ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN NGỌC KHÁ
PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG -
PHƢƠNG PHÁP PHỔ BIẾN TRONG NHẬN THỨC KHOA HỌC
VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
THÀNH PHỐ HỔ CHÍ MINH - 2001
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN NGỌC KHÁ
PHƢƠNG PHÁP HỆ THÔNG -
PHƢƠNG PHÁP PHỔ BIẾN TRONG NHẬN THỨC KHOA HỌC
VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN
Chuyên ngành : CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số : 5 01 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. TS. VŨ TÌNH
2.TS. NGUYỄN QUANG ĐIỂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2001
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công ƣình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu kết quả nêu
trong luận án này là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tác giả luận án
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. - 1 - CHƢƠNG 1. HỆ THỐNG VÀ PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ................................................................................................................ - 7 - 1.1. Hệ thống với tính cách là một phạm trù triết học ................................................ - 7 - 1.1.1. Phạm trù hệ thống trong lịch sử triết học ........................................................ - 7 - 1.1.2. Phạm trù hệ thống dƣới ánh sáng của khoa học hiện đại .............................. - 17 - 1.2. Phƣơng pháp hệ thống : sự hình thành và một số nội dung cơ bản ..................... - 26 - 1.2.1. Sự hình thành phƣơng pháp hệ thống ........................................................... - 26 - 1.2.2. Một số nội dung cơ bản của phƣơng pháp hệ thống ..................................... - 34 - CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG TRONG NHẬN THỨC KHOA HỌC ... - 52 - 2.1. Vị trí của phƣơng pháp hệ thống trong hệ thống các phƣơng pháp nhận thức khoa học ............................................................................................................................... - 52 - 2.2. Vai trò phƣơng pháp hệ thống trong nhận thức khoa học.................................... - 70 - 2.2.1. Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong sự phân tích các khách thể hệ thống ... - 71 - 2.2.2. Phƣơng pháp hệ thống và bức tranh hệ thống về thế giới............................. - 77 - 2.2.3 Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong sự tổng hợp tri thức ....................... - 81 -
2.3. Vận dụng phƣơng pháp hệ thống trong việc phân tích tính hệ thống của các khái niệm khoa .................................................................................................................... - 86 - CHƢƠNG 3. PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN ... - 94 - 3.1. Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong hoạt động thực tiễn ............................. - 94 - 3.1.1. Tính hệ thống của xã hội và hoạt động thực tiễn .......................................... - 94 - 3.1.2. Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong tổ chức và quản lý xã hội ........... - 104 -
3.2. Một số vấn đề về dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý xã hội ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay. ........................................................... - 111 - 3.2.1. Vận dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế. . - 112 - 3.2.2. Vận dụng phƣơng pháp hệ thông vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực xã hội. .. - 121 - 3.2.3. Vận dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực chính trị - 130 - 3.2.4. Vận dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý tinh vực tinh thần - 139 -
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... - 156 - DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ................................................................. - 159 - TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN TIẾNG VIỆT ............................................................. - 160 -
- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, con ngƣời
đi sâu vào việc tìm hiểu cấu trúc vi mô và vĩ mô của thế giới vật chất. Cùng với xu hƣớng
toàn cầu hóa các quan hệ quốc tế và những biến đổi sâu sắc trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội thì việc mở rộng thông tin và đa dạng hóa các tri thức khoa học đã mang lại bức tranh
chung về thế giới hết sức đa dạng và phức tạp. Vì vậy, tiếp nhận những công cụ, phƣơng
pháp nhận thức khoa học mới cho phù hợp với sự phát triển của khoa học hiện đại và đời
sống xã hội đang là đòi hỏi cấp thiết đối với con ngƣời. Trong số các phƣơng pháp mà con
ngƣời áp dụng thì phƣơng pháp hệ thống giữ một vai trò to lớn.
Phƣơng pháp hệ thống đang đƣợc áp dụng rất rộng rãi, không một lĩnh vực khoa học
và hoạt động thực tiễn nào của con ngƣời lại không áp dụng phƣơng pháp ấy; nó đã trở thành
biểu tƣợng của tính khoa học và tính hiệu quả trong quá trình tiếp nhận chân lý, vì vậy nó
đang là mối quan tâm bức bách đối với những ngƣời làm công tác lý luận.
Phƣơng pháp hệ thống chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong phép biện chứng duy
vật, là một mặt, một bộ phận trong triết học mác-xít. Nó có nội dung vô cùng phong phú và
ngày càng đƣợc bổ sung bởi các thành tựu khoa học và thực tiễn xã hội. Do vậy, phƣơng
pháp hệ thống có vai trò to lớn trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn, nó góp phần
làm phong phú phong cách tƣ duy, nếp suy nghĩ và phƣơng thức hoạt động của con ngƣời.
Vận dụng phƣơng pháp ấy sẽ mang lại cho con ngƣời những kết quả tích cực. Đặc biệt, đối
với sự nghiệp đổi mới ở nƣớc ta hiện nay nói chung, đối với tổ chức và quản lý xã hội nói
- 2 -
riêng, vận dụng đúng đắn phƣơng pháp hệ thống sẽ mang lại hiệu quả thiết thực trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống.
Với vị trí, vai trò và tính hiệu quả của mình, phƣơng pháp hệ thống đã thực sự trở
thành phƣơng pháp phổ biến trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Song, trong các tài liệu triết học hiện nay, việc nghiên cứu phƣơng pháp hệ thống còn
có những hạn chế nhất định, còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Có quan điểm coi
phƣơng pháp hệ thống chỉ là phƣơng pháp chung đƣợc áp dụng cho nhiều ngành khoa học,
nhƣng lại có quan điểm coi phƣơng pháp hệ thống là phƣơng pháp phổ biến đƣợc áp dụng
cho mọi lĩnh vực khoa học và thực tiễn. Vì vậy, phƣơng pháp hệ thống hơn bao giờ hết cần
phải đƣợc làm rõ hơn về lý luận và vận dụng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề hệ thống là vấn đề không mới mẻ trong lịch sử triết học. Ngay từ thời cổ đại
các nhà ƣiết học đã đề cập đến khái niệm hệ thống. Đặc biệt từ thế kỷ XIX các nhà triết học
Đức đã quan tâm đến nguyên tắc tính hệ thống với tính cách là một nguyên tắc triết học;
song, rất tiếc rằng khi nghiên cứu vấn đề hệ thống, họ đã đứng trên lập trƣờng của chủ nghĩa
duy tâm.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không trực tiếp nghiên cứu phƣơng
pháp hệ thống, song những tác phẩm của các ông đều chứa đựng quan điểm hệ thống. Đặc
biệt tác phẩm Tư bản của C.Mác là công trình đầu tiên và tiêu biểu nhất đƣợc nghiên cứu bởi
phƣơng pháp hệ thống.
Phƣơng pháp hệ thống luôn luôn đƣợc quan tâm nghiên cứu của các tác giả cả trong
và ngoài nƣớc.
Ở Liên Xô trước đây, các bộ giáo trình triết học đều có những mục bàn về phƣơng
pháp hệ thống.
- 3 -
Ngoài những giáo trình triết học ra, vấn đề phƣơng pháp hệ thống còn đƣợc nghiên
cứu trong các tác phẩm chuyên bàn về vấn đề này. Tác phẩm Sự hình thành và bản chất của
phương pháp hệ thống của I.v. Blauberơgơ và Ê.G. Iudin (Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1973)
đã nghiên cứu những tiền đề triết học, khoa học của sự hình thành phƣơng pháp hệ thống;
những khía cạnh khác nhau trong bản chất của phƣơng pháp hệ thống;... Tác phẩm Hệ thống :
Phạm trù triết học và hiện thực của A.N. Averianốv (Nxb Tƣ tƣởng, Mátxcơva, 1976) đã coi
hệ thống là một phạm trù triết học, chỉ ra ý nghĩa phƣơng pháp luận và nhận thức luận của
phạm trù hệ thống,... v.P. Cudơmin trong tác phẩm Nguyên lý tính hệ thống trong lý luận và
phương pháp luận của C. Mác (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983) đã tập trung phân tích tính hệ
thống và chỉ ra ý nghĩa thế giới quan, phƣơng pháp luận của nó đƣợc trình bày trong bộ Tư
bản cũng nhƣ trong các tác phẩm chuẩn bị cho công trình vĩ đại này của C.Mác, ... Các tác
phẩm Tính hệ thống và xã hội (Nxb Chính trị, Mátxcơva, 1980) và Xã hội: Tính hệ thống,
nhận thức và quản lý (Nxb Chính trị, Mátxcơva, 1981) của tác giả V.G. Aphanaxép đều phân
tích những phƣơng diện khác nhau trong nội dung của phƣơng pháp hệ thống, cũng nhƣ sự
vận dụng nó trong đời sống xã hội. Cuốn Những cơ sở phương pháp luận triết học của
nghiên cứu hệ thống (Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1983) và cuốn Phép biện chứng và phân tích
hệ thống (Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1986) đều do viện sĩ Đ.M.Gvishianhi chịu trách nhiệm
xuất bản có hàng loạt bài bàn về phƣơng pháp hệ thống trong các lĩnh vực khác nhau của
nhận thức khoa học và thực tiễn xã hội. Cuốn Phương pháp nhận thức biện chứng của A.P.
Séptulin (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989) có đề cập đến nguyên tắc quyết định luận nhƣ một yêu
cầu của phƣơng pháp hệ thống.
Đặc biệt, ở Liên Xô trƣớc đây đều có niên giám hàng năm với nhan đề Những nghiên
cứu hệ thống. Những vấn đề phương pháp luận. Những bài viết
- 4 -
trong đó đề cập đến những nội dung phong phú của phƣơng pháp hệ thống gắn liền với sự
phát triển của khoa học hiện đại và thực tiễn xã hội.
V.v...
Ở Việt Nam, hầu hết các giáo trình triết học cũng đều có mục đề cập đến những nội
dung cơ bản nhất của phƣơng pháp hệ thống.
Tác phẩm Vai trò của phương pháp luận triết học Mác - Lênin đối với sự phát triển
của khoa học tự nhiên do Nguyễn Duy Thông chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
có mục bàn về vai trò và ý nghĩa của phƣơng pháp hệ thống trong nghiên cứu khoa học.
Tác giả Hoàng Tụy trong cuốn Phân tích hệ thống và ứng dụng (Nxb Khoa học kỹ
thuật, Hà Nội, 1987); tác giả Nguyễn Văn Quỳ trong cuốn Vận dụng quan điểm hệ thống
trong quản lý kinh tế (Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 1987); tác giả Cao Xuân Hòa trong
luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế với đề tài Vận dụng phương pháp phân tích hệ thống và
mô hình hóa vào nghiên cứu cơ chế kinh tế (Trƣờng Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1993)
và nhiều tác giả khác đều đề cập đến những khía cạnh lý luận và phƣơng pháp luận của
phƣơng pháp hệ thống và sự vận dụng nó trong thực tiễn.
Gần đây, trong tác phẩm Nhận thức thế giới vi mô (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1998), tác giả Nguyễn Duy Quý đã phân tích sâu sắc quá trình nhận thức thế giới vi mô, góp
phần làm sâu sắc và phong phú thêm cách tiếp cận hệ thống trong nhận thức khoa học. Tác
giả Phạm Văn Nam trong cuốn Ứng dụng lý thuyết hệ thống trong quản trị (Nxb Thống kê
Hà Nội, 1996) và tác giả Lê Đăng Doanh trong cuốn Cơ sở khoa học của công cuộc đổi mới
kinh tế ở Việt Nam (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997) cũng đều đề cập đến vấn đề vận
dụng quan điểm hệ thống trong thực tiễn xã hội ta hiện nay.
- 5 -
Ngoài các tác phẩm trên đây, hầu hết các giáo trình về quản lý đều bàn đến vấn đề lý
luận và vận dụng phƣơng pháp hệ thống trong quản lý xã hội.
V.v...
Nhìn chung, những tác phẩm của các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc đều đề cập và
nghiên cứu vấn đề phƣơng pháp hệ thống từ những phƣơng diện khác nhau. Song, với tính
cách là phƣơng pháp phổ biến và cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội,
phƣơng pháp hệ thống cần đƣợc bổ sung những nội dung mới, cần đƣợc luận giải một cách
tập trung hơn, hệ thống hơn. Chính vì vậy, tác giả luận án muốn đề cập tới vị trí, vai trò của
phƣơng pháp hệ thống và vận dụng nó trong nhận thức khoa học cũng nhƣ ƣơng tổ chức và
quản lý xã hội ở nƣớc ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.
Mục đích của luận án là làm sáng tỏ vị trí và vai trò của phương pháp hệ thống trong
nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn, từ đó vận dụng nó trong nhận thức khoa học và
tổ chức, quản lý xã hội ta hiện nay.
Để thực hiện mục đích đó, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau :
1- Phân tích sự hình thành và nội dung của phương pháp hệ thống.
2- Phân tích vị trí của phương pháp hệ thống trong hệ thống các phương pháp nhận
thức khoa học.
3- Phân tích vai trò của phương pháp hệ thống và sự vận dụng nó trong nhận thức
khoa học và hoạt động thực tiễn nói chung, trong tổ chức và quản lý xã hội nói riêng.
4- Nêu lên một số nội dung cũng như giải pháp trong việc vận dụng phương pháp hệ
thống đối với tổ chức và quản lý xã hội ta hiện nay.
- 6 -
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận án đƣợc xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Phƣơng pháp biện chứng duy vật là phƣơng pháp xuyên suốt trong quá trình nghiên
cứu đề tài.
Luận án còn sử dụng các phƣơng pháp : So sánh, phân tích, tổng hợp, lịch sử và lôgíc.
5. Những đóng góp mới của luận án.
Luận án trình bày một cách có hệ thống về lịch sử hình thành, những nội dung cơ bản
của phƣơng pháp hệ thống.
Luận án phân tích sâu sắc vị trí và vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong nhận thức
khoa học và hoạt động thực tiễn.
Luận án nêu lên một số nội dung và đề xuất một số giải pháp trong việc vận dụng
phƣơng pháp hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình tổ chức, quản lý xã hội Việt
Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận án.
Với kết quả đạt đƣợc, luận án có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc
nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn triết học Mác - Lênin.
Luận án có tác dụng gợi ý và khuyến nghị đối với những ngƣời làm công tác tổ chức
và quản lý trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chƣơng, 7 tiết.
- 7 -
CHƢƠNG 1. HỆ THỐNG VÀ PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG : MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Hệ thống với tính cách là một phạm trù triết học
Từ lâu, hệ thống đã đƣợc các nhà triết học quan tâm xem xét, song chỉ đến khi triết
học Mác ra đời, nó mới có đƣợc một quan niệm thật sự khoa học. Hiện nay còn nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm hệ thống. Có quan điểm coi nó chỉ là khái niệm của các khoa
học chuyên ngành, nhƣng cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu khẳng định hệ thống là một phạm
trù triết học, có nội dung vô cùng phong phú, có mối quan hệ mật thiết với các phạm trù triết
học khác và có giá trị phƣơng pháp luận to lớn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Để xác định bản chất cũng nhƣ vị trí, vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong nhận
thức khoa học và hoạt động thực tiễn thì việc phân tích cơ sở lý luận của nó đóng vai trò hết
sức quan trọng. Cơ sở lý luận ấy nằm ở bản thân phạm trù hệ thống.
1.1.1. Phạm trù hệ thống trong lịch sử triết học
Khái niệm hệ thống đã đƣợc đề cập trong các hệ thống triết học cũng nhƣ khoa học tự
nhiên. Nó có mầm mống ngay từ thời cổ đại. Các sự vật, hiện tƣợng trong thế giới có sự ràng
buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, nên khi nghiên cứu các tập hợp, Arixtốt đƣa ra các khái
niệm giống, loài. Ông viết: "... các loài, kể cả giống là cái dùng để quy cái tập hợp thành một
thực tại" [92, tr.59]. Khi định nghĩa về giống, loài, Alix tốt chú ý đến mối liên hệ, tác động
qua lại giữa các sự vật, hiện tƣợng ƣơng một thể thống nhất. Giống, theo ông, đó là "tổng thể
các sự vật này hay sự vật khác, bằng những hình thức nhất định liên hệ với một sự vật nào đó,
cũng nhƣ giữa chúng với nhau" [92, tr.54 - 56]; còn loài "là cái dùng để
- 8 -
chỉ nhiều sự vật khác nhau về số lƣợng nhằm vạch ra bản chất của các sự vật đó" [92, tr.54 -
56].
Alix tốt cho rằng mặc dù giữa giống và loài có sự khác nhau nhƣng chúng đều chứa
đựng một cái gì đó phản ánh cái chung, cái bản chất của tồn tại khách quan. Ông chỉ ra cái
chung, cái bản chất ấy là tập hợp những sự tác động qua lại và biểu thị bằng phạm trù cái
toàn thể. Theo Arixtốt, "cái toàn thể là cái mà ở đó không thể thiếu bất kỳ một bộ phận nào,
mà trong thành phần của nó thì mỗi bộ phận lại là cái toàn thể bao gồm các sự vật và hình
thành nên một thể thống nhất" [90, tr.102-03]; còn cái bộ phận đƣợc hiểu là cái tham gia vào
thành phần cấu tạo nên sự vật (cái toàn thế). Rõ ràng là, cái toàn thể rộng hơn so với giống,
loài, song chúng đều phản ánh tập hợp những sự tác động qua lại. Đối với Arixtốt, cái toàn
thể đã tách ra một tập hợp có điểm đầu, điểm giữa, điểm kết thúc và mang tính hoàn thiện.
Hơn nữa, "cái toàn thể, cái kết thúc và cái hoàn thiện là đồng nhất hoặc tƣơng đƣơng với
nhau" [91, tr.65]. Cần lƣu ý rằng, phạm trù cái toàn thể đã đƣợc sử dụng bởi các nhà triết học
trƣớc đó, nhƣng chỉ đến Alix tốt thì mới đƣa ra đƣợc một định nghĩa trọn vẹn, nhằm xác định
nội dung và những đặc trƣng của nó. Chẳng hạn, khái niệm cái toàn thể đã đƣợc
Anaximanđrơ dùng để chỉ tổng thể vật chất trong vũ trụ, ông khẳng định cái toàn thể là cái
bất biến, chỉ có những bộ phận của nó mới biến đổi. Đêmôcrít dùng khái niệm này để chỉ
tổng thể các nguyên tử cấu thành nên sự vật và quy định tính đa dạng của chúng. Platôn coi
nhà nƣớc lý tƣởng là một cái toàn thể và cho rằng : "Khi chúng ta kiến tạo nên nhà nƣớc thì
tất yếu trƣớc hết cần phải thiết lập nên cái cần phải làm vì danh nghĩa của một toàn thể" [131,
tr.224]. Đặc biệt, Êpiquya đã dùng khái niệm hệ thống để chỉ tổng số các tri thức và ông
- 9 -
nhấn mạnh bản chất cũng nhƣ sự tồn tại của khách thể cần phải đƣợc xem xét trong quá trình
nhận thức [xem: 122, tr.416 -417].
Khi đề cập đến sự hình thành khái niệm hệ thống, trong các tài liệu triết học mác-xít
cũng có những cách đánh giá khác nhau. Có quan điểm cho rằng, nội dung của khái niệm hệ
thống trong triết học Hy Lạp cổ đại hoàn toàn mang tính chất chủ quan, tùy thuộc vào góc độ
nhìn nhận của các triết gia đƣơng thời. A. p. Ôgursốp viết: "Ý nghĩa của khái niệm "hệ
thống" trong thuật ngữ Hy Lạp đƣợc thể hiện rất rộng, dùng để chỉ: tổ hợp, cơ thể, cơ cấu, tổ
chức, liên hợp, chế độ, cơ quan chủ đạo" [127, tr.155]. Theo ông, khái niệm hệ thống liên
quan với các hình thức tồn tại lịch sử - xã hội [xem: 127, tr.155]. Có quan điểm khác lại cho
rằng, "lần đầu tiên khái niệm "hệ thống" đƣợc tìm thấy ở các nhà xtôíc, họ đã giải thích nó lừ
góc độ bản thể luận cũng nhƣ trật tự của thế giới" [135, tr.18].
Theo chúng tôi, những cách đánh giá trên đây đều có tính hợp lý của nó, bởi vì nó đều
nói lên những quan niệm đa dạng về mặt bản thể luận cũng nhƣ nhận thức luận trong khái
niệm hệ thống. Song quan trọng là cần phải khẳng định rằng, khái niệm hệ thống đã có phôi
thai trong triết học cổ đại, mặc dù nó chƣa trở thành một phạm trù triết học và những quan
niệm ấy còn mang tính chất tự phát, ngây thơ.
Trong những thế kỷ tiếp theo, các nhà triết học và khoa học tự nhiên tiếp tục sử dụng
khái niệm hệ thống để chỉ tổng số các tri thức và tổng số các vật thể của thế giới hiện thực.
Chẳng hạn, trong thời kỳ Khai Sáng, Hônbách coi "thế giới khách quan tồn tại với tính cách
là hệ thống của các hệ thống" [112, tr.66], nhƣng ông đã đồng nhất hệ thống với cái toàn thể,
quy cái toàn thể về tổng số giản đơn của các bộ phận cấu thành. Nhiều nhà triết học đã cố
gắng tìm hiểu nội dung và ý nghĩa khoa học của khái niệm hệ thống. Tiêu biểu là Côngđilắc,
ông đã gắn khái niệm hệ thống với khoa học và nghệ thuật và khẳng định: " Mỗi hệ
- 10 -
thống không có gì khác hơn, đó là sự xếp đặt các bộ phận khác nhau của nghệ thuật hay khoa
học nào đó trong một trật tự nhất định, trong đó tất cả đều ràng buộc lẫn nhau và bộ phận này
đƣợc làm sáng tỏ bằng bộ phận kia" [120, tr.3]. Tuy có nhiều tiến bộ hơn so với thời kỳ cổ
đại, song những quan điểm nêu trên về hệ thống vẫn nằm trong khuôn khổ của cách tiếp cận
siêu hình. Mặc dù vậy, việc giải thích hệ thống nhƣ một trật tự và thống nhất của tồn tại đƣợc
coi là liền đề cho quan điểm đúng đắn về hệ thống sau này.
Cùng với việc khoa học tự nhiên đi sâu vào khám phá câu trúc của thế giới vật chất và
sự mở rộng phạm vi nghiên cứu thì trong triết học cũng xuất hiện quan niệm cho rằng vũ trụ
là một hệ thống biến đổi và phát triển không ngừng, tuân theo các quy luật vốn có của nó.
Các tác phẩm Lịch sử phổ biến của giới tự nhiên và học thuyết về bầu trời, Giả thuyết về
nguồn gốc vũ trụ của Cantơ là những bƣớc đi đầu tiên chứng minh cho khuynh hƣớng đó.
Cantơ viết: "Đối với hệ thống, tôi hiểu đó là các tri thức đa dạng đƣợc kết hợp lại với nhau
bằng một tƣ tƣởng" [116, tr.680]. Nhƣ vậy, tư tưởng, theo Cantơ, thực chất là đặc trƣng cơ
bản của mọi hệ thống. Về cấu tạo của hệ thống, ông chỉ ra rằng, nó không chỉ chịu sự tác
động của sức hút, mà còn cả sức đẩy, do vậy hệ thống mới vận động và phát triển. Tính chất
hai mặt, sự dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đã chi phối toàn bộ lý luận
nhận thức của triết học Cantơ. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Cantơ đã giáng
một đòn mạnh mẽ vào tƣ duy siêu hình về vấn đề hệ thống. Cũng chính từ đây, triết học bắt
đầu đặt ra các vấn đề mối liên hệ qua lại, mâu thuẫn, vận động, phát triển là những nhân tố
cực kỳ quan trọng nhằm khám phá tính chất biện chứng của hệ thống.
Tƣ tƣởng biện chứng về hệ thống đƣợc phát triển và hoàn thiện hơn trong triết học
Hêghen. Hệ thống với tính cách là một phạm trù triết học chƣa có ở Hêghen. nhƣng tất cả
mọi đối tƣợng mà ông đề cập đến đều thể hiện là hệ thống
- 11 -
tự phát triển và tất cả đều đƣợc xuyên suốt bởi tƣ tƣởng phát triển. "Ý niệm, -Hêghen viết,- tự
nó là cụ thể, là phát triển, là một hệ thống hữu cơ, là một chỉnh thể chứa đựng tập hợp các nấc
thang và yếu tố" [106, tr.32]. Với tính cách là các nấc thang, yếu tố, "ý niệm" trƣớc hết là hệ
thống, nói cách khác, tất cả đều mang tính hệ thống, thế giới là hệ thống của các hệ thống.
Khi xem xét giới tự nhiên với tính cách là một nấc thang trong sự phát triển của ý niệm tuyệt
đối với các mức độ chỉnh thể của nó, Hêghen đã phân chia thành ba hình thức tồn tại của các
sự vật: hình thức cơ giới, hình thức hóa học và hình thức hữu cơ. Theo đó, ông đã quan niệm
mỗi hình thức tồn tại là một hệ thông bao gồm các yếu tố khác nhau. Đặc biệt, Hêghen đã đặt
ra vấn đề về sự chuyển hóa vô tận từ toàn thể đến bộ phận, từ bộ phận đến toàn thể, bởi vì
mỗi bộ phận đều mang tính độc lập tƣơng đối trong mối quan hệ với các bộ phận khác, cũng
nhƣ với toàn thể [xem: 111, tr.394]. Ông khẳng định "cần phải nghiên cứu giới tự nhiên nhƣ
một hệ thống các nấc thang, mà nấc thang này đƣợc suy diễn từ nấc thang khác, song ở đây
không có quá trình sản sinh vật lý tự nhiên, mà chỉ là sự sản sinh trong lòng ý niệm và ý niệm
ấy tạo ra cơ sở của giới tự nhiên" [107, tr.28].
Rõ ràng, Hêghen đã khẳng định đúng đắn tính chất hệ thống của hiện thực, nhƣng ông
lại coi hiện thực ấy chỉ là các ý niệm, là hệ thống các nấc thang khác nhau của những ý niệm
vận động. về thực chất, Hêghen đã phát triển khái niệm hệ thống chỉ với tƣ cách là khái niệm
thuần túy, nếu chúng ta bổ sung cho khái niệm ấy thì nó sẽ đứng trong "hàng ngũ" các phạm
trù triết học. Mặc dù Hêghen không chú ý đến việc định nghĩa khái niệm hệ thống, chỉ ra vị
trí, vai trò của nó trong mối quan hệ với các phạm trù khác, nhƣng ông đòi hỏi quá trình nhận
thức của con ngƣời cũng phải mang tính hệ thống. Hêghen viết: "Bất kỳ sự nghiên cứu khoa
học nào cũng đều mang tính hệ thống, bởi vì hình thức chân lý chỉ có thể là hệ thống các
chân lý khoa học" [110, tr.3].
- 12 -
Hạt nhân hợp lý trong triết học Hêghen là phép biện chứng, mặc dù đó là "phép biện
chứng lộn ngƣợc", nhƣng nó đúng về phƣơng pháp. Nó đòi hỏi lô-gíc của mọi nghiên cứu
phải mang tính hệ thống, "triết lý mà không có tính hệ thống thì không thể chứa đựng một
tính khoa học nào" [109, ƣ.32]. Nếu bỏ qua bức màn duy tâm thần bí thì có thể nói Hêghen
đã để lại kho tàng giá trị tinh thần vô cùng quý báu cho nhân loại. về phƣơng diện này, N. V.
Môƣôsilôva viết: "Hêghen đã suy gẫm về các tiêu chuẩn của hệ thông triết học, những yêu
cầu biện chứng đối với hệ thống đó. Ông đã thiết lập nên những ý tƣởng mang tính nguyên
tắc của tƣ duy hệ thống" [124, tr.80 - 81]. Phƣơng pháp nghiên cứu các hệ thống của Hêghen
đã đƣợc c. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa, cải tạo và phát triển theo lập ƣƣờng duy vật của
mình.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác không để lại cho chúng ta những định nghĩa
trực tiếp về hệ thống, nhƣng trong các tác phẩm của các ông, chúng ta đều thấy rõ tƣ tƣởng
về hệ thống với tƣ cách là một phạm trù triết học.
C. Mác là ngƣời đầu tiên đứng trên lập trƣờng duy vật biện chứng để nghiên cứu một
trong các hệ thống vật chất phức tạp : xã hội loài ngƣời. Theo ông, xã hội là một hệ thống tự
phát ƣiển, trải qua các giai đoạn khác nhau và các giai đoạn đó đƣợc gọi là các hình thái kinh
tế - xã hội. C. Mác đã nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội tƣ bản chủ nghĩa nhƣ một hệ
thống phức tạp, đƣợc hình thành từ các yếu tố trong sự tác động qua lại, với những mâu thuẫn
nội tại đa dạng và sâu sắc. C. Mác khẳng định, chủ nghĩa tƣ bản và các hình thái kinh tế - xã
hội trƣớc nó là các hệ thống [xem: 59, tr.331]. Trong các tác phẩm chuẩn bị cho bộ "Tƣ bản"',
c. Mác đã chỉ ra rằng, kết cấu, hình thức nội tại, nghĩa là tính hệ thống là một thuộc tính đặc
ƣƣng cho tất cả mọi sự vật, hiện tƣợng, quá ƣình của giới tự nhiên cũng nhƣ đời sống xã hội.
Ông viết: "Xã hội ... hoàn toàn không phải là một khối kết tinh vững chắc, mà là một cơ thể
có khả năng biến
- 13 -
đổi và luôn luôn ở trong quá trình biến đổi" [55, tr.22]. Hoặc khi nói đến sản xuất, C. Mác
cho rằng, bao giờ cũng là nói đến sản xuất ở một giai đoạn phát triển xã hội nhất định. Ông
viết: "... sản xuất cũng có một cơ thể xã hội nhất định, một chủ thể xã hội đang hoạt động
trong một tổng thể to lớn của các ngành sản xuất.... Sản xuất nói chung. Những ngành sản
xuất đặc thù. Sản xuất coi nhƣ là một tổng thể toàn bộ" [51, tr.858].
Từ những lập luận trên, C. Mác đã đƣa ra tƣ tƣởng về hệ thống với tính cách là một
phạm trù triết học, đặc trƣng cho một thuộc tính quan ƣơng của thế giới vật chất. Trong "Bản
thảo kinh tế - triết học 1857 - 1859" C. Mác viết: "Bản thân hệ thống hữu cơ này, với tƣ cách
là một tổng thể chỉnh thể, có những tiền đề của mình, và quá trình phát triển của nó theo
hƣớng chỉnh thể chính là thể hiện ở chỗ chi phối tất cả những thành phần trong xã hội hoặc là
từ xã hội mà tạo ra những cơ quan mà hệ thống ấy còn thiếu. Bằng cách ấy, trong quá trình
phát triển lịch sử, hệ thống chuyển hóa thành chỉnh thể. Việc hệ thống trở thành chỉnh thể
nhƣ thế tạo thành yếu tố cấu thành nó, cấu thành hệ thống, quá trình, tạo thành yếu tố phát
triển của nó" [59, tr.379 - 380].
Với luận điểm này, C. Mác đã xác định dấu hiệu biện chứng khách quan của hệ thống,
vạch ra động lực bên trong của sự vận động, vạch ra những tiền đề, quy luật của sự phát triển
khách quan ấy. Theo C. Mác, về mặt lịch sử, mỗi hệ thống cụ thể đƣợc quy định bằng những
hệ thống khác, chúng thiết lập nên cơ sở của sự phát triển, rằng mỗi yếu tố của hệ thống phụ
thuộc vào những yếu tố khác, vào cái chỉnh thể đƣợc xác lập, nghĩa là phụ thuộc vào hệ thống
chỉnh thể, còn mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố đƣợc xem nhƣ động lực bên trong của sự
phát triển của toàn bộ hệ thống [xem: 59, tr.332 - 333].
Từ sự phân tích trên đây, có thể rút ra kết luận rằng, tính hệ thống, theo quan điểm
của C. Mác, là một yếu tố tất nhiên, không thể bác bỏ đƣợc của biện
- 14 -
chứng về sự phát triển; hơn nữa, phép biện chứng của C. Mác trước hết là phép biện chứng
của các hệ thống. Không phải ngẫu nhiên khi chỉ ra động lực bên trong của sự phát triển của
chủ nghĩa tƣ bản với tính cách là một "chỉnh thể hữu cơ", C. Mác khẳng định dó chính là mâu
thuẫn nội tại của nó. Ông viết : "... sự phát triển của những mâu thuẫn của một hình thức sản
xuất lịch sử nhất định là con đƣờng lịch sử duy nhất để làm cho nó tan rã và hình thành một
hình thức mới" [55,tr.694].
C. Mác đã phân chia các yếu tố cấu thành hệ thống thành hai mặt đối lập liên hệ, tác
động qua lại lẫn nhau trong một chỉnh thể, nhằm đảm bảo tính ổn định tƣơng đối và tính phát
triển của hệ thống. Một là, "mặt bảo thủ" nằm trong khuynh hƣớng bảo tồn, đảm bảo cho tính
bền vững, ổn định của hệ thống; hai là, "mặt công phá" thuộc về khuynh hƣớng dẫn đến sự
phát triển tiếp theo, nhằm khắc phục những mâu thuẫn hiện đang tồn tại [xem: 47, tr.55].
Đặc biệt, các tác phẩm của C. Mác chứa đựng hàng loạt các luận điểm mang tính
nguyên tắc của phép biện chứng về sự liên hệ, tác động qua lại bên trong và bên ngoài hệ
thống. Ông khẳng định: "Nếu những quá trình độc lập với nhau và đối diện với nhau, lại tạo
ra một sự thống nhất bên trong nhất định, thì điều đó cũng có nghĩa là sự thống nhất bên
trong của những quá trình đó vận động trong những sự đối lập ở bên ngoài" [55, tr. 174].
Luận điểm của C. Mác chỉ rõ vai trò quan trọng của sự tác động qua lại bên trong hệ thống và
giữa các hệ thống với nhau, cũng nhƣ sự liên hệ hữu cơ giữa cái bên trong và cái bên ngoài,
trong đó cái bên trong đóng vai trò chủ đạo.
Những quan điểm trên đây của C. Mác đóng vai trò là những nguyên tắc nền tảng
trong quan niệm về phạm trù hệ thống. Cũng nhƣ vậy, vấn đề hệ thống cũng đƣợc thể hiện rõ
trong quan điểm của Ph. Ăngghen. Trong tác phẩm "Biện chứng của tự nhiên", ông đã coi
giới tự nhiên là một hệ thống và chính quan
- 15 -
điểm này là cơ sở để xác định phạm trù hệ thống. Ph. Ăngghen viết: "Tất cả giới tự nhiên mà
chúng ta có thể nghiên cứu đƣợc, là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể khăng khít
với nhau, nhƣng ở đây, chúng ta hiểu vật thể là tất cả những thực tại vật chất, từ tinh tú đến
nguyên tử, cho đến cả những hạt ê-te, nếu chúng ta thừa nhận sự tồn tại của hạt ê-te" [53,
tr.520]. Nhƣ vậy, bản chất của hệ thống, theo Ph. Ăngghen, trước hết là mối liên hệ qua lại
giữa các vật thể trong toàn bộ vũ trụ từ vi mô đến vĩ mô. Ông nhấn mạnh: "... dù ngƣời ta có
quan niệm nhƣ thế nào chăng nữa về cấu trúc của vật chất thì cũng vẫn chắc chắn là cấu trúc
ấy đã đƣợc sắp xếp thành một loạt nhiều nhóm lớn có ranh giới rành mạch, gồm những khối
lƣợng tƣơng đối, khác nhau, sao cho về mặt khối lƣợng thì những thành viên của từng nhóm
đó có những quan hệ xác định hữu hạn với nhau, nhƣng đối với những thành viên của nhóm
lân cận thì chúng lại là vô cùng lớn hoặc vô cùng bé theo nghĩa của toán học. Hệ thống tinh
tú mà ta nhìn thấy, hệ thống mặt trời, những khối lƣợng trên trái đất, những phân tử và
nguyên tử, và cuối cùng là những hạt nhỏ ê-te đều hình thành từng nhóm nhƣ thế" [53,
tr.772].
Quan điểm trên cho thấy, khi xác định đặc trƣng của hệ thống, Ph. Ăngghen đã nêu
lên hai dấu hiệu cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của nó : Một là, mối liên hệ qua lại
giữa các vật thể; hai là, ranh giới của các vật thể đó. Chính các dấu hiệu đặc trƣng này làm
cho hệ thống biểu hiện với tính cách là một chỉnh thể thống nhất, có tính xác định về chất.
Tiếp tục công việc của C. Mác và Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đã nghiên cứu chủ nghĩa
tƣ bản với tính cách là một hệ thống ở giai đoạn phát triển mới của nó là chủ nghĩa đế quốc.
Ông khẳng định: "Chủ nghĩa tƣ bản đã phát triển thành một hệ thống có tính chất toàn thế
giới của một nhúm nhỏ các nƣớc "tiên tiến" đi áp bức thuộc địa và dùng tài chính để bóp
nghẹt đại đa số nhân dân thế giới" [40, tr.389].
- 16 -
Quan điểm của V. I. Lênin về chủ nghĩa tƣ bản đã mang lại những tƣ liệu hết sức
phong phú về bản chất và các quy luật vận động của một trong những hệ thống phát triển
nhất của thế giới khách quan. Hơn nữa, ông còn chỉ ra rằng, đối với các hệ thống xã hội, thì
một đặc trƣng cơ bản của nó không chỉ là hệ thống tự tổ chức, mà còn là hệ thống tổ chức,
gắn liền với hoạt động sáng tạo, có nhu cầu. mục đích của con ngƣời. V. I. Lênin đã thực hiện
cuộc đấu tranh kiên trì vì sự thành lập đảng kiểu mới, ông khẳng định đảng là một tổ chức,
một hệ thống có tổ chức. Khi giảng giải cho các đối thủ của mình, V. I. Lênin viết: "Những
con ngƣời khờ khạo thay! Họ đã quên rằng trước kia đảng ta chƣa phải là một khối chính
thức có tổ chức, mà chỉ là một tổng số những nhóm riêng biệt và do đó, giữa các nhóm ấy
không thể có những quan hệ nào khác, ngoài sự tác động về mặt tƣ tƣởng. Hiện nay, chúng ta
đã trở thành một đảng có tổ chức, điều đó có nghĩa là chúng ta đã tạo ra một quyền lực, biến
uy tín về tƣ tƣởng thành uy tín về quyền lực, khiến cấp dƣới phải phục tùng cấp trên của
đảng" [36, ƣ.428 - 429].
Rõ ràng là, V. I. Lênin đã chỉ ra tính lịch sử của sự hình thành đảng nhƣ một hệ thống,
ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ đạo của quá trình tổ chức, và chính sự tổ chức quyết định
đến sự thành bại của đảng.
Những quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin về hệ thống cho ta thấy, hệ
thống cho dù ở bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có quy luật khách quan, đƣợc cấu thành từ
những yếu tố liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, đều chứa đựng những năng lực nội tại, những
động lực và cội nguồn của sự tự thân vận động, tự thân phát triển. Quan điểm của các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo ra một cơ sở khoa học vững chắc cho sự nghiên
cứu và phát triển vấn đề hệ thống sau này.
- 17 -
1.1.2. Phạm trù hệ thống dưới ánh sáng của khoa học hiện đại
Trƣớc hết cần phải nói rằng, xung quanh khái niệm hệ thống, trong các tài liệu triết
học có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Thông thƣờng, hệ thống đƣợc hiểu là tập hợp các yếu
tố, bằng cách này hay cách khác liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Chẳng hạn, các nhà sáng
lập ra "lý thuyết hệ thống tổng quát" cho rằng, "hệ thống là tổng thể các yếu tố nằm trong sự
tác động qua lại" (L. Bertalanffy) [dẫn theo: 95, tr.21]; hoặc "hệ thống là tập hợp các yếu tố
cùng với các mối quan hệ của chúng" (I. G. Miller) [dẫn theo: 95, tr.21]; hay "hệ thống là
mạng lƣới các yếu tố liên hệ với nhau của bất kỳ thể loại khái niệm, khách thể, con ngƣời"
(R. L. Ackoff) [dẫn theo: 95, tr.21-22]; .v.v. Rõ ràng, những định nghĩa này quá rộng, nhƣng
chúng mới chỉ bao quát đƣợc các tập hợp khác nhau mà chƣa chỉ ra đƣợc những đặc trƣng cơ
bản của hệ thống, nhằm phân biệt hệ thống đó với các hệ thống khác. Mặt khác, những định
nghĩa ấy đã hòa trộn khái niệm hệ thống vào ƣong các khái niệm mối liên hệ và sự tác động
qua lại. Trên thực tế, tất cả đều liên hệ, tác động qua lại với nhau, nhƣng khái niệm hệ thống
phản ánh những mối liên hệ đặc biệt, cụ thể nào đó giữa các yếu tố cấu thành.
Khái niệm hệ thống đƣợc thể hiện rất đa dạng và phong phú trong các tài liệu triết học
của Liên Xô trƣớc đây. Tuy có nhiều quan niệm khác nhau khi xác định nội hàm và ngoại
diên của khái niệm hệ thống, song chung quy lại có hai quan điểm cơ bản: Thứ nhất, tất cả
mọi tập hợp đều đƣợc coi là hệ thống; thứ hai, không phải bất kỳ một tập hợp nào cũng là hệ
thống, mà chỉ những tập hợp có chất lượng tổng hợp mới đƣợc coi là hệ thống.
Quan điểm thứ nhất, với những học giả tiêu biểu nhƣ A.N. Averianốp, A. E.
Phurman, V. K. Prôkhôrencô,... cho rằng, những tập hợp không có tổ chức
- 18 -
cũng là hệ thống, mặc dù nó không có tính chỉnh thể và khẳng định bất kỳ một tập hợp nào
cũng đƣợc coi là hệ thống. Bởi vì : Thứ nhất, tập hợp không có tổ chức cũng đƣợc cấu thành
từ các yếu tố; thứ hai, các yếu tố liên hệ với nhau theo những cách thức nhất định, cho dù
những mối liên hệ ấy mang tính ngẫu nhiên hay bề ngoài; thứ ba, tập hợp ấy có sự xác định
về chất trong mối quan hệ với môi trƣờng; và thứ tư, một khi trong tập hợp ấy chứa đựng mối
liên hệ giữa các yếu tố thì nhất định sẽ biểu hiện tính quy luật, tính trật tự trong không gian
và thời gian [xem: 84, tr.22 -23]. Theo quan điểm này, hệ thống chỉ cần đƣợc cấu thành từ
các yếu tố, bởi vì chúng đều biểu hiện tính quy luật, tính trật tự nhất định. Song trên thực tế,
sự vật, hiện tƣợng chỉ biểu hiện tính quy luật, tính trật tự khi chúng có những mối liên hệ bản
chất, tất nhiên, ổn định và lắp đi lắp lại. Vì vậy, với quan điểm bất kỳ một tập hợp nào cũng
đƣợc coi là hệ thống, ta không thể xác định đƣợc chất lƣợng tổng hợp của hệ thống, cũng nhƣ
không thể phân biệt nó với các hệ thống khác.
Với quan điểm thứ hai, có thể kể đến các học giả tiêu biểu nhƣ: V. P. Cudơmin, A. G.
Aphanaxép, A. G. Xpirkin, A. Séptulin, I. V. Blauberơgơ, E. G. Iudin, V. N. Xađốpxki, V. X.
Chiukhơchin, và nhiều ngƣời khác. Theo họ, hệ thống là tập hợp các yếu tố có sự liên hệ, tác
động qua lại lẫn nhau, nhờ đó tạo ra những thuộc tính mới, chất lƣợng mới - chất lượng tổng
hợp, mà vốn không có ở từng yếu tố cấu thành. Chất lượng tổng hợp ấy gọi là tính chỉnh thể
của hệ thống. Chẳng hạn, V. p. Cudơmin khẳng định " hệ thống là một tập hợp nào đó những
yếu tố có mối liên hệ lẫn nhau, tạo ra sự thống nhất ổn định, tức là một chỉnh thể" [8, tr.450].
Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, A. G. Xpirkin coi "hệ thống là một chỉnh thể có tổ chức nội tại trên
cơ sở của nguyên tắc này hay nguyên tắc khác, trong đó tất cả các yếu tố đều liên hệ mật thiết
với nhau và biểu hiện ƣơng mối quan hệ với những điều kiện xung quanh và với các hệ thống
khác nhƣ một thể
- 19 -
thống nhất" [140, tr.179]. Hay V. N. Xađốpxki cho rằng, "hệ thống là một tập hợp các yếu tố
đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất định, liên hệ qua lại lẫn nhau và hình thành nên một sự
thống nhất chỉnh thể" [136, tr.173]. Theo quan điểm này, một tập hợp nào đó đƣợc coi là hệ
thống khi và chỉ khi các yếu tố của nó nằm trong một tổ chức nội tại, một chỉnh thể nhất định;
còn đối với những tập hợp cơ giới giản đơn, nhƣ giỏ táo, đống đá, tụ tập những ngƣời trên
đƣờng phố,... thì không có tính tổ chức nội tại, mà chỉ có những mối liên hệ ngẫu nhiên,
không cơ bản, bề ngoài, do đó thuộc tính của nó trùng với tổng số các thuộc tính của các yếu
tố cấu thành. Nghĩa là, tập hợp ấy không chứa đựng thuộc tính tổng hợp, tính chỉnh thể và nó
không phải là hệ thống. Nhƣ vậy, sự khác biệt giữa hệ thống và tập hợp cơ giới chính là ở
chất lƣợng tổng hợp. Về vấn đề này, V. P. Cudơmin nhận thấy "dấu hiệu đầu tiên , dấu hiệu
cơ bản của hệ thống là tính chỉnh thể tổng hợp hoặc là sự thống nhất tổng hợp, còn đối tƣợng
nghiên cứu đặc thù là những thuộc tính tổng hợp và những quy luật của khách thể và của
phức hợp" [8, tr.384].
Chúng tôi cho rằng, để đƣa ra một định nghĩa xác thực về khái niệm hệ thống thì cần
phải xuất phát từ ngay bản thân cơ sở hiện thực mà nó phản ánh. nhằm vạch ra tính tổ chức
nội tại, tính quy luật, tính trật tự của hiện thực. Trên thực tế, bất kỳ một hệ thống nào, từ hạt
nhân nguyên tử đến nguyên tử, từ phân tử đến tế bào, từ cơ thể sinh vật đến xã hội,... đều có
chất lƣợng, mà không quy về đƣợc các thuộc tính hoặc tổng số các thuộc tính của các yếu tố
cấu thành. Chẳng hạn, phân tử nƣớc (H2O) đƣợc hình thành từ hai nguyên tử hyđrô và một
nguyên tử ôxy. Bản thân hyđrô với hai nguyên tử của nó để tạo nên hệ thống thì cháy, còn
ôxy với một nguyên tử của nó tham gia vào hệ thống thì kích thích sự cháy. Nhƣng hệ thống
đƣợc hình thành từ các yếu tố trên đây, thì có một thuộc tính mới hoàn toàn khác, không chứa
đựng trong các yếu tố cấu thành, thậm chí
- 20 -
còn đối lập với chúng, đó là thuộc tính chất lƣợng tổng hợp - nƣớc dập tắt lửa. Chính chất
lƣợng tổng hợp là biểu hiện đặc trƣng của hệ thống. Điều này thể hiện rất rõ trong các cơ thể
sống, nhƣ Ph. Ăngghen dẫn lời của Hêghen: "Cả sự tổ hợp cơ giới của xƣơng, máu, sụn, cơ,
mô, .v.v. lẫn sự tổ hợp hóa học của các nguyên tố cũng không tạo thành đƣợc một con vật"
[53, tr.698]. Từ đó, Ph. Ăngghen viết: "... thể hữu cơ, đƣơng nhiên là một sự thống nhất cao,
liên kết cơ học, vật lý học và hóa học thành một chỉnh thể, trong đó cái tam vị nhất thể không
thể bị tách rời ra đƣợc" [53, tr.746].
