HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHOKHAM SAYASONE
thùc hiÖn ph¸p luËt vÒ sö dông ng©n s¸ch nhµ níc
ë níc céng hßa d©n chñ nh©n d©n lµo hiÖn nay
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHOKHAM SAYASONE
thùc hiÖn ph¸p luËt vÒ sö dông ng©n s¸ch nhµ níc
ë níc céng hßa d©n chñ nh©n d©n lµo hiÖn nay
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VĂN MẠNH
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Phokham Sayasone
MỤC LỤC
1
8 8 21
26
Trang
MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách
nhà nước
26 50 61
2.2. Nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước 2.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước 2.4. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước của một số nước và
giá trị tham khảo đối với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
65
78
Chương 3: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách
nhà nước ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
78
3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
92
121
121
Chương 4: YÊU CẦU KHÁCH QUAN, CẤP BÁCH VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY 4.1. Bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là yêu cầu khách quan, cấp bách hiện nay 4.2. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
124
4.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
130 147
KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
149 150
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA : Khu vực Thương mại Tự do ASEAN
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CHDCND Lào : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Đảng NDCM Lào : Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
HĐND : Hội đồng nhân dân
KBNN : Kho bạc nhà nước
NSNN : Ngân sách nhà nước
TABMIS : Treasury and budget managemant information System
(Hệ thống thông tin quản lý kho bạc và ngân sách)
UBND : Ủy ban nhân dân
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Cơ cấu ngành kinh tế trong tổng GDP và GDP trên đầu
người ở Lào 84
Bảng 3.2: Tình hình phân bổ sử dụng ngân sách nhà nước 2011 - 2017 95
Bảng 3.3: Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước 110
DANH MỤC CÁC BIỂU
Trang
Biểu đồ 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào 83
Biểu đồ 3.2: Cơ cấu kinh tế trong tổng GDP giai đoạn 2011 - 2017 85
Biểu đồ 3.3: Tổ chức thực hiện chi ngân sách nhà nước năm 2010-2015 101
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế - xã hội ở mọi thời đại, đặc biệt là ở thời đại cạnh
tranh trong sự phát triển kinh tế thị trường, đòi hỏi mỗi quốc gia phải xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật; trong đó
việc quan trọng bậc nhất của bất cứ nhà nước nào đều phải quan tâm đến là
vấn đề quản lý ngân sách nhà nước đúng pháp luật.
Từ năm 1986 đến nay, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND
Lào) đang tiến hành đường lối đổi mới toàn diện đất nước, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình phát triển đất nước
luôn luôn có một câu hỏi đặt ra: phải làm thế nào để sử dụng, quản lý ngân
sách nhà nước đạt hiệu quả cao nhất, tránh lãng phí, thất thoát?
Nhận thức được vai trò và vị trí của ngân sách nhà nước có ảnh hưởng
sâu rộng tới mọi mặt của đời sống xã hội, là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ
mô nền kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội và là điều kiện vật chất để thực
hiện chức năng của bộ máy nhà nước, ngay từ năm 1986 khi mở cửa đất
nước, pháp luật về ngân sách nhà nước đã được ban hành, áp dụng rộng rãi.
Đặc biệt là Luật sử dụng ngân sách nhà nước đã có tác dụng tích cực trong
quá trình tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, qua đó
góp phần quan trọng vào việc đảm bảo ổn định chính trị phát triển kinh tế, trật
tự an toàn xã hội trên phạm vi cả nước.
Theo thống kê, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 7 của
quốc gia (từ năm 2011 đến 2015) ở nước CHDCND Lào có hàng nghìn công
trình sử dụng ngân sách nhà nước. Để đảm bảo sử dụng ngân sách nhà nước ở
Lào tiết kiệm, công bằng, có hiệu quả thì tất cả cơ quan nhà nước, tổ chức xã
2
hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật về ngân sách
nhà nước. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế là một trong những yêu cầu cơ bản trong hoạt động của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). Xây dựng nhà nước pháp quyền,
bảo đảm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ không có ý nghĩa, nếu như nó mất đi
tính kỷ luật pháp luật, không được thực hiện trong đời sống nhà nước và xã hội.
Vì vậy, để đảm bảo pháp luật đi vào cuộc sống cần phải xây dựng hệ thống
pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao và áp dụng trong đời sống hiện
thực của xã hội.
Hệ thống pháp luật đầy đủ, ổn định là tiền đề cho việc bảo đảm thực
hiện pháp luật. Cho nên, ngày nay Đảng và Nhà nước Lào đã và đang cố gắng
xây dựng, củng cố cơ sở pháp lý đó. Sự nỗ lực của nhà nước CHDCND Lào
trong xây dựng hệ thống pháp luật đối với ngân sách nhà nước góp phần quản
lý, sử dụng ngân sách nhà nước từ Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; ngày
càng công khai, minh bạch, có hiệu quả. Nhà nước đã phát huy được tính chủ
động, sáng tạo của các cấp chính quyền trong quản lý, điều hành ngân sách
mà vẫn đảm bảo được sự quản lý tập trung thống nhất của cấp trên đối với cấp
dưới; của Trung ương đối với chính quyền địa phương.
Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm
tra, kiểm toán việc thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước không
ngừng được tăng cường, bảo đảm cho pháp luật về sử dụng ngân sách nhà
nước đi vào cuộc sống và được tuân thủ nghiêm chỉnh. Ở CHDCND Lào đã
tiến hành hàng nghìn cuộc kiểm tra đối với các đơn vị sử dụng ngân sách nhà
nước với các quy mô lớn nhỏ khác nhau tại các đơn vị lớn nhỏ khác nhau,
trên hầu khắp các lĩnh vực kể cả dự trữ quốc gia, an ninh - quốc phòng và
ngân sách của Đảng. Trong kiểm toán trọng tâm là kiểm toán báo cáo quyết
toán của các bộ, ngành, các tỉnh, các Tổng công ty nhà nước và các chương
trình mục tiêu quốc gia, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản trọng điểm của nhà
3
nước. Kết quả việc kiểm tra theo dõi sử dụng ngân sách nhà nước không chỉ
giúp cho các bộ, ngành, địa phương điều chỉnh số liệu kế toán và báo cáo
quyết toán, chỉ ra những sai phạm chính sách, chế độ quản lý kinh tế, tài
chính, kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi và đưa vào quản lý qua ngân sách nhà
nước hàng nghìn tỷ Kíp. Điều quan trọng hơn, thông qua kiểm toán bảo đảm
pháp chế trong sử dụng ngân sách đúng pháp luật sẽ giúp các đơn vị khác
nhau được nhìn nhận và đánh giá đúng đắn thực trạng tình hình tài chính,
khắc phục được những yếu kém sơ hở trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh
doanh, cải tiến và hoàn thiện hệ thống quản lý và kiểm soát nội bộ. Từ đó, đề
xuất, kiến nghị với Chính phủ, các cơ quan chức năng về những sơ hở trong
công tác quản lý, những bất cập nảy sinh trong cơ chế, chính sách hiện hành
để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; đồng thời, sẽ góp phần đấu tranh
chống các tham nhũng, lạm phát, thất thoát công quỹ và những tài sản quốc
gia, xác lập trật tự, kỷ cương trong quản lý kinh tế, tài chính.
Mặt khác thông qua công tác giám sát, kiểm tra, kiểm toán việc thực
hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) cho thấy, bên cạnh
những chuyển biến tích cực trong công tác này, cũng bộc lộ không ít những
yếu kém, hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.
Phổ biến là tình trạng thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định về sử
dụng NSNN, cá biệt có những trường hợp khai gian, khai khống để bòn rút
NSNN, sử dụng không hiệu quả NSNN v.v.. Những tình trạng nêu trên chủ
yếu là do ý thức pháp luật còn hạn chế, trình độ non kém trong quản lý nhà
nước của một bộ phận cán bộ, công chức v.v.. Bảo đảm thực hiện pháp luật về
sử dụng NSNN trở thành yêu cầu khách quan, cấp bách hiện nay.
Từ những phân tích nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hiện pháp
luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào hiện nay” để viết luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch
sử nhà nước và pháp luật.
4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở phân tích, khái quát những vấn đề lý luận cơ bản trong thực
hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào; phân tích đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách
(thành tựu cũng như hạn chế) mục đích nghiên cứu của luận án là đề xuất các
quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà
nước ở Lào hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện được mục đích trên, luận án cần thực hiện các nhiệm vụ
sau đây:
- Hệ thống hóa, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của việc
thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước.
- Phân tích những bài học trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân
sách nhà nước ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; từ đó, rút ra các giá trị đối với
Lào trong công cuộc cải cách Luật ngân sách nhà nước để hội nhập với nền
khu vực Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và kinh tế thế giới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về sử
dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào (trên cả hai phương diện thành tựu
cũng như hạn chế và nguyên nhân).
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp
luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định là các vấn đề lý luận,
các quy định pháp luật hiện hành và tư liệu thực tế trong thực hiện pháp luật
về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào giai đoạn hiện nay.
5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung: Luận án nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về
sử dụng NSNN ở nước CHDCND Lào dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật, vì vậy luận án phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn
của việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN; đề xuất các quan điểm, giải
pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở
CHDCND Lào hiện nay.
- Về không gian: Nghiên cứu thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN
trên toàn bộ lãnh thổ CHDCND Lào.
- Về thời gian: Phạm vi nghiên cứu của luận án là bắt đầu nghiên cứu
từ 1986 là năm Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Đảng
NDCM Lào) đã đề ra đường lối đổi mới đến nay.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật ngân sách ở CHDCND
Lào trên cơ sở lý luận là những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Cayxỏn Phômvihản và quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về nhà
nước, pháp luật, về thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế, về ngân sách và
sử dụng ngân sách nhà nước.
4.2. Phương pháp luận
Luận án sử dụng phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin, nghiên
cứu vấn đề thực hiện pháp luật theo quan điểm toàn diện, hệ thống, lịch sử cụ
thể, theo các cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả, khách quan - chủ quan v.v.
4.3. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu, tác giả đã sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống và hiện đại như phương pháp
6
lôgic - lịch sử; phân tích tổng hợp; so sánh; thống kê v.v.. để nghiên cứu các
nội dung trong từng chương. Cụ thể là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: sử dụng để hệ thống hóa, phân tích,
khái quát làm sáng tỏ kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài của luận án, những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu cũng
như các vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.
- Phương pháp lôgic - lịch sử, phân tích, tổng hợp được sử dụng để làm
rõ quá trình và thực trạng thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách trong hơn
31 năm qua tại Lào, tuân thủ nghiêm ngặt về mặt thời gian và tính chính xác
của các tư liệu đã được đề cập trong luận án.
- Phương pháp thống kê, so sánh kết hợp với phân tích tổng hợp: để
phân tích các tài liệu thu thập được, tổng hợp đánh giá thực trạng thực hiện
pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở Lào hiện nay. Trong đó phương
pháp thống kê so sánh được dùng để đối chiếu số liệu các năm khác nhau
trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước; phương pháp lập
bảng biểu, sơ đồ được tác giả sử dụng trong chương 3 để người đọc có thể
hiểu rõ hơn về thực trạng sử dụng ngân sách nhà nước cũng như thực trạng
thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong chương 4 để xác
định các quan điểm, đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử
dụng NSNN ở CHDCND Lào hiện nay.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ
thống đối với thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND
Lào; vì vậy, trong luận án đã có một số điểm mới là:
- Phân tích khái quát, làm sáng tỏ cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật
về sử dụng ngân sách nhà nước, cụ thể là luận giải khái niệm, phân tích các đặc
7
điểm, xác định nội dung, vai trò, các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về
sử dụng ngân sách nhà nước, khái quát kinh nghiệm thực hiện pháp luật về sử
dụng NSNN của Cộng hòa Pháp và Việt Nam rút ra các giá trị tham khảo trong
thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào.
- Đánh giá thực trạng, tìm ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
của việc thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào.
- Phân tích yêu cầu khách quan, cấp bách, đề xuất các quan điểm, giải
pháp, bảo đảm thực hiện pháp luật trong sử dụng ngân sách nhà nước ở
CHDCND Lào hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Những kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần bổ sung, hoàn
thiện lý luận về thực hiện pháp luật trong sử dụng ngân sách nhà nước ở Lào
trong thời gian tới.
- Luận án đề xuất hệ thống các quan điểm và biện pháp góp phần nâng
cao sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật trong các cơ quan nhà nước, từ
cán bộ công chức nhà nước đến toàn thể nhân dân; nhằm tăng cường công tác
quản lý ngân sách nhà nước một cách chặt chẽ đi đôi với sử dụng ngân sách
nhà nước có hiệu quả theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào và yêu cầu của Nhà nước Lào.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động tổng
kết thực tiễn trong lĩnh vực này, làm phong phú thêm những tri thức về giám
sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà
nước làm cơ sở và định hướng cho hoạt động thực tiễn.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên
cứu, giảng dạy và học tập về thực hiện pháp luật trong các trường đại học và
trong các hệ thống các trường chính trị - hành chính ở CHDCND Lào.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án được chia làm 4 chương, 11 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về ngân sách, quản lý ngân sách
Các công trình nghiên cứu về ngân sách và quản lý ngân sách đã đề cập
đến các nội dung chủ yếu sau đây:
Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước trong
lịch sử, chứng minh ngân sách nhà nước tồn tại trong nền kinh tế như một yếu
tố không thể thiếu. Sự phát triển của các chế độ xã hội trong lịch sử từ xã hội
phong kiến đến Nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay đã đánh dấu quy trình
phát triển của pháp luật về ngân sách nhà nước. Vai trò ảnh hưởng của ngân
sách nhà nước đã bao trùm lên nhiều lĩnh vực, tác động đến mọi mặt của đời
sống xã hội nhất là đối với khu vực công cộng và khu vực tư nhân thông qua
việc thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội. Nhà nước huy động các
nguồn lực từ xã hội như thuế, phí, tài nguyên, hoạt động thương mại, phát
hành trái phiếu ra công chúng, thậm chí là vay nợ nước ngoài để tài trợ cho
hoạt động của nhà nước thông qua các chương trình hoạt động, thực hiện kế
hoạch thu ngân sách của Chính phủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Việc quản lý, sử dụng các khoản thu của nhà nước, kiểm soát các khoản chi
tiêu chung cho xã hội đòi hỏi phải được thể chế hóa thành luật pháp và được
đại diện dân chúng kiểm soát.
Các công trình nghiên cứu đã khẳng định ngân sách nhà nước có vai trò
chủ đạo trong hệ thống tài chính, ngân sách đảm bảo nguồn vốn cho việc phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo, giữ vững an ninh - quốc
9
phòng. Với tính chất là một quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, ngân sách nhà
nước cân đối, điều hòa vốn giữa các ngành kinh tế, xây dựng mối quan hệ
giữa tích lũy và tiêu dùng, dự trữ để phát triển sản xuất, khắc phục thiên tai,
v.v.. Trong nền kinh tế thị trường ngân sách nhà nước cũng là công cụ tài
chính chủ yếu để nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế thị trường theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu liên quan đến đề tài về ngân sách nhà nước và quản lý ngân sách
nhà nước, tiêu biểu là các công trình sau đây:
* Sách
Cuốn “Đổi mới ngân sách nhà nước” của Tào Hữu Phùng, Nguyễn
Công Nghiệp [56]. Cuốn sách đã đề cập đến tính tất yếu của đổi mới ngân
sách nhà nước ở Việt Nam trước tình hình mới; với các nội dung cụ thể về
thu, chi ngân sách nhà nước; tác giả đã đưa ra một số giải pháp để giúp đổi
mới ngân sách nhà nước đem lại hiệu quả cao.
Cuốn “Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính” của Võ Đình
Hảo [26]. Tác giả đã phân tích quá trình đổi mới chính sách cũng như cơ chế
quản lý tài chính ở Việt Nam thông qua các số liệu cụ thể, giúp cho người đọc
hiểu rõ về cơ chế quản lý tài chính sau gần 10 năm đổi mới ở Việt Nam.
Đối với nghiên cứu sinh Lào, các cuốn giáo trình và văn bản luật của
Việt Nam liên quan đến đề tài đều là những tài liệu tham khảo có giá trị vì ở
CHDCND Lào rất hiếm có những công trình có tính lý luận như những công
trình này.
Cuốn “Giáo trình Tài chính học” của Trường Đại học Tài chính - Kế
toán Hà Nội [20]. Cuốn sách giúp người đọc hiểu hơn về những vấn đề liên
quan đến tài chính như thu, chi ngân sách trung ương, ngân sách địa
phương; vai trò của Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp từ khâu
lập dự toán ngân sách đến khâu phân bổ ngân sách; công tác thanh tra,
kiểm tra tài chính.
10
Một số văn bản pháp luật liên quan đến ngân sách nhà nước như: Luật
Ngân sách nhà nước năm 1996; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Ngân sách nhà nước năm 1998; Luật Ngân sách nhà nước năm 2002; Dự
thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết việc phân cấp quản lý, lập,
chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước; Tài liệu bổ sung thuyết trình
dự án Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) năm 2002; Báo cáo thẩm tra về dự
án Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) năm 2002; Báo cáo tiếp thu, giải trình
ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về dự án Luật Ngân sách nhà nước (sửa
đổi) năm 2002.
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008 đã xuất bản cuốn “Giáo trình
Luật Ngân sách nhà nước” [18]. Cuốn giáo trình này đã giúp tác giả hiểu rõ
thêm về Luật Ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Có thể nói rằng, thực hiện
pháp luật về quản lý ngân sách nhà nước là nhân tố quan trọng góp phần làm
nên thắng lợi trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng
thành công chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian qua.
* Luận án, luận văn
- Dương Đăng Chinh “Ngân sách với vai trò điều chỉnh vĩ mô nền kinh
tế thị trường của Nhà nước” [8]. Luận án đã phân tích lịch sử hình thành ngân
sách nhà nước ở Việt Nam; khẳng định vai trò của ngân sách đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội đất nước. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, ngân sách
chi phối đến mọi hoạt động của nền kinh tế từ thu đến chi ngân sách.
- Cao Tấn Khổng “Một số giải pháp phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội trong điều kiện hiện
nay” [38]. Từ phân tích thực trạng của phân cấp ngân sách còn nhiều bất
cập, chồng chéo như ở Việt Nam hiện nay; tác giả của luận án đã đưa ra
một số giải pháp giúp phân cấp ngân sách nhà nước ở Việt Nam đạt hiệu
quả cao hơn.
11
- Nguyễn Đức Thanh “Quản lý chi ngân sách nhà nước qua kho bạc
nhà nước trong cơ chế thị trường” [75]. Luận án đã làm sáng tỏ thêm lý luận
về chi ngân sách nhà nước; thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước qua kho
bạc nhà nước (KBNN) ở Việt Nam; đồng thời, tác giả của luận án phân tích và
lý giải tính tất yếu của việc sử dụng ngân sách nhà nước qua KBNN trong nền
kinh tế thị trường; tác giả đưa ra một số giải pháp quản lý chi ngân sách nhà
nước qua kho bạc nhà nước để giảm thiểu các khâu trung gian, đem lại những
thuận lợi cho các đơn vị được thụ hưởng ngân sách nhà nước.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật
trên các lĩnh vực cụ thể, trong đó đáng chú ý là các luận án tiến sĩ. Tiêu biểu
là các công trình sau đây:
- Hoàng Minh Thái, “Thực hiện pháp luật về bảo vệ hộ quyền tác giả ở
Việt Nam hiện nay” [76]. Luận án đã nêu ra những quyền tác giả và quyền
liên quan đến quyền tác giả mà trong các Bộ luật đó cũ như: Bộ luật Dân sự
năm 1995; Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật Sở hữu trí tuệ và những các quy
định khác có liên quan đối với quyền tác giả để phát huy tác dụng tích cực
trong hoạt động bảo hộ quyền tác giả; qua đó, khuyến khích việc sáng tạo ra
các giá trị văn học, nghệ thuật và khoa học phục vụ nhu cầu xã hội.
- Đỗ Xuân Lân, "Thực hiện pháp luật đối với người nghèo trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [39]. Luận án đã phân tích, khái
quát khái niệm, chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò thực hiện pháp luật đối
với người nghèo; đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật đối với người nghèo.
- Nguyễn Đức Phúc, “Thực hiện pháp luật về quyền con người của
phạm nhân trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam” [53]. Luận án đã nghiên
cứu vấn đề thực hiện pháp luật về quyền con người của phạm nhân trong thi
12
hành án phạt tù; đây là vấn đề mang tính thời sự, đang được nhiều quốc gia
trên thế giới quan tâm. Tại Việt Nam có rất nhiều văn kiện của Đảng và các
Nghị quyết đề cập vấn đề quyền con người trong thi hành án phạt tù.
- Nguyễn Huỳnh Huyện, “Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” [31]. Luận án
nghiên cứu lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý,
những giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý đáp ứng
nhu cầu thực tế cuộc sống, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam thực sự dân chủ, công bằng, văn minh.
- Lê Thanh Bình, “Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng ở Việt Nam” [2]. Luận án phân tích những quyền lợi của người tiêu dùng
đã được quy định rõ trong nhiều văn bản pháp luật, nhưng quyền lợi của người
tiêu dùng vẫn luôn bị vi phạm. Bởi vì phần lớn các sản phẩm người tiêu dùng sử
dụng là những sản phẩm không chỉ kém chất lượng mà còn rất độc hại, ảnh
hưởng không nhỏ đến sức khỏe, thậm chí cả tính mạng của con người.
- Nguyễn Hồng Chuyên, "Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [12].
Luận án nghiên cứu khái niệm, chủ thể, nội dung, hình thức, những điều kiện
bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam. Trên nền tảng lý luận đó, tác giả đi sâu phân
tích, đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay.
- Đồng Việt Phương, "Thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở ở các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long" [59]. Luận án phân tích, khái quát các vấn đề lý
luận của thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở như khái niệm, đặc điểm, nội
dung, nguyên tắc, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về hòa
13
giải ở cơ sở. Trên cơ sở lý luận đó, luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng
thực hiện và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh thực hiện pháp luật về hòa giải
cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long.
- Lê Thị Thúy Bình, "Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
ở Việt Nam" [3]. Luận án cũng tiếp cận nghiên cứu các vấn đề lý luận về
thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất bao gồm khái niệm, đặc
điểm, vai trò, nội dung, các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật thế chấp
quyền sử dụng đất ở Việt Nam; từ đó đánh giá thực trạng và đề xuất quan
điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở
Việt Nam hiện nay.
- Norkeo Kommadam, "Thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay" [37]. Luận án nghiên cứu
khái niệm, hình thức, vai trò, các điều kiện bảo đảm thực hiện; thực trạng thực
hiện và quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.
- Lê Duyên Hà: "Thực hiện pháp luật về khiếu nại hành chính trong
lĩnh vực đất đai trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Việt Nam" [22]. Luận án
cũng đề cập khái niệm, đặc điểm, vai trò, hình thức, điều kiện bảo đảm thực
hiện pháp luật và khiếu nại hành chính trong lĩnh vực đất đai; thực trạng và
quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật trên lĩnh vực này ở các tỉnh
Tây Nguyên, Việt Nam hiện nay.
1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về pháp luật và thực hiện pháp
luật về sử dụng ngân sách nhà nước
- Khuynh Thị Quỳnh Hương, “Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động
kiểm soát chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam” [34]. Luận văn đề cập đến
những vấn đề lý luận về kiểm soát chi ngân sách nhà nước và pháp luật về
kiểm soát chi ngân sách nhà nước; phân tích thực trạng pháp luật về kiểm soát
14
chi ngân sách nhà nước, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát chi
ngân sách nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua; trên cơ sở đó, luận văn
đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm
soát chi ngân sách nhà nước và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kiểm soát
chi ngân sách nhà nước giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Thị Hoàng Yến, “Hoàn thiện pháp luật về quản lý ngân
sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay” [92]. Luận văn đã làm rõ một số vấn
đề lý luận cơ bản của pháp luật về quản lý ngân sách nhà nước và hoàn thiện
pháp luật về quản lý ngân sách nhà nước; phân tích thực trạng hệ thống pháp
luật về quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay; từ đó, tác giả của
luận văn đã đề ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý ngân sách
nhà nước.
- Đinh Thị Nguyệt Thương, “Pháp luật về nhiệm vụ chi thường xuyên
của ngân sách nhà nước - Thực trạng, giải pháp và biện pháp đảm bảo thực
hiện” [80]. Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật chi
thường xuyên của ngân sách nhà nước; phân tích thực trạng các quy phạm
pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về nhiệm vụ chi thường xuyên ngân
sách nhà nước trên thực tế; trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và đưa ra biện pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về nhiệm vụ chi
thường xuyên của ngân sách nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
chi ngân sách nhà nước.
* Tạp chí:
Liên quan đến đề tài luận án có một số công trình tiêu biểu công bố trên
các Tạp chí như: “Quản lý tài chính - ngân sách trong tình hình mới” của
Nguyễn Sinh Hùng [30]; “Sửa đổi bổ sung Luật Ngân sách nhà nước từ khía
cạnh pháp lý” của Nguyễn Minh Tân [69]; “Đổi mới quy trình lập, chấp hành,
quyết toán ngân sách nhà nước” của Nguyễn Minh Tân [70]; “Bàn về bản chất
15
ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường” của Bùi Đường Nghiêu [47];
“Hướng đổi mới cơ chế kiểm soát các khoản chi tiêu thường xuyên của ngân
sách nhà nước” của Vinh Sang [64]; “Năm năm thực hiện Luật Ngân sách nhà
nước - bảy bất cập lớn cần sửa đổi” của Tạp chí Tài chính điện tử [68]; “Tăng
cường vai trò của kho bạc nhà nước trong kiểm soát chi thường xuyên của
ngân sách nhà nước” của Nguyễn Thị Thu Hương [33]; “Phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước ở Việt Nam và định hướng đổi mới” của Vũ Sỹ Cường
[15]; “Thực tiễn áp dụng pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện” của Trần Vũ Hải [24]; “Sáu hạn
chế, bất cập của Luật Ngân sách nhà nước hiện hành” của Lê Toàn Thắng
[78]; “Gần 200 nghìn tỷ đồng chi thường xuyên được kho bạc nhà nước kiểm
soát chặt chẽ” của Báo Hải quan điện tử [1]; “Thông tin báo chí về kết quả
thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2013, triển khai
nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2014” của Cổng thông tin điện
tử Bộ Tài chính [13]; “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước ở Việt Nam” của Khuất Việt Hải [23]; “Một số biện pháp
để nâng cao hiệu quả chi ngân sách xã hội cho sự nghiệp xã hội” của Khoa
Quản trị kinh doanh - Đại học Duy Tân [35].
Những bài báo nêu trên đã đề cập đến những quy định về quy trình
lập, chấp hành, quyết toán chi NSNN, cơ chế kiểm soát các khoản chi
NSNN; thực tiễn áp dụng pháp luật về phân cấp quản lý NSNN, những bất
cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật về NSNN v.v..
Như vậy, các công trình được liệt kê ở trên của Việt Nam đã đề cập
tới nhiều khía cạnh, nội dung khác nhau trong vấn đề ngân sách nhà nước
cũng như thực hiện pháp luật về quản lý, sử dụng NSNN. Tuy nhiên, chưa
có một công trình nào nghiên cứu có hệ thống việc thực hiện pháp luật về
16
sử dụng ngân sách nhà nước mà tác giả đã lựa chọn làm đề tài viết luận án
của mình.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào và nghiên cứu về Lào
Ngân sách nhà nước là công cụ để nhà nước thực hiện điều tiết các hoạt
động kinh tế - xã hội. Thông qua hoạt động thu ngân sách nhà nước, Nhà nước
thực hiện thu hút các nguồn vốn, tiền tệ hình thành quỹ ngân sách nhà nước.
Nguồn thu ngân sách nhà nước từ các thành phần kinh tế như: Thuế, phí, lệ phí,
thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước, vay nợ nước ngoài, phát hành trái phiếu
và các nguồn thu hợp pháp khác để đáp ứng cho hoạt động của Chính phủ.
Chính sách ngân sách nhà nước góp phần huy động vốn, động viên, khai thác,
nuôi dưỡng nguồn thu vào ngân sách, tạo điều kiện xây dựng kết cấu hạ tầng,
thành lập và bổ sung nguồn tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, điều tiết các hoạt động kinh tế, chống độc quyền.
Thông qua hoạt động chi ngân sách nhà nước thực hiện phân phối
nguồn tiền tệ, tập trung vào ngân sách cho các hoạt động của nhà nước và xã
hội như: chi thường xuyên, chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi chương trình mục
tiêu quốc gia, chi xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội,
đảm bảo quốc phòng - an ninh, v.v.. Với mục tiêu xây dựng một xã hội phát
triển, công bằng văn minh, đòi hỏi nhà nước phải sử dụng ngân sách như một
công cụ đắc lực, công khai minh bạch có hiệu quả tác động vào đời sống xã
hội; để xã hội phát triển và giàu mạnh.
Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước là một bộ phận
quan trọng trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, từ trước đến
nay có một số nhà nghiên cứu ở Lào đã quan tâm và nghiên cứu vấn đề này.
Sau đây là một số công trình nghiên cứu tiểu biểu liên quan đến ngân sách
nhà nước, quản lý NSNN, thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN tại Lào.
17
- Cayxỏn Phomvihản, “Xây dựng cơ sở vững chắc để đưa đất nước
vững bước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa” [50]. Nội dung xuyên
suốt của cuốn sách đã luận giải và làm rõ vị trí, vai trò, mục tiêu, yêu cầu,
nhiệm vụ quan trọng chiến lược, lâu dài về chủ trương, chính sách, xây dựng
cơ sở vững chắc của CNXH. Tác giả đã đặt ra nhiều vấn đề quan trọng về mục
tiêu, yêu cầu, nội dung, hình thức xây dựng cơ sở toàn diện của CNXH, trong
đó nhấn mạnh về xây dựng hệ thống chính trị và nền dân chủ XHCN. Xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục
pháp luật, vận động các tầng lớp nhận thức về quyền và nghĩa vụ công dân
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từng bước bảo đảm sự ổn định về chính trị,
trật tự an toàn xã hội, v.v..
- Martin Stuar-Fox với cuốn sách “Contemporary Laos: Studies in the
politics anh society of the Lao People Democratic Republic” (Nước Lào hiện
đại: Những nghiên cứu chính trị và xã hội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào) [135]. Tác giả đánh giá kết quả 5 năm cầm quyền của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào trên tất cả các lĩnh vực.
- Lam Mon Khăm Vông Sả “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp
luật sử dụng ngân sách nhà nước ở Thủ đô Viêng Chăn trong thời kỳ đổi
mới” [112]. Trong luận văn, tác giả đã phân tích những biện pháp để quản lý
ngân sách nhà nước ở Thủ đô Viêng Chăn phải thống nhất theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp, quản lý sử
dụng ngân sách nhà nước, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Đề ra những quan
hệ giữa Trung ương và địa phương; trong đó, Trung ương phải giữ vai trò
quyết định các khoản thu như: Thuế, phí, lệ phí, vay nợ và các chế độ, tiêu
chuẩn, định mức chi tiêu thống nhất trong cả nước, tăng cường quản lý nhà
nước về chi ngân sách bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật về sử
dụng ngân sách.
18
- Đa Van Thôn Na Vong Sả “Phân tích sự ảnh hưởng việc sử dụng
ngân sách nhà nước vào việc phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Viêng
Chăn” [111]. Luận văn đã nêu ra sự thiếu hụt ngân sách nhà nước do nhu cầu
vốn tài trợ cho sự phát triển kinh tế quá lớn, đòi hỏi phải đi vay đề bù đắp. Sự
thiếu hụt ngân sách trong những năm qua được sử dụng như một công cụ
trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Chưa chú trọng
mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên; vẫn còn những
tồn tại vấn đề bội chi ngân sách địa phương.
1.1.3. Một số công trình nghiên cứu ở các nước khác
Ở các nước khác nghiên cứu sinh đã tiếp cận với một số công trình
nghiên cứu lý luận về thực hiện pháp luật, trong đó có công trình nghiên cứu
của các nhà khoa học ở Liên Xô trước đây và công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học Mỹ, Đức, Ba Lan.
Trong bài viết "Những yếu tố tâm lý xã hội trong thực thi pháp luật"
[11] của Gorshunov đã phân tích sâu sắc yếu tố tâm lý xã hội đã ảnh hưởng
như thế nào đối với việc thực thi pháp luật. Theo Gorshunov yếu tố tâm lý xã
hội bao gồm tâm lý và lợi ích cá nhân lực nhận thức cá nhân và sự trợ giúp xã
hội; mục tiêu đồng thuận với mục đích cá nhân; nền tảng văn hóa và truyền
thống. Kết quả nghiên cứu này có giá trị tham khảo khi nghiên cứu mối liên
hệ giữa tâm lý xã hội ở CHDCND Lào với thực hiện pháp luật nói chung và
pháp luật về sử dụng NSNN nói riêng. Giáo sư S. Shawell Đại học Harvard đã
vận dụng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng để phân tích mối quan hệ
giữa thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật chuyên ngành [140]
trong đó ngoài cái chung phải chú ý tới tính đặc thù của thực hiện pháp luật
chuyên ngành. Kulcsar Kalman trong công trình "Cơ sở xã hội học pháp luật
[36] đã dành 01/05 chương để nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong đó phân
tích mối quan hệ giữa chính trị và áp dụng pháp luật, chuẩn mực pháp luật và
19
quyết định áp dụng pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật và tính hiệu quả
của pháp luật, nhân tố chủ quan trong quyết định áp dụng pháp luật. I. Ehrlich
trong công trình của mình đã phân tích mối quan hệ giữa công lý với thực
hiện pháp luật [127]. A.M Polinsky phân tích vai trò của các cơ quan nhà
nước trong thi hành pháp luật [138]. Eric Ostnov phân tích cụ thể hơn về mối
quan hệ giữa tâm lý với thi hành pháp luật của cảnh sát Mỹ [137]. Trong công
trình của mình Becker đã phân tích mối liên hệ giữa nhận thức của chủ thể vi
phạm pháp luật với hậu quả bị xử phạt. Ông cho rằng phương án tối ưu ở đây
là cần áp dụng hình phạt tối đa đối với nhận thức tối thiểu, hiệu quả thực hiện
pháp luật tùy thuộc vào mức độ nghiêm khắc của hình phạt [6]. Tác giả Block
và Sidak lại lập luận rằng áp dụng mức phạt tối đa với khả năng nhận thức tối
thiểu để ngăn chặn vi phạm pháp luật là không phù hợp với thực tế, thiếu khả
thi trong trường hợp tuân thủ pháp luật chống độc quyền [89]. Friedman bổ
sung lập luận, phân tích về việc ngăn chặn các cơ hội để cán bộ thi hành pháp
luật thu lợi bất chính trong việc thi hành công vụ [129].
Các kết quả nghiên cứu từ những công trình nêu trên đều là tài liệu
tham khảo có giá trị, gợi mở cho nghiên cứu sinh trong nghiên cứu các nội
dung của luận án, nhất là phần cơ sở lý luận và quan điểm, giải pháp bảo đảm
thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN ở nước CHDCND Lào.
1.1.4. Nhận xét các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đối với các công trình nghiên cứu ở nước ngoài: Nghiên cứu sinh chủ
yếu tìm hiểu các công trình nghiên cứu ở Việt Nam vì Việt Nam có nhiều
điểm tương đồng với CHDCND Lào, đặc biệt là cùng xây dựng chế độ
XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
cùng tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN có sự quản lý của Nhà nước và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới. Những kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu liên quan
20
đến đề tài ở Việt Nam sẽ có giá trị tham khảo thiết thực, trực tiếp ảnh hưởng
đến nội dung nghiên cứu trong luận án. Các công trình nghiên cứu ở nước
ngoài đã đề cập các vấn đề sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ngân sách, tài chính, quản lý
ngân sách bao gồm quan niệm về ngân sách thu, chi ngân sách; ngân sách
trung ương, ngân sách địa phương; vấn đề lập dự toán, phân bổ ngân sách;
thanh tra, kiểm tra tài chính v.v.. quản lý thu, chi ngân sách.
- Các luận án tiến sĩ chủ yếu đề cập vấn đề thực hiện pháp luật trên các
lĩnh vực riêng biệt, có một số luận văn đề cập đến hoàn thiện pháp luật, thực
hiện pháp luật quản lý ngân sách nhà nước, quản lý thuế. Một số luận văn, bài
tạp chí đề cập pháp luật về nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước, quản lý tài
chính - ngân sách trong tình hình mới, đổi mới cơ chế kiểm soát các khoản chi
tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả chi ngân sách
xã hội v.v.. Như vậy chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, có hệ
thống vấn đề thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước. Tuy vậy kết
quả nghiên cứu của các công trình này là tài liệu tham khảo có giá trị khi
nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn.
- Đối với các công trình nghiên cứu ở các nước khác đã gợi mở cho
nghiên cứu sinh các vấn đề cụ thể trong lý luận cũng như quan điểm, giải
pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở
CHDCND Lào.
Đối với các công trình nghiên cứu ở CHDCND Lào: Ở CHDCND Lào
công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài chưa nhiều. Nghiên cứu sinh nhận
thấy có một số công trình cung cấp những quan điểm lý luận chung về xây
dựng nhà nước pháp quyền, về thực hiện pháp luật nói chung như tác phẩm
của Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, Martin Stuar-fox v.v.. một số luận văn đề
21
cập vấn đề tăng cường quản lý nhà nước về sử dụng ngân sách nhà nước,
quản lý nhà nước về chi ngân sách v.v.. bao quát rộng hơn vấn đề đề tài
nghiên cứu. Những công trình nghiên cứu trong nước tuy chưa trực tiếp
nghiên cứu toàn diện, có hệ thống vấn đề thực hiện pháp luật về ngân sách
nhà nước nhưng kết quả nghiên cứu của những công trình này có giá trị tham
khảo rất bổ ích khi nghiên cứu sinh nghiên cứu những kết quả, ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
ở CHDCND Lào.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, GIẢ
THUYẾT VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
1.2.1. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Đứng trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà
nước ở CHDCND Lào vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém như: hệ thống pháp
luật về sử dụng ngân sách nhà nước quy định chưa rõ ràng dẫn đến việc thực
hiện pháp luật còn lúng túng, bất cập. Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
kiểm tra tất cả các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước cũng còn nhiều bất cập
như các chế định pháp luật về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền và
trách nhiệm của cơ quan có quyền kiểm tra chưa tương xứng với vị trí, vai trò
của mình; các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ với các bên có liên
quan chưa đồng bộ giữa nội dung và hình thức; các văn bản pháp luật cũng
chưa đáp ứng kịp thời với tình hình thực tiễn của công cuộc đổi mới, mở cửa,
hội nhập kinh tế quốc tế, chưa hoàn toàn phù hợp với quy định của các tổ
chức quốc tế.
Thực tiễn sử dụng ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào cũng còn
nhiều hạn chế, yếu kém như: sử dụng ngân sách nhà nước không đúng mục
đích, thiếu công khai, minh bạch, hiệu quả thấp. Tình hình đó dẫn đến hậu
22
quả nghiêm trọng, nhiều vấn đề như an sinh xã hội, xây dựng hệ thống cơ sở
hạ tầng, giao thông, giáo dục, y tế, v.v.. sẽ không được đầu tư đúng theo dự
toán ngân sách bởi Nhà nước đã mất rất nhiều vốn đầu tư vì trong quá trình
thực hiện chi ngân sách nhiều nơi còn tình trạng tham nhũng, lãng phí, v.v..
Vì vậy, vấn đề này phải được kiểm tra bằng pháp luật gắn liền với sự hình
thành, ra đời và phát triển của tài chính nhà nước mà chủ yếu là ngân sách nhà
nước. Kiểm tra bằng pháp luật đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm ở các
nước phát triển, kinh nghiệm của các nước đó khẳng định sự hiện diện và hoạt
động của các cơ quan kiểm tra, góp phần hữu hiệu vào việc thiết lập và giữ
vững kỷ cương, kỷ luật tài chính, phát hiện và ngăn chặn các hành vi tham
nhũng, thất thoát, lãng phí tiền, tài sản của nhà nước, của nhân dân. Việc kiểm
tra đó trở thành bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống kiểm tra, kiểm
soát của nhà nước. Với bản chất là cơ quan kiểm tra tài chính công của Nhà
nước thì vị trí, tác dụng của nó đã được xã hội công nhận và không một cơ
quan chức năng nào khác có thể thay thế được trong việc tăng cường kiểm
soát, thực hiện mục đích sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực tài
chính của các cơ quan công quyền, các tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách
nhà nước. Kiểm tra bằng pháp luật trong việc sử dụng ngân sách nhà nước đã
được khẳng định như một chức năng, một công cụ quan trọng bậc nhất của hệ
thống quyền lực nhà nước hiện đại.
