ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN ĐỨC QUỲNH
THÍCH ỨNG VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG KHẨN CẤP CỦA CẢNH SÁT
PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY VÀ CỨU NẠN CỨU HỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN ĐỨC QUỲNH
THÍCH ỨNG VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG KHẨN CẤP CỦA CẢNH SÁT PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY VÀ CỨU NẠN CỨU HỘ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. Nguyễn Hữu Thụ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC Mã số: 62 31 04 01
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án Tiến sĩ Tâm lý học mang tên “Thích ứng với việc
giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn
cứu hộ” là công trình do chính tôi nghiên cứu và thực hiện dưới sự hướng dẫn của
GS.TS. Nguyễn Hữu Thụ.
Các thông tin, số liệu được sử dụng trong Luận án là trung thực, chính xác,
và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin, số liệu
trích dẫn trong Luận án đã được chú thích nguồn gốc. Nếu có gì sai sót tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm trước cơ sở đào tạo.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận án
Nguyễn Đức Quỳnh
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập, nghiên cứu nghiêm túc, ngày hôm nay, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học mang tên “Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ” của tôi đã được hoàn thành. Luận án này là kết quả của những nỗ lực, cố gắng của bản thân tôi cùng với sự hỗ trợ, giúp đỡ, động viên của rất nhiều người, từ thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đến những người thân trong gia đình.
Trước hết, tôi xin bày tỏ sự trân trọng, biết ơn và yêu quý đến GS.TS. Nguyễn Hữu Thụ – một người hướng dẫn khoa học nghiêm khắc, tận tâm, gần gũi và luôn chia sẻ, động viên tôi những khi tôi gặp khó khăn, cũng như luôn kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện, tạo động lực để tôi có thể thực hiện và hoàn thành Luận án đúng hướng, đảm bảo tiến độ và với chất lượng cao nhất.
Tiếp theo, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến các thầy cô, anh chị đang công tác tại Khoa Tâm lý học (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) và các thầy cô công tác tại Viện Tâm lý học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) đã luôn tận tình góp ý, chia sẻ về kinh nghiệm, kiến thức nghiên cứu của mình để tôi có thêm nhiều hiểu biết về lĩnh vực đang nghiên cứu.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu Trường Đại học phòng cháy chữa cháy, lãnh đạo Bộ môn lý luận chính trị và khoa học xã hội nhân văn, đã luôn tạo điều kiện về thời gian, công việc giảng dạy để tôi có thêm nhiều điều kiện cũng như kinh nghiệm hữu ích phục vụ không chỉ cho quá trình thực hiện luận án mà còn mở ra tiền đề để tôi tiếp tục hướng nghiên cứu trong tương lai.
Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị, bạn bè, đồng nghiệp, các cán bộ, chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH thuộc công an các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc đã dành thời gian hỗ trợ tôi trong việc thu thập số liệu, điều tra khảo sát tại thực địa.
Sau cùng, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất đến gia đình, đồng nghiệp – những người thân thương và gần gũi nhất của tôi đã luôn bên cạnh khuyến khích, động viên, hỗ trợ về mặt vật chất, tình cảm để tôi có thể hoàn thành Luận án này.
Hà Nội, ngày tháng 7 năm 2020
Tác giả luận án
Nguyễn Đức Quỳnh
M C L C
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 7
Chƣơng 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ THÍCH ỨNG VỚI VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG KHẨN CẤP CỦA CẢNH SÁT
1.1. Các công trình nghiên cứu về thích ứng với hoạt động nghề nghiệp ... 15
1.2. Các công trình nghiên cứu về thích ứng với việc giải quyết tình
huống khẩn cấp, thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp
trong chữa cháy và cứu nạn cứu hộ ............................................................. 20
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 30
PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY VÀ CỨU NẠN CỨU HỘ .................................. 15
Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG, THÍCH ỨNG ........................ 31
VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG KHẨN CẤP CỦA
2.1. Lý luận chung về thích ứng .................................................................. 31
2.2. Lý luận về thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp
của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ............................... 34
2.3. Biểu hiện thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp
của cảnh sát phòng chữa cháy và cứu nạn cứu hộ ....................................... 55
2.4. Một số biểu hiện tâm lý và cách ứng phó thường gặp của cảnh sát
phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ trong và sau quá trình giải
quyết các tình huống khẩn cấp ..................................................................... 62
2.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng với việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ .... 68
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 74
CẢNH SÁT PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY VÀ CỨU NẠN CỨU HỘ ............ 31
3.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu ......................................... 75
3.2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu lý luận ........................................ 81
3.3. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu thực tiễn..................................... 83
1
Chƣơng 3. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................ 75
3.4. Thang đo mức độ thích ứng với việc giải quyết các tình huống
khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ. .............. 97
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 99
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN THÍCH ỨNG VỚI
VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG KHẨN CẤP CỦA CẢNH SÁT
4.1. Thực trạng chung về thích ứng với việc giải quyết các tình huống
khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ ............. 100
4.2. Thực trạng thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp
của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ biểu hiện qua
các mặt cụ thể ............................................................................................. 102
4.3. Một số biểu hiện tâm lý và cách thức ứng phó thường gặp ở chiến
sĩ cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ trong và sau quá
trình giải quyết các tình huống khẩn cấp ................................................... 135
4.4. Các yếu tố tác động đến thích ứng với việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ .. 153
4.5. Phân tích chân dung tâm lý điển hình ................................................. 164
Tiểu kết chương 4 ...................................................................................... 177
PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY VÀ CỨU NẠN CỨU HỘ ................................ 100
1. Kết luận .................................................................................................. 178
2. Kiến nghị ................................................................................................ 180
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................. 178
DANH M C CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 185
DANH M C TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 186
2
PH L C
DANH M C TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Xin đọc là
Bộ Công an BCA
Công an nhân dân CAND
CC và CNCH Chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
PCCC và CNCH Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Tình huống khẩn cấp THKC
3
Trung học phổ thông THPT
DANH M C CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu ........................................................................ 79
Bảng 3.2. Độ tin cậy các thang đo khảo sát thử ........................................................ 89
Bảng 3.3. Độ tin cậy các thang đo trong khảo sát chính thức ................................... 93
Bảng 3.4. Thang đo mức độ thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn
cấp của cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ ........................... 97
Bảng 4.1. Mức độ thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của
cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ ....................................... 101
Bảng 4.2. Biểu hiện thích ứng về mặt nhận thức trong việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp .............................................................................................. 104
Bảng 4.3. Mức độ nhận thức về bản chất tình huống khẩn cấp .............................. 104
Bảng 4.4. Mức độ nhận thức về cách thức giải quyết tình huống khẩn cấp ........... 105
Bảng 4.5. Nhận thức về quy trình giải quyết các tình huống khẩn cấp .................. 107
Bảng 4.6. Biểu hiện thích ứng về mặt thái độ trong việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp .............................................................................................. 111
Bảng 4.7. Kết quả hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ ............................... 116
Bảng 4.8. Kết quả thực hiện hành động phối hợp với đồng đội ............................. 119
Bảng 4.9. Kết quả kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc .................... 126
Bảng 4.10. Kiểm định sự khác biệt về mức độ thích ứng giữa các nhóm khách
thể phân theo trình độ học vấn ....................................................................... 132
Bảng 4.11. Kiểm định sự khác biệt về mức độ thích ứng giữa các nhóm khách
thể phân theo cấp bậc hàm ............................................................................. 133
Bảng 4.12. Kiểm định sự khác biệt về mức độ thích ứng giữa các nhóm khách
thể phân theo thâm niên công tác .................................................................. 134
Bảng 4.13. Kiểm định sự khác biệt về mức độ thích ứng giữa các nhóm khách
thể phân theo khu vực công tác ..................................................................... 135
Bảng 4.14. Biểu hiện tâm lý trong và sau quá trình giải quyết các tình huống
khẩn cấp ......................................................................................................... 137
4
Bảng 4.15. Các cách ứng phó trong và sau khi giải quyết các tình huống khẩn cấp ... 143
Bảng 4.16. Mối quan hệ giữa mặt biểu hiện tâm lý với các mặt biểu hiện của
thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát
phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ ..................................................... 152
Bảng 4.17. Tác động của các yếu tố khách quan đến thích ứng với việc giải quyết
các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn
cứu hộ ............................................................................................................. 154
Bảng 4.18. Tác động của các yếu tố chủ quan đến thích ứng với việc giải quyết
các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn
cứu hộ ............................................................................................................. 158
Bảng 4.19. Mô hình hồi quy dự báo sự thích ứng với việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ của
nhóm các yếu tố khách quan .......................................................................... 162
Bảng 4.20. Mô hình hồi quy dự báo sự thích ứng với việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp của hai nhân tố nhóm các yếu tố khách quan ...................... 163
Bảng 4.21. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của chân
dung tâm lý thích ứng cao ............................................................................. 171
Bảng 4.22. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của chân
5
dung tâm lý thích ứng trung bình .................................................................. 176
DANH M C CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh
sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ (đơn vị: %). ........................... 100
Biểu đồ 4.2. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp biểu hiện
ở mặt nhận thức ............................................................................................. 109
Biểu đồ 4.3. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp biểu hiện
ở mặt thái độ .................................................................................................. 114
Biểu đồ 4.4. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp biểu hiện
ở mặt hành động ............................................................................................ 129
Biểu đồ 4.5. Mối quan hệ giữa các mặt biểu hiện của thích ứng với việc giải
quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và
cứu nạn cứu hộ ............................................................................................... 130
Biểu đồ 4.6. Tương quan giữa các thành tố trong yếu tố khách quan với thích
ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy
chữa cháy và cứu nạn cứu hộ......................................................................... 160
Biểu đồ 4.7. Tương quan giữa các thành tố của yếu tố chủ quan với thích ứng
với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy
6
chữa cháy và cứu nạn cứu hộ......................................................................... 161
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thích ứng có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của con người nói chung và cá nhân nói riêng. Thích ứng giúp con người tích
cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động và nâng cao hiệu quả hoạt động. Để tồn tại
trong xã hội, để hình thành và phát triển nhân cách của mình, con người phải hoạt
động không ngừng và tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Muốn thực
hiện tốt mọi hoạt động, con người phải thâm nhập vào các môi trường mới, phải
thay đổi trên hai mặt: mặt tâm lý, với việc hình thành, phát triển những cấu trúc tâm
lý mới cần thiết và mặt hành vi với việc hình thành những cách thức hành vi mới,
nhằm đảm bảo cho hành vi của cá nhân phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của hoạt động
mới, nghĩa là phải thích ứng với hoạt động. Có thể thấy, hiệu quả, chất lượng hoạt
động, sự hoàn thiện nhân cách của cá nhân phụ thuộc trực tiếp vào mức độ thích
ứng của cá nhân trong hoạt động.
1.2. Thống kê của Cục Cảnh sát PCCC và CNCH cho thấy, giai đoạn từ
tháng 7/2014 đến tháng 9/2019, cả nước xảy ra 16.108 vụ cháy, làm chết 422 người,
bị thương 947 người; thiệt hại về tài sản ước tính 7.581,8 tỷ đồng và 7.683 ha rừng.
Trung bình mỗi năm xảy ra 3.222 vụ cháy, làm chết 84 người, bị thương 199 người,
thiệt hại về tài sản trị giá 1.516,2 tỷ đồng và 1.536,6 ha rừng. Có 7 chiến sĩ hi sinh
và hàng trăm chiến sĩ khác bị thương khi đang làm nhiệm vụ. Trung bình mỗi ngày
xảy ra 9 vụ cháy, làm chết hoặc bị thương 1 người, thiệt hại về tài sản ước tính 4,4
tỷ đồng và 5,3 ha rừng. Địa bàn xảy ra cháy ở thành thị chiếm 60,11%, ở khu vực
nông thôn chiếm 39,89%; cháy tại khu vực nhà dân 5.636 vụ (chiếm 42,86 %), tại
cơ sở kinh tế tư nhân 4.861 vụ (chiếm 36,97%). Diễn biến đám cháy ở các khu vực
này rất phức tạp, gây nhiều khó khăn nguy hiểm cho hoạt động chữa cháy và cứu
nạn cứu hộ (CC và CNCH). Điều đó đặt ra các vấn đề về thể lực, tâm lý, chuyên
môn nghiệp vụ, kỹ năng xử lý tình huống và khả năng thích ứng trong điều kiện
mới đối với các chiến sĩ cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ (PCCC
và CNCH), để có thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong các tình huống khẩn cấp
7
(THKC) khi có cháy nổ xảy ra.
1.3. Chữa cháy và cứu nạn cứu hộ là nghề nguy hiểm, những người lính
thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn, thách thức, những tổn thương cả về
thể chất và tâm lý, điều này rất ít khi gặp ở những nghề khác. Trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ, các chiến sĩ thường xuyên phải tiếp xúc với các chấn thương, thậm
chí cái chết do hỏa hoạn, tai nạn xe khi di chuyển tới hiện trường hay hít phải khí
độc hại từ những vật liệu cháy, sự sụp đổ cấu kiện xây dựng, sập hầm lò... những
người lính PCCC và CNCH cũng là những người đầu tiên đến hiện trường để giải
quyết hậu quả thiên tai, các vụ gây thương vong hàng loạt, thảm họa môi trường và
vô số các THKC khác… Hoạt động nghề nghiệp với cường độ cao, khẩn cấp, thời
gian kéo dài làm cho các chiến sĩ PCCC và CNCH thường trong trạng thái quá tải,
dễ mệt mỏi, căng thẳng, áp lực vì công việc của các chiến sĩ là giúp đỡ người khác
khi họ bất lực, không thể tự giải quyết được.
1.4. Tuy nhiên, trong thực tiễn THKC, có chiến sĩ không thích ứng được do
có sự chuẩn bị tâm thế không tốt, non kém về kinh nghiệm, không chịu được áp lực
lớn của công việc, sợ hãi, lo lắng, không kiểm soát được cảm xúc, căng thẳng quá
mức khi làm nhiệm vụ, do đó ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả chiến đấu chung của cả
đội và gây ra những hậu quả về sức khỏe thể chất và tinh thần hết sức nghiêm trọng.
Sự căng thẳng trong quá trình giải quyết THKC không chỉ gây ra những thay đổi về
sức khoẻ thể chất, mà còn làm thay đổi nhận thức và hành vi, gây cảm giác chán ăn,
uể oải, huyết áp cao và mất ý chí [Stantz, 2002]. Ngoài ra, căng thẳng tâm lý trong
quá trình chữa cháy có thể dẫn đến một số căn bệnh như suy tim, tim mạch, huyết
áp cao, dẫn đến cơn co thắt các mạch máu trong tim, từ đó gây ra cơn đau tim đột
ngột, loạn nhịp và thậm chí tử vong [Byron, 2007]. Áp lực từ sự cố bất ngờ, nghiêm
trọng gây rối loạn căng thẳng sau chấn thương, có thể biến người lính cứu hỏa anh
hùng thành người gặp khó khăn về mọi mặt cảm xúc, một người dùng thuốc theo
toa, cuối cùng là một nạn nhân tự tử [Stantz, 2002].
Việc nâng cao mức độ thích ứng cho các chiến sĩ PCCC và CNCH trong việc
giải quyết các THKC đóng vai trò rất quan trọng. Nó giúp các chiến sĩ sử dụng một
cách có hiệu quả những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo, huấn luyện; các
8
kỹ năng, kỹ xảo hành động; những kinh nghiệm chiến đấu, làm chủ được trạng thái tâm
lý, tránh được trạng thái không thích ứng, căng thẳng, co cứng, lúng túng, chậm chạp,
bị động trước mọi THKC và sẵn sàng cho việc thực hiện nhiệm vụ tiếp theo.
1.5. Nghiên cứu thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC
và CNCH hiện nay chưa được quan tâm đúng mức, chưa có đề tài nào nghiên cứu
vấn đề các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH ở Việt Nam thích ứng với việc giải
quyết các THKC như thế nào. Nghiên cứu và đưa ra các kiến nghị nâng cao thích
ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH góp phần giúp các
chiến sĩ nâng cao khả năng thích ứng tốt hơn với việc giải quyết các THKC, từ đó
nâng cao hiệu quả chiến đấu.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Thích ứng với việc giải quyết
các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu
hộ” làm luận án nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và phân tích thực trạng thích ứng với việc giải quyết các
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH; các biểu hiện tâm lý trong quá trình giải quyết
các THKC và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao thích ứng với việc giải quyết
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện, mức độ thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Nghiên cứu tổng quan: Tổng quan các nghiên cứu về thích ứng, thích
ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH nhằm xây dựng cơ
sở lý luận cho luận án.
3.2.2. Nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng thích
ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, chỉ ra một số biểu
hiện tâm lý trong quá trình giải quyết và cách ứng phó của chiến sĩ sau khi giải quyết
các THKC.
3.2.3. Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng thích ứng cho các
9
chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH.
4. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện với sự tham gia của 396 cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm
công tác CC và CNCH tại công an các tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh, Vĩnh Phúc. Trong đó, chúng tôi chọn ra 20 chiến sĩ; 10 lãnh đạo chỉ
huy cấp tổ, đội trở lên tham gia phỏng vấn sâu và 02 chiến sĩ để phân tích chân
dung tâm lý điển hình.
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Về địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động PCCC và CNCH trên phạm vi địa bàn đô thị, được
thực hiện tại 04 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc.
5.2. Về nội dung nghiên cứu
5.2.1. Về mặt lý luận
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH là
một quá trình, đòi hỏi thời gian tiếp cận với khách thể lâu dài, nhưng do nghiên cứu
được tiến hành theo lát cắt ngang trên khách thể đặc biệt là cảnh sát PCCC và
CNCH, những người được huấn luyện và đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, vì vậy,
trong luận án, chúng tôi chỉ tập trung vào kết quả của quá trình thích ứng.
5.2.2. Về mặt thực tiễn
Nghiên cứu thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH biểu hiện qua nhận thức, thái độ, hành động. Một số biểu hiện tâm lý trong
quá trình giải quyết và cách ứng phó sau khi giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Phần lớn cảnh sát PCCC và CNCH có mức độ thích ứng khá cao với việc
giải quyết các THKC. Có sự khác biệt về mức độ thích ứng theo trình độ đào tạo,
cấp bậc hàm, thâm niên công tác và khu vực công tác giữa các chiến sĩ.
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH phụ
thuộc vào các yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó yếu tố chủ quan (kinh
10
nghiệm chiến đấu và trình độ chuyên môn nghiệp vụ) đóng vai trò quan trọng nhất.
7. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nguyên tắc phương pháp luận
7.1.1. Nguyên tắc duy vật biện chứng
Quan điểm này nhấn mạnh vai trò quyết định của các điều kiện vật chất, của
các điều kiện thực tiễn đến thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH. Theo quan điểm duy vật biện chứng, mọi hiện tượng tâm lý con
người đều phụ thuộc một cách tất yếu và có tính quy luật từ các tác động bên ngoài
(các điều kiện xã hội – lịch sử cụ thể) tác động vào con người thông qua các điều
kiện bên trong. Các điều kiện bên ngoài tác động đến thích ứng với việc giải quyết
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH đó là các điều kiện của môi trường, không
gian, thời gian, địa điểm xảy ra sự việc... Các điều kiện bên trong chính là những
đặc điểm tâm - sinh lý của các chiến sĩ; các đặc điểm nhân cách như tính cách, khí
chất, ý chí, tính tích cực của chiến sĩ; kinh nghiệm, năng lực… Đây chính là quan
điểm chủ đạo khi nghiên cứu vấn đề thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH.
7.1.2. Nguyên tắc tiếp cận liên ngành
Thích ứng tâm lý là một hiện tượng phức tạp được các nhà khoa học thuộc
nhiều chuyên ngành khác như giáo dục học, xã hội học, sinh học, thần kinh học và
tâm lý học... quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, để nghiên cứu một cách khoa học, khách
quan vấn đề đặt ra cần có sự phối hợp giữa các chuyên gia, phương pháp nghiên
cứu của các ngành khoa học kể trên là hết sức cần thiết nhằm xem xét, đánh giá,
phân tích vấn đề đặt ra một cách khách quan, trung thực nhất.
7.1.3. Nguyên tắc hoạt động – nhân cách
Theo quan điểm của tâm lý học hoạt động: Tâm lý, ý thức con người được nảy
sinh, hình thành và phát triển trong hoạt động. Thông qua thực tiễn giải quyết các
THKC mà các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH nhận thức được đầy đủ ý nghĩa, tầm
quan trọng của những hành động, việc làm của mình đối với người dân, đối với xã
hội và đất nước, để rồi có tình cảm yêu nghề sâu sắc. Từ đó, các chiến sĩ ý thức
11
được công việc của mình và luôn nỗ lực hết mình khắc phục khó khăn, trở ngại để
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Thông qua những hành động, việc làm cụ thể
đó mà hình thành nên những phẩm chất nhân cách mới của người chiến sĩ cảnh sát
PCCC và CNCH.
Bên cạnh đó, theo quan điểm này, thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH là quá trình các chiến sĩ tích cực, chủ động thay đổi bản
thân, thay đổi nhận thức, thái độ, hành động để đáp ứng yêu cầu của môi trường,
hoàn cảnh trong việc giải quyết các THKC. Sự thích ứng của mỗi chiến sĩ là sản
phẩm của điều kiện xã hội – lịch sử, là sản phẩm của quá trình đào tạo, huấn luyện,
rèn luyện và tự rèn luyện. Bởi mỗi chiến sĩ có các thuộc tính tâm lý, phẩm chất tâm lý
riêng đặc trưng, với những điểm mạnh và điểm yếu khác nhau. Do đó, quá trình thích
ứng với việc giải quyết các THKC của mỗi chiến sĩ cũng có sự khác nhau.
7.1.4. Nguyên tắc phát triển
Sự phát triển tâm lý ở con người trải qua các giai đoạn khác nhau và gắn liền
với hoạt động chủ đạo ở từng lứa tuổi, trên cơ sở đó các đặc điểm tâm lý, các thuộc
tính tâm lý mới được hình thành. Quan điểm này nhấn mạnh đến việc tiếp cận, nghiên
cứu coi thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH trong
sự vận động, biến đổi và phát triển. Thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH cũng luôn vận động, biến đổi và phát triển, nó gắn liền với
các tình huống, hoàn cảnh, không gian, thời gian và sự nỗ lực của bản thân chiến sĩ
thông qua quan sát, học hỏi, thực tiễn chiến đấu và lĩnh hội văn hóa của lực lượng
cảnh sát PCCC và CNCH.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận án, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp
nghiên cứu tài liệu, văn bản; phương pháp điều tra bằng bảng hỏi; phương pháp
chuyên gia; phương pháp phỏng vấn sâu; phương pháp phân tích chân dung tâm lý
điển hình; phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu bằng thống kê toán học.
8. Những đóng góp mới của luận án
8.1. Về lý luận
Luận án đã xây dựng, bổ sung và hoàn thiện thêm một số khía cạnh lý luận
12
tâm lý học về thích ứng, tình huống khẩn cấp, giải quyết tình huống khẩn cấp và
thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, mảng lý
luận và thực tiễn nghiên cứu còn chưa được quan tâm đúng mức ở Việt Nam. Xây
dựng thang đo mức độ thích ứng với việc giải quyết các THKC, các biểu hiện tâm
lý trong quá trình giải quyết và cách ứng phó sau khi giải quyết các THKC của cảnh
sát PCCC và CNCH, cùng các yếu tố ảnh hưởng tới nó.
8.2. Về thực tiễn
- Làm rõ đặc điểm công việc của nghề cảnh sát PCCC và CNCH.
- Chỉ ra thực trạng thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC
và CNCH cho phép đưa ra các kết luận mang tính khoa học về thích ứng với việc giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, những người làm việc trong môi
trường nghề nghiệp khẩn cấp, mang tính đặc thù, nguy hiểm và áp lực cao.
- Nghiên cứu chỉ ra một số biểu hiện tâm lý trong quá trình giải quyết và
cách ứng phó sau khi giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH. Các biểu
hiện và cách ứng phó tích cực này giúp các chiến sĩ vượt qua khó khăn, căng thẳng,
hồi phục nhanh chóng, sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiếp theo.
- Làm rõ thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng với việc giải quyết
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, đề xuất đưa ra các kiến nghị nhằm nâng
cao khả năng thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu quan trọng giúp Bộ Công an,
Cục Cảnh sát PCCC và CNCH đưa ra các chính sách, biện pháp tăng cường thích
ứng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, chiến đấu của các đơn vị cảnh sát
PCCC và CNCH. Kết quả nghiên cứu còn giúp cho nhà trường, học viên đào tạo
cảnh sát PCCC và CNCH xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn công tác PCCC và CNCH trong tình hình hiện nay. Dựa trên kết quả
nghiên cứu, luận án đưa ra các kiến nghị giúp các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH
tăng cường khả năng thích ứng với yêu cầu của công việc và đảm bảo sức khỏe thể
chất và tinh thần để có thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
9. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết
13
cấu 4 chương.
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về thích ứng với việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp của Cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ.
Chương 2: Cơ sở lý luận về thích ứng, thích ứng với việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp của Cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ.
Chương 3: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu thực tiễn thích ứng với việc giải quyết các
14
tình huống khẩn cấp của Cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ THÍCH ỨNG VỚI VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG KHẨN CẤP CỦA CẢNH SÁT
PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY VÀ CỨU NẠN CỨU HỘ
Hiện nay, vấn đề thích ứng được các nhà tâm lý học nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau, trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của
luận án, chúng tôi trình bày những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài theo
hai hướng: Các công trình nghiên cứu thích ứng với hoạt động nghề nghiệp; các
công trình nghiên cứu liên quan đến thích ứng với việc giải quyết các THKC nói
chung và thích ứng với việc giải quyết các THKC trong chữa cháy và cứu nạn cứu
hộ. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát PCCC và
CNCH được xem là thích ứng nghề nghiệp. Thích ứng này được nghiên cứu trên
đối tượng khách thể đặc biệt, làm việc trong môi trường đặc biệt, với những đặc thù
nghề nghiệp có nhiều sự khác biệt so với các ngành nghề khác.
1.1. Các công trình nghiên cứu về thích ứng với hoạt động nghề nghiệp
Herbert Spencer cho rằng “Cuộc sống là sự thích nghi liên tục của các quan hệ
bên trong với bên ngoài”, theo đó, thích ứng là chức năng tâm lý, chức năng ý thức của
con người. Các hiện tượng tâm lý, ý thức được biểu hiện bằng hệ thống hành vi. Thích
ứng tâm lý có cùng bản chất với thích nghi sinh học, thích ứng tuân theo những quy
luật khách quan của sinh học là “biến dị”, “di truyền”, “chọn lọc tự nhiên”. Và tâm lý,
ý thức là các hình thức mới của sự thích ứng giữa cơ thể người với môi trường. Như
vậy, quan điểm này chưa thấy được bản chất xã hội của sự thích ứng của con người
[Robinson, Sarita Jane, 2012].
William James kế thừa và phát triển tư tưởng của Spencer, đưa ra quan niệm:
“Tâm lý học phải nghiên cứu, xem xét các hiện tượng tâm lý tồn tại để khắc phục
cái gì? Nghiên cứu xem cá nhân có sử dụng những chức năng tâm lý để thích ứng
với những biến đổi của môi trường thế nào và tìm ra con đường để cá nhân có thích
15
ứng hiệu quả” [dẫn theo Nguyễn Thị Út Sáu, 2013].
Như vậy, Herbert Spencer và William James đã có công xây dựng cơ sở của
tâm lý học thích ứng với tư tưởng chủ đạo là: Tâm lý, ý thức có chức năng là thích
ứng và là công cụ để thích ứng. Ý thức đóng vai trò tiếp nhận, phân loại, lựa chọn, so
sánh, các kích thích của môi trường để điều chỉnh hành vi của cơ thể đáp ứng với yêu
cầu và điều kiện mới của nó. Với ý nghĩa đó, ý thức và hoàn cảnh có vấn đề là những
khái niệm cơ bản của tâm lý học chức năng. Về mặt bản chất, thích ứng với việc giải
quyết các THKC chính là quá trình thích ứng với hoạt động nghề nghiệp nhưng được
tiến hành trong điều kiện và môi trường đặc biệt với những đặc thù riêng, đòi hỏi con
người phải nhanh chóng, kịp thời giải quyết, không được chậm trễ.
Tác giả N.B.Basinanova, D.V.Kalinhitreva xem xét mối quan hệ giữa trí tuệ
với sự thích ứng nghề nghiệp, thích ứng tâm lý - xã hội đã phát hiện: Chỉ số trí tuệ càng
cao thì sự thích ứng nghề nghiệp lại càng thuận lợi. Nhưng sự thích ứng tâm lý - xã hội
thì không hoàn toàn như vậy. Nếu chỉ số trí tuệ của cá nhân cao hơn hẳn chỉ số trí tuệ
chung của nhóm thì nó sẽ cản trở sự thích ứng tâm lý - xã hội của cá nhân đó
[Basinanova, Kalinhitreva, 1973].
Tác giả Duffy. R. D và Blustein. D. L cho rằng, khả năng thích ứng nghề
nghiệp được hiểu như là sự tự quyết định về nghề, sự tự lựa chọn nghề, tự mong
muốn đạt được kết quả nhất định về nghề, tìm kiếm trường học nghề phù hợp với khả
năng của mình. Để hoạt động nghề nghiệp đạt hiệu quả đòi hỏi mỗi cá nhân phải
thích ứng với nghề nghiệp. Khi con người thích ứng với nghề nghiệp, họ sẽ chủ động,
tích cực trong công việc, an tâm, phấn khởi, say mê, dồn hết khả năng, tâm trí của
mình cho hoạt động nghề. Lúc này, con người sẽ thực hiện hoạt động dễ dàng, khả
năng sáng tạo lớn và hiệu quả lao động cao [Duffy và Blustein, 2005, tr. 161-164].
Tác giả Pankova Tachiana Anna Tonnepna khi nghiên cứu: “Thích ứng tâm lý
nghề nghiệp của các chuyên gia trẻ” đã cho rằng trí tuệ xã hội như là yếu tố thích
ứng tâm lý xã hội của một chuyên gia trẻ. Các chuyên gia trẻ có trình độ trí tuệ cảm
xúc cao thì có sự thích ứng tâm lý xã hội đối với hoạt động nghề nghiệp theo các tiêu
chí bên ngoài và bên trong. Hiệu quả thích ứng tâm lý xã hội của chuyên gia trẻ theo
các tiêu chí bên trong có liên quan chặt chẽ với trình độ trí tuệ xúc cảm bên trong và
16
trình độ trí tuệ xúc cảm liên nhân cách (ứng xử, quan hệ) [dẫn theo Воланен, 1987].
Nghiên cứu của nhà tâm lý học Phần Lan, Volannen. M.V nghiên cứu về sự
thích ứng nghề nghiệp của thanh niên Phần Lan trong học nghề, thay đổi nghề, thất
nghiệp, làm việc tạm thời. Theo ông, đây là giai đoạn thể hiện sự thích ứng nghề
nghiệp của thanh niên và tâm thế của họ đối với việc làm phụ thuộc vào giai đoạn
này có diễn ra sự thích ứng nghề hay không [Воланен, 1987, tr. 117-120].
Một nghiên cứu khác theo hướng này là nghiên cứu của Holland, về mối
tương quan giữa tính cách và nghề nghiệp. Ông cho rằng, sự tương quan về tính cách
với nghề nghiệp sẽ giúp thanh niên thích ứng với nghề nhanh và hiệu quả hơn, giảm
bớt những khó khăn mà họ gặp phải trong công việc.
Tác giả Hesketh. B và Griffin. B trong bài viết, thích ứng tâm lý nghề để
đương đầu với mọi thay đổi, đã đề cập đến việc đào tạo công nghệ mới cho người
lao động phải tạo điều kiện cho họ nhanh chóng thích ứng công nghệ đó và hình thành
được các kỹ năng cần thiết. Họ cho rằng, cần giúp cho người lao động thích ứng với
tâm lý nghề để họ sẵn sàng đương đầu với mọi thay đổi, không chỉ cung cấp cho người
lao động tri thức nghề mà điều rất quan trọng là hình thành kỹ năng nghề cho họ
[Hesketh và Griffin, 2001, tr.203-212].
Các tác giả Creed. P, Fallon. T, Hood. M trường Đại học Griffth của Australia
đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa thích ứng nghề nghiệp và mối quan tâm về nghề
trong giới trẻ, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, thích ứng nghề nghiệp có mối quan hệ
bên trong và có thể bị ảnh hưởng bởi nhân tố đầu tiên (kế hoạch xây dựng nghề, khám
phá nghề, xu hướng nghề, sự ra quyết định nghề…). Những nhân tố nghề có mối quan
hệ nội hàm và bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác [Creed, Fallon và Hood, 2009].
Tác giả Shcheglova. S. N, nghiên cứu các đặc trưng thích ứng của giáo viên
phổ thông đối với các giá trị của việc sử dụng máy tính, tác giả cho rằng thích ứng
của giáo viên với những giá trị xã hội thông tin là phương pháp độc đáo đòi hỏi tính
tích cực trong giảng dạy. Công trình nghiên cứu của Shcheglova S.N. đã góp phần
khẳng định đòi hỏi tất yếu của thế kỷ XXI đối với con người nói chung và giáo viên
nói riêng. Muốn tồn tại, muốn cống hiến được tốt trong hoạt động nghề nghiệp của
mình người giáo viên phải thích ứng với sự biến đổi của xã hội, cụ thể là thích ứng
17
với công nghệ thông tin [Shcheglova, 2007, tr.33-42].
Tác giả Mustafa Ozturk, nghiên cứu bước đầu làm quen với hoạt động dạy
học: những khó khăn thích ứng của giáo viên trẻ, đã chỉ ra bốn yếu tố khó thích ứng
nhất của giáo viên trẻ là: Áp lực công việc; uy tín xã hội và bản sắc cá nhân; giám
sát, quản lý ở trường học và những khó khăn trong quản lý lớp học. Những yếu tố
này trực tiếp gây khó khăn, chỉ khi vượt qua được những khó khăn đó, họ mới thích
ứng được với môi trường nhà trường và khẳng định được vị thế cá nhân trong công
việc [Ozturk, 2008].
Tác giả Phạm Vũ Kiên Cường, trong bài viết điều tra khả năng thích ứng
tâm lý của lực lượng gìn giữ hòa bình của Hungary tại nước ngoài, đã chỉ ra động
cơ là một nhân tố quan trọng đối với thích ứng. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, trong
các lực lượng có đông nữ giới thì thích ứng tốt hơn, sự căng thẳng ít hơn, bởi vì nữ
giới có khả năng miễn dịch cao hơn, họ có khả năng điều chỉnh những mâu thuẫn xã
hội giữa đàn ông – đàn bà cao hơn. Phần lớn các quân nhân chính quy thích môi
trường phục vụ này vì trong quá trình học tập và thực hành họ muốn thử sức ở
những hoàn cảnh gay cấn. Bên cạnh đó, sự hậu thẫu của gia đình đóng vai trò quan
trọng đối với khả năng thích ứng của họ [Phạm Vũ Kiên Cường, 2008, tr. 62-68].
Vấn đề thích ứng đã được các nhà tâm lý học ngoài nước quan tâm nghiên
cứu, các công trình này đã góp phần khái quát và xây dựng những nét cơ bản nhất
về vấn đề thích ứng ở con người. Mỗi nghiên cứu đều tập trung nêu một đến hai yếu
tố ảnh hưởng đến sự thích ứng, cùng với đó là sự phân tích sâu sắc những ảnh
hưởng của các yếu tố đó đến thích ứng trong những trường hợp cụ thể.
Ở Việt Nam, thích ứng là vấn đề quan trọng được nhiều nhà tâm lý học
quan tâm nghiên cứu. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về sự thích ứng với
nhiều lĩnh vực khác nhau, trong khuôn khổ luận án này, chúng tôi xin khái quát
các công trình nghiên cứu về thích ứng với hoạt động nghề nghiệp của tác giả
trong nước.
Tác giả Nguyễn Chí Tăng, nghiên cứu “Sự thích ứng của giáo viên trung học
cơ sở với ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động giảng dạy”, kết quả nghiên
cứu cho thấy: Hầu hết giáo viên THCS thích ứng với ứng dụng công nghệ thông tin
18
vào hoạt động giảng dạy ở mức trung bình. Mức độ thích ứng có sự khác nhau giữa
giáo viên trên ba địa bàn (thành thị, đồng bằng và trung du miền núi), giữa giáo viên
dạy các môn học, giữa giáo viên thuộc các độ tuổi. Các yếu tố: trình độ tin học; ý
chí của giáo viên; tính cách cá nhân; sự hỗ trợ, giúp đỡ của tập thể; quản lý của lãnh
đạo nhà trường; điều kiện vật chất ảnh hưởng đến sự thích ứng của giáo viên với
ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động giảng dạy [Nguyễn Chí Tăng, 2011].
Tác giả Dương Thị Thanh Thanh, nghiên cứu "Mức độ thích ứng với hoạt
động quản lý dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học" chỉ ra rằng: Các biểu hiện
mức độ thích ứng với hoạt động quản lý dạy học của người hiệu trưởng trường tiểu
học chịu sự tác động của các yếu tố đó là: Sự thừa nhận của tập thể nhà trường, hiểu
biết của hiệu trưởng tiểu học về hoạt động quản lý dạy học, kỹ năng quản lý dạy
học của hiệu trưởng tiểu học và cuối cùng là sự hài lòng với hoạt động quản lý dạy
học hiệu trưởng tiểu học. Có sự khác biệt về giới tính, thâm niên quản lý đối với
mức độ thích ứng hoạt động quản lý dạy học, hiệu trưởng tiểu học là nam giới
thích ứng với hoạt động quản lý dạy học cao hơn hiệu trưởng tiểu học là nữ. Các
hiệu trưởng tiểu học có thâm niên quản lý nhiều hơn thích ứng với hoạt động
quản lý dạy học tốt hơn hiệu trưởng Tiểu học có thâm niên quản lý ít [Dương Thị
Thanh Thanh, 2013].
Tác giả Dương Thị Minh Phương, nghiên cứu “Một số yếu tố ảnh hưởng đến
hành động thích ứng của nông dân đối với các chương trình thích ứng biến đổi khí
hậu ở một số nước châu Phi” đã phát hiện ra rằng các yếu tố như: trình độ học vấn,
khả năng tiếp cận tín dụng, kinh nghiệm nông nghiệp, các thông tin dịch vụ mở
rộng, quy mô hộ gia đình… có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức và hành động
của nông dân đối với các chương trình thích ứng biến đổi khí hậu [Dương Thị Minh
Phương, 2014].
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga, nghiên cứu “Sự thích ứng với hoạt động
dạy học của giáo viên tiểu học mới vào nghề” chỉ ra rằng thích ứng với hoạt động
dạy học của giáo viên tiểu học mới vào nghề đạt mức trung bình. Các giáo viên
được đào tạo lâu năm hơn (4 đến 5 năm) có mức độ thích ứng tốt hơn giáo viên
có thời gian đào tạo ngắn (1 đến 3 năm). Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng
19
đó là: tính tích cực trong hoạt động dạy học; xu hướng nghề sư phạm; tính cách
cá nhân; yếu tố bầu không khí tâm lý tập thể sư phạm; cơ sở vật chất; chính sách
đãi ngộ dành cho giáo viên. Bên cạnh đó: sự thiếu chủ động, không tự tin, thiếu
kiến thức thực tế, chưa thành thạo các kỹ năng… cũng ảnh hưởng đến thích ứng
với hoạt động giảng dạy của giáo viên tiểu học mới vào nghề [Nguyễn Thị
Thanh Nga, 2015].
Tác giả Trần Thu Hương, nghiên cứu “Thích ứng với hoạt động dạy học của
giảng viên trẻ tại các học viện, trường đại học Công an nhân dân” đã chỉ ra cấu
trúc tâm lý thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ tại các học viện,
trường đại học công an nhân dân. Trong đó, hành động thực hiện hoạt động dạy học
là thành tố trung tâm, chủ đạo, là điều kiện, phương tiện của thích ứng, nó chi phối
mạnh mẽ đến các thành tố khác; nhận thức là thành tố cung cấp nguyên liệu của sự
thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ; cảm xúc là thành tố kích thích
sự thích ứng. Bên cạnh đó yếu tố chủ quan có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đó là: hứng
thú và kỹ năng thực hiện hoạt động dạy học [Trần Thu Hương, 2016].
Các công trình nghiên cứu về thích ứng với hoạt động nghề nghiệp ở Việt
Nam đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Các tác giả cũng đã xác định được tiêu chí
khách quan để đo các biểu hiện của sự thích ứng với hoạt động nghề nghiệp và chỉ
ra nhiều yếu tố chủ quan, khách quan ảnh hưởng đến quá trình thích ứng với hoạt
động nghề nghiệp. Ngoài ra, các nghiên cứu đã xây dựng những biện pháp tâm lý –
giáo dục giúp quá trình thích ứng với nghề nghiệp diễn ra nhanh chóng hơn.
1.2. Các công trình nghiên cứu về thích ứng với việc giải quyết tình
huống khẩn cấp, thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp trong
chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Khi đứng trước các sự kiện, biến cố nghiêm trọng, bất thường, đột xuất, con
người cần phải thích ứng để tích cực, chủ động thay đổi bản thân nhằm đưa ra quyết
định nhanh chóng, kịp thời, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của tình huống nhằm ngăn
chặn những hậu quả nặng nề có thể xảy ra. Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt
Nam chưa có nhiều tác giả nghiên cứu về thích ứng với việc giải quyết các THKC nói
chung, thích ứng với việc giải quyết các THKC trong CC và CNCH nói riêng. Các
20
nghiên cứu chủ yếu liên quan đến hệ quả của không thích ứng và các biện pháp khắc
phục các vấn đề về sức khỏe tâm thần, tổn thương tâm lý, khó khăn tâm lý, căng thẳng
tâm lý, quá trình nhận thức, xúc cảm, hành vi của con người trong các THKC....
Nhóm các tác giả Wagner. D, Heinrichs. M và Ehlert. U, nghiên cứu trên 402
lính cứu hỏa Đức về những triệu chứng thường gặp trong rối loạn căng thẳng sau
sang chấn (PTSD) của lính cứu hỏa Đức đã chỉ ra: Lính cứu hỏa thường trong trạng
thái dễ căng thẳng vì công việc của họ là giúp đỡ người khác và không nhận được sự
giúp đỡ từ những người khác trong các THKC. Căng thẳng sau sang chấn có thể do
phải tiếp xúc với những người bị thương, với những tình huống nguy hiểm đến mạng
sống, với những hoạt động yêu cầu sức mạnh về thể chất. Các biểu hiện như: Tâm
trạng chán nản, rối loạn chức năng xã hội, lạm dụng thuốc... Nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng: những người có kinh nghiệm nghề nghiệp lâu năm thì khả năng bị PTSD cao
hơn, đó là nguyên nhân của việc nghỉ hưu sớm của họ. [Wagner, Heinrichs và Ehlert,
1998, tr.1727 - 1732].
Tác giả Shantz. C. M, nghiên cứu ảnh hưởng của căng thẳng công việc lên
lính cứu hỏa/ nhân viên y tế cho kết quả thật bất ngờ. Lính cứu hỏa bị áp lực bởi
chính môi trường sống ở đơn vị chữa cháy của họ, thiết bị bảo hộ, cán bộ và lãnh đạo
của họ, cách quản lý hiện tại, đồng nghiệp và áp lực về việc xa gia đình, người thân
yêu và những thảm họa mà cháy nổ gây ra. Một số các loại tính cách nhất định không
giải quyết được áp lực tâm lý. Tuy nhiên, họ đã đối phó tốt hơn khi được giảng dạy,
giáo dục và đào tạo thích hợp. Từ kết quả đó, tác giả cho rằng giáo dục và sự hỗ trợ
phải đến sớm cho nhân viên chữa cháy để đáp ứng nhiều thách thức trong công
việc. Việc hiểu rõ hơn các chấn thương mà họ sẽ đối mặt giúp họ chuẩn bị tốt hơn,
thực hành nhiệm vụ thông thạo hơn và tận hưởng hạnh phúc với một mức độ cao hơn
[Shantz, 2002].
Tác giả Leach. J, nghiên cứu “Tại sao con người “đông cứng” trong tình
huống khẩn cấp khi áp lực về thời gian và nhận thức được những phản ứng mang
tính sống còn” cho rằng, nguyên nhân của “đông cứng”, “đóng băng” là do chứng
liệt thần kinh, sự sợ hãi khi đối mặt với nguy hiểm. Khi yêu cầu nhận thức càng
phức tạp, càng cần mở rộng thì dường như thời gian để vượt giới hạn càng nhỏ. Các
21
THKC làm chậm quá trình xử lý thông tin. Điều này giải thích cho sự chậm trễ hoặc
không phản ứng trong các giai đoạn tác động chủ chốt của thảm họa. Theo ông, có
một chuỗi nhận thức: cảm nhận -> lĩnh hội –> ra quyết định -> thi hành -> di
chuyển. Mỗi giai đoạn trong trật tự này yêu cầu khoảng thời gian cần thiết để hoàn
thành. Trong một thảm họa, các sự kiện có xu hướng diễn ra nhanh chóng và không
thể dự đoán trước, dẫn tới không có thời gian để cân nhắc kỹ, khi đó, con người
càng phản ứng nhanh với sự kiện đó thì cơ hội sống sót càng cao. Nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng: trẻ em sẵn sàng thích ứng với THKC hơn so với người lớn, cần phải đào
tạo và phát triển kỹ năng sinh tồn, văn hóa sinh tồn, bên cạnh đó phải phát triển các
thiết bị hỗ trợ cuộc sống một cách chủ động [Leach, 2004].
Tác giả Cocking. C và Drury. J, nghiên cứu về hành vi của con người trong
trường hợp sơ tán khẩn cấp chỉ ra rằng, khi sự hoảng loạn của đám đông xảy ra thì
hành vi trong THKC cần được sắp xếp theo thứ bậc và phù hợp với ý nghĩa, với các
quy tắc và tiêu chuẩn xã hội, ngay cả trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm. Sự hợp tác
chiếm ưu thế hơn hành vi ích kỷ, ngay cả trong đám đông người lạ. Sự hợp tác này
chính là tính đồng nhất trong đám đông bị ảnh hưởng bởi THKC. Nghiên cứu cũng đề
xuất: Các trưởng đơn vị chữa cháy nên coi việc xuất hiện tính đồng nhất như một
nguồn trợ giúp tiềm năng và xem xét các cách để khuyến khích sự cộng tác như một
phương pháp nâng cao sự an toàn và hiệu quả khi phải sơ tán của một số lượng lớn
người dân khỏi nguy hiểm trong các trường hợp khẩn cấp [Cocking và Drury, 2007].
Tác giả Byron K. Kennedy, nghiên cứu những ảnh hưởng về tâm lý và sinh
lý của sự căng thẳng đối với lính cứu hỏa cho rằng: căng thẳng tâm lý là một thủ
phạm gây ra những sức ép cho lính cứu hỏa, họ phải phải qua rất nhiều căng thẳng ở
các mức độ khác nhau, thường là cẳng thẳng sinh lý kéo dài như kiệt sức, thiếu ngủ,
nhiệt độ khắc nghiệt, đau đớn và những căng thẳng nghiêm trọng trong môi trường
làm việc. Các biểu hiện căng thẳng sinh lý đó là: cảm giác buồn nôn, chóng mặt, co
thắt, tức ngực, chuột rút cơ bắp, tăng nhịp tim, dẫn đến tăng huyết áp, tăng nhu cầu
máu và ôxy cho cơ thể. Một số lính cứu hỏa phải trải qua những cú sốc tâm lý hay
căng thẳng và họ đã không thoát ra được khỏi tình trạng căng thẳng, dẫn đến rối
loạn căng thẳng sau chấn thương. Theo tác giả những phản ứng bất lợi từ căng
22
thẳng sinh lý hoặc tâm lý có thể gây ra cái chết cho lính cứu hỏa [Byron, 2007].
Tác giả Hauke. A và cộng sự, trong nghiên cứu, Dịch vụ khẩn cấp: Tài liệu
đánh giá về an toàn sức khỏe và rủi ro nghề nghiệp cho rằng: môi trường làm việc
của các nhân viên cứu hộ khẩn cấp châu Âu thường là những vùng xa xôi, khó tiếp
cận, điều kiện thời tiết không ổn định và cực kỳ khó khăn, những nguy cơ tại hiện
trường như sự sụp đổ công trình xây dựng, bạo lực cao, khủng bố. Trong môi trường
làm việc như vậy, các nhân viên cứu hộ khẩn cấp phải đối mặt với nhiều tình huống
căng thẳng, gây cảm xúc mạnh, cảm giác gánh nặng trách nhiệm cho cuộc sống của
người khác; cảm giác tuyệt vọng, bất lực, tội lỗi, kiệt sức khi họ không thể cứu được
nạn nhân; những rối loạn tâm lý sau sang chấn như trầm cảm, dễ kích động, gặp ác
mộng khi ngủ, mất tập trung trong nhận thức [Hauke và cộng sự, 2011].
Tác giả Robinson và Sarita Jane, nghiên cứu hành vi của con người trong
các tình huống khẩn cấp khi thảm họa ập đến lại cho kết quả ngược lại với nghiên cứu của tác giả Chris Cocking và John Drury, nghiên cứu chỉ ra rằng: Con người khi
bị đe dọa có thể hành động theo cách mà làm cho bản thân họ và những người khác
rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm hơn. Chỉ có 10% - 25% số người trong THKC sẽ có
thể đảm bảo hành động nhanh chóng và hiệu quả. Các nạn nhân khác (khoảng 65%
- 80% số người) sẽ do dự và hành động một cách hoang mang và bối rối. Và 10% -
15% nạn nhân thể hiện hành vi thích nghi kém, bao gồm sự bối rối, kêu khóc, sợ
cứng người và quá kích động. Các hành vi của con người thường thấy trong một
THKC, thảm họa thường thấy đó là: sự phủ nhận; đóng băng (mất nhận thức); các
hành vi rập khuôn, không phù hợp; các chứng đãng trí; chịu đựng và giữ bình tĩnh
cho đến khi được giải cứu. Các tác giả chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến hành động
trong THKC đó là: tuổi tác, giới tính, kinh nghiệm quá khứ, trình độ học vấn, các
yếu tố của tình huống như: cường độ của các thảm họa… Nghiên cứu cũng đưa ra
các gợi ý thúc đẩy hành vi thích hợp nâng cao khả năng thích ứng trong các THKC,
có thể tăng cường khả năng sống sót [Robinson và Jane. S, 2012].
Trong báo cáo của Liên đoàn cứu hỏa Liên bang Australia, tiểu bang Victoria
về ảnh hưởng của sức khỏe nghề nghiệp đối với nhân viên cứu hỏa: Mức độ và tác
động của chấn thương thể chất và tâm lý, tác giả Cook. B và Michell. W, đã chỉ ra
23
rằng, tính chất nguy hiểm và sự đòi hỏi cao về thể chất trong nhiệm vụ làm cho lính
cứu hỏa dễ bị bệnh tim, bệnh về hô hấp, ung thư cao hơn so với các ngành nghề
khác. Sự căng thẳng nghề nghiệp, PTSD, trầm cảm, lo lắng và sử dụng rượu hoặc
ma túy của nhân viên cứu hỏa cũng cao hơn ngành nghề khác, đặc biệt là tự tử.
Nghiên cứu đã dự báo về các yếu tố gây bệnh tâm lý trong lính cứu hỏa là: tuổi trẻ;
độc thân; những vấn đề tâm lý trước đó; cảm xúc không an toàn; bị chấn thương;
đánh giá thấp về bản thân; mức hỗ trợ xã hội thấp hơn; kinh nghiệm làm việc; tham
gia nhiều vào các sự cố, chấn thương và thiếu kiểm soát. Việc đào tạo nhân viên để
họ nhận ra được các dấu hiệu của các vấn đề tâm lý và có chiến lược hiệu quả để hỗ
trợ là yếu tố then chốt giúp giảm chấn thương về thể chất và tâm lý cho nhân viên
cứu hỏa [Cook và Michell, 2013].
Tác giả Shoygu. S. J, nghiên cứu đánh giá trình độ chuyên môn của các nhà
tâm lý học từ Bộ Quốc phòng, Bộ Tình trạng khẩn cấp Nga liên quan đến hỗ trợ tâm
lý trong THKC. Nghiên cứu chỉ ra rằng: Hỗ trợ tâm lý trong THKC như là một hệ
thống các biện pháp ngắn hạn nhằm hỗ trợ đối với cá nhân, nhóm người hay lượng
lớn nạn nhân sau khủng hoảng hoặc sau thảm họa vì mục đích điều chỉnh trạng thái
tâm sinh lý và các trải nghiệm cảm xúc tiêu cực của họ. Các nghiên cứu từ các nhà
tâm lý học đã tạo điều kiện cho sự phát triển tổ chức và xây dựng phương pháp luận
phổ quát cho các chuyên gia suốt quá trình cứu nạn trong những THKC. Nghiên
cứu cũng chỉ ra các nguyên tắc trợ giúp tâm lý trong THKC [Shoygu, 2014].
Tác giả Karen F. Deppa, Đại học Pennsylvania, Nghiên cứu các biện pháp phục
hồi cho lính chữa cháy, đã chỉ ra những áp lực, tổn thương về thể chất và tinh thần mà
lính chữa cháy phải chịu đựng, những hy sinh của người lính chữa cháy trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ. Nghiên cứu cũng chỉ rõ những áp lực nghề nghiệp ở lính cứu hỏa,
sự thiếu quan tâm của lãnh đạo, cơ quan chức năng đối với tổn thương tâm lý so với
những tổn thương về thể chất. Văn hóa nghề nghiệp góp phần quan trọng giúp người
lính cứu hỏa thích ứng với nghề nghiệp, vượt qua áp lực về thể chất và tâm lý. Trong
các biện pháp giúp nâng cao thích ứng tâm lý cho lính cứu hỏa thì yếu tố tích cực của
cá nhân lính cứu hỏa đóng vai trò quan trọng nhất [Karen F. Deppa, 2015].
Tác giả Sarah N. Henderson và cộng sự, nghiên cứu, Tự tử ở lính chữa cháy:
24
những thách thức về văn hóa đối với các chuyên gia sức khỏe tâm thần chỉ ra rằng,
lính chữa cháy dành một phần ba cuộc đời tại trạm cứu hỏa, điều đó tạo ra mối liên
kết và gắn kết mạnh mẽ với đồng đội, tình bạn thân thiết đặc biệt được hình thành,
vì thế cái chết của một thành viên, nhất là tự sát sẽ hủy hoại các thành viên khác và
tạo ra sự bất lợi cho hoạt động của trạm. Ba dấu hiệu cảnh báo quan trọng nhất làm
tăng nguy cơ tự sát là: cảm giác vô vọng và bất lực, cảm thấy mình là một gánh
nặng, những nỗ lực tự tử trước đó. Các dấu hiệu cảnh báo bổ sung là: thay đổi trong
giờ giấc ngủ, sự cách biệt xã hội và thể hiện hành vi lo lắng hoặc kích động. Nghiên
cứu cũng đã chỉ ra việc đào tạo đội ngũ phòng chống tự sát đã đưa đến hiệu quả tốt
và giúp ngăn chặn tình trạng tự tử ở lính chữa cháy. Tuy nhiên nghiên cứu cũng đưa
đến những tranh luận về việc nên hay không nên công nhận tự sát là một vấn đề
trong dịch vụ chữa cháy, cũng như những gì bác sĩ tâm thần có thể làm để dự báo
ngăn chặn các vụ tự tử liên tục ở mức báo động của lính chữa cháy [Sarah, 2016].
Tác giả Schild. M và Szijártó. L, nghiên cứu tâm lý học đám đông về thiên
tai và sơ tán khẩn cấp cho rằng: Bất kỳ THKC nào đều có thể tạo ra một tình huống
nguy kịch và mọi người sẽ bắt đầu tìm kiếm các giải pháp khả thi. Các nạn nhân,
người dân và các chuyên gia tham gia vào việc giải cứu đều phải đối mặt với những
tổn thương về thể chất và tâm lý, rối loạn lâu dài. Sự can thiệp tâm lý kịp thời và
chuyên nghiệp giúp họ thích ứng được với các THKC, việc can thiệp đó rất quan
trọng, nó ngăn ngừa các hậu quả sau chấn thương. Các hành vi bất thường trong
cuộc khủng hoảng là do sự thiếu hụt cảm xúc và các giản đồ nhận thức không thích
hợp [Schild và Szijártó, 2016].
Tác giả Pelham. B. B, trong nghiên cứu, Anh hùng của chúng tôi: một nghiên
cứu theo chiều dọc về rối loạn tâm thần trong dịch vụ chữa cháy đã chỉ ra rằng:
những người lính cứu hỏa thường gặp phải các triệu chứng rối loạn tâm thần như:
trầm cảm, lo âu, lạm dụng rượu, ý định tự tử và rối loạn căng thẳng sau chấn thương
(PTSD), những người phục vụ lâu năm có nguy cơ bị trầm cảm, lo âu, PTSD, lạm
dụng rượu và ý định tự sát cao hơn. Ngoài ra, những người ở đầu tuổi thanh niên (18-
24 tuổi và những người gần tuổi nghỉ hưu (40-55 tuổi) sẽ có nguy cơ cao hơn so với
tuổi ở giữa sự nghiệp của họ (25-39 tuổi). Khi số lượng các sự cố nghiêm trọng tăng
25
lên thì mức độ trầm cảm, lo lắng, PTSD, lạm dụng rượu và ý tưởng tự sát sẽ tăng lên.
Theo tác giả ngủ ít giờ mỗi đêm trong nhiều năm sẽ làm tăng mức độ trầm cảm, lo
lắng, PTSD, lạm dụng rượu và ý tưởng tự sát [Pelham, 2016].
Ở Việt Nam, nghiên cứu về thích ứng với việc giải quyết các THKC là vấn
đề mới, có không nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này, các nghiên cứu về THKC
tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau đây:
Tác giả Lưu Văn Sùng, nghiên cứu về “Xử lý các tình huống chính trị” cho
rằng, Những THKC trong chính trị xảy ra do biến cố không bình thường, có vấn đề
gay cấn, phức tạp, đòi hỏi con người phải nhận thức và xử lý bằng những giải pháp
không bình thường, phi truyền thống, giải pháp đặc biệt. THKC trong chính trị
thường xảy ra do khủng hoảng xã hội, hoàn cảnh dễ nảy sinh xung đột, rối loạn xã
hội. Do đó, THKC trong chính trị được xử lý không thể giống như cách giải quyết
bình thường được [Lưu Văn Sùng, 2002].
Nghiên cứu của nhóm tác giả Học viện Quốc phòng (2012) về xử lý các tình
huống của khu vực phòng thủ trong các trạng thái quốc phòng đã đưa ra các THKC
đó là: Có tình huống xảy ra như: biểu tình, gây rối, khủng bố, bắt cóc con tin, bạo
loạn, xâm lược… đây là những tình huống liên quan đến an ninh trật tự. Trong những
THKC, tình huống khẩn cấp về quốc phòng xảy ra liên quan đến một khu vực hay cả
nước thì trạng thái khẩn cấp này đòi hỏi phải huy động toàn thể bộ máy chính quyền
các cấp vào xử lý, giải quyết [Học viện Quốc phòng, 2012].
Tác giả Đinh Ngọc Tuấn, khi nghiên cứu về huấn luyện tâm lý và huấn luyện
chiến thuật chữa cháy cho rằng: Các chiến sĩ thích ứng tốt là người luôn kỳ vọng
cao vào việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, tin tưởng vào việc hoàn thành nhiệm
vụ được giao, thao tác thành thạo, sử dụng tốt phương tiện thiết bị chuyên dụng, dốc
sức thực hiện nhanh gọn, chính xác nhiệm vụ chiến đấu, kiên định trước khó khăn
trở ngại, tâm lý tình cảm ổn định, tự kiểm soát được suy nghĩ và hành vi của mình.
Đối với các chiến sĩ không thích ứng được thường có các biểu hiện tâm lý tiêu cực
như: run rẩy khi vào trận và ể oải khi ra trận, lo lắng, sợ hãi, giọng nói thay đổi, hay
có những câu lo lắng, thần kinh kích thích quá mức. Trong các THKC vai trò của
người chỉ huy rất quan trọng, người chỉ huy phải bình tĩnh, tự tin, các hành vi cử
26
chỉ, lời nói phải mạch lạc rõ ràng để làm chỗ dựa cho các chiến sĩ, từ đó nâng cao
tính dũng cảm, sáng tạo của chiến sĩ để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ chiến đấu của
mình [Đinh Ngọc Tuấn, 2006, tr. 380 - 383].
Tác giả Nguyễn Tuấn Anh, nghiên cứu “Chuẩn bị tâm lý chiến đấu, nhân tố
quan trọng quyết định tới hiệu quả chữa cháy và cứu nạn cứu hộ” cho rằng: việc chuẩn
bị tâm lý tạo nên nguồn gốc bên trong của tính tích cực cá nhân, giúp chiến sĩ chuẩn bị
tâm thế tốt nhất để thích ứng với mọi tình huống nguy hiểm, phức tạp, huy động tối đa
các chức năng hoạt động tâm lý để hoàn thành nhiệm vụ trong mọi THKC, mọi điều
kiện phức tạp. Nghiên cứu cũng chỉ ra việc xây dựng các tình huống chiến đấu phức
tạp sẽ rèn luyện cho chiến sĩ sự bình tĩnh, tự tin, lòng dũng cảm, ý chí vững vàng, kiên
định, tư duy nhanh nhạy trong xử lý các THKC trong điều kiện khó khăn, bất ngờ, bị
động [Nguyễn Tuấn Anh, 2015].
THKC được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực, nhưng ở Việt Nam, nghiên cứu
về thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH chỉ được
các tác giả đề cập đến trong các nghiên cứu chung và chưa có một nghiên cứu riêng,
cụ thể nào về vấn đề này được công bố. Nghiên cứu thích ứng với với việc giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH là vấn đề mới cần đi sâu nghiên cứu
trên đối tượng có đặc thù nghề nghiệp, hoạt động trong các THKC, căng thẳng, áp
lực và nguy hiểm. Để từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất giúp cho Cảnh sát PCCC
và CNCH thích ứng tốt hơn với môi trường nghề nghiệp đặc thù của mình.
Như vậy, các nghiên cứu trong quá trình giải quyết các THKC cũng chỉ ra các
tổn thương tâm lý, sự thay đổi xúc cảm, các hành vi bất thường cũng như các hành vi
hợp tác của con người trong các THKC, các biện pháp nâng cao thích ứng của con
người trong các THKC, đây là cơ sở quan trọng để nâng cao sự an toàn và hiệu quả khi
sơ tán một lượng lớn người trong THKC. Các nghiên cứu cũng chỉ ra biện pháp hỗ trợ
tâm lý kịp thời và chuyên nghiệp của các chuyên gia trong THKC đóng vai trò quan
trọng giúp ngăn ngừa hậu quả sau chấn thương, đồng thời cũng chỉ ra nguyên nhân của
các hành vi bất thường trong THKC. Quan điểm chung của nhiều tác giả khi nói về
thích ứng trong việc giải quyết các THKC đó là: thích ứng có thể đào tạo được; trẻ
em dễ thích ứng hơn; sự giúp đỡ từ đồng nghiệp, lãnh đạo, gia đình, các bác sĩ giúp
27
các nhân viên làm nhiệm vụ khẩn cấp thích ứng tốt hơn và các thiết bị hỗ trợ.
* Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã trình bày ở trên
Như vậy từ tổng quan các công trình nghiên cứu về thích ứng cho thấy, thích
ứng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước quan tâm. Thích
ứng có ý nghĩa và vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của con người nói chung
và cá nhân nói riêng trong xã hội. Lịch sử phát triển của tâm lý học và các khoa học xã
hội cho thấy có nhiều công trình nghiên cứu về thích ứng trên các đối tượng khác nhau
đối với những hoạt động, môi trường khác nhau. Mặc dù có nhiều tác giả với nhiều
công trình nghiên cứu về thích ứng, nhưng thích ứng của con người luôn là vấn đề thời
sự, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng sống của con người trong
một xã hội luôn thay đổi, đúng như Spencer đã khẳng định: “Cuộc sống là sự thích ứng
liên tục của các mối quan hệ bên trong với mối quan hệ bên ngoài” [Spencer, 1988].
Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đã đề cập đến những vấn đề cơ bản
của thích ứng như: bản chất, nguồn gốc, kiểu loại thích ứng và cả các vấn đề ứng dụng
tâm lý học thích ứng trong thực tiễn. Các tác giả vừa tập trung làm rõ vấn đề thích ứng
về mặt lý luận, vừa cố gắng tìm hiểu thực trạng vấn đề trên những khách thể nghiên
cứu cụ thể, từ đó chỉ ra đặc trưng và những yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng.
Đặc biệt, cần ghi nhận sự nỗ lực của một số tác giả trong việc ứng dụng các
kết quả nghiên cứu của mình vào hoạt động thực tiễn thông qua các thực nghiệm tác
động nhằm tăng cường hiệu quả của quá trình thích ứng. Các nghiên cứu trên thế
giới về giải quyết các THKC đã chỉ ra sự thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của
con người, cũng như cơ chế vận hành tâm lý đám đông. Không có nhiều công trình
nghiên cứu về thích ứng với việc giải quyết các THKC trên đối tượng là lính cứu
hỏa, lính chữa cháy. Ở Việt Nam hiện nay nghiên cứu về thích ứng với việc giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH còn rất ít, cho đến nay chưa có
nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề này được công bố. Theo chúng tôi, đây là vấn đề
mới để các tác giả trong nước đi sâu nghiên cứu trên đối tượng có đặc thù nghề
nghiệp, hoạt động trong các tình huống khẩn cấp, căng thẳng, áp lực và nguy hiểm.
* Những vấn đề đặt ra của luận án cần giải quyết
Trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu về thích ứng và để thực hiện tốt
28
nhiệm vụ nghiên cứu, luận án cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Bản chất của THKC trong CC và CNCH là gì?
- Nội dung tâm lý thích ứng, thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH.
- Nghiên cứu biểu hiện thích ứng của con người với các hoạt động ở các môi
trường khác nhau. Trên cơ sở đó, xác định tiêu chí đánh giá thích ứng với việc giải quyết
các THKC; các biểu hiện tâm lý trong quá trình giải quyết các THKC; chỉ ra các yếu
tố ảnh hưởng tới thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
- Đánh giá mức độ thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH.
- Một số biểu hiện tâm lý và cách ứng phó thường gặp trong việc giải quyết
29
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
Tiểu kết chƣơng 1
Thích ứng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên
cứu. Các công trình nghiên cứu thích ứng nghề nghiệp tập trung ở các mặt hoạt
động khác nhau của thích ứng đào tạo nghề và thích ứng nghề nghiệp như: thích
ứng với hoạt động học tập của sinh viên; thích ứng với hoạt động học tập của sinh
viên du học ở nước ngoài; thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số; mối quan hệ
giữa thích ứng học tập với sức khỏe tinh thần; thích ứng với kỹ năng làm việc ở thư
viện của sinh viên; thích ứng của sinh viên khi thực tập tốt nghiệp; thích ứng với
hoạt động dạy học của giáo viên; thích ứng trong thay đổi nghề nghiệp; thích ứng
của quân nhân, lính cứu hỏa…
Thích ứng với nghề nghiệp của người lao động được nghiên cứu khá nhiều
còn nghiên cứu thích ứng với việc giải quyết các THKC có không nhiều tác giả
nghiên cứu. Một số nghiên cứu trên khách thể là lính cứu hỏa thì chỉ mới tập trung
vào sức khỏe tâm thần trên các mặt căng thẳng tâm lý, sang chấn tâm lý, áp lực tâm
lý, tự tử ở lính cứu hỏa. Nghiên cứu về thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH hiện chưa có nhiều, ở Việt Nam chưa có tác giả nào
nghiên cứu vấn đề này. Chính vì vậy, đây là vấn đề mới mà luận án cần đi sâu
nghiên cứu trên đối tượng có đặc thù nghề nghiệp riêng, hoạt động trong các trạng
thái căng thẳng, áp lực và nguy hiểm, họ sống, chiến đấu hôm nay nhưng chưa chắc
đã có ngày mai. Đây là một nghề cần được tôn vinh, đánh giá đúng vị trí trong xã
hội, họ sẵn sàng hi sinh vì cuộc sống bình yên của người dân và sự phát triển, phồn
vinh của xã hội.
Luận án đã kế thừa quan điểm của tâm lý học hoạt động và quan điểm của
Robinson và Sarita Jane khi nghiên cứu về hành vi của con người trong tình huống
khẩn cấp khi thảm họa ập đến và sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận của các
30
lý thuyết này để xây dựng cơ sở lý luận cho luận án.
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG, THÍCH ỨNG VỚI VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG KHẨN CẤP CỦA CẢNH SÁT
PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY VÀ CỨU NẠN CỨU HỘ
2.1. Lý luận chung về thích ứng
2.1.1. Khái niệm thích ứng
Thuật ngữ “thích ứng” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “Adaptacia”, gốc
tiếng Anh là “Adaptation”. Trong tiếng Anh, động từ “adapt” hay danh từ
“adaptation” có nghĩa là thích ứng. Theo từ điển Advanced Learner’s Encyclopedic
Dictionary, động từ “adapt” có nghĩa là làm cho phù hợp với hoàn cảnh mới, điều
kiện mới hay cách thức sử dụng mới. Danh từ “adaptation” là thuật ngữ của sinh
học dùng để chỉ hoạt động hoặc quá trình thích nghi, thích ứng.
Khái niệm “thích ứng” được phát triển ở thế kỷ XIX trong sinh lý học, lý
thuyết tiến hóa; sau đó được mở rộng sang lĩnh vực tâm lý học và xã hội học. Ngày
nay, trên cơ sở phát triển của khoa học tự động hóa, sự thích ứng được phân tích
như là sự ăn khớp với nhau một cách liên tục giữa những mối quan hệ của hai hệ
thống. Hai hệ thống này vẫn có thể được gọi bằng những cái tên cổ điển trước kia
đã dùng là “cơ thể” và “môi trường”.
* Khái niệm “thích ứng” trong các từ điển
Từ điển Tâm lý học của Hiệp hội Tâm lý học Mỹ (APA), thích ứng
(adjustment) có nghĩa là: (i) sự thay đổi thái độ, hành vi của cá nhân cho phù hợp
với sự thay đổi của môi trường hoặc những tình huống không quen thuộc. Một
người được coi là thích ứng tốt là người thỏa mãn các nhu cầu của bản thân theo
cách có lợi cho sức khỏe, phù hợp với chuẩn mực xã hội và tình huống khác nhau.
(ii) Sửa đổi để phù hợp với chuẩn mực [APA Dictionary of Psychology, 2015].
Từ điển Tâm lý học của Đại học Cambridge, thuật ngữ thích ứng
(adjustment) thường được hiểu là khả năng thích nghi tốt hơn trong một môi trường
cụ thể. Là sự thay đổi suy nghĩ, hành động trong những cách thức khác nhau để thỏa
31
mãn tốt hơn với môi trường văn hóa, xã hội và thể chất của mỗi cá nhân. Xét về khía
cạnh Tâm lý học, thích ứng thường được quan niệm là quá trình học tập để đối phó tốt
hơn với những thay đổi trong cuộc sống [Matsumoto, 2009].
- Sự khác biệt giữa thích ứng và thích nghi, coi thích ứng là sự biến đổi của
con người phù hợp môi trường và hoạt động.
Từ điển Tâm lý học do tác giả Nguyễn Khắc Viện (1994), đã đặt hai khái
niệm này trong một mục. Tác giả cho rằng: “Một sinh vật sống trong một môi
trường có nhiều biến động bằng cách thay đổi phản ứng của bản thân, hoặc tìm cách
thay đổi môi trường. Bước đầu là điều chỉnh phản ứng sinh lý (thích nghi với điều
kiện nhiệt độ, môi trường…). Sau này là thay đổi các ứng xử, đây là thích nghi tâm
lý” [Nguyễn Khắc Viện, 1994, tr.356].
Từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên, cho rằng: “Thích ứng là phản ứng của
cơ thể với những thay đổi của môi trường”. Về nguyên tắc có hai phương thức thích ứng
khác nhau của cơ thể đối với những thay đổi các điều kiện của môi trường: 1. Thích ứng
bằng cách thay đổi cấu tạo và hoạt động của các cơ quan; đây là phương thức phổ biến
với động vật và thực vật. 2. Thích ứng bằng cách thay đổi hành vi mà không thay đổi tổ
chức; phương thức này chỉ đặc trưng cho động vật và gắn liền với sự phát triển tâm lý.
Theo quan niệm này thì khái niệm thích ứng cũng có điểm đồng nghĩa với thích nghi [Vũ
Dũng, 2008, tr.807].
Các nhà khoa học đã đưa ra rất nhiều khái niệm thích ứng ở các khía cạnh
khác nhau, nhưng cho đến nay vẫn chưa có khái niệm nào được thừa nhận rộng rãi
bởi hai lý do:
Thứ nhất: Trong tâm lý học các công trình nghiên cứu lý luận chuyên biệt về
vấn đề thích ứng còn ít.
Thứ hai: Thích ứng là vấn đề phức tạp, có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau. Trên thực tế, các trường phái tâm lý học khác nhau thường xem xét bản
chất của sự thích ứng trong khi giải quyết các phạm trù, khái niệm cơ bản của
trường phái mình.
Chúng tôi nhất trí với quan niệm cho khái niệm “thích ứng” được bắt nguồn
từ khái niệm “thích nghi”, nói cách khác, “thích nghi” có nghĩa rộng hơn “thích
32
ứng”, “thích nghi” được dùng chủ yếu trong sinh học, dùng chung cho mọi sinh vật,
còn “thích ứng” thường được dùng để chỉ sự thay đổi của con người phù hợp với
những điều kiện mới của môi trường và hoạt động.
Như vậy, thích ứng của cá nhân được thể hiện ở các trình độ khác nhau.
Căn cứ vào các quan điểm được đề cập ở trên, có thể phân chia thích ứng thành ba
mức độ:
- Thích ứng sinh lý: là mức độ thấp nhất, đầu tiên của sự thích ứng. Mức độ
này đặc trưng ở những phản ứng có tính chất tự động của cơ thể trước sự biến đổi
của môi trường sống trực tiếp để tạo ra sự cân bằng. Cơ chế của thích ứng sinh lý là
quá trình hoạt động của hệ thống các phản xạ không điều kiện.
- Thích ứng tâm lý: đây là loại thích ứng ở trình độ cao hơn, xuất hiện ở
người và các động vật bậc cao. Đặc trưng của thích ứng tâm lý là cơ thể thích ứng
không chỉ với những tác động trực tiếp, mà còn với những kích thích gián tiếp có
tính chất tín hiệu môi trường. Cơ chế của thích ứng tâm lý là quá trình hình thành
các phản xạ có điều kiện.
- Thích ứng tâm lý – xã hội: thể hiện ở sự thích ứng ở trình độ cao nhất chỉ
có ở con người. Đặc trưng của hình thức này là con người sống trong môi trường xã
hội tiếp nhận được các giá trị xã hội, hòa nhập vào xã hội và có khả năng đáp ứng
được những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Sự cân bằng giữa cơ thể và môi trường ở
trình độ này là sự cân bằng tích cực, tự giác. Cơ chế của sự thích ứng xã hội là quá
trình con người làm quen với môi trường hoạt động và giao tiếp.
Trong phạm vi của nghiên cứu này, thích ứng được hiểu theo nghĩa thích ứng
tâm lý – xã hội. Thích ứng tâm lý – xã hội là hình thức thích ứng cao nhất chỉ có ở
con người. Thích ứng tâm lý xã hội liên quan chặt chẽ đến quá trình lao động xã hội
và xã hội hóa. Trong quá trình đó, con người biến các kinh nghiệm lịch sử thành
kinh nghiệm riêng, các đặc thù của cá nhân mỗi người.
Nghiên cứu thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH là vấn đề khó và phức tạp, do điều kiện không cho phép nên trong khuôn
khổ luận án này, chúng tôi chỉ tập trung vào kết quả của quá trình thích ứng.
Sau khi xem xét, phân tích các quan niệm khác nhau về thích ứng, chúng tôi
33
đưa ra khái niệm về thích ứng như sau:
Thích ứng là quá trình thay đổi nhận thức, thái độ và hành động của con người
nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của môi trường mới để đạt được mục đích đề ra.
Để thích ứng, con người phải thay đổi bản thân, đây chính là quá trình thay đổi
nhận thức, thái độ, hành động cho phù hợp với môi trường, hoàn cảnh mới. Sự thay đổi
của bản thân để phù hợp với yêu cầu của xã hội, đó là một quá trình khó khăn, cần sự
nỗ lực, ý chí của cá nhân vượt qua khó khăn đó nhằm thực hiện hoạt động hiệu quả.
Quá trình thích ứng trải qua các giai đoạn khác nhau, từ khi con người bắt
đầu thâm nhập vào môi trường, hoạt động mới đến khi con người làm chủ môi
trường, làm chủ hoạt động và tạo ra hiệu quả của hoạt động.
2.1.2. Đặc điểm của thích ứng
Thích ứng là quá trình tác động qua lại giữa chủ thể với môi trường sống, với
những hoạt động có những yêu cầu mới.
- Thích ứng diễn ra khi chủ thể thay đổi môi trường sống mới hoặc tiến hành
các hành động với những yêu cầu mới. Khi môi trường sống có sự biến đổi thì các
đặc điểm về thể chất – sinh lý, những đặc điểm tâm lý trong cấu trúc tâm lý không
còn thích hợp để đáp ứng với môi trường sống mới buộc chủ thể phải có sự thay đổi
cấu trúc tâm lý bên trong, trên cơ sở đó điều chỉnh, hình thành hành động mới cho
phù hợp với yêu cầu mới.
- Kết quả của thích ứng thể hiện qua sự thay đổi nhận thức, thái độ và hành
động nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động hoặc môi trường mới. Trong đó hành
động phù hợp đáp ứng yêu cầu của hoạt động mới được coi là biểu hiện khách quan
nhất, rõ nét nhất của thích ứng.
- Là cơ chế tâm lý quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con
người trong xã hội.
2.2. Lý luận về thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của
cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
2.2.1. Một số văn bản pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của lực lượng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Ngày 12/8/1961 Chính phủ có Tờ trình số 2704/NC trình lên Ủy ban Thường
34
vụ Quốc hội về dự thảo Pháp lệnh “Quy định việc quản lý của Nhà nước đối với
công tác phòng cháy chữa cháy” và ngày 27/9/1961 Uy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua Pháp lệnh Quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác PCCC;
Ngày 04/10/1961 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh này. Đó là
mốc son đánh dấu sự ra đời của lực lượng cảnh sát phòng cháy và chữa cháy. Từ đó
đến nay, lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH đã có những bước phát triển vượt bậc,
có nhiều đóng góp trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh sự phát triển của lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH, Đảng, Nhà nước và
Bộ Công an đã có nhiều văn bản pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH (phụ lục 3).
Cảnh sát PCCC và CNCH là lực lượng trực tiếp, chủ chốt, nòng cốt tham gia
các nhiệm vụ khẩn cấp trong CC và CNCH như cháy nổ, sập đổ công trình, thiên tai, lũ
lụt, sạt lở đất, động đất, sóng thần, khủng bố... Các quy phạm pháp luật này phân định
rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH, góp
phần hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tránh được sự chồng chéo giữa các bộ ngành
trong việc thực hiện nhiệm vụ.
2.2.2. Khái niệm Cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
a. Định nghĩa cảnh sát
Công an là cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự chung
của một nước. Công an nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gọi là Công an
nhân dân hay tên gọi khác là Công an nhân dân Việt Nam. Công an nhân dân Việt
Nam là một lược lượng vũ trang trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội [Bộ Công an, 2005, tr. 266].
Trong lực lượng Công an nhân dân được chia thành hai lực lượng là an ninh
nhân dân và cảnh sát nhân dân, thực thi các nhiệm vụ chuyên biệt.
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân, Cảnh sát là người được nhà nước giao
nhiệm vụ duy trì pháp luật, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội [Bộ Công an, 2005, tr. 152].
Như vậy, cảnh sát là một bộ phận của Công an nhân dân Việt Nam, đặt dưới
sự quản lý của Bộ Công an. Có nhiệm vụ phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống
35
tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, về bảo vệ môi trường; phát
hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật khác và kiến
nghị các biện pháp khắc phục; tham gia giáo dục đối tượng vi phạm pháp luật tại
cộng đồng theo quy định của pháp luật; quản lý và đảm bảo an toàn giao thông;
quản lý vũ khí vật liệu nổ; quản lý công tác phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu
hộ theo quy định của pháp luật...
b. Khái niệm Cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Lực lượng phòng cháy, chữa cháy chuyên nghiệp ra đời theo Pháp lệnh
phòng cháy và chữa cháy, được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27
tháng 9 năm 1961. Theo Luật Phòng cháy chữa cháy được Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành 29/6/2001, có hiệu lực từ ngày 04/10/2001
cho rằng: “Lực lượng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy là lực lượng vũ trang nhân
dân được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương do Bộ trưởng Bộ Công
an trực tiếp quản lý và chỉ đạo” [14].
Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, định nghĩa: Cảnh sát phòng
cháy và chữa cháy là một bộ phận thuộc lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam, có
nhiệm vụ: quản lý, tổ chức, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ phòng cháy chữa cháy và cứu
nạn cứu hộ trên toàn quốc, góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội [Bộ Công an, 2005].
Bên cạnh đó, các Quyết định 44/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;
Thông tư 65/2013/TT-BCA; Thông tư 20/2014/TT-BCA đã quy định đầy đủ, rõ
ràng về công tác cứu nạn, cứu hộ của lực lượng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy.
Như vậy, đến đây lực lượng Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy đã có đầy đủ cơ sở
pháp lý về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về công tác PCCC và CNCH.
c. Đặc trưng của hoạt động phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Hoạt động PCCC và CNCH là hoạt động thực hiện theo điều lệnh chiến đấu.
Điều lệnh chiến đấu nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường tổ chức và kỷ
luật, triệt để chấp hành mệnh lệnh chỉ huy trong khi CC và CNCH của các cán bộ
chiến sĩ để nâng cao khả năng chiến đấu bảo đảm cứu chữa các vụ cháy và cứu nạn
người, tài sản đạt hiệu quả. Tất cả những vấn đề cơ bản có tính xuất phát điểm đều
được thể hiện trong điều lệnh chiến đấu. Điều lệnh chiến đấu là sự tổng kết kinh
36
nghiệm chiến đấu qua nhiều năm của các đội CC và CNCH trong cả nước.
Tất cả các hoạt động nhằm thực hiện nhiệm vụ của của lực lượng CC và
CNCH trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm như: Ban đêm, nhiệt độ cao, khói, sản
phẩm độc hại, nắng mưa, nguy cơ sụp đổ, sạt lở, nổ thiết bị máy móc, chất lỏng chảy
loang, điện áp cao; chất nổ, chất độc, chất phóng xạ và những tình huống sự cố khác.
Hoạt động chiến đấu của lực lượng CC và CNCH là hoạt động mang tính
khách quan, đòi hỏi sự phối hợp giữa các tiểu đội tham gia chiến đấu. Trong điều
kiện kinh tế phát triển, vai trò của sự phối hợp chiến đấu trong CC và CNCH có ý
nghĩa vô cùng quan trọng, bởi vì quy mô của các vụ cháy lớn hơn, tình hình diễn
biến của đám cháy phức tạp, trang thiết bị CC và CNCH được cải tiến về mặt kỹ
thuật ngày càng được nâng cao. Chính vì vậy sự đòi hỏi về nhận thức, sức bền bỉ, sự
kiên trì, kỹ năng chiến đấu của mỗi chiến sĩ CC và CNCH ngày càng cao và không
cho phép mắc sai lầm trong chiến đấu [Đinh Ngọc Tuấn, 2006].
Ngoài sự phối hợp chiến đấu, còn có một số tính quy luật khác, nó được xác
định tùy thuộc vào điều kiện thực hiện các hoạt động chiến đấu cụ thể. Các điều
kiện ở đây được hiểu là số lượng và chất lượng các đội CC và CNCH tham gia
chiến đấu, phương tiện chiến đấu được trang bị cho các đội CC và CNCH; quy mô
của đám cháy là cơ sở quyết định cụ thể các phương tiện CC và CNCH cần thiết,
phương pháp và biện pháp cứu người cũng như phương pháp dập cháy. Chính vì thế
mà hoạt động CC và CNCH mang tính khách quan.
Đặc tính quy luật khách quan của các hoạt động chiến đấu không làm giảm
vai trò tác động chủ quan của các nhân tố điều khiển các hoạt động chiến đấu này.
Mà ngược lại trong việc thực hiện kế hoạch chiến đấu, vai trò của chỉ huy có ý
nghĩa quyết định. Có thể khẳng định rằng, kết quả hoạt động chiến đấu của lực
lượng CC và CNCH phụ thuộc chủ yếu bởi công tác tổ chức và chỉ huy của hoạt
động đó. Nếu tổ chức chỉ huy các hoạt động chiến đấu tốt bao giờ cũng mang lại kết
quả cao và ngược lại nếu tổ chức chỉ huy kém sẽ mang lại hiệu quả thấp [Đinh
Ngọc Tuấn, 2006].
Hoạt động CC và CNCH luôn chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ. Nguyên nhân
của các hiện tượng bất ngờ có thể là do sự chủ quan, khiếm khuyết trong hoạt động
37
của mình, tổ chức các hoạt động CC và CNCH non kém, không đủ khả năng chỉ
huy… Các hiện tượng bất ngờ cũng có thể xảy ra khi thay đổi điều kiện khí hậu, nổ,
sụp đổ cấu kiện hay bất ngờ phương tiện CC và CNCH gặp sự cố… Những điều
kiện bất ngờ trong CC và CNCH có thể ảnh hưởng tới thời gian CC và CNCH hay
các biện pháp chữa cháy nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định tới kết quả
của việc thực hiện nhiệm vụ chiến đấu của lực lượng CC và CNCH.
Các hoạt động chiến đấu của lực lượng cảnh sát CC và CNCH luôn bị giới
hạn bởi không gian và thời gian. Các hoạt động này thường được thực hiện trong
một diện tích giới hạn và khoảng thời gian nhất định.
d. Những phẩm chất tâm – sinh lý cần thiết đối với cảnh sát phòng cháy
chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Cảnh sát PCCC và CNCH là một bộ phận của lực lượng công an nhân dân Việt
Nam, ra đời sớm nhưng lại có sự phát triển muộn cùng với sự mở cửa của nền kinh tế.
Đặc biệt từ năm 2010 đến nay, cảnh sát PCCC và CNCH có bước phát triển mạnh mẽ.
Số lượng tuyển mới và biên chế cũng tăng nhanh, đa phần là các chiến sĩ tuổi đời còn
trẻ. Độ tuổi chủ yếu của các chiến sĩ trực tiếp làm công tác CC và CNCH trong khoảng
từ 18 – 40 tuổi. Số lượng các chiến sĩ ngoài 40 tuổi chiếm tỉ lệ không nhiều.
- Về thể chất: Theo quy định chung của Bộ Công an, công dân được tuyển
vào công tác trong lực lượng công an phải từ độ tuổi 18 trở lên. Có đầy đủ các tiêu
chuẩn về thể lực, sức khỏe, tiêu chuẩn về tâm thần – thần kinh, hô hấp, tuần hoàn,
tiêu hóa, hình thể, không mắc các bệnh truyền nhiễm…
Cũng giống như những người trưởng thành khác, các chiến sĩ đã đạt đến mức
hoàn thiện về thể chất khi bước vào tuổi thanh niên. Ở giai đoạn lứa tuổi thanh niên này:
“Số lượng lớn cái tế bào thần kinh cũng như số lượng các xi-náp của các tế bào thần kinh
có chất lượng hoàn hảo, đảm bảo cho khả năng liên lạc rộng khắp, chi tiết, tinh tế và linh
hoạt giữa vô số các kênh. Hoạt động của bộ não vì thế trở nên nhanh, nhạy và đặc biệt
chính xác so với các lứa tuổi khác. Đây là giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về
hệ xương, cơ bắp, tạo ra nét đẹp hoàn mỹ ở người thanh niên. Các yếu tố về thể lực
như : sức nhanh, sức bền, độ dẻo dai, linh hoạt đều phát triển đến mức đỉnh cao, tạo
điều kiện thuận lợi cho những thành công rực rỡ của thanh niên trong lĩnh vực hoạt
38
động” [Trương Thị Khánh Hà, 2015, tr.209].
Khi bước vào lứa tuổi từ 25 - 30 thì các chức năng của các cơ quan, thời gian
phản ứng, sức mạnh, các kỹ năng vận động và sự cân bằng cảm giác vận động sẽ
đạt đến mức tối đa, sau đó giảm dần [Trương Thị Khánh Hà, 2015, tr.236].
Các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH là người có thể chất hoàn thiện. Do
đặc thù công việc thường xuyên phải hoạt động trong mọi điều kiện, môi trường,
không gian, thời gian; khối lượng công việc lớn, cường độ dồn dập, áp lực, căng
thẳng. Đó là kết quả của quá trình tuyển chọn vào ngành, quá trình huấn luyện, rèn
luyện, bồi dưỡng, trực tiếp chiến đấu.
- Được đào tạo một cách cơ bản và chuyên nghiệp theo các chương trình đào
tạo, huấn luyện đã được chuẩn hóa và phê duyệt bởi Bộ Công an và Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Họ là những người được trang bị các kiến thức và kỹ năng nghề PCCC và
CNCH một cách tương đối toàn diện, được luyện tập, thực hành trong các điều kiện
khắc nghiệt, gian khổ như trong chiến đấu với kẻ thù thông qua các hội thao, hội thi
và trải nghiệm thực tiễn.
- Ý thức trách nhiệm và bổn phận trong việc thực hiện nhiệm vụ đối với xã
hội là phải dập tắt đám cháy và cứu người, cứu tài sản một cách nhanh chóng, hiệu
quả. Đây là nhiệm vụ bắt buộc được quy định trong điều lệnh CAND và điều lệnh
chiến đấu của lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH, cũng là kết quả của việc đào tạo,
huấn luyện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tâm lý, tinh thần đoàn kết, gắn với ý
thức trách nhiệm và bổn phận xã hội của các đội CC và CNCH.
- Ý chí, quyết tâm cao: Trên tất cả các lĩnh lực của đời sống xã hội, để có thể
hoàn thành nhiệm vụ của mình, con người phải có sự nỗ lực ý chí để vượt qua khó
khăn, thử thách, vươn tới mục đích đặt ra. Các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH
trong quá trình giải quyết tình huống khẩn cấp, phải thực hiện nhiều công việc nặng
nề, khó khăn trong những điều kiện nguy hiểm và phức tạp có thể đe dọa đến tính
mạng của họ. Với ý chí quyết tâm cao, sự kiên trì, dũng cảm, tính quyết đoán trong
công việc, lòng yêu nghề giúp các chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ kịp thời, nhanh
chóng với cường độ hoạt động cao [Đinh Ngọc Tuấn, 2006].
- Tính cách điềm đạm, bình tĩnh và tận tâm trong công việc với tính sẵn sàng
39
chiến đấu cao của người chiến sĩ được tôi luyện thử thách trong những khó khăn
nguy hiểm sẵn sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ hạnh phúc, sự bình yên của xã hội
[Bộ Công an, 2006].
- Sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nhân dân, vì tổ quốc, luôn đặt lợi ích của xã
hội, của người dân lên trên lợi ích cá nhân. Nhiệt tình, hăng hái trong công việc CC
và CNCH, nhờ đó mà nâng cao khả năng chiến đấu, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ
một cách hiệu quả.
- Tin tưởng vào sự lãnh đạo, chỉ huy của cấp trên, sự thành công trong công
việc, luôn khát khao chiến thắng, kiên nhẫn và chủ động sáng tạo tìm ra biện pháp,
lối thoát trong các tình huống khẩn cấp, bất ngờ.
- Tình cảm yêu ngành, yêu nghề sâu sắc. Hoạt động CC và CNCH trong
THKC của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH diễn ra không kể ngày đêm, điều
kiện thời tiết, môi trường, hoàn cảnh… Đó là những hoạt động với cường độ cao, áp
lực, mệt mỏi, căng thẳng, đòi hỏi phải khẩn trương nhanh chóng. Các hoạt động đó
đòi hỏi các chiến sĩ phải có tình yêu đối với nghề sâu sắc, việc chia sẻ những khó
khăn trong công việc giữa các chiến sĩ sẽ góp phần xây đắp nên tình cảm yêu nghề,
xua tan đi những mệt mỏi, căng thẳng, tạo nên những cảm xúc tích cực, thoải mái,
dễ chịu, hứng thú trong công việc. Từ đó tạo nên sự gắn bó thân thiết tình đồng đội,
đồng chí và giúp đỡ nhau cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Khả năng giao tiếp - ứng xử linh hoạt. Trong quá trình CC và CNCH,
các chiến sĩ phải đối mặt với nhiều áp lực đến từ những người xung quanh hiện
trường. Họ có thể là những người bị nạn, người nhà nạn nhân, hàng xóm, những
người hiếu kỳ… Đặc biệt, trong một số tình huống, khi đang ở ranh giới giữa sự
sống và cái chết, sự hoảng loạn, đau đớn khôn cùng, sự lo lắng cho bản thân,
người nhà và tài sản của mình sẽ xuất hiện trong tâm lý của người bị nạn những
trạng thái tâm thần bị kích động mạnh. Do vậy, rất có thể họ sẽ có những hành
động, lời nói không tự chủ, khó nghe, gây khó khăn, bực tức, khó chịu cho người
chiến sỹ làm nhiệm vụ. Cho nên, đòi hỏi cán bộ chiến sĩ phải bình tĩnh, mềm
dẻo, nhạy bén trong giao tiếp để động viên tinh thần cho người bị nạn, nạn nhân
40
và trấn an những người xung quanh.
2.2.3. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát
phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
a. Tình huống khẩn cấp
* Tình huống
Theo Từ điển Tâm lý học, tình huống là “hệ thống các sự kiện bên ngoài chủ
thể, có tác dụng thúc đẩy hoặc cản trở tính tích cực của người đó. Bên ngoài chủ thể
được hiểu theo ba góc độ: về mặt không gian (tình huống nằm ngoài chủ thể); về thời
gian (tình huống xảy ra trước so với hành động của chủ thể) và về mặt chức năng
(tình huống độc lập với các điều kiện tương ứng ở thời điểm chủ thể hành động)”.
Như vậy, tình huống mang tính khách quan, là những việc xảy ra ngoài ý muốn con
người, đòi hỏi con người phải đối phó [Vũ Dũng, 2008, tr. 876].
Trên thực tế, vấn đề xuất hiện có thể là tình huống của người này nhưng
không phải là tình huống của người khác. Vì vậy, tính chủ quan – ý thức được vấn
đề như là một yếu tố quan trọng để xuất hiện tình huống. Như vậy, để xuất hiện tình
huống cần có sự tham gia của các yếu tố, điều kiện khách quan và chủ quan.
Trong cuộc sống, con người thường đặt vấn đề: có tình huống, đã xuất hiện
tình huống hoặc khi có tình huống, thể hiện một sự kiện đột biến trong quá trình vận
động, phát triển hoặc thể hiện ý chí quyết tâm phải giải quyết một vấn đề nào đó
không bình thường, xảy ra trong quá trình vận động phát triển của thực tiễn.
Theo chúng tôi: Tình huống là tổ hợp những điều kiện khách quan và chủ quan
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới tâm trạng, cảm xúc và hành động của con
người, buộc họ phải có biện pháp giải quyết để đảm bảo sự tồn tại.
Tình huống phát sinh có vấn đề khi nó chứa đựng những mâu thuẫn giữa cái
đã biết và cái chưa biết (có thể có nhiều phương hướng tìm lời giải và có khi có
nhiều lời giải), mâu thuẫn được chủ thể nhận thức, từ đó nảy sinh nhu cầu giải quyết
và có khả năng giải quyết mâu thuẫn dựa trên vốn tri thức, kinh nghiệm của mình.
Như vậy, tình huống vừa chứa đựng yếu tố khách quan (sự việc, hoàn cảnh chứa
mâu thuẫn nảy sinh ngoài ý muốn của chủ thể) vừa chứa đựng yếu tố chủ quan
thuộc về chủ thể. Khi nói về tình huống là nói đến sự kiện thực tế khách quan nào
41
đó xuất hiện, đặt ra yêu cầu phải xử lý, giải quyết một cách cụ thể.
* Khẩn cấp
Theo từ điển Tiếng Việt: “Khẩn cấp” có hai nghĩa: (1) cần được tiến hành,
được giải quyết ngay, không chậm trễ và (2) có tính chất nghiêm trọng, đòi hỏi phải
có ngay những biện pháp tích cực để đối phó, không cho phép chậm trễ [86].
Trên thực tế, nhiều trường hợp, tình huống xuất hiện khẩn cấp gắn với một
sự kiện khách quan nào đó gây ra, đây cũng là thời điểm, hoàn cảnh dễ nảy sinh
những vấn đề khủng hoảng như: tâm lý, nhân đạo, môi trường, nguồn lương thực,
nguồn nước, các nguồn lực khắc phục… con người trong tình huống này rơi vào
tình thế bị động, bất lợi nếu không khắc phục kịp thời có thể gây ra những hậu quả
nghiêm trọng và có thể lan rộng trên phạm vi rộng lớn. Do vậy, trong tình hình khẩn
cấp buộc con người phải tìm biện pháp nhanh chóng khắc phục và giải quyết.
* Tình huống khẩn cấp
Trong cuộc sống, có những tình huống xảy ra đột xuất, bất ngờ thường để lại
những hậu quả nặng nề nếu không được can thiệp, cần chúng ta phải có hành động
khẩn cấp. Trong THKC con người thường bất ngờ, lúng túng, hoảng loạn, không
giữ được bình tĩnh và không biết xử lý.
Những THKC này có thể do con người gây ra như: cháy nổ, cháy rừng, xung
đột dân sự, chiến tranh, khủng bố, nạn đói, tai nạn, sập hầm lò, những sự cố do thiên
nhiên như: động đất, sóng thần, lũ lụt, bão, sạt lở đất, hạn hán, sự cố môi trường,
sinh học… Những THKC bất ngờ này đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng xử lý, nếu
không nhanh chóng giải quyết sẽ dẫn tới những hậu quả nặng nề về tính mạng, tài
sản và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của con người.
Nhiều THKC bất ngờ, đột xuất tác động mạnh đến tâm lý của con người, làm
cho họ mất khả năng kiểm soát, làm suy yếu các chức năng tâm – sinh lý, tạo ra
phản ứng vô thức, giảm khả năng đánh giá đúng tình huống và rơi vào trạng thái co
cứng, không phản ứng với môi trường xung quanh. Nếu sự sợ hãi đó không được
trấn áp kịp thời thì nó sẽ làm tăng sự sợ hãi với những người xung quanh. Sự sợ hãi
tăng lên thì niềm tin vào khả năng chống lại tình huống khủng hoảng giảm đi và tạo
ra cảm giác thoát khỏi càng mờ nhạt.
Trong các THKC đó, tâm lý con người bị thay đổi do sức mạnh của lây lan
42
tâm lý đám đông, mỗi hành động đều được lây lan. Khi đó cá nhân sẽ bắt chước và
hành động theo những người xung quanh, cá nhân sẽ không còn là chính mình và sẽ
trở thành một người máy tự động không có lý trí. Các tâm trạng được tích tụ trong
trong đám đông sẽ làm thay đổi tâm lý của cá nhân. Khi đó, chỉ có người đứng đầu,
với phẩm chất tâm lý, uy tín của mình mới có thể thay đổi tâm lý của quần chúng
đám đông.
Trong THKC, hành động của đám đông như là chủ thể của hành vi và nó
tuân theo các quy luật tâm lý của đám đông, một trong những thành tố quan trọng
nhất của nó là tâm trạng. Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu thì đầu tiên chỉ
là các trải nghiệm chủ quan bên trong, sau đó là các điều kiện khách quan phát triển
đến một mức độ nhất định trở thành động lực thúc đẩy hành động thực tế của những
người xung quanh nhằm thay đổi các điều kiện tạo ra tâm trạng đó. Đó là hiện
tượng đặc biệt có bản chất là sự trải nghiệm tới xu hướng của chủ thể về sự phụ
thuộc của họ vào tình huống. Như vậy, ở đây tâm trạng như là yếu tố gián tiếp
thông qua quan hệ qua lại giữa con người và THKC, nó gắn liền với hành vi của
con người.
Một trong những dạng hành vi quan trọng dễ thấy của con người trong THKC
đó là sự hoảng loạn – trạng thái cảm xúc xuất hiện như là hậu quả của sự đe dọa, sự
không hiểu biết về tình huống đó. Thực tiễn cho thấy, trong THKC con người không
thể tự bảo vệ mình, phó mặc số phận cho sự may rủi, thậm chí buông xuôi tất cả, suy
sụp và bất lực, mất niềm tin vào bản thân, vào sự sống. Tâm trạng đó được lan truyền
rất nhanh và khó có thể kiểm soát về mặt ý thức. Biểu tượng về sự bất lực của bản thân
trong hoàn cảnh đó xuất hiện trong đầu họ và hành động hoảng sợ được tăng cường
trong giai đoạn diễn biến của tình huống. Khi đó biểu tượng của sự bất lực đó nó sẽ lan
rất nhanh sang những người xung quanh và làm tăng khả năng xuất hiện hoảng sợ quần
chúng đám đông, hình thành đám đông hỗn độn và chuyển động không có tổ chức.
Như vậy, theo chúng tôi: Tình huống khẩn cấp là những sự kiện, biến cố
nghiêm trọng, bất thường, đột xuất xảy ra trong đời sống của con người, xã hội và
có thể gây ra những hậu quả nặng nề cho cá nhân và xã hội.
Giải quyết tình huống khẩn cấp là quá trình lên kế hoạch, tổ chức, quản lý các
43
nguồn lực và xác định trách nhiệm của các chủ thể (Chính phủ, chính quyền, tổ chức
tình nguyện, cá nhân, cộng đồng) để thích ứng với các khía cạnh của tình huống khẩn
cấp nhằm ứng phó, hạn chế tối đa các hậu quả có thể xảy ra.
Tình huống khẩn cấp có những đặc điểm sau:
- Tính nghiêm trọng: Các tình huống khẩn cấp xảy ra trong cuộc sống như:
cháy nổ, tai nạn hoặc thiên tai nếu không được ứng cứu khẩn cấp, kịp thời có thể
tiếp tục gây ra hậu quả thiệt hại nặng nề cho con người và xã hội, thậm chí gây ra
những thảm họa nghiêm trọng.
- Tính cấp thiết: Hoạt động giải quyết THKC trong chữa cháy và cứu nạn
cứu hộ đòi hỏi con người phải khẩn trương, nhanh chóng huy động mọi lực lượng,
phương tiện, nguồn lực hiện có để khống chế, ngăn chặn tình huống trước khi nó có
thể trở lên xấu hơn.
- Tính phức tạp: Các sự cố cháy nổ, tai nạn, thiên tai có thể xảy ra ở bất cứ
địa điểm, thời gian nào với quy mô, mức độ phức tạp khác nhau, bên cạnh đó là sự
hoảng loạn tâm lý của người bị nạn khi không thể thoát ra khỏi tình trạng đó, sự
kích động của những người xung quanh... làm cho tình hình trở lên phức tạp hơn.
- Tính bất ngờ, khó lường: Các THKC thường xảy ra bất ngờ, khó dự báo
trước được tình hình, địa điểm, không gian, thời gian. Do đó, con người thường bị
động khi giải quyết, khó khăn trong việc đưa ra các biện pháp ứng phó kịp thời và
khó hiệu quả từ đầu.
- Tính không ổn định: Các diễn biến của THKC thường khó dự đoán được
hậu quả, quy mô khi xảy ra. Do đó, để hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra, con
người cần phải làm tốt công tác phòng, chống, cũng như dự báo tốt tình hình.
* Các loại tình huống khẩn cấp
- Các tình huống thuộc về tự nhiên như: Khí tượng thủy văn: lũ lụt, bão, hạn
hán; Địa chất: động đất, sạt lở đất, núi lửa; Một số tình huống khác: cháy rừng…
- Các tình huống thuộc về kỹ thuật như: Các tai nạn: tai nạn công nghiệp, tai
nạn giao thông, sụp đổ cấu kiện xây dựng, cháy nổ; ô nhiễm môi trường.
- Các tình huống thuộc về xã hội: Xung đột tôn giáo, sắc tộc, dân sự, chính
trị; chiến tranh; khủng bố; cháy nổ.
- Các tình huống thuộc về sinh học như: Dịch bệnh; ngộ động thực phẩm; vũ
44
khí sinh học.
b. Khái niệm tình huống khẩn cấp trong phòng cháy chữa cháy và cứu nạn
cứu hộ
Toàn bộ những phản ứng của cơ thể con người khi nhận tác động từ kích
thích bên ngoài được gọi là hành vi. Những hành vi có ý thức như vậy giúp con
người thích ứng tốt với môi trường sống. Để thích ứng với môi trường, đòi hỏi con
người phải tích cực, chủ động và sáng tạo để xác lập phương thức hoạt động nhằm
đáp ứng yêu cầu và điều kiện của môi trường mới. Đặc biệt, khi con người đứng
trước tình huống bất ngờ, khẩn cấp đòi hỏi phải có biện pháp, kỹ năng thích hợp để
sinh tồn, bảo vệ tính mạng, tài sản. Nếu không có biện pháp kịp thời, thích hợp để
xử lý, những THKC đó có thể trở thành thảm họa, đe dọa cuộc sống con người trên
một phạm vi rộng lớn.
Trong THKC, lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH luôn gặp những tình huống
cháy nổ diễn ra phức tạp, đa dạng và thay đổi theo thời gian, không gian. Các điều kiện
phức tạp và yếu tố nguy hiểm của đám cháy tác động vô cùng mạnh mẽ đến cán bộ,
chiến sĩ tham gia CC và CNCH trên nhiều mặt, đặc biệt là yếu tố tâm lý, tinh thần. Vì
vậy, để đạt được hiệu quả chiến đấu cao trong các THKC, cán bộ, chiến sĩ tham gia CC
và CNCH phải được chuẩn bị về mọi mặt.
Các hoạt động CC và CNCH trong THKC luôn diễn ra trong các điều kiện
phức tạp khác nhau như: ban ngày, ban đêm, nhiều khói, trên cao, trong công trình
ngầm, thiếu nước, có gió lớn, nguy cơ nổ, sụp đổ cấu kiện xây dựng, độ cao lớn,
cường độ bức xạ nhiệt lớn, tiếng ồn lớn... những yếu tố này sẽ tác động mạnh đến
tâm lý của các các chiến sĩ. Chính những điều này là một trong những nguyên nhân
ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động CC và CNCH trong THKC [Nguyễn Tuấn
Anh, 2015, tr. 34-36].
Trong các THKC, các chiến sĩ phải tiếp xúc với khói, khí độc, nhiệt độ cao
tỏa ra từ ngọn lửa và sản phẩm cháy. Sản phẩm cháy không chỉ cản trở tầm nhìn,
gây khó khăn trong tiếp cận đám cháy mà còn mang năng lượng nhiệt lớn gây nguy
cơ cháy lan. Hơn thế nữa trong sản phẩm cháy còn chứa nhiều chất độc hại ảnh
hưởng tới sức khỏe của con người. Khi cháy xảy ra, nguy cơ sụp đổ cấu kiện xây
45
dựng và tiếng ồn với cường độ âm thanh cao làm ảnh hưởng đến việc trao đổi thông
tin khi tiến hành các hoạt động CC và CNCH. Đặc biệt, khi chữa cháy các đám cháy
chất lỏng, những hiện tượng chảy loang hoặc phun trào có thể làm ngọn lửa bùng
phát dữ dội hoặc tác động trực tiếp đến cơ thể các chiến sĩ chữa cháy gây bỏng dát...
Bên cạnh đó, nguy cơ phát nổ, nhiễm độc, nhiễm phóng xạ (ở những đám cháy có
tồn tại chất cháy có khả năng gây nổ như: thuốc nổ, khí hóa lỏng, hóa chất...), nguy
cơ bị điện giật, cũng là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của các chiến
sĩ khi trong việc giải quyết các THKC.
Trong đám cháy, khi có nạn nhân bị mắc kẹt gào thét hoặc người chết do
cháy, tiếng khóc lóc, gào thét kêu cứu của người bị nạn trong tâm lý hoảng loạn ảnh
hưởng rất lớn đến tâm lý cán bộ, chiến sĩ (đặc biệt chiến sĩ mới).
Ngoài ra, trong những THKC, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ khi trực tiếp tham
gia chiến đấu còn tác động mạnh bởi nhiều yếu tố như: phương tiện cần thiết phục
vụ công tác CC và CNCH còn thiếu, một số phương tiện còn chưa hiện đại, độ tin
cậy không cao, nguy cơ xuất hiện sự cố hỏng hóc phương tiện dẫn đến không tự tin
khi thực hiện nhiệm vụ. Các chiến sĩ bị chỉ trích, gây cản trở của người dân xung
quanh khu vực xảy ra đám cháy (đặc biệt người chủ của cơ sở bị cháy). Các mệnh
lệnh, yêu cầu phức tạp của cấp trên... gây áp lực cho chiến sĩ CC và CNCH [Bùi
Văn Hà, Lê Việt Hải, 2015, tr.32-33].
Việc giải quyết nhiệm vụ trên thực địa đóng vai trò quan trọng đối với các chiến
sĩ CC và CNCH trong các THKC. Đó là kết quả của quá trình huấn luyện về chiến
thuật, nghiệp vụ và sự chuẩn bị về mặt tâm lý. Nhờ quá trình huấn luyện đó, các chiến
sĩ lĩnh hội được các kiến thức, kỹ xảo và bản lĩnh chuyên môn. Tức là nắm được lý
luận, biết thực hành các phương án và biện pháp tiến hành khi gặp các THKC xảy ra.
Quá trình đó, các chiến sĩ còn được trau dồi các phẩm chất đạo đức và trí tuệ, xúc cảm
– tình cảm, ý chí và nâng cao sức bền về thể lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Thông qua quá trình CC và CNCH trong các THKC, các chiến sĩ sẽ hình
thành và hoàn chỉnh các phẩm chất tâm lý của riêng mình. Thông qua các kiến thức
được học tập, bồi dưỡng, kỹ năng nghiệp vụ, bản lĩnh và phẩm chất cá nhân thu
nhận được, nó sẽ được các chiến sĩ sử dụng và là chỗ dựa để các chiến sĩ giải quyết
46
các nhiệm vụ chiến thuật trong việc giải quyết các THKC trong CC và CNCH. Việc
hiểu được đúng đắn trách nhiệm của bản thân, tình cảm yêu nghề sâu sắc và có
động cơ xã hội đúng đắn sẽ giúp các chiến sĩ khắc phục được khó khăn và làm cho
họ có tinh thần chịu đựng cao, kiên trì, vững vàng, linh hoạt trong chiến đấu và
nhanh chóng làm chủ mọi THKC xảy ra.
Từ những phân tích ở trên, theo chúng tôi: Tình huống khẩn cấp trong phòng
cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ là những sự kiện, biến cố nghiêm trọng, bất
thường, đột xuất xảy ra trong cháy nổ, có thể gây ra những hậu quả nặng nề cho cá
nhân và xã hội.
THKC trong CC và CNCH là những tình huống xảy ra đột xuất, bất ngờ,
nghiêm trọng liên quan đến cháy nổ buộc các chiến sĩ CC và CNCH phải hành động
khẩn cấp. Trong tình huống này, nếu các chiến sĩ không thích ứng được sẽ trở lên
lúng túng, co cứng, hoảng loạn, mất kiểm soát, không giữ được bình tĩnh và gây ra
khó khăn trong việc tìm hướng giải quyết.
Những THKC trong CC và CNCH có thể do con người gây ra như: cháy nổ,
cháy rừng, xung đột dân sự, chiến tranh, khủng bố, tai nạn, nạn đói, sụp đổ công trình
xây dựng... Có những sự cố do thiên tai gây ra như: động đất, sóng thần, lũ lụt, bão, sạt
lở đất, sập hầm lò, hạn hán, sự cố môi trường, sinh học... Những THKC bất ngờ này
đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng xử lý, nếu không nhanh chóng giải quyết sẽ dẫn tới
những hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, tài sản, môi trường sống của con người.
THKC trong CC và CNCH có tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các chiến sĩ,
làm cho họ mất khả năng kiểm soát, làm suy yếu các chức năng tâm – sinh lý, tạo ra
phản ứng vô thức, giảm khả năng đánh giá đúng tình huống và rơi vào trạng thái co
cứng, không phản ứng với môi trường xung quanh. Nếu sự sợ hãi đó không được
rèn luyện, trấn áp thì sự sợ hãi đó sẽ lây lan sang những chiến sĩ khác. Sự sợ hãi
tăng lên thì niềm tin vào khả năng của tập thể chống lại sự cấp thiết, nguy hiểm
củaTHKC đó giảm đi và khó hoàn thành nhiệm vụ.
c. Giải quyết các tình huống khẩn cấp trong phòng cháy chữa cháy và cứu
nạn cứu hộ
Sự phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn
47
xuất hiện các mặt trái, những rủi ro do cháy nổ, sụp đổ cấu kiện xây dựng gây ra…
Bên cạnh đó, những diễn biến bất thường của thiên nhiên cũng đặt ra cho con người
những thách thức mới. Khi xảy ra các THKC, sự phối hợp chiến đấu có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, bởi vì quy mô của các vụ cháy lớn hơn, tình hình đám cháy diễn
biến bất thường, các tình huống cứu nạn cứu hộ phức tạp. Chính vì vậy, những đòi
hỏi ngày càng cao đối với các chiến sĩ về nhận thức, tình cảm yêu nghề, sự bền bỉ,
kiên trì, dũng cảm, ý chí quyết tâm, kỹ năng chiến đấu và không cho phép các chiến
sĩ mắc sai lầm, vì những sai lầm trong các THKC đó có thể phải trả cái giá rất đắt,
thậm chí bằng tính mạng của bản thân, đồng đội.
Việc ra quyết định để giải quyết các THKC nhanh chóng, kịp thời trong CC
và CNCH đóng vai trò quan trọng, các THKC diễn ra bất ngờ, đột xuất, trong thời
gian ngắn và đòi hỏi nhanh chóng giải quyết, nếu không có biện pháp kịp thời sẽ
dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Trong việc giải quyết các THKC, vai trò của
người chỉ huy và các chiến sĩ trực tiếp tại hiện trường là nhân tố quyết định.
Để lực lượng CC và CNCH thực hiện tốt nhiệm vụ chiến đấu trong THKC,
không bị các yếu tố khác tác động thì người chiến sĩ CC và CNCH cần phải có các
phẩm chất, kỹ năng và trạng thái tâm lý vững vàng để vượt qua khó khăn, thử thách,
giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả THKC xảy ra.
Qua việc phân tích ở trên, chúng tôi đi đến khái niệm giải quyết các tình
huống khẩn cấp trong phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ như sau:
Giải quyết tình huống khẩn cấp trong phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu
hộ là quá trình ra quyết định nhanh chóng, kịp thời, phù hợp nhằm ngăn chặn,
khống chế các biến cố nghiêm trọng, bất thường, đột xuất xảy ra trong tình huống
cháy nổ với mục đích giảm thiểu thiệt hại nặng nề cho cá nhân, xã hội.
Khi xuất hiện các THKC, việc ra quyết định kịp thời, chính xác sẽ góp phần
quan trọng vào việc ngăn chặn tình huống trở nên xấu đi, giúp giảm thiểu tối đa
thiệt hại gây ra. Trong THKC, ra quyết định là hoạt động quan trọng nhất của người
lãnh đạo, chỉ huy. Nó đòi hỏi người lãnh đạo, chỉ huy phải có năng lực nhận định,
đánh giá tình hình, bố chí lực lượng chiến đấu, trang thiết bị, phương tiện hợp lý.
Quyết định đúng đắn của người lãnh đạo, chỉ huy sẽ góp phần giúp các chiến sĩ giải
48
quyết tình hình nhanh chóng, chính xác. Ngược lại, quyết định sai lầm của người
lãnh đạo, chỉ huy có thể làm tình hình xấu đi, diễn biến sự việc thêm phức tạp và có
thể gây hậu quả nghiêm trọng.
Có thể khẳng định rằng, kết quả hoạt động chiến đấu của lực lượng CC và
CNCH trong việc giải quyết các THKC phụ thuộc chủ yếu bởi công tác tổ chức và
chỉ huy các hoạt động đó. Chỉ huy các hoạt động chiến đấu ảnh hưởng trực tiếp tới
kết quả của hoạt động chiến đấu. Cho nên, muốn quan tâm một cách thỏa đáng hoạt
động của lực lượng CC và CNCH trong việc giải quyết các THKC, cần phải hoàn
thiện không chỉ các biện pháp xử lý các THKC bên ngoài mà còn phải đào tạo, huấn
luyện, bồi dưỡng cho lãnh đạo, chỉ huy và các chiến sĩ phẩm chất tâm lý tích cực
bên trong để họ có thể thích ứng được với mọi THKC xảy ra.
d. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng
cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Để thích ứng với việc giải quyết các THKC, các chiến sĩ CC và CNCH cần
có được một số phẩm chất tâm lý cần thiết được hình thành và phát triển trong quá
trình rèn luyện, huấn luyện và thực hành nghề nghiệp. Cùng với việc nhận thức
đúng đắn về ý nghĩa, vai trò, trách nhiệm của bản thân khi tham gia CC và CNCH,
sự vững chắc của các phẩm chất tâm lý như tình cảm – ý chí, các tố chất về sinh lý
thần kinh được rèn luyện tốt sẽ ít bị căng thẳng quá mức cũng như chịu ảnh hưởng
từ những hậu quả của nó. Sự vững chắc về tình cảm – ý chí giúp cho khả năng chịu
đựng được những sức ép, áp lực từ tình huống mà vẫn hành động đạt được hiệu quả
cao trong công việc. Các chiến sĩ có được tâm thế bền như vậy sẽ ít bị xúc động
mạnh, giúp cho họ kiểm soát, làm chủ, cân bằng được những phản ứng trạng thái
tâm lý bên trong cơ thể. Sự bền vững, ổn định tâm lý của các chiến sĩ phụ thuộc rất
nhiều vào kinh nghiệm trải nghiệm của họ và các phẩm chất ý chí, đặc biệt vào tính
kiên nhẫn và sự tự chủ của họ [Xtôliarencô, 1980, tr. 35].
Để hình thành một trạng thái tâm lý cần thiết cần chú ý đến quy luật, trạng
thái tâm lý trước đó của con người sẽ ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý tiếp theo.
Như vậy, tâm thế sẵn sàng chiến đấu của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH
càng cao thì tâm thế sẵn sàng chiến đấu của họ xuất hiện càng dễ dàng và nhanh
49
chóng. Ngược lại, trạng thái đó càng thấp thì con người càng dễ mất bình tĩnh và
càng ít có khả năng huy động toàn bộ năng lực của mình thực hiện nhiệm vụ. Giải
quyết các THKC trong CC và CNCH đòi hỏi phải tuân thủ đúng điều lệnh chiến
đấu, hành động dũng cảm, cương quyết tích cực. Kết quả đạt được của các chiến sĩ
phụ thuộc vào lòng tin kiên định, kiến thức, vào các phẩm chất tâm lý và kỹ năng
nghiệp vụ của chiến sĩ, đó là cơ sở, là căn cứ cho phép hành động một cách tin
tưởng và đúng đắn. Kết quả một số nghiên cứu chỉ ra rằng: khi các cá nhân đạt được
trạng thái tinh thần sảng khoái, thoải mái sẽ nâng cao hiệu quả của động tác lên gần
20%, tăng sức mạnh của các cơ bắp lên khoảng 90%, tăng độ nhạy của thính giác và
thị giác lên 35 – 65%, số lần sai sót ở một số chiến sĩ giảm xuống 5 – 10 lần, mức
độ chú ý, phản xạ nhanh chí cũng tăng, sự mệt mỏi, căng thẳng giảm xuống hẳn
[Xtôliarencô, 1980, tr. 43].
Sự thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH
còn thể hiện ở sự phát triển các phẩm chất cấu tạo tâm lý bên trong của họ. Những
phẩm chất cấu tạo tâm lý này đáp ứng được những yêu cầu chuyên môn nghề
nghiệp, yêu cầu chiến đấu, tăng cường khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu
của họ. Trong những tình huống đó cần có các phẩm chất như sự nhạy cảm của thị
giác và thính giác, khả năng quan sát, sự chú ý, trí nhớ, sự hiểu biết, trí tưởng
tượng, tư duy nhạy bén, năng lực nghề nghiệp. Phản ứng nhạy bén đối với những sự
kiện bất ngờ không lường trước và khả năng chuyển nhanh từ trạng thái sẵn sàng
chiến đấu sang hành động chiến đấu, khả năng tự chủ trong mọi tình huống, khả
năng chịu được sức ép, áp lực, căng thẳng kéo dài là những yêu cầu cần thiết đối
với các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH trong việc giải quyết các THKC.
Sự rèn luyện các phẩm chất tâm lý cần thiết, quan trọng cho chiến sĩ cảnh sát
PCCC và CNCH sẽ tăng cường khả năng thích ứng với việc giải quyết các THKC
trong CC và CNCH, giúp họ thực hiện chính xác trong các thao tác chiến đấu và
phòng ngừa các tổn thương về sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm lý của họ.
Khi giải quyết các THKC, các chiến sĩ vận dụng các kỹ năng đã được đào
tạo, huấn luyện, thực hành kết hợp với việc áp dụng những kiến thức được học vào
những điều kiện phức tạp và thường xuyên thay đổi. Các kỹ năng nhận định, đánh
50
giá tình hình, vận dụng nó vào trong các tình huống cụ thể; kỹ năng phát hiện và
sửa chữa những hư hỏng của thiết bị chữa cháy, thiết bị chuyên dụng… Trong điều
kiện tình huống thường xuyên thay đổi, các hoạt động của các chiến sĩ cũng phải
làm sao cho phù hợp với thay đổi đó. Do đó, không thể thực hiện nhiệm vụ một
cách máy móc, giáo điều được, vì điều này có thể dẫn tới những hậu quả không tốt,
những sai lầm nghiêm trọng, thậm chí dẫn đến thương vong cho các chiến sĩ.
Trong một số trường hợp chiến đấu trong THKC, ý thức của chiến sĩ CC và
CNCH bị các nhân tố bất ngờ của THKC tác động mạnh làm mất tập trung. Trong
những trường hợp đó kỹ xảo sẽ giúp cho chiến sĩ tiếp tục hành động một cách hiệu
quả. Các kỹ xảo đó giúp các chiến sĩ bỏ qua những công việc không cần thiết, cụ
thể như: nhớ lại những hiểu biết, những kiến thức khác nhau, nhớ lại trình tự các
động tác phải làm, kiểm tra các động tác của tay chân, thao tác kỹ thuật, đội hình
triển khai, cách sử dụng và vận hành các thiết bị chuyên dụng… mà tập trung vào
mục tiêu hoạt động chiến đấu, vào phương pháp thực hiện nhiệm vụ, quan sát tình
hình, tìm ra những biện pháp giải quyết tình huống một cách nhanh nhất. Những
thói quen nghề nghiệp cần thiết, đặc trưng cho các chiến sĩ PCCC và CNCH là hành
động nhanh, chính xác, tính cẩn thận, thi hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh chỉ huy và
điều lệnh chiến đấu.
Quá trình giải quyết các THKC trong CC và CNCH, trình độ bản lĩnh chiến
đấu của mỗi chiến sĩ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tập thể. Đặc biệt, trình độ điêu luyện
của chỉ huy là yếu tố tác động mạnh mẽ làm cho cấp dưới yên tâm và tin tưởng
trong các hành động của mình. Ngược lại, trình độ điêu luyện của cấp dưới cũng sẽ
tạo ra những tiền đề cho những hành động và quyết định đầy tin tưởng của chỉ huy
của họ.
Bên cạnh trình độ được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, các phẩm chất
tâm lý cần thiết thì các tố chất về sinh lý đặc biệt quan trọng đối với các chiến sĩ
làm công tác CC và CNCH, trong những THKC, hoàn cảnh rất khắc nghiệt, khẩn
trương. Đó là sự cân bằng thần kinh để đối phó với những hoạt động căng thẳng kéo
dài, mệt mỏi đến cực độ, kiệt sức, thường xuyên thiếu ngủ, mất ngủ kéo dài. Con
người khi đã mệt mỏi đến cực độ thì hành động sẽ ể oải, mất dũng khí chiến đấu, dễ
51
mất tinh thần, hay cáu gắt, dễ mất bình tĩnh. Chỉ có sự luyện tập về thể lực khỏe
mạnh sự dẻo dai cần thiết, với ý chí, tình cảm yêu nghề cao cộng với sự chủ động
mới cho phép các chiến sĩ chịu đựng được những sức ép tâm lý nặng nề và ngăn
ngừa được những phản ứng tiêu cực.
Các nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra rằng, tỉ lệ những người làm việc
trong dịch vụ khẩn cấp có suy nghĩ tiêu cực về cuộc sống chiếm tỉ lệ cao so với
người dân bình thường nói chung [Stanley, Hom, & Joiner, 2016]. Có 28% những
chiến sĩ CC và CNCH được hỏi cảm nhận cuộc sống không đáng sống, 10,4% có ý
tưởng tự tử nghiêm trọng, và 3,1% có ý nghĩ tự sát trong quá khứ [Stanley, Hom, &
Joiner, 2016]. Trong một nghiên cứu riêng biệt, [Abbot và cộng sự, 2015] báo cáo
rằng, có 37% lính cứu hỏa chuyên nghiệp và người làm dịch vụ y tế khẩn cấp
(EMS) đã có ý định tự tử, gần gấp 10 lần tỷ lệ người Mỹ trưởng thành. Ngoài ra,
6,6% lính cứu hỏa chuyên nghiệp và EMS đã báo cáo rằng từng cố gắng tự tử trong
khi chỉ 0,5% dân thường.
Bản chất công việc của cảnh sát PCCC và CNCH là tiếp xúc nhiều lần với
những trải nghiệm đau đớn và kích thích, cũng như lịch trình giấc ngủ thất thường,
điều đó có thể gây ra rủi ro đáng kể cho sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần của
các chiến sĩ. Chẳng hạn, theo đánh giá của [Dowdall-Thomae, Gilkey, Larson và
Arend-Hicks, 2012], hơn 50% trường hợp tử vong của lính cứu hỏa là do căng thẳng
và kiệt sức. Mức độ sử dụng rượu bia và bị PTSD ở lính cứu hỏa chuyên nghiệp cao
hơn so với các nhân viên cứu hỏa tình nguyện, trong khi các tình nguyện viên báo cáo
mức độ trầm cảm, có ý định và cố gắng tự tử cao hơn [Stanley và cộng sự, 2017].
Hoạt động CC và CNCH trong THKC là hoạt động mang tính tập thể cao,
các hoạt động phối hợp chiến đấu phải tuân thủ nghiêm theo kỹ chiến thuật, mệnh
lệnh chỉ huy, điều lệnh chiến đấu, do đó vai trò của tập thể, tình cảm đồng đội có
vai trò hết sức quan trọng, sai lầm của mỗi người trong đội cũng có thể khiến cho
cả đội phải trả giá bằng mạng sống của mình.
Do điều kiện không cho phép nghiên cứu cả quá trình thích ứng của các
chiến sĩ từ khi công tác trong lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH nên trong khuôn
khổ luận án này, chúng tôi chỉ nghiên cứu được kết quả cuối cùng của quá trình
52
thích ứng.
