ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------***------
ĐOÀN HỮU DŨNG
SỰ THỂ HIỆN Ý NGHĨA NGỮ PHÁP CÔNG CỤ
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------***------
ĐOÀN HỮU DŨNG
SỰ THỂ HIỆN Ý NGHĨA NGỮ PHÁP CÔNG CỤ
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 62 22 02 40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
GS. TS. VŨ ĐỨC NGHIỆU
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ một công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
ĐOÀN HỮU DŨNG
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tự đáy lòng mình, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
nhất đến thầy giáo hƣớng dẫn khoa học, GS-TS VŨ ĐỨC NGHIỆU, ngƣời đã
tận tâm trực tiếp hƣớng dẫn và chỉ bảo cho tôi hoàn thành luận án này bằng
những khích lệ quý báu, sự nghiêm khắc cần thiết và tấm lòng bao dung!
Tôi xin cảm ơn những ngƣời thân yêu trong gia đình đã chia sẻ khó
khăn để tôi có điều kiện chuyên tâm hoàn thành luận án này!
Trong quá trình thực hiện luận án, tôi cũng nhận đƣợc nhiều sự giúp
đỡ từ phía Ban chủ nhiệm và các quý thầy cô trong Khoa Ngôn ngữ học, các
nhà khoa học, tập thể Ban giám hiệu, lãnh đạo và chuyên viên các phòng ban
của Trƣờng ĐHKHXH&NV - ĐHQGHN. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành về những sự giúp đỡ quý báu này!
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Ban chủ nhiệm
và các đồng nghiệp trong Khoa Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam cùng các cơ
quan chức năng của Học viện Khoa học Quân sự đã tạo cơ hội và nhiều điều
kiện thuận lợi cho tôi đƣợc học tập và hoàn thiện luận án này!
Hà Nội, ngày ..... tháng ..... năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
ĐOÀN HỮU DŨNG
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG ...................................................................... 4
BẢNG VIẾT TẮT, KÝ HIỆU VÀ QUY ƢỚC TRÍCH DẪN .................................. 5
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 8
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................... 8
2. Đối tƣợng nghiên cứu ................................................................................................. 9
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 10
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 10
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................ 11
6. Ngữ liệu nghiên cứu ................................................................................................. 11
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án .................................................................. 12
8. Cấu trúc của luận án ................................................................................................ 13
CHƢƠNG 1 : TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
CỦA LUẬN ÁN .......................................................................................................... 14
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 14
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong ngôn ngữ học .............14
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt ................................ 20
1.1.3. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga................................. 26
1.2. Cơ sở lí luận của luận án ....................................................................................... 34
1.2.1. Phân biệt công cụ - dụng cụ - phƣơng tiện ....................................................... 35
1.2.2. Ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp công cụ .............................................. 41
1.2.3. Ý nghĩa ngữ pháp và vai nghĩa .......................................................................... 45
1.2.4. Phƣơng thức ngữ pháp và phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ . 49
1.2.5. Quan hệ giữa ý nghĩa công cụ và thành phần câu ............................................ 55
TIỂU KẾT ..................................................................................................................... 57
CHƢƠNG 2: CÁC PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý NGHĨA NGỮ PHÁP CÔNG
CỤ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA ......................................................... 59
1
2.1. Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt ............. 59
2.1.1. Phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng hƣ từ ........................................... 59
2.1.1.1. Hƣ từ “bằng”.................................................................................................... 60
2.1.1.2. Hƣ từ “qua, thông qua” ................................................................................... 61
2.1.1.3. Hƣ từ “với” ...................................................................................................... 64
2.1.1.4. Hƣ từ “nhờ (vào)” ........................................................................................... 66
2.1.1.5. Hƣ từ “dựa (vào, theo), căn cứ (vào, theo)” .................................................. 68
2.1.1.6. Hƣ từ “bởi, vì” ................................................................................................. 69
2.1.1.7. Hƣ từ “trên, trong” .......................................................................................... 71
2.1.2. Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ không bằng hƣ từ ........................ 73
2.1.2.1. Sử dụng kết cấu có các vị từ “dùng / lấy ...” .................................................. 73
2.1.2.2. Tiền giả định về “công cụ” của từ .................................................................. 81
2.2. Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Nga .............. 86
2.2.1. Phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các biến tố cách công cụ (cách 5)
........................................................................................................................................ 87
2.2.1.1. Thể hiện ý nghĩa công cụ bằng phụ tố ........................................................... 94
2.2.1.2. Kết hợp phƣơng thức giới từ và phụ tố .......................................................... 98
2.2.2. Phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các phƣơng tiện không thuộc
cách biểu hiện của cách công cụ ................................................................................ 107
2.2.2.1. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện sinh cách (cách 2) 108
2.2.2.2. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện tặng cách (cách 3) 114
2.2.2.3. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện đối cách (cách 4) .. 119
2.2.2.4. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện giới cách (cách 6) . 124
TIỂU KẾT ................................................................................................................... 130
CHƢƠNG 3: Ý NGHĨA CÔNG CỤ VỚI VAI NGHĨA CÔNG CỤ TRONG
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA .............................................................................. 132
3.1. Sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt .................................................. 133
3.1.1. Dẫn nhập ........................................................................................................... 133
2
3.1.2. Chức năng cú pháp của vai nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt ................... 137
3.1.2.1. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) bổ ngữ ................................................... 137
3.1.2.2. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) chủ ngữ ................................................. 141
3.1.2.3. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) đề ngữ ................................................... 147
3.1.2.4. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) trạng ngữ ............................................... 149
3.2. Sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga ............................................. 152
3.3. So sánh sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga .............. 158
TIỂU KẾT ................................................................................................................... 166
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 167
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ................................................................................................................... 171
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 172
NGUỒN NGỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ..................................................................... 186
3
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG
Bảng 1.1: Mô hình kết cấu có chỉ tố công cụ .................................................. 38
Bảng 1.2: Mô hình có tiền giả định công cụ 1 ................................................ 38
Bảng 1.3: Mô hình có tiền giả định công cụ 2 ................................................ 38
Bảng 2.1: Kết cấu chỉ công cụ của hành động ................................................ 77
Bảng 2.2: Kết cấu chỉ mục đích của hành động .............................................. 77
Bảng 2.3: Kết cấu kiểm định công cụ hành động ........................................... 77
Bảng 2.4: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng cách công cụ không có giới từ . 95
Bảng 2.5: Sự biến đổi vĩ tố của danh từ ở cách công cụ ................................. 95
Bảng 2.6: Sự biến đổi vĩ tố của tính từ ở cách công cụ .................................. 96
Bảng 2.7: Sự biến đổi đại từ nhân xƣng ở cách công cụ ................................ 96
Bảng 2.8: Sự biến đổi đại từ chỉ định ở cách công cụ .................................... 96
Bảng 2.9: Sự biến đổi đại từ sở hữu ở cách công cụ ....................................... 97
Bảng 2.10: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ с, под ........................ 105
Bảng 2.11: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các cách ngữ pháp khác ....... 107
Bảng 2.12: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ с / из ......................... 112
Bảng 2.13: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ от ............................. 112
Bảng 2.14: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ по .............................. 118
Bảng 2.15: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ благодаря ................ 118
Bảng 2.16: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ через ......................... 122
Bảng 2.17: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ на .............................. 126
Bảng 2.18: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ в ................................ 127
4
BẢNG VIẾT TẮT, KÝ HIỆU VÀ QUY ƢỚC TRÍCH DẪN
A. Viết tắt và ký hiệu
S: Chủ thể hành động (Subject)
P: Vị từ (Predicate)
O: Đối thể (Object)
(I): Yếu tố công cụ (Instrumental)
(+I): Có chỉ tố công cụ
(-I): Không có chỉ tố công cụ
Г: Động từ (Глагол)
Сущ.: Danh từ (Существительный)
Инстр.: Công cụ (Инструмент)
Сущ.инстр.: Danh từ chỉ công cụ (Существительные, обозначающие
инструмент)
Сущ.имен.п./инстр.: Danh từ ở chủ cách (cách 1) chỉ công cụ
(Существительные именительного падежа, обозначающие инструмент)
Сущ.род.п./инстр.: Danh từ ở sinh cách (cách 2) chỉ công cụ
(Существительные родительного падежа, обозначающие инструмент)
Сущ.дат.п./инстр.: Danh từ ở tặng cách (cách 3) chỉ công cụ
(Существительные дательного падежа, обозначающие инструмент)
từ ở đối cách (cách 4) chỉ công cụ Сущ.вин.п./инстр.: Danh
(Существительные винительного падежа, обозначающие инструмент)
Сущ.твор.п./инстр.: Danh từ ở công cụ cách (cách 5) chỉ công cụ
(Существительные творительного падежа, обозначающие инструмент)
Сущ.предл.п./инстр.: Danh từ ở giới cách (cách 6) chỉ công cụ
(Существительные предложного падежа, обозначающие инструмент)
≈: tƣơng đƣơng
: Có nghĩa là
5
B. Viết tắt nguồn trích dẫn
Доктор Живаго: ДЖ
Bác sĩ Zhivago: BSZh
Bƣớc đƣờng cùng của Nguyễn Công Hoan: BĐC-NCH
Chí Phèo của Nam Cao: CP-NC
Dế mèn phiêu lƣu kí: DMPLK
Nguyễn Huy Thiệp - Truyện ngắn chọn lọc: NHT
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng: SĐ-VTP
Tắt đèn - Ngô Tất Tố: TĐ-NTT
Tuyển tập Nam Cao: NC
Tuyển tập Anh Đức - tập I và II: AĐ-I và AĐ-II
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan: NCH
Thạch Lam - Truyện ngắn chọn lọc: TL
Tuyển tập Kim Lân: KL
Tuyển tập Ngô Tất Tố - tập IV và V: NTT-IV và NTT-V
Tuyển tập 27 truyện ngắn Vũ Trọng Phụng: VTP
Truyện ngắn miền Nam chọn lọc: TNMN
Truyện ngắn trẻ chọn lọc: TNT
Văn nghệ quân đội - Truyện ngắn đoạt giải nhất: VNQĐ
C. Quy định cách ghi nguồn trích dẫn và xuất xứ các ví dụ
Trong phần TÀI LIỆU THAM KHẢO từ trang 172 đến trang 185,
chúng tôi đánh số liên tục từ số thứ tự 1 đến số 155. Trong quá trình trích dẫn
tài liệu tham khảo, chúng tôi báo cáo nguồn bằng những số thứ tự chỉ tác giả
công trình và sau đó là số trang trong ngoặc vuông.
Trong phần NGUỒN NGỮ LIỆU NGHIÊN CỨU từ trang 186 đến
trang 188, chúng tôi đánh số liên tục từ số thứ tự 156 đến số 182. Trong quá
6
trình trích dẫn ví dụ, chúng tôi báo nguồn bằng tên tác phẩm (viết tắt) rồi đến
số trang trong ngoặc vuông.
Một số ví dụ chúng tôi thiết kế nên phía sau không đƣợc ghi chú
nguồn xuất xứ và một số ví dụ chúng tôi ghi chú nguồn trực tiếp phía sau vì
xuất xứ của chúng không có trong danh mục “TÀI LIỆU THAM KHẢO” và
“NGUỒN NGỮ LIỆU NGHIÊN CỨU”.
7
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong ngôn ngữ, ý nghĩa của một từ, một cụm từ hay một câu đều có
những hình thức thể hiện nhất định. Ý nghĩa ngữ pháp cũng không phải là
ngoại lệ, nó luôn đƣợc thể hiện bằng một hình thức nào đó. Nhiệm vụ quan
trọng của ngữ pháp học chính là nghiên cứu những phƣơng tiện biểu hiện của
các ý nghĩa ngữ pháp đƣợc sử dụng trong các loại hình ngôn ngữ khác nhau
trên thế giới. Ý nghĩa ngữ pháp công cụ là một trong nhiều ý nghĩa ngữ pháp
mang tính phổ quát ở nhiều ngôn ngữ nhƣng chƣa đƣợc nghiên cứu nhiều
trong tiếng Việt và tiếng Nga. Đây chính là lí do quan trọng thôi thúc chúng
tôi khảo sát và miêu tả.
Thực tiễn dạy và học các ngôn ngữ châu Âu, trong đó có tiếng Nga,
của ngƣời Việt có những khó khăn nhất định vì tính chất khác biệt về loại
hình. Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập không biến hình, tiếng Nga là ngôn ngữ
biến hình (hòa kết). Về mặt ngữ pháp, các ý nghĩa ngữ pháp, phƣơng thức
ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp, giữa hai ngôn ngữ có những nét tƣơng đồng và
khác biệt: trong tiếng Việt, các ý nghĩa ngữ pháp đƣợc thể hiện chủ yếu thông
qua hƣ từ hoặc trật tự từ (trong một số trƣờng hợp còn thông qua ngữ điệu);
trong khi đó, các ý nghĩa ngữ pháp trong tiếng Nga đƣợc thể hiện bằng nhiều
phƣơng thức khác nhƣ hƣ từ, phụ tố biến cách, biến đổi căn tố…. Đây là một
vấn đề gây nên những khó khăn nhất định cho ngƣời học. Việc nghiên cứu
vấn đề trên sẽ góp phần khắc phục các khó khăn, nâng cao hiệu quả của của
công tác dạy và học tiếng, công tác phiên biên dịch tài liệu, công tác biên soạn
các loại từ điển.
Thực tiễn dạy và học tiếng Nga cho ngƣời Việt, dạy và học tiếng Việt
cho ngƣời Nga cho thấy: trong hàng loạt vấn đề về ngữ pháp, vấn đề ý nghĩa
công cụ và cách thức (phƣơng thức), vấn đề thể hiện các ý nghĩa đó cần đƣợc
8
quan tâm nghiên cứu vì tính phức tạp của chúng so với các ý nghĩa ngữ pháp
khác. Xuất phát từ mục tiêu nâng cao hiệu quả dạy - học tiếng Việt và tiếng
Nga với tƣ cách là ngoại ngữ, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Sự thể hiện ý
nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga” để giúp ngƣời học
thông hiểu, sử dụng đúng ngữ pháp, đặc biệt là ý nghĩa ngữ pháp công cụ
trong hai ngôn ngữ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu việc sử dụng các phƣơng tiện
ngữ pháp và cách thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong hai ngôn ngữ,
trên cơ sở đó, góp phần nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động giảng dạy
- học tập tiếng Việt và tiếng Nga, hoạt động phiên biên dịch từ tiếng Việt sang
tiếng Nga và ngƣợc lại, cũng nhƣ hoạt động biên soạn các loại từ điển liên
quan đến hai ngôn ngữ.
Những tri thức về ý nghĩa ngữ pháp này trong hai ngôn ngữ Việt và
Nga, các tài liệu giáo khoa dạy tiếng, ngữ pháp phổ thông đều đã đề cập, phân
tích, nhƣng sự so sánh để tìm ra những điểm đồng nhất và/hoặc khác biệt giữa
hai ngôn ngữ thì chƣa có đáng kể. Yêu cầu tìm hiểu về ý nghĩa công cụ trong
tiếng Việt và tiếng Nga vẫn còn đặt ra nhiều, nên nhiệm vụ nghiên cứu vẫn
cần đƣợc tiếp tục.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án này là:
- Ý nghĩa công cụ và phƣơng thức thể hiện của nó trong tiếng Việt
- Ý nghĩa công cụ và phƣơng thức thể hiện của nó trong tiếng Nga
- Vai nghĩa công cụ trong quan hệ với ý nghĩa công cụ và sự thể hiện
của vai nghĩa này trong tiếng Việt và tiếng Nga
3. Mục đích nghiên cứu
a) Mục đích nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm vào mục đích chính là:
9
- Làm rõ một cách có hệ thống ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng
Việt và tiếng Nga, những phƣơng thức ngữ pháp và phƣơng tiện ngữ pháp cụ
thể để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp đó; đồng thời, làm rõ vai trò của ý nghĩa ngữ
pháp công cụ đối với sự thể hiện vai nghĩa công cụ của ý nghĩa ngữ pháp và
phƣơng thức ngữ pháp này trong tiếng Nga.
- Làm rõ những điểm tƣơng đồng và khác biệt về phƣơng tiện thể
hiện, cách thức thể hiện khi hiện thực hóa ý nghĩa công cụ trong hoạt động
ngôn ngữ của tiếng Việt và tiếng Nga.
- Bƣớc đầu đề xuất những ứng dụng kết quả nghiên cứu của luận án
vào thực tiễn giảng dạy, học tập và sử dụng tiếng Việt và tiếng Nga.
b) Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt đƣợc ba mục đích chính này, luận án phải trả lời ba câu hỏi
nghiên cứu:
- Ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga là gì, chúng
đƣợc thể hiện bằng những phƣơng thức và phƣơng tiện nhƣ thế nào?
- Ý nghĩa ngữ pháp công cụ đóng vai trò nhƣ thế nào trong việc thể
hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga?
- Những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa tiếng Việt với tiếng Nga
của các vấn đề nêu trên đây là gì?
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên chúng tôi sẽ tập trung giải quyết một số
nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa các cơ sở lí thuyết về ý nghĩa ngữ pháp, phƣơng thức
ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp có liên quan để xây dựng khung lí thuyết cho
nghiên cứu của luận án.
- Mô tả sự thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt và tiếng
Nga.
10
- Mô tả các phƣơng thức ngữ pháp và phƣơng tiện ngữ pháp cụ thể thể
hiện vai nghĩa công cụ của chúng trong câu tiếng Việt và câu tiếng Nga.
- So sánh để phát hiện những tƣơng đồng và khác biệt của những vấn
đề hữu quan. (Tuy nhiên, những so sánh ấy không thực hiện theo cách thức và
phƣơng pháp của ngôn ngữ học đối chiếu vì luận án này, ngay từ đầu không
đặt vấn đề thực hiện nhiệm vụ đối chiếu ngôn ngữ).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận án này, chúng tôi luôn luôn đi từ thực tế tƣ liệu để mô tả,
sau đó là phân tích, nhận xét và kết luận chứ không xuất phát từ một mô hình
có sẵn hay một chủ kiến từ trƣớc. Có nghĩa là, chúng tôi đi bằng con đƣờng
quy nạp, từ phân tích miêu tả các ngữ liệu để rút ra nhận xét và kết luận. Để
làm đƣợc điều này, chúng tôi thực hiện các phƣơng pháp và thủ pháp làm việc
nhƣ sau:
- Phƣơng pháp mô tả dùng để mô tả các biểu thức ngôn ngữ, sau đó
tiến hành phân tích trên bình diện ngữ pháp lí thuyết nhằm xác định các ý
nghĩa ngữ pháp, phƣơng thức ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp.
- Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng để so sánh các biểu thức ngôn
ngữ hữu quan trong tiếng Nga với tiếng Việt sau khi mô tả.
- Các thủ pháp thay thế, cải biến, lƣợc bỏ trong phân tích ngữ pháp
đƣợc sử dụng để phát hiện các đối lập, các đồng nhất, khác biệt về nội dung
ngữ pháp, hình thức ngữ pháp, phƣơng tiện ngữ pháp ....
6. Ngữ liệu nghiên cứu
Với mục đích tìm hiểu sâu về ý nghĩa công cụ và vai nghĩa công cụ
trong tiếng Việt và tiếng Nga, chúng tôi cố gắng tối đa thu thập và lựa chọn
ngữ liệu sao cho đủ mức bao quát đƣợc vấn đề nghiên cứu nhƣ các từ điển
tiếng Việt, từ điển tiếng Nga, các sách, bài viết, công trình nghiên cứu có liên
quan (xin xem phần Tài liệu tham khảo)
11
Các dẫn liệu ngôn ngữ tiếng Việt, chúng tôi tiến hành khai thác trong
các văn bản tiểu thuyết, truyện ngắn, các tác phẩm văn học của một số tác giả
Việt Nam có uy tín về mặt sử dụng ngôn ngữ nhƣ Nam Cao, Nguyễn Công
Hoan, Anh Đức, Kim Lân, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nguyễn
Huy Thiệp, Thạch Lam, ... (xin xem phần Ngữ liệu nghiên cứu từ 165 đến
182)
Các dẫn liệu ngôn ngữ viết/nói tiếng Nga, chúng tôi khảo chứng chủ
yếu trong tác phẩm văn học Доктор Живаго [182] (Bác sĩ Zhivago), của nhà
văn Nga Boris Pasternak (Борис Паштернак) - ngƣời đƣợc Viện Hàn lâm
Thụy Điển trao tặng giải thƣởng Nobel văn học năm 1959; các ví dụ đƣợc
trích dẫn nguyên văn từ bản dịch của Lê Khánh Trƣờng [181], nhà xuất bản
Phụ nữ ấn hành.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng thu thập ngữ liệu trong một số tác phẩm
văn học khác ở trong nƣớc hoặc chuyển dẫn từ một số công trình của các nhà
nghiên cứu đi trƣớc [1, 3, 29, 74, 75, 113, 115, 124, 141]. Trong từng trƣờng
hợp cụ thể, chúng tôi đều có chỉ dẫn xuất xứ rõ ràng.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
a) Ý nghĩa lí luận
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về miêu tả, phân
tích ở cấp độ một luận án về ý nghĩa công cụ và mô hình hóa các phƣơng thức
thể hiện ý nghĩa ngữ pháp này trong hai ngôn ngữ Việt – Nga, góp phần làm
rõ thêm việc mô tả ngữ pháp theo hƣớng tiếp cận của ngữ pháp truyền thống
và làm rõ các vấn đề hữu quan dƣới góc nhìn của ngữ pháp chức năng hệ
thống và cú pháp ngữ nghĩa.
b) Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu sâu hơn phạm vi một đối tƣợng nhƣ vậy, kết
quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp hiểu rõ bản chất ý nghĩa ngữ pháp công
12
cụ, giúp dùng đúng ngữ pháp và vận hành trơn tru ngữ pháp trong các kỹ
năng ngoại ngữ, giúp vận hành đúng ngữ pháp (cụ thể là ý nghĩa ngữ pháp
công cụ) trong dạy – học ngoại ngữ theo đƣờng hƣớng giao tiếp.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là cơ sở để biên soạn và chỉnh lí
các giáo trình, tài liệu giảng dạy tiếng Việt và tiếng Nga với tƣ cách là một
ngoại ngữ hiện đang đƣợc sử dụng tại các cơ sở đào tạo tiếng Việt cho ngƣời
nƣớc ngoài và đào tạo tiếng Nga cho ngƣời Việt, qua đó nâng cao đƣợc chất
lƣợng giảng dạy và học tập.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp cho cả ngƣời dạy lẫn ngƣời
học hai ngôn ngữ Việt – Nga, với tƣ cách là những ngoại ngữ, tránh đƣợc các
lỗi về dùng từ, lỗi về đặt câu, lỗi do chuyển di … trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có tính ứng dụng rất lớn trong
việc biên soạn các loại từ điển song ngữ Việt - Nga, Nga – Việt, các loại từ
điển tƣờng giải tiếng Việt và tiếng Nga, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của
công tác dịch thuật giữa hai ngôn ngữ Việt – Nga.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình đã công bố có
liên quan đến luận án, Tài liệu tham khảo, Nguồn ngữ liệu nghiên cứu, nội
dung chính của luận án đƣợc cấu trúc thành ba chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng I: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận của luận án
Chƣơng II: Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong
tiếng Việt và tiếng Nga
Chƣơng III: Ý nghĩa công cụ với vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt và
tiếng Nga
13
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong ngôn ngữ học
Ý nghĩa về công cụ trong ngôn ngữ nào cũng có. Trong lí luận ngữ
pháp, ý nghĩa ngữ pháp công cụ có vị trí quan trọng, đƣợc nhiều ngƣời quan
tâm nghiên cứu. Trong thực tiễn, ý nghĩa công cụ có thể hiểu là sự thể hiện
công cụ để thực hiện một hành động hay một sự tình nào đó. Nó luôn đƣợc
gắn kết và quy chiếu một phần vào trong hiện thực khách quan chứ không
phải chỉ thuần túy là ngữ pháp. Vì thế, ý nghĩa ngữ pháp công cụ có thể đƣợc
nghiên cứu theo những hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp khá đa dạng.
a. Nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ từ góc độ hình thái học
Nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ và các phƣơng thức thể hiện
của nó vốn gắn liền với những nghiên cứu về hình thái học, gắn liền với khái
niệm cách. Nhƣ vậy, cách là một khái niệm thuộc phạm trù của hình thái học,
còn đƣợc gọi là cách hình thức hay cách ngữ pháp, đƣợc thể hiện rất rõ trong
tiếng latinh và trong tiếng Nga. Trƣớc hết, cách công cụ đƣợc nghiên cứu về
mặt ý nghĩa và phƣơng thức biểu hiện của cách công cụ nằm ở trong phạm trù
cách với tƣ cách là phạm trù ngữ pháp. Cách công cụ là một trong những
phạm trù của danh từ vì thế nó đƣợc nghiên cứu ở góc độ hình thái học, nói
cách khác, đó là cách tiếp cận hình thái học, là cách tiếp cận cổ điển nhất
trong ngôn ngữ học, thể hiện nhiều trong ngôn ngữ học truyền thống.
Trong mỗi ngôn ngữ, ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện bằng ngữ pháp
theo các cách khác nhau: trong các ngôn ngữ không có biến đổi hình thái, ý
nghĩa này chủ yếu đƣợc thể hiện thông qua một số hƣ từ. Ví dụ:
a. Một số hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt:
14
- hƣ từ bằng, ví dụ: ăn bằng đũa, đi làm bằng xe đạp, thái thịt bằng
dao, xúc đất bằng xẻng, ...
- hƣ từ qua, ví dụ: thông báo qua loa phát thanh, làm việc qua zalo,
hội đàm qua phiên dịch, ...
- hƣ từ nhờ, ví dụ: đi học nhờ xe buýt, qua sông nhờ đò, cây vững nhờ
giá đỡ, ...
- hƣ từ dựa vào, ví dụ: sống dựa vào lương hưu, sống dựa vào con cái,
trồng lúa dựa vào nguồn nước, ...
- hƣ từ với, ví dụ: người diễn viên dạy các con vật làm xiếc với cái roi
trên tay, vào đời với hai bàn tay trắng, …
- hƣ từ bởi, ví dụ: ngôi nhà được bảo vệ bởi hệ thống camera, …
- hƣ từ trên, ví dụ: đi làm trên xe buýt, thái thịt trên thớt, …
b. Một số hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Lào:
- hƣ từ ້ວຊ (đuội / bằng), ví dụ: ກີນ້ວຊໄມ້ຍູ (kin đuội
mạy thù / ăn bằng đũa), ໄປເຮັວຽກ້ວຊລົຍີບ (bay hết việc đuội
lốt thíp / đi làm bằng xe đạp), ຉອຊຉີ້ນ້ວຊມິ (xoi xịn đuội mít /
thái thịt bằng dao), …
- hƣ từ ຜ່ານ (phàn / qua), ví dụ:
ເຮັວຽກຜ່ານສື່ສັງຄົມອອນລາຊ Zalo (hết việc phàn xừ xẳng
khôm on lai Zalo / làm việc qua zalo),
ພົບປະເຈລະຈາຜ່ານຜູ້ແປພາສາ (phốp pạ chê lạ cha phàn phụ be /
hội đàm qua phiên dịch), …
- hƣ từ ອີງໃສ່ (ing xày / dựa vào), ví dụ:
ຳເນີນຉີວີອີງໃສ່ເງິນເືອນ (đăm lông xi vít ing xày ngơn
đươn / sống dựa vào tiền lương hưu), ຉີວີອີງໃສ່ລູກ (xi vít ing xày
lục / sống dựa vào con cái), …
15
Ngoài ra, ý nghĩa công cụ còn đƣợc thể hiện qua một số thực từ có
nghĩa tiền giả định chỉ công cụ nhƣ ăn đũa, đi nạng, cưa gỗ, đục tường, đẽo
cày, bơm xe, ... trong tiếng Việt; ກີນໄມ້ຍູ (kin mạy thù / ăn đũa),
ໄປລົຈັກ (pay lốt chắc / đi xe máy), ຌັຜົມ (tắt phổm / cắt tóc), -
ສ້່າງເຮືອນ (xạng hươn / xây nhà), … trong tiếng Lào.
Ngƣợc lại, trong các ngôn ngữ có biến đổi hình thái (điển hình là các
ngôn ngữ biến hình châu Âu), ý nghĩa công cụ lại đƣợc thể hiện cả bằng
phƣơng thức hƣ từ cả bằng phụ tố, và kết hợp hƣ từ với phụ tố (vì có trƣờng
hợp chỉ cần biến đổi vĩ tố của danh từ sang cách công cụ nhƣng cũng có
trƣờng hợp phải sử dụng kết hợp cả cách thức biến đổi phụ tố với một giới từ
kèm theo để thể hiện ý nghĩa công cụ). Ví dụ:
a. Trong tiếng Nga:
(1) - Розового цвета была подпоясанная семишолковым
кушаком рубашка на Власе Пахомовиче Галузине, когда он бегом,
дробно стуча каблуками сапог и выкидывая ногами направо-налево, ...
[ДЖ: 188]
(2) - Vlat Pakhomovich Galudin cũng mặc áo sơ mi màu hồng, thắt
sát vào người bằng chiếc dây lưng lụa. [BSZh: 277]
(3) - На фронт в штаб дивизии пришел поезд-баня,
оборудованный на средства жертвователей Татьянинским комитетом
помощи раненым. [ДЖ: 69]
(4) - Một chuyến tầu vệ sinh quân y được trang bị bằng tiền quyên
góp của Uỷ ban cứu trợ thương binh do quận chúa Tachiana đứng đầu, đã tới
mặt trận, nơi đặt bản doanh của bộ tham mưu sư đoàn. [BSZh: 96]
b. Trong tiếng Anh:
- go to school by bycicle - đi xe đạp, …
b. Nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ từ góc độ cú pháp học
16
Sau cách tiếp cận hình thái học (nhƣng cũng gần nhƣ là đồng thời) là
cách tiếp cận cú pháp học: nghiên cứu ý nghĩa công cụ với tƣ cách là ý nghĩa
của thành phần câu, trong đó có một số thành phần cơ bản là bổ ngữ công cụ,
trạng ngữ công cụ, chủ ngữ công cụ, đề ngữ (khởi ngữ) công cụ. Tất nhiên,
các thành phần chỉ công cụ này có liên quan đến biểu hiện là hình thái học, ví
dụ nhƣ danh từ cách 5 (cách công cụ) trong tiếng Nga khi làm trạng ngữ công
cụ. Nhƣng khi xét ở góc độ trạng ngữ thì nó trở thành một thành phần câu,
còn hình thái học kia chỉ còn đóng vai trò là phƣơng tiện biểu hiện. Do đó,
những nghiên cứu theo cách tiếp cận này là trên góc độ thành phần câu mà
đặc biệt và điển hình nhất là thành phần trạng ngữ công cụ, và sau này còn có
thêm thành phần chủ ngữ chỉ công cụ, bổ ngữ chỉ công cụ, đề ngữ (khởi ngữ)
công cụ.
c. Nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ từ góc độ ngữ nghĩa học
Cách tiếp cận tiếp theo và cũng đƣợc coi là mới nhất tính đến thời
điểm hiện nay là cách tiếp cận nghĩa học: ý nghĩa công cụ đƣợc tiếp cận trong
nghiên cứu về cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu, hay còn gọi là cấu trúc vị từ -
tham thể và ý nghĩa công cụ của danh từ ở đây đƣợc xem xét ở góc độ chức
năng, đƣợc gắn một vai, gọi là chức năng ngữ nghĩa hay vai nghĩa. Vai nghĩa
xét trong mối quan hệ với phƣơng thức biểu hiện của hình thái học hay cú
pháp học, xét trong mối quan hệ của chức năng cú pháp thì đó là chức năng
của trạng ngữ, của bổ ngữ hay của chủ ngữ, đề ngữ (khởi ngữ).
Khi ngữ nghĩa học và khuynh hƣớng phân tích ngữ nghĩa của câu phát
triển, cùng với sự phát triển của cú pháp ngữ nghĩa, “vai nghĩa công cụ” cùng
với các vai nghĩa khác đƣợc đề xuất và sử dụng một cách rất hữu hiệu. “Vai
nghĩa công cụ” (instrument) đƣợc dùng để chỉ công cụ thực hiện một hành
động nào đó, một sự tình nào đó. Các vai nghĩa công cụ đƣợc đánh dấu một
cách khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau. Các nhà ngôn ngữ học của
17
trƣờng phái chức năng luận thƣờng quy sự đánh dấu vai nghĩa công cụ về ba
phƣơng thức là: dùng trật tự từ, dùng biến tố, dùng giới từ [34: 70]. Nguyễn
Văn Hiệp cho rằng, ngôn ngữ dùng trật tự từ nhƣ một phƣơng tiện để phân
biệt các vai nghĩa chủ yếu là các ngôn ngữ không biến hình (mà tiếng Việt là
tiêu biểu), ngƣợc lại, phƣơng thức dùng biến tố lại chỉ thấy ở các ngôn ngữ có
biến đổi hình thái. Tiếng Nga là ngôn ngữ tiêu biểu cho phƣơng thức dùng
biến tố để đánh dấu các vai nghĩa khác nhau trong câu, theo đó, cách 5 (cách
công cụ) là cách đƣợc dùng để thể hiện vai nghĩa công cụ, ví dụ nhƣ:
(5) - Он вынул тетрадь и стал набрасывать крупным
разборчивым почерком. [ДЖ: 31]
(6) - Cha rút cuốn tập ấy ra và bắt đầu viết bằng nét chữ to dễ đọc.
[BSZh: 39]
Bên cạnh đó, trong tiếng Nga, vai nghĩa công cụ còn đƣợc đánh dấu
bằng cách kết hợp giữa phƣơng thức dùng biến tố và phƣơng thức dùng giới
từ, ví dụ nhƣ:
(7) - Надо будет вдвоем на салазках. [ДЖ: 116]
(8) - Phải hai người mới đẩy nổi một chiếc xe bằng ván trượt. [BSZh: 167]
Phƣơng thức dùng giới từ là phƣơng thức rất phổ biến để đánh dấu vai
nghĩa trong tiếng Việt. Vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt thƣờng đƣợc đánh
dấu bởi giới từ bằng, ví dụ nhƣ:
(9) - Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và dọa nạt. [CP-NC: 42]
(10) - Chị Dậu nhìn ông Cai lệ bằng đôi con mắt đỏ ngầu: [TĐ-NTT: 22]
Nhƣ vậy, trong tiếng Việt và tiếng Nga, ý nghĩa công cụ luôn đƣợc thể
hiện thông qua một số phƣơng tiện phổ biến nhƣ trên. Trong tiếng Việt, hƣ từ
vẫn đƣợc dùng nhƣ một phƣơng tiện đặc trƣng nhất, phổ biến nhất để thể hiện
ý nghĩa công cụ, mặc cho kết hợp phía sau có thể là một danh từ, ví dụ nhƣ:
18
(11) - Con vợ thằng Mới cung kính đệ len bên cạnh cột đình một cái
điếu đàn đựng trong một chiếc bát gỗ đánh đai bằng lạt và cái mồi rơm dài
chừng một sải. [TĐ-NTT: 10]
hoặc có thể là một ngữ đoạn, ví dụ nhƣ:
(12) - Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình theo ý
hắn, hắn bảo thị: ... [CP-NC: 28]
Ngoài ra, trong tiếng Việt, ý nghĩa công cụ còn đƣợc thể hiện bằng kết
cấu chuỗi vị từ, chẳng hạn nhƣ: dùng súng bắn chim, cầm búa đập đá, lấy
xẻng xúc cát, mang dao chặt cây, vác rìu đốn củi, lái xe chở cát, đan giỏ bắt
cá, may túi đựng vàng, cắt vải may áo, …, ví dụ:
(13) - Sự yêu hay ghét cũng như những ý nghĩ của người ta không thể
dùng quyền mà ép buộc. [NC: 49]
Trong tiếng Việt có rất ít trƣờng hợp thể hiện ý nghĩa công cụ mà
không sử dụng một phƣơng tiện ngữ pháp nào. Còn trong tiếng Nga, việc thể
hiện vai nghĩa công cụ chủ yếu thông qua cách công cụ (có thể kết hợp hoặc
không cần kết hợp với giới từ). Ngoài cách công cụ, trong tiếng Nga, ý nghĩa
công cụ còn đƣợc thể hiện bằng các cách ngữ pháp khác với các giới từ khác
nhau, ví dụ nhƣ: стрелять из ружья – bắn súng, начертить отрезок по
линейке – kẻ bằng thước kẻ, ловить рыбу на удочку – câu cá bằng cần câu,
закутаться в одеяло – quấn mình trong chăn, просенять муку через сито
– lọc bột qua rây, разорвать рукав о гвоздь – xé ống tay áo bằng móng tay,
рассматривать инфузорию под микроскопом – quan sát côn trùng dưới
kính hiển vi, пахать поле на тракторе – cày ruộng bằng máy cày, … Tuy
nhiên, số lƣợng giới từ ở các cách khác, không phải là cách công cụ, thể hiện
ý nghĩa công cụ không nhiều, không phổ biến.
Ý nghĩa công cụ trong ngữ pháp là điều kiện, là phƣơng tiện để thực
hiện vai nghĩa công cụ, nhƣng luận án này ƣu tiên nghiên cứu ý nghĩa công cụ
19
về mặt hình thái học, hoặc hình thái – cú pháp, tức là mặt hình thức biểu hiện
của nó; còn vai nghĩa công cụ là vấn đề của phân tích ngữ nghĩa của câu, là
vấn đề có liên quan, tuy sẽ đƣợc đề cập trong chừng mực nhất định khi cần
thiết, nhƣng không phải là nhiệm vụ ƣu tiên của chúng tôi.
Nhƣ vậy, lịch sử nghiên cứu ý nghĩa công cụ, xét theo cách tiếp cận
lịch đại và theo tiến bộ về mặt lí thuyết, khởi nguồn là những nghiên cứu
trong các ngôn ngữ châu Âu, đặc biệt là từ các ngôn ngữ có biến đổi hình thái,
với cách tiếp cận hình thái học, sau đó phát triển sang các loại hình ngôn ngữ
khác. Trong tiếng Nga, ý nghĩa công cụ cũng có xuất phát điểm từ hình thái
học, rồi đến cú pháp học (nghiên cứu thành phần câu) và cuối cùng là cách
tiếp cận nghĩa học (vai nghĩa). Trong tiếng Việt cũng vậy, nhƣng vì hình thái
học không có nên ngƣời ta không xem xét ý nghĩa công cụ dƣới góc độ hình
thái học (với tƣ cách là một phạm trù hình thái học), vì thế các nhà Việt ngữ
học tiến hành nghiên cứu ý nghĩa công cụ dƣới góc độ cú pháp học và nghĩa
học. Dƣới đây là diễn tiến cụ thể.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt
Từ trƣớc đến nay sách ngữ pháp tiếng Việt có đề cập đến vấn đề ý
nghĩa ngữ pháp công cụ. Tuy nhiên, vì tiếng Việt thuộc loại ngôn ngữ không
biến đổi hình thái nên ngƣời ta không đi sâu miêu tả các phƣơng tiện thể hiện
mà chỉ miêu tả ý nghĩa công cụ thông qua việc miêu tả ngữ nghĩa và chức
năng của các hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ nhƣ các hƣ từ bằng, với, qua,
thông qua, dựa vào, dựa theo, căn cứ vào, căn cứ theo, nhờ, nhờ vào, cùng
với, bởi, trên ... Điều này có nghĩa là tiếng Việt không biến đổi hình thái nên
khi dạy ngƣời ta không dạy cách biến đổi hình thái mà ngƣời ta dạy việc sử
dụng các hƣ từ, các từ có thể hiện nét nghĩa chỉ công cụ. Vì thế phƣơng thức
thể hiện ý nghĩa công cụ thƣờng đƣợc tự khái quát hóa trong tâm thức của
ngƣời Việt bản ngữ và ngƣời học tiếng Việt phi bản ngữ một cách chủ quan.
20
Trong khi đó, vì tiếng Nga là ngôn ngữ có biến đổi hình thái nên khi dạy cho
ngƣời học ở góc độ là ngôn ngữ thứ hai, ngƣời ta sẽ dạy các cách thức biến
đổi danh từ, tính từ, đại từ ở các dạng thức khác nhau. Tuy cách tiếp cận trong
dạy học có thể khác nhau nhƣng bản chất của việc truyền đạt kiến thức đều là
muốn cung cấp cho ngƣời bản ngữ và ngƣời phi bản ngữ một cách tiếp cận
chung, đó là: ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện nhƣ thế nào; khi có các dấu hiệu,
phƣơng tiện ngữ pháp chỉ công cụ thì có nghĩa là nó thể hiện ý nghĩa công cụ.
Dƣới đây, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát tình hình nghiên cứu ý nghĩa công
cụ trong tiếng Việt theo các khuynh hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ nhƣ đã trình
bày ở trên.
Những phác họa đầu tiên về ngữ pháp tiếng Việt, có lẽ, đƣợc thể hiện
rõ nhất là trong Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh – phần mở
đầu của cuốn từ điển Việt - Bồ - La do Alexandre de Rhodes biên soạn [155].
Trong bản báo cáo vắn tắt này, những kiến giải về các phạm trù ngữ pháp
trong tiếng Việt nhƣ giống, số, cách của danh từ và thức, thời, thể của động từ
đã ít nhiều đƣợc đề cập. Bên cạnh đó, ý nghĩa công cụ cũng đã đƣợc ông nhắc
đến thông qua giới từ bằng (per) [155: 23]. Việc đƣa ra giới từ bằng trong
chƣơng bảy của bản Báo cáo vắn tắt chỉ mang tính chất liệt kê sự tƣơng
đƣơng 1 – 1 giữa một giới từ tiếng An Nam với một giới từ trong tiếng Bồ
Đào Nha. Sau này, trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Taberd 1838 (Nguyễn
Khắc Xuyên đã dịch sang tiếng Việt và xuất bản năm 1994 [95]) thì ý nghĩa
công cụ trong tiếng Việt thể hiện qua từ bằng đƣợc nói rõ thêm một chút. “Nó
có nghĩa như ex hay per trong tiếng Latinh, nhất là khi đặt trước những danh
từ thuộc vật liệu hay dụng cụ” [95: 48].
Đối với các tác giả trong nƣớc, vấn đề ý nghĩa công cụ trong tiếng
Việt đƣợc Trƣơng Vĩnh Ký – ngƣời sống cùng thời với Ferdinal de Saussure,
nhắc đến với tƣ cách là vai nghĩa công cụ hay cách công cụ. Theo Cao Xuân
21
Hạo [29], Trƣơng Vĩnh Ký đƣợc coi là người đi trước các nhà ngôn ngữ học
trong việc miêu tả các phương tiện diễn đạt ý nghĩa Cách trong một ngôn ngữ
không biến hình xuất phát từ mặt sở biểu và đáng được coi là người đi tiên
phong trong việc xây dựng nền ngữ pháp cách (case grammar), một trong
những thành phần chủ yếu của ngữ pháp chức năng hiện đại [29: 441]. Trong
cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (Grammaire de la langue annamite) xuất bản năm
1883 [37], Trƣơng Vĩnh Ký đã trình bày một cách khá rõ trong phần nói về
Danh từ: đó là cách diễn đạt ý nghĩa “cách” (case meaning) trong ngữ pháp
tiếng Việt. Theo ông, các danh từ của tiếng Việt dùng trong câu có thể ở vào
một trong 8 cách (case / падеж) và cách công cụ (Instrumental) đứng ở vị trí
thứ 7, phƣơng thức diễn đạt là thông qua hƣ từ bằng, ví dụ nhƣ Đánh bằng
roi sắt [37: 440]. Ngoài việc mô tả phƣơng thức sử dụng hƣ từ để thể hiện
cách công cụ nhƣ trên, Trƣơng Vĩnh Ký còn đề cập đến một phƣơng thức nữa
mà ông gọi là “phương tiện khác với phương tiện chủ yếu”, đó là ở đoạn nói
về Công cụ cách, bên cạnh Cột bằng dây, ông còn cho Dùng dây mà cột, Lấy
dây mà cột [29: 441]. Điều này cho thấy rằng, khi dùng khái niệm Cách nói
chung và cách công cụ nói riêng, Trƣơng Vĩnh Ký hiểu nó nhƣ một ý nghĩa
ngữ pháp nhiều hơn là một hình thức ngữ pháp [29: 441]. Cao Xuân Hạo rút
ra kết luận rằng, không những Trương Vĩnh Ký không ―gán‖ mô hình ngữ pháp
tiếng La tinh cho tiếng Việt, mà còn hiểu rõ khả năng và cách thức sử dụng khái
niệm Cách cho những thứ tiếng không biến hình, điều mà gần một thế kỉ sau các
nhà ngữ học phương Tây mới nghĩ đến (Fillmore 1968). [29: 441]
Ý nghĩa ngữ pháp cũng đƣợc nhiều nhà Việt ngữ học đƣơng đại
nghiên cứu và ứng dụng vào giảng dạy cho sinh viên đầu cấp đại học chuyên
ngành ngôn ngữ học nói chung và các chuyên ngành ngoại ngữ nói riêng. Có
thể kể đến một số tác giả tiêu biểu nhƣ: Cao Xuân Hạo [29, 30], Nguyễn Kim
Thản [76, 77, 78, 79], Lê Đình Tƣ và Vũ Ngọc Cân [73], Đỗ Hữu Châu [9,
22
10], Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung [6, 7], Lê Quang Thiêm [86, 87],
Nguyễn Thiện Giáp [22, 25, 26, 28], Mai Ngọc Chừ [12, 13], Vũ Đức Nghiệu
[12, 57], Hoàng Trọng Phiến [61], Bùi Minh Toán [10, 70], Nguyễn Thị Ngân
Hoa [13], Đỗ Việt Hùng [13], Bùi Mạnh Hùng [36], Nguyễn Minh Thuyết
[26], Nguyễn Văn Hiệp [57], Lƣu Vân Lăng [44], ... Nhìn chung, đa số các
nghiên cứu trên đây về ý nghĩa ngữ pháp chỉ dừng lại ở việc mô tả về mặt
ngôn ngữ, xác lập các khái niệm, giới hạn phạm vi và định hƣớng nghiên cứu
của các loại ý nghĩa ngữ pháp, phƣơng thức ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp mà
chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một ý nghĩa hay một phƣơng thức
hay một phạm trù cụ thể nào trong tiếng Việt. Bên cạnh đó, ý nghĩa ngữ pháp,
phƣơng thức ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp còn đƣợc đề cập đến trong một số
luận án, nhƣng chỉ dừng lại ở mức độ tổng hợp, đúc kết các kiến thức sẵn có
mà không có một lí luận mới nào về vấn đề này.
Về nghĩa công cụ, ngữ pháp học truyền thống chỉ nói đến khi xét mặt
ý nghĩa của một phạm trù hình thái học (phạm trù cách trong tiếng Nga chẳng
hạn) hoặc của một phạm trù cú pháp học (thành phần trạng ngữ chỉ công cụ,
thành phần bổ ngữ công cụ, thành phần chủ ngữ công cụ, thành phần đề ngữ
công cụ). Về sau, trên con đƣờng phát triển của ngôn ngữ học, khi ngữ nghĩa
học trở thành một trào lƣu mạnh mẽ, nghĩa công cụ đƣợc xem xét nhƣ một
phạm trù thuộc kết cấu sâu, có tính chất phổ quát. Nhiệm vụ của các nhà ngôn
ngữ học lúc này là xác định các phạm trù ở kết cấu sâu và cố gắng phát hiện
các quy tắc thể hiện kết cấu sâu lên kết cấu bề mặt. Quan niệm mới mẻ này đã
dẫn đến nhiều kết luận thú vị. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu này chỉ chú ý
đến các quy tắc thể hiện các phạm trù ở kết cấu sâu lên kết cấu mặt mà chƣa
chú ý đến mối quan hệ của các phạm trù đó trong diễn đạt. Không hiểu đƣợc
quan hệ diễn đạt của các phạm trù này trong câu thì không thể hiểu đƣợc ý
nghĩa chân chính của câu cùng các hình thức đa dạng của nó. Luận án Câu
23
chủ - vị tiếng Việt của Lê Xuân Thại [75] đi theo hƣớng này khi có một phần
nghiên cứu về nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt. Lê Xuân Thại cho rằng,
trong câu, nghĩa công cụ và nghĩa hoạt động có hai quan hệ về mặt diễn đạt:
một là: công cụ là thành phần thuyết minh, hoạt động là thành phần
đƣợc thuyết minh, hay nói cách khác, công cụ thuyết minh thêm cho hoạt
động [75: 38], ví dụ:
- (14) Vì quên chìa khóa ở cơ quan nên tôi phải phá khóa bằng máy cắt sắt.
máy cắt sắt thuyết minh về công cụ cho hoạt động phá
hai là: hoạt động là thành phần thuyết minh, công cụ là thành phần
đƣợc thuyết minh, hay nói cách khác, hoạt động thuyết minh cho công cụ [75:
38], ví dụ:
- (15) Vợ tôi mua một bộ nồi nấu cơm.
nấu cơm làm định ngữ, thuyết minh về công dụng của nồi.
Nhƣ vậy, trong nghiên cứu này, nghĩa công cụ không đƣợc đề cập đến
với tƣ cách là một vai nghĩa trong cấu trúc vị từ - tham thể, cũng không đƣợc
nghiên cứu ở cấp độ khái quát là một ý nghĩa ngữ pháp, mà chỉ đƣợc nghiên
cứu ở khía cạnh vị trí cú pháp (đứng trƣớc hoặc sau động từ, đứng ở vị trí chủ
ngữ hay ở vị trí vị ngữ), tính chất ngữ pháp của thành phần này trong câu
(không xác định rõ ràng rằng đây là thành phần trạng ngữ chỉ công cụ hay chỉ
là phần phụ của từ tổ động từ ... mà chỉ coi đây là thành phần chỉ công cụ).
