ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN NGỌC KHÁ

PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG -

PHƢƠNG PHÁP PHỔ BIẾN TRONG NHẬN THỨC KHOA HỌC

VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỔ CHÍ MINH - 2001

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN NGỌC KHÁ

PHƢƠNG PHÁP HỆ THÔNG -

PHƢƠNG PHÁP PHỔ BIẾN TRONG NHẬN THỨC KHOA HỌC

VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN

Chuyên ngành : CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ DUY VẬT LỊCH SỬ

Mã số : 5 01 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

1. TS. VŨ TÌNH

2.TS. NGUYỄN QUANG ĐIỂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2001

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công ƣình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu kết quả nêu

trong luận án này là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào

khác.

Tác giả luận án

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. - 1 - CHƢƠNG 1. HỆ THỐNG VÀ PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ................................................................................................................ - 7 - 1.1. Hệ thống với tính cách là một phạm trù triết học ................................................ - 7 - 1.1.1. Phạm trù hệ thống trong lịch sử triết học ........................................................ - 7 - 1.1.2. Phạm trù hệ thống dƣới ánh sáng của khoa học hiện đại .............................. - 17 - 1.2. Phƣơng pháp hệ thống : sự hình thành và một số nội dung cơ bản ..................... - 26 - 1.2.1. Sự hình thành phƣơng pháp hệ thống ........................................................... - 26 - 1.2.2. Một số nội dung cơ bản của phƣơng pháp hệ thống ..................................... - 34 - CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG TRONG NHẬN THỨC KHOA HỌC ... - 52 - 2.1. Vị trí của phƣơng pháp hệ thống trong hệ thống các phƣơng pháp nhận thức khoa học ............................................................................................................................... - 52 - 2.2. Vai trò phƣơng pháp hệ thống trong nhận thức khoa học.................................... - 70 - 2.2.1. Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong sự phân tích các khách thể hệ thống ... - 71 - 2.2.2. Phƣơng pháp hệ thống và bức tranh hệ thống về thế giới............................. - 77 - 2.2.3 Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong sự tổng hợp tri thức ....................... - 81 -

2.3. Vận dụng phƣơng pháp hệ thống trong việc phân tích tính hệ thống của các khái niệm khoa .................................................................................................................... - 86 - CHƢƠNG 3. PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN ... - 94 - 3.1. Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong hoạt động thực tiễn ............................. - 94 - 3.1.1. Tính hệ thống của xã hội và hoạt động thực tiễn .......................................... - 94 - 3.1.2. Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong tổ chức và quản lý xã hội ........... - 104 -

3.2. Một số vấn đề về dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý xã hội ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay. ........................................................... - 111 - 3.2.1. Vận dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế. . - 112 - 3.2.2. Vận dụng phƣơng pháp hệ thông vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực xã hội. .. - 121 - 3.2.3. Vận dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực chính trị - 130 - 3.2.4. Vận dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý tinh vực tinh thần - 139 -

KẾT LUẬN ....................................................................................................................... - 156 - DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ................................................................. - 159 - TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN TIẾNG VIỆT ............................................................. - 160 -

- 1 -

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp bách của đề tài.

Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, con ngƣời

đi sâu vào việc tìm hiểu cấu trúc vi mô và vĩ mô của thế giới vật chất. Cùng với xu hƣớng

toàn cầu hóa các quan hệ quốc tế và những biến đổi sâu sắc trong các lĩnh vực của đời sống

xã hội thì việc mở rộng thông tin và đa dạng hóa các tri thức khoa học đã mang lại bức tranh

chung về thế giới hết sức đa dạng và phức tạp. Vì vậy, tiếp nhận những công cụ, phƣơng

pháp nhận thức khoa học mới cho phù hợp với sự phát triển của khoa học hiện đại và đời

sống xã hội đang là đòi hỏi cấp thiết đối với con ngƣời. Trong số các phƣơng pháp mà con

ngƣời áp dụng thì phƣơng pháp hệ thống giữ một vai trò to lớn.

Phƣơng pháp hệ thống đang đƣợc áp dụng rất rộng rãi, không một lĩnh vực khoa học

và hoạt động thực tiễn nào của con ngƣời lại không áp dụng phƣơng pháp ấy; nó đã trở thành

biểu tƣợng của tính khoa học và tính hiệu quả trong quá trình tiếp nhận chân lý, vì vậy nó

đang là mối quan tâm bức bách đối với những ngƣời làm công tác lý luận.

Phƣơng pháp hệ thống chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong phép biện chứng duy

vật, là một mặt, một bộ phận trong triết học mác-xít. Nó có nội dung vô cùng phong phú và

ngày càng đƣợc bổ sung bởi các thành tựu khoa học và thực tiễn xã hội. Do vậy, phƣơng

pháp hệ thống có vai trò to lớn trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn, nó góp phần

làm phong phú phong cách tƣ duy, nếp suy nghĩ và phƣơng thức hoạt động của con ngƣời.

Vận dụng phƣơng pháp ấy sẽ mang lại cho con ngƣời những kết quả tích cực. Đặc biệt, đối

với sự nghiệp đổi mới ở nƣớc ta hiện nay nói chung, đối với tổ chức và quản lý xã hội nói

- 2 -

riêng, vận dụng đúng đắn phƣơng pháp hệ thống sẽ mang lại hiệu quả thiết thực trong tất cả

các lĩnh vực của đời sống.

Với vị trí, vai trò và tính hiệu quả của mình, phƣơng pháp hệ thống đã thực sự trở

thành phƣơng pháp phổ biến trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.

Song, trong các tài liệu triết học hiện nay, việc nghiên cứu phƣơng pháp hệ thống còn

có những hạn chế nhất định, còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Có quan điểm coi

phƣơng pháp hệ thống chỉ là phƣơng pháp chung đƣợc áp dụng cho nhiều ngành khoa học,

nhƣng lại có quan điểm coi phƣơng pháp hệ thống là phƣơng pháp phổ biến đƣợc áp dụng

cho mọi lĩnh vực khoa học và thực tiễn. Vì vậy, phƣơng pháp hệ thống hơn bao giờ hết cần

phải đƣợc làm rõ hơn về lý luận và vận dụng.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.

Vấn đề hệ thống là vấn đề không mới mẻ trong lịch sử triết học. Ngay từ thời cổ đại

các nhà ƣiết học đã đề cập đến khái niệm hệ thống. Đặc biệt từ thế kỷ XIX các nhà triết học

Đức đã quan tâm đến nguyên tắc tính hệ thống với tính cách là một nguyên tắc triết học;

song, rất tiếc rằng khi nghiên cứu vấn đề hệ thống, họ đã đứng trên lập trƣờng của chủ nghĩa

duy tâm.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không trực tiếp nghiên cứu phƣơng

pháp hệ thống, song những tác phẩm của các ông đều chứa đựng quan điểm hệ thống. Đặc

biệt tác phẩm Tư bản của C.Mác là công trình đầu tiên và tiêu biểu nhất đƣợc nghiên cứu bởi

phƣơng pháp hệ thống.

Phƣơng pháp hệ thống luôn luôn đƣợc quan tâm nghiên cứu của các tác giả cả trong

và ngoài nƣớc.

Ở Liên Xô trước đây, các bộ giáo trình triết học đều có những mục bàn về phƣơng

pháp hệ thống.

- 3 -

Ngoài những giáo trình triết học ra, vấn đề phƣơng pháp hệ thống còn đƣợc nghiên

cứu trong các tác phẩm chuyên bàn về vấn đề này. Tác phẩm Sự hình thành và bản chất của

phương pháp hệ thống của I.v. Blauberơgơ và Ê.G. Iudin (Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1973)

đã nghiên cứu những tiền đề triết học, khoa học của sự hình thành phƣơng pháp hệ thống;

những khía cạnh khác nhau trong bản chất của phƣơng pháp hệ thống;... Tác phẩm Hệ thống :

Phạm trù triết học và hiện thực của A.N. Averianốv (Nxb Tƣ tƣởng, Mátxcơva, 1976) đã coi

hệ thống là một phạm trù triết học, chỉ ra ý nghĩa phƣơng pháp luận và nhận thức luận của

phạm trù hệ thống,... v.P. Cudơmin trong tác phẩm Nguyên lý tính hệ thống trong lý luận và

phương pháp luận của C. Mác (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983) đã tập trung phân tích tính hệ

thống và chỉ ra ý nghĩa thế giới quan, phƣơng pháp luận của nó đƣợc trình bày trong bộ Tư

bản cũng nhƣ trong các tác phẩm chuẩn bị cho công trình vĩ đại này của C.Mác, ... Các tác

phẩm Tính hệ thống và xã hội (Nxb Chính trị, Mátxcơva, 1980) và Xã hội: Tính hệ thống,

nhận thức và quản lý (Nxb Chính trị, Mátxcơva, 1981) của tác giả V.G. Aphanaxép đều phân

tích những phƣơng diện khác nhau trong nội dung của phƣơng pháp hệ thống, cũng nhƣ sự

vận dụng nó trong đời sống xã hội. Cuốn Những cơ sở phương pháp luận triết học của

nghiên cứu hệ thống (Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1983) và cuốn Phép biện chứng và phân tích

hệ thống (Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1986) đều do viện sĩ Đ.M.Gvishianhi chịu trách nhiệm

xuất bản có hàng loạt bài bàn về phƣơng pháp hệ thống trong các lĩnh vực khác nhau của

nhận thức khoa học và thực tiễn xã hội. Cuốn Phương pháp nhận thức biện chứng của A.P.

Séptulin (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989) có đề cập đến nguyên tắc quyết định luận nhƣ một yêu

cầu của phƣơng pháp hệ thống.

Đặc biệt, ở Liên Xô trƣớc đây đều có niên giám hàng năm với nhan đề Những nghiên

cứu hệ thống. Những vấn đề phương pháp luận. Những bài viết

- 4 -

trong đó đề cập đến những nội dung phong phú của phƣơng pháp hệ thống gắn liền với sự

phát triển của khoa học hiện đại và thực tiễn xã hội.

V.v...

Ở Việt Nam, hầu hết các giáo trình triết học cũng đều có mục đề cập đến những nội

dung cơ bản nhất của phƣơng pháp hệ thống.

Tác phẩm Vai trò của phương pháp luận triết học Mác - Lênin đối với sự phát triển

của khoa học tự nhiên do Nguyễn Duy Thông chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)

có mục bàn về vai trò và ý nghĩa của phƣơng pháp hệ thống trong nghiên cứu khoa học.

Tác giả Hoàng Tụy trong cuốn Phân tích hệ thống và ứng dụng (Nxb Khoa học kỹ

thuật, Hà Nội, 1987); tác giả Nguyễn Văn Quỳ trong cuốn Vận dụng quan điểm hệ thống

trong quản lý kinh tế (Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 1987); tác giả Cao Xuân Hòa trong

luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế với đề tài Vận dụng phương pháp phân tích hệ thống và

mô hình hóa vào nghiên cứu cơ chế kinh tế (Trƣờng Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1993)

và nhiều tác giả khác đều đề cập đến những khía cạnh lý luận và phƣơng pháp luận của

phƣơng pháp hệ thống và sự vận dụng nó trong thực tiễn.

Gần đây, trong tác phẩm Nhận thức thế giới vi mô (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

1998), tác giả Nguyễn Duy Quý đã phân tích sâu sắc quá trình nhận thức thế giới vi mô, góp

phần làm sâu sắc và phong phú thêm cách tiếp cận hệ thống trong nhận thức khoa học. Tác

giả Phạm Văn Nam trong cuốn Ứng dụng lý thuyết hệ thống trong quản trị (Nxb Thống kê

Hà Nội, 1996) và tác giả Lê Đăng Doanh trong cuốn Cơ sở khoa học của công cuộc đổi mới

kinh tế ở Việt Nam (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997) cũng đều đề cập đến vấn đề vận

dụng quan điểm hệ thống trong thực tiễn xã hội ta hiện nay.

- 5 -

Ngoài các tác phẩm trên đây, hầu hết các giáo trình về quản lý đều bàn đến vấn đề lý

luận và vận dụng phƣơng pháp hệ thống trong quản lý xã hội.

V.v...

Nhìn chung, những tác phẩm của các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc đều đề cập và

nghiên cứu vấn đề phƣơng pháp hệ thống từ những phƣơng diện khác nhau. Song, với tính

cách là phƣơng pháp phổ biến và cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội,

phƣơng pháp hệ thống cần đƣợc bổ sung những nội dung mới, cần đƣợc luận giải một cách

tập trung hơn, hệ thống hơn. Chính vì vậy, tác giả luận án muốn đề cập tới vị trí, vai trò của

phƣơng pháp hệ thống và vận dụng nó trong nhận thức khoa học cũng nhƣ ƣơng tổ chức và

quản lý xã hội ở nƣớc ta hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.

Mục đích của luận án là làm sáng tỏ vị trí và vai trò của phương pháp hệ thống trong

nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn, từ đó vận dụng nó trong nhận thức khoa học và

tổ chức, quản lý xã hội ta hiện nay.

Để thực hiện mục đích đó, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau :

1- Phân tích sự hình thành và nội dung của phương pháp hệ thống.

2- Phân tích vị trí của phương pháp hệ thống trong hệ thống các phương pháp nhận

thức khoa học.

3- Phân tích vai trò của phương pháp hệ thống và sự vận dụng nó trong nhận thức

khoa học và hoạt động thực tiễn nói chung, trong tổ chức và quản lý xã hội nói riêng.

4- Nêu lên một số nội dung cũng như giải pháp trong việc vận dụng phương pháp hệ

thống đối với tổ chức và quản lý xã hội ta hiện nay.

- 6 -

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.

Luận án đƣợc xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử.

Phƣơng pháp biện chứng duy vật là phƣơng pháp xuyên suốt trong quá trình nghiên

cứu đề tài.

Luận án còn sử dụng các phƣơng pháp : So sánh, phân tích, tổng hợp, lịch sử và lôgíc.

5. Những đóng góp mới của luận án.

Luận án trình bày một cách có hệ thống về lịch sử hình thành, những nội dung cơ bản

của phƣơng pháp hệ thống.

Luận án phân tích sâu sắc vị trí và vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong nhận thức

khoa học và hoạt động thực tiễn.

Luận án nêu lên một số nội dung và đề xuất một số giải pháp trong việc vận dụng

phƣơng pháp hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình tổ chức, quản lý xã hội Việt

Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.

6. Ý nghĩa của luận án.

Với kết quả đạt đƣợc, luận án có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc

nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn triết học Mác - Lênin.

Luận án có tác dụng gợi ý và khuyến nghị đối với những ngƣời làm công tác tổ chức

và quản lý trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội ta hiện nay.

7. Kết cấu của luận án.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chƣơng, 7 tiết.

- 7 -

CHƢƠNG 1. HỆ THỐNG VÀ PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG : MỘT SỐ VẤN

ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1.1. Hệ thống với tính cách là một phạm trù triết học

Từ lâu, hệ thống đã đƣợc các nhà triết học quan tâm xem xét, song chỉ đến khi triết

học Mác ra đời, nó mới có đƣợc một quan niệm thật sự khoa học. Hiện nay còn nhiều quan

điểm khác nhau về khái niệm hệ thống. Có quan điểm coi nó chỉ là khái niệm của các khoa

học chuyên ngành, nhƣng cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu khẳng định hệ thống là một phạm

trù triết học, có nội dung vô cùng phong phú, có mối quan hệ mật thiết với các phạm trù triết

học khác và có giá trị phƣơng pháp luận to lớn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Để xác định bản chất cũng nhƣ vị trí, vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong nhận

thức khoa học và hoạt động thực tiễn thì việc phân tích cơ sở lý luận của nó đóng vai trò hết

sức quan trọng. Cơ sở lý luận ấy nằm ở bản thân phạm trù hệ thống.

1.1.1. Phạm trù hệ thống trong lịch sử triết học

Khái niệm hệ thống đã đƣợc đề cập trong các hệ thống triết học cũng nhƣ khoa học tự

nhiên. Nó có mầm mống ngay từ thời cổ đại. Các sự vật, hiện tƣợng trong thế giới có sự ràng

buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, nên khi nghiên cứu các tập hợp, Arixtốt đƣa ra các khái

niệm giống, loài. Ông viết: "... các loài, kể cả giống là cái dùng để quy cái tập hợp thành một

thực tại" [92, tr.59]. Khi định nghĩa về giống, loài, Alix tốt chú ý đến mối liên hệ, tác động

qua lại giữa các sự vật, hiện tƣợng ƣơng một thể thống nhất. Giống, theo ông, đó là "tổng thể

các sự vật này hay sự vật khác, bằng những hình thức nhất định liên hệ với một sự vật nào đó,

cũng nhƣ giữa chúng với nhau" [92, tr.54 - 56]; còn loài "là cái dùng để

- 8 -

chỉ nhiều sự vật khác nhau về số lƣợng nhằm vạch ra bản chất của các sự vật đó" [92, tr.54 -

56].

Alix tốt cho rằng mặc dù giữa giống và loài có sự khác nhau nhƣng chúng đều chứa

đựng một cái gì đó phản ánh cái chung, cái bản chất của tồn tại khách quan. Ông chỉ ra cái

chung, cái bản chất ấy là tập hợp những sự tác động qua lại và biểu thị bằng phạm trù cái

toàn thể. Theo Arixtốt, "cái toàn thể là cái mà ở đó không thể thiếu bất kỳ một bộ phận nào,

mà trong thành phần của nó thì mỗi bộ phận lại là cái toàn thể bao gồm các sự vật và hình

thành nên một thể thống nhất" [90, tr.102-03]; còn cái bộ phận đƣợc hiểu là cái tham gia vào

thành phần cấu tạo nên sự vật (cái toàn thế). Rõ ràng là, cái toàn thể rộng hơn so với giống,

loài, song chúng đều phản ánh tập hợp những sự tác động qua lại. Đối với Arixtốt, cái toàn

thể đã tách ra một tập hợp có điểm đầu, điểm giữa, điểm kết thúc và mang tính hoàn thiện.

Hơn nữa, "cái toàn thể, cái kết thúc và cái hoàn thiện là đồng nhất hoặc tƣơng đƣơng với

nhau" [91, tr.65]. Cần lƣu ý rằng, phạm trù cái toàn thể đã đƣợc sử dụng bởi các nhà triết học

trƣớc đó, nhƣng chỉ đến Alix tốt thì mới đƣa ra đƣợc một định nghĩa trọn vẹn, nhằm xác định

nội dung và những đặc trƣng của nó. Chẳng hạn, khái niệm cái toàn thể đã đƣợc

Anaximanđrơ dùng để chỉ tổng thể vật chất trong vũ trụ, ông khẳng định cái toàn thể là cái

bất biến, chỉ có những bộ phận của nó mới biến đổi. Đêmôcrít dùng khái niệm này để chỉ

tổng thể các nguyên tử cấu thành nên sự vật và quy định tính đa dạng của chúng. Platôn coi

nhà nƣớc lý tƣởng là một cái toàn thể và cho rằng : "Khi chúng ta kiến tạo nên nhà nƣớc thì

tất yếu trƣớc hết cần phải thiết lập nên cái cần phải làm vì danh nghĩa của một toàn thể" [131,

tr.224]. Đặc biệt, Êpiquya đã dùng khái niệm hệ thống để chỉ tổng số các tri thức và ông

- 9 -

nhấn mạnh bản chất cũng nhƣ sự tồn tại của khách thể cần phải đƣợc xem xét trong quá trình

nhận thức [xem: 122, tr.416 -417].

Khi đề cập đến sự hình thành khái niệm hệ thống, trong các tài liệu triết học mác-xít

cũng có những cách đánh giá khác nhau. Có quan điểm cho rằng, nội dung của khái niệm hệ

thống trong triết học Hy Lạp cổ đại hoàn toàn mang tính chất chủ quan, tùy thuộc vào góc độ

nhìn nhận của các triết gia đƣơng thời. A. p. Ôgursốp viết: "Ý nghĩa của khái niệm "hệ

thống" trong thuật ngữ Hy Lạp đƣợc thể hiện rất rộng, dùng để chỉ: tổ hợp, cơ thể, cơ cấu, tổ

chức, liên hợp, chế độ, cơ quan chủ đạo" [127, tr.155]. Theo ông, khái niệm hệ thống liên

quan với các hình thức tồn tại lịch sử - xã hội [xem: 127, tr.155]. Có quan điểm khác lại cho

rằng, "lần đầu tiên khái niệm "hệ thống" đƣợc tìm thấy ở các nhà xtôíc, họ đã giải thích nó lừ

góc độ bản thể luận cũng nhƣ trật tự của thế giới" [135, tr.18].

Theo chúng tôi, những cách đánh giá trên đây đều có tính hợp lý của nó, bởi vì nó đều

nói lên những quan niệm đa dạng về mặt bản thể luận cũng nhƣ nhận thức luận trong khái

niệm hệ thống. Song quan trọng là cần phải khẳng định rằng, khái niệm hệ thống đã có phôi

thai trong triết học cổ đại, mặc dù nó chƣa trở thành một phạm trù triết học và những quan

niệm ấy còn mang tính chất tự phát, ngây thơ.

Trong những thế kỷ tiếp theo, các nhà triết học và khoa học tự nhiên tiếp tục sử dụng

khái niệm hệ thống để chỉ tổng số các tri thức và tổng số các vật thể của thế giới hiện thực.

Chẳng hạn, trong thời kỳ Khai Sáng, Hônbách coi "thế giới khách quan tồn tại với tính cách

là hệ thống của các hệ thống" [112, tr.66], nhƣng ông đã đồng nhất hệ thống với cái toàn thể,

quy cái toàn thể về tổng số giản đơn của các bộ phận cấu thành. Nhiều nhà triết học đã cố

gắng tìm hiểu nội dung và ý nghĩa khoa học của khái niệm hệ thống. Tiêu biểu là Côngđilắc,

ông đã gắn khái niệm hệ thống với khoa học và nghệ thuật và khẳng định: " Mỗi hệ

- 10 -

thống không có gì khác hơn, đó là sự xếp đặt các bộ phận khác nhau của nghệ thuật hay khoa

học nào đó trong một trật tự nhất định, trong đó tất cả đều ràng buộc lẫn nhau và bộ phận này

đƣợc làm sáng tỏ bằng bộ phận kia" [120, tr.3]. Tuy có nhiều tiến bộ hơn so với thời kỳ cổ

đại, song những quan điểm nêu trên về hệ thống vẫn nằm trong khuôn khổ của cách tiếp cận

siêu hình. Mặc dù vậy, việc giải thích hệ thống nhƣ một trật tự và thống nhất của tồn tại đƣợc

coi là liền đề cho quan điểm đúng đắn về hệ thống sau này.

Cùng với việc khoa học tự nhiên đi sâu vào khám phá câu trúc của thế giới vật chất và

sự mở rộng phạm vi nghiên cứu thì trong triết học cũng xuất hiện quan niệm cho rằng vũ trụ

là một hệ thống biến đổi và phát triển không ngừng, tuân theo các quy luật vốn có của nó.

Các tác phẩm Lịch sử phổ biến của giới tự nhiên và học thuyết về bầu trời, Giả thuyết về

nguồn gốc vũ trụ của Cantơ là những bƣớc đi đầu tiên chứng minh cho khuynh hƣớng đó.

Cantơ viết: "Đối với hệ thống, tôi hiểu đó là các tri thức đa dạng đƣợc kết hợp lại với nhau

bằng một tƣ tƣởng" [116, tr.680]. Nhƣ vậy, tư tưởng, theo Cantơ, thực chất là đặc trƣng cơ

bản của mọi hệ thống. Về cấu tạo của hệ thống, ông chỉ ra rằng, nó không chỉ chịu sự tác

động của sức hút, mà còn cả sức đẩy, do vậy hệ thống mới vận động và phát triển. Tính chất

hai mặt, sự dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đã chi phối toàn bộ lý luận

nhận thức của triết học Cantơ. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Cantơ đã giáng

một đòn mạnh mẽ vào tƣ duy siêu hình về vấn đề hệ thống. Cũng chính từ đây, triết học bắt

đầu đặt ra các vấn đề mối liên hệ qua lại, mâu thuẫn, vận động, phát triển là những nhân tố

cực kỳ quan trọng nhằm khám phá tính chất biện chứng của hệ thống.

Tƣ tƣởng biện chứng về hệ thống đƣợc phát triển và hoàn thiện hơn trong triết học

Hêghen. Hệ thống với tính cách là một phạm trù triết học chƣa có ở Hêghen. nhƣng tất cả

mọi đối tƣợng mà ông đề cập đến đều thể hiện là hệ thống

- 11 -

tự phát triển và tất cả đều đƣợc xuyên suốt bởi tƣ tƣởng phát triển. "Ý niệm, -Hêghen viết,- tự

nó là cụ thể, là phát triển, là một hệ thống hữu cơ, là một chỉnh thể chứa đựng tập hợp các nấc

thang và yếu tố" [106, tr.32]. Với tính cách là các nấc thang, yếu tố, "ý niệm" trƣớc hết là hệ

thống, nói cách khác, tất cả đều mang tính hệ thống, thế giới là hệ thống của các hệ thống.

Khi xem xét giới tự nhiên với tính cách là một nấc thang trong sự phát triển của ý niệm tuyệt

đối với các mức độ chỉnh thể của nó, Hêghen đã phân chia thành ba hình thức tồn tại của các

sự vật: hình thức cơ giới, hình thức hóa học và hình thức hữu cơ. Theo đó, ông đã quan niệm

mỗi hình thức tồn tại là một hệ thông bao gồm các yếu tố khác nhau. Đặc biệt, Hêghen đã đặt

ra vấn đề về sự chuyển hóa vô tận từ toàn thể đến bộ phận, từ bộ phận đến toàn thể, bởi vì

mỗi bộ phận đều mang tính độc lập tƣơng đối trong mối quan hệ với các bộ phận khác, cũng

nhƣ với toàn thể [xem: 111, tr.394]. Ông khẳng định "cần phải nghiên cứu giới tự nhiên nhƣ

một hệ thống các nấc thang, mà nấc thang này đƣợc suy diễn từ nấc thang khác, song ở đây

không có quá trình sản sinh vật lý tự nhiên, mà chỉ là sự sản sinh trong lòng ý niệm và ý niệm

ấy tạo ra cơ sở của giới tự nhiên" [107, tr.28].

Rõ ràng, Hêghen đã khẳng định đúng đắn tính chất hệ thống của hiện thực, nhƣng ông

lại coi hiện thực ấy chỉ là các ý niệm, là hệ thống các nấc thang khác nhau của những ý niệm

vận động. về thực chất, Hêghen đã phát triển khái niệm hệ thống chỉ với tƣ cách là khái niệm

thuần túy, nếu chúng ta bổ sung cho khái niệm ấy thì nó sẽ đứng trong "hàng ngũ" các phạm

trù triết học. Mặc dù Hêghen không chú ý đến việc định nghĩa khái niệm hệ thống, chỉ ra vị

trí, vai trò của nó trong mối quan hệ với các phạm trù khác, nhƣng ông đòi hỏi quá trình nhận

thức của con ngƣời cũng phải mang tính hệ thống. Hêghen viết: "Bất kỳ sự nghiên cứu khoa

học nào cũng đều mang tính hệ thống, bởi vì hình thức chân lý chỉ có thể là hệ thống các

chân lý khoa học" [110, tr.3].

- 12 -

Hạt nhân hợp lý trong triết học Hêghen là phép biện chứng, mặc dù đó là "phép biện

chứng lộn ngƣợc", nhƣng nó đúng về phƣơng pháp. Nó đòi hỏi lô-gíc của mọi nghiên cứu

phải mang tính hệ thống, "triết lý mà không có tính hệ thống thì không thể chứa đựng một

tính khoa học nào" [109, ƣ.32]. Nếu bỏ qua bức màn duy tâm thần bí thì có thể nói Hêghen

đã để lại kho tàng giá trị tinh thần vô cùng quý báu cho nhân loại. về phƣơng diện này, N. V.

Môƣôsilôva viết: "Hêghen đã suy gẫm về các tiêu chuẩn của hệ thông triết học, những yêu

cầu biện chứng đối với hệ thống đó. Ông đã thiết lập nên những ý tƣởng mang tính nguyên

tắc của tƣ duy hệ thống" [124, tr.80 - 81]. Phƣơng pháp nghiên cứu các hệ thống của Hêghen

đã đƣợc c. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa, cải tạo và phát triển theo lập ƣƣờng duy vật của

mình.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác không để lại cho chúng ta những định nghĩa

trực tiếp về hệ thống, nhƣng trong các tác phẩm của các ông, chúng ta đều thấy rõ tƣ tƣởng

về hệ thống với tƣ cách là một phạm trù triết học.

C. Mác là ngƣời đầu tiên đứng trên lập trƣờng duy vật biện chứng để nghiên cứu một

trong các hệ thống vật chất phức tạp : xã hội loài ngƣời. Theo ông, xã hội là một hệ thống tự

phát ƣiển, trải qua các giai đoạn khác nhau và các giai đoạn đó đƣợc gọi là các hình thái kinh

tế - xã hội. C. Mác đã nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội tƣ bản chủ nghĩa nhƣ một hệ

thống phức tạp, đƣợc hình thành từ các yếu tố trong sự tác động qua lại, với những mâu thuẫn

nội tại đa dạng và sâu sắc. C. Mác khẳng định, chủ nghĩa tƣ bản và các hình thái kinh tế - xã

hội trƣớc nó là các hệ thống [xem: 59, tr.331]. Trong các tác phẩm chuẩn bị cho bộ "Tƣ bản"',

c. Mác đã chỉ ra rằng, kết cấu, hình thức nội tại, nghĩa là tính hệ thống là một thuộc tính đặc

ƣƣng cho tất cả mọi sự vật, hiện tƣợng, quá ƣình của giới tự nhiên cũng nhƣ đời sống xã hội.

Ông viết: "Xã hội ... hoàn toàn không phải là một khối kết tinh vững chắc, mà là một cơ thể

có khả năng biến

- 13 -

đổi và luôn luôn ở trong quá trình biến đổi" [55, tr.22]. Hoặc khi nói đến sản xuất, C. Mác

cho rằng, bao giờ cũng là nói đến sản xuất ở một giai đoạn phát triển xã hội nhất định. Ông

viết: "... sản xuất cũng có một cơ thể xã hội nhất định, một chủ thể xã hội đang hoạt động

trong một tổng thể to lớn của các ngành sản xuất.... Sản xuất nói chung. Những ngành sản

xuất đặc thù. Sản xuất coi nhƣ là một tổng thể toàn bộ" [51, tr.858].

Từ những lập luận trên, C. Mác đã đƣa ra tƣ tƣởng về hệ thống với tính cách là một

phạm trù triết học, đặc trƣng cho một thuộc tính quan ƣơng của thế giới vật chất. Trong "Bản

thảo kinh tế - triết học 1857 - 1859" C. Mác viết: "Bản thân hệ thống hữu cơ này, với tƣ cách

là một tổng thể chỉnh thể, có những tiền đề của mình, và quá trình phát triển của nó theo

hƣớng chỉnh thể chính là thể hiện ở chỗ chi phối tất cả những thành phần trong xã hội hoặc là

từ xã hội mà tạo ra những cơ quan mà hệ thống ấy còn thiếu. Bằng cách ấy, trong quá trình

phát triển lịch sử, hệ thống chuyển hóa thành chỉnh thể. Việc hệ thống trở thành chỉnh thể

nhƣ thế tạo thành yếu tố cấu thành nó, cấu thành hệ thống, quá trình, tạo thành yếu tố phát

triển của nó" [59, tr.379 - 380].

Với luận điểm này, C. Mác đã xác định dấu hiệu biện chứng khách quan của hệ thống,

vạch ra động lực bên trong của sự vận động, vạch ra những tiền đề, quy luật của sự phát triển

khách quan ấy. Theo C. Mác, về mặt lịch sử, mỗi hệ thống cụ thể đƣợc quy định bằng những

hệ thống khác, chúng thiết lập nên cơ sở của sự phát triển, rằng mỗi yếu tố của hệ thống phụ

thuộc vào những yếu tố khác, vào cái chỉnh thể đƣợc xác lập, nghĩa là phụ thuộc vào hệ thống

chỉnh thể, còn mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố đƣợc xem nhƣ động lực bên trong của sự

phát triển của toàn bộ hệ thống [xem: 59, tr.332 - 333].

Từ sự phân tích trên đây, có thể rút ra kết luận rằng, tính hệ thống, theo quan điểm

của C. Mác, là một yếu tố tất nhiên, không thể bác bỏ đƣợc của biện

- 14 -

chứng về sự phát triển; hơn nữa, phép biện chứng của C. Mác trước hết là phép biện chứng

của các hệ thống. Không phải ngẫu nhiên khi chỉ ra động lực bên trong của sự phát triển của

chủ nghĩa tƣ bản với tính cách là một "chỉnh thể hữu cơ", C. Mác khẳng định dó chính là mâu

thuẫn nội tại của nó. Ông viết : "... sự phát triển của những mâu thuẫn của một hình thức sản

xuất lịch sử nhất định là con đƣờng lịch sử duy nhất để làm cho nó tan rã và hình thành một

hình thức mới" [55,tr.694].

C. Mác đã phân chia các yếu tố cấu thành hệ thống thành hai mặt đối lập liên hệ, tác

động qua lại lẫn nhau trong một chỉnh thể, nhằm đảm bảo tính ổn định tƣơng đối và tính phát

triển của hệ thống. Một là, "mặt bảo thủ" nằm trong khuynh hƣớng bảo tồn, đảm bảo cho tính

bền vững, ổn định của hệ thống; hai là, "mặt công phá" thuộc về khuynh hƣớng dẫn đến sự

phát triển tiếp theo, nhằm khắc phục những mâu thuẫn hiện đang tồn tại [xem: 47, tr.55].

Đặc biệt, các tác phẩm của C. Mác chứa đựng hàng loạt các luận điểm mang tính

nguyên tắc của phép biện chứng về sự liên hệ, tác động qua lại bên trong và bên ngoài hệ

thống. Ông khẳng định: "Nếu những quá trình độc lập với nhau và đối diện với nhau, lại tạo

ra một sự thống nhất bên trong nhất định, thì điều đó cũng có nghĩa là sự thống nhất bên

trong của những quá trình đó vận động trong những sự đối lập ở bên ngoài" [55, tr. 174].

Luận điểm của C. Mác chỉ rõ vai trò quan trọng của sự tác động qua lại bên trong hệ thống và

giữa các hệ thống với nhau, cũng nhƣ sự liên hệ hữu cơ giữa cái bên trong và cái bên ngoài,

trong đó cái bên trong đóng vai trò chủ đạo.

Những quan điểm trên đây của C. Mác đóng vai trò là những nguyên tắc nền tảng

trong quan niệm về phạm trù hệ thống. Cũng nhƣ vậy, vấn đề hệ thống cũng đƣợc thể hiện rõ

trong quan điểm của Ph. Ăngghen. Trong tác phẩm "Biện chứng của tự nhiên", ông đã coi

giới tự nhiên là một hệ thống và chính quan

- 15 -

điểm này là cơ sở để xác định phạm trù hệ thống. Ph. Ăngghen viết: "Tất cả giới tự nhiên mà

chúng ta có thể nghiên cứu đƣợc, là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể khăng khít

với nhau, nhƣng ở đây, chúng ta hiểu vật thể là tất cả những thực tại vật chất, từ tinh tú đến

nguyên tử, cho đến cả những hạt ê-te, nếu chúng ta thừa nhận sự tồn tại của hạt ê-te" [53,

tr.520]. Nhƣ vậy, bản chất của hệ thống, theo Ph. Ăngghen, trước hết là mối liên hệ qua lại

giữa các vật thể trong toàn bộ vũ trụ từ vi mô đến vĩ mô. Ông nhấn mạnh: "... dù ngƣời ta có

quan niệm nhƣ thế nào chăng nữa về cấu trúc của vật chất thì cũng vẫn chắc chắn là cấu trúc

ấy đã đƣợc sắp xếp thành một loạt nhiều nhóm lớn có ranh giới rành mạch, gồm những khối

lƣợng tƣơng đối, khác nhau, sao cho về mặt khối lƣợng thì những thành viên của từng nhóm

đó có những quan hệ xác định hữu hạn với nhau, nhƣng đối với những thành viên của nhóm

lân cận thì chúng lại là vô cùng lớn hoặc vô cùng bé theo nghĩa của toán học. Hệ thống tinh

tú mà ta nhìn thấy, hệ thống mặt trời, những khối lƣợng trên trái đất, những phân tử và

nguyên tử, và cuối cùng là những hạt nhỏ ê-te đều hình thành từng nhóm nhƣ thế" [53,

tr.772].

Quan điểm trên cho thấy, khi xác định đặc trƣng của hệ thống, Ph. Ăngghen đã nêu

lên hai dấu hiệu cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của nó : Một là, mối liên hệ qua lại

giữa các vật thể; hai là, ranh giới của các vật thể đó. Chính các dấu hiệu đặc trƣng này làm

cho hệ thống biểu hiện với tính cách là một chỉnh thể thống nhất, có tính xác định về chất.

Tiếp tục công việc của C. Mác và Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đã nghiên cứu chủ nghĩa

tƣ bản với tính cách là một hệ thống ở giai đoạn phát triển mới của nó là chủ nghĩa đế quốc.

Ông khẳng định: "Chủ nghĩa tƣ bản đã phát triển thành một hệ thống có tính chất toàn thế

giới của một nhúm nhỏ các nƣớc "tiên tiến" đi áp bức thuộc địa và dùng tài chính để bóp

nghẹt đại đa số nhân dân thế giới" [40, tr.389].

- 16 -

Quan điểm của V. I. Lênin về chủ nghĩa tƣ bản đã mang lại những tƣ liệu hết sức

phong phú về bản chất và các quy luật vận động của một trong những hệ thống phát triển

nhất của thế giới khách quan. Hơn nữa, ông còn chỉ ra rằng, đối với các hệ thống xã hội, thì

một đặc trƣng cơ bản của nó không chỉ là hệ thống tự tổ chức, mà còn là hệ thống tổ chức,

gắn liền với hoạt động sáng tạo, có nhu cầu. mục đích của con ngƣời. V. I. Lênin đã thực hiện

cuộc đấu tranh kiên trì vì sự thành lập đảng kiểu mới, ông khẳng định đảng là một tổ chức,

một hệ thống có tổ chức. Khi giảng giải cho các đối thủ của mình, V. I. Lênin viết: "Những

con ngƣời khờ khạo thay! Họ đã quên rằng trước kia đảng ta chƣa phải là một khối chính

thức có tổ chức, mà chỉ là một tổng số những nhóm riêng biệt và do đó, giữa các nhóm ấy

không thể có những quan hệ nào khác, ngoài sự tác động về mặt tƣ tƣởng. Hiện nay, chúng ta

đã trở thành một đảng có tổ chức, điều đó có nghĩa là chúng ta đã tạo ra một quyền lực, biến

uy tín về tƣ tƣởng thành uy tín về quyền lực, khiến cấp dƣới phải phục tùng cấp trên của

đảng" [36, ƣ.428 - 429].

Rõ ràng là, V. I. Lênin đã chỉ ra tính lịch sử của sự hình thành đảng nhƣ một hệ thống,

ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ đạo của quá trình tổ chức, và chính sự tổ chức quyết định

đến sự thành bại của đảng.

Những quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin về hệ thống cho ta thấy, hệ

thống cho dù ở bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có quy luật khách quan, đƣợc cấu thành từ

những yếu tố liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, đều chứa đựng những năng lực nội tại, những

động lực và cội nguồn của sự tự thân vận động, tự thân phát triển. Quan điểm của các nhà

kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo ra một cơ sở khoa học vững chắc cho sự nghiên

cứu và phát triển vấn đề hệ thống sau này.

- 17 -

1.1.2. Phạm trù hệ thống dưới ánh sáng của khoa học hiện đại

Trƣớc hết cần phải nói rằng, xung quanh khái niệm hệ thống, trong các tài liệu triết

học có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Thông thƣờng, hệ thống đƣợc hiểu là tập hợp các yếu

tố, bằng cách này hay cách khác liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Chẳng hạn, các nhà sáng

lập ra "lý thuyết hệ thống tổng quát" cho rằng, "hệ thống là tổng thể các yếu tố nằm trong sự

tác động qua lại" (L. Bertalanffy) [dẫn theo: 95, tr.21]; hoặc "hệ thống là tập hợp các yếu tố

cùng với các mối quan hệ của chúng" (I. G. Miller) [dẫn theo: 95, tr.21]; hay "hệ thống là

mạng lƣới các yếu tố liên hệ với nhau của bất kỳ thể loại khái niệm, khách thể, con ngƣời"

(R. L. Ackoff) [dẫn theo: 95, tr.21-22]; .v.v. Rõ ràng, những định nghĩa này quá rộng, nhƣng

chúng mới chỉ bao quát đƣợc các tập hợp khác nhau mà chƣa chỉ ra đƣợc những đặc trƣng cơ

bản của hệ thống, nhằm phân biệt hệ thống đó với các hệ thống khác. Mặt khác, những định

nghĩa ấy đã hòa trộn khái niệm hệ thống vào ƣong các khái niệm mối liên hệ và sự tác động

qua lại. Trên thực tế, tất cả đều liên hệ, tác động qua lại với nhau, nhƣng khái niệm hệ thống

phản ánh những mối liên hệ đặc biệt, cụ thể nào đó giữa các yếu tố cấu thành.

Khái niệm hệ thống đƣợc thể hiện rất đa dạng và phong phú trong các tài liệu triết học

của Liên Xô trƣớc đây. Tuy có nhiều quan niệm khác nhau khi xác định nội hàm và ngoại

diên của khái niệm hệ thống, song chung quy lại có hai quan điểm cơ bản: Thứ nhất, tất cả

mọi tập hợp đều đƣợc coi là hệ thống; thứ hai, không phải bất kỳ một tập hợp nào cũng là hệ

thống, mà chỉ những tập hợp có chất lượng tổng hợp mới đƣợc coi là hệ thống.

Quan điểm thứ nhất, với những học giả tiêu biểu nhƣ A.N. Averianốp, A. E.

Phurman, V. K. Prôkhôrencô,... cho rằng, những tập hợp không có tổ chức

- 18 -

cũng là hệ thống, mặc dù nó không có tính chỉnh thể và khẳng định bất kỳ một tập hợp nào

cũng đƣợc coi là hệ thống. Bởi vì : Thứ nhất, tập hợp không có tổ chức cũng đƣợc cấu thành

từ các yếu tố; thứ hai, các yếu tố liên hệ với nhau theo những cách thức nhất định, cho dù

những mối liên hệ ấy mang tính ngẫu nhiên hay bề ngoài; thứ ba, tập hợp ấy có sự xác định

về chất trong mối quan hệ với môi trƣờng; và thứ tư, một khi trong tập hợp ấy chứa đựng mối

liên hệ giữa các yếu tố thì nhất định sẽ biểu hiện tính quy luật, tính trật tự trong không gian

và thời gian [xem: 84, tr.22 -23]. Theo quan điểm này, hệ thống chỉ cần đƣợc cấu thành từ

các yếu tố, bởi vì chúng đều biểu hiện tính quy luật, tính trật tự nhất định. Song trên thực tế,

sự vật, hiện tƣợng chỉ biểu hiện tính quy luật, tính trật tự khi chúng có những mối liên hệ bản

chất, tất nhiên, ổn định và lắp đi lắp lại. Vì vậy, với quan điểm bất kỳ một tập hợp nào cũng

đƣợc coi là hệ thống, ta không thể xác định đƣợc chất lƣợng tổng hợp của hệ thống, cũng nhƣ

không thể phân biệt nó với các hệ thống khác.

Với quan điểm thứ hai, có thể kể đến các học giả tiêu biểu nhƣ: V. P. Cudơmin, A. G.

Aphanaxép, A. G. Xpirkin, A. Séptulin, I. V. Blauberơgơ, E. G. Iudin, V. N. Xađốpxki, V. X.

Chiukhơchin, và nhiều ngƣời khác. Theo họ, hệ thống là tập hợp các yếu tố có sự liên hệ, tác

động qua lại lẫn nhau, nhờ đó tạo ra những thuộc tính mới, chất lƣợng mới - chất lượng tổng

hợp, mà vốn không có ở từng yếu tố cấu thành. Chất lượng tổng hợp ấy gọi là tính chỉnh thể

của hệ thống. Chẳng hạn, V. p. Cudơmin khẳng định " hệ thống là một tập hợp nào đó những

yếu tố có mối liên hệ lẫn nhau, tạo ra sự thống nhất ổn định, tức là một chỉnh thể" [8, tr.450].

Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, A. G. Xpirkin coi "hệ thống là một chỉnh thể có tổ chức nội tại trên

cơ sở của nguyên tắc này hay nguyên tắc khác, trong đó tất cả các yếu tố đều liên hệ mật thiết

với nhau và biểu hiện ƣơng mối quan hệ với những điều kiện xung quanh và với các hệ thống

khác nhƣ một thể

- 19 -

thống nhất" [140, tr.179]. Hay V. N. Xađốpxki cho rằng, "hệ thống là một tập hợp các yếu tố

đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất định, liên hệ qua lại lẫn nhau và hình thành nên một sự

thống nhất chỉnh thể" [136, tr.173]. Theo quan điểm này, một tập hợp nào đó đƣợc coi là hệ

thống khi và chỉ khi các yếu tố của nó nằm trong một tổ chức nội tại, một chỉnh thể nhất định;

còn đối với những tập hợp cơ giới giản đơn, nhƣ giỏ táo, đống đá, tụ tập những ngƣời trên

đƣờng phố,... thì không có tính tổ chức nội tại, mà chỉ có những mối liên hệ ngẫu nhiên,

không cơ bản, bề ngoài, do đó thuộc tính của nó trùng với tổng số các thuộc tính của các yếu

tố cấu thành. Nghĩa là, tập hợp ấy không chứa đựng thuộc tính tổng hợp, tính chỉnh thể và nó

không phải là hệ thống. Nhƣ vậy, sự khác biệt giữa hệ thống và tập hợp cơ giới chính là ở

chất lƣợng tổng hợp. Về vấn đề này, V. P. Cudơmin nhận thấy "dấu hiệu đầu tiên , dấu hiệu

cơ bản của hệ thống là tính chỉnh thể tổng hợp hoặc là sự thống nhất tổng hợp, còn đối tƣợng

nghiên cứu đặc thù là những thuộc tính tổng hợp và những quy luật của khách thể và của

phức hợp" [8, tr.384].

Chúng tôi cho rằng, để đƣa ra một định nghĩa xác thực về khái niệm hệ thống thì cần

phải xuất phát từ ngay bản thân cơ sở hiện thực mà nó phản ánh. nhằm vạch ra tính tổ chức

nội tại, tính quy luật, tính trật tự của hiện thực. Trên thực tế, bất kỳ một hệ thống nào, từ hạt

nhân nguyên tử đến nguyên tử, từ phân tử đến tế bào, từ cơ thể sinh vật đến xã hội,... đều có

chất lƣợng, mà không quy về đƣợc các thuộc tính hoặc tổng số các thuộc tính của các yếu tố

cấu thành. Chẳng hạn, phân tử nƣớc (H2O) đƣợc hình thành từ hai nguyên tử hyđrô và một

nguyên tử ôxy. Bản thân hyđrô với hai nguyên tử của nó để tạo nên hệ thống thì cháy, còn

ôxy với một nguyên tử của nó tham gia vào hệ thống thì kích thích sự cháy. Nhƣng hệ thống

đƣợc hình thành từ các yếu tố trên đây, thì có một thuộc tính mới hoàn toàn khác, không chứa

đựng trong các yếu tố cấu thành, thậm chí

- 20 -

còn đối lập với chúng, đó là thuộc tính chất lƣợng tổng hợp - nƣớc dập tắt lửa. Chính chất

lƣợng tổng hợp là biểu hiện đặc trƣng của hệ thống. Điều này thể hiện rất rõ trong các cơ thể

sống, nhƣ Ph. Ăngghen dẫn lời của Hêghen: "Cả sự tổ hợp cơ giới của xƣơng, máu, sụn, cơ,

mô, .v.v. lẫn sự tổ hợp hóa học của các nguyên tố cũng không tạo thành đƣợc một con vật"

[53, tr.698]. Từ đó, Ph. Ăngghen viết: "... thể hữu cơ, đƣơng nhiên là một sự thống nhất cao,

liên kết cơ học, vật lý học và hóa học thành một chỉnh thể, trong đó cái tam vị nhất thể không

thể bị tách rời ra đƣợc" [53, tr.746].

