BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------
NGUYỄN NGỌC NHƯ Ý
PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG THỦY HỬ CỦA THI NẠI AM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------
NGUYỄN NGỌC NHƯ Ý
PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG THỦY HỬ CỦA THI NẠI AM
Chuyên ngành : Văn học Trung Quốc Mã số
: 62.22.30.50 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học
PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ TS. ĐINH PHAN CẨM VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Thành phố HCM, ngày 10 tháng 12 năm 2012
Tác giả luận án
Nguyễn Ngọc Như Ý
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM ANH HÙNG
TRONG THỦY HỬ ....................................................................................... 19
1.1. Giới thuyết về quan niệm anh hùng .................................................. 19
1.1.1. Khái niệm anh hùng .................................................................... 19
1.1.2. Lược sử khái niệm anh hùng qua các thời đại Trung Hoa ......... 22
1.2. Quan niệm anh hùng trong văn học Trung Quốc .............................. 33
1.2.1. Từ cảm thức thẩm mỹ về người anh hùng thăng hoa thành
hình tượng anh hùng ................................................................. 33
1.2.2. Tiểu thuyết chương hồi và việc thể hiện quan niệm anh hùng ... 41
1.3. Quan niệm anh hùng trong Thủy Hử ................................................. 46
1.3.1. Những tiền đề văn hoá, lịch sử và văn học ................................. 46
1.3.2. Quan niệm anh hùng trong Thủy Hử nhìn từ quan niệm nghệ
thuật về cuộc đời và con người của Thi Nại Am ........................ 52
1.3.3. Quan niệm anh hùng trong Thủy Hử nhìn từ phương diện đặc
trưng thể loại ............................................................................... 67
Chương 2. ĐẶC TRƯNG THẨM MỸ CỦA NHÂN VẬT ANH HÙNG
TRONG THỦY HỬ ....................................................................................... 76
2.1. Khái niệm về nhân vật và chức năng của nhân vật trong văn học ....... 76
2.1.1. Khái niệm về nhân vật ................................................................ 76
2.1.2. Chức năng của nhân vật trong văn học ....................................... 78
2.1.3. Chức năng của nhân vật anh hùng trong Thủy Hử ..................... 78
2.2. Hệ thống nhân vật anh hùng trong Thủy Hử ..................................... 90
2.2.1. Diện mạo chung của người anh hùng ......................................... 90
2.2.2. Hệ thống nhân vật anh hùng - nhìn từ nguồn gốc xuất thân ....... 96
2.3. Đặc trưng thẩm mỹ của hình tượng nhân vật anh hùng trong
Thủy Hử ..................................................................................................... 101
2.3.1.Những bức chân dung kỳ hình dị tướng .................................... 101
2.3.2. Phẩm chất, tính cách anh hùng ................................................. 104
Chương 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN
VẬT ANH HÙNG TRONG THỦY HỬ..................................................... 122
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ...................................................... 122
3.1.1. Khái niệm cốt truyện................................................................. 122
3.1.2. Đặc điểm cốt truyện Thủy Hử .................................................. 122
3.2. Nghệ thuật tạo dựng kết cấu ............................................................ 128
3.2.1. Khái niệm kết cấu ..................................................................... 128
3.2.2. Đặc điểm kết cấu Thủy Hử ....................................................... 129
3.3. Nghệ thuật tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật ................. 139
3.3.1. Thời gian nghệ thuật ................................................................. 139
3.3.2. Không gian nghệ thuật .............................................................. 143
3.4. Nghệ thuật xây dựng hình tượng người kể chuyện ......................... 147
3.4.1. Hình tượng người kể chuyện trong Thủy Hử ........................... 148
3.4.2. Điểm nhìn của người kể chuyện và việc khắc họa nhân vật anh
hùng trong Thủy Hử ................................................................. 158
3.4.3.Giọng điệu của người kể chuyện và việc khắc họa nhân vật anh
hùng trong Thủy Hử ................................................................. 171
KẾT LUẬN .................................................................................................. 183
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .. 188
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 189
PHỤ LỤC
KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐHSP : Đại học sư phạm
Nxb : Nhà xuất bản
TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
Tr. : Trang
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt khoa học
Thủy Hử là một trong những bộ trường thiên tiểu thuyết lớn nhất - "Tứ
đại danh tác" - của Trung Quốc nằm trong “Minh đại tứ đại kỳ thư” (bốn pho
sách lạ kỳ đời Minh), được xem là tác phẩm tiêu biểu của tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc. Tuy nhiên, ý kiến nhận định về giá trị tác phẩm này mà thực
chất là đánh giá về các nhân vật anh hùng hết sức phức tạp, thậm chí nhiều
khi trái ngược nhau. Vì vậy, ngay từ lúc mới ra đời, Thủy Hử phải chịu số
phận hết sức éo le trên chính quê hương của nó. Cuối đời Minh, tác phẩm liên
tiếp bị cấm lưu hành, vì bị xem là “hối đạo chi thư”, sách dạy làm kẻ cướp.
Các triều vua Thuận Trị, Khang Hy, Càn Long cũng ban lệnh cấm Thủy Hử.
Khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, dưới sự lãnh đạo
của Mao Trạch Đông, Thủy Hử được xem là tác phẩm có tính gợi dẫn về
chính trị. Nhưng cũng chính vì mục đích chính trị mà trong và sau cách mạng
văn hóa, số phận của tác phẩm cũng bao phen thăng trầm, có lúc bị cấm vì bị
cho rằng chứa đựng những lời đen tối, phản nghịch. Gần đây, cư dân trên
mạng cũng tranh luận gay gắt vì đánh giá của một vị giáo sư người Úc: "Thủy
Hử là tác phẩm mang nhiều ý nghĩa tiêu cực"(Bill Jenner). Điều đó cho chúng
ta thấy rằng, đã hơn 5 thế kỷ trôi qua, việc thẩm định và tiếp nhận tác phẩm
cũng như đánh giá các nhân vật anh hùng trong Thủy Hử vẫn còn chưa thống
nhất. Sở dĩ có sự khác nhau đó vì các ý kiến đã tiếp cận tác phẩm từ các góc
nhìn khác nhau, nên việc lý giải nhân vật cũng không giống nhau. Có nhà
nghiên cứu bắt đầu từ tâm lý xã hội để phân tích quan hệ phát sinh giữa áp
bức dân tộc và văn học bình dân. Trong khi đó, tâm lý tiếp nhận của đông đảo
công chúng văn học thường đồng nhất nhân vật văn học với con người ngoài
2
đời. Vấn đề hình tượng người anh hùng trong tác phẩm cũng có nhiều luận
bàn. Tìm hiểu về thế giới nhân vật anh hùng, đặc biệt là phương thức biểu
hiện nhân vật anh hùng trong Thủy Hử là điều mong muốn của người viết khi
thực hiện luận án này.
Mặc dù còn nhiều bàn cãi, tranh luận, nhưng có thể nói: sức lan tỏa và
tầm ảnh hưởng của tuyệt phẩm này trong lịch sử văn học Trung Quốc là điều
không thể phủ nhận. Tác phẩm được đánh giá là bộ tiểu thuyết võ hiệp trường
thiên đầu tiên của văn học Trung Quốc, có một giá trị riêng biệt và một vị trí
nhất định. Thủy Hử đã phần nào vượt ra khỏi tính thời đại và sự giới hạn về
không gian, thời gian, trở thành nguồn cảm hứng của các thể loại nghệ thuật
khác như hí khúc, kịch, truyện kể cải biên. Tác phẩm có giá trị như tiểu thuyết
bản lề giữa truyện kể sử thi và tiểu thuyết hiện đại. Để có cái nhìn khách quan
và công bằng, thiết tưởng cần tìm hiểu tác phẩm dưới góc nhìn văn hóa lịch
sử cùng với đặc trưng thể loại và quan niệm nghệ thuật về con người trong tác
phẩm. Tìm hiểu và lý giải nhân vật anh hùng với tư cách vừa là khách thể
thẩm mỹ vừa là chủ thể thẩm mỹ là một hướng đi thú vị nhằm trả về cho nhân
vật môi trường của chính nó trong bản chất của hình tượng nhân vật văn học.
Vấn đề tạo dựng nhân vật anh hùng là vấn đề trung tâm của tiểu thuyết
Thủy Hử, nhưng hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống về phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong tác phẩm. Ở đây,
chúng tôi hiểu phương thức biểu hiện là những biện pháp nghệ thuật góp phần
khắc họa hình ảnh người anh hùng trong tác phẩm. Việc nghiên cứu phương
thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong Thủy Hử sẽ góp phần làm rõ hơn thế
giới nghệ thuật cùng với những nguyên tắc cắt nghĩa con người và cuộc sống
trong tác phẩm nói riêng và tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc nói chung.
Đó là những lý do cơ bản để chúng tôi lựa chọn đề tài này.
3
1.2. Về mặt thực tiễn
Trong chương trình giảng dạy ở các cấp học hiện nay của nước ta từ đại
học, cao đẳng đến trung học phổ thông, văn học Trung Quốc chiếm một vị trí
đáng kể. Việc nghiên cứu nhân vật anh hùng, phương thức biểu hiện nhân vật
anh hùng trong Thủy Hử của luận án có thể áp dụng vào thực tế giảng dạy văn
học Trung Quốc nói riêng, văn học nước ngoài nói chung của chúng tôi và
những ai quan tâm sau này.
Hơn nữa, những đặc trưng thẩm mỹ của hình tượng người anh hùng thể
hiện lý tưởng, ước mơ của con người trong một thời đại nhất định. Văn học
Việt Nam trong sự phát triển và giao lưu với văn hóa phương Đông đã chịu
nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ
có điều kiện so sánh đối chiếu với hình tượng người anh hùng trong văn học
trung đại Việt Nam qua thực tế giảng dạy của mình.
Hình tượng các anh hùng trong Thủy Hử vẫn có sức hấp dẫn đối với con
người ở mọi thời đại. Họ sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mà không hề tính
toán thiệt hơn để cứu khốn phò nguy, dẹp tan bất bình trong thiên hạ.Trong
hiện thực của đời thường, người ta thường tỏ ra cảm thông với những người
yếu thế nhưng lại đi theo kẻ mạnh. Nét đẹp thú vị của các anh hùng Lương
Sơn Bạc là lòng dũng cảm, tài nghệ vô song của họ thăng hoa thành tình
thương và sức mạnh luôn hướng về quần chúng nhân dân bị áp bức, bất công.
Câu chuyện của các anh hùng Lương Sơn Bạc sẽ luôn có giá trị nhân sinh sâu
sắc, và, trong một chừng mực nào đó, vẫn có một ý nghĩa giáo dục nhất định.
Đây là đề tài mà chúng tôi say mê và cảm thấy thú vị, nghiên cứu nó
cũng đáp ứng nhu cầu của đông đảo bạn đọc Việt Nam yêu mến văn học
Trung Quốc.
4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách tỉ mỉ, hệ thống về phương thức biểu hiện
nhân vật anh hùng trong Thủy Hử. Tuy nhiên, trong khi nghiên cứu lịch sử
vấn đề, chúng tôi nhận thấy tính chất anh hùng, nhân vật anh hùng trong tác
phẩm này luôn thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình văn
học. Chúng tôi xin trình bày một cách tổng quát các hướng nghiên cứu cũng
như một số ý kiến tiêu biểu của các nhà nghiên cứu, phê bình.
2.1. Các công trình nghiên cứu ở Trung Quốc đã được dịch ở Việt Nam
2.1.1. Hướng nghiên cứu qua việc phân tích tác phẩm
Đó là các công trình văn học sử, các giáo trình văn học như:
- Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, tập thể 74 tác giả biên
soạn. Bùi Hữu Hồng dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2000.
- Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, Dư Quan Anh, Tiền Chung Thư,
Phạm Ninh do Lê Huy Tiêu, Lương Duy Thứ, Nguyễn Trung Hiền, Lê
Đức Niệm dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995.
- Văn học sử Trung Quốc, tập 3, Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh chủ
biên, Phạm Công Đạt dịch, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2000.
- Tiểu thuyết sử thoại qua các thời đại Trung Quốc của Trương Quốc
Phong do Thái Trọng Lai dịch, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí
Minh, 2001.
- Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc của Lỗ Tấn do Lương Duy Tâm dịch,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
Trong các công trình này, chúng tôi tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên
cứu Trung Quốc về tiến trình vận động cũng như diện mạo của văn học cổ
Trung Quốc, vốn thường được ca ngợi qua các thời kỳ như sau: “Tiên Tần tản
5
văn, Hán phú, Đường thi, Tống Từ, Nguyên khúc, Minh Thanh tiểu thuyết”1.
Các tác giả đã đề cập đến sự xuất hiện của nhân vật anh hùng trong văn học
nhưng chỉ mới dừng lại dưới góc nhìn lịch sử văn học. Tuy nhiên, đó là những
ý kiến vô cùng quí báu để chúng tôi định hướng về nội dung cũng như cách
nhìn nhận đánh giá về hình tượng nhân vật anh hùng trong Thủy Hử. Chúng
tôi đặc biệt chú ý hai ý kiến có tính gợi mở để tìm hiểu hình tượng nhân vật
anh hùng trong Thủy Hử sau đây:
1. Trong Văn học sử Trung Quốc, Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh,
cho rằng nhân vật trong Thủy Hử là nhân vật “tính cách hóa”.
2. Còn Trương Quốc Phong - tác giả của Tiểu thuyết sử thoại các thời đại
Trung Quốc lại nhấn mạnh đến tác động của hoàn cảnh lên tính cách
nhân vật. Nhìn chung, các tác giả đều thống nhất ở quan niệm nhân vật
trong Thủy Hử được biểu hiện, mô tả thế giới nội tâm thông qua hành
động và lời nói của họ.
2.1.2. Hướng nghiên cứu theo lối phê bình tác phẩm
Trong công trình Luận bàn Thủy Hử, bao gồm nhiều tác giả như Kim
Thánh Thán, Dư Quan Anh, Tiền Chung Thư, chúng tôi tiếp thu phép đọc
Thủy Hử, những nhận xét, lời bình luận về nhân vật của các tác giả, đặc biệt là
Kim Thánh Thán. Ông nhấn mạnh đến vẻ đẹp của người anh hùng ở hành
động, đạo đức, phẩm chất chứ chưa đồng tình và tìm hiểu lý tưởng của họ.
2.2. Các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài khác đã được
dịch ở Việt Nam
Tiểu thuyết Trung Quốc nói chung và Thủy Hử nói riêng đã được nhiều
học giả trên khắp thế giới nghiên cứu. Tuy nhiên chỉ một số ít những thành
tựu nghiên cứu này được dịch ra Tiếng Việt. Trong tầm đọc mà chúng tôi tìm
hiểu được, một vài công trình sau đây là điển hình: 1 Tản văn nhà Tần, phú nhà Hán, thơ đời Đường, ca từ nhà Tống, điệu khúc nhà Nguyên, tiểu thuyết triều Minh và Thanh.
6
1. V.I. Xêmanôp trong Tiểu thuyết anh hùng Trung Quốc và vai trò của
nó trong việc hình thành nền văn học mới đã tìm hiểu về nguyên nhân
hình thành đặc điểm của tiểu thuyết anh hùng Trung Quốc thế kỷ XIV -
XVI. Tác giả có liên hệ và xem xét về hình tượng người anh hùng trong
sự khúc xạ của nhiều hệ tư tưởng khác nhau, đó là tư tưởng chính thống
phong kiến và quan niệm của quần chúng nhân dân.
2. B.L.Riftin trong Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian ở
Trung Quốc xem xét mối quan hệ giữa tác phẩm Thủy Hử với truyền
thống biên niên sử và truyền thống văn học dân gian. Qua công trình
khảo cứu này, tác giả nhấn mạnh, trong Thủy Hử, yếu tố văn học dân
gian vẫn đậm hơn yếu tố biên niên sử.
3. A.Riftin trong Sử thi anh hùng Trung Quốc xem xét mối quan hệ giữa
tác phẩm thành văn với truyện kể sau này, trong đó chủ yếu xem xét
cách tổ chức tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa đã có ảnh hưởng đến các
người kể chuyện sau này ra sao. Kết cấu Thủy Hử cũng đôi chỗ được đề
cập đến ở một vài phương diện để đối chiếu minh họa.
2.3. Các công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam
2.3.1. Hướng nghiên cứu của các công trình văn học sử
Nghiên cứu văn học sử Trung Quốc ở Việt Nam rất phong phú và đa
dạng. Một vài công trình tiêu biểu là:
- Lịch sử Văn học Trung Quốc, Trương Chính, Lương Duy Thứ, Bùi Văn
Ba, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1971.
- Lịch sử Văn học Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
- Văn học Trung Quốc, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
Trong những công trình nghiên cứu trên, dưới góc nhìn văn học sử, các
tác giả đề cập đến lý tưởng anh hùng qua phân tích các nhân vật Thủy Hử như
một trong những nội dung chính của tác phẩm. Về phương diện nghệ thuật
7
của Thủy Hử, các tác giả cũng đưa ra một số nhận định xác đáng, có tính gợi
mở cho chúng tôi tiếp nối. Tuy nhiên, những nhận định đó chưa tạo thành một
chỉnh thể, làm nổi rõ quan niệm nghệ thuật của tác phẩm.
2.3.2. Hướng nghiên cứu của các công trình chuyên khảo và các bài
nghiên cứu trên tạp chí
- Luận bàn Thủy Hử, Á Nam Trần Tuấn Khải, Lương Duy Thứ, Trần
Xuân Đề, Lê Ngọc Tú, Nxb Văn học, Hà Nội, 1999.
- Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1996.
- Để hiểu 8 bộ tiểu thuyết cổ Trung Quốc, Lương Duy Thứ, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2000.
- Và một số công trình chuyên khảo, các bài viết khác.
Trong những công trình nghiên cứu điển hình trên, ngoài nội dung về
nhân vật anh hùng, các tác giả đi vào khai thác các thủ pháp xây dựng nhân
vật, kết cấu xung đột và tìm hiểu đặc trưng thi pháp của Thủy Hử. Tuy vậy,
hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ mới đi vào cấp độ vĩ mô của tác phẩm
mà chưa bàn đến một cách hệ thống phương thức thể hiện nhân vật anh hùng
trong Thủy Hử.
Ngoài ra, còn có các công trình bàn luận trực tiếp đến nhân vật anh hùng
trong Thủy Hử, chẳng hạn:
- Nhân vật Thủy Hử, của Ngô Nguyên Phi, Nxb Đồng Nai, 1999.
- 108 anh hùng Lương Sơn Bạc, của Lý Mộng Hà, Nxb Đồng Nai, 1994.
Nhìn chung, những công trình này đi theo hướng tiếp cận, phân tích, bình
luận các nhân vật anh hùng sau mỗi hồi trong Thủy Hử. Do đó, chúng chưa
chỉ ra được qui luật nội tại của hệ thống cấu trúc các nhân vật anh hùng.
2.4. Hướng nghiên cứu phê bình Thủy Hử ở Trung Quốc
Ở Trung Quốc, tình hình nghiên cứu Thủy Hử diễn ra rất sôi nổi trong
8
suốt thời gian từ khi tác phẩm xuất hiện cho đến thời kỳ đương đại. Quả vậy,
từ khi ra đời đến nay, Thủy Hử đã có một số phận hết sức kỳ lạ trong đời sống
xã hội và phê bình văn học. Nhìn trong tiến trình tiếp nhận tác phẩm, chúng ta
thấy rõ được điều đó. Lúc đầu mọi người xem nó là tấm gương trung nghĩa,
đến cuối thời Minh bị xếp vào mục cấm thư. Đời nhà Thanh các anh hùng
Thủy Hử được ca ngợi và tôn sùng có phần cường điệu: Thủy Hử là tác phẩm
“xướng dân chủ, dân quyền chi manh nha” (khởi xướng phong trào dân chủ
dân quyền). Đầu thời Dân quốc, Thủy Hử được khen ngợi là “cổ xúy bình dân
cách mệnh” (hô hào cho cuộc cách mạng bình dân), sau thời cách mạng, tác
phẩm lại có giá trị như là “nông dân khởi nghĩa đích giáo khoa thư” (sách
giáo khoa về khởi nghĩa nông dân). Nhưng rồi, Thủy Hử bị bài xích là một tác
phẩm hướng dẫn“đầu hàng chủ nghĩa đích phản diện giáo tài”(tài liệu giảng
dạy phản động của chủ nghĩa đầu hàng). Trong quá trình sưu tầm tài liệu
nghiên cứu về Thủy Hử, với điều kiện có hạn của mình, chúng tôi nhận thấy,
nhìn theo chiều lịch đại, có thể hình dung một cách khái quát cách nhìn nhận
và đánh giá Thủy Hử trong hướng nghiên cứu phê bình của người Trung Quốc
như sau: 2.4.1. Phê bình Thủy Hử trước thời kỳ Ngũ tứ 1
Trước phong trào Ngũ tứ, lịch sử nghiên cứu về Thủy Hử có thể phân ra
hai giai đoạn: Từ thế kỷ 20 trở về trước, hướng nghiên cứu chủ yếu mang tính
truyền thống. Từ thế kỷ 20 trở về sau, hướng nghiên cứu của phần lớn các học
giả mang tính hiện đại. Trong phê bình, nghiên cứu truyền thống, bình điểm
là hình thái phê bình có tính chất định hướng cho độc giả tiếp nhận tác phẩm,
lấy độc giả làm “bản vị”. Từ đời Minh đến đời Thanh, bình điểm Thủy Hử có
các tác giả: Dư Tượng Đẩu, Diệp Trú, Kim Thánh Thán, Lý Trác Ngô v.v…
1 Phong trào đấu tranh của sinh viên ngày 4 tháng 5 năm 1919 ở Trung Quốc
Các ý kiến này được sưu tập trong tác phẩm Thủy Hử nghiên cứu luận văn tập
9
do Tác gia Xuất bản xã ấn hành năm 1957.
Trong đó, bình điểm của Dư Tượng Đẩu có tính chất phê bình cảm tính,
phản ánh khuynh hướng tiếp thụ của tầng lớp thị dân, ghi lại những cảm
tưởng về các nhân vật trong Thủy Hử. Tác giả nhìn nhân vật từ góc nhìn đạo
đức luận, lấy “nhân”, “hiếu”, “trung”, “nghĩa” làm tiêu chuẩn đánh giá.
Diệp Trú ra sức công kích đạo học, phản đối lễ giáo là giả dối, đề cao
nhân tính chân thực tự nhiên. Từ cái hư ngụy và vô dụng của đạo học tiến
hành đánh giá một số nhân vật thông qua giá trị của “chân” và “giả”. Đó là sự
đối lập giữa hình tướng bên ngoài và những giá trị chân thực bên trong hoặc
ngược lại. Từ điểm nhìn này nhà phê bình đã lý giải hàng loạt nhân vật bằng
cái nhìn vượt lên tri kiến thông thường như trường hợp của Lỗ Trí Thâm,
Tống Giang, Lý Quỳ. Cách tiếp cận này của Diệp Trú có điểm gần với Kim
Thánh Thán. Do vậy, chúng ta hiểu vì sao họ gọi Tống Giang là “giả đạo học,
chân cường đạo” (giả làm kẻ học đạo, nhưng thật chất là cường đạo), nhìn
thấy cái chỗ “vô câu vô thúc, xuất tính nhi vi” (tính không chịu buộc ràng,
thích gì làm nấy) không câu nệ tiểu tiết để sau này thành Phật của Lỗ Trí
Thâm, khẳng định cái thô lỗ chân thật của Lý Quỳ trong đối sánh song hành
với Tống Giang. Diệp Trú phê phán Tống Giang có một nét tính cách nổi bật
trong đối nhân xử thế dùng những thủ đoạn mua chuộc tức là giả dối và lừa
đảo. Kim Thánh Thán cũng nhìn nhận Tống Giang là “thập ác bất xá” (mười
ác không chừa - tức là không việc ác nào không làm), lấy “chân”, “giả” để
phủ định Tống Giang, từ đó tiến một bước phủ định toàn diện sự “trung
nghĩa” của nhân vật này. Đây cũng là một cách tiếp cận đi từ lễ giáo để nhận
ra mặt trái của nó sẽ hình thành một dạng người kiểu ngụy quân tử, miệng lúc
nào cũng trung hiếu nhân nghĩa nhưng luôn truy cầu danh lợi, làm những việc
bất nhân bất nghĩa. Các tác giả phản đối lễ giáo hư ngụy đã chèn ép nhân tính
tự nhiên của con người nhưng lại lấy Nho học làm vũ khí cơ bản phê bình và
10
phán xét các vấn đề xã hội trong tác phẩm. Do đó, trong nội dung phê bình
của họ tất nhiên không thể tránh khỏi mâu thuẫn. Lý tưởng chính trị về một xã
hội thái bình với minh quân lương tướng mâu thuẫn sâu sắc với thực tế cuộc
sống bấy giờ: vua thì vô đạo, nhân dân thì lầm than khốn khổ. Vì vậy, chính
nghĩa cần phải được thực hiện bằng con đường phi nghĩa, nên họ vừa phủ
nhận các anh hùng Lương Sơn Bạc theo quan điểm của Nho gia lại vừa ca
ngợi. Kim Thánh Thán không thừa nhận trong lục lâm giang hồ tồn tại “trung
nghĩa” nhưng hiện thực cuộc sống và cảm hứng ngợi ca các anh hùng Lương
Sơn Bạc đã ra ngoài quan niệm tưởng chừng bất di bất dịch đó.
Một đóng góp nữa của Diệp Trú trong khi bình điểm Thủy Hử là sự
dung hợp giữa hai tư tưởng Nho gia và Phật giáo, đem tinh thần đạo đức của
nhà Nho ca ngợi thành biểu hiện của Phật tính ở nơi phẩm chất của nhân vật.
Lý Trác Ngô và Kim Thánh Thán cũng xuất phát từ quan niệm đạo
đức luận anh hùng nhưng điểm khác biệt là họ còn phân tích các nhân vật anh
hùng nhìn từ phương diện nghệ thuật của tiểu thuyết ở các khía cạnh: tính hư
cấu, văn phép. Điều đáng lưu ý ở đây là Kim Thánh Thán chú ý đến vai trò và
nhấn mạnh đến tài năng của người sáng tác. Ông chia ra thành hai loại người:
một là thánh nhân, hai là tài tử. Tài năng của tài tử văn chương thể hiện ở khí
lực rất lớn, thậm chí phải đạt đến mức “tâm tuyệt khí tận”. Trong Thủy Hử
tam tự tam Kim Thánh Thán ca ngợi vị trí tuyệt đỉnh của văn chương trong
Thủy Hử, không có tác phẩm nào vượt qua được nó. Vì vậy ông dồn toàn bộ
tâm huyết và niềm say mê vào bình điểm Thủy Hử, chú ý đến cả thiên,
chương, cú, tự trong tác phẩm. Tổng bình hồi 24, ông chỉ ra sự kết nối tài tình
giữa các chương gọi là “thiên chương chi pháp” (văn pháp nối mạch giữa các
chương hồi). Ngoài ra, ông còn nghiên cứu cú pháp, tự pháp: tỉ mỉ thống kê
những từ lặp đi lặp lại nhiều lần trong mỗi hồi để chỉ ra giá trị biểu đạt của
nghệ thuật của ngôn từ. Nhìn chung hướng nghiên cứu này đã chú ý đến cả
11
hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật, có những thành tựu nhất
định. Tìm hiểu về văn phép của Thủy Hử, Kim Thánh Thán bước đầu đã chỉ
ra đặc trưng nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, nhưng
chưa nghiên cứu dưới góc nhìn của lý thuyết tự sự hiện đại, chưa thấy được
vai trò của người kể chuyện cùng với điểm nhìn nghệ thuật cũng như giọng
điệu trần thuật trong tác phẩm.
2.4.2. Phê bình theo hướng hiện đại
Cuộc vận động Tân văn hóa thời Ngũ tứ có ý nghĩa như một cuộc cách
mạng văn hoá thời đại trong lịch sử Trung Quốc. Theo đó, phê bình và lý luận
văn học cũng có những bước phát triển mới. Có hai phương diện của cuộc vận
động ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiếp nhận và phê bình Thủy Hử truyện: Thứ
nhất là đề xướng văn Bạch thoại, thứ hai là ảnh hưởng các trào lưu văn học
mới của phương Tây, bao gồm cả lý luận văn học. Cuộc vận động văn học
Bạch thoại, đặc biệt là đề cao những tiểu thuyết cổ đại khiến người ta hứng
thú hơn khi thưởng thức Thủy Hử cùng với một số tác phẩm khác. Sự đổi mới
về lý luận văn học và phê bình văn học đã khiến cho công việc phê bình Thủy
Hử có những nét mới về phương pháp và tư tưởng. Chúng tôi tìm thấy ý kiến
về Thủy Hử của các nhà nghiên cứu tập trung trong công trình Trung Quốc cổ
điển tiểu thuyết bình luận tập do Bắc Kinh xuất bản xã ấn hành năm 1957.
Trong tuyển tập bình luận này, mỗi nhà phê bình có điểm nhìn và quan
niệm riêng của mình về Thủy Hử. Trong Lời tựa mới cho Thủy Hử, Trần Độc
Tú nhấn mạnh hai điểm: một là bản chất của tiểu thuyết, hai là kỹ thuật viết
tiểu thuyết. Vì vậy, điều mà Trần Độc Tú quan tâm nhất là thủ pháp nghệ
thuật trong Thủy Hử. Ông cho rằng lý tưởng của Thủy Hử là rất mù mờ,
không có ý nghĩa thâm sâu nào cả. Điều này cho thấy Trần Độc Tú đánh giá
quá thấp sự phong phú và thâm viễn về mặt tư tưởng của Thủy Hử. Ông
cường điệu giá trị của Thủy Hử về mặt nghệ thuật cũng chính là đánh giá quá
12
cao giá trị biểu đạt về văn Bạch thoại. Đây cũng chính là cách lý giải đầy
thiên kiến về Thủy Hử truyện.
Học giả Hồ Thích thì khác, những ý kiến của ông gần như hoàn toàn
tương phản với Kim Thánh Thán và các nhà phê bình xưa nay. Ông phản đối
Kim Thánh Thán khi nhà phê bình dùng “bút pháp của Khổng Tử khi viết về
Xuân Thu” để đánh giá Thủy Hử, và cho rằng kiểu phê bình này là một
chướng ngại lớn cho văn học. Những quan điểm của Hồ Thích khi lý giải về
Thủy Hử dựa vào quy trình khảo cứu văn bản Thủy Hử cùng với việc tìm hiểu
về môi trường, lịch sử, văn hóa của tác phẩm. Ông lý giải từ những tiền đề về
chính trị, văn hóa, lịch sử của thời đại đã tác động đến tư tưởng và nội dung
của tác phẩm. Phương pháp dùng góc độ lịch sử khách quan để đánh giá tác
phẩm như thế này rất ít gặp ở các nhà phê bình văn học trước đó. Ngoài ra,
Hồ Thích còn chỉ ra những hạn chế về mặt nghệ thuật, không vì yêu thích
Thủy Hử mà ông bỏ qua những khuyết điểm của nó.
Những lời bình luận của Lỗ Tấn về Thủy Hử có ảnh hưởng rất lớn
trong thời kỳ cách mạng văn hóa. Trong bài Sự biến thiên của lưu manh, Lỗ
Tấn đơn cử Thủy Hử để chứng minh rằng những hiệp sĩ theo đuổi chính nghĩa
đã dần dần biến mất khỏi Trung Hoa, thậm chí bọn lưu manh đã nổi lên để
biến thành trâu ngựa cho kẻ thống trị. Trong xã hội phong kiến, Lương Sơn
không giống với các đảng cường đạo khác ở chỗ là “Thế thiên hành đạo”
(thay trời hành đạo), nhưng “khắp trong bốn bể, không ai không phải là bầy
tôi của vua”. Anh em Lương Sơn thần phục vua Tống, tự nhiên biến mình
thành một kẻ nô tài. Đứng trên góc độ là nhà phê bình để đánh giá Thủy Hử,
nói chung, lập trường của Lỗ Tấn có chỗ giống Hồ Thích cho rằng nội dung
của tác phẩm này chính là sự phản ánh lịch sử cụ thể. Cơ sở lý luận này là
luận điểm: văn học phản ánh hiện thực cuộc sống.
Tạ Vô Lượng trong Thủy Hử nghiên cứu luận văn tập cho rằng, Thủy
13
Hử phản ánh tư tưởng cách mạng bình dân. Ông vận dụng tư tưởng cách
mạng cận hiện đại, tư tưởng triết học siêu nhân của Nietzsche, tư tưởng nữ
quyền để đánh giá về Thủy Hử. Ông đưa khái niệm cách mạng vào trong Thủy
Hử. Ông cho rằng bất kỳ một dạng thức văn học nào đó sản sinh đều có
những nguyên nhân tâm lý nhất định. Tạ Vô Lượng đã bắt đầu từ tâm lý xã
hội để để phân tích quan hệ phát sinh giữa áp bức dân tộc và văn học bình
dân. Thủy Hử là tiếng nói phẫn uất của một thời đại có nền chính trị cực kỳ
thảm khốc, vì vậy sức mạnh phản kháng sục sôi trong tác phẩm đã phản ánh
tâm lý bất bình của đông đảo quảng đại quần chúng nhân dân. Ông cũng cho
rằng Thủy Hử là bộ tiểu thuyết miêu tả vũ lực siêu nhân và tích cực cổ xúy
cho cách mạng bình dân. Trong trường hợp này nhà phê bình đã đứng trên lập
trường đấu tranh giai cấp và tư tưởng cách mạng để phân tích tác phẩm là
không thích hợp. Bởi vì từ góc nhìn đó, tác giả đã vượt ra khỏi tính thời đại,
ra khỏi môi trường văn hóa của tác phẩm, nên những kết luận có thể rơi vào
cực đoan, phiến diện.
Với tư cách là một học giả, Trịnh Chấn Phong bàn về Thủy Hử trên cơ
sở những gì khảo cứu được từ văn bản. Trong ý kiến của nhà nghiên cứu này
có một điểm khác biệt với mọi người là hình tượng anh hùng không hề tham
nữ sắc. Loại quan niệm anh hùng không gần nữ sắc là một hiện tượng phổ
biến trong văn hóa Trung Quốc. So sánh với văn học Phương Tây, người anh
hùng sẵn sàng vì người phụ nữ mình yêu đã hiến thân, thậm chí vì họ mà tiến
hành chiến tranh…Trịnh Chấn Phong kết luận, một câu chuyện anh hùng lãng
mạn chân thực hầu như chưa được sáng tạo ở Trung Quốc. Cách nghĩ của
Trịnh Chấn Phong rõ ràng là chịu ảnh hưởng quan niệm về ái tình của người
phương Tây.
Tháng 7 năm 1932, Tạp chí Xã hội học đã đăng bài Phân tích Thủy Hử
dưới góc nhìn xã hội học của Đào Từ Huệ. Đây là một tiểu luận nghiên cứu
14
về Thuỷ Hử khá sâu sắc kể từ sau vận động Ngũ tứ. Đào Từ Huệ đã xuất phát
từ góc độ xã hội học Trung Hoa để lý giải cơ sở nghệ thuật của tiểu thuyết và
từ đó tiến hành phê phán hiện thực. Ông cho rằng, Trung Quốc là một nước
chú trọng lễ giáo, người làm trai cần phải có chí làm rạng danh tổ tông, báo
hiếu cho cha mẹ và trung thành với vua. Trung hiếu đã trở thành chuẩn mực
đạo đức bất di bất dịch, mỗi người trong nước đều muốn trở thành một trung
thần hiếu tử. Tống Giang đã lợi dụng tâm lý này, dựng Trung Nghĩa đường
thay trời hành đạo, lấy trung nghĩa báo quốc. Có điều, những cách làm thực tế
của hảo hán Lương Sơn lại hoàn toàn xa lạ với trung hiếu đạo đức: phá nhà
đốt xóm, bắt trói mệnh quan triều đình, không thể chấp nhận là trung nghĩa
với triều đình được. Đào Từ Huệ kết luận, mọi người sùng bái trung nghĩa
nên không biết rằng Tống Giang là một hảo hán giả trung giả nghĩa! Ông đã
tiếp cận vấn đề dưới góc nhìn của phương pháp xã hội học nhưng về phương
diện nội dung tư tưởng, Đào Từ Huệ ảnh hưởng một cách sâu sắc quan niệm
của Kim Thánh Thán.
Tham khảo trên trang Web “Trung Quốc văn học”1 đăng tải các bài
viết nghiên cứu về Thủy Hử của các nhà phê bình đương đại Trung Quốc,
chúng tôi nhận thấy một trong những vấn đề được bàn luận nhiều nhất là vấn
đề nữ tính và hình tượng phụ nữ, kế đến là thảo luận về tước hiệu của nhân
vật anh hùng, tranh luận Thủy Hử phản ánh đời sống nông dân hay thị dân và
đặc biệt là vấn đề văn bản học Thủy Hử. Một số bài viết đã khai thác nghệ
thuật xây dựng hình tượng người anh hùng trong Thủy Hử truyện. Liên quan
đến hình tượng hiệp khách, có các bài viết của Ninh Giá Vũ “Thủy Hử truyện
và văn hóa lục lâm Trung Quốc” (Tạp chí “Văn nghệ di sản”, 1995); Lý
Chân Du với bài “Di phong của du hiệp với Thủy Hử” (ĐHSP Bắc Kinh học
1 (www. literature.org.cn)
báo, 1992). Các bài viết này đều tập trung phân tích bản sắc du hiệp trong các
15
hình tượng anh hùng Lương Sơn Bạc. Năm 2001, trên Nam khai học báo có
đăng tải bài của Lỗ Đức Tài “Hiệp trong lịch sử và hiệp trong tiểu thuyết”.
Trong bài viết đó, tác giả tập trung nghiên cứu sự biến thiên của văn hóa võ
hiệp cổ đại và ảnh hưởng đến Thủy Hử truyện như thế nào. Có lẽ, Tống Giang
được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất chẳng hạn các bài “Thử dùng phương
pháp hệ thống để nghiên cứu hình tượng Tống Giang” của Chu Thư Văn
(Thương Nhiêu sư phạm học báo, 1985), “Trung Nghĩa khó vẹn toàn- thử
luận về tính cách mâu thuẩn của Tống Giang” của Lý Anh Nhiên (Thạch Gia
Trang Sư phạm học báo, 2000). Âu Dương Kiện lại dùng phương pháp so
sánh để nghiên cứu 3 hình tượng Sài Tiến, Tiều Cái và Tống Giang trong bài
“Luận về Sài Tiến, Tiều Cái, Tống Giang” (in trong sách Thủy Hử tân nghị,
1983). Năm 2010, Giang Hán Đại học học báo đăng bài “Tổng thuật về 30
năm nghiên cứu so sánh Tam Quốc diễn nghĩa và Thủy Hử” của Hứa Dũng
Cường, trong đó khẳng định, từ Tam Quốc diễn nghĩa qua Thủy Hử, nghệ
thuật xây dựng hình tượng người anh hùng đã có sự phát triển rõ rệt. Thi Nại
Am đã có ý khai thác có chừng mực đời sống nội tâm của nhân vật, do vậy
nhân vật Thủy Hử “đời” hơn, chân thực hơn so với Tam Quốc diễn nghĩa. Về
nhân vật Lý Quỳ, Vương Cúc Hồng trong bài “Hình tượng Lý Quỳ trong
Thủy Hử truyện” (Hồ Nam Cao đẳng chuyên khoa học hiệu báo, 2003) kết
luận: “Vốn xuất thân từ nông dân nên những ưu điểm của Lý Quỳ đều từ bản
chất nông dân mà ra, những khuyết điểm của anh ta cũng từ đó mà xuất
phát”. Trong bài “Luận về sự dung hợp văn hóa Nam Bắc trong hình tượng
Lý Quỳ”, (Tạp chí học thuật luận đàn, 2007), tác giả Hạng Dụ Vinh kết luận:
tuyệt đại bộ phận anh hùng trong Thủy Hử truyện là sự kết hợp giữa văn hóa
Nam và Bắc. Ngoài ra còn có một số bài viết về hình tượng nghệ thuật xây
dựng hình tượng Công Tôn Thắng, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng…nhưng nhìn
chung vẫn chưa có những phát hiện mới so với những nghiên cứu đã có.
16
Có thể nói, qua những bài viết này, những kiến giải về nhân vật anh
hùng trong Thủy Hử của các nhà nghiên cứu đương đại Trung Quốc vẫn chưa
hoàn toàn thoát khỏi thi pháp học cổ điển có từ thời Lý Trác Ngô, Kim Thánh
Thán. Phần nhiều các bài viết đều tập trung chú ý vào những khía cạnh về mặt
tư tưởng, tính cách nhân vật mà ít quan tâm đến các phương thức biểu hiện
nghệ thuật.
Tóm lại, qua các khuynh hướng nghiên cứu đã đề cập trên, chúng ta có
thể nhận thấy rằng, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận tác phẩm từ nhiều góc độ
khác nhau. Điều đó đã tạo sự đa dạng về các khuynh hướng tiếp cận tác phẩm.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào mang tính hệ thống nghiên cứu về
phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong Thủy Hử. Luận án của chúng
tôi bước đầu tìm hiểu vấn đề này, theo hướng áp dụng lý thuyết tự sự học để
nghiên cứu một tác phẩm cổ điển phương Đông, hy vọng mở ra một cách nhìn
mới về Thủy Hử, một tác phẩm có số phận thăng trầm kỳ lạ trong lịch sử tiếp
nhận văn học ở ngay chính trên quê hương Trung Quốc của nó và cũng như ở
Việt Nam.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm một số mục tiêu sau:
- Trước hết, luận án tìm hiểu quan niệm nghệ thuật và những yếu tố văn
hóa chi phối cách tổ chức thế giới nghệ thuật của Thủy Hử.
- Sau đó chỉ ra đặc trưng thẩm mỹ và phương thức biểu hiện nhân vật
anh hùng trong Thủy Hử. Trong công trình này chúng tôi tìm hiểu nhân
vật anh hùng nhìn từ phương diện lý thuyết tự sự học hiện đại.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc trưng thẩm mỹ hình tượng
17
nhân vật anh hùng và các phương thức thể hiện nhân vật anh hùng trong tác
phẩm Thủy Hử.
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc xây dựng nhân vật anh hùng trong Thủy Hử vừa thể hiện tài năng
của tác giả cũng như thể hiện truyền thống văn hóa triết học và quan điểm
thẩm mỹ của dân tộc Trung Hoa. Trong luận án này, chúng tôi tập trung làm
sáng tỏ một số đặc trưng thẩm mỹ cơ bản của hình tượng anh hùng và phương
thức thể hiện nhân vật anh hùng trong tác phẩm.
Về tư liệu dùng để nghiên cứu, chúng tôi chưa tiếp xúc được với nguồn
tư liệu cấp 1 (gốc) mà dùng nguồn tư liệu cấp 2 (qua các bản dịch).
Về tác phẩm dùng để khảo sát, ở Việt Nam ta có nhiều bản Thủy Hử
được dịch. Rất tiếc, trong tay chúng tôi không có bản dịch 120 hồi toàn văn.
Vì vậy, trong thời gian có hạn, chúng tôi chọn khảo sát ở văn bản Thủy Hử
(4 tập) 70 hồi do Á Nam - Trần Tuấn Khải dịch, Nxb Văn học, Hà Nội, 1994.
Ngoài ra, chúng tôi có tham khảo thêm văn bản Hậu Thủy Hử, trọn bộ 3
tập, 49 hồi do Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch, Nxb Hà Nội, 1992, để
có một cái nhìn bao quát hơn về quan niệm anh hùng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
1. Phương pháp thống kê - phân loại: Thống kê để nắm bắt những yếu tố
lặp lại trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, cốt truyện, kết cấu…
2. Phương pháp so sánh - đối chiếu: Với phương pháp này, chúng tôi chỉ
ra nét riêng biệt của Thủy Hử với các tiểu thuyết cổ điển cùng thời về
quan niệm anh hùng, phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng.
3. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Đây là bước quan trọng để tìm ra
quan niệm anh hùng, hình tượng người anh hùng thể hiện qua những
18
dấu hiệu thẩm mỹ đặc trưng của tác phẩm.
4. Phương pháp nghiên cứu tự sự học và thi pháp học, giúp khám phá
nghệ thuật trần thuật và các biện pháp khắc họa hình tượng anh hùng
trong tác phẩm.
5. Đóng góp của luận án
Gợi ý từ những khoảng trống trong phương thế tiếp thụ như đã và đang
có đối với Thủy Hử, người viết thực hiện công trình nghiên cứu này với mong
muốn:
1. Luận án hướng đến tìm hiểu một số phương thức thể hiện nhân vật anh
hùng trong tác phẩm như nghệ thuật tổ chức không – thời gian, nghệ
thuật tạo dựng kết cấu, nghệ thuật xây dựng hình tượng người kể
chuyện...Qua đó, cho ta thấy những đặc trưng trong nghệ thuật thể hiện
hình tượng người anh hùng của Thủy Hử nói riêng, thể loại truyền kỳ
anh hùng nói chung.
2. Luận án góp phần hệ thống hóa bức chân dung hình tượng người anh
hùng trong Thủy Hử dưới cái nhìn của thi pháp học – tự sự học hiện
đại. Từ đó góp thêm một cách nhìn, hướng tiếp cận hình tượng nhân vật
anh hùng trong Thủy Hử.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận án
bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở hình thành quan niệm anh hùng trong Thủy Hử
- Chương 2: Đặc trưng thẩm mỹ của nhân vật anh hùng trong Thủy Hử
- Chương 3: Một số biện pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật anh hùng
trong Thủy Hử
19
Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM ANH HÙNG
TRONG THỦY HỬ
1.1. Giới thuyết về quan niệm anh hùng
1.1.1. Khái niệm anh hùng
Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, “anh": là vua loài hoa;
"hùng": là vua loài thú; Anh hùng là người hào kiệt xuất chúng”.
Theo Từ điển từ và nghĩa Hán Việt của Giáo sư Nguyễn Lân, “anh:
Hoa đẹp, vẻ đẹp, người tài năng xuất chúng; hùng: Loài thú khỏe nhất,
dũng cảm
Anh hùng:
1. Người có tài đức đã lập nên sự nghiệp lớn lao.
2. Người có thành tích xuất sắc
3. Dũng cảm tuyệt vời, sẵn sàng hy sinh cho chính nghĩa.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nxb. VHTT, 1999, do Nguyễn Như Ý chủ biên:
“Anh hùng:
1. Người có tài năng nổi bật và khí phách đặc biệt to lớn, làm nên những
việc phi thường.
2. Người có công lao đặc biệt với đất nước, nhân dân”.
Như vậy, "anh hùng" là một khái niệm chỉ những người có khí phách
lớn, có tài năng, có thể lực hơn người và một tinh thần dũng cảm gan dạ làm
nên những việc lớn lao được mọi người kính phục. Secnưsepxki đã từng nói,
“Cái đẹp chính là cuộc sống”. Nghĩa là, bản thân cuộc sống với hiện thực
muôn màu, muôn vẻ của nó là những biểu hiện của cái đẹp. Trong đó, những
con người anh hùng là biểu tượng của cái đẹp lý tưởng đáng yêu đáng quý
nhất của nhân dân trong một thời đại lịch sử. Bởi vì, sự nghiệp của họ, thành
20
quả của họ đều là “sản phẩm của nhân dân, là yêu cầu thời đại, là kết tinh
truyền thống từ bao đời”…[60, tr.8]. Vì vậy, quan niệm về người anh hùng
cũng là sản phẩm tất yếu của lịch sử, của văn hóa. Lối sống, phẩm chất của họ
luôn gắn liền ý chí và hành động anh hùng theo một quan niệm đạo đức của
một thời kỳ lịch sử nhất định.
Lần theo ngọn nguồn của lịch sử tư tưởng, văn học Trung Quốc để tìm
đến khởi điểm của khái niệm anh hùng là một công việc thú vị. Thực ra, quan
niệm anh hùng, hành động anh hùng, phẩm chất anh hùng, đã sớm ra đời
trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Đó là biểu tượng của cái đẹp
của những con người biết hiến dâng trái tim cháy bỏng của mình cho nhân
loại. Hình ảnh Promete bị xiềng, chàng dũng sĩ Hécquyn cũng như những câu
chuyện về Nghiêu, Thuấn minh quân hay Cổn, Vũ trị thủy mãi mãi vẫn là
những huyền thoại bất tử trong tâm thức của loài người. Ở Trung Quốc, từ
trong truyền thuyết cổ đại đã lưu truyền những câu chuyện về các nhân vật
anh hùng như Hoàng Đế, Hậu Nghệ, Nghiêu, Thuấn, Cổn, Vũ…Bóng dáng
của họ xuất hiện sừng sững trong thần thoại, truyền thuyết cổ đại - có ý nghĩa
như một thứ tôn giáo nguyên thủy, một loại khoa học sơ khai của con người.
Nó giải thích thế giới, thể hiện niềm tin và sự sùng kính chất phác của nhân
dân về những con người anh hùng kiệt xuất khai thiên lập địa, giúp dân đào
núi lấp sông, diệt trừ yêu quái. Thiên Bản kinh huấn sách Hoài Nam Tử có
đoạn kể lại sự tích của một vị anh hùng thời cổ như sau:
Đến thời vua Nghiêu, mười mặt trời mọc cùng một lúc, cháy lúa má,
giết cỏ cây, dân không có gì ăn. Các loài thú Khiết luân, Tạc xỉ, Cửu
anh, Đại phong, Phong hy, Tu xà…đều làm hại dân. Vua Nghiêu bèn
sai Nghệ giết Tạc xỉ ở đồng bằng Trà Hoa, giết Cửu anh trên sông
Hung Thủy, giết Đại phong ở đầm Thanh Khâu, trên thì bắn rụng
chín mặt trời, dưới thì giết Khiết luân, chém Tu xà ở Động Đình bắt
21
Phong hy ở Tang Lâm. Muôn dân đều hoan hỉ, đưa Nghiêu lên làm
thiên tử. Từ đó khắp nơi nơi đều có đạo lý. [5, tr.13].
Có anh hùng là có đạo lý. Trong cuộc chiến đấu đầy thử thách, gian khổ
của con người trước thiên nhiên vô cùng huyền bí và khủng khiếp đã xuất
hiện nhiều hành động phi thường. Nó mang tính lý tưởng của những con
người biết đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Như vậy, anh
hùng là một hiện tượng xã hội mà vấn đề cốt lõi là đạo đức và cái đẹp. Quan
niệm anh hùng gắn với tinh thần đạo lý, đã có ngay trong tư duy nguyên sơ
của người xưa. Nhưng mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi dân tộc đều có
riêng một quan niệm đánh giá về người anh hùng. Các nhà mỹ học trước Mác
cho rằng:
Cái anh hùng không thuộc về vai trò của quần chúng trước lịch
sử, đó chỉ là sự nghiệp của vĩ nhân, các vĩ nhân đó lại luôn bị
phủ một lớp màn thần thánh khiến cho phạm trù cái anh hùng
cũng có tính chất mơ hồ. Thậm chí người ta còn dồn tất cả sự
sùng bái ấy cho một cá nhân vô hình, một đấng cao siêu. Thượng
đế là người sáng tạo ra vũ trụ và là người thuần thục nhất tính
cao cả. (Hegel) [chuyển dẫn theo 80].
Từ quan niệm này mà các nhà mỹ học cho rằng: “chỉ có thần anh
hùng” đặc biệt là Thượng đế! Thực chất của khái niệm anh hùng là gì và thế
nào là một người anh hùng? Anghen đã lớn tiếng phản bác các quan niệm
mang tính thần bí trên, đưa nó về với trần thế con người trong bản chất
“người anh hùng” đích thực. Ông cho rằng:
Một anh hùng siêu thực nào đó chẳng qua chỉ là sự tưởng tượng
và mô phỏng từ anh hùng trong thực tế mà thôi. Thần linh chẳng
qua là sự mô phỏng, phản ánh hoặc ít hoặc nhiều mơ hồ và lệch
lạc về bản thân con người. [chuyển dẫn theo 80].
22
Hay nói khác hơn những nhân vật thần thoại có thể là những con người
có thật, có thể là những tù trưởng kiệt xuất trong xã hội thị tộc. Sự tích của họ
được nhân dân truyền tụng trong quá trình nó được thần thoại hóa. Vậy hiện
tượng anh hùng là hiện tượng chỉ riêng con người, nó có giá trị khách quan
rộng lớn và hết sức tích cực. Cái anh hùng luôn gắn với cái đẹp bên trong và
là sự thể hiện cao độ cái đẹp. Bản chất anh hùng thường được thể hiện ra
ngoài thông qua các hành động. Các hành động đó đóng góp tích cực vào sự
phát triển, tiến bộ của toàn xã hội. Bởi vậy, anh hùng là một khái niệm vừa
thuộc phạm trù thẩm mỹ lại vừa thuộc phạm trù đạo đức. Người ta thường
nói: Thời thế tạo anh hùng. Điều đó có nghĩa, ở một điều kiện lịch sử xã hội
nhất định nào đó mới có khả năng và điều kiện để bộc lộ tính cách và những
hành động anh hùng. Thực tế không có một mẫu người anh hùng chung cho
mọi thời đại, mọi lập trường tư tưởng, mọi giai cấp…xét trên phạm trù đạo
đức lẫn thẩm mỹ thì người anh hùng luôn mang tính lịch sử cụ thể, mang dấu
ấn văn hóa, tâm lý, thị hiếu của con người trong mọi thời đại. Lý tưởng của
người anh hùng là lý tưởng của thời đại, chịu sự chi phối và tác động hệ tư
tưởng nhân dân cũng như hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Nhìn trong thực
tế phát triển của lịch sử tư tưởng và văn hóa nhân loại, chúng ta không thấy có
một mẫu người anh hùng chung cho mọi thời đại, mà sẽ có quan niệm anh
hùng, biểu tượng anh hùng, nhân vật anh hùng trong một thời kỳ lịch sử nhất
định. Nhìn trong tiến trình phát triển của lịch sử Trung Hoa, quan niệm về anh
hùng cũng có sự vận động theo qui luật của nó.
1.1.2. Lược sử khái niệm anh hùng qua các thời đại Trung Hoa
Khảo sát qua thư tịch cổ, chúng tôi thấy từ “anh hùng” xuất hiện rất
sớm ở Trung Quốc. Thời Hán mạt - Tam Quốc, có tác phẩm Anh hùng ký của
Vương Xán (177-217), Nhân vật chí của Lưu Thiệu (180-245) chuyên bàn về
anh hùng.Vương Xán trong Anh hùng ký không chỉ ghi chép về các nhân vật
23
lịch sử như Viên Thiệu, Viên Thuật, Tào Tháo, Lưu Biểu…mà còn ghi chép
về nhân vật nghịch thần như Đổng Trác…Riêng Lưu Thiệu trong Nhân vật
chí có một định nghĩa rõ ràng về "anh hùng":
Phù thảo chi tinh tú giả vi anh, thú chi đặc quần giả vi hùng. Cố
nhân chi văn võ mậu dị, thủ danh vu thử. Thị cố thông minh tú
xuất vị chi anh, đảm lực quá nhân vị chi hùng, thử kỳ đại thể chi biệt danh giả…”1. Dịch nghĩa:
Thứ tinh hoa tươi đẹp nhất trong loài hoa cỏ gọi là anh, giống
vật đặc sắc nhất nổi trội trong loài thú gọi là hùng. Người có tài
năng văn võ nổi trội hàng đầu, được lấy tên như vậy. Vì thế
người có tài trí xuất chúng trong luân thường đạo lý được gọi là
“anh”, kẻ có lòng gan dạ sức khỏe địch chúng được gọi là “hùng”. Đây là sự phân biệt đại thể trong cách xưng hô.2
Theo quan niệm này, thì người có văn võ dị thường (“Cố nhân chi văn
vũ mậu dị”) là anh hùng. Vậy thì ý nghĩa của khái niệm văn võ khác thường ở
đây được hiểu như thế nào? Tác giả lý giải trong phần luận anh hùng như sau:
Hà dĩ luận kỳ nhiên? Phù thông minh giả anh chi phân giả, bất
đắc hùng chi đảm, tắc thuyết bất hành. Đảm lực giả hùng chi phân giả, bất đắc anh chi trí, tắc sự bất lập.3
Dịch nghĩa:
Tại sao lại nói như vậy? Thông minh thuộc về tố chất của
“anh”, chưa từng nhận được sự gan dạ của “hùng”, thì học
thuyết kiến giải của nó sẽ không thể tiến hành được. Gan dạ là tư
1 Lưu Thiệu, Nhân vật chí, (2004,) Người dịch: Dương Thu Ái, Nguyễn Kim Hanh, hiệu đính: Võ Minh Hải, Nxb Văn hoá Thông tin Hà Nội, tr95. 2 Lưu Thiệu, Nhân vật chí, (2004,) Người dịch: Dương Thu Ái, Nguyễn Kim Hanh, hiệu đính: Võ Minh Hải, Nxb Văn hoá Thông tin Hà Nội, tr98. 3 Lưu Thiệu, Nhân vật chí, (2004,) Người dịch: Dương Thu Ái, Nguyễn Kim Hanh, hiệu đính: Võ Minh Hải, Nxb Văn hoá Thông tin Hà Nội, tr95.
chất của “hùng”, chưa từng nhận được trí tuệ của “anh” thì sự
24
nghiệp của nó chưa thể thành công được.1 Do đó:
“Anh hùng phải có “thông, minh, đảm, lược”: “thông năng mưu
thủy, minh năng kiến cơ, đảm năng quyết chi, lực năng quá
nhân”. Tạm dịch: Thông - có thể bày mưu lược; Minh - có thể
nhận lấy thời cơ; Đảm - có khả năng quyết đoán; Lực - có thể
hơn người. Trong đó, “thông” và “minh” được gọi là “anh”,
“đảm” và “lực” được gọi là “hùng” [Chuyển dẫn theo 111].
Trong tác phẩm này, Lưu Thiệu luận về anh hùng ở những nội dung sau:
Thứ nhất, ông nhấn mạnh đến sự khác nhau giữa các tố chất làm nên vẻ
đẹp của “anh” và “hùng”. Nét nổi bật của “anh” là trí tuệ xuất chúng, của
“hùng” là sức mạnh và lòng can đảm phi thường. Thứ hai, nội dung của luận
bàn này đi vào giới thuyết về các khái niệm về “anh” và “ hùng” chú ý đến tư
chất tài năng của người anh hùng trong mối tương quan giữa anh tài và hùng
tài giữa văn và võ. Một nhân cách anh hùng vĩ đại không thể thiếu vắng một
trong hai yếu tố này. Thứ ba, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của tố chất
“anh” vì trí tuệ thông minh là mấu chốt dẫn đường đi đến thành công. Thứ tư,
là vẻ đẹp trí tuệ của người anh hùng lãnh tụ, muốn làm nên nghiệp lớn ngoài
những tố chất của anh tài và hùng tài còn phải có con mắt đánh giá và biết
trọng dụng người tài theo khả năng thứ bậc, tất sẽ dẫn đến thành quả của sự
nghiệp anh hùng hưng thịnh và khởi phát, công trạng anh hùng sẽ được hiển
hách. Quan niệm về anh hùng trong Nhân vật chí đã hình thành khái niệm
tương đối rõ ràng là vì vậy.
Về mặt thời gian, có thể thấy, hai tác giả Vương Xán và Lưu Thiệu
sống cùng thời với các nhân vật lịch sử như: Tào Tháo (155-220), Tào Phi
(187-226), Lưu Bị (161-223). Rất có khả năng cả hai người đều có cơ hội tiếp
xúc với các nhân vật lịch sử này. Tào Tháo cũng đã từng luận về anh hùng. 1 Lưu Thiệu, Nhân vật chí, (2004,) Người dịch: Dương Thu Ái, Nguyễn Kim Hanh, hiệu đính: Võ Minh Hải, Nxb Văn hoá Thông tin Hà Nội, tr98.
25
Gia Cát Lượng trong bài Long Trung đối cũng đánh giá Lưu Bị là “anh hùng
trong thời loạn nghĩ đến người hiền như khát nước”. Cho nên có thể nói,
“khái niệm "anh hùng" đến thời Tam Quốc mới chính thức được hình thành”1. Qua những tài liệu trên, chúng ta thấy một điểm thú vị: khái niệm
“anh hùng” của người Trung Quốc ban đầu gắn với những nhân vật lịch sử,
chủ yếu là nhìn vào tài năng với “thông minh đảm lược” mà không hề nói đến
“đức”, chí ít cũng không đặt hành vi đạo đức trở thành một tiêu chuẩn của
người anh hùng.
Trong công trình Anh hùng và danh sĩ, Hạ Xương Quần cho rằng: cái
danh xưng anh hùng xuất hiện vào thời Hán Linh Đế trong khởi nghĩa Hoàng
Cân, các quan thái thú thứ sử địa phương vô cùng hủ bại, chính trị địa phương
không hề ổn định, quyền lực chính trị và quân sự rơi vào tay quan lại địa
phương. Phàm có những ai khuông phò nhà Hán, an định thiên hạ, văn võ
toàn tài, có tài kinh bang tế thế đều được xưng là anh hùng. Cũng theo Hạ
Xương Quần, thời nhà Tần cùng với sáu nước, giữa vua và bầy tôi chưa có sự
phân định danh phận cụ thể, do vậy mà hào kiệt chi sĩ ai ai cũng có thể phản
Tần, thế nên mới có câu “Chư hầu tịnh khởi, hào kiệt tương lập” (Chư hầu
đồng loạt nổi dậy, hào kiệt xuất hiện khắp nơi). Như vậy, bên cạnh khái niệm
anh hùng còn có xuất hiện một khái niệm “hào kiệt” nhưng ý nghĩa thì đã có
nét khác. Trong khái niệm “hào kiệt” có nét nghĩa nhấn mạnh đến trí tuệ của
con người. Trí tuệ vượt quá mười người thì gọi là "kiệt", vượt quá vạn người
thì gọi là "hào". Hào kiệt vẫn có thể nổi dậy chống chính quyền. Khi nhà Hán
xác lập với với hơn 400 năm tồn tại, quan hệ quân thần đã được xác lập rõ
ràng nên nhà Hán cho dù loạn lạc hơn trăm năm vẫn không bị phế truất. Các
nhân vật lịch sử như Đổng Trác, Tào Tháo, Viên Thiệu tuy không nghe lời
1 Dương Tử Nhan (2008), Luận Tam Quốc Khí và Thuỷ hử khí , Học báo sư phạm Nam Dương.
vua nhưng vẫn không có gan phế bỏ nhà Hán để xây dựng đế hiệu riêng cho
26
mình. Qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy, ngoài khái niệm "hào kiệt" nhấn
mạnh đến trí tuệ, ở Trung Quốc có thêm khái niệm “thánh hiền” với yêu cầu
“đức tài kiêm bị”, nhưng chung qui lại vẫn khác với ý nghĩa của khái niệm
"anh hùng". Ban đầu, khái niệm “anh hùng” không có liên quan gì với đạo
đức nhưng sau khi xuất hiện, nó chịu ảnh hưởng bởi 3 thế lực: giai cấp thống
trị, tôn giáo, và sức mạnh của quần chúng nhân dân. Giai cấp thống trị muốn
lợi dụng anh hùng để củng cố thế lực và quyền lực, biến anh hùng thành một
công cụ bảo hộ cho chính quyền. Tôn giáo muốn dùng biểu tượng anh hùng
để khuếch trương ảnh hưởng. Nhân dân gởi gắm niềm tin của mình hy vọng
thông qua anh hùng sẽ làm cho đất nước thái bình thịnh trị. Nhưng có lẽ, quan
trọng nhất vẫn là ảnh hưởng từ tư tưởng của thế lực thống trị, do vậy anh
hùng còn “nhận” thêm một nhiệm vụ nữa là khuông phò nhà Hán. Nội hàm
của “hào kiệt” không đủ thỏa mãn nhu cầu của thời đại, danh sĩ càng trở nên
vô dụng vì loại này chủ yếu “độc thiện kỳ thân” do đó, khái niệm "anh hùng"
được đề cao trong đời Hán - mạt là vì vậy. Từ đó, một quan niệm chính thống
về anh hùng ra đời, chủ yếu thông qua những minh quân, hiền thần, lương
tướng. Những nhà tiểu thuyết lịch sử cũng chịu sự chi phối của quan niệm anh
hùng này mà có sự biến đổi về chân diện mạo của anh hùng cho phù hợp với
nhu cầu lịch sử. Điều này cũng giải thích vì sao cha con Tào Tháo lại trở
thành Hán tặc và trở thành gian hùng trong lịch sử. Tào Phi thay đổi triều đại,
phế Hán lập Ngụy, như vậy là không trung thành với nhà Hán, kết quả là bị
bách tính ghét bỏ, hình ảnh bị méo mó đến hàng ngàn năm nay với danh xưng
“gian hùng”. Đồng thời, những kẻ nhất tâm toàn ý hướng về nhà Hán như
Lưu Bị, Quan Công…lại được mỹ hóa để biến thành anh hùng điển hình và
được sùng bái từ khi họ xuất hiện cho đến bây giờ. [111]. Nhìn một cách tổng
quát quan niệm về người anh hùng trong lịch sử Trung Quốc đã có ngay từ
buổi ban sơ của lịch sử, vận động trong sự tương tác với các cơ tầng văn hóa
27
hình thành nên tiến trình chuyển hóa mang tính đặc thù:
Từ thời cổ đại: Có lẽ, hình ảnh đầu tiên về người anh hùng được thể hiện
ngay trong những thiên thần thoại li kỳ hấp dẫn của dân tộc Trung Hoa. Đó là
những nhân vật huyền sử như Tam hoàng, Ngũ đế, Cổn, Đại Vũ có công khai
mở tư tưởng, thống nhất lãnh thổ, trị thủy giúp dân mở mang thủy lợi, điều
hòa việc cấy cày dọc các bờ sông lớn trên lãnh thổ Trung Hoa cổ đại. Những
tư tưởng này được thể hiện khá sâu sắc qua các thiên điển, mô, cáo trong
Thượng Thư. Hình tượng người anh hùng thời kỳ này có thể nói là người anh
hùng bộ lạc, hành động vì lợi ích cộng đồng. Ý thức về quyền và lợi dường
như chưa được đặt ra một cách sâu sắc. Vào cuối thời kỳ nhà Ân -Thương, đầu
Tây Chu quan niệm anh hùng được phát triển thêm một bước tiến, đó là sự hình
thành của hệ ý thức phân quyền, cát cứ phong kiến. Do đó, quan niệm về người
anh hùng cũng có những thay đổi về mặt bản chất, người anh hùng trong xã hội
chiếm hữu nô lệ và thời kỳ quá độ sang xã hội phong kiến được biểu hiện một
cách cụ thể qua hình ảnh những dũng tướng chiến đấu vì lợi ích cộng đồng, và
đặc biệt là nhu cầu chiếm hữu nô lệ, đất đai và công cụ lao động.
