bỏ. [BSZh: 161]

b) Cách công cụ đƣợc sử dụng để chỉ cách thức hành động (trả lời câu

hỏi как? (như thế nào?), каким образом? (bằng cách nào?). Ví dụ:

- (135) Они дышали только этой совместностью. [ДЖ: 288]

- (136) Họ chỉ thở bằng sự hòa hợp ấy. [BSZh: 429]

- (137) ―Ведь для него мама — как это называется… Ведь он -

мамин, это самое … Это гадкие слова, не хочу повторять. Так зачем в

таком случае он смотрит на меня такими глазами? Ведь я ее дочь‖.

[ДЖ: 21]

- (138) ―Thì ông ta vẫn coi mẹ là một… - như thế gọi là gì nhỉ… Phải,

ông ta là bồ… của mẹ, những tiếng bẩn thỉu, thôi, mình không thiết nhất nhắc

lại nữa. Đã thế, tại sao ông ta còn cứ nhìn mình bằng cặp mắt như vậy.

Mình là con của mẹ kia mà‖. [BSZh: 25]

c). Cách công cụ đƣợc dùng để chỉ phƣơng thức chuyển động. Ví dụ:

91

- (139) Он плавно нагонял ее волнообразными, плещущими

скачками. [ДЖ: 157]

- (140) Chú ngựa non bắt kịp mẹ bằng các bước nhảy duyên dáng,

chờn vờn như sóng. [BSZh: 230]

- (141) Прямыми негнущимися шагами она подошла к саням на

середину мостовой и простилась, пожелав им счастливо доехать. [ДЖ: 247]

- (142) Bằng những bước đi cứng nhắc, thẳng chân, chị ta tới gần chiếc

xe ở giữa mặt đường để từ giã và chúc họ thượng lộ bình an. [BSZh: 367]

d) Cách công cụ đƣợc sử dụng để chỉ địa điểm di chuyển. Ví dụ:

- (143) Вот Тоня идет полем во вьюгу с Шурочкой на руках.

[ДЖ: 217]

- (144) Дорога лесом, кругом волки, берегитесь. [ДЖ: 260]

e) Cách công cụ đƣợc dùng để chỉ thời gian. Ví dụ:

- (145) Приходит утром, засиживается до обеда и битых два

часа томит чтением этой галиматьи. [ДЖ: 31]

- (146) Мальчики запросились прокатиться с Александром

Александровичем ночью по морозу. [ДЖ: 39]

g) Cách công cụ biểu thị ngƣời hoặc sự vật hành động trong các cấu

trúc bị động. Ví dụ:

- (147) В мастерской стояла непривычная тишина. Окно на улицу

было отворено. Лара слышала, как громыхавшая вдали пролетка съехала с

булыжной мостовой в желобок коночного рельса и грубая стукотня

сменилась плавным скольжением колеса как по маслу.

―Надо поспать еще немного‖, — подумала Лара. Рокот города

усыплял, как колыбельная песня. [ДЖ: 21]

- (148) Xưởng may hôm nay yên lặng lạ thường. Chiếc cửa sổ nhìn ra

đường đã mở. Lara nghe vọng lại từ xa tiếng xe ngựa: chiếc xe từ trên con đường

92

trải đá đã chạy xuống máng đường ray dành cho ngựa, nên tiếng gõ lộp cộp đã

được thay bằng tiếng bánh xe trượt êm trên đường ray. "Nên ngủ thêm chút

nữa", - Lara nghĩ thầm. Tiếng ồn ngoài phố vang lên đều đều như một bài hát ru.

[BSZh: 25]

Ngoài những ý nghĩa ngữ pháp cơ bản nhƣ trên, cách công cụ còn đƣợc

thể hiện trong một số trƣờng hợp cụ thể khác nhƣ: thể hiện vật hành động trong

câu vô nhân xƣng (Ветром сорвало крышу. / Gió làm tốc mái nhà.); dùng

kết hợp với các động từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (Она работает

библиотекарем. / Cô ấy là nhân viên thư viện.); đƣợc dùng với tƣ cách là

một bộ phận của vị ngữ tập hợp trong các kết cấu có động từ быть (là),

являться (là), становиться (trở thành), стать (trở thành), казаться

(dường như là, hình như là), называться (được gọi là), назваться (được gọi

là), оставаться (vẫn là), остаться (vẫn là), делаться (trở thành),

сделаться (trở thành), считаться (được coi là) ... (Брат стал

инженером. / Người anh trai trở thành kĩ sư.); đƣợc sử dụng nhƣ một bổ

ngữ trực tiếp sau các động từ руководить (lãnh đạo), управлять (điều

khiển), командовать (chỉ huy), заведовать (phụ trách), распорядиться

(điều khiển), обладать (có), владеть (nắm vững), пользоваться (sử dụng),

заниматься (chơi, nghiên cứu), интересоваться (quan tâm tới, ham thích),

увлекаться (ham mê), гордиться (tự hào), любоваться (ngắm nhìn),

хвалиться (khoe khoang), восхищаться (khâm phục), наслаждаться (thích

thú, khoái cảm), злоупотреблять (lạm dụng), болеть (ốm), доволен,

доволена, доволены (hài lòng) ... (Ученик хорошо владеет русским

языком. / Cậu học sinh nắm tiếng Nga rất tốt.)

Trên đây là tất cả những ý nghĩa mà cách công cụ trong tiếng Nga

biểu hiện. Luận án không đi vào phân tích cụ thể và tỉ mỉ tất cả các ý nghĩa

trên vì tính hạn chế của dung lƣợng và đối tƣợng nghiên cứu. Luận án, tiếp

93

theo đây, sẽ chỉ tập trung vào ý nghĩa công cụ, một trong nhiều ý nghĩa đã liệt

kê phía trên mà cách công cụ đảm nhiệm. Ý nghĩa công cụ, cũng nhƣ những ý

nghĩa ngữ pháp khác mà cách công cụ biểu hiện, đều đƣợc thể hiện bằng các

phụ tố giống nhau.

2.2.1.1. Thể hiện ý nghĩa công cụ bằng phụ tố

Trong tiếng Nga, danh từ đƣợc biến đổi theo sáu cách, mỗi cách có

một ý nghĩa riêng. Ý nghĩa công cụ chủ yếu đƣợc thể hiện ở cách năm không

có giới từ (cách công cụ). Xét ví dụ sau:

- (149) Мечта пропитаться своими руками. [ДЖ: 153]

- (150) Niềm mơ ước được sống bằng hai bàn tay của mình. [BSZh: 224]

- (151) Родя был в корпусе. Лара с матерью одни слонялись по

пустому дому. Неосвещенная улица пустыми глазами смотрела в

комнаты. Комнаты отвечали тем же взглядом. [ДЖ: 36]

- (152) Rodion còn ở trường thiếu sinh quân. Chỉ có hai mẹ con lủi

thủi trong căn nhà vắng vẻ. Đường phố không ánh đèn đang giương cặp mắt

trống rỗng ngó vào các căn phòng. Các căn phòng cũng nhìn lại bằng cặp

mắt như vậy. [BSZh: 48]

- (153) Здешние предлагают казаков, а он думает взять слезой.

[ДЖ: 87]

- (154) Nhà cầm quyền ở đây đề nghị sử dụng kỵ binh, nhưng anh ta

muốn khuất phục họ bằng nước mắt. [BSZh: 123]

Trong 3 ví dụ trên, các danh từ, cụm danh từ своими руками (hai bàn

tay của mình), пустыми глазами (cặp mắt trống rỗng), взглядом (cặp mắt),

слезой (nước mắt) đã đƣợc biến đổi sang dạng thức cách năm với các phụ tố -

-ими, -ами, -ыми, -ом, -ой nhằm biểu đạt ý nghĩa chỉ công cụ thực hiện các

hành động пропитаться (sống), смотрела (giương), отвечали (nhìn lại),

взять (khuất phục), trả lời cho câu hỏi чем? (bằng gì?), có nghĩa là, ý nghĩa

94

công cụ thực hiện hành động trong tiếng Nga đƣợc khái quát hóa qua sơ đồ

sau:

Глагол + Сущ.инстр

trong đó: Глагол_động từ

Сущ._danh từ

инстр_công cụ

Bảng 2.4: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng cách công cụ không có giới từ

Hậu tố của danh từ ở cách công cụ đƣợc biến đổi theo bảng dƣới đây.

Tính từ và đại từ đi kèm theo danh từ, bổ nghĩa cho danh từ cũng bị biến đổi

hậu tố tƣơng ứng với cách biến đổi của tính từ và đại từ.

Công cụ cách chủ cách Câu hỏi Кем? Чем? Кто? Что?

+ ом thêm vào sau Phụ âm

Giống đực -ем thay cho -ь

-ем thay cho -и

-ой thay cho -а

-ей thay cho -я Số ít Giống cái -ью thay cho -ь

-ией thay cho -ия

-ом thay cho -о

thay cho -е Giống trung -ем

-ием thay cho -ие

-ами thay cho -ы

-ями thay cho -и Số nhiều -ами thay cho -а

-ями thay cho -я

Bảng 2.5: Sự biến đổi vĩ tố của danh từ ở cách công cụ

95

Câu hỏi Công cụ cách Chủ cách)

-ым thay cho -ый Giống Какой? đực -им thay cho -ий

-ой thay cho -ая Giống Số ít Какая? cái -ей thay cho -яя

-ым thay cho -ое Giống Какое? trung -им thay cho -ее

-ыми thay cho -ые Số nhiều Какие? -ими thay cho -ие

Bảng 2.6: Sự biến đổi vĩ tố của tính từ ở cách công cụ

Cách công cụ Chủ cách

С кем? Kmo?

мной thay cho я

тобой thay cho ты

им thay cho он

ей thay cho она

нами thay cho мы

вами thay cho вы

ими thay cho они

Bảng 2.7: Sự biến đổi đại từ nhân xƣng ở cách công cụ

Số ít Cách Số nhiều Số nhiều Đực Trung Cái

1 этот/тот это/то эта/та эти те

5 этим/тем этой/той этими теми

Bảng 2.8: Sự biến đổi đại từ chỉ định ở cách công cụ

96

Cách 1 Cách 5

Đực Trung Cái Đực Trung Cái

мой мое моя -им -им -ей твой твое твоя

его Không đổi ее

наш наше наша -им -им -ей ваш ваше ваша

мои, твои, наши, ваши -ими (Чьими?) - (Чьи?) - (их)

Bảng 2.9: Sự biến đổi đại từ sở hữu ở cách công cụ

Phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ thông qua những biến

đổi ở phụ tố hoàn toàn không có mặt trong tiếng Việt do tiếng Việt là ngôn

ngữ đơn lập không biến hình.

Đây là điểm khác biệt lớn nhất trong cách thức thể hiện ý nghĩa công

cụ trong hai ngôn ngữ Việt và Nga. Chính đặc điểm thƣờng xuyên biến đổi

hậu tố của từ để thể hiện một ý nghĩa ngữ pháp nào đó trong tiếng Nga đã tạo

ra một số khó khăn nhất định đối với những ngƣời bắt đầu học tiếng Việt và

tiếng Nga với tƣ cách là ngoại ngữ. Nhiều ngƣời học gặp khó khăn trong việc

tiếp thu kiến thức về các cách thức biến đổi danh từ, tính từ, đại từ, ... trong

tiếng Nga sang các cách khác nhau. Thậm chí, sau khi đã nắm đƣợc các quy

luật biến đổi từ trong tiếng Nga nhƣng cũng khá khó khăn trong việc tổ chức

thực hành giao tiếp: khó nhớ và khó lí giải đƣợc các khái niệm giống, số,

cách, ngôi, thời, thể, thức, dạng, ... và các cách biến đổi những dạng thức này

sang các dạng thức khác; kể cả khi đã ghi nhớ đƣợc thì cũng khó chuyển hóa

đƣợc nhanh chóng thành các câu hoàn chỉnh về ngữ pháp.

97

2.2.1.2. Kết hợp phương thức giới từ và phụ tố

Trong tiếng Nga, giới từ đƣợc xác định là một loại từ công cụ đi theo

động từ, danh từ, tính từ, số từ, trạng từ để chi phối sự biến cách của những

danh từ nhằm kết hợp chúng lại thành các cụm từ, trong đó các danh từ có

giới từ đứng trƣớc sẽ thực hiện chức năng bổ sung và mở rộng ý nghĩa cần

biểu đạt của những từ chi phối chúng. Xét về mặt cấu trúc, các giới từ trong

tiếng Nga chia thành hai nhóm: nhóm giới từ đơn và nhóm “giới từ kép”:

- “Giới từ đơn” chỉ cấu tạo từ một từ đơn lẻ nhƣ в, на, от, до, между,

с, под, из, через, ...

- “Giới từ kép” (thực ra là tổ hợp gồm hơn một giới từ): несмотря на,

в случае, в связи с, по отношению к, в зависимости от, ...

Đại đa số các giới từ trong tiếng Nga chỉ kết hợp với một cách nhất

định của danh từ, nhƣng cũng có một số ít giới từ, chủ yếu là giới từ nguyên

sinh, có khả năng kết hợp với hai hoặc ba cách của danh từ. Đa số các giới từ

trong tiếng Nga có nhiều nghĩa và chúng chỉ đƣợc xác định cụ thể khi đƣợc

đặt vào một tình huống sử dụng nhất định.

Một cách có thể có những giới từ đặc trƣng riêng, chỉ đƣợc sử dụng ở

cách đó, cũng có thể có nhiều giới từ đƣợc dùng chung ở nhiều cách khác

nhau. Một giới từ có thể có mặt ở nhiều cách khác nhau để thể hiện nhiều ý

nghĩa khác nhau, thậm chí, một giới từ trong một cách cũng có thể biểu hiện

rất nhiều ý nghĩa khác nhau. Ý nghĩa công cụ có thể đƣợc biểu thị bằng hơn

một giới từ; ngƣợc lại một giới từ có thể biểu thị ý nghĩa công cụ / cách công

cụ và (những) ý nghĩa khác nữa. Cách công cụ trong tiếng Nga cũng không

phải là ngoại lệ. Có nhiều giới từ trong tiếng Nga đƣợc sử dụng với cách công

cụ để biểu thị những ý nghĩa khác nhau. Có những giới từ chỉ dùng với cách

công cụ và cũng có những giới từ dùng đƣợc cả với cách công cụ và các cách

khác. Một số giới từ chỉ dùng với cách công cụ là:

98

a. giới từ над (надо) biểu thị ý nghĩa về địa điểm, nơi chốn, ví dụ:

- (155) В номере горящую керосиновую лампу вынули из

резервуара, в котором она висела над обеденным столом, и перенесли

за дощатую перегородку, вонявшую клопами, на другую половину

номера. [ДЖ: 41]

- (156) Phòng có hai gian, phân cách bằng một vách gỗ có mùi rệp.

Cây đèn dầu hỏa treo phía trên bàn ăn ở gian ngoài đã được hạ xuống, mang

vào gian trong. [BSZh: 54]

b. giới từ перед (передо), пред (предо) chỉ quan hệ về không gian,

thời gian, ví dụ nhƣ:

- (157) Ото всего парка с его прудами, лужайками и барским

домом садик управляющего был отгорожен густой живой изгородью из

черной калины. Иван Иванович и Николай Николаевич обходили эту

заросль снаружи, и по мере того как они шли, перед ними равными

стайками на равных промежутках вылетали воробьи, которыми

кишела калина. Это наполняло ее ровным шумом, точно перед Иваном

Ивановичем и Николаем Николаевичем вдоль изгороди текла вода по

трубе. [ДЖ: 12]

- (158) Ngôi nhà của viên quản lý được một hàng giậu dây xanh rì

bằng cây tứ cầu ngăn cách với toàn bộ khu hoa viên có ao hồ và dãy nhà của

chủ nhân. Ivan và Nicolai đi vòng bên ngoài hàng giậu đó để ra bờ khe. Cứ

mỗi bước đi, từng bầy chim sẻ từ trong các bụi tú cầu lại bay ra trước mặt

họ thành từng đợt đều đều, tạo nên tiếng rào rào không ngớt, nghe như tiếng

nước chảy trong cái ống máng đặt dưới chân giậu. [BSZh: 13]

- (159) В этом прозаическом и будничном виде, растрепанная, с

засученными рукавами и подоткнутым подолом, она почти пугала своей

царственной, дух захватывающей притягательностью, более, чем если

99

бы он вдруг застал ее перед выездом на бал, ставшею выше и словно

выросшею на высоких каблуках, в открытом платье с вырезом и

широких шумных юбках. [ДЖ: 235]

- (160) Cái diện mạo hàng ngày, bình thường ấy của nàng với mái tóc

xoã, tay áo xắn cao và gấu váy vén lên, gần như có sức quyến rũ, lôi cuốn

khiến chàng còn nể sợ hơn cả khi giả sử chàng bắt gặp nàng chuẩn bị đi dự

vũ hội, với bộ áo dài hở cổ hở vai, với đôi giày cao gót khiến nàng cao lên

hơn, và với cái váy rộng lòe xòe quét đất. [BSZh: 349]

Giới từ перед (передо), пред (предо) còn đƣợc sử dụng trong một số

trƣờng hợp cụ thể khác, ví dụ nhƣ:

- (161) Перед нами стоят большие задачи. (Phía trƣớc chúng ta có

những nhiệm vụ rất to lớn.)

- (162) Ответственность перед народом. (Trách nhiệm trƣớc

nhân dân.)

- (163) Обязанность перед обществом. (Nghĩa vụ trƣớc xã hội.)

- (164) Не отступать перед трудностями. (Không lùi bƣớc trƣớc

khó khăn.)

- (165) Сохранять спокойствие перед лицом опасности. (Giữ

đƣợc bình tĩnh trƣớc những hiểm nguy.)

Bên cạnh đó, có một số giới từ đƣợc dùng ở cách công cụ nhƣng thể

hiện rất nhiều vai nghĩa khác nhau. Ví dụ nhƣ: giới từ с (cùng, với, có) dùng

để thể hiện:

a. ý nghĩa ngƣời cùng hành động, ví dụ:

- (166) Родя был в корпусе. Лара с матерью одни слонялись по

пустому дому. Неосвещенная улица пустыми глазами смотрела в

комнаты. Комнаты отвечали тем же взглядом. [ДЖ: 36]

100

- (167) Rodion còn ở trường thiếu sinh quân. Chỉ có hai mẹ con lủi

thủi trong căn nhà vắng vẻ. Đường phố không ánh đèn đang giương cặp mắt

trống rỗng ngó vào các căn phòng. Các căn phòng cũng nhìn lại bằng cặp

mắt như vậy. [BSZh: 48]

b. ý nghĩa về sự có mặt của một cái gì đó, ví dụ:

- (168) К телу два или три раза подходила худощавая женщина в

шерстяном платье с кружевной косынкою. [ДЖ: 16]

- (169) Một bà dáng mảnh khảnh mặc chiếc áo váy bằng len và quàng

tấm khăn có viền ren đến gần ngó xác chết hai, ba lần. [BSZh: 18]

c. ý nghĩa chống lại ai, chống lại cái gì, ví dụ:

- (170) Занимательно было узнать, чем они жили, какими

нравственными и материальными запасами питались, как боролись с

трудностями, как обходили законы? [ДЖ: 150]

- (171) Kể cũng thú vị, nếu biết họ sống bằng gì, được nuôi dưỡng

bằng các nguồn dự trữ tinh thần và vật chất nào, họ đương đầu với các khó

khăn, họ né tránh pháp luật như thế nào? [BSZh: 218]

d. một số ý nghĩa khác nhƣ ý nghĩa về thời gian (Летом я встаю с

восходом солнца. / Mùa hè tôi dậy cùng lúc mặt trời mọc.); vật chứa đựng

bên trong một sự vật khác (Я купил бутылку с молоком. / Tôi mua một chai

sữa.); lời chúc mừng nhân dịp một sự kiện nào đó (Поздравляю вас с

Новым годом! / Chúc mừng anh nhân dịp năm mới!)

Tƣơng tự nhƣ thế, giới từ за (ở phía sau, theo sau, trong lúc) ở cách

công cụ cũng đƣợc dùng để:

a. chỉ địa điểm, ví dụ:

- (172) По пути в освещенную столовую, где за круглым столом

под висячею лампой сидели за самоваром и распивали чай хозяева с

101

Антониной Александровной, зять и тесть прошли через темный

директорский кабинет. [ДЖ: 161]

b. chỉ mục đích của chuyển động, ví dụ:

- (173) Лишь внутри отдельных околотков люди выходили по

утрам на небольшое расстояние от дома за хлебом, останавливали

встречных, несших молоко в бутылках, и толпой расспрашивали, где

они его достали. [ДЖ: 114]

c. chỉ thời gian:

- (174) Эти люди ворочали всем, как приказывала программа, и

начинание за начинанием, объединение за объединением становились

большевицкими. [ДЖ: 116]

d. chỉ nguyên nhân, ví dụ:

- (175) За товарищем Деминой из райсовета пролетка придет, -

сказала Галиуллина. [ДЖ: 121]

Giới từ под (dưới) ở cách công cụ dùng để chỉ địa điểm:

- (176) И так как никто не знал географии страны, под флагом

которой она пришвартовалась, было неизвестно, на каком языке

обратиться к ней. [ДЖ: 65]

- (177) Và vì không ai biết vị trí địa lý của xứ sở nàng tới thả neo, nên

không rõ nên nói với nàng bằng thứ tiếng nước nào. [BSZh: 91]

dùng trong các ngữ đoạn (под дождем / dưới mưa, под солнцем /

dưới nắng, под ясным небом / dưới bầu trời trong sáng, под руководством

/ dưới sự lãnh đạo, под водительством / dưới sự dẫn dắt, под знамением /

dưới ngọn cờ).

Giới từ между (меж - giữa) ở cách công cụ dùng để biểu hiện ý

nghĩa về địa điểm, ví dụ:

102

- (178) Нечеловеческим усилием воли, шатаясь и едва пробиваясь

сквозь сгрудившийся затор стоящих в проходе между скамейками,

Юрий Андреевич достиг задней площадки. [ДЖ: 283]

- (179) Bằng một nỗ lực phi thường của ý chí, chàng lảo đảo cố len

qua đám đông hành khách đứng chật ních cả lối đi giữa các hàng ghế, lần ra

được bậc lên xuống cuối toa. [BSZh: 421]

thể hiện mối quan hệ qua lại, ví dụ:

- (180) До сих пор считалось, что самое важное в Евангелии

нравственные изречения и правила, заключенные в заповедях, а для меня

самое главное то, что Христос говорит притчами из быта, поясняя

истину светом повседневности. В основе этого лежит мысль, что

общение между смертными бессмертно и что жизнь символична,

потому что она значительна. [ДЖ: 31]

- (181) Trước nay người ta cho rằng điều quan trọng nhất trong Kinh

Phúc âm là những châm ngôn luân lý và các luật lệ hàm chứa trong các điều

răn, nhưng đối với tôi, điều quan trọng nhất đó là cái mà Chúa Kitô đã diễn

tả bằng các dụ ngôn rút ra từ sinh hoạt thường ngày, khi người giảng giải

chân lý bằng ánh sáng chuyện thường ngày. Nền tảng của cái đó là tư tưởng

cho rằng sự giao tiếp giữa những người trần mắt thịt là bất tử, rằng đời

người mang tính tượng trưng, bởi vì nó có nhiều ý nghĩa. [BSZh: 39]

Trên đây là toàn bộ các giới từ đƣợc sử dụng ở cách công cụ để thể

hiện nhiều ý nghĩa khác nhau, không phải tất cả các giới từ này ở cách công

cụ đều thể hiện ý nghĩa công cụ, các giới từ này cũng có thể đƣợc sử dụng ở

các cách khác để thể hiện các ý nghĩa khác. Ngoài cách thể hiện trực tiếp ý

nghĩa công cụ thông qua biến đổi hậu tố, cách công cụ còn có thể kết hợp với

một số giới từ để thể hiện rõ hơn về ý nghĩa công cụ, đó có thể là nghĩa chủ

thể hành động, đối tƣợng hành động, công cụ hành động, thời gian hành động,

103

địa điểm hành động. Giới từ điển hình đó ở cách công cụ là giới từ с, под +

Сущ.творительный падеж. Xét một số ví dụ sau:

- (182) прыгать с парашютом (nhảy dù)

- (183) идти с палкой (đi bằng nạng)

- (184) петь с микрофоном (hát bằng micro)

- (185) мыть руки с мылом (rửa tay bằng xà phòng)

- (186) мыть голову с шампунем (gội đầu bằng dầu gội)

- (187) рассматривать инфузорию под микроскопом (quan sát côn

trùng dưới kính hiển vi)

- (188) идти под зонтом (đi dưới ô)

Nhiều ngƣời có thể cho rằng, giới từ с trong trƣờng hợp này mang

nghĩa vật cùng hành động, giới từ под mang nghĩa địa điểm hơn là nghĩa

công cụ. Tuy nhiên, xét về bản chất thì парашют (dù), палка (nạng),

микрофон (micro), мыло (xà phòng), шампун (dầu gội đầu), микроскоп

(kính hiển vi), зонт (ô) chính là những công cụ giúp thực hiện các hành động

прыгать (nhảy), идти (đi), петь (hát), мыть (rửa), рассматривать (quan

sát), идти (đi). Để kiểm định lại, chúng ta chỉ cần bỏ các giới từ này đi và

biến đổi các danh từ mang nghĩa công cụ này sang dạng thức cách công cụ thì

tất cả đều đúng về ngữ pháp và ngữ nghĩa.