Trong bối cảnh việc sử dụng thống nhất và hiệu quả các khoản công
quỹ là một trong những đòi hỏi thiết yếu đầu tiên cho việc sử dụng hợp lý các
nguồn tài chính công và hiệu năng các quyết định của các cơ quan có thẩm
quyền. Để đạt được các mục tiêu này, không thể phủ nhận được rằng, mỗi
quốc gia cần có một cơ quan kiểm toán tối cao được pháp luật bảo đảm tính
độc lập. Khi nhà nước đã và đang mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực
23
kinh tế - xã hội thì các cơ quan kiểm toán tối cao càng ngày càng trở nên cần
thiết hơn. Vì vậy, các cơ quan kiểm toán phải hoạt động tuân theo những quy
định của khuôn khổ tài chính vốn có.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật trong sử dụng ngân sách
nhà nước trong các công trình nghiên cứu có liên quan sẽ góp phần phát hiện
những bất cập và đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường;
chống gian lận tham nhũng, các hành vi vi phạm pháp luật trong sử dụng
NSNN để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời, sẽ có những
kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật, góp phần khắc phục các hạn chế
khuyết tật của cơ chế thị trường và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng ngân
sách nhà nước.
Như vậy, vấn đề thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở
CHDCND Lào đòi hỏi phải được nghiên cứu có hệ thống, toàn diện cả về lý
luận và thực tiễn, bao gồm các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất
các quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách
nhà nước ở CHDCND Lào hiện nay.
1.2.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu đặt ra ở đây là gắn với quá trình đổi mới phát
triển đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước
CHDCND Lào đã không ngừng hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách
nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho việc sử dụng ngân sách nhà nước bảo đảm sử
dụng ngân sách nhà nước công khai, minh bạch, tiết kiệm, có hiệu quả. Tuy
nhiên trong quá trình thực hiện có lúc, có nơi thực hiện chưa đúng, chưa đầy
đủ các quy định của pháp luật, thậm chí còn hiện tượng tham nhũng, lợi ích
nhóm v.v.. gây thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nước hoặc ngân sách được
sử dụng thiếu hiệu quả, không tiết kiệm. Cần phải nghiên cứu có hệ thống
những vấn đề lý luận, như khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, hình thức,
24
các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN; trên cơ sở lý
luận đó cần phân tích, đánh giá đúng thực trạng và đề xuất các quan điểm,
giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước
CHDCND Lào hiện nay.
1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu
Từ giả thuyết nghiên cứu nêu trên, luận án cần trả lời những câu hỏi
sau đây:
- Thế nào là sử dụng ngân sách nhà nước và thực hiện pháp luật về sử
dụng ngân sách nhà nước? Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
ở CHDCND Lào có những đặc điểm gì? Có vai trò như thế nào, thực hiện những
nội dung gì?
- Để bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước, về lý
luận, cần có những điều kiện gì?
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở
CHDCND Lào trong những năm đổi mới vừa qua đạt được những thành tựu,
ưu điểm gì? Còn những hạn chế nào và nguyên nhân của những ưu điểm, hạn
chế đó.
- Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền
hiện nay ở CHDCND Lào, trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách
nhà nước cần quán triệt những quan điểm gì? Cần thực hiện các giải pháp nào
để bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước, công khai,
minh bạch, tiết kiệm và có hiệu quả.
25
Tiểu kết chương 1
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam đã đề cập nhiều đến ngân sách,
quản lý nhà nước về ngân sách, ít có công trình nghiên cứu về thực hiện pháp
luật về sử dụng ngân sách nhà nước. Ở CHDCND Lào cũng có ít công trình
nghiên cứu trực tiếp về thực hiện pháp luật về ngân sách, chỉ có ít bài đề cập
đến quản lý, thực hiện chi ngân sách. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu của các
công trình kể trên là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị đối với tác giả trong
quá trình thực hiện luận án của mình. Các công trình nghiên cứu ở ngoài nước
và ở CHDCND Lào mới chỉ nghiên cứu những góc độ, khía cạnh khác nhau
về thực hiện pháp luật, về Luật Ngân sách nhà nước, quản lý nhà nước về
ngân sách, về thu chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam và Lào, có ít công trình
trực tiếp đề cập đến pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước v.v.. Có thể nói
rằng, chưa một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống
đối với “Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay”. Luận án được hoàn thành sẽ là công
trình có ý nghĩa thiết thực đối với Đảng và Nhà nước Lào trong việc bảo đảm
thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước Lào đạt yêu cầu công
khai, minh bạch, hiệu quả.
26
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ
DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
2.1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Lịch sử ngân sách nhà nước gắn liền với sự ra đời của nhà nước và sự
phát triển của nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ. Nhà nước ra đời, nảy sinh nhu cầu
phải chi tiêu để đảm bảo cho nhà nước thực hiện các chức năng của mình. Để
có tiền chi tiêu, nhà nước đã đặt ra chế độ thuế khóa với nhiều loại thuế khác
nhau và bắt nhân dân phải cống nạp. Chính những khoản thu này đã hình
thành nên quỹ tiền tệ của nhà nước, quỹ tiền tệ này lúc đầu được nhà nước sử
dụng để nuôi dưỡng binh lính và viên chức. Sau đó, phạm vi sử dụng được
mở rộng và ngày nay nhà nước không chỉ sử dụng quỹ tiền tệ này để chi tiêu
cho bộ máy của mình mà còn dùng nó để chi các khoản phúc lợi xã hội, kinh
tế, quốc phòng - an ninh, văn hóa - xã hội, v.v.. Quỹ tiền tệ được hình thành
và sử dụng như trên chính là NSNN.
Bằng quyền lực của mình, nhà nước tham gia vào quá trình phân phối
sản phẩm xã hội. Trong nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ, nhà nước sử dụng hình
thức tiền tệ trong phân phối như thuế bằng tiền, vay nợ bằng tiền, v.v.. để tạo
lập quỹ riêng có của mình - phục vụ cho hoạt động của chính nhà nước. Mặt
khác, sự phát triển của xã hội cũng là nhân tố kéo theo sự ra đời và phát triển
của NSNN. Đặc biệt từ thời kỳ tư bản chủ nghĩa, xã hội phát triển với đặc
trưng - nền kinh tế thị trường đã là môi trường để NSNN phát triển và hoàn
thiện. Một môi trường tài chính, kinh tế thông thoáng, một chế độ thuế khóa
hợp lý đi đôi với việc luật hóa các khoản thu, chi của nhà nước luôn là mục
27
tiêu đấu tranh của giai cấp tư sản. Kết quả của cuộc đấu tranh đó đã dẫn tới sự
thừa nhận về mặt nhà nước các chuẩn mực tài chính trong hoạt động tạo lập
và sử dụng quỹ tiền tệ của nhà nước; đồng thời, đánh dấu sự ra đời của thực
thể NSNN trong lịch sử.
Cho đến nay, các nhà nước khác nhau đều tạo lập và sử dụng ngân
sách nhà nước của riêng mình. Vì vậy, thuật ngữ “ngân sách nhà nước” được
sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia. Song quan
niệm về ngân sách nhà nước thì lại chưa thống nhất. Trên thực tế, người ta
đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về “ngân sách nhà nước”, phụ thuộc
vào quan điểm của người định nghĩa theo trường phái kinh tế nào, mục đích
nghiên cứu là gì.
Thuật ngữ ngân sách nhà nước được sử dụng rộng rãi trong các diễn
đàn khoa học và đời sống thực tiễn nhằm để nâng cao ý thức chính trị của
nhân dân trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước và nâng cao
trách nhiệm trong quản lý sử dụng quỹ ngân sách nhà nước phục vụ cho hoạt
động của nhà nước và lợi ích công cộng của xã hội. Thuật ngữ ngân sách nhà
nước được nghiên cứu, định nghĩa ở nhiều phương diện cả về khoa học, kinh
tế, thực tiễn và pháp lý. Nhà kinh tế học Philip.E.Taylor định nghĩa rằng:
“Ngân sách là chương trình tài chính chủ yếu của Chính phủ”, có thể hiểu
Taylor muốn nói ngân sách nhà nước là một bản kế hoạch về thu chi tài chính
của một đất nước, được soạn thảo, đệ trình, thông qua theo một quy trình nhất
định theo pháp luật, có giá trị pháp lý như một văn bản luật, buộc các chủ thể
phải tuân thủ việc thực hiện.
Về phương diện pháp lý, định nghĩa ngân sách nhà nước là một khái
niệm pháp lý quan trọng, được thể hiện trong một đạo luật do Quốc hội (cơ
quan lập pháp của nhà nước ban hành để các cơ quan hành pháp thực hiện. Sở
dĩ ngân sách nhà nước là một đạo luật vì ngân sách nhà nước do cơ quan lập
pháp quyết định và phê chuẩn theo một trình tự làm luật và có hiệu lực như
28
luật; mặc dù, nó có những thủ tục đặc biệt khác với trình tự lập pháp thông
thường. Khái niệm ngân sách nhà nước được quy định trong Luật Ngân sách
nhà nước còn hàm chứa nhiều nội dung chính trị, pháp lý quan trọng, thể hiện
mối quan hệ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan lập pháp, cơ quan hành
pháp của bộ máy nhà nước trong việc quyết định lập, chấp hành, quyết toán,
thanh tra, kiểm tra, kiểm toán ngân sách nhà nước (còn gọi là quản lý và sử
dụng ngân sách nhà nước), phân cấp ngân sách giữa cơ quan Trung ương và
cơ quan chính quyền địa phương, v.v.. Để thực thi đạo luật đó, cơ quan có
thẩm quyền còn ban hành nhiều văn bản để triển khai thực hiện như các nghị
quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư, v.v..
Theo quan điểm của những nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, NSNN là
một văn kiện tài chính, mô tả các khoản thu và chi của Chính phủ, được thiết
lập hàng năm. Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác
nhau về NSNN: Các nhà kinh tế Nga cho rằng, NSNN là bảng liệt kê các
khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của nhà nước. Hoặc
theo Đại từ điển kinh tế thị trường (Trung Quốc) định nghĩa “NSNN là kế
hoạch thu chi tài chính hàng năm của nhà nước được xét duyệt theo trình tự
pháp định” [88, tr.651].
Từ những phân tích trên đây, ta có thể định nghĩa về NSNN như sau:
Dưới góc độ kinh tế - xã hội: NSNN được đặc trưng bằng sự vận động
của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng
quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức
năng của nhà nước trên cơ sở pháp luật đã định. Nó phản ánh các quan hệ
kinh tế giữa nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, phát sinh khi nhà
nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không
hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Xét dưới góc độ kinh tế - pháp lý: Theo Luật NSNN số 02/QH, ngày
26/12/2006 của Lào thì “NSNN là dự toán về thu - chi của nhà nước đã được
29
Quốc hội thông qua hàng năm. NSNN là trung tâm của hệ thống tài chính
quốc gia, là công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô nhằm đảm bảo cho nền kinh tế -
xã hội phát triển”.
Như vậy, theo quy định Luật Ngân sách nhà nước (năm 2006) của
CHDCND Lào thì NSNN được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau:
+ Từ góc độ kinh tế: NSNN bao gồm các khoản thu, chi được xác định
bởi con số cụ thể nhằm xác định rõ khả năng tạo nguồn thu kinh phí để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước; đồng thời để tạo thế cân bằng thu, chi.
Các khoản thu, chi này được xác định bằng các đại lượng tiền tệ cụ thể,
được tập trung thành một khối thống nhất và được quản lý bởi hệ thống cơ
quan tài chính chuyên trách. Các khoản thu này phải được cơ quan có thẩm
quyền phê chuẩn.
+ Từ góc độ pháp lý: Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền quyết định dự
toán NSNN và phân bổ NSNN. Việc quyết định dự toán NSNN và phân bổ
NSNN được Quốc hội thực hiện bằng cách thông qua một Nghị quyết và khi
đó dự toán NSNN sẽ trở thành một đạo luật (Đạo luật ngân sách thường niên).
Đạo luật ngân sách thường niên gồm hai bộ phận hợp thành: Nghị quyết của
Quốc hội thông qua NSNN và bảng cân đối thu, chi ngân sách sẽ được thực
hiện trong các năm. Khác với các đạo luật khác, đạo luật NSNN thường niên
hết hiệu lực khi năm dương lịch kết thúc. Đạo luật NSNN thường niên cũng
khác với đạo luật NSNN quy định về việc lập, chấp hành, quyết toán NSNN
và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước các cấp trong lĩnh vực NSNN.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu NSNN là toàn bộ các khoản
thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Như vậy, hoạt động NSNN nhìn bề ngoài là hoạt động thu, chi (tạo lập
và sử dụng) quỹ tiền tệ của nhà nước làm cho nguồn tài chính này vận động
30
giữa nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, trong quá trình phân phối sản
phẩm xã hội. Nhưng đằng sau nó chứa đựng các mối quan hệ kinh tế - xã hội,
sự điều tiết nền kinh tế của nhà nước, v.v.. Do đó, để nhận thức về NSNN
không chỉ dừng lại ở việc mô tả bề ngoài, mô tả khía cạnh vật chất của NSNN
mà còn phải làm sáng tỏ nội dung bên trong thuộc bản chất của NSNN. Hay
nói cách khác, NSNN không chỉ đơn thuần là một phạm trù kinh tế mang tính
lịch sử mà cùng với sự phát triển của xã hội, NSNN đã trở thành một thực thể
pháp lý và là công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện việc điều tiết nền kinh
tế và quản lý xã hội.
2.1.1.2. Khái niệm sử dụng ngân sách nhà nước
Xét về nội dung hình thái biểu hiện, ngân sách nhà nước bao gồm hai
hình thái là thu ngân sách và chi ngân sách - kết quả của quá trình huy động
và quá trình sử dụng tài chính. Vậy, có thể hiểu như thế nào về khái niệm sử
dụng ngân sách nhà nước ?
Nhìn từ góc độ kinh tế, sử dụng NSNN là hoạt động phân phối lại
nguồn tài chính nhà nước, theo đó nhà nước tiến hành sử dụng quỹ NSNN để
cung ứng cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình trong một
thời hạn nhất định. Quá trình này đồng nghĩa với việc Chính phủ tổ chức thực
hiện dự toán sử dụng ngân sách (hay còn được hiểu là chi NSNN) đã được
Quốc hội quyết định bằng đạo luật ngân sách hàng năm.
Từ phương diện pháp lý, sử dụng NSNN được hiểu là chế độ phân phối
đặc thù các nguồn lực tài chính, trong đó nhà nước thực thi quyền sở hữu của
mình đối với nguồn vốn quỹ NSNN bằng cách “cấp phát không hoàn lại”
nguồn tài chính đó cho các đối tượng được hưởng kinh phí ngân sách. Thông
qua việc thể chế hóa bằng pháp luật đối với hoạt động chi tiêu ngân sách, nhà
nước hướng tới nhiều mục tiêu khác nhau; trong đó bao gồm mục tiêu quản lý
hiệu quả việc sử dụng công quỹ và tăng cường kỷ luật về ngân sách nói chung
31
và pháp luật về sử dụng ngân sách nói riêng, góp phần hạn chế tình trạng
tham nhũng, lãng phí tài sản nhà nước.
Mặc dù có thể tiếp cận khái niệm sử dụng NSNN từ nhiều góc độ khác
nhau, nhưng tựu trung lại, cần nhận thức rằng: Sử dụng NSNN là hoạt động sử
dụng quỹ NSNN nhằm phân phối lại nguồn tiền tệ nằm trong quỹ NSNN để sử
dụng cho những mục đích khác nhau của nhà nước, theo một chương trình, kế
hoạch đã được cơ quan có thẩm quyền cao nhất quyết định.
Theo Luật NSNN năm 2006 của Lào, Chương 2 Điều 18 đến Điều 23,
sử dụng NSNN bao gồm các khoản chi để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
quốc phòng - an ninh, duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước, chi trả nợ của
nhà nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Việc thiết kế các khoản chi ngân sách như thế nào trong mỗi năm ngân sách
phụ thuộc đáng kể vào quá trình thực hiện các khoản thu ngân sách trong năm
đó. Vì thế, để có được một chính sách chi tiêu hợp lý, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền không thể bỏ qua việc xem xét mối quan hệ tương tác giữa
phần dự toán chi với phần dự toán thu trong bảng cân đối NSNN hàng năm.
Mặt khác, để quản lý và sử dụng NSNN nói chung và pháp luật về sử dụng
NSNN cũng cần phải được xây dựng dựa trên kết quả phân loại khoa học về
các khoản chi NSNN. Điều đó có nghĩa là, tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm
của mỗi khoản chi NSNN mà người soạn luật phải thiết kế những quy định
khác nhau nhằm tạo tiền đề pháp lý cho việc thực hiện và quản lý, kiểm soát
một cách tốt nhất, hiệu quả nhất đối với mỗi khoản chi đó.
Trên thực tế, sử dụng NSNN có hai cách phân loại với các khoản chi
NSNN sau đây:
+ Phân loại theo tính chất pháp lý của các khoản chi ngân sách: Cách
này có ảnh hưởng sâu sắc đến việc xây dựng pháp luật về sử dụng NSNN,
theo đó các khoản chi được phân thành ba loại. Loại thứ nhất, các khoản chi
theo luật định là những khoản chi đã được quy định trong một đạo luật nào
32
đó mà Nhà nước có trách nhiệm phải đảm bảo. Ví dụ, ở Cộng hòa Liên bang
Đức, Luật của các bang đều quy định, mọi trẻ em từ 3-6 tuổi đều có quyền
được nhà nước bố trí một chỗ ở nhà trẻ. Do vậy, trong quá trình lập và thảo
luận để thông qua ngân sách về khoản chi này, Bộ Tài chính không có quyền
can thiệp vào khoản chi này. Bộ chủ quản có trách nhiệm tính toán tổng số
trẻ em trong độ tuổi, trong năm kế hoạch nhân với định mức chi cho một đầu
trẻ em, để tính toán dự toán ngân sách chi cho lĩnh vực này. Đối với các
khoản chi theo luật thường chiếm ít thời gian thảo luận ở cấp Bộ, cấp Chính
phủ cũng như ở Quốc hội. Loại thứ hai, các khoản chi đã được cam kết là
những khoản chi đã được một bên là cơ quan có thẩm quyền đại diện hợp
pháp cho nhà nước ký với bên thứ ba (người cung cấp hàng hóa, dịch vụ)
nhằm đảm bảo thực hiện việc thanh toán các hóa đơn theo hợp đồng đã được
ký kết từ những năm trước chuyển sang. Các khoản chi này thường là những
khoản chi đầu tư xây dựng các công trình kéo dài trong nhiều năm, chi cho
những hợp đồng mua sắm những lô hàng hóa có giá trị lớn. Các khoản chi
này tuy tính pháp lý có thấp hơn các khoản chi theo luật định ở trên song
cũng đã được người đại diện hợp pháp của nhà nước cam kết với bên thứ ba.
Do vậy, trong điều kiện nền kinh tế phát triển bình thường, trình độ kế hoạch
hóa cao và hiệu quả, các khoản chi không bị thay đổi so với dự kiến thì việc
lập dự toán các khoản chi này cũng không tốn nhiều thời gian để thảo luận
tại cấp Bộ, cấp Chính phủ cũng như tại Quốc hội. Loại thứ ba, các khoản chi
có thể điều chỉnh là những khoản chi không bị luật ràng buộc và cũng chưa
được cam kết. Các khoản chi này thường gắn với một số nhu cầu chi cụ thể,
ví dụ như chi xuống cấp các di tích lịch sử, chi quản lý hành chính v.v.. Do
tính pháp lý của các khoản chi này thấp nên trong quá trình thảo luận ngân
sách, thường được Quốc hội nghiên cứu mổ xẻ và thảo luận kỹ từ cấp Bộ,
Chính phủ đến Quốc hội, đặc biệt là những khoản chi mới phát sinh so với
năm trước.
33
+ Phân loại theo tiêu chí mục đích kinh tế - xã hội của các khoản chi
NSNN: được phân thành hai loại. Loại thứ nhất, chi đầu tư phát triển là khoản
chi của nhà nước có tác dụng làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển
như để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất (xây
dựng mới, tu bổ công sở, đường sá, kiến thiết đô thị, mua sắm thiết bị máy
móc, thành lập các doanh nghiệp, góp vốn vào các đơn vị sản xuất kinh
doanh), dự trữ vật tư hàng hóa. Loại thứ hai, chi thường xuyên là các khoản
chi để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước, chi để thực hiện những nhiệm
vụ thường xuyên về quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước. Xét về tính chất
kinh tế, chi thường xuyên của NSNN bao gồm các khoản chi lương, chi phụ
cấp, các khoản chi hàng hóa và dịch vụ phát sinh thường xuyên của nhà nước.
Các khoản chi này chủ yếu nhằm trang trải các nhu cầu về quản lý hành chính
nhà nước, quốc phòng - an ninh, về các hoạt động sự nghiệp và các hoạt động
xã hội khác do nhà nước tổ chức.
Tác dụng của việc phân loại theo mục đích chi ngân sách, nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng NSNN sẽ giúp cho Chính phủ thiết lập các chương trình
chi tiêu và kết hợp hài hòa giữa các nhóm nhằm nâng cao hiệu quả của chi
tiêu từ ngân sách nhà nước. Ngoài ra, do tính chất của việc chi ngân sách có
những khác biệt cơ bản nên các nguyên tắc về quản lý, tổ chức thực hiện kiểm
soát các loại chi ngân sách cũng phải khác nhau.
2.1.1.3. Khái niệm pháp luật và thực hiện pháp luật về sử dụng ngân
sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là khâu trung tâm trong hệ thống tài chính của nhà
nước. Trong hệ thống pháp luật về tài chính của quốc gia, pháp luật về ngân
sách có vai trò chủ đạo, điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội trong hoạt
động ngân sách của nhà nước. Theo Giáo trình Luật Tài chính Việt Nam -
“Pháp luật ngân sách nhà nước, bộ phận cấu thành chủ yếu của Luật Tài chính
là tập hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan
34
hệ xã hội phát sinh trong quá trình hình thành, quản lý và sử dụng quỹ ngân
sách nhà nước, các quan hệ xã hội liên quan đến quá trình lập, phê chuẩn,
chấp hành và quyết toán ngân sách” [19, tr.18].
Pháp luật về NSNN bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật quy định về
hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, quy định về tổ chức điều hành ngân
sách. Trong đó, pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước gắn liền với hoạt
động chi ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nước là điều kiện và cơ sở
để nhà nước thực hiện sử dụng NSNN cho hoạt động của mình. Do tính chất
của quỹ NSNN là tiền - tài sản của nhà nước và xã hội nên hoạt động sử dụng
NSNN phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định theo pháp luật,
không có sự tùy tiện trong việc quy định các khoản thu NSNN. Nguồn ngân
sách tập trung của nhà nước phải phục vụ cho hoạt động của nhà nước và toàn
xã hội. Để đảm bảo chính xác, công bằng và hiệu quả trong sử dụng NSNN;
đồng thời, thể hiện quyền lực nhà nước, nhà nước phải đặt ra pháp luật làm
quy tắc xử sự, làm chuẩn mực cho hoạt động sử dụng NSNN. Các quy phạm
pháp luật về sử dụng NSNN tạo thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật về sử dụng NSNN.
Pháp luật về quản lý, sử dụng NSNN bao gồm những vấn đề cơ bản:
nguyên tắc quản lý, sử dụng NSNN; tổ chức, quản lý, điều hành ngân sách,
các cấp ngân sách, thẩm quyền quyết định thu, chi ngân sách nhà nước; phân
cấp quản lý ngân sách, quy định nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp chính
quyền Trung ương, địa phương; trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà
nước các cấp trong quản lý, sử dụng NSNN, quy trình NSNN và chế độ kiểm
tra, thanh tra, kiểm toán, kế toán, quyết toán và công khai NSNN.
Như vậy, từ những phân tích nêu trên có thể hiểu pháp luật về sử dụng
ngân sách nhà nước là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong
việc thực hiện nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp, quy định nhiệm vụ quyền
35
hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình sử
dụng ngân sách nhà nước.
Như vậy, nội hàm khái niệm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách
nhà nước dựa trên các cơ sở sau:
Một là, hoạt động sử dụng ngân sách nhà nước là một bộ phận của hoạt
động ngân sách nhà nước. Do đó, nó mang đầy đủ bản chất, đặc trưng chung
của hoạt động ngân sách nhà nước.
Hai là, pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong sử dụng ngân sách nhà
nước là một bộ phận của pháp luật về ngân sách nhà nước, chịu sự chi phối,
hiệu lực về các nguyên tắc cơ bản và cơ chế thi hành ngân sách nhà nước.
Từ đó, có thể xác định nguồn pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
bao gồm: Hiến pháp (các quy định liên quan đến hoạt động chi ngân sách nhà
nước như các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước); các
đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước; Luật Ngân sách nhà nước; các văn bản
quy phạm pháp luật về Ngân sách nhà nước do Chính phủ ban hành; các văn
bản do Bộ Tài chính, văn bản liên tịch về ngân sách nhà nước; các văn bản quy
phạm pháp luật về ngân sách nhà nước do chính quyền tại các địa phương ban
hành theo thẩm quyền của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Công cụ pháp luật luôn cần thiết trong xã hội, điều đó xuất phát từ vai
trò của pháp luật trong đời sống xã hội và trong hoạt động của nhà nước. Pháp
luật là phương tiện để nhân dân thể hiện ý chí, quyền làm chủ của mình đối
với nhà nước; bên cạnh đó, pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý xã
hội. Trong Điều 10 - Hiến pháp 2013 của Lào quy định: “Nhà nước quản lý
xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Đảng, các cơ quan nhà nước, Mặt trận
Lào xây dựng đất nước, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và toàn thể công dân
phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật” [113, tr.4]. Ở
lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng
trong bảo đảm sự ổn định và phát triển năng động của xã hội. Đối với đời
36
sống kinh tế, các quan hệ kinh tế rất đa dạng, phong phú, phức tạp; đặc biệt là
lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Chính vì vậy, cần thiết phải điều chỉnh, định
hướng cho kinh tế phát triển, loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, ngăn ngừa rối
loạn, khủng hoảng, thiết lập trật tự và ổn định. Khi đó, pháp luật trở thành
phương tiện điều chỉnh quan hệ kinh tế; Nhà nước tác động đến nền kinh tế
bằng kế hoạch, cơ chế, chính sách, sự tác động vĩ mô đó muốn đạt hiệu quả
cao thì phải được thể chế hóa bằng pháp luật. Hệ thống pháp luật tài chính nói
chung, pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước nói riêng giữ vai trò rất quan
trọng. Hoạt động tài chính của các chủ thể kinh tế không chỉ liên quan đến lợi
ích của họ mà còn ảnh hưởng, tác động đến lợi ích của toàn bộ nền kinh tế.
Bởi vậy, ở mức độ khác nhau đòi hỏi nhà nước phải sử dụng pháp luật điều
chỉnh các hoạt động này. Điều 18 - Hiến pháp 2013 của Lào quy định: “Nhà
nước quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước, thực
hiện nguyên tắc kết hợp quản lý tập trung thống nhất của các ngành ở Trung
ương với việc phân cấp trách nhiệm quản lý cho chính quyền địa phương phù
hợp với quy định của pháp luật” [113, tr.6].
Pháp luật bao giờ cũng là công cụ quan trọng, cần thiết trong một xã
hội mà ở đó các chủ thể có các quyền lợi khác nhau, thậm chí đối lập nhau;
lúc này, pháp luật vừa là công cụ để dung hòa quyền lợi giữa nhà nước và các
tổ chức, cá nhân; đồng thời, vừa là công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền lợi của nhà
nước. Nhìn chung, lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà nước, sự khác nhau về
mục tiêu, bản chất các quyền lợi khiến cho Chính phủ có thể trở thành người
hỗ trợ cho các đơn vị, cá nhân quyền lợi hoặc tước bỏ quyền lợi. Ví dụ: Các
doanh nghiệp mong muốn tự do sản xuất, kể cả việc sản xuất ảnh hưởng đến
môi trường; Chính phủ cho phép các doanh nghiệp tự do kinh doanh nhưng
nghiêm cấm làm ảnh hưởng đến hoạt động môi trường. Doanh nghiệp muốn
trốn thuế, làm sao để nộp thuế ít nhất; còn Chính phủ lại yêu cầu họ nộp thuế
xứng đáng với nghĩa vụ của họ. Các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước cũng
37
vậy, họ luôn muốn nhà nước cấp nhiều ngân sách, trong khi chức năng không
tăng thêm; các đơn vị sự nghiệp luôn muốn được tự chủ trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, tự chủ trong quy chế chi tiêu, có quyền quyết định tại các
đơn vị mình nhưng luôn mong muốn không bị cắt giảm hoặc hỗ trợ ngân sách
từ phía nhà nước, v.v.. Vì vậy, chỉ có thể thông qua pháp luật mới có thể điều
chỉnh các hoạt động của nhà nước, xã hội vận động theo đúng quy luật tất yếu
khách quan; đảm bảo chính xác, công bằng và nâng cao hiệu quả sử dụng
ngân sách nhà nước.
Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước giúp các đơn vị, cá
nhân nhận thức được trách nhiệm của đơn vị, các nhân trong việc quyết định
chi đúng chế độ, trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền giao. Các
quy định cụ thể của pháp luật nhằm đảm bảo nghiêm túc sử dụng ngân sách
nhà nước không bị chồng chéo, mang tính phối hợp giữa các đơn vị, cá nhân,
tránh chồng chéo chi ngân sách; đồng thời, phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, đáp ứng được những nhu cầu thực tế của các đơn vị, cá nhân
thụ hưởng ngân sách nhà nước.
Các quy phạm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN bao gồm hai bên,
bên chủ thể luôn là nhà nước mà đại diện là các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền còn một bên là đối tượng thụ hưởng NSNN có thể là tổ chức hoặc cá
nhân. Trong bất kỳ hoạt động kinh tế - xã hội nào cũng có sử dụng các nguồn
lực tài chính, chủ thể tiến hành hoạt động đó cũng đều phải kiểm soát việc sử
dụng nguồn tài chính để đảm bảo chi đúng nguyên tắc, đúng chế độ, tiết kiệm
chi phí với mục đích cuối cùng là sử dụng tối ưu hiệu quả nguồn vốn và phát
triển đất nước bền vững.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu thực hiện pháp luật về sử dụng
ngân sách nhà nước là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, thực hiện
quy định của pháp luật về dự toán chi, phân bổ, cấp phát, quyết toán và giám
38
sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán việc sử dụng ngân sách nhà nước bảo đảm
việc sử dụng NSNN tiết kiệm, công bằng, minh bạch và có hiệu quả.
2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước có tác động trực tiếp đến việc thực hiện các chức
năng của nhà nước về quản lý kinh tế - xã hội, là một trong những nhân tố
có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả của bộ máy quản lý nhà
nước. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước không những bảo
đảm cho nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, hoạt động đối ngoại mà còn thực
hiện mục tiêu ổn định và điều chỉnh thu nhập, hỗ trợ người nghèo, gia đình
chính sách, thực hiện các chính sách xã hội, v.v.. góp phần thực hiện mục
tiêu công bằng xã hội, đảm bảo an ninh, an toàn xã hội và sự toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia.
Hoạt động NSNN luôn chứa đựng trong nó các mối quan hệ kinh tế - xã
hội, so với các khâu tài chính khác trong nền tài chính quốc gia, như tài chính
dân cư, tài chính doanh nghiệp, v.v.. NSNN có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, các hoạt động tạo lập và sử dụng NSNN gắn chặt với quyền
lực kinh tế - chính trị và việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Nói cách
khác, quyền lực nhà nước và các chức năng của nhà nước là nhân tố quyết
định mức thu, chi, nội dung và cơ cấu chi của ngân sách nhà nước. Nền kinh
tế thị trường chịu sự điều chỉnh của quy luật cung - cầu; vì vậy, giá cả là do
thị trường quyết định. Bằng công cụ thuế, chính sách chi tiêu ngân sách, nhà
nước có thể tác động tới mặt cung hoặc cầu để bình ổn giá cả thị trường. Đặc
biệt, sự hình thành và tồn tại các quỹ dự phòng trong ngân sách nhà nước để
đối phó với những biến động của thị trường đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong việc bình ổn giá cả. Các quỹ dự phòng này được hình thành chủ yếu từ
39
vốn ngân sách. Đây là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của nhà
nước trong việc bình ổn thị trường.
Thứ hai, các hoạt động thu, chi của NSNN đều được thực hiện trên cơ
sở luật định. Đó là các luật thuế, các pháp lệnh thuế, chế độ thu, chế độ chi
tiêu chuẩn, định mức thu, chi, v.v.. do nhà nước ban hành. Việc dựa trên cơ sở
pháp luật để tổ chức các hoạt động thu, chi của NSNN là một yêu cầu có tính
khách quan, nó bắt nguồn từ phạm vi hoạt động của NSNN, được tiến hành
trên mọi lĩnh vực và có tác động tới mọi chủ thể trong xã hội, từ tính chất đến
tác dụng của các khoản thu, chi NSNN. Thông qua hoạt động thu, chi NSNN,
nhà nước thực hiện việc tái phân phối lại thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
NSNN là công cụ trợ giúp đắc lực cho nhà nước thực hiện mục tiêu này. Bằng
các hình thức chi hỗ trợ, trợ cấp khó khăn, cho vay vốn ưu đãi với hộ nghèo
v.v.. thông qua hệ thống thu trực tiếp và gián tiếp, nhà nước đã thực hiện việc
điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, định hướng chi tiêu cho xã hội,
đảm bảo công bằng trong xã hội.
Thứ ba, nguồn tài chính chủ yếu hình thành nên quỹ NSNN - quỹ tiền
tệ tập trung lớn nhất của nhà nước là từ giá trị sản phẩm thặng dư trong hoạt
động kinh tế và được hình thành chủ yếu trong quá trình phân phối lại, thuế là
hình thức thu phổ biến. Các chủ thể tiến hành hoạt động kinh tế, các cá nhân
trong xã hội tham gia vào quá trình sản xuất hoặc tham gia hoạt động kinh tế
(tạo ra giá trị thặng dư), có nghĩa vụ phải đóng một phần giá trị nhận được
vào NSNN dưới dạng các khoản thu thuế, đây là nguồn thu chủ yếu của ngân
sách nhà nước. Thông qua các kênh đầu tư (cấp phát trực tiếp, tín dụng, v.v..),
sử dụng chính sách chi ngân sách và cơ chế động viên các nguồn thu vào
ngân sách, nhà nước tạo điều kiện xây dựng kết cấu hạ tầng, thành lập các
doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành, lĩnh vực then chốt, kích thích sự phát
triển các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, v.v.. Trên cơ sở đó, nhà nước
định hình cơ cấu kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chống độc quyền,
40
tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, trong
từng điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cũng có thể được
sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định
về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho sự chuyển dịch sang một cơ cấu mới. Ngoài ra,
bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, NSNN củng cố vai trò
định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế kinh doanh một số ngành nghề
nhất định trong xã hội.
Thứ tư, đằng sau các hoạt động thu, chi của NSNN là sự thể hiện các
mặt hoạt động kinh tế - xã hội của nhà nước ở tầm vĩ mô, là việc xử lý các
mối quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích trong xã hội khi nhà nước tham gia phân
phối các nguồn tài chính quốc gia. Chế độ kinh tế, nhiệm vụ kinh tế của nhà
nước trong từng giai đoạn là nhân tố quyết định tới cơ cấu thu, chi của ngân
sách nhà nước. Thuế, chi tiêu và dự trữ ngân sách nhà nước là các yếu tố có
tác động rất lớn tới quan hệ cung - cầu, bình ổn giá các mặt hàng trên thị
trường. Hoạt động sử dụng ngân sách nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ tới
vấn đề lạm phát. Lạm phát chỉ xảy ra khi mất cân đối thu, chi ngân sách nhà
nước; vì vậy, giữ cân bằng thu, chi có tác dụng kiềm chế lạm phát gia tăng.
Để thực hiện được điều đó, nhà nước phải có chế độ thu hợp lý tránh tình
trạng khan hiếm cục bộ trên thị trường; bên cạnh đó, Nhà nước phải có một
cơ chế tiết kiệm thật hiệu quả.
Ở Lào nền kinh tế được xác định là nền kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy cơ cấu thu, chi
NSNN thể hiện rất rõ điều đó, với mục tiêu là kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân, nên tỷ lệ ngân sách chi cho doanh nghiệp nhà
nước của Lào thường lớn hơn rất nhiều so với các đơn vị ngoài quốc doanh.
Theo thống kê đến năm 2014 ở Lào có khoảng 130 doanh nghiệp nhà nước
với tổng số vốn 19.412 tỷ Kíp mà đa phần trong số đó là vốn do nhà nước cấp
phát từ quỹ NSNN [97].
41
Từ những đặc điểm của NSNN nêu trên có thể xác định đặc điểm của
việc thực hiện pháp luật về NSNN trên các mặt chủ thể, phương thức thực
hiện cũng như hiệu quả thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
như sau:
2.1.2.1. Đặc điểm chủ thể thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách
nhà nước
Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là hoạt động tiến hành bởi hai
nhóm chủ thể: Nhóm chủ thể đại diện cho nhà nước thực hiện việc quản lý,
cấp phát, thanh toán, kiểm soát các khoản chi NSNN - nhóm chủ thể quản lý
sử dụng NSNN và nhóm chủ thể sử dụng nguồn tài chính ngân sách.
* Nhóm chủ thể quản lý sử dụng NSNN
Nhóm chủ thể này bao gồm các cơ quan đại diện cho nhà nước thực thi
quyền hạn có liên quan đến việc xuất quỹ NSNN cho các mục tiêu đã được
phê duyệt. Nhóm chủ thể này bao gồm Bộ Tài chính, sở tài chính - vật giá
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, phòng tài chính quận, huyện, thị xã
thuộc tỉnh, thành phố (sau này gọi là cơ quan Tài chính), sở kế hoạch và đầu
tư, kho bạc nhà nước.
Đặc điểm pháp lý của nhóm chủ thể này là pháp luật quy định cho các
cơ quan này những quyền hạn nhất định trong việc kiểm soát, thanh toán ngân
sách, cụ thể: Cơ quan tài chính có quyền kiểm tra việc thực hiện chi tiêu, có
quyền tạm dừng các khoản chi vượt nguồn cho phép hoặc sai chính sách, chế
độ, tiêu chuẩn, có quyền yêu cầu điều chỉnh dự toán nhiệm vụ chi của các đơn
vị sử dụng ngân sách để đảm bảo thực hiện ngân sách đúng mục tiêu, tiến độ
quy định. Kho bạc nhà nước các cấp trong quá trình kiểm soát, thanh toán có
quyền từ chối thanh toán đối với các khoản chi ngân sách không đủ điều kiện
chi theo quy định, hoặc tạm dừng thanh toán theo yêu cầu của cơ quan tài
chính, kiểm tra giám sát việc sử dụng tài khoản chi tiền gửi của các đơn vị sử
dụng NSNN.
42
Về nghĩa vụ pháp lý của nhóm chủ thể này, pháp luật quy định những
nhiệm vụ có tính đảm bảo để thực thi quyền. Cụ thể, cơ quan tài chính có
nhiệm vụ đảm bảo, bố trí nguồn để đáp ứng các yêu cầu chi; trong đó, có việc
huy động các nguồn vay tạm thời để đảm bảo nguồn chi theo quy định của
pháp luật, kiểm tra giám sát việc thực hiện chi tiêu và sử dụng NSNN ở các
đơn vị sử dụng ngân sách, phát hiện và xử lý kịp thời các khoản chi vượt
nguồn, chi sai chế độ. Kho bạc nhà nước có trách nhiệm thực hiện việc kiểm
soát chi theo đúng quy định của luật NSNN; đảm bảo các khoản chi được
kiểm soát chặt chẽ, đủ điều kiện chi; đảm bảo thanh toán, chi trả NSNN một
cách kịp thời; trong một số trường hợp, pháp luật quy định cho cơ quan kiểm
soát chi được quyền tạm cấp kinh phí cho đơn vị sử dụng NSNN khi khoản
chi chưa có dự toán được giao, đặc biệt là những khoản chi liên quan đến
chính sách an sinh xã hội (lương hưu, trợ cấp người có công, v.v..) để đảm
bảo việc thanh toán kịp thời cho các đối tượng hưởng thụ.
* Nhóm các chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước
Phạm vi nhóm chủ thể này rất rộng, ngoài các cơ quan, đơn vị, tổ chức
thường xuyên được nhà nước cấp kinh phí hoạt động, kinh phí sự nghiệp còn
phát sinh những đơn vị không có quan hệ ngân sách thường xuyên nhưng
được nhà nước hỗ trợ kinh phí hoặc giao thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể
được cấp để thực hiện như doanh nghiệp, hiệp hội, v.v.. Đơn vị sử dụng
NSNN được pháp luật xác định gồm những nhóm cơ bản sau:
+ Các cơ quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tổ
chức chính trị - xã hội (gọi chung là các đơn vị dự toán) được nhà nước cấp
kinh phí hoạt động.
+ Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội được NSNN hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên.
+ Các đơn vị sự nghiệp kinh tế, giáo dục, y tế, v.v.. được phân ra làm
ba loại hình đơn vị sự nghiệp là: đơn vị tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt
43
động; đơn vị tự bảo đảm một phần kinh phí hoạt động; đơn vị được nhà nước
cấp toàn bộ kinh phí hoạt động. Tùy từng loại hình đơn vị sự nghiệp mà pháp
luật quy định mức độ tự chủ đối với các khoản chi thường xuyên của NSNN
là khác nhau.
+ Các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của nhà
nước được ngân sách hỗ trợ kinh tế. Pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
quy định nghĩa vụ của các đơn vị sử dụng ngân sách cụ thể như: Chấp hành
đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức và chi tiêu trong phạm vi dự toán được cấp
có thẩm quyền giao; quản lý, sử dụng ngân sách đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu
quả; cung cấp hoặc giải trình cho cơ quan kiểm soát chi về hồ sơ, chứng từ chi
tiêu NSNN theo quy định; thực hiện thu hồi giảm chi NSNN hoặc thu hồi nộp
NSNN đối với những khoản chi vi phạm quy định về chi NSNN theo quy định
của cơ quan có thẩm quyền. Về quyền của các nhóm chủ thể này, Luật Ngân
sách nhà nước không quy định cụ thể mà chỉ ghi nhận có tính chất chung: Thủ
trưởng các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước quản lý, sử dụng NSNN theo
đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức trong phạm vi dự toán được giao.
Việc phân loại các nhóm chủ thể quản lý, sử dụng nguồn ngân sách có
ý nghĩa xác định địa vị pháp lý của từng loại đơn vị trong quá trình thực hiện
pháp luật về sử dụng NSNN. Theo đó, các đơn vị sử dụng ngân sách phải có
trách nhiệm chấp hành các quy định về điều kiện chi ngân sách, quy định về
trình tự thủ tục chi; chấp hành các quy định về hóa đơn, chứng từ chi tiêu
ngân sách.
2.1.2.2. Đặc điểm về phương thức thực hiện pháp luật về sử dụng
ngân sách nhà nước
Phương thức thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là cách thức biện
pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.
Trong quá trình thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN phải tuân theo phương
thức sau đây:
44
Thứ nhất, việc sử dụng ngân sách phải tuân theo một quy trình cụ thể,
rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm
soát một cách chính xác nhất các khoản chi tiêu. Mặt khác, việc điều chỉnh
bằng pháp luật đối với hoạt động kiểm soát chi ngân sách cũng góp phần đảm
bảo tính minh bạch, tạo điều kiện cho các đơn vị sử dụng ngân sách nắm rõ
được quy trình kiểm soát chi mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến
hành để họ chuẩn bị đầy đủ các điều kiện hỗ trợ trong quá trình thực hiện sử
dụng NSNN, từ khâu lập dự toán, cấp phát ngân sách, thực hiện chi đến khâu
cung cấp thông tin, báo cáo, quyết toán chi NSNN.
Thứ hai, ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa
phương được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể, đảm bảo cho ngân
sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, ngân sách địa phương thực hiện nhiệm
vụ được giao, tăng cường nguồn lực cho ngân sách xã hội. Theo đó, việc phân
định rõ ràng ngân sách trung ương và ngân sách địa phương cần quán triệt chủ
trương: Nguồn thu của ngân sách trung ương phải đảm bảo thực hiện những
nhiệm vụ chiến lược quan trọng của quốc gia, nguồn thu của ngân sách địa
phương phải xác định sao cho địa phương chủ động thực hiện những nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội
trong phạm vi quản lý của địa phương mình. Việc phân định nguồn thu này,
thể hiện được vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và tính tự chủ, sáng
tạo của ngân sách địa phương. Tính chủ động của ngân sách địa phương thể
hiện ở việc phân định nguồn thu cụ thể địa phương có kế hoạch thu chi phù
hợp với địa phương mình; đồng thời, phát huy hết tiềm năng nguồn thu đặc
thù tại địa bàn.
Thứ ba, nhiệm vụ chi ngân sách cấp nào thì do ngân sách cấp đó đảm
bảo thực hiện. Mỗi cấp phải tự đảm đương nhiệm vụ sử dụng ngân sách của
mình. Tuy nhiên, trong trường hợp khó khăn về thu ngân sách thì ngân sách
trung ương có thể hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, tạo
45
mối liên hệ chặt chẽ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
Quan hệ giữa ngân sách cấp trên với cấp dưới thể hiện qua việc phân chia một
số khoản thu và điều tiết, bổ sung kinh phí. Mục đích cuối cùng là để đảm bảo
công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương được hưởng toàn
bộ, có những khoản thu được phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương. Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền
quyết định bổ sung ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới, để hỗ trợ các
địa phương thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội trên địa bàn theo phương thức
bổ sung cân đối thu chi và bổ sung có mục tiêu.
Hiện nay, cùng với sự phát triển không ngừng của các hoạt động kinh
tế - xã hội, hoạt động sử dụng NSNN cũng ngày càng đa dạng, phức tạp hơn.
Điều này đòi hỏi, nhà nước cần có những phương thức thích hợp bảo đảm
thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.
2.1.2.3. Đặc điểm về yêu cầu thực hiện pháp luật về sử dụng ngân
sách nhà nước
Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước phải gắn với hiệu
quả sử dụng ngân sách nhà nước. Sử dụng NSNN đúng pháp luật nhưng
không gắn với hiệu quả sử dụng ngân sách thì không thể nói là thực hiện tốt
pháp luật về sử dụng ngân sách. Điều này xuất phát từ thực tế, nhiều khi các
đơn vị hưởng thụ kinh phí NSNN thường có tư tưởng tìm mọi cách sử dụng
hết số kinh phí được cấp để khỏi phải trả lại nhà nước, bất luận việc chi tiêu
đó có cần thiết và hiệu quả hay không. Các đơn vị này không quan tâm đến
việc chấp hành đúng mục đích, đối tượng, dự toán được duyệt, kết quả công
việc mà chỉ quan tâm hoàn thiện hồ sơ đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức, để
chứng minh tính hợp pháp, hợp lý của các khoản chi, v.v..
Trong điều kiện mở cửa, hội nhập với nền tài chính khu vực và thế giới,
hệ thống pháp luật về NSNN của quốc gia và thực hiện pháp luật về sử dụng
NSNN cần phải được hoàn thiện cho phù hợp với các cam kết hội nhập; đồng
46
thời, đảm bảo kỷ cương quản lý tài chính nhà nước và sử dụng vốn nhà nước
đúng mục đích, mang lại hiệu quả cao. Để đạt được yêu cầu này, nhà nước
cần phải có một cơ chế thực hiện kiểm tra, kiểm soát các khoản chi của
NSNN. Do tính đặc thù của sử dụng NSNN mang tính chất “không hoàn trả
trực tiếp” nên người sử dụng kinh phí nhà nước cấp, thường có xu hướng sử
dụng thiếu cân nhắc, không tính toán đến tính hiệu quả của nguồn vốn đầu tư.
Bên cạnh đó, về phía nhà nước, cái mà nhà nước đòi hỏi người sử dụng ngân
sách “hoàn trả” cho nhà nước chính là “kết quả công việc” đã được nhà nước
giao cho. Vì vậy, để đảm bảo rằng việc trả tiền của nhà nước tương xứng với
cái mà nhà nước được nhận, tức là “kết quả công việc” do các đơn vị thụ
hưởng thực hiện thì nhà nước phải thể chế hóa bằng các quy định cụ thể của
pháp luật và phải theo dõi, kiểm tra, đánh giá thường xuyên trong quá trình
thực hiện mới bảo đảm hiệu quả của việc sử dụng NSNN.
2.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được đặc trưng bởi sản xuất hàng
hóa phát triển ở mức cao, sự vận động của nền kinh tế chịu sự tác động mạnh mẽ
của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, v.v.. Các quy luật này
bản thân nó không thể khắc phục được khuyết tật của nền kinh tế thị trường như:
Sự phân hóa giàu nghèo, bất công diễn ra phổ biến trong xã hội; tính cạnh tranh
cao gây ra tình trạng độc quyền; do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến sự lãng phí trong
việc sử dụng tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường. Để điều chỉnh hoạt động kinh
tế khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, nhà nước phải xây
dựng hệ thống pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực đời
sống xã hội. Đối với Lào, pháp luật và thực hiện pháp luật về NSNN là yếu tố
đảm bảo điều kiện vật chất để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình. Chính vì vậy, việc sử dụng NSNN đòi hỏi phải được thể chế hóa thành
luật pháp và được đại diện dân chúng kiểm soát. Thực hiện pháp luật về sử dụng
NSNN có những vai trò quan trọng sau đây:
47
2.1.3.1. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước góp
phần cân đối thu chi của quốc gia, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội
Ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính lớn nhất được Quốc hội quyết
định, thông qua theo một quy trình nhất định. Trong đó dự kiến những nguồn thu
và yêu cầu chi cho tất cả các hoạt động của quốc gia. Thực hiện pháp luật về sử
dụng NSNN phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai minh bạch,
có phân công, phân cấp quản lý gắn liền với quyền hạn, trách nhiệm của các cấp,
các ngành. Các chủ thể quản lý và sử dụng NSNN phải chấp hành, thực hiện.
Chính phủ tổ chức thực hiện kế hoạch ngân sách nhưng phải đặt dưới sự giám
sát trực tiếp của Quốc hội; tương tự như vậy, HĐND giám sát việc thực hiện kế
hoạch ngân sách đối với Ủy ban nhân dân (UBND). Việc kiểm soát đó là
phương thức củng cố đề cao tính dân chủ công khai minh bạch tài chính, góp
phần quản trị tốt nền tài chính công, bảo đảm nuôi dưỡng, ổn định nguồn thu và
thực hiện chi ngân sách hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát.
2.1.3.2. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước góp
phần thực hiện quyền lực của nhân dân trong dự toán, chấp hành và quyết
toán ngân sách nhà nước
Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN phản ánh mối tương quan giữa
quyền lập pháp và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện
ngân sách. Trong pháp luật thực định, quyền lập pháp thuộc về Quốc hội;
quyền hành pháp thuộc về các cơ quan có thẩm quyền như: Chính phủ, các
Bộ, chính quyền địa phương theo nguyên tắc luật định. Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, tập
trung ý chí, nguyện vọng và quyền lực của nhân dân trong phát triển đất nước,
xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Ý chí ấy thể hiện ở dự toán NSNN quy định về sử
dụng NSNN. Sau khi được Quốc hội phê chuẩn về dự toán ngân sách, các cơ
quan nhà nước ở Trung ương, địa phương, các đơn vị dự toán có trách nhiệm
phân bổ và giao dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc đảm bảo đúng
48
dự toán ngân sách được giao, gửi cơ quan tài chính cùng cấp. Cơ quan tài
chính có trách nhiệm kiểm tra, nếu không đúng dự toán ngân sách được giao
thì yêu cầu điều chỉnh lại cho phù hợp chương trình hoạt động tài chính trong
năm của nhà nước.
Như vậy, thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN góp phần thực hiện
NSNN đã được Quốc hội phê duyệt. Điều đó cũng có nghĩa là thực hiện pháp
luật về sử dụng NSNN góp phần thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân đối
với dự toán, phân bổ, sử dụng NSNN có hiệu quả để phát triển kinh tế - xã
hội, phát huy các nguồn lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện đúng
quy định của pháp luật về sử dụng NSNN góp phần thực hiện quyền lực của
nhân dân về NSNN.
2.1.3.3. Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN bảo đảm thực hiện
các chức năng của nhà nước; bảo đảm cho sự tồn tại và hoạt động của bộ
máy nhà nước; phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; bảo đảm an ninh, quốc
phòng, đối ngoại
Thực hiện pháp luật NSNN bảo đảm sự ổn định, phát triển của mọi lĩnh
vực hoạt động của xã hội, bởi vì bất kỳ hoạt động xã hội nào cũng cần có điều
kiện vật chất đảm bảo thực hiện; khi đó, quy định về sử dụng NSNN được coi
như một công cụ phương tiện để thực hiện hoạt động trên từng lĩnh vực đời
sống xã hội.
Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN có vai trò rất quan trọng đối với
hoạt động kinh tế - xã hội, một mặt điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội,
phát triển kinh tế gắn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Sự phát triển
của xã hội đòi hỏi nguồn lực tài chính cho mọi lĩnh vực. Mặc dù việc đầu tư
nguồn nhân lực tài chính có thể và cần phải xác định trọng tâm, trọng điểm,
hướng ưu tiên, có đầu tư lâu dài, chiến lược, có đầu tư cho phát triển trước
mắt, giải quyết yêu cầu bức xúc của yêu cầu ổn định phát triển v.v.. nhưng tất
cả các lĩnh vực từ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối
49
ngoại, phát triển nguồn lực con người, an sinh xã hội v.v.. cần được cân đối,
hài hòa, tối ưu mới bảo đảm thực hiện được các chức năng của nhà nước. Hơn
nữa nhiệm vụ chi thường xuyên cho bộ máy nhà nước bảo đảm sự ổn định
trong tổ chức, hoạt động của nhà nước cũng cần có sự phân bổ và thực hiện
đúng đắn kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước.
Khi phân bổ ngân sách nhà nước Quốc hội đã cân nhắc bảo đảm ngân
sách cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh, quốc phòng, đối ngoại v.v.. một cách cân đối, hài hòa, giao cho nhà
nước thực hiện. Thực hiện đúng đắn các quy định của pháp luật về sử dụng
ngân sách nhà nước không chỉ góp phần thực hiện chiến lược đầu tư đã được
Quốc hội phê duyệt mà còn trực tiếp góp phần bảo đảm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước, sự ổn định trong tổ chức hoạt động của bộ máy
nhà nước, sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng,
đối ngoại.
2.1.3.4. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước góp
phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí, bảo đảm sử dụng ngân sách
công khai, minh bạch, tiết kiệm, có hiệu quả
Sử dụng ngân sách do nhiều chủ thể thực hiện, diễn ra trên tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội. Hơn nữa việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc sử
dụng ngân sách nhà nước diễn ra ở hàng trăm nghìn công việc trên quy mô
toàn quốc không hề đơn giản, dễ dàng và không phải lúc nào cũng thực hiện
được. Chính vì những lý do trên việc sử dụng ngân sách nhà nước rất dễ có
nguy cơ xảy ra tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí trong việc sử
dụng ngân sách nhà nước có thể diễn ra ở tất cả các khâu, từ việc lập dự toán
chi, tổ chức thực hiện chi ngân sách và quyết toán chi ngân sách.
Để chống thất thoát, tham nhũng, lãng phí NSNN, pháp luật về sử dụng
ngân sách nhà nước đã quy định rất chặt chẽ, cụ thể về quy trình, thủ tục trong
tất cả các khâu dự toán, thực hiện, quyết toán NSNN. Thực hiện đầy đủ, đúng
50
đắn các quy định của pháp luật trên những vấn đề này thực sự góp phần
phòng, chống tham nhũng, lãng phí khi sử dụng ngân sách. Tuy nhiên, khi
giám sát, kiểm tra đánh giá việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN cần
chú ý rằng trên hồ sơ, giấy tờ có thể việc sử dụng NSNN rất đúng với quy
định của pháp luật nhưng thực tế lại không phải như vậy. Đây là trường hợp
có thể khai man, khai khống khối lượng công việc thực hiện, hoặc không thực
hiện nhưng vẫn có hồ sơ quyết toán đúng quy định. Các cơ quan, cán bộ giám
sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN
cần đối chiếu hồ sơ với thực tế công việc bảo đảm thực hiện đúng, thực hiện
đầy đủ pháp luật về sử dụng NSNN trên thực tế, góp phần đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí trong lĩnh vực này.
2.2. NỘI DUNG, HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
Nội dung thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước được hiểu
là thực hiện các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN, bao gồm thực hiện
quy định về lập dự toán chi NSNN, chấp hành chi NSNN; kế toán, quyết toán,
kiểm toán NSNN, giám sát, kiểm tra, thanh tra việc sử dụng NSNN bảo đảm
NSNN được sử dụng đúng đắn, tiết kiệm, minh bạch và có hiệu quả.
2.2.1.1. Thực hiện quy định về lập dự toán chi ngân sách nhà nước
Chi NSNN bao gồm chi đầu tư phát triển, chi dự trữ quốc gia, chi
thường xuyên, chi trả nợ lãi, chi viện trợ, các khoản chi khác theo quy định
của pháp luật.
Dự toán chi đầu tư phát triển được lập trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch,
chương trình, dự toán đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; kế hoạch tài
chính 5 năm, kế hoạch đầu tư trung hạn nguồn NSNN; khả năng cân đối các
nguồn lực trong năm dự toán, quy định của pháp luật về đầu tư công, xây
dựng và quy định khác của pháp luật có liên quan.
51
Dự toán chi thường xuyên được lập trên cơ sở nhiệm vụ được giao,
nhiệm vụ được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Dự toán chi NSNN đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo và dạy nghề, khoa
học và công nghệ bảo đảm tỷ lệ theo quy định của pháp luật có liên quan.
Dự toán chi thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia được lập căn
cứ vào danh mục các chương trình, tổng mức kinh phí thực hiện chương trình
mục tiêu quốc gia trong từng giai đoạn do Quốc hội quyết định, mục tiêu, nội
dung, nhiệm vụ và chi tiết các dự án thành phần đối với từng chương trình
mục tiêu quốc gia.
Dự toán chi trả nợ được lập trên cơ sở bảo đảm trả các khoản nợ đến
hạn của năm dự toán NSNN.
Dự toán vay bù đắp bội chi NSNN phải căn cứ vào cân đối NSNN, khả
năng từ nguồn vay, khả năng trả nợ và giới hạn an toàn về nợ.
Các cơ quan, tổ chức, đơn vị, chủ đầu tư sử dụng NSNN phải lập dự
toán chi ngân sách trong phạm vi nhiệm vụ được giao báo cáo cơ quan quản
lý cấp trên để tổng hợp báo cáo cơ quan tài chính cùng cấp. Việc lập, nộp báo
cáo dự toán chi NSNN phải đúng quy định về nội dung và thời hạn pháp luật
NSNN quy định.
2.2.1.2. Thực hiện quy định về chấp hành chi ngân sách nhà nước
* Về phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị sử dụng ngân sách
Sau khi được Chính phủ, UBND giao dự toán ngân sách, các đơn vị dự
toán cấp I ở trung ương và địa phương thực hiện phân bổ và giao dự toán
ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc và đơn vị thuộc ngân
sách cấp dưới (trong trường hợp có ủy quyền thực hiện nhiệm vụ chi của
mình), gửi cơ quan tài chính cùng cấp và kho bạc nhà nước nơi giao dịch để
thực hiện. Cơ quan tài chính cùng cấp thực hiện kiểm tra dự toán đơn vị dự
toán cấp I đã giao cho các đơn vị sử dụng ngân sách.
52
Việc phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị sử dụng ngân sách phải
bảo đảm đúng với dự toán ngân sách được giao cả về tổng mức và chi tiết
theo từng lĩnh vực, nhiệm vụ chi được giao; đúng chính sách, chế độ, tiêu
chuẩn, định mức chi; đúng thời hạn trước ngày 31/12 năm trước.
* Về tạm cấp ngân sách
Trong trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và
phương án phân bổ ngân sách chưa được Quốc hội quyết định, cơ quan tài
chính và cơ quan kho bạc nhà nước các cấp theo chức năng thực hiện tạm cấp
ngân sách cho các nhiệm vụ chi không thể trì hoãn được cho đến khi dự toán
ngân sách được cấp có thẩm quyền quyết định, bao gồm:
- Chi lương và các khoản có tính chất tiền lương
- Chi nghiệp vụ phí và công vụ phí
- Chi bổ sung cân đối cho ngân sách cấp dưới
- Các khoản chi cần thiết khác bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà
nước, trừ các khoản mua sắm trang thiết bị, sửa chữa
- Chi cho dự án chuyển tiếp thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia,
dự án quan trọng quốc gia, các dự án đầu tư chuyển tiếp quan trọng, cấp bách
khác để khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh.
Mức tạm cấp hàng tháng tối đa cho các nhiệm vụ nêu trên không quá
mức chi bình quân 1 tháng của năm trước.
* Về tổ chức chi ngân sách nhà nước
Các nhiệm vụ chi đã bố trí trong dự toán được đảm bảo kinh phí đúng
tiến độ thực hiện và trong phạm vi dự toán được giao. Đối với các dự án đầu
tư và nhiệm vụ chi cấp thiết khác được tạm ứng vốn, kinh phí để thực hiện
các công việc theo hợp đồng đã ký kết.
Căn cứ vào dự toán ngân sách được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm
vụ, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách quyết định chi gửi kho bạc nhà nước
53
để thực hiện. Kho bạc nhà nước kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu cần
thiết theo quy định của pháp luật và thực hiện chi ngân sách khi có đủ các
điều kiện sau đây:
- Đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản phải đáp ứng các điều kiện theo
quy định của pháp luật về đầu tư công và xây dựng.
- Đối với chi thường xuyên phải bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi ngân sách do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
- Đối với chi dự trữ quốc gia phải bảo đảm các điều kiện theo quy định
của pháp luật về dự trữ quốc gia.
- Đối với những gói thầu thuộc các nhiệm vụ, chương trình, dự án cần
phải đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng
hóa, xây lắp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật.
- Đối với những khoản chi cho công việc thực hiện theo phương thức
nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch phải theo quy định về giá hoặc phí và lệ phí
do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
2.2.1.3. Thực hiện quy định về kế toán và quyết toán sử dụng ngân
sách nhà nước
Các khoản chi NSNN phải được hạch toán kế toán, quyết toán đầy đủ,
kịp thời, đúng chế độ. Kế toán và quyết toán NSNN được thực hiện thống
nhất theo chế độ kế toán nhà nước, mục lục NSNN. Các cơ quan tài chính có
quyền tạm đình chỉ chi NSNN của các cơ quan, tổ chức, đơn vị dự toán ngân
sách cùng cấp không chấp hành đúng chế độ báo cáo kế toán, quyết toán, báo
cáo tài chính khác.
Kết thúc năm ngân sách các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân sử
dụng ngân sách nhà nước phải thực hiện khóa sổ kế toán và lập báo cáo
quyết toán NSNN, thời gian chỉnh lý quyết toán NSNN kết thúc vào ngày
31/1 năm sau, các khoản chi bao gồm cả các khoản bổ sung trong năm, đến
54
hết năm ngân sách kể cả thời gian chỉnh lý quyết toán ngân sách mà chưa
thực hiện được hoặc chưa chi hết phải hủy bỏ, trừ một số khoản chi mà
pháp luật quy định.
Số liệu quyết toán NSNN phải chính xác, trung thực, đầy đủ. Số quyết
toán chi NSNN là số chi đã thực thanh toán và số chi đã hạch toán chi NSNN
theo quy định. Số liệu quyết toán ngân sách của đơn vị sử dụng ngân sách,
của chủ đầu tư và của ngân sách các cấp phải được đối chiếu xác nhận với
kho bạc nhà nước nơi giao dịch. Nội dung báo cáo quyết toán NSNN phải
theo đúng các nội dung chi trong dự toán NSNN được giao và theo mục lục
NSNN. Báo cáo quyết toán của đơn vị sử dụng ngân sách phải kèm theo
thuyết minh đánh giá kết quả, hiệu quả chi ngân sách gắn với kết quả thực
hiện nhiệm vụ của đơn vị, địa phương, lĩnh vực, chương trình, mục tiêu được
giao phụ trách.
Đơn vị dự toán cấp trên xét duyệt quyết toán của đơn vị dự toán cấp
dưới trực thuộc. Khi xét duyệt quyết toán cơ quan xét duyệt có quyền đề nghị
kiểm toán nhà nước hoặc thuê đơn vị kiểm toán độc lập theo quy định của
pháp luật kiểm toán, các báo cáo quyết toán của các dự án, chương trình mục
tiêu có quy mô lớn; có quyền yêu cầu đơn vị xuất toán các khoản chi sai chế
độ, chi không đúng dự toán được duyệt; điều chỉnh sai sót hoặc yêu cầu lập
lại báo cáo quyết toán. Kết thúc việc xét duyệt quyết toán năm đơn vị cấp trên
ra thông báo duyệt quyết toán gửi đơn vị dự toán cấp dưới.
2.2.1.4. Thực hiện quy định về giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán việc sử dụng ngân sách nhà nước và xử lý vi phạm
Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm về việc quản lý
sử dụng ngân sách theo dự toán được giao, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm
vụ, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi ngân sách. Ngoài phụ trách công tác tài chính, kế toán tại đơn vị sử
dụng ngân sách có nhiệm vụ thực hiện đúng chế độ quản lý tài chính - ngân
55
sách, chế độ kế toán nhà nước, chế độ kiểm tra nội bộ và trách nhiệm ngăn
ngừa, phát hiện, kiến nghị thủ trưởng đơn vị, cơ quan tài chính cùng cấp xử lý
đối với những trường hợp vi phạm.
Về giám sát sử dụng ngân sách nhà nước
Quốc hội có thẩm quyền giám sát việc thực hiện NSNN, chính sách
cơ bản về tài chính, ngân sách. Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc
thực hiện luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách. Ủy ban Tài chính,
ngân sách của Quốc hội giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc
hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài
chính - ngân sách, giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, giám sát
văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản liên tịch gửi các cơ quan có
thẩm quyền ở trung ương về lĩnh vực tài chính ngân hàng. Các ủy ban khác
của Quốc hội giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tài chính - ngân sách,
giám sát việc thực hiện NSNN và chính sách tài chính - ngân hàng trong
lĩnh vực phụ trách.
Mặt trận Tổ quốc các cấp chủ trì tổ chức việc giám sát ngân sách nhà
nước của cộng đồng, trong đó nội dung giám sát bao gồm:
- Giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý, sử
dụng ngân sách.
- Giám sát việc thực hiện công khai NSNN.
Về kiểm tra, thanh tra sử dụng ngân sách nhà nước:
Theo quy định của pháp luật, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải có
trách nhiệm kiểm tra việc sử dụng ngân sách nhà nước của cơ quan, đơn vị
mình bảo đảm đúng quy định, tiết kiệm, ngăn ngừa tham ô, lãng phí, sử dụng
có hiệu quả ngân sách nhà nước. Thực hiện quy định về sử dụng ngân sách
56
nhà nước phải ngay từ đơn vị cơ sở. Đây là việc khó, vì lâu nay đã hình thành
thói xấu là các cơ quan, đơn vị đều ra sức luận chứng để được phê duyệt càng
nhiều càng tốt, ít người nghĩ đến tiết kiệm công quỹ. Vì vậy phải tự kiểm tra
ngay tại các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách ngay từ khi lập dự toán. Hơn
nữa các cơ quan cấp trên, thủ trưởng cấp trên trực tiếp của cơ quan sử dụng
ngân sách nhà nước cũng có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra việc sử dụng ngân
sách nhà nước của cấp dưới. Kiểm tra, thanh tra là hoạt động thường xuyên,
nằm trong quy trình quản lý nhà nước. Việc kiểm tra, thanh tra sử dụng ngân
sách nhà nước được tiến hành cả trong quá trình sử dụng ngân sách nhà nước
đang diễn ra cũng như kết thúc một công việc có sử dụng ngân sách nhà nước,
hoặc có những việc được tiến hành kiểm tra, thanh tra hàng năm (chẳng hạn
kiểm tra, thanh tra việc chi thường xuyên của các cơ quan, tổ chức có sử dụng
ngân sách nhà nước.
Về kiểm toán việc sử dụng ngân sách nhà nước:
Kiểm toán việc sử dụng ngân sách nhà nước là hoạt động kiểm tra việc
sử dụng ngân sách nhà nước sau khi các hoạt động sử dụng ngân sách nhà
nước đã được quyết toán. Kiểm toán nhằm đối chiếu việc sử dụng ngân sách
nhà nước có đúng với quy định của pháp luật không trên mọi phương diện, kể
cả việc sử dụng đúng quy định nhưng không hiệu quả gây lãng phí ngân sách
nhà nước. Để bảo đảm sử dụng ngân sách nhà nước đúng đắn, có hiệu quả,
nước nào cũng có quy định rất chặt chẽ về hoạt động kiểm toán. Thực hiện
pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước vì thế có nội dung thực hiện quy
định của pháp luật về kiểm toán nhà nước.
Kết quả hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán việc thực
hiện NSNN nếu phát hiện vi phạm tất yếu dẫn đến hậu quả pháp lý tương ứng
vi phạm mà các chủ thể sử dụng NSNN phải gánh chịu. Đó chính là quá trình
xử lý vi phạm pháp luật về sử dụng NSNN. Các biện pháp xử lý vi phạm rất
đa dạng, mức độ cũng rất khác nhau tùy vào mức độ vi phạm, bao gồm trách
57
nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm
hình sự.
2.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
Pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước cũng giống như pháp luật
trong các lĩnh vực khác, được các chủ thể thực hiện thông qua 4 hình thức:
- Tuân thủ pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ
thể pháp luật kiềm chế không thực hiện những hành vi pháp luật cấm.
- Chấp hành pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện các yêu cầu của pháp luật bằng các hành động tích
cực, chủ động, tự giác.
- Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ
thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình sử dụng quy định của pháp
luật thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép để đạt được mục đích của
mình trong quan hệ xã hội tương thích.
- Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù, chỉ do cơ
quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước áp dụng các quy định của pháp
luật ban hành các văn bản, quyết định cá biệt làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước là thực hiện
pháp luật trong một lĩnh vực cụ thể nên hình thức thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực này cũng có những nội dung gắn với quy định về sử dụng ngân
sách nhà nước.
2.2.2.1. Tuân thủ pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
Các chủ thể thực hiện pháp luật ở đây là các cơ quan, tổ chức, đơn vị sử
dụng ngân sách nhà nước. Thực hiện hình thức này các chủ thể pháp luật
kiềm chế không thực hiện các hành vi pháp luật cấm trong lĩnh vực sử dụng
NSNN. Hành vi bị cấm trong sử dụng NSNN tuy có quy định nhưng không
58
nhiều. Từ hoạt động lập dự toán chi, chấp hành, kiểm toán, quyết toán quản
lý, giám sát NSNN có những hành vi bị cấm sau đây:
- Lập dự toán chi khống, không có thực chi.
- Lập dự toán chi vượt tiêu chuẩn, định mức, chế độ, chính sách mà
pháp luật đã quy định.
- Lập quyết toán, báo cáo tài chính sai sự thật, không phù hợp với dự
toán ngân sách được duyệt và danh mục ngân sách.
- Không có hành vi cản trở, gây khó khăn cho hoạt động kiểm tra, kiểm
toán, giám sát sử dụng ngân sách nhà nước.
- Không được lãng phí trong sử dụng NSNN.
2.2.2.2. Chấp hành pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
Đây là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật
bằng hành vi tích cực, chủ động của mình thực hiện các yêu cầu của pháp
luật. Đối với pháp luật về sử dụng NSNN có thể nói đây là hình thức thực
hiện pháp luật điển hình, hầu như các hành vi của tất cả các cơ quan, tổ
chức, đơn vị sử dụng ngân sách đều sử dụng hình thức này. Hầu hết các
quy định của pháp luật về sử dụng NSNN đều yêu cầu chủ thể sử dụng
pháp luật chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về lập dự toán
chi ngân sách, chấp hành ngân sách; kế toán quyết toán, kiểm toán ngân
sách; quản lý giám sát việc thực hiện ngân sách. Mỗi nội dung nêu trên
trong pháp luật về sử dụng ngân sách đều quy định cụ thể các hành vi phải
chấp hành nghiêm chỉnh.
- Lập dự toán chi NSNN: phải căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại; nhiệm vụ cụ thể của cơ quan,
đơn vị, tổ chức; quy định của pháp luật về thuế, phí, lệ phí; phân cấp nhiệm
vụ chi NSNN; văn bản pháp luật của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn xây
dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; kế hoạch tài chính; số kiểm tra dự
toán chi NSNN.
59
Dự toán chi NSNN phải tổng hợp theo từng khoản chi, cơ cấu chi, thể
hiện đầy đủ các khoản chi theo đúng biểu mẫu, thời hạn quy định.
- Chấp hành NSNN: sau khi được phê duyệt dự toán chi NSNN phải
kiểm tra dự toán và phân bổ, giao dự toán NSNN cho các cơ quan, tổ chức,
đơn vị sử dụng NSNN đúng thời hạn trước ngày 31/12 năm trước.
Quy định về chấp hành NSNN yêu cầu các đơn vị quản lý tài chính và
sử dụng NSNN hấp hành đúng quy định về tạm cấp ngân sách, điều chỉnh dự
toán ngân sách, tổ chức chi NSNN, ứng trước dự toán ngân sách năm sau, báo
cáo tình hình chấp hành NSNN; quản lý, sử dụng ngân sách.
- Về kế toán, kiểm toán, quyết toán NSNN: chấp hành NSNN còn yêu
cầu các đơn vị sử dụng NSNN phải chấp hành các quy định về kế toán, kiểm
toán và quyết toán NSNN bảo đảm đúng chế độ kế toán, quyết toán; trong đó
số liệu phải chính xác, trung thực, đầy đủ, phải là số chi đã thực thanh toán, số
chi đã hạch toán chi NSNN; phải được đối chiếu với kho bạc nhà nước; phải
được kiểm toán nhà nước kiểm toán báo cáo quyết toán các dự án, chương
trình, mục tiêu.
- Về quản lý và kiểm tra, giám sát sử dụng NSNN: chấp hành NSNN
đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng NSNN.
2.2.2.3. Sử dụng pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
Thực hiện quyền chủ thể của mình các cơ quan, tổ chức, đơn vị, sử
dụng NSNN sử dụng các quy định của pháp luật trong lập dự toán chi ngân
sách, nhất là các quy định về tiêu chuẩn, định mức, chế độ chính sách v.v.. để
tính toán các khoản chi thuyết trình dự toán chi để đề nghị cơ quan có thẩm
phê duyệt.
Quy trình thực hiện các yêu cầu về chấp hành pháp luật sử dụng
NSNN trong việc phân bổ, và giao dự toán NSNN, tạm cấp NSNN, điều
chỉnh dự toán NSNN, tổ chức chi NSNN, ứng trước dự toán NSNN, thuyết
trình tăng, giảm chi v.v.. cũng là quá trình các chủ thể sử dụng pháp luật sử
dụng các quy định của pháp luật về các vấn đề nêu trên để thuyết trình, báo
60
cáo, bảo vệ các đề nghị của mình đối với cơ quan có thẩm quyền thẩm
định, phê duyệt.
Đối với các hoạt động kế toán, kiểm toán và quyết toán NSNN cũng
tương tự, nghĩa là các chủ thể thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN vừa phải
chấp hành các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN trong các hoạt động
kế toán, kiểm toán, quyết toán NSNN đồng thời vừa sử dụng các quy định của
pháp luật để bảo vệ, thuyết trình các báo cáo kế toán quyết toán NSNN của
mình trước cơ quan có thẩm quyền.
Đố với hoạt động quản lý, giám sát việc thực hiện pháp luật về sử dụng
NSNN các chủ thể có thẩm quyền sử dụng các quy định của pháp luật sử
dụng NSNN về quản lý, giám sát để tiến hành các hoạt động quản lý, giám sát
thực hiện NSNN.
2.2.2.4. Áp dụng pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
Áp dụng pháp luật về sử dụng NSNN là hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật thực hiện thẩm quyền
và ban hành các quyết định về thẩm định, xét duyệt, phê duyệt các báo cáo về
dự toán chi NSNN, về kế toán, kiểm toán, quyết toán sử dụng NSNN, báo cáo
về kiểm tra, giám sát việc sử dụng NSNN cũng như các kết luận, kiến nghị xử
lý các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về sử dụng NSNN.
Để có các kết luận chính xác, đúng quy định của pháp luật về sử dụng
NSNN các chủ thể có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt, báo cáo dự toán chi
NSNN, báo cáo kế toán, kiểm toán, quyết toán, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện pháp luật về sử dụng NSNN ngoài việc áp dụng các quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong quá trình thẩm định, phê duyệt của mình mà
còn phải căn cứ vào các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN để đối
chiếu, xem xét các chủ thể sử dụng NSNN thực hiện có đúng quy định hay
không? Khi phát hiện có sai sót, vi phạm, thực hiện không đúng quy định của
61
pháp luật về sử dụng NSNN mới ban hành các văn bản cá biệt quyết định việc
xử lý các hành vi này.
2.3. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Pháp luật về sử dụng NSNN được ban hành nhưng để bảo đảm thực
hiện các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN, về mặt lý luận, cần có
những điều kiện sau đây:
2.3.1. Điều kiện về chính trị
Điều kiện về chính trị bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN
trước hết là đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng cầm quyền về xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm nhà nước tổ chức, hoạt động
theo pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm tính thượng tôn
pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội. Gắn với yêu cầu này là quan
điểm, chủ trương của Đảng về thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế
XHCN trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như quản lý các
lĩnh vực đời sống xã hội. Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo xây
dựng nhà nước pháp quyền đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng nhà
nước pháp quyền, xây dựng và thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế
XHCN là bảo đảm về chính trị cho việc thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực
nói chung và trong thực hiện pháp luật về NSNN nói riêng. Mặt khác đường
lối, chủ trương, tư tưởng, quan điểm của Đảng về thực hiện pháp luật được
quán triệt, vận dụng trong toàn bộ hệ thống chính trị, nhất là trong bộ máy
nhà nước bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp
luật về sử dụng NSNN nói riêng. Nhận thức của cán bộ, đảng viên trong hệ
thống chính trị, trong bộ máy nhà nước đối với các yêu cầu trong thực hiện
pháp luật về sử dụng NSNN bảo đảm cho pháp luật về sử dụng NSNN được
thực hiện trong thực tế.
62
2.3.2. Điều kiện về pháp lý
Bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN trước hết đòi hỏi pháp
luật về sử dụng NSNN phải là hệ thống hoàn chỉnh, đồng bộ, chất lượng cao,
ổn định tương đối. Yêu cầu hoàn chỉnh, đồng bộ của các quy định về sử dụng
NSNN đòi hỏi phải đầy đủ các quy định liên quan đến sử dụng NSNN bao
gồm các dự toán chi; quy trình, thủ tục thẩm định phê duyệt dự toán chi; quy
định về phân bổ, cấp phép NSNN; về kế toán, kiểm toán, quyết toán NSNN;
về thanh tra, kiểm tra việc sử dụng NSNN. Ngoài ra còn các yêu cầu sử dụng
NSNN tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát; sử dụng có hiệu quả NSNN v.v..
Hơn nữa, yêu cầu này còn đòi hỏi trong các quy định về sử dụng NSNN
không chồng chéo, mâu thuẫn gây khó khăn trong quá trình thực hiện.
Yêu cầu chất lượng cao của pháp luật về sử dụng NSNN đòi hỏi các
quy định về sử dụng NSNN phải cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ. Chẳng hạn các quy
trình, thủ tục thẩm định, phê duyệt và dự toán chi phải quy định rõ cấp nào có
thẩm quyền phê duyệt, thời hạn phê duyệt, các nội dung cần có trong dự toán
v.v.. Yêu cầu sử dụng NSNN phải tiết kiệm, chống lãng phí phải có các tiêu
chí cụ thể để có thể đánh giá việc sử dụng có tiết kiệm không? Có lãng phí
không? Yêu cầu sử dụng NSNN có hiệu quả cũng cần có những tiêu chí cụ
thể mới có căn cứ để đánh giá.
Yêu cầu ổn định tương đối của pháp luật về sử dụng NSNN đòi hỏi các
quy định của pháp luật về sử dụng NSNN phải ổn định trong thời hạn đủ lớn
để thực hiện đồng bộ, thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Đành rằng đời sống
kinh tế - xã hội luôn luôn phát triển, pháp luật luôn luôn phải điều chỉnh, sửa
đổi, bổ sung phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng nếu cứ điều
chỉnh liên tục trong một thời hạn quá ngắn, không ổn định cũng sẽ gây nhiều
khó khăn cho việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.
Điều kiện về pháp lý trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN còn
đòi hỏi phải có hướng dẫn cụ thể đối với từng hoạt động trong sử dụng NSNN
63
bởi vì pháp luật về sử dụng NSNN không thể bao quát hết các tình huống, các
sự kiện, các công việc phát sinh trong thực tế.Trong những trường hợp này
các chủ thể sử dụng NSNN không thể tùy tiện vận dụng. Để có cơ sở thực
hiện phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể mới bảo đảm thực hiện pháp luật
về sử dụng NSNN đồng bộ, thống nhất trong thực tiễn.
