ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐẶNG VĂN HÀO
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGÔN NGỮ TRONG
“SÁCH SỔ SANG CHÉP CÁC VIỆC”
CỦA PHILIPHE BỈNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 1997
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đối với thầy Hoàng Dũng, người đã
hướng dẫn, giúp đỡ chúng tôi hoàn thành luận văn khoa học này.
Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô, bằng hữu đã có những ý kiến đóng
góp quý báu cho luận văn. Cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Phòng Quản lý Khoa học
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường CĐSP Tây Ninh đã động viên
và tạo điều kiện cho chúng tôi trong quá trình thực hiện.
Tây Ninh, tháng 12 – 1997
3
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................................... 3
MỤC LỤC ............................................................................................................................... 4
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 6
1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI: ................................................................................................ 6
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ............................................................................... 7
3. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN. ........................................................................................ 8
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN ............................................................... 8
4.1. Phương pháp thống kê miêu tả: ............................................................................... 8
4.2. Phương pháp so sánh lịch sử : ................................................................................. 8
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................................ 9
6. KẾT CẤU LUẬN ÁN: ..................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM .................................................. 11
1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHỮ QUỐC NGỮ. .................................................. 11
1.2. TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM. ........................................................................................ 14
1.2.1. Vài nét về tác giả: ................................................................................................ 14
1.2.2. Sơ lược về tác phẩm: ........................................................................................... 15
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGỮ ÂM TRONG S.S.S ............................................. 17
2.1. VẤN ĐỀ ÂM ĐẦU ..................................................................................................... 17
2.1.1. Tổ hợp phụ âm. .................................................................................................... 18
2.1.2. Âm xát hai môi /β/ thời ALECXANDRE DE RHODES đến S.S.S thì không còn
xuất hiện nữa mà đồng loạt thay đổi cách ghi ϕ thành ν: ............................................ 25
2.1.3. Một điều cũng đáng lưu ý nữa, S.S.S còn có hiện tượng tác giả sử dụng cách ghi
lẫn lộn giữa một số âm với nhau vốn trước đó đã khu biệt rõ ràng.............................. 25
2.1.4. Về cách ghi âm /k/, S.S.S dùng ba con chữ k, c, q như cách ghi tiếng Việt hiện
đại, nhưng khảo sát các trường hợp cụ thể xuất hiện, ta phát hiện một số khác biệt. .. 27
2.1.5. Chữ viết ng, ngh ghi âm/η/ hoàn toàn ổn định theo quy luật một cách chặt chẽ:
....................................................................................................................................... 29
2.1.6. Về mặt đồ hình (GRAPHIC) ................................................................................ 29
2.2. VẤN ĐỀ PHẦN VẦN ................................................................................................ 31
4
2.2.1. Về phần vần: ........................................................................................................ 31
2.2.2. Hình thức chữ viết: .............................................................................................. 32
2.2.3. Vần có âm đệm w: ............................................................................................... 34
2.2.4. Ở S.S.S có một hình thức phổ biến được tác giả sử dụng đồng loạt, đó là dùng
chữ ão để ghi vần ong và aoc để ghi vần oc ................................................................. 35
2.2.5. Vần ây được tác giả dùng hai hình thức chữ viết để thể hiện : êy và ây trong một
số trường hợp : .............................................................................................................. 38
2.2.6. Ta còn gặp trường hợp ngoại lệ khác là trường hợp nguyên âm ơ khi đứng sau
âm đệm được S.S.S ghi bằng con chữ "â" dù đó là âm tiết mở. .................................... 39
2.3. THANH ĐIỆU: .......................................................................................................... 45
2.4. CHÍNH TẢ ................................................................................................................. 47
1.4.1. Vấn đề viết hoa .................................................................................................... 47
2.4.2. Viết hoa tên riêng nước ngoài: ............................................................................ 48
2.4.3. Viết tắt: ................................................................................................................ 48
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỪ VỰNG .............................................................. 50
3.1. VỐN TỪ ...................................................................................................................... 50
3.1.1. Lớp từ cổ: ............................................................................................................ 50
3.1.2. Vấn đề từ đơn, từ ghép, từ láy ............................................................................. 59
3.2. VẤN ĐỀ THÀNH NGỮ: ........................................................................................... 62
3.2.1.Thành ngữ thuần Việt: .......................................................................................... 62
3.2.2. Thành ngữ gốc Hán: ............................................................................................ 64
CHƯƠNG 4: VẤN ĐỀ VỀ NGỮ PHÁP (LOẠI TỪ)........................................................ 66
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................... 68
THƯ MỤC ............................................................................................................................ 71
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI:
Nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, bên cạnh việc điều tra các phương thổ ngữ tiếng Việt và
ngôn ngữ các dân tộc có liên quan, còn có một hướng khác: tìm hiểu qua thư tịch.
Nước ta có một kho thư tịch, văn bia vô cùng quý báu bằng chữ Hán, chữ Nôm và
bằng chữ quốc ngữ.
Để nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, đã có khá nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
đi sâu vào mảng thư tịch, văn bia viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, có thể kể đến như “Lê
Quán – 1981”, "Nguyễn Tài Cẩn - 1995". Việc tìm hiểu lịch sử tiếng Việt qua thư tịch, chữ
quốc ngữ tuy đã được một số người như Thanh Lãng - 1968, Đỗ Quang Chính 1972 ... xúc
tiến, nhưng có thể nói ngay rằng là còn quá ít ỏi, chưa được quan tâm đúng mức. Điều này
phải chăng là do những thư tịch này chưa quá xa với thời kỳ lịch sư hiện đại? Việc tìm
kiếm, nghiên cứu chúng không quá khó khăn như các thư tịch cổ (Thư tịch Hán và Nôm)?,
V.V..
Những lý do ấy đều có khía cạnh đúng của chúng. Tuy nhiên, sự biến đổi của một
ngôn ngữ như tiếng Việt chẳng hạn là một chuỗi thay đổi liên tục trong lịch sử. Không quan
tâm nghiên cứu tiếng Việt qua các thư tịch viết bằng chữ quốc ngữ ở thời kỳ đầu của nó e
rằng là một khiếm khuyết bởi bỏ qua một mắt xích trong tiến trình phát triển của tiếng Việt.
Có lẽ vì thế gần đây một số nhà nghiên cứu đã bỏ công nghiên cứu tiếng Việt qua từ điển và
"Phép giảng tám ngày" của ALECXANDRE DE RHODES, một số tư liệu viết tay của Văn
Tín, BENTO THIỆN, 1659 .v.v...
Trong số những thư tịch viết bằng chữ quốc ngữ có một tài liệu đã được một số nhà
nghiên cứu như : Đỗ Quang Chính, Thanh Lãng cho là rất quan trọng nhưng chưa được
nghiên cứu đúng mức, đó là Sách sổ sang chép các việc (từ đây xin viết tất S.S.S) của
PHILIPHÊ BỈNH (1822).
Vị trí, tầm quan trọng của S.S.S không chỉ là ở độ dày trên 600 trang của nó (600 trang
có thể không nói được gì nhiều về chính trị, xã hội, văn hóa nhưng về phương diện ngôn
6
ngữ là một tư liệu quý) mà còn chủ yếu là những vấn đề ngôn ngữ hàm chứa ngay trong
cuốn sách.
Khai thác triệt để s.s.s trong sự so sánh với các tác phẩm trước và sau nó, người ta vừa
có thể thấy được những khía cạnh về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt chứa trong s.s.s
vừa có thể lý giải được một số khía cạnh về đặc điểm tiếng Việt.
Luận án đi sâu tìm hiểu s.s.s xuất phát từ những ý nghĩa ấy.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Tài liệu về chữ quốc ngữ từ thời kỳ đầu bắt nguồn hình thành cho đến cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX có thể nói là rất hiếm hoi, bởi vì giai đoạn này nó là loại chữ viết chỉ
phổ biến trong khuôn khổ nhà thờ công giáo. Trong số các tài liệu hiếm hoi đó phải kể đến
quyển S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH. Tác phẩm được Thanh Lãng in chụp lại như nguyên
bản, sau đó giới thiệu và được Viện đại học Đà Lạt xuất bản tại Sài Gòn năm 1968.
S.S.S được tác giả viết năm 1822, về mặt ngôn ngữ có thể xem như là tài liệu hiếm. Vì
vậy, các nhà nghiên cứu đã khai thác nhiều mặt: ngữ âm lịch sử; ngữ pháp, chữ viết...
Văn bản này thể hiện được nhiều ưu điểm riêng mà những tài liệu khác không có, bởi
vì trước đó có những tài liệu khác nhưng đa số là tự điển mang tính điển chế. Nếu có văn
bản thì thường không toàn diện, ngắn như Phép giảng tám ngày của ALECXANDRE DE
RHODES, một số tài liệu viết tay của Văn Tín, BENTO THIỆN 1659 ...
S.S.S có vị trí quan trọng thu hút nhiều nhà nghiên cứu quan tâm vì được viết bằng
chữ quốc ngữ vào thời điểm đầu thế kỷ XIX. Nó được xem như cứ liệu để so sánh lịch sử
ngôn ngữ.
Tuy có tầm quan trọng đối với lịch sử như đã nêu trên nhưng cho đến nay nhiều nhà
ngôn ngữ chỉ nghiên cứu từng khía cạnh riêng lẻ hay điểm qua chứ chưa có công trình hoàn
hảo về tài liệu quý này. Cụ thể về ngữ âm có một số bài viết của Nguyễn Thị Bạch Nhạn
1994, Hoàng Dũng 1995, Nguyễn Phương Trang 1996... về ngữ pháp có một số bài về loại
từ của Đinh Văn Đức, Lê Trung Hoa ... Như vậy, chỉ duy nhất có công trình của Thanh
Lãng 1968, viết có tính chất đầy đủ hơn cả nhưng vẫn còn ở dạng giới thiệu chứ chưa đi sâu
phân tích những vấn đề ngôn ngữ thể hiện trong văn bản.
Riêng ở miền Nam có công trình: Cách viết chữ quốc ngữ của PHILIPHÊ BỈNH qua
quyển S.S.S của Nguyễn Văn Sâm 1972, được đưa vào giảng dạy ở Đại học Văn Khoa Sài
Gòn. Bài viết này cũng còn mang tính khái quát chưa có giá tri thực tế cao và các quan điểm
lý giải có tính chủ quan.
7
Mặc dù vậy, nhưng những vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm mức độ nào cũng
thể hiện giá trị đích thực của tác phẩm này. Đồng thời hiểu rõ đây là văn bản đầu tiên có
tính hoàn chỉnh về mặt ngôn ngữ, phản ánh hiện trạng chữ quốc ngữ vào cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX theo hướng riêng, mang dấu ấn phương ngữ Đàng Ngoài.
Điểm qua các công trình nghiên cứu, có thể nhận thấy một cách khách quan là chưa có
một công trình nào nghiên cứu đầy đủ các vấn đề ngôn ngữ trong S.S.S. Vì vậy đề tài này sẽ
cố gắng nghiên cứu đầy đủ hơn về một số vấn đề ngôn ngữ trong văn bản, như ngữ âm, từ
vựng, một phần ngữ pháp trên cơ sở thống kê miêu tả, so sánh đối chiếu đối với các tác
phẩm trước và sau đó.
3. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN.
1. Luận án nhằm giới thiệu đầy đủ cho sinh viên một văn bản hiếm có bằng chữ quốc
ngữ vào thời kỳ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Qua đó giúp cho bạn đọc hình dung
tương đối đầy đủ hệ thống những vấn đề ngôn ngữ trong S.S.S.
2. Từ đó góp thêm một ít tư liệu cho việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, có cơ sở đánh
giá đúng hơn tác dụng của các văn bản tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ ở thời kỳ đầu.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN
Thực hiện đề tài này sử dụng hai phương pháp chính :
- Thống kê miêu tả
- So sánh lịch sử.
4.1. Phương pháp thống kê miêu tả:
Sử dụng phương pháp thống kê miêu tả, chúng tôi tiến hành sự thể hiện của một số
hình thức chữ quốc ngữ được sử dụng trong S.S.S. Căn cứ vào thành tựu của ngành ngữ âm
học lịch sử, người viết cố gắng làm rõ mối quan hệ giữa hình thức chữ viết với hệ thống ngữ
âm trong văn bản.
Về phương diện từ vựng, ngữ pháp, luận án thống kê miêu tả tỉ mỉ những từ cổ, từ địa
phương. Các thành ngữ và về một hiện tượng ngữ pháp(loại từ) khác biệt so với ngày nay.
4.2. Phương pháp so sánh lịch sử :
Sau khi thống kê, miêu tả những hiện tượng về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp được thể
hiện trong S.S.S luận án tiến hành so sánh đối chiếu với các tư liệu chữ quốc ngữ có trước
đó như :
8
- Phép giảng tám ngày và Từ điển Việt-Bồ-La của ALECXANDRE DE
RHODES(1651)
- Từ điển Việt-La của PIGNEAU DE BÉHAINE (1772) và một số văn bản viết tay của
các linh mục nước ngoài và trong nước như : CRISTOPORO. BORRI (1621)... Văn Tín.
Benlo Thiện (1659)... và sau đó như:
- Nam Việt Dương hiệp tự vị của J.L.TABERD (1838)
- Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh PAULUS Của (1895)
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp) được thể hiện trong S.S.S PIIILIPHÊ BỈNH.
Luận án phân tích làm rõ một số biểu hiệu về ngữ âm sự tồn tại các tổ hợp phụ âm bl,
ml, một số vần hiếm thấy trong lịch sử ngữ âm tiếng Việt (uâ, uyê, ươ ...) hay dấu phụ về từ
vựng, luận án cố gắng làm rõ nguồn gốc những từ cổ hay từ Hán Việt mà ngày nay không
dùng hoặc ít dùng. Về ngữ pháp do những giới hạn của một luận án bậc cao học, luận án xin
tự giới hạn vào một vấn đề loại từ.
Qua tất cả những gì đã phân tích, người viết muốn chứng minh S.S.S là tư liệu quý giá
về mặt ngôn ngữ. Tác phẩm này đã góp phần phản ánh nhiều về mặt hiện trạng tiếng Việt
(nói chung) và chữ Quốc ngữ (nói riêng) ở một thời điểm cụ thể và vùng phương ngữ cụ thể
6. KẾT CẤU LUẬN ÁN:
Luận án có : gồm 76 trang chính và 4 trang thư mục tham khảo. Sau phần mở đầu
(trình bày ý nghĩa đề tài, lịch sử nghiên cứu, đóng góp của luận án, phương pháp nghiên
cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu), luận án chia thành 4 chương.
Trước khi trình bày các kết quả nghiên cứu cụ thể, luận án dành chương 1 để giới thiệu
vài nét về tác giả và tác phẩm S.S.S. Cũng như điểm lại quá trình hình thành và phát triển
chữ quốc ngữ.
Chương 2 phân tích những đặc trưng ngữ âm thể hiện qua âm đầu, phần vần và thanh
điệu, chương này cũng dành sự quan tâm đúng mức cho những vấn đề chính tả thể hiện
trong S.S.S
Chương 3 xem xét những vấn đề từ vựng, trước hết là vốn từ cổ trong S.S.S. Người
viết còn lưu ý phân tích những đặc trưng đáng lưu ý của các loại từ đơn, từ ghép, từ láy
9
trong S.S.S so với tiếng Việt ngày nay. Chương này còn cung cấp tư liệu về các thành ngữ
Việt và Hán sử dụng trong S.S.S.
Chương cuối cùng dành cho vấn đề ngữ pháp. Do những giới hạn chủ quan và khách
quan, luận án chỉ phác thảo một số nét, chung quanh loại từ trong S.S.S.
10
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHỮ QUỐC NGỮ.
Trải qua 1000 năm đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, người Việt Nam
chúng ta đã phải học và sử dụng chữ Hán. Chữ Hán được dùng như là thứ chữ duy nhất
trong công văn giấy tờ của các triều đại phong kiến, trong nhà trường, trong sáng tác thơ
văn ... Vào khoảng thế kỷ thứ IX -X, một số nho sĩ với tinh thần tự cường dân tộc đã sáng
tạo ra chữ Nôm. Chữ Nôm được tạo ra trên cơ sở chữ Hán. Một số vua chúa như Nguyễn
Huệ, đã có ý thức đề cao chữ Nôm, dùng chữ Nôm trong công văn giây tờ Nhà nước. Song
việc học chữ Nôm, sử dụng chữ Nôm vô cùng khó khăn, nên tuổi thọ của nó không bao
năm. Có thể nói, trong một thời gian rất dài, cho đến cuối thế kỷ XVI, người Việt Nam
chúng ta chỉ quen với chữ Hán.