Đặc biệt, các chất lƣợng tổng hợp thể hiện rất rõ ƣong sự phân tích của C. Mác về các

hiện tƣợng và quá trình xã hội. Ông viết: "Giống nhƣ sức tấn công của một đội kỵ binh hay

sức chống cự của một trung đoàn bộ binh khác về cơ bản với tổng số những sức tấn công hay

sức chống cự của từng ngƣời kỵ binh hay của từng chiến sĩ bộ binh riêng rẽ, tổng số sức cơ

giới của từng công nhân riêng rẽ cũng khác về cơ bản với sức tập thể mà họ phát triển, khi có

nhiều cánh tay tham gia cùng một lúc vào cùng một công việc không thể phân chia đƣợc"

[55, tr.473].

Xuất phát từ những chỉ dẫn của C. Mác và Ph. Ăngghen, chúng ta thấy hệ thống đƣợc

đặc trƣng bởi các yếu tố mang tính độc lập tƣơng đối, mối liên hệ, tác động qua lại giữa các

yếu tố và tính chỉnh thể của nó. Với cách hiểu ấy, có thể hiểu: Hệ thống là một tập hợp những

yếu tố có mối liên hệ nội tại, tác động qua lại với nhau và tạo thành một chỉnh thể với một

chất lượng tổng hợp nhất định.

Quan điểm trên đây về phạm trù hệ thống cho phép và đòi hỏi chúng ta đi sâu vào bản

chất và kết cấu bên trong của thế giới vật chất để hiểu rõ hơn sự tồn tại của thế giới với tính

cách là hệ thống.

Nếu nhìn nhận thế giới theo các thang bậc hệ thống thì bản thân thế giới (bao hàm cả

tự nhiên, xã hội và tƣ duy) là hệ thống của các hệ thống, bởi vì

- 21 -

trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên, ngƣời ta đã phát hiện ra tính đa dạng về chất

của các dạng vật chất, cũng nhƣ những hình thức tƣơng tác giữa chúng. Điều này càng xác

nhận tƣ tƣởng của V. I. Lênin về tính vô cùng tận của thế giới vật chất. V. I. Lênin viết:

"Điện tử cũng vô cùng tận nhƣ nguyên tử; tự nhiên là vô tận, nhƣng nó lại tồn tại một cách vô

tận; và chỉ có thừa nhận một cách tuyệt đối, vô điều kiện nhƣ vậy sự tồn tại của tự nhiên ở

ngoài ý thức và cảm giác của con ngƣời, thì mới phân biệt đƣợc chủ nghĩa duy vật biện

chứng với thuyết bất khả tri tƣơng đối luận và chủ nghĩa duy tâm" [39, tr.323-324]. Sự phát

triển của khoa học hiện đại đã làm sáng tỏ cấu tạo và thuộc tính của thế giới vật chất, cũng

nhƣ sự phản ánh chúng vào trong bộ não con ngƣời, đã xác nhận quan điểm của chủ nghĩa

duy vật biện chứng về tính thống nhất vật chất của thế giới. Nhiều thuộc tính đã biết của thế

giới chỉ còn mang tính chất tƣơng đối khi ngƣời ta hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới, bởi vì,

nhƣ V. I. Lênin nói, "nếu nhƣ mức độ sâu sắc đó hôm qua chƣa vƣợt quá nguyên tử, hôm nay

chƣa vƣợt quá điện tử và trƣờng, thì chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh tính chất tạm

thời, tƣơng đối, gần đúng của tất cả những cái mốc đó của sự nhận thức giới tự nhiên bởi

khoa học ngày càng tiến triển của con ngƣời" [39, tr.323].

Từ nội dung mà phạm trù hệ thống phản ánh, chúng ta có thể hiểu sự tồn tại của các

hệ thống, cấu tạo hệ thống của thế giới và các hình thức nhận thức về thế giới là tính hệ

thống. Hay nói cách khác, khái niệm tính hệ thống phản ánh một trong những đặc điểm cơ

bản của hiện thực, đó là khả năng của các quá trình và các hiện tƣợng tạo ra các chất lƣợng

tổng hợp. Nói đến tính hệ thống là nói đến tính trật tự, tính quy luật, tính phức hợp, tính toàn

diện,... của các sự vật, hiện tƣợng. Trong thế giới không thể có các sự vật, hiện tƣợng lại

không mang tính hệ thống. Những quan niệm của con ngƣời về tính hệ thống chỉ là sự phản

ánh tính hệ thống của thế giới khách quan. Đúng nhƣ L. A. Pêtrusencô viết:

- 22 -

"Ngay cả huyền thoại cổ đại cũng nhƣ tất cả các hệ thống quan niệm sau này, trong đó có các

quan niệm triết học, đều phản ánh tính hệ thống, tính tổ chức và sự tự vận động của thế giới

khách quan" [129, tr.174]. Và nhƣ vậy, có thể coi hệ thống là phương thức tốn tại của vật

chất. Một điều rõ ràng rằng, vật chất là thực tại khách quan, nó không có số lƣợng hữu hạn

các phƣơng thức tồn tại. Dƣới góc độ nhận thức luận, nếu con ngƣời chỉ dựa vào các khái

niệm nhƣ "khách thể", "sự vật", "hiện tƣợng", "quá trình",... thì chƣa đủ, bởi vì chúng mới chỉ

phản ánh những cái riêng, cái đơn nhất, cái không bị phân chia. Do đó, quá trình nhận thức

còn cần phải dựa vào tính hệ thống của bản thân thế giới vật chất. Với tính cách là một phạm

trù triết học, hệ thống không phản ánh những cái riêng biệt, mà là phản ánh sự thống nhất có

mâu thuẫn giữa cái đơn và cái đa, giữa cái hữu hạn và cái vô hạn.

Những khía cạnh trên đây cho ta thấy, tính chất năng động và uyển chuyển, tính cân

bằng động và tính mở của hệ thống, thang bậc và mức độ của từng hệ thống, các quy luật và

trật tự của hệ thống đóng vai trò là cơ sở hiện thực cho quan niệm khoa học về tính biện

chứng của phạm trù hệ thống. Cần nhân mạnh rằng, phạm trù hệ thống cũng nhƣ mỗi hệ

thống luôn luôn chứa đựng các mâu thuẫn biện chứng. Một mặt, trong cách định nghĩa mang

tính khái quát về hệ thống thì việc áp dụng nó trong nhận thức khoa học và hoạt động thực

tiễn không phải là đơn giản. Mặt khác, chính tính chất tổng hợp của phạm trù hệ thống đã mở

ra một phạm vi áp dụng rộng rãi không phụ thuộc vào bản tính của các đối tƣợng cần nghiên

cứu. Theo nghĩa ấy, phạm trù hệ thống tiến gần đến phạm trù bản chất, quy luật. Song dù sao

đi nữa, hệ thống là một phạm trù triết học, là một yếu tố trong hệ thống các phạm trù của

phép biện chứng mác-xít. Do đó, chỉ trong mối quan hệ với các phạm trù khác của phép biện

chứng, thì phạm trù hệ thống mới có thể đƣợc hiểu một cách thực sự khoa học.

- 23 -

Vấn đề mối quan hệ giữa các phạm trù của phép biện chứng duy vật hết sức phức tạp.

Đã từng có nhiều nhà triết học muốn hệ thống hóa tất cả các phạm trù, làm sáng tỏ sự phối

hợp và phụ thuộc của chúng, nhƣng đều không mang lại kết quả mong muốn, bởi vì mỗi

phạm trù chỉ phản ánh những thuộc tính chung nào đó của hiện thực, chứ không thể phản ánh

toàn bộ hiện thực. Phạm trù hệ thống chỉ phản ánh một mặt, cho dù rất cơ bản của hiện thực

là tính hệ thống của nó. Song chỉ trong sự thống nhất của hệ thống các phạm trù thì chúng

mới có thể phản ánh ngày càng đầy đủ và đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống ấy, các phạm

trù đều liên hệ, phối hợp, phụ thuộc lẫn nhau, bổ sung cho nhau và đều nằm trong quá trình

vận động, biến đổi liên tục. Do tính chất quá rộng của vấn đề, nên chúng ta chỉ giới hạn ở

việc xem xét mối quan hệ giữa phạm trù hệ thống với một số phạm trù cùng loại, chẳng hạn,

cái toàn thể, cấu trúc, bởi vì những phạm trù ấy có những điểm tƣơng đồng, song cũng có

những biểu hiện riêng cụ thể rất đa dạng.

Trƣớc hết nói về mối quan hệ giữa phạm trù hệ thống và phạm trù cái toàn thể. Để

tìm hiểu vấn đề này, nhất thiết phải làm rõ một khía cạnh liên quan, đó là phân biệt các phạm

trù yếu tố và cái bộ phận. Ở đây, chúng tôi đồng ý với A. Séptulin khi cho rằng, "yếu tố là

một thực tại tƣơng đối bền vững, xác định về mặt chất lƣợng, nằm trong mối liên hệ lẫn nhau

với các thực tại tƣơng đối bền vững và xác định về mặt chất lƣợng khác và cùng với chúng

tạo ra một hệ thống hoàn chỉnh" [151, tr.164]. Sự vật, hiện tƣợng biểu hiện với tính cách là

một hệ thống, là sự thống nhất của các yếu tố tạo thành một chỉnh thể, nghĩa là một toàn thể,

còn các yếu tố cấu thành hiện diện nhƣ những bộ phận của nó. Cái bộ phận là một thực tại

nằm trong thành phần của một thực tại khác và là một mặt trong nội dung hay hình thức của

thực tại đó. Cái toàn thể là một thực tại bao gồm

- 24 -

nhiều thực tại khác với tƣ cách là những yếu tố liên hệ lẫn nhau, có các thuộc tính không phải

là thuộc tính của các bộ phận cấu thành [xem: 151,tr.168].

Trên thực tế cả phạm trù cái bộ phận, cả phạm trù yếu tố chỉ có nghĩa trong quan hệ

đối với một toàn thể nhất định. Bộ phận bên ngoài toàn thể không phải là bộ phận. Với yếu tố

cũng hệt nhƣ vậy, khi một thực tại chƣa tham gia vào sự liên hệ, tác động qua lại với các thực

tại khác, và chƣa tạo ra cùng với chúng một hệ thống hoàn chỉnh, thì nó chƣa phải là yếu tố,

mà chỉ là một sự vật hoặc một hiện tƣợng độc lập. Chỉ khi nó tham gia vào mối liên hệ, tác

động qua lại với các thực tại khác dẫn đến sự xuất hiện một hệ thống hoàn chỉnh với chất

lƣợng tổng hợp, nó mới trở thành yếu tố của hệ thống ấy.

Sự khác biệt giữa phạm trù cái bộ phận và phạm trù yếu tố là ở chỗ, cái bộ phận biểu

thị cả các thành tố tạo nên cái toàn thể, cả sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng,

cả những quan hệ đặc trưng cho chúng; còn yếu tố chỉ áp dụng đƣợc với các thành tố nằm

trong mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau nhất định và nhờ đó tạo ra một hệ thống hoàn

chỉnh. Nhƣ vậy, phạm trù cái bộ phận chung hơn so với phạm trù yếu tố, nó áp dụng đƣợc

đối với các yếu tố tạo nên hệ thống (tất cả các yếu tố đều là bộ phận của nó), đối với những

mối liên hệ riêng biệt của chúng và đối với cả tổng hợp các mối liên hệ đó. A. N. Averianốp

cho rằng: "Khái niệm "cái bộ phận" chung hơn, trừu tƣợng hơn so với khái niệm "yếu tố".

Thực chất nó là khái niệm trung gian giữa khái niệm "hệ thống" và "yếu tố"" [84, tr.29].

Những điều đó cho ta thấy, phạm trù hệ thống và phạm trù cái toàn thể là những

phạm trù cùng cấp độ. Mặt khác, hệ thống lại chính là bản thân cái toàn thể, là một chỉnh thể

thống nhất. Còn cái toàn thể chỉ có ý nghĩa trong mối quan hệ đôi với hệ thống, nó phản ánh

tính toàn vẹn, tính thống nhất nội tại, tính đầy đủ, tính trật tự của hệ thống. Khi nói đến cải

toàn thể, thì luôn luôn gắn liền với

- 25 -

các bộ phận của nó; còn khi nói đến hệ thống, thì luôn luôn gắn liền với các yếu tố đóng vai

trò là các bộ phận cấu thành nên nó.

Phạm trù hệ thống không chỉ có mối quan hệ mật thiết với phạm trù cái toàn thể, mà

còn quan hệ mật thiết với phạm trù cấu trúc. Để hiểu đƣợc điều này, trƣớc hết cần phải làm

rõ nội dung của phạm trù cấu trúc. Cũng giống nhƣ khi xác định phạm trù hệ thống, thì xung

quanh phạm trù cấu trúc cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Có quan điểm coi cấu trúc là tổ

chức nội tại của hệ thông, biểu thị phƣơng thức liên hệ, tác động qua lại đặc trƣng của các

yếu tố cấu thành [xem: 95, tr.107]; hoặc cấu trúc là quy luật liên hệ giữa các yếu tố cấu thành

hệ thống [xem: 139, tr.11]; rồi cấu trúc là hệ thống tƣơng đối bền vững các mối liên hệ giữa

các yếu tố tạo nên một chỉnh thể (sự vật) [xem: 72, tr.178]; .v.v.

Những định nghĩa trên đây đều có tính hợp lý của nó, bởi vì nói đến cấu trúc là nói

đến tính trật tự tƣơng đối bền vững, tính tổ chức nội tại của hệ thống. Song, tính trật tự, tính

tổ chức biểu thị tính quy luật của các yếu tố do những mối liên hệ bản chất, tất yếu giữa

chúng tạo nên. Mặt khác, nói đến cấu trúc thì cần phải thấy đƣợc tính quy định đặc trƣng về

chất của hệ thống, vì vậy bản thân cấu trúc cũng phải mang tính hệ thống. Từ đây có thể hiểu:

Cấu trúc là tổng hợp các mối liên hệ của các yếu tố cấu thành hệ thống.

Nhƣ vậy, phạm trù hệ thống và phạm trù cấu trúc cũng là những phạm trù cùng cấp

độ. Không thể tồn tại hệ thống không cấu trúc và ngƣợc lại, không thể tồn tại cấu trúc bên

ngoài hệ thống. Phạm trù cấu trúc phản ánh phƣơng thức sắp đặt của các yếu tố và tính chất

tác động qua lại của các mặt, các thuộc tính của chúng. Cấu trúc quyết định sự hình thành và

tồn tại của hệ thống, nó biến các thực tại tác động lẫn nhau thành các yếu tố của một hệ thống

và đồng thời thành các bộ phận của một toàn thể. Hơn nữa, nhờ có sự liên hệ, tác động qua lại

lẫn

- 26 -

nhau giữa các yếu tố mà tạo nên tính chỉnh thể của hệ thống. Mối quan hệ giữa hệ thống và

cấu trúc phản ánh sự vật, hiện tƣợng biểu hiện với tính cách là một hệ thông có cấu trúc, hơn

thế nữa, là một hệ thống có cấu trúc thứ bậc (đa hệ), rút cuộc, nó phản ánh tính vô cùng tận

của thế giới vật chất.

Tóm lại, sự phát triển các quan niệm về hệ thống cho phép chúng ta khẳng định rằng,

hệ thống là một phạm trù triết học. Nó là một trong tổng thể các phạm trù của phép biện

chứng mác-xít, có mối quan hệ mật thiết với các phạm trù khác và chiếm một vị trí quan

trọng trong lý luận nhận thức nói riêng và trong triết học nói chung. Không phải ngẫu nhiên

M. M. Rôzentan viết: "Phép biện chứng chứa đựng một cách chặt chẽ trong mình quan niệm

về tính chất hệ thống của các hiện tƣợng và quá trình với tính cách là một trong những yếu tố

quan trọng của nó" [134, tr.85]. Với tính cách là công cụ của nhận thức và hoại động thực

tiễn, phạm trù hệ thống có một ý nghĩa phƣơng pháp luận quan trọng, là cơ sở lý luận của sự

hình thành phƣơng pháp hệ thống.

1.2. Phƣơng pháp hệ thống : sự hình thành và một số nội dung cơ bản

1.2.1. Sự hình thành phương pháp hệ thống

Phƣơng pháp hệ thống - một trong những phƣơng pháp nhận thức khoa học hiện đại,

mà sự hình thành của nó gắn liền với việc khắc phục cuộc khủng hoảng trong nhận thức khoa

học vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX và phát triển mạnh mẽ vào giữa thế kỷ XX.

Từ cơ sở nhận thức luận triết học, cuộc khủng hoảng phƣơng pháp luận nhận thức

khoa học đã đƣợc các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phân tích một cách tỉ mỉ.

Cuộc khủng hoảng ấy gắn liền với sự sụp đổ những định đề

- 27 -

của khoa học cổ điển dẫn đến cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cùng với sự xuất hiện

những nguyên tắc mới trong nhận thức khoa học.

Cần phải chỉ ra rằng, dƣới sự thống ƣị của khoa học cổ điển, ngƣời ta chƣa tiếp cận

đến những đối tƣợng phức tạp, nên chƣa có nhu cầu nhìn nhận sự vật với tính cách là một hệ

thống có cấu trúc bên trong. Nói cách khác, khi loài ngƣời chƣa nhận thức đƣợc các quy luật

của thế giới vi mô và vĩ mô, thì những tri thức về các sự vật chỉ là những tri thức thông

thƣờng mà không đề cập đến sự xem xét tính hệ thống, không chứa đựng các thông số hệ

thống. Thực tế cho thấy rằng, việc hiểu biết tính hệ thống nhƣ là nguyên tắc thế giới quan và

phƣơng pháp luận chỉ có thể thông qua sự hiểu biết kết cấu hệ thống của thế giới. Sự xem xét

nhƣ vậy đạt đƣợc là nhờ trình độ phát triển của các tri thức khoa học, khi tính hệ thống trở

thành một nguyên tắc tất yếu trong nghiên cứu khoa học.

Cho đến giữa thế kỷ XIX, quan niệm "vật tâm", tức là quan niệm chỉ tập trung vào

một sự vật nào đó đã bị cô lập vẫn giữ vai trò thống trị. Mặc dù vậy, trong thời kỳ đó cũng đã

xuất hiện những tƣ tƣởng về hệ thống, nhƣ học thuyết nhật tâm của Côpécních, giả thuyết

hình thành vũ trụ của Cantơ, hệ thống triết học Hêghen và những tƣ tƣởng khoa học khác.

Song, dƣới góc độ lý thuyết hệ thống, những tƣ tƣởng ấy chỉ là những tƣ tƣởng mang tính

phỏng đoán mà chƣa làm thay đổi cơ sở của sự hiểu biết về thế giới.

Cuộc cải tạo tận gốc bức tranh cổ điển về thế giới thực tế chỉ bắt đầu từ sự thiết lập

những lý thuyết về sự phát triển lịch sử của tự nhiên và xã hội, mà cụ thể đó là thuyết tiến hóa

của Đácuyn và học thuyết về sự phát ƣiển lịch sử xã hội của C. Mác, Ph. Ăngghen. Những

học thuyết đó mang lại một hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc, đó là thế giới quan duy

vật và phƣơng pháp luận biện chứng, trong đó chứa đựng những nguyên tắc phƣơng pháp

luận mới về việc

- 28 -

nhận thức các hệ thống rộng lớn - các loài thực vật và động vật, các hình thái kinh tế - xã hội.

Từ giữa thế kỷ XIX, những nguyên tắc nhận thức mới đƣợc thể hiện trong khoa học

tự nhiên. Sự ra đời của thuyết tiến hóa trong sinh vật học đã đánh dấu bƣớc ngoặt trong

phong cách tƣ duy khoa học. Công lao của Đácuyn là ở chỗ, ông đã mang lại cho sinh vật học

quan điểm về sự phát triển. V. I. Lênin viết: "Nếu Đácuyn đã đánh đổ hẳn đƣợc quan niệm

cho rằng những loài động vật và thực vật là không có liên hệ gì với nhau cả, là ngẫu nhiên mà

có, là do "Thƣợng đế tạo ra" và là bất biến, và ông là ngƣời đầu tiên đã làm cho sinh vật học

có một cơ sở hoàn toàn khoa học bằng cách xác định tính biến dị và tính kế thừa của các loài

- thì Mác cũng thế, Mác đã đánh đổ hẳn đƣợc quan niệm cho rằng xã hội là một tổ hợp có

tính chất máy móc, gồm những cá nhân, một tổ hợp mà nhà cầm quyền (hay là xã hội và

chính phủ thì cũng vậy) có thể tùy ý biến đổi theo đủ mọi kiểu, một tổ hợp sinh ra và biến hóa

một cách ngẫu nhiên; và Mác cũng là ngƣời đầu tiên đã làm cho xã hội học có một cơ sở

khoa học, bằng cách xác định khái niệm coi hình thái kinh tế - xã hội là một toàn bộ những

quan hệ sản xuất nhất định, bằng cách xác định rằng sự phát triển của những hình thái đó là

một quá trình lịch sử tự nhiên" [35, tr.165-166].

Sự biểu hiện rõ nét nhất về mặt phƣơng pháp luận trong việc nghiên cứu các khách

thể phức tạp là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác. Học thuyết này không phải là

sự liệt kê giản đơn những tƣ tƣởng biện chứng, mà quan trọng hơn là xây dựng nên những

nguyên tắc phƣơng pháp luận mới để nghiên cứu một cách có hiệu quả đối với các hệ thống

phức tạp. Tác phẩm "Tƣ bản" của C. Mác là công trình đầu tiên đƣợc thực hiện bởi phƣơng

pháp nghiên cứu khoa học mới - phương pháp hệ thống. Một mẫu hình về vấn đề này là lý

luận của C. Mác về nguyên tắc tính hai mặt trong sự xác định về chất. Trong

- 29 -

"Tƣ bản", C. Mác đã xuất phát từ phạm trù hàng hóa với tính cách là "tế bào" của phƣơng

thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa, đặc trƣng cho các hình thức quan hệ, tác động qua lại giữa

con ngƣời và giới tự nhiên, cũng nhƣ các quan hệ giao tiếp giữa ngƣời với ngƣời. Hàng hóa -

"tế bào" ấy là yếu tố hiện thực của hệ thống kinh tế, mà khám phá ra bản chất của nó sẽ hiểu

đƣợc các quy luật vận động của toàn bộ hệ thống phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa. Từ

cách tiếp cận này, với phƣơng pháp đi từ trừu tƣợng đến cụ thể, C. Mác đã chỉ ra hai thuộc

tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị. Đồng thời, ông cũng nghiên cứu lao động cụ

thể và lao động trừu tƣợng, hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình của máy móc.v.v. Từ đó,

C. Mác đặt nền móng cho phƣơng pháp luận biện chứng duy vật khi nghiên cứu tính chất

nhiều chiều của khách thể.

C. Mác không trực tiếp vạch ra phƣơng pháp hệ thống, nhƣng ông đã chỉ ra tính hệ

thống là một ƣong những thuộc tính cơ bản của thế giới và của phƣơng pháp luận khoa học.

Có thể nói, tính hệ thống trong học thuyết của C. Mác thể hiện trƣớc hết là học thuyết về biện

chứng của hệ thống.

Học thuyết của C. Mác, theo bản chất của mình, là mang tính hệ thống. Lý luận về

quá trình lịch sử tự nhiên trong sự thay thế của các hình thái kinh tế -xã hội là một bằng

chứng xác đáng chứng minh cho điều đó. Không phải ngẫu nhiên V. I. Lê nin viết: "Theo lý

luận của Mác, mỗi hệ thống quan hệ sản xuất đó là một cơ thể xã hội riêng biệt, có những quy

luật riêng về sự ra đời của nó, về hoạt động của nó và bƣớc chuyển của nó lên một hình thức

cao hơn, tức là biến thành một cơ thể xã hội khác" [35, tr.537-538].

Rõ ràng rằng, dƣới góc độ phƣơng pháp luận, những cống hiến của Đácuyn và C. Mác

đã tạo ra những bƣớc chuyển căn bản về các hình thức và phƣơng pháp tƣ duy nói chung và

đối với sự hình thành phƣơng pháp hệ thống nói riêng.

- 30 -

Vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên đã xuất hiện hàng loạt

các lý thuyết khoa học, trong đó chứa đựng những quan niệm về tính hệ thống trong việc

nghiên cứu các tổ chức vật chất. Đó là hình học phi Ơclít của Lôbasépxki và Riman, rồi

thuyết tƣơng đối của Anhxtanh trong vật lý học phi cổ điển đã khám phá ra chiều đo "thứ

hai" của thực tại vật lý. Đồng thời, cũng đã xuất hiện những lý thuyết hệ thống - cấu trúc

trong hóa học: hệ thông tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Menđêlêép, lý thuyết cấu tạo

hóa học của Bútlêrốp... Những lý thuyết ấy đã phát hiện ra các quy luật hệ thống nền tảng của

các vật thể vật chất, đã khẳng định bức tranh hệ thống về thế giới và đã tạo nên những tiền đề

quan trọng cho sự hình thành phƣơng pháp hệ thống.

Nhƣ vậy, tri thức hệ thống ở thế kỷ XIX đã có và nó biểu hiện với tính cách là một bộ

phận của các tri thức khoa học, là một trong những khía cạnh của tư duy biện chứng. Cùng

với sự hình thành những lý thuyết khoa học về thế giới, thì trong lĩnh vực nhận thức luận

không phải đơn giản chỉ phản ánh tính chất đa chiều, đa cấp độ của hiện thực, mà quan trọng

hơn là phải tìm ra những phƣơng tiện, những công cụ nhằm phản ánh chúng trong các mối

quan hệ khác nhau, trong các hệ tọa độ khác nhau. Để thực hiện đƣợc điều đó, khoa học cần

phải hoàn thiện các nguyên tắc, các phƣơng pháp nhận thức, trong đó gắn liền với sự khắc

phục những hạn chế của phương pháp yếu tố hóa và quan điểm cơ giới. Bởi vì phƣơng pháp

yếu tố hóa và quan điểm cơ giới đặc trƣng cho phƣơng pháp tƣ duy siêu hình, không đáp ứng

đƣợc những yêu cầu phát triển của các ngành khoa học.

Phương pháp yếu tố hóa xuất phát từ định đề về yếu tố bản thể luận của những thành

trì đơn giản nhất ở mỗi khách thể. Nó không chỉ xác định quan niệm về cấu trúc của thế giới,

mà còn vạch ra một xu hƣớng của nghiên cứu

- 31 -

khoa học. Nó có tham vọng giải thích hiện thực từ sự kết hợp các yếu tố đơn giản nhất không

thể phân chia đƣợc nữa. Ví dụ, trong lĩnh vực tâm lý học, việc xác định hành vi tâm lý đơn

giản nhất là cơ sở để nghiên cứu các hành vi khác phức tạp hơn. Phƣơng pháp yếu tố hóa đòi

hỏi, khi nghiên cứu các khách thể phức tạp thì vấn đề quan trọng là cần phải chuyển cái phức

tạp thành cái đơn giản, chuyển cái toàn thể thành cái bộ phận.

Đối với quan điểm cơ giới cũng tƣơng tự nhƣ vậy, nó phủ nhận đặc trƣng về chất của

các tổ chức vật chất, nó quy cái phức tạp thành cái đơn giản, quy cái toàn thể thành tổng số

giản đơn các bộ phận cấu thành, coi "thế giới là một cỗ máy". Quan điểm cơ giới chỉ thừa

nhận duy nhất hình thức vận động cơ giới và đƣa khái niệm cơ học vào trong các lĩnh vực vật

lý học, hóa học, sinh vật học, đồng thời giải thích các phạm trù nhân - quả, mối liên hệ,...

cũng theo tinh thần của cơ học. Theo đó, bất kỳ một quá trình nào cũng đƣợc biểu hiện thông

qua những môi liên hệ cơ giới, máy móc, mà nguyên nhân tất yếu sẽ sản sinh ra một kết quả

duy nhất. Đó chính là nguyên tắc quyết định luận đơn điệu.

Cả phương pháp yếu tố hóa và quan điểm cơ giới, chúng ta có thể tìm thấy ở nguyên

tử luận thời kỳ cổ đại, ở phái duy danh thời kỳ trung cổ, đặc biệt nó đƣợc áp dụng rộng rãi

trong thế giới quan và phƣơng pháp luận của các nhà khoa học tự nhiên (Galilê, Niutơn,

Laplas,...), của các nhà triết học duy vật (Hốpxơ, La Mettri, Hônbách, Điđrô, Henvêtiuýt,... ).

Với tính cách là một ƣơng những biểu hiện chủ yếu của phƣơng pháp tƣ duy siêu

hình, phương pháp yếu tố hóa và quan điểm cơ giới không có khả năng khám phá ra tính chất

biện chứng phức tạp của sự vận động và cấu tạo của thế giới vật chất, mà kết quả của nó, nhƣ

Ph. Ăngghen nhận xét "... chúng ta lại thấy một đống lộn xộn những thực nghiệm cũ không

chắc chắn, ... , một sự mò mẫm ngập ngừng trong bóng tối, ..." [53, tr.574]. Chính phương

pháp yếu tố hóa và

- 32 -

quan điểm cơ giới đã gây nên cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong khoa học tự nhiên vào

cuối thế kỷ XIX. Do đó, sự xuất hiện những phát minh mới trong khoa học và việc khắc phục

những hạn chế của phƣơng pháp yếu tố hóa và quan điểm cơ giới, đòi hỏi phải có sự hiểu biết

một cách biện chứng về thế giới hiện thực. Thành tựu lớn nhất của nhận thức không chỉ ở

việc phát hiện ra các yếu tố của khách thể, mà còn gắn liền với việc phát hiện ra những thuộc

tính đặc trƣng của cái toàn thể. Một trong những thuộc tính quan trọng nhất của sự vật (cái

toàn thể) là tính chỉnh thể của nó.

Đối lập với phương pháp yếu tố hóa và quan điểm cơ giới, quan điểm về tính chỉnh

thể cho rằng, không thể quy cái phức tạp thành cái đơn giản, cái toàn thể thành tổng số giản

đơn các bộ phận; mà trái lại, trong mỗi sự vật đều chứa đựng những thuộc tính, một chất

lƣợng tổng hợp mà chúng vốn không có trong các bộ phận cấu thành. Khi đánh giá về thành

tựu của khoa học tự nhiên ở thế kỷ XIX, Ph. Ăngghen viết: "Và thực vậy, nếu nhƣ đến cuối

thế kỷ trƣớc, khoa học tự nhiên chủ yếu là một khoa học sưu tập, một khoa học về các vật

nhất thành bất biến, thì trong thế kỷ của chúng ta, khoa học tự nhiên, về thực chất, đã trở

thành một khoa học hệ thống hóa, khoa học về các quá trình, về sự phát sinh và sự phát triển

của các sự vật đó và về mối liên hệ gắn bó các quá trình đó của tự nhiên thành một chỉnh thể

lớn" [54, tr.432]. Nguyên tắc tính chỉnh thể đã trở thành phổ biến trong nhận thức khoa học,

và do đó, khoa học bắt đầu một cách nhìn mới, cách nhìn sự vật nhƣ một hệ thống có cấu trúc

bên trong.

Chúng ta có thể kể ra một vài mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của phương pháp hệ

thống : Trƣớc hết là vào đầu thế kỷ XX, trong sinh vật học với sự ra đời của hình thái học

(khoa học về cấu tạo của cơ thể), rồi đến ngôn ngữ học cấu trúc của Phécđinăng đờ Xốtxuya.

Từ năm 1940 Jacốpxơn và Levi -Strauss vận dụng những nguyên tắc của ngôn ngữ học cấu

trúc vào việc nghiên

- 33 -

cứu nhân chủng học cấu trúc. Đặc biệt, từ những năm 50 của thế kỷ XX trở lại đây, phƣơng

pháp hệ thống đƣợc áp dụng rộng rãi ƣơng nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên, trƣớc hết là

trong sinh vật học với tên tuổi của K. M. Khailốp và A. A. Malinốpxki, rồi đến lĩnh vực tâm

lý học với tên tuổi của L. s. Vƣgốtxki và G. Piagiê, học thuyết về sinh quyển của V. I.

Vernátxki và nhiều lĩnh vực khác. Những lĩnh vực khoa học ấy đều dựa trên quan điểm hệ

thống, tức là xem xét sự vật, hiện tƣợng với tính cách là một hệ thống có cấu trúc bên trong,

mà cơ sở, nền tảng là tính chỉnh thể của chúng.

Nhƣ vậy, khi nhận thức của con ngƣời ngày càng sâu sắc thì bức tranh khoa học về

thế giới ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng. Hơn nữa, chúng ta sẽ không thể hiểu đƣợc sự

khác biệt giữa hai hay nhiều chất trong một sự vật nếu không xem xét chúng trong các hệ tọa

độ khác nhau, nếu không xuất phát từ tính đa hệ thống của thế giới hiện thực. Toàn bộ quá

trình lịch sử nhận thức luận đã làm sâu sắc thêm và cụ thể hóa những tri thức về thế giới, làm

thay đổi nhiều phƣơng thức tƣ duy khoa học. Do đó, không chỉ những quan niệm của con

ngƣời về bức tranh thế giới thay đổi, mà ngay cả những hình thức và phương thức xem xét thế

giới cũng thay đổi. Không phải chỉ có những cái mà con ngƣời hiểu biết về thế giới mới có ý

nghĩa to lớn, mà cả cái cách con ngƣời xem xét và chinh phục thế giới như thế nào càng có ý

nghĩa hơn.

Hiện nay với sự phát triển những đối tƣợng điều khiển tự động bao gồm nhiều bộ

phận, thực hiện nhiều chức năng phức tạp, đòi hỏi phải thu nhận, lƣu trữ, cải biến và xử lý

thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và tối ƣu đã buộc ngƣời ta phải nhìn nhận sự vật

trên quan điểm hệ thống. Không những thế, muốn giải quyết những nhiệm vụ tổ chức và quản

lý sản xuất, kinh tế - xã hội cũng đòi hỏi phải xem xét cơ cấu sản xuất, cơ cấu xã hội nhƣ

những cơ thể hoàn

- 34 -

chỉnh bao gồm nhiều yếu tố tác động qua lại với nhau, nghĩa là cần phải vận dụng phƣơng

pháp hệ thống.

Nhƣ vậy những nhu cầu khách quan trong sự phát triển của khoa học và thực tiễn đã

làm nảy sinh ra một phƣơng pháp mới, biến nó thành một xu hƣớng phổ biến trong nhận thức

khoa học và hoạt động thực tiễn. Phƣơng pháp mới đó chính là phương pháp hệ thống.

1.2.2. Một số nội dung cơ bản của phương pháp hệ thống

Phƣơng pháp hệ thống bao gồm hàng loạt các yêu cầu mang tính nguyên tắc, giữ vai

trò hết sức quan trọng trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.

Thứ nhất, phƣơng pháp hệ thống khẳng định bất kỳ một sự vật nào cũng được coi là

một hệ thống bao gồm các yếu tố liên hệ với nhau tạo nên một chỉnh thể. Với tính cách là một

hệ thống, sự vật không tồn tại một cách cô lập, trái lại nó liên hệ với những sự vật khác và

trong những điều kiện nhất định hình thành nên hệ thống mới phức tạp hơn, khi ấy nó lại trở

thành yếu tố của hệ thống có cấp độ cao hơn, một cách vô tận. Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, mỗi

yếu tố của hệ thống lại đóng vai trò là hệ thống có cấp độ thấp hơn của các yếu tố khác, một

cách vô tận. Với cách hiểu đó, sự phân chia giữa hệ thống và yếu tố chỉ mang tính chất tƣơng

đối, tùy thuộc vào mối quan hệ, vào góc độ xem xét. Do đó "thế giới vật chất hiện diện trƣớc

mắt chúng ta dƣới dạng những giai đoạn phát triển kế tục nhau, dƣới dạng những hệ thống

đƣợc tổ chức theo kiểu tầng bậc, nơi các hệ thống của mỗi giai đoạn lại là yếu tố của giai

đoạn sau cao hơn" [114, tr.162-163].

Thứ hai, phƣơng pháp hệ thống nhấn mạnh rằng, sự liên hệ lẫn nhau giữa các yếu tố

tạo ra cho hệ thống những thuộc tính mới, chất lƣợng mới - chất

- 35 -

lượng tổng hợp, mà vốn không có trong các yếu tố cấu thành. Đó là tính chỉnh thể của hệ

thống. Tính chỉnh thể bao quát toàn diện tất cả các mặt, các thuộc tính, các mối liên hệ của sự

vật, là tính quy định nội tại, tính đặc thù, tính đơn nhất của sự vật. Do đó, tính chỉnh thể biểu

hiện sự thống nhất bên trong, phản ánh tính độc lập tƣơng đối, tính cân bằng, tính toàn vẹn

của sự vật ƣong môi quan hệ với các sự vật khác và với môi trƣờng bên ngoài. Đúng nhƣ Đ.

A. Kerimốp viết: "Đặc trƣng của cái toàn thể với tính cách là một hệ thống, đó là sự thống

nhất của các bộ phận dƣới sự quy định của tính chỉnh thể" [118, tr.209]. Tính chỉnh thể của

các sự vật phụ thuộc vào trình độ tổ chức, kết cấu của vật chất, phù hợp với các hình thức vận

động của chúng. Nghĩa là, trình độ tổ chức, kết cấu của vật chất càng cao với hình thức vận

động càng phức tạp, thì tính chỉnh thể của nó càng cao và ngƣợc lại. Điều này cho ta thấy,

tính chỉnh thể là thuộc tính tổng hợp đặc trƣng cho hệ thống, là kết quả của quá trình liên kết

khách quan mang tính quy luật của các bộ phận trong cái toàn thể, là cơ sở khách quan để

hình thành nên hệ thống. Vì vậy, để xác định cái gì là hệ thống, trước hết cần phải xác định

tính chỉnh thể của nó.

Từ tính chỉnh thể do quan điểm hệ thống mang lại, chúng ta thấy, không thể hiểu cái

bộ phận là kết quả của sự phân chia máy móc cái toàn thể ra những phần nhỏ bé hơn. Toàn

thể không phải là tổng số giản đơn của các bộ phận, toàn thể lớn hơn tổng số giản đơn các bộ

phận ấy. Giữa cái toàn thể và cái bộ phận có mối quan hệ biện chứng với nhau, phƣơng thức

tác động qua lại của chúng tuân theo những quy luật nhất định, sao cho vừa đảm bảo việc sản

sinh ra những thuộc tính mới, vừa bảo đảm việc duy trì trạng thái ổn định bên trong hệ thống.

Cụ thể là, bản chất của cái toàn thể, những đặc trƣng số lƣợng và chất lƣợng của nó phụ thuộc

vào bản chất của các bộ phận cấu thành. Nhƣng chính các bộ phận cũng chịu sự tác động của

toàn thể, cũng bằng cách này hay cách khác biểu thị

- 36 -

bản chất, tính xác định về chất của toàn thể. Điều đó đòi hỏi, khi giải thích bản chất của toàn

thể, phải tính đến bản chất của các bộ phận cấu thành; còn khi giải thích đặc thù của các bộ

phận, phải tính đến bản chất của toàn thể, thực chất của nó. Nhƣ vậy, nhận thức toàn thể và

các bộ phận đƣợc tiến hành đồng thời. Khi phân tích các bộ phận, chúng ta hiểu đó không

phải là các bộ phận cô lập, tự nó, mà là các bộ phận của bản thân toàn thể. Ngƣợc lại, khi

nhận thức toàn thể, chúng ta cũng hiểu đƣợc tính phân chia của nó thành các bộ phận. Với

tính cách là các hình thức phản ánh hiện thực, các phạm trù cái toàn thể và cái bộ phận cùng

với mối quan hệ biện chứng giữa chúng giúp ta hiểu rõ tính thống nhất của thế giới, chính xác

hơn là khám phá ra một trong những khía cạnh của vấn đề này - sự thống nhất có mâu thuẫn

giữa cái đơn và cái đa, giữa tính phân chia và tính thống nhất, giữa tính gián đoạn và tính liên

tục của các sự vật, hiện tƣợng trong thế giới hiện thực.

Lôgíc tƣ duy hệ thống rất gần với biện chứng của mối quan hệ giữa cái toàn thể và

cái bộ phận. Bởi vì, biện chứng của mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái bộ phận bao hàm cả

biện chứng của mối quan hệ giữa hệ thống và yếu tố, nhƣng không thể đồng nhất với nó. vấn

đề ở chỗ, không chỉ các yếu tố tạo nên toàn thể, là bộ phận, mà cả mối liên hệ, tác động qua

lại giữa các yếu tố cũng là bộ phận. Biện chứng của các phạm trù cái toàn thể và cái bộ phận

phản ánh tính quy luật của mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố (đồng thời cũng là bộ phận) và

hệ thống, phản ánh cả sự phu thuộc lẫn nhau của toàn thể và quan hệ (những mối liên hệ, tác

động qua lại) giữa các yếu tố cấu thành hệ thống. Để hiểu rõ mối quan hệ giữa hệ thống và

yếu tố với tính cách là một phƣơng diện của phƣơng pháp hệ thống, cần phải xem xét mối

liên hệ giữa các yếu tố cấu thành hệ thống và giữa hệ thống với môi trƣờng. Trong tính đa

dạng, vô cùng tận của thế giới, mối liên hệ cũng biểu hiện rất đa dạng, có thể phân chia

thành: liên hệ

- 37 -

tác động, liên hệ sản sinh, liên hệ cải tạo, liên hệ cấu trúc, liên hệ hoạt động, liên hệ phát

triển, liên hệ điều khiển, .v.v. V. I. Lênin nhấn mạnh rằng, "những quan hệ của mỗi sự vật

(hiện tƣợng etc.) không những là muôn vẻ, mà còn là phổ biến, toàn diện. Mỗi sự vật (hiện

tƣợng, quá trình etc.) đều liên hệ với mỗi sự vật khác'" [41, tr.239]. Các mối liên hệ chiếm

một vị trí đặc biệt quan trọng, nó quyết định tính tổ chức, sự hoạt động và phát triển của hệ

thống, bảo đảm tính cân bằng, ổn định tƣơng đối của hệ thống, làm cho các yếu tố của hệ

thống, nhƣ C. Mác nói, "là những sự phân biệt trong nội bộ một khối thống nhất" [51, tr.875].

Trong vô vàn các mối liên hệ, mỗi mối liên hệ có vị trí, vai trò nhất định trong một câu ƣúc

cụ thể. Mối liên hệ bên trong chiếm ƣu thế hơn so với môi liên hệ bên ngoài, mặc dù mối liên

hệ bên ngoài cũng có thể làm thay đổi hệ thống, song chúng phải đƣợc thực hiện thông qua

những mối liên hệ bên trong. Tính chất cân bằng của hệ thống tạo nên tính chỉnh thể, năng

lƣợng liên kết làm cho hệ thống tồn tại. Hệ thống càng nhỏ thì năng lƣợng liên kết càng lớn.

Chỉ khi nào tác động của bên ngoài có năng lƣợng lớn hơn năng lƣợng liên kết giữa các yếu

tố thì hệ thống mới bị phá vỡ. Ví dụ, sự tự phân hủy hạt nhân của các nguyên tố phóng xạ, ở

đó hệ thống sẽ bị phá hủy nếu năng lƣợng liên kết nhỏ hơn năng lƣợng tổng cộng của những

tác động tố bên ngoài.

Quan niệm về vị trí, vai trò, tính chất của các mối liên hệ do phƣơng pháp hệ thống

mang lại, thực chất là sự cụ thể hóa nguyên lý của phép biện chứng duy vật về mối liên hệ

phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, phương pháp hệ thống gắn liền với quan điểm

toàn diện, cụ thể hóa những yêu cầu của quan điểm toàn diện. Nó đòi hỏi khi xem xét các sự

vật, hiện tƣợng phải tính đến tất cả các mối liên hệ, xác định vị trí, vai trò của từng mối liên

hệ, tính đến "tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác" [41,

tr.239]. Chỉ có cách

- 38 -

xem xét nhƣ vậy mới có thể nhận thức sự vật một cách đúng đắn. Đúng nhƣ V. I. Lênin

khẳng định: "Muốn thực sự hiểu đƣợc sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các

mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó" [44, tr.364]. Nhờ sự hiểu biết

mối liên hệ mà có thể rút ra đƣợc tính quy luật, tính nhân quả, tính phụ thuộc lẫn nhau của

các sự vật. Ở phƣơng diện này, phƣơng pháp hệ thống đã thỏa mãn một yếu tố cơ bản của

phép biện chứng, đó là "từ sự cùng tồn tại đến tính nhân quả và từ một hình thức liên hệ và

phụ thuộc lẫn nhau này đến một hình thức khác, sâu sắc hơn, chung hơn" [41, tr.240].

Nghiên cứu mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành hệ thống, cho ta thấy, giữa hệ thống

và yếu tố thì hệ thống mang tính bền vững hơn so với các yếu tô. Hệ thống xuyên suốt vào

các yếu tố, tác động mạnh mẽ đến chúng cả về vật chất, năng lƣợng và thông tin, cải tạo

chúng cho phù hợp với bản tính của mình. Kết quả là những yếu tố chịu những biến đổi cơ

bản, thậm chí trong những điều kiện nhất định sẽ hình thành nên những yếu tố mới. Song cần

nhấn mạnh rằng, những biến đổi ấy không phải do những tác động bên ngoài quyết định, mà

do bản thân các yếu tố bên trong quyết định. V. I. Lênin viết : "chỉ có trong mối liên hệ giữa

chúng với nhau thì những bộ phận riêng biệt của thân thể mới là những bộ phận của thân thể.