Tiếp sau đó, theo quan điểm của Ngữ pháp chức năng hệ thống,
Nguyễn Thị Quy trong cuốn Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của nó
(So sánh với tiếng Nga và tiếng Anh) [66] đã mô tả nghĩa công cụ với vai trò
là bổ ngữ trực tiếp của vị từ và so sánh một số cách biểu hiện vai nghĩa công
cụ trong tiếng Việt và ngôn ngữ châu Âu (chủ yếu là so sánh với tiếng Nga và
tiếng Anh). Lê Thị Lan Anh trong công trình nghiên cứu Các vai nghĩa: kẻ
tiếp nhận, kẻ hưởng lợi, kẻ cộng tác, kẻ tổn thất, phương tiện và các chức
24
năng ngữ pháp của chúng trong câu tiếng Việt [1] đã chỉ ra những đặc trƣng
ngữ nghĩa hình thức của vai nghĩa phƣơng tiện trên bình diện nghĩa (nghĩa
miêu tả) và nghiên cứu khả năng hiện thực hóa của vai nghĩa này trong vai trò
các chức năng cú pháp của câu (có chú ý đến vai trò thông báo tƣơng ứng mà
mỗi vai nghĩa đảm nhận khi đƣợc hiện thực hóa trong câu). Tô Minh Thanh
trong công trình Vai nghĩa trong câu trần thuật tiếng Việt và tiếng Anh [80]
đã mô hình hóa các khung tham chiếu vai nghĩa công cụ trong cấu trúc câu Đề
- Thuyết. Mặc dù, những nghiên cứu sâu về vai nghĩa công cụ không đƣợc
triển khai, chỉ dừng lại ở mức độ “điểm danh” nhƣng nó đóng vai trò rất lớn
trong việc xác lập một phạm vi nghiên cứu mang tính chất định hƣớng lớn.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu bàn về nghĩa công cụ ở Việt
Nam chủ yếu ở ba phƣơng diện: thứ nhất, ở cấp độ từ vựng, nghĩa công cụ
đƣợc bàn luận với góc độ là một hƣ từ có chức năng ngữ pháp biểu thị ý nghĩa
công cụ; thứ hai, nghĩa công cụ đƣợc bàn luận với tƣ cách là một vai nghĩa
trong nghiên cứu ngôn ngữ chức năng hệ thống; thứ ba, nghĩa công cụ đƣợc
bàn luận với tính chất là một thành phần câu, ban đầu là thành phần trạng ngữ
chỉ công cụ, sau đó nghiên cứu thêm về thành phần chủ ngữ, bổ ngữ, đề ngữ
có yếu tố công cụ. Trong các công trình nghiên cứu có liên quan đến nghĩa
công cụ, các tác giả hầu nhƣ chƣa kiến giải tƣờng minh về nghĩa công cụ,
chƣa đƣa ra những định nghĩa chính xác về nghĩa công cụ. Vấn đề này đƣợc
bàn luận nhiều hơn cả, có lẽ là, trong luận án của Lê Xuân Thại [75] nhƣng
dung lƣợng dành cho việc luận giải nghĩa công cụ cũng không lớn. Các công
trình nghiên cứu nhƣ đã liệt kê ở trên cũng chƣa miêu tả đƣợc một cách tƣờng
minh các cách thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt, các vai trò cú
pháp của nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt. Khuynh hƣớng mới nhất hiện
nay, theo chủ quan của chúng tôi, nghĩa công cụ đƣợc bàn luận nhiều hơn với
tƣ cách là một vai nghĩa đánh dấu yếu tố công cụ thực hiện hành động trên cơ
25
sở lí luận của ngôn ngữ học chức năng hệ thống. Đến nay, vấn đề này cũng đã
bƣớc đầu đạt đƣợc một số kết quả nhất định. Tuy vậy, dung lƣợng dành cho
nghiên cứu độc lập vai nghĩa công cụ vẫn còn khá khiêm tốn. Vai nghĩa công
cụ chỉ đƣợc đề cập đến với tƣ cách là một trong nhiều vai nghĩa cơ bản, vì các
nhà nghiên cứu có xu hƣớng đi tìm, phát hiện và định danh càng nhiều vai
nghĩa khác nhau càng tốt.
Trong luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu nghĩa công cụ với
tƣ cách là một ý nghĩa ngữ pháp trên cơ sở lí luận của ngôn ngữ học truyền
thống. Trƣớc hết, chúng tôi sẽ cố gắng làm rõ hơn, thế nào là nghĩa công cụ.
Tiếp sau đó, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát và chỉ ra tất cả các phƣơng tiện
thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt, khái quát các phƣơng tiện
đó lên thành các phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng
Việt. Trong quá trình triển khai, chúng tôi cũng sẽ luận bàn đến một số vấn đề
có liên quan đến vai nghĩa công cụ dƣới góc nhìn của ngữ pháp chức năng để
so sánh, đối chiếu ở phƣơng diện ngữ nghĩa và phƣơng thức thể hiện. Ở cấp
độ câu, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát và chỉ ra chức năng cú pháp của thành
phần mang nghĩa công cụ ở trong câu. Đây không phải là mục tiêu nghiên cứu
chính của luận án, nhƣng chúng tôi vẫn tiến hành triển khai để có cái nhìn
toàn diện hơn và mang tính chất định hƣớng cho những nghiên cứu tiếp theo.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga
Phạm trù công cụ từ lâu đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu của nhiều
nhà ngôn ngữ học ở mọi trƣờng phái ngôn ngữ khác nhau. Đây là phạm trù có
tính phổ quát, hiện diện trong nhiều cấu trúc ngôn ngữ, nhiều loại hình ngôn
ngữ trên thế giới; cùng có một chức năng chung là biểu đạt hiện thực khách
quan và thế giới nhận thức của con ngƣời. Trong văn hóa và trong đời sống
hàng ngày của mỗi một dân tộc, con ngƣời luôn luôn cần một công cụ nào đó,
một phƣơng tiện nào đó để tác động và làm thay đổi thế giới vật chất xung
quanh mình. Tầm quan trọng của công cụ trong cuộc sống và hoạt động của
26
con ngƣời đƣợc thể hiện cả trong ngôn ngữ học, bằng chứng là, số lƣợng các
phƣơng tiện ngữ pháp và phƣơng tiện từ vựng đƣợc sử dụng để truyền tải ý
nghĩa chỉ công cụ rất phong phú và đa dạng.
Trong ngôn ngữ học có rất nhiều công trình nghiên cứu gắn liền với
những khía cạnh khác nhau của ý nghĩa công cụ. Những nghiên cứu đầu tiên
về ý nghĩa công cụ trong ngôn ngữ học là những nghiên cứu liên quan đến hệ
thống ngữ pháp cách vì cách đƣợc coi là một phƣơng tiện phổ biến biểu đạt
các ý nghĩa ngữ pháp nói chung và ý nghĩa ngữ pháp công cụ nói riêng.
Chúng ta có thể kể đến những công trình nghiên cứu về cách công cụ tiêu
biểu của I.A. Peshkovskij (И.А. Пешковский 1956), D.S. Stanishev (Д.
Станишев 1958), V.G. Admony (В. Адмони 1963), I.A. Mylnikov (И.А.
Мыльников 1963), R. Mrazek (Р. Мразек 1964), Yu.P. Kostyuchenko (Ю.П.
Костюченко 1977), V.V. Martunov (В.В. Мартунов 1982), V.A.
Beloshapkova và E.V. Muravenko (В.А. Белошапкова, Е.В. Муравенко
1985), R.O. Yacobson (Р.O. Якобсон 1985), A. Wierzbickaja (А.
Вежбицкая 1985), R.A. Kolosovskaja (Р.А. Колосовская 1985), V.P.
Moscovin (В. Московин 1988), G.A. Baiva (Г.А. Байва 1994), O.
Moskalskaja (О. Москальская 1983, 1985), ... Các tác giả này có chung quan
điểm nghiên cứu các hiện tƣợng ngôn ngữ là theo hƣớng tiếp cận nghĩa học từ
vựng. [115]
Đầu tiên, chúng tôi thấy trong công trình nghiên cứu của Yu.P.
Kostyuchenko (Ю.П. Костюченко 1977) bàn về vấn đề cú pháp lịch sử của
cách công cụ trong tiếng Nga so với các ngôn ngữ dòng baltic và gecmang, đã
đề cập một cách sâu sắc về các đặc điểm khác biệt mang tính hệ thống của
ngôn ngữ đƣơng đại so với ngôn ngữ cổ, trong đó có ý nghĩa về cách nói
chung và cách công cụ nói riêng; nguyên nhân của các điểm khác biệt đó. Giá
trị của công trình này là: tác giả đã cố gắng xác định nghĩa của các hiện tƣợng
27
đƣa ra nghiên cứu trong các ngôn ngữ cổ và kiến giải chúng dƣới góc độ
nghĩa - cú pháp.
Tác giả đƣợc cho là đặt nền móng cho sự phân loại hệ thống cách
tiếng Nga là R.O. Yacobson (Р.O. Якобсон 1985). Trong công trình nghiên
cứu “К общему учению о падеже” (Kiến giải chung về cách – Yacobson,
1985), ông đã tiến hành phân loại các cách không phải bằng con đƣờng hình
thái học nhƣ những nhà nghiên cứu trƣớc đó đã làm mà là bằng con đƣờng cú
pháp học; ông phân chia ý nghĩa các cách thành: một ý nghĩa khái quát của
cách (общее падежное значение) và các ý nghĩa bộ phận của cách
(частные падежные значения). Ông cho rằng: “ý nghĩa chung của cách
không phụ thuộc vào chu cảnh, khi đó các ý nghĩa riêng lẻ của cách đƣợc thể
hiện bằng nhiều cấu trúc khác nhau, nhiều hình thức thể hiện khác nhau thông
qua các ý nghĩa từ vựng xung quanh nó” và nó đƣợc gọi là “các biến thể kết
hợp mang một ý nghĩa chung” (―общее значение падежа‖ не зависит ―от
его окружения, тогда как его отдельные частные значения обусловлены
разного рода конструкциями и различными формальными и
лексическими значениями окружающих слов‖ и являются, ―так
сказать, комбинаторными вариантами общего значения‖) [143: 143].
Nhƣ vậy, ý nghĩa chung của cách công cụ có đặc điểm là mang ba loại nghĩa
sau: công cụ tạo tác (творительный фактора), công cụ hạn định
(творительный ограничения) và công cụ hành động (творительный
деятельности). Mặc dù tiêu chí phân loại cách còn chƣa đồng nhất, chƣa mô
tả đƣợc các trƣờng hợp sử dụng cụ thể của cách công cụ, nhƣng có thể khẳng
định, hƣớng tiếp cận này là một đóng gớp có giá trị rõ ràng khi nghiên cứu ý
nghĩa công cụ, cho phép mở ra một cái nhìn mới về cách công cụ từ góc độ
động từ.
28
Nghiên cứu đáng chú ý tiếp theo có thể kể đến là công trình
“Синтаксис русского творительного – Cú pháp cách công cụ tiếng Nga”
của Мразек, xuất bản năm 1964 (Р. Мразек 1964). Trong công trình này, lần
đầu tiên đƣa ra một định nghĩa rõ ràng về nghĩa công cụ nhƣ một hiện tƣợng
ngôn ngữ có tính phổ quát và phân tích nghĩa công cụ theo hƣớng so sánh
luân phiên chức năng của cách công cụ so với các cách khác
(функциоанльная альтернация и конкуренция с другими падежами) [132:
5]). Trong công trình này, ông chia nghĩa công cụ thành hai loại là cách công
cụ không có giới từ (беспредложная творительная форма) và cách công
cụ có giới từ (предложно-творительная форма).
Khái niệm “tính công cụ - инструментальность” còn đƣợc làm sáng
tỏ hơn nữa khi xuất hiện lí thuyết về Cách của Fillmore. Trong công trình
“Дело о падеже (1981)”, ông đƣa ra ý tƣởng về “cách sâu – глубиный
падеж” và định nghĩa Cách là những mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành
tố tham gia vào tình huống ngôn ngữ (падеж – это семантические связи
между участниками ситуации), không phải cách hình thái học nhƣ một số
nghiên cứu truyền thống. Theo Fillmore, Cách sâu có tính phổ quát, có thể
đƣợc biểu đạt ở cấp độ bề mặt bằng nhiều phƣơng tiện khác nhau (nhƣ phụ tố,
biến đổi căn tố, sử dụng hƣ từ, ...) và/hoặc cũng có thể không cần biểu đạt. Về
Cách công cụ, Fillmore cho rằng, đó là “cách của danh từ bất động vật hoặc
sự vật, bao gồm cả danh từ chỉ hành động hoặc trạng thái và đều là bổ ngữ
của động từ với tƣ cách là nguyên nhân tạo ra cách (падеж неодушевленной
силы или предмета, который включен в действие или состояние,
называемое глаголом, в качестве его причины) [143: 405]. Một trong
những điểm chƣa đƣợc trong nghiên cứu của Fillmore là khi xem xét chức
năng của công cụ ông không xét đến vai trò ngữ trị của động từ và ảnh hƣởng
29
tiềm ẩn đối với nghĩa của sự tình và nghĩa của cả câu nói chung. Ông đƣa ra
hai ví dụ:
- (16) Джон открыл дверь. (Jonh mở cửa.)
- (17) Ключ открыл дверь. (Cái chìa khóa mở cửa.)
Trong câu (16) có sự xuất hiện của yếu tố công cụ: Джон là chủ thể,
открыл là động từ, ключом là công cụ. Tuy nhiên, khi phân tích câu (17),
ông lại cho rằng không xuất hiện yếu tố công cụ ở đây, không cho ключ là
công cụ, mà đơn thuần đó chỉ là một chi tiết trong một bộ thiết bị, phù hợp về
mặt hình thức và kích thƣớc. Điều này đã tạo ra nhiều tranh cãi. Nhiều nhà
nghiên cứu ngôn ngữ cho rằng, trong câu (17) có một sự chuyển nghĩa rất lớn
vào sự tình có sự tham gia của ngữ trị là động từ открыть, nhƣ vậy, giữa
tính ngữ trị của động từ thể hiện chức năng công cụ trong cả câu (16) lẫn câu
(17) đều không có gì khác biệt. Mặc dù còn có những điểm tranh cãi trong
nghiên cứu ngôn ngữ, nhƣng ít nhất, những tƣ tƣởng định hƣớng nghiên cứu
của Fillmore là cơ sở để ngày nay chúng ta có nhiều hƣớng nghiên cứu mới.
Một công trình đáng chú ý nữa nghiên cứu về cách và kiến giải sâu
thêm về cách công cụ là “Дело о поверхностном падеже” của A.
Vezhbitskaya (А. Вежбицкая 1985). Trong công trình này, nhà ngôn ngữ học
ngƣời Nga đã nghiên cứu cách nói chung và cách công cụ nói riêng trên ba
bình diện: cú pháp – ngữ nghĩa – hình thái. Bà cho rằng, các cách đều có
nghĩa; mỗi cách lại có một số lƣợng lớn nghĩa mà có thể rõ ràng tách biệt các
nghĩa với nhau (падежи имеют значения; каждый падеж имеет большое
количество значений, которые, однако, могут быть четко отграничены
друг от друга) [118: 309]. Điều này có nghĩa là, mỗi nghĩa của từng cấu trúc
cách (падежная конструкция) có thể và cần phải đƣợc thể hiện trong một
dạng thức chính xác và có thể cải biến đƣợc [118: 310]. Về cách công cụ, bà
cho rằng, chức năng chính của cách công cụ trong tiếng Nga là chỉ ra công cụ
30
của hành động [118: 312], cách công cụ đƣợc hiểu là cách của nhóm từ loại
có liên quan đến công cụ và đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ (творительный
инструмент, трактуемый как ―падеж имееной группы, имеющей
референцию к инструменту, который использован как инструмент”)
[118: 313]. Rất tiếc, A. Wierzbickaja không thành công trong việc chứng
minh tất cả các cách có một ý nghĩa riêng vì để nghiên cứu thực nghiệm cần
bổ sung rất nhiều lí luận khác. Tuy nhiên, rõ ràng là những nghiên cứu trong
công trình này có đóng góp rất đáng kể về mặt khoa học, làm cơ sở cho những
nghiên cứu theo hƣớng mới, những kiến giải về cách làm giàu hơn quan điểm
về nghĩa công cụ trong tiếng Nga.
Các quan điểm về vị trí của công cụ trong hệ thống các phạm trù ngữ
nghĩa đƣợc V.A. Yamsanova (В.А. Ямсанова) trình bày trong công trình
“Công cụ và mối quan hệ chủ thể - khách thể” (Инструментальность и
субъектно-объектные отношения). Trong công trình này, ý nghĩa công cụ
đƣợc đề cập đến nhƣ một phạm trù có vị trí cao hơn là một trong những cách
có một mức độ với các phạm trù chủ thể và khách thể, đƣợc thống nhất một
vài vai công cụ thành phần (dụng cụ, phƣơng thức). Phạm trù này đòi hỏi một
tên gọi rộng hơn là “phạm trù phƣơng tiện”. Mối quan hệ chủ thể - vị thể - đối
thể có vị thế cao hơn trong ngữ pháp chức năng, đƣợc nghiên cứu nhiều trong
các công trình của A.V. Bondarko, và V.A. Yamsanova cũng khẳng định rằng
công cụ đứng riêng một mình trong một loạt các phạm trù ngữ nghĩa – cú
pháp của chủ thể và khách thể. Chính vì thể mà ở đó tác giả đã có một khái
niệm rất chung về phƣơng tiện.
V.A. Yamsanova khẳng định rằng “Không có phương tiện thì không
thể có những mối quan hệ hoạt động thực tế giữa chủ thể và đối thể”
(Реальные деятельностные отношения между субъектом и объектом
невозможны без средства) [150: 167]. Điều đó có nghĩa là bất kì một hành
31
động nào cũng đều đƣợc thực hiện thông qua một công cụ nào đó. Nếu tƣ duy
theo cách này thì chúng tôi có thể ngầm hiểu rằng, trong bất kì một tình
huống hành động nào cũng đều có sự tham gia của một phƣơng tiện để giúp
thực hiện hành động đó. Ngay cả trong ví dụ sau, phƣơng tiện không đƣợc thể
hiện bằng các phƣơng tiện ngôn ngữ đặc trƣng, ví dụ:
- (18) Quả nhiên họ nói có sai đâu! [CP-NC: 2]
(19) - Lý trưởng liệng dùi trống xuống sân đình và quát một cách ra
dáng ra phết: ... [TĐ-NTT: 10]
(20) - Ông quắc mắt nhìn con đàn bà chậm chạp, thét: ... [BĐC-NCH: 134]
Hành động “nói, quát, thét” đƣợc ngầm hiểu là có sử dụng các công
cụ (phƣơng tiện) khác nhau, là cơ quan phát âm (miệng / mồm) và cùng với
cơ quan đó, là giọng / tiếng nói; thậm chí còn có thể là các phƣơng tiện kĩ
thuật khác nhƣ nói chuyện qua điện thoại hay “chat” qua internet.
Nhƣng nghĩa công cụ không phải lúc nào cũng đƣợc biểu đạt một cách
rõ ràng trong mọi ngôn ngữ, nghĩa công cụ có thể bị ẩn nhƣ là những thành
phần phân tách từ những nghĩa từ vựng của chủ thể và vị thể. Theo quan điểm
của V.A. Yamsanova, không phải bất kì tình huống nào trong thực tế cũng
xuất hiện công cụ, tình huống có xuất hiện công cụ trong ngôn ngữ đối với tác
giả không quan trọng, quan trọng là công cụ nào đƣợc sử dụng để thực hiện
hành động này hay hành động kia. Có thể hiểu tình huống có sự tham gia của
công cụ là tình huống đƣợc tạo nên một cách riêng biệt khi biểu đạt thông tin
về phƣơng tiện hoàn thành hành động và có nghĩa trong giao tiếp.
Cũng theo quan điểm của V.A. Yamsanova “Phƣơng tiện đƣợc hiểu
rất rộng, đó là tất cả những gì mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành động
(các vật thể, trong đó bao gồm cả những sự vật, hành động, trạng thái, đặc
tính, lực lƣợng thiên nhiên, vật chất, chất)” (Средство понимается …
широко, как все то, посредством чего субъект осуществляет
32
соотнесенное с целью действие (предметы, в том числе одушевленные,
действия, состояния, свойства, природные силы, материал, вещество))
[150: 168]. Việc định nghĩa rất rộng về tính công cụ không có gì là ngạc
nhiên vì V.A. Yamsanova đã phân loại phƣơng tiện thành các nhóm lớn, đƣợc
sử dụng trong tiếng Nga để thực hiện các quan hệ công cụ.
Ngoài những công trình tiêu biểu nhƣ đã liệt kê ở trên, trong giới Nga
ngữ học cũng phải kể thêm những tác giả khác nhƣ R.Z. Muryasov (Р.З.
Мурясов 1972), V.T. Lƣơng (В.Т. Лыонг 1982), L.V. Varpakhovich (Л.В.
Варпахович 1986), E.V. Muravenko (Е.В. Муравенко 1987, 1988) mà trong
các công trình nghiên cứu đều mở rộng các khái niệm về các phƣơng tiện biểu
đạt tính công cụ, chỉ ra khả năng biểu đạt một ý nghĩa nào đó không chỉ bằng
con đƣờng từ vựng mà còn bằng các phƣơng tiện cú pháp, ...
Tóm lại, ý nghĩa công cụ là cái có thật vì nó phản ánh một thực tế của
hiện thực khách quan và đƣợc coi là một phổ niệm trong mọi ngôn ngữ, chỉ
có điều, cách thể hiện nó không giống nhau: tiếng Nga hay các ngôn ngữ biến
hình thể hiện bằng hình thái, có hẳn một cách để thể hiện nó, và đây là vấn đề
của ngữ pháp cách. Tiếng Việt hay các ngôn ngữ đơn lập thể hiện bằng con
đƣờng từ vựng, chủ yếu là sử dụng các hƣ từ biểu đạt ý nghĩa công cụ kết hợp
với các danh từ hay các ngữ đoạn. Chính vì cách công cụ và ý nghĩa công cụ
là một phổ niệm nhƣng lại đƣợc thể hiện rất khác nhau trong hai ngôn ngữ
Việt – Nga nên tạo nên nhiều thuận lợi và khó khăn trong quá trình dạy và
học hai ngôn ngữ này với tƣ cách là ngôn ngữ thứ hai. Đối với ngƣời bản ngữ,
đó là vấn đề phân tích ngữ pháp nhƣ thế nào; đối với ngƣời học ngôn ngữ thứ
hai thì cần phải nắm đƣợc hiệu năng, cách sử dụng ý nghĩa công cụ, cách thể
hiện ý nghĩa công cụ để nói và viết cho đúng. Điều này góp phần nâng cao
33
chất lƣợng và hiệu quả dạy và học tiếng. Trong quá trình thực tế dạy tiếng
Việt và học tiếng Nga, tôi nhận thấy đây là vấn đề gây nhiều khó khăn cho cả
ngƣời dạy lẫn ngƣời học nên tôi tiến hành nghiên cứu.
1.2. Cơ sở lí luận của luận án
Để triển khai nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ, có nhiều câu hỏi
cần phải đƣợc đặt ra để tìm hiểu sâu hơn, toàn diện hơn vấn đề này: Ý nghĩa
công cụ là gì? Cách công cụ là gì? Phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa
công cụ trong hai ngôn ngữ Việt – Nga là gì? Nó hoạt động ra sao? Ý nghĩa
công cụ có liên quan đến vai nghĩa công cụ trong phân tích ngữ nghĩa của câu
hay không? Những gì là đồng nhất và khác biệt trong nội dung và cách thức
thể hiện ý nghĩa công cụ giữa tiếng Việt và tiếng Nga? Những tƣơng đồng và
dị biệt đó gây nên những khó khăn gì, khắc phục nhƣ thế nào cho cả ngƣời
dạy lẫn ngƣời học? ... Tất cả những câu hỏi trên cần phải đƣợc giải quyết trên
cơ sở một khung lí thuyết nhất quán, xuyên suốt, đồng bộ và toàn diện.
Khi xem xét các mối quan hệ của công cụ với chức năng theo quan
điểm định danh học (onomasiological approach - ономасиологический
подход), chúng tôi áp dụng giả thuyết rằng “có những quy luật mang tính phổ
quát trong việc thực hiện chức năng của các đơn vị ngôn ngữ gắn liền với
việc biểu thị một vùng ý nghĩa ngữ pháp nhất định, bên cạnh đó, cũng có
những kiểu chức năng có tính phổ quát không phụ thuộc vào những biểu hiện
cụ thể về mặt ngôn ngữ của chức năng đó” (“существуют универсальные
закономерности функционирования единиц языка, связанных с
выражением определенной зоны грамматических смыслов, и, более
того, универсальные функциональные типы, не зависящие от их
конкретно-языковой реализации”) [124: 13]. Điều này có thể hiểu là, tất cả
các ngôn ngữ đều có các phƣơng tiện biểu thị ý nghĩa ngữ pháp (công cụ ngữ
pháp) của riêng mình, mặc dù những phƣơng tiện này có thể khác nhau do sự
34
khác biệt về hệ thống ngữ pháp của các loại hình ngôn ngữ. Luận án cũng sẽ
đề cập đến các đặc điểm ngữ nghĩa mang tính chất công cụ: ý nghĩa ngữ pháp
trực tiếp hay gián tiếp biểu đạt ý nghĩa công cụ; ý nghĩa công cụ của một hành
động cụ thể hay chỉ là các nét nghĩa có yếu tố công cụ tiềm ẩn trong các ý
nghĩa khác (ý nghĩa chỉ mục đích, chỉ nguyên nhân, chỉ địa điểm, …). Sau đó
luận án sẽ tìm hiểu ý nghĩa công cụ ở khía cạnh cú pháp, có nghĩa là, xem xét
mối quan hệ giữa nghĩa công cụ và phạm trù cách, cũng nhƣ xem xét nghĩa
công cụ đƣợc phân tích trong các cấu trúc cú pháp cụ thể trong hai ngôn ngữ
nghiên cứu.
Luận án đặt ra nhiệm vụ miêu tả và phân tích hệ thống phƣơng tiện
ngữ pháp trong tiếng Nga đƣợc sử dụng để biểu đạt ý nghĩa công cụ trên cơ
sở đã mô tả xong hệ thống các phƣơng tiện thể hiện ý nghĩa công cụ tƣơng
ứng trong tiếng Việt. Để làm đƣợc việc này, trong chƣơng đầu của luận án,
chúng tôi sẽ minh định các khái niệm đƣợc sử dụng để giải quyết vấn đề
nghiên cứu. Đó là các khái niệm về công cụ, ý nghĩa công cụ, phạm trù ý
nghĩa ngữ pháp công cụ, một số quan hệ ngữ pháp, cách, vai nghĩa, …
1.2.1. Phân biệt công cụ - dụng cụ - phương tiện
Công việc đầu tiên khi tiến hành triển khai nghiên cứu đối với mỗi
một công trình nghiên cứu là phải làm rõ các khái niệm đƣợc đề cập. Với luận
án này, thuật ngữ cần đƣợc làm sáng tỏ trƣớc nhất là “công cụ”. Muốn hiểu rõ
“công cụ là gì” chúng ta sẽ phân biệt khái niệm này với một số khái niệm
khác là “dụng cụ, phương tiện”.
Ngay từ thời cổ đại, dụng cụ đƣợc coi là vật quan trọng nhất dùng để
làm ra những sản phẩm, tạo ra những đồ vật ... phục vụ nhu cầu hàng ngày của
con ngƣời nhƣ dao dùng để săn bắt và chia nhỏ thức ăn, búa dùng để gè, dùi
dùng để đục, giáo hoặc cung dùng để giết con mồi, ... Marshall McLuhan – nhà
triết học ngƣời Canada, từng nói “Chúng ta làm ra dụng cụ, dụng cụ làm ra
35
chúng ta”. Câu này có nghĩa là: dụng cụ dƣờng nhƣ là một vật không thể thiếu
trong xã hội, trong đời sống hàng ngày của mỗi ngƣời; dụng cụ cần chúng ta
tạo ra chúng cũng nhƣ chính chúng ta cần chúng để phục vụ chúng ta.
Công cụ là một phần rất quan trọng trong thực tại đời sống của con
ngƣời. T.A. Zdanova (Т.А. Зданова) đã nhận xét về giá trị của công cụ trong
cuộc sống của con ngƣời nhƣ sau: “Thật khó có thể đánh giá lại vai trò của
công cụ trong việc hình thành nên nền văn minh nhân loại. (…) Trong nhận
thức chung của nhân loại luôn có những hình ảnh đặc trưng, và một trong
những đặc trưng nhất, đó chính là hình ảnh của các loại công cụ” [121: 63]
(“Сложно переоценить роль орудий в формировании цивилизации. В
коллективном сознании людей была создана специальная
концептуальная сфера, особая галерея инструментальных образов”).
Thông thƣờng, bất kì một hành động nào của con ngƣời cũng luôn đòi hỏi cần
phải sử dụng một công cụ nào đó.
Nhƣ vậy có thể hiểu, dụng cụ hay công cụ là những sự vật cụ thể, có
tính vật chất, hiện hữu trƣớc mặt, phục vụ nhu cầu ăn uống, lao động, sản
xuất, giải trí, ... của con ngƣời.
Công cụ trong hiện thực khách quan có nghĩa khái quát hơn dụng cụ.
Nó không chỉ đơn thuần là những vật dụng cụ thể dùng để tạo ra một cái gì đó
có ích phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của con ngƣời, nó còn là những
khái niệm trừu tƣợng trong tƣ duy của con ngƣời, ví nhƣ, ngôn ngữ là công cụ
giao tiếp của con ngƣời. Công cụ không chỉ đƣợc hiểu là những dụng cụ lao
động dùng tay, chân, hay bất kì một bộ phận nào khác trên cơ thể con ngƣời;
công cụ còn đƣợc hiểu là những thao tác kĩ thuật, những hành động, suy nghĩ,
trạng thái, tình cảm, cảm xúc, ... của con ngƣời, giúp con ngƣời không chỉ tạo
ra một sản phẩm khác mà còn là một hiệu ứng khác, một kết quả khác, một
thành quả khác, thậm chí đó cũng có thể là một hệ quả không mong muốn
36
khác. Với ý nghĩa này, công cụ dƣờng nhƣ có nội hàm giống với phương tiện.
Tuy nhiên, khái niệm phương tiện có nội dung biểu đạt khái quát lớn hơn nữa,
mang ý nghĩa tổ hợp nhiều hơn nữa. Phƣơng tiện còn có thể hiểu là những
phƣơng pháp, thủ pháp để tạo nên một phƣơng thức có tính khái quát rất lớn
trong nghiên cứu khoa học.
Trong ngôn ngữ học, một vật nào đó đóng vai trò công cụ khi nó đƣợc
chủ thể sử dụng để tiến hành một hoạt động. Ví dụ nhƣ: đôi đũa đƣợc con
người sử dụng để ăn cơm, đôi đũa là công cụ, con ngƣời là chủ thể và ăn cơm
là hoạt động. Công cụ gắn bó hữu cơ với hoạt động và chủ thể của hoạt động.
Công cụ là một phạm trù chức năng. Một vật khi đã tách rời mối liên hệ với
chức năng đó thì không còn là công cụ nữa. Sự phản ánh vai trò công cụ trong
ngôn ngữ tạo nên ý nghĩa công cụ. Nói một cách khác, thành phần mang ý
nghĩa công cụ là thành phần biểu thị sự vật được chủ thể sử dụng để tiến
hành hoạt động [75]. Hơn nữa trong các tình huống ngôn ngữ có yếu tố công
cụ (các tình huống công cụ) thì công cụ có thể không cần đƣợc thể hiện:
chúng có thể bị ẩn hoặc có thể đƣợc mặc định dùng kèm theo hành động. Nếu
nhƣ công cụ có mặt trong một tình huống thực và vắng mặt trong mô tả ngôn
ngữ của tình huống đó, thì nảy sinh một câu hỏi: liệu công cụ có xuất hiện ở
cấp độ ngữ nghĩa không? Xét ví dụ:
- (21) Tôi ăn cháo.
Theo tiêu chí ngôn ngữ, trên bình diện bề mặt cấu trúc câu thì công cụ
không cần phải đƣợc biểu đạt bởi nó là sự thật hiển nhiên trong cuộc sống
(ngƣời Việt Nam thƣờng sẽ chỉ ăn cháo bằng thìa, muôi, muỗng). Tuy nhiên
trong việc mô tả hành động thì yếu tố công cụ đƣợc ngầm hiểu là:
S – P – O – (I)
trong đó: S _ Subject (chủ thể hành động)
P _ Predicate (vị từ)
O _ Object (đối thể)
37
(I) _ Instrumental (yếu tố công cụ)
Bảng 1.1: Mô hình kết cấu có chỉ tố công cụ
Giả định rằng trong tình huống này, ở cấp độ ngữ nghĩa, công cụ chắc
chắn hiện diện vì nếu nhƣ đặt câu hỏi: “Anh ăn cháo bằng gì?”, thì câu trả lời
chắc chắn sẽ là: “bằng thìa (hoặc muôi, muỗng)”.
Điều giả định nhƣ vậy có thể đƣợc biểu diễn bằng sơ đồ 1 nhƣ sau:
Sơ đồ 1:
Hiện thực (+I) – Nghĩa (+I) – Lời nói (-I)
Bảng 1.2: Mô hình có tiền giả định công cụ 1
Sơ đồ 1 sẽ đối lập với sơ đồ 2 dƣới đây. Sơ đồ 2 mô tả sự biểu đạt
công cụ bằng một phƣơng tiện đặc biệt trong lời nói. Xét ví dụ:
- (22) Anh ấy cắt giấy bằng kéo.
Sơ đồ 2:
Hiện thực (+I) – Ngữ nghĩa (+I) – Lời nói (+I)
Bảng 1.3: Mô hình có tiền giả định công cụ 2
(-I) có nghĩa là, trong lời nói, yếu tố công cụ không đƣợc biểu đạt
hoặc không cần phải biểu đạt bằng những dấu hiệu đặc biệt thể hiện đó là
công cụ. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, yếu tố công cụ vẫn có những
chỉ dấu nhất định. Trong các tình huống đó, chúng tôi đặt giả định rằng, nó
luôn đƣợc ngầm hiểu là có yếu tố công cụ, có nghĩa là, đƣợc thể hiện bằng các
phƣơng tiện khác trong tổ hợp ngữ pháp – văn cảnh: thông qua từ vựng hoặc
thông qua văn cảnh. Chúng tôi thấy rằng trong cả hai sơ đồ trên, có hay không
sự xuất hiện của yếu tố công cụ ở cấp độ ngôn ngữ không quan trọng, công cụ
luôn luôn đƣợc biểu đạt ở khía cạnh ngữ nghĩa.
Trong luận án này, chúng tôi khẳng định rằng, việc thể hiện ý nghĩa
công cụ trong nghĩa hàm ẩn của động từ (ví dụ động từ ăn ngầm hiểu là có sử
dụng một dụng cụ ăn uống nào đó) không phải là một phƣơng tiện duy nhất của
38
ngữ pháp trong việc biểu đạt ý nghĩa công cụ. Hơn nữa, công cụ không chỉ nằm
trong tiền giả định của động từ mà nó còn phụ thuộc vào chu cảnh chung.
Trong câu (21) công cụ chắc chắn là thìa (hoặc muôi, muỗm); trong câu Tôi ăn
bún (22), công cụ ở đây có lẽ sẽ là đũa. Trong trƣờng hợp này, công cụ đƣợc
làm sáng tỏ bằng nghĩa của đối thể. Ngoài ra, sự xuất hiện hay không xuất hiện
của yếu tố công cụ còn đƣợc xác định bằng nghĩa của chủ thể hành động, ví dụ:
- (23) Con chó đang ăn cháo (bún).
Con chó thì không thể ăn cháo (bún) bằng thìa, dĩa hay đũa đƣợc,
công cụ mà con chó sử dụng để ăn ở đây là mồm, lưỡi. Trong các trƣờng hợp
này, chúng tôi đang ngầm quy định công cụ ở đây là một vật dụng trong hoạt
động chứ không phải là một bộ phận cơ thể ngƣời. Vấn đề này sẽ đƣợc mô tả
kĩ hơn trong các chƣơng tiếp theo.
Trong ngữ pháp và ngữ pháp học, công cụ đƣợc hiểu là những khái
niệm, những phạm trù, những phƣơng thức trừu tƣợng có tính khái quát hóa;
đƣợc dùng để biểu đạt một ý đồ nào đó phục vụ mục đích giao tiếp của con
ngƣời. Đó có thể là những khái niệm về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; những
phạm trù về âm vị học, về hình thái học, về cú pháp học, về diễn ngôn; những
phƣơng thức ngữ pháp, ... Nội hàm của thuật ngữ “công cụ” trong ngôn ngữ
học có nhiều nét tƣơng đồng với khái niệm “phương tiện”, tuy nhiên, trong
ngôn ngữ học, thuật ngữ “công cụ” đƣợc thống nhất dùng chung trong tiếng
Anh là instrument, tiếng Nga là инструмент, tiếng Pháp là le instrument,
tiếng La tinh là instrumentum, ... ; kí hiệu viết tắt là INST để phân biệt với
một khái niệm công cụ khác là tool – một thuật ngữ chủ yếu dùng trong khoa
học về máy tính (computer), phần mềm (software), ứng dụng (application) –
những sản phẩm của công nghệ hiện đại mới xuất hiện khi máy tính ra đời từ
thế kỷ trƣớc. Luận án này thống nhất dùng chung một thuật ngữ “công cụ
39
(instrument - инструмент)” để tiến hành nghiên cứu phục vụ mục đích
nghiên cứu nhƣ đã trình bày ở trên.
Một thuật ngữ khác nữa cũng cần đƣợc nhắc đến là “chất liệu” hay
“vật liệu”. Các ý nghĩa ngữ pháp chỉ “chất liệu” hay “vật liệu” tạo ra sản
phẩm có thể có phƣơng thức thể hiện giống với ý nghĩa công cụ về mặt hình
thức trong cả hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Nga. Trong tiếng Việt, ý nghĩa
chỉ chất liệu hoặc vật liệu đƣợc thể hiện bằng phƣơng thức hƣ từ (thêm hƣ từ
bằng vào giữa hai danh từ), ví dụ trong các danh ngữ: bàn gỗ, dép nhựa, cốc
giấy, áo lụa, nồi nhôm, ...; chỉ cần thêm hƣ từ bằng vào giữa hai danh từ (bàn
bằng gỗ, dép bằng nhựa, cốc bằng giấy, áo bằng lụa, nồi bằng nhôm, ...) là
chúng ta có thêm một cách thức thể hiện ý nghĩa chỉ vật liệu, chất liệu. Tƣơng
tự nhƣ trong tiếng Nga, các cụm từ (là một tổ hợp của tính từ và danh từ) chỉ
chất liệu, vật liệu có thể đƣợc cải biến bằng phƣơng thức hƣ từ (sử dụng giới
từ из và biến đổi danh từ sang cách hai) chúng ta cũng có một cách biểu đạt
mới về ý nghĩa chỉ vật liệu, chất liệu.
Ví dụ:
- деревянный стол (bàn gỗ) = стол из дерева
- пластиковые сандалии (dép nhựa) = сандалии из пластинки
- бумажный стакан (cốc giấy) = стакан из бумаги
- шелковая рубашка (áo lụa) = рубашка из шелка
- алюминиевая кастрюля (nồi nhôm) = кастроюля из алюминия
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu, do giới hạn về mặt
dung lƣợng, nên vấn đề này không đƣợc đề cập đến, mà sẽ để lại trong các
công trình nghiên cứu tiếp theo.
Nhƣ vậy, luận án thống nhất dùng thuật ngữ “công cụ” (instrument -
инструмент) để nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong hai ngôn ngữ
Việt và Nga. Các thuật ngữ khác nhƣ dụng cụ, phương tiện, vật liệu, chất liệu
40
sẽ không đƣợc đề cập đến với tƣ cách là một đối tƣợng nghiên cứu của luận
án, hoặc nếu đƣợc đề cập đến thì đó là những đối tƣợng thuộc phạm vi nghiên
cứu khác đƣợc sử dụng để so sánh hoặc diễn giải để làm rõ thêm cho thuật
ngữ “công cụ” nhƣ đã trình bày ở trên.
1.2.2. Ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp công cụ
Muốn hiểu đƣợc ý nghĩa ngữ pháp công cụ thì cần phải hiểu đƣợc
khái niệm ý nghĩa ngữ pháp trƣớc tiên.
Ở góc độ ngữ pháp học, ý nghĩa ngữ pháp là những ý nghĩa khái quát,
thể hiện những đặc điểm ngữ pháp được quy ước chung cho hàng loạt đơn vị
của ngôn ngữ và được thể hiện bằng những phương tiện vật chất nhất định
của ngôn ngữ.
Nhƣ vậy, các ý nghĩa số (số ít, số nhiều) của danh từ, ý nghĩa thời của
động từ (thời hiện tại, quá khứ, tương lai)... ý nghĩa thể của động từ (thể hoàn
thành, chưa hoàn thành,, thể tiếp diễn)... trong các ngôn ngữ nhƣ tiếng Anh,
tiếng Nga ... đều là các ý nghĩa ngữ pháp, vì chúng có tính khái quát và trừu
tƣợng, thể hiện những đặc điểm ngữ pháp đƣợc quy ƣớc chung cho hàng loạt
từ và đƣợc thể hiện bằng những phƣơng tiện vật chất nhất định (các phụ tố
ngữ pháp biến đổi hình thái của từ).
Tuy nhiên, điều quan trọng cần đƣợc đặc biệt chú ý là, ý nghĩa ngữ
pháp phải đƣợc biểu thị một cách có hệ thống, bằng những phƣơng tiện ngữ
pháp nhất định. Nếu có một ý nghĩa nào đó, nhƣng nó lại không đƣợc biểu thị
bằng phƣơng tiện ngữ pháp thì không thể coi đó là ý nghĩa ngữ pháp.
Ta có thể thấy khái niệm ý nghĩa ngữ pháp đƣợc trình bày trong rất
nhiều tài liệu ngôn ngữ học giáo khoa nhƣ: B.N. Golovin (Головин Б.Н.
1983), Kosovskiy V.I. (Косoвский В.И. 1974), Kochergina V.A. (Кочергина
В.А. 1979), Reformatsky A.A. (Реформатский А.А. 1967), Mai Ngọc Chừ,
Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến [12: 245], Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn
41
Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết [26: 216], Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Thị
Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán [13: 263], Đỗ Hữu Châu và Bùi
Minh Toán [10: 75], Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung [7: 8], ....
Khi nói đến ý nghĩa ngữ pháp trong tƣơng quan đối sánh với ý nghĩa
từ vựng của từ, điều mà ai cũng dễ dàng nhận thấy là: ý nghĩa từ vựng là ý
nghĩa của từng từ, còn ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa của từng lớp, từng phạm
trù từ.
“Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp đều là sự phản ánh những kết
quả của nhận thức và tư duy vào ngôn ngữ, nhưng sự phản ánh thành ý nghĩa
ngữ pháp có chức năng để tổ chức câu (và tổ chức những đơn vị giao tiếp nói
chung). So với ý nghĩa từ vựng, thì ý nghĩa ngữ pháp có tính chất đơn thể và
luôn luôn đòi hỏi được diễn đạt bằng những hình thức chung có tính đồng
loạt, do đó nó cũng bộc lộ tính khái quát và trừu tượng cao”. [10: 75]
Thêm vào đó, cũng có thể nói rằng: “sự khác biệt giữa ―ý nghĩa‖ từ
vựng với ―ý nghĩa‖ ngữ pháp không phải trước hết là do kiểu nội dung ý
nghĩa, mà về nguyên tắc là do cách phản ánh trong từ của nó. Phản án theo
lối gọi tên vật, hoạt động, trạng thái, tính chất, quan hệ, là thuộc tính của cái
từ vựng. Phản ánh vật, hoạt động, trạng thái, tính chất, quan hệ theo lối đi
kèm là thuộc tính của cái ngữ pháp”. [7: 8]
Ý nghĩa ngữ pháp công cụ là một loại ý nghĩa ngữ pháp, trong giai
đoạn phát triển của ngữ nghĩa học hiện nay, nội dung “công cụ” đƣợc công
nhận nhƣ một phạm trù ngữ nghĩa. Việc nghiên cứu các phạm trù ngữ nghĩa ở
các dạng khác nhau và trong các giai đoạn khác nhau chiếm dung lƣợng và
thời lƣợng rất lớn của các nhà khoa học ngôn ngữ Nga nhƣ A.M. Peshkovsky
(A.M. Пешковский), A.A. Shakhmatov (А.А. Шахматов), I.I.
Meshchaninov (И.И. Мещанинов), A.V. Bondarko (А.B. Бондарко), A.A.
42
Kholodovich (А.А. Холодович), V.S. Khrakovsky (В.Ш. Храковский). [dẫn
theo 115]
Cấp độ ngữ nghĩa (mặt nội dung, mặt đƣợc biểu đạt) là một cấp độ
phổ quát và không có đáp án chuẩn, nó khác với mặt hình thức (cái biểu đạt).
Ngữ nghĩa của một ngôn ngữ cụ thể có cách mô tả riêng biệt, điều này liên
quan đến các khái niệm từ vựng và ngữ pháp. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu
gần đây có xu hƣớng nghiên cứu và giải thích các hiện tƣợng đó thiên về khái
niệm từ vựng. Các khái niệm ngữ pháp khác với các khái niệm từ vựng ở chỗ
“đó là các vùng tư duy của loài người” (глобальные кластеры смыслов)
[124: 153]. Theo đó, “so với các khái niệm mặt từ vựng, các khái niệm ngữ
pháp mang tính phổ quát giống như khái niệm mang tính đặc thù dân tộc
được thể hiện qua ngôn ngữ. Tư duy của con người được thực hiện nhờ các ý
niệm, trong đó yếu tố bao quát về sự vật - tình cảm và mô tả kinh nghiệm của
con người đều dẫn đến sự hình thành các khái niệm ngữ pháp và là những
khái niệm chung cho nhiều loại hình ngôn ngữ khác nhau”. [124: 153-154]
(“Подобно 18 концептам, связанным преимущественно с лексикой,
грамматические концепты имеют как универсальный, так и
национально-специфический компонент, проводящий языковые
границы». Человеческое мышление осуществляется посредством
концептов, при этом ―общность предметно-чувственного и
ментального опыта человечества приводит к формированию
грамматических концептов, общих для разных языков универсальных
грамматических концептов”). Ý nghĩa ngữ pháp công cụ là một trong
những khái niệm nhƣ thế.
Tính phổ quát của các quan hệ công cụ đƣợc xác lập bằng một vật liệu
ngôn ngữ giống nhau, bằng sự chuyển dịch từ các cấu trúc ngôn ngữ này sang
các cấu trúc ngôn ngữ khác mà nội dung của nó đều mang ý nghĩa chỉ dụng
cụ. Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng, tất cả các ngôn ngữ đều có những
43
phƣơng tiện thể hiện nhất định dùng để biểu đạt vùng tƣ duy gắn với các khái
niệm công cụ hay phƣơng tiện mà nhờ đó các hành động đƣợc thực hiện.
Tính bất biến của phạm trù công cụ đƣợc chúng tôi sử dụng nhƣ một
công cụ phân tích các cách biểu đạt phạm trù này. Ngoài các cách biểu đạt,
trong luận án còn đƣa ra các phƣơng tiện ngữ pháp trong tiếng Việt và tiếng
Nga để giúp chuyển dịch một cách chính xác nghĩa bất biến. Chúng tôi ngầm
hiểu rằng, trong các bản dịch văn học đƣợc trích dẫn làm minh chứng trong
luận án, tính chính xác trong các chi tiết không phải lúc nào cũng là mục tiêu
tối cao, đôi khi chúng tôi cũng cần phải chấp nhận những phƣơng án dịch lƣớt
hoặc quan tâm đến mong muốn của ngƣời dịch muốn đƣợc trình bày hết ý
nhờ sự trợ giúp của các cụm từ cố định (thành ngữ). Tuy nhiên, có thể khẳng
định rằng, số lƣợng những tình huống nhƣ thế sẽ không chiếm dung lƣợng
nhiều trong luận án và sẽ không ảnh hƣởng đáng kể đến kết quả nghiên cứu.
Vì tổng số các phƣơng thức ngữ pháp thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp,
trong đó có ý nghĩa công cụ, trong ngôn ngữ học nói chung không nhiều, nên
cho dù tiếng Việt và tiếng Nga là những ngôn ngữ khác loại hình nhƣng
phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong cả hai ngôn ngữ sẽ có những nét
tƣơng đồng và có cả những nét khác biệt. Với đặc điểm của loại hình ngôn
ngữ đơn lập, tiếng Việt sử dụng phƣơng thức từ hƣ và trật tự từ là chính, ví dụ:
(24) - Còn thị sống bằng những nghề lặt vặt ở làng. [CP-NC: 20]
(25) - Rồi bà, than ôi! trái ngược - bà nhòm qua lỗ khoá xem bên
ngoài động tĩnh ra sao... Thì ra, chăm chú vào quyển sách ảnh, thằng Xuân
cứ ngồi nguyên chỗ.[SĐ-VTP: 35]
(26) - Trong toa, mấy bà tóc hoa râm người Petersburg vẫn tiếp tục
thoa lại phấn, dùng khăn lau mồ hôi tay và trò chuyện với nhau bằng cái
giọng ngực nghe rin rít. [BSZh: 17]
44
(27) - Ðây ông coi, cái văn tự của em bán con bé cháu để lấy tiền nộp
sưu cho nhà em đấy mà. [TĐ-NTT: 48]
Trong khi đó, tiếng Nga, bên cạnh việc sử dụng phƣơng thức biến đổi
hậu tố là chính cũng thƣờng xuyên sử dụng kết hợp cả với giới từ, tức là cũng
thể hiện qua từ hƣ, ví dụ:
(28) - Там все сохранилось: обои кофейного цвета, изразцовая
печь с круглою отдушиной под медной крышкой на цепочке, и опись
инвентаря в черной рамке на стене. [ДЖ: 136]
(29) - Mọi thứ ở đó vẫn còn: giấy bồi tường màu cà phê, cái lò sưởi
bằng sứ có ống thông hơi tròn, đậy bằng một cái mũ đồng, ngoắc với một
đoạn dây xích nhỏ bản kê khai đồ đạc đóng khung đen móc vào
tường.[BSZh: 197]
Nhƣ vậy, điểm chung của hai ngôn ngữ trong cách thức thể hiện ý
nghĩa công cụ là sử dụng từ hƣ với các cặp giới từ tƣơng ứng nhƣ với – c, qua
– через, trên – на, nhờ - благодаря, ... Ngoài ra, mỗi ngôn ngữ lại sở hữu một
số phƣơng thức ngữ pháp đặc trƣng khác. Vấn đề này sẽ đƣợc khảo sát và
miêu tả kĩ hơn ở các chƣơng sau của luận án.
1.2.3. Ý nghĩa ngữ pháp và vai nghĩa
Theo Tô Minh Thanh [77: 27], ngôn ngữ có những quy tắc mà theo đó
nghĩa đƣợc biểu đạt thông qua các kết cấu ngôn ngữ. Nói khác đi, “ngữ pháp
miêu tả sự cụ thể hóa miền nhận thức (congnitive space / познавательное
пространство) thành ra cấu trúc cú pháp (syntatic structures /
синтаксические структуры)” [80: 27]. Để diễn đạt các cách cụ thể hóa này,
các nhà ngôn ngữ học dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: cases (падежи /
cách), semantic relations (семантические отношения / quan hệ ngữ nghĩa),
roles (роли / vai), case-role (падежи-роль) hay semantic role
(семантическая роль / vai nghĩa); hoặc thematic role (тематическая
45
роль), theta-roles (тета-роли) (vai tham tố), nhƣ phái ngữ pháp cải biến
thƣờng gọi. Luận án này chọn “vai nghĩa” (семантическая роль / semantic
role) (cái đƣợc biểu hiện) vì thuật ngữ này đủ ngắn gọn để làm đối tƣợng
phân biệt với ý nghĩa ngữ pháp (cái biểu hiện).
Cho đến nay vẫn chƣa có một khái niệm nhất quán nào dành cho “vai
nghĩa”. Theo W. Wilkins [111: 191-192], vai nghĩa “là thành phần thể hiện về
mặt tinh thần các vật thể và khái niệm”, nghĩa là, đánh đồng vai nghĩa với các
phạm trù của nhận thức. Cùng quan điểm này còn có D.L.F. Nilsen [1973], S.
DeLancey [1982] và R. Jackendoff [1983]. C.J. Fillmore [1968] lại quan niệm
“khái niệm ‗cách‘ bao gồm một tập hợp những khái niệm mang tính phổ niệm
và có lẽ là bẩm sinh; đây là những khái niệm cho thấy các kiểu đánh giá của
con người về những sự việc xảy ra xung quanh họ như là ai tiến hành những
sự việc đó, chúng xảy ra với ai, chúng làm thay đổi cái gì”. Định nghĩa này
của Fillmore nhấn mạnh đến tính phổ quát của vai nghĩa. Bên cạnh đó I.M.
