HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHOKHAM SAYASONE

thùc hiÖn ph¸p luËt vÒ sö dông ng©n s¸ch nhµ n­íc

ë n­íc céng hßa d©n chñ nh©n d©n lµo hiÖn nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2019

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHOKHAM SAYASONE

thùc hiÖn ph¸p luËt vÒ sö dông ng©n s¸ch nhµ n­íc

ë n­íc céng hßa d©n chñ nh©n d©n lµo hiÖn nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Mã số: 62 38 01 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VĂN MẠNH

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phokham Sayasone

MỤC LỤC

1

8 8 21

26

Trang

MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách

nhà nước

26 50 61

2.2. Nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước 2.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước 2.4. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước của một số nước và

giá trị tham khảo đối với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

65

78

Chương 3: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách

nhà nước ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

78

3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

92

121

121

Chương 4: YÊU CẦU KHÁCH QUAN, CẤP BÁCH VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY 4.1. Bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là yêu cầu khách quan, cấp bách hiện nay 4.2. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở

nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

124

4.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay

130 147

KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

149 150

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AFTA : Khu vực Thương mại Tự do ASEAN

ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

CHDCND Lào : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Đảng NDCM Lào : Đảng Nhân dân Cách mạng Lào

GDP : Tổng sản phẩm quốc nội

HĐND : Hội đồng nhân dân

KBNN : Kho bạc nhà nước

NSNN : Ngân sách nhà nước

TABMIS : Treasury and budget managemant information System

(Hệ thống thông tin quản lý kho bạc và ngân sách)

UBND : Ủy ban nhân dân

WTO : Tổ chức Thương mại thế giới

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Cơ cấu ngành kinh tế trong tổng GDP và GDP trên đầu

người ở Lào 84

Bảng 3.2: Tình hình phân bổ sử dụng ngân sách nhà nước 2011 - 2017 95

Bảng 3.3: Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước 110

DANH MỤC CÁC BIỂU

Trang

Biểu đồ 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Cộng hòa Dân

chủ Nhân dân Lào 83

Biểu đồ 3.2: Cơ cấu kinh tế trong tổng GDP giai đoạn 2011 - 2017 85

Biểu đồ 3.3: Tổ chức thực hiện chi ngân sách nhà nước năm 2010-2015 101

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Phát triển kinh tế - xã hội ở mọi thời đại, đặc biệt là ở thời đại cạnh

tranh trong sự phát triển kinh tế thị trường, đòi hỏi mỗi quốc gia phải xây

dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ

máy nhà nước để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật; trong đó

việc quan trọng bậc nhất của bất cứ nhà nước nào đều phải quan tâm đến là

vấn đề quản lý ngân sách nhà nước đúng pháp luật.

Từ năm 1986 đến nay, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND

Lào) đang tiến hành đường lối đổi mới toàn diện đất nước, thực hiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình phát triển đất nước

luôn luôn có một câu hỏi đặt ra: phải làm thế nào để sử dụng, quản lý ngân

sách nhà nước đạt hiệu quả cao nhất, tránh lãng phí, thất thoát?

Nhận thức được vai trò và vị trí của ngân sách nhà nước có ảnh hưởng

sâu rộng tới mọi mặt của đời sống xã hội, là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ

mô nền kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội và là điều kiện vật chất để thực

hiện chức năng của bộ máy nhà nước, ngay từ năm 1986 khi mở cửa đất

nước, pháp luật về ngân sách nhà nước đã được ban hành, áp dụng rộng rãi.

Đặc biệt là Luật sử dụng ngân sách nhà nước đã có tác dụng tích cực trong

quá trình tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, qua đó

góp phần quan trọng vào việc đảm bảo ổn định chính trị phát triển kinh tế, trật

tự an toàn xã hội trên phạm vi cả nước.

Theo thống kê, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 7 của

quốc gia (từ năm 2011 đến 2015) ở nước CHDCND Lào có hàng nghìn công

trình sử dụng ngân sách nhà nước. Để đảm bảo sử dụng ngân sách nhà nước ở

Lào tiết kiệm, công bằng, có hiệu quả thì tất cả cơ quan nhà nước, tổ chức xã

2

hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật về ngân sách

nhà nước. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng

cường pháp chế là một trong những yêu cầu cơ bản trong hoạt động của nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). Xây dựng nhà nước pháp quyền,

bảo đảm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ không có ý nghĩa, nếu như nó mất đi

tính kỷ luật pháp luật, không được thực hiện trong đời sống nhà nước và xã hội.

Vì vậy, để đảm bảo pháp luật đi vào cuộc sống cần phải xây dựng hệ thống

pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao và áp dụng trong đời sống hiện

thực của xã hội.

Hệ thống pháp luật đầy đủ, ổn định là tiền đề cho việc bảo đảm thực

hiện pháp luật. Cho nên, ngày nay Đảng và Nhà nước Lào đã và đang cố gắng

xây dựng, củng cố cơ sở pháp lý đó. Sự nỗ lực của nhà nước CHDCND Lào

trong xây dựng hệ thống pháp luật đối với ngân sách nhà nước góp phần quản

lý, sử dụng ngân sách nhà nước từ Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; ngày

càng công khai, minh bạch, có hiệu quả. Nhà nước đã phát huy được tính chủ

động, sáng tạo của các cấp chính quyền trong quản lý, điều hành ngân sách

mà vẫn đảm bảo được sự quản lý tập trung thống nhất của cấp trên đối với cấp

dưới; của Trung ương đối với chính quyền địa phương.

Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm

tra, kiểm toán việc thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước không

ngừng được tăng cường, bảo đảm cho pháp luật về sử dụng ngân sách nhà

nước đi vào cuộc sống và được tuân thủ nghiêm chỉnh. Ở CHDCND Lào đã

tiến hành hàng nghìn cuộc kiểm tra đối với các đơn vị sử dụng ngân sách nhà

nước với các quy mô lớn nhỏ khác nhau tại các đơn vị lớn nhỏ khác nhau,

trên hầu khắp các lĩnh vực kể cả dự trữ quốc gia, an ninh - quốc phòng và

ngân sách của Đảng. Trong kiểm toán trọng tâm là kiểm toán báo cáo quyết

toán của các bộ, ngành, các tỉnh, các Tổng công ty nhà nước và các chương

trình mục tiêu quốc gia, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản trọng điểm của nhà

3

nước. Kết quả việc kiểm tra theo dõi sử dụng ngân sách nhà nước không chỉ

giúp cho các bộ, ngành, địa phương điều chỉnh số liệu kế toán và báo cáo

quyết toán, chỉ ra những sai phạm chính sách, chế độ quản lý kinh tế, tài

chính, kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi và đưa vào quản lý qua ngân sách nhà

nước hàng nghìn tỷ Kíp. Điều quan trọng hơn, thông qua kiểm toán bảo đảm

pháp chế trong sử dụng ngân sách đúng pháp luật sẽ giúp các đơn vị khác

nhau được nhìn nhận và đánh giá đúng đắn thực trạng tình hình tài chính,

khắc phục được những yếu kém sơ hở trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh

doanh, cải tiến và hoàn thiện hệ thống quản lý và kiểm soát nội bộ. Từ đó, đề

xuất, kiến nghị với Chính phủ, các cơ quan chức năng về những sơ hở trong

công tác quản lý, những bất cập nảy sinh trong cơ chế, chính sách hiện hành

để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; đồng thời, sẽ góp phần đấu tranh

chống các tham nhũng, lạm phát, thất thoát công quỹ và những tài sản quốc

gia, xác lập trật tự, kỷ cương trong quản lý kinh tế, tài chính.

Mặt khác thông qua công tác giám sát, kiểm tra, kiểm toán việc thực

hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) cho thấy, bên cạnh

những chuyển biến tích cực trong công tác này, cũng bộc lộ không ít những

yếu kém, hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.

Phổ biến là tình trạng thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định về sử

dụng NSNN, cá biệt có những trường hợp khai gian, khai khống để bòn rút

NSNN, sử dụng không hiệu quả NSNN v.v.. Những tình trạng nêu trên chủ

yếu là do ý thức pháp luật còn hạn chế, trình độ non kém trong quản lý nhà

nước của một bộ phận cán bộ, công chức v.v.. Bảo đảm thực hiện pháp luật về

sử dụng NSNN trở thành yêu cầu khách quan, cấp bách hiện nay.

Từ những phân tích nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hiện pháp

luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

Lào hiện nay” để viết luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch

sử nhà nước và pháp luật.

4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án

Trên cơ sở phân tích, khái quát những vấn đề lý luận cơ bản trong thực

hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

Lào; phân tích đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách

(thành tựu cũng như hạn chế) mục đích nghiên cứu của luận án là đề xuất các

quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà

nước ở Lào hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ của luận án

Để thực hiện được mục đích trên, luận án cần thực hiện các nhiệm vụ

sau đây:

- Hệ thống hóa, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của việc

thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước.

- Phân tích những bài học trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân

sách nhà nước ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; từ đó, rút ra các giá trị đối với

Lào trong công cuộc cải cách Luật ngân sách nhà nước để hội nhập với nền

khu vực Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và kinh tế thế giới.

- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về sử

dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào (trên cả hai phương diện thành tựu

cũng như hạn chế và nguyên nhân).

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp

luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định là các vấn đề lý luận,

các quy định pháp luật hiện hành và tư liệu thực tế trong thực hiện pháp luật

về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào giai đoạn hiện nay.

5

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về mặt nội dung: Luận án nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về

sử dụng NSNN ở nước CHDCND Lào dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà

nước và pháp luật, vì vậy luận án phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn

của việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN; đề xuất các quan điểm, giải

pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở

CHDCND Lào hiện nay.

- Về không gian: Nghiên cứu thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN

trên toàn bộ lãnh thổ CHDCND Lào.

- Về thời gian: Phạm vi nghiên cứu của luận án là bắt đầu nghiên cứu

từ 1986 là năm Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Đảng

NDCM Lào) đã đề ra đường lối đổi mới đến nay.

4. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật ngân sách ở CHDCND

Lào trên cơ sở lý luận là những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng

Cayxỏn Phômvihản và quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về nhà

nước, pháp luật, về thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế, về ngân sách và

sử dụng ngân sách nhà nước.

4.2. Phương pháp luận

Luận án sử dụng phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin, nghiên

cứu vấn đề thực hiện pháp luật theo quan điểm toàn diện, hệ thống, lịch sử cụ

thể, theo các cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả, khách quan - chủ quan v.v.

4.3. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu, tác giả đã sử dụng nhiều

phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống và hiện đại như phương pháp

6

lôgic - lịch sử; phân tích tổng hợp; so sánh; thống kê v.v.. để nghiên cứu các

nội dung trong từng chương. Cụ thể là:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: sử dụng để hệ thống hóa, phân tích,

khái quát làm sáng tỏ kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu liên

quan đến đề tài của luận án, những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu cũng

như các vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.

- Phương pháp lôgic - lịch sử, phân tích, tổng hợp được sử dụng để làm

rõ quá trình và thực trạng thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách trong hơn

31 năm qua tại Lào, tuân thủ nghiêm ngặt về mặt thời gian và tính chính xác

của các tư liệu đã được đề cập trong luận án.

- Phương pháp thống kê, so sánh kết hợp với phân tích tổng hợp: để

phân tích các tài liệu thu thập được, tổng hợp đánh giá thực trạng thực hiện

pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở Lào hiện nay. Trong đó phương

pháp thống kê so sánh được dùng để đối chiếu số liệu các năm khác nhau

trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước; phương pháp lập

bảng biểu, sơ đồ được tác giả sử dụng trong chương 3 để người đọc có thể

hiểu rõ hơn về thực trạng sử dụng ngân sách nhà nước cũng như thực trạng

thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong chương 4 để xác

định các quan điểm, đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử

dụng NSNN ở CHDCND Lào hiện nay.

5. Những đóng góp mới của luận án

Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ

thống đối với thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND

Lào; vì vậy, trong luận án đã có một số điểm mới là:

- Phân tích khái quát, làm sáng tỏ cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật

về sử dụng ngân sách nhà nước, cụ thể là luận giải khái niệm, phân tích các đặc

7

điểm, xác định nội dung, vai trò, các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về

sử dụng ngân sách nhà nước, khái quát kinh nghiệm thực hiện pháp luật về sử

dụng NSNN của Cộng hòa Pháp và Việt Nam rút ra các giá trị tham khảo trong

thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào.

- Đánh giá thực trạng, tìm ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân

của việc thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào.

- Phân tích yêu cầu khách quan, cấp bách, đề xuất các quan điểm, giải

pháp, bảo đảm thực hiện pháp luật trong sử dụng ngân sách nhà nước ở

CHDCND Lào hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Những kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần bổ sung, hoàn

thiện lý luận về thực hiện pháp luật trong sử dụng ngân sách nhà nước ở Lào

trong thời gian tới.

- Luận án đề xuất hệ thống các quan điểm và biện pháp góp phần nâng

cao sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật trong các cơ quan nhà nước, từ

cán bộ công chức nhà nước đến toàn thể nhân dân; nhằm tăng cường công tác

quản lý ngân sách nhà nước một cách chặt chẽ đi đôi với sử dụng ngân sách

nhà nước có hiệu quả theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng Nhân dân

Cách mạng Lào và yêu cầu của Nhà nước Lào.

- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động tổng

kết thực tiễn trong lĩnh vực này, làm phong phú thêm những tri thức về giám

sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà

nước làm cơ sở và định hướng cho hoạt động thực tiễn.

- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên

cứu, giảng dạy và học tập về thực hiện pháp luật trong các trường đại học và

trong các hệ thống các trường chính trị - hành chính ở CHDCND Lào.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận án được chia làm 4 chương, 11 tiết.

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về ngân sách, quản lý ngân sách

Các công trình nghiên cứu về ngân sách và quản lý ngân sách đã đề cập

đến các nội dung chủ yếu sau đây:

Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước trong

lịch sử, chứng minh ngân sách nhà nước tồn tại trong nền kinh tế như một yếu

tố không thể thiếu. Sự phát triển của các chế độ xã hội trong lịch sử từ xã hội

phong kiến đến Nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay đã đánh dấu quy trình

phát triển của pháp luật về ngân sách nhà nước. Vai trò ảnh hưởng của ngân

sách nhà nước đã bao trùm lên nhiều lĩnh vực, tác động đến mọi mặt của đời

sống xã hội nhất là đối với khu vực công cộng và khu vực tư nhân thông qua

việc thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội. Nhà nước huy động các

nguồn lực từ xã hội như thuế, phí, tài nguyên, hoạt động thương mại, phát

hành trái phiếu ra công chúng, thậm chí là vay nợ nước ngoài để tài trợ cho

hoạt động của nhà nước thông qua các chương trình hoạt động, thực hiện kế

hoạch thu ngân sách của Chính phủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước.

Việc quản lý, sử dụng các khoản thu của nhà nước, kiểm soát các khoản chi

tiêu chung cho xã hội đòi hỏi phải được thể chế hóa thành luật pháp và được

đại diện dân chúng kiểm soát.

Các công trình nghiên cứu đã khẳng định ngân sách nhà nước có vai trò

chủ đạo trong hệ thống tài chính, ngân sách đảm bảo nguồn vốn cho việc phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo, giữ vững an ninh - quốc

9

phòng. Với tính chất là một quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, ngân sách nhà

nước cân đối, điều hòa vốn giữa các ngành kinh tế, xây dựng mối quan hệ

giữa tích lũy và tiêu dùng, dự trữ để phát triển sản xuất, khắc phục thiên tai,

v.v.. Trong nền kinh tế thị trường ngân sách nhà nước cũng là công cụ tài

chính chủ yếu để nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế thị trường theo

đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình

nghiên cứu liên quan đến đề tài về ngân sách nhà nước và quản lý ngân sách

nhà nước, tiêu biểu là các công trình sau đây:

* Sách

Cuốn “Đổi mới ngân sách nhà nước” của Tào Hữu Phùng, Nguyễn

Công Nghiệp [56]. Cuốn sách đã đề cập đến tính tất yếu của đổi mới ngân

sách nhà nước ở Việt Nam trước tình hình mới; với các nội dung cụ thể về

thu, chi ngân sách nhà nước; tác giả đã đưa ra một số giải pháp để giúp đổi

mới ngân sách nhà nước đem lại hiệu quả cao.

Cuốn “Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính” của Võ Đình

Hảo [26]. Tác giả đã phân tích quá trình đổi mới chính sách cũng như cơ chế

quản lý tài chính ở Việt Nam thông qua các số liệu cụ thể, giúp cho người đọc

hiểu rõ về cơ chế quản lý tài chính sau gần 10 năm đổi mới ở Việt Nam.

Đối với nghiên cứu sinh Lào, các cuốn giáo trình và văn bản luật của

Việt Nam liên quan đến đề tài đều là những tài liệu tham khảo có giá trị vì ở

CHDCND Lào rất hiếm có những công trình có tính lý luận như những công

trình này.

Cuốn “Giáo trình Tài chính học” của Trường Đại học Tài chính - Kế

toán Hà Nội [20]. Cuốn sách giúp người đọc hiểu hơn về những vấn đề liên

quan đến tài chính như thu, chi ngân sách trung ương, ngân sách địa

phương; vai trò của Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp từ khâu

lập dự toán ngân sách đến khâu phân bổ ngân sách; công tác thanh tra,

kiểm tra tài chính.

10

Một số văn bản pháp luật liên quan đến ngân sách nhà nước như: Luật

Ngân sách nhà nước năm 1996; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

Ngân sách nhà nước năm 1998; Luật Ngân sách nhà nước năm 2002; Dự

thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết việc phân cấp quản lý, lập,

chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước; Tài liệu bổ sung thuyết trình

dự án Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) năm 2002; Báo cáo thẩm tra về dự

án Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) năm 2002; Báo cáo tiếp thu, giải trình

ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về dự án Luật Ngân sách nhà nước (sửa

đổi) năm 2002.

Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008 đã xuất bản cuốn “Giáo trình

Luật Ngân sách nhà nước” [18]. Cuốn giáo trình này đã giúp tác giả hiểu rõ

thêm về Luật Ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Có thể nói rằng, thực hiện

pháp luật về quản lý ngân sách nhà nước là nhân tố quan trọng góp phần làm

nên thắng lợi trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng

thành công chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian qua.

* Luận án, luận văn

- Dương Đăng Chinh “Ngân sách với vai trò điều chỉnh vĩ mô nền kinh

tế thị trường của Nhà nước” [8]. Luận án đã phân tích lịch sử hình thành ngân

sách nhà nước ở Việt Nam; khẳng định vai trò của ngân sách đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội đất nước. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, ngân sách

chi phối đến mọi hoạt động của nền kinh tế từ thu đến chi ngân sách.

- Cao Tấn Khổng “Một số giải pháp phân cấp quản lý ngân sách nhà

nước phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội trong điều kiện hiện

nay” [38]. Từ phân tích thực trạng của phân cấp ngân sách còn nhiều bất

cập, chồng chéo như ở Việt Nam hiện nay; tác giả của luận án đã đưa ra

một số giải pháp giúp phân cấp ngân sách nhà nước ở Việt Nam đạt hiệu

quả cao hơn.

11

- Nguyễn Đức Thanh “Quản lý chi ngân sách nhà nước qua kho bạc

nhà nước trong cơ chế thị trường” [75]. Luận án đã làm sáng tỏ thêm lý luận

về chi ngân sách nhà nước; thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước qua kho

bạc nhà nước (KBNN) ở Việt Nam; đồng thời, tác giả của luận án phân tích và

lý giải tính tất yếu của việc sử dụng ngân sách nhà nước qua KBNN trong nền

kinh tế thị trường; tác giả đưa ra một số giải pháp quản lý chi ngân sách nhà

nước qua kho bạc nhà nước để giảm thiểu các khâu trung gian, đem lại những

thuận lợi cho các đơn vị được thụ hưởng ngân sách nhà nước.

1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật

Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật

trên các lĩnh vực cụ thể, trong đó đáng chú ý là các luận án tiến sĩ. Tiêu biểu

là các công trình sau đây:

- Hoàng Minh Thái, “Thực hiện pháp luật về bảo vệ hộ quyền tác giả ở

Việt Nam hiện nay” [76]. Luận án đã nêu ra những quyền tác giả và quyền

liên quan đến quyền tác giả mà trong các Bộ luật đó cũ như: Bộ luật Dân sự

năm 1995; Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật Sở hữu trí tuệ và những các quy

định khác có liên quan đối với quyền tác giả để phát huy tác dụng tích cực

trong hoạt động bảo hộ quyền tác giả; qua đó, khuyến khích việc sáng tạo ra

các giá trị văn học, nghệ thuật và khoa học phục vụ nhu cầu xã hội.

- Đỗ Xuân Lân, "Thực hiện pháp luật đối với người nghèo trong Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [39]. Luận án đã phân tích, khái

quát khái niệm, chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò thực hiện pháp luật đối

với người nghèo; đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp bảo

đảm thực hiện pháp luật đối với người nghèo.

- Nguyễn Đức Phúc, “Thực hiện pháp luật về quyền con người của

phạm nhân trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam” [53]. Luận án đã nghiên

cứu vấn đề thực hiện pháp luật về quyền con người của phạm nhân trong thi

12

hành án phạt tù; đây là vấn đề mang tính thời sự, đang được nhiều quốc gia

trên thế giới quan tâm. Tại Việt Nam có rất nhiều văn kiện của Đảng và các

Nghị quyết đề cập vấn đề quyền con người trong thi hành án phạt tù.

- Nguyễn Huỳnh Huyện, “Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý

trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” [31]. Luận án

nghiên cứu lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý,

những giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý đáp ứng

nhu cầu thực tế cuộc sống, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam thực sự dân chủ, công bằng, văn minh.

- Lê Thanh Bình, “Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu

dùng ở Việt Nam” [2]. Luận án phân tích những quyền lợi của người tiêu dùng

đã được quy định rõ trong nhiều văn bản pháp luật, nhưng quyền lợi của người

tiêu dùng vẫn luôn bị vi phạm. Bởi vì phần lớn các sản phẩm người tiêu dùng sử

dụng là những sản phẩm không chỉ kém chất lượng mà còn rất độc hại, ảnh

hưởng không nhỏ đến sức khỏe, thậm chí cả tính mạng của con người.

- Nguyễn Hồng Chuyên, "Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo

yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [12].

Luận án nghiên cứu khái niệm, chủ thể, nội dung, hình thức, những điều kiện

bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng nhà

nước pháp quyền ở Việt Nam. Trên nền tảng lý luận đó, tác giả đi sâu phân

tích, đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện

pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở

Việt Nam hiện nay.

- Đồng Việt Phương, "Thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở ở các tỉnh

đồng bằng sông Cửu Long" [59]. Luận án phân tích, khái quát các vấn đề lý

luận của thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở như khái niệm, đặc điểm, nội

dung, nguyên tắc, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về hòa

13

giải ở cơ sở. Trên cơ sở lý luận đó, luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng

thực hiện và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh thực hiện pháp luật về hòa giải

cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long.

- Lê Thị Thúy Bình, "Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất

ở Việt Nam" [3]. Luận án cũng tiếp cận nghiên cứu các vấn đề lý luận về

thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất bao gồm khái niệm, đặc

điểm, vai trò, nội dung, các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật thế chấp

quyền sử dụng đất ở Việt Nam; từ đó đánh giá thực trạng và đề xuất quan

điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở

Việt Nam hiện nay.

- Norkeo Kommadam, "Thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở

nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay" [37]. Luận án nghiên cứu

khái niệm, hình thức, vai trò, các điều kiện bảo đảm thực hiện; thực trạng thực

hiện và quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài

ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.

- Lê Duyên Hà: "Thực hiện pháp luật về khiếu nại hành chính trong

lĩnh vực đất đai trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Việt Nam" [22]. Luận án

cũng đề cập khái niệm, đặc điểm, vai trò, hình thức, điều kiện bảo đảm thực

hiện pháp luật và khiếu nại hành chính trong lĩnh vực đất đai; thực trạng và

quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật trên lĩnh vực này ở các tỉnh

Tây Nguyên, Việt Nam hiện nay.

1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về pháp luật và thực hiện pháp

luật về sử dụng ngân sách nhà nước

- Khuynh Thị Quỳnh Hương, “Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động

kiểm soát chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam” [34]. Luận văn đề cập đến

những vấn đề lý luận về kiểm soát chi ngân sách nhà nước và pháp luật về

kiểm soát chi ngân sách nhà nước; phân tích thực trạng pháp luật về kiểm soát

14

chi ngân sách nhà nước, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát chi

ngân sách nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua; trên cơ sở đó, luận văn

đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm

soát chi ngân sách nhà nước và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kiểm soát

chi ngân sách nhà nước giai đoạn hiện nay.

- Nguyễn Thị Hoàng Yến, “Hoàn thiện pháp luật về quản lý ngân

sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay” [92]. Luận văn đã làm rõ một số vấn

đề lý luận cơ bản của pháp luật về quản lý ngân sách nhà nước và hoàn thiện

pháp luật về quản lý ngân sách nhà nước; phân tích thực trạng hệ thống pháp

luật về quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay; từ đó, tác giả của

luận văn đã đề ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý ngân sách

nhà nước.

- Đinh Thị Nguyệt Thương, “Pháp luật về nhiệm vụ chi thường xuyên

của ngân sách nhà nước - Thực trạng, giải pháp và biện pháp đảm bảo thực

hiện” [80]. Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật chi

thường xuyên của ngân sách nhà nước; phân tích thực trạng các quy phạm

pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về nhiệm vụ chi thường xuyên ngân

sách nhà nước trên thực tế; trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện

pháp luật và đưa ra biện pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về nhiệm vụ chi

thường xuyên của ngân sách nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động

chi ngân sách nhà nước.

* Tạp chí:

Liên quan đến đề tài luận án có một số công trình tiêu biểu công bố trên

các Tạp chí như: “Quản lý tài chính - ngân sách trong tình hình mới” của

Nguyễn Sinh Hùng [30]; “Sửa đổi bổ sung Luật Ngân sách nhà nước từ khía

cạnh pháp lý” của Nguyễn Minh Tân [69]; “Đổi mới quy trình lập, chấp hành,

quyết toán ngân sách nhà nước” của Nguyễn Minh Tân [70]; “Bàn về bản chất

15

ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường” của Bùi Đường Nghiêu [47];

“Hướng đổi mới cơ chế kiểm soát các khoản chi tiêu thường xuyên của ngân

sách nhà nước” của Vinh Sang [64]; “Năm năm thực hiện Luật Ngân sách nhà

nước - bảy bất cập lớn cần sửa đổi” của Tạp chí Tài chính điện tử [68]; “Tăng

cường vai trò của kho bạc nhà nước trong kiểm soát chi thường xuyên của

ngân sách nhà nước” của Nguyễn Thị Thu Hương [33]; “Phân cấp quản lý

ngân sách nhà nước ở Việt Nam và định hướng đổi mới” của Vũ Sỹ Cường

[15]; “Thực tiễn áp dụng pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện” của Trần Vũ Hải [24]; “Sáu hạn

chế, bất cập của Luật Ngân sách nhà nước hiện hành” của Lê Toàn Thắng

[78]; “Gần 200 nghìn tỷ đồng chi thường xuyên được kho bạc nhà nước kiểm

soát chặt chẽ” của Báo Hải quan điện tử [1]; “Thông tin báo chí về kết quả

thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2013, triển khai

nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2014” của Cổng thông tin điện

tử Bộ Tài chính [13]; “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nước ở Việt Nam” của Khuất Việt Hải [23]; “Một số biện pháp

để nâng cao hiệu quả chi ngân sách xã hội cho sự nghiệp xã hội” của Khoa

Quản trị kinh doanh - Đại học Duy Tân [35].

Những bài báo nêu trên đã đề cập đến những quy định về quy trình

lập, chấp hành, quyết toán chi NSNN, cơ chế kiểm soát các khoản chi

NSNN; thực tiễn áp dụng pháp luật về phân cấp quản lý NSNN, những bất

cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật về NSNN v.v..

Như vậy, các công trình được liệt kê ở trên của Việt Nam đã đề cập

tới nhiều khía cạnh, nội dung khác nhau trong vấn đề ngân sách nhà nước

cũng như thực hiện pháp luật về quản lý, sử dụng NSNN. Tuy nhiên, chưa

có một công trình nào nghiên cứu có hệ thống việc thực hiện pháp luật về

16

sử dụng ngân sách nhà nước mà tác giả đã lựa chọn làm đề tài viết luận án

của mình.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở Cộng hòa Dân

chủ Nhân dân Lào và nghiên cứu về Lào

Ngân sách nhà nước là công cụ để nhà nước thực hiện điều tiết các hoạt

động kinh tế - xã hội. Thông qua hoạt động thu ngân sách nhà nước, Nhà nước

thực hiện thu hút các nguồn vốn, tiền tệ hình thành quỹ ngân sách nhà nước.

Nguồn thu ngân sách nhà nước từ các thành phần kinh tế như: Thuế, phí, lệ phí,

thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước, vay nợ nước ngoài, phát hành trái phiếu

và các nguồn thu hợp pháp khác để đáp ứng cho hoạt động của Chính phủ.

Chính sách ngân sách nhà nước góp phần huy động vốn, động viên, khai thác,

nuôi dưỡng nguồn thu vào ngân sách, tạo điều kiện xây dựng kết cấu hạ tầng,

thành lập và bổ sung nguồn tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước giữ vai

trò chủ đạo, điều tiết các hoạt động kinh tế, chống độc quyền.

Thông qua hoạt động chi ngân sách nhà nước thực hiện phân phối

nguồn tiền tệ, tập trung vào ngân sách cho các hoạt động của nhà nước và xã

hội như: chi thường xuyên, chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi chương trình mục

tiêu quốc gia, chi xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội,

đảm bảo quốc phòng - an ninh, v.v.. Với mục tiêu xây dựng một xã hội phát

triển, công bằng văn minh, đòi hỏi nhà nước phải sử dụng ngân sách như một

công cụ đắc lực, công khai minh bạch có hiệu quả tác động vào đời sống xã

hội; để xã hội phát triển và giàu mạnh.

Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước là một bộ phận

quan trọng trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, từ trước đến

nay có một số nhà nghiên cứu ở Lào đã quan tâm và nghiên cứu vấn đề này.

Sau đây là một số công trình nghiên cứu tiểu biểu liên quan đến ngân sách

nhà nước, quản lý NSNN, thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN tại Lào.

17

- Cayxỏn Phomvihản, “Xây dựng cơ sở vững chắc để đưa đất nước

vững bước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa” [50]. Nội dung xuyên

suốt của cuốn sách đã luận giải và làm rõ vị trí, vai trò, mục tiêu, yêu cầu,

nhiệm vụ quan trọng chiến lược, lâu dài về chủ trương, chính sách, xây dựng

cơ sở vững chắc của CNXH. Tác giả đã đặt ra nhiều vấn đề quan trọng về mục

tiêu, yêu cầu, nội dung, hình thức xây dựng cơ sở toàn diện của CNXH, trong

đó nhấn mạnh về xây dựng hệ thống chính trị và nền dân chủ XHCN. Xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục

pháp luật, vận động các tầng lớp nhận thức về quyền và nghĩa vụ công dân

trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từng bước bảo đảm sự ổn định về chính trị,

trật tự an toàn xã hội, v.v..

- Martin Stuar-Fox với cuốn sách “Contemporary Laos: Studies in the

politics anh society of the Lao People Democratic Republic” (Nước Lào hiện

đại: Những nghiên cứu chính trị và xã hội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

Lào) [135]. Tác giả đánh giá kết quả 5 năm cầm quyền của Đảng Nhân dân

Cách mạng Lào trên tất cả các lĩnh vực.

- Lam Mon Khăm Vông Sả “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp

luật sử dụng ngân sách nhà nước ở Thủ đô Viêng Chăn trong thời kỳ đổi

mới” [112]. Trong luận văn, tác giả đã phân tích những biện pháp để quản lý

ngân sách nhà nước ở Thủ đô Viêng Chăn phải thống nhất theo nguyên tắc

tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp, quản lý sử

dụng ngân sách nhà nước, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Đề ra những quan

hệ giữa Trung ương và địa phương; trong đó, Trung ương phải giữ vai trò

quyết định các khoản thu như: Thuế, phí, lệ phí, vay nợ và các chế độ, tiêu

chuẩn, định mức chi tiêu thống nhất trong cả nước, tăng cường quản lý nhà

nước về chi ngân sách bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật về sử

dụng ngân sách.

18

- Đa Van Thôn Na Vong Sả “Phân tích sự ảnh hưởng việc sử dụng

ngân sách nhà nước vào việc phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Viêng

Chăn” [111]. Luận văn đã nêu ra sự thiếu hụt ngân sách nhà nước do nhu cầu

vốn tài trợ cho sự phát triển kinh tế quá lớn, đòi hỏi phải đi vay đề bù đắp. Sự

thiếu hụt ngân sách trong những năm qua được sử dụng như một công cụ

trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Chưa chú trọng

mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên; vẫn còn những

tồn tại vấn đề bội chi ngân sách địa phương.

1.1.3. Một số công trình nghiên cứu ở các nước khác

Ở các nước khác nghiên cứu sinh đã tiếp cận với một số công trình

nghiên cứu lý luận về thực hiện pháp luật, trong đó có công trình nghiên cứu

của các nhà khoa học ở Liên Xô trước đây và công trình nghiên cứu của các

nhà khoa học Mỹ, Đức, Ba Lan.

Trong bài viết "Những yếu tố tâm lý xã hội trong thực thi pháp luật"

[11] của Gorshunov đã phân tích sâu sắc yếu tố tâm lý xã hội đã ảnh hưởng

như thế nào đối với việc thực thi pháp luật. Theo Gorshunov yếu tố tâm lý xã

hội bao gồm tâm lý và lợi ích cá nhân lực nhận thức cá nhân và sự trợ giúp xã

hội; mục tiêu đồng thuận với mục đích cá nhân; nền tảng văn hóa và truyền

thống. Kết quả nghiên cứu này có giá trị tham khảo khi nghiên cứu mối liên

hệ giữa tâm lý xã hội ở CHDCND Lào với thực hiện pháp luật nói chung và

pháp luật về sử dụng NSNN nói riêng. Giáo sư S. Shawell Đại học Harvard đã

vận dụng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng để phân tích mối quan hệ

giữa thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật chuyên ngành [140]

trong đó ngoài cái chung phải chú ý tới tính đặc thù của thực hiện pháp luật

chuyên ngành. Kulcsar Kalman trong công trình "Cơ sở xã hội học pháp luật

[36] đã dành 01/05 chương để nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong đó phân

tích mối quan hệ giữa chính trị và áp dụng pháp luật, chuẩn mực pháp luật và

19

quyết định áp dụng pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật và tính hiệu quả

của pháp luật, nhân tố chủ quan trong quyết định áp dụng pháp luật. I. Ehrlich

trong công trình của mình đã phân tích mối quan hệ giữa công lý với thực

hiện pháp luật [127]. A.M Polinsky phân tích vai trò của các cơ quan nhà

nước trong thi hành pháp luật [138]. Eric Ostnov phân tích cụ thể hơn về mối

quan hệ giữa tâm lý với thi hành pháp luật của cảnh sát Mỹ [137]. Trong công

trình của mình Becker đã phân tích mối liên hệ giữa nhận thức của chủ thể vi

phạm pháp luật với hậu quả bị xử phạt. Ông cho rằng phương án tối ưu ở đây

là cần áp dụng hình phạt tối đa đối với nhận thức tối thiểu, hiệu quả thực hiện

pháp luật tùy thuộc vào mức độ nghiêm khắc của hình phạt [6]. Tác giả Block

và Sidak lại lập luận rằng áp dụng mức phạt tối đa với khả năng nhận thức tối

thiểu để ngăn chặn vi phạm pháp luật là không phù hợp với thực tế, thiếu khả

thi trong trường hợp tuân thủ pháp luật chống độc quyền [89]. Friedman bổ

sung lập luận, phân tích về việc ngăn chặn các cơ hội để cán bộ thi hành pháp

luật thu lợi bất chính trong việc thi hành công vụ [129].

Các kết quả nghiên cứu từ những công trình nêu trên đều là tài liệu

tham khảo có giá trị, gợi mở cho nghiên cứu sinh trong nghiên cứu các nội

dung của luận án, nhất là phần cơ sở lý luận và quan điểm, giải pháp bảo đảm

thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN ở nước CHDCND Lào.

1.1.4. Nhận xét các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đối với các công trình nghiên cứu ở nước ngoài: Nghiên cứu sinh chủ

yếu tìm hiểu các công trình nghiên cứu ở Việt Nam vì Việt Nam có nhiều

điểm tương đồng với CHDCND Lào, đặc biệt là cùng xây dựng chế độ

XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo;

cùng tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng

XHCN có sự quản lý của Nhà nước và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và

thế giới. Những kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu liên quan

20

đến đề tài ở Việt Nam sẽ có giá trị tham khảo thiết thực, trực tiếp ảnh hưởng

đến nội dung nghiên cứu trong luận án. Các công trình nghiên cứu ở nước

ngoài đã đề cập các vấn đề sau đây:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ngân sách, tài chính, quản lý

ngân sách bao gồm quan niệm về ngân sách thu, chi ngân sách; ngân sách

trung ương, ngân sách địa phương; vấn đề lập dự toán, phân bổ ngân sách;

thanh tra, kiểm tra tài chính v.v.. quản lý thu, chi ngân sách.

- Các luận án tiến sĩ chủ yếu đề cập vấn đề thực hiện pháp luật trên các

lĩnh vực riêng biệt, có một số luận văn đề cập đến hoàn thiện pháp luật, thực

hiện pháp luật quản lý ngân sách nhà nước, quản lý thuế. Một số luận văn, bài

tạp chí đề cập pháp luật về nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước, quản lý tài

chính - ngân sách trong tình hình mới, đổi mới cơ chế kiểm soát các khoản chi

tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả chi ngân sách

xã hội v.v.. Như vậy chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, có hệ

thống vấn đề thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước. Tuy vậy kết

quả nghiên cứu của các công trình này là tài liệu tham khảo có giá trị khi

nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước trên cả

phương diện lý luận và thực tiễn.

- Đối với các công trình nghiên cứu ở các nước khác đã gợi mở cho

nghiên cứu sinh các vấn đề cụ thể trong lý luận cũng như quan điểm, giải

pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở

CHDCND Lào.

Đối với các công trình nghiên cứu ở CHDCND Lào: Ở CHDCND Lào

công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài chưa nhiều. Nghiên cứu sinh nhận

thấy có một số công trình cung cấp những quan điểm lý luận chung về xây

dựng nhà nước pháp quyền, về thực hiện pháp luật nói chung như tác phẩm

của Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, Martin Stuar-fox v.v.. một số luận văn đề

21

cập vấn đề tăng cường quản lý nhà nước về sử dụng ngân sách nhà nước,

quản lý nhà nước về chi ngân sách v.v.. bao quát rộng hơn vấn đề đề tài

nghiên cứu. Những công trình nghiên cứu trong nước tuy chưa trực tiếp

nghiên cứu toàn diện, có hệ thống vấn đề thực hiện pháp luật về ngân sách

nhà nước nhưng kết quả nghiên cứu của những công trình này có giá trị tham

khảo rất bổ ích khi nghiên cứu sinh nghiên cứu những kết quả, ưu điểm, hạn

chế và nguyên nhân trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

ở CHDCND Lào.

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, GIẢ

THUYẾT VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

1.2.1. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Đứng trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà

nước ở CHDCND Lào vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém như: hệ thống pháp

luật về sử dụng ngân sách nhà nước quy định chưa rõ ràng dẫn đến việc thực

hiện pháp luật còn lúng túng, bất cập. Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

kiểm tra tất cả các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước cũng còn nhiều bất cập

như các chế định pháp luật về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền và

trách nhiệm của cơ quan có quyền kiểm tra chưa tương xứng với vị trí, vai trò

của mình; các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ với các bên có liên

quan chưa đồng bộ giữa nội dung và hình thức; các văn bản pháp luật cũng

chưa đáp ứng kịp thời với tình hình thực tiễn của công cuộc đổi mới, mở cửa,

hội nhập kinh tế quốc tế, chưa hoàn toàn phù hợp với quy định của các tổ

chức quốc tế.

Thực tiễn sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào cũng còn

nhiều hạn chế, yếu kém như: sử dụng ngân sách nhà nước không đúng mục

đích, thiếu công khai, minh bạch, hiệu quả thấp. Tình hình đó dẫn đến hậu

22

quả nghiêm trọng, nhiều vấn đề như an sinh xã hội, xây dựng hệ thống cơ sở

hạ tầng, giao thông, giáo dục, y tế, v.v.. sẽ không được đầu tư đúng theo dự

toán ngân sách bởi Nhà nước đã mất rất nhiều vốn đầu tư vì trong quá trình

thực hiện chi ngân sách nhiều nơi còn tình trạng tham nhũng, lãng phí, v.v..