Bàn tay tách rời thân thể chỉ là bàn tay ƣên danh nghĩa" [41, tr.216]. Trong mối quan hệ giữa

hệ thống và yếu tố thì hệ thống quyết định các yếu tố, quyết định nội dung, kết cấu và phƣơng

thức hoạt động của các yếu tố; song các yếu tố có vai trò tác động trở lại đối với hệ thống,

bởi vì mọi quá trình của yếu tố đều liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hệ thống, mỗi yếu tố

đều có cơ cấu tự điều chỉnh, khả năng giải quyết mâu thuẫn của yếu tố tạo ra khả năng giải

quyết mâu thuẫn của hệ thống, về vấn đề này, C. Mác viết: "Mỗi một hình thái xã hội đều có

một nền sản xuất nhất định, nền sản xuất này

- 39 -

quy định vị trí và ảnh hƣởng của tất cả các ngành sản xuất khác, và vì vậy, các quan hệ của

nền sản xuất đó cũng quy định vị trí và ảnh hƣởng của tất cả các ngành sản xuất khác. Đó là

cái ánh sáng chung làm cho tất cả mọi màu sắc khác biến mất và làm thay đổi những đặc

điểm riêng của chúng. Đó là một thứ ê-te đặc biệt xác định tỉ trọng của tất cả mọi cái gì tồn

tại ở trong đó" [51, tr.885]. Và khi nói đến mối quan hệ giữa sản xuất, phân phối, trao đổi và

tiêu dùng, C. Mác viết tiếp: "Kết quả mà chúng ta đã đạt tới không phải là ở chỗ sản xuất,

phân phối, trao đổi, tiêu dùng là đồng nhất, mà ở chỗ tất cả chúng là những bộ phận của một

tổng thể, là những sự phân biệt trong nội bộ một khối thống nhất. Sản xuất chi phối bản thân

nó trong toàn bộ sự đối lập của những tính quy định của nó, cũng nhƣ chi phối các yếu tố

khác. Chính là bắt đầu từ sản xuất mà quá trình lắp lại không ngừng... Nhƣ vậy là một nền

sản xuất nhất định quyết định một chế độ tiêu dùng, một chế độ phân phối, một chế độ trao

đổi nhất định, đồng thời cũng quyết định các quan hệ nhất định giữa các yếu tố khác nhau đó

đối với nhau. Dĩ nhiên là về phía nó, dưới hình thái phiến diện của nó, cả sản xuất cũng do

các yếu tố khác quyết định" [51, tr.876].

Trong các hệ thống có tính chỉnh thể cao nhƣ các hệ thống xã hội, các quy luật chung

của hệ thống xã hội quy định bản chất của từng yếu tố, khuynh hƣớng phát ƣiển của nó.

Nghĩa là, các yếu tố phải phù hợp với bản chất của hệ thống xã hội, phù hợp với các tiêu

chuẩn đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ, ... của xã hội. Mặt khác, các yếu tố có tính tổ chức càng

cao thì hệ thống càng mang tính tổ chức cao và ngƣợc lại. cần nhấn mạnh rằng, sự tác động

của các yếu tố đến hệ thống không hoàn toàn giống nhau, có những yếu tố đóng vai trò là chủ

đạo, là nòng cốt, là cơ bản; song cũng có những yếu tố mang tính phái sinh phục vụ cho các

yếu tố chủ đạo, nhƣng cũng đều tác động đến hệ thống. Trong các hệ thống,

- 40 -

đặc biệt trong các hệ thống có tính chỉnh thể cao thì sự thay đổi của một số yếu tố, nhất là

những yếu tố cơ bản, tất yếu sẽ gây nên sự thay đổi của những yếu tố khác và nhiều khi của

toàn bộ hệ thống.

Xuất phát từ mối quan hệ giữa hệ thống và yếu tố, phương pháp hệ thống có một yêu

cầu cơ bản, đó là: Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải phân chia đối tượng

thành những yếu tố tương đối độc lập, phát hiện ra những mối liên hệ tất yếu giữa chúng; khi

xác định bản chất của hệ thống, cần phải xuất phái từ bản chất của các yếu tố, tính đến vị trí,

vai trò của từng yếu tố, tính chất của các mối liên hệ lẫn nhau giữa chúng; còn khi xác định

bản chất của yếu tố, cần phải tính đến mối liên hệ của nó với các yếu tố khác và với hệ thống

nói chung, cũng như phải tính đến bản chất và các quy luật vận động của hệ thống. Thực

chất cách nhìn này của phương pháp hệ thống là sự cụ thể hóa quan điểm toàn diện của phép

biện chứng duy vật.

Thứ ba, phƣơng pháp hệ thống khẳng định tổng thể các mối liên hệ đƣa đến khái niệm

cấu trúc của hệ thống. Theo trình tự của mình, cấu trúc có thể đƣợc biểu thị theo chiều ngang

(khi nói đến mối liên hệ giữa các yếu tố cùng loại, cùng cấp độ) và có thể đƣợc biểu thị theo

chiều dọc (khi nói đến các mối liên hệ giữa các yếu tố khác loại, khác cấp độ). Cấu trúc dọc

dẫn đến khái niệm cấp độ của hệ thống, hay cấu trúc đa hệ. Trong tính quy định về chất của

hệ thống, cấu trúc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Điều này liên quan trực tiếp đến mối quan

hệ giữa cấu trúc và yểu tố của hệ thống. Đặc trƣng của cấu trúc, trƣớc hết phụ thuộc vào bản

chất, số lƣợng và chất lƣợng của các yếu tố. Mặt khác, chất lƣợng, vị trí, vai trò và ý nghĩa

của các yếu tố, ở một mức độ nhất định phụ thuộc vào cấu trúc của hệ thống. Sự thay đổi của

các yếu tố, trƣớc hết là những yếu tố cơ bản dẫn đến sự thay đổi của cấu trúc; còn sự xuất

hiện một cấu trúc mới sẽ gây nên những thay đổi tƣơng ứng đối với các yếu tố tham gia cấu

trúc

- 41 -

đó, chúng sẽ có những thuộc tính mới, những đặc trƣng về số lƣợng và chất lƣợng mới.

Chúng ta có thể minh họa sự ảnh hƣởng của cấu trúc đối với chất lƣợng của hệ thống, đối với

phƣơng thức tồn tại của nó bằng hiện tƣợng đồng vị ƣơng hóa học - các nguyên tố hóa học có

cùng thành phần và cùng khối lƣợng phân tử nhƣng lại khác nhau căn bản về chất. Điều này

có thể giải thích bằng thuyết cấu tạo hóa học của A. M. Bútlêrốp, theo đó, chất lƣợng của sự

liên kết hóa học không chỉ đƣợc xác định bởi tính chất và số lƣợng các nguyên tử cấu thành

phân tử, mà còn đƣợc xác định bởi cấu trúc liên kết của chúng. Chẳng hạn, cùng từ các

nguyên tử cácbon, nhƣng với cấu trúc liên kết giữa chúng khác nhau, mà hình thành nên hai

sự vật khác nhau là kim cƣơng và than. Từ đó, Bútlêrốp chỉ ra rằng, xuất phát từ cấu tạo hóa

học và hóa trị của các nguyên tử cấu thành, thì có thể tiên đoán về mặt lý thuyết các khả năng

liên kết hóa học khác nhau. Mối quan hệ giữa yếu tố và cấu trúc là sự thống nhất và đấu tranh

của các mặt đối lập, trong đó yếu tố có khuynh hƣớng thƣờng xuyên biến đổi, còn cấu trúc

mang tính ổn định, bền vững và ít biến đổi hơn. Tính ổn định, bền vững tƣơng đối của cấu

trúc đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết các yếu tố với nhau thành một chỉnh thể thống

nhất, đảm bảo cho sự tồn tại của hệ thống và giữ cho những biến đổi của các yếu tố diễn ra

trong phạm vi về chất nhất định. Sự có mặt của cấu trúc là điều kiện tích lũy những thay đổi

về lƣợng bên trong hệ thống, làm tiền đề cho sự biến đổi và phát triển của bản thân hệ thống.

Từ mối quan hệ giữa yếu tố và cấu trúc, phương pháp hệ thống đòi hỏi trong nhận

thức và hoạt động thực tiễn cần phải giải thích cấu trúc của hệ thống thông qua bản chất của

các yếu tố; còn khi giải thích các yếu tố, phải tính đến bản chất của toàn bộ cấu trúc và sự

tác động của cấu trúc đối với chúng. Nói rộng ra, khi nghiên cứu bản chất của hệ thống,

không chỉ tính đến bản tính của các yếu tố, mà cả cấu trúc của nó và mối quan hệ giữa cấu

trúc và yếu tố.

- 42 -

Trong khoa học và thực tiễn, nhiệm vụ quan trọng là nhận thức cấu trúc, vạch ra

những mối liên hệ qua lại bên trong giữa các yếu tố cấu thành hệ thống. Từ việc nhận thức

đƣợc cấu trúc ta có thể thấy đƣợc tính đa dạng của các mối liên hệ, vai trò quyết định của hệ

thống đối với yếu tố cũng nhƣ sự tác động trở lại của yếu tố đối với hệ thống, nhờ đó hiểu

đƣợc vị trí, vai trò và ý nghĩa của các yếu tố ƣong hệ thống. Không phải ngẫu nhiên có không

ít nhà khoa học đã đánh giá vai trò quan trọng của cách tiếp cận cấu trúc ƣơng việc nghiên

cứu hệ thống. Chẳng hạn, I. V. Blauberơgơ và Ê. G. Iudin cho rằng: "Cách tiếp cận đặt mũi

nhọn lên hàng đầu nhằm tìm kiếm các thể loại mối liên hệ của hệ thống hiện thực, đó là một

cách tiếp cận đặc trƣng, nếu không dành cho tất cả, thì cũng dành cho một phần đáng kể của

việc nghiên cứu hệ thống" [102, tr.26]. Tuy nhiên, khi đánh giá vai trò quan trọng của cách

tiếp cận cấu trúc, chúng ta cũng không nên tuyệt đối hóa nó, mà phải tính đến tổng thể các

phƣơng diện khác nhau của phƣơng pháp hệ thống.

Thứ tư, phƣơng pháp hệ thống còn chỉ ra rằng, phƣơng thức điều chỉnh các cấu trúc

đa hệ là điều khiển. Đó là phƣơng thức liên hệ giữa các cấp độ hệ thống, nhờ đó hệ thống mới

có thể hoạt động và phát triển bình thƣờng. Một khi cấp độ hệ thống là một trong những đặc

trƣng của hệ thống, thì các mối liên hệ điều khiển đƣợc coi là một trong những đặc trƣng của

tổ chức hệ thống.

Thứ năm, từ vấn đề điều khiển dẫn đến vấn đề tính hướng đích của các hành vi hệ

thống, bởi vì điều khiển có nghĩa là giải quyết một nhiệm vụ nào đó, đạt đến một mục đích

nào đó theo một chƣơng trình nhất định. Trong trƣờng hợp chung, mục đích đặt ra cho các hệ

thống kỹ thuật là từ bên ngoài đƣa vào và do con ngƣời xây dựng nên; còn ƣơng thế giới hữu

sinh, thì bản thân nó khởi thảo ra mục đích dựa trên những nhu cầu. A. I. Berơgơ và V. B.

Biriucốp nhận xét: "Tính hƣớng đích thấm vào mỗi hiện tƣợng ƣơng thế giới hữu sinh. Tất

nhiên đó

- 43 -

không phải là tính hƣớng đích tự giác. Chỉ có ở trình độ vật chất có lý trí mới hình thành

đƣợc tính hƣớng đích tự giác mà thôi. Nhƣng ở bất kỳ trình độ nào việc đặt mục đích cũng

không tách khỏi các quá trình điều khiển" [98, tr.354]. Tuy nhiên, tính hƣớng đích ở đây

không phải là mục đích luận tầm thƣờng mà là theo nghĩa hiện đại của điều khiển học.

Thứ sáu, gắn liền với vấn đề điều khiển và tính hƣớng đích, phƣơng pháp hệ thống

luôn luôn quan tâm xem xét đến chức năng của hệ thống và của các yếu tố cấu thành. Phạm

trù chức năng đƣợc sử dụng theo các nghĩa khác nhau. A. G. Xpirkin coi "chức năng là vai

trò mà yếu tố thực hiện ƣơng thành phần của cái toàn thể, nhằm mục đích thống nhất các yếu

tố thành một hệ thống chỉnh thể và đảm bảo cho sự hoạt động có hiệu quả của hệ thống"

[140, tr.179]; A. Séptulin thì cho rằng, "khái niệm chức năng biểu thị sự tác động lẫn nhau

của các yếu tố trong một hệ thống hoàn chỉnh, và biểu thị cả sự tác động qua lại của nó với

các hệ thống khác và bảo đảm đƣợc sự tồn tại bền vững của nó" [72, tr.l 79 - 180]; V. G.

Aphanaxép khẳng định chức năng là "phƣơng thức thể hiện tính tích cực, hoạt động của hệ

thống và các yếu tố của nó" [95, tr.131]; .v.v.

Theo chúng tôi, nói đến chức năng là nói đến vai trò hoạt động của hệ thống nhằm đạt

tới một ƣạng thái chất lƣợng khác nào đó. Do đó, có thể hiểu: Chức năng là phương thức

hoạt động của hệ thống, nhằm liên kết các yếu tố thành một chỉnh thể và đảm bảo cho sự

hoạt động cân đối của hệ thống. Liên quan đến khái niệm chức năng, không phải ngẫu nhiên

C. Mác đã khẳng định "...những chức năng xã hội khác nhau chỉ là những phƣơng thức hoạt

động thay thế nhau mà thôi'" [55, tr.693]. Luận điểm của C. Mác cho ta thấy, chức năng của

hệ thống là phƣơng thức hoạt động nhằm bảo tồn các yếu tố và hệ thống, củng cố các mối

liên hệ qua lại giữa các yếu tố, quy định trật tự tham gia của

- 44 -

chúng trong hệ thống. Có chức năng chung của toàn bộ hệ thống và các chức năng riêng của

các yếu tố cấu thành, trong đó chức năng của hệ thống xác định chức năng của từng yếu tố.

Các yếu tố trong khi thực hiện chức năng của mình phải mang tính đồng bộ, tính hƣớng đích,

phù hợp với chức năng chung của hệ thống, diễn ra trong phạm vi hệ thống và tuân theo các

quy luật chung của hệ thống, còn trong trƣờng hợp ngƣợc lại, yếu tố sẽ tách ra khỏi hệ thống,

thậm chí trở thành chƣớng ngại vật đối với hoạt động của hệ thống, về vấn đề này, V. I.

Lênin nhấn mạnh: "Bộ phận phải phục tùng chỉnh thể, chứ không phải là trái lại" [38, tr.429].

Mặc dù vậy, mỗi yếu tố khi thực hiện các chức năng của mình cũng có tính độc lập tƣơng

đối, phù hợp với đặc điểm của từng yếu tố. Ở đây cần lƣu ý rằng, chức năng luôn gắn liền với

yếu tố và được thực hiện trong phạm vi của cấu trúc. Không thể có các chức năng thuần túy

tách rời khỏi cấu trúc. Chức năng và cấu trúc có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là sự

thống nhất của các mặt đối lập. Chúng đóng vai trò cơ bản trong việc giải thích cơ chế hoạt

động và phát triển của hệ thống. Cấu trúc thiết lập nên tính bền vững, còn chức năng biểu

hiện sự vận động, phát triển của hệ thống. Bất kỳ một cấu trúc đã đƣợc hình thành nào, khi đã

xác định vị trí của một yếu tố trong hệ thống, cũng quy định chức năng của nó. Mặt khác, sự

thay đổi của các yếu tố và của toàn bộ hệ thống kéo theo sự thay đổi về chức năng của chúng;

còn sự thay đổi chức năng dẫn tới sự thay đổi cấu trúc, làm cho hệ thống chuyển sang giai

đoạn phát triển mới hoặc biến thành một hệ thống khác. Ví dụ, sự thay đổi của cấu trúc hoặc

sự biến dạng của các cơ quan trong cơ thể sẽ dẫn đến sự sai lệch về chức năng của chúng;

ngƣợc lại, chức năng của các cơ quan mà thay đổi thì sớm muộn cũng dẫn đến sự thay đổi

của cấu trúc.

Nhƣ vậy là, cấu trúc quyết định chức năng, còn sự thay đổi chức năng lại gây ra sự

thay đổi của cấu trúc. Do đó, phương pháp hệ thống đòi hỏi khi xem xét

- 45 -

các sự vật, hiện tượng, tất yếu phải tính đến việc phân tích các mối liên hệ chức năng, đồng

thời khi giải thích chức năng phải thông qua đặc thù của cấu trúc; còn khi giải thích cấu trúc

phải thông qua đặc thù của chức năng.

Nghiên cứu hệ thống là quá trình vận động của tƣ tƣởng từ thành phần đến cấu trúc và

sau đó đến chức năng của hệ thống, song cũng có trƣờng hợp nhận thức bắt đầu từ các chức

năng. Cách tiếp cận chức năng nhằm mục đích nhận thức các yếu tố và cấu trúc của hệ thống

đƣợc gọi là phƣơng pháp "hộp đen", nghĩa là phải tính đến "đầu vào" và "đầu ra" của khách

thể. Vận dụng cách tiếp cận đó là cần thiết và đôi khi ở giai đoạn đầu của nhận thức là cách

tiếp cận duy nhất, bởi vì nghiên cứu trực tiếp các yếu tố và cấu trúc có thể rất khó khăn do

thiếu các phƣơng tiện kỹ thuật hoặc liên quan đến các khía cạnh nhân văn. Kết quả của sự

nghiên cứu chức năng sẽ cho ta những kết luận về cấu tạo bên trong của hệ thống. Chẳng hạn,

trong sinh lý học khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài lên các cơ quan thụ cảm và

phản xạ của cơ thể, I. V. Páplốp đã khám phá ra cơ chế tinh vi trong hoạt động thần kinh cấp

cao ở động vật và con ngƣời. Hay Menđêlêép đã phát minh ra định luật tuần hoàn của các

nguyên tố hóa học dựa trên các thông số về lƣợng của các nguyên tử do chức năng của nó

mang lại, từ đó có thể đi sâu vào cấu trúc của nguyên tử với tính cách là một hệ thống.

Thứ bảy, một khía cạnh quan trọng mà phƣơng pháp hệ thống cần quan tâm xem xét,

đó là trình độ tự tổ chức của các hệ thống. Bất kỳ một hệ thống nào cũng mang tính tự tổ

chức. Tính tự tổ chức là một hình thức liên hệ đặc biệt, là một vận động, một quá trình có xu

hƣớng nhất định. Nó thể hiện quá trình sắp xếp các yếu tố bên ƣơng hệ thống, xác định các

chức năng của các yếu tố và của hệ thống.

- 46 -

Thứ tám, phƣơng pháp hệ thống còn dành sự chú ý đặc biệt đến mối quan hệ giữa hệ

thống và môi trường. Với những ảnh hƣởng khác nhau của môi trƣờng, có thể hiểu nó theo

nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa rộng, môi trƣờng bao gồm tất cả các sự vật, hiện

tƣợng, quá trình bao quanh hệ thống, tham gia vào việc thiết lập các chất lƣợng hệ thống; còn

theo nghĩa hẹp, môi trƣờng là những yếu tố cơ bản, tất yếu xung quanh hệ thống, mà trong sự

tác động qua lại với nó, hệ thống biểu hiện mình là một chỉnh thể thống nhất. Vì vậy, phương

pháp hệ thống đòi hỏi trước hết phải tính đến môi trường cơ bản, tai yếu tác động đến hệ

thống cần nghiên cứu. Các hệ thống có trình độ tổ chức khác nhau sẽ có mối quan hệ khác

nhau với môi trƣờng. Hệ thống có tính tổ chức càng cao thì càng nhạy bén với môi trƣờng,

càng tác động tích cực đến môi ƣƣờng. Các hệ thống vô cơ khi tác động qua lại với môi

trƣờng thì sẽ bị hủy hoại, bị hấp thụ bởi môi trƣờng. Các cơ thể sống thì tuân theo quy luật

phù hợp, thích nghi với môi trƣờng. Đặc biệt, con ngƣời và các hệ thống xã hội có khả năng

làm thay đổi môi ƣƣờng tự nhiên, kể cả môi trƣờng xã hội, cải tạo chúng cho phù hợp với nhu

cầu, mục đích của mình. Vì môi trƣờng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của hệ

thống, ảnh hƣởng đáng kể đến xu hƣớng phát triển chung của nó - tiến bộ hoặc thoái bộ, cho

nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phương pháp hệ thống đòi hỏi phải tính đến các

điều kiện môi trường. V. N. Xađốpxki viết: "Nghiên cứu khách thể với tính cách là một hệ

thống, ở phƣơng diện phƣơng pháp luận, không tách rời việc phân tích các điều kiện tồn tại

và môi trƣờng của hệ thống" [136, tr.19].

Thứ chín, phƣơng pháp hệ thống còn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa hoạt

động và phát triển của hệ thống, tức là xem xét mối quan hệ giữa trạng thái ổn định bên trong

và quá trình phát triển của nó. Nói cách khác, phƣơng pháp hệ thống cần phải tìm ra con

đƣờng giải quyết vấn đề đồng đại và

- 47 -

lịch đại, nhằm tìm ra các cơ chế tƣơng ứng để xây dựng nên bức ƣanh thống nhất của khách

thể. Xét về mặt đồng đại, tức là xem xét sự vật ở một thời điểm nhất định với tất cả các mối

liên hệ phức tạp của nó; còn xét về mặt lịch đại, tức là xem xét sự vật trong quá trình vận

động, phát triển theo thời gian. Nhƣ trên đã khẳng định, bất kỳ sự vật, hiện tƣợng nào cũng

đều biểu hiện với tính cách là một hệ thống cân bằng động. Trong từng hệ thống luôn luôn

diễn ra những biến đổi đa dạng, những quá trình chuyển hóa vô tận của các yếu tố cấu thành.

Các quá trình đó có nguồn gốc sâu xa từ những mối liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố,

mà trƣớc hết là sự thông nhất và đấu tranh của các mặt đối lập bên trong hệ thống. Chính tính

chất không thuần nhất và mâu thuẫn của hệ thống là cơ sở, động lực tất yếu của sự hoạt động

và phát triển. Bên cạnh những yếu tô nội sinh, còn có những yếu tố ngoại sinh - những tác

động từ môi trƣờng bên ngoài. Trạng thái mất cân bằng báo hiệu tiến trình phát triển của bản

thân hệ thống. Mặt khác, thế giới luôn luôn có tính trật tự hài hòa, nên bên trong nó thƣờng

xuyên diễn ra cơ chế tự điều chỉnh làm cho quá trình tiến hóa đƣợc diễn ra liên tục. Nhƣ vậy,

hoạt động của hệ thống là cơ sở, động lực phát triển của hệ thống. Trong quá trình hoạt động

mà nảy sinh ra những tiền đề, những khả năng chuyển hóa hệ thống từ cấp độ này lên cấp độ

khác cao hơn. Sự hoạt động và phát triển của hệ thống là thống nhất với nhau, bởi vì chúng

đều diễn ra trong một chỉnh thể. Không có hoạt động sẽ không có phát triển. Song không thể

đồng nhất chúng với nhau, bởi vì hoạt động chỉ là sự vận động của hệ thống trong một phạm

vi chất lƣợng nhất định, còn phát triển là sự vƣợt qua phạm vi chất lƣợng ấy để chuyển hệ

thống lên một trình độ cao hơn.

Nhƣ vậy, phương pháp hệ thống liên hệ mật thiết với nguyên lý về sự phát triển và là

sự cụ thể hóa quan điểm phát triển. Chúng bổ sung cho nhau, mang lại một bức tranh phong

phú, sâu sắc về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của

- 48 -

các sự vật, hiện tƣợng. Cách nhìn này của phƣơng pháp hệ thống cũng thỏa mãn một trong

những nguyên tắc cơ bản của lôgíc biện chứng. V. I. Lênin viết: "... lôgíc biện chứng đòi hỏi

phải xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự "tự thân vận động"... trong sự biến đổi của

nó" [44, tr.364], nhằm tái tạo lại đƣợc "sự phát triển của sự vật ấy (respective của hiện

tƣợng), sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó" [41, tr.239].

Trong quá trình hoạt động và phát triển của hệ thống, nhân tố ổn định nhất là cấu trúc,

song cấu trúc không tự mình xuất hiện, mà là kết quả của sự biến đổi, phát triển nhất định.

Tổng thể những biến đổi trong quá trình hoạt động và phát triển của hệ thống sẽ hình thành

nên những tính quy định mới về chất đặc trƣng cho cấu trúc của hệ thống. Sự hình thành và

biến đổi của cấu trúc mang tính cân đối, nhịp nhàng, phản ánh trạng thái ổn định bên trong

của hệ thống, phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử nhất định. Vì vậy, quá trình hình thành

và biến đổi của cấu trúc theo thời gian là một trong những đặc trƣng bản chất của quá trình

hoạt động và phát triển của hệ thống. Do đó, để nhận thức hệ thông cần phải quan tâm đến

lịch sử của hệ thống - về quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của nó. Khuynh hƣớng

phát triển khách quan của hệ thống nằm ngay trong quá trình hoạt động và đƣợc quyết định

bởi các quy luật phát triển của nó. Khi nghiên cứu đối tƣợng với tính cách là hệ thống đang

hoạt động, một mặt, ngƣời ta phải tạm thời khu biệt nó ở trạng thái ổn định tƣơng đối, để

vạch ra cấu trúc của nó trong phạm vi một chất lƣợng nhất định; mãi khác, không thể không

quan tâm đến lịch sử của hệ thống, gắn liền với thời gian lịch sử của sự phát sinh, hình thành

và phát triển của hệ thống. Nghĩa là phƣơng pháp hệ thống xem xét sự vật trong mối liên hệ

mật thiết giữa cấu trúc và lịch sử, giữa đồng đại và lịch đại.

- 49 -

Đồng đại và lịch đại không bài xích lẫn nhau, đối lập nhau một cách tuyệt đối, mà trái

lại, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, đó là sự phản ánh mối quan hệ giữa đứng im

tƣơng đối và vận động tuyệt đối. Mối quan hệ ấy gắn liền với thời gian, bởi vì thời gian là

một thuộc tính cố hữu của vật chất, là phƣơng thức tồn tại của vật chất, của mọi hệ thống,

chính thời gian là thông số tạo nên sự thống nhất giữa cấu trúc và lịch sử. Do vậy, nghiên cứu

thông số thời gian là một yêu cầu tất yếu của phương pháp hệ thống. Từ đây, có thể khẳng

định phương pháp hệ thống gắn liền với quan điểm lịch sử, là sự cụ thể hóa quan điểm lịch

sử. Cách nhìn này của phƣơng pháp hệ thống đã thỏa mãn một yêu cầu của phƣơng pháp biện

chứng, nhƣ V. I. Lênin nhấn mạnh "không nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản; là xem xét

mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tƣợng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử nhƣ

thế nào, hiện tƣợng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan

điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành nhƣ thế nào" [43, tr.78].

Nguyên tắc tính lịch sử, rút cuộc, cũng là một yêu cầu của phương pháp hệ thống.

Tính lịch sử và tính hệ thống liên hệ mật thiết với nhau, chúng bổ sung và làm phong phú lẫn

nhau, hơn nữa, trong tính hệ thống đã bao hàm tính lịch sử, thâm nhập vào cách tiếp cận lịch

sử. Tính lịch sử tách rời khỏi tính hệ thống, sẽ trở thành đối lập với tính lịch sử đúng đắn.

Tuyệt đối hóa tính lịch sử sẽ trở thành thuyết tiến hóa tầm thƣờng. Ngƣợc lại, tính hệ thống

mà nằm ngoài phƣơng diện lịch sử sẽ trở thành sao chép giản đơn sự vật trong trạng thái tĩnh

của nó. Về điều này, P. N. Pheđôxêép nhận định rất đúng rằng: "Trong quan niệm duy vật về

lịch sử, nguyên tắc tính hệ thống biểu hiện trong sự thống nhất với sự hiểu biết về nguồn gốc

- lịch sử, với phƣơng pháp luận dựa trên quan điểm lịch sử. Điều đó đã đƣợc chủ nghĩa Mác

thực hiện một cách tuyệt diệu trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội với tính cách là một

"cơ thể xã hội",

- 50 -

một chỉnh thể hữu cơ" [144, tr.13]. Với cách nhìn ấy, theo quan điểm hệ thống, để nhận thức

sự vật, thông thƣờng cần phải chia nó theo hai lát cắt: lái cắt cấu trúc, tức là xét hệ thống ở

thế đồng đại với tất cả các mối liên hệ phức tạp của nó, và lát cắt lịch sử, tức là xét hệ thống

ở thế lịch đại với quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của nó. Phương pháp hệ thống

yêu cầu không được đối lập cách tiếp cận lịch sử và cách tiếp cận cấu trúc. Sự khác nhau

giữa hai cách tiếp cận ấy chỉ có ý nghĩa về mặt nhận thức luận. Trong cách tiếp cận cấu trúc

thì trọng tâm chú ý là cấu trúc, còn trong cách tiếp cận lịch sử thì trọng tâm chú ý là lịch sử

của hệ thống. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn có thể ƣu tiên cách tiếp cận nào, tùy

thuộc vào nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu. Song phải đặt cấu ƣúc và lịch sử trong mối liên

hệ không thể tách rời nhau, không thể nhìn lịch sử phi cấu trúc và không thể nhìn cấu trúc phi

lịch sử.

Nhƣ vậy, phƣơng pháp hệ thống có nội dung hết sức phong phú, bao gồm hàng loạt

các yêu cầu mang tính nguyên tắc nhằm chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn

của con ngƣời. Những yêu cầu mà phƣơng pháp hệ thống đặt ra không tồn tại một cách biệt

lập, mà có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau, làm tiền đề cho nhau trong

tổng thể các mối quan hệ, các phƣơng diện, trong một chỉnh thể thống nhất, tạo ra một sức

mạnh tổng hợp, một công cụ hữu hiệu để nhận thức và cải tạo thế giới.

Kết luận chương 1

Phạm trù hệ thống đã đƣợc nghiên cứu ƣơng suốt tiến trình phát triển của lịch sử triết

học. Các nhà triết học trƣớc C. Mác đã đạt đƣợc những giá trị nhất định trong việc xác định

nội dung và ý nghĩa của phạm trù hệ thống. Mặc dù còn những hạn chế nhất định, song

những quan niệm ấy đã góp phần làm cho tƣ duy triết học ngày càng phát triển lên một trình

độ cao hơn.

- 51 -

C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin là những ngƣời đầu tiên đã mang lại quan điểm

duy vật biện chứng để nghiên cứu phạm trù hệ thống và thiết lập nên một cơ sở khoa học

vững chắc cho sự nghiên cứu vấn đề hệ thống nói chung, phạm trù hệ thống nói riêng.

Dƣới ánh sáng của khoa học hiện đại, phạm trù hệ thống thực sự đã trở thành một

phạm trù triết học và là cơ sở lý luận cho sự hình thành phƣơng pháp hệ thống.

Sự ra đời của phƣơng pháp hệ thống đã làm thay đổi căn bản phong cách tƣ duy khoa

học, chuyển từ cách nhìn "vật tâm" sang cách nhìn "hệ tâm" và thực sự phát triển mạnh mẽ từ

giữa thế kỷ XX.

Với những yêu cầu mà phƣơng pháp hệ thống đặt ra, chủ thể cần phải biết kết hợp,

vận dụng một cách tổng hợp mới tạo ra hiệu quả tối ƣu trong nhận thức và hoạt động thực

tiễn.

- 52 -

CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG TRONG NHẬN THỨC KHOA

HỌC

2.1. Vị trí của phƣơng pháp hệ thống trong hệ thống các phƣơng pháp

nhận thức khoa học

Để xác định vị trí của phƣơng pháp hệ thống trong nhận thức khoa học, trƣớc hết cần

phân biệt phương pháp và phương pháp luận.

Khái niệm phương pháp có gốc từ tiếng Hy Lạp là "methodos" dùng để chỉ con

đƣờng, công cụ nhận thức. Theo nghĩa thông thƣờng, phương pháp là cách thức, thủ thuật

đƣợc chủ thể sử dụng để thực hiện mục đích nhất định. Còn theo nghĩa khoa học, phương

pháp là hệ thống những nguyên tắc đƣợc con ngƣời rút ra từ tri thức về các quy luật khách

quan để điều chỉnh, định hƣớng hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện

mục tiêu nhất định [xem: 30, tr.378]. Nhƣ vậy, phƣơng pháp bao gồm cả phƣơng pháp nhận

thức và phƣơng pháp hoạt động thực tiễn.

Sự đa dạng của đối tƣợng nghiên cứu dẫn đến sự đa dạng của phƣơng pháp nghiên

cứu. Song nếu căn cứ vào nội dung, mức độ phổ biến và phạm vi ứng dụng thì có thể phân

chia chúng thành phương pháp riêng, phương pháp chung và phương pháp phổ biến. Phương

pháp riêng là phƣơng pháp chủ yếu đƣợc áp dụng cho từng bộ môn khoa học; phương pháp

chung đƣợc áp dụng cho nhiều ngành khoa học khác nhau; còn phương pháp phổ biến là

phƣơng pháp triết học Mác - Lênin, là phƣơng pháp biện chứng duy vật đƣợc áp dụng cho

mọi ngành khoa học và trong mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn.

Các phƣơng pháp nhận thức khoa học tuy khác nhau mỗi phƣơng pháp đều có vị trí

riêng, vai trò riêng, song chúng có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành một hệ

thống chỉnh thể. Do đó, không nên coi các phƣơng pháp

- 53 -

là ngang nhau hoặc có thể thay thế cho nhau; cũng không nên cƣờng điệu phƣơng pháp này

hạ thấp phƣơng pháp kia, mà phải biết sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp, tức là phải biết

vận dụng chúng một cách có hệ thống. Tuy nhiên, ở những giai đoạn khác nhau của quá trình

nhận thức, khi thì phƣơng pháp này, khi thì phƣơng pháp kia nổi lên hàng đầu tùy thuộc vào

nhiệm vụ của ngƣời nghiên cứu, song điều đó không làm mất đi tính thống nhất của các

phƣơng pháp. Trong hệ thống các phƣơng pháp nhận thức khoa học thì phƣơng pháp phổ

biến - phƣơng pháp biện chứng duy vật là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, thâm nhập nhƣng không hòa

tan vào các phƣơng pháp khác, giống nhƣ cái phổ biến thâm nhập vào cái đặc thù và cái đơn

nhất.

Khi nói rằng phƣơng pháp biện chứng duy vật đƣợc vận dụng trong các khoa học cụ

thể, đƣợc khúc xạ qua các phƣơng pháp nhận thức khoa học khác, thì cũng cần phải hiểu rằng

nó chỉ đƣợc áp dụng một cách có lợi nhất, hiệu quả nhất khi kết hợp chặt chẽ với các phƣơng

pháp khác, phải tính đến các quy luật đặc thù của đối tƣợng mà khoa học đó phản ánh. Do đó,

các phƣơng pháp riêng và phƣơng pháp chung biểu hiện nhƣ những yếu tố, những mắt xích

của phƣơng pháp phổ biến, bổ sung và làm phong phú cho phƣơng pháp phổ biến, mặc dù

chúng có tính độc lập tƣơng đối của mình.

Phương pháp luận là học thuyết hay lý luận về phƣơng pháp. Đó là hệ thống những

quan điểm (nguyên lý) chỉ đạo, xây dựng các nguyên tắc hợp thành phƣơng pháp cũng nhƣ

xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng có hiệu quả.

Tƣơng ứng với phƣơng pháp, phƣơng pháp luận cũng có thể đƣợc phân thành:

phương pháp luận riêng, phương pháp luận chung và phương pháp luận phổ biến. Mỗi hình

thức phƣơng pháp luận có nội dung hết sức phong phú, có vị trí, vai trò, chức năng riêng của

mình, do đó nó cũng có phạm vi áp dụng riêng. Phương pháp luận riêng thiết lập các nguyên

tắc đƣợc áp dụng trong một bộ môn

- 54 -

khoa học chuyên ngành nhất định (phƣơng pháp luận lịch sử học, phƣơng pháp luận sinh vật

học,.v.v.); phương pháp luận chung thiết lập các nguyên tắc nghiên cứu của một số ngành

khoa học, thực chất hình thức phƣơng pháp luận này dùng để chỉ tính chất liên ngành của các

khoa học (phƣơng pháp luận điều khiển học, mô hình hóa, hình thức hóa,.v.v. đƣợc áp dụng

trong nhiều quá trình nhận thức khoa học hiện đại); phương pháp luận phổ biến là phép biện

chứng duy vật, là học thuyết về phƣơng pháp biện chứng, là sự luận chứng cho tính phổ quát,

tính ứng dụng của nó ƣơng mọi lĩnh vực khoa học và thực tiễn.

Các hình thức phƣơng pháp luận trên tuy khác nhau về mức độ và phạm vi ứng dụng,

song chúng có mối liên hệ qua lại với nhau, trong đó phƣơng pháp luận chung hơn giữ vai trò

là cơ sở cho phƣơng pháp luận ít chung hơn và ngƣợc lại, phƣơng pháp luận ít chung hơn làm

phong phú cho phƣơng pháp luận chung hơn. Ví dụ, phương pháp luận phổ biến là cơ sở cho

các phƣơng pháp luận khác, còn phương pháp luận chung và phương pháp luận riêng làm

phong phú và cụ thể hóa phương pháp luận phổ biển.

Có thể nói, nếu phƣơng pháp là con đƣờng dẫn đến mục tiêu đã xác định, thì phƣơng

pháp luận giữ vai trò chỉ đạo, vạch hƣớng và dẫn đƣờng. Vì vậy, không thể đồng nhất phƣơng

pháp với phƣơng pháp luận, không thể hòa tan phƣơng pháp trong phƣơng pháp luận. Ở đây,

chúng ta sử dụng khái niệm phương pháp luận với ý nghĩa là học thuyết, là lý luận về phƣơng

pháp; còn khái niệm phương pháp, cách tiếp cận, nguyên tắc phương pháp luận đƣợc sử

dụng với ý nghĩa là những công cụ phƣơng pháp luận cụ thể do sự phân hóa trong khoa học

hiện đại [xem: 8, tr.440].

Nhƣ vậy, trong khoa học tồn tại một hệ thống các phƣơng pháp nhận thức có sự liên

hệ mật thiết với nhau. Sự thống nhất hữu cơ của các yếu tố trong hệ thống ấy đƣợc thể hiện

trƣớc hết ở chỗ, phương pháp phổ biến xuyên suốt, thâm

- 55 -

nhập vào các phƣơng pháp khác, còn phương pháp riêng và phương pháp chung, khi phản

ánh tính đặc thù của hiện thực khách quan, cũng hoàn toàn đáp ứng những yêu cầu của

phƣơng pháp biện chứng duy vật với tính cách là phƣơng pháp phổ biến. Vậy phương pháp

hệ thống có vị trí nhƣ thế nào trong hệ thống các phƣơng pháp nhận thức khoa học, cũng nhƣ

trong các loại hình phƣơng pháp luận khoa học?

Xung quanh vấn đề này, về cơ bản có hai quan điểm khác nhau:

Thứ nhất, có quan điểm cho rằng, phƣơng pháp hệ thống thuộc về phương pháp

chung, không thuộc phạm vi phƣơng pháp phổ biến. Trong các tài liệu triết học của Liên Xô

trƣớc đây, tiêu biểu cho lập trƣờng này là các tác giả I. V. Blauberơgơ, E. G. Iudin và V. N.

Xađốpxki. Họ khẳng định: "Phƣơng pháp hệ thống không thể quy về phƣơng pháp luận triết

học, tự nó không liên quan trực tiếp đến vấn đề thế giới quan, đến các chức năng phê phán về

mặt triết học đối với các hình thức và nguyên tắc nhận thức khoa học" [102, tr.77]. Và hơn

nữa, "nghiên cứu hệ thống là một trong các lĩnh vực phát triển của nhận thức khoa học hiện

đại, sự mô tả về mặt lý luận trong phạm vi phƣơng pháp hệ thống hoặc lý thuyết hệ thống

tổng quát đƣợc giới hạn bởi các vấn đề phƣơng pháp luận khoa học chuyên ngành" [136,

tr.48]. Mặc dù vậy, các tác giả đó không những không đối lập phƣơng pháp hệ thống với

phƣơng pháp triết học, mà còn khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa chúng và nhấn mạnh

"các nguyên tắc hệ thống - cấu trúc là hình thức phản xạ khoa học nội tại, với cơ sở triết học

của mình chúng hoàn toàn phụ thuộc vào phƣơng pháp luận triết học và nền tảng thích hợp

nhất của chúng là phƣơng pháp luận triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mà sự phát

triển của nó sẽ mang lại một môi trƣờng triết học thuận lợi để phổ biến các nguyên tắc hệ

thống - cấu trúc" [102, tr.98]. Từ đó họ đi đến kết

- 56 -

luận: "Phép biện chứng là cơ sở của phƣơng pháp luận hệ thống - cấu trúc, là nền tảng triết

học của nó; đến lƣợt mình, sự phát triển của phƣơng pháp luận hệ thống - cấu trúc sẽ làm

phong phú và cụ thể hóa tiềm năng của phép biện chứng" [102, tr.99].

Thứ hai, có quan điểm khẳng định rằng, phƣơng pháp hệ thống là một bộ phận hữu cơ

của phép biện chứng, "là một trong những yêu cầu phƣơng pháp luận hết sức quan trọng

trong phép biện chứng Mác - Lênin" [96, tr.5], là "một trong những mặt của lý luận và

phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử" [8, tr.361]. Tiêu biểu

cho quan điểm này là V. P. Cudơmin, V. G. Aphanaxép,.v.v.

Với lập trƣờng nhƣ vậy, V. P. Cudơmin đã có một đóng góp đáng kể trong việc phân

tích vai trò và phƣơng thức áp dụng nguyên tắc tính hệ thống trong lý luận và phƣơng pháp

luận của C. Mác. Theo ông, nguyên tắc tính hệ thống cần đƣợc hiểu là một nguyên tắc triết

học. V. P. Cudơmin cho rằng, "nguyên tắc tính hệ thống - nếu trình bày nó dƣới dạng chung

nhất, thì có nghĩa là những hiện tƣợng của hiện thực khách quan đƣợc xem xét từ phía những

quy luật của cái toàn thể có tính hệ thống và sự tác động qua lại giữa các bộ phận cấu thành

của nó sẽ tạo ra cái lăng kính nhận thức đặc biệt hoặc "thƣớc đo" đặc biệt của thực tại" [8,

tr.20]. Với quan niệm đó, ông đã khám phá ra nhiều nội dung phong phú trong học thuyết của

C. Mác về tính hệ thống và đi đến kết luận: "Lý luận và phương pháp luận mác-xít chứa đựng

nguyên tắc tính hệ thống với tư cách là một trong các yếu tố quan trọng nhất" [8, tr.34].

Nhƣ vậy, trong các tài liệu triết học mác-xít, phƣơng pháp hệ thống đƣợc hiểu theo

hai nghĩa: Một là, phƣơng pháp hệ thống thuộc về phương pháp chung, đƣợc áp dụng trong

nhiều ngành khoa học; và hai là, phƣơng pháp hệ thống

- 57 -

thuộc về phương pháp phổ biến, đƣợc áp dụng trong tất cả mọi lĩnh vực nhận thức khoa học

và hoạt động thực tiễn.

Chúng tôi cho rằng, cùng với sự phát ƣiển mạnh mẽ của khoa học và thực tiễn xã hội,

sự ra đời của phƣơng pháp hệ thống đã làm thay đổi về chất phong cách tƣ duy khoa học và

nó đƣợc áp dụng ngày càng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của khoa học và thực tiễn. Do đó,

phƣơng pháp hệ thống ngày càng biểu hiện rõ với tính cách là phƣơng pháp phổ biến trong

nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Để khẳng định điều này, cần phải chỉ ra sự thâm

nhập của phương pháp hệ thống vào trong các phương pháp nhận thức khoa học khác và góp

phần hiện đại hóa các phương pháp đó.

Ở chƣơng trƣớc chúng tôi đã khẳng định phƣơng pháp hệ thống là sự cụ thể hóa các

nguyên lý của phép biện chứng duy vật, nó gắn liền và cụ thể hóa quan điểm lịch sử, quan

điểm toàn diện và quan điểm phát triển. Vì vậy, phương pháp hệ thống đã thâm nhập vào các

nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng với tính cách là các nguyên tắc phƣơng pháp

luận phổ biến của nhận thức khoa học.

Phƣơng pháp hệ thống ra đời là sản phẩm của sự phát triển khoa học và thực tiễn xã

hội, đến mức mà con ngƣời thƣờng xuyên tiếp cận tới những đối tƣợng hết sức phức tạp cả về

vi mô lẫn vĩ mô, những hệ thống đa cấp độ bao gồm một số lƣợng vô cùng lớn các yếu tố và

mặt khác, nó lại liên quan trực tiếp đến tính chất liên ngành, khuynh hƣớng tổng hợp của

khoa học hiện đại. Vì vậy, phƣơng pháp hệ thống có mối quan hệ mật thiết với các phƣơng

pháp nhận thức khoa học khác và cùng với chúng tạo thành một hệ thống chỉnh thể. 1. Quan

hệ giữa phương pháp hệ thống và phân tích, tổng hợp: Phân tích và tổng hợp với tính cách là

công cụ nhận thức hệ thống giữ vai trò quan trọng trong nhận thức khoa học. Quá trình nhận

thức của con ngƣời, nhƣ

- 58 -

V. I. Lênin nói: "...đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tƣợng đến bản chất, từ bản chất cấp một,

nếu có thể nói nhƣ vậy, đến bản chất cấp hai .V.V., cứ như thế mãi" [41, tr.268]. Việc phân

đôi nhận thức của con ngƣời ra làm hai trình độ nhận thức cảm tính và lý tính tƣơng ứng với

việc phân đôi thế giới thành hai mặt đối lập là hiện tƣợng và bản chất. Ở trình độ thứ nhất,

con ngƣời tiếp cận sự vật với tính cách là cái toàn thể (hệ thống), nhằm thu nhận các tài liệu

cảm tính, các thuộc tính của sự vật. Nhƣng thuộc tính của sự vật, xét đến cùng, là do các mối

liên hệ bên trong giữa các yếu tố quyết định. Vì vậy, quá trình nhận thức đòi hỏi phải phân

tích sự vật (hệ thống) thành những yếu tố tƣơng đối độc lập, phát hiện ra những mối liên hệ

tất yếu giữa chúng, xem xét những đặc điểm riêng lẻ của từng yếu tố, những phƣơng thức tác

động qua lại giữa các yếu tố, ... Giai đoạn phân tích mang lại cho ta những tri thức cụ thể về

các yếu tố và là cơ sở để giải thích những thuộc tính do tri giác ban đầu mang lại. Mặc dù ở

đây đã có những bƣớc trừu tƣợng riêng lẻ, nhƣng chƣa thể vạch ra bản chất của sự vật, cho

nên nhận thức phải đi lên trình độ lý tính để tổng hợp những mối quan hệ, liên hệ, những

thuộc tính, những phƣơng thức tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành. Nghĩa là tìm ra cấu

trúc bên trong, những quy luật vận động cơ bản, những chất lƣợng tổng hợp của sự vật tức là

tạo ra cái cụ thể ƣơng tƣ duy. Nhƣ vậy, quá trình nhận thức tất yếu cần phải có giai đoạn tổng

hợp, mà thực chất là tái tạo lại hệ thống chỉnh thể.

Rõ ràng, để nhận thức một đối tƣợng cụ thể, lúc đầu ngƣời ta tiếp cận nó nhƣ một cái

toàn thể, sau đó phân tích cái toàn thể ấy thành các bộ phận tƣơng đối độc lập, cuối cùng là

bƣớc tổng hợp để thấy đƣợc toàn bộ tính chất sinh động của cái toàn thể đó. Từ những

nguyên tắc mà phƣơng pháp hệ thống yêu cầu, chúng ta thấy bản thân phương pháp ấy chứa

đựng cả hai yếu tố phân tích và tổng hợp - hai yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ một quá

trình tƣ duy khoa học

- 59 -

nào. Thực chất phân tích và tổng hợp là hai phƣơng pháp khác nhau, song lại thống nhất biện

chứng với nhau. Sự thống nhất của chúng là một yếu tố quan trọng của phƣơng pháp biện

chứng. Ph. Ăngghen viết: "... tƣ duy bao hàm ở chỗ đem những đối tƣợng của nhận thức ra

phân thành các yếu tố, cũng nhƣ đem những yếu tố có quan hệ với nhau hợp thành một thể

thống nhất nào đó. Không có phân tích thì không có tổng hợp" [53, tr.64].