2.3.3. Điều kiện về năng lực, phẩm chất của cán bộ, đảng viên trong
hệ thống chính trị
Chủ thể sử dụng NSNN là các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống
chính trị, vì thế việc sử dụng NSNN như thế nào phụ thuộc vào năng lực,
phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên làm việc trong các cơ
quan này.
Đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên làm việc trong hệ thống chính
trị có năng lực chuyên môn tốt sẽ nắm vững được quy định của pháp luật về
sử dụng NSNN đối với từng hoạt động đòi hỏi có chuyên môn nghiệp vụ;
việc hoạch định, xây dựng dự án chi ngân sách sẽ phù hợp hơn với yêu cầu
của pháp luật, với thực tế, góp phần sử dụng NSNN hiệu quả hơn. Hơn nữa,
nếu có năng lực thì việc thẩm định, phê duyệt, kiểm tra, thanh toán, kiểm
toán, kế toán, quyết toán việc sử dụng NSNN cũng chính xác hơn, đầy đủ
hơn, không phải làm đi làm lại nhiều lần, bảo đảm độ tin cậy cao trong các
hoạt động này.
Phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên
trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng NSNN cũng là điều kiện cơ bản
bảo đảm cho các quy định của pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước được
thực hiện tốt. Phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức,
đảng viên bảo đảm cho các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN được
thực hiện đúng đắn, chính xác, phòng, chống được các hành vi gian dối, kê
khai khống để trục lợi hoặc rút ruột ngân sách, tham ô tài sản của nhà nước và
nhân dân, sử dụng ngân sách tùy tiện, lãng phí v.v.. Phẩm chất chính trị, đạo
64
đức của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên trong các cơ quan, tổ chức, đơn
vị sử dụng NSNN không những bảo đảm cho họ thực hiện đúng quy định của
pháp luật về sử dụng NSNN mà còn bảo đảm cho họ có dũng khí, bản lĩnh
đấu tranh với những hành vi sai trái trong sử dụng NSNN.
2.3.4. Điều kiện về kinh tế
Điều kiện về kinh tế trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là cơ
sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí phục vụ cho các hoạt động sử dụng NSNN,
đó là các hoạt động dự toán chi, thẩm định, xét duyệt, dự toán chi NSNN,
phân bổ NSNN; kế toán, kiểm toán, quyết toán NSNN; quản lý, kiểm tra,
thanh tra việc sử dụng NSNN. Những hoạt động này đòi hỏi nhà nước phải
trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, kinh phí đủ bảo đảm cho các
hoạt động này nhanh chóng, chính xác, đúng quy định của pháp luật.
Thực tế ở CHDCND Lào những năm qua cho thấy, có lúc, có nơi các
hoạt động này còn làm thủ công, các dữ liệu không đáng tin cậy, số liệu còn
vênh nhau v.v.. mà nguyên nhân một phần là do trang thiết bị còn thiếu, chưa
kết nối gắn các cơ quan chức năng với nhau, kinh phí phục vụ các hoạt động
này còn hạn hẹp, không tránh khỏi ảnh hưởng đến chất lượng của việc thực
hiện quy định của pháp luật về sử dụng NSNN.
2.3.5. Điều kiện về tổ chức thực hiện pháp luật về sử dụng ngân
sách nhà nước
Trước hết, tổ chức thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN đòi hỏi phải
tiến hành các hoạt động phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về sử dụng
NSNN cho các chủ thể sử dụng NSNN. Thực tế cho thấy, không phải ai cũng
nắm vững các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN trong điều kiện các
quy định này lại thường xuyên có những điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung. Tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về sử dụng NSNN không chỉ bảo đảm
cho các chủ thể nắm vững pháp luật để thực hiện đúng các yêu cầu của pháp
luật trên lĩnh vực này mà còn giáo dục ý thức thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, sử dụng có hiệu quả NSNN, coi NSNN là tài sản của đất nước, của nhân
65
dân, phải giữ gìn, bảo vệ, không được trục lợi, không được coi là "tiền chùa",
tùy tiện trong sử dụng.
Tổ chức thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN đòi hỏi các chủ thể sử
dụng NSNN phải thường xuyên báo cáo về tình hình thực hiện NSNN để cơ
quan có thẩm quyền kịp thời chấn chỉnh hoạt động này bảo đảm cho việc sử
dụng NSNN đúng quy định của pháp luật, tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí.
Tổ chức thực hiện pháp luật còn đòi hỏi các chủ thể thực hiện pháp luật
về sử dụng NSNN phải định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện pháp luật trên
lĩnh vực này, qua đó rút ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân, xác định
các bài học kinh nghiệm để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi hoạt động thực hiện
pháp luật về sử dụng NSNN.
Trong tổ chức thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN nếu bảo đảm cho
các hoạt động nêu trên được thực hiện một cách nề nếp chắc chắn sẽ góp phần
bảo đảm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này một cách nghiêm chỉnh, đúng
đắn, theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
2.4. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO ĐỐI VỚI CỘNG HÒA DÂN
CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Nghiên cứu sinh lựa chọn một số nội dung thực hiện pháp luật về sử
dụng NSNN của Cộng hòa Pháp và Việt Nam, rút ra các giá trị tham khảo cho
CHDCND Lào bởi vì pháp luật về sử dụng NSNN của Cộng hòa Pháp quy
định rất cụ thể và tổ chức thực hiện theo quy trình chặt chẽ; lựa chọn Việt
Nam vì Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với CHDCND Lào, có nhiều giá
trị có thể tham khảo vận dụng trong lĩnh vực này ở nước CHDCND Lào.
2.4.1. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước của một
số nước
2.4.1.1. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở Cộng
hòa Pháp
Tại Cộng hòa Pháp, từ năm 1982 sau khi Luật về “Quyền hạn và tính tự
chủ của các cấp xã, tỉnh, vùng” ra đời đã cho phép các cấp chính quyền địa
66
phương có tư cách pháp nhân riêng, tách biệt với tư cách pháp nhân của nhà
nước. Các chính quyền địa phương này có thẩm quyền riêng trên địa bàn của
mình và tự mình điều hành một cách độc lập, không chịu sự chỉ đạo từ trên
xuống của nhà nước về quản lý ngân sách. Do vậy, ngân sách của Cộng hòa
Pháp được phân thành 4 cấp phù hợp với cơ cấu tổ chức hành chính. Tuy các
cấp ngân sách có tính độc lập tương đối nhưng về giác độ quản lý sử dụng
ngân sách, đặc biệt là kiểm soát chi ngân sách đều phải chấp hành một cơ chế
thống nhất theo quy định của luật. Năm 2002, Quốc hội Pháp đã thông qua
Đạo luật Tài chính công (tức Luật NSNN) và có hiệu lực từ năm 2006; theo
đó NSNN Pháp được phân thành các chương trình, do mỗi Bộ trưởng chuyên
ngành làm chủ nhiệm hay một số chương trình với quy trình thực hiện pháp
luật về sử dụng ngân sách như sau:
Thứ nhất, xây dựng và phê chuẩn dự toán thu chi ngân sách.
Sau khi Nghị viện đã phê chuẩn dự toán thu chi ngân sách được coi như
một đạo luật về ngân sách mà Chính phủ và các thành viên Chính phủ phải có
trách nhiệm chấp hành. Mọi việc sửa đổi dự toán đều phải trải qua một quá
trình theo các trình tự quy định của luật điều chỉnh. Dự toán sử dụng ngân
sách được Nghị viện thông qua là một dự toán chi tiết đến từng mục chi theo
từng Bộ chi tiêu. Vì vậy, không còn việc Chính phủ phân bổ dự toán cho các
Bộ và các địa phương như ở Lào. Chỉ còn việc ủy quyền kinh phí của Bộ
trưởng Bộ chi tiêu (chuẩn chi viên cấp 1) cho các tỉnh trưởng, vùng trưởng
(chuẩn chi viên cấp 2); công việc này diễn ra trong đầu năm. Để có một dự
toán đầy đủ, chi tiết như vậy, dự toán sử dụng ngân sách phải trải qua một quá
trình chuẩn bị khá công phu. Trước khi trình Nghị viện thông qua, dự toán
ngân sách được chuẩn bị kỹ lưỡng trong một thời gian khá dài, ngay từ tháng
giêng năm trước (năm ngân sách có hiệu lực). Như vậy, có nghĩa là kể cả thời
gian thảo luận và phê chuẩn ở Nghị viện, dự toán ngân sách được chuẩn bị
trong 12 tháng.
Trong khoảng thời gian từ tháng giêng đến tháng 3 năm trước - năm
ngân sách có hiệu lực, cần phải làm sáng tỏ các nhu cầu quản lý hành chính
67
cũng như các tham vọng của Bộ trưởng các Bộ chi tiêu. Sau đó, Bộ trưởng Bộ
Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ các giải pháp cơ bản về thu - chi và mức
thâm hụt ngân sách. Theo đó, Thủ tướng thành lập một số ủy ban liên Bộ để
nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính trình bày báo cáo “Triển vọng ngân sách” năm
tới. Thủ tướng kiểm tra những quyết định lớn về chi tiêu và thuế trong dự
thảo ngân sách, sau đó quyết định các vấn đề chủ yếu của chính sách ngân
sách. Hàng năm, Thủ tướng có “Thư công tác gửi các Bộ trưởng”, trong đó đề
cập tới một số nội dung như định hướng chiến lược cơ bản về ngân sách năm
tới; hướng dẫn Bộ trưởng các Bộ chuẩn bị ngân sách cho Bộ mình; nhắc lại
các chỉ tiêu kinh tế lớn và các dự báo về sự biến động của chúng; thời hạn
cuối cùng các Bộ phải nộp bản đề xuất ngân sách của mình tại Bộ Tài chính.
Ngân sách sẽ được đặt trong một môi trường kinh tế vĩ mô cụ thể. Các Bộ
trưởng cũng sẽ tìm thấy trong thư các chỉ dẫn cần thiết về việc chuẩn bị ngân
sách của mình, đặc biệt là mức biến động số khoản chi.
Đến đầu tháng 7, Bộ trưởng Bộ Tài chính sẽ mời từng Bộ trưởng có
liên quan đến để giải quyết các vấn đề mà cấp dưới chưa thỏa thuận được với
nhau. Sau giai đoạn này, chỉ có những điểm bất đồng mang tính chiến lược thì
mới được trình lên Thủ tướng để xử lý. Trong hai tháng 8 và tháng 9, thông
qua hội thảo ngân sách giai đoạn 2, dự thảo Luật Tài chính (dự toán NSNN)
sẽ được hiệu đính lần cuối cùng và được Hội đồng Bộ trưởng thông qua vào
cuối tháng 9 để trình Nghị viện phê chuẩn.
Nghị viện có 70 ngày để bỏ phiếu phê chuẩn ngân sách. Nếu quá thời
hạn trên vẫn không có ý kiến trả lời chính thức của Nghị viện, Chính phủ
được quyền lấy lại dự luật đã trình và triển khai các nội dung của dự án luật
bằng các văn bản pháp quy của mình. Tuy nhiên, trên thực tế điều này chưa
bao giờ xảy ra.
Thứ hai, chấp hành Luật Tài chính thường niên.
Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách ở Cộng hòa Pháp quy định
toàn bộ quá trình chấp hành chi ngân sách phải tôn trọng hai nguyên tắc lớn:
68
1.Đảm bảo sự tách biệt giữa chức năng chuẩn chi và chức năng kế toán.
2.Đảm bảo gắn trách nhiệm cá nhân và vật chất của các kế toán viên Nhà
nước với công vụ họ được giao đảm trách. Các nguyên tắc này phải được tuân
thủ và thực hiện trong suốt quá trình chấp hành sử dụng ngân sách nhà nước.
Theo pháp luật Pháp, các đối tượng tham gia quá trình thực hiện sử dụng ngân
sách bao gồm:
+ Chuẩn chi viên: Là người nắm giữ một khoản ngân sách, có trách
nhiệm thay mặt Nhà nước cam kết về mặt pháp lý đối với người thứ ba, tính
toán các khoản chi và ra lệnh chi trả cho kế toán viên thực hiện. Tại Pháp, do
có sự ủy nhiệm quyền lực của các Bộ trưởng cho các tỉnh trưởng, vùng
trưởng, nên có sự chuyển giao quyền chuẩn chi của các Bộ trưởng cho các
tỉnh trưởng, vùng trưởng. Vì vậy, xuất hiện khái niệm chuẩn chi viên cấp 1 và
chuẩn chi viên cấp 2.
+ Kế toán viên: Kế toán viên được đặt dưới quyền quản lý của Tổng
cục kế toán công thuộc Bộ Tài chính (tương đương hệ thống KBNN ở Lào),
là khoản chi. Tính hợp pháp ở đây phải được hiểu là kiểm tra tính hợp lệ, hợp
pháp của các văn bản, chứng từ theo quy định của kế toán và Luật ngân sách
hiện hành, kế toán viên không phải là người đánh giá sự cần thiết của các
khoản chi. Kế toán viên có đặc trưng phải gánh chịu trách nhiệm cá nhân và
trách nhiệm vật chất về các nghiệp vụ thu chi mà họ đã kiểm soát và thực
hiện. Trách nhiệm cá nhân và vật chất của kiểm toán viên được quy định bởi
pháp luật. Mọi sai sót trong quá trình quản lý như chi tiêu không có giải trình,
các khoản thu không thu được hoặc thụt quỹ, v.v.. sẽ bị phán xét và ràng buộc
trách nhiệm cá nhân bởi Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc bởi Thẩm kế viện (Tòa
án kế toán ở Pháp). Chính vì vậy, ở Pháp các kế toán viên phải ký quỹ hoặc
thế chấp bất động sản hợp pháp của họ để đảm bảo năng lực thực thi trách
nhiệm pháp lý khi phát sinh.
+ Kiểm soát viên tài chính: Kiểm soát chi do kế toán viên thực hiện
xảy ra vào giai đoạn cuối của quy trình thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN,
69
tức là vào thời điểm chi trả. Vào thời điểm này đã tồn tại cam kết pháp lý giữa
một bên là đại diện Nhà nước và một bên là các đối tượng cung cấp hàng hóa
dịch vụ. Để hạn chế sai sót trong quá trình thanh toán, chi trả cần có một cơ
chế kiểm soát giai đoạn đầu trước khi thực hiện các cam kết chi. Các cơ chế
này được gọi là cơ chế kiểm soát tài chính (hay còn gọi là kiểm soát cam kết
chi) và những người thực thi nhiệm vụ đó được gọi là các kiểm soát viên tài
chính. Kiểm soát viên tài chính ở cấp Trung ương do Bộ trưởng Bộ Tài chính
bổ nhiệm và đặt tại các Bộ chi tiêu; ở cấp địa phương được giao cho giám đốc
các kho bạc. Các kiểm soát viên tài chính chỉ trực thuộc Bộ trưởng Bộ Tài
chính mà không trực thuộc các Bộ, đơn vị chi tiêu; điều đó đem lại cho họ
thẩm quyền và sự độc lập trong việc kiểm soát trước khi các chuẩn chi viên
thực hiện các khoản chi.
Thứ ba, quy trình thực hiện một khoản chi ngân sách.
Để thực hiện một khoản chi ngân sách, pháp luật đòi hỏi phải trải qua 4
giai đoạn như sau:
+ Giai đoạn cam kết chi: Đây là giai đoạn quan trọng mà Nhà nước
cam kết thanh toán, chi trả cho người cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Giai đoạn
này bao gồm 2 bước: Bước cam kết về pháp lý (giao thầu hoặc chỉ định người
cung cấp hàng hóa và dịch vụ theo luật thầu công) và bước cam kết về kế toán
(đảm bảo Nhà nước luôn đủ khả năng thanh toán cho các hóa đơn), trong đó
cam kết về kế toán luôn có ý nghĩa quan trọng, nó đảm bảo cho cam kết pháp
lý được thực hiện. Kiểm soát viên tài chính sẽ kiểm soát quá trình cam kết.
+ Giai đoạn kiểm tra giao dịch đã thực sự hoàn thành chưa và tính
toán số tiền phải trả: Đây là giai đoạn quyết định việc thanh toán chi trả của
nhà nước, vì ở Pháp có một nguyên tắc là Nhà nước chỉ thanh toán khi giao
dịch đã được hoàn thành.
+ Giai đoạn ra lệnh chi: Giai đoạn này chuẩn chi viên ra lệnh chi cho
kế toán kho bạc thực hiện việc thanh toán chi trả.
70
+ Giai đoạn thanh toán, chi trả của kế toán: Giai đoạn này kế toán sẽ
thực hiện việc xuất quỹ theo lệnh của chuẩn chi viên sau khi đã thực hiện
kiểm tra thẩm quyền của người chuẩn chi; phân bổ mục lục ngân sách; có đủ
kinh phí để thanh toán không; kiểm tra tính hợp thức (dịch vụ đã hoàn thành
chưa? tính toán số học có đúng không? tính hợp pháp của chứng từ? đã được
sự đồng ý của kiểm soát viên tài chính chưa?, v.v..). Về nguyên tắc, kế toán
viên tuyệt đối không được thanh toán khi không đủ kinh phí thanh toán hoặc
dịch vụ chưa hoàn thành; hoặc thanh toán không đúng chủ nợ; không có sự
chấp thuận của kiểm soát viên tài chính.
Thứ tư, kiểm tra và quyết toán sử dụng ngân sách nhà nước.
Toàn bộ việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN tại Cộng hòa Pháp
được kiểm tra, kiểm soát theo một cơ chế chặt chẽ và theo một quy trình khép
kín trước khi chi ngân sách và sau khi đã chi ngân sách, cụ thể là:
+ Kiểm tra trước khi chi NSNN: được thực hiện bởi các kiểm soát viên
tài chính ở Trung ương và ở địa phương nhằm mục đích đảm bảo việc tôn
trọng các quyết định về ngân sách của Nghị viện và tránh việc sử dụng kinh
phí, tài sản công sai mục đích.
+ Kiểm tra trong khi sử dụng ngân sách: được thực hiện bởi công tác
kiểm tra của kế toán viên đối với việc chấp hành các nguyên tắc về kế toán
công, tính hợp pháp của các hồ sơ và tính chính xác của các phép tính, Ngoài
ra, tổng thanh tra tài chính còn thực hiện kiểm tra, thanh tra thường xuyên và
đột xuất theo chức năng, nhiệm vụ của mình là kiểm tra các đơn vị thuộc Bộ
Tài chính đóng tại địa phương, các chuẩn chi viên cấp 2 và các tổ chức sử
dụng quỹ ngân sách.
+ Kiểm tra sau khi sử dụng ngân sách: được thực hiện bởi Tòa thẩm kế
và Tòa kỷ luật ngân sách và tài chính. Nhiệm vụ quan trọng nhất của Tòa
thẩm kế là soạn thảo và gửi đến hai Viện báo cáo chi tiết tình hình chấp hành
71
Luật tài chính để cung cấp tư liệu cho hai Viện căn cứ phê chuẩn Luật quyết
toán ngân sách năm đó.
+ Quyết toán ngân sách sau khi được Nghị viện phê chuẩn: cũng được
coi là một đạo luật và được gọi là Luật quyết toán. Luật quyết toán chính thức
xác định số thu, số chi NSNN cũng như số bội chi hoặc bội thu của ngân sách
năm đó. Chính phủ có trách nhiệm trình Nghị viện dự án Luật quyết toán
muộn nhất vào ngày 31/12 năm sau. Như vậy, kể từ khi xây dựng Luật Tài
chính ban đầu tới khi trình dự án Luật quyết toán là một quá trình liên tục
diễn ra trong suốt hai năm.
2.4.1.2. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở
Việt Nam
Sau khi giành độc lập dân tộc, Việt Nam đã lựa chọn xây dựng đất
nước theo con đường XNCN. Tuy nhiên công cuộc tái thiết đất nước gặp rất
nhiều khó khăn, nhưng bằng tinh thần, ý chí cách mạng kiên cường dưới sự
lãnh đạo của những người cộng sản, nhân dân Việt Nam đã giành được những
thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, từng bước khẳng định vị thế của
mình trên trường quốc tế. Một trong những nhân tố làm nên thành công đó
phải kể đến cải cách tài chính công nói chung và thực hiện pháp luật về sử
dụng NSNN nói riêng. Dưới đây là một số kinh nghiệm mà Lào cần tham
khảo của Việt Nam trên con đường đổi mới, tích cực chủ động hội nhập với
nền kinh tế tài chính khu vực và thế giới:
Thứ nhất, ban hành hệ thống pháp luật về thu, chi NSNN nhằm thực
hiện có hiệu quả sử dụng NSNN: Trong những năm gần đây, nhằm đáp ứng
yêu cầu đổi mới xã hội trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, nhà nước
Việt Nam đã không ngừng cải cách hệ thống pháp luật, trong đó có pháp
luật về tài chính ngân sách. Giống như đối với các hoạt động khác, trong
lĩnh vực tài chính công, cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm soát sử dụng
NSNN ở Việt Nam hiện nay bao gồm Luật NSNN năm 2002 và các văn
bản dưới luật hướng dẫn thực hiện Luật NSNN như Nghị định số
72
60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật NSNN, Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 60/2003/NĐ-CP,
Thông tư số 79/2003/TT-BTC ngày 13/8/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn
chế độ quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN. Hệ
thống văn bản pháp lý này đã thể hiện những nội dung quan trọng, chủ yếu,
cần điều chỉnh trong lĩnh vực sử dụng NSNN. Tại điểm 3 phần I thông tư
số 79/2003/TT-BTC, để được thanh toán chi trả các khoản phải có trong dự
toán NSNN được phân bổ, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có
thẩm quyền quy định và đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN hoặc
người được ủy quyền quyết định chi.
Thứ hai, thực hiện qui trình cấp phát, thanh toán các khoản NSNN:
Theo quy định của các đơn vị sử dụng ngân sách và các tổ chức được NSNN
hỗ trợ thường xuyên phải mở tài khoản tại KBNN, chịu sự kiểm tra của cơ
quan tài chính và KBNN trong quá trình thanh toán sử dụng kinh phí. Đối
với các cơ quan tài chính phải có trách nhiệm thẩm tra việc phân bổ dự toán
ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách vì sau khi được Thủ tướng
Chính phủ hoặc UBND giao sự toán ngân sách, các cơ quan nhà nước ở
Trung ương, địa phương, các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc, cơ quan
tài chính có trách nhiệm kiểm tra phương án phân bổ và giao dự toán của
đơn vị dự toán cấp trên cho các đơn vị dự toán cấp dưới. Nếu không đúng dự
toán ngân sách được giao, không đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định
mức thì yêu cầu điều chỉnh lại. Cơ quan tài chính còn kiểm tra, giám sát việc
thực hiện chi tiêu sử dụng ngân sách ở các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân
sách. Trường hợp phát hiện các khoản chi vượt nguồn cho phép, sai chính
sách, chế độ hoặc đơn vị không chấp hành chế độ báo cáo thì có quyền yêu
cầu KBNN tạm ngừng thanh toán. Trường hợp phát hiện việc chấp hành dự
toán của đơn vị sử dụng ngân sách chậm hoặc không phù hợp làm ảnh
hưởng đến kết quả, nhiệm vụ thì có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước và
đơn vị dự toán cấp trên có giải pháp kịp thời hoặc điều chỉnh nhiệm vụ, dự
73
toán chi của cơ quan đơn vị trực thuộc để bảo đảm thực hiện ngân sách theo
mục tiêu và tiến độ quy định.
Đối với KBNN - cơ quan có chức năng thực hiện việc thanh toán, chi
trả các khoản chi NSNN và quản lý quỹ NSNN. Vì vậy, KBNN vừa có quyền
vừa có trách nhiệm phải kiểm soát chặt chẽ mọi khoản chi NSNN, đặc biệt là
các khoản chi thường xuyên. Trước khi thanh toán, chi trả KBNN có trách
nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ chi và nếu có đủ các điều kiện chi theo
quy định của pháp luật thì thanh toán kịp thời các khoản chi ngân sách đó cho
người được hưởng thụ; đồng thời, phối hợp tham gia cùng với cơ quan tài
chính, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm tra tình hình
sử dụng kinh phí NSNN và xác nhận số thực chi NSNN qua KBNN của các
đơn vị sử dụng NSNN. Để tăng cường vai trò của KBNN trong kiểm soát chi
NSNN, hiện nay ở Việt Nam đã bước đầu triển khai thực hiện cơ chế “chi
trực tiếp qua KBNN” (là phương thức thanh toán chi trả khá rõ ràng, minh
bạch, hợp lý với sự tham gia của 3 bên: Đơn vị sử dụng NSNN; KBNN; tổ
chức hoặc cá nhân được nhận các khoản tiền do đơn vị sử dụng NSNN thanh
toán chi trả) và coi đây như một nguyên tắc trong quản lý sử dụng NSNN.
Bên cạnh đó, nếu phát hiện các khoản chi sai, KBNN phải thu hồi giảm chi
NSNN căn cứ vào quyết định của cơ quan tài chính hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Mọi khoản chi phải được hoạch toán bằng Việt Nam đồng theo
từng niên độ ngân sách, cấp ngân sách và mục lục ngân sách. Đối với các
khoản chi bằng ngoại tệ, hiện vật, ngày công lao động thì phải được quy đổi
và hạch toán bằng đồng Việt Nam theo tỷ giá ngoại tệ, giá hiện vật, ngày công
lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Thứ ba, phương thức cấp phát, thanh toán sử dụng ngân sách nhà nước:
“Phương thức cấp phát, thanh toán kinh phí ngân sách nói chung và thanh toán
chi thường xuyên nói riêng được hiểu là những cách thức, biện pháp mà nhà
nước sử dụng để chuyển giao nguồn kinh phí từ NSNN cho các đối tượng sử
dụng ngân sách theo đúng yêu cầu định trước” [17, tr.164].
74
Phương thức chi trả, thanh toán theo dự toán kinh phí từ KBNN được
áp dụng đối với các khoản chi thường xuyên của các đơn vị thường xuyên
sử dụng kinh phí từ NSNN để thực hiện nhiệm vụ được giao, ví dụ: Các
đơn vị sự nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội -
nghề nghiệp được NSNN hỗ trợ kinh phí thường xuyên. Căn cứ vào nhu
cầu tiêu dùng hàng quý đã đăng ký với KBNN và khi có nhu cầu thực tế,
đại diện hợp pháp của đơn vị sử dụng ngân sách lập “giấy rút dự toán
NSNN” kèm theo các hồ sơ thanh toán, yêu cầu KBNN nơi giao dịch tiến
hành thanh toán, chi trả. Trên cơ sở đó, KBNN tiến hành kiểm tra, kiểm
soát hồ sơ thanh toán của đơn vị sử dụng NSNN theo quy định. Khi thực
hiện thanh toán theo dự toán đã được phê chuẩn, KBNN chỉ thực hiện việc
thanh toán theo đúng mục chi thực tế trong phạm vi các nhóm mục đã được
giao trong dự toán NSNN.
Phương thức chi trả, thanh toán bằng lệnh chi tiền được áp dụng đối với
các chủ thể không có quan hệ thường xuyên với NSNN trong việc nhận kinh
phí, ví dụ: Chi cấp vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội;
hoặc các khoản chi mang tính đặc thù, phát sinh từng lần như chi bổ sung từ
ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới, chi trả nợ, chi viện trợ... Lệnh chi
tiền là quyết định chi do cơ quan tài chính phát hành, gửi cho KBNN với nội
dung yêu cầu KBNN chi trả, thanh toán một số tiền cụ thể cho đơn vị sử dụng
ngân sách theo đúng nội dung của lệnh chi. Cơ quan tài chính chịu trách
nhiệm kiểm tra, kiểm soát nội dung, tính chất của từng khoản chi, đảm bảo
các điều kiện cấp phát NSNN theo chế độ quy định. KBNN thực hiện xuất
quỹ NSNN và thanh toán cho đơn vị sử dụng NSNN theo nội dung ghi trong
lệnh chi tiền của cơ quan tài chính.
Thực tiễn thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã điều hành thu, chi
NSNN linh hoạt và phù hợp với kinh tế thị trường. Nhà nước đã có nhiều chủ
trương rõ rệt trong kiểm soát thâm hụt ở mức hợp lý, việc mở rộng giới hạn
sử dụng ngân sách được tính toán trong tương quan với số thu của nền kinh
tế. Nhà nước có thể chủ động điều hành chi lớn hơn thu (thâm hụt chủ động)
75
trong một khoảng thời gian nhất định, nếu thấy đem lại hiệu quả cho nền kinh
tế. Những năm gần đây, Quốc hội Việt Nam khống chế mức thâm hụt không
lớn hơn 5% GDP.
Trên đây là những bài học được rút ra từ quá trình đổi mới đất nước
trong 32 năm qua ở Việt Nam, nó sẽ giúp ích cho Đảng và Nhà nước Lào
trong xây dựng và hoàn thiện hơn Luật Ngân sách nhà nước.
2.4.2. Các giá trị tham khảo đối với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
Qua nghiên cứu kinh nghiệm thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách
ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam, tác giả có thể rút ra một số giá trị tham khảo
đối với CHDCND Lào như sau:
Một là, quy định cụ thể và bảo đảm sự tuân thủ nghiêm ngặt quy trình,
trình tự lập, thảo luận và phê duyệt dự toán NSNN từ cấp cơ sở đến khi phê
chuẩn của cơ quan lập pháp. Quỹ thời gian dành cho công tác chuẩn bị ngân
sách của các nước này tương đối dài, vì vậy mà dự toán ngân sách sau khi
được phê chuẩn là một dự toán chi tiết các khoản thu, chi và phù hợp với nhu
cầu sử dụng ngân sách thực tế của các đơn vị.
Hai là, thực hiện kiểm tra trước, trong và sau khi sử dụng NSNN được
thực hiện bởi một quy trình khép kín theo một cơ chế kiểm tra, kiểm soát chặt
chẽ trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cá nhân và từng bộ
phận tham gia vào quá trình kiểm soát các đơn vị sử dụng ngân sách. Vai trò,
nhiệm vụ, trách nhiệm của các đơn vị sử dụng NSNN, Bộ Tài chính, Chính
phủ và cơ quan lập pháp được phân định rõ ràng và thể chế hóa thành luật.
Ba là, trong quản lý sử dụng ngân sách, mở rộng phương thức quản lý
theo đầu ra. Lấy kết quả đầu ra của các chương trình, khoản chi tiêu để đánh
giá hiệu quả. Mô hình này có thể áp dụng đối với một số chương trình, khoản
chi tiêu của Lào trong thời gian tới khi thực hiện cải cách mạnh mẽ về quản lý
tài chính công.
Bốn là, giao nhiệm vụ quyết toán quỹ ngân sách nhà nước cho cơ quan kho
bạc đảm nhận; đồng thời, thiết lập cơ quan kiểm toán nhà nước (một chức năng
76
của kho bạc nhà nước) để thực hiện vai trò tổng hợp số liệu, theo dõi tình hình tài
sản công; kiểm toán, thanh tra các khoản chi ngân sách nhà nước trong toàn bộ
nền kinh tế (kể cả trong hệ thống kho bạc và các đơn vị sử dụng ngân sách).
Năm là, tăng cường phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật gắn với
tăng cường kỷ luật thực hiện pháp luật để nâng cao tinh thần tự giác chấp
hành chính sách thu, chi ngân sách của nhà nước. Kinh nghiệm của các nước
áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế cho thấy ý thức của người dân quyết định
đến kết quả thu thuế. Nhưng người dân chỉ tự giác nộp thuế khi họ nhận thức
được tính hợp lý của thuế cũng như tính hợp lý của sử dụng NSNN.
Sáu là, Đào tạo, giáo dục nâng cao trình độ, đạo đức và thái độ văn
minh của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy khi sử dụng ngân sách nhà
nước. Kinh nghiệm của các nước nêu trên cho thấy, cán bộ quản lý trong các
cơ quan thuế, kho bạc nhà nước và các cơ quan liên quan quyết định hiệu quả
của chi ngân sách nhà nước.
Bảy là, ứng dụng khoa học công nghệ vào trong công tác thu, chi ngân
sách nhà nước nhằm hiện đại hóa công tác quản lý sử dụng ngân sách nhà
nước. Các nước Pháp và Việt Nam đều áp dụng công nghệ thông tin vào quản
lý chi ngân sách nhà nước ở các mức độ khác nhau. Kinh nghiệm của các nước
đều chỉ ra cho Chính phủ Lào một điều rằng, áp dụng công nghệ thông tin là
cần thiết khách quan vì nó đem lại lợi ích rất lớn. Tuy nhiên cần tính toán kỹ
hiệu quả để áp dụng ở mức độ hợp lý để quản lý sử dụng ngân sách nhà nước ở
Lào; bởi vì, áp dụng công nghệ thông tin cũng đòi hỏi những khoản vốn lớn mà
nếu không được sử dụng hiệu quả sẽ gây hậu quả bất lợi cho nhà nước Lào.
Những kinh nghiệm quý báu trên của Cộng hòa Pháp và Việt Nam trong
thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước sẽ góp phần chống lạm phát,
tham nhũng, lãng phí trong sử dụng ngân sách ở Lào. Qua đó, tích lũy tiền để tái
sản xuất và mở rộng quy mô sản xuất trong nước. Có thể nói, đây là nguyên
nhân làm nên thắng lợi đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là tiền
đề xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên phạm vi đất nước Lào.
77
Tiểu kết chương 2
Ngân sách nhà nước là yếu tố giữ vị trí trung tâm trong nền tài chính
của quốc gia. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò của ngân sách nhà
nước lại càng trở nên quan trọng, cùng với thực hiện pháp luật về sử dụng
ngân sách nhà nước ở các đơn vị, tập thể, cá nhân được hưởng ngân sách.
Ngân sách nhà nước chi cho các hoạt động giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa
thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ; chi
cho hoạt động sự nghiệp kinh tế, quốc phòng - an ninh, trật tự - an toàn xã
hội... được các cơ quan quản lý ngân sách thực hiện việc dự toán, phân bổ cho
các đơn vị sử dụng ngân sách. Hoạt động sử dụng ngân sách nhà nước là hoạt
động gắn liền với lợi ích của nhà nước. Do đó, để đảm bảo quan hệ phát sinh
và vận động phù hợp với lợi ích của mình, nhà nước ban hành các quy phạm
pháp luật quy định chủ thể, hình thức, nội dung và phương thức thực hiện các
khoản chi; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ chi ngân sách
nhà nước. Tập hợp các quy phạm pháp luật đó tạo thành pháp luật sử dụng
ngân sách nhà nước hay còn gọi là chế độ pháp lý chi ngân sách nhà nước.
Bài học từ hai nước: Cộng hòa Pháp và Việt Nam có giá trị tham khảo quan
trọng đối với Lào trong cải tổ hệ thống hành chính, xây dựng hệ thống pháp
luật về ngân sách nói chung và thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà
nước nói riêng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, đất
nước Lào đang dần khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế, đạt
được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc Lào xã hội chủ nghĩa. Trong đó, kinh tế vẫn là cơ sở khẳng định sự hưng
thịnh của đất nước, nó được biểu hiện thông qua ngân sách nhà nước. Tuy
nhiên, do đặc điểm về tự nhiên - xã hội nên vấn đề thực hiện pháp luật về
ngân sách nhà nước ở Lào còn là một bài toán nhiều ẩn số; vì vậy, cần có thời
gian nghiên cứu về Luật Ngân sách nhà nước cũng như thực hiện pháp luật về
sử dụng ngân sách nhà nước nhằm giải quyết những tồn tại hiện nay trong sử
dụng ngân sách nhà nước.
78
Chương 3
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ
DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào
3.1.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của Lào
* Vị trí địa lý:
Lào là một quốc gia nằm ở bán đảo Đông Dương, có diện tích 236.800
km2. Khoảng 80% diện tích lãnh thổ của Lào là rừng, núi và cao nguyên. Lào
có chung biên giới với năm quốc gia có chế độ chính trị khác nhau: phía Bắc
giáp với nước CHND Trung Hoa dài 505 km, phía Nam giáp với Vương quốc
Campuchia dài 435 km, phía Đông Bắc có chung biên giới với Myanma dài
236 km, phía Tây có chung biên giới với Vương quốc Thái Lan dài 1835 km
và phía Đông có chung biên giới với nước CHXHCN Việt Nam dài 2070 km.
Trong lịch sử giải phóng dân tộc, cũng như trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ
đất nước, Lào và Việt Nam là hai nước có đường biên giới dài nhất cũng như
giữ gìn được tình hữu nghị thủy chung, trong sáng, thiết lập được mối quan hệ
đặc biệt và hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực chính trị - kinh tế, văn hóa - xã
hội, khoa học - công nghệ, an ninh - quốc phòng.
* Điều kiện tự nhiên:
Lào có nhiều tài nguyên thiên nhiên rừng với trữ lượng các loại gỗ quý
khá lớn. Ngoài ra, rừng còn cung cấp nhiều lâm sản quý như thảo dược, động
thực vật hoang dã, các sản phẩm từ ong rừng, từ các loại thú khác.
79
Lào có ba đồng bằng lớn nằm ở các vùng khác nhau của đất nước, đó là
đồng bằng Viêng Chăn, đồng bằng Xa Văn Na Khẹt và đồng bằng Chăm Pa
Sắc. Các đồng bằng này phân bố tập trung ở phía Tây, dọc theo sông Mê
Kông và chiếm 1/5 lãnh thổ, nhưng là nơi sinh sống của 3/4 dân số trong cả
nước. Khu vực đồng bằng có trình độ phát triển khá cao so với cả nước. Tuy
nhiên, các đồng bằng này không liền dải mà bị chia cắt do xen kẽ với núi đồi,
việc đi lại và giao lưu hàng hóa giữa các vùng không thuận tiện do địa hình
phức tạp và hệ thống giao thông đường bộ còn kém phát triển.
Lào có nguồn tài nguyên nước khá phong phú. Một số con sông, suối
bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn có lưu lượng nước chảy mạnh thích hợp cho
xây dựng các nhà máy thủy điện. Lào vẫn còn nhiều tài nguyên khoáng sản
chưa khai thác. Đây cũng là một trong những tiền đề góp phần phát triển kinh
tế nước Lào hiện tại và trong tương lai.
Cộng hòa dan nhân dân Lào có 3 vùng khí hậu hình thành trên cơ sở khác
biệt về tự nhiên.
- Vùng miền núi của Lào có thể chia thành ba vùng với khí hậu khá
đặc trưng:
+ Vùng núi Bắc Lào (bao gồm cả một phần vùng núi cao của Viêng
Chăn và Bo Ly Khăm Xay). Đây là khu vực có nhiều núi cao trùng điệp, khí
hậu mát mẻ trong mùa hè và lạnh trong mùa đông, phù hợp với chăn nuôi đại
gia súc và một số loại cây ăn quả. Đây cũng là vùng sản xuất lâm nghiệp
thuận lợi, đồng thời có thể kết hợp với chăn nuôi đại gia súc.
+ Vùng Trung và Nam Lào có phần phía Đông thuộc dãy Trường Sơn.
Đây là khu vực có nhiều dãy núi với độ dốc thấp hơn Bắc Lào với đặc điểm
khí hậu ấm áp quanh năm. Vùng này tập trung nhiều khu rừng rậm, rừng
nguyên thủy với nhiều loại gỗ quý và thú rừng, đất đai khí hậu thích hợp cho
sản xuất lương thực. Các vùng thung lũng và cao nguyên có thể quy hoạch
80
trồng các loại cây công nghiệp có giá trị như cà phê, sa nhân, canh kina và
nhiều loại cây ăn quả khác.
- Vùng đồng bằng phía Tây ven bờ sông Mêkông có địa hình tương đối
bằng phẳng, đất đai phần lớn là phù sa nhưng thường bị mưa xói mòn, nhiều
vùng đã trở thành chua phèn hoặc bạc màu. Khí hậu ở đây gần như nóng
quanh năm. Đây là vùng tập trung các thành phố lớn đông dân cư. Trình độ
sản xuất hàng hóa ở vùng này cao hơn các vùng khác. Khu vực này thích hợp
với việc trồng các loại cây công nghiệp, đặc biệt là cây công nghiệp ngắn
ngày. Trên cơ sở một nền sản xuất nông nghiệp ở vùng này đã hình mạng lưới
khá phát triển các nhà máy, xí nghiệp nhỏ và vừa với nhiều trình độ công
nghệ khác nhau, trong đó có cả công nghệ cao.
Điều kiện tự nhiên đa dạng đã tạo ra những tiềm năng và hạn chế đối
với phát triển kinh tế của Lào như sau:
+ Tiềm năng: Lào có vị trí đầu mối giao thông, vị trí tiếp giáp nhạy cảm
với nhiều nước ở khu vực Đông Dương nói riêng, Châu Á nói chung nên nếu
cơ sở hạ tầng của Lào được nâng cấp, một số chính sách về thông quan hàng
hóa được cải thiện hơn nữa, thì Lào sẽ trở thành trung điểm trên con đường
giao lưu hàng hóa giữa các nước. Đây là một tiềm năng lớn và vững chắc để
Lào phát triển kinh tế hàng hóa và tăng thu NSNN.