- Thời Xuân thu - Chiến quốc: Thời điểm chuyển giao giữa thời kỳ Xuân
thu và Chiến quốc đã xuất hiện một giai tầng đó là Sĩ. Sĩ xuất hiện với nhiều
vai trò khác nhau: họ có thể là những hiệp sĩ tận trung báo đáp ơn tri ngộ của
các bậc minh chủ như Kinh Kha, Dự Nhượng…, là những con người đem hết
tài năng của mình thực hiện lý tưởng chính trị như Tín Lăng Quân, Bình
Nguyên Quân, Phạm Lãi…; hoặc là những người có tư tưởng canh tân, chú ý
phát triển kinh tế phục vụ lợi ích cho các tiểu quốc phong kiến và tiến tới ý đồ
tranh bá như Quản Trọng, Thương Ưởng, Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công…
Đặc biệt, với sự xuất hiện của phong trào “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua
tiếng), “bách hoa tề phóng” (trăm hoa đua nở), quan niệm anh hùng được soi
chiếu trên nhiều bình diện khác nhau. Từ đó, chúng ta có thể thấy được quan
28
niệm về anh hùng ở thời kỳ này được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau
đồng thời cũng phản ánh được sự phức tạp về tư tưởng, đa dạng trong cách
nhìn nhận đánh giá người anh hùng.
Trong Xuân Thu - Chiến Quốc văn hóa đại quan, Lý Thiếu Lâm cho
rằng: “Từ góc độ xã hội mà khảo sát, Sĩ phần nhiều đều lấy võ làm sự nghiệp”
[110, tr.45]. Sơ kỳ Xuân thu, Quản Trọng - người phụ tá cho Tề Hoàn Công
đã qui định nhiệm vụ chủ yếu của kẻ sĩ là huấn luyện binh sĩ và tác chiến.
Sách Quốc Ngữ, phần Tề Ngữ có viết: “Xuân dĩ cưu chấn tộc, Thu dĩ xưng trị
binh. Tốt ngũ chỉnh vu lý, quân lữ chỉnh vu giao” [chuyển dẫn từ 110]. Ý
nghĩa của nó là: “Kẻ sĩ vào mùa xuân lấy việc săn bắt để huấn luyện quân sự,
mùa thu cũng lấy việc săn bắt để tiến hành chỉnh huấn đội ngũ”. Như vậy, tác
chiến tức là “thủ thì cùng chắc chắn, chiến thì cùng dũng mãnh”. Từ thời
Xuân thu đến hậu kỳ Chiến quốc, bản sắc xã hội của kẻ sĩ đã dần dần biến
đổi, một số kẻ sĩ là văn sĩ đảm nhiệm vai trò mưu thần, môn khách. Cũng
trong Xuân Thu - Chiến Quốc văn hóa đại quan, Lý Thiếu Lâm cho rằng giai
đoạn này “kẻ sĩ phân hóa thành 3 loại rõ rệt sau đây: Loại thứ nhất chủ yếu
phụ thuộc vào gia tộc của bậc sĩ khanh đại phu, hoặc là gia thần của sĩ khanh
đại phu, hoặc phục vụ trong công thất. Loại thứ hai là thoát ly hẳn với các
gia tộc của sĩ khanh đại phu mà trở thành những kẻ độc lập, trở thành quan
lại trong công thất, hoặc trở thành gia thần cho các gia tộc quý tộc khác.
Loại thứ ba là phục vụ binh dịch cho triều đình, thời chiến là lính, thời bình
là huấn luyện binh sĩ hoặc canh nông” [110, tr.20]. Như vậy, theo tài liệu trên
đây, chúng ta có thể thấy được quan hệ từ võ sĩ đến gia thần của các danh gia
vọng tộc trong mối quan hệ thần chủ hay nói khác hơn là mối quan hệ có tính
chất tôn chủ với môn khách. Đây là giai đoạn chuyển biến từ võ sĩ sang văn sĩ
rõ nhất là thời Xuân thu - Chiến quốc.
- Thời Tần - Hán: Sau tư trào “bãi truất bách gia, độc tôn Nho học” của
29
vương triều Hán, quan niệm về người anh hùng mới được nhìn nhận một cách
toàn diện trên cơ sở hệ qui chiếu Nho giáo. Hình ảnh danh sĩ và vẻ đẹp của họ
chủ yếu cũng phân thành hai loại cơ bản như sau: loại thứ nhất có sức mạnh
bạt sơn cử đỉnh, có nghĩa khí hơn người như Hạng Vũ, giỏi võ biền như Anh
Bố, Bành Việt, Phàn Khoái. Loại thứ hai thức thời, biết ứng biến như Hàn
Tín, mưu lược như Trương Lương, Tiêu Hà, Trần Bình.
- Thời Tam Quốc- Ngụy Tấn: Kẻ sĩ phải là người biết ứng biến, thức
thời làm minh chủ đứng trên thiên hạ. Với tinh thần minh triết bảo thân, người
danh sĩ luôn ý thức vấn đề tri túc, biết tiến thoái cho phù hợp với thời thế.
- Đến thời Tùy Đường Ngũ Đại, hình ảnh kẻ sĩ là những con người võ
nghệ siêu quần, có tài kinh bang tế thế, luôn trí quân và tôn thờ minh chủ.
- Thời Tống – Nguyên, về mặt tư tưởng, kẻ sĩ đã bắt đầu có tư tưởng
dân chủ, tự do chống lại cường quyền. Họ là người có lý tưởng trí quân trạch
dân, túc trí đa mưu.
Sang đến đời Minh, có thể nói đây là đỉnh cao của quan niệm anh hùng.
Người anh hùng phải đầy đủ phẩm chất phi thường về tài năng và tấm lòng.
Trong đó, đặc biệt là túc trí đa mưu, tài năng phi phàm và tâm nguyện kinh
bang tế thế. Họ xuất thân từ mọi tầng lớp khác nhau nhưng gặp nhau ở một
điểm là luôn thực hiện và nuôi dưỡng tư tưởng trừ gian diệt bạo, bảo quốc an
dân. Thanh gươm và gót ngựa thiên lý của họ có thể dong ruổi khắp nơi để
bảo vệ công lý, binh vực kẻ yếu, chống lại cường quyền. Như vậy, trong một
chừng mực nào đó, quan niệm anh hùng ở thời Minh mang đậm tinh thần dân
chủ, thể hiện sức sống mãnh liệt của quần chúng nhân dân trong lòng xã hội
phong kiến.
Thêm nữa, cần chú ý rằng, khái niệm anh hùng dường như trong khá
nhiều trường hợp cũng được dùng trong ý nghĩa giao thoa với nội hàm của từ
"hiệp khách". Thật vậy, rất nhiều ý kiến thống nhất rằng, Thủy Hử là tiểu
30
thuyết hiệp nghĩa, nhân vật Thủy Hử là những hiệp khách. Lỗ Tấn trong Diễn
biến tiểu thuyết Trung Quốc cho rằng, những tác phẩm hiệp nghĩa đời Thanh
đều từ Thủy Hử mà ra, những nhà nghiên cứu hiện đại thì cho rằng: Thủy Hử
là tiểu thuyết nghĩa hiệp đầu tiên trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc. Cũng
rất nhiều ý kiến thống nhất rằng, thông qua những phản kháng, đấu tranh với
ác bá và quan phủ, Thủy Hử đã thể hiện con đường rất phổ biến của giới hiệp
sĩ giang hồ.
Có một điểm đáng lưu ý: bắt đầu từ Sử ký, hình tượng hiệp khách
đã được ca tụng: “Nay bọn du hiệp, tuy nết không hợp với chính nghĩa, nhưng
lời họ nói ra thì chắc chắn, việc làm của họ thì quả quyết, đã hứa thì nhất
định làm, không tiếc tính mạng để cứu người ra khỏi nơi nguy khốn. Sau chi
đã xông pha vào nơi nguy hiểm cứu người, họ lại không khoe tài, lấy việc kể ơn làm thẹn, như vậy thì xem ra cũng có nhiều điều đáng khen”1. Nhưng
có một thực tế là, hiệp khách không nhất thiết phải giỏi võ công mà quan
trọng nhất vẫn là "nghĩa". "Nghĩa" là bản chất của "hiệp". Người xưa có câu
"Nghĩa phi hiệp bất lập, hiệp phi nghĩa bất thành", cho thấy võ công chỉ xếp
vào hạng thứ yếu. Địa vị của Tống Giang và các hảo hán Lương Sơn cho
thấy điểm này. Tống Giang là người dùng "nghĩa” để hành hiệp, do vậy với
tư cách là một viên tiểu lại, xuất thân cũng chẳng lấy gì làm cao quý, trong
tay lại chẳng có quyền lực gì, thậm chí chẳng đáng được gọi là "túc trí đa
mưu", võ nghệ cũng tầm thường, chỉ có điều là dám xả thân vì nghĩa nên
mới có biệt danh "Cập thời vũ", được các hảo hán tín phục mà được tôn làm
thủ lĩnh. Nhưng "hiệp" cũng không thể thiếu "vũ", bởi đã ra tay hành hiệp
thì đương nhiên có lúc sẽ phải đụng đến pháp luật, phải cần đến sức mạnh và
lúc ấy, võ nghệ sẽ trở thành phương tiện để thực hiện hành vi trượng nghĩa.
1 Tư Mã Thiên (1988), Sử ký – Du hiệp liệt truyện, Nxb Văn học, tr.768.
Nói chung, cho dù có bị thống trị lợi dụng (như trường hợp Kinh Kha),
31
nhưng hiệp khách vẫn là đối tượng mà kẻ thống trị muốn triệt tiêu. Do vậy mà
từ Sử ký trở về sau, hầu như không có bộ sử chính thống nào tiếp tục ghi chép
về hình tượng hiệp khách nữa khiến người ta có cảm giác là "hiệp" không tồn
tại nữa. Nhưng chính sử là một chuyện, lịch sử lại là chuyện khác. Hiệp khách
vẫn tồn tại trong cuộc đời, trong thơ ca và sáng tác văn học nói chung… Có
điều, để phù hợp với sự tiếp nhận của xã hội, mặc dù vẫn đề cao tự do nhưng
bản thân "hiệp" đã có sự thay đổi, vừa có ý thức phóng túng ngang tàng
nhưng cũng vừa có ý thức kiến công lập nghiệp. Bài Thiếu niên hành của
Trương Tịch đời Đường đã xây dựng một hình tượng hiệp khách theo ý nghĩa
này:
“Trảm đắc danh vương hiến quế cung,
Phong hầu ky đệ nhất nhật trung”.
Tạm dịch: Chém đầu những công hầu danh tướng dâng hiến lên cung
điện (vua), Ấn phong hầu có được trong một ngày.
Tất nhiên, cũng có những hình tượng hiệp khách chỉ thực hiện sứ mệnh
một cách tự do, không lấy công danh sự nghiệp làm trọng như trong Hiệp
khách hành của Lý Bạch:
Sự liễu phất y khứ
Thâm tàng thân dữ danh.
Tạm dịch: Việc xong phủi áo bỏ đi, Ẩn tàng thật sâu hình hài và danh
tính.
Thời Tống, giai cấp thống trị trọng văn hơn võ nên sĩ đại phu phong kiến
lao vào con đường thi cử nên cả xã hội thiếu hẳn sự nhiệt tình với hình tượng
hiệp khách. Trong văn học, hình tượng hiệp khách gần như vắng bóng. Đến
thời Minh Thanh, hiệp khách lại trở thành thị vệ của hoàng gia, thành những kẻ
bảo tiêu. Có thể xem đây là một lối rẽ của hiệp khách và đã không ít tiếng chê
bai về họ trong thời kỳ này, thậm chí có người còn cho rằng hiệp khách thời
32
Minh Thanh đã đi ngược với tinh thần của hiệp khách truyền thống.
Có thể nói, trong mối quan hệ giữa triều đình và xã hội nói chung, hình
tượng hiệp khách vừa thể hiện sự phản kháng, vừa thể hiện sự thoả hiệp.
Trong Thủy Hử, từ hồi 1 đến 70 là thể hiện sự phản kháng, hồi 71 trở đi là thể
hiện sự thoả hiệp.
Như vậy, anh hùng và hiệp khách tuy có nhiều điểm tương đồng, chẳng
hạn họ gặp nhau ở lý tưởng hiến thân, coi chết như về… Anh hùng thường
nghĩa khí, do vậy anh hùng có khi là hiệp khách; hiệp khách có khi là anh
hùng. Nhưng có điều, khi hiệp khách mang tính cách của anh hùng thì họ
không còn là hiệp khách nữa, do vậy có thể nói, Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm vốn là
hiệp khách, nhưng sau khi lên Lương Sơn Bạc, họ không còn là hiệp khách
thuần tuý nữa mà đã biến thành anh hùng. Thiết nghĩ, có thể phân định anh
hùng và hiệp khách theo tiêu chí sau:
- Hiệp khách là người diệt ác phò thiện, cứu khổn phò nguy, là kiểu
người "thấy việc bất bình chẳng tha", ẩn thân giang hồ, hành vi hiệp
nghĩa mang tính chất cá nhân, đơn độc.
- Anh hùng làm công việc giết tướng đoạt ải, mục đích là giải cứu nguy
nan quốc gia, duy trì và bảo vệ trật tự thể chế, làm quan làm tướng.
- Anh hùng ít khi ra tay đơn độc mà thường xuất hiện giữa đám đông.
Tóm lại, từ góc độ lịch sử và tư tưởng, chúng ta có thể nhận thấy rằng,
quan niệm về người anh hùng trong văn hoá Trung Hoa là một hiện tượng văn
hoá đặc biệt, nó không chỉ phản ánh tinh thần nghĩa hiệp, cứu thế độ nhân mà
còn là biểu tượng cao đẹp của con người xã hội, con người cộng đồng theo
quan niệm của Nho học. Từ một hiện tượng văn hoá, hình ảnh người anh
hùng đã bước vào trang sách và trở thành hình tượng văn học độc đáo, góp
phần làm nên dáng vẻ hùng dũng của thế giới nghệ thuật tiểu thuyết cổ điển
Minh Thanh.
33
1.2. Quan niệm anh hùng trong văn học Trung Quốc
1.2.1. Từ cảm thức thẩm mỹ về người anh hùng thăng hoa thành hình
tượng anh hùng
Mối quan hệ giữa cảm thức thẩm mỹ về người anh hùng và hình tượng
anh hùng luôn diễn ra hết sức gắn bó, chặt chẽ, trong mọi nền văn học, từ
Đông sang Tây, đặc biệt, trong những tác phẩm viết về người anh hùng. Từ
nguồn mạch của tâm thức văn hóa dân tộc, những hình tượng anh hùng là sự
thăng hoa, kết tinh, hội tụ mỹ cảm. Mỗi thời đại có một hệ quy chiếu, tiêu
chuẩn khác nhau về người anh hùng. Nhưng ở thời đại nào, ở nền văn hóa
nào, những hình tượng ấy đều thể hiện rõ lý tưởng thẩm mỹ của con người
thời đại. Với tài năng của người nghệ sĩ, chúng được chuyển hóa thành những
hình tượng nghệ thuật sinh động, sắc nét trong thế giới nghệ thuật đặc sắc của
các tác phẩm văn học. Vẻ đẹp của các anh hùng Trung Hoa thường là những
biểu tượng quần hùng tráng mỹ. Điều này có thể lý giải từ tâm thức văn hóa
của dân tộc. Trong dòng chảy của văn hóa Trung Hoa, kết đọng ở chiều sâu
của nó là những cảm thức thẩm mỹ mang tính đặc thù. Trong đó, đáng chú ý
là cảm thức vũ trụ của con người trong văn hóa Phương Đông. Do vậy, tầm
vóc của người anh hùng mang dấu ấn của con người vũ trụ. Cho nên, nét đẹp
của người anh hùng trong văn học Trung Quốc thường được ca ngợi thành
những biểu tượng quần hùng tráng mỹ có sức mạnh vô song, tài năng phi
thường, trí tuệ siêu phàm, trác việt. Một điểm thú vị khác của văn hóa Trung
Hoa là cảm thức cộng đồng rất mạnh. Chính từ cảm thức cộng đồng này đã
hình thành nên những biểu tượng anh hùng mang tính sử thi. Đây không phải
là nghịch lý mà là hệ quả tất yếu. Vì vậy, nét đẹp của người anh hùng mang
tính sử thi thể hiện dấu ấn những quan niệm thẩm mỹ truyền thống của văn
hóa Trung Hoa.
34
Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, trong mục từ “anh hùng” (héros)
đã có những nhìn nhận, đánh giá mang tính khái quát về những hình tượng
anh hùng trong văn hóa, văn học phương Tây. Theo công trình này:
Anh hùng thường là con của cuộc giao phối giữa một vị thần
với một người trần, người anh hùng tượng trưng sự kết hợp
giữa các lực lượng trên trời và dưới đất. Nhưng anh ta đương
nhiên không được hưởng sự bất tử của thánh thần, tuy vẫn giữ
cho đến khi chết một khả năng siêu tự nhiên: một vị thần bị
giáng thế hay con người được phong thần.
Công trình nghiên cứu văn học Dẫn giải ý tưởng văn chương của tác
giả người Pháp Henri Benac, cũng có những gợi mở thú vị về kiểu hình tượng
nhân vật anh hùng trong văn học Châu Âu. Theo ông, có thể phân loại các
kiểu anh hùng thành 3 dạng:
- Ở thời cổ đại: đấng anh hùng là một nhân vật nửa thần thánh, vì có cha
hay mẹ có nguồn gốc thần thánh, hoặc là một người được thăng lên
hàng nửa thần thánh vì tài năng lỗi lạc (Homère, Platon...)
- Theo nghĩa hiện đại: anh hùng là người hi sinh thân mình vì một sự
nghiệp lớn vượt quá sự nghiệp của bản thân mình (vì Chúa, vì Tổ quốc,
vì danh dự, vì tự do, vì công lí...).
- Theo nghĩa thuần túy văn học: người anh hùng trong tiểu thuyết hay
trong kịch là nhân vật chính (không nhất thiết nhân vật này phải có
những phẩm chất của người anh hùng theo nghĩa hiện đại này).
Công trình của Henri Benac tiếp cận hình tượng người anh hùng theo
nghĩa hiện đại. Từ đó, ông nêu ra những phẩm chất của người anh hùng, thể
hiện trên các phương diện: tâm hồn cao thượng và những phẩm chất khác.
Chúng tôi muốn điểm qua một số công trình nghiên cứu của các tác giả
phương Tây về hình tượng anh hùng để thấy rằng: vấn đề từ cảm thức thẩm
35
mỹ thăng hoa thành các biểu tượng, hình tượng anh hùng là mẫu số chung của
các nền văn hóa, văn học Đông - Tây. Ở đâu và trong thời đại nào, ước mơ về
những con người lý tưởng, siêu phàm luôn thường trực, sống động và trở đi
trở lại trong chiều sâu văn hóa, cũng như trong đời sống văn học nghệ thuật.
Dĩ nhiên, cũng là người anh hùng, nhưng lĩnh vực hoạt động của họ có thể hết
sức đa dạng, như Henri Benac đã chỉ ra:
- Chiến tranh, phục vụ vua chúa hoặc phục vụ Tổ quốc, tận tụy vì một sự
nghiệp chính trị hoặc một sự nghiệp tinh thần;
- Phục vụ nhân loại hay phục vụ dân tộc mình, phục vụ công lí;
- Phục vụ khoa học, phục vụ cho phát kiến, cho tiến bộ;
- Tôn thờ đạo lí, phục vụ chân lí;
- Có phẩm chất của thần thánh".
Từ những kiến giải trên, nếu ta nhìn nhận, đối sánh với kiểu hình tượng
anh hùng trong văn học Trung Quốc, chắc chắn sẽ có nhiều thu hoạch thú vị.
Dĩ nhiên, đây là vấn đề lớn, cần những nghiên cứu chuyên sâu, mà từ đó, ta có
thể cảm nhận những tương đồng và dị biệt giữa văn hóa, văn học Đông - Tây,
đặc biệt là trong quan niệm về người anh hùng. Ở đây, chúng tôi chỉ dừng lại ở
chỗ khơi gợi vấn đề, tìm hiểu bắt nguồn từ những luận bàn về mối quan hệ giữa
cảm thức thẩm mỹ và hình tượng nhân vật anh hùng trong dòng chảy văn học.
Có thể thấy, khơi nguồn từ trong thần thoại, cảm thức thẩm mỹ về người anh
hùng bên cạnh những điểm tương đồng cũng đã thể hiện những nét khác biệt
giữa hai nền văn hóa. Tuy không thành hệ thống, không hình thành thần phổ
nhưng tất cả anh hùng thần thoại Trung Quốc đều sùng thượng đạo đức, mang
tính cách thánh hiền. Trong khi đó, thần thoại Hy Lạp lại kỳ vọng ở người anh
hùng phẩm chất tài năng và trí tuệ. Tính cách các nhân vật anh hùng trong thần
thoại Trung Quốc đều rất cao thượng và thanh khiết, không nhũng nhiễu dân
chúng, càng không đố kỵ và tàn hại nhân loại. Tương phản, anh hùng thần
36
thoại Hy Lạp phần lớn nặng về thế tục, có vị dính mắc ái tình như người thế
gian. Thần Zớt, chúa tể của muôn thần ngang tàng phóng túng lưu lại cho thế
gian bao nhiêu cuộc phiêu lưu tình ái nhuốm màu bi kịch. Thần cũng yêu ghét,
căm giận như con người bình thường ở trần thế.Thần hậu Hera tuy là thần mẫu
của muôn loài nhưng cũng vì lòng thù hận mà đánh mất phẩm chất thần thánh.
Họ được kéo từ thế giới thần linh về với cõi người. Trong thần thoại khai
thiện lập địa Hy Lạp, chúng ta thấy nhiều máu và đặc biệt, thần cũng như con
người, cũng yêu, ghét, căm hận, đố kỵ, đầy dục vọng. Thần thoại Cái hộp của
Fantula là một ví dụ: Sau khi sáng tạo ra nhân loại, anh hùng Promete giúp
con người quan sát thiên văn tinh tú, phát hiện khoáng thạch, cải tạo cuộc
sống. Xuất phát từ sự đố kỵ, Thần Zớt đã cự tuyệt, không cho nhân loại có
lửa. Promete đã lấy lửa từ thiên đình đem tặng cho con người. Zớt đã phát
hiện ra và treo Promete trên vách đá cho chim dữ rỉa thịt, đồng thời sáng tạo
ra người đẹp Fantula đem một chiếc hộp xuống tặng cho con người. Từ trong
chiếc hộp tai hoạ đó, những đố kỵ, thống khổ, tật bệnh, chiến tranh… đã
khiến nhân loại luôn sống trong bất an đau khổ . Trong khi đó, những vị thần
sáng thế Trung Quốc đều hy sinh nhục thân để hoàn thành công cuộc sáng tạo
thiên địa vạn vật. Bàn Cổ (Truyện Bàn cổ khai thiên lập địa) sau khi đã phân
định đất trời, hy sinh đôi mắt của mình để tạo ra mặt trời và mặt trăng, Nữ Oa
sau khi vá trời cũng hóa thân thành vạn vật. Viêm Đế vì sự nghiệp trồng trọt
mà phải ăn rễ cây và rau dại,... Rõ ràng, việc sùng bái và tán dương tinh thần
hiến thân của anh hùng thần thoại cũng thể hiện sự sùng bái đạo đức của thần
thoại Trung Quốc. Không những thần sáng thế mà những vị thần trong truyền
thuyết sau này cũng mang tinh thần cống hiến và hy sinh như Khoa Phụ, Hậu
Nghệ, Tinh Vệ... Điều đó cho chúng ta thấy được anh hùng thần thoại Trung
Quốc đều thể hiện một ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng. Từ thời Tây Chu
trở về sau, do nhu cầu lịch sử - chính trị nên Bách gia chư tử cũng như giai cấp
37
thống trị đều gia công cải tạo hình tượng nhân vật anh hùng thần thoại, đem lý
tưởng anh hùng của nhân loại mà gởi vào thần thánh. Hiện tượng này khiến
cho những dã tính của nhân vật thần thoại thời viễn cổ đã biến mất và chỉ thấy
ở họ toàn là “mỹ đức”, lấy “đức” làm “mỹ”, coi trọng người hiền tài. Từ đó,
chúng ta có thể thấy được sự khác biệt trong tâm thức văn hóa về quan niệm
anh hùng được khơi nguồn từ buổi sơ khai của văn học đặc biệt là trong thần
thoại. Có thể rút ra một số nét khác biệt giữa anh hùng thần thoại Trung Quốc
và thần thoại Hy Lạp mà chúng tôi cho rằng, nó sẽ để lại ít nhiều bóng dáng
trong quan niệm về người anh hùng trong những dòng chảy văn học.
Anh hùng thần thoại Hy Lạp lấy sức mạnh làm "mỹ", coi trọng sức
khoẻ, võ nghệ, là siêu nhân, là kẻ chinh phục, không chú ý đến đạo đức. Anh
hùng thần thoại Trung Quốc lấy "đức" làm "mỹ", coi trọng "lễ", sùng thượng
tiêu chuẩn "nhân". Tuy anh hùng thần thoại Trung Quốc cũng có sức mạnh
siêu phàm nhưng đồng thời lại là những anh hùng có phẩm cách cao thượng,
một lòng vì con người. Do vậy, anh hùng thần thoại Trung Quốc là sự kết hợp
giữa thần và thánh, là thần nhân nhưng cũng là thánh nhân.
Anh hùng thần thoại Hy Lạp tuy có nghĩ đến quốc gia, thành bang
nhưng chung qui lại, họ lại theo đuổi chủ nghĩa cá nhân, theo đuổi những giá
trị cá nhân và sự tôn nghiêm của cá nhân. Do vậy, anh hùng thần thoại thường
lấy lợi ích cá nhân đặt lên trên cộng đồng, đấu tranh phần nhiều là vì lợi ích
và danh dự cá nhân. Trong khi đó, người Trung Quốc lấy gia tộc làm trọng,
xã hội Trung Quốc lấy gia đình làm cơ sở, kính thiên mệnh nhưng vẫn trọng
nhân sự, do vậy anh hùng thần thoại luôn lấy lợi ích cộng đồng làm mục tiêu
đấu tranh. Tuy người Trung Quốc cũng có ý chí tiến thủ, nhiệt tình hướng
thượng nhưng lại tin quỷ thần, sùng bái tổ tiên, do vậy phần lớn anh hùng
thần thoại Trung Quốc đều phụ thuộc vào thiên đế, có ý thức nô bộc, ý thức
thần dân. Hậu Nghệ bắn mặt trời không phải để thể hiện cá nhân, theo đuổi
38
giá trị tự thân mà là phục tùng và thực hiện ý chí của thiên đế. Sách Hoài Nam
Tử - thiên “Bản kinh huấn" ghi: “Đến thời vua Nghiêu, mười mặt trời mọc cùng
một lúc, cháy lúa má, giết cỏ cây, dân không có gì ăn. Các loài thú Khiết luân,
Tạc xỉ, Cửu anh, Đại phong, Phong hy, Tu xà…đều làm hại dân. Vua Nghiêu bèn
sai Nghệ giết Tạc xỉ ở đồng bằng Trà Hoa, giết Cửu anh trên sông Hung Thủy,
giết Đại phong ở đầm Thanh Khâu, trên thì bắn rụng chín mặt trời, dưới thì giết
Khiết luân, chém Tu xà ở Động Đình”… [chuyển dẫn 5].
Điều đó cho thấy, Nghệ hành sự là do mệnh lệnh của Nghiêu. Đại Vũ
trị thuỷ gian khổ, nhiều lần đi ngang qua nhà nhưng không dám ghé vào chỉ vì
muốn hoàn thành nhanh công việc mà thiên đế đã giao cho… Đây chính là cơ
sở trong tâm thức văn hóa dân tộc để hình thành nên mô thức về kiểu người
anh hùng trong văn hóa, văn học Trung Hoa. Cùng với sự trưởng thành của ý
thức văn học, thế giới quan triết học, quan niệm anh hùng, hình tượng người
anh hùng đã có những bước phát triển cụ thể. Từ những hình ảnh về người anh
hùng đấu tranh chống thiên tai trong truyền thuyết, thần thoại đến những người
anh hùng vì nghĩa cả, vì cộng đồng trong chính sử là một quá trình hoàn thiện
về nhận thức cũng như quan niệm cụ thể, chi tiết về hành vi, ý thức, lý tưởng
của người anh hùng. Họ không chỉ dũng mãnh trên chiến trận, ngăn bước quân
thù mà còn là những người đa mưu túc trí trên chính trường, là những con
người góp phần giữ thế quân bình cho cán cân công lý xã hội. Hình ảnh người
anh hùng từ thực tiễn cuộc sống bước vào trang sách càng trở nên sinh động và
hấp dẫn dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ góp phần hoàn thiện bức chân
dung đa diện về mẫu người anh hùng lý tưởng của văn hóa Trung Hoa. Cảm
thức thẩm mỹ về người anh hùng trong chiều sâu văn hóa của dân tộc Trung
Hoa bắt đầu từ tư duy thần thoại đến tiểu thuyết cổ điển đã dần dần thăng hoa
thành những biểu tượng anh hùng trong dòng chảy văn học mang những nét
đặc thù riêng là vì vậy.
39
Nhìn lại văn học cổ điển Trung Quốc, có thể nhận thấy: Tam Quốc diễn
nghĩa và Thủy Hử là hai bộ tiểu thuyết chương hồi vô cùng nổi tiếng trong
giai đoạn cuối Nguyên đầu Minh. Đồng thời, theo chúng tôi, đây là những
sáng tác hội tụ và biểu hiện rất rõ quan niệm về người anh hùng trong văn học
Trung Quốc. Ngoài ra, đặt hai tác phẩm trong sự đối sánh, soi chiếu, chúng
tôi nghĩ rằng, điều này sẽ giúp ta phần nào cảm nhận được các kiểu hình mẫu
anh hùng tiêu biểu trong tiểu thuyết chương hồi nói riêng, văn học Trung
Quốc nói chung.
Dĩ nhiên, đây là công việc mà một số nhà nghiên cứu đã tiến hành, song
có lẽ, sự tổng hợp để đi đến những nhận định khái quát cũng thật cần thiết.
Nhà nghiên cứu Trần Xuân Đề, khi phân tích nguyên nhân thất bại của
anh hùng Lương Sơn Bạc, đã nói đến tư tưởng trung nghĩa trong Thủy Hử.
Ông đã so sánh chữ "nghĩa" của các anh hùng trong Thủy Hử với chữ "nghĩa"
của các anh hùng trong Tam Quốc diễn nghĩa. Ông cho rằng: Kết nghĩa là
hình thức phổ biến của người dân. Anh hùng hảo hán giương cao ngọn cờ chữ
"nghĩa", đoàn kết đấu tranh chống cường quyền, trừ bạo lực. Nhưng cái
"nghĩa" của Thủy Hử khác với cái "nghĩa" của Tam Quốc diễn nghĩa. Trên
mức độ nhất định, việc "Đào viên kết nghĩa" của ba anh em họ Lưu, Quan,
Trương phản ánh phẩm chất, lí tưởng của quần chúng nhân dân, nhưng cơ sở
của nó là dốc tâm tiêu diệt Hoàng Cân, báo đền nợ nước. Họ kết nghĩa chỉ vì:
“Nay thấy giặc Khăn Vàng nổi loạn, có chí ra dẹp giặc, chỉ hiềm sức mình
không nổi”... (Lời Lưu Bị nói với Trương Phi khi gặp nhau tại Trác Quận).
"Nghĩa" của anh hùng Lương Sơn Bạc xây dựng trên cơ sở chống áp
bức bóc lột. “Trượng nghĩa sơ tài quy thủy bạc, báo thù tuyết hận thướng
Lương Sơn” (“Người trọng nghĩa khinh tài thì trở về bến nước, rửa mối thù
riêng sẽ lên Lương Sơn Bạc”), là điều quyết tâm của người ra đi làm điều
nghĩa." [91, tr.340].
40
Trong công trình Thử so sánh thi pháp của Tam Quốc diễn nghĩa và
Thủy Hử, nhà nghiên cứu Lê Huy Tiêu đã tiến hành những so sánh hết sức thú
vị giữa hai bộ tiểu thuyết, đặc biệt là vấn đề hình tượng nhân vật, quan niệm
anh hùng. Từ đó, nhà nghiên cứu đã rút ra được những luận điểm như sau:
- Thứ nhất, "nhân vật của Tam Quốc diễn nghĩa ít bị ràng buộc bởi hoàn
cảnh và luân lý gia đình... Còn ở Thủy Hử, các nhân vật đều bị ràng
buộc bởi tình cảm, luân lý gia đình".
- Thứ hai, "các anh hùng trong Tam Quốc diễn nghĩa vượt lên trên mọi
nỗi đau, nhất là nỗi đau về thể xác... Còn các anh hùng trong Thủy Hử
không những cái chết mà bệnh tật cũng làm họ khổ." [98, tr.66].
- Thứ ba, "một trăm linh tám vị anh hùng trong Thủy Hử đều vốn là
những ngôi sao, 36 ngôi sao thiên cang và 72 ngôi địa sát. Nhiều anh
hùng trong Tam Quốc diễn nghĩa cũng tương ứng với các ngôi sao trên
trời. Sự xâm nhập giữa người và thần tạo nên lai lịch phi phàm của các
anh hùng. Nhưng trong quá trình miêu tả cụ thể, họ lại phân chia đôi
ngả: Các nhân vật Tam Quốc diễn nghĩa nghiêng về thần thánh hóa,
còn nhân vật Thủy Hử lại nghiêng về nhân tính hóa." [98, tr.67]
- Thứ tư, "các anh hùng của Tam Quốc diễn nghĩa được mô hình hóa
truyền thống văn hóa sử truyện chính thống nên thường mang lý tưởng
cao cả. Nhiệm vụ của họ là "xây dựng xã tắc", "cứu vớt lê dân" rất
giống tinh thần "sáng thế" và "cứu thế" của thần thoại cổ đại...Các anh
hùng trong Thủy Hử không có tính hoàng quyền và huyết thống cao
quý... Họ là những người bình thường với tất cả những tình cảm tầm
thường của con người'' [98, tr.69]
Theo nhà nghiên cứu, sự khác biệt này có phần bắt nguồn từ cảm hứng
nghệ thuật.
''Cảm hứng nghệ thuật của La Quán Trung chủ yếu là lấy từ sử
41
sách, còn cảm hứng nghệ thuật của Thi Nại Am chủ yếu lấy từ
hiện thực"…"Từ đó, "nhân vật của Tam Quốc diễn nghĩa có sức
mạnh siêu phàm, gần với nhân vật của thế giới thần thoại, họ có
khả năng vượt qua hoàn cảnh, không lệ thuộc vào không gian và
thời gian. Nhân vật của Thủy Hử, tuy cũng có sức mạnh thần kỳ
nhưng lại lệ thuộc vào hoàn cảnh, nó gần với nhân vật của chủ
nghĩa hiện thực." [98, tr.70].
Ở đây, chúng tôi đang bàn tới vấn đề từ cảm thức thẩm mỹ về người
anh hùng thăng hoa thành hình tượng anh hùng. Nhưng như đã nói, cảm thức
thẩm mỹ ấy bị chi phối bởi tư tưởng, bởi quan niệm văn hóa thời đại, bởi cả
vấn đề thể loại tiểu thuyết: Tam Quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết diễn nghĩa lịch
sử còn Thủy Hử là tiểu thuyết truyền kỳ anh hùng. Mà như Lê Huy Tiêu đã
phân biệt, “tiểu thuyết diễn nghĩa lịch sử là thể loại biên niên, ghi lại những
sự kiện trọng đại của lịch sử, khái quát diện mạo phát triển của lịch sử, từ đó
rút ra bài học kinh nghiệm lịch sử. Tiểu thuyết truyền kỳ anh hùng là thể ký
sự, thông qua quá trình phát triển tính cách của các nhân vật anh hùng để
phản ánh cuộc sống xã hội của một giai đoạn lịch sử nhất định, nó gửi gắm lý
tưởng và nguyện vọng của quần chúng nhân dân”. [99, tr.65]
Như vậy, có thể thấy, người anh hùng trong Tam Quốc diễn nghĩa được
dựng xây trên một ý thức hệ chính thống, còn người anh hùng trong Thủy Hử
lại gắn liền với ý thức hệ, quan điểm của tầng lớp bình dân, họ là kết tinh tư
tưởng, tình cảm của quần chúng nhân dân. Vì thế, theo chúng tôi, hai bộ tiểu
thuyết này, kết tinh hai mô thức chủ yếu về hình tượng người anh hùng trong
văn học Trung Quốc: người anh hùng theo quan điểm chính thống và người
anh hùng theo quan điểm nhân dân. Đó là sự thăng hoa của những thức cảm
thẩm mỹ vi diệu, tinh tế, chuyển hóa thành hình tượng nghệ thuật muôn màu.
1.2.2. Tiểu thuyết chương hồi và việc thể hiện quan niệm anh hùng
42
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: "tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ
lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và
thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức
tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái
hiện nhiều tính cách đa dạng" [49, tr.277]. Cũng theo cuốn từ điển này, các
đặc điểm cơ bản của thể loại tiểu thuyết bao gồm:
- Thứ nhất, so với các thể khác của loại tự sự như ngụ ngôn, anh hùng ca,
thì đặc điểm tiêu biểu nhất của tiểu thuyết là cái nhìn cuộc sống từ góc
độ đời tư [49, tr. 278].
- Thứ hai, nét tiêu biểu thứ hai làm cho tiểu thuyết khác với truyện thơ,
trường ca, thơ trường thiên và anh hùng ca là chất văn xuôi, tức là một
sự tái hiện cuộc sống, không thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tưởng hóa.
Miêu tả cuộc sống như một thực tại cùng thời, đang sinh thành, tiểu
thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi yếu tố ngổn ngang bề bộn của cuộc
đời bao gồm cái cao cả lẫn cái tầm thường, nghiêm túc và buồn cười, bi
và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ [49, tr.278].
- Thứ ba, cái làm cho nhân vật tiểu thuyết khác hẳn với các nhân vật sử
thi, nhân vật kịch, nhân vật truyện trung cổ là ở chỗ nhân vật tiểu thuyết
là "con người nếm trải", tư duy, chịu khổ đau, dằn vặt của cuộc đời trong
khi các nhân vật kia thường là nhân vật hành động [49, tr.279].
- Thứ tư, "thành phần chính của tiểu thuyết không phải chỉ là cốt truyện
và tính cách nhân vật như ở truyện vừa và truyện ngắn trung cổ. Ngoài
hệ thống sự kiện, biến cố và những chi tiết tính cách, tiểu thuyết miêu
tả suy tư của nhân vật về thế giới, về đời người, phân tích cặn kẽ các
diễn biến tình cảm, trình bày tường tận tiểu sử của nhân vật, mọi chi
tiết về quan hệ giữa người và người, về đồ vật, môi trường nội thất..."
[49, tr.279].
43
- Thứ năm, tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách về giá trị giữa người trần
thuật và nội dung trần thuật của anh hùng ca, để miêu tả hiện thực như
cái hiện tại đương thời của người trần thuật.
- Thứ sáu, với các đặc điểm đã nêu, tiểu thuyết là thể loại văn học có khả
năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn
học khác [49, tr.279].
Trong dòng chảy của tiểu thuyết, tiểu thuyết chương hồi là "một thể loại
tác phẩm tự sự dài hơi của Trung Quốc, thịnh hành vào đời Minh, Thanh" [49,
tr. 280]. Bên cạnh những nét chung thuộc thể loại tiểu thuyết, nó cũng có
những nét đặc trưng, khác biệt, trước hết là về nguồn gốc ra đời: "tiểu thuyết
chương hồi thoát thai từ thoại bản, một loại tiểu thuyết bạch thoại từ đời Tống.
Đời Tống, kể chuyện trở thành một nghề chuyên nghiệp. Người kể chuyện hợp
lại thành thư hội để hợp tác sáng tác. Trong họ có người chuyên "giảng sử"
(tức kể chuyện lịch sử), có người chuyên kể tiểu thuyết" [49, tr. 280]. Về đặc
điểm của thoại bản, có thể thấy: "thoại bản nguyên là bản đề cương mà người
kể chuyện dựa vào để kể, về sau được các nhà văn sửa chữa lại ít nhiều. Thoại
bản phản ánh đời sống xã hội tương đối rộng, đặc biệt là đời sống tầng lớp
bình dân thành thị" [49, tr. 280]. Về kết cấu, "đầu mỗi thiên có phần nhập
thoại (vào chuyện), bằng thơ hay mẩu chuyện nhỏ, liên hệ với chính văn bằng ý
nghĩa tương tự hay tương phản, phần chính văn, ngoài câu chuyện còn dùng
thơ, từ, phú để miêu tả cảnh, tả vật khi phải phác họa tỉ mỉ nhân vật và sự kiện,
vừa để nối trên, tiếp dưới hoặc nói lên sự tán thưởng của tác giả. Cuối thiên
được kết thúc bằng từ, phần lớn có ý nghĩa khuyên răn" [49, tr. 281]...
Chịu ảnh hưởng của kết cấu thoại bản, tiểu thuyết chương hồi mang
những đặc điểm sau: "Trước hết, nội dung câu chuyện được thể hiện chủ yếu
qua hành động và ngôn từ nhân vật hơn là qua sự miêu tả tỉ mỉ về tâm lí, tính
cách. Thứ hai, câu chuyện được phát triển qua những tình tiết có xung đột
44
căng thẳng mang nhiều kịch tính. Cuối cùng, nghệ thuật khắc họa nhân vật
mang nhiều tính ước lệ." [49, tr. 281]
Từ những giới thuyết về thể loại tiểu thuyết cũng như tiểu thuyết
chương hồi như trên, chúng tôi nhận thấy: tiểu thuyết chương hồi là thể loại
tập trung thể hiện vô cùng rõ nét quan niệm anh hùng, đặc biệt là những tiểu
thuyết truyền kỳ anh hùng như Thủy Hử, Thuyết Nhạc toàn truyện, Dương gia
tướng truyện, Phi Long toàn truyện, Anh liệt truyện...
Vì sao tiểu thuyết chương hồi có ưu thế đó? Có thể nhận thấy, trước hết
là bởi dung lượng, quy mô của tác phẩm. Quy mô đồ sộ, các tuyến truyện
móc xích vào nhau cho phép tiểu thuyết chương hồi có điều kiện thể hiện một
bức tranh xã hội rộng lớn cũng như quá trình phát triển tính cách, cuộc đời
của nhân vật. Chẳng hạn, "Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung phản
ánh thời kỳ loạn lạc của Tam quốc, còn Thủy Hử của Thi Nại Am phản ánh
cuộc nổi dậy của các anh hùng Lương Sơn Bạc thời Bắc Tống" [99, tr. 64].
Từ bức tranh xã hội rộng lớn và sự phát triển tính cách của nhân vật, tác giả
có điều kiện phát biểu một cách đầy đủ những quan niệm của mình về người
anh hùng, qua việc kể về nguồn gốc xuất thân đến hành trạng, tính cách của
họ. Điều này có thể thấy rõ trong bộ tiểu thuyết Thủy Hử.
Thứ hai, trong các tiểu thuyết chương hồi, vấn đề thể hiện và trình bày
quan niệm về người anh hùng hết sức rõ nét, bởi vì chúng đều bắt nguồn từ
chuyện kể dân gian - mang cái nhìn, tâm thức, mỹ cảm dân gian về hình
tượng người anh hùng. Theo nghiên cứu của Lê Huy Tiêu, "trong truyện kể
dân gian thời Tống Nguyên có 4 loại: Tiểu thuyết, đàm kinh (giảng kinh),
giảng sử và tiếu lâm. Giảng sử (kể chuyện lịch sử) và tiểu thuyết (những
chuyện nhân tình thế thái) là hai loại phát triển trong bốn loại đó. Diễn nghĩa
lịch sử bắt nguồn từ giảng sử trong truyện kể dân gian, còn truyền kỳ anh
hùng bắt nguồn từ tiểu thuyết trong truyện kể dân gian. Do diễn nghĩa lịch sử
45
lấy đề tài từ lịch sử, nên tính cách nhân vật ít thay đổi, ít phát triển, nó phản
ánh đấu tranh quân sự nhiều hơn là phản ánh cuộc sống thường nhật của con
người, nó phản ánh cuộc sống của hoàng đế, khanh tướng nhiều hơn cuộc
sống của quần chúng. Ngôn ngữ tác phẩm mang tính bác học nhiều hơn tính
thông tục dân gian. Truyền kỳ anh hùng chủ yếu là miêu tả cuộc đời của các
anh hùng hảo hán, nếu có tả hoàng đế, khanh tướng thì cũng chỉ nhấn mạnh
việc lên ngôi, thăng quan của họ mà thôi. Thể loại này nặng về miêu tả sự tích
anh hùng, do đấy cũng miêu tả sự thay đổi, phát triển tính cách nhân vật.
Ngoài phản ánh cuộc đấu tranh chính trị quân sự ra, truyền kỳ anh hùng còn
đề cập cuộc sống của thị dân, của dân chúng, ngôn ngữ sinh động gần gũi với
cuộc sống hơn [99, tr. 66].
Như chúng tôi đã trình bày, người anh hùng có thể hiện lên từ nhiều hệ
quy chiếu, từ nhiều quan niệm, góc nhìn. Có người anh hùng được nhìn chủ
yếu theo quan điểm chính thống (qua diễn nghĩa lịch sử), lại có kiểu người
anh hùng được nhìn nhận chủ yếu theo quan điểm quần chúng nhân dân (qua
truyền kỳ anh hùng). Chính vì vậy, thể loại tiểu thuyết chương hồi gắn bó hết
sức chặt chẽ với việc phản ánh, biểu hiện hình tượng, quan niệm về người anh
hùng, cho dù, cách đánh giá, nhìn nhận của tác giả về kiểu hình tượng đó có
thể khác biệt.
Ở đây, chúng tôi cũng muốn liên hệ những tiểu thuyết truyền kỳ anh
hùng của Trung Quốc với tiểu thuyết hiệp sĩ phương Tây. "Tiểu thuyết hiệp sĩ
là một trong những thể loại chính của văn học tao nhã thời trung đại, nảy
sinh trong giai tầng phong kiến thời thịnh vượng của đẳng cấp hiệp sĩ và
"tinh thần hiệp sĩ" [49, tr.284]. Cả tiểu thuyết truyền kỳ anh hùng và tiểu
thuyết hiệp sĩ đều gắn liền với việc thể hiện hình tượng người anh hùng, quan
niệm về người anh hùng; đều gần gũi với truyện kể dân gian (trong tiểu thuyết
hiệp sĩ phương Tây, thể hiện qua các môtip viễn tưởng, sự miêu tả màu sắc
46
của xứ lạ...). Rồi cả tiểu thuyết truyền kỳ anh hùng và tiểu thuyết hiệp sĩ
phương Tây đều gắn liền với tính chất đại chúng, được phổ biến, lưu truyền
rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, giữa truyền kỳ anh hùng và
tiểu thuyết hiệp sĩ vẫn có những điểm khác nhau, gắn liền với tâm thức văn
hóa, quan niệm và cách xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng. Chẳng hạn,
trong cách xây dựng nhân vật anh hùng. Ở truyền kỳ anh hùng, "thiên về thể
hiện hành động của nhân vật hơn là tâm lý của nhân vật, thiên nhiên được mô
tả sơ sài, ước lệ và ít có tác dụng đến tính cách nhân vật. Diện mạo nhân vật
thường tả theo lối "đẽo phác qua" chứ không tỉ mỉ. Tính cách nhân vật được
thể hiện qua ngôn ngữ nhân vật, chứ không phải qua phân tích của người kể
chuyện..." [99, tr.66]. Trong khi đó, "cái nổi lên hàng đầu ở tiểu thuyết hiệp sĩ
là sự phân tích tâm lý những nhân vật chính - hiệp sĩ - được mô tả cá thể hóa,
họ lập nên chiến tích không phải vì tên tuổi dòng họ hay bổn phận chư hầu
mà vì danh dự của mình và vì vinh quang của người tình" [49, tr. 284]. Các
cuốn tiểu thuyết hiệp sĩ phương Tây có thể kể ra ở đây như: những tiểu thuyết
về các hiệp sĩ "Bàn tròn" và vua Arthur, các tiểu thuyết về mối tình Trixtan và
Idơ...
1.3. Quan niệm anh hùng trong Thủy Hử
1.3.1. Những tiền đề văn hoá, lịch sử và văn học
1.3.1.1. Những tiền đề văn hoá, lịch sử
“Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa”. Nhấn mạnh
về vấn đề này, Bakhtin - nhà bác học lỗi lạc người Nga muốn khẳng định:
nghiên cứu văn học trong dòng chảy lịch sử văn hóa thời đại là một hướng đi
cần thiết. Bởi vì, theo ông, không thể hiểu văn học “ngoài cái mạch nguyên
vẹn của toàn bộ văn hóa một thời đại trong đó nó tồn tại. Không được tách
rời khỏi các bộ phận khác của văn hóa, cũng như không được trực tiếp gắn
nó với các nhân tố xã hội, kinh tế vượt qua đầu văn hóa. Những nhân tố xã
47
hội - kinh tế tác động tới toàn bộ văn hóa nói chung và chỉ thông qua văn hóa
cùng với văn hóa mới tác động tới văn học” [dẫn theo 24, tr. 361-362].
Ra đời vào khoảng cuối Nguyên đầu Minh, tiểu thuyết Thủy Hử của Thi
Nại Am được hình thành trên mảnh đất hiện thực có nhiều biến động của lịch
sử văn hóa Trung Hoa. Nghiên cứu Thủy Hử, trước hết chúng ta phải tìm hiểu
những cơ sở văn hóa, kinh tế, xã hội của thời đại tác động và ảnh hưởng đến
tác phẩm.
Cuối thế kỷ XIII, vó ngựa xâm lược của người Mông Cổ đã hoàn toàn
chinh phục đất nước Trung Hoa rộng lớn, thống nhất Trung Nguyên và thiết lập
nền chính trị cực kỳ tàn khốc. Dưới thời Nguyên, chế độ phong kiến thi hành
chính sách chuyên chế và phản động. Trong đó, mọi đặc quyền, đặc lợi thuộc về
người Mông Cổ. Người trí thức bị đứng vào hàng thấp hơn cả những kẻ “xướng
ca vô loại”, chỉ hơn được người ăn xin, trong thứ bậc đẳng cấp của triều đại qui
định: “nhất quan, nhì lại, tam tăng, tứ đạo, ngũ y, lục công, thất tượng, bát xướng, cửu nho, thập cái”.1 Trong xã hội, họ không có cơ hội tiến thân bằng học
hành, đèn sách vì triều đình nhà Nguyên không tuyển quan lại bằng thi cử. Một
bộ phận nho sĩ trở thành “thuyết thoại nhân” lấy việc kể chuyện làm kế sinh
nhai. Những câu chuyện họ kể có nguồn gốc sâu xa từ trong nhân gian được ghi
chép lại gọi là “thoại bản”. Đây là những cốt truyện rải rác ban đầu để sau này
đâm hoa kết trái thành những bộ tiểu thuyết chương hồi đồ sộ của văn học Trung
Quốc, phát triển rực rỡ dưới hai triều đại Minh - Thanh.
Cuộc khởi nghĩa năm 1368 của Chu Nguyên Chương lập nên triều đại
Hán tộc cuối cùng của Trung Quốc. Đến năm 1644, nước Trung Hoa rơi vào
ách đô hộ của tộc Mãn. Các triều đại đều thiết lập một chế độ quân chủ
1 Nghĩa là, đứng đầu là các quan người Mông, thứ nhì là những người thư lại, thứ ba là nhà sư, thứ tư là đạo sĩ, thứ năm là thầy thuốc, thứ sáu là người thợ, thứ bảy là người làm nghề đúc tượng, thứ tám là người làm nghề hát xướng, thứ chín là các nhà Nho, và thứ mười là ăn mày.
chuyên chế trung ương tập quyền thông qua các chính sách cai trị. Vua chúa
48
đều cố gom thu quyền lợi vào tay mình, triệt tiêu quyền lực của các lực lượng
vây cánh, không trừ cả việc tàn sát nội bộ, trấn áp sự chống đối. Để củng cố
tôn tri trật tự, triều đại nhà Minh thi hành một chính sách văn hoá tàn bạo: đề
cao Tống Nho, thi hành chính sách văn tự ngục. Đó là nỗi kinh hoàng cho biết
bao văn nhân thi sĩ, nhiều khi bị rơi đầu chỉ vì một câu, một chữ bị xem là ám
chỉ đến thời cuộc. Nhà Minh dùng hệ tư tưởng Tống Nho làm nền tảng cho
chế độ chính trị xã hội, xây dựng trên quan điểm lý học duy tâm khách quan
của Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (đời Tống), kết hợp những phần cực đoan
của Lão và Phật, hệ tư tưởng này chính là công cụ tinh thần đắc lực để bảo vệ
chế độ phong kiến. Nó không những khuếch trương những chủ trương gắn
liền quyền lợi của giai cấp phong kiến mà thông qua tính bảo thủ sùng cổ
cứng nhắc giáo điều ràng buộc con người vào những khuôn khổ luân lý hạn
hẹp lỗi thời. Dưới ảnh hưởng chính trị và tư tưởng xã hội, nền học thuật
Trung Hoa bấy giờ suy sụp nghiêm trọng. Lý luận Tống Nho, kinh điển giáo
điều đã câu thúc nền học vấn Trung Hoa vào con đường bế tắc. Lối văn bát cổ
do Minh Thành Tổ đặt ra đã bóp nghẹt tinh thần sáng tạo và truyền thống học
vấn của dân tộc.
Trong khi đó, xu hướng phát triển xã hội dần nảy sinh yêu cầu phải phá
vỡ sự ràng buộc của kinh tế tự nhiên và quan hệ sản xuất phong kiến. Nền
kinh tế Minh - Thanh dần dần có nhiều chuyển đổi và vận động ngầm theo
hướng mới, đi ngoài quỹ đạo của kinh tế phong kiến. Cơ cấu kinh tế chuyển
từ kinh tế nông nghiệp tự nhiên sang dần thủ công nghiệp và thương nghiệp.
Như vậy xã hội Trung Hoa dưới các triều đại Minh - Thanh thật sự đen tối,
đầy rẫy những rối ren và biến động bi thảm. Giai cấp phong kiến trong các
triều đại này đã thiết lập một nền chính trị hà khắc và tàn bạo trên nền tảng
một xã hội đang có những mầm mống thay đổi. Cùng sự hỗ trợ của một hệ tư
tưởng phản động cực đoan và những hoạt động khủng bố văn học, nền chính
49
trị này đã bóp nghẹt xu thế tiến bộ của lịch sử làm cho đời sống nhân dân
khốn cùng về vật chất, bế tắc về tinh thần. Do đó việc nảy sinh một ý thức
mới chống lại ý thức hệ phong kiến cùng với những cuộc khởi nghĩa nông dân
hình thành trong điều kiện lịch sử, kinh tế văn hóa như vậy là một điều tất
yếu. Những tiền đề cơ bản về xã hội kinh tế, văn hóa của thời đại đã tạo cho
văn học phát triển và chuyển mình. Nhìn chung, tình hình xã hội Trung Quốc
ở thời kỳ này, có những tác động về mặt lịch sử xã hội đến văn học, tựu trung
ở những điểm sau:
1. Dưới chế độ chuyên chế độc tài, tàn bạo của các triều đại Minh Thanh,
mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt.
2. Chính sách văn hóa tàn bạo ngục văn tự đã tác động trực tiếp đến đời
sống tinh thần của xã hội, bóp nghẹt xu thế tiến bộ của lịch sử tạo nên
một cục diện phức tạp của đời sống tư tưởng.
3. Sự hình thành và phát triển kinh tế tư bản tạo điều kiện cho việc nảy
sinh một ý thức mới chống lại ý thức hệ phong kiến truyền thống. Đồng
thời, xu thế thông thương, mở rộng thị trường, xuất hiện đô thị và tầng
lớp thị dân là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của văn học, đặc biệt
là thể loại tiểu thuyết.
1.3.1.2. Những tiền đề văn học
Văn học Minh - Thanh có một vị trí quan trọng trong tiến trình vận
động và phát triển của văn học Trung Quốc. Đây là giai đoạn đánh dấu sự
chuyển mình của văn học sang khuynh hướng hiện đại. Đó là sự suy tàn của
văn học chính thống và sự trỗi dậy mạnh mẽ của văn học dân chủ và tiến bộ.
Chính ý thức dân chủ hướng về đời sống hiện thực là động lực thúc đẩy và
mở ra khuynh hướng văn học tiến bộ. Quan niệm văn học có những biến đổi
sâu sắc. Tinh thần chung của các nhà văn tiến bộ thời bấy giờ là văn học phải
phản ánh hiện thực, thể hiện đời sống tinh thần phong phú của con người. Họ
50
đặt những vấn đề hết sức mới mẻ trong quan niệm về văn học cũng như phê
bình văn học “kẻ tầm thường thì mô phỏng, sao nhặt của kẻ khác”. Có thể nói,
những tư tưởng và quan niệm tiến bộ khẳng định cá tính và bản lĩnh của nhà
văn cũng như nhìn nhận đối tượng phản ánh của văn học là một nguyên nhân
dẫn đến sự đổi mới của văn học. Mặt khác, điều kiện khách quan cũng tạo đà
phát triển cho văn học tiến bộ mang quan điểm nhân dân, xa rời quan điểm
chính thống phong kiến. Tầng lớp thị dân thành thị theo đà phát triển xã hội,
trở thành một lực lượng thưởng thức văn học đông đảo. Thơ, phú, tản văn ít
được ưa chuộng. Tác giả văn học muốn viết đầy đủ ý tưởng, không thể chấp
nhận mãi hình thức văn học ngắn gọn, tinh tế câu chữ, nghĩa lý sâu xa. Cần
phải có một thể loại văn học mới, hành văn trôi chảy dễ hiểu, có thể tránh
được búa rìu của chế độ phong kiến lại có thể trình bày hết các vấn đề phổ
cập rộng rãi đáp ứng sự đón nhận của đông đảo quần chúng nhân dân.
Nhìn chung, đời sống tinh thần của nhân dân thời bấy giờ không thích
hợp với các thể loại bác học tinh tế truyền thống. Họ thích những vấn đề gần
gũi mà phổ quát, quen thuộc nhưng đa dạng hấp dẫn thị hiếu, mức thẩm thấu
trung bình, chủ yếu để giải trí và hiểu biết thêm. Những yêu cầu về đổi mới
văn học và thể loại văn học được đặt ra. Trong tiến trình vận động của văn
học Trung Quốc thế kỷ XIV-XVI, vượt qua những thành tựu xuất sắc của hý
kịch Minh - Thanh, tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc hơn bất kỳ thể loại nào
khác đáp ứng yêu cầu mô tả hiện thực cuộc sống, giải quyết xuất sắc nhu cầu
chuyển đổi văn học, sự tiến bộ thể loại và tầm đón đợi của đông đảo quần
chúng nhân dân. Nghề in phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu hành
tác phẩm rộng rãi, nhanh chóng. Các nhà xuất bản cũng chú ý đến các tác
phẩm có dung lượng lớn được tầng lớp thị dân ham thích và hoan nghênh. Do
đó tiểu thuyết đặc biệt được chú trọng và có khả năng phát triển mạnh. Từ đời
nhà Nguyên trở về trước, văn học Trung Quốc chỉ có tác phẩm ngắn đề cao
51
quan niệm ít lời nhiều ý, tiểu thuyết cổ điển ra đời đã phá vỡ lối viết ngắn đó
bằng những câu chuyện trường thiên bao quát một không gian vô cùng rộng
lớn, thời gian kéo dài hàng trăm năm với những xung đột dữ dội mang tính
thời đại sâu sắc. Ra đời trong thực tế văn học truyền thống đang chịu sự chi
phối của tư tưởng phục cổ, các thể loại dần dần sa vào chủ nghĩa hình thức,
non kém về nội dung và nghệ thuật, tiểu thuyết Minh - Thanh không chấp
nhận những con đường phát triển cũ kỹ đó. Các tác phẩm thời kỳ này thay đổi
hình thức và nội dung khác hẳn dung mạo văn học quá khứ mà thơ, từ, tản
văn các loại không thể sánh kịp. Trên tinh thần của một thể loại văn học mới,
cùng với xu hướng đổi mới của văn học Minh - Thanh, tiểu thuyết Trung
Quốc đã phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu rực rỡ, đặc biệt là
thể loại tiểu thuyết chương hồi. Trong hệ thống thể loại văn học Minh Thanh,
tiểu thuyết chương hồi vừa kế tục truyền thống vừa có những bước phát triển
mới, tạo nên diện mạo của văn học thời đại, đánh dấu sự chuyển mình của văn
học trong xu hướng hiện đại hóa. Văn học chính thống thoái trào nhường chỗ
cho xu thế dân chủ phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ mới của nhân dân, đáp ứng
nhu cầu thẩm mỹ của đông đảo quần chúng nhân dân, nhất là tầng lớp thị dân.
Đầu đời Minh đã xuất hiện những bộ tiểu thuyết đồ sộ như: Tam Quốc diễn
nghĩa, Thủy Hử… Trong số đó, Thủy Hử là một trong những bộ trường thiên
tiểu thuyết lớn nhất của Trung Quốc, khẳng định sự khởi sắc và định vị sự
phát triển của tiểu thuyết chương hồi. Lấy đề tài lịch sử về cuộc khởi nghĩa
cuối thời Bắc Tống thế kỷ XII, tác phẩm phát triển thành bài ca cách mạng
hào hùng của quần chúng nhân dân trong một bức tranh hiện thực vô cùng
phong phú. Đó là sự gặp gỡ kỳ diệu giữa cảm quan nghệ thuật và hiện thực
lịch sử, giữa chân lý nghệ thuật và hiện thực cuộc sống.
52
1.3.2. Quan niệm anh hùng trong Thủy Hử nhìn từ quan niệm nghệ thuật
về cuộc đời và con người của Thi Nại Am
Trong văn học, hiện thực khách quan là tiền đề, là cái được phản ánh,
còn lựa chọn và tổ chức sự phản ánh là do thế giới quan qui định. Các nhà lý
luận văn học đều nhấn mạnh đến vai trò của thế giới quan đối với sáng tác
văn học cùng với vốn sống, trình độ văn hóa, tài năng, cá tính của nhà văn.
Những yếu tố này cùng với thế giới quan hình thành nên quan niệm nghệ
thuật của nhà văn về cuộc đời và con người. Vì vậy, việc tìm hiểu quan niệm
nghệ thuật của Thi Nại Am sẽ góp phần lý giải thế giới nghệ thuật của tác
phẩm, trong đó có nhân vật cùng với quan niệm về nhân vật anh hùng trong
Thủy Hử.
1.3.2.1. Quan niệm nghệ thuật về cuộc đời của Thi Nại Am
Văn hóa Trung Hoa đã góp phần hình thành những quan điểm triết học
- mỹ học độc đáo của hệ thống tư tưởng “minh triết” Phương Đông. Đó là cơ
sở để “nhận thức thực tại và nhận thức các sự vật riêng lẻ của vũ trụ, thiên
nhiên, xã hội và con người trong một thể thống hài hòa và cân đối về tinh
thần và vật chất” [50, tr.13]. Vì vậy, sự chi phối của những quan niệm đặc thù
thời trung cổ như vũ trụ, con người, cuộc đời tư tưởng đã được thể hiện rất rõ
trong văn học. Các nhà văn đều thể hiện cái nhìn mang tính quan niệm của
văn hóa truyền thống khi nhìn sự vận động của lịch sử dân tộc. Đó là sự vận
động có tính tuần hoàn theo những chu kỳ của vũ trụ, theo đó mà sự hưng
thịnh hay suy vong của quốc gia dân tộc cũng có qui luật vĩnh hằng của nó.
Đó là “Hợp lâu tất phân, phân lâu tất hợp”. Trên mạch thời gian miên viễn ấy,
“sự việc muôn màu đều trở về nguồn gốc của nó” (Đạo đức kinh). Từ loạn lạc
thời Ngũ đại Thập Quốc cho đến khi Triệu Khuông Dẫn lập nên nhà Đại Tống
là chuyển sang thái bình. Đến thời Tống Nhân Tông thì xảy ra nạn ôn dịch
hoành hành. Sau đó lại thịnh trị và đến đời Tống Huy Tông loạn lạc lại xảy ra
53
- cuộc khởi nghĩa Tống Giang ở Lương Sơn là một tất yếu lịch sử và kết thúc
tác phẩm là thời kì thái bình. Để lý giải vấn đề này, Thi Nại Am đã thể hiện
cái nhìn biện chứng trong việc khái quát lịch sử Trung Quốc. Đó là lịch sử
của một nước luôn luôn biến động “hợp lâu tất phân, phân lâu tất hợp”,
“trong trị có loạn, trong loạn có trị”. Lịch sử của đất nước, dân tộc, dưới cái
nhìn văn hóa Trung Hoa luôn chịu sự chi phối của qui luật hợp phân. Điều
này đã được các nhà nghiên cứu thừa nhận trong rất nhiều công trình. Quan
niệm phân - hợp này luôn bắt nguồn từ sự quan sát và suy luận của người xưa
trước vạn vật phức tạp và huyền bí. Họ phát hiện trong vũ trụ “có hai cái
không cùng: không gian và thời gian. Không gian là vô cùng, thời gian là vô
tận” [94, tr.417]. Họ cho rằng tồn tại trong không gian và thời gian ấy có hai
khí Âm và Dương tương hỗ giao hòa, đồng biến giao thác xoay vần với thời
gian và muôn vật từ đó mà ra [94, tr.417]. Nó biến hoá không cùng trong vũ
trụ tạo nên tính chu kỳ lặp lại của thời gian, của hiện tượng vũ trụ cùng với sự
biến đổi không ngừng của vạn vật. Biến hóa, dịch chuyển, phát triển là tư
tưởng cơ bản của Chu Dịch - một trong những tư tưởng triết học cổ xưa nhất
của người Trung Quốc. Chu Dịch lấy luật âm dương làm cơ bản, chỉ bằng 2
vạch âm dương chồng lên nhau, giao đãi lẫn nhau mà diễn tả tất cả quan niệm
của người Trung Hoa từ vũ trụ đến nhân sinh, đến bao quát tất cả qui luật tự
nhiên và xã hội con người. Âm dương là bản thể của thái cực. Thiên Hệ từ
trong Chu Dịch nói rằng: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ
tượng, tứ tượng sinh ra bát quái” [94, tr.99]. Từ 8 quẻ đơn này, Phục Hy lại
đặt quẻ nọ lên quẻ kia tức là trùng quái, luân phiên hết một lượt thì được 8 x 8
= 64" [94, tr.343].