Vậy phương pháp hệ thống đặt ra những yêu cầu gì trong việc phân tích và tổng hợp?

Để trả lời cho vấn đề này, chúng ta cần xuất phát từ chính những yêu cầu của phƣơng pháp hệ

thống.

Thứ nhất, phƣơng pháp hệ thống nhấn mạnh rằng các yếu tố cấu thành hệ thống có vị

trí, vai trò khác nhau, đặc biệt những yếu tố cơ bản đóng vai trò là cơ sở khách quan của

chỉnh thể hệ thống. Việc phân tích và nhận thức cái cơ sở khách quan ấy là điều kiện tiên

quyết để nhận thức hệ thống đạt kết quả tốt nhất. Không phải ngẫu nhiên, trong tác phẩm Tư

bản, để vạch ra bản chất và các quy luật vận động của nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa, C. Mác

đã xuất phát từ sự phân tích hàng hóa. Theo C. Mác, hàng hóa đóng vai trò là cơ sở, nền tảng

trong sự tồn tại và hoạt động của hệ thống sản xuất tƣ bản chủ nghĩa; hàng hóa là sự thể hiện

cơ bản nhất, là "tế bào" không thể bị phân chia ƣơng các mối quan hệ sản xuất tƣ bản chủ

nghĩa. Ông viết: "Trong những xã hội do phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa chi phối thì

của cải biểu hiện ra là một "đống hàng hóa khổng lồ", còn từng hàng hóa một thì biểu hiện ra

là hình thái nguyên tố của của cải ấy. Vì vậy, công cuộc nghiên cứu của chúng ta bắt đầu

bằng việc phân tích hàng hóa" [55, tr.61]. Việc phân tích yếu tố cơ bản là một yêu cầu tất yếu

của nhận thức hệ thống cũng đã đƣợc V. I. Lênin nhấn mạnh, cần phải biết tách ra những

"mắt xích chủ yếu"

- 60 -

trong sợi dây chuyền của sự vận động, phát triển và hơn nữa "chỉ có "tác động qua lại" =

trống rỗng" [41, tr.173].

Thứ hai, phƣơng pháp hệ thống còn chỉ ra rằng, đối với các hệ thống đa cấp độ, đa

diện, đa chiều thì sự phân tích cũng có những cấp độ, những mặt, những chiều rất khác nhau.

Tính chất và hình thức phân tích tùy thuộc vào bản chất, phƣơng thức tồn tại của hệ thống,

tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu.

Thứ ba, phƣơng pháp hệ thống khẳng định cái toàn thể không phải là tổng số cơ giới

của các bộ phận cấu thành, thì phân tích cũng không phải là sự phân tách cơ giới giản đơn cái

toàn thể thành các bộ phận, còn tổng hợp cũng không phải là quá trình tổng hợp cơ giới các

bộ phận thành toàn thể. Bản thân cái toàn thể chứa đựng những thuộc tính mới vốn không có

trong các bộ phận cấu thành, thì tƣơng ứng với điều đó, tri thức tổng hợp là tri thức mới về

chất nếu so sánh với tri thức phân tích, tri thức tổng hợp không thể quy về tổng số giản đơn

các tri thức về các yếu tố.

Thứ tư, tổng hợp cũng nhƣ phân tích, cũng rất phức tạp, có nhiều mặt, nhiều cấp độ

khác nhau và đƣợc quy định bởi tính chất phức tạp của hệ thống cần nghiên cứu, bởi nhiệm

vụ và mục đích của ngƣời nghiên cứu. M. M Rôzentan viết: "Tổng hợp liên kết các bộ phận,

các yếu tố thành hệ thống, nhƣng đó không phải là sự "lắp ráp" các bộ phận rời rạc, lẻ tẻ

thành một cơ cấu thống nhất, mà là quá trình nghiên cứu cái cơ sở, cái bản chất của sự vật

đƣợc thể hiện trong tính đa dạng của các mặt, các thuộc tính của nó" [133, tr.416].

Nhƣ vậy, các nguyên tắc cơ bản của phƣơng pháp hệ thống đã thâm nhập vào quá

trình phân tích và tổng hợp hệ thống. Nghĩa là, bản thân quá trình phân tích và tổng hợp, cũng

nhƣ sự thống nhất của chúng cũng phải mang tính hệ thống. Sự thống nhất giữa phân tích và

tổng hợp có cơ sở lý luận từ sự thống

- 61 -

nhất giữa cái toàn thể và cái bộ phận, giữa hệ thống và yếu tố. Trong phƣơng pháp hệ thống,

phân tích gắn liền với tổng hợp, còn khi tổng hợp để tái tạo lại đối tƣợng nhƣ một hệ thống

lại dựa trên cơ sở phân tích, tức là tổng hợp không tách rời phân tích. Cách nhìn đó của

phƣơng pháp hệ thống đã thỏa mãn một ƣơng những yếu tố của phép biện chứng mà V. I.

Lênin đã nêu trong "Bút ký triết học": "sự kết hợp phân tích và tổng hợp, - sự phân tích

những bộ phận riêng biệt và tổng hòa, tổng của những bộ phận ấy" [41, tr.239].

2. Quan hệ giữa phương pháp hệ thống và phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể:

Phƣơng pháp hệ thống không chỉ quan hệ mật thiết với các phƣơng pháp phân tích và

tổng hợp, mà còn quan hệ chặt chẽ với phƣơng pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể với tính cách

là con đƣờng nhận thức hệ thống.

Trƣớc hết, cần hiểu cái cụ thể trong phƣơng pháp này là cái cụ thể trong tƣ duy. Khác

với cái cụ thể cảm tính là điểm xuất phát của bất kỳ sự nhận thức nào, cái cụ thể trong tƣ duy

là sản phẩm của nhận thức, là sự tổng hợp lại nhờ tƣ duy lý luận các tài liệu cảm tính do trực

quan sinh động mang lại. C. Mác viết: "Cái cụ thể sở dĩ là cụ thể vì nó là sự tổng hợp của

nhiều tính quy định, do đó, nó là sự thống nhất của cái đa dạng. Cho nên trong tƣ duy, nó

biểu hiện ra là một quá trình tổng hợp, là kết quả, chứ không phải là điểm xuất phát, mặc dù

nó là điểm xuất phát thật sự và do đó cũng là điểm xuất phát của trực quan và của biểu

tƣợng" [51, tr.877].

Còn cái trừu tƣợng gọi là trừu tƣợng, vì nó là những yếu tố, những bộ phận của cái cụ

thể. Cái trừu tƣợng là kết quả của sự trừu tƣợng hóa một mặt, một mối liên hệ nào đó trong

tổng thể phong phú của sự vật. Con đƣờng hình thành cái trừu tƣợng, trƣớc hết là phân tích

đối tƣợng thành các yếu tố cấu thành, tách ra những yếu tố cơ bản của nó. Và nhƣ vậy, mỗi

cái đƣợc tách riêng ra mới

- 62 -

chỉ phản ánh đƣợc một mặt, một khía cạnh, một thuộc tính nào đó của cái cụ thể. Từ nhiều

cái trừu tƣợng, tƣ duy tổng hợp lại thành cái cụ thể trong tƣ duy, nhờ đó mới khám phá ra

đƣợc bản chất của sự vật.

Cái trừu tƣợng và cái cụ thể thống nhất với nhau, liên hệ, tác động qua lại với nhau.

Sẽ không có cái cụ thể khi không có cái trừu tƣợng với tƣ cách là những yếu tố của nó; ngƣợc

lại, cái cụ thể chỉ tồn tại thông qua cái trừu tƣợng. Mặt khác, bản thân cái trừu tƣợng là mang

tính trừu tƣợng trong mối quan hệ với hệ thống nói chung, nhƣng nó lại mang tính cụ thể

trong mối quan hệ với các yếu tố của hệ thống.

Sự thống nhất giữa cái trừu tƣợng và cái cụ thể là biểu hiện cụ thể của sự thống nhất

toàn bộ quá trình nhận thức nói chung, của sự thống nhất giữa phân tích và tổng hợp nói

riêng. Sự hình thành cái trừu tƣợng và cái cụ thể, cũng nhƣ con đƣờng đi từ trừu tƣợng đến cụ

thể, không có gì khác hơn, là quá trình thâm nhập vào bản chất của hệ thống, làm rõ chất

lƣợng hệ thống và các quy luật vận động, phát triển của nó. Đó là quá trình mang tính hệ

thống, mà những bước đi của nó cũng là một trong những yêu cầu cơ bản của phương pháp

hệ thống.

3. Phương pháp hệ thống và nguyên tắc thống nhất giữa cái lịch sử và cái lôgíc:

Trong khi quan hệ mật thiết với phƣơng pháp đi từ trừu tƣợng đến cụ thể, phƣơng

pháp hệ thống đồng thời cũng sử dụng nguyên tắc thống nhất giữa cái lịch sử và cái lôgíc

trong sự nghiên cứu của mình. Bởi vì đi từ trừu tƣợng đến cụ thể, thì một trong những yêu

cầu của phƣơng pháp hệ thống cũng đƣợc thực hiện, là thâm nhập vào lịch sử của hệ thống,

mô tả các kết quả thâm nhập ấy trong các phạm trù lôgíc. "Về mặt này, - C. Mác viết, - tiến

trình của tƣ duy trừu tƣợng đi từ cái giản đơn nhất lên cái phức tạp là phù hợp với quá trình

lịch sử hiện thực" [51, tr.880]. Phƣơng pháp lịch sử nghiên cứu lịch sử trong tất cả tính

- 63 -

chất đa dạng của các sự kiện, nhƣng chƣa thể có tri thức về hệ thống với tính cách là sự thống

nhất của "nhiều tính quy định". Nó mang lại các tri thức trừu tƣợng, phiến diện, từng mặt

riêng lẻ về các hiện tƣợng và quá trình. Còn phƣơng pháp lôgíc nghiên cứu cái chung, cái trật

tự, tính lắp lại trong các quá trình lịch sử, nó vạch ra bản chất và tính quy luật của sự vật dƣới

hình thức lý luận trừu tƣợng, khái quát. Phƣơng pháp lôgíc có nhiệm vụ dựng lại cái lôgíc

khách quan trong sự phát triển của sự vật, nó mang lại các tri thức cụ thể, hệ thống. Thực

chất, cái lôgíc (cụ thể, hệ thống) là sự khái quát hóa, hệ thống cái lịch sử. Nó cũng là cái lịch

sử, nhƣng đã loại trừ những cái cụ thể kinh nghiệm, ngẫu nhiên. Ph. Ăngghen nói: "Lịch sử

bắt đầu từ đâu thì quá trình tƣ duy cũng phải bắt đầu từ đó" [52, tr.614]. Phƣơng pháp lịch sử

và phƣơng pháp lôgíc là hai phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau, nhƣng lại thống nhất biện

chứng với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó cũng là yêu cầu cơ bản của phƣơng pháp hệ

thống, bởi vì nó đòi hỏi việc nghiên cứu phải tính đến lịch sử và lôgíc tồn tại, vận động, phát

triển của các sự vật, hiện tƣợng, tính đến tính đa dạng trong sự thống nhất, tính đến các trật tự

lôgíc cũng nhƣ các sự kiện, quá trình hoặc kinh nghiệm lịch sử.

4. Phương pháp hệ thống và phương pháp mô hình hóa:

Dưới quan điểm hệ thống, có thể định nghĩa phƣơng pháp mô hình hóa là phƣơng

pháp , mà trong đó một hệ thống (khách thể nghiên cứu) đƣợc tái tạo trong một hệ thống khác

(mô hình).

Cơ sở của phƣơng pháp mô hình hóa là mối quan hệ tƣơng tự giữa khách thể và mô

hình về chức năng, cấu trúc hay tính chất của chúng. Vì vậy, nhiệm vụ của ngƣời nghiên cứu

là tìm kiếm những đặc điểm giống nhau, tƣơng tự nhau giữa các hệ thống (khách thể và mô

hình), tái tạo lại những mặt, những thuộc tính của hệ thống nghiên cứu vào hệ thống khác ít

phức tạp hơn.

- 64 -

Một yêu cầu tất yếu của phƣơng pháp mô hình hóa là tính hƣớng đích của mô hình và

với việc tái tạo theo hƣớng giản hóa cái nguyên mẫu mang tính hệ thống thì mô hình cũng

phải mang tính hệ thống.

Nhƣ trên đã nói, mô hình muốn phản ánh đƣợc những thuộc tính, quan hệ của nguyên

mẫu thì giữa chúng phải có mối quan hệ tƣơng tự. Mô hình phải mang tính đẳng cấu hoặc ít

ra là đồng cấu với nguyên mẫu, tức là giữa chúng phải có những mối quan hệ cơ bản tƣơng tự

của các yếu tố cấu thành hệ thống. Có thể nói, phƣơng pháp mô hình hóa là một hình thức cụ

thể trong việc nghiên cứu đối tƣợng theo quan điểm hệ thống.

Phƣơng pháp hệ thống có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng mô hình, đặc biệt

mô hình điều khiển học. Một trong những nhiệm vụ của nó là mô hình hóa những chức năng

lao động trí óc, trên cơ sở đó sẽ chuyển dần từng bƣớc một số chức năng lao động trí óc sang

cho máy móc. Vấn đề quan trọng ở đây là sự tƣơng tự về chức năng của mô hình và nguyên

mẫu. Khả năng xây dựng thành công sự tƣơng tự về chức năng giữa mô hình điều khiển và

nguyên mẫu sẽ tạo ra những điều kiện để chế tạo ra những máy móc có thể làm việc một cách

nhanh chóng và chính xác hơn nguyên mẫu rất nhiều. Song điều đó cũng không có nghĩa mô

hình phải có cấu trúc giống hệt nhƣ nguyên mẫu, bởi vì ngƣời ta chỉ đƣa vào mô hình những

thuộc tính, những yếu tố, những mối quan hệ cơ bản của nguyên mẫu theo mục đích nghiên

cứu nhất định. Vì vậy, sự tƣơng tự về chức năng giữa mô hình và nguyên mẫu không cho ta

cơ sở để đồng nhất tuyệt đối hai cấu trúc đó với nhau. Mô hình chỉ đảm bảo sự đẳng cấu hoặc

đồng cấu về những mối quan hệ cơ bản, mà từ đó có thể phán đoán đƣợc những đặc điểm cấu

trúc của nguyên mẫu. Mô hình không cho ta bản thân sự vật, mà chỉ cho ta những ý niệm,

những hiểu biết về kết cấu, về quy luật hoạt động và chức năng của sự vật mà thôi.

- 65 -

Trên đây chúng ta đã làm rõ mối quan hệ giữa phƣơng pháp hệ thống với một số

phƣơng pháp nhận thức khoa học. Có thể nói, phương pháp hệ thống là một thành phần

không thể thiếu được trong hệ thống các phương pháp nhận thức khoa học.

Ngay từ những năm 40 của thế kỷ XX, theo sáng kiến của nhà sinh vật học nổi tiếng

ngƣời Áo L. Béctalanphi, vấn đề hệ thống đã trở thành đề tài nghiên cứu rất rộng rãi. "Một

phong trào hệ thống" xuất hiện, phần đông các nhà nghiên cứu phƣơng pháp luận đã tham gia

phong trào "liên ngành" này. Nhiệm vụ cơ bản của phong trào này là tìm kiếm tính quy luật

phổ biến của tất cả các hệ thống, vạch ra cấu trúc, các quy luật về chức năng, quy luật tự điều

chỉnh và chuyển vận thông tin trong các hệ thống vật chất, trƣớc hết trong các hệ sinh vật và

kỹ thuật, trên cơ sớ đó xây dựng "lý thuyết hệ thống tổng quát" với tính cách là lý thuyết của

các lý thuyết hệ thống, nhƣ ngƣời ta thƣờng nói - "siêu lý thuyết về hệ thống". Sự cố gắng

của L. Béctalanphi, M. Métxarôvích, A. I. Uêmốp, V. N. Xađốpxki và những ngƣời khác

ƣong lĩnh vực này đã mở ra những triển vọng mới cho việc nghiên cứu hệ thống cũng nhƣ

cho sự phát ƣiển của khoa học hiện đại.

Để hiểu rõ hơn vị trí của phƣơng pháp hệ thống trong hệ thống các phƣơng pháp nhận

thức khoa học, chúng ta cần phân biệt nó với các phương pháp khác, trƣớc hết là phương

pháp phân tích cấu trúc - chức năng trong xã hội học và phương pháp cấu trúc trong các

khoa học xã hội và nhân văn, chỉ ra những hạn chế và sai lầm của chúng.

Phương pháp phân tích cấu trúc - chức năng là phƣơng pháp nghiên cứu các đối

tƣợng có tính hệ thống, trƣớc hết là các hệ thống xã hội. Nó đặt ra nhiệm vụ phân tích các

hình thức sinh hoạt xã hội dựa trên cơ sở làm nổi bật cấu trúc và chức năng của chúng.

- 66 -

Những tƣ tƣởng chủ yếu của nó đã đƣợc hình thành ngay từ cuối thế kỷ XIX, nhƣng

đƣợc phát triển chỉ đƣợc tính từ nửa đầu thế kỷ XX trong xã hội học tƣ sản hiện đại gắn liền

với tên tuổi của Pácxơn và Méctôn. Quan điểm của họ cũng rất khác nhau, thể hiện ở sự lựa

chọn khái niệm cơ bản đặc trƣng cho sự nghiên cứu của mình. Pácxơn mở rộng khái niệm

cấu trúc; cơ sở của sự phân tích này là sự khác biệt giữa khái niệm cấu trúc (hệ thống các giá

trị, các quy phạm xã hội và các loại hình cộng đồng) và khái niệm chức năng (tự bảo tồn, liên

kết, thích nghi và đạt tới mục đích nhất định). Xuất phát từ lập trƣờng duy tâm về xã hội,

Pácxơn coi cái chủ yếu điều tiết các quan hệ xã hội là hệ thống các giá trị và quy phạm, một

hệ thống thực hiện chức năng cố kết cấu trúc của xã hội. Trái với Pácxơn, Méctôn mở rộng

khái niệm chức năng và khẳng định rằng trong hoạt động xã hội không có mối liên hệ chặt

chẽ giữa cấu trúc và chức năng. Ông phân biệt chức năng theo những kết quả thuận lợi hay

bất lợi đối với hệ thống và theo tính chất rõ rệt của chúng đối với ngƣời tham gia hệ thống.

Mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau, nhấn mạnh những khái niệm trọng tâm

khác nhau, nhƣng cả Pácxơn và Méctôn đều đề cập đến tƣ tƣởng hệ thông và đều xác định

hai nguyên tắc phƣơng pháp luận: một là, phân tích cấu trúc của khách thể và xác định các

mối liên hệ cấu trúc của khách thể ấy; hai là, mô tả chức năng của cấu trúc ấy. Từ đó, phƣơng

pháp phân tích cấu trúc - chức năng đặt ra đối tƣợng nghiên cứu của mình là các mối liên hệ

chức năng, vạch ra các sơ đồ và kỹ thuật nghiên cứu.

Chúng ta thấy rằng, phƣơng pháp phân tích cấu trúc - chức năng giải thích xã hội chỉ

theo cách tiếp cận chức năng là đối lập với khoa học mác-xít về xã hội. Sự phân tích cấu trúc

- chức năng định hƣớng đến việc nghiên cứu những hiện tƣợng xã hội không gắn liền với sự

phát triển, với lịch sử xã hội. Vì vậy, về nguyên tắc nó không mang tính lịch sử. Tính chất

siêu hình, phản lịch sử và duy

- 67 -

tâm của nó là hậu quả của việc thừa nhận tình trạng cân bằng của hệ thống xã hội làm điểm

xuất phát cho sự nghiên cứu, của việc phủ nhận quá trình lịch sử, những biến cố lịch sử, cố

bỏ qua những xung đột sâu sắc trong xã hội tƣ bản. Do tách khỏi thực tại xã hội, do tính chất

trừu tƣợng, tƣ biện trong việc giải thích các hiện tƣợng xã hội, mặc dù chƣa chuyển thành hệ

tƣ tƣởng, nhƣng các tƣ tƣởng xã hội học của Pácxơn và Méctôn đã bị phê phán mạnh mẽ

trong các tài liệu triết học mác-xít, vạch rõ nguồn gốc giai cấp và nhận thức luận của những

quan điểm xã hội học đó.

Mặc dù vậy, việc phê phán ấy không có nghĩa phủ nhận hoàn toàn bộ máy phân tích

của sự phân tích cấu trúc - chức năng đƣợc coi nhƣ một trong những phƣơng pháp nghiên

cứu đối với các đối tƣợng có tính hệ thống. Nó là phƣơng pháp nghiên cứu đặc biệt có hiệu

quả đối với các nhóm xã hội nhỏ. Trong xã hội học mác-xít, nó không đối lập với phƣơng

pháp lịch sử, mà thống nhất với phƣơng pháp đó; chính điều này khiến cho ta có thể nghiên

cứu một cách toàn diện các hiện tƣợng xã hội.

Gần với phƣơng pháp phân tích cấu trúc - chức năng là phƣơng pháp cấu trúc trong

các khoa học xã hội và nhân văn.

Phương pháp cấu trúc là một phƣơng pháp khoa học cụ thể đƣợc xuất hiện vào đầu

thế kỷ XX trong hàng loạt các khoa học xã hội nhƣ ngôn ngữ học, nhân chủng học, tâm lý

học, nghiên cứu văn học,...

Nếu phương pháp phân tích cấu trúc - chức năng có nhiệm vụ trọng tâm là vạch ra

chức năng của đối tƣợng nghiên cứu, còn cấu trúc dƣờng nhƣ bị ẩn giấu; thì ngƣợc lại,

phương pháp cấu trúc lại đặt ra nhiệm vụ trọng tâm và chủ yếu là vạch ra cấu trúc của đối

tƣợng, còn chức năng của các yếu tố đƣợc coi nhƣ tiền đề xuất phát.

- 68 -

Đặc trƣng của phƣơng pháp cấu trúc là chú ý mô tả tình trạng trƣớc mắt, không bị hạn

chế ƣơng khuôn khổ thời gian, cố định quan hệ giữa các sự kiện hoặc các yếu tố của hệ

thống. Nó đòi hỏi phải đi từ cơ cấu ban đầu của đối tƣợng tới chỗ vạch ra và mô tả cấu trúc

bên trong của đối tƣợng ấy (các thứ bậc và những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố của mỗi

cấp), nghĩa là phải phân tích các thể loại cấu trúc và có cách tiếp cận tổng thể đối với đối

tƣợng nghiên cứu, từ đó xây dựng nên mô hình lý luận về đối tƣợng đó.

Một trong những nguyên tắc chủ yếu của phƣơng pháp cấu trúc là quan niệm về tính

chỉnh thể của đối tƣợng. Nó coi cái toàn thể có vị trí hàng đầu và cho rằng, mỗi yếu tố sẽ

không có ý nghĩa gì nếu nằm ngoài vị trí của mình trong toàn bộ cấu trúc, và hơn nữa, cấu

trúc đó vẫn tiếp tục tồn tại cho dù có những thay đổi của những yếu tố cấu thành.

Phƣơng pháp cấu trúc sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cấu trúc đƣợc đề ra trong

lĩnh vực toán học, vật lý học và các khoa học tự nhiên khác, nhờ đó ở một mức độ nhất định

nó đã thống nhất đƣợc những nghiên cứu mang tính chất liên ngành, góp phần làm cho các

ngành khoa học xã hội và khoa học tự nhiên xích lại gần nhau hơn.

Sự áp dụng các nguyên tắc cơ bản của phƣơng pháp cấu trúc đã đạt đƣợc những kết

quả tích cực trong một số ngành khoa học cụ thể. Chẳng hạn, quan niệm về tính chỉnh thể của

cấu trúc ngôn ngữ đã cho phép Ph. Xốtxuya giải quyết những nhiệm vụ gắn liền với sự mô tả

những ngôn ngữ chƣa thành văn, đoán đọc những chữ viết chƣa biết đến bằng sự tái tạo bên

trong đối với hệ thống ngôn ngữ, đƣa ngôn ngữ học tiến lên một bƣớc trên con đƣờng phát

ƣiển của mình. Hoặc Jacốpxơn và Levi-Strauss đã thu đƣợc những kết quả đáng kể trong lĩnh

vực nghiên cứu nhân chủng học. Khi nghiên cứu các bộ lạc da đỏ, Levi-Strauss cho rằng cần

phải đi thẳng vào các bộ lạc ấy, không cần nghiên

- 69 -

cứu lịch sử và ảnh hƣởng của môi trƣờng. Ông đã chú ý đến hệ thống thân thuộc thông qua

việc giao lƣu phụ nữ, hệ thống kinh tế thông qua việc giao lƣu của cải và hệ thống ngôn ngữ

thông qua việc giao lƣu tin tức. Từ đó Levi-Strauss xây dựng nên các mô hình biểu tƣợng về

các mối quan hệ của họ và thu đƣợc những kết quả rõ rệt.

Tuy vậy, việc phổ biến rộng rãi phƣơng pháp cấu trúc trong các khoa học khác nhau

đã làm cho Levi-Strauss và những ngƣời khác đem tuyệt đối hóa phƣơng pháp này và nâng

cao nó lên thành ý thức hệ cấu trúc chủ nghĩa và đặt nó với tính cách là một hệ thống ƣiết học

đối lập với các hệ thống triết học khác, trong đó có triết học Mác.

Chúng ta có thể chỉ ra những sai lầm mang tính nguyên tắc của chủ nghĩa cấu trúc,

đó là:

Thứ nhất, trong mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái bộ phận, giữa hệ thống và yếu tố,

chủ nghĩa cấu trúc cho rằng cần phải ƣu tiên triệt để cái toàn thể đối với cái bộ phận, hệ thống

đối với yếu tố, mặc dù nó vẫn thừa nhận rằng không một yếu tố nào của cấu trúc lại có thể

hiểu đƣợc nếu tách nó ra ngoài vị trí của nó trong hệ thống, cũng nhƣ không thể quy cái toàn

thể thành cái bộ phận.

Thứ hai, khi nghiên cứu mối liên hệ giữa các yếu tố, chủ nghĩa cấu trúc ƣu tiên các

mối liên hệ giữa các yếu tố so với các yếu tố, tách rời mối liên hệ của yếu tố ra khỏi yếu tố,

coi liên hệ là cái có trƣớc, cái thứ nhất, cái độc lập so với những yếu tố mang những mối

liên hệ.

Thứ ba, chủ nghĩa cấu trúc đề ra nguyên tắc ƣu tiên tuyệt đối phƣơng diện đồng đại so

với phƣơng diện lịch đại, cấu trúc so với lịch sử. Quan điểm này đã có trong ngôn ngữ học

cấu trúc của Ph. xốtxuya. Ông viết: "Sự đối lập giữa hai

- 70 -

quan điểm đồng đại và lịch đại là một sự đối lập tuyệt đối, không dung thứ một sự thỏa hiệp

nào" [82, tr.147].

Xuất phát từ những nguyên tắc sai lầm ấy, chủ nghĩa cấu trúc chủ trƣơng nghiên cứu

những cấu trúc tĩnh tại, phủ nhận sự vận động, phát triển trong các sự vật, phủ nhận vai trò

tích cực của con ngƣời trong đời sống xã hội. Trong mối quan hệ giữa chủ thể nhận thức và

đối tƣợng nhận thức, nó xóa bỏ vai trò của chủ thể, đề cao cấu trúc vô thức, cho rằng con

ngƣời không nắm bắt đƣợc bản chất của sự vật. Khi giải quyết những vấn đề xã hội, nó phủ

nhận chủ nghĩa duy vật lịch sử và coi ngôn ngữ học là "khoa học hoa tiêu", tức là khoa học

dẫn đƣờng cho mọi khoa học. Những cấu trúc phức tạp của xã hội đều rập theo những nguyên

tắc, quy tắc của ngôn ngữ học cấu trúc. Nó không coi mâu thuẫn bên trong là nguồn gốc của

sự vận động, phát triển, của sự biến đổi cấu trúc của sự vật. Về thực chất, chủ nghĩa cấu trúc

đã biến thành một thứ triết học thực chứng mới, duy tâm chủ quan, siêu hình, phi lịch sử,

phản khoa học.

Với nội dung khoa học của mình, phương pháp hệ thống đã khắc phục đƣợc những

hạn chế, sai lầm của phƣơng pháp phân tích cấu trúc - chức năng, phƣơng pháp cấu trúc và

chủ nghĩa cấu trúc. Nó đáp ứng những yêu cầu của khoa học hiện đại và có vai trò quan trọng

ƣơng nhận thức khoa học hiện nay.

2.2. Vai trò phƣơng pháp hệ thống trong nhận thức khoa học

Hiện nay, sự phát triển nhƣ vũ bão của khoa học, sự phân ngành và liên ngành sâu

rộng của nó đang làm cho tri thức khoa học ngày càng trở nên phức tạp hơn, "nhiều tầng hơn"

và đa dạng hơn. Trong mỗi khoa học đều có những tầng, lớp, những mức độ vĩ mô và vi mô

khác nhau. Sự xuất hiện những bộ môn lý thuyết và ứng dụng, mà đối tƣợng nghiên cứu của

chúng thuộc về lĩnh vực

- 71 -

tiếp giáp và những vấn đề phức hợp của các khoa học càng làm gia tăng tính phức tạp trong

cấu trúc của các tri thức khoa học. Đó là quá trình phát triển của các tri thức liên ngành, đa hệ

thống nhằm xâm nhập ngày càng sâu vào bản chất của thế giới. Mặt khác, sự tiếp cận của

khoa học với các khách thể đa diện, đa cấp độ, đa hệ thống đòi hỏi khoa học phải có những

phƣơng pháp hữu hiệu để khám phá ra kết cấu phức tạp của thế giới. Trong bối cảnh ấy,

phƣơng pháp hệ thống có khả năng đáp ứng đƣợc những nhu cầu bức bách của nhận thức

khoa học hiện đại. Nó có vai trò hết sức quan trọng trong việc phân tích các khách thể hệ

thống, thiết lập nên bức tranh hệ thống về thế giới, tổng hợp tri thức khoa học, cũng nhƣ xây

dựng các khái niệm khoa học.

2.2.1. Vai trò của phương pháp hệ thống trong sự phân tích các khách thể hệ thống

Nhƣ ở phần trƣớc đã trình bày, bản chất của phân tích là ở chỗ, phân tích cái chỉnh thể

thành các yếu tố, các bộ phận; là ở việc xác định vị trí, vai trò của từng yếu tố, bộ phận trong

hệ thống. V. I. Lênin đã từng chỉ ra rằng không thể hiểu đƣợc sự vận động nếu không phân

chia tính liên tục của nó. Nếu không có sự phân tích thì không thể có sự trừu tƣợng hóa,

không thể thiết lập nên các khái niệm khoa học. Song vấn đề quan trọng và chủ yếu nhất ở

đây là chúng ta cần quan tâm đến vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong sự phân tích các

khách thể hệ thống. Vậy phƣơng pháp hệ thống đã mang lại những gì cho sự phân tích ấy.

Hiện nay khoa học quan tâm nghiên cứu rất nhiều các hệ thống, nhƣ các hệ thống vật

chất và tinh thần, tự nhiên và xã hội, vô cơ và hữu cơ, ... Chúng khác nhau không chỉ về loại

hình, mà còn về bản tính tồn tại, về mức độ tính chỉnh thể, trình độ tổ chức và cấp độ cấu

trúc. Do đó, nhiệm vụ đầu tiên của sự

- 72 -

nghiên cứu là cần phải vạch ra những quy luật vốn có ở những lớp hệ thống ấy, nhờ đó mới

hiểu đƣợc bản chất của từng hệ thống.

Trong nhận thức khoa học, đối tƣợng nghiên cứu không chỉ là các hệ thống chỉnh thể,

mà còn là một lớp hệ thống, khi bản thân hệ thống đƣợc hình thành từ hai hay nhiều hệ thống

độc lập, nhƣng lại có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, chẳng hạn, các quần thể sinh vật,

các hệ thống "tự nhiên - xã hội", "cá nhân - tập thể", "con ngƣời - máy móc", "mặt trời - trái

đất",.v.v. Đó là các phức hợp hệ thống. Ở đây, khái niệm hệ thống thuộc vào loại khác so với

hệ thống chỉnh thể, trong đó tính chỉnh thể đƣợc hiểu là sự thống nhất của các hệ thống tác

động qua lại với nhau; còn cấu trúc là cấu trúc của những tác động qua lại giữa các hệ thống

chỉnh thể. Do vậy, đặc trƣng của các phức hợp hệ thống là ở sự tác động qua lại giữa các hệ

thống chỉnh thể hợp thành, là ở tính tự tổ chức, tự điều chỉnh theo một trật tự liên hoàn chặt

chẽ, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cả phức hợp hệ thống. Để đảm bảo sự thống

nhất, tính chỉnh thể toàn vẹn của phức hợp hệ thống, thì sự tác động qua lại giữa các hệ thống

chỉnh thể phải phục tùng những quy luật và nguyên tắc tự tổ chức, tự điều chỉnh chung đó.

Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Muốn

hiểu biết các phức hợp hệ thống, không có con đƣờng nào khác, phải thông qua sự nghiên

cứu những tác động qua lại, những mối quan hệ phối hợp, phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau

của các hệ thống chỉnh thể. Đúng nhƣ R. T. Xaxennốp viết: "Khái niệm "tác động qua lại" là

phổ biến, về mặt phƣơng pháp luận nó mang lại các tri thức về thực thể với tính cách là một

hệ thống những tác động qua lại" [137, tr.15].

Nhƣ vậy, nếu trong sự nghiên cứu các hệ thống chỉnh thể, đối tƣợng trƣớc hết là cấu

trúc, là những quy luật kết hợp các yếu tố thành hệ thống, là những cơ chế bên trong và

những quy luật tổng hợp, là tính chỉnh thể của chúng; thì trong

- 73 -

sự nghiên cứu các phức hợp hệ thống, đối tƣợng nghiên cứu lại là những tác động qua lại,

những mối quan hệ giữa các hệ thống chỉnh thể tạo thành nó.

Các hệ thống chỉnh thể và các phức hợp hệ thống tuy có sự khác nhau, nhƣng chúng

đều có một cơ sở chung là chất lƣợng, hay nói theo thuật ngữ của V. p. Cudơmin, là khách

thể chất lƣợng, thống nhất (tập hợp) [xem: 8, tr.374]. V. p. Cudơmin cho rằng: "Với một ý

nghĩa nào đó thì phƣơng pháp hệ thống chính là sự phân tích các tập hợp về mặt chất lƣợng,

là một trong những bộ phận của phân tích chất lƣợng hiện đại" [8, tr.376]. Ở phƣơng diện

này, phương pháp hệ thống đóng vai trò là công cụ phân tích chất lượng của các tập hợp

mang tính hệ thống, góp phần làm sâu sắc thêm sự phân tích chất lượng đối với các khách

thể hệ thống.

Trong nhận thức khoa học, các tri thức khoa học cụ thể đều hƣớng tới làm rõ chất

lƣợng của các đối tƣợng nghiên cứu mang tính hệ thống. Trong sinh lý học có hệ tuần hoàn,

hệ thần kinh, hệ thống trao đổi chất,...; trong vật lý học, hóa học có nguyên tử, phân tử, các

hạt cơ bản,...; trong sinh vật học có giống, loài, hệ sinh thái,...; trong triết học có hệ thống các

nguyên lý, các quan điểm, có hình thái kinh tế - xã hội, .v.v. Để đáp ứng những nhu cầu phân

tích chất lƣợng, phƣơng pháp hệ thống mang lại một cơ sở nhận thức luận thống nhất nhằm

phản ánh tính chất đa dạng của các khách thể (về cấu trúc và chức năng, về hoạt động và phát

triển, về mức độ vi mô và vĩ mô, về các phức hợp hệ thống, .v.v.). Trong "Bút ký triết học",

V. I. Lênin viết: "Trƣớc con ngƣời, có màng lưới những hiện tƣợng tự nhiên. Con ngƣời bản

năng, ngƣời man rợ, không tự tách khỏi giới tự nhiên. Ngƣời có ý thức tự tách khỏi giới tự

nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tóc là của sự nhận thức thế

giới, chúng là những điểm nút của màng lƣới, giúp ta nhận thức và nắm vững đƣợc màng

lƣới" [41, tr. 102].

- 74 -

Phƣơng pháp hệ thống quan tâm đến việc xác định đối tượng nghiên cứu là các khách

thể hệ thống, các phân hệ (hệ con), các hệ thống rộng lớn hơn, hệ thống các mối liên hệ, tác

động qua lại, các phức hợp, .v.v. Nhận thức sự vật theo từng bộ phận, xem xét nó một cách

chỉnh thể, toàn vẹn là một định hƣớng quan trọng của cách nhìn hệ thống. Dƣới góc độ này,

phƣơng pháp hệ thống, theo V. P. Cudơmin, là "công cụ khách thể hóa (sự phân tách với tính

cách là đối tƣợng nghiên cứu) những hiện tượng chỉnh thể hoặc những phức hợp hệ thống"

[8, tr.378]. Nó "sẽ đƣa lại khái niệm "hệ thống" - đó là khách thể hóa "một điểm nút chất

lƣợng nào đó", coi điểm nút ấy là một chỉnh thể nội tại xác định hoặc một phức hợp" [8,

tr.378]. Ở đây, khái niệm "hệ thống" đã trở thành đối tượng trọng tâm của nhận thức, đồng

thời nó mang lại quan điểm hệ tâm trong việc phân tích các khách thể phức tạp.

Quay trở về với khái niệm hệ thống, theo đó hệ thống đƣợc hiểu là sự kết hợp những

bộ phận thành cái toàn thể, cho nên cần phải vạch ra những quy luật kết hợp các bộ phận

thành toàn thể. Đồng thời hệ thống lại là bản thân cái toàn thể, do đó cần phải làm rõ những

cơ sở nền tảng, những quy luật hệ thống. Việc tìm kiếm các hệ thống hiện thực, xác định nó

nhƣ cái toàn thể tạo ra một lôgíc và phƣơng pháp luận đặc biệt cho sự nghiên cứu các chất

lƣợng hệ thống, hình thành nên cách nhìn hệ tâm hay cách nhìn chỉnh thể đối với các sự vật,

hiện tƣợng. Cách nhìn này của phương pháp hệ thống đã cụ thể hóa khách thể cần nghiên

cứu, định hướng đúng đắn cho quá trình nhận thức, góp phần phát hiện ra những quy luật hệ

thống của hiện thực.

Chúng ta biết rằng, cái cơ bản nhất của hệ thống là chất lƣợng tổng hợp, vì vậy dấu

hiệu đầu tiên của hệ thống là hiện tượng tổng hợp. Về phƣơng diện này, phƣơng pháp hệ

thống đóng vai trò là công cụ để nghiên cứu các thuộc tính

- 75 -

tổng hợp, các cơ chế và các quy luật tổng hợp của sự hình thành các thuộc tính tổng hợp. Nó

trang bị cho khoa học cách nhìn tổng thể về đối tƣợng.

Khái niệm tổng hợp phản ánh quá trình và cơ chế liên kết các bộ phận tạo thành cái

toàn thể hoặc phức hợp, mà kết quả là cái toàn thể lớn hơn tổng số các bộ phận cấu thành. Sở

dĩ có sự gia tăng về mặt chất lƣợng của cái toàn thể so với tổng số các bộ phận của nó, bởi vì

quá trình hình thành, hoạt động và phát triển của hệ thống đều có một hiệu ứng tổng hợp nào

đó, đều do những quy luật tổng hợp chi phối. Những quy luật tổng hợp có ý nghĩa quan trọng

trong nhận thức khoa học, nhƣ nghiên cứu quá trình tổng hợp gen, các phản ứng hóa hợp,... ;

đặc biệt có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với các hệ thống xã hội. Chẳng hạn, khi phân tích hợp

tác xã với tính cách là một hệ thống, C. Mác chỉ ra sức mạnh tổng hợp của nó là ở sự liên kết

giữa các yếu tố cấu thành, ở chất lƣợng tổng hợp. Ông viết: "Chƣa nói đến một sức mới, xuất

hiện khi nhiều sức hợp nhất lại thành một sức chung, trong phần lớn các công việc sản xuất,

ngay sự tiếp xúc xã hội cũng đã đẻ ra thi đua, cũng kích thích nguyên khí (ani - mal spirít)

làm tăng năng suất cá nhân của từng ngƣời riêng rẽ..." [55, tr.474].

Sự phân tích các thuộc tính tổng hợp xuyên suốt vào tất cả tiến trình nhận thức, bắt

đầu từ quan niệm về tính chỉnh thể cho đến việc phát hiện ra các quy luật tổng hợp và các

chất lƣợng tổng hợp. Điều này cho phép nói về sự nghiên cứu hiện tượng tổng hợp là đặc

điểm cơ bản nhất của phương pháp hệ thống.

Trong phƣơng pháp hệ thống, tính chỉnh thể đƣợc coi là khái niệm cơ sở, nền tảng,

bởi vì nó là dấu hiệu tập trung rõ nét nhất của hệ thống. Để hiểu đƣợc tính chỉnh thể, cần phải

nghiên cứu các quy luật tổng hợp, phát hiện ra chất lƣợng tổng hợp của hệ thống. Tuy nhiên,

trong tất cả các ngành khoa học, ngƣời ta đều nghiên cứu các quy luật liên kết các bộ phận

tạo thành cái toàn thể, các quy luật tồn tại và phát triển của bản thân cái toàn thể, vạch ra

những cơ chế cụ thể của sự

- 76 -

tổng hợp. Đối với phƣơng pháp hệ thống, nó chỉ mang lại những đặc điểm chung nhất của sự

tổng hợp, liên quan trực tiếp đến nguyên tắc phƣơng pháp luận trong việc phân tích các chất

lƣợng của hệ thống. Đó là những vấn đề về tính độc lập và sự thống nhất tổng hợp của các

yếu tố tạo thành hệ thống, cũng nhƣ tính chất hai mặt của tính quy định về chất của chúng

trong phạm vi hệ thống.

Tính độc lập của các yếu tố trƣớc hết có ý nghĩa về mặt nhận thức luận, bởi vì mỗi

yếu tố trong thành phần của hệ thống đều đƣợc coi là một hệ thống ở một cấp độ khác. Song

quan trọng hơn là vấn đề mức độ độc lập về chất của các yếu tố, bởi vì nó có ý nghĩa thiết

thực trong việc nhận thức cơ chế của các hình thức tổng hợp. Các yếu tố khi liên kết với nhau

để hình thành nên hệ thống và tạo ra chất lƣợng tổng hợp vẫn duy trì những chất lƣợng riêng

của mình. Sự khác nhau giữa các hệ thống trƣớc hết do sự khác nhau giữa các chất lƣợng yếu

tố quy định. Những điều này cho ta thấy, trong các hệ thống luôn luôn tồn tại chất lƣợng tổng

hợp và những chất lƣợng yếu tố, do vậy cần phải nhận thức quy luật tổng hợp các yếu tố,

phân biệt rõ ràng mức độ chất lƣợng tổng hợp và mức độ chất lƣợng yếu tố. Phương pháp hệ

thống cung cấp cho nhận thức khoa học một lăng kính đặc biệt để phát hiện ra những quy

luật tổng hợp và các chất lượng tổng hợp của hệ thống. Điều này đã đƣợc C. Mác thực hiện

một cách sâu sắc và triệt để. Ông không chỉ nghiên cứu bản chất, cơ chế và những quy luật

tổng hợp của các hệ thống xã hội, mà còn vạch ra những nguyên tắc phƣơng pháp luận để

nhận thức chúng thông qua hiệu ứng tổng hợp về tính chất hai mặt của tính quy định về chất

của các hiện tƣợng đƣợc tổng hợp thành một chỉnh thể. Đó là học thuyết của C. Mác về lao

động (lao động cụ thể và lao động trừu tƣợng), về hàng hóa (giá trị sử dụng và giá trị trao đổi

của hàng hóa), về những chất lƣợng tự nhiên và những chất lƣợng xã hội của các vật phẩm -

hàng hóa .v.v.

- 77 -

Nhƣ vậy là, khi nhận thức tính chỉnh thể, chúng ta phát hiện ra thuộc tính tổng hợp;

còn khi phân tích các thuộc tính tổng hợp, chúng ta khám phá ra những cơ chế, những quy

luật tổng hợp vốn có của hệ thống. Những điều đó chỉ có thể đạt đƣợc nhờ việc sử dụng

những nguyên tắc của phƣơng pháp hệ thống. Nói khác đi, phƣơng pháp hệ thống là công cụ

để nghiên cứu các hiện tƣợng tổng hợp nói riêng, để phân tích chất lƣợng nói chung, góp

phần làm sâu sắc thêm sự phân tích chất lƣợng và thiết lập nên bức tranh hệ thống về thế giới.

2.2.2. Phương pháp hệ thống và bức tranh hệ thống về thế giới

Hiện nay, trong các khoa học đang diễn ra quá trình chuyên môn hóa cao độ, trong đó

các tri thức khoa học có những đặc trƣng riêng của mình. Chúng phản ánh những đặc trƣng

khác nhau trong các hình thức vận động của vật chất, trong các hiện tƣợng vi mô và vĩ mô,

trong các cấu trúc rất đa dạng và phức tạp. Điều này chứng tỏ rằng, nhận thức của con ngƣời

càng sâu sắc và mở rộng bao nhiêu thì tính chất sống động của thế giới ngày càng đƣợc biểu

hiện phong phú bấy nhiêu. Chính sự phân hóa của các tri thức khoa học là cơ sở cho bức

tranh hệ thống về thế giới.

Theo quan điểm hệ thống, ƣơng nhận thức khoa học có hai phƣơng diện tiêu biểu: một

là, nghiên cứu sự vật với tính cách là một hệ thống; và hai là, nghiên cứu tính hệ thống của

bản thân thế giới. Hay nói cách khác, đó là vai trò của các tri thức đơn hệ thống và đa hệ

thống trong nhận thức khoa học. Hai phƣơng diện đặc trƣng đó luôn luôn bổ sung cho nhau,

hòa quyện vào nhau trong cách nhìn hệ thống, nhằm thiết lập nên bức tranh hệ thống về thế

giới.

Tri thức đơn hệ thống hƣớng tới việc nhận thức sự vật nhƣ một hệ thống có nhiều mặt

khác nhau, do đó có thể tiếp cận nó từ những mặt khác nhau. Theo truyền thống, để nhận

thức sự vật cần phải đi từ hiện tƣợng đến bản chất, thì tri thức đơn hệ thống bắt đầu nghiên

cứu từ tính chỉnh thể và cơ chế liên kết các

- 78 -

yếu tố trong hệ thống cho đến việc khám phá ra các quy luật cấu trúc và các quy luật hệ thống

khác, từ những mặt khác nhau của bản thân hệ thống.

Khác với tri thức đơn hệ thống, tri thức đa hệ thống hƣớng tới việc khám phá ra tính

hệ thống của bản thân thế giới, nghĩa là nghiên cứu hiện thực nhƣ một thực thể đa hệ thống,

đa cấp độ, trong đó mỗi sự vật đƣợc coi vừa là một hệ thống, vừa là một yếu tố với những

cấp độ hệ thống khác nhau. Đây là tri thức đa hệ thống với nhiều thang bậc, nhiều cấp độ. Nó

đã mở rộng sự hiểu biết của con ngƣời về sự vật trên cơ sở nghiên cứu những kết cấu vi mô

và vĩ mô của chúng, cũng nhƣ những tác động từ bên ngoài. Tính đa hệ thống, đa cấp độ là

một mặt trong lý luận về tính hệ thống, nó ngày càng đƣợc sử dụng rộng rãi và đề cao trong

các khoa học hiện đại.