Mặt khác, Lào là một đất nước có nhiều tài nguyên nước, hiện nay cũng
như trong những năm tới, nếu Chính phủ thực hiện thành công chương trình
đầu tư xây dựng hệ thống thủy điện thì không những Lào có nguồn năng
lượng điện dồi dào phục vụ phát triển công nghiệp, dịch vụ trong nước, mà
còn là nguồn xuất khẩu sang các nước láng giềng thu về ngoại tệ với quy mô
khá lớn. Hiện nay, theo đánh giá của các nhà địa chất, Lào còn có một số
nguồn tài nguyên khoáng sản có trữ lượng lớn, chất lượng khá cao, nếu đưa
vào khai thác sẽ có nguồn thu lớn cho NSNN.
81
Những hạn chế của điều kiện tự nhiên đối với phát triển kinh tế của
Lào: Vùng núi và cao nguyên chiếm diện tích lớn, vùng đồng bằng bị chia
cắt không thuận lợi cho phát triển sản xuất hàng hóa ở quy mô lớn. Hơn nữa,
Lào không có diện tích đất ven biển nên khó khăn trong vận chuyển hàng
xuất khẩu. Mặc dù Lào có thể sử dụng các dịch vụ vận tải biển của nước
khác, nhưng đường ra cảng xa có thể làm cho chi phí chuyên chở tăng cao,
giảm sức cạnh tranh của mặt hàng xuất khẩu.
3.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ở Lào
Sau khi đất nước hòa bình, Đảng NDCM Lào đã bắt tay vào xây dựng
và phát triển kinh tế. Đảng đã đề ra kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế lần thứ
nhất (1976 - 1981). Đây là giai đoạn đầu trong phát triển kinh tế - xã hội và
được coi là giai đoạn khó khăn nhất, chính quyền cách mạng vừa được thành
lập, nền kinh tế mà chế độ cũ để lại hết sức yếu ớt, cơ sở hạ tầng hết sức lạc
hậu... Đường lối phát triển kinh tế lúc này là “Khôi phục sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp, tạo điều kiện cho dân có nơi ăn, nơi ở và có nơi lao
động sản xuất, bảo vệ đất nước và chế độ mới theo sự chỉ đạo của nhà nước”
[102, tr.2].
Trong những năm thực hiện đường lối này, nền kinh tế của Lào phát
triển rất chậm. GDP hầu như không có sự tăng trưởng. Thời kỳ này kinh tế
quốc doanh chiếm tất cả các lĩnh vực kinh tế, kinh tế hàng hóa chưa phát
triển, nhiều mặt trong chính sách kinh tế không thích hợp với thực tiễn.
Trong quan hệ quốc tế trên lĩnh vực kinh tế của Lào với các nước
XHCN chuyển sang hợp tác trên tinh thần bình đẳng, đôi bên cùng có lợi, có
vay có trả, không còn viện trợ, cho không nên NSNN khá căng thẳng, nguồn
thu trong nước không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu, Chính phủ buộc phải
vay nợ nước ngoài. NSNN ngày càng bội chi lớn, lạm phát tăng, giá cả leo
thang, tình hình xã hội có nhiều phức tạp, tiêu cực nảy sinh.
82
Cùng lúc đó hàng loạt các nước trong phe XHCN lâm vào khủng
hoảng về kinh tế - chính trị nên đã tác động không tốt đến kinh tế - xã hội
của Lào. Nền kinh tế Lào lúc này rất khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng đã
nhận ra sự yếu kém trong quản lý kinh tế và bắt đầu xem xét, tìm nguyên
nhân yếu kém để từng bước điều chỉnh mô hình kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV năm 1986 của Đảng NDCM Lào
đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây được coi là chuyển biến
quan trọng đầu tiên, được ghi nhận như một mốc lịch sử, đánh dấu sự bắt đầu
chuyển đổi nền kinh tế sang mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phù
hợp với thực tiễn của Lào.
Chủ trương đổi mới của Đảng là đổi mới toàn diện, trên tất cả các lĩnh
vực. Riêng trong lĩnh vực kinh tế - tài chính Đảng đã khẳng định:
- Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều chế độ sở hữu, các
thành phần kinh tế có quyền bình đẳng trước pháp luật và có nghĩa vụ đối với
Nhà nước.
- Từng bước chuyển nền kinh tế từ nền kinh tế nhỏ, sản xuất tự cấp tự
túc sang nền sản xuất hàng hóa.
- Tạo điều kiện để các thành phần kinh tế trong nước phát triển, lấy
nông - lâm ngư nghiệp làm cơ sở, lấy công nghiệp làm động lực thúc đẩy.
- Có kế hoạch phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, các khu vực
và tận dụng các vùng có lợi thế kinh tế.
- Nhà nước thực hiện vai trò quản lý kinh tế bằng pháp luật, bằng chính
sách và công cụ tài chính nhằm điều tiết nền kinh tế phát triển theo
hướng và mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
83
Đường lối kinh tế mới này lại tiếp tục được khẳng định và hoàn thiện
tại các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1991); lần thứ VI (1996); lần
thứ VII (2001); lần thứ VIII (2006); lần thứ IX (2011); lần thứ X (2016).
Nhờ đường lối đổi mới đúng đắn, cơ cấu kinh tế của Lào đã có sự
chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Khu vực kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc
lạc hậu đã giảm dần tỷ trọng, khu vực kinh tế nông nghiệp hàng hóa, công
nghiệp và dịch vụ tăng dần theo hướng hiện đại hóa. Các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh đã có sự phát triển khởi sắc. Các thành phần kinh tế trong
nước đang dần làm quen với cơ chế thị trường và đứng vững trên thị trường.
Nhiều doanh nghiệp mới ra đời và phát triển, có nhiều doanh nghiệp đã liên
doanh, liên kết với nước ngoài.
Biểu đồ 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm
của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Nguồn: [102]
Biểu đồ 3.1 cho thấy, trong thời kỳ 2011 kinh tế Lào đã chịu ảnh hưởng
nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á nên tăng trưởng chậm
lại. Thời kỳ 2011-2013 kinh tế Lào đã có sự tăng trưởng khá tốt. Từ năm
84
2014 đến nay kinh tế Lào đã bắt đầu khôi phục và tăng trưởng chậm lại,
không đạt mức dự kiến.
Sau hơn 31 năm thực hiện đường lối đổi mới và 21 năm thực hiện hội
nhập (tháng 8/1997 Lào đã chính thức trở thành thành viên ASEAN),
CHDCND Lào đã có nhiều đổi mới trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Sự đổi
mới này đã đem lại cho nhân dân các bộ tộc Lào nhiều điều tốt lành. Tuy vậy
từ năm 2011 trở về đây, nền kinh tế, tài chính của Lào đã có sự chuyển biến
không tích cực, kinh tế quốc dân phát triển chậm, không đạt được mục tiêu.
Đại hội toàn quốc lần thứ X Đảng NDCM Lào năm (2016) đã khẳng định đến
năm 2020 Lào phải thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển, kinh tế phải
đảm bảo phát triển bền vững, đời sống nhân dân phải cao hơn 3 lần so với
hiện nay. Trước hết là từ 2011 đến năm 2017 phải xây dựng cơ sở hạ tầng đáp
ứng nhu cầu về phát triển kinh tế - xã hội. Tạo mọi điều kiện để các thành
phần kinh tế phát triển một cách bền vững, khai thác mọi tiềm năng để tạo
động lực cho sự phát triển, GDP phải tăng hàng năm trên 6,8%, tổng thu nhập
quốc nội phải đạt 5,2 tỷ USD [110, tr.40].
Bảng 3.1: Cơ cấu ngành kinh tế trong tổng GDP và GDP
trên đầu người ở Lào
Nội dung
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
Nông nghiệp 27,40% 26,00% 25,63% 23,15% 23,70% 22,70% 16,34%
Công nghiệp 27,30% 31,20% 28,66% 32,42% 32.51% 29,50% 30,00%
Dịch vụ
39,10% 37,10% 38,40 % 37,87% 38,12% 39,40% 42,08%
GDP
8,00%
7,93% 7,95 %
7,80%
7,40%
7,02%
6,80%
GDP/người
1.281$
1.396$
1.589$
1.725$
1.857$
2.092$
2.472$
Nguồn: [102, tr.39-41].
85
Biểu đồ 3.2: Cơ cấu kinh tế trong tổng GDP giai đoạn 2011 - 2017
Nguồn: [102]
Biểu đồ 3.2 cho thấy công nghiệp và dịch vụ trong GDP đang có xu
hướng tăng dần qua các năm. So sánh năm 2011 với 2017 cho thấy tỷ trọng
công nghiệp từ 27,30% tăng lên 30,00%, dịch vụ từ 39,10% tăng lên 42,08%.
Trong khi đó tỷ trọng nông nghiệp từ 27,40% giảm xuống còn 16,34%.
Về mặt xã hội, theo thống kê mới nhất hiện nay(2016), dân số Lào có
khoảng 6.809.054 người gồm 49 bộ tộc trong đó bộ tộc Lào Lum là bộ tộc
chính và tiếng Lào Lum là ngôn ngữ chính ở CHDCND Lào.
Đạo Phật là tôn giáo được ưa chuộng của nhân dân Lào. Từ khắp mọi
ngõ ngách, thôn bản, người dân các bộ tộc Lào đều thấm nhuần Đạo Phật. Bởi
vì Đạo Phật luôn dạy cho người Lào không được chửi nhau, không được cãi
nhau, răn dạy mọi người sống bình yên, không tham lam, không nên lao động
nhiều quá… Đặc điểm tôn giáo này đã ảnh hưởng đến tác phong, lối sống của
người Lào từ khi bắt đầu hình thành đất nước cho đến tận ngày nay. Vì vậy,
xã hội Lào tương đối bình yên, mọi người ít bon chen và thích cuộc sống với
nhịp độ chậm rãi.
Có thể thấy, điều kiện kinh tế - xã hội của Lào đã ảnh hưởng đến vấn
đề NSNN và thực hiện pháp luật về NSNN theo hướng thuận nhiều hơn
nghịch, thể hiện qua các khía cạnh sau đây:
86
Thứ nhất, trong nhiều năm nay kinh tế Lào duy trì được tốc độ tăng
trưởng khá cao, khối lượng hàng hóa lưu thông tăng nhanh, thu nhập của
doanh nghiệp và dân cư tăng lên nên khối lượng thu, chi NSNN cũng tăng
theo, việc thu NSNN cũng thuận lợi hơn do sự chống đối giảm đi khi doanh
nghiệp và dân cư vẫn còn lại phần thu nhập lớn sau khi nộp NSNN.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng tăng nông nghiệp hàng
hóa, công nghiệp, dịch vụ làm thay đổi sự vận động của các luồng tiền tệ kéo
theo sự tăng lên về tỷ lệ động viên các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế
vào NSNN; từ đó, Nhà nước có điều kiện để giải ngân vào các công trình
trọng điểm mang tính chiến lược đối với sự phát triển bền vững của quốc gia.
Thứ ba, việc Lào tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là tham gia
nhiều vào các hoạt động của khối ASEAN ảnh hưởng tới nguồn thu, chi
NSNN không chỉ ở thay đổi cơ cấu thuế xuất nhập khẩu mà kéo theo thay đổi
cả cơ cấu các khoản thu, chi nội địa trong tổng NSNN.
Thứ tư, người dân hiền hòa, ít chống đối lại chính sách, pháp luật của
nhà nước. Tuy nhiên do trình độ dân trí thấp cần coi trọng công tác giáo dục,
tuyên truyền để người dân ủng hộ chính sách thu, chi ngân sách, giám sát thực
hiện pháp luật về sử dụng NSNN.
3.1.2. Thực trạng pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước ở nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Mức độ hoàn thiện của pháp luật về sử dụng NSNN ảnh hưởng trực
tiếp đến việc thực hiện. Những quy định thiếu cụ thể, mâu thuẫn, không phù
hợp với thực tế v.v.. đều gây khó khăn, vướng mắc cho việc thực hiện. Vì thế
thực trạng pháp luật về sử dụng NSNN là yếu tố ảnh hưởng đến việc thực
hiện pháp luật về sử dụng NSNN.
Pháp luật về sử dụng NSNN được quy định trong Luật NSNN năm
2006 và các văn bản dưới luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các nội
dung về sử dụng NSNN.
87
Luật Ngân sách nhà nước năm 2006 đã được Quốc hội khóa V, kỳ họp
thứ 2 thông qua ngày 26/12/2006, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách
2006-2007. Đây là đạo Luật quan trọng trong hệ thống pháp luật tài chính ở
Lào. Luật Ngân sách nhà nước năm 2006 được xây dựng trên cơ sở kế thừa,
phát huy những ưu điểm, khắc phục những tồn tại của Luật Ngân sách nhà
nước năm 1994; với mục tiêu quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng
cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng có
hiệu quả ngân sách và tài sản nhà nước; tăng tích lũy nhằm thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo quốc
phòng - an ninh, đối ngoại.
Sau khi Quốc hội phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hằng
năm trong đó có chương trình sử dụng ngân sách nhà nước và được ban hành,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các Bộ đã khẩn trương ban hành
các văn bản hướng dẫn thi hành luật, nhằm đưa Luật đi vào cuộc sống một
cách nhanh chóng, có hiệu quả. Trong những năm gần đây, hệ thống văn bản
pháp lý trong lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà nước đã được ban hành khá
đồng bộ và đầy đủ, trong đó chủ yếu là các văn bản sau đây:
- Văn bản quy định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế
và kinh phí quản lý hành chính tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp
như: Nghị định số 43/2009/CP ngày 25/4/2009 của Chính phủ quy định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,
biên chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
- Nghị quyết về “Thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân
sách nhà nước quốc gia năm 2011-2015”, số 288/TT ngày 14/9/2011.
88
- Nghị quyết số 328/CP ngày 19/9/2014 của Thủ Tướng Chính phủ Lào
về Quy chế lập, thẩm tra, trình Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà
nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán ngân
sách nhà nước.
- Các Thông tư của Bộ Tài chính, Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài
chính (khoảng trên 200 văn bản) hướng dẫn chi tiết việc phân cấp quản lý,
lập, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước, công khai ngân sách; hướng
dẫn quản lý thu, chi ngân sách nhà nước và chế độ kế toán ngân sách nhà
nước; hướng dẫn việc tập trung các nguồn thu ngân sách nhà nước và quản lý,
cấp phát thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước qua KBNN; hướng dẫn
việc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà
nước, chế độ kế toán ngân sách nhà nước.
Hệ thống ngân sách nhà nước ở Lào hiện nay được thể hiện theo mô
hình như sau:
NSNN Lào
Ngân sách trung ương Ngân sách địa phuơng
Ngân sách tỉnh Ngân sách bộ
Ngân sách huyện
Trong tổ chức triển khai thực hiện Luật Ngân sách nhà nước, Bộ Tài
chính đã chủ động phối hợp với các Bộ, cơ quan Trung ương, các địa phương,
cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và đơn vị
giáo dục đào tạo ở Trung ương và địa phương tổ chức tập huấn, hướng dẫn
89
nghiệp vụ, tuyên truyền, phổ biến Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật đến từng đơn vị sử dụng ngân sách, nâng cao trình độ cán bộ làm công
tác tài chính trong và ngoài ngành tài chính; đưa một số nội dung quan trọng
trong Luật vào chương trình giảng dạy, đào tạo của ngành tài chính.
Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN thực chất là thực hiện các quy
định của pháp luật về chi NSNN.
Trong những năm qua, hệ thống chi ngân sách nhà nước ngày càng
được đổi mới và hoàn thiện theo hướng tạo lập môi trường kinh doanh công
bằng, bình đẳng; góp phần khuyến khích đầu tư phát triển hoạt động sản xuất
kinh doanh, phù hợp với yêu cầu hội nhập trong giai đoạn mới.
Luật Ngân sách nhà nước đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan nhà nước, các cấp chính quyền trong cả quá trình sử dụng ngân sách nhà
nước như sau:
Quốc hội quyết định tổng số chi ngân sách, phân bố ngân sách theo
từng lĩnh vực chi, theo cơ cấu chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển,
chi trả nợ. Quốc hội giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định phương
án phân bổ ngân sách trung ương cho từng Bộ, ngành và mức bổ sung ngân
sách cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của
Quốc hội giao và giám sát việc thi hành pháp luật về ngân sách nhà nước.
Ủy ban kinh tế và Ngân sách của Quốc hội thẩm tra các dự án luật,
pháp lệnh và các dự án khác về lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà nước. Thẩm
tra dự toán ngân sách nhà nước và các phương án phân bổ ngân sách trung
ương cho các Bộ, ngành và địa phương; đồng thời, kiến nghị với Quốc hội
các vấn đề về ngân sách nhà nước.
Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội các dự án luật,
pháp lệnh và các dự án khác về ngân sách nhà nước, ban hành văn bản pháp
90
luật về ngân sách nhà nước, lập và trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước
và phân bổ ngân sách nhà nước cho từng Bộ, ngành, thống nhất quản lý, sử
dụng NSNN, tổ chức kiểm tra việc thực hiện NSNN; quy định nguyên tắc,
phương pháp tính toán sổ, bổ sung nguồn thu từ ngân sách cấp trên cho ngân
sách cấp dưới, quy định chế độ quản lý quỹ dự phòng NSNN và quỹ dự trữ tài
chính; kiểm tra Nghị quyết của chính quyền địa phương về dự toán và quyết
toán NSNN, lập và trình Quốc hội quyết toán NSNN và quyết toán các công
trình xây dựng cơ bản của nhà nước.
Bộ Tài chính chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về
lĩnh vực NSNN trình Chính phủ, ban hành các văn bản pháp quy về NSNN
theo thẩm quyền, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng
thống nhất quản lý NSNN; hướng dẫn, kiểm tra các Bộ, các cơ quan Trung
ương và địa phương xây dựng dự toán NSNN hàng năm chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành trong việc xây dựng các chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu, chi
NSNN, thanh tra, kiểm tra tài chính với tất cả các tổ chức kinh tế, các đơn vị
hành chính sự nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa vụ nộp ngân sách và sử
dụng ngân sách nhà nước; quản lý quỹ NSNN và các quỹ khác của nhà nước;
lập quyết toán NSNN trình Chính phủ.
Chính quyền các địa phương có quyền quyết định dự toán và phân bổ
ngân sách của cấp mình trên cơ sở khả năng và nhiệm vụ chi, cấp trên không
quyết định chi tiết ngân sách cấp dưới. Chính quyền địa phương được ban hành
một số chế độ thu phí, lệ phí, phụ thu theo quy định của Chính phủ như vậy.
Chính quyền các địa phương ở Lào có quyền lập dự toán chi và phương
án phân bổ ngân sách địa phương, dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương
trong trường hợp cần thiết báo cáo cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp kiểm
tra dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách. Tổ chức thực hiện ngân sách
địa phương và báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định.
91
Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được huy động vốn trong
nước cho đầu tư xây dựng cơ bản thuộc địa phương quản lý, không được cho
vay đối với các doanh nghiệp.
Đánh giá so với cơ chế cũ, đây là những thay đổi cơ bản về nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, tạo
điều kiện thuận lợi để địa phương phát huy tiềm năng hiện có, bồi dưỡng và
tăng thu cho ngân sách nhà nước; từ đó, chủ động bố trí chi tiêu ngân sách
hợp lý, hiệu quả, phù hợp với quy hoạch tổng thể và chế độ thu, chi thống
nhất trong cả nước.
Hệ thống pháp luật về sử dụng ngân sách được bổ sung, sửa đổi theo
hướng xây dựng phân cấp quản lý NSNN đồng bộ, phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội. Giải quyết được vấn đề này đã tạo ra bước đột
phá cơ bản, đặt nền móng cho việc hình thành thực hiện pháp luật về sử
dụng NSNN. Chức năng, nhiệm vụ của các cấp chính quyền địa phương
nói riêng và nhà nước nói chung trong nền kinh tế thị trường không phải là
can thiệp trực tiếp vào mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội mà cần trở
lại với chức năng vốn có của mình là quản lý hành chính, điều tiết vĩ mô;
còn chức năng quản lý sản xuất kinh doanh do các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế thực hiện. Những chức năng quyền hạn của mỗi cấp
chính quyền địa phương được cụ thể hóa một phần trong các luật cơ bản
của nhà nước, phải triệt để tôn trọng những quy định của Hiến pháp và các
luật về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Đặc điểm của nền kinh tế
thị trường là không có sự chia cắt giữa kinh tế Trung ương và kinh tế địa
phương mà chỉ có một nền kinh tế thống nhất. Do vậy, hệ thống NSNN
phải thống nhất đòi hỏi cơ chế phân cấp phải thông suốt, đồng bộ. Nhà
nước CHDCND Lào là nhà nước thống nhất nên chỉ có một ngân sách và
đòi hỏi pháp luật phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung, thống nhất
92
với phân cấp, phân quyền. Nếu phân cấp quá mức ngân sách thì sẽ dẫn đến
phân tán, manh mún, làm yếu vai trò chủ đạo của cấp trên; ngược lại, tập
trung quá mức sẽ dẫn đến tệ quan liêu, độc đoán của cấp trên và làm cho
cấp dưới bị động, ỷ lại. Chính vì vậy, để đảm bảo tính tập trung, thống nhất
trong sử dụng NSNN, Nhà nước Lào đã đảm bảo các nhiệm vụ chi trọng
yếu, những chính sách xã hội lớn, thực thi các nhiệm vụ chung như ngoại
giao, quốc phòng - an ninh, xây dựng các công trình trọng điểm, v.v.. vừa
có điều kiện chi viện, chi phối, điều hóa sự mất cân đối trong phát triển
giữa các địa phương với nhau.
Như vậy pháp luật về sử dụng NSNN không ngừng được hoàn thiện,
sửa đổi, bổ sung đã tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện, bảo đảm
việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN có kỷ cương, trật tự, góp phần
phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong lĩnh vực này. Tuy nhiên
do một số quy định thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thực tế cũng gây nhiều khó
khăn, lúng túng cho việc thực hiện sử dụng NSNN.
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.2.1. Ưu điểm trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà
nước và nguyên nhân
3.2.1.1. Những ưu điểm
Xét về mặt nội dung, việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN đã tạo
chuyển biến rõ nét trong sử dụng NSNN, nhìn chung việc sử dụng NSNN đi
vào nề nếp, có quy trình phân bổ ngân sách, dự toán chi, cấp phát, tổ chức
thực hiện cho đến các công tác kế toán, quyết toán, kiểm toán việc sử dụng
NSNN v.v.. Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN tương đối thống nhất, ổn
định trên phạm vi toàn quốc, bảo đảm yêu cầu phát triển của đời sống kinh tế
- xã hội, an ninh quốc phòng.
93
Cơ cấu ngân sách tiếp tục được duy trì ở mức độ hợp lý cho đầu tư phát
triển, khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh
doanh. Vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc sử dụng NSNN đã
trở nên rõ ràng hơn và ngày càng hiệu quả hơn; góp phần quan trọng duy trì
tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao (GDP 7,93% năm 2012); đồng thời, thực hiện
các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo. Ngân sách nhà nước đã ưu
tiên tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển các hệ thống giao thông liên
vùng (nối liền giữa thành thị và nông thôn); đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (hệ
thống trường học, bệnh viện, cơ sở văn hóa thể thao, v.v); đầu tư chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, phát triển hạ tầng miền núi, v.v.. nhiều công trình kinh tế - xã
hội lớn đã được hoàn thành, hạ tầng kinh tế - xã hội có bước cải thiện quan
trọng như: dự án xây dựng hệ thống nước sinh hoạt ở tính U Đôm Xày, dự án
xây dựng đường từ tỉnh Bo Li Khăm Xay đến tỉnh Xiêng Khoảng, dự án
mạng điện nông thôn, dự án xây dựng sân bay tỉnh Át Ta Pư, dự án phát triển
giáo dục sinh viên nữ, dự án chính phủ điện tử, dự án khuyến khích sản xuất
hàng hóa, v.v.. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, ngân sách nhà nước đã
triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa,
xã hội nhằm phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo duy trì chi cho sự nghiệp
giáo dục đào tạo chiếm 16% ngân sách, chi cho khoa học - công nghệ chiếm
20%, văn hóa 10%, sự nghiệp môi trường chiếm 11% tổng chi ngân sách;
thực hiện các chính sách xã hội như bố trí khám chữa bệnh cho người nghèo,
chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Thông qua việc tổ chức thực hiện pháp luật về NSNN, ngân sách đã
được sử dụng trong cải cách tiền lương, chính sách người có công, cán bộ xã,
thôn, bản. Hoạt động sử dụng ngân sách hướng vào mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ
hộ nghèo, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình hỗ trợ
nhà ở, đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa v.v.. Tích
cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Nhà nước đã chủ động thực
94
hiện cam kết giảm thuế nhập khẩu theo AFTA, theo cam kết Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO); thực hiện các chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, tìm
kiếm thị trường; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ làng nghề, tạo việc làm
cho người lao động; hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp.
Có thể nói rằng, Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi bổ sung năm 2006
ngoài việc đáp ứng được yêu cầu của Luật Thuế mới (thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, v.v) còn sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 theo hướng phân cấp rõ
ràng hơn, mở rộng nguồn thu cho ngân sách cấp huyện, xã, nhằm tạo thế chủ
động cho các cấp chính quyền địa phương trong việc khai thác nguồn lực tại
chỗ, bố trí hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Luật sửa đổi bổ sung lần này cũng
giúp tăng cường phân phối đồng bộ và chặt chẽ hơn giữa các cơ quan Tài
chính ở địa phương, kết hợp với việc nâng cao vai trò, trách nhiệm quản lý
theo lãnh thổ của chính quyền địa phương.
Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN đã tạo ra sự chuyển biến quan
trọng trong hoạt động chi NSNN; qua đó, công tác quản lý, điều hành NSNN
ngày càng chủ động hơn với chất lượng và hiệu quả từng bước được nâng lên;
thúc đẩy công tác cải cách hành chính trong quản lý ngân sách, thực hiện công
khai ngân sách. Luật NSNN đã quy định trách nhiệm, quyền hạn cho Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và các cơ quan của Chính
phủ, HĐND và UBND các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước.
Những ưu điểm, thành tựu khái quát nêu trên trong quá trình thực hiện
pháp luật về sử dụng NSNN được thể hiện trên các nội dung cụ thể dưới đây:
* Thực hiện quy định của pháp luật về phân bổ, phê duyệt chi NSNN
Với những quy định bằng văn bản pháp luật về phân bổ ngân sách,
nhà nước đã tạo ra cơ chế khuyến khích các bộ, ngành và chính quyền địa
phương các cấp quan tâm, chăm lo đầu tư phát triển, tạo môi trường cho
sản xuất kinh doanh để tạo thêm nguồn thu bảo đảm yêu cầu chi của ngân
95
sách, coi số thu ngân sách là công tác trọng tâm để tập trung chỉ đạo thu
đúng, thu đủ; nhờ đó, số thu ngân sách năm sau thường cao hơn năm trước.
Cũng chính vì vậy mà ngân sách nhà nước mới đủ để đảm bảo cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng, ổn định trật tự, an
toàn xã hội.
Cơ cấu ngân sách được phân bổ ở mức độ hợp lý cho đầu tư phát triển,
khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh.
Vai trò của phân bổ ngân sách đã trở nên rõ ràng hơn, mang lại hiệu quả hơn;
góp phần quan trọng duy trì tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao; đồng thời, thực
hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Bảng 3.2: Tình hình phân bổ sử dụng ngân sách nhà nước 2011 - 2015
Năm
Ngân sách cả nước (Tỷ Kíp)
Ngân sách trung ương (Tỷ Kíp)
Ngân sách địa phương (Tỷ Kíp)
2011 - 2012
7.908
6.633
1.275
2012 - 2013
8.111
6.427
1.684
2013 - 2014
7.445
5.640
1.805
2014 - 2015
7.904
5.854
2.049
Đơn vị: Tỷ Kíp
Nguồn: [100]
Pháp luật về phân bổ phê duyệt chi ngân sách nhà nước đã ưu tiên tập
trung nguồn lực cho đầu tư phát triển các hệ thống giao thông, thủy lợi quan
trọng nhất là hệ thống giao thông liên vùng, liên tỉnh, liên thôn; đầu tư các cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội; hệ thống trường học, bệnh viện; cơ sở văn hóa thể thao;
đầu tư thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát triển cơ sở hạ tầng vùng sâu
vùng xa; miền núi... nhiều công trình kinh tế - xã hội lớn đã được hoàn thành
như các dự án xây dựng đường số 7, số 8, dự án xây dựng văn phòng các tỉnh,
dự án xây dựng trường 300 phổ thông trong cả nước dự án xây dựng bệnh viện
của bộ quốc phòng và bộ an ninh, dự án xây dựng thủy lợi, v.v..
96
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, ngân sách nhà nước đã triển khai
thực hiện nhiệm vụ phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, đặc biệt là
phát triển nguồn nhân lực. Đảm bảo duy trì chi cho sự nghiệp phát triển lĩnh
vực kinh tế chiếm 65% tổng chi ngân sách trong đó xây dựng đường chiếm
28%, xây dựng các văn phòng 7% và việc khác 30%; văn hóa 35% trong đó
giáo dục đào tạo chiếm 14%, y tế 11%, khoa học công nghệ 2%, việc khác và
thực hiện các chính sách xã hội như bố trí kinh phí khám chữa bệnh cho
người nghèo, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, đồng bào các dân
tộc ở vùng núi 8%. Bên cạnh đó, một phần ngân sách đã được phân bố để cải
cách tiền lương, chính sách người có công, cán bộ xã, thôn, bản. Hoạt động
ngân sách nhà nước hướng vào mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo; chương
trình hỗ trợ nhà ở, đất sản xuất, kỹ thuật canh tác, giống cây trồng vật nuôi;
chương trình miễn phí thủy lợi, điện sinh hoạt cho nhân dân vùng đặc biệt khó
khăn. Tuy nhiên, phân bổ ngân sách ở Lào hiện nay vẫn chưa hợp lý: Ngân
sách chỉ tập trung chủ yếu ở Thủ đô Viêng Chăn (năm 2015, ngân sách chi
cho Thủ đô Viêng Chăn chiếm khoảng 9% ngân sách của cả nước, cao hơn
tỉnh Bo Kẹo 2 lần). Trong khi đó, các tỉnh Aptabư, Luông Pha bang,
Savannakhệt, Chămpasắc, v.v.. cần được đầu tư nhiều ngân sách hơn nữa để
phát triển công nghiệp chế biến gỗ, khai thác mỏ, du lịch văn hóa - tâm linh.
Nếu Quốc Hội Lào điều chỉnh phân bổ ngân sách hợp lý hơn giữa các vùng
trong cả nước, đặc biệt chú trọng đầu tư theo mô hình vết dầu loang (xây
dựng kinh tế một tỉnh trọng điểm sau đó phát triển lan ra các tỉnh xung quanh,
kết quả dẫn đến cả vùng kinh tế đó phát triển) thì sẽ tạo sự phát triển cân
bằng, bền vững giữa các vùng: Bắc Lào - Trung Lào - Nam Lào.
Đối với hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước đã chủ động thực hiện theo
cam kết của WTO, cam kết giảm thuế nhập khẩu theo AFTA; thực hiện chính
sách hỗ trợ thương mại, xúc tiến thương mại tự do trong nước; tìm kiếm thị
trường trong khu vực ASEAN, Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,
97
v.v..) và các khu vực khác trên thế giới như Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi; hỗ
trợ đào tạo nguồn nhân lực bằng cách đưa cán bộ trẻ đi học tại các nước phát
triển, đang phát triển để về phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước; hỗ trợ làng
nghề truyền thống nhằm xuất khẩu các mặt hàng này mang lại ngân sách cho
quốc gia, đồng thời có kinh phí tái sản xuất mở rộng đối với các nghề truyền
thống cũng như gìn giữ và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, tạo việc làm cho
người lao động; hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân xây dựng cơ sở hạ
tầng khu công nghiệp, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
* Thực hiện quy định về báo cáo quyết toán, báo cáo định kỳ sử
dụng NSNN
Theo pháp luật hiện hành, báo cáo quyết toán về chi ngân sách nhà
nước ở các cơ quan, đơn vị được thụ hưởng ngân sách nhà nước tiến hành
một tháng một lần vào cuối tháng; báo cáo định kỳ diễn ra ba tháng một lần
(còn gọi là báo cáo quý). Căn cứ vào nhu cầu chi tiêu hàng quý đã đăng ký
với kho bạc nhà nước, dựa trên nhu cầu thực tế; đại diện hợp pháp của đơn vị
sử dụng ngân sách lập “giấy rút dự toán NSNN” kèm theo hồ sơ thanh toán,
chi trả. Từ đó, KBNN tiến hành kiểm tra, kiểm soát các hồ sơ thanh toán của
đơn vị sử dụng NSNN theo quy định, nếu đủ điều kiện theo quy định của văn
bản hướng dẫn thực hiện Luật Ngân sách nhà nước thì thanh toán trực tiếp
cho người hưởng lương, trợ cấp xã hội và người cung cấp hàng hóa, dịch vụ
hoặc thanh toán qua đơn vị sử dụng NSNN. Khi thực hiện thanh toán theo dự
toán đã được phê chuẩn, KBNN chỉ thực hiện việc thanh toán theo đúng mục
chi thực tế trong phạm vi các nhóm mục đã được giao trong dự toán NSNN.
Luật Ngân sách nhà nước năm 2006 quy định nguyên tắc về tài chính
trong ngân sách nhà nước là cân đối một cách tích cực tổng số thu từ thuế, phí
và lệ phí lớn hơn tổng số chi thường xuyên, góp phần tích lũy ngày càng cao
vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn
98
số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách. Nếu vay nợ nước
ngoài để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc không
sử dụng quá cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển. Thực
hiện được nguyên tắc tài chính này, vừa đảm bảo chi phù hợp với nguồn thu
huy động được, vừa cho phép tranh thủ được nguồn vốn bên ngoài cho đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đi đôi với xóa đói giảm nghèo.
Theo Báo cáo thường niên của Văn phòng Chính phủ, tổng dư nợ quốc
gia đến năm 2014 chiếm khoảng 48,5% GDP, bằng 1.654% kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ. Dư nợ Chính phủ đến cuối năm 2013 bằng 46%
GDP, trong đó nợ nước ngoài 24% GDP, nợ trong nước 22% GDP, trả nợ
nước ngoài của Chính phủ bằng 6,82 % tổng thu ngân sách nhà nước. Dựa
vào tiêu chuẩn đánh giá của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế thì với mức
dư nợ, thực hiện nghĩa vụ trả nợ như trên việc quản lý nợ của Lào trong giới
hạn an toàn, không có tác động xấu đến kinh tế vĩ mô và gây ảnh hưởng xấu
đến phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế trong thời gian qua, thiên tai, dịch
bệnh cả ở người và gia súc có diễn biến phức tạp trên phạm vi rộng với mức
độ ngày càng nghiêm trọng. Tuy nhiên, nhờ thực hiện báo cáo quyết toán theo
tháng, quý như trong quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản
hướng dẫn triển khai thực hiện nên việc bố trí nguồn dự phòng, tăng dự trữ tài
chính (ngân sách trung ương và ngân sách cấp tỉnh); Chính phủ và chính quyền
địa phương các cấp đã chủ động kinh phí thực hiện nhiệm vụ theo dự toán.
Báo cáo quyết toán sử dụng ngân sách nhà nước phải được thông qua
chính quyền địa phương các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, sau đó gửi
lên Trung ương; Báo cáo mỗi quý đối với các khoản chi được gửi lên Quốc hội
thông qua.
Có thể hình dung mô hình báo cáo quyết toán và báo cáo định kỳ
như sau:
99
Quốc hội
Báo cáo định kỳ 3 tháng/lần
Chính quyền cấp Tỉnh Thành phố trực thuộc Trung ương
Báo cáo quyết toán 1 tháng/lần
Huyện, thị trấn, làng
Trong thực tiễn báo cáo về tài chính nhiều khi còn mang tính hình thức,
không phản ánh sát với thực tiễn; hoặc các địa phương chậm gửi báo cáo trình
lên Quốc hội. Một bài toán khó giải quyết hiện nay là hình thức “ghi thu, ghi
chi NSNN” thường diễn ra ở cấp xã để ghi thu, chi ngày công lao động, hiện
vật vào ngân sách hoặc xử phạt các vi phạm hành chính như chặt phá rừng,
săn bắt động vật quý hiếm, khai thác đá quý, vàng, v.v.. mà chưa có sự cho
phép của nhà nước. Thực chất, đây chỉ là một phương thức hợp pháp hóa các
khoản chi được đảm bảo từ một nguồn thu nào đó mà đáng lẽ ra phải nộp vào
ngân sách nhà nước, sau đó mới được chi ra. Với hình thức “ghi thu, ghi chi
NSNN” này rất khó kiểm tra, kiểm soát được nguồn thu và mục đích, tiêu
chuẩn, khối lượng chi. Do đó, trong báo cáo quyết toán là những con số chưa
đúng, gây thất thoát tài sản của nhân dân, thiệt hại không nhỏ cho ngân sách
quốc gia. Xuất phát từ thực tiễn, đòi hỏi Đảng và Nhà nước Lào cần tăng
cường kiểm tra chặt chẽ các báo cáo của từng cấp, để kịp thời khắc phục
những thiếu sót gây tổn thất cho ngân sách nhà nước.
* Thực hiện quy định về kiểm tra, thanh tra, kiểm toán sử dụng NSNN
Một trong những biện pháp cơ bản và quan trọng để nâng cao hiệu quả
sử dụng NSNN là phải tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm toán việc sử dụng
NSNN. Thực tiễn những năm qua cho thấy, nhờ hệ thống pháp luật của
CHDCND Lào không ngừng hoàn thiện và phát triển đã từng bước đáp ứng
100
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội theo pháp luật, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập
quốc tế. Nhiều đạo luật quan trọng được Quốc hội thông qua như: Luật Ngân
sách nhà nước; Luật Kiểm toán; Luật Kế toán; Luật Thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Thanh tra; Luật Giám
sát; Luật Quản lý và sử dụng tài sản nhà nước; Luật Tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương, v.v.. những văn bản pháp luật này có ý nghĩa đối với
công tác quản lý tài chính, ngân sách; nhất là các hoạt động kiểm tra, thanh
tra, kiểm toán việc sử dụng NSNN.
Năm 2014, hệ thống KBNN đã thực hiện kiểm toán và phát hiện trên
22.470 tỷ kíp chưa chấp hành đúng thủ tục, chế độ quy định và đã yêu cầu các
đơn vị bổ sung các thủ tục cần thiết; đồng thời từ chối thanh toán với số tiền
khoảng 400 tỷ Kíp [95].
Hiện nay, CHDCND Lào đang chú trọng công khai, minh bạch ngân
sách đối với các cơ quan đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước để đảm bảo quản
lý, sử dụng ngân sách công bằng, hiệu quả. Công khai ngân sách bao gồm
việc công khai dự toán số liệu thu chi ngân sách; công khai việc quản lý sử
dụng ngân sách nhà nước; đặc biệt công khai thực hiện các khoản được sử
dụng tại các đơn vị. Ví dụ: Một năm ngân sách thu được của Bộ Thương mại
là 2.000 tỷ Kíp, trong đó nộp ngân sách nhà nước là 100%, ngân sách đã chi
theo kế hoạch sử dụng ngân sách của Bộ Thương mại và công bố rõ ràng trên
Website điện tử để nhân viên, cán bộ và nhân dân nắm được.
Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán ngân sách là nhiệm vụ quan
trọng không thể thiếu được trong hoạt động ngân sách. Cơ quan kiểm toán
nhà nước có trách nhiệm thực hiện việc kiểm toán, xác định tính đúng đắn,
hợp pháp của báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước các cấp và các cơ quan
có liên quan. Kết quả của việc kiểm toán nhà nước được báo cáo trước Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ. Nếu phát hiện vi phạm thì cơ
quan thanh tra kiến nghị thu hồi, nộp ngân sách nhà nước; đồng thời, xử lý vi
101
phạm hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định. Các cơ
quan, đơn vị quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước phải tiến hành tự kiểm tra
việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý NSNN; kiểm tra việc
chấp hành định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi NSNN, kịp thời phát hiện và ngăn
chặn các hành vi vi phạm pháp luật về NSNN.
Theo số liệu về sử dụng ngân sách nhà nước từ năm tài khóa 2010 đến
2015, tổng chi ngân sách năm so với GDP hàng năm đều tăng, từ 15.087 tỉ
Kíp (24,4% GDP) năm 2010-2011 đến 29.091 tỉ Kíp (29% GDP) năm 2014-
2015 [Xem bảng 3.1], Trong đó năm 2014-2015 chi đầu tư phát triển 12.119
tỷ Kíp bằng 48 % (riêng đầu tư xây dựng cơ bản 7.103 tỷ Kíp, bằng 28 %);
chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, quản lý nhà
nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính
đạt 13.251 tỷ Kíp, bằng 52% [93].