Đặc biệt, các chất lƣợng tổng hợp thể hiện rất rõ ƣong sự phân tích của C. Mác về các
hiện tƣợng và quá trình xã hội. Ông viết: "Giống nhƣ sức tấn công của một đội kỵ binh hay
sức chống cự của một trung đoàn bộ binh khác về cơ bản với tổng số những sức tấn công hay
sức chống cự của từng ngƣời kỵ binh hay của từng chiến sĩ bộ binh riêng rẽ, tổng số sức cơ
giới của từng công nhân riêng rẽ cũng khác về cơ bản với sức tập thể mà họ phát triển, khi có
nhiều cánh tay tham gia cùng một lúc vào cùng một công việc không thể phân chia đƣợc"
[55, tr.473].
Xuất phát từ những chỉ dẫn của C. Mác và Ph. Ăngghen, chúng ta thấy hệ thống đƣợc
đặc trƣng bởi các yếu tố mang tính độc lập tƣơng đối, mối liên hệ, tác động qua lại giữa các
yếu tố và tính chỉnh thể của nó. Với cách hiểu ấy, có thể hiểu: Hệ thống là một tập hợp những
yếu tố có mối liên hệ nội tại, tác động qua lại với nhau và tạo thành một chỉnh thể với một
chất lượng tổng hợp nhất định.
Quan điểm trên đây về phạm trù hệ thống cho phép và đòi hỏi chúng ta đi sâu vào bản
chất và kết cấu bên trong của thế giới vật chất để hiểu rõ hơn sự tồn tại của thế giới với tính
cách là hệ thống.
Nếu nhìn nhận thế giới theo các thang bậc hệ thống thì bản thân thế giới (bao hàm cả
tự nhiên, xã hội và tƣ duy) là hệ thống của các hệ thống, bởi vì
- 21 -
trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên, ngƣời ta đã phát hiện ra tính đa dạng về chất
của các dạng vật chất, cũng nhƣ những hình thức tƣơng tác giữa chúng. Điều này càng xác
nhận tƣ tƣởng của V. I. Lênin về tính vô cùng tận của thế giới vật chất. V. I. Lênin viết:
"Điện tử cũng vô cùng tận nhƣ nguyên tử; tự nhiên là vô tận, nhƣng nó lại tồn tại một cách vô
tận; và chỉ có thừa nhận một cách tuyệt đối, vô điều kiện nhƣ vậy sự tồn tại của tự nhiên ở
ngoài ý thức và cảm giác của con ngƣời, thì mới phân biệt đƣợc chủ nghĩa duy vật biện
chứng với thuyết bất khả tri tƣơng đối luận và chủ nghĩa duy tâm" [39, tr.323-324]. Sự phát
triển của khoa học hiện đại đã làm sáng tỏ cấu tạo và thuộc tính của thế giới vật chất, cũng
nhƣ sự phản ánh chúng vào trong bộ não con ngƣời, đã xác nhận quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng về tính thống nhất vật chất của thế giới. Nhiều thuộc tính đã biết của thế
giới chỉ còn mang tính chất tƣơng đối khi ngƣời ta hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới, bởi vì,
nhƣ V. I. Lênin nói, "nếu nhƣ mức độ sâu sắc đó hôm qua chƣa vƣợt quá nguyên tử, hôm nay
chƣa vƣợt quá điện tử và trƣờng, thì chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh tính chất tạm
thời, tƣơng đối, gần đúng của tất cả những cái mốc đó của sự nhận thức giới tự nhiên bởi
khoa học ngày càng tiến triển của con ngƣời" [39, tr.323].
Từ nội dung mà phạm trù hệ thống phản ánh, chúng ta có thể hiểu sự tồn tại của các
hệ thống, cấu tạo hệ thống của thế giới và các hình thức nhận thức về thế giới là tính hệ
thống. Hay nói cách khác, khái niệm tính hệ thống phản ánh một trong những đặc điểm cơ
bản của hiện thực, đó là khả năng của các quá trình và các hiện tƣợng tạo ra các chất lƣợng
tổng hợp. Nói đến tính hệ thống là nói đến tính trật tự, tính quy luật, tính phức hợp, tính toàn
diện,... của các sự vật, hiện tƣợng. Trong thế giới không thể có các sự vật, hiện tƣợng lại
không mang tính hệ thống. Những quan niệm của con ngƣời về tính hệ thống chỉ là sự phản
ánh tính hệ thống của thế giới khách quan. Đúng nhƣ L. A. Pêtrusencô viết:
- 22 -
"Ngay cả huyền thoại cổ đại cũng nhƣ tất cả các hệ thống quan niệm sau này, trong đó có các
quan niệm triết học, đều phản ánh tính hệ thống, tính tổ chức và sự tự vận động của thế giới
khách quan" [129, tr.174]. Và nhƣ vậy, có thể coi hệ thống là phương thức tốn tại của vật
chất. Một điều rõ ràng rằng, vật chất là thực tại khách quan, nó không có số lƣợng hữu hạn
các phƣơng thức tồn tại. Dƣới góc độ nhận thức luận, nếu con ngƣời chỉ dựa vào các khái
niệm nhƣ "khách thể", "sự vật", "hiện tƣợng", "quá trình",... thì chƣa đủ, bởi vì chúng mới chỉ
phản ánh những cái riêng, cái đơn nhất, cái không bị phân chia. Do đó, quá trình nhận thức
còn cần phải dựa vào tính hệ thống của bản thân thế giới vật chất. Với tính cách là một phạm
trù triết học, hệ thống không phản ánh những cái riêng biệt, mà là phản ánh sự thống nhất có
mâu thuẫn giữa cái đơn và cái đa, giữa cái hữu hạn và cái vô hạn.
Những khía cạnh trên đây cho ta thấy, tính chất năng động và uyển chuyển, tính cân
bằng động và tính mở của hệ thống, thang bậc và mức độ của từng hệ thống, các quy luật và
trật tự của hệ thống đóng vai trò là cơ sở hiện thực cho quan niệm khoa học về tính biện
chứng của phạm trù hệ thống. Cần nhân mạnh rằng, phạm trù hệ thống cũng nhƣ mỗi hệ
thống luôn luôn chứa đựng các mâu thuẫn biện chứng. Một mặt, trong cách định nghĩa mang
tính khái quát về hệ thống thì việc áp dụng nó trong nhận thức khoa học và hoạt động thực
tiễn không phải là đơn giản. Mặt khác, chính tính chất tổng hợp của phạm trù hệ thống đã mở
ra một phạm vi áp dụng rộng rãi không phụ thuộc vào bản tính của các đối tƣợng cần nghiên
cứu. Theo nghĩa ấy, phạm trù hệ thống tiến gần đến phạm trù bản chất, quy luật. Song dù sao
đi nữa, hệ thống là một phạm trù triết học, là một yếu tố trong hệ thống các phạm trù của
phép biện chứng mác-xít. Do đó, chỉ trong mối quan hệ với các phạm trù khác của phép biện
chứng, thì phạm trù hệ thống mới có thể đƣợc hiểu một cách thực sự khoa học.
- 23 -
Vấn đề mối quan hệ giữa các phạm trù của phép biện chứng duy vật hết sức phức tạp.
Đã từng có nhiều nhà triết học muốn hệ thống hóa tất cả các phạm trù, làm sáng tỏ sự phối
hợp và phụ thuộc của chúng, nhƣng đều không mang lại kết quả mong muốn, bởi vì mỗi
phạm trù chỉ phản ánh những thuộc tính chung nào đó của hiện thực, chứ không thể phản ánh
toàn bộ hiện thực. Phạm trù hệ thống chỉ phản ánh một mặt, cho dù rất cơ bản của hiện thực
là tính hệ thống của nó. Song chỉ trong sự thống nhất của hệ thống các phạm trù thì chúng
mới có thể phản ánh ngày càng đầy đủ và đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống ấy, các phạm
trù đều liên hệ, phối hợp, phụ thuộc lẫn nhau, bổ sung cho nhau và đều nằm trong quá trình
vận động, biến đổi liên tục. Do tính chất quá rộng của vấn đề, nên chúng ta chỉ giới hạn ở
việc xem xét mối quan hệ giữa phạm trù hệ thống với một số phạm trù cùng loại, chẳng hạn,
cái toàn thể, cấu trúc, bởi vì những phạm trù ấy có những điểm tƣơng đồng, song cũng có
những biểu hiện riêng cụ thể rất đa dạng.
Trƣớc hết nói về mối quan hệ giữa phạm trù hệ thống và phạm trù cái toàn thể. Để
tìm hiểu vấn đề này, nhất thiết phải làm rõ một khía cạnh liên quan, đó là phân biệt các phạm
trù yếu tố và cái bộ phận. Ở đây, chúng tôi đồng ý với A. Séptulin khi cho rằng, "yếu tố là
một thực tại tƣơng đối bền vững, xác định về mặt chất lƣợng, nằm trong mối liên hệ lẫn nhau
với các thực tại tƣơng đối bền vững và xác định về mặt chất lƣợng khác và cùng với chúng
tạo ra một hệ thống hoàn chỉnh" [151, tr.164]. Sự vật, hiện tƣợng biểu hiện với tính cách là
một hệ thống, là sự thống nhất của các yếu tố tạo thành một chỉnh thể, nghĩa là một toàn thể,
còn các yếu tố cấu thành hiện diện nhƣ những bộ phận của nó. Cái bộ phận là một thực tại
nằm trong thành phần của một thực tại khác và là một mặt trong nội dung hay hình thức của
thực tại đó. Cái toàn thể là một thực tại bao gồm
- 24 -
nhiều thực tại khác với tƣ cách là những yếu tố liên hệ lẫn nhau, có các thuộc tính không phải
là thuộc tính của các bộ phận cấu thành [xem: 151,tr.168].
Trên thực tế cả phạm trù cái bộ phận, cả phạm trù yếu tố chỉ có nghĩa trong quan hệ
đối với một toàn thể nhất định. Bộ phận bên ngoài toàn thể không phải là bộ phận. Với yếu tố
cũng hệt nhƣ vậy, khi một thực tại chƣa tham gia vào sự liên hệ, tác động qua lại với các thực
tại khác, và chƣa tạo ra cùng với chúng một hệ thống hoàn chỉnh, thì nó chƣa phải là yếu tố,
mà chỉ là một sự vật hoặc một hiện tƣợng độc lập. Chỉ khi nó tham gia vào mối liên hệ, tác
động qua lại với các thực tại khác dẫn đến sự xuất hiện một hệ thống hoàn chỉnh với chất
lƣợng tổng hợp, nó mới trở thành yếu tố của hệ thống ấy.
Sự khác biệt giữa phạm trù cái bộ phận và phạm trù yếu tố là ở chỗ, cái bộ phận biểu
thị cả các thành tố tạo nên cái toàn thể, cả sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng,
cả những quan hệ đặc trưng cho chúng; còn yếu tố chỉ áp dụng đƣợc với các thành tố nằm
trong mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau nhất định và nhờ đó tạo ra một hệ thống hoàn
chỉnh. Nhƣ vậy, phạm trù cái bộ phận chung hơn so với phạm trù yếu tố, nó áp dụng đƣợc
đối với các yếu tố tạo nên hệ thống (tất cả các yếu tố đều là bộ phận của nó), đối với những
mối liên hệ riêng biệt của chúng và đối với cả tổng hợp các mối liên hệ đó. A. N. Averianốp
cho rằng: "Khái niệm "cái bộ phận" chung hơn, trừu tƣợng hơn so với khái niệm "yếu tố".
Thực chất nó là khái niệm trung gian giữa khái niệm "hệ thống" và "yếu tố"" [84, tr.29].
Những điều đó cho ta thấy, phạm trù hệ thống và phạm trù cái toàn thể là những
phạm trù cùng cấp độ. Mặt khác, hệ thống lại chính là bản thân cái toàn thể, là một chỉnh thể
thống nhất. Còn cái toàn thể chỉ có ý nghĩa trong mối quan hệ đôi với hệ thống, nó phản ánh
tính toàn vẹn, tính thống nhất nội tại, tính đầy đủ, tính trật tự của hệ thống. Khi nói đến cải
toàn thể, thì luôn luôn gắn liền với
- 25 -
các bộ phận của nó; còn khi nói đến hệ thống, thì luôn luôn gắn liền với các yếu tố đóng vai
trò là các bộ phận cấu thành nên nó.
Phạm trù hệ thống không chỉ có mối quan hệ mật thiết với phạm trù cái toàn thể, mà
còn quan hệ mật thiết với phạm trù cấu trúc. Để hiểu đƣợc điều này, trƣớc hết cần phải làm
rõ nội dung của phạm trù cấu trúc. Cũng giống nhƣ khi xác định phạm trù hệ thống, thì xung
quanh phạm trù cấu trúc cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Có quan điểm coi cấu trúc là tổ
chức nội tại của hệ thông, biểu thị phƣơng thức liên hệ, tác động qua lại đặc trƣng của các
yếu tố cấu thành [xem: 95, tr.107]; hoặc cấu trúc là quy luật liên hệ giữa các yếu tố cấu thành
hệ thống [xem: 139, tr.11]; rồi cấu trúc là hệ thống tƣơng đối bền vững các mối liên hệ giữa
các yếu tố tạo nên một chỉnh thể (sự vật) [xem: 72, tr.178]; .v.v.
Những định nghĩa trên đây đều có tính hợp lý của nó, bởi vì nói đến cấu trúc là nói
đến tính trật tự tƣơng đối bền vững, tính tổ chức nội tại của hệ thống. Song, tính trật tự, tính
tổ chức biểu thị tính quy luật của các yếu tố do những mối liên hệ bản chất, tất yếu giữa
chúng tạo nên. Mặt khác, nói đến cấu trúc thì cần phải thấy đƣợc tính quy định đặc trƣng về
chất của hệ thống, vì vậy bản thân cấu trúc cũng phải mang tính hệ thống. Từ đây có thể hiểu:
Cấu trúc là tổng hợp các mối liên hệ của các yếu tố cấu thành hệ thống.
Nhƣ vậy, phạm trù hệ thống và phạm trù cấu trúc cũng là những phạm trù cùng cấp
độ. Không thể tồn tại hệ thống không cấu trúc và ngƣợc lại, không thể tồn tại cấu trúc bên
ngoài hệ thống. Phạm trù cấu trúc phản ánh phƣơng thức sắp đặt của các yếu tố và tính chất
tác động qua lại của các mặt, các thuộc tính của chúng. Cấu trúc quyết định sự hình thành và
tồn tại của hệ thống, nó biến các thực tại tác động lẫn nhau thành các yếu tố của một hệ thống
và đồng thời thành các bộ phận của một toàn thể. Hơn nữa, nhờ có sự liên hệ, tác động qua lại
lẫn
- 26 -
nhau giữa các yếu tố mà tạo nên tính chỉnh thể của hệ thống. Mối quan hệ giữa hệ thống và
cấu trúc phản ánh sự vật, hiện tƣợng biểu hiện với tính cách là một hệ thông có cấu trúc, hơn
thế nữa, là một hệ thống có cấu trúc thứ bậc (đa hệ), rút cuộc, nó phản ánh tính vô cùng tận
của thế giới vật chất.
Tóm lại, sự phát triển các quan niệm về hệ thống cho phép chúng ta khẳng định rằng,
hệ thống là một phạm trù triết học. Nó là một trong tổng thể các phạm trù của phép biện
chứng mác-xít, có mối quan hệ mật thiết với các phạm trù khác và chiếm một vị trí quan
trọng trong lý luận nhận thức nói riêng và trong triết học nói chung. Không phải ngẫu nhiên
M. M. Rôzentan viết: "Phép biện chứng chứa đựng một cách chặt chẽ trong mình quan niệm
về tính chất hệ thống của các hiện tƣợng và quá trình với tính cách là một trong những yếu tố
quan trọng của nó" [134, tr.85]. Với tính cách là công cụ của nhận thức và hoại động thực
tiễn, phạm trù hệ thống có một ý nghĩa phƣơng pháp luận quan trọng, là cơ sở lý luận của sự
hình thành phƣơng pháp hệ thống.
1.2. Phƣơng pháp hệ thống : sự hình thành và một số nội dung cơ bản
1.2.1. Sự hình thành phương pháp hệ thống
Phƣơng pháp hệ thống - một trong những phƣơng pháp nhận thức khoa học hiện đại,
mà sự hình thành của nó gắn liền với việc khắc phục cuộc khủng hoảng trong nhận thức khoa
học vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX và phát triển mạnh mẽ vào giữa thế kỷ XX.
Từ cơ sở nhận thức luận triết học, cuộc khủng hoảng phƣơng pháp luận nhận thức
khoa học đã đƣợc các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phân tích một cách tỉ mỉ.
Cuộc khủng hoảng ấy gắn liền với sự sụp đổ những định đề
- 27 -
của khoa học cổ điển dẫn đến cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cùng với sự xuất hiện
những nguyên tắc mới trong nhận thức khoa học.
Cần phải chỉ ra rằng, dƣới sự thống ƣị của khoa học cổ điển, ngƣời ta chƣa tiếp cận
đến những đối tƣợng phức tạp, nên chƣa có nhu cầu nhìn nhận sự vật với tính cách là một hệ
thống có cấu trúc bên trong. Nói cách khác, khi loài ngƣời chƣa nhận thức đƣợc các quy luật
của thế giới vi mô và vĩ mô, thì những tri thức về các sự vật chỉ là những tri thức thông
thƣờng mà không đề cập đến sự xem xét tính hệ thống, không chứa đựng các thông số hệ
thống. Thực tế cho thấy rằng, việc hiểu biết tính hệ thống nhƣ là nguyên tắc thế giới quan và
phƣơng pháp luận chỉ có thể thông qua sự hiểu biết kết cấu hệ thống của thế giới. Sự xem xét
nhƣ vậy đạt đƣợc là nhờ trình độ phát triển của các tri thức khoa học, khi tính hệ thống trở
thành một nguyên tắc tất yếu trong nghiên cứu khoa học.
Cho đến giữa thế kỷ XIX, quan niệm "vật tâm", tức là quan niệm chỉ tập trung vào
một sự vật nào đó đã bị cô lập vẫn giữ vai trò thống trị. Mặc dù vậy, trong thời kỳ đó cũng đã
xuất hiện những tƣ tƣởng về hệ thống, nhƣ học thuyết nhật tâm của Côpécních, giả thuyết
hình thành vũ trụ của Cantơ, hệ thống triết học Hêghen và những tƣ tƣởng khoa học khác.
Song, dƣới góc độ lý thuyết hệ thống, những tƣ tƣởng ấy chỉ là những tƣ tƣởng mang tính
phỏng đoán mà chƣa làm thay đổi cơ sở của sự hiểu biết về thế giới.
Cuộc cải tạo tận gốc bức tranh cổ điển về thế giới thực tế chỉ bắt đầu từ sự thiết lập
những lý thuyết về sự phát triển lịch sử của tự nhiên và xã hội, mà cụ thể đó là thuyết tiến hóa
của Đácuyn và học thuyết về sự phát ƣiển lịch sử xã hội của C. Mác, Ph. Ăngghen. Những
học thuyết đó mang lại một hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc, đó là thế giới quan duy
vật và phƣơng pháp luận biện chứng, trong đó chứa đựng những nguyên tắc phƣơng pháp
luận mới về việc
- 28 -
nhận thức các hệ thống rộng lớn - các loài thực vật và động vật, các hình thái kinh tế - xã hội.
Từ giữa thế kỷ XIX, những nguyên tắc nhận thức mới đƣợc thể hiện trong khoa học
tự nhiên. Sự ra đời của thuyết tiến hóa trong sinh vật học đã đánh dấu bƣớc ngoặt trong
phong cách tƣ duy khoa học. Công lao của Đácuyn là ở chỗ, ông đã mang lại cho sinh vật học
quan điểm về sự phát triển. V. I. Lênin viết: "Nếu Đácuyn đã đánh đổ hẳn đƣợc quan niệm
cho rằng những loài động vật và thực vật là không có liên hệ gì với nhau cả, là ngẫu nhiên mà
có, là do "Thƣợng đế tạo ra" và là bất biến, và ông là ngƣời đầu tiên đã làm cho sinh vật học
có một cơ sở hoàn toàn khoa học bằng cách xác định tính biến dị và tính kế thừa của các loài
- thì Mác cũng thế, Mác đã đánh đổ hẳn đƣợc quan niệm cho rằng xã hội là một tổ hợp có
tính chất máy móc, gồm những cá nhân, một tổ hợp mà nhà cầm quyền (hay là xã hội và
chính phủ thì cũng vậy) có thể tùy ý biến đổi theo đủ mọi kiểu, một tổ hợp sinh ra và biến hóa
một cách ngẫu nhiên; và Mác cũng là ngƣời đầu tiên đã làm cho xã hội học có một cơ sở
khoa học, bằng cách xác định khái niệm coi hình thái kinh tế - xã hội là một toàn bộ những
quan hệ sản xuất nhất định, bằng cách xác định rằng sự phát triển của những hình thái đó là
một quá trình lịch sử tự nhiên" [35, tr.165-166].
Sự biểu hiện rõ nét nhất về mặt phƣơng pháp luận trong việc nghiên cứu các khách
thể phức tạp là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác. Học thuyết này không phải là
sự liệt kê giản đơn những tƣ tƣởng biện chứng, mà quan trọng hơn là xây dựng nên những
nguyên tắc phƣơng pháp luận mới để nghiên cứu một cách có hiệu quả đối với các hệ thống
phức tạp. Tác phẩm "Tƣ bản" của C. Mác là công trình đầu tiên đƣợc thực hiện bởi phƣơng
pháp nghiên cứu khoa học mới - phương pháp hệ thống. Một mẫu hình về vấn đề này là lý
luận của C. Mác về nguyên tắc tính hai mặt trong sự xác định về chất. Trong
- 29 -
"Tƣ bản", C. Mác đã xuất phát từ phạm trù hàng hóa với tính cách là "tế bào" của phƣơng
thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa, đặc trƣng cho các hình thức quan hệ, tác động qua lại giữa
con ngƣời và giới tự nhiên, cũng nhƣ các quan hệ giao tiếp giữa ngƣời với ngƣời. Hàng hóa -
"tế bào" ấy là yếu tố hiện thực của hệ thống kinh tế, mà khám phá ra bản chất của nó sẽ hiểu
đƣợc các quy luật vận động của toàn bộ hệ thống phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa. Từ
cách tiếp cận này, với phƣơng pháp đi từ trừu tƣợng đến cụ thể, C. Mác đã chỉ ra hai thuộc
tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị. Đồng thời, ông cũng nghiên cứu lao động cụ
thể và lao động trừu tƣợng, hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình của máy móc.v.v. Từ đó,
C. Mác đặt nền móng cho phƣơng pháp luận biện chứng duy vật khi nghiên cứu tính chất
nhiều chiều của khách thể.
C. Mác không trực tiếp vạch ra phƣơng pháp hệ thống, nhƣng ông đã chỉ ra tính hệ
thống là một ƣong những thuộc tính cơ bản của thế giới và của phƣơng pháp luận khoa học.
Có thể nói, tính hệ thống trong học thuyết của C. Mác thể hiện trƣớc hết là học thuyết về biện
chứng của hệ thống.
Học thuyết của C. Mác, theo bản chất của mình, là mang tính hệ thống. Lý luận về
quá trình lịch sử tự nhiên trong sự thay thế của các hình thái kinh tế -xã hội là một bằng
chứng xác đáng chứng minh cho điều đó. Không phải ngẫu nhiên V. I. Lê nin viết: "Theo lý
luận của Mác, mỗi hệ thống quan hệ sản xuất đó là một cơ thể xã hội riêng biệt, có những quy
luật riêng về sự ra đời của nó, về hoạt động của nó và bƣớc chuyển của nó lên một hình thức
cao hơn, tức là biến thành một cơ thể xã hội khác" [35, tr.537-538].
Rõ ràng rằng, dƣới góc độ phƣơng pháp luận, những cống hiến của Đácuyn và C. Mác
đã tạo ra những bƣớc chuyển căn bản về các hình thức và phƣơng pháp tƣ duy nói chung và
đối với sự hình thành phƣơng pháp hệ thống nói riêng.
- 30 -
Vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên đã xuất hiện hàng loạt
các lý thuyết khoa học, trong đó chứa đựng những quan niệm về tính hệ thống trong việc
nghiên cứu các tổ chức vật chất. Đó là hình học phi Ơclít của Lôbasépxki và Riman, rồi
thuyết tƣơng đối của Anhxtanh trong vật lý học phi cổ điển đã khám phá ra chiều đo "thứ
hai" của thực tại vật lý. Đồng thời, cũng đã xuất hiện những lý thuyết hệ thống - cấu trúc
trong hóa học: hệ thông tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Menđêlêép, lý thuyết cấu tạo
hóa học của Bútlêrốp... Những lý thuyết ấy đã phát hiện ra các quy luật hệ thống nền tảng của
các vật thể vật chất, đã khẳng định bức tranh hệ thống về thế giới và đã tạo nên những tiền đề
quan trọng cho sự hình thành phƣơng pháp hệ thống.
Nhƣ vậy, tri thức hệ thống ở thế kỷ XIX đã có và nó biểu hiện với tính cách là một bộ
phận của các tri thức khoa học, là một trong những khía cạnh của tư duy biện chứng. Cùng
với sự hình thành những lý thuyết khoa học về thế giới, thì trong lĩnh vực nhận thức luận
không phải đơn giản chỉ phản ánh tính chất đa chiều, đa cấp độ của hiện thực, mà quan trọng
hơn là phải tìm ra những phƣơng tiện, những công cụ nhằm phản ánh chúng trong các mối
quan hệ khác nhau, trong các hệ tọa độ khác nhau. Để thực hiện đƣợc điều đó, khoa học cần
phải hoàn thiện các nguyên tắc, các phƣơng pháp nhận thức, trong đó gắn liền với sự khắc
phục những hạn chế của phương pháp yếu tố hóa và quan điểm cơ giới. Bởi vì phƣơng pháp
yếu tố hóa và quan điểm cơ giới đặc trƣng cho phƣơng pháp tƣ duy siêu hình, không đáp ứng
đƣợc những yêu cầu phát triển của các ngành khoa học.
Phương pháp yếu tố hóa xuất phát từ định đề về yếu tố bản thể luận của những thành
trì đơn giản nhất ở mỗi khách thể. Nó không chỉ xác định quan niệm về cấu trúc của thế giới,
mà còn vạch ra một xu hƣớng của nghiên cứu
- 31 -
khoa học. Nó có tham vọng giải thích hiện thực từ sự kết hợp các yếu tố đơn giản nhất không
thể phân chia đƣợc nữa. Ví dụ, trong lĩnh vực tâm lý học, việc xác định hành vi tâm lý đơn
giản nhất là cơ sở để nghiên cứu các hành vi khác phức tạp hơn. Phƣơng pháp yếu tố hóa đòi
hỏi, khi nghiên cứu các khách thể phức tạp thì vấn đề quan trọng là cần phải chuyển cái phức
tạp thành cái đơn giản, chuyển cái toàn thể thành cái bộ phận.
Đối với quan điểm cơ giới cũng tƣơng tự nhƣ vậy, nó phủ nhận đặc trƣng về chất của
các tổ chức vật chất, nó quy cái phức tạp thành cái đơn giản, quy cái toàn thể thành tổng số
giản đơn các bộ phận cấu thành, coi "thế giới là một cỗ máy". Quan điểm cơ giới chỉ thừa
nhận duy nhất hình thức vận động cơ giới và đƣa khái niệm cơ học vào trong các lĩnh vực vật
lý học, hóa học, sinh vật học, đồng thời giải thích các phạm trù nhân - quả, mối liên hệ,...
cũng theo tinh thần của cơ học. Theo đó, bất kỳ một quá trình nào cũng đƣợc biểu hiện thông
qua những môi liên hệ cơ giới, máy móc, mà nguyên nhân tất yếu sẽ sản sinh ra một kết quả
duy nhất. Đó chính là nguyên tắc quyết định luận đơn điệu.
Cả phương pháp yếu tố hóa và quan điểm cơ giới, chúng ta có thể tìm thấy ở nguyên
tử luận thời kỳ cổ đại, ở phái duy danh thời kỳ trung cổ, đặc biệt nó đƣợc áp dụng rộng rãi
trong thế giới quan và phƣơng pháp luận của các nhà khoa học tự nhiên (Galilê, Niutơn,
Laplas,...), của các nhà triết học duy vật (Hốpxơ, La Mettri, Hônbách, Điđrô, Henvêtiuýt,... ).
Với tính cách là một ƣơng những biểu hiện chủ yếu của phƣơng pháp tƣ duy siêu
hình, phương pháp yếu tố hóa và quan điểm cơ giới không có khả năng khám phá ra tính chất
biện chứng phức tạp của sự vận động và cấu tạo của thế giới vật chất, mà kết quả của nó, nhƣ
Ph. Ăngghen nhận xét "... chúng ta lại thấy một đống lộn xộn những thực nghiệm cũ không
chắc chắn, ... , một sự mò mẫm ngập ngừng trong bóng tối, ..." [53, tr.574]. Chính phương
pháp yếu tố hóa và
- 32 -
quan điểm cơ giới đã gây nên cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong khoa học tự nhiên vào
cuối thế kỷ XIX. Do đó, sự xuất hiện những phát minh mới trong khoa học và việc khắc phục
những hạn chế của phƣơng pháp yếu tố hóa và quan điểm cơ giới, đòi hỏi phải có sự hiểu biết
một cách biện chứng về thế giới hiện thực. Thành tựu lớn nhất của nhận thức không chỉ ở
việc phát hiện ra các yếu tố của khách thể, mà còn gắn liền với việc phát hiện ra những thuộc
tính đặc trƣng của cái toàn thể. Một trong những thuộc tính quan trọng nhất của sự vật (cái
toàn thể) là tính chỉnh thể của nó.
Đối lập với phương pháp yếu tố hóa và quan điểm cơ giới, quan điểm về tính chỉnh
thể cho rằng, không thể quy cái phức tạp thành cái đơn giản, cái toàn thể thành tổng số giản
đơn các bộ phận; mà trái lại, trong mỗi sự vật đều chứa đựng những thuộc tính, một chất
lƣợng tổng hợp mà chúng vốn không có trong các bộ phận cấu thành. Khi đánh giá về thành
tựu của khoa học tự nhiên ở thế kỷ XIX, Ph. Ăngghen viết: "Và thực vậy, nếu nhƣ đến cuối
thế kỷ trƣớc, khoa học tự nhiên chủ yếu là một khoa học sưu tập, một khoa học về các vật
nhất thành bất biến, thì trong thế kỷ của chúng ta, khoa học tự nhiên, về thực chất, đã trở
thành một khoa học hệ thống hóa, khoa học về các quá trình, về sự phát sinh và sự phát triển
của các sự vật đó và về mối liên hệ gắn bó các quá trình đó của tự nhiên thành một chỉnh thể
lớn" [54, tr.432]. Nguyên tắc tính chỉnh thể đã trở thành phổ biến trong nhận thức khoa học,
và do đó, khoa học bắt đầu một cách nhìn mới, cách nhìn sự vật nhƣ một hệ thống có cấu trúc
bên trong.
Chúng ta có thể kể ra một vài mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của phương pháp hệ
thống : Trƣớc hết là vào đầu thế kỷ XX, trong sinh vật học với sự ra đời của hình thái học
(khoa học về cấu tạo của cơ thể), rồi đến ngôn ngữ học cấu trúc của Phécđinăng đờ Xốtxuya.
Từ năm 1940 Jacốpxơn và Levi -Strauss vận dụng những nguyên tắc của ngôn ngữ học cấu
trúc vào việc nghiên
- 33 -
cứu nhân chủng học cấu trúc. Đặc biệt, từ những năm 50 của thế kỷ XX trở lại đây, phƣơng
pháp hệ thống đƣợc áp dụng rộng rãi ƣơng nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên, trƣớc hết là
trong sinh vật học với tên tuổi của K. M. Khailốp và A. A. Malinốpxki, rồi đến lĩnh vực tâm
lý học với tên tuổi của L. s. Vƣgốtxki và G. Piagiê, học thuyết về sinh quyển của V. I.
Vernátxki và nhiều lĩnh vực khác. Những lĩnh vực khoa học ấy đều dựa trên quan điểm hệ
thống, tức là xem xét sự vật, hiện tƣợng với tính cách là một hệ thống có cấu trúc bên trong,
mà cơ sở, nền tảng là tính chỉnh thể của chúng.
Nhƣ vậy, khi nhận thức của con ngƣời ngày càng sâu sắc thì bức tranh khoa học về
thế giới ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng. Hơn nữa, chúng ta sẽ không thể hiểu đƣợc sự
khác biệt giữa hai hay nhiều chất trong một sự vật nếu không xem xét chúng trong các hệ tọa
độ khác nhau, nếu không xuất phát từ tính đa hệ thống của thế giới hiện thực. Toàn bộ quá
trình lịch sử nhận thức luận đã làm sâu sắc thêm và cụ thể hóa những tri thức về thế giới, làm
thay đổi nhiều phƣơng thức tƣ duy khoa học. Do đó, không chỉ những quan niệm của con
ngƣời về bức tranh thế giới thay đổi, mà ngay cả những hình thức và phương thức xem xét thế
giới cũng thay đổi. Không phải chỉ có những cái mà con ngƣời hiểu biết về thế giới mới có ý
nghĩa to lớn, mà cả cái cách con ngƣời xem xét và chinh phục thế giới như thế nào càng có ý
nghĩa hơn.
Hiện nay với sự phát triển những đối tƣợng điều khiển tự động bao gồm nhiều bộ
phận, thực hiện nhiều chức năng phức tạp, đòi hỏi phải thu nhận, lƣu trữ, cải biến và xử lý
thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và tối ƣu đã buộc ngƣời ta phải nhìn nhận sự vật
trên quan điểm hệ thống. Không những thế, muốn giải quyết những nhiệm vụ tổ chức và quản
lý sản xuất, kinh tế - xã hội cũng đòi hỏi phải xem xét cơ cấu sản xuất, cơ cấu xã hội nhƣ
những cơ thể hoàn
- 34 -
chỉnh bao gồm nhiều yếu tố tác động qua lại với nhau, nghĩa là cần phải vận dụng phƣơng
pháp hệ thống.
Nhƣ vậy những nhu cầu khách quan trong sự phát triển của khoa học và thực tiễn đã
làm nảy sinh ra một phƣơng pháp mới, biến nó thành một xu hƣớng phổ biến trong nhận thức
khoa học và hoạt động thực tiễn. Phƣơng pháp mới đó chính là phương pháp hệ thống.
1.2.2. Một số nội dung cơ bản của phương pháp hệ thống
Phƣơng pháp hệ thống bao gồm hàng loạt các yêu cầu mang tính nguyên tắc, giữ vai
trò hết sức quan trọng trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Thứ nhất, phƣơng pháp hệ thống khẳng định bất kỳ một sự vật nào cũng được coi là
một hệ thống bao gồm các yếu tố liên hệ với nhau tạo nên một chỉnh thể. Với tính cách là một
hệ thống, sự vật không tồn tại một cách cô lập, trái lại nó liên hệ với những sự vật khác và
trong những điều kiện nhất định hình thành nên hệ thống mới phức tạp hơn, khi ấy nó lại trở
thành yếu tố của hệ thống có cấp độ cao hơn, một cách vô tận. Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, mỗi
yếu tố của hệ thống lại đóng vai trò là hệ thống có cấp độ thấp hơn của các yếu tố khác, một
cách vô tận. Với cách hiểu đó, sự phân chia giữa hệ thống và yếu tố chỉ mang tính chất tƣơng
đối, tùy thuộc vào mối quan hệ, vào góc độ xem xét. Do đó "thế giới vật chất hiện diện trƣớc
mắt chúng ta dƣới dạng những giai đoạn phát triển kế tục nhau, dƣới dạng những hệ thống
đƣợc tổ chức theo kiểu tầng bậc, nơi các hệ thống của mỗi giai đoạn lại là yếu tố của giai
đoạn sau cao hơn" [114, tr.162-163].
Thứ hai, phƣơng pháp hệ thống nhấn mạnh rằng, sự liên hệ lẫn nhau giữa các yếu tố
tạo ra cho hệ thống những thuộc tính mới, chất lƣợng mới - chất
- 35 -
lượng tổng hợp, mà vốn không có trong các yếu tố cấu thành. Đó là tính chỉnh thể của hệ
thống. Tính chỉnh thể bao quát toàn diện tất cả các mặt, các thuộc tính, các mối liên hệ của sự
vật, là tính quy định nội tại, tính đặc thù, tính đơn nhất của sự vật. Do đó, tính chỉnh thể biểu
hiện sự thống nhất bên trong, phản ánh tính độc lập tƣơng đối, tính cân bằng, tính toàn vẹn
của sự vật ƣong môi quan hệ với các sự vật khác và với môi trƣờng bên ngoài. Đúng nhƣ Đ.
A. Kerimốp viết: "Đặc trƣng của cái toàn thể với tính cách là một hệ thống, đó là sự thống
nhất của các bộ phận dƣới sự quy định của tính chỉnh thể" [118, tr.209]. Tính chỉnh thể của
các sự vật phụ thuộc vào trình độ tổ chức, kết cấu của vật chất, phù hợp với các hình thức vận
động của chúng. Nghĩa là, trình độ tổ chức, kết cấu của vật chất càng cao với hình thức vận
động càng phức tạp, thì tính chỉnh thể của nó càng cao và ngƣợc lại. Điều này cho ta thấy,
tính chỉnh thể là thuộc tính tổng hợp đặc trƣng cho hệ thống, là kết quả của quá trình liên kết
khách quan mang tính quy luật của các bộ phận trong cái toàn thể, là cơ sở khách quan để
hình thành nên hệ thống. Vì vậy, để xác định cái gì là hệ thống, trước hết cần phải xác định
tính chỉnh thể của nó.
Từ tính chỉnh thể do quan điểm hệ thống mang lại, chúng ta thấy, không thể hiểu cái
bộ phận là kết quả của sự phân chia máy móc cái toàn thể ra những phần nhỏ bé hơn. Toàn
thể không phải là tổng số giản đơn của các bộ phận, toàn thể lớn hơn tổng số giản đơn các bộ
phận ấy. Giữa cái toàn thể và cái bộ phận có mối quan hệ biện chứng với nhau, phƣơng thức
tác động qua lại của chúng tuân theo những quy luật nhất định, sao cho vừa đảm bảo việc sản
sinh ra những thuộc tính mới, vừa bảo đảm việc duy trì trạng thái ổn định bên trong hệ thống.
Cụ thể là, bản chất của cái toàn thể, những đặc trƣng số lƣợng và chất lƣợng của nó phụ thuộc
vào bản chất của các bộ phận cấu thành. Nhƣng chính các bộ phận cũng chịu sự tác động của
toàn thể, cũng bằng cách này hay cách khác biểu thị
- 36 -
bản chất, tính xác định về chất của toàn thể. Điều đó đòi hỏi, khi giải thích bản chất của toàn
thể, phải tính đến bản chất của các bộ phận cấu thành; còn khi giải thích đặc thù của các bộ
phận, phải tính đến bản chất của toàn thể, thực chất của nó. Nhƣ vậy, nhận thức toàn thể và
các bộ phận đƣợc tiến hành đồng thời. Khi phân tích các bộ phận, chúng ta hiểu đó không
phải là các bộ phận cô lập, tự nó, mà là các bộ phận của bản thân toàn thể. Ngƣợc lại, khi
nhận thức toàn thể, chúng ta cũng hiểu đƣợc tính phân chia của nó thành các bộ phận. Với
tính cách là các hình thức phản ánh hiện thực, các phạm trù cái toàn thể và cái bộ phận cùng
với mối quan hệ biện chứng giữa chúng giúp ta hiểu rõ tính thống nhất của thế giới, chính xác
hơn là khám phá ra một trong những khía cạnh của vấn đề này - sự thống nhất có mâu thuẫn
giữa cái đơn và cái đa, giữa tính phân chia và tính thống nhất, giữa tính gián đoạn và tính liên
tục của các sự vật, hiện tƣợng trong thế giới hiện thực.
Lôgíc tƣ duy hệ thống rất gần với biện chứng của mối quan hệ giữa cái toàn thể và
cái bộ phận. Bởi vì, biện chứng của mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái bộ phận bao hàm cả
biện chứng của mối quan hệ giữa hệ thống và yếu tố, nhƣng không thể đồng nhất với nó. vấn
đề ở chỗ, không chỉ các yếu tố tạo nên toàn thể, là bộ phận, mà cả mối liên hệ, tác động qua
lại giữa các yếu tố cũng là bộ phận. Biện chứng của các phạm trù cái toàn thể và cái bộ phận
phản ánh tính quy luật của mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố (đồng thời cũng là bộ phận) và
hệ thống, phản ánh cả sự phu thuộc lẫn nhau của toàn thể và quan hệ (những mối liên hệ, tác
động qua lại) giữa các yếu tố cấu thành hệ thống. Để hiểu rõ mối quan hệ giữa hệ thống và
yếu tố với tính cách là một phƣơng diện của phƣơng pháp hệ thống, cần phải xem xét mối
liên hệ giữa các yếu tố cấu thành hệ thống và giữa hệ thống với môi trƣờng. Trong tính đa
dạng, vô cùng tận của thế giới, mối liên hệ cũng biểu hiện rất đa dạng, có thể phân chia
thành: liên hệ
- 37 -
tác động, liên hệ sản sinh, liên hệ cải tạo, liên hệ cấu trúc, liên hệ hoạt động, liên hệ phát
triển, liên hệ điều khiển, .v.v. V. I. Lênin nhấn mạnh rằng, "những quan hệ của mỗi sự vật
(hiện tƣợng etc.) không những là muôn vẻ, mà còn là phổ biến, toàn diện. Mỗi sự vật (hiện
tƣợng, quá trình etc.) đều liên hệ với mỗi sự vật khác'" [41, tr.239]. Các mối liên hệ chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng, nó quyết định tính tổ chức, sự hoạt động và phát triển của hệ
thống, bảo đảm tính cân bằng, ổn định tƣơng đối của hệ thống, làm cho các yếu tố của hệ
thống, nhƣ C. Mác nói, "là những sự phân biệt trong nội bộ một khối thống nhất" [51, tr.875].
Trong vô vàn các mối liên hệ, mỗi mối liên hệ có vị trí, vai trò nhất định trong một câu ƣúc
cụ thể. Mối liên hệ bên trong chiếm ƣu thế hơn so với môi liên hệ bên ngoài, mặc dù mối liên
hệ bên ngoài cũng có thể làm thay đổi hệ thống, song chúng phải đƣợc thực hiện thông qua
những mối liên hệ bên trong. Tính chất cân bằng của hệ thống tạo nên tính chỉnh thể, năng
lƣợng liên kết làm cho hệ thống tồn tại. Hệ thống càng nhỏ thì năng lƣợng liên kết càng lớn.
Chỉ khi nào tác động của bên ngoài có năng lƣợng lớn hơn năng lƣợng liên kết giữa các yếu
tố thì hệ thống mới bị phá vỡ. Ví dụ, sự tự phân hủy hạt nhân của các nguyên tố phóng xạ, ở
đó hệ thống sẽ bị phá hủy nếu năng lƣợng liên kết nhỏ hơn năng lƣợng tổng cộng của những
tác động tố bên ngoài.
Quan niệm về vị trí, vai trò, tính chất của các mối liên hệ do phƣơng pháp hệ thống
mang lại, thực chất là sự cụ thể hóa nguyên lý của phép biện chứng duy vật về mối liên hệ
phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, phương pháp hệ thống gắn liền với quan điểm
toàn diện, cụ thể hóa những yêu cầu của quan điểm toàn diện. Nó đòi hỏi khi xem xét các sự
vật, hiện tƣợng phải tính đến tất cả các mối liên hệ, xác định vị trí, vai trò của từng mối liên
hệ, tính đến "tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác" [41,
tr.239]. Chỉ có cách
- 38 -
xem xét nhƣ vậy mới có thể nhận thức sự vật một cách đúng đắn. Đúng nhƣ V. I. Lênin
khẳng định: "Muốn thực sự hiểu đƣợc sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các
mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó" [44, tr.364]. Nhờ sự hiểu biết
mối liên hệ mà có thể rút ra đƣợc tính quy luật, tính nhân quả, tính phụ thuộc lẫn nhau của
các sự vật. Ở phƣơng diện này, phƣơng pháp hệ thống đã thỏa mãn một yếu tố cơ bản của
phép biện chứng, đó là "từ sự cùng tồn tại đến tính nhân quả và từ một hình thức liên hệ và
phụ thuộc lẫn nhau này đến một hình thức khác, sâu sắc hơn, chung hơn" [41, tr.240].
Nghiên cứu mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành hệ thống, cho ta thấy, giữa hệ thống
và yếu tố thì hệ thống mang tính bền vững hơn so với các yếu tô. Hệ thống xuyên suốt vào
các yếu tố, tác động mạnh mẽ đến chúng cả về vật chất, năng lƣợng và thông tin, cải tạo
chúng cho phù hợp với bản tính của mình. Kết quả là những yếu tố chịu những biến đổi cơ
bản, thậm chí trong những điều kiện nhất định sẽ hình thành nên những yếu tố mới. Song cần
nhấn mạnh rằng, những biến đổi ấy không phải do những tác động bên ngoài quyết định, mà
do bản thân các yếu tố bên trong quyết định. V. I. Lênin viết : "chỉ có trong mối liên hệ giữa
chúng với nhau thì những bộ phận riêng biệt của thân thể mới là những bộ phận của thân thể.