Thông qua các tri thức đơn hệ thống và đa hệ thống, khoa học có đƣợc một cách nhìn

đa diện, đa cấp độ (thứ bậc), nhờ đó vạch ra đƣợc các quy luật nội tại diễn ra trong từng hệ

thống và trong các cấp độ hệ thống.

Lái cắt đầu tiên của bức tranh hệ thống về thế giới dựa trên tính chất đa diện của các

sự vật, hiện tƣợng. Đó là các tri thức đơn hệ thống, phản ánh những mặt khác nhau của hiện

thực. Nó đặc trƣng cho sự phân hóa từng mặt của các ƣi thức khoa học. Không phải bất kỳ sự

phân hóa tri thức nào cũng đều phản ánh tính đa diện của hệ thống, mà chỉ những tri thức

đƣợc phân hóa có sự bổ sung tất yếu cho nhau. Chẳng hạn, các tri thức về trạng thái tĩnh và

trạng thái động, về cấu trúc và chức năng, về đứng im tƣơng đối và vận động tuyệt đối, về ổn

định và phát triển,... biểu hiện là các mặt, các trạng thái và các giai đoạn tồn tại, phát triển của

các sự vật, hiện tƣợng. Trong bức tranh hệ thống về thế giới, những tri thức đó là những mặt

khác nhau của tri thức khoa học tổng hợp, hay nói cách khác, là các yếu tố của hệ thống các

tri thức.

- 79 -

Nhận thức khoa học bao gồm các thể loại phân tích khác nhau về tính đa diện của

hiện thực, chẳng hạn, phân tích các hình thức kết cấu (cấu trúc, hệ thống), phân tích các mối

liên hệ và quan hệ (các mối liên hệ, sự phụ thuộc, sự tác động qua lại), phân tích các hình

thức biểu hiện nhƣ một quá trình (sự hoạt động và phát triển). Những yêu cầu của nguyên tắc

đa diện trong phƣơng pháp hệ thống đã vạch ra những loại quy luật khác nhau, không nhập

chúng vào một cục, mà cần phải xác lập những mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa

các mặt của hiện thực, nhằm tạo ra các tri thức tổng hợp về bản thân hiện thực.

Lát cắt thứ hai của bức tranh hệ thống về thế giới dựa trên các cấp độ tồn tại khác

nhau của các sự vật, hiện tƣợng. Đó là các tri thức đa hệ thống, phản ánh những cấp độ khác

nhau của hiện thực. Nó trở thành chuẩn mực nghiên cứu và là nguyên tắc phƣơng pháp luận

trong nhận thức khoa học. Cụ thể là, khi nghiên cứu đối tƣợng phải tính đến các cấp độ khác

nhau của chúng: thứ nhất, tách riêng đối tƣợng ra nhƣ cái tự nó; thứ hai, tách đối tƣợng ra

nhƣ một yếu tố của một hệ thống rộng hơn; thứ ba, xét đối tƣợng trong mối quan hệ với

phạm vi vi mô của nó; và thứ tư, xem xét đối tƣợng trong mối quan hệ với những tƣơng tác

bên ngoài. Trong mỗi cấp độ đều chứa đựng những mối liên hệ, quan hệ và những quy luật

đặc thù đặc trƣng cho bản chất của từng cấp độ. Hơn nữa, bản thân các sự vật, hiện tƣợng tồn

tại, hoạt động và phát triển đồng thời trong tất cả các cấp độ, vì vậy, nếu không xem xét đầy

đủ các cấp độ, thì tri thức thu nhận đƣợc chƣa đƣợc coi là đầy đủ và toàn diện. Chẳng hạn,

trong nhận thức thế giới vi mô, để khám phá ra tính chất phức tạp của các hạt cơ bản, mà mỗi

hạt cơ bản thể hiện với tính cách là một hệ thống, thì việc xem xét những tác động qua lại bên

trong, cũng nhƣ những tƣơng tác bên ngoài giữa các hạt với nhau, đóng vai ƣò cực kỳ quan

trọng. Nó cho phép giải thích sự chuyển hóa lẫn nhau của các hạt và mở ra con đƣờng đi sâu

vào bản chất và cấu trúc của thế giới vật chất.

- 80 -

Viện sĩ Nguyễn Duy Quý viết: "... tất cả các hạt vi mô đều không ngừng tƣơng tác với nhau

và với môi trƣờng. Những tƣơng tác này ở những cấp độ khác nhau làm nảy sinh những biến

đổi phức tạp trong bản thân các hạt đó" [70, tr.66]. Mặt khác, trong nhận thức khoa học, sự

hiểu biết về hiện thực ở cấp độ này sẽ là "chìa khóa" để hiểu biết nó ở một cấp độ khác, một

cách vô tận, từ đó càng thấy rõ bức tranh hệ thống đa cấp độ, vô cùng tận, hết sức đa dạng và

phong phú của thế giới vật chất. Cũng về vấn đề này, Viện sĩ Nguyễn Duy Quý khẳng định:

"Bằng việc nhận thức thế giới vi mô, con ngƣời chẳng những có thể hiểu đƣợc những quy

luật, những tính chất đặc trƣng cho thế giới này, mà hơn thế nữa, thông qua khám phá thế

giới vi mô, con ngƣời còn có thể suy ra và hiểu đƣợc nhiều quá trình cũng nhƣ nhiều hiện

tƣợng xảy ra trong thế giới vĩ mô và siêu vĩ mô" [70, tr.15]. Từ đó, ông viết tiếp: "Những

thành tựu xuất sắc của vật lý học vi mô... chứng tỏ tính vô cùng tận của đa dạng cơ cấu các

thuộc tính của các khách thể vi mô và sự thống nhất vật chất của thế giới" [70, tr.69].

Sự phân tích tính đa diện, đa hệ thống, đa cấp độ của hiện thực là cực kỳ quan trọng

trong nhận thức khoa học. Nhờ có phƣơng pháp hệ thống, khoa học phản ánh một cách chính

xác hơn, toàn diện hơn tính đặc thù của mỗi cấp độ, nắm bắt đƣợc cấu trúc phức tạp của thế

giới vật chất. Trƣớc mắt chúng ta, thế giới vật chất biểu hiện là hệ thống của các hệ thống với

những mặt, những cấp độ khác nhau. Các sự vật, hiện tƣợng từ vi mô đến vĩ mô, từ dạng hạt

đến dạng trƣờng, từ vô cơ đến hữu cơ, từ giới tự nhiên cho đến đời sống xã hội và tƣ duy con

ngƣời đều biểu hiện là các hệ thống, đều mang tính hệ thống. Điều này càng cho ta thấy tính

thống nhất vật chất của thế giới, tính thống nhất trong tính đa dạng, muôn hình, muôn vẻ của

nó.

- 81 -

Có thể nói, việc nghiên cứu tính đa diện, đa hệ thống, đa cấp độ của hiện thực là một

trong những vấn đề quan trọng nhất và tất yếu đối với nghiên cứu hệ thống. Nhờ có phƣơng

pháp hệ thống, nhận thức khoa học đã góp phần làm sâu sắc thêm, làm chuyên môn hóa và hệ

thống hóa thêm tri thức của chúng ta về hiện thực và đồng thời cũng chuẩn bị những điều

kiện để thực hiện quá trình tổng hợp tri thức.

2.2.3 Vai trò của phương pháp hệ thống trong sự tổng hợp tri thức

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, sự tiến bộ nhanh chóng của các tri thức khoa

học, tính chất sâu sắc, chuyên môn hóa và phân hóa của chúng đã nảy sinh nhu cầu hợp nhất,

tổng hợp các tri thức khoa học. Sự tổng hợp tri thức trở thành điều kiện tối quan trọng trong

sự phát triển tiếp theo, cũng nhƣ trong việc áp dụng các tri thức khoa học một cách có hiệu

quả nhất. Đồng thời, tổng hợp tri thức cũng trở thành một tiền đề tất yếu cho tính chân lý của

nhận thức khoa học, ít ra với ý nghĩa là sự nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc và toàn diện

các sự vật, hiện tƣợng. Phƣơng pháp hệ thống rất phù hợp, có hiệu quả đối với quá trình đó

và nó đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng pháp tổng hợp, nói đúng hơn nhƣ một trong những công

cụ có hiệu quả để tổng hợp tri thức khoa học. Vấn đề tổng hợp tri thức đã trở thành một trong

những nội dung cơ bản của phương pháp hệ thống trong nhận thức khoa học.

Đƣơng nhiên, những nhiệm vụ tổng hợp tri thức rất khác nhau và do đó việc áp dụng

phƣơng pháp hệ thống cũng rất khác nhau. Song, ở đây, chúng ta chỉ xem xét những phƣơng

hƣớng áp dụng chung nhất phƣơng pháp hệ thống trong sự tổng hợp các tri thức khoa học.

Nói đến tổng hợp tri thức thì có rất nhiều kiểu và nhiều phƣơng thức tổng hợp. Theo V. p.

Cudơmin, trong nhận thức khoa học đã hình thành những phƣơng hƣớng tổng hợp chủ yếu

sau đây: thứ nhất, sự tổng hợp tập hợp, khắc phục cách nhìn từng mặt hẹp hòi do sự chuyên

môn hóa

- 82 -

tri thức về mặt đối tƣợng hoặc về mặt phƣơng pháp luận gây ra; thứ hai, sự tổng hợp làm mở

rộng đối tƣợng nhận thức do việc nghiên cứu ngày càng sâu sắc hơn những cơ sở của tồn tại

và do việc nghiên cứu những tƣơng tác bên ngoài ngày càng mang tính hệ thống hơn [xem: 8,

tr.403-404]. Ở đây, thực chất là quá trình tổng hợp các tri thức đơn hệ thống và đa hệ thống.

Trong quá trình nhận thức, tất cả những quá trình tổng hợp đƣợc thực hiện ƣơng sự thống

nhất và tác động qua lại lẫn nhau.

Thứ nhất, việc tổng hợp các tri thức đơn hệ thống (từng mặt) gắn liền với quan điểm

phức hợp - một cách nhìn hết sức cần thiết trong nhận thức khoa học cũng nhƣ hoạt động

thực tiễn. Một điều rõ ràng rằng, bất kỳ một sự vật, hiện tƣợng nào cũng là một thực thể đa

diện, đa chiều, có thể tiếp cận đến nó từ những mặt, những mối quan hệ khác nhau. Nếu xem

xét sự vật, hiện tƣợng cùng với những điều kiện ra đời và quyết định sự tồn tại của nó thì bản

thân tính đa diện của nó cũng sẽ đƣợc tăng lên. Chẳng hạn, khi xem xét một phƣơng thức sản

xuất, chúng ta có thể tiếp cận nó từ những góc độ kinh tế - kỹ thuật và kinh tế -xã hội, nhƣng

để hiểu đƣợc nội dung và bản chất của phƣơng thức sản xuất thì phải dùng đến công cụ tổng

hợp các mặt ấy; hoặc khi nghiên cứu con ngƣời, chúng ta có thể tiếp cận từ phƣơng diện sinh

vật và phƣơng diện xã hội, nhƣng bản chất con ngƣời chỉ bộc lộ ra khi có công cụ tổng hợp

tri thức về các phƣơng diện cụ thể;... Hơn nữa, chính vì cái toàn thể không phải là tổng số

giản đơn của các bộ phận cấu thành, nên tổng hợp tri thức cũng không phải là quá trình tổng

cộng cơ giới các tri thức từng mặt riêng lẻ. Kết quả của sự tổng hợp tri thức sẽ mang lại một

dạng tri thức tổng hợp mới về chất so với các tri thức tòng mặt do quá trình phân tích mang

lại.

Phƣơng pháp hệ thống không chỉ đòi hỏi kết hợp một cách hữu cơ tất cả các tri thức

từng mặt, mà còn liên kết chúng lại với nhau thành một tổng thể

- 83 -

mang tính hệ thống chặt chẽ. Ví dụ, trong chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội, Đảng ta

đòi hỏi phải áp dụng phƣơng pháp phức hợp đối với việc hoạch định hệ thống chính sách,

nhờ đó có đƣợc sự phát triển đồng bộ và toàn diện. Cụ thể là: "Tăng trƣởng kinh tế phải gắn

liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bƣớc và trong suốt quá tình phát triển.

Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tƣ liệu sản xuất lẫn ở khâu phân

phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi ngƣời đều có cơ hội phát triển và sử dụng

tốt năng lực của mình" [16, tr.l 13].Vì vậy, phương pháp phức hợp đóng vai trò là nguyên tắc

tổ chức có tính hệ thống trong hoạt động của con người.

Ngày nay tổng hợp tri thức đơn hệ thống (từng mặt) có vai trò vô cùng quan trọng đối

với sự phát triển của các khoa học xã hội và nhân văn. Khi tiếp cận đến việc phân tích các

quá trình kinh tế - xã hội, xuất hiện ngày càng nhiều yêu cầu phải khắc phục tình trạng

chuyên môn hẹp từng mặt và do đó đòi hỏi phải tiến hành tổng hợp tất cả các thể loại tri thức

về các lĩnh vực khác nhau và đồng thời phải nghiên cứu, bổ sung cho nhau về những tiêu

chuẩn và những đánh giá trong các khoa học.

Những nhiệm vụ tổng hợp các tri thức đơn hệ thống (từng mặt) cũng rất đa dạng, nó

gắn liền với chức năng tổ chức hệ thống dựa trên những quy luật phức hợp của hệ thống. Tuy

nhiên, tính chất phát triển nhiều hay ít của một mặt nào đó thƣờng bị những nhu cầu giải

quyết những nhiệm vụ khác nhau chế ƣớc, nhƣng điều đó không làm thay đổi tính chỉnh thể

riêng của chúng. Vì vậy tƣơng ứng với những nhiệm vụ khác nhau thì những công cụ của

phƣơng pháp hệ thống cũng khác nhau. ở đây, phương pháp phức hợp thể hiện là một trong

những biến dạng của phƣơng pháp hệ thống, có ý nghĩa không chỉ ƣơng nhận thức khoa học,

mà đặc biệt trong hoạt động thực tiễn.

- 84 -

Thứ hai, đối với sự tổng hợp các tri thức đa hệ thống, nghĩa là tổng hợp sự hiểu biết

về nhiều cấp độ của hiện thực. Đây là một trong những xu hƣớng chủ yếu của lý thuyết về

chân lý trong giai đoạn hiện nay. Bản thân chân lý về đối tƣợng đặt ra trƣớc mắt chúng ta một

sự phối hợp rất nhiều cấp độ và nghiên cứu trong các hệ thống khác nhau. Chân lý ấy, theo

cách diễn đạt của V. I. Lênin "đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tƣợng đến bản chất, từ bản chất

cấp một, nếu có thể nói nhƣ vậy, đến bản chất cấp hai, .V.V., cứ nhƣ thế mãi" [41, tr.268].

Sự tổng hợp các tri thức đa hệ thống, đa cấp độ diễn ra rất phức tạp, trải qua những

nấc thang khác nhau, mỗi nấc thang đánh dấu một bƣớc phát ƣiển mới trong quá trình nhận

thức. Do đó, con ngƣời càng tiến sâu vào bản chất và các quy luật của các khách thể hệ

thống.

Trong quá trình phát triển của nhận thức, bản thân quan niệm về chân lý cũng đƣợc

thay đổi. Trƣớc đây khi khoa học chƣa phát triển, chân lý đã bị đồng nhất với tri thức trực

tiếp về bản thân đối tƣợng; lúc đó quan điểm "vật tâm" mang tính thống trị. Sự phát minh ra

những quy luật cơ bản trong sự phát triển của tự nhiên và xã hội, đặc biệt sự ra đời của thuyết

tiến hóa của Đácuyn và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác chứng tỏ quan điểm

"vật tâm" đã trở thành một chƣớng ngại cản trở quá trình nhận thức. Quan điểm "hệ tâm" ra

đời hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển của các tri thức khoa học. Cách tiếp cận hệ

thống đã trở thành một thành phần tất yếu của nhận thức chân lý, còn bản thân đối tƣợng

nhận thức ngày càng trở nên phức tạp và đƣợc mở rộng. Chẳng hạn, trong tác phẩm Tư bản,

đằng sau giá trị sử dụng của hàng hóa biểu hiện với tƣ cách là "bản chất cấp một", C. Mác đã

phát hiện ra "bản chất cấp hai" của nó là giá trị trao đổi, từ đó ông đã vạch ra quy luật và bản

chất của nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa. Hay Ph. Ăngghen đã tiên đoán rằng: "Mỗi lần có một

phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử - tự

- 85 -

nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó" [54, tr.409]. Điều

này cho ta thấy, những quan niệm về tính chân lý ngày càng trở nên phong phú hơn bằng

những cách tiếp cận ngày càng mới mẻ hơn. Hiện nay nhiều phát minh mới trong lĩnh vực thế

giới vi mô, có thể đƣợc coi là "bản chất cấp ba" đối với một số lĩnh vực tri thức khoa học.

Cùng với sự tiến bộ chung của tri thức khoa học và sự phát triển của các quan niệm hệ

thống về thế giới, thì cách tiếp cận về hiện thực cũng ngày càng trở nên đa dạng hơn. Việc

tổng hợp tri thức về các mặt, các cấp độ khác nhau là nhiệm vụ bức bách của nhận thức khoa

học hiện đại. ở đây, phƣơng pháp hệ thống có vai trò quan trọng trong việc xây dựng mô hình

tổng hợp nhƣ một cơ cấu thứ bậc, cấu trúc đa tầng, đa chất lƣợng theo những lát cắt khác

nhau. Ví dụ: Sự sống là đối tƣợng của sinh vật học có thể đƣợc mô tả ở cấp độ phân tử, tế

bào, giống, loài, sự tƣơng tác với môi trƣờng,... Nhƣng ở một cấp độ nhất định không thể

vạch ra đƣợc bản chất của sự sống với tất cả tính đầy đủ, toàn vẹn của nó. Muốn có một mô

hình tổng hợp về sự sống, từ đó có thể phản ánh những đặc trƣng cơ bản nhất trong tất cả các

cấp độ tổ chức, thì cần phải tính đến các mặt sinh học, tâm lý, xã hội, thậm chí các mặt kỹ

thuật điều khiển để nghiên cứu nó. Phƣơng pháp hệ thống đã tính đến tất cả những cấp độ cấu

trúc khác nhau, những mặt khác nhau, những chất lƣợng khác nhau trong một thể thống nhất,

nghĩa là nó nhìn nhận hệ thống theo những lát cắt khác nhau. Do đó, mỗi đối tƣợng nghiên

cứu có thể là đối tƣợng của nhiều khoa học, mỗi khoa học là một lát cắt lý luận khác nhau và

thể hiện nhƣ một hệ thống. Thực chất ở đây cũng là cách nhìn sự vật một cách toàn diện.

Những cách tiếp cận trên ngày càng trở nên thông dụng giúp con ngƣời nắm bắt đƣợc

bản chất của hiện thực. Phƣơng pháp hệ thống bao hàm những cách tiếp cận ấy, nó đảm bảo

tổng hợp hệ thống một cách trọn vẹn; giúp con

- 86 -

ngƣời ngày càng thu nhận các tri thức sâu sắc hơn, phong phú hơn. Từ đó, chúng ta có một

quan niệm đúng đắn hơn về các tri thức khoa học, đặc biệt là tính hệ thống của các khái niệm

khoa học.

2.3. Vận dụng phƣơng pháp hệ thống trong việc phân tích tính hệ thống

của các khái niệm khoa

Để xây dựng một lý thuyết khoa học thì việc xác định các khái niệm là một vấn đề hết

sức quan trọng và cần thiết. Song, lý thuyết khoa học với tính cách là một hệ thống các tri

thức, và suy cho cùng, là một hệ thống các khái niệm, cho nên bản thân các khái niệm của nó

cũng phải mang tính hệ thống. Do đó sự hiểu biết về tính hệ thống của các khái niệm khoa

học là một trong những cơ sở lý luận trực tiếp cho sự hình thành một lý thuyết khoa học. Ở

phƣơng diện này, phƣơng pháp hệ thống mang lại một quan niệm thật sự đứng đắn về tính hệ

thông của các khái niệm khoa học.

Tính hệ thống của khái niệm đã đƣợc hình thành ngay từ thời cổ đại và đƣợc tiếp tục

phát triển trong quá trình phát triển của nhận thức. Chẳng hạn, các nhà triết học Hy Lạp cổ

đại đã có cách nhìn chỉnh thể về thế giới, nhƣng còn mang tính mộc mạc, ngây thơ. Nhận xét

về cách nhìn ấy, Ph. Ăngghen viết: "Chính vì ngƣời Hy Lạp chƣa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân

tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về

mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tƣợng tự nhiên chƣa

đƣợc chứng minh về chi tiết; đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp"

[53, tr.491]. Sau đó ở thời kỳ cận đại dƣới sự thống trị của phƣơng pháp tƣ duy siêu hình, quá

ƣình nhận thức đã ƣu tiên tri thức về các yếu tố, các chi tiết của hệ thống tồn tại khách quan.

Ph.Ăngghen đánh giá: "Nếu về chi tiết, chủ nghĩa siêu hình là đúng hơn so với những ngƣời

Hy Lạp, thì về toàn thể

- 87 -

những ngƣời Hy Lạp lại đúng hơn so với chủ nghĩa siêu hình" [53, tr.491]. Lần đầu tiên trong

lịch sử triết học, vấn đề tính hệ thống của khái niệm đƣợc coi nhƣ một trong những vấn đề

quan trọng của triết học đƣợc chú ý bởi Hêghen và đƣợc giải thích bằng phƣơng pháp tƣ duy

biện chứng. Ông đã nhìn thấy thuộc tính tổng hợp, tính chất kế thừa ƣơng các khái niệm và

khẳng định "khái niệm là cái cụ thể và phong phú nhất, bởi vì nó là cơ sở và tính tổng hợp

của các định nghĩa trƣớc đó..." [108, tr.51]. Song, Hêghen không nhìn thấy nguồn gốc của

tính hệ thống của khái niệm, ở các khách thể đƣợc phản ánh, mà thấy nó ở ý niệm tuyệt đối,

tinh thần thế giới. Theo ông, tính hệ thống của khái niệm chỉ là biểu hiện cụ thể của ý niệm

tuyệt đối, là nấc thang trong sự phát triển của nó. Hêghen đã đồng nhất khái niệm với khách

thể, coi khái niệm nhƣ "một tổng thể cụ thể đồng nhất với tính khách quan trực tiếp" [108,

tr.213]. Hơn nữa, khái niệm, ý niệm, đối với Hêghen , là cái sáng tạo ra các sự vật, hiện

tƣợng của thực tại khách quan.

Khi phê phán quan điểm duy tâm của Hêghen, các nhà kinh điển của triết học Mác -

Lênin đã chỉ ra rằng, khái niệm chỉ là sự phản ánh các tổ chức hệ thống khách quan vào trong

ý thức con ngƣời. "Biện chứng của sự vật, - V. I. Lênin viết, -sản sinh ra biện chứng của ý

niệm, chứ không phải ngƣợc lại" [41, tr.178].

C. Mác là ngƣời đầu tiên khám phá ra tính hệ thống của khái niệm khoa học với tính

cách là sự phản ánh tính hệ thống của các sự vật, hiện tƣợng của thế giới khách quan vào

trong bộ não con ngƣời. c. Mác coi "sản xuất" nói chung là một sự trừu tƣợng, nhƣng là sự

trừu tƣợng hợp lý, bởi vì trên thực tế nó đã tách ra cái chung, cái bản chất, cái tất yếu trong

hoạt động vật chất của con ngƣời. Nhƣng khái niệm "sản xuất" cũng nhƣ bất kỳ một khái

niệm khoa học nào khác không thể là cái gì đó không bị phân chia, bởi vì nó là sự phản ánh

các yếu tố

- 88 -

liên hệ mật thiết với nhau của khách thể hệ thống. Bản thân khái niệm "sản xuất" cũng là một

chỉnh thể thống nhất và "bị phân chia ra rất nhiều lần và đƣợc biểu hiện ra trong những tính

quy định khác nhau" [51, tr.856]. Có một số tính quy định đặc trƣng cho sản xuất nói chung,

liên quan đến tất cả mọi thời đại, cái khác lại chỉ chung cho một vài thời đại, còn cái khác

nữa thì chỉ đặc trƣng cho một thời đại. Nếu không có những tính quy định ấy thì không thể có

bất kỳ một nền sản xuất nào . Kết quả là, sản xuất bao giờ cũng có một "cơ thể xã hội" nhất

định. [xem: 51, tr.857-858].

Khái niệm khoa học, dƣới góc độ của lôgíc biện chứng, không phải là tổng số cơ giới

giản đơn các dấu hiệu, các thuộc tính, mà là một hệ thống chỉnh thể những tính quy định có

mối liên hệ mật thiết với nhau. Tính thống nhất, tính chỉnh thể của khái niệm khoa học phản

ánh những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành nên khách thể hệ

thống. Đồng thời, khái niệm khoa học lại đóng vai trò là yếu tố của hệ thống các khái niệm

(lý thuyết khoa học). Bên ngoài tính hệ thống, bên ngoài hệ thống các khái niệm thì bản thân

các khái niệm sẽ trở thành một sự trừu tƣợng trống rỗng. Do vậy, để xây dựng một khái niệm

khoa học mà chỉ chú ý phân chia và liệt kê các yếu tố thì chƣa đủ, quan trọng hơn là phải

vạch ra tính quy luật nội tại, các mối liên hệ, quan hệ lẫn nhau giữa chúng, làm sáng tỏ cơ chế

tác động qua lại của các yếu tố và tìm kiếm một lôgíc phù hợp với nó. Tính toàn diện, tính

thống nhất của những tính quy định đa dạng là đặc trƣng tối cần thiết của các khái niệm khoa

học. C. Mác viết: "Cái cụ thể sở dĩ là cụ thể vì nó là sự tổng hợp của nhiều tính quy định, do

đó, nó là sự thống nhất của cái đa dạng" [51, tr.877].

Chỉ có thể là một hệ thống chỉnh thể những tính quy định đa dạng thì các khái niệm

khoa học mới có khả năng phản ánh phù hợp các khách thể hệ thống,

- 89 -

nắm bắt bản chất và các quy luật vận động, phát triển của nó. Những tính quy định riêng lẻ

chỉ phản ánh những mặt, những thuộc tính riêng lẻ của hệ thống và chúng đóng vai trò là các

yếu tố, các bộ phận của khái niệm khoa học; còn bản thân khái niệm khoa học phải là sự tổng

hợp những tính quy định khác nhau. Mặt khác, với tính cách là một yếu tố của lý thuyết khoa

học, khái niệm nằm trong mối liên hệ mật thiết với các khái niệm khác và biểu hiện là một

mặt, một khía cạnh của lý thuyết ấy.

Khái niệm khoa học với tính cách là một sự trừu tƣợng hóa về mặt lý luận được rút ra

từ cái cụ thể cảm tính, từ kinh nghiệm. Nhƣng nó không phải là tổng số giản đơn những kinh

nghiệm, những cái cụ thể cảm tính, mà là sự khái quát, sự tổng hợp những cái cụ thể cảm

tính, những kinh nghiệm nhằm tách ra cái chung, cái bản chất, cái tất yếu trong các sự vật,

hiện tƣợng.

Cần nhấn mạnh rằng, khái niệm khoa học không chỉ bao gồm tổng thể các kinh

nghiệm của con ngƣời đã đƣợc tích lũy trong quá khứ và hiện tại, mà kể cả những cái thuộc

về tƣơng lai. Chẳng hạn, khái niệm "hình thái kinh tế - xã hội" với tính cách là một hệ thống

không chỉ chứa đựng những hình thái đã và đang tồn tại, mà kể cả hình thái cộng sản chủ

nghĩa ở giai đoạn cao mà loài ngƣời sẽ đạt tới. Trong lịch sử khoa học và thực tiễn có không

ít các sự kiện đƣợc phát hiện sớm hơn sự quan sát ra bản thân cái chỉnh thể trong hiện thực

khách quan. Chẳng hạn, khi thiết lập nên bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, Menđêlêép

đã tiên đoán hàng loạt các nguyên tố mà mãi sau này khoa học mới phát hiện ra. Chính tính

chất phức tạp và mâu thuẫn của hệ thống tồn tại khách quan với trình độ tổ chức khá cao giúp

ta xây dựng nên khái niệm khoa học phản ánh một tổ chức hệ thống cao khác, trƣớc khi nó

xuất hiện trong thực tế. Không phải ngẫu nhiên khi nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội tƣ

bản chủ nghĩa với tất cả tính chất phức tạp và mâu thuẫn của nó, C. Mác và Ph. Ăngghen đã

phát

- 90 -

hiện ra những nhân tố dẫn tới sự phủ định xã hội ấy và tiên đoán xã hội cộng sản chủ nghĩa

thay thế cho nó.

Nhƣ vậy, quan điểm duy vật biện chứng đã vẽ nên bức tranh hệ thống của các khái

niệm khoa học. Bức tranh ấy là sự phản ánh tính thống nhất vật chất của thế giới. Chỉ có thế

giới vật chất mới là cội nguồn của các tri thức khoa học - tri thức hệ thống - khái niệm mang

tính hệ thống. Cơ sở chứng minh cho tính hệ thống của các khái niệm khoa học là thực tiễn.

Khái niệm đƣợc hình thành trên cơ sở phản ánh hiện thực, gắn liền với mối quan hệ

cơ bản mang tính lịch sử - xã hội của con ngƣời. Một mặt, khoa học xuất phát từ thực tiễn, là

sản phẩm của thực tiễn, nhƣng mặt khác, nó lại đóng vai trò định hƣớng cho hoạt động thực

tiễn. Tính kế thừa, tính hƣớng đích của nhận thức khoa học xuất phát từ nhu cầu của thực

tiễn, cho nên bản thân tính hệ thống, tính mâu thuẫn, tính phức tạp của khái niệm khoa học

đƣợc xác định bởi tính hệ thông, tính mâu thuẫn, tính phức tạp của khách thể mà nó phản

ánh. Điều này cho ta thấy, mức độ phát triển của hệ thống chỉnh thể quy định mức độ tính

chỉnh thể của khái niệm khoa học. Nếu hệ thống tồn tại khách quan chƣa đạt tới một trình độ

chỉnh thể cao, trình độ "chín muồi", trình độ "kinh điển" thì không thể có một khái niệm

mang tính chỉnh thể sâu sắc. Ngƣợc lại, nếu hệ thống tồn tại khách quan có tính chỉnh thể

càng cao thì khái niệm càng có khả năng trừu tƣợng hóa, khái quát hóa. Các khái niệm khoa

học phản ánh các hệ thống có tổ chức cao hơn sẽ đem lại khả năng khám phá bản chất và các

quy luật của những hệ thống có tổ chức thấp hơn. C. Mác viết: "Giải phẫu học về con ngƣời

là cái chìa khóa cho giải phẫu học về con khỉ. Ngƣợc lại, ngƣời ta chỉ có thể hiểu đƣợc những

dấu hiệu báo trƣớc cái cao hơn trong các loại động vật cấp thấp khi ngƣời ta đã biết đƣợc bản

thân cái cao hơn đó. Nhƣ vậy, nền kinh tế tƣ sản cho ta cái chìa khóa để hiểu nền kinh tế cổ

đại, .v.v." [51, tr.883-884].

- 91 -

Sở dĩ có thể thực hiện đƣợc nhƣ vậy, bởi vì hệ thống có tổ chức cao hơn bao giờ cũng đƣợc

nảy sinh trên cơ sở những hệ thống có tổ chức thấp hơn. Hệ thống có tổ chức cao chứa đựng

trong mình những yếu tố đã đƣợc kế thừa dƣới dạng "lọc bỏ" ở những hệ thống có tổ chức

thấp hơn. Ngay trong lĩnh vực xã hội, hình thái kinh tế - xã hội cao chứa đựng các yếu tố của

hình thái kinh tế - xã hội thấp hơn, nhƣng ở hình thức phát triển, dƣới dạng đã biến đổi một

cách căn bản. [xem: 51, tr.884].

Nói chung, bất kỳ một hệ thống chỉnh thể nào cũng đòi hỏi phải có các công cụ khái

niệm phản ánh phù hợp. Tuy nhiên, ở một giai đoạn nhận thức nào đó khi chƣa có các khái

niệm mới thì việc sử dụng các khái niệm cũ là cần thiết. Ví dụ, nhờ các khái niệm của cơ học

cổ điển mà cơ học lƣợng tử có thể vạch ra một số đặc điểm, thuộc tính của thế giới vi mô,

nhƣng để hiểu đƣợc bản chất của thế giới này, khoa học cần phải sử dụng những công cụ khái

niệm mới, có khả năng phản ánh các đặc trƣng cấu trúc của nó.

Nhƣ trên đã khẳng định, khái niệm là sự phản ánh cái chung, cái bản chất, cái tất yếu

của các sự vật, hiện tƣợng. Nhƣng cái chung hay cái phổ biến đƣợc biểu hiện trong mối quan

hệ mật thiết với cái riêng, cái đặc thù. Khái niệm mà tách rời cái riêng, cái đặc thù thì không

còn là khái niệm khoa học. Khái niệm khái quát cả cái chung, cái riêng và cái đặc thù, nhƣng

điều này không có nghĩa nó bao quát tất cả tổng thể các dấu hiệu riêng, bộ phận cần nghiên

cứu. Để thiết lập nên một khái niệm khoa học, quan trọng là phải tách ra những cái cơ bản

nhất, những "mắt xích chủ yếu" nhất phản ánh cơ sở khách quan mà khách thể xuất hiện, vận

động và phát triển. Ngƣợc lại, nếu chúng ta liệt kê tất cả các dấu hiệu, các yếu tố của khách

thể thì vẫn không thể có đƣợc tri thức đúng đắn, toàn vẹn. Làm nhƣ thế sẽ dẫn đến chủ nghĩa

chiết trung và chủ nghĩa cơ giới. Song, trong việc xây dựng các khái niệm khoa học chúng ta

cần phải xem xét toàn diện,

- 92 -

cụ thể đối tượng - đó là mội trong những nguyên tắc cơ bản của lôgíc biện chứng, là một yêu

cầu tất yếu đối với khái niệm khoa học, đối với lý thuyết khoa học nói chung.

Trong quá trình phát triển của khoa học và thực tiễn, các khái niệm ngày càng phản

ánh phù hợp hơn đối với các khách thể hệ thống. Chúng ngày càng đƣợc bổ sung những nội

dung mới và ngày càng trở nên chỉnh thể hơn, bao quát nhiều mặt, nhiều cấp độ hơn. Do vậy,

bất kỳ một khái niệm khoa học nào cũng không phải là một hệ thống đóng kín, mà là một hệ

thống mở, hệ thống phát triển. Không những thế, khái niệm khoa học còn mang tính lịch sử -

cụ thể. Tính lịch sử - cụ thể của khái niệm phản ánh tính lịch sử - cụ thể của hệ thống tồn tại

khách quan. Các hệ thống tồn tại khách quan thƣờng xuyên trải qua các giai đoạn khác nhau,

ở mỗi giai đoạn chúng có những đặc điểm riêng, vì vậy các khái niệm cũng biến đổi, phát

triển cho phù hợp với tòng hoàn cảnh, từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Tính hệ thống của khái niệm khoa học không chỉ phản ánh bản thân khách thể này

hay khách thể khác, mà còn phản ánh cả quá trình chuyển biến từ khách thể này thành khách

thể khác, phản ánh quá trình chuyển biến từ cái cũ thành cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong

các khái niệm khoa học còn bao hàm cả khuynh hướng phát triển của các khách thể hệ thống

mà nó phản ánh.

Tóm lại, tính hệ thống của khái niệm khoa học biểu hiện rất đa dạng và phức tạp.

Cùng với sự phát triển của nhận thức khoa học thì bản thân các khái niệm khoa học ngày

càng mang tính hệ thống hơn. Điều đó không chỉ diễn ra trong vật lý học, hóa học, sinh vật

học và các khoa học tự nhiên khác, mà còn trong các khoa học xã hội, trong đó có khoa học

Mác - Lênin.

- 93 -

Kết luận chương 2

Ngày nay, với sự phát ƣiển của khoa học và thực tiễn, phƣơng pháp hệ thống có vị trí

hết sức quan trọng, nó gắn liền và cụ thể hóa các nguyên tắc của phƣơng pháp biện chứng, nó

thâm nhập vào các phƣơng pháp khác, góp phần hiện đại hóa các phƣơng pháp đó và cùng

với chúng tạo thành một hệ thống chỉnh thể.

Với tính cách là một bộ phận không thể tách rời trong phép biện chứng mác-xít,

phƣơng pháp hệ thống ngày càng đáp ứng các yêu cầu bức xúc của nhận thức khoa học hiện

đại. Nó thực sự đã trở thành công cụ hữu hiệu để giải quyết nhiều vấn đề mà khoa học đặt ra.

Với vị trí và vai trò quan trọng của mình, ngày nay phƣơng pháp hệ thống ngày càng

đƣợc áp dụng rộng rãi và trở thành phƣơng pháp phổ biến trong nhận thức khoa học và hoạt

động thực tiễn.

- 94 -

CHƢƠNG 3. PHƢƠNG PHÁP HỆ THỐNG TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC

TIỄN

3.1. Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong hoạt động thực tiễn

Nói đến hoạt động thực tiễn là nói đến hoạt động vật chất mang tính lịch sử - xã hội

của con ngƣời nhằm biến đổi tự nhiên và xã hội. Nó gắn liền với tính tích cực, năng động,

sáng tạo của con ngƣời; gắn liền với nhu cầu, mục đích của con ngƣời và xã hội. Để có hiệu

quả trong hoạt động của mình, con ngƣời luôn tìm tòi, lựa chọn và áp dụng những phƣơng

pháp mà họ cho là phù hợp. Kinh nghiệm của thực tiễn chỉ ra rằng, trong số các phƣơng pháp

mà con ngƣời áp dụng thì phƣơng pháp hệ thống giữ một vai trò to lớn. Trƣớc hết, nó mang

lại cho con người một quan niệm đúng đắn về tính hệ thống của xã hội, để từ đó con ngƣời có

thể đề ra những mục tiêu, phƣơng hƣớng và lựa chọn những biện pháp thích hợp để thực hiện

những mục tiêu, phƣơng hƣớng ấy.

3.1.1. Tính hệ thống của xã hội và hoạt động thực tiễn

Theo quan điểm hệ thống, xã hội cũng nhƣ bất kỳ một sự vật nào khác, đều biểu hiện

là một hệ thống đa cấp độ, đa diện, đa chiều, với vô vàn các mối quan hệ đan xen chằng chịt

mà chúng ta có thể tiếp cận nó từ những góc độ khác nhau. Chẳng hạn, cách tiếp cận "tôn

giáo" của Xanh Ximông, cách tiếp cận "chu kỳ lịch sử" của Tôinbi, cách tiếp cận "văn minh"

của Đuyhem, cách tiếp cận "hình thái" của C.Mác và Ph. Angghen, ... Trong các cách tiếp

cận ấy, cách tiếp cận "hình thái" mới thực sự mang tính khoa học, bởi nó giúp ta hiểu đúng

đắn bản chất và các quy luật vận động, phát triển của xã hội. Với cách tiếp cận này chúng ta

thấy mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống chỉnh thể cực kỳ phức tạp, thậm chí siêu

phức tạp, nên khi phân tích xã hội đòi hỏi phải xem

- 95 -

xét, tính toán tác động của nhiều tham số và hợp phần đa dạng, vạch ra những yếu tố chủ yếu

và các mối liên hệ, tác động qua lại giữa chúng qua việc xác định đặc trưng, cấu trúc, chức

năng, môi trường, cũng như lịch sử và sự hoạt động, phát triển của hệ thống xã hội.

1. Về đặc trưng của hệ thống xã hội :

Trƣớc hết cần khẳng định rằng con người là một trong những đặc trưng tiêu biểu nhất

cho chất lượng của hệ thống xã hội. Sự tồn tại của con ngƣời luôn gắn liền với sự tồn tại nhu

cầu của họ. Nhu cầu ấy hết sức đa dạng: có nhu cầu trao đổi chất, năng lƣợng, thông tin; có

nhu cầu tái sản xuất xã hội; có nhu cầu phát triển về tình cảm, trí tuệ; có nhu cầu hoạt động

xã hội, nhu cầu giao tiếp; .v.v... song nhu cầu cao nhất là nhu cầu tồn tại, nhu cầu đƣợc tự do

phát triển năng lực bản chất của mình - nhu cầu tự khẳng định mình. Để đáp ứng nhu cầu ấy,

con ngƣời buộc phải sản xuất ra của cải vật chất. C. Mác và Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh:

"...tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con ngƣời, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là:

ngƣời ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể "làm ra lịch sử". Nhƣng muốn sống đƣợc thì

trƣớc hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Nhƣ vậy,

hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất trong những tƣ liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy,

việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất" [48, tr.39 - 40]. Tƣ tƣởng của các nhà kinh điển

cho thấy, con ngƣời tồn tại là tồn tại với những nhu cầu. Những nhu cầu đƣợc ý thức, đƣợc

giải quyết sẽ trở thành lợi ích. Nhu cầu là cơ sở để hình thành nên lợi ích, còn lợi ích là tiền

đề, là điều kiện nhằm đáp ứng nhu cầu. Lợi ích cũng là cơ sở trực tiếp để hình thành nên mục

đích, tức là những động cơ tinh thần, thúc đẩy hoạt động sáng tạo của con ngƣời. Chính hoạt

động đó mà bản chất con ngƣời, năng lực của con ngƣời đƣợc hoàn thiện. Nhƣ vậy, nhu cầu

và lợi ích là động lực bên trong thúc đẩy con ngƣời hoạt động sáng tạo. Mặt khác, trên thực tế

luôn

- 96 -

luôn tồn tại mâu thuẫn giữa nhu cầu và điều kiện đáp ứng nhu cầu đó. Thông thƣờng nhu cầu

bao giờ cũng lớn hơn điều kiện đáp ứng nó, đó chính là động lực kích thích thúc đẩy sự phát

ƣiển của con ngƣời. Khi nhu cầu đƣợc thỏa mãn thì không còn là nhu cầu nữa, nhƣng nó lại

là cơ sở để hình thành nhu cầu mới cao hơn. Do vậy nhu cầu của con ngƣời là vô tận và quá

trình phát triển của lịch sử là quá trình phát triển của các nhu cầu. Nhu cầu là cơ sở tạo nên

những thay đổi của đời sống xã hội, là cơ sở xuất phát để xác định những mục tiêu cho phù

hợp với điều kiện thực tế nhằm cải tạo con ngƣời và xã hội. Nếu điều kiện quá thấp mà nhu

cầu quá cao thì đó là một ảo tƣởng. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn, khi xác định mục tiêu

chúng ta phải xuất phát từ nhu cầu, song từng bước phù hợp với điều kiện thực tế, khả năng

thực tế, bởi vì mục tiêu quá cao sẽ dẫn đến sự nản chí và hoạt động của con người sẽ khó

thành công.

Rút cuộc, hoạt động của con ngƣời vừa là phƣơng thức nhằm thỏa mãn nhu cầu, vừa

là quá trình ngày càng hoàn thiện con ngƣời. Trong đời sống xã hội, mọi hoạt động của con

ngƣời đều gắn với khát vọng thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của mình. Không phải ngẫu nhiên mà

các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: "tất cả cái gì mà con ngƣời đấu tranh

để giành lấy, đều dính liền với lợi ích của họ" [46, tr.109] và quan niệm: "những lợi ích "thúc

đẩy đời sống của các dân tộc"" [41, tr.98]; còn Đảng ta thì xác định: lợi ích cá nhân ngƣời lao

động là động lực trực tiếp của sản xuất, của sự phát triển xã hội [xem: 16, tr.73]. Nhƣ vậy,

tiêu biểu cho các đặc trƣng về chất của hệ thống xã hội, con ngƣời vừa là chủ thể, vừa là sản

phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể, vừa là khách thể của nhận thức và quản lý xã hội, cũng nhƣ

của mọi hoạt động nói chung. Do đó, trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải quan tâm

và phát huy nhân tố con người, chú trọng đến nhu cầu - lợi ích - mục đích với tính cách là

chuỗi động lực của hoạt động của con người, của sự phát triển xã hội.

- 97 -

2. Về cấu trúc của hệ thống xã hội :

Chính vì đặc trƣng của hệ thống xã hội là con ngƣời nên cấu trúc của bất kỳ hệ thống

xã hội nào cũng đƣợc xác định bởi mối quan hệ giữa con người với con người. C. Mác khẳng

định : "Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và

những quan hệ của các cá nhân đối với nhau" [59, tr.355]. Theo ông: "Xã hội - cho dù nó có

hình thức gì đi nữa - là cái gì ? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con ngƣời"

[57, tr.657]. Xã hội ấy đƣợc ông trình bày cô đọng về cấu trúc của nó nhƣ sau: "Trong sự sản

xuất xã hội ra đời sống của mình, con ngƣời có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy

thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một

trình độ phát triển nhất định của các lực lƣợng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan

hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên

một kiến trúc thƣợng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định

tƣơng ứng với cơ sở hiện thực đó. Phƣơng thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá

trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung" [52, tr.14 - 15].

Từ quan niệm tổng quát của C.Mác về cấu trúc xã hội, chúng ta thấy xã hội bao gồm

bốn lĩnh vực cơ bản :

Thứ nhất, lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội, tức quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế

giữ vai trò là quan hệ xuất phát ban đầu, cơ bản, nền tảng và quyết định tất cả các quan hệ xã

hội khác.

Thứ hai, lĩnh vực xã hội của đời sống xã hội, tức giai cấp và quan hệ giai cấp, dân tộc

và quan hệ dân tộc, gia đình và quan hệ gia đình, các tầng lớp xã hội, trong đó quan hệ giai

cấp đóng vai trò chi phối.

- 98 -

Thứ ba, lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội, tức các tổ chức và thiết chế quyền lực,

hệ thống luật pháp, các chính sách, các tƣ tƣởng, quan điểm chính ƣị, mối tƣơng quan và sự

vận hành của chúng.

Thứ tư, lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội bao gồm các hình thái và trình độ khác

nhau của ý thức xã hội, nhƣ ý thức chính trị, pháp quyền, đạo đức, văn hóa, tôn giáo, khoa

học, giáo dục, ... biểu hiện với tính cách là nền văn hóa tinh thần của đời sống xã hội.

Với cách tiếp cận trên, cấu trúc xã hội đƣợc hiểu theo nghĩa rộng nhất là tổng thể các

mối quan hệ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó lĩnh vực kinh tế suy cho cùng

giữ vai trò quyết định, còn các lĩnh vực khác đều tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh tế và

đều ảnh hƣởng tới trạng thái và sự vận động, phát triển của xã hội. Ph.Angghen viết :" Sự

phát triển của chính trị, pháp luật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v.v... đều dựa trên cơ sở sự

phát triển kinh tế. Nhƣng tất cả cũng có ảnh hƣởng lẫn nhau và ảnh hƣởng đến cơ sở kinh tế"

[58, tr.271]. Lịch sử cũng chứng minh rằng, trong những hoàn cảnh cụ thể có thể xuất hiện

nhân tố này hay nhân tố khác của xã hội phát ƣiển vƣợt trội, phá vỡ tính cân bằng của hệ

thống, thúc đẩy các yếu tố khác phát ƣiển tiếp theo, thiết lập trạng thái cân bằng mới, cao

hơn. Chẳng hạn, các nhân tố văn hóa, giáo dục -đào tạo, khoa học - công nghệ, ... đóng vai

trò động lực to lớn đối với sự phát triển của các quốc gia, của xã hội nói chung.