Mãi cho đến khi xuất hiện các nhà truyền giáo phương Tây (các giáo sĩ người Pháp,
Bồ Đào Nha ...) người Việt Nam chúng ta mới biết và dùng một thứ chữ mới: chữ quốc ngữ,
Chữ quốc ngữ theo một số nhà nghiên cứu như : Nguyễn Khắc Xuyên 1959, Thanh
Lãng 1961, Đỗ Quang Chính, 1972 được hình thành vào khoảng đầu thế kỷ XVII do các
nhà truyền đạo Thiên chúa nước ngoài. Họ đến Việt Nam hàng loạt ở Đàng Trong lẫn Đàng
Ngoài với mục đích truyền đạo. Để thành công, các linh mục này phải học tiếng Việt sau đó
dùng chữ cái Latinh để ghi âm. Từ đó, chữ quốc ngữ đầu tiên được ra đời. Thật ra, (theo
Nguyễn Khắc Xuyên) sự chế tác chữ quốc ngữ nầm trong bối cảnh chung về công cuộc
Latinh hóa một số ngôn ngữ ở Đông Nam Á. Đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng
việc sáng tạo chữ quốc ngữ do công trình kế tục của nhiều nhà tmyền giáo Bồ Đào Nha, Ý,
Pháp trong đó vai trò của ALECXANDRE DE RHODES là đặc biệt quan trọng.
Buổi đầu, do việc ghi âm tiếng Việt chưa được thống nhất giữa các giáo sĩ có quốc tịch khác nhau, mỗi người ghi một cách theo sự phiên âm của mình(1). Về sau họ mới xây dựng
được chữ viết tương đối thống nhất. Chữ quốc ngữ ngày nay chính là chữ viết đã được các
nhà truyền đạo Dòng Tên nước ngoài tự học mà sáng tạo nên, Phương pháp chung để sáng
tạo chữ quốc ngữ là dựa vào phần nào chữ Bồ Đào Nha, Ý và một số dấu phụ Hy Lạp.
Thực tế đã khẳng định các giáo sĩ phương Tây đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ cũng để
làm tốt việc truyền đạo, bởi lẽ các linh mục không có ý đồ thay thế loại chữ này vào chỗ chữ
(1) căn cứ vào một số tài liệu viết tay của các linh mục nước ngoài từ 1621-1632, Đỗ Quang Chính 1972 11
Hán hay chữ Nôm mà chỉ truyền bá và sử dụng trong việc giảng đạo ở những vùng công
giáo. Vì vậy mà gần 2 thế kỷ (từ khi mới hình thành đến cuối thế kỷ XVIII) chữ quốc ngữ
chỉ giới hạn phạm vi giao tiếp trong nhà thờ với mục đích tôn giáo. Nhưng với ưa điểm đơn
giản, chữ quốc ngữ đã được tiếp nhận một cách nhanh chóng, Cụ thể là đã có người giỏi về
chữ quốc ngữ ngay buổi đầu như Bento Thiện với tập Lịch Sử An Nam (1659)
Nói đến vai trò chữ quốc ngữ không thể không kể đến công lao của giáo sĩ người Pháp
ALECXANDRE DE RHODES (qua hai tư liệu viết bằng chữ quốc ngữ Phép giảng tám
ngày và Tự điển Việt-Bồ-La (1651). Đã có không ít người cho rằng ALECXANDRE DE
RHODES là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ, nhưng thực ra thực tế chứng minh rằng ông
chỉ là người có công tổng kết các công trinh của những giáo sĩ người Âu khác vào đầu thế
kỷ XVII. Và chính ông đã xác định điều này trong lời tựa của quyển Từ điển Việt-Bồ-La in
năm 1651 tại Rome :"Tuy nhiên trong công việc này ngoài những điều mà tôi đã học được
nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm thời gian mà tôi lưu trú tại Cô Sinh và
Đông Kinh thì ngay từ đầu tôi đã học với cha PRANCISCO DE PINA người Bồ Đào Nha,
thuộc hội Dòng Giê-Su rất nhỏ bé, chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng
tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bất đầu giảng thuyết bằng phương ngữ
đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều cha khác cùng
một Hội Dòng, nhất là cha GASPAR DE AMARAL và cha ANTONIO BARBOSA, cả hai
ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn tự điển : ông trước bất đầu bằng tiếng An Nam, ông
sau bằng tiếng Bồ Đào, nhưng cả hai ông đều đã chết sớm..."
Sau này có hàng loạt sách, công trình chữ quốc ngữ được viết, nhưng đa phần dưới
dạng từ điển đối chiếu tiếng nước ngoài như giáo sĩ MARCEL JERNEYUA có Từ điển Bồ-
Việt, Từ điển Latinh - Việt Nam của PELICIANO ADONO chép tay (1783) và cuối thế
kỷ XVIII có linh mục người Pháp PIGNEAU DE BÉHAINE biên soạn Từ điển Việt-La
(1772) và J.L TARBERD biên soạn Từ điển Việt-La (1838) xuất bản tại Ấn Độ.
Theo sự khảo sát và đánh giá của những nhà nghiên cứu chữ quốc ngữ ở giai đoạn cuối
thế kỷ XVIII không khác gì so với chữ viết tiếng Việt hiện đại, Sau đó có hai công trình
quan trọng khác và đóng góp lớn trong việc tiếp tục cải cách chữ quốc ngữ ngày càng hoàn
thiện: một là cuốn Từ điển Việt Pháp đầu tiên của LEGRAND DE LALIRAYE xuất bản
năm 1868 tại Sài Gòn. Cuốn từ điển ra đời đánh dấu một ý thức cải cách chữ quốc ngữ lần
thứ hai (lần thứ nhất được lấy mốc là Từ điển Việt-La của PIGNEAU DE BÉHAINE), sự
cải cách đó không được các nhà nghiên cứu đương thời và sau này chấp nhận. Hai là cuốn
12
Từ điển Việt-La của IS.THEUREL xuất bản năm 1877 tại Ninh Phú. Cuốn từ điển này ra
đời với ý đồ hoàn chỉnh thêm cuốn Từ điển Việt-La của J.L.JABCRD (1838) cho phù hợp
với sự phát triển của tiếng Việt ở nhiều mặt. Trên cơ sở đó mà vào những năm cuối của thế
kỷ XIX. Huỳnh Tịnh Của đã biên soạn cuốn Đại Nam Quốc âm tự vi (1895). Đây là từ
điển đầu tiên có giải thích và có thể xem là mốc cuối cùng của chặng đường hoàn chỉnh chữ
quốc ngữ.
Dựa vào những chứng cứ, bút tích, quá trình sử dụng, sự phổ biến xã hội, một số nhà
nghiên cứu thường chia diễn biến của chữ quốc ngữ làm 3 giai đoạn.
- Giai đoan thứ nhất: Trước năm 1651, đây là giai đoạn có tính tìm hiểu thể nghiệm,
các hình thức chữ quốc ngữ được sử dụng có tính cá nhân tùy tiện, thực chất chỉ là sự phiên
âm một số từ ngữ tiếng Việt (thường là địa danh) ví dụ : Jinoa : xứ Hóa (tức Thuận Hóa),
Quignin : Qui Nhơn, Quanguya : Quảng Nghĩa...(trong một số tài liệu viết tay của JOÀO
ROZI, CRITOPORO BORRI ...) hay Muon bau dau chiristlan chian, (muốn vào đạo thiên
chúa chăng?). Giai đoạn này có hai đặc điểm :
Chưa có đấu thanh và chưa phân biệt các nguyên âm ngắn dài
- Giai đoạn thứ hai: Đánh dấu bằng sự xuất hiện của Từ điển Việt-Bồ-La của
ALECXANDRE DE RHODES. Đây là giai đoạn chữ quốc ngữ đã thịnh hành, phạm vi phổ
biến rộng rãi và có tính chất xã hội hơn. Giai đoạn này có đặc điểm đã sử dụng dấu thanh
đầy đủ và phân biệt được các nguyên âm ngắn dài.
Tuy nhiên cách ghi một số âm đầu, một số vẫn còn khác ngày nay. (vì được xây dựng
trên nguyên tắc ghi âm ngữ âm học, các biến thể phát âm, biến thể địa phương đều được thể
hiện đầy đủ trong chữ viết).
- Giai đoạn thứ ba: Được đánh dấu bằng sự xuất hiện Từ điển Việt-La của J.L
TABERD (1838). Đây là giai đoạn ổn định và hoàn thiện của chữ quốc ngữ để dần dần đưa
vào phổ biến rộng rãi trong xã hội. Đặc điểm của giai đoạn này được xem là không khác gì
bao nhiêu so với chữ quốc ngữ hiện đại (ngoài một số nét không đáng kể về ngữ âm). Ở giai
đoạn thứ ba này dấu vết cũ còn lưu lại một ít (về chữ viết) ta có thể so sánh được qua văn
bản S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH (1822) và sẽ có dịp phân tích tỉ mỉ ở phần nội dung đề tài.
Chữ quốc ngữ là loại hình văn tự ghi âm nhằm tái hiện một chuỗi âm thanh tiếng Việt.
Nhưng chữ quốc ngữ ban đầu là do các nhà truyền đạo Châu Âu dùng chữ cái Latinh kết
hợp phần nào chữ Bồ Đào Nha, Ý và các dấu Hy Lạp để ghi âm tiếng Việt, nên đã có những
điểm bất hợp lý mà đến nay vẫn còn tồn tại. Như một âm vị /k/ ở chữ quốc ngữ được thể
13
hiện bằng ba chữ khác nhau : C, K, Q. Hoặc âm vị /γ/ lúc ghi g, lúc ghi gh ... cho đến nay
những bất hợp lý của thời ký đầu chữ quốc ngữ đo các nhà truyền giáo mắc phải hiện nay
vẫn còn nguyên trạng và gây không ít tranh cãi giữa các nhà ngôn ngữ học. Đồng thời cũng có nhiều hội nghị về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ(2). Gần đây trong một bài viết :"Mấy nhận
xét về chữ quốc ngữ" Giáo sư Cao Xuân Hạo đã cho rằng: "Nhược điểm của chữ quốc ngữ
không phải là ở chỗ nó chưa thực sự là một hệ thống phiên âm âm vị học mà chính là ở chỗ
nó có tính cách thuần túy ghi âm và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ hiểu nghĩa mà lẽ ra nó
phải đảm đương và nhược điểm ấy là rõ nhất và tai hại nhất là trường hợp các từ đồng âm
vốn có rất nhiều trong tiếng Việt. Tuy vậy, cũng gần giống như chữ Anh và chữ Pháp,
những chỗ người ta coi là bất hợp lý chính là ở chỗ làm cho nó phân biệt được nghĩa và cội
nguồn của các từ đồng âm : gia và da, lý và lí (trong lí nhí) .v.v... và khi người ta đã có
nhiều thế kỷ để quen với diện mạo văn tự của các từ ngữ, các diện mạo ấy trở thành cái hồn
của chữ nghĩa, nó biểu hiện được ý nghĩa của ngôn từ không cần thông qua cách phát âm
(vốn thay đổi tùy theo từng vùng)". Vì vậy khi cho rằng việc cải cách như đã được đưa ra
đôi khi làm ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa và vấn đề cải cách chữ quốc ngữ nếu có
đặt ra thì phải hết sức thận trọng.
Chữ quốc ngữ nếu được xem như là một chỉnh thể thống nhất thì sự biến đổi của nó
cũng có những quy luật phức tạp, trong quá trình phát triển hình thức mới xuất hiện và tồn
tại song song hình thức cũ. Hình thức mới đó phải qua thực tế sử dụng mới được chấp nhận
và rồi hình thức mới khác lại xuất hiện, tuần tự tiếp diễn, trong quá trình phát triển, chữ
quốc ngữ dù sinh sau đẻ muộn nhưng đã dần dần thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm và ngày
càng tỏ ra ưu thế và trở thành văn tự chính thức của quốc gia.
Từ đó, ta có thể hiểu rằng tiếng Việt nói chung và chữ quốc ngữ nói riêng đã trở nên
ổn định nhất trong giai đoạn hiện nay.
1.2. TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM.
1.2.1. Vài nét về tác giả:
PHILIPHÊ BỈNH, như một số nhà nghiên cứu đều chung nhận xét "không mấy quen
thuộc và tiếng tăm, tác phẩm của ông hầu như ít người biết tiếng." (Nguyễn Phương Trang,
1996). Nhưng những gì ông để lại cho chúng ta như tác phẩm s.s.s được viết ỏ LISBONE
năm 1822 thì thật là quý hiếm. PHILIPHÊ BỈNH sinh năm 1759 tại Hải Dương, năm 1776
Hà Nội.
(2) Có thể kể . 1956 cuộc hội thảo cải tiến chữ quốc ngữ tổ chức Sài Gòn. 1961 hội nghị cải cách chữ quốc ngữ -
14
ông đi tu, đến năm 1793 ông thụ phong linh mục, Thời gian này ông tỏ ra là người có năng
lực nên được giáo hội Dòng Tên giao cho nhiều chức vụ quan trọng. Ông có dịp đi nhiều:
Macao, Goa, Trung Hoa. Sau do tranh chấp giữa hai phe Dòng Tên và Dòng Đa Minh, Tòa
Thánh do áp lực quốc tế có phần nghiêng về Dòng Đa Minh mà bỏ rơi Dòng Tên. Vì vậy,
Dòng Tên mới lập một phái đoàn gồm linh mục và thầy giảng Việt Nam sang Bồ Đào Nha
để yết kiến Giáo hoàng và xin được can thiệp. Thầy cả PHILIPHÊ BỈNH nhận nhiệm vụ
dẫn đầu phái đoàn trên vào năm 1796. Cuối cùng thất bại, Dòng Tên bị bãi bỏ ở Việt Nam.
Từ đó, ông và hầu hết những người trong phái đoàn phải sống lưu vong hơn 30 năm ở Bồ
Đào Nha và qua đời ở đó.
Trong suốt thời gian sống lưu vong ở đất người, PHILIPHÊ BỈNH đã chú tâm đến
nhiều về việc biên khảo, dịch thuật. Trong quyển S.S.S ông đã liệt kê ra 21 quyển đề tài
gồm nhiều loại khác nhau (tr.600) từ truyện các ông thánh của đạo Thiên chúa đến lịch sử
Việt Nam (Chuyện Đàng Trong, chuyện Đàng Ngoài) cùng Tự điển Việt và tiếng nước
ngoài. Thanh Lãng trong bài giới thiệu quyển S.S.S có ghi thêm năm bộ khác :
o Dictionarium Annamticum - Lucitanum (1791) o Dictionarium Annamticum - Lucitanum (khác bản trên) o Dictionarium Lucitanum - Annamticum o Truyện nhật trình õu Pemand Mendes Pinto (1817)
1.2.2. Sơ lược về tác phẩm:
Tập hồi ký S.S.S được viết xong vào năm 1822 tại Lisbone (Bồ Đào Nha) dày khoảng
600 trang (625 trang nhưng có một số trang ông để trống). Tác phẩm này được Thanh Lãng
giới thiệu và Viện Đại học Đà Lạt xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1968 (in chụp
nguyên bản). Nguyên bản được viết tay vào năm 1822, hiện được lưu trữ tại thư viện
Vatican, mục tài liệu Bắc Kỳ.
Nội dung tác phẩm, ông ghi chép nhiều sự việc, nhưng không được sắp xếp theo trình
tự nhất định nào về thời gian, chương, mục ... Vì vậy, khi giới thiệu tập S.S.S ông đã viết:
"Chép nhiều sự cho nên gọi là sách sổ sang, song chẳng có từng đoạn như các sách khác. Và
để người đọc tiện theo dõi ông đã làm một bảng mục lục riêng. Nội dung chính gồm có ba
phần (trang mở đầu S.S.S).
Phần thứ nhất: nói về những việc thuộc Dòng Tên (Đ.C.J)
Phần thứ hai: nói về những việc thuộc về mình và bạn bè
Phần thứ ba: về những chủ đề khác.
15
Trong từng phần, ông nêu rõ từng sự việc và ghi số trang về nội dung phần 1, ông ghi
lại các diễn tiến, hoạt động của dòng Đ.C.T ở Việt Nam (Annam) và một số nước khác đồng
thời cũng nêu lên những công trạng các vị thánh (bề trên), linh mục và thầy giảng của dòng,
Nội dung phần 2, ông kể lại những việc làm của mình (khi thụ phong linh mục) cùng
bạn bè ở trong nườc và khi lưu vong ở Bồ Đào Nha.
Nội dung phần 3. ông ghi lại các phép làm lễ, phong tục tập quán, sinh hoạt đời thường
của người phương Tây, xã hội phương Tây và người Việt Nam, xã hội Việt Nam. Đồng thời
ông cũng ghi lại các kinh nghiệm làm nghề in, đóng sách mà nước ta bấy giờ chưa thịnh
hành.