- прыгать с парашютом = прыгать парашютом

- идти с палкой = идти палкой

- петь с микрофоном = петь микрофоном

- мыть руки с мылом = мыть руки мылом

- мыть голову с шампунем = мыть голову шампунем

- рассматривать инфузорию под микроскопом = рассматривать

инфузорию микроскопом

- идти под зонтом = идти зонтом

104

Tuy nhiên, không phải mọi trƣờng hợp đều thế, vậy nên, chúng ta có

thể kiểm định lại để đƣa ra kết luận:

- петь с учителем (hát với thầy giáo) (+) nhƣng петь учителем (-)

- идти под дождем (đi dưới mưa) (+) nhƣng идти дождем (-)

рассматривать инфузорию под деревом (quan sát côn trùng dưới

gốc cây) (+) nhƣng рассматривать инфузорию деревом (-)

Nhƣ vậy, không phải mọi kết hợp с, под + Сущ.творительный падеж đều

mang ý nghĩa công cụ. Điều kiện tiên quyết là các danh từ đi sau giới từ с và

под phải là các danh từ chỉ một công cụ, dụng cụ, thiết bị, vật dụng, chứ

không phải là các danh từ chỉ ngƣời (учитель), chỉ hiện tƣợng thiên nhiên

(дождь), chỉ địa điểm (дерево) ... Có nghĩa là:

Глагол + Сущ.инстр

=

Глагол + с / под + Сущ.инстр

Bảng 2.10: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ с, под

Ví dụ:

- (189) Там все сохранилось: обои кофейного цвета, изразцовая

печь с круглою отдушиной под медной крышкой на цепочке, и опись

инвентаря в черной рамке на стене. [ДЖ: 136]

- (190) Mọi thứ ở đó vẫn còn: giấy bồi tường màu cà phê, cái lò sưởi

bằng sứ có ống thông hơi tròn, đậy bằng một cái mũ đồng, ngoắc với một

đoạn dây xích nhỏ bản kê khai đồ đạc đóng khung đen móc vào tường.

[BSZh: 197]

- (191) По площадкам лепились отхожие будки и кладовые под

висячими замками. [ДЖ: 25]

- (192) Phía đầu cầu thang có phòng vệ sinh và gian chứa đồ với

những cái khoá treo lủng lắng. [BSZh: 32]

105

- (193) Погодите, я сам скажу, что я думаю. Я думаю, что если

бы дремлющего в человеке зверя можно было остановить угрозою, все

равно, каталажки или загробного воздаяния, высшею эмблемой

человечества был бы цирковой укротитель с хлыстом, а не

жертвующий собою проповедник. [ДЖ: 30]

- (194) Hượm đã, để tôi nói cho ông nghe quan niệm của tôi. Tôi thiết

nghĩ, giả dụ có thể chế ngự con thú đang nằm ngủ trong con người bằng cách

doạ bỏ từ đời này hoặc đày xuống địa ngục đời sau chăng nữa, thì biểu trưng

cao nhất của nhân loại vẫn là diễn viên dạy mãnh thú trong rạp xiếc với

chiếc roi cầm tay, chứ không phải là nhà truyền giáo giàu lòng hy sinh.

[BSZh: 39]

Ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện qua kết hợp giữa giới từ с, под +

Сущ.творительный падеж trong nhiều trƣờng hợp còn có thể đƣợc thay thế bằng

bằng giới từ в / на + Сущ.предложный падеж .Trƣờng hợp này sẽ đƣợc lƣợc khảo

ở phần tiếp theo. Có thể khẳng định rằng, hình thức cách (ở đây là cách công

cụ) có thể tham gia vào việc kiến tạo ý nghĩa ngữ pháp (ở đây là ý nghĩa công

cụ) nhƣng không có nghĩa là ý nghĩa ngữ pháp đó chỉ đƣợc tạo ra nhờ một

dạng thức cách. Nó có thể đƣợc tạo ra nhờ những cách kết hợp gắn với việc

phân chia ý nghĩa của cách với ý nghĩa gốc trong mối quan hệ kết hợp giữa

các hình thức biến đổi của từ. Việc lƣợc tả các cách kết hợp này trong tiếng

Nga sẽ đƣợc trình bày trong phần tiếp theo.

Phƣơng thức ngữ pháp sử dụng hƣ từ kết hợp với biến đổi hậu tố của

danh từ để thể hiện ý nghĩa công cụ là phƣơng thức phổ biến trong tiếng Nga.

Phƣơng thức này khá giống với phƣơng thức sử dụng hƣ từ trong tiếng Việt,

chỉ khác là, các danh từ trong tiếng Việt, khi kết hợp với các hƣ từ mang ý

nghĩa chỉ công cụ, không có sự biến đổi nào về mặt hình thái. Nội dung biểu

hiện ý nghĩa công cụ của các giới từ trong tiếng Nga cũng tƣơng tự nhƣ nội

106

dung biểu hiện ý nghĩa công cụ của các hƣ từ trong tiếng Việt: с - bằng / với,

под - bằng / dưới, в / на - trong / trên (mang nghĩa chỉ phƣơng tiện di chuyển

của ngƣời hoặc vật). Xét về mặt nội dung biểu hiện, ngƣời học ở cả hai ngôn

ngữ Việt - Nga có thể không gặp khó khăn gì, tuy nhiên, hình thái biến đổi

của danh từ sau giới từ vẫn là điểm gây trở ngại trong giao tiếp đối với ngƣời

học ở cả hai ngôn ngữ này.

2.2.2. Phương thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các phương tiện

không thuộc cách biểu hiện của cách công cụ

Ngoài phƣơng thức biến đổi phụ tố (ở dạng thức của cách công cụ), ý

nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ trong tiếng Nga còn đƣợc thể hiện bằng phƣơng

thức hƣ từ, cụ thể, đó là sử dụng giới từ. Có rất nhiều giới từ ở tất cả các cách

trong tiếng Nga thể hiện ý nghĩa chỉ công cụ thực hiện hành động. Các danh

từ đi sau các giới từ ở các cách khác đƣợc biến đổi theo các quy luật biến đổi

danh từ ở các cách đó, tính từ và đại từ cùng vậy. Phƣơng thức này đƣợc khái

quát bằng công thức sau:

Глагол + предлог + Сущ.инстр

trong đó Глагол_động từ

предлог_giới từ

Сущ._danh từ

инстр_công cụ

Bảng 2.11: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các cách ngữ pháp khác

Trong tiếng Nga, với tính chất là những giới từ tham gia vào việc kiến

tạo và truyền tải ý nghĩa công cụ, có thể liệt kê ra rất nhiều nhƣ с помощю,

при помощи, посредством, на, по, через, благодаря, из, с, в, за, за счет,

при, под, от, о [115]. Sự đa dạng trong cách thức thể hiện ý nghĩa công cụ

107

của các giới từ trên có thể đƣợc lí giải “là do ý nghĩa công cụ là một phạm trù

nghĩa phổ quát, đƣợc tạo ra bởi các khách thể trong hoạt động thực tiễn khách

quan” (отношения инструментальности принадлежат к наиболее

универсальным семантическим категориям, воспроизводяшим за

кономерные связи объектов в реальном действительности [145: 250]).

Các giới từ này, khi chuyển nghĩa sang tiếng Việt, sẽ có những tƣơng ứng 1 -

1 về nghĩa so với các hƣ từ diễn đạt ý nghĩa công cụ, ví dụ nhƣ: с помощю -

với sự trợ giúp của, при помощи - trong điều kiện trợ giúp của,

посредством - bằng / bằng cách, на - trên (chỉ ý nghĩa di chuyển của các

phương tiện giao thông), по - trên bề mặt của, через - qua / thông qua,

благодаря - nhờ có, из - từ / bằng, с - bằng / với, в - trong (chỉ phương tiện di

chuyển), за, за счет - bằng, при - trong điều kiện trợ giúp của, под - dưới /

bằng, от - bằng / từ, о - bằng / trên.

2.2.2.1. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện sinh

cách (cách 2)

Sinh cách (cách 2) trong tiếng Nga đƣợc dùng trong tập hợp với danh

từ, tính từ, số từ và động từ. Trong quan hệ chi phối không giới từ, sinh cách

thƣờng đƣợc dùng kết hợp với danh từ để thể hiện ý nghĩa sở hữu (карандаш

брата - bút chì của anh trai, тетрадь сестры - quyển vở của chị gái); chỉ

chủ thể hành động (речь учителя - lời nói của thầy giáo, ответ ученика -

câu trả lời của học sinh, выступление делеготов - lời phát biểu của các đại

biểu); chỉ đối tƣợng của hành động (чтение книги - đọc sách, слушание

лекций - nghe giảng); chỉ đặc tính về chất của vật thể (Мальчик высокого

роста - chú bé cao lớn. Места поразительной красоты - những nơi tuyệt

đẹp); chỉ đặc tính của ngƣời hoặc vật thể (смелость героя - lòng dũng cảm

của người anh hùng, ум человека - trí tuệ của con người).

108

Trong kết hợp với dạng so sánh của tính từ, cách 2 thể hiện ý nghĩa

chỉ vật so sánh (Сестра прилеженее брата - chị gái chăm chỉ hơn anh trai.

Утро вечера мудренее - buổi sáng minh mẫn hơn buổi chiều).

Cách 2 đƣợc sử dụng kết hợp với các từ chỉ số lƣợng (два ученика - 2

cậu học sinh, пять ручек - 5 cái bút), những từ chỉ số lƣợng bất định (много

заводов - nhiều nhà máy, несколько статьей - một số bài báo), những từ

chỉ mức độ đo lƣờng (литр молока - một lít sữa, стакан воды - một cốc

nước).

Trong các kết hợp với động từ, cách 2 đƣợc sử dụng để chỉ một phần

của số lƣợng (Выпей воды - uống nước đi, Налей молока - rót sữa ra), để

chỉ đối tƣợng sau động từ cập vật có từ phủ định (Не видел этой картины -

Tôi chưa nhìn thấy bức tranh này).

Cách 2 còn đƣợc sử dụng trong các câu vô nhân xƣng (Сегодня нет

собрания - Hôm nay không họp), dùng để chỉ ngày tháng (Они приехали

двадцать пятого августа - họ đến đây ngày 25 tháng 8).

Cách 2 có các giới từ đặc trƣng là без (thiếu, không có), близ (gần),

вдоль (dọc theo), вместо (thay cho), вне (ở ngoài), внутри (ở trong), возле

(ở cạnh, gần), вокруг (vòng quanh, chung quanh), для (để, cho, dành cho), до

(đến, tới), из (từ, ra khỏi), из-за (vì), из-под (từ dƣới), кроме (ngoài ra, trừ),

мимо (ngang qua, bỏ qua), накануне (trƣớc, ngày hôm trƣớc), от (từ, vì,

khỏi), около (gần), после (sau), посреди (ở giữa), против (đối diện, ngƣợc lại),

ради (vì), среди (giữa, trong số), у (ở bên, cạnh), с (từ, vì), между (giữa).

Nhƣ vậy, sinh cách (cách 2) cũng nhƣ các giới từ đặc trƣng ở cách 2

không thể hiện ý nghĩa chỉ công cụ một cách rõ ràng. Tuy nhiên, một số giới

từ ở cách 2 khi kết hợp với các danh từ chỉ công cụ thực hiện hành động, tạo

ra các giới ngữ thể hiện ý nghĩa công cụ trong câu. Các trƣờng hợp này sẽ

đƣợc chúng tôi khảo cứu cụ thể dƣới đây.

109

a. Giới từ из / с

Thông thƣờng, giới từ из ở cách 2 thƣờng đƣợc sử dụng để chỉ địa

điểm xuất phát của chuyển động; nguồn gốc xuất xứ của tƣ liệu; vật liệu làm

nên vật thể; bộ phận của một khối nguyên vẹn và để chỉ nguyên nhân. Còn

giới từ с ở cách 2 thƣờng thể hiện các quan hệ không gian, quan hệ thời gian,

nguyên nhân, cơ sở của hành động. Nhƣng xét về bản chất, những chất liệu

hay vật liệu đó cũng chính là các công cụ tạo tác, tác thành nên một vật khác,

tạo ra một công cụ khác để thực hiện một hành động hay một chức năng khác.

Xét các ví dụ sau:

- (195) В номере горящую керосиновую лампу вынули из

резервуара, в котором она висела над обеденным столом, и перенесли за

дощатую перегородку, вонявшую клопами, на другую половину номера.

[ДЖ: 41]

- (196) Вдруг нечеловеческим усилием Тиверзин стряхнул с себя

клубок навалившихся тел и, вырвавшись от них, с разбега очутился у

двери. [ДЖ: 24]

Trong 2 ví dụ trên, резервуар là công cụ chứa / đựng горящую

керосиновую лампу và разбег là cách / phƣơng thức mà nhờ đó hành động

очутился thực hiện đƣợc. Kiểm định bằng công cụ cách, chúng tôi thu đƣợc

các kết quả:

- (195’) В номере горящую керосиновую лампу вынули

резервуаром, в котором она висела над обеденным столом, и перенесли

за дощатую перегородку, вонявшую клопами, на другую половину

номера. (+)

- (196’) Вдруг нечеловеческим усилием Тиверзин стряхнул с себя

клубок навалившихся тел и, вырвавшись от них, разбегом очутился у

двери. (+)

110

Khi truyền tải ý nghĩa sang tiếng Việt, giới từ из / с thƣờng đƣợc dịch

tƣơng đƣơng với hƣ từ bằng / với hoặc đƣợc chuyển tải nghĩa bằng phƣơng

thức trật tự từ đã trình bày phía trên.

- (197) Phòng có hai gian, phân cách bằng một vách gỗ có mùi rệp.

Cây đèn dầu hoả treo phía trên bàn ăn ở gian ngoài đã được hạ xuống, mang

vào gian trong. [BSZh: 54]

- (198) Đột nhiên, bằng một cố gắng phi thường, Tiverzin gạt văng cả

chùm người đang bám chặt anh, tiện đà anh vọt ngay ra cửa. [BSZh: 30]

Phƣơng án dịch nhƣ trên của dịch giả Lê Khánh Trƣờng, theo chúng

tôi, khá chính xác, đảm bảo truyền đạt đƣợc nghĩa và sự tƣơng đƣơng về

phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong hai ngôn ngữ Nga - Việt.

Ý nghĩa công cụ thể hiện qua cấu trúc sử dụng giới từ из / с +

Родительный падеж (cách 2 – sinh cách) thƣờng đƣợc sử dụng trong lĩnh

vực quân sự nhƣ: стрелять из пушек, из лука, из автомата, из

пистолета, палить из всех видов оружия, «мочить» из всех калибров,

«завалить» из «калаша», поливать из водомета, ...; các trang thiết bị vật

tƣ nhƣ: изготовить из пластика, из смеси сверхпрочного

синтетического материала, из стали и стекловолокна, из натуральной

коэси, строить из дерева, сделать из подручных средств, испечь из

муки, ... стрелять из ружья (пулями), стрелять из лука (стрелами),

плести венок из цветов, поливать цветы из лейки (водой), пить из

стакана воду, опрыскивать растение химикатами из пульверизатора,

производить съемку с самолета (со спутника, с теплохода, заходить в

Интернет с компьютера, получать информацию со спутников,

самолетов, кормить ребенка с ложечки (кашей), ...

111

Nhƣ vậy, cách diễn đạt ý nghĩa công cụ sử dụng из / с +

Родительный падеж trong tiếng Nga có tồn tại. Điều này giúp chúng tôi có

thể khái quát hóa đƣợc nhƣ sau:

Глагол + с / из + Сущ.родительный падеж_инстр

=

Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр

Bảng 2.12: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ с / из

b. Giới từ от

Giới từ от (hay ото) ở cách 2 thƣờng thể hiện ý nghĩa chỉ địa điểm

xuất phát trong các mối quan hệ thời gian và địa điểm; ngƣời hoặc vật từ đó

hành động xuất phát và mang ý nghĩa chỉ nguyên nhân. Ngoài ra, ý nghĩa ngữ

pháp công cụ cũng đƣợc thể hiện qua cấu trúc sử dụng giới từ от +

Родительный падеж (cách 2 – sinh cách). Ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện

qua cấu trúc này thƣờng mang tính kết hợp giữa yếu tố công cụ với yếu tố địa

điểm, nhƣ: запитать от аккумулятора (sạc điện bằng ắc-quy), зарядить

от сети (sạc điện), колорировать от руки (tô màu), погибнуть от чьей-

либо руки (chết dưới / bằng bàn tay của ai), заполнять от руки (làm đầy

bằng tay), «вбивать» от руки (―lái‖ bằng tay), ... Khi chuyển dịch sang

tiếng Việt với ý nghĩa chỉ công cụ, giới từ от (hay ото) ở cách 2 thƣờng

tƣơng ứng với hƣ từ bằng, với, qua.

Глагол + от + Сущ.родительный падеж_инстр

=

Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр

Bảng 2.13: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ от

Ví dụ:

- (199) Противоречивые чувства теснились в груди у него. У

Юры сжималось сердце от их неиспытанной силы. [ДЖ: 42]

112

- (200) Những cảm xúc trái ngược nhau dâng lên trong ngực, dồn ép

trái tim cậu với một sức mạnh chưa từng thấy. [BSZh: 55]

- (201) От рыбака Юрий Андреевич узнал, что река, перед

которой он стоял, — знаменитая судоходная Рыньва, что

железнодорожная станция близ реки — Развилье, речное фабричное

предместье города Юрятина. [ДЖ: 144]

- (202) Qua lời người dân chài ấy, Zhivago được biết rằng chàng

đang đứng bên dòng sông Ryva trứ danh, tàu bè có thể đi lại dễ dàng, rằng

nhà ga kia tên là Razvilie, một vùng kỹ nghệ ven sông ở ngoại ô thành phố

Yuratin. [BSZh: 210]

c. Giới từ за счет

Giới từ за счет + Родительный падеж thƣờng thể hiện ý nghĩa

công cụ với tính chất là một loại tài sản, hàng hóa, vật chất có giá trị trao đổi:

ремонтировать за счет средств инвесторов (sửa đổi bằng vốn của các

nhà đầu tư), разбогатеть за счет собственного ума (làm giàu bằng trí

óc), погашать стоимость за счет личных средств (nâng giá trị bằng vốn

cá nhân), улучшать жилищные условия за счет города (cải thiện điều kiện

sống bằng ngân sách thành phố), умножить богатства за счет

бюджетных средств (làm giàu bằng ngân sách), ... ;

d. Giới từ с помощью, при помощи, посредством, путем, методом

- (203) Николай Николаевич жил в Лозанне. В книгах, выпущенных

им там по-русски и в переводах, он развивал свою давнишнюю мысль об

истории как о второй вселенной, воздвигаемой человечеством в ответ на

явление смерти с помощью явлений времени и памяти. Душою этих

книг было по-новому понятое христианство, их прямым следствием —

новая идея искусства. [ДЖ: 44]

113

- (204) Cha Nicolai đang sống ở Lozana. Trong những cuốn sách cha

đưa xuất bản tại đó, bằng tiếng Nga hay tiếng nước khác, cha đã phát triển tư

tưởng cố cựu của cha về lịch sử như về một vũ trụ thứ hai do loài người tạo

dựng, nhờ hai hiện tượng “thời gian” và “ký ức” để trả lời cho hiện tượng

“chết”. Linh hồn của các cuốn sách đó là Kitô giáo, được hiểu theo kiểu mới;

còn hậu quả trực tiếp của chúng là tư tưởng mới về nghệ thuật. [BSZh: 59]

- (205) Их общая цель есть свержение ненавистного народу

самодержавия адмиралов и атаманов и установление власти советов

крестьян и солдат посредством всенародного вооруженного

восстания. [ДЖ: 185]

- (206) Mục tiêu chung của họ là lật đổ ách chuyên chế của bọn đô đốc

và bọn ataman bị nhân dân thù ghét, thiết lập chính quyền Xô viết của nông

dân và binh lính, bằng một cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang. [BSZh: 273]

- (207) Путем добавочных настилов в мастерской были

выгаданы междуярусные антресоли. [ДЖ: 277]

- (208) Người ta dùng ván làm thêm một cái gác lửng giữa hai ngăn.

[BSZh: 412]

Nhƣ đã trình bày ở phía trên, các giới từ ở cách 2 không phải là những

giới từ đặc trƣng nhất thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga. Tuy nhiên,

cũng có vài giới từ ở cách 2 khi kết hợp với các danh từ chỉ công cụ thì cũng

thể hiện ý nghĩa công cụ. Khi chuyển dịch sang tiếng Việt, ngƣời học vẫn

thƣờng sử dụng hƣ từ bằng, bằng cách hoặc dùng phƣơng pháp trật tự từ với

các vị từ dùng, lấy ... để truyền tải ý nghĩa công cụ.

2.2.2.2. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện tặng

cách (cách 3)

114

Tặng cách (cách 3) đƣợc sử dụng khi kết hợp với danh từ, tính từ và

đặc biệt là với động từ. Cách 3 kết hợp với động từ hoặc danh từ để chỉ ngƣời

hoặc vật thể tiếp nhận hành động, ví dụ:

- (209) Вчера я писал письмо сестре. (Hôm qua tôi viết thư cho chị gái)

kết hợp với các động từ thể hiện sự vui mừng, ngạc nhiên, ...

- (210) Радоваться письму, успехами, хорошей погоде (mừng vì

có thư, vì những thành tích tốt, vì thời tiết tốt)

Cách 3 sử dụng trong câu vô chủ để chỉ ngƣời hành động hoặc trạng

thái của nhân vật hành động, ví dụ:

- (211) Вам нужно закончить работу в срок. (Anh phải hoàn thành

công việc đúng thời hạn).

Cách 3 kết hợp với hình thái chƣa chia của động từ để chỉ sự cần thiết

phải làm gì đó, ví dụ:

- (212) Всем сотрудникам собраться в 5 часов. (Tất cả cộng tác

viên tập trung vào lúc 5 giờ)

Cách 3 kết hợp với động từ vô chủ có tận cùng là -ся, kết hợp với hình

thái chƣa chia của động từ trong thành phần của vị ngữ tập hợp, ví dụ:

- (213) Ребенку не спится. (Đứa trẻ không ngủ được.)

- (214) Мне хочется поехать в горы. (Tôi muốn đi lên núi.)

Cách 3 kết hợp với các trạng từ dùng trong thành phần vị ngữ tập hợp,

trạng từ là từ phủ định, ví dụ:

- (215) Брату весело, сестре грустно. (Anh trai vui, chị gái buồn.)

- (216) Сегодня брату некуда идти. (Hôm nay anh trai chẳng có

nơi nào mà đi cả.)

Cách 3 dùng với một số tình từ, ví dụ:

- (217) Отец, верный своему обещанию, свдил сына в зоопарк.

(Người bố giữ đúng lời hứa, đã dẫn con trai đi vườn bách thú.)

115

- (218) Я вам очень благодарен. (Tôi rất biết ơn anh.)

Cách 3 dùng để nói về tuổi tác.

- (219) Брату 30 лет, сестре 28 лет, а мне 25 лет. (Anh trai 30

tuổi, chị gái 28 tuổi, còn tôi 25 tuổi.)

Về giới từ, cách 3 có các giới từ đặc trƣng sau: к (đến, tới), благодаря

(nhờ, nhờ có), согласно (theo), навстречу (về phía, đón gặp), наперекор

(trái với, ngược với), вопреки (trái với, bất chấp, mặc dù), по (theo, vì).