Những điều trên đây đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải tính đến sự

phát triển đồng bộ, cân đối, tác động qua lại giữa tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống

xã hội, không nên tuyệt đối hóa bất kỳ lĩnh vực nào. Song cũng tùy vào điều kiện lịch sử cụ

thể mà xác định lĩnh vực nào, nhân tố nào là trọng tâm, là nổi bật lên hàng đầu, từ đó đề ra

những biện pháp, giải pháp cụ thể,

- 99 -

tức là chúng ta cần phải tính đến những thay đổi của cấu trúc, các quy luật và các cơ chế

hoạt động của nó.

3. Về chức năng của hệ thống xã hội :

Nói đến cấu trúc xã hội, không thể không nhìn thấy con ngƣời là một sinh vật - xã hội,

mà bản chất xã hội của con ngƣời chỉ đƣợc biểu hiện thông qua việc thực hiện những chức

năng nhất định, bởi lẽ chức năng là bản chất của hoạt động, là phương thức thể hiện tính tích

cực của con người. C. Mác nói: "...những chức năng xã hội khác nhau chỉ là những phƣơng

thức hoạt động thay thế nhau mà thôi" [55, tr.693]. Trong hệ thống xã hội, khái niệm chức

năng liên hệ mật thiết với khái niệm mục đích, bởi vì mục đích là trạng thái mà hệ thống sẽ

vƣơn tới trong tƣơng lai. Theo nghĩa này, L. A. Pêtrusenkô viết: "Hệ thống xã hội nhiều khi

đƣợc hiểu là tổng thể các nhân tố chức năng có sự tác động qua lại nhằm đạt đƣợc mục đích

đã đề ra" [130, tr.11].

Mỗi hệ thống xã hội bao gồm những yếu tố, những bộ phận liên hệ, tác động qua lại

lẫn nhau. Một số yếu tố liên hệ với hệ thống một cách ƣực tiếp, một số khác liên hệ một cách

gián tiếp, còn một số khác nữa chỉ có tác dụng thứ yếu. Nhƣng dù sao, tất cả các yếu tố, các

bộ phận của hệ thống khi thực hiện chức năng của mình một cách độc lập tƣơng đối, cũng

phải phù hợp với chức năng chung của hệ thống, phục vụ mục đích chung của toàn bộ hệ

thống. "Bộ phận, - V. I. Lênin viết, - phải phục tùng chỉnh thể, chứ không phải là trái lại" [38

tr.429]. Điều này đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn cần xác định rõ chức năng của từng yếu

tố và của hệ thống, tránh sự chồng chéo về chức năng giữa chúng với nhau.

- 100 -

4. Về môi trường của hệ thống xã hội :

Mỗi hệ thống xã hội không tồn tại cô lập, mà tồn tại trong mối quan hệ khăng khít với

môi trường tự nhiên và môi trường xã hội trong một chỉnh thể thống nhất.

C. Mác đã coi môi trƣờng tự nhiên là "thân thể vô cơ" của con ngƣời, hay Ph.

Ăngghen khẳng định: "Tuy vậy chúng ta không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng

ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần chúng ta đạt đƣợc một thắng lợi, là mỗi lần giới tự

nhiên trả thù lại chúng ta. Thật thế, mỗi thắng lợi, trƣớc hết là đem lại cho chúng ta những kết

quả mà chúng ta hằng mong muốn, nhƣng đến lƣợt thứ hai, lƣợt thứ ba, thì nó lại gây ra

những tác dụng hoàn toàn khác hẳn, không lƣờng trƣớc đƣợc, những tác dụng thƣờng hay

phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên đó" [53, tr.654]. Vì con ngƣời và tự nhiên là một chỉnh

thể, một hệ thống không chia cắt, cho nên con ngƣời phải tìm cách sống hài hòa, hòa nhập

với tự nhiên, phải điều khiển có ý thức mối quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên. Bởi vì,

"chúng ta hoàn toàn không thống trị đƣợc giới tự nhiên nhƣ một kẻ xâm lƣợc thống trị một

dân tộc khác, nhƣ một ngƣời sống bên ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả

xƣơng thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng tự

nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất

cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức đƣợc quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng

đƣợc những quy luật đó một cách chính xác" [53, tr.655].

Ngày nay, môi trƣờng tự nhiên thƣờng đƣợc gọi là môi trường sinh thái. Vấn đề môi

trƣờng sinh thái là một trong những vấn đề toàn cầu cấp bách và khó giải quyết trong thời đại

ngày nay. Giải quyết vấn đề này thực chất là một yêu cầu có cơ sở lý luận từ bản thân cơ chế

hoạt động của hệ thống (phức hợp hệ thống) "xã hội - tự nhiên", nhằm đảm bảo tính cân

bằng, tính tự tổ chức, tự

- 101 -

điều khiển, tự bảo vệ của sinh quyển, bảo đảm tính thống nhất giữa xã hội và tự nhiên. Bởi

vậy, trong hoạt động thực tiễn, con ngƣời phải thực hiện nguyên tắc đồng tiến hóa giữa xã hội

và tự nhiên, coi việc quay trở về sống hài hòa với tự nhiên sẽ mang lại một hệ thống các giá

trị cho đời sống con ngƣời. Cụ thể là, con ngƣời cần phải thay đổi theo hƣớng tối ƣu hóa các

phƣơng thức hoạt động thực tiễn, cần phải nắm vững các quy luật của tự nhiên và vận dụng

các quy luật đó một cách phù hợp vào trong hoạt động thực tiễn của mình, trƣớc hết là vào

quá trình sản xuất xã hội. Điều đó gắn liền với và chỉ có thể thực hiện đƣợc thông qua sự liên

hệ, tác động qua lại giữa các hệ thống xã hội.

Bất kỳ một hệ thống xã hội nào cũng đều có môi trường xã hội của mình, tức là các hệ

thống xã hội khác. Đó là các hệ thống nằm trong các mối quan hệ về kinh tế - xã hội, chính trị

- xã hội, văn hóa, tinh thần, v.v... Nhờ những mối quan hệ ây, hệ thống xã hội mới có thể hoạt

động bình thƣờng. Bởi vậy, việc nghiên cứu những tác động qua lại của hệ thống xã hội này

với các hệ thống xã hội khác với tính cách là môi trƣờng của nó cũng có một ý nghĩa to lớn,

nhờ đó, con ngƣời mới có thể xác định đƣợc vị trí, vai trò, chức năng và ý nghĩa của hệ thống

nhằm phát triển xã hội một cách toàn diện, cân đối và đồng bộ.

5. Về lịch sử hình thành, quá trình hoạt động và phát triển của hệ thống xã hội :

Trong đời sống xã hội, phƣơng pháp hệ thống giúp ta hiểu rõ hơn mối tƣơng quan

giữa tính đứt đoạn và tính liên tục của quá trình lịch sử, về bản chất của cải tạo xã hội và mục

đích cuối cùng của nó, về tính chất lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội. Sự phát triển

mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội bao hàm trong mình biện chứng của cái chủ quan và

cái khách quan, của cái mới và cái cũ. Cái mới và cái cũ là những yếu tố, những mặt đối lập

của cùng một hệ thống, một bản chất; do đó, để hệ thống phát triển bình thƣờng, cần phải tính

đến

- 102 -

khả năng của cái cũ và cái mới. Hệ thống mới đƣợc xuất hiện và phát triển phải dựa trên cơ

sở những tiền đề, điều kiện của các hệ thống trƣớc đây, cải tạo chúng cho phù hợp với hoàn

cảnh mới. Đó chính là tính kế thừa biện chứng của các hệ thống xã hội, bởi vì, nhƣ M. X.

Cagan viết: "Tất cả các quá trình biểu hiện ra với tính cách là một hệ thống đƣợc phát triển về

mặt lịch sử nhƣ là sự tự vận động có tổ chức" [115, tr.l 15]. Sự vận động có tổ chức, tức là

vận động mang tính hệ thống đã chứa đựng nguồn gốc của sự phát triển. Cho nên, trong hoạt

động thực tiễn, cần phải biết cải tạo một cách triệt để hệ thống cũ khi nó đã vận hành hết

năng lực của mình. Song, việc xóa bỏ cái cũ (chưa phát triển hết năng lực của mình) và vội

thay nó bằng cái mới (vừa mới chỉ xuất hiện) có thể làm cản trở sự phát triển của toàn bộ hệ

thống. Mặt khác, việc kích thích quá mức cái cũ có thể làm phương hại đến sự phát triển của

cái mới.

Một giá trị quan trọng mà phƣơng pháp hệ thống mang lại cho hoạt động thực tiễn

còn ở chỗ, nó cho phép kết hợp hữu cơ sự giải thích về nguồn gốc và những dự báo trong

hoạt động, phát triển của hệ thống. Dự báo và lịch sử không tách rời nhau, chúng đều dựa

trên các quy luật phát triển của hệ thống, dựa trên các tri thức nối liền quá khứ, hiện tại và

tƣơng lai, nhƣ V. I. Lênin chỉ rõ, trong xã hội luôn luôn có "những vết tích của quá khứ,

những cơ sở của hiện tại và những mầm mông của tƣơng lai" [35, tr.218].

Sự vận động và phát triển của hệ thống xã hội là vận động mang tính hệ thống không

chỉ ở phƣơng diện cấu trúc, chức năng, mà còn ở cả phƣơng diện thời gian - lịch sử. Vấn đề

là cần phải nghiên cứu, phân tích các quy luật lịch sử - các quy luật hệ thống, xét đến các hiện

tƣợng riêng lẻ thông qua lăng kính hệ thống, từ đó xác định vị trí, vai trò của chúng trong các

mối quan hệ về mặt lịch sử. Tuy nhiên, khi vận dụng các quy luật hệ thống, chúng ta cần phải

tính đến cái chung và cái đặc thù trong sự vận động, phát triển của hệ thống. Cụ thể là,

- 103 -

con ngƣời không thể áp đặt cho hệ thống xã hội một sơ đồ chung cứng nhắc nào đó, mà phải

vận dụng các quy luật chung vào từng điều kiện lịch sử cụ thể, phải "phân tích cụ thể mỗi

tình hình cụ thể" [42, tr.201]. Thực tiễn cách mạng ở nƣớc ta cũng cho thấy, khi nào chúng ta

biết vận dụng các nguyên tắc phƣơng pháp luận một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ

thể, biết lấy "cái bất biến" ứng vào "cái vạn biến" - theo cách nói của Hồ Chí Minh - thì vai

trò và hiệu lực lãnh đạo của Đảng đƣợc tăng cƣờng.

Sự vận động và phát triển của hệ thống xã hội cho thấy tính cân bằng động, tính mở

của nó. Chúng bị quy định một cách cụ thể từ mâu thuẫn nội tại của hệ thống, từ sự đấu tranh

giữa cái mới và cái cũ, giữa cái truyền thống và cái hiện đại, giữa quá khứ và hiện tại, giữa

hiện tại và tƣơng lai. Giải quyết những vấn đề ấy làm cho hệ thống ngày càng đƣợc củng cố,

hoàn thiện và phát triển. Đặc biệt, hệ thống xã hội khác với hệ thống tự nhiên là ở chỗ nó

không chỉ là một hệ thống tự tổ chức, tự điều khiển, mà còn là một hệ thống tổ chức, điều

khiển. Quá trình phát triển của xã hội cần phải có sự thống nhất giữa tổ chức và tự tổ chức,

giữa điều khiển và tự điều khiển. Tổ chức của con ngƣời có vai trò quan trọng, song phải dựa

trên cơ sở của tự tổ chức, điều khiển phải dựa ttên cơ sở của tự điều khiển. Cơ chế hoạt động

ấy đảm bảo tính chỉnh thể, tính cân bằng động và sự phát triển của hệ thống. Nhƣ vậy, sự

hình thành và phát triển của xã hội gắn liền với cơ chế kết hợp giữa tự tổ chức và tổ chức.

Chẳng hạn, trong nền kinh tế thị trƣờng, cơ chế thị trƣờng có vai trò điều tiết nền kinh tế,

nhƣng do tính tự phát của cơ chế thị trƣờng mà nền sản xuất phải tuân theo quy luật giá trị,

do đó cần phải có sự tổ chức, quản lý sản xuất, phân công lao động xã hội, phối hợp giữa các

lĩnh vực khác nhau của nền sản xuất,... Điều đó, nhƣ C. Mác nói, cũng giống nhƣ "ngƣời độc

tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trƣởng" [55,

tr.480].

- 104 -

Tất cả những điều trên cho ta thấy, sự hình thành và phát triển của xã hội tuân theo

các quy luật khách quan, nhƣng khi các điều kiện khách quan đã trở nên chín muồi thì vai trò

của nhân tố chủ quan - nhân tố con ngƣời có ý nghĩa quyết định, và nói chung, thành công

của hoạt động thực tiễn phụ thuộc nhiều vào vai trò tích cực, sáng tạo của chủ thể nhận thức

và cải tạo. Do vậy, trong đời sống xã hội phải có sự thống nhất giữa cái chủ quan và cái

khách quan. Không hiểu đƣợc sự thống nhất này, hoặc coi thƣờng nó sẽ dẫn đến những sai

lầm tai hại của chủ nghĩa cực đoan.

Tóm lại, hệ thống xã hội biểu hiện nhƣ một bức tranh hết sức đa dạng và phức tạp, là

một chỉnh thể hữu cơ, vận động và phát triển theo các quy luật hệ thống. Do đó, hoạt động

thực tiễn của con ngƣời cũng phải đảm bảo tính trật tự, cân đối, hài hòa, tính đồng bộ, tính tổ

chức, tức là tính hệ thống. Muốn vậy, con ngƣời không chỉ biết các quy luật vận động, phát

triển của hệ thống mà quan trọng hơn là cần phải có những hình thức cụ thể vận dụng chúng

cho phù hợp trong hoạt động thực tiễn. Đúng nhƣ Iu. K. Plétnicốp nhấn mạnh: "Việc sử dụng

các quy luật xã hội không chỉ có khoa học mà cả nghệ thuật. Cơ chế của nó... là ở việc nhận

thức những yêu cầu của quy luật xã hội và bảo đảm những điều kiện tối ƣu để thực hiện

những yêu cầu đó [132, tr.24]. Ở góc độ này, phƣơng pháp hệ thống có vai trò hết sức quan

trọng, trƣớc hết là trong lĩnh vực tổ chức, quản lý xã hội.

3.1.2. Vai trò của phương pháp hệ thống trong tổ chức và quản lý xã hội

Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, cùng với

xu hƣớng toàn cầu hóa các quan hệ quốc tế và dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, thì việc

tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội

- 105 -

ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Trƣớc nhu cầu ấy, phƣơng pháp hệ thống có một tầm

quan trọng đặc biệt, nó là công cụ hữu hiệu ƣong việc tổ chức, quản lý các hệ thống xã hội.

- Về các khái niệm tổ chức và quản lý :

Tổ chức và quản lý là những hoạt động tối cần thiết ở bất kỳ mức độ phát triển nào

của xã hội. C.Mác đã khẳng định : "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung

nào... thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực

hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, khác với

sự vận động của những khí quan độc lập của nó" [55, tr.480].

Tổ chức, quản lý nghĩa là kết hợp một cách tối ƣu trên thực tế các yếu tố, các nỗ lực

riêng lẻ nhằm đảm bảo tính trật tự, tính cân đối, hài hòa của đời sống xã hội. Nó thể hiện vai

trò tích cực, sáng tạo của con ngƣời trong việc củng cố, hoàn thiện và phát triển xã hội. Nó

"... là sự củng cố về mặt xã hội của phƣơng thức sản xuất, và do đó, của sự giải phóng tƣơng

đối của phƣơng thức sản xuất ấy khỏi sự chi phối của ngẫu nhiên đơn thuần và của sự tùy tiện

đơn thuần" [56, tr.503].

Những tiêu chí mà C.Mác đƣa ra ƣong việc xác định các khái niệm tổ chức và quản lý

cho ta thấy, hoạt động tổ chức và quản lý là không thể thiếu đƣợc và trong nhiều trƣờng hợp

chúng đồng nhất với nhau. Tuy nhiên, khái niệm quản lý có ngoại diên rộng hơn khái niệm tổ

chức. Về mối quan hệ giữa hai khái niệm này, các tác giả Liên Xô đã đƣa ra những ý kiến có

giá trị. Chẳng hạn, V.G.Aphanaxép viết :"Lao động tổ chức là lao động xây dựng trạng thái

trật tự của chủ thể và khánh thể quản lý, những quan hệ tƣơng ứng giữa chủ thể với khánh

thể, hệ thống thông tin, các liên hệ thuận và ngƣợc" [2, tr.144]. Têrêsenkô cho rằng tổ chức là

bộ khung của hoạt động quản lý : "Tổ chức là chỉ

- 106 -

một cấu trúc, một cái khung mà trong khuôn khổ của nó, các biện pháp nhất định đƣợc tiến

hành. Quản lý là một tổng thể những biện pháp phối hợp nhằm đạt tới một mục đích đã định.

Tổ chức là một thứ "giải phẫu học" của xí nghiệp; còn quản lý là "sinh lý học" của nó. Có thể

nói tổ chức là "trạng thái tĩnh" của sự việc, còn quản lý là "trạng thái động" của nó" [dẫn

theo: 2, tr.144].

Cần thấy rằng vấn đề tổ chức, quản lý ở các xã hội cụ thể khác nhau, trong các lĩnh

vực và các giai đoạn khác nhau hoàn toàn không giống nhau. Nó phụ thuộc vào các quy luật

và khuynh hƣớng phát triển của xã hội, phụ thuộc vào tính tích cực, sáng tạo của con ngƣời.

Nhƣ vậy, tổ chức, quản lý hệ thống xã hội mang tính lịch sử - cụ thể. Nội dung, mục đích,

nguyên tắc tổ chức và quản lý phụ thuộc vào bản chất của xã hội, phụ thuộc vào các mối

quan hệ kinh tế thống trị, phụ thuộc vào chế độ chính trị - xã hội,... Trong xã hội có giai cấp,

tổ chức và quản lý xã hội mang tính giai cấp, nó phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị,

giai cấp thống trị thiết lập nên hệ thống các tổ chức xã hội để tổ chức, quản lý xã hội cho phù

hợp với lợi ích của giai cấp mình. Chính vì vậy, đối với cách mạng vô sản, V. I. Lênin nhấn

mạnh nhiệm vụ quan trọng là "đòi hỏi thằng các đảng viên phải thực tế bắt tay vào việc tổ

chức" [36, tr.303]. Đồng thời, khi khẳng định tổ chức với tƣ cách là một hệ thống, V. I. Lênin

viết: "Sức mạnh của giai cấp công nhân là ở tổ chức. Không có tổ chức quần chúng thì giai

cấp vô sản không là cái gì hết. Đƣợc tổ chức giai cấp vô sản sẽ là tất cả" [37, tr.163].

Với tầm quan trọng lớn lao của tổ chức và quản lý, phương pháp hệ thống thực sự là

một công cụ hữu hiệu, nó giúp cho quá trình tổ chức và quản lý xã hội một cách khoa học. Sở

dĩ nhƣ vậy vì :

Thứ nhất, phƣơng pháp hệ thống là công cụ nhằm hoàn thiện công việc tổ chức, quản

lý, mà trƣớc tiên để xác định thành phần, sắp xếp cấu trúc, chức năng

- 107 -

của các hệ thống, định hƣớng chúng trong việc giải quyết các vấn đề do khoa học và thực tiễn

đặt ra.

Trong việc xây dựng các hệ thống, công việc tổ chức và quản lý cần phải xác định

thành phần của hệ thống, chú ý đến những yếu tố chủ đạo, tính đến sự thay đổi của các yếu tố

và mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố. Có thể cải tạo những yếu tố cũ để hình

thành nên yếu tố mới và cũng có thể lựa chọn những yếu tố ở bên ngoài và chuyển thành các

yếu tố của hệ thống..., song quan trọng là cần phải tạo ra sự tác động đồng bộ, có phối hợp,

có tổ chức của các yếu tố.

Quá trình tổ chức, quản lý xã hội không chỉ tính đến những tác động qua lại của các

yếu tố bên trong hệ thống mà kể cả với những tác động từ bên ngoài, từ môi trƣờng. Vì vậy

cách tiếp cận tổng thể, phối hợp, phức hợp mà phƣơng pháp hệ thống mang lại có một ý

nghĩa vô cùng to lớn. Thực tiễn đã chứng minh rằng, nếu biết tổ chức, phối hợp, liên kết các

yếu tố một cách tốt nhất và thiết lập một cách hợp lý nhất với môi trƣờng sẽ tạo ra sự phát

triển cao. Ngƣợc lại, nếu không làm đƣợc điều đó sẽ không tạo đƣợc sức mạnh chung của

toàn thể hệ thống và cũng hạn chế khả năng phát triển của các yếu tố. Vấn đề quan trọng là

phải tạo ra cơ chế: hiệu quả quyết định đến sự phát triển bền vững.

Trong việc sắp xếp cấu trúc, chủ thể tổ chức và quản lý cần phải tiến hành phân tích

cấu trúc, tính đến mối quan hệ giữa cấu trúc và yếu tố, cấu trúc và hệ thống, cấu ƣúc và chức

năng. Để hoàn thiện hệ thống, phải tìm cho đƣợc các yếu tố và các mối liên hệ giữa các yếu

tố đã làm hạn chế sự phát triển của hệ thống, tức là phải tìm ra điểm yếu của hệ thống. Để

xây dựng hệ thống mới, cần tính toán sao cho khi kết hợp các yếu tố thành hệ thống phải tạo

ra sức mạnh tối ƣu.

- 108 -

Việc điều hành hệ thống xét theo chức năng cũng là nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho

công việc tổ chức và quản lý. Do trong từng hệ thống, mỗi yếu tố đều thực hiện một chức

năng nhất định và hƣớng tới việc thực hiện chức năng chung, cho nên chủ thể tổ chức và

quản lý cần phải xác định chức năng riêng của từng yếu tố, tránh sự chồng chéo, trùng lắp. V.

I. Lênin chỉ rõ: "Chúng ta cần có một đại hợp tấu; chúng ta phải xây dựng kinh nghiệm cho

mình để có thể phân phối đúng các vai trong dàn hợp tấu, để đối với ngƣời này thì giao cây vĩ

cầm đầy tình cảm, đối với ngƣời kia thì giao cây đàn trầm cuồng bạo, đối với ngƣời khác nữa

thì giao cho cây gậy chỉ huy dàn nhạc" [36, tr.108].

Cần lƣu ý rằng, sau khi phân phối chức năng cho từng yếu tố, chủ thể tổ chức và quản

lý cần phải có biện pháp phối hợp các chức năng với nhau để tạo ra sự hoạt động cân đối,

nhịp nhàng của toàn bộ hệ thống. Do đó việc phân phôi và phối hợp các chức năng một cách

hợp lý sẽ mang lại những hiệu quả thiết thực.

Thứ hai, phƣơng pháp hệ thống còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xác định

mục tiêu, hoạch định và thực hiện các chương trình, cũng nhƣ tiếp nhận các giải pháp trong

quá trình tổ chức, quản lý hệ thống.

Nói đến hệ thống là nói đến mục tiêu, bởi vì mọi hệ thống xã hội đều có tính hƣớng

đích, đều có xu hƣớng tìm đến mục tiêu là một trạng thái cân bằng nào đó. Mỗi hệ thống xã

hội đều có mục tiêu tổng thể và mục tiêu riêng của từng yếu tố, do đó quá trình tổ chức, quản

lý hệ thống cần phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các mục tiêu riêng để bảo đảm

cho hệ thống hoạt động cân đối, hài hòa và phát triển thuận lợi. Ở đây, phƣơng pháp hệ

thống giúp ta có thể hình dung đầy đủ các khả năng thực tế và cách thức tổ chức, quản lý hệ

thống để đạt đƣợc các mục tiêu đề ra. Trong tổ chức và quản lý xã hội việc xác định mục tiêu

một cách đúng đắn sẽ giúp cho việc tìm các giải pháp và xây dựng các cơ

- 109 -

chế tổ chức, quản lý phù hợp với thực tế. Trong các hệ thống xã hội mục tiêu và lợi ích gắn

bó chặt chẽ với nhau, mục tiêu luôn xuất phát từ lợi ích và nhằm để đạt đƣợc lợi ích nhất

định, vì vậy để phối hợp đƣợc các mục tiêu thì cần phải phối hợp đƣợc các lợi ích.

Phƣơng pháp hệ thống yêu cầu quá trình tổ chức và quản lý phải bắt đầu bằng việc

xác định mục tiêu tổng thể và sau đó mới tiến hành mô tả, phân tích hệ thống theo hƣớng mục

tiêu tổng thể đó. Xuất phát từ mục tiêu tổng thể, ngƣời ta chú ý đến các yếu tố cấu thành hệ

thống, đến cách thức phối hợp, vận hành của các yếu tố, đến các nguồn lực mà hệ thống có

thể sử dụng, đến môi trƣờng mà hệ thống đó tồn tại, ... Tƣ duy hệ thống giúp cho chủ thể tổ

chức, quản lý nhìn nhận vấn đề phải giải quyết một cách tổng thể, khái quát, nắm đúng cốt lõi

của vấn đề và nhanh chóng tìm đƣợc điểm xuất phát để giải quyết vấn đề đó.

Phƣơng pháp hệ thống chỉ ra rằng hệ thống càng phát triển thì mức độ phức tạp của

nó càng lớn, tối ƣu đối với bộ phận không phải lúc nào cũng dẫn đến tối ƣu về toàn thể, và

ngƣợc lại, tối ƣu toàn thể không phải lúc nào cũng dẫn đến tối ƣu bộ phận. Ở phƣơng diện

này, phƣơng pháp hệ thống đóng vai trò là công cụ xây dựng hệ thống mục tiêu, gồm hai

nguyên lý cơ bản: một là, nguyên lý cụ thể hóa các mục tiêu tổng thể thành các mục tiêu chi

tiết và hình thành hệ thống mục tiêu thứ bậc; hai là, nguyên lý xác định chuẩn xác mục tiêu

tổng thể gắn liền với dự báo tình thế ƣong tƣơng lai.

Xuất phát từ mục tiêu tổng thể, để bảo đảm cho sự hoạt động và phát triển của hệ

thống, các chủ thể tổ chức và quản lý không chỉ thay đổi các yếu tố cũ, chính sách cũ, mà còn

tạo ra những yếu tố mới, chính sách mới, những cơ chế mới, song quan trọng là ở chỗ, việc

hoạch định hệ thống các chính sách cần phải thống nhất với việc tổ chức thực hiện, tức là với

các giải pháp, biện pháp thực hiện trong thực tiễn.

- 110 -

Thứ ba, phƣơng pháp hệ thống có vai trò to lớn trong việc xác định và sử dụng nguồn

lực.

Phƣơng pháp hệ thống đòi hỏi phân tích hệ thống theo mục tiêu tổng thể, xác định cấu

trúc, chức năng của hệ thống và mối quan hệ giữa hệ thống với môi trƣờng gắn liền với việc

phân tích các nguồn lực. Nguồn lực là tất cả các yếu tố và phƣơng tiện mà hệ thống có thể sử

dụng để thực hiện mục tiêu của mình. Chẳng hạn, trong hệ thống kinh tế, có thể chia nguồn

lực ra thành: nguồn tài sản nhƣ tài nguyên thiên nhiên, máy móc, nguyên liệu, phƣơng tiện

vận tải,... và nguồn nhân lực. Xác định mục tiêu của hệ thống là một công việc khó nhƣng

xác định nguồn lực và sức mạnh thật sự của nó lại càng khó hơn. Chính vì nguồn lực đóng

vai trò hết sức quan ƣơng, cho nên chủ thể tổ chức, quản lý phải đặc biệt chú ý đến việc sử

dụng nguồn lực một cách có hiệu quả nhất.

Thứ tư, phƣơng pháp hệ thống có ý nghĩa thực tiễn quan Ƣơng trong việc xây dựng

mô hình tổng hợp.

Trong tổ chức và quản lý hệ thống việc phân tích hệ thống có vai trò biến các nhiệm

vụ phức tạp và khó giải quyết thành các nhiệm vụ đơn giản hơn và có phƣơng án giải quyết

phù hợp. Song phân tích hệ thống gắn liền, thống nhất với tổng hợp hệ thống. Trong giai

đoạn này chủ thể tiến hành phối hợp, liên két hoạt động của các yếu tố để đạt đƣợc mục tiêu

tổng thể. Đây là bƣớc tìm các giải pháp chung nhờ sự kết hợp tất cả các giải pháp riêng thành

một chỉnh thể. Giai đoạn tổng hợp giúp ta sử dụng các kết quả đã đạt đƣợc trong giai đoạn

phân tích và nó có vai trò quan trọng trong việc xây dựng mô hình tổng hợp. Các mô hình

đƣợc áp dụng trong tổ chức, quản lý hệ thống có nhiều thể loại khác nhau, với các cấp độ

khác nhau, tùy thuộc vào các khả năng hiện có và nhiệm vụ mà chủ thể đặt ra. Chẳng hạn,

vấn đề bức thiết hiện nay khi nghiên cứu xã hội là xây dựng các mô hình xã hội, mà nhiệm vụ

trọng tâm là tìm kiếm những con

- 111 -

đƣờng, những phƣơng tiện hiện thực để mô tả một cách đầy đủ hơn về hệ thống xã hội. Hay

một loại mô hình tổng hợp liên quan trực tiếp đến các nấc thang giá trị thể hiện rất rõ trong

lĩnh vực kinh tế, kiến trúc đô thị,... Điều này cho ta thấy quá trình tổ chức, quản lý hệ thống

xã hội cần phải tính đến đầy đủ các đặc trưng của hệ thống.

Vậy, phƣơng pháp hệ thống là công cụ hữu hiệu trong hoạt động thực tiễn nói chung,

trong tổ chức và quản lý xã hội nói riêng. Việc áp dụng phƣơng pháp hệ thống có tác dụng

tích cực đến nếp suy nghĩ, phong cách tƣ duy, xây dựng lề lối làm việc khoa học, nhờ đó góp

phần thiết thực vào sự phát triển của con ngƣời và xã hội. Trong giai đoạn đổi mới đất nƣớc

ta hiện nay, phƣơng pháp hệ thống lại càng trở nên quan trọng hơn. Nó giúp chúng ta hiểu rõ

hơn và thực hiện có hiệu quả hơn quá trình đổi mới, đặc biệt trong việc tổ chức và quản lý tất

cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

3.2. Một số vấn đề về dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và

quản lý xã hội ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, nƣớc ta đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh. Thực tiễn cho thấy, đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội. Trên từng lĩnh vực, nội dung đổi mới cũng bao gồm nhiều mặt : từ đổi

mới quan niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức, quản lý, phong cách và lề lối làm

việc. Công cuộc đổi mới đang đặt ra cho đất nƣớc hàng loạt các nhiệm vụ bức bách, nặng nề

cần đƣợc giải quyết. Trƣớc những nhiệm vụ ấy, quá trình tổ chức và quản lý xã hội cần phải

đƣợc sự hƣớng dẫn của hệ thống các phƣơng pháp khoa học, trong đó

- 112 -

vận dụng phương pháp hệ thống được xem là một công cụ tất yếu, đầy hữu hiệu đối với tổ

chức và quản lý tất cả các lĩnh vực của xã hội ta hiện nay.

3.2.1. Vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế.

Lĩnh vực kinh tế là một trong các lĩnh vực cơ bản nhất của đời sống xã hội; xét đến

cùng, nó quyết định tất cả các lĩnh vực khác : xã hội, chính trị và tinh thần. Trong công cuộc

đổi mới hiện nay, nền kinh tế mà chúng ta xây dựng và phát ƣiển là nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tính cách là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá

ƣình đổi mới, về nguyên tắc chung, đổi mới lĩnh vực kinh tế phải nằm trong nguyên tắc

chung của đổi mới toàn bộ xã hội. Đó là đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhƣng phải có

bƣớc đi, hình thức và cách làm thích hợp. Trong đó, chúng ta cần phải kết hợp ngay từ đầu

đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bƣớc

đổi mới chính trị và chủ trƣơng : "Tăng trƣởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã

hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trƣờng sinh thái" [16, tr.72 ].

Chính đổi mới kinh tế không những tạo ra và bảo đảm sự tăng trƣởng, phát triển bền vững

của toàn bộ nền kinh tế, ổn định xã hội, mà còn tạo ra những điều kiện cần thiết để triển khai

các quá trình chính trị, xã hội, văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, ...

Xuất phát từ nguyên tắc chỉ đạo trên đây, việc vận dụng phương pháp hệ thống vào

việc tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế ở nƣớc ta hiện nay cần phải hƣớng tới mục tiêu tổng

thể là "... xây dựng nƣớc ta thành một nƣớc công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại,

cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lƣợng

sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nƣớc

mạnh, xã hội công bằng, văn minh". [16, tr.80 ]

- 113 -

Dƣới góc độ tổ chức và quản lý kinh tế, thực chất của đổi mới kinh tể là một quá trình chuyển

đổi về chính sách, thể chế, tổ chức kinh tế ở tầm vĩ mô và vi mô nhằm đƣa nền kinh tế từ một

hệ thống kinh tế này sang một hệ thống kinh tê khác, đem lại sự thay đổi về cơ cấu kinh tế,

thể chế kinh tế cũng nhƣ động thái, hành vi và thói quen của các chủ thể tham gia vào hoạt

động kinh tế thích ứng với hệ thống kinh tế mới đƣợc hình thành.

Nhƣ vậy, quá trình tổ chức và quản lý nền kinh tế không chỉ tập trung vào những lĩnh

vực thuần tuý kinh tế, mà còn đòi hỏi phải đổi mới các thể chế, tổ chức, chính sách của Nhà

nƣớc, liên quan đến kinh tế.

Do tính chất bao quát quá rộng của vấn đề, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một số vấn

đề then chốt liên quan trực tiếp và quyết định đến hiệu quả của tổ chức, quản lý lĩnh vực kinh

tế.

Quan điểm bao trùm mang tính nguyên tắc trong tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế

là cần phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và tăng cường sự quản lý của Nhà nước.

Thứ nhất, vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế đƣợc thực hiện bằng việc

Đảng quyết định mục tiêu, phƣơng hƣớng kế hoạch, cân đối ngân sách, chính sách về các

thành phần kinh tế, chuyển dịch cơ cấu, đổi mới cơ chế quản lý, quy hoạch một số ngành

trọng yếu,...

Thứ hai, vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã

hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm quyền lực kinh tế của nhân dân đƣợc thực hiện không phải bằng

việc Nhà nƣớc can thiệp trực tiếp vào mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh làm hạn chế tối đa

quyền chủ động của cơ sở và ngƣời lao động. Vai trò đó đƣợc hoàn thành bằng việc Nhà

nƣớc thực hiện ngày càng có hiệu quả cao chức năng quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, nhằm

kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa và đƣa các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Hơn nữa,

hiện

- 114 -

nay sự nghiệp đổi mới đang đi vào chiều sâu, vì vậy vấn đề cụ thể hóa đƣờng lối, chủ trƣơng

của Đảng bằng những chính sách đúng đắn, bằng các cơ chế và giải pháp thích hợp càng trở

nên quan trọng.

Trong khi nhấn mạnh đổi mới và tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà

nƣớc về kinh tế - xã hội, vấn đề tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế ở nƣớc ta hiện nay cần

phải giải quyết hàng loạt các nhiệm vụ, trong đó xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất

hiện đại, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vừa là nhiệm vụ vừa là mục

tiêu trung tâm và hàng đầu.

1. Về xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất:

Theo quan niệm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa

xã hội chỉ có thể ra đời và chiến thắng trên cơ sở lực lƣợng sản xuất hiện đại, một kiểu tổ

chức lao động xã hội cao hơn, có năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tƣ bản. Lực lƣợng

sản xuất đó một mặt kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa tƣ bản, mặt khác phải phát triển

và hoàn thiện hơn. Do những điều kiện lịch sử đặc thù mà Việt Nam, một nƣớc kinh tế nông

nghiệp lạc hậu lại có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Vì vậy, yêu

cầu phát triển lực lƣợng sản xuất càng đƣợc đặt ra một cách cơ bản và cấp bách, và để phát

triển lực lƣợng sản xuất thì nhất thiết phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới đang

phát triển nhƣ vũ bão, loài ngƣời đang từ nền văn minh công nghiệp chuyển sang nền văn

minh trí tuệ, thì chủ trƣơng công nghiệp hóa thôi không đủ để đƣa nền kinh tế nƣớc ta phát

triển lên trình độ hiện đại, do đó để khắc phục nguy cơ tụt hậu, công nghiệp hóa phải gắn liền

với hiện đại hóa. Chính sự kết hợp hữu cơ công nghiệp hóa với hiện đại hóa cùng với các tiền

để kinh tế, chính

- 115 -

trị, văn hóa, xã hội khác cho phép quá trình công nghiệp hóa ở nƣớc ta cũng là một quá trình

rút ngắn thời gian so với các nƣớc đi trƣớc, vừa có bƣớc tuần tự, vừa có bƣớc nhảy vọt.

Chúng ta không nhất thiết phải lặp lại mọi khâu, mọi bƣớc của quá trình công nghiệp hóa đã

diễn ra ở các nƣớc, mà tùy lĩnh vực, khả năng và điều kiện có thể đi tắt, đón đầu, bỏ qua một

số khâu, một số bƣớc, đi thẳng lên cái hiện đại nhất của thế giới.

Song, cần lƣu ý rằng, nếu từ nền văn minh nông nghiệp đi lên, chúng ta có thể đi

thẳng lên nền văn minh trí tuệ ở một số khâu và lĩnh vực nào đó thì về toàn bộ chúng ta lại

không thể bỏ qua trình độ văn minh công nghiệp, bởi vì không có nền công nghiệp phát triển

thì cũng không có sự ra đời vững chắc của kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Chính vì thế

trong những năm trƣớc mắt, chúng ta cần phải phát huy những lợi thế của đất nƣớc, gắn công

nghiệp hóa với hiện đại hóa trong từng bƣớc, tiếp cận với kinh tế tri thức.

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc trong giai đoạn hiện nay vừa là

biện pháp, vừa là nhiệm vụ bức bách để xây dựng và phát ƣiển lực lƣợng sản xuất hiện đại,

thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nƣớc ta phải là quá

ƣình hƣớng tới sự phát triển hài hòa và căn đối giữa phát triển con ngƣời và phát triển khoa

học công nghệ, giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, giữa phát triển kinh tế xã hội và

bảo vệ tự nhiên, bảo đảm cân bằng sinh thái. Thực chất đó là một quá trình phát triển bền

vững và toàn diện, có tính nhăn văn.

Để thực hiện đƣợc mục tiêu xây dựng và phát triển một lực lƣợng sản xuất hiện đại,

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, quá trình tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh

tế cần giải quyết hàng loạt các nhiệm vụ quan trọng và bức xúc.

- 116 -

Trước hết, cần xây dựng và phát triển nguồn nhân lực mới để đáp ứng yêu cầu bức

bách của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để làm đƣợc điều đó, cần kết hợp giữa đào tạo lại và

đào tạo mới để nâng cao chất lƣợng toàn diện của nguồn nhân lực; khắc phục sự mất cân đối

trong cơ cấu, phân bố và phân công lao động; tổ chức và sử dụng nguồn nhân lực một cách

hợp lý để đáp ứng yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tăng cƣờng đào tạo và khuyến

khích phát triển đội ngũ các nhà doanh nghiệp và quản lý doanh nghiệp giỏi; nâng cao năng

lực và phẩm chất của đội ngũ công chức nhà nƣớc trong tổ chức và quản lý hoạt động của

nền kinh tế.

Thứ hai, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến về khoa học và công nghệ,

đặc biệt là công nghệ thông tin. Cụ thể là, cần phải sử dụng những thành tựu khoa học-công

nghệ hiện đại để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và theo vùng lãnh thổ trên cơ sở khai

thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của từng ngành, từng vùng; đồng thời bảo đảm sự phối hợp

nhịp nhàng, đồng bộ giữa các ngành, các vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả các ngành,

các vùng đều phát triển trong một cơ cấu hợp lý. Muốn vậy, có thể cần lấy nhập công nghệ,

cải tiến công nghệ nhập là chính để đổi mới công nghệ, nâng cao tiềm lực công nghệ quốc

gia. Cần đầu tƣ thích đáng cho việc đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp nhà nƣớc có vị

trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế, các trung tâm kinh tế lớn. Chúng ta cần phải kết hợp

việc áp dụng công nghệ mới với đổi mới công nghệ truyền thống, tạo ra năng lực công nghệ

nội sinh ở một số lĩnh vực, nhất là ở các lĩnh vực mũi nhọn. Đặc biệt, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nhất thiết phải gắn với phân công mới và phân công lại lao động xã hội, cùng với việc

thực hiện một hệ thống chính sách xã hội đồng bộ, nhất quán (về dân số, môi trƣờng, y tế,

giáo dục-đào tạo,...) để giải quyết việc làm cho ngƣời lao động.

- 117 -

Thứ ba, do đặc điểm của Việt Nam, trong việc xây dựng và phát triển lực lƣợng sản

xuất hiện đại, cần phải coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là một

trọng điểm cần tập trung chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết. Cần phấn đấu giảm nhanh tỷ lệ

lao động nông nghiệp, một lĩnh vực chiếm tỷ lệ trên 70% lực lƣợng lao động xã hội, bằng

cách đẩy mạnh đầu tƣ để tăng tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động giữa các

vùng lãnh thổ trên phạm vi toàn quốc và ở ngay địa bàn nông thôn. Nhà nƣớc cần có chiến

lƣợc và chính sách đầu tƣ lớn và dài hạn vào việc đào tạo lao động kỹ thuật, xây dựng hạ tầng

kỹ thuật, ứng dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, phát triển

các mô hình sản xuât mới ở nông thôn nhƣ hợp tác xã kiểu mới, trang trại....

Toàn bộ quá trình xây dựng và phát triển một lực lƣợng sản xuất hiện đại không thể

chỉ là quá trình thuần túy kỹ thuật, nhằm các mục tiêu kinh tế, mà còn phải là một quá ƣình

xã hội, mang tính nhân văn, hƣớng tới mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng và

phát triển toàn diện con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Về xây dựng quan hệ sản xuất:

Mục tiêu phát triển của toàn bộ nền kinh tế nƣớc ta là tiến lên một nền kinh tế phát

triển cao dựa trên lực lƣợng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tƣ liệu sản xuất chủ

yếu. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc xây dựng và phát triển lực lƣợng sản xuất không

thể tách rời với việc xây dựng các quan hệ sản xuất.

Thực chất của quan hệ sản xuất là việc giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế của các thành

viên trong xã hội. Các quan hệ sản xuất khác nhau chỉ là các phƣơng thức giải quyết lợi ích

khác nhau. Đến lƣợt mình, phƣơng thức giải quyết

- 118 -

lợi ích kinh tế phụ thuộc vào quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, tiêu dùng.

Thực chất của quá trình phát triển của các quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta là quá trình phát triển bỏ qua sự xác lập địa vị chủ đạo của quan

hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa, tìm tòi những hình thức kinh tế quá độ về sở hữu, quản lý và

phân phối phù hợp với trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất. Do vậy, trong công cuộc

đổi mới hiện nay, cần phải thiết lập từng bƣớc quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho nó

ngày càng chiếm vai trò chủ đạo, và đến khi kết thúc thời kỳ quá độ phải chiếm địa vị thống

trị. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không quay trở lại với cách làm cũ, xã hội hóa một cách

hình thức, thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa một cách chủ quan, duy ý chí trong khi

chƣa có lực lƣợng sản xuất tƣơng ứng.

Đảng và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển

nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý của

Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã

hội chủ nghĩa. Đảng ta nhấn mạnh: "Nếu công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo nên lực lƣợng sản

xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là

để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp". [16, tr.24]

Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta vừa có những đặc điểm

phổ biến của mọi nền kinh tế thị trƣờng, vừa có những đặc trƣng riêng. Đó là nền kinh tế thị

trƣờng để phát triển chủ nghĩa xã hội chứ không phải để phát triển chủ nghĩa tƣ bản; là nền

kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần kinh tế tham gia bình đẳng với nhau, nhƣng thành phần

kinh tế nhà nƣớc ngày càng giữ vai trò chủ đạo; kết hợp chặt chẽ giữa thị trƣờng và kế hoạch;

một nền kinh tế thị trƣờng văn hóa và nhân văn, giải quyết hài hòa giữa tăng trƣởng kinh tế

- 119 -

công bằng xã hội, an ninh xã hội và an ninh môi sinh, nâng cao không ngừng chất lƣợng cuộc

sống của nhân dân; một nền kinh tế mở, chủ động tham gia quá trình toàn cầu hóa, hội nhập

quốc tế, khai thác tối đa nguồn lực bên ngoài, nhƣng giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập,

lấy phát huy nội lực là chính, phát triển bền vững.

Kinh tế nhiều thành phần là một hệ thống những thành phần kinh tế khác nhau, dựa

trên những quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối khác nhau, trong một nền kinh tế quốc dân

thống nhất. Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lƣợc lâu dài, có tính quy

luật từ nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, bảo

đảm mọi ngƣời làm ăn theo pháp luật. Các hình thức sở hữu về tƣ liệu sản xuất vốn có bản

chất riêng, nhƣng trong hoạt động sản xuất kinh doanh không ngăn cách nhau, mà có nhiều

loại hình hỗn hợp đan kết với nhau. Sự vận động kinh tế trên chặng đƣờng hiện nay ở nƣớc ta

về cơ bản đã hình thành năm thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế quốc dân thông nhất do

Nhà nƣớc hƣớng dẫn, kiểm soát và điều tiết, với kinh tế nhà nƣớc nắm những vị trí then chốt

và đóng vai trò chủ đạo, là "đài chỉ huy", là "mạch máu" của nền kinh tế, các đơn vị sản xuất

kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với

nhau trên cơ sở bình đẳng trƣớc pháp luật.

Để kinh tế nhà nƣớc đóng vai trò chủ đạo, chúng ta cần tiếp tục đổi mới và phát triển

khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc. Liên quan đến vấn đề này, chúng ta đang cố gắng đẩy mạnh

sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nƣớc, và trên cơ sở đó, tiến hành các biện pháp đổi mới cơ

chế quản lý, chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này. Điều cần

lƣu ý là, hiệu quả kinh tế vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế quốc dân không tách rời hiệu quả

kinh tế vi mô của các doanh nghiệp nhà nƣớc; nếu doanh nghiệp nhà nƣớc kém hiệu quả và

- 120 -

sức cạnh tranh thì vai trò chủ đạo của nó không thể phát huy và làm suy giảm sức cạnh tranh

của toàn bộ nền kinh tế. Bởi vậy, tiếp tục đổi mới và phát triển khu vực doanh nghiệp nhà

nƣớc là yêu cầu tất yếu cho việc duy trì và nâng cao tốc độ tăng trƣởng kinh tế, tăng cƣờng

khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.

Cùng với việc tiếp tục đổi mới và phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc, chúng ta

cần phát triển các loại hình doanh nghiệp thuộc kinh tế hợp tác, kinh tế tƣ bản nhà nƣớc, kinh

tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tƣ bản tƣ nhân. Để thực hiện đƣợc điều đó, Nhà nƣớc cần phải

tiếp tục hoàn thiện môi trƣờng sản xuất kinh doanh theo pháp luật, tạo điều kiện cần thiết cho

các doanh nghiệp và nhân dân đầu tƣ phát triển các hình thức hợp tác, liên kết giữa các thành

phần kinh tế.