Bàn tay tách rời thân thể chỉ là bàn tay ƣên danh nghĩa" [41, tr.216]. Trong mối quan hệ giữa
hệ thống và yếu tố thì hệ thống quyết định các yếu tố, quyết định nội dung, kết cấu và phƣơng
thức hoạt động của các yếu tố; song các yếu tố có vai trò tác động trở lại đối với hệ thống,
bởi vì mọi quá trình của yếu tố đều liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hệ thống, mỗi yếu tố
đều có cơ cấu tự điều chỉnh, khả năng giải quyết mâu thuẫn của yếu tố tạo ra khả năng giải
quyết mâu thuẫn của hệ thống, về vấn đề này, C. Mác viết: "Mỗi một hình thái xã hội đều có
một nền sản xuất nhất định, nền sản xuất này
- 39 -
quy định vị trí và ảnh hƣởng của tất cả các ngành sản xuất khác, và vì vậy, các quan hệ của
nền sản xuất đó cũng quy định vị trí và ảnh hƣởng của tất cả các ngành sản xuất khác. Đó là
cái ánh sáng chung làm cho tất cả mọi màu sắc khác biến mất và làm thay đổi những đặc
điểm riêng của chúng. Đó là một thứ ê-te đặc biệt xác định tỉ trọng của tất cả mọi cái gì tồn
tại ở trong đó" [51, tr.885]. Và khi nói đến mối quan hệ giữa sản xuất, phân phối, trao đổi và
tiêu dùng, C. Mác viết tiếp: "Kết quả mà chúng ta đã đạt tới không phải là ở chỗ sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu dùng là đồng nhất, mà ở chỗ tất cả chúng là những bộ phận của một
tổng thể, là những sự phân biệt trong nội bộ một khối thống nhất. Sản xuất chi phối bản thân
nó trong toàn bộ sự đối lập của những tính quy định của nó, cũng nhƣ chi phối các yếu tố
khác. Chính là bắt đầu từ sản xuất mà quá trình lắp lại không ngừng... Nhƣ vậy là một nền
sản xuất nhất định quyết định một chế độ tiêu dùng, một chế độ phân phối, một chế độ trao
đổi nhất định, đồng thời cũng quyết định các quan hệ nhất định giữa các yếu tố khác nhau đó
đối với nhau. Dĩ nhiên là về phía nó, dưới hình thái phiến diện của nó, cả sản xuất cũng do
các yếu tố khác quyết định" [51, tr.876].
Trong các hệ thống có tính chỉnh thể cao nhƣ các hệ thống xã hội, các quy luật chung
của hệ thống xã hội quy định bản chất của từng yếu tố, khuynh hƣớng phát ƣiển của nó.
Nghĩa là, các yếu tố phải phù hợp với bản chất của hệ thống xã hội, phù hợp với các tiêu
chuẩn đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ, ... của xã hội. Mặt khác, các yếu tố có tính tổ chức càng
cao thì hệ thống càng mang tính tổ chức cao và ngƣợc lại. cần nhấn mạnh rằng, sự tác động
của các yếu tố đến hệ thống không hoàn toàn giống nhau, có những yếu tố đóng vai trò là chủ
đạo, là nòng cốt, là cơ bản; song cũng có những yếu tố mang tính phái sinh phục vụ cho các
yếu tố chủ đạo, nhƣng cũng đều tác động đến hệ thống. Trong các hệ thống,
- 40 -
đặc biệt trong các hệ thống có tính chỉnh thể cao thì sự thay đổi của một số yếu tố, nhất là
những yếu tố cơ bản, tất yếu sẽ gây nên sự thay đổi của những yếu tố khác và nhiều khi của
toàn bộ hệ thống.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa hệ thống và yếu tố, phương pháp hệ thống có một yêu
cầu cơ bản, đó là: Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải phân chia đối tượng
thành những yếu tố tương đối độc lập, phát hiện ra những mối liên hệ tất yếu giữa chúng; khi
xác định bản chất của hệ thống, cần phải xuất phái từ bản chất của các yếu tố, tính đến vị trí,
vai trò của từng yếu tố, tính chất của các mối liên hệ lẫn nhau giữa chúng; còn khi xác định
bản chất của yếu tố, cần phải tính đến mối liên hệ của nó với các yếu tố khác và với hệ thống
nói chung, cũng như phải tính đến bản chất và các quy luật vận động của hệ thống. Thực
chất cách nhìn này của phương pháp hệ thống là sự cụ thể hóa quan điểm toàn diện của phép
biện chứng duy vật.
Thứ ba, phƣơng pháp hệ thống khẳng định tổng thể các mối liên hệ đƣa đến khái niệm
cấu trúc của hệ thống. Theo trình tự của mình, cấu trúc có thể đƣợc biểu thị theo chiều ngang
(khi nói đến mối liên hệ giữa các yếu tố cùng loại, cùng cấp độ) và có thể đƣợc biểu thị theo
chiều dọc (khi nói đến các mối liên hệ giữa các yếu tố khác loại, khác cấp độ). Cấu trúc dọc
dẫn đến khái niệm cấp độ của hệ thống, hay cấu trúc đa hệ. Trong tính quy định về chất của
hệ thống, cấu trúc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Điều này liên quan trực tiếp đến mối quan
hệ giữa cấu trúc và yểu tố của hệ thống. Đặc trƣng của cấu trúc, trƣớc hết phụ thuộc vào bản
chất, số lƣợng và chất lƣợng của các yếu tố. Mặt khác, chất lƣợng, vị trí, vai trò và ý nghĩa
của các yếu tố, ở một mức độ nhất định phụ thuộc vào cấu trúc của hệ thống. Sự thay đổi của
các yếu tố, trƣớc hết là những yếu tố cơ bản dẫn đến sự thay đổi của cấu trúc; còn sự xuất
hiện một cấu trúc mới sẽ gây nên những thay đổi tƣơng ứng đối với các yếu tố tham gia cấu
trúc
- 41 -
đó, chúng sẽ có những thuộc tính mới, những đặc trƣng về số lƣợng và chất lƣợng mới.
Chúng ta có thể minh họa sự ảnh hƣởng của cấu trúc đối với chất lƣợng của hệ thống, đối với
phƣơng thức tồn tại của nó bằng hiện tƣợng đồng vị ƣơng hóa học - các nguyên tố hóa học có
cùng thành phần và cùng khối lƣợng phân tử nhƣng lại khác nhau căn bản về chất. Điều này
có thể giải thích bằng thuyết cấu tạo hóa học của A. M. Bútlêrốp, theo đó, chất lƣợng của sự
liên kết hóa học không chỉ đƣợc xác định bởi tính chất và số lƣợng các nguyên tử cấu thành
phân tử, mà còn đƣợc xác định bởi cấu trúc liên kết của chúng. Chẳng hạn, cùng từ các
nguyên tử cácbon, nhƣng với cấu trúc liên kết giữa chúng khác nhau, mà hình thành nên hai
sự vật khác nhau là kim cƣơng và than. Từ đó, Bútlêrốp chỉ ra rằng, xuất phát từ cấu tạo hóa
học và hóa trị của các nguyên tử cấu thành, thì có thể tiên đoán về mặt lý thuyết các khả năng
liên kết hóa học khác nhau. Mối quan hệ giữa yếu tố và cấu trúc là sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập, trong đó yếu tố có khuynh hƣớng thƣờng xuyên biến đổi, còn cấu trúc
mang tính ổn định, bền vững và ít biến đổi hơn. Tính ổn định, bền vững tƣơng đối của cấu
trúc đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết các yếu tố với nhau thành một chỉnh thể thống
nhất, đảm bảo cho sự tồn tại của hệ thống và giữ cho những biến đổi của các yếu tố diễn ra
trong phạm vi về chất nhất định. Sự có mặt của cấu trúc là điều kiện tích lũy những thay đổi
về lƣợng bên trong hệ thống, làm tiền đề cho sự biến đổi và phát triển của bản thân hệ thống.
Từ mối quan hệ giữa yếu tố và cấu trúc, phương pháp hệ thống đòi hỏi trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn cần phải giải thích cấu trúc của hệ thống thông qua bản chất của
các yếu tố; còn khi giải thích các yếu tố, phải tính đến bản chất của toàn bộ cấu trúc và sự
tác động của cấu trúc đối với chúng. Nói rộng ra, khi nghiên cứu bản chất của hệ thống,
không chỉ tính đến bản tính của các yếu tố, mà cả cấu trúc của nó và mối quan hệ giữa cấu
trúc và yếu tố.
- 42 -
Trong khoa học và thực tiễn, nhiệm vụ quan trọng là nhận thức cấu trúc, vạch ra
những mối liên hệ qua lại bên trong giữa các yếu tố cấu thành hệ thống. Từ việc nhận thức
đƣợc cấu trúc ta có thể thấy đƣợc tính đa dạng của các mối liên hệ, vai trò quyết định của hệ
thống đối với yếu tố cũng nhƣ sự tác động trở lại của yếu tố đối với hệ thống, nhờ đó hiểu
đƣợc vị trí, vai trò và ý nghĩa của các yếu tố ƣong hệ thống. Không phải ngẫu nhiên có không
ít nhà khoa học đã đánh giá vai trò quan trọng của cách tiếp cận cấu trúc ƣơng việc nghiên
cứu hệ thống. Chẳng hạn, I. V. Blauberơgơ và Ê. G. Iudin cho rằng: "Cách tiếp cận đặt mũi
nhọn lên hàng đầu nhằm tìm kiếm các thể loại mối liên hệ của hệ thống hiện thực, đó là một
cách tiếp cận đặc trƣng, nếu không dành cho tất cả, thì cũng dành cho một phần đáng kể của
việc nghiên cứu hệ thống" [102, tr.26]. Tuy nhiên, khi đánh giá vai trò quan trọng của cách
tiếp cận cấu trúc, chúng ta cũng không nên tuyệt đối hóa nó, mà phải tính đến tổng thể các
phƣơng diện khác nhau của phƣơng pháp hệ thống.
Thứ tư, phƣơng pháp hệ thống còn chỉ ra rằng, phƣơng thức điều chỉnh các cấu trúc
đa hệ là điều khiển. Đó là phƣơng thức liên hệ giữa các cấp độ hệ thống, nhờ đó hệ thống mới
có thể hoạt động và phát triển bình thƣờng. Một khi cấp độ hệ thống là một trong những đặc
trƣng của hệ thống, thì các mối liên hệ điều khiển đƣợc coi là một trong những đặc trƣng của
tổ chức hệ thống.
Thứ năm, từ vấn đề điều khiển dẫn đến vấn đề tính hướng đích của các hành vi hệ
thống, bởi vì điều khiển có nghĩa là giải quyết một nhiệm vụ nào đó, đạt đến một mục đích
nào đó theo một chƣơng trình nhất định. Trong trƣờng hợp chung, mục đích đặt ra cho các hệ
thống kỹ thuật là từ bên ngoài đƣa vào và do con ngƣời xây dựng nên; còn ƣơng thế giới hữu
sinh, thì bản thân nó khởi thảo ra mục đích dựa trên những nhu cầu. A. I. Berơgơ và V. B.
Biriucốp nhận xét: "Tính hƣớng đích thấm vào mỗi hiện tƣợng ƣơng thế giới hữu sinh. Tất
nhiên đó
- 43 -
không phải là tính hƣớng đích tự giác. Chỉ có ở trình độ vật chất có lý trí mới hình thành
đƣợc tính hƣớng đích tự giác mà thôi. Nhƣng ở bất kỳ trình độ nào việc đặt mục đích cũng
không tách khỏi các quá trình điều khiển" [98, tr.354]. Tuy nhiên, tính hƣớng đích ở đây
không phải là mục đích luận tầm thƣờng mà là theo nghĩa hiện đại của điều khiển học.
Thứ sáu, gắn liền với vấn đề điều khiển và tính hƣớng đích, phƣơng pháp hệ thống
luôn luôn quan tâm xem xét đến chức năng của hệ thống và của các yếu tố cấu thành. Phạm
trù chức năng đƣợc sử dụng theo các nghĩa khác nhau. A. G. Xpirkin coi "chức năng là vai
trò mà yếu tố thực hiện ƣơng thành phần của cái toàn thể, nhằm mục đích thống nhất các yếu
tố thành một hệ thống chỉnh thể và đảm bảo cho sự hoạt động có hiệu quả của hệ thống"
[140, tr.179]; A. Séptulin thì cho rằng, "khái niệm chức năng biểu thị sự tác động lẫn nhau
của các yếu tố trong một hệ thống hoàn chỉnh, và biểu thị cả sự tác động qua lại của nó với
các hệ thống khác và bảo đảm đƣợc sự tồn tại bền vững của nó" [72, tr.l 79 - 180]; V. G.
Aphanaxép khẳng định chức năng là "phƣơng thức thể hiện tính tích cực, hoạt động của hệ
thống và các yếu tố của nó" [95, tr.131]; .v.v.
Theo chúng tôi, nói đến chức năng là nói đến vai trò hoạt động của hệ thống nhằm đạt
tới một ƣạng thái chất lƣợng khác nào đó. Do đó, có thể hiểu: Chức năng là phương thức
hoạt động của hệ thống, nhằm liên kết các yếu tố thành một chỉnh thể và đảm bảo cho sự
hoạt động cân đối của hệ thống. Liên quan đến khái niệm chức năng, không phải ngẫu nhiên
C. Mác đã khẳng định "...những chức năng xã hội khác nhau chỉ là những phƣơng thức hoạt
động thay thế nhau mà thôi'" [55, tr.693]. Luận điểm của C. Mác cho ta thấy, chức năng của
hệ thống là phƣơng thức hoạt động nhằm bảo tồn các yếu tố và hệ thống, củng cố các mối
liên hệ qua lại giữa các yếu tố, quy định trật tự tham gia của
- 44 -
chúng trong hệ thống. Có chức năng chung của toàn bộ hệ thống và các chức năng riêng của
các yếu tố cấu thành, trong đó chức năng của hệ thống xác định chức năng của từng yếu tố.
Các yếu tố trong khi thực hiện chức năng của mình phải mang tính đồng bộ, tính hƣớng đích,
phù hợp với chức năng chung của hệ thống, diễn ra trong phạm vi hệ thống và tuân theo các
quy luật chung của hệ thống, còn trong trƣờng hợp ngƣợc lại, yếu tố sẽ tách ra khỏi hệ thống,
thậm chí trở thành chƣớng ngại vật đối với hoạt động của hệ thống, về vấn đề này, V. I.
Lênin nhấn mạnh: "Bộ phận phải phục tùng chỉnh thể, chứ không phải là trái lại" [38, tr.429].
Mặc dù vậy, mỗi yếu tố khi thực hiện các chức năng của mình cũng có tính độc lập tƣơng
đối, phù hợp với đặc điểm của từng yếu tố. Ở đây cần lƣu ý rằng, chức năng luôn gắn liền với
yếu tố và được thực hiện trong phạm vi của cấu trúc. Không thể có các chức năng thuần túy
tách rời khỏi cấu trúc. Chức năng và cấu trúc có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là sự
thống nhất của các mặt đối lập. Chúng đóng vai trò cơ bản trong việc giải thích cơ chế hoạt
động và phát triển của hệ thống. Cấu trúc thiết lập nên tính bền vững, còn chức năng biểu
hiện sự vận động, phát triển của hệ thống. Bất kỳ một cấu trúc đã đƣợc hình thành nào, khi đã
xác định vị trí của một yếu tố trong hệ thống, cũng quy định chức năng của nó. Mặt khác, sự
thay đổi của các yếu tố và của toàn bộ hệ thống kéo theo sự thay đổi về chức năng của chúng;
còn sự thay đổi chức năng dẫn tới sự thay đổi cấu trúc, làm cho hệ thống chuyển sang giai
đoạn phát triển mới hoặc biến thành một hệ thống khác. Ví dụ, sự thay đổi của cấu trúc hoặc
sự biến dạng của các cơ quan trong cơ thể sẽ dẫn đến sự sai lệch về chức năng của chúng;
ngƣợc lại, chức năng của các cơ quan mà thay đổi thì sớm muộn cũng dẫn đến sự thay đổi
của cấu trúc.
Nhƣ vậy là, cấu trúc quyết định chức năng, còn sự thay đổi chức năng lại gây ra sự
thay đổi của cấu trúc. Do đó, phương pháp hệ thống đòi hỏi khi xem xét
- 45 -
các sự vật, hiện tượng, tất yếu phải tính đến việc phân tích các mối liên hệ chức năng, đồng
thời khi giải thích chức năng phải thông qua đặc thù của cấu trúc; còn khi giải thích cấu trúc
phải thông qua đặc thù của chức năng.
Nghiên cứu hệ thống là quá trình vận động của tƣ tƣởng từ thành phần đến cấu trúc và
sau đó đến chức năng của hệ thống, song cũng có trƣờng hợp nhận thức bắt đầu từ các chức
năng. Cách tiếp cận chức năng nhằm mục đích nhận thức các yếu tố và cấu trúc của hệ thống
đƣợc gọi là phƣơng pháp "hộp đen", nghĩa là phải tính đến "đầu vào" và "đầu ra" của khách
thể. Vận dụng cách tiếp cận đó là cần thiết và đôi khi ở giai đoạn đầu của nhận thức là cách
tiếp cận duy nhất, bởi vì nghiên cứu trực tiếp các yếu tố và cấu trúc có thể rất khó khăn do
thiếu các phƣơng tiện kỹ thuật hoặc liên quan đến các khía cạnh nhân văn. Kết quả của sự
nghiên cứu chức năng sẽ cho ta những kết luận về cấu tạo bên trong của hệ thống. Chẳng hạn,
trong sinh lý học khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài lên các cơ quan thụ cảm và
phản xạ của cơ thể, I. V. Páplốp đã khám phá ra cơ chế tinh vi trong hoạt động thần kinh cấp
cao ở động vật và con ngƣời. Hay Menđêlêép đã phát minh ra định luật tuần hoàn của các
nguyên tố hóa học dựa trên các thông số về lƣợng của các nguyên tử do chức năng của nó
mang lại, từ đó có thể đi sâu vào cấu trúc của nguyên tử với tính cách là một hệ thống.
Thứ bảy, một khía cạnh quan trọng mà phƣơng pháp hệ thống cần quan tâm xem xét,
đó là trình độ tự tổ chức của các hệ thống. Bất kỳ một hệ thống nào cũng mang tính tự tổ
chức. Tính tự tổ chức là một hình thức liên hệ đặc biệt, là một vận động, một quá trình có xu
hƣớng nhất định. Nó thể hiện quá trình sắp xếp các yếu tố bên ƣơng hệ thống, xác định các
chức năng của các yếu tố và của hệ thống.
- 46 -
Thứ tám, phƣơng pháp hệ thống còn dành sự chú ý đặc biệt đến mối quan hệ giữa hệ
thống và môi trường. Với những ảnh hƣởng khác nhau của môi trƣờng, có thể hiểu nó theo
nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa rộng, môi trƣờng bao gồm tất cả các sự vật, hiện
tƣợng, quá trình bao quanh hệ thống, tham gia vào việc thiết lập các chất lƣợng hệ thống; còn
theo nghĩa hẹp, môi trƣờng là những yếu tố cơ bản, tất yếu xung quanh hệ thống, mà trong sự
tác động qua lại với nó, hệ thống biểu hiện mình là một chỉnh thể thống nhất. Vì vậy, phương
pháp hệ thống đòi hỏi trước hết phải tính đến môi trường cơ bản, tai yếu tác động đến hệ
thống cần nghiên cứu. Các hệ thống có trình độ tổ chức khác nhau sẽ có mối quan hệ khác
nhau với môi trƣờng. Hệ thống có tính tổ chức càng cao thì càng nhạy bén với môi trƣờng,
càng tác động tích cực đến môi ƣƣờng. Các hệ thống vô cơ khi tác động qua lại với môi
trƣờng thì sẽ bị hủy hoại, bị hấp thụ bởi môi trƣờng. Các cơ thể sống thì tuân theo quy luật
phù hợp, thích nghi với môi trƣờng. Đặc biệt, con ngƣời và các hệ thống xã hội có khả năng
làm thay đổi môi ƣƣờng tự nhiên, kể cả môi trƣờng xã hội, cải tạo chúng cho phù hợp với nhu
cầu, mục đích của mình. Vì môi trƣờng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của hệ
thống, ảnh hƣởng đáng kể đến xu hƣớng phát triển chung của nó - tiến bộ hoặc thoái bộ, cho
nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phương pháp hệ thống đòi hỏi phải tính đến các
điều kiện môi trường. V. N. Xađốpxki viết: "Nghiên cứu khách thể với tính cách là một hệ
thống, ở phƣơng diện phƣơng pháp luận, không tách rời việc phân tích các điều kiện tồn tại
và môi trƣờng của hệ thống" [136, tr.19].
Thứ chín, phƣơng pháp hệ thống còn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa hoạt
động và phát triển của hệ thống, tức là xem xét mối quan hệ giữa trạng thái ổn định bên trong
và quá trình phát triển của nó. Nói cách khác, phƣơng pháp hệ thống cần phải tìm ra con
đƣờng giải quyết vấn đề đồng đại và
- 47 -
lịch đại, nhằm tìm ra các cơ chế tƣơng ứng để xây dựng nên bức ƣanh thống nhất của khách
thể. Xét về mặt đồng đại, tức là xem xét sự vật ở một thời điểm nhất định với tất cả các mối
liên hệ phức tạp của nó; còn xét về mặt lịch đại, tức là xem xét sự vật trong quá trình vận
động, phát triển theo thời gian. Nhƣ trên đã khẳng định, bất kỳ sự vật, hiện tƣợng nào cũng
đều biểu hiện với tính cách là một hệ thống cân bằng động. Trong từng hệ thống luôn luôn
diễn ra những biến đổi đa dạng, những quá trình chuyển hóa vô tận của các yếu tố cấu thành.
Các quá trình đó có nguồn gốc sâu xa từ những mối liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố,
mà trƣớc hết là sự thông nhất và đấu tranh của các mặt đối lập bên trong hệ thống. Chính tính
chất không thuần nhất và mâu thuẫn của hệ thống là cơ sở, động lực tất yếu của sự hoạt động
và phát triển. Bên cạnh những yếu tô nội sinh, còn có những yếu tố ngoại sinh - những tác
động từ môi trƣờng bên ngoài. Trạng thái mất cân bằng báo hiệu tiến trình phát triển của bản
thân hệ thống. Mặt khác, thế giới luôn luôn có tính trật tự hài hòa, nên bên trong nó thƣờng
xuyên diễn ra cơ chế tự điều chỉnh làm cho quá trình tiến hóa đƣợc diễn ra liên tục. Nhƣ vậy,
hoạt động của hệ thống là cơ sở, động lực phát triển của hệ thống. Trong quá trình hoạt động
mà nảy sinh ra những tiền đề, những khả năng chuyển hóa hệ thống từ cấp độ này lên cấp độ
khác cao hơn. Sự hoạt động và phát triển của hệ thống là thống nhất với nhau, bởi vì chúng
đều diễn ra trong một chỉnh thể. Không có hoạt động sẽ không có phát triển. Song không thể
đồng nhất chúng với nhau, bởi vì hoạt động chỉ là sự vận động của hệ thống trong một phạm
vi chất lƣợng nhất định, còn phát triển là sự vƣợt qua phạm vi chất lƣợng ấy để chuyển hệ
thống lên một trình độ cao hơn.
Nhƣ vậy, phương pháp hệ thống liên hệ mật thiết với nguyên lý về sự phát triển và là
sự cụ thể hóa quan điểm phát triển. Chúng bổ sung cho nhau, mang lại một bức tranh phong
phú, sâu sắc về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của
- 48 -
các sự vật, hiện tƣợng. Cách nhìn này của phƣơng pháp hệ thống cũng thỏa mãn một trong
những nguyên tắc cơ bản của lôgíc biện chứng. V. I. Lênin viết: "... lôgíc biện chứng đòi hỏi
phải xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự "tự thân vận động"... trong sự biến đổi của
nó" [44, tr.364], nhằm tái tạo lại đƣợc "sự phát triển của sự vật ấy (respective của hiện
tƣợng), sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó" [41, tr.239].
Trong quá trình hoạt động và phát triển của hệ thống, nhân tố ổn định nhất là cấu trúc,
song cấu trúc không tự mình xuất hiện, mà là kết quả của sự biến đổi, phát triển nhất định.
Tổng thể những biến đổi trong quá trình hoạt động và phát triển của hệ thống sẽ hình thành
nên những tính quy định mới về chất đặc trƣng cho cấu trúc của hệ thống. Sự hình thành và
biến đổi của cấu trúc mang tính cân đối, nhịp nhàng, phản ánh trạng thái ổn định bên trong
của hệ thống, phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử nhất định. Vì vậy, quá trình hình thành
và biến đổi của cấu trúc theo thời gian là một trong những đặc trƣng bản chất của quá trình
hoạt động và phát triển của hệ thống. Do đó, để nhận thức hệ thông cần phải quan tâm đến
lịch sử của hệ thống - về quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của nó. Khuynh hƣớng
phát triển khách quan của hệ thống nằm ngay trong quá trình hoạt động và đƣợc quyết định
bởi các quy luật phát triển của nó. Khi nghiên cứu đối tƣợng với tính cách là hệ thống đang
hoạt động, một mặt, ngƣời ta phải tạm thời khu biệt nó ở trạng thái ổn định tƣơng đối, để
vạch ra cấu trúc của nó trong phạm vi một chất lƣợng nhất định; mãi khác, không thể không
quan tâm đến lịch sử của hệ thống, gắn liền với thời gian lịch sử của sự phát sinh, hình thành
và phát triển của hệ thống. Nghĩa là phƣơng pháp hệ thống xem xét sự vật trong mối liên hệ
mật thiết giữa cấu trúc và lịch sử, giữa đồng đại và lịch đại.
- 49 -
Đồng đại và lịch đại không bài xích lẫn nhau, đối lập nhau một cách tuyệt đối, mà trái
lại, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, đó là sự phản ánh mối quan hệ giữa đứng im
tƣơng đối và vận động tuyệt đối. Mối quan hệ ấy gắn liền với thời gian, bởi vì thời gian là
một thuộc tính cố hữu của vật chất, là phƣơng thức tồn tại của vật chất, của mọi hệ thống,
chính thời gian là thông số tạo nên sự thống nhất giữa cấu trúc và lịch sử. Do vậy, nghiên cứu
thông số thời gian là một yêu cầu tất yếu của phương pháp hệ thống. Từ đây, có thể khẳng
định phương pháp hệ thống gắn liền với quan điểm lịch sử, là sự cụ thể hóa quan điểm lịch
sử. Cách nhìn này của phƣơng pháp hệ thống đã thỏa mãn một yêu cầu của phƣơng pháp biện
chứng, nhƣ V. I. Lênin nhấn mạnh "không nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản; là xem xét
mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tƣợng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử nhƣ
thế nào, hiện tƣợng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan
điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành nhƣ thế nào" [43, tr.78].
Nguyên tắc tính lịch sử, rút cuộc, cũng là một yêu cầu của phương pháp hệ thống.
Tính lịch sử và tính hệ thống liên hệ mật thiết với nhau, chúng bổ sung và làm phong phú lẫn
nhau, hơn nữa, trong tính hệ thống đã bao hàm tính lịch sử, thâm nhập vào cách tiếp cận lịch
sử. Tính lịch sử tách rời khỏi tính hệ thống, sẽ trở thành đối lập với tính lịch sử đúng đắn.
Tuyệt đối hóa tính lịch sử sẽ trở thành thuyết tiến hóa tầm thƣờng. Ngƣợc lại, tính hệ thống
mà nằm ngoài phƣơng diện lịch sử sẽ trở thành sao chép giản đơn sự vật trong trạng thái tĩnh
của nó. Về điều này, P. N. Pheđôxêép nhận định rất đúng rằng: "Trong quan niệm duy vật về
lịch sử, nguyên tắc tính hệ thống biểu hiện trong sự thống nhất với sự hiểu biết về nguồn gốc
- lịch sử, với phƣơng pháp luận dựa trên quan điểm lịch sử. Điều đó đã đƣợc chủ nghĩa Mác
thực hiện một cách tuyệt diệu trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội với tính cách là một
"cơ thể xã hội",
- 50 -
một chỉnh thể hữu cơ" [144, tr.13]. Với cách nhìn ấy, theo quan điểm hệ thống, để nhận thức
sự vật, thông thƣờng cần phải chia nó theo hai lát cắt: lái cắt cấu trúc, tức là xét hệ thống ở
thế đồng đại với tất cả các mối liên hệ phức tạp của nó, và lát cắt lịch sử, tức là xét hệ thống
ở thế lịch đại với quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của nó. Phương pháp hệ thống
yêu cầu không được đối lập cách tiếp cận lịch sử và cách tiếp cận cấu trúc. Sự khác nhau
giữa hai cách tiếp cận ấy chỉ có ý nghĩa về mặt nhận thức luận. Trong cách tiếp cận cấu trúc
thì trọng tâm chú ý là cấu trúc, còn trong cách tiếp cận lịch sử thì trọng tâm chú ý là lịch sử
của hệ thống. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn có thể ƣu tiên cách tiếp cận nào, tùy
thuộc vào nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu. Song phải đặt cấu ƣúc và lịch sử trong mối liên
hệ không thể tách rời nhau, không thể nhìn lịch sử phi cấu trúc và không thể nhìn cấu trúc phi
lịch sử.
Nhƣ vậy, phƣơng pháp hệ thống có nội dung hết sức phong phú, bao gồm hàng loạt
các yêu cầu mang tính nguyên tắc nhằm chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con ngƣời. Những yêu cầu mà phƣơng pháp hệ thống đặt ra không tồn tại một cách biệt
lập, mà có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau, làm tiền đề cho nhau trong
tổng thể các mối quan hệ, các phƣơng diện, trong một chỉnh thể thống nhất, tạo ra một sức
mạnh tổng hợp, một công cụ hữu hiệu để nhận thức và cải tạo thế giới.
Kết luận chương 1
Phạm trù hệ thống đã đƣợc nghiên cứu ƣơng suốt tiến trình phát triển của lịch sử triết
học. Các nhà triết học trƣớc C. Mác đã đạt đƣợc những giá trị nhất định trong việc xác định
nội dung và ý nghĩa của phạm trù hệ thống. Mặc dù còn những hạn chế nhất định, song
những quan niệm ấy đã góp phần làm cho tƣ duy triết học ngày càng phát triển lên một trình
độ cao hơn.
- 51 -
C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin là những ngƣời đầu tiên đã mang lại quan điểm
duy vật biện chứng để nghiên cứu phạm trù hệ thống và thiết lập nên một cơ sở khoa học
vững chắc cho sự nghiên cứu vấn đề hệ thống nói chung, phạm trù hệ thống nói riêng.
Dƣới ánh sáng của khoa học hiện đại, phạm trù hệ thống thực sự đã trở thành một
phạm trù triết học và là cơ sở lý luận cho sự hình thành phƣơng pháp hệ thống.
Sự ra đời của phƣơng pháp hệ thống đã làm thay đổi căn bản phong cách tƣ duy khoa
học, chuyển từ cách nhìn "vật tâm" sang cách nhìn "hệ tâm" và thực sự phát triển mạnh mẽ từ
giữa thế kỷ XX.
Với những yêu cầu mà phƣơng pháp hệ thống đặt ra, chủ thể cần phải biết kết hợp,
vận dụng một cách tổng hợp mới tạo ra hiệu quả tối ƣu trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
- 52 -
CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG TRONG NHẬN THỨC KHOA
HỌC
2.1. Vị trí của phƣơng pháp hệ thống trong hệ thống các phƣơng pháp
nhận thức khoa học
Để xác định vị trí của phƣơng pháp hệ thống trong nhận thức khoa học, trƣớc hết cần
phân biệt phương pháp và phương pháp luận.
Khái niệm phương pháp có gốc từ tiếng Hy Lạp là "methodos" dùng để chỉ con
đƣờng, công cụ nhận thức. Theo nghĩa thông thƣờng, phương pháp là cách thức, thủ thuật
đƣợc chủ thể sử dụng để thực hiện mục đích nhất định. Còn theo nghĩa khoa học, phương
pháp là hệ thống những nguyên tắc đƣợc con ngƣời rút ra từ tri thức về các quy luật khách
quan để điều chỉnh, định hƣớng hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện
mục tiêu nhất định [xem: 30, tr.378]. Nhƣ vậy, phƣơng pháp bao gồm cả phƣơng pháp nhận
thức và phƣơng pháp hoạt động thực tiễn.
Sự đa dạng của đối tƣợng nghiên cứu dẫn đến sự đa dạng của phƣơng pháp nghiên
cứu. Song nếu căn cứ vào nội dung, mức độ phổ biến và phạm vi ứng dụng thì có thể phân
chia chúng thành phương pháp riêng, phương pháp chung và phương pháp phổ biến. Phương
pháp riêng là phƣơng pháp chủ yếu đƣợc áp dụng cho từng bộ môn khoa học; phương pháp
chung đƣợc áp dụng cho nhiều ngành khoa học khác nhau; còn phương pháp phổ biến là
phƣơng pháp triết học Mác - Lênin, là phƣơng pháp biện chứng duy vật đƣợc áp dụng cho
mọi ngành khoa học và trong mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn.
Các phƣơng pháp nhận thức khoa học tuy khác nhau mỗi phƣơng pháp đều có vị trí
riêng, vai trò riêng, song chúng có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành một hệ
thống chỉnh thể. Do đó, không nên coi các phƣơng pháp
- 53 -
là ngang nhau hoặc có thể thay thế cho nhau; cũng không nên cƣờng điệu phƣơng pháp này
hạ thấp phƣơng pháp kia, mà phải biết sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp, tức là phải biết
vận dụng chúng một cách có hệ thống. Tuy nhiên, ở những giai đoạn khác nhau của quá trình
nhận thức, khi thì phƣơng pháp này, khi thì phƣơng pháp kia nổi lên hàng đầu tùy thuộc vào
nhiệm vụ của ngƣời nghiên cứu, song điều đó không làm mất đi tính thống nhất của các
phƣơng pháp. Trong hệ thống các phƣơng pháp nhận thức khoa học thì phƣơng pháp phổ
biến - phƣơng pháp biện chứng duy vật là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, thâm nhập nhƣng không hòa
tan vào các phƣơng pháp khác, giống nhƣ cái phổ biến thâm nhập vào cái đặc thù và cái đơn
nhất.
Khi nói rằng phƣơng pháp biện chứng duy vật đƣợc vận dụng trong các khoa học cụ
thể, đƣợc khúc xạ qua các phƣơng pháp nhận thức khoa học khác, thì cũng cần phải hiểu rằng
nó chỉ đƣợc áp dụng một cách có lợi nhất, hiệu quả nhất khi kết hợp chặt chẽ với các phƣơng
pháp khác, phải tính đến các quy luật đặc thù của đối tƣợng mà khoa học đó phản ánh. Do đó,
các phƣơng pháp riêng và phƣơng pháp chung biểu hiện nhƣ những yếu tố, những mắt xích
của phƣơng pháp phổ biến, bổ sung và làm phong phú cho phƣơng pháp phổ biến, mặc dù
chúng có tính độc lập tƣơng đối của mình.
Phương pháp luận là học thuyết hay lý luận về phƣơng pháp. Đó là hệ thống những
quan điểm (nguyên lý) chỉ đạo, xây dựng các nguyên tắc hợp thành phƣơng pháp cũng nhƣ
xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng có hiệu quả.
Tƣơng ứng với phƣơng pháp, phƣơng pháp luận cũng có thể đƣợc phân thành:
phương pháp luận riêng, phương pháp luận chung và phương pháp luận phổ biến. Mỗi hình
thức phƣơng pháp luận có nội dung hết sức phong phú, có vị trí, vai trò, chức năng riêng của
mình, do đó nó cũng có phạm vi áp dụng riêng. Phương pháp luận riêng thiết lập các nguyên
tắc đƣợc áp dụng trong một bộ môn
- 54 -
khoa học chuyên ngành nhất định (phƣơng pháp luận lịch sử học, phƣơng pháp luận sinh vật
học,.v.v.); phương pháp luận chung thiết lập các nguyên tắc nghiên cứu của một số ngành
khoa học, thực chất hình thức phƣơng pháp luận này dùng để chỉ tính chất liên ngành của các
khoa học (phƣơng pháp luận điều khiển học, mô hình hóa, hình thức hóa,.v.v. đƣợc áp dụng
trong nhiều quá trình nhận thức khoa học hiện đại); phương pháp luận phổ biến là phép biện
chứng duy vật, là học thuyết về phƣơng pháp biện chứng, là sự luận chứng cho tính phổ quát,
tính ứng dụng của nó ƣơng mọi lĩnh vực khoa học và thực tiễn.
Các hình thức phƣơng pháp luận trên tuy khác nhau về mức độ và phạm vi ứng dụng,
song chúng có mối liên hệ qua lại với nhau, trong đó phƣơng pháp luận chung hơn giữ vai trò
là cơ sở cho phƣơng pháp luận ít chung hơn và ngƣợc lại, phƣơng pháp luận ít chung hơn làm
phong phú cho phƣơng pháp luận chung hơn. Ví dụ, phương pháp luận phổ biến là cơ sở cho
các phƣơng pháp luận khác, còn phương pháp luận chung và phương pháp luận riêng làm
phong phú và cụ thể hóa phương pháp luận phổ biển.
Có thể nói, nếu phƣơng pháp là con đƣờng dẫn đến mục tiêu đã xác định, thì phƣơng
pháp luận giữ vai trò chỉ đạo, vạch hƣớng và dẫn đƣờng. Vì vậy, không thể đồng nhất phƣơng
pháp với phƣơng pháp luận, không thể hòa tan phƣơng pháp trong phƣơng pháp luận. Ở đây,
chúng ta sử dụng khái niệm phương pháp luận với ý nghĩa là học thuyết, là lý luận về phƣơng
pháp; còn khái niệm phương pháp, cách tiếp cận, nguyên tắc phương pháp luận đƣợc sử
dụng với ý nghĩa là những công cụ phƣơng pháp luận cụ thể do sự phân hóa trong khoa học
hiện đại [xem: 8, tr.440].
Nhƣ vậy, trong khoa học tồn tại một hệ thống các phƣơng pháp nhận thức có sự liên
hệ mật thiết với nhau. Sự thống nhất hữu cơ của các yếu tố trong hệ thống ấy đƣợc thể hiện
trƣớc hết ở chỗ, phương pháp phổ biến xuyên suốt, thâm
- 55 -
nhập vào các phƣơng pháp khác, còn phương pháp riêng và phương pháp chung, khi phản
ánh tính đặc thù của hiện thực khách quan, cũng hoàn toàn đáp ứng những yêu cầu của
phƣơng pháp biện chứng duy vật với tính cách là phƣơng pháp phổ biến. Vậy phương pháp
hệ thống có vị trí nhƣ thế nào trong hệ thống các phƣơng pháp nhận thức khoa học, cũng nhƣ
trong các loại hình phƣơng pháp luận khoa học?
Xung quanh vấn đề này, về cơ bản có hai quan điểm khác nhau:
Thứ nhất, có quan điểm cho rằng, phƣơng pháp hệ thống thuộc về phương pháp
chung, không thuộc phạm vi phƣơng pháp phổ biến. Trong các tài liệu triết học của Liên Xô
trƣớc đây, tiêu biểu cho lập trƣờng này là các tác giả I. V. Blauberơgơ, E. G. Iudin và V. N.
Xađốpxki. Họ khẳng định: "Phƣơng pháp hệ thống không thể quy về phƣơng pháp luận triết
học, tự nó không liên quan trực tiếp đến vấn đề thế giới quan, đến các chức năng phê phán về
mặt triết học đối với các hình thức và nguyên tắc nhận thức khoa học" [102, tr.77]. Và hơn
nữa, "nghiên cứu hệ thống là một trong các lĩnh vực phát triển của nhận thức khoa học hiện
đại, sự mô tả về mặt lý luận trong phạm vi phƣơng pháp hệ thống hoặc lý thuyết hệ thống
tổng quát đƣợc giới hạn bởi các vấn đề phƣơng pháp luận khoa học chuyên ngành" [136,
tr.48]. Mặc dù vậy, các tác giả đó không những không đối lập phƣơng pháp hệ thống với
phƣơng pháp triết học, mà còn khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa chúng và nhấn mạnh
"các nguyên tắc hệ thống - cấu trúc là hình thức phản xạ khoa học nội tại, với cơ sở triết học
của mình chúng hoàn toàn phụ thuộc vào phƣơng pháp luận triết học và nền tảng thích hợp
nhất của chúng là phƣơng pháp luận triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mà sự phát
triển của nó sẽ mang lại một môi trƣờng triết học thuận lợi để phổ biến các nguyên tắc hệ
thống - cấu trúc" [102, tr.98]. Từ đó họ đi đến kết
- 56 -
luận: "Phép biện chứng là cơ sở của phƣơng pháp luận hệ thống - cấu trúc, là nền tảng triết
học của nó; đến lƣợt mình, sự phát triển của phƣơng pháp luận hệ thống - cấu trúc sẽ làm
phong phú và cụ thể hóa tiềm năng của phép biện chứng" [102, tr.99].
Thứ hai, có quan điểm khẳng định rằng, phƣơng pháp hệ thống là một bộ phận hữu cơ
của phép biện chứng, "là một trong những yêu cầu phƣơng pháp luận hết sức quan trọng
trong phép biện chứng Mác - Lênin" [96, tr.5], là "một trong những mặt của lý luận và
phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử" [8, tr.361]. Tiêu biểu
cho quan điểm này là V. P. Cudơmin, V. G. Aphanaxép,.v.v.
Với lập trƣờng nhƣ vậy, V. P. Cudơmin đã có một đóng góp đáng kể trong việc phân
tích vai trò và phƣơng thức áp dụng nguyên tắc tính hệ thống trong lý luận và phƣơng pháp
luận của C. Mác. Theo ông, nguyên tắc tính hệ thống cần đƣợc hiểu là một nguyên tắc triết
học. V. P. Cudơmin cho rằng, "nguyên tắc tính hệ thống - nếu trình bày nó dƣới dạng chung
nhất, thì có nghĩa là những hiện tƣợng của hiện thực khách quan đƣợc xem xét từ phía những
quy luật của cái toàn thể có tính hệ thống và sự tác động qua lại giữa các bộ phận cấu thành
của nó sẽ tạo ra cái lăng kính nhận thức đặc biệt hoặc "thƣớc đo" đặc biệt của thực tại" [8,
tr.20]. Với quan niệm đó, ông đã khám phá ra nhiều nội dung phong phú trong học thuyết của
C. Mác về tính hệ thống và đi đến kết luận: "Lý luận và phương pháp luận mác-xít chứa đựng
nguyên tắc tính hệ thống với tư cách là một trong các yếu tố quan trọng nhất" [8, tr.34].
Nhƣ vậy, trong các tài liệu triết học mác-xít, phƣơng pháp hệ thống đƣợc hiểu theo
hai nghĩa: Một là, phƣơng pháp hệ thống thuộc về phương pháp chung, đƣợc áp dụng trong
nhiều ngành khoa học; và hai là, phƣơng pháp hệ thống
- 57 -
thuộc về phương pháp phổ biến, đƣợc áp dụng trong tất cả mọi lĩnh vực nhận thức khoa học
và hoạt động thực tiễn.
Chúng tôi cho rằng, cùng với sự phát ƣiển mạnh mẽ của khoa học và thực tiễn xã hội,
sự ra đời của phƣơng pháp hệ thống đã làm thay đổi về chất phong cách tƣ duy khoa học và
nó đƣợc áp dụng ngày càng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của khoa học và thực tiễn. Do đó,
phƣơng pháp hệ thống ngày càng biểu hiện rõ với tính cách là phƣơng pháp phổ biến trong
nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Để khẳng định điều này, cần phải chỉ ra sự thâm
nhập của phương pháp hệ thống vào trong các phương pháp nhận thức khoa học khác và góp
phần hiện đại hóa các phương pháp đó.
Ở chƣơng trƣớc chúng tôi đã khẳng định phƣơng pháp hệ thống là sự cụ thể hóa các
nguyên lý của phép biện chứng duy vật, nó gắn liền và cụ thể hóa quan điểm lịch sử, quan
điểm toàn diện và quan điểm phát triển. Vì vậy, phương pháp hệ thống đã thâm nhập vào các
nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng với tính cách là các nguyên tắc phƣơng pháp
luận phổ biến của nhận thức khoa học.
Phƣơng pháp hệ thống ra đời là sản phẩm của sự phát triển khoa học và thực tiễn xã
hội, đến mức mà con ngƣời thƣờng xuyên tiếp cận tới những đối tƣợng hết sức phức tạp cả về
vi mô lẫn vĩ mô, những hệ thống đa cấp độ bao gồm một số lƣợng vô cùng lớn các yếu tố và
mặt khác, nó lại liên quan trực tiếp đến tính chất liên ngành, khuynh hƣớng tổng hợp của
khoa học hiện đại. Vì vậy, phƣơng pháp hệ thống có mối quan hệ mật thiết với các phƣơng
pháp nhận thức khoa học khác và cùng với chúng tạo thành một hệ thống chỉnh thể. 1. Quan
hệ giữa phương pháp hệ thống và phân tích, tổng hợp: Phân tích và tổng hợp với tính cách là
công cụ nhận thức hệ thống giữ vai trò quan trọng trong nhận thức khoa học. Quá trình nhận
thức của con ngƣời, nhƣ
- 58 -
V. I. Lênin nói: "...đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tƣợng đến bản chất, từ bản chất cấp một,
nếu có thể nói nhƣ vậy, đến bản chất cấp hai .V.V., cứ như thế mãi" [41, tr.268]. Việc phân
đôi nhận thức của con ngƣời ra làm hai trình độ nhận thức cảm tính và lý tính tƣơng ứng với
việc phân đôi thế giới thành hai mặt đối lập là hiện tƣợng và bản chất. Ở trình độ thứ nhất,
con ngƣời tiếp cận sự vật với tính cách là cái toàn thể (hệ thống), nhằm thu nhận các tài liệu
cảm tính, các thuộc tính của sự vật. Nhƣng thuộc tính của sự vật, xét đến cùng, là do các mối
liên hệ bên trong giữa các yếu tố quyết định. Vì vậy, quá trình nhận thức đòi hỏi phải phân
tích sự vật (hệ thống) thành những yếu tố tƣơng đối độc lập, phát hiện ra những mối liên hệ
tất yếu giữa chúng, xem xét những đặc điểm riêng lẻ của từng yếu tố, những phƣơng thức tác
động qua lại giữa các yếu tố, ... Giai đoạn phân tích mang lại cho ta những tri thức cụ thể về
các yếu tố và là cơ sở để giải thích những thuộc tính do tri giác ban đầu mang lại. Mặc dù ở
đây đã có những bƣớc trừu tƣợng riêng lẻ, nhƣng chƣa thể vạch ra bản chất của sự vật, cho
nên nhận thức phải đi lên trình độ lý tính để tổng hợp những mối quan hệ, liên hệ, những
thuộc tính, những phƣơng thức tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành. Nghĩa là tìm ra cấu
trúc bên trong, những quy luật vận động cơ bản, những chất lƣợng tổng hợp của sự vật tức là
tạo ra cái cụ thể ƣơng tƣ duy. Nhƣ vậy, quá trình nhận thức tất yếu cần phải có giai đoạn tổng
hợp, mà thực chất là tái tạo lại hệ thống chỉnh thể.
Rõ ràng, để nhận thức một đối tƣợng cụ thể, lúc đầu ngƣời ta tiếp cận nó nhƣ một cái
toàn thể, sau đó phân tích cái toàn thể ấy thành các bộ phận tƣơng đối độc lập, cuối cùng là
bƣớc tổng hợp để thấy đƣợc toàn bộ tính chất sinh động của cái toàn thể đó. Từ những
nguyên tắc mà phƣơng pháp hệ thống yêu cầu, chúng ta thấy bản thân phương pháp ấy chứa
đựng cả hai yếu tố phân tích và tổng hợp - hai yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ một quá
trình tƣ duy khoa học
- 59 -
nào. Thực chất phân tích và tổng hợp là hai phƣơng pháp khác nhau, song lại thống nhất biện
chứng với nhau. Sự thống nhất của chúng là một yếu tố quan trọng của phƣơng pháp biện
chứng. Ph. Ăngghen viết: "... tƣ duy bao hàm ở chỗ đem những đối tƣợng của nhận thức ra
phân thành các yếu tố, cũng nhƣ đem những yếu tố có quan hệ với nhau hợp thành một thể
thống nhất nào đó. Không có phân tích thì không có tổng hợp" [53, tr.64].