Tƣơng tự nhƣ ở cách 2, cách 3 và các giới từ ở cách 3 cũng không thể

hiện nhiều ý nghĩa công cụ hành động. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp

dƣới đây, vai nghĩa công cụ vẫn đƣợc thể hiện thông qua giới từ по và

благодаря.

a. Giới từ по

Giới từ по trong tiếng Nga mang ý nghĩa đặc trƣng chỉ chuyển động

theo bề mặt nào đó; thể hiện ý nghĩa vỗ (đánh) vào một vật thể nào đó; chỉ địa

điểm và sự dịch chuyển từ vị trí này sang vị trí khác; thể hiện ý nghĩa lặp đi

lặp lại nhiều lần vào một thời gian nhất định; thể hiện ý nghĩa chỉ nguyên

nhân, nghề nghiệp, chuyên môn; quan hệ thân thuộc gần gũi; thể hiện sự phân

chia vật theo từng ngƣời hoặc từng đơn vị nhỏ lẻ; ... Ý nghĩa công cụ thể hiện

qua giới từ по + дательный падеж (cách 3 – tặng cách) đƣợc sử dụng để

chỉ công cụ mang tính chỉ dẫn, kết nối qua dây, cách thức để thực hiện hành

động (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) nhƣ: по видеоплееру, по проводам, по

эскалатору, по кабелю, по рации, по лестнице-времянке, по телефону,

по телевизору,... Trong trƣờng hợp này, chúng ta cần mặc định hiểu rằng,

các hệ thống kết nối, thông tin liên lạc, truyền dẫn, thiết bị liên lạc, thiết bị

nghe nhìn ... là công cụ phục vụ cho đời sống hàng ngày của con ngƣời, tuy

nó có thể không đƣợc thể hiện ra bằng ngôn ngữ nhƣng vai trò là một công cụ

thì không cần phải bàn luận nhiều: передать по электронной почте, по

116

спутниковому сигналу, по Сети, по Интернету, разыскивать по базам

данных, отправить по почте, ехать по железной дороге, ... Số lƣợng các

thiết bị, công cụ trong lĩnh vực vô tuyến, truyền hình, phát thanh, truyền dẫn,

mạng internet, mạng xã hội, số hóa, ... có thể sẽ liên tục tăng lên do sự phát

triển của khoa học công nghệ hiện đại, tuy nhiên, cách thức thể hiện ý nghĩa

công cụ thông qua việc sử dụng giới từ по + дательный падеж thì vẫn đƣợc

giữ nguyên. Ngoài ra, ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện qua по + дательный

падеж còn đƣợc dùng để chỉ những vật dụng mang tính chất đo lƣờng, tính

toán nhƣ: начертить отрезок по линейке, играть пьесу по нотам,...

Chúng tôi vẫn sử dụng cách công cụ là phƣơng tiện để kiểm định lại và kết

quả thu đƣợc là: Говорить видеоплеером, проводами, эскалатором,

кабелей, рацией, лестнице-времянкой, телевизором, передать

электронной почтой, спутниковым сигналом, Сетями, Интернетом,

разыскивать базами данных, отправить почтой, ехать железной

дорогой, начертить отрезок линейкой, играть пьесу нотами,

разговаривать телефоном, ... Trong tác phẩm Bác sĩ Zhigavo, theo thống

kê của chúng tôi, giới từ по ở tặng cách (cách 3) xuất hiện 519 lần, trong đó,

ý nghĩa công cụ thể hiện qua giới từ по xuất hiện 50 lần (khoảng 10%) - một

tần suất không nhỏ.

- (220) Остроградского, то есть глухонемым, с невероятным

совершенством выучившимся говорить не по слуху, а на глаз, по

движению горловых мышц учителя, и таким же образом понимавшим

речь собеседника. [ДЖ: 277]

- (221) Ostrogadski, nghĩa là một người câm điếc đạt đến kết quả khó

tưởng tượng trong việc học nói không phải nhờ tai nghe, mà bằng cách

nhìn các cử động bắp thịt ở cổ của thầy dạy, và qua đó hiểu được lời nói của

người tiếp chuyện. [BSZh: 138]

117

- (222) Это наполняло ее ровным шумом, точно перед Иваном

Ивановичем и Николаем Николаевичем вдоль изгороди текла вода по

трубе. [ДЖ: 12]

- (223) Cứ mỗi bước đi, từng bầy chim sẻ từ trong các bụi tú cầu lại

bay ra trước mặt họ thành từng đợt đều đều, tạo nên tiếng rào rào không

ngớt, nghe như tiếng nước chảy trong cái ống máng đặt dưới chân giậu.

[BSZh: 13]

Nhƣ vậy:

Глагол + по + Сущ.дательный падеж_инстр

=

Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр

Bảng 2.14: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ по

b. Giới từ благодаря

Giới từ благодаря là giới từ đặc trƣng chỉ có ở cách 3. Ý nghĩa công

cụ thể hiện qua cấu trúc sử dụng giới từ благодаря + Дательный падеж

(cách 3 – tặng cách) thƣờng đƣợc sử dụng khi công cụ là tác nhân mà nhờ đó

một vật thể, một thiết bị nào đó hoạt động đƣợc, vận hành đƣợc, một hoạt

động nào đó đƣợc thực hiện, ví dụ nhƣ: благодаря железякам, благодаря

электроусилителю, благодаря конструкции, благодаря огромной силе,

благодаря Интернету, благодаря русскому року благодаря применению

цифровой технологии, благодаря упорной настойчивости, благодаря

автоматической настройке, благодаря многочасовым репетициям,

благодаря язвительным словоизвержениям, ...

Глагол + благодаря + Сущ.дательный падеж_инстр

=

Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр

Bảng 2.15: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ благодаря

118

- (224) Благодаря фисташковым гардинам, зеркальным бликам

на крышке рояля, аквариуму, оливковой мебели и комнатным

растениям, похожим на водоросли, этот низ производил впечатление

зеленого, сонно колышущегося морского дна. [ДЖ: 37]

- (225) Với những cái màn gió màu xanh, chiếc dương cầm bóng

lộn, bể nuôi cá vàng, đồ gỗ màu ôliu và những cây cảnh giống như rong

biển, tầng dưới tạo ra ấn tượng một vùng đáy biển xanh xanh với những

luồng nước chập chà chập chờn ru ngủ. [BSZh: 49]

- (226) Не потому чтобы он был так высок и статен, а

благодаря выпиравшей из него живости и таланту гость занял

собою, своим искрящимся взглядом и своей умною усмешкою

полкомнаты. В ней стало теснее. [ДЖ: 59]

- (227) Vị khách chiếm hết nửa căn phòng bằng cái nhìn rạng rỡ và

nụ cười thông minh, không phải vì tầm vóc cao lớn, mà là nhờ tài năng và sự

hoạt bát của ông. [BSZh: 82]

Trong số các giới từ ở cách 3 có thể hiện ý nghĩa công cụ, giới từ

благодаря mang ý nghĩa rõ nét hơn cả. Giới từ này, khi chuyển dịch sang

tiếng Việt, có thể tƣơng đƣơng với hƣ từ nhờ, nhờ vào, nhờ có, với, ... nhƣ đã

trình bày ở 2.1. Giới từ по cũng có thể tƣơng đƣơng với hƣ từ qua, trong của

tiếng Việt. Nhƣ vậy, có sự tƣơng ứng giữa giới từ ở cách 3 trong tiếng Nga và

hƣ từ trong tiếng Việt để thể hiện ý nghĩa công cụ. Điểm khác biệt vẫn là ở

chỗ: trong tiếng Nga, sau giới từ, các danh từ bắt buộc phải biến đổi hậu tố ở

cách 3 theo quy luật biến đổi danh từ, còn trong tiếng Việt, danh từ vẫn không

thay đổi gì về hình thái.

2.2.2.3. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện đối

cách (cách 4)

119

Đối cách (cách 4) kết hợp với động từ cập vật để chỉ đối tƣợng mà

hành động hƣớng tới, kết hợp với động từ để chỉ hành động bao trùm lên một

thời gian nhất định, một khoảng không gian nhất định. Cách 4 cũng có khá

nhiều các giới từ đặc trƣng nhƣ giới từ про (về), сквозь (qua, xuyên qua),

через (qua), в (đến, tới, vào, trong), на (đến, tới), за (ra phía sau, để, vì), под

(xuống phía dưới), по, с (bằng), о (vào). Trong số các giới từ này, chỉ một số

giới từ sau đây khi kết hợp với các danh từ chỉ công cụ mới tạo ra ý nghĩa

công cụ trong tiếng Nga.

a. Giới từ через

Ngoài ý nghĩa chỉ không gian và thời gian, ý nghĩa nổi bật của giới từ

через là thông qua ai hoặc nhờ vào cái gì đó để hành động đƣợc thực hiện. Ý

nghĩa công cụ thể hiện khá rõ qua giới từ này. Công cụ trong trƣờng hợp này

thƣờng là các thiết bị kết nối của công nghệ hiện đại nhƣ подключиться

через сетевой шнур, через адаптер, через адаптер Bluetooth, ...; các thiết

bị nghe nhìn nhƣ: смотреть через объектив, через закопченное стекло,

через мушку прицела, через лупу, через сильный телескоп, через

фотообъектив, ...; các môi trƣờng ảo mang tính chất trung gian nhƣ:

отправить через Сеть, продавать через Веб-сеть, через Интернет,

оформить через Интернет-сайт, ...; ngƣời hay nhóm ngƣời đƣợc coi nhƣ

cầu nối trong giao tiếp nhƣ: поддерживать связь через друзей, донести

истины через героев, раздобыть через верных друзей, рассказать через

реальных людей, скупить через близких людей, ... ; các cơ quan, tổ chức

đóng vai trò trung gian hoạt động giữa con ngƣời với con ngƣời, giữa con

ngƣời với các tổ chức và giữa các tổ chức với nhau nhƣ: прикрепиться через

страховые компании, расплатиться через Сбербанк, бронировать через

турфирмы, оформить через отдел подписки, заказать через пункт

коллективного доступа, заявить через Интернет-магазин, поддержать

120

через фонд «Триумф», получить через учреждение, осуществлять через

органы народного представительства, защищать через суд, ...

просенять муку через сито, налить раствор в колбу через воронку,

рассматривать местность через бинокль, говорить через микрофон,

демонстрировать слайды через диапроектор,…

Để kiểm định, chúng ta sử dụng cách công cụ không đi kèm giới từ,

chỉ biến đổi vĩ tố của thành phần bổ ngữ sang cách công cụ, bỏ giới từ через,

chúng ta vẫn có đƣợc các cách nói hoàn toàn mới (hình thức ngữ pháp thay

đổi) và nghĩa không thay đổi: подключиться сетевым шнуром,

адаптером, адаптером Bluetooth, смотреть объективом, закопченное

стеклом, мушкой прицела, лупой, сильным телескопом,

фотообъективом, отправить Сетями, продавать Веб-сетями,

Интернетом, оформить Интернетом-сайтом, поддерживать связь

друзями, донести истины героями, раздобыть верными друзями,

рассказать реальными людями, скупить близкими людями,

прикрепиться страховыми компаниями, расплатиться Сбербанком,

бронировать турфирмом, оформить отделом подписки, заказать

пунктом коллективного доступа, заявить Интернет-магазином,

поддержать фондом «Триумф», получить учреждениями,

осуществлять органами народного представительства, защищать

судом, просеять муку ситом, налить раствор в колбу воронкой,

рассматривать местность биноклями, говорить микрофоном,

демонстрировать слайды диапроектором, ... Trong tác phẩm Bác sĩ

Zhigavo, giới từ через xuất hiện 145 lần, trong đó có 15 lần mang ý nghĩa chỉ

công cụ thực hiện hành động. Khi chuyển dịch sang tiếng Việt với ý nghĩa chỉ

công cụ, giới từ через thƣờng tƣơng ứng với các hƣ từ qua, thông qua.

121

- (228) Вы не поверите, что этой мебели, этих шкапов-буфетов,

через наши руки прошло в смысле лака или, наоборот, какое дерево

красное, какое орех. [ДЖ: 42]

- (229) Nói bà không tin, chứ chả thiếu gì các loại bàn ghế, tủ quần

áo, tủ buýp phê, đã qua tay cháu, ấy là nói chuyện đánh véc-ni hoặc phân

biệt đâu là gỗ hồng sắc, đâu là gỗ hồ đào. [BSZh: 57]

- (230) Этот союз городской и деревенской бедноты осуществим

только через советы. [ДЖ: 185]

- (231) Khối liên minh ấy giữa dân nghèo thành thị và nông thôn chỉ

có thể thực hiện được thông qua các Xô viết. [BSZh: 273]

Nhƣ vậy, có thể rút ra đƣợc kết luận sau:

Глагол + через + Сущ.винительный падеж_инстр

=

Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр

Bảng 2.16: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ через

b. Giới từ за

Ngoài những cấu trúc có sử dụng các giới từ ở các cách nhƣ đã trình

bày ở trên, trong tiếng Nga cũng còn có một vài giới từ khác cũng tham gia

tạo nên nét nghĩa công cụ, tuy đƣợc sử dụng rất hạn chế nhƣng cũng đủ làm

phong phú thêm cho phƣơng thức sử dụng giới từ để thể hiện ý nghĩa công cụ,

chẳng hạn nhƣ các giới từ за, за счет, о, при, ... Giới từ за + Винительный

падеж thƣờng chỉ dùng hạn chế với danh từ nhƣ деньги và biến danh từ

деньги trở thành một công cụ để thanh toán, đặt hàng, mua bán, trao đổi, giải

quyết các công việc, ví dụ nhƣ: купить за деньги, заказать за деньги,

урегулировать за деньги, решить вопрос за деньги, ... Ngoài ra, trong một

số trƣờng hợp cụ thể khác, giới từ за cũng đƣợc dùng với tƣ cách là một

phƣơng tiện ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga, ví dụ:

122

- (232) Все, кроме Татьяны и нескольких солдат, обступили

возницу, упрашивая его не распрягать, и повезти их, куда они укажут,

конечно, за деньги. [ДЖ: 294]

- (233) Tất cả mọi người, trừ Tania và mấy anh chiến sĩ, liền vây

quanh bác ta, nài nỉ bác ta đừng tháo ngựa ra,mà hãy chở họ đến nơi họ cần,

họ sẽ trả bằng tiền tử tế, đương nhiên. [BSZh: 438]

- (234) ... физически разрешимые задачи, вознаграждающие за

исполнение радостью и удачей ... [ДЖ: 163]

- (235) ... được thưởng công bằng niềm vui và kết quả rõ rệt ...

[BSZh: 238]

- (236) ... она и взяла его за руку, чтобы сосчитать пульс [ДЖ: 77]

- (237) Nàng cầm lấy tay anh ta bắt mạch ... [BSZh: 108]

c. Giới từ в, на

Ý nghĩa chính của giới từ в, на + Винительный падеж là thể hiện

phƣơng hƣớng của chuyển động. Bên cạnh đó, trong một số trƣờng hợp cụ

thể, đứng sau một số động từ, kết cấu này cũng mang nét nghĩa chỉ công cụ

thực hiện hành động, chẳng hạn nhƣ: ловить рыбу на удочку, набрать

петли на спицы, закутаться в одеяло, ...

- (238) Остроградского, то есть глухонемым, с невероятным

совершенством выучившимся говорить не по слуху, а на глаз, по

движению горловых мышц учителя, и таким же образом понимавшим

речь собеседника. [ДЖ: 98]

- (239) Ostrogadski, nghĩa là một người câm điếc đạt đến kết quả khó

tưởng tượng trong việc học nói không phải nhờ tai nghe, mà bằng cách nhìn

các cử động bắp thịt ở cổ của thầy dạy, và qua đó hiểu được lời nói của

người tiếp chuyện. [BSZh: 138]

123

- (240) Другая, в черной шелковой кофте, вероятно, страдала

грудью, потому что почти не отнимала носового платка от рта и

носа, говорила и дышала в платок. [ДЖ: 169]

- (241) Cô thứ hai mặc áo sơ mi lụa đen, chắc chắn bị bệnh đau ngực,

và hầu như lúc nào cũng áp chiếc khăn tay vào miệng và mũi, nói và thở đều

qua chiếc khăn. [BSZh: 248]

- (242) Всем существом своим он хотел схватить мальчика на

руки, прижать к груди и бежать с ним без оглядки куда глаза глядят.

[ДЖ: 227]

- (243) Lòng đau như cắt, Zhivago muốn lấy hết sức bình sinh bồng

con lên, ghì nó vào lòng mà chạy thục mạng đến bất cứ đâu. [BSZh: 336]

Giới từ ở cách 4 khá nhiều, nhƣng để thể hiện ý nghĩa công cụ trong

tiếng Nga thì chỉ có một vài giới từ, tiêu biểu nhất là giới từ через. Giới từ

này có nét nghĩa tƣơng đồng với hƣ từ qua, thông qua nhƣ đã trình bày ở

phần 2.1.1.2

2.2.2.4. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện giới

cách (cách 6)

Giới cách (cách 6) là cách bắt buộc phải dùng với giới từ. Giới từ chỉ

dùng ở cách 6 là при (khi, gần). Bên cạnh đó, cách 6 còn có một số giới từ

chung với các cách khác nhƣ в (ở, trong, vào), на (ở, trên), о (về), по (sau

khi). Trong số các giới từ trên, chỉ có giới từ на và в mang ý nghĩa chỉ công

cụ khi kết hợp với các danh từ mang tính chất là phƣơng tiện di chuyển của

ngƣời hoặc vật.

a. Giới từ на

Cấu trúc với giới từ на + предложный падеж (cách 6 – giới cách)

trong tiếng Nga đƣợc sử dụng tƣơng đối phổ biến để thể hiện ý nghĩa ngữ

pháp công cụ, trong đó, chủ yếu chỉ các công cụ với tƣ cách là các phƣơng

124

tiện di chuyển, vận chuyển, vận tải của con ngƣời, ví dụ nhƣ: лететь на

самолете (đi máy bay), плыть на теплоходе (đi tàu), кататься на лыжах

(trượt tuyết), подъехать на танке (lái xe tăng), ехать в автобусе (đi xe

buýt), пахать поле на тракторе (cày ruộng bằng máy cày), косить траву

на косилке (cắt cỏ bằng máy), спускаться на парашюте (nhảy dù), вязать

на спицах (đan)...

- (244) Надо будет вдвоем на салазках. [ДЖ: 86]

- (245) Phải hai người mới đẩy nổi một chiếc xe bằng ván trượt.

[BSZh: 167]

- (246) Если бы где-то вдали, на краю света, чудом затеплилось

окно нашего дома с лампою и книгами на Пашином письменном столе,

я бы, кажется, на коленях ползком приползла туда. [ДЖ: 233]

- (247) Giả dụ ở một nơi xa xăm nào đó, tận cùng trời cuối đất, nhờ

một phép lạ, chợt le lói ánh đèn cửa sổ nhà em, soi xuống các cuốn sách trên

bàn viết của Pasa, thì có lẽ em sẽ tới đó, dù phải bò lết bằng hai đầu gối.

[BSZh: 346]

Ngoài ra, cấu trúc на + предложный падеж còn đƣợc dùng để chỉ ý

nghĩa công cụ với tƣ cách là các nhạc cụ, thiết bị máy móc giúp con ngƣời

làm việc và lao động nhƣ: играть на контрабасе (chơi ghita bass),

обрабатывать на компьютере (xử lí trên máy tính), шить на швейной

машинке (may bằng máy khâu), распечатывать на ксероксе (photocopy),

зиписывать на цифровой видеомагнитофон (ghi CD), снимать на

кинокамеру (quay phim, video), ...

- (248) В ней ставили самовары, раскладывали по тарелкам

кушанья, поднятые из кухни на ручном подъемнике, спускали грязную

посуду судомойке. [ДЖ: 86]

125

- (249) Đây là nơi đặt các ấm samova, dọn vào bát đĩa các món ăn từ

dưới nhà bếp chuyển lên bằng một cái cần trục quay tay, chuyển bát đĩa bẩn

xuống để rửa. [BSZh: 122]

Cấu trúc на + предложный падеж còn hay đƣợc sử dụng trong hoạt

động lao động sản xuất với tính chất là công cụ đầu vào giúp các loại máy

móc hoạt động đƣợc nhƣ: работать на жидком кислороде, керосине,

бензине, на газовом топливе, ... (hoạt động nhờ oxy hóa lỏng, xăng, dầu,

khí ga)

Việc sử dụng cấu trúc sử dụng giới từ на + предложный падеж trên

thực tế hoàn toàn có thể đƣợc thay thế bằng cách công cụ mà không cần giới

từ nào nhƣ:

- вдвоем на салазках = вдвоем салазками

- на ручном подъемнике = ручным подъемником

- подниматься на эскалаторе = подниматься эскалатором

- спуститься на парашюте = спуститься парашютом,

- обработать на компьютере = обработать компьютером, ...

Việc sử dụng giới cách hay công cụ cách trong trƣờng hợp này hoàn

toàn phụ thuộc vào sự linh hoạt và khả năng ngôn ngữ của ngƣời biết tiếng

Nga cả ở góc độ là ngƣời bản ngữ hoặc là ngƣời học ngoại ngữ. Nhƣ vậy:

Глагол + на + Сущ.предложный падеж_инстр

=

Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр

Bảng 2.17: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ на

b. Giới từ в

Ý nghĩa công cụ cũng đƣợc thể hiện thông qua việc sử dụng giới từ в

+ Предложный падеж (cách 6 – giới cách). Cấu trúc này thƣờng đƣợc

dùng để mô tả các tình huống có yếu tố công cụ nhƣ: рассматривать в

126

специальный бинокль, сжимать в руках портфель, брать в руки

деньги,... Đôi khi, dạng thức này có thể đƣợc thay thế bằng dạng thức với

giới từ на + предложный падеж hoặc đƣợc thể hiện trực tiếp bằng cách

công cụ mà không sử dụng giới từ nào để thể hiện công cụ là một phƣơng tiện

vận tải: инеалидной коляске, в спецфургоне, в микроавтобусе, перевозить

в спецфургоне / перевозить спецфургоном, ехать инвалидной коляске,

ехать инвалидной коляской, ... взбить белки в миксере, мыть посуду в

резиновых перчатках, читать книгу в очках, плавать в ластах, ...

Глагол + в + Сущ.предложный падеж_инстр

=

Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр

Bảng 2.18: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ в

Ví dụ:

- (250) Ты как-то превратно, недобрыми глазами смотришь на

меня, ты видишь меня искаженно, как в кривом зеркале. [ДЖ: 241]

- (251) Anh cứ nhìn em bằng con mắt ác ý, sai thực tế, anh thấy em

méo mó như nhìn qua một chiếc gương cười. [BSZh: 357]

- (252) Знакомое, перебеленное в новых видоизменениях было

записано чисто, каллиграфически. [ДЖ: 254]

- (253) Loại bài cũ được sửa chữa, được chép lại sạch sẽ bằng nét

chữ nắn nót. [BSZh: 278]

c. Giới từ при

Giới từ при + Предложный падеж thể hiện công cụ nhƣ một điều

kiện để trao đổi, hay mang tính quá trình, nhƣ: обмен электронным

визиткам при рукопожатии, ... Để thể hiện ý nghĩa công cụ, giới từ при

dùng rất hạn chế. Khi chuyển dịch sang tiếng Việt, giới từ при thƣờng đƣợc

dịch là trong điều kiện.

127

- (254) Если вы спалили еще не все мои свечи — прекрасные,

стеариновые, не правда ли? — давайте поговорим еще чуть-чуть.

Давайте проговорим сколько вы будете в состоянии, со всею роскошью,

ночь напролет, при горящих свечах. [ДЖ: 265]

- (255) Nếu ông chưa đốt hết các cây nến của tôi, những cây nến thật

tuyệt, bằng bạch lạp chính hiệu, phải vậy không ông, thì ta hãy trò chuyện

chừng nào ông còn chịu đựng được, với tất cả sự xa xỉ, suốt đêm, dưới ánh

nến. [BSZh: 394]

- (256) Что от вида раненых можно упасть в обморок, он

проверил на себе при поездке в летучий отряд Красного Креста,

который работал к западу от них, на полевом перевязочном пункте

почти у самых позиций. [ДЖ: 72]

- (257) Về chuyện có thể ngất đi khi nhìn thấy thương binh, anh đã

nghiệm thấy qua chính bản thân mình, qua chuyến thăm một chi đội lưu

động của Hội chữ thập đỏ đang hoạt động xa hơn về phía Tây, tại một trạm

cứu thương đặt gần tiền duyên. [BSZh: 101]

Ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện rõ nét nhất ở giới cách là khi kết hợp

với giới từ на. Sự kết hợp giữa giới từ на và giới cách để thể hiện ý nghĩa chỉ

công cụ xuất hiện khá phổ biến trong tiếng Nga. Đặc biệt, khi thể hiện cách

thức di chuyển trên một phƣơng tiện giao thông, xu hƣớng sử dụng kết hợp

này còn nhiều hơn cả cách công cụ. Giới từ на kết hợp với giới cách có sự

tƣơng đƣơng về nghĩa với hƣ từ trên của tiếng Việt trong việc thể hiện ý

nghĩa công cụ.