Quá trình phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần ở nƣớc ta lên chủ nghĩa xã hội

chỉ có thể đƣợc thực hiện với điều kiện phát huy vai trò hoạt động tự giác của chủ thể cách

mạng, đặc biệt là của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa trong tổ chức, quản lý nền kinh tế, làm cho

kinh tế nhà nƣớc và kinh tế hợp tác kết hợp chặt chẽ với nhau, trỏ thành nền tảng của nền

kinh tế quốc dân, kinh tế nhà nƣớc càng giữ địa vị chủ đạo. Chỉ ƣơng điều kiện đó, các thành

phần kinh tế khác mới phát huy đƣợc tác dụng tích cực, thúc đẩy lực lƣợng sản xuất phát ƣiển

bền vững, làm cho độc lập, tự chủ đƣợc giữ vững, đất nƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội, xu hƣớng

tự phát tƣ bản chủ nghĩa sẽ bị đẩy lùi từng bƣớc và tránh nguy cơ chệch hƣớng xã hội chủ

nghĩa.

Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta chỉ có thể đƣợc thực

hiện thắng lợi với điều kiện tiên quyết là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và tăng cƣờng vai

trò quản lý của Nhà nƣớc. Sử dụng có hiệu quả "bàn tay hữu hình" của nhà nƣớc kết hợp với

"bàn tay vô hình" của thị trƣờng theo hƣớng phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trƣờng,

khắc phục kịp thời những mặt tiêu

- 121 -

cực của nó. Muốn vậy, Nhà nước cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nhầm mục

tiêu xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị

trường. Cụ thể là:

Thứ nhất, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bƣớc hoàn thiện các loại thị

trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề rất quan trọng, bởi lẽ nền kinh tế thị

trƣờng chỉ hoạt động có hiệu quả trong điều kiện các loại thị trƣờng hoạt động thông suốt và

đồng bộ. Đƣơng nhiên, sự phát triển của từng loại thị trƣờng và sự đồng bộ giữa chúng cũng

chính là sự phản ánh mức độ chín muồi của bản thân nền kinh tế.

Thứ hai, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội

chủ nghĩa, khắc phục những yếu kém hiện nay, gỡ bỏ những vƣớng mắc cản trở sự phát triển.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nƣớc đối với nền kinh tế.

Đó là: Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về kinh tế; đổi mới công tác kế hoạch hóa; đổi mới các

chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả; đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế;

tăng cƣờng công tác đào tạo và bồi dƣỡng cán bộ quản lý kinh tế;...

Tóm lại, nhờ áp dụng phƣơng pháp hệ thống vào tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế

với các giải pháp, biện pháp đồng bộ và hợp lý, chúng ta sẽ thực hiện đƣợc mục tiêu xây

dựng và phát triển kinh tế với một tốc độ tăng trƣởng nhanh và bền vững, tạo cơ sở vững

chắc để tổ chức và quản lý các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

3.2.2. Vận dụng phương pháp hệ thông vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực xã hội.

Nói đến lĩnh vực xã hội là nói đến hệ thống các mối liên hệ, quan hệ giữa các yếu tố

khác nhau của chỉnh thể xã hội : giữa những cá nhân và giữa những

- 122 -

cộng đồng xã hội (giai cấp, dân tộc, gia đình, ...). Đây là một trong những lĩnh vực trọng yếu

nhất của xã hội, nó hầu nhƣ bao trùm mọi mặt của đời sống con ngƣời, quan hệ trực tiếp đến

lợi ích của từng con ngƣời và các cộng đồng ngƣời ƣơng xã hội. Vì vậy, việc tổ chức, quản lý

lĩnh vực xã hội ở nƣớc ta hiện nay hƣớng tới mục tiêu bao trùm là tiến bộ và công bằng xã

hội.

Hiện nay, thích ứng với nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sở hữu đa

dạng thì công bằng xã hội cần phải đƣợc dựa trên nguyên tắc : "Thực hiện nhiều hình thức

phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân

phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân

phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của

ngƣời lao động" [16, tr.l 13 - 114]. Điều đó cũng có nghĩa, công bằng xã hội trong giai đoạn

hiện nay cần phải đƣợc hiểu : cống hiến ngang nhau, đƣợc hƣởng ngang nhau. Cống hiến ở

đây đƣợc hiểu là cả một quá trình, bằng và từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó lao động đƣợc

thực hiện là một cơ sở chủ yếu, chứ không phải là cơ sở duy nhất để tính phần của cải xã hội

mà họ đƣợc hƣởng.

Với mục tiêu trên, vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý lĩnh

vực xã hội ở nƣớc ta hiện nay thể hiện ở sự thống nhất giữa hệ thống các chính sách xã hội

và việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn.

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, để thực hiện mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội,

việc hoạch định các chính sách xã hội không chỉ dựa trên cơ sở kết hợp với chính sách kinh

tế, chính trị, văn hóa - tinh thần, mà quan trọng hơn là cần xuất phát từ thực tiễn và truyền

thống lâu đời của đất nƣớc, xuất phát từ các điều kiện vật chất có thể làm cơ sở cho việc thực

thi các chính sách đó. Điều đó vừa thể hiện tính khoa học của hoạt động, vừa thể hiện tính ƣu

việt của chế độ ta. Bởi vậy, khi chúng ta còn chƣa thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thì trƣớc

tiên

- 123 -

phải chú trọng phát triển kinh tế, song sẽ là sai lầm nếu không quan tâm giải quyết tốt những

vấn đề xã hội, không tạo ra sự phát triển cân đối, hài hòa giữa kinh tế và xã hội. Nhận thức

một cách đầy đủ tầm quan trọng của chính sách xã hội, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Đảng ta vạch rõ : "Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con ngƣời;

điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan

hệ dân tộc... Coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con ngƣời trong sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội" [12, tr.86].

Để giải quyết các vấn đề xã hội đạt kết quả, chính sách xã hội phải xác định đƣợc

phƣơng hƣớng đúng đắn. Cụ thể là : "Phát huy nhân tố con ngƣời trên cơ sở bảo đảm công

bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trƣởng kinh tế với tiến

bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trƣớc mắt

với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội" [13, tr.13]. Trong

những năm trƣớc mắt, chính sách xã hội hƣớng vào việc ổn định và lành mạnh hóa xã hội,

thực hiện công bằng trong phân phối, bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân

dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội do phân hóa giàu nghèo

gây ra, khắc phục dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi.

Nói đến chính sách xã hội, thực chất là chúng ta nói đến một hệ thống các chính sách

nhất định. Hệ thống chính sách xã hội phản ánh những giá trị nhân văn của nền văn hóa Việt

Nam, thể hiện lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng công dân,

điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích giữa con ngƣời với con ngƣời, giữa con ngƣời với xã hội,

nhằm mục đích cao nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân. Mọi chính sách xã hội đƣợc thực hiện theo tinh thần xã hội hóa. Một

- 124 -

mặt, chính sách xã hội không tách rời chính trị, không tách rời các chính sách kinh tế, văn

hóa, quốc phòng, an ninh, tài nguyên, môi trƣờng,...; Mặt khác, các chính sách xã hội tuy có

nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau song chúng không thể biệt lập với nhau hoặc tách rời nhau,

trái lại chúng có quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong một

chỉnh thể thống nhất. Một chính sách xã hội cụ thể cũng có thể cùng lúc góp phần giải quyết

nhiều vấn đề khác nhau hoặc là nhiều chính sách có thể giải quyết một vấn đề. Khi một

nhiệm vụ chủ yếu của một chính sách cụ thể nào đó đƣợc giải quyết, thì có thể đó lại là tiền

đề, là điều kiện để giải quyết nhiệm vụ của một chính sách khác. Do đó, khi hoạch định các

chính sách xã hội, nhất thiết phải đứng trên quan điểm đồng bộ, quan điểm tổng thể, tức là

bảo đảm tính hệ thống.

Với cách hiểu ấy, ở đây chúng ta chỉ đề cập đến một số vấn đề cơ bản nhất của lĩnh

vực xã hội ở nƣớc ta hiện nay mà công việc tổ chức và quản lý đặt ra dƣới quan điểm hệ

thống.

Nhƣ chúng ta biết, trong các yếu tố cấu thành lĩnh vực xã hội của xã hội có giai cấp

thì quan hệ giai cấp đóng vai trò chi phối. Song vấn đề giai cấp thống nhất với vấn đề dân tộc,

do đó giải quyết mối quan hệ giai cấp liên quan mật thiết với giải quyết mối quan hệ dân tộc.

Do đó, một ƣong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình tổ chức, quản lý lĩnh vực xã hội ở

nƣớc ta hiện nay là giải quyết tốt mối quan hệ xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc nhằm góp

phần hoàn thiện cơ cấu xã hội, củng cố sự đoàn kết thống nhất ƣơng xã hội. Giải quyết tốt

những vấn đề then chốt đó đóng vai ữò là cơ sở, nền tảng và tác động tích cực đến việc giải

quyết các vấn đề xã hội khác.

1. về quan hệ giai cấp :

- 125 -

Trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc hiện nay, tƣơng ứng với cơ cấu kinh tế nhiều thành

phần, đó là cơ cấu giai cấp đa dạng, phức tạp bao gồm nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội khác

nhau : Ngoài giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân

dân lao động khác, còn có tầng lớp tƣ sản, tầng lớp này có điều kiện phát triển trong nền kinh

tế thị trƣờng. Trong cơ cấu ấy, giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo thông qua đội tiên

phong của mình là Đảng Cộng sản; liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân

và tầng lớp trí thức trở thành cơ sở nền tảng xã hội của xã hội mới.

Khẳng định vai trò nòng cốt của khối liên minh công - nông - trí thức, cho nên vấn đề

giải quyết mối quan hệ giai cấp cần phải chú trọng tăng cƣờng và củng cố khối liên minh này,

để nó ngày càng phát huy tác dụng mạnh mẽ trong đời sống xã hội.

Điều này đòi hỏi : Đảng và Nhà nƣớc phải kịp thời ban hành và tổ chức thực hiện các

chính sách nhằm tăng cƣờng sự thống nhất về lợi ích giữa các giai tầng; đồng thời phải coi

trọng lãnh đạo xây dựng các tổ chức của nó, làm cho các tổ chức đó thực sự là chỗ dựa tin

cậy của hội viên, đoàn viên, chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nƣớc nhằm thúc đẩy sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc đi đến thành công. Để thực hiện tốt nhiệm vụ

đó, quá trình thực hiện cần phải quán triệt phƣơng châm mà Hồ Chí Minh đã vạch ra : "Đào

tạo trí thức công nông hóa. Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ tri

thức của mình; còn trí thức cần gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và

kinh nghiệm của công nông" [61, tr.203-204].

Song song với những chính sách và những giải pháp đồng bộ nhằm củng cố khối liên

minh công nông trí thức, cần có cơ chế kiểm tra, quản lý của Nhà nƣớc đối với bộ phận tƣ

sản, bảo đảm cho họ tự do phát triển doanh nghiệp, tồn tại và hoạt động theo luật pháp và

chính sách của Nhà nƣớc. Đồng thời, đối với

- 126 -

các tầng lớp lao động khác nhƣ những ngƣời sản xuất hàng hóa nhỏ, tiểu thƣơng, tiểu chủ,...,

cần có những biện pháp cụ thể, thông qua chính sách bảo hộ sở hữu tài sản và vốn, khuyến

khích đầu tƣ mở rộng sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh, thực hiện các nghĩa vụ

mà luật pháp quy định, để họ ngày càng phát huy tiềm năng của mình trong khuôn khổ của

luật pháp.

Liên quan đến vấn đề giai cấp và quan hệ giai cấp, việc tổ chức và quản lý lĩnh vực xã

hội không thể không quan tâm đến vấn đề đấu tranh giai cấp. Trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở nƣớc ta, xã hội vẫn tồn tại lâu dài các giai cấp, các mâu thuẫn giai cấp. Đấu

tranh giai cấp là một thực tế khách quan không thể tránh khỏi.

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tuy chịu sự chi phối của những quy

luật phổ biến trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhƣng biểu hiện của những quy luật

đó ở Việt Nam lại mang tính chất đặc thù, phản ánh những điều kiện và đặc điểm riêng của

nƣớc ta. Tính đặc thù này quy định sự phong phú và phức tạp về nội dung và hình thức của

đấu tranh giai cấp, của chuyên chính và dân chủ ở Việt Nam, cả về những hình thức, bƣớc đi,

các giải pháp xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.

Ngay từ năm 1919, xuất phát từ thực tiễn nƣớc Nga, V. I. Lênin đã nêu lên năm hình

thức mới của đấu tranh giai cấp, trong đó hình thức thứ tƣ là "sử dụng giai cấp tƣ sản" [xem:

43, tr.298-300]. Trung thành và vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng của V.I.Lênin vào thực tế Việt

Nam, trong khi triển khai đấu tranh giai cấp, làm cho con đƣờng xã hội chủ nghĩa chiến thắng

con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa, chúng ta vẫn có thể duy trì một mặt trận dân tộc thống nhất rộng

rãi, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với bộ phận tƣ sản, sử dụng bộ phận tƣ sản vào sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một đặc điểm rất mới của đấu tranh giai cấp ở nƣớc ta hiện nay.

Trong điều kiện hiện nay, chúng ta đang khuyến khích bộ phận

- 127 -

tƣ sản cùng tham gia xây dựng và bảo vệ đất nƣớc vì những mục tiêu cách mạng: vì độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đấu tranh giai cấp hiện nay là đấu tranh để dần dần xóa bỏ những tiền đề cơ bản sản

sinh ra tình trạng ngƣời áp bức bóc lột ngƣời trong xã hội. Cuộc đấu tranh đó không diễn ra

theo cách loại bỏ nhau giữa các thành phần kinh tế, các lực lƣợng xã hội đối lập nhau, mà là

những thành phần, lực lƣợng đó tồn tại bên nhau, cùng hợp tác lâu dài với nhau nhƣng lại đấu

tranh với nhau trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất, một quốc gia - dân tộc thống nhất.

Nội dung chủ yếu và quyết định nhất của cuộc đấu tranh này là thực hiện công nghiệp hóa,

hiện đại hóa theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh này, tƣơng quan so

sánh lực lƣợng giữa các thành phần kinh tế, các lực lƣợng xã hội là một tƣơng quan động,

phản ánh thế và lực của mỗi thành phần, mỗi lực lƣợng và xu hƣớng vận động của nó. Một

yêu cầu khách quan đặt ra đối với quá ƣình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa định

hƣớng xã hội chủ nghĩa là các nhân tố, các giá trị xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, biểu

hiện trực tiếp ở thành phần kinh tế nhà nƣớc giành địa vị chủ đạo trong nền kinh tế. Đó cũng

là một điều kiện để quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa không bị chệch hƣớng.

Song song với việc giành địa vị chủ đạo trong nền kinh tế của kinh tế nhà nƣớc, đấu

tranh giai cấp còn diễn ra trên các lĩnh vực khác của đời sống nhƣ chính trị, văn hóa và xã

hội. Do đó, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nƣớc ta biểu hiện ra là cuộc đấu tranh

chống các lực lƣợng phản cách mạng, những kẻ thù của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Các thế lực ấy tuy chiếm bộ phận nhỏ dân cƣ, song rất nguy hiểm, vì chúng là công cụ để chủ

nghĩa đế quốc thực hiện "diễn biến hòa bình". Bởi vậy, quá trình tổ chức, quản lý lĩnh vực xã

hội cần hết sức chú trọng đến việc đấu tranh nhằm ngăn chặn, loại trừ nguy cơ "diễn biến hòa

bình", chống khuynh hƣớng tự phát tƣ bản chủ nghĩa.

- 128 -

Muốn thực hiện đƣợc nhiệm vụ quan trọng đó, cần phải có những chính sách, biện pháp cụ

thể nhằm khắc phục mặt trái của cơ chế thị trƣờng, giảm bớt khoảng cách chênh lệch giàu

nghèo, chống lại những biểu hiện của lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, những sản

phẩm văn hóa đồi trụy; cần thúc đẩy các nhân tố, các giá trị xã hội chủ nghĩa trong văn hóa,

đạo đức, lối sống, và đặc biệt trong quá trình mở cửa cần đề phòng, cảnh giác trƣớc những

âm mƣu chống chủ nghĩa xã hội của các thế lực thù địch. Chỉ có nhƣ vậy, chúng ta mới có

đƣợc môi trƣờng xã hội ổn định, lành mạnh, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nƣớc

ngày càng phát triển.

2. Về quan hệ dân tộc :

Một vấn đề có vị trí cực kỳ quan ƣọng mang ý nghĩa chiến lƣợc trong lĩnh vực xã hội

là vấn đề dân tộc. Ngay từ khi thành lập, Đảng và Nhà nƣớc ta đã coi vấn đề dân tộc là một

vấn đề có tầm chiến lƣợc, và giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ chiến lƣợc nhằm

phát huy sức mạnh tổng hợp, tiềm năng riêng của từng dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh

giành độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Xuất phát từ truyền thống ấy, quá trình tổ chức, quản lý lĩnh vực xã hội ở nƣớc ta hiện

nay nhằm thực hiện phương hướng chung là tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân

tộc.

Để đạt đƣợc mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn

lãnh thổ, tiến lên dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, cần đoàn kết

đƣợc tất cả mọi ngƣời trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, bao gồm các giai cấp, các tầng

lớp, các dân tộc, các tôn giáo, cộng đồng ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài. Đại đoàn kết

dân tộc lấy mục tiêu chung, lợi ích chung của dân tộc làm cơ sở, chấp nhận những điểm khác

biệt, cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hƣớng về tƣơng lai; xây dựng tinh thần đoàn kết,

- 129 -

thống nhất, cởi mỏ, tin cậy lẫn nhau. Muốn vậy, Đảng và Nhà nƣớc phải tích cực chăm lo xây

dựng khối đại đoàn kết dân tộc và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cƣờng mối liên

hệ mật thiết với các tầng lớp nhân dân, đấu tranh không khoan nhƣợng với mọi biểu hiện của

chủ nghĩa quan liêu. Đặc biệt, Mặt trận Tổ quốc cần vận động, tổ chức thu hút mọi tầng lớp

nhân dân xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc

ngay trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc; đồng thời mở rộng khối đại đoàn kết

dân tộc bằng các hình thức đa dạng, thích hợp với từng giới, từng thành phần xã hội, từng địa

phƣơng , cơ sở; ...

Với sự thực hiện toàn diện và đồng bộ các giải pháp ấy, chúng ta sẽ ngày càng củng

cố và giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc.

Nhƣ vậy, vận dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý những mặt

rộng lớn trong lĩnh vực xã hội có ý nghĩa then chốt và chi phối toàn bộ đời sống xã hội. Bởi

vì, khi đề ra các chính sách và các giải pháp tƣơng ứng để giải quyết các vấn đề về giai cấp,

về dân tộc, thì đồng thời nó đã bao hàm và liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến việc giải

quyết các vấn đề xã hội khác, nhƣ: vấn đề việc làm; vấn đề xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp

nghĩa, bảo hiểm xã hội; vấn đề nhân đạo và từ thiện; vấn đề bảo vệ môi trƣờng; vấn đề chăm

sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất của nhân dân; vấn đề dân số - kế hoạch hóa gia

đình và quan hệ gia đình; vấn đề y tế, giáo dục; vấn đề đẩy lùi các tệ nạn xã hội; ... Mặc dù,

mỗi vấn đề cụ thể cần phải có những chính sách và biện pháp giải quyết đặc trƣng riêng cho

mình, nhƣng cũng đều có sự liên hệ, phối hợp đồng bộ với nhau và đều tuân theo những

nguyên tắc, những quan điểm chỉ đạo chung để nhằm mục tiêu rộng lớn là thực hiện sự tiến

bộ và công

- 130 -

bằng xã hội, góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình phát ƣiển các lĩnh vực khác của đời sống

xã hội, trong đó có lĩnh vực chính trị.

3.2.3. Vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý lĩnh vực chính

trị

Đề cập đến lĩnh vực chính trị, V.I. Lênin cho rằng, "chính trị là sự biểu hiện tập trung

của kinh tế" [44, tr.349], là "quan hệ giữa các giai cấp" [45, tr.87 - 88], là "sự tham gia vào

các công việc của nhà nƣớc, sự chỉ đạo nhà nƣớc, sự quy định các hình thức, nhiệm vụ, nội

dung của hoạt động nhà nƣớc" [dẫn theo: 140, tr.415]. Điều này cho ta thấy, chính trị là loại

hoạt động điều tiết các quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các tập đoàn xã hội nhằm duy

trì, phát triển và hoàn thiện một cấu trúc và tổ chức xã hội nhất định vì lợi ích của giai cấp

cầm quyền cũng nhƣ của toàn xã hội. Vì chính trị là nghệ thuật quản lý cho nên hoạt động

chính trị là hoạt động có trách nhiệm nhất trong tất cả các dạng hoạt động xã hội. Về đại thể,

cấu trúc của hoạt động chính trị bao gồm ba nhân tố cơ bản : một là, năng lực đề ra những

mục tiêu chiến lƣợc và chiến thuật; hai là, vạch ra các phƣơng pháp, phƣơng tiện, hình thức

hữu hiện tổ chức các lực lƣợng xã hội nhằm mục tiêu đã đề ra; ba là, tuyển chọn và bố trí

thích hợp những cán bộ có năng lực giải quyết các nhiệm vụ đặt ra. Song không thể tiến hành

hoạt động chính trị nếu không có một hệ thống quyền lực chính trị nhất định. Đó là các tổ

chức và thiết chế quyền lực với tính cách là những yếu tố của một chỉnh thể hệ thống chính

trị có phân ngành và liên kết với nhau, hợp thành một cơ chế thực hiện quyền lực chính trị

trong xã hội. Nó bao gồm bộ máy nhà nƣớc, các đảng chính trị, các tổ chức chính ƣị - xã hội

khác. Do đó, nói đến lĩnh vực chính trị là nói đến các tổ chức và thiết chế quyền lực, hệ thống

luật pháp, các chính sách, các tƣ tƣởng, các quan điểm chính trị, mối tƣơng quan và sự vận

hành của chúng.

- 131 -

Với cách hiểu nhƣ trên, vấn đề tổ chức và quản lý lĩnh vực chính trị biểu hiện thông

qua hoạt động của các tổ chức và thiết chế quyền lực, nghĩa là thông qua hoạt động của hệ

thống chính trị.

Đối với công cuộc đổi mới ở nƣớc ta hiện nay, trong khi khẳng định tính toàn diện

của quá trình đổi mới, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã xem đổi mới

kinh tế là trọng tâm, tùy theo thành quả và yêu cầu đổi mới kinh tế, từng bƣớc đổi mới về

chính trị và hệ thống chính trị.

Nhờ thực hiện nhất quán quan điểm chiến lƣợc đó, chúng ta đã giữ vững ổn định về

chính trị, có quan điểm chính trị đúng đắn để phát huy tối đa các nguồn lực trong nƣớc và

khai thác có hiệu quả sức mạnh của thời đại, làm cho nền kinh tế đạt tốc độ tăng trƣởng cao,

nhiều vấn đề xã hội bức xúc từng bƣớc đƣợc giải quyết.

Những thành quả đó có đƣợc, một phần đáng kể là do tác động tích cực của đổi mới

hệ thống chính ƣị trên cả phƣơng diện tƣ duy, tổ chức, quản lý bộ máy, phƣơng pháp lãnh

đạo và phong cách hoạt động của nó.

Trong khi khẳng định những bƣớc tiến to lớn trong đổi mới hệ thống chính trị và tác

động tích cực của nó đối với lĩnh vực chính trị và toàn bộ đời sống xã hội, chúng ta cũng

không thể không thấy rằng : "Nhìn chung tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là bộ

máy hành chính nhà nƣớc còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng nấc trung gian, chất lƣợng hoạt

động và hiệu quả thấp. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách nhiệm của nhiều cơ

quan và ngƣời đứng đầu chƣa thật rõ, còn chồng chéo, cơ chế vận hành và nhiều mối quan hệ

còn bất hợp lý; đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn và tinh

thần trách nhiệm;... Tình hình đó đã làm giảm hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng, làm yếu

hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc" [22, tr.33].

- 132 -

Những yếu kém đó của hệ thống chính trị có tác động tiêu cực tới quá trình phát triển kinh tế

- xã hội, tới việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Bởi vậy, việc tiếp tục đổi mới và tăng cƣờng hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả tác

động của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa là một vấn

đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn bức xúc trong lĩnh vực chính trị của xã hội ta hiện nay. Để

giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ đó, việc nắm vững và vận dụng phương pháp hệ thống vào

việc tổ chức và quản lý lĩnh vực chính trị, cũng nhƣ xác định các giải pháp cơ bản để tiếp tục

đổi mới hệ thống đó là vấn đề hết sức quan trọng.

Khẳng định cấu trúc của hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

ở nƣớc ta hiện nay, trong Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ƣơng khóa

VIII của Đảng viết : "Hệ thống chính trị ở nƣớc ta bao gồm Đảng, Nhà nƣớc, Mặt trận và các

đoàn thể nhân dân" [22, tr.32].

Đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống chính trị đó có chức

năng cơ bản là thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, tăng

cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân, từng bƣớc hình thành và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ

nghĩa, mà nội hàm cơ bản của nó là : toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo

của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

Việc đổi mới tổ chức, quản lý trong hệ thống chính trị phải hƣớng vào mục tiêu chủ

yếu là thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Để đạt

đƣợc mục tiêu ấy, cần phải : một là, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; hai là, tăng cƣờng sự

quản lý của Nhà nƣớc; ba là, củng cố hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính

trị - xã hội khác; bốn là, chú trọng công tác cán bộ.

1. về giữ vững sự lãnh đạo của Đảng :

- 133 -

Trong hệ thống tổ chức, quản lý xã hội ở nƣớc ta, Đảng giữ vị trí là hạt nhân chính trị,

là trung tâm và có vai trò quyết định đối với sự phát triển của xã hội. Đảng vừa là một bộ

phận, vừa là lực lƣợng lãnh đạo duy nhất của hệ thống chính trị, hệ thống quản lý ở nƣớc ta.

Đây là điều kiện cần thiết và tất yếu bảo đảm cho hệ thống chính trị giữ đƣợc tính nhất quán

về đƣờng lối và mục tiêu chính trị, tính dân chủ và tính sáng tạo.

Muốn giữ vững đƣợc vai trò lãnh đạo chính trị, khâu then chốt là Đảng phải tăng

cƣờng bản chất giai cấp công nhân của mình; Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ

trí tuệ, năng lực lãnh đạo; Đảng phải thƣờng xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ

nghĩa cá nhân; Đảng phải đƣợc củng cố về tổ chức, đoàn kết thống nhất có sức chiến đấu cao;

Đảng phải củng cố, tăng cƣờng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, chăm lo đời

sống của nhân dân, thực sự phát huy quyền làm chủ của họ; và đặc biệt, Đảng cần chăm lo

xây dựng đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự phát triển liên tục của cách mạng và sự bền vững của

chế độ, của đất nƣớc.

2. Về tăng cường sự quản lý của Nhà nước :

Để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân đòi hỏi :

- Thứ nhất, Nhà nước của chúng ta phải được xây dựng trên nguyên tắc nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Nhà nƣớc của chúng ta do nhân dân lập ra, do nhân dân nuôi dƣỡng; trên cơ sở phản

ánh đúng đắn yêu cầu và lợi ích của nhân dân, các chủ trƣơng, chính sách của Nhà nƣớc do

nhân dân thực hiện. Bởi vậy, theo Hồ Chí Minh, muốn thực sự là của dân, do dân và vì dân,

Nhà nƣớc phải dựa vào dân, phải tin vào sức mạnh của nhân dân để đề ra và sửa chữa các

chính sách, sửa bộ máy, sửa cán bộ của mình. Ngƣời nói : "Dân chúng biết giải quyết nhiều

vấn đề một cách

- 134 -

đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những ngƣời tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không

ra" [60, tr.295].

- Thứ hai, Nhà nước đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, có chức năng thể chế

hóa quan điểm chính trị của Đảng và tổ chức thực hiện chúng. Đây là vấn đề có tính nguyên

tắc để bảo đảm bản chất xã hội chủ nghĩa, bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân của

Nhà nƣớc; chống đƣợc những nguy cơ chệch hƣớng. Vì vậy, tăng cƣờng sự lãnh đạo của

Đảng chẳng những là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt quá trình cải cách bộ máy nhà nƣớc, mà

còn là nguyên tắc tổ chức quản lý và hoạt động của chính bộ máy nhà nƣớc.

Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc là lãnh đạo chính trị đối với tổ chức và hoạt động của Nhà

nƣớc, có nghĩa là, Đảng quyết định những vấn đề về tƣ tƣởng, về quan điểm, về chính sách,

về công tác cán bộ thông qua những cơ chế thích hợp. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà

nƣớc đƣợc thực hiện thông qua đảng viên và các tổ chức đảng, các ban cán sự trong cơ quan

nhà nƣớc. Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc không phải bằng mệnh lệnh hành chính, mà bằng việc

đƣa ra những nghị quyết về các vấn đề cần thiết để đảng viên và các tổ chức đảng ƣong bộ

máy nhà nƣớc thi hành. Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc, lãnh đạo thi hành Hiến pháp, pháp luật,...

nhƣng Đảng cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật.

- Thứ ba, Nhà nước của chúng ta phải dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công

nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tất cả quyền

lực nhà nƣớc đều thuộc về nhân dân; không ngừng phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa;

giữ nghiêm kỷ cƣơng xã hội; chuyên chính với mọi hành động xâm phạm tới lợi ích của Tổ

quốc và của nhân dân. Nhà nƣớc đó cần phải bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp

công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.

- 135 -

- Thứ tư, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, có sự phân

công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp. Quan điểm có tính nguyên tắc đó đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta vận

dụng trong việc phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực

hiện ba quyền. Điều đó có nghĩa là trong quá trình cải cách và xây dựng nhà nƣớc phải chú

trọng xác định rõ chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của các cơ quan nhà nƣớc để hạn chế sự

lộng quyền, lạm quyền, chồng chéo và cản trở công việc của nhau. Tuy có sự phân công giữa

các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp, song không

có nghĩa là mỗi quyền chỉ do một cơ quan nhà nƣớc nắm trọn vẹn. Quốc hội là cơ quan duy

nhất nắm quyền lập pháp, nhƣng cũng có trách nhiệm và quyền hạn về một số quyền trên lĩnh

vực khác. Tƣơng tự nhƣ vậy, Chính phủ là cơ quan hành pháp nhƣng cũng có trách nhiệm lớn

trong quá trình lập pháp, tƣ pháp. Tòa án nắm chức năng trung tâm của quyền tƣ pháp, nhƣng

để xét xử nghiêm minh, phải có hoạt động của Viện kiểm sát nhằm giám sát việc tuân thủ

pháp luật của Chính phủ.

- Thứ năm, trong tổ chức và hoạt động của mình, Nhà nước quán triệt nguyên tắc tập

trung dân chủ. Chỉ khi đó mới bảo đảm đƣợc sự thống nhất tổ chức và hành động, phát huy

đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả tập thể và từng cá nhân, của cả nƣớc và từng

địa phƣơng , của từng tổ chức và cả hệ thống bộ máy.

Theo nguyên tắc tập trung dân chủ, Nhà nƣớc của chúng ta không tổ chức theo kiểu

phân lập, nhƣng có sự phân cấp nhất định. Đó trƣớc hết là sự phân cấp quản lý giữa trung

ƣơng và địa phƣơng.

- 136 -

Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nƣớc cũng đòi hỏi

phải kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo địa bàn lãnh thổ; kết hợp quản

lý của Bộ và quản lý của ủy ban nhân dân.

- Thứ sáu, Nhà nước phải quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật và theo

pháp luật. Pháp luật phải trở thành công cụ điều tiết chủ yếu các quan hệ xã hội cơ bản giữa

các giai cấp, các tầng lớp, các tổ chức xã hội,...

Pháp luật là công cụ điều tiết chủ yếu các quan hệ xã hội cơ bản, nhƣng không phải là

công cụ điều tiết duy nhất. Trong quan hệ đa dạng và phức tạp giữa con ngƣời với con ngƣời,

không phải mọi vấn đề đều có thể pháp luật hóa, không phải mọi hành vi mà pháp luật không

cấm đều có thể làm mà không bị dƣ luận xã hội lên án. Đó là những vấn đề liên quan tới

chuẩn mực đạo đức, tập quán tốt đẹp của nhân dân trong cách ứng xử xã hội. Hơn nữa, hiệu

quả quản lý xã hội không thể đạt đƣợc chỉ nhờ quyền uy của pháp luật, mà còn nhờ tấm

gƣơng đạo đức của những ngƣời thi hành công vụ.

- Thứ bảy, yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nƣớc và mở rộng quyền lực

của nhân dân trong giai đoạn hiện nay cũng đòi hỏi phải xem cải cách một bước nền hành

chính quốc gia là một nhiệm vụ trọng điểm.

Trong cải cách nền hành chính nhà nƣớc, phải tiến hành đồng bộ - một là, cải cách thể

chế hành chính; hai là, cải cách tổ chức bộ máy; và ba là, cải cách công tác cán bộ, công

chức hành chính.

Liên quan đến vấn đề thứ nhất, phải cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế

quản lý bằng pháp luật, đề cao nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Liên quan đến vấn đề thứ

hai, cần chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt động của bộ máy hành chính các

cấp; định rõ thứ bậc và quan hệ thứ bậc trong bộ máy hành chính; xác định rõ vị ƣí, vai trò

của từng cấp chính quyền; kiện toàn chính quyền cơ sở. Liên quan đến vấn đề thứ ba, cần ban

hành quy chế

- 137 -

về chế độ công vụ và công chức; định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền, quyền lợi và kỷ

luật hành chính; quy định chế độ đào tạo, tuyển dụng và sàng lọc công chức; xây dựng đội

ngũ công chức có chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cao, giác ngộ về chính trị, có tinh thần

trách nhiệm, sự công tâm và tận tụy với công việc.

3. Về củng cố Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác:

Trƣớc hết, cần phải củng cố, mở rộng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam - một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể chính trị - xã hội

và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo.

Các tổ chức chính trị - xã hội khác nhƣ tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên,... cần tập

hợp rộng rãi các hội viên, đoàn viên dƣới nhiều hình thức tổ chức đa dạng; thực hiện tốt chức

năng giáo dục, vận động quần chúng thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cụ thể; chăm lo

thiết thực lợi ích của hội viên, đoàn viên đại diện cho tầng lớp mình tham gia công việc của

Nhà nƣớc.

4. về công tác cán bộ :

Bộ máy hệ thống chính trị do con ngƣời tạo ra, đƣợc vận hành bởi con ngƣời, trong

đó trực tiếp nhất là con ngƣời lãnh đạo, là đội ngũ cán bộ. Do vậy, để hệ thống này hoạt động

có hiệu quả, phải có đội ngũ cán bộ mạnh.

Thực vậy, nhƣ chúng ta biết, sau khi có đƣờng lối đúng, cán bộ trƣớc hết là cán bộ

lãnh đạo chính trị - có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì, mọi đƣờng lối chính trị, dù đúng

đến đâu, tự bản thân nó cũng không thay đổi đƣợc hiện thực. Để biến đƣờng lối đúng thành

những thay đổi xã hội theo chiều hƣớng tiến bộ, việc đƣa đƣờng lối vào nhân dân, tổ chức

hoạt động của nhân dân theo một chƣơng trình khoa học dƣới sự lãnh đạo của cán bộ lãnh

đạo chính trị với kỹ năng, kỹ xảo cao,... có ý nghĩa quyết định.

- 138 -

Thực tế chứng minh rằng, không thể trở thành nhà lãnh đạo chính trị có kinh nghiệm,

có bản lãnh, tham gia tích cực, sáng suốt và có trí tuệ trong quá trình lãnh đạo chính trị, tổ

chức, quản lý xã hội, nếu cán bộ không đƣợc trang bị những tri thức phong phú của kho tàng

văn hóa chính trị, không nắm đƣợc những thành quả quý báu của văn hóa chính trị hiện đại

[xem: 68, tr.8].

Để xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa có thể đƣợc thực hiện bằng nhiều giải pháp khác nhau; trong đó cần phải

nâng cao ƣình độ tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo; nâng cao kỹ năng, kỹ xảo cũng

nhƣ công nghệ quản lý các quá trình chính trị - xã hội, nâng cao tính nhạy bén trong việc phát

hiện những tình huống chính trị - xã hội phức tạp nảy sinh ở nơi này, nơi khác; cũng nhƣ

trong việc đƣa ra những giải pháp tình thế để xử lý kịp thời những vấn đề đó.

Để thực hiện đƣợc những nhiệm vụ đó, ngƣời cán bộ lãnh đạo chính trị cần có đƣợc :

Thứ nhất, khả năng nắm bắt kịp thời ý nguyện chính đáng của quần chúng; thứ hai, khả năng

nghe, biết nghe và biết xử lý đúng đắn ý kiến khác với mình; thứ ba, năng lực kết hợp hài hòa

giữa dân chủ trong trong quá trình ra và tổ chức thực hiện các quyết định với việc phát huy

vai trò của ngƣời cán bộ lãnh đạo chính trị - điều đó đƣợc biểu hiện ở khả năng quyết đoán

trong những thời điểm và trên những vấn đề cần thiết.

Trong tình hình cụ thể ở nƣớc ta hiện nay, việc nâng cao trình độ của ngƣời cán bộ

lãnh đạo chính trị, trƣớc hết đòi hỏi phải nâng cao chất lƣợng và hiệu quả giáo dục chủ nghĩa

Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải tạo điều kiện để cán bộ lãnh đạo chính

trị tắm mình trong thực tiễn chính trị của đất nƣớc, nắm đƣợc thực tiễn của thời đại, từ đó tích

lũy đƣợc những tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng và kỹ xảo cần thiết cho hoạt động chính trị.

- 139 -

Tóm lại, trong việc tổ chức và quản lý lĩnh vực chính trị ở nƣớc ta hiện nay, bằng

những biện pháp tác động mang tính đồng bộ, toàn diện, mang tính hệ thống nhƣ trên, chúng

ta sẽ có đƣợc một môi trƣờng chính trị ổn định, một hệ thống chính trị đủ phẩm chất và năng

lực đƣa đất nƣớc tiến lên trong giai đoạn mới.

3.2.4. Vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý tinh vực tinh

thần

Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội hết sức phong phú và đa dạng, có mối quan hệ

mật thiết với các lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị. Với tính cách là một hệ thống, nó bao

gồm các yếu tố nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành một chỉnh thể.

Chẳng hạn : tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống; giáo dục - đào tạo; khoa học - công nghệ; văn học

nghệ thuật; thông tin đại chúng; giao lƣu văn hóa đối với nƣớc ngoài; thể chế và thiết chế văn

hóa; y tế; hoạt động tôn giáo; ... Do đó, việc tổ chức và quản lý các bộ phận ấy có mối quan

hệ mật thiết với nhau; phải bảo đảm sự phát triển đồng bộ, hài hòa tất cả các lĩnh vực của đời

sống tinh thần; bảo đảm sự cân đối và thống nhất trong các hoạt động sản xuất (sáng tạo), bảo

quản, phân phối, trao đổi và tiêu dùng các sản phẩm tinh thần; phải kết hợp việc phát triển

đồng bộ, hài hòa tất cả các lĩnh vực tinh thần với việc phát triển trọng điểm một số lĩnh vực

tinh thần nhất định.

Trong công cuộc đổi mới đất nƣớc ta hiện nay, trong lĩnh vực tinh thần, chung quy

lại, nổi bật lên ba bộ phận cốt lõi cần quan tâm giải quyết trƣớc hết về mặt tổ chức và quản lý,

đó là văn hóa, giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ. Bởi vì, ba bộ phận (lĩnh vực) ấy

có vai trò hết sức to lớn đối với đời sống xã hội, nhƣ Đảng ta khẳng định : "Văn hóa là nền

tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã

hội" [16, tr.l10];

- 140 -

và nhấn mạnh: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu"

[16, tr.107].

1. về văn hóa :

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ

phát triển của dân tộc, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.

Văn hóa Việt Nam là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp trong quan hệ giữa con ngƣời với con

ngƣời, giữa con ngƣời với xã hội và tự nhiên, đƣợc đúc kết từ cuộc sống và từ thực tiễn đấu

tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của nhân dân ta qua hàng ngàn năm lịch sử, tiếp thu những tinh

hoa văn hóa nhân loại. Đó là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Với cách hiểu nhƣ vậy, vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý

lĩnh vực văn hóa phải hƣớng vào mục tiêu tổng thể là xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt

Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để đạt đƣợc mục tiêu tổng thể ấy, trong giai đoạn đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, thì nhiệm vụ củng cố, xây dựng và hoàn thiện

thể chế văn hóa là một nhiệm vụ đặc thù, vừa là một phƣơng diện phải phấn đấu của sự

nghiệp văn hóa, vừa là nhân tố để thực hiện thành công các nhiệm vụ khác. Vì vậy, có thể coi

việc xây dựng thể thế văn hóa là "nhiệm vụ của các nhiệm vụ", là thước đo trình độ tổ chức

và quản lý của các cơ quan quản lý nhà nƣớc về văn hóa hiện nay.

Để xây dựng và phát triển văn hóa nhằm tạo ra ngày càng nhiều các giá trị chân -

thiện - mỹ trong đời sống xã hội, con ngƣời luôn luôn tìm kiếm những hình thức, phƣơng

pháp tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động văn hóa theo những khuôn khổ nhất định.

"Tổng hợp các hình thức tổ chức và phƣơng pháp điều hành hoạt động văn hóa làm nên thể

chế văn hóa của một giai đoạn lịch sử nhất định" [24, tr.22].

- 141 -

Thể chế văn hóa ở nƣớc ta hiện nay đƣợc hiểu là một hệ thống tổ chức, cơ chế, biện

pháp, phƣơng tiện khả thi để đƣa những đƣờng lối, chủ trƣơng, quan điểm chỉ đạo của Đảng

và Nhà nƣớc đi vào cuộc sống một cách hữu hiệu. Với tính cách là một chỉnh thể thống nhất,

thể chế văn hóa ở nƣớc ta hiện nay bao gồm : Hệ thống các văn bản pháp luật, chuẩn mực,

quy ƣớc, quy tắc về văn hóa hoặc có liên quan đến văn hóa; hệ thống các chính sách văn hóa;

bộ máy quản lý văn hóa từ trung ƣơng đến địa phƣơng, các tổ chức đoàn thể hữu quan, các

hội sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật; cơ chế hoạt động của bộ máy và các tổ chức đó; hệ

thống các thiết chế văn hóa;... Đặc điểm nổi bật của thể chế văn hóa ở nƣớc ta hiện nay là lấy

ý thức hệ tiên tiến của thời đại là chủ nghĩa Mác -Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm ngọn cờ

lý tƣởng, với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dƣới sự lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Việt Nam.

Để tổ chức và quản lý có hiệu quả nhất đối với lĩnh vực văn hóa nhằm tăng cƣờng sự

lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nƣớc và quyền làm chủ của nhân dân, làm cho văn

hóa trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, phát huy vai trò động lực của nó trong

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, cần đổi mới nhận thức và hoạt động xây dựng, phát

triển văn hóa. Trƣớc hết, cần nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò, ý nghĩa của sự nghiệp xây dựng,

phát triển văn hóa; tính tất yếu của cuộc cách mạng trên lĩnh vực tƣ tƣởng và văn hóa cũng

nhƣ tính chất gay go và phức tạp của cuộc đấu ƣanh giai cấp và đấu ƣanh dân tộc trên mặt

trận này. Trong hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa, cần kết hợp các giá trị vật chất với

các giá trị tinh thần, các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, các giá trị thị trƣờng với

các giá trị xã hội, các giá trị khoa học - công nghệ với các giá trị nhân văn, kết hợp giữa xây

và chống, giữa bảo tồn bản sắc và tiếp nhận, chọn lọc những tinh hoa giá trị văn hóa từ bên

ngoài... nhằm góp phần xây dựng những con ngƣời Việt Nam mới có trí tuệ, đạo đức, thể

- 142 -

lực, tâm hồn, tình cảm, lối sống và nhân cách đẹp. Chủ thể của hoạt động đó không chỉ là

Đảng, Nhà nƣớc, các tổ chức trong hệ thống chính trị, mà còn gồm toàn thể nhân dân.

Muốn vậy, cần phải xác lập một chương trình xây dựng thể chế văn hóa. Trong việc

xây dựng chƣơng trình, cần phải đảm bảo nguyên tắc các yếu tố bản sắc dân tộc càng đậm đà

hơn bao giờ hết, đồng thời cũng đƣợc đổi mới hơn bao giờ hết; giải quyết đúng đắn mối quan

hệ giữa kế thừa và phát triển, khẳng định cái tiên tiến và phủ định cái lạc hậu.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền văn hóa Việt Nam trong khi vẫn tôn

vinh những giá trị tinh hoa trong truyền thống lâu đời và sâu xa của dân tộc, sẽ càng tôn vinh

những giá trị tiên tiến của nền văn hóa.

Các giá trị cơ bản phản ánh tính chất tiên tiến của nền văn hóa, phù hợp với quy luật

phát triển của xã hội, phù hợp với tiến bộ xã hội cần đƣợc bồi dƣỡng, phát triển ở mỗi con

ngƣời, bao gồm: lý tƣởng sống cao đẹp, tinh thần cách mạng, tƣ tƣởng khoa học, yêu lao

động sáng tạo, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật và đạt năng suất cao.... Trên phạm vi toàn xã

hội, một nền văn hóa tiên tiến phải đƣợc thể hiện ở trình độ phát triển của dân trí, dân chủ,

của khoa học -công nghệ, giáo dục, y tế, bảo đảm phúc lợi xã hội....

Các giá trị phản ánh bản sắc dân tộc Việt Nam trên các lĩnh vực tinh thần, lối sống và

nếp sống, tình cảm, phong cách... bao gồm: tính cộng đồng cao; cần cù lao động; yêu tự do

độc lập; lòng yêu nƣớc thƣơng nòi sâu sắc; kính trọng và biết ơn tổ tiên; tinh thần dũng cảm,

bất khuất; tình nhân ái; sự bao dung; thủy chung; giản dị; cởi mở.... Đó là những nét độc đáo

tạo nên diện mạo đặc sắc của dân tộc, đƣợc chƣng cất từ truyền thống văn hiến lâu đời của

dân tộc và đƣợc bảo lƣu, truyền nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập, tăng cƣờng giao lƣu, hợp tác quốc tế là quá trình

- 143 -

mang tính hai mặt, trong đó có mặt đe dọa phá hoại bản sắc văn hóa dân tộc. Do vậy, cần có

chiến lƣợc tự vệ văn hóa, chống lại sự mô phỏng, ngoại lai, sùng ngoại, mất gốc; cần đề cao

lòng tự tôn và niềm tự hào dân tộc.

Một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc không phải đƣợc hình thành ngay

tức khắc, mà cần phải đƣợc nảy nở, lớn dần trên mỗi bƣớc đi, mỗi chặng đƣờng của thời kỳ

quá độ, thông qua sự phát triển hiện thực của các giá trị văn hóa mới.

Trong công cuộc đổi mới đất nƣớc hiện nay, chƣơng trình xây dựng thể chế văn hóa

cần tập trung giải quyết hàng loạt các nhiệm vụ vừa quan trọng vừa cấp bách. Trong đó:

Thứ nhất, củng cố và hoàn thiện các thể chế văn hóa trong các lĩnh vực sản xuất, bảo

quản, phân phối, trao đổi và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa.

Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa phù hợp với các địa bàn dân cƣ.