Vậy phương pháp hệ thống đặt ra những yêu cầu gì trong việc phân tích và tổng hợp?
Để trả lời cho vấn đề này, chúng ta cần xuất phát từ chính những yêu cầu của phƣơng pháp hệ
thống.
Thứ nhất, phƣơng pháp hệ thống nhấn mạnh rằng các yếu tố cấu thành hệ thống có vị
trí, vai trò khác nhau, đặc biệt những yếu tố cơ bản đóng vai trò là cơ sở khách quan của
chỉnh thể hệ thống. Việc phân tích và nhận thức cái cơ sở khách quan ấy là điều kiện tiên
quyết để nhận thức hệ thống đạt kết quả tốt nhất. Không phải ngẫu nhiên, trong tác phẩm Tư
bản, để vạch ra bản chất và các quy luật vận động của nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa, C. Mác
đã xuất phát từ sự phân tích hàng hóa. Theo C. Mác, hàng hóa đóng vai trò là cơ sở, nền tảng
trong sự tồn tại và hoạt động của hệ thống sản xuất tƣ bản chủ nghĩa; hàng hóa là sự thể hiện
cơ bản nhất, là "tế bào" không thể bị phân chia ƣơng các mối quan hệ sản xuất tƣ bản chủ
nghĩa. Ông viết: "Trong những xã hội do phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa chi phối thì
của cải biểu hiện ra là một "đống hàng hóa khổng lồ", còn từng hàng hóa một thì biểu hiện ra
là hình thái nguyên tố của của cải ấy. Vì vậy, công cuộc nghiên cứu của chúng ta bắt đầu
bằng việc phân tích hàng hóa" [55, tr.61]. Việc phân tích yếu tố cơ bản là một yêu cầu tất yếu
của nhận thức hệ thống cũng đã đƣợc V. I. Lênin nhấn mạnh, cần phải biết tách ra những
"mắt xích chủ yếu"
- 60 -
trong sợi dây chuyền của sự vận động, phát triển và hơn nữa "chỉ có "tác động qua lại" =
trống rỗng" [41, tr.173].
Thứ hai, phƣơng pháp hệ thống còn chỉ ra rằng, đối với các hệ thống đa cấp độ, đa
diện, đa chiều thì sự phân tích cũng có những cấp độ, những mặt, những chiều rất khác nhau.
Tính chất và hình thức phân tích tùy thuộc vào bản chất, phƣơng thức tồn tại của hệ thống,
tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu.
Thứ ba, phƣơng pháp hệ thống khẳng định cái toàn thể không phải là tổng số cơ giới
của các bộ phận cấu thành, thì phân tích cũng không phải là sự phân tách cơ giới giản đơn cái
toàn thể thành các bộ phận, còn tổng hợp cũng không phải là quá trình tổng hợp cơ giới các
bộ phận thành toàn thể. Bản thân cái toàn thể chứa đựng những thuộc tính mới vốn không có
trong các bộ phận cấu thành, thì tƣơng ứng với điều đó, tri thức tổng hợp là tri thức mới về
chất nếu so sánh với tri thức phân tích, tri thức tổng hợp không thể quy về tổng số giản đơn
các tri thức về các yếu tố.
Thứ tư, tổng hợp cũng nhƣ phân tích, cũng rất phức tạp, có nhiều mặt, nhiều cấp độ
khác nhau và đƣợc quy định bởi tính chất phức tạp của hệ thống cần nghiên cứu, bởi nhiệm
vụ và mục đích của ngƣời nghiên cứu. M. M Rôzentan viết: "Tổng hợp liên kết các bộ phận,
các yếu tố thành hệ thống, nhƣng đó không phải là sự "lắp ráp" các bộ phận rời rạc, lẻ tẻ
thành một cơ cấu thống nhất, mà là quá trình nghiên cứu cái cơ sở, cái bản chất của sự vật
đƣợc thể hiện trong tính đa dạng của các mặt, các thuộc tính của nó" [133, tr.416].
Nhƣ vậy, các nguyên tắc cơ bản của phƣơng pháp hệ thống đã thâm nhập vào quá
trình phân tích và tổng hợp hệ thống. Nghĩa là, bản thân quá trình phân tích và tổng hợp, cũng
nhƣ sự thống nhất của chúng cũng phải mang tính hệ thống. Sự thống nhất giữa phân tích và
tổng hợp có cơ sở lý luận từ sự thống
- 61 -
nhất giữa cái toàn thể và cái bộ phận, giữa hệ thống và yếu tố. Trong phƣơng pháp hệ thống,
phân tích gắn liền với tổng hợp, còn khi tổng hợp để tái tạo lại đối tƣợng nhƣ một hệ thống
lại dựa trên cơ sở phân tích, tức là tổng hợp không tách rời phân tích. Cách nhìn đó của
phƣơng pháp hệ thống đã thỏa mãn một ƣơng những yếu tố của phép biện chứng mà V. I.
Lênin đã nêu trong "Bút ký triết học": "sự kết hợp phân tích và tổng hợp, - sự phân tích
những bộ phận riêng biệt và tổng hòa, tổng của những bộ phận ấy" [41, tr.239].
2. Quan hệ giữa phương pháp hệ thống và phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể:
Phƣơng pháp hệ thống không chỉ quan hệ mật thiết với các phƣơng pháp phân tích và
tổng hợp, mà còn quan hệ chặt chẽ với phƣơng pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể với tính cách
là con đƣờng nhận thức hệ thống.
Trƣớc hết, cần hiểu cái cụ thể trong phƣơng pháp này là cái cụ thể trong tƣ duy. Khác
với cái cụ thể cảm tính là điểm xuất phát của bất kỳ sự nhận thức nào, cái cụ thể trong tƣ duy
là sản phẩm của nhận thức, là sự tổng hợp lại nhờ tƣ duy lý luận các tài liệu cảm tính do trực
quan sinh động mang lại. C. Mác viết: "Cái cụ thể sở dĩ là cụ thể vì nó là sự tổng hợp của
nhiều tính quy định, do đó, nó là sự thống nhất của cái đa dạng. Cho nên trong tƣ duy, nó
biểu hiện ra là một quá trình tổng hợp, là kết quả, chứ không phải là điểm xuất phát, mặc dù
nó là điểm xuất phát thật sự và do đó cũng là điểm xuất phát của trực quan và của biểu
tƣợng" [51, tr.877].
Còn cái trừu tƣợng gọi là trừu tƣợng, vì nó là những yếu tố, những bộ phận của cái cụ
thể. Cái trừu tƣợng là kết quả của sự trừu tƣợng hóa một mặt, một mối liên hệ nào đó trong
tổng thể phong phú của sự vật. Con đƣờng hình thành cái trừu tƣợng, trƣớc hết là phân tích
đối tƣợng thành các yếu tố cấu thành, tách ra những yếu tố cơ bản của nó. Và nhƣ vậy, mỗi
cái đƣợc tách riêng ra mới
- 62 -
chỉ phản ánh đƣợc một mặt, một khía cạnh, một thuộc tính nào đó của cái cụ thể. Từ nhiều
cái trừu tƣợng, tƣ duy tổng hợp lại thành cái cụ thể trong tƣ duy, nhờ đó mới khám phá ra
đƣợc bản chất của sự vật.
Cái trừu tƣợng và cái cụ thể thống nhất với nhau, liên hệ, tác động qua lại với nhau.
Sẽ không có cái cụ thể khi không có cái trừu tƣợng với tƣ cách là những yếu tố của nó; ngƣợc
lại, cái cụ thể chỉ tồn tại thông qua cái trừu tƣợng. Mặt khác, bản thân cái trừu tƣợng là mang
tính trừu tƣợng trong mối quan hệ với hệ thống nói chung, nhƣng nó lại mang tính cụ thể
trong mối quan hệ với các yếu tố của hệ thống.
Sự thống nhất giữa cái trừu tƣợng và cái cụ thể là biểu hiện cụ thể của sự thống nhất
toàn bộ quá trình nhận thức nói chung, của sự thống nhất giữa phân tích và tổng hợp nói
riêng. Sự hình thành cái trừu tƣợng và cái cụ thể, cũng nhƣ con đƣờng đi từ trừu tƣợng đến cụ
thể, không có gì khác hơn, là quá trình thâm nhập vào bản chất của hệ thống, làm rõ chất
lƣợng hệ thống và các quy luật vận động, phát triển của nó. Đó là quá trình mang tính hệ
thống, mà những bước đi của nó cũng là một trong những yêu cầu cơ bản của phương pháp
hệ thống.
3. Phương pháp hệ thống và nguyên tắc thống nhất giữa cái lịch sử và cái lôgíc:
Trong khi quan hệ mật thiết với phƣơng pháp đi từ trừu tƣợng đến cụ thể, phƣơng
pháp hệ thống đồng thời cũng sử dụng nguyên tắc thống nhất giữa cái lịch sử và cái lôgíc
trong sự nghiên cứu của mình. Bởi vì đi từ trừu tƣợng đến cụ thể, thì một trong những yêu
cầu của phƣơng pháp hệ thống cũng đƣợc thực hiện, là thâm nhập vào lịch sử của hệ thống,
mô tả các kết quả thâm nhập ấy trong các phạm trù lôgíc. "Về mặt này, - C. Mác viết, - tiến
trình của tƣ duy trừu tƣợng đi từ cái giản đơn nhất lên cái phức tạp là phù hợp với quá trình
lịch sử hiện thực" [51, tr.880]. Phƣơng pháp lịch sử nghiên cứu lịch sử trong tất cả tính
- 63 -
chất đa dạng của các sự kiện, nhƣng chƣa thể có tri thức về hệ thống với tính cách là sự thống
nhất của "nhiều tính quy định". Nó mang lại các tri thức trừu tƣợng, phiến diện, từng mặt
riêng lẻ về các hiện tƣợng và quá trình. Còn phƣơng pháp lôgíc nghiên cứu cái chung, cái trật
tự, tính lắp lại trong các quá trình lịch sử, nó vạch ra bản chất và tính quy luật của sự vật dƣới
hình thức lý luận trừu tƣợng, khái quát. Phƣơng pháp lôgíc có nhiệm vụ dựng lại cái lôgíc
khách quan trong sự phát triển của sự vật, nó mang lại các tri thức cụ thể, hệ thống. Thực
chất, cái lôgíc (cụ thể, hệ thống) là sự khái quát hóa, hệ thống cái lịch sử. Nó cũng là cái lịch
sử, nhƣng đã loại trừ những cái cụ thể kinh nghiệm, ngẫu nhiên. Ph. Ăngghen nói: "Lịch sử
bắt đầu từ đâu thì quá trình tƣ duy cũng phải bắt đầu từ đó" [52, tr.614]. Phƣơng pháp lịch sử
và phƣơng pháp lôgíc là hai phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau, nhƣng lại thống nhất biện
chứng với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó cũng là yêu cầu cơ bản của phƣơng pháp hệ
thống, bởi vì nó đòi hỏi việc nghiên cứu phải tính đến lịch sử và lôgíc tồn tại, vận động, phát
triển của các sự vật, hiện tƣợng, tính đến tính đa dạng trong sự thống nhất, tính đến các trật tự
lôgíc cũng nhƣ các sự kiện, quá trình hoặc kinh nghiệm lịch sử.
4. Phương pháp hệ thống và phương pháp mô hình hóa:
Dưới quan điểm hệ thống, có thể định nghĩa phƣơng pháp mô hình hóa là phƣơng
pháp , mà trong đó một hệ thống (khách thể nghiên cứu) đƣợc tái tạo trong một hệ thống khác
(mô hình).
Cơ sở của phƣơng pháp mô hình hóa là mối quan hệ tƣơng tự giữa khách thể và mô
hình về chức năng, cấu trúc hay tính chất của chúng. Vì vậy, nhiệm vụ của ngƣời nghiên cứu
là tìm kiếm những đặc điểm giống nhau, tƣơng tự nhau giữa các hệ thống (khách thể và mô
hình), tái tạo lại những mặt, những thuộc tính của hệ thống nghiên cứu vào hệ thống khác ít
phức tạp hơn.
- 64 -
Một yêu cầu tất yếu của phƣơng pháp mô hình hóa là tính hƣớng đích của mô hình và
với việc tái tạo theo hƣớng giản hóa cái nguyên mẫu mang tính hệ thống thì mô hình cũng
phải mang tính hệ thống.
Nhƣ trên đã nói, mô hình muốn phản ánh đƣợc những thuộc tính, quan hệ của nguyên
mẫu thì giữa chúng phải có mối quan hệ tƣơng tự. Mô hình phải mang tính đẳng cấu hoặc ít
ra là đồng cấu với nguyên mẫu, tức là giữa chúng phải có những mối quan hệ cơ bản tƣơng tự
của các yếu tố cấu thành hệ thống. Có thể nói, phƣơng pháp mô hình hóa là một hình thức cụ
thể trong việc nghiên cứu đối tƣợng theo quan điểm hệ thống.
Phƣơng pháp hệ thống có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng mô hình, đặc biệt
mô hình điều khiển học. Một trong những nhiệm vụ của nó là mô hình hóa những chức năng
lao động trí óc, trên cơ sở đó sẽ chuyển dần từng bƣớc một số chức năng lao động trí óc sang
cho máy móc. Vấn đề quan trọng ở đây là sự tƣơng tự về chức năng của mô hình và nguyên
mẫu. Khả năng xây dựng thành công sự tƣơng tự về chức năng giữa mô hình điều khiển và
nguyên mẫu sẽ tạo ra những điều kiện để chế tạo ra những máy móc có thể làm việc một cách
nhanh chóng và chính xác hơn nguyên mẫu rất nhiều. Song điều đó cũng không có nghĩa mô
hình phải có cấu trúc giống hệt nhƣ nguyên mẫu, bởi vì ngƣời ta chỉ đƣa vào mô hình những
thuộc tính, những yếu tố, những mối quan hệ cơ bản của nguyên mẫu theo mục đích nghiên
cứu nhất định. Vì vậy, sự tƣơng tự về chức năng giữa mô hình và nguyên mẫu không cho ta
cơ sở để đồng nhất tuyệt đối hai cấu trúc đó với nhau. Mô hình chỉ đảm bảo sự đẳng cấu hoặc
đồng cấu về những mối quan hệ cơ bản, mà từ đó có thể phán đoán đƣợc những đặc điểm cấu
trúc của nguyên mẫu. Mô hình không cho ta bản thân sự vật, mà chỉ cho ta những ý niệm,
những hiểu biết về kết cấu, về quy luật hoạt động và chức năng của sự vật mà thôi.
- 65 -
Trên đây chúng ta đã làm rõ mối quan hệ giữa phƣơng pháp hệ thống với một số
phƣơng pháp nhận thức khoa học. Có thể nói, phương pháp hệ thống là một thành phần
không thể thiếu được trong hệ thống các phương pháp nhận thức khoa học.
Ngay từ những năm 40 của thế kỷ XX, theo sáng kiến của nhà sinh vật học nổi tiếng
ngƣời Áo L. Béctalanphi, vấn đề hệ thống đã trở thành đề tài nghiên cứu rất rộng rãi. "Một
phong trào hệ thống" xuất hiện, phần đông các nhà nghiên cứu phƣơng pháp luận đã tham gia
phong trào "liên ngành" này. Nhiệm vụ cơ bản của phong trào này là tìm kiếm tính quy luật
phổ biến của tất cả các hệ thống, vạch ra cấu trúc, các quy luật về chức năng, quy luật tự điều
chỉnh và chuyển vận thông tin trong các hệ thống vật chất, trƣớc hết trong các hệ sinh vật và
kỹ thuật, trên cơ sớ đó xây dựng "lý thuyết hệ thống tổng quát" với tính cách là lý thuyết của
các lý thuyết hệ thống, nhƣ ngƣời ta thƣờng nói - "siêu lý thuyết về hệ thống". Sự cố gắng
của L. Béctalanphi, M. Métxarôvích, A. I. Uêmốp, V. N. Xađốpxki và những ngƣời khác
ƣong lĩnh vực này đã mở ra những triển vọng mới cho việc nghiên cứu hệ thống cũng nhƣ
cho sự phát ƣiển của khoa học hiện đại.
Để hiểu rõ hơn vị trí của phƣơng pháp hệ thống trong hệ thống các phƣơng pháp nhận
thức khoa học, chúng ta cần phân biệt nó với các phương pháp khác, trƣớc hết là phương
pháp phân tích cấu trúc - chức năng trong xã hội học và phương pháp cấu trúc trong các
khoa học xã hội và nhân văn, chỉ ra những hạn chế và sai lầm của chúng.
Phương pháp phân tích cấu trúc - chức năng là phƣơng pháp nghiên cứu các đối
tƣợng có tính hệ thống, trƣớc hết là các hệ thống xã hội. Nó đặt ra nhiệm vụ phân tích các
hình thức sinh hoạt xã hội dựa trên cơ sở làm nổi bật cấu trúc và chức năng của chúng.
- 66 -
Những tƣ tƣởng chủ yếu của nó đã đƣợc hình thành ngay từ cuối thế kỷ XIX, nhƣng
đƣợc phát triển chỉ đƣợc tính từ nửa đầu thế kỷ XX trong xã hội học tƣ sản hiện đại gắn liền
với tên tuổi của Pácxơn và Méctôn. Quan điểm của họ cũng rất khác nhau, thể hiện ở sự lựa
chọn khái niệm cơ bản đặc trƣng cho sự nghiên cứu của mình. Pácxơn mở rộng khái niệm
cấu trúc; cơ sở của sự phân tích này là sự khác biệt giữa khái niệm cấu trúc (hệ thống các giá
trị, các quy phạm xã hội và các loại hình cộng đồng) và khái niệm chức năng (tự bảo tồn, liên
kết, thích nghi và đạt tới mục đích nhất định). Xuất phát từ lập trƣờng duy tâm về xã hội,
Pácxơn coi cái chủ yếu điều tiết các quan hệ xã hội là hệ thống các giá trị và quy phạm, một
hệ thống thực hiện chức năng cố kết cấu trúc của xã hội. Trái với Pácxơn, Méctôn mở rộng
khái niệm chức năng và khẳng định rằng trong hoạt động xã hội không có mối liên hệ chặt
chẽ giữa cấu trúc và chức năng. Ông phân biệt chức năng theo những kết quả thuận lợi hay
bất lợi đối với hệ thống và theo tính chất rõ rệt của chúng đối với ngƣời tham gia hệ thống.
Mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau, nhấn mạnh những khái niệm trọng tâm
khác nhau, nhƣng cả Pácxơn và Méctôn đều đề cập đến tƣ tƣởng hệ thông và đều xác định
hai nguyên tắc phƣơng pháp luận: một là, phân tích cấu trúc của khách thể và xác định các
mối liên hệ cấu trúc của khách thể ấy; hai là, mô tả chức năng của cấu trúc ấy. Từ đó, phƣơng
pháp phân tích cấu trúc - chức năng đặt ra đối tƣợng nghiên cứu của mình là các mối liên hệ
chức năng, vạch ra các sơ đồ và kỹ thuật nghiên cứu.
Chúng ta thấy rằng, phƣơng pháp phân tích cấu trúc - chức năng giải thích xã hội chỉ
theo cách tiếp cận chức năng là đối lập với khoa học mác-xít về xã hội. Sự phân tích cấu trúc
- chức năng định hƣớng đến việc nghiên cứu những hiện tƣợng xã hội không gắn liền với sự
phát triển, với lịch sử xã hội. Vì vậy, về nguyên tắc nó không mang tính lịch sử. Tính chất
siêu hình, phản lịch sử và duy
- 67 -
tâm của nó là hậu quả của việc thừa nhận tình trạng cân bằng của hệ thống xã hội làm điểm
xuất phát cho sự nghiên cứu, của việc phủ nhận quá trình lịch sử, những biến cố lịch sử, cố
bỏ qua những xung đột sâu sắc trong xã hội tƣ bản. Do tách khỏi thực tại xã hội, do tính chất
trừu tƣợng, tƣ biện trong việc giải thích các hiện tƣợng xã hội, mặc dù chƣa chuyển thành hệ
tƣ tƣởng, nhƣng các tƣ tƣởng xã hội học của Pácxơn và Méctôn đã bị phê phán mạnh mẽ
trong các tài liệu triết học mác-xít, vạch rõ nguồn gốc giai cấp và nhận thức luận của những
quan điểm xã hội học đó.
Mặc dù vậy, việc phê phán ấy không có nghĩa phủ nhận hoàn toàn bộ máy phân tích
của sự phân tích cấu trúc - chức năng đƣợc coi nhƣ một trong những phƣơng pháp nghiên
cứu đối với các đối tƣợng có tính hệ thống. Nó là phƣơng pháp nghiên cứu đặc biệt có hiệu
quả đối với các nhóm xã hội nhỏ. Trong xã hội học mác-xít, nó không đối lập với phƣơng
pháp lịch sử, mà thống nhất với phƣơng pháp đó; chính điều này khiến cho ta có thể nghiên
cứu một cách toàn diện các hiện tƣợng xã hội.
Gần với phƣơng pháp phân tích cấu trúc - chức năng là phƣơng pháp cấu trúc trong
các khoa học xã hội và nhân văn.
Phương pháp cấu trúc là một phƣơng pháp khoa học cụ thể đƣợc xuất hiện vào đầu
thế kỷ XX trong hàng loạt các khoa học xã hội nhƣ ngôn ngữ học, nhân chủng học, tâm lý
học, nghiên cứu văn học,...
Nếu phương pháp phân tích cấu trúc - chức năng có nhiệm vụ trọng tâm là vạch ra
chức năng của đối tƣợng nghiên cứu, còn cấu trúc dƣờng nhƣ bị ẩn giấu; thì ngƣợc lại,
phương pháp cấu trúc lại đặt ra nhiệm vụ trọng tâm và chủ yếu là vạch ra cấu trúc của đối
tƣợng, còn chức năng của các yếu tố đƣợc coi nhƣ tiền đề xuất phát.
- 68 -
Đặc trƣng của phƣơng pháp cấu trúc là chú ý mô tả tình trạng trƣớc mắt, không bị hạn
chế ƣơng khuôn khổ thời gian, cố định quan hệ giữa các sự kiện hoặc các yếu tố của hệ
thống. Nó đòi hỏi phải đi từ cơ cấu ban đầu của đối tƣợng tới chỗ vạch ra và mô tả cấu trúc
bên trong của đối tƣợng ấy (các thứ bậc và những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố của mỗi
cấp), nghĩa là phải phân tích các thể loại cấu trúc và có cách tiếp cận tổng thể đối với đối
tƣợng nghiên cứu, từ đó xây dựng nên mô hình lý luận về đối tƣợng đó.
Một trong những nguyên tắc chủ yếu của phƣơng pháp cấu trúc là quan niệm về tính
chỉnh thể của đối tƣợng. Nó coi cái toàn thể có vị trí hàng đầu và cho rằng, mỗi yếu tố sẽ
không có ý nghĩa gì nếu nằm ngoài vị trí của mình trong toàn bộ cấu trúc, và hơn nữa, cấu
trúc đó vẫn tiếp tục tồn tại cho dù có những thay đổi của những yếu tố cấu thành.
Phƣơng pháp cấu trúc sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cấu trúc đƣợc đề ra trong
lĩnh vực toán học, vật lý học và các khoa học tự nhiên khác, nhờ đó ở một mức độ nhất định
nó đã thống nhất đƣợc những nghiên cứu mang tính chất liên ngành, góp phần làm cho các
ngành khoa học xã hội và khoa học tự nhiên xích lại gần nhau hơn.
Sự áp dụng các nguyên tắc cơ bản của phƣơng pháp cấu trúc đã đạt đƣợc những kết
quả tích cực trong một số ngành khoa học cụ thể. Chẳng hạn, quan niệm về tính chỉnh thể của
cấu trúc ngôn ngữ đã cho phép Ph. Xốtxuya giải quyết những nhiệm vụ gắn liền với sự mô tả
những ngôn ngữ chƣa thành văn, đoán đọc những chữ viết chƣa biết đến bằng sự tái tạo bên
trong đối với hệ thống ngôn ngữ, đƣa ngôn ngữ học tiến lên một bƣớc trên con đƣờng phát
ƣiển của mình. Hoặc Jacốpxơn và Levi-Strauss đã thu đƣợc những kết quả đáng kể trong lĩnh
vực nghiên cứu nhân chủng học. Khi nghiên cứu các bộ lạc da đỏ, Levi-Strauss cho rằng cần
phải đi thẳng vào các bộ lạc ấy, không cần nghiên
- 69 -
cứu lịch sử và ảnh hƣởng của môi trƣờng. Ông đã chú ý đến hệ thống thân thuộc thông qua
việc giao lƣu phụ nữ, hệ thống kinh tế thông qua việc giao lƣu của cải và hệ thống ngôn ngữ
thông qua việc giao lƣu tin tức. Từ đó Levi-Strauss xây dựng nên các mô hình biểu tƣợng về
các mối quan hệ của họ và thu đƣợc những kết quả rõ rệt.
Tuy vậy, việc phổ biến rộng rãi phƣơng pháp cấu trúc trong các khoa học khác nhau
đã làm cho Levi-Strauss và những ngƣời khác đem tuyệt đối hóa phƣơng pháp này và nâng
cao nó lên thành ý thức hệ cấu trúc chủ nghĩa và đặt nó với tính cách là một hệ thống ƣiết học
đối lập với các hệ thống triết học khác, trong đó có triết học Mác.
Chúng ta có thể chỉ ra những sai lầm mang tính nguyên tắc của chủ nghĩa cấu trúc,
đó là:
Thứ nhất, trong mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái bộ phận, giữa hệ thống và yếu tố,
chủ nghĩa cấu trúc cho rằng cần phải ƣu tiên triệt để cái toàn thể đối với cái bộ phận, hệ thống
đối với yếu tố, mặc dù nó vẫn thừa nhận rằng không một yếu tố nào của cấu trúc lại có thể
hiểu đƣợc nếu tách nó ra ngoài vị trí của nó trong hệ thống, cũng nhƣ không thể quy cái toàn
thể thành cái bộ phận.
Thứ hai, khi nghiên cứu mối liên hệ giữa các yếu tố, chủ nghĩa cấu trúc ƣu tiên các
mối liên hệ giữa các yếu tố so với các yếu tố, tách rời mối liên hệ của yếu tố ra khỏi yếu tố,
coi liên hệ là cái có trƣớc, cái thứ nhất, cái độc lập so với những yếu tố mang những mối
liên hệ.
Thứ ba, chủ nghĩa cấu trúc đề ra nguyên tắc ƣu tiên tuyệt đối phƣơng diện đồng đại so
với phƣơng diện lịch đại, cấu trúc so với lịch sử. Quan điểm này đã có trong ngôn ngữ học
cấu trúc của Ph. xốtxuya. Ông viết: "Sự đối lập giữa hai
- 70 -
quan điểm đồng đại và lịch đại là một sự đối lập tuyệt đối, không dung thứ một sự thỏa hiệp
nào" [82, tr.147].
Xuất phát từ những nguyên tắc sai lầm ấy, chủ nghĩa cấu trúc chủ trƣơng nghiên cứu
những cấu trúc tĩnh tại, phủ nhận sự vận động, phát triển trong các sự vật, phủ nhận vai trò
tích cực của con ngƣời trong đời sống xã hội. Trong mối quan hệ giữa chủ thể nhận thức và
đối tƣợng nhận thức, nó xóa bỏ vai trò của chủ thể, đề cao cấu trúc vô thức, cho rằng con
ngƣời không nắm bắt đƣợc bản chất của sự vật. Khi giải quyết những vấn đề xã hội, nó phủ
nhận chủ nghĩa duy vật lịch sử và coi ngôn ngữ học là "khoa học hoa tiêu", tức là khoa học
dẫn đƣờng cho mọi khoa học. Những cấu trúc phức tạp của xã hội đều rập theo những nguyên
tắc, quy tắc của ngôn ngữ học cấu trúc. Nó không coi mâu thuẫn bên trong là nguồn gốc của
sự vận động, phát triển, của sự biến đổi cấu trúc của sự vật. Về thực chất, chủ nghĩa cấu trúc
đã biến thành một thứ triết học thực chứng mới, duy tâm chủ quan, siêu hình, phi lịch sử,
phản khoa học.
Với nội dung khoa học của mình, phương pháp hệ thống đã khắc phục đƣợc những
hạn chế, sai lầm của phƣơng pháp phân tích cấu trúc - chức năng, phƣơng pháp cấu trúc và
chủ nghĩa cấu trúc. Nó đáp ứng những yêu cầu của khoa học hiện đại và có vai trò quan trọng
ƣơng nhận thức khoa học hiện nay.
2.2. Vai trò phƣơng pháp hệ thống trong nhận thức khoa học
Hiện nay, sự phát triển nhƣ vũ bão của khoa học, sự phân ngành và liên ngành sâu
rộng của nó đang làm cho tri thức khoa học ngày càng trở nên phức tạp hơn, "nhiều tầng hơn"
và đa dạng hơn. Trong mỗi khoa học đều có những tầng, lớp, những mức độ vĩ mô và vi mô
khác nhau. Sự xuất hiện những bộ môn lý thuyết và ứng dụng, mà đối tƣợng nghiên cứu của
chúng thuộc về lĩnh vực
- 71 -
tiếp giáp và những vấn đề phức hợp của các khoa học càng làm gia tăng tính phức tạp trong
cấu trúc của các tri thức khoa học. Đó là quá trình phát triển của các tri thức liên ngành, đa hệ
thống nhằm xâm nhập ngày càng sâu vào bản chất của thế giới. Mặt khác, sự tiếp cận của
khoa học với các khách thể đa diện, đa cấp độ, đa hệ thống đòi hỏi khoa học phải có những
phƣơng pháp hữu hiệu để khám phá ra kết cấu phức tạp của thế giới. Trong bối cảnh ấy,
phƣơng pháp hệ thống có khả năng đáp ứng đƣợc những nhu cầu bức bách của nhận thức
khoa học hiện đại. Nó có vai trò hết sức quan trọng trong việc phân tích các khách thể hệ
thống, thiết lập nên bức tranh hệ thống về thế giới, tổng hợp tri thức khoa học, cũng nhƣ xây
dựng các khái niệm khoa học.
2.2.1. Vai trò của phương pháp hệ thống trong sự phân tích các khách thể hệ thống
Nhƣ ở phần trƣớc đã trình bày, bản chất của phân tích là ở chỗ, phân tích cái chỉnh thể
thành các yếu tố, các bộ phận; là ở việc xác định vị trí, vai trò của từng yếu tố, bộ phận trong
hệ thống. V. I. Lênin đã từng chỉ ra rằng không thể hiểu đƣợc sự vận động nếu không phân
chia tính liên tục của nó. Nếu không có sự phân tích thì không thể có sự trừu tƣợng hóa,
không thể thiết lập nên các khái niệm khoa học. Song vấn đề quan trọng và chủ yếu nhất ở
đây là chúng ta cần quan tâm đến vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong sự phân tích các
khách thể hệ thống. Vậy phƣơng pháp hệ thống đã mang lại những gì cho sự phân tích ấy.
Hiện nay khoa học quan tâm nghiên cứu rất nhiều các hệ thống, nhƣ các hệ thống vật
chất và tinh thần, tự nhiên và xã hội, vô cơ và hữu cơ, ... Chúng khác nhau không chỉ về loại
hình, mà còn về bản tính tồn tại, về mức độ tính chỉnh thể, trình độ tổ chức và cấp độ cấu
trúc. Do đó, nhiệm vụ đầu tiên của sự
- 72 -
nghiên cứu là cần phải vạch ra những quy luật vốn có ở những lớp hệ thống ấy, nhờ đó mới
hiểu đƣợc bản chất của từng hệ thống.
Trong nhận thức khoa học, đối tƣợng nghiên cứu không chỉ là các hệ thống chỉnh thể,
mà còn là một lớp hệ thống, khi bản thân hệ thống đƣợc hình thành từ hai hay nhiều hệ thống
độc lập, nhƣng lại có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, chẳng hạn, các quần thể sinh vật,
các hệ thống "tự nhiên - xã hội", "cá nhân - tập thể", "con ngƣời - máy móc", "mặt trời - trái
đất",.v.v. Đó là các phức hợp hệ thống. Ở đây, khái niệm hệ thống thuộc vào loại khác so với
hệ thống chỉnh thể, trong đó tính chỉnh thể đƣợc hiểu là sự thống nhất của các hệ thống tác
động qua lại với nhau; còn cấu trúc là cấu trúc của những tác động qua lại giữa các hệ thống
chỉnh thể. Do vậy, đặc trƣng của các phức hợp hệ thống là ở sự tác động qua lại giữa các hệ
thống chỉnh thể hợp thành, là ở tính tự tổ chức, tự điều chỉnh theo một trật tự liên hoàn chặt
chẽ, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cả phức hợp hệ thống. Để đảm bảo sự thống
nhất, tính chỉnh thể toàn vẹn của phức hợp hệ thống, thì sự tác động qua lại giữa các hệ thống
chỉnh thể phải phục tùng những quy luật và nguyên tắc tự tổ chức, tự điều chỉnh chung đó.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Muốn
hiểu biết các phức hợp hệ thống, không có con đƣờng nào khác, phải thông qua sự nghiên
cứu những tác động qua lại, những mối quan hệ phối hợp, phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau
của các hệ thống chỉnh thể. Đúng nhƣ R. T. Xaxennốp viết: "Khái niệm "tác động qua lại" là
phổ biến, về mặt phƣơng pháp luận nó mang lại các tri thức về thực thể với tính cách là một
hệ thống những tác động qua lại" [137, tr.15].
Nhƣ vậy, nếu trong sự nghiên cứu các hệ thống chỉnh thể, đối tƣợng trƣớc hết là cấu
trúc, là những quy luật kết hợp các yếu tố thành hệ thống, là những cơ chế bên trong và
những quy luật tổng hợp, là tính chỉnh thể của chúng; thì trong
- 73 -
sự nghiên cứu các phức hợp hệ thống, đối tƣợng nghiên cứu lại là những tác động qua lại,
những mối quan hệ giữa các hệ thống chỉnh thể tạo thành nó.
Các hệ thống chỉnh thể và các phức hợp hệ thống tuy có sự khác nhau, nhƣng chúng
đều có một cơ sở chung là chất lƣợng, hay nói theo thuật ngữ của V. p. Cudơmin, là khách
thể chất lƣợng, thống nhất (tập hợp) [xem: 8, tr.374]. V. p. Cudơmin cho rằng: "Với một ý
nghĩa nào đó thì phƣơng pháp hệ thống chính là sự phân tích các tập hợp về mặt chất lƣợng,
là một trong những bộ phận của phân tích chất lƣợng hiện đại" [8, tr.376]. Ở phƣơng diện
này, phương pháp hệ thống đóng vai trò là công cụ phân tích chất lượng của các tập hợp
mang tính hệ thống, góp phần làm sâu sắc thêm sự phân tích chất lượng đối với các khách
thể hệ thống.
Trong nhận thức khoa học, các tri thức khoa học cụ thể đều hƣớng tới làm rõ chất
lƣợng của các đối tƣợng nghiên cứu mang tính hệ thống. Trong sinh lý học có hệ tuần hoàn,
hệ thần kinh, hệ thống trao đổi chất,...; trong vật lý học, hóa học có nguyên tử, phân tử, các
hạt cơ bản,...; trong sinh vật học có giống, loài, hệ sinh thái,...; trong triết học có hệ thống các
nguyên lý, các quan điểm, có hình thái kinh tế - xã hội, .v.v. Để đáp ứng những nhu cầu phân
tích chất lƣợng, phƣơng pháp hệ thống mang lại một cơ sở nhận thức luận thống nhất nhằm
phản ánh tính chất đa dạng của các khách thể (về cấu trúc và chức năng, về hoạt động và phát
triển, về mức độ vi mô và vĩ mô, về các phức hợp hệ thống, .v.v.). Trong "Bút ký triết học",
V. I. Lênin viết: "Trƣớc con ngƣời, có màng lưới những hiện tƣợng tự nhiên. Con ngƣời bản
năng, ngƣời man rợ, không tự tách khỏi giới tự nhiên. Ngƣời có ý thức tự tách khỏi giới tự
nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tóc là của sự nhận thức thế
giới, chúng là những điểm nút của màng lƣới, giúp ta nhận thức và nắm vững đƣợc màng
lƣới" [41, tr. 102].
- 74 -
Phƣơng pháp hệ thống quan tâm đến việc xác định đối tượng nghiên cứu là các khách
thể hệ thống, các phân hệ (hệ con), các hệ thống rộng lớn hơn, hệ thống các mối liên hệ, tác
động qua lại, các phức hợp, .v.v. Nhận thức sự vật theo từng bộ phận, xem xét nó một cách
chỉnh thể, toàn vẹn là một định hƣớng quan trọng của cách nhìn hệ thống. Dƣới góc độ này,
phƣơng pháp hệ thống, theo V. P. Cudơmin, là "công cụ khách thể hóa (sự phân tách với tính
cách là đối tƣợng nghiên cứu) những hiện tượng chỉnh thể hoặc những phức hợp hệ thống"
[8, tr.378]. Nó "sẽ đƣa lại khái niệm "hệ thống" - đó là khách thể hóa "một điểm nút chất
lƣợng nào đó", coi điểm nút ấy là một chỉnh thể nội tại xác định hoặc một phức hợp" [8,
tr.378]. Ở đây, khái niệm "hệ thống" đã trở thành đối tượng trọng tâm của nhận thức, đồng
thời nó mang lại quan điểm hệ tâm trong việc phân tích các khách thể phức tạp.
Quay trở về với khái niệm hệ thống, theo đó hệ thống đƣợc hiểu là sự kết hợp những
bộ phận thành cái toàn thể, cho nên cần phải vạch ra những quy luật kết hợp các bộ phận
thành toàn thể. Đồng thời hệ thống lại là bản thân cái toàn thể, do đó cần phải làm rõ những
cơ sở nền tảng, những quy luật hệ thống. Việc tìm kiếm các hệ thống hiện thực, xác định nó
nhƣ cái toàn thể tạo ra một lôgíc và phƣơng pháp luận đặc biệt cho sự nghiên cứu các chất
lƣợng hệ thống, hình thành nên cách nhìn hệ tâm hay cách nhìn chỉnh thể đối với các sự vật,
hiện tƣợng. Cách nhìn này của phương pháp hệ thống đã cụ thể hóa khách thể cần nghiên
cứu, định hướng đúng đắn cho quá trình nhận thức, góp phần phát hiện ra những quy luật hệ
thống của hiện thực.
Chúng ta biết rằng, cái cơ bản nhất của hệ thống là chất lƣợng tổng hợp, vì vậy dấu
hiệu đầu tiên của hệ thống là hiện tượng tổng hợp. Về phƣơng diện này, phƣơng pháp hệ
thống đóng vai trò là công cụ để nghiên cứu các thuộc tính
- 75 -
tổng hợp, các cơ chế và các quy luật tổng hợp của sự hình thành các thuộc tính tổng hợp. Nó
trang bị cho khoa học cách nhìn tổng thể về đối tƣợng.
Khái niệm tổng hợp phản ánh quá trình và cơ chế liên kết các bộ phận tạo thành cái
toàn thể hoặc phức hợp, mà kết quả là cái toàn thể lớn hơn tổng số các bộ phận cấu thành. Sở
dĩ có sự gia tăng về mặt chất lƣợng của cái toàn thể so với tổng số các bộ phận của nó, bởi vì
quá trình hình thành, hoạt động và phát triển của hệ thống đều có một hiệu ứng tổng hợp nào
đó, đều do những quy luật tổng hợp chi phối. Những quy luật tổng hợp có ý nghĩa quan trọng
trong nhận thức khoa học, nhƣ nghiên cứu quá trình tổng hợp gen, các phản ứng hóa hợp,... ;
đặc biệt có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với các hệ thống xã hội. Chẳng hạn, khi phân tích hợp
tác xã với tính cách là một hệ thống, C. Mác chỉ ra sức mạnh tổng hợp của nó là ở sự liên kết
giữa các yếu tố cấu thành, ở chất lƣợng tổng hợp. Ông viết: "Chƣa nói đến một sức mới, xuất
hiện khi nhiều sức hợp nhất lại thành một sức chung, trong phần lớn các công việc sản xuất,
ngay sự tiếp xúc xã hội cũng đã đẻ ra thi đua, cũng kích thích nguyên khí (ani - mal spirít)
làm tăng năng suất cá nhân của từng ngƣời riêng rẽ..." [55, tr.474].
Sự phân tích các thuộc tính tổng hợp xuyên suốt vào tất cả tiến trình nhận thức, bắt
đầu từ quan niệm về tính chỉnh thể cho đến việc phát hiện ra các quy luật tổng hợp và các
chất lƣợng tổng hợp. Điều này cho phép nói về sự nghiên cứu hiện tượng tổng hợp là đặc
điểm cơ bản nhất của phương pháp hệ thống.
Trong phƣơng pháp hệ thống, tính chỉnh thể đƣợc coi là khái niệm cơ sở, nền tảng,
bởi vì nó là dấu hiệu tập trung rõ nét nhất của hệ thống. Để hiểu đƣợc tính chỉnh thể, cần phải
nghiên cứu các quy luật tổng hợp, phát hiện ra chất lƣợng tổng hợp của hệ thống. Tuy nhiên,
trong tất cả các ngành khoa học, ngƣời ta đều nghiên cứu các quy luật liên kết các bộ phận
tạo thành cái toàn thể, các quy luật tồn tại và phát triển của bản thân cái toàn thể, vạch ra
những cơ chế cụ thể của sự
- 76 -
tổng hợp. Đối với phƣơng pháp hệ thống, nó chỉ mang lại những đặc điểm chung nhất của sự
tổng hợp, liên quan trực tiếp đến nguyên tắc phƣơng pháp luận trong việc phân tích các chất
lƣợng của hệ thống. Đó là những vấn đề về tính độc lập và sự thống nhất tổng hợp của các
yếu tố tạo thành hệ thống, cũng nhƣ tính chất hai mặt của tính quy định về chất của chúng
trong phạm vi hệ thống.
Tính độc lập của các yếu tố trƣớc hết có ý nghĩa về mặt nhận thức luận, bởi vì mỗi
yếu tố trong thành phần của hệ thống đều đƣợc coi là một hệ thống ở một cấp độ khác. Song
quan trọng hơn là vấn đề mức độ độc lập về chất của các yếu tố, bởi vì nó có ý nghĩa thiết
thực trong việc nhận thức cơ chế của các hình thức tổng hợp. Các yếu tố khi liên kết với nhau
để hình thành nên hệ thống và tạo ra chất lƣợng tổng hợp vẫn duy trì những chất lƣợng riêng
của mình. Sự khác nhau giữa các hệ thống trƣớc hết do sự khác nhau giữa các chất lƣợng yếu
tố quy định. Những điều này cho ta thấy, trong các hệ thống luôn luôn tồn tại chất lƣợng tổng
hợp và những chất lƣợng yếu tố, do vậy cần phải nhận thức quy luật tổng hợp các yếu tố,
phân biệt rõ ràng mức độ chất lƣợng tổng hợp và mức độ chất lƣợng yếu tố. Phương pháp hệ
thống cung cấp cho nhận thức khoa học một lăng kính đặc biệt để phát hiện ra những quy
luật tổng hợp và các chất lượng tổng hợp của hệ thống. Điều này đã đƣợc C. Mác thực hiện
một cách sâu sắc và triệt để. Ông không chỉ nghiên cứu bản chất, cơ chế và những quy luật
tổng hợp của các hệ thống xã hội, mà còn vạch ra những nguyên tắc phƣơng pháp luận để
nhận thức chúng thông qua hiệu ứng tổng hợp về tính chất hai mặt của tính quy định về chất
của các hiện tƣợng đƣợc tổng hợp thành một chỉnh thể. Đó là học thuyết của C. Mác về lao
động (lao động cụ thể và lao động trừu tƣợng), về hàng hóa (giá trị sử dụng và giá trị trao đổi
của hàng hóa), về những chất lƣợng tự nhiên và những chất lƣợng xã hội của các vật phẩm -
hàng hóa .v.v.
- 77 -
Nhƣ vậy là, khi nhận thức tính chỉnh thể, chúng ta phát hiện ra thuộc tính tổng hợp;
còn khi phân tích các thuộc tính tổng hợp, chúng ta khám phá ra những cơ chế, những quy
luật tổng hợp vốn có của hệ thống. Những điều đó chỉ có thể đạt đƣợc nhờ việc sử dụng
những nguyên tắc của phƣơng pháp hệ thống. Nói khác đi, phƣơng pháp hệ thống là công cụ
để nghiên cứu các hiện tƣợng tổng hợp nói riêng, để phân tích chất lƣợng nói chung, góp
phần làm sâu sắc thêm sự phân tích chất lƣợng và thiết lập nên bức tranh hệ thống về thế giới.
2.2.2. Phương pháp hệ thống và bức tranh hệ thống về thế giới
Hiện nay, trong các khoa học đang diễn ra quá trình chuyên môn hóa cao độ, trong đó
các tri thức khoa học có những đặc trƣng riêng của mình. Chúng phản ánh những đặc trƣng
khác nhau trong các hình thức vận động của vật chất, trong các hiện tƣợng vi mô và vĩ mô,
trong các cấu trúc rất đa dạng và phức tạp. Điều này chứng tỏ rằng, nhận thức của con ngƣời
càng sâu sắc và mở rộng bao nhiêu thì tính chất sống động của thế giới ngày càng đƣợc biểu
hiện phong phú bấy nhiêu. Chính sự phân hóa của các tri thức khoa học là cơ sở cho bức
tranh hệ thống về thế giới.
Theo quan điểm hệ thống, ƣơng nhận thức khoa học có hai phƣơng diện tiêu biểu: một
là, nghiên cứu sự vật với tính cách là một hệ thống; và hai là, nghiên cứu tính hệ thống của
bản thân thế giới. Hay nói cách khác, đó là vai trò của các tri thức đơn hệ thống và đa hệ
thống trong nhận thức khoa học. Hai phƣơng diện đặc trƣng đó luôn luôn bổ sung cho nhau,
hòa quyện vào nhau trong cách nhìn hệ thống, nhằm thiết lập nên bức tranh hệ thống về thế
giới.
Tri thức đơn hệ thống hƣớng tới việc nhận thức sự vật nhƣ một hệ thống có nhiều mặt
khác nhau, do đó có thể tiếp cận nó từ những mặt khác nhau. Theo truyền thống, để nhận
thức sự vật cần phải đi từ hiện tƣợng đến bản chất, thì tri thức đơn hệ thống bắt đầu nghiên
cứu từ tính chỉnh thể và cơ chế liên kết các
- 78 -
yếu tố trong hệ thống cho đến việc khám phá ra các quy luật cấu trúc và các quy luật hệ thống
khác, từ những mặt khác nhau của bản thân hệ thống.