Từ việc phân tích ở trên, chúng tôi đi đến khái niệm thích ứng với việc giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH như sau:
Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng
cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ là quá trình thay đổi nhận thức, thái độ, hành
động của các chiến sĩ nhằm đưa ra quyết định nhanh chóng, kịp thời, phù hợp với
yêu cầu, đòi hỏi của tình huống cháy nổ, nhằm ngăn chặn, khống chế các biến cố
nghiêm trọng, bất thường, đột xuất có thể đưa đến hậu quả nặng nề cho cá nhân và
xã hội mà vẫn đảm bảo được sự ổn định tâm lý, tinh thần của họ sau sự kiện.
Như vậy, khi nghiên cứu về thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH, cần làm rõ các nội dung: Chủ thể thích ứng, nội dung
thích ứng, môi trường thích ứng, quá trình thích ứng và việc đảm bảo sức khỏe về
thể chất, tinh thần cho bản thân trong và sau khi giải quyết các THKC.
Về chủ thể thích ứng
Chủ thể thích ứng với việc giải quyết các THKC chính là cảnh sát PCCC và
CNCH. Để hình thành phẩm chất, năng lực của người cảnh sát PCCC và CNCH, đáp
ứng yêu cầu của hoạt động chữa cháy và cứu nạn cứu hộ trong các THKC thì bản
thân cán bộ, chiến sĩ phải là người thay đổi, điều chỉnh tâm lý của mình. Sự thay đổi,
điều chỉnh tâm lý của các chiến sĩ là sự thay đổi, điều chỉnh về nhận thức, thái độ và
hành động. Do đó, cảnh sát PCCC và CNCH cần đánh giá đúng đắn về những đặc
điểm tâm lý hiện có của bản thân, nhận thức được những phẩm chất, năng lực cần có
của người cảnh sát PCCC và CNCH, phân tích rõ đặc điểm của môi trường nghề
nghiệp, hoạt động nghề nghiệp để từ đó xây dựng biện pháp thay đổi, lộ trình điều
chỉnh những đặc điểm tâm lý của bản thân nhằm hình thành được những phẩm chất
cần có của người cảnh sát PCCC và CNCH. Theo đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ cần thay
đổi, điều chỉnh nhận thức, thái độ, hành động của bản thân về: nghề nghiệp; vị trí, vai
trò của bản thân; chức năng, nhiệm vụ chính trị, đặc điểm, quy định của lực lượng,
đơn vị công tác; phương pháp chiến thuật; mối quan hệ xã hội trong công việc, năng
lực ứng phó với tác động của THKC. Có như vậy, cán bộ, chiến sĩ mới đạt được kết
quả cao trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao cũng như tạo ra được
53
những cảm xúc tích cực, cảm thấy hài lòng về việc thực hiện các nhiệm vụ đó.
Về nội dung thích ứng
Trong quá trình huấn luyện, thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, cảnh sát PCCC
và CNCH thực hiện cùng một lúc nhiều công việc khác nhau: từ việc học tập, huấn
luyện, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, chấp hành điều lệnh CAND,
điều lệnh chiến đấu; rèn luyện đạo đức, tác phong của người cảnh sát nhân dân;
chấp hành mệnh lệnh chỉ huy; luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi có lệnh; làm chủ
trang thiết bị phương tiện; thực hiện kỹ chiến thuật đã được đào tạo, huấn luyện vào
chiến đấu; phối hợp hiệp đồng chiến đấu với đồng đội, chỉ huy… Tuy nhiên, những
nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm của cảnh sát PCCC và CNCH trong giải quyết các
THKC trong chữa cháy và cứu nạn cứu hộ là việc thực hiện các hành động chiến
đấu khi có sự kiện, biến cố bất thường xảy ra.
Theo đó, nội dung thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH được thể hiện rõ thông qua việc các chiến sĩ thực hiện các hành
động cơ bản trong giải quyết các THKC như: sẵn sàng nhận lệnh và thực thi nhiệm
vụ; chấp hành mệnh lệnh chỉ huy, điều lệnh CAND, điều lệnh chiến đấu; thực hiện
các biện pháp và cách thức giải quyết THKC; thực hiện hành động cứu người, cứu tài
sản; phối hợp chiến đấu với đồng đội và thực hiện các kỹ năng xử lý, sử dụng trang
thiết bị máy móc trong việc giải quyết các THKC.
Về môi trường thích ứng
Môi trường thích ứng vừa là nơi diễn ra các nội dung thích ứng vừa là một
trong những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến mức độ thích ứng của con người nói
chung. Do đó, môi trường thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH chính là môi trường diễn ra hoạt động chiến đấu để đảm bảo an toàn
tính mạng cho người, giảm thiểu tối đa thiệt hại về tài sản và ngăn chặn, kiểm soát
tình huống đó trở thành thảm họa trên phạm vi rộng lớn.
Về quá trình thích ứng
Quá trình thích ứng của cảnh sát PCCC và CNCH là quá trình thay đổi, điều
chỉnh tâm lý bản thân, vượt qua những khó khăn, thử thách để đáp ứng yêu cầu trong
việc giải quyết các THKC. Do đó, quá trình thích ứng của mỗi chiến sĩ là khác nhau,
54
phụ thuộc cơ bản vào năng lực chuyên môn, ý chí khắc phục khó khăn, tuổi nghề, kinh
nghiệm xử lý THKC, kinh nghiệm xử lý tình huống phức tạp, bất ngờ trong thực hiện
nhiệm vụ chiến đấu.
Về đảm bảo được sự ổn định tâm lý, tinh thần sau sự kiện
Biểu hiện của trạng thái tâm lý ổn định, tinh thần vững vàng của chiến sĩ
được xây dựng dựa trên trạng thái tích cực bao gồm: Sự trải nghiệm cảm xúc tích
cực, nhìn nhận tích cực về bản thân và nghề nghiệp của bản thân được thể hiện qua
những cung bậc cảm xúc trong cùng một khoảng thời gian. Biết gắn kết một cách
lành mạnh trong các mối quan hệ công việc, gia đình và xã hội một cách tự chủ, tôn
trọng và không lệ thuộc vào người khác. Biết tận hưởng hương vị cuộc sống, làm
cho bản thân cảm thấy thoải mái, dễ chịu và quý trọng những gì bản thân đang có.
Khả năng tập trung là điều khiển được các hành động về thể chất và tâm trí hướng
vào quá trình thực hiện nhiệm vụ cũng như các hoạt động khác, có khả năng loại bỏ
các yếu tố “gây nhiễu” khi làm việc ảnh hưởng đến nhiệm vụ hoặc làm mất tập
trung. Tự điều chỉnh suy nghĩ, hành vi sao cho phù hợp với hoàn cảnh, công việc,
biết loại trừ những căng thẳng mà bản thân đối diện trong công việc và trong cuộc
sống hàng ngày. Khả năng phục hồi tốt, nghĩa là biết cách thức tự giải tỏa cảm xúc
tiêu cực bằng phương pháp lành mạnh mà không phải mượn chất kích thích như
rượu, bia, thuốc lá… để cân bằng cảm xúc. Cuối cùng, bản thân luôn cảm thấy mình
như là một phần của đơn vị, của cộng đồng, luôn mong muốn hoàn thiện nhân cách
và phát triển năng lực của bản thân, tạo ra những giá trị tốt đẹp hơn cho cộng đồng,
cống hiến nhiều hơn cho xã hội.
2.3. Biểu hiện thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của
cảnh sát phòng chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Theo quan điểm của tâm lý học hoạt động, tâm lý của con người được hình
thành, phát triển và biểu hiện thông qua hoạt động. Vì vậy, nghiên cứu, đánh giá
tâm lý của người phải được tiến hành trong hoạt động và thông qua hoạt động. Biểu
hiện rõ nét nhất đánh giá thích ứng của con người trước sự thay đổi của môi trường
là đánh giá trong hoạt động và giao tiếp xã hội. Trong hoạt động, sự tác động qua
lại giữa con người và hoàn cảnh diễn ra thông qua hai quá trình: Chủ thể hóa (nhập
55
tâm) và khách thể hóa (xuất tâm).
Trên quan điểm về thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH như đã trình bày ở phần trước, trong phạm vi đề tài này, chúng tôi
xem xét thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH trên
03 mặt cụ thể sau: nhận thức, thái độ và hành động. Tuy nhiên, trong việc giải quyết
các THKC, các chiến sĩ không chỉ thích ứng trên 03 mặt biểu hiện, mà còn phải
đảm bảo được sự ổn định thích ứng tâm lý, tinh thần trong và sau quá trình giải
quyết tình huống, nhanh chóng phục hồi để sẵn sàng cho những hoạt động tiếp theo.
Về nội dung này chúng tôi sẽ trình bày riêng ở mục sau ( mục 2.4).
2.3.1 Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát
phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ thể hiện ở mặt nhận thức
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý, là hoạt động đặc
trưng của con người. Trong quá trình sống và hoạt động, con người nhận thức thế
giới xung quanh và nhận thức cả chính bản thân. Trên cơ sở đó con người tỏ thái độ
và hành động (ứng xử) với tác động của thế giới xung quanh và với bản thân mình
một cách phù hợp. Vì thế, có thể nói rằng nhờ quá trình nhận thức mà con người
làm chủ được thiên nhiên, làm chủ được xã hội và làm chủ được chính bản thân
mình. Nhận thức là cơ sở để định hướng thái độ và hành vi của cá nhân.
Nhận thức của cảnh sát PCCC và CNCH về việc giải quyết các THKC trong
quá trình CC và CNCH là quá trình các chiến sĩ tiếp thu, lĩnh hội những tri thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, quy định về PCCC và CNCH trong việc giải quyết các THKC. Qua
quá trình này các chiến sĩ hiểu được những nội dung sau:
- Nhận thức về bản chất của tình huống khẩn cấp: Các chiến sĩ cần nhận thức
được THKC là những sự kiện, biến cố nghiêm trọng, bất thường, đột xuất xảy ra trong
đời sống của con người, xã hội, gây ra tâm trạng, cảm xúc mạnh nếu không thích ứng
được bản thân để đưa ra cách giải quyết phù hợp, nhanh chóng có thể đưa đến những
hậu quả nặng nề. Bản chất của THKC là tình huống có vấn đề, chứa đựng những mâu
thuẫn, được chủ thể nhận thức, có nhu cầu giải quyết và có khả năng giải quyết dựa
trên vốn tri thức, kinh nghiệm của mình. Đó là những tình huống khách quan, xảy ra
ngoài ý muốn chủ quan của con người, nó đặt ra yêu cầu cần phải xử lý, giải quyết một
56
cách nhanh chóng, cụ thể, phải có những biện pháp cấp thiết để giải quyết.
- Nhận thức về cách thức giải quyết các THKC: Nhận thức được các thức
giải quyết các THKC gồm các hành động như: khẩn trương nhằm ngăn ngừa và
giảm nhẹ thiệt hại có thể xảy ra; bình tĩnh không được nôn nóng,cần tiếp cận tổng
quát các mối nguy hiểm để đánh giá tình hình đang xảy ra. Xác định dạng tình
huống khẩn cấp để đặt ra các quyết định phù hợp; lên kế hoạch, tổ chức, quản lý các
nguồn lực, xác định trách nhiệm của từng chiến sĩ để phân công giải quyết công
việc cụ thể cho từng chiến sĩ trong đội, Thống nhất chỉ huy, lập ban tham mưu để
đưa ra phương hướng, triển khai nhiệm vụ. Nhanh chóng huy động lực lượng,
phương tiện cần thiết để giải quyết nhiệm vụ. Trong quá trình chiến đấu phải chấp
hành nghiêm mệnh lệnh của người chỉ huy, điều lệnh CAND, điều lệnh chiến đấu.
Luôn hiệp đồng chiến đấu với đồng đội; ưu tiên tổ chức thoát nạn, cứu người, cứu
tài sản. Tiến hành chống cháy lan, dập tắt đám cháy và các hoạt động khác có liên
quan. Thực hiện đúng các phương pháp và biện pháp nghiệp vụ trong thực hiện
nhiệm vụ CC và CNCH.
- Nhận thức về quy trình giải quyết các THKC: Xác định tình hình sự việc
xảy ra, nắm rõ nhiệm vụ được giao. Xác định vị trí, tình trạng người bị nạn, thiệt
hại về người, tài sản; nơi xảy ra sự cố, tai nạn và các biện pháp xử lý tình huống.
Xác định mối nguy hiểm có thể đe dọa đến tính mạng, sức khỏe người bị nạn cũng
như lực lượng tham gia để đưa ra các biện pháp an toàn khi thực hiện nhiệm vụ.
Xác định vị trí thích hợp để bố trí phương tiện, thiết bị phục vụ quá trình giải
quyết tình huống khẩn cấp đó. Triển khai đội hình theo mệnh lệnh của chỉ huy,
nhanh chóng cứu người và tài sản. Tổ chức sơ cứu ban đầu cho người bị nạn khi
đưa ra khỏi khu vực nguy hiểm. Kiểm tra, bảo quản, sử dụng trang phục, thiết bị
bảo hộ cá nhân được trang bị khi thực hiện nhiệm vụ, duy trì liên lạc với chỉ huy
và đồng đội trong suốt quá trình giải quyết vấn đề. Đưa ra các phương pháp, biện
pháp, chiến thuật, kỹ thuật phù hợp để cứu người, cứu tài sản. Phối hợp với các
lực lượng chức năng có liên quan để đảm bảo các điều kiện cần thiết phục vụ
chiến đấu. Trong quá trình giải quyết tình huống khẩn cấp, nếu gặp phải các tình
huống phát sinh phức tạp, vượt quá khả năng xử lý phải báo cáo chỉ huy để tìm
57
hướng giải quyết thích hợp.
2.3.2. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát
phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ thể hiện ở mặt thái độ
Sự thích ứng của con người được hình thành và phát triển trong hoạt động. Tuy
nhiên, không phải cứ tham gia vào hoạt động là con người thích ứng được.
Hơn nữa, khi tham gia vào hoạt động và giao tiếp trong môi trường xã hội,
không phải mọi người đều có sự thích ứng như nhau. C. Mác đã khẳng định: “hoàn
cảnh tạo ra con người nhưng trong chừng mực nhất định con người tạo ra hoàn
cảnh”. Do vậy, để thích ứng tốt với môi trường sống, chủ thể thích ứng phải có thái
độ tích cực, chủ động; có ý thức quyết tâm khắc phục khó khăn tác động vào hoàn
cảnh để tạo ra các điều kiện thuận lợi đảm bảo hành động có kết quả.
Mặt khác, thái độ tạo ra động cơ tích cực cho cá nhân trong quá trình thích
ứng, thái độ thể hiện khát vọng và sự quyết tâm, tính tích cực, tự giác, năng động,
sáng tạo của cá nhân trong quá trình thích ứng, thái độ tốt gắn liền với sự biểu hiện
cảm xúc tích cực của cá nhân trong quá trình thích ứng.
Mặt biểu hiện của thái độ trong quá trình thích ứng với việc giải quyết các
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH được biểu hiện qua khát vọng và quyết tâm
của chủ thể trong việc thay đổi nhận thức và hành vi cho phù hợp với môi trường
hoạt động mới; thái độ thay đổi nhận thức và hành vi của mình để nhanh chóng
thích ứng và đáp ứng yêu cầu đòi hỏi từ việc giải quyết các THKC. Thái độ tích
cực, năng động, chủ động, sáng tạo, kiên quyết khắc phục khó khăn trong việc giải
quyết các THKC để hòa nhập, làm chủ với môi trường, hoàn cảnh phức tạp hơn.
Thái độ của cảnh sát PCCC và CNCH trong thích ứng với việc giải quyết các
THKC được biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau:
- Thái độ chủ động của cảnh sát PCCC và CNCH trong việc giải quyết các
THKC: Luôn chủ động trong việc thực hiện tập trung triển khai lực lượng, phương tiện
chiến đấu; chấp hành đầy đủ mệnh lệnh của chỉ huy; chấp hành đầy đủ quy định của
điều lệnh chiến đấu. Luôn chấp hành đầy đủ quy định của điều lệnh CAND; thực
hiện đúng, đầy đủ các bước, quy trình, biện pháp đã được đào tạo, bồi dưỡng, huấn
luyện để giải quyết các THKC. luôn thực hiện hoạt động cứu người, cứu tài sản; các
thao tác sử dụng thành thạo phương tiện kỹ thuật, máy móc được trang bị. Khi gặp
58
các tình huống phức tạp phát sinh, chủ động, linh hoạt giải quyết vấn đề.
- Thái độ tích cực của cảnh sát PCCC và CNCH trong việc giải quyết các
THKC: Luôn là người tích cực trong việc thực hiện triển khai lực lượng, phương
tiện chiến đấu; trong việc chấp hành mệnh lệnh của chỉ huy; chấp hành điều lệnh
chiến đấu; điều lệnh CAND. Tích cực thực hiện các biện pháp giải quyết THKC,
tích cực thực hiện cứu người, cứu tài sản; tích cực trong hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ
với đồng đội, đồng chí và lực lượng tại chỗ khác. Tích cực thực hiện các kỹ năng sử
dụng phương tiện kỹ thuật, máy móc được trang bị để giải quyết nhanh nhất THKC
đang xảy ra. Tích cực động viên, khích lệ đồng đội chiến đấu, để giúp đồng đội giữ
tinh thần ổn định, không hoang mang, giao động.
- Khả năng kiểm soát cảm xúc trong việc giải quyết các THKC: Luôn bình
tĩnh, tự tin; đồng cảm, chia sẻ trước đau thương, trước mất mát, thiệt hại của người
bị nạn khi xảy ra sự việc. Kiềm chế sự sợ hãi, hốt hoảng, bình tĩnh khi chứng kiến
cái chết thương tâm của nạn nhân và đồng đội. Giữ vững cân bằng, tập trung cho các
thao tác, hành động của mình để vấn đề được giải quyết nhanh nhất, hiệu quả nhất. Tự tin
trong từng thao tác, hành động phối hợp chiến đấu của mình. Có những hành động
dũng cảm trong các THKC.
- Thái độ hợp tác của các chiến sĩ trong việc giải quyết các THKC. Luôn tập
trung cao độ, đánh giá đúng tình huống, vấn đề cần giải quyết. Giữ vững tinh thần tự
tin, lạc quan chiến thắng trong chiến đấu, kiên quyết thực hiện nhiệm vụ đến cùng.
Bình tĩnh xử lý khi gặp nạn nhân bị thương nặng; bình tĩnh tìm cách giải thoát, cứu
chữa người bị nạn; động viên, trấn an tinh thần người bị nạn; tự động viên tinh thần
cho mọi tình huống có thể xảy ra. Động viên tinh thần chiến đấu của đồng đội.
2.3.3 Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát
phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ thể hiện ở mặt hành động
Hành vi là một mặt, một bộ phận hết sức quan trọng cấu tạo nên đời sống tâm
lý của con người. Theo nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức với hành vi và hoạt
động thì ý thức được coi là hình thái bên trong, hành vi và hành động được coi là hình
thái bên ngoài và giữa chúng có sự thống nhất với nhau, đều thuộc về một khía cạnh
[S.L.Rubinstein, 1935]. Vì vậy, có thể nói hành động được coi là biểu hiện cao nhất,
59
rõ ràng nhất của đời sống tâm lý của con người, trong đó có thích ứng. Mọi hiện
tượng tâm lý dù là có ý thức hay vô thức, bằng cách này hay cách khác đều được biểu
hiện ra bên ngoài bằng hành động, hoạt động của con người.
Những mặt biểu hiện cụ thể nhất trong hành động thích ứng là tần số thực
hiện các hoạt động trau dồi kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm thực hiện các hành
động thích ứng; khả năng thực hiện các hoạt động một cách phù hợp với yêu cầu
của tình huống để đạt hiệu quả. Thực ra, mặt hành động là mặt biểu hiện bên ngoài
của quá trình thích ứng, của những biến đổi bên trong là nhận thức, năng lực, thái
độ của cá nhân. Hành động là biểu hiện rõ nét nhất của khả năng thích ứng của cá
nhân trước sự thay đổi của môi trường sống.
Hoạt động chính là phương thức thích ứng của cá nhân, nhóm đồng thời là
biểu hiện khách quan của sự thích ứng tâm lý của con người. Biểu hiện cuối cùng
của các mức độ thích ứng thể hiện trong hoạt động và hiệu quả hoạt động của cá
nhân và nhóm. Nó được biểu hiện thông qua 3 mặt: nhận thức, thái độ, hành vi thích
ứng của cá nhân trước đòi hỏi từ môi trường.
Mặt biểu hiện của hành động thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH được biểu hiện thông qua việc thực hiện các hành động
trong quá trình giải quyết các THKC, đó là các hành động: Nhận lệnh và thực thi
nhiệm vụ; phối hợp với đồng đội; các hành động kỹ năng sử dụng phương tiện kỹ
thuật, máy móc. Điều quan trọng nhất là kết quả của việc thực hiện giải quyết các
THKC được các đồng đội, đồng chí và mọi người thừa nhận.
Hành động với tư cách là chỉ số biểu hiện thích ứng, được thể hiện ở việc
chủ thể tiến hành hành động phù hợp với yêu cầu của việc giải quyết các THKC
nhằm ngăn chặn, giảm thiểu tác động tiêu cực do THKC gây ra. Như vậy, kết quả
cụ thể thực hiện công việc là chỉ số đo thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH:
- Hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ: Đây là các hành động chiến đấu
đầu tiên trong việc giải quyết các THKC và đưa chúng vào vị trí sẵn sàng trực tiếp
thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu tại hiện trường. Đó là các hành động: Nhận thông
tin đầy đủ, chính xác và nắm chắc địa điểm xảy ra; báo động, cùng đồng đội tập hợp
60
lên xe và đi đến hiện trường với khoảng thời gian nhanh nhất; cùng đồng đội nhanh
chóng triển khai đến hiện trường, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho đồng đội và
phương tiện trong quá trình di chuyển; luôn chấp hành nghiêm mệnh lệnh của lãnh
đạo, chỉ huy. Quyết đoán, vận dụng tốt kỹ năng được đào tạo, bồi dưỡng, huấn
luyện và kinh nghiệm đã có để đạt hiệu quả cao nhất. Trong chiến đấu, luôn nêu cao
tinh thần gương mẫu đi đầu để làm điểm tựa tâm lý cho đồng đội; hiệp đồng chiến
đấu chặt chẽ với đồng đội, giúp đỡ đồng đội, đồng chí cùng hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao. Nêu cao tinh thần dũng cảm, kiên trì, gan dạ, không ngại khó khăn,
nguy hiểm, đặt tính mạng, tài sản người bị nạn lên trên hết.
- Hành động phối hợp với đồng đội: Luôn chấp hành mệnh lệnh của chỉ
huy một cách khẩn trương và chính xác. Nắm vững nhiệm vụ của mình và nhiệm
vụ chung của tiểu đội. Không tự ý bỏ hay rời khỏi vị trí phối hợp với đồng đội
của mình khi không có lệnh của tiểu đội trưởng. Thường xuyên liên lạc với tiểu
đội trưởng và đồng đội trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Khi chỉ huy bị
thương hay đi làm nhiệm vụ khác, được phân công phụ trách, chiến sĩ phải hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Báo cáo kịp thời chỉ huy trong trường hợp có diễn
biến bất ngờ, đột xuất. Chủ động phối hợp chiến đấu với đồng đội. Khi đồng đội
gặp nguy hiểm, nhanh chóng báo cáo kịp thời cho chỉ huy và tìm mọi cách để
cứu giúp đồng đội. Cùng với đồng đội khẩn trương cứu những người bị nạn và
đưa họ ra nơi an toàn.
- Hành động kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc: Sử dụng
thành thạo thiết bị bảo hộ trong hiện nhiệm vụ như quần áo, mũ, ủng, gang tay, mặt
nạ phòng độc; các loại phương tiện, dụng cụ chữa cháy chuyên dụng như xe chữa
cháy kèm các dụng cụ lăng, vòi; sử dụng thành thạo các loại bình cứu hỏa trong
việc dập tắt đám cháy; sử dụng thành thạo các thiết bị phòng chống khói khí độc
như mặt nạ phòng độc, các loại bình dưỡng khí; kỹ năng sử dụng thành thạo xe
thang chữa cháy, xe cứu nạn cứu hộ; Sử dụng thành thạo băng ca khi cứu người bị
nạn, các thiết bị liên lạc để phối hợp với đồng đội trong thực hiện nhiệm vụ; sử
dụng thành thạo các dụng cụ, thiết bị cứu nạn cứu hộ như búa, cưa, rìu, xà beng,
banh cắt, thang dây, ống tuột…; sử dụng thành thạo các thiết bị máy móc công nghệ
61
hỗ trợ hình ảnh như: máy ảnh hồng ngoại, máy quay hồng ngoại, fly cam.
2.4. Một số biểu hiện tâm lý và cách ứng phó thƣờng gặp của cảnh sát
phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ trong và sau quá trình giải quyết các
tình huống khẩn cấp
2.4.1. Một số biểu hiện tâm lý trong và sau quá trình giải quyết tình huống
khẩn cấp
Các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH thường là những người đầu tiên đến
hiện trường và phải đối mặt với những tình huống đầy thách thức, nguy hiểm và bất
ngờ. Họ cũng là người đầu tiên tiếp cận người sống sót trong thảm họa, đồng thời
cung cấp hỗ trợ về mặt tinh thần và thể chất cho người bị nạn. Những việc này rất
cần thiết cho cộng đồng, xã hội nhưng lại yêu cầu sự vất vả, hy sinh đối với các
chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH.
Bảo vệ sức khỏe và sự an toàn của người dân là một phần quan trọng trong
việc giữ gìn an ninh quốc gia và sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, các chiến sĩ
cảnh sát PCCC và CNCH phải chịu đựng những hậu quả hết sức nặng nề về sức khỏe
thể chất và tinh thần liên quan đến khói độc, ô nhiễm, sự tàn khốc từ các thảm họa tự
nhiên hoặc con người gây ra. Họ phải đối mặt với nhiều mối nguy hiểm vốn có trong
công việc của họ như nguy cơ (gián tiếp hoặc trực tiếp) bị hy sinh tính mạng, thương
tật, bất ổn hoặc mất mát cũng như tiếp xúc trực tiếp với các mối đe dọa đối với cá
nhân, làm việc nhiều giờ liên tục, thay đổi thường xuyên và thời gian trực ca kéo dài,
thiếu ngủ, khó khăn về thể chất và các trải nghiệm tiêu cực khác [Botha, Gwin, và
Purpora, 2015; Heavey và cộng sự, 2015; Marmar và cộng sự, 2006; Patterson và
cộng sự, 2012; Quevillon, Gray, Erickson, Gonzalez, và Jacobs, 2016].
Một trong những yếu tố rủi ro nổi bật đối với các chiến sĩ là yêu cầu tốc độ
thực hiện công việc của họ. Họ luôn ở tuyến đầu đối mặt với nhiều tình huống nguy
hiểm và rủi ro. Những yêu cầu về tiến độ thực hiện công việc lại khẩn trương nhất
có thể dẫn đến việc không kịp tích hợp kinh nghiệm làm việc trước đó. Chẳng hạn,
theo một nghiên cứu ở Australia, 69% các chuyên gia của dịch vụ y tế khẩn cấp
(EMS) chưa bao giờ có đủ thời gian để phục hồi giữa các sự kiện chấn thương
[Bentley và cộng sự, 2013]. Kết quả là, các triệu chứng chán ăn, mất ngủ, ám ảnh
62
khi chứng kiến những tổn thất khủng khiếp về người và của làm xuất hiện chứng
trầm cảm, căng thẳng và áp lực sau chấn thương, ý định tự tử, cùng một loạt các
điều kiện chức năng và có liên quan khác đã được báo cáo.
Trầm cảm cũng là một vấn đề đáng lưu tâm với các chiến sĩ. Ở Việt Nam hiện
nay chưa có nghiên cứu nào trên cảnh sát PCCC và CNCH về tỉ lệ trầm cảm cũng
như mức độ nghiêm trọng của nó, trong khi nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy
mức độ nghiêm trọng của nó, tỉ lệ trầm cảm trên lính cứu hỏa ở Mỹ được báo cáo ở
mức 6,8%, với trầm cảm nhẹ là 3,5% [Bentley và cộng sự, 2013]. Trong số các nhân
viên thuộc nhóm y tế ứng phó với trận động đất lớn ở Nhật Bản năm 2011, thì 21,4%
được chẩn đoán mắc bệnh trầm cảm lâm sàng [Garbern, Ebbeling, & Bartels, 2016].
Các biểu hiện tâm lý tích cực góp phần đảm bảo an toàn cho bản thân chiến
sĩ trong quá trình giải quyết các THKC. Bên cạnh việc đảm bảo an toàn cho bản
thân, việc đảm bảo an toàn cho đồng đội khi chiến đấu cũng được các chiến sĩ rất
quan tâm. Khi có được cảm giác an toàn thì các hoạt động chiến đấu sẽ diễn ra
nhanh chóng, kịp thời và chính xác. Tình cảm đồng chí, đồng đội được phát triển
qua những lần luyện tập, sinh hoạt, ăn ngủ, trực và chiến đấu cùng nhau.Thậm chí,
có những tình bạn gắn bó mật thiết được vun đắp từ lúc nhập ngũ, còn ngồi chung
trên ghế giảng đường cho đến khi được phân công về cùng đơn vị công tác, họ coi
các thành viên trong đơn vị như một gia đình thân thuộc, vui buồn, hiểm nguy,
hoạn nạn có nhau, cùng giúp nhau hoàn thành tốt mọi công việc được giao.
Điều quan trọng đối với các chiến sĩ là sau khi giải quyết các THKC, vẫn
đảm bảo được cho bản thân tâm lý ổn định, tích cực, vững vàng, luôn sẵn sàng cho
những lần thực hiện nhiệm vụ tiếp theo. Các biểu hiện của ổn định tâm lý ở chiến sĩ
CC và CNCH là:
Không có cảm giác chán ăn, mất ngủ sau mỗi lần thực hiện nhiệm vụ; không
bị ám ảnh khi chứng kiến những tổn thất khủng khiếp về người và của; luôn bình
tĩnh, chủ động ứng phó với các tác động xấu từ xung quanh; luôn tạo tâm lý thoải
nhất cho mình khi giải quyết nhiệm vụ được giao; không cảm thấy các dấu hiệu bất
thường của cơ thể như: tim đập nhanh, khó thở, đầu choáng váng; đồng cảm với
người bị nạn khi chứng kiến các tổn thất do cháy nổ gây ra; không cảm thấy sợ hãi,
63
lo âu trong khi thực hiện nhiệm vụ.
Các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
luôn phải đối mặt với rất nhiều vấn đề áp lực về tâm lý do sự nguy hiểm, phức tạp,
bất ngờ của THKC mang lại. Những tình huống đó tác động mạnh đến tâm lý của
các chiến sĩ, nhất là các chiến sĩ trẻ, ít kinh nghiệm chiến đấu. Tuy nhiên, các biểu
hiện tâm lý tích cực sẽ góp phần giúp các chiến sĩ tự tin, bình tĩnh, chủ động ứng
phó với các tác động xấu từ xung quanh, hăng hái trong chiến đấu, thao tác chuẩn
xác trong từng hành động với kỹ năng đã được đào tạo để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Ngược lại nếu các biểu hiện tâm lý tiêu cực nó sẽ kìm hãm hoạt động của các chiến
sĩ, làm cho các chiến sĩ dễ mất bình tĩnh, lo lắng, hồi hộp, thậm chí là run sợ, nhụt
chí, co cứng, luống cuống trong từng hành động, từ đó ảnh hưởng đến kết quả
chung của cả đội. Do đó, cần đào tạo, huấn luyện cho các chiến sĩ tâm lý tự tin,
thoải mái nhất cho mình để cùng đồng đội hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bởi vì,
hoạt động CC và CNCH là hoạt động tập thể đòi hỏi phải có sự hợp đồng chiến đấu
chặt chẽ, sai sót của một người có thể ảnh hưởng đến kết quả chung của cả đội. Do
đó, việc đảm bảo tâm lý ổn định vững vàng cho bản thân trong và sau quá trình giải
quyết các THKC đóng vai trò quan trọng, nó giúp các chiến sĩ chiến thắng những
khó khăn, thử thách một cách dễ dàng.
Những diễn biến tại hiện trường luôn phức tạp, khó lường trước được kết quả
xảy ra. Do đó, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, việc tạo tâm lý thoải giúp các
chiến sĩ giảm căng thẳng, mệt mỏi, tránh được trạng thái co cứng để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Luôn giữ bình tĩnh, tự tin, chủ động, không sợ hãi, không lo
âu, sẵn sàng đương đầu với mọi tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Sự chủ động
giúp bản thân chiến sĩ tránh được các suy nghĩ tiêu cực, tránh được các biểu hiện
không bình thường của cơ thể như: tim đập nhanh, khó thở, đầu óc choáng váng.
2.4.2. Các cách ứng phó với một số hiện tượng tâm lý trong và sau khi giải
quyết các tình huống khẩn cấp
Quá trình thực hiện nhiệm vụ khiến các chiến sĩ thường phải đối mặt với
những tình huống bất ngờ, kinh hoàng. Các sự kiện đó tác động thông qua giác quan
như thị giác, thính giác và khứu giác... tới tâm lý, tình cảm của các chiến sĩ. Các hình
64
ảnh từ những sự kiện đó không mất đi ngay mà được lưu trữ trong bộ não, gây chấn
thương một cách âm ỉ kéo dài, ảnh hưởng đến cá nhân trong những ngày tháng tiếp
theo và đôi khi nhiều năm sau đó.
Tác động từ các sự kiện cháy nổ, thảm họa có ảnh hưởng lớn đến tâm lý của
các chiến sĩ, đặc biệt tới các vấn đề sức khỏe tinh thần như sự ám ảnh, đau khổ,
trầm cảm và PTSD [Brooks và cộng sự, 2016; Garbern và cộng sự, 2016]. Bản thân
các chiến sĩ cảm thấy đau khổ, ám ảnh nặng hơn bởi thông tin lặp lại trên phương
tiện truyền thông về sự kiện, thảm họa đó [Brooks và cộng sự, 2016; Brooks, 2015].
Việc công khai thông tin qua các phương tiện truyền thông về thảm họa là một
nguyên nhân, đặc biệt những lời chỉ trích từ các phương tiện truyền thông cũng có
thể tác động tiêu cực tới tâm lý của các chiến sĩ.
Một nghiên cứu của Brooks và cộng sự cho thấy rằng sự tư vấn, giúp đỡ về
sức khỏe tâm thần đến từ các bác sĩ, nhà tâm lý hay các chuyên gia rất hữu ích cho
những người làm công tác giải quyết thảm họa trong giai đoạn ngay sau khi xảy ra
sự cố [Brooks và cộng sự, 2016]. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu khác về lính
cứu hỏa cho thấy, sự giúp đỡ, can thiệp có tính xâm nhập và họ cảm thấy đau khổ
hơn sau đó.
Kết quả một số công trình nghiên cứu cho thấy sự gắn bó lẫn nhau giữa các
chiễn sĩ cảnh sát PCCC và CNCH có vai trò hết sức quan trọng trong việc ổn định
tâm lý và chống lại các tác động tiêu cực từ THKC. Sự gắn bó của các chiến sĩ là kết
quả của việc rèn luyện, đào tạo, huấn luyện cùng nhau, họ chia sẻ kinh nghiệm, đánh
giá cả mặt tích cực và hạn chế của nhau, việc sinh hoạt cùng nhau trong ca trực của
mình. Cuộc sống cùng nhau giúp các chiến sĩ chủ động kết thân với nhau và chăm
sóc lẫn nhau, họ coi nhau như anh em trong một gia đình. Sự gắn kết này giúp họ
tăng cường khả năng làm việc liên tục trong quá trình khắc phục sự cố, thảm họa và
tạo ra cảm giác thân thuộc, gần gũi trong cuộc sống thường ngày [Marsar, 2013].
Các báo cáo về tình hình cháy nổ được đưa ra trong mỗi lần giao ban, đổi ca
trực trước sự có mặt của lãnh đạo và toàn thể đơn vị. Khi đó, các vấn đề về cháy nổ
trong ca trực sẽ được đưa ra bàn luận, rút kinh nghiệm, chia sẻ cùng đồng đội để
cùng nhau rút kinh nghiệm giúp họ hoàn thành tốt hơn công việc trong những lần
65
tiếp theo. Việc chia sẻ tình hình ca trực với đồng đội là công việc hàng ngày và
cũng là cách để các chiến sĩ làm vơi đi những mệt mỏi, căng thẳng, lo âu của mình
trong chiến đấu.
Gặp gỡ, giao tiếp là nhu cầu tất yếu của con người, nhất là các chiến sĩ cảnh
sát PCCC và CNCH, những người phải trực chiến ở đơn vị liên tục, dài ngày, sống
cách biệt với bạn bè, người thân. Họ chỉ có thể kết nối giao tiếp với gia đình, bạn
bè, người thân sau khi giải quyết xong các THKC thông qua các thiết bị di động,
internet... Do đó, nhu cầu gặp gỡ, giao tiếp với mọi người sau khi thực hiện nhiệm
vụ là nhu cầu cần thiết, giúp họ liên kết, củng cố vững chắc các mối quan hệ xã hội,
gia đình.
Hoạt động chiến đấu trong tình huống khẩn cấp của cảnh sát PCCC và
CNCH đòi hỏi phải khẩn trương, tốc độ, cường độ cao, sự chính xác trong hành
động. Mặc dù, được huấn luyện đặc biệt về sức khỏe thể chất và tâm lý nhưng do sự
tiêu hao năng lượng lớn nên các chiến sĩ sau khi thực hiện nhiệm vụ thường rơi vào
trạng thái mệt mỏi, căng thẳng, kiệt sức, mất nước. Để lấy lại trạng thái sức khỏe
thể chất và tâm lý nhanh nhất, bên cạnh sự nghỉ ngơi, ăn uống hợp lý thì các hoạt
động giải trí khác như: xem phim, nghe nhạc, chơi thể thao, tán gẫu để tăng tiếng
cười, giúp loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực... được các chiến sĩ sử dụng. Bên cạnh
đó, những giây phút nghỉ ngơi quý giá này cũng là cơ hội cho các chiến sĩ gọi điện
hỏi thăm người thân, gia đình và bạn bè...
Những câu chuyện hài hước là cơ chế tâm lý ứng phó phổ biến của các chiến
sĩ sau khi giải quyết THKC. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, sự hài hước đóng
vai trò hết sức quan trọng để duy trì trạng thái tâm lý ổn định trong các tình huống,
khi tình huống cần ứng phó khắc nghiệt vượt quá giới hạn chịu đựng của con người.
Sự hài hước cũng giúp họ giảm căng thẳng và tăng sức chịu đựng các cơn đau cả về
thể chất và cảm xúc, giảm mệt mỏi trong công việc [Rowe & Regehr, 2010]. Mặc
dù việc áp dụng khiếu hài hước không bị giới hạn, nhưng nó chỉ được đội phản ứng
khẩn cấp sử dụng với mục đích quên đi các trải nghiệm căng thẳng, giúp họ tách
biệt với trải nghiệm cảm xúc đã có, từ đó tập trung giải quyết và hoàn thành các
công việc được giao [Rowe & Regehr, 2010]. Hài hước cùng tạo một không gian
66
đầy tiếng cười giúp những người lính cứu hỏa thắt chặt tình đoàn kết, đồng thời gia
tăng sự hỗ trợ đồng nghiệp [Rowe & Regehr, 2010]. Theo các nghiên cứu, hài hước
là cách đối phó chủ động nhằm tăng liên kết xã hội, thúc đẩy sự thư giãn, từ đó giúp
lính cứu hỏa giảm được căng thẳng và những tác động tiêu cực từ công việc [Sliter
và cộng sự, 2014].
Nhìn chung, phòng cháy chữa cháy là một nghề đòi hỏi sự liên kết thân thiết,
khăng khít với đồng nghiệp trong và ngoài đơn vị, những ai không tuân thủ sẽ bị cô
lập, bị loại khỏi cuộc sống tập thể trong các đơn vị. Những chiến sĩ PCCC và
CNCH thường không muốn chia sẻ thông tin chi tiết cho người thân trong ca trực
khi họ trở về nhà, họ không muốn người thân phải lo lắng, đau buồn, không muốn
mang đến sự đau khổ cho các thành viên trong gia đình và những người khác.
Sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001, đã đánh dấu một bước khởi đầu mới của
sự tiếp cận vấn đề sức khỏe tâm thần của lính cứu hỏa dưới góc độ của tâm lý học
tích cực. Đó là tiếp cận vấn đề sức khỏe tâm thần của lính cứu hỏa. Tiến sĩ Martin
Seligman (1998) đã gọi là “khoa học về sức mạnh của con người” và tập trung vào
“điều làm cho cuộc sống đáng sống nhất”. Hướng đi mới để sống một cuộc sống tốt
nhất nhằm bổ sung mà không thay thế và không tập trung vào việc can thiệp, trị liệu
bệnh tâm thần và nỗi đau khổ theo mô hình bệnh truyền thống đặc trưng cho cái gọi
là nghiên cứu và thực hành tâm lý học chính thống đến thời điểm đó [Seligman và
Csikszentmihalyi, 2000].
Ba chủ đề chính mang đặc trưng cho nghiên cứu về tâm lý học tích cực. Trải
nghiệm chủ quan tích cực liên quan đến những cảm xúc tích cực như hạnh phúc và
niềm vui. Tính cách tích cực bao gồm các chủ đề như điểm mạnh cá tính, đức tính
và sở thích. Một trong những khái niệm nền tảng của tâm lý học tích cực là việc xác
định và sử dụng sức mạnh cá tính. Khái niệm này nhấn mạnh các khía cạnh trong
tính cách của cá nhân, đó là năng lực trung tâm của cá nhân về suy nghĩ, cảm nhận
và hành xử vì lợi ích của bản thân và người khác.
Có ba yếu tố giúp các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH có thể ứng phó và
phục hồi tâm lý tốt nhất khi đối mặt với các sự kiện bất lợi của THKC. Các yếu tố
này khi xuất hiện sẽ có khả năng ngăn ngừa hoặc giảm thiểu đau khổ tâm lý sau các
67
tình huống căng thẳng hoặc chấn thương. Ba yếu tố đó là: thứ nhất, lối suy nghĩ linh
loạt, đúng đắn, cặn kẽ [Reivich, 2015]. Điều này bao gồm sự đánh giá tích cực về
khả năng và sức ảnh hưởng của bản thân trong công việc và nỗ lực giúp đỡ những
người khác. Tự đánh giá tiêu cực có liên quan đến tâm lý đau khổ chính là bằng
chứng của mô hình suy nghĩ không đúng đắn, bi quan. Suy nghĩ linh hoạt, đúng đắn
và cặn kẽ hình thành nên trạng thái tâm lý lạc quan và thúc đẩy cá nhân tìm kiếm
cách giải quyết sự việc [Gillham và cộng sự, 2014]. Thứ hai, trợ giúp xã hội. Cụ
thể, trợ giúp về mặt nhận thức (biết rằng luôn được giúp đỡ) có tác động mạnh hơn
là trợ giúp trong hành động [Prati và Pietrantoni, 2010]. Thứ ba, tin vào năng lực
bản thân có thể giải quyết vấn đề. Nếu chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH tin rằng họ
có thể hành động ứng phó hiệu quả với một sự kiện căng thẳng thì sẽ giúp giảm bớt
đau khổ tâm lý và kết quả sự kiện tốt hơn. Hơn nữa, tự nhận thức về khả năng tự
ứng phó có thể giúp dự đoán được liệu sự hỗ trợ và sự lạc quan của xã hội có dẫn
đến phản ứng kiên định trước các sự kiện có tiềm năng chấn thương hay không
[e.g., Benight và Bandura, 2004].
2.5. Những yếu tố ảnh hƣởng đến thích ứng với việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
2.5.1. Nhóm yếu tố khách quan
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của chiến sĩ cảnh sát PCCC và
CNCH chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khách quan khác nhau, nhưng trong
khuôn khổ luận án này, chúng tôi đề cập đến ba nhóm yếu tố khách quan đó là: môi
trường; trang thiết bị, phương tiện, máy móc và chỉ huy chữa cháy.
a. Môi trường
- Thời tiết
Các yếu tố của điều kiện thời tiết tác động đến tâm lý con người thông qua
các điều kiện bên trong và nó thể hiện như các yếu tố tâm lý, nó quyết định tính
hiệu quả hoạt động của các chiến sĩ ở đám cháy. Kết quả của sự tác động của yếu tố
thời tiết là sự xuất hiện các phản ứng tâm lý, những phản ứng này có thể là tích cực
mà cũng có thể là tiêu cực; nếu phản ứng tích cực sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
chiến đấu cho các chiến sĩ, còn nếu phản ứng tiêu cực thì sẽ làm giảm hiệu xuất
68
hoạt động của các chiến sĩ, có thể dẫn tới những hành động sai lầm.
Trận tuyến của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH diễn ra trong mọi điều
kiện thời tiết, không kể nắng mưa, giông bão, đêm ngày… Các yếu tố thời tiết kích
thích gây ra những ảnh hưởng xấu đến tâm lý của các chiến sĩ trực tiếp tham gia CC
và CNCH. Nó có thể làm giảm tuần hoàn máu ở não, nhức đầu, đau xương khớp,
mệt mỏi, đau nhói vùng tim, tăng huyết áp. Nếu điều kiện thời tiết nắng nóng và
nhiệt độ từ đám cháy tỏa ra lớn khiến cho các chiến sĩ nhanh chóng bị mất nước,
mất sức nhanh hơn. Không những vậy, thời tiết còn tác động tới tâm trạng, cảm xúc
và hành động của các chiến sĩ. Nếu thời tiết cực đoan kéo dài có thể gây nên sự lo
lắng, stress, sự bất ổn tâm lý và có thể dẫn tới lối suy nghĩ tiêu cực khi thực hiện
nhiệm vụ.
Do đó, hiểu được sự tác động của yếu tố thời tiết sẽ góp phần giúp các chiến
sĩ kiểm soát tốt, ổn định trạng thái cảm xúc của mình, sẵn sàng chiến đấu trong mọi
tình huống, hoàn cảnh.
Khói, nhiệt độ và các sản phẩm cháy
Khói và các sản phẩm cháy đặc biệt nguy hiểm đối với cơ thể con người.
Khói gây tác dụng mạnh đến sinh lý và tâm lý các chiến sĩ CC và CNCH. Trong
điều kiện thiếu thốn trang thiết bị bảo vệ cơ quan hô hấp của lực lượng cảnh sát
PCCC&CNCH, các sản phẩm cháy độc hại tác động đến cơ quan hô hấp của cán bộ,
chiến sỹ chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, làm
giảm khả năng chiến đấu, dẫn đến những ảnh hưởng về tâm lý, làm chậm tư duy
chiến thuật và chất lượng hoạt động chiến đấu.
Nhiệt độ cao cũng là một trong những yếu tố nguy hiểm đối với các chiến sĩ
trong việc giải quyết các THKC. Các nghiên cứu cho thấy, nếu nhiệt độ tác động lên trên bề mặt da đạt tới 42- 46 0C gây cho cảm giác đau bỏng rát, khi nhiệt độ môi trường đạt tới 69 - 710C sẽ nguy hiểm đối với sự sống của chiến sĩ. Mối nguy hiểm
lớn nhất đối với chiến sĩ CC và CNCH đó là hít phải không khí nóng làm tổn
thương đường hô hấp trong, dẫn đến khó thở hoặc bị chết. Khi chịu tác động của nhiệt độ trên 1000C sẽ bị ngất và chết sau vài phút. Một nguy hiểm khác do nhiệt
độ gây ra, đó là bỏng ngoài da, khi bị bỏng độ 2 trên 30% bề mặt thì cơ hội sống
69
sót còn rất ít. Nhiệt độ cao sẽ kích thích mạnh mẽ đến quá trình hoạt động thần
kinh, làm yếu đi quá trình ức chế, dễ tạo trạng thái mất cân bằng ảnh hưởng đến
động tác thể hiện trong không gian và thời gian của các chiến sĩ [Shantz, 2002].
Đa số các chất trong sản phẩm cháy là những chất có khả năng hấp thụ nhiệt
và ánh sáng làm giảm tầm nhìn, gây khó khăn cho hoạt động chữa cháy. Khi tầm
nhìn bị hạn chế, khả năng tìm kiếm người bị nạn của cán bộ, chiến sỹ cũng bị ảnh
hưởng. Khi thực hiện các hoạt động CC và CNCH trong thời gian dài ở những khu
vực trên, tâm lý sợ hãi và lo ngại không hoàn thành nhiệm vụ được giao sẽ ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động [Nguyễn Tuấn Anh, 2015].
- Nguy cơ sụp đổ cấu kiện xây dựng
Sự cố cháy nổ xảy ra trong các công trình xây dựng có thể ảnh hưởng với các
mức độ khác nhau đến kết cấu chịu lực và các bộ phận kiến trúc, ở mức độ nhẹ thì
bị ám khói trên các bề mặt, ở mức độ lớn hơn có thể gây ra hư hỏng cục bộ vật liệu
bề mặt, còn nặng thì sụp đổ toàn bộ kết cấu của công trình. Điều này gây ảnh hưởng
rất lớn, sụp đổ cấu kiện sẽ gây khó khăn trong quá trình triển khai lực lượng,
phương tiện cũng như quá trình giải cứu nạn nhân, gây tâm lý lo lắng, căng thẳng vì
những cấu kiện đã sụp đổ và những cấu kiện có nguy cơ sụp đổ có thể ảnh hưởng
đến sự an toàn và nguy hiểm cho tính mạng cán bộ, chiến sĩ, những người có trách
nhiệm vào trong những khu vực đó để dập tắt đám cháy và cứu người bị nạn.
b. Trang thiết bị, phương tiện, máy móc
- Quần áo, găng tay, mũ, ủng được sản xuất từ các vật liệu sợi tổng hợp có
khả năng chống nóng, chống bắt cháy. Quần áo chống cháy bảo vệ người sử dụng
trước sự nguy hiểm của lửa, bức xạ nhiệt, tia lửa điện. Tuy nhiên hầu hết các trang
phục bảo hộ mà cán bộ, chiến sỹ mặc trong quá trình là việc đều được làm từ những
vật liệu có khả năng chịu nhiệt khá tốt nhưng lại không thể thoát mồ hôi, mặt khác
do quần áo chống cháy có tác dụng bảo vệ nên khá dày, nếu mặc trong thời gian dài
sẽ cảm thấy khó chịu, bứt rứt. Gây cảm giác không thoải mái, ảnh hưởng rất lớn tới
hiệu suất làm việc [Đinh Ngọc Tuấn, 2006].
Găng tay chữa cháy giúp cán bộ, chiến sỹ khỏi bị tổn thương do các loại vật
70
sắc bén (sản phẩm của sự sụp đổ cấu kiện gây ra như: gạch đá, sắt thép, mảnh vỡ
của các tấm kính…). Khi đeo găng tay vào thì cảm giác hoạt động với môi trường
bên ngoài kém linh hoạt và hoạt động kém hiệu quả hơn.
- Các phương tiện chữa cháy cơ giới và các phương tiện phục vụ cứu nạn
cứu hộ chuyên dụng
Các đội chữa cháy được trang bị nhiều loại phương tiện kỹ thuật khác nhau
như máy bơm chữa cháy, xe chữa cháy, xe kỹ thuật, xe thang, xe trạm bơm, xe chở
vòi, xe chỉ huy, xe thông tin ánh sáng, xe tải, xe chở quân…
Các phương tiện chữa cháy cơ giới hay còn gọi là các phương tiện chữa cháy
chiến thuật là các xe dùng để chở người và phương tiện chữa cháy đến đám cháy và
có khả năng phun chất chữa cháy vào đám cháy để dập lửa hay bảo vệ người tài sản
và cấu kiện xây dựng. Hay nói cách khác đi, xe chữa cháy cơ bản có khả năng hoạt
động chiến đấu độc lập. Các phương tiện chuyên dụng là các xe thực hiện nhiệm vụ
đặc biệt về cứu nạn cứu hộ trong quá trình tham gia chữa cháy. Các xe này nhằm
mục đích tạo điều kiện hỗ trợ cho các hoạt động chiến đấu cơ bản đạt kết quả tốt
nhất. Bên cạnh đó còn có các loại xe phục vụ khác được sử dụng trong công tác tổ
chức dập tắt các loại đám cháy lớn, phúc tạp và trong thời gian dài. Tùy từng hoàn
cảnh cụ thể của đám cháy mà chỉ huy chữa cháy có thể huy động các loại xe, số
lượng xe sao cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu hiệu quả cao nhất.
Việc trang bị đầy đủ hay không đầy đủ, hiện đại hay lạc hậu các phương tiện
kỹ thuật, máy móc đó cũng tác động đến tâm lý các chiến sĩ khi tham gia CC và
CNCH. Nếu trang thiết bị, phương tiện, kỹ thuật máy móc hiện đại sẽ tạo cho các
chiến sĩ sự tự tin trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Nếu trang thiết bị,
phương tiện kỹ thuật lạc hậu, nó cũng tạo tâm lý e dè và sự nghi ngờ về tính hiệu
quả của các chiến sĩ đối với các trang thiết bị, phương tiện, kỹ thuật đó.
c. Chỉ huy
Người chỉ huy có vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giải
quyết các THKC trong CC và CNCH. Người chỉ huy là người trực tiếp hoặc thông
qua ban tham mưu chữa cháy để chỉ huy, điều hành các lực lượng, phương tiện
71
tham gia chữa cháy.
Chỉ huy là người xác định các trình tự, các biện pháp triển khai hoạt động chữa
cháy, cứu người bị nạn, cứu tài sản và dập tắt đám cháy, là người phân chia khu vực
chữa cháy và chỉ định chỉ huy từng khu vực chữa cháy, báo cáo lãnh đạo cấp trên về diễn
biến, tình hình xảy ra tại hiện trường. Tổ chức các biện pháp đảm bảo an toàn cho lực
lượng, phương tiện tham gia chữa cháy, đảm bảo các nguồn lực hỗ trợ và phối hợp với
các lực lượng khác giải quyết tình huống nhanh nhất, hiệu quả nhất [Xtôliarencô, 1980].
Như vậy, vai trò của chỉ huy tại hiện trường rất quan trọng. Việc ra quyết
định kịp thời, dứt khoát thể hiện năng lực lãnh đạo của người chỉ huy. Bên cạnh đó
là việc sử dụng con người, bố trí các chiến sĩ đúng việc, đúng chỗ và chỉ huy, điều
phối hoạt động giữa các nhóm, các tiểu đội trong chiến đấu một cách hợp lý hay
không ảnh hưởng rất nhiều đến việc giải quyết các THKC.
2.5.2. Nhóm yếu tố chủ quan
a. Khả năng kiểm soát cảm xúc
Khả năng kiểm soát cảm xúc là khả năng nhận thức tốt cảm xúc của bản thân
và người khác, qua đó điều chỉnh cảm xúc của mình để ứng xử hiệu quả. Khả năng
kiểm soát cảm xúc có vai trò rất quan trọng đến sự thích ứng của cá nhân trong môi
trường sống mới, nó là yếu tố thúc đẩy hoạt động, tạo điều kiện tốt để cá nhân đạt
hiệu quả trong hoạt động giúp cho cá nhân điều chỉnh, cân bằng được cảm xúc của
bản thân, đem đến sự hài lòng cho họ [Xtôliarencô, 1980].
Trong quá trình thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH, sự thay đổi cảm xúc của các chiến sĩ diễn ra rất phức tạp, chi phối mạnh mẽ
đến hiệu quả hoạt động chiến đấu. Nếu các chiến sĩ không kiểm soát tốt cảm xúc của
bản thân thì dẫn đến hiệu quả thực hiện hoạt động chiến đấu sẽ không cao. Khả năng
kiểm soát cảm xúc là một trong những yếu tố rất quan trọng giúp các chiến cân bằng
được cảm xúc của mình, bình tĩnh giải quyết nhiệm vụ, tự tin trong từng thao tác chiến
đấu và kiềm chế sự sợ hãi trong giải quyết nhiệm vụ, tạo dựng mối quan hệ tích cực với
đồng đội, với người bị nạn và người dân tại hiện trường xảy ra [Lucốp, 1963].
b. Kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp
Kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp là một phần trong quá trình tích lũy và
72
hoàn thiện kỹ năng, nghiệp vụ. Kinh nghiệm chỉ có được khi cá nhân đó trực tiếp
tham gia vào những hoạt động nghề nghiệp, có sự nhận thức và trải nghiệm trong
thực tế và trở thành những kiến thức vô cùng quý báu của riêng mình. Việc tích lũy
kinh nghiệm nghề nghiệp của các chiến sĩ không phải là công việc ngày một ngày hai
mà nó là cả một quá trình các chiến sĩ học tập chiến thuật, huấn luyện nghiệp vụ, khổ
luyện thao trường và những trận chiến ác liệt với giặc lửa giúp các chiến sĩ dày dặn
kinh nghiệm. Sự trải nghiệm trực tiếp chiến đấu giúp các chiến sĩ một mặt khẳng định
mình, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, mặt khác, tạo tâm lý tự tin, độc lập,
thích ứng tốt với việc giải quyết các THKC trong quá trình CC và CNCH.
c. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
Trong thực tế, kỹ thuật cá nhân và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các
chiến sỹ chữa cháy và cứu nạn cứu hộ đóng vai trò quyết định đến hiệu quả công
việc. Hiện nay, phần lớn các chiến sĩ được đào tạo bài bản về nghiệp vụ tại trường
và được bồi dưỡng, huấn luyện kỹ càng tại đơn vị chiến đấu. Một chiến sỹ, nếu
được đào tạo chuyên nghiệp, có chuyên môn sâu theo từng vị trí đảm nhận sẽ dễ
dàng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên
môn về CC và CNCH, các chuyên môn về tự động và phương tiện kỹ thuật PCCC
và CNCH cho cán bộ, chiến sỹ nhằm hình thành niềm tin, chỗ dựa tâm lý vững chắc
cho đồng đội và cho chính bản thân chiến sỹ đó. Việc thường xuyên học tập nâng
cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn và kỹ thuật cá nhân sẽ giúp họ thích ứng nhanh
với THKC và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao [Lucốp, 1963].
Bên cạnh kiến thức chuyên môn nghiệp vụ sâu, lực lượng chữa cháy và cứu
nạn cứu hộ chuyên nghiệp cần phải có hiểu biết nhiều lĩnh vực khác, cả lĩnh vực kỹ
thuật và lĩnh vực xã hội vì hoạt động CC và CNCH có liên quan đến nhiều chất
cháy nổ khác nhau và có thể tác động đến xã hội trên một phạm vi rộng lớn với
nhiều mặt khác nhau. Do đó, những hiểu biết về kiến thức liên ngành sẽ giúp các
chiến sĩ lựa chọn phương pháp và cách thức chữa cháy tốt nhất, nhanh nhất và giảm
thiểu tối đa thiệt hại về người và của; đầu óc tinh thông, biết phối hợp và khai thác
kiến thức của các lĩnh vực khoa học đó vào việc chiến đấu là yêu cầu quan trọng đối
73
với các chiến sĩ trong việc thực hiện công việc được giao.
Tiểu kết chƣơng 2
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu của tác giả trong và ngoài nước,
trong luận án này chúng tôi quan niệm: Thích ứng là quá trình thay đổi nhận thức,
thái độ và hành động của con người nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của môi trường
mới để đạt được mục đích đề ra. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn
cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ là quá trình thay đổi
nhận thức, thái độ, hành động của các chiến sĩ nhằm đưa ra quyết định nhanh
chóng, kịp thời, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của tình huống cháy nổ, nhằm ngăn
chặn, khống chế các biến cố nghiêm trọng, bất thường, đột xuất có thể đưa đến hậu
quả nặng nề cho cá nhân và xã hội mà vẫn đảm bảo được sự ổn định tâm lý, tinh
thần của họ sau sự kiện.
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH được
thể hiện ở 03 mặt: nhận thức, thái độ, hành động. Nhận thức được bản chất của THKC;
cách thức giải quyết THKC; quy trình giải quyết các THKC. Thái độ của thích ứng với
việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH thể hiện ở tính tích cực, chủ
động, sẵn sàng nhận nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ, sự bình tĩnh, tự tin, kiên
quyết thực hiện nhiệm vụ đến cùng của các chiến sĩ trong việc giải quyết các THKC.
Hành động thích ứng với việc giải quyết các THKC của các chiến sĩ thể hiện ở các
hành động sau: nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ; phối hợp chiến đấu với đồng đội và các
kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc.Thích ứng với việc giải quyết các
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH còn được thể hiện qua một số biểu hiện tâm lý và
cách ứng phó thường gặp ở các chiến sĩ trong quá trình chiến đấu.
Nghiên cứu thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH không tách rời việc nghiên cứu các yếu tố khách quan và chủ quan tác động
tới biểu hiện và mức độ thích ứng. Các yếu tố đó là:yếu tố khách quan (môi trường;
trang thiết bị, phương tiện, máy móc và chỉ huy) và yếu tố chủ quan (khả năng kiểm
soát cảm xúc; kinh nghiệm chiến đấu và trình độ chuyên môn nghiệp vụ)… kết quả
nghiên cứu lý luận sẽ giúp chúng tôi định hướng phương pháp và những nội dung
74
nghiên cứu thực tiễn.
Chƣơng 3
TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu
3.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 4 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc. Đây là các địa bàn trọng điểm về
kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, cũng là nơi thường xuyên xảy ra các vụ cháy nổ,
lực lượng PCCC được tổ chức chuyên nghiệp, thường xuyên và đã trực tiếp tham
gia chữa cháy nhiều vụ cháy nổ lớn. Đây là các tỉnh, thành phố trọng điểm về kinh
tế, tập trung dân số đông, nhiều khu công nghiệp, khu đô thị, nhà cao tầng và siêu
cao tầng, các trung tâm thương mại, khu vui chơi, giải trí đông đúc, cảng biển, hầm
lò … đây cũng là những đầu tàu kinh tế của vùng nói riêng và cả nước nói chung.
a. Phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, thuộc Công an
thành phố Hà Nội
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là thành phố lớn nhất Việt Nam về diện tích với 3.328,9 km2, đứng thứ hai về dân số
với 7.654.800 người (năm 2017). Hà Nội còn là trung tâm kinh tế lớn nhất miền
Bắc với nhiều khu công nghiệp lớn, trung tâm thương mại, rạp chiếu phim, nhà hát,
khu đô thị lớn. Đây cũng là trung tâm giáo dục lớn, tập trung nhiều trường đại học,
cao đẳng trên cả nước…
Theo thống kê của Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, từ
năm 2014 đến 2018, Hà Nội là một trong những địa phương có số vụ cháy nổ xảy ra
nhiều nhất, gây thương vong và thiệt hại lớn với 2.733 vụ cháy, làm chết 77 người, bị
thương 88 người và gây thiệt hại về kinh tế 1.061 tỉ đồng. Đặc biệt, có nhiều vụ cháy
gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản như: vụ cháy chung cư Xa La làm hơn
200 ô tô, xe máy bị cháy rụi (2015); vụ cháy quán karaoke trên phố Trần Thái Tông
làm 13 người chết (2016); vụ cháy nhà xưởng ven đường quốc lộ 32 làm 8 người chết
(2017); cháy chợ Quang (2018)… Điều đó đặt ra nhiều vấn đề về công tác đảm bảo an
75
toàn PCCC và CNCH trên địa bàn thủ đô Hà Nội.
Phòng Cảnh sát PCCC và CNCH hiện có 1.916 cán bộ, chiến sỹ với 13 đội
nghiệp vụ (năm 2018). Trong những năm qua, phòng cảnh sát PCCC và CNCH đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, thay đổi toàn diện về mọi mặt. Cán bộ, chiến sĩ không
ngừng học tập, rèn luyện nâng cao năng lực chiến đấu, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
kỹ năng nghề nghiệp, làm chủ phương tiện kỹ thuật chữa cháy và cứu nạn cứu hộ hiện
đại, đảm bảo an toàn cho các khu dân cư, khu đô thị, khu công nghiệp, trung tâm
thương mại… góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển của Thủ đô.
b. Phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, Công an thành
phố Hải Phòng
Hải Phòng là thành phố công nghiệp trọng điểm trong vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ. Kinh tế của Hải Phòng trong những năm qua phát triển theo hướng đa
dạng ngành nghề, nhất là các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; da giày,
dệt may; công nghiệp sửa chữa và đóng tàu; công nghiệp ô tô; phụ trợ; du lịch, dịch
vụ; dịch vụ cảng biển; kinh doanh, trung chuyển xăng dầu, khí dầu mỏ hoá lỏng...