Nhƣ vậy, ngoài cách công cụ và các giới từ ở cách công cụ, trong

tiếng Nga vẫn còn nhiều phƣơng tiện khác biểu đạt ý nghĩa công cụ. Đó là các

giới từ ở các cách không phải là cách công cụ. Các giới từ này tƣơng đƣơng

về nghĩa với các hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt. Điều này tạo

128

ra những thuận lợi nhất định đối với ngƣời học hai ngôn ngữ Việt và Nga với

tƣ cách là các ngoại ngữ. Cách sử dụng giới từ ở tiếng Nga phức tạp hơn so

với cách sử dụng hƣ từ của tiếng Việt trong việc biểu đạt ý nghĩa công cụ do

phải biến đổi vĩ tố theo các cách tƣơng ứng. Đây là đặc trƣng riêng có của các

ngôn ngữ xlavơ nói chung và tiếng Nga nói riêng do tính chất loại hình của

các ngôn ngữ này. Tuy nhiên, xét về mặt nghĩa, xét về nội dung biểu hiện, các

cặp giới từ - hƣ từ này luôn có điểm tƣơng đồng, có tính tƣơng đƣơng về

nghĩa. Có thể kết luận rằng, sự thể hiện ý nghĩa công cụ trong hai ngôn ngữ

Việt - Nga vừa có điểm tƣơng đồng vừa có những điểm dị biệt. Điểm tƣơng

đồng ở đây là: cả hai ngôn ngữ đều sử dụng phƣơng thức hƣ từ để thể hiện ý

nghĩa công cụ. Các hƣ từ này trong cả hai ngôn ngữ có tính tƣơng đƣơng về

nghĩa. Điểm khác biệt ở đây là ở cách sử dụng: giới từ trong tiếng Nga thể

hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ phức tạp hơn vì giới từ chỉ công cụ không chỉ

xuất hiện ở cách công cụ mà còn có mặt ở hầu hết các cách còn lại. Khi kết

hợp với các giới từ ở các cách khác nhau, các danh từ buộc phải có sự biến

đổi hậu tố tƣơng ứng với cách mà giới từ đó đòi hỏi. Điều này hoàn toàn

không xảy ra trong tiếng Việt. Đây là nguyên nhân tạo ra một số lỗi trong quá

trình thụ đắc tiếng Việt, tiếng Nga với tƣ cách là ngoại ngữ.

129

TIỂU KẾT

Trên cơ sở khung lí thuyết đã trình bày ở chƣơng trƣớc, trong chƣơng II

này, chúng tôi đã khảo sát và miêu tả ý nghĩa công cụ và các phƣơng tiện,

phƣơng thức thể hiện ý nghĩa này trong tiếng Việt và tiếng Nga. Kết quả thu

đƣợc nhƣ sau:

Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, từ không biến đổi hình

thái nên mọi ý nghĩa ngữ pháp đều đƣợc thể hiện bằng con đƣờng từ vựng, ý

nghĩa công cụ cũng không phải là ngoại lệ. Ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt,

trƣớc tiên, đƣợc thể hiện bằng phƣơng thức hƣ từ là chủ yếu. Các hƣ từ thƣờng

đƣợc dùng để thể hiện ý nghĩa công cụ là: bằng, với, nhờ (vào), dựa (vào,

theo), căn cứ (vào, theo), bởi, trên, trong, qua (thông qua), trong đó, hƣ từ

bằng đƣợc sử dụng với tần suất cao nhất.

Ngoài phƣơng thức ngữ pháp chính là sử dụng hƣ từ, ý nghĩa công cụ

còn đƣợc thể hiện bằng các thực từ thông qua kết cấu với vị từ dùng / lấy.

Đây cũng là một phƣơng thức khá điển hình đối với loại hình ngôn ngữ đơn

lập nhƣ tiếng Việt.

Ý nghĩa công cụ còn đƣợc biểu hiện qua các nét nghĩa tiền giả định

công cụ của các thực từ (ở đây là các vị từ hành động). Trƣờng từ vựng này

chiếm một số lƣợng tƣơng đối lớn trong tiếng Việt.

Tiếng Việt và tiếng Nga tuy là hai ngôn ngữ khác loại hình nhau

nhƣng cũng có một phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ chung, đó là sử

dụng hƣ từ. Đáng chú ý là các hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ trong hai ngôn

ngữ khá giống nhau về mặt nghĩa, tạo đƣợc những cặp tƣơng ứng 1 - 1 khá

thú vị. Điều này giúp cho quá trình học, nghiên cứu ngôn ngữ và dịch thuật

giữa hai ngôn ngữ khá thuận lợi.

Trong tiếng Nga, phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ chủ

yếu vẫn là thông qua cách công cụ (cách 5). Tuy nhiên, cách công cụ không

phải lúc nào cũng thể hiện ý nghĩa công cụ và ý nghĩa công cụ không phải lúc

130

nào cũng chỉ đƣợc thể hiện bằng cách công cụ. Cách công cụ trong tiếng Nga

còn thể hiện ý nghĩa ngƣời cùng hành động, ngƣời cộng tác, … và ý nghĩa

ngữ pháp công cụ còn có thể đƣợc thể hiện bằng các giới từ ở các cách khác

nhau, nhƣ các giới từ из, с, от, по, о, через, сквозь, с, под, в, на, с

помощью, при помощи, посредством, ... Nhƣ vậy ở đây có sự bất tƣơng

xứng trong cách thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ ở tiếng Nga.

Cách công cụ có hai dạng thức để thể hiện ý nghĩa công cụ. Một là, sử

dụng phƣơng thức hậu tố, tức là bằng các danh từ biến đổi trực tiếp sang cách

công cụ (cách 5) mà không cần giới từ. Hai là, kết hợp cả việc sử dụng giới từ (с

và под) và biến đổi hậu tố của danh từ ở dạng thức cách công cụ.

Phƣơng thức sử dụng hƣ từ (cụ thể là giới từ ở các cách khác) kết hợp

với biến đổi vĩ tố của danh từ ở các cách tƣơng ứng để thể hiện ý nghĩa công

cụ cũng là một phƣơng thức ngữ pháp đƣợc sử dụng rộng rãi trong tiếng Nga.

Tất cả các cách đều có các giới từ tƣơng ứng thể hiện (có thể ít hoặc nhiều) ý

nghĩa ngữ pháp công cụ nhƣ: с помощью, при помощи, посредством, в, на,

по, благодаря, через, под, о, с, от, из, ... Số lƣợng các danh từ đi sau các

giới từ này có thể đƣợc tăng lên theo thời gian do sự xuất hiện ngày càng

nhiều từ mới, từ vay mƣợn tiếng nƣớc ngoài dƣới tác động của các cuộc cách

mạng khoa học kỹ thuật, tuy nhiên, cách thức kết hợp giữa các danh từ đó với

các giới từ là không thay đổi, các danh từ ở trƣờng ngữ nghĩa nào sẽ thƣờng

chỉ kết hợp với những giới từ hay đi kèm và ít nhiều do vị từ chi phối.

Phƣơng thức sử dụng giới từ kết hợp với biến đổi hậu tố ở các cách

khác nhau (trừ chủ cách) để thể hiện ý nghĩa công cụ có nhiều điểm tƣơng

đồng với phƣơng thức hƣ từ trong tiếng Việt. Chúng ta dễ dàng có thể tìm

kiếm đƣợc các cách thức chuyển nghĩa tƣơng đƣơng nhau trong hai ngôn ngữ.

Đây là sự thuận lợi trong việc nắm vững cách sử dụng một số hƣ từ mang

nghĩa công cụ trong cả hai ngôn ngữ.

131

CHƢƠNG 3

Ý NGHĨA CÔNG CỤ VỚI VAI NGHĨA CÔNG CỤ

TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA

Nhƣ đã trình bày trong chƣơng I, ý nghĩa ngữ pháp công cụ có liên

quan mật thiết đến vai nghĩa công cụ. Ý nghĩa ngữ pháp công cụ và vai nghĩa

công cụ là hai mặt của một vấn đề: là mặt hình thức biểu hiện và nghĩa. Mặc

dù ý nghĩa ngữ pháp công cụ, về mặt nguyên tắc, biểu hiện vai nghĩa công cụ,

nhƣng trong rất nhiều trƣờng hợp ở nhiều ngôn ngữ, vai nghĩa công cụ không

đƣợc thể hiện bằng các phƣơng thức hay phƣơng tiện ngữ pháp công cụ, ví dụ

nhƣ phƣơng thức hƣ từ, phƣơng tiện giới từ (giới từ c trong tiếng Nga, giới từ

with hay by trong tiếng Anh), phƣơng tiện hƣ từ (hƣ từ bằng, với,…trong

tiếng Việt). Ý nghĩa ngữ pháp mang tính hình thức, là vấn đề của hình thái

học, còn vai nghĩa công cụ đƣợc xem xét ở góc độ ngữ nghĩa (tức là mặt nội

dung) và đƣợc xem xét với tƣ cách là một tham thể của vị từ. Xu hƣớng

nghiên cứu câu hiện nay trong ngôn ngữ học không chỉ dừng lại ở việc nghiên

cứu cấu trúc, mà còn tập trung nghiên cứu về các hoạt động hành chức của

câu. Nghĩa là, việc phân tích câu phải đồng thời đƣợc triển khai trên cả ba

bình diện là: ngữ pháp - ngữ nghĩa - ngữ dụng. Việc nghiên cứu ý nghĩa ngữ

pháp công cụ trong câu (đối với tiếng Việt và tiếng Nga) cũng phải đặt trong

mối quan hệ tổng thể là phân tích câu và ở trên cả ba bình diện này. Trong

chƣơng II chúng tôi đã tiến hành miêu tả, mô hình hóa và phân tích các

phƣơng thức, phƣơng tiện thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng

Nga. Trong chƣơng tiếp theo này, chúng tôi sẽ trình bày những đặc trƣng ngữ

nghĩa hình thức của vai nghĩa công cụ trên bình diện nghĩa (nghĩa miêu tả),

mặt khác, đồng thời triển khai nghiên cứu khả năng hiện thực hóa của vai

nghĩa công cụ trong vai trò các chức năng cú pháp của câu. Tham thể công cụ

trong cấu trúc nghĩa sẽ đƣợc lựa chọn và hiện thực hóa thành các thành phần

132

ngữ pháp khác nhau của câu nhƣ bổ ngữ, trạng ngữ, chủ ngữ, đề ngữ. Sự ngữ

pháp hóa cụ thể nhƣ thế nào phụ thuộc vào nhu cầu giao tiếp, vào vai trò

thông báo trong từng hoàn cảnh giao tiếp của tham thể công cụ. Do bị hạn chế

về dung lƣợng nên trong luận án này, chúng tôi chỉ khảo sát chức năng cú

pháp của vai nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt. Vấn đề khảo sát tƣơng tự

trong tiếng Nga sẽ đƣợc thực hiện trong những công trình tiếp theo do tính

chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu.

3.1. Sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt

3.1.1. Dẫn nhập

Ngữ pháp chức năng rất coi trọng vai trò giao tiếp của ngôn ngữ, coi

câu là đơn vị ngôn ngữ đƣợc con ngƣời trực tiếp sử dụng làm phƣơng tiện

giao tiếp. Vì vậy, ngữ pháp chức năng chú ý nghiên cứu nhiều ở bậc câu với

bình diện nghĩa và bình diện ngữ pháp. Ở bình diện nghĩa, ngữ pháp chức

năng cho rằng, câu phản ánh một sự việc (một sự tình) trong thực tế khách

quan và sự việc ấy luôn đƣợc tổ chức thành cấu trúc (cấu trúc vị từ - tham

thể). Trong cấu trúc này, vị từ giữ vai trò trung tâm ấn định số lƣợng và thuộc

tính cho các tham thể. Ngƣợc lại, các tham thể cũng giữ vai trò rất quan trọng.

Các tham thể là điều kiện tồn tại của vị từ, bởi vì, chỉ đặt trong mối quan hệ

với tham thể, các vị từ mới xác định đƣợc cƣơng vị của mình.

Vai nghĩa công cụ là một tham thể trong cấu trúc vị từ - tham thể ở

bình diện nghĩa. Bình diện nghĩa là sự phản ánh một sự tình (sự thể) diễn ra

trong hiện thực, ngoài ngôn ngữ. Khi đƣợc phản ánh vào câu thì vị từ và vai

nghĩa công cụ sẽ đƣợc ngƣời nói (ngƣời viết) cấu trúc hóa theo các quan hệ

ngữ pháp. Vị từ và tham thể công cụ (vai nghĩa công cụ) sẽ đƣợc lựa chọn để

đảm nhiệm các chức năng cú pháp khác nhau trong câu. Đồng thời, tham thể

công cụ cần đƣợc tuyến tính hóa (sắp xếp theo trật tự trƣớc sau) theo bản chất

hình tuyến của ngôn ngữ và đƣợc hình thức hóa nhờ các phƣơng tiện của

133

ngôn ngữ (nhƣ thực từ, hƣ từ, ngữ điệu). Tất cả những sự tổ chức nhƣ vậy luôn

luôn nhằm phục vụ cho nhiệm vụ và mục đích giao tiếp ở từng hoàn cảnh giao

tiếp nhất định, thể hiện qua vai trò thông báo của mỗi thành phần trong câu.

Đến đây, ngoài cấu trúc nghĩa (cấu trúc vị từ - tham thể) đã hình thành

các cấu trúc cú pháp (thể hiện qua các thành phần ngữ pháp của câu) và cấu

trúc thông báo. Mỗi loại cấu trúc đó nằm ở các bình diện khác nhau của câu:

bình diện nghĩa, bình diện ngữ pháp, bình diện ngữ dụng.

Tham thể công cụ trong cấu trúc nghĩa sẽ đƣợc lựa chọn và hiện thực

hóa thành các thành phần ngữ pháp khác nhau của câu nhƣ bổ ngữ, trạng ngữ,

chủ ngữ, đề ngữ. Sự ngữ pháp hóa cụ thể nhƣ thế nào phụ thuộc vào nhu cầu

giao tiếp, vào vai trò thông báo trong từng hoàn cảnh giao tiếp của tham thể

công cụ. Tiếp theo đây, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát và trình bày các chức

năng cú pháp của vai nghĩa công cụ trong câu, bắt đầu từ chức năng tiêu biểu

nhất là bổ ngữ. Trong mỗi chức năng đó chúng tôi sẽ lần lƣợt xem xét vai trò

thông báo tƣơng ứng của vai nghĩa công cụ đảm đƣơng khi đƣợc ngữ pháp hóa

thành các thành phần cú pháp của câu. Trƣớc khi đi vào miêu tả, phân tích,

chúng tôi sẽ giới thiệu vắn tắt một số khái niệm đƣợc dùng trong tiểu mục này.

Trƣớc tiên là khái niệm vị từ. Trong ngữ pháp chức năng, theo nhiều

nhà nghiên cứu, vị từ đƣợc hiểu là yếu tố ngôn ngữ chỉ đặc trƣng và quan hệ

với tƣ cách chức năng nghĩa trong mối quan hệ với tham thể. Điều này có thể

hiểu là: chỉ đặt trong mối quan hệ với các tham thể thì mới xuất hiện khái

niệm vị từ. Vị từ, trong cấu trúc vị từ - tham thể, có chức năng nghĩa trong

mối quan hệ với các tham thể. Với cách hiểu nhƣ trên, vị từ trong cấu trúc vị

từ - tham thể đƣợc phân loại không giống nhƣ cách phân loại vị từ thông

thƣờng, mà đƣợc căn cứ vào hai tiêu chí [± ĐỘNG] và [± CHỦ Ý] để phân

loại thành các loại nhỏ nhƣ:

134

± ĐỘNG

+ Động (biến cố/ sự kiện) - Động (tình trạng)

Hành động: Ví dụ: đá, Tƣ thế: Ví dụ: nghiêng, + Chủ ý đánh, giết, chạy ... đứng, ngồi, nằm .... ± CHỦ Ý Quá trình: Ví dụ;: nổ, Trạng thái: Ví dụ: to - Chủ ý mòn, phai ..... ngon, gầy, sâu, .......

[Dẫn theo Dik Simon C. (2005), Functional Grammar - Ngữ pháp

chức năng, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh]

Tiếp theo là khái niệm tham thể. Hiện nay vẫn tồn tại một số quan

điểm khác nhau về khái niệm tham thể. Luận án không đi sâu kiến giải vấn đề

này mà chỉ nêu quan điểm chung của khá nhiều nhà nghiên cứu cho rằng,

tham thể là tất cả các thực thể (đƣợc biểu hiện bằng các danh từ hoặc các đơn

vị tƣơng đƣơng với danh từ) tham gia vào sự tình, chịu sự chi phối trực tiếp

của ý nghĩa của vị từ hoặc phải đƣợc vị từ chấp nhận [1: 15]. Trong cấu trúc

vị từ - tham thể, các tham thể đƣợc nêu đặc trƣng bằng các chức năng nghĩa

trong mối quan hệ với vị từ. Do đó, các tham thể còn đƣợc gọi là các vai

nghĩa. Trên cơ sở xác định các chức năng nghĩa của tham thể với các loại vị

từ, các nhà nghiên cứu đã đƣa ra nhiều tham thể khác nhau nhƣ: thể hành

động, thể (chịu) quá trình, thể (trong ) tư thế, thể (trong) trạng thái, lực, thể

vị trí, thể đích, thể được lợi, thể bị hại, thể liên đới, tham thể không gian, thời

gian, công cụ, nguyên nhân, mục đích, điều kiện, nghịch đối, kết quả, ... [1:

16]. Các tham thể trên đã đƣợc các nhà nghiên cứu khái quát thành hai loại

lớn là tham thể cơ sở và tham thể mở rộng (thuật ngữ của Diệp Quang Ban)

hoặc diễn tố và chu tố (thuật ngữ của Cao Xuân Hạo và một số tác giả khác).

Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu còn chú ý tới việc phân biệt tham thể

trực tiếp và tham thể gián tiếp. Nếu nhƣ việc phân biệt tham thể cơ sở và

tham thể mở rộng chỉ dựa trên mối quan hệ giữa tham thể với vị từ thì việc

135

phân biệt tham thể trực tiếp và tham thể gián tiếp vừa dựa trên mối quan hệ

giữa vị từ với các tham thể, vừa dựa trên mối quan hệ giữa các tham thể với

nhau. Trong luận án này, do mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra, chúng tôi chỉ đề

cập đến tham thể công cụ với tƣ cách là một tham thể trực tiếp (có quan hệ

trực tiếp với vị từ).

Tiếp nữa là khái niệm cấu trúc vị từ - tham thể. Khác với các khuynh

hƣớng hiện đại khác, ngữ pháp chức năng với xuất phát điểm là hệ chức năng

và một phần của lí thuyết dụng học về sự tƣơng tác ngôn từ, đã chú ý nghiên

cứu ngôn ngữ trên cả ba bình diện: nghĩa học, kết học, dụng học. Vì thế, trong

ngữ pháp chức năng, câu không chỉ đƣợc nghiên cứu trên bình diện cú pháp

mà còn đƣợc nghiên cứu trên cả bình diện nghĩa học và dụng học. Cấu trúc vị

từ - tham thể là kết quả của việc nghiên cứu câu trên bình diện nghĩa học, cụ

thể hơn, đó là kết quả của việc nghiên cứu thành phần nghĩa biểu hiện của

câu. Nói một cách ngắn gọn: cấu trúc vị từ - tham thể là cấu trúc nghĩa biểu

hiện của câu.

Nếu nhƣ cấu trúc vị từ - tham thể là cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu

thì cấu trúc cú pháp là loại cấu trúc của câu xét ở bình diện cú pháp. Đây

chính là bình diện tổ chức nên một câu theo đúng đặc trƣng của nó để phân

biệt với những đơn vị khác nhƣ từ, cụm từ, đoạn văn, văn bản. Trong cấu trúc

nghĩa biểu hiện, các tham thể giữ những chức năng nghĩa nhất định trong mối

quan hệ với vị từ (trong luận án này là nghĩa công cụ). Còn trong cấu trúc cú

pháp của câu, các từ ngữ diễn đạt các yếu tố của sự việc cũng giữ các chức

năng cú pháp (vai trò cú pháp) nhất định trong mối quan hệ với nhau. Các

chức năng cú pháp ấy đƣợc gọi một cách đơn giản là các thành phần câu.

Trong khuôn khổ của luận án này, chúng tôi không thể giải quyết tiếp các vấn

đề còn đang tranh luận xung quanh việc định nghĩa thành phần câu, tiêu chí

xác định thành phần câu, số lƣợng các thành phần câu, cƣơng vị cú pháp của

136

các thành phần câu, ... Dƣới đây, để phục vụ cho luận án, chúng tôi chỉ căn cứ

vào một số tiêu chí để xác định thành phần câu đã đƣợc thống nhất ở các nhà

nghiên cứu, trong đó có các thành phần câu nhƣ chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ,

đề ngữ. Đây là các thành phần câu có mối quan hệ đến vai nghĩa công cụ - đối

tƣợng khảo sát của luận án. Tiêu chí xác định thành phần câu đƣợc đa số các

nhà nghiên cứu tán thành là: coi thành phần câu là một phạm trù ngữ pháp, do

đó, việc xác định thành phần câu phải dựa cả vào tiêu chí ngữ nghĩa lẫn tiêu

chí hình thức. Có thể dẫn ra đây ý kiến của tác giả Bùi Minh Toán trong giáo

trình “Đại cương Ngôn ngữ học - tập II” nhƣ sau: “Như thế các thành phần

câu như chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, ... cũng đều là các

phạm trù ngữ pháp. Mỗi phạm trù này cũng có thể chia ra thành các phạm

trù nhỏ hơn như bổ ngữ thì có bổ ngữ gián tiếp hay trực tiếp. Điều quan trọng

là dù ở mức cao hay thấp, rộng hay hẹp, mỗi phạm trù này đều là sự thống

nhất giữa ý nghĩa ngữ pháp và hình thức ngữ pháp. Từ đó, điều cần chú ý

trong nghiên cứu và học tập ngữ pháp là: việc phân xuất và xác định các

phạm trù ngữ pháp phải được tiến hành trên cơ sở thống nhất giữa ý nghĩa

ngữ pháp và hình thức biểu hiện của nó.” [10: 87]

3.1.2. Chức năng cú pháp của vai nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt

3.1.2.1. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) bổ ngữ

Bổ ngữ là một chức vụ cú pháp hiện còn đang còn có nhiều ý kiến trái

chiều nhau. Theo chúng tôi, bổ ngữ có chức năng cú pháp là bổ sung, làm rõ

những đặc trƣng nêu ở vị từ. Do đó, ý nghĩa ngữ pháp khái quát của thành

phần đảm nhiệm chức năng bổ ngữ có thể là nêu đối tƣợng chịu tác động trực

tiếp hay gián tiếp của đặc trƣng nêu ở vị từ hoặc nêu lên hoàn cảnh mà đặc

trƣng nêu ở vị từ đòi hỏi đƣợc bổ sung để đáp ứng nhu cầu giao tiếp cụ thể. Ở

đây, bổ ngữ công cụ là một tham thể chịu tác dụng của đặc trƣng nêu ở vị từ.

Khi đƣợc phản ánh vào trong câu, tham thể công cụ đƣợc ngữ pháp hóa thành

137

chức năng bổ ngữ, đƣợc đánh dấu bằng các hƣ từ và đặt vào một vị trí nhất

định. Có thể nhận thấy rằng, chức năng làm bổ ngữ là chức năng tiêu biểu

nhất của vai nghĩa công cụ khi chúng đƣợc ngữ pháp hóa trong câu.

Trong cấu trúc cú pháp của câu, có những trƣờng hợp bổ ngữ công cụ có

quan hệ chặt chẽ với vị từ đến nỗi không cần dùng đến các quan hệ từ. Ví dụ:

- (258) Minh đang loay hoay viết bút chì vào một mảnh giấy. [NCH: 40]

- (259) Anh nên nhớ bếp nhà người ta sáng nào cũng đạp xe đạp đi

Hà Nội sắm thức ăn đấy nhé! [NC: 506]

Các trƣờng hợp còn lại, khi kết hợp với vị từ, bổ ngữ công cụ phải có

từ nối. Chính các từ nối này đóng vai trò là từ đánh dấu cho bổ ngữ công cụ.

Thông thƣờng, bổ ngữ công cụ đƣợc đánh dấu bằng chính từ và quan hệ từ

đánh dấu vai nghĩa công cụ khi vai nghĩa này xuất hiện trong cấu trúc vị từ -

tham thể. Ví dụ:

- (260) Khách tỉnh về tới tấp hết lượt này đến lượt khác, phần nhiều

bằng xe nhà, và có cả hai chiếc xe hơi đỗ ngoài cửa đình nữa! [VTP: 155]

- (261) Quả tim nó đã biến thành một giam buồng nhỏ, bọc sắt, có ống

thu looi trong đó chứa chất biết bao nhiêu hy vọng của những anh chàng dại

dột, nhìn đời qua cửa sổ nhà trường, tay cắp sách, miệng lầm nhấm, nhắc lại

câu: Đàn bà là giống yếu. [NCH: 184]

Bổ ngữ công cụ biểu hiện vai nghĩa công cụ thƣờng đƣợc đánh dấu

bằng các quan hệ từ nhƣ: bằng, với, qua, thông qua, dựa vào, căn cứ vào,

trên, bởi, ... trong đó quan hệ từ bằng là tiêu biểu nhất. Cũng có trƣờng hợp,

bổ ngữ này không đƣợc đánh dấu bằng từ ngữ. Lúc này, mối quan hệ giữa vị

từ và bổ ngữ công cụ rất bền vững tạo nên một tổ hợp ít nhiều “có tính chất

thành ngữ” (Nguyễn Thị Quy), cho nên, việc chen vào giữa chúng quan hệ từ

là khó chấp nhận đƣợc. So sánh:

- (262) Hai người ... đáp xe lửa về Hà Nội. (+) [NCH: 33]

138

- Hai ngƣời ... đáp bằng xe lửa về Hà Nội. (-)

Khi không dùng quan hệ từ đƣợc thì nghĩa của bổ ngữ đã có phần biến

đổi: từ nghĩa công cụ (có thể dùng bằng) bổ ngữ đã đƣợc chuyển sang nghĩa

cách thức (không dùng quan hệ từ).