Khác với tri thức đơn hệ thống, tri thức đa hệ thống hƣớng tới việc khám phá ra tính
hệ thống của bản thân thế giới, nghĩa là nghiên cứu hiện thực nhƣ một thực thể đa hệ thống,
đa cấp độ, trong đó mỗi sự vật đƣợc coi vừa là một hệ thống, vừa là một yếu tố với những
cấp độ hệ thống khác nhau. Đây là tri thức đa hệ thống với nhiều thang bậc, nhiều cấp độ. Nó
đã mở rộng sự hiểu biết của con ngƣời về sự vật trên cơ sở nghiên cứu những kết cấu vi mô
và vĩ mô của chúng, cũng nhƣ những tác động từ bên ngoài. Tính đa hệ thống, đa cấp độ là
một mặt trong lý luận về tính hệ thống, nó ngày càng đƣợc sử dụng rộng rãi và đề cao trong
các khoa học hiện đại.
Thông qua các tri thức đơn hệ thống và đa hệ thống, khoa học có đƣợc một cách nhìn
đa diện, đa cấp độ (thứ bậc), nhờ đó vạch ra đƣợc các quy luật nội tại diễn ra trong từng hệ
thống và trong các cấp độ hệ thống.
Lái cắt đầu tiên của bức tranh hệ thống về thế giới dựa trên tính chất đa diện của các
sự vật, hiện tƣợng. Đó là các tri thức đơn hệ thống, phản ánh những mặt khác nhau của hiện
thực. Nó đặc trƣng cho sự phân hóa từng mặt của các ƣi thức khoa học. Không phải bất kỳ sự
phân hóa tri thức nào cũng đều phản ánh tính đa diện của hệ thống, mà chỉ những tri thức
đƣợc phân hóa có sự bổ sung tất yếu cho nhau. Chẳng hạn, các tri thức về trạng thái tĩnh và
trạng thái động, về cấu trúc và chức năng, về đứng im tƣơng đối và vận động tuyệt đối, về ổn
định và phát triển,... biểu hiện là các mặt, các trạng thái và các giai đoạn tồn tại, phát triển của
các sự vật, hiện tƣợng. Trong bức tranh hệ thống về thế giới, những tri thức đó là những mặt
khác nhau của tri thức khoa học tổng hợp, hay nói cách khác, là các yếu tố của hệ thống các
tri thức.
- 79 -
Nhận thức khoa học bao gồm các thể loại phân tích khác nhau về tính đa diện của
hiện thực, chẳng hạn, phân tích các hình thức kết cấu (cấu trúc, hệ thống), phân tích các mối
liên hệ và quan hệ (các mối liên hệ, sự phụ thuộc, sự tác động qua lại), phân tích các hình
thức biểu hiện nhƣ một quá trình (sự hoạt động và phát triển). Những yêu cầu của nguyên tắc
đa diện trong phƣơng pháp hệ thống đã vạch ra những loại quy luật khác nhau, không nhập
chúng vào một cục, mà cần phải xác lập những mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các mặt của hiện thực, nhằm tạo ra các tri thức tổng hợp về bản thân hiện thực.
Lát cắt thứ hai của bức tranh hệ thống về thế giới dựa trên các cấp độ tồn tại khác
nhau của các sự vật, hiện tƣợng. Đó là các tri thức đa hệ thống, phản ánh những cấp độ khác
nhau của hiện thực. Nó trở thành chuẩn mực nghiên cứu và là nguyên tắc phƣơng pháp luận
trong nhận thức khoa học. Cụ thể là, khi nghiên cứu đối tƣợng phải tính đến các cấp độ khác
nhau của chúng: thứ nhất, tách riêng đối tƣợng ra nhƣ cái tự nó; thứ hai, tách đối tƣợng ra
nhƣ một yếu tố của một hệ thống rộng hơn; thứ ba, xét đối tƣợng trong mối quan hệ với
phạm vi vi mô của nó; và thứ tư, xem xét đối tƣợng trong mối quan hệ với những tƣơng tác
bên ngoài. Trong mỗi cấp độ đều chứa đựng những mối liên hệ, quan hệ và những quy luật
đặc thù đặc trƣng cho bản chất của từng cấp độ. Hơn nữa, bản thân các sự vật, hiện tƣợng tồn
tại, hoạt động và phát triển đồng thời trong tất cả các cấp độ, vì vậy, nếu không xem xét đầy
đủ các cấp độ, thì tri thức thu nhận đƣợc chƣa đƣợc coi là đầy đủ và toàn diện. Chẳng hạn,
trong nhận thức thế giới vi mô, để khám phá ra tính chất phức tạp của các hạt cơ bản, mà mỗi
hạt cơ bản thể hiện với tính cách là một hệ thống, thì việc xem xét những tác động qua lại bên
trong, cũng nhƣ những tƣơng tác bên ngoài giữa các hạt với nhau, đóng vai ƣò cực kỳ quan
trọng. Nó cho phép giải thích sự chuyển hóa lẫn nhau của các hạt và mở ra con đƣờng đi sâu
vào bản chất và cấu trúc của thế giới vật chất.
- 80 -
Viện sĩ Nguyễn Duy Quý viết: "... tất cả các hạt vi mô đều không ngừng tƣơng tác với nhau
và với môi trƣờng. Những tƣơng tác này ở những cấp độ khác nhau làm nảy sinh những biến
đổi phức tạp trong bản thân các hạt đó" [70, tr.66]. Mặt khác, trong nhận thức khoa học, sự
hiểu biết về hiện thực ở cấp độ này sẽ là "chìa khóa" để hiểu biết nó ở một cấp độ khác, một
cách vô tận, từ đó càng thấy rõ bức tranh hệ thống đa cấp độ, vô cùng tận, hết sức đa dạng và
phong phú của thế giới vật chất. Cũng về vấn đề này, Viện sĩ Nguyễn Duy Quý khẳng định:
"Bằng việc nhận thức thế giới vi mô, con ngƣời chẳng những có thể hiểu đƣợc những quy
luật, những tính chất đặc trƣng cho thế giới này, mà hơn thế nữa, thông qua khám phá thế
giới vi mô, con ngƣời còn có thể suy ra và hiểu đƣợc nhiều quá trình cũng nhƣ nhiều hiện
tƣợng xảy ra trong thế giới vĩ mô và siêu vĩ mô" [70, tr.15]. Từ đó, ông viết tiếp: "Những
thành tựu xuất sắc của vật lý học vi mô... chứng tỏ tính vô cùng tận của đa dạng cơ cấu các
thuộc tính của các khách thể vi mô và sự thống nhất vật chất của thế giới" [70, tr.69].
Sự phân tích tính đa diện, đa hệ thống, đa cấp độ của hiện thực là cực kỳ quan trọng
trong nhận thức khoa học. Nhờ có phƣơng pháp hệ thống, khoa học phản ánh một cách chính
xác hơn, toàn diện hơn tính đặc thù của mỗi cấp độ, nắm bắt đƣợc cấu trúc phức tạp của thế
giới vật chất. Trƣớc mắt chúng ta, thế giới vật chất biểu hiện là hệ thống của các hệ thống với
những mặt, những cấp độ khác nhau. Các sự vật, hiện tƣợng từ vi mô đến vĩ mô, từ dạng hạt
đến dạng trƣờng, từ vô cơ đến hữu cơ, từ giới tự nhiên cho đến đời sống xã hội và tƣ duy con
ngƣời đều biểu hiện là các hệ thống, đều mang tính hệ thống. Điều này càng cho ta thấy tính
thống nhất vật chất của thế giới, tính thống nhất trong tính đa dạng, muôn hình, muôn vẻ của
nó.
- 81 -
Có thể nói, việc nghiên cứu tính đa diện, đa hệ thống, đa cấp độ của hiện thực là một
trong những vấn đề quan trọng nhất và tất yếu đối với nghiên cứu hệ thống. Nhờ có phƣơng
pháp hệ thống, nhận thức khoa học đã góp phần làm sâu sắc thêm, làm chuyên môn hóa và hệ
thống hóa thêm tri thức của chúng ta về hiện thực và đồng thời cũng chuẩn bị những điều
kiện để thực hiện quá trình tổng hợp tri thức.
2.2.3 Vai trò của phương pháp hệ thống trong sự tổng hợp tri thức
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, sự tiến bộ nhanh chóng của các tri thức khoa
học, tính chất sâu sắc, chuyên môn hóa và phân hóa của chúng đã nảy sinh nhu cầu hợp nhất,
tổng hợp các tri thức khoa học. Sự tổng hợp tri thức trở thành điều kiện tối quan trọng trong
sự phát triển tiếp theo, cũng nhƣ trong việc áp dụng các tri thức khoa học một cách có hiệu
quả nhất. Đồng thời, tổng hợp tri thức cũng trở thành một tiền đề tất yếu cho tính chân lý của
nhận thức khoa học, ít ra với ý nghĩa là sự nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc và toàn diện
các sự vật, hiện tƣợng. Phƣơng pháp hệ thống rất phù hợp, có hiệu quả đối với quá trình đó
và nó đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng pháp tổng hợp, nói đúng hơn nhƣ một trong những công
cụ có hiệu quả để tổng hợp tri thức khoa học. Vấn đề tổng hợp tri thức đã trở thành một trong
những nội dung cơ bản của phương pháp hệ thống trong nhận thức khoa học.
Đƣơng nhiên, những nhiệm vụ tổng hợp tri thức rất khác nhau và do đó việc áp dụng
phƣơng pháp hệ thống cũng rất khác nhau. Song, ở đây, chúng ta chỉ xem xét những phƣơng
hƣớng áp dụng chung nhất phƣơng pháp hệ thống trong sự tổng hợp các tri thức khoa học.
Nói đến tổng hợp tri thức thì có rất nhiều kiểu và nhiều phƣơng thức tổng hợp. Theo V. p.
Cudơmin, trong nhận thức khoa học đã hình thành những phƣơng hƣớng tổng hợp chủ yếu
sau đây: thứ nhất, sự tổng hợp tập hợp, khắc phục cách nhìn từng mặt hẹp hòi do sự chuyên
môn hóa
- 82 -
tri thức về mặt đối tƣợng hoặc về mặt phƣơng pháp luận gây ra; thứ hai, sự tổng hợp làm mở
rộng đối tƣợng nhận thức do việc nghiên cứu ngày càng sâu sắc hơn những cơ sở của tồn tại
và do việc nghiên cứu những tƣơng tác bên ngoài ngày càng mang tính hệ thống hơn [xem: 8,
tr.403-404]. Ở đây, thực chất là quá trình tổng hợp các tri thức đơn hệ thống và đa hệ thống.
Trong quá trình nhận thức, tất cả những quá trình tổng hợp đƣợc thực hiện ƣơng sự thống
nhất và tác động qua lại lẫn nhau.
Thứ nhất, việc tổng hợp các tri thức đơn hệ thống (từng mặt) gắn liền với quan điểm
phức hợp - một cách nhìn hết sức cần thiết trong nhận thức khoa học cũng nhƣ hoạt động
thực tiễn. Một điều rõ ràng rằng, bất kỳ một sự vật, hiện tƣợng nào cũng là một thực thể đa
diện, đa chiều, có thể tiếp cận đến nó từ những mặt, những mối quan hệ khác nhau. Nếu xem
xét sự vật, hiện tƣợng cùng với những điều kiện ra đời và quyết định sự tồn tại của nó thì bản
thân tính đa diện của nó cũng sẽ đƣợc tăng lên. Chẳng hạn, khi xem xét một phƣơng thức sản
xuất, chúng ta có thể tiếp cận nó từ những góc độ kinh tế - kỹ thuật và kinh tế -xã hội, nhƣng
để hiểu đƣợc nội dung và bản chất của phƣơng thức sản xuất thì phải dùng đến công cụ tổng
hợp các mặt ấy; hoặc khi nghiên cứu con ngƣời, chúng ta có thể tiếp cận từ phƣơng diện sinh
vật và phƣơng diện xã hội, nhƣng bản chất con ngƣời chỉ bộc lộ ra khi có công cụ tổng hợp
tri thức về các phƣơng diện cụ thể;... Hơn nữa, chính vì cái toàn thể không phải là tổng số
giản đơn của các bộ phận cấu thành, nên tổng hợp tri thức cũng không phải là quá trình tổng
cộng cơ giới các tri thức từng mặt riêng lẻ. Kết quả của sự tổng hợp tri thức sẽ mang lại một
dạng tri thức tổng hợp mới về chất so với các tri thức tòng mặt do quá trình phân tích mang
lại.
Phƣơng pháp hệ thống không chỉ đòi hỏi kết hợp một cách hữu cơ tất cả các tri thức
từng mặt, mà còn liên kết chúng lại với nhau thành một tổng thể
- 83 -
mang tính hệ thống chặt chẽ. Ví dụ, trong chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội, Đảng ta
đòi hỏi phải áp dụng phƣơng pháp phức hợp đối với việc hoạch định hệ thống chính sách,
nhờ đó có đƣợc sự phát triển đồng bộ và toàn diện. Cụ thể là: "Tăng trƣởng kinh tế phải gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bƣớc và trong suốt quá tình phát triển.
Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tƣ liệu sản xuất lẫn ở khâu phân
phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi ngƣời đều có cơ hội phát triển và sử dụng
tốt năng lực của mình" [16, tr.l 13].Vì vậy, phương pháp phức hợp đóng vai trò là nguyên tắc
tổ chức có tính hệ thống trong hoạt động của con người.
Ngày nay tổng hợp tri thức đơn hệ thống (từng mặt) có vai trò vô cùng quan trọng đối
với sự phát triển của các khoa học xã hội và nhân văn. Khi tiếp cận đến việc phân tích các
quá trình kinh tế - xã hội, xuất hiện ngày càng nhiều yêu cầu phải khắc phục tình trạng
chuyên môn hẹp từng mặt và do đó đòi hỏi phải tiến hành tổng hợp tất cả các thể loại tri thức
về các lĩnh vực khác nhau và đồng thời phải nghiên cứu, bổ sung cho nhau về những tiêu
chuẩn và những đánh giá trong các khoa học.
Những nhiệm vụ tổng hợp các tri thức đơn hệ thống (từng mặt) cũng rất đa dạng, nó
gắn liền với chức năng tổ chức hệ thống dựa trên những quy luật phức hợp của hệ thống. Tuy
nhiên, tính chất phát triển nhiều hay ít của một mặt nào đó thƣờng bị những nhu cầu giải
quyết những nhiệm vụ khác nhau chế ƣớc, nhƣng điều đó không làm thay đổi tính chỉnh thể
riêng của chúng. Vì vậy tƣơng ứng với những nhiệm vụ khác nhau thì những công cụ của
phƣơng pháp hệ thống cũng khác nhau. ở đây, phương pháp phức hợp thể hiện là một trong
những biến dạng của phƣơng pháp hệ thống, có ý nghĩa không chỉ ƣơng nhận thức khoa học,
mà đặc biệt trong hoạt động thực tiễn.
- 84 -
Thứ hai, đối với sự tổng hợp các tri thức đa hệ thống, nghĩa là tổng hợp sự hiểu biết
về nhiều cấp độ của hiện thực. Đây là một trong những xu hƣớng chủ yếu của lý thuyết về
chân lý trong giai đoạn hiện nay. Bản thân chân lý về đối tƣợng đặt ra trƣớc mắt chúng ta một
sự phối hợp rất nhiều cấp độ và nghiên cứu trong các hệ thống khác nhau. Chân lý ấy, theo
cách diễn đạt của V. I. Lênin "đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tƣợng đến bản chất, từ bản chất
cấp một, nếu có thể nói nhƣ vậy, đến bản chất cấp hai, .V.V., cứ nhƣ thế mãi" [41, tr.268].
Sự tổng hợp các tri thức đa hệ thống, đa cấp độ diễn ra rất phức tạp, trải qua những
nấc thang khác nhau, mỗi nấc thang đánh dấu một bƣớc phát ƣiển mới trong quá trình nhận
thức. Do đó, con ngƣời càng tiến sâu vào bản chất và các quy luật của các khách thể hệ
thống.
Trong quá trình phát triển của nhận thức, bản thân quan niệm về chân lý cũng đƣợc
thay đổi. Trƣớc đây khi khoa học chƣa phát triển, chân lý đã bị đồng nhất với tri thức trực
tiếp về bản thân đối tƣợng; lúc đó quan điểm "vật tâm" mang tính thống trị. Sự phát minh ra
những quy luật cơ bản trong sự phát triển của tự nhiên và xã hội, đặc biệt sự ra đời của thuyết
tiến hóa của Đácuyn và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác chứng tỏ quan điểm
"vật tâm" đã trở thành một chƣớng ngại cản trở quá trình nhận thức. Quan điểm "hệ tâm" ra
đời hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển của các tri thức khoa học. Cách tiếp cận hệ
thống đã trở thành một thành phần tất yếu của nhận thức chân lý, còn bản thân đối tƣợng
nhận thức ngày càng trở nên phức tạp và đƣợc mở rộng. Chẳng hạn, trong tác phẩm Tư bản,
đằng sau giá trị sử dụng của hàng hóa biểu hiện với tƣ cách là "bản chất cấp một", C. Mác đã
phát hiện ra "bản chất cấp hai" của nó là giá trị trao đổi, từ đó ông đã vạch ra quy luật và bản
chất của nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa. Hay Ph. Ăngghen đã tiên đoán rằng: "Mỗi lần có một
phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử - tự
- 85 -
nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó" [54, tr.409]. Điều
này cho ta thấy, những quan niệm về tính chân lý ngày càng trở nên phong phú hơn bằng
những cách tiếp cận ngày càng mới mẻ hơn. Hiện nay nhiều phát minh mới trong lĩnh vực thế
giới vi mô, có thể đƣợc coi là "bản chất cấp ba" đối với một số lĩnh vực tri thức khoa học.
Cùng với sự tiến bộ chung của tri thức khoa học và sự phát triển của các quan niệm hệ
thống về thế giới, thì cách tiếp cận về hiện thực cũng ngày càng trở nên đa dạng hơn. Việc
tổng hợp tri thức về các mặt, các cấp độ khác nhau là nhiệm vụ bức bách của nhận thức khoa
học hiện đại. ở đây, phƣơng pháp hệ thống có vai trò quan trọng trong việc xây dựng mô hình
tổng hợp nhƣ một cơ cấu thứ bậc, cấu trúc đa tầng, đa chất lƣợng theo những lát cắt khác
nhau. Ví dụ: Sự sống là đối tƣợng của sinh vật học có thể đƣợc mô tả ở cấp độ phân tử, tế
bào, giống, loài, sự tƣơng tác với môi trƣờng,... Nhƣng ở một cấp độ nhất định không thể
vạch ra đƣợc bản chất của sự sống với tất cả tính đầy đủ, toàn vẹn của nó. Muốn có một mô
hình tổng hợp về sự sống, từ đó có thể phản ánh những đặc trƣng cơ bản nhất trong tất cả các
cấp độ tổ chức, thì cần phải tính đến các mặt sinh học, tâm lý, xã hội, thậm chí các mặt kỹ
thuật điều khiển để nghiên cứu nó. Phƣơng pháp hệ thống đã tính đến tất cả những cấp độ cấu
trúc khác nhau, những mặt khác nhau, những chất lƣợng khác nhau trong một thể thống nhất,
nghĩa là nó nhìn nhận hệ thống theo những lát cắt khác nhau. Do đó, mỗi đối tƣợng nghiên
cứu có thể là đối tƣợng của nhiều khoa học, mỗi khoa học là một lát cắt lý luận khác nhau và
thể hiện nhƣ một hệ thống. Thực chất ở đây cũng là cách nhìn sự vật một cách toàn diện.
Những cách tiếp cận trên ngày càng trở nên thông dụng giúp con ngƣời nắm bắt đƣợc
bản chất của hiện thực. Phƣơng pháp hệ thống bao hàm những cách tiếp cận ấy, nó đảm bảo
tổng hợp hệ thống một cách trọn vẹn; giúp con
- 86 -
ngƣời ngày càng thu nhận các tri thức sâu sắc hơn, phong phú hơn. Từ đó, chúng ta có một
quan niệm đúng đắn hơn về các tri thức khoa học, đặc biệt là tính hệ thống của các khái niệm
khoa học.
2.3. Vận dụng phƣơng pháp hệ thống trong việc phân tích tính hệ thống
của các khái niệm khoa
Để xây dựng một lý thuyết khoa học thì việc xác định các khái niệm là một vấn đề hết
sức quan trọng và cần thiết. Song, lý thuyết khoa học với tính cách là một hệ thống các tri
thức, và suy cho cùng, là một hệ thống các khái niệm, cho nên bản thân các khái niệm của nó
cũng phải mang tính hệ thống. Do đó sự hiểu biết về tính hệ thống của các khái niệm khoa
học là một trong những cơ sở lý luận trực tiếp cho sự hình thành một lý thuyết khoa học. Ở
phƣơng diện này, phƣơng pháp hệ thống mang lại một quan niệm thật sự đứng đắn về tính hệ
thông của các khái niệm khoa học.
Tính hệ thống của khái niệm đã đƣợc hình thành ngay từ thời cổ đại và đƣợc tiếp tục
phát triển trong quá trình phát triển của nhận thức. Chẳng hạn, các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại đã có cách nhìn chỉnh thể về thế giới, nhƣng còn mang tính mộc mạc, ngây thơ. Nhận xét
về cách nhìn ấy, Ph. Ăngghen viết: "Chính vì ngƣời Hy Lạp chƣa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân
tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về
mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tƣợng tự nhiên chƣa
đƣợc chứng minh về chi tiết; đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp"
[53, tr.491]. Sau đó ở thời kỳ cận đại dƣới sự thống trị của phƣơng pháp tƣ duy siêu hình, quá
ƣình nhận thức đã ƣu tiên tri thức về các yếu tố, các chi tiết của hệ thống tồn tại khách quan.
Ph.Ăngghen đánh giá: "Nếu về chi tiết, chủ nghĩa siêu hình là đúng hơn so với những ngƣời
Hy Lạp, thì về toàn thể
- 87 -
những ngƣời Hy Lạp lại đúng hơn so với chủ nghĩa siêu hình" [53, tr.491]. Lần đầu tiên trong
lịch sử triết học, vấn đề tính hệ thống của khái niệm đƣợc coi nhƣ một trong những vấn đề
quan trọng của triết học đƣợc chú ý bởi Hêghen và đƣợc giải thích bằng phƣơng pháp tƣ duy
biện chứng. Ông đã nhìn thấy thuộc tính tổng hợp, tính chất kế thừa ƣơng các khái niệm và
khẳng định "khái niệm là cái cụ thể và phong phú nhất, bởi vì nó là cơ sở và tính tổng hợp
của các định nghĩa trƣớc đó..." [108, tr.51]. Song, Hêghen không nhìn thấy nguồn gốc của
tính hệ thống của khái niệm, ở các khách thể đƣợc phản ánh, mà thấy nó ở ý niệm tuyệt đối,
tinh thần thế giới. Theo ông, tính hệ thống của khái niệm chỉ là biểu hiện cụ thể của ý niệm
tuyệt đối, là nấc thang trong sự phát triển của nó. Hêghen đã đồng nhất khái niệm với khách
thể, coi khái niệm nhƣ "một tổng thể cụ thể đồng nhất với tính khách quan trực tiếp" [108,
tr.213]. Hơn nữa, khái niệm, ý niệm, đối với Hêghen , là cái sáng tạo ra các sự vật, hiện
tƣợng của thực tại khách quan.
Khi phê phán quan điểm duy tâm của Hêghen, các nhà kinh điển của triết học Mác -
Lênin đã chỉ ra rằng, khái niệm chỉ là sự phản ánh các tổ chức hệ thống khách quan vào trong
ý thức con ngƣời. "Biện chứng của sự vật, - V. I. Lênin viết, -sản sinh ra biện chứng của ý
niệm, chứ không phải ngƣợc lại" [41, tr.178].
C. Mác là ngƣời đầu tiên khám phá ra tính hệ thống của khái niệm khoa học với tính
cách là sự phản ánh tính hệ thống của các sự vật, hiện tƣợng của thế giới khách quan vào
trong bộ não con ngƣời. c. Mác coi "sản xuất" nói chung là một sự trừu tƣợng, nhƣng là sự
trừu tƣợng hợp lý, bởi vì trên thực tế nó đã tách ra cái chung, cái bản chất, cái tất yếu trong
hoạt động vật chất của con ngƣời. Nhƣng khái niệm "sản xuất" cũng nhƣ bất kỳ một khái
niệm khoa học nào khác không thể là cái gì đó không bị phân chia, bởi vì nó là sự phản ánh
các yếu tố
- 88 -
liên hệ mật thiết với nhau của khách thể hệ thống. Bản thân khái niệm "sản xuất" cũng là một
chỉnh thể thống nhất và "bị phân chia ra rất nhiều lần và đƣợc biểu hiện ra trong những tính
quy định khác nhau" [51, tr.856]. Có một số tính quy định đặc trƣng cho sản xuất nói chung,
liên quan đến tất cả mọi thời đại, cái khác lại chỉ chung cho một vài thời đại, còn cái khác
nữa thì chỉ đặc trƣng cho một thời đại. Nếu không có những tính quy định ấy thì không thể có
bất kỳ một nền sản xuất nào . Kết quả là, sản xuất bao giờ cũng có một "cơ thể xã hội" nhất
định. [xem: 51, tr.857-858].
Khái niệm khoa học, dƣới góc độ của lôgíc biện chứng, không phải là tổng số cơ giới
giản đơn các dấu hiệu, các thuộc tính, mà là một hệ thống chỉnh thể những tính quy định có
mối liên hệ mật thiết với nhau. Tính thống nhất, tính chỉnh thể của khái niệm khoa học phản
ánh những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành nên khách thể hệ
thống. Đồng thời, khái niệm khoa học lại đóng vai trò là yếu tố của hệ thống các khái niệm
(lý thuyết khoa học). Bên ngoài tính hệ thống, bên ngoài hệ thống các khái niệm thì bản thân
các khái niệm sẽ trở thành một sự trừu tƣợng trống rỗng. Do vậy, để xây dựng một khái niệm
khoa học mà chỉ chú ý phân chia và liệt kê các yếu tố thì chƣa đủ, quan trọng hơn là phải
vạch ra tính quy luật nội tại, các mối liên hệ, quan hệ lẫn nhau giữa chúng, làm sáng tỏ cơ chế
tác động qua lại của các yếu tố và tìm kiếm một lôgíc phù hợp với nó. Tính toàn diện, tính
thống nhất của những tính quy định đa dạng là đặc trƣng tối cần thiết của các khái niệm khoa
học. C. Mác viết: "Cái cụ thể sở dĩ là cụ thể vì nó là sự tổng hợp của nhiều tính quy định, do
đó, nó là sự thống nhất của cái đa dạng" [51, tr.877].
Chỉ có thể là một hệ thống chỉnh thể những tính quy định đa dạng thì các khái niệm
khoa học mới có khả năng phản ánh phù hợp các khách thể hệ thống,
- 89 -
nắm bắt bản chất và các quy luật vận động, phát triển của nó. Những tính quy định riêng lẻ
chỉ phản ánh những mặt, những thuộc tính riêng lẻ của hệ thống và chúng đóng vai trò là các
yếu tố, các bộ phận của khái niệm khoa học; còn bản thân khái niệm khoa học phải là sự tổng
hợp những tính quy định khác nhau. Mặt khác, với tính cách là một yếu tố của lý thuyết khoa
học, khái niệm nằm trong mối liên hệ mật thiết với các khái niệm khác và biểu hiện là một
mặt, một khía cạnh của lý thuyết ấy.
Khái niệm khoa học với tính cách là một sự trừu tƣợng hóa về mặt lý luận được rút ra
từ cái cụ thể cảm tính, từ kinh nghiệm. Nhƣng nó không phải là tổng số giản đơn những kinh
nghiệm, những cái cụ thể cảm tính, mà là sự khái quát, sự tổng hợp những cái cụ thể cảm
tính, những kinh nghiệm nhằm tách ra cái chung, cái bản chất, cái tất yếu trong các sự vật,
hiện tƣợng.
Cần nhấn mạnh rằng, khái niệm khoa học không chỉ bao gồm tổng thể các kinh
nghiệm của con ngƣời đã đƣợc tích lũy trong quá khứ và hiện tại, mà kể cả những cái thuộc
về tƣơng lai. Chẳng hạn, khái niệm "hình thái kinh tế - xã hội" với tính cách là một hệ thống
không chỉ chứa đựng những hình thái đã và đang tồn tại, mà kể cả hình thái cộng sản chủ
nghĩa ở giai đoạn cao mà loài ngƣời sẽ đạt tới. Trong lịch sử khoa học và thực tiễn có không
ít các sự kiện đƣợc phát hiện sớm hơn sự quan sát ra bản thân cái chỉnh thể trong hiện thực
khách quan. Chẳng hạn, khi thiết lập nên bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, Menđêlêép
đã tiên đoán hàng loạt các nguyên tố mà mãi sau này khoa học mới phát hiện ra. Chính tính
chất phức tạp và mâu thuẫn của hệ thống tồn tại khách quan với trình độ tổ chức khá cao giúp
ta xây dựng nên khái niệm khoa học phản ánh một tổ chức hệ thống cao khác, trƣớc khi nó
xuất hiện trong thực tế. Không phải ngẫu nhiên khi nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội tƣ
bản chủ nghĩa với tất cả tính chất phức tạp và mâu thuẫn của nó, C. Mác và Ph. Ăngghen đã
phát
- 90 -
hiện ra những nhân tố dẫn tới sự phủ định xã hội ấy và tiên đoán xã hội cộng sản chủ nghĩa
thay thế cho nó.
Nhƣ vậy, quan điểm duy vật biện chứng đã vẽ nên bức tranh hệ thống của các khái
niệm khoa học. Bức tranh ấy là sự phản ánh tính thống nhất vật chất của thế giới. Chỉ có thế
giới vật chất mới là cội nguồn của các tri thức khoa học - tri thức hệ thống - khái niệm mang
tính hệ thống. Cơ sở chứng minh cho tính hệ thống của các khái niệm khoa học là thực tiễn.
Khái niệm đƣợc hình thành trên cơ sở phản ánh hiện thực, gắn liền với mối quan hệ
cơ bản mang tính lịch sử - xã hội của con ngƣời. Một mặt, khoa học xuất phát từ thực tiễn, là
sản phẩm của thực tiễn, nhƣng mặt khác, nó lại đóng vai trò định hƣớng cho hoạt động thực
tiễn. Tính kế thừa, tính hƣớng đích của nhận thức khoa học xuất phát từ nhu cầu của thực
tiễn, cho nên bản thân tính hệ thống, tính mâu thuẫn, tính phức tạp của khái niệm khoa học
đƣợc xác định bởi tính hệ thông, tính mâu thuẫn, tính phức tạp của khách thể mà nó phản
ánh. Điều này cho ta thấy, mức độ phát triển của hệ thống chỉnh thể quy định mức độ tính
chỉnh thể của khái niệm khoa học. Nếu hệ thống tồn tại khách quan chƣa đạt tới một trình độ
chỉnh thể cao, trình độ "chín muồi", trình độ "kinh điển" thì không thể có một khái niệm
mang tính chỉnh thể sâu sắc. Ngƣợc lại, nếu hệ thống tồn tại khách quan có tính chỉnh thể
càng cao thì khái niệm càng có khả năng trừu tƣợng hóa, khái quát hóa. Các khái niệm khoa
học phản ánh các hệ thống có tổ chức cao hơn sẽ đem lại khả năng khám phá bản chất và các
quy luật của những hệ thống có tổ chức thấp hơn. C. Mác viết: "Giải phẫu học về con ngƣời
là cái chìa khóa cho giải phẫu học về con khỉ. Ngƣợc lại, ngƣời ta chỉ có thể hiểu đƣợc những
dấu hiệu báo trƣớc cái cao hơn trong các loại động vật cấp thấp khi ngƣời ta đã biết đƣợc bản
thân cái cao hơn đó. Nhƣ vậy, nền kinh tế tƣ sản cho ta cái chìa khóa để hiểu nền kinh tế cổ
đại, .v.v." [51, tr.883-884].
- 91 -
Sở dĩ có thể thực hiện đƣợc nhƣ vậy, bởi vì hệ thống có tổ chức cao hơn bao giờ cũng đƣợc
nảy sinh trên cơ sở những hệ thống có tổ chức thấp hơn. Hệ thống có tổ chức cao chứa đựng
trong mình những yếu tố đã đƣợc kế thừa dƣới dạng "lọc bỏ" ở những hệ thống có tổ chức
thấp hơn. Ngay trong lĩnh vực xã hội, hình thái kinh tế - xã hội cao chứa đựng các yếu tố của
hình thái kinh tế - xã hội thấp hơn, nhƣng ở hình thức phát triển, dƣới dạng đã biến đổi một
cách căn bản. [xem: 51, tr.884].
Nói chung, bất kỳ một hệ thống chỉnh thể nào cũng đòi hỏi phải có các công cụ khái
niệm phản ánh phù hợp. Tuy nhiên, ở một giai đoạn nhận thức nào đó khi chƣa có các khái
niệm mới thì việc sử dụng các khái niệm cũ là cần thiết. Ví dụ, nhờ các khái niệm của cơ học
cổ điển mà cơ học lƣợng tử có thể vạch ra một số đặc điểm, thuộc tính của thế giới vi mô,
nhƣng để hiểu đƣợc bản chất của thế giới này, khoa học cần phải sử dụng những công cụ khái
niệm mới, có khả năng phản ánh các đặc trƣng cấu trúc của nó.
Nhƣ trên đã khẳng định, khái niệm là sự phản ánh cái chung, cái bản chất, cái tất yếu
của các sự vật, hiện tƣợng. Nhƣng cái chung hay cái phổ biến đƣợc biểu hiện trong mối quan
hệ mật thiết với cái riêng, cái đặc thù. Khái niệm mà tách rời cái riêng, cái đặc thù thì không
còn là khái niệm khoa học. Khái niệm khái quát cả cái chung, cái riêng và cái đặc thù, nhƣng
điều này không có nghĩa nó bao quát tất cả tổng thể các dấu hiệu riêng, bộ phận cần nghiên
cứu. Để thiết lập nên một khái niệm khoa học, quan trọng là phải tách ra những cái cơ bản
nhất, những "mắt xích chủ yếu" nhất phản ánh cơ sở khách quan mà khách thể xuất hiện, vận
động và phát triển. Ngƣợc lại, nếu chúng ta liệt kê tất cả các dấu hiệu, các yếu tố của khách
thể thì vẫn không thể có đƣợc tri thức đúng đắn, toàn vẹn. Làm nhƣ thế sẽ dẫn đến chủ nghĩa
chiết trung và chủ nghĩa cơ giới. Song, trong việc xây dựng các khái niệm khoa học chúng ta
cần phải xem xét toàn diện,
- 92 -
cụ thể đối tượng - đó là mội trong những nguyên tắc cơ bản của lôgíc biện chứng, là một yêu
cầu tất yếu đối với khái niệm khoa học, đối với lý thuyết khoa học nói chung.
Trong quá trình phát triển của khoa học và thực tiễn, các khái niệm ngày càng phản
ánh phù hợp hơn đối với các khách thể hệ thống. Chúng ngày càng đƣợc bổ sung những nội
dung mới và ngày càng trở nên chỉnh thể hơn, bao quát nhiều mặt, nhiều cấp độ hơn. Do vậy,
bất kỳ một khái niệm khoa học nào cũng không phải là một hệ thống đóng kín, mà là một hệ
thống mở, hệ thống phát triển. Không những thế, khái niệm khoa học còn mang tính lịch sử -
cụ thể. Tính lịch sử - cụ thể của khái niệm phản ánh tính lịch sử - cụ thể của hệ thống tồn tại
khách quan. Các hệ thống tồn tại khách quan thƣờng xuyên trải qua các giai đoạn khác nhau,
ở mỗi giai đoạn chúng có những đặc điểm riêng, vì vậy các khái niệm cũng biến đổi, phát
triển cho phù hợp với tòng hoàn cảnh, từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Tính hệ thống của khái niệm khoa học không chỉ phản ánh bản thân khách thể này
hay khách thể khác, mà còn phản ánh cả quá trình chuyển biến từ khách thể này thành khách
thể khác, phản ánh quá trình chuyển biến từ cái cũ thành cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong
các khái niệm khoa học còn bao hàm cả khuynh hướng phát triển của các khách thể hệ thống
mà nó phản ánh.
Tóm lại, tính hệ thống của khái niệm khoa học biểu hiện rất đa dạng và phức tạp.
Cùng với sự phát triển của nhận thức khoa học thì bản thân các khái niệm khoa học ngày
càng mang tính hệ thống hơn. Điều đó không chỉ diễn ra trong vật lý học, hóa học, sinh vật
học và các khoa học tự nhiên khác, mà còn trong các khoa học xã hội, trong đó có khoa học
Mác - Lênin.
- 93 -
Kết luận chương 2
Ngày nay, với sự phát ƣiển của khoa học và thực tiễn, phƣơng pháp hệ thống có vị trí
hết sức quan trọng, nó gắn liền và cụ thể hóa các nguyên tắc của phƣơng pháp biện chứng, nó
thâm nhập vào các phƣơng pháp khác, góp phần hiện đại hóa các phƣơng pháp đó và cùng
với chúng tạo thành một hệ thống chỉnh thể.
Với tính cách là một bộ phận không thể tách rời trong phép biện chứng mác-xít,
phƣơng pháp hệ thống ngày càng đáp ứng các yêu cầu bức xúc của nhận thức khoa học hiện
đại. Nó thực sự đã trở thành công cụ hữu hiệu để giải quyết nhiều vấn đề mà khoa học đặt ra.
Với vị trí và vai trò quan trọng của mình, ngày nay phƣơng pháp hệ thống ngày càng
đƣợc áp dụng rộng rãi và trở thành phƣơng pháp phổ biến trong nhận thức khoa học và hoạt
động thực tiễn.
- 94 -
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC
TIỄN
3.1. Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong hoạt động thực tiễn
Nói đến hoạt động thực tiễn là nói đến hoạt động vật chất mang tính lịch sử - xã hội
của con ngƣời nhằm biến đổi tự nhiên và xã hội. Nó gắn liền với tính tích cực, năng động,
sáng tạo của con ngƣời; gắn liền với nhu cầu, mục đích của con ngƣời và xã hội. Để có hiệu
quả trong hoạt động của mình, con ngƣời luôn tìm tòi, lựa chọn và áp dụng những phƣơng
pháp mà họ cho là phù hợp. Kinh nghiệm của thực tiễn chỉ ra rằng, trong số các phƣơng pháp
mà con ngƣời áp dụng thì phƣơng pháp hệ thống giữ một vai trò to lớn. Trƣớc hết, nó mang
lại cho con người một quan niệm đúng đắn về tính hệ thống của xã hội, để từ đó con ngƣời có
thể đề ra những mục tiêu, phƣơng hƣớng và lựa chọn những biện pháp thích hợp để thực hiện
những mục tiêu, phƣơng hƣớng ấy.
3.1.1. Tính hệ thống của xã hội và hoạt động thực tiễn
Theo quan điểm hệ thống, xã hội cũng nhƣ bất kỳ một sự vật nào khác, đều biểu hiện
là một hệ thống đa cấp độ, đa diện, đa chiều, với vô vàn các mối quan hệ đan xen chằng chịt
mà chúng ta có thể tiếp cận nó từ những góc độ khác nhau. Chẳng hạn, cách tiếp cận "tôn
giáo" của Xanh Ximông, cách tiếp cận "chu kỳ lịch sử" của Tôinbi, cách tiếp cận "văn minh"
của Đuyhem, cách tiếp cận "hình thái" của C.Mác và Ph. Angghen, ... Trong các cách tiếp
cận ấy, cách tiếp cận "hình thái" mới thực sự mang tính khoa học, bởi nó giúp ta hiểu đúng
đắn bản chất và các quy luật vận động, phát triển của xã hội. Với cách tiếp cận này chúng ta
thấy mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống chỉnh thể cực kỳ phức tạp, thậm chí siêu
phức tạp, nên khi phân tích xã hội đòi hỏi phải xem
- 95 -
xét, tính toán tác động của nhiều tham số và hợp phần đa dạng, vạch ra những yếu tố chủ yếu
và các mối liên hệ, tác động qua lại giữa chúng qua việc xác định đặc trưng, cấu trúc, chức
năng, môi trường, cũng như lịch sử và sự hoạt động, phát triển của hệ thống xã hội.
1. Về đặc trưng của hệ thống xã hội :
Trƣớc hết cần khẳng định rằng con người là một trong những đặc trưng tiêu biểu nhất
cho chất lượng của hệ thống xã hội. Sự tồn tại của con ngƣời luôn gắn liền với sự tồn tại nhu
cầu của họ. Nhu cầu ấy hết sức đa dạng: có nhu cầu trao đổi chất, năng lƣợng, thông tin; có
nhu cầu tái sản xuất xã hội; có nhu cầu phát triển về tình cảm, trí tuệ; có nhu cầu hoạt động
xã hội, nhu cầu giao tiếp; .v.v... song nhu cầu cao nhất là nhu cầu tồn tại, nhu cầu đƣợc tự do
phát triển năng lực bản chất của mình - nhu cầu tự khẳng định mình. Để đáp ứng nhu cầu ấy,
con ngƣời buộc phải sản xuất ra của cải vật chất. C. Mác và Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh:
"...tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con ngƣời, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là:
ngƣời ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể "làm ra lịch sử". Nhƣng muốn sống đƣợc thì
trƣớc hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Nhƣ vậy,
hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất trong những tƣ liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy,
việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất" [48, tr.39 - 40]. Tƣ tƣởng của các nhà kinh điển
cho thấy, con ngƣời tồn tại là tồn tại với những nhu cầu. Những nhu cầu đƣợc ý thức, đƣợc
giải quyết sẽ trở thành lợi ích. Nhu cầu là cơ sở để hình thành nên lợi ích, còn lợi ích là tiền
đề, là điều kiện nhằm đáp ứng nhu cầu. Lợi ích cũng là cơ sở trực tiếp để hình thành nên mục
đích, tức là những động cơ tinh thần, thúc đẩy hoạt động sáng tạo của con ngƣời. Chính hoạt
động đó mà bản chất con ngƣời, năng lực của con ngƣời đƣợc hoàn thiện. Nhƣ vậy, nhu cầu
và lợi ích là động lực bên trong thúc đẩy con ngƣời hoạt động sáng tạo. Mặt khác, trên thực tế
luôn
- 96 -
luôn tồn tại mâu thuẫn giữa nhu cầu và điều kiện đáp ứng nhu cầu đó. Thông thƣờng nhu cầu
bao giờ cũng lớn hơn điều kiện đáp ứng nó, đó chính là động lực kích thích thúc đẩy sự phát
ƣiển của con ngƣời. Khi nhu cầu đƣợc thỏa mãn thì không còn là nhu cầu nữa, nhƣng nó lại
là cơ sở để hình thành nhu cầu mới cao hơn. Do vậy nhu cầu của con ngƣời là vô tận và quá
trình phát triển của lịch sử là quá trình phát triển của các nhu cầu. Nhu cầu là cơ sở tạo nên
những thay đổi của đời sống xã hội, là cơ sở xuất phát để xác định những mục tiêu cho phù
hợp với điều kiện thực tế nhằm cải tạo con ngƣời và xã hội. Nếu điều kiện quá thấp mà nhu
cầu quá cao thì đó là một ảo tƣởng. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn, khi xác định mục tiêu
chúng ta phải xuất phát từ nhu cầu, song từng bước phù hợp với điều kiện thực tế, khả năng
thực tế, bởi vì mục tiêu quá cao sẽ dẫn đến sự nản chí và hoạt động của con người sẽ khó
thành công.
Rút cuộc, hoạt động của con ngƣời vừa là phƣơng thức nhằm thỏa mãn nhu cầu, vừa
là quá trình ngày càng hoàn thiện con ngƣời. Trong đời sống xã hội, mọi hoạt động của con
ngƣời đều gắn với khát vọng thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của mình. Không phải ngẫu nhiên mà
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: "tất cả cái gì mà con ngƣời đấu tranh
để giành lấy, đều dính liền với lợi ích của họ" [46, tr.109] và quan niệm: "những lợi ích "thúc
đẩy đời sống của các dân tộc"" [41, tr.98]; còn Đảng ta thì xác định: lợi ích cá nhân ngƣời lao
động là động lực trực tiếp của sản xuất, của sự phát triển xã hội [xem: 16, tr.73]. Nhƣ vậy,
tiêu biểu cho các đặc trƣng về chất của hệ thống xã hội, con ngƣời vừa là chủ thể, vừa là sản
phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể, vừa là khách thể của nhận thức và quản lý xã hội, cũng nhƣ
của mọi hoạt động nói chung. Do đó, trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải quan tâm
và phát huy nhân tố con người, chú trọng đến nhu cầu - lợi ích - mục đích với tính cách là
chuỗi động lực của hoạt động của con người, của sự phát triển xã hội.
- 97 -
2. Về cấu trúc của hệ thống xã hội :
Chính vì đặc trƣng của hệ thống xã hội là con ngƣời nên cấu trúc của bất kỳ hệ thống
xã hội nào cũng đƣợc xác định bởi mối quan hệ giữa con người với con người. C. Mác khẳng
định : "Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và
những quan hệ của các cá nhân đối với nhau" [59, tr.355]. Theo ông: "Xã hội - cho dù nó có
hình thức gì đi nữa - là cái gì ? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con ngƣời"
[57, tr.657]. Xã hội ấy đƣợc ông trình bày cô đọng về cấu trúc của nó nhƣ sau: "Trong sự sản
xuất xã hội ra đời sống của mình, con ngƣời có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy
thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của các lực lƣợng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan
hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên
một kiến trúc thƣợng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định
tƣơng ứng với cơ sở hiện thực đó. Phƣơng thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá
trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung" [52, tr.14 - 15].
Từ quan niệm tổng quát của C.Mác về cấu trúc xã hội, chúng ta thấy xã hội bao gồm
bốn lĩnh vực cơ bản :
Thứ nhất, lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội, tức quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế
giữ vai trò là quan hệ xuất phát ban đầu, cơ bản, nền tảng và quyết định tất cả các quan hệ xã
hội khác.
Thứ hai, lĩnh vực xã hội của đời sống xã hội, tức giai cấp và quan hệ giai cấp, dân tộc
và quan hệ dân tộc, gia đình và quan hệ gia đình, các tầng lớp xã hội, trong đó quan hệ giai
cấp đóng vai trò chi phối.
- 98 -
Thứ ba, lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội, tức các tổ chức và thiết chế quyền lực,
hệ thống luật pháp, các chính sách, các tƣ tƣởng, quan điểm chính ƣị, mối tƣơng quan và sự
vận hành của chúng.
Thứ tư, lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội bao gồm các hình thái và trình độ khác
nhau của ý thức xã hội, nhƣ ý thức chính trị, pháp quyền, đạo đức, văn hóa, tôn giáo, khoa
học, giáo dục, ... biểu hiện với tính cách là nền văn hóa tinh thần của đời sống xã hội.