Vì vậy, vấn đề này phải được kiểm tra bằng pháp luật gắn liền với sự hình

thành, ra đời và phát triển của tài chính nhà nước mà chủ yếu là ngân sách nhà

nước. Kiểm tra bằng pháp luật đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm ở các

nước phát triển, kinh nghiệm của các nước đó khẳng định sự hiện diện và hoạt

động của các cơ quan kiểm tra, góp phần hữu hiệu vào việc thiết lập và giữ

vững kỷ cương, kỷ luật tài chính, phát hiện và ngăn chặn các hành vi tham

nhũng, thất thoát, lãng phí tiền, tài sản của nhà nước, của nhân dân. Việc kiểm

tra đó trở thành bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống kiểm tra, kiểm

soát của nhà nước. Với bản chất là cơ quan kiểm tra tài chính công của Nhà

nước thì vị trí, tác dụng của nó đã được xã hội công nhận và không một cơ

quan chức năng nào khác có thể thay thế được trong việc tăng cường kiểm

soát, thực hiện mục đích sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực tài

chính của các cơ quan công quyền, các tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách

nhà nước. Kiểm tra bằng pháp luật trong việc sử dụng ngân sách nhà nước đã

được khẳng định như một chức năng, một công cụ quan trọng bậc nhất của hệ

thống quyền lực nhà nước hiện đại.

Trong bối cảnh việc sử dụng thống nhất và hiệu quả các khoản công

quỹ là một trong những đòi hỏi thiết yếu đầu tiên cho việc sử dụng hợp lý các

nguồn tài chính công và hiệu năng các quyết định của các cơ quan có thẩm

quyền. Để đạt được các mục tiêu này, không thể phủ nhận được rằng, mỗi

quốc gia cần có một cơ quan kiểm toán tối cao được pháp luật bảo đảm tính

độc lập. Khi nhà nước đã và đang mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực

23

kinh tế - xã hội thì các cơ quan kiểm toán tối cao càng ngày càng trở nên cần

thiết hơn. Vì vậy, các cơ quan kiểm toán phải hoạt động tuân theo những quy

định của khuôn khổ tài chính vốn có.

Các biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật trong sử dụng ngân sách

nhà nước trong các công trình nghiên cứu có liên quan sẽ góp phần phát hiện

những bất cập và đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường;

chống gian lận tham nhũng, các hành vi vi phạm pháp luật trong sử dụng

NSNN để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời, sẽ có những

kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật, góp phần khắc phục các hạn chế

khuyết tật của cơ chế thị trường và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng ngân

sách nhà nước.

Như vậy, vấn đề thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở

CHDCND Lào đòi hỏi phải được nghiên cứu có hệ thống, toàn diện cả về lý

luận và thực tiễn, bao gồm các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất

các quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách

nhà nước ở CHDCND Lào hiện nay.

1.2.2. Giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết nghiên cứu đặt ra ở đây là gắn với quá trình đổi mới phát

triển đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước

CHDCND Lào đã không ngừng hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách

nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho việc sử dụng ngân sách nhà nước bảo đảm sử

dụng ngân sách nhà nước công khai, minh bạch, tiết kiệm, có hiệu quả. Tuy

nhiên trong quá trình thực hiện có lúc, có nơi thực hiện chưa đúng, chưa đầy

đủ các quy định của pháp luật, thậm chí còn hiện tượng tham nhũng, lợi ích

nhóm v.v.. gây thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nước hoặc ngân sách được

sử dụng thiếu hiệu quả, không tiết kiệm. Cần phải nghiên cứu có hệ thống

những vấn đề lý luận, như khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, hình thức,

24

các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN; trên cơ sở lý

luận đó cần phân tích, đánh giá đúng thực trạng và đề xuất các quan điểm,

giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước

CHDCND Lào hiện nay.

1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu

Từ giả thuyết nghiên cứu nêu trên, luận án cần trả lời những câu hỏi

sau đây:

- Thế nào là sử dụng ngân sách nhà nước và thực hiện pháp luật về sử

dụng ngân sách nhà nước? Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

ở CHDCND Lào có những đặc điểm gì? Có vai trò như thế nào, thực hiện những

nội dung gì?

- Để bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước, về lý

luận, cần có những điều kiện gì?

- Thực tiễn thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở

CHDCND Lào trong những năm đổi mới vừa qua đạt được những thành tựu,

ưu điểm gì? Còn những hạn chế nào và nguyên nhân của những ưu điểm, hạn

chế đó.

- Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền

hiện nay ở CHDCND Lào, trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách

nhà nước cần quán triệt những quan điểm gì? Cần thực hiện các giải pháp nào

để bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước, công khai,

minh bạch, tiết kiệm và có hiệu quả.

25

Tiểu kết chương 1

Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam đã đề cập nhiều đến ngân sách,

quản lý nhà nước về ngân sách, ít có công trình nghiên cứu về thực hiện pháp

luật về sử dụng ngân sách nhà nước. Ở CHDCND Lào cũng có ít công trình

nghiên cứu trực tiếp về thực hiện pháp luật về ngân sách, chỉ có ít bài đề cập

đến quản lý, thực hiện chi ngân sách. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu của các

công trình kể trên là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị đối với tác giả trong

quá trình thực hiện luận án của mình. Các công trình nghiên cứu ở ngoài nước

và ở CHDCND Lào mới chỉ nghiên cứu những góc độ, khía cạnh khác nhau

về thực hiện pháp luật, về Luật Ngân sách nhà nước, quản lý nhà nước về

ngân sách, về thu chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam và Lào, có ít công trình

trực tiếp đề cập đến pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước v.v.. Có thể nói

rằng, chưa một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống

đối với “Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay”. Luận án được hoàn thành sẽ là công

trình có ý nghĩa thiết thực đối với Đảng và Nhà nước Lào trong việc bảo đảm

thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước Lào đạt yêu cầu công

khai, minh bạch, hiệu quả.

26

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA

DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ

DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

2.1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước

Lịch sử ngân sách nhà nước gắn liền với sự ra đời của nhà nước và sự

phát triển của nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ. Nhà nước ra đời, nảy sinh nhu cầu

phải chi tiêu để đảm bảo cho nhà nước thực hiện các chức năng của mình. Để

có tiền chi tiêu, nhà nước đã đặt ra chế độ thuế khóa với nhiều loại thuế khác

nhau và bắt nhân dân phải cống nạp. Chính những khoản thu này đã hình

thành nên quỹ tiền tệ của nhà nước, quỹ tiền tệ này lúc đầu được nhà nước sử

dụng để nuôi dưỡng binh lính và viên chức. Sau đó, phạm vi sử dụng được

mở rộng và ngày nay nhà nước không chỉ sử dụng quỹ tiền tệ này để chi tiêu

cho bộ máy của mình mà còn dùng nó để chi các khoản phúc lợi xã hội, kinh

tế, quốc phòng - an ninh, văn hóa - xã hội, v.v.. Quỹ tiền tệ được hình thành

và sử dụng như trên chính là NSNN.

Bằng quyền lực của mình, nhà nước tham gia vào quá trình phân phối

sản phẩm xã hội. Trong nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ, nhà nước sử dụng hình

thức tiền tệ trong phân phối như thuế bằng tiền, vay nợ bằng tiền, v.v.. để tạo

lập quỹ riêng có của mình - phục vụ cho hoạt động của chính nhà nước. Mặt

khác, sự phát triển của xã hội cũng là nhân tố kéo theo sự ra đời và phát triển

của NSNN. Đặc biệt từ thời kỳ tư bản chủ nghĩa, xã hội phát triển với đặc

trưng - nền kinh tế thị trường đã là môi trường để NSNN phát triển và hoàn

thiện. Một môi trường tài chính, kinh tế thông thoáng, một chế độ thuế khóa

hợp lý đi đôi với việc luật hóa các khoản thu, chi của nhà nước luôn là mục

27

tiêu đấu tranh của giai cấp tư sản. Kết quả của cuộc đấu tranh đó đã dẫn tới sự

thừa nhận về mặt nhà nước các chuẩn mực tài chính trong hoạt động tạo lập

và sử dụng quỹ tiền tệ của nhà nước; đồng thời, đánh dấu sự ra đời của thực

thể NSNN trong lịch sử.

Cho đến nay, các nhà nước khác nhau đều tạo lập và sử dụng ngân

sách nhà nước của riêng mình. Vì vậy, thuật ngữ “ngân sách nhà nước” được

sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia. Song quan

niệm về ngân sách nhà nước thì lại chưa thống nhất. Trên thực tế, người ta

đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về “ngân sách nhà nước”, phụ thuộc

vào quan điểm của người định nghĩa theo trường phái kinh tế nào, mục đích

nghiên cứu là gì.

Thuật ngữ ngân sách nhà nước được sử dụng rộng rãi trong các diễn

đàn khoa học và đời sống thực tiễn nhằm để nâng cao ý thức chính trị của

nhân dân trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước và nâng cao

trách nhiệm trong quản lý sử dụng quỹ ngân sách nhà nước phục vụ cho hoạt

động của nhà nước và lợi ích công cộng của xã hội. Thuật ngữ ngân sách nhà

nước được nghiên cứu, định nghĩa ở nhiều phương diện cả về khoa học, kinh

tế, thực tiễn và pháp lý. Nhà kinh tế học Philip.E.Taylor định nghĩa rằng:

“Ngân sách là chương trình tài chính chủ yếu của Chính phủ”, có thể hiểu

Taylor muốn nói ngân sách nhà nước là một bản kế hoạch về thu chi tài chính

của một đất nước, được soạn thảo, đệ trình, thông qua theo một quy trình nhất

định theo pháp luật, có giá trị pháp lý như một văn bản luật, buộc các chủ thể

phải tuân thủ việc thực hiện.

Về phương diện pháp lý, định nghĩa ngân sách nhà nước là một khái

niệm pháp lý quan trọng, được thể hiện trong một đạo luật do Quốc hội (cơ

quan lập pháp của nhà nước ban hành để các cơ quan hành pháp thực hiện. Sở

dĩ ngân sách nhà nước là một đạo luật vì ngân sách nhà nước do cơ quan lập

pháp quyết định và phê chuẩn theo một trình tự làm luật và có hiệu lực như

28

luật; mặc dù, nó có những thủ tục đặc biệt khác với trình tự lập pháp thông

thường. Khái niệm ngân sách nhà nước được quy định trong Luật Ngân sách

nhà nước còn hàm chứa nhiều nội dung chính trị, pháp lý quan trọng, thể hiện

mối quan hệ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan lập pháp, cơ quan hành

pháp của bộ máy nhà nước trong việc quyết định lập, chấp hành, quyết toán,

thanh tra, kiểm tra, kiểm toán ngân sách nhà nước (còn gọi là quản lý và sử

dụng ngân sách nhà nước), phân cấp ngân sách giữa cơ quan Trung ương và

cơ quan chính quyền địa phương, v.v.. Để thực thi đạo luật đó, cơ quan có

thẩm quyền còn ban hành nhiều văn bản để triển khai thực hiện như các nghị

quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư, v.v..

Theo quan điểm của những nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, NSNN là

một văn kiện tài chính, mô tả các khoản thu và chi của Chính phủ, được thiết

lập hàng năm. Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác

nhau về NSNN: Các nhà kinh tế Nga cho rằng, NSNN là bảng liệt kê các

khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của nhà nước. Hoặc

theo Đại từ điển kinh tế thị trường (Trung Quốc) định nghĩa “NSNN là kế

hoạch thu chi tài chính hàng năm của nhà nước được xét duyệt theo trình tự

pháp định” [88, tr.651].

Từ những phân tích trên đây, ta có thể định nghĩa về NSNN như sau:

Dưới góc độ kinh tế - xã hội: NSNN được đặc trưng bằng sự vận động

của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng

quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức

năng của nhà nước trên cơ sở pháp luật đã định. Nó phản ánh các quan hệ

kinh tế giữa nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, phát sinh khi nhà

nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không

hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.

Xét dưới góc độ kinh tế - pháp lý: Theo Luật NSNN số 02/QH, ngày

26/12/2006 của Lào thì “NSNN là dự toán về thu - chi của nhà nước đã được

29

Quốc hội thông qua hàng năm. NSNN là trung tâm của hệ thống tài chính

quốc gia, là công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô nhằm đảm bảo cho nền kinh tế -

xã hội phát triển”.

Như vậy, theo quy định Luật Ngân sách nhà nước (năm 2006) của

CHDCND Lào thì NSNN được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau:

+ Từ góc độ kinh tế: NSNN bao gồm các khoản thu, chi được xác định

bởi con số cụ thể nhằm xác định rõ khả năng tạo nguồn thu kinh phí để đáp

ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước; đồng thời để tạo thế cân bằng thu, chi.

Các khoản thu, chi này được xác định bằng các đại lượng tiền tệ cụ thể,

được tập trung thành một khối thống nhất và được quản lý bởi hệ thống cơ

quan tài chính chuyên trách. Các khoản thu này phải được cơ quan có thẩm

quyền phê chuẩn.

+ Từ góc độ pháp lý: Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền quyết định dự

toán NSNN và phân bổ NSNN. Việc quyết định dự toán NSNN và phân bổ

NSNN được Quốc hội thực hiện bằng cách thông qua một Nghị quyết và khi

đó dự toán NSNN sẽ trở thành một đạo luật (Đạo luật ngân sách thường niên).

Đạo luật ngân sách thường niên gồm hai bộ phận hợp thành: Nghị quyết của

Quốc hội thông qua NSNN và bảng cân đối thu, chi ngân sách sẽ được thực

hiện trong các năm. Khác với các đạo luật khác, đạo luật NSNN thường niên

hết hiệu lực khi năm dương lịch kết thúc. Đạo luật NSNN thường niên cũng

khác với đạo luật NSNN quy định về việc lập, chấp hành, quyết toán NSNN

và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước các cấp trong lĩnh vực NSNN.

Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu NSNN là toàn bộ các khoản

thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức

năng, nhiệm vụ của nhà nước.

Như vậy, hoạt động NSNN nhìn bề ngoài là hoạt động thu, chi (tạo lập

và sử dụng) quỹ tiền tệ của nhà nước làm cho nguồn tài chính này vận động

30

giữa nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, trong quá trình phân phối sản

phẩm xã hội. Nhưng đằng sau nó chứa đựng các mối quan hệ kinh tế - xã hội,

sự điều tiết nền kinh tế của nhà nước, v.v.. Do đó, để nhận thức về NSNN

không chỉ dừng lại ở việc mô tả bề ngoài, mô tả khía cạnh vật chất của NSNN

mà còn phải làm sáng tỏ nội dung bên trong thuộc bản chất của NSNN. Hay

nói cách khác, NSNN không chỉ đơn thuần là một phạm trù kinh tế mang tính

lịch sử mà cùng với sự phát triển của xã hội, NSNN đã trở thành một thực thể

pháp lý và là công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện việc điều tiết nền kinh

tế và quản lý xã hội.

2.1.1.2. Khái niệm sử dụng ngân sách nhà nước

Xét về nội dung hình thái biểu hiện, ngân sách nhà nước bao gồm hai

hình thái là thu ngân sách và chi ngân sách - kết quả của quá trình huy động

và quá trình sử dụng tài chính. Vậy, có thể hiểu như thế nào về khái niệm sử

dụng ngân sách nhà nước ?

Nhìn từ góc độ kinh tế, sử dụng NSNN là hoạt động phân phối lại

nguồn tài chính nhà nước, theo đó nhà nước tiến hành sử dụng quỹ NSNN để

cung ứng cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình trong một

thời hạn nhất định. Quá trình này đồng nghĩa với việc Chính phủ tổ chức thực

hiện dự toán sử dụng ngân sách (hay còn được hiểu là chi NSNN) đã được

Quốc hội quyết định bằng đạo luật ngân sách hàng năm.

Từ phương diện pháp lý, sử dụng NSNN được hiểu là chế độ phân phối

đặc thù các nguồn lực tài chính, trong đó nhà nước thực thi quyền sở hữu của

mình đối với nguồn vốn quỹ NSNN bằng cách “cấp phát không hoàn lại”

nguồn tài chính đó cho các đối tượng được hưởng kinh phí ngân sách. Thông

qua việc thể chế hóa bằng pháp luật đối với hoạt động chi tiêu ngân sách, nhà

nước hướng tới nhiều mục tiêu khác nhau; trong đó bao gồm mục tiêu quản lý

hiệu quả việc sử dụng công quỹ và tăng cường kỷ luật về ngân sách nói chung

31

và pháp luật về sử dụng ngân sách nói riêng, góp phần hạn chế tình trạng

tham nhũng, lãng phí tài sản nhà nước.

Mặc dù có thể tiếp cận khái niệm sử dụng NSNN từ nhiều góc độ khác

nhau, nhưng tựu trung lại, cần nhận thức rằng: Sử dụng NSNN là hoạt động sử

dụng quỹ NSNN nhằm phân phối lại nguồn tiền tệ nằm trong quỹ NSNN để sử

dụng cho những mục đích khác nhau của nhà nước, theo một chương trình, kế

hoạch đã được cơ quan có thẩm quyền cao nhất quyết định.

Theo Luật NSNN năm 2006 của Lào, Chương 2 Điều 18 đến Điều 23,

sử dụng NSNN bao gồm các khoản chi để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo

quốc phòng - an ninh, duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước, chi trả nợ của

nhà nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.

Việc thiết kế các khoản chi ngân sách như thế nào trong mỗi năm ngân sách

phụ thuộc đáng kể vào quá trình thực hiện các khoản thu ngân sách trong năm

đó. Vì thế, để có được một chính sách chi tiêu hợp lý, các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền không thể bỏ qua việc xem xét mối quan hệ tương tác giữa

phần dự toán chi với phần dự toán thu trong bảng cân đối NSNN hàng năm.

Mặt khác, để quản lý và sử dụng NSNN nói chung và pháp luật về sử dụng

NSNN cũng cần phải được xây dựng dựa trên kết quả phân loại khoa học về

các khoản chi NSNN. Điều đó có nghĩa là, tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm

của mỗi khoản chi NSNN mà người soạn luật phải thiết kế những quy định

khác nhau nhằm tạo tiền đề pháp lý cho việc thực hiện và quản lý, kiểm soát

một cách tốt nhất, hiệu quả nhất đối với mỗi khoản chi đó.

Trên thực tế, sử dụng NSNN có hai cách phân loại với các khoản chi

NSNN sau đây:

+ Phân loại theo tính chất pháp lý của các khoản chi ngân sách: Cách

này có ảnh hưởng sâu sắc đến việc xây dựng pháp luật về sử dụng NSNN,

theo đó các khoản chi được phân thành ba loại. Loại thứ nhất, các khoản chi

theo luật định là những khoản chi đã được quy định trong một đạo luật nào

32

đó mà Nhà nước có trách nhiệm phải đảm bảo. Ví dụ, ở Cộng hòa Liên bang

Đức, Luật của các bang đều quy định, mọi trẻ em từ 3-6 tuổi đều có quyền

được nhà nước bố trí một chỗ ở nhà trẻ. Do vậy, trong quá trình lập và thảo

luận để thông qua ngân sách về khoản chi này, Bộ Tài chính không có quyền

can thiệp vào khoản chi này. Bộ chủ quản có trách nhiệm tính toán tổng số

trẻ em trong độ tuổi, trong năm kế hoạch nhân với định mức chi cho một đầu

trẻ em, để tính toán dự toán ngân sách chi cho lĩnh vực này. Đối với các

khoản chi theo luật thường chiếm ít thời gian thảo luận ở cấp Bộ, cấp Chính

phủ cũng như ở Quốc hội. Loại thứ hai, các khoản chi đã được cam kết là

những khoản chi đã được một bên là cơ quan có thẩm quyền đại diện hợp

pháp cho nhà nước ký với bên thứ ba (người cung cấp hàng hóa, dịch vụ)

nhằm đảm bảo thực hiện việc thanh toán các hóa đơn theo hợp đồng đã được

ký kết từ những năm trước chuyển sang. Các khoản chi này thường là những

khoản chi đầu tư xây dựng các công trình kéo dài trong nhiều năm, chi cho

những hợp đồng mua sắm những lô hàng hóa có giá trị lớn. Các khoản chi

này tuy tính pháp lý có thấp hơn các khoản chi theo luật định ở trên song

cũng đã được người đại diện hợp pháp của nhà nước cam kết với bên thứ ba.

Do vậy, trong điều kiện nền kinh tế phát triển bình thường, trình độ kế hoạch

hóa cao và hiệu quả, các khoản chi không bị thay đổi so với dự kiến thì việc

lập dự toán các khoản chi này cũng không tốn nhiều thời gian để thảo luận

tại cấp Bộ, cấp Chính phủ cũng như tại Quốc hội. Loại thứ ba, các khoản chi

có thể điều chỉnh là những khoản chi không bị luật ràng buộc và cũng chưa

được cam kết. Các khoản chi này thường gắn với một số nhu cầu chi cụ thể,

ví dụ như chi xuống cấp các di tích lịch sử, chi quản lý hành chính v.v.. Do

tính pháp lý của các khoản chi này thấp nên trong quá trình thảo luận ngân

sách, thường được Quốc hội nghiên cứu mổ xẻ và thảo luận kỹ từ cấp Bộ,

Chính phủ đến Quốc hội, đặc biệt là những khoản chi mới phát sinh so với

năm trước.

33

+ Phân loại theo tiêu chí mục đích kinh tế - xã hội của các khoản chi

NSNN: được phân thành hai loại. Loại thứ nhất, chi đầu tư phát triển là khoản

chi của nhà nước có tác dụng làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển

như để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất (xây

dựng mới, tu bổ công sở, đường sá, kiến thiết đô thị, mua sắm thiết bị máy

móc, thành lập các doanh nghiệp, góp vốn vào các đơn vị sản xuất kinh

doanh), dự trữ vật tư hàng hóa. Loại thứ hai, chi thường xuyên là các khoản

chi để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước, chi để thực hiện những nhiệm

vụ thường xuyên về quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước. Xét về tính chất

kinh tế, chi thường xuyên của NSNN bao gồm các khoản chi lương, chi phụ

cấp, các khoản chi hàng hóa và dịch vụ phát sinh thường xuyên của nhà nước.

Các khoản chi này chủ yếu nhằm trang trải các nhu cầu về quản lý hành chính

nhà nước, quốc phòng - an ninh, về các hoạt động sự nghiệp và các hoạt động

xã hội khác do nhà nước tổ chức.

Tác dụng của việc phân loại theo mục đích chi ngân sách, nhằm nâng

cao hiệu quả sử dụng NSNN sẽ giúp cho Chính phủ thiết lập các chương trình

chi tiêu và kết hợp hài hòa giữa các nhóm nhằm nâng cao hiệu quả của chi

tiêu từ ngân sách nhà nước. Ngoài ra, do tính chất của việc chi ngân sách có

những khác biệt cơ bản nên các nguyên tắc về quản lý, tổ chức thực hiện kiểm

soát các loại chi ngân sách cũng phải khác nhau.

2.1.1.3. Khái niệm pháp luật và thực hiện pháp luật về sử dụng ngân

sách nhà nước

Ngân sách nhà nước là khâu trung tâm trong hệ thống tài chính của nhà

nước. Trong hệ thống pháp luật về tài chính của quốc gia, pháp luật về ngân

sách có vai trò chủ đạo, điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội trong hoạt

động ngân sách của nhà nước. Theo Giáo trình Luật Tài chính Việt Nam -

“Pháp luật ngân sách nhà nước, bộ phận cấu thành chủ yếu của Luật Tài chính

là tập hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan

34

hệ xã hội phát sinh trong quá trình hình thành, quản lý và sử dụng quỹ ngân

sách nhà nước, các quan hệ xã hội liên quan đến quá trình lập, phê chuẩn,

chấp hành và quyết toán ngân sách” [19, tr.18].

Pháp luật về NSNN bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật quy định về

hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, quy định về tổ chức điều hành ngân

sách. Trong đó, pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước gắn liền với hoạt

động chi ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nước là điều kiện và cơ sở

để nhà nước thực hiện sử dụng NSNN cho hoạt động của mình. Do tính chất

của quỹ NSNN là tiền - tài sản của nhà nước và xã hội nên hoạt động sử dụng

NSNN phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định theo pháp luật,

không có sự tùy tiện trong việc quy định các khoản thu NSNN. Nguồn ngân

sách tập trung của nhà nước phải phục vụ cho hoạt động của nhà nước và toàn

xã hội. Để đảm bảo chính xác, công bằng và hiệu quả trong sử dụng NSNN;

đồng thời, thể hiện quyền lực nhà nước, nhà nước phải đặt ra pháp luật làm

quy tắc xử sự, làm chuẩn mực cho hoạt động sử dụng NSNN. Các quy phạm

pháp luật về sử dụng NSNN tạo thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp

luật về sử dụng NSNN.

Pháp luật về quản lý, sử dụng NSNN bao gồm những vấn đề cơ bản:

nguyên tắc quản lý, sử dụng NSNN; tổ chức, quản lý, điều hành ngân sách,

các cấp ngân sách, thẩm quyền quyết định thu, chi ngân sách nhà nước; phân

cấp quản lý ngân sách, quy định nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp chính

quyền Trung ương, địa phương; trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà

nước các cấp trong quản lý, sử dụng NSNN, quy trình NSNN và chế độ kiểm

tra, thanh tra, kiểm toán, kế toán, quyết toán và công khai NSNN.

Như vậy, từ những phân tích nêu trên có thể hiểu pháp luật về sử dụng

ngân sách nhà nước là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan

nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong

việc thực hiện nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp, quy định nhiệm vụ quyền

35

hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình sử

dụng ngân sách nhà nước.

Như vậy, nội hàm khái niệm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách

nhà nước dựa trên các cơ sở sau:

Một là, hoạt động sử dụng ngân sách nhà nước là một bộ phận của hoạt

động ngân sách nhà nước. Do đó, nó mang đầy đủ bản chất, đặc trưng chung

của hoạt động ngân sách nhà nước.

Hai là, pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong sử dụng ngân sách nhà

nước là một bộ phận của pháp luật về ngân sách nhà nước, chịu sự chi phối,

hiệu lực về các nguyên tắc cơ bản và cơ chế thi hành ngân sách nhà nước.

Từ đó, có thể xác định nguồn pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

bao gồm: Hiến pháp (các quy định liên quan đến hoạt động chi ngân sách nhà

nước như các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước); các

đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước; Luật Ngân sách nhà nước; các văn bản

quy phạm pháp luật về Ngân sách nhà nước do Chính phủ ban hành; các văn

bản do Bộ Tài chính, văn bản liên tịch về ngân sách nhà nước; các văn bản quy

phạm pháp luật về ngân sách nhà nước do chính quyền tại các địa phương ban

hành theo thẩm quyền của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Công cụ pháp luật luôn cần thiết trong xã hội, điều đó xuất phát từ vai

trò của pháp luật trong đời sống xã hội và trong hoạt động của nhà nước. Pháp

luật là phương tiện để nhân dân thể hiện ý chí, quyền làm chủ của mình đối

với nhà nước; bên cạnh đó, pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý xã

hội. Trong Điều 10 - Hiến pháp 2013 của Lào quy định: “Nhà nước quản lý

xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Đảng, các cơ quan nhà nước, Mặt trận

Lào xây dựng đất nước, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và toàn thể công dân

phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật” [113, tr.4]. Ở

lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng

trong bảo đảm sự ổn định và phát triển năng động của xã hội. Đối với đời

36

sống kinh tế, các quan hệ kinh tế rất đa dạng, phong phú, phức tạp; đặc biệt là

lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Chính vì vậy, cần thiết phải điều chỉnh, định

hướng cho kinh tế phát triển, loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, ngăn ngừa rối

loạn, khủng hoảng, thiết lập trật tự và ổn định. Khi đó, pháp luật trở thành

phương tiện điều chỉnh quan hệ kinh tế; Nhà nước tác động đến nền kinh tế

bằng kế hoạch, cơ chế, chính sách, sự tác động vĩ mô đó muốn đạt hiệu quả

cao thì phải được thể chế hóa bằng pháp luật. Hệ thống pháp luật tài chính nói

chung, pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước nói riêng giữ vai trò rất quan

trọng. Hoạt động tài chính của các chủ thể kinh tế không chỉ liên quan đến lợi

ích của họ mà còn ảnh hưởng, tác động đến lợi ích của toàn bộ nền kinh tế.

Bởi vậy, ở mức độ khác nhau đòi hỏi nhà nước phải sử dụng pháp luật điều

chỉnh các hoạt động này. Điều 18 - Hiến pháp 2013 của Lào quy định: “Nhà

nước quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước, thực

hiện nguyên tắc kết hợp quản lý tập trung thống nhất của các ngành ở Trung

ương với việc phân cấp trách nhiệm quản lý cho chính quyền địa phương phù

hợp với quy định của pháp luật” [113, tr.6].

Pháp luật bao giờ cũng là công cụ quan trọng, cần thiết trong một xã

hội mà ở đó các chủ thể có các quyền lợi khác nhau, thậm chí đối lập nhau;

lúc này, pháp luật vừa là công cụ để dung hòa quyền lợi giữa nhà nước và các

tổ chức, cá nhân; đồng thời, vừa là công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền lợi của nhà

nước. Nhìn chung, lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà nước, sự khác nhau về

mục tiêu, bản chất các quyền lợi khiến cho Chính phủ có thể trở thành người

hỗ trợ cho các đơn vị, cá nhân quyền lợi hoặc tước bỏ quyền lợi. Ví dụ: Các

doanh nghiệp mong muốn tự do sản xuất, kể cả việc sản xuất ảnh hưởng đến

môi trường; Chính phủ cho phép các doanh nghiệp tự do kinh doanh nhưng

nghiêm cấm làm ảnh hưởng đến hoạt động môi trường. Doanh nghiệp muốn

trốn thuế, làm sao để nộp thuế ít nhất; còn Chính phủ lại yêu cầu họ nộp thuế

xứng đáng với nghĩa vụ của họ. Các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước cũng

37

vậy, họ luôn muốn nhà nước cấp nhiều ngân sách, trong khi chức năng không

tăng thêm; các đơn vị sự nghiệp luôn muốn được tự chủ trong hoạt động sản

xuất kinh doanh, tự chủ trong quy chế chi tiêu, có quyền quyết định tại các

đơn vị mình nhưng luôn mong muốn không bị cắt giảm hoặc hỗ trợ ngân sách

từ phía nhà nước, v.v.. Vì vậy, chỉ có thể thông qua pháp luật mới có thể điều

chỉnh các hoạt động của nhà nước, xã hội vận động theo đúng quy luật tất yếu

khách quan; đảm bảo chính xác, công bằng và nâng cao hiệu quả sử dụng

ngân sách nhà nước.

Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước giúp các đơn vị, cá

nhân nhận thức được trách nhiệm của đơn vị, các nhân trong việc quyết định

chi đúng chế độ, trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền giao. Các

quy định cụ thể của pháp luật nhằm đảm bảo nghiêm túc sử dụng ngân sách

nhà nước không bị chồng chéo, mang tính phối hợp giữa các đơn vị, cá nhân,

tránh chồng chéo chi ngân sách; đồng thời, phù hợp với chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội, đáp ứng được những nhu cầu thực tế của các đơn vị, cá nhân

thụ hưởng ngân sách nhà nước.

Các quy phạm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN bao gồm hai bên,

bên chủ thể luôn là nhà nước mà đại diện là các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền còn một bên là đối tượng thụ hưởng NSNN có thể là tổ chức hoặc cá

nhân. Trong bất kỳ hoạt động kinh tế - xã hội nào cũng có sử dụng các nguồn

lực tài chính, chủ thể tiến hành hoạt động đó cũng đều phải kiểm soát việc sử

dụng nguồn tài chính để đảm bảo chi đúng nguyên tắc, đúng chế độ, tiết kiệm

chi phí với mục đích cuối cùng là sử dụng tối ưu hiệu quả nguồn vốn và phát

triển đất nước bền vững.

Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu thực hiện pháp luật về sử dụng

ngân sách nhà nước là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, thực hiện

quy định của pháp luật về dự toán chi, phân bổ, cấp phát, quyết toán và giám

38

sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán việc sử dụng ngân sách nhà nước bảo đảm

việc sử dụng NSNN tiết kiệm, công bằng, minh bạch và có hiệu quả.

2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

Ngân sách nhà nước có tác động trực tiếp đến việc thực hiện các chức

năng của nhà nước về quản lý kinh tế - xã hội, là một trong những nhân tố

có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả của bộ máy quản lý nhà

nước. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước không những bảo

đảm cho nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, phát triển kinh

tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, hoạt động đối ngoại mà còn thực

hiện mục tiêu ổn định và điều chỉnh thu nhập, hỗ trợ người nghèo, gia đình

chính sách, thực hiện các chính sách xã hội, v.v.. góp phần thực hiện mục

tiêu công bằng xã hội, đảm bảo an ninh, an toàn xã hội và sự toàn vẹn lãnh

thổ quốc gia.

Hoạt động NSNN luôn chứa đựng trong nó các mối quan hệ kinh tế - xã

hội, so với các khâu tài chính khác trong nền tài chính quốc gia, như tài chính

dân cư, tài chính doanh nghiệp, v.v.. NSNN có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, các hoạt động tạo lập và sử dụng NSNN gắn chặt với quyền

lực kinh tế - chính trị và việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Nói cách

khác, quyền lực nhà nước và các chức năng của nhà nước là nhân tố quyết

định mức thu, chi, nội dung và cơ cấu chi của ngân sách nhà nước. Nền kinh

tế thị trường chịu sự điều chỉnh của quy luật cung - cầu; vì vậy, giá cả là do

thị trường quyết định. Bằng công cụ thuế, chính sách chi tiêu ngân sách, nhà

nước có thể tác động tới mặt cung hoặc cầu để bình ổn giá cả thị trường. Đặc

biệt, sự hình thành và tồn tại các quỹ dự phòng trong ngân sách nhà nước để

đối phó với những biến động của thị trường đóng vai trò cực kỳ quan trọng

trong việc bình ổn giá cả. Các quỹ dự phòng này được hình thành chủ yếu từ

39

vốn ngân sách. Đây là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của nhà

nước trong việc bình ổn thị trường.

Thứ hai, các hoạt động thu, chi của NSNN đều được thực hiện trên cơ

sở luật định. Đó là các luật thuế, các pháp lệnh thuế, chế độ thu, chế độ chi

tiêu chuẩn, định mức thu, chi, v.v.. do nhà nước ban hành. Việc dựa trên cơ sở

pháp luật để tổ chức các hoạt động thu, chi của NSNN là một yêu cầu có tính

khách quan, nó bắt nguồn từ phạm vi hoạt động của NSNN, được tiến hành

trên mọi lĩnh vực và có tác động tới mọi chủ thể trong xã hội, từ tính chất đến

tác dụng của các khoản thu, chi NSNN. Thông qua hoạt động thu, chi NSNN,

nhà nước thực hiện việc tái phân phối lại thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.

NSNN là công cụ trợ giúp đắc lực cho nhà nước thực hiện mục tiêu này. Bằng

các hình thức chi hỗ trợ, trợ cấp khó khăn, cho vay vốn ưu đãi với hộ nghèo

v.v.. thông qua hệ thống thu trực tiếp và gián tiếp, nhà nước đã thực hiện việc

điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, định hướng chi tiêu cho xã hội,

đảm bảo công bằng trong xã hội.

Thứ ba, nguồn tài chính chủ yếu hình thành nên quỹ NSNN - quỹ tiền

tệ tập trung lớn nhất của nhà nước là từ giá trị sản phẩm thặng dư trong hoạt

động kinh tế và được hình thành chủ yếu trong quá trình phân phối lại, thuế là

hình thức thu phổ biến. Các chủ thể tiến hành hoạt động kinh tế, các cá nhân

trong xã hội tham gia vào quá trình sản xuất hoặc tham gia hoạt động kinh tế

(tạo ra giá trị thặng dư), có nghĩa vụ phải đóng một phần giá trị nhận được

vào NSNN dưới dạng các khoản thu thuế, đây là nguồn thu chủ yếu của ngân

sách nhà nước. Thông qua các kênh đầu tư (cấp phát trực tiếp, tín dụng, v.v..),

sử dụng chính sách chi ngân sách và cơ chế động viên các nguồn thu vào

ngân sách, nhà nước tạo điều kiện xây dựng kết cấu hạ tầng, thành lập các

doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành, lĩnh vực then chốt, kích thích sự phát

triển các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, v.v.. Trên cơ sở đó, nhà nước

định hình cơ cấu kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chống độc quyền,

40

tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, trong

từng điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cũng có thể được

sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định

về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho sự chuyển dịch sang một cơ cấu mới. Ngoài ra,

bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, NSNN củng cố vai trò

định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế kinh doanh một số ngành nghề

nhất định trong xã hội.

Thứ tư, đằng sau các hoạt động thu, chi của NSNN là sự thể hiện các

mặt hoạt động kinh tế - xã hội của nhà nước ở tầm vĩ mô, là việc xử lý các

mối quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích trong xã hội khi nhà nước tham gia phân

phối các nguồn tài chính quốc gia. Chế độ kinh tế, nhiệm vụ kinh tế của nhà

nước trong từng giai đoạn là nhân tố quyết định tới cơ cấu thu, chi của ngân

sách nhà nước. Thuế, chi tiêu và dự trữ ngân sách nhà nước là các yếu tố có

tác động rất lớn tới quan hệ cung - cầu, bình ổn giá các mặt hàng trên thị

trường. Hoạt động sử dụng ngân sách nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ tới

vấn đề lạm phát. Lạm phát chỉ xảy ra khi mất cân đối thu, chi ngân sách nhà

nước; vì vậy, giữ cân bằng thu, chi có tác dụng kiềm chế lạm phát gia tăng.

Để thực hiện được điều đó, nhà nước phải có chế độ thu hợp lý tránh tình

trạng khan hiếm cục bộ trên thị trường; bên cạnh đó, Nhà nước phải có một

cơ chế tiết kiệm thật hiệu quả.

Ở Lào nền kinh tế được xác định là nền kinh tế thị trường có sự điều

tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy cơ cấu thu, chi

NSNN thể hiện rất rõ điều đó, với mục tiêu là kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ

đạo trong nền kinh tế quốc dân, nên tỷ lệ ngân sách chi cho doanh nghiệp nhà

nước của Lào thường lớn hơn rất nhiều so với các đơn vị ngoài quốc doanh.

Theo thống kê đến năm 2014 ở Lào có khoảng 130 doanh nghiệp nhà nước

với tổng số vốn 19.412 tỷ Kíp mà đa phần trong số đó là vốn do nhà nước cấp

phát từ quỹ NSNN [97].

41

Từ những đặc điểm của NSNN nêu trên có thể xác định đặc điểm của

việc thực hiện pháp luật về NSNN trên các mặt chủ thể, phương thức thực

hiện cũng như hiệu quả thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

như sau:

2.1.2.1. Đặc điểm chủ thể thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách

nhà nước

Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là hoạt động tiến hành bởi hai

nhóm chủ thể: Nhóm chủ thể đại diện cho nhà nước thực hiện việc quản lý,

cấp phát, thanh toán, kiểm soát các khoản chi NSNN - nhóm chủ thể quản lý

sử dụng NSNN và nhóm chủ thể sử dụng nguồn tài chính ngân sách.

* Nhóm chủ thể quản lý sử dụng NSNN

Nhóm chủ thể này bao gồm các cơ quan đại diện cho nhà nước thực thi

quyền hạn có liên quan đến việc xuất quỹ NSNN cho các mục tiêu đã được

phê duyệt. Nhóm chủ thể này bao gồm Bộ Tài chính, sở tài chính - vật giá

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, phòng tài chính quận, huyện, thị xã

thuộc tỉnh, thành phố (sau này gọi là cơ quan Tài chính), sở kế hoạch và đầu

tư, kho bạc nhà nước.

Đặc điểm pháp lý của nhóm chủ thể này là pháp luật quy định cho các

cơ quan này những quyền hạn nhất định trong việc kiểm soát, thanh toán ngân

sách, cụ thể: Cơ quan tài chính có quyền kiểm tra việc thực hiện chi tiêu, có

quyền tạm dừng các khoản chi vượt nguồn cho phép hoặc sai chính sách, chế

độ, tiêu chuẩn, có quyền yêu cầu điều chỉnh dự toán nhiệm vụ chi của các đơn

vị sử dụng ngân sách để đảm bảo thực hiện ngân sách đúng mục tiêu, tiến độ

quy định. Kho bạc nhà nước các cấp trong quá trình kiểm soát, thanh toán có

quyền từ chối thanh toán đối với các khoản chi ngân sách không đủ điều kiện

chi theo quy định, hoặc tạm dừng thanh toán theo yêu cầu của cơ quan tài

chính, kiểm tra giám sát việc sử dụng tài khoản chi tiền gửi của các đơn vị sử

dụng NSNN.

42

Về nghĩa vụ pháp lý của nhóm chủ thể này, pháp luật quy định những

nhiệm vụ có tính đảm bảo để thực thi quyền. Cụ thể, cơ quan tài chính có

nhiệm vụ đảm bảo, bố trí nguồn để đáp ứng các yêu cầu chi; trong đó, có việc

huy động các nguồn vay tạm thời để đảm bảo nguồn chi theo quy định của

pháp luật, kiểm tra giám sát việc thực hiện chi tiêu và sử dụng NSNN ở các

đơn vị sử dụng ngân sách, phát hiện và xử lý kịp thời các khoản chi vượt

nguồn, chi sai chế độ. Kho bạc nhà nước có trách nhiệm thực hiện việc kiểm

soát chi theo đúng quy định của luật NSNN; đảm bảo các khoản chi được

kiểm soát chặt chẽ, đủ điều kiện chi; đảm bảo thanh toán, chi trả NSNN một

cách kịp thời; trong một số trường hợp, pháp luật quy định cho cơ quan kiểm

soát chi được quyền tạm cấp kinh phí cho đơn vị sử dụng NSNN khi khoản

chi chưa có dự toán được giao, đặc biệt là những khoản chi liên quan đến

chính sách an sinh xã hội (lương hưu, trợ cấp người có công, v.v..) để đảm

bảo việc thanh toán kịp thời cho các đối tượng hưởng thụ.