Schlesinger [110: 24] “đề nghị […] coi các vai nghĩa là những kết cấu ngôn
ngữ không nhất thiết phải tồn tại trong miền nhận thức dù có thể được định
nghĩa bằng những khái niệm trong miền nhận thức”, điều này có nghĩa là, ông
đã cho vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ, cụ thể là những kết cấu ngữ
nghĩa chứ không nhất thiết phải là những kết cấu nhận thức. Nhƣ vậy, dù các
khái niệm có khác nhau, cách định nghĩa cũng khác nhau, nhƣng điểm chung
của các nhà ngôn ngữ học trên là đều tập trung nghiên cứu mặt nghĩa của
ngôn ngữ. Theo quan điểm của chúng tôi, vai nghĩa là vai trò, tư cách mà
người, vật (được biểu thị bằng danh ngữ) thể hiện đối với hành động, trạng
thái, sự tình được miêu tả trong câu.
Nhƣ vậy vai nghĩa chính là nhân tố có vai trò quyết định đối với việc
tổ chức nên nghĩa của câu. Đó là vai trò, chức phận mà mỗi danh ngữ thể hiện
trong mối quan hệ với động từ của câu.
46
Ví dụ: trong câu ―gà mổ thóc‖, danh ngữ (do một mình danh từ gà
đảm nhiệm) biểu thị kẻ thực thi hành động mổ, danh ngữ thóc biểu thị đối
tƣợng chịu sự tác động của hành động mổ. Danh ngữ gà là vai tác thể (agent)
của hành động đƣợc biểu thị bằng động từ mổ, danh ngữ thóc thể hiện là vai
bị thể (patient) của hành động đƣợc biểu thị bằng động từ mổ.
Hiện tại, chƣa có sự nhất trí cao giữa các nhà ngôn ngữ trong việc xác
định số lƣợng các vai nghĩa (và cả nội dung miêu tả từng vai nghĩa), nhƣng
những vai nghĩa sau đây thƣờng đƣợc đề cập: Tác thể (agent); Bị thể (patient);
Nghiệm thể (experiencer); Công cụ (instrument); Nguyên nhân (cause); Tiếp
thể (recipient); Đắc lợi thể (benefactive); Định vị thể (locative); Thời gian
(temporal).
Trong số các vai nghĩa nêu trên đây, vai nghĩa công cụ (instrument)
được hiểu là phương tiện để thực hiện hành động do động từ biểu thị.
Vai nghĩa nói chung và vai nghĩa công cụ nói riêng không phải là
thuộc tính cố hữu, bất biến của các danh ngữ. Nó là những vai trò có tính khả
biến và linh động: cùng một danh ngữ có thể có (đảm nhiệm) những vai nghĩa
khác nhau tùy theo từng câu mà chúng tham gia. Ví dụ:
- (30) Tôi ăn một bát phở.
- (31) Bát phở làm cho tôi ấm bụng trước khi bắt đầu công việc.
Nhƣ vậy, vai nghĩa là phƣơng cách để thể hiện những nét đặc trƣng
của mối quan hệ về nghĩa giữa danh ngữ với vị từ trong câu. Các vai nghĩa
không phải do các quan hệ ngữ pháp quy định. Chủ ngữ với tác thể, bổ ngữ
với bị thể… là những chuyện độc lập, không phụ thuộc vào nhau. Nếu nhƣ ở
trên chúng ta đã thấy một vai ngữ pháp chủ ngữ có thể ứng với nhiều vai
nghĩa khác nhau, thì dƣới đây lại thấy trƣờng hợp một vai nghĩa đƣợc “biểu
diễn” bằng hơn một vai ngữ pháp. Chẳng hạn: vai công cụ đƣợc biểu diễn
bằng chủ ngữ hoặc bổ ngữ gián tiếp hoặc bổ ngữ trực tiếp. Ví dụ:
47
- (32) Tiền lương làm cho tất cả anh chị em yên tâm.
- (33) Tôi sống chỉ dựa vào tiền lương.
- (34) Cô ấy dùng tiền lương của tôi mua điện thoại mới.
Các vai nghĩa là những phạm trù có tính phổ quát, nhƣng mỗi ngôn
ngữ khác nhau lại có thể biểu diễn chúng bằng những vai cú pháp không hoàn
toàn trùng nhau. Ngƣời bản ngữ của mỗi ngôn ngữ hoặc ngƣời thông thạo
ngôn ngữ đó hoàn toàn biết đƣợc: đối với mỗi vị từ mà họ sử dụng, vai nghĩa
nào sẽ có thể đƣợc biểu diễn bằng vai cú pháp chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ…
Nhƣ vậy, vai nghĩa công cụ có liên quan mật thiết đến ý nghĩa ngữ
pháp công cụ. Mặc dù ý nghĩa ngữ pháp công cụ, về mặt nguyên tắc, biểu
hiện vai nghĩa công cụ, nhƣng trong rất nhiều trƣờng hợp ở nhiều ngôn ngữ,
vai nghĩa công cụ không đƣợc thể hiện bằng các phƣơng thức hay phƣơng
tiện ngữ pháp công cụ, ví dụ nhƣ phƣơng thức hƣ từ, phƣơng tiện giới từ (giới
từ c trong tiếng Nga, giới từ with hay by trong tiếng Anh), phƣơng tiện hƣ từ
(hƣ từ bằng, với,…trong tiếng Việt). Xu hƣớng nghiên cứu câu hiện nay trong
ngôn ngữ học không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu cấu trúc, mà còn tập trung
nghiên cứu về các hoạt động hành chức của câu. Nghĩa là, việc phân tích câu
phải đồng thời đƣợc triển khai trên cả ba bình diện là: ngữ pháp - ngữ nghĩa -
ngữ dụng. Việc nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong câu (đối với tiếng
Việt và tiếng Nga) cũng phải đặt trong mối quan hệ tổng thể là phân tích câu
và ở trên cả ba bình diện này. Trong các chƣơng tiếp theo, ngoài việc mô hình
hóa các phƣơng thức biểu hiện ý nghĩa công cụ, chúng tôi cũng trình bày
thêm những đặc trƣng ngữ nghĩa hình thức của vai nghĩa công cụ trên bình
diện nghĩa (nghĩa miêu tả), mặt khác, đồng thời triển khai nghiên cứu khả
năng hiện thực hóa của vai nghĩa công cụ trong vai trò các chức năng cú pháp
của câu. Tham thể công cụ trong cấu trúc nghĩa sẽ đƣợc lựa chọn và hiện thực
hóa thành các thành phần ngữ pháp khác nhau của câu nhƣ bổ ngữ, trạng ngữ,
48
chủ ngữ, đề ngữ. Sự ngữ pháp hóa cụ thể nhƣ thế nào phụ thuộc vào nhu cầu
giao tiếp, vào vai trò thông báo trong từng hoàn cảnh giao tiếp của tham thể
công cụ.
1.2.4. Phương thức ngữ pháp và phương thức ngữ pháp thể hiện ý
nghĩa công cụ
a. Phương thức ngữ pháp
Bất kì ý nghĩa của một từ, một tổ hợp từ hay một câu nào cũng có
những hình thức thể hiện của nó. Ý nghĩa ngữ pháp cũng vậy, đƣợc thể hiện
bằng những hình thức nhất định. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của
ngữ pháp học là nghiên cứu những phƣơng tiện biểu hiện của các ý nghĩa ngữ
pháp đƣợc sử dụng trong các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Các phƣơng
tiện ấy đƣợc gọi chung lại là phƣơng thức ngữ pháp.
Những phƣơng tiện ngữ pháp (ví dụ -и, -ы, -а để biểu thị ý nghĩa “số
nhiều” của danh từ tiếng Nga) đƣợc sử dụng một cách có hệ thống, để biểu thị
một cách có hệ thống các ý nghĩa ngữ pháp, đƣợc gọi là phƣơng thức ngữ
pháp. Vậy, phƣơng thức ngữ pháp là biện pháp, (cách) sử dụng những phƣơng
tiện ngữ pháp để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp.
Ví dụ, tiếng Nga dùng phƣơng thức phụ tố để thể hiện ý nghĩa số nhiều
- стол (1 cái bàn) - столы (nhiều cái bàn)
- газета (1 tờ báo) - газеты (nhiều tờ báo)
- дом (1 ngôi nhà) - дома (nhiều ngôi nhà)
- тетрадь (1 quyển vở) - тетради (nhiều quyển vở)
Những phƣơng thức ngữ pháp thƣờng gặp trong các ngôn ngữ có thẻ
đƣợc kể ra nhƣ sau:
1- phương thức phụ tố, ví dụ nhƣ: делать-сделать, читать-
прочитать, ... trong tiếng Nga; bơsao-bơrơsao trong tiếng Ê-đê và Ja-rai;
student-students, democracy-democracies, ... trong tiếng Anh
49
2- phương thức luân phiên ngữ âm học hoặc biến tố bên trong, ví dụ
nhƣ foot-feet, tooth-teeth, man-men, ... trong tiếng Anh; брать-взять,
класть-положить, садиться-сесть, ... trong tiếng Nga
3- phương thức thay từ căn, ví dụ nhƣ хороший – лучше, плохой –
хуже, ... trong tiếng Nga
4- phương thức trọng âm, ví dụ nhƣ письмо – письма , окно – о кно,
до м - дома , ...
5- phương thức lặp, ví dụ nhƣ nhà – nhà nhà, ngành – ngành ngành,
người – người người, ... biểu thị số nhiều
6- phương thức từ hư, ví dụ trong tiếng Nga và tiếng Việt, từ hư +
động từ biểu hiện ý nghĩa tƣơng lai: Я буду читать. – Tôi sẽ đọc.
7- phương thức trật tự từ, ví dụ: trong câu ―Anh yêu em‖, anh là chủ
ngữ còn em là bổ ngữ; khi trật tự từ trên bị thay đổi thành ―Em yêu anh‖ thì ý
nghĩa của câu khác đi và quan hệ ngữ pháp giữa từ anh và từ em cũng thay
đổi, từ em sẽ là chủ ngữ còn từ anh sẽ là bổ ngữ
8- phương thức ngữ điệu, ví dụ: lời nói trần thuật có ngữ điệu bình
thƣờng, lời hỏi có ngữ điệu cao ở cuối câu, lời cầu khiến với sắc thái khiến /
ra lệnh có ngữ điệu mạnh và dứt khóat, ...
Các phƣơng thức ngữ pháp trên đây có thể phân thành hai kiểu:
phương thức ngữ pháp bên trong từ (bao gồm phƣơng thức phụ tố, luân phiên
ngữ âm, thay từ căn, trọng âm, lặp) và các phương thức bên ngoài từ (phƣơng
thức sử dụng hƣ từ, trật tự từ, ngữ điệu). Kiểu thứ nhất gọi là tổng hợp tính,
kiểu thứ hai gọi là phân tích tính. Đây cũng chính là cơ sở để các nhà ngôn
ngữ học phân chia các ngôn ngữ trên thế giới thành hai loại là các ngôn ngữ
tổng hợp tính và các ngôn ngữ phân tích tính.
b. Các phương thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng
Việt và tiếng Nga
50
Ý nghĩa công cụ trong ngữ pháp gần nhƣ một phổ niệm ngôn ngữ gặp
trong hầu khắp mọi thứ tiếng. Nhƣng cách biểu hiện ý nghĩa công cụ trong
mỗi ngôn ngữ có thể khác nhau, do đặc điểm loại hình và cấu trúc ngữ pháp
cụ thể của chúng qui định.
Phƣơng thức phụ tố chủ yếu đƣợc sử dụng trong các ngôn ngữ có biến
đổi hình thái, mà tiếng Nga là điển hình. Trong tiếng Nga, hình thức thể hiện
ý nghĩa ngữ pháp công cụ và các quan hệ ngữ pháp là sự hợp dạng của danh
từ sang cách 5 (công cụ cách) mà không cần sử dụng giới từ; đƣợc thể hiện
chủ yếu trong lớp danh từ: Ví dụ:
(35) - Антонина Александровна производила обход торговок,
перекинув через плечо полотенце с таким видом, точно шла на
станционные задворки умыться снегом. [ДЖ: 129]
(36) - Tonia đi vòng một lượt đám phụ nữ bán hàng, chiếc khăn bông
vắt trên vai như thể nàng đi ra sân sau ga rửa mặt bằng tuyết. [BSZh: 186]
(37) - Она поглядела по бокам, удостоверилась, что опасность не
грозит ниоткуда, быстро подошла вплотную к Антонине
Александровне и, откинув попонку со своего товара, прошептала
горячей скороговоркой: ... [ДЖ: 129]
(38) - Bà ta nhìn thấy tấm khăn bông của Tonia thì mắt sáng lên dạn
dĩ. Bà ta nhìn quanh, biết chắc không có gì đe dọa nguy hiểm, bèn nhanh
chóng tiếp cận Tonia và mở món hàng của mình ra, thì thào với Tonia bằng
cái giọng liến thoắng rất hăng hái: ... [BSZh: 187]
Phƣơng thức hƣ từ đƣợc sử dụng rộng rãi ở rất nhiều loại hình ngôn
ngữ, trong đó có cả ngôn ngữ biến hình lẫn ngôn ngữ đơn lập. Trong các ngôn
ngữ có biến đổi hình thái, ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện thông qua các giới từ
(giới từ из, по, c, в, на, о, ... trong tiếng Nga; giới từ by, with trong tiếng Anh;
giới từ mit trong tiếng Đức, giới từ en, à trong tiếng Pháp, ... ):
51
- (39) Учитель пишет с мелом, а студент с ручкой. (Thầy giáo
viết bằng phấn, còn học sinh viết bằng bút)
- (40) Я еду в город Хошимин на поезде. (Tôi vào thành phố Hồ Chí
Minh bằng tàu hỏa.)
- (41) I go to work by bycicle. (Tôi đi làm bằng xe đạp.)
- (42) The streets are lighted by electricity. (Phố xá thắp sáng bằng điện.)
- (43) Je vais au bureau à moto. (Tôi đi làm bằng xe máy.)
- (44) Je vais au cinéma à vélo. (Tôi đi đến rạp chiếu phim bằng xe đạp.)
Trong các ngôn ngữ không biến đổi hình thái, ý nghĩa công cụ chủ yếu
đƣợc thể hiện bằng các hƣ từ nhƣ bằng (ăn bằng đũa, đi làm bằng xe đạp,
thái thịt bằng dao ...), qua (thông báo qua loa, làm việc qua zalo, hội đàm
qua phiên dịch, ...), nhờ (đi học nhờ xe buýt, qua sông nhờ đò, cây vững nhờ
giá đỡ, ...), dựa vào (sống dựa vào lương hưu, sống dựa vào con cái, trồng
lúa dựa vào nguồn nước, ...) ...trong tiếng Việt; hƣ từ đuội (bằng) (kin đuội
mạy thù – ăn bằng đũa, bay hết việc đuội lốt thíp – đi làm bằng xe đạp, xoi
xịn đuội mít - thái thịt bằng dao), phàn (qua) (hết việc phàn xừ xẳng khôm on
lai Zalo – làm việc qua zalo, phốp pạ chê lạ cha phàn phụ be – hội đàm qua
phiên dịch), ing xày (dựa vào) (đăm lông xi vít ing xày ngơn đươn – sống dựa
vào tiền lương hưu, xi vít ing xày lục – sống dựa vào con cái)… trong tiếng
Lào; hoặc thực từ có tiền giả định công cụ trong các động ngữ nhƣ ăn đũa, đi
nạng, bơm xe, bổ củi, cưa gỗ, đục tường, đẽo cày, lướt ván, trèo thang ...
trong tiếng Việt; kin mạy thù (ăn đũa), pay lốt chắc (đi xe máy), tắt phổm (cắt
tóc), xạng hươn (xây nhà), … trong tiếng Lào.
Phương thức trật tự từ biểu đạt ý nghĩa công cụ đƣợc sử dụng chủ yếu
trong ngôn ngữ đơn lập nhƣ tiếng Việt, tiếng Lào, tiếng Khmer, … mà rất
hiếm khi đƣợc sử dụng trong ngôn ngữ có biến đổi hình thái nhƣ tiếng Nga,
tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, … Trong tiếng Nga “trật tự từ trước hết có
52
vai trò về tu từ, chứ không phải về ngữ pháp” [10: 87], trái lại, trong tiếng
Việt, nếu ta thay đổi trật tự sắp xếp của các từ trong một câu thì trƣớc hết là ý
nghĩa ngữ pháp của các từ đó thay đổi; sau đó mới có thể là những chức năng
phong cách học, tu từ học nào đó.
Xét một số ví dụ sau:
- (45) (Cầu thủ số 10) đỡ bóng bằng ngực.
- (46) (Con tôi) cắt giấy bằng kéo.
- (47) (Hắn) giết người bằng dao.
- (48) (Cô ấy) viết báo cáo bằng máy tính bảng.
- (49) (Nó) che miệng bằng tay.
- (50) (Ông ta) tố cáo cấp trên bằng thư nặc danh.
Ý nghĩa công cụ trong các câu trên đƣợc thể hiện bằng phƣơng thức
sử dụng hƣ từ bằng kết hợp với các danh từ biểu đạt ý nghĩa công cụ để thực
hiện các hành động của vị từ. Các hƣ từ đó luôn đứng sau vị từ. Tuy nhiên,
nếu đảo danh từ mang ý nghĩa chỉ công cụ lên trƣớc vị từ và kết hợp với một
thực từ (chủ yếu là hai vị từ dùng và lấy) chúng ta sẽ tạo ra đƣợc một cấu trúc
câu mới vẫn mang ý nghĩa chỉ công cụ mà lại không cần sử dụng đến hƣ từ
bằng. Đó là:
- (45’) (Cầu thủ số 10) lấy ngực đỡ bóng.
- (46’) (Con tôi) dùng kéo cắt giấy.
- (47’) (Hắn) dùng dao giết người.
- (48’) (Cô ấy) sử dụng máy tính bảng viết báo cáo.
- (49’) (Nó) lấy tay che miệng.
- (50’) (Ông ta) dùng thư nặc danh tố cáo cấp trên.
Các câu (45), (46), (47), (48), (49), (50) và (45’), (46’), (47’), (48’),
(49’), (50’) có thể áp dụng để kiểm chứng lẫn nhau trong việc xác định ý
nghĩa công cụ trong câu. Chúng đều có giá trị về nghĩa và ngữ pháp, do đó có
53
thể khẳng định, việc thay đổi trật tự từ (bằng cách đảo vị từ trung tâm ra sau
danh từ chỉ công cụ và không cần sử dụng hƣ từ chỉ công cụ) là một phƣơng
thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt. Có thể, việc đảo này
chỉ áp dụng đƣợc cho nhóm những vị từ động có tiền giả định nét nghĩa đòi
hỏi công cụ mà hai vị từ dùng và lấy (trong tiếng Việt), sạy và au (trong tiếng
Lào); … là điển hình.
Có thể kết luận rằng, ý nghĩa ngữ pháp công cụ là một loại ý nghĩa
ngữ pháp của phạm trù ngữ pháp công cụ, biểu thị cách thức, phương thức,
phương tiện để thực hiện một hành động nào đó nhằm một mục đích nào đó
và được thể hiện chủ yếu bằng phương thức hư từ, phụ tố và trật tự từ.
Ý nghĩa công cụ trong khuôn khổ của phạm trù ngữ pháp có tính chất
công cụ là một phạm trù ngữ pháp của danh từ. Với ý nghĩa công cụ này,
phạm vi liên quan gắn với các phƣơng tiện hình thức nhiều hơn, có nghĩa là
nói đến ý nghĩa công cụ là nói về phƣơng diện biểu hiện, phƣơng diện hình
thức chứ không phải là phƣơng diện nội dung, phƣơng diện nghĩa. Điều này
hoàn toàn khác biệt với các khái niệm vai nghĩa công cụ, trạng ngữ công cụ
mà chúng tôi sẽ trình bày phía dƣới đây, đồng thời, đây cũng chính là đối
tƣợng nghiên cứu của luận án này.
Tóm lại, ý nghĩa ngữ pháp và phƣơng thức ngữ pháp có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau: chỉ có thể nói đến ý nghĩa ngữ pháp khi có các phƣơng thức
ngữ pháp, không có một loại ý nghĩa ngữ pháp nào mà không có phƣơng thức
thể hiện nó. Do vậy, có thể khẳng định, dấu hiệu nhận biệt một ý nghĩa ngữ
pháp là nó phải có các phƣơng thức thể hiện. Ý nghĩa ngữ pháp của một ngôn
ngữ này có thể đƣợc thể hiện bằng phƣơng thức này, nhƣng ý nghĩa ngữ pháp
đó trong một ngôn ngữ khác lại đƣợc thể hiện bằng các phƣơng thức khác. Sự
khác biệt về cách thể hiện ý nghĩa ngữ pháp (tức là phƣơng thức ngữ pháp) là
cơ sở quan trọng nhất để phân biệt loại hình ngôn ngữ. Loại hình ngôn ngữ
đƣợc coi là tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ khó khăn trong việc học
54
một ngoại ngữ: ngƣời học ngoại ngữ cùng loại hình với tiếng mẹ đẻ sẽ dễ hơn
so với ngoại ngữ khác loại hình.
1.2.5. Quan hệ giữa ý nghĩa công cụ và thành phần câu
Trong ngữ pháp cổ điển, do xem câu là đơn vị cấu trúc lớn nhất trong
tổ chức ngữ pháp của một ngôn ngữ nên việc nghiên cứu cấu trúc cú pháp của
câu trở thành trung tâm của ngữ pháp học. Các chức năng cú pháp của câu
đƣợc ngƣời ta gọi một cách đơn giản là thành phần câu. Đây là một vấn đề
lớn đƣợc nhiều nhà ngôn ngữ học đi sâu nghiên cứu. Mỗi nhà nghiên cứu đều
có cách kiến giải riêng về thành phần câu trên nhiều khía cạnh: quan niệm,
định nghĩa thành phần câu, tiêu chí xác định thành phần câu, số lƣợng các
thành phần câu, cƣơng vị cú pháp của các thành phần câu, ... Trong khuôn
khổ của luận án này, chúng tôi không có tham vọng giải quyết những vấn đề
này. Để giải quyết vấn đề của luận án, chúng tôi chỉ căn cứ vào một số tiêu
chí để xác định thành phần câu đã đƣợc thống nhất ở các nhà nghiên cứu, trên
cơ sở đó, mô tả một số thành phần câu nhƣ chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, đề
ngữ, là các thành phần câu có mối quan hệ với đối tƣợng khảo sát của luận án
là ý nghĩa ngữ pháp công cụ.
Về tiêu chí xác định thành phần câu, đa số các nhà nghiên cứu đều
thống nhất coi thành phần câu là một phạm trù ngữ pháp, do đó, việc xác định
thành phần câu phải dựa vào cả tiêu chí ngữ nghĩa lẫn tiêu chí hình thức. Tác
giả Bùi Minh Toán trong “Đại cương ngôn ngữ học, tập 2” cho rằng; “Như
thế các thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, ...
cũng đều là các phạm trù ngữ pháp. Mỗi phạm trù này cũng có thể chia ra
thành các phạm trù nhỏ hơn như bổ ngữ thì có bổ ngữ trực tiếp hay gián tiếp.
Điều quan trọng là dù ở mức cao hay thấp, rộng hay hẹp, mỗi phạm trù này
đều là sự thống nhất giữa ý nghĩa ngữ pháp và hình thức ngữ pháp. Từ đó,
điều cần chú ý trong nghiên cứu và học tập ngữ pháp là: việc phân xuất và
xác định các phạm trù ngữ pháp phải được tiến hành trên cơ sở thống nhất
giữa ý nghĩa ngữ pháp và hình thức biểu hiện nó”. [10: 14]
55
Về tiêu chí ngữ nghĩa, đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tiêu chí ngữ nghĩa để xác định thành phần câu là ý nghĩa ngữ pháp khái quát của các thành phần câu. Do đó, có thể khẳng định rằng ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ là một tiêu chí để có thể xác định đƣợc thành phần câu. Trong Việt ngữ học đã có những công trình bƣớc đầu nghiên cứu hoặc có nhắc đến vấn đề này nhƣ thành phần chủ ngữ công cụ (trong nghiên cứu của Lê Xuân Thại [74, 75], Đỗ Hồng Dƣơng [14], ...), trạng ngữ công cụ (trong nghiên cứu của Võ Huỳnh Mai [51, 52], Lakoff George [107],...), bổ ngữ công cụ (Nguyễn Thiện Giáp [22], ...), đề ngữ công cụ (trong nghiên cứu của Diệp Quang Ban [6], ...) Tiêu chí hình thức để nhận diện thành phần câu phức tạp hơn vì có nhiều ý kiến trái chiều. Tuy nhiên, các nhà ngôn ngữ học thƣờng dựa trên cơ sở các đặc điểm của loại hình ngôn ngữ để xác định chỉ dấu hình thức. Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập nên tiêu chí hình thức để xác định các thành phần câu mang ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ thƣờng là trật tự từ và hƣ từ. Tiếng Nga là loại hình ngôn ngữ có biến đổi hình thái nên tiêu chí hình thức để xác định là phụ tố và hƣ từ. Ngoài ra, vị trí của thành phần mang ý nghĩa công cụ so với vị từ trung tâm của câu cũng là một cơ sở để xác định các thành phần cú pháp trong câu. Các chƣơng tiếp theo sẽ cụ thể hóa hơn việc nhận diện các thành phần câu mang ý nghĩa công cụ dựa vào sự phối hợp giữa hai tiêu chí này.
Nhƣ vậy, nhiệm vụ trọng tâm của luận án này là nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ và các phương thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong hai ngôn ngữ Việt và Nga trên bình diện hình thái học. Tuy nhiên, trong hoạt động ngôn ngữ, dƣới góc độ nghiên cứu ngữ nghĩa và cú pháp hiện đại, ý nghĩa công cụ không chỉ đƣợc thể hiện bằng các ý nghĩa ngữ pháp công cụ và phƣơng tiện ngữ pháp tƣơng ứng. Vì thế, trong luận án này, ở một chừng mực nhất định và khi điều kiện cho phép, chúng tôi cũng sẽ đề cập đến những hình thức biểu thị ý nghĩa công cụ “một cách ngữ nghĩa học” và/hoặc “một cách cú pháp học”, bằng các biểu thức ngữ pháp nhƣ danh ngữ và giới ngữ.
56
TIỂU KẾT
Trong chƣơng I chúng tôi đã trình bày khái quát những vấn đề tổng
quan tình hình nghiên cứu ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga. Bên
cạnh đó, trên cơ sở học tập và kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi
trƣớc, chúng tôi đã cố gắng thống nhất lại và làm rõ thêm các khái niệm và
các lí luận có tính chất tiền đề cho luận án nhƣ: lí thuyết về ý nghĩa ngữ pháp,
phƣơng thức ngữ pháp, mối quan hệ giữa ý nghĩa ngữ pháp và vai nghĩa, sự
thể hiện ý nghĩa ngữ pháp trong câu, mối quan hệ giữa ý nghĩa công cụ và các
thành phần cú pháp trong câu, ...; phân biệt công cụ - dụng cụ - phương tiện
để từ đó sử dụng một thuật ngữ xuyên suốt cho cả luận án là công cụ.
Ý nghĩa công cụ là một phổ niệm. Đây là vấn đề đã đƣợc quan tâm từ
lâu với những mức độ khác nhau, tùy theo quan điểm nghiên cứu và mục đích
nghiên cứu mà tạo ra các công trình nghiên cứu khác nhau. Thực tiễn nghiên
cứu cho thấy việc nhận thức vấn đề nghiên cứu ý nghĩa công cụ của các tác
giả trong nƣớc và nƣớc ngoài không khác nhau nhiều, cách miêu tả khác nhau
không lớn. Điểm mạnh nhất, chung nhất là các tác giả và các công trình
nghiên cứu đều tập trung miêu tả ý nghĩa công cụ ở góc độ hình thái học để
thể hiện các quan hệ cú pháp nên những miêu tả về ý nghĩa công cụ và cách
công cụ trƣớc nay đều đƣợc phân tích và trình bày xuất phát từ quan điểm
hình thái – cú pháp. Đến giai đoạn gần đây, ý nghĩa cách đƣợc vận dụng vào
trong phân tích và giải thích các vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa của câu, tuy
nhiên việc phân tích vai nghĩa công cụ trong câu cũng vẫn đƣợc giải thích
thông qua các biểu hiện hình thái – cú pháp của các ngữ đoạn trong câu. Đây
chính là điểm mới thôi thúc chúng tôi tiến hành nghiên cứu vấn đề này.
Ý nghĩa ngữ pháp nói chung và ý nghĩa ngữ pháp công cụ nói riêng
luôn có các phƣơng tiện ngữ pháp thể hiện. Phƣơng tiện ngữ pháp thể hiện ý
nghĩa ngữ pháp có nhiều, nhƣng khái quát lên thành phƣơng thức ngữ pháp
thì không nhiều. Nhƣ vậy, ý nghĩa ngữ pháp không thể tách rời phƣơng thức
ngữ pháp. Ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga không phải đƣợc thể
57
hiện bằng tất cả các phƣơng thức ngữ pháp thƣờng thấy trong ngôn ngữ. Tuy
khác nhau về loại hình nhƣng giữa tiếng Việt và tiếng Nga lại có những
phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ giống nhau.
Tiếng Việt và tiếng Nga là những ngôn ngữ khác loại hình nên các
phƣơng thức ngữ pháp chủ yếu thể hiện ý nghĩa công cụ trong mỗi ngôn ngữ
cũng khác nhau. Trong tiếng Nga, để biểu đạt tính chất công cụ ngƣời ta sử
dụng phƣơng tiện hình thái học – đó là cách công cụ. Trong các ngôn ngữ
không có biến đổi cách nhƣ tiếng Việt, để thể hiện ý nghĩa công cụ ngƣời ta
sử dụng phƣơng thức hƣ từ và phƣơng thức trật tự từ.
Ý nghĩa ngữ pháp công cụ và vai nghĩa công cụ có mối quan hệ biện
chứng với nhau: ý nghĩa ngữ pháp công cụ mang tính hình thức còn vai nghĩa
công cụ là nội dung ngữ nghĩa. Việc nghiên cứu ý nghĩa ngữ pháp công cụ
không thể tách rời hoàn toàn với nghiên cứu vai nghĩa công cụ, tuy nhiên, đối
tƣợng nghiên cứu chính của luận án vẫn là mặt hình thức biểu hiện của ý
nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga.
Ý nghĩa ngữ pháp công cụ, xét ở bậc câu, có chức năng là một thành
phần cú pháp của câu. Ngoài những biểu hiện về mặt hình thái học, ý nghĩa
công cụ còn đƣợc thể hiện ra bằng các ngữ đoạn trong câu, đó có thể là các
danh ngữ hay giới ngữ. Các ngữ đoạn đó có thể đóng vai trò chủ ngữ, bổ ngữ,
trạng ngữ, đề ngữ. Trong câu, các thành phần mang ý nghĩa công cụ này đều
có các chỉ dấu đặc trƣng theo các đặc điểm loại hình của ngôn ngữ Việt hay
ngôn ngữ Nga. Các chỉ dấu này sẽ đƣợc mô tả kĩ hơn trong các chƣơng tiếp theo.
Về mặt phƣơng pháp nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp mô
tả ngôn ngữ học là chính. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sẽ sử dụng thêm
phƣơng pháp so sánh để làm nổi bật những điểm giống và khác trong cách
thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga. Tuy nhiên,
những so sánh ấy không thực hiện theo cách thức và phƣơng pháp của ngôn
ngữ học đối chiếu vì luận án này, ngay từ đầu không đặt vấn đề thực hiện
nhiệm vụ đối chiếu ngôn ngữ.
58
CHƢƠNG 2
CÁC PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý NGHĨA NGỮ PHÁP CÔNG CỤ
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA
Các phạm trù ngữ pháp giống, cách, ngôi, thời, thức, dạng vốn đƣợc
phát hiện và nghiên cứu trên ngữ liệu các ngôn ngữ Ấn – Âu; còn tiếng Việt –
một ngôn ngữ khác hẳn các ngôn ngữ Ấn – Âu về nguồn gốc cũng nhƣ loại
hình, không có các phạm trù ấy. Chính vì vậy, theo cách hiểu về ý nghĩa công
cụ đã trình bày ở trên, chúng tôi sẽ tìm hiểu, khảo sát, nhận diện ý “nghĩa ngữ
pháp công cụ” trong tiếng Việt và tiếng Nga là gì và đƣợc thể hiện bằng
những phƣơng thức, phƣơng tiện nào.
Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, trong hoạt động ngôn
ngữ, từ không biến đổi hình thái. Hình thái của từ tự nó không chỉ ra mối
quan hệ giữa các từ ở trong câu, không chỉ ra chức năng cú pháp của các từ.
Qua hình thái, tất cả các từ dƣờng nhƣ không có quan hệ với nhau, chúng
thƣờng đứng ở trong câu tƣơng tự nhƣ đứng biệt lập một mình. Quan hệ ngữ
pháp và ý nghĩa ngữ pháp của tiếng Việt đƣợc biểu thị chủ yếu bằng phƣơng
thức sử dụng hƣ từ và một vài phƣơng thức từ vựng khác đƣợc ngữ pháp hóa
với những mức độ khác nhau. Ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt cũng không
phải là trƣờng hợp ngoại lệ.
2.1. Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong
tiếng Việt
2.1.1. Phương thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng hư từ
“Hư từ là một lớp từ làm phương tiện biểu hiện các quan hệ ngữ pháp
– ngữ nghĩa khác nhau giữa các thực từ” [62: 7]. Hƣ từ không có ý nghĩa từ
vựng, nó chỉ có tác dụng gắn kết các đơn vị tham gia cấu tạo câu với các quan
hệ ngữ nghĩa – ngữ pháp khác nhau. Trong tiếng Việt, để thể hiện ý nghĩa ngữ
pháp công cụ, ngƣời ta thƣờng sử dụng các hƣ từ bằng, với, cùng, nhờ, nhờ
59
vào, qua, bởi, dựa vào, thông qua, …, trong đó, hƣ từ bằng đƣợc sử dụng với
tần suất cao nhất, là dấu hiệu hình thức đáng tin cậy nhất của ý nghĩa ngữ
pháp công cụ.
2.1.1.1. Hư từ “bằng”
Trong “Cách dùng hư từ tiếng Việt”, Hoàng Trọng Phiến đã liệt kê 10
trƣờng hợp sử dụng đối với hƣ từ bằng, ví dụ nhƣ: biểu hiện ý nghĩa chất liệu
trong danh ngữ; biểu hiện ý nghĩa phƣơng tiện của hành động, di chuyển; biểu
hiện ý nghĩa cách thức; biểu hiện ý nghĩa so sánh; ... [62: 25 - 28]. Tuy nhiên,
chúng tôi thấy cần phải làm rõ hơn, nổi bật hơn biểu hiện ý nghĩa công cụ của
hành động đối với hƣ từ bằng.
Xét các ví dụ sau:
- (52) Dế Choắt trả lời tôi bằng một giọng rất buồn rầu: ... [DMPLK: 5]
- (53) Thằng Dần lần thần đứng bên cạnh mẹ hau háu nhìn những tia
sữa bằng hai con mắt tiếc rẻ ngậm ngùi. [TĐ-NTT: 46]
- (54) Và tức khắc nó vặn vẹo mình và rít lên một tiếng ngắn và to;
đứa em tưởng anh đá hụt trả thù cho anh bằng một cái đá mạnh vào sườn
con vật. [NC: 20]
- (55) Con Tớp cũng lăn lộn theo đến gần, nhưng chân bị trói không
đi được vậy mà nó mặc kệ, nó cố lê bằng bụng để được đến gần chỗ la liếm
cho thỏa dục tình, rồi nó rít lên mấy tiếng đắc thắng! [NCH: 15]
- (56) Bằng một giọng cũng thản nhiên như thế, Samdeviatov trả lời
[BSZh: 219]
- (57) Ấy đó, đổi lại bao nhiêu điều thiện xưa kia ông trời cay nghiệt
nay đều trả bà bằng hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm chờ cực kỳ
khổ sở. [VTP: 24]
Trên bình diện nghĩa, hƣ từ bằng là một chỉ dấu đảm bảo cho ý nghĩa
công cụ đƣợc trọn vẹn khi diễn đạt đƣợc các yếu tố công cụ (một giọng rất
buồn rầu, hai con mắt tiếc rẻ ngậm ngùi, một cái đá mạnh vào sườn con vật,
60
bụng, giọng, hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm chờ cực kỳ khổ sở ),
chủ thể ( Dế Choắt, Thằng Dần, đứa em, Con Tớp, Hai Xuân, Samdeviatov,
ông trời) và hoạt động (trả lời, nhìn, trả thù, lê, trả lời, trả). Chủ thể hoạt
động ở đây có thể hiện hữu hoặc không hiện hữu trong cấu trúc câu chủ động,
câu bị động, cấu trúc câu vô nhân xƣng; có thể là một cá nhân cụ thể, một
thực thể trừu tƣợng hoặc một sự vật tĩnh, một khái niệm, một hành động.
Công cụ ở đây có thể là một sự vật cụ thể, có thể là một khái niệm trừu tƣợng,
có thể là một bộ phận cơ thể ngƣời; đƣợc thể hiện ra với tƣ cách là một danh
từ hoặc ngữ danh từ. Về mặt chức năng trong câu, các thành phần mang ý
nghĩa công cụ có thể ở các vị trí khác nhau và đƣợc hiện thực hóa thành các
thành phần ngữ pháp khác nhau nhƣ bổ ngữ, chủ ngữ, trạng ngữ. Thông
thƣờng, khi đóng vai trò là bổ ngữ trong câu, thành phần mang nghĩa công cụ
có vị trí tƣơng đối ổn định – vị trí sau vị từ nhƣ trong (51), (52), (53), (54),
(55), (57). Với vai trò là trạng ngữ, thành phần mang nghĩa công cụ có thể
đứng ở đầu câu nhƣ (56) hoặc cuối câu nhƣ (51), (52), (53), (57). Có thể nói
rằng, ý nghĩa ngữ pháp công cụ thể hiện qua việc sử dụng hƣ từ bằng là một
phƣơng thức đặc trƣng nhất về mặt hình thức, rõ nghĩa nhất về mặt nội dung
biểu hiện và cũng đƣợc sử dụng với tần số cao nhất. Ý nghĩa công cụ thể hiện
qua các hƣ tƣ khác có thể đƣợc kiểm định ngƣợc thông qua hƣ từ bằng.
2.1.1.2. Hư từ “qua, thông qua”
Xét các ví dụ sau:
- (58) Với chúng tôi, đại vương hay là cái gì thì cũng chẳng bận tâm, qua
câu chuyện tôi chỉ có nhận xét tính lão cũng hệt bọn đồ cóc đã dốt lại còn hay
khoe chữ, còn cái tính khoác lác của ếch thì một tấc đến trời, hơn Cóc nhiều.
[DMPLK: 37]
- (59) Khói đậm đà như vị mật, thấm qua lưỡi để pha vào với máu, lan đi
từng thớ thịt, làm da thịt đê mê. [NC: 96]
61
- (60) Thì ra ai muốn chiếm được cái gì, cũng phải qua một kỳ thi.
[NCH: 17]
- (61) Giọng lơi là của bác cai ... và nó vụt nhớ đến cô Viên, một hôm xưa
... cái cảnh nó đã nhìn trộm thấy qua cái “lỗ ống nhòm” của Lộc! [NC: 332]
- (62) Qua những lá thư từ Sibiri gửi về, Lara được biết khá rõ về
chồng. [BSZh: 95]
- (63) Cô thứ hai mặc áo sơ mi lụa đen, chắc chắn bị bệnh đau ngực,
và hầu như lúc nào cũng áp chiếc khăn tay vào miệng và mũi, nói và thở đều
qua chiếc khăn. [BSZh: 248]
- (64) Khối liên minh ấy giữa dân nghèo thành thị và nông thôn chỉ có
thể thực hiện được thông qua các Xô viết. [BSZh: 273]
- (65) Về chiến công và cái chết anh dũng của cô ấy, mình cũng chỉ
biết như tất cả mọi người, qua báo chí và lệnh của trung đoàn. [BSZh: 432]
Qua là “kết từ biểu thị sự vật, sự việc sắp nêu ra là môi giới, phương
tiện của hoạt động được nói đến” [60: 768], còn thông qua là “nhờ vào, dựa
vào làm trung gian để thực hiện một công việc nào đó, trong khi không thể
trực tiếp” [60: 919]. Cả qua và thông qua, xét về bản chất, đều là những thực
từ. Tuy nhiên, khi bị chuyển hóa thành hƣ từ, cả hai đều có điểm chung là
tham gia kiến tạo quan hệ ngữ pháp giữa vị từ với danh từ (hoặc danh ngữ),
tạo ra một quan hệ về ngữ nghĩa, cụ thể là nghĩa chỉ công cụ thực hiện một
hành động hoặc đảm bảo cho một hành động nào đó có thể hoàn thành, có thể
thực hiện đƣợc. Tuy mức độ sử dụng với ý nghĩa chỉ công cụ không đƣợc cao
nhƣng hƣ từ qua và thông qua cũng có những nghĩa biểu hiện, cách thức thể
hiện, vị trí trong câu, chức năng trong câu... tƣơng tự nhƣ hƣ từ bằng đã đƣợc
mô tả ở phần trên. Để kiểm tra tính chính xác trong cách thức sử dụng hƣ từ
qua và thông qua thể hiện ý nghĩa công cụ, chúng tôi sử dụng thủ pháp thay
thế trong ngôn ngữ học.
62
- (58’) Với chúng tôi, đại vương hay là cái gì thì cũng chẳng bận tâm, bằng
câu chuyện tôi chỉ có nhận xét tính lão cũng hệt bọn đồ cóc đã dốt lại còn hay khoe
chữ, còn cái tính khoác lác của ếch thì một tấc đến trời, hơn Cóc nhiều. (-)
- (59’) Khói đậm đà như vị mật, thấm bằng lưỡi để pha vào với máu, lan
đi từng thớ thịt, làm da thịt đê mê. (+)
- (60’) Thì ra ai muốn chiếm được cái gì, cũng phải bằng một kỳ thi. (-)
- (61’) Giọng lơi là của bác cai ... và nó vụt nhớ đến cô Viên, một hôm
xưa ... cái cảnh nó đã nhìn trộm thấy bằng cái “lỗ ống nhòm” của Lộc! (+)
- (62’) Bằng những lá thư từ Sibiri gửi về, Lara được biết khá rõ về
chồng. (+)
- (63’) Cô thứ hai mặc áo sơ mi lụa đen, chắc chắn bị bệnh đau ngực,
và hầu như lúc nào cũng áp chiếc khăn tay vào miệng và mũi, nói và thở đều
bằng chiếc khăn. (+)
- (64’) Khối liên minh ấy giữa dân nghèo thành thị và nông thôn chỉ
có thể thực hiện được bằng các Xô viết. (+)
- (65’) Về chiến công và cái chết anh dũng của cô ấy, mình cũng chỉ
biết như tất cả mọi người, bằng báo chí và lệnh của trung đoàn. (+)
Trong các bối cảnh khác nhau không phải lúc nào hƣ từ bằng cũng có
thể thay thế đƣợc cho hƣ từ qua và thông qua vì về mặt nội dung biểu đạt thì
ý nghĩa công cụ có thể bị mất ít, mất nhiều nhƣng về hình thức biểu đạt thì có
nhiều trƣờng hợp không thể thay thế cho nhau đƣợc nhƣ trong (58’) và (60’),
thậm chí (65’) cũng chỉ là tạm chấp nhận đƣợc. Tuy nhiên, nếu chúng ta sử
dụng hƣ từ nhờ (cũng là một trong những hƣ từ đƣợc dùng để chỉ ý nghĩa
công cụ trong tiếng Việt, đƣợc chúng tôi khảo sát phía dƣới) để thay thế trong
các trƣờng hợp này thì vẫn đảm bảo giữ đƣợc các nét nghĩa.
- (58’’) Với chúng tôi, đại vương hay là cái gì thì cũng chẳng bận
tâm, nhờ câu chuyện tôi chỉ có nhận xét tính lão cũng hệt bọn đồ cóc đã dốt
63
lại còn hay khoe chữ, còn cái tính khoác lác của ếch thì một tấc đến trời, hơn
Cóc nhiều. (+)
- (60’’) Thì ra ai muốn chiếm được cái gì, cũng phải nhờ một kỳ thi. (+)
- (65’’) Về chiến công và cái chết anh dũng của cô ấy, mình cũng chỉ
biết như tất cả mọi người, nhờ báo chí và lệnh của trung đoàn. (+)
Nhƣ vậy, trong nhiều trƣờng hợp nó qua và thông qua không hoàn
toàn đồng nhất và thay thế đƣợc bằng hƣ từ bằng, tuy nhiên nó cũng có những
nét nghĩa chỉ công cụ giống nhƣ một số hƣ từ chỉ công cụ khác trong tiếng
Việt nên có thể coi qua và thông qua là một phƣơng tiện chỉ dấu khác thể hiện
ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt.
2.1.1.3. Hư từ “với”
- (66) Chưa nghe hết câu tôi đã hếch răng, xì một hơi rõ dài rồi, với
điệu bộ khinh khỉnh, tôi mắng: ... [DMPLK: 6]
- (67) Buổi tối, vẫn được lên giàn mồng tơi, nhưng phải nằm trong
lồng không cho ai nghênh ngáo ngoài trời như mọi khi - dù là nghênh ngáo
với sợi chỉ buộc vào bẹn. [DMPLK: 17]
- (68) Nó cứ việc ăn cơm nhạt hoặc chan với cái thứ mắm tép mặn
hơn cá muối, mà cả nhà phải ăn quanh năm, suốt tháng. [NC: 181]
- (69) Thằng Cún tập tênh với cái gậy, mồm ngồm ngoàm mẩu bánh
Tây bố thí. [NCH: 93]
- (70) Phải, với thịt giang mà Mai làm được món ăn ngon, thì thuyền
quyên ấy mới sánh được vai anh hùng này. [NCH: 119]
- (71) Thoạt đầu, với hai bàn tay không, giữa trời băng giá, bọn mình
phải bẻ cành cây làm lều. [BSZh: 433]
- (72) Cái diện mạo hàng ngày, bình thường ấy của nàng với mái tóc
xõa, tay áo xắn cao và gấu váy vén lên, gần như có sức quyến rũ, lôi cuốn
khiến chàng còn nể sợ hơn cả khi giả sử chàng bắt gặp nàng chuẩn bị đi dự
64
vũ hội, với bộ áo dài hở cổ hở vai, với đôi giày cao gót khiến nàng cao lên
hơn, và với cái váy rộng lòe xòe quét đất. [BSZh: 349]
Hƣ từ với cũng đƣợc biến đổi từ thực từ. Nó “biểu thị điều sắp nêu ra
là điều kiện hay phương thức của hoạt động được nói đến” [60: 1089]. Hƣ từ
với “làm chức năng trạng ngữ chỉ phương thức, mức độ của hành động,
tương đương với bằng” [62: 287]. Trên thực tế, hƣ từ với thƣờng đƣợc dùng
với nghĩa liên hợp giữa hai chủ thể, sự vật, hiện tƣợng có quan hệ qua lại,
cùng hành động chung, tuy nhiên, ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt thể hiện
qua hƣ từ với cũng đƣợc sử dụng khá phổ biến nhƣ các ví dụ đã dẫn ở trên.
Dùng hƣ từ bằng thay thế kiểm định, chúng tôi thu đƣợc các kết quả là:
- (66’) Chưa nghe hết câu tôi đã hếch răng, xì một hơi rõ dài rồi,
bằng điệu bộ khinh khỉnh, tôi mắng: ... (+)
- (67’) Buổi tối, vẫn được lên giàn mồng tơi, nhưng phải nằm trong
lồng không cho ai nghênh ngáo ngoài trời như mọi khi - dù là nghênh ngáo
bằng sợi chỉ buộc vào bẹn. (-)
- (68’) Nó cứ việc ăn cơm nhạt hoặc chan bằng cái thứ mắm tép mặn
hơn cá muối, mà cả nhà phải ăn quanh năm, suốt tháng. (+)
- (69’) Thằng Cún tập tênh bằng cái gậy, mồm ngồm ngoàm mẩu
bánh Tây bố thí. (+)
- (70’) Phải, bằng thịt giang mà Mai làm được món ăn ngon, thì
thuyền quyên ấy mới sánh được vai anh hùng này. (-)
- (71’) Thoạt đầu, bằng hai bàn tay không, giữa trời băng giá, bọn
mình phải bẻ cành cây làm lều. (+)
- (72’) Cái diện mạo hàng ngày, bình thường ấy của nàng với mái tóc
xoã, tay áo xắn cao và gấu váy vén lên, gần như có sức quyến rũ, lôi cuốn
khiến chàng còn nể sợ hơn cả khi giả sử chàng bắt gặp nàng chuẩn bị đi dự
vũ hội, bằng bộ áo dài hở cổ hở vai, bằng đôi giày cao gót khiến nàng cao
lên hơn, và bằng cái váy rộng lòe xòe quét đất. (-)
65
Nhƣ vậy, trong nhiều trƣờng hợp, hƣ từ với và hƣ từ bằng có thể đƣợc
dùng để thay thế cho nhau trong việc thể hiện ý nghĩa công cụ nhƣ (66’),
(68’), (69’), (71’). Trong các trƣờng hợp còn lại, nếu thay thế hƣ từ với bằng
một số hƣ từ có nghĩa chỉ công cụ khác thì vẫn bảo toàn đƣợc ý nghĩa công cụ
hành động trong câu, ví dụ nhƣ:
- (67”) Buổi tối, vẫn được lên giàn mồng tơi, nhưng phải nằm trong
lồng không cho ai nghênh ngáo ngoài trời như mọi khi - dù là nghênh ngáo
trong sợi chỉ buộc vào bẹn.(+)
- (70”) Phải, nhờ thịt giang mà Mai làm được món ăn ngon, thì
thuyền quyên ấy mới sánh được vai anh hùng này. (+)
- (72”) Cái diện mạo hàng ngày, bình thường ấy của nàng với mái tóc
xoã, tay áo xắn cao và gấu váy vén lên, gần như có sức quyến rũ, lôi cuốn
khiến chàng còn nể sợ hơn cả khi giả sử chàng bắt gặp nàng chuẩn bị đi dự
vũ hội, trong bộ áo dài hở cổ hở vai, trên đôi giày cao gót khiến nàng cao lên
hơn, và bằng cái váy rộng lòe xòe quét đất. (+)
Thông qua thủ pháp thay thế, nghĩa trong câu đảm bảo không thay đổi
nên có thể kết luận rằng hƣ từ với cũng là một phƣơng tiện chỉ dấu thể hiện ý
nghĩa công cụ trong tiếng Việt.