đây là những ngành nghề tiềm ẩn nguy cơ cháy, nổ cao.
Năm 2018, thành phố Hải Phòng có 9407 cơ sở thuộc diện quản lý Nhà nước
về PCCC theo quy định tại Phụ lục I, Nghị định số 79/2014/NĐ-CP ngày 31/7/2014;
3145 cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ thuộc Phụ lục II, Nghị định số 79/2014/NĐ-CP
ngày 31/7/2014; có 09 khu công nghiệp, 04 cụm công nghiệp, 01 khu đô thị công
nghiệp, 1410 tổ dân phố, trong đó có 08 tổ dân phố có nguy cơ cháy nổ cao.
Trong thời gian qua, các lực lượng trong đó Cảnh sát PCCC và CNCH thành phố
là chủ công đã tổ chức chữa cháy, CNCH kịp thời, hiệu quả các vụ cháy, nổ, tai nạn xảy
ra trên địa bàn, hạn chế mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản. Từ năm 2014 – đến
2018, trên địa bàn thành phố Hải Phòng xảy ra 355 vụ cháy, làm chết 17 người, bị
thương 44 người và gây thiệt hại về kinh tế 223 tỉ đồng và 96,956 ha rừng (ngoài ra còn
hơn 1000 sự cố cháy nhỏ được các lực lượng dập tắt kịp thời, thiệt hại không đáng kể,
thuộc diện thống kê theo dõi). Các lực lượng chữa cháy đã trực tiếp cứu, hướng dẫn hàng
trăm người thoát nạn an toàn, bảo vệ tài sản trị giá hàng ngàn tỷ đồng.
Mặc dù, chỉ được trang bị 55 phương tiện chuyên dụng phục vụ CC và CNCH
76
(gồm 36 xe chữa cháy, 02 xe CNCH, 05 xe thang, 01 tàu, 09 xuồng, 02 môtô chữa cháy)
quản lý trên một địa bàn rộng lớn, trong đó có 34 phương tiện hoạt động bình thường,
các phương tiện còn lại (đa số là xe chữa cháy) đã quá cũ (hoạt động trên 30 năm). Tuy
nhiên, Công tác thường trực sẵn sàng chiến đấu của Cảnh sát PCCC và CNCH thành phố
được duy trì nghiêm túc, luôn đảm bảo lực lượng, phương tiện thường, ứng trực 24/24h,
đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, tiếp nhận và xử lý tin báo cháy, nổ, CNCH chính
xác, tổ chức chữa cháy, CNCH kịp thời, hiệu quả. Qua thực tiễn chiến đấu, cảnh sát
PCCC và CNCH đã có những bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện về mọi mặt, làm chủ
phương tiện kỹ thuật CC và CNCH hiện đại, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây
dựng và phát triển thành phố cảng quan trọng bậc nhất cả nước.
c. Phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, Công an tỉnh
Quảng Ninh
Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, có diện tích
6.102,4 km², dân số 1.162.600 (năm 2017). Trong quy hoạch phát triển kinh tế,
Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc vừa thuộc vùng duyên hải
Bắc Bộ. Quảng Ninh là tỉnh có nhiều đô thị nhất Việt Nam với 4 thành phố Hạ
Long, Móng Cái, Uông Bí, Cẩm Phả và 1 thị xã Quảng Yên.
Quảng Ninh hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội quan
trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là một tỉnh có nguồn tài
nguyên khoáng sản, với di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long 2 lần được Tổ chức
UNESCO tôn vinh. Quảng Ninh được xác định là 1 điểm của vành đai kinh tế Vịnh Bắc
Bộ, là cửa ngõ quan trọng của hành lang kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Có
hệ thống cảng biển, cảng nước sâu có năng lực bốc xếp cho tàu hàng vạn tấn,… tạo ra
nhiều thuận lợi cho ngành vận tải đường biển giữa nước ta với các nước trên thế giới.
Quảng Ninh có hệ thống cửa khẩu phân bố trên dọc tuyến biên giới, đặc biệt cửa khẩu
quốc tế Móng Cái là nơi hội tụ giao lưu thương mại, du lịch, dịch vụ và thu hút các nhà
đầu tư; Là cửa ngõ giao dịch xuất nhập khẩu với Trung Quốc và các nước trong khu vực.
Trong thời gian qua, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh đã có
những bước phát triển vượt bậc, tốc độ đô thị hóa nhanh, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài đạt kỷ lục, Quảng Ninh tiếp tục là điểm đến yêu thích của khách du lịch trong
77
và ngoài nước. Quảng Ninh cũng là nơi tập trung nhiều hầm lò, chiếm tới 90% sản
lượng khai thác than của Việt Nam. Quảng Ninh cũng là nơi tập trung nhiều khu
công nghiệp lớn như: Khu công nghiệp Cái Lân, Việt Hưng, Hải Yên, Đông Mai,
Hoành Bồ, Phương Nam, khu công nghiệp – Cảng biển Hải Hà... điều đó đã đặt ra
nhiều yêu cầu mới trong công tác PCCC và CNCH.
Theo Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, từ năm 2014 –
đến 2018, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã xảy ra 263 vụ cháy, làm chết 01 người, bị
thương 11 người và gây thiệt hại về kinh tế 442,249 tỉ đồng.
Phát huy những kết quả, thành tích đã đạt được, cán bộ, chiến sĩ phòng cảnh
sát PCCC và CNCH luôn nêu cao tinh thần, trách nhiệm, chủ động trong công tác,
trau dồi trình độ chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, khắc
phục những tồn tại, khó khăn, tiếp tục thực hiện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác
trong tình hình mới, góp phần xứng đáng vào giữ vững an ninh trật tự, xây dựng tỉnh
Quảng Ninh cơ bản trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp, trung tâm du lịch tầm cỡ quốc
tế, một trong những đầu tàu kinh tế của miền Bắc và cả nước vào năm 2020.
d. Phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, Công an tỉnh
Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa ngõ của Thủ
đô, gần sân bay Quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa các tỉnh phía Tây Bắc với Hà Nội
và đồng bằng châu thổ sông Hồng, do vậy Vĩnh Phúc có vai trò rất quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế khu vực và quốc gia, được thủ tướng chính phủ phê
duyệt xây dựng 20 khu công nghiệp. Và 41 cụm công nghiệp trong đề án quy hoạch
phát triển ngành công nghiệp Vĩnh Phúc đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Từ một tỉnh chỉ có 1 khu công nghiệp, đến nay Vĩnh Phúc đã có gần 20 khu công
nghiệp với quy mô hơn 8.000 ha, trong đó có nhiều tập đoàn lớn đã đến đầu tư tại
tỉnh. Là một tỉnh tập trung nhiều nhà máy sản xuất, các khu công nghiệp nên công tác
an toàn về PCCC và CNCH luôn được các cấp lãnh đạo trong tỉnh quan tâm.
Công tác thường trực chiến đấu của lực lượng Cảnh sát PCCC luôn sẵn sàng từ
khâu tiếp nhận và xử lý thông tin báo cháy, nổ, sự cố, tai nạn; duy trì đảm bảo lực
lượng, phương tiện thường trực sẵn sàng xử lý các tình huống cháy, nổ, sự cố, tai
78
nạn xảy ra. Thường xuyên kiểm kê, kiểm tra các dụng cụ, phương tiện chữa cháy,
CNCH. Khảo sát giao thông, nguồn nước, các phương tiện cần huy động ở các cơ
quan, đơn vị, cơ sở trên từng địa bàn phục vụ công tác sẵn sàng chữa cháy, CNCH
Theo Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, từ năm 2014 –
đến 2018, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã xảy ra 139 vụ cháy, làm chết 02 người, bị
thương 20 người và gây thiệt hại về kinh tế 465,681 tỉ đồng.
Mặc dù, được trang bị 35 phương tiện chuyên dụng phục vụ CC và CNCH
(gồm 23 xe chữa cháy, 07 xe CNCH, 02 xe thang, 01 tàu, 02 môtô chữa cháy), trong
đó có 27 phương tiện hoạt động bình thường, các phương tiện còn lại (đa số là xe
chữa cháy) đã quá cũ (hoạt động trên 20 năm).
Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, lực lượng Cảnh sát
PCCC và CNCH ngày càng trưởng thành, lớn mạnh và từng bước tiến lên chính
quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng ngày một tốt hơn, phù hợp với đặc thù, tính chất
nhiệm vụ bảo vệ thành quả kinh tế trong tình hình mới.
3.1.2. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
STT Loại khách thể Số lƣợng Tỉ lệ (%)
Hà Nội 100 25,2
Hải Phòng 98 24,8
1 Quảng Ninh 100 25,2 Địa bàn Vĩnh Phúc 98 24,8
Giới tính Nam 2 396 100
Dưới 3 năm 39 9,8
Từ 3 năm đến 5 năm 81 20,5 3 Thâm niên công tác Từ 5 năm đến 10 năm 191 48,2
Từ 10 năm trở lên 85 21,5
Tốt nghiệp THPT 44 11,4
4 Trình độ học vấn Trung cấp PCCC 215 54,3
Đại học PCCC 135 34,1
79
Chưa kết hôn 166 41,9 5 Tình trạng hôn nhân Đã kết hôn 230 58,1
Nghiên cứu thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH được tiến hành trên tổng số 396 khách thể, trong đó chúng tôi lựa chọn theo
các tiêu chí thuận lợi. Nhờ sự giúp đỡ của các phòng cảnh sát PCCC và CNCH,
công an các quận, huyện, thành phố trên địa bàn nghiên cứu giới thiệu xuống các
đội nghiệp vụ để tiến hành nghiên cứu.
Về giới tính: Do đặc thù là đơn vị trực tiếp chiến đấu, tính chất trực chiến
24/24 giờ không kể ngày đêm, điều kiện thời tiết, môi trường chiến đấu nên trong
nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn khách thể 100% là nam giới.
Về thâm niên công tác: Chúng tôi phân chia làm 4 nhóm là: dưới 3 năm công
tác có 39 người chiếm 9,8%; từ 3 năm đến 5 năm có 81 người, chiếm 20,5%; từ 5
năm đến 10 năm có 191 người, chiếm 48,2% và từ 10 trở lên có 85 người, chiếm
21,5%. Bởi vì, những chiến sĩ dưới 3 năm thân niên công tác phần lớn là những
chiến sĩ mới tốt nghiệp ra trường được phân công về các đơn vị, lính nghĩa vụ,
chiến sĩ tuyển từ ngành ngoài vào công tác hoặc chuyển đơn vị công tác từ công an
các đơn vị khác sang. Các chiến sĩ có từ 3 năm đến 5 năm công tác là những chiến
sĩ đã có những thử thách chiến đấu trực tiếp. Các chiến sĩ có thâm niên công tác từ 5
năm đến 10 năm là những chiến sĩ có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, chiến sĩ từ 10
năm công tác trở lên là những chiến sĩ dày dặn kinh nghiệm chiến đấu. Do vậy, việc
phân chia khách thể nghiên cứu đó sẽ bao quát hơn và phản ánh được đầy đủ hơn,
toàn diện hơn.
Về trình độ đào tạo: Chúng tôi chia trình độ học vấn làm ba mức trình độ học
vấn đó là: tốt nghiệp THPT có 44 người, chiếm 11,4%; trung cấp PCCC có 215
người, chiếm 54,3% và đại học PCCC có 135 người, chiếm 34,1%. Việc phân chia
này hoàn toàn dựa vào thực tế trình độ được đào tạo của các chiến sĩ hiện nay.
Về tình trạng hôn nhân: Các chiến sĩ được phân chia theo hai loại khách thể
là đã kết hôn có 166 người, chiếm 41,9% và chưa kết hôn có 230 người, chiếm
58,1%. Mục đích của việc chia này nhằm so sánh tương quan thích ứng giữa các
chiến sĩ đã kết hôn và các chiến sĩ chưa kết hôn để tìm hiểu sự khác biệt giữa hai
80
nhóm khách thể này.
Với đặc điểm khách thể như trên thì kết quả nghiên cứu từ 396 chiến sĩ sẽ có
khả năng đại diện cho thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC
và CNCH, sẽ khách quan, trung thực và tin cậy.
3.2. Tổ chức và phƣơng pháp nghiên cứu lý luận
Căn cứ mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án và để giải quyết một
cách khách quan, khoa học để có được kết quả nghiên cứu trung thực, tin cậy, quá
trình tổ chức nghiên cứu được tiến hành theo 2 giai đoạn: nghiên cứu lý luận,
nghiên cứu thực tiễn.
3.2.1. Tiến trình nghiên cứu lý luận
- Từ tháng 5/2016 đến tháng 10/2017: Thu thập, đọc, phân tích tài liệu liên
quan đến thích ứng, THKC, thích ứng với việc giải quyết các THKC, thích ứng với
việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
- Từ tháng 11 đến tháng 4/2018: Lấy ý kiến chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý
học, lĩnh vực PCCC và CNCH và các lĩnh vực liên quan đến thích ứng với việc giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
3.2.2. Mục đích nghiên cứu lý luận
Tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước về vấn đề có liên quan
đến thích ứng, thích ứng với việc giải quyết các THKC để xây dựng cơ sở lý luận
cho đề tài. Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản liên quan tới đề tài và xác định các
khái niệm công cụ của đề tài: thích ứng, thích ứng với việc giải quyết các THKC,
nhận thức của cảnh sát PCCC và CNCH về THKC, thái độ của cảnh sát PCCC và
CNCH với THKC, hành động của cảnh sát PCCC và CNCH với THKC. Phân tích
các yếu tố tác động đến thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC
và CNCH.
Xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu, từ đó xác lập quan điểm
chỉ đạo nghiên cứu thực trạng thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH.
3.2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận
- Phân tích, tổng hợp những công trình nghiên cứu của các tác giả trong và
81
ngoài nước về thích ứng, thích ứng với việc giải quyết các THKC dưới góc độ lý
luận, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại ở các công trình nghiên cứu đó để tiếp tục
nghiên cứu.
- Hệ thống các văn bản của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Bộ Công an quy
định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH.
- Xác định các khái niệm công cụ và các vấn đề có liên quan đến nghiên cứu.
- Xác định nội dung nghiên cứu thực tiễn dựa vào kết quả tổng hợp của phần
lý thuyết, xác định các yếu tố cần khảo sát, nghiên cứu trong thực tiễn là:
+ Xác định các mặt biểu hiện và tiêu chí đánh giá thích ứng với việc giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH gồm: thích ứng với việc giải quyết
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện qua nhận thức (nhận thức về bản
chất, tầm quan trọng của việc giải quyết các THKC và quy trình xử lý THKC); thích
ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện qua thái
độ (thái độ chủ động, thái độ tích cực, bình tĩnh, tự tin và cương quyết); thích ứng
với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện qua hành
động (thực hiện nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ; phối hợp hành động với đồng đội;
kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc).
+ Tìm hiểu một số vấn đề sức khỏe về thể chất, tinh thần của các chiến sĩ
trong và sau quá trình giải quyết các THKC.
+ Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng với việc giải quyết các
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
3.2.4. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phân tích tài liệu, văn bản: Nghiên cứu các tài liệu, luận án, tạp chí, công
trình nghiên cứu về tâm lý học, tâm lý giáo dục, các sách chuyên khảo, trang web,
tài liệu chuyên ngành về PCCC và CNCH, thích ứng, thích với việc giải quyết các
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH... một cách hệ thống, theo trình tự thời gian và
vấn đề nghiên cứu liên quan đến nội dung của luận án.
- Sử dụng các thao tác tổng hợp, phân tích: phân tích các tài liệu nhằm làm rõ
quan điểm về thích ứng, thích ứng với việc giải quyết các THKC, các hướng nghiên
cứu về thích ứng, khái niệm và bản chất, cấu trúc của thích ứng. Từ đó, tổng hợp
82
những nhận định, nội dung khoa học phục vụ cho việc nghiên cứu luận án.
- Thao tác so sánh: dùng trong việc đối chiếu các quan điểm khác nhau về
thích ứng, cấu trúc, các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng của con người, qua đó, kế
thừa và vận dụng vào nghiên cứu thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh
sát PCCC và CNCH.
- Thao tác trừu tượng hóa, khái quát hóa: nhằm rút ra những nhận thức chung
về khái niệm thích ứng, cấu trúc, bản chất của thích ứng, thích ứng với việc giải
quyết các THKC. Qua đó, xây dựng khung lý thuyết về thích ứng với việc giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
3.2.5. Cách thức tiến hành
Trước hết, thu thập tài liệu, văn bản của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Bộ
Công an về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng cảnh sát PCCC và
CNCH. Thu thập thông tin từ các, công trình nghiên cứu có liên quan đến thích ứng,
thích ứng với việc giải quyết các THKC. Việc thu thập tài liệu thông qua các thư
viện: Đại học Phòng cháy chữa cháy; Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng; Đại học
Sư phạm Hà Nội; Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Học viện Khoa học Xã
hội Việt Nam; Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam; Viện Tâm lý học; Viện
Nghiên cứu chiến lược Bộ Công an, Thư viện Quốc gia... Các tài liệu từ các cơ quan
cảnh sát PCCC và CNCH, từ các địa bàn nghiên cứu.
Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, tiến hành đọc, nghiên cứu nhằm làm rõ
tính cấp thiết của đề tài luận án; nghiên cứu tài liệu, công trình nghiên cứu để phân
tích, so sánh, khái quát hóa những ưu điểm và hạn chế của các tài liệu đó. Từ đó,
xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
3.3. Tổ chức và phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
3.3.1. Tiến trình nghiên cứu thực tiễn
Tiến trình nghiên cứu thực tiễn gồm 2 giai đoạn: (1) Thiết kế bảng hỏi và
khảo sát thực tiễn; (2) Xử lý dữ liệu và phân tích kết quả thu được.
* Giai đoạn 1- Thiết kế bảng hỏi và khảo sát thực tiễn.
- Từ tháng 4/2018 đến tháng 6/2018: Thiết kế bảng hỏi, điều tra thử nhằm
xác định tính hiệu lực của chúng.
83
- Từ tháng 7 đến tháng 8/2018: Tổ chức điều tra chính thức khách thể nghiên cứu.
- Từ tháng 8 đến tháng 9/2018: Phỏng vấn sâu một số trường hợp để thu thập
thông tin định tính.
* Giai đoạn 2- Xử lý dữ liệu và phân tích kết quả thu được.
- Từ tháng 10/2018 đến tháng 3/2019: Tiến hành xử lý dữ liệu và phân tích
kết quả thu được từ khảo sát thực tiễn.
3.3.2. Mục đích nghiên cứu thực tiễn
Nhằm tìm hiểu, thu thập dữ liệu để làm rõ thực trạng thích ứng với việc giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH; làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến
thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
3.3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn
- Nghiên cứu thực trạng thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH thông qua 3 mặt biểu hiện: nhận thức, thái độ và hành động.
- Nghiên cứu sự khác biệt về thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH với các biến số: trình độ đào tạo, cấp bậc hàm, thâm niên
công tác và khu vực công tác..
- Nghiên cứu các biểu hiện tâm lý trong quá trình giải quyết THKC và cách
ứng phó thường gặp sau ở các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH sau khi giải quyết
các THKC.
- Làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng với việc giải quyết các THKC
của cảnh sát PCCC và CNCH.
- Phân tích chân dung nhân cách 02 chiến sĩ tiêu biểu trong đó: 01 chiến sĩ có
thích ứng với việc giải quyết các THKC tốt và 01 chiến sĩ thích ứng với việc giải
quyết các THKC ở mức chưa tốt.
3.3.4. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
a. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đây là phương pháp chính của luận án nhằm đánh giá thực trạng của vấn đề
nghiên cứu.
- Mục đích: Nghiên cứu thực trạng biểu hiện và mức độ thích ứng với việc
giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH và các yếu tố ảnh hưởng đến
84
thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
- Quá trình thực hiện: Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được thực hiện
trong hai giai đoạn, giai đoạn thiết kế bảng hỏi và giai đoạn điều tra chính thức.
Giai đoạn 1: Thiết kế bảng hỏi, gồm 2 bước: Thu thập ý kiến và khảo sát thử.
Bước 1: Thu thập ý kiến, thiết kế bảng hỏi.
* Mục đích: phát hiện vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở đó hình thành giả thuyết
khoa học; xây dựng hệ thống phương pháp nghiên cứu; xác định độ tin cậy của bộ
công cụ điều tra khảo sát.
* Những cơ sở để thiết kế bảng hỏi: Thông tin sử dụng để xây dựng bảng hỏi
được chúng tôi tổng hợp từ ba nguồn cơ bản: Thứ nhất, đọc, phân tích tài liệu có nội
dung liên quan đến thích ứng, THKC, thích ứng với việc giải quyết các THKC nói
chung và thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH nói
riêng… từ các nguồn tài liệu trong và ngoài nước. Thứ hai, trao đổi ý kiến với các
chuyên gia tâm lý học về thích ứng, THKC, thích ứng với việc giải quyết các
THKC nói chung và thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH nói riêng. Thứ ba, tổ chức trao đổi với các cán bộ, chiến sỹ, lãnh đạo, chỉ
huy nhằm mục đích tìm hiểu những thông tin từ thực tiễn để giúp chúng tôi củng cố
những nhận định và những nội dung liên quan đến vấn đề cần khảo sát.
* Xây dựng bảng hỏi: Bằng phương pháp chuyên gia và phương pháp phân
tích hồ sơ, tài liệu; đối chiếu với nội dung nghiên cứu lý luận, thông qua ba mặt
biểu hiện của thích ứng với việc giải quyết các THKC, các biểu hiện tâm lý và cách
ứng phó sau khi giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH chúng tôi thiết
kế các câu hỏi của bảng hỏi.
Để thiết kế các câu hỏi đáp ứng được yêu cầu của đề tài đặt ra, phù hợp với
mục đích nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành phân tích kết quả, trưng cầu ý kiến của
các chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý học, lĩnh vực PCCC và CNCH, các lãnh đạo,
chỉ huy, chiến sĩ ở trường, địa phương. Khảo sát thăm dò 30 chiến sĩ làm công tác
CC và CNCH tại Công an thành Phố Hà Nội, Vĩnh Phúc.
Việc thăm dò ý kiến được tiến hành bằng hệ thống các câu hỏi mở về một số
vấn đề nhận thức của cảnh sát PCCC và CNCH trong việc giải quyết các THKC,
85
thái độ của cảnh sát PCCC và CNCH trong việc giải quyết các THKC, hành động
của cảnh sát PCCC và CNCH trong việc giải quyết các THKC, các biểu hiện tâm lý
trong quá trình giải quyết THKC và cách ứng phó sau khi giải quyết các THKC, các
yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC
và CNCH.
Tổng hợp kết quả nghiên cứu tài liệu, kết quả thăm dò qua các câu hỏi mở,
kết quả phỏng vấn sâu, chúng tôi xây dựng các mệnh đề cho từng mặt biểu hiện của
thích ứng là nhận thức, thái độ và hành động; các biểu hiện tâm lý trong quá trình
giải quyết và cách ứng phó sau khi giải quyết các THKC, cũng như các yếu tố ảnh
hưởng đến thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH
trong bảng hỏi để tiến hành khảo sát.
Nội dung câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với trình độ của các chiến sĩ
cảnh sát PCCC và CNCH.
Bảng câu hỏi được thiết kế phải cho phép đo được thực trạng thích ứng với
việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH cũng như các nguyên nhân
dẫn đến thực trạng đó.
Trên cơ sở tổng hợp các ý kiến, chúng tôi tiến hành thiết kế bảng hỏi bằng
các câu hỏi đóng và câu hỏi mở dành cho các cán bộ, chiến sĩ.
- Câu hỏi đóng, chúng tôi sử dụng thang đo có 5 lựa chọn do những ưu điểm sau:
Thứ nhất: Về mặt lý thuyết cho thấy, thang 5 khoảng – 5 lựa chọn đảm bảo
cho khách thể có sự lựa chọn mức độ phù hợp với suy nghĩ của mình nhất.
Thứ hai: chính vì có nhiều lựa chọn phù hợp với suy nghĩ của khách thể, do
đó cho phép chúng tôi có thể thu thập được dữ liệu sát với mục tiêu và nhiệm vụ
nghiên cứu.
Thứ ba: Kết quả thu được thuận lợi trong việc xác định mức độ biểu hiện
thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
- Câu hỏi mở nhằm tạo điều kiện cho khách thể tự viết câu trả lời theo suy
nghĩ của mình, thông qua đó chúng tôi có thể khai thác mở rộng những vấn đề
nghiên cứu, đồng thời có thể xem xét thái độ cũng như quan điểm của họ.
Sau khi xây dựng bảng hỏi, chúng tôi tiếp tục xin ý kiến chuyên gia để hoàn
86
thiện bảng hỏi.
Nội dung cụ thể các bảng hỏi được xây dựng như sau:
Bảng hỏi: Trưng cầu ý kiến của chiến sĩ chữa cháy và cứu nạn cứu hộ: Khảo
sát thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH thông qua
các mặt biểu hiện về nhận thức; thái độ; hành động; các biểu hiện tâm lý trong quá
trình giải quyết và cách thức ứng phó sau khi giải quyết các THKC; tác động của
các yếu tố đến thích ứng với việc giải quyết các THKC.
Phần 1: Tìm hiểu thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH biểu hiện qua mặt nhận thức.
Câu 1. Tìm hiểu nhận thức của các chiến sĩ về THKC. Câu này gồm 11 mệnh
đề (item), trong đó có 10 mệnh đề là câu hỏi đóng, 1 mệnh đề để mở - khách thể có
thể bổ sung những ý kiến của mình.
Phần 2: Tìm hiểu thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH biểu hiện qua mặt thái độ.
Câu 2. Tìm hiểu biểu hiện của các chiến sĩ trong việc giải quyết các THKC. Câu
này gồm 9 mệnh đề, trong đó có 8 mệnh đề là câu hỏi đóng, (1 mệnh đề để mở).
Phần 3: Tìm hiểu thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH biểu hiện qua mặt hành động.
Phần 3 được thể hiện ở 3 câu: từ câu 3 đến câu 5.
Câu 3. Tìm hiểu về hành động các chiến sĩ nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ
trong việc giải quyết các THKC. Câu này gồm 8 mệnh đề, trong đó có 7 mệnh đề là
câu hỏi đóng, (1 mệnh đề để mở).
Câu 4. Tìm hiểu hành động các chiến sĩ phối hợp chiến đấu với đồng đội
trong việc giải quyết các THKC. Câu này gồm 8 mệnh đề, trong đó có 1 mệnh đề là
câu hỏi đóng, (1 mệnh đề để mở).
Câu 5. Tìm hiểu hành động các chiến sĩ thực hiện các kỹ năng xử lý, sử
dụng trang thiết bị máy móc trong việc giải quyết các THKC. Câu này gồm 10
mệnh đề, trong đó có 9 mệnh đề là câu hỏi đóng, (1 mệnh đề để mở).
Phần 4: Tìm hiểu một số biểu hiện tâm lý trong và sau quá trình giải quyết
87
THKC và cách ứng phó của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH.
Phần 4 được thể hiện ở câu 6.1 và câu 6.2.
Câu 6.1. Tìm hiểu các biểu hiện tâm lý của chiến sĩ trong và sau quá trình
giải quyết các THKC. Câu này gồm 08 mệnh đề, trong đó có 7 mệnh đề là câu hỏi
đóng, (1 mệnh đề để mở).
Câu 6.2. Tìm hiểu cách ứng phó của chiến sĩ sau khi giải quyết các THKC. Câu
này gồm 7 mệnh đề, trong đó có 6 mệnh đề là câu hỏi đóng, (1 mệnh đề để mở).
Phần 5. Các yếu tố tác động đến thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH.
Phần 5 được thể hiện ở câu 7.
Phần 6: Tìm hiểu một số thông tin về cá nhân các chiến sĩ cảnh sát
PCCC và CNCH.
Bước 2 - Điều tra thử
Mục đích: Xác định độ tin cậy của bảng hỏi và chỉnh sửa những nội dung của
bảng hỏi cho phù hợp với yêu cầu nghiên cứu thực trạng.
* Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và phương
pháp thống kê toán học.
* Khách thể nghiên cứu: 30 chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH thuộc Công
an Hà Nội, Vĩnh Phúc.
* Cách thức xử lý số liệu: Sau khi số liệu được tập hợp, kết quả được xử lý
bằng phần mềm SPSS phiên bản 22.0. Chúng tôi sử dụng kỹ thuật thống kê là phân
tích độ tin cậy bằng phương pháp hệ số Alpha của Cronbach để xác định độ tin cậy
của các thang đo trong bảng hỏi (xem bảng 3.2).
* Nội dung nghiên cứu: Kết quả phân tích số liệu qua điều tra thử của các bảng
hỏi cho thấy có một số mệnh đề trong bảng hỏi cần được chỉnh sửa. Sau khi chỉnh sửa
độ tin cậy trong các bảng hỏi đã tăng lên. Nhìn khái quát, độ tin cậy và độ giá trị của
từng phần trong bảng hỏi cho phép chúng tôi sử dụng vào điều tra chính thức.
Kết quả tính độ tin cậy Alpha của Cronbach, hệ số tương quan biến – tổng và
phân tích nhân tố để xác định giá trị của các thang đo. Theo quy ước, thang đo có
chất lượng tốt có thể áp dụng nghiên cứu thực tiễn phải có hệ số Alpha của
88
Cronbach từ 0,60 trở lên, các items trong thang đo có nội dung phù hợp với miền đo
và có hệ số tương quan biến – tổng ở mức có thể chấp nhận được. Kết quả phân tích
độ tin cậy của các thang đo được tổng hợp dưới đây:
Bảng 3.2. Độ tin cậy các thang đo khảo sát thử
Thang đo/Câu
Đánh giá thang đo
Hệ số Alpha của Cronbach
Sự biến thiên của hệ số tƣơng quan biến – tổng
Sự biến thiên của hệ số Alpha của Cronbach sau khi loại Items
0,485
Từ 0,101 đến 0,684
Từ 0,248 đến 0,681
1. Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện qua mặt nhận thức (câu 1)
0,665
Từ 0,316 đến 0,688
Từ 0,608 đến 0,695
2. Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện qua mặt thái độ (câu 2)
0,624
3. Hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ (câu 3)
Từ 0,192 đến 0,621
Từ 0,319 đến 0,651
0,681
4. Hành động phối hợp chiến đấu với đồng đội (câu 4)
Từ 0,272 đến 0,680
Từ 0,453 đến 0,701
0,723
Từ 0,286 đến 0,723
Từ 0,611 đến 0,756
5. Hành động các kỹ năng xử lý, sử dụng trang thiết bị máy móc (câu 5)
0,797
Từ 0,478 đến 0,800
Từ 0,789 đến 0,812
6. Tìm hiểu một số biểu hiện tâm lý trong quá trình giải quyết các THKC ở chiến sĩ (câu 6.1)
0,773
Từ 0,389 đến 0,776
Từ 0,739 đến 0,791
7. Các biện pháp ứng phó sau khi giải quyết các THKC ở các chiến sĩ (câu 6.2)
Đạt yêu cầu nếu điều chỉnh cách diễn đạt của Items 1, 3,5, 10 Diễn đạt lại một số items cần chuẩn xác hơn để hệ số Alpha của Cronbach tăng lên Diễn đạt lại một số items cần chuẩn xác hơn để hệ số Alpha của Cronbach tăng lên Hệ số Alpha của Cronbach tăng lên 0,701 nếu điều chỉnh diễn đạt items số 7 Diễn đạt lại một số items cần chuẩn xác hơn để hệ số Alpha của Cronbach tăng lên Diễn đạt lại một số items cần chuẩn xác hơn để hệ số Alpha của Cronbach tăng lên Hệ số Alpha của Cronbach tăng lên 0,791 nếu điều chỉnh diễn đạt items số 3, 6
89
Giai đoạn 2: Điều tra chính thức
* Mục đích nghiên cứu: Khảo sát thực trạng các mặt biểu hiện của thích ứng
với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, các yếu tố ảnh hưởng
đến thích ứng với việc giải quyết các THKC. Nghiên cứu xác định các mối tương
quan giữa các mặt biểu hiện của thích ứng với việc giải quyết các THKC.
* Những nguyên tắc về điều tra: Phải đảm bảo số liệu thu được khách quan,
trung thực và đầy đủ về mặt nội dung. Cụ thể:
* Yêu cầu về mặt phương pháp:
- Các điều tra viên được tập huấn và thành thạo các kỹ năng điều tra.
- Trong quá trình điều tra, các điều tra viên phải phổ biến rõ các yêu cầu về
mặt nội dung cũng như thời gian thực hiện nghiên cứu.
+ Các yêu cầu được ghi rõ trong từng bảng hỏi (phụ lục 1).
+ Thời gian tiến hành điều tra áp dụng cho từng bảng hỏi sau: Đối với bảng
hỏi 1 (bảng hỏi dành cho cán bộ, chiến sĩ) thời gian trả lời tối đa là 30 phút (việc
xác định thời gian được tiến hành thông qua khảo sát thử).
- Mỗi khách thể trả lời một cách độc lập theo các yêu cầu được nêu trong
từng bảng hỏi.
* Yêu cầu về mặt nội dung: Phải đảm bảo trả lời đầy đủ những nội dung theo
yêu cầu được nêu trong các bảng hỏi (phụ lục 1).
* Nội dung nghiên cứu: Nội dung nghiên cứu theo các bảng hỏi đã được
hoàn thiện sau điều tra thử.
- Cách gán điểm và tính điểm số trong các bảng hỏi.
+ Cách gán điểm:
Bảng hỏi dành cho cán bộ, chiến sĩ: với thang đo 5 lựa chọn ở mỗi câu hỏi,
chúng tôi tiến hành gán điểm và tính điểm số cụ thể như sau: Hoàn toàn đồng ý – 5
điểm; đồng ý – 4 điểm; đồng ý hơn không đồng ý – 3 điểm; không đồng ý hơn đồng
ý – 2 điểm; không đồng ý – 1 điểm. Điểm trung bình của toàn câu hỏi bằng tổng
điểm số của mỗi mệnh đề cộng lại chia cho số mệnh đề.
Phần 1: Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
90
CNCH biểu hiện qua nhận thức (câu 1).
Phần 2: Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH biểu hiện qua thái độ (câu 2).
Phần 3: Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH biểu hiện qua hành động (các câu 3, 4, 5).
Phần 4: Một số biểu hiện tâm lý trong và sau quá trình giải quyết các THKC
và cách ứng phó sau khi giải quyết các THKC (các câu 6.1, 6.2).
Vấn đề biểu hiện tâm lý trong và sau quá trình giải quyết THKC và cách ứng
phó sau khi giải quyết các THKC của chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH gồm các
mệnh đề có 5 lựa chọn, cách gán điểm cũng tương tự.
Phần 5: Những yếu tố tác động đến thích ứng với việc giải quyết các THKC
của cảnh sát PCCC và CNCH gồm các mệnh đề có 5 lựa chọn, cách gán điểm: Rất
tác động – 5 điểm; tác động – 4 điểm; tác động hơn không tác động – 3 điểm; không
tác động hơn tác động – 2 điểm; không tác động – 1 điểm.
+ Cách tính điểm:
Để thuận lợi cho việc so sánh và lượng hóa mức độ biểu hiện thích ứng với
việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, trong các thang đánh giá
về các mặt biểu hiện của thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH, chúng tôi sử dụng thang 5 mức độ: Thích ứng cao, thích ứng khá
cao, thích ứng trung bình, thích ứng thấp, thích ứng rất thấp. Như vậy, điểm trung
bình của mỗi thang ( ) tối đa là 5 điểm và tối thiểu là 1 điểm; độ lệch trung bình
giữa các khoảng đo là 0,8, do đó các mức độ cụ thể của thang sẽ là: Thích ứng cao:
4,2 ≤ ≤ 5,0; Thích ứng khá cao: 3,4 ≤ < 4,2; Thích ứng trung bình 2,6 ≤ <
3,40; Thích ứng thấp: 1,8 ≤ < 2,60; Rất thấp: 1,0 ≤ < 1,8.
Từ đó, về mặt lượng hóa, các mặt biểu hiện của thích ứng với việc giải quyết
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH được tổng hợp bằng tổng trung bình cộng
của điểm trung bình từng thang đo, biểu hiện cụ thể trên ba mặt: nhận thức, thái độ,
hành động.
Trên cơ sở điểm trung bình và mức độ từng mặt biểu hiện của thích ứng với
việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH về mặt định lượng được
91
tích hợp từ ba mặt biểu hiện đó. cụ thể:
Tổng hợp ba mặt biểu hiện của thích ứng (bằng định lượng) có mức độ thích
ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH là trung bình
chung của các mặt biểu hiện sự thích ứng, chúng tôi đánh giá sự thích ứng với việc
giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH trên 5 mức độ: Thích ứng cao,
thích ứng khá cao, thích ứng trung bình, thích ứng thấp, thích ứng rất thấp (điểm
thấp nhất bằng 1, điểm cao nhất bằng 5), điểm trung bình càng cao thể hiện mức độ
thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH càng cao.
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH ở
mức cao: Điểm trung bình biểu hiện thích ứng với việc giải quyết các THKC được
thể hiện nằm trong khoảng từ 4,2 ≤ ≤ 5,0.
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH ở
mức khá cao: Điểm trung bình biểu hiện thích ứng với việc giải quyết các THKC
được thể hiện nằm trong khoảng từ 3,4 ≤ < 4,2.
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH ở
mức trung bình: Điểm trung bình biểu hiện thích ứng với việc giải quyết các THKC
được thể hiện nằm trong khoảng từ 2,6 ≤ < 3,4.
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH ở
mức thấp: Điểm trung bình biểu hiện thích ứng với việc giải quyết các THKC được
thể hiện nằm trong khoảng từ 1,8 ≤ < 2,6.
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH ở
mức rất thấp: Điểm trung bình biểu hiện thích ứng với việc giải quyết các THKC
được thể hiện nằm trong khoảng từ 1,0 ≤ < 1,8.
Các biểu hiện tâm lý trong và sau quá trình giải quyết các THKC và cách
ứng phó khi giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH cũng được chúng
tôi chia làm 5 mức độ là: Hoàn toàn đồng ý : 4,2 ≤ ≤ 5,0; Đồng ý: 3,4 ≤ <
4,2; Đồng ý hơn không đồng ý: 2,6 ≤ < 3,4; Không đồng ý hơn đồng ý: 1,8 ≤
< 2,6; Không đồng ý: 1,0 ≤ < 1,8.
Tương tự, đối với các yếu tố tác động đến thích ứng với việc giải quyết các
92
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, chúng tôi cũng phân chia làm 5 mức độ
tương ứng là: Rất tác động: 4,2 ≤ ≤ 5,0; Tác động: 3,4 ≤ < 4,2; Bình thường:
2,6 ≤ < 3,4; Ít tác động: 1,8 ≤ < 2,6; Không tác động: 1,0 ≤ < 1,8.
Trong bảng hỏi những mệnh đề âm tính khi tính điểm chúng tôi sẽ đổi chiều
điểm và diễn đạt lại theo chiều điểm đã đổi.
Cách thức xử lý số liệu điều tra chính thức:
Số liệu sau khi thu về được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS phiên bản
22.0. Chúng tôi sử dụng hai kỹ thuật thống kê chính là phân tích độ tin cậy của các
thang đo theo hệ số Alpha của Cronbach. Kết quả phân tích độ tin cậy của các thang
đo trong bảng hỏi chính thức được tổng hợp trong bảng số liệu dưới đây:
Bảng 3.3. Độ tin cậy các thang đo trong khảo sát chính thức
Đánh giá
Hệ số Alpha
Thang đo/Câu
của Cronbach
thang đo
1. Thích ứng với việc giải quyết các THKC Chấp nhận của cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện qua 0,762 được mặt nhận thức (câu 1)
2. Thích ứng với việc giải quyết các THKC Chấp nhận của cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện qua 0,750 được mặt thái độ (câu 2)
3. Hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ Chấp nhận 0,696 (câu 3) được
4. Hành động phối hợp chiến đấu với đồng đội Chấp nhận 0,778 (câu 4) được
5. Hành động các kỹ năng xử lý, sử dụng trang 0,838 Tốt thiết bị máy móc (câu 5)
6. Tìm hiểu một số biểu hiện tâm lý thường 0,911 Tốt gặp ở các chiến sĩ (câu 6.1)
93
7. Các biện pháp ứng phó thường gặp ở các 0,873 Tốt chiến sĩ (câu 6.2)
b. Phương pháp phỏng vấn sâu
Tiến hành phỏng vấn sâu các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH, lãnh đạo/chỉ
huy cấp tổ đội trở lên nhằm mục đích lấy ý kiến của các khách thể này về thích ứng
với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
- Mục đích: Thu thập thông tin để bổ sung, kiểm tra và làm rõ hơn những
thông tin đã thu được từ khảo sát thực tiễn trên diện rộng.
- Nguyên tắc phỏng vấn:
Trong phỏng vấn sâu với những câu hỏi mở, khách thể có thể trả lời một
cách khá tự do. Điều này, giúp cho chúng tôi có thể làm rõ thêm các câu hỏi, vấn đề
đặt ra liên quan đến thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH (phụ lục 2).
Khi sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu cần tạo được niềm tin, không khí
thoải mái, cởi mở, tin cậy. Khách thể trình bày vấn đề một cách tự do, thoải mái.
Người phỏng vấn bắt đầu từ những câu hỏi chung, khái quát, dễ trả lời để kích thích
tư duy của đối tượng. Khi phỏng vấn kết hợp cả câu hỏi đóng và câu hỏi mở.
- Khách thể phỏng vấn: khách thể phỏng vấn sâu bao gồm:
+ 20 chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH
+ 10 lãnh đạo/chỉ huy cấp tổ/đội trở lên.
- Nội dung phỏng vấn:
Phỏng vấn sâu được chuẩn bị trước theo mục tiêu nghiên cứu, bao gồm 2
phần là phần nội dung phỏng vấn cơ bản (phần cứng) và phần linh hoạt. Phần
cứng của nội dung phỏng vấn được chuẩn bị trước một cách chi tiết, rõ ràng theo
các mảng vấn đề cụ thể (phụ lục 2). Phần linh hoạt, người phỏng vấn có thể linh
động, mềm dẻo tùy theo mạch câu chuyện của từng khách thể thông qua kinh
nghiệm thực tiễn chiến đấu, về những lần trực tiếp chứng kiến đồng đội chiến
đấu... Tùy vào đối tượng và khách thể của cuộc phỏng vấn sâu mà phần linh hoạt
mỗi cuộc phỏng vấn sâu có thể thay đổi nhằm mục đích vừa tìm hiểu, khai thác
được những thông tin phù hợp với mục tiêu phỏng vấn, đồng thời vừa tạo ra sự
đồng cảm, hiểu biết lẫn nhau và sự thoải mái về mặt tâm lý giữa nhà nghiên cứu
94
và khách thể phỏng vấn.
Để có thể thu thập được thông tin đầy đủ, chi tiết, toàn diện về các nội dung
trên, chúng tôi đã sử dụng hai loại câu hỏi – câu hỏi trực tiếp và câu hỏi gián tiếp.
Câu hỏi trực tiếp (chủ yếu dùng trong phần cứng (nội dung phỏng vấn):
Dùng để hỏi trực tiếp những quan niệm về THKC, hành động thích ứng với việc
giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH. Loại câu hỏi này được sử dụng
ở tất cả các nội dung, giúp cho quá trình phỏng vấn được diễn ra nhanh chóng và có
thể thu được kết quả cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, nhằm tránh cho người được phỏng
vấn cảm thấy gò bó, khó chịu, nhất là khi phỏng vấn và khách thể chưa có được mối
quan hệ chân tình, gần gũi..., chúng tôi chủ động đưa ra câu hỏi gián tiếp nhằm khắc
phục những hạn chế của loại câu hỏi này và bổ sung thêm những thông tin cần biết.
Câu hỏi gián tiếp (thường dùng trong phần nội dung phỏng vấn linh hoạt):
dùng để tìm hiểu quan điểm, ý kiến người được phỏng vấn thông qua việc hỏi về
người khác. Loại câu hỏi này được sử dụng để nghiên cứu những vấn đề nhạy cảm
hoặc khi khách thể tỏ ra quá dè dặt khi trình bày quan điểm của mình.
Hai loại câu hỏi trực tiếp và gián tiếp được kết hợp linh hoạt để bổ sung, hỗ
trợ cho nhau trong suốt quá trình phỏng vấn.
c. Phương pháp phân tích chân dung tâm lý điển hình
- Mục đích: phân tích chân dung tâm lý điển hình để tìm hiểu sâu hơn và có
những lý giải thấu đáo về mặt biểu hiện của thích ứng với việc giải quyết các THKC
biểu hiện qua ba mặt: nhận thức, thái độ, hành động, các biểu hiện tâm lý và cách
ứng phó; các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH.
- Nội dung phân tích: Chúng tôi tiến hành phân tích chân dung 2 chiến sĩ
thích ứng với việc giải quyết các THKC. Những nội dung được mô tả bao gồm:
(1) Phân tích những nét cơ bản nhất trong thích ứng với việc giải quyết các
THKC của chiến sĩ đó biểu hiện qua mặt nhận thức, thái độ và hành động.
(2) Phân tích những biểu hiện tâm lý trong quá trình giải quyết THKC và
cách ứng phó sau khi giải quyết các THKC.
(3) Phân tích những nét cơ bản nhất về các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng
với việc giải quyết các THKC.
95
(4) Phân tích cách ứng phó với biểu hiện tâm lý mà chiến sĩ thường sử dụng.
- Cách thức tiến hành: Dựa trên cơ sở những thông tin thu được từ khảo sát
nghiên cứu thực trạng kết hợp với các thông tin thu được từ các phương pháp quan
sát, phỏng vấn tìm hiểu từ chính bản thân những chiến sĩ và lãnh đạo/chỉ huy, chúng
tôi tiến hành phân loại, lựa chọn phân tích chân dung hai chiến sĩ điển hình theo
những nội dung đã trình bày ở trên.
Chân dung chiến sĩ được mô tả:
1. Thông tin về cá nhân
- Họ tên: - Ngày, tháng, năm sinh: - Quê quán:
- Thâm niên công tác (số năm công tác):
2. Mức độ thích ứng với việc giải quyết các THKC qua các chỉ báo
- Kết quả nghiên cứu qua phiếu điều tra bằng bảng hỏi
- Kết quả nghiên cứu qua quan sát
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ thích ứng của chiến sĩ
d. Phương pháp chuyên gia
- Mục đích: Trong khuôn khổ luận án, phương pháp chuyên gia được sử dụng
trong nghiên cứu lý luận nhằm tranh thủ ý kiến đóng góp của các chuyên gia có kinh
nghiệm trong lĩnh vực tâm lí học, lĩnh vực PCCC và CNCH về nội dung nghiên cứu
lý luận và thực tiễn của luận án. Cụ thể: xây dựng phiếu điều tra; thang đánh giá mức
độ thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
- Các chuyên gia bao gồm: Các nhà tâm lý học, giảng viên của trường Đại
học Phòng cháy chữa cháy, cán bộ tại các trung tâm nghiên cứu ứng dụng và đào
tạo, huấn luyện bồi dưỡng nghiệp vụ, các lãnh đạo, chỉ huy dày dặn kinh nghiệm
trong thực tiễn chiến đấu, chiến sĩ có thâm niên chiến đấu và các nhà khoa học.
- Nội dung trao đổi: trao đổi về các biểu hiện của sự thích ứng với việc giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH (nhận thức; thái độ trong chiến đấu,
sự chủ động, tích cực, hiệp đồng chiến đấu, khả năng kiểm soát cảm xúc; các hành
động như: chấp hành mệnh lệnh chỉ huy, các biện pháp và cách thức giải quyết tình
huống, hoạt động cứu người, cứu tài sản, hành động phối hợp với đồng đội, kỹ năng
sử dụng trang thiết bị…) và các tình huống, hoàn cảnh bộc lộ các biểu hiện.
- Cách thức tiến hành: Phương pháp này được chúng tôi thực hiện trong quá
96
trình xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu và nghiên cứu thực tiễn (xây dựng phiếu
điều tra nhằm nâng cao mức độ thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh
sát PCCC và CNCH).
3.4. Thang đo mức độ thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn
cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ.
Dựa trên kết quả nghiên cứu của đề tài, ý kiến giáo viên hướng dẫn, chúng
tôi phân chia thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH
theo các mức độ sau:
Bảng 3.4. Thang đo mức độ thích ứng với việc giải quyết các tình huống
khẩn cấp của cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Mức độ
Mức 1: 4,2 ≤ĐTB ≤ 5 Cao
Các mặt biểu hiện Thái độ - Có thái độ rất chủ động, tích cực trong việc giải quyết các THKC. - Có khả năng kiểm soát bản thân và có thái độ hợp tác rất tốt trong việc giải quyết các THKC.
Mức 2: 3,4≤ĐTB<4,2 Khá cao
- Có thái độ chủ động, tích cực trong việc giải quyết các THKC. - Có khả năng kiểm soát bản thân và có thái độ hợp tác tốt trong việc giải quyết các THKC.
Hành động - Thực hiện hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ ở mức rất tốt. - Thực hiện hành động phối hợp với đồng đội ở mức rất tốt. - Thực hiện kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc ở mức độ rất tốt. - Thực hiện hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm ở mức tốt. - Thực hiện hành động phối hợp với đồng đội ở mức tốt. - Thực hiện các kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc ở mức tốt.
Mức 3: 2,6≤ĐTB<3,4 Trung bình
Nhận thức - Nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất của THKC. - Nhận thức đúng đắn và đầy đủ về cách thức giải quyết các THKC. - Nhận thức đúng đắn và đầy đủ về quy trình giải quyết các THKC. - Nhận thức phần lớn đúng đắn và đầy đủ về bản chất của THKC. - Nhận thức phần lớn đúng đắn và đầy đủ về cách thức giải quyết các THKC. - Nhận thức phần lớn đúng đắn và đầy đủ về quy trình giải quyết các THKC. - Nhận thức ở mức trung bình về bản chất của THKC. - Nhận thức ở mức độ trung bình về cách thức giải quyết trong THKC. - Nhận thức ở mức trung bình về quy trình giải quyết các THKC.
- Các chiến sĩ có thái độ chủ động, tích cực ở mức trung bình trong việc giải quyết các THKC. - Có khả năng kiểm soát bản thân và có thái độ hợp tác ở mức trung bình trong việc giải quyết các THKC.
- Thực hiện hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ ở mức trung bình. - Thực hiện hành động phối hợp với đồng đội ở mức trung bình. - Thực hiện các kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc ở mức trung bình.
97
- Nhận thức ở mức thấp về bản chất của THKC.
Mức 4:
- Các chiến sĩ có thái độ chủ động, tích cực ở mức độ thấp.
- Thực hiện hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ ở mức thấp.
1,8≤ĐTB<2,6
- Nhận thức ở mức thấp về cách thức giải quyết trong THKC.
- Thực hiện hành động phối hợp với đồng đội ở mức thấp.
Thấp
- Có khả năng kiểm soát bản thân và có thái độ hợp tác ở mức thấp trong việc giải quyết các THKC.
- Nhận thức ở mức thấp về quy trình giải quyết các THKC.
- Thực hiện kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc ở mức thấp.
- Nhận thức sai về bản chất của THKC.
- Không có thái độ chủ động, tích cực trong việc giải quyết các THKC.
- Thực hiện hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ ở mức rất thấp.
Mức 5:
- Nhận thức sai về cách thức giải quyết trong THKC.
1,0≤ĐTB<1,8
- Thực hiện hành động phối hợp với đồng đội ở mức rất thấp.
Rất thấp
- Nhận thức sai về quy trình giải quyết các THKC.
- Không có khả năng kiểm soát bản thân và không có thái độ hợp tác trong việc giải quyết các THKC.
- Thực hiện kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc ở mức rất thấp.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu thực tiễn vẫn có thể có những trường
hợp biểu hiện thích ứng (1/. Nhận thức cao, thái độ cao, hành động trung bình; 2/.
Nhận thức khá cao, thái độ cao, hành động trung bình; 3/. Nhận thức trung bình, thái
độ cao, hành động cao; 4/. Nhận thức trung bình, thái độ yếu, hành động khá cao; 5/.
Nhận thức trung bình, thái độ yếu, hành động khá cao; 6/. Nhận thức yếu, thái độ khá
cao, hành động trung bình; 7/. Nhận thức yếu, thái độ trung bình, hành động trung
bình …). Đây là những trường hợp đặc biệt, chúng tôi sẽ tiến hành tập hợp các mức
độ tương tự để đánh giá mức độ thích ứng trong các trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó,
chúng tôi kết hợp với phỏng vấn sâu, phân tích sản phẩm hoạt động, phương pháp
chuyên gia… để có kết luận thực sự chính xác và khoa học. Do vậy, việc ứng dụng
linh hoạt, đồng bộ các phương pháp là rất cần thiết để nghiên cứu thành công, khách
98
quan thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
Tiểu kết chƣơng 3
Để đảm bảo tính khoa học và độ tin cậy trong nghiên cứu luận án “Thích
ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa
cháy và cứu nạn cứu hộ”, chúng tôi đã sử dụng tổng hợp những phương pháp
nghiên cứu cơ bản trong tâm lý học như nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực
tiễn. Các phương pháp sử dụng phối hợp với nhau nhằm đem lại kết quả nghiên
cứu phong phú và tin cậy.
Phương pháp được sử dụng chính trong luận án là phương pháp điều tra bằng
bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp phân tích chân dung tâm lý
điển hình, phương pháp quan sát, phương pháp chuyên gia... Các phương pháp
nghiên cứu này nhằm phân tích mức độ biểu hiện thích ứng với việc giải quyết các
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH; biểu hiện tâm lý trong quá trình giải quyết
các THKC và cách ứng phó sau khi giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH; đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng với việc giải quyết
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH nhằm chứng minh giả thuyết của luận án.
Dựa trên công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, sự góp ý của các
chuyên gia, phỏng vấn sâu các chiến sĩ trong quá trình điều tra thử chúng tôi tiến
hành thiết kế thang đo thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC
và CNCH.
Các số liệu được xử lý theo phương pháp định lượng và định tính cho phép
có những kết quả và kết luận đạt độ tin cậy, có giá trị về mặt khoa học. Các kết quả
nghiên cứu định lượng được khắc họa rõ hơn bằng các kết quả nghiên cứu định tính
(quan sát, phỏng vấn sâu, phân tích chân dung tâm lý điển hình), đảm bảo độ tin cậy
99
cho các kết quả nhận được.
Chƣơng 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN THÍCH ỨNG VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG KHẨN CẤP CỦA CẢNH SÁT PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY VÀ CỨU NẠN CỨU HỘ
4.1. Thực trạng chung về thích ứng với việc giải quyết các tình huống
khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Kết quả nghiên cứu thực trạng thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH được đo trên ba mặt biểu hiện nhận thức, thái độ, hành
động. Như đã trình bày trong chương 3, thích ứng của các chiến sĩ cảnh sát PCCC
và CNCH được chia ra làm 5 mức độ: Thích ứng cao, khá cao, trung bình, thấp và
4.8%
31.8%
Thích ứng cao
Thích ứng khá cao
63.4%
Thích ứng trung bình
rất thấp. Kết quả được phản ánh cụ thể ở biểu đồ sau:
Biểu đồ 4.1. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp
của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ (đơn vị: %). Qua biểu đồ cho thấy, thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH ở mức cao chiếm 31,8%, mức độ thích ứng khá cao là 63,4%, mức độ
thích ứng trung bình là 4,8%, không có chiến sĩ nào thích ứng thấp và rất thấp. Như
vậy, phần lớn các chiến sĩ đã hòa nhập tốt, thích ứng với môi trường làm việc luôn
trong tình trạng căng thẳng, khẩn cấp, bất ngờ, nguy hiểm và nguy cơ chấn thương cao.
Mức độ thích ứng biểu hiện trên ba mặt: Nhận thức, thái độ, hành động.
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH được
100
biểu hiện thông qua 3 mặt là nhận thức, thái độ và hành động. Mức độ biểu hiện đối
với từng mặt của chiến sĩ có sự khác nhau, số liệu cụ thể được biểu hiện qua bảng
4.1 dưới đây.
Bảng 4.1. Mức độ thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp
của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Mặt biểu hiện thích ứng ĐTB ĐLC
Nhận thức 3,92 0,55
Thái độ 4,22 0,55
Hành động 4,31 0,43
Trung bình chung 4,15 0,43
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Kết quả cho thấy, thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH được nghiên cứu trên 396 chiến sĩ ở mức khá cao (ĐTB là 4,15,
ĐLC là 0,43). Trong đó, thích ứng biểu hiện qua mặt hành động và mặt thái độ ở
mức cao (ĐTB là 4,31; ĐLC 0,43) và (ĐTB là 4,22; ĐLC 0,55) và biểu hiện qua
mặt nhận thức ở mức khá cao (ĐTB là 3,92; ĐLC 0,55). Kết quả này cho thấy, biểu
hiện thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH ở ba
mặt có điểm số từ mức khá cao trở lên.
Ba mặt cơ bản của thích ứng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết quả
nghiên cứu chúng tôi thu được cao nhất là mặt hành động, sau đó là mặt thái độ và
thấp nhất là mặt nhận thức. Đặc trưng của THKC là tính nghiêm trọng, cấp thiết, sự
phức tạp và bất ngờ. Do vậy, việc giải quyết THKC đòi hỏi diễn ra với tốc độ và
cường độ cao liên tục, các chiến sĩ phải bền bỉ về thể lực, vững vàng về tâm lý, kỹ
năng nghiệp vụ tốt, hành động dũng cảm, quyết đoán để có thể giải quyết tình
huống nhanh nhất và hiệu quả nhất. Hành động giải quyết các THKC là hành động
ủng hộ xã hội, mang tính nhân văn, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Khi
những hành động chuẩn mực đó được thực hiện, thái độ cũng được điều chỉnh sao
cho phù hợp với hoàn cảnh và tình huống. Sự ủng hộ, chia sẻ, cảm mến của người
dân xung quanh, của xã hội là nguồn động viên lớn, mang lại sự tự tin, động lực
chiến đấu, giúp các chiến sĩ thấy được vai trò và bổn phận xã hội của mình.
101
Nhận xét về thích ứng của các chiến sĩ trong đơn vị, thông qua kết quả phỏng
vấn sâu các đồng chí là lãnh đạo, chỉ huy cấp tổ đội trở lên thu được các kết quả
tương tự với kết quả điều tra bằng bảng hỏi.
Đồng chí Nguyễn A T – Đội phó đội công tác CC và CNCH, công an Hà Nội,
cho biết: “Các chiến sĩ chữa cháy và cứu nạn cứu hộ tại đơn vị thích ứng tốt, nhanh
chóng, kịp thời nhận lệnh của chỉ huy chữa cháy khi tham gia chữa cháy và cứu nạn
cứu hộ. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chữa cháy và cứu nạn cứu hộ các chiến
sĩ đã nắm chắc kỹ chiến thuật, sử dụng tốt các phương tiện, trang bị được cung cấp”.
Đồng quan điểm đó, đồng chí Trần Đ H – Đội phó đội công tác CC và
CNCH cho biết: “Các chiến sĩ trong đơn vị phần lớn đều đã học nghiệp vụ qua
trường và trải qua kinh nghiệm chiến đấu thực tế nên chấp hành mệnh lệnh chỉ huy
rất tốt. Bên cạnh đó, việc thường xuyên luyện tập chiến thuật cũng giúp các đồng
chí làm quen với các tình huống khẩn cấp nên khi gặp cháy nổ xảy ra, các đồng chí
đã xử lý rất nhanh chóng, chuyên nghiệp, làm chủ mọi tình huống phức tạp”.
Khi phân tích kết quả thu được, chúng tôi sử dụng phương pháp phân nhóm
khách thể nghiên cứu theo mức độ cụ thể. Kết quả các trường hợp cụ thể thích ứng
với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện qua ba mặt
nhận thức, thái độ và hành động được chúng tôi trình bày trong bảng (phụ lục 4).
4.2. Thực trạng thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp
của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ biểu hiện qua các mặt
cụ thể
4.2.1. Thích ứng biểu hiện qua mặt nhận thức
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta gặp rất nhiều tình huống đòi hỏi phải
nhận thức, đánh giá và quyết định. Trong THKC, con người cần phải nhận thức và
đưa ra quyết định nhanh chóng nên có rất ít thời gian suy ngẫm. Nhận thức được thực
hiện trong thực tế cuộc sống đời thường. Ở một cấp độ nào đó, nó giống với nhận
thức khoa học. Nó phải dựa trên những quy luật nhất định của đời sống đã được soi
sáng, trong khi tương tác với cái mới – với những giả thuyết xác định, đôi khi không
được hình thành một cách có ý thức; những giả thuyết đó được kiểm tra bởi thực tế,
nó thay đổi khi không xác thực và có những hành động tương ứng với chúng. Nói đến
102
nhận thức là nói đến việc con người sử dụng thông tin đó như thế nào trong quá trình
ra quyết định. Cụ thể là con người lựa chọn thông tin, phân tích thông tin ra sao và tổ
chức nó như thế nào để đưa ra các quyết định phù hợp với đòi hỏi của cuộc sống.
Trong các THKC thì thời gian để đánh giá tình huống thường rất hạn chế,
thông thường các quyết định tự động hóa được đưa ra nhanh chóng mà không cần
suy nghĩ quá nhiều, quá lâu. Trong dạng tình huống này, con người hành động
không cần suy nghĩ, chỉ làm theo trí nhớ và các trải nghiệm kinh nghiệm đã có. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp khác, khi tình huống đòi hỏi phải có một quá trình
đánh giá lâu hơn và cân nhắc kỹ càng hơn. Bằng việc suy nghĩ thấu đáo tất cả các
vấn đề, đánh giá các hệ quả có thể xảy ra, con người thường đưa ra các quyết định
tốt hơn, phù hợp có hiệu quả. Mặc dù tư duy tự động, máy móc có vẻ chi phối rất
lớn hành vi xã hội, tuy vậy con người có đủ ý chí và năng lực điều khiển quá trình
và phân tích tình huống một thận trọng để đưa ra quyết định một cách phù hợp nhất.
Nhận thức về thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH là thành tố quan trọng của thích ứng với việc giải quyết các THKC, là cơ sở
để giải quyết có hiệu quả các THKC trong hoạt động CC và CNCH. Nhận thức có
vai trò giúp cá nhân định hướng và thực hiện hành động phù hợp với mục đích,
nhiệm vụ đặt ra. Nhận thức về các hành động trong việc giải quyết các THKC mà
các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH cần thực hiện là một trong những thước đo để
đánh giá mức độ thích ứng.
Nhận thức của chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH được đánh giá trên một số
thành tố cơ bản: nhận thức về bản chất THKC, nhận thức về cách thức giải quyết
THKC, nhận thức về quy trình giải quyết các THKC.
Kết quả nghiên cứu nhận thức về THKC cho thấy, nhận thức về THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH ở mức khá cao (ĐTB là 3,92; ĐLC 0,55). Các nội dung
của nhận thức về thích ứng với việc giải quyết các THKC trong quá trình CC và
CNCH được thể hiện ở mức khá cao, thứ tự lần lượt: nhận thức về bản chất của
THKC (ĐTB là 4,18; ĐLC 0,55), nhận thức về quy trình giải quyết THKC (ĐTB là
3,81; ĐLC 0,72) và nhận thức về cách thức giải quyết THKC (ĐTB là 3,80; ĐLC
103
0,86), kết quả này được thể hiện qua bảng số liệu (bảng 4.2) dưới đây.