0.035
30.8%
29.0%
29.2%
0.030
25.6%
0.029
24.4%
0.025
0.026
0.025
0.020
0.017
0.016
0.018
0.016
0.015
0.015
0.012
0.009
0.009
0.009
0.009
0.010
0.009
0.008
0.005
0.000
2010-11
2011-12
2012-13
2013-14
2014-15
Chi hành chính thường xuyên
Chi đầu tư của Nhà nước
Tổng chi
Tổng chi so với GDP
Đơn vị: Tỷ Kíp
Biểu đồ 3.3: Tổ chức thực hiện chi ngân sách nhà nước các năm 2010-2015 Nguồn: [100]
102
Có thể nói rằng, công tác tổ chức điều hành NSNN đã được triển khai
tích cực, chủ động; trong điều kiện thu khó khăn, công tác quản lý chi NSNN
được tăng cường, bảo đảm tiết kiệm, chặt chẽ và hiệu quả; nghiêm túc thực
hiện chủ trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng NSNN.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán sử dụng NSNN đã hạn
chế tối đa việc bổ sung ngoài dự toán và ứng vốn, đảm bảo chi ngân sách
đúng chế độ, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư phát triển.
Xét về mặt hình thức thực hiện pháp luật, trong những năm qua thực
hiện pháp luật về sử dụng NSNN có những thành tựu, ưu điểm nổi bật sau đây:
Về tuân thủ pháp luật, nhìn chung, có rất ít hành vi vi phạm những
điều cấm trong sử dụng NSNN. Mọi hoạt động sử dụng NSNN đều tuân thủ
đúng quy trình được quy định trong pháp luật sử dụng NSNN. Những hành
vi lập dự toán chi khốn, vượt tiêu chuẩn, báo cáo tài chính sai sự thật hầu
như không còn.
Về chấp hành pháp luật sử dụng NSNN cũng có nhiều tiến bộ đáng kể.
Các đơn vị sử dụng NSNN đã chủ động thực hiện các quy định về dự toán,
thanh toán, quyết toán. Các cơ quan quản lý cũng tích cực, chủ động xem xét,
phê duyệt các khoản chi NSNN trong phạm vi thẩm quyền, rất ít các trường
hợp chậm trễ gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức sử dụng NSNN. Nhờ sự
tích cực, chủ động của các cơ quan quản lý cũng như cơ quan sử dụng NSNN,
nhìn chung việc sử dụng NSNN ở CHDCND Lào có bước tiến bộ rõ nét, từng
bước bảo đảm kỷ cương, trật tự, khoa học hơn trước. Việc lập dự toán chi, kế
toán, quyết toán, kiểm toán ngân sách được thực hiện đúng như quy định.
Về sử dụng pháp luật, trước đây nhiều đơn vị sử dụng NSNN hầu như
không biết sử dụng quy định của pháp luật để thuyết trình, báo cáo, bảo vệ
các đề nghị của mình trong việc dự toán chi NSNN, đề nghị điều chỉnh dự
toán chi NSNN hoặc quyết toán chi NSNN. Các cơ quan quản lý NSNN phải
hướng dẫn, tập huấn nhiều lần, đến nay các cơ quan, tổ chức sử dụng NSNN
103
đã chủ động hơn trong việc sử dụng quy định của pháp luật để thực hiện
nhiệm vụ chi NSNN của mình.
Về áp dụng pháp luật: Đây là hoạt động của các cơ quan quản lý nhà
nước trong việc ban hành các quyết định thẩm định, xét duyệt, phê duyệt các
báo cáo về dự toán chi NSNN, về báo cáo kế toán, quyết toán NSNN cũng
như quyết định xử lý các vi phạm pháp luật trong sử dụng NSNN. Hoạt động
này trong những năm gần đây ngỳ càng đi vào nề nếp, khắc phục được tình
trạng cảm tính, ngẫu hứng trong xét duyệt, thẩm định. Một số vi phạm trước
đây được bỏ qua thì nay đã được phán xét, nhắc nhở, phê bình, cảnh cáo,
những vi phạm nặng đã bị kỷ luật.
3.2.1.2. Nguyên nhân của những ưu điểm
Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN ở CHDCND Lào trong những
năm qua đạt được những ưu điểm, thành tựu nêu trên bắt nguồn từ những
nguyên nhân cơ bản sau đây:
Một là, hệ thống pháp luật về NSNN nói chung và pháp luật về sử dụng
NSNN nói riêng được ban hành và thường xuyên sửa đổi, bổ sung, quy định
mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo đảm an ninh
quốc phòng, hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế ở CHDCND
Lào. Pháp luật về sử dụng NSNN với những quy định hệ thống, cụ thể, khả
thi, phù hợp thực tế đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện.
Hai là, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng
trưởng thành, được nâng cao rõ nét, nhìn chung đáp ứng được những yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường pháp chế ở CHDCND
Lào. Ý thức pháp luật, tính thượng tôn pháp luật của đội ngũ cán bộ, công
chức ở CHDCND Lào, so với trước đây, có thể nói đã có bước trưởng thành,
phát triển nhảy vọt. Từ chỗ chưa quen với quản lý bằng pháp luật, hoạt động
theo pháp luật chuyển sang thực hiện theo yêu cầu của pháp luật, tăng cường
104
pháp chế, nhất là trong sử dụng NSNN, về cơ bản, đã tuân theo các quy định
của pháp luật về sử dụng NSNN. Đây là nguyên nhân gốc rễ tạo nên thành
tựu, ưu điểm trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.
Ba là, công tác giám sát kiểm tra, thanh tra, kiểm toán thường xuyên
được quan tâm, tăng cường, ngăn chặn, hạn chế những vi phạm, bảo đảm cho
các quy định của pháp luật về sử dụng NSNN được thực hiện.
Công tác giám sát bao gồm giám sát của Quốc hội, chính quyền địa
phương và của nhân dân, của các tổ chức chính trị - xã hội, của phương tiện
thông tin đại chúng v.v.. trong những năm qua đều được tăng cường, đưa lại
kết quả tích cực.
Công tác kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cấp
dưới, của kho bạc nhà nước, Bộ Tài chính với các chủ thể sử dụng NSNN
cũng thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, góp phần uốn nắn ngay từ
đầu đối với các vi phạm.
Hoạt động thanh tra, kiểm toán cũng đi vào nề nếp hơn, nhất là hoạt
động kiểm toán. Thanh tra, kiểm toán đã vạch rõ những vi phạm pháp luật,
những tiêu cực trong sử dụng NSNN, những hoạt động sử dụng NSNN lãng
phí, không hiệu quả hoặc hiệu quả không cao v.v.. trên cơ sở các bằng chứng,
số liệu cụ thể chứ không phải là những nhận xét, đánh giá, định tính chung
chung. Nhờ vậy đã ngăn chặn, hạn chế được những vi phạm trong thực hiện
pháp luật về sử dụng ngân sách, đưa việc thực hiện pháp luật về sử dụng
NSNN vào kỷ cương, khuôn khổ theo yêu cầu của pháp luật.
3.2.2. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân
sách nhà nước và nguyên nhân
3.2.2.1. Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được như phân tích ở trên, trong thực hiện
pháp luật về sử dụng NSNN vẫn còn những hạn chế nhất định, thể hiện trên
những điểm sau đây:
105
- Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN có lúc, có nơi còn lúng túng,
chưa thống nhất, thiếu đồng bộ theo trình tự quy định của pháp luật.
Luật quy định phải chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật và kỷ cương tài
chính nhưng do các chế độ, tiêu chuẩn mang tính mệnh lệnh được áp đặt từ
trên xuống đã làm vô hiệu hóa các công cụ tài chính, làm cho chúng mất tác
dụng trong điều hòa, điều tiết, kiểm kê, kiểm soát nền kinh tế. Thực trạng này
do nhiều nguyên nhân khác nhau, song nguyên nhân cơ bản nhất là giai đoạn
trước đây, nhà nước quá coi trọng tính kế hoạch hóa tập trung, gò ép sự vận
động của nền kinh tế trong khuôn khổ chi tiêu, pháp lệnh mà xem thường
công cụ tài chính, trong đó có NSNN. Nghiên cứu thực trạng các quy định của
pháp luật trong lĩnh vực tài chính nói chung và ngân sách nhà nước nói riêng,
có thể đánh giá hệ thống văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng NSNN vẫn
chưa đồng bộ, chưa hoàn chỉnh và còn mang tính “chữa cháy” vì chưa có một
khung pháp luật thật sự phù hợp với nền kinh tế - xã hội như ở Lào. Hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước bao
gồm Hiến pháp, Luật, pháp lệnh, Nghị định và các văn bản dưới luật là cơ sở
pháp lý để nhà nước tập trung các nguồn lực tài chính phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trong Hiến pháp (năm 2006) cũng chỉ dừng lại ở những quy định
có tính chất nguyên tắc căn bản của chế độ kinh tế. Trong lĩnh vực tài chính -
ngân sách nhà nước, Hiến pháp chưa làm sáng tỏ được nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan nhà nước trong việc lập, chấp hành và quyết toán, phân
bổ ngân sách nhà nước. Vì vậy, trong một thời gian dài, quản lý, sử dụng
ngân sách nhà nước ở Lào thiếu những cơ sở pháp lý cao trong khi những quy
định áp dụng lại có hiệu lực pháp lý rất thấp, chủ yếu là các văn bản của
Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương do số lượng văn bản lớn (mỗi năm có
đến hàng trăm văn bản khác nhau trong lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà
nước), dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các quy
106
phạm trong các văn bản khác nhau. Mặt khác, do số lượng văn bản nhiều nên
không thể hệ thống hóa đầy đủ, hiệu lực pháp lý của các văn bản này rất dễ
thay đổi nên hậu quả là khó thi hành. Nhiều quy phạm trong quản lý NSNN
còn thiếu tính chặt chẽ, tạo kẽ hở cho tham nhũng, gây nhiều khó khăn, phiền
hà cho người sản xuất, kinh doanh.
- Phê duyệt dự toán đôi khi còn chậm, trách nhiệm trong sử dụng
NSNN không rõ ràng.
Với thực trạng thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước như
trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của chính hệ thống ngân
sách nhà nước: Quá trình xét duyệt ngân sách rất phức tạp, nhiều nấc và nhiều
thủ tục hành chính. Cơ sở chi ngân sách nhà nước nói chung và từng khâu nói
riêng khó khăn, độ chính xác thấp do hệ thống định mức chi vừa thiếu vừa lạc
hậu, căn cứ dự báo thu thiếu thực tế. Ở các địa phương, chính quyền nhân dân
các cấp chưa thực hiện tốt vấn đề giám sát việc chấp hành NSNN. Trình tự
quyết toán, thủ tục quyết toán phức tạp do quá nhiều loại quan hệ, chế độ
trách nhiệm đúng, sai trong chi tiêu không rõ ràng. Bộ máy thanh tra cồng
kềnh (Thanh tra Nhà nước, Thanh tra Bộ Tài chính, Thanh tra Sở Tài chính,
Thanh tra thuế, Thanh tra Kho bạc nhà nước), hiệu quả thấp do hệ thống pháp
lý quy định về hoạt động này không đồng bộ, còn thiếu. Sử dụng ngân sách
nhà nước chưa nghiêm minh, nhiều địa phương tự ý đặt ra các khoản thu phí,
lệ phí gây khó khăn cho nhân dân. Nhà nước khó điều hòa được các khoản thu
cũng như khó quản lý chặt chẽ các khoản chi dẫn đến sự chia cắt NSNN giữa
Trung ương và địa phương, hiện tượng này đang rất phổ biến và chậm được
khắc phục. Bên cạnh đó, lập quỹ ngoài ngân sách, các khoản thu, chi không
đưa vào ngân sách nhà nước vẫn còn tồn tại, tình trạng lãng phí trong xây
dựng cơ bản xảy ra khá phổ biến. Nguyên tắc quản lý, sử dụng ngân sách
được xác định là tập trung, nhưng trên thực tế ở địa phương là “phân tán, khó
kiểm soát” do vậy, nguồn lực tài chính không được huy động đúng mục đích
107
hoặc sử dụng kém hiệu quả. Cán bộ làm trong lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà
nước còn hạn chế về trình độ và ý thức tuân thủ pháp luật của cán bộ, nhân
dân chưa được đề cao, nên dẫn đến việc quản lý NSNN kém hiệu quả và gây
nhiều thất thoát tài sản quốc gia.
- Thực hiện phân cấp về thẩm quyền, trách nhiệm trong sử dụng NSNN
còn chồng chéo, khó xác định trách nhiệm.
Quy định về thẩm quyền, trách nhiệm và các mối quan hệ của Quốc
hội, Chính phủ, chính quyền địa phương, v.v.. trong quyết định ngân sách
còn chồng chéo so với yêu cầu phát triển của giai đoạn mới, nhất là trong
bối cảnh Lào đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, khu vực,
trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân sách nhà nước. Theo quy định của
Luật NSNN, Quốc hội quyết định dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung
ương. Việc quyết định NSNN của Quốc hội tuy đã được cải tiến một bước
so với Luật NSNN năm 2003. Quốc hội quyết định NSNN theo từng lĩnh
vực. Luật NSNN năm 2006, Quốc hội quyết định về tổng mức và chi tiết
một số lĩnh vực trong đó bao gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách
các cấp chính quyền địa phương; trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ quyết
định giao dự toán thu chi cho các Thủ đô, các tỉnh. Thực hiện cơ chế này
đảm bảo tính thống nhất của NSNN và phù hợp với phân cấp hiện hành.
Chính quyền địa phương có vai trò tổ chức chỉ đạo thực hiện, phù hợp với
đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội ở từng địa phương để đảm bảo sự phát
triển đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, việc
cấp trên giao chi tiết nhiệm vụ thu chi ngân sách cho cấp dưới dẫn đến tình
trạng trùng lặp, giảm tính chủ động, trách nhiệm của chính quyền địa
phương cấp dưới trong quyết định ngân sách cấp mình. Chính sự bất cập,
chồng chéo này đã dẫn đến giảm tính hiệu lực của các văn bản quy phạm
pháp luật về sử dụng NSNN. Với việc quyết định ngân sách như trên dự
toán NSNN phải được lập từ dưới lên và khi được giao theo chiều ngược
108
lại. Đây là một quy trình hết sức phức tạp nên đã ảnh hưởng đến chất lượng
dự toán và thời gian thực hiện dự toán theo quy định. Dẫn đến dự toán
ngân sách giao cho cấp dưới, các đơn vị thường không đảm bảo về thời
gian theo quy định của pháp luật.
Quy định về phạm vi sử dụng NSNN còn chưa rõ ràng, đầy đủ dẫn
đến việc quản lý còn chưa thống nhất, nhất là một số khoản phí, lệ phí và
cách xác định bội chi ngân sách nhà nước. Về các khoản thu phí, lệ phí,
Luật NSNN quy định “thu NSNN bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ
phí”. Xét về tính đầy đủ của NSNN thì việc nộp toàn bộ phí, lệ phí và
NSNN là cần thiết. Tuy nhiên, cùng với việc thực hiện xã hội hóa, quy mô
và tỷ trọng các khoản thu phí và lệ phí ngày lớn. Về bản chất, đây là các
khoản thu để bù đắp một phần chi phí dịch vụ công; vì vậy, nếu đưa toàn
bộ số thu phí, lệ phí vào cân đối NSNN sẽ khó khăn trong khâu tổ chức
thực hiện bởi số thu phí, lệ phí rất khó dự toán được chính xác. Với việc áp
dụng quy trình chi mới, nếu số thu không đạt dự toán thì rất khó giảm được
chi. Mặt khác, trên thực tế nhiều khoản thu như học phí, viện phí, v.v..
được để lại ngay đơn vị để bù đắp chi hoặc sử dụng vào khuyến khích tăng
thu (nếu phải quy định nộp vào NSNN như quy định của pháp luật). Việc
triển khai cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp chưa đạt yêu cầu đề
ra; thất thu, lậu thuế còn tồn tại ở nhiều nơi và là một vấn đề nhức nhối của
hoạt động quản lý ngân sách nhà nước. Ví dụ như quản lý đất đai, bất động
sản chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ cũng là nguyên nhân gây ra hoạt động đầu
cơ, trục lợi làm cho ngân sách nhà nước bị thất thu.
Về bội chi NSNN, theo quy định của Luật NSNN thì bội chi NSNN
được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và nước ngoài. Bảo đảm bố trí
ngân sách để chủ động trả nợ khi đến hạn. Do mức bội chi NSNN của Lào
thường cao hơn so với thông lệ quốc tế; đồng thời, trùng lặp khi bố trí ngân
sách hai lần đối với các khoản vay bù đắp bội chi. Theo thông lệ quốc tế,
109
bội chi ngân sách là khoản thực tế tăng dư nợ Chính phủ, dư nợ quốc gia.
Như vậy, bội chi ngân sách là khoản chênh lệnh giữa vay mới trong năm
trừ đi phần chi trả nợ gốc trong năm. Về phạm vi tính bội chi NSNN, hiện
nay bội chi NSNN không phản ánh vay bằng trái phiếu Chính phủ cho giáo
dục, y tế, giao thông, thủy lợi; vay về cho vay lại; huy động vốn đầu tư cơ
sở hạ tầng của các địa phương theo khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN năm
2006. Mặc dù những khoản vay này được tính vào nghĩa vụ trả nợ Chính
phủ và phải bố trí để trả nợ nhưng việc xác định bội chi ngân sách hiện nay
là chưa đầy đủ. Đối với huy động vốn trong nước của ngân sách cấp tỉnh,
Luật NSNN hiện hành quy định: Ngân sách địa phương cần được cân đối
với tổng số chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng
thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh đảm bảo, thuộc danh mục đầu tư trong kế
hoạch 5 năm đã được chính quyền cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả
năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán thì được huy động vốn
trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả
hết nợ khi hết hạn. Mức dư nợ nguồn vốn huy động không vượt quá 30%
vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh,
trừ Thủ đô Viêng Chăn. Thực hiện quy định trên đã tạo điều kiện cho các
địa phương chủ động huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phương. Tuy nhiên, việc giới hạn mức vốn huy động không vượt
quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách
cấp tỉnh đã hạn chế khả năng phát triển của địa phương; bởi lẽ địa phương
có nhu cầu vốn đầu tư lớn hơn nhưng Luật Ngân sách nhà nước chỉ giới
hạn 30%. Mặt khác, Luật Ngân sách nhà nước cũng lại quy định cân đối
ngân sách địa phương, tổng số chi không vượt quá tổng số thu nên địa
phương không được phép bội chi, nhưng thực tế bội chi vẫn còn cao (xem
bảng 3.3).
110
Bảng 3.3: Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước
Đơn vị: Tỷ Kíp
Thu NSNN Chi NSNN Năm (Tỷ Kíp) (Tỷ Kíp)
2011 - 2012 10.182 15.902
2012 - 2013 12.427 18.021
2013 - 2014 15.929 24.618
2014 - 2015 22.470 25.370
Nguồn: [100]
Các quy định của pháp luật NSNN về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ
chi giữa ngân sách trung ương với ngân sách địa phương còn gặp nhiều hạn
chế; những quy định về trợ cấp từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới
còn chưa hợp lý. Theo quy định của pháp luật quản lý NSNN hiện hành, Luật
NSNN chỉ quy định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương; việc phân định cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi
cho từng cấp chính quyền địa phương giao cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
quy định cụ thể cho phù hợp với thực tế địa phương nhằm giao quyền chủ
động cho HĐND cấp tỉnh. Tuy nhiên nhiều địa phương chưa mạnh dạn phân
cấp kinh tế - xã hội cũng như về ngân sách cho cấp huyện, xã làm giảm sự
chủ động của ngân sách cấp dưới; mặt khác, phân cấp giữa các địa phương
không thống nhất, có địa phương phân cấp nhiệm vụ chi nhưng phân cấp
nguồn thu không tương xứng mặc dù cấp dưới có đủ năng lực, điều kiện quản
lý nên dẫn đến phải thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách
cấp dưới.
- Thực hiện quy định về giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán sử
dụng NSNN có lúc, có nơi còn hình thức, số liệu còn vênh.
Một số quy định của pháp luật ngân sách về công tác quyết toán,
thanh tra, kiểm toán và công khai ngân sách còn chưa hợp lý, đầy đủ. Vì
111
vậy nhiều báo cáo quyết toán còn mang tính hình thức, chưa phản ánh được
thực tiễn; vì vậy, không rút ra được bài học cần thiết cho sử dụng ngân sách
ở những lần sau. Luật NSNN cho phép được chuyển nguồn NSNN năm
trước sang năm sau sử dụng tiếp mà chưa quy định cụ thể những nội dung
nào được phép chuyển nguồn. Lỗ hổng pháp luật này đã dẫn đến số chi
chuyển nguồn hàng năm khá lớn, năm sau cao hơn năm trước. Việc giao cho
KBNN thực hiện kiểm soát chi thông qua lập số liệu báo cáo đủ căn cứ lập,
quyết toán thu, chi của từng cấp ngân sách. Như vậy, căn cứ văn bản dưới
luật quy định đơn vị dự toán cấp trên duyệt, cơ quan tài chính thẩm định thời
gian qua tác dụng rất hạn chế, gây lãng phí thời gian, công sức, kéo dài thời
gian tổng hợp, quyết toán ngân sách. Bộ Tài chính thẩm định quyết toán
ngân sách địa phương thực tế chỉ mang tính hình thức vì quyết toán ngân
sách địa phương được chính quyền các cấp phê chuẩn. Thời hạn Quốc hội
phê duyệt quyết toán NSNN sau 18 tháng kể từ khi năm ngân sách kết thúc
là thời gian quá dài nên đã hạn chế tác dụng của công tác quyết toán NSNN
phục vụ cho công tác điều hành ngân sách năm sau. Luật NSNN quy định dự
toán, quyết toán, kết quả kiểm toán NSNN, ngân sách các cấp, các đơn vị dự
toán ngân sách, các tổ chức NSNN hỗ trợ phải thực hiện công khai mà chưa
quy định công tác đánh giá, giải trình số liệu công khai dẫn đến việc công
khai nhưng thiếu minh bạch. Hơn nữa, pháp luật mới chỉ công khai dự toán,
quyết toán ngân sách mà chưa quy định công khai quá trình tổ chức thực
hiện dự toán ngân sách các cấp, đơn vị dự toán ngân sách; vì vậy, đã hạn chế
nội dung, chất lượng hiệu quả công khai.
Một số chính sách chi NSNN còn chưa phù hợp so với yêu cầu của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Thực hiện Luật NSNN năm 2006, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 103 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật NSNN, theo đó, một số nhiệm vụ chi của NSNN còn một số nội dung
tiềm ẩn những vi phạm của WTO trong quá trình thực hiện. Cụ thể: Về chi sử
112
dụng NSNN, theo quy định tại Điều 25 Nghị định số 115 ngày 28/3/2014,
một số khoản chi NSNN mà trong thực tế thực hiện có thể dẫn đến vi phạm
các quy định của WTO như tiết b khoản 1 quy định: Đầu tư và hỗ trợ cho
các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính của nhà nước, v.v.. Trong thực tế, có
một số khoản chi đầu tư hoặc hỗ trợ vi phạm quy định WTO cho các đối
tượng này (về chính sách tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước; chính sách
hỗ trợ thành lập các quỹ bảo hiểm ngành hàng; về chính sách nợ tồn đọng
của các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã, v.v.. Đặc biệt hơn, vào cuối
năm 2015 theo thỏa thuận giữa 10 nước trong khu vực ASEAN về vấn đề
xây dựng thị trường chung; có thể nói rằng, sẽ có nhiều vấn đề đặt ra không
chỉ đối với các nước có nền kinh tế vượt trội hơn trong khu vực như
Singgapo, Thái Lan mà còn là một phương trình toán học nhiều nghiệm đối
với các nước như Lào, Việt Nam, Campuchia, Inđônêxia, Mianma, v.v.. về
thay đổi chính sách thuế xuất nhập khẩu, điều chỉnh giá cả hàng hóa, tiền
lương người lao động, việc làm, dân số, v.v.. Những vấn đề này đều liên
quan trực tiếp đến ngân sách nhà nước; đòi hỏi Đảng và Nhà nước Lào phải
chuẩn bị trước mọi tình huống sẽ xảy ra trong thời gian tới, nhất là yêu cầu
sử dụng ngân sách nhà nước có hiệu quả.
Nhìn chung, thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước còn
thiếu thống nhất, đồng bộ, các Bộ, ngành, cơ quan chức năng còn hiểu sai và
áp dụng sai các quy định của pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước. Đôi
khi các đơn vị hưởng thụ ngân sách nhà nước cố tình hiểu sai quy định trong
Luật Ngân sách nhà nước về sử dụng ngân sách nhà nước, cụ thể như các
khoản được phép chi chưa được quy định rõ ràng; vì vậy, các đơn vị lách luật
bằng cách tự chi theo nhu cầu của đơn vị mình nhưng trên thực tế Luật Ngân
sách nhà nước lại không có danh mục chi đó.
Từ những hạn chế nêu trên, đối chiếu với hình thức thực hiện pháp
luật, thì việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN CHDCND Lào tuy đã có
113
tiến bộ, nhiều tiến bộ rõ nét so với thời gian trước đây nhưng vẫn còn hạn chế
trong cả tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật cũng như sử dụng pháp luật
và áp dụng pháp luật. Chẳng hạn vẫn còn vi phạm những điều cấm như lập dự
toán, báo cáo khống, không đúng sự thật, có những khoản không chi nhưng
vẫn đưa vào báo cáo kế toán, quyết toán để trục lợi từ NSNN; có những đơn
vị chưa chấp hành đúng các yêu cầu của pháp luật NSNN khi lập dự toán, kế
toán, quyết toán NSNN; một số cơ quan quản lý nhà nước đôi khi còn chậm
trễ trong thẩm định, phê duyệt hoặc do chuyên môn yếu kém không hướng
dẫn cụ thể nên bắt các đơn vị sử dụng NSNN làm đi làm lại nhiều lần các báo
cáo. Một số vi phạm pháp luật về sử dụng NSNN chưa được xử lý nghiêm
minh, chủ yếu là nhắc nhở, phê bình, có số ít bị cảnh cáo và lý do vi phạm
thường được cho là do yếu kém, ít hiểu biết.
3.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN còn nhiều hạn chế như đã phân
tích ở trên do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
* Nguyên nhân khách quan:
- Quy định của pháp luật còn bất cập, không phù hợp thực tế
Về khách quan, do CHDNCD Lào đang trong quá trình chuyển đổi và
phát triển nền kinh tế thị trường nên nảy sinh rất nhiều vấn đề phức tạp mà
không thể một ngày, hai ngày đã dự báo, khắc phục được. Trong khi đó, vấn
đề sử dụng NSNN là vấn đề hết sức phức tạp, dẫn đến giữa văn bản và thực tế
thường không khớp nhau; quy định của pháp luật còn bất cập, không phù hợp
thực tế, thiếu cụ thể, hiệu lực của nhiều văn bản còn thấp. Hơn nữa, nhiều văn
bản bỏ sót đối tượng điều chỉnh chưa dự kiến hết các tác động điều chỉnh
trong nền kinh tế - xã hội nên thiếu căn cứ pháp lý khi thực hiện chi NSNN. Ở
Lào, hệ thống văn bản dưới luật quá nhiều nên sự chồng chéo, trùng lặp, thậm
chí vô hiệu hóa lẫn nhau là điều khó tránh khỏi.
- Các văn bản hướng dẫn luật trong nhiều trường hợp thiếu sự thống
nhất nên dễ dẫn đến sự hiểu sai, hiểu nhầm, khó đưa luật vào trong cuộc sống:
114
nhiều quy định chưa sát với thực tế, chưa chỉ rõ những quy định cũ cần bác
bỏ. Các quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề nhưng lại có sự quy
định khác nhau ở nhiều văn bản, dẫn tới việc mâu thuẫn trong việc thực hiện
pháp luật.
Trong Luật Ngân sách nhà nước quy định cụ thể các cơ quan nhà nước
phải thực hiện nghiêm túc chế độ về định mức phân bổ ngân sách, chi tiêu
ngân sách. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện một số Bộ, ngành vẫn thực
hiện hướng dẫn các định mức phân bổ, chế độ chi tiêu trái với quy định của
Luật, dẫn đến việc thực hiện ở các địa phương gặp nhiều khó khăn. Chế độ,
chính sách về các khoản thu phí, lệ phí chưa sửa đổi kịp thời, việc phân cấp
chưa rõ ràng và chưa tổng hợp đầy đủ vào ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó,
nhiều địa phương còn ban hành nhiều khoản phí, lệ phí và các khoản đóng
góp của nhân dân với nhiều mức thu khác nhau chưa hợp lý, chưa phù hợp
với tình hình thực tế của địa phương, làm tăng thêm gánh nặng cho nhân dân.
Ngoài ra, một số chế độ chính sách về sử dụng ngân sách trung ương phân
cấp cho địa phương như chế độ đối với cán bộ không chuyên trách ở bản, cụm
bản, dẫn đến các địa phương tự quyết định các mức chi khác nhau, mức chênh
lệch giữa các đối tượng và mức trợ cấp giữa các địa phương là tương đối lớn,
trong khi thực hiện những nhiệm vụ cơ bản ở cấp này như nhau; vì vậy, tạo ra
sự bất cập giữa các địa phương kéo theo đó là thực hiện chính sách không
thống nhất trong cả nước.
Việc quy định chi tiết phân cấp nhiệm vụ chi trong Luật Ngân sách nhà
nước có ưu điểm là rất cụ thể, rõ ràng. Về cơ bản, các nhiệm vụ chi đáp ứng
được các chức năng nhiệm vụ của các cấp chính quyền. Tuy nhiên điều đáng
nói là mỗi cấp chính quyền có những đặc điểm khác nhau trên các vùng lãnh
thổ khác nhau trong khi phân cấp quản lý về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an
ninh còn chưa rõ ràng; thì phân cấp nhiệm vụ chi cũng trùng lặp và thiếu cụ thể
là khó tránh khỏi. Ví dụ: Chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, cả ngân sách
115
trung ương và ngân sách địa phương đều chi; vì vậy, không rõ trường hợp nào
thuộc ngân sách trung ương, trường hợp nào thuộc ngân sách địa phương dẫn
đến tình trạng chi nhiều lần và cơ chế xin cho xuất hiện. Có những nhiệm vụ
chi của ngân sách trung ương hiện nay khá nặng nề như chi cho quốc phòng -
an ninh) nhưng cũng có những nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương nặng
nề không kém như chi giáo dục, y tế, sự nghiệp kinh tế, v.v.. Ở đây chưa có sự
hợp lý hóa về phân cấp nhiệm vụ chi nên nhiều ý kiến cho rằng Trung ương
vẫn còn ôm đồm, bao biện cả những nhiệm vụ chi mà lẽ ra có thể phân cấp cho
ngân sách địa phương.
- Chế độ thống kê, kế toán, kiểm toán ngân sách chưa được chú trọng
hoàn chỉnh về phương pháp tính toán, cơ sở tính toán và cơ chế thực hiện việc
bổ sung hoặc hỗ trợ giữa các cấp ngân sách vẫn chưa được ban hành: Khi
nghiên cứu cơ chế quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước ở Lào, tác giả nhận
thấy rằng: hành lang pháp lý cho sự vận hành của cơ chế này vừa thiếu vừa
lạc hậu, để lại hậu quả như tình trạng lãng phí, tham nhũng, v.v.. Đi sâu phân
tích còn thấy nhiều vấn đề cần phải tháo gỡ cả về mặt pháp lý cũng như mặt
kinh tế, xuất phát từ nguyên nhân thiếu các quy định của pháp luật về kế toán
nhà nước; kiểm toán nhà nước, chủ thể quản lý quỹ ngân sách nhà nước (Kho
bạc nhà nước). Thực trạng của kế toán ngân sách nhà nước hiện nay chậm đổi
mới, vai trò của kế toán quỹ ngân sách nhà nước chưa được coi trọng đúng
mức. Nội dung của kế toán nhà nước nghèo nàn, không cập nhật; vì vậy,
phương pháp kế toán cũng chậm đổi mới. Mặc dù đã có cả một hệ thống kế
toán ngân sách nhưng hoạt động của kế toán ngân sách cũng chỉ là hạch toán
thu mang tính chất thống kê và hạch toán mang tính chất cấp phát; kế toán
nhà nước không kiểm soát được toàn bộ công nợ của nhà nước cũng như tài
sản bằng tiền và hiện vật của quốc gia. Sự quan tâm chưa đúng mức đến hệ
thống kế toán và công tác kế toán nhà nước, bằng chứng là cho đến nay vẫn
chưa có một cơ quan, một tổ chức nào làm công tác kế toán nhà nước chuyên
116
trách. Đối với hoạt động kiểm toán, do mới đi vào hoạt động nên còn gặp
nhiều khó khăn, những quy định về kiểm toán nhà nước trong Luật Ngân sách
nhà nước hiện nay đang là cơ sở pháp lý cao nhất cho hoạt động kiểm toán
nhà nước, nó xác định rõ vai trò của kiểm toán nhà nước, góp phần giữ vững
kỷ cương, kỷ luật trong việc quản lý, điều hành chi tiêu và sử dụng ngân sách
nhà nước. Tuy nhiên, cần phải cụ thể hóa hơn nữa các quy định bằng văn bản
pháp luật để đảm bảo cho kiểm toán nhà nước phát huy vai trò của mình trong
hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước.
Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng, đòi hỏi
Lào cần có những điều chỉnh về quản lý, sử dụng ngân sách một cách phù hợp
với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, mức độ điều chỉnh của Lào vẫn chưa theo kịp
với tốc độ phát triển nhanh của kinh tế khu vực và thế giới. Vì kinh tế của Lào
đi lên từ điểm xuất phát thấp, nội bộ nền kinh tế chưa có tích lũy để tái sản xuất
mở rộng; đầu tư các ngành công nghiệp nặng còn thiếu vốn, khoa học kỹ thuật
kém phát triển; dân cư sống rải rác khắp chiều dài đất nước và trình độ dân trí ở
một số tỉnh biên giới, vùng sâu, vùng xa gần như đang ở điểm xuất phát, v.v..
Do đó, quản lý ngân sách nhà nước trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là sử dụng
ngân sách hiệu quả là vấn đề khó giải quyết, cần có thời gian lâu dài.
* Nguyên nhân chủ quan
- Thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN của các chủ thể có lúc, có nơi
chưa nghiêm minh:
Bên cạnh nguyên nhân khách quan, có rất nhiều nguyên nhân chủ quan
từ các cơ quan quản lý chi NSNN cũng như từ các cơ quan, đơn vị sử dụng
NSNN. Nhìn chung, thực hiện pháp luật của các đơn vị sử dụng ngân sách
chưa nghiêm, ảnh hưởng nhiều đến việc đảm bảo các điều kiện chi, từ đó ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động chi NSNN. Các đơn vị sử dụng ngân sách khi
nhận được nguồn kinh phí thường không quan tâm đúng mức đến thực tiễn
nhiệm vụ được giao, ý thức chấp hành pháp luật của các cơ quan chưa tốt,
117
nhiều cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân sách cố tình làm sai để hưởng lợi từ
ngân sách. Bên cạnh đó, nguyên tắc lập dự toán từ dưới lên không được đảm
bảo. Để có một bản dự toán trình Quốc hội, quá trình lập dự toán phải đi từ
dưới lên, từ đơn vị lập dự toán nhỏ nhất. Dự toán chi ngân sách trên địa bàn
phải do chính đơn vị lập và nộp cho Sở Tài chính theo quy định trên thực tế,
công việc này chỉ do chính Sở làm. Điều này dẫn đến tình trạng dự toán lập
ra không chính xác, không sát với nhu cầu thực tiễn trên địa bàn. Đặc biệt
đối với những tỉnh có nguồn thu thấp, không đảm bảo nhiệm vụ chi trên địa
bàn thì công tác lập dự toán không được quan tâm thỏa đáng. Việc lập dự
toán ở một số đơn vị đôi khi còn mang tính hình thức, làm ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động chi ngân sách. Đối với việc phê chuẩn của các cơ quan
có thẩm quyền thường mang tính hình thức và thiếu chi tiết. Giai đoạn cuối
của quá trình lập ngân sách là Quốc hội xem xét, thảo luận và thông qua đề
nghị dự toán ngân sách của Chính phủ. Vì vậy, các đại biểu phải có những
chương trình, kế hoạch mà Chính phủ dự định thực hiện; đồng thời, cũng
cần xem xét để đưa ra ý kiến. Nhưng trên thực tế, thời gian để các đại biểu
Quốc hội xem xét, thảo luận vấn đề này rất ít, do đó, thông thường Quốc hội
phê chuẩn toàn bộ dự toán NSNN. Hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức
chi còn lạc hậu và không thống nhất, gây khó khăn cho việc tuân thủ các
điều kiện chi NSNN đã được pháp luật quy định. Theo Khoản 4 Điều 30
Luật NSNN thì Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ
quan hữu quan trong việc xây dựng các định mức phân bổ và các chế độ,
tiêu chuẩn, định mức chi nhưng cho đến nay, ngành tài chính vẫn còn lúng
túng về vấn đề này. Do bản thân các đơn vị thiếu căn cứ để lập dự toán chi,
còn các cơ quan nhà nước thiếu căn cứ để duyệt dự án. Mặt khác, do hệ
thống tiêu chuẩn, định mức chưa đồng bộ nên nhiều khoản chi được quyết
định ở mỗi nơi một khác, kể cả những khoản chi được Trung ương quyết
định thống nhất trên cả nước.
118
Một nguyên nhân nữa đang đặt ra hết sức bức xúc là sự không đồng bộ
giữa Luật Ngân sách nhà nước với các Luật thuế, nên nhiều khoản thu của
ngân sách nhà nước vẫn để ngoài ngân sách như các khoản phí, lệ phí, tiền
nộp phạt. Bên cạnh đó, sử dụng ngân sách còn hết sức tùy tiện, vốn đầu tư
xây dựng cơ bản chưa được tập trung, một số cơ quan, đơn vị dùng vốn sự
nghiệp để chi cho giáo dục, y tế, xây dựng các trụ sở, khách sạn, mua sắm
trang thiết bị, v.v.. thậm chí còn dùng vốn ngân sách nhà nước để tạm ứng cho
doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cơ quan hành chính vay lấy lãi.
- Thiếu sót về công tác chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện pháp luật:
Mặc dù Chính phủ và Bộ Tài chính đã tích cực tổ chức thực hiện nghiêm
chỉnh Luật ngân sách nhà nước sửa đổi, bổ sung, từng bước khắc phục những
vướng mắc trong cơ chế quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, song cho đến
nay vẫn còn nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật về sử dụng ngân
sách nhà nước chưa được ban hành, tập huấn thực hiện, nhất là quy định về
định mức, tiêu chuẩn chi tiêu, trình tự thời gian, biểu mẫu lập dự toán và
quyết toán NSNN.
Tình trạng khai báo doanh thu, hạch toán chi phí tùy tiện, không chính
xác để trốn lậu thuế gây thất thu cho ngân sách nhà nước đang diễn ra rất phổ
biến và nghiêm trọng, xuất phát từ nguyên nhân các đơn vị chưa thực hiện
tuân thủ triệt để các pháp lệnh kế toán thống kê và làm cho nó chưa đi vào nề
nếp. Kho bạc nhà nước hạch toán các khoản thu NSNN, nhưng trên thực tế
Kho bạc nhà nước cấp phát trực tiếp khoản chi. Các khoản chi của NSNN
được thực hiện bằng hai hình thức (lệnh chi và hạn mức chi), ở Lào vẫn áp
dụng phương thức “ghi thu - ghi chi”, đối với các cơ quan đơn vị sự nghiệp có
thu vẫn áp dụng phương pháp “gán thu - bù chi”; do đó, tạo nên sự tùy tiện
trong thu, chi khó kiểm soát, phân tán vốn, v.v..
Khi quy mô kinh tế tăng dần lên, nhu cầu phải tăng chi ngân sách nhà
nước để thúc đẩy phát triển kinh tế đang đặt ra rất cấp bách, các chủ thể sử
119
dụng NSNN cũng rất đa dạng. Từ đó, gây sức ép căng thẳng cho NSNN, khi
quy mô NSNN lớn dần lên sẽ kéo theo tiềm ẩn những rủi ro trong vấn đề sử
dụng NSNN như thất thoát, lãng phí, tham nhũng, v.v.. Chính điều này cũng
tác động mạnh đến việc đảm bảo các điều kiện sử dụng NSNN.
Hiện nay, ở Lào, cơ quan tài chính (Bộ Tài chính, Sở Tài chính) là cơ
quan chức năng giúp Chính phủ, chính quyền địa phương quản lý ngân sách.
Cần xác định rõ chức năng của bộ máy làm ngân sách xuất phát từ tính chất
của ngân sách. Ngân sách là công cụ tài chính tổng hợp có mối liên hệ rộng,
bao gồm thu, chi ngân sách, kế hoạch, chương trình, quyết toán và kiểm tra
ngân sách, v.v..