Với cách tiếp cận trên, cấu trúc xã hội đƣợc hiểu theo nghĩa rộng nhất là tổng thể các
mối quan hệ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó lĩnh vực kinh tế suy cho cùng
giữ vai trò quyết định, còn các lĩnh vực khác đều tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh tế và
đều ảnh hƣởng tới trạng thái và sự vận động, phát triển của xã hội. Ph.Angghen viết :" Sự
phát triển của chính trị, pháp luật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v.v... đều dựa trên cơ sở sự
phát triển kinh tế. Nhƣng tất cả cũng có ảnh hƣởng lẫn nhau và ảnh hƣởng đến cơ sở kinh tế"
[58, tr.271]. Lịch sử cũng chứng minh rằng, trong những hoàn cảnh cụ thể có thể xuất hiện
nhân tố này hay nhân tố khác của xã hội phát ƣiển vƣợt trội, phá vỡ tính cân bằng của hệ
thống, thúc đẩy các yếu tố khác phát ƣiển tiếp theo, thiết lập trạng thái cân bằng mới, cao
hơn. Chẳng hạn, các nhân tố văn hóa, giáo dục -đào tạo, khoa học - công nghệ, ... đóng vai
trò động lực to lớn đối với sự phát triển của các quốc gia, của xã hội nói chung.
Những điều trên đây đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải tính đến sự
phát triển đồng bộ, cân đối, tác động qua lại giữa tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội, không nên tuyệt đối hóa bất kỳ lĩnh vực nào. Song cũng tùy vào điều kiện lịch sử cụ
thể mà xác định lĩnh vực nào, nhân tố nào là trọng tâm, là nổi bật lên hàng đầu, từ đó đề ra
những biện pháp, giải pháp cụ thể,
- 99 -
tức là chúng ta cần phải tính đến những thay đổi của cấu trúc, các quy luật và các cơ chế
hoạt động của nó.
3. Về chức năng của hệ thống xã hội :
Nói đến cấu trúc xã hội, không thể không nhìn thấy con ngƣời là một sinh vật - xã hội,
mà bản chất xã hội của con ngƣời chỉ đƣợc biểu hiện thông qua việc thực hiện những chức
năng nhất định, bởi lẽ chức năng là bản chất của hoạt động, là phương thức thể hiện tính tích
cực của con người. C. Mác nói: "...những chức năng xã hội khác nhau chỉ là những phƣơng
thức hoạt động thay thế nhau mà thôi" [55, tr.693]. Trong hệ thống xã hội, khái niệm chức
năng liên hệ mật thiết với khái niệm mục đích, bởi vì mục đích là trạng thái mà hệ thống sẽ
vƣơn tới trong tƣơng lai. Theo nghĩa này, L. A. Pêtrusenkô viết: "Hệ thống xã hội nhiều khi
đƣợc hiểu là tổng thể các nhân tố chức năng có sự tác động qua lại nhằm đạt đƣợc mục đích
đã đề ra" [130, tr.11].
Mỗi hệ thống xã hội bao gồm những yếu tố, những bộ phận liên hệ, tác động qua lại
lẫn nhau. Một số yếu tố liên hệ với hệ thống một cách ƣực tiếp, một số khác liên hệ một cách
gián tiếp, còn một số khác nữa chỉ có tác dụng thứ yếu. Nhƣng dù sao, tất cả các yếu tố, các
bộ phận của hệ thống khi thực hiện chức năng của mình một cách độc lập tƣơng đối, cũng
phải phù hợp với chức năng chung của hệ thống, phục vụ mục đích chung của toàn bộ hệ
thống. "Bộ phận, - V. I. Lênin viết, - phải phục tùng chỉnh thể, chứ không phải là trái lại" [38
tr.429]. Điều này đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn cần xác định rõ chức năng của từng yếu
tố và của hệ thống, tránh sự chồng chéo về chức năng giữa chúng với nhau.
- 100 -
4. Về môi trường của hệ thống xã hội :
Mỗi hệ thống xã hội không tồn tại cô lập, mà tồn tại trong mối quan hệ khăng khít với
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội trong một chỉnh thể thống nhất.
C. Mác đã coi môi trƣờng tự nhiên là "thân thể vô cơ" của con ngƣời, hay Ph.
Ăngghen khẳng định: "Tuy vậy chúng ta không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng
ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần chúng ta đạt đƣợc một thắng lợi, là mỗi lần giới tự
nhiên trả thù lại chúng ta. Thật thế, mỗi thắng lợi, trƣớc hết là đem lại cho chúng ta những kết
quả mà chúng ta hằng mong muốn, nhƣng đến lƣợt thứ hai, lƣợt thứ ba, thì nó lại gây ra
những tác dụng hoàn toàn khác hẳn, không lƣờng trƣớc đƣợc, những tác dụng thƣờng hay
phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên đó" [53, tr.654]. Vì con ngƣời và tự nhiên là một chỉnh
thể, một hệ thống không chia cắt, cho nên con ngƣời phải tìm cách sống hài hòa, hòa nhập
với tự nhiên, phải điều khiển có ý thức mối quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên. Bởi vì,
"chúng ta hoàn toàn không thống trị đƣợc giới tự nhiên nhƣ một kẻ xâm lƣợc thống trị một
dân tộc khác, nhƣ một ngƣời sống bên ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả
xƣơng thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng tự
nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất
cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức đƣợc quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng
đƣợc những quy luật đó một cách chính xác" [53, tr.655].
Ngày nay, môi trƣờng tự nhiên thƣờng đƣợc gọi là môi trường sinh thái. Vấn đề môi
trƣờng sinh thái là một trong những vấn đề toàn cầu cấp bách và khó giải quyết trong thời đại
ngày nay. Giải quyết vấn đề này thực chất là một yêu cầu có cơ sở lý luận từ bản thân cơ chế
hoạt động của hệ thống (phức hợp hệ thống) "xã hội - tự nhiên", nhằm đảm bảo tính cân
bằng, tính tự tổ chức, tự
- 101 -
điều khiển, tự bảo vệ của sinh quyển, bảo đảm tính thống nhất giữa xã hội và tự nhiên. Bởi
vậy, trong hoạt động thực tiễn, con ngƣời phải thực hiện nguyên tắc đồng tiến hóa giữa xã hội
và tự nhiên, coi việc quay trở về sống hài hòa với tự nhiên sẽ mang lại một hệ thống các giá
trị cho đời sống con ngƣời. Cụ thể là, con ngƣời cần phải thay đổi theo hƣớng tối ƣu hóa các
phƣơng thức hoạt động thực tiễn, cần phải nắm vững các quy luật của tự nhiên và vận dụng
các quy luật đó một cách phù hợp vào trong hoạt động thực tiễn của mình, trƣớc hết là vào
quá trình sản xuất xã hội. Điều đó gắn liền với và chỉ có thể thực hiện đƣợc thông qua sự liên
hệ, tác động qua lại giữa các hệ thống xã hội.
Bất kỳ một hệ thống xã hội nào cũng đều có môi trường xã hội của mình, tức là các hệ
thống xã hội khác. Đó là các hệ thống nằm trong các mối quan hệ về kinh tế - xã hội, chính trị
- xã hội, văn hóa, tinh thần, v.v... Nhờ những mối quan hệ ây, hệ thống xã hội mới có thể hoạt
động bình thƣờng. Bởi vậy, việc nghiên cứu những tác động qua lại của hệ thống xã hội này
với các hệ thống xã hội khác với tính cách là môi trƣờng của nó cũng có một ý nghĩa to lớn,
nhờ đó, con ngƣời mới có thể xác định đƣợc vị trí, vai trò, chức năng và ý nghĩa của hệ thống
nhằm phát triển xã hội một cách toàn diện, cân đối và đồng bộ.
5. Về lịch sử hình thành, quá trình hoạt động và phát triển của hệ thống xã hội :
Trong đời sống xã hội, phƣơng pháp hệ thống giúp ta hiểu rõ hơn mối tƣơng quan
giữa tính đứt đoạn và tính liên tục của quá trình lịch sử, về bản chất của cải tạo xã hội và mục
đích cuối cùng của nó, về tính chất lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội. Sự phát triển
mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội bao hàm trong mình biện chứng của cái chủ quan và
cái khách quan, của cái mới và cái cũ. Cái mới và cái cũ là những yếu tố, những mặt đối lập
của cùng một hệ thống, một bản chất; do đó, để hệ thống phát triển bình thƣờng, cần phải tính
đến
- 102 -
khả năng của cái cũ và cái mới. Hệ thống mới đƣợc xuất hiện và phát triển phải dựa trên cơ
sở những tiền đề, điều kiện của các hệ thống trƣớc đây, cải tạo chúng cho phù hợp với hoàn
cảnh mới. Đó chính là tính kế thừa biện chứng của các hệ thống xã hội, bởi vì, nhƣ M. X.
Cagan viết: "Tất cả các quá trình biểu hiện ra với tính cách là một hệ thống đƣợc phát triển về
mặt lịch sử nhƣ là sự tự vận động có tổ chức" [115, tr.l 15]. Sự vận động có tổ chức, tức là
vận động mang tính hệ thống đã chứa đựng nguồn gốc của sự phát triển. Cho nên, trong hoạt
động thực tiễn, cần phải biết cải tạo một cách triệt để hệ thống cũ khi nó đã vận hành hết
năng lực của mình. Song, việc xóa bỏ cái cũ (chưa phát triển hết năng lực của mình) và vội
thay nó bằng cái mới (vừa mới chỉ xuất hiện) có thể làm cản trở sự phát triển của toàn bộ hệ
thống. Mặt khác, việc kích thích quá mức cái cũ có thể làm phương hại đến sự phát triển của
cái mới.
Một giá trị quan trọng mà phƣơng pháp hệ thống mang lại cho hoạt động thực tiễn
còn ở chỗ, nó cho phép kết hợp hữu cơ sự giải thích về nguồn gốc và những dự báo trong
hoạt động, phát triển của hệ thống. Dự báo và lịch sử không tách rời nhau, chúng đều dựa
trên các quy luật phát triển của hệ thống, dựa trên các tri thức nối liền quá khứ, hiện tại và
tƣơng lai, nhƣ V. I. Lênin chỉ rõ, trong xã hội luôn luôn có "những vết tích của quá khứ,
những cơ sở của hiện tại và những mầm mông của tƣơng lai" [35, tr.218].
Sự vận động và phát triển của hệ thống xã hội là vận động mang tính hệ thống không
chỉ ở phƣơng diện cấu trúc, chức năng, mà còn ở cả phƣơng diện thời gian - lịch sử. Vấn đề
là cần phải nghiên cứu, phân tích các quy luật lịch sử - các quy luật hệ thống, xét đến các hiện
tƣợng riêng lẻ thông qua lăng kính hệ thống, từ đó xác định vị trí, vai trò của chúng trong các
mối quan hệ về mặt lịch sử. Tuy nhiên, khi vận dụng các quy luật hệ thống, chúng ta cần phải
tính đến cái chung và cái đặc thù trong sự vận động, phát triển của hệ thống. Cụ thể là,
- 103 -
con ngƣời không thể áp đặt cho hệ thống xã hội một sơ đồ chung cứng nhắc nào đó, mà phải
vận dụng các quy luật chung vào từng điều kiện lịch sử cụ thể, phải "phân tích cụ thể mỗi
tình hình cụ thể" [42, tr.201]. Thực tiễn cách mạng ở nƣớc ta cũng cho thấy, khi nào chúng ta
biết vận dụng các nguyên tắc phƣơng pháp luận một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ
thể, biết lấy "cái bất biến" ứng vào "cái vạn biến" - theo cách nói của Hồ Chí Minh - thì vai
trò và hiệu lực lãnh đạo của Đảng đƣợc tăng cƣờng.
Sự vận động và phát triển của hệ thống xã hội cho thấy tính cân bằng động, tính mở
của nó. Chúng bị quy định một cách cụ thể từ mâu thuẫn nội tại của hệ thống, từ sự đấu tranh
giữa cái mới và cái cũ, giữa cái truyền thống và cái hiện đại, giữa quá khứ và hiện tại, giữa
hiện tại và tƣơng lai. Giải quyết những vấn đề ấy làm cho hệ thống ngày càng đƣợc củng cố,
hoàn thiện và phát triển. Đặc biệt, hệ thống xã hội khác với hệ thống tự nhiên là ở chỗ nó
không chỉ là một hệ thống tự tổ chức, tự điều khiển, mà còn là một hệ thống tổ chức, điều
khiển. Quá trình phát triển của xã hội cần phải có sự thống nhất giữa tổ chức và tự tổ chức,
giữa điều khiển và tự điều khiển. Tổ chức của con ngƣời có vai trò quan trọng, song phải dựa
trên cơ sở của tự tổ chức, điều khiển phải dựa ttên cơ sở của tự điều khiển. Cơ chế hoạt động
ấy đảm bảo tính chỉnh thể, tính cân bằng động và sự phát triển của hệ thống. Nhƣ vậy, sự
hình thành và phát triển của xã hội gắn liền với cơ chế kết hợp giữa tự tổ chức và tổ chức.
Chẳng hạn, trong nền kinh tế thị trƣờng, cơ chế thị trƣờng có vai trò điều tiết nền kinh tế,
nhƣng do tính tự phát của cơ chế thị trƣờng mà nền sản xuất phải tuân theo quy luật giá trị,
do đó cần phải có sự tổ chức, quản lý sản xuất, phân công lao động xã hội, phối hợp giữa các
lĩnh vực khác nhau của nền sản xuất,... Điều đó, nhƣ C. Mác nói, cũng giống nhƣ "ngƣời độc
tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trƣởng" [55,
tr.480].
- 104 -
Tất cả những điều trên cho ta thấy, sự hình thành và phát triển của xã hội tuân theo
các quy luật khách quan, nhƣng khi các điều kiện khách quan đã trở nên chín muồi thì vai trò
của nhân tố chủ quan - nhân tố con ngƣời có ý nghĩa quyết định, và nói chung, thành công
của hoạt động thực tiễn phụ thuộc nhiều vào vai trò tích cực, sáng tạo của chủ thể nhận thức
và cải tạo. Do vậy, trong đời sống xã hội phải có sự thống nhất giữa cái chủ quan và cái
khách quan. Không hiểu đƣợc sự thống nhất này, hoặc coi thƣờng nó sẽ dẫn đến những sai
lầm tai hại của chủ nghĩa cực đoan.
Tóm lại, hệ thống xã hội biểu hiện nhƣ một bức tranh hết sức đa dạng và phức tạp, là
một chỉnh thể hữu cơ, vận động và phát triển theo các quy luật hệ thống. Do đó, hoạt động
thực tiễn của con ngƣời cũng phải đảm bảo tính trật tự, cân đối, hài hòa, tính đồng bộ, tính tổ
chức, tức là tính hệ thống. Muốn vậy, con ngƣời không chỉ biết các quy luật vận động, phát
triển của hệ thống mà quan trọng hơn là cần phải có những hình thức cụ thể vận dụng chúng
cho phù hợp trong hoạt động thực tiễn. Đúng nhƣ Iu. K. Plétnicốp nhấn mạnh: "Việc sử dụng
các quy luật xã hội không chỉ có khoa học mà cả nghệ thuật. Cơ chế của nó... là ở việc nhận
thức những yêu cầu của quy luật xã hội và bảo đảm những điều kiện tối ƣu để thực hiện
những yêu cầu đó [132, tr.24]. Ở góc độ này, phƣơng pháp hệ thống có vai trò hết sức quan
trọng, trƣớc hết là trong lĩnh vực tổ chức, quản lý xã hội.
3.1.2. Vai trò của phương pháp hệ thống trong tổ chức và quản lý xã hội
Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, cùng với
xu hƣớng toàn cầu hóa các quan hệ quốc tế và dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, thì việc
tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội
- 105 -
ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Trƣớc nhu cầu ấy, phƣơng pháp hệ thống có một tầm
quan trọng đặc biệt, nó là công cụ hữu hiệu ƣong việc tổ chức, quản lý các hệ thống xã hội.
- Về các khái niệm tổ chức và quản lý :
Tổ chức và quản lý là những hoạt động tối cần thiết ở bất kỳ mức độ phát triển nào
của xã hội. C.Mác đã khẳng định : "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào... thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực
hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, khác với
sự vận động của những khí quan độc lập của nó" [55, tr.480].
Tổ chức, quản lý nghĩa là kết hợp một cách tối ƣu trên thực tế các yếu tố, các nỗ lực
riêng lẻ nhằm đảm bảo tính trật tự, tính cân đối, hài hòa của đời sống xã hội. Nó thể hiện vai
trò tích cực, sáng tạo của con ngƣời trong việc củng cố, hoàn thiện và phát triển xã hội. Nó
"... là sự củng cố về mặt xã hội của phƣơng thức sản xuất, và do đó, của sự giải phóng tƣơng
đối của phƣơng thức sản xuất ấy khỏi sự chi phối của ngẫu nhiên đơn thuần và của sự tùy tiện
đơn thuần" [56, tr.503].
Những tiêu chí mà C.Mác đƣa ra ƣong việc xác định các khái niệm tổ chức và quản lý
cho ta thấy, hoạt động tổ chức và quản lý là không thể thiếu đƣợc và trong nhiều trƣờng hợp
chúng đồng nhất với nhau. Tuy nhiên, khái niệm quản lý có ngoại diên rộng hơn khái niệm tổ
chức. Về mối quan hệ giữa hai khái niệm này, các tác giả Liên Xô đã đƣa ra những ý kiến có
giá trị. Chẳng hạn, V.G.Aphanaxép viết :"Lao động tổ chức là lao động xây dựng trạng thái
trật tự của chủ thể và khánh thể quản lý, những quan hệ tƣơng ứng giữa chủ thể với khánh
thể, hệ thống thông tin, các liên hệ thuận và ngƣợc" [2, tr.144]. Têrêsenkô cho rằng tổ chức là
bộ khung của hoạt động quản lý : "Tổ chức là chỉ
- 106 -
một cấu trúc, một cái khung mà trong khuôn khổ của nó, các biện pháp nhất định đƣợc tiến
hành. Quản lý là một tổng thể những biện pháp phối hợp nhằm đạt tới một mục đích đã định.
Tổ chức là một thứ "giải phẫu học" của xí nghiệp; còn quản lý là "sinh lý học" của nó. Có thể
nói tổ chức là "trạng thái tĩnh" của sự việc, còn quản lý là "trạng thái động" của nó" [dẫn
theo: 2, tr.144].
Cần thấy rằng vấn đề tổ chức, quản lý ở các xã hội cụ thể khác nhau, trong các lĩnh
vực và các giai đoạn khác nhau hoàn toàn không giống nhau. Nó phụ thuộc vào các quy luật
và khuynh hƣớng phát triển của xã hội, phụ thuộc vào tính tích cực, sáng tạo của con ngƣời.
Nhƣ vậy, tổ chức, quản lý hệ thống xã hội mang tính lịch sử - cụ thể. Nội dung, mục đích,
nguyên tắc tổ chức và quản lý phụ thuộc vào bản chất của xã hội, phụ thuộc vào các mối
quan hệ kinh tế thống trị, phụ thuộc vào chế độ chính trị - xã hội,... Trong xã hội có giai cấp,
tổ chức và quản lý xã hội mang tính giai cấp, nó phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị,
giai cấp thống trị thiết lập nên hệ thống các tổ chức xã hội để tổ chức, quản lý xã hội cho phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình. Chính vì vậy, đối với cách mạng vô sản, V. I. Lênin nhấn
mạnh nhiệm vụ quan trọng là "đòi hỏi thằng các đảng viên phải thực tế bắt tay vào việc tổ
chức" [36, tr.303]. Đồng thời, khi khẳng định tổ chức với tƣ cách là một hệ thống, V. I. Lênin
viết: "Sức mạnh của giai cấp công nhân là ở tổ chức. Không có tổ chức quần chúng thì giai
cấp vô sản không là cái gì hết. Đƣợc tổ chức giai cấp vô sản sẽ là tất cả" [37, tr.163].
Với tầm quan trọng lớn lao của tổ chức và quản lý, phương pháp hệ thống thực sự là
một công cụ hữu hiệu, nó giúp cho quá trình tổ chức và quản lý xã hội một cách khoa học. Sở
dĩ nhƣ vậy vì :
Thứ nhất, phƣơng pháp hệ thống là công cụ nhằm hoàn thiện công việc tổ chức, quản
lý, mà trƣớc tiên để xác định thành phần, sắp xếp cấu trúc, chức năng
- 107 -
của các hệ thống, định hƣớng chúng trong việc giải quyết các vấn đề do khoa học và thực tiễn
đặt ra.
Trong việc xây dựng các hệ thống, công việc tổ chức và quản lý cần phải xác định
thành phần của hệ thống, chú ý đến những yếu tố chủ đạo, tính đến sự thay đổi của các yếu tố
và mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố. Có thể cải tạo những yếu tố cũ để hình
thành nên yếu tố mới và cũng có thể lựa chọn những yếu tố ở bên ngoài và chuyển thành các
yếu tố của hệ thống..., song quan trọng là cần phải tạo ra sự tác động đồng bộ, có phối hợp,
có tổ chức của các yếu tố.
Quá trình tổ chức, quản lý xã hội không chỉ tính đến những tác động qua lại của các
yếu tố bên trong hệ thống mà kể cả với những tác động từ bên ngoài, từ môi trƣờng. Vì vậy
cách tiếp cận tổng thể, phối hợp, phức hợp mà phƣơng pháp hệ thống mang lại có một ý
nghĩa vô cùng to lớn. Thực tiễn đã chứng minh rằng, nếu biết tổ chức, phối hợp, liên kết các
yếu tố một cách tốt nhất và thiết lập một cách hợp lý nhất với môi trƣờng sẽ tạo ra sự phát
triển cao. Ngƣợc lại, nếu không làm đƣợc điều đó sẽ không tạo đƣợc sức mạnh chung của
toàn thể hệ thống và cũng hạn chế khả năng phát triển của các yếu tố. Vấn đề quan trọng là
phải tạo ra cơ chế: hiệu quả quyết định đến sự phát triển bền vững.
Trong việc sắp xếp cấu trúc, chủ thể tổ chức và quản lý cần phải tiến hành phân tích
cấu trúc, tính đến mối quan hệ giữa cấu trúc và yếu tố, cấu trúc và hệ thống, cấu ƣúc và chức
năng. Để hoàn thiện hệ thống, phải tìm cho đƣợc các yếu tố và các mối liên hệ giữa các yếu
tố đã làm hạn chế sự phát triển của hệ thống, tức là phải tìm ra điểm yếu của hệ thống. Để
xây dựng hệ thống mới, cần tính toán sao cho khi kết hợp các yếu tố thành hệ thống phải tạo
ra sức mạnh tối ƣu.
- 108 -
Việc điều hành hệ thống xét theo chức năng cũng là nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho
công việc tổ chức và quản lý. Do trong từng hệ thống, mỗi yếu tố đều thực hiện một chức
năng nhất định và hƣớng tới việc thực hiện chức năng chung, cho nên chủ thể tổ chức và
quản lý cần phải xác định chức năng riêng của từng yếu tố, tránh sự chồng chéo, trùng lắp. V.
I. Lênin chỉ rõ: "Chúng ta cần có một đại hợp tấu; chúng ta phải xây dựng kinh nghiệm cho
mình để có thể phân phối đúng các vai trong dàn hợp tấu, để đối với ngƣời này thì giao cây vĩ
cầm đầy tình cảm, đối với ngƣời kia thì giao cây đàn trầm cuồng bạo, đối với ngƣời khác nữa
thì giao cho cây gậy chỉ huy dàn nhạc" [36, tr.108].
Cần lƣu ý rằng, sau khi phân phối chức năng cho từng yếu tố, chủ thể tổ chức và quản
lý cần phải có biện pháp phối hợp các chức năng với nhau để tạo ra sự hoạt động cân đối,
nhịp nhàng của toàn bộ hệ thống. Do đó việc phân phôi và phối hợp các chức năng một cách
hợp lý sẽ mang lại những hiệu quả thiết thực.
Thứ hai, phƣơng pháp hệ thống còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xác định
mục tiêu, hoạch định và thực hiện các chương trình, cũng nhƣ tiếp nhận các giải pháp trong
quá trình tổ chức, quản lý hệ thống.
Nói đến hệ thống là nói đến mục tiêu, bởi vì mọi hệ thống xã hội đều có tính hƣớng
đích, đều có xu hƣớng tìm đến mục tiêu là một trạng thái cân bằng nào đó. Mỗi hệ thống xã
hội đều có mục tiêu tổng thể và mục tiêu riêng của từng yếu tố, do đó quá trình tổ chức, quản
lý hệ thống cần phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các mục tiêu riêng để bảo đảm
cho hệ thống hoạt động cân đối, hài hòa và phát triển thuận lợi. Ở đây, phƣơng pháp hệ
thống giúp ta có thể hình dung đầy đủ các khả năng thực tế và cách thức tổ chức, quản lý hệ
thống để đạt đƣợc các mục tiêu đề ra. Trong tổ chức và quản lý xã hội việc xác định mục tiêu
một cách đúng đắn sẽ giúp cho việc tìm các giải pháp và xây dựng các cơ
- 109 -
chế tổ chức, quản lý phù hợp với thực tế. Trong các hệ thống xã hội mục tiêu và lợi ích gắn
bó chặt chẽ với nhau, mục tiêu luôn xuất phát từ lợi ích và nhằm để đạt đƣợc lợi ích nhất
định, vì vậy để phối hợp đƣợc các mục tiêu thì cần phải phối hợp đƣợc các lợi ích.
Phƣơng pháp hệ thống yêu cầu quá trình tổ chức và quản lý phải bắt đầu bằng việc
xác định mục tiêu tổng thể và sau đó mới tiến hành mô tả, phân tích hệ thống theo hƣớng mục
tiêu tổng thể đó. Xuất phát từ mục tiêu tổng thể, ngƣời ta chú ý đến các yếu tố cấu thành hệ
thống, đến cách thức phối hợp, vận hành của các yếu tố, đến các nguồn lực mà hệ thống có
thể sử dụng, đến môi trƣờng mà hệ thống đó tồn tại, ... Tƣ duy hệ thống giúp cho chủ thể tổ
chức, quản lý nhìn nhận vấn đề phải giải quyết một cách tổng thể, khái quát, nắm đúng cốt lõi
của vấn đề và nhanh chóng tìm đƣợc điểm xuất phát để giải quyết vấn đề đó.
Phƣơng pháp hệ thống chỉ ra rằng hệ thống càng phát triển thì mức độ phức tạp của
nó càng lớn, tối ƣu đối với bộ phận không phải lúc nào cũng dẫn đến tối ƣu về toàn thể, và
ngƣợc lại, tối ƣu toàn thể không phải lúc nào cũng dẫn đến tối ƣu bộ phận. Ở phƣơng diện
này, phƣơng pháp hệ thống đóng vai trò là công cụ xây dựng hệ thống mục tiêu, gồm hai
nguyên lý cơ bản: một là, nguyên lý cụ thể hóa các mục tiêu tổng thể thành các mục tiêu chi
tiết và hình thành hệ thống mục tiêu thứ bậc; hai là, nguyên lý xác định chuẩn xác mục tiêu
tổng thể gắn liền với dự báo tình thế ƣong tƣơng lai.
Xuất phát từ mục tiêu tổng thể, để bảo đảm cho sự hoạt động và phát triển của hệ
thống, các chủ thể tổ chức và quản lý không chỉ thay đổi các yếu tố cũ, chính sách cũ, mà còn
tạo ra những yếu tố mới, chính sách mới, những cơ chế mới, song quan trọng là ở chỗ, việc
hoạch định hệ thống các chính sách cần phải thống nhất với việc tổ chức thực hiện, tức là với
các giải pháp, biện pháp thực hiện trong thực tiễn.
- 110 -
Thứ ba, phƣơng pháp hệ thống có vai trò to lớn trong việc xác định và sử dụng nguồn
lực.
Phƣơng pháp hệ thống đòi hỏi phân tích hệ thống theo mục tiêu tổng thể, xác định cấu
trúc, chức năng của hệ thống và mối quan hệ giữa hệ thống với môi trƣờng gắn liền với việc
phân tích các nguồn lực. Nguồn lực là tất cả các yếu tố và phƣơng tiện mà hệ thống có thể sử
dụng để thực hiện mục tiêu của mình. Chẳng hạn, trong hệ thống kinh tế, có thể chia nguồn
lực ra thành: nguồn tài sản nhƣ tài nguyên thiên nhiên, máy móc, nguyên liệu, phƣơng tiện
vận tải,... và nguồn nhân lực. Xác định mục tiêu của hệ thống là một công việc khó nhƣng
xác định nguồn lực và sức mạnh thật sự của nó lại càng khó hơn. Chính vì nguồn lực đóng
vai trò hết sức quan ƣơng, cho nên chủ thể tổ chức, quản lý phải đặc biệt chú ý đến việc sử
dụng nguồn lực một cách có hiệu quả nhất.
Thứ tư, phƣơng pháp hệ thống có ý nghĩa thực tiễn quan Ƣơng trong việc xây dựng
mô hình tổng hợp.
Trong tổ chức và quản lý hệ thống việc phân tích hệ thống có vai trò biến các nhiệm
vụ phức tạp và khó giải quyết thành các nhiệm vụ đơn giản hơn và có phƣơng án giải quyết
phù hợp. Song phân tích hệ thống gắn liền, thống nhất với tổng hợp hệ thống. Trong giai
đoạn này chủ thể tiến hành phối hợp, liên két hoạt động của các yếu tố để đạt đƣợc mục tiêu
tổng thể. Đây là bƣớc tìm các giải pháp chung nhờ sự kết hợp tất cả các giải pháp riêng thành
một chỉnh thể. Giai đoạn tổng hợp giúp ta sử dụng các kết quả đã đạt đƣợc trong giai đoạn
phân tích và nó có vai trò quan trọng trong việc xây dựng mô hình tổng hợp. Các mô hình
đƣợc áp dụng trong tổ chức, quản lý hệ thống có nhiều thể loại khác nhau, với các cấp độ
khác nhau, tùy thuộc vào các khả năng hiện có và nhiệm vụ mà chủ thể đặt ra. Chẳng hạn,
vấn đề bức thiết hiện nay khi nghiên cứu xã hội là xây dựng các mô hình xã hội, mà nhiệm vụ
trọng tâm là tìm kiếm những con
- 111 -
đƣờng, những phƣơng tiện hiện thực để mô tả một cách đầy đủ hơn về hệ thống xã hội. Hay
một loại mô hình tổng hợp liên quan trực tiếp đến các nấc thang giá trị thể hiện rất rõ trong
lĩnh vực kinh tế, kiến trúc đô thị,... Điều này cho ta thấy quá trình tổ chức, quản lý hệ thống
xã hội cần phải tính đến đầy đủ các đặc trưng của hệ thống.
Vậy, phƣơng pháp hệ thống là công cụ hữu hiệu trong hoạt động thực tiễn nói chung,
trong tổ chức và quản lý xã hội nói riêng. Việc áp dụng phƣơng pháp hệ thống có tác dụng
tích cực đến nếp suy nghĩ, phong cách tƣ duy, xây dựng lề lối làm việc khoa học, nhờ đó góp
phần thiết thực vào sự phát triển của con ngƣời và xã hội. Trong giai đoạn đổi mới đất nƣớc
ta hiện nay, phƣơng pháp hệ thống lại càng trở nên quan trọng hơn. Nó giúp chúng ta hiểu rõ
hơn và thực hiện có hiệu quả hơn quá trình đổi mới, đặc biệt trong việc tổ chức và quản lý tất
cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
3.2. Một số vấn đề về dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và
quản lý xã hội ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, nƣớc ta đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Thực tiễn cho thấy, đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trên từng lĩnh vực, nội dung đổi mới cũng bao gồm nhiều mặt : từ đổi
mới quan niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức, quản lý, phong cách và lề lối làm
việc. Công cuộc đổi mới đang đặt ra cho đất nƣớc hàng loạt các nhiệm vụ bức bách, nặng nề
cần đƣợc giải quyết. Trƣớc những nhiệm vụ ấy, quá trình tổ chức và quản lý xã hội cần phải
đƣợc sự hƣớng dẫn của hệ thống các phƣơng pháp khoa học, trong đó
- 112 -
vận dụng phương pháp hệ thống được xem là một công cụ tất yếu, đầy hữu hiệu đối với tổ
chức và quản lý tất cả các lĩnh vực của xã hội ta hiện nay.
3.2.1. Vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế.
Lĩnh vực kinh tế là một trong các lĩnh vực cơ bản nhất của đời sống xã hội; xét đến
cùng, nó quyết định tất cả các lĩnh vực khác : xã hội, chính trị và tinh thần. Trong công cuộc
đổi mới hiện nay, nền kinh tế mà chúng ta xây dựng và phát ƣiển là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tính cách là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá
ƣình đổi mới, về nguyên tắc chung, đổi mới lĩnh vực kinh tế phải nằm trong nguyên tắc
chung của đổi mới toàn bộ xã hội. Đó là đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhƣng phải có
bƣớc đi, hình thức và cách làm thích hợp. Trong đó, chúng ta cần phải kết hợp ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bƣớc
đổi mới chính trị và chủ trƣơng : "Tăng trƣởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trƣờng sinh thái" [16, tr.72 ].
Chính đổi mới kinh tế không những tạo ra và bảo đảm sự tăng trƣởng, phát triển bền vững
của toàn bộ nền kinh tế, ổn định xã hội, mà còn tạo ra những điều kiện cần thiết để triển khai
các quá trình chính trị, xã hội, văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, ...
Xuất phát từ nguyên tắc chỉ đạo trên đây, việc vận dụng phương pháp hệ thống vào
việc tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế ở nƣớc ta hiện nay cần phải hƣớng tới mục tiêu tổng
thể là "... xây dựng nƣớc ta thành một nƣớc công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lƣợng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nƣớc
mạnh, xã hội công bằng, văn minh". [16, tr.80 ]
- 113 -
Dƣới góc độ tổ chức và quản lý kinh tế, thực chất của đổi mới kinh tể là một quá trình chuyển
đổi về chính sách, thể chế, tổ chức kinh tế ở tầm vĩ mô và vi mô nhằm đƣa nền kinh tế từ một
hệ thống kinh tế này sang một hệ thống kinh tê khác, đem lại sự thay đổi về cơ cấu kinh tế,
thể chế kinh tế cũng nhƣ động thái, hành vi và thói quen của các chủ thể tham gia vào hoạt
động kinh tế thích ứng với hệ thống kinh tế mới đƣợc hình thành.
Nhƣ vậy, quá trình tổ chức và quản lý nền kinh tế không chỉ tập trung vào những lĩnh
vực thuần tuý kinh tế, mà còn đòi hỏi phải đổi mới các thể chế, tổ chức, chính sách của Nhà
nƣớc, liên quan đến kinh tế.
Do tính chất bao quát quá rộng của vấn đề, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một số vấn
đề then chốt liên quan trực tiếp và quyết định đến hiệu quả của tổ chức, quản lý lĩnh vực kinh
tế.
Quan điểm bao trùm mang tính nguyên tắc trong tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế
là cần phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và tăng cường sự quản lý của Nhà nước.
Thứ nhất, vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế đƣợc thực hiện bằng việc
Đảng quyết định mục tiêu, phƣơng hƣớng kế hoạch, cân đối ngân sách, chính sách về các
thành phần kinh tế, chuyển dịch cơ cấu, đổi mới cơ chế quản lý, quy hoạch một số ngành
trọng yếu,...
Thứ hai, vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã
hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm quyền lực kinh tế của nhân dân đƣợc thực hiện không phải bằng
việc Nhà nƣớc can thiệp trực tiếp vào mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh làm hạn chế tối đa
quyền chủ động của cơ sở và ngƣời lao động. Vai trò đó đƣợc hoàn thành bằng việc Nhà
nƣớc thực hiện ngày càng có hiệu quả cao chức năng quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, nhằm
kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa và đƣa các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Hơn nữa,
hiện
- 114 -
nay sự nghiệp đổi mới đang đi vào chiều sâu, vì vậy vấn đề cụ thể hóa đƣờng lối, chủ trƣơng
của Đảng bằng những chính sách đúng đắn, bằng các cơ chế và giải pháp thích hợp càng trở
nên quan trọng.
Trong khi nhấn mạnh đổi mới và tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nƣớc về kinh tế - xã hội, vấn đề tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế ở nƣớc ta hiện nay cần
phải giải quyết hàng loạt các nhiệm vụ, trong đó xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vừa là nhiệm vụ vừa là mục
tiêu trung tâm và hàng đầu.
1. Về xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất:
Theo quan niệm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa
xã hội chỉ có thể ra đời và chiến thắng trên cơ sở lực lƣợng sản xuất hiện đại, một kiểu tổ
chức lao động xã hội cao hơn, có năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tƣ bản. Lực lƣợng
sản xuất đó một mặt kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa tƣ bản, mặt khác phải phát triển
và hoàn thiện hơn. Do những điều kiện lịch sử đặc thù mà Việt Nam, một nƣớc kinh tế nông
nghiệp lạc hậu lại có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Vì vậy, yêu
cầu phát triển lực lƣợng sản xuất càng đƣợc đặt ra một cách cơ bản và cấp bách, và để phát
triển lực lƣợng sản xuất thì nhất thiết phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới đang
phát triển nhƣ vũ bão, loài ngƣời đang từ nền văn minh công nghiệp chuyển sang nền văn
minh trí tuệ, thì chủ trƣơng công nghiệp hóa thôi không đủ để đƣa nền kinh tế nƣớc ta phát
triển lên trình độ hiện đại, do đó để khắc phục nguy cơ tụt hậu, công nghiệp hóa phải gắn liền
với hiện đại hóa. Chính sự kết hợp hữu cơ công nghiệp hóa với hiện đại hóa cùng với các tiền
để kinh tế, chính
- 115 -
trị, văn hóa, xã hội khác cho phép quá trình công nghiệp hóa ở nƣớc ta cũng là một quá trình
rút ngắn thời gian so với các nƣớc đi trƣớc, vừa có bƣớc tuần tự, vừa có bƣớc nhảy vọt.
Chúng ta không nhất thiết phải lặp lại mọi khâu, mọi bƣớc của quá trình công nghiệp hóa đã
diễn ra ở các nƣớc, mà tùy lĩnh vực, khả năng và điều kiện có thể đi tắt, đón đầu, bỏ qua một
số khâu, một số bƣớc, đi thẳng lên cái hiện đại nhất của thế giới.
Song, cần lƣu ý rằng, nếu từ nền văn minh nông nghiệp đi lên, chúng ta có thể đi
thẳng lên nền văn minh trí tuệ ở một số khâu và lĩnh vực nào đó thì về toàn bộ chúng ta lại
không thể bỏ qua trình độ văn minh công nghiệp, bởi vì không có nền công nghiệp phát triển
thì cũng không có sự ra đời vững chắc của kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Chính vì thế
trong những năm trƣớc mắt, chúng ta cần phải phát huy những lợi thế của đất nƣớc, gắn công
nghiệp hóa với hiện đại hóa trong từng bƣớc, tiếp cận với kinh tế tri thức.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc trong giai đoạn hiện nay vừa là
biện pháp, vừa là nhiệm vụ bức bách để xây dựng và phát ƣiển lực lƣợng sản xuất hiện đại,
thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nƣớc ta phải là quá
ƣình hƣớng tới sự phát triển hài hòa và căn đối giữa phát triển con ngƣời và phát triển khoa
học công nghệ, giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, giữa phát triển kinh tế xã hội và
bảo vệ tự nhiên, bảo đảm cân bằng sinh thái. Thực chất đó là một quá trình phát triển bền
vững và toàn diện, có tính nhăn văn.
Để thực hiện đƣợc mục tiêu xây dựng và phát triển một lực lƣợng sản xuất hiện đại,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, quá trình tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh
tế cần giải quyết hàng loạt các nhiệm vụ quan trọng và bức xúc.
- 116 -
Trước hết, cần xây dựng và phát triển nguồn nhân lực mới để đáp ứng yêu cầu bức
bách của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để làm đƣợc điều đó, cần kết hợp giữa đào tạo lại và
đào tạo mới để nâng cao chất lƣợng toàn diện của nguồn nhân lực; khắc phục sự mất cân đối
trong cơ cấu, phân bố và phân công lao động; tổ chức và sử dụng nguồn nhân lực một cách
hợp lý để đáp ứng yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tăng cƣờng đào tạo và khuyến
khích phát triển đội ngũ các nhà doanh nghiệp và quản lý doanh nghiệp giỏi; nâng cao năng
lực và phẩm chất của đội ngũ công chức nhà nƣớc trong tổ chức và quản lý hoạt động của
nền kinh tế.
Thứ hai, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến về khoa học và công nghệ,
đặc biệt là công nghệ thông tin. Cụ thể là, cần phải sử dụng những thành tựu khoa học-công
nghệ hiện đại để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và theo vùng lãnh thổ trên cơ sở khai
thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của từng ngành, từng vùng; đồng thời bảo đảm sự phối hợp
nhịp nhàng, đồng bộ giữa các ngành, các vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả các ngành,
các vùng đều phát triển trong một cơ cấu hợp lý. Muốn vậy, có thể cần lấy nhập công nghệ,
cải tiến công nghệ nhập là chính để đổi mới công nghệ, nâng cao tiềm lực công nghệ quốc
gia. Cần đầu tƣ thích đáng cho việc đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp nhà nƣớc có vị
trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế, các trung tâm kinh tế lớn. Chúng ta cần phải kết hợp
việc áp dụng công nghệ mới với đổi mới công nghệ truyền thống, tạo ra năng lực công nghệ
nội sinh ở một số lĩnh vực, nhất là ở các lĩnh vực mũi nhọn. Đặc biệt, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhất thiết phải gắn với phân công mới và phân công lại lao động xã hội, cùng với việc
thực hiện một hệ thống chính sách xã hội đồng bộ, nhất quán (về dân số, môi trƣờng, y tế,
giáo dục-đào tạo,...) để giải quyết việc làm cho ngƣời lao động.
- 117 -
Thứ ba, do đặc điểm của Việt Nam, trong việc xây dựng và phát triển lực lƣợng sản
xuất hiện đại, cần phải coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là một
trọng điểm cần tập trung chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết. Cần phấn đấu giảm nhanh tỷ lệ
lao động nông nghiệp, một lĩnh vực chiếm tỷ lệ trên 70% lực lƣợng lao động xã hội, bằng
cách đẩy mạnh đầu tƣ để tăng tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động giữa các
vùng lãnh thổ trên phạm vi toàn quốc và ở ngay địa bàn nông thôn. Nhà nƣớc cần có chiến
lƣợc và chính sách đầu tƣ lớn và dài hạn vào việc đào tạo lao động kỹ thuật, xây dựng hạ tầng
kỹ thuật, ứng dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, phát triển
các mô hình sản xuât mới ở nông thôn nhƣ hợp tác xã kiểu mới, trang trại....
Toàn bộ quá trình xây dựng và phát triển một lực lƣợng sản xuất hiện đại không thể
chỉ là quá trình thuần túy kỹ thuật, nhằm các mục tiêu kinh tế, mà còn phải là một quá ƣình
xã hội, mang tính nhân văn, hƣớng tới mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng và
phát triển toàn diện con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Về xây dựng quan hệ sản xuất:
Mục tiêu phát triển của toàn bộ nền kinh tế nƣớc ta là tiến lên một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lƣợng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tƣ liệu sản xuất chủ
yếu. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc xây dựng và phát triển lực lƣợng sản xuất không
thể tách rời với việc xây dựng các quan hệ sản xuất.
Thực chất của quan hệ sản xuất là việc giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế của các thành
viên trong xã hội. Các quan hệ sản xuất khác nhau chỉ là các phƣơng thức giải quyết lợi ích
khác nhau. Đến lƣợt mình, phƣơng thức giải quyết
- 118 -
lợi ích kinh tế phụ thuộc vào quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, tiêu dùng.
Thực chất của quá trình phát triển của các quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta là quá trình phát triển bỏ qua sự xác lập địa vị chủ đạo của quan
hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa, tìm tòi những hình thức kinh tế quá độ về sở hữu, quản lý và
phân phối phù hợp với trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất. Do vậy, trong công cuộc
đổi mới hiện nay, cần phải thiết lập từng bƣớc quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho nó
ngày càng chiếm vai trò chủ đạo, và đến khi kết thúc thời kỳ quá độ phải chiếm địa vị thống
trị. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không quay trở lại với cách làm cũ, xã hội hóa một cách
hình thức, thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa một cách chủ quan, duy ý chí trong khi
chƣa có lực lƣợng sản xuất tƣơng ứng.
Đảng và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý của
Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã
hội chủ nghĩa. Đảng ta nhấn mạnh: "Nếu công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo nên lực lƣợng sản
xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là
để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp". [16, tr.24]
Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta vừa có những đặc điểm
phổ biến của mọi nền kinh tế thị trƣờng, vừa có những đặc trƣng riêng. Đó là nền kinh tế thị
trƣờng để phát triển chủ nghĩa xã hội chứ không phải để phát triển chủ nghĩa tƣ bản; là nền
kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần kinh tế tham gia bình đẳng với nhau, nhƣng thành phần
kinh tế nhà nƣớc ngày càng giữ vai trò chủ đạo; kết hợp chặt chẽ giữa thị trƣờng và kế hoạch;
một nền kinh tế thị trƣờng văn hóa và nhân văn, giải quyết hài hòa giữa tăng trƣởng kinh tế
và
- 119 -
công bằng xã hội, an ninh xã hội và an ninh môi sinh, nâng cao không ngừng chất lƣợng cuộc
sống của nhân dân; một nền kinh tế mở, chủ động tham gia quá trình toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế, khai thác tối đa nguồn lực bên ngoài, nhƣng giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập,
lấy phát huy nội lực là chính, phát triển bền vững.
Kinh tế nhiều thành phần là một hệ thống những thành phần kinh tế khác nhau, dựa
trên những quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối khác nhau, trong một nền kinh tế quốc dân
thống nhất. Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lƣợc lâu dài, có tính quy
luật từ nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, bảo
đảm mọi ngƣời làm ăn theo pháp luật. Các hình thức sở hữu về tƣ liệu sản xuất vốn có bản
chất riêng, nhƣng trong hoạt động sản xuất kinh doanh không ngăn cách nhau, mà có nhiều
loại hình hỗn hợp đan kết với nhau. Sự vận động kinh tế trên chặng đƣờng hiện nay ở nƣớc ta
về cơ bản đã hình thành năm thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế quốc dân thông nhất do
Nhà nƣớc hƣớng dẫn, kiểm soát và điều tiết, với kinh tế nhà nƣớc nắm những vị trí then chốt
và đóng vai trò chủ đạo, là "đài chỉ huy", là "mạch máu" của nền kinh tế, các đơn vị sản xuất
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với
nhau trên cơ sở bình đẳng trƣớc pháp luật.