Điều đặc biệt và đáng quan tâm nhất của tập S.S.S là còn ở tình trạng viết tay và được
công bố nguyên bản nên giúp chúng ta ngày nay tìm hiểu được nhiều vấn đề về ngôn ngữ
như : ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Qua đó phần nào ta có thể biết được về hiện trạng tiếng
Việt ở Đàng Ngoài thể hiện qua chữ quốc ngữ vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
16
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGỮ ÂM TRONG S.S.S
2.1. VẤN ĐỀ ÂM ĐẦU
Trong S.S.S có 28 ký hiệu (đơn và kép) để ghi âm đầu và tổ hợp âm đầu tiếng Việt lúc
bấy giờ. Đó là : b, bl, k, c, q, kh, ch, d, đ, g, gh, gi, l, m, mi, n, nh, ng, ngh, ph, r, s, tr, t, th,
x, v.
So với Từ điển Việt-Bồ-La của ALECXANDRE DE RHODES trong hệ thống âm đầu
của PHILIPHÊ BỈNH không có tổ hợp ký hiệu tl và cả PHILIPHÊ BỈNH (nếu ta tính đến
một ví dụ duy nhất được ALECXANDRE DE RHODES dẫn trong Báo cáo vắn tắt về tiếng
An Nam hay Đông Kinh in ở đầu cuốn từ điển đôi khi rất hiếm người ta còn thêm l vào p thí
dụ : plan. Bảng đối chiếu.
Chữ viết ghi âm đầu
ALECXANDRE DE PHILIPHÊ BỈNH RPHDES
b b
bl bl
ϕ
k k
c c
q q
kh kh
ch ch
d d
đ đ
g g
gh gh
gi gi g(i)
l l
m m
ml ml
17
n n
ng ng
ngh ngh
nh nh
r r
s s
tr tr
th th
t t
x x
tl
v v
2.1.1. Tổ hợp phụ âm.
Điều đáng lưu ý là trong cuốn Từ điển Việt-La của PIGNEAU DE BÉHAINE (1772 -
1773) (sau Từ điển Việt-Bồ-La của ALECXANDRE DE RHODES 121 - 122 năm và trước
quyển S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH 50 năm) và quyển Từ điển Việt-La của TABERD
(1838) (sau S.S.S 16 năm) lại không có ký hiệu nào ghi các tổ hợp phụ âm. Kể cả ml, bl có
2.1.1.1. Tổ hợp ký hiệu tl có từ thời ALECXANDRE DE RHODES trong Từ điển
trong S.S.S
Việt-Bồ-La, đến S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH thì không còn và đều được thay
bằng ký hiệu chữ viết tr trong hầu hết các trường hợp như :
A. DE RHODES P.L BỈNH NGHĨA
tlái trái phải trái, trái vụ
tlải trải trống trải
tlàng tràng bề dài
tlàng tràng trường học
tláng tráng trắng
tlao trào trong (sạch)
tlang hột tràng hạt tràng hạt
tlánh tránh tránh (né)
18
tlao trao trao (giao)
tlao trong bên trong, đàng trong
tlòn tròn tròn
tlăm trăm trăm
tlần trần trần nhà
tlâu trâu con trâu
tlẩy trẩy trẩy đi
tlẻ trẻ con trẻ
lleo treo treo (lên)
tlẻ tlung trẻ trung (thời) trẻ trung
tlên trên trên
tlò trò học trò
tlôi trôi trôi (đi)
tlộm trộm trộm (cắp)
tlôn trôn đít (hậu môn)
tlòu trông trông thấy
tlốn trống trống trải
tlưa trưa buổi trưa
tlứng trứng trứng (quả)
tlước trước trước
Và một số không tìm thây sự tương ứng như :
tlà bằng phẳng
tlả trã, nồi kho cá
tlai võ trai
tlàm tằm
tlám nhựa thông
tlám trái trám
tlám ống lọc rượu
tlan con trăn
tlang gỗ cùm bằng gỗ
tlát trát (trét) nhà, tường
tlắp tlầu tráp trầu
19
thuyền không mui tlần
tlể (thuyền) tlể (một loại thuyền)
tlểy trảy, hái (trái)
tlỏm mất mắt sâu
tlộn tlạo trộn trạo
tlợt trợt, trượt (té)
tlút bạc nấu chảy, lọc bạc trát ra
tlưng trưng
Qua thống kê chúng tôi tìm được ba trường hợp không theo quy tắc trên
A. DE RHODES P.L BỈNH Nghĩa
ảm (con) ẳm con, bồng con tlảm (con)
blọn trọn tlọn
lọn (vẹn) trọn vẹn
lức lắc lức lắc tlúc tlắc
Thí dụ:
- ... cho đến đứa còn ảm cũng vẩy tay dù chưa biết nói ...(tr.396) (
(1) (kể từ đây tất cà thí dụ trích xin không sử đụng dấu (...) trước và sau câu trích.)
- thì người vui mừng mà ảm lấy hình như được con chim lạc (tr.226)
- Chúng tôi ước ao muốn làm việc thánh tông đồ chúng tôi cho blọn (tr. 190)
- Đ.C.J ban cho người còn lọn ven xác mình (tr.312).
- Đóng súc sách mà nhọn trôn như cái thuyền cho được lúc lác, cùng cứ giờ mà cho nó
bú (tr.394).
Tóm lại: phụ âm đầu /tl/ của Từ điển Việt-Bồ-La hầu hết các trường hợp đều tương
ứng với từ có chữ viết phụ âm đầu tr (trong S.S.S) ngoại lệ có 3 trường hợp lại tương ứng
2.1.1.2. Ký hiệu bl ghi tổ hợp phụ âm /bl/ ở A.DERHODES qua PHILIPHÊ
BỈNH có các khả năng tương ứng.
với từ có chữ viết phụ âm đầu là bl, l, và không có sự tương ứng (bỏ tl).
gi
+ giữ nguyên: bl → bl
l
+ Biến đổi: bl
Và có hai hướng tương ứng như sau :
20
+ Tương ứng đơn : bl ở Từ điển Việt-Bồ-La tương ứng với một trong những âm /bl/,
/gi/, /l/ của S.S.S
+ Tương ứng kép : bl, ALECXANDRE DE RHODES tương ứng với cả hai hình thức
của S.S.S bl và gl, bl và 1.
Thống kê trong Từ điển Việt-Bồ-La ta có tất cả 76 mục từ có phụ âm đầu là /bl/
nhưng đến S.S.S có được 16 trường hợp tương ứng, còn lại không tìm thấy sự tương ứng,
Ta có thể thống kê các trường hợp tương ứtig đơn và kép như sau
Tương ứng đơn:
ALECXANDRE DE RHODES PHILIPHÊ BỈNH
Bl bl
Thí dụ:
o Kẻo người ta phải chước dối blá nó ru (tr.309) o Vì thấy dân Judeo nhiều con trẻ blai (tr.396) o Thì được blả nợ người ta cho sạch (tr.316) o Là sự mặt blời, mặt blang cùng các ngôi sao (tr.316) o Mà blải chiếu hai bên lò để cho các đàn bà (tr.584)
+ bl tương ứng với gi:
Thí dụ :
o Giấy trắng thì giải trên phên (tr.584) o nhiều người điêu thật mà ăn năn giở lại cùng D.C.J (tr.282) o mà khi cháy ở làng nọ cùng bén sang làng kia vì cái gianh hay lên cùng rơi
xuống nóc nhà (tr.589)
+ bl tương ứng với l
blốc blác → lúc lác
Thí dụ:
o như cái thuyền cho được lúc lác (tr.394)
Tương ứng kép
o bl (ở A.đe. Rhođes) -> bi và gi (Philiphê Bỉnh)
Thí dụ :
o Đã có kinh blái tim (tr.378) o đã ban cho mật giái núi gần thành Macao (tr.499) o thì blối rằng đem xác mình về (tr.442)
21
o có một thầy dòng đã làm tờ giối giăng (tr.420) o để cho nó blõù chè trong một vườn Dòng (tr.420) o lấy vườn Dòng D.C.J để mà giồng chè (tr.137) o đốt xương cha thằng Hẻo cùng tán ra blo (tr.471) o thì mới cháy ra gio hai xác ấy (tr.477)
+ bl tương ứng với bl và l
Thí dụ :
o tôi tá người hãy còn blọn vẹn (tr.311) o bạn cho người còn lọn vẹn xác mình (tr.311)
So sánh với Từ điển Việt-La của Pigneau de Béhaine, tình hình ở tổ hợp phụ âm đầu
/bl/ có khác. Nguyễn Thị Bạch Nhạn trong luận án "Sự biến đổi các hình thức chữ quốc
ngữ từ 1620 - 1877" có thống kê, trong số 93 mục từ có bl của Tự điển Việt-Bồ-La (1651)
đến Việt-La (1772) thì có 59 từ tương ứng với tr và 6 từ tường ứng với l, l trường hợp
tương ứng khác và có 21 trường hợp còn lại không có tương ứng. Dựa trên cơ sở đó tác giả
đã cho rằng phụ âm đầu /bl/ trong Từ điển Việt-Bồ-La chuyển đổi thành các phụ âm đơn
bl
trong Từ điển Việt-La theo sơ đồ sau : tr l Như vậy, qua hai cứ liệu quan trọng xuất hiện trong hai thời điểm khác nhau là Từ
điển Việt-La của Pigneau de Béhaine và S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH có hai hướng thay đổi,
sự tương ứng hoàn toàn khác nhau, S.S.S có xu thế tương ứng với gi và trong Từ điển Việt-
La (1772) lại thành tr. Sự tương ứng khác biệt này có lẽ do áp lực xã hội và mang tính lịch
sử. Bởi vì Từ điển Việt-La (1772) mang dáng dấp phương ngữ Đàng Trong và S.S.S
(1822) mang dáng dấp phương ngữ Đàng Ngoài, cho nên ta có thể hiểu được rằng hai tổ hợp
chữ viết bl và tl ở cuối thế kỷ XVIII đã có sự tương ứng với tr ở phương ngữ miền Trung và
Nam, thành gi ở phương ngữ miền Bắc, Ngày nay trong tiếng Việt hiện đại vẫn song hành
tồn tại.
Trời và giời ( trai và giai( trâng và giáng ( tro và gio ( Cũng có trường hợp bl thời xưa nay chỉ có tr, chứ không có gi. Nhưng điều đó là do những nguyên nhân khác. Chẳng hạn blái tương ứng với trái ở phương ngữ Trung và Nam, 22 nhưng ở phương ngữ Bấc lại không có giái. Tuy thế, S.S.S có ghi giái núi, giái đồi, giái giăng (các trang 5, 271, 499 và 583) chứng tỏ không phải không có lúc phương ngữ Bắc có tồn tại giái. Từ này bị loại ra khỏi vốn từ là do đồng âm "không lịch sự" trừ những trường 2.1.1.3. Chữ viết ml ghi tổ hợp phụ âm /ml/ ở ALECXANDRE DE RHODES còn tồn tại hai trường hợp trong S.S.S, đó là : hợp cặn (residue) như trong dái tai, dái chân, già dái non hột (xem Hoàng Dũng 1995). mlời - lời mlẻ - lẻ (lời) Thí dụ : o Kẻo vắng mặt thì vắng mlời (tr.7)
o Song tôi Lại ở bên đông vì mlẻ khác (tr.14) + ml thay thành nh có 3 trường hợp : mlầm → nhầm mlặt → nhặt mlạt → nhạt Thí dụ : o vì khi trước đã nhầm mà phạm đến Dòng (tr.284)
o Cùng thường xuống ấn nhặt ở sân nhà Dòng (tr.208)
o có ý cho người ta nhạt lòng kính chuộng Dòng Đ.C.J (tr.278) Đặc biệt khi khảo sát có một số trường hợp chúng tôi nghi ngờ là nh nhưng tác giả lại ghi là h : hài quạt ( o vua bà cầm hai tay hài quạt mà quạt vì là của chúng tôi mới tiến (tr.165)
Điều đáng quan tâm khi khảo sát phụ âm này là trường hợp "lớn" được Từ điển Việt- Bồ-La nhất loạt ghi là mlớn nhưng ở S.S.S lại nhất loạt ghi là blớn Thí dụ : o Và vua rất blớn vì đạt nhiều nước (tr.280)
o Thứ bé thì 20 đồng một cái thứ blớn thì...(tr.559). Điều này cũng đã góp thêm cứ liệu cho phép khẳng định mối quan hệ vốn có giữa các tổ hợp kí hiệu :"kl, pl, bl, tl, ml, trong tiếng Việt. Bà N.K SOKOLOVSKAUA trong luận án". "Bước đầu tái lập hệ thống âm vị tiếng Việt Mường" đã đưa ra mô hình sau: 23 Mô hình trên N.K SOKOLOVSKAISA giả định ml phát triển độc lập không có quan hệ đến các tổ hợp phụ âm khác. Nhưng qua thực tế tìm hiểu, ta vẫn thấy tổ hợp ml không độc lập mà vẫn có quan hệ với các tổ hợp phụ âm khác (dù rất ít cứ liệu). Vì vậy, Hoàng Dũng trong bài viết"Từ điển Việt-Bồ-La của ALECXANDRE DE RHODES nguồn cứ liệu soi sáng quan hệ giữa các tổ hợp phụ âm kl, pl, bl, tl, và ml trong tiếng Việt" đã chứng minh tổ hợp phụ âm đầu /ml/ có quan hệ với /bl/. Chẳng hạn, nhọ, trong Từ điển Việt-Bồ-La là mlọ và blộ và ở Từ điển Việt-Bồ-La là mlớn nhưng S.S.S là blớn. Và tác giả bài viết đã đưa ra mô hình nhằm làm rõ mối quan hệ trên. Ở S.S.S tuy còn tồn tại hai hình thức tổ hợp phụ âm bl và ml nhưng không hoàn toàn đầy đủ và bên cạnh đó đã phần nào mở ra hướng chuyển biến theo quy luật đơn giản hóa. Vì S.S.S có thể được xem như là một tác phẩm văn học nên sự so sánh, đối chiếu với những tài liệu khác như Từ điển Việt-Bồ-La (1651), Từ điển Việt-La (1772) hay Từ điển Việt-La (1838) đều không thể trọn vẹn. Nhưng sự đối chiếu trên cũng phần nào làm sáng tỏ được sự chuyển hóa của các tổ hợp phụ âm trong giai đoạn cuối thế kỷ thứ XVIII ở Đàng Ngoài. Việc tồn tại hai hình thức phụ âm kép ml và bl cho thấy sự biến đổi ngữ âm liếng Việl xảy ra khác nhau đối với hai phương ngữ Nam và Bắc: phương ngữ Nam không tồn tại hiện tượng phụ âm kép, trong khi đó ở phương Bắc vẫn bảo lưu cách phát âm /bl/ và /ml/. 24 ϕững ϕàng vững vàng - ϕách - vách ϕiết - viết ϕui ϕẻ - vui vẻ ϕải - vải ϕán - (tấm) ván ϕào - vào ϕợ - vợ ϕua - vua ϕưng - vòng (vàng) ϕai - vai Từ điển Việt-La cùa P. de béhaine và Việt-La của J.L. TABERD đều tương tự, tức cũng không còn ghi nhận phụ âm đầu /β/ với cách ghi là ϕ. Như vậy, có thể khẳng định, vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX quá trình biến đổi ϕ thành ν đã kết thúc. 2.1.3.1. Trường hợp X và S X và S là hình thức chữ viết để phân biệt hai phụ âm đầu S và X. Trong lịch sử tiếng Việt hai âm này bao giờ cũng được phân biệt rạch ròi. Ngày nay phương ngữ Bắc đã nhập S vào X. Tuy nhiên, ngay từ S.S.S hiện tượng này đã xuất hiện, thể hiện qua hai trường hợp : . Lẫn lộn S và X : Sứ và Xứ . Dùng S thay cho X và dùng X thay cho S Sêy thay vì Xây Xan xát thay vì san sát Thí dụ : o Mình coi sóc sứ bổn dạo Annam ... chẳng được sứ bổn đạo... và quê ở Hải Dương xứ. (tr.1) 25 2.1.3.2. Trường hợp d và r o Làm nhà cao thì đào sâu cùng sây đá sây gạch (tr.590)
o Phố phường thì xán xát những hàng bánh ngọt.(tr.567) Hai chữ viết d và r ghi hai âm /z/ và /Z/ được phân biệt hầu hết các trường hợp sử dụng nhưng còn một số trường hợp tác giả sử dụng không thống nhất. + Dùng cả hai d và r dối và rối dan và răn - Dùng d thay cho r dâu thay râu dủ thay rủ dồ thay rồ (dại) dong thay rong Thí dụ : o mà lại muốn theo đạo dối cho nên thầy nào biết tiếng nói nước phalansa thì tìm đến đấy (tr.219) o cho nên ai biết rằng người nào đã theo đạo rối thì phải đến trình (tr.241)
o thì làm tờ nọ, tờ kia mà khuyên dan (tr.218)
o cùng lề luật mười sự răn và những lời khuyên (tr.230), d thay r