- Do trình độ, năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, công chức
còn hạn chế: Vấn đề đáng nói nhất ở đây là con người; những cán bộ làm
chuyên môn phải công tâm am hiểu pháp luật, đặc biệt trong sử dụng ngân
sách nhà nước. Nhìn lại lịch sử của nhân dân các bộ tộc Lào, thời gian chiến
tranh kéo dài gần 2/3 thế kỷ XX; người dân không có điều kiện học hành nên
trình độ nhân dân nói chung, cán bộ nói riêng còn nhiều hạn chế. Hơn nữa
vấn đề, sử dụng ngân sách nhà nước là vấn đề nhạy cảm, dễ gây ra những
phản ứng từ phía nhân dân đối với chính quyền nhà nước, có thể ảnh hưởng
đến ổn định xã hội. Nếu cán bộ, công chức thực hiện đúng quy định của pháp
luật thì không những thể hiện được vai trò của mình mà còn tác động tích cực
tới nền kinh tế của đất nước. Ngược lại, nếu cán bộ, công chức không làm
đúng các quy định của pháp luật hoặc lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi
thì vừa gây tổn thất cho ngân sách nhà nước vừa tác động xấu đến các quan
hệ kinh tế, lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng
NDCM Lào.
120
Tiểu kết chương 3
Hiện nay hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh thực hiện về sử dụng
ngân sách nhà nước khá nhiều, bao quát được hầu hết các vấn đề liên quan
đến chi ngân sách. Các quy phạm pháp luật này thường xuyên được sửa đổi,
bổ sung hoàn thiện cho phù hợp với thay đổi trong cơ chế quản lý, thực tiễn
kinh tế - xã hội và yêu cầu mới trong quản lý ngân sách nhà nước đáp ứng
tính hai mặt của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và xây dựng thị
trường chung ASEAN vào cuối năm 2015.
Những thành tựu đạt được trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN
đã ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm của các đơn vị,
các nhân được hưởng thụ NSNN; góp phần tăng thêm nguồn tài chính để đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị khoa học công nghệ, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao, v.v.. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
thông qua việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến mọi người dân trên mọi
nẻo đường của Tổ quốc. Chính vì vậy, người dân nhận thức được đóng thuế là
quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với đất nước; mặt khác, người dân có
trách nhiệm giám sát việc sử dụng NSNN của các cơ quan, đơn vị, cá nhân sử
dụng NSNN qua hình thức “công khai minh bạch” NSNN. Có thể khẳng định
rằng, thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN giúp Đảng và Nhà nước Lào củng
cố thêm niềm tin của nhân dân vào đường lối chính sách mà Đảng NDCM
Lào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện pháp luật về sử
dụng NSNN ở Lào còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng đầy đủ những
quy định của pháp luật. Đôi khi do luật chưa phối hợp còn đi sau đòi hỏi của
thực tiễn; nên yêu cầu thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN một cách
nghiêm chỉnh của các đơn vị hưởng thụ NSNN vẫn còn mang tính nửa vời.
Những tồn tại, hạn chế trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà
nước là cơ sở thực tiễn để tác giả luận án đề xuất quan điểm, giải pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN trong chương 4 của luận án.
121
Chương 4
YÊU CẦU KHÁCH QUAN, CẤP BÁCH VÀ QUAN ĐIỂM,
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
4.1. BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO LÀ YÊU CẦU
KHÁCH QUAN, CẤP BÁCH HIỆN NAY
Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ IV
của Đảng NDCM Lào đề xướng, đất nước đã đạt được những thành tựu quan
trọng về văn hóa, xã hội và đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, góp phần cải
thiện, nâng cao đời sống nhân dân, trong đó có những chuyển biến tích cực
của việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN. Tuy nhiên thực hiện pháp luật
về sử dụng ngân sách nhà nước còn tồn tại nhiều hạn chế vì vậy, bảo đảm
thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước là yêu cầu khách quan,
cấp bách, xuất phát từ những yêu cầu dưới đây:
4.1.1. Yêu cầu thực hiện các khoản chi, quản lý chi ngân sách nhà
nước bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí, tiêu cực
trong sử dụng ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước từng bước được cơ cấu lại theo hướng xóa bỏ
bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng chi đầu tư phát
triển xã hội, cơ sở hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo;
phát triển nông nghiệp - nông thôn, bảo vệ môi trường; củng cố an ninh -
quốc phòng; chú trọng chi trả nợ theo đúng cam kết, nâng cao năng lực quản
lý đảm bảo chi ngân sách ngày càng tiết kiệm và đạt hiệu quả cao. Chi thường
xuyên của ngân sách được cân đối từ tổng số thu thuế, phí và lệ phí. Tốc độ
chi đầu tư phát triển cao hơn tốc độ tăng lệ phí, chi thường xuyên. Đảng và
Nhà nước Lào đang từng bước hoàn thiện chế độ chi ngân sách nhà nước, đổi
mới quản lý tài chính trong các đơn vị sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà
122
nước, v.v.. Công tác kiểm tra việc thực hiện pháp lệnh tiết kiệm, chống lãng
phí trong quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước được tăng cường; qua đó,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
4.1.2. Yêu cầu điều hành ngân sách nhà nước bảo đảm phát triển
cân đối các lĩnh vực đời sống xã hội, cân đối ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương
Điều hành ngân sách nhà nước đang dần từng bước trở nên linh hoạt,
chủ động hơn. Ngân sách nhà nước thực sự trở thành công cụ đắc lực phục vụ
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và vai trò điều tiết vĩ mô nền
kinh tế của nhà nước được khẳng định rõ hơn. Nhà nước đã thực hiện chủ
trương kích cầu đầu tư phát triển, tăng tạm ứng vốn xây dựng cơ bản, hỗ trợ
lãi suất kinh doanh. Nhà nước chủ động dự trữ ngân sách quốc gia, đề phòng
những biến động bất thường như khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu
vực, hoặc dịch bệnh, thiên tai.
Cân đối ngân sách trung ương và ngân sách địa phương phải được giữ
vững, bảo đảm bội chi ngân sách trong giới hạn cho phép. Bội chi ngân sách
cho đầu tư phát triển, dự trữ của ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương đều tăng lên đáng kể, góp phần tích cực vào việc phục hồi tăng
trưởng kinh tế. Bội chi ngân sách nhà nước giai đoạn 1991 - 2001 là 68%, giai
đoạn 2001 - 2010 là 54%, giai đoạn 2010 - 2014 là 41%; đồng thời việc phát
hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách cũng chấm dứt từ năm 2002, vay nợ
trong nước để bù đắp bội chi ngân sách luôn được chú trọng nhằm giữ thế tự
chủ của nền kinh tế và ngân sách nhà nước [95].
4.1.3. Yêu cầu khắc phục những hạn chế, yếu kém, vi phạm trong
thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
Có thể đánh giá tổng quan, tài chính - ngân sách của Lào giai đoạn hiện
nay đã có chuyển biến tích cực và khá toàn diện, tiềm lực tài chính nhà nước
được củng cố, vị thế tài chính quốc gia trên trường quốc tế đã được cải thiện,
123
kỷ cương pháp luật về ngân sách ngày càng được tăng cường. Tuy nhiên vẫn
còn nhiều hạn chế, tồn tại, yếu kém, vi phạm trong quản lý ngân sách nói
chung và thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước nói riêng. Tiềm
lực tài chính - ngân sách nhà nước tuy đã được tăng lên đáng kể nhưng còn
nhỏ bé và vẫn không theo kịp nhu cầu tăng chi để giải quyết những vấn đề
bức xúc của nền kinh tế, nền tảng nguồn thu ngân sách chưa vững chắc, cơ
cấu thu ngân sách đổi mới chưa toàn diện. Tỷ lệ GDP động viên vào ngân
sách nhà nước tuy không phải là thấp so với tốc độ tăng trưởng và hiệu quả
sản xuất kinh doanh của nền kinh tế nhưng quy mô ngân sách nhà nước hiện
nay cũng chỉ khoảng hơn 22.000 tỷ Kíp. Trong khi đó, nhu cầu tăng chi để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục đào
tạo và khoa học công nghệ, xóa đói giảm nghèo đang đặt ra rất cấp bách. Vấn
đề phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu quả chi
ngân sách vẫn còn hiện tượng thất thoát, lãng phí trong sử dụng kinh phí từ
ngân sách nhà nước. Chi cho đầu tư xây dựng cơ bản còn phân tán, công tác
quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, lập dự án chưa được chú trọng nên chất lượng dự
án không cao, việc thẩm định và quyết định đầu tư còn chậm dẫn đến tình
trạng vốn chờ công trình, gây lãng phí trong đầu tư. Chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi ngân sách vừa thiếu vừa lạc hậu so với thực tế, gây khó khăn cho
việc cấp kinh phí, kiểm tra, kiểm soát trong chi NSNN. Tình trạng sử dụng
kinh phí ngân sách không đúng mục đích vẫn xảy ra.
Dưới tác động của kinh tế thị trường, vị trí, vai trò của tài chính càng
trở nên quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, xây dựng nền
tài chính tự chủ, vững mạnh là yêu cầu cơ bản và cấp bách trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Ngân sách nhà nước đóng
vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia, nhà nước cần tiếp tục đổi
mới và hoàn thiện ngân sách nhà nước cũng như nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về sử dụng ngân sách. Có thể khẳng định rằng, thực hiện pháp luật
124
về sử dụng ngân sách nhà nước là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay ở Lào. Chỉ có
nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, Lào mới có thể tiết kiệm
được nguồn lực tài chính quốc gia, không để xảy ra tình trạng thất thu, lậu
thuế, gian lận để chiếm đoạt tài sản công.
4.2. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
4.2.1. Bảo đảm thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, của các
tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc sử dụng ngân sách
nhà nước
Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước là quá trình hiện
thực hóa đường lối chính sách của Đảng về tài chính, ngân sách, thực hiện
chính sách tài chính của Nhà nước; hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
kiểm soát thu, chi để pháp luật là công cụ hữu hiệu của Đảng và Nhà nước
trong việc kiểm tra, kiểm soát quản lý và sử dụng NSNN. Để thực hiện các
yêu cầu trên cần bảo đảm thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, các tổ chức
chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc sử dụng NSNN.
Mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội đều xuất phát từ lợi ích của
nhân dân. Việc thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước đảm bảo
cho người dân có khả năng kiểm tra, giám sát tốt nhất, dễ dàng nhất đối với
việc chi tiêu ngân sách của các đơn vị sử dụng ngân sách cũng như đối với
hoạt động kiểm soát chi của cơ quan chức năng thuộc bộ máy hành pháp. Yêu
cầu này đồng nghĩa với việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát chi ngân sách
theo chiều hướng tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát trực tiếp của nhân dân,
thông qua Quốc hội và qua chính quyền địa phương các cấp trong quá trình
lập dự toán chi, chấp hành dự toán chi và quyết toán chi ngân sách nhà nước.
Tạo lập môi trường tài chính - ngân sách lành mạnh nhằm giải phóng
và phát triển các nguồn lực; phân bổ ngân sách một cách hợp lý, đảm bảo
công bằng; sử dụng có hiệu quả nguồn lực ngân sách nhà nước phục vụ mục
125
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; ổn định và phát triển nền tài
chính quốc gia, góp phần vào tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, thực hiện
xóa đói giảm nghèo. Trong đó, thực hiện pháp luật về kiểm soát chi ngân sách
nhà nước đòi hỏi nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, hướng tới các
quy định mang tính hình thức như trình tự, thủ tục cấp phát và thanh toán kinh
phí ngân sách, trình tự thực hiện các khoản chi ngân sách nhà nước, bảo đảm
cho nhân dân có thể tiếp cận được đối với các thông tin về nguồn kinh phí
được cấp phát, đối tượng được cấp phát, phương thức cấp phát và cơ chế giám
sát việc cấp phát, thanh toán, sử dụng kinh phí ngân sách. Nhà nước đảm bảo
tính công khai, minh bạch hóa các khoản chi ngân sách tại các ngành, các cấp,
các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước; đồng thời, đảm bảo tính hiệu quả của
quá trình kiểm soát chi ngân sách nhà nước.
Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách, đảm bảo tính thống nhất về
thể chế của ngân sách nhà nước và vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương,
phát huy tính chủ động sáng tạo của ngân sách các cấp chính quyền địa
phương trong quản lý sử dụng ngân sách nhà nước. Đổi mới cơ chế quản lý,
sử dụng ngân sách nhà nước theo hướng hiện đại - quản lý ngân sách theo
“kết quả đầu ra”. Mặt khác, phát huy quyền tự chủ, tự quyết định và tự gánh
chịu trách nhiệm cho các đơn vị sử dụng ngân sách, đặc biệt là các đơn vị
công lập như trường học, bệnh viện công, các cơ sở nghiên cứu khoa học và
ứng dụng kỹ thuật do nhà nước thành lập, v.v.. Tuy nhiên, việc trao quyền tự
chủ về mặt tài chính cho các đơn vị sử dụng ngân sách cũng cần được hiểu
đồng nghĩa với việc gắn trách nhiệm cá nhân người đứng đầu đơn vị sử dụng
ngân sách nhà nước với kết quả sử dụng kinh phí nhà nước cấp tại đơn vị dự
toán đó. Việc pháp luật đề cao trách nhiệm cá nhân người lãnh đạo đơn vị sử
dụng ngân sách sẽ góp phần ngăn chặn tình trạng chi tiêu lãng phí, không hiệu
quả; do đó, người lãnh đạo buộc phải cẩn trọng hơn khi đưa ra các quyết định
quản lý tại đơn vị mình. Yêu cầu này đặt ra vấn đề nhà nước phải có những
126
thay đổi mạnh mẽ và triệt để trong các quy định pháp luật về phương thức cấp
phát kinh phí và cơ chế kiểm soát chi ngân sách. Ví dụ: Vấn đề khoán chi
hành chính cho các đơn vị sử dụng ngân sách có nhu cầu chi thường xuyên
cho các công vụ của mình. Việc pháp luật cho phép áp dụng cơ chế khoán chi
cho đơn vị thụ hưởng ngân sách có thể sẽ là quy định mang tính đột phá trong
quá trình cải cách thể chế tài chính công ở nước ta nhằm góp phần đơn giản
hóa và hiệu quả hóa hoạt động kiểm soát chi ngân sách nhà nước.
Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước sẽ dễ dàng, nhanh
chóng, thuận tiện, ít tốn kém hơn cho các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước.
Nếu quy định về pháp luật trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước quá phức
tạp, khó thực hiện và khó tiếp cận đối với mọi người dân cũng như đối với các
đơn vị sử dụng ngân sách thì cơ chế kiểm soát đó rất dễ bị lợi dụng để mưu
lợi cho cá nhân những người có chức vụ, quyền hạn trong quản lý ngân sách.
Yêu cầu này cũng có liên quan ít nhiều đến vấn đề đảm bảo tính công khai,
minh bạch hóa quy trình cấp phát, thanh toán và sử dụng kinh phí ngân sách.
Chỉ khi nào mọi người dân đều có khả năng tiếp cận thật dễ dàng đối với các
thông tin về cấp phát và sử dụng kinh phí của các đơn vị dự toán (ví dụ: Bằng
các con đường báo chí, khiếu nại, tố cáo, v.v..) thì khi đó cơ chế kiểm soát chi
ngân sách mới có thể được coi là hiệu quả. Thực tiễn ở Lào trong thời gian
qua cho thấy rằng, nhiều vụ việc vi phạm pháp luật trong quản lý và sử dụng
ngân sách được phát hiện và đưa ra xử lý kịp thời chính là nhờ công cụ của
nhân dân như báo chí, truyền hình, đơn khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, do sức
ép của dư luận xã hội mà tình trạng tham nhũng, lãng phí tài sản công đã dần
được phanh phui trước pháp luật, góp phần đảm bảo cho hoạt động sử dụng
ngân sách được kiểm soát tốt hơn.
Đáp ứng mục tiêu minh bạch tài chính, Luật Ngân sách nhà nước và
các văn bản hướng dẫn thi hành cần thực hiện đúng thẩm quyền, trách nhiệm
của mỗi cơ quan trong công tác quyết toán ngân sách nhà nước. Bảo đảm mỗi
127
việc chỉ giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm hoặc cơ quan chủ trì chịu
trách nhiệm. Nhà nước không nên để tình trạng chồng chéo, trùng lặp chức
năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan; đồng thời, sớm ban hành quy chế công khai
ngân sách, bảo đảm tính trung thực, toàn diện, hợp pháp, hợp lý của các số
liệu, sổ sách, chứng từ, hồ sơ kế toán tài chính. Bên cạnh đó, thực hiện pháp
luật về sử dụng ngân sách nhà nước nói riêng, về ngân sách nhà nước nói
chung, cần đảm bảo tính khả thi, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, trình
độ quản lý cũng như thực trạng đội ngũ cán bộ ở Lào.
4.2.2. Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước phải
hướng đến mục tiêu bảo đảm sử dụng ngân sách tiết kiệm, hiệu quả,
minh bạch
Những năm qua, Đảng và Nhà nước Lào đã đặc biệt quan tâm đến vấn
đề thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước nhằm mục đích quản lý
tốt, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm ngân sách nhà nước. Nghị quyết Đại hội
lần thứ IX của Đảng NDCM Lào xác định phương hướng đổi mới đối với
công tác tài chính - ngân hàng trong giai đoạn 2010 - 2020 là: Thực hiện
nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong phân phối và phân phối lại nguồn thu
nhập xã hội; tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng nhằm giải
phóng và phát triển nguồn lực tài chính lành mạnh, bồi dưỡng và mở rộng
nguồn thu ngân sách, thu hút các nguồn vốn bên ngoài, v.v.. Gắn việc đổi mới
chính sách chi tiêu ngân sách nhà nước với thực hiện chủ trương xã hội hóa.
Đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân sách nhà nước, đảm bảo tính
thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chủ đạo của ngân sách
trung ương; đồng thời, phát huy tính chủ động sáng tạo của ngân sách địa
phương và các ngành trong việc quản lý tài chính - ngân sách đã được phân
cấp. Nâng cao quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và
chính quyền địa phương các cấp trong việc thực hiện pháp luật về sử dụng
ngân sách nhà nước, thực hiện công khai minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả trong
128
chi tiêu ngân sách. Cân đối ngân sách một cách tích cực, tăng dự trữ, giữ bội
chi ở mức hợp lý, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, giữ mức dư nợ quốc gia
trong giới hạn an toàn, quy định rõ và thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ.
Muốn sử dụng ngân sách tiết kiệm, hiệu quả trước tiên là cần phân định
rõ trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp rõ
hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực
hiện đúng nguyên tắc “tập trung dân chủ”. Trên cơ sở đảm bảo sự quản lý
thống nhất của Trung ương về thể chế, về chiến lược quy hoạch, kế hoạch
phát triển các ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phân cấp đúng định
mức và rành mạch trách nhiệm, thẩm quyền hành chính nhằm tạo điều kiện
thúc đẩy chính quyền địa phương phát huy tính chủ động, khai thác mọi tiềm
năng tại chỗ để phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; qua đó, đóng góp
ngày càng nhiều cho sự phát triển của đất nước. Theo tinh thần này, cần tăng
cường trách nhiệm, thẩm quyền của chính quyền địa phương trong việc quyết
định những vấn đề của địa phương, đặc biệt là quy hoạch phát triển và kế
hoạch đầu tư cho khu vực công cộng về thu, chi ngân sách; tổ chức nhân sự
hành chính địa phương, xử lý các vụ vi phạm hành chính. Việc phân định
trách nhiệm, thẩm quyền của các cấp chính quyền phải phù hợp với tính chất,
yêu cầu của từng ngành, lĩnh vực hoạt động với chức năng, nhiệm vụ của từng
cấp chính quyền trên từng địa bàn; phù hợp với điều kiện và khả năng của các
địa phương có quy mô, vị trí khác nhau.
Quy định và thực hiện quy định về phân cấp quản lý sử dụng ngân sách
trong pháp luật về sử dụng ngân sách cần quán triệt các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, phân cấp quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước phải thực
hiện đồng bộ, phù hợp và gắn liền với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội. Giải
quyết được yêu cầu này có ý nghĩa đột phá cơ bản, đặt nền móng cho việc
hình thành pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ
của các cấp chính quyền địa phương nói riêng và nhà nước nói chung trong
129
nền kinh tế thị trường không phải là sự can thiệp trực tiếp vào mọi hoạt động
của nền kinh tế - xã hội, mà cần trở lại chức năng vốn có của mình là quản
lý hành chính và điều tiết vĩ mô; còn chức năng quản lý sản xuất kinh doanh
do các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện. Những chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi cấp chính quyền cần được cụ thể hóa
trong các luật cơ bản của nhà nước; phải triệt để tôn trọng những quy định
của Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Kinh
tế thị trường không có sự chia cắt giữa kinh tế Trung ương và kinh tế địa
phương mà chỉ có một nền kinh tế thống nhất. Do vậy, hệ thống ngân sách
nhà nước phải thống nhất đòi hỏi cơ chế phân cấp phải thông suốt, đồng bộ.
Phân cấp quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước vừa phải phù hợp với phân
cấp quản lý kinh tế - xã hội, vừa phải đảm bảo tính thống nhất của nền tài
chính quốc gia.
Thứ hai, phân cấp quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước phải đảm bảo
vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và tính chủ động của ngân sách địa
phương. Nhà nước Lào là nhà nước thống nhất nên chỉ có một ngân sách và
đòi hỏi pháp luật về phân cấp ngân sách phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tập trung, thống nhất với phân cấp, phân quyền. Phân cấp quá mức về ngân
sách sẽ dẫn đến phân tán, manh mún, làm yếu vai trò chỉ đạo của cấp trên;
ngược lại, tập trung quá mức sẽ dẫn đến tệ quan liêu, độc đoán của cấp trên và
làm cho cấp dưới bị động, ỷ lại. Yêu cầu tập trung thống nhất cũng đòi hỏi
cấp trên phải xây dựng các chuẩn mực trong quản lý chi tiêu như định mức
tiêu chuẩn chi tiêu, sử dụng tài sản nhà nước, v.v.. Tuy nhiên, cần có sự phân
biệt để thực hiện phân cấp trách nhiệm cho các địa phương theo hướng những
tiêu chuẩn định mức quan trọng phải do cấp trên thống nhất quản lý và quy
định như tiền lương, chính sách xã hội, v.v.. Một số tiêu chuẩn, định mức
khác sẽ giao cho chính quyền địa phương quy định căn cứ vào khả năng vật
chất và điều kiện cụ thể của mình như tiền thu vệ sinh đường phố, phí công
viên, chi trợ cấp cho người già, trẻ mồ côi, v.v.. Hiện nay, xu hướng phân cấp
130
nhiều hơn và rộng rãi hơn cho chính quyền địa phương, đặc biệt là chính
quyền cơ sở đã phục vụ nhu cầu chung của cộng đồng dân cư trên địa bàn.
Như vậy, ngân sách địa phương một mặt vẫn mang tính phụ thuộc nhưng mặt
khác được phát huy tính tự chủ, năng động, sáng tạo trong việc khai thác
nguồn thu và phân bổ chi tiêu.
Thứ ba, phân cấp quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước phải đảm bảo
ổn định cả nguồn thu và nhiệm vụ chi tương đối lâu dài, phù hợp với tình hình
thực tế của từng địa phương. Để đảm bảo tính công bằng hợp lý giữa các địa
phương, Nhà nước cần tăng cường sức mạnh của ngân sách trung ương trong
việc chi viện, chi phối cho các địa phương có điều kiện khó khăn, nguồn thu
không đủ đáp ứng các nhiệm vụ chi; nhưng cũng cần tránh khuynh hướng cân
đối thay cho các địa phương. Vì như vậy, sẽ tạo tâm lý ỷ lại, dựa dẫm, ngại
vượt khó, không phát huy được tính năng động, sáng tạo của địa phương.
Thông qua cơ chế bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa
phương, từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới sẽ góp phần đảm bảo
tính công bằng, hợp lý giữa các địa phương trong cả nước.
4.3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
HIỆN NAY
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về sử
dụng ngân sách nhà nước ở Lào, tác giả xin đề xuất một số giải pháp khoa học
dưới đây hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé vào việc thực hiện pháp luật về
sử dụng ngân sách nhà nước bảo đảm minh bạch, hiệu quả để thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước công bằng,
dân chủ, văn minh và phát triển bền vững.
4.3.1. Hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
Bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN trong thực tiễn cuộc
sống, trước hết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu xây dựng nhà
131
nước pháp quyền và hội nhập quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu trên, việc hoàn
thiện pháp luật về sử dụng NSNN phải quán triệt các quan điểm sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước nhằm
thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về NSNN. Pháp luật
về sử dụng ngân sách nhà nước phải phù hợp với mục tiêu định hướng được
thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc thông qua các kỳ đại hội
về: Chủ trương, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền, hoàn thiện hệ thống pháp luật, mở
rộng hội nhập quốc tế, phát huy quyền làm chủ của nhân dân... Bên cạnh đó
còn phải phù hợp với định hướng đổi mới đối với công tác tài chính - ngân
sách trong giai đoạn 2010 - 2020; chiến lược hoàn thiện cải cách quản lý tài
chính - ngân sách của Chính phủ. Các quy định thực hiện pháp luật về sử
dụng ngân sách nhà nước phải được thực hiện trên cơ sở quán triệt đường lối,
chính sách chung của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Các cơ chế, chính sách
pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước vừa phải phù hợp với khuôn khổ
của cơ chế chính sách quản lý kinh tế, vừa theo kịp với tiến trình của công
cuộc cải cách đất nước. Trước yêu cầu của hội nhập quốc tế, đổi mới thực
hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước còn có yêu cầu phải đáp ứng
các nguyên tắc cơ bản của WTO, giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích
quốc gia và lợi ích quốc tế. Bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa các chủ trương,
đường lối của Đảng về phát triển kinh tế theo định hướng XHCN với quy
định của WTO, tranh thủ tối đa những quy định ưu đãi đối với các nước
đang phát triển và nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao
cấp sang kinh tế thị trường.
Thứ hai, ưu tiên đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật NSNN đòi
hỏi phải có sự ưu tiên trong chương trình pháp luật tổng thể để đáp ứng yêu
cầu bức thiết của thực tiễn và để phục vụ chiến lược cải cách tài chính ngân
sách đã được Chính phủ đề ra. Quan điểm này hình thành từ việc đánh giá hệ
132
thống pháp luật về quản lý, sử dụng NSNN. Hiện nay, sử dụng NSNN đang là
vấn đề khá nhạy cảm để điều chỉnh hoạt động ngân sách phát sinh trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội, phục vụ cho việc thực hiện các cam kết quốc tế
trong quá trình hội nhập. Chính vì vậy, ưu tiên xây dựng chương trình thực
hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước cần phải được khẳng định.
Quốc hội khóa VI nhiệm kỳ năm 2006 - 2010 đã thông qua việc sửa đổi Luật
Ngân sách nhà nước 26/12/2006 vào chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh
của Quốc hội.
Thứ ba, đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà
nước phải trên cơ sở kế thừa, phát huy các thành quả của quá trình hoàn thiện
pháp luật nói chung và pháp luật về tài chính nói riêng sau gần 30 năm đổi
mới. Hoàn thiện thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước còn phải
được kế thừa kinh nghiệm tổng kết đánh giá thực trạng hoạt động ngân sách
nhà nước, những quan điểm đổi mới chính sách và cơ chế quản lý ngân sách
nhà nước từ công cuộc cải cách kinh tế được khởi xướng từ Đại hội IV của
Đảng NDCM Lào (1986). Nhất là sự kế thừa nội dung tổng kết, đánh giá thực
tiễn thực hiện các Luật Ngân sách nhà nước đầu tiên được Quốc hội thông
qua ngày 18/7/1994; Luật sửa đổi, bổ sung số 02/QHQG ngày 26/12/2006 và
các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Thứ tư, Nhà nước ban hành văn bản mới kết hợp với sửa đổi, bổ sung
văn bản hiện hành. Khối lượng văn bản quy phạm pháp luật phải ban hành để
hoàn thiện các quy định về sử dụng ngân sách nhà nước là tương đối lớn.
Việc có đáp ứng cả về năng lực soạn thảo văn bản lẫn ban hành, thông qua
đều có những hạn chế nhất định nếu thực hiện theo cách cũ. Trước tình hình
này đòi hỏi phải có cách làm mới trong xây dựng pháp luật: (a) có tính đến
việc ban hành mới như Luật Chi tiêu công, Luật Tài chính công, Luật Đầu tư
công, Luật Quản lý khu vực nợ công, Luật Thuế tài sản, v.v.. (b) có sửa đổi,
bổ sung một số Luật liên quan đến chính sách thu ngân sách như các Luật về
133
Thuế (Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế giá trị
gia tăng, v.v..); Pháp lệnh phí, lệ phí, v.v..; Luật Đất đai, Luật Quản lý tài sản
nhà nước, Luật Trưng mua trưng dụng tài sản của cá nhân, tổ chức, v.v..
Quan trọng hơn cả là phải nâng cao chất lượng trong từng văn bản luật
đảm bảo tính khả thi, Luật được ban hành có thể thực hiện được ngay, hạn
chế ban hành văn bản hướng dẫn. Đồng thời, phải quan tâm thích đáng tới yêu
cầu, nội dung cải cách thủ tục hành chính, cải cách quy trình nghiệp vụ trong
hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước khi xây dựng, sửa
đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo tính linh hoạt đồng bộ,
độ chính xác cao. Tạo lập một hệ thống pháp luật hoàn thiện, xóa bỏ cơ chế
bao cấp trong hoạt động quản lý NSNN. Pháp luật về quản lý NSNN phải có
phân cấp mạnh mẽ, toàn diện, hướng tới mục tiêu làm cho hoạt động của
NSNN gắn với thị trường, phải đặt sự vận động của NSNN trong sự vận động
của thị trường và thúc đẩy thị trường phát triển. Bên cạnh đó, phải coi trọng
hiệu quả ở tầm vĩ mô của NSNN thể hiện ở việc sử dụng ngân sách nhà nước
như một công cụ để nhà nước thực hiện quản lý xã hội đảm bảo cho sự vận
hành hoạt động thông suốt của bộ máy nhà nước, thực hiện ổn định thị trường
và kích thích tăng trưởng. Quan điểm này đòi hỏi việc quản lý, sử dụng ngân
sách nhà nước phải linh hoạt và thực hiện triệt để nguyên tắc chống bao biện,
bao cấp trong chi ngân sách nhà nước.
Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước phải
đảm bảo tính minh bạch, công khai; đồng thời phải có tính khả thi cao nhằm
đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực của pháp luật. Thực hiện triệt để nguyên tắc
tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước; đi đôi với
tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính. Đưa công tác thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí vào quy trình ngân sách từ khâu lập dự toán, chấp hành dự
toán đến quyết toán ngân sách nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh
tra, kiểm toán ngân sách nhà nước, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm.
134
Siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính ở các ngành, các cấp, các lĩnh vực trong
hoạt động tài chính ngân sách.
Thứ sáu, hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước phải đảm
bảo nội luật hóa đầy đủ các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân sách
hướng tới tiếp tục mở rộng hợp tác, tăng cường hội nhập quốc tế. Đổi mới
pháp luật quản lý, sử dụng NSNN cần được thực hiện trên sự chủ động căn cứ
vào chuẩn mực của WTO để đối chiếu so sánh, đảm bảo hệ thống pháp luật
ngân sách phải hài hòa giữa các quy định trong nước với các quy định của
WTO, thể hiện thông qua việc đàm phán của Lào khi gia nhập tổ chức này.
Nói cách khác, Lào phải thực hiện quyền chuyển hóa các quy phạm về lĩnh
vực tài chính vào pháp luật ngân sách. Ngoài việc là thành viên của WTO,
Lào còn có quan hệ với nhiều nước trên thế giới và cũng là thành viên của
ASEAN, AFTA, v.v.. Theo đó, nhân dân các bộ tộc Lào cần nhận thức rằng,
hệ thống pháp luật về tài chính của Lào (trong đó có pháp luật về ngân sách
nhà nước) phải được đổi mới, hoàn thiện trên nguyên tắc vừa đảm bảo chủ
quyền vừa phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước, hài hòa với các chuẩn
mực quốc tế.
Hoàn thiện pháp luật về sử dụng NSNN theo những quan điểm nêu trên
đồng thời phải thực hiện các nội dung điều chỉnh, sửa đổi sau đây:
Một là, rà soát phạm vi điều chỉnh của các luật quy định nhiệm vụ sử
dụng ngân sách, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định. Luật về
ngân sách có liên quan đến việc sử dụng nguồn ngân sách của nhà nước. Hiện
nay, có rất nhiều văn bản luật, dưới luật điều chỉnh và có liên quan đến lĩnh
vực này nhưng vẫn có sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các luật và các văn bản
dưới luật. Do đó, Nhà nước cần rà soát lại, đảm bảo sự thống nhất giữa các
văn bản.
Hai là, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về kiểm soát, thanh
toán các khoản chi NSNN qua KBNN. Nhà nước cần hoàn thiện quy trình chi
135
NSNN theo hình thức cấp phát theo dự toán, thanh toán trực tiếp tại KBNN;
làm rõ vai trò, trách nhiệm của hệ thống KBNN trong việc kiểm soát chi; cải
thiện thủ tục hành chính trong quá trình thanh toán trực tiếp tại KBNN; tạo sự
chủ động cho các đơn vị thụ hưởng ngân sách trong quá trình chi tiêu, triển
khai thực hiện các nhiệm vụ được giao; đồng thời, đề cao trách nhiệm của thủ
trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, gắn trách nhiệm của kho bạc với thủ trưởng
đơn vị sử dụng ngân sách trong việc kiểm soát các chứng từ chi. Ngăn chặn
các trường hợp chi tiêu không hợp lý, sai chế độ; tăng cường trách nhiệm giải
trình của cơ quan tài chính và các đơn vị thụ hưởng ngân sách; đơn giản hóa
các thủ tục hành chính trong chi tiêu ngân sách; tăng cường kiểm tra, kiểm
soát chi theo dự toán được duyệt. Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tài
chính, KBNN trong quá trình kiểm soát chi. Khi xuất hiện quỹ ngân sách, cơ
quan tài chính, KBNN thực hiện kiểm soát. Nếu chi tiêu sai chế độ mà vẫn
được thanh toán thì cơ quan tài chính, KBNN cần phải cùng chịu trách nhiệm
với thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách. Trong công tác quyết toán, chứng từ
được KBNN cho thanh toán cũng chính là chứng từ quyết toán, KBNN cũng
cần phải cùng chịu trách nhiệm với thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách về
các chứng từ chi ngân sách.
Ba là, khắc phục tính chồng chéo trong hệ thống NSNN. Hệ thống
NSNN hiện nay mang tính lồng ghép, NSNN bao gồm ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương; ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn
vị hành chính các cấp ở địa phương (ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp
huyện); ngân sách cấp dưới là bộ phận hợp thành của ngân sách cấp trên. Với
quy định lồng ghép của hệ thống NSNN cơ bản đảm bảo tính thống nhất và
tính tuân thủ của các cấp ngân sách. Tuy nhiên, sự trùng lặp về thẩm quyền,
việc phân định trách nhiệm của từng cấp chưa thật sự rõ ràng, nhất là chưa
thực sự đảm bảo quyền tự chủ của cấp dưới nên hiệu quả quản lý còn hạn chế.
Theo kinh nghiệm quốc tế, trong hệ thống NSNN phần lớn các nước trên thế
136
giới như Mỹ, Canada, Đức, Trung Quốc, Thái Lan… các cấp ngân sách
không lồng ghép với nhau, ngân sách từng cấp do chính quyền địa phương
quyết định. Với mô hình không lồng ghép như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của
từng cấp ngân sách được quy định rõ ràng hơn, đơn giản hóa được các thủ tục
trong công tác lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán NSNN. Mỗi cấp
ngân sách có thời gian và điều kiện để xem xét chi tiết, kỹ lưỡng ngân sách
cấp mình, tăng tính công khai, minh bạch của NSNN. Tuy nhiên, trong điều
kiện hiện nay, Lào chưa thể lồng ghép được các cấp ngân sách, do việc phân
cấp kinh tế - xã hội giữa các cấp chính quyền ở địa phương vẫn chưa thống
nhất, đặc biệt là trong bối cảnh Lào đang thí điểm xây dựng các tỉnh, huyện,
cụm bản kinh tế trọng điểm theo Nghị quyết Trung ương lần thứ V khóa IX.
Theo đó, ngân sách ở một số tỉnh, huyện, cụm bản sẽ rất phức tạp khi thiết kế
nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương. Do vậy, kiến
nghị thực hiện hệ thống lồng ghép NSNN vẫn cần thiết theo hướng: Quốc hội
chỉ quyết định tổng chi NSNN, bao gồm chi ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương; đối với ngân sách địa phương, Quốc hội quyết định chi tiết
theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ, chi bổ
sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách; không quyết định cho quỹ chi
thường xuyên phải có mức chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ, v.v.. Đồng thời, để các địa phương tự quyết định,
phân bổ chi ngân sách địa phương cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa
học & công nghệ, y tế, văn hóa, môi trường theo định hướng của Đảng và
Nhà nước; bổ sung quy định các địa phương khi quyết định dự toán ngân sách
địa phương phải bảo đảm ưu tiên cho các lĩnh vực theo Nghị quyết của Quốc
hội, quy định của Chính phủ và chính quyền cấp trên.
Bốn là, quy định cụ thể hơn về phân bổ dự toán sử dụng NSNN. Cần bổ
sung quy định trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương thực hiện
đúng các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu do Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính
137
ban hành, không được đưa ra các định mức chi tiêu thấp hơn. Việc giao kinh
phí tự chủ theo cơ chế khoán phải có căn cứ, sát thực tế để đảm bảo các hoạt
động của đơn vị sử dụng kinh phí. Khi quy định nguồn thu - chi và xây dựng
định mức phân bổ ngân sách cần chú ý đến những yếu tố đặc thù của các địa
phương, nhất là các đô thị lớn Thủ đô Viêng Chăn, tỉnh Chăm pa sắc. Việc
lập dự toán chi ngân sách của các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách cần phải
giải trình rõ những nội dung chi trong năm ngân sách, thay vì được điều chỉnh
mức chi căn cứ vào số chi năm trước theo cách hiện nay vẫn thực hiện.
Năm là, quy định về tự chủ tài chính gắn với sử dụng nguồn nhân lực.
Chính phủ phải xây dựng được các định mức biên chế phù hợp với công việc
của từng cơ quan, đơn vị sử dụng NSNN. Đối với các cơ quan nhà nước, đơn
vị sử dụng NSNN, định mức phân bổ NSNN ngoài căn cứ theo biên chế được
phê duyệt cần phải có thêm căn cứ khác như: Chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước được giao, quy mô, cơ cấu tổ chức bộ máy của mỗi cơ quan, hệ
thống công sở, trang thiết bị, v.v.. Bên cạnh đó, các tổ chức quốc tế cũng
khuyến nghị để đảm bảo hiệu quả của chế độ tự chủ tài chính, cần tạo cho
người đứng đầu đơn vị sử dụng ngân sách nhiều quyền hạn hơn trong việc
tuyển dụng, sử dụng và sa thải nhân sự.
Sáu là, quy định cụ thể hơn nguyên tắc công khai và dân chủ hóa
trong điều hành thực hiện ngân sách. Nhà nước CHDCND Lào là nhà nước
của dân, do dân và vì dân; vì vậy, ngân sách cũng phải là ngân sách của dân,
do dân, vì dân. Việc công khai ngân sách sẽ là biện pháp quan trọng để
người dân tự giác hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Theo cơ
chế hiện nay thì ít có cơ hội thuyết phục “nộp thuế là nghĩa vụ cao cả và là
quyền lợi của dân”, nếu người dân không biết hoặc biết một cách mơ hồ về
số tiền mà họ đóng góp vào ngân sách được sử dụng vào mục đích gì, sử
dụng như thế nào và với số lượng bao nhiêu. Công khai ngân sách đi đôi với
tăng cường công tác giám sát tài chính ở địa phương. Bởi lẽ, khi đã mở rộng
138
phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương thì công tác kiểm tra, thanh tra,
giám sát càng phải được đặt ra là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
tất cả các cơ quan nhà nước. Công việc kiểm tra, thanh tra, giám sát cũng
cần được tiến hành đối với bất cứ một nghiệp vụ tài chính nào ở tất cả các
cấp. Trước hết, cần củng cố và phát triển hệ thống thanh tra từ Trung ương
đến địa phương; phân định rõ nhiệm vụ của các cơ quan như thanh tra tài
chính, thanh tra nhà nước, kiểm toán, viện kiểm sát, v.v.. trong quá trình
chấp hành dự toán NSNN.