2.1.1.4. Hư từ “nhờ (vào)”
- (73) Chỉ nói một cái nhờ nó mà Điền đọc nổi văn thơ, và nhờ văn
thơ mà hiểu được cái đẹp của gió, của giăng. [NC: 86]
- (74) Vì nhờ có đôi giầy cao gót, bà hãy còn đủ cả đằng trước lẫn
đằng sau. [NCH: 21]
- (75) Nhờ có quan đám ma thêm vẻ long trọng. [NCH: 157]
- (76) Cộng thêm dân làng huyện, báo mình nhờ cái tin vặt này, phải
tăng lên vài trăm độc giả. [VTP: 42]
- (77) ... thì thằng anh nhìn thấy cái bộ răng vàng nằm dưới gậm
giường nhờ ánh sáng đèn chiếu ra lóng lánh. [VTP: 71]
66
- (78) Nhờ sức che chở của chiếc nón rách, chị chỉ bước rảo một thôi
thì tới cổng. [TĐ-NTT: 25]
- (79) Nhờ có chậu nước lạnh của chị Dậu rửa mặt cho chồng và
chậu nước đái của bà con hàng xóm đổ vào miệng, xoa vào đầu, mặt anh
ta, máu lại xuôi xuống dần dần, cho nên anh ấy lại tỉnh. [TĐ: 78]
Hƣ từ nhờ (vào) biểu thị nghĩa công cụ mang tính chất là “nguyên
nhân dẫn đến những kết quả tốt đẹp, khả quan” [60: 701]. Hƣ từ nhờ (vào)
mang ý nghĩa chỉ nguyên nhân nhiều hơn là nghĩa chỉ công cụ, tuy nhiên,
trong tiếng Việt, ý nghĩa công cụ thể hiện qua hƣ từ nhờ (vào) vẫn đƣợc sử
dụng với tƣ cách là một phƣơng tiện ngữ pháp thể hiện một quan hệ về nghĩa
trong câu. Nhờ thƣờng đứng ở đầu phần câu chỉ nguyên nhân mang đến một
kết quả thuận lợi, may mắn. Nhờ còn có thể kết hợp với một số hƣ từ khác
nhƣ: nhờ có, nhờ bởi, nhờ do, nhờ ở, nhờ tại. Tiến hành kiểm định thay thế,
chúng tôi có:
- (73’) Chỉ nói một cái nhờ nó mà Điền đọc nổi văn thơ, và qua văn
thơ mà hiểu được cái đẹp của gió, của giăng. (+)
- (74’) Vì với đôi giầy cao gót, bà hãy còn đủ cả đằng trước lẫn đằng
sau. (+)
- (75’) Dựa vào quan đám ma thêm vẻ long trọng. (+)
- (76’) Cộng thêm dân làng huyện, báo mình với cái tin vặt này, phải
tăng lên vài trăm độc giả. (+)
- (77’) ... thì thằng anh nhìn thấy cái bộ răng vàng nằm dưới gậm
giường qua ánh sáng đèn chiếu ra lóng lánh. (+)
- (78’) Với sức che chở của chiếc nón rách, chị chỉ bước rảo một thôi
thì tới cổng. (+)
- (79’) Với chậu nước lạnh của chị Dậu rửa mặt cho chồng và chậu
nước đái của bà con hàng xóm đổ vào miệng, xoa vào đầu, mặt anh ta, máu
lại xuôi xuống dần dần, cho nên anh ấy lại tỉnh. (+)
67
Các cách diễn đạt trên có thể chấp nhận đƣợc trong tiếng Việt, vì vậy,
có thể kết luận rằng, hƣ từ nhờ (vào) có cách sử dụng và ý nghĩa tƣơng tự nhƣ
hƣ từ với, qua trong việc thể hiện ý nghĩa công cụ. Tất nhiên, không phải
trong trƣờng hợp nào các hƣ từ này cũng có thể thay thế đƣợc cho nhau,
nhƣng cũng có thể coi hƣ từ nhờ (vào) là một phƣơng tiện chỉ dấu thể hiện ý
nghĩa công cụ trong tiếng Việt.
2.1.1.5. Hư từ “dựa (vào, theo), căn cứ (vào, theo)”
- (80) Vợ ngụy binh, chị nào được chồng khéo xoay thì sống dựa vào
chồng, chị nào phải chồng vụng xoay thì vừa sống dựa vào chồng vừa sống
dựa vào các thứ Tây trắng, Tây đen hay ngụy binh không phải là chồng.
[NC: 766]
- (81) Anh nói chuyện đây là dựa vào khoa học chứ không nói hồ đồ,
vu vơ gì. [VTP: 80]
- (82) Một nửa tỉnh này phải sống dựa vào tôi. [BSZh: 223]
Ý nghĩa công cụ thông qua hƣ từ dựa vào mang tính chất là căn cứ, là
cơ sở, là chỗ dựa, là điểm tựa để thực hiện hay hoàn thành một hành động nào
đó. Nói cách khác, dựa vào có nghĩa là “nhờ vào ai hoặc nhờ vào cái gì để có
được sức mạnh, để hoạt động có hiệu lực” [60: 262]. Dựa vào cũng có xuất
phát điểm là một thực từ, đƣợc chuyển hóa thành hƣ từ. Ý nghĩa công cụ ở
đây thƣờng là một cá nhân hay tổ chức, một sức mạnh vô hình có khả năng
làm thay đổi trạng thái của một sự vật, sự việc hay hiện tƣợng trong thế giới
khách quan. Trong nhiều trƣờng hợp, hƣ từ dựa vào có thể đƣợc thay thế bằng
hƣ từ dựa theo hoặc căn cứ vào, căn cứ theo:
- (81”) Anh nói chuyện đây là căn cứ vào (căn cứ theo) khoa học chứ
không nói hồ đồ, vu vơ gì.
Sử dụng thủ pháp thay thế bằng cách sử dụng hƣ từ mang ý nghĩa
công cụ nhờ hoặc nhờ vào nhƣ đã chứng minh ở trên, chúng tôi thu đƣợc các
kết quả nhƣ sau:
68
- (80’) Vợ ngụy binh, chị nào được chồng khéo xoay thì sống nhờ vào
chồng, chị nào phải chồng vụng xoay thì vừa sống nhờ vào chồng vừa sống nhờ
vào các thứ Tây trắng, Tây đen hay ngụy binh không phải là chồng. (+)
- (81’) Anh nói chuyện đây là nhờ vào khoa học chứ không nói hồ đồ,
vu vơ gì. (+)
- (82’) Một nửa tỉnh này phải sống nhờ vào tôi. (+)
Nhƣ vậy, dựa vào, dựa theo, căn cứ vào, căn cứ theo cũng là những
phƣơng tiện chỉ dấu thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt.
2.1.1.6. Hư từ “bởi, vì”
- (83) Bởi có mưa, đất lầy nhuyễn ra, dễ đào bới, mới được cái ăn.
[DMPLK: 34]
- (84) Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo
cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười. [NC:26]
- (85) Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một tay “đàn bà”. [CP-
NC: 41]
- (86) Và sáng hôm sau, khi đồng hồ đánh năm giờ, người ta cũng giở
mắt ra bởi thói quen, nhưng không thèm dậy vội. [NC: 152]
- (87) ... hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến
bởi lòng tự ái. [NC: 407]
- (88) Điền biết gã nhận ra mình bởi cái mũ cà tàng và cái áo the
sờn, nên cứng cỏi nói bằng tiếng Pháp. [NC: 442]
- (89) Ai cũng như nấy, khuỷu tay gô vào chấn song bởi một sợi dây
thừng kếch xù. [TĐ-NTT: 38]
- (90) Hắn không chết vì dao, vì mác, hắn không chết rũ tù, hắn không
chết trên máy chém như những người tin quả báo thầm mong đợi. [NC: 258]
- (91) Toàn bộ phần trên ngôi nhà được bao quanh bởi các cột đỡ
hình phụ nữ trong thần thoại, to gấp rưỡi người thật. [BSZh: 252]
69
Bởi, vì là kết từ “biểu thị điều sắp nêu ra là người hoặc vật gây ra
trạng thái đã nói đến” [60: 83]. Ý nghĩa công cụ ở đây mang tính nguyên
nhân tạo nên hành động, sự việc. Ý nghĩa công cụ mờ hơn ý nghĩa nguyên
nhân, tuy nhiên, với các danh từ mưa, cái cười, một tay ―đàn bà‖, thói quen,
lòng tự ái, cái mũ cà tàng và cái áo the sờn, một sợi dây thừng kếch xù, dao,
mác, các cột đỡ hình phụ nữ trong thần thoại chúng ta không thể không kết
luận rằng, hƣ từ bởi là một trong những phƣơng tiện tạo lập ý nghĩa công cụ
trong tiếng Việt. Để kiểm chứng, chúng tôi vẫn tiếp tục sử dụng thủ pháp thay
thế với hƣ từ bằng, nhờ, qua:
- (83’) Nhờ có mưa, đất lầy nhuyễn ra, dễ đào bới, mới được cái ăn. (+)
- (84’) Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo
cụ hơn người cũng chỉ bằng cái cười. (+)
- (85’) Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bằng một tay “đàn bà”. (+)
- (86’) Và sáng hôm sau, khi đồng hồ đánh năm giờ, người ta cũng giở
mắt ra nhờ thói quen, nhưng không thèm dậy vội. (+)
- (87’) ... hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến
bằng lòng tự ái. (+)
- (88’) Điền biết gã nhận ra mình nhờ (qua) cái mũ cà tàng và cái áo
the sờn, nên cứng cỏi nói bằng tiếng Pháp. (+)
- (89’) Ai cũng như nấy, khuỷu tay gô vào chấn song bằng một sợi dây
thừng kếch xù. (+)
- (90’) Hắn không chết bằng dao, bằng mác, hắn không chết rũ tù,
hắn không chết trên máy chém như những người tin quả báo thầm mong đợi. (+)
- (91’) Toàn bộ phần trên ngôi nhà được bao quanh bằng các cột đỡ
hình phụ nữ trong thần thoại, to gấp rưỡi người thật. (+)
Sự thay thế đƣợc lẫn nhau giữa các hƣ từ bằng, nhờ, qua và bởi, vì
trong các tình huống trên, có vẻ nhƣ, chiếm tỉ lệ tƣơng đối lớn. Điều này là cơ
70
sở để có thể đƣa ra nhận định rằng hƣ từ bởi cũng là một phƣơng tiện ngữ
pháp quan trọng góp phần làm phong phú thêm cho phƣơng thức ngữ pháp sử
dụng hƣ từ để biểu đạt một ý nghĩa ngữ pháp trong tiếng Việt, ở đây là ý
nghĩa công cụ. Một điểm đáng quan tâm nữa là hƣ từ bởi, vì thƣờng đƣợc sử
dụng làm phƣơng tiện thể hiện ý nghĩa công cụ trong các kết cấu bị động, ít
khi dùng trong các kết cấu chủ động.
2.1.1.7. Hư từ “trên, trong”
- (92) Chuồn chuồn ớt rực rỡ trong bộ áo quần đỏ chót giữa ngày hè
chói lọi, đi đằng xa đã thấy. [DMPLK: 41]
- (93) Hắn không chết vì dao, vì mác, hắn không chết rũ tù, hắn không
chết trên máy chém như những người tin quả báo thầm mong đợi. [NC: 258]
- (94) Những bà áo màu sặc sỡ tung tảy trên những gót chân thoăn
thoắt, những tiếng nói như chim líu ríu ... phải, người ta vui vẻ lắm. [NC: 400]
- (95) Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. [NC: 407]
- (96) Con Pú mải mốt cầm dao đi chặt lá chuối về che lán. Em vẫn
địu trên lưng. [NC: 685]
- (97) Nay mai những cái họ mang nặng trên vai sẽ nổ tung. [NC: 743]
- (98) Lão cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu. [NC: 205]
Thông thƣờng, hƣ từ trên, trong mang ý nghĩa chỉ địa điểm hoặc
phƣơng hƣớng nhiều hơn. Tuy nhiên, khi trên, trong kết hợp với các danh từ
mang tính chất công cụ, đặc biệt là đối với các phƣơng tiện đi lại, phƣơng tiện
vận chuyển, phƣơng tiện nâng đỡ, phƣơng tiện mang xách vác thì ý nghĩa
công cụ hiện lên rất rõ. Chúng tôi thay hƣ từ bằng, qua, nhờ, với để kiểm định
và thu đƣợc các kết quả sau:
- (92’) Chuồn chuồn ớt rực rỡ với (nhờ) bộ áo quần đỏ chót giữa
ngày hè chói lọi, đi đằng xa đã thấy. (+)
71
- (93’) Hắn không chết vì dao, vì mác, hắn không chết rũ tù, hắn
không chết bằng máy chém như những người tin quả báo thầm mong đợi. (+)
- (94’) Những bà áo màu sặc sỡ tung tảy nhờ những gót chân thoăn
thoắt, những tiếng nói như chim líu ríu ... phải, người ta vui vẻ lắm. (+)
- (95’) Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác bằng (nhờ) đôi vai
mình. (+)
- (96’) Con Pú mải mốt cầm dao đi chặt lá chuối về che lán. Em vẫn
địu bằng lưng. (+)
- (97’) Nay mai những cái họ mang nặng bằng vai sẽ nổ tung. (+)
- (98’) Lão cho nó ăn cơm với một cái bát như một nhà giàu. (+)
Nhờ có lưng, bộ áo quần đỏ chót, máy chém, những gót chân thoăn
thoắt, đôi vai, lưng, vai, một cái bát mà các chủ thể hành động mới có thể
đội, chết, tung tảy, giúp, cõng, địu, mang, cho ăn đƣợc. Nên chúng tôi có thể
kết luận rằng, hƣ từ trên, trong cũng đƣợc coi là một phƣơng tiện thể hiện ý
nghĩa chỉ công cụ trong tiếng Việt.
Nhƣ vậy, thông qua các ví dụ trên, cùng với thủ pháp thay thế trong
ngôn ngữ học, chúng tôi thấy, một số hƣ từ đƣợc liệt kê có biểu thị ý nghĩa
chỉ công cụ, làm dấu cho các quan hệ ngữ pháp của các thực từ ở trong câu.
Tùy vào sự sắp xếp trật tự trƣớc sau theo bản chất hình tuyến của ngôn ngữ,
tùy thuộc vào từng vai trò thông báo trong từng hoàn cảnh giao tiếp mà các
ngữ đoạn chỉ công cụ có thể đƣợc ngữ pháp hóa thành các thành phần ngữ
pháp khác nhau trong câu nhƣ chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ. Xét về mặt nghĩa
học, các hƣ từ này giúp làm nổi rõ nghĩa công cụ trong câu, phân biệt với các
cấu trúc câu khác về ý nghĩa ngữ pháp công cụ và các quan hệ ngữ pháp.
Trong mối quan hệ với vị từ, công cụ có thể là những thực thể đƣợc chủ thể
sử dụng để thực hiện một hành động nào đó; công cụ có thể là chính con
ngƣời hoặc các bộ phận cơ thể ngƣời; công cụ có thể là những sản phẩm tinh
72
thần do chính con ngƣời tạo ra; công cụ có thể là những khái niệm phi vật thể
mang tính trừu tƣợng, là sản phẩm của các hoạt động, tính cách, phẩm chất
của chính bản thân con ngƣời trong hiện thực khách quan.
Chúng ta cũng có thể bắt gặp phƣơng thức sử dụng hƣ từ để thể hiện ý
nghĩa công cụ trong tiếng Nga. Tƣơng tự nhƣ tiếng Việt, trong tiếng Nga, các
hƣ từ (giới từ) thể hiện ý nghĩa công cụ không chỉ xuất hiện ở cách công cụ
mà còn xuất hiện ở tất cả các cách ngữ pháp còn lại. Điều này sẽ đƣợc chúng
tôi minh chứng rõ hơn ở phần sau chƣơng này. Qua đây, chúng tôi muốn
khẳng định một điều rằng, mặc dù tiếng Việt và tiếng Nga là hai ngôn ngữ ở
hai loại hình khác nhau, nhƣng đều có điểm chung là dùng các hƣ từ để thể
hiện ý nghĩa công cụ, nghĩa của các hƣ từ cũng khá giống nhau. Đây là điểm
thuận lợi giúp cho ngƣời học và nghiên cứu hai ngôn ngữ Việt - Nga sử dụng
dễ dàng hơn trong việc thực hành giao tiếp hay trong công tác phiên biên dịch
hai ngôn ngữ này.
2.1.2. Các phương thức thể hiện ý nghĩa công cụ không bằng hư từ
2.1.2.1. Sử dụng kết cấu có các vị từ “dùng / lấy / ...”
Một trong những đặc điểm bản chất của tín hiệu ngôn ngữ là tính hình
tuyến, nghĩa là các tín hiệu ngôn ngữ không thể đồng thời xuất hiện, mà phải
lần lượt kế tiếp nhau trong chuỗi lời nói [10: 87]. Điều này có nghĩa là: trật tự
sắp xếp các tín hiệu cũng có vai trò là một phƣơng tiện biểu hiện, và để biểu
hiện ý nghĩa công cụ, trật tự sắp xếp các từ trong câu cũng đƣợc sử dụng với
tƣ cách là một phƣơng thức ngữ pháp. Trong tiếng Việt, khi thể hiện ý nghĩa
công cụ mà thiếu vắng các hƣ từ nhƣ đã liệt kê ở phần trên, ngƣời ta còn sử
dụng một phƣơng thức khác nữa, đó là sử dụng một số thực từ kết hợp với
việc sắp xếp trật tự trƣớc sau một cách chặt chẽ giữa các thành tố trong cụm
từ đó. Trong số các kết cấu đó thì dùng / lấy + công cụ + hành động đã đƣợc
một số nhà Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu.
73
Nguyễn Thị Quy trong Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của
nó cho rằng kết cấu trên khá thông dụng trong tiếng Việt và các ngôn ngữ đơn
lập mà ít xuất hiện trong các ngôn ngữ châu Âu. Thậm chí, để nâng cao vai
trò của kết cấu này, có nhiều ngƣời còn kết luận rằng, cách biểu hiện vai
nghĩa công cụ bằng bổ ngữ với giới từ bằng, với ... là một hiện tượng ngữ
pháp mới có trong tiếng Việt từ phần tư đầu thế kỷ XX, có lẽ do ảnh hưởng
của tiếng Pháp, chứ trước kia vai nghĩa này chỉ được biểu hiện bằng kết cấu
dùng / lấy + công cụ + hành động. [66: 182]. Kết luận trên không hoàn toàn
chính xác vì trong các ngôn ngữ châu Âu, ví dụ nhƣ tiếng Nga và tiếng Anh
vẫn có những kết cấu giống nhƣ trên và đƣợc sử dụng phổ biến:
Tiếng Nga: пользоваться чем, чтобы делать что
- (99) Пользуюсь мотоциклом, чтобы переводить своего сына в
школу. (Tôi sử dụng xe máy để đưa cậu con trai đến trường.)
- (100) Пользуюсь мобильным телефоном, чтобы скачать email.
(Tôi sử dụng điện thoại di động để tải thư.)
Tiếng Anh: to use sth to do sth
- (101) I use the car to take my son to school. (Tôi sử dụng xe máy để
đưa cậu con trai đến trường.)
- (102) I use my phone to access my mail box. (Tôi sử dụng điện thoại
di động để tải thư.)
Quay trở lại với kết cấu tiếng Việt, vì có tham thể phƣơng tiện nên
Nguyễn Thị Quy đã thừa nhận dùng, lấy là những động từ đã được hư hóa
dùng để dẫn nhập vai nghĩa phương tiện [3: 26]. Quan điểm này vấp phải sự
phản đối của Nguyễn Văn Lộc và Lê Thị Lan Anh, khi cho rằng, nên coi
dùng, lấy vẫn là các vị từ tác động, còn thực thể xuất hiện ngay sau nó là đối
thể. [3: 26]. Trƣớc đó, kết cấu này đã từng đƣợc Trƣơng Vĩnh Ký đề cập đến
trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (Grammarie de la langue annamite) xuất bản
74
năm 1883, trang 76 khi ông đƣa thêm ví dụ để kiến giải về công cụ cách trong
tiếng Việt: dùng dây mà cột, lấy dây mà cột. Điểm chung của các nhà Việt
ngữ học này là phân tích kết cấu trên dƣới luận điểm của ngữ pháp chức năng
khi bàn luận về vấn đề vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt. Xét trên bình diện
nghĩa, các kết cấu này không khác gì kết cấu dùng bổ ngữ chỉ công cụ với các
hƣ từ nhƣ đã liệt kê ở phần trên. Tuy nhiên, nếu xét ý nghĩa chung của cả câu
với tất cả các bình diện của nó với tính chất là một hành động giao tiếp thì
trong những ngữ đoạn kiểu nhƣ dùng dao thái thịt, lấy ngực đỡ bóng, ...
chúng ta có thể cho rằng ở đây có một hành động duy nhất, hoặc cũng có thể
cho rằng có hai hành động nhƣng cùng chung một tác dụng. Nhƣ vậy, nghĩa
tác dụng sẽ mang tính trung tâm, nghĩa công cụ chỉ mang tính chất ngoại vi.
Nó khác với kiểu kết cấu dùng dao để thái thịt, lấy ngực để đỡ bóng (tương
đương với các ví dụ 45‘, 46‘, 47‘, 48‘, 49‘, 50‘) – những kết cấu có một hành
động kèm theo một mục đích, tức là một kết cấu chính phụ.
Bên cạnh đó, tác giả Lâm Quang Đông nghiên cứu vị từ dùng / lấy
dƣới góc độ của kết cấu vị từ chuỗi (Serial Verb Construction, viết tắt là
SVC). Tác giả cho rằng, trong kết cấu mô hình cấu trúc nghĩa biểu hiện của
câu, vị từ dùng / lấy đóng vai trò chủ đạo, chi phối các vị từ khác vì có chung
tham tố, luôn xuất hiện đầu tiên sát với chủ ngữ nhất, chịu gánh nặng ngữ
pháp lớn nhất và có tác dụng làm tăng ngữ trị của vị từ [18: 2]. Đây cũng là
quan điểm đã đƣợc Nguyễn Tài Cẩn (2004), Nguyễn Kim Thản (1997) và
Diệp Quang Ban (2005) đề cập đến. Hai vị từ này là những ngoại động từ,
luôn đòi hỏi một tham thể công cụ để bổ nghĩa, luôn chi phối các vị từ đi sau
nó trong chuỗi vị từ mà vị từ đi sau đảm nhiệm vai công cụ. Tham thể công
cụ trong kết cấu này cũng có thể kết hợp thêm tham thể thứ hai (tân ngữ thứ
hai), chẳng hạn:
- (103) Anh dùng giấy chung viết thư riêng, ăn bớt của công, không
liêm khiết ... anh em nghĩ thế nào, nói tất, không nể nang, che đậy. [NC: 781]
75
Đó là những nghiên cứu dựa trên những luận điểm về vai nghĩa và
chức năng của vai nghĩa trong câu trên bình diện ngữ pháp chức năng hệ
thống, còn trong luận án này, chúng tôi nghiên cứu kết cấu trên với tƣ cách là
một hình thức ngữ pháp để chỉ dấu về một loại ý nghĩa ngữ pháp, đó là ý
nghĩa công cụ. Xét các ví dụ sau:
- (104) Nghĩ vậy, nhưng cô cứ đi. Không phải đi cho nó thỏa dục
vọng, mà là để mắng nó là đồ xỏ lá, đồ khốn nạn, miệng nói kính phục người
Việt Nam, nhưng chính là khinh miệt người Việt Nam, dùng tiền, dùng thủ
đoạn cám dỗ cô, lừa đảo cô, làm hại đời cô. [NCH: 178]
- (105) Cô mắng nó thế thật, mà còn dùng nhiều lời đáo để hơn nữa
chửi rủa nó, đặng trút hết nỗi căm thù của cô đối với con quỷ dâm dục ấy.
[NCH: 178]
- (106) Người ta chỉ lợi dụng sự rời rạc bắt nạt anh em mình. [BĐC-
NCH: 210]
- (107) Anh lấy cái thừng làm một cái tròng chắc chắn, dùng hết sức
tàn còn lại trèo lên ghế, hai chân khẳng khiu run lẩy bẩy. [NC: 14]
- (108) Ăn xong, tôi lấy giẻ lau sạch đi, giải một tờ nhật trình lên làm
bàn viết. [NC: 17]
- (109) Con Pú mải mốt cầm dao đi chặt lá chuối về che lán. Em vẫn
địu ở trên lưng. [NC: 685]
- (110) Ai cũng đem tiền đến nhờ đẻ, đến nỗi không lúc nào được
nghỉ cả. [NCH: 200]
- (111) ... rồi mới chống tay vào đầu gối đứng lên, sau khi đã nhìn cái
mẹt của bà hàng với vẻ luyến tiếc ... [NC: 172]
- (112) Họ lại xách ống, dao và que nứa, hì hục đi đúc dế, mải tìm
cuộc chơi khác. [DMPLK: 17]
- (113) Họ xiên dao xiên nứa xuống chặn lối sau lưng tôi. [DMPLK: 10]
76
- (114) Bọn trẻ đổ nước định lùa tôi ra. [DMPLK: 9]
Trong các ví dụ trên, ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện bằng phƣơng tiện
zero, tức là vắng mặt các hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ. Tuy nhiên, kết cấu
có dùng, lấy, sử dụng, lợi dụng, đem, xách, xiên, cầm, chống, đổ, giải với bổ
ngữ (mang ý nghĩa công cụ) đặt trƣớc một vị từ khác (vị từ hành động) là một
kết cấu thƣờng xuyên đƣợc sử dụng trong tiếng Việt để thể hiện ý nghĩa công
cụ vì nó đảm bảo có mặt cả ba yếu tố là công cụ hành động, chủ thể hành
động và hành động. Có thể khái quát hóa đƣợc nhƣ sau:
dùng (A) Chủ thể + + công cụ + hành động lấy ...
Bảng 2.1: Kết cấu chỉ công cụ của hành động
Chúng tôi có thể kết luận và khái quát hóa đƣợc nhƣ trên là vì kết cấu
này thiếu vắng (không có mặt) một nhân tố: hƣ từ để. Nếu trong kết cấu trên
xuất hiện hƣ từ để, nghĩa là trở thành kết cấu:
dùng
(B) Chủ thể + lấy + công cụ + để + hành động
...
Bảng 2.2: Kết cấu chỉ mục đích của hành động
thì (B) sẽ mang ý nghĩa mục đích nhiều hơn là ý nghĩa công cụ. Để
chứng minh cho nhận định trên, chúng tôi sử dụng thủ pháp cải biến, thủ pháp
lƣợc và thủ pháp chêm trong ngôn ngữ học để kiểm định các ví dụ trên: đảo vị
từ hành động lên trƣớc công cụ, bỏ các động từ dùng / lấy / sử dụng / lợi dụng
/ đem / mang / xách / cầm ..., đồng thời thêm hƣ từ bằng vào sau các ngữ vị từ
hành động, tức là:
(A’) Chủ thể + hành động + bằng + công cụ
Bảng 2.3: Kết cấu kiểm định công cụ hành động
77
Trƣờng hợp (A’) thay thế cho (A), chúng tôi có các kết quả sau:
- (104’) ... nhưng chính là khinh miệt người Việt Nam, cám dỗ cô, lừa
đảo cô, làm hại đời cô bằng tiền, bằng thủ đoạn.(+)
- (105’) Cô mắng nó thế thật, mà còn chửi rủa nó bằng nhiều lời đáo
để hơn nữa, đặng trút hết nỗi căm thù của cô đối với con quỷ dâm dục ấy. (+)
- (106’) Người ta chỉ bắt nạt anh em mình bằng sự rời rạc. (+)
- (107’) Anh làm một cái tròng chắc chắn bằng thừng, trèo lên ghế
bằng sức tàn còn lại, hai chân khẳng khiu run lẩy bẩy. (+)
- (108’) Ăn xong, tôi lau sạch đi bằng giẻ, làm bàn viết bằng một tờ
nhật trình. (+)
- (109’) Con Pú mải mốt đi chặt lá chuối bằng dao về che lán. Em
vẫn địu ở trên lưng. (+)
- (110’) Ai cũng đến nhờ đẻ bằng tiền, đến nỗi không lúc nào được
nghỉ cả. (+)
- (111’) ... rồi mới chống vào đầu gối bằng tay đứng lên, sau khi đã
nhìn cái mẹt của bà hàng với vẻ luyến tiếc ... (+)
- (112’) Họ lại hì hục đi đúc dế bằng ống, dao và que nứa, mải tìm
cuộc chơi khác. (+)
- (113’) Họ chặn lối sau lưng tôi bằng dao bằng nứa. (+)
- (114’) Bọn trẻ định lùa tôi ra bằng nước. (+)
Trƣờng hợp (A’) thay thế cho (B), chúng tôi có các kết quả sau:
- (104”) ... nhưng chính là khinh miệt người Việt Nam, cám dỗ cô, lừa
đảo cô, làm hại đời cô bằng để tiền, bằng để thủ đoạn. (-)
- (105”) Cô mắng nó thế thật, mà còn chửi rủa nó bằng để nhiều lời
đáo để hơn nữa, đặng trút hết nỗi căm thù của cô đối với con quỷ dâm dục
ấy. (-)
- (106”) Người ta chỉ bắt nạt anh em mình bằng để sự rời rạc. (-)
78
- (107”) Anh làm một cái tròng chắc chắn bằng để thừng, trèo lên
ghế bằng để sức tàn còn lại, hai chân khẳng khiu run lẩy bẩy. (-)
- (108”) Ăn xong, tôi lau sạch đi bằng để giẻ, làm bàn viết bằng để
một tờ nhật trình. (-)
- (109”) Con Pú mải mốt đi chặt lá chuối bằng để dao về che lán. Em
vẫn địu ở trên lưng. (-)
- (110”) Ai cũng đến nhờ đẻ bằng để tiền, đến nỗi không lúc nào được
nghỉ cả. (-)
- (111”) ... rồi mới chống vào đầu gối bằng để tay đứng lên, sau khi
đã nhìn cái mẹt của bà hàng với vẻ luyến tiếc ... (-)
- (112”) Họ lại hì hục đi đúc dế bằng để ống, dao và que nứa, mải
tìm cuộc chơi khác. (-)
- (113”) Họ chặn lối sau lưng tôi bằng để dao bằng nứa. (-)
- (114”) Bọn trẻ định lùa tôi ra bằng để nước. (-)
(A’) hoàn toàn có thể thay thế đƣợc cho (A), trong khi (A’) là kết cấu
mang ý nghĩa chỉ công cụ nên (A) cũng là kết cấu mang ý nghĩa chỉ công cụ.
(A’) không thay thế đƣợc cho (B) vì không thể tồn tại song song hai
hƣ từ bằng và để trong cùng một đơn vị ngôn ngữ cho dù bằng đứng trƣớc
hoặc đứng sau để, nghĩa là không thể tồn tại cùng một lúc hai ý nghĩa công cụ
và ý nghĩa mục đích trong một đơn vị ngôn ngữ. Tất cả các ví dụ từ (113”)
đến (123”) hoặc chỉ có ý nghĩa công cụ hoặc chỉ có ý nghĩa mục đích.
Trong tiếng Việt, kết cấu (A) đƣợc áp dụng khá phổ biến, trật tự trƣớc
sau giữa các thành tố trong kết cấu này khá chặt chẽ. Chỉ cần thay đổi vị trí
của một số thành tố thì (A) hoặc sẽ trở thành một kết cấu mang ý nghĩa khác
hoặc sẽ trở thành một kết cấu vô nghĩa. Các động từ tƣơng tự nhƣ dùng / lấy /
sử dụng / lợi dụng / mang / đem / cầm / xách ... trong tiếng Việt rất ít. Với một
kết cấu chặt chẽ về trật tự tuyến tính nhƣ (A), chúng tôi có thể kết luận rằng,
79
trong tiếng Việt, trật tự từ cũng là một phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa
công cụ.
Ngoài ra, trong cuốn Các vai nghĩa trong câu trần thuật tiếng Việt và
tiếng Anh của Tô Minh Thanh (từ trang 73 – 75) cũng đƣa ra các mô hình
tƣơng đối chặt chẽ về vai nghĩa công cụ (phƣơng tiện) trong tiếng Việt. Thành
phần mang ý nghĩa công cụ thƣờng đƣợc đặt ở đầu câu theo các khung tham
chiếu mà tác giả đƣa ra. Chúng tôi xin đƣợc trích dẫn các mô hình này với
tính chất làm ví dụ cho phƣơng thức trật tự từ mà không tiến hành phân tích
vì các khung tham chiếu này liên quan đến vấn đề vai nghĩa (mặt nội dung)
nhiều hơn là vấn đề hình thức tổ chức ngôn ngữ. Chúng tôi chỉ muốn qua đây
để khẳng định thêm rằng, dù xét ở góc độ nội dung hay hình thức, theo quan
điểm ngữ pháp truyền thống hay ngữ pháp chức năng hệ thống, thì việc thay
đổi vị trí của các từ hay các thành phần trong câu tiếng Việt đều có thể làm
thay đổi nghĩa của cả câu hoặc cả phát ngôn, nên phƣơng thức trật tự từ cũng
đƣợc coi là phƣơng thức ngữ pháp phổ biến để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp
trong tiếng Việt, trong đó có ý nghĩa công cụ.
a. Công cụ / phương tiện (+ thì) + quá trình vật chất + đối thể :
tham tố + chu cảnh tuỳ chọn
Ví dụ:
- Con dao này thì chỉ thái thịt thôi, con dao kia mới chặt xương.
- Chìa khóa ấy thì không mở được cửa sau đâu.
b. công cụ / phương tiện (+ thì) + đối thể: tham tố + quá trình vật
chất + chu cảnh bắt buộc + chu cảnh tuỳ chọn
Ví dụ:
- Dao thế kia thì xương nào cũng chặt được cả.
- Chìa khóa ấy thì két nào mà chẳng mở được.
80
c. công cụ / phương tiện + được / bị + quá trình vật chất + chu cảnh
bắt buộc chỉ mục đích + chu cảnh tuỳ chọn
Ví dụ:
- Con dao kia chỉ được dùng để mà thái thịt thôi.
- Anh bị lợi dụng chỉ để làm một thứ tay sai mà thôi.
d. công cụ / phương tiện (+ thì) + chu cảnh bắt buộc chỉ mục đích +
chu cảnh tuỳ chọn
Ví dụ:
- Con dao này thì để mà chặt, con dao kia thì chỉ để thái thôi.
- Anh thì chỉ để làm một thứ tay sai mà thôi.
e. công cụ / phương tiện làm khung đề (+ thì) + quá trình bất kỳ +
chu cảnh tuỳ chọn
Ví dụ:
- Bằng tay không thì làm thế nào được.
- Với số tiền đó thì họ không thể mua nhà nổi.
Trong các ngôn ngữ biến hình nhƣ tiếng Nga, việc xác định vị từ chủ
đạo, chi phối trong kết cấu đa động từ tƣơng đối dễ dàng qua hình thái đƣợc
chia hay không đƣợc chia của chúng; vị từ bị hƣ hóa hay ngữ pháp hóa tƣơng
đối khó xác định nên trật tự tuyến tính trƣớc sau của các vị từ và tham thể
không quá chặt chẽ, không thể khái quát hóa thành một phƣơng thức ngữ
pháp để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp, trong đó có ý nghĩa công cụ. Đây là điểm
khác biệt lớn giữa hai ngôn ngữ Việt - Nga ở trên nhiều phƣơng diện, trong
đó có vấn đề về phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ.
2.1.2.2. Tiền giả định về “công cụ” của từ
Đỗ Hữu Châu cho rằng: Tiền giả định là những hiểu biết được xem là
bất tất phải bàn cãi, bởi đã được các bên giao tiếp mặc nhiên thừa nhận và
dựa vào chúng để tạo nên ý nghĩa tường minh trong phát ngôn của mình [10:
81
325]. Ý nghĩa công cụ là một nét nghĩa đặc hữu trong cấu trúc nghĩa biểu
niệm của rất nhiều thực từ, là nét nghĩa xuất hiện do chức năng của từ quy
định điều kiện sử dụng từ đƣợc hiện thực hóa và trở thành tiền giả định từ
vựng của phát ngôn. Vì nghĩa công cụ là sự phản ánh phạm trù công cụ trong
hiện thực khách quan cho nên có thể lấy từ hiện thực khách quan để giải thích
những hiện tƣợng có liên quan đến nghĩa công cụ trong ngôn ngữ. V.A.
Yamsanova khẳng định rằng “Các hoạt động thực tế giữa chủ thể và đối thể
không thể thiếu một phƣơng tiện” (Реальные деятельностные отношения
между субъектом и объектом невозможны без средства) [152: 167].
Điều đó có nghĩa là bất kì một hành động nào cũng đều đƣợc thực hiện thông
qua một công cụ nào đó. Nếu tƣ duy theo cách này thì chúng tôi có thể ngầm
hiểu rằng, trong bất kì một tình huống hành động nào cũng đều có sự tham gia
của một công cụ để giúp thực hiện hành động đó. Ngay cả trong ví dụ sau,
công cụ không đƣợc thể hiện bằng các phƣơng tiện ngôn ngữ đặc trƣng:
- (115) Tôi đã nói dối Nga rằng tôi phải về Sài Gòn có việc cần. [NC: 19]
- (116) Ngẫm ra thì tôi chỉ nói lấy sướng miệng thôi. [DMPLK: 5]
- (117) Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn
chửi. [CP-NC: 3]
- (118) Cả nó về được ăn no đủ - vì là người kiếm ra tiền - anh nó
chẳng phải tay vừa, nếu để thiếu cơm thì nó sẽ thấy ngay anh nó mắng bố,
gắt mẹ, chửi nồi, chửi rê, chửi đôi guốc đang đi mà đứt quai, chửi xó nhà
lắm muỗi vo vo ... [VTP: 4]
- (119) Bà trùm ghé miệng vào tai anh nói thầm. Mùi quết trầu lại rõ
hơn tiếng nói. Song, Pha cũng hiểu là bà muốn dặn gì rồi. [BĐC-NCH: 10]
Hành động “nói, mắng, chửi, dặn, gắt” ngầm hiểu có sự sử dụng các
công cụ khác nhau, đó là giọng nói (theo nghĩa cơ học – đó là hệ thống cấu
âm), âm thanh (hiểu theo nghĩa của từ đó là tai), ngôn ngữ nhƣ là mã – những
82
từ, những câu cụ thể. Ngoài ra, trong thời đại công nghệ hiện nay, các công cụ
để thực hiện hành động nói còn có thể là các phƣơng tiện kĩ thuật khác nhƣ
nói qua điện thoại hay “chat” qua internet. Tƣơng tự, hành động “vo vo, quết
trầu” sẽ không thể thực hiện đƣợc nếu không nhờ có một phƣơng tiện là
“cánh, dụng cụ quết trầu”.
Cũng theo quan điểm của V.A. Yamsanova “Phương tiện được hiểu
rất rộng, đó là tất cả những gì mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành động
(các vật thể, trong đó bao gồm cả những sự vật, hành động, trạng thái, đặc
tính, lực lượng thiên nhiên, vật chất, chất)” (Средство понимается …
широко, как все то, посредством чего субъект осуществляет
соотнесенное с целью действие (предметы, в том числе одушевленные,
действия, состояния, свойства, природные силы, материал, вещество))
[150]. Tính công cụ đƣợc hiểu rất rộng vì V.A. Yamsanova đã phân loại
phƣơng tiện thành các nhóm lớn, đƣợc sử dụng trong ngôn ngữ để thực hiện
các quan hệ công cụ.
Nhƣng nghĩa công cụ không phải lúc nào cũng đƣợc biểu đạt một cách
rõ ràng trong mọi ngôn ngữ, nghĩa công cụ có thể bị ẩn nhƣ là những thành
phần phân tách từ những nghĩa từ vựng của chủ thể và vị thể. Theo quan điểm
của V.A. Yamsanova, không phải bất kì tình huống nào trong thực tế cũng
xuất hiện công cụ, tình huống có xuất hiện công cụ trong ngôn ngữ có thể có
hoặc không nhƣng quan trọng là công cụ nào đƣợc sử dụng để thực hiện hành
động này hay hành động kia. Có thể hiểu tình huống có sự tham gia của công
cụ là tình huống đƣợc tạo nên một cách riêng biệt khi biểu đạt thông tin về
phƣơng tiện hoàn thành hành động và có nghĩa trong giao tiếp.
Chẳng hạn, ngƣời ta thƣờng nhận thấy rằng, thành phần mang ý nghĩa
công cụ thƣờng là những từ chỉ vật vô sinh; thành phần mang ý nghĩa chủ thể
sử dụng công cụ thƣờng là các từ chỉ vật hữu sinh. Trong hiện thực khách
83
quan tồn tại một dạng hoạt động bắt buộc phải kết hợp với thành phần chỉ
công cụ (dùng, lấy, sử dụng, cầm, đem, xách, mang, vác …), một dạng hoạt
động không thể kết hợp với thành phần chỉ công cụ (các động từ chỉ trạng
thái, cảm xúc: khóc, cười, buồn, vui, yêu, ghét, giận, thương, …), một dạng
hoạt động không cần kết hợp với thành phần chỉ công cụ nhƣng mặc nhiên
trong tƣ duy của ngƣời sử dụng ngôn ngữ đó đều có thể ngầm hiểu có yếu tố
chỉ công cụ trong đó, hay nói cách khác, đó là các động từ luôn chứa nét
nghĩa tiền giả định chỉ công cụ (cưa, đục, đẽo, thái, băm, chặt, viết, bào, ủi,
là,…). Trong tiếng Việt, tiếng Nga hay trong nhiều ngôn ngữ khác, nhóm
động từ này tƣơng đối lớn, thƣờng chỉ các hoạt động trong sinh hoạt hàng
ngày và trong lao động sản xuất của con ngƣời và động vật. Công cụ tiềm ẩn
ở đây tồn tại ở hai dạng: công cụ có thể là một sự vật, một dụng cụ (theo đúng
nghĩa) thực hiện một hành động nào đó nhƣ quấn (bằng khăn), đè (bằng đá),
cưa (bằng cưa), cắt (bằng kéo), thái (bằng dao), băm (bằng dao), chặt (bằng
rìu), viết (bằng bút), …; công cụ có thể là một bộ phận cơ thể ngƣời hoặc con
vật thực hiện hành động nhƣ nhìn (bằng mắt), nghe (bằng tai), ngửi (bằng
mũi), cầm (bằng tay), nắm (bằng tay), dìu (bằng tay), dắt (bằng tay), đá
(bằng chân), … Trong hiện thực khách quan, con ngƣời thƣờng quấn cái gì đó
bằng khăn hoặc một vật khác có đặc tính mềm và dài; đè cái gì đó bằng một
vật thể cứng và nặng; nhìn bằng mắt, nghe bằng tai, ngửi bằng mũi, … Hiện
thực khách quan phản ánh vào ngôn ngữ tuỳ luôn thuộc vào nhận thức, tƣ
duy, văn hóa, thói quen, truyền thống, phong tục,… của ngƣời bản ngữ. Mối
quan hệ giữa vật thể / bộ phận cơ thể với hoạt động trong tƣ duy ngôn ngữ
của con ngƣời nói chung luôn có điểm chung. Do vậy, trong câu, dù ở vị trí
nào, các vị từ mang nét nghĩa chỉ công cụ có thể cần hoặc không cần đƣợc đề
cập nhƣng mặc định ngƣời nghe đều hiểu loại công cụ đó là gì, vai trò và
chức năng của nó là gì theo nghĩa của vị từ.
84
Nguyễn Thị Quy khi phân loại các vị từ hành động tiếng Việt, đã xếp
nhóm từ vựng này là các vị từ [+tác động], có đặc trƣng riêng về nghĩa và /
hoặc về thái độ ngữ pháp. Những vị từ này luôn tiền giả định đối tƣợng bị tác
động bởi chủ thể thông qua một công cụ nào đó, trong đó, có cả những trƣờng
hợp công cụ tác động đó là một phần (một bộ phận) của chủ thể tác động. Tuy
nhiên, những vị từ bao hàm cả công cụ trong nghĩa của nó có những điều kiện
hạn định cách dùng với những bổ ngữ chỉ công cụ. Tác giả đã đƣa ra các ví dụ
nhƣ sau để minh chứng:
- (120) đá bóng bằng bàn chân
- (121) đá bóng bằng tay
- (122) đá bóng bằng mu bàn chân
- (123) đá bóng bằng đầu gối
- (124) cƣa gỗ bằng một cái cƣa
- (125) cƣa gỗ bằng một cái cƣa cùn
- (126) cƣa gỗ bằng dao nhíp
- (127) dùng chân tát vào mặt nó
- (128) tát vào mặt nó bằng bàn tay
- (129) tát vào mặt nó bằng bàn tay trái
- (130) giơ tay tát vào mặt nó
[Dẫn theo 66: 116]
Ngữ đoạn (120), (124), (128) phạm lỗi “trùng ngữ”; ngữ đoạn (121),
(127) phạm lỗi “mâu thuẫn”; ngữ đoạn (122), (125), (129) tránh đƣợc lỗi
“trùng ngữ” nhờ chi tiết “mu”, “cùn”, “bàn tay trái”; ngữ đoạn (123) đáng ngờ
vì đối với những ngƣời nghe quan niệm rằng hành động “đá” phải đƣợc thực
hiện bằng bàn chân, chứ không phải bằng bất kỳ bộ phận nào thuộc về chân;
ngữ đoạn (130) đƣợc mọi ngƣời chấp nhận vì cảm thụ nhƣ gồm hai hành động
liên đới (kiểu nhƣ vị từ chuỗi theo phân tích của Lâm Quang Đông [18]).
85
Nhƣ vậy, ý nghĩa từ vựng chỉ công cụ là nghĩa đặc biệt của một lớp từ
(thƣờng là thực từ), một trƣờng từ vựng mang nét nghĩa hàm ẩn chỉ công cụ.
Cho dù công cụ có đƣợc thể hiện hay không đƣợc thể hiện bằng ngôn ngữ,
ngƣời thông báo và ngƣời tiếp nhận thông tin vẫn hoàn toàn có thể ngầm hiểu
với nhau về cách thức, phƣơng thức, phƣơng tiện thực hiện hành động đó.
2.2. Các phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga
Quan niệm coi ý nghĩa công cụ là một phổ niệm trong ngôn ngữ là
“đối tƣợng ƣu tiên trong nghiên cứu các phƣơng thức ngữ pháp và có tác
động đến tất cả các phƣơng thức ngữ pháp thể hiện nội dung trong ngôn ngữ”
[102: 168] đƣợc xuất phát từ đƣờng hƣớng nghiên cứu ngữ pháp chức năng.
Ý nghĩa công cụ, xét về mặt logic, cho phép chúng ta có thể xem xét mối
quan hệ giữa nội dung cho trƣớc với hình thức thể hiện chúng. Trong tiếng
Nga, các phƣơng tiện biểu đạt nghĩa công cụ đƣợc ngữ pháp hóa bằng cách
công cụ (cách 5) nên cách công cụ đƣợc cho là trung tâm biểu đạt ý nghĩa ngữ
pháp công cụ. Vì vậy, có thể nói rằng, trong tiếng Nga, ý nghĩa ngữ pháp
công cụ mang tính chất của phạm trù hình thái học. Việc mô tả các phƣơng
tiện hình thức biểu đạt tính công cụ thể hiện trong các công trình nghiên cứu
của X.A. Lutina (X.A. Лутина), V.A. Yamsanova В.А. (Ямсанова), A.V.
Kobtseva (А. Кобцев). Các phƣơng tiện ấy bao gồm các kết hợp với giới từ
“с помощью”, “посредством”, “путем”, “методом” (bằng cách, với sự trợ
giúp của, nhờ sự giúp đỡ của, bằng con đƣờng, bằng phƣơng pháp, …) mà
thành phần phụ đi sau là những câu phức phụ thuộc đi kèm một thành phần
mang tính chất liên từ thứ hai là “тем самым” (để biểu đạt phƣơng thức),
.v.v. Bên cạnh đó, trong tiếng Nga, ý nghĩa công cụ còn đƣợc nhận thấy ở
nhiều giới từ khác ở các cách khác nhƣ из, с, от, по, о, через, сквозь, с, под,
в, на, ... Nhƣ vậy, nhiệm vụ tiếp theo đây là khảo sát, mô tả, kiểm định các
phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga. Trong quá
86
trình miêu tả, chúng tôi sẽ có những liên hệ với tiếng Việt để chỉ ra sự tƣơng
đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ khác nhau về loại hình này. Phƣơng thức
thứ nhất là sử dụng cách công cụ (cách 5) và phƣơng thức thứ hai là không sử
dụng cách công cụ.
2.2.1. Phương thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các biến tố cách
công cụ (cách 5)
Thuật ngữ “cách” có thể đƣợc kiến giải theo hai cách hiểu sau: thứ
nhất, theo cách hiểu truyền thống, đó là các biến đổi về mặt hình thức của
danh từ (hoặc đại từ nhân xƣng) trong các ngôn ngữ có biến đổi cách; thứ hai,
thuật ngữ này sản sinh ra trong lí thuyết về ngữ pháp vai, đó là các quan hệ về
ngữ pháp giữa các thành phần trong câu. Chính các quan hệ về cách giữa các
nhóm từ loại thƣờng xuyên gọi là cách. Trong các tài liệu ngôn ngữ học bằng
tiếng Anh, thuật ngữ “quan hệ cách” (grammatical relations / грамматические
отношения) thƣờng gắn với khái niệm “cách” [Blake (2001), Butt (2006)].
Những tài liệu nhƣ vậy có thể thấy trong các sách của Petra Campe “Cách, vai
nghĩa, và các quan hệ ngữ pháp” (Case, Semantic Roles, and Grammatical
Relations: a Comprehensive Bibliography) [98], trong đó diễn giải rằng: tất cả
các thuật ngữ đều thuộc về một lĩnh vực nghiên cứu này hay lĩnh vực nghiên
cứu khác của ngôn ngữ học. Chính ý nghĩa chỉ phƣơng tiện (công cụ) cũng
đƣợc kiến giải nhƣ một ý nghĩa của cách.
Phạm trù tƣ duy về công cụ thể hiện trong tiếng Nga bằng nhiều
phƣơng tiện khác nhau, trong số đó, cách chiếm một vị trí hàng đầu, cách 5
(cách công cụ) giữ vị trí trung tâm. Sự quan trọng của hệ thống biến đổi trong
đa số các ngôn ngữ Xlavo là điều không bàn cãi. Có rất nhiều nhà khoa học
ngôn ngữ Nga nghiên cứu về đề tài này. Trong số đó có thể kể đến nhƣ A.A.
Shakhmatov (А.А. Шахматов), A.M. Peshkovsky (А.М. Пешковский), R.O.
Yacobson (Р.О. Якобсон), X.D. Catsnelson (С.Д. Кэтснельсон), A.A.
87
Potebnya (А.А. Потебня), L.V. Sherbuy (Л.В. Шербай), ... những ngƣời đã
nghiên cứu rất nhiều về phạm trù cách và ý nghĩa của nó trong tiếng Nga.
Trong các nghiên cứu hiện nay, cách đƣợc coi là một phạm trù tạo ra một hệ
thống phức tạp và có tính phân loại trong mối quan hệ chức năng, bao gồm
nhiều chức năng không đồng nhất cả về hình thức lẫn nội dung. [115: 56].
X.D. Catsnelson cho rằng, cấu trúc hình thức của cách đƣợc thể hiện ở một
loạt các cách biến đổi danh từ có thể có nhiều dạng phức tạp phụ thuộc vào số
lƣợng của cách, các quan hệ về mặt hình thức – nguồn gốc và một số nguyên
nhân khác. Những gì liên quan đến chức năng của cách thì đó “đƣợc ngầm
hiểu về mặt hình thức (ví dụ nhƣ sự kết hợp có mặt ở dạng cách không chỉ
xảy ra trong danh từ mà còn trong các kết hợp với các từ loại khác: tính từ,
tính động từ, đại từ) và về mặt nội dung là các cách biến đổi khác nhau. <…>
Tất cả chức năng cú pháp của từ loại trong câu về nguyên tắc có thể đƣợc
biến đổi nhờ cách” [120: 56]. Khi liệt kê các chức năng cơ bản của cách, X.D.