Nhƣ vậy, khi tham thể công cụ đƣợc ngữ pháp hóa thành bổ ngữ trong

câu thì các từ ngữ dùng để đánh dấu các vai nghĩa lại đƣợc dùng để đánh dấu

chính các bổ ngữ do chúng đảm nhận. Chỉ có điều khác là, do cấu trúc vị từ -

tham thể không có tính chất tuyến tính cho nên không cần chú ý tới sự phân

bố của các từ đánh dấu các tham thể. Trong khi đó, cấu trúc cú pháp, đặc biệt

là cấu trúc cú pháp của tiếng Việt - một ngôn ngữ đơn lập phân tích tính điển

hình - lại đƣợc tổ chức theo một trật tự tuyến tính nghiêm ngặt. Trong câu,

mỗi chức vụ cú pháp lại có một vị trí tƣơng đối cố định. Theo đó, các từ đánh

dấu, dẫn nhập chúng cũng phải có một vị trí nhất định.

Chúng tôi nhận thấy rằng, những trƣờng hợp mà các bổ ngữ trên đƣợc

đánh dấu thì các từ ngữ đánh dấu luôn đứng ngay trƣớc các bổ ngữ mà chúng

có nhiệm vụ đánh dấu. Lúc đó, cũng giống nhƣ các bổ ngữ, các từ đánh dấu

thƣờng đứng sau vị từ. Cụ thể là: vị trí của từ đánh dấu bổ ngữ là vị trí sau vị

từ và trƣớc bổ ngữ mà chúng đánh dấu. Ví dụ:

- (263) Ông lão Cóc nhảy bằng tay đến gốc cây bàng. [NCH: 292]

Với chức năng bổ sung, làm rõ nghĩa cho các đặc trƣng của vị từ nên

khi đóng vai trò là bổ ngữ trong câu, tham thể công cụ thƣờng có một vị trí

tƣơng đối ổn định, đó là vị trí sau vị từ. Ví dụ:

- (264) Hắn đi sau cô gái, vuốt ve bằng mắt cái cổ nây nây của thị.

[NC: 325]

Chúng ta đang xem xét vị trí của bổ ngữ công cụ so với vị từ hạt nhân.

Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều trƣờng hợp, sau vị từ hạt nhân không chỉ

có mỗi bổ ngữ công cụ mà còn có thể có nhiều bổ ngữ khác nữa. Do vậy, tuy

139

đều nằm sau vị từ nhƣng cũng cần xét đến các bổ ngữ này so với các bổ ngữ

khác cùng xuất hiện sau vị từ. Chúng tôi nhận thấy rằng, việc phân bố các bổ

ngữ sau vị từ do mục đích thông báo của ngƣời nói chi phối. Các bổ ngữ tuy

đều nằm ở phần thuyết (phần biểu thị thông tin mới) của câu nhƣng đƣợc

ngƣời nói sắp xếp vào vị trí nào phụ thuộc vào việc ngƣời nói chọn bổ ngữ

nào làm tiêu điểm của thông báo.

Bổ ngữ công cụ xuất hiện trong khung vị ngữ có vị từ hạt nhân là vị từ

[+chủ động] - vị từ đòi hỏi một, hai hoặc ba bổ ngữ để bổ sung ý nghĩa. Do

đó, ở vị trí sau vị từ, có những trƣờng hợp, ngoài bổ ngữ công cụ ra còn có

các bổ ngữ khác. Ví dụ:

- (265) Chốc nữa, chúng mày phải gội đầu bằng xà phòng nhé.

[NCH: 334]

- (266) Gã nói tiếng Anh bằng cái giọng cứng ngăng ngắc của người

bản xứ. [TNT: 446]

- (267) Ông Lâm bắt đầu nhìn vợ con bằng cặp mắt e dè, dò xét.

[VNQĐ: 206]

- (268) Hắn nâng chiếc ảnh bằng hai tay. [NCH: 381]

- (269) Ông làm phong bì bằng thứ giấy bìa học sinh. [NHT: 65]

Chúng tôi nhận thấy, bổ ngữ công cụ thƣờng có hai vị trí khác nhau:

vị trí trƣớc các bổ ngữ khác và vị trí sau các bổ ngữ khác. Tuy nhiên, trƣờng

hợp bổ ngữ công cụ xuất hiện ở vị trí sau các bổ ngữ khác (vị trí cuối câu) có

tần số cao hơn và cũng phổ biến hơn. Ví dụ:

- (270) Pha ... nhìn vợ bằng đôi mắt đầy ý nghĩa. [BĐC-NCH: 65]

- (271) Mẹ hắn hỏi hắn với giọng không hằn học mà có vẻ hơi mừng

là khác. [AĐ-I: 347]

- (272) Gã nói với tôi bằng giọng mềm mại và trơn tuồn tuột. [NHT: 50]

- (273) Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi. [TNMN: 180]

140

Chúng tôi cũng cho rằng trƣờng hợp bổ ngữ công cụ nằm ở vị trí sau

các bổ ngữ khác, lúc đó, nó chính là trọng tâm thông báo của câu nói. Ví dụ:

- (274) Tôi nói: này, tao có súng đây, tao có cả dao găm đây. Nhưng

tao không giết mày bằng súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa!

Dục! Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi. [TNMN: 180]

Có trong tay các công cụ khác để giết đối thủ, nhƣng nhân vật ở đây

đã giết đối thủ bằng mười ngón tay cụt của mình. Hai câu trƣớc xét kỹ ra chỉ

là lập luận để dẫn đến câu thứ ba - câu kết luận “Tao giết mày bằng mười

ngón tay cụt thôi”. Tuy nhiên, thông tin “tao giết mày” trong câu thứ ba đã

đƣợc nêu ở các câu trƣớc. Duy chỉ có thông tin về công cụ “bằng mười ngón

tay cụt này thôi” là thông tin mới. Do đó, nó đƣợc đặt ở cuối câu là hoàn toàn

hợp lí. Nếu đặt đoạn văn này trong mối quan hệ với cả văn bản thì càng thấy

rõ hơn đó chính là trọng tâm thông báo không những của câu mà của cả đoạn

văn. Ngƣời giết thằng Dục bằng mƣời ngón tay cụt chính là ngƣời mà trƣớc

đây đã bị thằng Dục dùng giẻ tẩm dầu xà nu đốt trụi mƣời ngón tay [1].

Ngoài vị trí đứng sau các bổ ngữ khác, chúng ta còn thấy bổ ngữ công

cụ còn có khả năng đứng trƣớc các bổ ngữ khác. Ví dụ:

- (275) Ông ... ôm chầm bằng cả hai tay lấy tay người Pháp mà rung

tít. [BĐC-NCH: 48]

- (276) Minh loay hoay viết bút chì vào một mảnh giấy. [NCH: 40]

- (277) Hai người đáp xe lửa về Hà Nội. [NCH: 33]

Thƣờng khi nằm ở vị trí này, bổ ngữ công cụ không phải là trọng tâm

thông báo của câu nói. Tuy nhiên, do yêu cầu của ngữ cảnh, tham thể này vẫn

cần hiện thực hóa để làm cho câu nói đầy đủ thông tin hơn.

3.1.2.2. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) chủ ngữ

Về ngữ nghĩa, chủ ngữ là thành phần câu có ý nghĩa ngữ pháp khái

quát là biểu thị đối tƣợng thông báo của câu nhƣ một số tác giả đã đề cập:

141

Ý nghĩa của chủ ngữ là ý nghĩa biểu thị đối tượng. Đối tượng này có

quan hệ với vị ngữ về phương diện chủ thể của hành động, chủ thể tiếp nhận,

chủ thể phẩm chất [61: 111]

Trong tiếng Việt, có thể hiểu chủ ngữ là một trong hai thành phần

chính của câu có quan hệ qua lại với vị ngữ, chỉ ra cái đối tượng mà câu nói

đề cập đến [5: 113]

Vấn đề câu chứa chủ ngữ chỉ công cụ đã đƣợc một số ít nhà nghiên

cứu, nhƣ Diệp Quang Ban, Lê Xuân Thại, đề cập đến. Trong mối tƣơng quan

với đối tƣợng nghiên cứu của luận án, chức năng chủ ngữ không phải là chức

năng chính, chức năng cơ bản của tham thể công cụ khi đƣợc ngữ pháp hóa

trong cấu trúc của câu, bởi vì chủ ngữ với nội dung ý nghĩa khái quát là thành

phần câu nêu lên đối tƣợng thông báo của câu, thƣờng do các tham thể chủ

thể đảm nhiệm. Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp, chúng tôi vẫn thấy tham

thể công cụ xuất hiện với vai trò là chủ ngữ của câu. Ví dụ:

- (278) Ngọn bút của Điền phải khơi nguồn cho những tình cảm đầy

thơ mộng. [NC: 255]

Với nội dung ý nghĩa khái quát là nêu lên đối tƣợng thông báo của câu

thì vị trí phù hợp nhất của chủ ngữ là vị trí đứng trƣớc vị ngữ của câu. Ở vị trí

sau vị ngữ của câu, tham thể công cụ không có khả năng xuất hiện trong chức

năng chủ ngữ.

Chức năng làm chủ ngữ không phải là chức năng hiển nhiên, tất yếu

của tham thể công cụ khi đƣợc ngữ pháp hóa trong câu. Thông thƣờng, khi

tham thể công cụ trong vai trò chủ ngữ của câu thì phải có lí do về mặt thông

báo và về mặt liên kết của nó trong câu.

Trƣớc tiên, xét về mặt thông báo của tham thể công cụ, ta thấy: khi

làm chủ ngữ của câu, đứng ở vị trí trƣớc vị ngữ (thƣờng là đầu câu) cũng có

nghĩa là nằm ở vị trí phần đề trong cấu trúc thông báo (phần mang thông tin

142

cũ, thông tin đã biết), tham thể công cụ không còn là trọng tâm thông báo của

câu nói. Ví dụ:

- (279) Quả nhiên, tôi nhìn thấy cả dây thép gai. Nhưng dây thép gai

không vo cuộn lại mà dàn ra, vây kín lấy xóm ấp. [TNMN: 38]

Chủ ngữ dây thép gai của câu vốn là do vai nghĩa công cụ trong quan

hệ với vị từ vây kín đảm nhiệm. Đây chính là thông tin đã biết ở câu đi trƣớc

ngay sát nó.

Ví dụ trên chứng tỏ vai nghĩa công cụ khi trong vai trò chủ ngữ của

câu thì thƣờng mang thông tin cũ, thông tin đã biết. Tuy nhiên, khi mang

thông tin cũ, thông tin đã biết và đƣợc đặt lên đầu câu thì nó lại có vai trò rất

lớn trong việc liên kết câu. Trong ngôn bản, các câu có mối quan hệ mật thiết

với nhau. Mỗi câu có một nhiệm vụ thông báo nhất định do ngôn bản quy

định nhƣng đều hƣớng tới việc phục vụ cho chủ đề chung của ngôn bản. Với

nhiệm vụ thông báo nhất định đó, mỗi câu cũng lựa chọn cho mình một trật tự

sắp xếp các thành phần câu và một kiểu câu cho phù hợp. Trong ví dụ trên, ý

chính của ngôn bản này là nói về dây thép gai, trong đó câu thứ hai nói về

công dụng của dây thép gai. Do đó, trọng tâm của câu này là vây kín lấy xóm

ấp. Dây thép gai chính là công cụ mà bọn địch dùng để làm hàng rào của các

ấp chiến lƣợc. Việc chuyển dây thép gai (tham thể công cụ) lên đầu câu vừa

để ngƣời đọc dễ dàng nhận ra trọng tâm thông báo là vây kín lấy xóm ấp, lại

vừa có tác dụng liên kết câu thông qua việc duy trì chủ đề (bằng phƣơng thức

lặp từ ngữ và phƣơng thức nối) [1].

Một cách kiến giải khác, theo Lê Xuân Thại, trong tiếng Việt, nghĩa

công cụ ở vị trí chủ ngữ khi nghĩa hoạt động ở vị trí vị ngữ thuyết minh về

công dụng của thứ công cụ đó [75: 156]. Tác giả đƣa ra ví dụ nhƣ sau:

- (280) Bàn chải này đánh răng. Còn bàn chải kia thì giặt quần áo.

- (281) Cái chìa khóa này mở tủ lệch. Còn cái chìa khóa kia thì mở tủ đứng.

[Ví dụ dẫn theo 74]

143

Lê Xuân Thại cho rằng, nghĩa công dụng là điều kiện tối thiểu về ngữ

nghĩa ở vị ngữ để cho nghĩa công cụ đứng ở chủ ngữ, hay nói một cách khái

quát hơn, nghĩa công cụ đứng ở vị trí chủ ngữ khi ý nghĩa diễn đạt của câu là

thuyết minh về công dụng hoặc những điều có liên quan đến công dụng của

công cụ. Đứng về mặt ngữ pháp mà xét nghĩa công cụ khi đứng ở vị trí chủ

ngữ cũng có chỗ khác khi nó đứng ở vị trí khác (nhƣ bổ ngữ, trạng ngữ). Ở vị

trí bổ ngữ, trạng ngữ, thành tố mang nghĩa công cụ là thành tố đƣợc đánh dấu

(dùng các giới từ nhƣ bằng, với, …) còn ở vị trí chủ ngữ thì nó không đƣợc

đánh dấu.

Nhƣ vậy, khi đƣợc ngữ pháp hóa trong câu, đảm nhiệm chức vụ chủ

ngữ, tham thể công cụ sẽ có một vai trò nhất định trong cấu trúc thông báo

của câu và có tác dụng rất lớn về mặt liên kết câu.

Việc xuất hiện trong câu ở chức vụ chủ ngữ của tham thể công cụ

không làm cho câu phải chuyển sang dạng bị động. Do đó, trong trƣờng hợp

này, tham thể công cụ khi đảm nhiệm chức vụ chủ ngữ của câu không đƣợc

đánh dấu bằng các tác tố của dạng thức bị động. Ví dụ:

- (282) Thanh cùm lại đóng khéo những bàn chân kia lại. [TNMN: 57]

- (283) Sợi dây dù thít chặt hai bắp chân trần của chị Sứ vào cây

cọc. [AĐ-I: 421]

- (284) Suốt ngày ở trên con đò ngang, một tấm khăn vuông đen trùm

mặt. [NHT: 56]

Nhƣ vậy, các từ dùng để đánh dấu vai nghĩa công cụ trong cấu trúc vị

từ - tham thể bằng, với, ... không đƣợc thực hiện để đánh dấu vai nghĩa này

trong chức vụ chủ ngữ của câu.

Nhƣ vậy, khi tham thể công cụ trong chức vụ chủ ngữ của câu thì

không có từ để đánh dấu nhƣ khi xuất hiện trong vai trò bổ ngữ hoặc trạng

ngữ của câu. Mặt khác, khi tham thể công cụ đƣợc ngữ pháp hóa để đảm nhận

144

chức vụ chủ ngữ trong câu thì không có sự hiện diện của tham thể chủ thể. Lê

Xuân Thại đã rất đúng khi cho rằng “Trên bình diện tu từ học, ở vị trí chủ

ngữ, công cụ đƣợc dùng vừa với nghĩa đen, vừa với nghĩa hoán dụ, tức là

thành phần đó vừa có nghĩa công cụ, vừa đại diện cho con ngƣời sử dụng công

cụ đó. [74: 39]”. Chính vì vậy mà trong nhiều trƣờng hợp dễ nhầm lẫn chủ

ngữ do tham thể công cụ đảm nhiệm với chủ ngữ do tham thể chủ thể đảm nhiệm.

Trƣờng hợp thứ nhất: trong tiếng Việt có một số động từ đƣợc dùng

với hai đặc trƣng là [+ chủ động] và [- chủ động] nhƣ: trùm, che, quấn, đè,

chặn, chọc, cứa, cản, cản trở, ...

- (285) Màu mỡ gà trùm lên tất cả ... [NHT: 236]

- (286) Một tấm khăn vuông đen trùm mặt. [NHT: 56]

Ở hai ví dụ trên, tuy vị từ trung tâm đều là vị từ trùm nhƣng rõ ràng

đây là hai vị từ đặc trƣng khác nhau. Ở ví dụ thứ nhất, trùm là vị từ [- chủ

động] còn ở ví dụ thứ hai, trùm là vị từ [+ chủ động]. Với đặc trƣng [- chủ

động], vị từ trùm ở ví dụ thứ nhất không thể cho khả năng xuất hiện tham thể

công cụ, do đó, màu mỡ gà không thể đƣợc xem là chủ ngữ do tham thể công

cụ đảm nhiệm, đây là chủ thể (trong) quá trình. Trong ví dụ thứ hai, vị từ trùm

là [+ chủ động] nên hoàn toàn có khả năng cho phép sự xuất hiện của tham

thể công cụ, do đó, một tấm khăn vuông đen đƣợc coi là tham thể công cụ

trong vai trò chủ ngữ của câu.

Trƣờng hợp thứ hai: trong tiếng Việt có hiện tƣợng một thực thể nào

đó (thƣờng đƣợc biểu hiện bằng một danh từ) cùng đi với một vị từ nhƣng ở

vị trí này thì đƣợc xem là công cụ, ở vị trí khác lại đƣợc xem là chủ thể của

hoạt động. Ví dụ:

- (287) Xe hơi chở họ đi. [TNMN: 50] (xe hơi = chủ thể)

- Họ được chở đi bằng xe hơi. (xe hơi = công cụ)

145

Hiện tƣợng này càng trở nên thú vị hơn khi chúng ta nghiên cứu

những bộ phận cơ thể của con ngƣời nhƣ tay, chân, mắt, mũi, tai, miệng, ...

Thƣờng ở vị trí bổ ngữ trong câu thì các bộ phận cơ thể ngƣời đƣợc coi là

tham thể công cụ đƣợc ngữ pháp hóa. Ví dụ:

- (288) Thằng Dần hau háu nhìn những tia sữa bằng con mắt tiếc rẻ,

ngậm ngùi. [TĐ-NTT: 78]

- (289) Ông ... ôm chầm bằng cả hai tay lấy tay người Pháp mà rung

tít. [BĐC-NCH: 48]

- (290) Hắn ... đấm bằng tay, đá bằng chân, hích bằng đầu gối, hắn lăn

xả vào bằng đầu, bằng vai, bằng ngực, bằng đùi, bằng đầu gối, bằng răng.

[NC: 181]

Nhƣng khi ở vị trí chủ ngữ của câu, chính các bộ phận này lại cũng có

thể xem là những chủ thể của các hoạt động của con ngƣời nhƣ: nghe, nhìn,

ngủ, đấm, đá, hích, ... Ví dụ:

- (291) Miệng nói với anh em, mắt Ngạn dõi theo bọn giặc đang nổ

súng và tiến tới. [AĐ-I: 341]

- (292) Bây giờ tai hắn cũng đã nghe tiếng reo hò nổi dậy rất rõ. [AĐ-

I: 612]

- (293) Tôi bèn trâng tráo: miệng cười, mắt liếc, tay dúi cái ô. [NCH: 198]

- (294) Bàn tay nhẫy những thịt nhanh nhẹn rót rượu cho chàng, cho

khách, cho mình. [NCH: 202]

Với những trƣờng hợp trên đây hoàn toàn có thể chấp nhận các bộ

phận cơ thể nhƣ mắt, tai, miệng, tay, ... là những chủ thể của hành động bởi vì

chúng hoàn toàn có khả năng thực hiện những hành động nhìn, nghe, nói, dúi,

rót một cách chủ động.

Ở trƣờng hợp này, có thể khẳng định rằng: các bộ phận của cơ thể khi

ở vị trí chủ ngữ của câu thì chính là chủ thể hành động chứ không phải là

những công cụ. Ví dụ:

146

- (295) Hai bàn tay xinh xẻo lần mở va li với một chiếc chìa khóa con

kền sáng. [KL: 114]

Nếu coi bộ phận cơ thể ngƣời là công cụ khi nó ở vị trí chủ ngữ của

câu thì không thể cho phép một chiếc chìa khóa con kền sáng xuất hiện nhƣ

một bổ ngữ công cụ, bởi lẽ, sẽ rất vô lí khi cùng một hành động mà sử dụng

tới hai loại công cụ khác loại nhau.

Có thể nói rằng, do không đƣợc đánh dấu bằng từ ngữ nên trong nhiều

trƣờng hợp, rất khó để phân biệt tham thể công cụ với các tham thể khác khi

chúng ở cùng vị trí chủ ngữ. Lúc này, bắt buộc chúng ta phải sử dụng đến

những đặc trƣng về ngữ nghĩa để nhận diện. Diệp Quang Ban cho rằng: câu

chứa chủ ngữ chỉ công cụ có nét riêng về phương diện nghĩa biểu hiện và

phương diện cấu trúc cú pháp [6: 152]. Về phƣơng diện nghĩa biểu hiện, yếu

tố chỉ công cụ đƣợc đƣa lên trƣớc làm chủ ngữ, còn yếu tố chỉ hành động sử

dụng công cụ đó thì trực tiếp làm vị tố. Về phƣơng diện cấu trúc cú pháp, chủ

ngữ chỉ công cụ ở đây khác với gia ngữ chỉ công cụ [Báo in (bằng) giấy này.]

hoặc đề ngữ chỉ công cụ [(Với) thứ giấy này, ta in gì mà chẳng được]. (Ví dụ

dẫn theo Diệp Quang Ban, [6: 152]). Chủ ngữ chỉ công cụ không có và không

thể thêm quan hệ từ về phía trƣớc, còn gia ngữ và đề ngữ thì sẵn chứa hoặc có

thể thêm quan hệ từ vào phía trƣớc (nhƣ bằng, với ở hai ví dụ trên). Mặt khác,

vị tố của kiểu câu có chủ ngữ chỉ công cụ là động từ trực tiếp chỉ ra hành

động sử dụng phƣơng tiện nêu ở chủ ngữ, không có một yếu tố khác đánh dấu

quan hệ giữa chủ ngữ và vị tố. Câu chứa chủ ngữ chỉ công cụ là kiểu câu chỉ

quan hệ về cảnh huống, và thuộc kiểu nhỏ nêu thuộc tính [6: 152].

3.1.2.3. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) đề ngữ

Hiện nay, trong ngôn ngữ học, đề ngữ đã hoàn toàn đƣợc công nhận có

tƣ cách là một thành phần câu. Đề ngữ còn có một số tên gọi khác là: khởi ngữ,

chủ đề, bổ ngữ - chủ đề, từ - chủ đề, thành phần khởi ý. Với ý nghĩa khái quát

147

là thành phần câu nêu lên chủ đề, nội dung chính của câu nói, nên về mặt lí

thuyết, tham thể công cụ hoàn toàn có khả năng đóng vai trò đề ngữ trong câu.

Khi đóng vai trò đề ngữ trong câu thì tham thể công cụ thƣờng đứng ở

vị trí phổ biến nhất của đề ngữ là vị trí trƣớc nòng cốt câu. Ví dụ:

- (296) Chìa khóa này (thì) tôi / (dùng) mở cửa.

Mặc dù đề ngữ ngoài vị trí đứng trƣớc nòng cốt câu còn có thể đứng ở

vị trí sau chủ ngữ nhƣng vị trí đầu câu vẫn là tiêu biểu nhất.

Về vai trò về mặt thông báo và liên kết câu, với vị trí đứng ở đầu câu

(trƣớc nòng cốt câu), đề ngữ đƣợc coi nhƣ thành phần chuyên dùng để biểu

hiện phần đề trong cấu trúc thông báo của câu. Do vậy, khi tham thể công cụ

trong vai trò đề ngữ của câu thì thƣờng không phải là trọng tâm thông báo của

câu (mang phần tin mới, chƣa biết) mà chỉ là những thông tin cũ, đã biết.

Mặc dù chỉ là phần mang thông tin cũ trong cấu trúc thông báo của

câu nhƣng tham thể công cụ khi đảm nhiệm chức năng đề ngữ lại có một vai

trò rất quan trọng trong việc liên kết câu. Do nằm ở vị trí đầu câu và thƣờng

biểu hiện thông tin đã biết nên đề ngữ là yếu tố đảm nhiệm vai trò liên kết

giữa câu đi trƣớc và câu đi sau trong một ngôn bản, góp phần duy trì và phát

triển chủ đề chung của ngôn bản.

Khi tham thể công cụ trong vai trò đề ngữ trong câu thì nó thƣờng

đƣợc đánh dấu bằng các từ đánh dấu chức vụ đề ngữ nhƣ thì hoặc là. Ví dụ:

- (297) Lược thì nó chải đầu, son thì nó tô môi.

- (298) Con dao này là để thái thịt, con dao kia là để gọt hoa quả.

Từ đánh dấu này có vị trí cố định trong câu. Thƣờng thì chúng đứng

ngay sau đề ngữ và có quan hệ bền vững với đề ngữ đến mức không thể xen

yếu tố nào vào giữa. Còn so với vị từ thì chúng luôn đứng trƣớc các vị từ.