Từ lưỡng nghi đến 64 quái, sự sắp xếp tương đương với phương pháp
sắp xếp trong toán học:
22 = 4 (tứ tượng)
54
23 = 8 (bát quái) 26 = 64 (64 quái)
Theo một qui luật có tính logic, “thể hiện tác dụng tương hỗ của âm
dương và trở thành một trật tự có tiết tấu” [58, tr.25]. Đây là sự nhận thức
của người Trung Hoa cổ về những điều vô cùng kỳ diệu trong mối quan hệ
hữu cơ của giới tự nhiên. Nhận thức ấy trở thành quan niệm chi phối văn hóa
tư tưởng của họ mà ngày nay vẫn mãi hấp dẫn các nhà khoa học trên thế giới:
“Nhà triết học thấy Kinh Dịch, đã giác ngộ ra đạo lý lớn bao trùm trời đất từ
đó; Leibniz - Người Đức thấy Kinh Dịch, đã nhận ra tiền đồ của phép nhị tiến
trong toán học; Nghiêm Quân Bình học Kinh Dịch, xây dựng nên hệ thống
Dịch Học, Huyền Học” [58, tr.6]. Bởi lẽ, trong 64 quẻ ấy, chứa đựng tất cả
qui luật bao quát rộng lớn. Sở dĩ như vậy là do “âm trung hữu dương căn,
dương trung hữu âm căn” (trong âm có dương, trong dương có âm). Đây có
thể được xem là căn bản của vạn biến, có nghĩa là hiện tượng nào cũng có sẵn
mầm tự hủy của nó, trong thịnh có mầm suy, trong sự trị có mầm sự loạn,
trong sự sống có mầm sự chết. Không thể có mặt này mà không có mặt kia,
tức là nó phải có đủ hai mặt thì mới thành một hiện tượng, mới thành vũ trụ
và vạn vật. Sự sắp xếp 64 quẻ của Chu Dịch khởi đầu từ 2 quẻ càn - khôn tức
là trời đất, gốc của vạn vật, ở giữa là hai quẻ hàm-hằng: đạo vợ chồng, gốc
của xã hội, tận cùng bằng hai quẻ: ký tế (63) và vị tế (64). Ký tế là đã vượt
qua sông đã xong, đã thành, là hết. Nhưng vạn vật không thể cùng tận được
nên tiếp theo là quẻ vị tế tượng trưng cho đạo trời tuần hoàn mãi mãi, việc ở
đời cũng vô cùng, vô tận.... Sự biến dịch của vạn vật như vậy là không bao
giờ hết. Dịch cho ta niềm hi vọng ở tương lai, thật là một triết lý lạc quan về
sự sống. Vì vậy, phương thức tư duy của hệ tư tưởng triết học là phải nhận
thức sự vật trong tính toàn vẹn thống nhất, không thể cắt chia của nó với
nguyên lý thống nhất của con người, với trời đất (thiên - địa - nhân). Sự biến
55
dịch của vạn vật phải đặt trong hệ thống chuyển dịch chung của đại tự nhiên,
tức là nó mang tính vô thủy vô chung của đại vũ trụ. Quan niệm này trong
Kinh Dịch có sự gặp gỡ với tư tưởng của Lão Tử “vạn vật quy kỳ căn” (vạn
vật lại quay về gốc) và thuyết luân hồi của Phật giáo. Thi Nại Am cùng với
các nhà văn cùng thời đã ảnh hưởng các học thuyết trên trong quan niệm của
mình về cuộc đời. Đó là quan niệm hợp phân, mà cốt lõi là qui luật đổi thay,
hưng vong của thế sự từ đó chi phối mạnh mẽ đến số phận cá nhân của con
người. Theo Xêmanôp, nhà nghiên cứu văn học người Nga thì tư tưởng cơ
bản của các nhà văn cổ điển Trung Quốc là tư tưởng của sự phát triển: “ta
cũng nhận thấy một số tính chất quan trọng của hiện thực là tính chất chung,
tính lặp lại của các sự kiện và chính là sự cần thiết của những sự biến đổi xã
hội” [107, tr.10]. Ông cho rằng: nhà nghiên cứu Tôn Trạn Tây đã nhận xét rất
đúng tư tưởng trên đây về “sự thay đổi của tan và hợp” tiến bộ hơn nhiều so
với tư tưởng “tính vĩnh hằng và sự bất biến của nền thống trị” [107, tr.10].
Nhìn sự vật, hiện tượng, cuộc đời của nhà văn trong thế vận động là một cái
nhìn tiến bộ so với tư tưởng vĩnh hằng bất biến của nền thống trị mà giai cấp
Trung Hoa vẫn thường tuyên truyền.Vì vậy, sự hội ngộ của các anh hùng nơi
bến nước cũng là một hiện tượng tất yếu của lịch sử.
Cùng với thuyết hợp phân, trong Thủy Hử, dấu ấn của thuyết thiên
mệnh cũng chi phối mạnh mẽ đến sự vận động của lịch sử, đất nước, triều đại,
cũng như số phận con người. Thiên mệnh chính là sức mạnh siêu nhiên huyền
bí của trời đất. Đó là niềm tin của con người về mọi biến cố của thế giới trần
gian, sự hưng vong của các triều đại, những hạnh phúc khổ đau sinh tử biệt ly
ở đời do mệnh trời xoay chuyển. Trong Thủy Hử, cuộc khởi nghĩa Tống
Giang ở Lương Sơn Bạc là do Hồng Thái Úy để xổng 108 vị ma quân. Sự
ngẫu nhiên mang yếu tố kỳ ảo của luồng hắc khí tung lên trời, tan ra 110 đạo
Kim Quang chia đi khắp bốn phương tám ngả, thật ra, cũng là điềm trời định
56
trước. Có một cái hốc đá vuông ghi dòng chữ “gặp Hồng thì mở” trong tòa
điện phục ma mấy trăm năm về trước. Vì vậy Hồng Thái Úy để sổng ma quân
cũng nằm trong thiên mệnh. Cửu Thiên Huyền Nữ giao cho Tống Giang 3
cuốn thiên thư là do trời muốn Tống Giang thay trời hành đạo, lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa. Giấc mơ của Tiều Cái ứng với 7 ngôi sao bắc đẩu hình thành lực
lượng đầu tiên của Lương Sơn Bạc gồm: Tiều Cái, Lưu Đường, Ngô Dụng,
Công Tôn Thắng và 3 anh em họ Nguyễn (hồi 15). Đối với số phận con
người cũng không nằm ngoài qui luật “sinh tử hữu mệnh, phú quí tại
thiên”(Luận ngữ). Tống Giang trong Thủy Hử vì vâng mệnh trời mà luôn
được thần thánh che chở. Ở hồi 41, khi anh em Triệu Đắc, Triệu Năng cùng
thổ binh cầm đuốc soi lên bàn thờ trong miếu để bắt Tống Giang thì “dè đâu
khói lửa bốc lên làm cho bụi bặm ở trên rơi xuống, rơi ngay vào giữa mắt
Triệu Đắc, chàng ta liền nhắm nghiền mắt lại, mà vứt ngay bó đuốc xuống
đất, đạp dọi tắt đi, mà chạy ra ngoài cửa điện”. Rồi “bỗng nổi lên một trận
quái phong, ném tung cát đá, làm cho tòa cổ miếu như là chuyển động ầm
ầm, mây đen mờ mịt bao bọc xung quanh, khiến người đứng đó ai cũng sởn
gai đứng tóc mà kinh sợ vô cùng”. Thần minh không bằng lòng, khiến thổ
binh ngã lăn ở sân miếu, “rễ cây quấn cả áo xống”. Tống Giang được chúa
Cửu Thiên Huyền Nữ mời rượu sen, ăn táo tiên và trao sách trời...Điềm gãy
cờ khi Tiều Cái xuất quân đánh Tăng Đầu Thị như báo hiệu thất bại, cùng số
trời của Tiều Cái đã hết. Như vậy cùng với thuyết “hợp phân” tư tưởng thiên
mệnh cũng chi phối mạnh mẽ đến quan niệm nghệ thuật của Thi Nại Am
trong việc sắp xếp, tổ chức xây dựng thế giới nhân vật, cũng như thể hiện
quan niệm anh hùng. Các vị anh hùng đều là những ngôi sao thiên cang và
địa sát họ xuất hiện và hành đạo hợp lẽ với cơ trời mà cũng là ý nguyện của
nhân dân. Có thể khẳng định thuyết hợp phân và thiên mệnh là những cơ sở
triết học của quan niệm nghệ thuật về cuộc đời trong các tác phẩm tiểu
57
thuyết cổ điển Trung Quốc, trong đó có Thủy Hử. Đây cũng là đặc điểm loại
hình của văn học cổ điển Trung Quốc nói riêng và văn học Phương Đông nói
chung.
1.3.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người
Con người trong quan niệm của triết học cổ Phương Đông là một tiểu
vũ trụ hòa đồng với tư cách ngang bằng với đại vũ trụ, với đại tự nhiên và xã
hội. Trong Kinh Dịch mỗi quẻ đều có 3 hào đại diện cho tam tài “thiên - địa -
nhân”. Tư tưởng tam tài này trong Kinh Dịch đã lấy con người làm trung tâm
để đưa ra quan điểm “thiên nhân hợp nhất”, “thiên địa hợp nhất” trong mối
quan hệ “bảo hợp đại hòa”. Toàn thể vũ trụ theo Kinh Dịch là một chỉnh thể
sinh mệnh (sự sống) trong biến hóa phát triển một cách thống nhất hài hòa.
Biến hóa phát triển là bản chất của sự sống còn thống nhất hài hòa là đảm bảo
cho sự sống, được phát triển thuận lợi. Quẻ “thái” trong Chu Dịch có nghĩa là
thông thương “tâm” với vật phải là một, âm dương tương giao, các bên thông
suốt với nhau thì mới có tượng cát hanh. Điều này đã dẫn đến lý luận về sự
thống nhất hài hòa giữa các thành tố trong một tác phẩm văn học trong đó yếu
tố con người là trung tâm của sáng tạo văn học nghệ thuật. Là một hoạt động
nhận thức nên sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng mang tính quan niệm. Vì vậy,
con người trong văn học là con người được phản ánh và thể hiện theo quan
niệm của tác giả: “Con người, nó là ai? Vị trí của nó trong trời đất này, trong
nhân quần, xã hội này? Con người thế nào là thiện mỹ? Con người thế nào là
mới xứng con người?”.
Cách lý giải những câu hỏi ấy làm nên hệ thống quan niệm nghệ thuật
về con người [47, tr.35-36]. Vậy quan niệm nghệ thuật về con người là gì?
Trong Dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử cho rằng,
Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải cắt nghĩa, sự
cảm thấy con người được hóa thân thành các nguyên tắc phương
58
tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị
nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó
[85, tr.41].
Quan niệm nghệ thuật về con người là sản phẩm của lịch sử văn hóa, tư
tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học. Trong lịch sử triết học Trung Quốc kể từ
thời Tống trở đi có hiện tượng Tam giáo đồng nguyên. Đó là sự hỗn hợp có
tính chất dung hòa Nho - Phật - Đạo. Trong đó, Nho giáo trở thành một hệ ý
thức thống trị từ rất sớm phục vụ cho sự phát triển có lợi cho giai cấp phong
kiến. Trong xã hội phong kiến Trung Quốc, dưới ảnh hưởng của Nho giáo,
mối quan hệ giữa sáng tác văn học và tư tưởng đạo đức bị bó hẹp trong yêu
cầu “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”. Do đó, những tác phẩm ưu tú thời
Minh - Thanh không thể không chịu ảnh hưởng bởi ý thức Nho giáo chỉ có
điều mỗi tác giả, mỗi tác phẩm ảnh hưởng ở mức độ khác nhau sẽ làm nên giá
trị đặc sắc riêng của mình. Cùng được xây dựng từ những truyền thuyết anh
hùng tồn tại trong dân gian từ nhiều thế kỷ nhưng quan niệm nghệ thuật về
người anh hùng trong Thủy Hử có khác so với Tam Quốc diễn nghĩa và Tây
du ký. Xã hội Trung Quốc cuối đời Đông Hán được phản ánh trong Tam Quốc
diễn nghĩa là một xã hội rối ren, thối nát cực điểm. Cuộc khởi nghĩa Hoàng
Cân nổ ra, mặc dù thất bại nhưng chứng tỏ xã hội Trung Quốc đen tối và bế
tắc. Nhân dân phải gánh chịu hậu quả của những cuộc chém giết để tranh
giành quyền bính giữa các tập đoàn phong kiến. Kết quả của những cuộc
chiến tranh chém giết lẫn nhau đó là sự tồn tại của 3 tập đoàn thống trị lớn
nhỏ: Ngụy - Thục - Ngô. Vì vậy, người anh hùng xuất hiện là để ổn định
thống nhất thiên hạ thu giang sơn về một mối. Họ sẵn sàng xả thân vì sự
nghiệp lớn, đem tài trí của mình sửa đổi cục diện phân tranh xây dựng sự
thống trị đế vương của dòng họ. Quan niệm nghệ thuật về người anh hùng
trong Tam Quốc diễn nghĩa chịu sự chi phối tư tưởng nho giáo chính thống.
59
Nhân vật trong Tam Quốc diễn nghĩa đều được soi chiếu tư tưởng đạo đức
của Khổng giáo. Đó là những con người tuyệt nhân, tuyệt nghĩa, tuyệt trí,
tuyệt dũng sống và hành xử theo quan niệm “tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”. Mục đích lý tưởng của họ suy cho cùng là “bình thiên hạ” thành
của riêng mình. Trong khi đó Thủy Hử miêu tả sự phản kháng của nhân dân
thông qua hình tượng 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc. Với hiện thực đen tối
bi thảm của một nền chính trị cực kỳ thảm khốc, người anh hùng trong Thủy
Hử xuất hiện cùng khát vọng phá vỡ trật tự xã hội đương thời. Họ phải “thay
trời hành đạo”, “đoạt phú tế bần” đứng lên chống lại sự thối nát bất công.
Thấy những bất bình trong thiên hạ thì sẵn sàng ra tay cứu giúp. Lưỡi gươm
của họ hào hiệp vung lên trừ gian diệt ác, giúp đời. Giúp đời ở đây không phải
ở lý tưởng tôn thờ minh chủ, trí quân trạch dân nữa, mà đối tượng cứu giúp
của họ là hướng về những người dân bị áp bức: người nghèo, người hiền, yếu
thế đơn côi, bị cường hào ác bá ăn hiếp, bị bọn trộm cướp bắt nạt… Trong
quan niệm tư tưởng phong kiến chính thống, người anh hùng trong Thủy Hử
là những kẻ phản nghịch dám chống lại triều đình. Nhưng đối với nhân dân,
họ là những anh hùng sẵn sàng quên mình, hào hiệp đấu tranh cho lẽ phải ở
đời. Mục đích của họ là xây dựng một xã hội lý tưởng không có áp bức bất
công, không có người bóc lột người. Ở đó, con người sống bình đẳng, yêu
thương trong mối quan hệ huynh đệ chan hòa....Chính lối sống tự do phóng
khoáng, tung hoành bốn bể và hưởng thụ hết mình của những hảo hán Lương
Sơn Bạc là sự khúc xạ của khát vọng sống tự do, không bị quan lại đè nén bóc
lột của nhân dân. Vì vậy việc xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng và quan
niệm anh hùng trong mỗi tác phẩm không thể giống nhau. Tam Quốc diễn
nghĩa xây dựng người anh hùng là biểu tượng của những ông vua hiền, tướng
giỏi. Còn Thủy Hử cần xây dựng người anh hùng phản nghịch chống lại xã
hội bất công. Chính mục đích thống nhất thiên hạ của người anh hùng Tam
60
Quốc diễn nghĩa và khát vọng phá vỡ trật tự xã hội đương thời của người anh
hùng Thủy Hử dẫn đến những kiểu người anh hùng khác nhau. Người anh
hùng trong Tam Quốc diễn nghĩa là người anh hùng phong kiến chính thống.
Trong Thủy Hử là người anh hùng nhân dân “thay trời hành đạo” trong một
thời đại quá nhiễu nhương đen tối. Con đường lên Lương Sơn Bạc của họ,
cuộc đời và thân phận của bao anh hùng hảo hán đã chứng minh được rằng:
chỉ có phản kháng đấu tranh mới giải quyết được bất công ngang trái. Chống
lại triều đình, “giết hết quan tham cùng lại nhũng” (Lời hát của Nguyễn Tiểu
Ngũ - hồi 18) là biểu hiện của “lòng trung” theo cách tự giải thích của họ.
Muốn lập nên một mô hình nhà nước lý tưởng theo kiểu của riêng mình, một
số anh hùng Thủy Hử chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ lật đổ ngôi vua. Tư tưởng
trung quân vẫn còn ảnh hưởng đáng kể trong tác phẩm. Nhưng trên thực tế,
hành động của họ là sự đổ vỡ chữ Trung. Từ bảy hảo hán tụ tập tại thôn Đông
Khê, cướp 10 vạn quan bạc vàng phi nghĩa của Lương Trung Thư đến hàng
trăm đầu lĩnh, hàng vạn lâu la đi đánh thành cướp trại của bọn quan lại cường
hào khét tiếng, từ chỗ chẹn đường mang yếu tố “lạc thảo” đến ba lần đánh
Chúc Gia Trang, Tăng Đầu Thị, Phủ Đại Danh, thắng lớn ở Đông Xương là
những minh chứng hùng hồn cho hành động “đoạt phú tế bần” vì dân trừ hại.
Đó là những anh hùng phản nghịch chống lại triều đình. Từ “Tụ Nghĩa Sảnh”
đến “Trung Nghĩa Đường” cũng là một quá trình hình thành và lớn mạnh của
lực lượng nghĩa quân có tư tưởng xã hội hoạt động rõ ràng, thực hiện công
bằng cho nhân dân, cướp của bọn quan lại, bọn nhà giàu đục khoét của nhân
dân, sẵn sàng bảo vệ bênh vực người nghèo. Trung Nghĩa Đường được bao
bọc quanh một vùng nước non rộng lớn biến thành cơ quan chính trị của một
nhà nước lý tưởng có hệ thống kinh tế, có lực lượng quân đội riêng được xây
dựng trên quan hệ huynh đệ với mọi người. Giữa cuộc sống tự do ấy, tha hồ
mà uống rượu bằng bát, ăn thịt cả tảng, vàng bạc châu báu nài nỉ mà nhường
61
nhau từng vốc lớn. Thật là thú vị! Mục đích cuối cùng của các anh hùng trong
Thủy Hử là phấn đấu cho một xã hội công bằng với sự tự do hưởng lạc như tất
cả những nhu cầu hưởng thụ bình thường nhất của một con người. Họ thích
và ham muốn những cái mọi người bình thường ham muốn như vàng bạc, ăn
uống no say thỏa thích. Thủy Hử được viết dưới khát vọng tự do của tầng lớp
thị dân. Vì vậy, nhân vật mang tư tưởng quan niệm của nhân dân đặc biệt là
tầng lớp thị dân. Chính vì vậy, mà hình ảnh những anh hùng Lương Sơn Bạc
không có sắc tướng hoàng quyền dù cho có huyết thống cao quý, họ vẫn
mang nét đẹp rất dân dã bình dị. Khác với Lưu Bị, Tôn Quyền, Tào Tháo,
phần lớn, người anh hùng trong Thủy Hử, là những cá nhân có thành phần
xuất thân bình thường. Họ “sống trọng nghĩa khinh lợi” nhưng đồng thời
cũng không phủ nhận sức mạnh của kim tiền. Điều này cũng được nhiều nhà
nhà nghiên cứu thừa nhận. Đối với các anh hùng hảo hán Lương Sơn, chữ
“nghĩa” được xem trọng nhưng nghĩa và lợi không đối lập nhau. “Nghĩa”
cũng được thực hiện qua “lợi” (tiền, vàng). Nhiều trường hợp không có tiền
khó thực hiện được “nghĩa”. Tống Giang, Sài Tiến muốn giúp đỡ người
nghèo, những anh hùng sa cơ thất thế, giang hồ khắp chốn, ngoài tấm lòng
hào hiệp thì cũng phải có tiền. Nếu không có tiền đút lót cửa quan thì các anh
hùng Lương Sơn Bạc cũng khốn khổ vô cùng. Hình ảnh xã hội Lương Sơn
phân công lao động theo đúng sở trường, sở đoản của từng người càng thể
hiện rõ ý thức của thị dân. Vì vậy, chúng ta có thể thấy rõ tư tưởng trung quân
tuy có ảnh hưởng nhưng chỉ đi vào ý thức của một số nhân vật anh hùng chứ
không thành nguyên tắc xây dựng nhân vật. Điểm này là một khác biệt rất lớn
so với Tam Quốc diễn nghĩa. Xét từ đặc điểm thể loại, tiểu thuyết Thủy Hử là
truyền kì anh hùng lấy việc miêu tả các anh hùng là chính. Nhân vật anh hùng
trong Tam Quốc diễn nghĩa là sự hóa thân của lễ giáo phong kiến còn nhân
vật anh hùng trong Thủy Hử mang quan niệm đạo đức thẩm mỹ đậm màu sắc
62
dân gian, đặc biệt là của tầng lớp thị dân, một lực lượng thưởng thức văn học
đông đảo thời bấy giờ. Vì vậy nguyên tắc miêu tả người anh hùng trong Thủy
Hử một mặt chịu sự chi phối của văn hóa thời đại vừa mang tính lý tưởng phi
thường lại vừa mang tính cách dung dị, đời thường. Họ là những con người
anh hùng mang nặng tình cảm gia đình bên cạnh mục đích lý tưởng. Tình cảm
vợ chồng, cha mẹ con cái là những sợi dây ràng buộc thiêng liêng của người
anh hùng với những giá trị đạo đức tinh thần của nhân dân. Lâm Xung ràn rụa
nước mắt khi nghe tin dữ ở nhà, Tống Giang khóc lớn khi nghe cha già khuất
núi, Võ Tòng đau đớn trước cái chết oan khuất của anh trai Võ Đại.... Điều đó
cũng cho thấy rõ rằng, nhân vật được nhìn qua lăng kính rất nhân bản của nhà
văn: người anh hùng than khóc trước nỗi đau rất Người trong họ. Yếu tố sử
thi nhạt dần trong quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm. Con
người trong Thủy Hử chịu sự ràng buộc sâu sắc của luân lý gia đình. Lâm
Xung nhẫn nhịn Cao Nha Nội vì biết đó là con của Cao Cầu. Nếu đánh hắn tất
hại đến vợ con gia đình. Tống Giang đã hơn một lần bước tới Lương Sơn
nhưng rồi lại quay về vì chữ hiếu. Võ Tòng thương anh mà trả thù đẫm máu
chấp nhận tù đày. Nếu như nhân vật anh hùng trong Tam Quốc diễn nghĩa
được miêu tả mang đậm màu sắc thần thoại sử thi, vượt lên trên nỗi đau, nhất
là nỗi đau về thể xác, thì nhân vật trong Thủy Hử càng được miêu tả càng
được nhân tính hóa. Những đau đớn về thể xác chứng tỏ họ là những con
người bằng xương bằng thịt. Võ Tòng bị ốm người, run bắn lên không chịu
được lạnh, phải ngồi mà sưởi ấm. Tiều Cái bị tên bắn vào má, li bì mê mệt
cơm cháo không ăn, toàn thân bủng beo khóc than thảm thiết. Tống Giang chỉ
vì “ham ăn cá nhiều đến nỗi canh tư ấy sinh ra chứng đau bụng, từ bấy đến
sáng chàng đi tả cho tới hai mươi lần, mê mệt nằm trong phòng không sao
dậy được” (hồi 38). Lâm Xung bị nhúng chân vào chậu nước sôi thì rên rỉ kêu
la quằn quại nằm vật ra, ăn không được mà đi cũng không xong. Như vậy, các
63
anh hùng Thủy Hử, dù có sức khỏe vô song đến mấy cũng không chống lại sự
đau đớn về thể xác, đó là những nét rất đời thường của con người anh hùng.
Điểm đặc sắc trong quan niệm nghệ thuật về con người ở đây còn thể
hiện rất rõ trong lý tưởng đại đồng của người bình dân. Thực ra thì trong kinh
điển của Nho gia trước đó đã xuất hiện một lý tưởng đại đồng. Thiên Lễ vận
sách Kinh Lễ có ghi:
Đạo lớn được thực hành thì thiên hạ là của chung. Kén chọn kẻ
có tài có đức làm việc, giảng giải điều tín nghĩa, sửa trị điều hòa
mục. Cho nên, mọi người không riêng thân cha mẹ mình, không
riêng yêu con mình, khiến người già cả có chỗ nuôi nấng trọn
đời, người trẻ khỏe có chỗ sử dụng năng lực, các thiếu niên được
nuôi dạy khôn lớn. Thương người đàn bà góa, thương những đứa
con côi và người già không nơi nương tựa, những người tàn tật
phải có chỗ nuôi dưỡng, con trai đều có sự nghiệp, con gái đều
có chồng con. Như vậy, nếu có của cải vứt bỏ dưới đất e rằng
cũng không ai lấy mà cũng không cần thiết phải cất giữ cho
riêng mình. Còn về năng lực thì chỉ e không có cách gì để thi thố
mà không cần phải giữ làm của riêng. Do đó, mọi âm mưu đều bị
lấp kín không thể xảy ra, mọi hành vi trộm cắp gây rối, giặc
cướp đều không thể nổi dậy, cửa ngõ không phải đóng. Như thế gọi là đại đồng1.
Có thể thấy rằng, ước mơ về xã hội lý tưởng mà ở đó ai ai cũng lao
động, cũng được hưởng thụ một cách công bằng đã có từ rất lâu rồi. Nhìn
chung, lý tưởng ấy có phần thích hợp với mục tiêu và lý tưởng của những
cuộc khởi nghĩa nông dân trong lịch sử Trung Quốc: thể hiện ở nguyện vọng
1 Dẫn theo Lương Duy Thứ (2008), Đại cương văn hóa Phương Đông, nhà xuất bản Đại học Huế, tr26
công hữu tài sản và xóa bỏ đẳng cấp. Lịch sử đã chứng minh rằng, do quyền
64
lợi về kinh tế, mâu thuẫn nghiêm trọng với địa chủ với quan lại cũng như áp
bức về chính trị nên phần nhiều các cuộc khởi nghĩa nông dân đều nêu khẩu
hiệu bình đẳng về kinh tế. Cuộc khởi nghĩa của Vương Tiên Chi thời Vãn
Đường xưng tước hiệu “Thiên Bổ Bình quân Đại tướng quân kiêm hải nội chư
hào đô thống” cho thấy chủ nghĩa bình quân trong mục tiêu của cuộc khởi
nghĩa. Thời Bắc Tống, cuộc khởi nghĩa của Vương Tiểu Ba, Lý Thuận cũng
giương cao ngọn cờ “quân bình phú”(bình quân giàu nghèo), Dương Ma khởi
nghĩa vào cuối thời Nam Tống cũng đề cao khẩu hiệu “đẳng quí tặc”. Thời
Minh Mạt, cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Thành cũng lấy khẩu hiệu “quý tặc
quân điền” làm tôn chỉ. Từ những thực tế lịch sử trên, cho thấy, nhân dân đều
dựa vào lý tưởng bình quân làm mục tiêu đấu tranh, lấy đó làm vũ khí lý luận
cho thực tiễn hành động cướp phú tế bần của mình. Thực chất, đó là hành vi
tước đoạt của người giàu chia cho người nghèo. Trong một điều kiện lịch sử
xã hội cụ thể, lý tưởng bình quân thể hiện sự điều phối của xã hội để ổn định
mức sống tối thiểu cho con người trong xã hội. Ở một chừng mực nào đó thể
hiện tính chất nhân văn trong đời sống của xã hội loài người: tôn trọng con
người và những quyền lợi rất nhân bản của con người. Nhưng lịch sử xã hội
phong kiến Trung Quốc cho thấy, lý tưởng đại đồng được ghi trong sách Lễ
Ký chưa bao giờ trở thành hiện thực và đã không bao giờ trở thành hiện thực.
Nó thuộc phạm trù lý tưởng, nên trong Thủy Hử, Thi Nại Am đã kết hợp được
lý tưởng xã hội của sĩ đại phu và lý tưởng xã hội của người nông dân ở một
vương quốc mới: Lương Sơn Bạc. Nếu so sánh với sự hắc ám của xã hội
phong kiến thời Tống và kéo dài rất lâu sau đó (Nguyên - Minh- Thanh) thì rõ
ràng Lương Sơn Bạc là một vùng trời đầy ánh sáng. Ở đây, không tồn tại đặc
quyền về đẳng cấp, không có sự phân biệt quý hay tặc, tất cả đoàn kết một
lòng trên tinh thần “Tứ hải giai huynh đệ”. Mục đích của họ là xóa bỏ áp bức
bất công, khao khát cuộc sống tự do, ở đó con người sống bình đẳng, yêu
65
thương trong mối quan hệ huynh đệ chan hòa…Mọi người coi nhau như một
nhà, theo tinh tú kết làm anh em, lấy đất trời làm cha mẹ. Ở đây không phân
biệt đẳng cấp, nghề nghiệp, hoàn cảnh xuất thân. Chỉ có lòng trung thành và
tín nghĩa với anh em và sự nghiệp chung làm trọng. Điều đó có thể thấy sâu
xa trong ý thức của nhân dân lý tưởng đại đồng đã chi phối quan niệm bình
đẳng giữa người với người. Do vậy, nguyên tắc xây dựng người anh hùng
trong Thủy Hử được hình thành trên một nền tảng đạo đức riêng chỉ có thể tìm
thấy ở Thủy Hử mà thôi. Nhìn ở bề mặt của vấn đề chúng ta cảm nhận được
sự phản kháng trong tác phẩm là muốn xây dựng một nguyên tắc đạo đức và
một nguyên tắc kinh tế mới. Ở đây, không tồn tại chế độ tư hữu tài sản, vàng
bạc nài nỉ chia nhau, những gì thiết yếu của cuộc sống đều được phân phối
bình quân. Giữa đất trời bao la của Lương Sơn Bạc, họ tha hồ mà uống bát
rượu to, cùng nhau ăn miếng thịt lớn trong thế giới đại đồng của các anh hùng
lấy sơn trại làm nhà, lấy tình huynh đệ, bằng hữu làm máu mủ. Thật là lý
tưởng! Lý tưởng ấy, trong cốt lõi sâu xa của nó vẫn thuộc về vấn đề đạo đức
và nguyên tắc tôn trọng con người với tư cách là một bản thể giữa vũ trụ và
xã hội nhân sinh. Giá trị con người là ở con người xã hội và con người cá
nhân của chính họ chứ không phải ở đẳng cấp và nguồn gốc xuất thân.Vì vậy,
khi đi vào Thủy Hử, lý tưởng đại đồng đã chi phối nguyên tắc xây dựng nhân
vật. Đó là những anh hùng đi ra từ trong dân gian: “Tám phương cùng sống
chung, bá tánh cùng một nhà, trời đất mưa thuận gió hòa, nhân gian tụ họp
ăn tiệc”, không phân biệt sang hèn “cũng có người khôn ngoan, có người thô
lỗ, có người chất phác ở chốn quê mùa, có người phong lưu ở nơi thành thị,
nhưng không vì đó mà xa cách nhau…cũng có người giỏi việc văn chương ăn
nói, có người giỏi việc bôn ba đi khắp đó đây hoặc cũng có người giỏi làm
nghề trộm cắp, gạt gẫm, ai có sở trường nấy, tùy theo tài năng mà sử dụng”.
Mục đích cuối cùng của các anh hùng Lương Sơn Bạc là phấn đấu cho một xã
66
hội công bằng với sự tự do hưởng lạc, ham thích những cái bình thường nhất
của những con người bình thường. Vì vậy, hình tượng người anh hùng không
nhất thiết phải có tính chất hoàng quyền và huyết thống cao quí như các nhân
vật anh hùng trong Tam Quốc diễn nghĩa. Trước khi lên Lương Sơn, họ làm
đủ mọi nghề để sống: đánh cá chèo thuyền, đốn củi, phu xe, đồ tể, buôn bán,
kể cả ăn cắp, cờ gian bạc lận. Nhưng điều kỳ lạ là trong 108 vị anh hùng
Lương Sơn Bạc cũng không hiếm những nhân vật thuộc tầng lớp quí tộc danh
tiếng và võ quan cao cấp như Lư Tuấn Nghĩa, Sài Tiến, Hô Diên Chước,
Quan Thắng, Từ Ninh, Lâm Xung, Lăng Chấn… Vì cảm cái nghĩa khí của
anh em lương Sơn Bạc, họ thuận lòng qui phục và đứng chung hàng ngũ với
Lý Quỳ, Thời Thiên, Vương Anh, Bạch Thắng, Lưu Đường… Vì vậy, việc
xây dựng hình tượng người anh hùng trong Thủy Hử chịu sự chi phối của lý
tưởng đại đồng trên tinh thần bình đẳng giữa con người với con người. Nguồn
gốc xuất thân của những anh hùng Lương Sơn Bạc chứng tỏ rằng, có những
anh hùng kiệt xuất phẩm chất cao quí lại đi ra từ những tầng lớp bần cùng
nhất trong xã hội. Chọn đạo tặc và nhi nữ làm anh hùng, cũng là một bứt phá
mới của Thi Nại Am trong quan niệm nghệ thuật về con người. Hệ quả của
vấn đề này sẽ thể hiện ở chuẩn tắc đạo đức và nhân cách của các anh hùng mà
chúng ta sẽ tìm hiểu ở những phần sau.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy được rằng: trong Thủy Hử, dần dần có sự
thay đổi trong quan niệm về con người: từ con người chức năng đậm nét sử
thi, vận động dần dần thành con người đời thường trong sự phức tạp của nhân
tính, tính cách, tư tưởng không bất biến mà vận động thay đổi trong hoàn
cảnh thực tế đa chiều của cuộc sống. Người anh hùng trong Thủy Hử được
miêu tả theo nguyên tắc đời thường hóa, nhân tính hóa đậm đà ý thức thị dân.
Cùng là những anh hùng nổi loạn nhưng hình tượng Tôn Ngộ Không trong
Tây du ký lại mang đậm cảm quan tôn giáo của một hiệp sĩ thần thánh, còn
67
Thủy Hử hình thành kiểu người anh hùng đặc trưng: những nhân vật anh hùng
thảo dã, vừa là anh hùng, vừa là thổ phỉ. Vì vậy, kiểu xây dựng nhân vật sẽ
bao gồm sự kết hợp đặc biệt cái cao thượng vĩ đại bên cạnh cái dung dị đời
thường. Điều này có khác với anh hùng trong Tam Quốc diễn nghĩa, Tây du
ký được xây dựng theo nguyên tắc lý tưởng hóa, thần thánh hóa.
1.3.3. Quan niệm anh hùng trong Thủy Hử nhìn từ phương diện đặc trưng
thể loại
1.3.3.1. Nguồn gốc thể loại của tác phẩm
Tiểu thuyết Trung Quốc có nguồn gốc sâu xa từ trong thần thoại, đến
những câu chuyện chí quái chí nhân, phát triển thành truyền kì đời Đường
sang đời Tống tồn tại dưới hình thức chuyện kể cuối cùng phát triển rực rỡ
thành những bộ tiểu thuyết cổ điển đồ sộ dưới hai triều đại Minh - Thanh. Đạt
đến thành tựu rực rỡ đó tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đã trải qua quá trình
phát triển hơn 10 thế kỷ. Lỗ Tấn trong Trung Quốc tiểu thuyết sử lược đã
khảo sát và chỉ ra quá trình phát triển của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.
Theo ông, tiểu thuyết Trung Quốc có mầm mống từ đời Hán (thế kỷ III trước
công nguyên đến thế kỷ III sau công nguyên). Trong các chương III và IV, Lỗ
Tấn khẳng định có sự ra đời của một hình thức văn học “gọi là tiểu thuyết” và
được ghi lại trong Nghệ văn chí sách Hán Thư [90, tr.37]. Đến đời Tấn, xuất
hiện tiểu thuyết chí quái, chí nhân. Đời Nam Bắc Triều có tiểu thuyết dật sự.
Đời Đường có tiểu thuyết truyền kỳ. Đời Tống có tiểu thuyết thoại bản. Tiểu
thuyết Minh - Thanh kế thừa những thành tựu của tiểu thuyết các thời đại
trước đó, mà trực tiếp là tiểu thuyết thoại bản đời Tống. Đến đây, qua 5 giai
đoạn phát triển, tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đã hoàn chỉnh về mặt thể loại.
Con đường hình thành tác phẩm Thủy Hử không ngoài quá trình vận động của
tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Trong Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, Lỗ
Tấn cho rằng: tiểu thuyết được sáng tác trong những giờ giải lao cần giải trí
68
của người lao động [90, tr.146]. Những câu chuyện, những đàm luận dân gian
phôi thai ra hình thức tiểu thuyết sau này. Câu chuyện Tống Giang và cuộc
khởi nghĩa nông dân là sự kiện lịch sử có thật xảy ra cuối thời Bắc Tống,
khoảng thế kỷ thứ XII. Tống sử và thoại bản đời Tống có ghi những dòng sơ
lược về cuộc khởi nghĩa này: “Tướng cướp Hoài Nam là Tống Giang, đánh
phá quận Hoài Dương, lại phá Kinh Đông, Giang Bắc, tràn đến tận bờ biển...
Triều đình sai binh tướng thảo phạt... sai Tri Châu Trương Thúc Dạ chiêu
hàng...” [91, tr.323-324]. Mặc dù Tống sử chép không nhiều nhưng chuyện kể
về các anh hùng hảo hán Lương Sơn Bạc được lan truyền rộng rãi trong nhân
gian mang sắc thái truyền kỳ. Nhân dân truyền tụng khắp nơi những câu
chuyện Võ Tòng đả hổ, Dương Chí bán đao, Tống Giang giết Diêm Bà Tích...
với thái độ yêu mến và bộc lộ hi vọng vào những anh hùng hảo hán “thế thiên
hành đạo” kia. Cung Khai đời Tống viết bộ sách Tống Giang tam thập lục
tán. Cũng thời gian này sách Túy ông Đàm Lục của La Diệp đã có các
chuyện: Thanh Diện Thú, Võ Hành Giả, Hoa Hòa Thượng nhưng những
chuyện này đứng độc lập riêng biệt. Phải đến đầu Nguyên với bộ sách Đại
Tống Tuyên Hòa di sự thì các thoại bản riêng lẻ trong dân gian mới được tập
hợp thành bộ tiểu thuyết thoại bản đầu tiên hoàn chỉnh về câu chuyện khởi
nghĩa Lương Sơn. Đây là nguồn gốc trực tiếp của Thủy Hử, là công trình hoàn
chỉnh nhất trước khi Thi Nại Am chấp bút viết Thủy Hử. Thời Nguyên, rải rác
những câu chuyện trong Thủy Hử cũng được các vở hý kịch chọn làm đề tài
để ca ngợi nghĩa khí của nhóm Lương Sơn Bạc, ca ngợi các hảo hán Lương
Sơn vì dân trừ hại mà “bạt đao tương trợ”. Trên những cơ sở này, bằng tài
năng nghệ thuật tuyệt vời, Thi Nại Am đã viết tác phẩm dưới một cảm quan
nghệ thuật thống nhất tạo thành một kiệt tác văn chương. Có thể thấy, chỉ từ
vài dòng sử biên niên, Thủy Hử dần dần phát triển thành thiên anh hùng ca về
cuộc khởi nghĩa Lương Sơn. Trong đó, nổi bật 108 vị anh hùng biểu tượng
69
cho sức mạnh, lý tưởng của đông đảo quần chúng nhân dân.Với tư tưởng xã
hội rất rõ ràng “thay trời hành đạo” các vị anh hùng Lương Sơn Bạc tụ họp
với nhau trên tinh thần bình đẳng của tình huynh đệ để “xây dựng một nhà
nước lý tưởng, không có người bóc lột và kẻ bị bóc lột” [107, tr.18]. Từ người
anh hùng dân gian đến người anh hùng trong Thuỷ Hử là quá trình sáng tạo
thông qua thế giới quan đầy mâu thuẫn của nhà văn. Tinh thần nghĩa khí,
nghĩa hiệp của người anh hùng dân gian khi đi vào Thủy Hử thông qua cảm
quan nghệ thuật của tác giả để lại dấu ấn ít nhiều của tư tưởng “trung quân”.
Xêmanôp đã đúng khi chỉ ra rằng:
Chủ nghĩa trung quân là một trong những nét đặc trưng của giai
đoạn đầu của tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa và chính điều này đã
làm cho tiểu thuyết khác với những truyền thuyết dân gian có
cùng cốt truyện [107, tr.12].
Như vậy, dưới góc nhìn lịch sử, chúng tôi thấy Thủy Hử chịu ảnh
hưởng tinh thần “hiếu sử” của dân tộc cũng như có nguồn gốc văn học dân
gian. Đây cũng là hai tiền đề quan trọng trong việc hình thành những bộ tiểu
thuyết anh hùng thời Minh. Nhưng sự tác động, ảnh hưởng và chi phối của hai
yếu tố này đối với các tác phẩm là khác nhau. Tam Quốc diễn nghĩa chịu ảnh
hưởng của tư tưởng chính thống là chính, trong khi đó Thủy Hử và Tây du ký
chịu ảnh hưởng truyền thống văn học dân gian đậm hơn. Từ đó, dẫn đến sự
khác nhau trong việc hình thành thể loại tiểu thuyết đi đôi với sự lựa chọn đề
tài của các nhà văn. Vì vậy, việc khắc họa thế giới hình tượng nhân vật trong
những bộ tiểu thuyết gần như ra đời cùng thời là Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy
Hử, Tây du ký sẽ có những điểm khác nhau.
1.3.3.2. Xác định đặc trưng thể loại
So với các thể loại văn học khác, tiểu thuyết Trung Quốc ra đời muộn
hơn rất nhiều. Thi, phú, tản văn là thể loại đã hình thành từ thời cổ đại và phát
70
triển rực rỡ trong xã hội phong kiến, trong khi tiểu thuyết Trung Quốc chỉ mới
có mầm mống. Nhưng trong quá trình vận động của lịch sử văn học Trung
Quốc, thể loại tiểu thuyết đã có một quá trình phôi thai và nuôi dưỡng diện
mạo văn học của mình trong dòng mạch văn hóa - văn học lâu đời của dân
tộc. Thuật ngữ “tiểu thuyết” vốn có trong văn học Trung Quốc từ xưa. Trang
Tử (309 - 286 trước CN) từng nhắc đến thuật ngữ này nhưng chưa định nghĩa
rõ ràng. Thiên Nghệ Văn Chí (Hán Thư - Ban Cố) quan niệm tiểu thuyết là
công việc của các quan (ti quan) chép việc ngoài đường ngoài ngõ để các vua
chúa rõ chuyện dân tình. Như vậy, tiểu thuyết trong văn học quá khứ quan
niệm là những chuyện vụn vặt đầu đường xó chợ, không thuộc chính thư. Lý
luận tiểu thuyết vẫn chưa xuất hiện khi tiểu thuyết phát triển mạnh mẽ, khẳng
định vị trí, ưu thế thể loại của mình. Đến đời Minh, các nhà lý luận, phê bình
văn học vẫn chưa có ý kiến quan niệm đích thực nào về tiểu thuyết. Song từ
khi tiểu thuyết cổ điển Minh - Thanh ra đời, diện mạo chung tiểu thuyết dần
dần được định rõ. Tiểu thuyết được hiểu là câu chuyện có cốt truyện chính, có
qui mô nội dung phản ánh vô cùng to lớn với nhiều tình tiết phức tạp và nghệ
thuật kể chuyện tinh tế hấp dẫn. Với hơn 300 bộ tiểu thuyết trường thiên, tiểu
thuyết cổ điển Minh - Thanh khẳng định sự vững vàng của thể loại trong niềm
say mê của độc giả bao thế hệ. Từ đó, nền tiểu thuyết Trung Quốc mới thật sự
khởi sắc và định vị rõ ràng trước các thể loại văn học khác. Trong đó, bao
gồm rất nhiều thể loại: tiểu thuyết truyền kì bằng văn ngôn, tiểu thuyết đoản
thiên bằng văn bạch thoại và tiểu thuyết cổ điển chương hồi. Tiểu thuyết
truyền kì phát triển, học tập, kế thừa văn học Đường - Tống, thành tựu không
nhiều, số lượng ít ỏi. Nghĩ thoại bản (tiểu thuyết đoản thiên) phát triển ở thời
Minh, có nhiều tác phẩm giá trị, tiêu biểu như Cổ kim tiểu thuyết (Phùng
Mộng Long biên soạn), Kim cổ kỳ quan (Bảo Ung Lão Nhân tuyển). Tiểu
thuyết truyền kỳ cũng phát triển ở đời Thanh nhưng chỉ có Liêu trai chí dị (Bồ
71
Tùng Linh) là đáng chú ý. Do đó thành tựu của tiểu thuyết cổ điển thời Minh -
Thanh tập trung chủ yếu ở tiểu thuyết chương hồi. Trong quá trình vận động
và phát triển, tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc dần dần phát triển tiệm tiến
từ khuynh hướng khai thác đề tài lịch sử đến hướng dần về đời sống hiện
thực, dĩ nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối. Mặc dù quy chế về
thể loại được chấp hành nghiêm chỉnh trong văn học cổ Trung Quốc nhưng
việc phân chia thể loại tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc cũng rất phức tạp
và có nhiều ý kiến khác nhau.
Xêmanôp phân tiểu thuyết thời Minh - Thanh thành 2 loại: Tiểu thuyết
anh hùng và tiểu thuyết thế sự. Cách chia này thể hiện rõ những khuynh
hướng miêu tả và phản ánh hiện thực, phục vụ đắc lực cho việc nghiên cứu về
phương pháp sáng tác của thể loại “tiểu thuyết anh hùng” Trung Quốc thế kỷ
XIV - XVI. Nhưng hạn chế của nó là chưa khu biệt rõ ràng các ranh giới về
mặt loại thể của chúng. Lỗ Tấn trong Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc quan
niệm rằng: thời Minh tiểu thuyết cổ điển Minh - Thanh chia thành các loại:
- Tiểu thuyết giảng sử
- Tiểu thuyết thần ma
- Tiểu thuyết nhân tình thế thái
- Tiểu thuyết thị dân đời Minh theo kiểu Tống [90, tr.420].
Cách chia này có ưu điểm là giúp tác giả khảo sát quá trình phát triển
và khu biệt nội dung của từng tác phẩm, nhưng còn hạn chế ở chỗ tính khu
biệt chưa cao và phức tạp. Ví dụ như cùng xếp Tam Quốc diễn nghĩa và Thuỷ
Hử vào loại “tiểu thuyết giảng sử”. Nguyễn Huy Khánh thì phân chia tiểu
thuyết đời Minh thành 5 loại:
- Tiểu thuyết lịch sử (tiêu biểu là Tam Quốc diễn nghĩa...)
- Tiểu thuyết thần ma (tiêu biểu là Tây du ký)
- Tiểu thuyết anh hùng (tiêu biểu là Thuỷ Hử …)
72
- Tiểu thuyết nhơn tình (tiêu biểu là Kim Bình Mai)
- Đoản thiên tiểu thuyết (tiêu biểu là Tam ngôn).
Cách chia này lấy đề tài phản ánh tương đối rõ nhưng lại thiếu khoa
học vì tác giả đưa thêm các tiêu chí khác như: dung lượng, trường phái… Do
từ cách nhìn nhận và phân chia thể loại khác nhau, nên việc định danh và gọi
tên tác phẩm rất khác nhau trong cùng một tiểu thuyết.
Thuỷ Hử có thể gọi bằng các tên khác nhau:
Tiểu thuyết giảng sử (Lỗ Tấn)
Tiểu thuyết anh hùng (Xêmanôp, Nguyễn Huy Khánh).
Ngoài ra, Thuỷ Hử còn có tên gọi là Tiểu thuyết truyền kỳ anh hùng
trong giáo trình Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc do 74 tác giả biên soạn.
Chúng tôi chú ý cách chia của họ. Trong giáo trình, các tác giả chia tiểu
thuyết Minh ra làm bốn loại: tiểu thuyết giảng sử, thần ma, nhân tình thế thái
và vụ án. Trong tiểu thuyết giảng sử họ phân thành hai khuynh hướng: loại
diễn nghĩa lịch sử và truyền kì anh hùng. Loại diễn nghĩa lịch sử “lấy sự thực
lịch sử một triều đại, một đời làm cơ sở, lại thu hút nội dung của tạp thuyết dã
sử và truyền thuyết dân gian phổ biến khuyếch đại mà thành” [92, tr.101].
Loại tiểu thuyết truyền kỳ anh hùng “tuy lấy đề tài lịch sử nhưng khác với tiểu
thuyết diễn nghĩa lịch sử là không ràng buộc với diễn biến sự kiện lịch sử một
triều đại, một đời, mà lấy miêu tả nhân vật anh hùng làm chính” [92, tr.102].
Như vậy là, cùng phát triển trên cơ sở giảng sử, nhưng đặc trưng của hai thể
loại rất khác nhau: loại diễn nghĩa lịch sử lấy sự thật lịch sử làm cơ sở cho cốt
truyện, còn truyền kỳ anh hùng lấy việc miêu tả anh hùng làm chính. Theo sự
phân loại này, Thủy Hử thuộc thể loại truyền kì anh hùng. Tìm về sâu xa hơn
một chút trong nguồn gốc thể loại, chúng ta có thể thấy, người Trung Quốc
dùng nhiều hình thức, trong đó có “liệt truyện” để ghi chép về nhân vật lịch sử
và những tấm gương anh hùng đạo đức, tiết nghĩa v.v...Thủy Hử truyện viết về
73
108 anh hùng. Danh từ “truyện” trong Thủy Hử có lẽ mang tính chất truyện kể
về nhân vật lịch sử như trong “liệt truyện” nhưng đã “bước sang địa hạt của
tiểu thuyết” trở thành tên gọi chỉ đặc trưng thể loại tiểu thuyết truyền kỳ anh
hùng.
Theo B.L.Riftin “tính truyền thống của tư duy, tính khuôn sáo của nó
(tư duy) và việc tác giả thời trung cổ không tách khỏi truyền thống văn học
chung, dẫn tới chỗ là những qui chế về thể loại được chấp hành nghiêm chỉnh
là một trong những đặc điểm cơ bản tạo nên tác phẩm. Việc thể loại trong
văn học cổ được thể hiện trong cách thường xuyên nêu bật nó lên ngay ở tên
gọi tác phẩm” [83, tr.114]. Thủy Hử truyện cũng như hầu hết các bộ tiểu
thuyết cổ điển khác cũng chịu sự chi phối sâu sắc của thể loại. Nghĩa là
“những qui chế về thể loại được chấp hành nghiêm chỉnh” [83, tr.114]. Và tên
gọi cũng thể hiện đặc trưng của thể loại. Thủy Hử là tiểu thuyết truyền kì anh
hùng và danh từ “truyện” cũng là tên gọi cho đặc điểm thể loại “tiểu thuyết
nghĩa hiệp” sau này, đằng sau nó là Thuyết Nhạc toàn truyện, Dương Gia
tướng truyện, Phi Long toàn truyện. Cùng thể loại tiểu thuyết “diễn nghĩa” có
Tam Quốc diễn nghĩa, Tây Đông Hán diễn nghĩa, Nam Bắc Tống diễn nghĩa,
Thanh Sử diễn nghĩa.... Như vậy, khái niệm “diễn nghĩa” nhằm để chỉ thể loại
tiểu thuyết ảnh hưởng sâu đậm truyền thống biên niên, còn “truyện” là thể
loại không chịu sự chi phối mạnh mẽ của yếu tố lịch sử mà tính chất hư cấu
đậm dần lên. Điều này cũng được các nhà nghiên cứu thừa nhận trong nhiều
công trình. Khác với tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết anh hùng tuy có bóng
dáng lịch sử nhưng không phải là diễn giải thông tục về lịch sử. Ngoài Tống
Giang, người đứng đầu trong cuộc khởi nghĩa Lương Sơn là nhân vật lịch sử,
còn hầu hết các nhân vật và sự kiện khác là do hư cấu từ trong tiểu thuyết dân
gian, trong thoại bản Tống Nguyên, và đặc biệt là từ trong cái nhìn của tác
giả.... Có thể thấy, tác phẩm lấy đề tài lịch sử nhưng không phải giảng sử,
74
diễn nghĩa. Nguồn gốc biên niên sử không đậm nét như ở Tam Quốc diễn
nghĩa, Đông Chu Liệt Quốc, Tùy Đường diễn nghĩa... tác giả đã nhào nặn lịch
sử dưới cái nhìn mang đậm tinh thần thời đại. Đó là sự “bất mãn với những
trật tự xã hội hiện hành”, những “ước mơ về một sự phục sinh của tinh thần
anh hùng cổ” [107, tr.2] của những nhà văn hiểu uyên thâm về văn học sử,
biết trân trọng giá trị to lớn của những sáng tác dân gian. Đó cũng là khát
vọng của một dân tộc trải qua trên hai trăm năm loạn lạc liên miên hướng
niềm tin về những anh hùng nghĩa hiệp ra tay vì dân trừ hại. Họ không phải là
ai khác mà là những anh hùng bình dị đi ra từ trong dân gian. Tài năng và tấm
lòng hào hiệp của họ tỏa sáng thành hình tượng anh hùng bất tử trong lòng
bao độc giả say mê truyện Tàu. Xuất phát từ đặc trưng thể loại, Thủy Hử lấy
việc miêu tả anh hùng là chính. Qua đó, bộc lộ quan niệm anh hùng thể hiện
trong cảm hứng ca ngợi phẩm chất cao quí và tinh thần phản kháng của họ.
Như đã trình bày trên đây, Thủy Hử chịu ảnh hưởng sâu sắc yếu tố dân gian,
vì vậy việc xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng và đặc trưng hình tượng
nhân vật anh hùng của tác phẩm tất nhiên bị sự chi phối bởi sắc thái lý tưởng
của chủ nghĩa anh hùng theo quan điểm nhân dân. Vì vậy, đặc thù riêng về
mặt thể loại của Thuỷ Hử phải gắn chặt với yếu tố “hiệp nghĩa” cũng như Tam
Quốc diễn nghĩa gắn chặt với yếu tố “sử”, Tây Du gắn chặt với yếu tố “quái,
kỳ”, Kim Bình Mai với yếu tố “đời tư thế sự”. Tóm lại, về mặt thể loại, Thuỷ
Hử có những đặc trưng về mặt thể loại khu biệt với các bộ tiểu thuyết cùng
thời trước và sau nó: đó là gắn với yếu tố “hiệp nghĩa” của văn hoá dân gian
cùng ảnh hưởng truyền thống biên niên sử cũng như các yếu tố “quái, kỳ”,
“đời tư thế sự”, có dung lượng tác phẩm đồ sộ, đề tài mới lạ, có cái nhìn cuộc
sống từ góc độ đời tư, có kiểu kết cấu đoản thiên liên hoàn... Đó là những đặc
điểm về mặt thể loại của tác phẩm chi phối đến sự thể hiện quan niệm anh
hùng trong tác phẩm.
75
Tiểu kết
Quan niệm anh hùng trong Thủy Hử chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tâm
thức văn hóa dân tộc, bối cảnh lịch sử cũng như văn học của thời đại. Với tư
cách là một giai đoạn cuối cùng của văn học cổ điển, văn học Minh - Thanh
có một diện mạo cực kỳ phong phú, đánh dấu sự chuyển mình sang khuynh
hướng hiện đại. Văn học chính thống thoái trào nhường chỗ cho xu thế dân
chủ phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ mới của nhân dân, nhất là tầng lớp thị dân.
Theo đà phát triển, tầng lớp thị dân trở thành một lực lượng thưởng thức văn
học đông đảo.Vì vậy, tiểu thuyết được chú trọng và phát triển mạnh. Thủy Hử
ra đời đánh dấu bước phát triển mới của thể loại tiểu thuyết truyền kỳ anh
hùng, trong đó lấy việc miêu tả anh hùng là chính. Người anh hùng trong
Thủy Hử được miêu tả theo nguyên tắc đời thường hóa, nhân tính hóa đậm đà
ý thức thị dân. Đó là kiểu người anh hùng thảo dã, vừa là anh hùng vừa là thổ
phỉ. Vì vậy, kiểu xây dựng nhân vật sẽ bao gồm sự kết hợp đặc biệt cái cao
thượng vĩ đại bên cạnh cái dung dị đời thường.
76
Chương 2
ĐẶC TRƯNG THẨM MỸ CỦA NHÂN VẬT ANH HÙNG
TRONG THỦY HỬ
2.1. Khái niệm về nhân vật và chức năng của nhân vật trong văn học
2.1.1. Khái niệm về nhân vật
Có rất nhiều cách hiểu về nhân vật, ở đây chúng tôi chọn một số khái
niệm tương đối sáng rõ và rút ra những điểm tương đồng giữa chúng.
Từ điển thuật ngữ văn học do các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi đưa ra khái niệm về nhân vật văn học là:
Con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học… nhân
vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể
đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống. Chức năng
cơ bản của nhân vật văn học khái quát tính cách của con người.
Do tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử, nên chức năng
khái quát tính cách của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử.
Vì tính cách là kết tinh của môi trường, nên nhân vật văn học là
người dẫn dắt độc giả vào các thế giới khác nhau của đời sống,
thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn
về con người. Nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động có
tính cách được bộc lộ dần trong không gian, thời gian mang tính
chất quá trình [49, tr.202-203].
Sách Lý luận Văn học (tập 2) do Phương Lựu chủ biên viết:
Nhân vật văn học là con người được miêu tả trong văn học bằng
phương tiện văn học, là phương tiện khái quát các tính cách, số
phận con người và các quan niệm về chúng. [93, tr.61- 64]
77
150 Thuật ngữ văn học viết:
Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà
văn về con người. Các thành tố tạo nên nhân vật gồm: hạt nhân
tinh thần của cá nhân, tư tưởng, các lợi ích đời sống, thế giới
xúc cảm, ý chí, các hình thức, ý thức và hành động. Nhân vật
văn học là một đơn vị nghệ thuật mang tính ước lệ, không thể bị
đồng nhất với con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng
nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Ý nghĩa
nhân vật chỉ có được trong một hệ thống cụ thể...
[4, tr.249-250].
Trong những khái niệm trên, các nhà lý luận đều thống nhất con người
trong tác phẩm văn học chính là nhân vật văn học. Đứa con tinh thần của nhà
văn thể hiện quan niệm thẩm mĩ của tác giả về cuộc đời và con người. Nhân
vật văn học luôn hiện lên trong tác phẩm như những giá trị nhất định của đời
sống: giá trị xã hội, giá trị đạo đức, giá trị tinh thần. Bên cạnh đó, nhân vật
còn mang các đặc trưng về nghệ thuật và được thể hiện trong tác phẩm thông
qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Các nhà lý luận đều nhấn mạnh đến tính
nghệ thuật, tính ước lệ của nhân vật văn học. Bởi vì khi đi vào trong tác
phẩm, nhân vật văn học đã có một sự cách điệu hóa so với con người ngoài
cuộc đời bằng tài năng nghệ thuật và cảm quan của người nghệ sĩ. Nó không
đồng nhất như con người thật ngoài đời mà chính là biểu hiện “cách hiểu của
nhà văn về con người theo một quan điểm nhất định” [85, tr.46] với các
“nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người” trong tác phẩm
[85,tr.61]. Vì vậy, nhân vật “tồn tại trong hệ thống nghệ thuật với những chức
năng nhất định của nhân tố hoạt động trong hệ thống ấy” [93, tr.357]. Trong
tác phẩm văn học, vai trò của nhân vật văn học là không thể phủ nhận. Bởi
suy cho cùng, văn học vẫn là câu chuyện muôn nơi và muôn thuở về con
78
người, trong đó, không thể thiếu nhân vật vì nó là phương tiện quan trọng
nhất của tác phẩm “quyết định phần lớn, vừa cốt truyện, vừa lựa chọn chi tiết
vừa phương tiện ngôn ngữ và thậm chí cả kết cấu nữa” [93, tr.18].
2.1.2. Chức năng của nhân vật trong văn học
Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để nhận thức con người và bộc lộ quan
niệm của mình về con người. Nhân vật hiện lên trong tác phẩm thường dưới
dạng những tính cách, nền tảng của tính cách là cái chung xã hội được hình
thành trong quá trình lịch sử. Cho nên, “nói đến tính cách là nói đến những
thuộc tính và phẩm chất tương đối ổn định và vững bền của một loại phẩm
hạnh xã hội, một kiểu tư duy, hay một dạng tình cảm tâm lý” [93, tr.158].
Nhân vật là chỗ dựa của kết cấu và cốt truyện. Nhà văn gắn kết nhân
vật theo một kiểu quan hệ nào đó, những quan hệ giữa các nhân vật trong
chỉnh thể tác phẩm ít nhiều phản ánh mối quan hệ xã hội hiện thực của con
người. Vì vậy, chức năng khái quát của nhân vật không chỉ là các tính cách và
qui luật khách quan của đời sống mà còn là quan niệm về tính cách và toàn bộ
tư tưởng mà tác giả muốn thể hiện. Thủy Hử tuy lấy đề tài lịch sử nhưng khác
với tiểu thuyết diễn nghĩa lịch sử là không bị ràng buộc với diễn biến sự kiện
lịch sử mà lấy việc miêu tả nhân vật anh hùng làm chính. Vì vậy, nghiên cứu
nhân vật anh hùng sẽ tìm hiểu được quan niệm anh hùng trong tác phẩm.
2.1.3. Chức năng của nhân vật anh hùng trong Thủy Hử
Trong các tác phẩm văn học, nhân vật luôn là chiếc chìa khóa giúp ta
cắt nghĩa, giải mã tác phẩm. Thông qua các hình tượng nhân vật, người đọc
bước vào thế giới nghệ thuật cũng như cảm nhận được những quan niệm của
nhà văn về con người và thế giới.
Thuộc dạng tiểu thuyết truyền kỳ, nhân vật trung tâm trong bức tranh
muôn màu của Thủy Hử là các anh hùng. Theo nhận xét của các tác giả công
trình Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, "nhân vật chính diện trong Thủy
79
Hử mang đậm sắc thái lý tưởng của chủ nghĩa anh hùng, chứng tỏ quá trình
điển hình hóa trong sáng tạo nhân vật, trước sau không hề xa rời hào quang
lý tưởng" [92, tr.104]. Thủy Hử, cũng như các tác phẩm truyền kỳ anh hùng
khác như Bắc Tống chí truyện, Đại Tống trung hưng thông tục diễn nghĩa,
Hoàng Minh Anh liệt truyện... đều hướng vào việc "miêu tả sự tích anh hùng
và khắc họa tính cách nhân vật" [92, tr.104].
Vậy, đối với một bộ tiểu thuyết như Thủy Hử, các nhân vật anh hùng
đảm nhận chức năng gì?
Theo chúng tôi, hình tượng các nhân vật anh hùng trong Thủy Hử đảm
nhận các chức năng sau đây.
Trước hết, đó là chức năng khái quát hiện thực. Thông qua cuộc đời,
hành trạng của các anh hùng Lương Sơn Bạc, người đọc thấy hiện lên trước
mắt cuộc khởi nghĩa của anh em Tống Giang xảy ra vào thời Tuyên Hòa cuối
Bắc Tống. Theo nhà nghiên cứu Trần Xuân Đề, "cuộc khởi nghĩa này không
thật tiêu biểu cho phong trào khởi nghĩa nông dân lúc bấy giờ, nhưng có
tiếng vang lớn trong nhân dân, góp phần làm lung lay sự thống trị của gia
đình họ Triệu" [28, tr.162]. Cũng theo nhà nghiên cứu, “Thủy Hử đã phản ánh
trung thành toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển và thất bại của cuộc khởi
nghĩa nông dân cuối thời Bắc Tống... Thủy Hử thông qua hoạt động của các
loại nhân vật xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội và quy mô
đấu tranh của các anh hùng hảo hán đất Lương Sơn, nêu lên chân lí: "có áp
bức, có đấu tranh" [28, tr.164 - 165]
Như vậy, có thế nói, toàn bộ cuộc đời và hành động của 108 vị anh
hùng Lương Sơn đều hướng đến việc khắc họa sâu sắc bức tranh hiện thực
rộng lớn đó. Mỗi nhân vật là một mắt xích, một mối kết trong thế giới nghệ
thuật vô cùng phong phú và đa dạng của Thủy Hử. Thông qua hành trình tụ
nghĩa của các vị anh hùng xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau, ta thấy
80
được bức tranh xã hội thối nát của triều đại phong kiến đương thời, bên cạnh
đó, lại thấy cái không khí sôi nổi, quyết liệt của những cuộc khởi nghĩa nông
dân... Trong Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Lỗ Tấn đã xếp Thủy Hử vào
loại truyện giảng sử từ đời Nguyên đời Minh truyền lại, hẳn cũng vì chức
năng phản ánh hiện thực lịch sử từ cuộc đời, hình tượng nhân vật anh hùng.