* Nhóm các chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước

Phạm vi nhóm chủ thể này rất rộng, ngoài các cơ quan, đơn vị, tổ chức

thường xuyên được nhà nước cấp kinh phí hoạt động, kinh phí sự nghiệp còn

phát sinh những đơn vị không có quan hệ ngân sách thường xuyên nhưng

được nhà nước hỗ trợ kinh phí hoặc giao thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể

được cấp để thực hiện như doanh nghiệp, hiệp hội, v.v.. Đơn vị sử dụng

NSNN được pháp luật xác định gồm những nhóm cơ bản sau:

+ Các cơ quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tổ

chức chính trị - xã hội (gọi chung là các đơn vị dự toán) được nhà nước cấp

kinh phí hoạt động.

+ Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề

nghiệp, tổ chức xã hội được NSNN hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên.

+ Các đơn vị sự nghiệp kinh tế, giáo dục, y tế, v.v.. được phân ra làm

ba loại hình đơn vị sự nghiệp là: đơn vị tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt

43

động; đơn vị tự bảo đảm một phần kinh phí hoạt động; đơn vị được nhà nước

cấp toàn bộ kinh phí hoạt động. Tùy từng loại hình đơn vị sự nghiệp mà pháp

luật quy định mức độ tự chủ đối với các khoản chi thường xuyên của NSNN

là khác nhau.

+ Các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của nhà

nước được ngân sách hỗ trợ kinh tế. Pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

quy định nghĩa vụ của các đơn vị sử dụng ngân sách cụ thể như: Chấp hành

đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức và chi tiêu trong phạm vi dự toán được cấp

có thẩm quyền giao; quản lý, sử dụng ngân sách đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu

quả; cung cấp hoặc giải trình cho cơ quan kiểm soát chi về hồ sơ, chứng từ chi

tiêu NSNN theo quy định; thực hiện thu hồi giảm chi NSNN hoặc thu hồi nộp

NSNN đối với những khoản chi vi phạm quy định về chi NSNN theo quy định

của cơ quan có thẩm quyền. Về quyền của các nhóm chủ thể này, Luật Ngân

sách nhà nước không quy định cụ thể mà chỉ ghi nhận có tính chất chung: Thủ

trưởng các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước quản lý, sử dụng NSNN theo

đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức trong phạm vi dự toán được giao.

Việc phân loại các nhóm chủ thể quản lý, sử dụng nguồn ngân sách có

ý nghĩa xác định địa vị pháp lý của từng loại đơn vị trong quá trình thực hiện

pháp luật về sử dụng NSNN. Theo đó, các đơn vị sử dụng ngân sách phải có

trách nhiệm chấp hành các quy định về điều kiện chi ngân sách, quy định về

trình tự thủ tục chi; chấp hành các quy định về hóa đơn, chứng từ chi tiêu

ngân sách.

2.1.2.2. Đặc điểm về phương thức thực hiện pháp luật về sử dụng

ngân sách nhà nước

Phương thức thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là cách thức biện

pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.

Trong quá trình thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN phải tuân theo phương

thức sau đây:

44

Thứ nhất, việc sử dụng ngân sách phải tuân theo một quy trình cụ thể,

rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm

soát một cách chính xác nhất các khoản chi tiêu. Mặt khác, việc điều chỉnh

bằng pháp luật đối với hoạt động kiểm soát chi ngân sách cũng góp phần đảm

bảo tính minh bạch, tạo điều kiện cho các đơn vị sử dụng ngân sách nắm rõ

được quy trình kiểm soát chi mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến

hành để họ chuẩn bị đầy đủ các điều kiện hỗ trợ trong quá trình thực hiện sử

dụng NSNN, từ khâu lập dự toán, cấp phát ngân sách, thực hiện chi đến khâu

cung cấp thông tin, báo cáo, quyết toán chi NSNN.

Thứ hai, ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa

phương được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể, đảm bảo cho ngân

sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, ngân sách địa phương thực hiện nhiệm

vụ được giao, tăng cường nguồn lực cho ngân sách xã hội. Theo đó, việc phân

định rõ ràng ngân sách trung ương và ngân sách địa phương cần quán triệt chủ

trương: Nguồn thu của ngân sách trung ương phải đảm bảo thực hiện những

nhiệm vụ chiến lược quan trọng của quốc gia, nguồn thu của ngân sách địa

phương phải xác định sao cho địa phương chủ động thực hiện những nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội

trong phạm vi quản lý của địa phương mình. Việc phân định nguồn thu này,

thể hiện được vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và tính tự chủ, sáng

tạo của ngân sách địa phương. Tính chủ động của ngân sách địa phương thể

hiện ở việc phân định nguồn thu cụ thể địa phương có kế hoạch thu chi phù

hợp với địa phương mình; đồng thời, phát huy hết tiềm năng nguồn thu đặc

thù tại địa bàn.

Thứ ba, nhiệm vụ chi ngân sách cấp nào thì do ngân sách cấp đó đảm

bảo thực hiện. Mỗi cấp phải tự đảm đương nhiệm vụ sử dụng ngân sách của

mình. Tuy nhiên, trong trường hợp khó khăn về thu ngân sách thì ngân sách

trung ương có thể hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, tạo

45

mối liên hệ chặt chẽ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.

Quan hệ giữa ngân sách cấp trên với cấp dưới thể hiện qua việc phân chia một

số khoản thu và điều tiết, bổ sung kinh phí. Mục đích cuối cùng là để đảm bảo

công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương được hưởng toàn

bộ, có những khoản thu được phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân

sách địa phương. Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền

quyết định bổ sung ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới, để hỗ trợ các

địa phương thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội trên địa bàn theo phương thức

bổ sung cân đối thu chi và bổ sung có mục tiêu.

Hiện nay, cùng với sự phát triển không ngừng của các hoạt động kinh

tế - xã hội, hoạt động sử dụng NSNN cũng ngày càng đa dạng, phức tạp hơn.

Điều này đòi hỏi, nhà nước cần có những phương thức thích hợp bảo đảm

thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.

2.1.2.3. Đặc điểm về yêu cầu thực hiện pháp luật về sử dụng ngân

sách nhà nước

Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước phải gắn với hiệu

quả sử dụng ngân sách nhà nước. Sử dụng NSNN đúng pháp luật nhưng

không gắn với hiệu quả sử dụng ngân sách thì không thể nói là thực hiện tốt

pháp luật về sử dụng ngân sách. Điều này xuất phát từ thực tế, nhiều khi các

đơn vị hưởng thụ kinh phí NSNN thường có tư tưởng tìm mọi cách sử dụng

hết số kinh phí được cấp để khỏi phải trả lại nhà nước, bất luận việc chi tiêu

đó có cần thiết và hiệu quả hay không. Các đơn vị này không quan tâm đến

việc chấp hành đúng mục đích, đối tượng, dự toán được duyệt, kết quả công

việc mà chỉ quan tâm hoàn thiện hồ sơ đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức, để

chứng minh tính hợp pháp, hợp lý của các khoản chi, v.v..

Trong điều kiện mở cửa, hội nhập với nền tài chính khu vực và thế giới,

hệ thống pháp luật về NSNN của quốc gia và thực hiện pháp luật về sử dụng

NSNN cần phải được hoàn thiện cho phù hợp với các cam kết hội nhập; đồng

46

thời, đảm bảo kỷ cương quản lý tài chính nhà nước và sử dụng vốn nhà nước

đúng mục đích, mang lại hiệu quả cao. Để đạt được yêu cầu này, nhà nước

cần phải có một cơ chế thực hiện kiểm tra, kiểm soát các khoản chi của

NSNN. Do tính đặc thù của sử dụng NSNN mang tính chất “không hoàn trả

trực tiếp” nên người sử dụng kinh phí nhà nước cấp, thường có xu hướng sử

dụng thiếu cân nhắc, không tính toán đến tính hiệu quả của nguồn vốn đầu tư.

Bên cạnh đó, về phía nhà nước, cái mà nhà nước đòi hỏi người sử dụng ngân

sách “hoàn trả” cho nhà nước chính là “kết quả công việc” đã được nhà nước

giao cho. Vì vậy, để đảm bảo rằng việc trả tiền của nhà nước tương xứng với

cái mà nhà nước được nhận, tức là “kết quả công việc” do các đơn vị thụ

hưởng thực hiện thì nhà nước phải thể chế hóa bằng các quy định cụ thể của

pháp luật và phải theo dõi, kiểm tra, đánh giá thường xuyên trong quá trình

thực hiện mới bảo đảm hiệu quả của việc sử dụng NSNN.

2.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được đặc trưng bởi sản xuất hàng

hóa phát triển ở mức cao, sự vận động của nền kinh tế chịu sự tác động mạnh mẽ

của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, v.v.. Các quy luật này

bản thân nó không thể khắc phục được khuyết tật của nền kinh tế thị trường như:

Sự phân hóa giàu nghèo, bất công diễn ra phổ biến trong xã hội; tính cạnh tranh

cao gây ra tình trạng độc quyền; do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến sự lãng phí trong

việc sử dụng tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường. Để điều chỉnh hoạt động kinh

tế khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, nhà nước phải xây

dựng hệ thống pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực đời

sống xã hội. Đối với Lào, pháp luật và thực hiện pháp luật về NSNN là yếu tố

đảm bảo điều kiện vật chất để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

mình. Chính vì vậy, việc sử dụng NSNN đòi hỏi phải được thể chế hóa thành

luật pháp và được đại diện dân chúng kiểm soát. Thực hiện pháp luật về sử dụng

NSNN có những vai trò quan trọng sau đây:

47

2.1.3.1. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước góp

phần cân đối thu chi của quốc gia, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội

Ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính lớn nhất được Quốc hội quyết

định, thông qua theo một quy trình nhất định. Trong đó dự kiến những nguồn thu

và yêu cầu chi cho tất cả các hoạt động của quốc gia. Thực hiện pháp luật về sử

dụng NSNN phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai minh bạch,

có phân công, phân cấp quản lý gắn liền với quyền hạn, trách nhiệm của các cấp,

các ngành. Các chủ thể quản lý và sử dụng NSNN phải chấp hành, thực hiện.

Chính phủ tổ chức thực hiện kế hoạch ngân sách nhưng phải đặt dưới sự giám

sát trực tiếp của Quốc hội; tương tự như vậy, HĐND giám sát việc thực hiện kế

hoạch ngân sách đối với Ủy ban nhân dân (UBND). Việc kiểm soát đó là

phương thức củng cố đề cao tính dân chủ công khai minh bạch tài chính, góp

phần quản trị tốt nền tài chính công, bảo đảm nuôi dưỡng, ổn định nguồn thu và

thực hiện chi ngân sách hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát.

2.1.3.2. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước góp

phần thực hiện quyền lực của nhân dân trong dự toán, chấp hành và quyết

toán ngân sách nhà nước

Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN phản ánh mối tương quan giữa

quyền lập pháp và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện

ngân sách. Trong pháp luật thực định, quyền lập pháp thuộc về Quốc hội;

quyền hành pháp thuộc về các cơ quan có thẩm quyền như: Chính phủ, các

Bộ, chính quyền địa phương theo nguyên tắc luật định. Quốc hội là cơ quan

quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, tập

trung ý chí, nguyện vọng và quyền lực của nhân dân trong phát triển đất nước,

xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Ý chí ấy thể hiện ở dự toán NSNN quy định về sử

dụng NSNN. Sau khi được Quốc hội phê chuẩn về dự toán ngân sách, các cơ

quan nhà nước ở Trung ương, địa phương, các đơn vị dự toán có trách nhiệm

phân bổ và giao dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc đảm bảo đúng

48

dự toán ngân sách được giao, gửi cơ quan tài chính cùng cấp. Cơ quan tài

chính có trách nhiệm kiểm tra, nếu không đúng dự toán ngân sách được giao

thì yêu cầu điều chỉnh lại cho phù hợp chương trình hoạt động tài chính trong

năm của nhà nước.

Như vậy, thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN góp phần thực hiện

NSNN đã được Quốc hội phê duyệt. Điều đó cũng có nghĩa là thực hiện pháp

luật về sử dụng NSNN góp phần thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân đối

với dự toán, phân bổ, sử dụng NSNN có hiệu quả để phát triển kinh tế - xã

hội, phát huy các nguồn lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện đúng

quy định của pháp luật về sử dụng NSNN góp phần thực hiện quyền lực của

nhân dân về NSNN.

2.1.3.3. Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN bảo đảm thực hiện

các chức năng của nhà nước; bảo đảm cho sự tồn tại và hoạt động của bộ

máy nhà nước; phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; bảo đảm an ninh, quốc

phòng, đối ngoại

Thực hiện pháp luật NSNN bảo đảm sự ổn định, phát triển của mọi lĩnh

vực hoạt động của xã hội, bởi vì bất kỳ hoạt động xã hội nào cũng cần có điều

kiện vật chất đảm bảo thực hiện; khi đó, quy định về sử dụng NSNN được coi

như một công cụ phương tiện để thực hiện hoạt động trên từng lĩnh vực đời

sống xã hội.

Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN có vai trò rất quan trọng đối với

hoạt động kinh tế - xã hội, một mặt điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội,

phát triển kinh tế gắn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Sự phát triển

của xã hội đòi hỏi nguồn lực tài chính cho mọi lĩnh vực. Mặc dù việc đầu tư

nguồn nhân lực tài chính có thể và cần phải xác định trọng tâm, trọng điểm,

hướng ưu tiên, có đầu tư lâu dài, chiến lược, có đầu tư cho phát triển trước

mắt, giải quyết yêu cầu bức xúc của yêu cầu ổn định phát triển v.v.. nhưng tất

cả các lĩnh vực từ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối

49

ngoại, phát triển nguồn lực con người, an sinh xã hội v.v.. cần được cân đối,

hài hòa, tối ưu mới bảo đảm thực hiện được các chức năng của nhà nước. Hơn

nữa nhiệm vụ chi thường xuyên cho bộ máy nhà nước bảo đảm sự ổn định

trong tổ chức, hoạt động của nhà nước cũng cần có sự phân bổ và thực hiện

đúng đắn kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước.

Khi phân bổ ngân sách nhà nước Quốc hội đã cân nhắc bảo đảm ngân

sách cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an

ninh, quốc phòng, đối ngoại v.v.. một cách cân đối, hài hòa, giao cho nhà

nước thực hiện. Thực hiện đúng đắn các quy định của pháp luật về sử dụng

ngân sách nhà nước không chỉ góp phần thực hiện chiến lược đầu tư đã được

Quốc hội phê duyệt mà còn trực tiếp góp phần bảo đảm thực hiện các chức

năng, nhiệm vụ của nhà nước, sự ổn định trong tổ chức hoạt động của bộ máy

nhà nước, sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng,

đối ngoại.

2.1.3.4. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước góp

phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí, bảo đảm sử dụng ngân sách

công khai, minh bạch, tiết kiệm, có hiệu quả

Sử dụng ngân sách do nhiều chủ thể thực hiện, diễn ra trên tất cả các

lĩnh vực đời sống xã hội. Hơn nữa việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc sử

dụng ngân sách nhà nước diễn ra ở hàng trăm nghìn công việc trên quy mô

toàn quốc không hề đơn giản, dễ dàng và không phải lúc nào cũng thực hiện

được. Chính vì những lý do trên việc sử dụng ngân sách nhà nước rất dễ có

nguy cơ xảy ra tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí trong việc sử

dụng ngân sách nhà nước có thể diễn ra ở tất cả các khâu, từ việc lập dự toán

chi, tổ chức thực hiện chi ngân sách và quyết toán chi ngân sách.

Để chống thất thoát, tham nhũng, lãng phí NSNN, pháp luật về sử dụng

ngân sách nhà nước đã quy định rất chặt chẽ, cụ thể về quy trình, thủ tục trong

tất cả các khâu dự toán, thực hiện, quyết toán NSNN. Thực hiện đầy đủ, đúng

50

đắn các quy định của pháp luật trên những vấn đề này thực sự góp phần

phòng, chống tham nhũng, lãng phí khi sử dụng ngân sách. Tuy nhiên, khi

giám sát, kiểm tra đánh giá việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN cần

chú ý rằng trên hồ sơ, giấy tờ có thể việc sử dụng NSNN rất đúng với quy

định của pháp luật nhưng thực tế lại không phải như vậy. Đây là trường hợp

có thể khai man, khai khống khối lượng công việc thực hiện, hoặc không thực

hiện nhưng vẫn có hồ sơ quyết toán đúng quy định. Các cơ quan, cán bộ giám

sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN

cần đối chiếu hồ sơ với thực tế công việc bảo đảm thực hiện đúng, thực hiện

đầy đủ pháp luật về sử dụng NSNN trên thực tế, góp phần đấu tranh phòng,

chống tham nhũng, lãng phí trong lĩnh vực này.

2.2. NỘI DUNG, HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

2.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

Nội dung thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước được hiểu

là thực hiện các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN, bao gồm thực hiện

quy định về lập dự toán chi NSNN, chấp hành chi NSNN; kế toán, quyết toán,

kiểm toán NSNN, giám sát, kiểm tra, thanh tra việc sử dụng NSNN bảo đảm

NSNN được sử dụng đúng đắn, tiết kiệm, minh bạch và có hiệu quả.

2.2.1.1. Thực hiện quy định về lập dự toán chi ngân sách nhà nước

Chi NSNN bao gồm chi đầu tư phát triển, chi dự trữ quốc gia, chi

thường xuyên, chi trả nợ lãi, chi viện trợ, các khoản chi khác theo quy định

của pháp luật.

Dự toán chi đầu tư phát triển được lập trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch,

chương trình, dự toán đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; kế hoạch tài

chính 5 năm, kế hoạch đầu tư trung hạn nguồn NSNN; khả năng cân đối các

nguồn lực trong năm dự toán, quy định của pháp luật về đầu tư công, xây

dựng và quy định khác của pháp luật có liên quan.

51

Dự toán chi thường xuyên được lập trên cơ sở nhiệm vụ được giao,

nhiệm vụ được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; chế độ, tiêu chuẩn, định

mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

Dự toán chi NSNN đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo và dạy nghề, khoa

học và công nghệ bảo đảm tỷ lệ theo quy định của pháp luật có liên quan.

Dự toán chi thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia được lập căn

cứ vào danh mục các chương trình, tổng mức kinh phí thực hiện chương trình

mục tiêu quốc gia trong từng giai đoạn do Quốc hội quyết định, mục tiêu, nội

dung, nhiệm vụ và chi tiết các dự án thành phần đối với từng chương trình

mục tiêu quốc gia.

Dự toán chi trả nợ được lập trên cơ sở bảo đảm trả các khoản nợ đến

hạn của năm dự toán NSNN.

Dự toán vay bù đắp bội chi NSNN phải căn cứ vào cân đối NSNN, khả

năng từ nguồn vay, khả năng trả nợ và giới hạn an toàn về nợ.

Các cơ quan, tổ chức, đơn vị, chủ đầu tư sử dụng NSNN phải lập dự

toán chi ngân sách trong phạm vi nhiệm vụ được giao báo cáo cơ quan quản

lý cấp trên để tổng hợp báo cáo cơ quan tài chính cùng cấp. Việc lập, nộp báo

cáo dự toán chi NSNN phải đúng quy định về nội dung và thời hạn pháp luật

NSNN quy định.

2.2.1.2. Thực hiện quy định về chấp hành chi ngân sách nhà nước

* Về phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị sử dụng ngân sách

Sau khi được Chính phủ, UBND giao dự toán ngân sách, các đơn vị dự

toán cấp I ở trung ương và địa phương thực hiện phân bổ và giao dự toán

ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc và đơn vị thuộc ngân

sách cấp dưới (trong trường hợp có ủy quyền thực hiện nhiệm vụ chi của

mình), gửi cơ quan tài chính cùng cấp và kho bạc nhà nước nơi giao dịch để

thực hiện. Cơ quan tài chính cùng cấp thực hiện kiểm tra dự toán đơn vị dự

toán cấp I đã giao cho các đơn vị sử dụng ngân sách.

52

Việc phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị sử dụng ngân sách phải

bảo đảm đúng với dự toán ngân sách được giao cả về tổng mức và chi tiết

theo từng lĩnh vực, nhiệm vụ chi được giao; đúng chính sách, chế độ, tiêu

chuẩn, định mức chi; đúng thời hạn trước ngày 31/12 năm trước.

* Về tạm cấp ngân sách

Trong trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và

phương án phân bổ ngân sách chưa được Quốc hội quyết định, cơ quan tài

chính và cơ quan kho bạc nhà nước các cấp theo chức năng thực hiện tạm cấp

ngân sách cho các nhiệm vụ chi không thể trì hoãn được cho đến khi dự toán

ngân sách được cấp có thẩm quyền quyết định, bao gồm:

- Chi lương và các khoản có tính chất tiền lương

- Chi nghiệp vụ phí và công vụ phí

- Chi bổ sung cân đối cho ngân sách cấp dưới

- Các khoản chi cần thiết khác bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà

nước, trừ các khoản mua sắm trang thiết bị, sửa chữa

- Chi cho dự án chuyển tiếp thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia,

dự án quan trọng quốc gia, các dự án đầu tư chuyển tiếp quan trọng, cấp bách

khác để khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh.

Mức tạm cấp hàng tháng tối đa cho các nhiệm vụ nêu trên không quá

mức chi bình quân 1 tháng của năm trước.

* Về tổ chức chi ngân sách nhà nước

Các nhiệm vụ chi đã bố trí trong dự toán được đảm bảo kinh phí đúng

tiến độ thực hiện và trong phạm vi dự toán được giao. Đối với các dự án đầu

tư và nhiệm vụ chi cấp thiết khác được tạm ứng vốn, kinh phí để thực hiện

các công việc theo hợp đồng đã ký kết.

Căn cứ vào dự toán ngân sách được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm

vụ, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách quyết định chi gửi kho bạc nhà nước

53

để thực hiện. Kho bạc nhà nước kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu cần

thiết theo quy định của pháp luật và thực hiện chi ngân sách khi có đủ các

điều kiện sau đây:

- Đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản phải đáp ứng các điều kiện theo

quy định của pháp luật về đầu tư công và xây dựng.

- Đối với chi thường xuyên phải bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn, định

mức chi ngân sách do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

- Đối với chi dự trữ quốc gia phải bảo đảm các điều kiện theo quy định

của pháp luật về dự trữ quốc gia.

- Đối với những gói thầu thuộc các nhiệm vụ, chương trình, dự án cần

phải đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng

hóa, xây lắp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật.

- Đối với những khoản chi cho công việc thực hiện theo phương thức

nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch phải theo quy định về giá hoặc phí và lệ phí

do cơ quan có thẩm quyền ban hành.

2.2.1.3. Thực hiện quy định về kế toán và quyết toán sử dụng ngân

sách nhà nước

Các khoản chi NSNN phải được hạch toán kế toán, quyết toán đầy đủ,

kịp thời, đúng chế độ. Kế toán và quyết toán NSNN được thực hiện thống

nhất theo chế độ kế toán nhà nước, mục lục NSNN. Các cơ quan tài chính có

quyền tạm đình chỉ chi NSNN của các cơ quan, tổ chức, đơn vị dự toán ngân

sách cùng cấp không chấp hành đúng chế độ báo cáo kế toán, quyết toán, báo

cáo tài chính khác.

Kết thúc năm ngân sách các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân sử

dụng ngân sách nhà nước phải thực hiện khóa sổ kế toán và lập báo cáo

quyết toán NSNN, thời gian chỉnh lý quyết toán NSNN kết thúc vào ngày

31/1 năm sau, các khoản chi bao gồm cả các khoản bổ sung trong năm, đến

54

hết năm ngân sách kể cả thời gian chỉnh lý quyết toán ngân sách mà chưa

thực hiện được hoặc chưa chi hết phải hủy bỏ, trừ một số khoản chi mà

pháp luật quy định.

Số liệu quyết toán NSNN phải chính xác, trung thực, đầy đủ. Số quyết

toán chi NSNN là số chi đã thực thanh toán và số chi đã hạch toán chi NSNN

theo quy định. Số liệu quyết toán ngân sách của đơn vị sử dụng ngân sách,

của chủ đầu tư và của ngân sách các cấp phải được đối chiếu xác nhận với

kho bạc nhà nước nơi giao dịch. Nội dung báo cáo quyết toán NSNN phải

theo đúng các nội dung chi trong dự toán NSNN được giao và theo mục lục

NSNN. Báo cáo quyết toán của đơn vị sử dụng ngân sách phải kèm theo

thuyết minh đánh giá kết quả, hiệu quả chi ngân sách gắn với kết quả thực

hiện nhiệm vụ của đơn vị, địa phương, lĩnh vực, chương trình, mục tiêu được

giao phụ trách.

Đơn vị dự toán cấp trên xét duyệt quyết toán của đơn vị dự toán cấp

dưới trực thuộc. Khi xét duyệt quyết toán cơ quan xét duyệt có quyền đề nghị

kiểm toán nhà nước hoặc thuê đơn vị kiểm toán độc lập theo quy định của

pháp luật kiểm toán, các báo cáo quyết toán của các dự án, chương trình mục

tiêu có quy mô lớn; có quyền yêu cầu đơn vị xuất toán các khoản chi sai chế

độ, chi không đúng dự toán được duyệt; điều chỉnh sai sót hoặc yêu cầu lập

lại báo cáo quyết toán. Kết thúc việc xét duyệt quyết toán năm đơn vị cấp trên

ra thông báo duyệt quyết toán gửi đơn vị dự toán cấp dưới.

2.2.1.4. Thực hiện quy định về giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm

toán việc sử dụng ngân sách nhà nước và xử lý vi phạm

Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm về việc quản lý

sử dụng ngân sách theo dự toán được giao, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm

vụ, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định

mức chi ngân sách. Ngoài phụ trách công tác tài chính, kế toán tại đơn vị sử

dụng ngân sách có nhiệm vụ thực hiện đúng chế độ quản lý tài chính - ngân

55

sách, chế độ kế toán nhà nước, chế độ kiểm tra nội bộ và trách nhiệm ngăn

ngừa, phát hiện, kiến nghị thủ trưởng đơn vị, cơ quan tài chính cùng cấp xử lý

đối với những trường hợp vi phạm.

Về giám sát sử dụng ngân sách nhà nước

Quốc hội có thẩm quyền giám sát việc thực hiện NSNN, chính sách

cơ bản về tài chính, ngân sách. Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc

thực hiện luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban

Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách. Ủy ban Tài chính,

ngân sách của Quốc hội giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc

hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài

chính - ngân sách, giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, giám sát

văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ

trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản liên tịch gửi các cơ quan có

thẩm quyền ở trung ương về lĩnh vực tài chính ngân hàng. Các ủy ban khác

của Quốc hội giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp

lệnh nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tài chính - ngân sách,

giám sát việc thực hiện NSNN và chính sách tài chính - ngân hàng trong

lĩnh vực phụ trách.

Mặt trận Tổ quốc các cấp chủ trì tổ chức việc giám sát ngân sách nhà

nước của cộng đồng, trong đó nội dung giám sát bao gồm:

- Giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý, sử

dụng ngân sách.

- Giám sát việc thực hiện công khai NSNN.

Về kiểm tra, thanh tra sử dụng ngân sách nhà nước:

Theo quy định của pháp luật, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải có

trách nhiệm kiểm tra việc sử dụng ngân sách nhà nước của cơ quan, đơn vị

mình bảo đảm đúng quy định, tiết kiệm, ngăn ngừa tham ô, lãng phí, sử dụng

có hiệu quả ngân sách nhà nước. Thực hiện quy định về sử dụng ngân sách

56

nhà nước phải ngay từ đơn vị cơ sở. Đây là việc khó, vì lâu nay đã hình thành

thói xấu là các cơ quan, đơn vị đều ra sức luận chứng để được phê duyệt càng

nhiều càng tốt, ít người nghĩ đến tiết kiệm công quỹ. Vì vậy phải tự kiểm tra

ngay tại các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách ngay từ khi lập dự toán. Hơn

nữa các cơ quan cấp trên, thủ trưởng cấp trên trực tiếp của cơ quan sử dụng

ngân sách nhà nước cũng có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra việc sử dụng ngân

sách nhà nước của cấp dưới. Kiểm tra, thanh tra là hoạt động thường xuyên,

nằm trong quy trình quản lý nhà nước. Việc kiểm tra, thanh tra sử dụng ngân

sách nhà nước được tiến hành cả trong quá trình sử dụng ngân sách nhà nước

đang diễn ra cũng như kết thúc một công việc có sử dụng ngân sách nhà nước,

hoặc có những việc được tiến hành kiểm tra, thanh tra hàng năm (chẳng hạn

kiểm tra, thanh tra việc chi thường xuyên của các cơ quan, tổ chức có sử dụng

ngân sách nhà nước.

Về kiểm toán việc sử dụng ngân sách nhà nước:

Kiểm toán việc sử dụng ngân sách nhà nước là hoạt động kiểm tra việc

sử dụng ngân sách nhà nước sau khi các hoạt động sử dụng ngân sách nhà

nước đã được quyết toán. Kiểm toán nhằm đối chiếu việc sử dụng ngân sách

nhà nước có đúng với quy định của pháp luật không trên mọi phương diện, kể

cả việc sử dụng đúng quy định nhưng không hiệu quả gây lãng phí ngân sách

nhà nước. Để bảo đảm sử dụng ngân sách nhà nước đúng đắn, có hiệu quả,

nước nào cũng có quy định rất chặt chẽ về hoạt động kiểm toán. Thực hiện

pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước vì thế có nội dung thực hiện quy

định của pháp luật về kiểm toán nhà nước.

Kết quả hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán việc thực

hiện NSNN nếu phát hiện vi phạm tất yếu dẫn đến hậu quả pháp lý tương ứng

vi phạm mà các chủ thể sử dụng NSNN phải gánh chịu. Đó chính là quá trình

xử lý vi phạm pháp luật về sử dụng NSNN. Các biện pháp xử lý vi phạm rất

đa dạng, mức độ cũng rất khác nhau tùy vào mức độ vi phạm, bao gồm trách

57

nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm

hình sự.

2.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

Pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước cũng giống như pháp luật

trong các lĩnh vực khác, được các chủ thể thực hiện thông qua 4 hình thức:

- Tuân thủ pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ

thể pháp luật kiềm chế không thực hiện những hành vi pháp luật cấm.

- Chấp hành pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các

chủ thể pháp luật thực hiện các yêu cầu của pháp luật bằng các hành động tích

cực, chủ động, tự giác.

- Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ

thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình sử dụng quy định của pháp

luật thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép để đạt được mục đích của

mình trong quan hệ xã hội tương thích.

- Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù, chỉ do cơ

quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước áp dụng các quy định của pháp

luật ban hành các văn bản, quyết định cá biệt làm phát sinh, thay đổi, chấm

dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.

Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước là thực hiện

pháp luật trong một lĩnh vực cụ thể nên hình thức thực hiện pháp luật trong

lĩnh vực này cũng có những nội dung gắn với quy định về sử dụng ngân

sách nhà nước.

2.2.2.1. Tuân thủ pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

Các chủ thể thực hiện pháp luật ở đây là các cơ quan, tổ chức, đơn vị sử

dụng ngân sách nhà nước. Thực hiện hình thức này các chủ thể pháp luật

kiềm chế không thực hiện các hành vi pháp luật cấm trong lĩnh vực sử dụng

NSNN. Hành vi bị cấm trong sử dụng NSNN tuy có quy định nhưng không

58

nhiều. Từ hoạt động lập dự toán chi, chấp hành, kiểm toán, quyết toán quản

lý, giám sát NSNN có những hành vi bị cấm sau đây:

- Lập dự toán chi khống, không có thực chi.

- Lập dự toán chi vượt tiêu chuẩn, định mức, chế độ, chính sách mà

pháp luật đã quy định.

- Lập quyết toán, báo cáo tài chính sai sự thật, không phù hợp với dự

toán ngân sách được duyệt và danh mục ngân sách.

- Không có hành vi cản trở, gây khó khăn cho hoạt động kiểm tra, kiểm

toán, giám sát sử dụng ngân sách nhà nước.

- Không được lãng phí trong sử dụng NSNN.

2.2.2.2. Chấp hành pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

Đây là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật

bằng hành vi tích cực, chủ động của mình thực hiện các yêu cầu của pháp

luật. Đối với pháp luật về sử dụng NSNN có thể nói đây là hình thức thực

hiện pháp luật điển hình, hầu như các hành vi của tất cả các cơ quan, tổ

chức, đơn vị sử dụng ngân sách đều sử dụng hình thức này. Hầu hết các

quy định của pháp luật về sử dụng NSNN đều yêu cầu chủ thể sử dụng

pháp luật chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về lập dự toán

chi ngân sách, chấp hành ngân sách; kế toán quyết toán, kiểm toán ngân

sách; quản lý giám sát việc thực hiện ngân sách. Mỗi nội dung nêu trên

trong pháp luật về sử dụng ngân sách đều quy định cụ thể các hành vi phải

chấp hành nghiêm chỉnh.

- Lập dự toán chi NSNN: phải căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế -

xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại; nhiệm vụ cụ thể của cơ quan,

đơn vị, tổ chức; quy định của pháp luật về thuế, phí, lệ phí; phân cấp nhiệm

vụ chi NSNN; văn bản pháp luật của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn xây

dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; kế hoạch tài chính; số kiểm tra dự

toán chi NSNN.

59

Dự toán chi NSNN phải tổng hợp theo từng khoản chi, cơ cấu chi, thể

hiện đầy đủ các khoản chi theo đúng biểu mẫu, thời hạn quy định.

- Chấp hành NSNN: sau khi được phê duyệt dự toán chi NSNN phải

kiểm tra dự toán và phân bổ, giao dự toán NSNN cho các cơ quan, tổ chức,

đơn vị sử dụng NSNN đúng thời hạn trước ngày 31/12 năm trước.

Quy định về chấp hành NSNN yêu cầu các đơn vị quản lý tài chính và

sử dụng NSNN hấp hành đúng quy định về tạm cấp ngân sách, điều chỉnh dự

toán ngân sách, tổ chức chi NSNN, ứng trước dự toán ngân sách năm sau, báo

cáo tình hình chấp hành NSNN; quản lý, sử dụng ngân sách.

- Về kế toán, kiểm toán, quyết toán NSNN: chấp hành NSNN còn yêu

cầu các đơn vị sử dụng NSNN phải chấp hành các quy định về kế toán, kiểm

toán và quyết toán NSNN bảo đảm đúng chế độ kế toán, quyết toán; trong đó

số liệu phải chính xác, trung thực, đầy đủ, phải là số chi đã thực thanh toán, số

chi đã hạch toán chi NSNN; phải được đối chiếu với kho bạc nhà nước; phải

được kiểm toán nhà nước kiểm toán báo cáo quyết toán các dự án, chương

trình, mục tiêu.

- Về quản lý và kiểm tra, giám sát sử dụng NSNN: chấp hành NSNN

đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng NSNN.

2.2.2.3. Sử dụng pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

Thực hiện quyền chủ thể của mình các cơ quan, tổ chức, đơn vị, sử

dụng NSNN sử dụng các quy định của pháp luật trong lập dự toán chi ngân

sách, nhất là các quy định về tiêu chuẩn, định mức, chế độ chính sách v.v.. để

tính toán các khoản chi thuyết trình dự toán chi để đề nghị cơ quan có thẩm

phê duyệt.

Quy trình thực hiện các yêu cầu về chấp hành pháp luật sử dụng

NSNN trong việc phân bổ, và giao dự toán NSNN, tạm cấp NSNN, điều

chỉnh dự toán NSNN, tổ chức chi NSNN, ứng trước dự toán NSNN, thuyết

trình tăng, giảm chi v.v.. cũng là quá trình các chủ thể sử dụng pháp luật sử

dụng các quy định của pháp luật về các vấn đề nêu trên để thuyết trình, báo

60

cáo, bảo vệ các đề nghị của mình đối với cơ quan có thẩm quyền thẩm

định, phê duyệt.

Đối với các hoạt động kế toán, kiểm toán và quyết toán NSNN cũng

tương tự, nghĩa là các chủ thể thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN vừa phải

chấp hành các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN trong các hoạt động

kế toán, kiểm toán, quyết toán NSNN đồng thời vừa sử dụng các quy định của

pháp luật để bảo vệ, thuyết trình các báo cáo kế toán quyết toán NSNN của

mình trước cơ quan có thẩm quyền.

Đố với hoạt động quản lý, giám sát việc thực hiện pháp luật về sử dụng

NSNN các chủ thể có thẩm quyền sử dụng các quy định của pháp luật sử

dụng NSNN về quản lý, giám sát để tiến hành các hoạt động quản lý, giám sát

thực hiện NSNN.

2.2.2.4. Áp dụng pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

Áp dụng pháp luật về sử dụng NSNN là hình thức thực hiện pháp luật,

trong đó các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật thực hiện thẩm quyền

và ban hành các quyết định về thẩm định, xét duyệt, phê duyệt các báo cáo về

dự toán chi NSNN, về kế toán, kiểm toán, quyết toán sử dụng NSNN, báo cáo

về kiểm tra, giám sát việc sử dụng NSNN cũng như các kết luận, kiến nghị xử

lý các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về sử dụng NSNN.

Để có các kết luận chính xác, đúng quy định của pháp luật về sử dụng

NSNN các chủ thể có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt, báo cáo dự toán chi

NSNN, báo cáo kế toán, kiểm toán, quyết toán, kiểm tra, giám sát việc thực

hiện pháp luật về sử dụng NSNN ngoài việc áp dụng các quy định về chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong quá trình thẩm định, phê duyệt của mình mà

còn phải căn cứ vào các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN để đối

chiếu, xem xét các chủ thể sử dụng NSNN thực hiện có đúng quy định hay

không? Khi phát hiện có sai sót, vi phạm, thực hiện không đúng quy định của

61

pháp luật về sử dụng NSNN mới ban hành các văn bản cá biệt quyết định việc

xử lý các hành vi này.

2.3. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Pháp luật về sử dụng NSNN được ban hành nhưng để bảo đảm thực

hiện các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN, về mặt lý luận, cần có

những điều kiện sau đây:

2.3.1. Điều kiện về chính trị

Điều kiện về chính trị bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN

trước hết là đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng cầm quyền về xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm nhà nước tổ chức, hoạt động

theo pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm tính thượng tôn

pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội. Gắn với yêu cầu này là quan

điểm, chủ trương của Đảng về thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế

XHCN trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như quản lý các

lĩnh vực đời sống xã hội. Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo xây

dựng nhà nước pháp quyền đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng nhà

nước pháp quyền, xây dựng và thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế

XHCN là bảo đảm về chính trị cho việc thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực

nói chung và trong thực hiện pháp luật về NSNN nói riêng. Mặt khác đường

lối, chủ trương, tư tưởng, quan điểm của Đảng về thực hiện pháp luật được

quán triệt, vận dụng trong toàn bộ hệ thống chính trị, nhất là trong bộ máy

nhà nước bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp

luật về sử dụng NSNN nói riêng. Nhận thức của cán bộ, đảng viên trong hệ

thống chính trị, trong bộ máy nhà nước đối với các yêu cầu trong thực hiện

pháp luật về sử dụng NSNN bảo đảm cho pháp luật về sử dụng NSNN được

thực hiện trong thực tế.

62

2.3.2. Điều kiện về pháp lý

Bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN trước hết đòi hỏi pháp

luật về sử dụng NSNN phải là hệ thống hoàn chỉnh, đồng bộ, chất lượng cao,

ổn định tương đối. Yêu cầu hoàn chỉnh, đồng bộ của các quy định về sử dụng

NSNN đòi hỏi phải đầy đủ các quy định liên quan đến sử dụng NSNN bao

gồm các dự toán chi; quy trình, thủ tục thẩm định phê duyệt dự toán chi; quy

định về phân bổ, cấp phép NSNN; về kế toán, kiểm toán, quyết toán NSNN;

về thanh tra, kiểm tra việc sử dụng NSNN. Ngoài ra còn các yêu cầu sử dụng

NSNN tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát; sử dụng có hiệu quả NSNN v.v..

Hơn nữa, yêu cầu này còn đòi hỏi trong các quy định về sử dụng NSNN

không chồng chéo, mâu thuẫn gây khó khăn trong quá trình thực hiện.

Yêu cầu chất lượng cao của pháp luật về sử dụng NSNN đòi hỏi các

quy định về sử dụng NSNN phải cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ. Chẳng hạn các quy

trình, thủ tục thẩm định, phê duyệt và dự toán chi phải quy định rõ cấp nào có

thẩm quyền phê duyệt, thời hạn phê duyệt, các nội dung cần có trong dự toán

v.v.. Yêu cầu sử dụng NSNN phải tiết kiệm, chống lãng phí phải có các tiêu

chí cụ thể để có thể đánh giá việc sử dụng có tiết kiệm không? Có lãng phí

không? Yêu cầu sử dụng NSNN có hiệu quả cũng cần có những tiêu chí cụ

thể mới có căn cứ để đánh giá.

Yêu cầu ổn định tương đối của pháp luật về sử dụng NSNN đòi hỏi các

quy định của pháp luật về sử dụng NSNN phải ổn định trong thời hạn đủ lớn

để thực hiện đồng bộ, thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Đành rằng đời sống

kinh tế - xã hội luôn luôn phát triển, pháp luật luôn luôn phải điều chỉnh, sửa

đổi, bổ sung phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng nếu cứ điều

chỉnh liên tục trong một thời hạn quá ngắn, không ổn định cũng sẽ gây nhiều

khó khăn cho việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.