o cắn cạnh sườn mẹ mình mà ra thi đã bạc đầu dâu (tr.319)
o mà đem đi thì sang đủ xuống đầu gối. (tr.433)
o cho vợ chồng nó uống thuốc dồ dại cho ra mất trí khôn (tr.477)
o mà chó thì thả dong cho nó cạy dong ngoài đồng ấy (tr.591) Trong Từ điển Việt-Bồ-La (1651) và Việt-La (1772) hai âm này vốn được phân biệt rất rõ. Vì vậy hiện tượng không thống nhất trên cho thấy S.S.S có thể phần nào phản ánh sự 2.1.3.3. Trường hợp n/1 khởi phát quá trình thủ tiêu đối lập của cặp âm d/r ở phương ngữ Bắc bộ. Thời ALECXANDRE DE RHODES vẫn còn phân biệt n và l, ở PHILIPHÊ BỈNH cũng tuân thủ nguyên tắc ghi âm đó nhưng lại có trường hợp ngoại lệ. Khảo sát văn bản, ta còn gặp một trường hợp lẫn lộn giữa hình thức chữ viết n và l là : nên và lên. 26 Thí dụ : o mẹ nên đậu thì con ở trong thai ngày sau phải nên đậu. (tr.488)
o vì khi nó nên 4 nên 5 tuổi thì loạn (tr.218)
o và đoạn mới đốt nhà mình mà lên Tuần vương (41) Ngày nay k được dùng khi đứng trước các nguyên âm dòng trước: i, e, ê, iê, q khi có âm đệm /w/ và c ở các trường hợp còn lại. Nguyên tắc đó không được PHILIPHÊ BỈNH tuân thủ S.S.S lẫn lộn cách ghi giữa c và q (cách ghi này do ảnh hưởng cách ghi cũ có từ thời ALECXANDRE DE RHODES) phổ biến trong những trường hợp sau : cuân thay quân cuốc thay quốc cuấy thay quây cuết thay quyết cuét thay quét. Riêng trường hợp cuốc lại dùng cho cả hai trường hợp : cuốc - (quân) quốc - cày cuốc, cuốc xới Thí dụ : o cuân khán Hải dành chết cuân Mèo (tr3)
o Khi Vitvồ khâm cáo bổn cuốc (tr.10)
o cùng cuốc xới và mở ra cho rộng (tr.296)
o kẻo nó lại cuấy hôi ra (tr.16)
o cho nền cụ Luis cuết trẩy về (tr.7)
o ra cuét nhà rửa bát (tr.46) Tác giả đã nhất loạt lấy cách ghi c thay q khi đằng sau là bán âm W, xuất hiện với các nguyên âm e, ê, iê, ô, â ngoại trừ nếu sau âm đệm w là nguyên âm a thì sử dụng hình thức kết hợp bình thường với con chữ q : quan, quanh ... Thí dụ : o Phương Tây thì được mà làm trò quanh năm (tr. 48) 27 o cùng các thầy người nhà và quan viên (tr.119) Trong Từ điển Việt-Bồ-La (1651) trên đại thể, các con chữ k, c, q được sử dụng để ghi âm /k/ và được phân bố như sau : * Ghi là c khi đứng trước các nguyên âm ư, ơ, â, a, ă, u, o, ô, uô, ươ. * Ghi k khi được sử dụng trước các nguyên âm i, e, ê, ie * Ghi q trước âm đệm W. Tuy nhiên, đôi khi tác giả không theo đúng quy tắc trên trong một số trường hợp: Thí dụ : Cách viết thông dụng theo quy luật Từ điển Việt-Bồ-La (1651) coen quen coân quân cuien... quyển... (có sự lẫn lộn giữa c thay q) Từ điển Việt-La (1772) lại diễn ra có khác. Các hình thức chữ viết c, k, q được phân bố như sau : - c khi đứng tníđc các nguyên âm dòng giữa và sau tròn môi. - không phân bố trước các nguyên âm dòng trước và một số trường hợp trước nguyên âm dòng giữa (đặc biệt nguyên âm đôi ươ) - q phân bố trước vần có âm đệm. Như vậy, chữ viết ghi phụ âm /k/ cũng không thống nhất cách thể hiện trong việc đã dùng lẫn lộn các chữ viết c và k trong trường hợp : cướp và kướp. cưới và kưới cười và kười Nhưng đến Từ điển Việt-La của Taberd (1838) tình hình này đã được cải tiến, các con chữ ghi âm đầu /k/ được sử dụng theo một quy luật phân bố chặt chẽ và đã được bảo lưu cho đến ngày nay. Alecxandre De Philiphê Bỉnh J.L Taberd Ta có thể đối chiếu diễn tiến đó như sau : Rhodes (1651) (1822) (1838) (1772) P. de Béhaine c/q c/q c c/k k 28 k q k q Tóm lại, PHILIPHÊ BỈNH chấp nhận theo cách ghi có từ thời A.de Rhodes và chưa tìm được phương thức thích hợp, trong khi đó đó Từ điển Việt-La (1772) ra đời trước 50 năm đã cải tiến cách ghi thống nhất hơn và gần với sách ghi hiện đại. Và chỉ sau PHILIPHÊ BỈNH có 16 năm mà Từ điển Việt-La (1838) I.L.TABERD đã hình thành quy luật phân bố một cách thống nhất như tiếng Việt hiện đại. - ng trước các nguyên âm dòng giữa, dòng sau. - ngh trước các nguyên âm dòng trước. Riêng hình thức chữ viết g, gh ghi âm /γ/ tác giả chấp nhận quy luật phân bố. - g trước các nguyên âm dòng giữa, sau. - gh khi trước các nguyên âm, dòng trước. Nhưng thực tế có 3 trường hợp tác giả đã không tôn trọng quy luật trên. ghệy thay vào gậy. ghềy thay cho gầy (guộc) ghầy thay cho gầy (dựng) Ví dụ : o con ghệy hèo tôi cầm tay (169)
o Cùng ra ghềy guộc vì chẳng còn (tr.369)
o Vì khi cụ LUIS ghầy dưng cho làng gói (tr.20) Hiện tượng lầm lẫn trên có lẽ do tác giả viết sai chính tả mà ra. S.S.S còn tồn tại hai cách viết khác hẳn so với cách ghi tiếng Việt hiện đại và ngay cả trong Từ điển Việt-La (1772) cũng không có cách viết ấy, đó là trường hợp con chữ d và đ. Tác giả thống nhất ghi : D thể hiện đ → Doạn, Di, Dem ... (đoạn, đi, đem ...) ∂ thể hiện d → ∂ỗ ∂ành (dỗ dành) ∂ám (dám) Ñ thể hiện đ → Ñức vua, Đ.C.J 29 D thể hiện D → Dão (Dòng) Trường hợp âm /k/ chữ viết q tác giả vẫn viết như ngày nay : quan, quanh. Nhưng ở hình thức viết hoa tác giả lại dùng cách ghi khác. g thay vì Z hay Q như hiện nay. Xét về nguồn gốc, ta biết hai cách ghi này có từ thế kỷ XVII, cụ thể trong văn bản viết tay của BENTO Thiện (1659) như : - đi thăm Di thăm ∂ạ - dạ và âm /k/ được nhất loạt ghi là g (dù viết thường hay viết hoa) khi đứng trước âm đệm. Ví dụ : " Ngày sau nhà Lý lên trị, cũng là người guan cả" và "Đến đời sau vua Hấn Guảng nhà Ngô" . (BENTO THIỆN 1659) trường hợp này S.S.S đã cải tiến được một bước vì chỉ bào lưu trong phép viết hoa. Tóm lại, ta có thể thấy hệ thống phụ âm đầu trong S.S.S còn chịu ảnh hưởng nhiều của thời A.DE RHODES. Trước tiên là sự tồn tại hai hình thức ml và bl hệ thống âm đầu của Từ điển Việt-La (1772) đã không còn hai tổ hợp phụ âm này dù tác giả không giải thích. Nhưng Từ điển Việt-La (1838) J.L TABERD cho rằng các hình thức này chỉ là phản ánh cách phát âm địa phương. Ví vậy, chúng ta có thể hiểu rằng vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX các tổ hợp phụ âm/ml, bl hay, tl/ chỉ còn bảo lưu ở một số phương ngữ. Đó có thể là lý do giúp ta hiểu vì sao S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH một tác phẩm ra đời sau Từ điển Việt-La (1772) gần 50 năm mà vẫn còn các hình thức tổ hợp phụ âm ml và bl và bên cạnh đó là sự không thống nhất đối với cách ghi giữa s/x, d/r... hay còn hình thức c trước âm đệm. Ngoài những hiện tượng trên, hệ thống này cũng thể hiện được những chuyển biến nhất định phù hợp quy luật chung ngôn ngữ. Đó là cơ sở rời xa thói quen cũ để đi đến sự đơn giản, hợp lý hơn. 30 Đầu tiên ta có thể thấy được, so với tiếng Việt hiện đại, S.S.S đã thêm dấu "˘" trên con chữ "a" để thể hiện nguyên âm ă của các tổ hợp con chữ : au, ay, anh, ach đưa đến các hình thức : ău, ăy, ănh, ăch. Thí dụ : o Mà cáo các thầy thăy mình (tr.281)
o Vì sự các vua chúa phương tây đến hợp nhău (tr.276)
o Song chẳng bao lâu mà ra khỏe mặnh (tr.6
o Một làng có mặch nước mà thôi (tr. 131)
o Thầy dòng Đ.C.J ở nước khác chạy đến (tr.276)
o Vì nó bằy, đặt ra nhiều điều dối trá (278)
o Sang chiều ngằy thứ bảy (290)
o Vì thấy khi chắy cửa chắy nhà (451)
o Nhức ở trên đầu gối, thì đău đớn quá lắm (tr. 14)
o Các vua chúa phương tây đều hợp nhău mà xin (276)
o Để cho các thầy rửa tăy mà lău (561). Xét về điều kiện cần và đủ thì dấu "˘" ở đây là thừa. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng những người dùng dấu ngắn ở những trường hợp trên có ngữ cảm rất tốt. Và tác giả đã sử dụng phổ biến cách ghi này đối với hai vần trên. Nhưng qua thống kê tỉ mỉ, ta cũng bắt gặp một số ít trường hợp tác giả lại ghi như cách ghi hiện nay. mạnh và mạch nhau và lau Thí dụ : o Đi có thứ tự chẳng phải ai mạnh thì được (tr. 151)
o Kẻ giữ mạch nước mỡ nắp ra (tr. 166)
o Nước người dòng ta ở với nhau làm một (tr.6)
o Cùng một khăn ren để mà lau (tr.561) So sánh với Từ điển Việt-La (1651), Việt-La (1772) hay Việt-La (1838). Ta có thể thấy sự tồn tại của các vần này ở những thời kỳ khác nhau. 31 Từ điển Việt-Bồ-La vần /ăn, ăj/ được ghi chuẩn như ngày nay trong các trường hợp sau : rau, máu, ngày... Riêng ở vần /εy/, /εk/ thì lại tồn tại hai cách ghi như : ách và sắch anh và thành đắnh... Trong Từ điển Việt-La (1772) hiện tượng này diễn ra có khác, vần /ău/ có hai cách viết: au và ău cùng xuất hiện với tần số tương đương. Ví dụ : sau, nhău... Ở vần /εk / cũng diễn ra tương tự : cắp sắch, mắch... Riêng hai hình thức chữ viết ay và anh để ghi âm /ăj/ và /εy/ thì giống ngày nay. Từ điển Việt-La (1838) ở mọi trường hợp các vần trên, đều thống nhất như cách ghi hiện đại. /ău/ - nhau, máu... /ăj/ - hay, thay... /εη/- anh hùng, chánh (triều).../εk/ - ách (nạn), sách... Ta có thể tổng hợp so sánh diễn biến của các vần trên như sau: ang/ăng, at/ăt, ap/ăp, am/ăm, ac/ăc, để ghi các vần /aη ,ăη/, /at,ăt/, /ap,ăp/, /am/ăm/, /ak,ăk/ thì diễn ra có khác. Trong lịch sử ngữ âm, âm vị /a/ và /ă/ luôn luôn là hai âm vị khu biệt dứt khoát với nhau, vì thế sự lẫn lộn giữa hai vần trên không thể cho là hai âm vị /a và ă/ đã không khu biệt nữa hoặc ít nhất bị trung hòa hóa khi phân bố trước m, p, t, c, ng. Dĩ nhiên có thể cho rằng dù điều đó không xảy ra ở quy mô tiếng Việt nói chung thì vẫn có thể tồn tại ở một vài thổ ngữ. Ở đây phần nào dấu ấn phương ngữ thể hiện qua cách ghi của PHILIPHÊ BỈNH. Vì vậy mà đã có sự tương ứng giữa a và ă (dài và ngắn) xảy ra hàng loạt. Thí dụ : o ang/ăng - thì cụ Luis chảng giả (ừ. ĩ3) 32 o at/ăt - có người co chân tay lại mà què quạt (tr.J33)
o ap/ăp - mà đi kháp thế gian giảng đạo (tr.270)
o anưăm - người ta thì ra rối rắm (tr.275)
o ac/ăc - bà thánh ấy biết rằng sẽ có giạc (267) Song hành với cách thể hiện hàng loạt như trên vẫn có một số ít trường hợp ngoại lệ tồn tại như cách ghi hiện nay : năm/nam giặc/giạc bắt/bát... Thí dụ : o Đến ngày mồng 7 tháng 8 năm 1814 (tr.280)
o Trên gác ấy thi tối tăm (tr.4)
o Song giặc Phanlansa đến nước rapcles (tr.380)
o mà đức thánh phải bắt (tr.380) Ở Từ điển Việt-Bồ-La (1651) hiện tượng này cũng đã xảy ra hàng loạt. Ta có thể hiểu đây là dấu ấn của người phương Tây ảnh hưởng đến cách ghi tiếng Việt (không phân biệt a và ă, ơ và â). Chính ALECXANDRE DE RHODES đã cho rằng nguyên âm trong vần quốc ngữ không có /ă/ vì những chữ có dấu mũ ngữa ă, ẽ, õ, thì chỉ đọc rất ngắn, phớt qua, chữ theo sau mới là âm thật. Như vậy bước đầu chỉ có ă giả tạo, có tính chất như một ký hiệu phụ ; Đăọc, hăọc, nhăọc, tắoc ... còn đa số trường hợp đáng lý ghi ă thì được ghi a : nam, làm, chảng ... Tuy nhiên, ở "Phép giảng tám ngày", ALECXANDRE DE RHODES đã bất đầu ghi nhận ă bên cạnh a bàng (bằng), cảng (cẳng), chạt (chặt) ... ăn, bắc (phương), bắn, cắt, đắp ... Thời ALECXANDRE DE RHODES tồn tại hai âm a và ă, giai đoan đầu ă thực thụ được sử dụng nhưng chưa trọn vẹn S.S.S cũng tồn tại một số trường hợp như vậy, có thể là đã bảo lưu cách ghi cũ này và hoặc chịu ảnh hưởng của cách phát âm địa phương. Nhận định trên đã có cơ sở vì năm 1772, Từ điển Việt-La của PIGNEAU DE BÉHAINE ỏ Đàng Trong đã có ă thực thụ và sử dụng thống nhất ở các vần được viết : ăng, ăt, ăc, ăt. Và đến J.L.Taberd (1838) thì đã ghi nhận đầy đủ ă thực thụ và hoàn toàn không có lẫn lộn. 33 Ta có thể so sánh diễn biến cách ghi các vần đó như sau : Một điều cũng đáng lưu ý là ở bán âm cuối xuất hiện trong vần /ăi/, /ui/, PHILIPHÊ BỈNH ghi không thống nhất như trong tiếng Việt hiện đại. ai - ay trong vai - vay ui - uy trong túi - tùy (đô) Thí dụ : o cùng vai công nợ người ta (tr.368)
o Kiệu câu rút thì 2 đô tùi (tr.21) S.S.S còn có trường hợp an ủi đươc viết thành an ủy ( 1 biểu hiện khác) Thí dụ : o Khi người an ủy ông Jacobe (tr.368) an ủy và an ủi là hai biến thể ngữ âm của một từ. Từ điển Lê Văn Đức có ghi nhận hình thức an ủy. Cách viết y chỉ xuất hiện sau các nguyên âm ngắn /ă, / còn lại đều là i. Hiện tượng này chỉ xảy ra có hai trường hợp nêu trên nên có thể cho là do sự lầm lẫn về chính tả mà ra. 𝛾𝛾� Vần có âm đệm W khi xuất hiện trước nguyên âm rộng dòng giữa /a, ă/ được PHILIPHÊ BỈNH ghi bằng hai cách u và o. thí dụ : ua, oa: o khúc sông ấy cùng thấy hỏa mai nhấp nhánh (tr.16)