Ông viết:
Nếu như thuật chuyện cũ, chuyện đời xưa của một thời mà chú
trọng vào một người hay vài ba người, thì theo sách Mông lược
lục 20, dưới mục giảng sử có ghi: Có quan Đại phu Vương Lục,
vào khoảng niên hiệu Hàm Thuần phô diễn phụ họa với Trung
Hưng danh tướng truyện, thính giả đông. Như vậy thì cũng nên
đặt vào giảng sử. Truyện Thủy Hử là một chuyện loại đó.
[90,tr.157].
Như vậy, thông qua hình tượng nhân vật anh hùng, người đọc có thể
thấy được bức tranh hiện thực, thông qua số phận của một vài cá nhân, có thể
nhận ra số phận của một thời đại. Chức năng khái quát hiện thực của các hình
tượng anh hùng, cũng được hiện lên từ đó.
Tuy nhiên, nhân vật anh hùng trong Thủy Hử không chỉ giúp tác giả
khái quát hiện thực lịch sử, chúng còn giúp tác giả khái quát tính cách con
người. Đây là một trong những chức năng cơ bản của nhân vật văn học, và
"do tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử nên chức năng khái quát tính
cách của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử" [49, tr.203].
Như chúng tôi đã trình bày, vì Thủy Hử thoát thai từ chuyện kể dân
gian, "nên cách tự sự nặng về kể hơn là tả, thiên về thể hiện sinh hành động
của nhân vật hơn là tâm lý của nhân vật... Diện mạo nhân vật thường tả theo
lối "đẽo phác qua" chứ không tỉ mỉ. Tính cách nhân vật được thể hiện qua
ngôn ngữ nhân vật, chứ không phải qua phân tích của người kể chuyện..."
[99, tr. 64].
81
Các nhân vật anh hùng trong Thủy Hử, tuy hết sức đa dạng, nhưng ít
nhiều đều được khắc họa với những đặc điểm thi pháp loại hình và lịch sử kể
trên. Điều này gắn liền với một mô hình, một quan niệm về con người của tác
giả: con người hiện lên chủ yếu trong cái nhìn ngoại hiện, thông qua hành
động, qua ngôn ngữ, con người thể hiện phẩm chất, chủ yếu thông qua hành
động hiệp nghĩa. Điều này cũng gắn liền với đặc trưng thể loại của dạng tiểu
thuyết truyền kỳ anh hùng, chủ yếu tập trung vào lai lịch cuộc đời, sự nghiệp
người anh hùng như Thủy Hử.
Có thể nhận ra điều ấy khi ta đi sâu phân tích những nhân vật anh hùng
trong Thủy Hử như Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm, Lý Quỳ, Tống Giang... Điều này
đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến. Chẳng hạn, trong công trình Luận
bàn Thủy Hử, một nhà nghiên cứu đã phân tích nhân vật Võ Tòng: tính cách
của Võ Tòng được tả không kém phần rõ nét so với Lâm Xung, Lỗ Trí Thâm,
Lý Quỳ, Tống Giang... Anh ta tính tình cứng rắn, bắt nạt kẻ mạnh chứ không
bắt nạt kẻ yếu, nói được làm được. Anh ta nhờ võ nghệ cao cường, lòng quả
cảm, quyết đoán kịp thời để "bình sinh chỉ đánh bọn ngang ngạnh, không có
đạo đức trong thiên hạ”. Những đặc điểm đó của tính cách Võ Tòng làm cho
anh ta khác hẳn Lâm Xung khoan dung, ôn hòa, do dự, thiếu quyết đoán.
Anh ta có dũng lại có mưu, làm việc cẩn thận, trầm tĩnh, rất có chừng
mực, trong Hắc điếm ở dốc Chữ thập, anh ta đã bí mật lừa được Tôn Nhị
Nương, một tay giàu kinh nghiệm đã làm cái nghề mua bán này trong bao
nhiêu năm. Để dò la chân tướng việc anh ruột bị giết hại, tìm cách báo thù,
giải oan, anh ta sắp đặt chu đáo tỉ mỉ: tay lăm lăm cầm dao nhọn, nghiêm
giọng vặn hỏi Hà Cửu Thúc về tình hình liệm thây; cho tiền, mời cơm, rồi ôn
tồn hỏi thăm chú bán lê Kiều Vận Ca đầu đuôi việc bắt kẻ gian; hết bốn mươi
chín ngày, bày tiệc rượu, mời hàng xóm láng giềng tới làm chứng, đóng chặt
cửa trước cửa sau, lấy xong khẩu cung Vương bà và Phan Kim Liên, giết
82
ngay Phan Kim Liên; sau khi đánh chết Tây Môn Khánh xong, dẫn nhân
chứng vật chứng tới cửa quan tự thú. Kết quả của sự trù hoạch đó đã làm nhẹ
tội cho anh ta... [91, tr.300 - 301].
Rõ ràng, nhân vật Võ Tòng chủ yếu được hiện lên thông qua hành động
bên ngoài. Khi viết về những người anh hùng áo vải như Lý Quỳ, tác giả cũng
có cách miêu tả tương tự, mặc dù thế, giữa hai nhân vật vẫn có những nét
khác biệt. Nhà nghiên cứu Trần Xuân Đề viết:
Lý Quỳ xuất thân là người coi ngục phụ, mẹ già mù lòa, anh ruột
làm thuê kiếm ăn, hoàn cảnh tạo cho chàng ý thức căm thù sâu
sắc bọn tham quan ô lại và triều đình phong kiến. Con đường lên
Lương Sơn Bạc của chàng không quanh co khúc khuỷu như Lâm
Xung, không vất vả như Dương Chí, cũng không giống bất kỳ
anh hùng hảo hán nào khác. [28, tr.171].
Cũng theo Trần Xuân Đề,
Lý Quỳ cũng có nhiều khuyết điểm như nóng nảy, suy nghĩ giản
đơn, hành động thô bạo, muốn nói là nói, định làm là làm, không
lường được hậu quả...những khuyết điểm đó không nhiều thì ít đã
gây tổn thất cho nghĩa quân; ví như nôn nóng, không hiểu được ý
định của Tống Giang mà giết cả nhà Hồ Thái Công [28, tr.173].
Như vậy, đều là những người hùng oai phong lẫm liệt nhưng nếu Lý
Quỳ nóng nảy, ít suy nghĩ thì Võ Tòng lại thận trọng và có nhiều suy tính
hơn. Có thể thấy Thủy Hử khắc họa tính cách khá tỉ mỉ. Những nhân vật trong
truyện, cho dù là anh em ruột, nhưng qua lời nói và hành động, đôi khi ta có
thể đoán chính xác là ai. Trong ba anh em nhà họ Nguyễn, Nguyễn Tiểu Nhị
thì già dặn trầm tĩnh, gặp nguy không cuống, Nguyễn Tiểu Ngũ thì tinh nhanh
táo bạo, lanh lợi dứt khoát, Nguyễn Tiểu Thất thì hấp tấp vội vàng, tính nóng
như lửa, tất cả đều hiện lên rất sinh động và hấp dẫn. Lại như Tôn Lập và Tôn
83
Tân, Tống Giang và Tống Thanh, có thể thấy ngay tính cách họ khác nhau thế
nào [91, tr.307]. Dù được cá thể hóa cao độ nhưng đây đều là những người
anh hùng tượng trưng cho lý tưởng nhân dân, cho khát vọng của người dân về
một đấng trượng phu hiệp nghĩa. Điều này gắn liền với chức năng khái quát
hóa tính cách con người của các nhân vật anh hùng trong Thủy Hử.
Không chỉ những người anh hùng xuất thân từ tầng lớp dưới, mà cả
những người anh hùng xuất thân từ quan lại như Tống Giang, Lư Tuấn
Nghĩa... cũng đều thể hiện tính cách hết sức sinh động của mình, chủ yếu
thông qua ngôn ngữ và hành động bên ngoài. Dĩ nhiên, với những nhân vật đa
dạng, phức tạp như Tống Giang, tâm lý và những chuyển biến tâm lý đã mang
dấu ấn đáng kể, giúp ta cảm nhận được chiều sâu nội tâm của hình tượng.
Các nhân vật anh hùng trong Thủy Hử, mỗi người mỗi vẻ, còn có chức
năng thể hiện quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con
người. Đó là sự nhận thức, lý giải về con người bằng các phương tiện nghệ
thuật. Theo Lê Huy Tiêu:
Điều mà các anh hùng Thủy Hử quan tâm đầu tiên là sự tồn tại
của pháp chế nhà nước, là vấn đề đạo đức ở trong cuộc sống
bình thường. Họ không phải là người sáng lập và cứu thế mà là
những cá nhân bình thường, đặc biệt họ là những hảo hán che
chở cho những người yếu đuối bị sỉ nhục, là những người anh
hùng phấn đấu cho sự công bằng của xã hội. Tống Giang được
gọi là "cập thời vũ" (mưa kịp thời) là vì lẽ ấy. [99,tr.69].
Quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mỹ ấy bắt nguồn từ đời sống
hiện thực của người bình dân, cho nên nó thấm đẫm màu sắc đời tư, hiện
thực. Các nhân vật anh hùng trong Thủy Hử thấm đẫm màu sắc nhân tính,
chịu sự ràng buộc mạnh mẽ của các mối quan hệ gia đình. Đó là kiểu con
người tiêu biểu cho các phẩm chất mà người bình dân ao ước, nhưng cũng là
84
con người với những lỗi lầm, va vấp, như chính thực tế cuộc đời. Điều này
giúp ta cảm nhận được quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ về con
người, biểu hiện qua hình tượng người anh hùng trong bộ tiểu thuyết.
Ở đây, ta cũng cần làm rõ quan niệm về người anh hùng trong Thủy Hử
bằng cách đối sánh với quan niệm anh hùng theo tư tưởng phong kiến chính
thống. Người anh hùng phong kiến chịu sự chi phối bởi quan niệm đạo đức về
người quân tử trong học thuyết Nho giáo. Đó là những con người thể hiện rõ
những giá trị thẩm mỹ của phẩm chất người anh hùng: tuyệt nhân, tuyệt trí,
tuyệt dũng, văn chất bân bân (bên trong và bên ngoài đều đẹp). Cùng với Nho
giáo, Đạo giáo có những ảnh hưởng nhất định đến quan niệm về con người và
đời sống về chủ trương vô vi an bần lạc đạo. Nó khuyến khích con người xa
rời lối sống tất bật, đua chen danh lợi hão huyền để tìm về với đời sống an
nhiên tự tại, tu dưỡng thân tâm. Còn Phật giáo khi qua màn lọc của văn hóa
Trung Quốc cũng được Nho giáo hóa. Là một học thuyết đạo đức, nhấn mạnh
đến đạo nghĩa, chú ý đến những nguyên tắc ứng xử và quản lý xã hội, Nho
giáo “thiếu hẳn phần triết học hình nhi thượng” [80, tr.78]. Nghĩa là, nó
không có sự kiến giải mang tầm triết học phổ quát cả ba lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tinh thần. Vì vậy, giữ vị trí độc tôn trong xã hội “Nho giáo đã buộc
phải lần lượt chấp nhận sự có mặt và cao hơn, tính cần thiết hiển nhiên của
các học thuyết khác” [80, tr.78]. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu được vì sao có
sự dung hợp cùng tồn tại hiện tượng tam giáo đồng nguyên cả hàng ngàn năm
trên đất nước Trung Quốc. Nhưng nhìn chung, tư tưởng Nho giáo vẫn là cội
nguồn chi phối tâm thức của dân tộc Trung Hoa, chiếm địa vị độc tôn trong
hệ tư tưởng chính thống phong kiến. Bắt đầu từ triều đại Hán Vũ Đế, Nho
giáo là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị chi phối đến toàn xã hội.
Với mục đích duy trì sự ổn định và trật tự xã hội phong kiến, đó là, sau khi
tiêu diệt kẻ cạnh tranh - tử thù chính trị tư tưởng và quyền lực là phái Pháp
gia, các nhà nho chính khách khôn ngoan đã chuyển hóa rất nhiều nội dung
85
học thuyết pháp trị vào kế sách trị nước của mình, thành công thức “nội pháp ngoại nho”, “âm pháp dương nho”1 [105, tr.71]. Vì vậy, Nho giáo thực chất là
“thủ đoạn cai trị của các thể chế chuyên chế ở Trung Quốc trong suốt lịch
sử” [105, tr.71]. Trong hệ thống đó, vua là thiên tử được trời giao trọng trách
và giáo hóa thần dân. Do đó, ngôi vua không ai có thể thay thế được ngoài
mệnh trời. “Mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên” là như vậy! Hiểu mệnh, biết
mệnh là chấp nhận sự sắp đặt của mệnh và đừng sinh dị tâm. Đối với vua,
thần dân chỉ có một bổn phận là phải phục tùng bằng tất cả lòng trung tuyệt
đối. Nghĩa là, kẻ bề tôi phải đem tất cả lòng thành ra mà thờ vua, trung với
vua”. Nho giáo quan niệm đạo của con người nằm trong năm mối quan hệ xã
hội gọi là ngũ luân “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”. Trong
ngũ luân, Khổng Tử đề cao “Tam cương” tức là ba mối quan hệ đầu và đặc
biệt nhấn mạnh mối quan hệ quân - thần được biểu hiện bằng chữ trung. Biến
năm mối quan hệ đó thành tình cảm sâu sắc là nhân xác định trách nhiệm của
mình trước ngũ luân là nghĩa. Nghĩa là một trong năm đức của con người là
đường lối để thi hành đạo, cao nhất là đạo trung. Như vậy, có thể hiểu trung là
mục đích vươn tới của con người và nghĩa là con đường thực hiện, thể hiện ra
bằng hoạt động thực tiễn. Vì vậy, khái niệm trung quân xuất hiện có vai trò là
một tiêu chuẩn trước tiên đánh giá người quân tử. Bởi vì, chế độ phong kiến
chỉ thừa nhận những con người có trung có nghĩa theo quan niệm đạo đức
chính thống. Vua chúa là những thần tượng cần được sùng bái và tuân phục
“quân sử thần tử thần bất tử bất trung”. Những “bậc hiền nhân quân tử” hết
thảy đều thấm nhuần tư tưởng trung quân một cách sâu nặng. Thậm chí, trung
với vua, hiếu với cha mẹ là cùng một gốc. Quan niệm như vậy đã xóa nhòa ý
nghĩa thiêng liêng giữa tình cảm tốt đẹp của con cái đối với cha mẹ và dường
như, tình cảm con người bị trói buộc bởi ý thức trung thành với triều đình
1 Nghĩa là, trong thì dùng chính sách Pháp trị, ngoài thì dùng học thuyết Nho gia.
phong kiến, đứng đầu là vua. Trong tác phẩm Chữ hiếu trong nền văn hóa
86
Trung Hoa, Tiêu Quần Trung cho rằng, ban đầu nội hàm cơ bản của hiếu là
con cái chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ bằng tình thương yêu vô hạn của
mình, chưa có sự giao thoa với các khái niệm trung, nghĩa. Nhưng sau đó,
cũng theo tác giả này, lý luận của Khổng Tử về trung và hiếu là hai khái niệm
song song nhưng “trong tư tưởng của ông tiềm ẩn nhân tố mà về sau người ta phát triển phục vụ cho chính trị”1. Mục vi chính trong Luận ngữ ghi lại lời
dạy của Khổng Tử với môn đồ như sau:
Qúy Khang Tử hỏi: “Muốn khiến cho dân cung kính, trung thành
và khuyên nhau làm việc thiện thì làm thế nào”? Khổng Tử đáp:
“xử với dân bằng cách trang nghiêm thì dân cung kính. Hiếu với
cha mẹ, thương yêu mọi người thì dân trung thành. Cất nhắc
người thiện mà dạy dỗ người bất thiện thì dân khuyên nhau làm việc thiện”2.
Như vậy, Khổng Tử quan niệm giữ gìn hiếu kính với cha mẹ là đức lớn
của người lãnh tụ, để người dân xem đó là tấm gương mà trung thành với
mình, chứ chưa đưa tinh thần trung quân vào trong hàm nghĩa của hiếu đạo.
Đến Tăng Tử, hai khái niệm trung quân và hiếu đạo hòa hợp với nhau, trung
của trung quân là một phần của hiếu. Hàm nghĩa của hiếu đạo ngoài thờ kính
cha mẹ còn phải biết thờ vua để lập thân. Sách Hiếu kinh mục Khai Tông
minh nghĩa viết: “phù hiếu, thủy vu sự thân, trung vu sự quân, chung vu lập
thân. (Hiếu đạo, ban đầu ở nơi thờ cha mẹ, đến thờ vua và sau rốt là lập thân)3
Do vậy, chữ hiếu đã thể hiện nội hàm của chữ trung đậm màu sắc chính
1 Tiêu Quần Trung (2006), Chữ Hiếu trong nền văn hóa Trung Hoa, Lê Sơn dịch, NXB Từ Điển Bách Khoa, tr. 51 2 Dẫn theo Tiêu Quần Trung (2006), Chữ Hiếu trong nền văn hóa Trung Hoa, Lê Sơn dịch, NXB Từ Điển Bách Khoa, tr. 51 3 Dẫn theo Tiêu Quần Trung (2006), Chữ Hiếu trong nền văn hóa Trung Hoa, Lê Sơn dịch, NXB Từ Điển Bách Khoa, tr. 69.
trị trong khái niệm trung hiếu của Nho gia. Khổng Tử hợp nhất tinh thần
87
“hiếu- để” và xem đây là chuẩn mực giải quyết quan hệ xã hội, trong nhà thì
hiếu thảo với cha mẹ, trọng huynh kính trưởng, ngoài xã hội thì tôn kính bậc
trưởng thượng. Nguyên tắc giải quyết các quan hệ xã hội này là nghĩa. Nhưng
đồng thời, như đã nói trên đây, nghĩa là con đường thực hiện lý tưởng lập
thân. Vì vậy, khái niệm trung nghĩa của Nho giáo bị chi phối bởi một quan hệ
tối cao: quân thần, nhằm phục vụ đắc lực cho giai cấp thống trị. Qua đó,
chúng ta có thể thấy được rằng, tiến trình phát triển của các khái niệm trung
hiếu và trung nghĩa Nho giáo luôn bị chi phối bởi tư tưởng trung quân. Do
vậy, người anh hùng trong quan niệm Nho giáo là những người tuyệt nhân,
tuyệt trí, tuyệt dũng, nhưng thực chất cũng chỉ nằm trong giới hạn của tư
tưởng trung quân mà thôi. Không đồng tình với những biểu hiện cực đoan của
tư tưởng phong kiến chính thống, nhân dân đã đúc kết từ trong cuộc sống lao
động đấu tranh những quan niệm nhân sinh xử thế của riêng mình. Nó không
thành hệ thống nhưng có sức sống mãnh liệt kết sâu trong dòng chảy âm ỷ của
văn hóa dân gian, phát triển mạnh mẽ cùng với sự lớn mạnh không gì ngăn
cản được của tiểu thuyết, một thể loại không nằm trong “chính thư”. Mặc dù
không trực tiếp phát biểu quan niệm anh hùng, nhưng con đường lên Lương
Sơn Bạc và lối sống, phẩm chất của 108 vị anh hùng trong Thủy Hử thể hiện
đạo lý nhân dân: gạt bỏ lòng trung quân phong kiến, để phấn đấu cho lòng
trung với đất nước, với nhân dân, ra tay xóa bỏ áp bức bất công, chống lại
triều đình vì “chúa thượng hôn mê, gian thần tác quái…” (hồi 61). Vì vậy, tư
tưởng trung nghĩa trong tác phẩm rõ ràng phải chuyển biến theo chiều hướng
mới so với tinh thần trước đó. Trung là vì vua mà hận gian thần, “bảo cảnh an
dân”, “sát tận tham quan”. Nghĩa là vì anh em mà ra tay hành hiệp, đoàn kết
108 người trong tình huynh đệ chan hòa. Sự nhấn mạnh chữ “nghĩa” phản ánh
rất rõ xu hướng phát triển xã hội cùng với những đổi thay của qui phạm đạo
đức. Xã hội nông nghiệp truyền thống nhấn mạnh phạm trù “hiếu” như một
88
nguyên tắc để bảo đảm tính tôn ti trật tự trong gia đình và ngoài xã hội. Thờ
vua là một biểu hiện của hiếu đạo. Vì vậy, “hiếu” trong Thuỷ Hử cũng có vị
trí quan trọng. Nhưng, đối với những thương nhân, thị dân, bách tính trong
nhân gian mà nói, nghĩa là một giềng mối cơ bản để duy trì mối quan hệ
không phải là huyết thống. Do đó, nội dung của Thủy Hử luôn nêu cao tinh
thần “trượng nghĩa sơ tài về Thủy bạc”, nhấn mạnh tinh thần nghĩa hiệp là vì
vậy. Từ đó, chúng ta có thể thấy được một cái nhìn khái quát quá trình chuyển
biến từ trung hiếu sang trung nghĩa trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa, đến
Thủy Hử đã mang những nét riêng rất độc đáo. Vì vậy, ngay từ lúc mới ra đời,
Thủy Hử phải chịu số phận hết sức éo le trên chính quê hương của nó. Cuối
đời Minh, tác phẩm liên tiếp bị cấm lưu hành, vì bị xem là “hối đạo chi thư” -
tác phẩm dạy làm kẻ cướp. Các triều vua Thuận Trị, Khang Hy, Càn Long
cũng ban lệnh cấm Thủy Hử. Khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được
thành lập, dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, Thủy Hử được xem là tác
phẩm có tính gợi dẫn để huấn thị về chính trị. Nhưng cũng chính về mục đích
chính trị mà trong và sau Cách mạng văn hóa, Thủy Hử bị cấm đoán vì chứa
“những lời đen tối” [38, tr.134-136]. Ngược hẳn với thái độ trên, nhân dân
Trung Quốc rất yêu mến Thủy Hử của họ. Tác phẩm là một trong những bộ
trường thiên tiểu thuyết vĩ đại của văn học Trung Quốc khẳng định sự khởi
sắc và lên ngôi của thể loại văn học mới. Mặc dù tác phẩm viết về cuộc khởi
nghĩa Tống Giang cuối thời Bắc Tống thế kỷ XII, nhưng bóng dáng hiện thực
vẫn có nét tương đồng với hơi thở của đời sống hiện thực đương thời. Đó là
chiến tranh xảy ra liên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Vua chúa
quan lại tham nhũng, tàn ác. Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc. Nội bộ giai
cấp thống trị cũng bắt đầu phân hóa. Trong hoàn cảnh đó, dân chúng mất
niềm tin vào triều đại phong kiến đương thời. Ước mơ có một xã hội “vua
hiền tướng giỏi” chỉ còn trong ảo tưởng… Nền chính trị quá hà khắc và tàn
89
bạo dẫn đến ý thức phản kháng không chỉ mơ hồ trong tâm thức mà sục sôi
một khát vọng:
Lộ kiến bất bình thành khả nộ
Bạt đao tương trợ thị anh hùng.
Lý tưởng ấy phải được thể hiện bằng hành động điếu phạt trừ bạo của
những vị anh hùng “thay trời hành đạo”. 108 nhân vật anh hùng trong Thủy
Hử thể hiện khát vọng đó của nhân dân mà cũng chính là của tác giả.Với một
khối lượng nhân vật đồ sộ gần 400 nhân vật, chưa kể hàng ngàn hàng vạn
quần chúng vô danh tham gia khởi nghĩa, Thủy Hử tập trung khắc họa nhóm
nhân vật điển hình của tác phẩm là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc. Vẻ đẹp lý
tưởng của họ thể hiện lý tưởng anh hùng của thời đại.
Thi Nại Am sinh năm Bính Thân đời Nguyên Trinh nhà Nguyên (năm
1296) và mất năm Canh Tuất đời Hồng Võ nhà Minh (năm 1370) nguyên
danh là Nhĩ, tên chữ là Tử An, quê quán ở Cô Tô (nay thuộc huyện Hưng
Hóa, tỉnh Giang Tô). Thuở thiếu thời rất thông minh và giỏi văn chương, 36
tuổi đỗ tiến sĩ ra làm quan với nhà Nguyên trong một thời gian ngắn. Nhưng
rồi sau đó, ông từ quan về ở ẩn, khởi nghĩa nông dân Trương Sĩ Thành nổ ra
là lúc ông bắt tay vào viết bộ tiểu thuyết Thủy Hử. Không khí của những
cuộc khởi nghĩa phả vào tác phẩm những trang viết giàu chất hiện thực
mang đậm tinh thần thời đại. Tác giả đứng về phía những anh hùng hiệp
khách mà trong con mắt của triều đình là những kẻ phản nghịch. Họ đi ra từ
trong dân gian, cùng nhau tụ nghĩa, làm nên vẻ đẹp của những con người
diệt ác trừ gian. Hơn 5 thế kỷ nay, Thủy Hử vẫn sống trong lòng quần chúng
nhân dân mặc dù bị bọn thống trị phong kiến căm ghét, những kẻ lãnh đạo
Bắc Kinh mở một “chiến dịch” quanh tác phẩm Thủy Hử, khi ca ngợi khi
phê phán theo những mưu đồ chính trị cá nhân. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật
anh hùng của Thủy Hử chúng ta luôn tránh thái độ đồng nhất nhân vật văn
90
học với con người ngoài đời và phải xuất phát từ đặc trưng của văn chương
để tìm hiểu. Tất cả những quan niệm, tư tưởng của tác giả khi đi vào tác
phẩm văn chương sẽ chịu sự chi phối của hệ thống nghệ thuật mang tính
quan niệm của nhà văn, trong đó có quan niệm về con người – biểu hiện qua
hình tượng nhân vật. Tác phẩm Thủy Hử có tới gần 400 nhân vật, trong đó,
108 anh hùng Lương Sơn Bạc được xem là những nhân vật anh hùng, họ kết
thành hệ thống nhân vật điển hình của tác phẩm.
2.2. Hệ thống nhân vật anh hùng trong Thủy Hử
2.2.1. Diện mạo chung của người anh hùng
Trong hệ thống nhân vật anh hùng của Thủy Hử, đặc điểm, mối quan
hệ, sự kết nối của các nhân vật góp phần làm nên diện mạo chung của người
anh hùng. Trên cái nền của diện mạo chung đó, người đọc có thể hình dung
bức tranh tổng thể của các hình tượng. Vậy diện mạo chung ấy được thể hiện
như thế nào?
Như phần trước chúng tôi đã trình bày, xét trên phạm trù đạo đức lẫn
thẩm mỹ thì hình tượng người anh hùng luôn mang tính lịch sử cụ thể, mang
dấu ấn văn hóa thời đại. Lý tưởng người anh hùng là lý tưởng thời đại phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân và tất nhiên không thể không chịu ảnh
hưởng hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Thủy Hử ra đời khoảng giữa thế kỷ
XIV, khi mà chủ trương “đức trị” với một xã hội lý tưởng thời Tây Chu của
Khổng Tử trở nên lạc lõng, chế độ phong kiến đã thiết lập được chính quyền
trung ương tập quyền, bộc lộ dần tính hà khắc của nó. Ý thức phản kháng của
quần chúng nhân dân còn được thể hiện qua hàng loạt các cuộc khởi nghĩa,
làm lung lay cả triều đại phong kiến, đẩy nó vào con đường suy thoái không
cứu vãn được: “…bắt đầu từ Trần Thắng, Ngô Quảng, Hạng Vũ, Lưu Bang
đời Tần, qua Tân Thị, Bình Lâm, Xích Mi, Đồng Mã và Hoàng Cân đời Hán,
Lý Mật, Đậu Kiến Đức đời Tùy, Vương Tiên Chi, Hoàng Sào đời Đường,
91
Tống Giang, Phương Lạp đời Tống, Chu Nguyên Chương đời Nguyên, Lý Tự
Thành đời Minh, cho đến Thái Bình Thiên Quốc đời Thanh, thống kê lại có
đến mấy trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ…” [5, tr.397].
Trong tác phẩm, Thi Nại Am đã miêu tả chế độ xã hội phong kiến như
một mái nhà “dột từ trên dột xuống”. Tống Đoan Vương ham mê chơi bời,
gặp người tri kỷ “Cao Cầu là con nhà lông bông mất dạy… không chịu làm
ăn, chỉ thích múa thương đánh gậy và đá cầu rất giỏi… bám vào những tay
du thủ du thực… chơi bời nghịch ngợm đủ lối, học đòi thi phú, võ vẽ sách
vở… nhưng nói đến nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, hạnh trung lương thì tuyệt nhiên
không hiểu chút gì…” (hồi 1). Không bao lâu, Cao Cầu lên đến chức Điện Sứ
Thái Úy, quyền lực rơi vào tay kẻ gian ác hẹp hòi, thật là tai họa cho biết bao
người! Hắn ra tay thanh toán oán thù một cách ti tiện, đọa đày bao người
lương thiện oan ức chất chồng. Những trói buộc hết sức khắc nghiệt của luật
pháp chỉ đẩy người dân vào chốn đường cùng. Nặng thì tru di tam tộc, chém
đầu, nhẹ hơn thì thích chữ vào trán, chịu đày khổ sai… Lâm Xung, Tống
Giang, Võ Tòng là nạn nhân của chế độ luật pháp dã man ấy. Bọn quan lại
sống bừa bãi, tay chân của chúng lộng hành làm điều càn bậy. Từ quan to
triều đình đến địa chủ cường hào địa phương đều là những tên gian ác xấu xa
luôn ức hiếp dân lành. Kim Thánh Thán đã có nhận thức đúng khi bình luận:
“Cao Cầu trở lại Đông Kinh đắc dụng, khiến Vương Tiến bỏ quan trốn đi…
Đem lại 108 người tới vậy” [1, tr.68]. Lời bàn trên đã chứng tỏ Kim Thánh
Thán đã thấy được nguyên nhân chính gây ra cuộc phản loạn, thấy được quy
luật phổ biến là “thượng bất chính, hạ tắc loạn". Trong nhân dân, hắc điếm,
tửu điếm cường đạo xuất hiện nhan nhản Thiếu Hoa Sơn, Đào Hoa Sơn, Nhị
Long Sơn, Ẩm Mã Xuyên, Thanh Phong Sơn… và hàng loạt tên sông, tên núi
yêu kiều nhưng chứa đầy giặc cướp! Bất bình với hiện thực, bế tắc trong tư
tưởng hành động, nhiều người bị lưu manh hóa, ăn cướp hoặc sống ngang
92
tàng, phóng túng giẫy giụa một cách bất lực để thoát khỏi vòng cương tỏa áp
bức bất công… Sự chống đối của họ mang tính chất liều lĩnh, không lối thoát.
Đó là phản ứng cuối cùng một cách bất lực trước một xã hội không có công
lý: họ phải nhúng tay vào tội ác. Không tôn thờ ai, không chịu khép mình
trong cái trật tự bất công chỉ có lợi cho giai cấp thống trị kia, họ chỉ muốn xóa
bỏ bất bình một cách cá nhân, tự phát. Họ sống ngang tàng, phóng túng,
không sợ quan quân, coi thường luật pháp. Vợ chồng Tôn Nhị Nương lập hắc
điếm, giết người làm nhân bánh nhưng không phải đụng ai cũng giết mà có ba
hạng người phải tránh là hành giả, ca kỹ và kẻ đi đày. Theo Trương Thanh, kẻ
đi đày “phần nhiều là những tay hảo hán vì bênh vực lẽ công bằng, tiễu trừ kẻ
lộng quyền, cậy thế cho nên khi mắc tù tội, quyết không xúc phạm đến họ”.
Đối với đời, họ là những kẻ bất nhân nhưng trong sâu thẳm tâm hồn của họ
vẫn còn ánh sáng của lương tri và đạo lý. Có lương tri mới nhìn ra đằng sau
những chiếc gông oan nghiệt kia là những anh hùng hảo hán ở đời. Có đạo lý
mới quyết không xúc phạm những con người sống hết mình vì đạo lý! Trong
cách hành xử của họ bao hàm một quan niệm: biết yêu quý và đồng tình với
những người dám chống lại trật tự của xã hội đương thời. Có thể nói không
khí ngột ngạt của đời sống thấm đẫm trong bức tranh hiện thực của tác phẩm.
Thi Nại Am đã phần nào nhìn sâu vào bản chất các xung đột xã hội
giữa các giai cấp khác nhau. Cả một xã hội mục ruỗng từ trên xuống dưới.
Thông qua hình tượng Đoan Vương, Cao Cầu và hàng loạt các nhân vật quan
lại khác, tác giả phản ánh con đường phát triển dẫn đến cuộc tụ nghĩa của anh
em Tống Giang chống lại triều đình. Quan lại phong kiến từ trên xuống dưới
được Thủy Hử phản ánh là hiện thân của sự ngu dốt và tàn bạo. Hầu hết các
nhân vật quan lại được tác giả miêu tả theo tinh thần phê phán nghiêm khắc.
Ngay đến vua, người đứng đầu thiên hạ mệnh danh là Thiên tử cũng bị tác giả
phê phán, qua lời của Quan Thắng, một vị đại tướng của triều đình: “Chúa
93
thượng hôn mê, gian thần lộng hành”, tri phủ Lương Trung Thư, sắm đồ
mừng sinh nhật bố vợ đến mười vạn quan bạc vàng. Bọn giám trại cai ngục
tiểu lại lợi dụng mọi cơ hội “đục nước béo cò”, chúng thấy tiền như “mèo
thấy mỡ”. Đồng tiền chi phối thái độ của chúng đối với phạm nhân, chứ
không phải là công lý. Anh chàng Đới Tung trước khi lên Lương Sơn Bạc,
giữ chân tiết cấp cũng hoạnh họe Tống Giang vì không nộp tiền theo thông lệ!
Lâm Xung vô cớ bị bắt giam, đưa ra năm lạng bạc thì thái độ cai ngục thay
đổi hẳn: “Lâm giáo đầu ơi! Tôi cũng nghe thấy tên ông, thật ông là vị nam tử
tốt, chắc chỉ bị Cao Thái Úy hãm hại mà thôi” (hồi 8).
Vì thế sự xuất hiện của những anh hùng “hễ thấy gì chướng tai gai mắt
là giết” (hồi 51), dẹp bỏ những bất bình trong thiên hạ cũng là tất yếu! Nó thể
hiện ước mơ của nhân dân trong một xã hội mà các giềng mối xã hội lung lay
tận gốc: bên cạnh mộng minh quân, mộng thanh quan, mộng thần tiên là giấc
mộng anh hùng hiệp khách. Khi chọn đạo tặc làm anh hùng Thi Nại Am đã
thể hiện một bứt phá mới trong quan niệm về con người cũng như mâu thuẫn
sâu sắc trong thế giới quan của ông. Điều này xuất phát từ yêu cầu thể loại và
đề tài qui định. Trong văn học cổ điển Trung Quốc chúng ta thấy sự tuân thủ
nghiêm ngặt của tác phẩm đối với thể loại và đề tài thể hiện: Tây du ký - tiểu
thuyết thần ma, Tam Quốc diễn nghĩa - tiểu thuyết lịch sử, Thủy Hử - tiểu
thuyết anh hùng. Chính đề tài lịch sử sẽ ảnh hưởng đến thể loại diễn nghĩa -
đậm chất biên niên, với đề tài thần ma, tác phẩm mang màu sắc kỳ ảo, truyền
kỳ anh hùng, đậm chất hư cấu hơn so với diễn nghĩa. Nhưng có lẽ quan niệm
về con người sẽ chi phối cách lý giải, cắt nghĩa sự cảm thấy con người được
hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người
trong văn học.
Trong bức tranh hiện thực phong phú của Thủy Hử, chúng ta thấy con
người hiện ra với mọi mối quan hệ muôn màu muôn vẻ của cuộc sống đời
94
thường. Tam Quốc diễn nghĩa lấy sự thực lịch sử làm căn cứ là chủ yếu
nhưng con người trong tác phẩm được nhìn qua lăng kính lý tưởng hoá, thần
thánh hóa…Trái lại, mặc dù đậm chất hư cấu, không chịu sự quy định chặt
chẽ của sự thật lịch sử, Thủy Hử lại nhìn con người ở góc độ đời thường hóa,
nhân tính hóa. Vì vậy, con người trong tác phẩm Thủy Hử là “con người đời
thường”, con người trong Tam Quốc diễn nghĩa là “con người chức năng”.
Nhìn trong tiến tình vận động của văn học Trung Quốc ở thời đại Minh -
Thanh, chúng ta có thể nhận ra có sự vận động trong quan niệm về con người
từ “con người chức năng” đến “người đời thường”. Điều này có gốc rễ sâu xa
từ trong những điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội của thời đại được phản ánh
trong khuynh hướng phát triển của tiểu thuyết Minh - Thanh. Tiểu thuyết đời
Minh chủ yếu khai thác đề tài lịch sử, tạo mạch tiểu thuyết anh hùng. Còn ở
tiểu thuyết thời Thanh các thành tựu văn học lại đi đến tinh thần mô tả đời
sống hiện thực, khai thác cái nhìn cuộc sống của nhà văn, tạo mạch tiểu
thuyết hiện thực đời thường. Dấu ấn văn học quá khứ tồn tại rất đậm trong
tiểu thuyết Minh. Dù là tiểu thuyết diễn sử hay thần ma, tiểu thuyết Minh đều
có đề tài rút từ thoại bản Tống Nguyên những sáng tác truyền khẩu dân gian,
hoặc kể tích anh hùng, hoặc giảng sử thời đại. Trước khi các nhà văn dụng
công sáng tạo văn học, những câu chuyện, những truyền thuyết về thời Tam
Quốc diễn nghĩa phân tranh về Tống Giang khởi nghĩa đã được lưu truyền
rộng rãi và định nên hình thể nội dung từ lâu… Tích tuồng Lưu Quan Trương
đào viên kết nghĩa, Đường Tam Tạng Tây thiên thỉnh kinh, những vở Đơn đao
hội (Quan Hán Khanh - đời Nguyên), Bảo Kiếm Ký (Lý Khai Tiên - đời
Minh), Tây du ký tạp kịch (Dương Nột đời Minh) đều đã được diễn thành
công trên sân khấu tạp kịch Trung Quốc. Tiếp thu sức sống của nguồn mạch
văn học dân tộc, ngòi bút của các nhà văn Trung Quốc thêm sức mạnh khái
quát và quán xuyến vấn đề. Tiểu thuyết anh hùng lịch sử đã biết kế thừa tinh
95
hoa của văn học quá khứ, thành tựu của văn học đang phát triển để vươn tới
đỉnh cao của nghệ thuật trong lịch sử văn học Trung Quốc. Mang nội dung
anh hùng lịch sử, tiểu thuyết đời Minh đi đến việc mô tả những sự kiện lịch sử
anh hùng, những bức tranh rộng lớn của lịch sử thời đại. Xêmanôp đưa ra
nhận xét rất thú vị rằng: “Bên trong đề tài lịch sử này các tác giả thế kỷ XIV -
XVI đã đạt được độ rộng lớn bất thường về mặt thời gian, cũng như về không
gian” [107, tr.77]. Trong không gian, thời gian đó, các nhà văn mô tả và ca
ngợi những chiến công, chiến tích của người anh hùng. Tác phẩm vì thế mang
đậm âm hưởng sử thi, tính chất của những “bản hùng ca chiến trận”. Rời bỏ
xu hướng khai thác đề tài lịch sử, tiểu thuyết hiện thực đời thường chú ý trọng
tâm đến những vấn đề của đời sống hàng ngày, chính những điểm khác biệt
trên đây dẫn đến hình tượng nhân vật cũng như quan niệm về con người trong
hai mạch tiểu thuyết có nhiều điểm khác nhau. Với tinh thần diễn sử, thuật sử,
tiểu thuyết anh hùng khắc họa nhân vật chủ yếu trong tác phẩm là nhân vật
anh hùng, nhân vật lịch sử. Các nhân vật này có bản chất khác lạ hơn đời, có
tài năng siêu việt hay trí tuệ hơn người. Nhân vật phân tuyến rõ ràng trong tác
phẩm hoặc chính hoặc tà hoặc trung hoặc nịnh. Từ con người anh hùng trong
tiểu thuyết đời Minh sang con người đời thường trong tiểu thuyết đời Thanh,
rõ ràng giữa hai khuynh hướng đã có một sự vận động về quan niệm con
người trong văn học. Cảm hứng ngợi ca mang đậm tính chất sử thi khép lại
âm hưởng của văn học một thời, được tiểu thuyết hiện thực đời thường tiếp
thu và mở ra những con đường vận động văn học mới. Tiểu thuyết Minh gắn
liền giai đoạn kết thúc vai trò thoại bản Tống nguyên trên văn đàn Trung
Quốc. Tiểu thuyết Thanh lại khơi nguồn cho mạch tiểu thuyết mang những
yếu tố hiện đại về sau. Ở đây, có sự chuyển tiếp và sự vận động của văn học.
Tiểu thuyết cổ điển Minh - Thanh nói chung và Thủy Hử nói riêng được xem
là “tiểu thuyết bản lề giữa truyện kể sử thi và tiểu thuyết hiện đại”. Chính
96
tính chất trung gian về thể loại ấy đã quy định một phương thức phản ánh độc
đáo trong tác phẩm: nhân vật được khắc họa trong sự vận động và phát triển
đa dạng của tính cách: vừa là anh hùng vừa là thổ phỉ, trong diễn biến tâm lý
vô cùng phức tạp của tư tưởng.
2.2.2. Hệ thống nhân vật anh hùng - nhìn từ nguồn gốc xuất thân
Khác với người anh hùng sử thi có dòng dõi cao quí mang đậm yếu tố
kỳ ảo cũng như người anh hùng phong kiến, người anh hùng trong Thủy Hử
chính là lực lượng đông đảo của quần chúng nhân dân. Là những mảnh đời,
những số phận khác nhau, thuộc đủ khắp các tầng lớp trong xã hội, theo tiếng
gọi của lương tri cùng nhau tụ họp về nơi Thủy bạc. Trước khi lên Lương Sơn
họ làm đủ mọi nghề để sống… Đánh cá, chèo thuyền, đốn củi, thợ săn, phu
xe, đồ tể, buôn bán kể cả ăn cắp, cường đạo, cờ gian bạc lận, cũng là một
nghề hẳn hoi… Nhưng điều kỳ lạ là trong 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc
cũng không hiếm những nhân vật thuộc tầng lớp quí tộc danh tiếng và võ
quan cao cấp như Lư Tuấn Nghĩa, Sài Tiến, Hô Duyên Chước, Quan Thắng,
Từ Ninh, Lâm Xung, Tần Minh, Lăng Chấn… Đó là những con người tài
giỏi, trí đức song toàn trong thiên hạ lại đang giữ những vị trí quan trọng của
triều đình. Vì cảm tấm lòng nghĩa khí “biệt nhỡn liên tài” của anh em Lương
Sơn Bạc mà đứng đầu là Hô Bảo Nghĩa Tống Giang, họ thuận lòng qui phục
đứng chung hàng ngũ với Lý Quỳ, Thạch Tú, Dương Lâm, Thời Thiên,
Vương Anh, Bạch Thắng, Lưu Đường v.v... Khảo sát các nhân vật anh hùng
trong Thủy Hử, dựa vào nguồn gốc xuất thân, chúng tôi thấy cách chia của tác
giả Nguyễn Văn Trọng thành 3 nhóm nhân vật sau đây là hợp lý:
- Nhóm các nhân vật thuộc tầng lớp thứ dân: Bao gồm nông dân, thợ thủ
công, ngư dân, tiều phu, thợ săn, buôn bán, ăn cắp, nghề cờ bạc, và
sống lưu lạc giang hồ.
- Nhóm các nhân vật thuộc tầng lớp trung gian: Nhóm này gồm những
97
nhân vật là quan lại bậc thấp như: Đô đầu, tri trại, đề hạt, tiết cấp, và
nhà nho, đạo sĩ, thầy thuốc, địa chủ hạng nhỏ, con cháu nhà võ, những
võ quan thất thế.
- Nhóm các nhân vật thuộc tầng lớp quí tộc và quan lại cấp cao: Đó là
các anh hùng xuất thân từ tầng lớp quí tộc, dòng võ danh tiếng, địa chủ
giàu có, giáo đầu cấm binh, đoàn luyện sứ, tổng binh, phó tướng, điện
ty chế sứ, đô giám, thống lĩnh v.v...
Nhìn vào cách phân chia này, chúng ta có thể hình dung hệ thống nhân
vật anh hùng trong tác phẩm. Do vậy, cách phân chia này, cũng hợp lý hơn
nhiều so với cách phân chia dựa trên các tiêu chí khác như đặc điểm phẩm
chất tính cách, giới tính....
Có thể nói, hệ thống nhân vật anh hùng trong Thủy Hử xuất thân từ mọi
tầng lớp nhân dân đoàn kết dưới ngọn cờ “đại nghĩa” trên tinh thần dân chủ,
không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, nam nữ… Giữa họ cùng tồn tại sự
khác biệt, đa dạng, về tính cách như tuyên ngôn của họ: có người thông minh,
có người thô thiển, hoặc chất phác, hoặc phong lưu đều không phân cách,
hiểu tính tình nhau cùng vui vẻ. Tỏ mặt anh hùng, chúng ta thấy có đại diện
đầy đủ các thành phần của giai cấp trong xã hội, từ trí thức nho sĩ, quan lại
quí tộc đến những con người bần cùng nghèo khổ nhất: “nào đồ tể, nào tiều
phu, chẳng phân biệt quí tiện, xưng đại ca, xưng tiểu đệ, hòa hợp khoan
dung” [91, tr.291]. Từ những phương trời xa lạ trên đất nước Trung Hoa rộng
lớn, những số phận, những cuộc đời không ai giống ai, tìm về Thủy Hử đoàn
kết một lòng: “Tám phương gồm một, khác họ một nhà. Ngàn dặm sớm tối có
nhau, một tấc lòng cùng sinh tử. Tướng mạo, ngôn ngữ, nam bắc, đông, tây
tuy cách biệt song tâm tính can đảm, trung thành tín nghĩa không sai” (hồi
70). Tinh thần đoàn kết trên tình huynh đệ ấy, thể hiện khát vọng dân chủ của
người dân trong xã hội phân biệt đẳng cấp, giai tầng nghiệt ngã… Không
98
những thế, hình ảnh những vị nữ tướng anh hùng đứng trong hàng ngũ các
đầu lĩnh Lương Sơn Bạc thể hiện một cái nhìn bình đẳng, mới mẻ về phụ nữ.
Trong bài viết Ba nữ tướng Lương Sơn Bạc, in trong Cảm nhận mới về văn
hóa và văn học Trung Quốc, Lê Huy Tiêu đã có những nhận xét xác đáng về
sự khu biệt trong cách nhìn người phụ nữ của Thủy Hử so với Tam quốc diễn
nghĩa: “Một trong những điểm khu biệt giữa truyện Thủy Hử và Tam quốc
diễn nghĩa là cách nhìn đối với phụ nữ. Ở Tam quốc diễn nghĩa có thái độ coi
thường phụ nữ và không có một nữ tướng nào, còn truyện Thủy Hử tuy vẫn
chưa thoát khỏi quan điểm phu quyền phong kiến, nhưng tác giả đã phần nào
thấy được vai trò của phụ nữ trong lịch sử, trong đời sống” [99, tr.73]. Hệ
thống các nhân vật nữ tướng của như Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương, Hỗ Nam
Nương rõ ràng đã làm phong phú thêm bức tranh muôn màu của người anh
hùng Lương Sơn Bạc. Nó thể hiện một cái nhìn phá cách về người phụ nữ so
với quan niệm truyền thống trước đó. Họ xuất hiện với thân phận nữ nhi để
đến với xã hội đường đường chính chính trong tư cách là nữ tướng anh hùng
Lương Sơn Bạc. Ở một ý nghĩa nhất định, người phụ nữ trong tác phẩm đã
thoát ly khỏi mô hình gia đình truyền thống để đến với xã hội, phát huy năng
lực và trí tuệ của mình. Vì vậy, hành trình tụ nghĩa trên đất Lương Sơn cũng
không thể thiếu những bước chân của họ. Bởi vì, con đường lên Lương Sơn
Bạc là quá trình đấu tranh để tồn tại trong một xã hội mà ngang trái chất
chồng, phi lý, vô đạo. Nó phát triển có tính tất yếu phù hợp với sự phát triển
của cuộc sống. Cuộc khởi nghĩa Lương Sơn vì thế mang tầm vóc mới phản
ánh xu thế lịch sử của thời đại: chế độ phong kiến đến hồi phải kết thúc vai
trò lịch sử của nó. Sự đối kháng gay gắt trong xã hội không chỉ dừng ở mâu
thuẫn giữa nông dân với địa chủ và quan lại phong kiến mà rộng hơn là sự bất
bình phản kháng của toàn xã hội. Đứng trong hàng ngũ của các đầu lĩnh
Lương Sơn Bạc có địa chủ danh tiếng, quí tộc, quan lại cấp cao, và cả những
99
du dân xuất thân từ đạo tặc… Vì vậy có thể nói, động lực, vai trò của cuộc
khởi nghĩa của các anh hùng Lương Sơn Bạc không phải là cuộc khởi nghĩa
nông dân như trong lịch sử. Bởi vì, trong hàng ngũ Lương Sơn Bạc có “đệ tử
thần tôn, phú hào tướng lại, gồm cả tam giáo, cửu lưu, thậm chí cả người đi
săn bắn, người đánh cá, anh đồ tể, anh đao phủ thủ” [54, tr.248]. Tác phẩm
có cốt lõi từ sự thật về một cuộc khởi nghĩa nông dân trước đó hai thế kỷ chứ
không phải Thủy Hử là bộ tiểu thuyết ca ngợi và phản ánh cuộc khởi nghĩa
nông dân. Bởi vì, qua khảo sát các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận trong 108 vị
anh hùng chỉ có 2 đầu lĩnh “gọi là nông dân” trước khi lên Lương Sơn Bạc là
Lý Quỳ, Đào Tôn Vượng. Một số khác, đã chuyển sang buôn bán. Trương
Thanh trước kia trồng rau, sau cùng Tôn Nhị nương mở hắc điếm. Võ Tòng
cũng có nguồn gốc nông dân sau ra nhận một chức quan nhỏ. Điều này có thể
lý giải ở cơ sở xã hội kinh tế văn hóa của thời đại mà chúng tôi đã đề cập ở
chương trước. Nền kinh tế nông nghiệp dần dần có nhiều chuyển đổi sang
kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp. Vì vậy, cơ cấu xã hội cũng xuất
hiện thêm một lực lượng lao động sản xuất mới - tầng lớp thị dân. Thủy Hử lại
có nền tảng là văn nghệ “thuyết thoại của phố chợ”. Quá trình lưu hành của
Thủy Hử trong dân gian “trước tiên bị sở thích của tầng lớp thị dân hạn chế”
[54, tr.248]. Vì vậy, tác phẩm mang hơi thở đời sống nhân dân đặc biệt phản
ánh khát vọng của tầng lớp thị dân. Trước hết, đó là cuộc sống tự do, vui vẻ
sống đoàn kết thương yêu nhau cùng hưởng lạc, chiếm hữu một cách đầy đủ
vì vật chất. Và sau đó là xây dựng một xã hội chỉ có trong giấc mơ của con
người đậm đà ý thức thị dân:
Tám phương cùng sống chung, bá tính cùng một nhà, trời đất mưa
thuận gió hòa, nhân gian tụ họp ăn tiệc. Mặt cách xa nghìn dặm
sớm hôm có thể thấy nhau, một tấc lòng có thể cùng nhau sống
chết. Tướng mạo ngôn ngữ có thể bắc nam đông tây có khác,
100
nhưng sự trung thành và tín nghĩa thì luôn không khác nhau. Tuy
trước đây có người là con vua cháu thánh, là phú hào tướng lại,
bao gồm tam giáo, cửu lưu, thậm chí là người đi săn bắn, đi đánh
cá, người làm đồ tể, làm đao thủ phủ, nay đều xưng hô bằng anh
em, không phân biệt sang hèn. Lại có cả những người anh em ruột
thịt, có cả vợ chồng, chú cháu, cậu cháu, có cả chủ tớ, có những
người vốn oán thù nhau, nhưng nay đều vui vẻ ngồi chung một
bàn tiệc, không cần biết thân sơ. Cũng có người khôn ngoan, có
người thô lỗ, có người chất phác, ở chốn quê mùa, có người
phong lưu ở nơi thành thị, nhưng không vì đó mà trở thành xa
cách nhau. Đúng là chỉ cần biết họ là có thể chung sống với nhau
được. Cũng có người giỏi việc văn chương ăn nói, có người giỏi
việc bôn ba đi khắp đó đây hoặc cũng có người giỏi làm nghề
trộm cắp, gạt gẫm, ai có sở trường nấy, tùy theo tài năng mà được
sử dụng. [91, tr.262].
Đó là hình ảnh xã hội mang tính chất không tưởng. Phản ánh ước mơ
về một thế giới đại đồng, chỉ có con người đối với con người bằng lòng
“trung thành” và “tín nghĩa”. Sự phân chia lao động mang tính công bằng
tùy theo tài năng mà được trọng dụng. Ở đây, thành phần của mọi người rất
phức tạp, làm đủ thứ nghề nghiệp khác nhau, thậm chí ăn cắp, dối gạt cũng
là một nghề kiếm sống. Mặc dù bản thân xã hội này là một sự hư cấu nhưng
ở phía sau nó tồn tại ước mơ, quan niệm bình đẳng giữa con người với con
người. Do đó có thể nói, ý thức cá nhân đã manh nha phát triển trong chính
khát vọng dân chủ này. Bởi vì, giá trị của con người đã bị những ý niệm
tuyệt đối của “lễ”, của “trung” kiềm tỏa quá lâu trong chế độ phong kiến
chuyên chế kéo dài ở Trung Quốc. Ý thức tự do, dân chủ muốn xóa bỏ quan
niệm giá trị con người phụ thuộc vào ý niệm giai cấp, sự phân biệt nguồn
101
gốc xuất thân. Cuộc đời của những đầu lĩnh Lương Sơn Bạc đã thể hiện
được rằng: không phải chỉ có những con người xuất thân từ dòng dõi quí tộc
mới có thể trở thành anh hùng. Có những anh hùng tài năng kiệt xuất, phẩm
chất cao quí đi ra từ những tầng lớp bần cùng nhất trong xã hội. Nhưng họ là
đại diện cho những con người ưu tú nhất của Trung Quốc thời trung đại vì là
biểu tượng của tự do, lòng yêu chính nghĩa, tinh thần quật khởi rất kiên
cường và hào hiệp.
2.3. Đặc trưng thẩm mỹ của hình tượng nhân vật anh hùng trong
Thủy Hử
2.3.1.Những bức chân dung kỳ hình dị tướng
Thủy Hử là một cách cảm nhận của nhân dân về người anh hùng nhân
dân dựa trên cơ sở triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị vốn có của thời đại.
Nét chung nổi bật của hình tượng người anh hùng trong tác phẩm là tính chất
phi thường, hơn người, được biểu hiện từ ngoại hình đến vẻ đẹp của phẩm
chất bên trong của người anh hùng. Điều này có lẽ bắt nguồn từ quan niệm
tướng số của người Trung Quốc: người kỳ hình dị tướng là người có tài. Vì
vậy, một trong những nguyên tắc khắc họa nhân vật cơ bản của Thủy Hử cũng
như nhiều bộ tiểu thuyết cổ điển khác là xây dựng người anh hùng với cảm
quan lạ hóa. Các nhà nghiên cứu văn học đều thống nhất một nhận xét rằng:
tiểu thuyết Trung Quốc thường có những yếu tố, đặc trưng là “quái, kỳ” và
“sử”. Nó trở thành hai phạm trù trong truyền thống mỹ học Trung Quốc,
chuyển hóa thành nguyên tắc về cái nhìn nghệ thuật. Đó là phương thức nghệ
thuật độc đáo để chiếm lĩnh khám phá và thể hiện đời sống. Tìm hiểu các
nhân vật anh hùng trong Thủy Hử, chúng tôi thấy một số anh hùng có diện
mạo ngoại hình mang đặc điểm “kỳ hình dị tướng” (tướng mạo hình dáng kỳ
lạ khác thường) vẻ đẹp của nhân vật được đẩy đến tận cùng: cực đẹp hoặc cực
xấu. Cả hai đều là thái cực của kỳ hình dị tướng. Trong Thủy Hử, kỳ hình dị
102
tướng là nguyên tắc khắc họa chân dung các nhân vật anh hùng. Tướng mạo,
hình dáng của họ có yếu tố kỳ dị, khác người. Lâm Xung “đầu báo mặt tròn,
râu hùm, hàm én” (hồi 6), quân sư Ngô Dụng “mày xanh, mắt sắc, mặt trắng,
râu dài” (hồi 13), Lý Ứng “mắt ưng, đầu hổ, tay vượn, lưng sói” (hồi 63), Lý
Lập “râu quăn sắc đỏ, mặt hổ kéo tia” (hồi 36). Tác giả miêu tả ngoại hình
chỉ bằng vài nét phác thảo nhưng có sức gây ấn tượng mạnh bởi màu sắc được
tô đậm có chút khoa trương. Lôi Hoành mặt đỏ, Dương Chí mặt xanh, Dương
Hùng mặt vàng, Trình Thiên Thọ mặt trắng, Lý Lập mặt hổ, Bùi Tuyên mặt
sắt…Trong tác phẩm, có người “cao lớn trắng trẻo” như Mạnh Khang,
Trương Thuận, có người đen, thấp xấu xí như Tống Giang. Có người mụn đen
mọc khắp người như Kim Tiền Báo Tử Thang Long, có kẻ sau ót mọc bướu
lồi lên như Độc Giốc Long Trâu Nhuận, thật là kỳ dị! Phần lớn các anh hùng
trong Thủy Hử đều có những biệt danh gắn với đặc điểm ngoại hình như: Hắc
Tam Lang Tống Giang, Thanh Diện Thú (thú mặt xanh) Dương Chí, Lưỡng
Đầu Xà (rắn hai đầu) Giải Trân, Song Vĩ Hạt (mọt hai đuôi) Giải Bảo, Hỏa
Nhỡn Toan Nghê (sư tử mắt đỏ) Đặng Phi… Cách miêu tả này có nguồn gốc
từ quan niệm tướng số của dân tộc Trung Hoa trong cách nhìn nhận, đánh giá
người tài. Theo họ, “kỳ hình dị tướng” là dấu hiệu để chỉ người có tài năng
khác thường. Người tài giỏi tất phải kỳ lạ, vì thế ngoại hình phải vượt ra khỏi
kích cỡ của con người. Quan niệm này bắt nguồn từ trong mỹ học truyền
thống và quan niệm văn hóa thần bí lâu đời của người Trung Hoa:
Nữ Oa thì mình rắn đầu bò, mũi hùm, Thần Nông mình người
đầu bò tót, Sĩ Nhiếp da xanh, mày rộng đầu mang ngọc mềm,
Xuyên Húc sinh ra ở đất Nhược Thủy, trên đầu có thương và
mộc, Hoàng Đế có bốn khuôn mặt. Vua Nghiêu mình cao chín
thước, lông mày tám sắc. Vua Thuấn mặt rồng, miệng lớn mình
đen, cao sáu thước một tấc, mắt có hai đồng tử. Vua Vũ mũi
103
hùm miệng rộng, tai có ba vành, đầu có móc có búa, ngực có
thìa ngọc, chân có dấu sẵn, mình cao mười thước, ngực có bốn
vú” [85, tr.54].
Như vậy, “kỳ hình dị tướng” là những dấu hiệu biểu hiện diện mạo,
tính chất siêu phàm, trác việt của những bậc đế vương, của những anh hùng
hào kiệt trên đời. Nó tạo nên “mã văn hóa” độc đáo khám phá diện mạo cùng
tính chất nhân vật của nền văn hóa thần bí của người Trung Quốc xưa. Điều
này có thể lý giải ở nguồn gốc sâu xa từ trong phương pháp nhận thức sự vật
của Kinh Dịch. Đó là một “hệ thống ký hiệu bằng tượng quẻ của người xưa
mô phỏng kết cấu nội tại và qui luật biến hóa phát triển của tự nhiên”
[58, tr.22], phép mô phỏng theo ký hiệu này phải có đặc trưng khái quát cao
độ hoặc là rất giản dị. Vì vậy, cần bỏ đi nhiều chi tiết cụ thể, nắm vững kết
cấu cơ bản và qui luật bên trong của sự vật được mô phỏng. Phương pháp
nhận thức sự vật này đã ảnh hưởng sâu sắc nghệ thuật Trung Quốc trên hai
phương diện. Các nhà nghệ thuật Trung Quốc đều xem tự nhiên là ngọn
nguồn cuối cùng của sáng tác và phương pháp sáng tác không dừng lại ở sự
sao chép như thực mà muốn lột tả một cách “truyền thần” những thứ bên
trong hoặc là bản chất như khí, đạo, lý, thần tình ẩn chứa trong hình, dạng,
thanh, sắc… Trong nghệ thuật, cuộc sống con người được cách điệu hóa,
thấm đẫm sự hòa đồng, hóa thân của tự nhiên. Bởi lẽ, “nhân pháp địa, địa
pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên” (Lão Tử) [47, tr.41]. Rút gọn
lại, “nhân pháp tự nhiên” [47, tr.41]. Con người thuận theo lẽ tự nhiên học tập
và bắt chước tự nhiên. Khi người xưa mô tả “Nữ Oa mình rắn đầu bò, vua
Thuấn mặt rồng, miệng lớn mình đen…” tức là đã bao hàm một quan niệm
lấy thiên nhiên làm chuẩn cho vẻ đẹp con người. Quan niệm này vẫn còn dấu
ấn sâu đậm trong việc khắc họa chân dung 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc.
Lâm Xung có “đầu báo mặt tròn”, Lý Ứng thì “đầu hổ, tay vượn, lưng sói”,
104
Lý Quỳ được gọi là Thiết Ngưu: con trâu sắt. Nhưng việc khắc họa này không
theo nguyên tắc tả thực, tỉ mỉ như các nhà văn phương Tây (theo kiểu “giải
phẫu côn trùng”) mà rất khái quát gần với lối vẽ phác họa (bạch miêu), thậm
chí mang một chút khoa trương như đoạn miêu tả Lý Quỳ: “toàn thân trùng
trục như gấu đen, da dầy khắp người như trâu sắt, lông mày vàng sẫm hình
chữ nhất, đôi mắt chằng chịt những sợi đỏ li ti, tóc tai dựng ngược như bàn
chải sắt, dáng vẻ hung tợn như hùm beo, thực là thiên bồng ác sát từ trời
xuống” [58, tr.25]. Cách thức miêu tả này coi trọng ám thị và hàm súc, coi
trọng tả ý, do đó trên bề mặt hình thức thường có đặc trưng “giản”, “dị”. Bút
mực không nhiều nhưng ý vị sâu xa. Phương thức tái hiện ngoại hình nhân vật
kiểu này với phương thức dùng tượng quẻ mô phỏng qui luật tự nhiên của
Kinh Dịch có thể nói là rất gần nhau. Nhà văn đã vượt qua hình hài của nhân
vật để nắm bắt cái “thần khí” của người anh hùng trong sự cộng hưởng trực
cảm với người đọc mà khoa học gọi là “trường thức giác”. Chỉ bằng một vài
nét chấm phá của tác giả, người đọc có thể hình dung về nhân vật qua hình
dáng bên ngoài của họ. Người có diện mạo “mặt tròn tai lớn mũi thẳng mồm
vuông, mình cao tám thước, vai rộng đẫy ôm…” (hồi 2) như Lỗ Trí Thâm thì
không thể là con người tầm thường được. Trái lại, người có “tướng ngũ đoản,
mặt trắng bệch mà không có râu ria gì cả” (hồi 9) như Lục Ngu Hầu là dấu
hiệu của kẻ phản bội bạn bè một cách độc ác. Vì vậy, vẻ đẹp của người anh
hùng mở ra không chỉ “kỳ hình dị tướng” bên ngoài mà còn hàm chứa tiềm ẩn
chiều sâu của phẩm chất, trí tuệ, tài năng, tấm lòng…
2.3.2. Phẩm chất, tính cách anh hùng
2.3.2.1. Vẻ đẹp của sức mạnh siêu phàm
Bên cạnh đặc điểm “kỳ hình dị tướng”, người anh hùng trong Thủy Hử
hiện ra với sức mạnh phi thường lập nên những chiến công kỳ diệu được nhân
dân vô cùng yêu mến và thán phục. Võ Tòng tay không giết chết hổ dữ trên
105
đồi Cảnh Dương, tiếng tăm rộng khắp nhân gian. Lý Quỳ với đôi búa một lúc
giết bốn con hổ thể hiện sức mạnh phi thường hiếm có! Lỗ Trí Thâm có sức
mạnh như “La Hán hiện thân” (hồi 8), chỉ cần vặn mình một cái mà nhổ được
cây liễu lớn ở chùa Tướng Quốc. Võ Tòng nhấc hòn đá nặng năm trăm cân,
tung lên hơn một trượng rồi ngửa tay hứng lấy mà vẫn thản nhiên như thường.
Trên đường đến Khoái Hoạt Lâm đánh Tưởng Môn Thần, Võ Tòng qua gần
hai mươi tửu quán, mỗi quán dùng ba chén rượu lớn mà vẫn hạ gục Tưởng
Môn Thần khiến hắn phải van xin tha mạng… Lỗ Trí Thâm uống mấy mươi
be rượu một lúc mà không say, cầm trong tay khẩu giới đao, thanh thuyền
trượng nặng gần bảy mươi cân có kém gì Thanh long đao huyền thoại của
Quan Công trong Tam Quốc diễn nghĩa. Có thể nói đây là những nhân vật có
sức mạnh cử đỉnh ngàn cân tạo thành vẻ đẹp tráng - mỹ của người anh hùng
trong Thủy Hử. Điều đáng nói là sức mạnh ấy thăng hoa thành tinh thần nghĩa
hiệp hướng về nhân dân bị áp bức. Biết bao lần họ xuất hiện kịp thời múa đao
can thiệp vào những chuyện không liên quan đến mình. Võ Tòng ghét thói ỷ
mạnh ngang ngược đánh Tưởng Môn Thần một trận khiếp đảm. Lỗ Trí Thâm
ra tay cứu cha con Kim Lão khỏi nanh vuốt của tên ác bá Trịnh Đồ bằng ba cú
đấm! Tại rừng Dã Trư khi Tiết Bá giơ gậy toan đánh vào đầu Lâm Xung để
kết liễu cuộc đời của một giáo đầu cấm binh vô tội, Lỗ Trí Thâm xuất hiện
như thần “thét như sấm”, “thanh thuyền trượng đánh vút một cái bắn phăng
ngay gậy của Tiết Bá” (hồi 8). Gặp ngang trái bất công, sức mạnh như vũ bão
của họ trở thành công lý ở đời. Gặp Chu Thông cưỡng ép con gái Lưu Thái
Công thì đánh Chu Thông, thấy Thôi Đạo Thành và Khâu Tiểu Ất đội lốt nhà
sư làm điều bất chính thì giết ngay hai nhà sư hổ mang! Có thể nói, vì vậy, họ
xuất hiện lồng lộng trong cảm hứng ngợi ca đậm chất sử thi của tác phẩm.