Bảng 4.2. Biểu hiện thích ứng về mặt nhận thức trong việc giải quyết các tình huống khẩn cấp
STT Nội dung nhận thức ĐTB ĐLC
1 Bản chất của tình huống khẩn cấp 4,18 0,55
2 Cách thức giải quyết tình huống khẩn cấp 3,80 0,86
3 Quy trình giải quyết tình huống khẩn cấp 3,81 0,72
Trung bình chung 3,92 0,55
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Đi sâu phân tích các nội dung nhận thức về THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH, trước hết, ở nội dung nhận thức về bản chất của THKC trong hoạt động CC
và CNCH có thể nhận thấy, nhận thức chung của các chiến sĩ ở mức khá cao (ĐTB
là 4,18; ĐLC 0,55). Kết quả này cho thấy, các chiến sĩ đã nhận thức phần lớn đúng đắn
và đầy đủ về bản chất của THKC. Nhận thức về bản chất THKC trong quá trình CC và
CNCH được nghiên cứu thông qua 03 items, trong đó phương án đúng là: “Tình huống
khẩn cấp là những sự kiện, biến cố nghiêm trọng, bất thường, đột xuất xảy ra trong đời
sống của con người, xã hội, gây ra tâm trạng, cảm xúc mạnh nếu không đưa ra cách
giải quyết nhanh chóng, phù hợp có thể đưa đến những hậu quả nặng nề”. Kết quả
nghiên cứu được thể hiện ở bảng 4.3 dưới đây.
Bảng 4.3. Mức độ nhận thức về bản chất tình huống khẩn cấp
STT Nội dung nhận thức ĐTB ĐLC
Tình huống khẩn cấp là những sự kiện, biến cố nghiêm trọng, bất 1 4,04 0,88 thường, đột xuất xảy ra trong đời sống của con người, xã hội.
2 4,33 0,83
Tình huống khẩn cấp là những sự kiện, biến cố nghiêm trọng, bất thường, đột xuất xảy ra trong đời sống của con người, xã hội, gây ra tâm trạng, cảm xúc mạnh nếu không đưa ra cách giải quyết nhanh chóng, phù hợp có thể đưa đến những hậu quả nặng nề.
3 Tình huống khẩn cấp là những tình huống xảy ra một cách bất ngờ ngoài ý muốn của con người và yêu cầu cần xử lý ngay nếu không 4,16 0,79
sẽ gây hậu quả nghiêm trọng.
Trung bình chung 4,18 0,55
104
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Trong quá trình nhận thức tình huống, con người luôn có khả năng đưa ra
các câu trả lời nhờ huy động các tri thức đã trải nghiệm trước đây, khi nhận thức
không đúng thì nó có thể bị hệ thống tư duy gạt sang một bên. Quá trình này người
ta gọi là sàng lọc các liên tưởng. Quá trình sàng lọc này đóng vai trò như một bộ
phận kiểm duyệt hay kiểm tra cuối cùng để tránh những khó khăn, nguy hiểm có thể
xảy ra. Việc nhận thức đúng về hệ quả của một quyết định cũng rất quan trọng bởi
các hành động, quyết định của họ.
Trong giải quyết các THKC, bên cạnh việc nhận thức bản chất tình huống thì
việc nắm vững được những cách thức giải quyết tình huống cũng vô cùng quan
trọng, nó giúp các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH lựa chọn phương án giải quyết
một cách hợp lý, làm giảm tối đa thiệt hại và nhanh chóng khắc phục được hậu quả
nặng nề do cháy nổ gây ra. Đồng thời, việc lựa chọn đúng quyết định giúp các chiến
sĩ chủ động, tích cực, bình tĩnh, tự tin hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, nhận thức về cách thức giải quyết THKC của cảnh sát PCCC
và CNCH ở mức khá cao (ĐTB là 3,80; ĐLC 0,86). Nhận thức về cách thức giải
quyết THKC bao gồm 03 items trong đó item đúng nhất là: “Đảm bảo tính nhân
văn cao cả của nghề phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, đảm bảo an ninh
trật tự và an toàn xã hội, tạo sự tin tưởng trong nhân dân”. Kết quả nghiên cứu
được thể hiện qua bảng 4.4 dưới đây.
Bảng 4.4. Mức độ nhận thức về cách thức giải quyết tình huống khẩn cấp
STT Nội dung nhận thức ĐTB ĐLC
Giúp hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại về người 3,91 1,02 1 và tài sản, cần phải xử lý, giải quyết nhanh chóng, kịp thời.
Giúp nhanh chóng khắc phục những hậu quả nặng nề do 3,55 1,17 2 cháy nổ gây ra.
Đảm bảo tính nhân văn cao cả của nghề phòng cháy chữa
3 cháy và cứu nạn cứu hộ, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn 3,93 1,05
xã hội, tạo sự tin tưởng trong nhân dân.
Trung bình chung 3,80 0,86
105
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Việc nhận thức đúng và đầy đủ về cách thức giải quyết THKC của các chiến
sĩ là kết quả của quá trình đào tạo, huấn luyện, sự khổ luyện, gian khổ, đổ mồ hôi
trên thao trường và quan trọng hơn cả đó là sự trải nghiệm thực tiễn chiến đấu với
giặc lửa của các chiến sĩ.
Kết quả phỏng vấn sâu các chiến sĩ vai trò của việc nhận thức đúng và đầy
đủ về cách thức giải quyết THKC, chiến sĩ D.V.H, 25 tuổi, Công an Hà Nội cho
rằng: “Việc nhận thức đúng và đầy đủ về cách thức giải quyết các THKC nó quyết
định hiệu quả khi thực hiện nhiệm vụ. Nó thể hiện tính chính quy, tinh nhuệ, chuyên
nghiệp, chính xác và hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ. Giúp các chiến sĩ có thể
chuẩn bị tốt, đầy đủ, toàn diện các mặt khi thực hiện nhiệm vụ như: tâm lý, phương
tiện, thiết bị bảo hộ cá nhân, thời gian đến hiện trường… Nó giúp chỉ huy đánh giá
đúng tình hình và đưa ra quy trình chung để đảm bảo sự thống nhất, phối hợp nhịp
nhàng, trình tự nâng cao hiệu quả công việc”. Khi được phỏng vấn, chiến sĩ Ng.
H.H, 29 tuổi, Công an Vĩnh Phúc, cho biết: “Việc nhận thức đúng về cách thức giải
quyết THKC công tác CC và CNCH diễn ra nhanh chóng, kịp thời huy động các
nguồn lực, phương tiện, chuẩn xác trong hành động để hạn chế tối đa thiệt hại về
người và tài sản. Cần phải bình tĩnh, linh hoạt xử lý khi xảy ra, tích cực rèn luyện,
giả định các tình huống, sự cố đa dạng để khi thực chiến có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ”. Bổ sung ý kiến của đồng đội, chiến sĩ L.X.T. 29 tuổi, Công an Vĩnh
Phúc, cho biết: “Mục đích của hoạt động CC và CNCH là hạn chế thấp nhất thiệt
hại về người và tài sản do cháy nổ, tai nạn gây ra. Trong công tác CC và CNCH có
những tình huống, tai nạn rất phức tạp và rất nguy hiểm cho cả nạn nhân và người
giải cứu. Việc nhận thức đúng cách thức, quy trình giải quyết THKC giúp đảm bảo
an toàn cho bản thân, đồng đội và nạn nhân, giúp sử dụng đúng chất chữa cháy đối
với các loại hình chất cháy, cũng như đúng phương pháp để giải quyết tình huống
nhanh nhất, hiệu quả nhất, ít tốn kém nhất”.
Kết quả điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu các chiến sĩ cho thấy, việc
nhận thức đúng và đầy đủ về cách thức giải quyết THK giúp các chiến sĩ luôn trong
tâm thế chủ động, sẵn sàng chiến đấu và đưa ra các quyết định kịp thời, chính xác, giúp
106
đảm bảo an toàn cho bản thân và đồng đội, giúp hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra.
Hiệu quả giải quyết THKC không chỉ phụ thuộc vào nhận thức bản chất
THKC, cách thức giải quyết THKC mà còn phụ thuộc vào nhận thức về quy trình giải
quyết THKC. Trong các THKC, chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH phải giải quyết
vấn đề theo đúng quy trình, các bước nghiệp vụ đã được huấn luyện, đào tạo. Quy
trình được hiểu là trình tự thực hiện một hoạt động đã được quy định, mang tính chất
bắt buộc, đáp ứng những mục tiêu cụ thể của hoạt động nhất định. Quy trình giải
quyết một THKC trong CC và CNCH được quy định trong điều lệnh chiến đấu của
lực lượng cảnh sát phòng cháy và chữa cháy. Ngày 15/8/1984, Tổng Cục cảnh sát
nhân dân, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã ban hành Điều lệnh chiến đấu của lực
lượng Cảnh sát PCCC và CNCH nhằm mục đích đề nâng cao hiệu quả của công tác
chữa cháy, thống nhất các hoạt động chiến đấu của lực lượng chữa cháy.
Nhận thức của các chiến sĩ về quy trình giải quyết THKC được thiết kế 04
items, kết quả nghiên cứu cho thấy, nhận thức về quy trình giải quyết THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH ở mức khá cao (ĐTB là 3,81; ĐLC 0,72). Trong đó, quy
trình đúng và đầy đủ của hành động giải quyết THKC đó là: “Nhận lệnh, nhận nhiệm
vụ, cứu người, dập tắt đám cháy và cứu tài sản” (ĐTB là 4,12; ĐLC 0,87). Trong đó,
nội dung “Xác định vị trí người bị nạn và cùng lực lượng tại chỗ nhanh chóng dập
tắt đám cháy” có điểm thấp nhất (ĐTB là 3,34; ĐLC 1,27) vì đây chưa phải là quy
trình thực hiện nghiệp vụ mà các chiến sĩ đã được đào tạo, huấn luyện và bồi
dưỡng. Kết quả nghiên cứu được thể hiện ở bảng 4.5 dưới đây.
Bảng 4.5. Nhận thức về quy trình giải quyết các tình huống khẩn cấp
STT Nội dung nhận thức ĐTB ĐLC
1 3,34 0,98 Xác định vị trí xảy ra và cùng lực lượng tại chỗ nhanh chóng dập tắt đám cháy
2 4,12 0,87
3 3,92 0,92
4 Nhận lệnh, nhận nhiệm vụ, cứu người, dập tắt đám cháy và cứu tài sản. Nhận nhiệm vụ, cứu người, cứu tài sản và dập tắt đám cháy. Cứu tài sản, cứu người và dập tắt đám cháy. 3,87 1,27
Trung bình chung 3,81 0,72
107
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Kết quả phỏng vấn sâu chiến sĩ T.T.H. 31 tuổi, Công an Hà Nội, cho biết:
“Việc nhận thức đúng quy trình giải quyết THKC đóng vai trò quan trọng, trong
hoạt động CC và CNCH thì thời gian quyết định tất cả, chậm một phút thôi cũng có
thể cướp mất bao nhiêu sinh mạng con người, thiệt hại bao nhiêu tài sản. Có thể nói
thời gian quyết định sự sống của người bị nạn khi mắc kẹt trong đám cháy hay
người bị tai nạn. Việc thực hiện đúng quy trình đảm bảo nhanh, chính xác, phối hợp
nhịp nhàng, hợp đồng tác chiến hiệu quả giữa các lực lượng khi thực hiện nhiệm
vụ, tránh tình trạng hỗn loạn, lúng túng trong khi thực hiện nhiệm vụ. Trong khi
thực hiện nhiệm vụ, nếu làm sai một quy trình có thể gây hậu quả nặng nề hơn”.
Chiến sĩ D.T.C, 30 tuổi, Công an Hà Nội, cho rằng:“Quy trình giải quyết THKC rất
quan trọng, từ khâu nhận xử lý thông tin đến khi tiến hành CC và CNCH phải đầy
đủ, linh hoạt, trình tự các bước, chấp hành nghiêm mệnh lệnh của chỉ huy”. Chiến
sĩ Ng. H.H, 29 tuổi, Công an Vĩnh Phúc, cho biết thêm: “Việc nắm vững quy trình
giải quyết THKC giúp bản thân tránh được trạng thái thụ động trong chiến đấu,
phân định rạch ròi được các loại THKC và quan trọng là đảm bảo được an toàn
tuyệt đối cho bản thân trong quá trình chiến đấu”.
Như vậy, các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH đã nhận thức được bản chất, cách
thức và quy trình giải quyết các THKC, điều đó giúp cho các chiến sĩ hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại về người và tài sản. Đặc
thù công việc của người chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH là “chạy lại khi người ta chạy
đi”, “tìm kiếm, khắc phục cái còn trong cái đã mất” nên nghề PCCC và CNCH luôn
mang tính nhân văn cao cả, tạo được sự tin tưởng trong nhân dân, đảm bảo an ninh trật tự
và an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải THKC nào cũng có thể nhanh
chóng giải quyết được, đôi khi sự tàn phá, hủy diệt của giặc lửa vượt quá sức tưởng
tượng, vượt quá sức chịu đựng của con người, thiệt hại cả về vật chất và tinh thần vô
cùng to lớn, việc khắc phục, giải quyết hậu quả không thể diễn ra nhanh chóng được.
Đánh giá chung về thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của
cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ biểu hiện qua mặt nhận thức:
Kết quả nghiên cứu cho thấy, thích ứng với việc giải quyết các THKC của
108
cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện ở mặt nhận thức ở mức khá cao (ĐTB là 3,92;
ĐLC 0,55). So với điểm TBC của thích ứng (ĐTB là 4,15), cho thấy mức độ thích
ứng của cảnh sát PCCC và CNCH ở mặt nhận thức thấp hơn chút so với mức độ thích
57.9%
60.0%
50.0%
40.0%
25.2%
30.0%
14.9%
20.0%
10.0%
2.0%
0.0%
0.0%
Cao
Khá cao
Trung bình
Thấp
Rất thấp
ứng chung. Kết quả được thể hiện qua biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 4.2. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp biểu hiện
ở mặt nhận thức
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, tỉ lệ thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện qua mặt nhận thức ở mức cao là 25,2%; mức
khá cao là 57,9%; mức trung bình là 14,9%; mức thấp là 2% và không có chiến sĩ
nào nhận thức ở mức rất thấp.
Việc nhận thức đúng, đầy đủ về bản chất, cách thức và quy trình giải quyết
THKC sẽ giúp các chiến sĩ có thái độ tập luyện, huấn luyện các phương án một cách
chủ động, tích cực, nghiêm túc, nêu cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng lên
xe đi tới hiện trường khi có chuông báo động vang lên.
4.2.2. Thích ứng biểu hiện qua mặt thái độ
Thái độ là phản ứng mang tính chất đánh giá tích cực hay tiêu cực đối với
một đối tượng nào đó, thể hiện qua suy nghĩ, xúc cảm hay hành vi dự định. Khi một
cá nhân có thái độ tích cực đối với môi trường, thì họ cũng có những nhận thức, xúc
cảm để duy trì quan điểm đó và có hành động ứng xử với môi trường theo cách thức
nhất quán với nhận thức và tình cảm của mình. Nhìn chung, ba thành tố đó thường
109
nhất quán với nhau.
Thái độ sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh
nghiệm, có tác dụng điều chỉnh hoặc có ảnh hưởng một cách linh hoạt đến phản ứng
của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà nó phản ứng. Thái độ thể
hiện một thiên hướng tương đối ổn định để phản ứng theo một cách thức cụ thể đối
với một khách thể có liên quan. Thái độ là sản phẩm phức tạp của các quá trình học
tập, lĩnh hội, trải nghiệm, cảm xúc bao gồm cả những hứng thú, ác cảm, thành kiến,
mê tín, quan điểm khoa học và tôn giáo cũng như chính trị [Vũ Dũng, 2008].
Trong tâm lý người, thái độ đóng vai trò hàng đầu trong việc ra quyết định.
Nhờ thái độ đã có trước mà con người có thể đưa ra các quyết định một cách nhanh
chóng. Chúng ta đưa ra những quyết định nhanh chóng nhờ có những thông tin nổi
bật được lưu giữ và dễ dàng tiếp cận trong bộ nhớ của mình. Đối với nhiều người,
cảm xúc là nhân tố chủ yếu quyết định thái độ đối với một loạt các vấn đề khác nhau.
Một số thái độ được dựa vào sự quan sát của chúng ta về hành động của chính mình.
Có rất nhiều con đường hình thành nên thái độ của một cá nhân. Chúng tôi
cho rằng, thái độ được hình thành bởi trải nghiệm, cũng như thói quen, con người
học tập những thái độ của mình qua những liên tưởng tương tự qua thời gian.
Chúng ta cũng có thể tập quen một thái độ nào đó bằng cách bắt chước hành vi. Con
người chúng ta có xu hướng bắt chước hành vi của những mẫu hình hay tấm gương.
Khi các mẫu hình đó có uy quyền hay được yêu mến, khâm phục, chúng ta thường
bắt chước các thái độ của họ.
Một người lính chữa cháy học được thái độ chủ động, tích cực, bình tĩnh, tự
tin, dũng cảm trong chiến đấu và kiên quyết thực hiện nhiệm vụ được giao thông
qua các biểu tượng, tấm gương của những người đồng đội, những thế hệ chiến sĩ đi
trước, qua sự trải nghiệm thực tiễn và được đồng đội thừa nhận. Khi đó, những hành
động dũng cảm trong chiến đấu của bản thân sẽ trở thành tấm gương, biểu tượng, sự
tán thưởng, khen ngợi từ đồng đội của mình. Nếu hành động dũng cảm đó được tiếp
tục củng cố, phát huy trong chiến đấu, khả năng được nối tiếp bởi những hành động
tương tự trong những lần thực hiện nhiệm vụ tiếp theo.
Trong việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, những hành
110
động chủ động, tích cực, bình tĩnh, tự tin và kiên quyết thực hiện nhiệm vụ đến cùng
được củng cố liên tục trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, giúp các chiến sĩ hình
thành nên các kỹ năng nghiệp vụ đặc biệt. Sự củng cố liên tục đó giúp các chiến sĩ
thích ứng tốt hơn với hoạt động nghề nghiệp của mình. Để xác định mức độ thích ứng
biểu hiện ở mặt thái độ, cần đánh giá đúng các biểu hiện về cảm xúc của các chiến sĩ
đối với nhiệm vụ phải thực hiện trong hoạt động chiến đấu tại hiện trường, nơi xảy ra
sự việc, cũng như các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến mức độ thích ứng với hoạt động
chiến đấu của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH. Kết quả nghiên cứu về biểu hiện
thích ứng về mặt thái độ được thể hiện qua bảng số liệu 4.6 dưới đây.
Bảng 4.6. Biểu hiện thích ứng về mặt thái độ trong việc giải quyết
các tình huống khẩn cấp
STT Nội dung thái độ ĐTB ĐLC
1 Tôi luôn chủ động, sẵn sàng nhận lệnh 4,45 0,68
2 Tôi luôn chủ động chấp hành mệnh lệnh chỉ huy 4,42 0,65
3 Tôi luôn chủ động thực hiện hành động cứu người 4,25 0,81
Tôi luôn chủ động ứng phó với tình huống xấu nhất 4 4,26 0,77 có thể xảy ra.
5 4,27 0,77 Tôi luôn tích cực dập tắt đám cháy, chống cháy lan
6 Tôi luôn tích cực cứu tài sản 3,87 1,03
7 Tôi luôn bình tĩnh, tự tin thực hiện nhiệm vụ được giao 4,25 0,73
8 Tôi luôn kiên quyết thực hiện nhiệm vụ 4,00 1,03
Trung bình chung 4,22 0,55
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Kết quả nghiên cứu cho thấy, các chiến sĩ có thái độ rất chủ động, tích cực,
hợp tác rất tốt trong việc giải quyết các THKC (ĐTB 4,22; ĐLC 0,55). Trong đó, có
ba nội dung mà các chiến sĩ có biểu hiện chủ động, sẵn sàng, tích cực, hợp tác ở mức
cao nhất đó là “Tôi luôn chủ động, sẵn sàng nhận lệnh” (ĐTB là 4,45; ĐLC 0,68);
“Tôi luôn chủ động chấp hành mệnh lệnh chỉ huy” (ĐTB là 4,42; ĐLC 0,65) và “Tôi
luôn tích cực dập tắt đám cháy, chống cháy lan” (ĐTB là 4,27; ĐLC 0,77). Kết quả
này thể hiện sự chuyên nghiệp, yêu ngành, yêu nghề của các chiến sĩ, luôn chủ động
111
giải quyết, không bị chi phối, phân tán bởi những tác động bên ngoài làm ảnh hưởng
đến hiệu quả công việc được giao. Thậm chí, có những chiến sĩ khi nhận được tin
báo, đến hiện trường còn sốt sắng, nôn nóng, hồi hộp mong muốn nhanh chóng bắt
tay vào chiến đấu để giải quyết nhiệm vụ. Việc giải quyết các tình huống cháy nổ
nhanh nhất, hiệu quả nhất, ít thiệt hại nhất luôn nằm trong tâm thức của người chiến
sĩ cảnh sát PCCC và CNCH, điều mà tất cả các chiến sĩ khi đứng trong hàng ngũ của
lực lượng luôn tâm niệm và chuẩn bị sẵn tâm thế cho mình khi có báo động vang lên.
Kết quả phỏng vấn sâu các chiến sĩ phù hợp với kết quả điều tra bằng bảng
hỏi, chiến sĩ D.T.C, 30 tuổi, Công an Hà Nội, cho biết, “Tôi luôn sẵn sàng nhận
lệnh sau khi tiếp nhận tin, khi đến hiện trường quan sát tình huống để triển khai
công tác đảm bảo kết quả cao, tôi luôn làm đúng trình tự, dứt khoát, kiên quyết, tự
tin trong từng hành động. Sẵn sàng nhận lệnh của chỉ huy trong mọi tình huống,
trong tình thế cấp bách cần đưa ra quyết định phải kiên quyết, dứt khoát để hoàn
thành tốt nhiệm vụ, tâm lý vững vàng ảnh hưởng lớn đến hành động của bản thân”.
Chiến sĩ L.D.T, 29 tuổi, Công an Hà Nội, cho biết, “Khi đứng trước tình
huống khẩn cấp, tôi luôn bình tĩnh, tự tin, tạo tâm lý thoải mái nhất, nghe theo
mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, quyết đoán xử lý tình huống một cách hiệu quả nhất
có thể”. Chiến sĩ Ng.C.H, 31 tuổi, Công an Hà Nội: “Là lính đã trực tiếp chiến đấu
trong nhiều hoàn cảnh khác nhau nên tôi luôn giữ được bình tĩnh khi gặp các tình
huống khẩn cấp, nghe theo mệnh lệnh chỉ huy, tập trung vào tình huống để nhận
tình hình rồi đưa ra hướng giải quyết một cách nhanh chóng và chính xác. Phải chủ
động, mưu trí khi phải tác chiến độc lập hay bị cô lập với đồng đội. Không mạo
hiểm khi gặp các tình huống bất lợi như có nguy cơ sập đổ cấu kiện khi cháy”.
Chiến sĩ Ph.H.C, 30 tuổi, Công an Hà Nội, cho biết thêm, “Thái độ giải quyết
THKC ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giải quyết tình huống đó. Chủ động, sẵn
sàng nhận lệnh thể hiện mối quan hệ phục tùng giữa cấp dưới với cấp trên, vừa thể
hiện tính chuyên nghiệp của lực lượng, cũng như thể hiện tinh thần yêu nghề của
chiến sĩ, xả thân vì nghĩa lớn. trong thực tế, nhiều vụ cháy nổ xảy ra ở những địa
hình phức tạp hoặc những cơ sở trọng điểm có thể cháy lan nhanh chóng nhưng lực
lượng phương tiện không đủ. Tuy nhiên, các chiến sĩ luôn nỗ lực khắc phục mọi khó
112
khăn, phối hợp với lực lượng khác để dập tắt đám cháy, không để cháy lan rộng”.
Tuy nhiên, không phải đồng chí nào cũng giữ được bình tĩnh, tự tin ngay từ
đầu. Chiến sĩ Cao.B.H, 25 tuổi, công an Vĩnh Phúc cho biết, “Lúc đầu tôi cũng hơi
hoang mang, nhưng sau đó tôi lấy lại bình tĩnh, quan sát nhanh tình huống đang
xảy ra và cùng đồng đội đưa ra hướng giải quyết với những trang thiết bị, vật dụng
mang theo khi đến hiện trường”. Chiến sĩ Ngô.T.Đ, 24 tuổi, công an Vĩnh Phúc cho
rằng, “Khi đứng trước tình huống khẩn cấp, tôi cảm thấy hoang mang, nhưng cố
gắng giữ cho được bình tĩnh, sáng suốt để giải quyết hiệu quả nhất tình huống đó”.
Trong thực tiễn chiến đấu, việc mất bình tĩnh, lo lắng, sợ hãi, co cứng, hoảng
loạn vẫn diễn ra khi gặp phải các tình huống bất lợi, nguy hiểm, bị cô lập hay không
nhận được sự trợ giúp từ đồng đội xung quanh. Nhiều trường hợp, các chiến sĩ phải
che dấu sự sợ hãi, hoảng loạn, nhút nhát vì các chiến sĩ sợ những thái độ đó được
coi là không phù hợp với công việc của người lính chữa cháy, sợ mọi người sẽ chế
giễu khi biết. Các chiến sĩ trong chiến đấu không phải lúc nào cũng dám nói thật với
chỉ huy bởi người chỉ huy có thể không muốn nghe những gì được coi là sự bao
biện cho hành động hèn nhát, không phù hợp với hình ảnh cứng cỏi, anh dũng của
người lính chữa cháy, họ cũng không muốn mất đi biểu tượng người hùng với
những người xung quanh.
Như vậy, tất cả những vấn đề có tính xuất phát điểm đã được quy định trong
điều lệnh chiến đấu, mỗi chiến sĩ khi tham gia chiến đấu đều thấm nhuần tư tưởng
cốt lõi của điều lệnh, đó là sự kết tinh của kinh nghiệm chiến đấu qua nhiều năm
công tác của các đội chữa cháy trong cả nước. Nguyên tắc quan trọng nhất được
quán triệt trong điều lệnh là bất kỳ trong mọi tình huống ở hiện trường xảy ra cháy
nổ phải bằng mọi cách để cứu người bị nạn và hạn chế đến mức thấp nhất những
thiệt hại về tài sản do cháy nổ gây ra. Để thực hiện tốt điều lệnh chiến đấu thì đòi
hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ đều phải ra sức rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật CC và
CNCH, đồng thời không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của người
Công an nhân dân. Gắn tư cách người công an nhân dân cách mạng với từng việc
làm, từng hành động cụ thể trong chiến đấu, đảm bảo được tính nhân văn cao cả
trong nghề nghiệp của người lính PCCC và CNCH, sẵn sàng vượt qua mọi khó
113
khăn nguy hiểm để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Hai nội dung mà các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH có biểu hiện thái độ
thấp hơn đó là, “Tôi luôn tích cực cứu tài sản” (ĐTB là 3,87; ĐLC 1,03) và “Tôi luôn
kiên quyết thực hiện nhiệm vụ” (ĐTB là 4,00; ĐLC 1,03). Trong điều kiện kinh tế, xã
hội phát triển hiện nay xuất hiện rất nhiều các công trình xây dựng phức tạp, các khu
dân cư đông đúc, các nhà máy, xí nghiệp sản xuất quy mô lớn, sản xuất ra nhiều vật
liệu dễ gây cháy nổ… điều đó gây ra khó khăn cho công tác CC và CNCH. Do vậy,
trong điều kiện hiện nay đòi hỏi các chiến sĩ phải tinh thông về nghiệp vụ, vững vàng
về tâm lý, làm chủ các phương tiện kỹ thuật chiến đấu hiện đại, trách nhiệm trong
chiến đấu để thích ứng với mọi tình huống phức tạp, nguy hiểm có thể xảy ra.
Đánh giá chung về thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của
cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ biểu hiện qua mặt thái độ:
Thực trạng thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH biểu hiện qua mặt thái độ cho thấy, phần lớn các chiến sĩ có thái độ rất chủ
động, sẵn sàng, tích cực, bình tĩnh, tự tin và kiên quyết trong quá trình giải quyết
60.0%
52.3%
50.0%
38.6%
40.0%
30.0%
20.0%
8.3%
10.0%
0.0%
0.8%
0.0%
Cao
Khá cao
Trung bình
Thấp
Rất thấp
các THKC (ĐTB là 4,22; ĐLC 0,55).
Biểu đồ 4.3. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp biểu hiện
ở mặt thái độ
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, mức độ thích ứng với việc giải quyết các THKC
114
của cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện ở mặt thái độ ở mức cao và khá cao chiếm
tỉ lệ 52,3% và 38,6%, thích ứng ở mức trung bình chiếm 8,3%; ở mức thấp là 0,8%
và không có chiến sĩ nào thích ứng ở mức rất thấp. Như vậy, các chiến sĩ không
những thực hiện có kết quả các hành động chiến đấu trong việc giải quyết các
THKC mà bản thân họ luôn có thái độ chủ động, sẵn sàng, bình tĩnh, tự tin và kiên
quyết thực hiện hành động đó. Đây là nội dung quan trọng, phản ánh đúng tinh thần
của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH.
4.2.3. Thích ứng biểu hiện qua mặt hành động
Kết quả thực hiện các hành động chiến đấu trong việc giải quyết các THKC
là một trong ba mặt biểu hiện thích ứng của người chiến sĩ cảnh sát PCCC và
CNCH. Hành động chiến đấu nói chung và hành động chiến đấu trong THKC của
các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH rất đa dạng, phức tạp. Các tình huống nguy
hiểm đòi hỏi chiến sĩ phải nỗ lực, cố gắng khắc phục khó khăn để thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao, hạn chế tối đa thiệt hại do cháy nổ gây ra. Kết quả thực hiện
hành động trong việc giải quyết các THKC là một trong những tiêu chí quan trọng
để xem xét, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, là cơ sở để đánh giá
mức độ thích ứng của chiến sĩ đối với hoạt động nghề nghiệp PCCC và CNCH.
Để đánh giá kết quả thực hiện hành động trong việc giải quyết các THKC của
chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH, luận án lựa chọn một số hành động đặc trưng phù
hợp với việc giải quyết các THKC đó là hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ;
phối hợp hành động với đồng đội; kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc.
Mỗi hành động trong quá trình giải quyết THKC cụ thể của các chiến sĩ sẽ
được phân tích, lý giải những nội dung cơ bản mà các chiến sĩ thực hiện tốt nhất và
kém nhất, để từ đó phản ánh được bức tranh cơ bản về kết quả thực hiện hành động
giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH như là một thành tố quan trọng
của sự thích ứng.
a. Kết quả thực hiện hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ
Để tìm hiểu rõ biểu hiện cụ thể về hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ
của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH trong việc giải quyết các THKC, luận án
xác định 07 mệnh đề cơ bản phản ánh hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ kết
115
hợp với phỏng vấn sâu các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH.
Bảng 4.7. Kết quả hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ
STT ĐTB ĐLC
1 4,24 0,71
2 4,46 0,69
3 4,49 0,60
4 4,40 0,62
5 4,14 0.81
6 4,45 0,60
7 4,37 0,70 Nội dung Tôi luôn nhận thông tin đầy đủ về quy mô, mức độ, địa điểm xảy ra Tôi khẩn trương lên xe đi đến hiện trường nhanh nhất Hành động di chuyển một cách an toàn cho bản thân, đồng đội và phương tiện Khi được phân công nhiệm vụ, tôi luôn chấp hành nghiêm mệnh lệnh của chỉ huy Tôi luôn hành động với tinh thần gương mẫu đi đầu Tôi luôn hiệp đồng chiến đấu, giúp đỡ đồng đội hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao Tôi luôn hành động với tinh thần dũng cảm, kiên trì, bình tĩnh thực hiện nhiệm vụ được giao
Trung bình chung 4,37 0,45
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Qua bảng số liệu ta thấy, hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ của chiến
sĩ cảnh sát PCCC và CNCH trong việc giải quyết các THKC có ĐTB là 4,37, ĐLC
0,45. Kết quả này cho thấy, hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ đã được các
chiến sĩ thực hiện tốt. Trong hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ, có ba nội
dung mà các chiến sĩ thực hiện có điểm số cao nhất đó là: “Hành động di chuyển một
cách an toàn tuyệt đối cho bản thân, đồng đội và phương tiện” (ĐTB là 4,49; ĐLC 0,60);
“Tôi khẩn trương lên xe đi đến hiện trường nhanh nhất” (ĐTB là 4,46; ĐLC 0,69);
“Tôi luôn hiệp đồng chiến đấu, giúp đỡ đồng đội hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao” (ĐTB là 4,45; ĐLC 0,60). Đây là những nội dung quan trọng trong nhận lệnh
và thực thi nhiệm vụ chiến đấu, là kết quả của sự luyện tập, huấn luyện thường
xuyên, sự trải nghiệm thực tiễn chiến đấu, học hỏi kinh nghiệm từ các chiến sĩ đi
trước. Những nội dung này đã được quy định rõ ràng và đầy đủ trong điều lệnh
chiến đấu.
Kết quả phỏng vấn sâu các chiến sĩ về hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm
116
vụ trong quá trình giải quyết các THKC cũng cho ý kiến tương đồng với kết quả điều
tra bằng bảng hỏi. Chiến sĩ N.T.Đ, 27 tuổi, Công an Vĩnh Phúc, cho biết, “Trong khi
làm nhiệm vụ, tôi tuyệt đối tuân thủ và thực hiện theo mệnh lệnh cấp trên, điều lệnh
chiến đấu và điều lệnh CAND. Tôi luôn chú ý lắng nghe phân công nhiệm vụ từ lãnh
đạo, chỉ huy khi có lệnh xuất phát, luôn phối hợp với đồng đội trong chiến đấu, không
tự ý thực hiện nhiệm vụ một mình khi không được sự đồng ý của cấp trên”. Chiến sĩ
Ng.C.H, 31 tuổi, Công an Vĩnh Phúc, cho biết, “Trong các THKC tôi tuyệt đối chấp
hành quy trình, mệnh lệnh của chỉ huy, điều lệnh chiến đấu, điều lệnh CAND. Đồng
thời, tôi có thể tham mưu cho lãnh đạo cấp trên những ý kiến, nhận định riêng của cá
nhân, không có trường hợp nào không tuân theo mệnh lệnh chỉ huy”.
Cũng có chiến sĩ cho rằng, trong trường hợp đặc biệt, cấp bách thì bản thân sẽ
linh động giải quyết tình huống xong rồi báo cáo lại chỉ huy vì nếu làm theo mệnh
lệnh đó sẽ ảnh hưởng đến tính mạng của cán bộ, chiến sĩ khác đang làm nhiệm vụ.
Chiến sĩ Ng.Đ.B, 26 tuổi, Công an Vĩnh Phúc, cho biết, “Trong các THKC việc chấp
hành và thực hiện đúng mệnh lệnh của chỉ huy giúp bản thân và đồng đội tránh sai
sót có thể dẫn tới bị thương và hi sinh. Tuy nhiên, có trường hợp tôi không tuân theo
mệnh lệnh của chỉ huy là khi cháy ở một siêu thị, chỉ huy ra lệnh phun nước vào mặt
lửa, khi tiếp cận đám cháy tôi phát hiện có kho xăng ở bên dưới, lập tức tôi dừng
hoạt động phun nước và báo cáo lại cho chỉ huy để tìm cách giải quyết”.
Chiến sĩ L.Q.D, 27 tuổi, Công an Hà Nội thì nghi ngại, do dự nhiều vấn đề, cho
rằng, “Không phải lúc nào chỉ huy cũng đưa ra mệnh lệnh chính xác, do vậy, phải xem
xét từ hiện trường rồi thực hiện từng bước. Nếu cảm thấy an toàn, hợp lý thì tôi không
ngại đi đầu. Tuy nhiên, hành động dũng cảm trong chiến đấu rất hiếm. Trong chiến
đấu, tiêu chí đầu tiên là đảm bảo an toàn cho cán bộ, chiến sĩ, hành động dũng cảm chỉ
xảy ra khi có các tình huống đặc biệt bất ngờ hoặc có người mắc kẹt trong tình huống
đặc biệt nguy hiểm đến tính mạng cần giải quyết nhanh, ngay lập tức, dù có nắm vững
chuyên môn nhưng nguy hiểm cho cán bộ, chiến sĩ vẫn xảy ra”.
Như vậy, việc đảm bảo an toàn cho bản thân và đồng đội trong chiến đấu luôn
được đề cao, tuy nhiên, trong quá trình chiến đấu, có chiến sĩ vì do dự, không quyết
đoán, sợ nguy hiểm đến sự an toàn của bản thân và đồng đội mà có thể làm giảm đi
117
cơ hội cứu giúp người bị nạn, làm mất đi cơ hội giải quyết sớm tình huống đó.
Bên cạnh đó, có những hành động mà các chiến sĩ có kết quả thực hiện thấp
hơn chút nhưng đều ở mức cao và khá cao, đó là, “Tôi luôn hành động với tinh thần
gương mẫu đi đầu” (ĐTB là 4,14; ĐLC 4,14); “Tôi luôn nhận thông tin đầy đủ về
quy mô, mức độ, địa điểm xảy ra” (ĐTB là 4,24; ĐLC 0,71); “Tôi luôn hành động
với tinh thần dũng cảm, kiên trì, bình tĩnh thực hiện nhiệm vụ được giao” (ĐTB là
4,37; ĐLC 0,70). Trên thực tế, các chiến sĩ luôn gặp các tình huống diễn biến đám
cháy phức tạp, đa dạng, bất ngờ và không phải đám cháy nào cũng xảy ra giống
nhau. Quy mô, địa điểm, diễn biến phức tạp của đám cháy… có ảnh hưởng rất lớn
đến tâm lý của các chiến sĩ. Các yếu tố nguy hiểm của đám cháy tác động lớn tới sự
nỗ lực của cá nhân; bên cạnh đó, nghị lực, tính quyết đoán và ý chí chiến đấu của
mỗi người khác nhau.
Nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ là nội dung quan trọng trong quá trình giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, nội dung này đã được quy định
trong Điều 96 của Điều lệnh chiến đấu của Lực lượng cảnh sát Phòng cháy chữa
cháy năm 2006, quy định về nhiệm vụ của chiến sĩ trong chữa cháy. Trong đó,
chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH phải chấp hành mệnh lệnh của tiểu đội trưởng
khẩn trương và chính xác, nắm vững nhiệm vụ của mình và nhiệm vụ chung của
tiểu đội, không bỏ vị trí chiến đấu nếu không có lệnh của tiểu đội trưởng. Việc thực
hiện từng bước theo quy trình đã được đào tạo, huấn luyện thể hiện tính chính quy,
chuyên nghiệp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của các chiến sĩ cảnh sát PCCC
và CNCH.
b. Kết quả thực hiện hành động phối hợp với đồng đội
Giải quyết THKC trong CC và CNCH là công việc đòi hỏi tinh thần đồng
đội, hành động phối hợp chiến đấu cao và sự tập trung giữa các chiến sĩ. Việc thực
hiện hành động phối hợp chiến đấu với đồng đội được thể hiện trong hành động của
từng chiến sĩ, từng tiểu đội, đơn vị trong việc nhận tin báo cháy, điều động lực
lượng phương tiện đến đám cháy, trinh sát đám cháy, chỉ huy chữa cháy, tham mưu
tác chiến, vị trí đặt trang thiết bị, phương tiện, vị trí các mũi tấn công, triển khai đội
hình chiến đấu, các hành động cứu người, cứu tài sản, bảo vệ, dập tắt. Sự liên lạc,
118
phối hợp, giúp đỡ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cùng nhau giải quyết
các tình huống khó khăn, nguy hiểm và sự chủ động, tích cực phối hợp với các lực
lượng tại chỗ khác… là những biểu hiện tích cực của hành động phối hợp với đồng
đội. Hành động phối hợp trong chiến đấu là biểu hiện đặc trưng cho hoạt động nghề
nghiệp của cảnh sát PCCC và CNCH. Bởi vì, trong hoạt động chiến đấu, các chiến
sĩ phải thực hiện cùng một lúc tiêu chuẩn kép đó là vừa đảm bảo an toàn cho bản
thân, đồng đội và vừa cứu người bị nạn, cứu tài sản, dập tắt đám cháy.
Kết quả biểu hiện cụ thể về hành động phối hợp với đồng đội của các chiến
sĩ cảnh sát PCCC và CNCH trong việc giải quyết các THKC được thể hiện ở bảng
số liệu 4.8 dưới đây.
Bảng 4.8. Kết quả thực hiện hành động phối hợp với đồng đội
STT Nội dung ĐTB ĐLC
Tôi thường xuyên liên lạc với tiểu đội trưởng và đồng đội 1 4,39 0,67 trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Tôi phối hợp chặt chẽ với đồng đội để thực hiện tốt nhất nhiệm 2 4,37 0,62 vụ được giao.
Khi có diễn biến bất ngờ xảy ra, tôi nhanh chóng trao đổi 3 4,28 0,74 để cùng đồng đội giải quyết tốt nhất.
Tôi thường phối hợp với đồng đội kiểm tra, đánh giá tình 4 4,17 0,79 hình một cách chính xác nhất.
Khi đồng đội gặp nguy hiểm, tôi nhanh chóng hỗ trợ, giúp 5 4,57 0,59 đỡ đưa họ ra khỏi nơi nguy hiểm.
Khi phát hiện đồng đội gặp khó khăn trong việc thực hiện 6 4,38 0,67 nhiệm vụ, tôi giúp đỡ họ để hoàn thành nhiệm vụ.
7 4,13 0,89 Tôi luôn chủ động, tích cực phối hợp chiến đấu với lực lượng tại chỗ khác.
TBC 4,32 0,50
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có ba nội dung phối hợp hành động với đồng
đội trong việc giải quyết các THKC của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH
thực hiện có điểm số cao nhất đó là, “Khi đồng đội gặp nguy hiểm, tôi nhanh
119
chóng hỗ trợ, giúp đỡ đưa họ ra khỏi nơi nguy hiểm” (ĐTB là 4,57; ĐLC 0,59);
“Tôi thường xuyên liên lạc với tiểu đội trưởng và đồng đội trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ” (ĐTB là 4,39; ĐLC 0,62) và “Khi phát hiện đồng đội gặp khó
khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ, tôi giúp đỡ họ để hoàn thành nhiệm vụ”
(ĐTB là 4,38; 0,67).
Nghề PCCC và CNCH được coi là nghề nguy hiểm, luôn phải xông vào
hiểm nguy trong khi hầu hết những người khác bỏ chạy, họ thường phải đối mặt
với những tổn thương về cả thể chất và tâm lý, điều rất ít khi gặp ở những nghề
khác. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các chiến sĩ phải tiếp xúc với các nạn
nhân bị thương, bị chết do cháy nổ và sụp đổ cấu kiện xây dựng, tai nạn xe khi di
chuyển tới hiện trường hay hít phải khí độc hại từ những vật liệu cháy. Mặc dù,
các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH đều được huấn luyện đặc biệt về mặt thể lực
cùng với việc áp dụng các thiết bị công nghệ tiên tiến, sự đầu tư về thiết bị bảo hộ
giúp công việc của các chiến sĩ trở lên an toàn hơn. Tuy nhiên, trong những năm
qua tỉ lệ chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH hi sinh, bị thương không có dấu hiệu
giảm, mà có dấu hiệu tăng lên, điều đó cho thấy tính chất nguy hiểm của nghề
PCCC và CNCH.
Truyền thống của lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH đã mang lại những khía
cạnh tích cực, các chiến sĩ là một liên minh gắn bó mật thiết không phân biệt giới
tính, độ tuổi, vùng miền, những người phục vụ và sẵn sằng hi sinh vì một xã hội tốt
đẹp, bình yên. Tình anh em gắn bó keo sơn của họ hình thành và phát triển không chỉ
trong thực hiện nhiệm vụ mà còn trong cùng nhau rèn luyện, tập huấn, chia sẻ kinh
nghiệm trong cuộc sống và cùng nhau ăn tối khi trực chiến, họ coi nhau như một gia
đình. Cảm giác về sự thân thuộc này tăng lên theo những giờ làm nhiệm vụ. Ngoài
giờ làm việc, các chiến sĩ thường có những hành động để gắn kết nhằm củng cố sức
mạnh và các chuẩn mực văn hóa của ngành PCCC và CNCH. Chính tính gắn kết này
là yếu tố chủ chốt đưa đến khả năng cùng nhau thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả và tạo
cảm giác thân thuộc như những thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, có một số
trường hợp, các chiến sĩ tin rằng để có hiệu quả, họ phải nhanh chóng chữa cháy bằng
mọi giá và chấp nhận rủi ro cho cá nhân cũng như tập thể. “Tâm lý anh hùng” này có
120
thể khiến nảy sinh các phương pháp chữa cháy không chính xác và không an toàn dẫn
đến nhữg tổn thất về tính mạng hoặc bị thương hết sức đáng tiếc. Nhiều chiến sĩ đã
được huấn luyện để ghi nhớ rằng họ có thể bị thương hoặc có thể phải hi sinh khi ứng
phó với các sự cố khẩn cấp, bất thường.
Bên cạnh đó, các hành động phối hợp với đồng đội trong việc giải quyết
các THKC mà các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH có điểm số thấp hơn, đó là,
“Tôi luôn chủ động, tích cực phối hợp chiến đấu với lực lượng tại chỗ khác”
(ĐTB là 4,13; ĐLC 0,89); “Tôi thường phối hợp với đồng đội kiểm tra, đánh giá
tình hình một cách chính xác nhất” (ĐTB là 4,17; ĐLC 0,79); “Khi có diễn biến
bất ngờ xảy ra, tôi nhanh chóng trao đổi để cùng đồng đội giải quyết tốt nhất”
(ĐTB là 4,28; ĐLC 0,74). Bất kỳ sự việc bất thường, đột xuất nào cũng có thể gây
ra gây ra phản ứng cảm xúc mạnh ở con người và ảnh hưởng tới hoạt động của họ.
Các nghiên cứu và thực tế cũng chỉ ra rằng, nghề nghiệp của các chiến sĩ chữa
cháy là một trong những công việc căng thẳng và nguy hiểm nhất thế giới, công
việc của họ phải chạy vào khi mà những người khác thấy nguy hiểm chạy ra.
Phần lớn các công việc mà lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH thực hiện
đều là các công việc nặng tiêu hao năng lượng lớn bởi nó được xếp vào loại lao
động nặng, đôi khi là rất nặng. Các hành động trong THKC chữa cháy và CNCH
thường đòi hỏi các chiến sĩ phải mang vật nặng và vượt qua quãng đường dài mà
phải chạy nhanh và có khi phải leo lên cao. Các hoạt động đó diễn ra trong các
điều kiện nguy hiểm như thiếu ôxy, nhiệt độ cao, nhiều khói, nguy cơ nổ, sụp đổ,
chỉ sơ xuất là có thể nguy hiểm tới tính mạng. Đặc điểm quan trọng của các hoạt
động chiến đấu của cảnh sát PCCC và CNCH trong việc giải quyết các THKC, đó
là tốc độ. Những công việc và cường độ hoạt động ở đó đòi hỏi phải có nhiều
người tham gia để thay đổi ca. Tuy nhiên, có những đám cháy diễn ra nhiều giờ,
quy mô lớn khiến sức lực bị vắt kiệt, cơ thể bị bào mòn, mất nước từ đó làm tăng
nguy cơ bị chấn thương cho các chiến sĩ.
Là chiến sĩ tham gia chữa cháy tại số 12 phố Núi Trúc, chiến sĩ D.M.H, đội
phó, người trực tiếp có mặt tại hiện trường, khi được phỏng vấn sâu cho biết: “Dù
ngôi nhà 5 tầng đang cháy bị khóa cửa nhưng việc tìm người mắc kẹt vẫn phải
121
triển khai vì đây là nhiệm vụ bất di bất dịch. Nhờ được đào tạo chuyên sâu về
nghiệp vụ, không chủ quan trong mọi tình huống nên các chiến sĩ mới phát hiện ra
nạn nhân vẫn mắc kẹt trong nhà. Sau này, qua chia sẻ của gia đình mới biết, nạn
nhân vừa đi học ở Anh về, múi giờ thay đổi nên vẫn đang ngủ trên tầng, khi người
nhà đi vắng. Khi được phát hiện, cháu G nằm sấp trên nền nhà, đã bất tỉnh. Bởi
tuân thủ theo nguyên tắc chữa cháy và cứu nạn cứu hộ nên hôm đó mới phát hiện
ra nạn nhân. Việc phát hiện ra người bị nạn trong khói đen mịt mùng đã khó khăn,
nên việc đưa được họ ra ngoài lại là cả một chặng đường không hề dễ dàng gì”.
Chiến sĩ V.N.H, Công an thành phố Hà Nội tâm sự thêm, “Nhiệm vụ của tôi hôm
đó không phải là trực tiếp chữa cháy nhưng thấy cần tăng cường nên tôi tham gia.
Khi lên tầng 3 nghe thấy đồng đội báo có người mắc kẹt nên lao lên tầng 4. Khói
dày đặc nên tôi còn không nhìn thấy nạn nhân mà phải theo chỉ dẫn của đồng chí
H. Bước đầu, xác định nạn nhân còn sống, dù thở rất yếu, đồng chí H đã tháo
bình thở đặt cho nạn nhân. Còn tôi cõng nạn nhân đi xuống. Cầu thang quá hẹp
lại có nhiều đồ vướng nên tôi phải tháo mũ của mình và bình thở của nạn nhân.
Càng xuống dưới, khói càng dày đặc. Đến chiếu nghỉ tầng 3 với tầng 2 mệt quá,
đôi chân muốn khụy xuống… nhưng, nếu không cố bước thì hậu quả thật khôn
lường…tôi nặng 75kg, nạn nhân nặng 65kg, nếu bình thường tôi có thể cõng nạn
nhân chạy băng băng. Vậy nhưng lúc đó, khói cay xè, ngạt thở, mắt không mở
nổi… tôi bước ra ngoài được là nhờ lý trí. Và cái cảm giác được hít thở khi ra
được bên ngoài đến lúc này tôi không thể nào quên”. Chiến sĩ V.N.H cho biết
thêm,“Việc cứu người, cứu của là nhiệm vụ, không chỉ tôi mà tất cả những chiến
sĩ cảnh sát PCCC khác trong hoàn cảnh này đều làm như thế. Ở trong tình thế
ngàn cân treo sợi tóc, mạng sống của nạn nhân quan trọng hơn bất cứ thứ gì
khác, với chúng tôi, chỉ mong mỗi ngày trôi qua mà không có tiếng chuông báo
động vang lên và không có ai bị mất mát do cháy gây ra, đó là niềm vui lớn nhất
của chúng tôi”.
Các chiến sĩ cảnh sát PCCC trong quá trình thực hiện nhiệm vụ luôn phải
đối mặt với các nguy cơ bị thương do các vật sắc nhọn gây ra. Chiến sĩ V.N.H,
Công an thành phố Hà Nội, người bị thương ở tay khi đang tham gia chữa cháy,
122
sau khi được đồng đội băng bó anh lại cùng với đồng đội lao vào quyết tâm dập tắt
đám cháy bảo vệ tính mạng, tài sản cho nhân dân. Đồng chí D.H.T, Đội trưởng đội
chữa cháy hôm đó cho biết, “Trong vụ cháy đó, khi giai đoạn khó khăn nhất của
việc khắc phục đám cháy đã qua đi, tôi cùng với một số đồng chí khác phát hiện
trên cánh tay của chiến sĩ V.N.H có vết thương nên đã yêu cầu chiến sĩ ấy tạm
dừng nhiệm vụ để cho y tế băng bó thì V.N.H có bảo: trong ngôi nhà này di
chuyển khó khăn, em đã ra vào nhiều lần, thông thuộc đường đi lối lại nên anh cứ
để em vào trong đấy”. Hình ảnh người chiến sĩ chữa cháy mặt mũi nhem nhuốc,
tay đang chảy máu ròng ròng cùng với đồng đội kịp thời cứu thoát người bị nạn ra
khỏi đám cháy an toàn, khiến những người chứng kiến vô cùng cảm động. Hình
ảnh đó giúp người dân hiểu rõ hơn về sự gian khổ và nguy hiểm mà người lính
chữa cháy phải đối mặt khi làm việc.
Công việc của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH luôn ở cường độ cao,
kéo dài và trong tình trạng làm việc quá kiệt sức, do đó đôi khi khó làm theo các
hướng dẫn và các nguyên tắc đã được huấn luyện, đào tạo. Các căng thẳng tâm lý
gây ra sức ép cho các chiến sĩ, nó làm phân tán sự tập trung chú ý, gây ra chứng
đãng trí tạm thời, thậm chí gây tê liệt hoạt động tư duy, tưởng tượng, làm giảm
khả năng hoạt động và phản ứng của cơ thể trước tác động từ tình huống.
Những hình ảnh phản ánh chân thực về các chiến sĩ cảnh sát PCCC và
CNCH với khuôn mặt đen nhẻm, mồ hôi dính bết, dáng vẻ mệt đứt hơi, trên lưng
cõng nạn nhân lả đi vì say khói bước ra từ đám cháy đã lột tả hết sự khẩn thiết của
việc cứu người cũng như những nguy nan mà người lính chữa cháy phải đối mặt.
Đó là những hình ảnh cảm động về công việc của người lính chữa cháy, những
con người gần gũi và mộc mạc, lúc ra trận thì anh dũng thiện chiến như những
người anh hùng xuất hiện luôn đúng lúc để cứu giúp nạn nhân thoát khỏi ngọn lửa
và khói độc.
Từ thực tế tại các đơn vị chiến đấu cho thấy rằng, nếu các chiến sĩ cảnh sát
PCCC và CNCH được huấn luyện tốt, tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, tổ chức
các hoạt động chiến đấu bài bản, được chỉ huy tốt và có sự phối hợp nhịp nhàng
chặt chẽ giữa các tiểu đội tham gia thì hiệu quả của việc giải quyết các THKC
123
trong CC và CNCH sẽ cao hơn. Vì vậy, có thể nói sự phối hợp chiến đấu một cách
đồng bộ trong quá trình giải quyết các THKC là một trong những yếu tố quan
trọng ảnh hưởng tới kết quả của công tác CC và CNCH. Sự phối hợp chiến đấu
giữa các chiến sĩ trong CC và CNCH phụ thuộc nhiều vào sự chỉ đạo của người
chỉ huy. Do đó, vai trò của người chỉ huy có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động
giải quyết các THKC trong CC và CNCH. Sự thành công trong quá trình giải
quyết các THKC về CC và CNCH là kết quả của sự thống nhất về mục đích, vị trí,
thời điểm hành động cũng như sự kết hợp hành động của các chiến sĩ CC và
CNCH, kể cả về con người và phương tiện.
Tuy nhiên, thực tế việc trang bị cho các chiến sĩ trong chiến đấu vẫn còn
hạn chế, chưa đầy đủ. Điều đó gây ra không ít khó khăn cho các chiến sĩ trong
chiến đấu. Kết quả phỏng vấn sâu chiến sĩ, Ph.H.C, 30 tuổi, Công an Hà Nội, cho
biết, “Trong quá trình chiến đấu, tôi thường liên lạc với với chỉ huy, với đồng đội
bằng lời nói, cử chỉ, ký hiệu (đã được thống nhất trong khi luyện tập). Thực tiễn
trong chiến đấu, việc liên lạc với giữa những chiến sĩ với nhau, chiến sĩ với chỉ
huy không đảm bảo vì chưa được trang bị bộ đàm liên lạc, âm thanh, tiếng ồn
phát ra từ đám cháy, từ đám đông xung quanh, tiếng sụp đổ cấu kiện xây dựng,
tiếng khóc của nạn nhân... Việc động viên kịp thời đồng đội trong lúc khó khăn,
nguy hiểm rất quan trọng, giúp họ bình tĩnh và lấy lại tinh thần, giữ vững vị trí
chiến đấu”.
Chiến sĩ T.T.H. 31 tuổi, Công an Hà Nội, cho biết thêm, “Phải giữ liên lạc
với đồng đội và chỉ huy nhưng do phương tiện trang bị sơ sài nên việc liên lạc hay
đứt quãng, không thuận lợi. Nếu gặp tình huống bất ngờ xảy ra, phải thật bình
tĩnh, không được mất tự chủ, phân tích, suy nghĩ nhanh những biện pháp xử lý đã
được học tập, huấn luyện, kinh nghiệm đã trải qua, khi không xử lý được cần kêu
gọi sự giúp đỡ của đồng đội. Nếu đồng đội gặp nguy hiểm phải nhanh chóng và
gọi trợ giúp từ đồng đội khác, báo cáo với chỉ huy, tìm mọi cách đưa đồng đội ra
khu vực an toàn, tránh tai nạn thứ cấp xảy ra” và “Phải giúp đỡ đồng đội khi gặp
khó khăn, chia sẻ kinh nghiệm hay những kiến thức mà mình đã biết cho đồng đội
để xử lý tình huống tốt hơn”, đối với lực lượng tại chỗ “họ là người tiếp cận hiện
124
trường đầu tiên và sớm nhất nên thông qua lực lượng tại chỗ để nắm tình hình rõ
hơn, nhanh hơn và từ đó đưa ra phương án khả thi và nhanh nhất, trong suốt quá
trình phải liên lạc và nhận thông tin từ họ”.
Như vậy, hành động phối hợp chiến đấu với đồng đội đóng vai trò rất quan
trọng, nó quyết định hiệu quả công tác CC và CNCH của các chiến sĩ. Chính vì
vậy mà các chỉ huy CC và CNCH cũng như các chiến sĩ phải không ngừng rèn
luyện tâm lý, nghiệp vụ để nâng cao công tác tổ chức và thực hiện hiệp đồng chiến
đấu với đồng đội, với chỉ huy và các lực lượng khác khi tham gia giải quyết các
THKC trong CC và CNCH.
c. Kết quả thực hiện kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc
Các đội công tác chữa cháy và cứu nạn cứu hộ được trang bị nhiều loại
phương tiện kỹ thuật khác nhau như: các loại máy bơm chữa cháy, xe chữa cháy,
xe kỹ thuật, xe thang, xe trạm bơm, xe chở vòi, xe chỉ huy, xe thông tin ánh sáng,
xe tải, xe chở người... các loại phương tiện chữa cháy rất đa dạng. Việc triển khai
lực lượng, phương tiện chiến đấu nhằm triển khai đội hình sẵn sàng chiến đấu.
Các hành động đó đều nhằm mục đích đưa các phương tiện và lực lượng CC và
CNCH vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, phù hợp với hoàn cảnh diễn biến tại hiện
trường, theo kỹ chiến thuật của người chỉ huy. Các tiểu đội biên chế trên các xe
chuyên dùng phải phối hợp một cách chặt chẽ với các tiểu đội khác để hoàn thành
tốt nhiệm vụ được được giao.
Các kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc của các chiến sĩ được
thể hiện trong các hoạt động chiến đấu như: trinh sát, cứu người, cứu tài sản, tháo
dỡ cấu kiện xây dựng, triển khai dựng thang, mang thiết bị chống khói, chống
nhiệt, chống độc khi dập tắt đám cháy… Kết quả nghiên cứu các kỹ năng sử dụng
phương tiện, kỹ thuật, máy móc trong việc giải quyết các THKC của các các chiến
125
sĩ cảnh sát PCCC và CNCH được thể hiện trong bảng 4.9 dưới đây.
Bảng 4.9. Kết quả kỹ năng sử dụng phƣơng tiện, kỹ thuật, máy móc
STT Nội dung ĐTB ĐLC
4,51 0,62 1
Tôi sử dụng thành thạo các thiết bị bảo hộ trong thực hiện nhiệm vụ (quần áo, mũ, ủng, gang tay, mặt nạ phòng độc)
4,33 0,70 2
Tôi sử dụng thành thạo các loại phương tiện, dụng cụ chữa cháy chuyên dụng như xe chữa cháy kèm các dụng cụ lăng, vòi
4,31 0,74 3 Tôi sử dụng thành thạo các loại bình cứu hỏa trong việc dập tắt đám cháy
4,46 0,62 4
Tôi sử dụng thành thạo các thiết bị phòng chống khói khí độc như mặt nạ phòng độc, các loại bình dưỡng khí.
3,88 0,96 5 Tôi sử dụng thành thạo các loại xe thang chữa cháy, xe cứu nạn cứu hộ
Tôi sử dụng thành thạo băng ca khi cứu người bị nạn 4,02 0,89 6
4,29 0,76 7 Tôi sử dụng thành thạo các thiết bị liên lạc để phối hợp với đồng đội trong thực hiện nhiệm vụ
4,46 0,63 8
Tôi sử dụng thành thạo các loại dụng cụ, thiết bị cứu nạn cứu hộ (búa, cưa, rìu, xà beng, banh cắt, thang dây, ống tuột)
3,77 1,10 9
Tôi sử dụng thành thạo các thiết bị máy móc công nghệ hỗ trợ hình ảnh như máy ảnh hồng ngoại, máy quay hồng ngoại, fly cam
Trung bình chung 4,23 0,54
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Bảng kết quả cho thấy, có bốn nội dung về các kỹ năng sử dụng phương tiện,
kỹ thuật, máy móc mà các chiến sĩ đạt điểm số cao nhất, đó là, “Tôi sử dụng thành
thạo các thiết bị phòng chống khói khí độc như mặt nạ phòng độc, các loại bình
dưỡng khí” và “Tôi sử dụng thành thạo các loại dụng cụ, thiết bị cứu nạn cứu hộ
như búa, cưa, rìu, xà beng, banh cắt, thang dây, ống tuột” (ĐTB là 4,46; ĐLC
0,63); “Tôi sử dụng thành thạo các thiết bị bảo hộ trong thực hiện nhiệm vụ (quần
126
áo, mũ, ủng, gang tay, mặt nạ phòng độc)” (ĐTB là 4,51; ĐLC 0,62) và “Tôi sử
dụng thành thạo các loại phương tiện, dụng cụ chữa cháy chuyên dụng như xe chữa
cháy kèm các dụng cụ lăng, vòi” (ĐTB là 4,33; ĐLC 0,70). Trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ giải quyết các THKC, các chiến sĩ thường gặp phải những khó khăn,
phức tạp, nguy hiểm, điều đó đòi hỏi các chiến sĩ phải dũng cảm, mưu trí mới có thể
vượt qua để vượt qua để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Công tác huấn luyện kỹ năng, nghiệp vụ đảm bảo kết hợp chặt chẽ giữa lý
luận với thực tiễn, học tập gắn liền với thực tế giải quyết các THKC. Việc nắm
vững những nguyên lý, những kiến thức cơ bản giúp các chiến sĩ áp dụng vào thực
tế một cách đúng đắn và linh hoạt. Việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và
thực hành đã giúp các chiến sĩ giải quyết THKC một cách nhanh chóng, chính xác
và hiệu quả. Bên cạnh đó, tính tự giác, tích cực, gan dạ, dũng cảm của cán bộ, chiến
sĩ đã được thể hiện trong chiến đấu. Sự lặp đi lặp lại nhiều lần các động tác đã có
ảnh hưởng tích cực tới việc hình thành sức bền, kỹ năng, kỹ xảo trong thực hiện
hành động của các chiến sĩ, giúp các chiến sĩ ghi nhớ một cách sâu sắc hơn những
tri thức đã được lĩnh hội và nhờ đó các chiến sĩ đã được thể hiện tốt trong chiến đấu.
Hoạt động giải quyết THKC trong CC và CNCH của các chiến sĩ được huấn
luyện bài bản, khoa học, nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật tốt, được tổ chức chỉ huy
tốt và luôn sẵn sàng chiến đấu cao. Việc huấn luyện thường xuyên giúp các chiến sĩ
trau dồi trình độ kiến thức, tích lũy kinh nghiệm, năng lực chuyên môn và rèn luyện
kỹ năng, kỹ xảo; đồng thời rèn luyện ý chí chiến đấu, tính kỷ luật, tác phong, sức
khỏe cần thiết cho người chiến sĩ. Chính những cố gắng không ngừng nghỉ, chăm
chỉ luyện tập trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh đã giúp các chiến sĩ thích ứng
với quá trình giải quyết các THKC để đạt kết quả tốt, giảm thiểu tới mức tối đa thiệt
hại về người và tài sản của người dân.