Tuy nhiên, cũng có những trƣờng hợp đề ngữ do tham thể công cụ

đảm nhiệm xuất hiện mà không đƣợc đánh dấu. Trong một số ngữ cảnh nào

148

đó, đề ngữ công cụ có thể xuất hiện trong câu mà không có từ đánh dấu (chỉ

đƣợc đánh dấu bằng quãng ngắt khi nói hoặc dấu phảy khi viết). Ví dụ:

- (299) Kéo, tôi cắt giấy.

- (300) Dao, tôi thái thịt.

Ngoài việc đánh dấu bằng các từ đánh dấu chức vụ đề ngữ, tham thể

công cụ trong vai trò đề ngữ của câu còn đƣợc đánh dấu bằng chính các từ

đánh dấu vai nghĩa này trong cấu trúc vị từ - tham thể. Ví dụ:

- (301) Dao thì họ (dùng) thái thịt.

- (302) Cuốc thì chúng ta (dùng) đào mương. Còn quang thì chúng ta

gánh đất.

3.1.2.4. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) trạng ngữ

Theo Võ Huỳnh Mai, trạng ngữ là thành phần phụ của câu, có quan

hệ dẫn tiếp với nòng cốt câu. Nó thường đứng đầu câu, cách nòng cốt câu

bằng một quãng ngắt hơi ngắn (trên chữ viết, bằng dấu phảy), làm tiền đề

báo trước sự xuất hiện của nòng cốt câu. Ý nghĩa khái quát mà các trạng ngữ

biểu thị là ý nghĩa về tình huống (thời gian, nơi chốn, mục đích, phương tiện,

phương diện, ...) [52: 61]. Khi đảm nhiệm chức vụ trạng ngữ của câu thì tham

thể công cụ thƣờng nằm ở vị trí trƣớc nòng cốt câu. Ví dụ:

- (303) Rồi bằng cả hai tay, thị ôm chặt lấy mấy quyển sách vào lòng.

[TNT: 142]

- (304) Với hai lỗ tai giảo hoạt, y rình nghe mọi lời nói và mọi tiếng

hoạt động từ bên ngoài lọt vào. [AĐ: 479]

Ngoài vị trí trên, chúng còn có thể ở vị trí đi sau nòng cốt câu nhƣ:

- (305) Đây là lần cuối cùng mà một người mẹ bới tóc cho con, với đôi

bàn tay trút hết tình âu yếm. [AĐ-I: 494]

Về vai trò thông báo và liên kết câu, nếu trạng ngữ công cụ nằm ở

những vị trí khác nhau thì vai trò thông báo cũng khác nhau.

149

Ở vị trí trƣớc nòng cốt câu (đầu câu), trạng ngữ công cụ có tác dụng lớn

trong việc liên kết câu. Đứng ở đầu câu, trạng ngữ sẽ là phần mang thông tin đã

đƣợc nói đến trong những câu đi trƣớc, do đó, nó góp phần gắn kết câu chứa nó

với những câu đi trƣớc thành một ngôn bản thống nhất, mạch lạc. Ví dụ:

- (306) Song dù thế, y vẫn chờ đợi. Với hai lỗ tai giảo hoạt, y rình

nghe mọi lời nói và mọi tiếng động từ bên ngoài lọt vào. Vì thế, tuy bị giam

cầm ở hốc hang trong cùng, nhưng y vẫn biết được phần lớn cái gì đã xảy ra

trong bốn ngày đêm quyết chiến. [AĐ-I: 479]

Đây là đoạn nói về tên Ba Phi - một tên chỉ điểm lợi hại đã bị dân

quân du kích bắt và đƣa vào giam ở cuối hang Hòn. Ở đây, y vẫn luôn luôn

muốn biết diễn biến tình hình ở ngoài để xem số phận của mình sẽ nhƣ thế

nào. Tuy nhiên, khả năng thu nhận thông tin bên ngoài của y không thể bằng

con đƣờng giao tiếp, trò chuyện với anh em trong hang Hòn mà chỉ có thể phụ

thuộc vào đôi tai của y. Trƣớc đoạn này tác giả có viết: “Lúc súng hoặc lựu

đạn nổ ầm ầm là lúc y chồm dậy, khấp khởi ... Nhưng khi nghe những phát

súng lẻ nổ chắc chắn từng phát một, y lại hoài nghi”. Cho nên, tham thể công

cụ với hai lỗ tai giảo hoạt đƣợc hiện thực hóa ở đầu câu không phải là thông

tin mới, thông tin quan trọng mà thông tin quan trọng là y rình nghe mọi lời

nói và mọi tiếng động từ bên ngoài lọt vào. Do đó, việc công cụ này đƣợc ngữ

pháp hóa trong chức năng trạng ngữ ở vị trí phần đề góp phần hƣớng ngƣời

đọc vào trọng tâm thông báo đã nói trên. Đồng thời, công cụ này lại có quan

hệ liên tƣởng với hoạt động nghe đã nói ở trên giúp cho chủ đề chung của

ngôn bản đƣợc duy trì và phát triển. [1]

Ở vị trí sau nòng cốt câu thì vai trò liên kết câu không đƣợc chú ý. Vị

trí cuối câu là vị trí mang trọng tâm thông báo, do đó, ở vị trí sau nòng cốt câu

thì trạng ngữ công cụ thƣờng nằm ở phần thuyết của cấu trúc thông báo, mang

thông báo chính của câu nói. Ví dụ:

150

- (307) Đầu tóc đó được bới khéo như vậy tưởng cũng không lạ. Vì

đây là lần cuối cùng mà một người mẹ bới tóc cho con, với đôi bàn tay trút

hết tình âu yếm. [AĐ-I: 494]

Đặt trong ngữ cảnh: bà mẹ (mẹ Sáu) bới tóc cho con mình (chị Sứ) khi

đứa con ấy vừa bị địch giết chết. Cho nên, trọng tâm thông báo ở câu sau của

đoạn trên không phải là chuyện bới tóc mà là tình mẫu tử, là tình cảm không

thể tả xiết của ngƣời mẹ đối với đứa con mình đã từng mang nặng đẻ đau giờ

không còn nữa. Sức nặng tình cảm ấy giờ đây đƣợc bà dồn vào đôi bàn tay

khi bới tóc cho con. Do đó, việc đặt trạng ngữ với đôi bàn tay trút hết tình âu

yếm do tham thể công cụ đảm nhiệm ở vị trí cuối câu - phần mang thông báo

chính trong cấu trúc thông báo, là hoàn toàn hợp lí. [1]

Về dấu hiệu nhận biết, trạng ngữ công cụ thƣờng đƣợc đánh dấu bằng

chính các từ đánh dấu vai nghĩa này trong cấu trúc nghĩa. Đó là các quan hệ

từ bằng, với, bởi, trên, ... Ví dụ:

- (308) Với hai lỗ tai giảo hoạt, y rình nghe mọi lời nói và mọi tiếng

động từ bên ngoài lọt vào. [AĐ-I: 497]

- (309) Thím Ba ... nói với tên đại úy, vẫn với giọng nhẹ nhàng như

trước. [AĐ-I: 499]

- (310) Rồi bằng cả hai tay, thị ôm chặt mấy cuốn sách vào lòng.

[TNT: 142]

- (311) Bằng một giọng nồng ấm, anh ta khẽ bảo ... [AĐ-I: 79]

Ngoài ra, trạng ngữ công cụ trong câu còn có thể đƣợc đánh dấu bằng

một số hƣ từ thƣờng dùng để dẫn nhập thành phần câu này nhƣ nhờ, cứ. Ví dụ:

- (312) Nhờ có đôi giầy cao gót, bà hãy còn đủ cả đằng trước lẫn

đằng sau. [NCH: 21]

- (313) Cứ cái xô nhựa với tấm giẻ lau, khoảng vài tiếng nó lại lau

nhà một lần. [NHT: 97]

151

Các từ dẫn nhập chức vụ trạng ngữ do vai nghĩa công cụ đảm nhiệm

cũng luôn có một vị trí cố định, đó là vị trí trƣớc trạng ngữ mà nó dẫn nhập và

vị trí sau vị từ.

Ngoài khả năng đƣợc đánh dấu bằng từ ngữ, trạng ngữ công cụ cũng

có thể không đƣợc đánh dấu bằng từ ngữ mà chỉ bằng quãng ngắt khi nói và

dấu phảy khi viết. Sự đánh dấu bằng các hình thức này rất quan trọng (cả khi

có và không có từ đánh dấu) để giúp phân biệt đƣợc bổ ngữ với trạng ngữ,

đặc biệt là khi trạng ngữ ở vị trí cuối nòng cốt câu. Ví dụ:

- (314) Một cây súng với ba viên đạn, Kơ Long bám gót giặc từ tờ mờ

sáng đến trƣa.

- (315) Một bàn tính và một cây bút, nó đã giải đƣợc bài toán đó.

Những trƣờng hợp không đƣợc đánh dấu bằng từ ngữ của trạng ngữ

do tham thể công cụ đảm nhiệm là rất ít.

Tóm lại, phân tích câu về cú pháp và phân tích câu về ngữ nghĩa là hai

bình diện khác nhau trong ngôn ngữ. Tuy nhiên, với đối tƣợng nghiên cứu của

luận án này, ý nghĩa ngữ pháp công cụ có mối quan hệ không tách rời với các

thành phần cú pháp của câu. Ý nghĩa công cụ nhờ vào các thành phần cú pháp

(chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, đề ngữ) để thể hiện vai trò thông báo của mình,

nghĩa là thể hiện ở mặt ngữ nghĩa. Ngƣợc lại, các thành phần cú pháp nhờ vào

nghĩa công cụ để thể hiện các dấu hiệu hình thức, phân biệt với các thành phần

cú pháp khác nhau trong câu. Đây là một hƣớng đi còn khá mới nghiên cứu

ngữ pháp nói chung, nghiên cứu các thành phần cú pháp trong câu nói riêng.

3.2. Sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga

Nhƣ đã phân tích ở trên, ý nghĩa ngữ pháp và vai nghĩa là hai mặt của

một vấn đề: là mặt hình thức biểu hiện và nghĩa. Ý nghĩa ngữ pháp mang tính

hình thức, là vấn đề của hình thái học, còn vai nghĩa đƣợc xem xét ở góc độ

ngữ nghĩa (tức là mặt nội dung) và đƣợc xem xét với tƣ cách là một tham thể

152

của vị từ. Ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Nga chủ yếu đƣợc thể hiện

bằng cách công cụ (cách 5 có giới từ và không có giới từ) và bằng các cách ngữ

pháp khác với một số giới từ cụ thể. Điều này đã đƣợc chúng tôi khảo chứng

khá kĩ trong chƣơng II. Trong tiểu mục tiếp theo đây, chúng tôi tiến hành khảo

sát một số hình thức đánh dấu vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga.

Giống nhƣ ý nghĩa ngữ pháp công cụ, vai nghĩa công cụ, trƣớc tiên,

cũng đƣợc thể hiện bằng cách công cụ. Giữa cách công cụ (mác đánh dấu vai

nghĩa) và vai nghĩa công cụ (vai nghĩa) không phải là mối quan hệ 1 đối 1

tƣơng xứng, có nghĩa là, cách công cụ là phƣơng tiện chỉ dấu cho nhiều vai

nghĩa khác nhau và vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga, ngoài đƣợc thể hiện

bằng cách công cụ, còn đƣợc thể hiện bằng các hình thức ngữ pháp khác.

Cách công cụ trong tiếng Nga có thể đảm nhiệm các vai nghĩa sau:

a) Vai công cụ (Instrument) để thể hiện dụng cụ thực hiện một hành

động hoặc sự tình, ví dụ:

- Писать мелом. (Viết bằng phấn.)

- Резать ножами. (Cắt bằng dao.)

b) Vai phƣơng thức (Manner) thể hiện cách thức thực hiện hành động

hoặc sự tình, ví dụ:

- Говорить шелотом.(Nói thầm)

- Ехать параходом. (Đi tàu)

- Лучше умерет героем, чем жить рабом. (Thà chết anh hùng còn

hơn sống nô lệ.)

c) Vai địa điểm (Locative) thể hiện nơi xảy ra hành động hoặc sự tình,

ví dụ:

- Тетрадь лежит под книгой. (Quyển vở nằm dưới quyển sách.)

- Чайки летают над морем. (Hải câu bay trên biển.)

- За шкафом стоит стол. (Cái bàn ở sau cái tủ.)

153

- Стол стоит между окном и дверью (Cái bàn ở giữa cửa sổ và

cửa ra vào.)

d) Vai thời gian (Temporal) để chỉ thời điểm xảy ra hành động hoặc

trạng thái, ví dụ:

- Работать ночами. (Làm việc hàng đêm.)

- Весной цветут цветы. (Vào mùa xuân trăm hoa đua nở.)

e) Vai tác thể (Agent) để biểu hiện ngƣời hoặc vật khởi tác, thực hiện

hành động, ví dụ:

- Дома строятся рабочими. (Nhà cửa đang được công nhân xây

dựng.)

- Этот роман написан А.С. Пушкином. (Pushkin đã viết tác phẩm

này.)

g) Vai điểm đến (Goal) để chỉ đích đến của một chuyển động, ví dụ:

- Ехать за границей. (Đi nước ngoài.)

- Подойти за домом. (Đi ra sau nhà.)

h) Vai kẻ cùng hành động (Comcomitant) để thể hiện ngƣời cùng hành

động trong một hành động, ví dụ:

- Играть в шахматы с отцом. (Chơi cờ với bố.)

- Работать с учителем. (Làm việc với thầy giáo.)

i) Vai nguồn của trạng thái (Source) để chỉ nguồn của trạng thái, ví dụ:

- Увлекать чтению. (Say mê đọc.)

- Вы бы лесом шли, лесом идти прохладно. (Anh nên đi theo đường

rừng, đi theo đường rừng rất mát.)

- Пахнет цветами. (Mùi hoa thơm ngát.)

- Мой отец интересуется вьетнамской литературой. (Bố tôi rất

thích văn học Việt Nam.)

154

j) Vai thời lƣợng (Duration) để chỉ thời gian kéo dài của hành động,

trạng thái, ví dụ:

- Работать целыми днями. (Làm việc suốt các ngày)

k) Vai bị thể (Patient) để chỉ ngƣời, vật chịu tác động, ảnh hƣởng của

hành động hoặc chịu sự biến đổi nào đó về trạng thái.

- Он заведует учебной частью. (Anh ta phụ trách giáo vụ.)

- Нашим факультетом руководит молодая преподавательница.

(Lãnh đạo khoa chúng tôi là một giảng viên rất trẻ.)

l) Vai nghiệm thể (Experiencer) để thể hiện ngƣời, vật trải nghiệm một

trạng thái tâm lí, tinh thần, ví dụ:

- Мы любим вас и восхищаемся вами. (Chúng tôi yêu thương và

ngưỡng mộ các bạn.)

- Я доволен работой. (Tôi hài lòng với công việc.)

- Читать книгу с большим вниманием. (Đọc sách rất chăm chú.)

m) Vai tham chiếu (Reference) để chỉ ngƣời hay vật đƣợc dùng để tham

chiếu trong một trạng thái, quan hệ, ví dụ:

- Мы живем под Москвой. (Chúng tôi sống gần Moskva.)

- Количество переходных глаголов в русском языке органичено по

сравнению с английским. (Số lượng ngoại động từ trong tiếng Nga ít hơn so

với tiếng Anh.)

- Я приехал двумя днями ранше брата. (Tôi đến sớm hơn anh trai hai

ngày.)

n) Vai lực tự nhiên (Force) để chỉ tác nhân tự nhiên gây ra một biến cố,

thay đổi nào đó, ví dụ:

- Ветром сорвало крышу. (Gió làm tốc mái nhà.)

- Водою залило луга. (Nước ngập đồng cỏ.)

Vai lực tự nhiên trên đây cũng có thể đƣợc hiểu theo một cách khác là

vai nguyên nhân (Cause / Reason).

155

o) Vai vật sở hữu (Possessor) để chỉ vật sở hữu của ngƣời, ví dụ:

- Он человек с прекрасным характером. (Anh ta là người có tính

cách tuyệt vời.)

- Он человек с высоким ростом. (Anh ấy có vóc dáng cao lớn.)

p) Vai mục đích (Purpose) để chỉ mục đích của chuyển động, ví dụ:

- По утрам я ухожу за хлебом. (Hàng sáng tôi đi mua bánh mì.)

- Пойти в магазин за бумагами. (Đến cửa hàng mua giấy.)

Vai nghĩa công cụ, bên cạnh việc đƣợc thể hiện bằng cách công cụ

nhƣ đã dẫn chứng ở phía trên, còn đƣợc thể hiện không bằng cách công cụ.

Cụ thể là, vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga có thể đƣợc thể hiện bằng các

giới ngữ kết hợp danh từ ở các cách khác nhau. Ví dụ:

- (316) В книгах, выпущенных им там по-русски и в

переводах, он развивал свою давнишнюю мысль об истории как о

второй вселенной, воздвигаемой человечеством в ответ на явление

смерти с помощью явлений времени и памяти. [ДЖ: 34]

- (317) Trong những cuốn sách cha đưa xuất bản tại đó, bằng tiếng

Nga hay tiếng nước khác, cha đã phát triển tư tưởng cố cựu của cha về lịch

sử như về một vũ trụ thứ hai do loài người tạọ dựng, nhờ hai hiện tượng

“thời gian” và “ký ức” để trả lời cho hiện tượng ―chết‖. [BSZh: 52]

- (318) Это наполняло ее ровным шумом, точно перед Иваном

Ивановичем и Николаем Николаевичем вдоль изгороди текла вода по

трубе. [ДЖ: 12]

- (319) Cứ mỗi bước đi, từng bầy chim sẻ từ trong các bụi tú cầu lại

bay ra trước mặt họ thành từng đợt đều đều, tạo nên tiếng rào rào không

ngớt, nghe như tiếng nước chảy trong cái ống máng đặt dưới chân giậu.

[BSZh: 13]

156

- (320) Это была вдова и мать двух машинистов, старуха

Тиверзина, бесплатно следовавшая с двумя невестками в третьем

классе по служебным билетам. [ДЖ: 16]

- (321) Đó là bà goá Tiveczina, có chồng và con đều làm thợ lái tàu.

Bà và hai nàng dâu được đi nhờ vé miễn phí ở toa hạng ba. [BSZh: 18]

- (322) Отбарабанил дождь комьев, которыми торопливо в

четыре лопаты забросали могилу. [ДЖ: 9]

- (323) Rồi từ bốn phía, đất được ném xuống như mưa, rơi lịch bịch,

những cái xẻng lấp mộ vội vàng. [BSZh: 8]

- (324) Она стала ездить лечиться на юг Франции и в Северную

Италию, куда Юра ее два раза сопровождал. Так, в беспорядке и среди

постоянных загадок прошла детская жизнь Юры, часто на руках у

чужих, которые все время менялись. [ДЖ: 10]

- (325) Vậy là thời niên thiếu của Yuri đã trôi qua trong cảnh nhộn

nhạo và thường xuyên chứa đựng những câu đố khó hiểu, những bàn tay xa

lạ cứ thay nhau bế ẵm cậu. [BSZh: 10]

- (326) Была мануфактура Живаго, банк Живаго, дома

Живаго, способ завязывания и закалывания галстука булавкою

Живаго, даже какой-то сладкий пирог круглой формы, вроде ромовой

бабы, под названием Живаго, и одно время в Москве можно было

крикнуть извозчику ―к Живаго!‖, совершенно как ―к черту на

кулички!‖, и он уносил вас на санках в тридесятое царство, в

тридевятое государство. Тихий парк обступал вас. [ДЖ: 10]

- (327) Yuri còn nhớ dạo bé tên họ của cậu được dùng để gọi một mớ

những thứ khác hẳn nhau, nào là xưởng Zhivago, nhà băng Zhivago, nào là

các bất động sản của Zhivago, nào là cách thức thắt và cài ghim cà vạt theo

kiểu Zhivago, thậm chí cả một thứ bánh ngọt hình tròn tương tự loại bánh

157

ngọt có rượu Rhum cũng mang tên Zhivago, và có thời kỳ ở Moskva khi bước

lên xe trượt tuyết chỉ cần bảo người đánh xe ―Đến nhà Zhivago!‖, hệt như

bảo ―Đến nơi xa lắc xa lơ!‖, là chiếc xe sẽ chở ta tới một vương quốc xa lạ,

một cõi bờ xa xôi. [BSZh: 10]

- (328) На листах брошюры лежали куски гранита, чтобы они

не разлетелись. [ДЖ: 12]

- (329) Mấy mảnh đá hoa cương được đặt trên các trang giấy cho

khỏi bay. [BSZh: 12]

- (330) Я позову ее кататься на лодке и утоплю. [ДЖ: 17]

- (331) Ta sẽ rủ nó đi chơi thuyền rồi dìm chết nó đi". [BSZh: 21]

- (332) Мальчик с отцом третий день находился в поезде. [ДЖ: 14]

- (333) Hai cha con đi tàu đã sang ngày thứ ba. [BSZh: 16]

Các giới ngữ thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga rất đa dạng,

có mặt ở hầu hết các cách trong tiếng Nga với nhiều giới từ khác nhau. Cần

lƣu ý rằng, sự khác biệt giữa các phƣơng tiện đánh dấu này, đôi khi, dễ gây

nhầm lẫn với các vai khác. Trong các ví dụ phía trên, chúng tôi viện dẫn hoàn

toàn theo dịch giả để thấy đƣợc nét nghĩa công cụ trong các giới ngữ thể hiện

vai nghĩa công cụ. Ở đây, chúng tôi không đi phán xét các phƣơng án dịch đó

là đúng hay sai, mà chỉ đƣa ra một cách khách quan để minh chứng cho mác

đánh dấu vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga.

3.3. So sánh sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga

Tiếng Nga và tiếng Việt có những điểm khác xa nhau về mặt loại hình.

Tiếng Nga có đặc trƣng tiêu biểu của loại ngôn ngữ biến hình mà tính khuất

chiết - tổng hợp tính làm cho nó trở thành một cực đối lập rõ rệt với tính đơn

lập - phân tích tính của tiếng Việt. Do đặc trƣng này mà ý nghĩa ngữ pháp của

tiếng Nga (trong đó có ý nghĩa công cụ) thƣờng đƣợc biểu hiện bằng phƣơng

tiện hình thái học, bằng những yếu tố đƣợc thể hiện ở bên trong mỗi từ nhƣ một

158

chỉnh thể. Hình thái học của từ chiếm vị trí chủ đạo trong các phƣơng tiện

truyền đạt ý nghĩa, đặc biệt là ý nghĩa ngữ pháp, nó làm thành một “phạm trù

hình thái” một từ có thể thay đổi hình thái nhƣng không thể không có hình

thái cụ thể.

Trong khi đó, để thể hiện ý nghĩa mà tiếng Nga thƣờng biểu đạt bằng

phƣơng tiện ngữ pháp (bằng hình thái học, bằng phụ tố, biến tố của từ) ... tiếng

Việt lại dùng phƣơng tiện từ vựng, tức những thực từ có ý nghĩa rõ ràng, hoặc

dùng phƣơng tiện ngữ pháp nhƣ dùng trật tự của từ ngữ hoặc dùng hƣ từ với tƣ

cách là những tác tử làm cho một từ loại nào đấy thay đổi về nghĩa để đánh dấu

các ngữ đoạn về chức năng cú pháp, quan hệ cú pháp ở trong câu, giúp cho câu

diễn đạt đƣợc phần nghĩa quan trọng nhất của nó.

Hiện thực khách quan đƣợc phản ánh trong ngôn ngữ nhờ vào những

phƣơng tiện biểu đạt: hoặc phƣơng tiện từ vựng, hoặc phƣơng tiện ngữ pháp.

Các ngôn ngữ khác nhau đáng kể ở cách chọn phƣơng tiện này hay phƣơng tiện

kia. Khi so sánh các phƣơng tiện biểu đạt đƣợc dùng trong các ngôn ngữ, về

vai trò, về vị trí của chúng trong việc phản ánh tƣ duy, ngƣời ta nhận thấy: các

ngôn ngữ đơn lập, điển hình là tiếng Việt, thiên về dùng phƣơng tiện từ vựng

nhiều hơn là dùng phƣơng tiện ngữ pháp (nhƣ là hình thái học), còn các ngôn

ngữ tổng hợp tính, điển hình là tiếng Nga thì chiếm vị trí nổi bật lại là các

phƣơng tiện ngữ pháp.

Sự biểu hiện rõ rệt của các “đặc tính ngữ pháp” trong ngôn ngữ tổng

hợp tính - biến hình và “đặc tính từ vựng” trong ngôn ngữ đơn lập - không biến

hình là: ở ngôn ngữ tổng hợp tính, việc dùng các phƣơng tiện ngữ pháp, qua

hình thái của từ (một cách bắt buộc) là để đặt một câu đúng ngữ pháp có thể

hoàn toàn không cần thiết về mặt thông tin.

Một ngôn ngữ càng “tổng hợp” bao nhiêu, tức là vai trò của mỗi từ

càng đƣợc quy định rõ ràng bởi những đặc tính riêng của nó bao nhiêu, thì càng

159

ít cần thiết bây nhiêu việc nhìn ra ngoài từ mà xét đến toàn câu để nắm đƣợc

nghĩa của nó. Điều đó cũng có nghĩa là, ở tiếng Nga, hình thức hợp nhất các

loại nghĩa thể hiện bằng phƣơng tiện hình thái học làm thành bản chất và là đặc

tính không thể thiếu đƣợc của nó.

Trong khi đó, tính “không biến hình” và hình thức “phân tích tính” của

từ lại là đặc điểm điển hình của các ngôn ngữ đơn lập nhƣ tiếng Việt. Ở tiếng

Việt, một phát ngôn đúng ngữ pháp chỉ đƣợc tạo thành bằng những đơn vị có ý

nghĩa từ vựng chân thực và đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất định. Đó là do từ

tiếng Việt không biến đổi hình thái, không có một hình thái riêng nào đi kèm

theo từ một cách bắt buộc. Cho nên, nếu không có các hình vị bổ sung để cấu

tạo nên hình thức phân tích tính, nếu ngoài chu cảnh và ngôn cảnh thì một tập

hợp các âm vốn có của một ngôn ngữ, kể cả khi nó đƣợc tổ chức thành âm tiết,

cũng sẽ là vô nghĩa.

Những phân tích trên đây đã cho thấy sự khác nhau giữa hai ngôn ngữ

của hai loại hình thuộc về những nguyên tắc khi sử dụng: một đằng là tính chất

“tùy nghi”, “lỏng lẻo”, “không thƣờng xuyên”, “không bắt buộc” (khi thật cần

thiết mới dùng) của ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính nhƣ tiếng Việt; một đằng

là tính “ƣu thế”, tính “triệt để” về mặt nguyên tắc của các phạm trù ngữ pháp

trong các ngôn ngữ khuất chiết, tổng hợp tính nhƣ tiếng Nga: nó bắt buộc phải

dùng thông qua các chỉ tố hình thái học đặc trƣng gắn với động từ, kể cả khi

việc dùng nhƣ thế hoàn toàn không cần thiết vì đã có phƣơng tiện từ vựng

Tính “tùy nghi” của các ngôn ngữ đơn lập nhƣ tiếng Việt không phải ở

chỗ nó có thể vắng mặt, không cần xuất hiện mà là ở khả năng tham gia của

các yếu tố ngữ pháp cho phép đánh dấu một phạm trù nào đó trong một tình

huống nhất định. Trong so sánh đối lập, khái niệm “đánh dấu” (tính “hữu

trƣng” - marked) đƣợc coi là một “khái niệm cực kì quan trọng ở mọi cấp độ

ngôn ngữ” [88: 136]. Chính vì vậy, nó cũng đƣợc dùng là cơ sở để xét xem

160

ngôn ngữ này có “ngữ pháp hóa” (grammaticalization / грамматикализация)

các ý nghĩa đang xét hay không, phạm trù ngữ pháp này có tồn tại trong ngôn

ngữ đang đƣợc đối sánh hay không.

Việc sử dụng các chỉ tố ngữ pháp trong các ngôn ngữ đơn lập không

phải là một phƣơng tiện phổ biến biểu thị các ý nghĩa tƣơng ứng mà chỉ là một

trong các phƣơng tiện dùng để biểu đạt khi thật cần thiết, để làm rõ cốt lỗi ngữ

nghĩa của câu. Trong khi thiếu mối tƣơng liên trực tiếp giữa mặt hình thức và

mặt nội dung ý nghĩa mà nó biểu đạt ở ngôn ngữ tổng hợp tính nhƣ đã phân

tích trên đây lại là một sự kiện mang tính nhất quán, điển hình, không phải là

hiện tƣợng cá biệt hay đơn lẻ. Điều này có liên quan đến quy tắc “không cần

thiết” nhƣng vẫn “bắt buộc” phải thể hiện ở một thứ tiếng nhƣ tiếng châu Âu.

Có thể coi đây là lời giải thích đầy đủ, rõ ràng về quy tắc sử dụng, về

phƣơng cách biểu đạt ý nghĩa cỉa loại ngôn ngữ biến hình, minh chứng cho sự

khác nhau về mặt loại hình giữa các ngôn ngữ, cơ sở giúp ta đi vào so sánh, đối

chiếu cách biểu đạt ý nghĩa công cụ của tiếng Việt và tiếng Nga, hai thứ tiếng

vốn đƣợc coi một cách chính danh là nằm ở hai cực điển hình trên cái trục tổng

hợp tính / phân tích tính.

Mỗi ngôn ngữ đều có tính chất đặc thù về phƣơng diện biểu đạt, nhƣng

dù có cách xa nhau ở mặt hình thức thì nó vẫn đƣợc xây dựng trên nền chung,

tức là có một ý nghĩa chung mà mọi ngôn ngữ đều có cách diễn đạt. Chính vì

vậy, những cộng đồng ngƣời khác nhau mới có thể hiểu đƣợc nhau, các thứ

tiếng mới có thể chuyển dịch đƣợc sang nhau. Điều này chứng tỏ mối quan hệ

giữa cái “phổ quát” với cái “riêng biệt”.

Thật vậy, mỗi ngôn ngữ đều có tính chất riêng về phƣơng diện biểu đạt,

nhƣng tính đặc thù, không lặp lại của nó đƣợc tạo ra không phải chỉ do những

nét duy nhất của riêng nó mà còn do tính chất phổ quát và đặc tính loại hình

giao thoa, tác động lẫn nhau nhƣ thế nào trong ngôn ngữ đó. Các công trình

161

nghiên cứu so sánh, đối chiếu, hƣớng tới việc phát hiện ra các đặc điểm của

mỗi ngôn ngữ đều dựa trên luận điểm đƣợc R.O. Yacobson đúc kết lại là: “Các

ngôn ngữ đều có sự đồng hình: làm cơ sở cho cấu trúc của chúng là những

nguyên tắc chung, giống nhau” [dẫn theo 120: 30-32]. Trên bình diện thực tiễn,

các ngôn ngữ của loài ngƣời có khá nhiều điểm tƣơng đồng vì cách tri giác và

nhận thức thế giới của con ngƣời là một và do đó, những ý nghĩa mà con ngƣời

cần diễn đạt khi giao tiếp với nhau trong cộng đồng cũng rất giống nhau. Về

mặt nhận thức, tất cả các ngôn ngữ đều có khả năng và nhu cầu biểu đạt ý

nghĩa nhƣ nhau. Ngƣời ta gọi đó là năng lực ngôn ngữ phổ quát nói chung của

loài ngƣời, là cái cơ chế ngôn ngữ chung của mọi thứ tiếng.

Tuy nhiên, ngoài mặt chung nhau, giống nhau này ra, mỗi ngôn ngữ

còn đƣợc phân biệt với nhau về cách thức cấu tạo, về hình thức biểu đạt từ cấu

trúc bên trong của nó. Ngôn ngữ không trực tiếp phản ánh thế giới khách quan.

Nó phản ánh hiện thực thông qua cách tri giác, qua lăng kính của ngƣời sử

dụng. Điều này bọc lộ rõ rệt khi chúng ta đem so sánh các ngôn ngữ với nhau.

Saussure đã thấy: “Đôi khi một ngôn ngữ dùng trật tự trước sau của các từ để

biểu đạt một ý mà giá phải một ngôn ngữ khác thì sẽ diễn đạt bằng một hay

nhiều từ cụ thể ...” [109: 139]

Việc xác lập quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ bằng cách xem xét

sự giống nhau hay khác nhau về mặt hình thức, biểu thị những phạm trù ngữ

pháp nhất định, nhằm mục đích cuối cùng là giải thích đƣợc những sự khác biệt

ấy (giữa các ngôn ngữ) có phải đƣợc quy định bởi quy luật chung hay không.

Sau khi bắt đầu bằng việc miêu tả, liệt kê ra tất cả các phƣơng tiện dùng

để biểu đạt ý nghĩa công cụ, vai nghĩa công cụ ở mỗi thứ tiếng cũng nhƣ xem

xét những điểm khác nhau về mặt loại hình giữa chúng, chúng tôi rút ra một số

nhận xét nhƣ sau:

162

Những điểm tƣơng đồng là: cả tiếng Việt và tiếng Nga đều dùng

phƣơng tiện từ vựng để diễn đạt ý nghĩa công cụ. Sự giống nhau này có thể

thấy qua phƣơng tiện chuyển dịch tƣơng đƣơng nhau giữa hai thứ tiếng:

a. Dùng danh từ, danh ngữ diễn đạt ý nghĩa công cụ thực hiện hành động

b. Dùng danh từ kết hợp với giới từ để thể hiện ý nghĩa công cụ

c. Dùng trạng ngữ xác định công cụ thực hiện hành động

Những điểm khác biệt là:

a. Ở loại hình ngôn ngữ đơn lập nhƣ tiếng Việt, do từ không biến đổi

hình thái nên bản thân động từ ở dạng từ điển không chứa sẵn một dấu hiệu nào

để có thể chỉ ra công cụ thực hiện hành động hay chỉ ra cách thức sử dụng công

cụ. Trong khi đó, tiếng Nga, các thông số về công cụ thực hiện hành động lại

luôn gắn với động từ do từ biến đổi hình thái. Đây là đặc điểm cơ bản, chủ đạo

chi phối đến phƣơng thức biểu thị ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga, trƣớc hết là

ở mặt từ loại:

- Giới từ tiếng Nga, trong đó có giới từ biểu thị ý nghĩa công cụ đƣợc

dùng theo những cách khác nhau, khi kết hợp với danh từ, nó làm cho danh từ

đó biến đổi theo cách. Tiếng Việt không có hình thức này.

- Động từ tiếng Nga (trừ một số ít ở dạng nguyên) luôn biến đổi tạo nên

những hình thái riêng diễn đạt những ý nghĩa khác nhau về công cụ. Tiếng Việt

không có hình thức biến đổi của động từ.

b. Biến tố của động từ đƣợc thể hiện qua các chỉ tố ngữ pháp đặc trƣng,

mang tính “thƣờng xuyên” và “bắt buộc”, gắn với nó, làm thành phạm trù công

cụ của tiếng Nga. Trong khi tiếng Việt thiếu vắng những chỉ tố chuyên biệt

đƣợc “mã hóa” vào vị từ. Khi thật cần thiết biểu thị ý nghĩa “trực chỉ” công cụ,

khi ngôn cảnh không cho biết rõ cách thức, phƣơng tiện thực hiện hành động,

tiếng Việt dùng phƣơng tiện từ vựng qua khung đề, trạng ngữ hay dùng vị từ

tình thái. Hệ quả là những chỉ tố “đánh dấu” công cụ trong tiếng Nga không

163

phải bao giờ cũng tƣơng hợp với những phƣơng tiện biểu thị công cụ trong

tiếng Việt.

- Những câu có ý nghĩa xác định công cụ đƣợc diễn đạt bằng phƣơng

tiện ngữ pháp trong tiếng Nga, sang tiếng Việt đƣợc diễn đạt bằng phƣơng tiện

từ vựng

- Trong tiếng Nga, một động từ ngoài nghĩa gốc, nghĩa từ vựng, khi

thêm vào các tiền tố, hậu tố có thể tạo ra những từ mới với những nghĩa phái

sinh có sắc thái phân biệt nhau rất phong phú. Đây là ý nghĩa “tập quán”

(hibitual) thể hiện thói quen của ngƣời sử dụng ngôn ngữ, chỉ có trong tiếng Nga,

không có trong tiếng Việt, ví dụ: читать (đọc) / начитывать (ghi âm); говорить

(nói) / отговориться (viện cớ); учить (học) / разучать (tập luyện); ...

Tóm lại, chúng tôi rút ra một số nhận xét nhƣ sau:

- Điểm khác biệt dễ thấy trong cách biểu đạt ý nghĩa công cụ giữa tiếng

Nga và tiếng Việt là: tiếng Nga dùng phƣơng tiện hình thái học một cách nhất

quán, điển hình qua các chỉ tố ngữ pháp chuyên biệt, đặc trƣng gắn với vị từ

một cách bắt buộc kể cả khi ngôn cảnh cho phép ngƣời nghe định vị đƣợc sự

tình. Còn tiếng Việt biểu thị ý nghĩa công cụ rất linh hoạt, khi thật cần thiết mới

sử dụng phƣơng tiện từ vựng (qua khung đề, trạng ngữ) để diễn đạt ý nghĩa này

một cách bắt buộc hoặc không hoàn toàn bắt buộc.

- Một hình thức ngôn ngữ có thể biểu đạt nhiều ý nghĩa khác nhau và

ngƣợc lại, một ý nghĩa cũng có thể có nhiều hình thức biểu đạt khác nhau. Xét

trên bình diện “cái đƣợc biểu hiện” của ngôn ngữ thì không phải bao giờ ý

nghĩa và hình thức biểu đạt nó cũng có sự tƣơng ứng một đối một. Cách biểu

đạt “phi đối xứng”, xét trong mối quan hệ giữa ngôn ngữ này với ngôn ngữ

khác, có thể diễn ra ở mọi cấp độ ngôn ngữ. Đây chính là một trong những

nguyên nhân tạo nên sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ và cũng là điểm cần chú ý

khi chuyển dịch hai thứ tiếng.

164

Những nhận xét trên đây sẽ cho ta hiểu thêm về mối quan hệ giữa hình

thức và ý nghĩa của ngôn ngữ, về quan hệ giữa ngữ pháp và ngữ nghĩa trong

một ngôn ngữ cũng nhƣ giữa các ngôn ngữ với nhau, thấy đƣợc điểm tƣơng

đồng và khác biệt giữa chúng trong cách biểu hiện tƣ duy và thực hành giao

tiếp. Điều này có tác dụng giúp ngƣời bản ngữ cũng nhƣ ngƣời học ngoại ngữ

giải quyết đƣợc những khó khăn gặp phải trong quá trình thụ đắc và sử dụng

ngôn ngữ.

165

TIỂU KẾT

Trong chƣơng III chúng tôi đã khảo sát, miêu tả ý nghĩa công cụ và vai

nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga; những đặc trƣng ngữ nghĩa hình

thức của vai nghĩa công cụ trên bình diện nghĩa (nghĩa miêu tả), đồng thời

nghiên cứu khả năng hiện thực hóa của vai nghĩa công cụ trong vai trò thực

hiện các chức năng cú pháp của câu. Kết quả thu đƣợc nhƣ sau:

Trong tiếng Việt, vai nghĩa công cụ có thể đảm nhiệm chức năng chủ

ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, đề ngữ ở trong câu. Vai nghĩa công cụ nhờ vào các

thành phần cú pháp (chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, đề ngữ) để thể hiện vai trò

thông báo của mình, nghĩa là thể hiện ở mặt ngữ nghĩa. Ngƣợc lại, các thành

phần cú pháp nhờ vào vai nghĩa công cụ để thể hiện các dấu hiệu hình thức,

phân biệt với các thành phần cú pháp khác nhau trong câu.

Trong tiếng Nga, vai nghĩa công cụ và cách công cụ có mối quan hệ

qua lại: cách công cụ có thể đƣợc sử dụng để thể hiện nhiều vai nghĩa, trong đó

có vai nghĩa công cụ. Ngƣợc lại, vai nghĩa công cụ có thể đƣợc thể hiện bằng

cách công cụ hoặc các hình thức ngữ pháp khác.

Sự thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ và vai nghĩa công cụ trong tiếng

Việt và tiếng Nga có cả những điểm tƣơng đồng lẫn khác biệt. Sự tƣơng đồng

có thể nhận biết qua các phƣơng tiện chuyển dịch tƣơng đƣơng nhau giữa hai

ngôn ngữ (dùng danh từ, danh ngữ, giới ngữ). Sự khác biệt nằm ở sự biến đổi

về mặt hình thái của các giới từ ở các cách khác nhau bắt nguồn từ sự khác biệt

về loại hình ngôn ngữ.

Việc nghiên cứu ý nghĩa công cụ và vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt

và tiếng Nga có giá trị thực tiễn lớn. Trƣớc hết, tính ứng dụng của vấn đề

nghiên cứu nằm ở hoạt động dạy và học tiếng Việt - tiếng Nga với tƣ cách là

một ngoại ngữ; tiếp theo đó là trong hoạt động dịch, biên soạn giáo trình tài

liệu giảng dạy và học tập hai ngôn ngữ.

166

KẾT LUẬN

Từ những nội dung đã trình bày trong các chƣơng bên trên của luận án

này, đến đây, chúng tôi thấy có thể bƣớc đầu tổng kết lại đƣợc một số điểm

kết luận nhƣ sau.

1. Ý nghĩa ngữ pháp nói chung, ý nghĩa ngữ pháp công cụ nói riêng,

và các phƣơng tiện thể hiện chúng trong các ngôn ngữ khác nhau, sự so sánh

hoặc đối chiếu để phát hiện những tƣơng đồng và khác biệt của chúng, nghiên

cứu chúng trong tƣơng quan và liên hệ với vai nghĩa trong phân tích cú pháp -

ngữ nghĩa,... là những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu với những mức độ nông,

sâu, rộng, hẹp khác nhau; thậm chí có những vấn đề trong đó đã đƣợc nghiên

cứu từ lâu; nhƣng với sự phát triển của ngữ pháp học cùng với ngữ nghĩa học

và ngữ dụng học nhƣ hiện nay, những hƣớng tiếp cận nghiên cứu về chúng

vẫn tiếp tục đƣợc mở ra và hứa hẹn những kết quả nghiên cứu mới.

Ý nghĩa ngữ pháp công cụ là ý nghĩa có tính phổ quát trong các ngôn

ngữ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nó ở các ngôn ngữ khác nhau đã đạt đƣợc

những kết quả ở những mức độ khác nhau.

Trƣớc nay, đa số các nghiên cứu thƣờng tập trung miêu tả ý nghĩa

công cụ ở góc độ hình thái học. Trong thời gian gần đây, dƣới ánh sáng của

ngữ pháp chức năng hệ thống, vấn đề ý nghĩa công cụ đã đƣợc nghiên cứu

nhiều ở góc độ ngữ nghĩa và cú pháp - ngữ nghĩa. Trong luận án này, bên

cạnh những phân tích, miêu tả mặt ngữ pháp, hình thái học của ý nghĩa ngữ

pháp công cụ, chúng tôi đã bƣớc đầu đề cập đến mối quan hệ, tƣơng quan

giữa ý nghĩa ngữ pháp công cụ (thuộc bình diện ngữ pháp) với vai nghĩa công

cụ (thuộc bình diện của ngữ nghĩa).

2. Về phƣơng thức ngữ pháp để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ,

chúng tôi thấy:

a. Nét nổi bật đối với tiếng Việt là, nó sử dụng hƣ từ làm phƣơng thức

chủ đạo. Bên cạnh hai hƣ từ điển hình mang ý nghĩa chỉ công cụ là bằng, với,

167

tiếng Việt còn sử dụng một loạt hƣ từ khác cũng chứa nét nghĩa công cụ nhƣ:

nhờ, nhờ vào, dựa, dựa vào, dựa theo, căn cứ vào, căn cứ theo, bởi, trên,

trong, qua, thông qua ... Ngoài ra, nhƣ trong điểm 3 dƣới đây chúng tôi sẽ

trình bày, tiếng Việt còn sử dụng cả trật tự của biểu thức ngôn ngữ (dùng kết

cấu với vị từ dùng / lấy).

b. Tiếng Nga cũng sử dụng hƣ từ để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công

cụ. Ngoài hai hƣ từ điển hình thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga là giới

từ с, под (ở cách công cụ), tiếng Nga còn sử dụng một số giới từ khác ở các

cách khác để thể hiện ý nghĩa công cụ nhƣ: на, в, с, через, о, с помощю, при

помощи, средством, методом, по, благодаря, за, при.

Khi chuyển dịch ý nghĩa công cụ từ tiếng Việt sang tiếng Nga hoặc

ngƣợc lại, có những cặp hƣ từ tƣơng ứng nhau khá đều đặn giữa hai ngôn

ngữ. (Điều này gợi ý về những điểm thuận lợi cho ngƣời dạy ngƣời học,

ngƣời dịch Việt – Nga và Nga – Việt).

3. So sánh phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt với

phƣơng thức tƣơng ứng trong tiếng Nga, điểm rõ rệt nhất có thể nhận thấy là:

cả hai ngôn ngữ đều dùng hƣ từ. Điểm khác biệt giữa hai ngôn ngữ này là:

trong khi tiếng Việt chỉ dùng phƣơng thức hƣ từ (bằng, với, nhờ, nhờ vào,

dựa, dựa vào, dựa theo, căn cứ vào, căn cứ theo, bởi, trên, trong, qua, thông

qua, ...) và trật tự từ (dùng kết cấu với vị từ dùng / lấy; ví dụ: dùng răng cắn

chỉ, lấy lấy ngực đỡ bóng,...), thì tiếng Nga dùng phƣơng thức hƣ từ, phƣơng

thức phụ tố và kết hợp hƣ từ với phụ tố.

Điều này không khó giải thích, bởi vì tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập,

không biến hình, không có phụ tố (không dùng phụ tố làm phƣơng thức ngữ

pháp), còn tiếng Nga, một ngôn ngữ biến hình điển hình, phƣơng thức ngữ

pháp chủ yếu của nó để biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp của nó là phụ tố và hƣ từ.

168

Mặt khác, khi nói về phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ, ta cũng

không nên quên rằng, có những loạt vị từ / động từ có chứa tiền giả định về ý

nghĩa công cụ (ví dụ: chặt, cắt, cưa, nghe, liếc, viết, ...). Tiền giả định này

đƣợc phát hiện, đƣợc nhận ra khi ta dùng các thủ pháp phân tích nghĩa của từ,

đặc biệt là phân tích nghĩa của phát ngôn cùng với ngữ cảnh của phát ngôn.

Ý nghĩa ngữ pháp công cụ có liên quan đến vai nghĩa công cụ trong

nghiên cứu cú pháp - ngữ nghĩa và ngữ pháp chức năng hệ thống. Ý nghĩa

ngữ pháp công cụ thể hiện quan hệ về cách giữa các thành phần ngôn ngữ

trong phát ngôn, nghĩa là nó đƣợc thể hiện về mặt ngữ pháp, bằng phƣơng

tiện ngữ pháp đƣợc quy định; còn vai nghĩa công cụ là một vai ngữ nghĩa, thể

hiện quan hệ về mặt ngữ nghĩa giữa các thành phần (vai nghĩa) trong tổ chức

ngữ nghĩa của phát ngôn.

Vì thế, ở cấp độ thành phần câu, tuy ý nghĩa công cụ và vai nghĩa

công cụ đều thực hiện vai trò, chức năng làm thành phần câu, nhƣng nhìn theo

chiều ngƣợc lại, một vai nghĩa trong câu hoàn toàn có thể do chủ ngữ, bổ ngữ,

trạng ngữ, đề ngữ, đảm nhiệm, tùy tƣng câu/phát ngôn cụ thể, trong ngữ cảnh

cụ thể. Khi đảm nhiệm vai trò một thành phần cú pháp của câu, vai nghĩa

công cụ đều có các chỉ dấu về mặt hình thức (bằng dấu câu, bằng hƣ từ, bằng

ngữ điệu). Vai nghĩa tất sẽ đóng vai trò cụ thể nhất định trong cấu trúc nghĩa

biểu hiện của câu.

4. Việc nghiên cứu ý nghĩa công cụ và sự thể hiện của nó trong hai

ngôn ngữ Việt và Nga có ý nghĩa khoa học và thực tiễn của nó, dù là từ

hƣớng tiếp cận nghiên cứu ngữ pháp hay ngữ nghĩa, và cả ngữ dụng. Không

những thế, những nghiên cứu về đối tƣợng này còn ngụ ý trong đó tính ứng

dụng cao trong lĩnh vực khoa học dạy tiếng, cùng với việc dạy và học tiếng

thực hành. Việc phát hiện những khó khăn và thuận lợi khi phải biểu thị ý

nghĩa công cụ, các nghiên cứu về lỗi, phân tích lỗi, ngừa lỗi, sửa lỗi trong dạy

và học tiếng, ... cũng có thể tìm thấy những thông tin hữu ích trong kết quả

169

nghiên cứu về sự thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt và tiếng

Nga, hai ngôn ngữ rất khác biệt nhau vê mặt loại hình. Tuy nhiên, trong

khuôn khổ và yêu cầu của luận án này, chúng tôi chƣa thể đi sâu vào phân

tích và miêu tả những khía cạnh đó. Hy vọng rằng, những điều đó sẽ đƣợc

chúng tôi tiếp tục tìm tòi trong những nghiên cứu tiếp theo sau này./.

170

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Đoàn Hữu Dũng (2018), “Sự thể hiện ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ

trong tiếng Nga và tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ Quân sự (13), tr.

32-37.