Sức mạnh phi thường của họ là ước mơ của nhân dân về những anh hùng hiệp
sĩ thấy chướng tai gai mắt sẵn sàng liều thân dẹp nỗi bất bình. Sức mạnh ấy
106
hóa thân thành cái đẹp cao cả trong quan niệm anh hùng của Thủy Hử. Điều
đáng quí là sức mạnh ấy thăng hoa thành tình thương và hành động hiệp nghĩa
của các anh hùng hảo hán Lương Sơn. Trong đó, lý tưởng, quan niệm về con
người, đặc biệt là người anh hùng đã có những bước phát triển đi ngoài quỹ
đạo của tư tưởng phong kiến, hình thành nên vẻ đẹp lý tưởng của người anh
hùng nhân dân.
2.3.2.2. Vẻ đẹp lý tưởng hiệp nghĩa
Trong bức tranh hiện thực rộng lớn của Thủy Hử, con đường lên Lương
Sơn Bạc của mỗi nhân vật anh hùng đều chịu sự tác động của nhiều mối quan
hệ. Trước hết là tác động của ý thức mới trong nhân dân chống lại tư tưởng
phong kiến trên nền tảng của một xã hội có những manh nha thay đổi cùng
với ý thức trung quân là ranh giới tín điều đạo đức phong kiến mà Thi Nại
Am không sao vượt qua được. Mặc dù “tư tưởng bạo loạn được phản ánh
trực tiếp trong tiểu thuyết Thủy Hử” [107, tr.8] nhưng nhìn chung, tư tưởng
trung quân của tác giả chi phối mạnh mẽ ý thức của một số nhân vật, trong đó
có Tống Giang người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Tư tưởng đó là một khái
niệm đạo đức được định hình trong chế độ phong kiến mấy nghìn năm của đất
nước Trung Hoa. Cũng có lúc, chế độ phong kiến phù hợp với sự phát triển
của lịch sử, với nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Cho nên, trong một
chừng mực nhất định, họ tiếp thu những yếu tố tích cực của Nho giáo và biến
nó thành đạo lý của riêng mình. Yếu tố văn học dân gian đi vào Thủy Hử
mang tư tưởng của quần chúng nhân dân. Trong khi đó, tác phẩm lại chịu ảnh
hưởng của truyền thống biên niên sử mang tư tưởng chính thống. Chính tính
chất phức tạp và mâu thuẫn của tư tưởng Nho giáo tập trung ở khái niệm
“trung nghĩa” trong Thủy Hử bộc lộ những nét độc đáo của cái nhìn về người
anh hùng trong tác phẩm. Điều này sẽ giải thích được sự mâu thuẫn giữa thế
giới quan của tác giả chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng trung quân nhưng hiện
107
thực cuộc sống trong tác phẩm lại đi ngoài ý đồ ban đầu của người viết. Ở
đây, đã có quá trình chuyển hóa từ thế giới quan thành nguyên tắc của cái
nhìn nghệ thuật. Quan niệm thẩm mỹ của tác giả ngưng kết trong tác phẩm
không phải ở thế giới quan mà là ở quan niệm nghệ thuật về con người. Trong
đó, tinh thần “trọng nghĩa”, yếu tố “hiệp nghĩa” đã trở thành nguyên tắc chủ
yếu về mặt đạo đức trong hành động của các hảo hán Lương Sơn. Tư tưởng
trung quân chỉ đi vào ý thức của nhân vật chứ không thành nguyên tắc xây
dựng nhân vật và nó cũng chỉ dừng lại ở ý thức chứ chưa tiến sâu vào tiềm
thức của tâm hồn con người. Có ai trong số hảo hán Lương Sơn Bạc chịu sự
chi phối tư tưởng trung quân sâu nặng như Tống Giang, vậy mà những vần
thơ tâm huyết nhất của nhân vật lại sục sôi một khát vọng nổi loạn:
Một mai may báo được oan cừu
Máu nhuộm Tầm Dương sẽ biết nhau (hồi 38)
Tiềm thức phản kháng còn kịch liệt đến độ “khinh cả Hoàng Sào chửa
trượng phu” [28, tr.80]… Những vần thơ viết trong lúc say, thỏa chí tung
hoành, nằm ngoài tầm kiểm soát của ý thức để rồi tác giả của nó phải nhận án
tử hình! Sự mâu thuẫn giữa tư tưởng trung quân và ý thức phản kháng tác
động lên tất cả các mối quan hệ của nhân vật trong tác phẩm. Đó là quan hệ
mang tính chất đối kháng giữa kẻ áp bức và người bị áp bức. Bên cạnh đó là
quan hệ gia đình huyết thống, quan hệ anh em, bè bạn và đặc biệt là quan hệ
trực tiếp giữa các anh hùng hình thành nên nhóm nhân vật điển hình 108
người trong Thủy Hử. Đứng trước một xã hội bất công, oan ức chất chồng thái
độ của người anh hùng trước hết là một sự phủ định. Họ không chấp nhận cái
trật tự đương thời luôn tô vẽ bằng những thành trì bất di bất dịch của đạo đức
phong kiến. Lần theo bước chân của người anh hùng tác phẩm mở ra dần dần
bản chất tàn ác của xã hội như một mái nhà “dột từ trên dột xuống”. Trong đó,
hình tượng người anh hùng đối lập với xã hội là một thái độ “phụng sự cái
108
đẹp trước hết được thể hiện bằng tiếng nói phủ định” [40, tr.427]. Qua sự
chồng chéo lên nhau của những số phận cụ thể, nhà văn khám phá ra những
quy luật nhất định của đời sống. Đó là con đường tập hợp dần sự phản kháng
cá nhân thành lực lượng chống đối tập thể. Nhân dân giác ngộ chân lý có áp
bức thì có đấu tranh, không thể nhẫn nhục chịu đựng. Đó là thái độ cần phải
có của người anh hùng trước cuộc sống. Vì vậy, dù tài năng và đức độ,
Vương Tiến không thể được xem là nhân vật anh hùng. Bị Cao Cầu bức bách,
chàng cùng mẹ già lặng lẽ trốn đi. Thật khác xa khí phách trượng phu của bao
anh hùng.
Điều đó cũng cho chúng ta thấy rằng, hành động phản kháng chống lại
trật tự xã hội đương thời hội tụ về Lương Sơn Bạc là một tiêu chí đầu tiên để
trở thành người anh hùng trong Thủy Hử. Điếu phạt phải trừ bạo, diệt trừ bạo
ngược trong cuộc sống là hành động vì nghĩa. Mục đích của tấm lòng nhân
nghĩa không phải là thực hiện đạo “trung” mà dẹp bất bình trong thiên hạ. Đối
tượng thi hành “nghĩa” là nhân dân bị áp bức, là con người cần quyền sống!
Trong khi nhận lãnh sứ mệnh cao cả đó, người anh hùng bộc lộ phẩm
chất cao đẹp của mình. Một trong những đặc trưng nổi bật của họ là tinh thần
gan dạ - sự hóa thân của chữ “dũng”. Họ xông vào chiến trận, pháp trường
vào nơi tù ngục nguy hiểm mà không hề run sợ mảy may. Giữa pháp trường
gươm giáo tua tủa, Lý Quỳ xông vào đánh cứu Tống Giang. Thạch Tú liều
mình cướp pháp trường cứu Lư Tuấn Nghĩa. Võ Tòng giết cả nhà Trương Đô
Giám rồi thách thức đám quan lại thối nát tám chữ bằng máu trên tường: “sát
nhân giả, đả hổ Võ Tòng dã” (kẻ giết người chính là Võ Tòng đánh hổ) (hồi
30). Bao anh hùng Lương Sơn sẵn sàng xông vào chỗ chết liều mình cứu bạn.
Có thể nói, đây là những con người toàn thân là “đảm”, là những bậc đại
trượng phu đầu đội trời, chân đạp đất, tung hoành bốn bể…Sức mạnh thể chất
phi thường được nhân lên gấp bội với tinh thần anh dũng vô song của người
109
anh hùng trong Thủy Hử. Để dẹp bỏ bất bình trong thiên hạ, ngoài sức mạnh
và lòng dũng cảm, họ là những con người sáng ngời vẻ đẹp của tài năng và trí
tuệ. Có thể nói, con đường lên Lương Sơn Bạc là sự gặp gỡ, hội tụ của những
anh hùng kỳ tài trong nhân gian. Họ mến nhau vì nghĩa, phục nhau vì tài. Khi
đánh nhau với Lỗ Trí Thâm và Dương Chí, Hô Duyên Chước khen thầm rằng:
“Quái lạ! Ở đất này mà lại có hai tay võ nghệ giỏi như thế ! Quyết nhiên
không phải là giặc cỏ” (hồi 56). Trong Thủy Hử xuất hiện nhiều anh hùng có
nghĩa khí và tài năng xuất chúng, võ nghệ siêu quần (Lâm Xung, Dương Chí,
Lỗ Trí Thâm), sức khỏe vô song (Lý Quỳ, Võ Tòng), có tài bơi lội giỏi giang
(ba anh em họ Nguyễn, Trương Thuận, Trương Hoành, Lý Tuấn), tài thiện xạ
(Hoa Vinh), tài mưu lược (quân sư Ngô Dụng). Lương Sơn Bạc nhiều khi
thắng lớn không phải ở binh hùng tướng mạnh mà ở tài năng mưu lược vừa
thông minh vừa tinh tế. Không phải dễ lừa được những tướng giỏi của triều
đình về với Lương Sơn Bạc. Vậy mà, với tài năng và mưu trí những anh hùng
Lương Sơn Bạc đánh bại những anh hùng trí dũng song toàn trong thiên hạ.
Họ ứng phó với đủ loại tình thế một cách thần tình tuyệt hảo. Việc giả danh
Thái Úy mà trừng trị Hạ Thái Thú cứu Sử Tiến và Lỗ Trí Thâm ở đất Hoa
Châu (hồi 58) chỉ là một trong những “thần mưu” của họ. Trí tuệ, sức mạnh
phi thường được nhân lên gấp bội với tinh thần anh dũng vô song của người
anh hùng trong Thủy Hử. Với tất cả vẻ đẹp lý tưởng đó, người anh hùng trong
Thủy Hử không vì sự an nguy của bản thân mà sẵn sàng liều thân dẹp những
bất bình. Hành động xông pha nơi hiểm nguy mà không hề sợ hãi, sự hi sinh
quên mình đó chỉ có thể xuất phát từ một lý tưởng. Vậy thực chất lý tưởng
đạo đức trên tinh thần “trung nghĩa” của nhân dân trong Thủy Hử là gì?
Có thể thấy, từ chữ “nghĩa” của Khổng Tử đến “trung nghĩa” của nhân
dân là một khoảng cách của hai góc nhìn. Nho giáo đề cao chữ “nghĩa” nhưng
giới hạn nó trong nghĩa vua tôi. “Nghĩa” là đức lớn của người quân tử là con
110
đường để thực hiện “đạo trung”. “Trung nghĩa” là tiêu chuẩn đánh giá đầu
tiên của con người nhập thế. Hai khái niệm đó có mối quan hệ giao hòa lẫn
nhau. “Nghĩa” ở đây thực chất cũng là biểu hiện của lòng “trung”. Dưới chế
độ phong kiến, những bậc hiền nhân quân tử hết thảy đều thấm nhuần tư
tưởng “trung quân” một cách sâu nặng. “Trung nghĩa” trở thành dư luận xã
hội, có giá trị biểu hiện nhân cách con người. Cũng chính vì có sức mạnh
trong ý thức xã hội như vậy nên nó đã thấm sâu vào đời sống tinh thần của
nhân dân. Dưới tầm mắt của quần chúng những người vẹn lòng trung nghĩa là
những người đáng kính phục. Nhân dân quý mến họ và chân thành học tập
những tấm gương đó. Nhưng ở một mức độ nhất định, nhân dân bao giờ cũng
có sự phân biệt rạch ròi, chỉ đáng để họ kính phục là những anh hùng có lòng
“trung” tỉnh táo. Lòng “trung” không thể phục vụ cho những âm mưu phản
động, cho quyền lợi của giai cấp thống trị. Lòng “trung” hướng về một ông
vua, một dòng họ của tư tưởng phong kiến khác xa với lòng “trung” theo quan
điểm nhân dân.
“Trung” 忠 là sự kết hợp của hai từ: “trung” 中 là chính giữa, không
thiên lệch với chữ “tâm” 心 là tấm lòng. Đem hết tấm lòng ra mà đối xử công
bình, không phân biệt đẳng cấp giá trị là “trung” 忠.
“Nghĩa” 義 gồm từ "dương" 羊 (bầy dê): có nghĩa bầy đàn biểu trưng
cho nhân quần, cộng đồng kết hợp với chữ "ngã" 我 (tôi). Đặt "ngã" bên dưới
nhân quần thể hiện quan niệm hòa hợp sống vì người khác. Nghĩa là việc theo
đường lối phải, là đạo chính, là việc nên làm. Có thể nói, nhân vật anh hùng
trong Thủy Hử hoạt động trong môi trường văn hóa đậm chất “nghĩa hiệp”.
Các từ có chữ “nghĩa” kèm theo xuất hiện đậm đặc trong tác phẩm, từ “nghĩa
quân”, “nghĩa sĩ”, “nghĩa hiệp”, “nghĩa khí” đến “tụ nghĩa”, “hiệp nghĩa”,
111
“trung nghĩa”, “đại nghĩa”, “nhân nghĩa”,” tín nghĩa”… Như vậy, “trung
nghĩa” là đạo lý làm người, đem hết tấm lòng ra mà đối xử với người trên tinh
thần bình đẳng không phân biệt. Đó cũng là biểu hiện về cái “tôi” của con
người cộng đồng trong văn hóa phương Đông. Vì vậy, đối với nhân dân chữ
“nghĩa” được xem là giá trị đạo đức cơ bản trong mối quan hệ giữa con người
với con người. Với khái niệm “trung nghĩa”, giai cấp thống trị nhấn mạnh đến
chữ “trung” thì nhân dân lại xem trọng chữ “nghĩa”. Trong Thủy Hử, chữ
“nghĩa” trước hết là nghĩa cá nhân được biểu hiện ở tình huynh đệ giữa các
anh hùng, là bổn phận của con người đối với gia đình, cha mẹ, ông bà, chồng
vợ, bằng hữu… Rộng ra, đó là tấm lòng yêu thương và hành động hào hiệp
trước những cảnh đời bất công ngang trái, là tinh thần dũng cảm, khảng khái
dám phản kháng chống lại cường quyền bạo ngược … Làm việc nghĩa là giúp
đỡ kẻ yếu, bênh chính diệt tà. Ba anh em Chu Vũ, Dương Xuân, Trần Đạt ở
Thiếu Hoa Sơn dẫu không cùng sinh một ngày một tháng một năm nhưng họ
một lòng quyết sống cùng sống chết cùng chết. Cách sống đó đã làm Sử Tiến
cảm kích và xúc động, sẵn sàng đốt bỏ trang trại, mở đường máu cứu thoát họ
rồi lưu lạc giang hồ. “Nghĩa” ở đây được xây dựng trên cơ sở bình đẳng giữa
con người với con người, sẵn sàng hy sinh để cứu khốn phò nguy, biểu hiện
một lối sống hết sức chung tình. Không có Yến Thanh, Thạch Tú, dù lực
lượng Lương Sơn có “dằn mặt” Sái Phúc kèm theo một ngàn lạng vàng tính
mạng Lư Tuấn Nghĩa cũng khó lòng giữ nổi. Chút tình của Lý Tiểu Nhị khi
Lâm Xung gặp nạn chân chất vẻ đẹp của một tấm lòng! Cái bất bình đùng
đùng nổi giận của Lỗ Trí Thâm khi nghe Sử Tiến vì cứu người mà bị bắt vào
ngục là bất bình của đấng trượng phu nặng tình nặng nghĩa. Chữ “nghĩa”
được xây dựng trên nền tảng vững chắc của một thứ tình người sâu nặng.Vì
sự an nguy của người khác mà ra tay dẹp bỏ bất bình trong thiên hạ như Lỗ
Trí Thâm cứu cha con Kim Lão, vì nền luân lí đạo đức mà Võ Tòng “giết chị
112
tế hồn anh” (hồi 25). Tấm lòng hiếu thảo với mẹ của Lý Quỳ, tình cảm sâu
nặng với chồng của vợ Lâm Xung là những biểu hiện cảm động của chữ nghĩa
trong đạo lý của nhân dân. Đó là những giá trị tình cảm gần gũi mà thiêng
liêng nhất. Chữ “nghĩa” gắn chặt với “tình”chứ không phải khái niệm trung
quân xa vời! Trước việc nghĩa không hề lùi bước, tính toán thiệt hơn dù biết
rằng điếu phạt đồng nghĩa với hy sinh. Sử Tiến đốt cả trang trại bỗng chốc trở
thành kẻ lưu lạc giang hồ, Đới Tung vì cứu Tống Giang mà thành tử tội, Hoa
Vinh bỏ chức Tri trại Thanh Phong, Sài Tiến, Lý Ứng từ bỏ cơ nghiệp cha
ông mấy đời truyền lại. Như vậy, việc “nghĩa” đã trở thành những thôi thúc tự
giác trong trái tim của người anh hùng. Đánh giá người anh hùng không phải
ở chỗ tài năng xuất chúng mà ở tinh thần trọng nghĩa. Tư Mã Thiên trong Sử
Ký đánh giá rất cao những con người biết sống vì nghĩa, bởi họ “không hề tiếc
tính mạng cứu khốn phò nguy, xông pha vào nơi nguy hiểm để cứu người mà
không hề khoe khoang tài nghệ lấy việc trả ơn làm thẹn” [95, tr.552]. Có lẽ ai
trong cảnh ngộ riêng tư gặp phải bất công, trải nghiệm sự chua xót vì oan ức
mới cảm nhận hết sự khâm phục đối với những con người nghĩa hiệp. Họ đã
“vì dân mà chống lại cường hào khốc lại, trả thù hoặc minh oan cho những kẻ
bị hà hiếp”, [85, tr.66]. Làm việc nghĩa ở đây ngoài tình cần phải có tinh thần
dũng cảm, khảng khái hy sinh. Vì vậy, khái niệm “nghĩa” trong quan niệm
của người anh hùng đi đôi với khí phách hào hùng làm nên vẻ đẹp “nghĩa khí”
khác xa với loại người chỉ biết sống vo tròn, an phận. Giữa triều đình chỉ
“toàn bọn bề tôi lo bảo toàn thân mình” [95, tr.590], vì cảm nghĩa khí và bênh
vực Lý Lăng, Tư Mã Thiên bị tội “cung hình”. Trong bức thư gửi Nhiệm Thế
Khanh, ông bộc bạch: “Nhà tôi nghèo không có tiền để tự chuộc tội, bạn bè
không ai ngó ngàng cứu giúp, mà các quan tả hữu thân cận cũng không có ai
nói đỡ một lời…” [95, tr.592]. Bạn bè Tư Mã Thiên không ai có lòng nghĩa
hiệp, dám khảng khái bênh vực, để nỗi nhục đè lên suốt cả cuộc đời ông - một
113
trong những sử gia lỗi lạc nhất của nhân loại. Cũng có thể một phần vì vậy
cùng với cái nhìn tiến bộ mà trong tư cách của một nhà sử học, Tư Mã Thiên
tự đặt nhiệm vụ cho mình phải sửa lại sự bất công của xã hội, đề cao những
kẻ “có khí tiết, có tư cách khảng khái vì nghĩa, bị người đời bỏ quên”
[95,tr.65]. Hơn một ngàn năm sau, những kẻ “du hiệp” đơn thương độc mã
trong Sử Ký Tư Mã Thiên để lại bóng dáng “hiệp khách” của mình trong hình
ảnh các anh hùng Lương Sơn Bạc. Mang triết lý nhân sinh “chớ đem thành
bại mà luận anh hùng” [95, tr.41], 108 anh hùng Lương Sơn Bạc quả thực là
biểu tượng của cái đẹp vì nghĩa hi sinh được biểu hiện trong tất cả những mối
quan hệ xã hội phức tạp và đa dạng. Đó là những trang hảo hán đầu đội trời
chân đạp đất dám sống chết với đời, vung dao trừ mọi điều ngang trái. Chữ
“nghĩa” của họ mang ý nghĩa lớn lao, hòa tan nghĩa cá nhân trong “đại nghĩa”
cùng chung mục đích lý tưởng: hướng về lợi ích toàn thể cộng đồng chứ
không phải một cá nhân hay một tập đoàn phong kiến nào. Mối gắn bó của
108 anh hùng trong Lương Sơn Bạc là sự ràng buộc vô hình của chữ “nghĩa”.
“Nghĩa” là điều suy nghĩ đầu tiên của mỗi anh hùng khi bước chân lên đất
Lương Sơn. Không một anh hùng nào không mến nghĩa Tống Giang thực chất
cũng là “đại nghĩa” của Lương Sơn Bạc. “Đại nghĩa” của 108 vị anh hùng
được xây dựng trên cơ sở cùng chống áp bức bất công, trả lại sự tự do công lý
cho đời, xây dựng một cuộc sống tự do và hạnh phúc. Họ đoàn kết thành một
khối vững chắc trong mối quan hệ hiệp nghĩa trên tinh thần huynh đệ giữa các
anh hùng. Bên trong, họ cùng một chí hướng, bên ngoài tạo ra sức mạnh
chống lại triều đình và sự phá hoại của những thế lực khác. Chính vì vậy mà
lực lượng nghĩa quân Lương Sơn Bạc là những con người biết đồng cam cộng
khổ, sống chết có nhau. Một người sa vào nguy hiểm thì tất cả không quản
nguy hiểm cứu thoát ra được mới thôi. Hoa Vinh vì Tống Giang chống lại
Lưu Cao đến nỗi tiêu tan cơ nghiệp. Thạch Tú một mình tự lượng sức mình
114
không địch lại quan quân nhưng vẫn xông vào cứu Lư Tuấn Nghĩa giữa pháp
trường, Tiều Cái vì đánh Tăng Đầu Thị mà hi sinh cả tính mạng. Lý tưởng vì
nghĩa của nhóm anh hùng Lương Sơn Bạc không dừng lại ở mối quan hệ hằng
ngày, giữa cá nhân với cá nhân mà còn mở rộng ra thành nghĩa vụ đối với
cộng đồng nhân dân. Bởi vì, “đại nghĩa” của Lương Sơn Bạc là thực hiện
công bằng cho nhân dân, rộng ra là đất nước. Sự nghiệp Lương Sơn Bạc là sự
nghiệp chung của một tập thể anh hùng đứng đầu là Tống Giang. Tinh thần
“đại nghĩa” bao hàm trong ý nghĩa của chữ “trung” một yếu tố tích cực. Anh
em Lương Sơn Bạc trung thành với sự nghiệp chung, với lý tưởng của họ chứ
không phải trung thành với cá nhân Tống Giang theo kiểu quan hệ trung -
thần. Nếu Tống Giang làm điều bất nghĩa thì “đại nghĩa” của anh em cũng
không thể dung thứ: phản ứng của Lý Quỳ khi hiểu nhầm Tống Giang cho
thấy rõ điều đó. Chính vì vậy mà tính chất anh hùng trong Thủy Hử có điểm
khác biệt với tính chất anh hùng trong Tam Quốc diễn nghĩa. Từ quan niệm
trung quân là trung với một dòng họ, người anh hùng trong Tam Quốc diễn
nghĩa không thể có lý tưởng phục vụ quần chúng nhân dân. Dù đại diện cho
chính nghĩa hay cho gian tà họ đều hy sinh cho sự nghiệp của một cá nhân.
Mâu thuẫn của họ cũng là mâu thuẫn của các tập đoàn phong kiến, anh em
Huyền Đức tuy có ý thức thi hành nhân chính biết yêu thương dân, dựa vào
dân, nhưng tư tưởng của họ vẫn chưa thoát khỏi ý thức hệ của giai cấp thống
trị. Hành động của họ tập trung mưu cầu sự sống còn thành bại của tập đoàn
mình, mưu cầu danh lợi cá nhân. “Chữ “nghĩa” trong Tam Quốc diễn nghĩa
được hiểu theo hai hướng: trung nghĩa và tín nghĩa” [7, tr.79] nhưng suy cho
cùng cũng nằm trong giới hạn của chữ “trung”. Trong Thủy Hử, chữ “nghĩa”
được biểu hiện ở hai cấp độ: nghĩa cá nhân và “đại nghĩa”, từ những nghĩa cử
cá nhân mang tính “nghĩa hiệp” đến phát triển cao hơn thành tinh thần “hiệp
nghĩa - đại nghĩa” của 108 vị anh hùng. Trong những chiến công vĩ đại của
115
nghĩa quân Lương Sơn, tinh thần “đại nghĩa” của các đầu lĩnh anh hùng mang
ý nghĩa lịch sử tích cực, đứng lên phá vỡ trật tự xã hội. Nhưng có thể thấy, tư
tưởng trung quân ảnh hưởng đến Thủy Hử đã hạn chế ý nghĩa khai phóng tích
cực của tinh thần “đại nghĩa” trong nhân dân. Các hảo hán đã khuông phò
“đại nghĩa” nhưng luôn mặc cảm mình có tội: “Nếu ta nói đi lạc thảo ở
Lương Sơn, thì tất mẹ ta không bằng lòng…” (hồi 42). Trước hiện thực xã hội
đen tối, Tống Giang vẫn hy vọng vào những “minh quân lương tướng”. Chính
vì quá nặng tư tưởng phong kiến chính thống, Tống Giang là sự thể hiện
những hạn chế của phong trào cũng như của tác giả. Xêmanôp đã chỉ ra rằng:
“Tư tưởng trung quân đã làm cho tiểu thuyết khác với tiểu thuyết dân gian có
cùng cốt truyện” [107, tr.12]. Điều đó, cũng cho thấy, thế giới quan của tác
giả có sự mâu thuẫn không thuần nhất. Vừa đồng tình ủng hộ đại nghĩa vừa
mang nặng tư tưởng trung quân dẫn đến “bi kịch tử vong liên hoàn” của các
anh hùng trong tác phẩm. Một hạn chế nữa của con đường phát triển “đại
nghĩa” là chưa vượt ra khỏi việc giải quyết ân oán giang hồ trả thù cho anh
em bè bạn, cứu nhau trong lúc khốn cùng giữa những người tri kỷ, gặp
chuyện bất bình thì ra tay cứu giúp, nhiều khi mang tính ngẫu nhiên, tức
thời… Lương Sơn Bạc kéo đại binh ba lần đánh Chúc Gia Trang, tấn công
phủ Đại Danh, thắng lớn ở Đông Xương, Châu Cao Đường, Vô Vi Quân…
không phải nằm trong kế hoạch quân sự có tầm chiến lược lâu dài mà chủ yếu
là do đánh trả những kẻ dám xúc phạm uy danh của Lương Sơn, dám hãm hại
người của Lương Sơn. Chiều hướng phát triển của cuộc khởi nghĩa còn mang
tính bị động, phần lớn mang tính chống trả những cuộc thảo phạt của triều
đình. Biết bao lần người đọc bắt gặp hình ảnh: “Tiều Cái nghe nói “kinh hãi’
hay “Tống Giang giật mình cả kinh”… Lực lượng Lương Sơn Bạc dù có binh
hùng tướng mạnh, bước đầu xây dựng một nhà nước lý tưởng nhưng dường
như vẫn chưa chủ động diệt trừ cái ác với tầm nhìn đi trước thời đại. Có lần
116
chiếm đánh Bắc Kinh nhưng vì mục đích cứu Lư Tuấn Nghĩa… Mang danh là
đại nghĩa nhưng một vài trường hợp hành động của Lương Sơn Bạc mang
tính trả thù thái quá! Giữa “Tụ Nghĩa sảnh” họ đánh chén bằng thịt người,
moi gan kẻ thù làm “thang tỉnh rượu”! Đâu đó trong tác phẩm, người đọc
cũng gặp cảnh giết người toát lên tính man rợ của bọn thổ phỉ “rạch bụng moi
gan” như thế! Lý Quỳ thản nhiên ăn thịt người, Võ Tòng say máu giết mười
mấy mạng người trong nhà Trương Đô Giám. Sự trả thù ghê gớm với lòng
căm phẫn đẩy nhân vật anh hùng có lúc xa dần tinh thần nhân đạo truyền
thống… Muốn “rấp đường về” của một số anh hùng, họ buộc phải có những
hành động bất nghĩa! Và cũng thật mâu thuẫn khi Lương Sơn Bạc vừa chủ
trương xây dựng lực lượng để chống lại quan quân lại vừa mong triều đình xá
tội chiêu an. Đỉnh cao hạn chế của “đại nghĩa” trong Thủy Hử khi Tống Giang
vâng mệnh vua đi đánh dẹp những cuộc nổi loạn của quần chúng nhân dân. Vì
chữ “trung” mù quáng, Lương Sơn Bạc đã phản bội lại chính lý tưởng của
mình, phản bội lại nhân dân và rõ ràng hy sinh tính mạng, tài năng của hàng
loạt anh hùng hảo hán một cách vô nghĩa. Tống Giang uống thuốc độc, Lý
Quỳ uống thuốc độc, Ngô Dụng, Hoa Vinh tự sát thể hiện bi kịch đau đớn
giữa khát vọng và thực tế khắc nghiệt của cuộc sống. Và đó cũng là kết quả
tất yếu khi họ còn ảo tưởng vào chữ “trung” đã đổ vỡ từ lâu, còn lý tưởng
“đại nghĩa” lại mang nhiều hạn chế. Vì vậy, có thể nói “mâu thuẫn của đời
sống qua sự khúc xạ của hệ tư tưởng” [40, tr.427] đã thể hiện những mâu
thuẫn trong quan niệm cũng như hình tượng nhân vật anh hùng trong Thủy
Hử.
2.3.2.3. Vẻ đẹp dung dị, đời thường
Nguyên tắc miêu tả người anh hùng trong Thủy Hử một mặt chịu sự
chi phối của văn hóa thời đại, vừa mang tính lý tưởng phi thường vừa mang
tính cách dung dị đời thường. Trong quan hệ đối kháng với cái ác, người anh
117
hùng bộc lộ khí phách hiên ngang, phi thường, dũng mãnh thể hiện ước mơ
của nhân dân về người anh hùng lý tưởng. Nhưng, đối với quan hệ gia đình,
anh em, bạn bè họ lại là những con người dung dị mà dạt dào tình cảm. Giữa
bức tranh hiện thực rộng lớn của Thủy Hử, người anh hùng đi ra từ khắp nơi
trong dân gian mang đậm tính chất đời thường. Con đường lên Lương Sơn
Bạc là quá trình liên kết có hệ thống những hoàn cảnh để biểu đạt tính cách
nhân vật và quy luật của cuộc sống trong tác phẩm. Điều đó cũng có nghĩa là
khi miêu tả người anh hùng, nhà văn lấy hiện thực của đời thường làm xuất
phát điểm để phát hiện ra quy luật, nguyên nhân dẫn đến hành động của
nhân vật. Vì vậy, những quan hệ xã hội phức tạp của cá nhân được chú ý.
Trong Thủy Hử, nhân vật chịu sự tác động của nhiều mối quan hệ. Trước hết
là sự khúc xạ của hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng nhân dân lên tất cả các
nhân vật anh hùng. Thứ hai, nhân vật được đặt trong quan hệ xã hội phức tạp
đa dạng: quan hệ đối kháng, quan hệ gia đình, huyết thống, quan hệ của
nhân vật với tất cả đối tượng xã hội. Mối quan hệ thứ ba là mối quan hệ trực
tiếp giữa các nhân vật anh hùng. Các mối quan hệ tồn tại đồng thời ở các
nhân vật và cùng tác động theo nhiều chiều khác nhau. Sự phản ứng của
nhân vật trước tác động đan chéo, mâu thuẫn đó chính là sự bộc lộ một cách
rõ nét tính cách nhân vật. Nhân vật trong Thủy Hử bắt đầu được cá tính hóa
một bước và đã có sự vận động tính cách. Khi xem xét những mâu thuẫn của
đời sống qua sự mâu thuẫn của tư tưởng nhân vật, tác phẩm đã có những dấu
hiệu manh nha của chủ nghĩa hiện thực và kéo dần nhân vật ra khỏi thế giới
của sử thi cũng như tư tưởng phong kiến bắt đầu lỗi thời. Bởi vì “chủ nghĩa
hiện thực khai sáng xem xét những mâu thuẫn của đời sống qua sự khúc xạ
của hệ tư tưởng”[40, tr.427].
Nhân vật trong Tam Quốc diễn nghĩa được xem là nhân vật loại hình
hóa, còn trong Thủy Hử nhân vật đã bước đầu được cá tính hóa. Bởi con
118
người hiện ra không chỉ là “hiện thân của một lý tưởng, của một bản chất tinh
thần hay xã hội mà trong tất cả sự toàn vẹn của mình, với tư cách là một con
người hoàn toàn thực” [40, tr.426]. Khi nhân vật thoát khỏi cấu trúc mang
tính chức năng, tức nhân vật loại hình hóa biểu hiện bằng nhân vật cá tính hóa
thì con người phải đã được mô tả với tư cách là con người thực của đời sống.
Vì vậy, một trong những nét đẹp thể hiện “con người đời thường” trong Thủy
Hử so với Tam Quốc diễn nghĩa là sợi dây ràng buộc tình cảm thiêng liêng
của người anh hùng với gia đình, cha mẹ, ông bà, bằng hữu… Trong Tam
Quốc diễn nghĩa, tình anh em máu mủ, quan hệ vợ chồng, cha con luôn bị đặt
dưới chữ “trung”. Gia Cát Lượng và Gia Cát Cẩn là anh em ruột nhưng khi đã
khuông phò hai chúa đối địch nhau, họ không vì tình anh em mà bán rẻ cơ đồ.
Trong trận Đương Dương, Triệu Vân cứu A Đẩu trao cho Lưu Bị thì bất ngờ
“Huyền Đức đỡ lấy A Đẩu ném phịch xuống đất nói: “Vì mày suýt nữa ta mất
viên đại tướng” [102, tr.42]. Rõ ràng ở đây, quan hệ gia đình bị coi nhẹ.
Trong Thủy Hử thì khác, dù đi theo tiếng gọi của anh hùng hảo hán bốn
phương, đầu đội trời, chân đạp đất, tung hoành ngang dọc nhưng các anh
hùng Lương Sơn Bạc rất quý trọng những tình cảm thiêng liêng mà gần gũi.
Tống Giang, Lý Quỳ cũng như bao đầu lĩnh khác không yên lòng để lại quê
nhà những người thân đang cần họ chăm sóc! Chu Đồng bộc bạch với anh
em: “ Tôi nay được các ngài có lòng hạ cố cho lên đây thật là cảm ơn vô hạn,
song còn gia quyến ở nhà nếu nhất lỡ quan phủ tư giấy lôi thôi bắt bớ thì lấy
ai mà cứu?” (hồi 51). Lý Quỳ khóc rưng rức mà nói: “Tôi chỉ có một mẹ già ở
nhà, còn ca ca tôi thì đi làm thuê suốt ngày lấy ai mà nuôi nấng trông nom
cho được tử tế? Bây giờ, tôi cũng muốn đón về đây để cùng hưởng yên vui,
nhưng không biết có được chăng” (hồi 41). Lăng Chấn, Từ Ninh và bao anh
hùng khác đều lo lắng cho cha mẹ, vợ con của mình khi họ chưa được an toàn
trên đất Lương Sơn. Quan hệ gia đình trong Thủy Hử được xem trọng ngay
119
trong tất cả các suy nghĩ của các anh hùng. Giữa các anh hùng khi phân chia
ngôi thứ cũng lấy tinh thần “kính lão đắc thọ” mà suy nhượng nhau “các vị
đầu lĩnh tính tuổi cao thấp, rồi suy nhượng với nhau mà ngồi”(hồi 40). Hoa
Vinh ngồi ghế trên Tần Minh vì là anh vợ. Điều đó cho thấy trong quan niệm
về tôn ti trật tự, các anh hùng Lương Sơn Bạc lấy quan hệ gia đình làm trọng.
Con người hiện ra trong tác phẩm với những nét đời thường của nhân tính,
chịu sự tác động của hoàn cảnh và có sự vận động của tính cách. Đây là một
trong những đặc điểm thể hiện con người đời thường của tác phẩm. Lấy bức
tranh hiện thực làm nền tảng, Thi Nại Am chú ý mô tả con người trong sự tác
động của hoàn cảnh từ đó lý giải nguyên nhân hình thành và biến đổi tính
cách của nhân vật. Nhân vật Lâm Xung là một thí dụ. Thực tế xã hội đã đưa
đẩy Lâm Xung từ một võ quan có ý thức về cuộc sống đến một kẻ đối lập,
một kẻ phản kháng quyết liệt để chống lại triều đình. Bị lừa vào “Bạch Hổ
đường”, bị ghép tội “thích khách bản quan”, Lâm Xung đã nhìn nhận được kẻ
thù của mình và những âm mưu nham hiểm của chúng. Nhưng vì tư tưởng an
phận, vì ràng buộc bởi thành phần xuất thân, địa vị xã hội cùng một mái nhà
êm ấm hạnh phúc bên người vợ hiền nên chàng đã chịu thích chữ vào mặt đi
đày, để mong ngày đoàn tụ. Đến khi bị bức bách, không thể bảo toàn tính
mạng, đến giây phút “tức nước vỡ bờ”, Lâm Xung phản ứng quyết liệt. Từ
đây, không còn là kẻ “một nhịn chín lành” lựa chiều che thân mà chàng đã
dồn mọi oán thù vào cây thương, ngọn giáo, quyết tâm đoạn tuyệt với giai cấp
thống trị. Trong đêm gió tuyết, tại tòa cổ miếu đổ nát, Lâm Xung vung đao
giết cả bọn Lục Khiêm, Phú An, những kẻ giám trại… Lưỡi dao ấy quyết
không tha những kẻ phản trắc ăn ở bất nghĩa như Lục Khiêm, những kẻ bị
đồng tiền biến thành công cụ độc ác như Phú An, giám trại. Nếu chần chừ do
dự, Lâm Xung đã bị thiêu cháy ra tro trong đêm mưa ở nhà chứa cỏ. Giữa
thiên nhiên đơn độc, bão tuyết nổi lên, lửa cháy đỏ rực ở Thảo Lư Đường,
120
bọn tay chân của Cao Thái Úy hoành hành, Lâm Xung mới thấm thía hết sự
khủng khiếp và nhận thức được bản chất quá tàn ác của giai cấp thống trị.
Chàng đạp tuyết ra đi trong cảnh thê lương, ảm đạm của đêm mưa gió với nỗi
cô đơn đang dâng tràn uất hận trong lòng. Từ đó, tính cách Lâm Xung đã
hoàn toàn biến đổi: tại rừng Dã Trư chàng để cho Đổng Siêu, Tiết Bá trói lại
và mưu hại, tại trang Sài Tiến, chịu nhún nhường trước thái độ kiêu căng của
Hồng Giáo Đầu… Nhưng sau khi đã bùng lên ngọn lửa phản kháng dữ dội thì
Lâm Xung là một con người “chọc trời khuấy nước”. Trang khách không bán
rượu cho chàng, chàng liền vung thương hất củi vào mặt ông già, phóng
thương vào trong lò làm râu tóc ông ta cháy xém. Trước kia nhẫn nhục chịu
đựng Cao Cầu, nhưng khi lên Lương Sơn Bạc xông vào phá trận Cao Liêm,
Lâm Xung đã vung thương quát lớn: “ Mày là đồ mọi già hại dân, nay mai ta
đánh đến kinh sư, ta sẽ đem cả thằng Cao Cầu là thằng dối vua hại dân mà
chặt xác ra muôn đoạn để trừ hại cho dân mới được” (hồi 51). Rõ ràng rằng:
cuộc sống và quá trình đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn trong tác phẩm
đã làm cho tính cách con người thay đổi. Hiện thực đấu tranh bồi dưỡng và tôi
luyện nên những anh hùng trong phẩm chất đích thực của đời sống.
Tiểu kết
Tóm lại, Thủy Hử tập trung khắc họa nhóm nhân vật điển hình của tác
phẩm là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc. Vẻ đẹp lý tưởng của họ thể hiện lý
tưởng anh hùng của thời đại. Có thể nói đây là tập thể anh hùng xuất thân từ
mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết dưới ngọn cờ “đại nghĩa”. Nét chung hình
tượng nổi bật của hình tượng người anh hùng trong tác phẩm là tính chất phi
thường, hơn người, được biểu hiện từ ngoại hình đến vẻ đẹp của phẩm chất
bên trong của người anh hùng. Vì vậy, một trong những nguyên tắc nghệ
thuật cơ bản của Thủy Hử là xây dựng người anh hùng với cảm quan lạ hóa.
Mặt khác, nguyên tắc miêu tả người anh hùng trong Thủy Hử một mặt chịu sự
121
chi phối của văn hóa thời đại, vừa mang tính lý tưởng phi thường vừa mang
tính cách dung dị đời thường.
122
Chương 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG THỦY HỬ
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
3.1.1. Khái niệm cốt truyện
Từ trước đến nay, trong giới nghiên cứu văn học, khái niệm cốt truyện
còn tồn tại nhiều ý kiến. Ở đây, chúng tôi theo khái niệm trong giáo trình Lý
luận văn học, tập 2, NXB Giáo dục, 1987:
Truyện là chuỗi sự kiện xảy ra liên tiếp trong không gian và thời
gian cho nhân vật và có ý nghĩa đối với tác giả, có mở đầu, có phát
triển, và có kết thúc, thể hiện những quan hệ, mâu thuẫn và quá
trình nhất định của đời sống. Cốt truyện là hình thức tổ chức sơ
đẳng nhất của truyện. Bất cứ truyện lớn, nhỏ, cốt truyện nói chung
bao gồm các thành phần chính: thắt nút, phát triển, cao trào, mở
nút. Cốt truyện thực chất là cái lõi diễn biến của truyện từ xảy ra
cho đến kết thúc. Như vậy, trong phân tích tác phẩm, việc nhận
định đúng thành thần cốt truyện có ý nghĩa then chốt để lý giải
đúng đắn nội dung và tư tưởng của tác phẩm. [84, tr.101-105].
3.1.2. Đặc điểm cốt truyện Thủy Hử
Từ khái niệm về cốt truyện cũng như nhận định của các nhà nghiên
cứu, dựa trên sự khảo sát phân tích cốt truyện Thủy Hử, chúng tôi thấy tác
phẩm đúng như Xêmanốp đã nhận xét: “đã đạt được độ rộng lớn bất thường
về mặt thời gian cũng như về không gian” [107, tr.77]. Nghĩa là, các sự kiện
tình tiết trong tác phẩm được triển khai trên bình diện rộng cả về mặt không
gian và thời gian. Vì thế, dung lượng tác phẩm rất đồ sộ không chỉ ở bức
tranh hiện thực quá lớn mà còn ở số lượng nhân vật hoạt động cùng độ dày
123
của tác phẩm ngót 1700 trang (loại 70 hồi).
Yếu tố cơ bản tạo nên cốt truyện là những sự kiện. Tức là những
nguyên nhân tạo nên của câu chuyện. Trong một tác phẩm văn học, tổ chức
hệ thống sự kiện tức là tổ chức môi trường hoạt động của hệ thống nhân vật
ở đó nó tồn tại và phát triển. Vì vậy, hệ thống sự kiện còn là phương tiện rất
quan trọng để phản ánh sự vận động của đời sống, tạo nên sự vận động trong
tác phẩm. Sự kiện làm cho nhân vật bộc lộ những gì thuộc bản chất của nó
và tự nó hợp thành những gì gọi là bản chất nhất của nhân vật, mở ra những
khả năng của nhân vật mà người đọc chờ đợi. Chính vì thế, yếu tố sự kiện
rất quan trọng để lý giải tác phẩm và hệ thống sự kiện là đặc trưng cho tác
phẩm thuộc loại tự sự. Vậy, sự kiện là gì? “là đơn vị nhỏ nhất của cốt
truyện, là sự vận động cá biệt hay cử chỉ của con người, sự vật” [84, tr.51].
Nói khác hơn, sự kiện được tạo ra bởi các hành động. Các sự kiện gắn liền
nhau thành một cấu trúc thống nhất là “đoạn”. Từ các đoạn liên kết thành cốt
truyện và hình thành nên truyện. Thủy Hử thường được các nhà nghiên cứu
văn học Trung Quốc định danh về mặt thể loại là “đoản thiên liên hoàn tiểu
thuyết”. Việc tổ chức hệ thống sự kiện của Thủy Hử, vì vậy cũng mang tính
chất “đoản thiên liên hoàn”. Kết cấu này là do ảnh hưởng của truyền thống
văn học dân gian và truyền thống văn học thành văn trước đó. Thủy Hử được
xây dựng từ các mẩu chuyện lưu truyền trong nhân dân dưới hình thức kể
chuyện của các “thuyết thoại nhân” và những câu chuyện hoàn chỉnh trong
tiểu thuyết thoại bản có cùng đề tài trước đó. Tác giả liên kết các mẫu
chuyện riêng lẻ về các nhân vật được các “thuyết thoại nhân” trình diễn tạo
thành một đoạn thống nhất. Ví dụ như câu chuyện về Võ Tòng kéo dài liền
mạch trong 11 hồi, từ hồi 21 đến hồi 31 trong Thủy Hử. Trong truyền thống
chuyện kể bằng văn xuôi trước đó về đề tài này, Võ Tòng là nhân vật có
nhiều lời kể với nhiều sự kiện. Mỗi câu chuyện đứng riêng lẻ và có tính chất
124
độc lập. Nhưng khi đi vào Thủy Hử, chúng liên kết một cách thống nhất bộc
lộ dần tính cách, phẩm chất anh hùng của nhân vật một cách hoàn chỉnh. Tác
giả đã gia công và nhào nặn các sự kiện cũng như sáng tạo thêm những tình
huống mới, liên kết chúng một cách chặt chẽ, mạch lạc, tô đậm, “bồi sấn”
thêm vẻ đẹp lý tưởng của người anh hùng trong một xã hội thối nát. Từ sự
kiện “Võ Tòng giết chị dâu”, tác giả khéo léo liên kết với sự kiện “Võ Tòng
say đánh Tưởng Môn Thần” bằng sự kiện “Võ Tòng gặp Thi Ân”. Trong
thoại bản ghi ở tác phẩm Đại Tống tuyên hòa di sự, không có nhân vật Thi
Ân này. Như vậy, rõ ràng Thi Nại Am đã liên kết một cách sáng tạo những
mẩu chuyện rải rác trong nhân gian để hình thành nên những "đoạn" trong
cốt truyện Thủy Hử. Mỗi đoạn dường như là một câu chuyện hoàn chỉnh về
nhân vật. Độ dài của các “đoạn” không đều nhau, và cũng không trùng khớp
với đơn vị “hồi” trong tác phẩm. Một “đoạn” có thể gói gọn trong một hồi
như hồi kể chuyện anh hùng Lương Sơn đánh Cao Thái Úy, chuyện về nhân
vật Lâm Xung kéo dài 5 hồi, thậm chí có “đoạn” kéo dài 11 hồi như câu
chuyện của Võ Tòng. Các “đoạn” này đều cùng nhau hướng về xây dựng cốt
truyện có tính liên hoàn của Thủy Hử. Như vậy “đoạn” là đơn vị gần nhất
của cốt truyện trong Thủy Hử được tổ chức từ nhiều sự kiện nhỏ, hoặc từ
một sự kiện lớn tương ứng với một biến cố quan trọng có ý nghĩa đối với cốt
truyện, có tác dụng dẫn dắt sự kiện tiếp theo. “Đoạn” có tính độc lập tương
đối. Vì vậy, có thể tách ra làm thành một truyện ngắn hay một truyện vừa.
Ngược lại, sự liên kết của các “đoạn” sẽ cho ta một cốt truyện hoàn chỉnh,
hướng về một nội dung xuyên suốt tác phẩm “quan bức dân phản”. Các sự
kiện được liên kết theo trật tự nhân quả. Vì vậy, sẽ bộc lộ tư tưởng chủ đề
của tác phẩm “vì chúa thượng hôn mê gian thần lộng hành” nên quy luật tất
yếu của cuộc sống chỉ còn một con đường “bức thướng Lương Sơn” (bị bức
phải lên Lương Sơn). Con đường lên Lương Sơn Bạc đâu chỉ là việc đơn
125
thuần phác họa máy móc hiện thực về một con đường mà chính là quá trình
liên kết có hệ thống các “đoạn” móc xích liên hoàn bộc lộ những hoàn cảnh
và tính cách nhân vật thông qua cuộc đời của họ. Nhìn vào các “đoạn” hình
thành cốt truyện Thủy Hử, chúng ta có những nhận xét như sau:
- “Đoạn” là các đơn vị cấu thành cốt truyện Thủy Hử, khác với “hồi” là
đơn vị bố cục trần thuật.
- Trong tác phẩm, “đoạn” là một mắt xích quan trọng của sự tiến triển
cốt truyện.
- Mỗi “đoạn” nếu đứng độc lập có thể thành những đơn vị tương đương
với một truyện ngắn hay một truyện vừa.
Chuyện về Võ Tòng theo A. Riftin, có thể phải kể đến 60 buổi mới hết,
có dung lượng của một truyện vừa hiện đại. Do đó, có thể thấy rằng tính
“đoản thiên liên hoàn tiểu thuyết” trong Thủy Hử thể hiện rõ ở phương diện
liên kết cốt truyện. Hệ thống sự kiện của tác phẩm được tác giả vận dụng một
cách sáng tạo những mẩu chuyện dài trong truyền thống văn xuôi trước đó
của văn học Trung Quốc. Tài năng ấy thể hiện ở việc xây dựng nhào nặn thêm
bớt sự kiện và liên kết các “đoạn” thành một mạch chuyện thống nhất. Ở cấu
trúc bề mặt của tác phẩm, tác giả dùng hình thức trần thuật theo trình tự thời
gian tuyến tính. Sắp xếp câu chuyện thành nhiều hồi phụ thuộc vào thời gian
tự sự xen giữa hình thức trữ tình, tác phẩm lại xuất hiện những câu thơ, đoạn
thơ có khi thành bài giữa mạch chuyện, hay kết thúc mỗi hồi. Chúng trở thành
một bộ phận không tách rời trong cốt truyện tạo nên vẻ đẹp độc đáo của văn
xuôi Trung Quốc. Từ hồi 1 đến hồi 19 xuất hiện hàng loạt những câu chuyện
tưởng chừng như riêng lẻ của các nhân vật Vương Tiến, Sử Tiến, Lỗ Trí
Thâm, Lâm Xung, Dương Chí. Nhưng, cái gắn bó những anh hùng lại với
nhau là những đau khổ của cảnh ngộ cá nhân, là mối thù không đội trời chung
với quan lại cường hào ác bá, là lòng mến nghĩa, mến đức, mến tài… Mỗi
126
“câu chuyện” trong Thủy Hử lại xuất hiện chủ yếu một nhân vật anh hùng với
cuộc đời và số phận cá nhân của họ nhiều khi kéo dài hơn khuôn khổ của một
hồi. Tác giả miêu tả Lỗ Trí Thâm (5 hồi), Lâm Xung (6 hồi), Võ Tòng (11
hồi). Chính vì vậy, hình tượng nhân vật được khắc họa rõ nét tập trung ở các
nhân vật anh hùng. Do tính chất đoản thiên, mỗi nhân vật, mỗi sự kiện đều có
thể đứng độc lập thành một cốt truyện nhỏ nhưng luôn quy tụ về nguyên nhân
bùng nổ cuộc khởi nghĩa Lương Sơn. Thủy Hử mang đặc trưng thể loại của
tiểu thuyết truyền kỳ anh hùng, lấy việc miêu tả anh hùng làm chính, nên cốt
truyện có đặc điểm là: lấy nhân vật, cuộc đời, số phận, hành động cùng với sự
đấu tranh quyết liệt trong sự khúc xạ các hệ tư tưởng của người anh hùng làm
chỗ dựa. Trong Dẫn luận nghiên cứu văn học do Pospelov chủ biên, các tác
giả đã chỉ ra rằng: “các cốt truyện có mối liên hệ thời gian lấn át trong các sự
kiện là cốt truyện biên niên, các cốt truyện mà giữa các sự kiện mối liên hệ
nhân quả chiếm ưu thế gọi là cốt truyện có hành động thống nhất hay cốt
truyện đồng tâm” [81, tr.46]. Trong Thủy Hử, các nhân vật anh hùng xuất hiện
rất đa dạng và khác biệt về tính cách như là tuyên ngôn của họ “có người
thông minh có người thô thiển, hoặc chất phác, hoặc phong lưu, đều không
phân cách, hiểu tính tình nhau cùng vui vẻ” [9, tr.18]. Nhưng, hành động và
lý tưởng của họ lại có điểm tương đồng, cùng hướng về mục đích phá vỡ trật
tự xã hội đương thời.
Vì vậy, khi lấy nhân vật làm trung tâm cho sự vận động của cốt truyện,
giữa những câu chuyện đoản thiên vẫn liên hoàn chặt chẽ theo kiểu trần thuật
phụ thuộc vào thời gian tự sự có tính chất tuyến tính. Miêu tả nhân vật này kết
thúc mới bước sang miêu tả nhân vật khác theo thứ tự trước sau … Mối quan
hệ nhân quả giữa các sự kiện chiếm ưu thế tạo nên đặc điểm của cốt truyện
đồng tâm mà các nhà lý luận văn học Trung Quốc thường nói một cách hình
ảnh: “trăm sông đổ về biển lớn”: “Xét toàn bộ cuốn sách, những câu chuyện
127
này như hàng trăm nghìn con sông con suối cùng đổ ra biển, từ phân đến
hợp, để rồi đi đến cao trào đại tụ nghĩa của các anh hùng với thanh thế to lớn
ở Lương Sơn Bạc” [5, tr.412]. Điều hết sức lý thú chứng tỏ rằng kiểu liên kết
sự kiện theo trật tự nhân quả đã móc xích liên hoàn hệ thống sự kiện chặt chẽ
là toàn bộ tác phẩm có thể tóm lại bằng một câu duy nhất vừa thể hiện đề tài
vừa thể hiện tư tưởng chủ đề cũng theo trật tự nhân quả, đó là “quan bức dân
phản, dân bất đắc bất phản”. Mở đầu Thủy Hử, nhà vua hồ đồ tin dùng Cao
Cầu vô lại tạo ra “cái lý” “nhà dột từ nóc” cái nhân “thượng bất chính” sẽ dẫn
đến cái quả “hạ tắc loạn” [97, tr.201]. Trước thời thế ngổn ngang bao nỗi trái
ngang, im lặng chịu đựng là một thái độ, và bất bình vùng lên “thế thiên hành
đạo” cũng là một thái độ sống: người anh hùng xuất hiện như một yêu cầu
lịch sử thời đại. Vì vậy, sự liên kết các đoạn xoay quanh hình ảnh người anh
hùng thành cốt truyện thống nhất hoàn chỉnh mạch lạc. Theo giáo sư Lương
Duy Thứ, cốt truyện Thủy Hử có thể chia thành ba mốc phát triển như sau:
Nếu từ hồi 19 trở về trước người đọc tiếp xúc với những số phận
riêng lẻ, những sự dẫy dụa cá biệt, thì từ hồi 19 đến hồi 41, tác
giả cho chúng ta thấy trăm suối sẽ đổ về sông, những đốm lửa
âm ỷ sẽ bùng lên đám cháy… Từ hồi 41 đến hồi 70 một mặt
nghĩa quân vẫn tập hợp lực lượng, mặt khác đã bắt đầu xuất
quân đánh phá các châu phủ để bảo vệ căn cứ địa, để lấy lương
thực, bổ sung quân số và vũ khí.[97, tr.48-50]
- Kết thúc 70 hồi, sự kiện anh hùng Lương Sơn phân chia ngôi thứ dựng
cờ “thế thiên hành đạo” là một kết thúc mở. Bởi có thể giải quyết vấn
đề theo nhiều hướng khác nhau. Sau khi phân chia ngôi thứ, cuộc khởi
nghĩa Lương Sơn sẽ phát triển theo chiều hướng nào? Số phận của các
nhân vật anh hùng ra sao? Thái độ của Cao Thái Úy như thế nào sau
khi bị lực lượng Lương Sơn đánh bại? Vì vậy, nảy sinh sự phức tạp về
128
văn bản với nhiều cách kết thúc khác nhau. Thủy Hử dừng lại ở hồi 70,
rõ ràng phạm vi cốt truyện nhỏ hơn xung đột, mâu thuẫn giữa cá nhân
với cá nhân, giữa tập thể anh hùng với tập đoàn phong kiến tạm thời
lắng xuống chứ chưa triệt tiêu, phải đến hồi thứ 120, kết thúc Thủy Hử
ở bi kịch tử vong liên hoàn của các anh hùng Lương Sơn Bạc thì cốt
truyện mới thực sự mở nút. Nhưng vấn đề văn bản Thủy Hử, từ sau hồi
70 vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng. Vì vậy, đối với chúng tôi 49
hồi sau được gọi là Hậu Thủy Hử, NXB Văn học, Hà Nội, 1992 chỉ có
tính chất tham khảo chứ chưa thể khảo sát cốt truyện cùng kết cấu với
tư cách mở đầu và kết thúc toàn vẹn một tác phẩm. Tìm hiểu vấn đề
này, cần phải có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với các văn bản gốc và thời
gian trong những công trình khác.
Cốt truyện Thủy Hử được tổ chức bằng sự liên kết các đoạn và sự vận
động mang nhiều kịch tính. Thành phần cốt truyện vừa nêu bật chủ đề tư
tưởng của tác phẩm, vừa tạo ra một cốt truyện liên kết, tăng sức li kỳ, lôi cuốn
độc giả. Sức hấp dẫn của Thủy Hử còn thể hiện ở việc liên kết sự kiện một
cách tài tình ở các kết cấu của tác phẩm. Tìm hiểu đặc điểm kết cấu của Thủy
Hử ở một vài phương diện, chúng ta có thể thấy được sự thể hiện quan niệm
anh hùng trong tác phẩm.
3.2. Nghệ thuật tạo dựng kết cấu
3.2.1. Khái niệm kết cấu
Theo Lại Nguyên Ân trong 150 Thuật ngữ văn học:
Kết cấu tác phẩm văn học bao gồm việc phân bố các nhân vật
(tức là hệ thống các hình tượng), các sự kiện và hành động (kết
cấu cốt truyện), các phương thức trần thuật (kết cấu trần thuật
như là sự thay đổi các điểm nhìn đối với cái được miêu tả), chi
tiết hóa các khung cảnh, hành vi, cảm xúc (kết cấu chi tiết), các
129
thủ pháp văn phong (kết cấu ngôn từ).[4, tr.170]
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả đưa ra khái niệm kết cấu
như sau:
Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm.
Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở
những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương, đoạn,
mà còn bao hàm sự liên kết bên trong… Ngoài bố cục, kết cấu
còn bao gồm tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác
phẩm nghệ thuật tổ chức trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt
truyện.[49, tr.131]
Trong những khái niệm trên, các nhà nghiên cứu đều thống nhất kết cấu
là tổ chức tác phẩm trên cả hai phương diện kết cấu bề mặt ở những tương
quan bên ngoài giữa các bộ phận chương, đoạn và kết cấu bề sâu, kết cấu bên
trong. Trong khuôn khổ của luận án này, chúng tôi không thể tìm hiểu toàn bộ
đặc điểm kết cấu của bộ tiểu thuyết Thủy Hử mà chỉ tìm hiểu những nét đặc
trưng của nó trong việc thể hiện quan niệm anh hùng. Đó là nghệ thuật tổ
chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, trong đó, chú trọng
đến các thành phần trần thuật cùng với cách tổ chức hình tượng móc xích liên
hoàn trong tác phẩm.
3.2.2. Đặc điểm kết cấu Thủy Hử
3.2.2.1. Kết cấu bề mặt của Thủy Hử theo thời gian trần thuật
“Trần thuật là phương thức chủ yếu để cấu tạo tác phẩm” [4, tr.337].
Đó là sự trình bày liên tục bằng lời văn các sự kiện, tình tiết, những xung đột
biến cố trong thời gian một cách cụ thể, hấp dẫn theo cách cảm nhận nhất
định về đời sống trong tác phẩm văn học. Trong Thủy Hử, hình thức trần thuật
dễ nhận biết nhất là cấu trúc hồi: Tác giả sắp xếp câu chuyện thành nhiều hồi
phụ thuộc vào thời gian tự sự. Xen kẽ các bài thơ trong mỗi hồi, là đặc điểm
130
trong hình thức trần thuật của Thủy Hử chịu ảnh hưởng từ hình thức kể
chuyện bằng văn xuôi của các “thuyết thoại nhân” trước đó. Thành phần trần
thuật trong tác phẩm cũng hết sức đa dạng. Ngoài những đoạn văn ứng với
các sự kiện, còn có cả đoạn giới thiệu về nhân vật, lai lịch, nguồn gốc, tiểu sử,
chân dung cũng như tái hiện tâm trạng qua độc thoại nội tâm, những lời bình
phẩm của tác giả, thành phần chêm xen ngoại đề ngoài cốt truyện.
Gắn với đặc trưng của tiểu thuyết cổ điển, trong tác phẩm, hầu hết các
nhân vật chính của hai tuyến nhân vật đối lập đều được giới thiệu về lai lịch,
tiểu sử, và dung mạo hoàn chỉnh ngay từ đầu. Ví như Cao Cầu đó là “một tên
con nhà lông bông mất dạy …Anh ta thuở nhỏ không chịu làm ăn, chỉ thích
múa thương đánh gậy, và đá cầu rất giỏi… bởi thế trong kinh sư gọi anh ta là
Cao Cầu… Anh chàng này lại giỏi thổi sáo múa bộ, chơi bời nghịch ngợm đủ
lối, mà còn học đòi thơ phú, võ vẻ sách vở, nhưng nói đến nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín, hạnh trung lương, thì tuyệt nhiên không hiểu một chút gì” (hồi 1). Còn
Đoan Vương “vốn là người thông minh tuấn tú” nhưng “am hiểu mọi cách chơi
bời, những sự an nhàn, không gì là không thích, các ngón cầm kỳ thi họa, ca
vũ, thanh âm, cùng là ngón múa gậy đá cầu là ngón chơi sở thích nhất cả”.
(hồi 1). Đoạn xuất hiện Tống Giang, miêu tả: “Người ấy họ Tống tên Giang,
biểu tự Công Minh, con thứ ba, nguyên quán ở Vận Thành, mặt đen, người
thấp, thường gọi là Hắc Tam Lang Tống Giang, lại có tiếng là người hiếu đễ,
bình sinh trọng nghĩa khinh tài ai cũng gọi là Hiếu Nghĩa Hắc Tam Lang.
Tống Giang làm Áp ty ở huyện Vận Thành, văn án tinh thông, sành nghề nha
lại tính thích chơi quyền chơi gậy, học được nhiều ngón võ, xưa nay lại hay
kết nạp bọn hảo hán giang hồ, hễ ai đến đó, bất cứ thế nào, đều dung túng
chiều chuộng hết cả, đến khi ra đi lại giúp đỡ tiền nong tử tế. Nhất sinh coi
rẻ đồng tiền, hễ ai vay mượn hỏi xin là cho ngay không tiếc. Lại có tính hay
làm ơn làm huệ, ai có việc gì ngang trái, là dàn xếp can ngăn, kỳ cho thỏa
131
thuận mới thôi. Thỉnh thoảng lại cho áo quan, phát vị thuốc, cứu người khổ,
giúp kẻ nghèo, thương kẻ khốn cùng, bởi thế nên khắp mặt Sơn Đông Hà
Bắc, ai ai cũng tôn là Cập Thời Vũ Tống Công Minh, ý nói cũng như trận
mưa phải thời, ở lưng trời tưới xuống để cứu muôn vật vậy” (hồi 17). Ở các
nhân vật Lỗ Trí Thâm (hồi 2), Lâm Xung (hồi 6), Dương Chí (hồi 11), Võ
Tòng (hồi 22), Lương Trung Thư (hồi 11), Cao Liêm (hồi 56) cũng có
những đoạn văn giới thiệu lai lịch và miêu tả dung mạo đã khu biệt được rõ
ràng hai tuyến nhân vật đối lập trong tác phẩm và đóng một vai trò nhất định
trong việc cá thể hóa nhân vật cũng như biểu hiện nhân vật anh hùng. Trong
thành phần trần thuật của tác phẩm Thủy Hử, còn xuất hiện những đoạn văn
tái hiện tâm trạng bộc lộ nội tâm hoặc hồi tưởng về quá khứ. Đây cũng là
một phương thức bộc lộ tính cách về con người anh hùng rất hiệu quả. Trong
những suy nghĩ được xây dựng theo mô hình lời trực tiếp của nhân vật “nghĩ
rằng”, hoặc “thầm nghĩ”, “tự nhủ” người đọc cũng phân loại rạch ròi kẻ tiểu
nhân và người quân tử. Vương Luân xuất thân từ tầng lớp thấp trong xã hội,
là con người cùng nho mạt vận, hoàn cảnh giai cấp và thực tế cuộc sống
đáng lẽ cho phép Vương Luân có một cái nhìn tiến bộ. Nhưng vì tài lượng
nhỏ nhen, tính tình ích kỷ hẹp hòi ghen với người hiền, ghét kẻ tài giỏi, luôn
luôn lo sợ người khác lấn áp chèn ép mình, Vương Luân tìm cách đẩy Lâm
Xung xuống núi. Y bất chấp lời can của Đỗ Thiên, Tống Vạn, Chu Quý, phụ
nghĩa với Sài Tiến- người đã có công xây dựng sự nghiệp cho mình chỉ vì
một lý do Lâm Xung có tài. Suy nghĩ thầm kín của nhân vật bộc lộ rõ con
người của Vương Luân:
Mình là một anh học trò trò thi hỏng … võ nghệ cũng chẳng biết gì, vậy
mà rước một anh này đến đây, trước anh ta đã làm chức Giáo Đầu, tất cao
cường võ nghệ, ngộ sau này anh ta biết thóp mà tranh chiếm chúng mình, thì
cự địch làm sao cho nổi? Âu là ta chối phắt cho hắn đi chỗ khác là hơn. Như
132
thế cũng là điều hơi ngại với Sài Đại quan nhân, mà mang tiếng là thằng bội
bạc, song cũng không thể nào mà dung hắn được ở đây (hồi 10).