Điều kiện về pháp lý trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN còn

đòi hỏi phải có hướng dẫn cụ thể đối với từng hoạt động trong sử dụng NSNN

63

bởi vì pháp luật về sử dụng NSNN không thể bao quát hết các tình huống, các

sự kiện, các công việc phát sinh trong thực tế.Trong những trường hợp này

các chủ thể sử dụng NSNN không thể tùy tiện vận dụng. Để có cơ sở thực

hiện phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể mới bảo đảm thực hiện pháp luật

về sử dụng NSNN đồng bộ, thống nhất trong thực tiễn.

2.3.3. Điều kiện về năng lực, phẩm chất của cán bộ, đảng viên trong

hệ thống chính trị

Chủ thể sử dụng NSNN là các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống

chính trị, vì thế việc sử dụng NSNN như thế nào phụ thuộc vào năng lực,

phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên làm việc trong các cơ

quan này.

Đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên làm việc trong hệ thống chính

trị có năng lực chuyên môn tốt sẽ nắm vững được quy định của pháp luật về

sử dụng NSNN đối với từng hoạt động đòi hỏi có chuyên môn nghiệp vụ;

việc hoạch định, xây dựng dự án chi ngân sách sẽ phù hợp hơn với yêu cầu

của pháp luật, với thực tế, góp phần sử dụng NSNN hiệu quả hơn. Hơn nữa,

nếu có năng lực thì việc thẩm định, phê duyệt, kiểm tra, thanh toán, kiểm

toán, kế toán, quyết toán việc sử dụng NSNN cũng chính xác hơn, đầy đủ

hơn, không phải làm đi làm lại nhiều lần, bảo đảm độ tin cậy cao trong các

hoạt động này.

Phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên

trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng NSNN cũng là điều kiện cơ bản

bảo đảm cho các quy định của pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước được

thực hiện tốt. Phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức,

đảng viên bảo đảm cho các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN được

thực hiện đúng đắn, chính xác, phòng, chống được các hành vi gian dối, kê

khai khống để trục lợi hoặc rút ruột ngân sách, tham ô tài sản của nhà nước và

nhân dân, sử dụng ngân sách tùy tiện, lãng phí v.v.. Phẩm chất chính trị, đạo

64

đức của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên trong các cơ quan, tổ chức, đơn

vị sử dụng NSNN không những bảo đảm cho họ thực hiện đúng quy định của

pháp luật về sử dụng NSNN mà còn bảo đảm cho họ có dũng khí, bản lĩnh

đấu tranh với những hành vi sai trái trong sử dụng NSNN.

2.3.4. Điều kiện về kinh tế

Điều kiện về kinh tế trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là cơ

sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí phục vụ cho các hoạt động sử dụng NSNN,

đó là các hoạt động dự toán chi, thẩm định, xét duyệt, dự toán chi NSNN,

phân bổ NSNN; kế toán, kiểm toán, quyết toán NSNN; quản lý, kiểm tra,

thanh tra việc sử dụng NSNN. Những hoạt động này đòi hỏi nhà nước phải

trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, kinh phí đủ bảo đảm cho các

hoạt động này nhanh chóng, chính xác, đúng quy định của pháp luật.

Thực tế ở CHDCND Lào những năm qua cho thấy, có lúc, có nơi các

hoạt động này còn làm thủ công, các dữ liệu không đáng tin cậy, số liệu còn

vênh nhau v.v.. mà nguyên nhân một phần là do trang thiết bị còn thiếu, chưa

kết nối gắn các cơ quan chức năng với nhau, kinh phí phục vụ các hoạt động

này còn hạn hẹp, không tránh khỏi ảnh hưởng đến chất lượng của việc thực

hiện quy định của pháp luật về sử dụng NSNN.

2.3.5. Điều kiện về tổ chức thực hiện pháp luật về sử dụng ngân

sách nhà nước

Trước hết, tổ chức thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN đòi hỏi phải

tiến hành các hoạt động phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về sử dụng

NSNN cho các chủ thể sử dụng NSNN. Thực tế cho thấy, không phải ai cũng

nắm vững các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN trong điều kiện các

quy định này lại thường xuyên có những điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung. Tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về sử dụng NSNN không chỉ bảo đảm

cho các chủ thể nắm vững pháp luật để thực hiện đúng các yêu cầu của pháp

luật trên lĩnh vực này mà còn giáo dục ý thức thực hành tiết kiệm, chống lãng

phí, sử dụng có hiệu quả NSNN, coi NSNN là tài sản của đất nước, của nhân

65

dân, phải giữ gìn, bảo vệ, không được trục lợi, không được coi là "tiền chùa",

tùy tiện trong sử dụng.

Tổ chức thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN đòi hỏi các chủ thể sử

dụng NSNN phải thường xuyên báo cáo về tình hình thực hiện NSNN để cơ

quan có thẩm quyền kịp thời chấn chỉnh hoạt động này bảo đảm cho việc sử

dụng NSNN đúng quy định của pháp luật, tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí.

Tổ chức thực hiện pháp luật còn đòi hỏi các chủ thể thực hiện pháp luật

về sử dụng NSNN phải định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện pháp luật trên

lĩnh vực này, qua đó rút ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân, xác định

các bài học kinh nghiệm để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi hoạt động thực hiện

pháp luật về sử dụng NSNN.

Trong tổ chức thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN nếu bảo đảm cho

các hoạt động nêu trên được thực hiện một cách nề nếp chắc chắn sẽ góp phần

bảo đảm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này một cách nghiêm chỉnh, đúng

đắn, theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

2.4. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO ĐỐI VỚI CỘNG HÒA DÂN

CHỦ NHÂN DÂN LÀO

Nghiên cứu sinh lựa chọn một số nội dung thực hiện pháp luật về sử

dụng NSNN của Cộng hòa Pháp và Việt Nam, rút ra các giá trị tham khảo cho

CHDCND Lào bởi vì pháp luật về sử dụng NSNN của Cộng hòa Pháp quy

định rất cụ thể và tổ chức thực hiện theo quy trình chặt chẽ; lựa chọn Việt

Nam vì Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với CHDCND Lào, có nhiều giá

trị có thể tham khảo vận dụng trong lĩnh vực này ở nước CHDCND Lào.

2.4.1. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước của một

số nước

2.4.1.1. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở Cộng

hòa Pháp

Tại Cộng hòa Pháp, từ năm 1982 sau khi Luật về “Quyền hạn và tính tự

chủ của các cấp xã, tỉnh, vùng” ra đời đã cho phép các cấp chính quyền địa

66

phương có tư cách pháp nhân riêng, tách biệt với tư cách pháp nhân của nhà

nước. Các chính quyền địa phương này có thẩm quyền riêng trên địa bàn của

mình và tự mình điều hành một cách độc lập, không chịu sự chỉ đạo từ trên

xuống của nhà nước về quản lý ngân sách. Do vậy, ngân sách của Cộng hòa

Pháp được phân thành 4 cấp phù hợp với cơ cấu tổ chức hành chính. Tuy các

cấp ngân sách có tính độc lập tương đối nhưng về giác độ quản lý sử dụng

ngân sách, đặc biệt là kiểm soát chi ngân sách đều phải chấp hành một cơ chế

thống nhất theo quy định của luật. Năm 2002, Quốc hội Pháp đã thông qua

Đạo luật Tài chính công (tức Luật NSNN) và có hiệu lực từ năm 2006; theo

đó NSNN Pháp được phân thành các chương trình, do mỗi Bộ trưởng chuyên

ngành làm chủ nhiệm hay một số chương trình với quy trình thực hiện pháp

luật về sử dụng ngân sách như sau:

Thứ nhất, xây dựng và phê chuẩn dự toán thu chi ngân sách.

Sau khi Nghị viện đã phê chuẩn dự toán thu chi ngân sách được coi như

một đạo luật về ngân sách mà Chính phủ và các thành viên Chính phủ phải có

trách nhiệm chấp hành. Mọi việc sửa đổi dự toán đều phải trải qua một quá

trình theo các trình tự quy định của luật điều chỉnh. Dự toán sử dụng ngân

sách được Nghị viện thông qua là một dự toán chi tiết đến từng mục chi theo

từng Bộ chi tiêu. Vì vậy, không còn việc Chính phủ phân bổ dự toán cho các

Bộ và các địa phương như ở Lào. Chỉ còn việc ủy quyền kinh phí của Bộ

trưởng Bộ chi tiêu (chuẩn chi viên cấp 1) cho các tỉnh trưởng, vùng trưởng

(chuẩn chi viên cấp 2); công việc này diễn ra trong đầu năm. Để có một dự

toán đầy đủ, chi tiết như vậy, dự toán sử dụng ngân sách phải trải qua một quá

trình chuẩn bị khá công phu. Trước khi trình Nghị viện thông qua, dự toán

ngân sách được chuẩn bị kỹ lưỡng trong một thời gian khá dài, ngay từ tháng

giêng năm trước (năm ngân sách có hiệu lực). Như vậy, có nghĩa là kể cả thời

gian thảo luận và phê chuẩn ở Nghị viện, dự toán ngân sách được chuẩn bị

trong 12 tháng.

Trong khoảng thời gian từ tháng giêng đến tháng 3 năm trước - năm

ngân sách có hiệu lực, cần phải làm sáng tỏ các nhu cầu quản lý hành chính

67

cũng như các tham vọng của Bộ trưởng các Bộ chi tiêu. Sau đó, Bộ trưởng Bộ

Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ các giải pháp cơ bản về thu - chi và mức

thâm hụt ngân sách. Theo đó, Thủ tướng thành lập một số ủy ban liên Bộ để

nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính trình bày báo cáo “Triển vọng ngân sách” năm

tới. Thủ tướng kiểm tra những quyết định lớn về chi tiêu và thuế trong dự

thảo ngân sách, sau đó quyết định các vấn đề chủ yếu của chính sách ngân

sách. Hàng năm, Thủ tướng có “Thư công tác gửi các Bộ trưởng”, trong đó đề

cập tới một số nội dung như định hướng chiến lược cơ bản về ngân sách năm

tới; hướng dẫn Bộ trưởng các Bộ chuẩn bị ngân sách cho Bộ mình; nhắc lại

các chỉ tiêu kinh tế lớn và các dự báo về sự biến động của chúng; thời hạn

cuối cùng các Bộ phải nộp bản đề xuất ngân sách của mình tại Bộ Tài chính.

Ngân sách sẽ được đặt trong một môi trường kinh tế vĩ mô cụ thể. Các Bộ

trưởng cũng sẽ tìm thấy trong thư các chỉ dẫn cần thiết về việc chuẩn bị ngân

sách của mình, đặc biệt là mức biến động số khoản chi.

Đến đầu tháng 7, Bộ trưởng Bộ Tài chính sẽ mời từng Bộ trưởng có

liên quan đến để giải quyết các vấn đề mà cấp dưới chưa thỏa thuận được với

nhau. Sau giai đoạn này, chỉ có những điểm bất đồng mang tính chiến lược thì

mới được trình lên Thủ tướng để xử lý. Trong hai tháng 8 và tháng 9, thông

qua hội thảo ngân sách giai đoạn 2, dự thảo Luật Tài chính (dự toán NSNN)

sẽ được hiệu đính lần cuối cùng và được Hội đồng Bộ trưởng thông qua vào

cuối tháng 9 để trình Nghị viện phê chuẩn.

Nghị viện có 70 ngày để bỏ phiếu phê chuẩn ngân sách. Nếu quá thời

hạn trên vẫn không có ý kiến trả lời chính thức của Nghị viện, Chính phủ

được quyền lấy lại dự luật đã trình và triển khai các nội dung của dự án luật

bằng các văn bản pháp quy của mình. Tuy nhiên, trên thực tế điều này chưa

bao giờ xảy ra.

Thứ hai, chấp hành Luật Tài chính thường niên.

Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách ở Cộng hòa Pháp quy định

toàn bộ quá trình chấp hành chi ngân sách phải tôn trọng hai nguyên tắc lớn:

68

1.Đảm bảo sự tách biệt giữa chức năng chuẩn chi và chức năng kế toán.

2.Đảm bảo gắn trách nhiệm cá nhân và vật chất của các kế toán viên Nhà

nước với công vụ họ được giao đảm trách. Các nguyên tắc này phải được tuân

thủ và thực hiện trong suốt quá trình chấp hành sử dụng ngân sách nhà nước.

Theo pháp luật Pháp, các đối tượng tham gia quá trình thực hiện sử dụng ngân

sách bao gồm:

+ Chuẩn chi viên: Là người nắm giữ một khoản ngân sách, có trách

nhiệm thay mặt Nhà nước cam kết về mặt pháp lý đối với người thứ ba, tính

toán các khoản chi và ra lệnh chi trả cho kế toán viên thực hiện. Tại Pháp, do

có sự ủy nhiệm quyền lực của các Bộ trưởng cho các tỉnh trưởng, vùng

trưởng, nên có sự chuyển giao quyền chuẩn chi của các Bộ trưởng cho các

tỉnh trưởng, vùng trưởng. Vì vậy, xuất hiện khái niệm chuẩn chi viên cấp 1 và

chuẩn chi viên cấp 2.

+ Kế toán viên: Kế toán viên được đặt dưới quyền quản lý của Tổng

cục kế toán công thuộc Bộ Tài chính (tương đương hệ thống KBNN ở Lào),

là khoản chi. Tính hợp pháp ở đây phải được hiểu là kiểm tra tính hợp lệ, hợp

pháp của các văn bản, chứng từ theo quy định của kế toán và Luật ngân sách

hiện hành, kế toán viên không phải là người đánh giá sự cần thiết của các

khoản chi. Kế toán viên có đặc trưng phải gánh chịu trách nhiệm cá nhân và

trách nhiệm vật chất về các nghiệp vụ thu chi mà họ đã kiểm soát và thực

hiện. Trách nhiệm cá nhân và vật chất của kiểm toán viên được quy định bởi

pháp luật. Mọi sai sót trong quá trình quản lý như chi tiêu không có giải trình,

các khoản thu không thu được hoặc thụt quỹ, v.v.. sẽ bị phán xét và ràng buộc

trách nhiệm cá nhân bởi Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc bởi Thẩm kế viện (Tòa

án kế toán ở Pháp). Chính vì vậy, ở Pháp các kế toán viên phải ký quỹ hoặc

thế chấp bất động sản hợp pháp của họ để đảm bảo năng lực thực thi trách

nhiệm pháp lý khi phát sinh.

+ Kiểm soát viên tài chính: Kiểm soát chi do kế toán viên thực hiện

xảy ra vào giai đoạn cuối của quy trình thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN,

69

tức là vào thời điểm chi trả. Vào thời điểm này đã tồn tại cam kết pháp lý giữa

một bên là đại diện Nhà nước và một bên là các đối tượng cung cấp hàng hóa

dịch vụ. Để hạn chế sai sót trong quá trình thanh toán, chi trả cần có một cơ

chế kiểm soát giai đoạn đầu trước khi thực hiện các cam kết chi. Các cơ chế

này được gọi là cơ chế kiểm soát tài chính (hay còn gọi là kiểm soát cam kết

chi) và những người thực thi nhiệm vụ đó được gọi là các kiểm soát viên tài

chính. Kiểm soát viên tài chính ở cấp Trung ương do Bộ trưởng Bộ Tài chính

bổ nhiệm và đặt tại các Bộ chi tiêu; ở cấp địa phương được giao cho giám đốc

các kho bạc. Các kiểm soát viên tài chính chỉ trực thuộc Bộ trưởng Bộ Tài

chính mà không trực thuộc các Bộ, đơn vị chi tiêu; điều đó đem lại cho họ

thẩm quyền và sự độc lập trong việc kiểm soát trước khi các chuẩn chi viên

thực hiện các khoản chi.

Thứ ba, quy trình thực hiện một khoản chi ngân sách.

Để thực hiện một khoản chi ngân sách, pháp luật đòi hỏi phải trải qua 4

giai đoạn như sau:

+ Giai đoạn cam kết chi: Đây là giai đoạn quan trọng mà Nhà nước

cam kết thanh toán, chi trả cho người cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Giai đoạn

này bao gồm 2 bước: Bước cam kết về pháp lý (giao thầu hoặc chỉ định người

cung cấp hàng hóa và dịch vụ theo luật thầu công) và bước cam kết về kế toán

(đảm bảo Nhà nước luôn đủ khả năng thanh toán cho các hóa đơn), trong đó

cam kết về kế toán luôn có ý nghĩa quan trọng, nó đảm bảo cho cam kết pháp

lý được thực hiện. Kiểm soát viên tài chính sẽ kiểm soát quá trình cam kết.

+ Giai đoạn kiểm tra giao dịch đã thực sự hoàn thành chưa và tính

toán số tiền phải trả: Đây là giai đoạn quyết định việc thanh toán chi trả của

nhà nước, vì ở Pháp có một nguyên tắc là Nhà nước chỉ thanh toán khi giao

dịch đã được hoàn thành.

+ Giai đoạn ra lệnh chi: Giai đoạn này chuẩn chi viên ra lệnh chi cho

kế toán kho bạc thực hiện việc thanh toán chi trả.

70

+ Giai đoạn thanh toán, chi trả của kế toán: Giai đoạn này kế toán sẽ

thực hiện việc xuất quỹ theo lệnh của chuẩn chi viên sau khi đã thực hiện

kiểm tra thẩm quyền của người chuẩn chi; phân bổ mục lục ngân sách; có đủ

kinh phí để thanh toán không; kiểm tra tính hợp thức (dịch vụ đã hoàn thành

chưa? tính toán số học có đúng không? tính hợp pháp của chứng từ? đã được

sự đồng ý của kiểm soát viên tài chính chưa?, v.v..). Về nguyên tắc, kế toán

viên tuyệt đối không được thanh toán khi không đủ kinh phí thanh toán hoặc

dịch vụ chưa hoàn thành; hoặc thanh toán không đúng chủ nợ; không có sự

chấp thuận của kiểm soát viên tài chính.

Thứ tư, kiểm tra và quyết toán sử dụng ngân sách nhà nước.

Toàn bộ việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN tại Cộng hòa Pháp

được kiểm tra, kiểm soát theo một cơ chế chặt chẽ và theo một quy trình khép

kín trước khi chi ngân sách và sau khi đã chi ngân sách, cụ thể là:

+ Kiểm tra trước khi chi NSNN: được thực hiện bởi các kiểm soát viên

tài chính ở Trung ương và ở địa phương nhằm mục đích đảm bảo việc tôn

trọng các quyết định về ngân sách của Nghị viện và tránh việc sử dụng kinh

phí, tài sản công sai mục đích.

+ Kiểm tra trong khi sử dụng ngân sách: được thực hiện bởi công tác

kiểm tra của kế toán viên đối với việc chấp hành các nguyên tắc về kế toán

công, tính hợp pháp của các hồ sơ và tính chính xác của các phép tính, Ngoài

ra, tổng thanh tra tài chính còn thực hiện kiểm tra, thanh tra thường xuyên và

đột xuất theo chức năng, nhiệm vụ của mình là kiểm tra các đơn vị thuộc Bộ

Tài chính đóng tại địa phương, các chuẩn chi viên cấp 2 và các tổ chức sử

dụng quỹ ngân sách.

+ Kiểm tra sau khi sử dụng ngân sách: được thực hiện bởi Tòa thẩm kế

và Tòa kỷ luật ngân sách và tài chính. Nhiệm vụ quan trọng nhất của Tòa

thẩm kế là soạn thảo và gửi đến hai Viện báo cáo chi tiết tình hình chấp hành

71

Luật tài chính để cung cấp tư liệu cho hai Viện căn cứ phê chuẩn Luật quyết

toán ngân sách năm đó.

+ Quyết toán ngân sách sau khi được Nghị viện phê chuẩn: cũng được

coi là một đạo luật và được gọi là Luật quyết toán. Luật quyết toán chính thức

xác định số thu, số chi NSNN cũng như số bội chi hoặc bội thu của ngân sách

năm đó. Chính phủ có trách nhiệm trình Nghị viện dự án Luật quyết toán

muộn nhất vào ngày 31/12 năm sau. Như vậy, kể từ khi xây dựng Luật Tài

chính ban đầu tới khi trình dự án Luật quyết toán là một quá trình liên tục

diễn ra trong suốt hai năm.

2.4.1.2. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở

Việt Nam

Sau khi giành độc lập dân tộc, Việt Nam đã lựa chọn xây dựng đất

nước theo con đường XNCN. Tuy nhiên công cuộc tái thiết đất nước gặp rất

nhiều khó khăn, nhưng bằng tinh thần, ý chí cách mạng kiên cường dưới sự

lãnh đạo của những người cộng sản, nhân dân Việt Nam đã giành được những

thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, từng bước khẳng định vị thế của

mình trên trường quốc tế. Một trong những nhân tố làm nên thành công đó

phải kể đến cải cách tài chính công nói chung và thực hiện pháp luật về sử

dụng NSNN nói riêng. Dưới đây là một số kinh nghiệm mà Lào cần tham

khảo của Việt Nam trên con đường đổi mới, tích cực chủ động hội nhập với

nền kinh tế tài chính khu vực và thế giới:

Thứ nhất, ban hành hệ thống pháp luật về thu, chi NSNN nhằm thực

hiện có hiệu quả sử dụng NSNN: Trong những năm gần đây, nhằm đáp ứng

yêu cầu đổi mới xã hội trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, nhà nước

Việt Nam đã không ngừng cải cách hệ thống pháp luật, trong đó có pháp

luật về tài chính ngân sách. Giống như đối với các hoạt động khác, trong

lĩnh vực tài chính công, cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm soát sử dụng

NSNN ở Việt Nam hiện nay bao gồm Luật NSNN năm 2002 và các văn

bản dưới luật hướng dẫn thực hiện Luật NSNN như Nghị định số

72

60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành Luật NSNN, Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003

của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 60/2003/NĐ-CP,

Thông tư số 79/2003/TT-BTC ngày 13/8/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn

chế độ quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN. Hệ

thống văn bản pháp lý này đã thể hiện những nội dung quan trọng, chủ yếu,

cần điều chỉnh trong lĩnh vực sử dụng NSNN. Tại điểm 3 phần I thông tư

số 79/2003/TT-BTC, để được thanh toán chi trả các khoản phải có trong dự

toán NSNN được phân bổ, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có

thẩm quyền quy định và đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN hoặc

người được ủy quyền quyết định chi.

Thứ hai, thực hiện qui trình cấp phát, thanh toán các khoản NSNN:

Theo quy định của các đơn vị sử dụng ngân sách và các tổ chức được NSNN

hỗ trợ thường xuyên phải mở tài khoản tại KBNN, chịu sự kiểm tra của cơ

quan tài chính và KBNN trong quá trình thanh toán sử dụng kinh phí. Đối

với các cơ quan tài chính phải có trách nhiệm thẩm tra việc phân bổ dự toán

ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách vì sau khi được Thủ tướng

Chính phủ hoặc UBND giao sự toán ngân sách, các cơ quan nhà nước ở

Trung ương, địa phương, các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc, cơ quan

tài chính có trách nhiệm kiểm tra phương án phân bổ và giao dự toán của

đơn vị dự toán cấp trên cho các đơn vị dự toán cấp dưới. Nếu không đúng dự

toán ngân sách được giao, không đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định

mức thì yêu cầu điều chỉnh lại. Cơ quan tài chính còn kiểm tra, giám sát việc

thực hiện chi tiêu sử dụng ngân sách ở các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân

sách. Trường hợp phát hiện các khoản chi vượt nguồn cho phép, sai chính

sách, chế độ hoặc đơn vị không chấp hành chế độ báo cáo thì có quyền yêu

cầu KBNN tạm ngừng thanh toán. Trường hợp phát hiện việc chấp hành dự

toán của đơn vị sử dụng ngân sách chậm hoặc không phù hợp làm ảnh

hưởng đến kết quả, nhiệm vụ thì có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước và

đơn vị dự toán cấp trên có giải pháp kịp thời hoặc điều chỉnh nhiệm vụ, dự

73

toán chi của cơ quan đơn vị trực thuộc để bảo đảm thực hiện ngân sách theo

mục tiêu và tiến độ quy định.

Đối với KBNN - cơ quan có chức năng thực hiện việc thanh toán, chi

trả các khoản chi NSNN và quản lý quỹ NSNN. Vì vậy, KBNN vừa có quyền

vừa có trách nhiệm phải kiểm soát chặt chẽ mọi khoản chi NSNN, đặc biệt là

các khoản chi thường xuyên. Trước khi thanh toán, chi trả KBNN có trách

nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ chi và nếu có đủ các điều kiện chi theo

quy định của pháp luật thì thanh toán kịp thời các khoản chi ngân sách đó cho

người được hưởng thụ; đồng thời, phối hợp tham gia cùng với cơ quan tài

chính, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm tra tình hình

sử dụng kinh phí NSNN và xác nhận số thực chi NSNN qua KBNN của các

đơn vị sử dụng NSNN. Để tăng cường vai trò của KBNN trong kiểm soát chi

NSNN, hiện nay ở Việt Nam đã bước đầu triển khai thực hiện cơ chế “chi

trực tiếp qua KBNN” (là phương thức thanh toán chi trả khá rõ ràng, minh

bạch, hợp lý với sự tham gia của 3 bên: Đơn vị sử dụng NSNN; KBNN; tổ

chức hoặc cá nhân được nhận các khoản tiền do đơn vị sử dụng NSNN thanh

toán chi trả) và coi đây như một nguyên tắc trong quản lý sử dụng NSNN.

Bên cạnh đó, nếu phát hiện các khoản chi sai, KBNN phải thu hồi giảm chi

NSNN căn cứ vào quyết định của cơ quan tài chính hoặc cơ quan nhà nước có

thẩm quyền. Mọi khoản chi phải được hoạch toán bằng Việt Nam đồng theo

từng niên độ ngân sách, cấp ngân sách và mục lục ngân sách. Đối với các

khoản chi bằng ngoại tệ, hiện vật, ngày công lao động thì phải được quy đổi

và hạch toán bằng đồng Việt Nam theo tỷ giá ngoại tệ, giá hiện vật, ngày công

lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

Thứ ba, phương thức cấp phát, thanh toán sử dụng ngân sách nhà nước:

“Phương thức cấp phát, thanh toán kinh phí ngân sách nói chung và thanh toán

chi thường xuyên nói riêng được hiểu là những cách thức, biện pháp mà nhà

nước sử dụng để chuyển giao nguồn kinh phí từ NSNN cho các đối tượng sử

dụng ngân sách theo đúng yêu cầu định trước” [17, tr.164].

74

Phương thức chi trả, thanh toán theo dự toán kinh phí từ KBNN được

áp dụng đối với các khoản chi thường xuyên của các đơn vị thường xuyên

sử dụng kinh phí từ NSNN để thực hiện nhiệm vụ được giao, ví dụ: Các

đơn vị sự nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội -

nghề nghiệp được NSNN hỗ trợ kinh phí thường xuyên. Căn cứ vào nhu

cầu tiêu dùng hàng quý đã đăng ký với KBNN và khi có nhu cầu thực tế,

đại diện hợp pháp của đơn vị sử dụng ngân sách lập “giấy rút dự toán

NSNN” kèm theo các hồ sơ thanh toán, yêu cầu KBNN nơi giao dịch tiến

hành thanh toán, chi trả. Trên cơ sở đó, KBNN tiến hành kiểm tra, kiểm

soát hồ sơ thanh toán của đơn vị sử dụng NSNN theo quy định. Khi thực

hiện thanh toán theo dự toán đã được phê chuẩn, KBNN chỉ thực hiện việc

thanh toán theo đúng mục chi thực tế trong phạm vi các nhóm mục đã được

giao trong dự toán NSNN.

Phương thức chi trả, thanh toán bằng lệnh chi tiền được áp dụng đối với

các chủ thể không có quan hệ thường xuyên với NSNN trong việc nhận kinh

phí, ví dụ: Chi cấp vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội;

hoặc các khoản chi mang tính đặc thù, phát sinh từng lần như chi bổ sung từ

ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới, chi trả nợ, chi viện trợ... Lệnh chi

tiền là quyết định chi do cơ quan tài chính phát hành, gửi cho KBNN với nội

dung yêu cầu KBNN chi trả, thanh toán một số tiền cụ thể cho đơn vị sử dụng

ngân sách theo đúng nội dung của lệnh chi. Cơ quan tài chính chịu trách

nhiệm kiểm tra, kiểm soát nội dung, tính chất của từng khoản chi, đảm bảo

các điều kiện cấp phát NSNN theo chế độ quy định. KBNN thực hiện xuất

quỹ NSNN và thanh toán cho đơn vị sử dụng NSNN theo nội dung ghi trong

lệnh chi tiền của cơ quan tài chính.

Thực tiễn thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã điều hành thu, chi

NSNN linh hoạt và phù hợp với kinh tế thị trường. Nhà nước đã có nhiều chủ

trương rõ rệt trong kiểm soát thâm hụt ở mức hợp lý, việc mở rộng giới hạn

sử dụng ngân sách được tính toán trong tương quan với số thu của nền kinh

tế. Nhà nước có thể chủ động điều hành chi lớn hơn thu (thâm hụt chủ động)

75

trong một khoảng thời gian nhất định, nếu thấy đem lại hiệu quả cho nền kinh

tế. Những năm gần đây, Quốc hội Việt Nam khống chế mức thâm hụt không

lớn hơn 5% GDP.

Trên đây là những bài học được rút ra từ quá trình đổi mới đất nước

trong 32 năm qua ở Việt Nam, nó sẽ giúp ích cho Đảng và Nhà nước Lào

trong xây dựng và hoàn thiện hơn Luật Ngân sách nhà nước.

2.4.2. Các giá trị tham khảo đối với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

Lào trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

Qua nghiên cứu kinh nghiệm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách

ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam, tác giả có thể rút ra một số giá trị tham khảo

đối với CHDCND Lào như sau:

Một là, quy định cụ thể và bảo đảm sự tuân thủ nghiêm ngặt quy trình,

trình tự lập, thảo luận và phê duyệt dự toán NSNN từ cấp cơ sở đến khi phê

chuẩn của cơ quan lập pháp. Quỹ thời gian dành cho công tác chuẩn bị ngân

sách của các nước này tương đối dài, vì vậy mà dự toán ngân sách sau khi

được phê chuẩn là một dự toán chi tiết các khoản thu, chi và phù hợp với nhu

cầu sử dụng ngân sách thực tế của các đơn vị.

Hai là, thực hiện kiểm tra trước, trong và sau khi sử dụng NSNN được

thực hiện bởi một quy trình khép kín theo một cơ chế kiểm tra, kiểm soát chặt

chẽ trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cá nhân và từng bộ

phận tham gia vào quá trình kiểm soát các đơn vị sử dụng ngân sách. Vai trò,

nhiệm vụ, trách nhiệm của các đơn vị sử dụng NSNN, Bộ Tài chính, Chính

phủ và cơ quan lập pháp được phân định rõ ràng và thể chế hóa thành luật.

Ba là, trong quản lý sử dụng ngân sách, mở rộng phương thức quản lý

theo đầu ra. Lấy kết quả đầu ra của các chương trình, khoản chi tiêu để đánh

giá hiệu quả. Mô hình này có thể áp dụng đối với một số chương trình, khoản

chi tiêu của Lào trong thời gian tới khi thực hiện cải cách mạnh mẽ về quản lý

tài chính công.

Bốn là, giao nhiệm vụ quyết toán quỹ ngân sách nhà nước cho cơ quan kho

bạc đảm nhận; đồng thời, thiết lập cơ quan kiểm toán nhà nước (một chức năng

76

của kho bạc nhà nước) để thực hiện vai trò tổng hợp số liệu, theo dõi tình hình tài

sản công; kiểm toán, thanh tra các khoản chi ngân sách nhà nước trong toàn bộ

nền kinh tế (kể cả trong hệ thống kho bạc và các đơn vị sử dụng ngân sách).

Năm là, tăng cường phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật gắn với

tăng cường kỷ luật thực hiện pháp luật để nâng cao tinh thần tự giác chấp

hành chính sách thu, chi ngân sách của nhà nước. Kinh nghiệm của các nước

áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế cho thấy ý thức của người dân quyết định

đến kết quả thu thuế. Nhưng người dân chỉ tự giác nộp thuế khi họ nhận thức

được tính hợp lý của thuế cũng như tính hợp lý của sử dụng NSNN.

Sáu là, Đào tạo, giáo dục nâng cao trình độ, đạo đức và thái độ văn

minh của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy khi sử dụng ngân sách nhà

nước. Kinh nghiệm của các nước nêu trên cho thấy, cán bộ quản lý trong các

cơ quan thuế, kho bạc nhà nước và các cơ quan liên quan quyết định hiệu quả

của chi ngân sách nhà nước.

Bảy là, ứng dụng khoa học công nghệ vào trong công tác thu, chi ngân

sách nhà nước nhằm hiện đại hóa công tác quản lý sử dụng ngân sách nhà

nước. Các nước Pháp và Việt Nam đều áp dụng công nghệ thông tin vào quản

lý chi ngân sách nhà nước ở các mức độ khác nhau. Kinh nghiệm của các nước

đều chỉ ra cho Chính phủ Lào một điều rằng, áp dụng công nghệ thông tin là

cần thiết khách quan vì nó đem lại lợi ích rất lớn. Tuy nhiên cần tính toán kỹ

hiệu quả để áp dụng ở mức độ hợp lý để quản lý sử dụng ngân sách nhà nước ở

Lào; bởi vì, áp dụng công nghệ thông tin cũng đòi hỏi những khoản vốn lớn mà

nếu không được sử dụng hiệu quả sẽ gây hậu quả bất lợi cho nhà nước Lào.

Những kinh nghiệm quý báu trên của Cộng hòa Pháp và Việt Nam trong

thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước sẽ góp phần chống lạm phát,

tham nhũng, lãng phí trong sử dụng ngân sách ở Lào. Qua đó, tích lũy tiền để tái

sản xuất và mở rộng quy mô sản xuất trong nước. Có thể nói, đây là nguyên

nhân làm nên thắng lợi đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là tiền

đề xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên phạm vi đất nước Lào.

77

Tiểu kết chương 2

Ngân sách nhà nước là yếu tố giữ vị trí trung tâm trong nền tài chính

của quốc gia. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò của ngân sách nhà

nước lại càng trở nên quan trọng, cùng với thực hiện pháp luật về sử dụng

ngân sách nhà nước ở các đơn vị, tập thể, cá nhân được hưởng ngân sách.

Ngân sách nhà nước chi cho các hoạt động giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa

thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ; chi

cho hoạt động sự nghiệp kinh tế, quốc phòng - an ninh, trật tự - an toàn xã

hội... được các cơ quan quản lý ngân sách thực hiện việc dự toán, phân bổ cho

các đơn vị sử dụng ngân sách. Hoạt động sử dụng ngân sách nhà nước là hoạt

động gắn liền với lợi ích của nhà nước. Do đó, để đảm bảo quan hệ phát sinh

và vận động phù hợp với lợi ích của mình, nhà nước ban hành các quy phạm

pháp luật quy định chủ thể, hình thức, nội dung và phương thức thực hiện các

khoản chi; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ chi ngân sách

nhà nước. Tập hợp các quy phạm pháp luật đó tạo thành pháp luật sử dụng

ngân sách nhà nước hay còn gọi là chế độ pháp lý chi ngân sách nhà nước.

Bài học từ hai nước: Cộng hòa Pháp và Việt Nam có giá trị tham khảo quan

trọng đối với Lào trong cải tổ hệ thống hành chính, xây dựng hệ thống pháp

luật về ngân sách nói chung và thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà

nước nói riêng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, đất

nước Lào đang dần khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế, đạt

được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ và xây dựng Tổ

quốc Lào xã hội chủ nghĩa. Trong đó, kinh tế vẫn là cơ sở khẳng định sự hưng

thịnh của đất nước, nó được biểu hiện thông qua ngân sách nhà nước. Tuy

nhiên, do đặc điểm về tự nhiên - xã hội nên vấn đề thực hiện pháp luật về

ngân sách nhà nước ở Lào còn là một bài toán nhiều ẩn số; vì vậy, cần có thời

gian nghiên cứu về Luật Ngân sách nhà nước cũng như thực hiện pháp luật về

sử dụng ngân sách nhà nước nhằm giải quyết những tồn tại hiện nay trong sử

dụng ngân sách nhà nước.

78

Chương 3

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ

DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào

3.1.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của Lào

* Vị trí địa lý:

Lào là một quốc gia nằm ở bán đảo Đông Dương, có diện tích 236.800

km2. Khoảng 80% diện tích lãnh thổ của Lào là rừng, núi và cao nguyên. Lào

có chung biên giới với năm quốc gia có chế độ chính trị khác nhau: phía Bắc

giáp với nước CHND Trung Hoa dài 505 km, phía Nam giáp với Vương quốc

Campuchia dài 435 km, phía Đông Bắc có chung biên giới với Myanma dài

236 km, phía Tây có chung biên giới với Vương quốc Thái Lan dài 1835 km

và phía Đông có chung biên giới với nước CHXHCN Việt Nam dài 2070 km.

Trong lịch sử giải phóng dân tộc, cũng như trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ

đất nước, Lào và Việt Nam là hai nước có đường biên giới dài nhất cũng như

giữ gìn được tình hữu nghị thủy chung, trong sáng, thiết lập được mối quan hệ

đặc biệt và hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực chính trị - kinh tế, văn hóa - xã

hội, khoa học - công nghệ, an ninh - quốc phòng.

* Điều kiện tự nhiên:

Lào có nhiều tài nguyên thiên nhiên rừng với trữ lượng các loại gỗ quý

khá lớn. Ngoài ra, rừng còn cung cấp nhiều lâm sản quý như thảo dược, động

thực vật hoang dã, các sản phẩm từ ong rừng, từ các loại thú khác.

79

Lào có ba đồng bằng lớn nằm ở các vùng khác nhau của đất nước, đó là

đồng bằng Viêng Chăn, đồng bằng Xa Văn Na Khẹt và đồng bằng Chăm Pa

Sắc. Các đồng bằng này phân bố tập trung ở phía Tây, dọc theo sông Mê

Kông và chiếm 1/5 lãnh thổ, nhưng là nơi sinh sống của 3/4 dân số trong cả

nước. Khu vực đồng bằng có trình độ phát triển khá cao so với cả nước. Tuy

nhiên, các đồng bằng này không liền dải mà bị chia cắt do xen kẽ với núi đồi,

việc đi lại và giao lưu hàng hóa giữa các vùng không thuận tiện do địa hình

phức tạp và hệ thống giao thông đường bộ còn kém phát triển.

Lào có nguồn tài nguyên nước khá phong phú. Một số con sông, suối

bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn có lưu lượng nước chảy mạnh thích hợp cho

xây dựng các nhà máy thủy điện. Lào vẫn còn nhiều tài nguyên khoáng sản

chưa khai thác. Đây cũng là một trong những tiền đề góp phần phát triển kinh

tế nước Lào hiện tại và trong tương lai.

Cộng hòa dan nhân dân Lào có 3 vùng khí hậu hình thành trên cơ sở khác

biệt về tự nhiên.

- Vùng miền núi của Lào có thể chia thành ba vùng với khí hậu khá

đặc trưng:

+ Vùng núi Bắc Lào (bao gồm cả một phần vùng núi cao của Viêng

Chăn và Bo Ly Khăm Xay). Đây là khu vực có nhiều núi cao trùng điệp, khí

hậu mát mẻ trong mùa hè và lạnh trong mùa đông, phù hợp với chăn nuôi đại

gia súc và một số loại cây ăn quả. Đây cũng là vùng sản xuất lâm nghiệp

thuận lợi, đồng thời có thể kết hợp với chăn nuôi đại gia súc.

+ Vùng Trung và Nam Lào có phần phía Đông thuộc dãy Trường Sơn.

Đây là khu vực có nhiều dãy núi với độ dốc thấp hơn Bắc Lào với đặc điểm

khí hậu ấm áp quanh năm. Vùng này tập trung nhiều khu rừng rậm, rừng

nguyên thủy với nhiều loại gỗ quý và thú rừng, đất đai khí hậu thích hợp cho

sản xuất lương thực. Các vùng thung lũng và cao nguyên có thể quy hoạch

80

trồng các loại cây công nghiệp có giá trị như cà phê, sa nhân, canh kina và

nhiều loại cây ăn quả khác.

- Vùng đồng bằng phía Tây ven bờ sông Mêkông có địa hình tương đối

bằng phẳng, đất đai phần lớn là phù sa nhưng thường bị mưa xói mòn, nhiều

vùng đã trở thành chua phèn hoặc bạc màu. Khí hậu ở đây gần như nóng

quanh năm. Đây là vùng tập trung các thành phố lớn đông dân cư. Trình độ

sản xuất hàng hóa ở vùng này cao hơn các vùng khác. Khu vực này thích hợp

với việc trồng các loại cây công nghiệp, đặc biệt là cây công nghiệp ngắn

ngày. Trên cơ sở một nền sản xuất nông nghiệp ở vùng này đã hình mạng lưới

khá phát triển các nhà máy, xí nghiệp nhỏ và vừa với nhiều trình độ công

nghệ khác nhau, trong đó có cả công nghệ cao.

Điều kiện tự nhiên đa dạng đã tạo ra những tiềm năng và hạn chế đối

với phát triển kinh tế của Lào như sau:

+ Tiềm năng: Lào có vị trí đầu mối giao thông, vị trí tiếp giáp nhạy cảm

với nhiều nước ở khu vực Đông Dương nói riêng, Châu Á nói chung nên nếu

cơ sở hạ tầng của Lào được nâng cấp, một số chính sách về thông quan hàng

hóa được cải thiện hơn nữa, thì Lào sẽ trở thành trung điểm trên con đường

giao lưu hàng hóa giữa các nước. Đây là một tiềm năng lớn và vững chắc để

Lào phát triển kinh tế hàng hóa và tăng thu NSNN.