o kẻ giữ cửa khúa lại mà đem nập chìa khúa (tr.89)
o thì đã lấy một mẹ góa có hai con (tr.206) nai, oai: o xong vít vồ Alecxandre phải bệnh bán thân bất tuại (tr.504)
o Vit vô Portuger phải bệnh bất toại (tr.143) 34 uan, oan : o càng tuân làm tờ hầu (tr.30)
o như ta đã ăn đoạn thì ngồi (tr.509) Đối với các vần có âm đệm, hình thức chữ viết u được tác giả dùng nhiều hơn o. Hình thức o được tác giả ghi trong các trường hợp : hoa, đoạn, ngoài, loài, khoét... nhưng tần số rất thấp. Ngược lại hình thức u được sử dụng nhiều và tần số xuất hiện cao : tuân, tuai, khúa, huạch, huảng, thuắt, thuẳng, huặc, khuảnh, khuết... Trường hợp âm đệm W đứng trước nguyên âm /e/ đa số được tác giả ghi là u nhưng có một trường hợp tác giả lại không tuân thủ theo như vậy : ngoét thay vì nguyệt (tr. 166) và dùng cả hai cách ghi u và o khuét và khoét (tr.23) tuại và toại (tr. 143) Riêng với các vần mà chữ quốc ngữ hiện nay ghi là oap, oăm, oen, không thấy trong S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH. Phải chăng các vần này có tần số quá thấp nên một cuốn nhật ký như S.S.S không có điều kiện thu nạp? Sự thể hiện vần /wai/ và /wat/ trong Từ điển Việt-Bồ-La (1651) chỉ có một cách ghi : oang và oat, nhưng ở Từ điển Việt-La (1772) các vần được ghi như S.S.S riêng Từ điển Việt-La (1838) vần /wai/ chỉ có một cách ghi là oai. Căn cứ tình hình trên ta có thể lập bảng đối chiếu về sự thể hiện các vần trên. Cách ghi S.S.S Cách ghi hiện nay ão rãò ròng ong 35 chão chóng vãỏ võng dăò dòng bãó bóng đãó đóng báoc bóc giãó gióng bạoc bọc lãò lòng cạoc cọc lão long chaọc chọc mãỏ mỏng đạoc đọc mãó móng gáoc góc nãò nòng hạoc học mãó móng kháoc khóc phãò phong láoc lóc rãò ròng mạoc mọc são song náoc nóc thão thong nhạoc nhọc trão trong soác sóc trãọ trọng táoc tóc … Thực ra, cách ghi trên đây của PHILIPHÊ BỈNH chẳng qua là tác giả giữ lại cách ghi của ALECXANDRE DE RHODES Qua tìm hiểu về quá trình phát triển của hình thức chữ viết ghi các vần ong, oc, ta có thể khái quát như sau : từ khi hình thành chữ quốc ngữ đến Từ điển Việt-La (1772), để ghi nguyên âm o các nhà sáng tạo đều dùng tổ hợp ký hiệu ao. Đoàn Thiện Thuật cho rằng nguyên âm dòng sau // kết hợp với /η/, /k/ thể hiện kém tròn môi, các nhà sáng tạo chữ quốc ngữ cố gắng ghi lại một cách trang thành lối phát âm của người Việt cho nên đã dùng tổ hợp chữ viết ao để ghi âm //. Vì vậy mà CADIÈRE trong Phónetique Annamite có viết "quy tắc chung là những từ có dạng ong hay oc đọc như thế có một âm /a/ nhẹ trước //. Vì vậy trong phải đọc traong, tóc đọc là táoc và cách viết traong, táoc phản ánh đúng cách phát âm trên thực tế. Nguyên âm trong những từ này không phải là một nguyên âm đơn mà
rõ ràng là một nguyên âm đôi /ao/"(3) Trong Từ điển Việt-Bồ-La (1651) để ghi vần ong, oc, ALECXANDRE DE RHODES đã dùng 2 tổ hợp con chữ ão và ãu aoc, ãoc và có vài trường hợp còn ghi oc. 1994 3 Dẫn theo luận án Nguyễn Thị Bạch Nhạn "Sự biến đổi các hình thức chữ quốc ngữ từ 1620 - 1877 - Hà Nội 36 khóc lóc (khaóc láoc), sáoc (sóc)... Từ điển Việt-La của BÉHAINE dùng hình thức chữ viết aong và ong để ghi ong và oc, õc để ghi vần oc, cách viết ong được dùng phổ biến (451/479 lần xuất hiện), aong sử dụng hạn chế (24/475 lần xuất hiện). Đây cũng có thể là quá trình chuyển đổi cách ghi vần ong từ ão → aong → ong. Cách ghi õc chỉ có ở Từ điển Việt-La của BÉHAINE thể hiện biến thể ngôn ngữ, ngày nay không được ghi nhận. Đối với Từ điển Việt-La (1838) của TABERD hình thức chữ viết để ghi các vần trên đã thống nhất và ổn định như cách ghi của tiếng Việt hiện đại, ta có thể đối chiếu diễn biến trên như sau : Như vậy ở S.S.S PHILIPHÊ BỈNH đã chọn cách ghi thống nhất ão cho vần ong và aoc cho vần oc. Có lẽ tác giả đã tuân thủ theo cách ghi cũ với lý do phản ánh trung thực cách phát âm (có tính địa phương) đang phổ biến lúc bấy giờ. Thống kê tỉ mỉ, chúng tôi bắt gặp một trường hợp vần oc được tác giả ghi õc trong trường hợp : o khi tiến thì tiến những vàng bạc cùng ngặoc nọ ngõc kia (tr.520) nhưng chỉ là một lần nên không thể là do ý thức của tác giả. Một điều đáng quan tâm khi khảo sát vần trên là ký hiệu "~" . Theo HAUDRICOURT , "~" là ký hiệu Bồ, Nguyễn Khắc Xuyên gọi là dấu sóng, còn ALECXANDRE DE RHODES gọi là dấu lưỡi câu. ALECXANDRE DE RHODES mô tả như sau: sau hết dấu hiệu thứ ba là dấu lưỡi câu tối cần thiết cho ngôn ngữ này vì sự khác biệt của âm cuối mà dấu lưỡi câu làm nên. Khác hẳn âm cuối mà m hay n làm nên là những tiếng mang dấu lưỡi câu thì ý nghĩa cũng khác hoàn toàn, vả lại, dấu hiệu này hay dấu lưỡi câu chỉ cảm nhiễm õ và ũ ở cuối tiếng. Thí dụ : ão, apis (con ong) õu (ông). Nó được phát âm thế nào để môi không chạm vào nhau mà lưỡi cũng không chạm tới cúa." chính cách miêu tả này cho thấy các vần /u/, /o/, // thời ALECXANDRE DE RHODES có cách phát âm khác hiện nay. Mô tả của ALECXANDRE DE RHODES phù hợp với ý kiến của Vương Hữu Lễ :"cách ghi trong Từ điển Việl-Bồ-La giống như phát âm giọng Quảng nam, vần /oη/ khi phát âm không có hiện tượng hợp khẩu và nguyên âm đơn biến thành nhị trùng âm ao" 37 Ở Từ điển Việt-Bồ-La (1651) "~" chỉ sử dụng đúng hai trường hớp ũ và õu. Nhưng ở S.S.S PHILIPHÊ BỈNH không chỉ bảo lim cách ghi cũ này ở các vần : - ão = ong (tr. 13) - õu = ông (tr. 15) - ũ = trung (tr.316) Mà còn dùng "~" để thay thế hầu hết các vần âm cuối là ng (trước đây chỉ ở vần có âm chính là nguyên âm dòng giữa). Ông đã song song thể hiện cách ghi phụ âm cuối ng. Cách dùng dấu "~" trên các nguyên âm đơn và đôi của tác giả để thay thế phụ âm cuối /η/ có lẽ do tác giả viết tắt (tiết kiệm). Xin dẫn ra một số thí dụ sau : ã - ang → giảng và giã (tr.409) ỡ - ng → vỡng và vỡ (tr.401) ữ - ưng → trứng và trữ (tr.584) iễ - iêng → giêng và giễ (tr.29) ũô - uống → xuống và xũố (tr.473) ữơ - ương → phương và phữơ (tr.312) Đấy chính là điểm khác so với cách viết cũ. Một thực tế khác là hình thức ng được tác giả sử dụng thường xuyên và phổ biến nhiều hơn so hình thức "~" có lẽ đây cũng là quá trình chuyển biến dấu "~" từ bước đầu sử dụng để phân biệt cách phát âm đến không phân biệt và hoàn toàn thay thế bằng hình thức ng. Tìm hiểu thêm ở giai đoạn này, Từ điển Việt- La (1772) của P. De Béhaine ở Đàng Trong đã không sử dụng ký hiệu "~" mà đồng loạt thay thế là ng. Từ điển Việt-La (1838) J.L TABERD cũng như thế. sêy đá (tr.590) sây gạch (tr.590) ghềy guộc (tr.6) Ghầy dựng (tr.20) Lợn sếy (tr. 554) Lợn sấy (tr.574) dồi sếy (tr. 575) Cuếy - (Cuấy)... 38 So với Từ điển Việt-La (1651), Việt-La (1772) và Việt-La (1838) cách ghi êy cho vần ây làm nên một ngoại lệ duy nhất: Con chữ y kết hợp được một nguyên âm dòng trước. Nhưng bên cạnh các trường hợp ngoại lệ vẫn còn có sự song hành xuất hiện (dù chưa nhiều) ây và êy vì vậy ây được ghi bằng êy có thể đặt ra hai khả năng : 1. Do ảnh hưởng của cách ghi chữ Lalinh và chữ Bồ Đào Nha? 2. Lúc bấy giờ ở quê của Philip Bỉnh có thể tồn tại song hành hai hình thức phát âm "ây" và "êy" của một vần ây, và hai hình thức phát âm này chỉ là những biến thể tự do của một vần ây? thuẩ thay cho thuở (tr.261) qua (hay cho quở (tr.69) hiện tượng này xảy ra hàng loạt ở hai trường hợp trên thể hiện sự bất hợp lý vì tạo ra 2.2.6.1. Vần /wia/ vốn được ghi uya nhưng tác giả đã nhất loạt ghi uyê trong trường hợp sau : ngoại lệ. o mà đợi nước lên thì đã khuyê (tr.53) Nhìn lại quá trình phát triển của hệ thống chữ viết. Các hình thức uâ, uyê chỉ gặp trong tư liệu của S.S.S mà không thể tìm thấy trong bất cứ tư liệu nào dù cũ hay mới. Bảng đối chiếu sau cho thấy rổ điều này Riêng vần /γj/ cách ghi êy đã có từ thời ALECXANDRE DE RHODES. Ở ALECXANDRE DE RHODES ngoài hình thức êy còn có các hình thức khác là: ây, âi, êi. Đối chiếu hệ thống vần qua cách ghi của S.S.S với chữ quốc ngữ hiện nay, chúng ta có thể nhận ra một số hiện tượng tương ứng rõ nét. Có thể nói đến các hiện tượng tương ứng 39 sau: sự tương ứng giữa các nguyên âm dài và ngắn, nguyên âm đơn, đôi và tương ứng giữa
các cặp ngnyên âm cùng dòng có độ mở rộng, hẹp (4) Tương ứng giữa nguyên âm dài và ngắn Tính chất dài ngắn của các âm chính trong vần diễn tiến theo hai hướng chuyển đổi: dài → ngắn và ngắn → dài. Đây là hiện tượng tương ứng xảy ra ở cặp nguyên âm a - ă và ơ - â (trong các cặp vần tương ứng) Hướng chuyển đổi ngắn sang dài xảy ra trong một số trường hợp sau: ă → a : uất - nát (dốt uất) â → d : thuẩ - thuở (thuẩ xưa) qua - quở Thí dụ : o lấy làm hèn hạ, cùng u mê dốt nắt (tr.46)
o vì thuẩ xưa 12 ngành (tr.386) + Hướng chuyển đổi dài sang ngắn xảy ra hàng loạt và đã phản ánh được tính hệ thống trong các cặp vần tương ứng như : η/ và /γk - γk/ /ai - ăi/, /a - au/, /am - ăm/,/aη - ăη/, /ap - ăp/, /at- ăt/ , /ak - ăk/,/γη - γ trong các trường hợp sau : � - cháp - chắp - vai - vay - kháp - khắp - phao - phau - chát - chắt - bam - băm -bát - bắt - cám - cắm -bác- bắc - dạm - dặm - giạc - giặc - nam - năm - chảng - chẳng - mác - mắc . - gáng - gắng. - và dơng - dâng - bợc- bậc - đớng - đấng - tớc - tấc ... - nơng - nâng - tòng - tầng - vơng - vâng 4 Xem Nguyễn Phương Trang 1996 40 Thí dụ: o Là 18 tháng chạp nước người nam 1796 (tr.96)
o đồ lễ thì hãy còn giữa mà đem đi vì chữa sám được (tr.96)
o mà đi kháp thế gian giảng đạo (tr.279)
o dơng bánh càng rược mà làm lễ (tr.416)
o để cho mọi đớng mọi bợc đề biết (tr.63)
o hai chúng tôi phải nơng hai cánh tay (tr.6)
o cho nên phải vông lề luật phép tắc (tr.234)
o một tóc hoặc một tóc rưởi (tr.556)
* Tương ứng giữa nguyên âm đơn và đôi. Sự tương ứng giữa nguyên âm đơn và nguyên âm đôi trong các vần xảy ra theo hai hướng. Hướng thứ nhất : Nguyên âm đôi (hiện nay) ứng với một nguyên âm đơn thời philiphê Bỉnh. Hiện tượng này xảy ra phổ biến và mang tính hệ thống ở sự tương ứng giữa nguyên âm ê và iê trong các trường hợp : trêu - triều huệt - huyệt trệu - triệu tuết - tuyết phên - phiên chèn - chiên Tương ứng giữa ơ, â với ươ ở các từ: Vợt - vượt ngác - ngước Rới - rưới lợt - lượt Thí dụ : o mà trêu thiên hay là sự sáng láng ấy (tr.292)
o Có người thích thịt chên, thịt bò (tr.554)
o Thầy cả giải tội thì phải có phên (tr.10)
o thì tổng thành ở Trạng Hải Huệt (tr. 19)
o Quần áo thì rách rới (tr.37)
o vì mỗi một lợt là độ 500 học trò (ír.225)
o người ngấc mặt lên cùng che lấy mũi mình (tr.23)
o mà người nước ta ngờ là tháp nó ểm thì sợ (tr.463) Hướng thứ hai: nguyên âm đơn (hiện nay) được ghi nhận như một nguyên âm đôi trong S.S.S 41 Tương ứng giữa iê - ê trong các trường hợp sau : diêm - đêm điều - đều việt - vịt thuyê - thuê Thí dụ: o đầu năm 1780 mới thuyê một chiếc thuyền (tr.6)
o song việt thì có ít vì việt đục bán mà việt cái (tr.397)
o hoặc là cháy phố phường ban điêm (tr.453)
- Tương ứng giữa ươ - ư , ơ , ô, trong các trường hợp: gưởi - gửi ngượi - ngợi bưới (rối) - bối (rối) ngưởi - ngửi Thí dụ: o tôi phải gưởi thư cho các thầy cải (tr. 10)
o các kẻ nghe truyện ấy đều ngượi khen (tr.493)
o bổn quốc thì đã bưới rối (tr.84)
- Tương ứng giữa uô /uo/ - ô /o/ , ơ /γ/ muôi - môi đuôn - đun vuôi - với buồn - bùn buối - bối Thí dụ: o đoạn lấy muôi nho nhỏ mà đút vào miệng (tr.393)
o vì người ta có lòng cho chẳng phải là đãi buôi (tr.580)
o mà đuôn vào thì một chốc thì khô (tr.585)
o mực thì lõng như đất buồn ở trong bao vải (tr.619) Mặc dù có nhiều hướng tương ứng như trên song không phải mọi sự tương ứng đều phổ biến như nhau. Có thể có những tương ứng có tần xuất cao và có những tương ứng có tần xuất thấp. Như vậy nguyên âm đôi và nguyên âm đơn trong S.S.S đã có sự phân biệt, nhưng sự phân biệt này không được sử dụng một cách nhất quán. 42 * Tương ứng với các cặp nguyên âm cùng dòng có độ mở rộng - hẹp. So sánh với cách ghi các vần trong S.S.S với các vần tiếng Việt hiện đại lại có sự tương ứng với các cặp nguyên âm càng dòng có độ mở rộng - hẹp. Tương ứng : a và ơ trong các từ : quả - quở tá - tớ Thí dụ : o cho tôi tá nam cùng tôi tá nữ người biết (tr.267) Tương ứng a - â trong : càm - cầm ngãm - ngẫm Thí dụ : o càm giỏ bạc đợng hoa mà rắc (tr.476) Tương ứng : o - u om - um Thí dụ : o và rán mà om cua hoặc là ghẹ (tr.576)