Cũng vì ích kỷ hẹp hòi, đa nghi nên khi anh em Tiều Cái lên nhập bọn,
Vương Luân cũng tìm cách chối từ, hắn sợ rằng “bấy nhiêu con rồng” sẽ uống
cạn hết vũng nước Lương Sơn của hắn. Chỉ có một lần Vương Luân mời
Dương Chí nhập bọn, không phải vì mến tài hay biết dùng người mà y muốn
lợi dụng Dương Chí, để đối đầu với Lâm Xung “Nếu ta lưu một Lâm Xung ở
đây, thì tất nhiên có điều không ổn cho ta, vậy bất nhược tiện đây giữ cả
Dương Chí ở lại, để có tay địch thủ với Lâm Xung, thì mới được” (hồi 11). Ý
nghĩ thầm trong bụng của Vương Luân đã bộc lộ lòng dạ của một kẻ không
thể mưu đồ sự nghiệp lớn lao, một con người mà “đem cái kẻ nhỏ, cái tầm
thường để làm sự nghiệp thì sự nghiệp ấy không ra ngoài cái tầm thường bé
nhỏ” [80, tr. 43].
Trong Thủy Hử, Lý Quỳ là hiện thân của lối sống ngang tàng, lỗ mãng,
đánh trận thì xung sát đến say máu nhưng sẵn sàng tha chết cho kẻ giả danh
mình lừa khách qua đường chỉ vì: “Ta đây cốt về nhà để tìm mẫu thân, vậy mà
ta lại giết mẹ người khác thì trời đất nào chứng giám cho ta… Thôi, bất
nhược tha cho nó làm phúc…” (hồi 42). Suy nghĩ ấy vừa giải thích hành động
không những tha cho Lý Qùy mà còn cho thêm mười lạng bạc, vừa bộc lộ
một tình cảm chất phác mà chân thành, một tấm lòng vị tha hiếm có của
người anh hùng có bề ngoài như “Thiên Bồng ác sát từ trời xuống” [58, tr.25].
Trong khi chiến đấu cho lý tưởng tự do, bất chấp mọi sự ràng buộc, vùng lên
phản kháng đến cùng, nguyện đem sức mình đập tan mọi thế lực đen tối, Lỗ
Trí Thâm là hiện thân của tinh thần nghĩa hiệp. Bên cầu Trạng Nguyên mới
bằng ba quả đấm mà Trịnh Đồ chỉ còn thở ra, trông sắc mặt tái nhợt mãi đi,
Lỗ Đạt nghĩ: “Ta chỉ định đánh cho đau đớn, ai ngờ mới có ba cái đấm, mà
nó đã chết hay sao? Nếu thế thì ta bị quan tư giam chấp, thì lấy ai đưa cơm
133
nước cho ta? Âu là bất nhược ta liệu trước cho xong” (hồi 2). Nghĩ vậy, chân
thì rảo bước ngoắt đi miệng thì “tức mắng” trỏ vào xác Trịnh Đồ: “Mày giả
chết! Để đó tao liệu cho mày!” (hồi 2)
Đoạn độc thoại nội tâm đó đã lý giải cho người đọc hành động bỏ đi
cùng thái độ “giận dữ” của Lỗ Trí Thâm! Trong trận diễn võ so tài giữa chốn
giáo trường do Lương Trung Thư tổ chức, Dương Chí điềm nhiên trước thái
độ căm tức vô lối của Chu Cẩn và nghĩ một mình rằng: “Nếu ta bắn vào giữa
chỗ lưng sau, thì tức là hắn chết, ta với hắn không có cừu thù gì, mà làm như
thế thì không tiện, vậy thì ta bắn cho hắn bị thương thôi cũng được” (hồi 12).
Vì vậy, có thể nói, phẩm cách của người anh hùng được tô đậm ngay trong
chính những ý nghĩa vừa nhân ái vừa cao thượng của họ. Nó khác xa những ý
nghĩa hẹp hòi, độc ác, phân định rõ ràng: phải trái, tốt xấu.
Những lời độc thoại nội tâm của nhân vật, tuy tách rời vai trò của người
kể chuyện trong tác phẩm, nhưng ở một phương diện nào, vẫn có thể xem là
một thành phần trần thuật đặc biệt, góp phần biểu hiện khí chất của người anh
hùng trong Thủy Hử là vì vậy.
3.2.2.2. Kết cấu trần thuật khép kín và tổ chức điểm nhìn trần thuật trong
Thủy Hử
Mối tương quan giữa thời gian cốt truyện và thời gian trần thuật được
xem xét ở điểm mở đầu và kết thúc cốt truyện. Trong Thủy Hử, thời gian trần
thuật và thời gian cốt truyện gần như trùng khít lên nhau. Chúng song hành
theo một trật tự trước sau nhất định. Điều này chúng ta thấy rõ ở bố cục trần
thuật của tác phẩm được xây dựng chủ yếu phụ thuộc và thời gian tự sự tuyến
tính. Có những đoạn văn trần thuật mang tính hồi tưởng nhưng không phải
miêu tả các biến cố trong thời gian mà chỉ nhằm tái hiện giải thích sự vật, con
người một cách tĩnh tại, để bổ sung những sự kiện đã xảy ra trước thời điểm
trần thuật. Nhân vật Bạch Thắng bị bắt ở hồi 17 được giải thích sự có mặt
134
cùng các anh hùng hội tụ Lương Sơn Bạc hồi 34 bằng một đoạn hồi tưởng:
“Hồi đó, Bạch Nhật Thử Bạch Thắng đã nhờ được mưu kế của quân sư Ngô
Học Cứu mới vượt được ngục Tế Châu mà cùng về ở đó” (hồi 34). Những
đoạn hồi tưởng không có sự mở rộng thời gian trần thuật. Vì vậy, trong Thủy
Hử có thể nói, điểm mở đầu và kết thúc của trần thuật trùng với điểm mở đầu
và kết thúc cốt truyện. Do đó kết cấu trần thuật ở đây được gọi là kết cấu trần
thuật khép kín, dù văn bản kết thúc ở hồi 70, hay hồi 120.
Trong kết cấu trần thuật của phần lớn tác phẩm tự sự nói chung và Thủy
Hử nói riêng, tác giả xuất hiện dưới hình thức người trần thuật. Cuộc khởi
nghĩa của 108 anh hùng Lương Sơn Bạc được miêu tả dưới góc nhìn của tác
giả, người trần thuật đứng ngoài truyện. Tìm hiểu một cách bao quát về
trường nhìn trần thuật, Thủy Hử được trần thuật dưới góc nhìn của tác giả.
Nghĩa là, tác phẩm được trần thuật từ điểm nhìn bên ngoài, của người đứng
ngoài sự kiện với một lập trường tư tưởng và cao hơn, bao hàm một quan
niệm. Chính điều này dễ đem lại cho việc trần thuật một lăng kính chủ quan
nhất là chỉ thông qua một điểm nhìn của người trần thuật biết hết, biết tất.
Nhưng đọc Thủy Hử chúng ta lại cảm nhận được tính khách quan của trần
thuật. Vì sao vậy? Trong vai trò của người trần thuật, tác giả không tham gia
một cách thô thiển và câu chuyện, sự việc cứ tuần tự diễn ra một cách tự
nhiên. Chỉ có trong điểm nhìn trần thuật tác giả mới bộc lộ một thái độ, một
quan niệm. Mang tư tưởng trung quân xem những kẻ phản kháng là loạn thần,
nghịch tử, nhưng khi đặt điểm nhìn từ cuộc khởi nghĩa, ngòi bút trần thuật của
tác giả đã đứng hẳn về phía nghĩa quân Lương Sơn Bạc làm cho người đọc có
cảm tưởng dường như tác giả là một thành viên của cuộc khởi nghĩa này.
Ngòi bút trần thuật ấy có khi nhập hẳn vào cuộc khởi nghĩa, cùng tham gia
quá trình phản kháng đấu tranh. Vì vậy, quan niệm về anh hùng được soi
chiếu từ nhiều góc nhìn khác nhau. Từ điểm nhìn của nhà văn chuyển sang
135
điểm nhìn của nhân vật, từ điểm nhìn bên ngoài cuộc khởi nghĩa tác giả lại
chuyển sang điểm nhìn bên trong cuộc khởi nghĩa.
3.2.2.3. Tính chất đoản thiên trong kết cấu cốt truyện, tính lặp lại các môtip
trong các cốt truyện nhỏ
Trong Thủy Hử, câu chuyện này nối với câu chuyện kia như móc xích
hình thành một cốt truyện lớn thống nhất. Mỗi truyện có khi đọc lại xuất hiện
một nhân vật anh hùng chủ yếu với sự phát triển tính cách và bước đường đời
của nhân vật đó. Sự xuất hiện của mỗi chuyện đều nhằm biểu đạt một nội
dung trọng tâm chung là sự áp bức của bọn thống trị phong kiến và sự phản
kháng của các anh hùng. Vận mệnh và lý tưởng chung của các anh hùng đã
móc nối các truyện với nhau tạo thành tính chất “đoản thiên liên hoàn” trong
Thủy Hử. Chúng ta có thể vận dụng ý kiến của người xưa để xác định kết cấu
theo kiểu “đồng tâm” của Thủy Hử. Theo quan điểm này, cuốn Thủy Hử có
kết cấu điểm nhìn phân tán ở 50 hồi đầu và có thể xem, 50 hồi đầu là tổ hợp
các “liệt truyện”:
1. Truyện về Lỗ Trí Thâm: từ hồi 3 đến hồi 8
2. Truyện Lâm Xung: từ hồi 7 đến hồi 12
3. Truyện Dương Chí: từ hồi 10 đến hồi thứ 12, từ hồi 16 đến hồi
thứ 17.
4. Hợp truyện Tiều Cái- Ngô Dụng: từ hồi 14 đến hồi 16, hồi 19 đến
hồi 20
5. Truyện Tống Giang: hồi 18 đến hồi 23; hồi 32 đến hồi 42.
6. Truyện Võ Tòng: hồi 21 đến hồi 31
7. Truyện Lý Quỳ: hồi 38 đến hồi 43
8. Hợp truyện Thạch Tú - Dương Hùng: hồi 44 đến hồi 46
9. Truyện Lý Ứng, Hổ Tam Nương: hồi 47 đến đến hồi 50.
136
Chúng tôi thấy một điều thú vị là tổ hợp các liệt truyện này gối sóng,
nối chồng tiếp lên nhau, tạo thành các móc xích liên hoàn giữa các câu
chuyện rất hấp dẫn. Người đọc được lôi kéo từ mẫu chuyện này sang mẫu
chuyện khác một cách tự nhiên. Bên cạnh đó, tính lặp lại trong các cốt truyện
nhỏ tạo nên đặc điểm kết cấu tác phẩm có tính đồng tâm.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu về Thủy Hử đều đồng tình với nhận
xét các cốt truyện nhỏ trong Thủy Hử thường lặp lại các môtíp sau:
- Kiểu cốt truyện người anh hùng bị áp bức phản kháng như trường hợp:
Sử Tiến, Lâm Xung, Dương Chí, Võ Tòng, Giải Trân, Giải Bảo…
- Kiểu cốt truyện người anh hùng và nghĩa trừ gian, rồi bản thân bị bức
bách, phản kháng như đoạn về Lỗ Trí Thâm, Ngô Dụng, Tiều Cái và
anh em họ Nguyễn, Bạch Thắng, Lưu Đường, Công Tôn Thắng…
- Kiểu cốt truyện những anh hùng vì tình huynh đệ mà sẵn sàng cứu
khốn phò nguy, dám đương đầu với kẻ mạnh, cuối cùng bị bức bách
phản kháng, xoay quanh các nhân vật: Sử Tiến, Tống Giang, Hoa Vinh,
Đới Tung, Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm, Tần Minh, Hoàng Tín…
Ba kiểu cốt truyện này xuất hiện từ hồi một đến hồi 39, có chung đặc
điểm là xoay quanh bước đường phản kháng có tính cá nhân của các anh
hùng. Từ hồi 40 về sau, các kiểu cốt truyện xoay quanh môtíp tập thể anh
hùng Lương Sơn Bạc tấn công và chống trả triều đình.
- Kiểu lực lượng Lương Sơn tiến công châu, phủ, huyện để giải cứu các
anh hùng bị giam cầm và bức hại. Đánh Giang Châu, cứu Tống Giang,
đánh Thanh Châu cứu Khổng Lượng, đánh Hoa Châu cứu Sử Tiến, Lỗ
Trí Thâm, đánh Cao Đường Châu cứu Sài Tiến, phá ngục Đăng Châu:
cứu Giải Trân, Giải Bảo…
- Kiểu lực lượng Lương Sơn tiến công những trang ấp đại chủ cường hào
dám xúc phạm uy danh của Lương Sơn Bạc đòi “quét sạch Lương Sơn
137
lấp Thủy bạc” (hồi 59). Đó là những lần đánh Chúc Gia Trang, Tăng
Đầu Thị.
- Kiểu lực lượng Lương Sơn chống lại lực lượng triều đình và thu phục
được các tướng lĩnh triều đình. Hàng loạt danh tướng thuận quy về với
nghĩa quân Lương Sơn, đồng tâm hiệp lực đánh trả lại triều đình: Quan
Thắng, Hô Duyên Chước, Ngụy Định Quốc, Đan Đình Khuê, Hàn
Thao, Bành Dĩ, Lăng Chấn, Tần Minh…
Các kiểu cốt truyện có cùng môtip này được sắp xếp, cùng hướng về
cốt truyện thống nhất tạo nên một kết cấu có tính đồng tâm. Yếu tố hình thức
này có nguồn gốc sâu xa trong quan niệm phân hợp của văn hóa Trung Hoa,
đồng thời thể hiện tính liên kết của nhân vật văn học - liên kết bề sâu trong
Thủy Hử. Từ những cá nhân riêng lẻ, họ tập hợp thành một sức mạnh của tập
thể quần hùng tráng mỹ, tụ tập tại Lương Sơn. Các anh hùng hảo hán bốn
phương đồng qui về đại nghĩa. “Nghĩa” chính là lý tưởng hành động đã gắn
kết biết bao anh hùng cùng chung một mục đích. Cùng chống áp bức bất
công, nhưng cái “nghĩa anh hùng” mới chính là cơ sở liên kết sâu xa những
con người từ khắp bốn phương tám hướng. “Nghĩa” là điều suy nghĩ đầu tiên
của các anh hùng khi bước chân lên Lương Sơn trên đất nước Trung Hoa rộng
lớn. Tống Giang bao lần thân hành cởi trói cho các tướng bại trận, bằng tấm
lòng và nghĩa khí, thu nạp biết bao anh tài trong thiên hạ. Phụng mạng vua đi
đánh dẹp “giặc cỏ”, Quang Thắng đầu hàng vì cảm nghĩa của Tống Giang mà
nói: “Tống Công Minh nhân huynh trung nghĩa, thực là có thế. Người ta sống
ở trên đời, vua biết thì đền ơn vua, bạn biết thì đền ơn bạn, ngày nay đã
chuyển đến lòng thì xin ở đây làm đứa tiểu tốt để đền ơn tri ngộ cho xong…”
(hồi 63) Các anh hùng bước đến Lương Sơn bằng tiếng gọi của chữ “nghĩa”.
Từ nghĩa cá nhân, nghĩa bè bạn mở rộng thành nghĩa lớn, mục tiêu của cuộc
khởi nghĩa nông dân thành “đại nghĩa”. Vì vậy, có thể nói, yếu tố tư tưởng
138
lắng ở tâm điểm kết cấu của chữ “nghĩa”, châu tuần xung quanh là “tài, trí,
lực, trung, dũng”. “Nghĩa” là đã trở thành trụ cột tinh thần của các anh hùng
Lương Sơn Bạc, là cơ sở liên kết nhóm nhân vật điển hình trong Thủy Hử.
Theo Trần Lê Bảo: “108 anh hùng trong Thủy Hử liên kết bởi mô thức con số
và gắn theo kiểu “chim tìm tổ” ở Thủy bạc Lương Sơn mà thành “nhóm điển
hình” khổng lồ” [9, tr.18]. Đi vào nhóm, nhân vật gắn kết mang tính chỉnh
thể và có tính hệ thống khép kín bên trong họ cùng chí hướng, lấy trung thành
và tín nghĩa nơi tấc lòng cùng sinh tử để cùng tồn tại. Bên ngoài cùng với
binh hùng tướng mạnh, họ tạo ra sức mạnh chiến thắng mọi thế lực khác. Vì
vậy, nhóm liên kết này hết sức chắc chắn, “108 anh hùng không thể và chưa
ai làm phản, cắt đứt đại nghĩa cả” [9, tr.19]. Đó là một tập thể anh hùng
“không ai khác bụng, sống chết có nhau, hoạn nạn nương tựa vào nhau”
[9,tr. 18-19]. Do đó, kết cấu đồng tâm của tác phẩm không chỉ thể hiện ở liên
kết bề mặt cốt truyện mà còn ở sự liên kết chiều sâu của tư tưởng. Trong đó,
hình tượng người anh hùng vừa dung dị, đời thường vừa không hề xa rời hào
quang lý tưởng. Vẻ đẹp của họ qui tụ xung quanh nghĩa khí anh hùng là tài
năng, trí tuệ, tấm lòng bao dung đại lượng, là tinh thần dũng cảm hy sinh.
Thông qua hình tượng nhân vật anh hùng, quan niệm anh hùng trong Thủy Hử
vì thế đã chung đúc, thâu góp hết những vẻ đẹp và qui tụ sức mạnh của thiên
nhiên và con người. Sức lan tỏa và gợi ra nhiều tầng nghĩa của kết cấu đồng
tâm trong Thủy Hử thật là sâu sắc! Đây cũng là đặc điểm rất khác biệt giữa
kết cấu của văn học cổ điển nói chung và Thủy Hử nói riêng với văn học hiện
đại và hậu hiện đại. Trong xu thế thể hiện cá nhân ở tính “không hoàn tất” của
nó, kết cấu của văn học hiện đại và hậu hiện đại thường gây ra ảo giác về tính
không xác định, tính ngẫu nhiên, tính ghép mảng … Trái lại, kết cấu đồng tâm
trong Thủy Hử lại tạo cho chúng ta ấn tượng về sự vững chắc, đồng qui về sức
mạnh, lý tưởng, sự hòa đồng của vẻ đẹp con người và tự nhiên.
139
3.3. Nghệ thuật tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật được xem là hai phạm
trù đặc trưng của văn học. Trong đời sống, chúng ta cũng thường bắt gặp
những khái niệm để chỉ không gian và thời gian như: “thế giới”, “ vũ trụ”,
“tồn tại”…
Những khái niệm trên không những cho ta thấy sự khu biệt tổng thể
không thời gian mà còn làm nổi bật ý nghĩa mối tương giao của chúng.
Trong văn học, mối quan hệ này vừa là hình tượng nghệ thuật, vừa là hình
thức tồn tại con người. Tìm hiểu không thời gian nghệ thuật là hướng tiếp
cận để khám phá tính độc đáo của quan niệm mang tính nghệ thuật của tác
giả. 108 anh hùng Lương Sơn Bạc đã tồn tại trong một thế giới như thế nào
để họ trở thành biểu tượng đáng yêu, đáng quí của toàn thể cộng đồng? Thế
giới ấy chính là thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật trong Thủy
Hử của Thi Nại Am.
3.3.1. Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của văn học, là phương tiện để
nhà văn triển khai hình tượng nghệ thuật, phản ánh đời sống, thể hiện cảm
xúc và tư tưởng. Trong Dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử đã xác định rằng
“Thời gian nghệ thuật là hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác
phẩm” [85, tr.123]. Vì vậy, thời gian cũng là một phương tiện khám phá ra sự
vận động của cuộc sống. Nó gắn liền với văn hóa và tư duy nghệ thuật của
thời đại nên thể hiện quan niệm nghệ thuật của tác giả. Khảo sát Thủy Hử,
chúng tôi thấy có: Thời gian sự kiện và thời gian trần thuật.
Thời gian sự kiện là thời gian một chiều và tuần hoàn được xâu chuỗi
theo trật tự trước sau thể hiện quan hệ nhân quả trong nguyên tắc liên kết
nhân vật, sự kiện của tác phẩm. Điều này có nguồn gốc sâu xa trong quan
niệm về cuộc đời của người Trung Hoa cổ: sự vận động của trời đất theo qui
140
luật của thành thịnh suy hủy được biểu hiện thành những chu kỳ: “phân hợp -
hợp phân”. Vì vậy, thời gian trong quan niệm truyền thống của người Trung
Quốc xưa là thời gian tuần hoàn, khép kín có tính chu kỳ, lặp đi lặp lại theo sự
vận động của tự nhiên và xã hội. Thời gian trong Thủy Hử cũng nằm trong qui
luật đó. Từ loạn lạc thời ngũ đại Thập quốc cho đến khi Triệu Khuông Dẫn
lập nên nhà Đại Tống là chuyển sang thái bình. Đến thời Thái Nhân Tông thì
xảy ra nạn ôn dịch hoành hành. Sau đó lại thịnh trị và đến đời Tống Huy Tông
loạn lạc xảy ra - cuộc khởi nghĩa Tống Giang ở Lương Sơn là một tất yếu của
lịch sử. Vì vậy, hướng vận động của thời gian trong Thủy Hử cũng nằm trong
qui luật thịnh - suy, hưng vong của cuộc đời và thế sự. Các biến cố sự kiện
trong Thủy Hử được xâu chuỗi theo trật tự trước sau của trật tự thời gian nhất
định. Câu chuyện diễn ra theo trình tự từ đầu đến cuối không bị gián đoạn
hoặc đảo ngược thời gian. Thời gian sự kiện trong Thủy Hử được ghi lại bằng
năm tháng, thời tiết hay bằng niên hiệu của đời vua trị vì như:
- “Từ năm Hoàng Hựu thứ tư đến năm Gia Hựu thứ hai” [khúc đệm]
- “Ngày mồng 3 tháng 3 năm Gia Hựu thứ 3” [khúc đệm] v.v…
Thời gian được ghi lại một cách chính xác thể hiện tính chân thực của
sự kiện và con người trong tác phẩm. Vì vậy, hình ảnh người anh hùng trong
Thủy Hử là những con người đi ra từ cuộc sống dù họ không xa rời hào quang
lý tưởng. Nhân vật được đặt trong một không - thời gian mang tính xác thực
từ niên đại, triều đại cụ thể nên có giá trị hiện thực sâu sắc.
Bên cạnh thời gian sự kiện là thời gian trần thuật. Thời gian này gắn
liền với việc trần thuật, kể lại hai loại hành động phổ biến trong tác phẩm:
sinh hoạt và chiến đấu. Đây là loại hình thời gian thể hiện cảm quan, ý đồ
nghệ thuật của nhà văn. Do đó, thời gian sự kiện có thể được thu ngắn lại
hoặc kéo dài. Thời gian hàng trăm ngày Công Tôn Thắng về đón mẹ chỉ được
gói gọn qua câu nói của Tống Giang “Tôi có hẹn với tiên sinh là đi thăm mẹ,
141
tìm thầy nội nhật trong ngày phải trở lại. Bây giờ đã lâu mà không có tin tức
gì…” (hồi 55). Ngược lại, thời gian được kéo dài gắn liền với các sự kiện
căng thẳng, xung đột gay gắt. Võ Tòng báo oán chỉ trong một buổi nhưng thời
gian như chảy chậm lại, kéo dài theo hành động nhân vật. Tống Giang và Đới
Tung ra pháp trường đỉnh cao của xung đột, thời gian dường như căng ra vì
hồi hộp trong sự đồng cảm của tác giả với người đọc.
Trong sinh hoạt, thời gian trần thuật thể hiện cuộc sống của các nhân
vật ở nhiều môi trường khác nhau, gắn liền với các sự kiện trong cuộc đời
nhân vật. Thời gian sinh hoạt giúp cho tác giả khắc họa được quá trình phát
triển tính cách của nhân vật anh hùng. Chẳng hạn, xét quá trình phát triển tính
cách của nhân vật Tống Giang, chúng ta có thể nhận ra vai trò nghệ thuật của
kiểu thời gian này. Cuộc sống an lạc buổi đầu đã hình thành nên tính nhẫn
nhục của Tống Giang, nhưng cuộc sống lao khổ, đọa đày sau này đã làm nên
tính cương quyết, gan dạ. Tính chất lưỡng diện trong con người Tống Giang
được thể hiện một cách hợp lý bằng quá trình phát triển nội tại của cuộc đời,
trong đó, có vai trò to lớn của sự biến đổi không gian và thời gian sinh hoạt.
Ngoài thời gian sinh hoạt, Thi Nại Am đã xây dựng nên trong tác phẩm
kiểu thời gian chiến đấu. Thời gian chiến đấu có thể xem như là hình thức tồn
tại, thể hiện mình của hình tượng nhân vật anh hùng. Vì không ở đâu, phẩm
chất của người anh hùng Lương Sơn được thể hiện rõ trong thời gian chiến
đấu. Thời gian chiến đấu trong Thủy Hử thường bắt đầu bằng thời điểm nhân
vật vùng dậy chống lại áp bức. Việc xây dựng nhân vật, dàn dựng các biến cố
trong tác phẩm được tập trung thể hiện trong thời gian chiến trận. Đây thường
là những thời điểm kịch tính, tạo nên không khí khẩn trương của tình huống
truyện.
Chẳng hạn, như trận đánh phủ thành Giang Châu. Mở đầu là thời điểm
kịch tính: Tống Giang và Đới Tung bị đem ra pháp trường để hành quyết; kế
142
đến là sự kiện hảo hán Lương Sơn trà trộn vào. Rồi Lý Quỳ chém đao phủ,
cùng những người khác cứu Tống Giang. Khi quân lính Giang Châu đuổi
theo, lại có Trương Thuận đến cứu; sau đó, quay trở lại đánh quân Giang
Châu, kéo vế Mục Gia Trang... Hàng loạt sự kiện diễn ra dồn dập trong thời
gian chiến trận, thể hiện tài năng dựng truyện khéo léo của Thi Nại Am.
Thánh Thán có lời bàn: “Theo phép nhà văn tả việc gấp, không thể dài lời
nhiều bút, vì dùng nhiều bút, thì việc thấy hoãn đi không còn gấp nữa. Thế mà
sách này không thế, tả việc gấp, vẫn dùng nhiều bút mực với nhiều lời, vì
rằng ít dùng bút mực thì việc gấp giải đi. Đây tả việc gấp vẫn nhiều lời, toàn
là những lời của việc gấp, như con người mưu nghịch Tống Giang, Đới Tung
quyết không đợi mãi, dẫu được Hoàng Khổng Mục kéo dài ra năm ngày, cho
đến ngày cuối cùng, đã thành mây cùng nước tận, bấy giờ chỉ đợi đến giờ
Ngọ ba khắc, thì phải khai đao, thì phải kết thúc...” (hồi 39)
Thái độ và tình cảm của tác giả bộc lộ rất rõ trong khi phá vỡ qui luật
thời gian khách quan của cuộc sống. Để nhấn mạnh tính chất tự sự, tạo ra sự
vận động dồn dập khẩn trương của các biến cố, các sự kiện, tác giả xây dựng
thời gian như một phương tiện phản ánh hành động của nhân vật anh hùng.
Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm gắn bó chặt chẽ với không gian tạo nên
những khoảnh khắc ngưng đọng kỳ diệu trong tác phẩm: Đêm mưa đơn độc
hãi hùng ở Thảo Lư Đường của Lâm Xung, phong cảnh trên bến Tầm Dương
đối với Tống Giang sau mấy ngày liền bị bệnh, đợi bạn đến chơi mà không
có… Sự vận động của thời gian cũng là sự vận động trong tư tưởng của nhân
vật, dẫn đến sự biến đổi tính cách. Tâm trạng, tính cách của nhân vật chịu tác
động bởi hoàn cảnh môi trường trong một khoảnh khắc nhất định. Đây là một
điểm khác biệt của Thủy Hử so với Tam Quốc diễn nghĩa. Đặc biệt, khi tác
giả chú ý đến thời gian sinh hoạt tức là đã bắt đầu chú ý đến con người trong
cuộc sống đời thường. Chính trong thời gian sinh hoạt này, Thi Nại Am đã
143
khắc họa hình tượng người anh hùng theo qui tắc đời thường hóa, nhân tính
hóa.
3.3.2. Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là sản
phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan
niệm nhất định về đời sống. Trong tác phẩm văn học, không gian nghệ thuật là
hình thức thể hiện cảm xúc, khái niệm tư tưởng thẩm mỹ của tác giả. Do đó,
không gian nghệ thuật cũng là hình thức tồn tại của thế giới nhân vật anh hùng
trong Thủy Hử. Bởi vì “không có hình tượng nghệ thuật nào không có thời
gian, không có nhân vật nào, không có một nền cảnh nào đó” [85, tr.28].
Qua tìm hiểu tác phẩm, chúng tôi nhận thấy trong Thủy Hử tồn tại hai
không gian bao quát và giao hoà đó là: không gian vũ trụ và địa lý cùng với
hai không gian mang tính đối lập nhau là không gian đời sống và không gian
giang hồ.
3.3.2.1. Mối giao hoà giữa không gian vũ trụ và không gian địa lý
Không gian vũ trụ trong tác phẩm là không gian thiêng nhuốm màu
huyền ảo của bao điềm trời cao siêu bí ẩn…nó tồn tại với những sức mạnh
siêu nhiên như cuồng phong, ánh chớp cùng đất trời bao la, sâu thẳm. Sự xuất
hiện của 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc cũng nằm trong trong lẽ huyền diệu
của thiên cơ là sự hóa thân của 36 vì sao Thiên cang và 72 vì sao Địa sát. 110
đạo Kim Quang tung lên từ “Phục ma điện” là một chi tiết huyền ảo chứa
đựng bao điều kỳ lạ của vũ trụ tuần hoàn và huyền bí. Mệnh trời đã chi phối
sâu sắc vận mệnh của con người và thời cuộc nên thỉnh thoảng trong Thủy
Hử, xuất hiện những không gian huyền ảo, thể hiện những dấu hiệu của một
lực lượng ở cõi vô biên ngoài con người: trận lãnh khí trước linh sàng Võ Đại,
cung điện nguy nga của Cửu Thiên Huyền Nữ dẫn dắt Tống Giang vào cõi
tiên nhận sách trời, không gian chiến trận trong trận đánh Cao Liêm ở Phủ
144
Cao Đường v.v. Nhưng điều đặc biệt là, đọc Thủy Hử, chúng ta không cảm
thấy kì dị, hoang đường bởi lẽ, không gian huyền ảo chỉ mang tính điểm
xuyết vào không gian thực của đời sống, bộc lộ quan niệm của tác giả về cuộc
đời. Cung Cửu Thiên Huyền Nữ ở Hoàn Đạo thôn nơi Tống Giang được trao
ba cuốn Thiên Thư mang một ý nghĩa khái quát. Sự giao phó của trời đất cho
Tống Giang một nhiệm vụ cao cả, khẳng định cuộc khởi nghĩa Lương Sơn là
chính nghĩa trên hợp lòng trời dưới thuận lòng dân. Vì vậy, được đặt trong
không gian ấy, nhân vật anh hùng tượng trưng cho vẻ đẹp hoàn thiện cả đạo
đức lẫn tài năng. Trận đánh phủ Cao Đường phá tan ma thuật của Cao Liêm
phản ánh xung đột giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Thất bại của bạo lực, phi
nghĩa trong không gian biến đổi lúc thực lúc ảo, chứng tỏ sức mạnh chiến
thắng của nhân dân là hợp lẽ trời đất.
Trong việc tổ chức hệ thống sự kiện, không gian vũ trụ có tính chất dẫn
dắt sự kiện làm cho cốt truyện tiến triển hợp lý. Nó chứa đựng và báo trước
điềm trời. Tiếng nổ trong hầm đá ở điện “Phục ma” phần khúc đệm như tiếng
sấm báo trước cho trận cuồng phong - sự phản kháng của nhân dân đối với thế
lực đen tối và sau đó là một trận mưa kịp thời (Cập Thời Vũ) của cuộc khởi
nghĩa Lương Sơn, lan tỏa khắp đất nước Trung Hoa rộng lớn. Tên núi, tên
sông, tên đất là những địa danh có thực trên bản đồ địa lý đã có mặt khắp nơi
trong Thủy Hử. Vì vậy, tác phẩm bao quát một không gian địa lý vô cùng
rộng lớn. Những địa danh được nhắc đến là những địa danh xác thực. Điều
này có ảnh hưởng từ truyền thống biên niên nhưng quan trọng hơn là ở góc
nhìn của tác giả. Dùng không gian địa lý, tác giả muốn thể hiện tác phẩm của
mình đạt đến độ chân thực cần có nhất. Từ Thiếu Hoa Sơn, Đào Hoa Sơn, Nhị
Long Sơn, Thanh Phong Sơn, Ngũ Đài Sơn, Tây Nhạc Sơn, đến đất Lương
Sơn là nơi qui tụ bước chân của bao anh hùng hiệp khách. Vì vậy, có thể nói,
không gian cao viễn của vũ trụ tương thông với không gian địa lý bao la, rộng
145
lớn trở thành không gian thẩm mỹ trong tác phẩm. Nguyễn Thị Bích Hải
trong Thi pháp thơ Đường đã chỉ ra rằng: “tư thế đăng cao và không gian trên
cao là không gian mang tính quan niệm, không gian thẩm mỹ” [47, tr.91].
Đất Lương Sơn nơi hội tụ đại nghĩa là không gian tự do, không gian mơ ước
và cũng là không gian thẩm mỹ trong Thủy Hử. Không gian ấy bộc lộ tầm vóc
vũ trụ của người anh hùng. Những con người có chí khí tài năng dọc ngang
trời bể. Đó là không gian mở đến vô cùng, thể hiện khát vọng mãnh liệt, lớn
lao của quần chúng nhân dân, không gian của ước mơ và khát vọng. Đối lập
với không gian ấy là không gian ngột ngạt của đời sống, không gian tù tội đẩy
bao anh hùng lưu lạc ở chốn giang hồ.
3.3.2.2. Sự đối lập giữa không gian đời sống và không gian giang hồ
Không gian đời sống trong Thủy Hử mở ra một bức tranh hiện thực
rộng lớn về thực tế cuộc sống bất công, ngang trái. Nơi cung đình là chốn ăn
chơi “am hiểu mọi cách chơi bời, những sự du nhàn, không gì là không thích”
(hồi 1) của những “con nhà lông bông mất dạy … chơi bời đủ lối” (hồi 1). Vì
vậy, tất dẫn đến hậu quả sinh ra cả một bè lũ thống trị từ kinh đô đến các
châu, nha, phủ, huyện ăn chơi xa hoa, tham lam nhũng hại. Đời sống nhân dân
vô cùng bế tắc và ngột ngạt. Khắp nơi nơi tràn ngập ngục tù. Trong Thủy Hử
nhà tù hiện ra nhan nhản tầng tầng lớp lớp: nhà lao Thương Châu, Mạnh
Châu, Giang Châu, Thanh Châu, Cao Đường Châu, Lăng Châu… Ngoài ra,
còn những Bạch Hổ Đường, phủ Khai Phong, và vô số pháp trường sừng sững
là không gian chết mà con người muốn sống phải dẫy dụa một cách bất lực.
Muốn tồn tại phải phá vỡ trật tự này, thoát khỏi không gian của bất công và
cái ác ngự trị. Người anh hùng trong Thủy Hử, tài năng, trí tuệ, nghĩa khí kinh
động cả đất trời sao có thể khép mình trong kích cỡ của không gian ngột ngạt
như vậy? Họ phải đi ra khắp chốn giang hồ. Đó là không gian tương ngộ,
không gian sống của người anh hùng bao gồm: Trời đất giang hồ, núi rừng
146
sơn lâm, chùa chiền đạo quán, sa mạc hải đảo, sòng bạc lầu xanh, quán trà,
tiệm rượu, bến nước giang hồ. Chính nơi đây các anh hùng hảo hán được thỏa
chí tung hoành sống tự do ngoài vòng kiểm soát của triều đình. Không gian
thiêng của đình chùa miếu mạo trở thành nơi gặp gỡ, che chở và là những
“chiến khu” lâm thời của các anh hùng Lương Sơn Bạc. Lấy núi rừng làm
nhà, lấy thịt rượu ở tửu điếm làm cơm, họ là những con người của trời cao đất
rộng. Họ mến nhau vì tài quí nhau vì nghĩa, gặp nhau kết bạn anh hùng. Bên
chén rượu giang hồ, trên dòng sông chở khách, trong hắc điếm giết người, cốt
cách anh hùng khiến họ nhận ra nhau, xích lại gần nhau qui về một mối để
chuẩn bị tụ nghĩa ở Lương Sơn. Không phải ngẫu nhiên mà cốt truyện Thủy
Hử được phân thành ba giai đoạn: Từ hồi 1 đến hồi 19 là những phản kháng
cá nhân đơn độc trong không gian đời sống, từ hồi 19 đến hồi 41 là quá trình
gặp gỡ của các anh hùng trong không gian giang hồ, từ hồi 41 đến hồi 70 là
quá trình phản kháng của tập thể anh hùng trên đất Lương Sơn. Ba giai đoạn
cơ bản của cốt truyện được xây dựng để phản ánh nguyên nhân phát sinh, quá
trình tập hợp và phát triển lực lượng một cuộc khởi nghĩa cũng chính là ba
giai đoạn vận động của không gian trong tác phẩm: từ không gian đời sống là
nơi “quan bức dân phản”, đến không gian giang hồ, các anh hùng hảo hán
nắm tay nhau “bức thướng Lương Sơn” để cuối cùng thực hiện sứ mệnh “thế
thiên hành đạo” trong không gian thẩm mỹ. Tóm lại, hình tượng không gian
trong Thủy Hử cũng thể hiện sự vận động có tính đồng tâm. Từ không gian
tương thông đa chiều trong vũ trụ đến không gian đối lập của đời sống tất cả
đều qui về không gian Lương Sơn Bạc. Đặt người anh hùng trong không gian
thẩm mỹ, tác giả muốn thể hiện một quan niệm về anh hùng: đó là biểu tượng
của cái đẹp luôn hướng về đời sống, mang ý nghĩa nhân sinh cao cả.
Bên cạnh không gian đời sống và không gian giang hồ, nghệ thuật xây
dựng không gian trong tác phẩm còn được thể hiện ở không gian chiến trận.
147
Đó là nơi tạo ra các tình huống giúp cho nhân vật anh hùng bộc lộ vẻ đẹp của
mình. Như ta đã biết, từ hồi 41 đến hồi 71, diễn ra hàng loạt các trận đánh của
quân Lương Sơn với các trang ấp địa chủ và doanh phủ triều đình nhằm phát
huy thế lực. Ban đầu đánh Lý Gia Trang rồi Hỗ Gia Trang, Chúc Gia Trang,
sau đến phủ Cao Đường, phủ Đại Danh và Tăng Đầu Thị. Hàng loạt không
gian chiến trận được mở ra, thiên hình vạn biến. Chẳng hạn, hồi 46 tả Tống
Giang đánh Chúc Gia Trang, tác giả đã khéo léo dựng xây một không gian
chiến trận quy mô, tinh xảo. Nhận xét về tài năng nghệ thuật của Thi Nại Am,
Thánh Thán cho rằng: “Đánh Chúc Gia Trang cũng chỉ tầm thường của sự
chiến đấu, sao đủ triển khai tài năng diễn tả của Thi Nại Am? Cho nên chưa
chế ra văn, đã trước chế ra đề, tả bên đông Chúc Gia, có một Lý Gia Trang,
bên tây Chúc Gia, thêm một Hỗ Gia Trang, ba trang liên kết với nhau, thế
như hùm hổ, đánh đông thì giữa đưa tây cứu, đánh tây thì giữa đưa đông cứu,
đánh giữa thì đông tây xô lại cứu....” (hồi 46). Từ không gian chiến trận đó,
tài năng, khí phách và phẩm chất của những nhân vật anh hùng được thể hiện.
Sự khôn ngoan, tài trí của quân sư Ngô Dụng, sự dũng cảm, ngoan cường của
Lý Quỳ....cùng bao nhân vật khác được bộc lộ trong một không gian – thời
gian kịch tính của trận chiến.
3.4. Nghệ thuật xây dựng hình tượng người kể chuyện
Trong một tác phẩm tự sự, người kể chuyện đóng vai trò hết sức quan
trọng. Lý thuyết tự sự học tập trung nghiên cứu về người kể chuyện như một
phương diện biểu hiện tính chủ thể của tác phẩm tự sự. Theo đó, người kể
chuyện vừa tham gia tổ chức tác phẩm, vừa góp phần quan trọng trong việc
miêu tả, khắc họa nhân vật; đồng thời thể hiện quan điểm, cái nhìn của tác giả
trước những vấn đề, những sự vật, hiện tượng, con người được tái hiện trong
sáng tác. Tìm hiểu tác phẩm Thủy Hử, chúng tôi nhận thấy: Người kể chuyện
trong Thủy Hử có những đặc trưng riêng, gắn liền với thi pháp thể loại. Việc
148
tiếp cận người kể chuyện trong Thủy Hử sẽ giúp ta hiểu thêm về các nhân vật
anh hùng trong tác phẩm cũng như tài năng nghệ thuật của tác giả. Điều đó
bắt nguồn từ mối quan hệ, sự gắn bó thiết thân giữa hình tượng người kể
chuyện và việc khắc họa các nhân vật anh hùng.
3.4.1. Hình tượng người kể chuyện trong Thủy Hử
3.4.1.1. Một vài giới thuyết về hình tượng người kể chuyện trong tác phẩm tự
sự và trong Thủy Hử.
Nghiên cứu về hình tượng người kể chuyện trong tác phẩm tự sự, vấn
đề đầu tiên cần phải đặt ra là cách hiểu nội hàm thuật ngữ "người kể chuyện".
Quả thật, cũng như nhiều khái niệm khác của ngành tự sự học như "cốt
truyện", "tiêu cự"... "người kể chuyện" là một khái niệm chưa được thống
nhất hoàn toàn giữa các nhà lý luận. Theo nhà nghiên cứu Todorov: "Người
kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng... Không
thể có trần thuật thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện không nói như các
nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện" [88, tr.116-117]. Còn theo Pospelov,
người kể chuyện là "người môi giới giữa các hiện tượng được miêu tả và
người nghe (người đọc), là người chứng kiến và cắt nghĩa các sự việc xảy ra"
[88, tr.196]. Nhà nghiên cứu W. Kayser thì cho rằng "Đó là một hình hài
được sáng tạo ra, thuộc về toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học. Ở nghệ thuật
kể, không bao giờ người kể chuyện là vị tác giả đã hay chưa nổi danh, nhưng
là cái vai mà tác giả bịa ra và chấp nhận". [88, tr. 196]
Nhìn chung, để tạo lập câu chuyện trong tác phẩm tự sự, thì điều kiện
tiên quyết là: bản thân câu chuyện và người kể lại câu chuyện đó. Từ điển
thuật ngữ văn học giải thích nội hàm thuật ngữ "người kể chuyện" như sau:
"Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm
văn học" [49, tr.191].
Bằng việc tiếp cận lý thuyết tự sự học qua phương diện người kể
149
chuyện, khảo sát và chỉ ra chức năng của người kể chuyện trong tác phẩm sự
sự, Nguyễn Thị Hải Phương đã làm nổi rõ những đặc trưng của hình tượng
người kể chuyện: Thứ nhất, "người kể chuyện là một công cụ do nhà văn hư
cấu nên để kể chuyện"; thứ hai, "người kể chuyện là một nhân vật đặc biệt
trong tác phẩm tự sự"; thứ ba, "người kể chuyện thống nhất nhưng không
đồng nhất với tác giả". Nguyễn Thị Hải Phương cho rằng người kể chuyện có
nhiều chức năng đối với tác phẩm tự sự, một trong những chức năng đó là
"thay mặt nhà văn trình bày những quan điểm về cuộc sống, nghệ thuật"
[88,tr.196 - 208]. Xét trong mối quan hệ với đề tài mà chúng tôi đang triển
khai, chúng tôi đồng ý với nhận định này. Đặt hình tượng người kể chuyện
trong mối liên hệ với nhân vật anh hùng ở Thủy Hử, vừa cho ta thấy tài năng
nghệ thuật của Thi Nại Am, đặc biệt là nghệ thuật khắc họa nhân vật anh
hùng, vừa giúp ta hiểu được cái tôi tinh thần, những suy tư, trăn trở, những
quan niệm của tác giả về con người và cuộc đời.
Trong Thủy Hử, vai trò của người kể chuyện hết sức quan trọng. Vì như
ta đã biết, "Thủy Hử có một lối sắp xếp câu chuyện (kết cấu) đặc biệt. Đó là
sự liên kết các mẩu chuyện nhỏ có ý nghĩa độc lập thành một câu chuyện lớn
thống nhất. Chuyện này tiếp chuyện kia như các móc xích nối liền với nhau"
(Lương Duy Thứ). Mỗi một mẩu chuyện thường gắn liền với sự xuất hiện của
một hay một vài nhân vật anh hùng, đúng như lời nhận xét của Trần Xuân Đề
"Thi Nại Am đã dùng riêng năm hồi để viết về Lỗ Trí Thâm, sáu hồi viết về
Lâm Xung, mười hồi viết về Võ Tòng... Những câu chuyện đó có nhân vật và
cao trào riêng" [28, tr.177]. Nhận định về kết cấu Thủy Hử, dưới sự dẫn dắt
của hình tượng người kể chuyện trong tác phẩm, nhà phê bình Kim Thánh
Thán cũng từng hạ bút: "Một bộ sách bảy mươi hồi, chép một trăm lẻ tám anh
hùng, thì Tiều Cái là người khởi lên làm thủ lãnh. Tiều Cái khởi lên làm thủ
lãnh, mà không chép ngay tự hồi đầu, như mọi chuyện khác, đến hồi 13 mới
150
xuất danh, bao nhiêu chuyện đã xảy ra từ 13 hồi trước, nhân đó mà được biết
tác giả trong lòng chứa toàn bộ truyện, rồi sau hạ bút viết ra. Nếu không
trong lòng chứa toàn bộ truyện, tả Tiều Cái ngay từ đầu, làm những chuyện
kinh thiên động địa, như quấy nước chọc trời, thì đám giặc ấy đâu còn giá trị,
phải tả ra bao nhiêu rắc rối mọi người, để đưa lại Tiều Cái làm thủ lãnh, đám
người ấy mới khỏi tai tiếng sau này" [91, tr.116]. Để làm được điều đó, cần có
tài quán xuyến, tổ chức khéo léo của người kể chuyện. Người kể chuyện trong
Thủy Hử vừa phải liên kết các tình tiết, các mẩu chuyện nhỏ về những người
anh hùng một cách lôgich, vừa phải tạo nên hấp lực để cuốn hút sự theo dõi
của người đọc.
Như trên chúng tôi đã trình bày, hình tượng người kể chuyện là một
sáng tạo nghệ thuật của tác giả, tác giả tạo ra người kể chuyện để kể lại câu
chuyện, để khắc họa nhân vật và thể hiện quan điểm của mình. Vậy hình
tượng người kể truyện trong tác phẩm Thủy Hử có những đặc trưng gì?
Ngoài những dấu ấn của người kể chuyện trong các tiểu thuyết chương hồi,
nó còn có nét gì riêng, tạo nên tính độc sáng của hình tượng người kể
chuyện trong tác phẩm. Tiếp cận từ góc độ thi pháp thể loại, từ lý thuyết tự
sự, chúng ta sẽ hiểu thêm về vai trò, chức năng của người kể chuyện trong
tác phẩm này. Nhất là khi đặt nó trong mối quan hệ với việc khắc họa kiểu
nhân vật anh hùng.
3.4.1.2. Người kể chuyện dân gian và người kể chuyện bác học trong Thủy Hử
Thủy Hử ra đời cách đây hơn 600 năm. Tác phẩm kể về cuộc khởi
nghĩa của anh em Tống Giang diễn ra vào thời Tuyên Hòa cuối Bắc Tống.
Đây là một cuộc khởi nghĩa có thực trong lịch sử, gây được tiếng vang lớn
trong nhân dân. Tống sử quyển 22, dưới góc nhìn của sử gia phong kiến, chép
lại như sau: "Bọn cướp ở Hoài Nam là Tống Giang xâm phạm quan quân ở
Hoài Dương, lại xâm phạm Kinh Đông, Giang Bắc, xâm nhập địa phận Hải
151
Châu đất sở, nhà vua hạ lệnh cho tri châu Trương Thúc Dạ chiêu hàng".1
Trong Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Lỗ Tấn có dẫn lời Tống sử 353:
"Tuy nhiên, thời bọn Tống Giang kêu gọi tụ nghĩa ở Lương Sơn, thế họ rất
mạnh. Tống sử 353 cũng nói: “Chúng chuyên đi cướp đoạt mười quận, quan
quân không ai dám gần chúng. Do đó, có những chuyện kỳ lạ sinh ra trong nhân
dân, rồi biến hóa rắc rối thêm, đến thành ra như chuyện đời xưa, lại có những
kẻ lắm chuyện, viết lách tô vẽ vào, thế là có sách chuyện ra đời" [90, tr. 146].
Cũng theo nhiều nhà nghiên cứu văn học Trung Quốc, câu chuyện về
cuộc khởi nghĩa đó, sang đến đời Nguyên, đã trở thành đề tài kể chuyện của
các "thuyết thoại nhân" (người kể chuyện). Điều đó cho thấy, Thủy Hử có
nguồn gốc từ những câu chuyện truyền miệng trong dân gian. Về sau, những
câu chuyện đó được nhiều tác giả bỏ công chỉnh lí, kết cấu, xâu chuỗi lại.
Trong đó, người đã đổ bao tâm huyết cho việc chỉnh lí Thủy Hử chính là Thi
Nại Am.
Vì Thủy Hử ra đời trên một cơ sở như vậy, nên chúng tôi cho rằng:
Hình tượng người kể chuyện trong Thủy Hử vừa là người kể chuyện dân gian,
vừa là người kể chuyện bác học. Đây là hai kiểu người kể chuyện chạy sóng
đôi, song hành, đồng thời hòa hợp, làm nên kiểu người kể chuyện độc đáo
trong Thủy Hử nói riêng, tiểu thuyết chương hồi nói chung. Nghệ thuật khắc
họa nhân vật anh hùng trong Thủy Hử cũng phần nào bắt nguồn từ đặc trưng
này của người kể chuyện, tạo nên những đối âm, những tương quan soi chiếu
trong bản thân hình tượng.
Trước khi đi vào tìm hiểu cụ thể trong tác phẩm, cần so sánh, làm rõ
các khái niệm: người kể chuyện dân gian và người kể chuyện bác học.
Có thể nói, người kể chuyện dân gian là người kể chuyện mang tính
1 Dẫn theo Lương Duy Thứ, Đại cương văn hóa Phương Đông, NXB Đại Học Huế, 2008
chất, đặc trưng: "phải thực hiện một loạt các chức năng khác nhau: với vai
152
trò giao tiếp với người nhận - chức năng giao tiếp, với tư cách người điều
khiển, chi phối việc kể chuyện - chức năng điều khiển, với tư cách người bình
luận truyện kể - chức năng bình luận, và đôi lúc với tư cách nhân vật trong
truyện kể - chức năng tính cách hóa", và điều đặc biệt: "Với tính chất hữu
hình, xác thực, người kể chuyện truyền khẩu có thể thực hiện tất cả các chức
năng theo cách có thể nghe thấy và nhìn thấy rõ, tiếp xúc trực tiếp với người
nhận thông điệp" [88, tr.146]. Trong khi đó, người kể chuyện bác học mang
nội hàm như đã giới thuyết ở phần trên, theo nhà nghiên cứu Henry Y.H.
Zhao, "chỉ có thể thực hiện được một chức năng một cách tự nhiên khi anh ta
là nhân vật và khả năng của anh ta đối với việc thực hiện các chức năng khác
là điều kiện" [88, tr.147].
Điểm tương đồng, gặp gỡ giữa người kể chuyện dân gian và người kể
chuyện bác học trong Thủy Hử là khả năng hư cấu, khả năng tái tạo câu
chuyện bằng trí tưởng tượng, bằng ngôn ngữ. Điều này cũng góp phần mang
lại cho tác phẩm một nét độc đáo, hòa trộn hư - thực, xúc cảm - lý trí, tính
chất bình dân và tính chất bác học. Dĩ nhiên, vì xuyên thấm vào nhau nên
trong hình tượng người kể chuyện dân gian đã bao hàm nhiều yếu tố bác học,
và ngược lại. Nhưng hai kiểu người kể chuyện này không hoàn toàn trùng khít
với nhau. Theo dõi tác phẩm Thủy Hử, ta nhận ra dấu vết của người kể
chuyện dân gian và bác học trong nghệ thuật khắc họa nhân vật anh hùng.
Trước hết, cũng nói về người anh hùng, nhưng người kể chuyện dân
gian thường dừng lại ở những sự kiện, những câu chuyện xé lẻ, thể hiện phẩm
chất anh hùng của nhân vật chứ chưa tổ chức, kết cấu các sự kiện một cách
chặt chẽ, theo lôgich mạch lạc. Trong khi đó, người kể chuyện bác học của
Thủy Hử đã sử dụng hàng loạt văn phép để xây dựng tác phẩm và sáng tạo
hình tượng anh hùng, như Kim Thánh Thán đã chỉ ra: có phép "kể chuyện
sóng đôi", phép "đại lạc mặc", phép "bối diện phô phấn", phép "loan giao tục
153
huyền"... Bằng những văn phép như vậy, người kể chuyện bác học biến câu
chuyện được kể thành văn bản nghệ thuật thật sự. Những thao tác như lựa
chọn, thêm vào, lược bớt... của lời kể khiến cho mạch truyện được tổ chức
chặt chẽ, tập trung nắm bắt và biểu hiện cái thần của nhân vật.
Câu chuyện Võ Tòng tay không đả hổ ở núi Cảnh Dương (hồi 22), xét
dưới góc độ người kể chuyện dân gian, chỉ có thể dựng dậy tài võ nghệ vô
song của Võ Tòng và không khí của của cuộc giao đấu. Hình tượng người anh
hùng Võ Tòng có thể hiện lên qua lời kể với phẩm chất hơn người, nhưng chỉ
đến khi được người kể chuyện bác học bày bố câu chữ, mới tạo nên một thiên
tả hổ đầy bút lực, và hình tượng Võ Tòng mới lộ hết vẻ oai phong. Kim
Thánh Thán đã bình thật hay về nghệ thuật dẫn dắt, miêu tả của người kể
chuyện: "Ta thường nói, tài tử với bất tài cách xa nhau, nào phải chỉ mươi
mười lăm dặm, như tả hổ này phải làm ho sống lại, tả hổ sống lại cần tả hổ
lúc vồ người, nay đem họp hàng nghìn người lại, vận ra ngàn lòng, duỗi ra
ngàn tay, cầm lấy ngàn bút, chép ra không rõ con hổ, thì không thấy được rõ
là tả hổ, chỉ có Thi Nại Am, chỉ một người, một lòng một tay, một bút, đối với
giấy tờ, không phí bút nhiều, như vẽ ra một hổ một người, thấy như sống
động, lại tả phụ thêm nào gió bay cát bụi, cây đá núi rừng.. người như người
thần, hổ như hổ dữ, gió bụi đá cây, chính nơi rừng hổ, khiến cho người đọc,
choáng mắt rối lòng, như thế mấy ai tả nổi?" (Kim Thánh Thán). Ở đây, cũng
cần lưu ý, trong lời bàn của Kim Thánh Thán, có sự đồng nhất người kể
chuyện với tác giả Thi Nại Am, đây cũng là điều thường thấy trong những lời
luận bàn khác về tiểu thuyết Trung Quốc. Điều này, theo chúng tôi, có căn
nguyên từ cội nguồn văn hóa sâu xa: nhà thơ, nhà văn sáng tạo tác phẩm là để
nói chí, thể hiện cảm thức trước cuộc đời. Dưới góc nhìn của lý thuyết tự sự
học phương Tây, như ta đã biết: Người kể chuyện không đồng nhất với tác
giả, tư tưởng, quan niệm của tác giả rộng hơn tư tưởng, quan niệm của người
154
kể chuyện. Dĩ nhiên, ở đây, chúng tôi không đi sâu vào vấn đề này. Điều
chúng tôi quan tâm là mối quan hệ giữa người kể chuyện dân gian và bác học
trong việc khắc họa hình tượng nhân vật anh hùng.
Cũng thông qua một sự kiện, như việc Võ Tòng say đánh Tưởng Môn
Thần ở rừng Khoái Hoạt (hồi 28), nhưng người kể chuyện bác học đã chấp
đôi cánh cho sự kiện, dệt nên áng kỳ văn. Đấy là lối văn được Kim Thánh
Thán ví với Tư Mã Thiên:
Thấy rằng việc to thô quá, thì thu vén lại, thấy rằng việc nhỏ nhen
quá thì phô phang ra. Hoặc thấy rằng việc còn thiếu sót, thì phụ
thêm vào, trái lại, việc đầy đủ thừa ra, thì bỏ bớt đi, đó là kế vì
văn, đâu phải kế vì việc, nếu khiến văn của ta trở nên một kỳ văn
tuyệt thế, thì ta phải truyền văn để truyền cho việc, nếu muốn chỉ
truyền lại công việc, lại khiến cho đầy đủ không mất đi, thì ta làm
văn phải được thế nào, đã trở nên kỳ văn tuyệt thế, nếu không đem
văn chương của chúng ta ra truyền, thì làm sao truyền nổi chuyện
hãy còn mãi mãi???" [91, tr.158].
Lời nhận định ấy thật có lí. Thậm chí, Kim Thánh Thán đã không quá
lời khi cho rằng: "Ta thường nói Thủy Hử hơn cả Sử ký, người đời không
tin.... Thực ra, Sử ký là đem văn mà viết vào việc, còn Thủy Hử nhân văn mà
sinh ra việc". Thủy Hử gần gũi với các câu chuyện truyền miệng trong dân
gian hơn Sử ký, và tính chất hư cấu cũng được biểu hiện ở mức độ đậm đặc
hơn. Điều này thật dễ hiểu, vì văn của Sử ký là loại văn thực lục.
Đi vào câu chuyện Võ Tòng vì Thi Ân đánh Tưởng Môn Thần, người
kể chuyện bác học đã hòa vào người kể chuyện dân gian ở Thủy Hử, khiến
chuyện được nói đến đạt đến tầm cao nghệ thuật, lột tả rõ nét cái khoái hoạt
của anh hùng Võ Tòng - tửu đồ đệ nhất. Văn chương Thi Nại Am thật hay,
mà Kim Thánh Thán cũng có lời bình tuyệt bút: "Hồi này tả Võ Tòng, vì Thi
155
Ân đánh Tưởng Môn Thần, chép việc đấy, Võ Tòng uống rượu, lại thêm văn đấy,
đánh Tưởng Môn Thân, là liệu vậy, uống rượu, là moi gấm thêu châu ngọc ở
trong lòng, vì có rượu phải có người đại hán đánh hổ trên núi Cảnh Dương, là
tay uống rượu đệ nhất của muôn thủa; Có rượu phải có chỗ, ra khỏi cửa đông
Mạnh Châu, đến rừng Khoái Hoạt phải mười bốn mười lăm dặm đường, lại là
nơi uống rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu lại có lúc, trời hè nóng bức,
hiu hắt gió Tây, cởi áo ngoài ra đón gió, lại là lúc đáng uống rượu vào đệ nhất
của muôn thủa; Uống rượu phải có lệnh uống: “Không ba chẳng qua Vọng, lại
là lệnh uống rượu đệ nhất của muôn thủa....", "Bao nhiêu thứ đó, đều do văn
của hồi này, đâu phải việc của hồi này, nếu là việc của hồi này mà thôi ấy, thì
Thi Ân đem Võ Tòng đi đánh Tưởng Môn Thần, một đường uống hết ba mươi
nhăm, sau chén rượu chỉ y theo Tống Tử Kinh, chép qua một lượt là đủ, việc
gì phải phiền đến Thi Nại Am soạn ra văn một hồi này" [82, tr.159-160]. Quả
thật, câu chuyện được kể thú vị đã đành, nhưng quan trọng hơn chính là cách
kể lại câu chuyện đó. Đấy cũng là câu chuyện của văn chương muôn đời, văn
chương tự cổ chí kim luôn là cách nói, cách biểu hiện tài hoa, độc đáo của
người nghệ sĩ ngôn từ. Xét dưới góc độ này, người kể chuyện dân gian và bác
học trong Thủy Hử đã làm thành một kiểu hình tượng người kể chuyện kép rất
đặc biệt, vừa làm cho câu chuyện giữ được ý vị dân gian, đồng thời vẫn có
tính chất bác học dưới bàn tay sáng tạo của người nghệ sĩ.
Dấu ấn của người kể chuyện dân gian trong Thủy Hử, theo chúng tôi,
còn thể hiện trong những đề mục, những câu đối ngẫu mang tính mở đầu. Bản
Thủy Hử 70 hồi chính truyện, có 140 câu đề mục. Những đề mục, vừa trình
bày tóm tắt các sự kiện lớn (thường gọi là nhập thoại), nhắc về người anh
hùng chủ yếu được nói đến trong hồi truyện, vừa giúp người nghe có thể nắm
bắt diễn tiến câu chuyện theo lời kể của các " thuyết thoại nhân". Như ở hồi
15, chuyện Ngô Dụng dùng mưu cướp lễ vật do Dương Chí áp tải, thể hiện
156
trong hai câu đề mục: "Tải kim ngân, Dương Chí vâng mệnh/ Cướp lễ vật,
Ngô Dụng dùng mưu", hay ở hồi 25, Võ Tòng giết chị, trả thù cho anh trai:
"Cửu Thúc giấu xương chờ hiệp khách/Võ Tòng giết chị tế hồn anh"... Phối
hợp với nó là cách kết thúc hồi truyện vào thời điểm căng thẳng nhất, bằng
những dòng thơ, tạo sự hồi hộp chờ đợi nơi người nghe lẫn quãng lặng, chỗ
dừng cho người kể, đồng thời tăng phần thi tính cho câu chuyện, cho lời kể.
Chẳng hạn, ở hồi 2, sau khi Lỗ Đạt đánh chết Trịnh Đồ, thấy một đám người
đang xem yết thị bên đường, Lỗ Đạt không biết chữ nhưng nghe người ta đọc
về việc quan lính ra lệnh truy bắt mình thì bỗng đâu: "Lỗ Đạt vừa nghe đến
đó, chợt thấy đằng sau lưng có người kêu to lên rằng: - Trương Đại Ca ôi !
Bác đi đâu đến đây?. Đoạn rồi người ấy ôm lưng Lỗ Đạt mà kéo ra khỏi đám
người đông đúc".
Khi ấy, cũng là lúc hồi 2 kết thúc bằng những câu thơ: "Anh hùng tiếng
đã gọi rằng/ Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha...". Sang đến hồi sau, độc
giả mới biết người ôm lưng Lỗ Đạt đi chính làm Kim Lão.
Cách sử dụng những đề mục và cách kết thúc hồi truyện như vậy, phù
hợp với kiểu người kể chuyện dân gian trong những câu chuyện truyền khẩu,
mang đậm dấu ấn dân gian. Ở đó, những "thuyết thoại nhân" có thể truyền đạt
câu chuyện một cách trực tiếp đến người nghe, trong một khoảng thời gian,
không gian nào đấy.
Nhà nghiên cứu người Nga, I.X. Lixêvich, trong công trình Tư tưởng văn
học cổ Trung Quốc có nói về nguồn gốc của tiểu thuyết cổ điển như sau:
"Hàng trăm năm trôi qua, tiểu thuyết trở nên phức tạp hơn, trong đó kết đọng
lại các thể tài có hình thức lớn hơn. Xuất hiện truyện ngắn, truyện vừa, rồi sau
là tiểu thuyết, sử thi. Tiểu thuyết cổ điển được tạo thành từ hàng trăm chương
và những người kể chuyện phải kể hàng tháng trời mới hết" [71, tr.268]. Rõ
ràng, cách kể chuyện, dẫn dắt, kết mở các hồi trong Thủy Hử có bóng dáng
157
của tính chất "khẩu thuật". Đặc điểm này cũng tìm thấy trong tiểu thuyết Tam
Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung cũng như các tiểu thuyết chương hồi
khác (ở Tam Quốc diễn nghĩa cũng như một số tiểu thuyết chương hồi, kết
thúc thường nương theo một công thức "hạ hồi phân giải").
Không những thế, dưới góc độ thi pháp loại hình, chúng tôi nhận thấy:
tính chất dân gian trong hình tượng người kể chuyện ở Thủy Hử, có lẽ còn
hiện diện trong những môtip của câu chuyện. Trong Thủy Hử, các môtip nghệ
thuật như đả hổ, giấc mơ, trận đấu võ... được lặp đi lặp lại nhiều lần. Nó trở
thành những thành tố nghệ thuật tạo nên mạch tự sự, liên kết tác phẩm, đồng
thời thể hiện phẩm chất của người anh hùng trong Thủy Hử. Thi Nại Am kể
chuyện Võ Tòng đánh hổ ở núi Cảnh Dương (hồi 22), đến hồi 42, tại tả việc
Lý Quỳ giết bốn hổ để trả thù cho mẫu thân nhưng "từng câu từng chữ diễn
ra xuất sắc, hai người thấy khác nhau, bút mực tả ra xuất diệu nhập thần, đến
thế không còn gì hơn nữa" (Kim Thánh Thán - lời bình hồi 42). Hay như giấc
mơ gặp Cửu Thiên Huyền Nữ của Tống Giang và giấc mộng kinh hoàng của
Lư Tuấn Nghĩa ở phần kết truyện đều gắn liền với những dụng ý nghệ thuật
của người kể chuyện... Những môtip ấy bắt nguồn từ những câu chuyện dân
gian, xuyên thấm vào văn học viết. Cho nên, chúng làm nên ranh giới giữa
tính chất "khẩu thuật" và "bút thuật". Hình tượng người kể chuyện đan xen
phối kết trong mạch chuyện. Đó là kiểu hình tượng người kể chuyện mang
tính chất nước đôi.