4.3.2. Tiêu chuẩn hóa quy trình quản lý, kiểm soát thực hiện pháp
luật về sử dụng ngân sách theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế
Một trong số các nội dung quan trọng của việc cải cách nền tài chính
công ở nhiều nước trên thế giới chính là tiêu chuẩn hóa các quy trình quản lý
và kiểm soát sử dụng ngân sách nhà nước. Việc du nhập các quy trình quản lý
tài chính công tiên tiến và hiện đại từ nước ngoài vào Lào dù muộn hơn
nhưng dẫu sao cũng cần thiết trong bối cảnh Lào là thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO từ năm 2013), gia nhập cộng đồng chung ASEAN
vào cuối năm 2015. Để thực hiện những chủ trương đó, đòi hỏi nhà nước phải
tiến hành cải cách mạnh mẽ quy trình kiểm soát sử dụng ngân sách nhà nước
theo hướng hiện đại, công khai, minh bạch và phù hợp với pháp luật quốc tế.
- Thực hiện nguyên tắc cam kết chi: Pháp luật về chi NSNN và kiểm
soát chi hiện nay ở Lào chưa quy định kiểm soát cam kết chi một cách rõ
ràng; điều này dẫn đến các cơ quan tài chính thường tỏ ra bị động trong quá
trình bố trí nguồn công quỹ để thực hiện các khoản kinh phí theo dự toán
được duyệt cho các đơn vị sử dụng ngân sách. Mặt khác, nó tạo nên rủi ro tài
chính nói chung trong nền kinh tế do các nhà thầu, đơn vị cung cấp hàng hóa
lao vụ không biết rõ được những khoản chi tiêu nào của Chính phủ sẽ được
cam kết thanh toán và dẫn đến nợ đọng lớn, đặc biệt là nợ đọng trong đầu tư
xây dựng cơ bản như tình trạng của Bộ quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải
139
thời gian vừa qua. Trên thực tế, nguyên tắc cam kết chi đã từng được hầu hết
các nước trên thế giới thực hiện; trong đó có những nước sử dụng hệ thống
thông tin quản lý kho bạc, ngân sách TABMIS và thực hiện nguyên tắc kế
toán dồn tích. Cam kết chi được thực hiện cho các khoản dài hạn và ngắn hạn.
Đối với các khoản chi dài hạn qua nhiều năm như các dự án xây dựng cơ bản,
việc thực hiện cam kết chi được chia ra từng năm để thấy rõ sự cân đối giữa
nguồn lực tài chính và phân bổ nguồn lực trong khuôn khổ tài khóa trung hạn.
Còn các khoản chi ngắn hạn, nếu các khoản chi đã có trong dự toán năm được
duyệt thì các đơn vị chi tiêu phải nhập vào hệ thống thông tin hoặc cung cấp
cho KBNN các tài liệu về hợp đồng mua bán để nhập vào hệ thống thông tin.
Các hợp đồng này sau khi nhập vào hệ thống, được các cơ quan tài chính
kiểm soát thì coi như đã được thực hiện cam kết chi với đơn vị cung cấp hàng
hóa dịch vụ. Qua đó, góp phần hạn chế tối đa rủi ro cho các đơn vị cung cấp
hàng hóa dịch vụ, tránh tình trạng nợ đọng trong chi tiêu ngân sách và giúp cơ
quan tài chính điều hành hiệu quả quỹ NSNN.
- Kiểm soát theo ngưỡng chi: Các quy định về kiểm toán chi hiện nay
của Lào đã tính tới phân loại rủi ro để xây dựng quy trình kiểm soát cho phù
hợp. Tuy nhiên việc phân loại này lại được thực hiện theo từng nhóm chi mà
không theo giá trị của các khoản chi. Để đơn giản hóa quá trình kiểm soát chi
đối với một số tài khoản chi có giá trị nhỏ, kho bạc sẽ không tiến hành kiểm
soát mà chỉ thực hiện việc thanh toán theo lệnh chuẩn chi; còn đơn vị sử dụng
ngân sách chịu trách nhiệm về tính pháp lý của các khoản chi này. Việc thực
hiện kiểm soát theo ngưỡng chi sẽ nâng cao tính hiệu quả trong quá trình quản
lý ngân sách, đảm bảo rằng chi phí cho việc thực hiện kiểm soát chi không
lớn hơn lợi ích thu về do việc kiểm soát chi mang lại.
- Kiểm soát chi theo kết quả đầu ra: Ngay từ khi lập dự toán đơn vị sử
dụng ngân sách đã phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao; định mức,
chế độ chi tiêu tài chính hiện hành của nhà nước cũng như dự toán sử dụng
140
NSNN năm trước và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao trong năm trước
để xây dựng dự toán chi NSNN trong năm kế hoạch. Trong quá trình thực
hiện kế hoạch chi, đơn vị sử dụng ngân sách được toàn quyền chủ động và tự
chịu trách nhiệm về việc sử dụng kinh phí được cấp, đảm bảo thực hiện công
việc theo đúng những cam kết ban đầu (số lượng, chất lượng, hiệu quả công
việc). Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành theo dõi, kiểm tra
tình hình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị đó. Trường hợp các cơ quan này phát
hiện thấy đơn vị sử dụng ngân sách không đảm bảo thực hiện công việc theo
đúng kết quả đã cam kết thì họ có thể yêu cầu KBNN tạm ngừng cấp phát
kinh phí cho đơn vị hoặc có biện pháp để thu hồi phần kinh phí đã cấp cho
đơn vị.
4.3.3. Quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong
thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước, nhất là sử dụng
nguồn vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản
Việc xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể có liên quan
trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN, nhất là sử dụng nguồn vốn
NSNN cho đầu tư xây dựng cơ bản là một yếu tố quan trọng. Chỉ có xác định
rõ quyền hạn và trách nhiệm cũng như nhiệm vụ cụ thể của từng chủ thể thì
mới hy vọng nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư, tránh thất thoát lãng phí
trong quản lý, sử dụng nguồn vốn đầu tư từ NSNN. Tuy nhiên các văn bản
pháp luật hiện hành ở Lào chưa quy định rõ địa vị pháp lý của một số chủ thể
có liên quan cũng như chế tài xử lý khi các chủ thể này có hành vi vi phạm
pháp luật.
- Đối với chủ đầu tư: Đây là đơn vị trực tiếp nhận vốn đầu tư xây
dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước để thực hiện việc xây dựng công trình
theo dự toán đã được duyệt. Để thực hiện tốt công tác quản lý vốn đầu tư nói
chung và kiểm soát chi nói riêng thì cần phải luật hóa trách nhiệm của chủ
141
đầu tư trên một số lĩnh vực như thực hiện thủ tục và trình tự đầu tư; thực
hiện nghiệm thu khối lượng hoàn thành, v.v.. Hiện nay, do pháp luật chưa
quy định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư cùng với các chế tài xử lý vi phạm
khi chủ đầu tư không hoàn thành nhiệm vụ nên trong thực tế nhiều đơn vị
chủ đầu tư không tiến hành nghiệm thu khối lượng hoàn thành kịp thời để
làm thủ tục thanh toán, dẫn đến chậm giải ngân vốn đầu tư. Bên cạnh đó,
trách nhiệm tổng hợp quyết toán dự án, công trình hoàn thành; do không có
chế tài xử lý nghiêm khắc nên nhiều dự án, công trình hoàn thành song
không được quyết toán bởi chủ đầu tư dẫn đến thất thoát, lãng phí và không
quản lý được tài sản công.
- Ban quản lý dự án: Trách nhiệm của Ban quản lý dự án và chủ đầu tư
không được phân định rõ ràng khiến cho việc quy kết trách nhiệm khi có hành
vi vi phạm trở nên khó khăn. Cho đến nay, chưa có văn bản pháp lý nào quy
định chi tiết về địa vị pháp lý của Ban quản lý dự án. Nhiều ban quản lý dự án
được giao quyền hạn quá lớn nhưng trách nhiệm pháp lý lại không rõ ràng,
dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí, thất thoát tài sản công trong quá
trình thực hiện các dự án.
- Cơ quan thiết kế, giám sát thi công: Việc quy định rõ trách nhiệm
pháp lý của tổ chức thiết kế, giám sát thi công đối với kết quản thực hiện
dự án tỏ ra là cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh thực tiễn ở Lào hiện nay đã
có quá nhiều công trình phải thiết kế lại, điều chỉnh hoặc bổ sung thiết kế
do người thiết kế và người giám sát thi công không phải chịu áp lực của
các trách nhiệm pháp lý cụ thể. Qua thực tiễn cho thấy rằng, phần lớn các
thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản được phát hiện thông qua
kiểm soát chi ngân sách nhà nước là do sự buông lỏng khâu thiết kế và
giám sát thi công. Tuy hiện tại chưa có chế tài xử lý nghiêm đối với các vi
phạm này.
142
Thực hiện pháp luật nghiêm minh về sử dụng ngân sách nhà nước
đối với các chủ thể có liên quan đến sử dụng ngân sách là vấn đề cấp bách
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Lào hiện nay. Để sử dụng
ngân sách hiệu quả, nhà nước cần tiếp tục đổi mới phương thức quản lý
cũng như có những chế tài cụ thể, nghiêm khắc mang tính răn đe đối với
những hành vi sai của các chủ thể (chủ đầu tư, ban quản lý dự án, cơ quan
thiết kế - giám sát - thi công). Nếu sử dụng ngân sách hiệu quả, chất lượng
công việc được giao là tốt thì nên thưởng; ngược lại, nếu vi phạm dẫn đến
thất thoát ngân sách nhà nước, chất lượng công việc kém thì phạt tiền, tù có
thời hạn hoặc trung thân thậm chí tử hình; đặc biệt với số tiền lớn, Nhà
nước bắt chủ thể vi phạm bồi thường số tiền đã làm thất thoát và chịu hình
phạt tù hoặc tử hình.
4.3.4. Hiện đại hóa công nghệ quản lý và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức trực tiếp tham gia công tác kiểm soát, quản lý
ngân sách nhà nước
- Hiện đại hóa công nghệ quản lý, đặc biệt là xây dựng hệ thống thông
tin quản lý kho bạc và ngân sách (treasury and budget managenment
information system - TABMIS). TABMIS là hệ thống thông tin quản lý hệ
thống kế toán máy tính, triển khai thống nhất trong hệ thống KBNN, cơ quan
tài chính từ Trung ương đến quận huyện, có kết nối với Chính phủ, Bộ Kế
hoạch và đầu tư, các Sở kế hoạch và đầu tư, các bộ chủ quản và hướng tới sẽ
kết nối với các đơn vị sử dụng NSNN. TABMIS ghi chép, xử lý và quản lý dữ
liệu tập trung, do đó có khả năng cung cấp thông tin, dữ liệu về toàn bộ tình
hình thực hiện ngân sách thông qua KBNN ở các cấp, các bộ, ngành, các đơn
vị sử dụng ngân sách. TABMIS phân bổ dự toán ngân sách được duyệt đến
từng đơn vị sử dụng ngân sách; quản lý, kiểm soát chi, tổ chức thanh toán,
theo dõi tập trung việc thực hiện dự toán của từng cấp ngân sách, từng bộ,
143
từng đơn vị. Đây là hệ thống thông tin hiện đại được IMF và WB hỗ trợ xây
dựng tại một số nước đang trong quá trình chuyển đổi nhằm đổi mới công
nghệ và cơ chế quản lý tài chính công.
Ngoài ra, việc hoàn thiện công nghệ quản lý còn liên quan trực tiếp đến
vấn đề cải cách thủ tục hành chính trong cấp phát và thanh toán ngân sách nhà
nước. Vì vậy, việc cải cách thủ tục trong lĩnh vực tài chính công có thể hiểu
bao gồm ba nội dung cơ bản sau đây:
+ Giảm bớt các đầu mối cơ quan quản lý trung gian tham gia vào quá
trình quản lý chi ngân sách nhà nước. Xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng
cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của từng cá nhân, tổ chức trực tiếp tham gia
vào quá trình quản lý chi ngân sách nhà nước từ khâu lập, chấp hành đến
quyết toán ngân sách nhà nước.
+ Thiết kế những mô hình quản lý chi ngân sách nhà nước hiện đại,
khoa học, giảm thiểu tối đa các giấy tờ không cần thiết, sớm thí điểm và áp
dụng hình thức kiểm soát chi điện tử vào thực tế.
+ Công khai hóa mọi chính sách, chế độ về quản lý chi ngân sách nhà
nước, thiết lập môi trường làm việc thân thiện giữa cơ quan kiểm soát chi
ngân sách nhà nước và đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kiểm soát, quản lý
NSNN. Việc kiện toàn bộ máy tổ chức kiểm soát chi cũng như hoàn thiện
công nghệ quản lý, liên quan trực tiếp đến yêu cầu phát triển nguồn nhân
lực; bởi lẽ bộ máy quản lý nào và công nghệ quản lý nào cũng cần có nhân
tố con người điều khiển và quản trị nó. Vì lẽ đó, việc xây dựng đội ngũ cán
bộ KBNN đặc biệt là những người làm công tác kiểm soát chi NSNN theo
hướng chuyên môn hóa và tiêu chuẩn hóa chính là để nâng cao, tăng cường
năng lực hoạt động của bộ máy kiểm soát chi ngân sách trong bối cảnh hội
nhập quốc tế. Muốn xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”
cần phải:
144
+ Tiếp tục đổi mới công tác đánh giá công chức, viên chức, thực hiện
việc lấy phiếu tín nhiệm hàng năm đối với cán bộ làm công tác lãnh đạo, quản
lý trong lĩnh vực quản lý chi ngân sách nhà nước.
+ Triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, năng lực quản lý
hành chính và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho công chức, viên chức trực
tiếp tham gia công tác kiểm soát, quản lý ngân sách nhà nước. Trong đó đặt
trọng tâm vào công tác bồi dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất cơ chế chính
sách của công chức, viên chức để cơ chế chi thường xuyên đạt hiệu quả cao
nhất, tiết kiệm nhất cho ngân sách nhà nước.
Với những giải pháp trên mà tác giả đưa ra, hy vọng giúp ích đối với
việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Lào trong thực
hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước, chống lãng phí, tham nhũng
làm thất thoát tài sản chung của nhân dân, mang lại hiệu quả cao hơn đối với
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
4.3.5. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm toán xử lý
nghiêm minh các vi phạm trong thực hiện pháp luật về sử dụng ngân
sách nhà nước
Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm toán, xử lý nghiêm
minh các vi phạm trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là những hoạt
động có vai trò hết sức quan trọng, bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật về
sử dụng NSNN. Bất kể lĩnh vực nào của đời sống xã hội cũng như của quản lý
nhà nước, nếu không có kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm không thể bảo
đảm việc thực hiện đúng đắn theo yêu cầu của pháp luật.
Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là cần thiết vì hoạt
động này được thực hiện ngay trong quá trình thực hiện quy định của pháp
luật về sử dụng NSNN, ngăn chặn kịp thời những lệch lạc, sai trái, hoặc lợi
dụng để vụ lợi, sử dụng lãng phí, không tiết kiệm. Phải tăng cường hoạt động
kiểm tra của cấp trên với cấp dưới, của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ
đối với các ngành, chính quyền các địa phương; việc kiểm tra được tiến hành
145
dưới nhiều phương thức như kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất theo yêu cầu,
kiểm tra đối với những lĩnh vực nhạy cảm, dễ có sai sót, vụ lợi như xây dựng
cơ bản, chi đầu tư công v.v..
Giám sát việc thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN là chức năng của
Quốc hội và chính quyền địa phương. Tuy nhiên ở CHDCND Lào do không
tổ chức HĐND nên việc giám sát sử dụng NSNN chủ yếu do Quốc hội thực
hiện vì thế không thể thực hiện thường xuyên và trên tất cả các lĩnh vực, chỉ
đến kỳ họp cuối năm mới có điều kiện thực hiện yêu cầu này. Hiện nay
CHDCND Lào đang nghiên cứu thành lập lại HĐND các cấp nhằm bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân ở các địa phương, trong đó có vấn đề giám sát
thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.
Kiểm toán việc sử dụng NSNN là hoạt động của kiểm tra, việc sử dụng
NSNN do cơ quan kiểm toán thực hiện. Hoạt động này cho phép đánh giá
chính xác việc sử dụng NSNN có phù hợp với quy định của pháp luật không,
có hiệu quả không? lãng phí bao nhiêu, lãng phí như thế nào sau khi NSNN
đã được sử dụng. Kết quả kiểm toán là chứng cứ để xử lý các vi phạm trong
thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.
Gắn với các hoạt động nêu trên phải có hậu quả pháp lý tất yếu là xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật về sử dụng NSNN. Việc xử lý phải theo
nguyên tắc mọi vi phạm phải được phát hiện, xử lý nghiêm minh, không có
vùng cấm, mọi người bình đẳng trước pháp luật. Xử lý nghiêm minh mới lập
lại được kỷ cương, trật tự trong thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN, bảo
đảm việc sử dụng NSNN có hiệu quả, ngăn chặn việc lãng phí, lợi dụng để
trục lợi, vụ lợi. Việc xử lý không chỉ thực hiện trực tiếp đối với những chủ thể
sử dụng NSNN mà cần thiết phải áp dụng cả với những người đứng đầu các
cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng NSNN.
146
Tiểu kết chương 4
Từ yêu cầu tăng cường quản lý thực hiện các khoản chi NSNN bảo đảm
tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí; điều hành NSNN hợp lý, khắc
phục những hạn chế, yếu kém vi phạm trong thực hiện pháp luật về sử dụng
NSNN cho thấy bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN ở CHDCND
Lào là yêu cầu khách quan, cấp bách hiện nay. Trên cơ sở phân tích những ưu
điểm, hạn chế và nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế trong thực hiện
pháp luật về sử dụng NSNN, cho thấy thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN
bảo đảm pháp luật đi vào cuộc sống là việc làm không dễ dàng. Thực hiện
pháp luật về sử dụng NSNN chỉ được đảm bảo trên cơ sở hoàn thiện các quy
định của pháp luật về sử dụng NSNN bảo đảm cụ thể, khả thi, dễ kiểm tra,
kiểm soát. Muốn vậy cần có đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý NSNN được
bổ sung đào tạo về kiến thức pháp luật, quy trình, cách thức soạn thảo văn bản
quy phạm pháp luật, kinh phí, thiết bị cần thiết cho công tác xây dựng pháp
luật. Cần xây dựng lộ trình hoàn thiện thể chế thích hợp và nâng cao chất
lượng lập pháp. Xây dựng, đào tạo những chuyên gia liên ngành xây dựng
pháp luật để tránh chỉ có các chuyên gia của các ngành, địa phương độc
quyền làm luật vì lợi ích cục bộ. Trước khi phê chuẩn Luật sửa đổi, bổ sung
cần lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà lập pháp và trưng cầu ý dân, tuyên
truyền sâu rộng trong nhân dân thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN. Mặt
khác phải tiêu chuẩn hóa quy trình quản lý, kiểm soát việc thực hiện pháp luật
về sử dụng NSNN theo hướng phù hợp thông lệ quốc tế; quy định rõ trách
nhiệm của các chủ thể có liên quan trong thực hiện pháp luật về sử dụng
NSNN; hiện đại hóa công nghệ quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức tham gia kiểm soát, quản lý NSNN; tăng cường hoạt động kiểm
tra, giám sát, kiểm toán, xử lý nghiêm minh các vi phạm trong thực hiện pháp
luật về sử dụng NSNN. Các giải pháp nêu ra trong chương này, nếu được
triển khai thực hiện đồng bộ sẽ giúp Đảng và Nhà nước Lào hoàn thành mục
tiêu quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước có hiệu quả, công khai, minh bạch
phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
147
KẾT LUẬN
Ngân sách nhà nước luôn giữ vị trí quan trọng trong việc bảo đảm
nguồn tài chính cho sự tồn tại cũng như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước. Chính vì vậy, quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước như thế
nào là câu hỏi lớn - một vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với mỗi quốc gia,
đặc biệt trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra mãnh liệt như
hiện nay. Hiệu quả của thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước
không chỉ thể hiện năng lực hoạt động của bộ máy nhà nước mà còn ảnh
hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
Có thể khẳng định rằng, sử dụng ngân sách nhà nước luôn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ tham nhũng, lãng phí; bởi vì, ngân sách nhà nước là tài sản
chung do nhân dân đóng góp, nhà nước thay mặt nhân dân quản lý và sử
dụng. Từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước Lào đã có nhiều văn bản quy
định thực hiện sử dụng ngân sách nhà nước phù hợp với từng thời kỳ. Việc
thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước đã đạt được nhiều kết quả
nhất định, đã đưa vào cuộc sống khuôn khổ pháp lý quan trọng đối với công
tác sử dụng ngân sách nhà nước; củng cố, thúc đẩy phát triển kinh tế, thực
hiện công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo quốc phòng - an ninh.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về sử
dụng ngân sách nhà nước còn bộc lộ nhiều vấn đề tồn tại cả trong chế định
luật cũng như tổ chức triển khai thực hiện từ khâu lập kế hoạch, phân bổ,
kiểm tra, giám sát, công khai ngân sách dẫn đến việc quản lý, điều hành ngân
sách còn bị động, chấp hành Luật Ngân sách nhà nước chưa nghiêm, quản lý
ngân sách kém hiệu quả gây lãng phí, thất thoát ngân sách nhà nước. Vì vậy,
hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước trong bối cảnh Lào đang
thực hiện cơ chế, chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; quản
148
lý ngân sách nhà nước công khai, minh bạch đi đôi với sử dụng ngân sách
hiệu quả; tiến tới hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới là yêu
cầu tất yếu, khách quan.
Để bảo đảm thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN hiện nay ở
CHDCND Lào phải quán triệt quan điểm bảo đảm thực hiện quyền giám sát
của Quốc hội, của các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân đối với việc sử
dụng NSNN phải hướng đến mục tiêu bảo đảm sử dụng NSNN tiết kiệm, hiệu
quả, minh bạch. Đồng thời phải thực hiện hệ thống các giải pháp: hoàn thiện
pháp luật về sử dụng NSNN; tiêu chuẩn hoá quy trình quản lý, kiểm soát thực
hiện pháp luật về sử dụng NSNN theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế;
quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong thực hiện pháp
luật về sử dụng NSNN; hiện đại hoá công nghệ quản lý và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức kiểm soát, quản lý NSNN; tăng cường hoạt
động giám sát, kiểm tra, kiểm toán, xử lý nghiêm minh các vi phạm trong
thực hiện pháp luật về sử dụng NSNN.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ bảo đảm thực hiện nghiêm
minh pháp luật về sử dụng NSNN, góp phần sử dụng NSNN tiết kiệm, công
khai, minh bạch, có hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong sử
dụng NSNN ở CHDCND Lào.
149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phokham Sayasone (2016), "Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
về sử dụng ngân sách nhà nước ở Lào hiện nay", Tạp chí Lý luận
chính trị, (5), tr.109-113.
2. Phokham Sayasone (2018), "Thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách
nhà nước ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay", Tạp chí Lý luận
chính trị, (7), tr.119-125.
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Báo Hải quan điện tử (2013), “Gần 200 nghìn tỷ đồng chi thường xuyên
được kho bạc nhà nước kiểm soát chặt chẽ”, Báo Hải quan điện tử,
[cập nhật ngày 25/10/2013].
2. Lê Thanh Bình (2012), Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Lê Thị Thúy Bình (2016), Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
4. Michel Bouvier (2005), Tài chính công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Khămphoong Bútđavông (1998), Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách nhà
nước ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Luật, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
6. G.S.Becker (1969), "Tội phạm và hình phạt: Một cách tiếp cận dưới góc độ
kinh tế", Tạp chí Kinh tế - chính trị, (169), Đại học Chicago.
7. Công Chắcnokẹo (1997), Đổi mới quản lý nhà nước nhằm phát triển ngành
công nghiệp trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sỹ, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
8. Dương Đăng Chinh (1995), Ngân sách với vai trò điều chỉnh vĩ mô nền
kinh tế thị trường của nhà nước, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Đại học
Tài chính kế toán, Hà Nội.
9. Dương Văn Chinh - Phạm Văn Khoan (2007), Giáo trình quản lý tài chính
công, Nxb Tài chính, Hà Nội.
10. Nguyễn Vân Chi (2007), “Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam các
nội dung chính trong lĩnh vực tài chính” - Báo cáo số 1, Nhóm tư
vấn chính sách (PAG), Bộ Tài chính, Hà Nội.
151
11. Gorshunov D.N (2006), "Những yếu tố tâm lý xã hội trong thực thi
pháp luật", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (79).
12. Nguyễn Hồng Chuyên (2013), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
13. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính (2013), “Thông tin báo chí về kết quả thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2013, triển khai nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2014”, [cập nhật ngày 20/12/2013].
14. Ngô Thị Cúc, Ngô Phúc Thành và Phạm Trọng Lễ (1996), Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường, Trung tâm Pháp - Việt, Nxb Thống kê, Hà Nội.
15. Vũ Sỹ Cường (2012), “Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam và định hướng đổi mới”, Diễn đàn kinh tế mùa thu của Ủy ban Kinh tế quốc hội tháng 9.
16. Vũ Đình Duy (2005), “Chính sách tài khóa và tăng trưởng kinh tế”, Tạp
chí Tài chính, (8).
17. Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Ngân sách nhà nước, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
18. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Ngân sách nhà nước, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
19. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
20. Đại học Tài chính - Kế toán Hà nội (1998), Giáo trình Tài chính học,
Nxb Tài chính, Hà Nội.
21. Phạm Văn Hà (2007), Đánh giá tỷ lệ bảo hộ thực tế ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập và khuyến cáo chính sách, Báo cáo số 3, Nhóm tư vấn chính sách (PAG), Bộ Tài chính, Hà Nội.
22. Lê Duyên Hà (2017), Thực hiện pháp luật về khiếu nại hành chính trong
lĩnh vực đất đai trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
152
23. Khuất Việt Hải (2013), “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phân cấp quản
lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam”, tại trang http://www.phaply.
net.vn/dien-dan, [truy cập ngày 22/2/2018].
24. Trần Vũ Hải (2013), “Thực tiễn áp dụng pháp luật về phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện”, Tạp
chí Luật học, (3).
25. Trần Công Hàm, Nguyễn Hào Hùng (2005), “Ba mươi năm nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào: Những thành tựu”, Tạp chí Nghiên cứu
Đông Nam Á, (6).
26. Võ Đình Hảo (1993), Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Trương Duy Hòa (2012), Một số vấn đề và xu hướng chính trị - kinh tế ở
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ
XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình quản lý kinh
tế, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
29. Nguyễn Ngọc Hùng (2006), Quản lý ngân sách nhà nước, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
30. Nguyễn Sinh Hùng (2000), “Quản lý tài chính - ngân sách trong tình
hình mới”, Tạp chí Cộng sản, (9).
31. Nguyễn Huỳnh Huyện (2012), Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Luận
án tiến six Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
32. Đỗ Ngọc Huỳnh (2007), “Phân tích đánh giá tác động, ảnh hưởng, cơ hội
và thách thức của Hội nhập kinh tế quốc tế đến nền kinh tế Việt Nam”
- Báo cáo số 2, Nhóm tư vấn chính sách (PAG), Bộ Tài chính.
33. Nguyễn Thị Thu Hương (2011), “Tăng cường vai trò của kho bạc nhà
nước trong kiểm soát chi thường xuyên của ngân sách nhà nước”,
Tạp chí Quản lý nhà nước, (188).
153
34. Khuynh Thị Quỳnh Hương (2006), Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt
động kiểm soát chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam, Luận văn Thạc
sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
35. Khoa Quản trị kinh doanh - Đại học Duy Tân (2014), “Một số biện pháp
để nâng cao hiệu quả chi ngân sách xã hội cho sự nghiệp xã hội”,
tại trang Http://kqtkd.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail/vn/88/1105,
[truy cập ngày 20/3/2015].
36. Kulcsar Kalman (1999), Cơ sở xã hội học pháp luật (Đức Uy biên dịch),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Norkeo Kommadam (2016), Thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ
Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
38. Cao Tấn Khổng (1997), Một số giải pháp phân cấp quản lý ngân sách
nhà nước phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội trong điều
kiện hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
39. Đỗ Xuân Lân (2011), Thực hiện pháp luật đối với người nghèo trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
40. Nguyễn Tiến Lực (1994), “Nền kinh tế Lào khởi sắc”, Báo Nhân dân
ngày 26/11.
41. N.Gregory Mankiw (1999), Kinh tế vĩ mô (Macroeconomics), Nxb
Thống kê, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Lương Ninh (1983), Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
44. Ngân hàng thế giới (1996), Phân cấp ngân sách và cung cấp dịch vụ
nông thôn, Báo cáo thường niên.
154
45. Ngân hàng phát triển Châu Á (2004), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành
chính công trong một thế giới cạnh tranh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
46. Phương Nhung (2005), “Đảng Nhân dân Cách mạng Lào: Chặng
đường nửa đầu thế kỷ đấu tranh và thắng lợi vẻ vang”, Tạp chí
Cộng sản, (7).
47. Bùi Đường Nghiêu (2001), “Bàn về bản chất ngân sách nhà nước trong
nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Tài chính, số 10(444).
48. Hoài Nguyên (2008), Lào đất nước - con người, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
49. Nguyễn Thanh Nguyên, Lê Vinh Hà (1996), “Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào trên con đường chuyển đổi kinh tế”, Tạp chí Nghiên cứu
Đông Nam Á.
50. Cay xỏn Phômvihản (1980), Xây dựng cơ sở vững chắc để đưa đất nước
vững bước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, Nxb Quốc gia,
Viêng Chăn.
51. Chăn Seng Phimmavông (2003), Đổi mới quản lý nhà nước về thương
mại ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Luật, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
52. Vixúc Phômthithắc (2003), Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo hệ
thống chính trị trong sự nghiệp đối mới hiện nay, Luận án tiến sĩ
Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
53. Nguyễn Đức Phúc (2011), Thực hiện pháp luật về quyền con người của
phạm nhân trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ
Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
54. Thang Văn Phúc (chủ biên - 1998), Cải cách hành chính nhà nước - thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
55. Vũ Văn Phúc (2004), “Sở hữu nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3).
56. Tào Hữu Phùng, Nguyễn Công Nghiệp (1992), Đổi mới ngân sách nhà
nước, Nxb Thống kê, Hà Nội.
57. Nguyễn Văn Phụng (2005), “Vì một môi trường kinh doanh thuận lợi,
thông thoáng cho doanh nghiệp”, Tạp chí Tài chính, (11).
58. Hồ Xân Phương - Lê Văn Ái (2000), Quản lý tài chính nhà nước, Nxb
Tài chính, Hà Nội.
59. Đồng Việt Phương (2015), Thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở ở các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
60. Uông Trần Quang (1999), Kinh tế Lào và quá trình chuyển đổi cơ cấu,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
61. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật Ngân
sách nhà nước năm 1996, Nxb Lao động, Hà Nội.
62. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân sách nhà nước năm 1998,
Nxb Lao động, Hà Nội.
63. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Ngân
sách nhà nước năm 2002, Nxb Lao động, Hà Nội.
64. Vinh Sang (2002), “Hướng đổi mới cơ chế kiểm soát các khoản chi tiêu
thường xuyên của ngân sách nhà nước”, Tạp chí Tài chính, (456).
65. Hoàng Văn Sâm (2002), Thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam -
thực trạng, nguyên nhân, giải pháp, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học
viện Tài chính, Hà Nội.
66. Milton Spencer (1984), Kinh tế học hiện đại, Viện Quan hệ quốc tế - Bộ
Ngoại giao, Hà Nội.
67. Joseph.E.Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
156
68. Tạp chí Tài chính điện tử (2009), “Năm năm thực hiện Luật Ngân sách
nhà nước - bảy bất cập lớn cần sửa đổi”, tại trang
http://m.taichinhdientu.vn/tap-chi-efinance/5-nam-thuc-hien-luat-
ngan-sach-nha-nuoc-7-bat-cap-lon-can-sua-doi-51158.html, [truy
cập ngày 12/10/2015].
69. Nguyễn Minh Tân (2000), “Sửa đổi bổ sung Luật Ngân sách nhà nước từ
khía cạnh pháp lý”, Tạp chí Tài chính, (7).
70. Nguyễn Minh Tân (2001), “Đổi mới quy trình lập, chấp hành, quyết toán
ngân sách nhà nước”, Tạp chí Tài chính, (439).
71. Nguyễn Minh Tân (2002), “Ba bước đột phá trong cơ chế phân cấp quản
lý NSNN ta hiện nay”, Tạp chí Tài chính, (5).
72. Nguyễn Minh Tân (2002), “Vai trò của Quốc hội trong lĩnh vực ngân
sách nhà nước”, Tạp chí Tài chính, (4).
73. Viêng Thoong Siphănđon (2011), Quản lý thu ngân sách nhà nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Quản lý kinh tế, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.
74. Chăn Thaphon (2002), Chính sách của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
đối với Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh, Luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành Quan hệ quốc tế, Học viện ngoại giao, Hà Nội.
75. Nguyễn Đức Thanh (1997), Quản lý chi ngân sách nhà nước qua kho
bạc nhà nước trong cơ chế thị trường, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại
học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
76. Hoàng Minh Thái (2010), Thực hiện pháp luật về bảo vệ hộ quyền tác
giả ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
77. Trần Cao Thành (1995), Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào: 20 năm xây
dựng và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
78. Lê Toàn Thắng (2013), “Sáu hạn chế, bất cập của Luật Ngân sách nhà
nước hiện hành”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (8).
157
79. Nguyễn Đức Thọ (2013), “Chế độ tự chủ trong sử dụng kinh phí quản lý
hành chính”, tại trang Web: http://www.tapchitaichinh.gov.vn, [truy cập
ngày 20/8/2016].
80. Đinh Thị Nguyệt Thương (2014), Pháp luật về nhiệm vụ chi thường
xuyên của ngân sách nhà nước - Thực trạng, giải pháp và biện
pháp đảm bảo thực hiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật
Hà Nội, Hà Nội.
81. Liane Thykeo (2001), Quản lý nhà nước về giá cả hàng hóa trong nền
kinh tế thị trường ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến
sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh, Hà Nội.
82. Võ Đình Toàn (1996), “Luật Ngân sách nhà nước nhân tố thúc đẩy vai trò
của ngân sách nhà nước”, Tạp chí Người đại biểu nhân dân, (3).
83. Nguyễn Tuyên (2007), “Kinh tế Việt Nam trong bối cảnh gia nhập
WTO”, Tạp chí Chiến lược phát triển kinh tế, (5).
84. Nguyễn Thanh Tuyền, Dương Thị Bình Minh (1995), Lý thuyết tài
chính, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
85. Khaykhăm Vanmavôngsy (2002), Mở rộng quan hệ kinh tế giữa Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào với các nước láng giềng trong giai
đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
86. Phan Văn Vận, Vũ Cường (2006), Giáo trình kinh tế công cộng,
Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nxb Thống kê, Hà Nội.
87. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (2001), “Tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương”, Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý, (10).
88. Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (dịch - 1998), Đại từ
điển kinh tế thị trường, Hà Nội.
89. Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp Việt Nam
(2009), "Báo cáo nghiên cứu xây dựng Đề án triển khai nhiệm vụ
theo dõi chung về thi hành pháp luật", Kỷ yếu Hội thảo tại Quảng
Ninh, ngày 28-30/5.
158
90. Mahảxỉla Xiravông (1957), Lịch sử Lào từ thượng cổ đến giữa thế kỷ
XIX, Nxb Giáo dục Lào, bản dịch tiếng Lào của Viện Đông Nam Á.
91. Nguyễn Thị Hải Yến (2000), Tìm hiểu vai trò quản lý nhà nước đối với
việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
92. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2008), Hoàn thiện pháp luật về quản lý ngân
sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội.
* Tài liệu tiếng Lào
93. Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1998),
Khămtày Xỉphẳnđon trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Viêng Chăn
94. Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2000),
“Năm bài học của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong việc thực
hiện công cuộc đổi mới”, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
95. Bộ Văn hóa thông tin Lào (2010), 35 năm Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào 1975 - 2010, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
96. Bộ Công nghiệp và Thương mại (2010), Số liệu thống kê về FDI vào
ngành công nghiệp và thương mại năm 2001 - 2010, Nxb Quốc gia,
Viêng Chăn.
97. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2014), Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
98. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
(2011-2017), Viêng Chăn.
99. Bộ Năng lượng và mỏ (2010), Số liệu thống kê về FDI vào ngành thủy điện
và khai mỏ năm 2001 - 2010, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
100. Bộ Tài chính (2016), Báo cáo tài chính các năm 2010-2016, Nxb Quốc gia,
Viêng Chăn.
101. Bộ Tài chính (2010), Bài tổng kết đánh giá việc thực hiện đổi mới ngành
tài chính từ năm 1986 đến nay và chiến lược tài chính từ nay đến
năm 2020, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
159
102. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Lào (2006), Ba mươi năm thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào,
Nxb Ủy ban Kế hoạch và đầu tư.
103. Bộ Công nghiệp và Thương mại (2005), Luật Doanh nghiệp, Nxb Bộ
Công nghiệp và Bộ Thương mại.
104. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IV, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.
105. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1991), Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ V, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.
106. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.
107. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.
108. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.
109. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.
110. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.
111. Đa Van Thôn Na Vong Sả (2010), Phân tích sự ảnh hưởng việc sử dụng
ngân sách nhà nước vào việc phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô
Viêng Chăn, Luận văn thạc sĩ Kinh tế học, Viêng Chăn.
112. Lam Mon Khăm Vông Sả (2008), Tăng cường quản lý nhà nước bằng
pháp luật sử dụng ngân sách nhà nước ở Thủ đô Viêng Chăn trong
thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viêng Chăn.
113. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2013), Hiến pháp Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào 2013, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
114. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2006), Luật Khuyến
khích đầu tư nước ngoài, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
115. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2006), Luật Ngân sách
Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
160
116. Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư (2006), 30 năm thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào,
Nxb Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư, Viêng Chăn.
117. Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
lần thứ VI năm 2006 - 2010, Nxb. Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư,
Viêng Chăn.
118. Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư (2007), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2007 - 2008, Viêng Chăn.
119. Văn phòng Thủ tướng (2006), Kế hoạch triển khai nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Viêng Chăn.
* Tài liệu tiếng Anh
120. Far Eastern Economic Review (1999), ASIA 1999 Year Book.
121. Far Eastern Economic Review (2000), ASIA 1999 Year Book.
122. Asian Survey (2005), Vol.XLV, No.4.
123. Andrew Burkle - Justine Vaisutis (2007), “Laos”, Published by Lonely
Planet Publications Pty Ltd.
124. ASEAN statistical Pocketbook, 2006.
125. Cockburn - J.Siggel - E. Coulibaly - M.Coumare (1996), “Study of the
Structure of Incentives and Manufacturing Competitiveness in
Maly”, Research Proposal.
126. Central Committee for Drug Abuse Control of Myanma (2013),
“Endeavors of Myanma for Elimination of Narcotic Drug 2012”,
Publisher Naroicat Myanma
127. I.Ehrlich, The Optimum, Enforcement of Law and the Concept of Justice,
http://w.w.w.idea.repec.org.
128. Fobzbes and Cecile Cutler (2006), “Lao in 2005: 30 years of the
People’s Democratic Republic”, Asian Survey. Vol. XL. VI,
Jannuary/February.
129. D.D.Friedman (1995), Making Sense of Englishe Enforcement in the
Eighteenth Centrury, School Law, Chicago University.
161
130. Government of the Laos PDR (1995), Nation Report prepared for the
world summit for Social development, Vientiane.
131. Geoffrey C. Gum (2007), “Lao in 2006: Changing of the guard”, Asian
Survey. Vol.XL.VII, Jannuary/February.
132. Krugman (1994), “Competitiveness: A Dangerous Obsession”, Foreign
Affair, March/April.
133. Thomas Lum (2008), “Laos: Background and U.S Relations”,
Congressional Research Service Prepared for Members and
Commitees os Congress, Foreign Affairs, Defense and Trade
Division, Asian Affairs.
134. Lim Chong Yah (2004), Southeast Asia: The long road ahead, product
World ScientificChan, Raymond K.H ed.
135. Martin Stuart - Fox (1982), Studies in the politics and society of the
Lao People Democratic Republic, London: University of
Queensland Press.
136. Marsh.I.W - Tokarick.S.P (1994), “Competitiveness Indicators: A Theoretical
and Empirical Assessment”, IMF Working Paper WP 29.
137. E.Ostrov, Police/law enforcement and psychology, The law Rush-
Presbyterian-St Luke Mudical Center, Chicago and Associate
Professos Psychology, Rush Medical College.
138. M.Polinsky (1980), "Private Versus Public Enfor cement of Fines", Tạp
chí Luật học.
139. Alfred A.Ring - James H.Boykin (1995), The Valuation of Real Estate,
Third Edition.
140. S.Shavell, Specific Versus general Economic Enforcement of Law,
http://papers.ssrn.com/s013/papers.cfm?abstradact-id=851689.
141. Summary the 7th national 9 - 2000, Economic and Socio development. 142. The World Bank (Octorber - 2003), Lao PDR Economic Monitor, The
World Bank Vientian Office.