o ngày nào ăn thịt thì om vuối thịt (tr.577) Tương ứng giữa ơ - ư hơữ - hữu đợng - đựng chợc - chực hớng - hứng Thí dụ : o càm giỏ bạc đợng hoa mà rắc (tr.476)
o dài bằng hòn đá mà hớng lấy (tr.5S6) Tương ứng : â - ư, ă - â đất - dứt nẳy - nẩy rẳy - rẩy rất - nít dạy - đậy ... Thí dụ : o cắn móng tay và rất tóc trên đầu mình (tr.480)
o lên mũ ra mãi mà chăng đất (tr.123) 43 Tương ứng : e - ê/i ; a - ươt trong một số trường hợp xép - xếp đàng - đường danh - dinh lang - lương thanh - thinh tràng - trường Thí dụ : o thì xép gà nướng cùng bánh ngọt (tr.591)
o nhà khách, nhà bép, nhà ăn cơm (tr.509)
o song giả làm thanh mà nói với các thầy (tr.84)
o nói với các thầy nhà tràng rằng (tr.84)
o thì còn để lang cho đến bây giờ mà nuôi (tr.141) Qua thống kê, so sánh và đối chiếu tỉ mỉ các trường hợp trên cho thấy tác giã cũng đã có cách ghi thống nhất, phản ánh tính hệ thống rõ nét, thể hiện sự khác biệt giữa các vần thời PHILIPHÊ BỈNH so với hiện nay. Ta có thể liệt kê các vần đó như sau : PHILIPHÊ BỈNH Cách ghi hiện đại ơng âng ợc ậc ơng ưng ươi, iêu ưi, êu uôi, ơi ơi ât ưt ang ương anh inh ơc âc uyê uya nâ uơ Nhưng bên cạnh tính hệ thống vốn được tác giả tuân thủ thì có một số trường hợp ngoại lệ diễn tiến theo hai hướng: - Hướng xuất hiện song hành như: việt và vịt nam và năm xép và xếp sêy và sây 44 ghềy và ghầy - Hướng chuyển biến theo cách ghi hiện đại: đêm thay vì điêm hữu thay vì hỡư phiên thay vì phên vượt thay vì vợt thuê thay vì thuyê Trong đó theo thống kê điêm, hỡu, phên vợt, thuyê chỉ xuất hiện một lần trong các trường hợp sau : o hoặc là cháy phố phường ban điêm (tr.453)
o đầu năm 1780 mới thuyê một chiếc thuyền (tr.6)
o cho nên đã vợt qua biển Annam (tr.8)
o Thầy cả giải tội thì phải có phên (tr.10) Còn lại đều ghi thông dụng như hiện nay. Tuy sự xuất hiện ngoại lệ không nhiều nhưng cũng cho phép ta nghĩ đến một khả năng tiếng Việt thời kỳ đó ngay trong bản thân hệ thống vần đang có sự chuyển biến. Sự chuyển biến này được xem như là dấu hiệu tiến gần đến hệ thống tiếng Việt hiện đại. Đồng thời qua kết quả thống kê tìm hiểu trên ta thấy được tính chất phương ngữ, thổ ngữ phần nào cũng ảnh hưởng đến sự chuyển biến của nguyên âm trong vần ở tiếng Việt lúc bấy giờ. Tất cả những tương ứng trên ngày nay đều có thể tìm thấy ở phương ngữ Bình Trị Thiên (xem Võ Xuân Trang, 1997). Do đó có thể tin rằng đó không phải là vấn đề cách viết mà thực sự phản ánh đặc trưng phương ngữ của PHILIPHÊ BỈNH. 1. Thanh điệu vốn là một vấn đề hết sức khó khăn đối với các nhà truyền giáo ngoại quốc khi liếp xúc với tiếng Việt. Ngay buổi đầu, họ nhận ra rằng thanh điệu cũng là đặc điểm quan trọng của ngữ âm tiếng Việt. Chính MARINI đã viết (dẫn theo Đỗ Quang Chính 1972 : 14) "... dường như là dân Việt bẩm sinh đã có một cơ thể rất chính xác ... được điều chỉnh thật đúng và hòa hợp hoàn toàn với trí óc cùng buồng phổi, phải nói là theo tự nhiêu người Việt-Là nhạc sư vì họ có tài phát âm một cách nhẹ nhàng và chỉ hơi biến thanh là đã khác nghĩa." và ALECXANDRE DE RHODES cũng đã ý thức rõ vai trò của thanh điệu đối với tiếng Việt. "Các dấu hầu như là hồn trong phương ngữ này và vì đó chúng ta phải được
45 học hỏi cẩn thận, tối đa" (Từ điển Viêt-Bổ-La, 1651). Từ đó họ cố gắng nắm bắt được đặc điểm của thanh điệu tiếng Việt và đã tìm ký hiệu để thể hiện thanh điệu trong chữ viết. ALECXANDRE DE RHODES trong Báo cáo vắn tắt về tiếng Annam hay Đông Kinh đã viết "Chúng tôi dùng ba dấu của tiếng Hy Lạp là dấu sắc, dấu huyền và dấu ngã mà chỉ vì chúng tôi không đủ nên chúng tôi thêm dấu chấm dưới và dấn hỏi của chúng ta. Vì mọi giọng của tiếng này qui về sáu loại đến nỗi toàn vẹn tất cả các tiếng của phương ngữ này đều thuộc về một loại trong sáu loại đó hoàn toàn không loại trừ một tiếng nào. Riêng dấu chấm (.) vốn không là dấu thanh mà một chữ hay đúng hơn là ký hiệu trong tiếng Hy lạp. Đó là chữ Iota tắt hay còn gọi là chữ Iota dưới" (dẫn theo Nguyễn Thị Bạch Nhạn 1994), được ông mượn để ghi thanh nặng tiếng Việt. Và được ALECXANDRE DE RHODES miêu tả ;" ... giọng được gọi là nặng trĩu hay cực nhọc bởi vì giọng này diễn tả bằng việc phát âm từ đáy ngực với sự nặng trĩu hay cực nhọc nào đó và nó được ghi bằng dấu chấm dưới. Thí dụ : bạ". Dấu hỏi (?) vốn cũng không phải dấu thanh mà là dấu ghi ngữ điệu câu của tiếng Latinh và Ấn Âu vốn không đặt trên âm tiết nào mà đặt cuối câu hỏi. Qua sự khảo sát trên ta thấy các nhà sáng tạo chữ quốc ngữ đã cố gắng tìm biện pháp để thể hiện đúng và đầy đủ đặc tính của tiếng Việt. Nghiên cứu hệ thống dấu thanh trong S.S.S của PHILIPHÊ BỈNH, chúng ta ghi nhận có 4 dấu thanh là thanh sắc, huyền, hỏi, nặng (thanh bằng được ghi nhận bằng cách không đánh dấu). Riêng các trường hợp từ có thanh ngã thì tác giả đồng loạt sử dụng thanh hỏi (?). Chúng tôi xin dẫn ra một số trường hợp sau : Cách dùng của PHILIPHÊ BỈNH đúng nguyên tắc phát âm (làng) xả xã đả đã giửa giữa củng cũng (Ngày) lể lễ bải bãi (biển) nhửng những nghỉa nghĩa... So sánh với hệ thống dấu thanh trước đó như Từ điển Việt-Bồ-La (1651) cùng thời kỳ như Từ điển Việt-La (1772), các tác giả đều ghi nhận thanh nhưng đôi khi có sử dụng lẫn lộn hai dấu này với nhau (do ảnh hưởng của phương ngữ Nam). Nhưng hiện tượng loại bỏ 46 hẳn thanh ngã trong hệ thống thanh điệu như S.S.S của PIULIPHÊ BỈNH thì chưa xảy ra trong lịch sử phát triển chữ quốc ngữ . Điều này càng bất hợp lý khi S.S.S dựa vào phương ngữ Bắc là vùng chủ yếu có khả năng khu biệt sáu thanh điệu. Điều này phải chăng là do địa phương của ông là một ốc đảo thổ ngữ? 2. Vị trí dấu thanh trong S.S.S không được tác giả ghi một cách cố định mà tùy tiện : có thể nằm trên âm chính, âm cuối, âm đệm và cả âm đầu. Thí dụ : cướp, tương múôn , 'cuôc , xuông', đoán, đóan, gíôi. Riêng có thanh nặng được tác giả ghi thống nhất : đặt dưới âm chính. (Đây không phải là đặc điểm của S.S.S): Vị trí dấu thanh tuỳ tiện như thế là phổ biến từ Từ điển Việt-Bồ-La (1651) đến Từ điển Việt-La (1772). Rõ ràng ALECXANDRE DE RHODES đến PHILIPHÊ BỈNH vấn đề này chưa được quan tâm để có quy định thống nhất. Nhưng đến Từ điển Việt-La (1838) nguyên tắc đặt dấu thanh được chứ trọng và gần như tiếng Việt hiện đại. - PHILIPHÊ BỈNH thể hiện các phép viết hoa một cách rạch ròi. Chẳng hạn, viết hoa cú pháp được thể hiện sau dấu chấm, hai chấm, giống ngày nay. So với một số văn bản viết tay của Văn Tín, Bento Thiện (1659) ta thấy có khác, vì họ không viết hoa sau mỗi câu mà chỉ viết hoa khi có đấu chấm sang hàng (sau đoạn). Viết hoa danh từ riêng được tác giả thống nhất ghi hoa chữ cái đầu, Thí dụ: Annam, Hải dương, Ung chính nhưng đôi khi tác giả vẫn có sự vi phạm như : Huyện thanh hà (tr.469) Kẻ chợ tràng an (tr.450) hay : 500. Học trò ... Hiện tượng này xảy ra không nhiều, có thể xem là chuyện "nhỡ tay". 47 PHILIPHÊ BỈNH có dịp đi nước ngoài nhiều, tiếp xúc nhiều người khác quốc tịch vì vậy có không ít những tên riêng nước ngoài được ông ghi lại cụ thể trong tập hồi ký của minh. Thường đối với tên riêng nước ngoài ông ghi theo các nguyên tắc sau : * Giữ nguyên dạng - Tên nước ; Italia, Portugal, Russia ... - Tên người: Bonaparte, Alexandre de Rhodes - Đất : Sanda Helenxe * Viết theo cách đọc (phiên âm trực tiếp) Phalansa, Helande, ingler. Halcstina, icsusalcm, Backim, TunKim, Hespanho, Macao, Dôctôrê, Công ti, Congtennơ ... * Phiên âm sang tiếng Việt : Nhật Bản Phao lồ, Vit vồ... Ngày nay viết theo cách đọc (phiên âm trực tiếp) đã hạn chế sử dụng mà thay vào đó là cách chuyển tự (sang Latinh). Như vậy, vấn đề viết hoa, phiên âm thời kỳ này đã được đặt ra rất sớm và còn bảo lưu đến ngày nay dù có thay đổi đôi chút. Dạng viết tắt được tác giả thường xuyên sử dụng trong văn bản. Thường các trường hợp được ông viết tắt là những từ thông dụng hay một vài ngữ cố định. Có thể rút ra các nguyên tắc viết tắt của S.S.S như sau : Đơn giản nguyên âm giữa vần: đc - được mh - mình nhg - nhưng chg - chẳng trc - trước thg - tháng cg - càng Đơn giản phần vần: h (là) - hoặc là 48 ng - người ph - phải nhưng - nhiều th - thành th - thánh ph - phép 1 (hồn) - linh hồn Đ.C.B - Đức Chúa Blời D.C.J - Đức Chúa Jésu Trong viết tất ông tuân thủ theo nguyên tắc giữ lại phụ âm đầu và thanh điệu. Các từ viết tắc là những từ thông dụng. Có khi để tăng thêm sự khu biệt, ông giữ lại các dấu phụ của nguyên âm: Đ - được Nhg- nhưng - chẳng ć
ch * g� * * Tóm lại, trên cơ sở tìm hiểu thống kê, so sánh đối chiếu ta có thể nhận thấy hệ thống ngữ âm, chữ viết được sử dụng trong S.S.S còn gần với Từ điển Việt-Bồ-La của ALECXANDRE DE RHODES hơn so với Từ điển Việt-La của Béhaine (1772) ở Đàng Trong ( dù nó ra đời sau 50 năm). Và S.S.S đã thể hiện một hướng phát triển khác chữ viết giai đoạn này trên cơ sở chuyển biến ngữ âm, ảnh hưởng yếu tố phương ngữ (cả thổ ngữ) (viết ở Đàng Ngoài). Chính những chuyển biến phức tạp ngữ âm mang đậm tính phương ngữ là do hệ thống chữ viết chứa thống nhất, còn tồn tại nhiều cách ghi khác nhau trong cùng một âm, vần. ngoài ra các qui tắc về chính tả cũng đã được xác lập nhưng còn mang dấu ấn cũ nên chưa nhất quán. Nhìn đại thể những thay đổi về mặt ngữ âm; chữ viết cũng giúp ta nhìn nhận một quá trình vận động chuyển hóa phức tạp của thời kỳ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX ở Đàng Ngoài. 49 Tìm hiểu vấn đề vốn từ trong S.S.S chúng ta gặp rất nhiều lớp từ mà nay vẫn còn nguyên giá trị sử dụng. Điều này cho thấy vốn từ PHILIPHÊ BỈNH dùng mang tính hiện đại, cho nên chúng tôi chỉ đi vào một số vấn đề lớp từ mà chúng tôi thấy cần giải thích và làm rõ. Khi tìm hiểu, thống kê lớp từ cổ còn tồn lại trong S.S.S chúng tôi xin dựa trên các tiêu chí sau để phân loại: Lớp từ cổ không còn sử dụng hoặc không còn phổ biến trong tiếng Việt hiện đại. Lớp từ cổ còn sử dụng trong tiếng Việt hiện đại nhưng đã biến đổi về mặt nghĩa, âm hay ngữ pháp. 3.1.1.1. Lớp từ cổ không còn sử dụng hoặc không còn phổ biến trong tiếng Việt hiện đại. Chúng tôi xin được thống kê và dẫn ra các trường hợp đó như sau : 50 51 52 Đặc biệt từ "cả và" Từ này được tác giả thường xuyên sử dụng trong nhiều trường hợp với kết cấu cả và + danh từ. Thí dụ : Cả và mình, cả và thiên hạ. Cả và dòng, cả và dân. Nguồn gốc từ "cả và" có từ thời ALECXANDRE DE RHODES, sau này Quốc Âm Tự Vị Huỳnh Tịch Của cũng ghi nhận với ý nghĩa tất cả, chung hết…như vậy, nghĩa của chúng chỉ toàn bộ. Ngày nay đả thay từ này bằng tất cả, các ... (Riêng vùng Bình Trị Thiên còn 53 dùng cụm từ cả và nhà cũng với ý nghĩa trên). Trong thơ Hàn Mạc Tử cũng có sử dụng từ "cả và" trong câu thơ sau : Cả và thế giới như không có Một vẻ yêu là một vẻ tân (Tối tân hôn). Trong những từ trên đây có những từ hiện nay không dùng nữa (thí dụ: kín nhiệm, ru, phố, đi gì); có những từ lui về dùng ở địa phương (thí dụ : giành) và một số từ mất đi do gắn liền với lịch sử và xã hội (Thí dụ: khải, trẫm) và một số từ chỉ dùng trong một số chuyên 3.1.1.2. Từ có biến đổi nghĩa (không khác biệt về âm) môn (thí dụ : câu rút, thụ lồ),... 54 55 56 57 58 Đối với lớp từ được tác giả sử dụng đa số ngày nay vẫn còn nguyên giá trị, duy chỉ có 3.1.2.1. Từ đơn: một ít trường hợp không giống ngày nay (về mặt cấu tạo) xin được đi sâu khảo sát như sau : So với tiếng Việt hiện đại, từ đơn trong S.S.S có một điểm dị biệt đáng lưu ý. - Sử dụng từ đơn tương ứng như từ ghép ngày nay. thông ≈ thông tin, thông báo giả ≈ từ giả, giả biệt gấp ≈ gấp đôi (gấp ba) khí ≈ khí hậu, không khí Thí dụ o Bởi vì sự lạ cho nên tức thì thành Roma liền in tin ấy ra mà thông đi các nước (tr270) o Song tôi ôm lấy mà chẳng cho lạy cùng an ủi và giả phô ông ấy (tr.52)