Mặt khác, Lào là một đất nước có nhiều tài nguyên nước, hiện nay cũng

như trong những năm tới, nếu Chính phủ thực hiện thành công chương trình

đầu tư xây dựng hệ thống thủy điện thì không những Lào có nguồn năng

lượng điện dồi dào phục vụ phát triển công nghiệp, dịch vụ trong nước, mà

còn là nguồn xuất khẩu sang các nước láng giềng thu về ngoại tệ với quy mô

khá lớn. Hiện nay, theo đánh giá của các nhà địa chất, Lào còn có một số

nguồn tài nguyên khoáng sản có trữ lượng lớn, chất lượng khá cao, nếu đưa

vào khai thác sẽ có nguồn thu lớn cho NSNN.

81

Những hạn chế của điều kiện tự nhiên đối với phát triển kinh tế của

Lào: Vùng núi và cao nguyên chiếm diện tích lớn, vùng đồng bằng bị chia

cắt không thuận lợi cho phát triển sản xuất hàng hóa ở quy mô lớn. Hơn nữa,

Lào không có diện tích đất ven biển nên khó khăn trong vận chuyển hàng

xuất khẩu. Mặc dù Lào có thể sử dụng các dịch vụ vận tải biển của nước

khác, nhưng đường ra cảng xa có thể làm cho chi phí chuyên chở tăng cao,

giảm sức cạnh tranh của mặt hàng xuất khẩu.

3.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ở Lào

Sau khi đất nước hòa bình, Đảng NDCM Lào đã bắt tay vào xây dựng

và phát triển kinh tế. Đảng đã đề ra kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế lần thứ

nhất (1976 - 1981). Đây là giai đoạn đầu trong phát triển kinh tế - xã hội và

được coi là giai đoạn khó khăn nhất, chính quyền cách mạng vừa được thành

lập, nền kinh tế mà chế độ cũ để lại hết sức yếu ớt, cơ sở hạ tầng hết sức lạc

hậu... Đường lối phát triển kinh tế lúc này là “Khôi phục sản xuất nông

nghiệp, công nghiệp, tạo điều kiện cho dân có nơi ăn, nơi ở và có nơi lao

động sản xuất, bảo vệ đất nước và chế độ mới theo sự chỉ đạo của nhà nước”

[102, tr.2].

Trong những năm thực hiện đường lối này, nền kinh tế của Lào phát

triển rất chậm. GDP hầu như không có sự tăng trưởng. Thời kỳ này kinh tế

quốc doanh chiếm tất cả các lĩnh vực kinh tế, kinh tế hàng hóa chưa phát

triển, nhiều mặt trong chính sách kinh tế không thích hợp với thực tiễn.

Trong quan hệ quốc tế trên lĩnh vực kinh tế của Lào với các nước

XHCN chuyển sang hợp tác trên tinh thần bình đẳng, đôi bên cùng có lợi, có

vay có trả, không còn viện trợ, cho không nên NSNN khá căng thẳng, nguồn

thu trong nước không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu, Chính phủ buộc phải

vay nợ nước ngoài. NSNN ngày càng bội chi lớn, lạm phát tăng, giá cả leo

thang, tình hình xã hội có nhiều phức tạp, tiêu cực nảy sinh.

82

Cùng lúc đó hàng loạt các nước trong phe XHCN lâm vào khủng

hoảng về kinh tế - chính trị nên đã tác động không tốt đến kinh tế - xã hội

của Lào. Nền kinh tế Lào lúc này rất khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng đã

nhận ra sự yếu kém trong quản lý kinh tế và bắt đầu xem xét, tìm nguyên

nhân yếu kém để từng bước điều chỉnh mô hình kinh tế.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV năm 1986 của Đảng NDCM Lào

đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp

sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự

quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây được coi là chuyển biến

quan trọng đầu tiên, được ghi nhận như một mốc lịch sử, đánh dấu sự bắt đầu

chuyển đổi nền kinh tế sang mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phù

hợp với thực tiễn của Lào.

Chủ trương đổi mới của Đảng là đổi mới toàn diện, trên tất cả các lĩnh

vực. Riêng trong lĩnh vực kinh tế - tài chính Đảng đã khẳng định:

- Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều chế độ sở hữu, các

thành phần kinh tế có quyền bình đẳng trước pháp luật và có nghĩa vụ đối với

Nhà nước.

- Từng bước chuyển nền kinh tế từ nền kinh tế nhỏ, sản xuất tự cấp tự

túc sang nền sản xuất hàng hóa.

- Tạo điều kiện để các thành phần kinh tế trong nước phát triển, lấy

nông - lâm ngư nghiệp làm cơ sở, lấy công nghiệp làm động lực thúc đẩy.

- Có kế hoạch phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, các khu vực

và tận dụng các vùng có lợi thế kinh tế.

- Nhà nước thực hiện vai trò quản lý kinh tế bằng pháp luật, bằng chính

sách và công cụ tài chính nhằm điều tiết nền kinh tế phát triển theo

hướng và mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

83

Đường lối kinh tế mới này lại tiếp tục được khẳng định và hoàn thiện

tại các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1991); lần thứ VI (1996); lần

thứ VII (2001); lần thứ VIII (2006); lần thứ IX (2011); lần thứ X (2016).

Nhờ đường lối đổi mới đúng đắn, cơ cấu kinh tế của Lào đã có sự

chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Khu vực kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc

lạc hậu đã giảm dần tỷ trọng, khu vực kinh tế nông nghiệp hàng hóa, công

nghiệp và dịch vụ tăng dần theo hướng hiện đại hóa. Các thành phần kinh tế

ngoài quốc doanh đã có sự phát triển khởi sắc. Các thành phần kinh tế trong

nước đang dần làm quen với cơ chế thị trường và đứng vững trên thị trường.

Nhiều doanh nghiệp mới ra đời và phát triển, có nhiều doanh nghiệp đã liên

doanh, liên kết với nước ngoài.

Biểu đồ 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm

của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Nguồn: [102]

Biểu đồ 3.1 cho thấy, trong thời kỳ 2011 kinh tế Lào đã chịu ảnh hưởng

nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á nên tăng trưởng chậm

lại. Thời kỳ 2011-2013 kinh tế Lào đã có sự tăng trưởng khá tốt. Từ năm

84

2014 đến nay kinh tế Lào đã bắt đầu khôi phục và tăng trưởng chậm lại,

không đạt mức dự kiến.

Sau hơn 31 năm thực hiện đường lối đổi mới và 21 năm thực hiện hội

nhập (tháng 8/1997 Lào đã chính thức trở thành thành viên ASEAN),

CHDCND Lào đã có nhiều đổi mới trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Sự đổi

mới này đã đem lại cho nhân dân các bộ tộc Lào nhiều điều tốt lành. Tuy vậy

từ năm 2011 trở về đây, nền kinh tế, tài chính của Lào đã có sự chuyển biến

không tích cực, kinh tế quốc dân phát triển chậm, không đạt được mục tiêu.

Đại hội toàn quốc lần thứ X Đảng NDCM Lào năm (2016) đã khẳng định đến

năm 2020 Lào phải thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển, kinh tế phải

đảm bảo phát triển bền vững, đời sống nhân dân phải cao hơn 3 lần so với

hiện nay. Trước hết là từ 2011 đến năm 2017 phải xây dựng cơ sở hạ tầng đáp

ứng nhu cầu về phát triển kinh tế - xã hội. Tạo mọi điều kiện để các thành

phần kinh tế phát triển một cách bền vững, khai thác mọi tiềm năng để tạo

động lực cho sự phát triển, GDP phải tăng hàng năm trên 6,8%, tổng thu nhập

quốc nội phải đạt 5,2 tỷ USD [110, tr.40].

Bảng 3.1: Cơ cấu ngành kinh tế trong tổng GDP và GDP

trên đầu người ở Lào

Nội dung

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

Nông nghiệp 27,40% 26,00% 25,63% 23,15% 23,70% 22,70% 16,34%

Công nghiệp 27,30% 31,20% 28,66% 32,42% 32.51% 29,50% 30,00%

Dịch vụ

39,10% 37,10% 38,40 % 37,87% 38,12% 39,40% 42,08%

GDP

8,00%

7,93% 7,95 %

7,80%

7,40%

7,02%

6,80%

GDP/người

1.281$

1.396$

1.589$

1.725$

1.857$

2.092$

2.472$

Nguồn: [102, tr.39-41].

85

Biểu đồ 3.2: Cơ cấu kinh tế trong tổng GDP giai đoạn 2011 - 2017

Nguồn: [102]

Biểu đồ 3.2 cho thấy công nghiệp và dịch vụ trong GDP đang có xu

hướng tăng dần qua các năm. So sánh năm 2011 với 2017 cho thấy tỷ trọng

công nghiệp từ 27,30% tăng lên 30,00%, dịch vụ từ 39,10% tăng lên 42,08%.

Trong khi đó tỷ trọng nông nghiệp từ 27,40% giảm xuống còn 16,34%.

Về mặt xã hội, theo thống kê mới nhất hiện nay(2016), dân số Lào có

khoảng 6.809.054 người gồm 49 bộ tộc trong đó bộ tộc Lào Lum là bộ tộc

chính và tiếng Lào Lum là ngôn ngữ chính ở CHDCND Lào.

Đạo Phật là tôn giáo được ưa chuộng của nhân dân Lào. Từ khắp mọi

ngõ ngách, thôn bản, người dân các bộ tộc Lào đều thấm nhuần Đạo Phật. Bởi

vì Đạo Phật luôn dạy cho người Lào không được chửi nhau, không được cãi

nhau, răn dạy mọi người sống bình yên, không tham lam, không nên lao động

nhiều quá… Đặc điểm tôn giáo này đã ảnh hưởng đến tác phong, lối sống của

người Lào từ khi bắt đầu hình thành đất nước cho đến tận ngày nay. Vì vậy,

xã hội Lào tương đối bình yên, mọi người ít bon chen và thích cuộc sống với

nhịp độ chậm rãi.

Có thể thấy, điều kiện kinh tế - xã hội của Lào đã ảnh hưởng đến vấn

đề NSNN và thực hiện pháp luật về NSNN theo hướng thuận nhiều hơn

nghịch, thể hiện qua các khía cạnh sau đây:

86

Thứ nhất, trong nhiều năm nay kinh tế Lào duy trì được tốc độ tăng

trưởng khá cao, khối lượng hàng hóa lưu thông tăng nhanh, thu nhập của

doanh nghiệp và dân cư tăng lên nên khối lượng thu, chi NSNN cũng tăng

theo, việc thu NSNN cũng thuận lợi hơn do sự chống đối giảm đi khi doanh

nghiệp và dân cư vẫn còn lại phần thu nhập lớn sau khi nộp NSNN.

Thứ hai, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng tăng nông nghiệp hàng

hóa, công nghiệp, dịch vụ làm thay đổi sự vận động của các luồng tiền tệ kéo

theo sự tăng lên về tỷ lệ động viên các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế

vào NSNN; từ đó, Nhà nước có điều kiện để giải ngân vào các công trình

trọng điểm mang tính chiến lược đối với sự phát triển bền vững của quốc gia.

Thứ ba, việc Lào tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là tham gia

nhiều vào các hoạt động của khối ASEAN ảnh hưởng tới nguồn thu, chi

NSNN không chỉ ở thay đổi cơ cấu thuế xuất nhập khẩu mà kéo theo thay đổi

cả cơ cấu các khoản thu, chi nội địa trong tổng NSNN.

Thứ tư, người dân hiền hòa, ít chống đối lại chính sách, pháp luật của

nhà nước. Tuy nhiên do trình độ dân trí thấp cần coi trọng công tác giáo dục,

tuyên truyền để người dân ủng hộ chính sách thu, chi ngân sách, giám sát thực

hiện pháp luật về sử dụng NSNN.

3.1.2. Thực trạng pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Mức độ hoàn thiện của pháp luật về sử dụng NSNN ảnh hưởng trực

tiếp đến việc thực hiện. Những quy định thiếu cụ thể, mâu thuẫn, không phù

hợp với thực tế v.v.. đều gây khó khăn, vướng mắc cho việc thực hiện. Vì thế

thực trạng pháp luật về sử dụng NSNN là yếu tố ảnh hưởng đến việc thực

hiện pháp luật về sử dụng NSNN.

Pháp luật về sử dụng NSNN được quy định trong Luật NSNN năm

2006 và các văn bản dưới luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các nội

dung về sử dụng NSNN.

87

Luật Ngân sách nhà nước năm 2006 đã được Quốc hội khóa V, kỳ họp

thứ 2 thông qua ngày 26/12/2006, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách

2006-2007. Đây là đạo Luật quan trọng trong hệ thống pháp luật tài chính ở

Lào. Luật Ngân sách nhà nước năm 2006 được xây dựng trên cơ sở kế thừa,

phát huy những ưu điểm, khắc phục những tồn tại của Luật Ngân sách nhà

nước năm 1994; với mục tiêu quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng

cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc

quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng có

hiệu quả ngân sách và tài sản nhà nước; tăng tích lũy nhằm thực hiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo quốc

phòng - an ninh, đối ngoại.

Sau khi Quốc hội phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hằng

năm trong đó có chương trình sử dụng ngân sách nhà nước và được ban hành,

Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các Bộ đã khẩn trương ban hành

các văn bản hướng dẫn thi hành luật, nhằm đưa Luật đi vào cuộc sống một

cách nhanh chóng, có hiệu quả. Trong những năm gần đây, hệ thống văn bản

pháp lý trong lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà nước đã được ban hành khá

đồng bộ và đầy đủ, trong đó chủ yếu là các văn bản sau đây:

- Văn bản quy định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế

và kinh phí quản lý hành chính tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp

như: Nghị định số 43/2009/CP ngày 25/4/2009 của Chính phủ quy định

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,

biên chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và các văn bản

hướng dẫn thi hành.

- Nghị quyết về “Thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân

sách nhà nước quốc gia năm 2011-2015”, số 288/TT ngày 14/9/2011.

88

- Nghị quyết số 328/CP ngày 19/9/2014 của Thủ Tướng Chính phủ Lào

về Quy chế lập, thẩm tra, trình Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà

nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán ngân

sách nhà nước.

- Các Thông tư của Bộ Tài chính, Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài

chính (khoảng trên 200 văn bản) hướng dẫn chi tiết việc phân cấp quản lý,

lập, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước, công khai ngân sách; hướng

dẫn quản lý thu, chi ngân sách nhà nước và chế độ kế toán ngân sách nhà

nước; hướng dẫn việc tập trung các nguồn thu ngân sách nhà nước và quản lý,

cấp phát thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước qua KBNN; hướng dẫn

việc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà

nước, chế độ kế toán ngân sách nhà nước.

Hệ thống ngân sách nhà nước ở Lào hiện nay được thể hiện theo mô

hình như sau:

NSNN Lào

Ngân sách trung ương Ngân sách địa phuơng

Ngân sách tỉnh Ngân sách bộ

Ngân sách huyện

Trong tổ chức triển khai thực hiện Luật Ngân sách nhà nước, Bộ Tài

chính đã chủ động phối hợp với các Bộ, cơ quan Trung ương, các địa phương,

cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và đơn vị

giáo dục đào tạo ở Trung ương và địa phương tổ chức tập huấn, hướng dẫn

89

nghiệp vụ, tuyên truyền, phổ biến Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành

Luật đến từng đơn vị sử dụng ngân sách, nâng cao trình độ cán bộ làm công

tác tài chính trong và ngoài ngành tài chính; đưa một số nội dung quan trọng

trong Luật vào chương trình giảng dạy, đào tạo của ngành tài chính.

Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN thực chất là thực hiện các quy

định của pháp luật về chi NSNN.

Trong những năm qua, hệ thống chi ngân sách nhà nước ngày càng

được đổi mới và hoàn thiện theo hướng tạo lập môi trường kinh doanh công

bằng, bình đẳng; góp phần khuyến khích đầu tư phát triển hoạt động sản xuất

kinh doanh, phù hợp với yêu cầu hội nhập trong giai đoạn mới.

Luật Ngân sách nhà nước đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ

quan nhà nước, các cấp chính quyền trong cả quá trình sử dụng ngân sách nhà

nước như sau:

Quốc hội quyết định tổng số chi ngân sách, phân bố ngân sách theo

từng lĩnh vực chi, theo cơ cấu chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển,

chi trả nợ. Quốc hội giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định phương

án phân bổ ngân sách trung ương cho từng Bộ, ngành và mức bổ sung ngân

sách cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của

Quốc hội giao và giám sát việc thi hành pháp luật về ngân sách nhà nước.

Ủy ban kinh tế và Ngân sách của Quốc hội thẩm tra các dự án luật,

pháp lệnh và các dự án khác về lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà nước. Thẩm

tra dự toán ngân sách nhà nước và các phương án phân bổ ngân sách trung

ương cho các Bộ, ngành và địa phương; đồng thời, kiến nghị với Quốc hội

các vấn đề về ngân sách nhà nước.

Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội các dự án luật,

pháp lệnh và các dự án khác về ngân sách nhà nước, ban hành văn bản pháp

90

luật về ngân sách nhà nước, lập và trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước

và phân bổ ngân sách nhà nước cho từng Bộ, ngành, thống nhất quản lý, sử

dụng NSNN, tổ chức kiểm tra việc thực hiện NSNN; quy định nguyên tắc,

phương pháp tính toán sổ, bổ sung nguồn thu từ ngân sách cấp trên cho ngân

sách cấp dưới, quy định chế độ quản lý quỹ dự phòng NSNN và quỹ dự trữ tài

chính; kiểm tra Nghị quyết của chính quyền địa phương về dự toán và quyết

toán NSNN, lập và trình Quốc hội quyết toán NSNN và quyết toán các công

trình xây dựng cơ bản của nhà nước.

Bộ Tài chính chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về

lĩnh vực NSNN trình Chính phủ, ban hành các văn bản pháp quy về NSNN

theo thẩm quyền, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng

thống nhất quản lý NSNN; hướng dẫn, kiểm tra các Bộ, các cơ quan Trung

ương và địa phương xây dựng dự toán NSNN hàng năm chủ trì, phối hợp với

các Bộ, ngành trong việc xây dựng các chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu, chi

NSNN, thanh tra, kiểm tra tài chính với tất cả các tổ chức kinh tế, các đơn vị

hành chính sự nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa vụ nộp ngân sách và sử

dụng ngân sách nhà nước; quản lý quỹ NSNN và các quỹ khác của nhà nước;

lập quyết toán NSNN trình Chính phủ.

Chính quyền các địa phương có quyền quyết định dự toán và phân bổ

ngân sách của cấp mình trên cơ sở khả năng và nhiệm vụ chi, cấp trên không

quyết định chi tiết ngân sách cấp dưới. Chính quyền địa phương được ban hành

một số chế độ thu phí, lệ phí, phụ thu theo quy định của Chính phủ như vậy.

Chính quyền các địa phương ở Lào có quyền lập dự toán chi và phương

án phân bổ ngân sách địa phương, dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương

trong trường hợp cần thiết báo cáo cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp kiểm

tra dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách. Tổ chức thực hiện ngân sách

địa phương và báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định.

91

Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được huy động vốn trong

nước cho đầu tư xây dựng cơ bản thuộc địa phương quản lý, không được cho

vay đối với các doanh nghiệp.

Đánh giá so với cơ chế cũ, đây là những thay đổi cơ bản về nhiệm vụ,

quyền hạn của chính quyền các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, tạo

điều kiện thuận lợi để địa phương phát huy tiềm năng hiện có, bồi dưỡng và

tăng thu cho ngân sách nhà nước; từ đó, chủ động bố trí chi tiêu ngân sách

hợp lý, hiệu quả, phù hợp với quy hoạch tổng thể và chế độ thu, chi thống

nhất trong cả nước.

Hệ thống pháp luật về sử dụng ngân sách được bổ sung, sửa đổi theo

hướng xây dựng phân cấp quản lý NSNN đồng bộ, phù hợp với điều kiện

phát triển kinh tế - xã hội. Giải quyết được vấn đề này đã tạo ra bước đột

phá cơ bản, đặt nền móng cho việc hình thành thực hiện pháp luật về sử

dụng NSNN. Chức năng, nhiệm vụ của các cấp chính quyền địa phương

nói riêng và nhà nước nói chung trong nền kinh tế thị trường không phải là

can thiệp trực tiếp vào mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội mà cần trở

lại với chức năng vốn có của mình là quản lý hành chính, điều tiết vĩ mô;

còn chức năng quản lý sản xuất kinh doanh do các doanh nghiệp thuộc các

thành phần kinh tế thực hiện. Những chức năng quyền hạn của mỗi cấp

chính quyền địa phương được cụ thể hóa một phần trong các luật cơ bản

của nhà nước, phải triệt để tôn trọng những quy định của Hiến pháp và các

luật về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Đặc điểm của nền kinh tế

thị trường là không có sự chia cắt giữa kinh tế Trung ương và kinh tế địa

phương mà chỉ có một nền kinh tế thống nhất. Do vậy, hệ thống NSNN

phải thống nhất đòi hỏi cơ chế phân cấp phải thông suốt, đồng bộ. Nhà

nước CHDCND Lào là nhà nước thống nhất nên chỉ có một ngân sách và

đòi hỏi pháp luật phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung, thống nhất

92

với phân cấp, phân quyền. Nếu phân cấp quá mức ngân sách thì sẽ dẫn đến

phân tán, manh mún, làm yếu vai trò chủ đạo của cấp trên; ngược lại, tập

trung quá mức sẽ dẫn đến tệ quan liêu, độc đoán của cấp trên và làm cho

cấp dưới bị động, ỷ lại. Chính vì vậy, để đảm bảo tính tập trung, thống nhất

trong sử dụng NSNN, Nhà nước Lào đã đảm bảo các nhiệm vụ chi trọng

yếu, những chính sách xã hội lớn, thực thi các nhiệm vụ chung như ngoại

giao, quốc phòng - an ninh, xây dựng các công trình trọng điểm, v.v.. vừa

có điều kiện chi viện, chi phối, điều hóa sự mất cân đối trong phát triển

giữa các địa phương với nhau.

Như vậy pháp luật về sử dụng NSNN không ngừng được hoàn thiện,

sửa đổi, bổ sung đã tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện, bảo đảm

việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN có kỷ cương, trật tự, góp phần

phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong lĩnh vực này. Tuy nhiên

do một số quy định thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thực tế cũng gây nhiều khó

khăn, lúng túng cho việc thực hiện sử dụng NSNN.

3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH

NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.2.1. Ưu điểm trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà

nước và nguyên nhân

3.2.1.1. Những ưu điểm

Xét về mặt nội dung, việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN đã tạo

chuyển biến rõ nét trong sử dụng NSNN, nhìn chung việc sử dụng NSNN đi

vào nề nếp, có quy trình phân bổ ngân sách, dự toán chi, cấp phát, tổ chức

thực hiện cho đến các công tác kế toán, quyết toán, kiểm toán việc sử dụng

NSNN v.v.. Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN tương đối thống nhất, ổn

định trên phạm vi toàn quốc, bảo đảm yêu cầu phát triển của đời sống kinh tế

- xã hội, an ninh quốc phòng.

93

Cơ cấu ngân sách tiếp tục được duy trì ở mức độ hợp lý cho đầu tư phát

triển, khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh

doanh. Vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc sử dụng NSNN đã

trở nên rõ ràng hơn và ngày càng hiệu quả hơn; góp phần quan trọng duy trì

tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao (GDP 7,93% năm 2012); đồng thời, thực hiện

các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo. Ngân sách nhà nước đã ưu

tiên tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển các hệ thống giao thông liên

vùng (nối liền giữa thành thị và nông thôn); đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (hệ

thống trường học, bệnh viện, cơ sở văn hóa thể thao, v.v); đầu tư chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, phát triển hạ tầng miền núi, v.v.. nhiều công trình kinh tế - xã

hội lớn đã được hoàn thành, hạ tầng kinh tế - xã hội có bước cải thiện quan

trọng như: dự án xây dựng hệ thống nước sinh hoạt ở tính U Đôm Xày, dự án

xây dựng đường từ tỉnh Bo Li Khăm Xay đến tỉnh Xiêng Khoảng, dự án

mạng điện nông thôn, dự án xây dựng sân bay tỉnh Át Ta Pư, dự án phát triển

giáo dục sinh viên nữ, dự án chính phủ điện tử, dự án khuyến khích sản xuất

hàng hóa, v.v.. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, ngân sách nhà nước đã

triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa,

xã hội nhằm phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo duy trì chi cho sự nghiệp

giáo dục đào tạo chiếm 16% ngân sách, chi cho khoa học - công nghệ chiếm

20%, văn hóa 10%, sự nghiệp môi trường chiếm 11% tổng chi ngân sách;

thực hiện các chính sách xã hội như bố trí khám chữa bệnh cho người nghèo,

chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi.

Thông qua việc tổ chức thực hiện pháp luật về NSNN, ngân sách đã

được sử dụng trong cải cách tiền lương, chính sách người có công, cán bộ xã,

thôn, bản. Hoạt động sử dụng ngân sách hướng vào mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ

hộ nghèo, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình hỗ trợ

nhà ở, đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa v.v.. Tích

cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Nhà nước đã chủ động thực

94

hiện cam kết giảm thuế nhập khẩu theo AFTA, theo cam kết Tổ chức Thương

mại thế giới (WTO); thực hiện các chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, tìm

kiếm thị trường; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ làng nghề, tạo việc làm

cho người lao động; hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp.

Có thể nói rằng, Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi bổ sung năm 2006

ngoài việc đáp ứng được yêu cầu của Luật Thuế mới (thuế giá trị gia tăng,

thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, v.v) còn sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 theo hướng phân cấp rõ

ràng hơn, mở rộng nguồn thu cho ngân sách cấp huyện, xã, nhằm tạo thế chủ

động cho các cấp chính quyền địa phương trong việc khai thác nguồn lực tại

chỗ, bố trí hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Luật sửa đổi bổ sung lần này cũng

giúp tăng cường phân phối đồng bộ và chặt chẽ hơn giữa các cơ quan Tài

chính ở địa phương, kết hợp với việc nâng cao vai trò, trách nhiệm quản lý

theo lãnh thổ của chính quyền địa phương.

Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN đã tạo ra sự chuyển biến quan

trọng trong hoạt động chi NSNN; qua đó, công tác quản lý, điều hành NSNN

ngày càng chủ động hơn với chất lượng và hiệu quả từng bước được nâng lên;

thúc đẩy công tác cải cách hành chính trong quản lý ngân sách, thực hiện công

khai ngân sách. Luật NSNN đã quy định trách nhiệm, quyền hạn cho Quốc hội,

các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và các cơ quan của Chính

phủ, HĐND và UBND các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước.

Những ưu điểm, thành tựu khái quát nêu trên trong quá trình thực hiện

pháp luật về sử dụng NSNN được thể hiện trên các nội dung cụ thể dưới đây:

* Thực hiện quy định của pháp luật về phân bổ, phê duyệt chi NSNN

Với những quy định bằng văn bản pháp luật về phân bổ ngân sách,

nhà nước đã tạo ra cơ chế khuyến khích các bộ, ngành và chính quyền địa

phương các cấp quan tâm, chăm lo đầu tư phát triển, tạo môi trường cho

sản xuất kinh doanh để tạo thêm nguồn thu bảo đảm yêu cầu chi của ngân

95

sách, coi số thu ngân sách là công tác trọng tâm để tập trung chỉ đạo thu

đúng, thu đủ; nhờ đó, số thu ngân sách năm sau thường cao hơn năm trước.

Cũng chính vì vậy mà ngân sách nhà nước mới đủ để đảm bảo cho sự phát

triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng, ổn định trật tự, an

toàn xã hội.

Cơ cấu ngân sách được phân bổ ở mức độ hợp lý cho đầu tư phát triển,

khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh.

Vai trò của phân bổ ngân sách đã trở nên rõ ràng hơn, mang lại hiệu quả hơn;

góp phần quan trọng duy trì tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao; đồng thời, thực

hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo.

Bảng 3.2: Tình hình phân bổ sử dụng ngân sách nhà nước 2011 - 2015

Năm

Ngân sách cả nước (Tỷ Kíp)

Ngân sách trung ương (Tỷ Kíp)

Ngân sách địa phương (Tỷ Kíp)

2011 - 2012

7.908

6.633

1.275

2012 - 2013

8.111

6.427

1.684

2013 - 2014

7.445

5.640

1.805

2014 - 2015

7.904

5.854

2.049

Đơn vị: Tỷ Kíp

Nguồn: [100]

Pháp luật về phân bổ phê duyệt chi ngân sách nhà nước đã ưu tiên tập

trung nguồn lực cho đầu tư phát triển các hệ thống giao thông, thủy lợi quan

trọng nhất là hệ thống giao thông liên vùng, liên tỉnh, liên thôn; đầu tư các cơ sở

hạ tầng kinh tế - xã hội; hệ thống trường học, bệnh viện; cơ sở văn hóa thể thao;

đầu tư thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát triển cơ sở hạ tầng vùng sâu

vùng xa; miền núi... nhiều công trình kinh tế - xã hội lớn đã được hoàn thành

như các dự án xây dựng đường số 7, số 8, dự án xây dựng văn phòng các tỉnh,

dự án xây dựng trường 300 phổ thông trong cả nước dự án xây dựng bệnh viện

của bộ quốc phòng và bộ an ninh, dự án xây dựng thủy lợi, v.v..

96

Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, ngân sách nhà nước đã triển khai

thực hiện nhiệm vụ phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, đặc biệt là

phát triển nguồn nhân lực. Đảm bảo duy trì chi cho sự nghiệp phát triển lĩnh

vực kinh tế chiếm 65% tổng chi ngân sách trong đó xây dựng đường chiếm

28%, xây dựng các văn phòng 7% và việc khác 30%; văn hóa 35% trong đó

giáo dục đào tạo chiếm 14%, y tế 11%, khoa học công nghệ 2%, việc khác và

thực hiện các chính sách xã hội như bố trí kinh phí khám chữa bệnh cho

người nghèo, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, đồng bào các dân

tộc ở vùng núi 8%. Bên cạnh đó, một phần ngân sách đã được phân bố để cải

cách tiền lương, chính sách người có công, cán bộ xã, thôn, bản. Hoạt động

ngân sách nhà nước hướng vào mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo; chương

trình hỗ trợ nhà ở, đất sản xuất, kỹ thuật canh tác, giống cây trồng vật nuôi;

chương trình miễn phí thủy lợi, điện sinh hoạt cho nhân dân vùng đặc biệt khó

khăn. Tuy nhiên, phân bổ ngân sách ở Lào hiện nay vẫn chưa hợp lý: Ngân

sách chỉ tập trung chủ yếu ở Thủ đô Viêng Chăn (năm 2015, ngân sách chi

cho Thủ đô Viêng Chăn chiếm khoảng 9% ngân sách của cả nước, cao hơn

tỉnh Bo Kẹo 2 lần). Trong khi đó, các tỉnh Aptabư, Luông Pha bang,

Savannakhệt, Chămpasắc, v.v.. cần được đầu tư nhiều ngân sách hơn nữa để

phát triển công nghiệp chế biến gỗ, khai thác mỏ, du lịch văn hóa - tâm linh.

Nếu Quốc Hội Lào điều chỉnh phân bổ ngân sách hợp lý hơn giữa các vùng

trong cả nước, đặc biệt chú trọng đầu tư theo mô hình vết dầu loang (xây

dựng kinh tế một tỉnh trọng điểm sau đó phát triển lan ra các tỉnh xung quanh,

kết quả dẫn đến cả vùng kinh tế đó phát triển) thì sẽ tạo sự phát triển cân

bằng, bền vững giữa các vùng: Bắc Lào - Trung Lào - Nam Lào.

Đối với hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước đã chủ động thực hiện theo

cam kết của WTO, cam kết giảm thuế nhập khẩu theo AFTA; thực hiện chính

sách hỗ trợ thương mại, xúc tiến thương mại tự do trong nước; tìm kiếm thị

trường trong khu vực ASEAN, Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,

97

v.v..) và các khu vực khác trên thế giới như Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi; hỗ

trợ đào tạo nguồn nhân lực bằng cách đưa cán bộ trẻ đi học tại các nước phát

triển, đang phát triển để về phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước; hỗ trợ làng

nghề truyền thống nhằm xuất khẩu các mặt hàng này mang lại ngân sách cho

quốc gia, đồng thời có kinh phí tái sản xuất mở rộng đối với các nghề truyền

thống cũng như gìn giữ và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, tạo việc làm cho

người lao động; hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân xây dựng cơ sở hạ

tầng khu công nghiệp, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước.

* Thực hiện quy định về báo cáo quyết toán, báo cáo định kỳ sử

dụng NSNN

Theo pháp luật hiện hành, báo cáo quyết toán về chi ngân sách nhà

nước ở các cơ quan, đơn vị được thụ hưởng ngân sách nhà nước tiến hành

một tháng một lần vào cuối tháng; báo cáo định kỳ diễn ra ba tháng một lần

(còn gọi là báo cáo quý). Căn cứ vào nhu cầu chi tiêu hàng quý đã đăng ký

với kho bạc nhà nước, dựa trên nhu cầu thực tế; đại diện hợp pháp của đơn vị

sử dụng ngân sách lập “giấy rút dự toán NSNN” kèm theo hồ sơ thanh toán,

chi trả. Từ đó, KBNN tiến hành kiểm tra, kiểm soát các hồ sơ thanh toán của

đơn vị sử dụng NSNN theo quy định, nếu đủ điều kiện theo quy định của văn

bản hướng dẫn thực hiện Luật Ngân sách nhà nước thì thanh toán trực tiếp

cho người hưởng lương, trợ cấp xã hội và người cung cấp hàng hóa, dịch vụ

hoặc thanh toán qua đơn vị sử dụng NSNN. Khi thực hiện thanh toán theo dự

toán đã được phê chuẩn, KBNN chỉ thực hiện việc thanh toán theo đúng mục

chi thực tế trong phạm vi các nhóm mục đã được giao trong dự toán NSNN.

Luật Ngân sách nhà nước năm 2006 quy định nguyên tắc về tài chính

trong ngân sách nhà nước là cân đối một cách tích cực tổng số thu từ thuế, phí

và lệ phí lớn hơn tổng số chi thường xuyên, góp phần tích lũy ngày càng cao

vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn

98

số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách. Nếu vay nợ nước

ngoài để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc không

sử dụng quá cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển. Thực

hiện được nguyên tắc tài chính này, vừa đảm bảo chi phù hợp với nguồn thu

huy động được, vừa cho phép tranh thủ được nguồn vốn bên ngoài cho đầu tư

phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đi đôi với xóa đói giảm nghèo.

Theo Báo cáo thường niên của Văn phòng Chính phủ, tổng dư nợ quốc

gia đến năm 2014 chiếm khoảng 48,5% GDP, bằng 1.654% kim ngạch xuất

khẩu hàng hóa, dịch vụ. Dư nợ Chính phủ đến cuối năm 2013 bằng 46%

GDP, trong đó nợ nước ngoài 24% GDP, nợ trong nước 22% GDP, trả nợ

nước ngoài của Chính phủ bằng 6,82 % tổng thu ngân sách nhà nước. Dựa

vào tiêu chuẩn đánh giá của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế thì với mức

dư nợ, thực hiện nghĩa vụ trả nợ như trên việc quản lý nợ của Lào trong giới

hạn an toàn, không có tác động xấu đến kinh tế vĩ mô và gây ảnh hưởng xấu

đến phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế trong thời gian qua, thiên tai, dịch

bệnh cả ở người và gia súc có diễn biến phức tạp trên phạm vi rộng với mức

độ ngày càng nghiêm trọng. Tuy nhiên, nhờ thực hiện báo cáo quyết toán theo

tháng, quý như trong quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản

hướng dẫn triển khai thực hiện nên việc bố trí nguồn dự phòng, tăng dự trữ tài

chính (ngân sách trung ương và ngân sách cấp tỉnh); Chính phủ và chính quyền

địa phương các cấp đã chủ động kinh phí thực hiện nhiệm vụ theo dự toán.

Báo cáo quyết toán sử dụng ngân sách nhà nước phải được thông qua

chính quyền địa phương các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, sau đó gửi

lên Trung ương; Báo cáo mỗi quý đối với các khoản chi được gửi lên Quốc hội

thông qua.

Có thể hình dung mô hình báo cáo quyết toán và báo cáo định kỳ

như sau:

99

Quốc hội

Báo cáo định kỳ 3 tháng/lần

Chính quyền cấp Tỉnh Thành phố trực thuộc Trung ương

Báo cáo quyết toán 1 tháng/lần

Huyện, thị trấn, làng

Trong thực tiễn báo cáo về tài chính nhiều khi còn mang tính hình thức,

không phản ánh sát với thực tiễn; hoặc các địa phương chậm gửi báo cáo trình

lên Quốc hội. Một bài toán khó giải quyết hiện nay là hình thức “ghi thu, ghi

chi NSNN” thường diễn ra ở cấp xã để ghi thu, chi ngày công lao động, hiện

vật vào ngân sách hoặc xử phạt các vi phạm hành chính như chặt phá rừng,

săn bắt động vật quý hiếm, khai thác đá quý, vàng, v.v.. mà chưa có sự cho

phép của nhà nước. Thực chất, đây chỉ là một phương thức hợp pháp hóa các

khoản chi được đảm bảo từ một nguồn thu nào đó mà đáng lẽ ra phải nộp vào

ngân sách nhà nước, sau đó mới được chi ra. Với hình thức “ghi thu, ghi chi

NSNN” này rất khó kiểm tra, kiểm soát được nguồn thu và mục đích, tiêu

chuẩn, khối lượng chi. Do đó, trong báo cáo quyết toán là những con số chưa

đúng, gây thất thoát tài sản của nhân dân, thiệt hại không nhỏ cho ngân sách

quốc gia. Xuất phát từ thực tiễn, đòi hỏi Đảng và Nhà nước Lào cần tăng

cường kiểm tra chặt chẽ các báo cáo của từng cấp, để kịp thời khắc phục

những thiếu sót gây tổn thất cho ngân sách nhà nước.

* Thực hiện quy định về kiểm tra, thanh tra, kiểm toán sử dụng NSNN

Một trong những biện pháp cơ bản và quan trọng để nâng cao hiệu quả

sử dụng NSNN là phải tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm toán việc sử dụng

NSNN. Thực tiễn những năm qua cho thấy, nhờ hệ thống pháp luật của

CHDCND Lào không ngừng hoàn thiện và phát triển đã từng bước đáp ứng

100

yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội theo pháp luật, xây

dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập

quốc tế. Nhiều đạo luật quan trọng được Quốc hội thông qua như: Luật Ngân

sách nhà nước; Luật Kiểm toán; Luật Kế toán; Luật Thực hành tiết kiệm,

chống lãng phí; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Thanh tra; Luật Giám

sát; Luật Quản lý và sử dụng tài sản nhà nước; Luật Tổ chức và hoạt động của

chính quyền địa phương, v.v.. những văn bản pháp luật này có ý nghĩa đối với

công tác quản lý tài chính, ngân sách; nhất là các hoạt động kiểm tra, thanh

tra, kiểm toán việc sử dụng NSNN.

Năm 2014, hệ thống KBNN đã thực hiện kiểm toán và phát hiện trên

22.470 tỷ kíp chưa chấp hành đúng thủ tục, chế độ quy định và đã yêu cầu các

đơn vị bổ sung các thủ tục cần thiết; đồng thời từ chối thanh toán với số tiền

khoảng 400 tỷ Kíp [95].

Hiện nay, CHDCND Lào đang chú trọng công khai, minh bạch ngân

sách đối với các cơ quan đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước để đảm bảo quản

lý, sử dụng ngân sách công bằng, hiệu quả. Công khai ngân sách bao gồm

việc công khai dự toán số liệu thu chi ngân sách; công khai việc quản lý sử

dụng ngân sách nhà nước; đặc biệt công khai thực hiện các khoản được sử

dụng tại các đơn vị. Ví dụ: Một năm ngân sách thu được của Bộ Thương mại

là 2.000 tỷ Kíp, trong đó nộp ngân sách nhà nước là 100%, ngân sách đã chi

theo kế hoạch sử dụng ngân sách của Bộ Thương mại và công bố rõ ràng trên

Website điện tử để nhân viên, cán bộ và nhân dân nắm được.

Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán ngân sách là nhiệm vụ quan

trọng không thể thiếu được trong hoạt động ngân sách. Cơ quan kiểm toán

nhà nước có trách nhiệm thực hiện việc kiểm toán, xác định tính đúng đắn,

hợp pháp của báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước các cấp và các cơ quan

có liên quan. Kết quả của việc kiểm toán nhà nước được báo cáo trước Quốc

hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ. Nếu phát hiện vi phạm thì cơ

quan thanh tra kiến nghị thu hồi, nộp ngân sách nhà nước; đồng thời, xử lý vi

101

phạm hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định. Các cơ

quan, đơn vị quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước phải tiến hành tự kiểm tra

việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý NSNN; kiểm tra việc

chấp hành định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi NSNN, kịp thời phát hiện và ngăn

chặn các hành vi vi phạm pháp luật về NSNN.

Theo số liệu về sử dụng ngân sách nhà nước từ năm tài khóa 2010 đến

2015, tổng chi ngân sách năm so với GDP hàng năm đều tăng, từ 15.087 tỉ

Kíp (24,4% GDP) năm 2010-2011 đến 29.091 tỉ Kíp (29% GDP) năm 2014-

2015 [Xem bảng 3.1], Trong đó năm 2014-2015 chi đầu tư phát triển 12.119

tỷ Kíp bằng 48 % (riêng đầu tư xây dựng cơ bản 7.103 tỷ Kíp, bằng 28 %);

chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, quản lý nhà

nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính

đạt 13.251 tỷ Kíp, bằng 52% [93].