Để kinh tế nhà nƣớc đóng vai trò chủ đạo, chúng ta cần tiếp tục đổi mới và phát triển
khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc. Liên quan đến vấn đề này, chúng ta đang cố gắng đẩy mạnh
sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nƣớc, và trên cơ sở đó, tiến hành các biện pháp đổi mới cơ
chế quản lý, chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này. Điều cần
lƣu ý là, hiệu quả kinh tế vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế quốc dân không tách rời hiệu quả
kinh tế vi mô của các doanh nghiệp nhà nƣớc; nếu doanh nghiệp nhà nƣớc kém hiệu quả và
- 120 -
sức cạnh tranh thì vai trò chủ đạo của nó không thể phát huy và làm suy giảm sức cạnh tranh
của toàn bộ nền kinh tế. Bởi vậy, tiếp tục đổi mới và phát triển khu vực doanh nghiệp nhà
nƣớc là yêu cầu tất yếu cho việc duy trì và nâng cao tốc độ tăng trƣởng kinh tế, tăng cƣờng
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Cùng với việc tiếp tục đổi mới và phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc, chúng ta
cần phát triển các loại hình doanh nghiệp thuộc kinh tế hợp tác, kinh tế tƣ bản nhà nƣớc, kinh
tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tƣ bản tƣ nhân. Để thực hiện đƣợc điều đó, Nhà nƣớc cần phải
tiếp tục hoàn thiện môi trƣờng sản xuất kinh doanh theo pháp luật, tạo điều kiện cần thiết cho
các doanh nghiệp và nhân dân đầu tƣ phát triển các hình thức hợp tác, liên kết giữa các thành
phần kinh tế.
Quá trình phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần ở nƣớc ta lên chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể đƣợc thực hiện với điều kiện phát huy vai trò hoạt động tự giác của chủ thể cách
mạng, đặc biệt là của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa trong tổ chức, quản lý nền kinh tế, làm cho
kinh tế nhà nƣớc và kinh tế hợp tác kết hợp chặt chẽ với nhau, trỏ thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân, kinh tế nhà nƣớc càng giữ địa vị chủ đạo. Chỉ ƣơng điều kiện đó, các thành
phần kinh tế khác mới phát huy đƣợc tác dụng tích cực, thúc đẩy lực lƣợng sản xuất phát ƣiển
bền vững, làm cho độc lập, tự chủ đƣợc giữ vững, đất nƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội, xu hƣớng
tự phát tƣ bản chủ nghĩa sẽ bị đẩy lùi từng bƣớc và tránh nguy cơ chệch hƣớng xã hội chủ
nghĩa.
Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta chỉ có thể đƣợc thực
hiện thắng lợi với điều kiện tiên quyết là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và tăng cƣờng vai
trò quản lý của Nhà nƣớc. Sử dụng có hiệu quả "bàn tay hữu hình" của nhà nƣớc kết hợp với
"bàn tay vô hình" của thị trƣờng theo hƣớng phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trƣờng,
khắc phục kịp thời những mặt tiêu
- 121 -
cực của nó. Muốn vậy, Nhà nước cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nhầm mục
tiêu xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị
trường. Cụ thể là:
Thứ nhất, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bƣớc hoàn thiện các loại thị
trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề rất quan trọng, bởi lẽ nền kinh tế thị
trƣờng chỉ hoạt động có hiệu quả trong điều kiện các loại thị trƣờng hoạt động thông suốt và
đồng bộ. Đƣơng nhiên, sự phát triển của từng loại thị trƣờng và sự đồng bộ giữa chúng cũng
chính là sự phản ánh mức độ chín muồi của bản thân nền kinh tế.
Thứ hai, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa, khắc phục những yếu kém hiện nay, gỡ bỏ những vƣớng mắc cản trở sự phát triển.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nƣớc đối với nền kinh tế.
Đó là: Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về kinh tế; đổi mới công tác kế hoạch hóa; đổi mới các
chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả; đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế;
tăng cƣờng công tác đào tạo và bồi dƣỡng cán bộ quản lý kinh tế;...
Tóm lại, nhờ áp dụng phƣơng pháp hệ thống vào tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế
với các giải pháp, biện pháp đồng bộ và hợp lý, chúng ta sẽ thực hiện đƣợc mục tiêu xây
dựng và phát triển kinh tế với một tốc độ tăng trƣởng nhanh và bền vững, tạo cơ sở vững
chắc để tổ chức và quản lý các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
3.2.2. Vận dụng phương pháp hệ thông vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực xã hội.
Nói đến lĩnh vực xã hội là nói đến hệ thống các mối liên hệ, quan hệ giữa các yếu tố
khác nhau của chỉnh thể xã hội : giữa những cá nhân và giữa những
- 122 -
cộng đồng xã hội (giai cấp, dân tộc, gia đình, ...). Đây là một trong những lĩnh vực trọng yếu
nhất của xã hội, nó hầu nhƣ bao trùm mọi mặt của đời sống con ngƣời, quan hệ trực tiếp đến
lợi ích của từng con ngƣời và các cộng đồng ngƣời ƣơng xã hội. Vì vậy, việc tổ chức, quản lý
lĩnh vực xã hội ở nƣớc ta hiện nay hƣớng tới mục tiêu bao trùm là tiến bộ và công bằng xã
hội.
Hiện nay, thích ứng với nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sở hữu đa
dạng thì công bằng xã hội cần phải đƣợc dựa trên nguyên tắc : "Thực hiện nhiều hình thức
phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân
phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân
phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của
ngƣời lao động" [16, tr.l 13 - 114]. Điều đó cũng có nghĩa, công bằng xã hội trong giai đoạn
hiện nay cần phải đƣợc hiểu : cống hiến ngang nhau, đƣợc hƣởng ngang nhau. Cống hiến ở
đây đƣợc hiểu là cả một quá trình, bằng và từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó lao động đƣợc
thực hiện là một cơ sở chủ yếu, chứ không phải là cơ sở duy nhất để tính phần của cải xã hội
mà họ đƣợc hƣởng.
Với mục tiêu trên, vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý lĩnh
vực xã hội ở nƣớc ta hiện nay thể hiện ở sự thống nhất giữa hệ thống các chính sách xã hội
và việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, để thực hiện mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội,
việc hoạch định các chính sách xã hội không chỉ dựa trên cơ sở kết hợp với chính sách kinh
tế, chính trị, văn hóa - tinh thần, mà quan trọng hơn là cần xuất phát từ thực tiễn và truyền
thống lâu đời của đất nƣớc, xuất phát từ các điều kiện vật chất có thể làm cơ sở cho việc thực
thi các chính sách đó. Điều đó vừa thể hiện tính khoa học của hoạt động, vừa thể hiện tính ƣu
việt của chế độ ta. Bởi vậy, khi chúng ta còn chƣa thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thì trƣớc
tiên
- 123 -
phải chú trọng phát triển kinh tế, song sẽ là sai lầm nếu không quan tâm giải quyết tốt những
vấn đề xã hội, không tạo ra sự phát triển cân đối, hài hòa giữa kinh tế và xã hội. Nhận thức
một cách đầy đủ tầm quan trọng của chính sách xã hội, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Đảng ta vạch rõ : "Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con ngƣời;
điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan
hệ dân tộc... Coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con ngƣời trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội" [12, tr.86].
Để giải quyết các vấn đề xã hội đạt kết quả, chính sách xã hội phải xác định đƣợc
phƣơng hƣớng đúng đắn. Cụ thể là : "Phát huy nhân tố con ngƣời trên cơ sở bảo đảm công
bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trƣởng kinh tế với tiến
bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trƣớc mắt
với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội" [13, tr.13]. Trong
những năm trƣớc mắt, chính sách xã hội hƣớng vào việc ổn định và lành mạnh hóa xã hội,
thực hiện công bằng trong phân phối, bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân
dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội do phân hóa giàu nghèo
gây ra, khắc phục dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi.
Nói đến chính sách xã hội, thực chất là chúng ta nói đến một hệ thống các chính sách
nhất định. Hệ thống chính sách xã hội phản ánh những giá trị nhân văn của nền văn hóa Việt
Nam, thể hiện lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng công dân,
điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích giữa con ngƣời với con ngƣời, giữa con ngƣời với xã hội,
nhằm mục đích cao nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Mọi chính sách xã hội đƣợc thực hiện theo tinh thần xã hội hóa. Một
- 124 -
mặt, chính sách xã hội không tách rời chính trị, không tách rời các chính sách kinh tế, văn
hóa, quốc phòng, an ninh, tài nguyên, môi trƣờng,...; Mặt khác, các chính sách xã hội tuy có
nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau song chúng không thể biệt lập với nhau hoặc tách rời nhau,
trái lại chúng có quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong một
chỉnh thể thống nhất. Một chính sách xã hội cụ thể cũng có thể cùng lúc góp phần giải quyết
nhiều vấn đề khác nhau hoặc là nhiều chính sách có thể giải quyết một vấn đề. Khi một
nhiệm vụ chủ yếu của một chính sách cụ thể nào đó đƣợc giải quyết, thì có thể đó lại là tiền
đề, là điều kiện để giải quyết nhiệm vụ của một chính sách khác. Do đó, khi hoạch định các
chính sách xã hội, nhất thiết phải đứng trên quan điểm đồng bộ, quan điểm tổng thể, tức là
bảo đảm tính hệ thống.
Với cách hiểu ấy, ở đây chúng ta chỉ đề cập đến một số vấn đề cơ bản nhất của lĩnh
vực xã hội ở nƣớc ta hiện nay mà công việc tổ chức và quản lý đặt ra dƣới quan điểm hệ
thống.
Nhƣ chúng ta biết, trong các yếu tố cấu thành lĩnh vực xã hội của xã hội có giai cấp
thì quan hệ giai cấp đóng vai trò chi phối. Song vấn đề giai cấp thống nhất với vấn đề dân tộc,
do đó giải quyết mối quan hệ giai cấp liên quan mật thiết với giải quyết mối quan hệ dân tộc.
Do đó, một ƣong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình tổ chức, quản lý lĩnh vực xã hội ở
nƣớc ta hiện nay là giải quyết tốt mối quan hệ xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc nhằm góp
phần hoàn thiện cơ cấu xã hội, củng cố sự đoàn kết thống nhất ƣơng xã hội. Giải quyết tốt
những vấn đề then chốt đó đóng vai ữò là cơ sở, nền tảng và tác động tích cực đến việc giải
quyết các vấn đề xã hội khác.
1. về quan hệ giai cấp :
- 125 -
Trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc hiện nay, tƣơng ứng với cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, đó là cơ cấu giai cấp đa dạng, phức tạp bao gồm nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội khác
nhau : Ngoài giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân
dân lao động khác, còn có tầng lớp tƣ sản, tầng lớp này có điều kiện phát triển trong nền kinh
tế thị trƣờng. Trong cơ cấu ấy, giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo thông qua đội tiên
phong của mình là Đảng Cộng sản; liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức trở thành cơ sở nền tảng xã hội của xã hội mới.
Khẳng định vai trò nòng cốt của khối liên minh công - nông - trí thức, cho nên vấn đề
giải quyết mối quan hệ giai cấp cần phải chú trọng tăng cƣờng và củng cố khối liên minh này,
để nó ngày càng phát huy tác dụng mạnh mẽ trong đời sống xã hội.
Điều này đòi hỏi : Đảng và Nhà nƣớc phải kịp thời ban hành và tổ chức thực hiện các
chính sách nhằm tăng cƣờng sự thống nhất về lợi ích giữa các giai tầng; đồng thời phải coi
trọng lãnh đạo xây dựng các tổ chức của nó, làm cho các tổ chức đó thực sự là chỗ dựa tin
cậy của hội viên, đoàn viên, chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nƣớc nhằm thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc đi đến thành công. Để thực hiện tốt nhiệm vụ
đó, quá trình thực hiện cần phải quán triệt phƣơng châm mà Hồ Chí Minh đã vạch ra : "Đào
tạo trí thức công nông hóa. Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ tri
thức của mình; còn trí thức cần gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và
kinh nghiệm của công nông" [61, tr.203-204].
Song song với những chính sách và những giải pháp đồng bộ nhằm củng cố khối liên
minh công nông trí thức, cần có cơ chế kiểm tra, quản lý của Nhà nƣớc đối với bộ phận tƣ
sản, bảo đảm cho họ tự do phát triển doanh nghiệp, tồn tại và hoạt động theo luật pháp và
chính sách của Nhà nƣớc. Đồng thời, đối với
- 126 -
các tầng lớp lao động khác nhƣ những ngƣời sản xuất hàng hóa nhỏ, tiểu thƣơng, tiểu chủ,...,
cần có những biện pháp cụ thể, thông qua chính sách bảo hộ sở hữu tài sản và vốn, khuyến
khích đầu tƣ mở rộng sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh, thực hiện các nghĩa vụ
mà luật pháp quy định, để họ ngày càng phát huy tiềm năng của mình trong khuôn khổ của
luật pháp.
Liên quan đến vấn đề giai cấp và quan hệ giai cấp, việc tổ chức và quản lý lĩnh vực xã
hội không thể không quan tâm đến vấn đề đấu tranh giai cấp. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nƣớc ta, xã hội vẫn tồn tại lâu dài các giai cấp, các mâu thuẫn giai cấp. Đấu
tranh giai cấp là một thực tế khách quan không thể tránh khỏi.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tuy chịu sự chi phối của những quy
luật phổ biến trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhƣng biểu hiện của những quy luật
đó ở Việt Nam lại mang tính chất đặc thù, phản ánh những điều kiện và đặc điểm riêng của
nƣớc ta. Tính đặc thù này quy định sự phong phú và phức tạp về nội dung và hình thức của
đấu tranh giai cấp, của chuyên chính và dân chủ ở Việt Nam, cả về những hình thức, bƣớc đi,
các giải pháp xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Ngay từ năm 1919, xuất phát từ thực tiễn nƣớc Nga, V. I. Lênin đã nêu lên năm hình
thức mới của đấu tranh giai cấp, trong đó hình thức thứ tƣ là "sử dụng giai cấp tƣ sản" [xem:
43, tr.298-300]. Trung thành và vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng của V.I.Lênin vào thực tế Việt
Nam, trong khi triển khai đấu tranh giai cấp, làm cho con đƣờng xã hội chủ nghĩa chiến thắng
con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa, chúng ta vẫn có thể duy trì một mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với bộ phận tƣ sản, sử dụng bộ phận tƣ sản vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một đặc điểm rất mới của đấu tranh giai cấp ở nƣớc ta hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay, chúng ta đang khuyến khích bộ phận
- 127 -
tƣ sản cùng tham gia xây dựng và bảo vệ đất nƣớc vì những mục tiêu cách mạng: vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đấu tranh giai cấp hiện nay là đấu tranh để dần dần xóa bỏ những tiền đề cơ bản sản
sinh ra tình trạng ngƣời áp bức bóc lột ngƣời trong xã hội. Cuộc đấu tranh đó không diễn ra
theo cách loại bỏ nhau giữa các thành phần kinh tế, các lực lƣợng xã hội đối lập nhau, mà là
những thành phần, lực lƣợng đó tồn tại bên nhau, cùng hợp tác lâu dài với nhau nhƣng lại đấu
tranh với nhau trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất, một quốc gia - dân tộc thống nhất.
Nội dung chủ yếu và quyết định nhất của cuộc đấu tranh này là thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh này, tƣơng quan so
sánh lực lƣợng giữa các thành phần kinh tế, các lực lƣợng xã hội là một tƣơng quan động,
phản ánh thế và lực của mỗi thành phần, mỗi lực lƣợng và xu hƣớng vận động của nó. Một
yêu cầu khách quan đặt ra đối với quá ƣình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa định
hƣớng xã hội chủ nghĩa là các nhân tố, các giá trị xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, biểu
hiện trực tiếp ở thành phần kinh tế nhà nƣớc giành địa vị chủ đạo trong nền kinh tế. Đó cũng
là một điều kiện để quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa không bị chệch hƣớng.
Song song với việc giành địa vị chủ đạo trong nền kinh tế của kinh tế nhà nƣớc, đấu
tranh giai cấp còn diễn ra trên các lĩnh vực khác của đời sống nhƣ chính trị, văn hóa và xã
hội. Do đó, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nƣớc ta biểu hiện ra là cuộc đấu tranh
chống các lực lƣợng phản cách mạng, những kẻ thù của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Các thế lực ấy tuy chiếm bộ phận nhỏ dân cƣ, song rất nguy hiểm, vì chúng là công cụ để chủ
nghĩa đế quốc thực hiện "diễn biến hòa bình". Bởi vậy, quá trình tổ chức, quản lý lĩnh vực xã
hội cần hết sức chú trọng đến việc đấu tranh nhằm ngăn chặn, loại trừ nguy cơ "diễn biến hòa
bình", chống khuynh hƣớng tự phát tƣ bản chủ nghĩa.
- 128 -
Muốn thực hiện đƣợc nhiệm vụ quan trọng đó, cần phải có những chính sách, biện pháp cụ
thể nhằm khắc phục mặt trái của cơ chế thị trƣờng, giảm bớt khoảng cách chênh lệch giàu
nghèo, chống lại những biểu hiện của lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, những sản
phẩm văn hóa đồi trụy; cần thúc đẩy các nhân tố, các giá trị xã hội chủ nghĩa trong văn hóa,
đạo đức, lối sống, và đặc biệt trong quá trình mở cửa cần đề phòng, cảnh giác trƣớc những
âm mƣu chống chủ nghĩa xã hội của các thế lực thù địch. Chỉ có nhƣ vậy, chúng ta mới có
đƣợc môi trƣờng xã hội ổn định, lành mạnh, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nƣớc
ngày càng phát triển.
2. Về quan hệ dân tộc :
Một vấn đề có vị trí cực kỳ quan ƣọng mang ý nghĩa chiến lƣợc trong lĩnh vực xã hội
là vấn đề dân tộc. Ngay từ khi thành lập, Đảng và Nhà nƣớc ta đã coi vấn đề dân tộc là một
vấn đề có tầm chiến lƣợc, và giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ chiến lƣợc nhằm
phát huy sức mạnh tổng hợp, tiềm năng riêng của từng dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ truyền thống ấy, quá trình tổ chức, quản lý lĩnh vực xã hội ở nƣớc ta hiện
nay nhằm thực hiện phương hướng chung là tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc.
Để đạt đƣợc mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn
lãnh thổ, tiến lên dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, cần đoàn kết
đƣợc tất cả mọi ngƣời trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, bao gồm các giai cấp, các tầng
lớp, các dân tộc, các tôn giáo, cộng đồng ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài. Đại đoàn kết
dân tộc lấy mục tiêu chung, lợi ích chung của dân tộc làm cơ sở, chấp nhận những điểm khác
biệt, cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hƣớng về tƣơng lai; xây dựng tinh thần đoàn kết,
- 129 -
thống nhất, cởi mỏ, tin cậy lẫn nhau. Muốn vậy, Đảng và Nhà nƣớc phải tích cực chăm lo xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cƣờng mối liên
hệ mật thiết với các tầng lớp nhân dân, đấu tranh không khoan nhƣợng với mọi biểu hiện của
chủ nghĩa quan liêu. Đặc biệt, Mặt trận Tổ quốc cần vận động, tổ chức thu hút mọi tầng lớp
nhân dân xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc
ngay trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc; đồng thời mở rộng khối đại đoàn kết
dân tộc bằng các hình thức đa dạng, thích hợp với từng giới, từng thành phần xã hội, từng địa
phƣơng , cơ sở; ...
Với sự thực hiện toàn diện và đồng bộ các giải pháp ấy, chúng ta sẽ ngày càng củng
cố và giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Nhƣ vậy, vận dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý những mặt
rộng lớn trong lĩnh vực xã hội có ý nghĩa then chốt và chi phối toàn bộ đời sống xã hội. Bởi
vì, khi đề ra các chính sách và các giải pháp tƣơng ứng để giải quyết các vấn đề về giai cấp,
về dân tộc, thì đồng thời nó đã bao hàm và liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến việc giải
quyết các vấn đề xã hội khác, nhƣ: vấn đề việc làm; vấn đề xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp
nghĩa, bảo hiểm xã hội; vấn đề nhân đạo và từ thiện; vấn đề bảo vệ môi trƣờng; vấn đề chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất của nhân dân; vấn đề dân số - kế hoạch hóa gia
đình và quan hệ gia đình; vấn đề y tế, giáo dục; vấn đề đẩy lùi các tệ nạn xã hội; ... Mặc dù,
mỗi vấn đề cụ thể cần phải có những chính sách và biện pháp giải quyết đặc trƣng riêng cho
mình, nhƣng cũng đều có sự liên hệ, phối hợp đồng bộ với nhau và đều tuân theo những
nguyên tắc, những quan điểm chỉ đạo chung để nhằm mục tiêu rộng lớn là thực hiện sự tiến
bộ và công
- 130 -
bằng xã hội, góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình phát ƣiển các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội, trong đó có lĩnh vực chính trị.
3.2.3. Vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực chính
trị
Đề cập đến lĩnh vực chính trị, V.I. Lênin cho rằng, "chính trị là sự biểu hiện tập trung
của kinh tế" [44, tr.349], là "quan hệ giữa các giai cấp" [45, tr.87 - 88], là "sự tham gia vào
các công việc của nhà nƣớc, sự chỉ đạo nhà nƣớc, sự quy định các hình thức, nhiệm vụ, nội
dung của hoạt động nhà nƣớc" [dẫn theo: 140, tr.415]. Điều này cho ta thấy, chính trị là loại
hoạt động điều tiết các quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các tập đoàn xã hội nhằm duy
trì, phát triển và hoàn thiện một cấu trúc và tổ chức xã hội nhất định vì lợi ích của giai cấp
cầm quyền cũng nhƣ của toàn xã hội. Vì chính trị là nghệ thuật quản lý cho nên hoạt động
chính trị là hoạt động có trách nhiệm nhất trong tất cả các dạng hoạt động xã hội. Về đại thể,
cấu trúc của hoạt động chính trị bao gồm ba nhân tố cơ bản : một là, năng lực đề ra những
mục tiêu chiến lƣợc và chiến thuật; hai là, vạch ra các phƣơng pháp, phƣơng tiện, hình thức
hữu hiện tổ chức các lực lƣợng xã hội nhằm mục tiêu đã đề ra; ba là, tuyển chọn và bố trí
thích hợp những cán bộ có năng lực giải quyết các nhiệm vụ đặt ra. Song không thể tiến hành
hoạt động chính trị nếu không có một hệ thống quyền lực chính trị nhất định. Đó là các tổ
chức và thiết chế quyền lực với tính cách là những yếu tố của một chỉnh thể hệ thống chính
trị có phân ngành và liên kết với nhau, hợp thành một cơ chế thực hiện quyền lực chính trị
trong xã hội. Nó bao gồm bộ máy nhà nƣớc, các đảng chính trị, các tổ chức chính ƣị - xã hội
khác. Do đó, nói đến lĩnh vực chính trị là nói đến các tổ chức và thiết chế quyền lực, hệ thống
luật pháp, các chính sách, các tƣ tƣởng, các quan điểm chính trị, mối tƣơng quan và sự vận
hành của chúng.
- 131 -
Với cách hiểu nhƣ trên, vấn đề tổ chức và quản lý lĩnh vực chính trị biểu hiện thông
qua hoạt động của các tổ chức và thiết chế quyền lực, nghĩa là thông qua hoạt động của hệ
thống chính trị.
Đối với công cuộc đổi mới ở nƣớc ta hiện nay, trong khi khẳng định tính toàn diện
của quá trình đổi mới, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã xem đổi mới
kinh tế là trọng tâm, tùy theo thành quả và yêu cầu đổi mới kinh tế, từng bƣớc đổi mới về
chính trị và hệ thống chính trị.
Nhờ thực hiện nhất quán quan điểm chiến lƣợc đó, chúng ta đã giữ vững ổn định về
chính trị, có quan điểm chính trị đúng đắn để phát huy tối đa các nguồn lực trong nƣớc và
khai thác có hiệu quả sức mạnh của thời đại, làm cho nền kinh tế đạt tốc độ tăng trƣởng cao,
nhiều vấn đề xã hội bức xúc từng bƣớc đƣợc giải quyết.
Những thành quả đó có đƣợc, một phần đáng kể là do tác động tích cực của đổi mới
hệ thống chính ƣị trên cả phƣơng diện tƣ duy, tổ chức, quản lý bộ máy, phƣơng pháp lãnh
đạo và phong cách hoạt động của nó.
Trong khi khẳng định những bƣớc tiến to lớn trong đổi mới hệ thống chính trị và tác
động tích cực của nó đối với lĩnh vực chính trị và toàn bộ đời sống xã hội, chúng ta cũng
không thể không thấy rằng : "Nhìn chung tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là bộ
máy hành chính nhà nƣớc còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng nấc trung gian, chất lƣợng hoạt
động và hiệu quả thấp. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách nhiệm của nhiều cơ
quan và ngƣời đứng đầu chƣa thật rõ, còn chồng chéo, cơ chế vận hành và nhiều mối quan hệ
còn bất hợp lý; đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn và tinh
thần trách nhiệm;... Tình hình đó đã làm giảm hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng, làm yếu
hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc" [22, tr.33].
- 132 -
Những yếu kém đó của hệ thống chính trị có tác động tiêu cực tới quá trình phát triển kinh tế
- xã hội, tới việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Bởi vậy, việc tiếp tục đổi mới và tăng cƣờng hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả tác
động của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa là một vấn
đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn bức xúc trong lĩnh vực chính trị của xã hội ta hiện nay. Để
giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ đó, việc nắm vững và vận dụng phương pháp hệ thống vào
việc tổ chức và quản lý lĩnh vực chính trị, cũng nhƣ xác định các giải pháp cơ bản để tiếp tục
đổi mới hệ thống đó là vấn đề hết sức quan trọng.
Khẳng định cấu trúc của hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nƣớc ta hiện nay, trong Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ƣơng khóa
VIII của Đảng viết : "Hệ thống chính trị ở nƣớc ta bao gồm Đảng, Nhà nƣớc, Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân" [22, tr.32].
Đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống chính trị đó có chức
năng cơ bản là thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, tăng
cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân, từng bƣớc hình thành và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, mà nội hàm cơ bản của nó là : toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Việc đổi mới tổ chức, quản lý trong hệ thống chính trị phải hƣớng vào mục tiêu chủ
yếu là thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Để đạt
đƣợc mục tiêu ấy, cần phải : một là, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; hai là, tăng cƣờng sự
quản lý của Nhà nƣớc; ba là, củng cố hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội khác; bốn là, chú trọng công tác cán bộ.
1. về giữ vững sự lãnh đạo của Đảng :
- 133 -
Trong hệ thống tổ chức, quản lý xã hội ở nƣớc ta, Đảng giữ vị trí là hạt nhân chính trị,
là trung tâm và có vai trò quyết định đối với sự phát triển của xã hội. Đảng vừa là một bộ
phận, vừa là lực lƣợng lãnh đạo duy nhất của hệ thống chính trị, hệ thống quản lý ở nƣớc ta.
Đây là điều kiện cần thiết và tất yếu bảo đảm cho hệ thống chính trị giữ đƣợc tính nhất quán
về đƣờng lối và mục tiêu chính trị, tính dân chủ và tính sáng tạo.
Muốn giữ vững đƣợc vai trò lãnh đạo chính trị, khâu then chốt là Đảng phải tăng
cƣờng bản chất giai cấp công nhân của mình; Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ
trí tuệ, năng lực lãnh đạo; Đảng phải thƣờng xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân; Đảng phải đƣợc củng cố về tổ chức, đoàn kết thống nhất có sức chiến đấu cao;
Đảng phải củng cố, tăng cƣờng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, chăm lo đời
sống của nhân dân, thực sự phát huy quyền làm chủ của họ; và đặc biệt, Đảng cần chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự phát triển liên tục của cách mạng và sự bền vững của
chế độ, của đất nƣớc.
2. Về tăng cường sự quản lý của Nhà nước :
Để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân đòi hỏi :
- Thứ nhất, Nhà nước của chúng ta phải được xây dựng trên nguyên tắc nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nhà nƣớc của chúng ta do nhân dân lập ra, do nhân dân nuôi dƣỡng; trên cơ sở phản
ánh đúng đắn yêu cầu và lợi ích của nhân dân, các chủ trƣơng, chính sách của Nhà nƣớc do
nhân dân thực hiện. Bởi vậy, theo Hồ Chí Minh, muốn thực sự là của dân, do dân và vì dân,
Nhà nƣớc phải dựa vào dân, phải tin vào sức mạnh của nhân dân để đề ra và sửa chữa các
chính sách, sửa bộ máy, sửa cán bộ của mình. Ngƣời nói : "Dân chúng biết giải quyết nhiều
vấn đề một cách
- 134 -
đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những ngƣời tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không
ra" [60, tr.295].
- Thứ hai, Nhà nước đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, có chức năng thể chế
hóa quan điểm chính trị của Đảng và tổ chức thực hiện chúng. Đây là vấn đề có tính nguyên
tắc để bảo đảm bản chất xã hội chủ nghĩa, bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân của
Nhà nƣớc; chống đƣợc những nguy cơ chệch hƣớng. Vì vậy, tăng cƣờng sự lãnh đạo của
Đảng chẳng những là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt quá trình cải cách bộ máy nhà nƣớc, mà
còn là nguyên tắc tổ chức quản lý và hoạt động của chính bộ máy nhà nƣớc.
Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc là lãnh đạo chính trị đối với tổ chức và hoạt động của Nhà
nƣớc, có nghĩa là, Đảng quyết định những vấn đề về tƣ tƣởng, về quan điểm, về chính sách,
về công tác cán bộ thông qua những cơ chế thích hợp. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nƣớc đƣợc thực hiện thông qua đảng viên và các tổ chức đảng, các ban cán sự trong cơ quan
nhà nƣớc. Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc không phải bằng mệnh lệnh hành chính, mà bằng việc
đƣa ra những nghị quyết về các vấn đề cần thiết để đảng viên và các tổ chức đảng ƣong bộ
máy nhà nƣớc thi hành. Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc, lãnh đạo thi hành Hiến pháp, pháp luật,...
nhƣng Đảng cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật.
- Thứ ba, Nhà nước của chúng ta phải dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tất cả quyền
lực nhà nƣớc đều thuộc về nhân dân; không ngừng phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa;
giữ nghiêm kỷ cƣơng xã hội; chuyên chính với mọi hành động xâm phạm tới lợi ích của Tổ
quốc và của nhân dân. Nhà nƣớc đó cần phải bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp
công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
- 135 -
- Thứ tư, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, có sự phân
công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Quan điểm có tính nguyên tắc đó đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta vận
dụng trong việc phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực
hiện ba quyền. Điều đó có nghĩa là trong quá trình cải cách và xây dựng nhà nƣớc phải chú
trọng xác định rõ chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của các cơ quan nhà nƣớc để hạn chế sự
lộng quyền, lạm quyền, chồng chéo và cản trở công việc của nhau. Tuy có sự phân công giữa
các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp, song không
có nghĩa là mỗi quyền chỉ do một cơ quan nhà nƣớc nắm trọn vẹn. Quốc hội là cơ quan duy
nhất nắm quyền lập pháp, nhƣng cũng có trách nhiệm và quyền hạn về một số quyền trên lĩnh
vực khác. Tƣơng tự nhƣ vậy, Chính phủ là cơ quan hành pháp nhƣng cũng có trách nhiệm lớn
trong quá trình lập pháp, tƣ pháp. Tòa án nắm chức năng trung tâm của quyền tƣ pháp, nhƣng
để xét xử nghiêm minh, phải có hoạt động của Viện kiểm sát nhằm giám sát việc tuân thủ
pháp luật của Chính phủ.
- Thứ năm, trong tổ chức và hoạt động của mình, Nhà nước quán triệt nguyên tắc tập
trung dân chủ. Chỉ khi đó mới bảo đảm đƣợc sự thống nhất tổ chức và hành động, phát huy
đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả tập thể và từng cá nhân, của cả nƣớc và từng
địa phƣơng , của từng tổ chức và cả hệ thống bộ máy.
Theo nguyên tắc tập trung dân chủ, Nhà nƣớc của chúng ta không tổ chức theo kiểu
phân lập, nhƣng có sự phân cấp nhất định. Đó trƣớc hết là sự phân cấp quản lý giữa trung
ƣơng và địa phƣơng.
- 136 -
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nƣớc cũng đòi hỏi
phải kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo địa bàn lãnh thổ; kết hợp quản
lý của Bộ và quản lý của ủy ban nhân dân.
- Thứ sáu, Nhà nước phải quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật và theo
pháp luật. Pháp luật phải trở thành công cụ điều tiết chủ yếu các quan hệ xã hội cơ bản giữa
các giai cấp, các tầng lớp, các tổ chức xã hội,...
Pháp luật là công cụ điều tiết chủ yếu các quan hệ xã hội cơ bản, nhƣng không phải là
công cụ điều tiết duy nhất. Trong quan hệ đa dạng và phức tạp giữa con ngƣời với con ngƣời,
không phải mọi vấn đề đều có thể pháp luật hóa, không phải mọi hành vi mà pháp luật không
cấm đều có thể làm mà không bị dƣ luận xã hội lên án. Đó là những vấn đề liên quan tới
chuẩn mực đạo đức, tập quán tốt đẹp của nhân dân trong cách ứng xử xã hội. Hơn nữa, hiệu
quả quản lý xã hội không thể đạt đƣợc chỉ nhờ quyền uy của pháp luật, mà còn nhờ tấm
gƣơng đạo đức của những ngƣời thi hành công vụ.
- Thứ bảy, yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nƣớc và mở rộng quyền lực
của nhân dân trong giai đoạn hiện nay cũng đòi hỏi phải xem cải cách một bước nền hành
chính quốc gia là một nhiệm vụ trọng điểm.
Trong cải cách nền hành chính nhà nƣớc, phải tiến hành đồng bộ - một là, cải cách thể
chế hành chính; hai là, cải cách tổ chức bộ máy; và ba là, cải cách công tác cán bộ, công
chức hành chính.
Liên quan đến vấn đề thứ nhất, phải cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế
quản lý bằng pháp luật, đề cao nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Liên quan đến vấn đề thứ
hai, cần chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt động của bộ máy hành chính các
cấp; định rõ thứ bậc và quan hệ thứ bậc trong bộ máy hành chính; xác định rõ vị ƣí, vai trò
của từng cấp chính quyền; kiện toàn chính quyền cơ sở. Liên quan đến vấn đề thứ ba, cần ban
hành quy chế
- 137 -
về chế độ công vụ và công chức; định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền, quyền lợi và kỷ
luật hành chính; quy định chế độ đào tạo, tuyển dụng và sàng lọc công chức; xây dựng đội
ngũ công chức có chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cao, giác ngộ về chính trị, có tinh thần
trách nhiệm, sự công tâm và tận tụy với công việc.
3. Về củng cố Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác:
Trƣớc hết, cần phải củng cố, mở rộng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam - một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể chính trị - xã hội
và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo.
Các tổ chức chính trị - xã hội khác nhƣ tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên,... cần tập
hợp rộng rãi các hội viên, đoàn viên dƣới nhiều hình thức tổ chức đa dạng; thực hiện tốt chức
năng giáo dục, vận động quần chúng thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cụ thể; chăm lo
thiết thực lợi ích của hội viên, đoàn viên đại diện cho tầng lớp mình tham gia công việc của
Nhà nƣớc.
4. về công tác cán bộ :
Bộ máy hệ thống chính trị do con ngƣời tạo ra, đƣợc vận hành bởi con ngƣời, trong
đó trực tiếp nhất là con ngƣời lãnh đạo, là đội ngũ cán bộ. Do vậy, để hệ thống này hoạt động
có hiệu quả, phải có đội ngũ cán bộ mạnh.
Thực vậy, nhƣ chúng ta biết, sau khi có đƣờng lối đúng, cán bộ trƣớc hết là cán bộ
lãnh đạo chính trị - có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì, mọi đƣờng lối chính trị, dù đúng
đến đâu, tự bản thân nó cũng không thay đổi đƣợc hiện thực. Để biến đƣờng lối đúng thành
những thay đổi xã hội theo chiều hƣớng tiến bộ, việc đƣa đƣờng lối vào nhân dân, tổ chức
hoạt động của nhân dân theo một chƣơng trình khoa học dƣới sự lãnh đạo của cán bộ lãnh
đạo chính trị với kỹ năng, kỹ xảo cao,... có ý nghĩa quyết định.
- 138 -
Thực tế chứng minh rằng, không thể trở thành nhà lãnh đạo chính trị có kinh nghiệm,
có bản lãnh, tham gia tích cực, sáng suốt và có trí tuệ trong quá trình lãnh đạo chính trị, tổ
chức, quản lý xã hội, nếu cán bộ không đƣợc trang bị những tri thức phong phú của kho tàng
văn hóa chính trị, không nắm đƣợc những thành quả quý báu của văn hóa chính trị hiện đại
[xem: 68, tr.8].
Để xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa có thể đƣợc thực hiện bằng nhiều giải pháp khác nhau; trong đó cần phải
nâng cao ƣình độ tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo; nâng cao kỹ năng, kỹ xảo cũng
nhƣ công nghệ quản lý các quá trình chính trị - xã hội, nâng cao tính nhạy bén trong việc phát
hiện những tình huống chính trị - xã hội phức tạp nảy sinh ở nơi này, nơi khác; cũng nhƣ
trong việc đƣa ra những giải pháp tình thế để xử lý kịp thời những vấn đề đó.
Để thực hiện đƣợc những nhiệm vụ đó, ngƣời cán bộ lãnh đạo chính trị cần có đƣợc :
Thứ nhất, khả năng nắm bắt kịp thời ý nguyện chính đáng của quần chúng; thứ hai, khả năng
nghe, biết nghe và biết xử lý đúng đắn ý kiến khác với mình; thứ ba, năng lực kết hợp hài hòa
giữa dân chủ trong trong quá trình ra và tổ chức thực hiện các quyết định với việc phát huy
vai trò của ngƣời cán bộ lãnh đạo chính trị - điều đó đƣợc biểu hiện ở khả năng quyết đoán
trong những thời điểm và trên những vấn đề cần thiết.
Trong tình hình cụ thể ở nƣớc ta hiện nay, việc nâng cao trình độ của ngƣời cán bộ
lãnh đạo chính trị, trƣớc hết đòi hỏi phải nâng cao chất lƣợng và hiệu quả giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải tạo điều kiện để cán bộ lãnh đạo chính
trị tắm mình trong thực tiễn chính trị của đất nƣớc, nắm đƣợc thực tiễn của thời đại, từ đó tích
lũy đƣợc những tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng và kỹ xảo cần thiết cho hoạt động chính trị.
- 139 -
Tóm lại, trong việc tổ chức và quản lý lĩnh vực chính trị ở nƣớc ta hiện nay, bằng
những biện pháp tác động mang tính đồng bộ, toàn diện, mang tính hệ thống nhƣ trên, chúng
ta sẽ có đƣợc một môi trƣờng chính trị ổn định, một hệ thống chính trị đủ phẩm chất và năng
lực đƣa đất nƣớc tiến lên trong giai đoạn mới.
3.2.4. Vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý tinh vực tinh
thần
Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội hết sức phong phú và đa dạng, có mối quan hệ
mật thiết với các lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị. Với tính cách là một hệ thống, nó bao
gồm các yếu tố nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành một chỉnh thể.
Chẳng hạn : tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống; giáo dục - đào tạo; khoa học - công nghệ; văn học
nghệ thuật; thông tin đại chúng; giao lƣu văn hóa đối với nƣớc ngoài; thể chế và thiết chế văn
hóa; y tế; hoạt động tôn giáo; ... Do đó, việc tổ chức và quản lý các bộ phận ấy có mối quan
hệ mật thiết với nhau; phải bảo đảm sự phát triển đồng bộ, hài hòa tất cả các lĩnh vực của đời
sống tinh thần; bảo đảm sự cân đối và thống nhất trong các hoạt động sản xuất (sáng tạo), bảo
quản, phân phối, trao đổi và tiêu dùng các sản phẩm tinh thần; phải kết hợp việc phát triển
đồng bộ, hài hòa tất cả các lĩnh vực tinh thần với việc phát triển trọng điểm một số lĩnh vực
tinh thần nhất định.
Trong công cuộc đổi mới đất nƣớc ta hiện nay, trong lĩnh vực tinh thần, chung quy
lại, nổi bật lên ba bộ phận cốt lõi cần quan tâm giải quyết trƣớc hết về mặt tổ chức và quản lý,
đó là văn hóa, giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ. Bởi vì, ba bộ phận (lĩnh vực) ấy
có vai trò hết sức to lớn đối với đời sống xã hội, nhƣ Đảng ta khẳng định : "Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội" [16, tr.l10];
- 140 -
và nhấn mạnh: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu"
[16, tr.107].
1. về văn hóa :
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ
phát triển của dân tộc, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.
Văn hóa Việt Nam là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp trong quan hệ giữa con ngƣời với con
ngƣời, giữa con ngƣời với xã hội và tự nhiên, đƣợc đúc kết từ cuộc sống và từ thực tiễn đấu
tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của nhân dân ta qua hàng ngàn năm lịch sử, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa nhân loại. Đó là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Với cách hiểu nhƣ vậy, vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý
lĩnh vực văn hóa phải hƣớng vào mục tiêu tổng thể là xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để đạt đƣợc mục tiêu tổng thể ấy, trong giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, thì nhiệm vụ củng cố, xây dựng và hoàn thiện
thể chế văn hóa là một nhiệm vụ đặc thù, vừa là một phƣơng diện phải phấn đấu của sự
nghiệp văn hóa, vừa là nhân tố để thực hiện thành công các nhiệm vụ khác. Vì vậy, có thể coi
việc xây dựng thể thế văn hóa là "nhiệm vụ của các nhiệm vụ", là thước đo trình độ tổ chức
và quản lý của các cơ quan quản lý nhà nƣớc về văn hóa hiện nay.
Để xây dựng và phát triển văn hóa nhằm tạo ra ngày càng nhiều các giá trị chân -
thiện - mỹ trong đời sống xã hội, con ngƣời luôn luôn tìm kiếm những hình thức, phƣơng
pháp tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động văn hóa theo những khuôn khổ nhất định.
"Tổng hợp các hình thức tổ chức và phƣơng pháp điều hành hoạt động văn hóa làm nên thể
chế văn hóa của một giai đoạn lịch sử nhất định" [24, tr.22].
- 141 -
Thể chế văn hóa ở nƣớc ta hiện nay đƣợc hiểu là một hệ thống tổ chức, cơ chế, biện
pháp, phƣơng tiện khả thi để đƣa những đƣờng lối, chủ trƣơng, quan điểm chỉ đạo của Đảng
và Nhà nƣớc đi vào cuộc sống một cách hữu hiệu. Với tính cách là một chỉnh thể thống nhất,
thể chế văn hóa ở nƣớc ta hiện nay bao gồm : Hệ thống các văn bản pháp luật, chuẩn mực,
quy ƣớc, quy tắc về văn hóa hoặc có liên quan đến văn hóa; hệ thống các chính sách văn hóa;
bộ máy quản lý văn hóa từ trung ƣơng đến địa phƣơng, các tổ chức đoàn thể hữu quan, các
hội sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật; cơ chế hoạt động của bộ máy và các tổ chức đó; hệ
thống các thiết chế văn hóa;... Đặc điểm nổi bật của thể chế văn hóa ở nƣớc ta hiện nay là lấy
ý thức hệ tiên tiến của thời đại là chủ nghĩa Mác -Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm ngọn cờ
lý tƣởng, với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dƣới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để tổ chức và quản lý có hiệu quả nhất đối với lĩnh vực văn hóa nhằm tăng cƣờng sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nƣớc và quyền làm chủ của nhân dân, làm cho văn
hóa trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, phát huy vai trò động lực của nó trong
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, cần đổi mới nhận thức và hoạt động xây dựng, phát
triển văn hóa. Trƣớc hết, cần nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò, ý nghĩa của sự nghiệp xây dựng,
phát triển văn hóa; tính tất yếu của cuộc cách mạng trên lĩnh vực tƣ tƣởng và văn hóa cũng
nhƣ tính chất gay go và phức tạp của cuộc đấu ƣanh giai cấp và đấu ƣanh dân tộc trên mặt
trận này. Trong hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa, cần kết hợp các giá trị vật chất với
các giá trị tinh thần, các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, các giá trị thị trƣờng với
các giá trị xã hội, các giá trị khoa học - công nghệ với các giá trị nhân văn, kết hợp giữa xây
và chống, giữa bảo tồn bản sắc và tiếp nhận, chọn lọc những tinh hoa giá trị văn hóa từ bên
ngoài... nhằm góp phần xây dựng những con ngƣời Việt Nam mới có trí tuệ, đạo đức, thể
- 142 -
lực, tâm hồn, tình cảm, lối sống và nhân cách đẹp. Chủ thể của hoạt động đó không chỉ là
Đảng, Nhà nƣớc, các tổ chức trong hệ thống chính trị, mà còn gồm toàn thể nhân dân.
Muốn vậy, cần phải xác lập một chương trình xây dựng thể chế văn hóa. Trong việc
xây dựng chƣơng trình, cần phải đảm bảo nguyên tắc các yếu tố bản sắc dân tộc càng đậm đà
hơn bao giờ hết, đồng thời cũng đƣợc đổi mới hơn bao giờ hết; giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa kế thừa và phát triển, khẳng định cái tiên tiến và phủ định cái lạc hậu.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền văn hóa Việt Nam trong khi vẫn tôn
vinh những giá trị tinh hoa trong truyền thống lâu đời và sâu xa của dân tộc, sẽ càng tôn vinh
những giá trị tiên tiến của nền văn hóa.
Các giá trị cơ bản phản ánh tính chất tiên tiến của nền văn hóa, phù hợp với quy luật
phát triển của xã hội, phù hợp với tiến bộ xã hội cần đƣợc bồi dƣỡng, phát triển ở mỗi con
ngƣời, bao gồm: lý tƣởng sống cao đẹp, tinh thần cách mạng, tƣ tƣởng khoa học, yêu lao
động sáng tạo, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật và đạt năng suất cao.... Trên phạm vi toàn xã
hội, một nền văn hóa tiên tiến phải đƣợc thể hiện ở trình độ phát triển của dân trí, dân chủ,
của khoa học -công nghệ, giáo dục, y tế, bảo đảm phúc lợi xã hội....
Các giá trị phản ánh bản sắc dân tộc Việt Nam trên các lĩnh vực tinh thần, lối sống và
nếp sống, tình cảm, phong cách... bao gồm: tính cộng đồng cao; cần cù lao động; yêu tự do
độc lập; lòng yêu nƣớc thƣơng nòi sâu sắc; kính trọng và biết ơn tổ tiên; tinh thần dũng cảm,
bất khuất; tình nhân ái; sự bao dung; thủy chung; giản dị; cởi mở.... Đó là những nét độc đáo
tạo nên diện mạo đặc sắc của dân tộc, đƣợc chƣng cất từ truyền thống văn hiến lâu đời của
dân tộc và đƣợc bảo lƣu, truyền nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập, tăng cƣờng giao lƣu, hợp tác quốc tế là quá trình
- 143 -
mang tính hai mặt, trong đó có mặt đe dọa phá hoại bản sắc văn hóa dân tộc. Do vậy, cần có
chiến lƣợc tự vệ văn hóa, chống lại sự mô phỏng, ngoại lai, sùng ngoại, mất gốc; cần đề cao
lòng tự tôn và niềm tự hào dân tộc.
Một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc không phải đƣợc hình thành ngay
tức khắc, mà cần phải đƣợc nảy nở, lớn dần trên mỗi bƣớc đi, mỗi chặng đƣờng của thời kỳ
quá độ, thông qua sự phát triển hiện thực của các giá trị văn hóa mới.