Bên cạnh đó, cũng có hai nội dung mà các chiến sĩ thực hiện có điểm số thấp
hơn, đó là, “Tôi sử dụng thành thạo các thiết bị máy móc công nghệ hỗ trợ hình ảnh
như: máy ảnh hồng ngoại, máy quay hồng ngoại, fly cam” (ĐTB là 3,77; ĐLC
1,10); “Tôi sử dụng thành thạo các loại xe thang chữa cháy, xe cứu nạn cứu hộ”
(ĐTB là 3,88; ĐLC 0,96). Kết quả phỏng vấn sâu về kỹ năng sử dụng trang thiết bị,
phương tiện, kỹ thuật máy móc cho thấy, các chiến sĩ sử dụng rất thành thạo các
127
trang thiết bị bảo hộ cá nhân. Tuy nhiên, với các trang thiết bị, công nghệ chuyên
dụng hiện đại do mới được trang bị ít vì thế các chiến sĩ chưa có kỹ năng thành
thục. Chiến sĩ T.T.H. 31 tuổi, Công an Hà Nội, tâm sự: “Kỹ năng sử dụng thiết bị
bảo hộ nhất định mọi cán bộ, chiến sĩ phải nắm chắc, không có ngoại lệ. Bản thân
tôi thực hiện tốt các kỹ năng này ở đơn vị thường xuyên huấn luyện cho các chiến sĩ
sử dụng các trang thiết bị CC và CNCH, mỗi ngày 2 tiếng sau giao ban sáng. Các
thiết bị liên lạc như bộ đàm chỉ được sử dụng trong các đám cháy lớn có phối hợp
với nhiều lực lượng. Còn các thiết bị máy móc chuyên dụng hỗ trợ như xe thang
chữa cháy, xe cứu nạn cứu hộ, máy ảnh hồng ngoại, máy quay phim hồng ngoại, fly
cam… ở đơn vị chỉ một số đồng chí chuyên trách sử dụng thành thạo”. Chiến sĩ
D.T.C, 30 tuổi, Công an Hà Nội: “Tôi sử dụng thành thạo, nhuần nhuyễn và thường
xuyên luyện tập khi sử dụng các thiết bị bảo hộ như quần áo, mũ, ủng, găng
tay…cũng như các phương tiện nhiều chi tiết như mặt nạ phòng độc, lọc độc, banh
cắt, khoan, đệm… Đơn vị có trang bị máy quay tìm kiếm cứu nạn cứu hộ dưới nước
nên bản thân sử dụng thành thạo các thiết bị này”.
Tuy nhiên, không phải đơn vị chiến đấu nào cũng được trang bị đầy đủ
phương tiện, thiết bị máy móc. Chiến sĩ L.D.T, 30 tuổi, Công an Hà Nội, cho biết:
“Bản thân tôi sử dụng tốt các trang thiết bị bảo hộ, tuy nhiên tại đơn vị, số lượng
mặt nạ phòng độc còn ít nên thao tác của nhiều chiến sĩ chưa thật sự thành thục,
bình dưỡng khí sử dụng xong thì hệ thống máy nạp khí chỉ có một cái nên cường độ
sử dụng cao, máy móc thiết bị không sử dụng hiệu quả được. Các thiết bị như máy
quay hồng ngoại chưa bao giờ được sử dụng”
Kết quả quan sát hành động sử dụng trang thiết bị, phương tiện, kỹ thuật,
máy móc trong tình huống giả định cho thấy, các chiến sĩ đã nắm vững kỹ thuật sử
dụng, thành thạo, thao tác nhanh trong thời gian ngắn, tự tin, đúng các bước trình
tự. Thời gian tính toán thoát nạn nhanh ra khỏi khu vực nguy hiểm, đưa nạn nhân ra
khu vực an toàn. Trong tình huống nạn nhân nguy kịch do ngạt khói, đã có chiến sĩ
nhường mặt nạ, bình dưỡng khí cho nạn nhân mà vẫn đảm bảo an toàn tính mạng.
Tuy nhiên, sự sợ hãi vẫn xuất hiện khi chiến sĩ đó phải chiến đấu độc lập trong khi
mối nguy hiểm từ đám cháy luôn đe dọa sự an toàn, tình huống xử lý phức tạp, bị
128
kẹt trong khi di chuyển do vướng vật cản mà không thể thoát ra được…
d. Đánh giá chung về thực trạng thích ứng với việc giải quyết các tình huống
khẩn cấp biểu hiện qua mặt hành động
Đánh giá chung về thực trạng thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH biểu hiện qua hành động cho thấy, thích ứng ở mặt hành
động của các chiến sĩ có điểm số ở mức cao (ĐTB là 4,31; ĐLC 0,43). So với thích
ứng chung thì biểu hiện thích ứng biểu hiện về mặt hành động giải quyết các THKC
57.1%
60.0%
50.0%
40.9%
40.0%
30.0%
20.0%
10.0%
2.0%
0.0%
0.0%
0.0%
Cao
Khá cao
Trung bình
Thấp
Rất thấp
cao hơn (thích ứng chung có ĐTB là 4,15).
Biểu đồ 4.4. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp biểu hiện
ở mặt hành động
Kết quả nghiên cứu biểu hiện chung về thích ứng với việc giải quyết các
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH cho thấy, các chiến sĩ thích ứng biểu hiện mặt
hành động ở mức cao là 57,1%; ở mức khá cao là 40,9%, mức trung bình là 2,0%,
không có chiến sĩ nào thích ứng mặt hành động ở mức thấp và rất thấp. Như vậy,
phần lớn các chiến sĩ đã thực hiện tốt các hành động chiến đấu trong việc giải quyết
các THKC, đảm bảo hiệu quả tốt công việc được giao. Điều này phản ánh khách
quan về năng lực nghề nghiệp của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH, đáp ứng
được yêu cầu chuyên môn mà xã hội phân công. Tuy nhiên, qua phỏng vấn sâu,
thảo luận nhóm và trao đổi với một số cán bộ, chiến sĩ, chỉ huy đội, phòng cho thấy,
129
có một số chiến sĩ còn gặp khó khăn nhất định trong việc thực hiện các hành động
giải quyết THKC trong CC và CNCH, một phần do năng lực chuyên môn còn hạn
chế, tình yêu nghề chưa đủ lớn, cũng như ý thức chưa cao trong việc khắc phục khó
khăn để thực hiện tốt yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
4.2.4. Tương quan giữa các mặt biểu hiện của thích ứng với việc giải quyết
các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Như đã phân tích ở trên, thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH được biểu hiện trên 03 mặt: nhận thức, thái độ và hành động. Tuy nhiên,
để tìm hiểu vấn đề một cách sâu sắc hơn, chúng tôi xem xét mối tương quan giữa các mặt
biểu hiện của thích ứng. Việc xem xét mối tương quan này nhằm tìm hiểu sự tồn tại đồng
thời hay không đồng thời, cùng biến thiên hay không cùng biến thiên giữa chúng, hệ số
tương quan nhị biến Pearson giữa các mặt biểu hiện của thích ứng với việc giải quyết các
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH được thể hiện ở biểu đồ 4.5 dưới đây:
Biểu đồ 4.5. Mối quan hệ giữa các mặt biểu hiện của thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Kết quả biểu đồ 4.5 cho thấy, thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH được thể hiện qua 3 mặt nhận thức, thái độ và hành động
có tương quan thuận chặt và có ý nghĩa về mặt thống kê. Có thể thấy rõ hơn nhận
130
định trên qua kết quả sau đây:
Nhận thức có mối tương quan thuận và có ý nghĩa thống kê với thái độ và
hành động, với thái độ (r = 0,533**, p<0,01), với hành động (r = 0,489**, p<0,01).
Điều này cho thấy ở những chiến sĩ có kết quả nhận thức cao thì thái độ và hành
động cũng cao và ngược lại.
Thái độ có mối tương quan thuận và có ý nghĩa thống kê với hành động và
nhận thức, hành động (r = 0,698**, p<0,01), với nhận thức (r = 0,533**, p<0,01).
Điều này cho thấy ở những chiến sĩ có kết quả thái độ cao thì nhận thức và hành
động cũng cao và ngược lại.
Hành động có mối tương quan thuận và có ý nghĩa thống kê với nhận thức
và thái độ, với nhận thức (r = 0,489**, p<0,01), với thái độ (r = 0,698**, p<0,01).
Điều này cho thấy những chiến sĩ có kết quả hành động cao thì nhận thức và thái độ
cũng cao và ngược lại.
Nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ khăng khít, mật thiết không tách rời
giữa nhận thức, thái độ, hành động với thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH. Các tương quan này thuận rất mạnh thể hiện sự gắn bó
mật thiết và có ý nghĩa thống kê với nhau.
Như vậy, ba mặt biểu hiện của thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH có mối tương quan thuận, chặt chẽ không tách rời nhau
mà thống nhất trong một chỉnh thể chung. Trong đó, mặt thái độ có mối quan hệ gắn
bó hơn với các mặt biểu hiện của thích ứng so với nhận thức và hành động. Mức độ
thích ứng chung có mối tương quan mạnh nhất và gắn bó mật thiết với mặt thái độ .
4.2.5. So sánh thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của
cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ với các nhóm khách thể
a. Theo trình độ đào tạo
Kết quả kiểm định ANOVA cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
mức độ thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp giữa các nhóm chiến
sĩ có trình độ học vấn khác nhau (F=7,444; p=0,000), theo đó:
Những chiến sĩ có trình độ đại học có mức độ thích ứng cao nhất và những
chiến sĩ có trình độ trung học phổ thông có mức độ thích ứng thấp nhất (với sự
131
chênh lệch điểm trung bình 0,17).
Bảng 4.10. Kiểm định sự khác biệt về mức độ thích ứng giữa các nhóm
khách thể phân theo trình độ học vấn
Trung học phổ thông 4,06 0,38 Trình độ học vấn Trung cấp 4,12 0,43 Đại học 4,23 0,43
F=7,444; p=0,000 Điểm trung bình Độ lệch chuẩn ANOVA
Các chiến sĩ có trình độ đại học được đào tạo chuyên sâu kiến thức cả lý
thuyết và thực hành, nhận thức được bản chất của THKC, dễ dàng điều chỉnh thái
độ, hành động của mình phù hợp với hoàn cảnh. Các chiến sĩ trình độ trung cấp có
điểm trung bình thấp hơn chút nhưng trong quá trình chiến đấu luôn thể hiện sự
chuyên nghiệp, nghiêm túc và hết mình vì nhiệm vụ. Các chiến sĩ có trình độ trung
học phổ thông có điểm trung bình thấp nhất, họ là những chiến sĩ nghĩa vụ, chỉ
được huấn luyện nghiệp vụ, chưa được đào tạo đầy đủ cả lý thuyết và thực hành.
Tuy nhiên, các chiến sĩ có cơ hội được xét tuyển biên chế chuyên nghiệp và cơ hội
đi học nếu thi đỗ. Do vậy, các chiến sĩ luôn tỏ thái độ chăm chỉ, nghiêm túc trong
luyện tập, nhiệt huyết trong chiến đấu để mong muốn được sự ghi nhận từ lãnh đạo,
đồng đội và xã hội.
b. Theo cấp bậc hàm
Kết quả kiểm định ANOVA cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trên
tổng thể các nhóm khách thể chiến sĩ theo cấp bậc hàm về mức độ thích ứng với
việc giải quyết các tình huống khẩn cấp (F=6,485, p=0,001), theo đó:
Những chiến sĩ có cấp hàm cấp tá trở lên có điểm trung bình cao nhất (ĐTB
là 4,18). Điều này cho thấy, những chiến sĩ có cấp hàm cao có khả năng thích ứng
với các tình huống khẩn cấp cao hơn các chiến sĩ có cấp hàm thấp hơn và những
chiến sĩ nghĩa vụ (các chiến sĩ nghĩa vụ có điểm trung bình thấp nhất (ĐTB là 4,07).
Điều này về cơ bản là phù hợp khi trên thực tế, những chiến sĩ có cấp hàm cao là
những chiến sĩ có thời gian công tác lâu và có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, thời
gian và mức độ được trải nghiệm trong việc giải quyết các tình huống khẩn cấp
cũng nhiều hơn. Do vậy, khả năng ứng phó và kiểm soát cảm xúc cũng như khả
năng thích ứng của bản thân người chiến sĩ trong các tình huống khẩn cấp cũng
132
ngày một nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Ngược lại,
những chiến sĩ có cấp bậc hàm thấp và chiến sĩ nghĩa vụ có thời gian công tác ngắn
hơn, sự trải nghiệm chiến đấu thực tiễn cũng ít hơn. Do đó, khả năng thích ứng với
việc giải quyết các THKC cũng thấp hơn so với các chiến sĩ có cấp hàm cao hơn.
Bảng 4.11. Kiểm định sự khác biệt về mức độ thích ứng giữa các nhóm
khách thể phân theo cấp bậc hàm
Cấp bậc hàm ĐTB ĐLC ANOVA
Nghĩa vụ 4,07 0,39
Hạ sĩ quan 4,08 0,38
Thiếu úy 4,08 0,39
Trung úy 4,15 0,43 F=6,485; p=0,001
Thượng úy 4,16 0,54
Đại úy 4,18 0,52
Cấp tá trở lên 4,18 0,39
c. Theo thâm niên công tác
Một kết quả tương tự cho thấy, những chiến sĩ có thâm niên công tác cao thì
thường có mức độ thích ứng với các tình huống khẩn cấp cao hơn những chiến sĩ có
thời gian công tác ít hơn. Kết quả kiểm định Post-Hoc cho thấy, có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa các cặp nhóm chiến sĩ trong thích ứng với việc giải quyết các
tình huống khẩn cấp, cụ thể:
Nhóm chiến sĩ có thâm niên công tác từ 10 năm trở lên có mức độ thích ứng
với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp cao hơn nhóm các chiến sĩ còn lại là từ
5 đến 10 năm, từ 3 đến 5 năm và dưới 3 năm (với mức độ chênh lệch điểm trung
bình lần lượt là 0,06; 0,15 và 0,14 điểm, mức ý nghĩa (p < 0,05), nhóm các chiến sĩ
có thâm niên công tác từ 5 đến 10 năm có mức độ thích ứng cao hơn so với nhóm
các chiến sĩ những chiến sĩ dưới 3 năm và các chiến sĩ có thâm niên công tác từ 3 –
5 năm (với mức độ chênh lệch điểm trung bình lần lượt là 0,09 và 0,08 điểm, với
mức ý nghĩa (p < 0,05). Như đã phân tích ở trên, các chiến sĩ có cấp bậc hàm càng
cao đồng nghĩa với thâm niên công tác của chiến sĩ càng lâu. Do đó, kết quả này có
thể nói là tương đồng với kết quả thu được trong phần phân tích ở trên và cũng hoàn
toàn hợp logic khi thời gian công tác dài, các chiến sĩ trải qua thực tiễn chiến đấu
133
nhiều, kinh nghiệm phong phú, kỹ năng giải quyết tình huống tốt hơn.
Trong thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp, kinh nghiệm
thực tiễn nghề nghiệp của các chiến sĩ là một yếu tố quan trọng, nó giúp cho quá
trình thích ứng được diễn ra nhanh chóng, dễ dàng hơn với hoàn cảnh. Kinh nghiệm
nghề nghiệp là sản phẩm được tích lũy từ thực tiễn chiến đấu, trải qua quá trình giải
quyết tình huống khẩn cấp liên tục, kinh nghiệm thực tiễn chiến đấu được hình
thành, củng cố từ đó các kỹ năng nghề nghiệp của các chiến sĩ được nâng cao.
Trong thực tiễn chiến đấu, các tình huống khẩn cấp không giống nhau, nhưng nhờ
kinh nghiệm được tích lũy theo thời gian, sự tôi luyện, khổ luyện trong huấn luyện,
sự mưu chí, dũng cảm trong chiến đấu, giúp cho các chiến sĩ nhanh chóng làm chủ
được tình huống, ổn định tâm lý và có phương án giải quyết tình huống được tối ưu
nhất, hiệu quả nhất.
Bảng 4.12. Kiểm định sự khác biệt về mức độ thích ứng giữa các nhóm
khách thể phân theo thâm niên công tác
Thâm niên công tác ĐTB ĐLC Post-Hoc
(I) Dưới 3 năm (I) < (II); (I) < (III); 4,07 0,37 (I) < (IV)
(II) Từ 3 đến 5 năm 4,08 0,39 (II) < (III); (II) < (IV)
(III) Từ 5 đến 10 năm 4,16 0,42 (III) < (IV)
d. Theo khu vực công tác
(IV) Từ 10 năm trở lên (IV) > (I); (IV) > (II); 4,22 0,52 (IV) > (III)
Kết quả kiểm định ANOVA cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
mức độ thích ứng với việc giải quyết các THKC giữa các nhóm chiến sĩ khác nhau
phân theo khu vực công tác (F=4,875; p=0,002). Theo đó:
Những chiến sĩ công tác ở khu vực Quảng Ninh có mức độ thích ứng với các
THKC cao nhất (ĐTB là 4,23) và những chiến sĩ công tác ở khu vực Hải Phòng có
mức độ thích ứng với các tình huống khẩn cấp là thấp nhất (ĐTB là 4,02). Theo
chúng tôi, sở dĩ có sự khác biệt này là do ở mỗi địa bàn có những đặc điểm tình
134
hình, đặc thù công tác khác nhau; chính vì thế, yêu cầu công tác đặt ra cho mỗi
chiến sĩ làm việc tại các khu vực này là khác nhau, từ đó, dẫn đến sự trải nghiệm,
tình huống thực tế mà các chiến sĩ phải vượt qua cũng sẽ khác nhau. Quảng Ninh là
tỉnh có địa hình đồi núi hiểm trở, vựa than lớn nhất của cả nước với hệ thống hầm lò
lớn, các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH không chỉ tham gia chữa cháy mà phải
làm tốt công tác cứu nạn cứu hộ, nhất là trong các hầm lò với mức độ rủi ro và nguy
hiểm cao. Chính điều này góp phần tạo nên sự khác nhau về mức độ thích ứng của
các nhóm chiến sĩ tại các khu vực khác nhau.
Bảng 4.13. Kiểm định sự khác biệt về mức độ thích ứng giữa các nhóm
khách thể phân theo khu vực công tác
Khu vực công tác ĐTB ĐLC ANOVA
(I) Hà Nội 4,14 0,46
(II) Hải Phòng 4,02 0,45 F=4,875; p=0,002 (III) Quảng Ninh 4,23 0,48
(IV) Vĩnh Phúc 4,22 0,31
4.3. Một số biểu hiện tâm lý và cách thức ứng phó thƣờng gặp ở chiến sĩ
cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ trong và sau quá trình giải
quyết các tình huống khẩn cấp
4.3.1. Một số biểu hiện tâm lý thường gặp trong và sau quá tình giải quyết
các tình huống khẩn cấp
Các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH trong quá trình giải quyết các THKC
không những phải thích ứng với các tình huống bên ngoài mà còn phải thích ứng bên
trong. Thích ứng bên trong được hiểu là thích ứng tâm – sinh lý, được thể hiện thông
qua các trạng thái tâm lý thần kinh trong và sau khi thực hiện nhiệm vụ của chiến sĩ.
Đây là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chiến sĩ đó có thực sự thích
ứng với việc giải quyết các THKC hay không.
Bên cạnh sức khỏe thể chất, thì sức khỏe tinh thần cũng là yếu tố quan trọng
quyết định sức khỏe con người. Sức khỏe thể chất dễ quan sát và thông qua những
biểu hiện bên ngoài cụ thể thì các biểu hiện tâm lý là yếu tố ẩn sâu bên trong cơ thể,
khó quan sát và thường được xác định thông qua đo đạc và chẩn đoán tâm lý. Theo
các nhà nghiên cứu, trạng thái tâm lý tốt là sự vắng mặt của các vấn đề tinh thần như
lo âu, trầm cảm. Trên thực tế, trạng thái tâm lý tốt không chỉ là sự vắng mặt của bệnh
135
tật, mà còn là các cảm xúc hạnh phúc, quan tâm và hài lòng với cuộc sống. Trong
trạng thái này, cá nhân sẽ cảm thấy mình thuộc về một cộng đồng và có suy nghĩ tích
cực về thế giới bên ngoài. Cá nhân có suy nghĩ tốt về bản thân, có những mối quan hệ
tin tưởng và tích cực quản lý trách nhiệm cũng như các thách thức trong cuộc sống.
Như vậy, biểu hiện của trạng thái tâm lý thích ứng tốt là yếu tố rất quan trọng
trong đời sống của các chiến sĩ PCCC và CNCH giúp cho họ có niềm tin vào bản
thân và tăng cường khả năng kiểm soát bản thân trong THKC và duy trì cuộc sống
ổn định.
Theo thông tin nghề nghiệp được đăng trên trang web CareerCast vào năm
2015, công việc của những người lính chữa cháy được mệnh danh là “Công việc
căng thẳng nhất ở Mỹ”, đứng thứ hai là các quân nhân trong quân đội [CareerCast,
2015]. Điều này không có gì bất ngờ khi những chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH
luôn phải xông vào nơi nguy hiểm trong khi hầu hết những người khác bỏ chạy. Họ
thường xuyên phải đối mặt với những tổn thương cả về thể chất và tâm lý, điều rất ít
khi gặp ở những nghề khác. Nhìn từ góc độ thể chất, các chiến sĩ cảnh sát PCCC và
CNCH đều được huấn luyện đặc biệt về mặt thể lực cùng việc áp dụng các công
nghệ chữa cháy hiện đại, trang bị đầy đủ thiết bị bảo hộ giúp công việc này trở nên
an toàn hơn. Tuy nhiên, tỉ lệ các chiến sĩ bị tổn thương sức khỏe thể chất và sức
khỏe tinh thần không có dấu hiệu giảm mà tăng lên, điều đó cho thấy tính chất nguy
hiểm của công việc này [Karen F. Deppa, 2015, tr.5].
Các tổn thương sức khỏe tinh thần lại không được quan tâm nhiều bằng các
tổn thương thể chất, cũng không được ghi chép rõ ràng. Sức khỏe tinh thần không
chỉ liên quan đến khía cạnh tâm lý, cảm xúc mà còn cho thấy mối liên hệ giữa tâm
lý, thể chất và trạng thái cảm xúc.
Như phần lý luận chúng tôi đã chỉ ra, những chiến sĩ cảnh sát PCCC và
CNCH thường hoạt động trong trạng thái căng do sức ép từ THKC. Căng thẳng,
sang chấn có thể do phải tiếp xúc với những người bị thương, những tình huống
nguy hiểm đến tính mạng, những hoạt động yêu cầu thể chất và tính chất căng thẳng
của công việc. Đây là nguyên nhân làm nảy sinh rất nhiều những vấn đề thể chất,
rối loạn tinh thần. Căng thẳng nghề nghiệp trong việc giải quyết các THKC có thể
gây ra những ảnh hưởng xấu hoặc rối loạn căng thẳng sau chấn thương. Những căng
thẳng về thể chất và tinh thần có thể làm tăng nhịp tim, ảnh hưởng đến tăng huyết
136
áp và tăng nhu cầu ôxy vào máu cho cơ thể.
Kinh nghiệm và nhận thức về căng thẳng thể chất ảnh hưởng đến trạng thái
tâm lý của chiến sĩ. Ngược lại, căng thẳng tâm lý lại kích thích phản ứng sinh lý
thần kinh của họ. Trong nhiều trường hợp, các cá nhân gặp nhiều khó khăn trong
việc kiểm soát trạng thái căng thẳng tâm sinh lý trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ. Kết quả nghiên cứu về các biểu hiện trạng thái tâm lý của chiến sĩ cảnh sát
PCCC và CNCH trong quá trình giải quyết các THKC được thể hiện qua bảng
4.14 dưới đây.
Bảng 4.14. Biểu hiện tâm lý trong và sau quá trình giải quyết các tình huống
khẩn cấp
STT Nội dung biểu hiện ĐTB ĐLC
1 1,97 1,04
2 2,45 1,10
3 4,33 0,62
4 4,23 0,72
5 2,54 1,29
6 2,69 1,27
7 3,45 1,43 Tôi thường có cảm giác chán ăn, mất ngủ sau mỗi lần thực hiện nhiệm vụ Tôi thường bị ám ảnh khi chứng kiến những tổn thất khủng khiếp về người và của Tôi luôn bình tĩnh, chủ động ứng phó với các tác động xấu từ xung quanh Tôi luôn cố gắng tạo tâm lý thoải nhất cho mình để giải quyết tốt nhiệm vụ được giao Trong việc giải quyết các tình huống khẩn cấp, tôi thường cảm thấy các dấu hiệu không bình thường của cơ thể như tim đập nhanh, khó thở, đầu choáng váng Không phải lúc nào tôi cũng cảm thấy đau khổ, buồn phiền khi chứng kiến các tổn thất do cháy nổ gây ra Tôi thường thường cảm thấy sợ hãi, lo âu trong khi thực hiện nhiệm vụ
Trung bình chung 3,09 0,72
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5 Kết quả nghiên cứu cho thấy, có ba mệnh đề mà các chiến sĩ cảnh sát
PCCC và CNCH có điểm trung bình cao nhất trong quá trình giải quyết các THKC
đó là, “Tôi luôn bình tĩnh, chủ động ứng phó với các tác động xấu từ xung quanh”
(ĐTB là 4,33; ĐLC 0,62); “Tôi luôn cố gắng tạo tâm lý thoải nhất cho mình để
giải quyết tốt nhiệm vụ được giao” (ĐTB là 4,23; ĐLC 0,72) và “Tôi thường
thường cảm thấy sợ hãi, lo âu trong khi thực hiện nhiệm vụ” (ĐTB là 3,45; ĐLC
137
0,72). Trong quá trình giải quyết các THKC, việc đảm bảo an toàn cho bản thân
và đồng đội là nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả của hoạt động chiến
đấu. Bên cạnh đó, tâm lý thoải mái, tự tin giúp các chiến sĩ bình tĩnh, chủ động và
linh hoạt trong từng thao tác, cẩn trọng trong từng hành động, giảm các nguy cơ bị
chấn thương do tác động từ nguồn lửa, nguồn nhiệt, khói, sự sụp đổ cấu kiện, hoặc
khả năng rơi ngã gây ra. Có những trường hợp, các tai nạn thứ cấp xảy ra, mặc dù
đã có sự chuẩn bị nhưng có chiến sĩ không kịp phản ứng khi rơi vào một tình
huống bất thường khác, họ không có kế hoạch sẵn và cần cách xử lý mới. Trong
những điều kiện bình thường, việc sáng tạo ra một hành động mới là khả thi, tuy
nhiên khi bị các THKC thứ cấp xảy ra, đe dọa đến sự an toàn của bản thân và
người bị nạn thì việc sáng tạo trở lên khó hơn nhiều do áp lực về thời gian, một
quyết định không sáng suốt trong một tình huống đe dọa đến tính mạng có thể làm
tăng nguy cơ bị thương hoặc thiệt mạng. Ví dụ, trong một thảm họa tại sân bóng
Hillsborough vào năm 1989, một nhân chứng đã kể lại rằng nhìn thấy một cảnh sát
đã không thể cứu một cô gái, người mà đang bị sô đẩy đến chết. Nhân chứng nói
rằng “người cảnh sát đứng trước mặt chúng tôi chỉ đứng nhìn. Tôi hét vào mặt anh
ta và bảo hãy làm gì đó đi nhưng đáp lại chỉ là một ánh mắt thất thần”. Hành vi
tương tự cũng được chỉ ra trong nhiều tình huống thảm họa từ hỏa hoạn đến lũ lụt
[Robinson và Jane. S, 2012]. Trong những THKC xảy ra, đóng băng (cũng được
biết đến như là sự mất nhận thức) thường được thấy vì con người cố gắng tạo ra
các hành vi phù hợp mới.
Chúng ta không thể đảm bảo rằng con người sẽ hành động thích hợp trong
một THKC và nhiều yếu tố ảnh hưởng tới cách mà con người phản ứng. Tuổi tác,
giới tính, kinh nghiệm quá khứ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ là một số yếu tố có
thể chi phối việc con người phản ứng tốt như thế nào. Các yếu tố của tình huống
như, cường độ của các thảm họa mà con người đối mặt cũng rất quan trọng. Do đó,
đối với các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH, những người giúp đỡ trong các
THKC, cần được phát triển phản xạ đã được định sẵn thông qua các buổi huấn
luyện, đào tạo, bồi dưỡng, nhất là diễn tập các tình huống khẩn cấp với phương án
thực tế về các quy trình và phương tiện khẩn cấp để có thể giảm bớt sự đóng băng
138
(mất nhận thức) và các hành vi rập khuôn.
Các phản ứng của con người trong những THKC và khuynh hướng đóng
băng có thể được hiểu do chức năng thần kinh và thời gian đặt ra để tiến hành các
bước nhận thức và hành động thích hợp. Bộ não là một thể đa kênh, bộ máy xử lý
tín hiệu với khả năng có hạn, các áp lực về thời gian tác động mạnh tới khả năng
hoạt động của nó trong trường hợp khẩn cấp. Yêu cầu nhận thức càng phức tạp,
càng cần mở rộng vòng nhận thức, và dường như thời gian càng vượt giới hạn nhỏ
nhất. Các tình huống không tối ưu như sự nguy hiểm, có thể làm chậm quá trình xử
lý thông tin. Điều này giúp giải thích cho sự chậm trễ hoặc không phản ứng trong
giai đoạn tác động quan trọng nhất của một thảm họa. Có một chuỗi nhận thức, đó
là, cảm nhận -> lĩnh hội -> ra quyết định -> thi hành (thực thi nhiệm vụ). Mỗi yếu tố
trong trật tự này yêu cầu khoảng thời gian để hoàn thành riêng. Trong một tình
huống khẩn cấp, các sự kiện có xu hướng diễn ra nhanh chóng và không thể dự
đoán trước, dẫn tới không có thời gian để cân nhắc kỹ. Rõ ràng, một chiến sĩ càng
phản ứng nhanh với các sự kiện thì càng giảm nguy cơ bị chấn thương và cơ hội
cứu giúp người khác sống sót càng cao.
Thời gian phản ứng của bộ não có thể được cải thiện qua việc thực hành, đào
tạo và trải nghiệm trước bất kỳ thảm họa nào. Khi đươc đào tạo, huấn luyện các
chiến sĩ có thể chuyển đổi hoạt động nhận thức phức tạp (chiếm 8 -10 giây) sang
hoạt động nhận thức đơn giản (1-2 giây). Quá trình này nhấn mạnh khi áp dụng tất
cả các kỹ năng đã được đào tạo, các chiến sĩ có thể giúp các nạn nhân khác thoát
khỏi nguy hiểm nhanh nhất. Vì nếu được học trước, bộ não sẽ không đòi hỏi suy
nghĩ kỹ hoặc nhận thức cao hơn để lập kế hoạch chính xác, mà chỉ phải chọn giữa
một tập hợp các phản ứng đã có sẵn. Trong một THKC, các sự kiện diễn ra nhanh
và thành công trong giải cứu nạn nhân phụ thuộc vào phản ứng nhanh và phù hợp
của các chiến sĩ.
Các nội dung mà các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH có biểu hiện thấp nhất
đó là, “Tôi thường có cảm giác chán ăn, mất ngủ sau mỗi lần thực hiện nhiệm vụ”
(ĐTB là 1,97; ĐLC 1,04); “Tôi thường bị ám ảnh khi chứng kiến những tổn thất
khủng khiếp về người và của” (ĐTB là 2,45; ĐLC 1,10) và “Trong việc giải quyết
139
các tình huống khẩn cấp, tôi thường cảm thấy các dấu hiệu không bình thường của
cơ thể như tim đập nhanh, khó thở, đầu choáng váng” (ĐTB là 2,54; ĐLC 1,29). Các
phản ứng sinh lý của cơ thể có mối liên hệ mật thiết với các hiện tượng tâm lý. Trong
giải quyết các THKC, các chiến sĩ thường xuyên phải đối mặt với nguy hiểm, những
phản ứng về tâm lý và sinh lý của cơ thể giúp các chiến sĩ chủ động ứng phó và giải
cứu người bị nạn nhanh nhất. Bên cạnh đó, có những biểu hiện cho biết cơ thể đã tới
ngưỡng chịu đựng, nhờ đó mà các chiến sĩ có thể nhận biết được nguy hiểm, tránh
được rủi ro không đáng có. Các cảm giác co thắt hoặc đau trong ngực, khó thở, đầu
choáng váng là hậu quả của việc gắng sức, làm việc căng thẳng mệt mỏi trong một
thời gian dài dẫn đến cạn kiệt sức lực và mệt mỏi cơ thể. Thậm chí, trong nhiều
trường hợp khi mất nước quá nhiều thì dẫn tới co rút cơ. Tình trạng mất nước và nhiệt
độ cơ thể tăng trong khi làm nhiệm vụ dẫn đến căng thẳng về tim mạch, căng thẳng
này có liên quan trực tiếp đến việc tim bị suy yếu. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra
rằng, những người có mức độ căng thẳng tâm lý cao trong cuộc sống hàng ngày có
thể tăng hơn gấp đôi nguy cơ thiếu máu cơ tim [Byron, 2007]. Như vậy, có mối quan
hệ giữa căng thẳng với các yếu tố nguy hiểm khác từ THKC mà người lính cứu hỏa
phải tiếp xúc hàng ngày. Kết quả một số công trình nghiên cứu cho thấy, khi một xúc
cảm nào đó được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ dẫn tới dần suy yếu đi và lắng xuống.
Người lính cứu hỏa thường xuyên phải chứng kiến những thiệt hại do cháy nổ gây ra
phần nào làm cho cảm xúc của họ lắng xuống (chai sạn đi), tuy nhiên, nó cũng có thể
làm tăng khả năng kiểm soát cảm xúc của các chiến sĩ. Trong rất nhiều trường hợp
khi trực chiến hoặc khi đang ngủ các chiến sĩ bị giật mình bởi hệ thống báo động,
điều đó ảnh hưởng lớn đến nhịp tim, làm huyết áp tăng vọt dẫn đến một vài vấn đề về
sức khỏe thể chất và tinh thần.
Trong quá trình giải quyết các THKC, có những tình huống phức tạp, kéo dài
làm các chiến sĩ kiệt sức, căng thẳng, mệt mỏi và ăn không ngon. Có chiến sĩ bị ám
ảnh khi chứng kiến nạn nhân tử vong do chết cháy, ám ảnh khi chứng kiến những
tốn thất lớn về người và của nên ảnh hưởng đến sinh hoạt, nghỉ ngơi, ăn không ngon
và thậm chí gặp ác mộng trong khi ngủ.
Phỏng vấn sâu chiến sĩ D.T.C, 30 tuổi, công an Hà Nội, người trực tiếp tham
140
gia chữa cháy tại một xưởng mộc, cho biết: “Vụ cháy làm 8 người chết khiến tôi bị
ám ảnh một thời gian dài. Tham gia chữa cháy rất nhiều nhưng đây là lần đầu tiên
tôi chứng kiến một vụ cháy có nhiều người chết đến vậy. Cảm giác đau xót khi thấy
những xác chết đã cháy đen, nhất là những thi thể đứa trẻ không còn nguyên vẹn.
Khi đưa nạn nhân lên băng ca, do thi thể nạn nhân bị cháy một thời gian dài nên
thịt nũa ra và rất khó để xếp trên băng ca, phần vì cũng ghê tay, rùng mình vì sờ
đến đâu thịt bở đến đó nên khi khiêng thi thể nạn nhân ra ngoài, không may phần
thi thể bị rính vào quần. Sau khi khênh nạn nhân lên xe cứu thương tôi đã chạy
ngay ra một góc và nôn rất nhiều. Về đơn vị, tôi bị ám ảnh một thời gian, cứ khi ăn
là hình ảnh đó lại xuất hiện trong đầu, đặt lưng xuống là tôi lại dựng tóc gáy khi
nghĩ về hình ảnh đó”.
Chiến sĩ L.Q.D, 27 tuổi, công an Hà Nội, tâm sự: “Chứng kiến nạn nhân vẫy
vùng, gào thét trong biển lửa, thoi thóp từng hơi thở cuối cùng trong tuyệt vọng với
phần cơ thể bị lửa bao kín và lịm đi vì bỏng dát, ngạt khói khi được cứu ra. Những
hình ảnh đó in đậm trong tâm trí tôi từ những ngày đầu tiên tham gia chữa cháy,
những hình ảnh đó trở thành động lực thôi thúc tôi hành động khẩn trương, nhanh
chóng hơn trong những lần chữa cháy tiếp theo, tôi không muốn hình ảnh một ai đó
bị nạn trong vô vọng lập lại”
Phỏng vấn sâu các chiến sĩ về biểu hiện tâm lý trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, chiến sĩ Ph.K.A, 23 tuổi, Công an Hà Nội, cho biết: “Những lần làm
nhiệm vụ đầu tiên tôi cảm thấy sợ hãi và ám ảnh nhưng tôi dần quen với điều đó và
giờ cảm thấy bình thường, không có gì phức tạp và sợ hãi cả” và “Ra trường tôi
được phân công về đội công tác CC và CNCH, một tháng sau thì xảy ra vụ cháy tại
công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông, vì biết sự độc hại của các chất trong đó
nên tôi cũng rất sợ vì sợ hít phải khí độc, nhiễm độc từ thủy ngân. Lúc đó tôi rất
căng thẳng, tim đập rất nhanh, tay chân run vì tiếp cận đám cháy từ khoảng cách
gần. Tôi thoáng quan sát thấy sự căng thẳng trên khuôn mặt của đồng đội nhưng
được chỉ huy động viên, sự kỳ vọng của người dân xung quanh giúp tôi nhanh
chóng trấn tĩnh lại tinh thần và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ”.
Hình ảnh truyền thống về người chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH như
141
những người anh hùng mạnh mẽ và thầm lặng đã thúc đẩy sự chấp nhận và điều hòa
cho các vấn đề về sức khỏe tâm thần. Điều này đã góp phần vào sự ổn định, cân
bằng sức khỏe tâm thần của họ, làm dịu đi các vấn đề về cảm xúc và tâm lý mà các
chiến sĩ đang gặp phải. Nếu một chiến sĩ thừa nhận mình đang gặp rắc rối về thể
chất và tinh thần, thì sẽ chịu sự xa lánh, phớt lờ hoặc chế giễu (yếu đuối hoặc không
phù hợp với công việc) từ đồng đội và lãnh đạo.
Sự kỳ thị gắn liền với việc thừa nhận lỗ hổng cảm xúc và sức khỏe tâm lý
vẫn là vấn đề đang tồn tại trong nhiều đơn vị PCCC và CNCH. Theo chúng tôi, việc
thừa nhận bị ảnh hưởng trực tiếp bởi THKC là hết sức cần thiết, từ đó đưa ra các
chương trình, dự án huấn luyện, hỗ trợ, trị liệu giúp họ có sức khỏe tinh thần, thể
chất ổn định trong và sau khi thực hiện nhiệm vụ là hết sức cần thiết.
Những căng thẳng sinh lý như thời gian CC và CNCH kéo dài kiệt sức, thiếu
ngủ, nhiệt độ cao khắc nghiệt, đau đớn, chấn thương và những thay đổi nghiêm
trọng trong môi trường làm việc là tất cả những gì mà các chiến sĩ cảnh sát PCCC
và CNCH phải chịu. Trong nhiều trường hợp, các chiến sĩ kiệt sức và không thể làm
theo các quy trình đã được huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng. Tuy nhiên, thông qua
huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện các chương trình giáo dục thể chất, sức
khỏe tâm thần đã giúp các chiến sĩ có thể phục hồi sức khỏe thể chất và tinh thần,
tăng cường khả năng ứng phó cho họ.
4.3.2. Các cách ứng phó trong và sau khi giải quyết các tình huống khẩn cấp
Trong nhiều trường hợp, sau khi thực hiện nhiệm vụ, do sức ép từ công việc
và THKC cũng như chứng kiến hậu quả thảm khốc do cháy nổ gây ra đã làm cho họ
nảy sinh các vấn đề về sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần. Điều này có thể làm
giảm sự hài lòng công việc, xuất hiện hành vi bào chữa và các hành vi không thể
đoán trước: ủ rũ, giảm giao tiếp, chậm trễ trong giải quyết công việc.
Việc lặp đi lặp lại những căng thẳng tâm lý làm cho cá nhân xuất hiện tình
trạng cơ thể liên tục trong trạng thái kích thích tâm - sinh lý. Kết quả nghiên cứu
thông qua phỏng vấn sâu cho thấy, một số ít chiến sĩ có các biểu hiện như: đau dạ
dày mãn tính, giật mình khi nghe tiếng chuông, tiếng kẻng, tỉnh giấc nhiều lần, thay
142
đổi đột ngột các tâm trạng, thói quen trong công việc, cảm giác rất chua trong dạ
dày, chảy nước mũi, co cứng ruột, trào ngược dạ dày, thoái lui khỏi nhiều hoạt động
thường ngày, phản ứng cảm xúc không phù hợp với hoàn cảnh, dễ kích động và rối
loạn tâm sinh lý.
Một số chiến sĩ có thâm niên công tác trên mười năm cũng đã thừa nhận
thỉnh thoảng phải trải qua cơn đau cơ xương khớp, cứng khớp hoặc khó chịu mặc
dù họ khẳng định không có chấn thương về thể chất và tinh thần. Đây là một trong
những ảnh hưởng của adrenaline lên cơ thể làm tăng sức căng cơ xương - một yếu
tố cần thiết quan trọng cho sự sẵn sàng cho chiến đấu. Ngoài ra, hoạt động cơ bắp
tăng lên được quan sát thấy ở phản ứng với kết quả adrenaline trong axit lactic và
amoniac là chất thải của hoạt động cơ bắp làm tăng thêm những đau nhức và mệt
mỏi về thể chất được quan sát ở người làm công việc căng thẳng nặng nhọc kéo dài.
Tuy nhiên, các chiến sĩ cũng cho rằng việc cá nhân trải qua những cơn cảm lạnh,
đau đầu, hậu quả của việc CC và CNCH trong điều kiện thời tiết, môi trường khắc
nghiệt, liên tục thay đổi và lặp đi lặp lại đã làm giảm mức độ đề kháng của họ. Đó
là kết quả về tác dụng của adrenaline khi ức chế miễn dịch trong thời kỳ tăng kích
thích tâm sinh lý.
Kết quả điều tra được tiến hành dựa trên các công trình nghiên cứu trong
nước và ngoài nước, ý kiến các chuyên gia, phỏng vấn sâu các chiến sĩ, chỉ huy CC
và CNCH sau quá trình điều tra thử về cách ứng phó sau khi giải quyết các THKC
của chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH được thể hiện qua 06 cách cơ bản. Kết quả
nghiên cứu được thể hiện ở bảng 4.15 dưới đây.
Bảng 4.15. Các cách ứng phó trong và sau khi giải quyết các tình huống khẩn cấp
STT Các cách ứng phó ĐTB ĐLC
1 2,64 1,03
Tôi thường xuyên chia sẻ những cảm nhận, suy nghĩ, lo âu của mình với đồng nghiệp nhằm làm vơi đi những căng thẳng lo âu của mình
Tôi muốn nhận được sự tư vấn từ các bác sĩ, các nhà tâm lý 2 2,04 1,02 sau khi thực hiện nhiệm vụ trở về
143
3 3,81 1,43 Tôi muốn gặp gỡ, giao tiếp với mọi người sau mỗi khi thực hiện nhiệm vụ trở về
STT Các cách ứng phó ĐTB ĐLC
Tôi thường nghe nhạc, xem phim sau mỗi khi thực hiện 4 2,91 1,32 nhiệm vụ trở về để cân bằng lại chính mình
Tôi thường gọi điện cho người thân trong gia đình sau 5 2,90 1,35 mỗi khi thực hiện nhiệm vụ trở về
6 1,65 1,00 Tôi thường sử dụng rượu, bia để vượt qua những khó khăn, căng thẳng sau mỗi khi thực hiện nhiệm vụ trở về
Trung bình chung 2,65 1,01
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Kết quả nghiên cứu từ bảng số liệu cho thấy, có ba cách ứng phó của các
chiến sĩ có điểm số cao nhất đó là, “Tôi muốn gặp gỡ, giao tiếp với mọi người sau
mỗi khi thực hiện nhiệm vụ trở về” (ĐTB là 3,81; ĐLC 1,41); “Tôi thường nghe
nhạc, xem phim sau mỗi khi thực hiện nhiệm vụ trở về để cân bằng lại chính mình”
(ĐTB là 2,91; ĐLC 1,32) và “Tôi thường gọi điện cho người thân trong gia đình
sau mỗi khi thực hiện nhiệm vụ trở về” (ĐTB là 2,90; ĐLC 1,35).
Gặp gỡ, giao lưu là nhu cầu tất yếu của con người, thông qua gặp gỡ, giao
tiếp mà con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo
đức và giá trị xã hội. Trong quá trình giao lưu, gặp gỡ mà con người được đánh giá,
được nhìn nhận, đóng góp để hoàn thiện các giá trị, phẩm chất nhân cách của mình
cho người khác, cho xã hội. Có thể nói, giao lưu và hoạt động đều là hai mặt không
thể thiếu của lối sống và hoạt động cùng nhau giữa con người với con người trong
thực tiễn. Các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH, thông qua giao lưu với đồng đội
mà tình cảm gắn bó của họ được hình thành và phát triển không chỉ trong công việc
mà họ còn giúp nhau rèn luyện, chia sẻ kinh nghiệm, giải tỏa căng thẳng sau công
việc. Họ coi nhau như anh em trong một gia đình, cảm giác về sự thân thuộc này
tăng lên, những hành động gắn kết sau những giờ làm việc góp phần giúp họ liên
kết chặt chẽ với nhau hơn, củng cố sức mạnh và các chuẩn mực văn hóa của nghề,
đây là yếu tố chủ chốt giúp họ giải tỏa căng thẳng để thích ứng nghề nghiệp tốt hơn.
Có ba mệnh đề có điểm số thấp hơn đó là, “Tôi thường sử dụng rượu, bia để
144
vượt qua những khó khăn, căng thẳng sau mỗi khi thực hiện nhiệm vụ trở về” (ĐTB
là 1,65; ĐLC 1,00); “Tôi muốn nhận được sự tư vấn từ các bác sĩ, các nhà tâm lý
sau khi thực hiện nhiệm vụ trở về” (ĐTB là 2,04; ĐLC 1,02) và “Tôi thường xuyên
chia sẻ những cảm nhận, suy nghĩ, lo âu của mình với đồng nghiệp nhằm làm vơi đi
những căng thẳng lo âu của mình” (ĐTB là 2,64; ĐLC 1,03).
Trong quá trình giải quyết các THKC, chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH
phải chứng kiến nhiều thiệt hại về vật chất, thậm chí là những thương vong do cháy
nổ gây ra. Những hình ảnh từ hiện trường tác động mạnh đến bộ não, nơi tiếp nhận
và xử lý thông tin của cơ thể, nếu tâm lý các chiến sĩ không vững vàng có thể gây ra
những vấn đề về sức khỏe tinh thần, ảnh hưởng đến công việc và các mối quan hệ
xã hội. Tuy nhiên, các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH không coi rượu, bia là
cách để vượt qua khó khăn, căng thẳng sau khi thực hiện các nhiệm vụ khẩn cấp trở
về. Việc sử dụng rượu, bia hay đồ uống có cồn sau khi thực hiện nhiệm vụ đó như
là sự lạm dụng, một cơ chế để ứng phó lại với căng thẳng, áp lực từ tác động của
tình huống đó, nhiều người tìm đến rượu, bia và chất kích thích để giảm bớt sự căng
thẳng, trầm cảm, mệt mỏi và mất ngủ do công việc quá áp lực của họ. Kết quả
nghiên cứu của các nhà tâm lý học Mỹ, Úc, Đức đã chỉ ra rằng, làm việc kéo dài
làm gia tăng nguy cơ uống rượu quá mức, lạm dụng rượu bia và chất kích thích.
Nếu tình trạng lạm dụng rượu bia kéo dài sẽ tác động lên hệ thống thần kinh trung
ương, làm rối loạn và mất khả năng điều khiển hành vi, nhận thức; gây nghiện, gây
lệ thuộc dẫn đến rối loạn tâm thần kinh và các rối loạn cơ thể khác.
Những người lính CC và CNCH trong quá trình trực chiến đấu họ luyện tập,
ăn ở, sinh hoạt cùng nhau. Hàng ngày vào các buổi sáng họ phải họp giao ban để báo
cáo tình hình ca trực, đặc biệt những người lính sau mỗi lần tham gia CC và CNCH
họ phải báo cáo lại kết quả thực hiện nhiệm vụ đó, rút kinh nghiệm những mặt đã đạt
được và những hạn chế, khuyết điểm để cùng nhau khắc phục. Họ coi việc báo cáo,
chia sẻ về kết quả ca trực và diễn biến trong quá trình làm nhiệm vụ đó với đồng đội
và cấp trên như là một việc hàng ngày của họ. Do đặc thù công việc nên những chiến
sĩ thường xuyên phải trực chiến tại đơn vị, luôn trong trạng thái sẵn sàng lên xe khi
có tiếng chuông, tiếng kẻng báo động vang lên. Xa nhà, xa người thân, xa bạn bè,
145
ngoài những giây phút luyện tập, chiến đấu vất vả họ dành thời gian tập thể dục, chơi
thể thao, tâm sự với đồng nghiệp để tăng tình đoàn kết, củng cố các chuẩn mực văn
hóa của ngành và thư giãn qua những bộ phim, ca nhạc để phục hồi lại thể trạng, tâm
lý. Việc gọi điện thăm hỏi người thân trong gia đình và bạn bè để giúp vơi đi nỗi nhớ
nhà và quên đi những giây phút mệt mỏi trong chiến đấu. Gia đình cũng là điểm tựa
vững chắc giúp họ yên tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Phỏng vấn sâu các chiến sĩ về nội dung tâm sự với bạn bè, đồng nghiệp,
người thân sau khi giải quyết các THKC, kết quả chúng tôi thu được như sau: Chiến
sĩ N.T.Đ, 27 tuổi, Công an Vĩnh Phúc, cho biết: “Sau khi thực hiện xong nhiệm vụ,
tùy vào đối tượng có thể tâm sự và không tâm sự. Thường tôi tâm sự về cách tiếp
cận hiện trường, cách xử lý tình huống và những sự cố với đồng đội. Tôi ít tâm sự
với người thân trong gia đình vì không muốn mọi người lo lắng cho công việc của
mình”. Chiến sĩ T.T.H. 31 tuổi, Công an Hà Nội, tâm sự: “Sau khi giải quyết xong
nhiệm vụ, bản thân thường nói chuyện, tâm sự với đồng đội về khó khăn, vướng
mắc, cách thức triển khai chiến đấu để học hỏi, bổ sung kinh nghiệm cho bản
thân”. Chiến sĩ, Ph.H.C, 30 tuổi, Công an Hà Nội, cho biết: “Tôi thường tâm sự với
người thân, bạn bè về những vụ cháy và tai nạn xảy ra trên địa bàn, tâm sự về lần
đầu thực hiện nhiệm vụ, tâm sự về sự sợ hãi, về tác động của ngọn lửa đối với cơ
thể, về khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ, về ám ảnh khi tiếp xúc với nạn nhân bị
chết”. Chiến sĩ D.C.L, 29 tuổi, Công an Hà Nội, cho biết: “Trong các vụ cháy, có
những tình tiết đặc biệt có thể gây nguy hiểm cho các chiến sĩ, người bị nạn thì sẽ
nói lại kinh nghiệm xử lý cho các chiến sĩ và người dân về tình huống nguy hiểm để
phòng tránh. Thường tôi ít kể cho người thân về sự nguy hiểm trong chiến đấu để
người thân khỏi lo lắng cho công việc của mình”.
Tuy nhiên, không phải chiến sĩ nào sau khi thực hiện nhiệm vụ cũng tâm sự
với bạn bè, người thân. Họ coi việc giải quyết các tình huống đó là trách nhiệm, bổn
phận, niềm tự hào trong công việc. Chiến sĩ P.V.D, 26 tuổi, Công an Hà Nội, cho
biết, “Sau khi thực hiện nhiệm vụ xong, tôi rất ít khi tâm sự với bạn bè, người thân.
Tôi coi công việc mình làm là trách nhiệm được giao, với tôi công việc đó như là
một phần cuộc sống của mình” và Chiến sĩ L.V.S, 28 tuổi, Công an Hà Nội, cho
146
biết thêm, “Tôi chưa từng tâm sự với ai. Tôi cảm thấy đó là trách nhiệm và niềm tự
hào cho công việc của tôi. Có những lúc nguy hiểm trong công việc nếu nói ra sẽ
làm người thân lo lắng nên tôi không muốn tâm sự với ai trong gia đình”.
Kết quả công trình nghiên cứu ở các nước trên thế giới như Úc, Mỹ, Đức cho
thấy, việc đưa ra cách ứng phó chủ động, tích cực cho lính chữa cháy là rất quan
trọng. Họ đã xây dựng các chương trình, dự án đào tạo ứng phó cho các chiến sĩ để
giúp họ luôn ổn định sức khỏe thể chất và tinh thần sau khi thực hiện nhiệm vụ.
Tại Mỹ, vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, khiến hơn 2000 người thiệt
mạng, trong đó có 343 người lính cứu hỏa hi sinh khi đang làm nhiệm vụ giúp sơ
tán các nạn nhân bị mắc kẹt ở bên trong tòa tháp đôi. Sau sự kiện đó, nhiều tổ chức
chuyên về chữa cháy lớn đã triển khai nhiều chương trình để giải quyết các vấn đề
hành vi sức khỏe cho lính cứu hỏa. Quỹ cứu hỏa Quốc gia triển khai sáng kiến “Mọi
người cùng về nhà” nhằm giảm thiểu mức độ thương vong của người lính cứu hỏa
khi làm nhiệm vụ. Trong số 16 sáng kiến “Vì sự an toàn của lính cứu hỏa”, sáng
kiến số 13 có nội dung “Lính cứ hỏa và gia đình họ phải được nhận tư vấn và hỗ
trợ tâm lý”. Hiệp hội Cứu hỏa quốc tế và Hiệp hội các trưởng ty cứu hỏa quốc tế đề
xuất về vấn đề hành vi sức khỏe, bao gồm việc phòng ngừa tự tử và nhận thức về tự
sát, như một phần của sáng kiến sức khỏe – thể chất. Nhóm tình nguyện tư vấn Cứu
hỏa quốc gia cung cấp các dịch vụ y tế khẩn cấp cho đội phản ứng khẩn cấp và gia
đình của họ nhằm giúp họ vượt qua khó khăn trong công việc và gia đình [Karen. F.
Deppa, 2015].
Những yếu tố tâm lý tích cực bên trong cá nhân đóng vai trò quan trọng
trong việc củng cố tâm lý ổn định, vững vàng cho chiến sĩ CC và CNCH, ngăn chặn
các vấn đề hành vi sức khỏe trước khi nó xảy ra. Đây là hướng nghiên cứu còn
tương đối mới trong tâm lý học liên quan đến tâm lý học tích cực, có thể mang đến
đóng góp quan trọng trong ứng phó với các THKC. Tâm lý học tích cực tập trung
vào nghiên cứu các cơ chế của cảm xúc và điểm mạnh tích cực của con người, như
niềm vui, sự lạc quan và lòng can đảm, cũng như đo lường và sử dụng lợi ích của
những cảm xúc và điểm mạnh này trong ứng phó với các hiện tượng tâm lý tiêu
cực. Tâm lý học tích cực là một lĩnh vực thực hành, nó tập trung vào việc áp dụng
147
và đo lường các biện pháp can thiệp (nghĩa là các hành động được thực hiện với
mục đích mang lại sự thay đổi) để tăng cường hạnh phúc, sự hài lòng về cuộc sống,
sức khỏe thể chất và các điều kiện khác dẫn đến sự hưng phấn của con người ở các
cấp độ cá nhân hoặc nhóm.
Một trong những quan điểm nền tảng của tâm lý học tích cực là việc xác định
và sử dụng sức mạnh cá nhân. Quan điểm này nhấn mạnh sức mạnh tính cách con
người là năng lực trung tâm giúp họ suy nghĩ, cảm nhận và hành xử vì lợi ích của
bản thân và người khác. Sức mạnh năng lực trung tâm được coi là phẩm chất phổ
quát thể hiện qua suy nghĩ, cảm xúc, lựa chọn và hành động của con người trong xã
hội [Cook và Michell, 2013].
Trong Tâm lý học tích cực, khái niệm phục hồi là điểm chính, xoay quanh
cách giải quyết những biến cố trong cuộc sống của từng cá nhân. Trong lĩnh vực
PCCC, khái niệm “phục hồi” tương đương với khả năng thích ứng với mọi hoàn
cảnh cũng như khả năng chịu đựng và phục hồi nhanh chóng sau những tình huống
khẩn cấp hoặc hậu quả của các thảm họa gây ra. Sự thích ứng tích cực và sự từng
trải đều là những yếu tố chính tạo nên khái niệm phục hồi. Sự phục hồi không phải
là trạng thái anh hùng hay kì diệu chỉ có ở số ít người mà là tập hợp các kĩ năng và
quá trình thích nghi thường ngày để giải quyết khó khăn. Đó là kết quả của hệ thống
thích ứng cơ bản của con người. Các hệ thống đó bao gồm khả năng xử lí tình
huống, động lực học hỏi và tiếp nhận kĩ năng mới, phát triển quan hệ an toàn và
truyền thống văn hóa về cơ hội học tập, tham gia huấn luyện, nghi thức xã hội và
các hoạt động thích nghi khác.
Có nhiều yếu tố chi phối sự phục hồi, bao gồm khả năng giải quyết vấn đề,
tự điều chỉnh, tự tin vào năng lực bản thân và khiếu hài hước. Tuy nhiên, các nhà
nghiên cứu đồng quan điểm rằng tinh thần lạc quan đóng vai trò chủ đạo cho hành
vi phục hồi. Những chiến sĩ có lối sống lạc quan thường có xu hướng kiên nhẫn,
bình tĩnh khi đối mặt với các thử thách và giải quyết vấn đề tốt hơn là chạy trốn hay
phủ nhân vấn đề; họ thường tìm ra khía cạnh tích cực của tình huống; giảm thiểu
muộn phiền bằng sự hài hước; chăm sóc sức khỏe bản thân tốt hơn và có sự ứng
phó miễn dịch tốt hơn. Sự lạc quan được định nghĩa là hi vọng vào tương lai và tin
148
vào những sự thay đổi mang đến những điều tích cực.
Theo tâm lý học tích cực, kỹ năng phục hồi có thể được đào tạo, thông qua
sự thay đổi từ đương đầu với các phản ứng tiêu cực sang ứng phó với các sự kiện
căng thẳng sau khi chúng xảy ra, để ngăn chặn phản ứng tiêu cực ngay từ đầu. Huấn
luyện suy nghĩ và hành vi ứng phó giúp nâng cao khả năng xử lí tình huống và ngăn
chặn suy sup tinh thần. Điều này đặc biệt đúng khi những những ám ảnh xấu mà
con người thường xuyên gặp phải đặc biệt là chấn thương thường xuyên trong công
việc ảnh hưởng trực tiếp đến sự phục hồi của họ.
Karen F. Deppa (2015), đã chỉ ra các nhân tố chính giúp phục hồi tâm lý tốt
cho các chiến sĩ CC và CNCH trong quá trình giải quyết các tình huống khẩn cấp,
đó là:
Thứ nhất, suy nghĩ khuôn mẫu, đơn điệu dẫn đến tình trạng thiếu cảm xúc và
hành vi. Khi phản ứng của chúng ta mỗi ngày đều giống nhau sẽ là chúng ta mất đi
quan điểm, lối suy nghĩ riêng đối với sự việc, phản ứng của chúng ta khi đó là sai
lệch và không thể thích nghi. Một trong những hệ quả khi phản ứng sai lệch là tự
đánh giá thấp giá trị bản thân. Việc này bắt nguồn từ ước mong trở nên hoàn hảo
của con người, điều mà họ sẽ không bao giờ đạt đươc. Từ đó, họ trở nên nghi ngờ
về khả năng và năng lực bản thân.
Lối suy nghĩ tích cực rằng bản thân đã làm tốt trong công việc có thể giúp
chiến sĩ CC và CNCH chống lại sự tự đánh giá thấp bản thân và loại trừ các suy
nghĩ tiêu cực khác gây ra bởi sự căng thẳng tâm lý. Lối suy nghĩ tích cực thúc đẩy
các chiến sĩ có động lực phục vụ cộng đồng, xã hội, họ cam kết với một danh
nghĩa mà chính họ mong đợi, và những người khác mong đợi họ, hành động anh
hùng và vị tha. Một nghiên cứu trên 156 lính cứu hỏa ở ngoại ô New York về
phương diện nghề nghiệp và tình nguyện, cho thấy các nhân viên cứu hỏa mà sẵn
sàng nỗ lực hết mình cho công việc thì họ luôn tin rằng cộng đồng coi trọng và hỗ
trợ công việc của họ.
Ngoài mong muốn hành động một cách vị tha, hành vi ủng hộ xã hội (hành
vi nhằm mang lại lợi ích cho người khác), các hành động vì xã hội của chiến sĩ CC
và CNCH cũng cho thấy có tác động đến cảm xúc tích cực. Một nghiên cứu trên 68
149
chiến sĩ cứu hỏa chuyên nghiệp và nhân viên phản ứng khẩn cấp ở Thụy Sĩ, Đức và
Áo cho thấy các công việc giúp đỡ người khác tác động tích cực đến các chiến sĩ
khi họ về nhà và sau khi kết thúc nhiệm vụ của mình thể hiện ở ba điểm sau: Thứ
nhất, họ cảm thấy yêu công việc của mình hơn và nhận thức về giá trị bản thân cũng
tăng lên [Wagner, Heinrichs và Ehlent, 1998].
Thứ hai, cảm giác thân thuộc, quyền sở hữu và vai trò hỗ trợ xã hội. Các
chiến sĩ cảm thấy ít bị căng thẳng hơn khi họ có thể coi người lãnh đạo, chỉ huy như
một đồng minh tin cậy (cảm giác an toàn khi biết luôn được lãnh đạo giúp đỡ bất cứ
lúc nào), hội nhập xã hội (cảm giác là một phần của 1 tổ chức lớn) và sự đảm bảo
giá trị (nhận thấy các kĩ năng và khả năng). Theo đó, hỗ trợ xã hội được chứng minh
là yếu tố quan trọng trong các trường hợp liên quan đến căng thẳng tâm lý. Sự hỗ
trợ từ bạn bè và gia đình là các yếu tố phòng ngừa làm giảm căng thẳng và các phản
ứng liên quan đến chấn thương tinh thần.
Thứ ba, sự tự nhận thức năng lực bản thân. Niềm tin về năng lực bản thân
ảnh hưởng đến ý thức làm chủ của con người, quyết định của họ về hành vi và lựa
chọn hoạt động. Một nghiên cứu về nhân viên cứu hộ người Ý (bao gồm cả lính cứu
hỏa nam và nữ, nhân viên y tế và kỹ thuật viên y tế) cho thấy, những người có năng
lực bản thân cao thì có xu hướng ít bị ảnh hưởng bởi tình trạng căng thẳng so với
người có năng lực bản thân thấp. Khi sử dụng thang đo chất lượng cuộc sống nghề
nghiệp để đo lường tình yêu nghề nghiệp (niềm vui bắt nguồn từ việc có thể làm
việc của một người), cũng như mức độ chán ghét nghề nghiệp (kiệt sức trong công
việc và chấn thương thứ cấp liên quan đến công việc), các nhà nghiên cứu đã nhận
thấy rằng trong các nhân viên cứu hộ có điểm số năng lực bản thân cao, tình yêu
nghề nghiệp không bị ảnh hưởng bởi mức độ căng thẳng. Nhiều nghiên khác cũng
bổ sung tính xác thực cho nhận định trên.
Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy, biểu hiện tâm lý và cách ứng phó của
các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH trong việc giải quyết các THKC là tương đối
tốt. Điều này đồng nghĩa với việc trong và sau khi hoàn thành nhiệm vụ CC và
CNCH mặc dù ở các chiến sĩ có biểu hiện một số hiện tượng tâm lý tiêu cực liên
quan đến sức khỏe thể chất và tinh thần của họ nhưng do biết các ứng phó tích cực
150
với các biểu hiện tâm lý đó. Kết quả là, các chiến sĩ có mức thích ứng cao với công
việc, họ hài lòng với công việc, với các mối quan hệ và cuộc sống hiện tại, quan
tâm, chia sẻ với đồng đội và mọi người xung quanh, có tinh thần lạc quan. Họ có
suy nghĩ tích cực, hết lòng vì cộng đồng, vì cuộc sống bình yên của nhân dân. Bản
thân họ tự nhận thấy mình là những người sống có trách nhiệm, họ rất vinh dự, tự
hào khi công việc được xã hội, cộng đồng đánh giá cao.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, các biểu hiện tâm lý của các chiến sĩ hoàn
toàn có thể thay đổi theo sự kiện, biến cố, thời gian và căng thẳng tâm lý trong quá
trình giải quyết các THKC. Điều đó đặt ra những vấn đề quan tâm đến sức khỏe tinh
thần cho các chiến sĩ, giúp họ có thể thích ứng nhanh với việc giải quyết các THKC
là rất quan trọng.
Theo chúng tôi, cần có các dự án đào tạo, huấn luyện kỹ năng ứng phó với
các THKC trong CC và CNCH, giúp họ thích ứng tốt nhất với việc giải quyết các
tình huống và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Sự cần thiết có vị trí việc làm cho
các nhà tâm lý tại các phòng, đội PCCC và CNCH để hỗ trợ, can thiệp một cách kịp
thời có hiệu quả cho các chiến sĩ trong và sau khi giải quyết các THKC. Đây là biện
pháp quan trọng để giúp các chiến sĩ có được sức khỏe thể chất và tinh thần tốt nhất
nhằm tăng cường hiệu quả giải quyết THKC.
4.3.3. Tương quan giữa mặt biểu hiện tâm lý với các mặt biểu hiện của
thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy
chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Các biểu hiện tâm lý khi giải quyết các THK của cảnh sát PCCC và CNCH
là một trong những yếu tố quan trọng để đánh giá sự thích ứng của chiến sĩ đó với
các THKC. Tuy nhiên, để tìm hiểu vấn đề một cách sâu sắc hơn, chúng tôi xem xét
mối tương quan giữa các biểu hiện tâm lý với các mặt biểu hiện của thích ứng. Việc
xem xét mối tương quan này nhằm tìm hiểu sự tồn tại đồng thời hay không đồng
thời, cùng biến thiên hay không cùng biến thiên giữa chúng, hệ số tương quan nhị
biến giữa mặt biểu hiện tâm lý với các mặt biểu hiện của thích ứng của cảnh sát
151
PCCC và CNCH được thể hiện ở bảng 4.16 dưới đây.
Bảng 4.16. Mối quan hệ giữa mặt biểu hiện tâm lý với các mặt biểu hiện của
thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy
chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Nhận thức Thái độ Hành động Biểu hiện tâm lý
Biểu hiện tâm lý
Nhận thức
Thái độ
Hành động
Trung bình chung thích ứng 0,410** 0,319** 0,289** 0,350** 0,533** 0,489** 0,815** 0,698** 0,883** 0,837**
Ghi chú: p < 0,05
Qua quan sát bảng số liệu ta thấy, mặt biểu hiện tâm lý của các chiến sĩ có mối
tương quan thuận và có ý nghĩa thống kê với ba mặt biểu hiện của thích ứng với việc
giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH là nhận thức, thái độ, hành động.
Mặt biểu hiện tâm lý của các chiến sĩ có mối tương quan thuận và có ý nghĩa
thống kê với ba mặt biểu hiện của thích ứng là nhận thức, thái độ, hành động. Với
nhận thức (r = 0,410**, p<0,01), với thái độ (r = 0,319**, p<0,01), với hành động (r
= 0,289**, p<0,01). Điều này cho thấy ở những chiến sĩ có điểm số ở mặt nhận thức,
thái độ, hành động cao thì điểu số ở mặt biểu hiện tâm lý cũng cao và ngược lại.
Nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ khăng khít và không thể tách rời giữa
mặt biểu hiện tâm lý với thích ứng việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH (r=0,350**, p<0,01). Tương quan này theo chiều thuận, thể hiện sự gắn bó
và có ý nghĩa thống kê.
Như vậy, biểu hiện tâm lý có mối quan hệ thuận, chặt chẽ và không thể tách
rời mà thống nhất trong một chỉnh thể chung với ba mặt biểu hiện của thích ứng với
việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH. Trong đó, mặt biểu hiện
tâm lý có mối quan hệ gắn bó nhất với mặt nhận thức, sau đó đến mặt thái độ và
hành động. Mặt biểu hiện tâm lý cũng có mối tương quan mạnh và gắn bó mật thiết
152
với thích ứng chung.
4.4. Các yếu tố tác động đến thích ứng với việc giải quyết các tình huống
khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH là
một hiện tượng tâm lý phức tạp, chịu sự tác động của yếu tố khách quan và yếu tố
chủ quan. Khảo sát thực trạng các yếu tố tác động để tìm ra mối liên hệ và mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố khách quan, chủ quan đến thích ứng với việc giải quyết
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, từ đó có cơ sở thực tiễn đề xuất các kiến
nghị nhằm nâng cao mức độ thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH.
4.4.1. Yếu tố khách quan
Nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến thích ứng với
việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH là cơ sở quan trọng để đề
xuất các kiến nghị nhằm nâng cao mức độ thích ứng của các chiến sĩ.
Quá trình giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH bị ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố khách quan. Tuy nhiên, trong luận án này, chúng tôi xác định 3
nhóm yếu tố khách quan cơ bản (theo đánh giá của các chiến sĩ), các yếu tố này có
thể ảnh hưởng nhiều đến kết quả thực hiện hành động giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH, cụ thể: Nhóm môi trường (thời tiết; khói, nhiệt độ và các
sản phẩm cháy; nguy cơ sụp đổ cấu kiện xây dựng); Nhóm trang thiết bị, phương
tiện, máy móc (quần áo, gang tay, mũ, ủng, mặt nạ phòng độc, bình dưỡng khí; các
phương tiện chữa cháy cơ giới; các phương tiện phục vụ cứu nạn cứu hộ chuyên
dụng); Nhóm chỉ huy (ra mệnh lệnh kịp thời, dứt khoát; phân công sắp xếp công
việc hợp lý; điều phối hoạt động giữa các nhóm, tiểu đội một cách hợp lý). Kết quả
nghiên cứu về các yếu tố khách quan tác động đến thích ứng với việc giải quyết các
153
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH thể hiện ở bảng 4.17 dưới đây:
Bảng 4.17. Tác động của các yếu tố khách quan đến thích ứng với việc giải quyết
các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Yếu tố khách quan ĐTB ĐLC
STT 1.1 Môi trƣờng
1 2 3 Thời tiết Khói, nhiệt độ và các sản phẩm cháy Nguy cơ sụp đổ cấu kiện xây dựng Điểm trung bình 3,90 4,54 4,59 4,34 0,94 0,59 0,62 0,53
1.2. Trang thiết bị, phƣơng tiện, máy móc
4 4,29 0,89
5 6 Quần áo, găng tay, mũ, ủng, mặt nạ phòng độc, bình dưỡng khí Các phương tiện chữa cháy cơ giới Các phương tiện phục vụ cứu nạn cứu hộ chuyên dụng Điểm trung bình 4,02 4,16 4,15 0,92 0,90 0,82
1.3. Chỉ huy
7 8 4,34 4,21 0,73 0,78
9 4,14 0,81
Ra mệnh lệnh kịp thời, dứt khoát Phân công sắp xếp công việc hợp lý Điều phối hoạt động giữa các nhóm, tiểu đội một cách hợp lý Điểm trung bình Trung bình chung 4,23 4,24 0,53 0,54
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5 Theo kết quả đánh giá của các chiến sĩ, các yếu tố khách quan tác động đến
thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH cho thấy, các
yếu tố khách quan tác động rất mạnh đến thích ứng của các chiến sĩ (ĐTB là 4,24;
ĐLC 0,53), trong đó: nhóm các yếu tố môi trường tác động mạnh nhất (ĐTB là
4,34; ĐLC 0,53), tiếp theo là là nhóm yếu tố chỉ huy (ĐTB là 4,23; ĐLC 0,53) và
cuối cùng là nhóm các yếu tố trang thiết bị, phương tiện, máy móc là yếu tố tác
động nhất (ĐTB là 4,15; ĐLC 0,82). Nếu xét theo từng yếu tố riêng biệt trong các
yếu tố khách quan thì 3 yếu tố tác động nhiều nhất đó là nguy cơ sụp đổ cấu kiện
xây dựng (ĐTB là 4,59; ĐLC 0,62). Sự cố cháy (nổ) xảy ra trong các công trình nhà
có thể ảnh hưởng với các mức độ khác nhau đến kết cấu chịu lực và các bộ phận
kiến trúc, ở mức độ nhẹ thì bị ám khói trên các bề mặt, ở mức độ lớn hơn có thể gây
154
ra hư hỏng cục bộ vật liệu bề mặt, còn nặng thì sụp đổ toàn bộ kết cấu của công
trình. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn, sụp đổ cấu kiện sẽ gây khó khăn trong quá
trình triển khai lực lượng, phương tiện cũng như quá trình giải cứu nạn nhân, gây
nguy hiểm, đôi khi là tâm lý lo lắng, căng thẳng, sợ hãi cho những chiến sỹ có
nhiệm vụ vào trong những khu vực đó để dập tắt đám cháy và cứu người bị nạn.
Thứ hai là khói, nhiệt độ và các sản phẩm cháy (ĐTB là 4,54, ĐLC 0,59).
Khói và các sản phẩm cháy đặc biệt nguy hiểm đối với cơ thể con người. Trong
khói có chứa nhiều loại sản phẩm của các chất cháy khác nhau, nó là sản phẩm phân
huỷ nhiệt của một số chất, vật liệu do tác động của nhiệt độ đám cháy. Trong các
hợp chất này có những chất như CO, CO2, HCl, NO, H2S,... Ôxit cacbon (CO) là
một chất khí không màu, không mùi nhưng rất độc hại đối với cơ thể con người. CO
nguy hiểm bởi nó được hêmoglôbin trong máu hấp thụ tốt hơn 200-300 lần so với
ôxy và như vậy hồng cầu mất khả năng hấp thụ ôxy cho cơ thể. Hiện tượng thiếu
ôxy bắt đầu xảy ra làm cho các tế bào bị tê liệt, làm giảm hoặc mất khả năng suy
nghĩ, con người trong trạng thái bất tỉnh không còn khả năng né tránh nơi nguy
hiểm, bảo vệ mình, dẫn đến suy hô hấp và tử vong.
Khói còn gây mất tầm nhìn, khi đó, chuyển động có tổ chức của người sẽ bị
phá hủy, hiện tượng rối loại xuất hiện mỗi người theo nhận biết của riêng minh tự do
chọn hướng thoát nạn. Như vậy, quá trình thoát nạn sẽ khó khăn hơn, thậm chí không
thể tiến hành được. Khói gây tác dụng sinh lý và tâm lý đối với con người. Thể hiện ở
chỗ trong thành phần khói có các chất khí độc hại làm cơ thể hấp thụ gây nên hiện
tượng tắc phin lọc trong mũi, dẫn đến thiếu ôxy. Bên cạnh đó, khói còn gây ảnh
hưởng xấu tới mắt, làm giảm tầm nhìn, gây khó khăn, ảnh hưởng đến việc định
hướng, điều khiển, điều chỉnh của các chiến sĩ khi tham gia chữa cháy và thoát nạn.
Nhiệt độ cao cũng là một trong những yếu tố nguy hiểm đối với con người trong đám cháy. Nếu nhiệt độ tác động lên trên bề mặt da đạt tới 42- 46 0 C gây cho con người cảm giác đau bỏng rát. Khi nhiệt độ môi trường đạt tới 69- 710 C sẽ nguy
hiểm đối với sự sống của con người. Mối nguy hiểm lớn nhất đối với con người, đó là
hít phải không khí nóng làm tổn thương đường hô hấp trong, dẫn đến khó thở hoặc bị chết. Khi con người chịu tác động của nhiệt độ trên 1000C sẽ bị ngất và chết sau vài
155
phút. Một nguy hiểm khác do nhiệt độ gây ra, đó là bỏng ngoài da. Mặc dù y học
hiện đại đã có nhiều tiến bộ trong việc điều trị vết thương do bị bỏng nhưng bị bỏng
độ II trên 30% bề mặt thì cơ hội sống sót còn rất ít [Đinh Ngọc Tuấn, 2006].
Kết quả phỏng vấn sâu chiến sĩ L.Q.D, công an Hà Nội cho biết: “Trong quá
trình làm nhiệm vụ, chúng tôi phải cùng lúc đảm bảo các yêu cầu kép đó là vừa bảo vệ
an toàn cho bản thân, vừa phải nhanh chóng cứu người, cứu tài sản. Người lính chữa
cháy phải đối mặt với rất nhiều mối nguy hiểm đến từ xung quanh đám cháy như khói,
ngọn lửa, nhiệt độ lớn, nguy cơ sụp đổ cấu kiện xây dựng... Nó vừa gây nguy hiểm cho
các chiến sĩ khi làm nhiệm vụ, vừa đe dọa đến tính mạng của nạn nhân”. Chiến sĩ
L.D.T, công an Hà Nội cho biết: “Khói là kẻ thù số một của lính chữa cháy chúng tôi,
khói vừa có thể gây ra nguy hiểm đến tính mạng của người lính, vừa gây mất tầm nhìn.
Bên cạnh đó, chúng tôi phải cảnh giác với các mối đe dọa khác có thể đến bất cứ lúc
nào như nguy cơ sụp đổ của cấu kiện xây dựng hay sự cực đoan đến từ thời tiết”.
Nhiệt độ cao sẽ kích thích mạnh mẽ đến quá trình hoạt động thần kinh của
chiến sĩ CC và CNCH, làm yếu đi quá trình ức chế, dễ tạo trạng thái mất cân bằng
ảnh hưởng đến động tác, hành động của họ. Thực tế cho thấy, khói đen xuất hiện sẽ
tác động mạnh đến các chiến sĩ, làm cho não bộ mất đi khả năng cảm giác, tri giác
về khoảng cách, khó phân rõ được phương hướng, không tỉnh táo. Ngoài ra, trong
môi trường nhiệt độ cao còn làm tổn hại đến tư duy để tính toán tình huống ứng phó
và thoát nạn, mặt khác, nó ảnh hưởng đến khả năng quan sát, tưởng tượng và phán
đoán của các chiến sĩ tham gia CC và CNCH.
Trong quá trình CC và CNCH, vai trò của người chỉ huy rất quan trọng, việc
ra lệnh kịp thời, dứt khoát của người chỉ huy giúp các chiến sĩ không những thực
hiện đúng quy trình mà còn có tác dụng to lớn trong việc động viên, khích lệ tinh
thần các chiến sĩ. Hành động ra mệnh lệnh kịp thời, dứt khoát của người chỉ huy
(ĐTB là 4,34, ĐLC 0,73). Người chỉ huy là người tổ chức việc giải quyết THKC
CC và CNCH của lực lượng PCCC và CNCH. Do vậy, phong cách lãnh đạo trong
tâm lý của người chỉ huy ảnh hưởng trực tiếp đối với hoạt động chữa cháy và cứu
nạn cứu hộ, đặc biệt khi đối mặt tình hình nguy hiểm, phức tạp. Đặc biệt, việc ra
quyết định kịp thời, dứt khoát là kỹ năng lãnh đạo quan trọng nhất của người chỉ
156
huy trong hoạt động giải quyết các THKC.
Bên cạnh đó, có 3 yếu tố tác động ít hơn đến thích ứng với việc giải quyết
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH đó là, yếu tố thời tiết (ĐTB là 3,90; ĐLC
0,94); các phương tiện chữa cháy cơ giới (ĐTB là 4,02, ĐLC 0,92) và việc điều
phối hoạt động giữa các nhóm, tiểu đội một cách hợp lý. Các chiến sĩ cảnh sát
PCCC và CNCH phải giải quyết các THKC trong mọi điều kiện không gian, thời
gian, thời tiết khác nhau. Sự hỗ trợ của các thiết bị chuyên dụng cũng góp phần
quan trọng không thể coi nhẹ trong quá trình làm nhiệm vụ của các chiến sĩ, góp
phần bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân.
Như vậy, yếu tố khách quan tác động mạnh đến sự thích ứng với việc giải quyết
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH. Việc chỉ ra được yếu tố ảnh hưởng sẽ góp
phần đưa ra các giải pháp nhằm ngăn chặn, hạn chế tác động của các yếu tố đó đối với
các chiến sĩ trong quá trình chữa cháy và cứu nạn cứu hộ. Đồng thời hỗ trợ cho việc
xây dựng các chương trình huấn luyện, đào tạo và bồi dưỡng đặc thù, chuyên biệt
nhằm nâng cao khả năng thích ứng của các chiến sĩ trong việc giải quyết các THKC.
4.4.2. Yếu tố chủ quan
Vai trò của phương tiện CC và CNCH đối với công tác chữa cháy là rất quan
trọng, tuy nhiên yếu tố con người trong việc sử dụng các phương tiện, kỹ thuật đó
mới là quyết định. Phương tiện chỉ là công cụ, chỉ khi con người biết sử dụng nó thì
mới tạo ra giá trị sử dụng.
Các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
luôn găp các tình huống phức tạp, đa dạng và không phải ở đám cháy nào cũng diễn
ra tương tự nhau. Do đó, trong các hoạt động chiến đấu luôn đòi hỏi các chiến sĩ
phải có ý chí cao, nỗ lực cá nhân; kiên quyết, dũng cảm, tích cực, sáng tạo trong
việc giải quyết các nhiệm vụ. Trong nhiều tình huống phức tạp, sự quá tải về sức
khỏe thể chất và tinh thần làm cho các chiến sĩ không thích ứng với tình huống và
hậu quả là gây tổn thương nghiêm trọng về người và tài sản. Trong tình huống có
quá nhiều nhiệm vụ đòi hỏi phải giải quyết đồng thời thường làm cho chiến sĩ lúng
túng, mất bình tĩnh, mất tự tin và hành động một cách thụ động. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, tác động của các yếu tố chủ quan đến thích ứng với việc giải quyết các
157
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH được thể hiện ở bảng 4.18 dưới đây.
Bảng 4.18. Tác động của các yếu tố chủ quan đến thích ứng với việc giải quyết các
tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
STT Yếu tố chủ quan ĐTB ĐLC
2.1. Khả năng kiểm soát cảm xúc
1 2 3 Bình tĩnh giải quyết nhiệm vụ Tự tin trong từng thao tác chiến đấu Kiềm chế sự sợ hãi trong giải quyết nhiệm vụ Điểm trung bình 4,28 4,25 4,11 4,21 0,79 0,75 0,84 0,70
2.2. Kinh nghiệm chiến đấu
4 5 6 4,27 4,35 4,21 4,28 0,78 0,78 0,85 0,65
Tham gia tập huấn nghiệp vụ Số lần trực tiếp chiến đấu Thâm niên trong nghề Điểm trung bình 2.3. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
7 8 4,32 4,31 0,86 0,89
9 4,10 0,94
Được đào tạo chuyên môn về chữa cháy Được đào tạo chuyên môn về cứu nạn cứu hộ Được đào tạo chuyên môn về tự động và phương tiện kỹ thuật phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ Điểm trung bình Trung bình chung 4,24 4,24 0,83 0,61
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Theo đánh giá của các chiến sĩ PCCC và CNCH, tác động của các yếu tố chủ
quan đến việc thích ứng với việc giải quyết các THKC của các chiến sĩ cảnh sát
PCCC và CNCH ở mức độ rất mạnh (ĐTB là 4,24; ĐLC 0,61). Trong đó, có 03
thành tố của yếu tố chủ quan tác động rất mạnh đến tâm lý của các chiến sĩ, đó là:
Số lần trực tiếp chiến đấu (ĐTB là 4,35; ĐLC 0,78); Được đào tạo chuyên môn về
chữa cháy (ĐTB là 4,32; ĐLC 0,86); Được đào tạo chuyên môn về cứu nạn cứu hộ
(ĐTB là 4,31; ĐLC 0,89). Trong chiến đấu, kỹ thuật cá nhân và nghiệp vụ chuyên
môn của các chiến sỹ cảnh sát PCCC và CNCH đóng vai trò quan trọng, quyết định
đến hiệu quả công việc. Khi được đào tạo một cách chuyên nghiệp, chuyên sâu theo
từng vị trí đảm nhận sẽ giúp các chiến sĩ dễ dàng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được
giao, có tâm lý thoải mái, tự tin khi hoạt động nghề nghiệp.
Việc nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ, chiến sỹ cảnh sát
PCCC và CNCH nhằm tạo chỗ dựa tâm lý vững chắc cho đồng đội và cho chính
158
bản thân là vô cùng cần thiết. Thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ về công tác PCCC và CNCH là yêu cầu nghề nghiệp quan trọng đối với
họ, giúp họ thích ứng tốt với việc giải quyết các THKC trong CC và CNCH.
Kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp là một phần trong quá trình tích luỹ và
hoàn thiện kỹ năng, nghiệp vụ. Kinh nghiệm chỉ có thể có được khi cá nhân đó
tham gia vào những hoạt động nghề nghiệp, có sự nhận thức và trải nghiệm trong
thực tế. Do vậy, con người tích lũy được càng nhiều kinh nghiệm thực tế thì họ
thích ứng tốt với việc giải quyết các THKC. Kinh nghiệm, trải nghiệm giúp chiến sĩ
CC và CNCH tự khẳng định mình, tạo tâm lý tự tin, độc lập, sáng tạo trong việc
thực hiện nhiệm vụ được giao.
Để giúp các chiến sĩ trong đơn vị thích ứng hơn nữa với việc giải quyết các
THKC trong CC và CNCH, đồng chí Nguyễn A T, đội trưởng, cho rằng, “Đơn vị
cần phải thường xuyên tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ học tập các bài tập chiến thuật
chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, học tập các kỹ năng xử lý tình huống. Tăng cường tổ
chức cho cán bộ, chiến sĩ sử dụng, vận hành các trang thiết bị chữa cháy và cứu
nạn cứu hộ được trang cấp”. Bên cạnh đó, các chiến sĩ trong đơn vị cần phải:
“Thường xuyên luyện tập các bài tập chiến thuật trong các buổi huấn luyện tại đơn
vị. Nắm chắc các văn bản chỉ đạo của cấp trên về công tác chữa cháy và cứu nạn
cứu hộ, sử dụng thành thạo các trang thiết bị được trang cấp”.
Bên cạnh đó, theo các chiến sĩ có 02 thành tố của yếu tố chủ quan tác động
đến thích ứng với việc giải quyết các THKC của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và
CNCH có điểm trung bình thấp nhất, đó là: Được đào tạo chuyên môn về tự động
và phương tiện kỹ thuật phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (ĐTB là 4,10;
ĐLC 0,94); Kiềm chế sự sợ hãi trong giải quyết nhiệm vụ (ĐTB là 4,11; ĐLC 0,84).
Các kiến thức được huấn luyện, đào tạo về chuyên môn CC và CNCH sẽ đóng vai
trò quyết định đối với các chiến sĩ trực tiếp tham gia giải quyết các THKC trong CC
và CNCH. Khi nhận lệnh đến hiện trường giải quyết tình huống đó, các chiến sĩ đã
chuẩn bị sẵn cho mình tâm thế sẵn sàng chiến đấu cũng góp phần quan trọng để
thích ứng với việc giải quyết các THKC.
Như vậy, theo các chiến sĩ, các yếu tố khách quan và chủ quan có ảnh hưởng rất
lớn tới việc thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH.
Tâm thế của lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH có tác động trực tiếp tới việc thích
159
ứng với việc giải quyết các THKC trong CC và CNCH. Dựa trên kết quả nghiên cứu
tác động của các yếu tố như đã trình bày ở trên, có thể đưa ra các kiến nghị nhằm nâng
cao khả năng thích ứng với việc giải quyết các THKC của các chiến sĩ.
4.4.3. Tương quan giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan với thích
ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa
cháy và cứu nạn cứu hộ
a. Tương quan giữa yếu tố khách quan với thích ứng
Để tìm hiểu tương quan giữa yếu tố khách quan (môi trường; trang thiết bị,
phương tiện, máy móc; chỉ huy) với thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh
sát PCCC và CNCH qua phân tích tương quan nhị biến Pearson. Tương quan giữa sự
thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH với yếu tố
khách quan là tương quan thuận và có ý nghĩa thống kê: (với r = 0,428**; p<0,01).
Biểu đồ 4.6. Tƣơng quan giữa các thành tố trong yếu tố khách quan với thích
ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Ghi chú: r** khi p<0,01; r là hệ số tương quan nhị biến Pearson
Tương quan giữa thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH với yếu tố khách quan (môi trường; trang thiết bị, phương tiện,
máy móc; chỉ huy) đều có tương quan thuận và có ý nghĩa thống kê từng cặp một
(p<0,01). Điều này cho thấy, khi từng thành tố của yếu tố khách quan thay đổi thì
các biểu hiện thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH
160
cũng có sự thay đổi tương ứng, cùng tăng hoặc cùng giảm. Chẳng hạn, nếu trang
thiết bị máy móc, phương tiện được nâng lên thì sẽ góp phần nâng cao sự thích ứng
với việc giải quyết các THKC của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH.
Tương quan giữa thành tố của yếu tố khách quan là môi trường; trang thiết
bị, phương tiện, máy móc và chỉ huy với thích ứng với việc giải quyết các THKC
của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH là tương quan thuận và ở mức trung bình
(r = 0,391**; r = 0.373**; r = 0,369**, với p<0,01). Như vậy, có thể thấy rằng khi
các yếu tố khách quan (môi trường; trang thiết bị, phương tiện, máy móc; chỉ huy)
được thay đổi theo chiều hướng tốt lên thì sự thích ứng với việc giải quyết các
THKC của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH cũn được nâng lên và ngược lại.
b. Tương quan giữa yếu tố chủ quan với thích ứng
Chúng tôi sử dụng phân tích tương quan nhị biến Person để tìm hiểu tương
quan giữa các thành tố của yếu tố chủ quan (khả năng kiểm soát cảm xúc; kinh
nghiệm chiến đấu; trình độ chuyên môn nghiệp vụ) với thích ứng với việc giải quyết
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH. Kết quả cho thấy, thích ứng với việc giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH với các thành tố của yếu tố chủ
quan có tương quan thuận và có ý nghĩa thống kê: (với r = 0,387**; p<0,01)
Biểu đồ 4.7. Tƣơng quan giữa các thành tố của yếu tố chủ quan với thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
161
Ghi chú: r** khi p<0,01; r là hệ số tương quan nhị biến Pearson
Tương quan giữa thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC
và CNCH với yếu tố chủ quan (khả năng kiểm soát cảm xúc; kinh nghiệm chiến
đấu; trình độ chuyên môn nghiệp vụ) cho thấy, ba thành tố trong yếu tố chủ quan có
tương quan thuận và có ý nghĩa thống kê, cụ thể: Khả năng kiểm soát cảm xúc
(r=0,295**, p<0,01), kinh nghiệm chiến đấu (r = 0,356*8, p<0,01), trình độ chuyên
môn nghiệp vụ (r =0,382**, p<0,01). Điều này cho thấy, khi các thành tố của yếu tố
chủ quan thay đổi thì thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC
và CNCH cũng có sự thay đổi tương ứng, cùng tăng hoặc cùng giảm.
c. Dự báo ảnh hưởng các yếu tố khách quan và chủ quan đến sự thích ứng
Tìm hiểu các biến số dự báo khả năng biến đổi sự thích ứng với việc giải quyết
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH giúp cho việc đưa ra kiến nghị hợp lý
nhằm nâng cao mức độ thích ứng của chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH. Chúng tôi
xem xét khả năng dự báo mức độ biến đổi sự thích ứng với việc giải quyết các
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH ở hai khía cạnh: Thứ nhất là xem xét khả năng
dự báo mức độ biến đổi từng biểu hiện của sự thích ứng với việc giải quyết các
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH dưới ảnh hưởng của yếu tố chủ quan, khách
quan nhằm xem xét vai trò của yếu tố chủ quan, khách quan đối với từng biểu hiện.
Thứ hai, xem xét khả năng mức độ biến đổi sự thích ứng với việc giải quyết các
THKC của cảnh sát PCCC và CNCH dưới ảnh hưởng của từng cụm yếu tố chủ
quan, khách quan để tìm hiểu khả năng dự báo của các nhóm yếu tố này.
- Dự báo ảnh hưởng các yếu tố khách quan đến sự thích ứng với việc giải quyết
các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Bảng 4.19. Mô hình hồi quy dự báo sự thích ứng với việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ của nhóm
các yếu tố khách quan
Biến tác động ANOVA Biến phụ thuộc Hệ số hồi quy đa biến Hệ số hồi quy đơn biến (R2 hiệu chỉnh)
1. Môi trường β=0,201 0,127
β =0,239 0,155 2. Trang thiết bị, phương tiện, máy móc R2= 0,196
162
Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp 3. Chỉ huy β =0,215 0,148 F=16,596; P=0,000b F=23,920; P=0,000b F=19,107; P=0,000b
Xem xét mức độ tác động của các yếu tố khách quan (môi trường; trang thiết
bị, phương tiện, máy móc; chỉ huy) đến sự thích ứng với việc giải quyết các THKC
của cảnh sát PCCC và CNCH, phép phân tích hồi quy đơn tuyến để dự báo rằng, cả
03 nhân tố trong yếu tố khách quan đều thúc đẩy sự thích ứng với việc giải quyết
các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, trong đó, yếu tố khách quan “Môi
trường” giải thích được 12,7%; yếu tố khách quan “Trang thiết bị, phương tiện,
máy móc” giải thích được 15,5%; yếu tố khách quan “Chỉ huy” giải thích được
14,8%. Yếu tố khách quan “Môi trường” dự báo được ít như vậy cho sự thích ứng
với việc giải quyết các THKC là do bản thân “Môi trường” là yếu tố phức tạp, xảy
ra bất ngờ, bản thân các chiến sĩ luôn ở thế bị động hơn so với “Môi trường”.
Khi kết hợp việc phân tích các yếu tố khách quan đồng thời với phép hồi quy
đa biến cho thấy, các biến có tác động thúc đẩy mạnh hơn khi kết hợp với nhau.
Điều đó cho thấy, nếu các điều kiện môi trường thuận lợi, các chiến sĩ được trang bị
các trang thiết bị, phương tiện, máy móc hiện đại, chỉ huy giỏi thì sẽ góp phần dự
báo được phần nào đó sự thích ứng của họ (giải thích được 19,6%).
- Dự báo ảnh hưởng các yếu tố chủ quan đến sự thích ứng với việc giải quyết
các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Bảng 4.20. Mô hình hồi quy dự báo sự thích ứng với việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp của hai nhân tố nhóm các yếu tố khách quan
Biến phụ Hệ số hồi quy Biến tác động ANOVA thuộc đa biến Hệ số hồi quy đơn biến (R2 hiệu chỉnh)
1. Khả năng kiểm β =0,174 0,128 soát cảm xúc F=12,258; P=0,001b
β =0,156 0,147 R2=0,212 1. Kinh nghiệm chiến đấu F=19,307; P=0,000b
Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp β =0,251 0,163 2. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ F=12,258; P=0,001b
Xem xét mức độ tác động của các yếu tố chủ quan (Khả năng kiểm soát cảm
xúc; kinh nghiệm chiến đấu; trình độ chuyên môn nghiệp vụ) đến sự thích ứng với
163
việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, phép phân tích hồi quy
đơn tuyến để dự báo rằng 03 nhân tố trong yếu tố chủ quan có thúc đẩy sự thích ứng
với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH, trong đó, yếu tố chủ
quan “Khả năng kiểm soát cảm xúc” giải thích được 12,8%; yếu tố chủ quan“Kinh
nghiệm chiến đấu” giải thích được 14,7%; yếu tố chủ quan “Trình độ chuyên môn
nghiệp vụ” giải thích được 16,3%. Sở dĩ yếu tố chủ quan “Khả nặng kiểm soát cảm
xúc” dự báo được ít nhất bởi vì các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH ngay từ khi
tham gia vào lực lượng đã được huấn luyện, đào tạo và bồi dưỡng liên tục, thường
xuyên với phương châm “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, tâm thế
sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu trong mọi hoàn cảnh, tình huống, sẵn sàng chấp
nhận những rủi ro cho bản thân khi chiến đấu để đảm bảo cuộc sống bình yên cho
người dân. Việc luyện tập hăng say hàng ngày, không biết mệt mỏi giúp các chiến sĩ
luôn vững tin vào việc hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Khi kết hợp các yếu tố chủ quan cùng một lúc, phép hồi quy đa biến cho
thấy, các biến có tác động thúc đẩy mạnh hơn khi kết hợp với nhau (giải thích
được 21,2%).
Việc phân tích mô hình hồi quy dự báo tác động của các yếu tố khách quan
và chủ quan đến thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH, đã giải thích được phần nào sự thay đổi nhưng vẫn ở trung bình (khách
quan là 19,6%; chủ quan là 21,2%). Vì vậy, câu hỏi đặt ra ở đây là sự thích ứng với
việc giải quyết các THKC của chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH còn chịu sự tác
động của các yếu tố nào khác nữa? Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi chỉ giải
thích được phần nào cho sự tác động của các yếu tố đã nêu ra ở trên. Các vấn đề
khác chúng tôi sẽ tìm hiểu và trình bày tường minh hơn trong các nghiên cứu khác
khi các điều kiện cho phép.
4.5. Phân tích chân dung tâm lý điển hình
Để làm rõ hơn một số khía cạnh về thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH, luận án nghiên cứu, phân tích 02 trường hợp điển hình
(trong đó 1 trường hợp có mức độ thích ứng rất cao; 01 trường hợp có mức thích ứng
trung bình), qua các nội dung cơ bản: Kết quả thực hiện hành động giải quyết các
164
THKC biểu hiện bên trong và biểu hiện bên ngoài; những khó khăn đã trải qua trong
thực hiện hành động giải quyết các THKC; biện pháp khắc phục khó khăn; bài học
kinh nghiệm để thích ứng tốt với việc giải quyết các THKC trong PCCC và CNCH.
4.5.1. Chân dung tâm lý thứ nhất
a. Một số thông tin cá nhân:
Họ và tên: Nguyễn Đình B Giới tính: Nam
Năm sinh: 1991 (28 tuổi) Trình độ học vấn: Trung cấp
Thâm niên công tác: 7 năm Nơi ở: Quận Ba Đình, Hà Nội
Đội công tác CC và CNCH – Công an Hà Nội Tình trạng hôn nhân: Chưa kết hôn
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Nguyễn Đình B có mức độ thích ứng cao với
việc giải quyết các THKC trong quá trình CC và CNCH (ĐTB là 4,37).
b. Nội dung phân tích
Xuất thân trong một gia đình có bề dày truyền thống và gắn bó với cách mạng,
duyên cơ đến với ngành công an như một lẽ tự nhiên đối với Nguyễn Đình B khi
trong nhà B có người anh con bác cả công tác trong lực lượng công an nhân dân, hình
ảnh người anh họ khoác trên mình bộ cảnh phục luôn in đậm trong tâm trí B. Từ khi
còn nhỏ, Nguyễn Đình B đã ước mơ sau này sẽ trở thành một chiến sĩ công an để góp
sức giữ bình yên cho cuộc sống của nhân dân. Khi học năm cuối THPT, Nguyễn
Đình B đã không mất thời gian nhiều để suy nghĩ khi đăng ký thi tuyển vào trường
Đại học Phòng cháy chữa cháy, ngôi trường mà B mơ ước. Có đôi chút hụt hẫng,
buồn bã do thiếu nửa điểm để đỗ vào hệ đại học của trường nhưng niềm vui đã trở lại
khi B nhận được giấy báo trúng tuyển vào hệ trung cấp của trường. Ước mơ khoác
trên mình bộ cảnh phục từ nhỏ với B giờ đây đã trở thành hiện thực.
Nguyễn Đình B, tâm sự: “Khi mới nhập trường, chưa quen với tác phong
người lính, cộng với tâm lý sợ lửa, sợ độ cao từ nhỏ, nhiều lúc bản thân nghĩ khó
mà vượt qua được những ngày đầu vô cùng khó khăn, vất vả. Do chưa quen với việc
học tập và rèn luyện trong môi trường mới, có những lúc bản thân kiệt sức, cảm
tưởng như không thể tiếp tục được. Nhưng rồi ăn cùng, ở cùng, sinh hoạt cùng với
những người bạn, các anh là cán bộ đi học, được sự chia sẻ, giúp đỡ, tôi càng ngày
165
càng thấy yêu và đam mê với ngành mình chọn, với công việc tương lai của mình”.
Ở tuổi 28, với thâm niên 07 năm trực tiếp chiến đấu, mặc dù đã phải trải qua
nhiều khó khăn do phải luân chuyển công tác nhiều đơn vị, tâm lý thời gian đầu khó
khăn khi tiếp nhận với công việc mới mà từ trước Nguyễn Đình B không bao giờ
nghĩ tới. Nhưng với cố gắng, nỗ lực của bản thân, trong những năm qua, Nguyễn
Đình B luôn được lãnh đạo và đồng nghiệp đánh giá là người có năng lực chuyên
môn tốt; gan dạ, dũng cảm, nhiệt huyết trong công việc, yêu ngành, yêu nghề, tận
tâm với công việc. Sự nỗ lực, cố gắng, tình yêu nghề của Nguyễn Đình B đã được
ghi nhận với những công lao và thành tích đáng khích lệ: năm 2012, 2013, 2017
nhận giấy khen của Giám đốc Cảnh sát PCCC và CNCH vì có thành tích trong công
tác chữa cháy; năm 2017 nhận bằng khen của Chủ tịch UBND thành phố; Năm
2018 nhận bằng khen của thành đoàn, Trung ương Đoàn.
Bên cạnh thành tích trên, Nguyễn Đình B còn là cán bộ đi đầu trong các hoạt
động chiến đấu, gương mẫu chấp hành nghiêm điều lệnh CAND và điều lệnh chiến
đấu của lực lượng cảnh sát PCCC và CNCH. Trong quá trình công tác tại địa bàn,
bằng thực tiễn công tác của mình, Nguyễn Đình B đã mạnh dạn tham mưu cho cấp
ủy, lãnh đạo đơn vị xây dựng nhiều phương án chữa cháy hiệu quả, thiết thực phù
hợp với địa bàn, khu dân cư, được các đồng chí lãnh đạo đánh giá cao. Song song với
hoạt động chiến đấu, Nguyễn Đình B còn được các đoàn viên trong đơn vị tín nhiệm
vào vị trí Bí thư chi đoàn, với nhiệt huyết của tuổi trẻ, đồng chí đã truyền lửa tới các
đoàn viên thanh niên, trực tiếp tham mưu cho Đoàn thanh niên Công an thành phố
xây dựng và tổ chức nhiều phong trào có ý nghĩa thiết thực mang tính giáo dục cao về
vai trò, trách nhiệm, truyền thống cách mạng kiên trung người cán bộ công an nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với đóng góp của mình trong công
tác, trong phong trào đoàn, đồng chí Nguyễn Đình B đã được Đảng ủy, lãnh đạo
Công an thành phố ghi nhận và trao tặng nhiều giấy khen, bằng khen.
Nguyễn Đình B cho biết, “việc rèn luyện bản lĩnh chính trị, chuyên môn
nghiệp vụ, lễ tiết, tác phong trong công tác là công việc mà bản thân luôn hướng
đến và quyết tâm thực hiện”. Người chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH vừa bản lĩnh,
mưu trí, gan dạ, dũng cảm, không sợ khó, sợ khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ được
166
giao. Nguyễn Đình B cho biết, khi mới về đơn vị công tác, trong một ca trực cùng
đồng đội, có chuông báo cháy vang lên, theo phản xạ ban đầu vội vàng cùng đồng
đội nhanh chóng lên xe đến hiện trường giải quyết đám cháy. Do là lần đầu tiên trực
tiếp tham gia chữa cháy nên bản thân cảm thấy lo lắng, hồi hộp, run run, tim đập
nhanh, hành động luống cuống. “Cảm giác trên xe lúc đó rất hồi hộp, nhưng xen
vào đó là chút lo lắng vì không biết những kiến thức đã được học trước kia với thực
tiễn có giống nhau không? Liệu có chữa cháy thành công không?”. Khi tới hiện
trường, ngọn lửa khi đó đã bao trùm cả ngôi nhà, lần đầu tiên chữa cháy và cũng là
lần đầu tiên tiếp cận đám cháy lớn, Nguyễn Đình B “cũng run lắm nhưng được sát
cánh cùng những người đồng đội của mình, dưới sự chỉ huy của người đội trưởng
dày dặn kinh nghiệm và được sự hướng dẫn, chỉ đạo điều hành sát sao của lãnh
đạo đơn vị tại hiện trường, tôi cùng với đồng đội đã dập tắt đám cháy thành công
và chống cháy lan. Sau hơn 2 tiếng ngọn lửa đã được khống chế hoàn toàn”.
Nhưng chính nhờ lần đầu luống cuống lo lắng, mất bình tĩnh đó mà Nguyễn
Đình B đã rút ra được rất nhiều bài học bổ ích cho những lần chữa cháy sau này. Sự
chăm chỉ, nghiêm túc trong luyện tập, huấn luyện đã giúp Nguyễn Đình B có được bản
lĩnh vững vàng, nghiệp vụ tinh thông, xử lý linh hoạt từng tình huống, quyết đoán trong
thực hiện nhiệm vụ và là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho đồng đội trong đơn vị.
Nguyễn Đình B đã trực tiếp tham gia hàng trăm vụ chữa cháy và cứu người
trong đám cháy thành công, giải cứu giúp được nhiều nạn nhân thoát khỏi đám cháy,
bảo vệ an toàn nhiều tài sản có giá trị cho người dân. Điển hình như các vụ chợ Đồng
Tâm, cháy trên phố Kim Mã, vụ cháy phố Núi Trúc, vụ cháy cây xăng Trần Hưng
Đạo... Mỗi vụ cháy là một trải nghiệm khó quên trong đời của người lính trẻ như B
giúp anh tích lũy kinh nghiệm cho mình. Vụ giải cứu người trong đám cháy trên phố
Kim Mã là một trong những lần để lại cho Nguyễn Đình B ấn tượng sâu sắc nhất. Đây
là lần đầu tiên anh tham gia giải cứu người trong đám cháy. Vụ cháy xảy ra vào ban
ngày, khi tiếp cận hiện trường, vụ cháy xảy ra tại tầng 3 của ngôi nhà, bên ngoài đám
đông hoảng loạn hô lên vì biết trong nhà còn có người mắc kẹt. Ngọn lửa ngày một
cháy to, khói bao trùm toàn bộ các tầng trên và bắt đầu lan xuống dưới của ngôi nhà.
Thời gian cứu người chỉ được tính bằng giây nên công tác chữa cháy và cứu người
167
được triển khai hết sức khẩn trương. Bằng các biện pháp nghiệp vụ đã được học,
Nguyễn Đình B đã cùng với đồng đội nhanh chóng trấn an tinh thần nạn nhân, lấy khăn
ướt đưa cho nạn nhân để họ tránh hít phải khói độc, rồi nhanh chóng đưa nạn nhân đi
xuống phía dưới. Chia sẻ về cảm xúc khi cứu được nạn nhân mắc kẹt, Nguyễn Đình B
chia sẻ “Việc cứu người trong đám cháy là nhiệm vụ hết sức nguy hiểm, phức tạp
nhưng chúng tôi xác định đây là công việc phải làm nên chúng tôi rất vinh dự khi được
cứu giúp người dân thoát khỏi tử thần. Nhìn thấy mọi người được an toàn, bảo vệ cho
mọi người là hạnh phúc của mỗi người lính chữa cháy, không chỉ riêng tôi”.
Một vụ cháy nữa mà Nguyễn Đình B không thể nào quên đó là vụ cháy xảy
ra năm 2016. Nhận được tin báo cháy khi đến hiện trường, khói, lửa đã bao trùm
toàn bộ căn phòng, sức nóng của ngọn lửa khiến cửa kính trong nhà liên tục bị vỡ,
mảnh văng khắp nơi và bịt lối đi lên tầng 2. Đường đi lên khó khăn, dưới vòi phun
của đồng đội hỗ trợ dập lửa ở cầu thang, Nguyễn Đình B cùng với đồng đội lên tầng
2 thì phát hiện phòng vệ sinh có hai vợ chồng và một bé gái bị mắc kẹt bên trong.
Lúc đó, tình trạng 3 người gần như bị hôn mê, lả đi vì hít phải khói độc. Trong giây
phút sinh tử ấy, dù sức đã mệt nhưng B và đồng đội đã lựa chọn tháo bình ôxy để
cõng nạn nhân ra ngoài. Nguyễn Đình B cho biết, “Bài học ngay từ những ngày đầu
mới bước chân vào nghề đã dạy cho tôi rằng, trong mọi hoàn cảnh, để thực hiện
nhiệm vụ, cần phải có sự dũng cảm và quyết đoán. Nhiều khi để cứu được người
khác, bắt buộc phải lựa chọn đánh cược với mạng sống của chính bản thân mình”.
Rất nhanh chóng, B và đồng đội phân công nhau bế cháu gái chạy xuống trước, còn
anh và đồng đội khác dìu người chồng đi ngay sau. Đến cuối cầu thang, B để đồng
đội đỡ người chồng xuống và bản thân chạy lên chỗ người vợ. Lúc này chị vợ đã
hoàn toàn ngất xỉu. “Nhìn thấy chị ấy to béo, bụng to nên tôi nghĩ chị ấy đang mang
thai. Vừa dìu chị ấy ra cửa nhà vệ sinh thì phát hiện máu chảy khắp người chị,
tưởng chị ấy bị thương, tôi lo lắng thai nhi bị ảnh hưởng, nên tôi cố sức bế chị
xuống tầng 1 ra xe cấp cứu rồi tiếp tục quay vào chữa cháy. Tôi cũng không để ý là
mình bị thương cho đến khi đồng đội nhắc là tay đang chảy máu. Lúc đó tôi mới
biết hóa ra là máu chảy trên người chị nạn nhân là máu của mình”. Sau vụ cháy đó
có người hỏi Nguyễn Đình B là lấy sức mạnh ở đâu mà có thể bế một chị nặng gần
168
gấp đôi chạy phăng phăng như thế? Nhưng bản thân B chỉ nghĩ đơn giản, đó là
nhiệm vụ của mình, nếu mình không khẩn trương cứu người thì có thể một đứa trẻ
sẽ mất mẹ, một người chồng sẽ mất vợ... Và nếu như mình không chữa cháy kịp
thời, ngọn lửa sẽ cháy sang nhiều nhà khác, và vô vàn tang thương có thể lại tái
diễn. Với trách nhiệm của một người lính chiến đấu vì nhân dân, bảo vệ tính mạng,
tài sản cho nhân dân thì còn sức chiến đấu, tôi sẽ làm hết khả năng của mình.
Công việc của người chiến sĩ PCCC đầy khắc nghiệt nên bố mẹ Nguyễn
Đình B cũng cảm thông cho con khi một thời gian dài mà B chưa về thăm nhà mặc
dù chỉ cách đơn vị có chưa đầy 30km. Sự động viên từ gia đình đã khích lệ anh
hoàn thành tốt nhiệm vụ, một công việc đầy áp lực, đòi hỏi sự tập trung, phối hợp
tốt với đồng đội, cũng như kỹ thuật chính xác cao.
Ngoài những khó khăn khi mới nhận nhiệm vụ công tác, Nguyễn Đình B còn
tâm sự, làm nghề gì cũng vậy, để trưởng thành và gặt hái những thành công thì
người dìu dắt, đào tạo là người quyết định. Trong công tác cũng vậy, để bản thân có
nghiệp vụ vững chắc, có kinh nghiệm thì cần có những cán bộ lớp trước, những thế
hệ kế cận, người đi trước dìu dắt người đi sau thì kinh nghiệm chiến đấu mới nhanh
chóng hoàn thiện. Do đó, người dìu dắt có vai trò rất lớn, quyết định sự trưởng
thành của các chiến sĩ mới vào nghề. Nhưng thực tế cho thấy, trong những năm trở
lại đây có sự hẫng hụt thế thệ, các chiến sĩ tuổi đời còn trẻ là chủ yếu. Chính vì vậy,
quá trình rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ thời gian đầu tiên cũng gặp rất nhiều khó
khăn do không có người dìu dắt, phải tự luyện tập, tự trau dồi kinh nghiệm. Chính
vì vậy, Nguyễn Đình B nhận thấy rằng, chỉ có yêu ngành, mến nghề, khổ luyện mới
giúp bản thân vượt qua được khó khăn khi đó và hơn nữa phải có ý chí, nghị lực
dám nghĩ, dám làm mới đem đến kết quả thành công.
Với những khó khăn trên, khi trao đổi về những biện pháp, cách làm để khắc
phục những khó khăn trên, đem lại hiệu quả khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ được
giao, Nguyễn Đình B, cho biết, những công việc được cấp trên tin tưởng giao cho dù
khó khăn, vất vả, nguy hiểm đến đâu bản thân luôn quyết tâm vượt qua, chỉ cần bản
thân luôn nỗ lực, cố gắng, tin tưởng vào bản thân và đồng đội. Nguyễn Đình B, cho
biết thêm: Điều đầu tiên và quan trọng nhất trong chữa cháy và CNCH chính là bản
169
lĩnh của người lính, có dũng cảm, dám xông pha, dám vào hay không. Sự quyết đoán,
nhanh nhạy trong công tác CC và CNCH, xử lý tình huống cũng rất quan trọng. Trong
mỗi tình huống, người lính luôn gặp những khó khăn cản trở khác nhau. Họ phải xong
pha vào hiện trường mà hoàn toàn không hề biết sơ đồ, cấu trúc ngôi nhà, vị trí của nạn
nhân; khó khăn đó càng nhân lên khi bị khói và khí độc bao trùm. Nếu nạn nhân ở địa
điểm, không gian hẹp thì đó càng là thử thách đối với người lính PCCC vì phương tiện
thì lớn, khó triển khai. Nhưng Nguyễn Đình B cho biết, khi đã trở thành những người
lính PCCC thì anh và đồng đội đều đã dần quen với điều này và tất cả những khó khăn
cũng không thể khuất phục được tinh thần chiến đấu của người lính.
Trong cuộc sống hàng ngày, Nguyễn Đình B là người “truyền cảm hứng”
cho đồng đội. Với bản tính cần cù, siêng năng dù thời tiết nắng lửa hay mưa dầm,
Nguyễn Đình B chưa bao giờ nghỉ một buổi tập nào. Biết được điểm mạnh, điểm
yếu của bản thân, B tâm sự “Đặc thù của nghề lính chữa cháy là phải thường xuyên
luyện tập, cọ sát thực tế, có luyện tập nhuần nhuyễn thì người lính mới có thể lực và
kỹ năng đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ”. Chính vì vậy, Nguyễn Đình B luôn tích
cực, đi đầu trong hoạt động luyện tập, không ngại khó, ngại khổ và cổ vũ đồng đội
tích cực luyện tập. Nguyễn Đình B tâm sự thêm, “Chính trong quá trình thường
xuyên luyện tập và chiến đấu đã giúp tôi vững tâm trước những tình huống chữa
cháy nguy hiểm, cận kề sống chết”.
Sau những giây phút chiến đấu vất vả là khoảng thời gian quý báu anh em,
đồng đội ngồi lại với nhau để chia sẻ kinh nghiệm và rút ra bài học cho những lần
chiến đấu tiếp theo. B cho biết: “Nghề PCCC và CNCH đòi hỏi tinh thần đồng đội
rất cao trong chiến đấu, không ai có thể hành động một mình khi không có sự giúp
đỡ từ đồng đội xung quanh. Do vậy, ngoài giờ chiến đấu thì những khoảng thời
gian sinh hoạt, luyện tập cùng nhau rất quan trọng. Đây là cơ hội để anh em hiểu
nhau hơn, chúng tôi coi nhau như một anh em trong gia đình. Khi một người trong
đội có chuyện vui buồn thì anh em luôn chia sẻ, động viên cho nhau, cùng giúp
nhau vượt qua khó khăn, thử thách”.
Đối mặt với các vụ cháy quy mô lớn, cường độ chiến đấu cao, liên lục thì sức
khỏe thể chất của người chiến sĩ là rất quan trọng. Ngoài luyện tập chiến thuật,
170
nghiệp vụ thì các hoạt động thể dục, thể thao như bóng đá, bóng chuyền, xà đơn, xà
kép... được Nguyễn Đình B và đồng đội chơi cùng nhau thường xuyên. Các hoạt
động thể dục, thể thao giúp các chiến sĩ củng cố tình đoàn kết, mang lại tiếng cười
sau những giờ phút luyện tập vất vả.
Kết thúc một ngày làm việc vất vả là khoảng thời gian nghỉ ngơi, thư thái để
Nguyễn Đình B và nhiều đồng đội khác có thể gọi điện tâm sự với gia đình và
người thân trong gia đình. B cho biết: “Gần như ngày nào cũng vậy, như một thói
quen là sau khi ăn tối xong tôi lại gọi điện về cho gia đình hỏi thăm bố mẹ. Chỉ cần
nghe thấy tiếng bố mẹ còn nói cười khỏe mạnh là trong lòng tôi thấy vững tin cho
công việc phía trước”.
Khi được trao đổi về những cảm xúc trong trong quá trình CC và CNCH,
Nguyễn Đình B cho biết, từ khi bước chân vào nghề đến nay, niềm vui sướng và tự
hào của bản thân là đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân, bảo vệ an toàn tính
mạng và tài sản cho người dân. Điều đó trở thành động lực thúc đẩy Nguyễn Đình
B không ngừng nỗ lực phấn đấu để đáp lại sự tin yêu của người dân. Nhưng bên
cạnh đó, cũng không ít lần Nguyễn Đình B nghẹn ngào nhìn cảnh tan hoang sau khi
chữa cháy, xót xa trước những mất mát, đau thương của người bị nạn. Những giọt
nước mắt của người bị nạn đã nhắc nhở Nguyễn Đình B cần cố gắng hơn nữa để
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Bảng 4.21. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của chân dung tâm lý thích ứng cao Nội dung thích ứng STT
1 Nhận thức về tình huống khẩn cấp ĐTB 5,00
2 Biểu hiện thái độ trong việc giải quyết các tình huống khẩn cấp 3 Hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ 4 Hành động phối hợp với đồng đội 5 Hành động sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc 5,00 5,00 5,00 5,00
6 3,00 Biểu hiện tâm lý trong và sau quá trình giải quyết các tình huống khẩn cấp
7 2,63 Cách ứng phó của chiến sĩ trong và sau khi giải quyết các tình huống khẩn cấp
Trung bình chung
171
4,37 Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
Nguyễn Đình B, cho biết, để thực hiện tốt yêu cầu, nhiệm vụ của người chiến
sĩ cảnh sát PCCC và CNCH, bản thân các chiến sĩ phải rèn luyện tốt chuyên môn
nghiệp vụ, giữ vững bản lĩnh chính trị, lễ tiết, tác phong của người công an nhân.
Để làm được điều đó, Nguyễn Đình B thường xuyên rèn luyện phẩm chất chính trị,
trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, tích cực huấn luyện, rèn luyện, tập huấn
các phương án khác nhau, tích cực làm quen các công cụ, thiết bị, phương tiện mới
để không bị bỡ ngỡ khi sử dụng.
Trải qua nhiều trận chiến đấu với giặc lửa, nhiều lần đối mặt với nguy hiểm,
nhưng với Nguyễn Đình B, chữa cháy là một niềm đam mê. Các vụ cháy càng phức
tạp, càng khó anh càng muốn được cùng với đồng đội tham gia để được học hỏi,
tích lũy kinh nghiệm. Anh mong muốn làm sao càng ngày càng giảm được thiệt hại
từ những vụ cháy nổ. Phát huy tinh thần xung kích của tuổi trẻ “đâu cần thanh niên
có, đâu khó có thanh niên”, Nguyễn Đình B cùng với đồng đội vẫn luôn ngày đêm
túc trực, bảo vệ bình yên cho cuộc sống của người dân thủ đô. Chính những giấy
khen, bằng khen ghi nhận “Đã có nhiều thành tích thi đua lập chiến công không
ngại khó khăn, nguy hiểm, mưu trí, dũng cảm quên mình chiến đấu với lửa, phối
hợp với các đơn vị tổ chức triển khai các biện pháp chữa cháy hiệu quả” của chủ
tịch UBND thành phố Hà Nội hay huy hiệu “Tuổi trẻ dũng cảm” do Bí thư Trung
ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trao tặng và những lá thư cảm ơn của nạn nhân và
gia đình họ... chính là minh chứng rõ ràng nhất về tinh thần chiến đấu của Nguyễn
Đình B, một Đảng viên, Đoàn viên tiêu biểu của Công an Hà Nội.
4.5.2. Chân dung tâm lý thứ hai
a. Một số thông tin cá nhân:
Họ và tên: Lê Quốc D Giới tính: Nam
Năm sinh: 1993 (27 tuổi) Trình độ học vấn: Trung cấp
Thâm niên công tác: 6 năm Nơi ở: Thường Tín, Hà Nội
Đội công tác CC và CNCH – Công an Hà Nội Tình trạng hôn nhân: Chưa kết hôn
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Lê Quốc D có mức độ thích ứng trung bình với
172
việc giải quyết các THKC trong quá trình CC và CNCH.
b. Nội dung phân tích chân dung nhân cách:
Chiến sĩ Lê Quốc D đã tham gia chữa cháy nhiều lần nhưng luôn cảm thấy
giật mình, bất ngờ mỗi lần khi nghe thấy tiếng chuông kêu lên, đến hiện trường thì
luống cuống, hồi hộp, tim đập nhanh, nhiều lúc Lê Quốc D cảm thấy bị tức ngực,
khó thở, co cứng khi có quá nhiều hành động cần xử lý trong một lúc. Gần đây nhất,
Lê Quốc D đã bị thương khi tham gia chữa cháy tại một xưởng sản xuất bao bì.
Lê Quốc D gặp khó khăn trong việc hòa nhập với môi trường công việc, với
đồng đội do tình yêu nghề của D chưa đủ lớn, đam mê công việc chưa cao, thiếu ý
chí, thiếu động lực trong chiến đấu, đồng nghiệp đánh giá D nhiều lần thiếu sự phối
kết hợp với các chiến sĩ khác trong hành động, tinh thần trách nhiệm chưa cao, còn
nhút nhát, hay mất bình tĩnh.
Lê Quốc D chia sẻ, bản thân tính nhút nhát, vốn đam mê công nghệ thông tin
từ nhỏ, dự định sau này sẽ trở thành kỹ sư công nghệ thông tin nhưng khi đang học
lớp 12 thì được bố mẹ tư vấn sẽ trở thành người cảnh sát PCCC và CNCH sau khi
nói chuyện với một người bạn của gia đình, điều này nằm ngoài dự tính của Lê
Quốc D. Khi thấy các bạn trong lớp chọn thi vào công an và quân đội nhiều và nghĩ
đến mong muốn của bố mẹ nên trong phút ngẫu hứng Lê Quốc D đã chọn thi vào
công an mà không cần suy nghĩ nhiều thêm. Do thiếu điểm đỗ vào hệ đại học, Lê
Quốc D được xét vào hệ trung cấp của trường Đại học phòng cháy chữa cháy. Đến
khi vào học, Lê Quốc D mới nhận ra tình yêu và động lực học tập với ngành phòng
cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ chưa đủ lớn, đam mê của mình vẫn là công nghệ
thông tin, nhiều lúc D nghĩ hay là sẽ bảo lưu kết quả và thi lại ngành mình yêu
thích, nhưng nghĩ đến việc học gì thì sau ra trường vẫn cần một công việc kiếm tiền
nên D đã cố gắng hoàn thành công việc học tập của mình.
Ra trường, Lê Quốc D nhiều lúc cảm thấy chọn không đúng ngành, bản thân
đam mê với công việc không đủ lớn, lại do đặc thù phải luyện tập, huấn luyện liên
tục, thường xuyên phải đi chữa cháy, cộng với công việc cường độ cao, dồn dập nên
D thường cảm thấy mệt mỏi, kiệt sức, chán nản. Bên cạnh đó, Lê Quốc D chưa chủ
173
động, tích cực trong việc cải thiện năng lực bản thân; chưa có ý chí, quyết tâm trong
việc giải quyết những khó khăn gặp phải trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đôi
khi còn tỏ ra chán nản, không có động lực trong thực hiện nhiệm vụ.
Nhớ lại những ngày đầu tham gia chữa cháy, Lê Quốc D cho biết: “Dù được
học nghiệp vụ bài bản và hàng ngày luyện tập cùng anh em trong đơn vị, được chỉ
huy quán triệt rất nhiều lần về bản lĩnh chiến đấu nhưng không hiểu sao lúc đến
hiện trường tôi vẫn không thể bắt nhịp cùng với anh em trong đội được. Có những
lúc tôi có cảm giác công việc hơi quá sức so với bản thân. Cũng có lúc tôi nghĩ
mình sẽ mạnh dạn đề xuất lãnh đạo xin chuyển sang bộ phận khác trong phòng có
lẽ phù hợp hơn nhưng lại không dám”. Nghĩ rằng, sau lần đó bản thân sẽ dần cải
thiện được bản lĩnh, kỹ năng thông qua luyện tập và thực tiễn chiến đấu nhưng các
ý nghĩ về sự lạc lõng với nghề luôn hiện trong tâm chí của D, những suy nghĩ đó đã
cản trở, làm mất động lực D trong tập luyện, chiến đấu. Sự mất tập trung, động tác
rời rạc, không liền mạch trong luyện tập, chiến đấu của D đã ảnh hưởng đến kết quả
chung của cả đội. Mặc dù bị đồng đội và chỉ huy nhắc nhở nhiều lần, cần tập trung
và nghiêm túc hơn trong luyện tập, chiến đấu nhưng sự chuyển biến diễn ra rất
chậm. Thậm chí, nhắc nhở nhiều lần lâu dần thành quen, nhiều lúc D cảm thấy đó là
chuyện bình thường trong huấn luyện, chiến đấu.
Dù tham gia chữa cháy rất nhiều lần nhưng Lê Quốc D vẫn bị ngoại cảnh chi
phối đến suy nghĩ và hành động của mình. D tâm sự, “Tôi có cảm giác khi tôi làm gì
thì mọi người xung quanh sẽ để ý tôi làm việc đó, sự chú ý của họ làm tôi không giữ
được bình tĩnh, tay chân tôi bị run, cảm giác tim đập ngày càng đập nhanh và mạnh
hơn. Nhiều lúc tôi nghĩ, có lẽ đám cháy diễn ra ở cách xa khu dân cư thì tốt hơn cho
mình làm việc”. Chính những suy nghĩ về sự chú ý của những người xung quanh như
vậy đã khiến cho D không làm chủ được hành động của mình, thậm chí làm sai các
quy trình đã được huấn luyện và đào tạo. Chính vì bản lĩnh không vững vàng nên
trong chiến đấu D không thật sự nhận được sự tin tưởng của chỉ huy và đồng đội.
Dù nhận được sự động viên, khích lệ liên tục của chỉ huy, lãnh đạo và đồng
nghiệp, sự dìu dắt, chia sẻ kinh nghiệm của các anh em đi trước trong đơn vị với
mong muốn D có tiến bộ, hòa nhập và là một phần của đơn vị nhưng bản thân D
174
luôn tìm cách tách mình ra khỏi đồng đội sau khi luyện tập, D cho biết, “Nhiều lúc
xong việc, mệt mỏi, tôi chỉ muốn về giường nghỉ ngơi lấy lại sức và tận hưởng
không gian riêng của mình nhưng chỉ huy lại yêu cầu toàn đội họp rút kinh nghiệm
và trong đó có nhiều người góp ý về tôi. Sự góp ý đó làm tôi không thấy thoải mái,
mặc dù tôi đã rất cố gắng trong công việc được giao”.