0.035

30.8%

29.0%

29.2%

0.030

25.6%

0.029

24.4%

0.025

0.026

0.025

0.020

0.017

0.016

0.018

0.016

0.015

0.015

0.012

0.009

0.009

0.009

0.009

0.010

0.009

0.008

0.005

0.000

2010-11

2011-12

2012-13

2013-14

2014-15

Chi hành chính thường xuyên

Chi đầu tư của Nhà nước

Tổng chi

Tổng chi so với GDP

Đơn vị: Tỷ Kíp

Biểu đồ 3.3: Tổ chức thực hiện chi ngân sách nhà nước các năm 2010-2015 Nguồn: [100]

102

Có thể nói rằng, công tác tổ chức điều hành NSNN đã được triển khai

tích cực, chủ động; trong điều kiện thu khó khăn, công tác quản lý chi NSNN

được tăng cường, bảo đảm tiết kiệm, chặt chẽ và hiệu quả; nghiêm túc thực

hiện chủ trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng NSNN.

Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán sử dụng NSNN đã hạn

chế tối đa việc bổ sung ngoài dự toán và ứng vốn, đảm bảo chi ngân sách

đúng chế độ, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư phát triển.

Xét về mặt hình thức thực hiện pháp luật, trong những năm qua thực

hiện pháp luật về sử dụng NSNN có những thành tựu, ưu điểm nổi bật sau đây:

Về tuân thủ pháp luật, nhìn chung, có rất ít hành vi vi phạm những

điều cấm trong sử dụng NSNN. Mọi hoạt động sử dụng NSNN đều tuân thủ

đúng quy trình được quy định trong pháp luật sử dụng NSNN. Những hành

vi lập dự toán chi khốn, vượt tiêu chuẩn, báo cáo tài chính sai sự thật hầu

như không còn.

Về chấp hành pháp luật sử dụng NSNN cũng có nhiều tiến bộ đáng kể.

Các đơn vị sử dụng NSNN đã chủ động thực hiện các quy định về dự toán,

thanh toán, quyết toán. Các cơ quan quản lý cũng tích cực, chủ động xem xét,

phê duyệt các khoản chi NSNN trong phạm vi thẩm quyền, rất ít các trường

hợp chậm trễ gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức sử dụng NSNN. Nhờ sự

tích cực, chủ động của các cơ quan quản lý cũng như cơ quan sử dụng NSNN,

nhìn chung việc sử dụng NSNN ở CHDCND Lào có bước tiến bộ rõ nét, từng

bước bảo đảm kỷ cương, trật tự, khoa học hơn trước. Việc lập dự toán chi, kế

toán, quyết toán, kiểm toán ngân sách được thực hiện đúng như quy định.

Về sử dụng pháp luật, trước đây nhiều đơn vị sử dụng NSNN hầu như

không biết sử dụng quy định của pháp luật để thuyết trình, báo cáo, bảo vệ

các đề nghị của mình trong việc dự toán chi NSNN, đề nghị điều chỉnh dự

toán chi NSNN hoặc quyết toán chi NSNN. Các cơ quan quản lý NSNN phải

hướng dẫn, tập huấn nhiều lần, đến nay các cơ quan, tổ chức sử dụng NSNN

103

đã chủ động hơn trong việc sử dụng quy định của pháp luật để thực hiện

nhiệm vụ chi NSNN của mình.

Về áp dụng pháp luật: Đây là hoạt động của các cơ quan quản lý nhà

nước trong việc ban hành các quyết định thẩm định, xét duyệt, phê duyệt các

báo cáo về dự toán chi NSNN, về báo cáo kế toán, quyết toán NSNN cũng

như quyết định xử lý các vi phạm pháp luật trong sử dụng NSNN. Hoạt động

này trong những năm gần đây ngỳ càng đi vào nề nếp, khắc phục được tình

trạng cảm tính, ngẫu hứng trong xét duyệt, thẩm định. Một số vi phạm trước

đây được bỏ qua thì nay đã được phán xét, nhắc nhở, phê bình, cảnh cáo,

những vi phạm nặng đã bị kỷ luật.

3.2.1.2. Nguyên nhân của những ưu điểm

Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN ở CHDCND Lào trong những

năm qua đạt được những ưu điểm, thành tựu nêu trên bắt nguồn từ những

nguyên nhân cơ bản sau đây:

Một là, hệ thống pháp luật về NSNN nói chung và pháp luật về sử dụng

NSNN nói riêng được ban hành và thường xuyên sửa đổi, bổ sung, quy định

mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo đảm an ninh

quốc phòng, hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế ở CHDCND

Lào. Pháp luật về sử dụng NSNN với những quy định hệ thống, cụ thể, khả

thi, phù hợp thực tế đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện.

Hai là, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng

trưởng thành, được nâng cao rõ nét, nhìn chung đáp ứng được những yêu cầu

xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường pháp chế ở CHDCND

Lào. Ý thức pháp luật, tính thượng tôn pháp luật của đội ngũ cán bộ, công

chức ở CHDCND Lào, so với trước đây, có thể nói đã có bước trưởng thành,

phát triển nhảy vọt. Từ chỗ chưa quen với quản lý bằng pháp luật, hoạt động

theo pháp luật chuyển sang thực hiện theo yêu cầu của pháp luật, tăng cường

104

pháp chế, nhất là trong sử dụng NSNN, về cơ bản, đã tuân theo các quy định

của pháp luật về sử dụng NSNN. Đây là nguyên nhân gốc rễ tạo nên thành

tựu, ưu điểm trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.

Ba là, công tác giám sát kiểm tra, thanh tra, kiểm toán thường xuyên

được quan tâm, tăng cường, ngăn chặn, hạn chế những vi phạm, bảo đảm cho

các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN được thực hiện.

Công tác giám sát bao gồm giám sát của Quốc hội, chính quyền địa

phương và của nhân dân, của các tổ chức chính trị - xã hội, của phương tiện

thông tin đại chúng v.v.. trong những năm qua đều được tăng cường, đưa lại

kết quả tích cực.

Công tác kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cấp

dưới, của kho bạc nhà nước, Bộ Tài chính với các chủ thể sử dụng NSNN

cũng thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, góp phần uốn nắn ngay từ

đầu đối với các vi phạm.

Hoạt động thanh tra, kiểm toán cũng đi vào nề nếp hơn, nhất là hoạt

động kiểm toán. Thanh tra, kiểm toán đã vạch rõ những vi phạm pháp luật,

những tiêu cực trong sử dụng NSNN, những hoạt động sử dụng NSNN lãng

phí, không hiệu quả hoặc hiệu quả không cao v.v.. trên cơ sở các bằng chứng,

số liệu cụ thể chứ không phải là những nhận xét, đánh giá, định tính chung

chung. Nhờ vậy đã ngăn chặn, hạn chế được những vi phạm trong thực hiện

pháp luật về sử dụng ngân sách, đưa việc thực hiện pháp luật về sử dụng

NSNN vào kỷ cương, khuôn khổ theo yêu cầu của pháp luật.

3.2.2. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân

sách nhà nước và nguyên nhân

3.2.2.1. Những hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được như phân tích ở trên, trong thực hiện

pháp luật về sử dụng NSNN vẫn còn những hạn chế nhất định, thể hiện trên

những điểm sau đây:

105

- Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN có lúc, có nơi còn lúng túng,

chưa thống nhất, thiếu đồng bộ theo trình tự quy định của pháp luật.

Luật quy định phải chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật và kỷ cương tài

chính nhưng do các chế độ, tiêu chuẩn mang tính mệnh lệnh được áp đặt từ

trên xuống đã làm vô hiệu hóa các công cụ tài chính, làm cho chúng mất tác

dụng trong điều hòa, điều tiết, kiểm kê, kiểm soát nền kinh tế. Thực trạng này

do nhiều nguyên nhân khác nhau, song nguyên nhân cơ bản nhất là giai đoạn

trước đây, nhà nước quá coi trọng tính kế hoạch hóa tập trung, gò ép sự vận

động của nền kinh tế trong khuôn khổ chi tiêu, pháp lệnh mà xem thường

công cụ tài chính, trong đó có NSNN. Nghiên cứu thực trạng các quy định của

pháp luật trong lĩnh vực tài chính nói chung và ngân sách nhà nước nói riêng,

có thể đánh giá hệ thống văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng NSNN vẫn

chưa đồng bộ, chưa hoàn chỉnh và còn mang tính “chữa cháy” vì chưa có một

khung pháp luật thật sự phù hợp với nền kinh tế - xã hội như ở Lào. Hệ thống

các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước bao

gồm Hiến pháp, Luật, pháp lệnh, Nghị định và các văn bản dưới luật là cơ sở

pháp lý để nhà nước tập trung các nguồn lực tài chính phục vụ cho sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, trong Hiến pháp (năm 2006) cũng chỉ dừng lại ở những quy định

có tính chất nguyên tắc căn bản của chế độ kinh tế. Trong lĩnh vực tài chính -

ngân sách nhà nước, Hiến pháp chưa làm sáng tỏ được nhiệm vụ và quyền

hạn của các cơ quan nhà nước trong việc lập, chấp hành và quyết toán, phân

bổ ngân sách nhà nước. Vì vậy, trong một thời gian dài, quản lý, sử dụng

ngân sách nhà nước ở Lào thiếu những cơ sở pháp lý cao trong khi những quy

định áp dụng lại có hiệu lực pháp lý rất thấp, chủ yếu là các văn bản của

Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương do số lượng văn bản lớn (mỗi năm có

đến hàng trăm văn bản khác nhau trong lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà

nước), dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các quy

106

phạm trong các văn bản khác nhau. Mặt khác, do số lượng văn bản nhiều nên

không thể hệ thống hóa đầy đủ, hiệu lực pháp lý của các văn bản này rất dễ

thay đổi nên hậu quả là khó thi hành. Nhiều quy phạm trong quản lý NSNN

còn thiếu tính chặt chẽ, tạo kẽ hở cho tham nhũng, gây nhiều khó khăn, phiền

hà cho người sản xuất, kinh doanh.

- Phê duyệt dự toán đôi khi còn chậm, trách nhiệm trong sử dụng

NSNN không rõ ràng.

Với thực trạng thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước như

trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của chính hệ thống ngân

sách nhà nước: Quá trình xét duyệt ngân sách rất phức tạp, nhiều nấc và nhiều

thủ tục hành chính. Cơ sở chi ngân sách nhà nước nói chung và từng khâu nói

riêng khó khăn, độ chính xác thấp do hệ thống định mức chi vừa thiếu vừa lạc

hậu, căn cứ dự báo thu thiếu thực tế. Ở các địa phương, chính quyền nhân dân

các cấp chưa thực hiện tốt vấn đề giám sát việc chấp hành NSNN. Trình tự

quyết toán, thủ tục quyết toán phức tạp do quá nhiều loại quan hệ, chế độ

trách nhiệm đúng, sai trong chi tiêu không rõ ràng. Bộ máy thanh tra cồng

kềnh (Thanh tra Nhà nước, Thanh tra Bộ Tài chính, Thanh tra Sở Tài chính,

Thanh tra thuế, Thanh tra Kho bạc nhà nước), hiệu quả thấp do hệ thống pháp

lý quy định về hoạt động này không đồng bộ, còn thiếu. Sử dụng ngân sách

nhà nước chưa nghiêm minh, nhiều địa phương tự ý đặt ra các khoản thu phí,

lệ phí gây khó khăn cho nhân dân. Nhà nước khó điều hòa được các khoản thu

cũng như khó quản lý chặt chẽ các khoản chi dẫn đến sự chia cắt NSNN giữa

Trung ương và địa phương, hiện tượng này đang rất phổ biến và chậm được

khắc phục. Bên cạnh đó, lập quỹ ngoài ngân sách, các khoản thu, chi không

đưa vào ngân sách nhà nước vẫn còn tồn tại, tình trạng lãng phí trong xây

dựng cơ bản xảy ra khá phổ biến. Nguyên tắc quản lý, sử dụng ngân sách

được xác định là tập trung, nhưng trên thực tế ở địa phương là “phân tán, khó

kiểm soát” do vậy, nguồn lực tài chính không được huy động đúng mục đích

107

hoặc sử dụng kém hiệu quả. Cán bộ làm trong lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà

nước còn hạn chế về trình độ và ý thức tuân thủ pháp luật của cán bộ, nhân

dân chưa được đề cao, nên dẫn đến việc quản lý NSNN kém hiệu quả và gây

nhiều thất thoát tài sản quốc gia.

- Thực hiện phân cấp về thẩm quyền, trách nhiệm trong sử dụng NSNN

còn chồng chéo, khó xác định trách nhiệm.

Quy định về thẩm quyền, trách nhiệm và các mối quan hệ của Quốc

hội, Chính phủ, chính quyền địa phương, v.v.. trong quyết định ngân sách

còn chồng chéo so với yêu cầu phát triển của giai đoạn mới, nhất là trong

bối cảnh Lào đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, khu vực,

trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân sách nhà nước. Theo quy định của

Luật NSNN, Quốc hội quyết định dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung

ương. Việc quyết định NSNN của Quốc hội tuy đã được cải tiến một bước

so với Luật NSNN năm 2003. Quốc hội quyết định NSNN theo từng lĩnh

vực. Luật NSNN năm 2006, Quốc hội quyết định về tổng mức và chi tiết

một số lĩnh vực trong đó bao gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách

các cấp chính quyền địa phương; trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ quyết

định giao dự toán thu chi cho các Thủ đô, các tỉnh. Thực hiện cơ chế này

đảm bảo tính thống nhất của NSNN và phù hợp với phân cấp hiện hành.

Chính quyền địa phương có vai trò tổ chức chỉ đạo thực hiện, phù hợp với

đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội ở từng địa phương để đảm bảo sự phát

triển đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, việc

cấp trên giao chi tiết nhiệm vụ thu chi ngân sách cho cấp dưới dẫn đến tình

trạng trùng lặp, giảm tính chủ động, trách nhiệm của chính quyền địa

phương cấp dưới trong quyết định ngân sách cấp mình. Chính sự bất cập,

chồng chéo này đã dẫn đến giảm tính hiệu lực của các văn bản quy phạm

pháp luật về sử dụng NSNN. Với việc quyết định ngân sách như trên dự

toán NSNN phải được lập từ dưới lên và khi được giao theo chiều ngược

108

lại. Đây là một quy trình hết sức phức tạp nên đã ảnh hưởng đến chất lượng

dự toán và thời gian thực hiện dự toán theo quy định. Dẫn đến dự toán

ngân sách giao cho cấp dưới, các đơn vị thường không đảm bảo về thời

gian theo quy định của pháp luật.

Quy định về phạm vi sử dụng NSNN còn chưa rõ ràng, đầy đủ dẫn

đến việc quản lý còn chưa thống nhất, nhất là một số khoản phí, lệ phí và

cách xác định bội chi ngân sách nhà nước. Về các khoản thu phí, lệ phí,

Luật NSNN quy định “thu NSNN bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ

phí”. Xét về tính đầy đủ của NSNN thì việc nộp toàn bộ phí, lệ phí và

NSNN là cần thiết. Tuy nhiên, cùng với việc thực hiện xã hội hóa, quy mô

và tỷ trọng các khoản thu phí và lệ phí ngày lớn. Về bản chất, đây là các

khoản thu để bù đắp một phần chi phí dịch vụ công; vì vậy, nếu đưa toàn

bộ số thu phí, lệ phí vào cân đối NSNN sẽ khó khăn trong khâu tổ chức

thực hiện bởi số thu phí, lệ phí rất khó dự toán được chính xác. Với việc áp

dụng quy trình chi mới, nếu số thu không đạt dự toán thì rất khó giảm được

chi. Mặt khác, trên thực tế nhiều khoản thu như học phí, viện phí, v.v..

được để lại ngay đơn vị để bù đắp chi hoặc sử dụng vào khuyến khích tăng

thu (nếu phải quy định nộp vào NSNN như quy định của pháp luật). Việc

triển khai cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp chưa đạt yêu cầu đề

ra; thất thu, lậu thuế còn tồn tại ở nhiều nơi và là một vấn đề nhức nhối của

hoạt động quản lý ngân sách nhà nước. Ví dụ như quản lý đất đai, bất động

sản chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ cũng là nguyên nhân gây ra hoạt động đầu

cơ, trục lợi làm cho ngân sách nhà nước bị thất thu.

Về bội chi NSNN, theo quy định của Luật NSNN thì bội chi NSNN

được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và nước ngoài. Bảo đảm bố trí

ngân sách để chủ động trả nợ khi đến hạn. Do mức bội chi NSNN của Lào

thường cao hơn so với thông lệ quốc tế; đồng thời, trùng lặp khi bố trí ngân

sách hai lần đối với các khoản vay bù đắp bội chi. Theo thông lệ quốc tế,

109

bội chi ngân sách là khoản thực tế tăng dư nợ Chính phủ, dư nợ quốc gia.

Như vậy, bội chi ngân sách là khoản chênh lệnh giữa vay mới trong năm

trừ đi phần chi trả nợ gốc trong năm. Về phạm vi tính bội chi NSNN, hiện

nay bội chi NSNN không phản ánh vay bằng trái phiếu Chính phủ cho giáo

dục, y tế, giao thông, thủy lợi; vay về cho vay lại; huy động vốn đầu tư cơ

sở hạ tầng của các địa phương theo khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN năm

2006. Mặc dù những khoản vay này được tính vào nghĩa vụ trả nợ Chính

phủ và phải bố trí để trả nợ nhưng việc xác định bội chi ngân sách hiện nay

là chưa đầy đủ. Đối với huy động vốn trong nước của ngân sách cấp tỉnh,

Luật NSNN hiện hành quy định: Ngân sách địa phương cần được cân đối

với tổng số chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng

thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh đảm bảo, thuộc danh mục đầu tư trong kế

hoạch 5 năm đã được chính quyền cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả

năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán thì được huy động vốn

trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả

hết nợ khi hết hạn. Mức dư nợ nguồn vốn huy động không vượt quá 30%

vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh,

trừ Thủ đô Viêng Chăn. Thực hiện quy định trên đã tạo điều kiện cho các

địa phương chủ động huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã

hội ở địa phương. Tuy nhiên, việc giới hạn mức vốn huy động không vượt

quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách

cấp tỉnh đã hạn chế khả năng phát triển của địa phương; bởi lẽ địa phương

có nhu cầu vốn đầu tư lớn hơn nhưng Luật Ngân sách nhà nước chỉ giới

hạn 30%. Mặt khác, Luật Ngân sách nhà nước cũng lại quy định cân đối

ngân sách địa phương, tổng số chi không vượt quá tổng số thu nên địa

phương không được phép bội chi, nhưng thực tế bội chi vẫn còn cao (xem

bảng 3.3).

110

Bảng 3.3: Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước

Đơn vị: Tỷ Kíp

Thu NSNN Chi NSNN Năm (Tỷ Kíp) (Tỷ Kíp)

2011 - 2012 10.182 15.902

2012 - 2013 12.427 18.021

2013 - 2014 15.929 24.618

2014 - 2015 22.470 25.370

Nguồn: [100]

Các quy định của pháp luật NSNN về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ

chi giữa ngân sách trung ương với ngân sách địa phương còn gặp nhiều hạn

chế; những quy định về trợ cấp từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới

còn chưa hợp lý. Theo quy định của pháp luật quản lý NSNN hiện hành, Luật

NSNN chỉ quy định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung

ương và ngân sách địa phương; việc phân định cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi

cho từng cấp chính quyền địa phương giao cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

quy định cụ thể cho phù hợp với thực tế địa phương nhằm giao quyền chủ

động cho HĐND cấp tỉnh. Tuy nhiên nhiều địa phương chưa mạnh dạn phân

cấp kinh tế - xã hội cũng như về ngân sách cho cấp huyện, xã làm giảm sự

chủ động của ngân sách cấp dưới; mặt khác, phân cấp giữa các địa phương

không thống nhất, có địa phương phân cấp nhiệm vụ chi nhưng phân cấp

nguồn thu không tương xứng mặc dù cấp dưới có đủ năng lực, điều kiện quản

lý nên dẫn đến phải thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách

cấp dưới.

- Thực hiện quy định về giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán sử

dụng NSNN có lúc, có nơi còn hình thức, số liệu còn vênh.

Một số quy định của pháp luật ngân sách về công tác quyết toán,

thanh tra, kiểm toán và công khai ngân sách còn chưa hợp lý, đầy đủ. Vì

111

vậy nhiều báo cáo quyết toán còn mang tính hình thức, chưa phản ánh được

thực tiễn; vì vậy, không rút ra được bài học cần thiết cho sử dụng ngân sách

ở những lần sau. Luật NSNN cho phép được chuyển nguồn NSNN năm

trước sang năm sau sử dụng tiếp mà chưa quy định cụ thể những nội dung

nào được phép chuyển nguồn. Lỗ hổng pháp luật này đã dẫn đến số chi

chuyển nguồn hàng năm khá lớn, năm sau cao hơn năm trước. Việc giao cho

KBNN thực hiện kiểm soát chi thông qua lập số liệu báo cáo đủ căn cứ lập,

quyết toán thu, chi của từng cấp ngân sách. Như vậy, căn cứ văn bản dưới

luật quy định đơn vị dự toán cấp trên duyệt, cơ quan tài chính thẩm định thời

gian qua tác dụng rất hạn chế, gây lãng phí thời gian, công sức, kéo dài thời

gian tổng hợp, quyết toán ngân sách. Bộ Tài chính thẩm định quyết toán

ngân sách địa phương thực tế chỉ mang tính hình thức vì quyết toán ngân

sách địa phương được chính quyền các cấp phê chuẩn. Thời hạn Quốc hội

phê duyệt quyết toán NSNN sau 18 tháng kể từ khi năm ngân sách kết thúc

là thời gian quá dài nên đã hạn chế tác dụng của công tác quyết toán NSNN

phục vụ cho công tác điều hành ngân sách năm sau. Luật NSNN quy định dự

toán, quyết toán, kết quả kiểm toán NSNN, ngân sách các cấp, các đơn vị dự

toán ngân sách, các tổ chức NSNN hỗ trợ phải thực hiện công khai mà chưa

quy định công tác đánh giá, giải trình số liệu công khai dẫn đến việc công

khai nhưng thiếu minh bạch. Hơn nữa, pháp luật mới chỉ công khai dự toán,

quyết toán ngân sách mà chưa quy định công khai quá trình tổ chức thực

hiện dự toán ngân sách các cấp, đơn vị dự toán ngân sách; vì vậy, đã hạn chế

nội dung, chất lượng hiệu quả công khai.

Một số chính sách chi NSNN còn chưa phù hợp so với yêu cầu của Tổ

chức thương mại thế giới (WTO). Thực hiện Luật NSNN năm 2006, Chính

phủ đã ban hành Nghị định số 103 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

Luật NSNN, theo đó, một số nhiệm vụ chi của NSNN còn một số nội dung

tiềm ẩn những vi phạm của WTO trong quá trình thực hiện. Cụ thể: Về chi sử

112

dụng NSNN, theo quy định tại Điều 25 Nghị định số 115 ngày 28/3/2014,

một số khoản chi NSNN mà trong thực tế thực hiện có thể dẫn đến vi phạm

các quy định của WTO như tiết b khoản 1 quy định: Đầu tư và hỗ trợ cho

các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính của nhà nước, v.v.. Trong thực tế, có

một số khoản chi đầu tư hoặc hỗ trợ vi phạm quy định WTO cho các đối

tượng này (về chính sách tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước; chính sách

hỗ trợ thành lập các quỹ bảo hiểm ngành hàng; về chính sách nợ tồn đọng

của các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã, v.v.. Đặc biệt hơn, vào cuối

năm 2015 theo thỏa thuận giữa 10 nước trong khu vực ASEAN về vấn đề

xây dựng thị trường chung; có thể nói rằng, sẽ có nhiều vấn đề đặt ra không

chỉ đối với các nước có nền kinh tế vượt trội hơn trong khu vực như

Singgapo, Thái Lan mà còn là một phương trình toán học nhiều nghiệm đối

với các nước như Lào, Việt Nam, Campuchia, Inđônêxia, Mianma, v.v.. về

thay đổi chính sách thuế xuất nhập khẩu, điều chỉnh giá cả hàng hóa, tiền

lương người lao động, việc làm, dân số, v.v.. Những vấn đề này đều liên

quan trực tiếp đến ngân sách nhà nước; đòi hỏi Đảng và Nhà nước Lào phải

chuẩn bị trước mọi tình huống sẽ xảy ra trong thời gian tới, nhất là yêu cầu

sử dụng ngân sách nhà nước có hiệu quả.

Nhìn chung, thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước còn

thiếu thống nhất, đồng bộ, các Bộ, ngành, cơ quan chức năng còn hiểu sai và

áp dụng sai các quy định của pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước. Đôi

khi các đơn vị hưởng thụ ngân sách nhà nước cố tình hiểu sai quy định trong

Luật Ngân sách nhà nước về sử dụng ngân sách nhà nước, cụ thể như các

khoản được phép chi chưa được quy định rõ ràng; vì vậy, các đơn vị lách luật

bằng cách tự chi theo nhu cầu của đơn vị mình nhưng trên thực tế Luật Ngân

sách nhà nước lại không có danh mục chi đó.

Từ những hạn chế nêu trên, đối chiếu với hình thức thực hiện pháp

luật, thì việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN CHDCND Lào tuy đã có

113

tiến bộ, nhiều tiến bộ rõ nét so với thời gian trước đây nhưng vẫn còn hạn chế

trong cả tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật cũng như sử dụng pháp luật

và áp dụng pháp luật. Chẳng hạn vẫn còn vi phạm những điều cấm như lập dự

toán, báo cáo khống, không đúng sự thật, có những khoản không chi nhưng

vẫn đưa vào báo cáo kế toán, quyết toán để trục lợi từ NSNN; có những đơn

vị chưa chấp hành đúng các yêu cầu của pháp luật NSNN khi lập dự toán, kế

toán, quyết toán NSNN; một số cơ quan quản lý nhà nước đôi khi còn chậm

trễ trong thẩm định, phê duyệt hoặc do chuyên môn yếu kém không hướng

dẫn cụ thể nên bắt các đơn vị sử dụng NSNN làm đi làm lại nhiều lần các báo

cáo. Một số vi phạm pháp luật về sử dụng NSNN chưa được xử lý nghiêm

minh, chủ yếu là nhắc nhở, phê bình, có số ít bị cảnh cáo và lý do vi phạm

thường được cho là do yếu kém, ít hiểu biết.

3.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN còn nhiều hạn chế như đã phân

tích ở trên do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

* Nguyên nhân khách quan:

- Quy định của pháp luật còn bất cập, không phù hợp thực tế

Về khách quan, do CHDNCD Lào đang trong quá trình chuyển đổi và

phát triển nền kinh tế thị trường nên nảy sinh rất nhiều vấn đề phức tạp mà

không thể một ngày, hai ngày đã dự báo, khắc phục được. Trong khi đó, vấn

đề sử dụng NSNN là vấn đề hết sức phức tạp, dẫn đến giữa văn bản và thực tế

thường không khớp nhau; quy định của pháp luật còn bất cập, không phù hợp

thực tế, thiếu cụ thể, hiệu lực của nhiều văn bản còn thấp. Hơn nữa, nhiều văn

bản bỏ sót đối tượng điều chỉnh chưa dự kiến hết các tác động điều chỉnh

trong nền kinh tế - xã hội nên thiếu căn cứ pháp lý khi thực hiện chi NSNN. Ở

Lào, hệ thống văn bản dưới luật quá nhiều nên sự chồng chéo, trùng lặp, thậm

chí vô hiệu hóa lẫn nhau là điều khó tránh khỏi.

- Các văn bản hướng dẫn luật trong nhiều trường hợp thiếu sự thống

nhất nên dễ dẫn đến sự hiểu sai, hiểu nhầm, khó đưa luật vào trong cuộc sống:

114

nhiều quy định chưa sát với thực tế, chưa chỉ rõ những quy định cũ cần bác

bỏ. Các quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề nhưng lại có sự quy

định khác nhau ở nhiều văn bản, dẫn tới việc mâu thuẫn trong việc thực hiện

pháp luật.

Trong Luật Ngân sách nhà nước quy định cụ thể các cơ quan nhà nước

phải thực hiện nghiêm túc chế độ về định mức phân bổ ngân sách, chi tiêu

ngân sách. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện một số Bộ, ngành vẫn thực

hiện hướng dẫn các định mức phân bổ, chế độ chi tiêu trái với quy định của

Luật, dẫn đến việc thực hiện ở các địa phương gặp nhiều khó khăn. Chế độ,

chính sách về các khoản thu phí, lệ phí chưa sửa đổi kịp thời, việc phân cấp

chưa rõ ràng và chưa tổng hợp đầy đủ vào ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó,

nhiều địa phương còn ban hành nhiều khoản phí, lệ phí và các khoản đóng

góp của nhân dân với nhiều mức thu khác nhau chưa hợp lý, chưa phù hợp

với tình hình thực tế của địa phương, làm tăng thêm gánh nặng cho nhân dân.

Ngoài ra, một số chế độ chính sách về sử dụng ngân sách trung ương phân

cấp cho địa phương như chế độ đối với cán bộ không chuyên trách ở bản, cụm

bản, dẫn đến các địa phương tự quyết định các mức chi khác nhau, mức chênh

lệch giữa các đối tượng và mức trợ cấp giữa các địa phương là tương đối lớn,

trong khi thực hiện những nhiệm vụ cơ bản ở cấp này như nhau; vì vậy, tạo ra

sự bất cập giữa các địa phương kéo theo đó là thực hiện chính sách không

thống nhất trong cả nước.

Việc quy định chi tiết phân cấp nhiệm vụ chi trong Luật Ngân sách nhà

nước có ưu điểm là rất cụ thể, rõ ràng. Về cơ bản, các nhiệm vụ chi đáp ứng

được các chức năng nhiệm vụ của các cấp chính quyền. Tuy nhiên điều đáng

nói là mỗi cấp chính quyền có những đặc điểm khác nhau trên các vùng lãnh

thổ khác nhau trong khi phân cấp quản lý về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an

ninh còn chưa rõ ràng; thì phân cấp nhiệm vụ chi cũng trùng lặp và thiếu cụ thể

là khó tránh khỏi. Ví dụ: Chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, cả ngân sách

115

trung ương và ngân sách địa phương đều chi; vì vậy, không rõ trường hợp nào

thuộc ngân sách trung ương, trường hợp nào thuộc ngân sách địa phương dẫn

đến tình trạng chi nhiều lần và cơ chế xin cho xuất hiện. Có những nhiệm vụ

chi của ngân sách trung ương hiện nay khá nặng nề như chi cho quốc phòng -

an ninh) nhưng cũng có những nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương nặng

nề không kém như chi giáo dục, y tế, sự nghiệp kinh tế, v.v.. Ở đây chưa có sự

hợp lý hóa về phân cấp nhiệm vụ chi nên nhiều ý kiến cho rằng Trung ương

vẫn còn ôm đồm, bao biện cả những nhiệm vụ chi mà lẽ ra có thể phân cấp cho

ngân sách địa phương.

- Chế độ thống kê, kế toán, kiểm toán ngân sách chưa được chú trọng

hoàn chỉnh về phương pháp tính toán, cơ sở tính toán và cơ chế thực hiện việc

bổ sung hoặc hỗ trợ giữa các cấp ngân sách vẫn chưa được ban hành: Khi

nghiên cứu cơ chế quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước ở Lào, tác giả nhận

thấy rằng: hành lang pháp lý cho sự vận hành của cơ chế này vừa thiếu vừa

lạc hậu, để lại hậu quả như tình trạng lãng phí, tham nhũng, v.v.. Đi sâu phân

tích còn thấy nhiều vấn đề cần phải tháo gỡ cả về mặt pháp lý cũng như mặt

kinh tế, xuất phát từ nguyên nhân thiếu các quy định của pháp luật về kế toán

nhà nước; kiểm toán nhà nước, chủ thể quản lý quỹ ngân sách nhà nước (Kho

bạc nhà nước). Thực trạng của kế toán ngân sách nhà nước hiện nay chậm đổi

mới, vai trò của kế toán quỹ ngân sách nhà nước chưa được coi trọng đúng

mức. Nội dung của kế toán nhà nước nghèo nàn, không cập nhật; vì vậy,

phương pháp kế toán cũng chậm đổi mới. Mặc dù đã có cả một hệ thống kế

toán ngân sách nhưng hoạt động của kế toán ngân sách cũng chỉ là hạch toán

thu mang tính chất thống kê và hạch toán mang tính chất cấp phát; kế toán

nhà nước không kiểm soát được toàn bộ công nợ của nhà nước cũng như tài

sản bằng tiền và hiện vật của quốc gia. Sự quan tâm chưa đúng mức đến hệ

thống kế toán và công tác kế toán nhà nước, bằng chứng là cho đến nay vẫn

chưa có một cơ quan, một tổ chức nào làm công tác kế toán nhà nước chuyên

116

trách. Đối với hoạt động kiểm toán, do mới đi vào hoạt động nên còn gặp

nhiều khó khăn, những quy định về kiểm toán nhà nước trong Luật Ngân sách

nhà nước hiện nay đang là cơ sở pháp lý cao nhất cho hoạt động kiểm toán

nhà nước, nó xác định rõ vai trò của kiểm toán nhà nước, góp phần giữ vững

kỷ cương, kỷ luật trong việc quản lý, điều hành chi tiêu và sử dụng ngân sách

nhà nước. Tuy nhiên, cần phải cụ thể hóa hơn nữa các quy định bằng văn bản

pháp luật để đảm bảo cho kiểm toán nhà nước phát huy vai trò của mình trong

hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước.

Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng, đòi hỏi

Lào cần có những điều chỉnh về quản lý, sử dụng ngân sách một cách phù hợp

với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, mức độ điều chỉnh của Lào vẫn chưa theo kịp

với tốc độ phát triển nhanh của kinh tế khu vực và thế giới. Vì kinh tế của Lào

đi lên từ điểm xuất phát thấp, nội bộ nền kinh tế chưa có tích lũy để tái sản xuất

mở rộng; đầu tư các ngành công nghiệp nặng còn thiếu vốn, khoa học kỹ thuật

kém phát triển; dân cư sống rải rác khắp chiều dài đất nước và trình độ dân trí ở

một số tỉnh biên giới, vùng sâu, vùng xa gần như đang ở điểm xuất phát, v.v..

Do đó, quản lý ngân sách nhà nước trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là sử dụng

ngân sách hiệu quả là vấn đề khó giải quyết, cần có thời gian lâu dài.

* Nguyên nhân chủ quan

- Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN của các chủ thể có lúc, có nơi

chưa nghiêm minh:

Bên cạnh nguyên nhân khách quan, có rất nhiều nguyên nhân chủ quan

từ các cơ quan quản lý chi NSNN cũng như từ các cơ quan, đơn vị sử dụng

NSNN. Nhìn chung, thực hiện pháp luật của các đơn vị sử dụng ngân sách

chưa nghiêm, ảnh hưởng nhiều đến việc đảm bảo các điều kiện chi, từ đó ảnh

hưởng đến hiệu quả hoạt động chi NSNN. Các đơn vị sử dụng ngân sách khi

nhận được nguồn kinh phí thường không quan tâm đúng mức đến thực tiễn

nhiệm vụ được giao, ý thức chấp hành pháp luật của các cơ quan chưa tốt,

117

nhiều cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân sách cố tình làm sai để hưởng lợi từ

ngân sách. Bên cạnh đó, nguyên tắc lập dự toán từ dưới lên không được đảm

bảo. Để có một bản dự toán trình Quốc hội, quá trình lập dự toán phải đi từ

dưới lên, từ đơn vị lập dự toán nhỏ nhất. Dự toán chi ngân sách trên địa bàn

phải do chính đơn vị lập và nộp cho Sở Tài chính theo quy định trên thực tế,

công việc này chỉ do chính Sở làm. Điều này dẫn đến tình trạng dự toán lập

ra không chính xác, không sát với nhu cầu thực tiễn trên địa bàn. Đặc biệt

đối với những tỉnh có nguồn thu thấp, không đảm bảo nhiệm vụ chi trên địa

bàn thì công tác lập dự toán không được quan tâm thỏa đáng. Việc lập dự

toán ở một số đơn vị đôi khi còn mang tính hình thức, làm ảnh hưởng đến

hiệu quả hoạt động chi ngân sách. Đối với việc phê chuẩn của các cơ quan

có thẩm quyền thường mang tính hình thức và thiếu chi tiết. Giai đoạn cuối

của quá trình lập ngân sách là Quốc hội xem xét, thảo luận và thông qua đề

nghị dự toán ngân sách của Chính phủ. Vì vậy, các đại biểu phải có những

chương trình, kế hoạch mà Chính phủ dự định thực hiện; đồng thời, cũng

cần xem xét để đưa ra ý kiến. Nhưng trên thực tế, thời gian để các đại biểu

Quốc hội xem xét, thảo luận vấn đề này rất ít, do đó, thông thường Quốc hội

phê chuẩn toàn bộ dự toán NSNN. Hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức

chi còn lạc hậu và không thống nhất, gây khó khăn cho việc tuân thủ các

điều kiện chi NSNN đã được pháp luật quy định. Theo Khoản 4 Điều 30

Luật NSNN thì Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ

quan hữu quan trong việc xây dựng các định mức phân bổ và các chế độ,

tiêu chuẩn, định mức chi nhưng cho đến nay, ngành tài chính vẫn còn lúng

túng về vấn đề này. Do bản thân các đơn vị thiếu căn cứ để lập dự toán chi,

còn các cơ quan nhà nước thiếu căn cứ để duyệt dự án. Mặt khác, do hệ

thống tiêu chuẩn, định mức chưa đồng bộ nên nhiều khoản chi được quyết

định ở mỗi nơi một khác, kể cả những khoản chi được Trung ương quyết

định thống nhất trên cả nước.

118

Một nguyên nhân nữa đang đặt ra hết sức bức xúc là sự không đồng bộ

giữa Luật Ngân sách nhà nước với các Luật thuế, nên nhiều khoản thu của

ngân sách nhà nước vẫn để ngoài ngân sách như các khoản phí, lệ phí, tiền

nộp phạt. Bên cạnh đó, sử dụng ngân sách còn hết sức tùy tiện, vốn đầu tư

xây dựng cơ bản chưa được tập trung, một số cơ quan, đơn vị dùng vốn sự

nghiệp để chi cho giáo dục, y tế, xây dựng các trụ sở, khách sạn, mua sắm

trang thiết bị, v.v.. thậm chí còn dùng vốn ngân sách nhà nước để tạm ứng cho

doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cơ quan hành chính vay lấy lãi.

- Thiếu sót về công tác chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện pháp luật:

Mặc dù Chính phủ và Bộ Tài chính đã tích cực tổ chức thực hiện nghiêm

chỉnh Luật ngân sách nhà nước sửa đổi, bổ sung, từng bước khắc phục những

vướng mắc trong cơ chế quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, song cho đến

nay vẫn còn nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật về sử dụng ngân

sách nhà nước chưa được ban hành, tập huấn thực hiện, nhất là quy định về

định mức, tiêu chuẩn chi tiêu, trình tự thời gian, biểu mẫu lập dự toán và

quyết toán NSNN.

Tình trạng khai báo doanh thu, hạch toán chi phí tùy tiện, không chính

xác để trốn lậu thuế gây thất thu cho ngân sách nhà nước đang diễn ra rất phổ

biến và nghiêm trọng, xuất phát từ nguyên nhân các đơn vị chưa thực hiện

tuân thủ triệt để các pháp lệnh kế toán thống kê và làm cho nó chưa đi vào nề

nếp. Kho bạc nhà nước hạch toán các khoản thu NSNN, nhưng trên thực tế

Kho bạc nhà nước cấp phát trực tiếp khoản chi. Các khoản chi của NSNN

được thực hiện bằng hai hình thức (lệnh chi và hạn mức chi), ở Lào vẫn áp

dụng phương thức “ghi thu - ghi chi”, đối với các cơ quan đơn vị sự nghiệp có

thu vẫn áp dụng phương pháp “gán thu - bù chi”; do đó, tạo nên sự tùy tiện

trong thu, chi khó kiểm soát, phân tán vốn, v.v..

Khi quy mô kinh tế tăng dần lên, nhu cầu phải tăng chi ngân sách nhà

nước để thúc đẩy phát triển kinh tế đang đặt ra rất cấp bách, các chủ thể sử

119

dụng NSNN cũng rất đa dạng. Từ đó, gây sức ép căng thẳng cho NSNN, khi

quy mô NSNN lớn dần lên sẽ kéo theo tiềm ẩn những rủi ro trong vấn đề sử

dụng NSNN như thất thoát, lãng phí, tham nhũng, v.v.. Chính điều này cũng

tác động mạnh đến việc đảm bảo các điều kiện sử dụng NSNN.

Hiện nay, ở Lào, cơ quan tài chính (Bộ Tài chính, Sở Tài chính) là cơ

quan chức năng giúp Chính phủ, chính quyền địa phương quản lý ngân sách.

Cần xác định rõ chức năng của bộ máy làm ngân sách xuất phát từ tính chất

của ngân sách. Ngân sách là công cụ tài chính tổng hợp có mối liên hệ rộng,

bao gồm thu, chi ngân sách, kế hoạch, chương trình, quyết toán và kiểm tra

ngân sách, v.v..