Điều này đòi hỏi phải quan tâm hình thành các thể chế văn hóa để đƣa văn hóa đến các vùng

nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nhất là các vùng miền núi, dân tộc thiểu số.

Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện các thể chế văn hóa ƣơng các cơ sở văn hóa của Nhà

nƣớc, của tập thể và tƣ nhân, trong đó cần bảo đảm tính chủ đạo của các cơ sở văn hóa của

Nhà nƣớc.

Thứ tư, phát triển các thể chế văn hóa trong các chuyên ngành văn hóa, văn học nghệ

thuật và thông tin, tạo ra sự phát triển đồng đều, nhịp nhàng của các loại hình văn hóa.

Thứ năm, hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nƣớc, quan tâm cải tiến thể chế quản lý văn

hóa trong phạm vi các thiết chế văn hóa. Ở đây cần hiểu rằng, xây dựng mạng lƣới thiết chế

văn hóa với tính cách là cơ sở hạ tầng quan trọng của nền văn hóa. Vì vậy, mạng lƣới thiết

chế văn hóa phải đảm đƣơng một số

- 144 -

nhiệm vụ quan trọng, nhƣ : tổ chức các hoạt động sản xuất (sáng tạo) trong lĩnh vực văn hóa,

cần khai thác các giá trị truyền thống trong tổng thể, tổ chức sƣu tầm và bảo quản vốn di sản

văn hóa, truyền thống của dân tộc, kịp thời truyền đạt những giá trị tinh hoa văn hóa của dân

tộc cũng nhƣ của nhân loại đối với mọi ngƣời, tổ chức tốt đời sống văn hóa trong các cộng

đồng dân cƣ, bảo đảm tính định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã

hội.

Thứ sáu, bƣớc đầu xác lập và bổ sung các thể chế văn hóa liên quan đến nƣớc ngoài.

Liên quan đến vấn đề này, nguyên lý thống nhất trong đa dạng sẽ tạo nên một bƣớc phát triển

mới; do vậy, từng bƣớc mở rộng giao lƣu và hợp tác quốc tế tiên lĩnh vực văn hóa, tiếp thu

những tinh hoa tiên tiến của nhân loại, nhƣng không "hòa tan" bản sắc của mình, đồng thời

phải kịp thời ngăn chặn những bất lợi về mặt văn hóa có nguồn gốc từ nƣớc ngoài.

Với nội dung hết sức to lớn trên đây, việc xây dựng thể chế văn hóa ở nƣớc ta là một

quá trình khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải vừa học, vừa làm, vừa tổng kết thực tiễn để có chủ

trƣơng, chính sách một cách phù hợp. Cuộc sống bao gồm những quan hệ tổng hòa, mọi hoạt

động đều phải tiến hành đồng bộ, nhịp nhàng, liên tục để có thể tạo nên sức mạnh tổng hợp,

những kết quả tổng hợp. Vấn đề là tổ chức và tổ chức. Tổ chức thực hiện sao cho các chủ

trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đi vào cuộc sống.

Như vậy, bằng những biện pháp mang tính đồng bộ, toàn diện, mang tính hệ thống

nhƣ trên, chúng ta sẽ thực hiện đƣợc mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quá trình ấy sẽ đồng thời tạo ra nền tảng tinh thần cho sự

phát triển các lĩnh vực khác, trong đó có giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ.

- 145 -

2. Về giáo dục - đào tạo :

Giáo dục - đào tạo là lĩnh vực có vị trí trọng yếu trong sự phát triển của mỗi một quốc

gia. Đó là kết luận đƣợc rút ra từ sự tồn tại và phát triển mấy ngàn năm của loài ngƣời. Hiện

nay, đất nƣớc ta đang bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; giáo dục -

đào tạo liên quan đến công việc hết sức quan trọng là chuẩn bị nguồn lực con ngƣời cho sự

nghiệp vĩ đại ấy.

Trƣớc hết, cần phải thấy rằng, cùng với những thành tựu chung của cách mạng nƣớc

ta, lĩnh vực giáo dục - đào tạo đã đạt đƣợc những kết quả to lớn, góp phần xứng đáng vào sự

phát triển của đất nƣớc trong thời kỳ mới. Có đƣợc những thành tựu đó là nhờ có đƣờng lối

giáo dục - đào tạo đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc, nhờ sự đóng góp của toàn dân.

Tuy nhiên, giáo dục - đào tạo nƣớc ta còn nhiều yếu kém, bất cập cả về quy mô, cơ

cấu, và nhất là về chất lƣợng và hiệu quả; chƣa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và ngày càng

cao về nhân lực của công cuộc đổi mới. Một trong những nguyên nhân của những yếu kém

ấy, đó là công tác quản lý giáo dục -đào tạo có những mặt yếu kém, bất cập và cơ chế quản lý

của ngành giáo dục -đào tạo chƣa hợp lý. Liên quan đến vấn đề tổ chức và quản lý lĩnh vực

giáo dục - đào tạo, có thể nói, sự phối hợp liên ngành còn yếu, các giải pháp còn thiếu đồng

bộ;....

Để khắc phục những yếu kém nói trên, vận dụng phương pháp hệ thống vào việc tổ

chức và quản lý lĩnh vực giáo dục - đào tạo là vô cùng quan trọng và cần thiết.

Nếu xét lĩnh vực giáo dục-đào tạo ở nƣớc ta nhƣ một hệ thống thì các yếu tố chủ yếu

của nó là nội dung, phƣơng pháp, số lƣợng, chất lƣợng và hiệu quả giáo dục-đào tạo; còn môi

trƣờng hoạt động của nó chủ yếu là do các chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc. Nếu xét

lĩnh vực giáo dục-đào tạo ở nƣớc ta không

- 146 -

chỉ là một hệ thống mà còn trong mối quan hệ chủ thể-khách thể thì Nhà nƣớc và các tổ chức

giáo dục-đào tạo đóng vai trò là ngƣời tổ chức, quản lý dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy,

theo quan điểm hệ thống, vấn đề tổ chức và quản lý lĩnh vực giáo dục-đào tạo thể hiện ở sự

thống nhất giữa hệ thống các chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện chúng trong hoạt

động giáo dục-đào tạo. Nghĩa là, chúng ta cần có những nguyên tắc tổ chức, quản lý và sự

thể chế những nguyên tắc ấy thông qua những giải pháp cụ thể tƣơng ứng trong việc tổ chức

thực hiện hoạt động giáo dục - đào tạo.

- Thứ nhai, về mặt phƣơng pháp luận cần phải nhận thức đúng và từ đó có những biện

pháp giải quyết phù hợp mối quan hệ giữa các mục tiêu dân trí, nhân lực, nhân tài trong phát

triển giáo dục - đào tạo.

Một nền dân trí rộng là điều kiện cần thiết để trên đó đào tạo đƣợc nguồn nhân lực

thích hợp phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời dân trí là cơ sở để nâng cao

chất lƣợng cuộc sống của nhân dân. Với nghĩa ấy, Hồ Chí Minh nói : "Một dân tộc dốt là dân

tộc yếu" [60, tr.8]. Mức độ dân trí có thể đạt đƣợc tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, không thể

mong muốn một mức độ dân trí quá cao thoát ly khỏi điều kiện kinh tế, song cũng không chờ

có kinh tế phát triển cao mới mở rộng và nâng cao dân trí.

Dân trí là điều kiện để phát triển nhân lực, nhƣng không phải mặc nhiên dân trí sẽ

biến thành nhân lực, mà phải có kế hoạch để đào tạo phát triển nhân lực, nhất là lực lƣợng lao

động lành nghề trong một cơ cấu đồng bộ.

Về nhân tài; một mặt, phải tìm đƣợc những cách thức thích hợp để phát hiện và bồi

dƣỡng nhân tài, nhƣng đồng thời lƣu ý rằng, nhân tài sẽ có điều kiện xuất hiện trên một nền

dân trí rộng và trên cơ sở việc tổ chức đào tạo nhân lực tốt.

- 147 -

Khẳng định tính đúng đắn của việc giải quyết mối quan hệ ấy, chúng ta cần sử dụng

và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực đƣợc đào tạo, trọng dụng ngƣời tài, khuyến khích mọi

ngƣời, nhất là thanh niên say mê học tập và tu dƣỡng tiền đồ bản thân và tƣơng lai đất nƣớc.

- Thứ hai, để giáo dục - dào tạo thực sự là "quốc sách hàng đầu", thì một yêu cầu cực

kỳ quan trọng là phải thấu suốt quan điểm giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội

dung, phƣơng pháp giáo dục - đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã

hội. Để quán triệt quan điểm này :

Một là, cần phải tập trung giải quyết dứt điểm những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ

cƣơng trong giáo dục do mặt trái của cơ chế thị trƣờng gây nên; muốn vậy phải xây dựng một

hệ thống pháp quy tốt để vừa giữ nghiêm kỷ cƣơng phép nƣớc, vừa bảo vệ sự trong sáng của

nếp sống văn hóa Việt Nam.

Hai là, phải thực hiện tính công bằng xã hội ƣong giáo dục. Cụ thể là, quan tâm đến

việc bảo đảm cơ hội giáo dục cho ngƣời học thuộc các diện chính sách; kết hợp sự phát triển

có trọng điểm về giáo dục - đào tạo với sự phát triển giáo dục - đào tạo ở các vùng lãnh thổ,

tránh gây nên sự chênh lệch xa về nhịp độ và trình độ giữa các vùng. Đây cũng chính là sự

thể hiện tính ƣu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ba là, cần phải đổi mới nội dung, phƣơng pháp giáo dục - đào tạo, cải tiến thi cử. Đặc

biệt, cần nhấn mạnh nội dung giáo dục phải mang tính toàn diện, nhƣ Hồ Chí Minh đã nói :

"Trong việc giáo dục và học tập phải chú ý đầy đủ các mặt : đạo đức cách mạng, giác ngộ xã

hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật và lao động sản xuất" [62, tr.759]. Trong giáo dục cần coi

trọng hơn nữa việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ở tất cả các bậc

học. Quan tâm giáo dục phong cách tƣ duy khoa học, phƣơng pháp độc lập sáng tạo trong tƣ

duy và hoạt động thực tiễn; giáo dục tinh thần công dân, ý thức về

- 148 -

quyền và nghĩa vụ; giáo dục văn hóa pháp luật, văn hóa dân chủ; văn hóa lao động; ... Nhờ

đó, xã hội mới có đƣợc những con ngƣời phát triển cao về trí tuệ, cƣờng tráng về thể chất,

phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.

- Thứ ba, để giáo dục - đào tạo thực sự trở thành "quốc sách hàng đầu", cần phải

không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo. Để thực hiện đƣợc điều

đó, cần phải :

Một là, giáo dục - đào tạo phải theo hướng cân đối giữa "dạy người", dạy chữ, dạy

nghề, trong đó "dạy người" là mục tiêu cao nhất, nhƣ Hồ Chí Minh đã nói : "Muốn có chủ

nghĩa xã hội, trƣớc hết phải có con ngƣời xã hội chủ nghĩa" [63, tr.310].

Hai là, giải quyết tốt mối quan hệ, giữa số lượng và chất lượng trong giáo dục - đào

tạo. Ở đây, một mặt, phải tìm cách huy động nhiều nguồn lực khác nhau để tạo điều kiện đảm

bảo chất lƣợng giáo dục, phải ƣu tiên đầu tƣ xây dựng các trƣờng sƣ phạm, nâng cao trình độ

của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý các cấp, có đầy đủ năng lực và phẩm chất cách mạng,

tăng cƣờng cơ sở vật chất, sử dụng các biện pháp công nghệ mới khác nhau trong các trƣờng

học, cần phát huy nội lực đồng thời nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; mặt khác, phải hình

thành các hệ thống tổ chức và cơ chế đặc biệt để kiểm tra chất lƣợng, chống các tệ nạn và tiêu

cực trong giáo dục - đào tạo. Muốn thỏa mãn đồng thời yêu cầu tăng số lƣợng, đảm bảo chất

lƣợng và nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo trong điều kiện nguồn lực rất hạn hẹp thì đòi

hỏi cần phải hết sức năng động, sáng tạo, phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ

thống giáo dục - đào tạo, phải phối hợp hài hòa các đơn vị khác nhau ƣơng một nhà trƣờng,

các trƣờng khác nhau trên một địa bàn, các mô hình ƣƣờng khác nhau trong toàn bộ hệ thống

giáo dục - đào tạo. Để làm đƣợc điều đó phải có quan điểm phức hợp. toàn cục, chống các xu

hƣớng bản vị, cục bộ.

- 149 -

- Thứ tư, để giáo dục - đào tạo thực sự là "quốc sách hàng đầu", còn cần phải quán

triệt quan điểm coi giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn

dân. Điều này đòi hỏi cần phải :

+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục - đào tạo. Cụ thể là, cần phải

tăng cƣờng xây dựng và củng cố tổ chức đảng để đảng thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo

trong các trƣờng học; chú ý bồi dƣỡng chính trị, tích cực phát triển đảng trong trƣờng học.

+ Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục - đào tạo. Để làm đƣợc điều đó, cần làm cho các cấp

lãnh đạo đảng, chính quyền, các ban ngành, địa phƣơng , các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp,

cho đến tận ngƣời dân quan tâm và chăm lo sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Ở đây, cần quán

triệt quan điểm giữ vai trò nòng cốt của các trƣờng công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại

hình giáo dục - đào tạo, trên cơ sở quản lý thống nhất của Nhà nƣớc.

+ Đổi mới công tác quản lý giáo dục - đào tạo. Liên quan đến vấn đề này, cần thực

hiện những giải pháp sau đây :

. Tăng cƣờng công tác dự báo và kế hoạch hóa sự phát triển giáo dục -đào tạo. Đƣa

giáo dục - đào tạo vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nƣớc và từng địa

phƣơng . Có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát

triển kinh tế - xã hội.

. Tăng cƣờng phân cấp quản lý một cách hợp lý. Các cơ quan quản lý nhà nƣớc và

các cơ sở giáo dục - đào tạo cần thực hiện đúng chức năng của mình.

. Thiết lập các cơ chế để nâng cao tính tự chủ đi đôi với việc nâng cao tính chịu trách

nhiệm của các cơ sở giáo dục - đào tạo, nhất là các trƣờng đại học.

- 150 -

. Mở rộng dân chủ ở các cơ quan quản lý giáo dục - đào tạo, nhằm phát huy quyền

làm chủ trực tiếp của nhân dân trong việc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".

. Cùng với việc xác lập thể chế dân chủ, đồng thời phải kiện toàn hệ thông thanh tra

giáo dục về bộ máy chức năng, nhiệm vụ, đƣa công tác thanh tra vào nề nếp. Chỉ có nhƣ thế,

quyền tự chủ mới không dẫn đến tình trạng vô chính phủ.

Như vậy, tổ chức và quản lý giáo dục - đào tạo, với biện pháp phối hợp liên ngành,

với các giải pháp đƣợc thực hiện một cách đồng bộ, mang tính hệ thống, sẽ mang lại hiệu quả

giáo dục - đào tạo cao, góp phần to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nƣớc. Hơn nữa, điều đó chỉ có thể đạt đƣợc khi kết hợp chặt chẽ giáo dục - đào tạo với tăng

cƣờng phát triển khoa học - công nghệ.

3. Về khoa học - công nghệ :

Trong thời đại ngày nay, khoa học - công nghệ đã trở thành một lực lƣợng sản xuất

quan trọng hàng đầu của nhân loại; nó đã và đang tác động trực tiếp vào mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội. Ở nƣớc ta, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vai trò của khoa học -

công nghệ lại càng trở nên quan trọng.

Dƣới ánh sáng của đƣờng lối đổi mới của Đảng, tiềm lực khoa học và công nghệ ở

nƣớc ta từng bƣớc đƣợc nâng lên, các tiến bộ khoa học và công nghệ ngày càng gắn liền với

sản xuất và đời sống, góp phần đƣa nƣớc ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội,

tạo ra những tiền đề cần thiết để bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thế nhƣng còn một khoảng cách rất xa giữa tiềm năng phát triển khoa học - công

nghệ nƣớc ta với thực trạng còn phát triển chậm của nó, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu phát

triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một

- 151 -

trong những nguyên nhân của sự yếu kém ấy là quản lý khoa học và công nghệ trong cơ chế

thị trƣờng còn lúng túng, bất cập, việc tổ chức phân bổ lực lƣợng còn phân tán.... Bởi vậy,

chính tính cấp bách của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội nƣớc ta đã đòi hỏi phải xem xét,

giải quyết vấn đề tổ chức và quản lý khoa học - công nghệ bằng phương pháp hệ thống.

Nếu xét lĩnh vực khoa học - công nghệ nƣớc ta nhƣ một hệ thống thì môi trƣờng hoạt

động của nó chủ yếu là do các chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc, mà sự thuận lợi hay

khó khăn của môi trƣờng sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động và phát triển của hệ thống.

Nếu xét khoa học - công nghệ nƣớc ta không chỉ là một hệ thống, mà còn trong mối quan hệ

chủ thể - khách thể thì Nhà nƣớc và các tổ chức khoa học - công nghệ đóng vai trò là ngƣời

tổ chức, quản lý, dƣới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, dƣới quan điểm hệ thống, chúng ta có

thể nêu ra những nguyên tắc tổ chức, quản lý chủ yếu và sự thể chế hóa những nguyên tắc ấy

thông qua những giải pháp cụ thể tƣơng ứng trong việc tổ chức thực hiện hoạt động khoa học

- công nghệ.

Thứ nhất, sự nghiệp khoa học - công nghệ nƣớc ta nhằm mục đích phục vụ sự phát

triển con người Việt Nam, cho nên cách thức phát triển khoa học - công nghệ cần phù hợp với

các giá trị nhân văn - bản sắc văn hóa dân tộc.

Chúng ta biết rằng, con ngƣời vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi chính sách

kinh tế - xã hội, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là nội lực của phát triển. Phát triển con

ngƣời, về thực chất, là phát triển và hoàn thiện nhân cách con ngƣời. Đầu tƣ cho con ngƣời là

đầu tƣ cho phát triển. Cũng nhƣ giáo dục-đào tạo, đầu tƣ cho khoa học - công nghệ là đầu tƣ

theo chiều sâu, vì sự phát triển toàn diện của con ngƣời. Vì vậy, yếu tố nhân văn vừa có giá

trị định hướng, vừa là động lực cho sự phát triển khoa học - công nghệ.

- 152 -

Vì lẽ đó, sự nghiệp khoa học - công nghệ nƣớc ta chỉ có thể đạt đƣợc hiệu quả cao và

sự phát triển bền vững khi quá trình tổ chức, quản lý phải biết kết hợp hài hòa giữa tính khoa

học với tính văn hóa; giữa tính chính xác, hợp lý và tối ƣu của khoa học - công nghệ với

truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Bởi vậy, các chính sách phát triển khoa học - công

nghệ phải gắn liền với các chính sách bảo vệ và cải thiện môi trƣờng sinh thái, bảo đảm phát

triển kinh tế -xã hội nhanh và bền vững.

Thứ hai, sự nghiệp khoa học - công nghệ cần gắn liền với giáo dục - đào tạo, khoa

học Tự nhiên và kỹ thuật gắn với khoa học xã hội và nhân văn.

Trƣớc hết, cần xác định nguồn nhân lực của sự nghiệp khoa học - công nghệ là đội

ngũ cán bộ. Song muốn có nguồn nhân lực đủ sức đáp ứng đòi hỏi phát triển khoa học - công

nghệ hiện nay, cần phải có nền giáo dục - đào tạo chu đáo, mà trọng tâm là bồi dƣỡng nhân

tài. Để thực hiện điều đó, cần chú trọng đào tạo sau đại học và bổ túc kiến thức dƣới nhiều

hình thức đa dạng, ... Song cần lƣu ý rằng, giáo dục - đào tạo là yếu tố cơ bản nhất để phát

triển nguồn nhân lực, nhƣng quan trọng là ở chỗ, quản lý nguồn nhân lực một cách hợp lý,

trên cơ sở thống nhất ba nhiệm vụ quản lý đào tạo, sử dụng và việc làm một cách gắn bó,

đồng bộ, thì mới phát triển nguồn nhân lực một cách có hiệu quả.

Để khoa học - công nghệ thực sự trở thành "quốc sách hàng đầu", là "nội dung then

chốt" trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội, chúng ta cần phải kết hợp và bảo đảm tính đồng

bộ về cơ cấu, đầu tƣ một cách cân đối, hợp lý giữa khoa học tự nhiên, kỹ thuật với khoa học

xã hội và nhân văn. Bởi vì, khoa học - công nghệ với tính cách là một hệ thống bao gồm các

phân hệ (các lĩnh vực khoa học) khác nhau, mỗi lĩnh vực khoa học có vị trí, vai trò, chức

năng riêng của mình;

- 153 -

song khoa học - công nghệ chỉ có thể có đƣợc sức mạnh tổng hợp khi các lĩnh vực khoa học

có quan hệ tƣơng hỗ, hợp tác chặt chẽ với nhau.

Thứ ba, phát triển khoa học - công nghệ cần kết hợp kế hoạch với thị trường, trong đó

chủ thể tổ chức và quản lý lập kế hoạch và điều hành trên cơ sở các nhu cầu của thị trƣờng.

Trong hoạt động khoa học - công nghệ, thị trƣờng chính là một động lực khiến cho

các chủ thể tổ chức, quản lý không ngừng tìm cách nâng cao hiệu quả và tìm tòi những sản

phẩm mới mà nhu cầu xã hội đòi hỏi. Nhƣng cơ chế thị ƣƣờng vẫn có mặt trái của nó, vì vậy

để tránh tính chất tự phát của cơ chế thị trƣờng, nhằm bảo đảm tính cân đối, hài hòa, tính

nhân văn trong hoạt động khoa học - công nghệ, cần phải kết hợp kế hoạch với thị trƣờng.

Về kế hoạch phát triển khoa học - công nghệ, Nhà nƣớc cần xây dựng kế hoạch tổng

thể cho sự phát triển khoa học - công nghệ, gắn khoa học - công nghệ với sản xuất, lấy khoa

học - công nghệ làm chỗ dựa và luận cứ cho kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;...

Về tạo lập thị trƣờng cho khoa học - công nghệ, Nhà nƣớc cần hoàn thiện hệ thống

pháp luật về các hoạt động khoa học - công nghệ, về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và khuyến

khích chuyển giao công nghệ; đồng thời đòi hỏi các doanh nghiệp phải coi ứng dụng các

thành tựu khoa học - công nghệ là phƣơng tiện hàng đầu để nâng cao năng lực cạnh tranh,

duy trì và phát triển sản xuất.

Thứ tư, sự phát triển của khoa học - công nghệ gắn liền với đổi mới hệ thống tổ chức,

quản lý hoại động khoa học - công nghệ.

+ Trƣớc hết cần kiện toàn tổ chức và nâng cao trách nhiệm các cơ quan quản lý nhà

nƣớc về khoa học và công nghệ ở tất cả các cấp để tăng hiệu quả đầu tƣ và quản lý vĩ mô của

Nhà nƣớc. Muốn khắc phục tính chất cồng kềnh của hệ thống các tổ chức khoa học - công

nghệ hiện nay, cần phải tinh giản nó, thu

- 154 -

gọn đầu mối quản lý. Do vậy, cần thúc đẩy xu hƣớng liên ngành và hợp ngành đế phát huy

sức mạnh tổng hợp của nhiều chuyên môn khác nhau. Đây cũng là xu hƣớng chung của sự

phát triển khoa học hiện đại.

+ Một vấn đề quan trọng là hệ thống các tổ chức quản lý khoa học - công nghệ cần

đƣợc củng cố, thống nhất và đổi mới phƣơng pháp tổ chức, quản lý các hoạt động khoa học -

công nghệ. Thực tiễn chỉ ra rằng, hoạt động tổ chức, quản lý chỉ có hiệu lực khi chủ thể tổ

chức, quản lý là một hệ thống chỉnh thể. Vì vậy, các tổ chức khoa học - công nghệ cần liên

kết, hợp tác, phối hợp với nhau, mà cơ sở nền tảng của sự liên kết ấy chính là môi trƣờng

chính sách, sự điều hòa, phối hợp, điều tiết của Nhà nƣớc.

+ Để hoạt động khoa học - công nghệ có hiệu quả thiết thực, cần phải nâng cao chất

lƣợng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là năng lực và chất lƣợng đội ngũ cán bộ quản lý khoa học -

công nghệ. Việc tạo ra một đội ngũ đông đảo những ngƣời có trình độ học vấn cao, tinh

thông khoa học - kỹ thuật, đã đƣợc C.Mác nhấn mạnh "không phải chỉ là một phƣơng pháp

để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là một phƣơng pháp duy nhất để sản xuất ra

những con ngƣời phát triển toàn diện" [55, tr.688].

Hoạt động khoa học - công nghệ có bản chất là lao động cao cấp, sáng tạo. Vì vậy, đội

ngũ cán bộ tổ chức, quản lý trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, trƣớc hết phải là những

ngƣời có đức và có tài. Điều này càng có ý nghĩa lớn lao do tính chất đặc thù của lĩnh vực

khoa học - công nghệ, vì họ là những trí thức quản lý tầng lớp tri thức. Bởi vậy, nhà quản lý

khoa học - công nghệ phải có sự kết hợp giữa kiến thức nghiên cứu chuyên ngành và kiến

thức quản lý, lãnh đạo một tổ chức, một tập thể những ngƣời có học vấn cao.

Tóm lại, cũng nhƣ trong tổ chức, quản lý lĩnh vực văn hóa, lĩnh vực giáo dục - đào

tạo, sự vận dụng phƣơng pháp hệ thống trong lĩnh vực khoa học -

- 155 -

công nghệ thể hiện ở sự thống nhất giữa chủ ƣƣơng, chính sách và tổ chức thực hiện một

cách đồng bộ, cân đối, hài hòa. Với sự vận dụng phƣơng pháp hệ thống trong việc tổ chức,

quản lý từng lĩnh vực và trong sự liên kết, phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các lĩnh vực ấy

với nhau, chúng ta sẽ có đƣợc một lĩnh vực tinh thần ngày càng phong phú, đáp ứng những

yêu cầu và thực hiện đƣợc mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

Kết luận chương 3

Phƣơng pháp hệ thống có vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt

trong tổ chức và quản lý xã hội.

Đối với công cuộc đổi mới ở đất nƣớc ta hiện nay, phƣơng pháp hệ thống cần đƣợc

phát huy sức mạnh của mình. Việc vận dụng phƣơng pháp hệ thống một cách đúng đắn ƣơng

tổ chức và quản lý tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ mang lại những thành tựu to

lớn, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nƣớc.

- 156 -

KẾT LUẬN

Phƣơng pháp hệ thống có cơ sở lý luận ở bản thân phạm trù hệ thống. Sự phát triển

của các tƣ tƣởng về hệ thống gắn liền với sự phát triển của thế giới quan triết học, cũng nhƣ

phù hợp với tiến bộ của khoa học và thực tiễn xã hội. Hiện nay, hệ thống thực sự đã trở thành

một phạm trù triết học và có mối quan hệ mật thiết với các phạm trù khác của phép biện

chứng.

Phƣơng pháp hệ thống đƣợc hình thành là sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển

của khoa học và thực tiễn xã hội. Nó có nội dung hết sức phong phú, bao gồm hàng loạt

những yêu cầu, những nguyên tắc chỉ đạo đòi hỏi chủ thể cần phải thực hiện trong quá trình

nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, chủ thể có thể đặt nguyên tắc này hay nguyên

tắc khác lên hàng đầu tùy thuộc vào đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu, song vấn đề quan

trọng là cần phải áp dụng chúng trong tổng thể.

Với vị trí cực kỳ quan trọng của mình, phƣơng pháp hệ thống thực sự đã trở thành

phƣơng pháp phổ biến trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn, nó là một bộ phận

không thể tách rời của phép biện chứng mác-xít.

Hiện nay, phƣơng pháp hệ thống ngày càng có vai trò to lớn trong nhận thức khoa học

và hoạt động thực tiễn. Nó là công cụ hữu hiệu để phân tích các khách thể hệ thống, góp phần

làm sâu sắc sự phân tích chất lƣợng đối với các khách thể ấy. Phƣơng pháp hệ thống giúp chủ

thể xác định đối tƣợng nghiên cứu là các khách thể hệ thống, nó cụ thể hóa khách thể cần

nghiên cứu, định hƣớng đúng đắn cho quá trình nhận thức, góp phần phát hiện ra các quy luật

hệ thống của hiện thực. Nó trang bị cho khoa học một cách nhìn tổng thể về thế giới.

Phƣơng pháp hệ thống là công cụ đắc lực và chủ yếu trong việc thiết lập bức tranh hệ

thống về thế giới. Nó giúp khoa học có một cách nhìn đa diện, đa

- 157 -

cấp độ, nhờ đó con ngƣời có thể khám phá ra những quy luật nội tại diễn ra trong từng hệ

thống và trong các cấp độ hệ thống.

Đồng thời, phƣơng pháp hệ thống còn có vai trò hết sức quan trọng trong tổng hợp tri

thức khoa học. Nó trang bị cho con ngƣời quan điểm phức hợp với tính cách là nguyên tắc tổ

chức có tính hệ thống trong hoạt động của con ngƣời. Không những thế, phƣơng pháp hệ

thống còn giúp chủ thể xây dựng mô hình tổng hợp nhƣ một cơ cấu thứ bậc, cấu trúc đa tầng,

đa chất lƣợng theo những lát cắt khác nhau.

Với vị trí và vai trò quan trọng của phƣơng pháp hệ thống, việc vận dụng nó một cách

đúng đắn sẽ mang lại hiệu quả tích cực trong nhận thức khoa học nói chung, trong việc xây

dựng lý thuyết khoa học nói riêng, mà công việc trƣớc hết là xác định tính hệ thống của các

khái niệm khoa học.

Với tính cách là phƣơng pháp phổ biến, phƣơng pháp hệ thống có vai trò cực kỳ quan

trọng trong hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Nó mang lại cho con ngƣời một quan niệm

đúng đắn về tính hệ thống của xã hội, từ đó con ngƣời có thể đề ra những mục tiêu, phƣơng

hƣớng và lựa chọn những biện pháp thích hợp để thực hiện những mục tiêu, phƣơng hƣớng

ấy.

Phƣơng pháp hệ thống có tầm quan trọng đặc biệt trong tổ chức và quản lý xã hội. Nó

trang bị cho con ngƣời quan điểm tổng thể, đồng bộ, có sự phối hợp khi xác định mục tiêu,

hoạch định và thực hiện các chƣơng trình, xác định và sử dụng nguồn lực cũng nhƣ tiếp nhận

các giải pháp trong quá trình tổ chức và quản lý.

Trong công cuộc đổi mới đất nƣớc ta hiện nay, việc vận dụng phƣơng pháp hệ thống

trong tổ chức và quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội thể hiện ở sự thống nhất giữa

hệ thống các chính sách và tổ chức thực hiện. Bằng các giải pháp, biện pháp mang tính đồng

bộ, cân đối, hợp lý, có sự liên kết

- 158 -

phối hợp nhịp nhàng trong từng lĩnh vực và giữa các lĩnh vực ấy với nhau, chúng ta sẽ thực

hiện đƣợc mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

- 159 -

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Ngọc Khá (1997), "Phạm trù "hệ thống" trong lịch sử triết học", Tạp chí Triết học,

số 3, tr.51-54, Hà Nội.

2. Nguyễn Ngọc Khá (1997), "Nguyên lý tính hệ thống với tính cách là cơ sở triết học của

phƣơng pháp hệ thống", Tập san Khoa học xã hội và Nhân văn, số 5, tr.34-40, Trƣờng

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.

3. Nguyễn Ngọc Khá (1998), "Về mối quan hệ giữa phƣơng pháp hệ thống và phép biện

chứng duy vật", Tạp chí Triết học, số 3, tr.35-38, Hà Nội.

4. Nguyễn Ngọc Khá (1998), "Phép biện chứng duy vật với tính cách là một hệ thông", Tập

san Khoa học xã hội và Nhân văn, số 6, tr. 110-117, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội

và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.

5. Nguyễn Ngọc Khá (1999), "Về mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái bộ phận trong triết học

Hêghen", Tạp chí Triết học, số 6, tr.51-53, Hà Nội.

6. Nguyễn Ngọc Khá (1999), "Tính hệ thống của các khái niệm khoa học", Tạp chí Phát triển

khoa học công nghệ, 12, tr.48-52, Nxb Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

7. Nguyễn Ngọc Khá (2001), "Vai trò của phƣơng pháp hệ thống trong tổ chức và quản lý xã

hội", Tạp chí Triết học, số 01, tr.57-59, Hà Nội.

8. Nguyễn Ngọc Khá (2001), "Một số vấn đề về tổ chức và quản lý khoa học -công nghệ

bằng quan điểm hệ thống ở nƣớc ta hiện nay", Tạp chí Khoa học xã hội, số 2 (48),

tr.50-53, Tp. HCM.

9. Nguyễn Ngọc Khá (2001), "Vận dụng phƣơng pháp hệ thống vào việc tổ chức và quản lý

lĩnh vực giáo dục đào tạo ở nƣớc ta hiện nay", Tập san Thông tin khoa học, số 11,

tr.20-25, HUFLIT, Tp.HCM.

- 160 -

TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN TIẾNG VIỆT

1. Vũ Tuấn Anh (chủ biên) (1994), Đổi mới kinh tế và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

2. V.G.Aphanaxép (1979), Con người trong quản lý xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Vũ Đình Bách, Ngô Đình Giao (đồng chủ biên) (1996), Đổi mới chính sách và cơ chế quản

lý kinh tế bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Vũ Đình Bách, Ngô Đình Giao (đồng chủ biên) (1997), Đổi mới và thực hiện đồng bộ các

chính sách, cơ chế quản lý kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Doãn Chính (chủ biên) (1997), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

6. Nguyễn Trọng Chuẩn, Tô Duy Hợp, Lê Hữu Tầng, Nguyễn Duy Thông (chủ biên) (1977),

Vai trò của phương pháp luận triết học Mác-Lênin đối với sự phát triển của khoa học

tự nhiên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

7. Nguyễn Trọng Chuẩn (1996), "Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính sách kinh tế và

đổi mới chính sách xã hội", Tạp chí Triết học, số 3, tr. 13-17, Hà Nội.

8. V.P.Cudơmin (1983), Nguyên lý tính hệ thống trong lý luận và phương pháp luận của

C.Mác. (Ngƣời dịch: Nguyễn Duy Thông), Nxb Sự thật, Hà Nội.

9. Đỗ Minh Cƣơng (1998), Những vấn đề cơ bản về quản lý khoa học và công nghệ, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- 161 -

10. Lê Đăng Doanh (1997), Cơ sở khoa học của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Nguyễn Văn Đáng (1990), Giáo trình phân tích hệ thống quản lý, Trƣờng Đại học Bách

khoa Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb

Sự thật, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung

ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung

ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung

ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung

ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung

ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung

ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban chấp hành

Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung

ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- 162 -

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng, Hà

Nội.

24. Nguyễn Khoa Điềm (1999), "Một số vấn đề về thể chế văn hóa", Tạp chí Cộng sản, số

13, tr. 22-27, Hà Nội.

25. Nguyễn Quang Điển (1999), "Lý luận hình thái kinh tế-xã hội với sự nhận thức con

đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta", Triết học (dùng cho nghiên cứu sinh và học

viên cao học), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Lƣu Văn Đạt, Dƣơng Văn Long, Lê Nhật Thức (đồng chủ biên) (1996), Đổi mới và hoàn

thiện chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Thế Đạt (1997), Tiến trình đổi mới quản lý nền tính tế quốc dân của Việt Nam, Nxb Hà

Nội, Hà Nội.

28. Lƣu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, gồm 4 tập, (Ngƣời dịch: Lê

Quang Lâm và Phạm Đình cầu), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Cao Xuân Hòa (1993), Vận dụng phương pháp phân tích hệ thống và mô hình hóa vào

nghiên cứu cơ chế quản lý kinh tế, Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Trƣờng Đại

học kinh tế quốc dân Hà Nội, Hà Nội.

30. Hội đồng Trung trong chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-

Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

31. Nguyễn Văn Huyên (1999), "Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc

văn hóa dân tộc", Tạp chí Triết học, số 1, tr.5-8, Hà Nội.

32. B.M. Keđrốp (1976), Khái lược về lịch sử và lý luận phát triển khoa học, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

- 163 -

33. Vũ Khiêu, Phạm Xuân Nam, Hoàng Trinh (đồng chủ biên) (1993), Phương

pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

34. Trần Xuân Lập (1991), Vận dụng quan điểm hệ thống vào việc xây dựng và hoàn thiện cơ

cấu sản xuất kinh doanh trong quân đội, Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Trƣờng

Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, Hà Nội.

35. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, t1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

36. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, t8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

37. V.I. Lênin (1979), Toàn lập, tl4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

38. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tl5, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

39. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

40. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

41. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, t29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

42. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, t31, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

43. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, t39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

44. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

45. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

46. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. CMác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- 164 -

55. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. C.Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t25, phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. C.Mác và Ph. Ăngghen (1996), Toàn tập, t27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. C.Mác và Ph. Ăngghen (1999), Toàn tập, t39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. C.Mác và Ph. Ăngghen (1998), Toàn tập, t46, phần I , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, t6, Nxb Sự thật, Hà Nội.

62. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, t8, Nxb Sự thật, Hà Nội.

63. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Đỗ Mƣời (1997), Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

65. Nguyễn Chí Mỹ, Nguyễn Ngọc Long (1999), "Nét đặc sắc trong việc giải quyết mối quan

hệ dân tộc và giai cấp ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, số 6, tr. 19-22, Hà Nội.

66. Phạm Văn Nam (1996), ứng dụng lý thuyết hệ thống trong quản trị, Nxb Thống kê, Hà

Nội.

67. Lê Khả Phiêu (1998), "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện thiết

chế dân chủ ở cơ sở", Tạp chí Cộng sản, số 3, tr. 3-7, Hà Nội.

68. Phạm Ngọc Quang (2000), "Bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với

tính nhân dân của Nhà nƣớc - Một vấn đề cấp bách trong việc củng cố Nhà nƣớc ta

hiện nay", Tạp chí Triết học, số 2, tr. 5-9, Hà Nội.

69. Nguyễn Văn Quỳ (1987), Vận dụng quan điểm hệ thống trong quản lý lành tế, Nxb Khoa

học kỹ thuật, Hà Nội.

- 165 -

70. Nguyễn Duy Quý (1998), Nhận thức thế giới vi mô, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

71. G.I. Ruzavin (1983), Các phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà

Nội.

72. A.P.Séptulin (1989), Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

73. Nguyễn Thanh Thịnh, Đào Duy Tính, Lê Dũng (1999), Quy hoạch phát triển hệ

thống nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Vũ Tình (1998), Đạo đức học phương Đông cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân (1998), Giáo trình các phương pháp lượng trong quản

lý kinh tế, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

76. Hoàng Tụy (1987), Phân tích hệ thống và ứng dụng, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

77. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ƣơng (1997), Đổi mới quản lý kinh tế và môi

trường sinh thái, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

78. Viện Triết học (1996), Từ điển triết học phương Tây hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

79. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta hiện

nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

80. Hồ Sĩ Vịnh (1999), Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

81. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên) (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Ph. Xốtxuya (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

- 166 -

PHẦN TIẾNG NGA

83. Аверьянов А.Н.(1974), Категория "система” в диaлeсктичеcкoм материализме,

Мысль, Москва.

84. Авeрьянов A.Н.(1970), Система: философская категория и реальность, Мысль,

Москва.

85. Академия наук СССР (1969 → 1987), Системные исследования: Методологические

проблемы, Ежегодник, Наука, Москва.

86. Академия наук СССР(1984), Методологические проблемы научного исследования,

Наука, Москва.

87. Академия наук СССР (1985), Проблемы методологии науки, Наука, Новосибирск.

88. Академия наук СССР (1985), Философские основания научной теории, Наука,

Новосибирск.

89. Акоф Р. (1900), "Общая теория систем и исследование систем как

противоположные концепции науки о системах", Общая теория систем,

Москва.

90. Аристотель (1934), Метафизика, Москва - Ленинград.

91. Аристотель (1937), Физика, Москва.

92. Аристотель (1939), Категории, Москва.

93. Аристотель (1975), Произведения, Т.1, Наука, Москва.

94. Афанасьев В.Г. (1980), "О целостных системах". Вопросы филоcoфии, No 6, Москва.

95.Афанасьев В.Г. (1980), Системность и общество, Политиздат, Москва.

96. Афанасьев В. Г. (1981), Общество: системность, познание п управление,

Политиздат, Москва.

97. Бачпло И.Л. (1970), Функции органов управления, Москва.

- 167 -

98. Бeрог A.И., Бирюков В.B. (19(59), "Философские проблемы и методология

кибериетики", Лeнин и современное естeствознание, Моcква.

99. Берталапфи Л. фон. (1969) "Общая теория систем - критический обзор",

Исследование по общей теории систем, Москва.

100. Блауберг И.П., Юдин Э.Г. (1970), "Философские проблемы исследования систем

и структур", Вопросы философии, No5, стр. 57-68, Москва.

101. Блауберг И.B., Юдин Э.Г. (1972), "Системный подход в социальном познании",

Историческии материализм как теория социального познания и деятельность,

Москва.

102. Блауберг И.В., Юдин Э.Г. (1973), Становление и сущность сиcтемного подхода,

Наука, Москва.

103. Вернадский В.И. (1908), "Научная мысль как планетное явление", Паука п религия,

№11, Москва.

104. Гвишиани Д. М. (ответственный редактор) (1983), Фплософско-

методологичеcкие основания системных исследований, Наука, Москва.

105. Гвишиани Д. М. (ответственный редактор) (1986), Диалектика п системный

анализ, Наука, Москва.

106. Гегель Ж.В.Ф. (1932), Произведения, Т.9, Москва.

107. Гегель Ж.В.Ф. (1934), Произведения, Т.2, Москва-Ленинград.

108. Гегель Ж.В.Ф. (1939), Произведения, Т.6, Москва.

109. Гегель Ж.В.Ф. ( 1959), Произведения, Т. 1, Москва.

110. Гегель Ж. В.Ф. (1959), Произведения. Т.4, Москва.

111. Гегель Ж.В.Ф. (1975), Энциклопедия философских наук, Философия природы, Т.2,

Москва.

112. Гольбах 11.Х. (1963), Произведения в двух томах. Т .1 , Москва.

- 168 -

113. Гулиапн К.И. (1962), Метод и система Гегеля, Москва.

114. Дeнкина О.С.(1971), Категория "структура" в системе категории диaлeктики,

Москва.

115. Каган М.С. (1971) "Системность и историзм", Философские науки, №5, Москва.

116. Кант И. (1964), Произведения в шестых томах, Т. 1, Москва.

117. Кедров Б.М. (1985), Классификация наук. Прогноз К. Маркса о науке будущего,

Мысль, Москва.

118. Керимов Д.Л.(1980), Философские основания политико-правовых исследовании,

Мысль, Москва.

119. Клиапд Д., Кинг В. (1974), Системный анализ и целевое управление. Москва.

120. Кондильях Э.Б.де (1938), Трактат о системах, в которых вскрываются их

недостатки и достониства, Москва.

121. Кузьмин В.П. (1980), Принцип системности в теории и методoлогии К. Маркса,

Политиздат, Москва.

122. Лаэртекий Д. (1979), О жизни, учениях и изречениях знаменитых философов,

Москва.

123. Лекторский В.А., Швырев В.С. (1971), "Актуальные фнлософско-

методологичеcкие проблемы системного подхода", Вопросы философии, No1,

Москва.

124. Мотрошиловa Н.В. (1984), Путь Гегеля к "науке логики". Нaука, Москва.

125. Науменко Л.К.(1974), "Диалектика Гегеля и системный подход", Философские

науки, №4, стр. 95-103, Москва.

126. Овчинников П.Ф.(1967), "Категория структур в науках о природе", Структура и

формы материи, Москва.

- 169 -

127. Огурцоп А.П. (1974), "Этапы интерпретации системности научного знания

(античность и новое время)". Ежегодник "системные исследования", Наука,

Москва.

128. Оруджев З. М. (1973), Диалектика как система, Политиздат, Москва.

129. Пeтрушенко Л.A. (1975), Единство системности п самодвижения, Москва.

130. Пeтрушенко Л.А. (1975), Пpoграмно-цeлевой подход п управлении. Теория и

практика, Москва.

131. Платон (1970), Произведения и трѐх томах, Т.З, ч.1. Москва.

132. Плeтников Ю.К. (1980), "Особeнность закона развития социалистического

общества", Вопросы философии, №2, Москва.

133. Розенталь М.М. (1960), Принцип диалектической логики, Москва.

134. Розенталь М.М. (1976), Диалектика ленинского исследочання империализма и

революции, Москва.

135. Садовский В.Н., Юдин Э.Г. (1970), Система-философская энциклопедия, Т. 5,

Москва.

136. Садовский В.Н. (1974), Основы общей теории систем: логикo-методологический

анализ, Наука, Москва.

137. Сарсенов Р.Т.(1977), Диалектнко-логический анализ категории

"взаимодействие", Алма-Ата.

138. Сачков Ю.В., Фам Ньы Кыонг (ответственные редакторы) (1980), Философия.

Естествознание. НТР, Прогресс. Москва.

139. Свидерский В.И. (1962), О диалектике элементов и структур в объективном

мире и в познании, Москва.

140. Сниркин А.Г. (1988), Основы философии, Политиздат, Москва.

141. Тюхтин В.С.(1968), "Системно-структурный подход п специфика философского

знания", Вопросы философии, No11, Москва.

- 170 -

142. Тюхтин В.С. (1972), Отражение, системы, кибернетика (теория отражения

в свете кибернетики и системного подхода). Москва.

143. Усмов A.И. (1978), Системный подход и общая теория систем, Мысль, Москва.

144. Федосеев П.Н.(1979), "Некоторые методологические вопросы общественных

наук", Вопросы философии. No11, Москва.

145. Философский энциклопедический словарь,(1983), Советская энциклопедия,

Москва.

146. Фролов И.Т.(1969), "Системно-структурный подход и диалектика". Вопросы,

философии, No12, Москва.

147. Хайлов К.М. (1970), Системы и систематизация в биологии. Проблемы

методологии системного исследования, Москва.

148. Хасанов М.Х. (1981), Структура и функция в системе категории

материалистической диалектики, Узбекистан, Ташкент.

149. Хасанов М.Ш. (1982), Проблема целостности в марксистско- ленинской

философии, Казахстан, Алла-Ата.

150. Шевтулпи А.П.(1980), Категории диалектики как отражение закономерностей

развития, Знание, Москва.

151. Шевтулин А.П. (1985), Диалектический материализм, Политиздат, Москва.

152. Югай Г.А. (1965), Диалектика части и целого, Алма-Ата.

- 171 -

PHẦN TIẾNG ANH

153. Bertalanffy L. (1960), Problems of life, New York.

154. Bertalanffy L. (1968), General System theory. Foundations, development, applications,

New York.

155. Lilienfeld R. (1978), The rise of System theory. An ideological analysis, New York.

156. Merton R. K. (1967), Social theory and social structure, Revised and enlarged ad.

Glencoe.

157 Miller I. G. (1971), The nature of living Systems. Behavioral science, No 4.

158. Parson T. (1964), Essays in Sociological theory. , Glencoe. Revised ed. Free Press.

159. Rudwick B. H. (1969), The Systems analysis for effective planning: Principles and

Cases, New York.

160. Vu Tinh (2000), "Philosophy and life", Philosophy Now, June-July, p.7-8, London.