Trong công cuộc đổi mới đất nƣớc hiện nay, chƣơng trình xây dựng thể chế văn hóa
cần tập trung giải quyết hàng loạt các nhiệm vụ vừa quan trọng vừa cấp bách. Trong đó:
Thứ nhất, củng cố và hoàn thiện các thể chế văn hóa trong các lĩnh vực sản xuất, bảo
quản, phân phối, trao đổi và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa phù hợp với các địa bàn dân cƣ.
Điều này đòi hỏi phải quan tâm hình thành các thể chế văn hóa để đƣa văn hóa đến các vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nhất là các vùng miền núi, dân tộc thiểu số.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện các thể chế văn hóa ƣơng các cơ sở văn hóa của Nhà
nƣớc, của tập thể và tƣ nhân, trong đó cần bảo đảm tính chủ đạo của các cơ sở văn hóa của
Nhà nƣớc.
Thứ tư, phát triển các thể chế văn hóa trong các chuyên ngành văn hóa, văn học nghệ
thuật và thông tin, tạo ra sự phát triển đồng đều, nhịp nhàng của các loại hình văn hóa.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nƣớc, quan tâm cải tiến thể chế quản lý văn
hóa trong phạm vi các thiết chế văn hóa. Ở đây cần hiểu rằng, xây dựng mạng lƣới thiết chế
văn hóa với tính cách là cơ sở hạ tầng quan trọng của nền văn hóa. Vì vậy, mạng lƣới thiết
chế văn hóa phải đảm đƣơng một số
- 144 -
nhiệm vụ quan trọng, nhƣ : tổ chức các hoạt động sản xuất (sáng tạo) trong lĩnh vực văn hóa,
cần khai thác các giá trị truyền thống trong tổng thể, tổ chức sƣu tầm và bảo quản vốn di sản
văn hóa, truyền thống của dân tộc, kịp thời truyền đạt những giá trị tinh hoa văn hóa của dân
tộc cũng nhƣ của nhân loại đối với mọi ngƣời, tổ chức tốt đời sống văn hóa trong các cộng
đồng dân cƣ, bảo đảm tính định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã
hội.
Thứ sáu, bƣớc đầu xác lập và bổ sung các thể chế văn hóa liên quan đến nƣớc ngoài.
Liên quan đến vấn đề này, nguyên lý thống nhất trong đa dạng sẽ tạo nên một bƣớc phát triển
mới; do vậy, từng bƣớc mở rộng giao lƣu và hợp tác quốc tế tiên lĩnh vực văn hóa, tiếp thu
những tinh hoa tiên tiến của nhân loại, nhƣng không "hòa tan" bản sắc của mình, đồng thời
phải kịp thời ngăn chặn những bất lợi về mặt văn hóa có nguồn gốc từ nƣớc ngoài.
Với nội dung hết sức to lớn trên đây, việc xây dựng thể chế văn hóa ở nƣớc ta là một
quá trình khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải vừa học, vừa làm, vừa tổng kết thực tiễn để có chủ
trƣơng, chính sách một cách phù hợp. Cuộc sống bao gồm những quan hệ tổng hòa, mọi hoạt
động đều phải tiến hành đồng bộ, nhịp nhàng, liên tục để có thể tạo nên sức mạnh tổng hợp,
những kết quả tổng hợp. Vấn đề là tổ chức và tổ chức. Tổ chức thực hiện sao cho các chủ
trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đi vào cuộc sống.
Như vậy, bằng những biện pháp mang tính đồng bộ, toàn diện, mang tính hệ thống
nhƣ trên, chúng ta sẽ thực hiện đƣợc mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quá trình ấy sẽ đồng thời tạo ra nền tảng tinh thần cho sự
phát triển các lĩnh vực khác, trong đó có giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ.
- 145 -
2. Về giáo dục - đào tạo :
Giáo dục - đào tạo là lĩnh vực có vị trí trọng yếu trong sự phát triển của mỗi một quốc
gia. Đó là kết luận đƣợc rút ra từ sự tồn tại và phát triển mấy ngàn năm của loài ngƣời. Hiện
nay, đất nƣớc ta đang bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; giáo dục -
đào tạo liên quan đến công việc hết sức quan trọng là chuẩn bị nguồn lực con ngƣời cho sự
nghiệp vĩ đại ấy.
Trƣớc hết, cần phải thấy rằng, cùng với những thành tựu chung của cách mạng nƣớc
ta, lĩnh vực giáo dục - đào tạo đã đạt đƣợc những kết quả to lớn, góp phần xứng đáng vào sự
phát triển của đất nƣớc trong thời kỳ mới. Có đƣợc những thành tựu đó là nhờ có đƣờng lối
giáo dục - đào tạo đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc, nhờ sự đóng góp của toàn dân.
Tuy nhiên, giáo dục - đào tạo nƣớc ta còn nhiều yếu kém, bất cập cả về quy mô, cơ
cấu, và nhất là về chất lƣợng và hiệu quả; chƣa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và ngày càng
cao về nhân lực của công cuộc đổi mới. Một trong những nguyên nhân của những yếu kém
ấy, đó là công tác quản lý giáo dục -đào tạo có những mặt yếu kém, bất cập và cơ chế quản lý
của ngành giáo dục -đào tạo chƣa hợp lý. Liên quan đến vấn đề tổ chức và quản lý lĩnh vực
giáo dục - đào tạo, có thể nói, sự phối hợp liên ngành còn yếu, các giải pháp còn thiếu đồng
bộ;....
Để khắc phục những yếu kém nói trên, vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ
chức và quản lý lĩnh vực giáo dục - đào tạo là vô cùng quan trọng và cần thiết.
Nếu xét lĩnh vực giáo dục-đào tạo ở nƣớc ta nhƣ một hệ thống thì các yếu tố chủ yếu
của nó là nội dung, phƣơng pháp, số lƣợng, chất lƣợng và hiệu quả giáo dục-đào tạo; còn môi
trƣờng hoạt động của nó chủ yếu là do các chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc. Nếu xét
lĩnh vực giáo dục-đào tạo ở nƣớc ta không
- 146 -
chỉ là một hệ thống mà còn trong mối quan hệ chủ thể-khách thể thì Nhà nƣớc và các tổ chức
giáo dục-đào tạo đóng vai trò là ngƣời tổ chức, quản lý dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy,
theo quan điểm hệ thống, vấn đề tổ chức và quản lý lĩnh vực giáo dục-đào tạo thể hiện ở sự
thống nhất giữa hệ thống các chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện chúng trong hoạt
động giáo dục-đào tạo. Nghĩa là, chúng ta cần có những nguyên tắc tổ chức, quản lý và sự
thể chế những nguyên tắc ấy thông qua những giải pháp cụ thể tƣơng ứng trong việc tổ chức
thực hiện hoạt động giáo dục - đào tạo.
- Thứ nhai, về mặt phƣơng pháp luận cần phải nhận thức đúng và từ đó có những biện
pháp giải quyết phù hợp mối quan hệ giữa các mục tiêu dân trí, nhân lực, nhân tài trong phát
triển giáo dục - đào tạo.
Một nền dân trí rộng là điều kiện cần thiết để trên đó đào tạo đƣợc nguồn nhân lực
thích hợp phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời dân trí là cơ sở để nâng cao
chất lƣợng cuộc sống của nhân dân. Với nghĩa ấy, Hồ Chí Minh nói : "Một dân tộc dốt là dân
tộc yếu" [60, tr.8]. Mức độ dân trí có thể đạt đƣợc tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, không thể
mong muốn một mức độ dân trí quá cao thoát ly khỏi điều kiện kinh tế, song cũng không chờ
có kinh tế phát triển cao mới mở rộng và nâng cao dân trí.
Dân trí là điều kiện để phát triển nhân lực, nhƣng không phải mặc nhiên dân trí sẽ
biến thành nhân lực, mà phải có kế hoạch để đào tạo phát triển nhân lực, nhất là lực lƣợng lao
động lành nghề trong một cơ cấu đồng bộ.
Về nhân tài; một mặt, phải tìm đƣợc những cách thức thích hợp để phát hiện và bồi
dƣỡng nhân tài, nhƣng đồng thời lƣu ý rằng, nhân tài sẽ có điều kiện xuất hiện trên một nền
dân trí rộng và trên cơ sở việc tổ chức đào tạo nhân lực tốt.
- 147 -
Khẳng định tính đúng đắn của việc giải quyết mối quan hệ ấy, chúng ta cần sử dụng
và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực đƣợc đào tạo, trọng dụng ngƣời tài, khuyến khích mọi
ngƣời, nhất là thanh niên say mê học tập và tu dƣỡng tiền đồ bản thân và tƣơng lai đất nƣớc.
- Thứ hai, để giáo dục - dào tạo thực sự là "quốc sách hàng đầu", thì một yêu cầu cực
kỳ quan trọng là phải thấu suốt quan điểm giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội
dung, phƣơng pháp giáo dục - đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã
hội. Để quán triệt quan điểm này :
Một là, cần phải tập trung giải quyết dứt điểm những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ
cƣơng trong giáo dục do mặt trái của cơ chế thị trƣờng gây nên; muốn vậy phải xây dựng một
hệ thống pháp quy tốt để vừa giữ nghiêm kỷ cƣơng phép nƣớc, vừa bảo vệ sự trong sáng của
nếp sống văn hóa Việt Nam.
Hai là, phải thực hiện tính công bằng xã hội ƣong giáo dục. Cụ thể là, quan tâm đến
việc bảo đảm cơ hội giáo dục cho ngƣời học thuộc các diện chính sách; kết hợp sự phát triển
có trọng điểm về giáo dục - đào tạo với sự phát triển giáo dục - đào tạo ở các vùng lãnh thổ,
tránh gây nên sự chênh lệch xa về nhịp độ và trình độ giữa các vùng. Đây cũng chính là sự
thể hiện tính ƣu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, cần phải đổi mới nội dung, phƣơng pháp giáo dục - đào tạo, cải tiến thi cử. Đặc
biệt, cần nhấn mạnh nội dung giáo dục phải mang tính toàn diện, nhƣ Hồ Chí Minh đã nói :
"Trong việc giáo dục và học tập phải chú ý đầy đủ các mặt : đạo đức cách mạng, giác ngộ xã
hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật và lao động sản xuất" [62, tr.759]. Trong giáo dục cần coi
trọng hơn nữa việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ở tất cả các bậc
học. Quan tâm giáo dục phong cách tƣ duy khoa học, phƣơng pháp độc lập sáng tạo trong tƣ
duy và hoạt động thực tiễn; giáo dục tinh thần công dân, ý thức về
- 148 -
quyền và nghĩa vụ; giáo dục văn hóa pháp luật, văn hóa dân chủ; văn hóa lao động; ... Nhờ
đó, xã hội mới có đƣợc những con ngƣời phát triển cao về trí tuệ, cƣờng tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.
- Thứ ba, để giáo dục - đào tạo thực sự trở thành "quốc sách hàng đầu", cần phải
không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo. Để thực hiện đƣợc điều
đó, cần phải :
Một là, giáo dục - đào tạo phải theo hướng cân đối giữa "dạy người", dạy chữ, dạy
nghề, trong đó "dạy người" là mục tiêu cao nhất, nhƣ Hồ Chí Minh đã nói : "Muốn có chủ
nghĩa xã hội, trƣớc hết phải có con ngƣời xã hội chủ nghĩa" [63, tr.310].
Hai là, giải quyết tốt mối quan hệ, giữa số lượng và chất lượng trong giáo dục - đào
tạo. Ở đây, một mặt, phải tìm cách huy động nhiều nguồn lực khác nhau để tạo điều kiện đảm
bảo chất lƣợng giáo dục, phải ƣu tiên đầu tƣ xây dựng các trƣờng sƣ phạm, nâng cao trình độ
của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý các cấp, có đầy đủ năng lực và phẩm chất cách mạng,
tăng cƣờng cơ sở vật chất, sử dụng các biện pháp công nghệ mới khác nhau trong các trƣờng
học, cần phát huy nội lực đồng thời nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; mặt khác, phải hình
thành các hệ thống tổ chức và cơ chế đặc biệt để kiểm tra chất lƣợng, chống các tệ nạn và tiêu
cực trong giáo dục - đào tạo. Muốn thỏa mãn đồng thời yêu cầu tăng số lƣợng, đảm bảo chất
lƣợng và nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo trong điều kiện nguồn lực rất hạn hẹp thì đòi
hỏi cần phải hết sức năng động, sáng tạo, phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ
thống giáo dục - đào tạo, phải phối hợp hài hòa các đơn vị khác nhau ƣơng một nhà trƣờng,
các trƣờng khác nhau trên một địa bàn, các mô hình ƣƣờng khác nhau trong toàn bộ hệ thống
giáo dục - đào tạo. Để làm đƣợc điều đó phải có quan điểm phức hợp. toàn cục, chống các xu
hƣớng bản vị, cục bộ.
- 149 -
- Thứ tư, để giáo dục - đào tạo thực sự là "quốc sách hàng đầu", còn cần phải quán
triệt quan điểm coi giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn
dân. Điều này đòi hỏi cần phải :
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục - đào tạo. Cụ thể là, cần phải
tăng cƣờng xây dựng và củng cố tổ chức đảng để đảng thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo
trong các trƣờng học; chú ý bồi dƣỡng chính trị, tích cực phát triển đảng trong trƣờng học.
+ Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục - đào tạo. Để làm đƣợc điều đó, cần làm cho các cấp
lãnh đạo đảng, chính quyền, các ban ngành, địa phƣơng , các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp,
cho đến tận ngƣời dân quan tâm và chăm lo sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Ở đây, cần quán
triệt quan điểm giữ vai trò nòng cốt của các trƣờng công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại
hình giáo dục - đào tạo, trên cơ sở quản lý thống nhất của Nhà nƣớc.
+ Đổi mới công tác quản lý giáo dục - đào tạo. Liên quan đến vấn đề này, cần thực
hiện những giải pháp sau đây :
. Tăng cƣờng công tác dự báo và kế hoạch hóa sự phát triển giáo dục -đào tạo. Đƣa
giáo dục - đào tạo vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nƣớc và từng địa
phƣơng . Có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.
. Tăng cƣờng phân cấp quản lý một cách hợp lý. Các cơ quan quản lý nhà nƣớc và
các cơ sở giáo dục - đào tạo cần thực hiện đúng chức năng của mình.
. Thiết lập các cơ chế để nâng cao tính tự chủ đi đôi với việc nâng cao tính chịu trách
nhiệm của các cơ sở giáo dục - đào tạo, nhất là các trƣờng đại học.
- 150 -
. Mở rộng dân chủ ở các cơ quan quản lý giáo dục - đào tạo, nhằm phát huy quyền
làm chủ trực tiếp của nhân dân trong việc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
. Cùng với việc xác lập thể chế dân chủ, đồng thời phải kiện toàn hệ thông thanh tra
giáo dục về bộ máy chức năng, nhiệm vụ, đƣa công tác thanh tra vào nề nếp. Chỉ có nhƣ thế,
quyền tự chủ mới không dẫn đến tình trạng vô chính phủ.
Như vậy, tổ chức và quản lý giáo dục - đào tạo, với biện pháp phối hợp liên ngành,
với các giải pháp đƣợc thực hiện một cách đồng bộ, mang tính hệ thống, sẽ mang lại hiệu quả
giáo dục - đào tạo cao, góp phần to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc. Hơn nữa, điều đó chỉ có thể đạt đƣợc khi kết hợp chặt chẽ giáo dục - đào tạo với tăng
cƣờng phát triển khoa học - công nghệ.
3. Về khoa học - công nghệ :
Trong thời đại ngày nay, khoa học - công nghệ đã trở thành một lực lƣợng sản xuất
quan trọng hàng đầu của nhân loại; nó đã và đang tác động trực tiếp vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Ở nƣớc ta, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vai trò của khoa học -
công nghệ lại càng trở nên quan trọng.
Dƣới ánh sáng của đƣờng lối đổi mới của Đảng, tiềm lực khoa học và công nghệ ở
nƣớc ta từng bƣớc đƣợc nâng lên, các tiến bộ khoa học và công nghệ ngày càng gắn liền với
sản xuất và đời sống, góp phần đƣa nƣớc ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội,
tạo ra những tiền đề cần thiết để bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thế nhƣng còn một khoảng cách rất xa giữa tiềm năng phát triển khoa học - công
nghệ nƣớc ta với thực trạng còn phát triển chậm của nó, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu phát
triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một
- 151 -
trong những nguyên nhân của sự yếu kém ấy là quản lý khoa học và công nghệ trong cơ chế
thị trƣờng còn lúng túng, bất cập, việc tổ chức phân bổ lực lƣợng còn phân tán.... Bởi vậy,
chính tính cấp bách của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội nƣớc ta đã đòi hỏi phải xem xét,
giải quyết vấn đề tổ chức và quản lý khoa học - công nghệ bằng phương pháp hệ thống.
Nếu xét lĩnh vực khoa học - công nghệ nƣớc ta nhƣ một hệ thống thì môi trƣờng hoạt
động của nó chủ yếu là do các chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc, mà sự thuận lợi hay
khó khăn của môi trƣờng sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động và phát triển của hệ thống.
Nếu xét khoa học - công nghệ nƣớc ta không chỉ là một hệ thống, mà còn trong mối quan hệ
chủ thể - khách thể thì Nhà nƣớc và các tổ chức khoa học - công nghệ đóng vai trò là ngƣời
tổ chức, quản lý, dƣới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, dƣới quan điểm hệ thống, chúng ta có
thể nêu ra những nguyên tắc tổ chức, quản lý chủ yếu và sự thể chế hóa những nguyên tắc ấy
thông qua những giải pháp cụ thể tƣơng ứng trong việc tổ chức thực hiện hoạt động khoa học
- công nghệ.
Thứ nhất, sự nghiệp khoa học - công nghệ nƣớc ta nhằm mục đích phục vụ sự phát
triển con người Việt Nam, cho nên cách thức phát triển khoa học - công nghệ cần phù hợp với
các giá trị nhân văn - bản sắc văn hóa dân tộc.
Chúng ta biết rằng, con ngƣời vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi chính sách
kinh tế - xã hội, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là nội lực của phát triển. Phát triển con
ngƣời, về thực chất, là phát triển và hoàn thiện nhân cách con ngƣời. Đầu tƣ cho con ngƣời là
đầu tƣ cho phát triển. Cũng nhƣ giáo dục-đào tạo, đầu tƣ cho khoa học - công nghệ là đầu tƣ
theo chiều sâu, vì sự phát triển toàn diện của con ngƣời. Vì vậy, yếu tố nhân văn vừa có giá
trị định hướng, vừa là động lực cho sự phát triển khoa học - công nghệ.
- 152 -
Vì lẽ đó, sự nghiệp khoa học - công nghệ nƣớc ta chỉ có thể đạt đƣợc hiệu quả cao và
sự phát triển bền vững khi quá trình tổ chức, quản lý phải biết kết hợp hài hòa giữa tính khoa
học với tính văn hóa; giữa tính chính xác, hợp lý và tối ƣu của khoa học - công nghệ với
truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Bởi vậy, các chính sách phát triển khoa học - công
nghệ phải gắn liền với các chính sách bảo vệ và cải thiện môi trƣờng sinh thái, bảo đảm phát
triển kinh tế -xã hội nhanh và bền vững.
Thứ hai, sự nghiệp khoa học - công nghệ cần gắn liền với giáo dục - đào tạo, khoa
học Tự nhiên và kỹ thuật gắn với khoa học xã hội và nhân văn.
Trƣớc hết, cần xác định nguồn nhân lực của sự nghiệp khoa học - công nghệ là đội
ngũ cán bộ. Song muốn có nguồn nhân lực đủ sức đáp ứng đòi hỏi phát triển khoa học - công
nghệ hiện nay, cần phải có nền giáo dục - đào tạo chu đáo, mà trọng tâm là bồi dƣỡng nhân
tài. Để thực hiện điều đó, cần chú trọng đào tạo sau đại học và bổ túc kiến thức dƣới nhiều
hình thức đa dạng, ... Song cần lƣu ý rằng, giáo dục - đào tạo là yếu tố cơ bản nhất để phát
triển nguồn nhân lực, nhƣng quan trọng là ở chỗ, quản lý nguồn nhân lực một cách hợp lý,
trên cơ sở thống nhất ba nhiệm vụ quản lý đào tạo, sử dụng và việc làm một cách gắn bó,
đồng bộ, thì mới phát triển nguồn nhân lực một cách có hiệu quả.
Để khoa học - công nghệ thực sự trở thành "quốc sách hàng đầu", là "nội dung then
chốt" trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội, chúng ta cần phải kết hợp và bảo đảm tính đồng
bộ về cơ cấu, đầu tƣ một cách cân đối, hợp lý giữa khoa học tự nhiên, kỹ thuật với khoa học
xã hội và nhân văn. Bởi vì, khoa học - công nghệ với tính cách là một hệ thống bao gồm các
phân hệ (các lĩnh vực khoa học) khác nhau, mỗi lĩnh vực khoa học có vị trí, vai trò, chức
năng riêng của mình;
- 153 -
song khoa học - công nghệ chỉ có thể có đƣợc sức mạnh tổng hợp khi các lĩnh vực khoa học
có quan hệ tƣơng hỗ, hợp tác chặt chẽ với nhau.
Thứ ba, phát triển khoa học - công nghệ cần kết hợp kế hoạch với thị trường, trong đó
chủ thể tổ chức và quản lý lập kế hoạch và điều hành trên cơ sở các nhu cầu của thị trƣờng.
Trong hoạt động khoa học - công nghệ, thị trƣờng chính là một động lực khiến cho
các chủ thể tổ chức, quản lý không ngừng tìm cách nâng cao hiệu quả và tìm tòi những sản
phẩm mới mà nhu cầu xã hội đòi hỏi. Nhƣng cơ chế thị ƣƣờng vẫn có mặt trái của nó, vì vậy
để tránh tính chất tự phát của cơ chế thị trƣờng, nhằm bảo đảm tính cân đối, hài hòa, tính
nhân văn trong hoạt động khoa học - công nghệ, cần phải kết hợp kế hoạch với thị trƣờng.
Về kế hoạch phát triển khoa học - công nghệ, Nhà nƣớc cần xây dựng kế hoạch tổng
thể cho sự phát triển khoa học - công nghệ, gắn khoa học - công nghệ với sản xuất, lấy khoa
học - công nghệ làm chỗ dựa và luận cứ cho kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;...
Về tạo lập thị trƣờng cho khoa học - công nghệ, Nhà nƣớc cần hoàn thiện hệ thống
pháp luật về các hoạt động khoa học - công nghệ, về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và khuyến
khích chuyển giao công nghệ; đồng thời đòi hỏi các doanh nghiệp phải coi ứng dụng các
thành tựu khoa học - công nghệ là phƣơng tiện hàng đầu để nâng cao năng lực cạnh tranh,
duy trì và phát triển sản xuất.
Thứ tư, sự phát triển của khoa học - công nghệ gắn liền với đổi mới hệ thống tổ chức,
quản lý hoại động khoa học - công nghệ.
+ Trƣớc hết cần kiện toàn tổ chức và nâng cao trách nhiệm các cơ quan quản lý nhà
nƣớc về khoa học và công nghệ ở tất cả các cấp để tăng hiệu quả đầu tƣ và quản lý vĩ mô của
Nhà nƣớc. Muốn khắc phục tính chất cồng kềnh của hệ thống các tổ chức khoa học - công
nghệ hiện nay, cần phải tinh giản nó, thu
- 154 -
gọn đầu mối quản lý. Do vậy, cần thúc đẩy xu hƣớng liên ngành và hợp ngành đế phát huy
sức mạnh tổng hợp của nhiều chuyên môn khác nhau. Đây cũng là xu hƣớng chung của sự
phát triển khoa học hiện đại.
+ Một vấn đề quan trọng là hệ thống các tổ chức quản lý khoa học - công nghệ cần
đƣợc củng cố, thống nhất và đổi mới phƣơng pháp tổ chức, quản lý các hoạt động khoa học -
công nghệ. Thực tiễn chỉ ra rằng, hoạt động tổ chức, quản lý chỉ có hiệu lực khi chủ thể tổ
chức, quản lý là một hệ thống chỉnh thể. Vì vậy, các tổ chức khoa học - công nghệ cần liên
kết, hợp tác, phối hợp với nhau, mà cơ sở nền tảng của sự liên kết ấy chính là môi trƣờng
chính sách, sự điều hòa, phối hợp, điều tiết của Nhà nƣớc.
+ Để hoạt động khoa học - công nghệ có hiệu quả thiết thực, cần phải nâng cao chất
lƣợng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là năng lực và chất lƣợng đội ngũ cán bộ quản lý khoa học -
công nghệ. Việc tạo ra một đội ngũ đông đảo những ngƣời có trình độ học vấn cao, tinh
thông khoa học - kỹ thuật, đã đƣợc C.Mác nhấn mạnh "không phải chỉ là một phƣơng pháp
để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là một phƣơng pháp duy nhất để sản xuất ra
những con ngƣời phát triển toàn diện" [55, tr.688].
Hoạt động khoa học - công nghệ có bản chất là lao động cao cấp, sáng tạo. Vì vậy, đội
ngũ cán bộ tổ chức, quản lý trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, trƣớc hết phải là những
ngƣời có đức và có tài. Điều này càng có ý nghĩa lớn lao do tính chất đặc thù của lĩnh vực
khoa học - công nghệ, vì họ là những trí thức quản lý tầng lớp tri thức. Bởi vậy, nhà quản lý
khoa học - công nghệ phải có sự kết hợp giữa kiến thức nghiên cứu chuyên ngành và kiến
thức quản lý, lãnh đạo một tổ chức, một tập thể những ngƣời có học vấn cao.
Tóm lại, cũng nhƣ trong tổ chức, quản lý lĩnh vực văn hóa, lĩnh vực giáo dục - đào
tạo, sự vận dụng phƣơng pháp hệ thống trong lĩnh vực khoa học -
- 155 -
công nghệ thể hiện ở sự thống nhất giữa chủ ƣƣơng, chính sách và tổ chức thực hiện một
cách đồng bộ, cân đối, hài hòa. Với sự vận dụng phƣơng pháp hệ thống trong việc tổ chức,
quản lý từng lĩnh vực và trong sự liên kết, phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các lĩnh vực ấy
với nhau, chúng ta sẽ có đƣợc một lĩnh vực tinh thần ngày càng phong phú, đáp ứng những
yêu cầu và thực hiện đƣợc mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Kết luận chương 3
Phƣơng pháp hệ thống có vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt
trong tổ chức và quản lý xã hội.
Đối với công cuộc đổi mới ở đất nƣớc ta hiện nay, phƣơng pháp hệ thống cần đƣợc
phát huy sức mạnh của mình. Việc vận dụng phƣơng pháp hệ thống một cách đúng đắn ƣơng
tổ chức và quản lý tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ mang lại những thành tựu to
lớn, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc.
- 156 -
KẾT LUẬN
Phƣơng pháp hệ thống có cơ sở lý luận ở bản thân phạm trù hệ thống. Sự phát triển
của các tƣ tƣởng về hệ thống gắn liền với sự phát triển của thế giới quan triết học, cũng nhƣ
phù hợp với tiến bộ của khoa học và thực tiễn xã hội. Hiện nay, hệ thống thực sự đã trở thành
một phạm trù triết học và có mối quan hệ mật thiết với các phạm trù khác của phép biện
chứng.
Phƣơng pháp hệ thống đƣợc hình thành là sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển
của khoa học và thực tiễn xã hội. Nó có nội dung hết sức phong phú, bao gồm hàng loạt
những yêu cầu, những nguyên tắc chỉ đạo đòi hỏi chủ thể cần phải thực hiện trong quá trình
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, chủ thể có thể đặt nguyên tắc này hay nguyên
tắc khác lên hàng đầu tùy thuộc vào đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu, song vấn đề quan
trọng là cần phải áp dụng chúng trong tổng thể.
Với vị trí cực kỳ quan trọng của mình, phƣơng pháp hệ thống thực sự đã trở thành
phƣơng pháp phổ biến trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn, nó là một bộ phận
không thể tách rời của phép biện chứng mác-xít.
Hiện nay, phƣơng pháp hệ thống ngày càng có vai trò to lớn trong nhận thức khoa học
và hoạt động thực tiễn. Nó là công cụ hữu hiệu để phân tích các khách thể hệ thống, góp phần
làm sâu sắc sự phân tích chất lƣợng đối với các khách thể ấy. Phƣơng pháp hệ thống giúp chủ
thể xác định đối tƣợng nghiên cứu là các khách thể hệ thống, nó cụ thể hóa khách thể cần
nghiên cứu, định hƣớng đúng đắn cho quá trình nhận thức, góp phần phát hiện ra các quy luật
hệ thống của hiện thực. Nó trang bị cho khoa học một cách nhìn tổng thể về thế giới.
Phƣơng pháp hệ thống là công cụ đắc lực và chủ yếu trong việc thiết lập bức tranh hệ
thống về thế giới. Nó giúp khoa học có một cách nhìn đa diện, đa
- 157 -
cấp độ, nhờ đó con ngƣời có thể khám phá ra những quy luật nội tại diễn ra trong từng hệ
thống và trong các cấp độ hệ thống.
Đồng thời, phƣơng pháp hệ thống còn có vai trò hết sức quan trọng trong tổng hợp tri
thức khoa học. Nó trang bị cho con ngƣời quan điểm phức hợp với tính cách là nguyên tắc tổ
chức có tính hệ thống trong hoạt động của con ngƣời. Không những thế, phƣơng pháp hệ
thống còn giúp chủ thể xây dựng mô hình tổng hợp nhƣ một cơ cấu thứ bậc, cấu trúc đa tầng,
đa chất lƣợng theo những lát cắt khác nhau.
Với vị trí và vai trò quan trọng của phƣơng pháp hệ thống, việc vận dụng nó một cách
đúng đắn sẽ mang lại hiệu quả tích cực trong nhận thức khoa học nói chung, trong việc xây
dựng lý thuyết khoa học nói riêng, mà công việc trƣớc hết là xác định tính hệ thống của các
khái niệm khoa học.
Với tính cách là phƣơng pháp phổ biến, phƣơng pháp hệ thống có vai trò cực kỳ quan
trọng trong hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Nó mang lại cho con ngƣời một quan niệm
đúng đắn về tính hệ thống của xã hội, từ đó con ngƣời có thể đề ra những mục tiêu, phƣơng
hƣớng và lựa chọn những biện pháp thích hợp để thực hiện những mục tiêu, phƣơng hƣớng
ấy.
Phƣơng pháp hệ thống có tầm quan trọng đặc biệt trong tổ chức và quản lý xã hội. Nó
trang bị cho con ngƣời quan điểm tổng thể, đồng bộ, có sự phối hợp khi xác định mục tiêu,
hoạch định và thực hiện các chƣơng trình, xác định và sử dụng nguồn lực cũng nhƣ tiếp nhận
các giải pháp trong quá trình tổ chức và quản lý.
Trong công cuộc đổi mới đất nƣớc ta hiện nay, việc vận dụng phƣơng pháp hệ thống
trong tổ chức và quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội thể hiện ở sự thống nhất giữa
hệ thống các chính sách và tổ chức thực hiện. Bằng các giải pháp, biện pháp mang tính đồng
bộ, cân đối, hợp lý, có sự liên kết
- 158 -
phối hợp nhịp nhàng trong từng lĩnh vực và giữa các lĩnh vực ấy với nhau, chúng ta sẽ thực
hiện đƣợc mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
- 159 -
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Ngọc Khá (1997), "Phạm trù "hệ thống" trong lịch sử triết học", Tạp chí Triết học,
số 3, tr.51-54, Hà Nội.
2. Nguyễn Ngọc Khá (1997), "Nguyên lý tính hệ thống với tính cách là cơ sở triết học của
phƣơng pháp hệ thống", Tập san Khoa học xã hội và Nhân văn, số 5, tr.34-40, Trƣờng
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Ngọc Khá (1998), "Về mối quan hệ giữa phƣơng pháp hệ thống và phép biện
chứng duy vật", Tạp chí Triết học, số 3, tr.35-38, Hà Nội.
4. Nguyễn Ngọc Khá (1998), "Phép biện chứng duy vật với tính cách là một hệ thông", Tập
san Khoa học xã hội và Nhân văn, số 6, tr. 110-117, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Ngọc Khá (1999), "Về mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái bộ phận trong triết học
Hêghen", Tạp chí Triết học, số 6, tr.51-53, Hà Nội.
6. Nguyễn Ngọc Khá (1999), "Tính hệ thống của các khái niệm khoa học", Tạp chí Phát triển
khoa học công nghệ, 12, tr.48-52, Nxb Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Ngọc Khá (2001), "Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong tổ chức và quản lý xã
hội", Tạp chí Triết học, số 01, tr.57-59, Hà Nội.
8. Nguyễn Ngọc Khá (2001), "Một số vấn đề về tổ chức và quản lý khoa học -công nghệ
bằng quan điểm hệ thống ở nƣớc ta hiện nay", Tạp chí Khoa học xã hội, số 2 (48),
tr.50-53, Tp. HCM.
9. Nguyễn Ngọc Khá (2001), "Vận dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý
lĩnh vực giáo dục đào tạo ở nƣớc ta hiện nay", Tập san Thông tin khoa học, số 11,
tr.20-25, HUFLIT, Tp.HCM.
- 160 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN TIẾNG VIỆT
1. Vũ Tuấn Anh (chủ biên) (1994), Đổi mới kinh tế và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
2. V.G.Aphanaxép (1979), Con người trong quản lý xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Vũ Đình Bách, Ngô Đình Giao (đồng chủ biên) (1996), Đổi mới chính sách và cơ chế quản
lý kinh tế bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Vũ Đình Bách, Ngô Đình Giao (đồng chủ biên) (1997), Đổi mới và thực hiện đồng bộ các
chính sách, cơ chế quản lý kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Doãn Chính (chủ biên) (1997), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
6. Nguyễn Trọng Chuẩn, Tô Duy Hợp, Lê Hữu Tầng, Nguyễn Duy Thông (chủ biên) (1977),
Vai trò của phương pháp luận triết học Mác-Lênin đối với sự phát triển của khoa học
tự nhiên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Trọng Chuẩn (1996), "Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính sách kinh tế và
đổi mới chính sách xã hội", Tạp chí Triết học, số 3, tr. 13-17, Hà Nội.
8. V.P.Cudơmin (1983), Nguyên lý tính hệ thống trong lý luận và phương pháp luận của
C.Mác. (Ngƣời dịch: Nguyễn Duy Thông), Nxb Sự thật, Hà Nội.
9. Đỗ Minh Cƣơng (1998), Những vấn đề cơ bản về quản lý khoa học và công nghệ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- 161 -
10. Lê Đăng Doanh (1997), Cơ sở khoa học của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Đáng (1990), Giáo trình phân tích hệ thống quản lý, Trƣờng Đại học Bách
khoa Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung
ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung
ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- 162 -
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng, Hà
Nội.
24. Nguyễn Khoa Điềm (1999), "Một số vấn đề về thể chế văn hóa", Tạp chí Cộng sản, số
13, tr. 22-27, Hà Nội.
25. Nguyễn Quang Điển (1999), "Lý luận hình thái kinh tế-xã hội với sự nhận thức con
đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta", Triết học (dùng cho nghiên cứu sinh và học
viên cao học), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Lƣu Văn Đạt, Dƣơng Văn Long, Lê Nhật Thức (đồng chủ biên) (1996), Đổi mới và hoàn
thiện chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Thế Đạt (1997), Tiến trình đổi mới quản lý nền tính tế quốc dân của Việt Nam, Nxb Hà
Nội, Hà Nội.
28. Lƣu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, gồm 4 tập, (Ngƣời dịch: Lê
Quang Lâm và Phạm Đình cầu), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Cao Xuân Hòa (1993), Vận dụng phương pháp phân tích hệ thống và mô hình hóa vào
nghiên cứu cơ chế quản lý kinh tế, Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Trƣờng Đại
học kinh tế quốc dân Hà Nội, Hà Nội.
30. Hội đồng Trung trong chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
31. Nguyễn Văn Huyên (1999), "Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc", Tạp chí Triết học, số 1, tr.5-8, Hà Nội.
32. B.M. Keđrốp (1976), Khái lược về lịch sử và lý luận phát triển khoa học, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
- 163 -
33. Vũ Khiêu, Phạm Xuân Nam, Hoàng Trinh (đồng chủ biên) (1993), Phương
pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
34. Trần Xuân Lập (1991), Vận dụng quan điểm hệ thống vào việc xây dựng và hoàn thiện cơ
cấu sản xuất kinh doanh trong quân đội, Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Trƣờng
Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, Hà Nội.
35. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, t1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
36. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, t8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
37. V.I. Lênin (1979), Toàn lập, tl4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
38. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tl5, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
39. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
40. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
41. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, t29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
42. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, t31, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
43. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, t39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
44. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
45. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
46. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. CMác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- 164 -
55. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. C.Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t25, phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. C.Mác và Ph. Ăngghen (1996), Toàn tập, t27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. C.Mác và Ph. Ăngghen (1999), Toàn tập, t39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. C.Mác và Ph. Ăngghen (1998), Toàn tập, t46, phần I , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, t6, Nxb Sự thật, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, t8, Nxb Sự thật, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Đỗ Mƣời (1997), Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
65. Nguyễn Chí Mỹ, Nguyễn Ngọc Long (1999), "Nét đặc sắc trong việc giải quyết mối quan
hệ dân tộc và giai cấp ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, số 6, tr. 19-22, Hà Nội.
66. Phạm Văn Nam (1996), ứng dụng lý thuyết hệ thống trong quản trị, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
67. Lê Khả Phiêu (1998), "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện thiết
chế dân chủ ở cơ sở", Tạp chí Cộng sản, số 3, tr. 3-7, Hà Nội.
68. Phạm Ngọc Quang (2000), "Bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân của Nhà nƣớc - Một vấn đề cấp bách trong việc củng cố Nhà nƣớc ta
hiện nay", Tạp chí Triết học, số 2, tr. 5-9, Hà Nội.
69. Nguyễn Văn Quỳ (1987), Vận dụng quan điểm hệ thống trong quản lý lành tế, Nxb Khoa
học kỹ thuật, Hà Nội.
- 165 -
70. Nguyễn Duy Quý (1998), Nhận thức thế giới vi mô, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
71. G.I. Ruzavin (1983), Các phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà
Nội.
72. A.P.Séptulin (1989), Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
73. Nguyễn Thanh Thịnh, Đào Duy Tính, Lê Dũng (1999), Quy hoạch phát triển hệ
thống nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Vũ Tình (1998), Đạo đức học phương Đông cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân (1998), Giáo trình các phương pháp lượng trong quản
lý kinh tế, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
76. Hoàng Tụy (1987), Phân tích hệ thống và ứng dụng, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
77. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ƣơng (1997), Đổi mới quản lý kinh tế và môi
trường sinh thái, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Viện Triết học (1996), Từ điển triết học phương Tây hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
79. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta hiện
nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
80. Hồ Sĩ Vịnh (1999), Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
81. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên) (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Ph. Xốtxuya (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- 166 -
PHẦN TIẾNG NGA
83. Аверьянов А.Н.(1974), Категория "система” в диaлeсктичеcкoм материализме,
Мысль, Москва.
84. Авeрьянов A.Н.(1970), Система: философская категория и реальность, Мысль,
Москва.
85. Академия наук СССР (1969 → 1987), Системные исследования: Методологические
проблемы, Ежегодник, Наука, Москва.
86. Академия наук СССР(1984), Методологические проблемы научного исследования,
Наука, Москва.
87. Академия наук СССР (1985), Проблемы методологии науки, Наука, Новосибирск.
88. Академия наук СССР (1985), Философские основания научной теории, Наука,
Новосибирск.
89. Акоф Р. (1900), "Общая теория систем и исследование систем как
противоположные концепции науки о системах", Общая теория систем,
Москва.
90. Аристотель (1934), Метафизика, Москва - Ленинград.
91. Аристотель (1937), Физика, Москва.
92. Аристотель (1939), Категории, Москва.
93. Аристотель (1975), Произведения, Т.1, Наука, Москва.
94. Афанасьев В.Г. (1980), "О целостных системах". Вопросы филоcoфии, No 6, Москва.
95.Афанасьев В.Г. (1980), Системность и общество, Политиздат, Москва.
96. Афанасьев В. Г. (1981), Общество: системность, познание п управление,
Политиздат, Москва.
97. Бачпло И.Л. (1970), Функции органов управления, Москва.
- 167 -
98. Бeрог A.И., Бирюков В.B. (19(59), "Философские проблемы и методология
кибериетики", Лeнин и современное естeствознание, Моcква.
99. Берталапфи Л. фон. (1969) "Общая теория систем - критический обзор",
Исследование по общей теории систем, Москва.
100. Блауберг И.П., Юдин Э.Г. (1970), "Философские проблемы исследования систем
и структур", Вопросы философии, No5, стр. 57-68, Москва.
101. Блауберг И.B., Юдин Э.Г. (1972), "Системный подход в социальном познании",
Историческии материализм как теория социального познания и деятельность,
Москва.
102. Блауберг И.В., Юдин Э.Г. (1973), Становление и сущность сиcтемного подхода,
Наука, Москва.
103. Вернадский В.И. (1908), "Научная мысль как планетное явление", Паука п религия,
№11, Москва.
104. Гвишиани Д. М. (ответственный редактор) (1983), Фплософско-
методологичеcкие основания системных исследований, Наука, Москва.
105. Гвишиани Д. М. (ответственный редактор) (1986), Диалектика п системный
анализ, Наука, Москва.
106. Гегель Ж.В.Ф. (1932), Произведения, Т.9, Москва.
107. Гегель Ж.В.Ф. (1934), Произведения, Т.2, Москва-Ленинград.
108. Гегель Ж.В.Ф. (1939), Произведения, Т.6, Москва.
109. Гегель Ж.В.Ф. ( 1959), Произведения, Т. 1, Москва.
110. Гегель Ж. В.Ф. (1959), Произведения. Т.4, Москва.
111. Гегель Ж.В.Ф. (1975), Энциклопедия философских наук, Философия природы, Т.2,
Москва.
112. Гольбах 11.Х. (1963), Произведения в двух томах. Т .1 , Москва.
- 168 -
113. Гулиапн К.И. (1962), Метод и система Гегеля, Москва.
114. Дeнкина О.С.(1971), Категория "структура" в системе категории диaлeктики,
Москва.
115. Каган М.С. (1971) "Системность и историзм", Философские науки, №5, Москва.
116. Кант И. (1964), Произведения в шестых томах, Т. 1, Москва.
117. Кедров Б.М. (1985), Классификация наук. Прогноз К. Маркса о науке будущего,
Мысль, Москва.
118. Керимов Д.Л.(1980), Философские основания политико-правовых исследовании,
Мысль, Москва.
119. Клиапд Д., Кинг В. (1974), Системный анализ и целевое управление. Москва.
120. Кондильях Э.Б.де (1938), Трактат о системах, в которых вскрываются их
недостатки и достониства, Москва.
121. Кузьмин В.П. (1980), Принцип системности в теории и методoлогии К. Маркса,
Политиздат, Москва.
122. Лаэртекий Д. (1979), О жизни, учениях и изречениях знаменитых философов,
Москва.
123. Лекторский В.А., Швырев В.С. (1971), "Актуальные фнлософско-
методологичеcкие проблемы системного подхода", Вопросы философии, No1,
Москва.
124. Мотрошиловa Н.В. (1984), Путь Гегеля к "науке логики". Нaука, Москва.
125. Науменко Л.К.(1974), "Диалектика Гегеля и системный подход", Философские
науки, №4, стр. 95-103, Москва.
126. Овчинников П.Ф.(1967), "Категория структур в науках о природе", Структура и
формы материи, Москва.
- 169 -
127. Огурцоп А.П. (1974), "Этапы интерпретации системности научного знания
(античность и новое время)". Ежегодник "системные исследования", Наука,
Москва.
128. Оруджев З. М. (1973), Диалектика как система, Политиздат, Москва.
129. Пeтрушенко Л.A. (1975), Единство системности п самодвижения, Москва.
130. Пeтрушенко Л.А. (1975), Пpoграмно-цeлевой подход п управлении. Теория и
практика, Москва.
131. Платон (1970), Произведения и трѐх томах, Т.З, ч.1. Москва.
132. Плeтников Ю.К. (1980), "Особeнность закона развития социалистического
общества", Вопросы философии, №2, Москва.
133. Розенталь М.М. (1960), Принцип диалектической логики, Москва.
134. Розенталь М.М. (1976), Диалектика ленинского исследочання империализма и
революции, Москва.
135. Садовский В.Н., Юдин Э.Г. (1970), Система-философская энциклопедия, Т. 5,
Москва.
136. Садовский В.Н. (1974), Основы общей теории систем: логикo-методологический
анализ, Наука, Москва.
137. Сарсенов Р.Т.(1977), Диалектнко-логический анализ категории
"взаимодействие", Алма-Ата.
138. Сачков Ю.В., Фам Ньы Кыонг (ответственные редакторы) (1980), Философия.
Естествознание. НТР, Прогресс. Москва.
139. Свидерский В.И. (1962), О диалектике элементов и структур в объективном
мире и в познании, Москва.
140. Сниркин А.Г. (1988), Основы философии, Политиздат, Москва.
141. Тюхтин В.С.(1968), "Системно-структурный подход п специфика философского
знания", Вопросы философии, No11, Москва.
- 170 -
142. Тюхтин В.С. (1972), Отражение, системы, кибернетика (теория отражения
в свете кибернетики и системного подхода). Москва.
143. Усмов A.И. (1978), Системный подход и общая теория систем, Мысль, Москва.
144. Федосеев П.Н.(1979), "Некоторые методологические вопросы общественных
наук", Вопросы философии. No11, Москва.
145. Философский энциклопедический словарь,(1983), Советская энциклопедия,
Москва.
146. Фролов И.Т.(1969), "Системно-структурный подход и диалектика". Вопросы,
философии, No12, Москва.
147. Хайлов К.М. (1970), Системы и систематизация в биологии. Проблемы
методологии системного исследования, Москва.
148. Хасанов М.Х. (1981), Структура и функция в системе категории
материалистической диалектики, Узбекистан, Ташкент.
149. Хасанов М.Ш. (1982), Проблема целостности в марксистско- ленинской
философии, Казахстан, Алла-Ата.
150. Шевтулпи А.П.(1980), Категории диалектики как отражение закономерностей
развития, Знание, Москва.
151. Шевтулин А.П. (1985), Диалектический материализм, Политиздат, Москва.
152. Югай Г.А. (1965), Диалектика части и целого, Алма-Ата.
- 171 -
PHẦN TIẾNG ANH
153. Bertalanffy L. (1960), Problems of life, New York.
154. Bertalanffy L. (1968), General System theory. Foundations, development, applications,
New York.
155. Lilienfeld R. (1978), The rise of System theory. An ideological analysis, New York.
156. Merton R. K. (1967), Social theory and social structure, Revised and enlarged ad.
Glencoe.
157 Miller I. G. (1971), The nature of living Systems. Behavioral science, No 4.
158. Parson T. (1964), Essays in Sociological theory. , Glencoe. Revised ed. Free Press.
159. Rudwick B. H. (1969), The Systems analysis for effective planning: Principles and
Cases, New York.
160. Vu Tinh (2000), "Philosophy and life", Philosophy Now, June-July, p.7-8, London.