- Do trình độ, năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, công chức

còn hạn chế: Vấn đề đáng nói nhất ở đây là con người; những cán bộ làm

chuyên môn phải công tâm am hiểu pháp luật, đặc biệt trong sử dụng ngân

sách nhà nước. Nhìn lại lịch sử của nhân dân các bộ tộc Lào, thời gian chiến

tranh kéo dài gần 2/3 thế kỷ XX; người dân không có điều kiện học hành nên

trình độ nhân dân nói chung, cán bộ nói riêng còn nhiều hạn chế. Hơn nữa

vấn đề, sử dụng ngân sách nhà nước là vấn đề nhạy cảm, dễ gây ra những

phản ứng từ phía nhân dân đối với chính quyền nhà nước, có thể ảnh hưởng

đến ổn định xã hội. Nếu cán bộ, công chức thực hiện đúng quy định của pháp

luật thì không những thể hiện được vai trò của mình mà còn tác động tích cực

tới nền kinh tế của đất nước. Ngược lại, nếu cán bộ, công chức không làm

đúng các quy định của pháp luật hoặc lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi

thì vừa gây tổn thất cho ngân sách nhà nước vừa tác động xấu đến các quan

hệ kinh tế, lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng

NDCM Lào.

120

Tiểu kết chương 3

Hiện nay hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh thực hiện về sử dụng

ngân sách nhà nước khá nhiều, bao quát được hầu hết các vấn đề liên quan

đến chi ngân sách. Các quy phạm pháp luật này thường xuyên được sửa đổi,

bổ sung hoàn thiện cho phù hợp với thay đổi trong cơ chế quản lý, thực tiễn

kinh tế - xã hội và yêu cầu mới trong quản lý ngân sách nhà nước đáp ứng

tính hai mặt của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và xây dựng thị

trường chung ASEAN vào cuối năm 2015.

Những thành tựu đạt được trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN

đã ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm của các đơn vị,

các nhân được hưởng thụ NSNN; góp phần tăng thêm nguồn tài chính để đầu

tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị khoa học công nghệ, đặc biệt là

nguồn nhân lực chất lượng cao, v.v.. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,

thông qua việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến mọi người dân trên mọi

nẻo đường của Tổ quốc. Chính vì vậy, người dân nhận thức được đóng thuế là

quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với đất nước; mặt khác, người dân có

trách nhiệm giám sát việc sử dụng NSNN của các cơ quan, đơn vị, cá nhân sử

dụng NSNN qua hình thức “công khai minh bạch” NSNN. Có thể khẳng định

rằng, thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN giúp Đảng và Nhà nước Lào củng

cố thêm niềm tin của nhân dân vào đường lối chính sách mà Đảng NDCM

Lào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện pháp luật về sử

dụng NSNN ở Lào còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng đầy đủ những

quy định của pháp luật. Đôi khi do luật chưa phối hợp còn đi sau đòi hỏi của

thực tiễn; nên yêu cầu thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN một cách

nghiêm chỉnh của các đơn vị hưởng thụ NSNN vẫn còn mang tính nửa vời.

Những tồn tại, hạn chế trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà

nước là cơ sở thực tiễn để tác giả luận án đề xuất quan điểm, giải pháp bảo

đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN trong chương 4 của luận án.

121

Chương 4

YÊU CẦU KHÁCH QUAN, CẤP BÁCH VÀ QUAN ĐIỂM,

GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ

NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY

4.1. BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH

NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO LÀ YÊU CẦU

KHÁCH QUAN, CẤP BÁCH HIỆN NAY

Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ IV

của Đảng NDCM Lào đề xướng, đất nước đã đạt được những thành tựu quan

trọng về văn hóa, xã hội và đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, góp phần cải

thiện, nâng cao đời sống nhân dân, trong đó có những chuyển biến tích cực

của việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN. Tuy nhiên thực hiện pháp luật

về sử dụng ngân sách nhà nước còn tồn tại nhiều hạn chế vì vậy, bảo đảm

thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước là yêu cầu khách quan,

cấp bách, xuất phát từ những yêu cầu dưới đây:

4.1.1. Yêu cầu thực hiện các khoản chi, quản lý chi ngân sách nhà

nước bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí, tiêu cực

trong sử dụng ngân sách nhà nước

Chi ngân sách nhà nước từng bước được cơ cấu lại theo hướng xóa bỏ

bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng chi đầu tư phát

triển xã hội, cơ sở hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo;

phát triển nông nghiệp - nông thôn, bảo vệ môi trường; củng cố an ninh -

quốc phòng; chú trọng chi trả nợ theo đúng cam kết, nâng cao năng lực quản

lý đảm bảo chi ngân sách ngày càng tiết kiệm và đạt hiệu quả cao. Chi thường

xuyên của ngân sách được cân đối từ tổng số thu thuế, phí và lệ phí. Tốc độ

chi đầu tư phát triển cao hơn tốc độ tăng lệ phí, chi thường xuyên. Đảng và

Nhà nước Lào đang từng bước hoàn thiện chế độ chi ngân sách nhà nước, đổi

mới quản lý tài chính trong các đơn vị sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà

122

nước, v.v.. Công tác kiểm tra việc thực hiện pháp lệnh tiết kiệm, chống lãng

phí trong quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước được tăng cường; qua đó,

nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước.

4.1.2. Yêu cầu điều hành ngân sách nhà nước bảo đảm phát triển

cân đối các lĩnh vực đời sống xã hội, cân đối ngân sách trung ương và

ngân sách địa phương

Điều hành ngân sách nhà nước đang dần từng bước trở nên linh hoạt,

chủ động hơn. Ngân sách nhà nước thực sự trở thành công cụ đắc lực phục vụ

thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và vai trò điều tiết vĩ mô nền

kinh tế của nhà nước được khẳng định rõ hơn. Nhà nước đã thực hiện chủ

trương kích cầu đầu tư phát triển, tăng tạm ứng vốn xây dựng cơ bản, hỗ trợ

lãi suất kinh doanh. Nhà nước chủ động dự trữ ngân sách quốc gia, đề phòng

những biến động bất thường như khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu

vực, hoặc dịch bệnh, thiên tai.

Cân đối ngân sách trung ương và ngân sách địa phương phải được giữ

vững, bảo đảm bội chi ngân sách trong giới hạn cho phép. Bội chi ngân sách

cho đầu tư phát triển, dự trữ của ngân sách trung ương và ngân sách địa

phương đều tăng lên đáng kể, góp phần tích cực vào việc phục hồi tăng

trưởng kinh tế. Bội chi ngân sách nhà nước giai đoạn 1991 - 2001 là 68%, giai

đoạn 2001 - 2010 là 54%, giai đoạn 2010 - 2014 là 41%; đồng thời việc phát

hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách cũng chấm dứt từ năm 2002, vay nợ

trong nước để bù đắp bội chi ngân sách luôn được chú trọng nhằm giữ thế tự

chủ của nền kinh tế và ngân sách nhà nước [95].

4.1.3. Yêu cầu khắc phục những hạn chế, yếu kém, vi phạm trong

thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

Có thể đánh giá tổng quan, tài chính - ngân sách của Lào giai đoạn hiện

nay đã có chuyển biến tích cực và khá toàn diện, tiềm lực tài chính nhà nước

được củng cố, vị thế tài chính quốc gia trên trường quốc tế đã được cải thiện,

123

kỷ cương pháp luật về ngân sách ngày càng được tăng cường. Tuy nhiên vẫn

còn nhiều hạn chế, tồn tại, yếu kém, vi phạm trong quản lý ngân sách nói

chung và thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước nói riêng. Tiềm

lực tài chính - ngân sách nhà nước tuy đã được tăng lên đáng kể nhưng còn

nhỏ bé và vẫn không theo kịp nhu cầu tăng chi để giải quyết những vấn đề

bức xúc của nền kinh tế, nền tảng nguồn thu ngân sách chưa vững chắc, cơ

cấu thu ngân sách đổi mới chưa toàn diện. Tỷ lệ GDP động viên vào ngân

sách nhà nước tuy không phải là thấp so với tốc độ tăng trưởng và hiệu quả

sản xuất kinh doanh của nền kinh tế nhưng quy mô ngân sách nhà nước hiện

nay cũng chỉ khoảng hơn 22.000 tỷ Kíp. Trong khi đó, nhu cầu tăng chi để

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục đào

tạo và khoa học công nghệ, xóa đói giảm nghèo đang đặt ra rất cấp bách. Vấn

đề phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu quả chi

ngân sách vẫn còn hiện tượng thất thoát, lãng phí trong sử dụng kinh phí từ

ngân sách nhà nước. Chi cho đầu tư xây dựng cơ bản còn phân tán, công tác

quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, lập dự án chưa được chú trọng nên chất lượng dự

án không cao, việc thẩm định và quyết định đầu tư còn chậm dẫn đến tình

trạng vốn chờ công trình, gây lãng phí trong đầu tư. Chế độ, tiêu chuẩn, định

mức chi ngân sách vừa thiếu vừa lạc hậu so với thực tế, gây khó khăn cho

việc cấp kinh phí, kiểm tra, kiểm soát trong chi NSNN. Tình trạng sử dụng

kinh phí ngân sách không đúng mục đích vẫn xảy ra.

Dưới tác động của kinh tế thị trường, vị trí, vai trò của tài chính càng

trở nên quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, xây dựng nền

tài chính tự chủ, vững mạnh là yêu cầu cơ bản và cấp bách trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Ngân sách nhà nước đóng

vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia, nhà nước cần tiếp tục đổi

mới và hoàn thiện ngân sách nhà nước cũng như nâng cao hiệu quả quản lý

nhà nước về sử dụng ngân sách. Có thể khẳng định rằng, thực hiện pháp luật

124

về sử dụng ngân sách nhà nước là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay ở Lào. Chỉ có

nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, Lào mới có thể tiết kiệm

được nguồn lực tài chính quốc gia, không để xảy ra tình trạng thất thu, lậu

thuế, gian lận để chiếm đoạt tài sản công.

4.2. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

4.2.1. Bảo đảm thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, của các

tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc sử dụng ngân sách

nhà nước

Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước là quá trình hiện

thực hóa đường lối chính sách của Đảng về tài chính, ngân sách, thực hiện

chính sách tài chính của Nhà nước; hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện

kiểm soát thu, chi để pháp luật là công cụ hữu hiệu của Đảng và Nhà nước

trong việc kiểm tra, kiểm soát quản lý và sử dụng NSNN. Để thực hiện các

yêu cầu trên cần bảo đảm thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, các tổ chức

chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc sử dụng NSNN.

Mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội đều xuất phát từ lợi ích của

nhân dân. Việc thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước đảm bảo

cho người dân có khả năng kiểm tra, giám sát tốt nhất, dễ dàng nhất đối với

việc chi tiêu ngân sách của các đơn vị sử dụng ngân sách cũng như đối với

hoạt động kiểm soát chi của cơ quan chức năng thuộc bộ máy hành pháp. Yêu

cầu này đồng nghĩa với việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát chi ngân sách

theo chiều hướng tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát trực tiếp của nhân dân,

thông qua Quốc hội và qua chính quyền địa phương các cấp trong quá trình

lập dự toán chi, chấp hành dự toán chi và quyết toán chi ngân sách nhà nước.

Tạo lập môi trường tài chính - ngân sách lành mạnh nhằm giải phóng

và phát triển các nguồn lực; phân bổ ngân sách một cách hợp lý, đảm bảo

công bằng; sử dụng có hiệu quả nguồn lực ngân sách nhà nước phục vụ mục

125

tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; ổn định và phát triển nền tài

chính quốc gia, góp phần vào tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, thực hiện

xóa đói giảm nghèo. Trong đó, thực hiện pháp luật về kiểm soát chi ngân sách

nhà nước đòi hỏi nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, hướng tới các

quy định mang tính hình thức như trình tự, thủ tục cấp phát và thanh toán kinh

phí ngân sách, trình tự thực hiện các khoản chi ngân sách nhà nước, bảo đảm

cho nhân dân có thể tiếp cận được đối với các thông tin về nguồn kinh phí

được cấp phát, đối tượng được cấp phát, phương thức cấp phát và cơ chế giám

sát việc cấp phát, thanh toán, sử dụng kinh phí ngân sách. Nhà nước đảm bảo

tính công khai, minh bạch hóa các khoản chi ngân sách tại các ngành, các cấp,

các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước; đồng thời, đảm bảo tính hiệu quả của

quá trình kiểm soát chi ngân sách nhà nước.

Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách, đảm bảo tính thống nhất về

thể chế của ngân sách nhà nước và vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương,

phát huy tính chủ động sáng tạo của ngân sách các cấp chính quyền địa

phương trong quản lý sử dụng ngân sách nhà nước. Đổi mới cơ chế quản lý,

sử dụng ngân sách nhà nước theo hướng hiện đại - quản lý ngân sách theo

“kết quả đầu ra”. Mặt khác, phát huy quyền tự chủ, tự quyết định và tự gánh

chịu trách nhiệm cho các đơn vị sử dụng ngân sách, đặc biệt là các đơn vị

công lập như trường học, bệnh viện công, các cơ sở nghiên cứu khoa học và

ứng dụng kỹ thuật do nhà nước thành lập, v.v.. Tuy nhiên, việc trao quyền tự

chủ về mặt tài chính cho các đơn vị sử dụng ngân sách cũng cần được hiểu

đồng nghĩa với việc gắn trách nhiệm cá nhân người đứng đầu đơn vị sử dụng

ngân sách nhà nước với kết quả sử dụng kinh phí nhà nước cấp tại đơn vị dự

toán đó. Việc pháp luật đề cao trách nhiệm cá nhân người lãnh đạo đơn vị sử

dụng ngân sách sẽ góp phần ngăn chặn tình trạng chi tiêu lãng phí, không hiệu

quả; do đó, người lãnh đạo buộc phải cẩn trọng hơn khi đưa ra các quyết định

quản lý tại đơn vị mình. Yêu cầu này đặt ra vấn đề nhà nước phải có những

126

thay đổi mạnh mẽ và triệt để trong các quy định pháp luật về phương thức cấp

phát kinh phí và cơ chế kiểm soát chi ngân sách. Ví dụ: Vấn đề khoán chi

hành chính cho các đơn vị sử dụng ngân sách có nhu cầu chi thường xuyên

cho các công vụ của mình. Việc pháp luật cho phép áp dụng cơ chế khoán chi

cho đơn vị thụ hưởng ngân sách có thể sẽ là quy định mang tính đột phá trong

quá trình cải cách thể chế tài chính công ở nước ta nhằm góp phần đơn giản

hóa và hiệu quả hóa hoạt động kiểm soát chi ngân sách nhà nước.

Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước sẽ dễ dàng, nhanh

chóng, thuận tiện, ít tốn kém hơn cho các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước.

Nếu quy định về pháp luật trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước quá phức

tạp, khó thực hiện và khó tiếp cận đối với mọi người dân cũng như đối với các

đơn vị sử dụng ngân sách thì cơ chế kiểm soát đó rất dễ bị lợi dụng để mưu

lợi cho cá nhân những người có chức vụ, quyền hạn trong quản lý ngân sách.

Yêu cầu này cũng có liên quan ít nhiều đến vấn đề đảm bảo tính công khai,

minh bạch hóa quy trình cấp phát, thanh toán và sử dụng kinh phí ngân sách.

Chỉ khi nào mọi người dân đều có khả năng tiếp cận thật dễ dàng đối với các

thông tin về cấp phát và sử dụng kinh phí của các đơn vị dự toán (ví dụ: Bằng

các con đường báo chí, khiếu nại, tố cáo, v.v..) thì khi đó cơ chế kiểm soát chi

ngân sách mới có thể được coi là hiệu quả. Thực tiễn ở Lào trong thời gian

qua cho thấy rằng, nhiều vụ việc vi phạm pháp luật trong quản lý và sử dụng

ngân sách được phát hiện và đưa ra xử lý kịp thời chính là nhờ công cụ của

nhân dân như báo chí, truyền hình, đơn khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, do sức

ép của dư luận xã hội mà tình trạng tham nhũng, lãng phí tài sản công đã dần

được phanh phui trước pháp luật, góp phần đảm bảo cho hoạt động sử dụng

ngân sách được kiểm soát tốt hơn.

Đáp ứng mục tiêu minh bạch tài chính, Luật Ngân sách nhà nước và

các văn bản hướng dẫn thi hành cần thực hiện đúng thẩm quyền, trách nhiệm

của mỗi cơ quan trong công tác quyết toán ngân sách nhà nước. Bảo đảm mỗi

127

việc chỉ giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm hoặc cơ quan chủ trì chịu

trách nhiệm. Nhà nước không nên để tình trạng chồng chéo, trùng lặp chức

năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan; đồng thời, sớm ban hành quy chế công khai

ngân sách, bảo đảm tính trung thực, toàn diện, hợp pháp, hợp lý của các số

liệu, sổ sách, chứng từ, hồ sơ kế toán tài chính. Bên cạnh đó, thực hiện pháp

luật về sử dụng ngân sách nhà nước nói riêng, về ngân sách nhà nước nói

chung, cần đảm bảo tính khả thi, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, trình

độ quản lý cũng như thực trạng đội ngũ cán bộ ở Lào.

4.2.2. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước phải

hướng đến mục tiêu bảo đảm sử dụng ngân sách tiết kiệm, hiệu quả,

minh bạch

Những năm qua, Đảng và Nhà nước Lào đã đặc biệt quan tâm đến vấn

đề thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước nhằm mục đích quản lý

tốt, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm ngân sách nhà nước. Nghị quyết Đại hội

lần thứ IX của Đảng NDCM Lào xác định phương hướng đổi mới đối với

công tác tài chính - ngân hàng trong giai đoạn 2010 - 2020 là: Thực hiện

nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong phân phối và phân phối lại nguồn thu

nhập xã hội; tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng nhằm giải

phóng và phát triển nguồn lực tài chính lành mạnh, bồi dưỡng và mở rộng

nguồn thu ngân sách, thu hút các nguồn vốn bên ngoài, v.v.. Gắn việc đổi mới

chính sách chi tiêu ngân sách nhà nước với thực hiện chủ trương xã hội hóa.

Đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân sách nhà nước, đảm bảo tính

thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chủ đạo của ngân sách

trung ương; đồng thời, phát huy tính chủ động sáng tạo của ngân sách địa

phương và các ngành trong việc quản lý tài chính - ngân sách đã được phân

cấp. Nâng cao quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và

chính quyền địa phương các cấp trong việc thực hiện pháp luật về sử dụng

ngân sách nhà nước, thực hiện công khai minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả trong

128

chi tiêu ngân sách. Cân đối ngân sách một cách tích cực, tăng dự trữ, giữ bội

chi ở mức hợp lý, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, giữ mức dư nợ quốc gia

trong giới hạn an toàn, quy định rõ và thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ.

Muốn sử dụng ngân sách tiết kiệm, hiệu quả trước tiên là cần phân định

rõ trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp rõ

hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực

hiện đúng nguyên tắc “tập trung dân chủ”. Trên cơ sở đảm bảo sự quản lý

thống nhất của Trung ương về thể chế, về chiến lược quy hoạch, kế hoạch

phát triển các ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phân cấp đúng định

mức và rành mạch trách nhiệm, thẩm quyền hành chính nhằm tạo điều kiện

thúc đẩy chính quyền địa phương phát huy tính chủ động, khai thác mọi tiềm

năng tại chỗ để phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; qua đó, đóng góp

ngày càng nhiều cho sự phát triển của đất nước. Theo tinh thần này, cần tăng

cường trách nhiệm, thẩm quyền của chính quyền địa phương trong việc quyết

định những vấn đề của địa phương, đặc biệt là quy hoạch phát triển và kế

hoạch đầu tư cho khu vực công cộng về thu, chi ngân sách; tổ chức nhân sự

hành chính địa phương, xử lý các vụ vi phạm hành chính. Việc phân định

trách nhiệm, thẩm quyền của các cấp chính quyền phải phù hợp với tính chất,

yêu cầu của từng ngành, lĩnh vực hoạt động với chức năng, nhiệm vụ của từng

cấp chính quyền trên từng địa bàn; phù hợp với điều kiện và khả năng của các

địa phương có quy mô, vị trí khác nhau.

Quy định và thực hiện quy định về phân cấp quản lý sử dụng ngân sách

trong pháp luật về sử dụng ngân sách cần quán triệt các yêu cầu sau đây:

Thứ nhất, phân cấp quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước phải thực

hiện đồng bộ, phù hợp và gắn liền với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội. Giải

quyết được yêu cầu này có ý nghĩa đột phá cơ bản, đặt nền móng cho việc

hình thành pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ

của các cấp chính quyền địa phương nói riêng và nhà nước nói chung trong

129

nền kinh tế thị trường không phải là sự can thiệp trực tiếp vào mọi hoạt động

của nền kinh tế - xã hội, mà cần trở lại chức năng vốn có của mình là quản

lý hành chính và điều tiết vĩ mô; còn chức năng quản lý sản xuất kinh doanh

do các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện. Những chức

năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi cấp chính quyền cần được cụ thể hóa

trong các luật cơ bản của nhà nước; phải triệt để tôn trọng những quy định

của Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Kinh

tế thị trường không có sự chia cắt giữa kinh tế Trung ương và kinh tế địa

phương mà chỉ có một nền kinh tế thống nhất. Do vậy, hệ thống ngân sách

nhà nước phải thống nhất đòi hỏi cơ chế phân cấp phải thông suốt, đồng bộ.

Phân cấp quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước vừa phải phù hợp với phân

cấp quản lý kinh tế - xã hội, vừa phải đảm bảo tính thống nhất của nền tài

chính quốc gia.

Thứ hai, phân cấp quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước phải đảm bảo

vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và tính chủ động của ngân sách địa

phương. Nhà nước Lào là nhà nước thống nhất nên chỉ có một ngân sách và

đòi hỏi pháp luật về phân cấp ngân sách phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa

tập trung, thống nhất với phân cấp, phân quyền. Phân cấp quá mức về ngân

sách sẽ dẫn đến phân tán, manh mún, làm yếu vai trò chỉ đạo của cấp trên;

ngược lại, tập trung quá mức sẽ dẫn đến tệ quan liêu, độc đoán của cấp trên và

làm cho cấp dưới bị động, ỷ lại. Yêu cầu tập trung thống nhất cũng đòi hỏi

cấp trên phải xây dựng các chuẩn mực trong quản lý chi tiêu như định mức

tiêu chuẩn chi tiêu, sử dụng tài sản nhà nước, v.v.. Tuy nhiên, cần có sự phân

biệt để thực hiện phân cấp trách nhiệm cho các địa phương theo hướng những

tiêu chuẩn định mức quan trọng phải do cấp trên thống nhất quản lý và quy

định như tiền lương, chính sách xã hội, v.v.. Một số tiêu chuẩn, định mức

khác sẽ giao cho chính quyền địa phương quy định căn cứ vào khả năng vật

chất và điều kiện cụ thể của mình như tiền thu vệ sinh đường phố, phí công

viên, chi trợ cấp cho người già, trẻ mồ côi, v.v.. Hiện nay, xu hướng phân cấp

130

nhiều hơn và rộng rãi hơn cho chính quyền địa phương, đặc biệt là chính

quyền cơ sở đã phục vụ nhu cầu chung của cộng đồng dân cư trên địa bàn.

Như vậy, ngân sách địa phương một mặt vẫn mang tính phụ thuộc nhưng mặt

khác được phát huy tính tự chủ, năng động, sáng tạo trong việc khai thác

nguồn thu và phân bổ chi tiêu.

Thứ ba, phân cấp quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước phải đảm bảo

ổn định cả nguồn thu và nhiệm vụ chi tương đối lâu dài, phù hợp với tình hình

thực tế của từng địa phương. Để đảm bảo tính công bằng hợp lý giữa các địa

phương, Nhà nước cần tăng cường sức mạnh của ngân sách trung ương trong

việc chi viện, chi phối cho các địa phương có điều kiện khó khăn, nguồn thu

không đủ đáp ứng các nhiệm vụ chi; nhưng cũng cần tránh khuynh hướng cân

đối thay cho các địa phương. Vì như vậy, sẽ tạo tâm lý ỷ lại, dựa dẫm, ngại

vượt khó, không phát huy được tính năng động, sáng tạo của địa phương.

Thông qua cơ chế bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa

phương, từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới sẽ góp phần đảm bảo

tính công bằng, hợp lý giữa các địa phương trong cả nước.

4.3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

HIỆN NAY

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về sử

dụng ngân sách nhà nước ở Lào, tác giả xin đề xuất một số giải pháp khoa học

dưới đây hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé vào việc thực hiện pháp luật về

sử dụng ngân sách nhà nước bảo đảm minh bạch, hiệu quả để thực hiện thắng

lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước công bằng,

dân chủ, văn minh và phát triển bền vững.

4.3.1. Hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

Bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN trong thực tiễn cuộc

sống, trước hết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu xây dựng nhà

131

nước pháp quyền và hội nhập quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu trên, việc hoàn

thiện pháp luật về sử dụng NSNN phải quán triệt các quan điểm sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước nhằm

thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về NSNN. Pháp luật

về sử dụng ngân sách nhà nước phải phù hợp với mục tiêu định hướng được

thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc thông qua các kỳ đại hội

về: Chủ trương, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền, hoàn thiện hệ thống pháp luật, mở

rộng hội nhập quốc tế, phát huy quyền làm chủ của nhân dân... Bên cạnh đó

còn phải phù hợp với định hướng đổi mới đối với công tác tài chính - ngân

sách trong giai đoạn 2010 - 2020; chiến lược hoàn thiện cải cách quản lý tài

chính - ngân sách của Chính phủ. Các quy định thực hiện pháp luật về sử

dụng ngân sách nhà nước phải được thực hiện trên cơ sở quán triệt đường lối,

chính sách chung của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Các cơ chế, chính sách

pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước vừa phải phù hợp với khuôn khổ

của cơ chế chính sách quản lý kinh tế, vừa theo kịp với tiến trình của công

cuộc cải cách đất nước. Trước yêu cầu của hội nhập quốc tế, đổi mới thực

hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước còn có yêu cầu phải đáp ứng

các nguyên tắc cơ bản của WTO, giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích

quốc gia và lợi ích quốc tế. Bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa các chủ trương,

đường lối của Đảng về phát triển kinh tế theo định hướng XHCN với quy

định của WTO, tranh thủ tối đa những quy định ưu đãi đối với các nước

đang phát triển và nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao

cấp sang kinh tế thị trường.

Thứ hai, ưu tiên đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật NSNN đòi

hỏi phải có sự ưu tiên trong chương trình pháp luật tổng thể để đáp ứng yêu

cầu bức thiết của thực tiễn và để phục vụ chiến lược cải cách tài chính ngân

sách đã được Chính phủ đề ra. Quan điểm này hình thành từ việc đánh giá hệ

132

thống pháp luật về quản lý, sử dụng NSNN. Hiện nay, sử dụng NSNN đang là

vấn đề khá nhạy cảm để điều chỉnh hoạt động ngân sách phát sinh trong các

lĩnh vực của đời sống xã hội, phục vụ cho việc thực hiện các cam kết quốc tế

trong quá trình hội nhập. Chính vì vậy, ưu tiên xây dựng chương trình thực

hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước cần phải được khẳng định.

Quốc hội khóa VI nhiệm kỳ năm 2006 - 2010 đã thông qua việc sửa đổi Luật

Ngân sách nhà nước 26/12/2006 vào chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh

của Quốc hội.

Thứ ba, đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà

nước phải trên cơ sở kế thừa, phát huy các thành quả của quá trình hoàn thiện

pháp luật nói chung và pháp luật về tài chính nói riêng sau gần 30 năm đổi

mới. Hoàn thiện thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước còn phải

được kế thừa kinh nghiệm tổng kết đánh giá thực trạng hoạt động ngân sách

nhà nước, những quan điểm đổi mới chính sách và cơ chế quản lý ngân sách

nhà nước từ công cuộc cải cách kinh tế được khởi xướng từ Đại hội IV của

Đảng NDCM Lào (1986). Nhất là sự kế thừa nội dung tổng kết, đánh giá thực

tiễn thực hiện các Luật Ngân sách nhà nước đầu tiên được Quốc hội thông

qua ngày 18/7/1994; Luật sửa đổi, bổ sung số 02/QHQG ngày 26/12/2006 và

các văn bản hướng dẫn thực hiện.

Thứ tư, Nhà nước ban hành văn bản mới kết hợp với sửa đổi, bổ sung

văn bản hiện hành. Khối lượng văn bản quy phạm pháp luật phải ban hành để

hoàn thiện các quy định về sử dụng ngân sách nhà nước là tương đối lớn.

Việc có đáp ứng cả về năng lực soạn thảo văn bản lẫn ban hành, thông qua

đều có những hạn chế nhất định nếu thực hiện theo cách cũ. Trước tình hình

này đòi hỏi phải có cách làm mới trong xây dựng pháp luật: (a) có tính đến

việc ban hành mới như Luật Chi tiêu công, Luật Tài chính công, Luật Đầu tư

công, Luật Quản lý khu vực nợ công, Luật Thuế tài sản, v.v.. (b) có sửa đổi,

bổ sung một số Luật liên quan đến chính sách thu ngân sách như các Luật về

133

Thuế (Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế giá trị

gia tăng, v.v..); Pháp lệnh phí, lệ phí, v.v..; Luật Đất đai, Luật Quản lý tài sản

nhà nước, Luật Trưng mua trưng dụng tài sản của cá nhân, tổ chức, v.v..

Quan trọng hơn cả là phải nâng cao chất lượng trong từng văn bản luật

đảm bảo tính khả thi, Luật được ban hành có thể thực hiện được ngay, hạn

chế ban hành văn bản hướng dẫn. Đồng thời, phải quan tâm thích đáng tới yêu

cầu, nội dung cải cách thủ tục hành chính, cải cách quy trình nghiệp vụ trong

hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước khi xây dựng, sửa

đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo tính linh hoạt đồng bộ,

độ chính xác cao. Tạo lập một hệ thống pháp luật hoàn thiện, xóa bỏ cơ chế

bao cấp trong hoạt động quản lý NSNN. Pháp luật về quản lý NSNN phải có

phân cấp mạnh mẽ, toàn diện, hướng tới mục tiêu làm cho hoạt động của

NSNN gắn với thị trường, phải đặt sự vận động của NSNN trong sự vận động

của thị trường và thúc đẩy thị trường phát triển. Bên cạnh đó, phải coi trọng

hiệu quả ở tầm vĩ mô của NSNN thể hiện ở việc sử dụng ngân sách nhà nước

như một công cụ để nhà nước thực hiện quản lý xã hội đảm bảo cho sự vận

hành hoạt động thông suốt của bộ máy nhà nước, thực hiện ổn định thị trường

và kích thích tăng trưởng. Quan điểm này đòi hỏi việc quản lý, sử dụng ngân

sách nhà nước phải linh hoạt và thực hiện triệt để nguyên tắc chống bao biện,

bao cấp trong chi ngân sách nhà nước.

Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước phải

đảm bảo tính minh bạch, công khai; đồng thời phải có tính khả thi cao nhằm

đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực của pháp luật. Thực hiện triệt để nguyên tắc

tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước; đi đôi với

tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính. Đưa công tác thực hành tiết kiệm,

chống lãng phí vào quy trình ngân sách từ khâu lập dự toán, chấp hành dự

toán đến quyết toán ngân sách nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh

tra, kiểm toán ngân sách nhà nước, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm.

134

Siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính ở các ngành, các cấp, các lĩnh vực trong

hoạt động tài chính ngân sách.

Thứ sáu, hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước phải đảm

bảo nội luật hóa đầy đủ các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân sách

hướng tới tiếp tục mở rộng hợp tác, tăng cường hội nhập quốc tế. Đổi mới

pháp luật quản lý, sử dụng NSNN cần được thực hiện trên sự chủ động căn cứ

vào chuẩn mực của WTO để đối chiếu so sánh, đảm bảo hệ thống pháp luật

ngân sách phải hài hòa giữa các quy định trong nước với các quy định của

WTO, thể hiện thông qua việc đàm phán của Lào khi gia nhập tổ chức này.

Nói cách khác, Lào phải thực hiện quyền chuyển hóa các quy phạm về lĩnh

vực tài chính vào pháp luật ngân sách. Ngoài việc là thành viên của WTO,

Lào còn có quan hệ với nhiều nước trên thế giới và cũng là thành viên của

ASEAN, AFTA, v.v.. Theo đó, nhân dân các bộ tộc Lào cần nhận thức rằng,

hệ thống pháp luật về tài chính của Lào (trong đó có pháp luật về ngân sách

nhà nước) phải được đổi mới, hoàn thiện trên nguyên tắc vừa đảm bảo chủ

quyền vừa phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước, hài hòa với các chuẩn

mực quốc tế.

Hoàn thiện pháp luật về sử dụng NSNN theo những quan điểm nêu trên

đồng thời phải thực hiện các nội dung điều chỉnh, sửa đổi sau đây:

Một là, rà soát phạm vi điều chỉnh của các luật quy định nhiệm vụ sử

dụng ngân sách, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định. Luật về

ngân sách có liên quan đến việc sử dụng nguồn ngân sách của nhà nước. Hiện

nay, có rất nhiều văn bản luật, dưới luật điều chỉnh và có liên quan đến lĩnh

vực này nhưng vẫn có sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các luật và các văn bản

dưới luật. Do đó, Nhà nước cần rà soát lại, đảm bảo sự thống nhất giữa các

văn bản.

Hai là, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về kiểm soát, thanh

toán các khoản chi NSNN qua KBNN. Nhà nước cần hoàn thiện quy trình chi

135

NSNN theo hình thức cấp phát theo dự toán, thanh toán trực tiếp tại KBNN;

làm rõ vai trò, trách nhiệm của hệ thống KBNN trong việc kiểm soát chi; cải

thiện thủ tục hành chính trong quá trình thanh toán trực tiếp tại KBNN; tạo sự

chủ động cho các đơn vị thụ hưởng ngân sách trong quá trình chi tiêu, triển

khai thực hiện các nhiệm vụ được giao; đồng thời, đề cao trách nhiệm của thủ

trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, gắn trách nhiệm của kho bạc với thủ trưởng

đơn vị sử dụng ngân sách trong việc kiểm soát các chứng từ chi. Ngăn chặn

các trường hợp chi tiêu không hợp lý, sai chế độ; tăng cường trách nhiệm giải

trình của cơ quan tài chính và các đơn vị thụ hưởng ngân sách; đơn giản hóa

các thủ tục hành chính trong chi tiêu ngân sách; tăng cường kiểm tra, kiểm

soát chi theo dự toán được duyệt. Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tài

chính, KBNN trong quá trình kiểm soát chi. Khi xuất hiện quỹ ngân sách, cơ

quan tài chính, KBNN thực hiện kiểm soát. Nếu chi tiêu sai chế độ mà vẫn

được thanh toán thì cơ quan tài chính, KBNN cần phải cùng chịu trách nhiệm

với thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách. Trong công tác quyết toán, chứng từ

được KBNN cho thanh toán cũng chính là chứng từ quyết toán, KBNN cũng

cần phải cùng chịu trách nhiệm với thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách về

các chứng từ chi ngân sách.

Ba là, khắc phục tính chồng chéo trong hệ thống NSNN. Hệ thống

NSNN hiện nay mang tính lồng ghép, NSNN bao gồm ngân sách trung ương

và ngân sách địa phương; ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn

vị hành chính các cấp ở địa phương (ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp

huyện); ngân sách cấp dưới là bộ phận hợp thành của ngân sách cấp trên. Với

quy định lồng ghép của hệ thống NSNN cơ bản đảm bảo tính thống nhất và

tính tuân thủ của các cấp ngân sách. Tuy nhiên, sự trùng lặp về thẩm quyền,

việc phân định trách nhiệm của từng cấp chưa thật sự rõ ràng, nhất là chưa

thực sự đảm bảo quyền tự chủ của cấp dưới nên hiệu quả quản lý còn hạn chế.

Theo kinh nghiệm quốc tế, trong hệ thống NSNN phần lớn các nước trên thế

136

giới như Mỹ, Canada, Đức, Trung Quốc, Thái Lan… các cấp ngân sách

không lồng ghép với nhau, ngân sách từng cấp do chính quyền địa phương

quyết định. Với mô hình không lồng ghép như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của

từng cấp ngân sách được quy định rõ ràng hơn, đơn giản hóa được các thủ tục

trong công tác lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán NSNN. Mỗi cấp

ngân sách có thời gian và điều kiện để xem xét chi tiết, kỹ lưỡng ngân sách

cấp mình, tăng tính công khai, minh bạch của NSNN. Tuy nhiên, trong điều

kiện hiện nay, Lào chưa thể lồng ghép được các cấp ngân sách, do việc phân

cấp kinh tế - xã hội giữa các cấp chính quyền ở địa phương vẫn chưa thống

nhất, đặc biệt là trong bối cảnh Lào đang thí điểm xây dựng các tỉnh, huyện,

cụm bản kinh tế trọng điểm theo Nghị quyết Trung ương lần thứ V khóa IX.

Theo đó, ngân sách ở một số tỉnh, huyện, cụm bản sẽ rất phức tạp khi thiết kế

nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương. Do vậy, kiến

nghị thực hiện hệ thống lồng ghép NSNN vẫn cần thiết theo hướng: Quốc hội

chỉ quyết định tổng chi NSNN, bao gồm chi ngân sách trung ương và ngân

sách địa phương; đối với ngân sách địa phương, Quốc hội quyết định chi tiết

theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ, chi bổ

sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách; không quyết định cho quỹ chi

thường xuyên phải có mức chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo,

khoa học và công nghệ, v.v.. Đồng thời, để các địa phương tự quyết định,

phân bổ chi ngân sách địa phương cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa

học & công nghệ, y tế, văn hóa, môi trường theo định hướng của Đảng và

Nhà nước; bổ sung quy định các địa phương khi quyết định dự toán ngân sách

địa phương phải bảo đảm ưu tiên cho các lĩnh vực theo Nghị quyết của Quốc

hội, quy định của Chính phủ và chính quyền cấp trên.

Bốn là, quy định cụ thể hơn về phân bổ dự toán sử dụng NSNN. Cần bổ

sung quy định trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương thực hiện

đúng các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu do Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính

137

ban hành, không được đưa ra các định mức chi tiêu thấp hơn. Việc giao kinh

phí tự chủ theo cơ chế khoán phải có căn cứ, sát thực tế để đảm bảo các hoạt

động của đơn vị sử dụng kinh phí. Khi quy định nguồn thu - chi và xây dựng

định mức phân bổ ngân sách cần chú ý đến những yếu tố đặc thù của các địa

phương, nhất là các đô thị lớn Thủ đô Viêng Chăn, tỉnh Chăm pa sắc. Việc

lập dự toán chi ngân sách của các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách cần phải

giải trình rõ những nội dung chi trong năm ngân sách, thay vì được điều chỉnh

mức chi căn cứ vào số chi năm trước theo cách hiện nay vẫn thực hiện.

Năm là, quy định về tự chủ tài chính gắn với sử dụng nguồn nhân lực.

Chính phủ phải xây dựng được các định mức biên chế phù hợp với công việc

của từng cơ quan, đơn vị sử dụng NSNN. Đối với các cơ quan nhà nước, đơn

vị sử dụng NSNN, định mức phân bổ NSNN ngoài căn cứ theo biên chế được

phê duyệt cần phải có thêm căn cứ khác như: Chức năng, nhiệm vụ quản lý

nhà nước được giao, quy mô, cơ cấu tổ chức bộ máy của mỗi cơ quan, hệ

thống công sở, trang thiết bị, v.v.. Bên cạnh đó, các tổ chức quốc tế cũng

khuyến nghị để đảm bảo hiệu quả của chế độ tự chủ tài chính, cần tạo cho

người đứng đầu đơn vị sử dụng ngân sách nhiều quyền hạn hơn trong việc

tuyển dụng, sử dụng và sa thải nhân sự.

Sáu là, quy định cụ thể hơn nguyên tắc công khai và dân chủ hóa

trong điều hành thực hiện ngân sách. Nhà nước CHDCND Lào là nhà nước

của dân, do dân và vì dân; vì vậy, ngân sách cũng phải là ngân sách của dân,

do dân, vì dân. Việc công khai ngân sách sẽ là biện pháp quan trọng để

người dân tự giác hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Theo cơ

chế hiện nay thì ít có cơ hội thuyết phục “nộp thuế là nghĩa vụ cao cả và là

quyền lợi của dân”, nếu người dân không biết hoặc biết một cách mơ hồ về

số tiền mà họ đóng góp vào ngân sách được sử dụng vào mục đích gì, sử

dụng như thế nào và với số lượng bao nhiêu. Công khai ngân sách đi đôi với

tăng cường công tác giám sát tài chính ở địa phương. Bởi lẽ, khi đã mở rộng

138

phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương thì công tác kiểm tra, thanh tra,

giám sát càng phải được đặt ra là một trong những nhiệm vụ quan trọng của

tất cả các cơ quan nhà nước. Công việc kiểm tra, thanh tra, giám sát cũng

cần được tiến hành đối với bất cứ một nghiệp vụ tài chính nào ở tất cả các

cấp. Trước hết, cần củng cố và phát triển hệ thống thanh tra từ Trung ương

đến địa phương; phân định rõ nhiệm vụ của các cơ quan như thanh tra tài

chính, thanh tra nhà nước, kiểm toán, viện kiểm sát, v.v.. trong quá trình

chấp hành dự toán NSNN.