Nhưng cần thấy rằng, nếu người kể chuyện dân gian thiên về việc mang
lại những tình tiết, sự kiện, cách kết mở cho tác phẩm, thì người kể chuyện bác
học đã tạo nên chất văn thấm đẫm chiều sâu nghệ thuật, và độ sắc nét của hình
tượng nhân vật anh hùng. Dẫu theo Lương Duy Thứ, "văn chương Thủy Hử
không "dệt gấm thêu hoa" như Tây Sương Ký, không "nhả ngọc phun châu"
như Hồng Lâu Mộng mà là "nhạc trỗi chuông ngân", hùng hồn dồn dập",
158
nhưng kiểu hình tượng người kể chuyện nước đôi chạy song song trong tác
phẩm đã mang đến cho Thủy Hử những đặc sắc về nghệ thuật trần thuật, cách
kết cấu lẫn lời văn, không lẫn với bất kỳ tác phẩm nào khác. Đấy là kiểu hình
tượng người kể chuyện tạo dựng nên cấu trúc cốt truyện độc đáo: cốt truyện
liên kết (linked- pot), mà theo lời của nhà nghiên cứu Peter Li: "Thay vì xây
dựng các tuyến hành động đi theo sự nghiệp các nhân của các anh hùng thì
mẫu hình chủ yếu trong Thủy Hử là một chuỗi tuần hoàn, hơn nữa, chuỗi tuần
hoàn/ chu kì của mỗi anh hùng khác nhau thì khác nhau" [88, tr.144].
3.4.2. Điểm nhìn của người kể chuyện và việc khắc họa nhân vật anh hùng
trong Thủy Hử
3.4.2.1. Điểm nhìn của người kể chuyện - tác giả
Bất cứ câu chuyện nào, đều được kể từ một điểm nhìn nào đó. Người
kể chuyện luôn thực hiện hoạt động kể từ một hay nhiều điểm nhìn. Điểm
nhìn được xem là vị trí mà người kể chuyện lựa chọn để miêu tả và kể lại câu
chuyện. Theo ý kiến của Greimas, có bốn loại điểm nhìn: điểm nhìn biết hết;
điểm nhìn của ngôi thứ nhất với tư cách là người tham dự, điểm nhìn chủ
quan của ngôi thứ ba, và điểm nhìn khách quan của ngôi thứ ba, nhưng thiên
về cách nhìn bên ngoài. [88, tr.191]
Nhà nghiên cứu người Pháp Genette lại dùng thuật ngữ "tiêu điểm" để
thay thế thuật ngữ điểm nhìn. Từ đó, ông chia ra ba loại trần thuật như sau:
Loại thứ nhất là "trần thuật phi tiêu điểm". Nhân vật trần thuật đứng
bên ngoài, nhưng có vai trò như thượng đế, biết hết mọi chuyện nhân sinh, vũ
trụ, quá khứ, hiện tại, tương lai, thường thấy trong loại tự sự cổ trung đại.
Loại thứ hai là "trần thuật nội tiêu điểm": Chỉ người trần thuật vốn là
nhân vật ngay trong câu chuyện, nhưng lại có ba dạng cụ thể khác nhau: Dạng
cố định: chỉ một nhân vật kể mọi việc. Dạng bất định: kiểu nhân vật kể những
chuyện khác nhau. Dạng đa thức: Nhiều nhân vật cùng nhau kể một sự việc.
159
Loại thứ ba, theo Genette là "trần thuật ngoại tiêu điểm", gần giống
như loại một, nhân vật kể chuyện nằm ngoài câu chuyện, nhưng chỉ kể lại tình
tiết câu chuyện một cách khách quan, chứ không đi sâu vào tâm lí nhân vật.
[88, tr.194]
Dạng trần thuật trong Thủy Hử thuộc loại nào? Theo cách phân loại của
Genette, Thủy Hử chủ yếu thuộc dạng trần thuật thứ nhất. Có thể nhận thấy,
trong tác phẩm, người kể chuyện - tác giả (ngôi thứ ba toàn tri) đóng vai trò
quán xuyến, câu chuyện được kể lại từ điểm nhìn "phi tụ điểm". Qua đó,
người kể chuyện - tác giả như có "con mắt trông suốt sáu cõi", có quyền năng
trên khắp trường nhìn của mình, kể lại "những gì mình nghe, thấy (chứng
kiến) - với tư cách nhân chứng, nhưng bản thân lại không tham dự vào hành
động truyện đang được tái hiện" [9, tr.144]. Đây là điều thường thấy trong
những bộ tiểu thuyết truyền thống của Trung Quốc, theo Trần Lê Bảo, tiểu
thuyết chương hồi chủ yếu là dùng ngôi thứ ba toàn tri để kể lại câu chuyện.
Thủy Hử cũng có đặc trưng này, đấy là: "truyện kể thẳng sự việc, không thêm,
việc phân rõ phải trái, cong thẳng đều do hành sự của nhân vật thể hiện ra,
để người đọc tự cảm thụ, mà tác giả giấu mặt không hề lộ ra. Đó là kiểu tự sự
khách quan" [91, tr.241]
Kiểu tự sự khách quan này gắn liền với điểm nhìn của người kể chuyện
ngôi thứ ba toàn tri. Tuy nhiên, đúng như Trần Lê Bảo đã nhận xét: "Đặc sắc
tự sự của tiểu thuyết chương hồi, chủ yếu là dùng ngôi thứ ba toàn tri để kể,
nhưng lại kể thông qua những điều mắt thấy, tai nghe, lời nói của nhân vật"
[88, tr.242].
Hãy khoan nói đến kiểu trần thuật từ điểm nhìn người kể chuyện - nhân
vật, chúng tôi cho rằng: điểm nhìn của người kể chuyện - tác giả đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc tổ chức câu chuyện về những người anh hùng,
đồng thời góp phần xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm.
160
Trước hết, về mặt bố cục tác phẩm, liên kết các phiến đoạn của câu
chuyện, điểm nhìn ngôi thứ ba toàn tri đã giúp cho người kể chuyện trong
Thủy Hử có thể tạo nên những móc xích chặt chẽ giữa các phần, các đoạn,
dựa vào cái nhìn thấu suốt toàn cục. Chẳng hạn, Tiểu Cái là thủ lĩnh của
những người anh hùng nơi bến nước, nhưng đến hồi thứ 13 mới kể đến, điều
đó chứng tỏ dụng công nghệ thuật từ điểm nhìn xuyên thấu vào từng ngõ
ngách, diễn biến trước sau của sự việc. Thật đúng như lời bình của Kim
Thánh Thán ở hồi thứ 13:
Một bộ sách bảy mươi hồi, chép một trăm lẻ tám anh hùng, thì
Tiều Cái là người khởi lên làm thủ lĩnh, Tiều Cái khởi lên làm thủ
lĩnh, mà không chép ngay tự hồi đầu, như mọi chuyện khác, đến
hồi 13 mới xuất danh, bao nhiêu chuyện đã xảy ra từ 13 hồi trước,
nhân đó mà được biết tác giả trong lòng chứa toàn bộ truyện, rồi
sau hạ bút viết ra. Nếu không trong lòng chứa toàn bộ truyện, tả
Tiều Cái ngay từ đầu, làm những chuyện kinh thiên động địa, như
quấy nước chọc trời, thì đám giặc ấy còn đâu giá trị, phải tả ra
bao nhiêu rắc rối mọi người, để đưa lại Tiều Cái làm thủ lĩnh,
đám người ấy mới khỏi tai tiếng sau này" [91, tr.116].
Việc Thi Nại Am trong lòng chứa toàn bộ truyện, mà nói về Cao Cầu ở
phần đầu, mãi 12 hồi sau mới nhắc đến Tiều Cái, thể hiện cái nhìn toàn tri của
người kể chuyện - tác giả. Hay hồi 21, kể về việc Tống Giang sau khi giết
Diêm Bà Tích, cách sắp xếp, tổ chức, trình tự trần thuật của người kể chuyện
vô cùng linh diệu, mạch lạc, cũng khởi nguồn từ một điểm nhìn như thế:
"Đây xem đến án mạng Tống Giang giết Bà Tích, tác giả phải
dùng đến nhiều bút mực, trăm nghìn khúc chiết, đưa lại cho Tống
Giang một sự giết người, do lòng văn của tác giả, muốn làm cho
Tống Giang phải bỏ Vận Thành đi đến Thương Châu, khi đó
161
Trương Tam thì muốn tróc nã, mà huyện quan lại muốn dong
tha, nếu khi ấy không có Trương Tam làm thầy dùi cho sọm già,
để huyện quan đổ tội cho Đường Ngưu Nhị, há rằng đem những
văn tự hồi trên, để nói về Đường Ngưu Nhị tất cả hay sao?".
[91,tr.140].
Ngoài Tống Giang, hoàn cảnh của những người anh hùng "bức thướng
Lương Sơn" khác như Lâm Xung, Dương Chí, Lư Tuấn Nghĩa... dường như
đều được khéo léo sắp đặt, bày bố qua cái nhìn toàn tri của người kể chuyện.
Để tụ họp về nơi bến nước những người anh hùng phẩm chất hơn người, thay
trời hành đạo, cần đến nét bút tài hoa, dụng công lao tâm khổ tứ của người kể
chuyện - tác giả Thi Nại Am.
Điểm nhìn ngôi thứ ba toàn tri trong Thủy Hử gắn với một đặc điểm
trong việc khắc họa nhân vật anh hùng: nhân vật chủ yếu hiện lên với hành
động, với ngôn ngữ, những chi tiết cụ thể, ít thiên về đời sống nội tâm. Đây là
một đặc trưng của tiểu thuyết chương hồi - có nguồn gốc từ những thoại bản:
con người hiện lên trong ngôn ngữ mang tính cá thể, trong những hành động
anh hùng. Tính cách cũng được thể hiện thông qua ngôn ngữ, hành động.
Dạng tiểu thuyết chương hồi như Thủy Hử gắn với điểm nhìn ngôi thứ ba toàn
tri có đặc điểm: "khi kể chuyện, người kể chuyện không thể trực tiếp đi vào ý
nghĩ của nhân vật mà chỉ có thể miêu thuật những hành động, lời nói của họ,
thậm chí đôi lúc phải rời bỏ những động lực thật sự sau những hành động của
nhân vật... Đây là lí do giải thích vì sao không có sự xâm nhập vào thế giới
tinh thần cảm xúc của nhân vật" [88, tr.145].
Dĩ nhiên, với nghệ thuật kể chuyện và khắc họa nhân vật bậc thầy, người
anh hùng trong Thủy Hử hiện lên như những cá thể sinh động, rõ nét, không thể
hòa lẫn. Cùng hành động giết hổ, nhưng Võ Tòng không giống Lý Quỳ, cũng
đều là võ quan của triều đình nhưng con đường đến Lương Sơn Bạc của Dương
162
Chí và Lỗ Trí Thâm không giống nhau.... Không những thế, ngôn ngữ của nhân
vật góp phẩn thể hiện rõ tính cách mỗi người, Lý Quỳ nóng nảy, thật thà nhưng
lỗ mãng; Ngô Dụng cẩn trọng, khoan thai; ngôn ngữ của ba anh em họ Nguyễn
khoáng đạt, đầy tinh thần phản kháng...Rồi ngay cùng một nhân vật, nhưng
ngôn ngữ trong những hoàn cảnh khác nhau thì khác nhau, "ngôn ngữ nhân vật
thay đổi tùy thuộc tính cách của nhân vật" (Trần Xuân Đề), chẳng hạn, ngôn
ngữ của Lâm Xung ở hai quãng đời trước và sau khi lên Lương Sơn Bạc - điều
này, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã nói đến.
Như đã nói, với cái nhìn từ ngôi thứ ba toàn tri, người kể chuyện - tác
giả có thể thấu suốt mọi lẽ sự kiện nhưng thật khó để thâm nhập vào bề sâu
tâm lý của nhân vật. Hơn nữa, dưới góc độ thi pháp, con người trong các loại
hình tự sự cổ trung đại chủ yếu thể hiện tính cách thông qua những đáng điệu,
hành động, ngôn ngữ. Người kể chuyện không đi sâu, không dừng lại quá lâu
ở thế giới nội tâm của nhân vật. Vì điều đó không phù hợp với thi pháp loại
hình, đồng thời khiến mạch kể chậm lại.
Tuy nhiên, cần thấy rằng, những khoảnh khắc tâm trạng, những biểu
hiện nội tâm của nhân vật anh hùng trong Thủy Hử là có, thậm chí không phải
ít. Chỉ có điều, nó không phải là đối tượng của sự chú tâm, được dành nhiều
thời gian, dung lượng để thuật lại. Đấy có lẽ là đặc trưng trần thuật và xây
dựng nhân vật của Thủy Hử nói riêng, của tiểu thuyết chương hồi nói chung.
Hồi 38, kể chuyện Tống Giang "Gác Tầm Dương đề thơ tâm huyết",
người kể khắc họa khoảnh khắc tâm trạng của hồn người trong men rượu say:
Chàng nghĩ vậy liền rót rượu vui uống một mình, mà bất giác say sưa quá độ.
Bây giờ trong bụng nghĩ rằng: Ta sinh ra ở đất Sơn Đông, lớn lên ở đất Vận
Thành, làm Lại xuất thân, kết thúc kể biết bao giang hồ hảo hán. Trong bấy
nhiêu lâu tuy chưa lưu được một chút hư danh, song hiện nay công nghiệp
cũng chẳng an thua, lại còn bị tội đày ải đến đây, khiến cho bao giờ về được
163
cố hương mà trông thấy phụ huynh tôn tộc !
Nghĩ đến đó thì tấc lòng cố quốc tha hương, xúc cảnh hứng hoài, bất
giác trông ngắm giang hồ mà tầm tã đôi hàng lụy nhỏ. Chàng liền nghĩ một
bài tức cảnh "Tây giang nguyệt" rồi gọi tửu bảo mượn bút nghiên để viết.
Chúng tôi cho rằng, những dòng thổ lộ can trường của Tống Giang,
được người kể chuyện thuật lại, nhằm mục đích để dẫn đến việc đề thơ cảm
khái. Chính vì thế, chúng tôi rất tâm đắc với lời bình của Kim Thánh Thán:
"Cho nên, lần sau tả Tống Giang đi tìm ba người đi uống rượu mà không
được gặp, kể cũng tả nhiều lời, nhưng phải làm cho rõ cái buồn của Tống
Giang, để rồi xảy ra đề thơ cảm khái". Như vậy, những cảm xúc nội tâm đó
đóng vai trò như một chất xúc tác để dẫn đến sự biến về sau. Hay như việc Lý
Quỳ nhớ mẹ, muốn về quê đón mẹ, để xảy ra việc giết bốn hổ báo thù cho mẹ.
Tình và sự cứ đan xen hòa trộn. Người kể chuyện ngôi thứ ba toàn tri không
đi sâu vào thế giới nội tâm của người anh hùng, mà chỉ sử dụng nó như một
điểm tựa, một đòn bẩy cho những câu chuyện về sau.
Chúng tôi cũng đã nói, vì sử dụng điểm nhìn toàn tri để kể, nên câu
chuyện mang tính khách quan, mọi việc do ngôn ngữ, hành sự của nhân vật
biểu hiện, người kể chuyện giấu mặt không lộ ra. Điều này cũng ảnh hưởng
đến việc xây dựng hình tượng người anh hùng trong Thủy Hử. Chẳng hạn, khi
miêu tả nhân vật Tống Giang - con người mang bản chất lưỡng diện, "là nhân
tố chủ yếu làm cho lực lượng nghĩa quân không ngừng lớn mạnh, nhưng cũng
là nhân tố chủ yếu làm cho cuộc khởi nghĩa Lương Sơn Bạc tan rã" (Trần
Xuân Đề), người kể chuyện - tác giả đã vận dụng lối tự sự khách quan. Tống
Giang mở miệng là trung hiếu nhưng lại chiêu mộ những người anh hùng lên
Lương Sơn. Tống Giang cứu nguy cho Tiều Cái nhưng khi hay tin Tiều Cái
làm thủ lĩnh Lương Sơn Bạc, đánh lại quân triều đình, thì lại cho đó là việc
"không thể dung tha". Thậm chí, khi bị quan quân triều đình bắt đi, ông còn
164
cự tuyệt sự cứu giúp của bọn Tiều Cái: "Kẻ tiểu nhân này phải theo lời cha để
tránh điều trên thì không ngược với lẽ trời, dưới không trái lời cha dạy thành
con người bất hiếu bất trung, có sống cũng vô ích" [28, tr.169]. Tính cách con
người Tống Giang, người kể chuyện - tác giả chỉ phô bày thông qua các chi
tiết, lời nói, chứ không thô bạo can thiệp, bình luận. Người đọc, người nghe
chuyện phải tự ngẫm, để thấu hiểu bản chất của kiểu hình tượng lung linh, đa
nghĩa như hình tượng Tống Giang. Đấy là một trong những nét đặc sắc của
nghệ thuật trần thuật ở Thủy Hử.
Kiểu tự sự khách quan ấy, nói như Kim Thánh Thán, "sự khen chê cố
nhiên ở ngoài bút mực".
3.4.2.2. Điểm nhìn của người kể chuyện - nhân vật
Như trên chúng tôi đã trình bày, bên cạnh người kể chuyện - tác giả,
còn có người kể chuyện - nhân vật, bên cạnh điểm nhìn chủ yếu từ ngôi thứ
ba toàn tri, trong Thủy Hử, còn có điểm nhìn từ phía những con người hiện
diện trong tác phẩm. Đây là nét độc đáo của nghệ thuật trần thuật trong tiểu
thuyết chương hồi mà Trần Lê Bảo đã chỉ ra: chủ yếu dùng ngôi thứ ba toàn
tri để kể, nhưng lại kể "thông qua những điều mà mắt thấy, tai nghe, lời nói
của nhân vật". Chính điều này, tạo nên sự đa dạng, phức hợp trong điểm nhìn
của người kể chuyện ở tác phẩm.
Chẳng hạn, bình hồi 4 của Thủy Hử, Lý Trác Ngô cho rằng: "Từ mắt
người thợ rèn, diện mạo thực, cả râu tóc của Lỗ Đạt được tả ra, đúng là bút
lực cao siêu" [88, tr.242]. Hay như Kim Thánh Thán bình hồi 9: "khi xem hai
chữ tuyệt diệu, đó là sự việc trong mắt của Lý tiểu nhị. Một chỗ là tiểu nhị thấy
quan quân, chỗ khác là tiểu nhị thấy lính chạy, trước là nhìn theo anh ta, sau
lại thấy anh ta ngồi xuống, tả giống hệt sự hồ nghi, tuyệt diệu" [88, tr.242].
Người kể chuyện - nhân vật, đặc biệt là nhân vật anh hùng, bằng các
giác quan, chứng kiến, nghe, thấy câu chuyện và kể lại. Cho nên mạch truyện
165
mang cái nhìn, hơi thở của họ. Nó không chỉ cho ta biết câu chuyện, mà còn
cho ta biết tính cách, khí chất của người kể.
Bàn về việc những câu chuyện trong Thủy Hử do nhân vật kể lại, được
hiện lên qua mắt nhìn, tai nghe của nhân vật, nhà nghiên cứu Trần Lê Bảo đã
phân tích khá kỹ lưỡng, chẳng hạn, khi ông viết: "Nhân vật còn được thể hiện
qua việc nghe thấy (thính giác). Trong Thủy Hử truyện, trong khi phê bình hồi
27, Kim Thánh Thán đã đổi Võ Tòng "cũng vội khép hờ mắt" thành "hai mắt
vội nhắm lại", đổi thấy thành nghe; hồi 21 đổi đoạn Diêm Bà Tích "nghe rồi
đi", liền phê rằng "nghe được, tuyệt diệu", "tưởng là, tuyệt diệu", "bản gốc
vốn không có tám chữ nghe, thế mới biết cái diệu của bản cổ" (Thánh Thán
bình Thủy Hử hồi 27), "lại không từ Tống Giang đi đến, mà là từ việc nghe
thấy của mẹ con Diêm bà, bút thần diệu", "mỗi phiến đoạn đều do nghe thấy
mà ra, có cái diệu của đèn mờ trăng lu" (Thánh Thán bình Thủy Hử hồi 21).
Điều này nhấn mạnh đến những sự kiện do nhân vật nghe thấy mà diễn ra"
[88, tr.242].
Chúng tôi muốn bổ sung thêm, điểm nhìn của người kể chuyện - nhân
vật, không chỉ thể hiện thông qua sự nghe thấy, nhìn thấy mà có cả sự cảm
thấy. Nỗi lòng, tâm trạng của nhân vật anh hùng, không phải là đối tượng
miêu tả, trần thuật chủ yếu, nhưng nó vẫn đóng vai trò nối kết mạch truyện.
Muôn sự thông qua cái nhìn tâm cảm của nhân vật, cũng hiện lên với bao
màu sắc.
Hồi 38, nói chuyện Tống Giang đề thơ phản nghịch, việc Tống Giang
đi tìm ba người để uống rượu nhưng không gặp, ngẫm phận mình, lòng hoài
cố hương mà làm bài Tây Giang từ: "Tâm ở Giang Đông thân ở Ngô/ Mấy
phen than thở mấy giang hồ/ Ngày sau như thỏa lòng non nước/ Mới biết
Hoàng Sào cũng trượng phu", lại đề thêm phía dưới mấy chữ "Vận Thành
Tống Giang đề". Những hành động của Tống Giang, theo chúng tôi, đều khởi
166
đi trong thế giới nội tâm của nhân vật. Những chi tiết được kể lại, rồi bài thơ
tâm huyết, đều thấm đẫm trong đôi mắt nhìn của Tống Công Minh. Ly rượu
say khơi dậy niềm đau thân phận, lòng nhớ cố hương. Sau khi "bất giác say
sưa quá độ", điểm nhìn tự sự như đính liền vào dòng cảm xúc, nỗi niềm tâm
trạng của nhân vật. Khoảnh khắc bất đắc chí của Tống Giang hiện lên trong
câu chuyện thông qua một điểm nhìn nội tâm của chính nhân vật.
Trong tác phẩm, thường xuyên trở đi trở lại hiện tượng: người kể
chuyện trao lời cho nhân vật. Nhân vật khi ấy trở thành người kể chuyện
mang điểm nhìn của mình để thuật lại câu chuyện. Có hai trường hợp xảy ra:
trường hợp thứ nhất, người kể chuyện kể lại câu chuyện của người khác;
trường hợp thứ hai: người kể chuyện kể lại câu chuyện của chính bản thân. Ở
trường hợp thứ nhất, điểm nhìn của nhân vật là điểm nhìn bên ngoài; nhưng
sang trường hợp thứ hai, điểm nhìn của nhân vật đã dần chuyển vào bên
trong. Dĩ nhiên, sự phân chia điểm nhìn bên ngoài hay bên trong, câu chuyện
về mình hay về người khác chỉ có tính tương đối. Và cũng có lúc, nhân vật kể
câu chuyện về người khác cũng chính là câu chuyện của bản thân mình.
Chẳng hạn, ở hồi 28, đoạn Thi Ân kể với Võ Tòng về việc bị Tưởng
Môn Thần ức hiếp:
Tiểu đệ từ thuở nhỏ, theo đòi võ nghệ, cũng biết được qua loa
dăm ngón côn quyền, nhân thế đất Mạnh Châu thường gọi là
Kim Nhỡn Bưu... Ở gần cửa bên đông trại này có một nơi phố xá,
tên là Khoái Hoạt Lâm, xưa nay, các thương khách ở Sơn Đông,
Hà Bắc đến đó buôn bán rất đông. Trong phố có hơn trăm nhà
khách sạn lớn, và hai ba mươi sòng đánh bạc lớn. Trước đây,
tiểu đệ nhờ có đôi chút võ nghệ, bèn bắt tám chín mươi tên tù đồ
khỏe mạnh ở trong trại, đem ra đó mở một ngôi tửu điếm; rồi bắt
các khách sạn cùng các sòng bạc quanh đó, nếu khi có đám kỹ
167
nữ nào qua lại, là phải đem đến tửu điếm của tiểu đệ trước, rồi
mối được chia đi các nơi. Nhân thế mà tính mỗi tháng, tất cả tiền
vặt vãnh có thể kiếm tới hai ba trăm đồng bạc. Dè đâu có ông
Trương Đoàn Huyện, người ở Đông Lộ Châu mới đến, lại dắt
thêm anh chàng to lớn, tên là Tưởng Trung cũng đến ở đây... Anh
chàng này mình dài chín thước, tay gậy tay quyền ít người đọ
kịp, bọn giang hồ vẫn gọi là Tưởng Môn Thần...
Câu chuyện của Thi Ân được kể lại qua cái nhìn của người căm giận vì
bị ức hiếp, nên lời văn mang tính trạng thái tâm lý của chính Thi Ân. Thi Ân
nói với Võ Tòng: "Tiểu đệ nghĩ đến chuyện ấy, thực là căm tức vô cùng...".
Đó vừa là cái nhìn bên ngoài để thuật lại sự việc diễn ra, nhưng rõ ràng, có cả
cái nhìn bên trong của một người liên đới trong câu chuyện. Có thể nói, câu
chuyện dù khách quan đến mấy cũng ít nhiều mang dấu ấn chủ quan, vì người
kể không thể nào giấu mặt hoàn sau câu chuyện của mình. Đối với nhân vật,
lời lẽ họ dùng để kể lại câu chuyện thể hiện nội tâm, tính cách của chính bản
thân.
Như chúng tôi đã trình bày, khi khắc họa nhân vật anh hùng, một trong
những điều người kể chuyện - tác giả lưu ý chính là ngôn ngữ, lời nói của họ.
Việc nhân vật kể lại câu chuyện từ điểm nhìn của mình, đồng thời bày tỏ thái
độ của họ đối với câu chuyện đó có vai trò quan trọng trong việc làm biểu
hiện hình tượng. Một Tống Giang - mang bản chất lưỡng diện, giữa "phản
kháng và thỏa hiệp" (Trần Xuân Đề), một Lý Quỳ nóng nảy, thô bạo, một Võ
Tòng trượng phu hiệp nghĩa... tất cả phần nào xuất phát từ câu chuyện mang
điểm nhìn, mang thái độ, khi những câu chuyện đó được chính họ hay nhân
vật khác kể ra.
168
3.4.2.3. Sự hòa trộn điểm nhìn của người kể chuyện - tác giả và người kể
chuyện - nhân vật
Trong Thủy Hử, có sự hòa kết giữa điểm nhìn của người kể chuyện -
tác giả và người kể chuyện - nhân vật. Nói cách khác, người kể chuyện trong
Thủy Hử chủ yếu sử dụng điểm nhìn toàn tri để kể, nhưng cũng có khi, điểm
nhìn ấy được chuyển cho nhân vật, khiến câu chuyện được thuật lại từ những
gì mắt thấy, tai nghe, những gì nhân vật cảm thấy.
Sự hòa trộn giữa hai điểm nhìn khiến cho tác phẩm linh hoạt trong cách
kể, giúp câu chuyện hiện lên trong cái nhìn vừa xa, vừa gần, vừa từ bên ngoài
đến, lại vừa tự bên trong nhân vật mà ra.
Chẳng hạn đoạn kể Võ Tòng giúp Thi Ân đánh Tưởng Môn Thần, tất
cả cảnh trước mắt, như vừa được nhìn qua đôi mắt của người kể chuyện - tác
giả, vừa được tìm từ đôi mắt của chính nhân vật: “Đi được dăm ba mươi bước
đã đến quãng đường chữ Thập, có một tửu điếm rất lớn, trước cửa lá cờ viết
bốn chữ "Hà Dương phong nguyệt" rất to. Khi đến tận cửa thấy một dãy chắn
song sơn dầu, hai bên treo hai cái biển vàng viết hai câu “Rượu Thánh vung
trời đất; Bầu Tiên tít tháng ngày”. Trong cái nhìn của tửu đồ đệ nhất Võ
Tòng - mọi vật xung quanh như chìm trong một cuộc rượu say. Điểm nhìn của
người kể chuyện đã hòa kết làm một với điểm nhìn của nhân vật là vậy.
Hay như ở hồi trước (hồi 22), tả Võ Tòng đả hổ, mọi cảnh vẽ ra, như
vừa hiện lên dưới điểm nhìn của người đứng ngoài chứng kiến kể lại, đồng
thời, vẫn gắn chặt với cái nhìn, hơi thở, cảm nhận của nhân vật anh hùng. Về
thiên tả hổ kỳ tuyệt này, Kim Thánh Thán đã có lời bình:
Đọc một thiên tả hổ mà khen người ấy người thần, hổ kia hổ dữ,
phải đâu tả dễ dàng ra, mà còn lại khéo nữa, sau khi xem xong
bảng văn cửa miếu mới tin rằng có, muốn quay trở lại, đã thấy
sợ oai hùm, tới lúc gió reo hùm lại, càng ghê khiếp nữa, lại phải
169
nấp vào sau tảng đá, tới khi hổ to lớn lại gầm lên, khiến người
phải kinh, mà mồ hôi toát ra tỉnh cả hơi rượu, nghĩ phải đánh hổ
cho bằng được, dùng hết khí lực, chân tay rời rã, thu lại ngồi
nghỉ trên tảng đá xanh, sắc trời đã tối nhá nhem, còn sợ lại gặp
hổ nữa, phải lần xuống núi, xuống núi chẳng bao xa, thấy trong
đám bụi cây nhảy ra đôi hổ, lại kinh khiếp chùn tay, vì đả hổ đã
mệt rồi, không còn sức nữa... tả ra những đoạn văn như đứng
trong nguy hiểm đó, cùng với hồi sau này giết hổ ở Nghi Lĩnh,
không một nét bút giống nhau, mới thấy tài tình. [91, tr.142].
Quả thật, nếu không đặt điểm nhìn vào nhân vật để kể, đồng thời, vẫn
giữ cái nhìn quán xuyến của người kể chuyện - tác giả, thật khó có được khả
năng tái hiện sắc nét chân dung những người anh hùng như Võ Tòng.
Hai điểm nhìn phối kết, tạo nên hiệu ứng: những hình tượng nhân vật
hiện lên vô cùng sinh động, không thể hòa lẫn. Người kể chuyện - tác giả như
nhập thân vào nhân vật - từ đôi mắt nhân vật mà kể. Về điều này Kim Thánh
Thán nhận xét thật tinh tế: "Cái tài của tác giả Thi Nại Am, ta không biết đâu
là bờ mà nói hết. Đương bỗng dưng tả ra một bậc hào kiệt: thì đúng là hào
kiệt; chợt đâu tả ra một kể gian hùng, thì đúng là kẻ gian hùng; chợt đâu tả ra
một gái dâm, lại đúng là một gái dâm; chợt đâu tả ra thằng trộm cắp, thì lại
đúng là thằng trộm cắp...
Người ta có nói: Chẳng phải thánh nhân, không biết nổi thánh nhân.
Thế thì chẳng phải hào kiệt sao biết nổi hào kiệt? Chẳng phải gian hùng sao
biết nổi gian hùng? Thi Nại Am tả ra hào kiệt đúng như hào kiệt, Thi Nại Am
đã là hào kiệt hẳn rồi, còn ngờ gì nữa? Cũng như tả ra gian hùng đúng là
gian hùng, Thi Nại Am lại là gian hùng hẳn rồi, còn ngờ gì nữa? Tuy nhiên,
ta vẫn còn nghi, vì bậc hào kiệt có tài của gian hùng, kẻ gian hùng có khí
phách của hào kiệt, lấy hào kiệt gồm gian hùng, hay là gian hùng gồm hào
170
kiệt, để xét Nại Am, thì cũng không lạ gì nữa.
Còn Thi Nại Am, quyết nhiên không phải là gái dâm, trai trộm, thế mà
xem khi tả đến gái dâm thấy đúng gái dâm, tả đến thằng trộm thấy đúng
thằng trộm, thì nghĩa thế nào? Hỡi ôi ! Ta biết ra rồi, chẳng phải gái dâm
sao biết gái dâm. Chẳng phải thằng trộm biết đâu thằng trộm, thế mà Thi Nại
Am lại không phải gái dâm, thằng trộm. Đó là nghệ thuật văn chương phải
biết hết ra..." [91, tr.228 - 229].
Nghệ thuật văn chương mà Kim Thánh Thán nói, theo chúng tôi, xuất
phát từ sự phối kết giữa điểm nhìn người kể chuyện - tác giả và người kể
chuyện nhân vật. Do đó, khi nói về những người anh hùng trong Thủy Hử, lời
kể tạo nên ấn tượng mạnh mẽ, hài hòa, hình tượng như hiện ra trước mắt
người đọc, người nghe. Đó là nét đặc sắc của việc tổ chức điểm nhìn trong tác
phẩm này, đồng thời, cũng là đặc điểm có mang thuộc tính của thể loại.
Đến đây, một câu hỏi cần đặt ra: điểm nhìn mà người kể chuyện dùng
để khắc họa nhân vật anh hùng bắt nguồn từ đâu? Hay nói cách khác, người
kể chuyện trong tác phẩm đứng từ vị trí nào để kể câu chuyện về những người
anh hùng.
Như chúng tôi đã trình bày ở chương 1, người kể chuyện - tác giả Thi
Nại Am chủ yếu đứng trên lập trường của người bình dân để miêu tả, khắc
họa các nhân vật anh hùng. Những người anh hùng này dường như hiện lên từ
thẳm sâu vô thức của quần chúng lao động - những con người luôn khát khao
về một xã hội công bằng, lý tưởng, không có áp bức và những điều đau đớn
lòng. Ước vọng đó được gửi gắm trong điểm nhìn của người kể chuyện Thủy
Hử, qua việc kết cấu, bố cục tác phẩm, qua việc xây dựng hình tượng nhân
vật anh hùng. Kể câu chuyện về một trăm linh tám vị anh hùng, nhưng lại
khởi đi từ Cao Cầu, để cho thấy loạn từ trên xuống "thượng bất chính, hạ tắc
loạn" cũng là cách nhìn từ lòng yêu, tình cảm đối với người anh hùng và cuộc
171
nổi dậy của họ.
Từ những điều đã phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng, điểm nhìn của
người kể chuyện trong Thủy Hử là một vấn đề nhiều thú vị, góp phần cho ta
hiểu thêm quan niệm, tư tưởng của Thi Nại Am, đồng thời, thấy được tài năng
nghệ thuật bậc thầy của người nghệ sĩ.
3.4.3.Giọng điệu của người kể chuyện và việc khắc họa nhân vật anh hùng
trong Thủy Hử
3.4.3.1. Giọng điệu trần thuật chủ đạo trong Thủy Hử
Một câu chuyện - bao giờ cũng được kể, ít nhất từ một điểm nhìn và
một giọng điệu nào đó. Câu chuyện về những người anh hùng trong Thủy Hử
cũng thế. Giọng của người kể gắn kết chặt chẽ với câu chuyện được kể, góp
phần khắc họa chân dung nhân vật và làm nổi rõ quan điểm, tình cảm, thái độ
của người kể trước những điều được nói đến.
Theo Pospelov, " giọng điệu chính là mối quan hệ giữa chủ thể và hiện
thực khách quan thể hiện bằng hành vi ngôn ngữ, trong đó bao hàm cả việc
định hướng đánh giá và thói quen cá nhân sử dụng ngôn từ trong những tình
huống cụ thể" [81, tr.89]. Trong tác phẩm văn học, giọng điệu thể hiện thái
độ, tình cảm của nhà văn đối với các sự vật, hiện tượng được miêu tả, và điều
đó được chuyển tải trong lời văn nghệ thuật.
Ở đây, chúng ta thấy rằng: văn chương muôn đời là cách thể hiện, việc
kể như thế nào, sử dụng giọng điệu nào để kể còn quan trọng hơn việc kể cái
gì. Và thông qua giọng kể (cũng như điểm nhìn), người nghe, người đọc tác
phẩm có thể nhận ra bức chân dung tinh thần của chính người kể chuyện - tác
giả, "Do chỗ giọng điệu gắn liền với việc miêu tả bằng hình tượng đối tượng
của sáng tác, cho nên nó có những nét riêng biệt, độc đáo, mang cách nhìn
nhận riêng của cá nhân đối với cuộc sống. Những người sành sỏi về văn học
có thể căn cứ vào những đặc điểm về giọng điệu của một đoạn văn tự sự nhất
172
định mà họ chưa hề biết hoặc căn cứ vào mấy dòng của một bài thơ mới lạ để
xác định tác giả của những tác phẩm ấy. Ở đây, yếu tố nội dung của giọng
điệu được thể hiện khá rõ" [89, tr.230].
Khi nói đến giọng điệu trần thuật trong tác phẩm, ta thường nhắc đến
một giọng chủ đạo và những giọng khác. Giọng điệu chủ đạo làm nên âm
hưởng chung cho toàn sáng tác, đồng thời góp phần khắc họa nhân vật, thể
hiện quan điểm của người kể. Vậy giọng điệu chủ đạo trong Thủy Hử là gì?
Chúng tôi cho rằng, dựa trên cảm hứng trong tác phẩm, dòng mạch
sóng sánh, chảy giữa hai chiều ngợi ca và phê phán, ta có thể tìm ra giọng
điệu chủ đạo trong tác phẩm này. Việc ngợi ca những người anh hùng và cuộc
nổi dậy của họ, việc phê phán, chỉ trích bọn quan lại thối nát tạo nên giọng
điệu riêng cho người kể chuyện trong Thủy Hử.
Trước hết là giọng phê phán, chỉ trích. Đứng trên lập trường của người
bình dân, người kể chuyện trong Thủy Hử thể hiện rất rõ thái độ đối với bọn
vua quan phong kiến. Truyện một trăm linh tám anh hùng mở đầu bằng việc
tả Cao Cầu để thấy loạn từ trên mà ra. Chỉ trong một đoạn ngắn, Thi Nại Am
đã lột tả được chân dung của Cao Cầu: "Về đời nhà Tống, Triết Tôn hoàng đế
làm vua, cách với đời của vua Nhân Tôn hoàng đế đã xa; giữa phủ Khai
Phong, ở ngay Đông Kinh, thuộc khu của thành Tuyên Vũ Quân nảy nòi một
tên con nhà lông bông mất dạy, là dòng họ Cao, bày hàng đứng vào thứ hai.
Anh ta thuở nhỏ không chịu làm ăn, chỉ thích múa thương đánh gậy, và đá
cầu rất giỏi, bởi thế trong Kinh Sư gọi anh ta là Cao Cầu, đổi gọi Cao Nhị.
Do chữ Cầu có chữ Mao là lông ở bên cạnh, sau phát tích khá lên, mới đổi
chữ Cầu có chữ nhân là người đứng cạnh.
Anh chàng này lại giỏi thổi sáo múa bộ, chơi bời nghịch ngợm đủ lối,
mà còn học đòi thơ phú, võ vẽ sách vở, nhưng nói đến chữ nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín, hạnh, trung lương, thì tuyệt nhiên không hiểu chút gì".
173
Chỉ trong mấy dòng ngắn ngủi mà bản chất lưu manh, vô học của nhân
vật đã bộc lộ. Người kể chuyện thể hiện rất rõ thái độ khinh ghét của mình đối
với Cao Cầu qua câu chữ, ngôn từ. Cao Cầu là nhân vật thể hiện bản chất thối
nát của giai cấp phong kiến, là “đại biểu cho tập đoàn thống trị phong kiến, nên
viết về hắn, tác giả lên án hết sức mạnh mẽ. Tấn bi kịch trong cuộc đời của nhiều
nhân vật anh hùng, cũng do Cao Cầu tìm kế hãm hại, khiến "Vương Tiến phải
trốn đến phủ Diên An, Lâm Xung bị thích chữ vào mặt và đày đi đạo Thương
Châu, Dương Chí phải lưu lạc ở thành Biện Kinh..." [91, tr.283].
Không những thế, những kẻ họ hàng, thân thích của hắn như Cao Liêm
- tri phủ châu Cao Đường, Thái Đắc Chương - tri phủ Giang Châu, rồi bọn
Mộ Dung Ngạn, Lương Thế Kiệt..., tất cả đều bị người kể chuyện - tác giả đả
phá, vạch trần bản chất. Ngoài ra, theo các tác giả Dư Quan Anh, Tiền Chung
Thư, Phạm Ninh Thủy Hử còn tả một loại người áp bức, bóc lột khác. Chúng
là bọn địa chủ ác bá ở nông thôn, có tiến có thế, cấu kết với quan phủ cưỡi lên
đầu nhân dân, gây bao tội ác. Trong đó, có những tên tài chủ giàu sụ kiểu Tây
Môn Khánh, quyến rũ Phan Kim Liên, bỏ thuốc độc giết Võ Đại Lang, một
người bán bánh nướng hiền lành; có những tên ác bá như Trấn Quan Tây
Trịnh Đồ, làm văn tự giả gạt lấy cô gái lưu lạc là Kim Thúy Liên, sau đó lại
đuổi cô đi, đòi cho được ba nghìn quan tiền chuộc thân; có những tên địa chủ
khét tiếng gian xảo như Mao Thái công, giấu con hổ đã trúng tên, bắt anh em
người thợ săn họ Giải, rồi đổ cho tội "cướp đoạt tài sản, giải lên quan phủ"
[91, tr.284]. Và điều đặc biệt, khi miêu tả những cuộc nổi dậy của anh hùng
Lương Sơn Bạc chống lại áp bức, tác giả "không bàng quan lãnh đạm" mà
miêu tả "theo khuynh hướng rõ rệt". Khuynh hướng ấy có lẽ là thái độ yêu
ghét phân minh của người kể chuyện - tác giả trong Thủy Hử, luôn đứng về
phía quần chúng nhân dân để kể lại câu chuyện về những hảo hán yêu mến tự
do, giàu tinh thần phản kháng.
174
Thái độ phê phán chế độ phong kiến thể hiện rõ nét thông qua lời văn
mà người kể chuyện - tác giả sử dụng để nói về bọn chúng. Khi kể về những
kiểu người này, người kể chuyện - tác giả thiên về lối tả chân, nhằm bộc lộ
bản chất thật của nhân vật. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm cũng từ đấy mà
ra. Chẳng hạn ở hồi thứ 8, đoạn Sai Bát vòi tiền Lâm Xung: “Sai Bát thấy
Lâm Xung nói vậy mà không có tiền nong gì đưa ra, liền biến hẳn sắc mặt đi,
rồi trỏ vào Lâm Xung mà mắng rằng:
Thằng này gớm thực, sao mày trông thấy tao mà không lạy? Mày có
biết khi ở Đông Kinh làm nên tội ác thế nào? Thế mà đến đây mày còn lên
mặt với tao à? Tao nom mặt thằng này xám xì lại, như thế là đời mày không
có lúc nào mà ngóc cổ lên được đâu. Mày là đồ băm không đứt, đánh không
chết, mà lại lạc vào tay ta, để rồi chốc nữa ta cho mày biết”.(Hồi 8)
Kim Thánh Thán đã bình rất hay về hồi này, qua đó, cho thấy giọng
điệu phê phán của người kể chuyện - tác giả Thi Nại Am đối với bọn quan lại
hủ hóa, thối nát.
Cùng với sắc thái phê phán, sắc thái ngợi ca làm nên giai âm chủ đạo
trong giọng kể Thủy Hử. Chúng như những đối âm, sóng đôi, hòa trộn, hình
thành đặc trưng giọng điệu nơi tác phẩm.
Có thể nói, tác phẩm tràn đầy cảm hứng và giọng điệu ngợi ca những
người anh hùng cũng như những hành động hiệp nghĩa, phi thường của họ.
Khi miêu tả nhân vật anh hùng, người kể chuyện - tác giả mang theo cái nhìn
của quần chúng nhân dân, thấu hiểu những ước ao, khát vọng của họ về
những người anh hùng thay trời hành đạo, cứu giúp nhân dân.
Giọng điệu ngợi ca ấy, trước hết, thể hiện trong những lời văn miêu tả
chân dung nhân vật anh hùng. Bút pháp khoa trương, phóng đại, nhiều khi
mang tính ước lệ làm bền cho sắc thái ngợi ca trong giọng điệu trần thuật.
Chẳng hạn, đây là đoạn tả Lỗ Trí Thâm: "Nhà hàng vừa nói dứt lời, thì có một
175
người lực lưỡng ở ngoài đi sồng sộc bước vào. Sử Tiến ngẩng lên trông người
ấy, mặt tròn tai lớn, mũi thẳng mồm vuông, hai bên mép có một hàng râu
xoăn xoắn, mình cao tám thước, vai rộng đẫy ôm, cách ăn mặc ra dáng một
tay quan võ", rồi ngay sau đó tả Sử Tiến: "Người ấy thấy Sử Tiến mặt mũi
khôi ngô, sức lớn mình cao, rỏ vẽ đường đường hảo hớn, thì cũng chấp tay
đáp lễ, rồi cùng ngồi uống nước một bên". Hay ở hồi thứ 23, tả Võ Tòng
"mình cao tám thước, tướng mạo đường đường, sức lực kể có trăm ngàn cân
nặng"... Cách miêu tả nhân vật như vậy, rõ ràng gắn với giọng điệu ngợi ca.
Bên cạnh đó, các tước hiệu kèm theo tên của các nhân vật, ngoài việc định
danh, định tính, còn gắn liền với niềm yêu, tình cảm của người kể chuyện -
tác giả dành cho nhân vật của mình.
Giọng điệu ngợi ca ấy càng được thể hiện rõ nét khi người kể chuyện
nói về phẩm chất, hành trạng của từng nhân vật anh hùng, thông qua các chi
tiết, tình huống in dấu trong lời văn nghệ thuật. Tả Võ Tòng tay không đánh
hổ, Tả Lý Quỳ giết bốn hổ trả thù cho mẹ, tả tài võ nghệ của Lâm Xung, tài
dùng phép của Công Tôn Thắng, rồi tính cách trọng nghĩa của Sài Tiến, sự
mưu trí của Ngô Dụng... tất cả đều gắn liền với cảm hứng ngợi ca. Tuy nhiên,
như chúng tôi đã nói, có thể cùng kể về phẩm chất anh hùng nhưng mỗi người
mỗi khác, các nhân vật anh hùng trong Thủy Hử hiện lên hết sức sinh động
trong cảm hứng ngợi ca:
Tả ra ba tay rất bậc trượng phu như Lỗ, Lâm, Dương, tưởng rằng
nghệ thuật đến đấy mà thôi, mà được xem đến đấy mà thôi, ai ngờ
lại nảy ra một chuyện Võ Đô Đầu, khiến ta đọc đến văn, lại nghĩ
đến người, thấy trong lòng dạ chẳng phải như lòng dạ ba người
Lỗ, Lâm, Dương, tâm sự cũng chẳng phải tâm sự như ba người
Lỗ, Lâm, Dương, cho đến hình trạng kết thúc, lại chẳng như hình
trạng kết thúc của ba người Lỗ, Lâm, Dương, hành động của
176
những bậc trượng phu khác nhau xa quá !" [91, tr. 148].
Ngay cả những trận đánh phá các châu phủ của anh hùng Lương Sơn,
cũng được người kể chuyện miêu tả trong cảm hứng ngợi ca. Có những trận
đánh lớn như ba lần đánh thắng Cao Cầu, ba lần đánh Chúc Gia Trang, rồi phủ
Cao Đường, phủ Đại Danh, Tăng Đầu Thị...Sau những trận thắng, binh lương
ngày một nhiều, uy thế của quân Lương Sơn bạc ngày càng mạnh. Những trận
đánh đó, có thể xem như là tuyệt bút của người kể chuyện - tác giả Thi Nại Am
- đặc biệt gắn liền với cảm hứng ngợi ca nghĩa quân. Cho nên thật dễ hiểu khi
bình hồi 47, đoạn tả đánh Chúc Gia Trang lần thứ hai, Kim Thánh Thán viết:
"Tác giả đã lấy Mực làm Binh, lấy Bút làm Ngựa, lấy Giấy làm Sa Trường, lấy
Tâm làm Tướng Lệnh, khiến ta đọc đến văn, thấy Mực chẳng ngừng Binh, Bút
không dừng Ngựa, Giấy vẫn Sa Trường, Tâm vẫn Chỉ huy. Nào là Âu Bằng cứu
Nụy Hổ, Tam Nương lại đánh với Âu Bằng, Đặng Phi giúp Âu Bằng đuổi Tam
Nương, Chúc Long lại giúp Tam Nương để bắt Tống Giang, Mã Lân lại vì
Tống Giang đón đánh Chúc Long...." [91, tr.206].
Tóm lại, giọng điệu chủ đạo trong Thủy Hử, theo chúng tôi, bắt nguồn
từ cảm hứng ngợi ca và phê phán - qua đó, người kể chuyện - tác giả đã thể
hiện rõ tình cảm thái độ của mình trước những đối tượng được miêu tả, trần
thuật. Việc tạo nên giọng trần thuật trong Thủy Hử còn thể hiện tài hoa nghệ
thuật của Thi Nại Am, đúng như Hoàng Ngọc Hiến đã nhận định: "Ngôn từ
không chỉ bao gồm từ, mĩ từ. Trong tác phẩm văn học, câu văn phải có hồn.
Câu văn có hồn là câu văn có giọng, có ngữ điệu, bởi vì từ ngữ của bài văn
được chọn có thể thông báo nhiều điều quan trọng nhưng bài văn không có
giọng đọc lên vẫn nhạt nhẽo, vô vị. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà
của bài văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là ở
năng lực bắt được đúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng
đích đáng cho tác phẩm mình viết" [52, tr. 162].
177
3.4.3.2. Những giọng điệu khác
Trong một bản hòa âm, luôn có những bè cao và bè trầm, trong giọng
điệu trần thuật của một tác phẩm lớn, luôn có một giọng chủ đạo và những
giọng điệu khác. Những giọng điệu này, hòa cùng giọng chủ đạo, làm nên hệ
thống giọng kể đa dạng và linh hoạt trong sáng tác.
Khi nghiên cứu về đặc trưng của tiểu thuyết, Hoàng Ngọc Hiến cho
rằng: "Có thể phân biệt một cách ước lệ cách kể của truyện và cách kể của
tiểu thuyết. Với cách kể của truyện, tác giả tách mình ra khỏi các nhân vật và
kể về chúng, về những biến cố có liến quan đến chúng bằng một lời văn nào
đó. Trường hợp may mắn nhất, lời văn đó phản ánh bản sắc và cá tính người
kể, trường hợp này, lời văn tuy đơn điệu nhưng vẫn đậm đà, có hồn. Nhưng
nếu đó là một lời văn trung tính nặng về thông báo, câu văn sẽ nhạt nhẽo vô
vị.. Đọc truyện dường như nghe kể lại, còn một cuốn tiểu thuyết viết giỏi
dường như chính ta đương được chứng kiến...
Với cách kể của tiểu thuyết, tác giả hòa vào các nhân vật, hòa vào từng
nhân vật và thế giới của nó, kể về nhân vật bằng ngôn ngữ của nó, bằng tiết
tấu của chính nó" [53, tr.159].
Chúng tôi cho rằng, giọng kể trong Thủy Hử còn mang dấu ấn của
truyện nhưng vẫn thể hiện được đặc trưng của giọng điệu tiểu thuyết. Nó là sự
hòa kết của cả hai. Điều này góp phần làm nên đặc trưng riêng của giọng kể
trong tác phẩm. Và có thể nói, Thủy Hử là một tác phẩm có nhiều giọng điệu.
Giọng điệu ấy vừa được quy định bởi cái nhìn, quan điểm của người kể
chuyện - tác giả, vừa được quy định bởi bản chất của đối tượng được nói đến.
Khi khắc họa những nhân vật anh hùng, người kể chuyện - tác giả có thể sử
dụng những kiểu giọng khác nhau, phù hợp với bản chất và hành động của
nhân vật.
Chẳng hạn, cảnh Võ Tòng đánh hổ ở hồi 22, người kể chuyện - tác giả
178
kể lại sự kiện bằng giọng điệu, tiết tấu của chính nhân vật: giọng điệu hào
sảng, làm nổi rõ chân dung người anh hùng đầy khí phách: "Hổ ta hết sức cựa
dậy, song bị Võ Tòng cũng hết sức đè xuống, mà giơ gót cẳng nhè giữa mặt
con hổ mà rọi lấy rọi để một hồi. Hổ tức mình kêu gầm rít lên, rồi hai chân
sau đập cào xuống mặt đất, làm cho đống đất đằng sau lõm xuống hẳn như
vũng sâu vậy. Mãi sau hổ ta mệt nhoài mệt lử không còn hơi sức nào cự lại
được, Võ Tòng liền tay trái giữ chặt lấy bờm ấn xuống đất, rồi đút tay phải ra
mà giơ những đấm tay như sắt, hết sức bình sinh, đánh luôn cho năm bảy
mươi quả đấm nữa".
Hay ở hồi 10, làm rõ nổi lòng Lâm Xung với giọng kể đầy cảm khái:
"Lâm Xung nghe nói, trong bụng lấy làm khó chịu, lại cất rượu uống luôn
mấy chén nữa. Bấy giờ một mình ngẫm nghĩ trông trước trông sau, càng thấy
buồn tênh buồn ngắt, đoạn rồi lại nghĩ ngẫm mà tự ân hận rằng: "Khi trước
ta ở kinh sư, làm chức Giáo Đầu, cứ hằng ngày lại đi rong chơi phường phố,
chè chén vui cười, biết bao nhiêu là thú vị ! Thề mà ai ngờ nay lại bị thằng
cọp già Cao Cầu kia nó hãm hại ta, làm cho đến nỗi phải chạm dấu vào mặt,
đày ải phương xa, rồi lại lênh đênh đến tận chốn này, khiến cho ta có nước
không được về, có nhà không được ở, đêm ngày những âm thầm mà chứa chất
kể biết bao cay đắng, thế thì có đáng giận hay không?". Nghĩ đoạn liền gọi
tửu bào mượn bút với nghiên rồi nhân khi tửu hứng, giơ lên vách vôi, mà viết
tám câu thơ...".
Điều đặc biệt, có trường hợp, cùng một nhân vật, nhưng đan xen nhiều
lớp giọng, cả sắc thái ngợi ca lẫn sắc thái phê phán, có giọng bề mặt và giọng
ngầm. Tiêu biểu là khi xây dựng hình tượng con người lưỡng diện Tống
Giang, giọng mỉa mai được ẩn tàng sau giọng ngợi ca con người Hiếu Nghĩa
Hắc Tam Lang. Người nghe, người đọc phải thật tinh tế mới có thể nhận ra.
Kim Thánh Thán đã viết thật hay về điều này: "Trong một bộ sách, tả một
179
trăm linh bảy người rất dễ, tả Tống Giang rất khó, nên đọc bộ sách này, cũng
được chuyện một trăm linh bảy người rất dễ, mà đọc chuyện một Tống Giang
rất khó hiểu. Vì tả chuyện một trăm linh bảy người, đều dùng ngọn bút viết ra,
tốt thì thực tốt, xấu thì thực xấu, còn tả Tống Giang lại không thế, vội đọc qua
thì thấy rất tốt, đọc lần nữa thì thấy tốt xấu đủ hai phần, lại đọc một lần nữa,
thấy tốt không bằng xấu, sau cùng đọc xét ra, thấy đều là xấu không còn gì là
tốt !" [91, tr.175], hay như "Sách này sau khi tả Tống Giang quyền trá, lại tả
đến Lý Quỳ thành thực để phản chiếu rõ ra, sau khi Tống Giang đón cha thì
Lý Quỳ đón mẹ, một cùng đạo con, cũng một chữ hiếu, suy ra thiên hạ ai cũng
một lòng nghĩ đến cha mẹ như ai, thế mà Tống Giang đón cha thì được như
sao, còn Lý Quỳ đón mẹ thì lại gặp như sao? Ta nên nhận xét những lời Tống
Giang bảo Lý Quỳ, khiến Lý Quỳ tức mà nói lại, xét trong văn tự, rõ Tống
Giang không tốt, thì không ai mắng Tống Giang, không sấm sét nào đả đến
Tống Giang, thiết tưởng Tống Giang cũng nên thẹn với lòng mình mà chết
mới phải?" [91, tr. 191].
Như vậy, để thấy giọng điệu trần thuật trong Thủy Hử hết sức đa dạng
và linh hoạt. Mặc dù người kể chuyện chủ yếu mang cái nhìn toàn tri và tuân
thủ lối tự sự khách quan nhưng ẩn sâu trong từng câu chữ, ta vẫn nhận ra
giọng điệu của người kể với những yêu ghét riêng tây.
Hơn nữa, giọng hào sảng, cảm khái hay giọng mỉa mai, châm biếm...
đều xuất phát từ một tấm lòng, từ trái tim tràn đầy yêu thương của người kể
chuyện - tác giả. Qua giọng điệu trần thuật, ta có thể hiểu được cái tôi của
chính người kể chuyện - tác giả Thi Nại Am.
3.4.3.3. Sự luân chuyển giữa các giọng điệu
Một câu chuyện hay, thường không bao giờ chỉ kể bằng một giọng. Sự
luân chuyển giữa các giọng là điều kiện tạo nên tính sinh động và hấp dẫn của
lời và giọng kể trong câu chuyện.
180
Một bộ tiểu thuyết như Thủy Hử, để tạo nên sự hấp dẫn người đọc,
ngoài những nhân vật, tình tiết, biến cố, rất cần sự luân phiên thay đổi giọng
điệu của người kể. Để thực hiện điều đó, tác giả Thủy Hử thường di chuyển
điểm nhìn của người kể chuyện - tác giả sang điểm nhìn của người kể chuyện
- nhân vật, giọng điệu trần thuật cũng từ đó mà đổi thay. Câu chuyện được
hiện lên, vừa bằng giọng điệu của người kể chuyện - tác giả, vừa bằng giọng
điệu của người kể chuyện - nhân vật trong tác phẩm. Ví như ở hồi 8, đoạn Lỗ
Trí Thâm cởi dây trói cho Lâm Xung: "Lỗ Trí Thâm liền quay sang cắt thừng
trói ra, mà dắt Lâm Xung dậy rồi kể chuyện rằng:
Từ khi tương biệt ở chỗ mua bảo đao rồi, sau nghe bác bị Cao Cầu ức
hiếp, bắt đi đày ở Thương Châu, tôi liền đến phủ Khai Phong để tìm mà không
gặp. Đến lúc biết tin bị giam ở phòng Sứ Thần, thì tôi đã toan đến đấy, song lại
thấy có một tên tửu bảo, đi tìm hai đứa công sai này, để đến bàn thì thầm, to
nhỏ với một người nữa tôi liền có bụng ngờ, chắc là nó toan hại bác, cho nên
phải cố đi theo. Tối hôm qua vào hàng cơm, thấy hai thằng ăn mày này nó làm
trời làm đất, dúng chân bác vào chậu nước sôi, tôi cũng biết cả, đã tính giết
ngay lúc bấy giờ, nhưng lại sợ hàng quán đông người không tiện, cho nên phải
thôi. Sáng hôm nay, lúc đầu trống canh năm, bác sắp ra đi tôi đã đến đây
trước, đoán chắc đến đây tất nhiên quân này nó hại bác, thì tôi sẽ giết đi, ai
ngờ quả nhiên thế thực. Giá tôi không sớm ở đây, thì tính mạng bác còn đâu
với nó được nữa! Bác cứ yên lặng để tôi giết phăng chúng nó là xong.
Trong đoạn văn trên, câu đầu tiên là của người kể chuyện - tác giả, mang
giọng điệu khách quan, trung tính; những câu còn lại là lời kể của Lỗ Trí Thâm,
với giọng nóng nảy, bức bối. Những đoạn văn như vậy có rất nhiều trong tác
phẩm này. Chúng tạo nên sự đan xen, nối kết giữa các giọng trần thuật.
Không chỉ di chuyển điểm nhìn từ người kể chuyện - tác giả sang người
kể chuyện - nhân vật, tác giả còn di chuyển điểm nhìn từ nhân vật này sang
181
nhân vật khác để hòa phối những giọng điệu, nhiều khi trái ngược nhau.
Chẳng hạn, đoạn đối thoại của Lý Quỳ, Tống Giang và Tiều Cái ở hồi 41, cho
ta thấy rõ giọng điệu và tính cách của mỗi người:
Lý Quỳ nói:
- Tôi chỉ có một mẹ già ở nhà, còn Ca ca tôi thì đi làm thuê suốt ngày,
lấy ai mà nuôi nấng trông nom tử tế? Bây giờ tôi cũng muốn đón về đây, để
cùng hưởng yên vui, nhưng không biết rằng có được chăng?
Tiều Cái đáp rằng:
- Hiền đệ nói phải lắm, để ta sai mấy người cùng đi với ngươi thì
mới được.
Tống Giang vội gạt đi rằng:
- Không được, Lý Quỳ vốn tính hục hặc xưa nay, nếu trở về cố
hương, tất nhiên lại có điều sinh sự, mà sai người đi với hắn cũng không
xong... Vả chăng hắn đã giết hại bao nhiêu người ở đất Giang Châu, ai
mà không biết.....
Giọng điệu của các nhân vật anh hùng soi ứng vào nhau, tạo nên chất
"đa thanh". Hay như đoạn Kim Thánh Thán bàn về các phép kể trong Thủy
Hử, cũng là một sự đối sánh giữa các người kể chuyện - nhân vật trong câu
chuyện: "Có phép kể sóng đôi, nghĩa là trong khi cấp thiết, hai người cùng
nói, không cần gì để cho một người nói xong, người khác mới nói, đằng này
lại cần để cho hai người nói xen ngay vào một lúc thì như chùa Ngõa Quan.
Thôi Đạo Hành nói: "Xin sư huynh bớt giận, nghe tiểu tăng trình bày", thì Lỗ
Đạt nói thêm ngay: " Ngươi nói đi, ngươi nói luôn đi..." [91, tr. 387].
Những thủ pháp, cách dẫn dắt câu chuyện như vậy tạo nên sự luân
chuyển giữa các giọng điệu, khiến tác phẩm trở thành bức tranh nhiều màu
sắc, bản hòa phối của các giọng điệu trần thuật. Điều này góp phần quan trọng
vào việc khắc họa hình tượng nhân vật anh hùng cũng như thể hiện quan
182
niệm, tư tưởng của người sáng tác.
Tiểu kết
Như vậy, việc nghiên cứu về người kể chuyện giúp ta hiểu rõ hơn hình
tượng nhân vật anh hùng trong Thủy Hử, đồng thời, thấy được tài năng nghệ
thuật và quan điểm tư tưởng của tác giả. Điều này bắt nguồn từ mối quan hệ,
sự gắn bó thiết thân giữa hình tượng người kể chuyện và việc khắc họa các
nhân vật anh hùng trong tác phẩm. Vậy, việc tìm hiểu một số phương thức
nghệ thuật để xây dựng nhân vật anh hùng trong Thủy Hử giúp ta có được
những nhìn nhận, đánh giá bề sâu về tác phẩm này, đặc biệt, trên phương diện
khắc họa chân dung người anh hùng. Tài năng nghệ thuật cũng như tấm lòng
của Thi Nại Am thể hiện rõ nét thông qua việc tạo lập, sử dụng những hình
thức nghệ thuật độc đáo, gắn liền đặc trưng thi pháp thể loại. Có thể nói, các
phương thức nghệ thuật đó đã làm sống dậy những bức chân dung không thể
nào quên, trong Thủy Hử- một tác phẩm sẽ còn được đọc và đọc lại, bởi nhiều
thế hệ độc giả.
183
KẾT LUẬN
Tác phẩm Thủy Hử ra đời là một biến cố kỳ lạ trong lịch sử văn học
Trung Quốc. Nó không đi theo con đường rập khuôn của công thức “văn dĩ tải
đạo” mà ca ngợi những anh hùng thảo khấu, anh hùng phản nghịch chống lại
triều đình, chống lại đạo mà nhà nước phong kiến vẫn luôn tuyên truyền và ca
ngợi. Khi chọn đạo tặc làm anh hùng, Thi Nại Am đã thể hiện một bứt phá
mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Vì vậy hình tượng nhân vật
anh hùng, quan niệm anh hùng, phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng
trong tác phẩm có những nét riêng biệt của nó.
Nghiên cứu phương thức thể hiện nhân vật anh hùng trong Thủy Hử,
chúng tôi không có tham vọng trình bày hết toàn bộ thế giới nghệ thuật của
tác phẩm mà chỉ tập trung tìm hiểu một số phương thức nghệ thuật trong việc
tạo dựng nhân vật, cốt truyện, kết cấu, không gian, thời gian... Cách làm của
chúng tôi là bắt nguồn từ việc tìm hiểu quan niệm về người anh hùng, đặc
trưng thẩm mỹ của người anh hùng trong tác phẩm để đi sâu phân tích, khám
phá các phương thức biểu hiện nghệ thuật. Qua đó, chúng tôi rút ra một số kết
luận chủ yếu sau:
1. Dưới góc độ lịch sử phát sinh, chúng tôi thấy Thủy Hử chịu ảnh hưởng
sâu sắc yếu tố văn hóa dân gian, nên đặc thù riêng về mặt thể loại gắn
chặt với yếu tố “hiệp nghĩa” cũng như Tam Quốc diễn nghĩa gắn chặt
với yếu tố “sử”, Tây Du gắn với yếu tố “quái, kỳ”, Kim Bình Mai với
yếu tố “đời tư thế sự”. Do đó, Thủy Hử mang những đặc trưng về mặt
thể loại khu biệt với các bộ tiểu thuyết cùng thời, trước và sau nó. Bên
cạnh yếu tố “hiệp nghĩa” của văn hóa dân gian tác phẩm cũng có
những ảnh hưởng nhất định của truyền thống biên niên sử, các yếu tố
quái kỳ, đời tư thế sự, có cái nhìn đời sống từ góc độ đời tư. Vì vậy,
184
trong Thủy Hử dần dần có sự thay đổi trong quan niệm về con người
từ “con người chức năng” đậm chất sử thi vận động dần thành “con
người đời thường” trong sự phức tạp của nhân tính. Vì vậy, kiểu xây
dựng nhân vật anh hùng sẽ bao gồm sự kết hợp đặc biệt cái cao
thượng vĩ đại bên cạnh cái dung dị đời thường. Nhưng nhìn chung,
người anh hùng trong Thủy Hử được miêu tả theo nguyên tắc đời
thường hóa nhân tính hóa đậm đà ý thức thị dân. Vì vậy, trong Thủy
Hử hình thành kiểu người anh hùng đặc trưng: những nhân vật anh
hùng thảo dã vừa là anh hùng vừa là thổ phỉ.