Catsnelson đề cập đến chức năng chủ thể - khách thể, chức năng của trạng từ,
chức năng thuộc tính, chức năng phƣơng thức biểu cảm, chức năng của các
tiền tố và hậu tố. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày một vài định nghĩa về cách để
chứng minh rằng các quan hệ chỉ công cụ, về bản chất, có chức năng phạm trù
cách.
Trong Từ điển bách khoa toàn thƣ về ngôn ngữ học do V.N. Iartseva
(В.Н. Ярцева) chủ biên có đƣa ra định nghĩa về khái niệm “cách” nhƣ sau:
“Cách là một phạm trù ngữ pháp của danh từ biểu đạt các quan hệ cú pháp
của nó với các từ trong một mệnh đề hoặc với cả mệnh đề nói chung, mà cũng
có thể là bất kì một thành tố ngữ pháp riêng biệt nào đó (cách cụ thể)” [158].
(―Падеж — грамматическая категория имени, выражающая его
синтаксические отношения к другим словам высказывания или к
высказыванию в целом, а также всякая отдельная граммема этой
88
категории (конкретный П.)‖) Về chức năng của cách, từ điển này cũng đƣa
ra thông tin nhƣ sau: “Chức năng ngữ nghĩa cơ bản của cách là biểu đạt mối
quan hệ tƣ duy về một sự vật (là một danh từ) với các sự vật và hiện tƣợng
khác bằng một từ có khả năng chi phối” [158].
Định nghĩa của Barry Blake trong “Từ điển bách khoa về ngôn ngữ và
ngôn ngữ học” là: “Cách là một hệ thống các chỉ dấu của danh từ, ứng với
kiểu quan hệ của danh từ với từ chính chi phối nó. Theo cách hiểu truyền
thống, thuật ngữ này có nghĩa là sự đánh dấu bằng biến tố mà thông thƣờng là
đánh dấu mối quan hệ của danh từ với động từ ở cấp độ câu, danh từ với giới
từ, hậu tố hoặc với danh từ khác ở cấp độ ngữ đoạn” (“Падеж — это по
существу система маркирования зависимых существительных в
соответствии с типом отношений, который они несут по отношению
к управляющим словам. Традиционно данный термин означает
флективную маркировку; как правило, падеж маркирует отношение
существительного к глаголу на уровне предложения и
существительного к предлогу, послелогу или другому существительному
на уровне фразы”) [99: 212].
Cách tiếp cận phân chia cách theo các đặc tính hình thái và cú pháp
đƣợc thể hiện ngắn gọn và súc tích trong định nghĩa của V.V. Gurevich (В.В.
Гуревич): “Theo quan điểm hình thức, cách là một phạm trù hình thái học (nó
đƣợc biểu đạt bằng các dạng thức của danh từ), trong khi về mặt nội dung,
cách lại là một phạm trù cú pháp học bởi vì cách diễn đạt mối quan hệ giữa
danh từ với những từ khác liên quan đến nó về mặt cú pháp (khác với các
phạm trù hình thái học thuần túy ở mỗi từ, ví dụ nhƣ phạm trù số hoặc giống
của danh từ” (С точки зрения формы падеж – категория
морфологическая (она выражается формами существительного),
тогда как по содержанию это категория синтаксическая, поскольку
89
падеж служит для обозначения отношений между существительным и
синтаксически связанным с ним другим словом (в отличие от таких
чисто морфологических, замкнутых на самом слове категорий, как
число или род у существительного)) [dẫn theo 115: 26].
Khi nói về ý nghĩa của các cách, I.G. Miloslavski (I.G.
Милославский) cho rằng “Với tƣ cách là một phạm trù hình thái học, cách
gắn liền với sự biểu đạt mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tƣợng” (“падеж
как морфологическая категория связан с выражением отношений
между предметами и явлениями”) [dẫn theo 115: 79].
Nhƣ vậy, ở cả ba định nghĩa trên, chúng ta đều thấy, một trong những
dấu hiệu nhận biết chung về cách, đó là sự biến đổi hình thái, tức là mặt hình
thức của từ. Tiếng Nga thuộc loại hình ngôn ngữ hòa kết. Trong hoạt động
ngôn ngữ, từ có biến đổi hình thái, tức là từ nọ đòi hỏi từ kia ở sự hợp dạng.
Điều này có nghĩa rằng, ở đây, ý nghĩa ngữ pháp của từ, các quan hệ ngữ
pháp của từ đƣợc thể hiện ngay trong bản thân từ. Trong tiếng Nga, một ý
nghĩa ngữ pháp có thể đƣợc thể hiện bằng nhiều phụ tố, ví dụ nhƣ: ý nghĩa
ngữ pháp chỉ địa điểm, chỉ thời gian có thể đƣợc thể hiện ở sinh cách (cách 2),
tặng cách (cách 3), đối cách (cách 4), công cụ cách (cách 5), giới cách (cách
6); ý nghĩa ngữ pháp chỉ mục đích đƣợc thể hiện ở cách 4 và cách 5; ý nghĩa
ngữ pháp chỉ nguyên nhân đƣợc thể hiện ở cách 2 và cách 3; .v.v. Ngƣợc lại,
nhiều ý nghĩa ngữ pháp có thể đƣợc biểu diễn đồng thời bằng một phụ tố, ví
dụ nhƣ: phụ tố -е ở cách 6 có thể đƣợc sử dụng để biểu đạt ý nghĩa ngữ pháp
chỉ địa điểm, phƣơng tiện, phƣơng thức, thời gian, ... Tức là ở đây, sự tƣơng
ứng giữa phụ tố với ý nghĩa ngữ pháp không phải là một đối một một cách
chặt chẽ. Tƣơng tự nhƣ vậy, trong tiếng Nga, để thể hiện ý nghĩa công cụ,
ngƣời ta có hẳn một cách, gọi là cách công cụ (cách 5), để biểu đạt. Tuy
nhiên, cách công cụ không chỉ biểu đạt mỗi ý nghĩa công cụ mà còn có thể
biểu đạt nhiều ý nghĩa ngữ pháp khác nhƣ sau:
90
a) Đầu tiên, cách công cụ, theo nhƣ đúng tên gọi, đƣợc dùng để biểu
đạt công cụ hoặc phƣơng tiện, nhờ đó hành động đƣợc thực hiện. Ví dụ:
- (131) В нем по-прежнему пудрились, обтирали платком ладони
и разговаривали грудными скрипучими голосами седеющие дамы из
Петербурга, поголовно превращенные в жгучих цыганок соединением
паровозной гари с жирною косметикой. [ДЖ: 15]
- (132) Trong toa, mấy bà tóc hoa râm người Petersburg vẫn tiếp tục
thoa lại phấn, dùng khăn lau mồ hôi tay và trò chuyện với nhau bằng cái
giọng ngực nghe rin rít. [BSZh: 17]
- (133) Оттягивался обед, чье-то желание помыть горячей
водой голову, какие-то другие намерения. [ДЖ: 112]
- (134) Bữa trưa sẽ phải ăn muộn, ai định gội đầu bằng nước nóng
hoặc mọi dự định khác đều bị huỷ bỏ. [BSZh: 161]
b) Cách công cụ đƣợc sử dụng để chỉ cách thức hành động (trả lời câu
hỏi как? (như thế nào?), каким образом? (bằng cách nào?). Ví dụ:
- (135) Они дышали только этой совместностью. [ДЖ: 288]
- (136) Họ chỉ thở bằng sự hòa hợp ấy. [BSZh: 429]
- (137) ―Ведь для него мама — как это называется… Ведь он -
мамин, это самое … Это гадкие слова, не хочу повторять. Так зачем в
таком случае он смотрит на меня такими глазами? Ведь я ее дочь‖.
[ДЖ: 21]
- (138) ―Thì ông ta vẫn coi mẹ là một… - như thế gọi là gì nhỉ… Phải,
ông ta là bồ… của mẹ, những tiếng bẩn thỉu, thôi, mình không thiết nhất nhắc
lại nữa. Đã thế, tại sao ông ta còn cứ nhìn mình bằng cặp mắt như vậy.
Mình là con của mẹ kia mà‖. [BSZh: 25]
c). Cách công cụ đƣợc dùng để chỉ phƣơng thức chuyển động. Ví dụ:
91
- (139) Он плавно нагонял ее волнообразными, плещущими
скачками. [ДЖ: 157]
- (140) Chú ngựa non bắt kịp mẹ bằng các bước nhảy duyên dáng,
chờn vờn như sóng. [BSZh: 230]
- (141) Прямыми негнущимися шагами она подошла к саням на
середину мостовой и простилась, пожелав им счастливо доехать. [ДЖ: 247]
- (142) Bằng những bước đi cứng nhắc, thẳng chân, chị ta tới gần chiếc
xe ở giữa mặt đường để từ giã và chúc họ thượng lộ bình an. [BSZh: 367]
d) Cách công cụ đƣợc sử dụng để chỉ địa điểm di chuyển. Ví dụ:
- (143) Вот Тоня идет полем во вьюгу с Шурочкой на руках.
[ДЖ: 217]
- (144) Дорога лесом, кругом волки, берегитесь. [ДЖ: 260]
e) Cách công cụ đƣợc dùng để chỉ thời gian. Ví dụ:
- (145) Приходит утром, засиживается до обеда и битых два
часа томит чтением этой галиматьи. [ДЖ: 31]
- (146) Мальчики запросились прокатиться с Александром
Александровичем ночью по морозу. [ДЖ: 39]
g) Cách công cụ biểu thị ngƣời hoặc sự vật hành động trong các cấu
trúc bị động. Ví dụ:
- (147) В мастерской стояла непривычная тишина. Окно на улицу
было отворено. Лара слышала, как громыхавшая вдали пролетка съехала с
булыжной мостовой в желобок коночного рельса и грубая стукотня
сменилась плавным скольжением колеса как по маслу.
―Надо поспать еще немного‖, — подумала Лара. Рокот города
усыплял, как колыбельная песня. [ДЖ: 21]
- (148) Xưởng may hôm nay yên lặng lạ thường. Chiếc cửa sổ nhìn ra
đường đã mở. Lara nghe vọng lại từ xa tiếng xe ngựa: chiếc xe từ trên con đường
92
trải đá đã chạy xuống máng đường ray dành cho ngựa, nên tiếng gõ lộp cộp đã
được thay bằng tiếng bánh xe trượt êm trên đường ray. "Nên ngủ thêm chút
nữa", - Lara nghĩ thầm. Tiếng ồn ngoài phố vang lên đều đều như một bài hát ru.
[BSZh: 25]
Ngoài những ý nghĩa ngữ pháp cơ bản nhƣ trên, cách công cụ còn đƣợc
thể hiện trong một số trƣờng hợp cụ thể khác nhƣ: thể hiện vật hành động trong
câu vô nhân xƣng (Ветром сорвало крышу. / Gió làm tốc mái nhà.); dùng
kết hợp với các động từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (Она работает
библиотекарем. / Cô ấy là nhân viên thư viện.); đƣợc dùng với tƣ cách là
một bộ phận của vị ngữ tập hợp trong các kết cấu có động từ быть (là),
являться (là), становиться (trở thành), стать (trở thành), казаться
(dường như là, hình như là), называться (được gọi là), назваться (được gọi
là), оставаться (vẫn là), остаться (vẫn là), делаться (trở thành),
сделаться (trở thành), считаться (được coi là) ... (Брат стал
инженером. / Người anh trai trở thành kĩ sư.); đƣợc sử dụng nhƣ một bổ
ngữ trực tiếp sau các động từ руководить (lãnh đạo), управлять (điều
khiển), командовать (chỉ huy), заведовать (phụ trách), распорядиться
(điều khiển), обладать (có), владеть (nắm vững), пользоваться (sử dụng),
заниматься (chơi, nghiên cứu), интересоваться (quan tâm tới, ham thích),
увлекаться (ham mê), гордиться (tự hào), любоваться (ngắm nhìn),
хвалиться (khoe khoang), восхищаться (khâm phục), наслаждаться (thích
thú, khoái cảm), злоупотреблять (lạm dụng), болеть (ốm), доволен,
доволена, доволены (hài lòng) ... (Ученик хорошо владеет русским
языком. / Cậu học sinh nắm tiếng Nga rất tốt.)
Trên đây là tất cả những ý nghĩa mà cách công cụ trong tiếng Nga
biểu hiện. Luận án không đi vào phân tích cụ thể và tỉ mỉ tất cả các ý nghĩa
trên vì tính hạn chế của dung lƣợng và đối tƣợng nghiên cứu. Luận án, tiếp
93
theo đây, sẽ chỉ tập trung vào ý nghĩa công cụ, một trong nhiều ý nghĩa đã liệt
kê phía trên mà cách công cụ đảm nhiệm. Ý nghĩa công cụ, cũng nhƣ những ý
nghĩa ngữ pháp khác mà cách công cụ biểu hiện, đều đƣợc thể hiện bằng các
phụ tố giống nhau.
2.2.1.1. Thể hiện ý nghĩa công cụ bằng phụ tố
Trong tiếng Nga, danh từ đƣợc biến đổi theo sáu cách, mỗi cách có
một ý nghĩa riêng. Ý nghĩa công cụ chủ yếu đƣợc thể hiện ở cách năm không
có giới từ (cách công cụ). Xét ví dụ sau:
- (149) Мечта пропитаться своими руками. [ДЖ: 153]
- (150) Niềm mơ ước được sống bằng hai bàn tay của mình. [BSZh: 224]
- (151) Родя был в корпусе. Лара с матерью одни слонялись по
пустому дому. Неосвещенная улица пустыми глазами смотрела в
комнаты. Комнаты отвечали тем же взглядом. [ДЖ: 36]
- (152) Rodion còn ở trường thiếu sinh quân. Chỉ có hai mẹ con lủi
thủi trong căn nhà vắng vẻ. Đường phố không ánh đèn đang giương cặp mắt
trống rỗng ngó vào các căn phòng. Các căn phòng cũng nhìn lại bằng cặp
mắt như vậy. [BSZh: 48]
- (153) Здешние предлагают казаков, а он думает взять слезой.
[ДЖ: 87]
- (154) Nhà cầm quyền ở đây đề nghị sử dụng kỵ binh, nhưng anh ta
muốn khuất phục họ bằng nước mắt. [BSZh: 123]
Trong 3 ví dụ trên, các danh từ, cụm danh từ своими руками (hai bàn
tay của mình), пустыми глазами (cặp mắt trống rỗng), взглядом (cặp mắt),
слезой (nước mắt) đã đƣợc biến đổi sang dạng thức cách năm với các phụ tố -
-ими, -ами, -ыми, -ом, -ой nhằm biểu đạt ý nghĩa chỉ công cụ thực hiện các
hành động пропитаться (sống), смотрела (giương), отвечали (nhìn lại),
взять (khuất phục), trả lời cho câu hỏi чем? (bằng gì?), có nghĩa là, ý nghĩa
94
công cụ thực hiện hành động trong tiếng Nga đƣợc khái quát hóa qua sơ đồ
sau:
Глагол + Сущ.инстр
trong đó: Глагол_động từ
Сущ._danh từ
инстр_công cụ
Bảng 2.4: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng cách công cụ không có giới từ
Hậu tố của danh từ ở cách công cụ đƣợc biến đổi theo bảng dƣới đây.
Tính từ và đại từ đi kèm theo danh từ, bổ nghĩa cho danh từ cũng bị biến đổi
hậu tố tƣơng ứng với cách biến đổi của tính từ và đại từ.
Công cụ cách chủ cách Câu hỏi Кем? Чем? Кто? Что?
+ ом thêm vào sau Phụ âm
Giống đực -ем thay cho -ь
-ем thay cho -и
-ой thay cho -а
-ей thay cho -я Số ít Giống cái -ью thay cho -ь
-ией thay cho -ия
-ом thay cho -о
thay cho -е Giống trung -ем
-ием thay cho -ие
-ами thay cho -ы
-ями thay cho -и Số nhiều -ами thay cho -а
-ями thay cho -я
Bảng 2.5: Sự biến đổi vĩ tố của danh từ ở cách công cụ
95
Câu hỏi Công cụ cách Chủ cách)
-ым thay cho -ый Giống Какой? đực -им thay cho -ий
-ой thay cho -ая Giống Số ít Какая? cái -ей thay cho -яя
-ым thay cho -ое Giống Какое? trung -им thay cho -ее
-ыми thay cho -ые Số nhiều Какие? -ими thay cho -ие
Bảng 2.6: Sự biến đổi vĩ tố của tính từ ở cách công cụ
Cách công cụ Chủ cách
С кем? Kmo?
мной thay cho я
тобой thay cho ты
им thay cho он
ей thay cho она
нами thay cho мы
вами thay cho вы
ими thay cho они
Bảng 2.7: Sự biến đổi đại từ nhân xƣng ở cách công cụ
Số ít Cách Số nhiều Số nhiều Đực Trung Cái
1 этот/тот это/то эта/та эти те
5 этим/тем этой/той этими теми
Bảng 2.8: Sự biến đổi đại từ chỉ định ở cách công cụ
96
Cách 1 Cách 5
Đực Trung Cái Đực Trung Cái
мой мое моя -им -им -ей твой твое твоя
его Không đổi ее
наш наше наша -им -им -ей ваш ваше ваша
мои, твои, наши, ваши -ими (Чьими?) - (Чьи?) - (их)
Bảng 2.9: Sự biến đổi đại từ sở hữu ở cách công cụ
Phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ thông qua những biến
đổi ở phụ tố hoàn toàn không có mặt trong tiếng Việt do tiếng Việt là ngôn
ngữ đơn lập không biến hình.
Đây là điểm khác biệt lớn nhất trong cách thức thể hiện ý nghĩa công
cụ trong hai ngôn ngữ Việt và Nga. Chính đặc điểm thƣờng xuyên biến đổi
hậu tố của từ để thể hiện một ý nghĩa ngữ pháp nào đó trong tiếng Nga đã tạo
ra một số khó khăn nhất định đối với những ngƣời bắt đầu học tiếng Việt và
tiếng Nga với tƣ cách là ngoại ngữ. Nhiều ngƣời học gặp khó khăn trong việc
tiếp thu kiến thức về các cách thức biến đổi danh từ, tính từ, đại từ, ... trong
tiếng Nga sang các cách khác nhau. Thậm chí, sau khi đã nắm đƣợc các quy
luật biến đổi từ trong tiếng Nga nhƣng cũng khá khó khăn trong việc tổ chức
thực hành giao tiếp: khó nhớ và khó lí giải đƣợc các khái niệm giống, số,
cách, ngôi, thời, thể, thức, dạng, ... và các cách biến đổi những dạng thức này
sang các dạng thức khác; kể cả khi đã ghi nhớ đƣợc thì cũng khó chuyển hóa
đƣợc nhanh chóng thành các câu hoàn chỉnh về ngữ pháp.
97
2.2.1.2. Kết hợp phương thức giới từ và phụ tố
Trong tiếng Nga, giới từ đƣợc xác định là một loại từ công cụ đi theo
động từ, danh từ, tính từ, số từ, trạng từ để chi phối sự biến cách của những
danh từ nhằm kết hợp chúng lại thành các cụm từ, trong đó các danh từ có
giới từ đứng trƣớc sẽ thực hiện chức năng bổ sung và mở rộng ý nghĩa cần
biểu đạt của những từ chi phối chúng. Xét về mặt cấu trúc, các giới từ trong
tiếng Nga chia thành hai nhóm: nhóm giới từ đơn và nhóm “giới từ kép”:
- “Giới từ đơn” chỉ cấu tạo từ một từ đơn lẻ nhƣ в, на, от, до, между,
с, под, из, через, ...
- “Giới từ kép” (thực ra là tổ hợp gồm hơn một giới từ): несмотря на,
в случае, в связи с, по отношению к, в зависимости от, ...
Đại đa số các giới từ trong tiếng Nga chỉ kết hợp với một cách nhất
định của danh từ, nhƣng cũng có một số ít giới từ, chủ yếu là giới từ nguyên
sinh, có khả năng kết hợp với hai hoặc ba cách của danh từ. Đa số các giới từ
trong tiếng Nga có nhiều nghĩa và chúng chỉ đƣợc xác định cụ thể khi đƣợc
đặt vào một tình huống sử dụng nhất định.
Một cách có thể có những giới từ đặc trƣng riêng, chỉ đƣợc sử dụng ở
cách đó, cũng có thể có nhiều giới từ đƣợc dùng chung ở nhiều cách khác
nhau. Một giới từ có thể có mặt ở nhiều cách khác nhau để thể hiện nhiều ý
nghĩa khác nhau, thậm chí, một giới từ trong một cách cũng có thể biểu hiện
rất nhiều ý nghĩa khác nhau. Ý nghĩa công cụ có thể đƣợc biểu thị bằng hơn
một giới từ; ngƣợc lại một giới từ có thể biểu thị ý nghĩa công cụ / cách công
cụ và (những) ý nghĩa khác nữa. Cách công cụ trong tiếng Nga cũng không
phải là ngoại lệ. Có nhiều giới từ trong tiếng Nga đƣợc sử dụng với cách công
cụ để biểu thị những ý nghĩa khác nhau. Có những giới từ chỉ dùng với cách
công cụ và cũng có những giới từ dùng đƣợc cả với cách công cụ và các cách
khác. Một số giới từ chỉ dùng với cách công cụ là:
98
a. giới từ над (надо) biểu thị ý nghĩa về địa điểm, nơi chốn, ví dụ:
- (155) В номере горящую керосиновую лампу вынули из
резервуара, в котором она висела над обеденным столом, и перенесли
за дощатую перегородку, вонявшую клопами, на другую половину
номера. [ДЖ: 41]
- (156) Phòng có hai gian, phân cách bằng một vách gỗ có mùi rệp.
Cây đèn dầu hỏa treo phía trên bàn ăn ở gian ngoài đã được hạ xuống, mang
vào gian trong. [BSZh: 54]
b. giới từ перед (передо), пред (предо) chỉ quan hệ về không gian,
thời gian, ví dụ nhƣ:
- (157) Ото всего парка с его прудами, лужайками и барским
домом садик управляющего был отгорожен густой живой изгородью из
черной калины. Иван Иванович и Николай Николаевич обходили эту
заросль снаружи, и по мере того как они шли, перед ними равными
стайками на равных промежутках вылетали воробьи, которыми
кишела калина. Это наполняло ее ровным шумом, точно перед Иваном
Ивановичем и Николаем Николаевичем вдоль изгороди текла вода по
трубе. [ДЖ: 12]
- (158) Ngôi nhà của viên quản lý được một hàng giậu dây xanh rì
bằng cây tứ cầu ngăn cách với toàn bộ khu hoa viên có ao hồ và dãy nhà của
chủ nhân. Ivan và Nicolai đi vòng bên ngoài hàng giậu đó để ra bờ khe. Cứ
mỗi bước đi, từng bầy chim sẻ từ trong các bụi tú cầu lại bay ra trước mặt
họ thành từng đợt đều đều, tạo nên tiếng rào rào không ngớt, nghe như tiếng
nước chảy trong cái ống máng đặt dưới chân giậu. [BSZh: 13]
- (159) В этом прозаическом и будничном виде, растрепанная, с
засученными рукавами и подоткнутым подолом, она почти пугала своей
царственной, дух захватывающей притягательностью, более, чем если
99
бы он вдруг застал ее перед выездом на бал, ставшею выше и словно
выросшею на высоких каблуках, в открытом платье с вырезом и
широких шумных юбках. [ДЖ: 235]
- (160) Cái diện mạo hàng ngày, bình thường ấy của nàng với mái tóc
xoã, tay áo xắn cao và gấu váy vén lên, gần như có sức quyến rũ, lôi cuốn
khiến chàng còn nể sợ hơn cả khi giả sử chàng bắt gặp nàng chuẩn bị đi dự
vũ hội, với bộ áo dài hở cổ hở vai, với đôi giày cao gót khiến nàng cao lên
hơn, và với cái váy rộng lòe xòe quét đất. [BSZh: 349]
Giới từ перед (передо), пред (предо) còn đƣợc sử dụng trong một số
trƣờng hợp cụ thể khác, ví dụ nhƣ:
- (161) Перед нами стоят большие задачи. (Phía trƣớc chúng ta có
những nhiệm vụ rất to lớn.)
- (162) Ответственность перед народом. (Trách nhiệm trƣớc
nhân dân.)
- (163) Обязанность перед обществом. (Nghĩa vụ trƣớc xã hội.)
- (164) Не отступать перед трудностями. (Không lùi bƣớc trƣớc
khó khăn.)
- (165) Сохранять спокойствие перед лицом опасности. (Giữ
đƣợc bình tĩnh trƣớc những hiểm nguy.)
Bên cạnh đó, có một số giới từ đƣợc dùng ở cách công cụ nhƣng thể
hiện rất nhiều vai nghĩa khác nhau. Ví dụ nhƣ: giới từ с (cùng, với, có) dùng
để thể hiện:
a. ý nghĩa ngƣời cùng hành động, ví dụ:
- (166) Родя был в корпусе. Лара с матерью одни слонялись по
пустому дому. Неосвещенная улица пустыми глазами смотрела в
комнаты. Комнаты отвечали тем же взглядом. [ДЖ: 36]
100
- (167) Rodion còn ở trường thiếu sinh quân. Chỉ có hai mẹ con lủi
thủi trong căn nhà vắng vẻ. Đường phố không ánh đèn đang giương cặp mắt
trống rỗng ngó vào các căn phòng. Các căn phòng cũng nhìn lại bằng cặp
mắt như vậy. [BSZh: 48]
b. ý nghĩa về sự có mặt của một cái gì đó, ví dụ:
- (168) К телу два или три раза подходила худощавая женщина в
шерстяном платье с кружевной косынкою. [ДЖ: 16]
- (169) Một bà dáng mảnh khảnh mặc chiếc áo váy bằng len và quàng
tấm khăn có viền ren đến gần ngó xác chết hai, ba lần. [BSZh: 18]
c. ý nghĩa chống lại ai, chống lại cái gì, ví dụ:
- (170) Занимательно было узнать, чем они жили, какими
нравственными и материальными запасами питались, как боролись с
трудностями, как обходили законы? [ДЖ: 150]
- (171) Kể cũng thú vị, nếu biết họ sống bằng gì, được nuôi dưỡng
bằng các nguồn dự trữ tinh thần và vật chất nào, họ đương đầu với các khó
khăn, họ né tránh pháp luật như thế nào? [BSZh: 218]
d. một số ý nghĩa khác nhƣ ý nghĩa về thời gian (Летом я встаю с
восходом солнца. / Mùa hè tôi dậy cùng lúc mặt trời mọc.); vật chứa đựng
bên trong một sự vật khác (Я купил бутылку с молоком. / Tôi mua một chai
sữa.); lời chúc mừng nhân dịp một sự kiện nào đó (Поздравляю вас с
Новым годом! / Chúc mừng anh nhân dịp năm mới!)
Tƣơng tự nhƣ thế, giới từ за (ở phía sau, theo sau, trong lúc) ở cách
công cụ cũng đƣợc dùng để:
a. chỉ địa điểm, ví dụ:
- (172) По пути в освещенную столовую, где за круглым столом
под висячею лампой сидели за самоваром и распивали чай хозяева с
101
Антониной Александровной, зять и тесть прошли через темный
директорский кабинет. [ДЖ: 161]
b. chỉ mục đích của chuyển động, ví dụ:
- (173) Лишь внутри отдельных околотков люди выходили по
утрам на небольшое расстояние от дома за хлебом, останавливали
встречных, несших молоко в бутылках, и толпой расспрашивали, где
они его достали. [ДЖ: 114]
c. chỉ thời gian:
- (174) Эти люди ворочали всем, как приказывала программа, и
начинание за начинанием, объединение за объединением становились
большевицкими. [ДЖ: 116]
d. chỉ nguyên nhân, ví dụ:
- (175) За товарищем Деминой из райсовета пролетка придет, -
сказала Галиуллина. [ДЖ: 121]
Giới từ под (dưới) ở cách công cụ dùng để chỉ địa điểm:
- (176) И так как никто не знал географии страны, под флагом
которой она пришвартовалась, было неизвестно, на каком языке
обратиться к ней. [ДЖ: 65]
- (177) Và vì không ai biết vị trí địa lý của xứ sở nàng tới thả neo, nên
không rõ nên nói với nàng bằng thứ tiếng nước nào. [BSZh: 91]
dùng trong các ngữ đoạn (под дождем / dưới mưa, под солнцем /
dưới nắng, под ясным небом / dưới bầu trời trong sáng, под руководством
/ dưới sự lãnh đạo, под водительством / dưới sự dẫn dắt, под знамением /
dưới ngọn cờ).
Giới từ между (меж - giữa) ở cách công cụ dùng để biểu hiện ý
nghĩa về địa điểm, ví dụ:
102
- (178) Нечеловеческим усилием воли, шатаясь и едва пробиваясь
сквозь сгрудившийся затор стоящих в проходе между скамейками,
Юрий Андреевич достиг задней площадки. [ДЖ: 283]
- (179) Bằng một nỗ lực phi thường của ý chí, chàng lảo đảo cố len
qua đám đông hành khách đứng chật ních cả lối đi giữa các hàng ghế, lần ra
được bậc lên xuống cuối toa. [BSZh: 421]
thể hiện mối quan hệ qua lại, ví dụ:
- (180) До сих пор считалось, что самое важное в Евангелии
нравственные изречения и правила, заключенные в заповедях, а для меня
самое главное то, что Христос говорит притчами из быта, поясняя
истину светом повседневности. В основе этого лежит мысль, что
общение между смертными бессмертно и что жизнь символична,
потому что она значительна. [ДЖ: 31]
- (181) Trước nay người ta cho rằng điều quan trọng nhất trong Kinh
Phúc âm là những châm ngôn luân lý và các luật lệ hàm chứa trong các điều
răn, nhưng đối với tôi, điều quan trọng nhất đó là cái mà Chúa Kitô đã diễn
tả bằng các dụ ngôn rút ra từ sinh hoạt thường ngày, khi người giảng giải
chân lý bằng ánh sáng chuyện thường ngày. Nền tảng của cái đó là tư tưởng
cho rằng sự giao tiếp giữa những người trần mắt thịt là bất tử, rằng đời
người mang tính tượng trưng, bởi vì nó có nhiều ý nghĩa. [BSZh: 39]
Trên đây là toàn bộ các giới từ đƣợc sử dụng ở cách công cụ để thể
hiện nhiều ý nghĩa khác nhau, không phải tất cả các giới từ này ở cách công
cụ đều thể hiện ý nghĩa công cụ, các giới từ này cũng có thể đƣợc sử dụng ở
các cách khác để thể hiện các ý nghĩa khác. Ngoài cách thể hiện trực tiếp ý
nghĩa công cụ thông qua biến đổi hậu tố, cách công cụ còn có thể kết hợp với
một số giới từ để thể hiện rõ hơn về ý nghĩa công cụ, đó có thể là nghĩa chủ
thể hành động, đối tƣợng hành động, công cụ hành động, thời gian hành động,
103
địa điểm hành động. Giới từ điển hình đó ở cách công cụ là giới từ с, под +
Сущ.творительный падеж. Xét một số ví dụ sau:
- (182) прыгать с парашютом (nhảy dù)
- (183) идти с палкой (đi bằng nạng)
- (184) петь с микрофоном (hát bằng micro)
- (185) мыть руки с мылом (rửa tay bằng xà phòng)
- (186) мыть голову с шампунем (gội đầu bằng dầu gội)
- (187) рассматривать инфузорию под микроскопом (quan sát côn
trùng dưới kính hiển vi)
- (188) идти под зонтом (đi dưới ô)
Nhiều ngƣời có thể cho rằng, giới từ с trong trƣờng hợp này mang
nghĩa vật cùng hành động, giới từ под mang nghĩa địa điểm hơn là nghĩa
công cụ. Tuy nhiên, xét về bản chất thì парашют (dù), палка (nạng),
микрофон (micro), мыло (xà phòng), шампун (dầu gội đầu), микроскоп
(kính hiển vi), зонт (ô) chính là những công cụ giúp thực hiện các hành động
прыгать (nhảy), идти (đi), петь (hát), мыть (rửa), рассматривать (quan
sát), идти (đi). Để kiểm định lại, chúng ta chỉ cần bỏ các giới từ này đi và
biến đổi các danh từ mang nghĩa công cụ này sang dạng thức cách công cụ thì
tất cả đều đúng về ngữ pháp và ngữ nghĩa.
- прыгать с парашютом = прыгать парашютом
- идти с палкой = идти палкой
- петь с микрофоном = петь микрофоном
- мыть руки с мылом = мыть руки мылом
- мыть голову с шампунем = мыть голову шампунем
- рассматривать инфузорию под микроскопом = рассматривать
инфузорию микроскопом
- идти под зонтом = идти зонтом
104
Tuy nhiên, không phải mọi trƣờng hợp đều thế, vậy nên, chúng ta có
thể kiểm định lại để đƣa ra kết luận:
- петь с учителем (hát với thầy giáo) (+) nhƣng петь учителем (-)
- идти под дождем (đi dưới mưa) (+) nhƣng идти дождем (-)
рассматривать инфузорию под деревом (quan sát côn trùng dưới
gốc cây) (+) nhƣng рассматривать инфузорию деревом (-)
Nhƣ vậy, không phải mọi kết hợp с, под + Сущ.творительный падеж đều
mang ý nghĩa công cụ. Điều kiện tiên quyết là các danh từ đi sau giới từ с và
под phải là các danh từ chỉ một công cụ, dụng cụ, thiết bị, vật dụng, chứ
không phải là các danh từ chỉ ngƣời (учитель), chỉ hiện tƣợng thiên nhiên
(дождь), chỉ địa điểm (дерево) ... Có nghĩa là:
Глагол + Сущ.инстр
=
Глагол + с / под + Сущ.инстр
Bảng 2.10: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ с, под
Ví dụ:
- (189) Там все сохранилось: обои кофейного цвета, изразцовая
печь с круглою отдушиной под медной крышкой на цепочке, и опись
инвентаря в черной рамке на стене. [ДЖ: 136]
- (190) Mọi thứ ở đó vẫn còn: giấy bồi tường màu cà phê, cái lò sưởi
bằng sứ có ống thông hơi tròn, đậy bằng một cái mũ đồng, ngoắc với một
đoạn dây xích nhỏ bản kê khai đồ đạc đóng khung đen móc vào tường.
[BSZh: 197]
- (191) По площадкам лепились отхожие будки и кладовые под
висячими замками. [ДЖ: 25]
- (192) Phía đầu cầu thang có phòng vệ sinh và gian chứa đồ với
những cái khoá treo lủng lắng. [BSZh: 32]
105
- (193) Погодите, я сам скажу, что я думаю. Я думаю, что если
бы дремлющего в человеке зверя можно было остановить угрозою, все
равно, каталажки или загробного воздаяния, высшею эмблемой
человечества был бы цирковой укротитель с хлыстом, а не
жертвующий собою проповедник. [ДЖ: 30]
- (194) Hượm đã, để tôi nói cho ông nghe quan niệm của tôi. Tôi thiết
nghĩ, giả dụ có thể chế ngự con thú đang nằm ngủ trong con người bằng cách
doạ bỏ từ đời này hoặc đày xuống địa ngục đời sau chăng nữa, thì biểu trưng
cao nhất của nhân loại vẫn là diễn viên dạy mãnh thú trong rạp xiếc với
chiếc roi cầm tay, chứ không phải là nhà truyền giáo giàu lòng hy sinh.
[BSZh: 39]
Ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện qua kết hợp giữa giới từ с, под +
Сущ.творительный падеж trong nhiều trƣờng hợp còn có thể đƣợc thay thế bằng
bằng giới từ в / на + Сущ.предложный падеж .Trƣờng hợp này sẽ đƣợc lƣợc khảo
ở phần tiếp theo. Có thể khẳng định rằng, hình thức cách (ở đây là cách công
cụ) có thể tham gia vào việc kiến tạo ý nghĩa ngữ pháp (ở đây là ý nghĩa công
cụ) nhƣng không có nghĩa là ý nghĩa ngữ pháp đó chỉ đƣợc tạo ra nhờ một
dạng thức cách. Nó có thể đƣợc tạo ra nhờ những cách kết hợp gắn với việc
phân chia ý nghĩa của cách với ý nghĩa gốc trong mối quan hệ kết hợp giữa
các hình thức biến đổi của từ. Việc lƣợc tả các cách kết hợp này trong tiếng
Nga sẽ đƣợc trình bày trong phần tiếp theo.
Phƣơng thức ngữ pháp sử dụng hƣ từ kết hợp với biến đổi hậu tố của
danh từ để thể hiện ý nghĩa công cụ là phƣơng thức phổ biến trong tiếng Nga.
Phƣơng thức này khá giống với phƣơng thức sử dụng hƣ từ trong tiếng Việt,
chỉ khác là, các danh từ trong tiếng Việt, khi kết hợp với các hƣ từ mang ý
nghĩa chỉ công cụ, không có sự biến đổi nào về mặt hình thái. Nội dung biểu
hiện ý nghĩa công cụ của các giới từ trong tiếng Nga cũng tƣơng tự nhƣ nội
106
dung biểu hiện ý nghĩa công cụ của các hƣ từ trong tiếng Việt: с - bằng / với,
под - bằng / dưới, в / на - trong / trên (mang nghĩa chỉ phƣơng tiện di chuyển
của ngƣời hoặc vật). Xét về mặt nội dung biểu hiện, ngƣời học ở cả hai ngôn
ngữ Việt - Nga có thể không gặp khó khăn gì, tuy nhiên, hình thái biến đổi
của danh từ sau giới từ vẫn là điểm gây trở ngại trong giao tiếp đối với ngƣời
học ở cả hai ngôn ngữ này.
2.2.2. Phương thức thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các phương tiện
không thuộc cách biểu hiện của cách công cụ
Ngoài phƣơng thức biến đổi phụ tố (ở dạng thức của cách công cụ), ý
nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ trong tiếng Nga còn đƣợc thể hiện bằng phƣơng
thức hƣ từ, cụ thể, đó là sử dụng giới từ. Có rất nhiều giới từ ở tất cả các cách
trong tiếng Nga thể hiện ý nghĩa chỉ công cụ thực hiện hành động. Các danh
từ đi sau các giới từ ở các cách khác đƣợc biến đổi theo các quy luật biến đổi
danh từ ở các cách đó, tính từ và đại từ cùng vậy. Phƣơng thức này đƣợc khái
quát bằng công thức sau:
Глагол + предлог + Сущ.инстр
trong đó Глагол_động từ
предлог_giới từ
Сущ._danh từ
инстр_công cụ
Bảng 2.11: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng các cách ngữ pháp khác
Trong tiếng Nga, với tính chất là những giới từ tham gia vào việc kiến
tạo và truyền tải ý nghĩa công cụ, có thể liệt kê ra rất nhiều nhƣ с помощю,
при помощи, посредством, на, по, через, благодаря, из, с, в, за, за счет,
при, под, от, о [115]. Sự đa dạng trong cách thức thể hiện ý nghĩa công cụ
107
của các giới từ trên có thể đƣợc lí giải “là do ý nghĩa công cụ là một phạm trù
nghĩa phổ quát, đƣợc tạo ra bởi các khách thể trong hoạt động thực tiễn khách
quan” (отношения инструментальности принадлежат к наиболее
универсальным семантическим категориям, воспроизводяшим за
кономерные связи объектов в реальном действительности [145: 250]).
Các giới từ này, khi chuyển nghĩa sang tiếng Việt, sẽ có những tƣơng ứng 1 -
1 về nghĩa so với các hƣ từ diễn đạt ý nghĩa công cụ, ví dụ nhƣ: с помощю -
với sự trợ giúp của, при помощи - trong điều kiện trợ giúp của,
посредством - bằng / bằng cách, на - trên (chỉ ý nghĩa di chuyển của các
phương tiện giao thông), по - trên bề mặt của, через - qua / thông qua,
благодаря - nhờ có, из - từ / bằng, с - bằng / với, в - trong (chỉ phương tiện di
chuyển), за, за счет - bằng, при - trong điều kiện trợ giúp của, под - dưới /
bằng, от - bằng / từ, о - bằng / trên.
2.2.2.1. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện sinh
cách (cách 2)
Sinh cách (cách 2) trong tiếng Nga đƣợc dùng trong tập hợp với danh
từ, tính từ, số từ và động từ. Trong quan hệ chi phối không giới từ, sinh cách
thƣờng đƣợc dùng kết hợp với danh từ để thể hiện ý nghĩa sở hữu (карандаш
брата - bút chì của anh trai, тетрадь сестры - quyển vở của chị gái); chỉ
chủ thể hành động (речь учителя - lời nói của thầy giáo, ответ ученика -
câu trả lời của học sinh, выступление делеготов - lời phát biểu của các đại
biểu); chỉ đối tƣợng của hành động (чтение книги - đọc sách, слушание
лекций - nghe giảng); chỉ đặc tính về chất của vật thể (Мальчик высокого
роста - chú bé cao lớn. Места поразительной красоты - những nơi tuyệt
đẹp); chỉ đặc tính của ngƣời hoặc vật thể (смелость героя - lòng dũng cảm
của người anh hùng, ум человека - trí tuệ của con người).
108
Trong kết hợp với dạng so sánh của tính từ, cách 2 thể hiện ý nghĩa
chỉ vật so sánh (Сестра прилеженее брата - chị gái chăm chỉ hơn anh trai.
Утро вечера мудренее - buổi sáng minh mẫn hơn buổi chiều).
Cách 2 đƣợc sử dụng kết hợp với các từ chỉ số lƣợng (два ученика - 2
cậu học sinh, пять ручек - 5 cái bút), những từ chỉ số lƣợng bất định (много
заводов - nhiều nhà máy, несколько статьей - một số bài báo), những từ
chỉ mức độ đo lƣờng (литр молока - một lít sữa, стакан воды - một cốc
nước).
Trong các kết hợp với động từ, cách 2 đƣợc sử dụng để chỉ một phần
của số lƣợng (Выпей воды - uống nước đi, Налей молока - rót sữa ra), để
chỉ đối tƣợng sau động từ cập vật có từ phủ định (Не видел этой картины -
Tôi chưa nhìn thấy bức tranh này).
Cách 2 còn đƣợc sử dụng trong các câu vô nhân xƣng (Сегодня нет
собрания - Hôm nay không họp), dùng để chỉ ngày tháng (Они приехали
двадцать пятого августа - họ đến đây ngày 25 tháng 8).
Cách 2 có các giới từ đặc trƣng là без (thiếu, không có), близ (gần),
вдоль (dọc theo), вместо (thay cho), вне (ở ngoài), внутри (ở trong), возле
(ở cạnh, gần), вокруг (vòng quanh, chung quanh), для (để, cho, dành cho), до
(đến, tới), из (từ, ra khỏi), из-за (vì), из-под (từ dƣới), кроме (ngoài ra, trừ),
мимо (ngang qua, bỏ qua), накануне (trƣớc, ngày hôm trƣớc), от (từ, vì,
khỏi), около (gần), после (sau), посреди (ở giữa), против (đối diện, ngƣợc lại),
ради (vì), среди (giữa, trong số), у (ở bên, cạnh), с (từ, vì), между (giữa).
Nhƣ vậy, sinh cách (cách 2) cũng nhƣ các giới từ đặc trƣng ở cách 2
không thể hiện ý nghĩa chỉ công cụ một cách rõ ràng. Tuy nhiên, một số giới
từ ở cách 2 khi kết hợp với các danh từ chỉ công cụ thực hiện hành động, tạo
ra các giới ngữ thể hiện ý nghĩa công cụ trong câu. Các trƣờng hợp này sẽ
đƣợc chúng tôi khảo cứu cụ thể dƣới đây.
109
a. Giới từ из / с
Thông thƣờng, giới từ из ở cách 2 thƣờng đƣợc sử dụng để chỉ địa
điểm xuất phát của chuyển động; nguồn gốc xuất xứ của tƣ liệu; vật liệu làm
nên vật thể; bộ phận của một khối nguyên vẹn và để chỉ nguyên nhân. Còn
giới từ с ở cách 2 thƣờng thể hiện các quan hệ không gian, quan hệ thời gian,
nguyên nhân, cơ sở của hành động. Nhƣng xét về bản chất, những chất liệu
hay vật liệu đó cũng chính là các công cụ tạo tác, tác thành nên một vật khác,
tạo ra một công cụ khác để thực hiện một hành động hay một chức năng khác.
Xét các ví dụ sau:
- (195) В номере горящую керосиновую лампу вынули из
резервуара, в котором она висела над обеденным столом, и перенесли за
дощатую перегородку, вонявшую клопами, на другую половину номера.
[ДЖ: 41]
- (196) Вдруг нечеловеческим усилием Тиверзин стряхнул с себя
клубок навалившихся тел и, вырвавшись от них, с разбега очутился у
двери. [ДЖ: 24]
Trong 2 ví dụ trên, резервуар là công cụ chứa / đựng горящую
керосиновую лампу và разбег là cách / phƣơng thức mà nhờ đó hành động
очутился thực hiện đƣợc. Kiểm định bằng công cụ cách, chúng tôi thu đƣợc
các kết quả:
- (195’) В номере горящую керосиновую лампу вынули
резервуаром, в котором она висела над обеденным столом, и перенесли
за дощатую перегородку, вонявшую клопами, на другую половину
номера. (+)
- (196’) Вдруг нечеловеческим усилием Тиверзин стряхнул с себя
клубок навалившихся тел и, вырвавшись от них, разбегом очутился у
двери. (+)
110
Khi truyền tải ý nghĩa sang tiếng Việt, giới từ из / с thƣờng đƣợc dịch
tƣơng đƣơng với hƣ từ bằng / với hoặc đƣợc chuyển tải nghĩa bằng phƣơng
thức trật tự từ đã trình bày phía trên.
- (197) Phòng có hai gian, phân cách bằng một vách gỗ có mùi rệp.
Cây đèn dầu hoả treo phía trên bàn ăn ở gian ngoài đã được hạ xuống, mang
vào gian trong. [BSZh: 54]
- (198) Đột nhiên, bằng một cố gắng phi thường, Tiverzin gạt văng cả
chùm người đang bám chặt anh, tiện đà anh vọt ngay ra cửa. [BSZh: 30]
Phƣơng án dịch nhƣ trên của dịch giả Lê Khánh Trƣờng, theo chúng
tôi, khá chính xác, đảm bảo truyền đạt đƣợc nghĩa và sự tƣơng đƣơng về
phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong hai ngôn ngữ Nga - Việt.
Ý nghĩa công cụ thể hiện qua cấu trúc sử dụng giới từ из / с +
Родительный падеж (cách 2 – sinh cách) thƣờng đƣợc sử dụng trong lĩnh
vực quân sự nhƣ: стрелять из пушек, из лука, из автомата, из
пистолета, палить из всех видов оружия, «мочить» из всех калибров,
«завалить» из «калаша», поливать из водомета, ...; các trang thiết bị vật
tƣ nhƣ: изготовить из пластика, из смеси сверхпрочного
синтетического материала, из стали и стекловолокна, из натуральной
коэси, строить из дерева, сделать из подручных средств, испечь из
муки, ... стрелять из ружья (пулями), стрелять из лука (стрелами),
плести венок из цветов, поливать цветы из лейки (водой), пить из
стакана воду, опрыскивать растение химикатами из пульверизатора,
производить съемку с самолета (со спутника, с теплохода, заходить в
Интернет с компьютера, получать информацию со спутников,
самолетов, кормить ребенка с ложечки (кашей), ...
111
Nhƣ vậy, cách diễn đạt ý nghĩa công cụ sử dụng из / с +
Родительный падеж trong tiếng Nga có tồn tại. Điều này giúp chúng tôi có
thể khái quát hóa đƣợc nhƣ sau:
Глагол + с / из + Сущ.родительный падеж_инстр
=
Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр
Bảng 2.12: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ с / из
b. Giới từ от
Giới từ от (hay ото) ở cách 2 thƣờng thể hiện ý nghĩa chỉ địa điểm
xuất phát trong các mối quan hệ thời gian và địa điểm; ngƣời hoặc vật từ đó
hành động xuất phát và mang ý nghĩa chỉ nguyên nhân. Ngoài ra, ý nghĩa ngữ
pháp công cụ cũng đƣợc thể hiện qua cấu trúc sử dụng giới từ от +
Родительный падеж (cách 2 – sinh cách). Ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện
qua cấu trúc này thƣờng mang tính kết hợp giữa yếu tố công cụ với yếu tố địa
điểm, nhƣ: запитать от аккумулятора (sạc điện bằng ắc-quy), зарядить
от сети (sạc điện), колорировать от руки (tô màu), погибнуть от чьей-
либо руки (chết dưới / bằng bàn tay của ai), заполнять от руки (làm đầy
bằng tay), «вбивать» от руки (―lái‖ bằng tay), ... Khi chuyển dịch sang
tiếng Việt với ý nghĩa chỉ công cụ, giới từ от (hay ото) ở cách 2 thƣờng
tƣơng ứng với hƣ từ bằng, với, qua.
Глагол + от + Сущ.родительный падеж_инстр
=
Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр
Bảng 2.13: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ от
Ví dụ:
- (199) Противоречивые чувства теснились в груди у него. У
Юры сжималось сердце от их неиспытанной силы. [ДЖ: 42]
112
- (200) Những cảm xúc trái ngược nhau dâng lên trong ngực, dồn ép
trái tim cậu với một sức mạnh chưa từng thấy. [BSZh: 55]
- (201) От рыбака Юрий Андреевич узнал, что река, перед
которой он стоял, — знаменитая судоходная Рыньва, что
железнодорожная станция близ реки — Развилье, речное фабричное
предместье города Юрятина. [ДЖ: 144]
- (202) Qua lời người dân chài ấy, Zhivago được biết rằng chàng
đang đứng bên dòng sông Ryva trứ danh, tàu bè có thể đi lại dễ dàng, rằng
nhà ga kia tên là Razvilie, một vùng kỹ nghệ ven sông ở ngoại ô thành phố
Yuratin. [BSZh: 210]
c. Giới từ за счет
Giới từ за счет + Родительный падеж thƣờng thể hiện ý nghĩa
công cụ với tính chất là một loại tài sản, hàng hóa, vật chất có giá trị trao đổi:
ремонтировать за счет средств инвесторов (sửa đổi bằng vốn của các
nhà đầu tư), разбогатеть за счет собственного ума (làm giàu bằng trí
óc), погашать стоимость за счет личных средств (nâng giá trị bằng vốn
cá nhân), улучшать жилищные условия за счет города (cải thiện điều kiện
sống bằng ngân sách thành phố), умножить богатства за счет
бюджетных средств (làm giàu bằng ngân sách), ... ;
d. Giới từ с помощью, при помощи, посредством, путем, методом
- (203) Николай Николаевич жил в Лозанне. В книгах, выпущенных
им там по-русски и в переводах, он развивал свою давнишнюю мысль об
истории как о второй вселенной, воздвигаемой человечеством в ответ на
явление смерти с помощью явлений времени и памяти. Душою этих
книг было по-новому понятое христианство, их прямым следствием —
новая идея искусства. [ДЖ: 44]
113
- (204) Cha Nicolai đang sống ở Lozana. Trong những cuốn sách cha
đưa xuất bản tại đó, bằng tiếng Nga hay tiếng nước khác, cha đã phát triển tư
tưởng cố cựu của cha về lịch sử như về một vũ trụ thứ hai do loài người tạo
dựng, nhờ hai hiện tượng “thời gian” và “ký ức” để trả lời cho hiện tượng
“chết”. Linh hồn của các cuốn sách đó là Kitô giáo, được hiểu theo kiểu mới;
còn hậu quả trực tiếp của chúng là tư tưởng mới về nghệ thuật. [BSZh: 59]
- (205) Их общая цель есть свержение ненавистного народу
самодержавия адмиралов и атаманов и установление власти советов
крестьян и солдат посредством всенародного вооруженного
восстания. [ДЖ: 185]
- (206) Mục tiêu chung của họ là lật đổ ách chuyên chế của bọn đô đốc
và bọn ataman bị nhân dân thù ghét, thiết lập chính quyền Xô viết của nông
dân và binh lính, bằng một cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang. [BSZh: 273]
- (207) Путем добавочных настилов в мастерской были
выгаданы междуярусные антресоли. [ДЖ: 277]
- (208) Người ta dùng ván làm thêm một cái gác lửng giữa hai ngăn.