o Phần tôi thì gấp kẻ khác, vì uống nhiều nước thì mới mửa khí độc ra (tr.62)
o Vì khí phương tây thì rét, cho nên nhiều người ta sinh ra đất ấy cũng phải bệnh ấy (tr.113) - Sử dụng từ đơn tương ứng hình vị hạn chế ngày nay. vóc ≈ vải vóc ngòi ≈ sông ngòi vã ≈ vội vã nhọc ≈ mệt nhọc tràng ≈ dài Thí dụ: o Câu rút cùng đế hai chân nếu cao thì phải bọc mùi vóc trắng mà 15 kiệu (tr.20). o Thuyền Anlang thì cạn dầu, ngòi thì hãy còn xa mà đợi nước lên thì khuya (tr.53). o Khi đến đất thì ông thánh Jacobe liền đi vã, khỉ đến núi crro thì nhọc, liền ngồi xuống dưới đất ở chân núi ấy (tr.404) 59 o Hàng hai cửa thì tràng hơn hai gian nhà, Hàng một cửa thì tràng độ một gian nhà ta. (tr.453) - Sử dụng từ thuần Việt song song với từ góc Hán. rồng / long (tr.464) nam / con trai (tr,396) 3.1.2.2. Từ ghép: nữ / con gái (tr.396) - Từ ghép nghĩa thường rơi vào lớp từ có quan hệ chính phụ. Phần lớn những từ loại này được tác giả sử dụng một cách thuần thục không có khác biệt so với ngày nay. Nhưng có một ít trường hợp tác giả dùng mà ngày nay không còn xuất hiện. Thống kê tỉ mỉ chúng tôi tìm được 6 trường hợp như sau : - thầy chích - nhà thương xót - thầy chữ - nhà chứa thư - thầy mạch - nhà cơm - Từ "Nhà cơm" thuộc hệ thống từ ghép chính phụ được tác giả đặt bên cạnh hệ thống: nhà thờ, nhà khách, nhà bếp, nhà trọ, nhà chòi, nhà sách, nhà thương…Tổ hợp "nhà cơm" được tác giả dùng mười lần trong những trường hợp cụ thể sau : o Thầy cả bảo người nhà học hai kinh ấy trong nhà cơm mà đừng học nhà thờ,
cùng canh ông thánh thomaso ở nhà cơm mà chẳng học ở nhà thờ. (tr.11) o Chẳng phải như ta ăn đoạn thì nói chuyện ở nơi nhà cơm (tr.509).v.v… Tác giả đã ít nhất một lần làm rõ nghĩa của "nhà cơm" như sau : Thí dụ: o Cho nên nhà dòng thì phải có rộng rãi, mỗi một thầy là một phòng. Nhà sách,
nhà khách, nhà bếp, nhà ăn cơm, nhà nói chuyện, vì ăn cơm rơi tức thì liền cám ơn mà ra. (tr.509) - Bên cạnh tổ hợp nhà cơm còn có các tổ hợp: nhà chứa thư, nhà thương xót Thí dụ: o Nhà chứa thư ở kẻ chợ thì có nhiều giữ việc, vì phải chọn thư thuộc về thành
nào, làng nào, cũng một lỗi thì phú cho đứa ấy mà lỗi khác phú cho đứa kia (tr.457). o song những nhà thương xót hằng có bảy tám trăm hay một nghìn kẻ liệt mà mọi ngày mọi có người (tr445). 60 o Thầy chích, thầy chữ, thầy mạch, xuất hiện trong một số ngữ cảnh sau:
o Dạy, nuôi thầy thuốc cùng thầy chích, chữa bịnh cùng chữa dấu tích (tr.139)
o Vì thầy mạch cứ viết bài mà người nhà có bệnh đem cho hàng thuốc làm (tr.130) Như thế, PHILIPHÊ BỈNH phân biệt ba thầy nghề y: thầy (bắt) mạch, thầy (chích) (lễ) và thầy (hốt) thuốc...Sự phân biệt tỉ mỉ như "vậy rõ ràng phản ánh đặc trưng nghề y thời PHILIPHÊ BỈNH. Ngoài ra còn có từ ghép "thầy chữ" chỉ nghề dạy học lúc bấy giờ cũng nằm trong hệ thống trên. Ngày nay các yếu tố phụ sau trong các tổ hợp trên không còn tồn tại (chứa thư, thương xót, chích, mạch, chữ, cơm ) ngoại trừ tổ hợp thầy thuốc còn tồn tại với ý nghĩa khái quát. - Trong S.S.S, yếu tố phụ phân biệt giống tác giả sử dụng không theo hệ thống như ngày nay( mặc dù vẫn giữ nguyên nghĩa) trong số ít trường hợp sau : S.S.S cách dùng hiện đại gà đực gà trống vịt đực vịt trống vịt cái vịt mái Thí dụ: o Gà thì chuộng gà con cùng gà mài song chẳng chuộng gà đực (tr.397)
o Song vịt thì có ít, về bán vịt đực mà vịt cái thì để lấy trứng cho gà mái ấp 3.1.2.3. Từ láy: (tr.397). Hệ thống từ láy của S.S.S thể hiện sự phong phú đa dạng như ngày nay như: phao phao, lờ mờ, vàng vàng, nhô nhố, hôi hám, tối tăm, xôn xao, nhấp nhánh, gồng gánh, gọn ghẽ, vững vàng, mỏng mảnh, vèo vèo, rào rào, chốc chốc, vật vã, múa mép, non nớt...Qua thống kê chi tiết chúng tôi gặp một số trường hợp mà ngày nay ít dùng hoặc đã thay đổi về âm hay nghĩa, xin nêu ra như sau : - Đã thay đổi về âm so với ngày nay. mổn mỉn om thòm giôn giổn gọi gạm vạy vọ 61 Phần nào có biến đổi nghĩa Su si lươn lươn khung khung Thí dụ: o Cụ quyền là thầy cả địa phận ấy vào hầu thì mổn mỉn cười thầm.
o thì các vồ búa nó liền đập xuống làm om thòm (trA94)
o mà có ông cũng muốn ăn những quả giôn giổn thì hơn quả ngọt (tr.567)
o thì ma quỉ cất gồng gánh, cùng gọi gạm bảo nhau mà đi (tr.298)
o hay là thuyền chẳng có lái, thì đi vay vọ mà chẳng cứ thẳng đường (tr.240) và o cái chày để trên hòn đá ấy thì tròn cùng su si mà lớn bằng cánh tay (tr.585)
o Hòn đá ráp cùng lươn lươn ấy thì dài ba gang rưởi (tr.585)
o vóc bọc trong bọc ngoài nắp sang thì khung khung (tr.433) Ngày nay : khung khung được thay thế là khum khum, giôn giốt thay cho giôn giổn hoặc mủm mỉm thay cho mồn mỉn ... Để tiện việc so sánh, đối chiếu, chúng tôi xin dựa trên nguồn gốc thành ngữ để phân chia thành 2 loại: thành ngữ thuần Việt và thành ngữ gốc Hán. Thông kê tỉ mỉ các thành ngữ thuần Việt (trên cơ sở đối chiếu với những thành ngữ thông dụng ngày nay), chúng tôi có thể thấy về tình hình sử dụng được tác giả tiến hành trên 2 hướng : một là giữ nguyên dạng có tính cô đúc như ngày nay (cấu tạo và nội dung), hai là có sự biến đổi về mặt hình thức cấu tạo. - Loại thứ nhất có một số thành ngữ sau: .vào lỗ hà lại ra lỗ máng (trang 491) .quen thì dái dạ, lạ. thì đái áo (trang 159) .việt nghe sấm (trang 494) .Nuôi ong tay áo (trang 40) .Cơm nặng áo dày (trang 27) .Cơm ngang khách tạm (trang…) 62 .Trâu bò hức nhau ruồi muỗi phải khốn (trang 115) .Vì há miệng thì mác quai nón (trang 145) .Non chẳng uốn, già bẻ gãy (trang 220) .Của khinh vật trọng (trang 27) .Được cá bỏ nơm (trang 31) 1.2. Thành ngữ nêu trên, về cơ bản ngày nay vẫn còn được sử dụng phổ biến nhưng có thay đổi đôi chút về hình thức để tạo sự cân đối tính chặt chẽ. Chẳng hạn, thay từ cổ "dái" bằng "sợ" để dễ hiểu hơn, hoặc làm gọn cấu trúc: há miệng mắc quai, ... - Loại thứ hai là các thành ngữ được tác giả sử dụng với tính chất phô diễn ý chứ không có cấu trúc chặt chẽ hay cân đối như ngày nay, gồm có những thành ngữ sau: .Vì đánh lửa thì đau lòng khói .Dẻo đòn gánh thì lại đè vai .Trắng răng cho đến khi bạc đầu .Miệng đàng, lười rắn .Có cây mới có nhành .Vội giận mất khôn và : Tay áo quay còng. xuất hiện trong những trường hợp sau, thí dụ : o chẳng những là các dòng trong nước Hespanha phải thẹn thò, mà lại các dòng
mọi nước bên phương tây đều xấu hổ vì đánh lửa thì đau lòng khói. (trang 11) o thật như lời phương ngôn dẻo đòn gánh thì lại đè vai mà đang khi dẻo đòn gánh thì muốn uốn chiều nào cũng được (trang 97). o chẳng nói những kẻ đã ở nhà thầy từ khi hãy còn trắng răng cho đến khi đã bạc đầu mà lại muốn ra lấy vợ em (trang 66). o vả lại đông tây đều có kẻ thù, mà miệng đàng lưỡi rắn cùng giăng lưới đủ bề như kẻ đi săn (trang 33) o chẳng khác gì như cây, có cây mới có nhành, vì nhành ngọn bởi cây mà gốc là cội rễ (trang 31) o mà khi bắt thăm đến thì nó được thưởng song chẳng còn thẻ hài mà sánh thì ra vội giận mất khôn (trang 461) o thì có kẻ nói rằng làm đoạn thi tay áo quay còng vì sợ để lại sự khó cho mình (trang 28) 63 Nhìn chung, tác giả sử dụng các thành ngữ thuầu Việt hầu hết là loại có nghĩa thực, nghĩa gần, bên cạnh nghĩa bóng (từng thành tố làm nên thành ngữ không mất đi nghĩa thực). Các thành ngữ vận dụng trong câu dùng để diễn giải nhằm phô diễn ý và tăng sức thuyết phục. Trong S.S.S Philiphê Bỉnh sử dụng khá nhiều thành ngữ Hán. Nếu căn cứ khả năng của chúng hiện nay, chúng tôi có thể chia làm hai loại : Loại thứ nhất: đang còn được sử dụng hiện nay trong đời sống của người Việt Nam (tất nhiên mức độ và tần số sử dụng có thể khác nhau). Thí dụ: .Dĩ chu tầm chu, dĩ mã tầm mã (trang 41) .Độc dược khổ khẩu (trang 71) .Vạn vật chân nguyên (trang 481) .Nhất bản nhất tức(trang 48) .Bất tri kỳ tâm (trang 82) .Phong ba bão táp (trang 60) .Thiên sơn vạn thủy (trang 360) .Phu xướng phụ tùy (trang 227) .Nhất phu nhất phụ (trang 227) .Bán thân bất toại (trang 504) .Tạo thiên lập địa (trang 290) .Đại sự bất luận tiểu khí (trang 314) .Đái tội lập công (trang 470) .Trung ngôn nghịch nhĩ (trang 71) Loại thứ hai: ngày nay rất ít được dùng và khó truy nguyên lịch sử. .Như mao ẩm huyết .Huyệt cư dã xử .Bán sinh bán thục Thí dụ: - chẳng nói phương thế giới mới này hãy còn như đời Hiếu Công, là huyệt cư dạ xử, mà như mao ẩm huyết cùng chẳng đợi cho đến khi cha mẹ mình chết mà có 64 mồ mả, vì khi nó thấy cha mẹ mình đã đến tuổi, liền giết để mà làm tiệc, cùng mời chúng bạn đến ăn, mà đứa khác giết cha mẹ nó thì lại mời mình (trang 471). - Tiệc nó đánh lửa lên mà cũi thì chẳng thiếu ở trong rừng, đoạn thì xúm lại chung quanh đống Lửa mà đốt bán sinh bán thục, cùng gạn lấy thịỉ, xương thì bỏ đi (trang 472) Với ý nghĩa : "như mao ẩm huyết" ăn lông và uống huyết muôn chim (ăn tươi uống tươi) "huyệt cư dạ xử" ở hang lỗ, đồng nội (nói người thượng cổ) và "bán sinh bán thục" nửa sống nửa chín. Tác phẩm S.S.S được Philiphê Bỉnh viết cách đây gần hai thế kỷ nhưng qua tìm hiểu về vốn từ tác giả sử dụng ta thấy không có gì khác biệt nhiều so với vốn từ tiếng Việt hiện đại, Cụ thể có thể thấy rõ với hơn 600 trang sách chỉ thống kê được hiện tượng chuyển nghĩa không nhiều, thành ngữ vẫn còn thông dụng, cố định đến nay (dù thay đổi đôi chút về hình thức), cách diễn đạt rất gần gũi với cách diễn đạt hiện nay. Từ đó có thể sơ bộ đi đến nhận xét sau đây: hơn 2 thế kỷ qua, tiếng Việt phát triển mạnh mẽ, mau lẹ và phong phú. Song điều này chủ yến diễn ra ở bình diện tăng cường về số lượng từ nhằm biểu đạt các khái niệm, hiện tượng, sự vật mới, còn các bình diện khác (hình thức, nghĩa của từ, ...) có biến chuyển song không đáng kể. 65 Vấn đề ngữ pháp trong tư liệu S.S.S cung rất phong phú, nhưng do chưa đủ điều kiện để đi sâu mọi khía cạnh, ở dây chúng tôi chỉ xin đi vào một khía cạnh nhỏ đáng quan tâm
hơn là vấn đề loại từ (5) Loại từ trong các tổ hợp danh từ nhìn chung tác giả sử dụng giống như ngày nay. Phân bố loại từ thành các loại riêng .Loại từ di với từ danh từ chỉ người .Loại từ đi với danh từ chỉ đồ vật, khái niệm trừu tượng .Loại từ đi với danh từ chỉ động vật và thực vật Ở loại thứ nhất có hai trường hợp: Thằng, kẻ được dùng có khác ngày nay về sắc thái ý nghĩa và tần số sử dụng. Loại từ "thằng" được dùng trong khá nhiều trường hợp như: -Thằng Bonaparte (trang 60) -thằng làm bếp (trang 562) -Thằng khách (trang 54) -thằng đem thư (trang 55) Sắc thái ý nghĩa của 'thằng" đã có sự biến đổi từ trung hòa đến âm tính vì ngày nay nó mang tính chất âm tính tỏ ý khinh miệt hay nói về người bậc dưới, nhỏ tuổi. Loại từ "kẻ" được tác giả sử dụng thường xuyên trong văn bản. Chỉ trong 100 trang sách đầu “kẻ” xuất hiện 43 lần, một tần số rất cao mà ngày nay không thể tìm thấy ở bất cứ văn bản nào (thậm chí, còn hạn chế dùng). Vì "kẻ" ngày nay dùng với ý nghĩa khinh miệt chứ không hàm nghĩa trung hòa để chỉ người. Loại thứ hai, có hai trường hợp đáng lưu ý. Tác giả sử dụng loại từ con và cái không tuân thủ theo hệ thống mà chuyển đổi dễ đàng cho nhau. Về từ “con” "con" trong tiếng Việt hiện nay, về ngữ pháp có 2 tính chất: * có ý nghĩa thực (thực từ) : tôi có 2 con *"con" đã bị hư hóa : con mắt, con sông con trong S.S.S (đang xét ở đây) mang tính chất thứ 2. Điều đáng nói và có lẽ khá lạ lẫm là "con" kết hợp với một số danh từ, tạo nên một số tổ hợp mà hiện nay không gặp. Ví dụ : con sách (trang 82), con gậy hèo (trang 169), con 5 “Loại từ” ở đây là dùng để chỉ loại, còn về mặt ngữ pháp "loại từ" là danh từ. 66 sách sổ (trang 460), con tì vị (trang 591), con lịch, ... con trong những trường hợp trên hiện nay được thay bằng quyển, cuốn hoặc cái (quyển sách = cuốn sách, cái tì vị...) Ngoài ra "con" còn được tác giả sử dụng đối với danh từ chỉ người như tổ hợp: -con trẻ nữ, con trẻ nam (trang 227) -con trẻ gái, con trẻ trai (trang 478) -con trẻ chăn trâu (trang 4) Ngày nay "con" đa được thay thế bằng "dứa" hay kết hợp trực tiếp (con). Về từ "cái" Dùng loại từ cái kết hợp với danh từ chỉ động vật -cái rùa, cái ba ha (trang 132) -cái ếch, cái nhái (trang 166) -cái ngao, cái hến (trang 558) -cái vịt, cái quạ, cái tôm (trang 135, trang 208) Hiện tượng này nay không còn, mà đã đồng loạt thay thế bằng "con", duy chỉ rải rác xuất hiện ở 1 vài văn bản cũ như ca dao ... Thí dụ : Cái cò cái vạc cái nông Ba cái cùng béo vặt lông cái nào Vặt lông cái vạc cho tao Hành răm nước mắm bỏ vào mà thuôn ... Trường hợp "cái" và "con" được tác giả sử dụng lẫn lộn trong một số trường hợp trên, có lẽ với ý nghĩa chỉ từng cá thể một số loài động vật hay sự vật thường là nhỏ bé. Ý nghĩa này, ngày nay ít dùng, có chăng trong văn bản cũ hay đã thay đổi nghĩa với biện pháp nhân hóa. Cái và con ngày nay đã được phân biệt rạch ròi vì giữa cái và con đều chỉ rõ ý nghĩa biểu vật cho danh từ theo sau nhưng khác nhau cái cho biết danh từ theo sau là sự vật, còn con thì ngoài ý nghĩa đó nó còn làm rõ thêm đó là một sự vật động, một động vật. 67 Đọc S.S.S của Philiphê Bỉnh, chúng ta có thể khám phá được một số vấn đề ngôn ngữ thật sự hữu ích mà tác giả là người có công rất lớn. Có một thực tế là khi nói đến các công trình sáng lập, kiện toàn chữ quốc ngữ người ta chỉ nói đến những người ngoại quốc là A. de Rhodes, P.de Béhainc, L. Taberđ mà ít nói đến tác giả người Việt. Mãi sau này các nhà nghiên cứu mới phái hiệu các công trình của ông. S.S.S đã thể hiện một hướng phát triển khác của tiếng Việt vào cuối thế kỷ XVIII ở Đàng Ngoài so với Từ điển Việt-La của P. de Béhaine viết ở Đàng Trong Nghiên cứu tác phẩm này, chúng ta thấy tiếng Việl nói chung và chữ quốc ngữ nói riêng đã không khác gì nhiều so với hệ thống tiếng Việt hiện đại, ngoài một số ít yếu tố cũ còn lưu dấu hay đang ở tình trạng chuyển hóa. Về ngữ âm, hệ thống phụ âm đầu cơ bản như tiếng Việt hiện đại, duy chỉ còn tồn tại 2 phụ âm kép /bl/ và /ml/. Những phụ âm đầu trừ 5 trường hợp : blá, blai, blang, blời, blả đa số đa chuyển thành và hoặc song song tồn lại với các hình thức gi/tr... Riêng phụ âm kép ml chỉ còn lưu lại 2 trường hợp (mlời, mlẻ) còn lại nếu được thể hiện thì đã nhất loạt thay bằng "nh". Ngoài ra còn có sự lẫn lộn trong sử dụng ở một số cặp phụ âm như s/x, d/r. n/1, điều này cho thấy rõ ảnh hưởng của phương ngữ Đàng Ngoài. Đặc biệt đối với âm đầu k tác giả còn ảnh hưởng sâu sắc cách ghi của A. de Rhodes nên lẫn lộn giữa c và q. Về phần vần, S.S.S. vốn như là tác phẩm văn học, vì vậy vốn từ trong đó không thể đầy đủ như ở những cuốn tự điển. Do vậy số lượng các vần xuất hiện cũng hạn chế. Có một số vần trong S.S.S. còn mang dấu vết cũ (từ thời A. de Rhodes) hai hình thức : ang, ăng đều ghi vần /ăη/ hai hình thức : êy, ây đều ghi vần / j/ hai hình thức : at, ắt đều ghi vần /ăt/
𝛾𝛾� và hai hình thức : ung, ũ đều ghi vần /uη/ Và còn bảo lưu hai cách phát âm ơc thay vì tiếng Việt hiện dại phát âm âc và ơng thay vì âng. Nguyên âm /ă/ được Philiphe Bỉnh ghi ă trong tất cả các vần có âm chính /ă/ như : ăng, ăn, ây (chăng, đău, ngay...) điều này mang dấu vết cũ khác biệt cách ghi âm hiện nay. các vần có âm đệm lại có một số hình thức chữ viết được tác giả dùng hoàn toàn không tìm 68 thấy ở các tư liệu cũ và ngay cả tiếng Việt hiện đại, như uyê thay uya, uâ thay uơ. Hay còn nhiều cách ghi phân biệt bán âm /-j-/ trong: tùy viết tùi ủi viết ủy Ngoài những trường hợp nêu trêu, vấn đề ngữ âm và hình thức chữ viết trong S.S.S.C.C.V cơ bản như tiếng Việt hiện đại. Một điều đáng ghi nhận khi tìm hiểu văn bản, tác giả đã có quan tâm đến các nguyên tắc chính tả như viết hoa, viết tắt, phiên âm mà hình thức so với ngày nay không có gì khác biệt lắm. Phần từ vựng, trong văn bản còn lưu lại một số từ cổ, từ địa phương mà ngày nay còn lưu dấu vết hay đã bị loại bỏ, nhưng thật ra không nhiều, vì với một văn bản được viết cách đây gần 2 thế kỷ với trên 600 trang sách. Chính vì vậy khi tiếp xúc tác phẩm chúng ta dễ dàng nắm được từ, hiểu được nghĩa không mấy khó khăn thông qua lối viết chân phương, gọn gàng dễ đọc. Đọc S.S.S là còn gặp tiếng nói bình dân của nhân dân, nó không kiêu kỳ mà binh dị, đôi khi mang dáng dấp khẩn ngữ, cũng góp phần diễn đạt thêm phong phú và chặt chẽ. S.S.S. một tác phẩm được viết cách đây gần hai thế kỷ, khi mà chữ quốc ngữ chưa được phổ biến rộng khắp như ngày nay đọc lại ta vẫn có thể hiểu đầy đủ ý tưởng tác giả thì thật đáng trân trọng. Dù đây chỉ là tập hồi ký nhưng bản thân tác giả đã có ý thức quan tâm đến ngôn ngữ nước nhà nên đã phác họa nhiều vấn đề về ngữ nghĩa mà ngày nay giới nghiên cứu quan tâm và nhờ đó một số vấn đề trở nên sáng tỏ. Từ dó, ta có thể khẳng định Philiphê Bỉnh đã có đóng góp lớn đến việc tái hiện và phát triển tiếng Việt nói chung và chữ quốc ngữ nói riêng trong thời kỳ cận đại. Thực hiện đề tài người viết cũng tự nhận thấy sự khảo sát sẽ trọn vẹn, đầy đủ hơn nếu có đầy đủ về những tư liệu khác của chính tác giả và một số tư liệu khác cùng thời điểm. Nhưng vì, giới hạn đề tài, năng lực hạn chế nên có một số vấn đề còn bỏ ngõ (nhất là vấn đề ngữ pháp, từ phụ, câu, ...) chúng tôi hy vọng sẽ tiếp lục thực hiện khi có điều kiện. Vấn đề luận án đề cập không mới, không sáng tạo nhưng chứng tôi đa cố gắng tìm hiểu so sánh, đối chiến một cách tỉ mỉ, ngõ hầu đề tài trở thành tư liệu có ích cho việc giảng dạy của mình. Cuối cùng, có được kết qủa nghiên cứu rất khiêm tốn này, chúng tôi đã được sự chỉ dẫn tận tình của quý thầy cô, đặc biệt là thầy Hoàng Dũng, người trực tiếp hướng dẫn thực hiện đề tài. 69 Do năng lực, nguồn tư liệu có hạn nên luận án chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Người viết kính mong sự góp ý và lượng thứ của quý thầy cô. Khi có dịp, chúng tôi sẽ sửa chữa hoàn chỉnh hơn. 70 1. Béhahie pigneau de, 1772, Tự điển Việt-La (bản thảo chép tay) 2. Bùi Đức Tịnh, 1996, Văn phạm tiếng Việt. TP Hồ Chí Minh (tái bản lần 2) 3. Cao Xuân Hạo. 1991, tiếng Việt. Sơ thảo ngữ pháp chức năng. TP Hồ Chí Minh: Khoa học xã hội. 4. Đào Duy Anh, 1992. Hán Việt tự điển. Hà Nội : Khoa học xã hội 5. Đỗ Hữu Châu, 1986, Các bình diện của từ và từ tiếng Việt. Hà Nội: Khoa học xã hội 6. Đỗ Hữu Châu, 1996, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt. Hà Nội : Đại học Quốc Gia (in lần thứ 2) 7. Đỗ Quang Chính, 1972, Lịch sử chữ quốc ngữ (1620 - 1659) Sài Gòn : Ra khơi 8. Đinh Văn Đức, 1986, Ngữ pháp tiếng Việt - từ loại. Hà Nội : Đại học và Trung học 9. Đinh Văn Đức, 1963, Một vài nhận xét về các đặc điểm ngữ pháp của loại từ tiếng Việt thế kỷ XVII. Ngôn ngữ S.2 10. Đoàn Thiện Thuật, 1977, Ngữ âm tiếng Việt. Hà Nội : Đại học và Trung học 11. Huỳnh Tịnh Paulns Của, 1895. Đại Nam Quốc Âm tự vị. Sài Gòn 12. Hoàng Thị Châu, 1989, tiếng Việt trên các miền đất nước. Hà Nội : Khoa học xã hội 13. Hoàng Dũng, Tự điển Việt-Bồ-La của A. de Rhodes nguồn cứ liệu soi sáng quan hệ giữa các tổ hợp phụ âm KL, PL, BL, TL và ML trong tiếng Việt. 14. Hoàng Dũng, 1995. Quả với lại trái, tại sao ? Thừa Thiên -Huế; Tạp chí thông tin khoa học công nghệ S.4 15. Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tết Tươm, 1992, Câu trong tiếng Việt – cấu trúc nghĩa công dụng. Hà Nội : Giáo dục. 16. Hoàng Tuệ, 1994, về sự sáng chế chữ quốc ngữ. Ngôn ngữ, S.4 17. Hoàng Phê (chủ biên), 1992, Từ điển tiếng Việt. Hà Nội : Khoa học xã hội. 18. Hồ Lê. 1976, Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại. Hà Nội: Khoa học xã hội. 19. Hoàng Phê. 1995, Từ điển Chính tả. Hà Nội; NXB Đà Nẵng 20. Génibrel K M, 1898. Tự điển Việt Pháp 21. Lê Cậu Phau Thiều - Diệp Quang Ban. 1983. Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, Hà Nội: Giáo dục. 71 22. Khoa học xa hội. 1978, Thành ngữ tiếng Việt. Hà Nội 23. Lý Toàn Thắng, 1976, về vai trò của A. de Rliodes đối với sự chế tác và hoàn chỉnh chữ quốc ngữ. Ngôn ngữ. S. 1 24. Lê Văn Đức, 1970, Tự điển Việt Nam. Sài Gòn : Khai Trí, 2 tập. 25. Nguyễn Tài Cẩn, 1995, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), Hà Nội : Giáo dục 26. Nguyễn Tài Cẩn, 1996, Ngữ pháp liếng Việt. Hà Nội : Đại học Quốc Gia (in lần thứ 3) 27. Nguyễn Thiện Giáp, 1985, Từ vựng học tiếng Việt. Hà Nội : Đại học - Trung học 28. Nguyễn Thị Bạch Nhạn. 1994, Sự biến đổi các hình thức chữ quốc ngữ từ 1620 - 1877. Hà Nội: Luận án Phó tiến sĩ. 29. Nguyễn Thị Bạch Nhạn. 1994. Tìm hiểu sự biến đổi hình thức chữ quốc ngữ lừ tự điển Việt-Bồ-La đến Từ điển Việt-La của pigncan de Béhaine (1772). Ngôn ngữ S. l 30. Nguyễn Ngọc San, 1993, Tìm hiểu về tiếng Việt lịch sử. Hà Nội : Giáo dục. 31. Nguyễn Ngọc San, 1985. Thử tìm hiểu về sự chuyển biến âm đầu trong tiếng Việt cổ qua cứ liệu Nôm. Ngôn ngữ S.2 32. Nguyễn Kim Thản. Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu. 1982, tiếng Việt trên đường phát triển. Hà Nội ; Khoa học xã hội. 33. Nguyễn Phương Trang, 1996, Nhận xét về cách ghi các vần cái tiếng Việt trong S.S.S.C.C.V (1822) của Philiphê Bỉnh. Hà Nội : Hội ngôn ngữ học Việt Nam. 34. Nguyễn Văn Trung, Chữ văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc. Sài Gòn nam Sơn 1974 35. Nguyễn Khắc Xuyên, 1993, Ngữ pháp tiếng Việt của Đắc Lộ - 1651. Thời điểm 36. Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành, 1997, Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán. Viện Ngôn ngữ học : Văn Hoá. 37. Rhodes A. de. Từ điển Việt-Bồ-La. 1991. Khoa học xã hội. 38. Taberd J.L, 1838, Từ điển Việt-La 39. Thanh Lãng, 1986, Thử phác họa bằng một hai nét lịch sử tiếng Việt những năm 1772 - 1797. Viện ngôn ngữ học. 40. Thanh Lãng, 1968, Sách sổ sáng chép các việc. Sai Gòn : Viện Đại học Đà Lạt. 72 41. Trần Xuân Ngọc Lan, 1985, Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Hà Nội : Khoa học xã hội, 42. Trần Ngọc Thêm, 1985, Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Hà Nội : Khoa học xã hội. 43. Vương Lộc, 1995, An nam dịch ngữ, Hà Nội : NXB Đà Nẵng 44. Vương Hữu Lễ. Hoàng Dũng, 1994, Ngữ âm tiếng Việt. Hà Nội: Đại học sư phạm I. 45. Võ Xuân Trang, 1997, Phương ngữ Bình Trị Thiên. Khoa học xã hội, 1997 46. Viện ngôn ngữ, 1986, Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông. Hà Nội. 47. Viện Văn học. 1961, vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ. Hà Nội : Văn hóa. 48. Viện Ngôn ngữ, 1994, Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt hiện đại. Hà Nội : Khoa học xã hội. 49. Xtepanor Ju, 1984, Nhưng cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, Hà Nội : Đại học và Trung học. Oi 'Ky-aài (Attx. ẩcèu : %SMỹ 74ỉv .yởio \ 732.1.2. Âm xát hai môi /β/ thời ALECXANDRE DE RHODES đến S.S.S thì
không còn xuất hiện nữa mà đồng loạt thay đổi cách ghi ϕ thành ν:
2.1.3. Một điều cũng đáng lưu ý nữa, S.S.S còn có hiện tượng tác giả sử dụng
cách ghi lẫn lộn giữa một số âm với nhau vốn trước đó đã khu biệt rõ ràng.
2.1.4. Về cách ghi âm /k/, S.S.S dùng ba con chữ k, c, q như cách ghi tiếng Việt
hiện đại, nhưng khảo sát các trường hợp cụ thể xuất hiện, ta phát hiện một số
khác biệt.
2.1.5. Chữ viết ng, ngh ghi âm/η/ hoàn toàn ổn định theo quy luật một cách chặt
chẽ:
2.1.6. Về mặt đồ hình (GRAPHIC)
2.2. VẤN ĐỀ PHẦN VẦN
2.2.1. Về phần vần:
2.2.2. Hình thức chữ viết:
2.2.3. Vần có âm đệm w:
2.2.4. Ở S.S.S có một hình thức phổ biến được tác giả sử dụng đồng loạt, đó là
dùng chữ ão để ghi vần ong và aoc để ghi vần oc
2.2.5. Vần ây được tác giả dùng hai hình thức chữ viết để thể hiện : êy và ây
trong một số trường hợp :
2.2.6. Ta còn gặp trường hợp ngoại lệ khác là trường hợp nguyên âm ơ khi
đứng sau âm đệm được S.S.S ghi bằng con chữ "â" dù đó là âm tiết mở.
2.3. THANH ĐIỆU:
2.4. CHÍNH TẢ
1.4.1. Vấn đề viết hoa
2.4.2. Viết hoa tên riêng nước ngoài:
2.4.3. Viết tắt:
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỪ VỰNG
3.1. VỐN TỪ
3.1.1. Lớp từ cổ:
3.1.2. Vấn đề từ đơn, từ ghép, từ láy
3.2. VẤN ĐỀ THÀNH NGỮ:
3.2.1.Thành ngữ thuần Việt:
3.2.2. Thành ngữ gốc Hán:
CHƯƠNG 4: VẤN ĐỀ VỀ NGỮ PHÁP (LOẠI TỪ)
PHẦN KẾT LUẬN
THƯ MỤC