2. Đoàn Hữu Dũng (2018), “Đối chiếu cách thể hiện ý nghĩa công cụ

Nga - Việt nhìn từ góc độ Ngôn ngữ học Ứng dụng”, Tạp chí Khoa học Ngoại

ngữ Quân sự (15), tr. 31-38

171

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Lê Thị Lan Anh (2000), Các vai nghĩa: Kẻ tiếp nhận, kẻ hưởng lợi,

kẻ cộng tác, kẻ tổn thất, phương tiện và các chức năng ngữ pháp của chúng

trong câu tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm

Hà Nội, Hà Nội.

2. Lê Thị Lan Anh (2001), “Tìm hiểu sự hiện thực hóa các vai nghĩa và

các thành phần câu trong văn bản tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (4), tr. 18-19.

3. Lê Thị Lan Anh (2002), “Vai nghĩa phƣơng tiện và các chức năng

ngữ pháp của nó trong câu tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (4), tr. 25-31.

4. Lê Thị Lan Anh (2014), Câu quan hệ tiêng Việt dưới góc nhìn của

Ngữ pháp chức năng, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

5. Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

6. Diệp Quang Ban (2008), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (2012), Ngữ pháp tiếng Việt

Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

8. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt: Tiếng – Từ ghép –

Đoản ngữ, NXB ĐH và THCN, Hà Nội.

9. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

10. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2011), Đại cương ngôn ngữ học

Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

11. Trƣơng Văn Chình & Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ

pháp Việt Nam, NXB Đại học Huế, Huế.

12. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2008), Cơ

sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

172

13. Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh

Toán (2011), Nhập môn ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

14. Đỗ Hồng Dƣơng (2011), Khảo sát chủ ngữ tiếng Việt dưới góc

nhìn của lí thuyết điển mẫu, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trƣờng

ĐHKHXH và NV, ĐHQGHN, Hà Nội.

15. Lâm Quang Đông (2007), Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu có vị

ngữ là vị từ mang ý nghĩa trao/tặng (trên cơ sở tiếng Việt và tiếng Anh), Luận

án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trƣờng ĐHKHXH và NV, ĐHQGHN, Hà Nội.

16. Lâm Quang Đông (2011), “Về cách xác định cấu trúc nghĩa biểu

hiện của câu đa động từ trong tiếng Anh và tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học

ĐHQGHN (27), tr. 143-150.

17. Lâm Quang Đông (2013), “Sự chênh nghĩa giữa vị từ đơn tiếng

Anh và vị từ chuỗi tiếng Việt (và sự thất thoát nghĩa khi dịch)”, Tạp chí Từ

điển học và Bách khoa thư (34), tr. 3-9.

18. Lâm Quang Đông (2014), “Một số đặc thù của kết cấu vị từ chuỗi

tiếng Việt”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Ngôn ngữ học Việt Nam trong bối cảnh

mới và hội nhập, tr. 714-738.

19. Lê Đông (1991), “Ngữ nghĩa – ngữ dụng của hƣ từ tiếng Việt: ý

nghĩa đánh giá của các hƣ từ”, Tạp chí Ngôn ngữ (2), tr. 15-23, 28.

20. Đinh Văn Đức (2015), Ngữ pháp tiếng Việt_Từ loại, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

21. Đinh Văn Đức, Nguyễn Văn Chính, Đinh Kiều Châu (2016), Ngôn

ngữ học ứng dụng (Giáo trình), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

22. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

23. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

173

24. Nguyễn Thiện Giáp (2012), Phương pháp luận và phương pháp

nghiên cứu ngôn ngữ, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

25. Nguyễn Thiện Giáp (2014), Nghĩa học Việt ngữ, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

26. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết

(2014), Dẫn luận Ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội

27. Nguyễn Thiện Giáp (2014), “Phân biệt nghĩa và ý nghĩa trong

ngôn ngữ học hiện đại”, Tạp chí Khoa học ĐHQG Tập 30 (3), tr.1-13.

28. Nguyễn Thiện Giáp (2016), Từ điển khái niệm ngôn ngữ học,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

29. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng,

NXB KHXH, Hà Nội.

30. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt: Mấy vấn đề về ngữ âm, ngữ

pháp, ngữ nghĩa, NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.

31. Cao Xuân Hạo (chủ biên), Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng,

Bùi Tất Tƣơm (1998), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt: Câu trong tiếng Việt

Quyển 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

32. Cao Xuân Hạo (1999), “Nghĩa của loại từ”, Tạp chí Ngôn ngữ (2),

tr. 1-16 và (3), tr. 9-23.

33. Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng (2004), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ

học đối chiếu Anh Việt – Việt Anh, NXB Giáo dục, Hà Nội.

34. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

35. Nguyễn Văn Hiệp (2009), Cú pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục Việt

Nam, Hà Nội.

36. Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

174

37. Trƣơng Vĩnh Ký (1883), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Guilaud &

Martinon, Sài Gòn.

38. Phan Khôi (1955), Việt ngữ nghiên cứu, NXB Văn nghệ, Hà Nội.

39. Nguyễn Lai (1981), “Một vài đặc điểm của nhóm từ chỉ hƣớng

đƣợc dùng ở dạng động từ trong tiếng Việt hiện đại”, Tạp chí Ngôn ngữ (3),

tr. 8-29.

40. Nguyễn Lai (1981), “Thử tìm hiểu sự chuyển hóa nghĩa từ vựng

theo hƣớng “hƣ hóa” (thông qua từ chỉ hƣớng vận động “ra”)”, Giữ gìn sự

trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ Tập 2, tr. 159 – 166, NXB Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

41. Nguyễn Lai (1984), Từ chỉ hướng vận động trong tiếng Việt hiện

đại, Luận án Tiến sĩ, Trƣờng Đại học Wilhem Humboldt, Khoa châu Á.

42. Đào Thanh Lan (2002), Phân tích câu đơn tiếng Việt theo cấu trúc

Đề - Thuyết, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

43. Đào Thanh Lan (2012), Một số vấn đề ngữ pháp – ngữ nghĩa của lời

(Trường hợp lời cầu khiến tiếng Việt), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

44. Lƣu Vân Lăng (1994), Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt hiện đại,

NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

45. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

46. Nguyễn Văn Lộc (1992), “Định nghĩa và xác định kết trị của động

từ”, Tạp chí Ngôn ngữ (1), tr. 39-42

47. Nguyễn Văn Lộc (2000), Kết trị của động từ tiếng Việt, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

48. Nguyễn Văn Lộc (2002), “Các mô hình kết trị của động từ tiếng

Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (2), tr. 20-24.

175

49. Nguyễn Văn Lộc (2012), “Bàn thêm về bình diện cú pháp và

nghĩa cú pháp”, Tạp chí Ngôn ngữ (6), tr. 3 - 18.

50. Lê Văn Lý (1968), Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, Trung tâm Học

liệu, Sài Gòn.

51. Võ Huỳnh Mai (1971), “Về vấn đề trạng ngữ trong tiếng Việt”,

Tạp chí Ngôn ngữ (3), tr. 13-21.

52. Võ Huỳnh Mai (1973), “Bàn thêm về phạm vi của trạng ngữ trong

tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (2), tr. 54-62.

53. Đái Xuân Ninh (1973), “Có nên xem "Câu đơn có trạng ngữ" là

một kiểu câu ghép không?”, Tạp chí Ngôn ngữ (3), tr. 49-55.

54. Trà Ngân (1943), Khảo cứu về tiếng Việt Nam, Hà Nội.

55. Phan Ngọc & Phạm Đức Dƣơng (1982), Tiếp xúc ngôn ngữ ở

Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á, Hà Nội.

56. Phan Ngọc (2013), Hình thái học trong từ láy tiếng Việt, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

57. Vũ Đức Nghiệu, Nguyễn Văn Hiệp (2010), Dẫn luận ngôn ngữ

học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

58. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”, Tạp chí Ngôn ngữ (2),

tr. 10-26.

59. Hoàng Phê (1982), “Tiền giả định và hàm ý tiềm tàng trong ngữ

nghĩa của từ”, Tạp chí Ngôn ngữ (2), tr. 49-51

60. Hoàng Phê chủ biên (1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng,

Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng.

61. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt: Câu, NXB ĐH

và THCN, Hà Nội.

62. Hoàng Trọng Phiến (2003), Cách dùng hư từ tiếng Việt, NXB

Nghệ An, Nghệ An.

176

63. Hoàng Trọng Phiến (2008), Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt,

NXB Tri thức, Hà Nội.

64. Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

65. Nguyễn Thị Quy (1993), “Về kiểu kết cấu D2 do D1Đ”, Tạp chí

Ngôn ngữ (3), tr. 5-9.

66. Nguyễn Thị Quy (1995), Vị từ hành động tiếng Việt và các tham

tố của nó (so sánh với tiếng Nga và tiếng Anh), NXB Khoa học Xã hội, Tp.

Hồ Chí Minh.

67. Nguyễn Hữu Quỳnh (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Từ điển

Bách khoa, Hà Nội.

68. Nguyễn Mạnh Tiến (2016), Phân tích câu về cú pháp dựa vào

thuộc tính kết trị của từ (trên cứ liệu động từ tiếng Việt), Luận án Tiến sĩ

Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.

69. Bùi Đức Tịnh (1956), Văn phạm Việt Nam, NXB Vĩnh Bảo, Sài Gòn.

70. Bùi Minh Toán (2010), “Vai nghĩa của các tham thể trong sự

chuyển hóa của vị từ‖, Tạp chí Ngôn ngữ (3), tr. 1-9

71. Hoàng Tuệ (2001), Tuyển tập ngôn ngữ học, NXB Đại học Quốc

gia, Thành phố Hồ Chí Minh.

72. Hoàng Tuệ, Lê Cận và Cù Đình Tú (1962), Giáo trình về Việt ngữ,

NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.

73. Lê Đình Tƣ và Vũ Ngọc Cân (2009), Nhập môn ngôn ngữ học,

NXB thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

74. Lê Xuân Thại (1983), “Nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt”, Tạp

chí Ngôn ngữ (2), tr. 39-42

75. Lê Xuân Thại (1992), Câu chủ-vị tiếng Việt, Luận án phó tiến sĩ

khoa học ngữ văn, Viện NNH, Hà Nội.

177

76. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt Tập

1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

77. Nguyễn Kim Thản (1964), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt Tập

2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

78. Nguyễn Kim Thản (1977), Động từ trong tiếng Việt, NXB Khoa

học và Xã hội, Hà Nội.

79. Nguyễn Kim Thản (1981), Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, NXB Tổng

hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

80. Tô Minh Thanh (2011), Vai nghĩa trong câu trần thuật tiếng Việt

và tiếng Anh, NXB ĐHQG Thành phố HCM, Thành phố HCM.

81. Lê Kính Thắng (2008), “Trật tự từ và việc nhận diện một số cấu

trúc ngoại động trong tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM (13), tr.

69-75

82. Lý Toàn Thắng (1981), “Về một hƣớng nghiên cứu trật tự từ trong

câu”, Tạp chí Ngôn ngữ (3), tr. 25-32.

83. Lý Toàn Thắng (2000), “Về cấu trúc ngữ nghĩa của câu‖,Tạp chí

Ngôn ngữ (5), tr. 1-8.

84. Lý Toàn Thắng (2002), Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ học

đại cương, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

85. Lý Toàn Thắng (2004), Lí thuyết trật tự từ trong cú pháp, NXB

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

86. Lê Quang Thiêm (2008), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

87. Lê Quang Thiêm (2013), Ngữ nghĩa học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

88. Phan Thị Minh Thúy (2003), Cách diễn đạt ý nghĩa thời gian

trong tiếng Việt (So sánh với tiếng Nga), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐHQG

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

178

89. Nguyễn Minh Thuyết (1981), “Câu không chủ ngữ với tân ngữ

đứng đầu”, Tạp chí Ngôn ngữ (1), tr. 40-46.

90. Nguyễn Minh Thuyết (1988), “Cách xác định thành phần câu tiếng

Việt”, Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á, NXB KHXH, Hà Nội, tr.

207-212.

91. Nguyễn Minh Thuyết (1994), “Thử giải đáp hai vấn đề cơ bản về

thành phần câu”, Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt hiện đại (Lưu Vân Lăng

chủ biên), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 57-67.

92. Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (1998), Thành phần

câu tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

93. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2000), Ngữ

pháp tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

94. Uỷ ban Khoa học Xã hội (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

95. Nguyễn Khắc Xuyên (1994), Ngữ pháp tiếng Việt của Taberd

1838, NXB Thời điểm.

96. Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (1997), Từ điển giải thích thuật ngữ

ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Tiếng Anh

97. Anderson, John M. (1994), “Case”, The Encyclopedia of

Language and Linguistics (vol. 2), Pergamon Press, Oxford, pp. 447- 453.

98. Anderson J. (2006), Modern Grammars of Case, Oxford

University Press, Oxford, 461 pages.

99. Blake, B.J. (2001), Case, Cambridge University Press, Cambridge.

100. Butt, Miriam (2006), Theories of Case, Oxford University Press,

Oxford.

179

101. Campe, Petra. (1994), Case, semantic roles, and grammatical

relations: a comprehensive bibliography, Amsterdam, Philadelphia.

102. DeLancey S. (1982), Aspect, transitivity and viewpoint‖, Tense

and aspect: between semantics and pragmatics, Amsterdam, Philadelphia.

103. Fillmore, C.J. (1968), “The Case for Case”, Universals in

linguistic theory, pp 1-91, New York.

104. Halliday M.A.K (2001), Halliday‘s Introduction to Functional

Grammar (Dẫn luận ngữ pháp chức năng, bản dịch: Hoàng Văn Vân), NXB

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

105. Jackendoff, R. (1983), Semantics and cognition, MA: MIT Press,

Cambridge.

106. John Lyons (1996), Nhập môn ngôn ngữ học lí thuyết, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

107. Lakoff George (1968). Trạng ngữ công cụ và khái niệm cấu trúc

chìm! (Instrumental Adberbe and concept of Deep Structure), Nguyễn Đức Dân,

Nguyễn Đức Lợi dịch trong quyển Mathematical Lingustics and Automatic

Translation Report № NSF – 20, Cambridge, Massachusetts, May 1968.

108. Nilsen, D.L.F. (1973), The instrument case in English, The

Hague, Mouton.

109. Saussure F.de (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

110. Schlesinger, I.M. (1985), Cognitive space and lingustics case –

semantic and syntactic categories in English, Cambridge, Cambridge

University Press.

111. Wilkins, W. (1988), “Thematic structure and reflexivization”,

Syntax and semantic, (vol. 21), pp 191 – 215, San Diego.

Tiếng Nga

180

112. Адмони В.Г. (1963), Исторический синтаксис немецкого

языка, Издательство Высшая школа, МОСКВА, 336 с.

113. Белошапова В.А., Муравенко Е.В. (1980), “Способы

выражения инструментального значения в русском языке”, Навстречу

VI конгрессу МАПРЯЛ

114. Бужинский С.В. (2012), “Опыт описания английских

инструментальных предлогов”, Ученые записки: электронный научный

журнал Курского государственного университета № 4 (24), Т. 1

115. Бужинский С.В. (2013), Семантика инструментальности в

явной и скрытой грамматике (на материале русского и английского

языков), Диссертация на соискание ученой степени кандидата

филологических наук, Курск.

116. Бысров И.С., Нгуэн Тай Кан, Штанкевич Н.В. (1975),

Вьетнамская грамматика, Издательство Наука, Москва.

117. Варпахович Л.В. (1986), Категория инструменталя и ее

реализация в тексте, Автореферат диссертации кандидата

филологических наук, Минск, 20 с.

118. Вежбицкая А. (1985), “Дело о поверхностном падеже //

Новое в зарубежной лингвистике”, Современная зарубежная русистика

- Выпуск XV. - С. 303-341.

119. Головин Б.Н. (1983), Введение в языкознание. Изд. Высшая

школа, Москва.

120. Зубкова И.Г. (1990 ) (Hoàng Lê dịch), “Các nét đồng hình của

các ngôn ngữ đơn lập và ngôn ngữ biến tố (Một vài nét tƣơng đẳng Nga –

Việt)”, Tạp chí Ngôn ngữ (1), tr. 30-32.

121. Жданова Т.А. (2012), “Linguistic means for representing the

concept “instrument””, Научный вестник Воронеж, Т. 1, с. 63-70.

181

122. Кашкин В.Б. (1991), Функциональная типология перфекта,

Издательство ВГУ, Воронеж, 128 с., Режим доступа:

http://kachkine.narod.ru/WebPerfect/Ch1/Chapter1.htm

123. Кашкин В.Б. (2010), Парадоксы границы в языке и

коммуникации, серия монографий «Аспекты языка и коммуникации»,

Выпуск 5, Воронежский государственный университет, Воронеж, 382 с.

124. Кобцева, А.В. (2006), Категория инструментальности и

способы ее экспликации в текстах газетно-публицистического стиля

русского и немецкого языков, диссертация кандидата филологических

наук 10.02.19, Ставрополь, 185 с.

125. Костюченко Ю.П. (1977), Творительный падеж и значение

деятеля при страдательном залоге и орудия (на материале славянских,

германских и балтийских языков), Издательство Ленгипроводхоз,

Лениград, 102 с.

126. Кодухов В.И. (1979), Обще языкознание. Изд. Просвещение,

Москва.

127. Косoвский В.И. (1974), Обще языкознание. Изд. Вышэйшая

школа, Минск.

128. Кочергина В.А. (1979), Введение в языковедение. Изд.

Московского Университета, Москва.

129. Лекомцев Ю.К. (1964), Простое предложение Вьетнамского

языка, Издательство Наука, Москва.

130. Лутин С.А. (2008), Системно-функциональный анализ

категории падежа, диссертация кандидата филологических наук

10.02.01; Издательство РУДН, Москва, 486 с.

131. Милославский И.Г. (1981), Морфологические категории

современного русского языка, Издательство Просвещение, Москва, 254 с.

182

132. Москвин В.П. (1988), Лексико-грамматические средства

выражения инструментальности в современном русском языке,

Автореферат диссертации кандидата филологических наук, Киев, 17 с.

133. Морев И.Н. (1990 ) (Hoàng Lê dịch), “Về tính từ vựng và tính

ngữ pháp của các ngôn ngữ đơn lập ở Đông Á và Đông Nam Á”, Tạp chí

Ngôn ngữ (1), tr. 27-29.

134. Мразек Р. (1964), Синтаксис русского творительного

(структурно- сравнительное исследование), Praha, 285 c.

135. Муравенко Е.В. (1987), “К вопросу о статусе орудийного

значения // Типы коммуникации и содержательный аспект языка”,

Сборник научных тр., Издательство Наука, Москва, с. 54-62.

136. Муравенко Е.В. (1988), Выражение инструментального

значения падежными и предложно-падежными формами //

Идеографические аспекты русской грамматики / Под. ред.

Белошапковой В.А. и Милославского И.Г., Издательство в МГУ,

Москва, с. 75-94.

137. Мурясов Р.З. (1972), “Структура словообразовательных

полей лица и инструмента в современном немецком языке”, Вопросы

языкознания (4), с. 90-99.

138. Нгуэн Минь Тхуэт (1981), Подлежающий в Вьетнамском

языке, Диссертация на соискание ученой степени кандидата

филологических наук, Ленинградский Государственный Университет,

Ленинград.

139. Пешковский А.М. (1956), Русский синтаксис в научном

освещении - 7-е, Издательство Учпедгиз, МОСКВА, 511 с.

140. Попoва З.Д. Cтернин, И.А. Обще языкознание. Всток - Заnад, 2007

183

141. Пунькина И.М. (1983), Tóm lược ngữ pháp tiếng Nga (Bùi Hiền

dịch), NXB Tiếng Nga, Moskva.

142. Реформатский А.А. Введение в языковедение. Изд.

Просвещение, Москва, 1967.

143. Филлмор Ч. (1981), “Дело о падеже”, Новое в зарубежной

лингвистике: Лингвистическая семантика (X), с. 369-495.

144. Станкевич Н.В. (1982), Loại hình các ngôn ngữ, NXB Đại học

và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

145. Станишева Д.С. (1958), Творительный инструментальный //

Творительный падеж в славянских языках, Издательство Академии

наук, Москва, с. 76-126.

146. Шахматов А.А. (1941), Синтаксис русского языка 2-е,

Издательство Учпедгиз, Ленинград, 620 с.

147. Шахматов А.А. (2001), Синтаксис русского языка,

Издательство УРСС, Москва.

148. Якобсон P.O. (1985), К общему учению о падеже: общее

значение русского падежа, Избранные работы, Издательство Прогресс,

Москва, с. 135-175.

149. Ямщанова В.А. (1978), “О разграничении синтактико-

семантических понятий орудия, средства, способа действия”,

Лингвистические исследования Синтаксис и морфология языков

различных типов, МОСКВА АН СССР, с. 250-255.

150. Ямшанова В.А. (1979), “Об инструментальном значении

предлог uber // Лингвистические исследования 1979: Вопросы

межуровневого анализа языков различных типов”. - МОСКВА АН

СССР, С. 259-265.

184

151. Ямшанова В.А. (1979), Синтаксическая функция

инструментальности в современном немецком языке, Авторефат

диссертации кандидата филологических наук, Ленинград, 20 с.

152. Ямшанова В.А. (1991), Категория инструментальности в

немецком языке, Издательство ЛФИ, 159 с.

153. Ямшанова В.А. (1992), “Инструментальность как

семантическая категория”, Вопросы языкознания (4), с. 63-72

154. Ямшанова В.А. (1992), “Инструментальность и субъектно-

объектные отношения” Теория функциональной грамматики

Субъектность Объектность Коммуникативная перспектива

высказывания Определенность неопределенность, с.167-188.

185

NGUỒN NGỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

Từ điển

155. Alexandre de Rhodes (1991), Từ điển An Nam-Lusitan-La Tinh

(Thƣờng gọi là Từ điển Việt-Bồ-La), bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân

Việt, Đỗ Quang Chính, NXB KHXH (đối chiếu nguyên bản Dictionarium

Annamiticum Lusitanum et Latinum, Rome, 1651).

156. Большая Советская Энциклопедия, Режим доступа:

http://bse.sci-lib.com/

157. Ефремова Т.Ф. (2000), Новый словарь русского языка,

Толковословообразовательный, Издательство Русский язык, Москва,

Режим доступа: http://www.efremova.info/ (Ефремова)

158. Лингвистический энциклопедический словарь (ЛЭС) (2002),

под редукции Ярцевой В.Н., Большая Российская Энциклопедия,

Москва, 709 с.

159. Леонид Юрьевич Иванов, Сковородников А.П., Евгений

Николаевич Ширяев (2003); Культура русской речи: энциклопедический

словарь-справочник; Институт русского языка им. В.В. Виноградова;

Издательство Флинта; Москва.

160. Ожегов С.И., Шведова Н.Ю. (1999), Тольковый словарь

русского языка, Издательство “Азбуковник”, Москва.

161. Онлайн - энциклопедия Кругосвет, Режим доступа:

http://www.krugosvet.ru/enc/gumanitarnye_nauki/lingvistika/AKTANT.html

162. Словарь сочетаемости слов русского языка (2002), Астрель:

ACT, Москва, 816 с.

163. Творительный падеж в славянских языках (1958), под

редукции Бернштейна С.Б., Издательство Академия наук СССР, Москва.

186

164. Толковый словарь русского языка (2001), под редукции

профессора Ушакова. Д.Н. Издательство Мир книги, Москва

Các tác phẩm văn học

165. Nam Cao (1996), Nam Cao truyện ngắn (chọn lọc), NXB Hội

nhà văn, Hà Nội

166. Nam Cao (1996), Chí Phèo, NXB Văn học, Hà Nội.

167. Anh Đức (1977), Tuyển tập Anh Đức tập I và II, NXB Văn học,

Hà Nội.

168. Thạch Lam (1999), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội nhà

văn, Hà Nội.

169. Kim Lân (1977), Tuyển tập Kim Lân, NXB Văn học, Hà Nội.

170. Tô Hoài (2015), Dế mèn phiêu lưu kí, NXB Kim Đồng, Hà Nội.

171. Nguyễn Công Hoan (1997), Bước đường cùng, NXB Hội nhà

văn, Hà Nội.

172. Nguyễn Công Hoan (1976), Truyện ngắn tuyển chọn, NXB Văn

học, Hà Nội.

173. Vũ Trọng Phụng (1999), Số đỏ, NXB Văn học, Hà Nội.

174. Vũ Trọng Phụng (1999), Tuyển tập 27 truyện ngắn, NXB Văn

học, Hà Nội.

175. Nguyễn Huy Thiệp (1996), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội nhà

văn, Hà Nội.

176. Ngô Tất Tố (1984), Tắt đèn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

177. Ngô Tất Tố (1997), Tuyển tập Ngô Tất Tố tập IV và V, NXB Văn

học, Hà Nội.

178. Truyện ngắn miền Nam chọn lọc (1999), NXB Hội nhà văn,

Hà Nội.

179. Truyện ngắn trẻ chọn lọc (1999), NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

187

180. Văn nghệ quân đội (1998), Truyện ngắn đoạt giải nhất, NXB

Văn học, Hà Nội.

181. Lê Khánh Trƣờng, Bác sĩ Zhivago, NXB Phụ nữ, Hà Nội

182. Борис Паштернак (1955), Доктор Живаго

188