[BSZh: 412]
Nhƣ đã trình bày ở phía trên, các giới từ ở cách 2 không phải là những
giới từ đặc trƣng nhất thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga. Tuy nhiên,
cũng có vài giới từ ở cách 2 khi kết hợp với các danh từ chỉ công cụ thì cũng
thể hiện ý nghĩa công cụ. Khi chuyển dịch sang tiếng Việt, ngƣời học vẫn
thƣờng sử dụng hƣ từ bằng, bằng cách hoặc dùng phƣơng pháp trật tự từ với
các vị từ dùng, lấy ... để truyền tải ý nghĩa công cụ.
2.2.2.2. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện tặng
cách (cách 3)
114
Tặng cách (cách 3) đƣợc sử dụng khi kết hợp với danh từ, tính từ và
đặc biệt là với động từ. Cách 3 kết hợp với động từ hoặc danh từ để chỉ ngƣời
hoặc vật thể tiếp nhận hành động, ví dụ:
- (209) Вчера я писал письмо сестре. (Hôm qua tôi viết thư cho chị gái)
kết hợp với các động từ thể hiện sự vui mừng, ngạc nhiên, ...
- (210) Радоваться письму, успехами, хорошей погоде (mừng vì
có thư, vì những thành tích tốt, vì thời tiết tốt)
Cách 3 sử dụng trong câu vô chủ để chỉ ngƣời hành động hoặc trạng
thái của nhân vật hành động, ví dụ:
- (211) Вам нужно закончить работу в срок. (Anh phải hoàn thành
công việc đúng thời hạn).
Cách 3 kết hợp với hình thái chƣa chia của động từ để chỉ sự cần thiết
phải làm gì đó, ví dụ:
- (212) Всем сотрудникам собраться в 5 часов. (Tất cả cộng tác
viên tập trung vào lúc 5 giờ)
Cách 3 kết hợp với động từ vô chủ có tận cùng là -ся, kết hợp với hình
thái chƣa chia của động từ trong thành phần của vị ngữ tập hợp, ví dụ:
- (213) Ребенку не спится. (Đứa trẻ không ngủ được.)
- (214) Мне хочется поехать в горы. (Tôi muốn đi lên núi.)
Cách 3 kết hợp với các trạng từ dùng trong thành phần vị ngữ tập hợp,
trạng từ là từ phủ định, ví dụ:
- (215) Брату весело, сестре грустно. (Anh trai vui, chị gái buồn.)
- (216) Сегодня брату некуда идти. (Hôm nay anh trai chẳng có
nơi nào mà đi cả.)
Cách 3 dùng với một số tình từ, ví dụ:
- (217) Отец, верный своему обещанию, свдил сына в зоопарк.
(Người bố giữ đúng lời hứa, đã dẫn con trai đi vườn bách thú.)
115
- (218) Я вам очень благодарен. (Tôi rất biết ơn anh.)
Cách 3 dùng để nói về tuổi tác.
- (219) Брату 30 лет, сестре 28 лет, а мне 25 лет. (Anh trai 30
tuổi, chị gái 28 tuổi, còn tôi 25 tuổi.)
Về giới từ, cách 3 có các giới từ đặc trƣng sau: к (đến, tới), благодаря
(nhờ, nhờ có), согласно (theo), навстречу (về phía, đón gặp), наперекор
(trái với, ngược với), вопреки (trái với, bất chấp, mặc dù), по (theo, vì).
Tƣơng tự nhƣ ở cách 2, cách 3 và các giới từ ở cách 3 cũng không thể
hiện nhiều ý nghĩa công cụ hành động. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp
dƣới đây, vai nghĩa công cụ vẫn đƣợc thể hiện thông qua giới từ по và
благодаря.
a. Giới từ по
Giới từ по trong tiếng Nga mang ý nghĩa đặc trƣng chỉ chuyển động
theo bề mặt nào đó; thể hiện ý nghĩa vỗ (đánh) vào một vật thể nào đó; chỉ địa
điểm và sự dịch chuyển từ vị trí này sang vị trí khác; thể hiện ý nghĩa lặp đi
lặp lại nhiều lần vào một thời gian nhất định; thể hiện ý nghĩa chỉ nguyên
nhân, nghề nghiệp, chuyên môn; quan hệ thân thuộc gần gũi; thể hiện sự phân
chia vật theo từng ngƣời hoặc từng đơn vị nhỏ lẻ; ... Ý nghĩa công cụ thể hiện
qua giới từ по + дательный падеж (cách 3 – tặng cách) đƣợc sử dụng để
chỉ công cụ mang tính chỉ dẫn, kết nối qua dây, cách thức để thực hiện hành
động (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) nhƣ: по видеоплееру, по проводам, по
эскалатору, по кабелю, по рации, по лестнице-времянке, по телефону,
по телевизору,... Trong trƣờng hợp này, chúng ta cần mặc định hiểu rằng,
các hệ thống kết nối, thông tin liên lạc, truyền dẫn, thiết bị liên lạc, thiết bị
nghe nhìn ... là công cụ phục vụ cho đời sống hàng ngày của con ngƣời, tuy
nó có thể không đƣợc thể hiện ra bằng ngôn ngữ nhƣng vai trò là một công cụ
thì không cần phải bàn luận nhiều: передать по электронной почте, по
116
спутниковому сигналу, по Сети, по Интернету, разыскивать по базам
данных, отправить по почте, ехать по железной дороге, ... Số lƣợng các
thiết bị, công cụ trong lĩnh vực vô tuyến, truyền hình, phát thanh, truyền dẫn,
mạng internet, mạng xã hội, số hóa, ... có thể sẽ liên tục tăng lên do sự phát
triển của khoa học công nghệ hiện đại, tuy nhiên, cách thức thể hiện ý nghĩa
công cụ thông qua việc sử dụng giới từ по + дательный падеж thì vẫn đƣợc
giữ nguyên. Ngoài ra, ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện qua по + дательный
падеж còn đƣợc dùng để chỉ những vật dụng mang tính chất đo lƣờng, tính
toán nhƣ: начертить отрезок по линейке, играть пьесу по нотам,...
Chúng tôi vẫn sử dụng cách công cụ là phƣơng tiện để kiểm định lại và kết
quả thu đƣợc là: Говорить видеоплеером, проводами, эскалатором,
кабелей, рацией, лестнице-времянкой, телевизором, передать
электронной почтой, спутниковым сигналом, Сетями, Интернетом,
разыскивать базами данных, отправить почтой, ехать железной
дорогой, начертить отрезок линейкой, играть пьесу нотами,
разговаривать телефоном, ... Trong tác phẩm Bác sĩ Zhigavo, theo thống
kê của chúng tôi, giới từ по ở tặng cách (cách 3) xuất hiện 519 lần, trong đó,
ý nghĩa công cụ thể hiện qua giới từ по xuất hiện 50 lần (khoảng 10%) - một
tần suất không nhỏ.
- (220) Остроградского, то есть глухонемым, с невероятным
совершенством выучившимся говорить не по слуху, а на глаз, по
движению горловых мышц учителя, и таким же образом понимавшим
речь собеседника. [ДЖ: 277]
- (221) Ostrogadski, nghĩa là một người câm điếc đạt đến kết quả khó
tưởng tượng trong việc học nói không phải nhờ tai nghe, mà bằng cách
nhìn các cử động bắp thịt ở cổ của thầy dạy, và qua đó hiểu được lời nói của
người tiếp chuyện. [BSZh: 138]
117
- (222) Это наполняло ее ровным шумом, точно перед Иваном
Ивановичем и Николаем Николаевичем вдоль изгороди текла вода по
трубе. [ДЖ: 12]
- (223) Cứ mỗi bước đi, từng bầy chim sẻ từ trong các bụi tú cầu lại
bay ra trước mặt họ thành từng đợt đều đều, tạo nên tiếng rào rào không
ngớt, nghe như tiếng nước chảy trong cái ống máng đặt dưới chân giậu.
[BSZh: 13]
Nhƣ vậy:
Глагол + по + Сущ.дательный падеж_инстр
=
Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр
Bảng 2.14: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ по
b. Giới từ благодаря
Giới từ благодаря là giới từ đặc trƣng chỉ có ở cách 3. Ý nghĩa công
cụ thể hiện qua cấu trúc sử dụng giới từ благодаря + Дательный падеж
(cách 3 – tặng cách) thƣờng đƣợc sử dụng khi công cụ là tác nhân mà nhờ đó
một vật thể, một thiết bị nào đó hoạt động đƣợc, vận hành đƣợc, một hoạt
động nào đó đƣợc thực hiện, ví dụ nhƣ: благодаря железякам, благодаря
электроусилителю, благодаря конструкции, благодаря огромной силе,
благодаря Интернету, благодаря русскому року благодаря применению
цифровой технологии, благодаря упорной настойчивости, благодаря
автоматической настройке, благодаря многочасовым репетициям,
благодаря язвительным словоизвержениям, ...
Глагол + благодаря + Сущ.дательный падеж_инстр
=
Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр
Bảng 2.15: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ благодаря
118
- (224) Благодаря фисташковым гардинам, зеркальным бликам
на крышке рояля, аквариуму, оливковой мебели и комнатным
растениям, похожим на водоросли, этот низ производил впечатление
зеленого, сонно колышущегося морского дна. [ДЖ: 37]
- (225) Với những cái màn gió màu xanh, chiếc dương cầm bóng
lộn, bể nuôi cá vàng, đồ gỗ màu ôliu và những cây cảnh giống như rong
biển, tầng dưới tạo ra ấn tượng một vùng đáy biển xanh xanh với những
luồng nước chập chà chập chờn ru ngủ. [BSZh: 49]
- (226) Не потому чтобы он был так высок и статен, а
благодаря выпиравшей из него живости и таланту гость занял
собою, своим искрящимся взглядом и своей умною усмешкою
полкомнаты. В ней стало теснее. [ДЖ: 59]
- (227) Vị khách chiếm hết nửa căn phòng bằng cái nhìn rạng rỡ và
nụ cười thông minh, không phải vì tầm vóc cao lớn, mà là nhờ tài năng và sự
hoạt bát của ông. [BSZh: 82]
Trong số các giới từ ở cách 3 có thể hiện ý nghĩa công cụ, giới từ
благодаря mang ý nghĩa rõ nét hơn cả. Giới từ này, khi chuyển dịch sang
tiếng Việt, có thể tƣơng đƣơng với hƣ từ nhờ, nhờ vào, nhờ có, với, ... nhƣ đã
trình bày ở 2.1. Giới từ по cũng có thể tƣơng đƣơng với hƣ từ qua, trong của
tiếng Việt. Nhƣ vậy, có sự tƣơng ứng giữa giới từ ở cách 3 trong tiếng Nga và
hƣ từ trong tiếng Việt để thể hiện ý nghĩa công cụ. Điểm khác biệt vẫn là ở
chỗ: trong tiếng Nga, sau giới từ, các danh từ bắt buộc phải biến đổi hậu tố ở
cách 3 theo quy luật biến đổi danh từ, còn trong tiếng Việt, danh từ vẫn không
thay đổi gì về hình thái.
2.2.2.3. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện đối
cách (cách 4)
119
Đối cách (cách 4) kết hợp với động từ cập vật để chỉ đối tƣợng mà
hành động hƣớng tới, kết hợp với động từ để chỉ hành động bao trùm lên một
thời gian nhất định, một khoảng không gian nhất định. Cách 4 cũng có khá
nhiều các giới từ đặc trƣng nhƣ giới từ про (về), сквозь (qua, xuyên qua),
через (qua), в (đến, tới, vào, trong), на (đến, tới), за (ra phía sau, để, vì), под
(xuống phía dưới), по, с (bằng), о (vào). Trong số các giới từ này, chỉ một số
giới từ sau đây khi kết hợp với các danh từ chỉ công cụ mới tạo ra ý nghĩa
công cụ trong tiếng Nga.
a. Giới từ через
Ngoài ý nghĩa chỉ không gian và thời gian, ý nghĩa nổi bật của giới từ
через là thông qua ai hoặc nhờ vào cái gì đó để hành động đƣợc thực hiện. Ý
nghĩa công cụ thể hiện khá rõ qua giới từ này. Công cụ trong trƣờng hợp này
thƣờng là các thiết bị kết nối của công nghệ hiện đại nhƣ подключиться
через сетевой шнур, через адаптер, через адаптер Bluetooth, ...; các thiết
bị nghe nhìn nhƣ: смотреть через объектив, через закопченное стекло,
через мушку прицела, через лупу, через сильный телескоп, через
фотообъектив, ...; các môi trƣờng ảo mang tính chất trung gian nhƣ:
отправить через Сеть, продавать через Веб-сеть, через Интернет,
оформить через Интернет-сайт, ...; ngƣời hay nhóm ngƣời đƣợc coi nhƣ
cầu nối trong giao tiếp nhƣ: поддерживать связь через друзей, донести
истины через героев, раздобыть через верных друзей, рассказать через
реальных людей, скупить через близких людей, ... ; các cơ quan, tổ chức
đóng vai trò trung gian hoạt động giữa con ngƣời với con ngƣời, giữa con
ngƣời với các tổ chức và giữa các tổ chức với nhau nhƣ: прикрепиться через
страховые компании, расплатиться через Сбербанк, бронировать через
турфирмы, оформить через отдел подписки, заказать через пункт
коллективного доступа, заявить через Интернет-магазин, поддержать
120
через фонд «Триумф», получить через учреждение, осуществлять через
органы народного представительства, защищать через суд, ...
просенять муку через сито, налить раствор в колбу через воронку,
рассматривать местность через бинокль, говорить через микрофон,
демонстрировать слайды через диапроектор,…
Để kiểm định, chúng ta sử dụng cách công cụ không đi kèm giới từ,
chỉ biến đổi vĩ tố của thành phần bổ ngữ sang cách công cụ, bỏ giới từ через,
chúng ta vẫn có đƣợc các cách nói hoàn toàn mới (hình thức ngữ pháp thay
đổi) và nghĩa không thay đổi: подключиться сетевым шнуром,
адаптером, адаптером Bluetooth, смотреть объективом, закопченное
стеклом, мушкой прицела, лупой, сильным телескопом,
фотообъективом, отправить Сетями, продавать Веб-сетями,
Интернетом, оформить Интернетом-сайтом, поддерживать связь
друзями, донести истины героями, раздобыть верными друзями,
рассказать реальными людями, скупить близкими людями,
прикрепиться страховыми компаниями, расплатиться Сбербанком,
бронировать турфирмом, оформить отделом подписки, заказать
пунктом коллективного доступа, заявить Интернет-магазином,
поддержать фондом «Триумф», получить учреждениями,
осуществлять органами народного представительства, защищать
судом, просеять муку ситом, налить раствор в колбу воронкой,
рассматривать местность биноклями, говорить микрофоном,
демонстрировать слайды диапроектором, ... Trong tác phẩm Bác sĩ
Zhigavo, giới từ через xuất hiện 145 lần, trong đó có 15 lần mang ý nghĩa chỉ
công cụ thực hiện hành động. Khi chuyển dịch sang tiếng Việt với ý nghĩa chỉ
công cụ, giới từ через thƣờng tƣơng ứng với các hƣ từ qua, thông qua.
121
- (228) Вы не поверите, что этой мебели, этих шкапов-буфетов,
через наши руки прошло в смысле лака или, наоборот, какое дерево
красное, какое орех. [ДЖ: 42]
- (229) Nói bà không tin, chứ chả thiếu gì các loại bàn ghế, tủ quần
áo, tủ buýp phê, đã qua tay cháu, ấy là nói chuyện đánh véc-ni hoặc phân
biệt đâu là gỗ hồng sắc, đâu là gỗ hồ đào. [BSZh: 57]
- (230) Этот союз городской и деревенской бедноты осуществим
только через советы. [ДЖ: 185]
- (231) Khối liên minh ấy giữa dân nghèo thành thị và nông thôn chỉ
có thể thực hiện được thông qua các Xô viết. [BSZh: 273]
Nhƣ vậy, có thể rút ra đƣợc kết luận sau:
Глагол + через + Сущ.винительный падеж_инстр
=
Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр
Bảng 2.16: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ через
b. Giới từ за
Ngoài những cấu trúc có sử dụng các giới từ ở các cách nhƣ đã trình
bày ở trên, trong tiếng Nga cũng còn có một vài giới từ khác cũng tham gia
tạo nên nét nghĩa công cụ, tuy đƣợc sử dụng rất hạn chế nhƣng cũng đủ làm
phong phú thêm cho phƣơng thức sử dụng giới từ để thể hiện ý nghĩa công cụ,
chẳng hạn nhƣ các giới từ за, за счет, о, при, ... Giới từ за + Винительный
падеж thƣờng chỉ dùng hạn chế với danh từ nhƣ деньги và biến danh từ
деньги trở thành một công cụ để thanh toán, đặt hàng, mua bán, trao đổi, giải
quyết các công việc, ví dụ nhƣ: купить за деньги, заказать за деньги,
урегулировать за деньги, решить вопрос за деньги, ... Ngoài ra, trong một
số trƣờng hợp cụ thể khác, giới từ за cũng đƣợc dùng với tƣ cách là một
phƣơng tiện ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga, ví dụ:
122
- (232) Все, кроме Татьяны и нескольких солдат, обступили
возницу, упрашивая его не распрягать, и повезти их, куда они укажут,
конечно, за деньги. [ДЖ: 294]
- (233) Tất cả mọi người, trừ Tania và mấy anh chiến sĩ, liền vây
quanh bác ta, nài nỉ bác ta đừng tháo ngựa ra,mà hãy chở họ đến nơi họ cần,
họ sẽ trả bằng tiền tử tế, đương nhiên. [BSZh: 438]
- (234) ... физически разрешимые задачи, вознаграждающие за
исполнение радостью и удачей ... [ДЖ: 163]
- (235) ... được thưởng công bằng niềm vui và kết quả rõ rệt ...
[BSZh: 238]
- (236) ... она и взяла его за руку, чтобы сосчитать пульс [ДЖ: 77]
- (237) Nàng cầm lấy tay anh ta bắt mạch ... [BSZh: 108]
c. Giới từ в, на
Ý nghĩa chính của giới từ в, на + Винительный падеж là thể hiện
phƣơng hƣớng của chuyển động. Bên cạnh đó, trong một số trƣờng hợp cụ
thể, đứng sau một số động từ, kết cấu này cũng mang nét nghĩa chỉ công cụ
thực hiện hành động, chẳng hạn nhƣ: ловить рыбу на удочку, набрать
петли на спицы, закутаться в одеяло, ...
- (238) Остроградского, то есть глухонемым, с невероятным
совершенством выучившимся говорить не по слуху, а на глаз, по
движению горловых мышц учителя, и таким же образом понимавшим
речь собеседника. [ДЖ: 98]
- (239) Ostrogadski, nghĩa là một người câm điếc đạt đến kết quả khó
tưởng tượng trong việc học nói không phải nhờ tai nghe, mà bằng cách nhìn
các cử động bắp thịt ở cổ của thầy dạy, và qua đó hiểu được lời nói của
người tiếp chuyện. [BSZh: 138]
123
- (240) Другая, в черной шелковой кофте, вероятно, страдала
грудью, потому что почти не отнимала носового платка от рта и
носа, говорила и дышала в платок. [ДЖ: 169]
- (241) Cô thứ hai mặc áo sơ mi lụa đen, chắc chắn bị bệnh đau ngực,
và hầu như lúc nào cũng áp chiếc khăn tay vào miệng và mũi, nói và thở đều
qua chiếc khăn. [BSZh: 248]
- (242) Всем существом своим он хотел схватить мальчика на
руки, прижать к груди и бежать с ним без оглядки куда глаза глядят.
[ДЖ: 227]
- (243) Lòng đau như cắt, Zhivago muốn lấy hết sức bình sinh bồng
con lên, ghì nó vào lòng mà chạy thục mạng đến bất cứ đâu. [BSZh: 336]
Giới từ ở cách 4 khá nhiều, nhƣng để thể hiện ý nghĩa công cụ trong
tiếng Nga thì chỉ có một vài giới từ, tiêu biểu nhất là giới từ через. Giới từ
này có nét nghĩa tƣơng đồng với hƣ từ qua, thông qua nhƣ đã trình bày ở
phần 2.1.1.2
2.2.2.4. Dùng giới từ và biến đổi phụ tố theo phụ tố biểu hiện giới
cách (cách 6)
Giới cách (cách 6) là cách bắt buộc phải dùng với giới từ. Giới từ chỉ
dùng ở cách 6 là при (khi, gần). Bên cạnh đó, cách 6 còn có một số giới từ
chung với các cách khác nhƣ в (ở, trong, vào), на (ở, trên), о (về), по (sau
khi). Trong số các giới từ trên, chỉ có giới từ на và в mang ý nghĩa chỉ công
cụ khi kết hợp với các danh từ mang tính chất là phƣơng tiện di chuyển của
ngƣời hoặc vật.
a. Giới từ на
Cấu trúc với giới từ на + предложный падеж (cách 6 – giới cách)
trong tiếng Nga đƣợc sử dụng tƣơng đối phổ biến để thể hiện ý nghĩa ngữ
pháp công cụ, trong đó, chủ yếu chỉ các công cụ với tƣ cách là các phƣơng
124
tiện di chuyển, vận chuyển, vận tải của con ngƣời, ví dụ nhƣ: лететь на
самолете (đi máy bay), плыть на теплоходе (đi tàu), кататься на лыжах
(trượt tuyết), подъехать на танке (lái xe tăng), ехать в автобусе (đi xe
buýt), пахать поле на тракторе (cày ruộng bằng máy cày), косить траву
на косилке (cắt cỏ bằng máy), спускаться на парашюте (nhảy dù), вязать
на спицах (đan)...
- (244) Надо будет вдвоем на салазках. [ДЖ: 86]
- (245) Phải hai người mới đẩy nổi một chiếc xe bằng ván trượt.
[BSZh: 167]
- (246) Если бы где-то вдали, на краю света, чудом затеплилось
окно нашего дома с лампою и книгами на Пашином письменном столе,
я бы, кажется, на коленях ползком приползла туда. [ДЖ: 233]
- (247) Giả dụ ở một nơi xa xăm nào đó, tận cùng trời cuối đất, nhờ
một phép lạ, chợt le lói ánh đèn cửa sổ nhà em, soi xuống các cuốn sách trên
bàn viết của Pasa, thì có lẽ em sẽ tới đó, dù phải bò lết bằng hai đầu gối.
[BSZh: 346]
Ngoài ra, cấu trúc на + предложный падеж còn đƣợc dùng để chỉ ý
nghĩa công cụ với tƣ cách là các nhạc cụ, thiết bị máy móc giúp con ngƣời
làm việc và lao động nhƣ: играть на контрабасе (chơi ghita bass),
обрабатывать на компьютере (xử lí trên máy tính), шить на швейной
машинке (may bằng máy khâu), распечатывать на ксероксе (photocopy),
зиписывать на цифровой видеомагнитофон (ghi CD), снимать на
кинокамеру (quay phim, video), ...
- (248) В ней ставили самовары, раскладывали по тарелкам
кушанья, поднятые из кухни на ручном подъемнике, спускали грязную
посуду судомойке. [ДЖ: 86]
125
- (249) Đây là nơi đặt các ấm samova, dọn vào bát đĩa các món ăn từ
dưới nhà bếp chuyển lên bằng một cái cần trục quay tay, chuyển bát đĩa bẩn
xuống để rửa. [BSZh: 122]
Cấu trúc на + предложный падеж còn hay đƣợc sử dụng trong hoạt
động lao động sản xuất với tính chất là công cụ đầu vào giúp các loại máy
móc hoạt động đƣợc nhƣ: работать на жидком кислороде, керосине,
бензине, на газовом топливе, ... (hoạt động nhờ oxy hóa lỏng, xăng, dầu,
khí ga)
Việc sử dụng cấu trúc sử dụng giới từ на + предложный падеж trên
thực tế hoàn toàn có thể đƣợc thay thế bằng cách công cụ mà không cần giới
từ nào nhƣ:
- вдвоем на салазках = вдвоем салазками
- на ручном подъемнике = ручным подъемником
- подниматься на эскалаторе = подниматься эскалатором
- спуститься на парашюте = спуститься парашютом,
- обработать на компьютере = обработать компьютером, ...
Việc sử dụng giới cách hay công cụ cách trong trƣờng hợp này hoàn
toàn phụ thuộc vào sự linh hoạt và khả năng ngôn ngữ của ngƣời biết tiếng
Nga cả ở góc độ là ngƣời bản ngữ hoặc là ngƣời học ngoại ngữ. Nhƣ vậy:
Глагол + на + Сущ.предложный падеж_инстр
=
Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр
Bảng 2.17: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ на
b. Giới từ в
Ý nghĩa công cụ cũng đƣợc thể hiện thông qua việc sử dụng giới từ в
+ Предложный падеж (cách 6 – giới cách). Cấu trúc này thƣờng đƣợc
dùng để mô tả các tình huống có yếu tố công cụ nhƣ: рассматривать в
126
специальный бинокль, сжимать в руках портфель, брать в руки
деньги,... Đôi khi, dạng thức này có thể đƣợc thay thế bằng dạng thức với
giới từ на + предложный падеж hoặc đƣợc thể hiện trực tiếp bằng cách
công cụ mà không sử dụng giới từ nào để thể hiện công cụ là một phƣơng tiện
vận tải: инеалидной коляске, в спецфургоне, в микроавтобусе, перевозить
в спецфургоне / перевозить спецфургоном, ехать инвалидной коляске,
ехать инвалидной коляской, ... взбить белки в миксере, мыть посуду в
резиновых перчатках, читать книгу в очках, плавать в ластах, ...
Глагол + в + Сущ.предложный падеж_инстр
=
Глагол + Сущ.творительный падеж_инстр
Bảng 2.18: Sự thể hiện ý nghĩa công cụ bằng giới từ в
Ví dụ:
- (250) Ты как-то превратно, недобрыми глазами смотришь на
меня, ты видишь меня искаженно, как в кривом зеркале. [ДЖ: 241]
- (251) Anh cứ nhìn em bằng con mắt ác ý, sai thực tế, anh thấy em
méo mó như nhìn qua một chiếc gương cười. [BSZh: 357]
- (252) Знакомое, перебеленное в новых видоизменениях было
записано чисто, каллиграфически. [ДЖ: 254]
- (253) Loại bài cũ được sửa chữa, được chép lại sạch sẽ bằng nét
chữ nắn nót. [BSZh: 278]
c. Giới từ при
Giới từ при + Предложный падеж thể hiện công cụ nhƣ một điều
kiện để trao đổi, hay mang tính quá trình, nhƣ: обмен электронным
визиткам при рукопожатии, ... Để thể hiện ý nghĩa công cụ, giới từ при
dùng rất hạn chế. Khi chuyển dịch sang tiếng Việt, giới từ при thƣờng đƣợc
dịch là trong điều kiện.
127
- (254) Если вы спалили еще не все мои свечи — прекрасные,
стеариновые, не правда ли? — давайте поговорим еще чуть-чуть.
Давайте проговорим сколько вы будете в состоянии, со всею роскошью,
ночь напролет, при горящих свечах. [ДЖ: 265]
- (255) Nếu ông chưa đốt hết các cây nến của tôi, những cây nến thật
tuyệt, bằng bạch lạp chính hiệu, phải vậy không ông, thì ta hãy trò chuyện
chừng nào ông còn chịu đựng được, với tất cả sự xa xỉ, suốt đêm, dưới ánh
nến. [BSZh: 394]
- (256) Что от вида раненых можно упасть в обморок, он
проверил на себе при поездке в летучий отряд Красного Креста,
который работал к западу от них, на полевом перевязочном пункте
почти у самых позиций. [ДЖ: 72]
- (257) Về chuyện có thể ngất đi khi nhìn thấy thương binh, anh đã
nghiệm thấy qua chính bản thân mình, qua chuyến thăm một chi đội lưu
động của Hội chữ thập đỏ đang hoạt động xa hơn về phía Tây, tại một trạm
cứu thương đặt gần tiền duyên. [BSZh: 101]
Ý nghĩa công cụ đƣợc thể hiện rõ nét nhất ở giới cách là khi kết hợp
với giới từ на. Sự kết hợp giữa giới từ на và giới cách để thể hiện ý nghĩa chỉ
công cụ xuất hiện khá phổ biến trong tiếng Nga. Đặc biệt, khi thể hiện cách
thức di chuyển trên một phƣơng tiện giao thông, xu hƣớng sử dụng kết hợp
này còn nhiều hơn cả cách công cụ. Giới từ на kết hợp với giới cách có sự
tƣơng đƣơng về nghĩa với hƣ từ trên của tiếng Việt trong việc thể hiện ý
nghĩa công cụ.
Nhƣ vậy, ngoài cách công cụ và các giới từ ở cách công cụ, trong
tiếng Nga vẫn còn nhiều phƣơng tiện khác biểu đạt ý nghĩa công cụ. Đó là các
giới từ ở các cách không phải là cách công cụ. Các giới từ này tƣơng đƣơng
về nghĩa với các hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt. Điều này tạo
128
ra những thuận lợi nhất định đối với ngƣời học hai ngôn ngữ Việt và Nga với
tƣ cách là các ngoại ngữ. Cách sử dụng giới từ ở tiếng Nga phức tạp hơn so
với cách sử dụng hƣ từ của tiếng Việt trong việc biểu đạt ý nghĩa công cụ do
phải biến đổi vĩ tố theo các cách tƣơng ứng. Đây là đặc trƣng riêng có của các
ngôn ngữ xlavơ nói chung và tiếng Nga nói riêng do tính chất loại hình của
các ngôn ngữ này. Tuy nhiên, xét về mặt nghĩa, xét về nội dung biểu hiện, các
cặp giới từ - hƣ từ này luôn có điểm tƣơng đồng, có tính tƣơng đƣơng về
nghĩa. Có thể kết luận rằng, sự thể hiện ý nghĩa công cụ trong hai ngôn ngữ
Việt - Nga vừa có điểm tƣơng đồng vừa có những điểm dị biệt. Điểm tƣơng
đồng ở đây là: cả hai ngôn ngữ đều sử dụng phƣơng thức hƣ từ để thể hiện ý
nghĩa công cụ. Các hƣ từ này trong cả hai ngôn ngữ có tính tƣơng đƣơng về
nghĩa. Điểm khác biệt ở đây là ở cách sử dụng: giới từ trong tiếng Nga thể
hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ phức tạp hơn vì giới từ chỉ công cụ không chỉ
xuất hiện ở cách công cụ mà còn có mặt ở hầu hết các cách còn lại. Khi kết
hợp với các giới từ ở các cách khác nhau, các danh từ buộc phải có sự biến
đổi hậu tố tƣơng ứng với cách mà giới từ đó đòi hỏi. Điều này hoàn toàn
không xảy ra trong tiếng Việt. Đây là nguyên nhân tạo ra một số lỗi trong quá
trình thụ đắc tiếng Việt, tiếng Nga với tƣ cách là ngoại ngữ.
129
TIỂU KẾT
Trên cơ sở khung lí thuyết đã trình bày ở chƣơng trƣớc, trong chƣơng II
này, chúng tôi đã khảo sát và miêu tả ý nghĩa công cụ và các phƣơng tiện,
phƣơng thức thể hiện ý nghĩa này trong tiếng Việt và tiếng Nga. Kết quả thu
đƣợc nhƣ sau:
Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, từ không biến đổi hình
thái nên mọi ý nghĩa ngữ pháp đều đƣợc thể hiện bằng con đƣờng từ vựng, ý
nghĩa công cụ cũng không phải là ngoại lệ. Ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt,
trƣớc tiên, đƣợc thể hiện bằng phƣơng thức hƣ từ là chủ yếu. Các hƣ từ thƣờng
đƣợc dùng để thể hiện ý nghĩa công cụ là: bằng, với, nhờ (vào), dựa (vào,
theo), căn cứ (vào, theo), bởi, trên, trong, qua (thông qua), trong đó, hƣ từ
bằng đƣợc sử dụng với tần suất cao nhất.
Ngoài phƣơng thức ngữ pháp chính là sử dụng hƣ từ, ý nghĩa công cụ
còn đƣợc thể hiện bằng các thực từ thông qua kết cấu với vị từ dùng / lấy.
Đây cũng là một phƣơng thức khá điển hình đối với loại hình ngôn ngữ đơn
lập nhƣ tiếng Việt.
Ý nghĩa công cụ còn đƣợc biểu hiện qua các nét nghĩa tiền giả định
công cụ của các thực từ (ở đây là các vị từ hành động). Trƣờng từ vựng này
chiếm một số lƣợng tƣơng đối lớn trong tiếng Việt.
Tiếng Việt và tiếng Nga tuy là hai ngôn ngữ khác loại hình nhau
nhƣng cũng có một phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ chung, đó là sử
dụng hƣ từ. Đáng chú ý là các hƣ từ thể hiện ý nghĩa công cụ trong hai ngôn
ngữ khá giống nhau về mặt nghĩa, tạo đƣợc những cặp tƣơng ứng 1 - 1 khá
thú vị. Điều này giúp cho quá trình học, nghiên cứu ngôn ngữ và dịch thuật
giữa hai ngôn ngữ khá thuận lợi.
Trong tiếng Nga, phƣơng thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa công cụ chủ
yếu vẫn là thông qua cách công cụ (cách 5). Tuy nhiên, cách công cụ không
phải lúc nào cũng thể hiện ý nghĩa công cụ và ý nghĩa công cụ không phải lúc
130
nào cũng chỉ đƣợc thể hiện bằng cách công cụ. Cách công cụ trong tiếng Nga
còn thể hiện ý nghĩa ngƣời cùng hành động, ngƣời cộng tác, … và ý nghĩa
ngữ pháp công cụ còn có thể đƣợc thể hiện bằng các giới từ ở các cách khác
nhau, nhƣ các giới từ из, с, от, по, о, через, сквозь, с, под, в, на, с
помощью, при помощи, посредством, ... Nhƣ vậy ở đây có sự bất tƣơng
xứng trong cách thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ ở tiếng Nga.
Cách công cụ có hai dạng thức để thể hiện ý nghĩa công cụ. Một là, sử
dụng phƣơng thức hậu tố, tức là bằng các danh từ biến đổi trực tiếp sang cách
công cụ (cách 5) mà không cần giới từ. Hai là, kết hợp cả việc sử dụng giới từ (с
và под) và biến đổi hậu tố của danh từ ở dạng thức cách công cụ.
Phƣơng thức sử dụng hƣ từ (cụ thể là giới từ ở các cách khác) kết hợp
với biến đổi vĩ tố của danh từ ở các cách tƣơng ứng để thể hiện ý nghĩa công
cụ cũng là một phƣơng thức ngữ pháp đƣợc sử dụng rộng rãi trong tiếng Nga.
Tất cả các cách đều có các giới từ tƣơng ứng thể hiện (có thể ít hoặc nhiều) ý
nghĩa ngữ pháp công cụ nhƣ: с помощью, при помощи, посредством, в, на,
по, благодаря, через, под, о, с, от, из, ... Số lƣợng các danh từ đi sau các
giới từ này có thể đƣợc tăng lên theo thời gian do sự xuất hiện ngày càng
nhiều từ mới, từ vay mƣợn tiếng nƣớc ngoài dƣới tác động của các cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật, tuy nhiên, cách thức kết hợp giữa các danh từ đó với
các giới từ là không thay đổi, các danh từ ở trƣờng ngữ nghĩa nào sẽ thƣờng
chỉ kết hợp với những giới từ hay đi kèm và ít nhiều do vị từ chi phối.
Phƣơng thức sử dụng giới từ kết hợp với biến đổi hậu tố ở các cách
khác nhau (trừ chủ cách) để thể hiện ý nghĩa công cụ có nhiều điểm tƣơng
đồng với phƣơng thức hƣ từ trong tiếng Việt. Chúng ta dễ dàng có thể tìm
kiếm đƣợc các cách thức chuyển nghĩa tƣơng đƣơng nhau trong hai ngôn ngữ.
Đây là sự thuận lợi trong việc nắm vững cách sử dụng một số hƣ từ mang
nghĩa công cụ trong cả hai ngôn ngữ.
131
CHƢƠNG 3
Ý NGHĨA CÔNG CỤ VỚI VAI NGHĨA CÔNG CỤ
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NGA
Nhƣ đã trình bày trong chƣơng I, ý nghĩa ngữ pháp công cụ có liên
quan mật thiết đến vai nghĩa công cụ. Ý nghĩa ngữ pháp công cụ và vai nghĩa
công cụ là hai mặt của một vấn đề: là mặt hình thức biểu hiện và nghĩa. Mặc
dù ý nghĩa ngữ pháp công cụ, về mặt nguyên tắc, biểu hiện vai nghĩa công cụ,
nhƣng trong rất nhiều trƣờng hợp ở nhiều ngôn ngữ, vai nghĩa công cụ không
đƣợc thể hiện bằng các phƣơng thức hay phƣơng tiện ngữ pháp công cụ, ví dụ
nhƣ phƣơng thức hƣ từ, phƣơng tiện giới từ (giới từ c trong tiếng Nga, giới từ
with hay by trong tiếng Anh), phƣơng tiện hƣ từ (hƣ từ bằng, với,…trong
tiếng Việt). Ý nghĩa ngữ pháp mang tính hình thức, là vấn đề của hình thái
học, còn vai nghĩa công cụ đƣợc xem xét ở góc độ ngữ nghĩa (tức là mặt nội
dung) và đƣợc xem xét với tƣ cách là một tham thể của vị từ. Xu hƣớng
nghiên cứu câu hiện nay trong ngôn ngữ học không chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu cấu trúc, mà còn tập trung nghiên cứu về các hoạt động hành chức của
câu. Nghĩa là, việc phân tích câu phải đồng thời đƣợc triển khai trên cả ba
bình diện là: ngữ pháp - ngữ nghĩa - ngữ dụng. Việc nghiên cứu ý nghĩa ngữ
pháp công cụ trong câu (đối với tiếng Việt và tiếng Nga) cũng phải đặt trong
mối quan hệ tổng thể là phân tích câu và ở trên cả ba bình diện này. Trong
chƣơng II chúng tôi đã tiến hành miêu tả, mô hình hóa và phân tích các
phƣơng thức, phƣơng tiện thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng
Nga. Trong chƣơng tiếp theo này, chúng tôi sẽ trình bày những đặc trƣng ngữ
nghĩa hình thức của vai nghĩa công cụ trên bình diện nghĩa (nghĩa miêu tả),
mặt khác, đồng thời triển khai nghiên cứu khả năng hiện thực hóa của vai
nghĩa công cụ trong vai trò các chức năng cú pháp của câu. Tham thể công cụ
trong cấu trúc nghĩa sẽ đƣợc lựa chọn và hiện thực hóa thành các thành phần
132
ngữ pháp khác nhau của câu nhƣ bổ ngữ, trạng ngữ, chủ ngữ, đề ngữ. Sự ngữ
pháp hóa cụ thể nhƣ thế nào phụ thuộc vào nhu cầu giao tiếp, vào vai trò
thông báo trong từng hoàn cảnh giao tiếp của tham thể công cụ. Do bị hạn chế
về dung lƣợng nên trong luận án này, chúng tôi chỉ khảo sát chức năng cú
pháp của vai nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt. Vấn đề khảo sát tƣơng tự
trong tiếng Nga sẽ đƣợc thực hiện trong những công trình tiếp theo do tính
chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu.
3.1. Sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt
3.1.1. Dẫn nhập
Ngữ pháp chức năng rất coi trọng vai trò giao tiếp của ngôn ngữ, coi
câu là đơn vị ngôn ngữ đƣợc con ngƣời trực tiếp sử dụng làm phƣơng tiện
giao tiếp. Vì vậy, ngữ pháp chức năng chú ý nghiên cứu nhiều ở bậc câu với
bình diện nghĩa và bình diện ngữ pháp. Ở bình diện nghĩa, ngữ pháp chức
năng cho rằng, câu phản ánh một sự việc (một sự tình) trong thực tế khách
quan và sự việc ấy luôn đƣợc tổ chức thành cấu trúc (cấu trúc vị từ - tham
thể). Trong cấu trúc này, vị từ giữ vai trò trung tâm ấn định số lƣợng và thuộc
tính cho các tham thể. Ngƣợc lại, các tham thể cũng giữ vai trò rất quan trọng.
Các tham thể là điều kiện tồn tại của vị từ, bởi vì, chỉ đặt trong mối quan hệ
với tham thể, các vị từ mới xác định đƣợc cƣơng vị của mình.
Vai nghĩa công cụ là một tham thể trong cấu trúc vị từ - tham thể ở
bình diện nghĩa. Bình diện nghĩa là sự phản ánh một sự tình (sự thể) diễn ra
trong hiện thực, ngoài ngôn ngữ. Khi đƣợc phản ánh vào câu thì vị từ và vai
nghĩa công cụ sẽ đƣợc ngƣời nói (ngƣời viết) cấu trúc hóa theo các quan hệ
ngữ pháp. Vị từ và tham thể công cụ (vai nghĩa công cụ) sẽ đƣợc lựa chọn để
đảm nhiệm các chức năng cú pháp khác nhau trong câu. Đồng thời, tham thể
công cụ cần đƣợc tuyến tính hóa (sắp xếp theo trật tự trƣớc sau) theo bản chất
hình tuyến của ngôn ngữ và đƣợc hình thức hóa nhờ các phƣơng tiện của
133
ngôn ngữ (nhƣ thực từ, hƣ từ, ngữ điệu). Tất cả những sự tổ chức nhƣ vậy luôn
luôn nhằm phục vụ cho nhiệm vụ và mục đích giao tiếp ở từng hoàn cảnh giao
tiếp nhất định, thể hiện qua vai trò thông báo của mỗi thành phần trong câu.
Đến đây, ngoài cấu trúc nghĩa (cấu trúc vị từ - tham thể) đã hình thành
các cấu trúc cú pháp (thể hiện qua các thành phần ngữ pháp của câu) và cấu
trúc thông báo. Mỗi loại cấu trúc đó nằm ở các bình diện khác nhau của câu:
bình diện nghĩa, bình diện ngữ pháp, bình diện ngữ dụng.
Tham thể công cụ trong cấu trúc nghĩa sẽ đƣợc lựa chọn và hiện thực
hóa thành các thành phần ngữ pháp khác nhau của câu nhƣ bổ ngữ, trạng ngữ,
chủ ngữ, đề ngữ. Sự ngữ pháp hóa cụ thể nhƣ thế nào phụ thuộc vào nhu cầu
giao tiếp, vào vai trò thông báo trong từng hoàn cảnh giao tiếp của tham thể
công cụ. Tiếp theo đây, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát và trình bày các chức
năng cú pháp của vai nghĩa công cụ trong câu, bắt đầu từ chức năng tiêu biểu
nhất là bổ ngữ. Trong mỗi chức năng đó chúng tôi sẽ lần lƣợt xem xét vai trò
thông báo tƣơng ứng của vai nghĩa công cụ đảm đƣơng khi đƣợc ngữ pháp hóa
thành các thành phần cú pháp của câu. Trƣớc khi đi vào miêu tả, phân tích,
chúng tôi sẽ giới thiệu vắn tắt một số khái niệm đƣợc dùng trong tiểu mục này.
Trƣớc tiên là khái niệm vị từ. Trong ngữ pháp chức năng, theo nhiều
nhà nghiên cứu, vị từ đƣợc hiểu là yếu tố ngôn ngữ chỉ đặc trƣng và quan hệ
với tƣ cách chức năng nghĩa trong mối quan hệ với tham thể. Điều này có thể
hiểu là: chỉ đặt trong mối quan hệ với các tham thể thì mới xuất hiện khái
niệm vị từ. Vị từ, trong cấu trúc vị từ - tham thể, có chức năng nghĩa trong
mối quan hệ với các tham thể. Với cách hiểu nhƣ trên, vị từ trong cấu trúc vị
từ - tham thể đƣợc phân loại không giống nhƣ cách phân loại vị từ thông
thƣờng, mà đƣợc căn cứ vào hai tiêu chí [± ĐỘNG] và [± CHỦ Ý] để phân
loại thành các loại nhỏ nhƣ:
134
± ĐỘNG
+ Động (biến cố/ sự kiện) - Động (tình trạng)
Hành động: Ví dụ: đá, Tƣ thế: Ví dụ: nghiêng, + Chủ ý đánh, giết, chạy ... đứng, ngồi, nằm .... ± CHỦ Ý Quá trình: Ví dụ;: nổ, Trạng thái: Ví dụ: to - Chủ ý mòn, phai ..... ngon, gầy, sâu, .......
[Dẫn theo Dik Simon C. (2005), Functional Grammar - Ngữ pháp
chức năng, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh]
Tiếp theo là khái niệm tham thể. Hiện nay vẫn tồn tại một số quan
điểm khác nhau về khái niệm tham thể. Luận án không đi sâu kiến giải vấn đề
này mà chỉ nêu quan điểm chung của khá nhiều nhà nghiên cứu cho rằng,
tham thể là tất cả các thực thể (đƣợc biểu hiện bằng các danh từ hoặc các đơn
vị tƣơng đƣơng với danh từ) tham gia vào sự tình, chịu sự chi phối trực tiếp
của ý nghĩa của vị từ hoặc phải đƣợc vị từ chấp nhận [1: 15]. Trong cấu trúc
vị từ - tham thể, các tham thể đƣợc nêu đặc trƣng bằng các chức năng nghĩa
trong mối quan hệ với vị từ. Do đó, các tham thể còn đƣợc gọi là các vai
nghĩa. Trên cơ sở xác định các chức năng nghĩa của tham thể với các loại vị
từ, các nhà nghiên cứu đã đƣa ra nhiều tham thể khác nhau nhƣ: thể hành
động, thể (chịu) quá trình, thể (trong ) tư thế, thể (trong) trạng thái, lực, thể
vị trí, thể đích, thể được lợi, thể bị hại, thể liên đới, tham thể không gian, thời
gian, công cụ, nguyên nhân, mục đích, điều kiện, nghịch đối, kết quả, ... [1:
16]. Các tham thể trên đã đƣợc các nhà nghiên cứu khái quát thành hai loại
lớn là tham thể cơ sở và tham thể mở rộng (thuật ngữ của Diệp Quang Ban)
hoặc diễn tố và chu tố (thuật ngữ của Cao Xuân Hạo và một số tác giả khác).
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu còn chú ý tới việc phân biệt tham thể
trực tiếp và tham thể gián tiếp. Nếu nhƣ việc phân biệt tham thể cơ sở và
tham thể mở rộng chỉ dựa trên mối quan hệ giữa tham thể với vị từ thì việc
135
phân biệt tham thể trực tiếp và tham thể gián tiếp vừa dựa trên mối quan hệ
giữa vị từ với các tham thể, vừa dựa trên mối quan hệ giữa các tham thể với
nhau. Trong luận án này, do mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra, chúng tôi chỉ đề
cập đến tham thể công cụ với tƣ cách là một tham thể trực tiếp (có quan hệ
trực tiếp với vị từ).
Tiếp nữa là khái niệm cấu trúc vị từ - tham thể. Khác với các khuynh
hƣớng hiện đại khác, ngữ pháp chức năng với xuất phát điểm là hệ chức năng
và một phần của lí thuyết dụng học về sự tƣơng tác ngôn từ, đã chú ý nghiên
cứu ngôn ngữ trên cả ba bình diện: nghĩa học, kết học, dụng học. Vì thế, trong
ngữ pháp chức năng, câu không chỉ đƣợc nghiên cứu trên bình diện cú pháp
mà còn đƣợc nghiên cứu trên cả bình diện nghĩa học và dụng học. Cấu trúc vị
từ - tham thể là kết quả của việc nghiên cứu câu trên bình diện nghĩa học, cụ
thể hơn, đó là kết quả của việc nghiên cứu thành phần nghĩa biểu hiện của
câu. Nói một cách ngắn gọn: cấu trúc vị từ - tham thể là cấu trúc nghĩa biểu
hiện của câu.
Nếu nhƣ cấu trúc vị từ - tham thể là cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu
thì cấu trúc cú pháp là loại cấu trúc của câu xét ở bình diện cú pháp. Đây
chính là bình diện tổ chức nên một câu theo đúng đặc trƣng của nó để phân
biệt với những đơn vị khác nhƣ từ, cụm từ, đoạn văn, văn bản. Trong cấu trúc
nghĩa biểu hiện, các tham thể giữ những chức năng nghĩa nhất định trong mối
quan hệ với vị từ (trong luận án này là nghĩa công cụ). Còn trong cấu trúc cú
pháp của câu, các từ ngữ diễn đạt các yếu tố của sự việc cũng giữ các chức
năng cú pháp (vai trò cú pháp) nhất định trong mối quan hệ với nhau. Các
chức năng cú pháp ấy đƣợc gọi một cách đơn giản là các thành phần câu.
Trong khuôn khổ của luận án này, chúng tôi không thể giải quyết tiếp các vấn
đề còn đang tranh luận xung quanh việc định nghĩa thành phần câu, tiêu chí
xác định thành phần câu, số lƣợng các thành phần câu, cƣơng vị cú pháp của
136
các thành phần câu, ... Dƣới đây, để phục vụ cho luận án, chúng tôi chỉ căn cứ
vào một số tiêu chí để xác định thành phần câu đã đƣợc thống nhất ở các nhà
nghiên cứu, trong đó có các thành phần câu nhƣ chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ,
đề ngữ. Đây là các thành phần câu có mối quan hệ đến vai nghĩa công cụ - đối
tƣợng khảo sát của luận án. Tiêu chí xác định thành phần câu đƣợc đa số các
nhà nghiên cứu tán thành là: coi thành phần câu là một phạm trù ngữ pháp, do
đó, việc xác định thành phần câu phải dựa cả vào tiêu chí ngữ nghĩa lẫn tiêu
chí hình thức. Có thể dẫn ra đây ý kiến của tác giả Bùi Minh Toán trong giáo
trình “Đại cương Ngôn ngữ học - tập II” nhƣ sau: “Như thế các thành phần
câu như chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, ... cũng đều là các
phạm trù ngữ pháp. Mỗi phạm trù này cũng có thể chia ra thành các phạm
trù nhỏ hơn như bổ ngữ thì có bổ ngữ gián tiếp hay trực tiếp. Điều quan trọng
là dù ở mức cao hay thấp, rộng hay hẹp, mỗi phạm trù này đều là sự thống
nhất giữa ý nghĩa ngữ pháp và hình thức ngữ pháp. Từ đó, điều cần chú ý
trong nghiên cứu và học tập ngữ pháp là: việc phân xuất và xác định các
phạm trù ngữ pháp phải được tiến hành trên cơ sở thống nhất giữa ý nghĩa
ngữ pháp và hình thức biểu hiện của nó.” [10: 87]
3.1.2. Chức năng cú pháp của vai nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt
3.1.2.1. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) bổ ngữ
Bổ ngữ là một chức vụ cú pháp hiện còn đang còn có nhiều ý kiến trái
chiều nhau. Theo chúng tôi, bổ ngữ có chức năng cú pháp là bổ sung, làm rõ
những đặc trƣng nêu ở vị từ. Do đó, ý nghĩa ngữ pháp khái quát của thành
phần đảm nhiệm chức năng bổ ngữ có thể là nêu đối tƣợng chịu tác động trực
tiếp hay gián tiếp của đặc trƣng nêu ở vị từ hoặc nêu lên hoàn cảnh mà đặc
trƣng nêu ở vị từ đòi hỏi đƣợc bổ sung để đáp ứng nhu cầu giao tiếp cụ thể. Ở
đây, bổ ngữ công cụ là một tham thể chịu tác dụng của đặc trƣng nêu ở vị từ.