4.3.2. Tiêu chuẩn hóa quy trình quản lý, kiểm soát thực hiện pháp

luật về sử dụng ngân sách theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế

Một trong số các nội dung quan trọng của việc cải cách nền tài chính

công ở nhiều nước trên thế giới chính là tiêu chuẩn hóa các quy trình quản lý

và kiểm soát sử dụng ngân sách nhà nước. Việc du nhập các quy trình quản lý

tài chính công tiên tiến và hiện đại từ nước ngoài vào Lào dù muộn hơn

nhưng dẫu sao cũng cần thiết trong bối cảnh Lào là thành viên của Tổ chức

thương mại thế giới (WTO từ năm 2013), gia nhập cộng đồng chung ASEAN

vào cuối năm 2015. Để thực hiện những chủ trương đó, đòi hỏi nhà nước phải

tiến hành cải cách mạnh mẽ quy trình kiểm soát sử dụng ngân sách nhà nước

theo hướng hiện đại, công khai, minh bạch và phù hợp với pháp luật quốc tế.

- Thực hiện nguyên tắc cam kết chi: Pháp luật về chi NSNN và kiểm

soát chi hiện nay ở Lào chưa quy định kiểm soát cam kết chi một cách rõ

ràng; điều này dẫn đến các cơ quan tài chính thường tỏ ra bị động trong quá

trình bố trí nguồn công quỹ để thực hiện các khoản kinh phí theo dự toán

được duyệt cho các đơn vị sử dụng ngân sách. Mặt khác, nó tạo nên rủi ro tài

chính nói chung trong nền kinh tế do các nhà thầu, đơn vị cung cấp hàng hóa

lao vụ không biết rõ được những khoản chi tiêu nào của Chính phủ sẽ được

cam kết thanh toán và dẫn đến nợ đọng lớn, đặc biệt là nợ đọng trong đầu tư

xây dựng cơ bản như tình trạng của Bộ quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải

139

thời gian vừa qua. Trên thực tế, nguyên tắc cam kết chi đã từng được hầu hết

các nước trên thế giới thực hiện; trong đó có những nước sử dụng hệ thống

thông tin quản lý kho bạc, ngân sách TABMIS và thực hiện nguyên tắc kế

toán dồn tích. Cam kết chi được thực hiện cho các khoản dài hạn và ngắn hạn.

Đối với các khoản chi dài hạn qua nhiều năm như các dự án xây dựng cơ bản,

việc thực hiện cam kết chi được chia ra từng năm để thấy rõ sự cân đối giữa

nguồn lực tài chính và phân bổ nguồn lực trong khuôn khổ tài khóa trung hạn.

Còn các khoản chi ngắn hạn, nếu các khoản chi đã có trong dự toán năm được

duyệt thì các đơn vị chi tiêu phải nhập vào hệ thống thông tin hoặc cung cấp

cho KBNN các tài liệu về hợp đồng mua bán để nhập vào hệ thống thông tin.

Các hợp đồng này sau khi nhập vào hệ thống, được các cơ quan tài chính

kiểm soát thì coi như đã được thực hiện cam kết chi với đơn vị cung cấp hàng

hóa dịch vụ. Qua đó, góp phần hạn chế tối đa rủi ro cho các đơn vị cung cấp

hàng hóa dịch vụ, tránh tình trạng nợ đọng trong chi tiêu ngân sách và giúp cơ

quan tài chính điều hành hiệu quả quỹ NSNN.

- Kiểm soát theo ngưỡng chi: Các quy định về kiểm toán chi hiện nay

của Lào đã tính tới phân loại rủi ro để xây dựng quy trình kiểm soát cho phù

hợp. Tuy nhiên việc phân loại này lại được thực hiện theo từng nhóm chi mà

không theo giá trị của các khoản chi. Để đơn giản hóa quá trình kiểm soát chi

đối với một số tài khoản chi có giá trị nhỏ, kho bạc sẽ không tiến hành kiểm

soát mà chỉ thực hiện việc thanh toán theo lệnh chuẩn chi; còn đơn vị sử dụng

ngân sách chịu trách nhiệm về tính pháp lý của các khoản chi này. Việc thực

hiện kiểm soát theo ngưỡng chi sẽ nâng cao tính hiệu quả trong quá trình quản

lý ngân sách, đảm bảo rằng chi phí cho việc thực hiện kiểm soát chi không

lớn hơn lợi ích thu về do việc kiểm soát chi mang lại.

- Kiểm soát chi theo kết quả đầu ra: Ngay từ khi lập dự toán đơn vị sử

dụng ngân sách đã phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao; định mức,

chế độ chi tiêu tài chính hiện hành của nhà nước cũng như dự toán sử dụng

140

NSNN năm trước và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao trong năm trước

để xây dựng dự toán chi NSNN trong năm kế hoạch. Trong quá trình thực

hiện kế hoạch chi, đơn vị sử dụng ngân sách được toàn quyền chủ động và tự

chịu trách nhiệm về việc sử dụng kinh phí được cấp, đảm bảo thực hiện công

việc theo đúng những cam kết ban đầu (số lượng, chất lượng, hiệu quả công

việc). Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành theo dõi, kiểm tra

tình hình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị đó. Trường hợp các cơ quan này phát

hiện thấy đơn vị sử dụng ngân sách không đảm bảo thực hiện công việc theo

đúng kết quả đã cam kết thì họ có thể yêu cầu KBNN tạm ngừng cấp phát

kinh phí cho đơn vị hoặc có biện pháp để thu hồi phần kinh phí đã cấp cho

đơn vị.

4.3.3. Quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong

thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước, nhất là sử dụng

nguồn vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản

Việc xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể có liên quan

trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN, nhất là sử dụng nguồn vốn

NSNN cho đầu tư xây dựng cơ bản là một yếu tố quan trọng. Chỉ có xác định

rõ quyền hạn và trách nhiệm cũng như nhiệm vụ cụ thể của từng chủ thể thì

mới hy vọng nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư, tránh thất thoát lãng phí

trong quản lý, sử dụng nguồn vốn đầu tư từ NSNN. Tuy nhiên các văn bản

pháp luật hiện hành ở Lào chưa quy định rõ địa vị pháp lý của một số chủ thể

có liên quan cũng như chế tài xử lý khi các chủ thể này có hành vi vi phạm

pháp luật.

- Đối với chủ đầu tư: Đây là đơn vị trực tiếp nhận vốn đầu tư xây

dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước để thực hiện việc xây dựng công trình

theo dự toán đã được duyệt. Để thực hiện tốt công tác quản lý vốn đầu tư nói

chung và kiểm soát chi nói riêng thì cần phải luật hóa trách nhiệm của chủ

141

đầu tư trên một số lĩnh vực như thực hiện thủ tục và trình tự đầu tư; thực

hiện nghiệm thu khối lượng hoàn thành, v.v.. Hiện nay, do pháp luật chưa

quy định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư cùng với các chế tài xử lý vi phạm

khi chủ đầu tư không hoàn thành nhiệm vụ nên trong thực tế nhiều đơn vị

chủ đầu tư không tiến hành nghiệm thu khối lượng hoàn thành kịp thời để

làm thủ tục thanh toán, dẫn đến chậm giải ngân vốn đầu tư. Bên cạnh đó,

trách nhiệm tổng hợp quyết toán dự án, công trình hoàn thành; do không có

chế tài xử lý nghiêm khắc nên nhiều dự án, công trình hoàn thành song

không được quyết toán bởi chủ đầu tư dẫn đến thất thoát, lãng phí và không

quản lý được tài sản công.

- Ban quản lý dự án: Trách nhiệm của Ban quản lý dự án và chủ đầu tư

không được phân định rõ ràng khiến cho việc quy kết trách nhiệm khi có hành

vi vi phạm trở nên khó khăn. Cho đến nay, chưa có văn bản pháp lý nào quy

định chi tiết về địa vị pháp lý của Ban quản lý dự án. Nhiều ban quản lý dự án

được giao quyền hạn quá lớn nhưng trách nhiệm pháp lý lại không rõ ràng,

dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí, thất thoát tài sản công trong quá

trình thực hiện các dự án.

- Cơ quan thiết kế, giám sát thi công: Việc quy định rõ trách nhiệm

pháp lý của tổ chức thiết kế, giám sát thi công đối với kết quản thực hiện

dự án tỏ ra là cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh thực tiễn ở Lào hiện nay đã

có quá nhiều công trình phải thiết kế lại, điều chỉnh hoặc bổ sung thiết kế

do người thiết kế và người giám sát thi công không phải chịu áp lực của

các trách nhiệm pháp lý cụ thể. Qua thực tiễn cho thấy rằng, phần lớn các

thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản được phát hiện thông qua

kiểm soát chi ngân sách nhà nước là do sự buông lỏng khâu thiết kế và

giám sát thi công. Tuy hiện tại chưa có chế tài xử lý nghiêm đối với các vi

phạm này.

142

Thực hiện pháp luật nghiêm minh về sử dụng ngân sách nhà nước

đối với các chủ thể có liên quan đến sử dụng ngân sách là vấn đề cấp bách

trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Lào hiện nay. Để sử dụng

ngân sách hiệu quả, nhà nước cần tiếp tục đổi mới phương thức quản lý

cũng như có những chế tài cụ thể, nghiêm khắc mang tính răn đe đối với

những hành vi sai của các chủ thể (chủ đầu tư, ban quản lý dự án, cơ quan

thiết kế - giám sát - thi công). Nếu sử dụng ngân sách hiệu quả, chất lượng

công việc được giao là tốt thì nên thưởng; ngược lại, nếu vi phạm dẫn đến

thất thoát ngân sách nhà nước, chất lượng công việc kém thì phạt tiền, tù có

thời hạn hoặc trung thân thậm chí tử hình; đặc biệt với số tiền lớn, Nhà

nước bắt chủ thể vi phạm bồi thường số tiền đã làm thất thoát và chịu hình

phạt tù hoặc tử hình.

4.3.4. Hiện đại hóa công nghệ quản lý và nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ, công chức trực tiếp tham gia công tác kiểm soát, quản lý

ngân sách nhà nước

- Hiện đại hóa công nghệ quản lý, đặc biệt là xây dựng hệ thống thông

tin quản lý kho bạc và ngân sách (treasury and budget managenment

information system - TABMIS). TABMIS là hệ thống thông tin quản lý hệ

thống kế toán máy tính, triển khai thống nhất trong hệ thống KBNN, cơ quan

tài chính từ Trung ương đến quận huyện, có kết nối với Chính phủ, Bộ Kế

hoạch và đầu tư, các Sở kế hoạch và đầu tư, các bộ chủ quản và hướng tới sẽ

kết nối với các đơn vị sử dụng NSNN. TABMIS ghi chép, xử lý và quản lý dữ

liệu tập trung, do đó có khả năng cung cấp thông tin, dữ liệu về toàn bộ tình

hình thực hiện ngân sách thông qua KBNN ở các cấp, các bộ, ngành, các đơn

vị sử dụng ngân sách. TABMIS phân bổ dự toán ngân sách được duyệt đến

từng đơn vị sử dụng ngân sách; quản lý, kiểm soát chi, tổ chức thanh toán,

theo dõi tập trung việc thực hiện dự toán của từng cấp ngân sách, từng bộ,

143

từng đơn vị. Đây là hệ thống thông tin hiện đại được IMF và WB hỗ trợ xây

dựng tại một số nước đang trong quá trình chuyển đổi nhằm đổi mới công

nghệ và cơ chế quản lý tài chính công.

Ngoài ra, việc hoàn thiện công nghệ quản lý còn liên quan trực tiếp đến

vấn đề cải cách thủ tục hành chính trong cấp phát và thanh toán ngân sách nhà

nước. Vì vậy, việc cải cách thủ tục trong lĩnh vực tài chính công có thể hiểu

bao gồm ba nội dung cơ bản sau đây:

+ Giảm bớt các đầu mối cơ quan quản lý trung gian tham gia vào quá

trình quản lý chi ngân sách nhà nước. Xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng

cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của từng cá nhân, tổ chức trực tiếp tham gia

vào quá trình quản lý chi ngân sách nhà nước từ khâu lập, chấp hành đến

quyết toán ngân sách nhà nước.

+ Thiết kế những mô hình quản lý chi ngân sách nhà nước hiện đại,

khoa học, giảm thiểu tối đa các giấy tờ không cần thiết, sớm thí điểm và áp

dụng hình thức kiểm soát chi điện tử vào thực tế.

+ Công khai hóa mọi chính sách, chế độ về quản lý chi ngân sách nhà

nước, thiết lập môi trường làm việc thân thiện giữa cơ quan kiểm soát chi

ngân sách nhà nước và đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước.

- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kiểm soát, quản lý

NSNN. Việc kiện toàn bộ máy tổ chức kiểm soát chi cũng như hoàn thiện

công nghệ quản lý, liên quan trực tiếp đến yêu cầu phát triển nguồn nhân

lực; bởi lẽ bộ máy quản lý nào và công nghệ quản lý nào cũng cần có nhân

tố con người điều khiển và quản trị nó. Vì lẽ đó, việc xây dựng đội ngũ cán

bộ KBNN đặc biệt là những người làm công tác kiểm soát chi NSNN theo

hướng chuyên môn hóa và tiêu chuẩn hóa chính là để nâng cao, tăng cường

năng lực hoạt động của bộ máy kiểm soát chi ngân sách trong bối cảnh hội

nhập quốc tế. Muốn xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”

cần phải:

144

+ Tiếp tục đổi mới công tác đánh giá công chức, viên chức, thực hiện

việc lấy phiếu tín nhiệm hàng năm đối với cán bộ làm công tác lãnh đạo, quản

lý trong lĩnh vực quản lý chi ngân sách nhà nước.

+ Triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, năng lực quản lý

hành chính và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho công chức, viên chức trực

tiếp tham gia công tác kiểm soát, quản lý ngân sách nhà nước. Trong đó đặt

trọng tâm vào công tác bồi dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất cơ chế chính

sách của công chức, viên chức để cơ chế chi thường xuyên đạt hiệu quả cao

nhất, tiết kiệm nhất cho ngân sách nhà nước.

Với những giải pháp trên mà tác giả đưa ra, hy vọng giúp ích đối với

việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Lào trong thực

hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước, chống lãng phí, tham nhũng

làm thất thoát tài sản chung của nhân dân, mang lại hiệu quả cao hơn đối với

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

4.3.5. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm toán xử lý

nghiêm minh các vi phạm trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân

sách nhà nước

Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm toán, xử lý nghiêm

minh các vi phạm trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là những hoạt

động có vai trò hết sức quan trọng, bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật về

sử dụng NSNN. Bất kể lĩnh vực nào của đời sống xã hội cũng như của quản lý

nhà nước, nếu không có kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm không thể bảo

đảm việc thực hiện đúng đắn theo yêu cầu của pháp luật.

Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là cần thiết vì hoạt

động này được thực hiện ngay trong quá trình thực hiện quy định của pháp

luật về sử dụng NSNN, ngăn chặn kịp thời những lệch lạc, sai trái, hoặc lợi

dụng để vụ lợi, sử dụng lãng phí, không tiết kiệm. Phải tăng cường hoạt động

kiểm tra của cấp trên với cấp dưới, của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ

đối với các ngành, chính quyền các địa phương; việc kiểm tra được tiến hành

145

dưới nhiều phương thức như kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất theo yêu cầu,

kiểm tra đối với những lĩnh vực nhạy cảm, dễ có sai sót, vụ lợi như xây dựng

cơ bản, chi đầu tư công v.v..

Giám sát việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là chức năng của

Quốc hội và chính quyền địa phương. Tuy nhiên ở CHDCND Lào do không

tổ chức HĐND nên việc giám sát sử dụng NSNN chủ yếu do Quốc hội thực

hiện vì thế không thể thực hiện thường xuyên và trên tất cả các lĩnh vực, chỉ

đến kỳ họp cuối năm mới có điều kiện thực hiện yêu cầu này. Hiện nay

CHDCND Lào đang nghiên cứu thành lập lại HĐND các cấp nhằm bảo đảm

quyền làm chủ của nhân dân ở các địa phương, trong đó có vấn đề giám sát

thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.

Kiểm toán việc sử dụng NSNN là hoạt động của kiểm tra, việc sử dụng

NSNN do cơ quan kiểm toán thực hiện. Hoạt động này cho phép đánh giá

chính xác việc sử dụng NSNN có phù hợp với quy định của pháp luật không,

có hiệu quả không? lãng phí bao nhiêu, lãng phí như thế nào sau khi NSNN

đã được sử dụng. Kết quả kiểm toán là chứng cứ để xử lý các vi phạm trong

thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.

Gắn với các hoạt động nêu trên phải có hậu quả pháp lý tất yếu là xử lý

các hành vi vi phạm pháp luật về sử dụng NSNN. Việc xử lý phải theo

nguyên tắc mọi vi phạm phải được phát hiện, xử lý nghiêm minh, không có

vùng cấm, mọi người bình đẳng trước pháp luật. Xử lý nghiêm minh mới lập

lại được kỷ cương, trật tự trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN, bảo

đảm việc sử dụng NSNN có hiệu quả, ngăn chặn việc lãng phí, lợi dụng để

trục lợi, vụ lợi. Việc xử lý không chỉ thực hiện trực tiếp đối với những chủ thể

sử dụng NSNN mà cần thiết phải áp dụng cả với những người đứng đầu các

cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng NSNN.

146

Tiểu kết chương 4

Từ yêu cầu tăng cường quản lý thực hiện các khoản chi NSNN bảo đảm

tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí; điều hành NSNN hợp lý, khắc

phục những hạn chế, yếu kém vi phạm trong thực hiện pháp luật về sử dụng

NSNN cho thấy bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN ở CHDCND

Lào là yêu cầu khách quan, cấp bách hiện nay. Trên cơ sở phân tích những ưu

điểm, hạn chế và nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế trong thực hiện

pháp luật về sử dụng NSNN, cho thấy thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN

bảo đảm pháp luật đi vào cuộc sống là việc làm không dễ dàng. Thực hiện

pháp luật về sử dụng NSNN chỉ được đảm bảo trên cơ sở hoàn thiện các quy

định của pháp luật về sử dụng NSNN bảo đảm cụ thể, khả thi, dễ kiểm tra,

kiểm soát. Muốn vậy cần có đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý NSNN được

bổ sung đào tạo về kiến thức pháp luật, quy trình, cách thức soạn thảo văn bản

quy phạm pháp luật, kinh phí, thiết bị cần thiết cho công tác xây dựng pháp

luật. Cần xây dựng lộ trình hoàn thiện thể chế thích hợp và nâng cao chất

lượng lập pháp. Xây dựng, đào tạo những chuyên gia liên ngành xây dựng

pháp luật để tránh chỉ có các chuyên gia của các ngành, địa phương độc

quyền làm luật vì lợi ích cục bộ. Trước khi phê chuẩn Luật sửa đổi, bổ sung

cần lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà lập pháp và trưng cầu ý dân, tuyên

truyền sâu rộng trong nhân dân thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN. Mặt

khác phải tiêu chuẩn hóa quy trình quản lý, kiểm soát việc thực hiện pháp luật

về sử dụng NSNN theo hướng phù hợp thông lệ quốc tế; quy định rõ trách

nhiệm của các chủ thể có liên quan trong thực hiện pháp luật về sử dụng

NSNN; hiện đại hóa công nghệ quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ cán

bộ, công chức tham gia kiểm soát, quản lý NSNN; tăng cường hoạt động kiểm

tra, giám sát, kiểm toán, xử lý nghiêm minh các vi phạm trong thực hiện pháp

luật về sử dụng NSNN. Các giải pháp nêu ra trong chương này, nếu được

triển khai thực hiện đồng bộ sẽ giúp Đảng và Nhà nước Lào hoàn thành mục

tiêu quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước có hiệu quả, công khai, minh bạch

phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

147

KẾT LUẬN

Ngân sách nhà nước luôn giữ vị trí quan trọng trong việc bảo đảm

nguồn tài chính cho sự tồn tại cũng như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ

của nhà nước. Chính vì vậy, quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước như thế

nào là câu hỏi lớn - một vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với mỗi quốc gia,

đặc biệt trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra mãnh liệt như

hiện nay. Hiệu quả của thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước

không chỉ thể hiện năng lực hoạt động của bộ máy nhà nước mà còn ảnh

hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

Có thể khẳng định rằng, sử dụng ngân sách nhà nước luôn tiềm ẩn

nhiều nguy cơ tham nhũng, lãng phí; bởi vì, ngân sách nhà nước là tài sản

chung do nhân dân đóng góp, nhà nước thay mặt nhân dân quản lý và sử

dụng. Từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước Lào đã có nhiều văn bản quy

định thực hiện sử dụng ngân sách nhà nước phù hợp với từng thời kỳ. Việc

thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước đã đạt được nhiều kết quả

nhất định, đã đưa vào cuộc sống khuôn khổ pháp lý quan trọng đối với công

tác sử dụng ngân sách nhà nước; củng cố, thúc đẩy phát triển kinh tế, thực

hiện công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo quốc phòng - an ninh.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về sử

dụng ngân sách nhà nước còn bộc lộ nhiều vấn đề tồn tại cả trong chế định

luật cũng như tổ chức triển khai thực hiện từ khâu lập kế hoạch, phân bổ,

kiểm tra, giám sát, công khai ngân sách dẫn đến việc quản lý, điều hành ngân

sách còn bị động, chấp hành Luật Ngân sách nhà nước chưa nghiêm, quản lý

ngân sách kém hiệu quả gây lãng phí, thất thoát ngân sách nhà nước. Vì vậy,

hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước trong bối cảnh Lào đang

thực hiện cơ chế, chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; quản

148

lý ngân sách nhà nước công khai, minh bạch đi đôi với sử dụng ngân sách

hiệu quả; tiến tới hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới là yêu

cầu tất yếu, khách quan.

Để bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN hiện nay ở

CHDCND Lào phải quán triệt quan điểm bảo đảm thực hiện quyền giám sát

của Quốc hội, của các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân đối với việc sử

dụng NSNN phải hướng đến mục tiêu bảo đảm sử dụng NSNN tiết kiệm, hiệu

quả, minh bạch. Đồng thời phải thực hiện hệ thống các giải pháp: hoàn thiện

pháp luật về sử dụng NSNN; tiêu chuẩn hoá quy trình quản lý, kiểm soát thực

hiện pháp luật về sử dụng NSNN theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế;

quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong thực hiện pháp

luật về sử dụng NSNN; hiện đại hoá công nghệ quản lý và nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ, công chức kiểm soát, quản lý NSNN; tăng cường hoạt

động giám sát, kiểm tra, kiểm toán, xử lý nghiêm minh các vi phạm trong

thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ bảo đảm thực hiện nghiêm

minh pháp luật về sử dụng NSNN, góp phần sử dụng NSNN tiết kiệm, công

khai, minh bạch, có hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong sử

dụng NSNN ở CHDCND Lào.

149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Phokham Sayasone (2016), "Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật

về sử dụng ngân sách nhà nước ở Lào hiện nay", Tạp chí Lý luận

chính trị, (5), tr.109-113.

2. Phokham Sayasone (2018), "Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách

nhà nước ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay", Tạp chí Lý luận

chính trị, (7), tr.119-125.

150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu tiếng Việt

1. Báo Hải quan điện tử (2013), “Gần 200 nghìn tỷ đồng chi thường xuyên

được kho bạc nhà nước kiểm soát chặt chẽ”, Báo Hải quan điện tử,

[cập nhật ngày 25/10/2013].

2. Lê Thanh Bình (2012), Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của người

tiêu dùng ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

3. Lê Thị Thúy Bình (2016), Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất

ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

4. Michel Bouvier (2005), Tài chính công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Khămphoong Bútđavông (1998), Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách nhà

nước ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Luật, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

6. G.S.Becker (1969), "Tội phạm và hình phạt: Một cách tiếp cận dưới góc độ

kinh tế", Tạp chí Kinh tế - chính trị, (169), Đại học Chicago.

7. Công Chắcnokẹo (1997), Đổi mới quản lý nhà nước nhằm phát triển ngành

công nghiệp trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sỹ, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

8. Dương Đăng Chinh (1995), Ngân sách với vai trò điều chỉnh vĩ mô nền

kinh tế thị trường của nhà nước, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Đại học

Tài chính kế toán, Hà Nội.

9. Dương Văn Chinh - Phạm Văn Khoan (2007), Giáo trình quản lý tài chính

công, Nxb Tài chính, Hà Nội.

10. Nguyễn Vân Chi (2007), “Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam các

nội dung chính trong lĩnh vực tài chính” - Báo cáo số 1, Nhóm tư

vấn chính sách (PAG), Bộ Tài chính, Hà Nội.

151

11. Gorshunov D.N (2006), "Những yếu tố tâm lý xã hội trong thực thi

pháp luật", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (79).

12. Nguyễn Hồng Chuyên (2013), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

13. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính (2013), “Thông tin báo chí về kết quả thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2013, triển khai nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2014”, [cập nhật ngày 20/12/2013].

14. Ngô Thị Cúc, Ngô Phúc Thành và Phạm Trọng Lễ (1996), Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường, Trung tâm Pháp - Việt, Nxb Thống kê, Hà Nội.

15. Vũ Sỹ Cường (2012), “Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam và định hướng đổi mới”, Diễn đàn kinh tế mùa thu của Ủy ban Kinh tế quốc hội tháng 9.

16. Vũ Đình Duy (2005), “Chính sách tài khóa và tăng trưởng kinh tế”, Tạp

chí Tài chính, (8).

17. Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Ngân sách nhà nước, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

18. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Ngân sách nhà nước, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

19. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

20. Đại học Tài chính - Kế toán Hà nội (1998), Giáo trình Tài chính học,

Nxb Tài chính, Hà Nội.

21. Phạm Văn Hà (2007), Đánh giá tỷ lệ bảo hộ thực tế ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập và khuyến cáo chính sách, Báo cáo số 3, Nhóm tư vấn chính sách (PAG), Bộ Tài chính, Hà Nội.

22. Lê Duyên Hà (2017), Thực hiện pháp luật về khiếu nại hành chính trong

lĩnh vực đất đai trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Việt Nam, Luận án

Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

152

23. Khuất Việt Hải (2013), “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản

lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam”, tại trang http://www.phaply.

net.vn/dien-dan, [truy cập ngày 22/2/2018].

24. Trần Vũ Hải (2013), “Thực tiễn áp dụng pháp luật về phân cấp quản lý

ngân sách nhà nước ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện”, Tạp

chí Luật học, (3).

25. Trần Công Hàm, Nguyễn Hào Hùng (2005), “Ba mươi năm nước Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào: Những thành tựu”, Tạp chí Nghiên cứu

Đông Nam Á, (6).

26. Võ Đình Hảo (1993), Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Trương Duy Hòa (2012), Một số vấn đề và xu hướng chính trị - kinh tế ở

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ

XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

28. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình quản lý kinh

tế, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

29. Nguyễn Ngọc Hùng (2006), Quản lý ngân sách nhà nước, Nxb Thống

kê, Hà Nội.

30. Nguyễn Sinh Hùng (2000), “Quản lý tài chính - ngân sách trong tình

hình mới”, Tạp chí Cộng sản, (9).

31. Nguyễn Huỳnh Huyện (2012), Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý

trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Luận

án tiến six Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

32. Đỗ Ngọc Huỳnh (2007), “Phân tích đánh giá tác động, ảnh hưởng, cơ hội

và thách thức của Hội nhập kinh tế quốc tế đến nền kinh tế Việt Nam”

- Báo cáo số 2, Nhóm tư vấn chính sách (PAG), Bộ Tài chính.

33. Nguyễn Thị Thu Hương (2011), “Tăng cường vai trò của kho bạc nhà

nước trong kiểm soát chi thường xuyên của ngân sách nhà nước”,

Tạp chí Quản lý nhà nước, (188).

153

34. Khuynh Thị Quỳnh Hương (2006), Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt

động kiểm soát chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam, Luận văn Thạc

sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.

35. Khoa Quản trị kinh doanh - Đại học Duy Tân (2014), “Một số biện pháp

để nâng cao hiệu quả chi ngân sách xã hội cho sự nghiệp xã hội”,

tại trang Http://kqtkd.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail/vn/88/1105,

[truy cập ngày 20/3/2015].

36. Kulcsar Kalman (1999), Cơ sở xã hội học pháp luật (Đức Uy biên dịch),

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

37. Norkeo Kommadam (2016), Thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở

nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ

Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

38. Cao Tấn Khổng (1997), Một số giải pháp phân cấp quản lý ngân sách

nhà nước phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội trong điều

kiện hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Thành phố

Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

39. Đỗ Xuân Lân (2011), Thực hiện pháp luật đối với người nghèo trong

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ

Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

40. Nguyễn Tiến Lực (1994), “Nền kinh tế Lào khởi sắc”, Báo Nhân dân

ngày 26/11.

41. N.Gregory Mankiw (1999), Kinh tế vĩ mô (Macroeconomics), Nxb

Thống kê, Hà Nội.

42. Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Lương Ninh (1983), Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

44. Ngân hàng thế giới (1996), Phân cấp ngân sách và cung cấp dịch vụ

nông thôn, Báo cáo thường niên.

154

45. Ngân hàng phát triển Châu Á (2004), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành

chính công trong một thế giới cạnh tranh, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

46. Phương Nhung (2005), “Đảng Nhân dân Cách mạng Lào: Chặng

đường nửa đầu thế kỷ đấu tranh và thắng lợi vẻ vang”, Tạp chí

Cộng sản, (7).

47. Bùi Đường Nghiêu (2001), “Bàn về bản chất ngân sách nhà nước trong

nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Tài chính, số 10(444).

48. Hoài Nguyên (2008), Lào đất nước - con người, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

49. Nguyễn Thanh Nguyên, Lê Vinh Hà (1996), “Cộng hòa Dân chủ Nhân

dân Lào trên con đường chuyển đổi kinh tế”, Tạp chí Nghiên cứu

Đông Nam Á.

50. Cay xỏn Phômvihản (1980), Xây dựng cơ sở vững chắc để đưa đất nước

vững bước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, Nxb Quốc gia,

Viêng Chăn.

51. Chăn Seng Phimmavông (2003), Đổi mới quản lý nhà nước về thương

mại ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Luật, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

52. Vixúc Phômthithắc (2003), Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo hệ

thống chính trị trong sự nghiệp đối mới hiện nay, Luận án tiến sĩ

Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

53. Nguyễn Đức Phúc (2011), Thực hiện pháp luật về quyền con người của

phạm nhân trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ

Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

54. Thang Văn Phúc (chủ biên - 1998), Cải cách hành chính nhà nước - thực

trạng, nguyên nhân và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

155

55. Vũ Văn Phúc (2004), “Sở hữu nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế

nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3).

56. Tào Hữu Phùng, Nguyễn Công Nghiệp (1992), Đổi mới ngân sách nhà

nước, Nxb Thống kê, Hà Nội.

57. Nguyễn Văn Phụng (2005), “Vì một môi trường kinh doanh thuận lợi,

thông thoáng cho doanh nghiệp”, Tạp chí Tài chính, (11).

58. Hồ Xân Phương - Lê Văn Ái (2000), Quản lý tài chính nhà nước, Nxb

Tài chính, Hà Nội.

59. Đồng Việt Phương (2015), Thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở ở các

tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện

Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

60. Uông Trần Quang (1999), Kinh tế Lào và quá trình chuyển đổi cơ cấu,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

61. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật Ngân

sách nhà nước năm 1996, Nxb Lao động, Hà Nội.

62. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân sách nhà nước năm 1998,

Nxb Lao động, Hà Nội.

63. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Ngân

sách nhà nước năm 2002, Nxb Lao động, Hà Nội.

64. Vinh Sang (2002), “Hướng đổi mới cơ chế kiểm soát các khoản chi tiêu

thường xuyên của ngân sách nhà nước”, Tạp chí Tài chính, (456).

65. Hoàng Văn Sâm (2002), Thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam -

thực trạng, nguyên nhân, giải pháp, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học

viện Tài chính, Hà Nội.

66. Milton Spencer (1984), Kinh tế học hiện đại, Viện Quan hệ quốc tế - Bộ

Ngoại giao, Hà Nội.

67. Joseph.E.Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng, Nxb Khoa học và kỹ

thuật, Hà Nội.

156

68. Tạp chí Tài chính điện tử (2009), “Năm năm thực hiện Luật Ngân sách

nhà nước - bảy bất cập lớn cần sửa đổi”, tại trang

http://m.taichinhdientu.vn/tap-chi-efinance/5-nam-thuc-hien-luat-

ngan-sach-nha-nuoc-7-bat-cap-lon-can-sua-doi-51158.html, [truy

cập ngày 12/10/2015].

69. Nguyễn Minh Tân (2000), “Sửa đổi bổ sung Luật Ngân sách nhà nước từ

khía cạnh pháp lý”, Tạp chí Tài chính, (7).

70. Nguyễn Minh Tân (2001), “Đổi mới quy trình lập, chấp hành, quyết toán

ngân sách nhà nước”, Tạp chí Tài chính, (439).

71. Nguyễn Minh Tân (2002), “Ba bước đột phá trong cơ chế phân cấp quản

lý NSNN ta hiện nay”, Tạp chí Tài chính, (5).

72. Nguyễn Minh Tân (2002), “Vai trò của Quốc hội trong lĩnh vực ngân

sách nhà nước”, Tạp chí Tài chính, (4).

73. Viêng Thoong Siphănđon (2011), Quản lý thu ngân sách nhà nước Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Quản lý kinh tế, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.

74. Chăn Thaphon (2002), Chính sách của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

đối với Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh, Luận văn thạc sĩ, chuyên

ngành Quan hệ quốc tế, Học viện ngoại giao, Hà Nội.

75. Nguyễn Đức Thanh (1997), Quản lý chi ngân sách nhà nước qua kho

bạc nhà nước trong cơ chế thị trường, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại

học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

76. Hoàng Minh Thái (2010), Thực hiện pháp luật về bảo vệ hộ quyền tác

giả ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính

trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

77. Trần Cao Thành (1995), Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào: 20 năm xây

dựng và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

78. Lê Toàn Thắng (2013), “Sáu hạn chế, bất cập của Luật Ngân sách nhà

nước hiện hành”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (8).

157

79. Nguyễn Đức Thọ (2013), “Chế độ tự chủ trong sử dụng kinh phí quản lý

hành chính”, tại trang Web: http://www.tapchitaichinh.gov.vn, [truy cập

ngày 20/8/2016].

80. Đinh Thị Nguyệt Thương (2014), Pháp luật về nhiệm vụ chi thường

xuyên của ngân sách nhà nước - Thực trạng, giải pháp và biện

pháp đảm bảo thực hiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật

Hà Nội, Hà Nội.

81. Liane Thykeo (2001), Quản lý nhà nước về giá cả hàng hóa trong nền

kinh tế thị trường ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến

sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh, Hà Nội.

82. Võ Đình Toàn (1996), “Luật Ngân sách nhà nước nhân tố thúc đẩy vai trò

của ngân sách nhà nước”, Tạp chí Người đại biểu nhân dân, (3).

83. Nguyễn Tuyên (2007), “Kinh tế Việt Nam trong bối cảnh gia nhập

WTO”, Tạp chí Chiến lược phát triển kinh tế, (5).

84. Nguyễn Thanh Tuyền, Dương Thị Bình Minh (1995), Lý thuyết tài

chính, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

85. Khaykhăm Vanmavôngsy (2002), Mở rộng quan hệ kinh tế giữa Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào với các nước láng giềng trong giai

đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

86. Phan Văn Vận, Vũ Cường (2006), Giáo trình kinh tế công cộng,

Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nxb Thống kê, Hà Nội.

87. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (2001), “Tổ chức và hoạt động của

chính quyền địa phương”, Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý, (10).

88. Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (dịch - 1998), Đại từ

điển kinh tế thị trường, Hà Nội.

89. Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp Việt Nam

(2009), "Báo cáo nghiên cứu xây dựng Đề án triển khai nhiệm vụ

theo dõi chung về thi hành pháp luật", Kỷ yếu Hội thảo tại Quảng

Ninh, ngày 28-30/5.

158

90. Mahảxỉla Xiravông (1957), Lịch sử Lào từ thượng cổ đến giữa thế kỷ

XIX, Nxb Giáo dục Lào, bản dịch tiếng Lào của Viện Đông Nam Á.

91. Nguyễn Thị Hải Yến (2000), Tìm hiểu vai trò quản lý nhà nước đối với

việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

92. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2008), Hoàn thiện pháp luật về quản lý ngân

sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại

học Luật Hà Nội, Hà Nội.

* Tài liệu tiếng Lào

93. Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1998),

Khămtày Xỉphẳnđon trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, Viêng Chăn

94. Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2000),

“Năm bài học của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong việc thực

hiện công cuộc đổi mới”, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

95. Bộ Văn hóa thông tin Lào (2010), 35 năm Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

Lào 1975 - 2010, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

96. Bộ Công nghiệp và Thương mại (2010), Số liệu thống kê về FDI vào

ngành công nghiệp và thương mại năm 2001 - 2010, Nxb Quốc gia,

Viêng Chăn.

97. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2014), Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

98. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

(2011-2017), Viêng Chăn.

99. Bộ Năng lượng và mỏ (2010), Số liệu thống kê về FDI vào ngành thủy điện

và khai mỏ năm 2001 - 2010, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

100. Bộ Tài chính (2016), Báo cáo tài chính các năm 2010-2016, Nxb Quốc gia,

Viêng Chăn.

101. Bộ Tài chính (2010), Bài tổng kết đánh giá việc thực hiện đổi mới ngành

tài chính từ năm 1986 đến nay và chiến lược tài chính từ nay đến

năm 2020, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

159

102. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Lào (2006), Ba mươi năm thực hiện kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào,

Nxb Ủy ban Kế hoạch và đầu tư.

103. Bộ Công nghiệp và Thương mại (2005), Luật Doanh nghiệp, Nxb Bộ

Công nghiệp và Bộ Thương mại.

104. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ IV, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.

105. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1991), Văn kiện Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ V, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.

106. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VI, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.

107. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VII, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.

108. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VIII, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.

109. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ IX, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.

110. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ X, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.

111. Đa Van Thôn Na Vong Sả (2010), Phân tích sự ảnh hưởng việc sử dụng

ngân sách nhà nước vào việc phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô

Viêng Chăn, Luận văn thạc sĩ Kinh tế học, Viêng Chăn.

112. Lam Mon Khăm Vông Sả (2008), Tăng cường quản lý nhà nước bằng

pháp luật sử dụng ngân sách nhà nước ở Thủ đô Viêng Chăn trong

thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viêng Chăn.

113. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2013), Hiến pháp Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào 2013, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

114. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2006), Luật Khuyến

khích đầu tư nước ngoài, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

115. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2006), Luật Ngân sách

Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

160

116. Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư (2006), 30 năm thực hiện kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào,

Nxb Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư, Viêng Chăn.

117. Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

lần thứ VI năm 2006 - 2010, Nxb. Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư,

Viêng Chăn.

118. Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư (2007), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

năm 2007 - 2008, Viêng Chăn.

119. Văn phòng Thủ tướng (2006), Kế hoạch triển khai nghị quyết Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Viêng Chăn.

* Tài liệu tiếng Anh

120. Far Eastern Economic Review (1999), ASIA 1999 Year Book.

121. Far Eastern Economic Review (2000), ASIA 1999 Year Book.

122. Asian Survey (2005), Vol.XLV, No.4.

123. Andrew Burkle - Justine Vaisutis (2007), “Laos”, Published by Lonely

Planet Publications Pty Ltd.

124. ASEAN statistical Pocketbook, 2006.

125. Cockburn - J.Siggel - E. Coulibaly - M.Coumare (1996), “Study of the

Structure of Incentives and Manufacturing Competitiveness in

Maly”, Research Proposal.

126. Central Committee for Drug Abuse Control of Myanma (2013),

“Endeavors of Myanma for Elimination of Narcotic Drug 2012”,

Publisher Naroicat Myanma

127. I.Ehrlich, The Optimum, Enforcement of Law and the Concept of Justice,

http://w.w.w.idea.repec.org.

128. Fobzbes and Cecile Cutler (2006), “Lao in 2005: 30 years of the

People’s Democratic Republic”, Asian Survey. Vol. XL. VI,

Jannuary/February.

129. D.D.Friedman (1995), Making Sense of Englishe Enforcement in the

Eighteenth Centrury, School Law, Chicago University.

161

130. Government of the Laos PDR (1995), Nation Report prepared for the

world summit for Social development, Vientiane.

131. Geoffrey C. Gum (2007), “Lao in 2006: Changing of the guard”, Asian

Survey. Vol.XL.VII, Jannuary/February.

132. Krugman (1994), “Competitiveness: A Dangerous Obsession”, Foreign

Affair, March/April.

133. Thomas Lum (2008), “Laos: Background and U.S Relations”,

Congressional Research Service Prepared for Members and

Commitees os Congress, Foreign Affairs, Defense and Trade

Division, Asian Affairs.

134. Lim Chong Yah (2004), Southeast Asia: The long road ahead, product

World ScientificChan, Raymond K.H ed.

135. Martin Stuart - Fox (1982), Studies in the politics and society of the

Lao People Democratic Republic, London: University of

Queensland Press.

136. Marsh.I.W - Tokarick.S.P (1994), “Competitiveness Indicators: A Theoretical

and Empirical Assessment”, IMF Working Paper WP 29.

137. E.Ostrov, Police/law enforcement and psychology, The law Rush-

Presbyterian-St Luke Mudical Center, Chicago and Associate

Professos Psychology, Rush Medical College.

138. M.Polinsky (1980), "Private Versus Public Enfor cement of Fines", Tạp

chí Luật học.

139. Alfred A.Ring - James H.Boykin (1995), The Valuation of Real Estate,

Third Edition.

140. S.Shavell, Specific Versus general Economic Enforcement of Law,

http://papers.ssrn.com/s013/papers.cfm?abstradact-id=851689.

141. Summary the 7th national 9 - 2000, Economic and Socio development. 142. The World Bank (Octorber - 2003), Lao PDR Economic Monitor, The

World Bank Vientian Office.