2. Thủy Hử là một điểm nhìn một cách cảm nhận của nhân dân về người
anh hùng dựa trên cơ sở triết học, tôn giáo đạo đức chính trị vốn có của
thời đại. Nét chung nổi bật hình tượng người anh hùng trong tác phẩm
là tính chất phi thường, hơn người từ ngoại hình đến vẻ đẹp bên trong
của họ. Đó là một tập thể những nhân vật quần hùng tráng mĩ xuất hiện
trong cảm hứng ngợi ca đậm chất sử thi của tác phẩm. Tài năng trí tuệ
tấm lòng của họ được mô tả với cảm quan huyền thoại hóa, lý tưởng
hóa. Đây cũng là đặc điểm chung của người anh hùng trong tiểu thuyết
cổ điển Trung Quốc. Điểm khác biệt của người anh hùng trong Thủy
Hử là chịu sự khúc xạ của nhiều hệ tư tưởng khác nhau. Tư tưởng
“trung quân” phong kiến và tinh thần “đại nghĩa” của nhân dân. Chính
tính chất phức tạp và mâu thuẫn của tư tưởng Nho giáo tập trung ở khái
niệm “trung nghĩa” trong Thủy Hử đậm màu sắc dân gian, bộc lộ
những nét độc đáo trong quan niệm về người anh hùng của tác phẩm.
Điều này sẽ giải thích được sự mâu thuẫn giữa thế giới quan của tác giả
chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “trung quân” nhưng hiện thực cuộc
sống trong tác phẩm lại đi ngoài ý đồ ban đầu của người viết. Ở đây đã
có sự chuyển hóa từ thế giới quan thành nguyên tắc của cái nhìn nghệ
185
thuật. Quan niệm thẩm mỹ của tác giả ngưng kết trong tác phẩm không
phải ở thế giới quan mà là quan niệm nghệ thuật về con người. Trong
đó, tinh thần “trọng nghĩa”, yếu tố “hiệp nghĩa” đã trở thành nguyên
tắc chủ yếu về mặt đạo đức trong hành động của các hảo hán Lương
Sơn. Tư tưởng trung quân chỉ đi vào ý thức nhân vật chứ không thành
nguyên tắc xây dựng nhân vật. Mặc dù không trực tiếp phát biểu quan
niệm anh hùng nhưng con đường lên Lương Sơn Bạc và lối sống, phẩm
chất của 108 vị anh hùng trong Thủy Hử thể hiện đạo lý nhân dân: gạt
bỏ lòng trung quân phong kiến để phấn đấu cho lòng trung hướng về
nhân dân ra tay xóa bỏ áp bức bất công. Nhưng, cũng thật mâu thuẫn và
hạn chế khi Lương Sơn Bạc vừa chủ trương xây dựng lực lượng chống
lại triều đình vừa mong triều đình xá tội chiêu an. Hạn chế trong quan
niệm anh hùng của Thủy Hử nằm trong chính tinh thần “đại nghĩa” của
họ. Điều đó cũng cho thấy rằng: ý thức “trung quân” là ranh giới tín
điều đạo đức phong kiến mà Thi Nại Am không sao vượt qua được.
3. Nhằm khắc họa rõ nét chân thực thế giới nhân vật anh hùng, tác phẩm
sử dụng một số phương thức thể hiện có những đặc điểm nổi bật như:
tính chất đoản thiên trong kết cấu cốt truyện, tính lặp lại của các môtip
trong các cốt truyện nhỏ tạo nên đặc điểm kết cấu có tính đồng tâm.
Yếu tố hình thức này có nguồn gốc sâu xa trong thuyết phân hợp của
văn hóa Trung Hoa đồng thời thể hiện kiểu liên kết nhân vật văn học.
Từ những cá nhân đơn độc phản kháng riêng lẻ tập hợp thành sức mạnh
của một tập thể quần hùng tráng mỹ tụ họp tại Lương Sơn. Từ nghĩa cá
nhân mở rộng thành nghĩa lớn - mục tiêu của cuộc khởi nghĩa Lương
Sơn thành “đại nghĩa”. Từ không gian xã hội đến không gian giang hồ
để cuối cùng qui về không gian tụ nghĩa là quá trình hình thành và lớn
mạnh của nghĩa quân Lương Sơn thực hiện lý tưởng “thế thiên hành
186
đạo”. Do đó kết cấu đồng tâm của tác phẩm không chỉ thể hiện liên kết
ở bề mặt cốt truyện mà còn ở sự liên kết chiều sâu của tư tưởng. Trong
đó, hình tượng người anh hùng vừa dung dị, đời thường vừa không hề
xa rời hào quang lý tưởng. Yếu tố lắng ở tâm điểm của kết cấu là chữ
“nghĩa”, châu tuần xung quanh là “tài, trí, lực, trung, dũng”. Vẻ đẹp
của họ qui tụ xung quanh nghĩa khí anh hùng là tài năng, trí tuệ, tấm
lòng bao dung đại lượng, là tinh thần dũng cảm hy sinh. Điều đáng nói
là vẻ đẹp ấy thăng hoa thành sức mạnh của lòng yêu thương hướng về
quần chúng nhân dân bị áp bức bất công. Thông qua hình tượng nhân
vật anh hùng, quan niệm anh hùng trong Thủy Hử vì thế đã chung đúc,
thâu góp hết vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Đây cũng là nét khác
biệt rất lớn trong kết cấu của Thủy Hử với văn học hiện đại và hậu hiện
đại. Trong xu thế thể hiện cá nhân ở tính “không hoàn tất” của nó, kết
cấu của văn học hiện đại và hậu hiện đại thường gây ra ảo giác về tính
không xác định, tính ngẫu nhiên, tính ghép mảng…Trái lại, kết cấu
đồng tâm trong Thủy Hử tạo cho ta ấn tượng về sự vững chắc đồng qui
về sức mạnh, lý tưởng, sự hòa đồng của vẻ đẹp con người và tự nhiên.
4. Đi đôi với kết cấu đồng tâm, thời gian và không nghệ thuật trong tác
phẩm được tạo dựng trong tương quan với việc thể hiện người anh
hùng. Đó vừa là môi trường sống, môi trường hoạt động của nhân vật,
lại vừa là phương diện nghệ thuật thấm đẫm cái nhìn mang chiều sâu tư
tưởng của nhà văn. Thời gian lịch sử và thời gian hành động, không
gian vũ trụ và không gian địa lý, không gian đời sống và không gian
giang hồ cứ hòa lẫn, xuyên thấm vào nhau, làm nên một thế giới đa
diện, lung linh trong vẻ đẹp rực rỡ của hình tượng người hùng.
5. Với tư cách là một sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, hình tượng người
kể chuyện có chức năng to lớn trong việc tổ chức, kết cấu tác phẩm lẫn
187
việc khắc họa, biểu hiện nhân vật anh hùng trong Thủy Hử. Đây lá kiểu
người kể chuyện có sự dung hòa những đặc điểm giữa người kể chuyện
dân gian và người kể chuyện bác học. Thông qua hành trình tạo dựng
điểm nhìn, giọng điệu của người kể chuyện, tác phẩm làm nổi rõ diện
mạo, đặc điểm, khí chất của người anh hùng trong tác phẩm. Người kể
chuyện còn là nơi gửi gắm nhân sinh quan, vũ trụ quan của nhà văn, là
nơi mà qua đó, tác giả có thể đưa ra những phán đoán, cảm nghiệm về
đời sống xã hội và người anh hùng. Do đó, có thể nói, tìm hiểu về hình
tượng người kể chuyện không những giúp ta khám phá nghệ thuật trần
thuật của tác phẩm, mà còn giúp ta thấu cảm một tâm hồn.
Luận án của chúng tôi, bước đầu nghiên cứu phương thức biểu hiện
nhân vật anh hùng trong Thủy Hử như một công trình chuyên biệt mang tính
hệ thống, chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Thiết nghĩ, đề
tài nghiên cứu về phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết
cổ điển Trung Quốc hãy còn là chân trời phía trước mà người viết mong
muốn tiếp tục khám phá trong thời gian tới.
188
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Nguyễn Ngọc Như Ý (2005), Sự thể hiện quan niệm anh hùng trong Thủy
Hử của Thi Nại Am, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm
Huế.
2. Nguyễn Ngọc Như Ý (2006), “Tính đồng tâm của không gian nghệ thuật
trong Thuỷ Hử", Tạp chí khoa học Đại học Huế, số 31.
3. Nguyễn Ngọc Như Ý (2009), “Tư tưởng Trung Nghĩa và bi kịch của người
anh hùng trong Thuỷ Hử”, Tạp chí khoa học và xã hội nhân văn Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 17(51).
4. Nguyễn Ngọc Như Ý (2010), “Hình tượng người kể chuyện trong tác
phẩm Thủy Hử”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học của học viên sau đại học
và nghiên cứu sinh của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh.
189
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Thi Nại Am (1994), Thủy Hử, Á Nam Trần Tuấn Khải dịch, NXB Văn
học, Hà Nội.
2. Thi Nại Am - La Quán Trung (1992), Hậu Thủy Hử, NXB Văn học, Hà
Nội. (dịch từ nguyên bản Thủy Hử toàn truyện 120 hồi, do Trung Hoa
thư cục xuất bản Bắc Kinh 1960 - 1976).
3. André Chieng (2007), Bàn về thực tiễn của Trung Hoa cùng với Francois
Jullien, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu, NXB Đà Nẵng.
4. Lại Nguyên Ân (2003), 150 Thuật ngữ Văn học, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
5. Dư Quan Anh - Tiền Chung Thư - Phạm Ninh (2003), Lịch sử Văn học
Trung Quốc tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Trịnh Ân Ba, Trịnh Thu Lôi (2002), Văn học Trung Quốc, Lê Hải Yến
dịch, NXB Thế Giới, Hà Nội.
7. Lê Huy Bắc (2002), Giải phẫu văn chương trong nhà trường, NXB Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
8. Lê Huy Bắc (2001), “Kết cấu vòng tròn trong Tam Quốc diễn nghĩa và
Thủy Hử”, tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5.
9. Trần Lê Bảo (2004), “Nhóm nhân vật điển hình trong tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc”, Nghiên cứu Văn học, số 9.
10. M.Bakhtin. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn
Nguyễn Du, Hà Nội.
11. Phạm Tú Châu (1999), “Việc nghiên cứu ảnh hưởng Phật giáo và Đạo
giáo trong mấy bộ tiểu thuyết tiêu biểu của Trung Quốc", in trong Đi
giữa đôi dòng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
190
12. Phan Bội Châu (1973), Khổng Học Đăng, Khai Trí, Sài Gòn
13. Huỳnh Ngọc Chiến (2002), Lai rai chén rượu giang hồ, NXB Văn học,
Hà Nội.
14. Ngô Vinh Chính, Vương Miện Quý chủ biên, Lương Duy Thứ dịch, (1994),
Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, NXB Văn hóa thông tin.
15. Lý Quốc Chương (2003), Nho gia và Nho học, NXB Văn hóa thông tin,
Hà Nội
16. Việt Chương (1995), Chân dung nhân vật Tam Quốc diễn nghĩa chí, NXB
Đồng Nai.
17. Đoàn Trung Còn (1950), Tứ Thơ Luận Ngữ, Trí Đức Tòng Thơ,
Sài Gòn.
18. Huyền Cơ (2007), Luận về chữ Nhân, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
19. Nguyễn Huy Cố (2006), Khi Trung Quốc làm thay đổi thế giới, NXB
Thế Giới, Hà Nội.
20. Giáp Văn Cường (1995), Lão Tử đạo đức huyền bí, NXB Đồng Nai.
21. Giáp Văn Cường (1996), Trần Kiết Hùng hiệu đính, Luận Ngữ thánh
kinh của người Trung Hoa, NXB Đồng Nai.
22. Nguyễn Văn Dân (1990), Nghiên cứu văn học - Lý luận và ứng dụng,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Dân (2002), Lý luận Văn học so sánh, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội
24. Trương Đăng Dung (chủ biên) (1990), Các vấn đề của khoa học văn học,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Dương Ngọc Dũng (1999), Dẫn nhập tư tưởng lý luận văn học Trung
Quốc, NXB Văn học, Hà Nội.
26. Will Durant (1972), Lịch sử văn minh Trung Quốc, Trung tâm thông tin
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
191
27. Đường Đắc Dương (2003), Cội nguồn văn hóa Trung Hoa, NXB Hội
Nhà văn, Hà Nội.
28. Trần Xuân Đề (2003), Lịch sử văn học Trung Quốc, NXB Giáo dục,
TP Hồ Chí Minh.
29. Trần Xuân Đề (2000), Tác giả, tác phẩm văn học Phương Đông Trung
Quốc, NXB Giáo dục, Hà Nội.
30. Trần Xuân Đề (1996), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
31. Hà Minh Đức (chủ biên) (1996), Lý luận văn học, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
32. S. Freud, C. Jung… (2002), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
33. Đoàn Lê Giang (2008), “Những nguồn mạch chính và khả năng ứng
dụng mới của Lý luận văn học cổ”, Hội nghị khoa học “Mấy vấn đề
lý luận văn học cổ điển Trung Quốc”, trường Đại học Khoa học xã
hội & Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.
34. Francois Jullien (2005), Bàn về chữ “thời” những yếu tố của một triết lý
sống, NXB Đà Nẵng.
35. Francois Jullien (2007), Các biểu tượng của nội giới hay cách đọc triết
học về kinh dịch, NXB Đà Nẵng.
36. Francois Jullien (2004), Minh triết Phương Đông và triết học Phương
Tây, NXB Đà Nẵng.
37. Ix Bơra Ghinxki (1962), "Sơ kết cuộc thảo luận về sự hình thành của chủ
nghĩa hiện thực trong văn học các nước phương Đông", Tạp chí Văn
học, số 10-11.
38. A.N.Giêlôkhốp và Aprôgasep (1978), “Xung quanh chiến dịch tranh luận
về Thủy Hử ở Trung Quốc”, Tạp chí Châu Âu và Châu Phi, số 1.
192
39. A.J.A. Gurevich (1996), Các phạm trù văn hóa Trung cổ, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
40. N.A. Gulaiep (1982), Lý luận văn học, NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
41. Lý Mộng Hà (2002), 108 anh hùng Lương Sơn Bạc, NXB Đồng Nai.
42. Kate Hamburger (2004), Logic học về các thể loại Văn học, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
43. Nhất Hạnh (1964), Đạo Phật đi vào cuộc sống, Lá Bối xuất bản, Sài Gòn.
44. Trần Nguyên Hạnh (2009), Nghệ thuật trần thuật trong Tam Quốc diễn
nghĩa của La Quán Trung”, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư
phạm Huế.
45. Nguyễn Thị Bích Hải (2005), Tiến trình thơ và tiểu thuyết Trung Quốc,
Bài giảng chuyên đề, Đại học Sư phạm Huế.
46. Nguyễn Thị Bích Hải (2003), Lịch sử tư tưởng văn học phương Đông,
Bài giảng chuyên đề, Đại học Sư phạm Huế.
47. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, NXB Thuận Hóa, Huế.
48. Phạm Thị Hảo (2008), Khái niệm và thuật ngữ lý luận văn học Trung
Quốc, NXB Văn học, Hà Nội.
49. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
50. Đoàn Hương (2004), Văn luận, NXB Văn học, Hà Nội.
51. Lưu Hiệp (1996), Văn tâm điêu long, (Phan Ngọc dịch), Tạp chí Văn học
nước ngoài, số 3.
52. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Tập bài giảng Nghiên cứu văn học, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
53. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, NXB
Đà Nẵng.
193
54. Chương Bồi Hoàn - Lạc Ngọc Minh (2000), Trung Quốc văn học sử”,
tập 3, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
55. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn
tham chiếu, NXB Văn học, Hà Nội.
56. Trần Đình Hượu (2002), Các bài giảng về tư tưởng phương đông, NXB
Quốc gia, Hà Nội.
57. Hàn Triệu Kỳ (2001), Ẩn sĩ Trung Hoa, (Cao Tự Thanh dịch), NXB Trẻ,
TP Hồ Chí Minh.
58. Lưu Cương Kỷ - Phạm Minh Hoa (2002), Chu Dịch và Mỹ học, NXB
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
59. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa,
NXB Văn học, TP Hồ Chí Minh.
60. Vũ Khiêu (1975), Anh hùng và nghệ sỹ, NXB Văn học giải phóng.
61. Nguyễn Văn Khỏa (1978), Anh hùng ca của Homerơ, NXB Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
62. Ôn Tử Kiến (2004), Văn hóa võ hiệp, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
63. Trần Trọng Kim (2003), Nho giáo, NXB Văn học, Hà Nội.
64. N.Kon rat (1997), Phương Đông và Phương Tây, NXB Giáo dục, Hà Nội.
65. Phùng Hữu Lan (1967), Đại cương triết học sử Trung Quốc, NXB Đại
học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
66. Nguyễn Hiến Lê (1994), Kinh Dịch - đạo của người quân tử, NXB Văn
học, Hà Nội.
67. Nguyễn Hiến Lê (2001), Khổng Tử, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
68. Nguyễn Hiến Lê (1995), Luận Ngữ, NXB Văn học, Hà Nội.
69. Nguyễn Hiến Lê (1975), Mạnh Tử, Nhà in Cảo Thơm.
70. D.X. Likhachôp (1989), Thời gian nghệ thuật của tác phẩm văn học, Tạp
chí Văn học, số 3.
194
71. L.X. Lixêvich (2000), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
72. Võ Ngọc Liên (1996), Thượng Thư sách ghi chép thời thượng cổ, (Trần
Kiết Hùng hiệu đính), NXB Đồng Nai
73. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
74. Phương Lựu (2005), Lý Luận Văn Học Cổ Điển Phương Đông, NXB
Giáo Dục, HN
75. Đặng Thai Mai (1994), “Mối quan hệ lâu đời giữa Văn học Việt Nam và
Văn học Trung Quốc”, Văn học sử Trung Quốc, NXB KHXH, HN,
tr. 241-282.
76. Henri Maspero (1999), Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc, Lê Diên
dịch, NXB KHXH.
77. Trần Mặc (2003), Võ hiệp ngũ đại gia, Nguyễn Thị Bích Hải dịch,
NXB Trẻ.
78. Mác - Anghen - Lê Nin (1977), Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật,
Hà Nội.
79. C.Mác - F. Angghen - Lê Nin - Stalin (1967), Bàn về chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, NXB Sự thật, Hà Nội.
80. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh (1966), Bàn về chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, NXB Sự thật, Hà Nội 1962.
81. G.N. Pospêlov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu Văn học, 2 tập,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
82. Lê Văn Quán (2006), Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc, NXB Lao
động, Hà Nội.
83. B.L. Rijtin (2002), Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung
Quốc, NXB Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông – Tây,
195
Hà Nội.
84. Trần Đình Sử - Phương Lựu - Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận Văn
học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
85. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
86. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp Văn học Trung đại Việt Nam, NXB Quốc
gia, Hà Nội.
87. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình Văn học, NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.
88. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004),(2008), Tự sự học - Một số vấn đề lí luận
và lịch sử, tập 1, 2, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
89. Trần Đăng Suyền (2009), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
90. Lỗ Tấn (2002), Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
91. Tập thể tác giả (1999), Luận bàn Thủy Hử, NXB Văn học, Hà Nội.
92. Tập thể tác giả (2000), Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, NXB Thế
giới, Hà Nội.
93. Tập thể tác giả (1986-1988), Cơ sở lý luận văn học, tập 1,2,3, NXB Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
94. Tập thể tác giả (1996), Almanach - những nền văn minh thế giới, NXB
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
95. Tư Mã Thiên (1994), Sử ký, Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi chú dịch và giới
thiệu, NXB Văn học, Hà Nội.
96. Lương Duy Thứ (1992), Giáo trình Văn học Trung Quốc, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
97. Lương Duy Thứ (1999), Để hiểu 8 bộ tiểu thuyết cổ Trung Quốc, NXB
Mũi Cà Mau.
196
98. Lê Huy Tiêu (1996), Thử so sánh thi pháp của Tam Quốc diễn nghĩa và
Thủy Hử, Tạp chí Văn học, số 3.
99. Lê Huy Tiêu (2004), Cảm nhận mới về văn hóa và văn học Trung Quốc,
NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
100. Tzvetan Todorov (2008), Thi pháp văn xuôi, (Đặng Anh Đào- Lê Hồng
Sâm dịch), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
101. Ngô Tất Tố (1966), Mặc Tử, Nhà in Khai Trí, Sài Gòn.
102. La Quán Trung (2003), Tam Quốc diễn nghĩa, tập 1,2,3 NXB Văn học,
Hà Nội.
103. Hồ Quang Tuyến (1997), Đặc điểm kết cấu của Thủy Hử, Luận văn thạc
sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư Phạm Hà Nội.
104. Nguyễn Văn Trọng (2000), Thế giới nhân vật anh hùng trong Tam Quốc
và Thủy Hử, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
105. Trường Lý luận Nghiệp vụ Bộ Văn hóa (1975), Cái anh hùng- một phạm
trù mỹ học cơ bản của mỹ học Mác - Lê Nin.
106. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, NXB Giáo dục, Hà Nội.
107. V.I.Xêmanốp (1962), “Tiểu thuyết anh hùng Trung Hoa và vai trò của nó
trong việc hình thành nền văn học mới Trung Quốc”, in trong chủ
nghĩa hiện thực và tương quan giữa nó với các phương pháp sáng tác
khác, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô xuất bản.
Tiếng Trung
108. Vương Tề Châu (1991), Tứ đại kỳ thư dữ Trung Quốc đại chúng văn
hóa, Hồ Bắc Giáo dục xuất bản xã.
109. Cao Nhật Huy (2000), Thủy Hử truyện tiếp thụ sử, Tề Lỗ thư xã xuất bản
110. Lý Thiếu Lâm (1992), Xuân Thu Chiến Quốc Văn hóa đại quan.
197
Web
111. Truyền thuyết đích thời kỳ "anh hùng" khái niệm đích nội hàm", rút từ
www.minnanlunwen.com
112. www.giadinh.net.vn
113. www.vi.wikipedia.org
198
PHỤ LỤC 1
Phê bình quan điểm tiếp nhận Thủy Hử của Phan Lực Sơn và Đào Từ Huệ
(Trích dịch từ cuốn “Thủy Hử truyện tiếp thụ sử” của Cao Nhật Huy, Tề Lỗ thư xã
xuất bản, từ tr. 248 đến tr.253 )
1.Phê bình quan điểm tiếp nhận Thủy Hử của Phan Lực Sơn.
Cuốn “Nghiên cứu "Thủy hử truyện"” của Phan Lực Sơn là một công trình xuất
hiện tương đối sớm nghiên cứu về nghệ thuật và tư tưởng của "Thủy hử truyện". Mở đầu
bài viết, Phan Lực Sơn nói: “Đại khái là tôi không bàn đến sự thật về Thủy Hử và khảo
chứng văn bản "Thủy hử truyện" mà chỉ chuyên bàn về nghệ thuật và tư tưởng của nó mà
thôi”. Đầu tiên, Phan Lực Sơn bày tỏ ý kiến phản đối đối với hai quan niệm đang lưu hành,
một của Trần Độc Tú, một của Tạ Vô Lượng. Ông ta cho rằng Trần Độc Tú và Tạ Vô
Lượng khi đánh giá về tư tưởng của "Thủy hử truyện" đã thể hiện quá nhiều sắc thái chủ
quan. Ông ta nhận xét rằng, Trần Độc Tú là người thuộc đảng xã hội, do vậy mà ông này
đã dùng chủ nghĩa của mình để đánh giá "Thủy hử truyện"; còn Tạ Vô Lượng lại tán thành
sự liên hợp cách mạng giữa giai cấp bình dân và giai cấp trung lưu nên mới cho rằng
"Thủy hử truyện" là “tổ chức chính trị vũ lực”, là “sự nghiệp cách mạng liên hợp giữa giai
cấp bình dân và giai cấp trung lưu”. Phan Lực Sơn cho rằng cần phải khách quan khi bình
giá tư tưởng của "Thủy hử truyện". Nói đến khách quan cũng có nghĩa là tương đương với
khái niệm mà Hồ Thích gọi là “lấy con mắt lịch sử” , nhưng có điều, “con mắt lịch sử” của
mỗi người lại không giống nhau. Hồ Thích và Lỗ Tấn có điểm tương đồng, riêng Phan Lực
Sơn thì có điểm khác với hai người. Phan Lực Sơn bình giá tư tưởng "Thủy hử truyện" tập
trung vào hai điểm. Một là “hung tàn”, hai là “quan bức dân phản”. Ông ta nói: “Tống
199
Giang là người ôn hòa nhất trong sách này… Còn lại đều là những kẻ giết người đốt nhà
như Lý Quỳ giết hại Tiểu Nha Nội vân vân. Chúng ta đều là những người đã từng có con
cái, đúng là không dám để cho chúng đọc sách này. Đặc biệt là việc vợ chồng Tôn Nhị
Nương bán thịt người, chúng tôi cho rằng không phải là loài dã thú thì không làm được
chuyện này … Điều đó cho thấy, tư tưởng của "Thủy hử truyện" tóm gọn trong hai chữ
hung tàn”. Đúng là "Thủy hử truyện" viết rất nhiều chuyện tàn bạo, đó là một sự thật,
nhưng có điều không thể căn cứ vào đó để chứng minh rằng tư tưởng của tác giả là “hung
tàn”. Kiểu đánh gia của Phan Lực Sơn về thực chất mà nói vẫn chưa thoát ly được mô thức
phê bình tiểu thuyết truyền thống - viết về cường đạo đúng là cường đạo, viết về dâm phụ
đúng là dâm phụ - Quan điểm về “hung tàn” của Phan Lực Sơn xuất phát từ nhân tính
quan và tư tưởng bác ái của giai cấp tư sản. Thậm chí ông ta còn so sánh những hảo hán
Lương sơn bạc với những thổ phỉ thời hiện đại, cho rằng những thổ phỉ thời hiện đại còn tỏ
ra “văn minh” hơn hẳn so với hảo hán Lương sơn. Từ “người dã man” đến “người văn
minh” lại là tiến hóa luận , một tư trào vô cùng thịnh hành lúc bấy giờ. Đồng thời, Phan
Lực Sơn cũng thừa nhận “tinh thần quan bức dân phản, đây là tinh thần chí cốt được nhắc
đi nhắc lại trong sách”. Có điều, ông ta lại nhấn mạnh chữ “phản”, rằng đó không pahỉ là
một chữ “phản” triệt để, vì “sau khi làm phản lại chờ đợi chiêu an, không hề có ý đồ sự
nghiệp cách mạng gì cả”. Kiểu lý giải này nói chung là tương đối khách quan.
Tuy Phan Lực Sơn tự nhận là chỉ đề cập đến tư tưởng và nghệ thuật của "Thủy hử
truyện" nhưng những ý kiến của ông ta bàn về nghệ thuật tiểu thuyết này không được đầy
đủ lắm. Nói chung, Phan Lực Sơn cho rằng , nửa trước của "Thủy hử truyện" hay hơn hẳn
phần sau. Từ góc độ hình tượng nhân vật mà xét, ông này cho rằng những nhân vật trọng
yếu nhất của lực lượng Lương sơn bạc “chỉ được miêu tả hay trước khi lên Lương sơn, tất
cả đều có cá tính, đáng tiếc là sau khi lên Lương sơn, tất cả đều trở nên nhàn nhạt”. Cách
200
nhìn này về đại thể là thống nhất với tuyệt đại đa số các nhà phê bình lúc ấy. Lỗ Tấn đã
từng nói: “"Thủy hử truyện" là tập hợp của những mẩu chuyện truyền khẩu hoặc là những
cuốn sách mỏng mà thành, đương nhiên không thể thống nhất với nhau về mọi mặt được.
Vả lại, việc miêu tả những việc sau khi sự nghiệp đã thành công không dễ như khi các hảo
hán còn làm cường đạo. Cuốn sách này có kết thúc không được hay lắm cũng là chuyện
bình thường, cũng đừng vì thế mà đoán định rằng La Quán Trung sáng tác thêm”. Nói
chung, nhận định “kết thúc không hay” là cách nhìn chung của các nhà phê bình lúc bấy
giờ.
2. Phê bình quan điểm tiếp nhận Thủy Hử truyện của Đào Từ Huệ
Tháng 7 năm 1932, “Tạp chí Xã hội học” đã đăng bài “Phân tích "Thủy hử truyện"
dưới góc nhìn xã hội học” của Đào Từ Huệ. Đây là một bài viết phân tích "Thủy hử
truyện" dưới góc nhìn xã hội học và tư tưởng giai cấp kể từ sau vận động Ngũ Tứ. Nó
không giống với bài “"Thủy hử truyện" và xã hội Trung Quốc” của Bồ Mạnh Vũ. Bài của
họ Bồ đã xem "Thủy hử truyện" như là một tư liệu lịch sử để nghiên cứu xã hội Trung
Quốc, chú trọng phân tích xã hội cổ đại mà không xuất phát từ góc nhìn phân tích tiểu
thuyết. Ngược lại, bài viết của Đào Từ Huệ xuất phát từ phân tích xã hội Trung Quốc để lý
giải cơ sở của tiểu thuyết, do vậy mà ông này có vị trí tương đối đặc thù trong lịch sử tiếp
nhận "Thủy hử truyện".
201
“Phân tích "Thủy hử truyện" dưới góc nhìn xã hội học” tuy là một bài nghiên cứu
về tiểu thuyết nhưng lại có ý nghĩa phê phán xã hội hiện thực. Mở đầu bài viết có một đoạn
“Lời Ban biên tập” như thế này: “Bài viết của này Đào tiên sinh có thể dùng để tham khảo
những vấn đề về thời cuộc và xã hội hiện đại”. Trong “Lời kết”, Đào Từ Huệ cũng nói:
“108 nhân vật cùng với tình hình xã hội của"Thủy hử truyện" có rất nhiều điểm tương
đồng với xã hội hiện tại, do vậy đáng để cho chúng ta nghiên cứu. Nhà văn học thì cho
rằng "Thủy hử truyện" là tiểu thuyết văn học; nhà xã hội học thì cho rằng nó là bộ tiểu
thuyết có có giá trị tả chân xã hội”. Ông này phân tích xã hội Trung Quốc cũng như nội
dung tư tưởng của "Thủy hử truyện" từ bốn phương diện.
Đầu tiên, Đào Từ Huệ phân các giai cấp của xã hội Trung Quốc thành 5 đẳng cấp: 1.
Nguyên thủ độc tài, 2. Thượng tầng sĩ đại phu, bao gồm cả tầng lớp quan liêu, chính
khách, học giả, “Kể từ khi gió tây thổi bạt gió đông, luồng gió duy tân thịnh hành thì thêm
cả luật sư, chủ bút, kỹ sư…”; 3. Trung tầng sĩ đại phu, bao gồm cả những người thuộc lớp
thượng tầng nhưng đã cáo lão hoặc rời khỏi đội ngũ, bị loại khỏi đội ngũ; 4. Hạ tầng sĩ
đại phu, đẳng cấp này có thể phân làm ba: Một là thổ hào lưu manh, trong thổ hào có bao
hàm cả những phần tử tốt, thổ bá, bảo tiêu, người mở hí viện kỹ viện; lưu manh bao gồm
thổ phỉ, đạo tặc, ăn xin… Hai là đẳng cấp giang hồ, đẳng cấp này có thể phân làm hai:
Giang hồ cấp thượng tầng gồm người bói toán chiêm tinh, tăng ni đạo sĩ, bán thuốc dạo…;
Giang hồ cấp hạ tầng gồm trộm đạo, thuyền phu, xa phu, mã phu, tiểu nhị… Ba là tiểu địa
chủ, tiểu sản và những người có ruộng đất; 5. Đẳng cấp tổng tập hợp, tức những công
nông lao lực và những người vô sản. Chúng ta tạm thời không bình luận việc phân chia
đẳng cấp này có tính khoa học hay không, chỉ vì thực chất của việc phân chia này của Đào
Từ Huệ là nhằm định vị 108 hảo hán Lương sơn bạc. Chúng ta hãy xem ông ta định vị 108
người theo bảng sau:
202
Chức nghiệp: Nô bộc Nông dân Trang chủ Con buôn Bán củi Xa phu Thợ bạc Pháo thủ
1
7 1 1 1 1
6
Số lượng : 1 Chức nghiệp: Đạo tặc Lái đò Phú hộ Thợ săn Lãng tử Lính tráng Thợ sắt Thổ phỉ Số lượng : 3 2 4 2 3 2 1 5 Chức nghiệp: Chủ hiệu Thợ may Thầy lang Phu thuyền Quan lại Quý tộc Bán thuốc Thợ đá Số lượng : 6 1 2 1 34 1 2 1
Từ bảng trên có thể thấy, chủ thể để cấu thành 108 người là thuộc “đẳng cấp hạn
tầng sĩ đại phu” . Bảng này là chứng cứ cho những luận điểm sau đây của Đào Từ Huệ:
“Khi thiên hạ thái bình, lực lượng khống chế toàn quốc mạnh mẽ nhất là thượng tầng sĩ
đại phu, nhưng nếu thiên hạ có phát sinh chuyện gì thì ắt là hạn tầng sĩ đại phu là thế lực
mạnh nhất. Nhưng trong tầng lớp hạ tầng sĩ đại phu, loại người có sức mạnh nhất phải là
tầng lớp giang hồ. Có thể xem họa là công cụ của thời loạn, họ có thể chi phối toàn bộ
những người thuộc hạ tầng sĩ đại phu, tức là có thể chi phối tầng lớp thổ hào, có thể liên
lạc với tiểu địa chủ và tầng lớp tiểu sản, đồng thời có thể bức bách sĩ đại phu, cũng có thể
áp bức tầng lớp vô sản. Họ rất thiện nghệ trong việc liên kết các hảo hán giang hồ. Thiên
hạ tao loạn, họ có thể thao túng những người thuộc tầng lớp dưới và lợi dụng họ để taọ thế
đối kháng trong thiên hạ, có khả năng lật đổ độc tài và tạo nên một cục diện mới.
Xem lịch sử mới thấy, các triều đại Trung Quốc thay đổi phần nhiều đều do loại
người này thừa lúc thiên hạ tao loạn nên ra tay can thiệp. Anh hùng hào kiệt các thời đại
của Trung Quốc cũng đều do loại người này làm đại biểu. Cả xã hội Trung Quốc gần như
do loại người này chi phối, ngay cả họ cũng là những người hưởng ứng nhiệt thành nhất
của cách mạng Tân Hợi. Thông thường thì những người muốn ra tay thâu tóm thiên hạ mà
không có sự giúp đỡ của loại người này thì rất khó có hy vọng thành công”.
Chức nghiệp: Tú tài Thư sinh Ngư phủ Đạo sĩ Kẻ nhàn hạ Ngoại tộc Số lượng : 3 2 5 2 9 1
203
Những gì mà "Thủy hử truyện" đã miêu tả chính là phù hợp với cách nói của Đào
Từ Huệ, đó là thời kỳ “loạn thế”. Đây phân tích của ông này: “Lúc ấy chính quyền quá hủ
bại, do vậy mà trật tự xã hội đã bị đảo lộn. Giàu có ức hiệp bần hàn, kẻ mạnh ăn hiếp kẻ
yếu, cậy thế làm càn chính là một hiện tượng rất tự nhiên”. Tống Giang và 108 người
chính là “hạ tầng sĩ đại phu giai tầng” ứng với thời thế mà đứng dậy, trong đó có không ít
những người giang hồ mà Đào Từ Huệ gọi là “loại người có sức mạnh nhất”. Họ tổ chức
quân đội để đối kháng với quan phủ cũng chính là “thao túng tâm lý của giai cấp hạ tầng
mà thống trị để nhằm đối kháng với thiên hạ”.
Thứ hai, Đào Từ Huệ cho rằng “công cụ làm loạn thiên hạ” do Tống Giang cầm
đầu đã lợi dụng quan niệm trung nghĩa phổ biến để lung lạc nhân tâm, mục đích chính là ở
chỗ “lật đổ nguyên thủ, làm cho thiên hạ đảo điên, đồng thời chính mình sẽ làm nguyên thủ
quốc gia”. Ông này phân tích tư tưởng người đương thời thế này: “Trung Quốc là một
nước chú trọng lễ giáo, mục đích làm người là để làm rạng danh tổ tông, báo hiếu cho cha
mẹ, trung thành với vua. Trung hiếu đã trở thành đạo nghĩa bất di bất dịch của họ, đối với
những tệ hại của quốc gai thì không dám phê bình hoặc cải tạo. Do vậy mà mỗi một người
trong nước đều muốn mình trở thành một trung thần hiếu tử. Đây là tư tưởng phổ biến”.
Tống Giang chính là người lợi dụng tâm lý này của nhân dân, Đào Từ Huệ nói: “Tống
Giang chiêu tập được anh tài là vì dùng danh nghĩa là trung nghĩa. Anh ta có thể có được
108 anh hùng hảo hán và mười vạn nhân mã lâu la cũng với danh nghĩa này. Lương sơn
bạc dựng Trung nghĩa đường, dùng lễ để đãi hảo hán, mắng nhiếc bọn gian thần, đòi thay
trời hành đạo đều lấy chữ trung chữ nghĩa và ý thức báo quốc để kích động mọi người”. Có
điều, những cách làm thực tế của hảo hán Lương sơn lại hoàn toàn xa rời với trung hiếu
đạo đức: “kỳ thực là phá nhà đốt xóm, bắt trói mệnh quan triều đình, có thể gọi là trung
nghĩa được không? Có điều, vì đương thời người ta sùng bái trung nghĩa mà không biết
204
rằng Tống Giang là một hảo hán giả trung giả nghĩa, do vậy mà bị lừa”. Ở đây, Đào Từ
Huệ đã tiếp thu một cách trọn vẹn quan niệm của Kim Thánh Thán, chỗ bất đồng chỉ là
Đào Từ Huệ dùng phương pháp xã hội học mới để bàn luận mà thôi.
Thứ ba, Đào Từ Huệ cho rằng sự thất bại của Lương sơn - ý của ông ta là Lương
sơn không thể đoạt lấy thiên hạ - là ở thời thế chứ không thuộc nguyên nhân con người, có
điều, suy chó cũng thời thế như thế nào thì ông ta không làm rõ. Đào nói: “Phàm là những
người thành đại sự, ngoài những sở trường của mình ra thì phải có cơ hội. Tống Giang có
thể thống lĩnh 108 anh hùng hảo hán và mấy chục vạn quân nhưng vẫn không thỏa chí,
nguyên nhân không phải vì chính Tống Giang mà là do thời thế. Thời thế không thuận thì
cho dù Tống Giang có bản lĩnh lên trời cũng không làm được việc gì cả”. Thế thì, thời thế
ở đây chính là những nguyên nhân ngẫu nhiên, “không có những trung thần lương tướng
như Vân Thiên Bưu, Trương Thúc Dạ, Trần Hy Chân thì e rằng Tống Giang cũng trở nên
uy phong chẳng khác nào Hán Cao Tổ, ai dám nói rằng anh ta là một đạo tặc ở Hoài
Nam?”. Đào Từ Huệ đã đem “Đảng khấu chí” nối với bản 70 hồi của Kim Thánh Thán
mới ngang nhiên đưa ra kết luận này. Nếu ông ta dùng bản 100 hồi hoặc 120 hồi, tức là
thêm đoạn chiêu an và những gì diễn ra sau khi chiêu an thì những lời bình luận của ông ta
là hoàn toàn không có cơ sở. Đương nhiên, Đào Từ Huệ vốn có tư tưởng như vậy và sau đó
mới áp đặt cho "Thủy hử truyện", nếu dùng bản có đoạn chiêu an thì sẽ không hợp với tư
tưởng của ông ta và vì vậy, ông ta không thể không dùng bản 70 hồi kết hợp với “Đảng
khấu chí”.
Thứ tư, Đào Từ Huệ dùng tư tưởng “được làm vua thua làm giặc” để tổng kết đặc
trưng lịch sử của Lương sơn bạc. Ông ta nói: “Bọn Tống Giang tuy chưa đạt được mục
đích thành công nhưng họ đã có thể đại biểu cho hiện tượng thay triều đổi đại của lịch sử.
205
Giả sử như bọn Tống Giang thành công, đạt được cái chí lật đổ xã hội, ai dám bảo họ là
những kẻ cường bạo, bất trung với triều đình? Để trở thành thiên tử thống trị thiên hạ, Hán
Cao Tổ cũng bắt đầu như thế mà thôi”. Đào Từ Huệ không chính thống được như Kim
Thánh Thán để xử lý anh em Lương sơn bạc với cái nhìn đối với một bọn cường đạo bởi
dùng vũ lực để lật đổ chính quyền hiện thời để kiến lập một vương triều mới là con đường
tất yếu của lịch sử phong kiến Trung Quốc. Nhưng lý tưởng của Tống Giang và Lưu Bang
hoàn toàn không giống nhau, Đào Từ Huệ lại vì sự phù hợp giữa tiểu thuyết với quan niệm
phát triển xã hội của mình nên đã cố ý tránh né điểm này.
Nói tóm lại, những ý kiến của Đào Từ Huệ có hai sai lầm lớn: Thứ nhất, thoạt
nhìn thì sự phân định đẳng cấp của ông ta có vẻ tỉ mỉ nhưng thực tế thì rất lộn xộn. Ông ta
không hề có một tiêu chuẩn thống nhất, vừa không dựa trên tiêu chuẩn, cũng không dựa
trên tiêu chuẩn chính trị mà chỉ dựa hoàn toàn vào chức nghiệp. Như thế, ông ta dùng đặc
điểm giai cấp để phân tích thành phần cấu thành của Lương sơn bạc là không có cơ sở
khoa học. Ông ta đem lãng tử, thổ hào, bảo tiêu, cờ bạc, dạo tặc, thổ phỉ… thậm chí là ăn
mày gói lại trong thành phần hạ tầng sĩ đại phu khiến người ta không biết đâu mà phân
định. Thứ hai, Đào Từ Huệ cho rằng quan niệm xã hội của mình là chân lý phổ biến rồi sau
đó dùng quan nỉệm ấy để bình giá "Thủy hử truyện" mà không hề quan tâm đến nội dung
của nó nên không thể phân tích được một cách cụ thể. Do vậy, ông ta không thể không
tránh né được những tình tiết như chiêu an, bình Liêu mà đem “Đảng khấu chí” xem như là
đoạn nối tiếp của "Thủy hử truyện". Xem ra thì Kim Thánh Thán còn sáng suốt hơn nhiều.
Kim Thánh Thán vì lý tưởng bài trừ đạo tặc mà “nhất tề xử trảm” hảo hán Lương sơn bạc,
không thừa nhận chiêu an, đây mới chính là cách phê bình "Thủy hử truyện" có chứng cớ
nhất.
206
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể phát hiện, những độc giả đã đề cập ở trên
đều có chung một điểm: Dùng “nhãn quan lịch sử” để phê bình "Thủy hử truyện" một cách
xã hội học. Hồ Thích, Lỗ Tấn, Tạ Vô Lượng và Trịnh Chấn Phong đều cho rằng nội dung
của tiểu thuyết là sự phản ánh xã hội đương thời, nhưng có điều khi phân tích một cách cụ
thể "Thủy hử truyện" phản ánh lịch sử như thế nào thì mỗi người cũng có những kiến giải
khác nhau, trong đó, luận điểm “sự áp bức của dị tộc” của Tạ Vô Lượng có vẻ hơi khiên
cưỡng. Phương pháp phân tích theo quan điểm giai cấp của Phan Lực Sơn tuy không phù
hợp với sự thật lịch sử nhưng bản thân ông này lại không cho là như vậy. Ông ta cho rằng
nội dung mà "Thủy hử truyện" phản ánh “có thể đại biểu cho hiện tượng thay đổi triều đại
trong lịch sử”, trên thực tế cũng là phản ánh luận. Từ những độc giả thời kỳ này, chúng ta
có thể nhận ra, nền văn hóa mới đã đem lại nhiều tư tưởng mới và lý luận mới, trực tiếp
đem đến tính “cách mạng” trong phê bình văn học để mọi người cũng nhau bàn luận "Thủy
hử truyện" theo xu hướng mới. Mỗi thời đại đều có nền văn học riêng của mình và tất
nhiên, mỗi thời đại đều có cách tiếp nhận văn học riêng của mình.
207
PHỤ LỤC 2
Vụ án Phan Kim Liên và hướng tiếp nhận Thủy Hử qua vở kịch “Phan Kim Liên”
của Âu Dương Dữ Sảnh
(Trích dịch từ tác phẩm Thủy Hử truyện tiếp thụ sử
của Cao Nhật Huy, tr.262- tr.267)
Phản phong kiến là chủ đề quan trọng nhất của nền văn học mới sau Ngũ Tứ, vở kịch
năm màn Phan Kim Liên của Âu Dương Dữ Sảnh được xem là viên đạn đại bác bắn thẳng
vào tư tưởng và xã hội phong kiến. Vở kịch này được hoàn thành năm 1925 nhưng mãi đến
năm 1927 mới được dàn dựng và công diễn và gây dư luận xôn xao trong xã hội. Có người
coi Phan Kim Liên là “vở kịch cách mạng”, nhiều người xem nó là vở kịch ‘Lật lại bản án
Phan Kim Liên”. Ảnh hưởng của vở kịch là rất lớn, không cần nói cũng biết. Vở kịch đã
“cách mạng hóa” nhân vật Phan Kim Liên trong Thủy hử truyện, viết lại tiểu thuyết từ hồi
22 đến hồi 26 (bản 70 hồi), không những trở thành tác phẩm có tính cách mạng mà còn là
một trong những cột mốc quan trọng trong việc “cách mạng hóa” toàn bộ Thủy hử truyện.
Âu Dương Dữ Sảnh sáng tác Phan Kim Liên dưới sự chỉ đạo rất rõ ràng của tư
tưởng, tuy ông ta tự thanh minh rằng “tôi viết vở kịch này một cách ngẫu nhiên, vừa không
liên quan đến chủ nghĩa nào, vừa không tồn tại cái gọi là “lật ngược vụ án Phan Kim
Liên”. Có điều, ông ta cũng nói: “Đàn ông từng bước đẩy người phụ nữ đến chỗ phạm tội,
hoặc là bức bách phụ nữ phải đi vào con đường trụy lạc. Họ không chịu trách nhiệm về
điều này mà còn cười cợt, chửi bới, chỉ e rằng nếu không có sự vô sỉ của người phụ nữ thì
làm sao thấy được sự tôn nghiêm của đàn ông? Nếu như vậy thì họ lấy những vật tiêu
khiển ấy từ đâu ra? Cái lễ của Chu Công chẳng qua là một trò kỹ xảo nhưng mấy ngàn
năm nay người phụ nữ không thể vượt qua cái vòng kềm tỏa cùa nó”. Đương nhiên, Âu
Dương Dữ Sảnh cho rằng Phan Kim Liên trở thành “dâm phụ” là do người đàn ông mang
lại. Rõ ràng đến lúc này thì việc tiếp nhận hình tượng Phan Kim Liên đã thay đổi theo
hướng “cách mạng”, kiểu “cách mạng” này có thể phân tích ở 4 phương diện:
Thứ nhất, Phan Kim Liên từ một kẻ hại người đã biến thành người bị hại. Âu
Dương Dữ Sảnh không phải thay đổi hình tượng Phan Kim Liên từ việc thay đổi tình tiết
mà giữ lại những tình tiết cơ bản trong tiểu thuyết: Cự tuyệt Trương Đại Hộ, bị ép phải lấy
Võ Đại, yêu Võ Tòng nhưng lại bị từ chối, sau đó thì thông dâm với Tây Môn Khánh, đầu
208
độc Võ Đại và cuối cùng thì chết dưới ngọn đao của Võ Tòng. Âu Dương Dữ Sảnh dùng
nhãn quan hiện đại, thông qua ngôn ngữ đối thoại trong kịch để thể hiện Phan Kim Liên
không cam tâm chịu khinh rẻ và làm nhục, đấu tranh với lễ giáo của người đàn ông. Cuối
cùng, cô ta bị Trương Đại Hộ, Võ Đại, Tây Môn Khánh và Võ Tòng sát hại “tập thể”. Vở
kịch cũng đặc biệt miêu tả những người đàn ông như một tập thể áp bức. Trước Trương
Đại Hộ, Phan Kim Liên là nô lệ nhưng không chiều theo ý ông chủ nên lão này đã đem cô
ta đặt vào tay người đàn ông xấu như ma quỷ. Trước Võ Đại, Phan Kim Liên là vợ, cô ta
trung thành với một người mà mình vốn không yêu, thậm chí là còn ghét và hận người
chồng của mình. Trước mặt Võ Tòng, Phan Kim Liên là chị dâu, luân lý giữa chị dâu và
em chồng không thể vượt qua, do vậy mà tình yêu của cô ta giành cho Võ Tòng cho dù sâu
đến mức nào cũng chỉ là ảo vọng. TRước Tây Môn Khánh, Phan Kim Liên là một món đồ
chơi, căn bản là cô ta không yêu hắn, nhưng sự ân cần của hắn đã khiến “người sống trong
địa ngục” như cô ta cảm thấy được ấm áp. Trương Đại Hộ dùng chế độ đẳng cấp, Võ Đại
dùng chế độ phụ quyền, Võ Tòng dùng lễ pháp, Tây Môn Khánh dùng thể xác đàn ông bức
hại Phan Kim Liên cho đến chết. Đây chính là tư tưởng cơ bản của vở kịch này.
Thứ hai, vở kịch đã đặc biệt khai thác những nỗi đau nội tâm của Phan Kim Liên,
miêu tả quá trình dẫn đến bị sát hại của cô ta như một kết thúc tất yếu của người không có
chút sức mạnh trong tay. Thử đọc đoạn đối thoại giữa Phan Kim Liên với Vương bà trong
màn hai:
Phan Kim Liên: Tôi buồn đến chết mất thôi!
Vương bà: (Vừa ngáp vừa nói) Thời tiết không tốt lắm khiến tinh thần người ta
thấy bức bối vô cùng.
Phan Kim Liên: Người sắp chết rồi, còn trách móc thời tiết làm gì.
Vương bà: Cô nói gì thế?
Phan Kim Liên: Đúng là tôi đang muốn chết.
Vương bà: Tôi đã nói rồi, cái nhà họ Trương ấy có gì mà cô phải cứ nhắc đi nhắc
lại mãi thế, đã có Tây Môn đại quan, cô còn sợ gì lão chứ?
Phan Kim Liên: Ai thèm quan tâm đến lão chó ấy. Tôi chỉ muốn chết thôi.
209
Vương bà: Tây Môn đại quan thích cô, nào chuyện ăn chuyện mặc, cô còn thiếu
chỗ nào. Nó vẫn chưa xứng với mơ ước của cô hay sao?
Phan Kim Liên: Ôi dào, làm sao có thể sống chung với ông ta được, gặp nhau rồi e
rằng chỉ là oan gia. Ông ta có tiền có thế lực, đến đây chỉ mua tiếng cười làm vui, ông ta
nào có chân tình thực nghĩa gì nào? Tôi cũng chỉ là dùng ông ta để tiêu khiển giải buồn,
khi nào chán thì chia tay. Đàn ông có ai tốt nào? Chỉ toàn là một bọn khinh khi đàn bà!
Nếu đàn bà chúng ta nếu có bản lĩnh lên trời thì bọn đàn ông cũng chẳng cho chúng ta cơ
hội, đành lòng phải làm một món đồ chơi trong tay họ mà thôi!
Phan Kim Liên: Sống thế này không bằng chết! Tốt nhất là tất cả đàn bà trên thế gian này
phải chết!
Phan Kim Liên theo đuổi tình yêu nhưng không được, lại không tìm thấy ý nghĩa
của cuộc sống đành lòng phải dùng thái độ cười cợt thế gian để đến với Tây Môn Khánh.
Từ Trương Đại Hộ đến Võ Đại, từ Võ Tòng đến Tây Môn Khánh, tất cả những người đàn
ông này đều đem lại sự đau khổ cho cô ta, do vậy mà cô ta nói rất rõ ràng: “Đàn ông có ai
tốt nào?”. Với Phan Kim Liên mà nói, hình như cô ta không có chút một động lực phản
kháng nào: “Tốt nhất là tất cả đàn bà trên thế gian này phải chết!”. Nếu như vậy thì đàn
ông không còn đối tượng để áp bức nữa. Rõ ràng, đây là thái độ chán ghét sâu sắc đối với
xã hội nam quyền. Hiện thực thì vô tình, Phan Kim Liên muốn thoát khỏi những đau khổ
về nội tâm, cô ta chỉ có một con đường là chết.
Trong tiểu thuyết, việc Phan Kim Liên yêu Võ Tòng là “dâm”, thông gian với Tây
Môn Khánh cũng là “dâm” nhưng trong kịch nói, ngoài chính Phan Kim Liên ra, tất cả
những người còn lại cũng đều cho là như vậy. Tuy nhiên, thông qua việc hiểu hiện thế giới
nội tâm của Phan Kim Liên, chúng ta có thể nhận ra bản chất cái “dâm” của cô ta chính là
vì tình yêu. TRước con dao phục thù của Võ Tòng, cô ta đã tự bạch:
“Từ khi chàng (tức Võ Tòng) rời khỏi nhà, tôi như một kẻ không hồn, cho dù có
sống cũng không còn ý nghĩa gì nữa! Anh trai của chàng lại rất lạm dụng chức danh làm
chồng của mình càng đem lại cho tôi nhiều điều phiền não! Trong lúc tôi đang có ý định tự
vẫn thì đột nhiên gặp phải Tây Môn Khánh. Ông ta đã đem lại cho tôi sự ấm áp và như
vậy, tôi đã thông dâm với ông ta. Đúng thế, là thông dâm, nhưng chẳng qua đó cũng chỉ là
thông dâm, giữa tôi và ông ta không có một chút tình yêu. Ôi chao, tôi điên mất rồi! Tôi đã
210
không còn một chút hy vọng nào, vậy thì còn tự yêu mình làm gì nữa? Huống hồ, ông ta
cũng có phần giống với chàng, điều đó khiến tôi tự nguyện trở thành một món đồ chơi
trong tay ông ta. Cả cuộc đời này ngoài viẹc đột nhiên gặp Tây Môn Khánh ra, tôi chưa hề
có phúc phận để làm một món đồ chơi trong tay một kẻ thứ hai! Nhị Lang, chàng đừng hỏi
nữa, tôi đã phạm tội đối với chồng, tôi không muốn chết trong tay một kẻ như đại ca
chàng, tôi bèn dùng thuộc độc giết chết anh ta mà thôi!”.
Sau khi hy vọng tình yêu biến thành mây khói, Phan Kim Liên đã muốn dùng cái
chết để trốn tránh hiện thực đau khổ, nhưng “một chút ấm áp của Tây Môn Khánh” lại làm
cho cô ta trở nên điên cuồng trước khi chết. Cô ta thà biến thành một kẻ trụy lạc, thà phải
giết người, “nếu cứ thủ tiết và để người khác giày vò cho đến chết, e rằng không bằng
phạm tội. Cho dù có chết thì cũng chết một cách sung sướng” chính là con đường để dẫn
Phan Kim Liên đên chỗ trụy lạc và giết người.
Thứ ba, Phan Kim Liên là người đàn bà tỉnh ngộ. Trong quá trình theo đuổi hạnh
phúc, cô ta đã ngã dần theo hướng trụy lạc và tự hủy diệt. Cô ta rất tỉnh táo để nhận ra
rằng, giữa đàn ông và đàn bà không cùng địa vị và mệnh vận, ý thức được nam quyền và lễ
giáo chính là hai con dao để giết chết người phụ nữ. Cô ta nói: “Từ trước đến nay, một
người đàn ông muốn giày vò một người đàn bà thì có rất nhiều người giúp đỡ. Để cho đàn
ông giày vò cho đến chết, đó mới là liệt nữ tiết trinh. Chấp nhận giày vò mà không chết thì
biến thành dâm phụ, không chấp nhận sự giày vò của đàn ông thì biến thành tội nhân”.
Đáng buồn là không ai hiểu được Phan Kim Liên, đừng nói là Trương Đại Hộ và Võ Đại,
ngay cả người mà cô ta yêu chân thành là Võ Tòng và người đã chiếm dụng được thân xác
cô ta là Tây Môn Khánh không không hiểu được cô ta. Võ Tòng tự nhận mình là anh hùng,
dùng lời của chính anh ta “lẽ nào những người yếu đuối thì phải bị người khác khinh
thường, những người có thế lực thì có quyền khinh thường người khác sao? Cả đời này, tôi
thích dẹp tan những sự bất bình, nhất tâm bảo vệ những người yếu đuối để chống lại kẻ
bạo tàn, ghét nhất là những kẻ theo chân kẻ mạnh để đàn áp kẻ yếu”. Có điều, anh ta
không biết rằng trước mặt Võ Đại anh mình, Phan Kim Liên lại là một kẻ yếu. “Này, đại
ca của chàng đã giày vò tôi đủ rồi! Chàng nói là tôi thông minh, tôi không dám nhận vinh
dự ấy, nhưng tôi cũng không phải là một con ngốc. Chàng nói tôi giỏi giang, tôi không
dám nhận là mình giỏi giang, nhưng tôi không phải là một kẻ không biết gì. Nhưng, cá
trong ao không bơi được xa, chim trong lồng không thể sải cánh, thế thì tôi phải làm gì?…
211
Này, chú Nhị, Chú vẫn chưa nhận ra trái tim xủa ôi hay sao!”. Âu Dương Dữ Sảnh đã xây
dựng một Phan Kim Liên tỉnh ngộ trong một xã hội chưa được tỉnh ngộ, nhưng một khi đã
tỉnh ngộ thì không khuất phục vận mệnh, dám đấu tranh và phản kháng, có điều đáng tiếc
là, kẻ đối địch vứoi cô ta lại là cả một xã hội, do vậy mệnh vận của cô ta cuối cùng cũng
chỉ là một con cá đã nằm trong lưới mà thôi.
Thứ tư, vở kịch đã đem nhân vật Trương Đại Hộ, vốn chỉ là một cái bóng trong
tiểu thuyết xây dựng thành một nhân vật chính. Mục đích của việc này có hai: Một là tìm
về cội nguồn mệnh vận của Phan Kim Liên, biểu hiện tính cách quật cường bất khuất của
Phan Kim Liên; thứ hai là mượn danh nghĩa ngụy tạo “thân sĩ địa phương duy trì phong
hóa” của Trương Đại Hộ để phê phán thế lực phong kiến vẫn còn đang ảnh hưởng rất sâu
đậm trong cuộc sống hiện thực.
Bi kịch về mệnh vận của Phan Kim Liên bắt đầu từ Trương Đại Hộ. Trong tiểu
thuyết, tình tiết này được miêu tả rất đơn giản nhằm giới thiệu hoàn cảnh xuất thân của
nhân vật: “Ở huyện Thanh Hà, trong gia đình một phú ông có một người hầu gái họ Phan,
tiểu danh là Kim Liên. Khi tròn hai mươi, có chút ít nhan sắc nên lão phú ông nọ đã có ý
mon men. Cô hầu gái lại đem chuyện này nói với bà chủ, ý là không phục tùng. Lão phú
ông nọ nhân vì chuyện ấy mà căm tức nên tìm cách đuổi ra khỏi nhà, không lấy của Võ
Đại một xu nào mà gả cho hắn ta”. Trong kịch, vì không chiếm đoạt được Phan Kim Liên,
Trương Đại Hộ đem cô ta gán cho Võ Đại, dụng ý là nhằm “giảm bớt tính khí ngang ngạnh
của cô ta”, trong lòng lão vẫn nghĩ “với loại người như Phan Kim Liên, rồi sẽ có một ngày
khiến cho cô ta tâm phục khẩu phục, nếu không, đàn bà mà ngang ngạnh như thế thì không
thể chấp nhận được”. Do vậy, sau khi nghe tin Võ Đại chết, Trương Đại Hộ cho rằng tính
cách của Phan Kim Liên đã nhũn, bèn có ý định đưa cô ta quay về nhà mình. Trong kịch,
nhân vật Trương Đại Hộ có nét giống với Phàng Nhạc Sơn trong tiểu thuyết “Gia đình”
của Ba Kim, ngoài mặt thì đường đường bệ bệ: “Ta là thân sĩ địa phương, đương nhiên là
phải duy trì phong hóa”. “Ta nghĩ Phan Kim Liên vốn là nha đầu trong nhà ta, ả không
biết làm tròn bổn phận, không biết nhận ân sủng, phải gả ả đi, ả lại không biết phận làm
vợ, làm náo loạn đủ mọi chuyện, ta có ý định đưa ả về để dạy dỗ thêm” . Lão nói với
Vương bà: “Làm loạn như ả, người ta sẽ nói rằng a đầu nhà ta phẩm hạnh không ra gì. Ta
gọi ả về, ả phải về. Ta không dạy được ả thì còn có ai? Luân thường đạo lý là phải duy trì,
chỉ cần ả nghe lời, không chừng là ta còn để ý để cất nhắc ả, nếu ả không nghe lời, e rằng
212
ngay cả bà cũng khó sống”. “Duy trì phong hóa” chẳng qua là một kiểu mượn miệng, còn
đề bạt Phan Kim Liên thành “tiểu lão bà” e rằng mới là mục đích chân chính.
Mở rộng các tình tiết về Trương Đại Hộ, mục đích phê phán hiện thực của Âu
Dương Dữ Sảnh là rất rõ ràng. Ông ta nói: “Trước mắt cứ coi như cách mạng thành công
nhưng nhìn đi nhìn lại, không biết từ đâu mà bọn Trương Đại Hộ xuất hiện khá nhiều. Rất
nhiều vĩ nhân vẫn từng súng bái “chủ nghĩa Trương Đại Hộ”! Những vị tiên sinh duy trì
phong hóa, quan tâm thế đạo nhân tâm chắc rất đồng tình với Trương Đại Hộ!”. Cách
mạng Tân Hợi về căn bản vẫn không bài trừ tư tưởng và thế lực phong kiến, giải phóng
phụ nữ chẳng qua cũng chỉ là một khẩu hiệu, “chủ nghĩa Trương Đại Hộ” tràn lan khắp
chốn, do vậy chúng ta có thể thấy, Âu Dương Dữ Sảnh “lật lại vụ án Phan Kim Liên” là
nhằm phê phán hiện thực.
Âu Dương Dữ Sảnh nói: “Có người cho rằng đây là một tác phẩm hoàn toàn xuất
phát từ thời đại, không phải là như vậy”. Nhưng có điều, nếu ông ta không thuộc vào thời
đại ấy thì không thể cải biên câu chuyện của Phan Kim Liên. Tùy theo sự thay đổi của thới
đại, cái nhìn của độc giả cũng không ngừng thay đổi, do vậy mà cách hiểu "Thủy hử
truyện" là của cá nhan nhưng cũng là của thời đại. Những gì Âu Dương Dữ Sảnh biểu hiện
về Phan Kim Liên trong vở kịch hình như vẫn chưa làm ông ta thỏa mãn nên ông ta còn
nói thêm:
“Phan Kim Liên chẳng qua cũng chỉ là một người đàn bà, là nô tỳ, vừa không thể
sự tuyệt chủ nhân cưỡng gian, vừa không phản kháng lại sự ép gả của chủ, cho dù có nhan
sắc, có thông minh, có chí khí và có lý tính nhưng cũng đánh phải giấu nhẹm chúng đi, để
mặc cho người ta đè nén. Cố gắng nuốt hận để cho tuổi thanh xuân trôi qua mà không có
cáhc gì khác. Cảnh ngộ này có khác nào sống cũng không bằng chết? Với những người
phụ nữ yếu đuối, họ chỉ biết tin vào số mệnh, ngẫu nhiên có được một người có cá tính
mạnh mẽ như Phan Kim Liên, họ sẽ nghĩ đến con đường sống của mình. Phan Kim Liên bị
Trương Đại Hộ cưỡng bức, cô ta đã không phục tùng; Trương Đại Hộ xấu hổ quá hóa thịnh
nộ, bèn đem gả cho một thằng đàn ông chẳng ra đàn ông là Võ Đại. Ban đầu, cô ta vẫn tỏ
ra nhẫn nại, sau đó thì gặp một nhân tài như Võ Tòng, cá tính mạnh mẽ của cô ta như được
hâm nóng lại, không làm sao dập tắt được. Nếu cô ta có thể cải giá với Võ Tòng, hoặc như
có thể được tự do ky hôn như hiện tại, cô ta nhất định sẽ không trở thành tội phạm sau đó.
Không may, Võ Tòng lại là một kẻ tiếp thu nền luân lý cũ cực kỳ thâm sâu nên yêu cầu Võ
213
Đại lấy quyền làm chồng để quản thúc thêm cô ta, thử hỏi làm sao cô ta có thể cam tâm?
Do vậy, việc cô ta tư thông với Tây Môn Khánh cũng chỉ là một hành vi biến thái, huống
hồ tập quán của thời cũ, đàn ông có thể cưỡng gian đàn bà, có vợ này vợ nọ, còn người vợ
thì không được bước qua khỏi cửa. Đàn bà ngoại tình, đàn ông có quyền giết chết tùy
thích, không mang danh tội phạm, do vậy Phan Kim Liên có thể bị giết chết bất kỳ lúc nào,
kết quả của nỗi sợ hãi ấy là cô ta phải giết người. Bình tâm mà xét, chúng ta nên thông cảm
cho tội lỗi của cô ta, còn việc cô ta cuối cùng bị giết cũng là một kết cục đương nhiên vậy”.
Kịch "Phan Kim Liên" chủ yếu tiếp nhận "Thủy hử truyện" trên bình diện cái biên
về Phan Kim Liên, dưới cái nhìn thời đại có thể nói, đó là cách thức để ông ta phản đối lễ
giáo phong kiến, theo đuổi nam nữ bình đẳng. Đó chính là tinh thần thời đại.