Khi đƣợc phản ánh vào trong câu, tham thể công cụ đƣợc ngữ pháp hóa thành
137
chức năng bổ ngữ, đƣợc đánh dấu bằng các hƣ từ và đặt vào một vị trí nhất
định. Có thể nhận thấy rằng, chức năng làm bổ ngữ là chức năng tiêu biểu
nhất của vai nghĩa công cụ khi chúng đƣợc ngữ pháp hóa trong câu.
Trong cấu trúc cú pháp của câu, có những trƣờng hợp bổ ngữ công cụ có
quan hệ chặt chẽ với vị từ đến nỗi không cần dùng đến các quan hệ từ. Ví dụ:
- (258) Minh đang loay hoay viết bút chì vào một mảnh giấy. [NCH: 40]
- (259) Anh nên nhớ bếp nhà người ta sáng nào cũng đạp xe đạp đi
Hà Nội sắm thức ăn đấy nhé! [NC: 506]
Các trƣờng hợp còn lại, khi kết hợp với vị từ, bổ ngữ công cụ phải có
từ nối. Chính các từ nối này đóng vai trò là từ đánh dấu cho bổ ngữ công cụ.
Thông thƣờng, bổ ngữ công cụ đƣợc đánh dấu bằng chính từ và quan hệ từ
đánh dấu vai nghĩa công cụ khi vai nghĩa này xuất hiện trong cấu trúc vị từ -
tham thể. Ví dụ:
- (260) Khách tỉnh về tới tấp hết lượt này đến lượt khác, phần nhiều
bằng xe nhà, và có cả hai chiếc xe hơi đỗ ngoài cửa đình nữa! [VTP: 155]
- (261) Quả tim nó đã biến thành một giam buồng nhỏ, bọc sắt, có ống
thu looi trong đó chứa chất biết bao nhiêu hy vọng của những anh chàng dại
dột, nhìn đời qua cửa sổ nhà trường, tay cắp sách, miệng lầm nhấm, nhắc lại
câu: Đàn bà là giống yếu. [NCH: 184]
Bổ ngữ công cụ biểu hiện vai nghĩa công cụ thƣờng đƣợc đánh dấu
bằng các quan hệ từ nhƣ: bằng, với, qua, thông qua, dựa vào, căn cứ vào,
trên, bởi, ... trong đó quan hệ từ bằng là tiêu biểu nhất. Cũng có trƣờng hợp,
bổ ngữ này không đƣợc đánh dấu bằng từ ngữ. Lúc này, mối quan hệ giữa vị
từ và bổ ngữ công cụ rất bền vững tạo nên một tổ hợp ít nhiều “có tính chất
thành ngữ” (Nguyễn Thị Quy), cho nên, việc chen vào giữa chúng quan hệ từ
là khó chấp nhận đƣợc. So sánh:
- (262) Hai người ... đáp xe lửa về Hà Nội. (+) [NCH: 33]
138
- Hai ngƣời ... đáp bằng xe lửa về Hà Nội. (-)
Khi không dùng quan hệ từ đƣợc thì nghĩa của bổ ngữ đã có phần biến
đổi: từ nghĩa công cụ (có thể dùng bằng) bổ ngữ đã đƣợc chuyển sang nghĩa
cách thức (không dùng quan hệ từ).
Nhƣ vậy, khi tham thể công cụ đƣợc ngữ pháp hóa thành bổ ngữ trong
câu thì các từ ngữ dùng để đánh dấu các vai nghĩa lại đƣợc dùng để đánh dấu
chính các bổ ngữ do chúng đảm nhận. Chỉ có điều khác là, do cấu trúc vị từ -
tham thể không có tính chất tuyến tính cho nên không cần chú ý tới sự phân
bố của các từ đánh dấu các tham thể. Trong khi đó, cấu trúc cú pháp, đặc biệt
là cấu trúc cú pháp của tiếng Việt - một ngôn ngữ đơn lập phân tích tính điển
hình - lại đƣợc tổ chức theo một trật tự tuyến tính nghiêm ngặt. Trong câu,
mỗi chức vụ cú pháp lại có một vị trí tƣơng đối cố định. Theo đó, các từ đánh
dấu, dẫn nhập chúng cũng phải có một vị trí nhất định.
Chúng tôi nhận thấy rằng, những trƣờng hợp mà các bổ ngữ trên đƣợc
đánh dấu thì các từ ngữ đánh dấu luôn đứng ngay trƣớc các bổ ngữ mà chúng
có nhiệm vụ đánh dấu. Lúc đó, cũng giống nhƣ các bổ ngữ, các từ đánh dấu
thƣờng đứng sau vị từ. Cụ thể là: vị trí của từ đánh dấu bổ ngữ là vị trí sau vị
từ và trƣớc bổ ngữ mà chúng đánh dấu. Ví dụ:
- (263) Ông lão Cóc nhảy bằng tay đến gốc cây bàng. [NCH: 292]
Với chức năng bổ sung, làm rõ nghĩa cho các đặc trƣng của vị từ nên
khi đóng vai trò là bổ ngữ trong câu, tham thể công cụ thƣờng có một vị trí
tƣơng đối ổn định, đó là vị trí sau vị từ. Ví dụ:
- (264) Hắn đi sau cô gái, vuốt ve bằng mắt cái cổ nây nây của thị.
[NC: 325]
Chúng ta đang xem xét vị trí của bổ ngữ công cụ so với vị từ hạt nhân.
Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều trƣờng hợp, sau vị từ hạt nhân không chỉ
có mỗi bổ ngữ công cụ mà còn có thể có nhiều bổ ngữ khác nữa. Do vậy, tuy
139
đều nằm sau vị từ nhƣng cũng cần xét đến các bổ ngữ này so với các bổ ngữ
khác cùng xuất hiện sau vị từ. Chúng tôi nhận thấy rằng, việc phân bố các bổ
ngữ sau vị từ do mục đích thông báo của ngƣời nói chi phối. Các bổ ngữ tuy
đều nằm ở phần thuyết (phần biểu thị thông tin mới) của câu nhƣng đƣợc
ngƣời nói sắp xếp vào vị trí nào phụ thuộc vào việc ngƣời nói chọn bổ ngữ
nào làm tiêu điểm của thông báo.
Bổ ngữ công cụ xuất hiện trong khung vị ngữ có vị từ hạt nhân là vị từ
[+chủ động] - vị từ đòi hỏi một, hai hoặc ba bổ ngữ để bổ sung ý nghĩa. Do
đó, ở vị trí sau vị từ, có những trƣờng hợp, ngoài bổ ngữ công cụ ra còn có
các bổ ngữ khác. Ví dụ:
- (265) Chốc nữa, chúng mày phải gội đầu bằng xà phòng nhé.
[NCH: 334]
- (266) Gã nói tiếng Anh bằng cái giọng cứng ngăng ngắc của người
bản xứ. [TNT: 446]
- (267) Ông Lâm bắt đầu nhìn vợ con bằng cặp mắt e dè, dò xét.
[VNQĐ: 206]
- (268) Hắn nâng chiếc ảnh bằng hai tay. [NCH: 381]
- (269) Ông làm phong bì bằng thứ giấy bìa học sinh. [NHT: 65]
Chúng tôi nhận thấy, bổ ngữ công cụ thƣờng có hai vị trí khác nhau:
vị trí trƣớc các bổ ngữ khác và vị trí sau các bổ ngữ khác. Tuy nhiên, trƣờng
hợp bổ ngữ công cụ xuất hiện ở vị trí sau các bổ ngữ khác (vị trí cuối câu) có
tần số cao hơn và cũng phổ biến hơn. Ví dụ:
- (270) Pha ... nhìn vợ bằng đôi mắt đầy ý nghĩa. [BĐC-NCH: 65]
- (271) Mẹ hắn hỏi hắn với giọng không hằn học mà có vẻ hơi mừng
là khác. [AĐ-I: 347]
- (272) Gã nói với tôi bằng giọng mềm mại và trơn tuồn tuột. [NHT: 50]
- (273) Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi. [TNMN: 180]
140
Chúng tôi cũng cho rằng trƣờng hợp bổ ngữ công cụ nằm ở vị trí sau
các bổ ngữ khác, lúc đó, nó chính là trọng tâm thông báo của câu nói. Ví dụ:
- (274) Tôi nói: này, tao có súng đây, tao có cả dao găm đây. Nhưng
tao không giết mày bằng súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa!
Dục! Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi. [TNMN: 180]
Có trong tay các công cụ khác để giết đối thủ, nhƣng nhân vật ở đây
đã giết đối thủ bằng mười ngón tay cụt của mình. Hai câu trƣớc xét kỹ ra chỉ
là lập luận để dẫn đến câu thứ ba - câu kết luận “Tao giết mày bằng mười
ngón tay cụt thôi”. Tuy nhiên, thông tin “tao giết mày” trong câu thứ ba đã
đƣợc nêu ở các câu trƣớc. Duy chỉ có thông tin về công cụ “bằng mười ngón
tay cụt này thôi” là thông tin mới. Do đó, nó đƣợc đặt ở cuối câu là hoàn toàn
hợp lí. Nếu đặt đoạn văn này trong mối quan hệ với cả văn bản thì càng thấy
rõ hơn đó chính là trọng tâm thông báo không những của câu mà của cả đoạn
văn. Ngƣời giết thằng Dục bằng mƣời ngón tay cụt chính là ngƣời mà trƣớc
đây đã bị thằng Dục dùng giẻ tẩm dầu xà nu đốt trụi mƣời ngón tay [1].
Ngoài vị trí đứng sau các bổ ngữ khác, chúng ta còn thấy bổ ngữ công
cụ còn có khả năng đứng trƣớc các bổ ngữ khác. Ví dụ:
- (275) Ông ... ôm chầm bằng cả hai tay lấy tay người Pháp mà rung
tít. [BĐC-NCH: 48]
- (276) Minh loay hoay viết bút chì vào một mảnh giấy. [NCH: 40]
- (277) Hai người đáp xe lửa về Hà Nội. [NCH: 33]
Thƣờng khi nằm ở vị trí này, bổ ngữ công cụ không phải là trọng tâm
thông báo của câu nói. Tuy nhiên, do yêu cầu của ngữ cảnh, tham thể này vẫn
cần hiện thực hóa để làm cho câu nói đầy đủ thông tin hơn.
3.1.2.2. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) chủ ngữ
Về ngữ nghĩa, chủ ngữ là thành phần câu có ý nghĩa ngữ pháp khái
quát là biểu thị đối tƣợng thông báo của câu nhƣ một số tác giả đã đề cập:
141
Ý nghĩa của chủ ngữ là ý nghĩa biểu thị đối tượng. Đối tượng này có
quan hệ với vị ngữ về phương diện chủ thể của hành động, chủ thể tiếp nhận,
chủ thể phẩm chất [61: 111]
Trong tiếng Việt, có thể hiểu chủ ngữ là một trong hai thành phần
chính của câu có quan hệ qua lại với vị ngữ, chỉ ra cái đối tượng mà câu nói
đề cập đến [5: 113]
Vấn đề câu chứa chủ ngữ chỉ công cụ đã đƣợc một số ít nhà nghiên
cứu, nhƣ Diệp Quang Ban, Lê Xuân Thại, đề cập đến. Trong mối tƣơng quan
với đối tƣợng nghiên cứu của luận án, chức năng chủ ngữ không phải là chức
năng chính, chức năng cơ bản của tham thể công cụ khi đƣợc ngữ pháp hóa
trong cấu trúc của câu, bởi vì chủ ngữ với nội dung ý nghĩa khái quát là thành
phần câu nêu lên đối tƣợng thông báo của câu, thƣờng do các tham thể chủ
thể đảm nhiệm. Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp, chúng tôi vẫn thấy tham
thể công cụ xuất hiện với vai trò là chủ ngữ của câu. Ví dụ:
- (278) Ngọn bút của Điền phải khơi nguồn cho những tình cảm đầy
thơ mộng. [NC: 255]
Với nội dung ý nghĩa khái quát là nêu lên đối tƣợng thông báo của câu
thì vị trí phù hợp nhất của chủ ngữ là vị trí đứng trƣớc vị ngữ của câu. Ở vị trí
sau vị ngữ của câu, tham thể công cụ không có khả năng xuất hiện trong chức
năng chủ ngữ.
Chức năng làm chủ ngữ không phải là chức năng hiển nhiên, tất yếu
của tham thể công cụ khi đƣợc ngữ pháp hóa trong câu. Thông thƣờng, khi
tham thể công cụ trong vai trò chủ ngữ của câu thì phải có lí do về mặt thông
báo và về mặt liên kết của nó trong câu.
Trƣớc tiên, xét về mặt thông báo của tham thể công cụ, ta thấy: khi
làm chủ ngữ của câu, đứng ở vị trí trƣớc vị ngữ (thƣờng là đầu câu) cũng có
nghĩa là nằm ở vị trí phần đề trong cấu trúc thông báo (phần mang thông tin
142
cũ, thông tin đã biết), tham thể công cụ không còn là trọng tâm thông báo của
câu nói. Ví dụ:
- (279) Quả nhiên, tôi nhìn thấy cả dây thép gai. Nhưng dây thép gai
không vo cuộn lại mà dàn ra, vây kín lấy xóm ấp. [TNMN: 38]
Chủ ngữ dây thép gai của câu vốn là do vai nghĩa công cụ trong quan
hệ với vị từ vây kín đảm nhiệm. Đây chính là thông tin đã biết ở câu đi trƣớc
ngay sát nó.
Ví dụ trên chứng tỏ vai nghĩa công cụ khi trong vai trò chủ ngữ của
câu thì thƣờng mang thông tin cũ, thông tin đã biết. Tuy nhiên, khi mang
thông tin cũ, thông tin đã biết và đƣợc đặt lên đầu câu thì nó lại có vai trò rất
lớn trong việc liên kết câu. Trong ngôn bản, các câu có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Mỗi câu có một nhiệm vụ thông báo nhất định do ngôn bản quy
định nhƣng đều hƣớng tới việc phục vụ cho chủ đề chung của ngôn bản. Với
nhiệm vụ thông báo nhất định đó, mỗi câu cũng lựa chọn cho mình một trật tự
sắp xếp các thành phần câu và một kiểu câu cho phù hợp. Trong ví dụ trên, ý
chính của ngôn bản này là nói về dây thép gai, trong đó câu thứ hai nói về
công dụng của dây thép gai. Do đó, trọng tâm của câu này là vây kín lấy xóm
ấp. Dây thép gai chính là công cụ mà bọn địch dùng để làm hàng rào của các
ấp chiến lƣợc. Việc chuyển dây thép gai (tham thể công cụ) lên đầu câu vừa
để ngƣời đọc dễ dàng nhận ra trọng tâm thông báo là vây kín lấy xóm ấp, lại
vừa có tác dụng liên kết câu thông qua việc duy trì chủ đề (bằng phƣơng thức
lặp từ ngữ và phƣơng thức nối) [1].
Một cách kiến giải khác, theo Lê Xuân Thại, trong tiếng Việt, nghĩa
công cụ ở vị trí chủ ngữ khi nghĩa hoạt động ở vị trí vị ngữ thuyết minh về
công dụng của thứ công cụ đó [75: 156]. Tác giả đƣa ra ví dụ nhƣ sau:
- (280) Bàn chải này đánh răng. Còn bàn chải kia thì giặt quần áo.
- (281) Cái chìa khóa này mở tủ lệch. Còn cái chìa khóa kia thì mở tủ đứng.
[Ví dụ dẫn theo 74]
143
Lê Xuân Thại cho rằng, nghĩa công dụng là điều kiện tối thiểu về ngữ
nghĩa ở vị ngữ để cho nghĩa công cụ đứng ở chủ ngữ, hay nói một cách khái
quát hơn, nghĩa công cụ đứng ở vị trí chủ ngữ khi ý nghĩa diễn đạt của câu là
thuyết minh về công dụng hoặc những điều có liên quan đến công dụng của
công cụ. Đứng về mặt ngữ pháp mà xét nghĩa công cụ khi đứng ở vị trí chủ
ngữ cũng có chỗ khác khi nó đứng ở vị trí khác (nhƣ bổ ngữ, trạng ngữ). Ở vị
trí bổ ngữ, trạng ngữ, thành tố mang nghĩa công cụ là thành tố đƣợc đánh dấu
(dùng các giới từ nhƣ bằng, với, …) còn ở vị trí chủ ngữ thì nó không đƣợc
đánh dấu.
Nhƣ vậy, khi đƣợc ngữ pháp hóa trong câu, đảm nhiệm chức vụ chủ
ngữ, tham thể công cụ sẽ có một vai trò nhất định trong cấu trúc thông báo
của câu và có tác dụng rất lớn về mặt liên kết câu.
Việc xuất hiện trong câu ở chức vụ chủ ngữ của tham thể công cụ
không làm cho câu phải chuyển sang dạng bị động. Do đó, trong trƣờng hợp
này, tham thể công cụ khi đảm nhiệm chức vụ chủ ngữ của câu không đƣợc
đánh dấu bằng các tác tố của dạng thức bị động. Ví dụ:
- (282) Thanh cùm lại đóng khéo những bàn chân kia lại. [TNMN: 57]
- (283) Sợi dây dù thít chặt hai bắp chân trần của chị Sứ vào cây
cọc. [AĐ-I: 421]
- (284) Suốt ngày ở trên con đò ngang, một tấm khăn vuông đen trùm
mặt. [NHT: 56]
Nhƣ vậy, các từ dùng để đánh dấu vai nghĩa công cụ trong cấu trúc vị
từ - tham thể bằng, với, ... không đƣợc thực hiện để đánh dấu vai nghĩa này
trong chức vụ chủ ngữ của câu.
Nhƣ vậy, khi tham thể công cụ trong chức vụ chủ ngữ của câu thì
không có từ để đánh dấu nhƣ khi xuất hiện trong vai trò bổ ngữ hoặc trạng
ngữ của câu. Mặt khác, khi tham thể công cụ đƣợc ngữ pháp hóa để đảm nhận
144
chức vụ chủ ngữ trong câu thì không có sự hiện diện của tham thể chủ thể. Lê
Xuân Thại đã rất đúng khi cho rằng “Trên bình diện tu từ học, ở vị trí chủ
ngữ, công cụ đƣợc dùng vừa với nghĩa đen, vừa với nghĩa hoán dụ, tức là
thành phần đó vừa có nghĩa công cụ, vừa đại diện cho con ngƣời sử dụng công
cụ đó. [74: 39]”. Chính vì vậy mà trong nhiều trƣờng hợp dễ nhầm lẫn chủ
ngữ do tham thể công cụ đảm nhiệm với chủ ngữ do tham thể chủ thể đảm nhiệm.
Trƣờng hợp thứ nhất: trong tiếng Việt có một số động từ đƣợc dùng
với hai đặc trƣng là [+ chủ động] và [- chủ động] nhƣ: trùm, che, quấn, đè,
chặn, chọc, cứa, cản, cản trở, ...
- (285) Màu mỡ gà trùm lên tất cả ... [NHT: 236]
- (286) Một tấm khăn vuông đen trùm mặt. [NHT: 56]
Ở hai ví dụ trên, tuy vị từ trung tâm đều là vị từ trùm nhƣng rõ ràng
đây là hai vị từ đặc trƣng khác nhau. Ở ví dụ thứ nhất, trùm là vị từ [- chủ
động] còn ở ví dụ thứ hai, trùm là vị từ [+ chủ động]. Với đặc trƣng [- chủ
động], vị từ trùm ở ví dụ thứ nhất không thể cho khả năng xuất hiện tham thể
công cụ, do đó, màu mỡ gà không thể đƣợc xem là chủ ngữ do tham thể công
cụ đảm nhiệm, đây là chủ thể (trong) quá trình. Trong ví dụ thứ hai, vị từ trùm
là [+ chủ động] nên hoàn toàn có khả năng cho phép sự xuất hiện của tham
thể công cụ, do đó, một tấm khăn vuông đen đƣợc coi là tham thể công cụ
trong vai trò chủ ngữ của câu.
Trƣờng hợp thứ hai: trong tiếng Việt có hiện tƣợng một thực thể nào
đó (thƣờng đƣợc biểu hiện bằng một danh từ) cùng đi với một vị từ nhƣng ở
vị trí này thì đƣợc xem là công cụ, ở vị trí khác lại đƣợc xem là chủ thể của
hoạt động. Ví dụ:
- (287) Xe hơi chở họ đi. [TNMN: 50] (xe hơi = chủ thể)
- Họ được chở đi bằng xe hơi. (xe hơi = công cụ)
145
Hiện tƣợng này càng trở nên thú vị hơn khi chúng ta nghiên cứu
những bộ phận cơ thể của con ngƣời nhƣ tay, chân, mắt, mũi, tai, miệng, ...
Thƣờng ở vị trí bổ ngữ trong câu thì các bộ phận cơ thể ngƣời đƣợc coi là
tham thể công cụ đƣợc ngữ pháp hóa. Ví dụ:
- (288) Thằng Dần hau háu nhìn những tia sữa bằng con mắt tiếc rẻ,
ngậm ngùi. [TĐ-NTT: 78]
- (289) Ông ... ôm chầm bằng cả hai tay lấy tay người Pháp mà rung
tít. [BĐC-NCH: 48]
- (290) Hắn ... đấm bằng tay, đá bằng chân, hích bằng đầu gối, hắn lăn
xả vào bằng đầu, bằng vai, bằng ngực, bằng đùi, bằng đầu gối, bằng răng.
[NC: 181]
Nhƣng khi ở vị trí chủ ngữ của câu, chính các bộ phận này lại cũng có
thể xem là những chủ thể của các hoạt động của con ngƣời nhƣ: nghe, nhìn,
ngủ, đấm, đá, hích, ... Ví dụ:
- (291) Miệng nói với anh em, mắt Ngạn dõi theo bọn giặc đang nổ
súng và tiến tới. [AĐ-I: 341]
- (292) Bây giờ tai hắn cũng đã nghe tiếng reo hò nổi dậy rất rõ. [AĐ-
I: 612]
- (293) Tôi bèn trâng tráo: miệng cười, mắt liếc, tay dúi cái ô. [NCH: 198]
- (294) Bàn tay nhẫy những thịt nhanh nhẹn rót rượu cho chàng, cho
khách, cho mình. [NCH: 202]
Với những trƣờng hợp trên đây hoàn toàn có thể chấp nhận các bộ
phận cơ thể nhƣ mắt, tai, miệng, tay, ... là những chủ thể của hành động bởi vì
chúng hoàn toàn có khả năng thực hiện những hành động nhìn, nghe, nói, dúi,
rót một cách chủ động.
Ở trƣờng hợp này, có thể khẳng định rằng: các bộ phận của cơ thể khi
ở vị trí chủ ngữ của câu thì chính là chủ thể hành động chứ không phải là
những công cụ. Ví dụ:
146
- (295) Hai bàn tay xinh xẻo lần mở va li với một chiếc chìa khóa con
kền sáng. [KL: 114]
Nếu coi bộ phận cơ thể ngƣời là công cụ khi nó ở vị trí chủ ngữ của
câu thì không thể cho phép một chiếc chìa khóa con kền sáng xuất hiện nhƣ
một bổ ngữ công cụ, bởi lẽ, sẽ rất vô lí khi cùng một hành động mà sử dụng
tới hai loại công cụ khác loại nhau.
Có thể nói rằng, do không đƣợc đánh dấu bằng từ ngữ nên trong nhiều
trƣờng hợp, rất khó để phân biệt tham thể công cụ với các tham thể khác khi
chúng ở cùng vị trí chủ ngữ. Lúc này, bắt buộc chúng ta phải sử dụng đến
những đặc trƣng về ngữ nghĩa để nhận diện. Diệp Quang Ban cho rằng: câu
chứa chủ ngữ chỉ công cụ có nét riêng về phương diện nghĩa biểu hiện và
phương diện cấu trúc cú pháp [6: 152]. Về phƣơng diện nghĩa biểu hiện, yếu
tố chỉ công cụ đƣợc đƣa lên trƣớc làm chủ ngữ, còn yếu tố chỉ hành động sử
dụng công cụ đó thì trực tiếp làm vị tố. Về phƣơng diện cấu trúc cú pháp, chủ
ngữ chỉ công cụ ở đây khác với gia ngữ chỉ công cụ [Báo in (bằng) giấy này.]
hoặc đề ngữ chỉ công cụ [(Với) thứ giấy này, ta in gì mà chẳng được]. (Ví dụ
dẫn theo Diệp Quang Ban, [6: 152]). Chủ ngữ chỉ công cụ không có và không
thể thêm quan hệ từ về phía trƣớc, còn gia ngữ và đề ngữ thì sẵn chứa hoặc có
thể thêm quan hệ từ vào phía trƣớc (nhƣ bằng, với ở hai ví dụ trên). Mặt khác,
vị tố của kiểu câu có chủ ngữ chỉ công cụ là động từ trực tiếp chỉ ra hành
động sử dụng phƣơng tiện nêu ở chủ ngữ, không có một yếu tố khác đánh dấu
quan hệ giữa chủ ngữ và vị tố. Câu chứa chủ ngữ chỉ công cụ là kiểu câu chỉ
quan hệ về cảnh huống, và thuộc kiểu nhỏ nêu thuộc tính [6: 152].
3.1.2.3. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) đề ngữ
Hiện nay, trong ngôn ngữ học, đề ngữ đã hoàn toàn đƣợc công nhận có
tƣ cách là một thành phần câu. Đề ngữ còn có một số tên gọi khác là: khởi ngữ,
chủ đề, bổ ngữ - chủ đề, từ - chủ đề, thành phần khởi ý. Với ý nghĩa khái quát
147
là thành phần câu nêu lên chủ đề, nội dung chính của câu nói, nên về mặt lí
thuyết, tham thể công cụ hoàn toàn có khả năng đóng vai trò đề ngữ trong câu.
Khi đóng vai trò đề ngữ trong câu thì tham thể công cụ thƣờng đứng ở
vị trí phổ biến nhất của đề ngữ là vị trí trƣớc nòng cốt câu. Ví dụ:
- (296) Chìa khóa này (thì) tôi / (dùng) mở cửa.
Mặc dù đề ngữ ngoài vị trí đứng trƣớc nòng cốt câu còn có thể đứng ở
vị trí sau chủ ngữ nhƣng vị trí đầu câu vẫn là tiêu biểu nhất.
Về vai trò về mặt thông báo và liên kết câu, với vị trí đứng ở đầu câu
(trƣớc nòng cốt câu), đề ngữ đƣợc coi nhƣ thành phần chuyên dùng để biểu
hiện phần đề trong cấu trúc thông báo của câu. Do vậy, khi tham thể công cụ
trong vai trò đề ngữ của câu thì thƣờng không phải là trọng tâm thông báo của
câu (mang phần tin mới, chƣa biết) mà chỉ là những thông tin cũ, đã biết.
Mặc dù chỉ là phần mang thông tin cũ trong cấu trúc thông báo của
câu nhƣng tham thể công cụ khi đảm nhiệm chức năng đề ngữ lại có một vai
trò rất quan trọng trong việc liên kết câu. Do nằm ở vị trí đầu câu và thƣờng
biểu hiện thông tin đã biết nên đề ngữ là yếu tố đảm nhiệm vai trò liên kết
giữa câu đi trƣớc và câu đi sau trong một ngôn bản, góp phần duy trì và phát
triển chủ đề chung của ngôn bản.
Khi tham thể công cụ trong vai trò đề ngữ trong câu thì nó thƣờng
đƣợc đánh dấu bằng các từ đánh dấu chức vụ đề ngữ nhƣ thì hoặc là. Ví dụ:
- (297) Lược thì nó chải đầu, son thì nó tô môi.
- (298) Con dao này là để thái thịt, con dao kia là để gọt hoa quả.
Từ đánh dấu này có vị trí cố định trong câu. Thƣờng thì chúng đứng
ngay sau đề ngữ và có quan hệ bền vững với đề ngữ đến mức không thể xen
yếu tố nào vào giữa. Còn so với vị từ thì chúng luôn đứng trƣớc các vị từ.
Tuy nhiên, cũng có những trƣờng hợp đề ngữ do tham thể công cụ
đảm nhiệm xuất hiện mà không đƣợc đánh dấu. Trong một số ngữ cảnh nào
148
đó, đề ngữ công cụ có thể xuất hiện trong câu mà không có từ đánh dấu (chỉ
đƣợc đánh dấu bằng quãng ngắt khi nói hoặc dấu phảy khi viết). Ví dụ:
- (299) Kéo, tôi cắt giấy.
- (300) Dao, tôi thái thịt.
Ngoài việc đánh dấu bằng các từ đánh dấu chức vụ đề ngữ, tham thể
công cụ trong vai trò đề ngữ của câu còn đƣợc đánh dấu bằng chính các từ
đánh dấu vai nghĩa này trong cấu trúc vị từ - tham thể. Ví dụ:
- (301) Dao thì họ (dùng) thái thịt.
- (302) Cuốc thì chúng ta (dùng) đào mương. Còn quang thì chúng ta
gánh đất.
3.1.2.4. Vai nghĩa công cụ và (chức năng) trạng ngữ
Theo Võ Huỳnh Mai, trạng ngữ là thành phần phụ của câu, có quan
hệ dẫn tiếp với nòng cốt câu. Nó thường đứng đầu câu, cách nòng cốt câu
bằng một quãng ngắt hơi ngắn (trên chữ viết, bằng dấu phảy), làm tiền đề
báo trước sự xuất hiện của nòng cốt câu. Ý nghĩa khái quát mà các trạng ngữ
biểu thị là ý nghĩa về tình huống (thời gian, nơi chốn, mục đích, phương tiện,
phương diện, ...) [52: 61]. Khi đảm nhiệm chức vụ trạng ngữ của câu thì tham
thể công cụ thƣờng nằm ở vị trí trƣớc nòng cốt câu. Ví dụ:
- (303) Rồi bằng cả hai tay, thị ôm chặt lấy mấy quyển sách vào lòng.
[TNT: 142]
- (304) Với hai lỗ tai giảo hoạt, y rình nghe mọi lời nói và mọi tiếng
hoạt động từ bên ngoài lọt vào. [AĐ: 479]
Ngoài vị trí trên, chúng còn có thể ở vị trí đi sau nòng cốt câu nhƣ:
- (305) Đây là lần cuối cùng mà một người mẹ bới tóc cho con, với đôi
bàn tay trút hết tình âu yếm. [AĐ-I: 494]
Về vai trò thông báo và liên kết câu, nếu trạng ngữ công cụ nằm ở
những vị trí khác nhau thì vai trò thông báo cũng khác nhau.
149
Ở vị trí trƣớc nòng cốt câu (đầu câu), trạng ngữ công cụ có tác dụng lớn
trong việc liên kết câu. Đứng ở đầu câu, trạng ngữ sẽ là phần mang thông tin đã
đƣợc nói đến trong những câu đi trƣớc, do đó, nó góp phần gắn kết câu chứa nó
với những câu đi trƣớc thành một ngôn bản thống nhất, mạch lạc. Ví dụ:
- (306) Song dù thế, y vẫn chờ đợi. Với hai lỗ tai giảo hoạt, y rình
nghe mọi lời nói và mọi tiếng động từ bên ngoài lọt vào. Vì thế, tuy bị giam
cầm ở hốc hang trong cùng, nhưng y vẫn biết được phần lớn cái gì đã xảy ra
trong bốn ngày đêm quyết chiến. [AĐ-I: 479]
Đây là đoạn nói về tên Ba Phi - một tên chỉ điểm lợi hại đã bị dân
quân du kích bắt và đƣa vào giam ở cuối hang Hòn. Ở đây, y vẫn luôn luôn
muốn biết diễn biến tình hình ở ngoài để xem số phận của mình sẽ nhƣ thế
nào. Tuy nhiên, khả năng thu nhận thông tin bên ngoài của y không thể bằng
con đƣờng giao tiếp, trò chuyện với anh em trong hang Hòn mà chỉ có thể phụ
thuộc vào đôi tai của y. Trƣớc đoạn này tác giả có viết: “Lúc súng hoặc lựu
đạn nổ ầm ầm là lúc y chồm dậy, khấp khởi ... Nhưng khi nghe những phát
súng lẻ nổ chắc chắn từng phát một, y lại hoài nghi”. Cho nên, tham thể công
cụ với hai lỗ tai giảo hoạt đƣợc hiện thực hóa ở đầu câu không phải là thông
tin mới, thông tin quan trọng mà thông tin quan trọng là y rình nghe mọi lời
nói và mọi tiếng động từ bên ngoài lọt vào. Do đó, việc công cụ này đƣợc ngữ
pháp hóa trong chức năng trạng ngữ ở vị trí phần đề góp phần hƣớng ngƣời
đọc vào trọng tâm thông báo đã nói trên. Đồng thời, công cụ này lại có quan
hệ liên tƣởng với hoạt động nghe đã nói ở trên giúp cho chủ đề chung của
ngôn bản đƣợc duy trì và phát triển. [1]
Ở vị trí sau nòng cốt câu thì vai trò liên kết câu không đƣợc chú ý. Vị
trí cuối câu là vị trí mang trọng tâm thông báo, do đó, ở vị trí sau nòng cốt câu
thì trạng ngữ công cụ thƣờng nằm ở phần thuyết của cấu trúc thông báo, mang
thông báo chính của câu nói. Ví dụ:
150
- (307) Đầu tóc đó được bới khéo như vậy tưởng cũng không lạ. Vì
đây là lần cuối cùng mà một người mẹ bới tóc cho con, với đôi bàn tay trút
hết tình âu yếm. [AĐ-I: 494]
Đặt trong ngữ cảnh: bà mẹ (mẹ Sáu) bới tóc cho con mình (chị Sứ) khi
đứa con ấy vừa bị địch giết chết. Cho nên, trọng tâm thông báo ở câu sau của
đoạn trên không phải là chuyện bới tóc mà là tình mẫu tử, là tình cảm không
thể tả xiết của ngƣời mẹ đối với đứa con mình đã từng mang nặng đẻ đau giờ
không còn nữa. Sức nặng tình cảm ấy giờ đây đƣợc bà dồn vào đôi bàn tay
khi bới tóc cho con. Do đó, việc đặt trạng ngữ với đôi bàn tay trút hết tình âu
yếm do tham thể công cụ đảm nhiệm ở vị trí cuối câu - phần mang thông báo
chính trong cấu trúc thông báo, là hoàn toàn hợp lí. [1]
Về dấu hiệu nhận biết, trạng ngữ công cụ thƣờng đƣợc đánh dấu bằng
chính các từ đánh dấu vai nghĩa này trong cấu trúc nghĩa. Đó là các quan hệ
từ bằng, với, bởi, trên, ... Ví dụ:
- (308) Với hai lỗ tai giảo hoạt, y rình nghe mọi lời nói và mọi tiếng
động từ bên ngoài lọt vào. [AĐ-I: 497]
- (309) Thím Ba ... nói với tên đại úy, vẫn với giọng nhẹ nhàng như
trước. [AĐ-I: 499]
- (310) Rồi bằng cả hai tay, thị ôm chặt mấy cuốn sách vào lòng.
[TNT: 142]
- (311) Bằng một giọng nồng ấm, anh ta khẽ bảo ... [AĐ-I: 79]
Ngoài ra, trạng ngữ công cụ trong câu còn có thể đƣợc đánh dấu bằng
một số hƣ từ thƣờng dùng để dẫn nhập thành phần câu này nhƣ nhờ, cứ. Ví dụ:
- (312) Nhờ có đôi giầy cao gót, bà hãy còn đủ cả đằng trước lẫn
đằng sau. [NCH: 21]
- (313) Cứ cái xô nhựa với tấm giẻ lau, khoảng vài tiếng nó lại lau
nhà một lần. [NHT: 97]
151
Các từ dẫn nhập chức vụ trạng ngữ do vai nghĩa công cụ đảm nhiệm
cũng luôn có một vị trí cố định, đó là vị trí trƣớc trạng ngữ mà nó dẫn nhập và
vị trí sau vị từ.
Ngoài khả năng đƣợc đánh dấu bằng từ ngữ, trạng ngữ công cụ cũng
có thể không đƣợc đánh dấu bằng từ ngữ mà chỉ bằng quãng ngắt khi nói và
dấu phảy khi viết. Sự đánh dấu bằng các hình thức này rất quan trọng (cả khi
có và không có từ đánh dấu) để giúp phân biệt đƣợc bổ ngữ với trạng ngữ,
đặc biệt là khi trạng ngữ ở vị trí cuối nòng cốt câu. Ví dụ:
- (314) Một cây súng với ba viên đạn, Kơ Long bám gót giặc từ tờ mờ
sáng đến trƣa.
- (315) Một bàn tính và một cây bút, nó đã giải đƣợc bài toán đó.
Những trƣờng hợp không đƣợc đánh dấu bằng từ ngữ của trạng ngữ
do tham thể công cụ đảm nhiệm là rất ít.
Tóm lại, phân tích câu về cú pháp và phân tích câu về ngữ nghĩa là hai
bình diện khác nhau trong ngôn ngữ. Tuy nhiên, với đối tƣợng nghiên cứu của
luận án này, ý nghĩa ngữ pháp công cụ có mối quan hệ không tách rời với các
thành phần cú pháp của câu. Ý nghĩa công cụ nhờ vào các thành phần cú pháp
(chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, đề ngữ) để thể hiện vai trò thông báo của mình,
nghĩa là thể hiện ở mặt ngữ nghĩa. Ngƣợc lại, các thành phần cú pháp nhờ vào
nghĩa công cụ để thể hiện các dấu hiệu hình thức, phân biệt với các thành phần
cú pháp khác nhau trong câu. Đây là một hƣớng đi còn khá mới nghiên cứu
ngữ pháp nói chung, nghiên cứu các thành phần cú pháp trong câu nói riêng.
3.2. Sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga
Nhƣ đã phân tích ở trên, ý nghĩa ngữ pháp và vai nghĩa là hai mặt của
một vấn đề: là mặt hình thức biểu hiện và nghĩa. Ý nghĩa ngữ pháp mang tính
hình thức, là vấn đề của hình thái học, còn vai nghĩa đƣợc xem xét ở góc độ
ngữ nghĩa (tức là mặt nội dung) và đƣợc xem xét với tƣ cách là một tham thể
152
của vị từ. Ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Nga chủ yếu đƣợc thể hiện
bằng cách công cụ (cách 5 có giới từ và không có giới từ) và bằng các cách ngữ
pháp khác với một số giới từ cụ thể. Điều này đã đƣợc chúng tôi khảo chứng
khá kĩ trong chƣơng II. Trong tiểu mục tiếp theo đây, chúng tôi tiến hành khảo
sát một số hình thức đánh dấu vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga.
Giống nhƣ ý nghĩa ngữ pháp công cụ, vai nghĩa công cụ, trƣớc tiên,
cũng đƣợc thể hiện bằng cách công cụ. Giữa cách công cụ (mác đánh dấu vai
nghĩa) và vai nghĩa công cụ (vai nghĩa) không phải là mối quan hệ 1 đối 1
tƣơng xứng, có nghĩa là, cách công cụ là phƣơng tiện chỉ dấu cho nhiều vai
nghĩa khác nhau và vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga, ngoài đƣợc thể hiện
bằng cách công cụ, còn đƣợc thể hiện bằng các hình thức ngữ pháp khác.
Cách công cụ trong tiếng Nga có thể đảm nhiệm các vai nghĩa sau:
a) Vai công cụ (Instrument) để thể hiện dụng cụ thực hiện một hành
động hoặc sự tình, ví dụ:
- Писать мелом. (Viết bằng phấn.)
- Резать ножами. (Cắt bằng dao.)
b) Vai phƣơng thức (Manner) thể hiện cách thức thực hiện hành động
hoặc sự tình, ví dụ:
- Говорить шелотом.(Nói thầm)
- Ехать параходом. (Đi tàu)
- Лучше умерет героем, чем жить рабом. (Thà chết anh hùng còn
hơn sống nô lệ.)
c) Vai địa điểm (Locative) thể hiện nơi xảy ra hành động hoặc sự tình,
ví dụ:
- Тетрадь лежит под книгой. (Quyển vở nằm dưới quyển sách.)
- Чайки летают над морем. (Hải câu bay trên biển.)
- За шкафом стоит стол. (Cái bàn ở sau cái tủ.)
153
- Стол стоит между окном и дверью (Cái bàn ở giữa cửa sổ và
cửa ra vào.)
d) Vai thời gian (Temporal) để chỉ thời điểm xảy ra hành động hoặc
trạng thái, ví dụ:
- Работать ночами. (Làm việc hàng đêm.)
- Весной цветут цветы. (Vào mùa xuân trăm hoa đua nở.)
e) Vai tác thể (Agent) để biểu hiện ngƣời hoặc vật khởi tác, thực hiện
hành động, ví dụ:
- Дома строятся рабочими. (Nhà cửa đang được công nhân xây
dựng.)
- Этот роман написан А.С. Пушкином. (Pushkin đã viết tác phẩm
này.)
g) Vai điểm đến (Goal) để chỉ đích đến của một chuyển động, ví dụ:
- Ехать за границей. (Đi nước ngoài.)
- Подойти за домом. (Đi ra sau nhà.)
h) Vai kẻ cùng hành động (Comcomitant) để thể hiện ngƣời cùng hành
động trong một hành động, ví dụ:
- Играть в шахматы с отцом. (Chơi cờ với bố.)
- Работать с учителем. (Làm việc với thầy giáo.)
i) Vai nguồn của trạng thái (Source) để chỉ nguồn của trạng thái, ví dụ:
- Увлекать чтению. (Say mê đọc.)
- Вы бы лесом шли, лесом идти прохладно. (Anh nên đi theo đường
rừng, đi theo đường rừng rất mát.)
- Пахнет цветами. (Mùi hoa thơm ngát.)
- Мой отец интересуется вьетнамской литературой. (Bố tôi rất
thích văn học Việt Nam.)
154
j) Vai thời lƣợng (Duration) để chỉ thời gian kéo dài của hành động,
trạng thái, ví dụ:
- Работать целыми днями. (Làm việc suốt các ngày)
k) Vai bị thể (Patient) để chỉ ngƣời, vật chịu tác động, ảnh hƣởng của
hành động hoặc chịu sự biến đổi nào đó về trạng thái.
- Он заведует учебной частью. (Anh ta phụ trách giáo vụ.)
- Нашим факультетом руководит молодая преподавательница.
(Lãnh đạo khoa chúng tôi là một giảng viên rất trẻ.)
l) Vai nghiệm thể (Experiencer) để thể hiện ngƣời, vật trải nghiệm một
trạng thái tâm lí, tinh thần, ví dụ:
- Мы любим вас и восхищаемся вами. (Chúng tôi yêu thương và
ngưỡng mộ các bạn.)
- Я доволен работой. (Tôi hài lòng với công việc.)
- Читать книгу с большим вниманием. (Đọc sách rất chăm chú.)
m) Vai tham chiếu (Reference) để chỉ ngƣời hay vật đƣợc dùng để tham
chiếu trong một trạng thái, quan hệ, ví dụ:
- Мы живем под Москвой. (Chúng tôi sống gần Moskva.)
- Количество переходных глаголов в русском языке органичено по
сравнению с английским. (Số lượng ngoại động từ trong tiếng Nga ít hơn so
với tiếng Anh.)
- Я приехал двумя днями ранше брата. (Tôi đến sớm hơn anh trai hai
ngày.)
n) Vai lực tự nhiên (Force) để chỉ tác nhân tự nhiên gây ra một biến cố,
thay đổi nào đó, ví dụ:
- Ветром сорвало крышу. (Gió làm tốc mái nhà.)
- Водою залило луга. (Nước ngập đồng cỏ.)
Vai lực tự nhiên trên đây cũng có thể đƣợc hiểu theo một cách khác là
vai nguyên nhân (Cause / Reason).
155
o) Vai vật sở hữu (Possessor) để chỉ vật sở hữu của ngƣời, ví dụ:
- Он человек с прекрасным характером. (Anh ta là người có tính
cách tuyệt vời.)
- Он человек с высоким ростом. (Anh ấy có vóc dáng cao lớn.)
p) Vai mục đích (Purpose) để chỉ mục đích của chuyển động, ví dụ:
- По утрам я ухожу за хлебом. (Hàng sáng tôi đi mua bánh mì.)
- Пойти в магазин за бумагами. (Đến cửa hàng mua giấy.)
Vai nghĩa công cụ, bên cạnh việc đƣợc thể hiện bằng cách công cụ
nhƣ đã dẫn chứng ở phía trên, còn đƣợc thể hiện không bằng cách công cụ.
Cụ thể là, vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga có thể đƣợc thể hiện bằng các
giới ngữ kết hợp danh từ ở các cách khác nhau. Ví dụ:
- (316) В книгах, выпущенных им там по-русски и в
переводах, он развивал свою давнишнюю мысль об истории как о
второй вселенной, воздвигаемой человечеством в ответ на явление
смерти с помощью явлений времени и памяти. [ДЖ: 34]
- (317) Trong những cuốn sách cha đưa xuất bản tại đó, bằng tiếng
Nga hay tiếng nước khác, cha đã phát triển tư tưởng cố cựu của cha về lịch
sử như về một vũ trụ thứ hai do loài người tạọ dựng, nhờ hai hiện tượng
“thời gian” và “ký ức” để trả lời cho hiện tượng ―chết‖. [BSZh: 52]
- (318) Это наполняло ее ровным шумом, точно перед Иваном
Ивановичем и Николаем Николаевичем вдоль изгороди текла вода по
трубе. [ДЖ: 12]
- (319) Cứ mỗi bước đi, từng bầy chim sẻ từ trong các bụi tú cầu lại
bay ra trước mặt họ thành từng đợt đều đều, tạo nên tiếng rào rào không
ngớt, nghe như tiếng nước chảy trong cái ống máng đặt dưới chân giậu.
[BSZh: 13]
156
- (320) Это была вдова и мать двух машинистов, старуха
Тиверзина, бесплатно следовавшая с двумя невестками в третьем
классе по служебным билетам. [ДЖ: 16]
- (321) Đó là bà goá Tiveczina, có chồng và con đều làm thợ lái tàu.
Bà và hai nàng dâu được đi nhờ vé miễn phí ở toa hạng ba. [BSZh: 18]
- (322) Отбарабанил дождь комьев, которыми торопливо в
четыре лопаты забросали могилу. [ДЖ: 9]
- (323) Rồi từ bốn phía, đất được ném xuống như mưa, rơi lịch bịch,
những cái xẻng lấp mộ vội vàng. [BSZh: 8]
- (324) Она стала ездить лечиться на юг Франции и в Северную
Италию, куда Юра ее два раза сопровождал. Так, в беспорядке и среди
постоянных загадок прошла детская жизнь Юры, часто на руках у
чужих, которые все время менялись. [ДЖ: 10]
- (325) Vậy là thời niên thiếu của Yuri đã trôi qua trong cảnh nhộn
nhạo và thường xuyên chứa đựng những câu đố khó hiểu, những bàn tay xa
lạ cứ thay nhau bế ẵm cậu. [BSZh: 10]
- (326) Была мануфактура Живаго, банк Живаго, дома
Живаго, способ завязывания и закалывания галстука булавкою
Живаго, даже какой-то сладкий пирог круглой формы, вроде ромовой
бабы, под названием Живаго, и одно время в Москве можно было
крикнуть извозчику ―к Живаго!‖, совершенно как ―к черту на
кулички!‖, и он уносил вас на санках в тридесятое царство, в
тридевятое государство. Тихий парк обступал вас. [ДЖ: 10]
- (327) Yuri còn nhớ dạo bé tên họ của cậu được dùng để gọi một mớ
những thứ khác hẳn nhau, nào là xưởng Zhivago, nhà băng Zhivago, nào là
các bất động sản của Zhivago, nào là cách thức thắt và cài ghim cà vạt theo
kiểu Zhivago, thậm chí cả một thứ bánh ngọt hình tròn tương tự loại bánh
157
ngọt có rượu Rhum cũng mang tên Zhivago, và có thời kỳ ở Moskva khi bước
lên xe trượt tuyết chỉ cần bảo người đánh xe ―Đến nhà Zhivago!‖, hệt như
bảo ―Đến nơi xa lắc xa lơ!‖, là chiếc xe sẽ chở ta tới một vương quốc xa lạ,
một cõi bờ xa xôi. [BSZh: 10]
- (328) На листах брошюры лежали куски гранита, чтобы они
не разлетелись. [ДЖ: 12]
- (329) Mấy mảnh đá hoa cương được đặt trên các trang giấy cho
khỏi bay. [BSZh: 12]
- (330) Я позову ее кататься на лодке и утоплю. [ДЖ: 17]
- (331) Ta sẽ rủ nó đi chơi thuyền rồi dìm chết nó đi". [BSZh: 21]
- (332) Мальчик с отцом третий день находился в поезде. [ДЖ: 14]
- (333) Hai cha con đi tàu đã sang ngày thứ ba. [BSZh: 16]
Các giới ngữ thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga rất đa dạng,
có mặt ở hầu hết các cách trong tiếng Nga với nhiều giới từ khác nhau. Cần
lƣu ý rằng, sự khác biệt giữa các phƣơng tiện đánh dấu này, đôi khi, dễ gây
nhầm lẫn với các vai khác. Trong các ví dụ phía trên, chúng tôi viện dẫn hoàn
toàn theo dịch giả để thấy đƣợc nét nghĩa công cụ trong các giới ngữ thể hiện
vai nghĩa công cụ. Ở đây, chúng tôi không đi phán xét các phƣơng án dịch đó
là đúng hay sai, mà chỉ đƣa ra một cách khách quan để minh chứng cho mác
đánh dấu vai nghĩa công cụ trong tiếng Nga.
3.3. So sánh sự thể hiện vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga
Tiếng Nga và tiếng Việt có những điểm khác xa nhau về mặt loại hình.
Tiếng Nga có đặc trƣng tiêu biểu của loại ngôn ngữ biến hình mà tính khuất
chiết - tổng hợp tính làm cho nó trở thành một cực đối lập rõ rệt với tính đơn
lập - phân tích tính của tiếng Việt. Do đặc trƣng này mà ý nghĩa ngữ pháp của
tiếng Nga (trong đó có ý nghĩa công cụ) thƣờng đƣợc biểu hiện bằng phƣơng
tiện hình thái học, bằng những yếu tố đƣợc thể hiện ở bên trong mỗi từ nhƣ một
158
chỉnh thể. Hình thái học của từ chiếm vị trí chủ đạo trong các phƣơng tiện
truyền đạt ý nghĩa, đặc biệt là ý nghĩa ngữ pháp, nó làm thành một “phạm trù
hình thái” một từ có thể thay đổi hình thái nhƣng không thể không có hình
thái cụ thể.