Bất kỳ ngành nghề nào cũng vậy, muốn thành công phải yêu ngành, mến
nghề, khổ luyện mới giúp bản thân vượt qua khó khăn, vươn tới thành công. Khi
gặp khó khăn phải tìm ra các biện pháp khắc phục, đem lại hiệu quả khi thực hiện
trách nhiệm được giao nhưng bản thân D lại thiếu đi các đam mê và động lực cần
thiết để khắc phục các khó khăn đó.
Thiếu quyết đoán, chậm chạp trong xử lý tình huống đã tạo nên sự ngăn cách
không nhỏ giữa D và đồng đội. Nhiều đồng đội không tin tưởng D trong công việc,
giữa họ luôn có khoảng cách khi chứng kiến tinh thần, thái độ luyện tập của D chưa
đúng mực, chưa phát huy được hết phẩm chất và năng lực cần có của người lính CC
và CNCH. Nhận xét về D trong đơn vị, đồng chí Nguyễn Văn T cho biết, “D cần
hòa đồng hơn nữa với đồng đội, đồng chí trong đơn vị. Cần tích cực luyện tập để
nâng cao thể lực, cải thiện kỹ năng nghiệp vụ, khi các kỹ năng nghiệp vụ và thể lực
được nâng cao sẽ giúp cậu ấy tự tin để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bản tính nhút nhát,
rụt rè của D sẽ được khắc phục khi D có niềm tin vào bản thân rằng mình có thể
làm được. Các anh em, đồng nghiệp luôn sẵn sàng giúp đỡ D để cậu ấy có thể hoàn
thiện hơn cho bản thân mình”.
Khi được hỏi về các hoạt động của bản thân ngoài giờ luyện tập nghiệp vụ,
chiến thuật thì D cho biết: “Bản thân tôi không có năng khiếu thể thao nên không có
sự đam mê đối với vận động, hết thời gian luyện tập tôi muốn có không gian yên
tĩnh, tôi nghỉ ngơi và ít khi gọi điện cho người thân hay bố mẹ vì bố mẹ hay nhắc nở
tôi trong công việc, điều đó làm tôi không thoải mái lắm. Thi thoảng tôi có tán gẫu
với bạn bè qua mạng xã hội”.
D cho biết thêm, sự động viên của đồng đội, sự kỳ vọng của gia đình, những
thiệt hại về người và của của nạn nhân đã khiến bản thân suy nghĩ rất nhiều về
175
những gì mình đang làm. Bản thân D tự nhủ sẽ phải nỗ lực, cố gắng nhiều hơn nữa
trong thời gian tới để hoàn thành công việc được giao, không phụ lòng tin tưởng của
mọi người.
Bảng 4.22. Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp
của chân dung tâm lý thích ứng trung bình
Nội dung thích ứng
STT 1 2 3 4 5 ĐTB 2,40 2,75 3,00 3,28 3,77
6 3,00
7 2,75 Nhận thức về tình huống khẩn cấp Biểu hiện thái độ trong việc giải quyết các tình huống khẩn cấp Hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ Hành động phối hợp với đồng đội Hành động sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc Biểu hiện tâm lý của chiến sĩ trong quá trình giải quyết các tình huống khẩn cấp Cách ứng phó của chiến sĩ trong và sau khi giải quyết các tình huống khẩn cấp
Trung bình chung 2,77
Ghi chú: ĐTB 1≤ĐTB≤5
So với đặc thù công việc của người chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH
thường xuyên phải đối mặt với việc giải quyết các THKC, Lê Quốc D chưa đáp ứng
176
tốt yêu cầu, nhiệm vụ về hoạt động giải quyết các THKC.
Tiểu kết chƣơng 4
Kết quả nghiên cứu trên 396 chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH về thích ứng
với việc giải quyết các THKC, chúng tôi rút ra các kết luận sau:
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH ở
mức khá cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy, phần lớn các chiến sĩ đã nhận thức đúng
đắn và đầy đủ về bản chất của THKC, cách thức giải quyết THKC và quy trình giải
quyết THKC; có thái độ chủ động, tích cực trong việc giải quyết THKC, cũng như
khả năng kiểm soát cảm xúc bản thân khá tốt trong quá trình giải quyết THKC; kết
quả thực hiện hành động nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ, phối hợp với đồng đội và
thực hiện các kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc ở mức tốt.
Các biểu hiện mức độ thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH không đồng đều. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thích ứng
với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH theo trình độ đào tạo,
cấp bậc hàm, thâm niên công tác và khu vực công tác.
Biểu hiện tâm lý thường gặp trong và sau quá trình giải quyết các THKC đã
phản ánh đúng tính chất công việc đặc thù, căng thẳng, nguy hiểm và mang tính
nhân văn cao cả của nghề PCCC và CNCH. Một số biện pháp ứng phó thường gặp
của các chiến sĩ đó là chia sẻ cảm nhận, suy nghĩ, lo âu của mình với đồng nghiệp;
gọi điện cho người thân trong gia đình; nghe nhạc, xem phim… sau khi thực hiện
nhiệm vụ.
Ba mặt biểu hiện của thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH có mối tương quan thuận, chặt chẽ, thống nhất trong một chỉnh thể
chung. Mặt biểu hiện tâm lý trong và sau quá trình giải quyết các THKC cũng có
mối tương quan thuận, chặt chẽ, thống nhất với ba mặt biểu hiện của thích ứng.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra được các yếu tố tác động đến thích ứng với
việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH. Các yếu tố khách quan và
các yếu tố chủ quan có khả năng dự báo/ thúc đẩy thích ứng với việc giải quyết các
THKC. Trong đó, các yếu tố chủ quan có khả năng dự báo/ thúc đẩy cao hơn các
177
yếu tố khách quan.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Về lý luận
Trên cơ sở phân tích các lý thuyết và các quan điểm khác nhau, chúng tôi
cho rằng: Thích ứng là quá trình thay đổi nhận thức, thái độ và hành động của
con người nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của môi trường mới để đạt được mục
đích đề ra.
Trong đề tài nghiên cứu này chúng tôi quan niệm: Thích ứng với việc giải
quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH là quá trình thay đổi nhận thức, thái
độ, hành động của các chiến sĩ nhằm đưa ra quyết định nhanh chóng, kịp thời, phù
hợp với yêu cầu, đòi hỏi của tình huống cháy nổ, tai nạn nhằm ngăn chặn, khống
chế các biến cố nghiêm trọng, bất thường, đột xuất có thể đưa đến hậu quả nặng nề
cho cá nhân và xã hội mà vẫn đảm bảo được sự ổn định tâm lý, tinh thần của họ
sau sự kiện.
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH biểu
hiện ở mặt nhận thức, thái độ, hành động của cán bộ, chiến sĩ.
1.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu đã chứng minh tính đúng đắn giả thuyết nghiên cứu
của luận án là thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH ở mức khá cao. Trong đó, thích ứng được biểu hiện qua mặt hành động
và mặt thái độ của các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH ở mức cao, mặt nhận
thức ở mức khá cao.
Về nhận thức: Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC
và CNCH ở mức khá cao, các chiến sĩ đã nhận thức được bản chất, cách thức và
quy trình giải quyết các THKC. Điều đó giúp các chiến sĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao, hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại về người và tài sản.
Về thái độ: Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và
CNCH biểu hiện ở mặt thái độ ở mức cao. Các biểu hiện ở mức cao đó là: luôn chủ
động, sẵn sàng nhận lệnh; luôn chủ động chấp hành mệnh lệnh chỉ huy và luôn tích
178
cực dập tắt đám, cháy, chống cháy lan. Điều đó thể hiện tâm thế luôn chủ động, tích
cực, bình tĩnh, tự tin và kiên quyết thực hiện nhiệm vụ đến cùng của các chiến sĩ
cảnh sát PCCC và CNCH khi thực hiện nhiệm vụ.
Về hành động: Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC
và CNCH biểu hiện ở mặt hành động ở mức cao. Phần lớn các chiến sĩ đã thực hiện
tốt các hành động chiến đấu trong việc giải quyết các THKC, đảm bảo hiệu quả tốt
công việc được giao. Điều này phản ánh khách quan về năng lực nghề nghiệp của
các chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH, đáp ứng được yêu cầu chuyên môn mà xã
hội phân công.
Ba mặt biểu hiện của thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát
PCCC và CNCH có mối tương quan thuận, chặt chẽ, thống nhất trong một chỉnh thể
chung. Trong đó, mặt thái độ có mối quan hệ gắn bó hơn với các mặt biểu hiện của
thích ứng so với nhận thức và hành động. Mức độ thích ứng chung có mối tương
quan mạnh nhất và gắn bó mật thiết với mặt thái độ. Nghiên cứu cũng chỉ ra mối
tương quan thuận, gắn bó mật thiết và có ý nghĩa thống kê giữa mặt biểu hiện tâm lý
với ba mặt biểu hiện của thích ứng, với thích ứng chung.
Kết quả phân tích chân dung tâm lý điển hình hai chiến sĩ thích ứng cao và
thích ứng trung bình thông qua các mặt nhận thức, thái độ, hành động và các biểu
hiện tâm lý trong và sau quá trình thực hiện nhiệm, cách ứng phó trong và sau khi
giải quyết các THKC đã giải thích được sự khác biệt trong thích ứng giữa hai chiến
sĩ. Các chiến sĩ thích ứng cao có cách ứng phó chủ động, tích cực. Các chiến sĩ thích
ứng trung bình có có cách ứng phó thụ động hơn trong việc giải quyết các THKC.
Thích ứng với việc giải quyết các THKC của cảnh sát PCCC và CNCH có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với trình độ đào tạo, cấp bậc hàm, thâm niên công tác
và khu vực công tác.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, những biểu hiện tâm lý trong và sau khi giải
quyết các THKC đã phản ánh đúng tính chất công việc đặc thù, căng thẳng, nguy
hiểm và mang tính nhân văn cao cả của nghề PCCC và CNCH. Các biện pháp ứng
phó thường gặp của các chiến sĩ đó là chia sẻ cảm nhận, suy nghĩ của mình với
đồng nghiệp; gọi điện cho người thân trong gia đình; nghe nhạc, xem phim… sau
179
khi thực hiện nhiệm vụ trở về.
Có rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến thích ứng với
việc giải quyết các THKC của chiến sĩ cảnh sát PCCC và CNCH. Trong đó yếu tố
chủ quan đóng vai trò quyết định đến sự thích ứng. Các nhóm yếu tố khách quan
(môi trường; trang thiết bị, phương tiện, máy móc; chỉ huy) và các nhóm yếu tố chủ
quan (khả năng kiểm soát cảm xúc; kinh nghiệm chiến đấu; trình độ chuyên môn
nghiệp vụ) có khả năng dự báo/ thúc đẩy thích ứng với việc giải quyết các THKC.
2. Kiến nghị
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thích ứng với việc giải quyết các THKC của
cảnh sát PCCC và CNCH. Luận án đề xuất một số kiến nghị nhằm giúp các chiến sĩ
thực hiện tốt yêu cầu, đòi hỏi về năng lực chuyên môn nghiệp vụ trong tình hình mới.
2.1. Đối với Bộ Công an
Đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ phục vụ công tác huấn luyện, đào tạo nghiệp vụ
và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, huấn luyện, chiến đấu cho các đơn vị địa phương
nhằm cung cấp, cập nhật những kiến thức và kỹ năng giải quyết THKC trong tình
hình mới. Trang bị đầy đủ các trang thiết bị bảo hộ cho chiến sĩ trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ chiến đấu.
Xây dựng các dự án, chương trình hỗ trợ sức khỏe tâm lý cho chiến sĩ cảnh
sát PCCC và CNCH. Xây dựng các chương trình, bài giảng, hướng dẫn các cách
thức ứng phó, tăng cường các chuyên gia tâm lý chuyên ngành tại các đơn vị nhằm
giúp các chiến sĩ tránh được các rối loạn tâm lý sau sang chấn (PTSD) và hồi phục
sức khỏe thể chất và tinh thần nhanh nhất.
Tập trung đầu tư hơn nữa cho lĩnh vực đào tạo về cứu nạn, cứu hộ; phòng
chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn. Vì hiện nay, ngoài nhiệm vụ chữa cháy và cứu
nạn cứu hộ trong đám cháy, lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH các địa phương
còn được giao nhiệm vụ cứu nạn cứu hộ thường ngày và phối hợp các lực lượng
liên quan tham gia phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn khi có sự cố, thảm họa
xảy ra ở địa phương. Trong khi trên thực tế lĩnh vực này còn rất mới mẻ, rất ít đơn
vị Cảnh sát PCCC và CNCH tại các địa phương có lực lượng chuyên nghiệp để thực
hiện nhiệm vụ này. Việc đầu tư trang thiết bị cho lĩnh vực cứu nạn cứu hộ giúp các
180
chiến sĩ chủ động, tự tin hơn khi đối phó với các tình huống khẩn cấp đó xảy ra.
Học tập kinh nghiệm ở các nước tiên tiến như Mỹ, Úc, Đức trong việc biên
chế vị trí cho các nhà tâm lý học tại các đơn vị cơ sở, phòng ban, giúp đảm bảo sức
khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần cho các chiến sĩ.
2.2. Đối với phòng cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ ở
địa phương
Bên cạnh việc thường xuyên quan tâm, chỉ đạo công tác chuyên môn nghiệp
vụ thì nhiệm vụ quan trọng nữa đó là làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
tâm lý cho cán bộ, chiến sĩ, đây là nội dung cần xuyên suốt trong quá trình đào tạo,
huấn luyện, bồi dưỡng tại đơn vị. Động viên, khen thưởng kịp thời những chiến sĩ
có thành tích xuất sắc trong chiến đấu. nghiêm khắc phê bình những chiến sĩ có biểu
hiện không tốt trong công việc và trong tư tưởng.
Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở các chiến sĩ thực hiện
nghiêm túc công tác trực sẵn sàng chiến đấu. Thường xuyên xây dựng, bổ sung
những bài tập tình huống giả định cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị để không bị
động, bất ngờ. Việc đào tạo, huấn luyện thường xuyên giúp các chiến sĩ tăng sự tin
và kiểm soát cảm xúc tốt hơn khi đối mặt với các THKC. Giảm lo lắng giúp các
chiến sĩ có thể cải thiện khả năng hoạt động của trí nhớ và do đó, các chiến sĩ có thể
dễ dàng sử dụng các thiết bị, phương tiện, máy móc và hành động theo các bài diễn
tập trong việc giải quyết các THKC.
Bên cạnh các bài giảng về nghiệp vụ đơn thuần, cần đưa các bài giảng liên
quan đến tâm lý chiến sĩ làm công tác CC và CNCH vào để giúp các chiến sĩ hiểu rõ
hơn về diễn biến tâm lý trong quá trình làm nhiệm vụ, để từ đó điều chỉnh tâm lý
sao cho phù hợp với thực tiễn tình huống tại hiện trường và thích ứng tốt hơn.
Dành mối quan tâm đến cá nhân từng chiến sĩ, đặc biệt các biểu hiện tâm lý của
các chiến sĩ nhằm giúp các chiến sĩ luôn trong trạng thái tâm lý tích cực, vui vẻ, tinh
thần lạc quan, tâm trí thư thái, thỏa mái và hành động hoạt bát. Bồi dưỡng các phẩm
chất, nét tính cách mạnh mẽ như: dũng cảm, quyết đoán, kiên định, bền bỉ, tâm trí thoải
mái. Mục tiêu hướng tới là huấn luyện và nâng cao các phẩm chất cá nhân trên. Kết
hợp với gia đình, cộng đồng xã hội và các đơn vị liên quan nhằm duy trì và cải thiện
181
các trải nghiệm tích cực chủ quan và các nét tính cách thích ứng của các cá nhân.
Thúc đẩy lối suy nghĩ linh hoạt, đúng đắn, tỉ mỉ, tin vào năng lực bản thân
bằng cách giúp các chiến sĩ tập trung vào ý nghĩa của công việc PCCC và CNCH,
khơi gợi những trải nghiệm có ý nghĩa với từng chiến sĩ nhằm tăng cảm xúc tích
cực và lối suy ghĩ sống và hành động vì xã hội. Bên cạnh đó, nó giúp các chiến sĩ
tăng cường sự tương tác xã hội giữa các chiến sĩ.
Xây dựng khối đại đoàn kết trong đơn vị để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ
tốt đẹp giữa các chiến sĩ với nhau.
Triển khai các dự án hỗ trợ sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần cho các
chiến sĩ làm công tác chiến đấu trực tiếp trong đơn vị.
Xây dựng quy trình, cơ chế phản ứng nhanh đối với các tình huống khẩn cấp
đặc trưng khác nhau tại các khu vực, địa bàn cụ thể để khi có biến cố xảy ra nhanh
chóng huy động lực lượng, phương tiện nhanh nhất, tránh bất ngờ, bị động trong
mọi tình huống.
Tổ chức các lớp học, khóa học bồi dưỡng kiến thức giúp các chiến sĩ chủ động
ứng phó với các biểu hiện tâm lý tiêu cực trong và sau khi giải quyết các THKC.
2.3. Đối với cán bộ, chiến sĩ
Cán bộ, chiến sĩ là chủ thể thích ứng với việc giải quyết các THKC nên họ
phải là người chủ động thay đổi bản thân, tích cực rèn luyện những phẩm chất, năng
lực chuyên môn nghiệp vụ theo yêu cầu của hoạt động chiến đấu. Do đó, cán bộ,
chiến sĩ phải thực hiện các nội dung sau:
Tích cực rèn luyện, hình thành những phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu
hoạt động chiến đấu trong mọi điều kiện, tình huống để nâng cao khả năng thích
ứng. Tự điều chỉnh bản thân theo lối suy nghĩ tích cực giúp nâng cao khả năng xử lý
tình huống và ngăn chặn suy sụp tinh thần khi chứng kiến những tổn thất lớn.
Giữ tinh thần lạc quan, tự tin vào năng lực của bản thân, linh hoạt, vui vẻ và
tràn đầy hi vọng. Tổ chức cho chiến sĩ các lớp học để khơi dậy các biểu hiện tâm lý
tích cực nhằm cho họ có cuộc sống lạc quan. Giúp họ kiên nhẫn, bình tĩnh khi đối
mặt với các thử thách, cố gắng giải quyết vấn đề hơn là chạy trốn hay phủ nhận vấn
đề, tìm ra khía cạnh tích cực của tình huống, giảm thiểu sự buồn phiền bằng sự hài
182
hước, chăm sóc bản thân tốt hơn và có sự phản ứng miễn dịch tốt hơn. Sự lạc quan
được hiểu là hi vọng vào tương lai và tin vào những sự thay đổi mang đến những
điều tích cực.
Học tập và rèn luyện cách ứng phó với các biểu hiện và các vấn đề tâm lý sau
khi giải quyết các THKC như: trao đổi, chia sẻ suy nghĩ của mình với đồng nghiệp,
lãnh đạo; gọi điện tâm sự với người thân hay nghe nhạc, xem phim thư giãn giúp cơ
thể hồi phục lại sức khỏe và tinh thần nhanh chóng. Tránh sử dụng các biện pháp ứng
183
phó tiêu cực như sử dụng rượu bia, thuốc lá, chất kích thích gây nghiện khác.
MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp nói chung và thích
ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy
và cứu nạn cứu hộ nói riêng là vấn đề mới, chưa có nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng đây là vấn đề mới nên không tránh khỏi
những thiếu sót như:
- Địa bàn nghiên cứu còn hạn chế, tính đại diện chưa cao.
- Bảng hỏi điều tra vẫn còn mang tính chủ quan. Do vậy, trong nghiên cứu
tiếp theo tác giả mong muốn sẽ có công cụ đo phù hợp hơn trên đối tượng có tính
chất nghề nghiệp đặc thù này.
- Các yếu tố tác động chưa phản ánh được đầy đủ sự ảnh hướng đến thích
ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của các chiến sĩ.
184
Trong các nghiên cứu tiếp theo tác giả sẽ khắc phục những hạn chế nêu trên.
DANH M C CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Đức Quỳnh (2017), “Đề xuất một số phương pháp phục hồi tâm
lý cho lính chữa cháy và cứu nạn cứu hộ”, Tạp chí Phòng cháy và chữa cháy (94),
tr 32-33.
2. Nguyễn Đức Quỳnh (2018), “Hành vi của con người trong tình huống
khẩn cấp”, Tạp chí Phòng cháy và chữa cháy (106), tr 40-41.
3. Nguyễn Đức Quỳnh (2019), “Thich ứng với việc giải quyết các tình huống
khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ biểu hiện qua sức
185
khỏe tinh thần”, Tạp chí Tâm lý học xã hội (10), tr. 108-115.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, NXB
Công an Nhân dân, Hà Nội.
2. Bộ Công an, Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy (2006), Điều lệnh chiến đấu
của lực lượng cảnh sát phòng cháy chữa cháy, Tài liệu lưu hành nội bộ.
3. Bộ Công an, Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy (2004), Sổ tay công tác
chữa cháy, Tài liệu lưu hành nội bộ.
4. D. A. Andreeva (1969), Vấn đề con người trong triết học hiện đại, NXB Khoa
học, Matxcơva.
5. Nguyễn Tuấn Anh (2015), “Chuẩn bị tâm lý chiến đấu nhân tố quan trọng
quyết định tới hiệu quả chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ”, Tạp chí Phòng cháy và
chữa cháy (77), tr. 34-36.
6. N. B. Basinanova, D.V. Kalinhitreva (1973), Con người và xã hội, NXB Đại
học tổng hợp Lêningrat.
7. Lê Văn Công (2001), Những điều kiện tâm lý - xã hội nhằm đẩy nhanh quá
trình thích ứng nghề nghiệp tương lai cho học viên sỹ quan chính trị cấp phân
đội, Đề tài cấp khoa, Học viện Chính trị Quân đội, Hà Nội.
8. G.Đ. LuCốp (1963), Tâm lý học trong công tác huấn luyện và giáo dục chiến
sĩ, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
9. Phạm Vũ Kiên Cường (2008), “Điều tra khả năng thích ứng tâm lý của lực
lượng gìn giữ hòa bình của Hungary tại nước ngoài”, Tạp chí Nghiên cứu con
người (5), tr. 62-68.
10. Bùi Ngọc Dung (1981), Bước đầu tìm hiểu sự thích ứng nghề nghiệp của giáo
viên tâm lý - giáo dục, Đề tài khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
11. Michel Daigneault (1998), Sự thích nghi của con người, Chương trình đào tạo cán
bộ giảng dạy Việt Nam về sư phạm tương tác và tâm lý học phát triển.
12. Vũ Dũng (2008), Từ điển Tâm lý học, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
13. Vũ Dũng (2012), “Một số khó khăn của trẻ em lang thang cơ nhỡ trong việc
186
thích ứng với cuộc sống”, Tạp chí Tâm lý học (7), tr. 1-16.
14. Trần Thị Minh Đức (2005), Nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên năm thứ
nhất Đại học Quốc gia Hà Nội với môi trường đại học, Đề tài cấp Đại học
Quốc gia, Trung tâm Nghiên cứu về Phụ nữ Đại học Quốc gia, Hà Nội.
15. Chu Văn Đức (2009), Nghiên cứu sự thích ứng của phạm nhân với chế độ sinh
hoạt và chế độ lao động tại trại giam, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Viện Tâm
lý học, Hà Nội.
16. Phan Thanh Giản (2011), Uy tín của chủ tịch ủy ban nhân dân xã trong hoạt
động quản lý hành chính nhà nước, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học, Viện Khoa
học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
17. A.E. Golomstooc(1990), Lựa chọn nghề nghiệp và giáo dục nhân cách cho
học sinh, NXB Giáo dục, Hà Nội.
18. P.C.Gurevich (2007), Tâm lý học tình huống khẩn cấp, NXB Matxcơva.
19. Trương Thị Khánh Hà (2015), Tâm lý học phát triển, NXB Đại học quốc gia
Hà Nội, tr. 209.
20. Bùi Văn Hà – Lê Việt Hải (2015), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng
huấn luyện tâm lý chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ khi tham gia chữa cháy và
cứu nạn, cứu hộ”, Tạp chí phòng cháy và chữa cháy (70), tr. 32-33.
21. Phạm Minh Hạc (1982), Tâm lý học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
22. Phạm Minh Hạc (2008), Tâm lý học nghiên cứu con người trong thời đổi mới,
NXB Giáo dục, tr. 167.
23. Phạm Minh Hạc (1983), Hành vi và hoạt động, Viện Khoa học và Giáo dục.
24. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Tuyển tập tâm lý học J.Piaget, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
25. Hayes N (2005), Nền tảng tâm lý học, NXB Lao động, Hà Nội (Nguyễn Kiên
Cường dịch).
26. Tô Thúy Hạnh (2012), “Thích ứng về mặt nhận thức của các nhóm yếu thế”,
Tạp chí Tâm lý học (6), tr. 92-99.
27. Tô Thúy Hạnh (2012), “Thích ứng của các nhóm yếu thế qua thay đổi nhu cầu
sống”, Tạp chí Tâm lý học (7), tr.60-68.
28. Hoàng Thế Hải (2012), Sự thích ứng với hoạt động học tập theo học chế tín chỉ
187
của sinh viên Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng - Đề tài cấp cơ sở.
29. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2012), Kỹ năng thích ứng của sinh viên năm 1 trong
hoạt động học tập tại một số trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Đề tài cấp cơ sở.
30. Ngô Công Hoàn (1996), Quy trình rèn luyện tay nghề cho sinh viên khoa giáo
dục mầm non, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, Hà Nội.
31. Học viện quốc phòng (2012), Giáo trình về Công tác quốc phòng, quân sự
địa phương, Tài liệu lưu hành nội bộ.
32. Nguyễn Văn Hộ (2000), Thích ứng sư phạm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
33. Đỗ Duy Hưng (2012), “Thích ứng của các nhóm yếu thế qua thay đổi thu
nhập, mức sống và các hoạt động văn hóa thể thao”, Tạp chí Tâm lý học (7),
tr.69-78.
34. Trần Thu Hương (2016), “Thích ứng với hoạt động dạy học của giảng viên trẻ
tại các học viện, trường đại học Công an nhân dân”, Luận án Tiến sĩ Tâm lý
học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
35. Lê Hương (2005), “Thái độ đối với công việc và năng lực thích ứng, cạnh
tranh của người lao động hiện nay”, Tạp chí Tâm lý học (9), tr. 38-47.
36. Nguyễn Công Khanh (2004), Các phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu
trong khoa học xã hội, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục.
37. Kỷ yếu Hội thảo quốc gia (2014), Tâm lý học và an toàn con người, NXB
Lao động, Hà Nội.
38. Đặng Thị Lan (2012), “Biện pháp nâng cao mức độ thích ứng với hoạt động học
môn Tâm lý học của sinh viên sư phạm”, Tạp chí Tâm lý học (7), tr.31-43.
39. Đặng Thị Lan (2009), Mức độ thích ứng với hoạt động học tập một số môn
học chung và môn đọc hiểu tiếng nước ngoài của sinh viên trường Đại học
Ngoại ngữ - ĐHQGHN, đề tài cấp cơ sở.
40. Knuds S.Larsen và Lê Văn Hảo (2010), Tâm lý học xã hội, NXB Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
41. Knuds S.Larsen và Lê Văn Hảo (2012), Hành vi tổ chức trong một thế giới
188
đang thay đổi, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
42. Phan Quốc Lâm (1998), “Một số vấn đề tâm lý học về sự thích ứng”, Tạp chí
Tâm lý học (5), tr. 26-35.
43. Phan Quốc Lâm (2000), Sự thích ứng với hoạt động học tập của học sinh lớp
1, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
44. Lescarret 0./ Lê Khanh / Ricaud H (đồng chủ biên) (2001), Trẻ em, văn hóa,
giáo dục – Kỷ yếu hội thảo khoa học Việt Pháp về Tâm lý học, NXB Thế giới,
Hà Nội.
45. A.N. Lêônchiev (1978), Về quan điểm lịch sử trong nghiên cứu tâm lý người, Tâm
lý học Liên Xô, NXB Tiến bộ - Mátxcơva, tr.95-96.
46. Nguyễn Thị Ngọc Liên (2011), “Sự thích ứng của giảng viên với hoạt động
đào tạo theo tín chỉ ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội”, Tạp chí Tâm lý học
(10), tr.35-48.
47. Đỗ Long (1991), Tâm lý học xã hội - Những vấn đề ứng dụng, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
48. Lê Thị Minh Loan (2008), Mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên sau
khi tốt nghiệp, Đề tài NCKH cấp Bộ, Trường Đại học KHXH và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
49. Đỗ Thị Thanh Mai (2009), Mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh
viên hệ Cao đẳng Trường Đại học công nghiệp Hà Nội – Luận án Tiến sĩ Tâm
lý học.
50. Đặng Huỳnh Mai (2007), Những tình huống trong thực tiễn quản lý giáo dục,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
51. Patricia H.Miler (2003), Các thuyết về tâm lý học phát triển, NXB Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
52. Đặng Thanh Nga (2012), “Sự thích ứng với hoạt động học tập theo phương
thức đào tạo tín chỉ của sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội”, Tạp chí Tâm
lý học (6), tr.25-36.
53. Nguyễn Thị Thanh Nga (2015), Sự thích ứng với hoạt động dạy học của giáo viên
tiểu học mới vào nghề, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.
189
54. Dương Thị Nga (2012), Phát triển năng lực thích ứng nghề cho sinh viên cao
đẳng sư phạm, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học, Đại học Thái Nguyên, Thái
Nguyên.
55. Phan Trọng Ngọ (2001), Tâm lý học hoạt động và khả năng ứng dụng vào
lĩnh vực dạy học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
56. Vũ Thị Nho (2003), Tâm lý học phát triển, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr.137-154.
57. Hoàng Phê (1988), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
58. Piaget J (1997), Tâm lý học trí khôn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
59. Dương Thị Minh Phương (2014), “Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành động
thích ứng của nông dân đối với các chương trình thích ứng biến đổi khí hậu ở
một số nước châu Phi”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh (68), tr.179-185.
60. Trần Đại Quang (2009), Xây dựng đội ngũ tri thức Công an nhân dân trong
tình hình mới, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
61. Nguyễn Thị Út Sáu (2013), Thích ứng với hoạt động học tập theo học chế tín
chỉ của sinh viên Đại học Thái Nguyên, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã
hội Việt Nam, Hà Nội.
62. A.V.Sorokhova (1975), Quan niệm của Tâm lý học xã hội về nhân cách, trích
trong cuốn “Những vấn đề phương pháp luận của Tâm lý học xã hội”, NXB
Khoa học, Matxcova.
63. Huỳnh Văn Sơn (2016), Thích ứng với môi trường công việc khi thực tập,
NXB Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
64. T. G. Stefanenko (2006), Tâm lý học dân tộc, sách dịch, tr. 283.
65. Lưu Văn Sùng (2002), Xử lý tình huống chính trị, Học viên chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
66. Nguyễn Chí Tăng (2011), Sự thích ứng của giáo viên trung học cơ sở với ứng
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động giảng dạy, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học.
67. Lê Duy Tấn (2011), Cơ sở tâm lý của tính tích cực học tập ở học viên đào tạo sĩ
190
quan quân đội, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
68. Nguyễn Thạc (1982), “Tìm hiểu quá trình hình thành ý thức về động cơ học
tập”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục (8), tr. 46-55.
69. Nguyễn Văn Thanh (2002), Thực trạng khả năng thích ứng nghề nghiệp của
thanh niên tại khu công nghiệp Đông Bắc Hà Nội, Viện nghiên cứu Thanh
niên, Hà Nội.
70. Dương Thị Thanh Thanh (2013), "Mức độ thích ứng với hoạt động quản lý
dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học", Luận án Tiến sĩ Tâm lý học, Học
viện Khoa học xã hội Việt Nam, , Hà Nội.
71. Mã Ngọc Thể (2016), Thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học
tập, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
72. Lê Minh Thiện (2012), Một số vấn đề lý luận cơ bản về thích ứng xã hội của
các nhóm yếu thế và các chính sách của Đảng, Nhà nước đối với họ, Tạp chí
Tâm lý học (6), tr.82-91.
73. Dương Thị Thoan (2002), "Phát triển khả năng thích ứng với hình thức hoạt
động tiếp xúc học sinh lớp chủ nhiệm trong thực tập sư phạm", Tạp chí Tâm lý
học (1), tr. 35-44.
74. Dương Thị Thoan (2010), "Nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động học tập
phù hợp với phương thức đào tạo theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất
Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa”, Tạp chí Tâm lý học (3), tr.40-49.
75. Nguyễn Xuân Thức (2005), “Sự thích ứng với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ
của sinh viên Đại học sư phạm”, Tạp chí Tâm lý học (8), tr. 41-50.
76. Đỗ Mạnh Tôn (2007),Giải pháp đẩy nhanh quá trình thích ứng tâm lý - xã hội
của chiến sĩ mới ở các đơn vị bộ binh, Đề tài khoa học cấp ngành, Viện Khoa
học Xã hội Nhân văn Quân sự, , Hà Nội.
77. Đỗ Mạnh Tôn (1996), Nghiên cứu sự thích ứng đối với học tập và rèn luyện
của sinh viên các trường Sĩ quan quân đội, Luận án Tiến sĩ tâm lý học, Học
viện Chính trị quân sự, Hà Nội.
78. Đinh Ngọc Tuấn (2006), Giáo trình Những vấn đề cơ bản của chiến thuật
chữa cháy, NXB Khoa học và Kỹ thuật, tr. 380 - 383 .
191
79. Từ điển Tâm lý học Quân sự (2006), NXB Quân đội Nhân dân.
80. Từ điển Tiếng Việt (1992), Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội
81. Từ điển tiếng Việt (1998), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
82. Nguyễn Quang Uẩn (2003), Tâm lý học đại cương, NXB Đại học sư phạm Hà Nội.
83. Đặng Thị Vân, Nguyễn Thị Ngọc Thúy, Đỗ Thị Vĩnh Hằng (2006), "Thực
trạng thích ứng của sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật đối với việc học tập bằng
phương pháp thảo luận nhóm", Tạp chí Tâm lý học (7), tr. 1-46.
84. Nguyễn Khắc Viện (1995), Từ điển Tâm lý, Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ
em, Hà Nội, NXB Thế giới, Hà Nội.
85. Phạm Viết Vượng (2000), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
86. A.M.Xtôliarencô (1980), Tâm lý học sẵn sàng chiến đấu, NXB Quân đội nhân
dân, tr.35.
87. Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
Tiếng Anh
88. Academic incident reports since summer 2002 worldwide & country
statistical report,
http://studyabroad.nmusu.edu/Pages/Evaluations/Academics/ All_ Reports_
AC.htmly.
89. Anumonye, A. (1970), African Students in Alien Cultures. Buffalo, NY, Black
Academy Press Inc.
90. APA Dictionary of Psychology (2015), American Psychological Asscociation, p.22.
91. Arbona, Consuelo; Bullington, Robin; Pisecco, Stewart; Poyrazli, Senel:
Adjustment issues of TurkishCollege students studying in the United States,
http://www.encyclopedia.com/doc/1G1-74221507.html
92. Volanen, M.V. (1987), Professional adaptation of youth, Psychology of
personality and lifestyle, pp. 117-120.
93. Byron, K. K. (2007), The psychological and physioligical effects of stress on
firefighters, Atlanta fire rescue department, Journal of Psychological and
192
physiological stress, pp. 1-36.
94. Chen, X. & Li, B.S. (2000), Depressed mood in Chinese children: Development
significance for social and school adjustment, International journal of behavioral
development Vol. 24 (4), pp. 472-479.
95. Cook, B. & Mitchell. W. (2013), Occupational health effects for firefighters:
The extent and implications of physical and psychological injuries, Report
prepared for the United Firefighters Union of Australia, Victorian Branch. 96. Cocking, C. & Drury, J. (2007), The mass psychology of disasters and
emergency evacuations: A research report and implications for the Fire and
Rescue Service, London Metropolitan University & University of Sussex.
97. Creed, P., Fallon, T., & Hood, M. (2009), The relationship between career
adataptability person and situation variables and career concerns in young
adults, School of psychology Vol. 74 (2), pp. 219-229.
98. Deppa, F. K. (2015), Resilience Training for Firefighters: A Proposed
Approach, University of Pennsylvania, kfernico@aol.com.
99. Dowdall, C. T., Gilkey, J., Larson, W, & Arend-Hicks, R .(2012), Elite
firefighter/first responder mindsets and outcome coping efficacy, Northwest
Fire District, Behavioral Health and Community Services Division Vol. 14(4),
pp. 269-281.
100. Duffy R.D. & Blustein D.L. (2005), The relationship between spirituality,
religiousness, and career adapility, Journal of Vocational Behavior, pp. 161 - 164.
101. Eileen, M. & Mattingly. (2001), Adjustment to college: Private high school vs.
pulic high school, http://clearinghouse.missouriwestern.edu/manuscripts, 374.asp.
102. Garbern, C. S., Ebbeling, G. L.& Bartels, A. S. (2016), A Systematic Review of
Health Outcomes Among Disaster and Humanitarian Responders, Prehospital
and disaster medicine: the official journal of the National Association of EMS
Physicians and the World Association for Emergency and Disaster Medicine in
association with the Acute Care Foundation Vol. 31(6), pp. 1-8.
103. Hauke, A. (2011), Emergency services: A literature review on occupational
safety and health risks, European Agency for Safety and Health at Work,
Luxembourg: Publications Office of the European Union, ISBN 978-92-9191-
193
668-9 doi 10.2802/54768.
104. Hesketh, B. (2001), Adapting Vocational Psychology to Cope with Change,
Journal of Vocational Behavior Vol. 59(2), pp. 203-212.
105. Hesketh, B. & Griffin, B. (2008), Selection and training for work adjustment
and adaptability. In The Oxford Handbook of Personnel Psychology. S.
Cartwright & C. Cooper (Eds.). Oxford University Press, pp.203–212.
106. Hopkins, J., Malleson, N. & Sarnoff, I. (1957), Some non-intellectual
correlates of success and failure among university students, British Journal of
Sociology (9), pp. 25 – 36.
107. James, W. (1963), Principles of adjustment, USA.
108. Leach, J. (2004), Why People „Freeze‟ in an Emergency: Temporal and
Cognitive Constraints on Survival Responses, Aviation, Space, and
Environmental Medicine Vol. 75 (6), pp. 539-542.
109. Maslow, A. (1963), Motivation and adjustment, USA.
110. Matsumoto., D. (2007), The Cambridge Dictionary of Psychology, Cambridge
University Press, 2009, pp. 17.
111. Oztuzk, M. (2008), Induction into teaching: adaptation challenges of novice
teachers, in Turkey.
112. Pelham, B. B. (2016), Saving Our Heroes: A Longitudinal Study of Mental
Disorders Within the Fire Service, Scripps Senior Theses, pp. 774.
113. Pine.G.J (1979), Teacher adaptation of research findings. Resources in
Education. Ed 169015 Washington, D.C.ERIC Clearninghouse on Teacher
Education, bAACTE, pp. 28.
114. Robinson, & Jane, S. (2012), When Disaster Strikes: Human Behaviour in
Emergency Situations, Journal of the Institute of Civil Protection and
Emergency Management, http://www.uclan.ac.uk/researchgroups/.
115. Sarah, N. H. (2016), Firefighter Suicide: Understanding Cultural Challenges
for Mental Health Professionals, Center for Psychological Studies Vol. 47(3),
194
pp. 224-230.
116. Samhsa (2018), First Responders: Behavioral Health Concerns, Emergency
Response, and Trauma, Disaster Technical Assistance Center Supplemental
Research Bulletin, Substance Abuse and Mental Health Services
Administration.
117. Seligman., & Csikszentmihalyi. (2000), Positive Psychology: An Introduction,
American Psychologist Vol. 55(1), pp. 5-14.
118. Shantz, C. M. (2002), Effect of work related stress on firefighter/paramecdic,
Eastern Michigan University, School of fire staff and command.
119. Shcheglova, S.N. (2007), Characteristics of Schoolteachers' Adaptation to the
Values of computerization. Russian Education & Society (8), pp. 33 – 42.
120. Shoygu, S. J. (2014), Psychological aid in crisis and emergency situations:
Psychological follow-up by emergency-related professionals, Psychology in
Russia: State of the Art Vol. 7(4), pp. 35-42.
121. Schild, M. & Szijártó, L. (2016), Emotional and Cognitive Influence in
Extraordinary Situations – Psychological Study of Responses with Content
Analysis Methods, AARMS Vol. 15(3) pp. 249–261.
122. Singh, A.K. (1963), Indian Students in Britain, Bombay, pp.117.
123. Sliter, A. K. (2014), Initial evidence for the buffering effect of physical activity
on the relationship between workplace stressors and individual outcomes, Indiana
University–Purdue University Indianapolis, International Journal of Stress
Management Vol. 21(4), pp. 348-360.
124. Spencer, H. (1988), The principles of psychology, New York. 125. Stanley, I. H., Hom, M. A., Joiner, T. E. (2016), A systematic review of
suicidal thoughts and behaviors among police officers, firefighters, EMTs, and
paramedics, Department of Psychology (44), pp. 25-44.
126. Wagner, D., Heinrichs, M., and Ehlert, U. (1998), Prevalence of Symptoms of
Posttraumatic Stress Disorder in German Professional Firefighters, The
Center for Psychobiological and Psychosomatic Research, University of Trier,
Trier, Germany, pp. 1727–1732
195
127. Wu, M.Y. (2000), The relationship between teachers' classroom management
andelementary school students' life adjustment, Educational research and
information Vol. 8(3), pp. 114–144.
128. Yang, K. M & Hsiao, C. W. (2000), A study of skill learning adjustment on
students at vocational high school, Journal of Educational Research &
Information Vol. 8(3), pp. 55 – 71.
Website
http://cand.com.vn
http://canhsatpccc.hanoi.gov.vn
http://daihocpccc.edu.vn
196
http://thanhtra.gov.vn
PH L C
Phụ lục 1
Mã số:………
BỘ CÔNG AN TRƯỜNG ĐẠI HỌC PCCC
Hà Nội, tháng năm
PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
(Dành cho chiến sĩ chữa cháy và cứu nạn cứu hộ)
Để có cơ sở thực tiễn nhằm mục đích giúp các chiến sĩ cảnh sát PCCC và
CNCH giải quyết tốt hơn các tình huống khẩn cấp trong quá trình chữa cháy và cứu
nạn cứu hộ. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Thích ứng với việc giải quyết các
tình huống khẩn cấp của cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hô”.
Rất mong nhận được sự giúp đỡ của các đồng chí bằng việc tham gia trả lời các
câu hỏi dưới đây.
* Hướng dẫn trả lời: Đồng chí hãy đọc câu hỏi và câu trả lời. Sau đó, đánh dấu “X”
vào phương án trả lời phù hợp nhất với quyết định của mình hoặc điền thêm vào
chỗ trống, đưa ra các ý kiến chủ quan cho các câu hỏi mở đã nêu ra.
Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của đồng chí!
Câu 1: Đồng chí nhận thức về tình huống khẩn cấp như thế nào? (Bằng cách cho
điểm từ 1 đến 5; 1 là điểm tối thiểu,… 5 là điểm tối đa).
(Ghi chú: 5- Hoàn toàn đồng ý; 4 – Đồng ý; 3 – Đồng ý hơn không đồng ý; 2 –
Không đồng ý hơn đồng ý; 1 – Không đồng ý).
STT Nội dung Mức độ đánh giá 3 4 2 5 1
1.1. Nhận thức về bản chất của tình huống khẩn cấp
1
2
1
Tình huống khẩn cấp là những sự kiện, biến cố nghiêm trọng, bất thường, đột xuất xảy ra trong đời sống của con người, xã hội. Tình huống khẩn cấp là những sự kiện, biến cố nghiêm trọng, bất thường, đột xuất xảy ra trong đời sống của con người, xã hội, gây ra tâm trạng, cảm xúc mạnh nếu không đưa ra cách giải quyết nhanh chóng, phù hợp có thể đưa đến những hậu quả nặng nề.
3
Tình huống khẩn cấp là những tình huống xảy ra một cách bất ngờ ngoài ý muốn của con người và yêu cầu cần xử lý ngay nếu không sẽ gây hậu quả nghiêm trọng. 1.2. Nhận thức về cách thức giải quyết tình huống khẩn cấp
4
5
6
Giúp hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại về người và tài sản, cần phải xử lý, giải quyết nhanh chóng, kịp thời. Giúp nhanh chóng khắc phục những hậu quả nặng nề do cháy nổ gây ra. Đảm bảo tính nhân văn cao cả của nghề phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội, tạo sự tin tưởng trong nhân dân. 1.3. Nhận thức về quy trình giải quyết tình huống khẩn cấp
7
8
Xác định vị trí xảy ra và cùng lực lượng tại chỗ nhanh chóng dập tắt đám cháy Nhận lệnh, nhận nhiệm vụ, cứu người, dập tắt đám cháy và cứu tài sản. Nhận nhiệm vụ, cứu người, cứu tài sản và dập tắt đám cháy.
9 10 Cứu tài sản, cứu người và dập tắt đám cháy. 11 Khác……………………………………….
Câu 2: Trong quá trình giải quyết các tình huống khẩn cấp, tôi thường có một số
biểu hiện sau đây?
(Bằng cách cho điểm từ 1 đến 5; 1 là điểm tối thiểu,… 5 là điểm tối đa). (Ghi chú: 5- Hoàn toàn đồng ý; 4 – Đồng ý; 3 – Đồng ý hơn không đồng ý; 2 – Không đồng ý hơn đồng ý; 1 – Không đồng ý).
STT Nội dung Mức độ đánh giá 3 4 2 5 1
1 2 3
4
2
Tôi luôn chủ động, sẵn sàng nhận lệnh Tôi luôn chủ động chấp hành mệnh lệnh chỉ huy Tôi luôn chủ động thực hiện hành động cứu người Tôi luôn chủ động ứng phó với tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Tôi luôn tích cực dập tắt đám cháy, chống cháy lan Tôi luôn tích cực cứu tài sản Tôi luôn bình tĩnh, tự tin thực hiện nhiệm vụ được giao Tôi luôn kiên quyết thực hiện nhiệm vụ Khác (ghi rõ):……………………………….. 5 6 7 8 9
Câu 3: Trong quá trình giải quyết các tình huống khẩn cấp, việc nhận lệnh và thực thi nhiệm vụ được đồng chí thực hiện như thế nào? (Bằng cách cho điểm từ 1 đến 5; 1 là điểm tối thiểu,… 5 là điểm tối đa). (Ghi chú: 5- Hoàn toàn đồng ý; 4 – Đồng ý; 3 – Đồng ý hơn không đồng ý; 2 – Không đồng ý hơn đồng ý; 1 – Không đồng ý).
STT Nội dung Mức độ đánh giá 3 4 2 1 5
1
2
3
4
5
6
7
Tôi luôn nhận thông tin đầy đủ về quy mô, mức độ, địa điểm xảy ra Tôi khẩn trương lên xe đi đến hiện trường nhanh nhất Hành động di chuyển một cách an toàn cho bản thân, đồng đội và phương tiện Khi được phân công nhiệm vụ, tôi luôn chấp hành nghiêm mệnh lệnh của chỉ huy Tôi luôn hành động với tinh thần gương mẫu đi đầu Tôi luôn hiệp đồng chiến đấu, giúp đỡ đồng đội hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao Tôi luôn hành động với tinh thần dũng cảm, kiên trì, bình tĩnh thực hiện nhiệm vụ được giao Khác (ghi rõ):……………………………….. 8
Câu 4: Trong quá trình giải quyết các tình huống khẩn cấp, đồng chí đã phối hợp hành động với đồng đội như thế nào? (Bằng cách cho điểm từ 1 đến 5; 1 là điểm tối thiểu,… 5 là điểm tối đa). (Ghi chú: 5- Hoàn toàn đồng ý; 4 – Đồng ý; 3 – Đồng ý hơn không đồng ý; 2 – Không đồng ý hơn đồng ý; 1 – Không đồng ý).
STT Nội dung Mức độ đánh giá 3 4 2 5 1
1
2
3
4
5
6
7
3
Tôi thường xuyên liên lạc với tiểu đội trưởng và đồng đội trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Tôi phối hợp chặt chẽ với đồng đội để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao. Khi có diễn biến bất ngờ xảy ra, tôi nhanh chóng trao đổi để cùng đồng đội giải quyết tốt nhất. Tôi thường phối hợp với đồng đội kiểm tra, đánh giá tình hình một cách chính xác nhất. Khi đồng đội gặp nguy hiểm, tôi nhanh chóng hỗ trợ, giúp đỡ đưa họ ra khỏi nơi nguy hiểm. Khi phát hiện đồng đội gặp khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ, tôi giúp đỡ họ để hoàn thành nhiệm vụ. Tôi luôn chủ động, tích cực phối hợp chiến đấu với lực lượng tại chỗ khác. Khác (ghi rõ):……………………………….. 8
Câu 5: Trong quá trình giải quyết các tình huống khẩn cấp, các kỹ năng sử dụng phương tiện, kỹ thuật, máy móc của đồng chí như thế nào? (Bằng cách cho điểm từ 1 đến 5; 1 là điểm tối thiểu, 5 là điểm tối đa). (Ghi chú: 5- Hoàn toàn đồng ý; 4 – Đồng ý; 3 – Đồng ý hơn không đồng ý; 2 – Không đồng ý hơn đồng ý; 1 – Không đồng ý).
Nội dung STT Mức độ đánh giá 3 4 2 5 1
Tôi sử dụng thành thạo các thiết bị bảo hộ trong thực hiện 1 nhiệm vụ (quần áo, mũ, ủng, gang tay, mặt nạ phòng độc…).
Tôi sử dụng thành thạo các loại phương tiện, dụng cụ
2 chữa cháy chuyên dụng như xe chữa cháy kèm các dụng
cụ lăng, vòi.
Tôi sử dụng thành thạo các loại bình cứu hỏa trong việc 3 dập tắt đám cháy.
Tôi sử dụng thành thạo các thiết bị phòng chống khói khí 4 độc như mặt nạ phòng độc, các loại bình dưỡng khí.
Tôi sử dụng thành thạo các loại xe thang chữa cháy, xe 5 cứu nạn cứu hộ
6 Tôi sử dụng thành thạo băng ca khi cứu người bị nạn
Tôi sử dụng thành thạo các thiết bị liên lạc để phối hợp 7 với đồng đội trong thực hiện nhiệm vụ.
Tôi sử dụng thành thạo các loại dụng cụ, thiết bị cứu nạn
8 cứu hộ (búa, cưa, rìu, xà beng, banh cắt, thang dây, ống
tuột…).
Tôi sử dụng thành thạo các thiết bị máy móc công nghệ
9 hỗ trợ hình ảnh như: máy ảnh hồng ngoại, máy quay
hồng ngoại, fly cam.
10 Khác (ghi rõ):………………………………..
4
Câu 6: Trong quá trình giải quyết các tình huống khẩn cấp trong chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, đồng chí quan tâm đến các vấn đề, biểu hiện nào sau đây? Câu 6.1: Khi thực hiện giải quyết các tình huống khẩn cấp, đồng chí thường quan tâm đến vấn đề, biểu hiện nào sau đây? (Ghi chú: 5- Hoàn toàn đồng ý; 4 – Đồng ý; 3 – Đồng ý hơn không đồng ý; 2 – Không đồng ý hơn đồng ý; 1 – Không đồng ý).
STT Nội dung Mức độ đánh giá 3 4 2 1 5
1
2
3
4
5
6
7 Tôi thường có cảm giác chán ăn, mất ngủ sau mỗi lần thực hiện nhiệm vụ Tôi thường bị ám ảnh khi chứng kiến những tổn thất khủng khiếp về người và của Tôi luôn bình tĩnh, chủ động ứng phó với các tác động xấu từ xung quanh. Tôi luôn cố gắng tạo tâm lý thoải nhất cho mình để giải quyết tốt nhiệm vụ được giao. Trong việc giải quyết các tình huống khẩn cấp, tôi thường cảm thấy các dấu hiệu không bình thường của cơ thể như: tim đập nhanh, khó thở, đầu choáng váng. Không phải lúc nào tôi cũng cảm thấy đau khổ, buồn phiền khi chứng kiến các tổn thất do cháy nổ gây ra. Tôi thường cảm thấy sợ hãi, lo âu trong khi thực hiện nhiệm vụ.
10 Khác (ghi rõ):………………………………..
Câu 6.2: Sau khi thực hiện việc giải quyết các tình huống khẩn cấp trong chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, đồng chí thường có cách ứng phó nào sau đây? (Ghi chú: 5- Hoàn toàn đồng ý; 4 – Đồng ý; 3 – Đồng ý hơn không đồng ý; 2 – Không đồng ý hơn đồng ý; 1 – Không đồng ý).
STT Nội dung Mức độ đánh giá 1 5 4 3 2
1
2
3
4
5
6
5
Tôi thường chia sẻ những cảm nhận, suy nghĩ, lo âu của mình với đồng nghiệp nhằm làm vơi đi những căng thẳng lo âu của mình. Tôi muốn nhận được sự tư vấn từ các bác sĩ, các nhà tâm lý sau khi thực hiện nhiệm vụ trở về. Tôi muốn gặp gỡ, giao tiếp với mọi người sau mỗi khi thực hiện nhiệm vụ trở về. Tôi thường nghe nhạc, xem phim sau mỗi khi thực hiện nhiệm vụ trở về để cân bằng lại chính mình . Tôi thường gọi điện cho người thân trong gia đình sau mỗi khi thực hiện nhiệm vụ cứu nạn cứu hộ trở về Tôi thường sử dụng rượu, bia để vượt qua những khó khăn, căng thẳng sau mỗi khi thực hiện nhiệm vụ khẩn cấp trở về . Khác (ghi rõ):……………………………….. 7
Câu 7: Các yếu tố sau đây tác động như thế nào đến việc giải quyết các tình huống khẩn
cấp của đồng chí?
Mức độ đánh giá
STT Nội dung
Tác động Bình thƣờng Ít tác động Rất tác động Không tác động
1.Các yếu khách quan 1.1. Môi trường 1.1.1 Thời tiết 1.1.2 Khói, nhiệt độ và các sản phẩm cháy 1.1.3 Nguy cơ sụp đổ cấu kiện xây dựng 1.2. Trang thiết bị, phương tiện, máy móc
1.2.1
Quần áo, gang tay, mũ, ủng, mặt nạ phòng độc, bình dưỡng khí. 1.2.2 Các phương tiện chữa cháy cơ giới
1.2.3 Các phương tiện phục vụ cứu nạn cứu hộ chuyên dụng
1.3. Chỉ huy 1.3.1 Ra mệnh lệnh kịp thời, dứt khoát 1.3.2 Phân công sắp xếp công việc hợp lý
1.3.3. Điều phối hoạt động giữa các nhóm, tiểu đội một cách hợp lý.
2. Các yếu tố chủ quan 2.1. Khả năng kiểm soát cảm xúc 2.1.1 Bình tĩnh giải quyết nhiệm vụ 2.1.2 Tự tin trong từng thao tác chiến đấu
2.1.3
Kiềm chế sự sợ hãi trong giải quyết nhiệm vụ. 2.2. Kinh nghiệm chiến đấu 2.2.1 Tham gia tập huấn nghiệp vụ 2.2.2 Số lần trực tiếp chiến đấu 2.2.3 Thâm niên trong nghề 2.3. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
2.3.1
2.3.2
2.3.3
Được đào tạo chuyên môn về chữa cháy Được đào tạo chuyên môn về cứu nạn cứu hộ Được đào tạo chuyên môn về tự động và phương tiện kỹ thuật phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ Khác (ghi rõ):………………………… 3.
6
Câu 8: Xin đồng chí cho biết, khi mới vào nghề phòng cháy chữa cháy và cứu nạn
cứu hộ, đồng chí thường gặp phải những khó khăn gì? ………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Xin đồng chí cho biết một số thông tin về bản thân:
Trình độ đào tạo: 1. Tốt nghiệp THPT 2. Trung cấp 3. Đại học 4. Khác………… * Quê quán: Quận (huyện)………………..……….TP (tỉnh)…………………….. * Cấp bậc: 1. Chiến sĩ nghĩa vụ 4. Trung úy 2. Hạ sĩ quan 3. Thiếu úy
6. Đại úy 7. Cấp tá trở lên
5. Thượng úy * Số năm công tác: 1. Dưới 3 năm 2. Từ 3-5 năm 3. Từ 5-10 năm 4. Trên 10 năm * Đơn vị công tác: Đội ………….…………………………Phòng…………………………… CA tỉnh/thành phố: 1. Hà Nội 2. Hải Phòng 3. Quảng Ninh 4. Vĩnh Phúc * Tình trạng hôn nhân: 1. Chưa kết hôn 2. Đã kết hôn
7
Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn các đồng chí !
Phụ lục 2
CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU
(Chiến sĩ làm công tác chữa cháy và cứu nạn cứu hộ)
Thời gian:………………………………………………………………. …..
Địa điểm phỏng vấn:………………………………………………………..
Người phỏng vấn:……………………………………………………………
Người được phỏng vấn:…………………………………………………….
I. Làm quen, giới thiệu mục tiêu và nội dung phỏng vấn
II. Nội dung phỏng vấn
1. Khi đứng trước các tình huống khẩn cấp, thái độ của các đồng chí như thế nào?
2. Cảm xúc của đồng chí khi đứng trước tình huống khẩn cấp như thế nào?
3. Trong giải quyết các tình huống khẩn cấp, việc thực hiện chấp hành mệnh lệnh
chỉ huy, điều lệnh chiến đấu, điều lệnh CAND của đồng chí như thế nào? (có trường
hợp nào không tuân theo mệnh lệnh chỉ huy không?)
4. Đồng chí đánh giá như thế nào về thực trạng thích ứng với việc giải quyết các tình
huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cưu hộ hiện nay?
5. Theo đồng chí, yếu tố nào thúc đẩy sự thích ứng nhanh đối với việc giải quyết
các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ?
6. Đồng chí đã làm gì để giúp chiến sĩ khác thích ứng nhanh với việc giải quyết các
tình huống khẩn cấp?
7. Để giúp các chiến sĩ thích ứng nhanh với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp,
theo đồng chí đơn vị cần phải làm gì?
8. Bản thân đồng chí cần phải làm gì để thích ứng nhanh với việc giải quyết các tình
8
huống khẩn cấp?
Phụ lục 3
Một số văn bản pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lƣợng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
1. Pháp lệnh số 53/PL ngày 27 tháng 9 năm 1961 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về việc quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng cháy
và chữa cháy. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên về Cảnh sát Phòng cháy và chữa
cháy. Pháp lệnh này quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát phòng
cháy và chữa cháy đó là:
Tham mưu đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, chỉ đạo
và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về phòng cháy và chữa cháy; Tổ chức
tuyên truyền, phổ biến pháp luật, huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ, kiến thức về
phòng cháy và chữa cháy; hướng dẫn xây dựng phong trào quần chúng tham gia
hoạt động phòng cháy và chữa cháy; Thực hiện các biện pháp phòng cháy; chữa
cháy kịp thời khi có cháy xảy ra; Xây dựng lực lượng phòng cháy và chữa cháy;
trang bị và quản lý phương tiện phòng cháy và chữa cháy; Tổ chức nghiên cứu và
ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy;
Kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về phòng cháy và chữa cháy.
2. Luật Phòng cháy và chữa cháy
Ngày 29 tháng 6 năm 2001, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa X đã thông qua Luật Phòng cháy và chữa cháy. Lực
lượng cảnh sát PCCC và CNCH là lực lượng nòng cốt trong công tác phòng cháy,
chữa cháy và xử lý các sự cố hàng ngày theo các quy định của pháp luật. Lực lượng
PCCC hiện nay gồm: lực lượng dân phòng, lực lượng PCCC cơ sở, lực lượng
PCCC chuyên ngành được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật và lực
lượng cảnh sát PCCC [14].
Chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát PCCC được quy định tại
khoản 29 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Phòng cháy và chữa cháy
năm 2013:
1. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao, tham mưu, đề xuất với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các quy định
9
của pháp luật về phòng cháy và chữa cháy.
2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật; hướng dẫn xây dựng phong trào
toàn dân tham gia hoạt động phòng cháy và chữa cháy; huấn luyện, bồi dưỡng
nghiệp vụ, kiến thức về phòng cháy và chữa cháy.
3. Thực hiện các biện pháp phòng cháy; thẩm định, phê duyệt thiết kế và
nghiệm thu về phòng cháy và chữa cháy; chữa cháy kịp thời, hiệu quả.
4. Xây dựng lực lượng phòng cháy và chữa cháy; trang bị và quản lý phương
tiện, thiết bị phòng cháy và chữa cháy.
5. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong lĩnh
vực phòng cháy và chữa cháy; kiểm tra, kiểm định kỹ thuật và chứng nhận phù hợp
đối với phương tiện, thiết bị, hàng có yêu cầu nghiêm ngặt về phòng cháy và chữa
cháy theo quy định.
6. Kiểm tra, thanh tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về phòng cháy và
chữa cháy; cấp giấy phép vận chuyển hàng nguy hiểm về cháy, nổ theo quy định.
7. Thực hiện một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật về tổ
chức điều tra hình sự.
8. Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Về cơ cấu tổ chức, theo Khoản 28 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy năm 2013: “Cảnh sát phòng cháy và chữa
cháy thuộc Công an nhân dân, là một bộ phận của lực lượng vũ trang, được tổ chức
và quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương”. Ở cơ quan trung ương, chịu
trách nhiệm trước lãnh đạo Bộ công an, tham mưu, đề xuất ban hành các văn bản và
chỉ huy, lãnh đạo thống nhất các mặt công tác nghiệp vụ là Cục cảnh sát PCCC và
CNCH. Ở các địa phương thành lập các Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và các phòng cảnh sát PCCC và CNCH thuộc công
an tỉnh.
3. Quyết định 44/2012/QĐ-TTg ban hành ngày 15 tháng 10 năm 2012 của
Thủ tướng Chính phủ. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên quy định chức năng,
nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ của lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy. Quyết
định này quy định về phạm vi, nguyên tắc, tổ chức, hoạt động và bảo đảm điều kiện
cho hoạt động cứu nạn, cứu hộ của lực lượng phòng cháy và chữa cháy; trách
10
nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác cứu nạn, cứu hộ.
Phụ lục 4
Các trƣờng hợp biểu hiện cụ thể của thích ứng với việc giải quyết các tình huống khẩn cấp của cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Các trƣờng hợp biểu hiện
STT Dạng thích ứng Tỉ lệ (%) Nhận thức Thái độ Hành động
03 mặt cao 1
2 02 mặt cao, 1 mặt khá cao
3 02 mặt khá cao, 01 mặt cao
Cao Khá cao Cao Cao Khá cao Khá cao Cao Khá cao Cao Cao Khá cao Cao Khá cao Cao Khá cao Khá cao 4 Số lƣợng (chiến sĩ) 93 17 13 65 10 23 34 59 23,48 4,29 3,28 16,41 2,52 5,80 8,58 14,74
Trung bình Cao Khá cao 5 2 0,50
Trung bình Cao Cao 5 1,26 6 Trung bình Cao Cao 9 2,27 Cao Cao Cao Khá cao Cao Khá cao Khá cao 03 mặt khá cao Khá cao 01 mặt khá cao, 01 mặt trung bình, 01 mặt cao 01 mặt trung bình, 02 mặt cao
Trung bình
7 01 mặt trung bình, 02 mặt khá cao
Khá cao Khá cao Trung bình Khá cao Khá cao Trung bình Khá cao Khá cao Trung bình Trung bình Khá cao Cao Trung bình Trung bình 1 12 27 8 1 0,25 3,03 6,81 2,02 0,25 8 Trung bình Trung bình Cao 4 1,01
Khá cao Trung bình Trung bình 9 1 0,25
Trung bình Trung bình Trung bình 10 3 0,75 02 mặt trung bình, 01 mặt cao 02 mặt trung bình, 01 mặt khá cao 03 mặt trung bình
11 01 trong 03 mặt biểu hiện ở mức yếu
11
Cao Yếu Trung bình Yếu Yếu Yếu Yếu Yếu Khá cao Khá cao Cao Khá cao Khá cao Khá cao Khá cao Trung bình Trung bình Trung bình 1 2 1 3 1 1 0,25 0,50 0,25 0,75 0,25 0,25