Trong khi đó, để thể hiện ý nghĩa mà tiếng Nga thƣờng biểu đạt bằng
phƣơng tiện ngữ pháp (bằng hình thái học, bằng phụ tố, biến tố của từ) ... tiếng
Việt lại dùng phƣơng tiện từ vựng, tức những thực từ có ý nghĩa rõ ràng, hoặc
dùng phƣơng tiện ngữ pháp nhƣ dùng trật tự của từ ngữ hoặc dùng hƣ từ với tƣ
cách là những tác tử làm cho một từ loại nào đấy thay đổi về nghĩa để đánh dấu
các ngữ đoạn về chức năng cú pháp, quan hệ cú pháp ở trong câu, giúp cho câu
diễn đạt đƣợc phần nghĩa quan trọng nhất của nó.
Hiện thực khách quan đƣợc phản ánh trong ngôn ngữ nhờ vào những
phƣơng tiện biểu đạt: hoặc phƣơng tiện từ vựng, hoặc phƣơng tiện ngữ pháp.
Các ngôn ngữ khác nhau đáng kể ở cách chọn phƣơng tiện này hay phƣơng tiện
kia. Khi so sánh các phƣơng tiện biểu đạt đƣợc dùng trong các ngôn ngữ, về
vai trò, về vị trí của chúng trong việc phản ánh tƣ duy, ngƣời ta nhận thấy: các
ngôn ngữ đơn lập, điển hình là tiếng Việt, thiên về dùng phƣơng tiện từ vựng
nhiều hơn là dùng phƣơng tiện ngữ pháp (nhƣ là hình thái học), còn các ngôn
ngữ tổng hợp tính, điển hình là tiếng Nga thì chiếm vị trí nổi bật lại là các
phƣơng tiện ngữ pháp.
Sự biểu hiện rõ rệt của các “đặc tính ngữ pháp” trong ngôn ngữ tổng
hợp tính - biến hình và “đặc tính từ vựng” trong ngôn ngữ đơn lập - không biến
hình là: ở ngôn ngữ tổng hợp tính, việc dùng các phƣơng tiện ngữ pháp, qua
hình thái của từ (một cách bắt buộc) là để đặt một câu đúng ngữ pháp có thể
hoàn toàn không cần thiết về mặt thông tin.
Một ngôn ngữ càng “tổng hợp” bao nhiêu, tức là vai trò của mỗi từ
càng đƣợc quy định rõ ràng bởi những đặc tính riêng của nó bao nhiêu, thì càng
159
ít cần thiết bây nhiêu việc nhìn ra ngoài từ mà xét đến toàn câu để nắm đƣợc
nghĩa của nó. Điều đó cũng có nghĩa là, ở tiếng Nga, hình thức hợp nhất các
loại nghĩa thể hiện bằng phƣơng tiện hình thái học làm thành bản chất và là đặc
tính không thể thiếu đƣợc của nó.
Trong khi đó, tính “không biến hình” và hình thức “phân tích tính” của
từ lại là đặc điểm điển hình của các ngôn ngữ đơn lập nhƣ tiếng Việt. Ở tiếng
Việt, một phát ngôn đúng ngữ pháp chỉ đƣợc tạo thành bằng những đơn vị có ý
nghĩa từ vựng chân thực và đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất định. Đó là do từ
tiếng Việt không biến đổi hình thái, không có một hình thái riêng nào đi kèm
theo từ một cách bắt buộc. Cho nên, nếu không có các hình vị bổ sung để cấu
tạo nên hình thức phân tích tính, nếu ngoài chu cảnh và ngôn cảnh thì một tập
hợp các âm vốn có của một ngôn ngữ, kể cả khi nó đƣợc tổ chức thành âm tiết,
cũng sẽ là vô nghĩa.
Những phân tích trên đây đã cho thấy sự khác nhau giữa hai ngôn ngữ
của hai loại hình thuộc về những nguyên tắc khi sử dụng: một đằng là tính chất
“tùy nghi”, “lỏng lẻo”, “không thƣờng xuyên”, “không bắt buộc” (khi thật cần
thiết mới dùng) của ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính nhƣ tiếng Việt; một đằng
là tính “ƣu thế”, tính “triệt để” về mặt nguyên tắc của các phạm trù ngữ pháp
trong các ngôn ngữ khuất chiết, tổng hợp tính nhƣ tiếng Nga: nó bắt buộc phải
dùng thông qua các chỉ tố hình thái học đặc trƣng gắn với động từ, kể cả khi
việc dùng nhƣ thế hoàn toàn không cần thiết vì đã có phƣơng tiện từ vựng
Tính “tùy nghi” của các ngôn ngữ đơn lập nhƣ tiếng Việt không phải ở
chỗ nó có thể vắng mặt, không cần xuất hiện mà là ở khả năng tham gia của
các yếu tố ngữ pháp cho phép đánh dấu một phạm trù nào đó trong một tình
huống nhất định. Trong so sánh đối lập, khái niệm “đánh dấu” (tính “hữu
trƣng” - marked) đƣợc coi là một “khái niệm cực kì quan trọng ở mọi cấp độ
ngôn ngữ” [88: 136]. Chính vì vậy, nó cũng đƣợc dùng là cơ sở để xét xem
160
ngôn ngữ này có “ngữ pháp hóa” (grammaticalization / грамматикализация)
các ý nghĩa đang xét hay không, phạm trù ngữ pháp này có tồn tại trong ngôn
ngữ đang đƣợc đối sánh hay không.
Việc sử dụng các chỉ tố ngữ pháp trong các ngôn ngữ đơn lập không
phải là một phƣơng tiện phổ biến biểu thị các ý nghĩa tƣơng ứng mà chỉ là một
trong các phƣơng tiện dùng để biểu đạt khi thật cần thiết, để làm rõ cốt lỗi ngữ
nghĩa của câu. Trong khi thiếu mối tƣơng liên trực tiếp giữa mặt hình thức và
mặt nội dung ý nghĩa mà nó biểu đạt ở ngôn ngữ tổng hợp tính nhƣ đã phân
tích trên đây lại là một sự kiện mang tính nhất quán, điển hình, không phải là
hiện tƣợng cá biệt hay đơn lẻ. Điều này có liên quan đến quy tắc “không cần
thiết” nhƣng vẫn “bắt buộc” phải thể hiện ở một thứ tiếng nhƣ tiếng châu Âu.
Có thể coi đây là lời giải thích đầy đủ, rõ ràng về quy tắc sử dụng, về
phƣơng cách biểu đạt ý nghĩa cỉa loại ngôn ngữ biến hình, minh chứng cho sự
khác nhau về mặt loại hình giữa các ngôn ngữ, cơ sở giúp ta đi vào so sánh, đối
chiếu cách biểu đạt ý nghĩa công cụ của tiếng Việt và tiếng Nga, hai thứ tiếng
vốn đƣợc coi một cách chính danh là nằm ở hai cực điển hình trên cái trục tổng
hợp tính / phân tích tính.
Mỗi ngôn ngữ đều có tính chất đặc thù về phƣơng diện biểu đạt, nhƣng
dù có cách xa nhau ở mặt hình thức thì nó vẫn đƣợc xây dựng trên nền chung,
tức là có một ý nghĩa chung mà mọi ngôn ngữ đều có cách diễn đạt. Chính vì
vậy, những cộng đồng ngƣời khác nhau mới có thể hiểu đƣợc nhau, các thứ
tiếng mới có thể chuyển dịch đƣợc sang nhau. Điều này chứng tỏ mối quan hệ
giữa cái “phổ quát” với cái “riêng biệt”.
Thật vậy, mỗi ngôn ngữ đều có tính chất riêng về phƣơng diện biểu đạt,
nhƣng tính đặc thù, không lặp lại của nó đƣợc tạo ra không phải chỉ do những
nét duy nhất của riêng nó mà còn do tính chất phổ quát và đặc tính loại hình
giao thoa, tác động lẫn nhau nhƣ thế nào trong ngôn ngữ đó. Các công trình
161
nghiên cứu so sánh, đối chiếu, hƣớng tới việc phát hiện ra các đặc điểm của
mỗi ngôn ngữ đều dựa trên luận điểm đƣợc R.O. Yacobson đúc kết lại là: “Các
ngôn ngữ đều có sự đồng hình: làm cơ sở cho cấu trúc của chúng là những
nguyên tắc chung, giống nhau” [dẫn theo 120: 30-32]. Trên bình diện thực tiễn,
các ngôn ngữ của loài ngƣời có khá nhiều điểm tƣơng đồng vì cách tri giác và
nhận thức thế giới của con ngƣời là một và do đó, những ý nghĩa mà con ngƣời
cần diễn đạt khi giao tiếp với nhau trong cộng đồng cũng rất giống nhau. Về
mặt nhận thức, tất cả các ngôn ngữ đều có khả năng và nhu cầu biểu đạt ý
nghĩa nhƣ nhau. Ngƣời ta gọi đó là năng lực ngôn ngữ phổ quát nói chung của
loài ngƣời, là cái cơ chế ngôn ngữ chung của mọi thứ tiếng.
Tuy nhiên, ngoài mặt chung nhau, giống nhau này ra, mỗi ngôn ngữ
còn đƣợc phân biệt với nhau về cách thức cấu tạo, về hình thức biểu đạt từ cấu
trúc bên trong của nó. Ngôn ngữ không trực tiếp phản ánh thế giới khách quan.
Nó phản ánh hiện thực thông qua cách tri giác, qua lăng kính của ngƣời sử
dụng. Điều này bọc lộ rõ rệt khi chúng ta đem so sánh các ngôn ngữ với nhau.
Saussure đã thấy: “Đôi khi một ngôn ngữ dùng trật tự trước sau của các từ để
biểu đạt một ý mà giá phải một ngôn ngữ khác thì sẽ diễn đạt bằng một hay
nhiều từ cụ thể ...” [109: 139]
Việc xác lập quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ bằng cách xem xét
sự giống nhau hay khác nhau về mặt hình thức, biểu thị những phạm trù ngữ
pháp nhất định, nhằm mục đích cuối cùng là giải thích đƣợc những sự khác biệt
ấy (giữa các ngôn ngữ) có phải đƣợc quy định bởi quy luật chung hay không.
Sau khi bắt đầu bằng việc miêu tả, liệt kê ra tất cả các phƣơng tiện dùng
để biểu đạt ý nghĩa công cụ, vai nghĩa công cụ ở mỗi thứ tiếng cũng nhƣ xem
xét những điểm khác nhau về mặt loại hình giữa chúng, chúng tôi rút ra một số
nhận xét nhƣ sau:
162
Những điểm tƣơng đồng là: cả tiếng Việt và tiếng Nga đều dùng
phƣơng tiện từ vựng để diễn đạt ý nghĩa công cụ. Sự giống nhau này có thể
thấy qua phƣơng tiện chuyển dịch tƣơng đƣơng nhau giữa hai thứ tiếng:
a. Dùng danh từ, danh ngữ diễn đạt ý nghĩa công cụ thực hiện hành động
b. Dùng danh từ kết hợp với giới từ để thể hiện ý nghĩa công cụ
c. Dùng trạng ngữ xác định công cụ thực hiện hành động
Những điểm khác biệt là:
a. Ở loại hình ngôn ngữ đơn lập nhƣ tiếng Việt, do từ không biến đổi
hình thái nên bản thân động từ ở dạng từ điển không chứa sẵn một dấu hiệu nào
để có thể chỉ ra công cụ thực hiện hành động hay chỉ ra cách thức sử dụng công
cụ. Trong khi đó, tiếng Nga, các thông số về công cụ thực hiện hành động lại
luôn gắn với động từ do từ biến đổi hình thái. Đây là đặc điểm cơ bản, chủ đạo
chi phối đến phƣơng thức biểu thị ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga, trƣớc hết là
ở mặt từ loại:
- Giới từ tiếng Nga, trong đó có giới từ biểu thị ý nghĩa công cụ đƣợc
dùng theo những cách khác nhau, khi kết hợp với danh từ, nó làm cho danh từ
đó biến đổi theo cách. Tiếng Việt không có hình thức này.
- Động từ tiếng Nga (trừ một số ít ở dạng nguyên) luôn biến đổi tạo nên
những hình thái riêng diễn đạt những ý nghĩa khác nhau về công cụ. Tiếng Việt
không có hình thức biến đổi của động từ.
b. Biến tố của động từ đƣợc thể hiện qua các chỉ tố ngữ pháp đặc trƣng,
mang tính “thƣờng xuyên” và “bắt buộc”, gắn với nó, làm thành phạm trù công
cụ của tiếng Nga. Trong khi tiếng Việt thiếu vắng những chỉ tố chuyên biệt
đƣợc “mã hóa” vào vị từ. Khi thật cần thiết biểu thị ý nghĩa “trực chỉ” công cụ,
khi ngôn cảnh không cho biết rõ cách thức, phƣơng tiện thực hiện hành động,
tiếng Việt dùng phƣơng tiện từ vựng qua khung đề, trạng ngữ hay dùng vị từ
tình thái. Hệ quả là những chỉ tố “đánh dấu” công cụ trong tiếng Nga không
163
phải bao giờ cũng tƣơng hợp với những phƣơng tiện biểu thị công cụ trong
tiếng Việt.
- Những câu có ý nghĩa xác định công cụ đƣợc diễn đạt bằng phƣơng
tiện ngữ pháp trong tiếng Nga, sang tiếng Việt đƣợc diễn đạt bằng phƣơng tiện
từ vựng
- Trong tiếng Nga, một động từ ngoài nghĩa gốc, nghĩa từ vựng, khi
thêm vào các tiền tố, hậu tố có thể tạo ra những từ mới với những nghĩa phái
sinh có sắc thái phân biệt nhau rất phong phú. Đây là ý nghĩa “tập quán”
(hibitual) thể hiện thói quen của ngƣời sử dụng ngôn ngữ, chỉ có trong tiếng Nga,
không có trong tiếng Việt, ví dụ: читать (đọc) / начитывать (ghi âm); говорить
(nói) / отговориться (viện cớ); учить (học) / разучать (tập luyện); ...
Tóm lại, chúng tôi rút ra một số nhận xét nhƣ sau:
- Điểm khác biệt dễ thấy trong cách biểu đạt ý nghĩa công cụ giữa tiếng
Nga và tiếng Việt là: tiếng Nga dùng phƣơng tiện hình thái học một cách nhất
quán, điển hình qua các chỉ tố ngữ pháp chuyên biệt, đặc trƣng gắn với vị từ
một cách bắt buộc kể cả khi ngôn cảnh cho phép ngƣời nghe định vị đƣợc sự
tình. Còn tiếng Việt biểu thị ý nghĩa công cụ rất linh hoạt, khi thật cần thiết mới
sử dụng phƣơng tiện từ vựng (qua khung đề, trạng ngữ) để diễn đạt ý nghĩa này
một cách bắt buộc hoặc không hoàn toàn bắt buộc.
- Một hình thức ngôn ngữ có thể biểu đạt nhiều ý nghĩa khác nhau và
ngƣợc lại, một ý nghĩa cũng có thể có nhiều hình thức biểu đạt khác nhau. Xét
trên bình diện “cái đƣợc biểu hiện” của ngôn ngữ thì không phải bao giờ ý
nghĩa và hình thức biểu đạt nó cũng có sự tƣơng ứng một đối một. Cách biểu
đạt “phi đối xứng”, xét trong mối quan hệ giữa ngôn ngữ này với ngôn ngữ
khác, có thể diễn ra ở mọi cấp độ ngôn ngữ. Đây chính là một trong những
nguyên nhân tạo nên sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ và cũng là điểm cần chú ý
khi chuyển dịch hai thứ tiếng.
164
Những nhận xét trên đây sẽ cho ta hiểu thêm về mối quan hệ giữa hình
thức và ý nghĩa của ngôn ngữ, về quan hệ giữa ngữ pháp và ngữ nghĩa trong
một ngôn ngữ cũng nhƣ giữa các ngôn ngữ với nhau, thấy đƣợc điểm tƣơng
đồng và khác biệt giữa chúng trong cách biểu hiện tƣ duy và thực hành giao
tiếp. Điều này có tác dụng giúp ngƣời bản ngữ cũng nhƣ ngƣời học ngoại ngữ
giải quyết đƣợc những khó khăn gặp phải trong quá trình thụ đắc và sử dụng
ngôn ngữ.
165
TIỂU KẾT
Trong chƣơng III chúng tôi đã khảo sát, miêu tả ý nghĩa công cụ và vai
nghĩa công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga; những đặc trƣng ngữ nghĩa hình
thức của vai nghĩa công cụ trên bình diện nghĩa (nghĩa miêu tả), đồng thời
nghiên cứu khả năng hiện thực hóa của vai nghĩa công cụ trong vai trò thực
hiện các chức năng cú pháp của câu. Kết quả thu đƣợc nhƣ sau:
Trong tiếng Việt, vai nghĩa công cụ có thể đảm nhiệm chức năng chủ
ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, đề ngữ ở trong câu. Vai nghĩa công cụ nhờ vào các
thành phần cú pháp (chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, đề ngữ) để thể hiện vai trò
thông báo của mình, nghĩa là thể hiện ở mặt ngữ nghĩa. Ngƣợc lại, các thành
phần cú pháp nhờ vào vai nghĩa công cụ để thể hiện các dấu hiệu hình thức,
phân biệt với các thành phần cú pháp khác nhau trong câu.
Trong tiếng Nga, vai nghĩa công cụ và cách công cụ có mối quan hệ
qua lại: cách công cụ có thể đƣợc sử dụng để thể hiện nhiều vai nghĩa, trong đó
có vai nghĩa công cụ. Ngƣợc lại, vai nghĩa công cụ có thể đƣợc thể hiện bằng
cách công cụ hoặc các hình thức ngữ pháp khác.
Sự thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ và vai nghĩa công cụ trong tiếng
Việt và tiếng Nga có cả những điểm tƣơng đồng lẫn khác biệt. Sự tƣơng đồng
có thể nhận biết qua các phƣơng tiện chuyển dịch tƣơng đƣơng nhau giữa hai
ngôn ngữ (dùng danh từ, danh ngữ, giới ngữ). Sự khác biệt nằm ở sự biến đổi
về mặt hình thái của các giới từ ở các cách khác nhau bắt nguồn từ sự khác biệt
về loại hình ngôn ngữ.
Việc nghiên cứu ý nghĩa công cụ và vai nghĩa công cụ trong tiếng Việt
và tiếng Nga có giá trị thực tiễn lớn. Trƣớc hết, tính ứng dụng của vấn đề
nghiên cứu nằm ở hoạt động dạy và học tiếng Việt - tiếng Nga với tƣ cách là
một ngoại ngữ; tiếp theo đó là trong hoạt động dịch, biên soạn giáo trình tài
liệu giảng dạy và học tập hai ngôn ngữ.
166
KẾT LUẬN
Từ những nội dung đã trình bày trong các chƣơng bên trên của luận án
này, đến đây, chúng tôi thấy có thể bƣớc đầu tổng kết lại đƣợc một số điểm
kết luận nhƣ sau.
1. Ý nghĩa ngữ pháp nói chung, ý nghĩa ngữ pháp công cụ nói riêng,
và các phƣơng tiện thể hiện chúng trong các ngôn ngữ khác nhau, sự so sánh
hoặc đối chiếu để phát hiện những tƣơng đồng và khác biệt của chúng, nghiên
cứu chúng trong tƣơng quan và liên hệ với vai nghĩa trong phân tích cú pháp -
ngữ nghĩa,... là những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu với những mức độ nông,
sâu, rộng, hẹp khác nhau; thậm chí có những vấn đề trong đó đã đƣợc nghiên
cứu từ lâu; nhƣng với sự phát triển của ngữ pháp học cùng với ngữ nghĩa học
và ngữ dụng học nhƣ hiện nay, những hƣớng tiếp cận nghiên cứu về chúng
vẫn tiếp tục đƣợc mở ra và hứa hẹn những kết quả nghiên cứu mới.
Ý nghĩa ngữ pháp công cụ là ý nghĩa có tính phổ quát trong các ngôn
ngữ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nó ở các ngôn ngữ khác nhau đã đạt đƣợc
những kết quả ở những mức độ khác nhau.
Trƣớc nay, đa số các nghiên cứu thƣờng tập trung miêu tả ý nghĩa
công cụ ở góc độ hình thái học. Trong thời gian gần đây, dƣới ánh sáng của
ngữ pháp chức năng hệ thống, vấn đề ý nghĩa công cụ đã đƣợc nghiên cứu
nhiều ở góc độ ngữ nghĩa và cú pháp - ngữ nghĩa. Trong luận án này, bên
cạnh những phân tích, miêu tả mặt ngữ pháp, hình thái học của ý nghĩa ngữ
pháp công cụ, chúng tôi đã bƣớc đầu đề cập đến mối quan hệ, tƣơng quan
giữa ý nghĩa ngữ pháp công cụ (thuộc bình diện ngữ pháp) với vai nghĩa công
cụ (thuộc bình diện của ngữ nghĩa).
2. Về phƣơng thức ngữ pháp để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ,
chúng tôi thấy:
a. Nét nổi bật đối với tiếng Việt là, nó sử dụng hƣ từ làm phƣơng thức
chủ đạo. Bên cạnh hai hƣ từ điển hình mang ý nghĩa chỉ công cụ là bằng, với,
167
tiếng Việt còn sử dụng một loạt hƣ từ khác cũng chứa nét nghĩa công cụ nhƣ:
nhờ, nhờ vào, dựa, dựa vào, dựa theo, căn cứ vào, căn cứ theo, bởi, trên,
trong, qua, thông qua ... Ngoài ra, nhƣ trong điểm 3 dƣới đây chúng tôi sẽ
trình bày, tiếng Việt còn sử dụng cả trật tự của biểu thức ngôn ngữ (dùng kết
cấu với vị từ dùng / lấy).
b. Tiếng Nga cũng sử dụng hƣ từ để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công
cụ. Ngoài hai hƣ từ điển hình thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga là giới
từ с, под (ở cách công cụ), tiếng Nga còn sử dụng một số giới từ khác ở các
cách khác để thể hiện ý nghĩa công cụ nhƣ: на, в, с, через, о, с помощю, при
помощи, средством, методом, по, благодаря, за, при.
Khi chuyển dịch ý nghĩa công cụ từ tiếng Việt sang tiếng Nga hoặc
ngƣợc lại, có những cặp hƣ từ tƣơng ứng nhau khá đều đặn giữa hai ngôn
ngữ. (Điều này gợi ý về những điểm thuận lợi cho ngƣời dạy ngƣời học,
ngƣời dịch Việt – Nga và Nga – Việt).
3. So sánh phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ trong tiếng Việt với
phƣơng thức tƣơng ứng trong tiếng Nga, điểm rõ rệt nhất có thể nhận thấy là:
cả hai ngôn ngữ đều dùng hƣ từ. Điểm khác biệt giữa hai ngôn ngữ này là:
trong khi tiếng Việt chỉ dùng phƣơng thức hƣ từ (bằng, với, nhờ, nhờ vào,
dựa, dựa vào, dựa theo, căn cứ vào, căn cứ theo, bởi, trên, trong, qua, thông
qua, ...) và trật tự từ (dùng kết cấu với vị từ dùng / lấy; ví dụ: dùng răng cắn
chỉ, lấy lấy ngực đỡ bóng,...), thì tiếng Nga dùng phƣơng thức hƣ từ, phƣơng
thức phụ tố và kết hợp hƣ từ với phụ tố.
Điều này không khó giải thích, bởi vì tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập,
không biến hình, không có phụ tố (không dùng phụ tố làm phƣơng thức ngữ
pháp), còn tiếng Nga, một ngôn ngữ biến hình điển hình, phƣơng thức ngữ
pháp chủ yếu của nó để biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp của nó là phụ tố và hƣ từ.
168
Mặt khác, khi nói về phƣơng thức thể hiện ý nghĩa công cụ, ta cũng
không nên quên rằng, có những loạt vị từ / động từ có chứa tiền giả định về ý
nghĩa công cụ (ví dụ: chặt, cắt, cưa, nghe, liếc, viết, ...). Tiền giả định này
đƣợc phát hiện, đƣợc nhận ra khi ta dùng các thủ pháp phân tích nghĩa của từ,
đặc biệt là phân tích nghĩa của phát ngôn cùng với ngữ cảnh của phát ngôn.
Ý nghĩa ngữ pháp công cụ có liên quan đến vai nghĩa công cụ trong
nghiên cứu cú pháp - ngữ nghĩa và ngữ pháp chức năng hệ thống. Ý nghĩa
ngữ pháp công cụ thể hiện quan hệ về cách giữa các thành phần ngôn ngữ
trong phát ngôn, nghĩa là nó đƣợc thể hiện về mặt ngữ pháp, bằng phƣơng
tiện ngữ pháp đƣợc quy định; còn vai nghĩa công cụ là một vai ngữ nghĩa, thể
hiện quan hệ về mặt ngữ nghĩa giữa các thành phần (vai nghĩa) trong tổ chức
ngữ nghĩa của phát ngôn.
Vì thế, ở cấp độ thành phần câu, tuy ý nghĩa công cụ và vai nghĩa
công cụ đều thực hiện vai trò, chức năng làm thành phần câu, nhƣng nhìn theo
chiều ngƣợc lại, một vai nghĩa trong câu hoàn toàn có thể do chủ ngữ, bổ ngữ,
trạng ngữ, đề ngữ, đảm nhiệm, tùy tƣng câu/phát ngôn cụ thể, trong ngữ cảnh
cụ thể. Khi đảm nhiệm vai trò một thành phần cú pháp của câu, vai nghĩa
công cụ đều có các chỉ dấu về mặt hình thức (bằng dấu câu, bằng hƣ từ, bằng
ngữ điệu). Vai nghĩa tất sẽ đóng vai trò cụ thể nhất định trong cấu trúc nghĩa
biểu hiện của câu.
4. Việc nghiên cứu ý nghĩa công cụ và sự thể hiện của nó trong hai
ngôn ngữ Việt và Nga có ý nghĩa khoa học và thực tiễn của nó, dù là từ
hƣớng tiếp cận nghiên cứu ngữ pháp hay ngữ nghĩa, và cả ngữ dụng. Không
những thế, những nghiên cứu về đối tƣợng này còn ngụ ý trong đó tính ứng
dụng cao trong lĩnh vực khoa học dạy tiếng, cùng với việc dạy và học tiếng
thực hành. Việc phát hiện những khó khăn và thuận lợi khi phải biểu thị ý
nghĩa công cụ, các nghiên cứu về lỗi, phân tích lỗi, ngừa lỗi, sửa lỗi trong dạy
và học tiếng, ... cũng có thể tìm thấy những thông tin hữu ích trong kết quả
169
nghiên cứu về sự thể hiện ý nghĩa ngữ pháp công cụ trong tiếng Việt và tiếng
Nga, hai ngôn ngữ rất khác biệt nhau vê mặt loại hình. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ và yêu cầu của luận án này, chúng tôi chƣa thể đi sâu vào phân
tích và miêu tả những khía cạnh đó. Hy vọng rằng, những điều đó sẽ đƣợc
chúng tôi tiếp tục tìm tòi trong những nghiên cứu tiếp theo sau này./.
170
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đoàn Hữu Dũng (2018), “Sự thể hiện ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ
trong tiếng Nga và tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ Quân sự (13), tr.
32-37.
2. Đoàn Hữu Dũng (2018), “Đối chiếu cách thể hiện ý nghĩa công cụ
Nga - Việt nhìn từ góc độ Ngôn ngữ học Ứng dụng”, Tạp chí Khoa học Ngoại
ngữ Quân sự (15), tr. 31-38
171
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Thị Lan Anh (2000), Các vai nghĩa: Kẻ tiếp nhận, kẻ hưởng lợi,
kẻ cộng tác, kẻ tổn thất, phương tiện và các chức năng ngữ pháp của chúng
trong câu tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm
Hà Nội, Hà Nội.
2. Lê Thị Lan Anh (2001), “Tìm hiểu sự hiện thực hóa các vai nghĩa và
các thành phần câu trong văn bản tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (4), tr. 18-19.
3. Lê Thị Lan Anh (2002), “Vai nghĩa phƣơng tiện và các chức năng
ngữ pháp của nó trong câu tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (4), tr. 25-31.
4. Lê Thị Lan Anh (2014), Câu quan hệ tiêng Việt dưới góc nhìn của
Ngữ pháp chức năng, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Diệp Quang Ban (2008), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (2012), Ngữ pháp tiếng Việt
Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
8. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt: Tiếng – Từ ghép –
Đoản ngữ, NXB ĐH và THCN, Hà Nội.
9. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
10. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2011), Đại cương ngôn ngữ học
Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
11. Trƣơng Văn Chình & Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ
pháp Việt Nam, NXB Đại học Huế, Huế.
12. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2008), Cơ
sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
172
13. Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh
Toán (2011), Nhập môn ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
14. Đỗ Hồng Dƣơng (2011), Khảo sát chủ ngữ tiếng Việt dưới góc
nhìn của lí thuyết điển mẫu, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trƣờng
ĐHKHXH và NV, ĐHQGHN, Hà Nội.
15. Lâm Quang Đông (2007), Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu có vị
ngữ là vị từ mang ý nghĩa trao/tặng (trên cơ sở tiếng Việt và tiếng Anh), Luận
án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trƣờng ĐHKHXH và NV, ĐHQGHN, Hà Nội.
16. Lâm Quang Đông (2011), “Về cách xác định cấu trúc nghĩa biểu
hiện của câu đa động từ trong tiếng Anh và tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN (27), tr. 143-150.
17. Lâm Quang Đông (2013), “Sự chênh nghĩa giữa vị từ đơn tiếng
Anh và vị từ chuỗi tiếng Việt (và sự thất thoát nghĩa khi dịch)”, Tạp chí Từ
điển học và Bách khoa thư (34), tr. 3-9.
18. Lâm Quang Đông (2014), “Một số đặc thù của kết cấu vị từ chuỗi
tiếng Việt”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Ngôn ngữ học Việt Nam trong bối cảnh
mới và hội nhập, tr. 714-738.
19. Lê Đông (1991), “Ngữ nghĩa – ngữ dụng của hƣ từ tiếng Việt: ý
nghĩa đánh giá của các hƣ từ”, Tạp chí Ngôn ngữ (2), tr. 15-23, 28.
20. Đinh Văn Đức (2015), Ngữ pháp tiếng Việt_Từ loại, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
21. Đinh Văn Đức, Nguyễn Văn Chính, Đinh Kiều Châu (2016), Ngôn
ngữ học ứng dụng (Giáo trình), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
22. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
23. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
173
24. Nguyễn Thiện Giáp (2012), Phương pháp luận và phương pháp
nghiên cứu ngôn ngữ, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
25. Nguyễn Thiện Giáp (2014), Nghĩa học Việt ngữ, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
26. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết
(2014), Dẫn luận Ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội
27. Nguyễn Thiện Giáp (2014), “Phân biệt nghĩa và ý nghĩa trong
ngôn ngữ học hiện đại”, Tạp chí Khoa học ĐHQG Tập 30 (3), tr.1-13.
28. Nguyễn Thiện Giáp (2016), Từ điển khái niệm ngôn ngữ học,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
29. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng,
NXB KHXH, Hà Nội.
30. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt: Mấy vấn đề về ngữ âm, ngữ
pháp, ngữ nghĩa, NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
31. Cao Xuân Hạo (chủ biên), Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng,
Bùi Tất Tƣơm (1998), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt: Câu trong tiếng Việt
Quyển 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
32. Cao Xuân Hạo (1999), “Nghĩa của loại từ”, Tạp chí Ngôn ngữ (2),
tr. 1-16 và (3), tr. 9-23.
33. Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng (2004), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ
học đối chiếu Anh Việt – Việt Anh, NXB Giáo dục, Hà Nội.
34. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Hiệp (2009), Cú pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
36. Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
174
37. Trƣơng Vĩnh Ký (1883), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Guilaud &
Martinon, Sài Gòn.
38. Phan Khôi (1955), Việt ngữ nghiên cứu, NXB Văn nghệ, Hà Nội.
39. Nguyễn Lai (1981), “Một vài đặc điểm của nhóm từ chỉ hƣớng
đƣợc dùng ở dạng động từ trong tiếng Việt hiện đại”, Tạp chí Ngôn ngữ (3),
tr. 8-29.
40. Nguyễn Lai (1981), “Thử tìm hiểu sự chuyển hóa nghĩa từ vựng
theo hƣớng “hƣ hóa” (thông qua từ chỉ hƣớng vận động “ra”)”, Giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ Tập 2, tr. 159 – 166, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
41. Nguyễn Lai (1984), Từ chỉ hướng vận động trong tiếng Việt hiện
đại, Luận án Tiến sĩ, Trƣờng Đại học Wilhem Humboldt, Khoa châu Á.
42. Đào Thanh Lan (2002), Phân tích câu đơn tiếng Việt theo cấu trúc
Đề - Thuyết, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
43. Đào Thanh Lan (2012), Một số vấn đề ngữ pháp – ngữ nghĩa của lời
(Trường hợp lời cầu khiến tiếng Việt), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
44. Lƣu Vân Lăng (1994), Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt hiện đại,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
45. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
46. Nguyễn Văn Lộc (1992), “Định nghĩa và xác định kết trị của động
từ”, Tạp chí Ngôn ngữ (1), tr. 39-42
47. Nguyễn Văn Lộc (2000), Kết trị của động từ tiếng Việt, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
48. Nguyễn Văn Lộc (2002), “Các mô hình kết trị của động từ tiếng
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (2), tr. 20-24.
175
49. Nguyễn Văn Lộc (2012), “Bàn thêm về bình diện cú pháp và
nghĩa cú pháp”, Tạp chí Ngôn ngữ (6), tr. 3 - 18.
50. Lê Văn Lý (1968), Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, Trung tâm Học
liệu, Sài Gòn.
51. Võ Huỳnh Mai (1971), “Về vấn đề trạng ngữ trong tiếng Việt”,
Tạp chí Ngôn ngữ (3), tr. 13-21.
52. Võ Huỳnh Mai (1973), “Bàn thêm về phạm vi của trạng ngữ trong
tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (2), tr. 54-62.
53. Đái Xuân Ninh (1973), “Có nên xem "Câu đơn có trạng ngữ" là
một kiểu câu ghép không?”, Tạp chí Ngôn ngữ (3), tr. 49-55.
54. Trà Ngân (1943), Khảo cứu về tiếng Việt Nam, Hà Nội.
55. Phan Ngọc & Phạm Đức Dƣơng (1982), Tiếp xúc ngôn ngữ ở
Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á, Hà Nội.
56. Phan Ngọc (2013), Hình thái học trong từ láy tiếng Việt, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
57. Vũ Đức Nghiệu, Nguyễn Văn Hiệp (2010), Dẫn luận ngôn ngữ
học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
58. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”, Tạp chí Ngôn ngữ (2),
tr. 10-26.
59. Hoàng Phê (1982), “Tiền giả định và hàm ý tiềm tàng trong ngữ
nghĩa của từ”, Tạp chí Ngôn ngữ (2), tr. 49-51
60. Hoàng Phê chủ biên (1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng,
Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng.
61. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt: Câu, NXB ĐH
và THCN, Hà Nội.
62. Hoàng Trọng Phiến (2003), Cách dùng hư từ tiếng Việt, NXB
Nghệ An, Nghệ An.
176
63. Hoàng Trọng Phiến (2008), Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt,
NXB Tri thức, Hà Nội.
64. Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
65. Nguyễn Thị Quy (1993), “Về kiểu kết cấu D2 do D1Đ”, Tạp chí
Ngôn ngữ (3), tr. 5-9.
66. Nguyễn Thị Quy (1995), Vị từ hành động tiếng Việt và các tham
tố của nó (so sánh với tiếng Nga và tiếng Anh), NXB Khoa học Xã hội, Tp.
Hồ Chí Minh.
67. Nguyễn Hữu Quỳnh (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
68. Nguyễn Mạnh Tiến (2016), Phân tích câu về cú pháp dựa vào
thuộc tính kết trị của từ (trên cứ liệu động từ tiếng Việt), Luận án Tiến sĩ
Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
69. Bùi Đức Tịnh (1956), Văn phạm Việt Nam, NXB Vĩnh Bảo, Sài Gòn.
70. Bùi Minh Toán (2010), “Vai nghĩa của các tham thể trong sự
chuyển hóa của vị từ‖, Tạp chí Ngôn ngữ (3), tr. 1-9
71. Hoàng Tuệ (2001), Tuyển tập ngôn ngữ học, NXB Đại học Quốc
gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
72. Hoàng Tuệ, Lê Cận và Cù Đình Tú (1962), Giáo trình về Việt ngữ,
NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
73. Lê Đình Tƣ và Vũ Ngọc Cân (2009), Nhập môn ngôn ngữ học,
NXB thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
74. Lê Xuân Thại (1983), “Nghĩa công cụ trong câu tiếng Việt”, Tạp
chí Ngôn ngữ (2), tr. 39-42
75. Lê Xuân Thại (1992), Câu chủ-vị tiếng Việt, Luận án phó tiến sĩ
khoa học ngữ văn, Viện NNH, Hà Nội.
177
76. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt Tập
1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
77. Nguyễn Kim Thản (1964), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt Tập
2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
78. Nguyễn Kim Thản (1977), Động từ trong tiếng Việt, NXB Khoa
học và Xã hội, Hà Nội.
79. Nguyễn Kim Thản (1981), Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, NXB Tổng
hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
80. Tô Minh Thanh (2011), Vai nghĩa trong câu trần thuật tiếng Việt
và tiếng Anh, NXB ĐHQG Thành phố HCM, Thành phố HCM.
81. Lê Kính Thắng (2008), “Trật tự từ và việc nhận diện một số cấu
trúc ngoại động trong tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM (13), tr.
69-75
82. Lý Toàn Thắng (1981), “Về một hƣớng nghiên cứu trật tự từ trong
câu”, Tạp chí Ngôn ngữ (3), tr. 25-32.
83. Lý Toàn Thắng (2000), “Về cấu trúc ngữ nghĩa của câu‖,Tạp chí
Ngôn ngữ (5), tr. 1-8.
84. Lý Toàn Thắng (2002), Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ học
đại cương, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
85. Lý Toàn Thắng (2004), Lí thuyết trật tự từ trong cú pháp, NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
86. Lê Quang Thiêm (2008), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
87. Lê Quang Thiêm (2013), Ngữ nghĩa học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
88. Phan Thị Minh Thúy (2003), Cách diễn đạt ý nghĩa thời gian
trong tiếng Việt (So sánh với tiếng Nga), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐHQG
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
178
89. Nguyễn Minh Thuyết (1981), “Câu không chủ ngữ với tân ngữ
đứng đầu”, Tạp chí Ngôn ngữ (1), tr. 40-46.
90. Nguyễn Minh Thuyết (1988), “Cách xác định thành phần câu tiếng
Việt”, Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á, NXB KHXH, Hà Nội, tr.
207-212.
91. Nguyễn Minh Thuyết (1994), “Thử giải đáp hai vấn đề cơ bản về
thành phần câu”, Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt hiện đại (Lưu Vân Lăng
chủ biên), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 57-67.
92. Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (1998), Thành phần
câu tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
93. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2000), Ngữ
pháp tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
94. Uỷ ban Khoa học Xã hội (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
95. Nguyễn Khắc Xuyên (1994), Ngữ pháp tiếng Việt của Taberd
1838, NXB Thời điểm.
96. Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (1997), Từ điển giải thích thuật ngữ
ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Tiếng Anh
97. Anderson, John M. (1994), “Case”, The Encyclopedia of
Language and Linguistics (vol. 2), Pergamon Press, Oxford, pp. 447- 453.
98. Anderson J. (2006), Modern Grammars of Case, Oxford
University Press, Oxford, 461 pages.
99. Blake, B.J. (2001), Case, Cambridge University Press, Cambridge.
100. Butt, Miriam (2006), Theories of Case, Oxford University Press,
Oxford.
179
101. Campe, Petra. (1994), Case, semantic roles, and grammatical
relations: a comprehensive bibliography, Amsterdam, Philadelphia.
102. DeLancey S. (1982), Aspect, transitivity and viewpoint‖, Tense
and aspect: between semantics and pragmatics, Amsterdam, Philadelphia.
103. Fillmore, C.J. (1968), “The Case for Case”, Universals in
linguistic theory, pp 1-91, New York.
104. Halliday M.A.K (2001), Halliday‘s Introduction to Functional
Grammar (Dẫn luận ngữ pháp chức năng, bản dịch: Hoàng Văn Vân), NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
105. Jackendoff, R. (1983), Semantics and cognition, MA: MIT Press,
Cambridge.
106. John Lyons (1996), Nhập môn ngôn ngữ học lí thuyết, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
107. Lakoff George (1968). Trạng ngữ công cụ và khái niệm cấu trúc
chìm! (Instrumental Adberbe and concept of Deep Structure), Nguyễn Đức Dân,
Nguyễn Đức Lợi dịch trong quyển Mathematical Lingustics and Automatic
Translation Report № NSF – 20, Cambridge, Massachusetts, May 1968.
108. Nilsen, D.L.F. (1973), The instrument case in English, The
Hague, Mouton.
109. Saussure F.de (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
110. Schlesinger, I.M. (1985), Cognitive space and lingustics case –
semantic and syntactic categories in English, Cambridge, Cambridge
University Press.
111. Wilkins, W. (1988), “Thematic structure and reflexivization”,
Syntax and semantic, (vol. 21), pp 191 – 215, San Diego.
Tiếng Nga
180
112. Адмони В.Г. (1963), Исторический синтаксис немецкого
языка, Издательство Высшая школа, МОСКВА, 336 с.
113. Белошапова В.А., Муравенко Е.В. (1980), “Способы
выражения инструментального значения в русском языке”, Навстречу
VI конгрессу МАПРЯЛ
114. Бужинский С.В. (2012), “Опыт описания английских
инструментальных предлогов”, Ученые записки: электронный научный
журнал Курского государственного университета № 4 (24), Т. 1
115. Бужинский С.В. (2013), Семантика инструментальности в
явной и скрытой грамматике (на материале русского и английского
языков), Диссертация на соискание ученой степени кандидата
филологических наук, Курск.
116. Бысров И.С., Нгуэн Тай Кан, Штанкевич Н.В. (1975),
Вьетнамская грамматика, Издательство Наука, Москва.
117. Варпахович Л.В. (1986), Категория инструменталя и ее
реализация в тексте, Автореферат диссертации кандидата
филологических наук, Минск, 20 с.
118. Вежбицкая А. (1985), “Дело о поверхностном падеже //
Новое в зарубежной лингвистике”, Современная зарубежная русистика
- Выпуск XV. - С. 303-341.
119. Головин Б.Н. (1983), Введение в языкознание. Изд. Высшая
школа, Москва.
120. Зубкова И.Г. (1990 ) (Hoàng Lê dịch), “Các nét đồng hình của
các ngôn ngữ đơn lập và ngôn ngữ biến tố (Một vài nét tƣơng đẳng Nga –
Việt)”, Tạp chí Ngôn ngữ (1), tr. 30-32.
121. Жданова Т.А. (2012), “Linguistic means for representing the
concept “instrument””, Научный вестник Воронеж, Т. 1, с. 63-70.
181
122. Кашкин В.Б. (1991), Функциональная типология перфекта,
Издательство ВГУ, Воронеж, 128 с., Режим доступа:
http://kachkine.narod.ru/WebPerfect/Ch1/Chapter1.htm
123. Кашкин В.Б. (2010), Парадоксы границы в языке и
коммуникации, серия монографий «Аспекты языка и коммуникации»,
Выпуск 5, Воронежский государственный университет, Воронеж, 382 с.
124. Кобцева, А.В. (2006), Категория инструментальности и
способы ее экспликации в текстах газетно-публицистического стиля
русского и немецкого языков, диссертация кандидата филологических
наук 10.02.19, Ставрополь, 185 с.
125. Костюченко Ю.П. (1977), Творительный падеж и значение
деятеля при страдательном залоге и орудия (на материале славянских,
германских и балтийских языков), Издательство Ленгипроводхоз,
Лениград, 102 с.
126. Кодухов В.И. (1979), Обще языкознание. Изд. Просвещение,
Москва.
127. Косoвский В.И. (1974), Обще языкознание. Изд. Вышэйшая
школа, Минск.
128. Кочергина В.А. (1979), Введение в языковедение. Изд.
Московского Университета, Москва.
129. Лекомцев Ю.К. (1964), Простое предложение Вьетнамского
языка, Издательство Наука, Москва.
130. Лутин С.А. (2008), Системно-функциональный анализ
категории падежа, диссертация кандидата филологических наук
10.02.01; Издательство РУДН, Москва, 486 с.
131. Милославский И.Г. (1981), Морфологические категории
современного русского языка, Издательство Просвещение, Москва, 254 с.
182
132. Москвин В.П. (1988), Лексико-грамматические средства
выражения инструментальности в современном русском языке,
Автореферат диссертации кандидата филологических наук, Киев, 17 с.
133. Морев И.Н. (1990 ) (Hoàng Lê dịch), “Về tính từ vựng và tính
ngữ pháp của các ngôn ngữ đơn lập ở Đông Á và Đông Nam Á”, Tạp chí
Ngôn ngữ (1), tr. 27-29.
134. Мразек Р. (1964), Синтаксис русского творительного
(структурно- сравнительное исследование), Praha, 285 c.
135. Муравенко Е.В. (1987), “К вопросу о статусе орудийного
значения // Типы коммуникации и содержательный аспект языка”,
Сборник научных тр., Издательство Наука, Москва, с. 54-62.
136. Муравенко Е.В. (1988), Выражение инструментального
значения падежными и предложно-падежными формами //
Идеографические аспекты русской грамматики / Под. ред.
Белошапковой В.А. и Милославского И.Г., Издательство в МГУ,
Москва, с. 75-94.
137. Мурясов Р.З. (1972), “Структура словообразовательных
полей лица и инструмента в современном немецком языке”, Вопросы
языкознания (4), с. 90-99.
138. Нгуэн Минь Тхуэт (1981), Подлежающий в Вьетнамском
языке, Диссертация на соискание ученой степени кандидата
филологических наук, Ленинградский Государственный Университет,
Ленинград.
139. Пешковский А.М. (1956), Русский синтаксис в научном
освещении - 7-е, Издательство Учпедгиз, МОСКВА, 511 с.
140. Попoва З.Д. Cтернин, И.А. Обще языкознание. Всток - Заnад, 2007
183
141. Пунькина И.М. (1983), Tóm lược ngữ pháp tiếng Nga (Bùi Hiền
dịch), NXB Tiếng Nga, Moskva.
142. Реформатский А.А. Введение в языковедение. Изд.
Просвещение, Москва, 1967.
143. Филлмор Ч. (1981), “Дело о падеже”, Новое в зарубежной
лингвистике: Лингвистическая семантика (X), с. 369-495.
144. Станкевич Н.В. (1982), Loại hình các ngôn ngữ, NXB Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
145. Станишева Д.С. (1958), Творительный инструментальный //
Творительный падеж в славянских языках, Издательство Академии
наук, Москва, с. 76-126.
146. Шахматов А.А. (1941), Синтаксис русского языка 2-е,
Издательство Учпедгиз, Ленинград, 620 с.
147. Шахматов А.А. (2001), Синтаксис русского языка,
Издательство УРСС, Москва.
148. Якобсон P.O. (1985), К общему учению о падеже: общее
значение русского падежа, Избранные работы, Издательство Прогресс,
Москва, с. 135-175.
149. Ямщанова В.А. (1978), “О разграничении синтактико-
семантических понятий орудия, средства, способа действия”,
Лингвистические исследования Синтаксис и морфология языков
различных типов, МОСКВА АН СССР, с. 250-255.
150. Ямшанова В.А. (1979), “Об инструментальном значении
предлог uber // Лингвистические исследования 1979: Вопросы
межуровневого анализа языков различных типов”. - МОСКВА АН
СССР, С. 259-265.
184
151. Ямшанова В.А. (1979), Синтаксическая функция
инструментальности в современном немецком языке, Авторефат
диссертации кандидата филологических наук, Ленинград, 20 с.
152. Ямшанова В.А. (1991), Категория инструментальности в
немецком языке, Издательство ЛФИ, 159 с.
153. Ямшанова В.А. (1992), “Инструментальность как
семантическая категория”, Вопросы языкознания (4), с. 63-72
154. Ямшанова В.А. (1992), “Инструментальность и субъектно-
объектные отношения” Теория функциональной грамматики
Субъектность Объектность Коммуникативная перспектива
высказывания Определенность неопределенность, с.167-188.
185
NGUỒN NGỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
Từ điển
155. Alexandre de Rhodes (1991), Từ điển An Nam-Lusitan-La Tinh
(Thƣờng gọi là Từ điển Việt-Bồ-La), bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân
Việt, Đỗ Quang Chính, NXB KHXH (đối chiếu nguyên bản Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum, Rome, 1651).
156. Большая Советская Энциклопедия, Режим доступа:
http://bse.sci-lib.com/
157. Ефремова Т.Ф. (2000), Новый словарь русского языка,
Толковословообразовательный, Издательство Русский язык, Москва,
Режим доступа: http://www.efremova.info/ (Ефремова)
158. Лингвистический энциклопедический словарь (ЛЭС) (2002),
под редукции Ярцевой В.Н., Большая Российская Энциклопедия,
Москва, 709 с.
159. Леонид Юрьевич Иванов, Сковородников А.П., Евгений
Николаевич Ширяев (2003); Культура русской речи: энциклопедический
словарь-справочник; Институт русского языка им. В.В. Виноградова;
Издательство Флинта; Москва.
160. Ожегов С.И., Шведова Н.Ю. (1999), Тольковый словарь
русского языка, Издательство “Азбуковник”, Москва.
161. Онлайн - энциклопедия Кругосвет, Режим доступа:
http://www.krugosvet.ru/enc/gumanitarnye_nauki/lingvistika/AKTANT.html
162. Словарь сочетаемости слов русского языка (2002), Астрель:
ACT, Москва, 816 с.
163. Творительный падеж в славянских языках (1958), под
редукции Бернштейна С.Б., Издательство Академия наук СССР, Москва.
186
164. Толковый словарь русского языка (2001), под редукции
профессора Ушакова. Д.Н. Издательство Мир книги, Москва
Các tác phẩm văn học
165. Nam Cao (1996), Nam Cao truyện ngắn (chọn lọc), NXB Hội
nhà văn, Hà Nội
166. Nam Cao (1996), Chí Phèo, NXB Văn học, Hà Nội.
167. Anh Đức (1977), Tuyển tập Anh Đức tập I và II, NXB Văn học,
Hà Nội.
168. Thạch Lam (1999), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội nhà
văn, Hà Nội.
169. Kim Lân (1977), Tuyển tập Kim Lân, NXB Văn học, Hà Nội.
170. Tô Hoài (2015), Dế mèn phiêu lưu kí, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
171. Nguyễn Công Hoan (1997), Bước đường cùng, NXB Hội nhà
văn, Hà Nội.
172. Nguyễn Công Hoan (1976), Truyện ngắn tuyển chọn, NXB Văn
học, Hà Nội.
173. Vũ Trọng Phụng (1999), Số đỏ, NXB Văn học, Hà Nội.
174. Vũ Trọng Phụng (1999), Tuyển tập 27 truyện ngắn, NXB Văn
học, Hà Nội.
175. Nguyễn Huy Thiệp (1996), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội nhà
văn, Hà Nội.
176. Ngô Tất Tố (1984), Tắt đèn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
177. Ngô Tất Tố (1997), Tuyển tập Ngô Tất Tố tập IV và V, NXB Văn
học, Hà Nội.
178. Truyện ngắn miền Nam chọn lọc (1999), NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.
179. Truyện ngắn trẻ chọn lọc (1999), NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
187
180. Văn nghệ quân đội (1998), Truyện ngắn đoạt giải nhất, NXB
Văn học, Hà Nội.
181. Lê Khánh Trƣờng, Bác sĩ Zhivago, NXB Phụ nữ, Hà Nội
182. Борис Паштернак (1955), Доктор Живаго
188

